BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -----o0o-----
PHAN THỊ ĐỊNH
THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA
NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÍ HỌC
Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành
Mã số: 9.31.04.01
Hà Nội – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -----o0o-----
PHAN THỊ ĐỊNH
THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA
NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÍ HỌC
Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành
Mã số: 9.31.04.01
Người hướng dẫn khoa học:
PGS, TS. Nguyễn Đức Sơn
TS. Hoàng Anh Phước
Hà Nội – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu, kết quả nghiên
cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
nào khác.
Tác giả luận án
Phan Thị Định
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến PGS.TS Nguyễn Đức Sơn và TS Hoàng Anh
Phước đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi, động viên tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu luận án. Nhờ sự giúp đỡ, chỉ dạy sát sao, luôn đưa ra các yêu cầu cao về
chất lượng và tiến độ nghiên cứu mà tôi đã nỗ lực để hoàn thành luận án của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Chủ nhiệm khoa Tâm lý- Giáo dục và
tập thể các thầy, cô, giảng viên khoa Tâm lý- Giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội
cùng các thầy cô giáo trong và ngoài khoa đã quan tâm, giúp đỡ và có những ý kiến đóng
góp quý báu cho nghiên cứu của tôi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân; Các đồng chí
lãnh đạo đạo khoa Tâm lý đã tạo điều kiện, hỗ trợ và giúp đỡ, động viên, khuyến khích tôi
trong thời gian tôi làm luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và hỗ trợ tận tâm của các đồng
nghiệp, các đồng chí Cảnh sát khu vực, Cảnh sát Quản lý hành chính, Hiệu trưởng trường
Giáo dưỡng số 2, số 3, các đồng chí thuộc Cục Cảnh sát Quản lý Trại giam, cơ sở giáo dục
bắt buộc và trường giáo dưỡng, các anh/chị làm công tác xã hội ở các địa phương tôi làm
khảo sát, các em đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
về địa phương cư trú, trung tâm dạy nghề nhân đạo KOTO đã hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác
với tôi khi tiến hành điều tra, thu thập số liệu cũng như quan sát, phỏng vấn và có những
hoạt động trải nghiệm thực tế tại đây.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người bạn đã chia sẻ, động viên, hỗ
trợ tôi khi gặp khó khăn trong nghiên cứu cũng như trong cuộc sống; giúp tôi vững tâm
thực hiện nghiên cứu như mong muốn của mình.
Bản thân tôi nhận thấy kinh nghiệm nghiên cứu của mình còn hạn chế do đó đề tài
của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong được các thầy, cô và đồng nghiệp
đóng góp ý kiến của mình để tôi hoàn thiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn
NHỮNG TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Từ, cụm từ Được viết tắt thành
An ninh Quốc gia ANQG
Biện pháp xử lý hành chính BPXLHC
Cảnh sát khu vực CSKV
Cảnh sát quản lý hành chính CSQLHC
Độ lệch chuẩn ĐLC
Điểm trung bình ĐTB
Trật tự an toàn xã hội TTATXH
Trường Giáo dưỡng TGD
MỤC LỤC
Trang
Nội dung
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
NHỮNG TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH vi
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP 8
CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 8
1.1.1. Hướng nghiên cứu sự thích ứng về nghề nghiệp, thích ứng lao động 8
1.1.2. Hướng nghiên cứu sự thích ứng với môi trường văn hóa, thích ứng xã hội 10
1.1.3. Nghiên cứu về thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng 15
1.2. Lý luận về tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử 20
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.2.1. Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng 20
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành 22
chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.2.3. Khó khăn của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào 24
trường giáo dưỡng
1.2.4. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành 26
chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.3. Lý luận về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 30
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.3.1. Khái niệm thích ứng tâm lý 30
1.3.2. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong 41
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.3.3. Biểu hiện và mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 44
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.4. Các yếu tố ảnh hướng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 47
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.4.1. Các yếu tố thuộc về chủ quan 47
1.4.2. Các yếu tố thuộc về khách quan 49
Tiểu kết chương 1 51
Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 53
2.1. Địa bàn và khách thể nghiên cứu 53
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 53
2.1.2. Khách thể nghiên cứu 53
2.2. Tổ chức nghiên cứu 55
2.2.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận 55
2.2.2. Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn 56
2.2.3. Giai đoạn viết và hoàn thành luận án 57
2.3. Các phương pháp nghiên cứu 57
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu 57
2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 58
2.3.3. Phương pháp phỏng vấn sâu 61
2.3.4. Phương pháp quan sát 62
2.3.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp 62
2.3.6. Phương pháp thống kê toán học 63
2.3.7. Phương pháp chuyên gia 67
2.3.8. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch 68
2.4. Phân tích các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập 68
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng
Tiểu kết chương 2 70
71 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ
VỚI TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
3.1.Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 71
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
72 3.1.1. Đánh giá chung
74 3.1.2. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt nhận thức
3.1.3. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 83
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt thái độ
3.1.4.Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 93
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt hành vi
3.1.5. Tương quan giữa các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng 106
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
3.1.6. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người 109
chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng theo một
số biến nhân khẩu học
3.2. Các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 117
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
3.2.1. Các yếu tố gắn với cá nhân dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng 118
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
3.2.2. Các yếu tố gắn với môi trường (khách quan) dự báo ảnh hưởng thích ứng 134
tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
3.2.3. Tổng hợp mô hình các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái 145
hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa
vào trường giáo dưỡng
3.3. Nghiên cứu trường hợp thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 148
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
3.3.1. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ cao 148
3.3.2. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ thấp 152
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ TÂM LÝ HỌC
Tiểu kết chương 3 155
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO
161
PHỤ LỤC
162
169
DANH MỤC BẢNG
Trang
Nội dung
Bảng 2.1 Mô tả mẫu nghiên cứu 53
Bảng 2.2 Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của thang và tiểu thang đo 63
Bảng 2.3 Mức độ thích ứng thể hiện ở các mặt biểu hiện 63
Bảng 3.1 Mức độ thích ứng tâm lý 72
Bảng 3.2 Thực trạng thích ứng nhận thức 76
Bảng 3.3 Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động học tập 78
Bảng 3.4 Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động lao động 80
Bảng 3.5 Thực trạng thích ứng thái độ trong quan hệ xã hội 87
Bảng 3.6 Thực trạng thích ứng thái độ trong sinh hoạt 87
Bảng 3.7 Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động học tập 89
Bảng 3.8 Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động lao động 91
Bảng 3.9 Thực trạng thích ứng hành vi trong quan hệ xã hội 96
Bảng 3.10 Thực trạng thích ứng hành vi trong sinh hoạt 96
Bảng 3.11 Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động học tập 99
Bảng 3.12 Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động lao động 101
Bảng 3.13 Tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý 106
Bảng 3.14 So sánh mức độ thích ứng tâm lý 110
Bảng 3.15a Dự báo từng yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý 119
Bảng 3.15b Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý 127
Bảng 3.16a Dự báo từng yếu tố thuộc về khách quan tác động thích ứng tâm lý 135
Bảng 3.16b Dự báo từng yếu tố thuộc về khách quan tác động thích ứng tâm lý 142
Bảng 3.17 Tổng hợp mô hình các yếu tố dự báo 146
DANH MỤC HÌNH
Nội dung Trang
Hình 1.1 Mô hình thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp 50
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Hình 3.1 Biểu đồ phân bố theo mức độ thích ứng tâm lý 71
Hình 3.2 Biểu đồ theo mức độ điểm trung bình thích ứng tâm lý 73
Hình 3.3 Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt nhận thức 75
Hình 3.4 Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ 84
Hình 3.5 Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ 86
Hình 3.6 Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi 94
Hình 3.7 Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi 95
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi loại hoạt động đều tiến hành theo phương thức và nội dung khác nhau, mỗi
cộng đồng xã hội có chuẩn mực xã hội riêng đòi hỏi con người phải tiếp thu tri thức, hình
thành kỹ năng kỹ xảo mới, biến đổi bản thân về các mặt nhận thức, thái độ, hành vi cho
phù hợp với cộng đồng và hoạt động có hiệu quả. Trong Tâm lý học gọi đó là thích ứng
tâm lý. Thích ứng tâm lý là khả năng và phương thức đặc thù để con người có thể tồn tại
và phát triển trong xã hội luôn biến đổi và nhiều thách thức. Thích ứng giúp con người
vượt qua những khó khăn, đạt được mục tiêu đã đề ra.
Với mọi người trong xã hội, thay đổi môi trường sống đã khó khăn, đối với người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về tái hòa nhập cộng đồng lại càng khó
khăn. Họ gặp khó khăn từ gia đình đến xã hội, từ tâm lý đến điều kiện kinh tế, từ vị thế đến
vai trò xã hội [32,tr.48]. Các em khó khăn trong giao tiếp đời thường với cả chính những
người mà trước đây theo họ là “khá thân”, khó khăn trong việc tiếp cận tri thức và lao động.
Về lý luận, đây là giai đoạn có nhiều xáo trộn về mặt tâm lý, đang định hình nhân cách [27,
tr.381]; lại là đối tượng đã thực hiện hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội do tâm lý tiêu cực
điều khiển nên khi trở về chấp hành theo những chẩn mực xã hội gặp nhiều khó khăn. Về
thực tiễn, những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi trở về địa
phương gặp rất nhiều trở ngại khi gia nhập vào các nhóm xã hội một phần do tự ti, mặc
cảm; một phần là sự kỳ thị của cộng đồng người sống xung quanh [39,tr.54].
Hướng tới sự thích ứng với hoạt động và môi trường sống, mỗi cá nhân phải hình
thành và rèn luyện những thuộc tính tâm lý cá nhân đảm bảo sự phù hợp với những yêu
cầu và đòi hỏi của một hoạt động và chuẩn mực của cộng đồng nhất định.
Tại các trường giáo dưỡng, dưới sự quản lý, tác động giáo dục, cảm hóa của cán bộ
giáo viên và chương trình giáo dục, học sinh thường xuyên được quan tâm, bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục đặc biệt, giúp họ nhận rõ và sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh về thể
chất và tinh thần, phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống, sớm hòa nhập cuộc sống bình thường trong mái ấm gia
đình và cộng đồng xã hội [44,tr.36]. Tuy nhiên, sau khi chấp hành xong biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng nhiều em vẫn luôn thường trực một tâm lý tự ti,
mặc cảm và "bất cần", sẵn sàng tái phạm trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Theo kết quả thống kê của Cục Cảnh sát Quản lý trại giam, Cơ sở giáo dục bắt buộc,
trường giáo dưỡng từ năm 2015 đến hết ngày 30/11/2019, tổng số người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về tái hòa nhập cộng đồng là 6.970 người [43], trung
bình mỗi năm có 1.394 người trở về cộng đồng. Đây là một bộ phận công dân "tương lai"
của đất nước, bộ phận công dân này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến tình hình
ANTT nơi họ trở về cư trú, sinh sống. Vì vậy, tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong những năm qua đã, đang được quan tâm và đạt
được những kết quả nhất định. Thực tiễn triển khai công tác này còn nhiều khó khăn, bất
cập: tổ chức bộ máy của các cơ quan được giao nhiệm vụ trách nhiệm giúp đỡ tái hòa nhập
cộng đồng cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đang trong quá trình
xây dựng, củng cố, nhất là ở cơ sở chưa được hoàn thiện; sự phối hợp giữa cơ quan chưa
chặt chẽ [32, tr.46], xã hội còn có định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử… Đây chính là một
trong những lý do cản trở quá trình tái hòa nhập cộng đồng dẫn đến tình trạng tái phạm ở
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng. Thực tế
trong tổng số 1.040 người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã có 636 người
tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật, bị xử lý hình sự và xử lý hành chính [44,tr.7]. Do
đó, giúp cho người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
tái hòa nhập cộng đồng xã hội, thích ứng với môi trường sống vừa "cũ" vừa "mới" đối với
họ là hoạt động phòng ngừa có “địa chỉ”, phòng ngừa trực tiếp nhất, có ý nghĩa trong phòng
ngừa tội phạm, tái phạm tội.
Từ những lí do trên, tác giả chọn nghiên cứu: “Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, từ đó xây dựng khung lý luận về vấn đề và đưa
ra một số khuyến nghị nâng cao sự thích ứng tâm lý.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ và biểu hiện thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
3.2. Khách thể nghiên cứu
168 Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng.
30 người làm công tác quản lý, giáo dục người chấp hành xong BPXLHC đưa vào
TGD ở các địa phương nơi họ về sinh sống như: Cảnh sát khu vực, cán bộ Hội phụ nữ,
người thân của họ.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống
thích ứng với cuộc sống tại các cộng đồng xã hội chưa cao, biểu hiện ở các mặt nhận thức,
thái độ, hành vi qua các hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt thường
ngày. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác giả nghiên cứu đã xếp vào nhóm những yếu tố thuộc
về chủ quan và nhóm những yếu tố thuộc về khách quan.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng khung lý luận về thích ứng, tái hòa nhập cộng đồng và các biểu hiện
của thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD .
5.2. Nghiên cứu thực trạng biểu hiện, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng tới sự thích
ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
5.3. Đề xuất một số gải pháp về tâm lý học nhằm nâng cao sự thích ứng với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu thích ứng tâm lý như là quá trình chủ động, biến đổi bản thân cá
nhân để có được sự cân bằng với môi trường sống. Do vậy, đề tài nghiên cứu mức độ và
biểu hiện thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thông qua các mặt: nhận thức, thái độ, hành
vi và những yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng đó.
6.2. Phạm vi về thời gian nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu trong 4 năm 2017 - 2020.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Nguyên tắc phát triển
Thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người đã chấp hành xong biện pháp xử
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng được xem như là một phạm trù thay đổi trong
từng giai đoạn từ khi họ chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng về sinh sống tại địa phương.
- Nguyên tắc hoạt động
Đề tài được tiến hành phân tích thực tiễn, xuất phát từ quan điểm cho rằng tâm lý
con người được hình thành trong hoạt động và giao tiếp và có nguồn gốc từ môi trường
sống. Mà thích ứng là một tất yếu đối với người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng tái hòa nhập cộng đồng xã hội. Do đó, muốn tìm hiểu rõ
về thích ứng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người đã chấp hành xong Quyết
định xử lý hành chính phải nghiên cứu thông qua hoạt động thực tiễn của họ.
- Nguyên tắc tiếp cận hệ thống
Con người là một thực thể xã hội nên hành vi của họ chịu sự chi phối, ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau- yếu tố tâm lý cá nhân và yếu tố xã hội. Khi nghiên cứu thích
ứng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, chúng tôi luôn đặt trong mối quan hệ với môi
trường, với nhóm xã hội mà họ tham gia với tư cách thành viên.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
Để xác định nội dung các khái niệm cơ bản, hình thành giả thuyết khoa học, khái
quát kết quả thu được từ các phương pháp cụ thể khác, xây dựng mô hình lý luận của đề
tài nghên cứu chúng tôi tiến hành sưu tầm, đọc, phân tích, tổng hợp hóa và khái quát hóa
những lý thuyết, những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được đăng tải trên các
sách, báo, tạp chí về những vấn đề liên quan đến thích ứng ở người đã chấp hành xong biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Đề tài sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp từ các hoạt động sống của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD qua các hoạt động học tập, lao động, quan hệ
xã hội và sinh hoạt.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
Trong khuôn khổ luận án, phương pháp chuyên gia được sử dụng cả trong nghiên
cứu lý luận nhằm tranh thủ ý kiến đóng góp của các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh
vực tâm lý học và giáo dục đối tượng đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa
vào trường giáo dưỡng về nội dung nghiên cứu lý luận và thực tiễn của luận án.
7.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp sử dụng chủ yếu trong đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng mức độ
thích ứng của người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng; mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới quá
trình thích ứng của họ. Trên cơ sở đó xác định yếu tố nào có ảnh hưởng nhiều nhất tới quá
trình thích ứng của họ.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch
Hồ sơ là tài liệu lưu giữ nhiều thông tin quan trọng, chi tiết như hoàn cảnh gia đình,
tiền sự, hành vi vi phạm mà họ đã thực hiện nên đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu hồ sơ của
một số trường hợp cần thiết phục vụ cho việc phỏng vấn sâu và nghiên cứu điển hình.
7.2.6 Phương pháp nghiên cứu trường hợp
- Mục đích: Nghiên cứu sâu hơn về nhận thức, thái độ và hành vi của người đã chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; tìm hiểu nguyên nhân
cản trở họ chưa tích cực với cuộc sống, giúp họ tạo dựng được niềm tin vào bản thân và
cộng đồng, tích cực tham gia vào các quan hệ xã hội, học tập và lao động.
- Phương pháp: phỏng vấn sâu, quan sát, tham vấn cá nhân.
- Khách thể: Chúng tôi nghiên cứu 02 trường hợp điển hình (Chọn trong số những
người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đã được
điều tra bằng bảng hỏi).
- Địa điểm tiến hành: tại địa chỉ cụ thể của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD sinh sống.
7.2.7. Phương pháp phỏng vấn sâu.
Tiến hành phỏng vấn sâu với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD,
cán bộ là Cảnh sát khu vực, Cảnh sát hình sự, tổ trưởng tổ dân phố, cán bộ của các tổ chức
đoàn thể ở địa phương nơi cư trú của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD về sinh sống nhằm đưa ra một số biện pháp góp phần nâng cao sự thích ứng tâm lý,
tái hòa nhập cộng đồng của khách thể nghiên cứu.
7.2.8. Phương pháp thống kê toán học
Đề tài được sử dụng phương pháp xử lý số liệu SPSS để xác định mối tương quan
giữa các mặt, ảnh hưởng của các yếu tố, kiểm tra độ tin cậy của các biến, chạy và kiểm tra
tần số, vẽ biểu đồ.
8. Đóng góp mới của luận án
8.1. Về lý luận
- Tác giả khái quát một số xu hướng nghiên cứu về thích ứng nói chung và thích
ứng tâm lý nói riêng, một số nghiên cứu về tái hòa nhập cho các đối tượng cần được chú
ý, giúp đỡ trên thế giới và ở Việt Nam. Từ đó tác giả xây dựng được cơ sở lý luận về thích
ứng tâm lý ở đối tượng có tính đặc thù- người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường Giáo dưỡng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Tác giả đã chỉ rõ các
biểu hiện và nội dung của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Đề tài xác định được nội dung của một số yếu tố dự
báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD bao gồm các yếu tố thuộc về chủ quan và các yếu tố thuộc về khách quan.
- Kết quả nghiên cứu của luận án một mặt sẽ cung cấp những thông tin quan trọng
và mới mẻ trong những vấn đề lý luận và khẳng định sự cần thiết về thích ứng nói chung
và sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng cho tất cả các đối tượng chấp hành xong
biện pháp xử lý hành chính.
8.2. Về thực tiễn
Đề tài chỉ ra thực trạng thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thông qua các nội dung và
mặt biểu hiện. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng như một tài liệu tham
khảo trong các nhà trường, Học viện Công an nhân dân; các viện nghiên cứu xã hội và các
khoa xã hội, khoa Tâm lý các nhà trường; các nhà nghiên cứu về tâm lý học pháp lý, tâm
lý học tội phạm, cán bộ làm công tác quản lý, giáo dục tại các địa bàn cơ sở... để có thêm
kênh thông tin và kiến thức về thích ứng tâm lý người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD. Từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa khả năng thích ứng tâm lý của nhóm
khách thể này.
9. Cầu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình của tác giả liên quan đến luận
án, tài liệu tham khảo và phần phụ lục Luận án được cấu trúc theo 3 chương:
Chương 1. Lý luận về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực tiễn thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP
CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP
XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Hướng nghiên cứu sự thích ứng nghề nghiệp, thích ứng lao động
E. A. Ermolaeva năm 1969 nghiên cứu “Đặc điểm của sự thích ứng xã hội và nghề
nghiệp của sinh viên tốt nghiệp trường sư phạm”. Trong công trình này tác giả đã đưa ra
khái niệm thích ứng và chỉ số đặc trưng với thích ứng nghề nghiệp của những sinh viên
tốt nghiệp trường sư phạm. Theo bà, “thích ứng nghề nghiệp là một quá trình thích nghi
của con người với đặc điểm và điều kiện lao động tập thể nhất định”. Bà đưa ra bốn chỉ số
khách quan và ba chỉ số chủ quan của sự thích ứng nghề nghiệp. Bốn chỉ số khách quan:
chất lượng công việc, trình độ tay nghề, uy tín của cá nhân trong tập thể, sự tuân thủ kỷ
luật lao động và ba chỉ số chủ quan là: thái độ hài lòng với công việc, điều kiện làm việc,
mối quan hệ với người khác trong tập thể. Bà cũng chỉ ra những thời điểm thích ứng xuất
hiện, đó là: “ Khi làm quen với những điều kiện mới đó kéo theo những sự tiêu tốn sức lực
nhất định”. Mặc dù chỉ nghiên cứu lĩnh vực thích ứng lao động nhưng ý kiến của E. A.
Ermolaeva góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về thích ứng nhất là vấn đề chỉ số của sự
thích ứng [dẫn theo 28].
Năm 1979 A.I Serbacov và A.B. Mudric với công trình “Sự thích ứng nghề nghiệp
của thầy giáo” cũng gần giống quan điểm của E.A. Ermolaeva nhưng nhấn mạnh sự làm
quen với điều kiện và đặc điểm lao động cũng được xem là quá trính thích ứng. “Thích ứng
nghề nghiệp của người thầy giáo là quá trình thích nghi với những điều kiện thực tế của
hoạt động sư phạm thể hiện ở thầy giáo khi mới vào công tác ở trường phổ thông”. Hai tác
giả đã đưa ra cái nhìn chung về sự thích ứng tâm lý với nghề dạy học, đồng thời phân tích
các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan có ảnh hưởng đến thích ứng nghề nghiệp
[dẫn theo 30].
Khi con người thích ứng với nghề nghiệp, họ sẽ chủ động hơn, tích cực hơn trong
công việc, an tâm phấn khởi, say mê, dồn hết tâm trí, khả năng của mình vào hoạt động và
lúc này họ sẽ dễ dàng thực hiện công việc, tăng khả năng sáng tạo và hiệu suất lao động.
Năm 1983 với quan điểm “thích ứng nghề nghiệp là giai đoạn cuối cùng cho việc
hướng nghiệp, quá trình này diễn ra từ khi học phổ thông và bao gồm việc nắm kỹ năng,
kỹ xảo cần thiết, kỹ năng định hướng nhanh chóng quá trình hành động” của N.I. Klalughin
mà về sau hai nhà nghiên cứu tâm lý học là Ia.P. Colomiski và E.A.Panco đã phân biệt rõ
hai loại thích ứng: thích ứng sinh lý và thích ứng tâm lý- xã hội. Thích ứng sinh lý diễn ra
như một tự động hóa khi môi trường thay đổi, sự thay đổi này không kèm theo hành động
có mục đích của chủ thể tâm lý [dẫn theo 66, tr.56]. Thích ứng tâm lý- xã hội là một quá
trình biến đổi tích cực mà để có được nó chủ thể cần biểu hiện những nỗ lực chuyên biệt;
mặt khác mối quan hệ giữa con người với môi trường trong thích ứng tâm lý- xã hội khác
hẳn thích ứng sinh lý, đó là quan hệ hai chiều trong đó không chỉ hoàn cảnh tác động lên
con người mà con người tác động trở lại hoàn cảnh, tự mình thay đổi hoàn cảnh xã hội.
M.V. Vôlanen- nhà tâm lý học Ba Lan quan tâm đến vấn đề thích ứng nghề nghiệp
và tâm thế xã hội đối với việc làm của thanh niên. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy
giữa việc học và lao động nghề của thanh niên là thời gian chuyển tiếp có thể kéo dài từ 5
– 7 năm, được đặc trưng bởi hàng loạt các sự kiện như: những công việc tạm thời, thất
nghiệp, thậm chí cả sự thay đổi nghề [dẫn theo 38].
Ở một khía cạnh khác, Holland nghiên cứu sự phù hợp của các hình thái, các kiểu
nhân cách với môi trường nghề nghiệp tương ứng. Theo ông tính cách phù hợp với môi
trường nghề tương ứng sẽ hạn chế rất nhiều những rủi ro mà con người gặp phải trong công
việc, đẩy nhanh quá trình thích ứng nghề [dẫn theo 38, tr.79].
Năm 1979, A.E.Golomstooc khi nghiên cứu về “Sự lựa chọn nghề nghiệp và giáo
dục nhân cách cho học sinh”, tác giả đã không sử dụng thuật ngữ “thích ứng” (Адаптация)
mà sử dụng thuật ngữ “thích hợp” (Пригодностъ) để nói về sự thích nghi của con người
với nghề nghiệp. Trong đó, tác giả xem thích ứng là một quá trình bắt đầu từ nhận thức đến
hành động và đặc biệt nhấn mạnh đến mặt thái độ của quá trình thích hợp nghề nghiệp và
coi đó như là một thuộc tính của nhân cách. Ông viết: “ Sự thích ứng nghề nghiệp được thể
hiện ở chỗ con người lĩnh hội và thực hiện lao động có kết quả, đồng thời thể hiện tình cảm
thỏa mãn với công việc của mình” [14,tr.121]. Ngoài ra, ông cũng nêu lên lý thuyết về sự
thích ứng nghề nghiệp phù hợp với những tài liệu thực nghiệm của tâm lí học hiện đại. Tuy
nhiên, ông cũng chỉ mới đề cập tới vấn đề thích hợp nghề nghiệp nói chung chứ không đi
vào một nghề cụ thể [14, tr.66].
Một số nghiên cứu thích ứng với nghề nghiệp trong nước có thể điểm qua như sau.
Tác giả Nguyễn Thúy Bình với “Sự thích ứng của người giáo viên trẻ”, Nguyễn Thị Minh
Huyền có “Sự thích ứng với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên các
trường sư phạm”, Nguyễn Nguyệt Cầm “Sự thích ứng với nghề chế biến ăn uống của học
sinh ngành chế biến ăn uống trường trung học Thương mại và Du lịch” [dẫn theo 23].
Các công trình trên làm rõ khái niệm “thích ứng”, chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng
đến sự thích ứng nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, còn có “Kế hoạch đường đời và tự xác định nghề nghiệp của thanh
niên- sinh viên” của tác giả Nguyễn Thạc đề cập đến sự thích ứng nghề nghiệp và chỉ ra ý
nghĩa của nó đối với việc chọn nghề của sinh viên. Tác giả cho rằng thích ứng tốt sẽ tạo ra
sự ổn định nghề nghiệp, có sự tin tưởng vào sự đúng đắn của việc lựa chọn nghề. Đó là cơ
sở để khẳng định nhân cách và củng cố xu hướng nghề nghiệp của cá nhân .
1.1.2. Hướng nghiên cứu sự thích ứng với môi trường văn hóa mới, thích ứng
xã hội.
H. Spencer (1820- 1903) khi nghiên cứu về sự thích ứng của con người với môi
trường, ông đã chỉ ra con người sống trong xã hôi, cũng giống như các loài vật trong môi
trường tự nhiên, đấu tranh để tồn tại và chỉ những người thích ứng với môi trường sống
mới sống sót. Môi trường ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa: cả môi trường tự nhiên, cả môi
trường xã hội. Và sự thích ứng với điều kiện sống của môi trường nào cũng đều cần thiết
và có ý nghĩa với chủ thể, trong đó thích ứng tâm lý với môi trường xã hội là vấn đề nghiên
cứu của tâm lý học. Chính vì vậy, những nghiên cứu về sự thích ứng xã hội của con người
chủ yếu là những nghiên cứu về sự thích ứng với môi trường xã hội với tư cách con người
là thành viên của xã hôi và tham gia vào các mối quan hệ xã hội nhất định.
K. Oberg, nhà nhân chủng học người Mỹ, đưa ra khái niệm “sốc văn hóa”. Theo
ông, khi con người nhập vào một nền văn hóa mới luôn kèm theo những vấn đề về sức
khỏe tinh thần, cảm giác đánh mất bạn bè, những cảm xúc tiêu cực, địa vị, không thoải
mái, sự khó khăn trong định hướng giá trị và mâu thuẫn nội tâm [66,tr.178].
Vấn đề sốc văn hóa sau đó được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, chẳng hạn
như: P.S. Adler, E.H. Jacobson, A.C. Garza – Guerrero... và mặc dù, mỗi tác giả độc lập
nghiên cứu và đưa ra những giai đoạn khác nhau của sốc văn hóa nhưng tất cả đều cho rằng
triệu chứng của sốc văn hóa rất khác nhau: từ sự bất an thường xuyên về chất lượng thực
phẩm, điều kiện vệ sinh, nước uống, sợ tiếp xúc với người khác, mất ngủ, thiếu tự tin cho
đến rối loạn tâm thể, thậm chí tự tử.
Những công trình nghiên cứu khác về vấn đề sốc văn hóa cho thấy sốc văn hóa cũng
để lại những hiệu quả tích cực, đó là đưa con người tới những sự nỗ lực để tiếp nhận những
giá trị và những mô hình hành vi mới; những mô hình hành vi này sẽ giúp họ phát triển
nhân cách của bản thân. Nhà tâm lý học Berry J.W đã đề xuất thuật ngữ “stress
acculturation”- trạng thái căng thẳng do tiếp nhận và biến đổi văn hóa.
Ngày nay, thế giới đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa với những sự giao thoa
của các nền kinh tế đã kéo theo quá trình giao thoa, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia,
giữa các công dân giữa các quốc gia. Trong sự phát triển của toàn cầu hóa, một công cụ để
thích ứng với quá trình này là phát triển trí tuệ xuyên văn hóa (Gertesen & Soderberg,
2010). Những người sống ở nước ngoài (những nền văn hóa khác) học cách thích ứng với
các kỳ vọng và mối quan tâm khác nhau ở nơi làm việc, tầm quan trọng của các chuẩn mực
vị thế để phát triển các mối quan hệ hiệu quả ở công ty/ tổ chức.
Công trình nghiên cứu về thích ứng trong quá trình đào tạo nghề năm 1956, trong
cuốn “ Colonial Studens” (Sinh viên nước thuộc địa), Carey A.T nghiên cứu sự thích ứng
với quá trình học tập của sinh viên nước ngoài trong môi trường văn hóa mới. Ông phân
tích quá trình thích ứng với nền văn hóa Anh của sinh viên (chủ yếu là từ các nước Châu
Phi và Châu Á) các nước thuộc địa đến Anh học tập [54]. Trong phân tích của mình, Carey
A.T chú ý nhiều đến những khó khăn gắn liền với cuộc sống sinh viên và thái độ của sinh
viên Anh đối với họ.
Một số nhà tâm lý học nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên nước ngoài khi học
tập trong một môi trường văn hóa mới. A. Anumonye phỏng vấn 150 sinh viên châu Phi
học tập ở Anh và đưa ra những nguyên nhân gây hẫng hụt của sinh viên trong môi trường
sống mới. Trong số này, những nguyên nhân về văn hóa chiếm phần lớn. Theo ông, chính
sự không thích ứng với môi trường sống khiến sinh viên châu Phi gặp nhiều những khó
khăn trong thời gian học tập tại Anh) [50, tr.62].
Nhà nghiên cứu Triandic H. khi nghiên cứu về quá trình thích ứng gắn sốc văn hóa
với đường cong chữ U của quá trình thích ứng. Ông cho rằng quá trình thích ứng văn hóa
có 5 giai đoạn: 1- Giai đoạn “ trăng mật” đặc trưng bởi sự khâm phục, say mê, nhiệt huyết
của người đến và thái độ thân thiện, lịch sự của đại diện văn hóa mới; 2- Giai đoạn “khủng
hoảng” là những dị biệt về tư tưởng, ngôn ngữ, giá trị làm xuất hiện cảm giác không tương
thích, bất an, hẫng hụt, không thân thiện; 3- Giai đoạn khủng hoảng cao độ: sốc văn hóa
phát triển đến đỉnh điểm với những bệnh lý trầm trọng và trạng thái bất lực; 4- Giai đoạn
“phục hồi” với nỗ lực của bản thân, con người lĩnh hội ngôn ngữ và tiếp thu nền văn hóa
của nước di cư đến; 5- Giai đoạn “thích ứng”: con người thâm nhập vào môi trường sống
mới và nhận được từ đó sự “chấp nhận”[79, tr. 25]. Nhiều nhà tâm lý học khác hướng sự
chú ý vào vấn đề sức khỏe tinh thần khi con người chuyển sang môi trường sống mới.
Chẳng hạn, R. Still khi tiến hành khảo sát sức khỏe tinh thần ở sinh viên Anh và sinh viên
nước ngoài tại Hồng Kông nhận thấy tỉ lệ sinh viên có vấn đề về tâm lý như sau: Nigiênia:
28.1%; Aicập: 22.5%; Thổ Nhĩ Kỳ: 21%; Ấn Độ: 17.6% và Anh là 14%.
Tác giả Singh A.K. đã chỉ ra 3 nhóm vấn đề mà sinh viên Ấn Độ học ở Anh gặp
phải, đó là những vấn đề về học tập, cảm xúc và thích ứng. Kết quả “ nghiên cứu cho thấy
sẽ là sai lầm nếu cho rằng sinh viên Ấn Độ là nhóm ít phân hóa. Sự thích ứng của họ với
các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như xã hội, cá nhân và học tập phụ thuộc vào nhiều
yếu tố mà trước hết là địa vị xã hội, lứa tuổi, phẩm chất cá nhân, cấp học, loại trường và
thời hạn cư trú” ) [72, tr. 161].
Như vậy, những nghiên cứu về thích ứng với môi trường văn hóa mới đã được các
tác giả đề cập tập trung hướng tới mô tả sự thay đổi của con người cho phù hợp với sự thay
đổi của môi trường văn hóa mà trong đó họ là thành viên- chủ thể sẽ góp phần tạo ra và
làm phong phú những giá trị văn hóa đó.
Những nghiên cứu trên cho thấy thích ứng môi trường văn hóa, môi trường xã hội
đều có điểm chung là: những chiều cạnh khác nhau của tâm lý con người khi có sự thay
đổi về môi trường xã hội, môi trường văn hóa cũng như hệ quả của việc không thích ứng
sẽ xảy đến trong đời sống tâm lý cũng như hoạt động của các cá nhân rằng: những mặt
khác nhau của đời sống tâm lý con người khi thay đổi môi trường sống mới với những
chuẩn mực xã hội khác; việc không thích ứng với nó sẽ dần dẫn đến hậu quả tiêu cực trong
đời sống và hoạt động của con người. Tuy nhiên điểm khác biệt giữa các nghiên cứu trên
là có tác giả đề cập đến vấn đề sốc văn hóa như là biểu hiện của kém thích ứng với môi
trường văn hóa; có tác giả lại đưa ra các giai đoạn khác nhau của của quá trình thích ứng
khi sống trong những điều kiện thay đổi về vật chất.
Đây cũng là một trong những hướng nghiên cứu phổ biến tại Việt Nam về vấn đề
thích ứng. Các công trình theo hướng này chủ yếu tập trung vào sự thích ứng tâm lý với
điều kiện sống mới như: sự thích ứng với môi trường tập thể, thích ứng tâm lý với điều
kiện sống mới... có thể kể đến công trình của Lã Văn Mến: “Tìm hiểu sự thích ứng đối với
đời sống tập thể của sinh viên năm thứ nhất”. Trong công trình này tác giả đã phát hiện
thực trạng sự thích ứng với điều kiện tập thể của sinh viên năm thứ nhất và vai trò của các
yếu tố trong quá trình đó. Tác giả đề xuất những biện pháp nhằm đẩy mạnh sự thích ứng
của sinh viên với đời sống tập thể trong thời gian năm thứ nhất [dẫn theo 31, tr. 41].
Hoặc nghiên cứu về thay đổi môi trường sống có tác giả Chu Văn Đức với luận án
tiến sĩ về “Sự thích ứng của phạm nhân với chế độ sinh hoạt và chế độ lao động tại trại
giam”. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đa số phạm nhân mới nhập trại chỉ đạt mức độ
thích ứng trung bình với chế độ sinh hoạt và lao động. Thực trạng thích ứng của phạm nhân
với chế độ sinh hoạt và lao động ít biến đổi theo giới tính nhưng biến đổi mạnh theo trình
độ học vấn, tình trạng hôn nhân và mức án của phạm nhân. Quá trình thích ứng của phạm
nhân với chế độ sinh hoạt và chế độ lao động trong những năm đầu ở trại giam diễn ra liên
tục với cường độ không như nhau ở những giai đoạn khác nhau. Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự thích ứng của phạm nhân, trong đó có 3 yếu tố:
niềm tin vào tương lai, sự quan tâm của gia đình và mối quan hệ phạm nhân- phạm nhân
có ảnh hưởng đáng kể đến thực trạng thích ứng của phạm nhân với chế độ sinh hoạt và
chế độ lao động, trong đó niềm tin vào tương lai là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất [5, tr.121].
Theo hướng nghiên cứu này có các hướng nghiên cứu tập trung vào những nhóm
khách thể như sinh viên hay học sinh đầu, những người thay đổi môi trường sống. Tiêu
biểu như một số tác giả Trần Hoàng Yến “Sự thích ứng học tập của học sinh lớp 1”, Hoàng
Trần Doãn “sự thích ứng trong hoạt động học tập của sinh viên”, Nguyễn Minh Đức có “sự
thích ứng hoạt động học tập của học sinh lớp 6”. Các công trình trên đã hệ thống hóa các
vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động học tập của những nhóm khách thể có đặc điểm tâm
lý đặc trưng. Qua đó tìm hiểu thực trạng sự thích ứng với hoạt động học tập và xác định
nguyên nhân ảnh hưởng tới thích ứng học tập của nhóm khách thể này [dẫn theo 33].
Công trình của tác giả Phạm Thị Thục Oanh “Thích ứng tâm lý với quá trình chấp
hành án tại trại giam của phạm nhân nữ”. Trong luận án này tác giả đã làm rõ khái niệm
thích ứng dựa trên 3 mặt đó là: Nhận thức, cảm xúc và hành vi của phạm nhân trong quá
trình chấp hành án tại một số trại giam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã kết luận
phạm nhân có sự thích ứng về hành vi cao hơn thích ứng về mặt nhận thức và cảm xúc [32,
tr.151].
Năm 2012, tác giả Vũ Dũng với cuốn sách “Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội
yếu thế ở nước ta hiện nay”đề cập đến là nhóm người cao tuổi, nhóm người mắc bệnh hiểm
nghèo, nhóm trẻ em lang thang, cơ nhõ. Các nhóm xã hội này gặp nhiều khó khăn, bất cập
và thách thức trong cuộc sống và khả năng thích ứng, cũng như những thiếu hụt về kinh
nghiệm sống, về sức khỏe và khả năng thu nhập. Trong khi đó sự thích ứng xã hội là một
trong những điều kiện hàng đầu giúp con người sống và tồn tại. Sự thích ứng là điều kiện
giúp con người vượt qua những khó khăn trở ngại, hòa nhập và tồn tại một cách hiệu quả
với môi trường sống. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn đầy đủ về “nhóm xã
hội yếu thế” như những khó khăn, thuận lợi trong cuộc sống và đặc biệt là những khó khăn
trong việc hòa nhập vào cuộc sống xã hội hiện đại [9]. Thích ứng xã hội là vấn đề cần được
nghiên cứu sâu và có hệ thống dưới góc độ Tâm lý học.
Trong một số công trình nghiên cứu thích ứng với môi trường văn hóa và xã hội có
tác giả lại chỉ tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của thích ứng văn hóa và xã hội tới kết
quả học tập và những trạng thái tâm lý căng thẳng của con người. Mặc dù các kết quả thu
được có giá trị cao về mặt học thuật và thực tiễn nhưng chỉ tập trung vào mô tả các biểu
hiện và các chỉ số cụ thể của sự thích ứng hoặc không thích ứng với môi trường văn hóa,
môi trường xã hội mà chưa chú ý đến đưa ra những hướng cụ thể, chỉ ra cơ chế làm sao
con người có thể thích ứng được với những thay đổi của môi trường văn hóa, môi trường
xã hội một cách nhanh và hiệu quả.
1.1.3. Nghiên cứu về thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng
Trong công trình "Evidence-Based Review of Stroke Rehabilitation Community
Reintegration" tháng 3/2018 (Đánh giá dựa trên bằng chứng về phục hồi đột quỵ trong Tái
hòa nhập cộng đồng) của nhóm tác giả Tiến sĩ Katherine Salter PhD, Laura Allen MSc,
Marina Richardson MSc, Andreea Cotoi MSc, Alice Iliescu BSc, Breanne Carr BRLS,
Robert Teasell MD đã chỉ rõ tái hòa nhập cho các bệnh nhân phục hồi đột quỵ sẽ đạt kết
quả tốt khi có sự hỗ trợ xã hội. Và hỗ trợ xã hội được tìm thấy là có lợi trong việc cải thiện
tâm trạng, tương tác xã hội và thậm chí kết quả chức năng. Bệnh nhân đột quỵ được hưởng
lợi nhiều nhất từ hỗ trợ xã hội và hỗ trợ cảm xúc cao. Mạng lưới hỗ trợ xã hội lớn có ảnh
hưởng tích cực đến sự phục hồi thể chất và chất lượng cuộc sống của người sống sót sau
đột quỵ. Mặc dù các tổ chức xã hội quản lý, chăm sóc và hỗ trợ người bệnh tại nhà có thể
giúp cải thiện kiến thức và sự hài lòng giúp người bệnh nâng cao chất lượng cuộc sống
hoặc tâm trạng được cải thiện [62].
Trong công trình "Offender Reentry: Correctional Statistics, Reintegration into the
Community, and Recidivism" (Tái hòa nhập của Người phạm tội: Thống kê tương đối, tái
hòa nhập cộng đồng và phòng ngừa tái phạm) của tác giả Nathan James Analyst in Crime
Policy, tháng 1/ 2015
Trong công trình này, tác giả nêu rõ thống kê số người bị giam giữ ở Hoa Kỳ tăng
trưởng đều đặn trong gần 30 năm. Con số đã giảm dần kể từ năm 2008, nhưng đến năm
2012 vẫn còn hơn 2 triệu người bị giam trong các nhà tù khắp đất nước. Gần 5 triệu người
phạm tội dưới một số hình thức dựa vào cộng đồng giám sát. Các phạm nhân được chuẩn
bị các hoạt động và chương trình được tiến hành để chuẩn bị cho các tù nhân trở về an toàn
và sống như những công dân tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, một số người phạm tội trở lại
nhà tù vì thực hiện tội phạm mới hoặc vi phạm các chuẩn mực xã hội khi họ chưa kịp có
đủ thời gian và điều kiện làm quen với môi trường sống mới. Những người ra tù ít có khả
năng được tuyển dụng và có nhiều khả năng có tiền sử bệnh tâm thần hoặc lạm dụng chất
gây nghiện Tất cả đều được chứng minh là yếu tố nguy cơ tái phạm [67].
Ba giai đoạn được liên kết với các chương trình tái phạm tội: các chương trình diễn
ra trong thời gian chuẩn bị cho những phạm nhân được thả tự do; các chương trình diễn ra
nhằm mục đích để giúp họ liên lạc với gia đình,người thân, bạn bè với các dịch vụ khác
nhau họ có thể yêu cầu; và các chương trình dài hạn diễn ra với tư cách là cựu phạm nhân
tái hòa nhập vĩnh viễn vào cộng đồng của họ, nơi cộng đồng cung cấp cho người phạm tội
sự hỗ trợ và giám sát.
Chính phủ liên bang có liên quan đến các chương trình tái hòa nhập người phạm tội
thông qua việc cấp kinh phí.
Hội nghị Phát triển năng lực cộng đồng với chủ đề: "Strategies for Creating Offender
Reentry Programs in Indian Country" (Chiến lược Xây dựng chương trình tái hòa nhập
cộng đồng cho người phạm tội ở đất nước Ấn Độ) do Văn phòng Phát triển Năng lực Cộng
đồng (CCDO) đã tổ chức các cuộc thảo luận bàn tròn về vấn đề cộng đồng bản địa quan
tâm: vấn đề thực thi pháp luật, phòng chống tội phạm và tái hòa nhập cộng đồng. Chiến
lược này nhằm ngăn chặn, kiểm soát và giảm tội phạm bạo lực, lạm dụng ma túy, và hoạt
động của các băng đảng tại các khu dân cư trên cả nước. Chiến lược đề cập đến cách tiếp
cận theo hai hướng: 1) các cơ quan thực thi pháp luật và các công tố viên hợp tác trong
"loại bỏ" tội phạm bạo lực và những kẻ lạm dụng ma túy; phòng ngừa, can thiệp, điều trị
tại cộng đồng. 2) Lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động phát triển cộng đồng toàn diện,
cung cấp thông tin và các chương trình thực hành tái hòa nhập cộng đồng [73].
Xinh-ga-po đã có những mô hình thành công trong giúp đỡ người chấp hành xong
án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng. Điển hình như mạng lưới mô hình “Hành động của cộng
đồng trong tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù” (Community
Action for Rehabilitation of Ex-Offenders - viết tắt là CARE Network). Mô hình giúp đỡ
này được thành lập năm 2000, là sự chung tay, góp sức của nhiều cơ quan, tổ chức thuộc
chính phủ và cộng đồng. Lãnh đạo của mạng lưới là nhân viên thuộc Cục trại giam Xinh-
ga-po, các thành viên khác của mạng lưới là người của Bộ Nội vụ, Xinh-ga-po Corporation
of Rehabilitative Enterprises (SCORE), Bộ Cộng đồng, thanh niên và thể thao, Hội chăm
sóc Xinh-ga-po, Hội chống ma túy Xinh-ga-po, Hội đồng quốc gia về dịch vụ xã hội, Hội
hợp tác dịch vụ và công nghiệp (ISCOS). Mạng lưới là khối liên minh vững chắc, hợp tác
có hiệu quả của nhiều cơ quan, tổ chức, cùng góp nguồn lực và hành động cộng đồng trong
giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù, với khẩu hiệu hành động “Hy vọng, tự tin và cơ
hội cho người chấp hành xong án phạt tù” [dẫn theo 19, tr. 32]. Một trong những hoạt động
của mạng lưới trợ giúp của cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù được nhiều
người biết đến và khá hiệu quả ở Xinh-ga-po là dự án “Dải ruy-băng vàng” (Yellow Ribbon
Project). Dự án nhằm mục đích nâng cao nhận thức của cộng đồng về những khó khăn mà
người chấp hành xong án phạt tù phải đối mặt; khuyến khích sự tham gia của cộng đồng
trong việc tiếp nhận người có quá khứ phạm tội, cho họ cơ hội thứ hai làm lại cuộc đời và
thứ ba là tăng cường hiệu quả hành động của cộng đồng trong giúp đỡ người chấp hành
xong án phạt tù và gia đình họ.
Dự án đã quyên góp được trên 5 triệu đô la Mỹ, giúp đỡ trực tiếp cho người chấp
hành xong án phạt tù và gia đình họ về tài chính để ổn định cuộc sống, việc làm. Khoảng
2000 chủ doanh nghiệp Xinh-ga-po thông qua dự án đã cam kết và tiếp nhận người chấp
hành xong án phạt tù làm việc tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất; trên 80% người dân
Xinh-ga-po biết và ủng hộ chương trình, hiểu và nhận thức được mục đích ý nghĩa của dự
án đối với người chấp hành xong án phạt tù và xã hội; 70% bày tỏ lỗ lực và sẵn sàng giúp
đỡ, tiếp nhận người chấp hành xong án phạt tù. Như vậy, có thể khẳng định rằng mô hình
“Hành động của cộng đồng trong tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án
phạt tù” và Dự án “Dải Ruy-băng vàng” đã đạt được kết quả quan trọng trong nâng cao
nhận thức của cộng đồng về giúp đỡ người chấp hành xong hình phạt, người có quá khứ
phạm pháp; trực tiếp giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù về tài chính, tinh thần, việc
làm, giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này như: Đề tài
“Những nhân tố quan trọng tác động đến sự tái hòa nhập cộng đồng thành công của người
chấp hành xong hình phạt tù” (Successful Prisoner Reentry: an anlysis of the most
important variables) của tác giả Anna Wilson, đã tập trung nghiên cứu và chỉ ra những yếu
tố tác động, ảnh hưởng đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong án
phạt tù ở miền Tây nước Úc. Thông qua kết quả điều tra, phỏng vấn tác giả chỉ ra rằng nơi
ở, việc làm, sự trợ giúp của cộng đồng và giáo dục, đào tạo là những nhân tố ảnh hưởng
lớn nhất đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong án phạt tù. Đặc
biệt chỉ ra vai trò quan trọng của gia đình và cộng đồng trong giúp đỡ người chấp hành
xong án phạt tù tái hòa nhập xã hội. Sự giúp đỡ của mạng lưới cộng đồng tác động lên khả
năng của một cá nhân có thể tiếp xúc với các dịch vụ như nhà ở, giáo dục, các cơ quan trợ
giúp, nghề nghiệp, việc làm, chăm sóc sức khỏe và trợ cấp về tài chính. Tác giả cũng chỉ
ra việc chỉ sử dụng tỷ lệ tái phạm tội của người chấp hành xong án phạt tù như là chỉ số cố
định để đánh giá sự thành công hay không của chương trình tái hòa nhập cộng đồng là chưa
thỏa đáng [dẫn theo 18, tr.53], vì vậy để đánh giá hiệu quả của chương trình tái hòa nhập
cộng đồng, mục đích và các phương pháp đánh giá khác nhau cần được nghiên cứu, phát
triển. Kết quả nghiên cứu của Anna Wilson có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn, có thể
được sử dụng và áp dụng trong điều kiện thực tiễn tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho
người chấp hành xong án phạt tù tại Việt Nam.
Bài viết “Bài học thực tiễn của quá trình tái hòa nhập xã hội của người mãn hạn tù
ở Nauy” của tác giả Stian Bonnvie Arntzen - Giám đốc điều hành của Tổ chức trợ giúp
pháp lý miễn phí của sinh viên Khoa Luật trường Đại học Oslo, Nauy, tại Hội thảo khoa
học “Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở Việt Nam
và Na Uy” năm 2009, đã đưa ra nhiều quan điểm và mô hình thành công trong giúp đỡ
người chấp hành xong hình phạt tù trở về tái hòa nhập cộng đồng. Mô hình “Juss-Buss”
được thành lập bởi sinh viên Khoa Luật, Đại học Oslo, Na- uy, từ năm 1971. Tổ chức này
có 04 nhóm chuyên môn, với “cơ quan là những chiếc xe buýt” [dẫn theo 18, tr.72], di
động đi trợ giúp pháp lý các tầng lớp nhân dân ở Oslo, trong đó đã thành công trong việc
triển khai các chương trình trợ giúp pháp lý miễn phí cho phạm nhân và người chấp hành
xong án phạt tù liên quan đến những khó khăn của họ khi trở về tái hòa nhập xã hội như
vấn đề nhà ở, chính sách, pháp luật, việc làm.
Tổng quan nghiên cứu vấn đề thích ứng tập trung chủ yếu ở góc độ tâm lý cá nhân
như: sự khủng hoảng, hẫng hụt, trạng thái cảm xúc tiêu cực… Có một số nghiên cứu về
thích ứng với môi trường sống mới và cũng mới chỉ đề cập đến thích ứng của một nhóm
người đặc biệt- người phạm tội vào trong môi trường trại giam: nơi có điều kiện sống và
kỷ luật chặt chẽ và mất một phần tự do nhưng còn chưa nhiều và hầu như chưa mô tả đầy
đủ các khía cạnh của sự thích ứng. Còn thích ứng với cuộc sống sau khi chấp hành xong
biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong quá trình tái hòa
nhập cộng đồng thì tác giả chưa thấy có một nghiên cứu nào mà chỉ là những nghiên cứu
ở góc độ quản lý nhà nước về An ninh trật tự. Tác giả Vũ Văn Hòa với luận án “Tổ chức tái
hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù theo chức năng của lực lượng Cảnh sát
nhân dân trong phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam”. Trong luận án, tác giả Vũ Văn Hòa đã chỉ ra
công tác tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù; bước chuẩn bị
và sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Nghiên cứu cũng chỉ nghiên cứu ở người chấp hành
xong án phạt tù về các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội là người Việt Nam về sinh sống tại
các gia đình ở các địa bàn dân cư.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã nghiên cứu về
sự thích ứng ở một số bình diện, có thể khái quát một số điểm chung của các công trình đó
như sau:
- Thích ứng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của cá nhân; thích ứng giúp cá
nhân nhanh chóng hòa nhập với môi trường sống, hoạt động và đem lại hiệu quả cao.
- Một số công trình đã nêu lên một số yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lý,
trong đó khẳng định yếu tố chủ quan của cá nhân đóng vai trò quan trọng giúp cá nhân
thích ứng với hoạt động.
Đến nay, vẫn chưa có công trình nào đề cập đến sự thích ứng của người chấp hành
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong quá trình tái hòa nhập
cộng đồng mà chỉ là một vài nghiên cứu hoặc gần giống về khách thể nghiên cứu mà thôi.
Trong những nghiên cứu được đưa ra, có thể thấy những nghiên cứu về thích ứng tâm lý
của con người với sự thay đổi của môi trường sống, điều kiện văn hóa xã hội mới được ưu
tiên đề cập đến hơn cả; trong đó bao gồm cả thích ứng với một số dạng hoạt động nhất định
của cá nhân là hoạt động học tập và hoạt động nghề nghiệp. Đồng thời các nghiên cứu ở
các khía cạnh khác nhau của các nhà khoa học cũng đề cập khá nhiều tới những vấn đề mà
tác giả có thể tham khảo trong phần nghiên cứu của mình.
1.2. Lý luận về tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.2.1. Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân nhân
dân cấp huyện ra quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên có hành vi vi phạm
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh
hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường [37,tr.30]; [35,tr,92].
Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng đến 24 tháng.
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
4. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực hiện hành
vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Như vậy người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng trở về tái hòa nhập cộng đồng về độ tuổi là người từ đủ 12 tuổi trở lên.
Theo quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam như: Bộ luật Hình sự, Luật Thi
hành án hình sự, Luật Đặc xá, Luật Xử lý vi phạm hành chính, đối tượng tái hòa nhập cộng
đồng bao gồm: người chấp hành xong án phạt tù, người chấp hành xong quyết định hành
chính đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Bởi, các đối tượng này đều là người có
hành vi vi phạm pháp luật đã bị xử lý và quản lý, giáo dục trong các trại giam, cơ sở giáo
dục, trường giáo dưỡng, họ phải sống cách ly với môi trường xã hội trong thời gian theo
quy định của bản án hoặc quyết định xử lý hành chính.
Tuy nhiên, người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng có một số đặc điểm mà trong phạm vi nghiên cứu của đề tài cần lưu ý:
- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng là
những người đã có hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, bị Tòa
án nhân dân cấp Quận, huyện ra Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
được trả tự do về với gia đình, cộng đồng. Sau khi chấp hành xong Quyết định xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, bản thân họ là người không bị coi là có án tích.
- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng khi
trở về cộng đồng gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, điều kiện sống, không có việc làm, tay
nghề, trình độ thấp, cá biệt có trường hợp khi chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng trở về không nơi cư trú, cần được sự quan tâm, giúp đỡ của các
cơ quan, tổ chức, xã hội, các nhà doanh nghiệp để họ ổn định được cuộc sống, trở thành
người công dân lương thiện.
- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng khi
trở về xã hội gặp không ít khó khăn, về khía cạnh tư tưởng, tâm lý, họ thường lo lắng, mặc
cảm, tự ty, xa lánh mọi người, không dễ dàng bộc lộ tâm tư, tình cảm để mọi người cảm
thông, chia sẻ. Vì vậy, khi trở về cộng đồng, xã hội họ cần được giúp đỡ, chia sẻ về mặt
tâm lý, tình cảm, trợ giúp về kinh tế, tư vấn tâm lý, pháp lý.
- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trở
về cộng đồng thành phần đa dạng, phức tạp, không ít người trong thời gian chấp hành chưa
tỏ rõ sự tiến bộ, tích cực trong học tập, cải tạo nhưng hết thời gian chấp hành biện pháp xử
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng được trả tự do nên còn tiềm ẩn những yếu tố dễ
tái phạm, dễ bị các đối tượng xấu lôi kéo tham gia thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
- Những người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng trở về với cộng đồng đa số ở trong lứa tuổi đang định hình và phát triển nhân cách;
giai đoạn tâm lý có nhiều xáo trộn nhất nên dễ bị kích động, dễ bị rủ rê, lôi kéo..... nếu
không có biện pháp quản lý, giáo dục hợp lý. Do vậy xã hội cần có cách kiểm soát hợp lý.
Từ việc chỉ ra một số đặc điểm trên, người chấp hành xong biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng được hiểu như sau: Người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD là người đã nhận được sự giúp đỡ, giáo dục lại để xóa bỏ tâm lý tiêu
cực, hình thành tâm lý tích cực, thực hiện hành vi hợp chuẩn.
1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý phổ biến của người chấp hành xong biện pháp xử
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
- Tâm lý mặc cảm, tự ti là hiện tượng tâm lý phổ biến biểu hiện ra bên ngoài ở chủ
yếu người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Điều này thể hiện rõ ở việc
87/90 người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được khảo sát trả lời rằng lo
lắng, mặc cảm, tự ti, xa lánh mọi người, không dễ dàng bộc lộ tâm tư, tình cảm để mọi
người cảm thông, chia sẻ. Họ cho rằng những hành vi vi phạm của họ trước đây là những
vết nhơ, vết nhục trong cuộc đời họ, gia đình, họ hàng, làng xóm, khối phố. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân tâm lý khiến cho họ nghĩ rằng đời thế là hết, buông xuôi, bỏ
mặc dễ thúc đẩy các em tham gia vào các tệ nạn xã hội, thực hiện hành vi tái phạm.
- Nhu cầu của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cần được nhìn
nhận vì đây là đặc điểm tâm lý nổi trội ở các em. Nhu cầu là trạng thái tâm lý của cá nhân
đòi hỏi cần được thỏa mãn đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Bản thân nhu cầu chưa thể hiện
được cá nhân đó là tốt hay xấu, phù hợp hay chưa phù hợp với chuẩn mực xã hội, mà
phương thức thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mới là yếu tố thể hiện suy nghĩ và hành vi của
cá nhân có phù hợp với chuẩn mực xã hội hay không. Chính phương thức thỏa mãn nhu
cầu là những hành vi thể hiện trong các quan hệ của cá nhân với môi trường sống, với
người khác và với chính bản thân mình. Ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD, do quá trình sinh sống, hoạt động chưa tích cực, chưa tiếp thu đúng, đủ sự giáo
dục hợp chuẩn hoặc bản thân các em có sự tiếp nhận lệch lạc các nội dung giáo dục nên ỷ
lại, không chịu lao động, thích ăn chơi, hưởng thụ cuộc sống. Nhu cầu của họ chủ yếu thiên
về thoả mãn nhu cầu vật chất, thỏa mãn những nhu cầu nhất thời, sẵn sàng làm mọi thứ chỉ
để thỏa mãn nhu cầu ngay lập tức. Do đặc điểm tâm- sinh lý lứa tuổi, tính hưng phấn cao
nhưng kiềm chế kém nên các hiện tượng tâm lý “kích thích” hình thành và có khả năng lấn
át và thúc đẩy hành động của các em [39, tr.53]. Kết quả khảo sát, đánh giá tình hình người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về cộng đồng cho thấy, tổng số 72/90
người không có việc làm, trong đó phỏng vấn sâu có 67 người không thích lao động, chiếm
74,2 %; chưa chủ động tìm kiếm việc làm 71 người chiếm 78,9 % [4]. Yếu tố này là nguyên
nhân đưa họ tiếp tục đi vào con đường phạm tội, nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân.
- Ý thức pháp luật và nhận thức xã hội thấp kém cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi tái hòa nhập
cộng đồng tái phạm trở lại. Điều này thể hiện rất rõ khi chúng tôi tiến hành tìm hiểu được
biết trong nội dung học tập và rèn luyện trong thời gian ở trường Giáo dưỡng, nhà trường
cũng có giảng dạy và tuyên truyền nội dung pháp luật, các kiến thức xã hội nhưng không
có nghĩa là người nào chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về cộng đồng
cũng đều có ý thức pháp luật, chấp hành pháp luật một cách đúng đắn. Mà một số đối tượng
khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về tái hòa nhập cộng đồng vẫn
không chấp hành các quy định của pháp luật, quy định của địa phương như không trở về
địa bàn cư trú, bỏ đi nơi khác, không trình diện với chính quyền địa phương, không làm
các thủ tục pháp lý; thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, thậm chí là phạm tội.
1.2.3. Khó khăn của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng
Về hoạt động học tập
Hoạt động học tập là một quá trình, có mục đích- kế hoạch, có sự định hướng của
chủ thể giáo dục nhằm tiếp thu những tri thức và kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành
“cái” của riêng mình. Đây là quá trình đòi hỏi được thực hiện một cách liên tục, thường
xuyên, với các mục tiêu cụ thể của từng giai đoạn và cả quá trình. Với người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, hoạt động học tập thường bị “đứt quãng”, “gián
đoạn” vì chính chủ quan của các em không có ý chí vượt qua khó khăn trước mắt và lâu
dài của cuộc sống. Khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, quay trở lại thực
hiện hoạt động học tập, các em không có tri thức nền tảng để tiếp thu những tri thức tiếp
theo. Bản thân các em không còn tâm thế thực hiện hoạt động học tập. gặp phải một số khó
khăn nhất định như tri thức để các em tiếp thu không liền mạch, không thành hệ thống,
không có cơ sở để tiếp tục lĩnh hội tri thức mới. Bản thân các em cũng không có tâm thế
cho hoạt động học tập, thường trực một tâm lý “từng trải”, “vấp ngã” rồi có học cũng
“không nên cơm cháo gì” nên thực tế khảo sát bằng bảng hỏi thì đa số các em có học vấn
phổ thông ở mức tiểu học.
Về hoạt động lao động
Hoạt động lao đông ở con người khác xa với những hành vi bản năng của con vật ở
chỗ hoạt động lao động của con người có tâm lý- ý thức định hướng, điều khiển, điều chỉnh,
thể hiện việc đặt ra mục đích và những kết quả cần đạt được bằng những mô hình xây dựng
trong “não”. Tâm lý- ý thức chính là những tri thức, kinh nghiệm mà mỗi cá nhân tiếp thu
được từ những hoạt động và lao động có mục đích. Ở người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD, việc đề ra mục đích và kết quả trước khi tiến hành hoạt động lao
động có được thực hiện, xong trên thực tế so với lứa tuổi thì các em lại chưa có đủ tri thức
để chủ động tiến hành hoạt động lao động; chưa có bản lĩnh để giải quyết những khó khăn
trong nảy sinh trong quá trình lao động. Nên quá trình lao động của các em có được tiến
hành cũng chỉ là thực hiện một cách bị động, chưa thực sự là hoạt động theo đúng nghĩa
nên kết quả không cao. Khó khăn nhất trong hoạt động lao động với người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng là phải giúp các
em hình thành thái độ tích cực, đúng mực với lao động và các giá trị lao động và hơn nữa
là hình thành nhu cầu muốn được lao động.
Về quan hệ xã hội
Lứa tuổi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là ở tuổi thiếu
niên và đầu thanh niên. Đặc điểm tâm lý của giai đoạn lứa tuổi này là hình thành và phát
triển các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD theo khảo sát của tác giả thì chủ yếu là các quan hệ xã hội tiêu cực, chưa phù hợp
với các chuẩn mực xã hội như các em tham gia và gia nhập các nhóm không tích cực là
những bạn bè có cùng sở thích, hứng thú lệch chuẩn; chưa cư xử phù hợp với đạo đức và
văn hóa của xã hội trong quan hệ với mọi người. Vì không có tri thức và thái độ về các
chuẩn mực xã hội nên các em nhiều khi lại đánh giá những hành vi tích cực lại là không
phù hợp với các em, không thực hiện theo và cho rằng ngược lại mới là đúng với các quan
hệ xã hội. Với các tổ chức xã hội tại địa phương và người thân trong gia đình của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD phải có kế hoạch kiểm tra thường xuyên,
liên tục uốn nắn kịp thời phát hiện ra sai lệch từ nhận thức, thái độ và biểu hiện hành vi.
Về sinh hoạt
Sinh hoạt của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở việc
chấp hành phù hợp với những sinh hoạt của gia đình và quy định tại địa phương. Với hoạt
động này, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD gặp rất nhiều khó khăn
như: giờ giấc ăn, ngủ trong gia đình thường bê trễ, các em “ngủ nướng”, ăn theo sở thích,
vô điều độ... các quy định của địa phương thì “bỏ qua”, phù hợp thì làm không thích thì
mặc kệ.
Về mặt tâm lý
Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD luôn thường trực sẵn tâm lý
tự ti, không muốn tiếp xúc và giao tiếp rộng rãi với mọi người. Nhiều khi người thân trong
gia đình các em cũng lảng tránh, “bất đắc dĩ lắm” mới nói chuyện. Các em chưa thực sự
dám bày tỏ những khó khăn vướng mắc trong cuộc sống mà dễ buông xuôi theo kiểu “đời
thế là hết”, bế tắc tự đi tìm cách giải quyết riêng theo suy nghĩ mà mình cho là đáng phải
làm thế.
Hơn nữa về mặt khách quan, mọi người trong xã hội có chung một định kiến “đã có
tì vết là xấu”, không thể gột rửa được. Nên nhiều tổ chức trong cộng đồng còn e ngại,
không muốn tiếp nhận, chưa tạo điều kiện về công ăn việc làm cho người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD còn phổ biến. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cơ sở cũng
chưa quan tâm đúng mức đến người có quá khứ “lầm lỗi”. Những rào cản về công ăn việc
làm cũng như sự kì thị của xã hội đã gây ra nhiều khó khăn cho người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng [32,tr.88].
1.2.4. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường Giáo dưỡng
Hiện nay, các nước trên thế giới, kể cả Việt Nam các nhà nghiên cứu và thực tiễn
có nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập cộng đồng nhưng chủ yếu là những nghiên
cứu về tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù và nghiên cứu dưới
góc độ quản lý xã hội và quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Cho đến nay chưa có một
nghiên cứu nào về tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong Quyết định xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
Cụ thể, một số quốc gia như Thái Lan, Hàn Quốc, tái hòa nhập cộng đồng là “sự trở
lại”, “sự trở về”, cũng có quan điểm cho rằng tái hòa nhập cộng đồng là “tái hoàn lương”.
Tuy nhiên, phần lớn các nước đều sử dụng thuật ngữ “tái hòa nhập cộng đồng” cho người
chấp hành xong án phạt tù. Nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp quản lý giáo dục tù
tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quốc Nhật. “Tái hòa nhập
cộng đồng là quá trình bình thường hóa tất cả các mối quan hệ xã hội của người tù tha về
để họ hội nhập với gia đình và cộng đồng nơi cư trú với tư cách là một thành viên của gia
đình, một công dân tốt của xã hội. Theo tác giả “tái hòa nhập là quá trình tác động tích cực
của các chủ thể trong xã hội bằng hệ thống các biện pháp nhằm giúp đỡ những người có
quá khứ tội lỗi, xóa bỏ mặc cảm của cộng đồng đối với họ và của bản thân họ đối với cộng
đồng, gia đình và xã hội để họ trở về là người dân lương thiện sống hòa nhập trong cộng
đồng” [31,tr.37].
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quốc Nhật, khái niệm trên đã nêu lên
được điểm nổi bật của nội dung tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt
tù, kể cả về mặt xã hội, pháp lý. Tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án
phạt tù không chỉ là xóa bỏ những quá khứ lỗi lầm, mặc cảm mà còn tạo cơ hội bình thường
hóa để họ hòa nhập cộng đồng, tái hòa nhập cộng đồng; không phải chỉ là biện pháp quản
lý mà còn bao gồm cả giáo dục nhằm xóa bỏ những nhận thức sai lầm, xây dựng, hình
thành cho họ những giá trị đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội để họ thực
sự trở thành công dân tốt.
Tác giả đồng nhất với quan điểm của Nguyễn Quốc Nhật, tái hòa nhập cộng đồng
cho người chấp hành xong án phạt tù không chỉ là đưa họ về với gia đình, cộng đồng nơi
họ sinh sống mà phải tiếp tục giúp đỡ, tạo điều kiện, cho họ có cơ hội tham gia vào các
hoạt động của đời sống xã hội.
Từ việc tham khảo những nghiên cứu và thực tiễn tổ chức tái hòa nhập cộng đồng
cho người chấp hành xong án phạt tù, bản thân tác giả nhận thấy quá trình tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng có một số đặc điểm:
- Về mặt xã hội, người bị chấp hành Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng bị sống cách ly với cuộc sống xã hội, không được tham gia vào các quan hệ xã
hội bình thường... Vì vậy, trong suy nghĩ, nhận thức của người chấp hành xong Quyết định
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng khi trở về địa phương còn lạc hậu so với thực
tiễn cuộc sống, có tâm lý mặc cảm, tự ti, xa lánh mọi người. Bên cạnh đó, đời sống kinh
tế, việc làm cũng là những khó khăn, trở ngại khiến họ có suy nghĩ, cảm nhận không đúng.
Do đó, tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cần
có sự giúp đỡ về mặt tâm lý, xã hội việc làm... của tất cả các cá nhân và cộng đồng xã hội.
- Về khía cạnh tâm lý: tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD là quá trình tái phục hồi, hình thành các phẩm chất tâm lý tích cực;
hạn chế, loại bỏ các phẩm chất tâm lý tiêu cực ở họ; hướng tới và hình thành hành vi tích
cực, phù hợp với chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên, tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là quá trình hai chiều, một mặt là quá trình
người chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng hướng tới
cộng đồng, hòa nhập với cộng đồng và mặt khác cần có sự giúp đỡ của cộng đồng đối với
người chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, tạo điều
kiện cho họ sớm ổn định cuộc sống.
Quá trình vận động, phấn đấu của chính bản thân người chấp hành xong Quyết định
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trở về tái hòa nhập cộng đồng cần sự tự giác,
nỗ lực phấn đấu trong rèn luyện, khắc phục, sửa chữa những sai lầm trong quá khứ bằng
chính khả năng của bản thân, cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng, xã hội đó là yếu tố quyết
định đến sự thành công của quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là quá trình cá nhân chủ động, tiếp nhận chuẩn
mực xã hội sau một thời gian nhất định bị tách biệt với môi trường xã hội, hình thành tâm
lý tích cực, xóa bỏ tâm lý tiêu cực, thực hiện hành vi hợp chuẩn, có ích cho xã hội.
Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
được thể hiện ở các hoạt động
Tái hòa nhập về hoạt động học tập
Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều ở giai đoạn, lứa tuổi
thiếu niên và đầu thanh niên. Ở lứa tuổi này đang tích lũy kinh nghiệm xã hội lịch sử thông
qua hoạt động học tập nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà hoạt động học tập của các em bị
dang dở dẫn đến những tri thức mà các em đã tiếp thu được chưa đủ để đáp ứng được các
yêu cầu của xã hội. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD phải đặt ưu tiên hàng đầu trong đánh giá thành công là các em có cơ hội
và chủ động chiếm lĩnh tri thức thông qua hoạt động học tập. Thông qua hoạt động
này sẽ đánh giá được họ có nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với
bản thân và cộng đồng xã hội hay không; là điều kiện để các em có cơ hội việc làm;
tự hoàn thiện nhân cách của mình theo hướng gắn liền với chuẩn mực xã hội.
Tái hòa nhập về hoạt động lao động
Thước đo tiếp theo trong đánh giá tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là các em thể hiện trong hoạt động lao động.
Lao động giúp cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có
điều kiện nhận thức được sai lầm đã qua, tự hình thành giá trị và niềm tin vào cuộc
sống. Khi các em ý thức biết trân trọng lao động, biết định hướng, có kỷ luật và vượt
qua khó khăn lúc đó các em có thích ứng.
Tái hòa nhập các quan hệ xã hội
Không có một cá nhân nào tồn tại ngoài các cộng đồng người. Trong các cộng đồng
người thì cá nhân đồng nghĩa phải thực hiện các vai trong quan hệ xã hội. Người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng không nằm ngoài quy luật trên. Để đánh giá họ
có thích ứng, có hòa nhập với nơi họ sẽ quay trở về lâu dài hay không phải nhìn nhận họ
trong các quan hệ xã hội với người thân, với họ hàng, làng xóm, với bạn bè. Họ sẽ thể hiện
vai xã hội của mình thông qua các quan hệ đó trong quá trình sinh sống tại địa phương.
Tái hòa nhập trong sinh hoạt
Tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD thể hiện qua sinh hoạt hàng ngày được nhóm tác giả đánh giá là những tiêu chí
quan trọng trong xây dựng thang đo thích ứng của họ. Việc chấp hành tốt các quy định
của địa phương, pháp luật của nhà nước trong sinh hoạt hàng ngày để đánh giá mức
độ thích ứng của họ.
1.3. Lý luận về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.3.1. Khái niệm thích ứng tâm lý
Một số cách tiếp cận thích ứng
Sự thích ứng của con người là một vấn đề đã được tâm lý học nghiên cứu từ lâu,
nhưng mức độ quan tâm, lập trường và phương pháp luận nghiên cứu của các trường phái
tâm lý có sự khác biệt căn bản. Vì vậy trong tâm lý học chưa có một sự thống nhất về lý
luận bản chất sự thích ứng. Một số lý thuyết chính nghiên cứu về bản chất sự thích ứng
trong tâm lý học.
Tiếp cận tâm lý học chức năng
Được khởi xướng bởi H.Spencer với luận điểm “cuộc sống là sự thích nghi liên tục
của các quan hệ bên trong và bên ngoài”, theo ông thích ứng là chức năng của tâm lý, ý
thức người. Trên lập trường của thực chứng luận và lý luận tiến hóa sinh học, H.Spencer
đã nhìn nhận hiện tượng tâm lý dưới góc nhìn sinh học, không thấy được bản chất xã hội
của sự thích ứng con người. W.James đã phát triển lý thuyết thích ứng của H.Spencer một
cách xuất sắc, trở thành một trường phái về thích ứng. Công cụ chính để nghiên cứu sự
thích ứng là “chức năng”, theo đó các hiện tượng tâm lý phải phục vụ cho sự thích ứng,
vào tính có ích của chúng cho cơ thể. Do đó, nguyên tắc căn bản nghiên cứu tâm lý là
nghiên cứu chức năng thích ứng của tâm lý và con đường để cá nhân thích ứng trước sự
thay đổi của môi trường.Cũng lần đầu tiên W.James đề xuất việc nghiên cứu tâm lý phải
nghiên cứu cả điều kiện của nó, đó là cấu trúc thần kinh đóng vai trò cơ sở vật chất của ý
thức người.
Tiếp cận phân tâm học
Phân tâm học được khởi xướng bởi S.Freud gọi là phân tâm học cổ điển. Xuất phát
từ cách nhìn nhận sinh học đối với nhân cách, theo đó, nhân cách là một cấu trúc chỉnh thể,
trọn vẹn với 3 thành tố: “cái nó” (id), “cái tôi” (ego), “siêu tôi” (superego) có vai trò và
chức năng khác nhau đối với đời sống con người. Theo S.Freud, cái bản năng này luôn bị
cấm đoán bởi cái xã hội. Để tồn tại, con người phải đạt được sự cân bằng, sự hài hòa giữa
hai cái đối lập “cái nó” và “cải siêu tôi”- đó chính là sự thích ứng [10, tr.43]. Thích ứng là
sự thỏa mãn hợp lý các bản năng tính dục trong những điều kiện xã hội nhất định. Lý thuyết
phân tâm học cổ điển xuất phát trên quan điểm sinh vật luận nên không phát hiện được bản
chất xã hội- lịch sử của sự thích ứng ở con người cũng như cơ thể của nó. Tuy nhiên lý
thuyết của ông cũng có những điểm, những mặt hợp lý khi giải quyết vấn đề thích ứng. Đó
là vai trò của vô thức, bản năng đối với hành vi, về mâu thuẫn của nó với những ràng buộc
xã hội và về nguyên nhân không thích nghi của các chứng bệnh tâm lý.
E.Fromm khi kế thừa lý thuyết phân tâm, ông đưa ra quan điểm cho rằng cần phải
xem xét hành vi thích ứng của nhân cách từ tính chất xã hội của môi trường, phải tìm kiếm
bản chất của sự thích ứng từ bản chất xã hội chứ không phải từ bản năng sinh vật. Ông
cũng nhìn nhận thấy mối quan hệ qua lại giữa nhân cách và môi trường xã hội, trong đó
con người là sản phẩm của xã hội, đồng thời là chủ thể của xã hội. Theo E.Fromm yếu tố
xã hội đóng vai trò quy định tính chất các sự thích ứng tâm lý cá nhân.
Tiếp cận tâm lý học hành vi
Lý thuyết hành vi giải quyết vấn đề thích ứng theo một đường hướng khác với các
trường phái trên vì J.Watson đã kế thừa quan điểm của các nhà tâm lý học động vật. Quan
điểm này (Thorndike) cho rằng về nguyên tắc, các quy luật và cơ chế thích ứng
(Adaptation) ở người giống động vật, chỉ có khác là môi trường sống của con người có
thêm một số yếu tố mới như ngôn ngữ và các quy tắc xã hội [dẫn theo 29, tr.147]. Vì vậy,
sự thích ứng người có cơ chế và quy luật phức tạp hơn nhưng đó không phải là sự khác
biệt về chất.
Kế thừa quan điểm của các nhà tâm lý học động vật, J.Watson cho rằng để tồn tại,
cá nhân học tập một hệ thống hành vi, ứng xử. Trong đó, những hành vi cụ thể có cơ sở là
các hành vi cũ, kinh nghiệm; cá nhân học được những hành vi mới cho phép nó giải quyết
những tình huống trong cuộc sống. Sự thích ứng kém là không học được hoặc hành vi
không đáp ứng được các yêu cầu của môi trường sống. Việc học tập được J.Watson xem
xét dưới góc độ hình thành kinh nghiệm và hành vi cá thể (tập nhiễm). Với lý luận hành
vi, ông coi con người là một cơ thể sống với một hệ thống kỹ xảo đã được học, phù hợp
với những đòi hỏi của môi trường xung quanh.
Lý thuyết hành vi còn có một xu hướng phát triển khác là tâm lý học hành vi nhận
thức mà tiêu biểu là W.Mischel. Theo ông khi xác định hành vi thích ứng không chỉ tính
đến nững biến số của hoàn cảnh mà còn phải tính đén các biến số của nhân cách, tâm lý
như năng lực, thói quen, tri thức, thái độ... Khác với chủ nghĩa hành vi cổ điển, W.Mischel
không chỉ nghiên cứu hành vi và tính quy định khách quan của nó mà còn coi trọng những
mặt bên trong, mặt chủ quan đặc biệt là các quá trình nhận thức. Ông đã nhìn nhận hành vi
thích ứng một cách đầy đủ, toàn vẹn hơn. Cùng với việc chú ý đến vai trò của các yếu tố
bên trong, W.Mischel đã phát hiện ra tính tích cực của chủ thể thích ứng. Đó không phải
là quá trình thụ động như trường phái cổ điển quan niệm mà có sự tương ứng giữa ý nghĩ
bên trong với hành vi bên ngoài và điều chỉnh hành vi là biểu hiện của sự điều chỉnh bản
thân và ý nghĩ bên trong.
Tiếp cận tâm lý học nhân văn
Tâm lý học nhân văn đại diện bởi A.Maslow cho rằng thích ứng là xử sự tích cực
của cá nhân với tư cách là chủ thể với thế giới xung quanh và với chính mình. A.Maslow
coi thích ứng là sự thể hiện cái vốn có của cá nhân trong những điều kiện sống nhất định.
Sự không thích ứng sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách. Tiền đề
tạo ra sự thích ứng là hệ thống nhu cầu của nhân cách, được sắp xếp theo thứ bậc mà nhu
cầu cao nhất là nhu cầu tự thể hiện- một nhu cầu bẩm sinh nhưng có tính chất nhân văn,
chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp thỏa mãn. Tính xã hội, tính người của các nhu cầu
là kết quả của quá trình hình thành và phát triển của loài người đã được ghi lại trong hệ
thống di truyền [dẫn theo 38].
C.Rogers cũng coi “tự thể hiện” là phạm trù cơ bản đối với thích ứng của nhân cách.
Một hệ thống được ý thức, được hình thành từ sự đánh giá bên ngoài và một hệ thống
nguyên thủy bên trong, vô thức. Sự sai biệt này tạo nên sự sai lệch của nhân cách và mức
độ khác nhau của sự thích ứng. Với những cá nhân cố gắng giữ cái tôi nguyên thủy sẽ có
một rào chắn tâm lý giữa họ và cộng đồng. Sự tự thể hiện ở họ sẽ kém phù hợp với thực tế.
Điều đó lại thúc đẩy việc hình thành những rào chắn tự bảo vệ mới, sự thích ứng của họ
với cuộc sống xã hội sẽ khó khăn bên trong. Ngược lại, những người hình thành được cái
tôi linh hoạt, phù hợp với đánh giá của xã hội sẽ tạo được khả năng tự thể hiện. Họ là những
người có khả năng tích ứng tốt [20, tr.57].
Mặc dù có điểm giống phân tâm học là coi sự phát triển nhân cách được quy định
bởi có sẵn bẩm sinh và có sự mâu thuẫn giữa nó- cái bên trong với cái xã hội bên ngoài.
Nhưng khác với S.Freud và các môn đệ của ông, C.Rogers và A.Maslow không quá nhấn
mạnh mâu thuẫn và đánh giá cao vai trò tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh xung quanh
cũng như cái thiên bẩm bên trong chính mính. Khi tham gia vào đời sống xã hội, cá nhân
tích cực, mềm dẻo tạo ra sự phù hợp cảu các ứng xử, hành vi của mính bằng sự thống nhất
cái bên trong với cái bên ngoài.
Tiếp cận tâm lý học nhận thức
Tâm lý học phát sinh được khai sinh bởi một trong những nhà tâm lý học hàng đầu
thế kỷ XX- đó là J.J.Piaget. Ông chuyên nghiên cứu về sự phát triển nhận thức trẻ em dưới
góc độ thích nghi.
Piaget cho rằng, trí khôn tồn tại và phát triển theo cơ chế thích nghi và những nguyên
tắc cơ bản của phát triển nhận thức giống như những nguyên tắc phát triển sinh học. Theo
đó, trí khôn là một cấu trúc và các thao tác nhận thức được ông coi là các động tác của tổ
chức trí khôn thích nghi với môi trường [33, tr.253].
Như vậy sự phát triển trí khôn được thực hiện bằng hai cơ chế đồng hóa và điều ứng
trong quan hệ cân bằng giữa chúng. Nhờ có hai cơ chế này mà từ số rất ít các sơ đồ ở trẻ
em phát triển thành hệ thống sơ đồ phức tạp và đúng đắn ở người lớn. Điều mà Piaget lưu
ý là các sơ đồ ở trẻ em khác với sơ đồ ở người lớn cả về nội dung và hình thức không có
nghĩa là trẻ em nhận thức sai mà đó là trình độ phát triển tất yếu của trí khôn trẻ, không
phải nó sai mà là mỗi ngày một đúng hơn [33 tr.47]. Tóm lại đồng hóa và điều ứng cùng
với sự tương quan giữa chúng, trí khôn trẻ biến đổi cả về định tính và định lượng tạo ra sự
phát triển trong cấu trúc trí khôn trẻ.
Tóm lại, vấn đề thích ứng tâm lý đã được sự quan tâm nghiên cứu công phu và
nghiêm túc của các nhà tâm lý học và đã thu được những kết quả đáng trân trọng. Tuy
nhiên, các quan điểm lý thuyết của mỗi trường phái đều có những hạt nhân hợp lý về vấn
đề thích ứng tâm lý, những đóng góp quan trọng vào quá trình phát hiện ra bản chất của
hiện tượng này.
Tâm lý học hoạt động và vấn đề thích ứng
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, một trường phái tâm lý học ra đời- tâm lý học
hoạt động. Lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận, tâm lý học hoạt động đã trở thành một khoa học thực sự
khách quan và khoa học. Tâm lý học hoạt động gắn liền với tên tuổi của các nhà tâm lý
học nổi tiếng như L.X.Vugotxki, A.N.Leonchiev, X.L.Rubinstein, A.R.Luria,
P.Ia.Galperin...
Cùng với việc phê phán các cách tiếp cận sai lầm trên, tâm lý học hoạt động giải
quyết vấn đề theo phương hướng hoàn toàn khác. Một mặt thừa nhận con người phải thích
nghi với môi trường sống như là một sinh vật vì con người là một tồn tại tự nhiên; mặt
khác lại khẳng định con người là một thực thể xã hội nên phải đặt vấn đề một cách khác
đó là “con người xã hội” phải thích ứng.
L.X.Vugotxki đã chỉ rõ về sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và văn
hóa trong sự phát triển của trẻ em. Ông đã đưa ra một tư tưởng mới về bản chất của sự
thích nghi của con người. Một mặt trẻ hình thành các dạng thức cấp cao của hành vi, mặt
khác hình thành các chức năng tâm lý cấp cao của các hành vi ấy. Cả hai mặt của quá trình
này đều được thực hiện bằng cơ chế lĩnh hội nền văn hóa- xã hội [42, tr.135]. Những tư
tưởng đúng đắn và biện chứng của L.X.Vugotxki được các nhà tâm lý học Xô viết kế thừa,
phát triển và cụ thể hóa. Quan điểm của ông cũng là kim chỉ nam cho việc giải quyết các
vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài này.
Xuất phát từ những luận điểm cơ bản của tâm lý học hoạt động được đề xướng bởi
L.X.Vugotxki, A.N.Leonchiev đã phân tích sự khác biệt cơ bản giữa sự thích nghi của cá
thể sinh học và phát triển của con người về nội dung và cơ chế. Đó là quá cá thể tái tạo lại
được những chức năng và năng lực người đã hình thành trong quá trình lịch sử và những
năng lực và chức năng hình thành ở con người ấy là các cấu tạo tâm lý mới. Đối với những
cấu tạo này, các cơ chế và quá trình bẩm sinh di truyền chỉ là những điều kiện cần thiết bên
trong giúp cho các cấu tạo tâm lý mới cỏ thể xuất hiện. Như vậy về bản chất và nội dung
của sự thích ứng người và sự thích nghi có sự khác biệt về chất. A.N.Leonchiev cũng vạch
ra sự khác biệt về cơ chế của sự hình thành hành vi động vật và người “Ở động vật hành vi
được hình thành bởi kinh nghiệm loài và cá thể, trong đó sự hình thành kinh nghiệm cá thể
là đem hành vi loài thích nghi với những yếu tố biến động của môi trường bên ngoài. Còn
ở người, hành vi được hình thành bằng cơ chế và có quan hệ chặt chẽ với cơ chế kinh
nghiệm cá thể” [29,tr.237].
Với việc vạch ra sự khác biệt về chất giữa quá trình thích nghi sinh vật với thích
ứng xã hội- tâm lý của con người, A.N.Leonchiev là một trong những người đầu tiên trong
việc nghiên cứu hiện tượng này về phương diện lý luận và thực tiễn.
Quá trình thích ứng xã hội- tâm lý của con người gắn liền với quá trình hình thành
nhân cách. Sự hình thành nhân cách chính là quá trình hình thành mặt chủ thể của thích
ứng xã hội- tâm lý. Nhờ nhân cách, sự thích ứng xã hội- tâm lý trở thành một quá trình
tích cực, trong đó con người không chỉ đáp ứng tác động của môi trường mà còn cải biến
nó một cách tích cực. Tuy nhiên sự thích ứng không đồng nhất với sự hình thành nhân
cách. Đó là quá trình tương tác biện chứng giữa nhân cách với môi trường xã hội mà cả hai
phía đều có sự thay đổi trở nên phù hợp với nhau, đặc biệt là phía nhân cách. Vì vậy , sự
hình thành nhân cách và mức độ của nó không tất yếu quyết định mức độ thích ứng của cá
nhân. Nhưng sẽ không có sự thích ứng nếu không có sự hình thành nhân cách ở mức độ
nhất định [26, tr.89]. Vì vậy, có những người có nhân cách cao nhưng không thích ứng
được trong những điều kiện môi trường xã hội nhất định hay người mang bản chất của một
xã hội này nhưng có thể thích ứng với môi trường xã hội có bản chất khác. Với các phạm
trù hoạt động và giao tiếp, bản chất của sự cân bằng này đã được giải quyết.
Tâm lý học hoạt động khẳng định cuộc sống con người là một hệ thống các hoạt
động liên tục thay thế nhau. Hoạt động là phương thức của sự hình thành tồn tại và phát
triển của tâm lý người. Bằng hoạt động, con người cải biến thế giới tự nhiên, tạo ra thế giới
đồ vật vốn không có trong tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu xã hội của chính mình. Bằng hoạt
động con người còn tạo ra nhu cầu mới, vốn không phải là nhu cầu tự nhiên theo đúng
nghĩa của nó. Hoạt động là quan hệ đặc thù mang bản chất xã hội của con người với hiện
thực khách quan. Trong hoạt động, chủ thế và khách thể gắn với nhau bằng hai quá trình
khách thể hóa và chủ thể hóa [14,tr.223]. Trong sản xuất nhân cách được khách thể hóa,
trong tiêu dùng khách thể được nội tâm hóa. Trong đối tượng của hoạt động (thế giới đồ
vật) chứa đựng nội dung và phương thức hành động của con người đã tạo ra nó. Thông qua
hoạt động với đối tượng, chủ thể lĩnh hội phương thức và nội dung hành động của loài
người đã tạo ra nó. Thông qua đó, chủ thể lĩnh hội nội dung và phương thức đã ẩn tàng và
biến nó thành của riêng mình hình thành nên tâm lý, ý thức, nhân cách của chính mình.
Bằng hoạt động chủ thể lĩnh hội và sáng tạo ra thế giới đồ vật xung quanh. Vì vậy phải
xem xét sự thích ứng tâm lý người không phải theo quan điểm thuần túy sinh vật vì ở con
người, việc thích nghi với môi trường không cần tính trực tiếp, tính chất sinh vật. Thế giới
đồ vật do con người tạo ra ở xung quanh mình là môi trường bên ngoài mà con người phải
thích nghi, phải biến thành thành của riêng mình và nhờ thế giới đó con người thực hiện
cuộc sống của mình. Sự thích ứng tâm lý chính là quá trình con người hình thành các năng
lực hoạt động và các cấu tạo tâm lý mới. Bằng hoạt động, cá nhân thực hiện sự cân bằng
trong quan hệ với thế giới xung quanh với tư cách là chủ thể tiêu biểu mà biểu hiện trước
nhất và quan trọng nhất là tính tích cực.
Sự thích ứng của con người đã được giải quyết bằng quan hệ chủ thể- khách thể
trong quá trình hoạt động với đồ vật của chủ thể theo cách tiếp cận hoạt động. Theo đó,
thích ứng của con người là sự tích cực bằng hoạt động và trong hoạt động, mức độ thích
ứng phụ thuộc vào hoạt động và hiệu quả của nó. Để thích ứng được con người phải hòa
nhập vào hoạt động, chiếm lĩnh nó với tư cách là một chủ thể mang tính tích cực.
Như vậy, sự thích ứng và hoạt động có quan hệ hai mặt: 1. Con người phải thích
ứng với bản thân hoạt động. Hoạt động chỉ có kết quả khi cá nhân thích ứng được với nó.
2. Hoạt động là phương thức đồng thời là biểu hiện khách quan của sự thích ứng xã hội-
tâm lý của cá nhân.
Quá trình thích ứng bằng hoạt động của cá nhân được thực hiện trong điều kiện giao
tiếp xã hội. Trong quá trình giao tiếp với những người xung quanh, cá nhân tiếp nhận yêu
cầu về hoạt động, nội dung và cách thức của nó. Nói cách khác, cá nhân chỉ có thể hình
thành năng lực người bằng hoạt động trong quá trình giao tiếp. Giao tiếp không chỉ có vai
trò là điều kiện của sự thích ứng con người mà bản thân nó cũng là một mặt, một phương
thức của quá trình này. Vì vậy, thích ứng của con người là thích ứng trong quá trình quan
hệ xã hội trong cuộc sống cộng đồng. Sự hình thành các kiểu ứng xử người với người là
một mặt của sự hình thành nhân cách, cá nhân lĩnh hội được chúng trong quá trình giao
tiếp. Nói cách khác, bên cạnh sự thích ứng với hoạt động con người còn phải thích ứng với
giao tiếp xã hội như là điều kiện sống của của môi trường xã hội. Xem thích ứng được thực
hiện bằng cơ chế hoạt động và giao tiếp, tâm lý học hoạt động chú ý vai trò của yếu tố tâm
lý quyết định tính chủ thể của con người trong các quá trình đó- ý thức người. Ý thức là
trình độ cao nhất của sự phản ánh tâm lý chỉ có ở người. Với tính chất gián tiếp của nó, ý
thức của con người có khả năng tách ra khỏi mối quan hệ trực tiếp của cơ thể- môi trường
định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động của mình, làm cho nó không chỉ đáp ứng
được những kích thích cảm tính, trực tiếp mà còn đáp ứng được những kích thích gián tiếp
của môi trường một cách toàn diện, đầy đủ hơn [dẫn theo 23,tr.112]. Ý thức phát triển ở
mức độ cao nhất, cho phép con người không chỉ tạo ra hoạt động sống mà còn tự phản ánh
và tự tác động, tự biến đổi chính bản thân mình. Dưới góc độ ý thức và tự ý thức, thích ứng
của con người chính là sự hình thành ý thức và tự ý thức, những cấu trúc tâm lý cho phép
định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi một cách tự giác và tích cực; cao hơn là sự tự
đánh giá, tự kiểm tra, tự điều chỉnh hành vi cũng như những phẩm chất tâm lý của chính
mình để làm cho chúng phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Đó là lập trường và
lý luận cơ bản của tâm lý học hoạt động về bản chất của sự thích ứng tâm lý người.
Tóm lại, bản chất của sự thích ứng là một hình thức thích nghi đặc thù của con
người, một quá trình liên tục, tích cực và có ý nghĩa xã hội, trong đó cá nhân kiểm soát,
điều chỉnh thái độ, hành vi của mình; đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu và điều
kiện của môi trường xã hội để con người tồn tại và phát triển.
Thích ứng tâm lý
Thuật ngữ “thích ứng” (Adapto) hiện nay đang được dùng rộng rãi trong các lĩnh
vực khoa học và đời sống. Khái niệm này trong một số lĩnh vực được coi là đồng nghĩa với
“thích nghi” ( vì đều cùng là Adapto, Adaptation, Adanta…). Từ điển Tâm lý đề “thích
nghi”, “thích ứng” chung mục, coi thích ứng như thích nghi. Từ điển Tiếng Việt: “Thích
nghi có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh môi trường sống mới”, còn
thích ứng có 2 nghĩa: 1) Như thích nghi; 2) Là có những thay đổi cho phù hợp với điều
kiện, yêu cầu mới. Nghĩa 2 này hơi khác với thích nghi, hẹp hơn, nhấn mạnh những điều
kiện, yêu cầu mới là tạo ra sự thay đổi. Theo bản thân chúng tôi, thuật ngữ “ thích nghi”
được dùng trước hết và phổ biến trong sinh vật học. Có thể vẫn được dùng trong tâm lý
học để chỉ sự biến đổi của chủ thể cho phù hợp với những điều kiện của môi trường và hoạt
động. Nhưng A.N.Leonchiev đã chỉ rõ “Sự phát triển của con người không phải là quá trình
thích nghi hiểu theo nghĩa của từ này”. Với nội dung mới của hai khái niệm, tâm lý học có
thể dùng thuật ngữ thích ứng để tránh trùng lặp với thuật ngữ thích nghi trong sinh học
[dẫn theo 31,tr.43].
Triết học duy vật biện chứng cho rằng mọi hệ thống vật chất trong quá trinh tồn tại
của nó luôn duy trì một trang thái cân bằng với môi trường sống xung quanh, nó là quy luật
phổ biến. Tuy nhiên, sự cân bằng này có nội dung và hình thức, trình độ khác nhau ở những
hệ thống vật chất khác nhau. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, sự cân bằng cũng
phát triển ngày càng phức tạp, đa dạng và ở trình độ ngày càng cao hơn. Các tổ chức vật lý
có cân bằng vật lý, hóa học có cân bằng hóa học. Với tổ chức vật chất mới là cơ thể sinh
vật có một sự cân bằng mới, đó là sự thích nghi mà đặc điểm tạo nên sự khác biệt về chất
so với các hình thức cân bằng trước đó, là khả năng của các cơ thể sống tiếp nhận và có
cơ chế trả lời lên các kích thích, tác động từ môi trường. Tuy nhiên nội dung và cơ chế
thích nghi cũng như hình thức của nó ở các loài sinh vật khác nhau là khác nhau tùy thuộc
vào bản chất cơ thể (trình độ tổ chức) và tác động của môi trường trong mối quan hệ chặt
chẽ giữa hai yếu tố này: “cái đối với cơ thể là môi trường và tính chất của môi trường phụ
thuộc vào bản chất của cơ thể đó”[16,tr.68].
Khi nghiên cứu hiện tượng thích ứng tâm lý ở con người, người ta đã phát hiện được
một trình độ cao nhất của nó: sự thích ứng xã hội- tâm lý. Hình thức mới này có sự phát
triển về chất trong sự phát triển tâm lý nói chung- cả về cơ chế tâm lý- sinh lý (hệ thống
tín hiệu thứ 2) cả về mặt cơ chế xã hội.
Các nhà sinh lý học mà tiêu biểu là I.P.Paplov đã nhận ra mặt xã hội của thích ứng
con người và thừa nhận tính quy định xã hội đối với nó.
Tuy nhiên, chỉ xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
C.Mac và F.Ănghen mới có thể giải thích một cách khoa học nội dung và cơ chế sự thích
ứng của con người.
Với việc khám phá ra vai trò của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành
người, C.Mac và F.Ănghen đã coi lao động là cơ chế chủ yếu của sự cân bằng con người
với thế giới xung quanh. Với lao động, con người đã tạo ra một loạt môi trường mới- môi
trường xã hội với hai hoạt động đặc trưng là hoạt động và giao tiếp. Để tồn tại và phát triển,
con người phải thích ứng với những yêu cầu của môi trường này- phải tham gia được các
hoạt động và quan hệ. Chủ nghĩa Mac cũng chỉ ra các nội dung của sự thích ứng mới này
là bằng hoạt động tích cực, con người lĩnh hội nền văn hóa (nội dung, phương thức hoạt
động và quan hệ) để hình thành những ứng xử mới, điều chỉnh những hành vi cũ phù hợp
với yêu cầu, điều kiện của hoạt động và quan hệ xã hội mới. Thích ứng này có thể gọi là
thích ứng xã hội- tâm lý, là hình thức cân bằng giữa con người với môi trường xã hội thay
đổi theo sơ đồ mới là: Cơ thể (chủ thể) ----- Phương tiện ----- Môi trường xã hội.
Để có trình độ thích ứng này, con người phải trở thành một chủ thể với những cấu
tạo tâm lý đặc trưng và nắm được phương tiện tác động bằng cơ chế lĩnh hội những kinh
nghiệm xã hội- lịch sử. Sự lĩnh hội này được thực hiện bằng phương thức hoạt động của
con người.
Từ phân tích trên rút ra một số điểm sau:
- Cân bằng với môi trường xung quanh là một quy luật phổ biến của mọi tổ chức
vật chất từ vận động vật lý đến xã hội. Tuy nhiên về hình thức, nội dung và cơ chế của sự
cân bằng phụ thuộc vào bản chất của nó và tính chất của môi trường. Cùng với sự phát
triển của thế giới vật chất, sự cân bằng cũng phát triển mà cao nhất là sự cân bằng giữa con
người với môi trường xã hôi dưới hình thức thích ứng xã hội- tâm lý.
- Con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội, ở nó có tất cả các hình
thức cân bằng của thế giới vật chất, có tất cả các trình độ của sự thích nghi từ thích nghi
sinh học có ở mọi sinh vật cho đến thích ứng xã hội- tâm lý. Trong đó thích ứng xã hội-
tâm lý là đặc trưng có vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo cân bằng giữa cơ thể và môi
trường, là hình thức thích nghi đặc biệt chỉ có ở loài người.
- Sự thích ứng là quá trình biến đổi trong đời sống tâm lý biểu hiện qua hệ thống
hành vi của cá nhân. Thích ứng là một cấu trúc có quan hệ biện chứng gồm hai thành tố cơ
bản: 1) Chủ thể nắm được những phương thức hành vi thích hợp, đáp ứng được các yêu
cầu, đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động như là phương tiện của sự thích ứng; 2) Chủ
thể cấu trúc lại những cấu tạo tâm lý mới hình thành ứng xử thích hợp. Sự phù hợp của
hành vi ứng xử cá nhân với môi trường sống mới là tiêu chí khách quan để đánh giá mức
độ thích ứng tâm lý của cá nhân.
- Sự thích ứng xuất hiện do tác động của môi trường sống hoặc hoạt động của cá
nhân. Hệ thống những ứng xử hiện tại không đáp ứng được những yêu cầu của điều kiện
sống là động lực của quá trình này. Tuy nhiên con người không thụ động mà tạo ra sự thích
ứng của mình với tư cách là chủ thể tích cực. Trong quá trình thích ứng có sự biến đổi kép,
không chỉ có chủ thể biến đổi để phù hợp với môi trường mà con người còn cải biến môi
trường làm biến đổi phù hợp với con người. “Bằng thích ứng xã hôi- tâm lý con người chủ
động tạo ra môi trường mới- môi trường văn hóa, làm cho tự nhiên mang tính người”.
- Cơ chế của sự thích ứng là sự lĩnh hội kinh nghiệm xã hội- lịch sử để hình thành
những cấu tạo tâm lý mới và cá nhân hình thành những hành vi, ứng xử đáp ứng được
những yêu cầu của điều kiện sống và hoạt động mới.
- Sự thích ứng xã hội- tâm lý có vai trò rất to lớn đối với cuộc sống con người. Thích
ứng là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự cân bằng của con người với môi trường xã hội,
mặt khác, những ứng xử thích hợp là cơ sở và biểu hiện của những phẩm chất nhân cách
mới được hình thành trên cơ sở đã thích ứng tâm lý.
Tóm lại: Thích ứng tâm lý là quá trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi, điều
chỉnh bản thân để hòa nhập vào môi trường sống mới, khắc phục những khó khăn của sự
thay đổi môi trường sống thể hiện ở sự cân bằng và phù hợp về nhận thức, thái độ và hành
vi trong bối cảnh mới.
1.3.2. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
là những cá nhân con người cụ thể có đời sống tâm lý riêng có thể giáo dục, cải tạo và thay
đổi được.
Do đó, dưới sự tác động giáo dục mang tính khoa học của cộng đồng xã hội có thể
giúp người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng loại
bỏ được những nét tâm lý tiêu cực, giúp họ định hình những nét tâm lý tích cực, giúp họ
hướng đến những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội, đáp ứng được các yêu cầu
của chuẩn mực xã hội đặt ra để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội
nói chung và cá nhân nói riêng.
Môi trường TGD là môi trường đặc biệt, là nơi giáo dục những người đã vi phạm
pháp luật nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự xét cả về độ tuổi và tâm
lý. Mục đích là giúp các em xóa bỏ được những định hình tâm lý tiêu cực, cải tạo, biến đổi,
hình thành những phẩm chất tâm lý phù hợp với chuẩn mực xã hội, trở thành người tốt có
ích cho xã hội. Do vậy, TGD tuy là môi trường riêng biệt nhưng không tách biệt với môi
trường xã hội. Đặc biệt là nội quy TGD nêu ra những yêu cầu với những quy định được
thực hiện chặt chẽ, nghiêm khắc theo các quy định, quy chế cụ thể; các mối quan hệ trong
TGD. Khi chấp hành xong thời gian được quy định trong quyết định XLHC, các em được
trở về địa phương sinh sống. Sinh hoạt trong TGD các em đã làm quen và thực hiện sinh
hoạt, ăn uống, ngủ nghỉ theo quy định nhưng khi trở về địa phương sinh sống các em lại
cảm thấy lạ lẫm, mất tự tin trong hoạt động, giao tiếp, xuất hiện sự căng thẳng, lo âu rằng
không biết mình có đáp ứng được các yêu cầu về chuẩn mực xã hội trong hành vi hay
không. Một điều bắt buộc đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
là cho dù sớm hay muộn các em cũng phải thực hiện và tuân theo những yêu cầu của nội
quy địa phương và chuẩn mực xã hội. Do đó, xem xét sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháo XLHC đưa vào TGD ở đây không phải là
thích ứng tâm lý chung chung mà là thích ứng tâm lý với những quy định của chuẩn mực
xã hội, của địa phương. Tức là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD buộc
phải thích ứng một cách tự giác và tích cực với những yêu cầu của chuẩn mực xã hội đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội. Do đó, có thể hiểu khái niệm như sau:
Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD là sự chủ động, tích cực thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi ở chủ
thể để thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện hành.
Từ khái niệm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể nêu ra một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, bản chất thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở đây là đạt được sự thay đổi và có sự hài hòa,
cân bằng, thống nhất tâm lý ở cả ba thành phần nhận thức, thái độ và hành vi. Theo lý
thuyết về thích ứng của Tremblay cho rằng bản chất của thích ứng đạt được chính là sự cân
bằng giữa trạng thái dễ chịu bên trong và dễ chịu bên ngoài trong mối quan hệ giữa cá nhân
và môi trường. Điều này cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
chỉ đạt được sự thích ứng tâm lý khi họ có sự thay đổi đồng thời về nhận thức, thái độ và
hành vi; bên cạnh đó có sự cân bằng, hài hòa giữa nhận thức, thái độ (là những trạng thái
tâm lý bên trong) với hành vi biểu hiện bên ngoài (những biểu hiện tâm lý bên ngoài).
Sự thay đổi đó ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đối với các
nội dung tham gia hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt càng lớn thì
mức độ thích ứng càng cao. Trong đó, những biểu hiện hành vi bên ngoài là dễ dàng nhận
ra nhất, mang tính khách quan chứ không phải theo ý muốn hay mong muốn tự nguyện,
chủ quan của bất cứ ai khi nhìn nhận. Do đó, những gánh nặng tâm lý bên trong đối với tư
tưởng, tình cảm đối với họ là rất lớn trong khi đó các điều kiện về cơ sở vật chất và thái độ
của xã hội không phải lúc nào cũng thuận lợi đối với họ. Trong khi đó, những yếu tố tâm
lý bên trong như nhu cầu, sở thích, thói quen, cái tôi của cá nhân,...tất cả những yếu tố này
buộc mỗi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD phải tự kiểm soát, tự điều
chỉnh để phù hợp và đáp ứng với những quy định chung của địa phương. Do đó, họ thường
xuyên phải đối mặt với những cảm xúc âm tính hay những xung đột hàng ngày do sự xung
đột về nhu cầu với hiện thực và đòi hỏi của xã hội. Những yếu tố tâm lý bên trong như
nhận thức, quan điểm, quan niệm hay đời sống tình cảm lại thuộc về chính trong con người
họ, ít bị kiểm soát hơn, ít bị đánh giá hơn. Do đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD trong nhiều tình huống dễ rơi vào trạng thái mất cân bằng giữa nhận thức,
cảm xúc bên trong con người với hành vi biểu hiện ra bên ngoài cho phù hợp với yêu cầu
của chuẩn mực xã hội.
- Thứ hai, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD là sự thích ứng tâm lý đặc biệt so với các thích ứng với
môi trường văn hóa nói chung hay thích ứng với học tập hoặc thích ứng nghề nghiệp mà
các nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Sự thích ứng mang tính đặc biệt thể hiện ở chỗ khách
thể là những người vừa phải trải qua một thời gian phải chấp hành, thực hiện các yêu cầu
của biện pháp XLHC, phải hạn chế tiếp xúc với gia đình và xã hội theo quy định của pháp
luật và trong xã hội còn có sự kỳ thị, định kiến. Mặc dù các cơ quan chức năng có sự chuẩn
bị tâm thế và sự kỳ vọng về các khách thể song phần nào đó họ vẫn có phần nào bị động
khi phải thay đổi môi trường sống. Do đó, để đạt được sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, các em phải trải qua
những khó khăn tâm lý nhất định. Hay nói cách khác, bản thân người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD phải thể hiện được vai trò chủ động, tự thân của mình trong việc
thích ứng với những quy định của địa phương. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải nhận
thức được những hoạt động lao động, học tập là cần thiết là có giá trị với bản thân và hoàn
toàn thoải mái khi thực hiện.
- Thứ ba, cơ chế thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là cơ chế bắt buộc. Mục đích của việc tái hòa nhập ở
họ dần phải thực hiện sinh hoạt, lao động, học tập theo những quy định của chuẩn mực xã
hội, hòa nhập với mọi người.... Chính vì vậy, cơ chế thích ứng tâm lý của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hoàn toàn khác với cơ chế thích ứng tâm lý mà các
nhà khoa học khi nghiên cứu về thích ứng tâm lý trước đó đã đề cập.
Như vậy, có thể thấy, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tới cùng đó là sự thay đổi về nhận thức, thái độ
và hành vi.
1.3.3. Biểu hiện và mức độ thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
- Thích ứng về mặt nhận thức
Để đánh giá sự thích ứng với quá trình tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt nhận thức cần xem
xét đến việc họ hiểu và có ý thức tự giác thực hiện nếp sống văn hóa theo chuẩn mực chung
của xã hội trong hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và giao tiếp hoặc cũng có thể
xem xét đến việc các em có sự biến chuyển về nhận thức như thế nào kể từ khi ra trường
đến thời điểm khảo sát. Đặc biệt, xem xét thích ứng tâm lý ở đây là thích ứng với các quy
định của địa phương hay các chuẩn mực xã hội nói chung nên sự thay đổi về nhận thức ở
đây là thay đổi về cách nghĩ, thể hiện rằng các em chấp nhận việc phải thực hiện các quy
định của địa phương đề ra, nhận thức rằng việc thực hiện các quy định đó về các hoạt động
học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt là phù hợp và cần thiết đối với họ trong quá
trình sinh sống. Đồng thời, bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
không có những suy nghĩ mang tính ứng phó, chống đối các quy định dù là công khai hay
ngấm ngầm hoặc suy nghĩ theo cách thể hiện sự coi thường các quy định. Các em biết chấp
nhận và nhìn nhận đúng vai trò, ý nghĩa của hoạt động học tập, hoạt động lao động, quan
hệ xã hội và sinh hoạt là cần thiết đối với quá trình hòa nhập xã hội của bản thân, giúp họ
hình hành những nét tâm lý tích cực, trở thành người có ích cho xã hội.
Thích ứng về mặt nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD thể hiện ở các mức độ dưới đây:
+ Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có
sự thay đổi rõ rệt, hoàn toàn chấp nhận việc thực hiện các nội quy của địa phương là cần
thiết; phải tham gia học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt theo đúng vị trí xã hội
của mình.
+ Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD đã có sự thay đổi nhưng chưa hoàn toàn chấp nhận việc thực hiện các yêu cầu của
chuẩn mực xã hội.
+ Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
gần như không có sự thay đổi, còn thụ động và chưa chấp nhận thực hiện các yêu cầu của
địa phương.
- Thích ứng về mặt thái độ
Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng có
thái độ nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, các chuẩn mực của xã hội trong học tập, lao
động, giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Thích ứng về mặt thái độ thể hiện ở việc người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD cảm thấy đồng tình, hài lòng hoặc không có sự khó chịu, không có cảm xúc
tiêu cực hay cảm xúc âm tính khi họ thực hiện các yêu cầu của địa phương đối với những
người trở về như các em. Tức là ban đầu khi mới về địa phương, các em có thể không thoải
mái, khó chịu hay những cảm xúc âm tính khác nhau nhưng sau một thời gian về sinh sống
tại địa phương họ có sự thay đổi, cảm thấy đồng tình, không có cảm xúc âm tính hay cảm
xúc tiêu cực. Đồng thời không tỏ ra bức xúc, khó chịu về việc thực hiện các yêu cầu của
việc chấp hành các quy định của địa phương; không có cảm xúc mang tính chống đối.
Thích ứng về mặt thái độ được thể hiện rõ ở các nội dung đó là có cảm xúc thoải mái, tích
cực; chấp nhận và có cảm xúc tích cực khi thực hiện hoạt động học tập, lao động, quan hệ
xã hội và sinh hoạt.
Thích ứng về mặt thái độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
với tái hòa nhập cộng đồng thể hiện qua các mức độ dưới đây:
+ Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có
sự thay đổi hoàn toàn về cảm xúc, có sự thoải mái, cân bằng, không có cảm xúc âm tính ở
các hoạt động: hoạt động học tập, hoạt động lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt.
+ Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD đã có sự thay đổi về cảm xúc theo chiều hướng tích cực.
+ Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD gần như không có sự thay đổi về thái độ; trạng thái mất cân bằng là
chủ yếu.
- Thích ứng về mặt hành vi: Thích ứng hành vi biểu hiện ở chỗ người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp nhận tuân thủ, thực hiện các quy định của địa
phương một cách chủ động, tích cực. người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD phải thực hiện tốt các quy định của nội quy, quy định của địa phương trong sinh hoạt,
không vi phạm nội quy trong các hoạt động. Về hoạt động học tập, người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD tích cực tham gia học tập, thấy được vai trò, ý nghĩa của
việc học đối với bản thân và quá trình tái hòa nhập trước mắt và lâu dài. Về hoạt động lao
động, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thực hiện tốt các yêu cầu về
lao động, định mức sản phẩm và các quy định về thời gian lao động. Trong sinh hoạt chung
không có những hành vi, việc làm tiêu cực.
Thích ứng về mặt hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
với tái hòa nhập cộng đồng được thể hiện ở các mức độ dưới đây:
+ Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã
có sự thay đổi hoàn toàn, thực hiện được các yêu cầu một cách tích cực.
+ Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD đã có sự thay đổi về hành vi, nhưng chưa đầy đủ, tích cực; vẫn có tồn tại hành vi ứng
phó, chống đối.
+ Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ít
có sự thay đổi về hành vi, phần lớn vẫn có hành vi chống đối, ứng phó.
Như vậy, có thể thấy thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là sự cân bằng, hài hòa của 3 mặt:
nhận thức, thái độ và hành vi. Thành phần nhận thức biểu hiện ở việc người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có suy nghĩ chấp nhận thực hiện các hoạt động, cho
rằng thực hiện những nội dung đó là đúng đắn, phù hợp; coi việc thực hiện những quy định
đó là tốt cho bản thân, cần thiết và phù hợp. Thành phần thái độ thể hiện ở cảm xúc cân
bằng khi thực hiện các quy định của địa phương; không có cảm xúc âm tính hoặc không
thoải mái. Thích ứng ở mặt hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD thể hiện ở tính tích cực, thành thục của các em khi thực hiện các yêu cầu về thực hiện
nội quy khi tham gia học tập và lao động. Việc phân định ra thành 3 thành phần của sự
thích ứng tâm lý chỉ mang tính tương đối bởi hành vi là cơ sở rõ nét nhất để đánh giá mức
độ thích ứng về nhận thức hay thích ứng về thái độ của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD. Tuy nhiên, cần xem xét cả ba thành phần nhận thức, thái độ và hành
vi có sự bổ sung, tác động lẫn nhau, quyết định đến việc đánh giá mức độ thích ứng tâm lý
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở người
chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.4.1. Nhóm các yếu tố thuộc về chủ quan
- Yếu tố nhận thức: Theo quan điểm của Tâm lý học hoạt động thì nhận thức là yếu
tố đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi của con
người; là quá trình chủ thể tiếp nhận, phản ánh hiện thực khách quan những thuộc tính,
kiến thức để cấu tạo nên đời sống tâm lý của mình [14, tr.156]. Yếu tố nhận thức được đề
cập đến ở đây là sự nhận thức sai lệch về các chuẩn mực xã hội, nội quy của địa phương
dẫn đến những hành vi sai lệch của cá nhân.
Thực tế cho thấy, không ít các trường hợp có hành vi vi phạm tội pháp luật nhưng
cá nhân, chủ thể của hành động vẫn không tự nhìn nhận được hành vi của mình là hành vi
vi phạm pháp luật, gây hậu quả cho người khác và cho xã hội. Đây là nguyên nhân khiến
cho việc thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD bị ảnh hưởng. Bởi, không nhận thức được sẽ là hành vi mù quáng.
Chính vì vậy, khi tái hòa nhập, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thích
ứng được hay không phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của họ.
- Yếu tố tự ý thức là khả năng cá nhân nhìn nhận về bản thân mình và huy động sự
nỗ lực ý chí thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. Tác giả Nguyễn Hữu
Toàn cho rằng “tự ý thức sẽ giúp cho phạm nhân chấp hành một cách tự giác nội quy trại
giam trong quá trình chấp hành án và biết được “vị trí xã hội” của bản thân mình để vượt
qua khó khăn”. Với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, tự ý thức thể
hiện ra bằng việc cố gắng khắc phục mọi khó khăn hoặc đi đến một nơi xa lạ không ai biết
mình để sống nốt ...... Quá trình về sinh sống tại địa phương, họ muốn thích ứng được thì
phải không ngừng nỗ lực, vượt qua cám dỗ những nhu cầu cá nhân, sẽ phù hợp với đời
sống xã hội hiện tại. Tự ý thức phải được thể hiện ra bên ngoài bằng các hành vi tích cực,
phù hợp với các chuẩn mực xã hội; và trong nghiên cứu này gọi tắt là hành vi tích cực.
- Sự mặc cảm, tự ti lo âu ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Nghiên cứu của nhóm các nhà nghiên cứu đứng đầu là Janet I. và Warren D. cho
thấy có tương quan giữa sự lo lắng, nhìn nhận bản thân của cá nhân (mặc cảm, tự ti) với
những vấn đề về thích ứng tâm lý. Nghiên cứu cho thấy những lo lắng tâm lý và tính có
vấn đề có quan hệ tới thích ứng, đặc biệt là những loại hành vi kém thích ứng.
- Trầm cảm khi về sinh sống tại địa phương
Các tác giả MacKenzie và Goodstein (1985) cho rằng thời gian về sinh sống tại địa
phương được sự giúp đỡ về tinh thần và vật chất từ gia đình đến các tổ chức xã hội đặc biệt
là phải giúp họ tham gia các hoạt động cảu xã hội một cách say mê sẽ ảnh hưởng tích cực
đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD. Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả thì nhóm người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD mới về địa phương có mức độ trầm cảm
(sự căng thẳng tâm lý) cao hơn những người chấp hành xong người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD đã có thời gian về địa phương vừa đủ và lâu. Theo đó, thích ứng
tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD cũng bị tác động bởi yếu tố trầm cảm.
1.4.2. Những yếu tố thuộc về khách quan
- Gia đình
Gia đình đề cập đến ở đây chính là sự quan tâm của gia đình, người thân
Khi nghiên cứu về sự ảnh hưởng của mối quan hệ gia đình tới thích ứng tâm lý của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chúng tôi sử dụng kết quả nghiên
của các tác giả Edward Zamble, Frank J. Trong cuốn “Coping, Behavior and Adaptation in
Prison Inmates” đã cho ra kết quả rằng sự ảnh hưởng của gia đình hay các mối quan hệ với
bên ngoài cũng tác động đến thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
án phạt tù [56, tr132].
- Hàng xóm
Hàng xóm được hiểu là những người sống cùng trong cộng đồng, bạn bè cùng trang
lứa. Tuy nhiên đề cập trong nghiên cứu yếu tố này về thái độ và mối quan hệ của những
người sống trong cùng cộng đồng đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD mà họ cảm nhận được. Theo cảm nhận và đánh giá của họ về mối quan hệ đó với mọi
người trong cộng đồng được thiết lập theo các quan hệ xã hội giống hay khác khi họ sống
ở bên ngoài trước khi vào TGD với. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đến đâu và thực sự chi
phối đến sự thích ứng tâm lý tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC còn tùy thuộc vào việc các em có mức độ thế nào trong việc duy trì mối liên hệ,
thiết lập khoảng cách an toàn với các mối quan hệ khác.
- Xã hội
Sự quan tâm của chính quyền cơ sở, địa phương và các tổ chức xã hội nơi người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống
Khi đưa ra các yếu tố thuộc về khách quan dự báo có ảnh hưởng đến thích ứng tâm
lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD,
tác giả nhìn nhận từ góc độ Tâm lý học hoạt động với vai trò là nguồn gốc của tâm lý người
nói chung và thích ứng tâm lý nói riêng, những yếu tố thuộc môi trường sống vi mô và vĩ
mô đều là nơi gắn bó, cụ thể, gần gũi và là nơi diễn ra các hoạt động sống trực tiếp của mỗi
cá nhân nên đưa ra các yếu tố trên.
Từ những phân tích lý luận thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở trên, có thể mô hình hóa như sau:
Nội dung:
- Hoạt động học tập
Nhóm các yếu tố thuộc về chủ quan - Họat động lao động
(Cá nhân) - Quan hệ xã hội
Yếu tố dự báo - Sinh hoạt của cá nhân
Những yếu tố thuộc về khách quan Biểu hiện:
(Môi trường)
- Nhận thức
Thích ứng tâm lý với tái hòa nhâp cộng đồng của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD
- Thái độ
- Hành vi
Hình 1.1. Mô hình thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Tiểu kết chương 1
Như vậy, trong chương 1 có thể thấy hệ thống nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước đã thể hiện bức tranh tổng thể và khái quát về thích ứng tâm lý ở các góc độ
nhìn nhận khác nhau cả thích ứng nói chung và thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng.
Các nghiên cứu tâm lý học ở Việt Nam hiện nay rất ít những nghiên cứu về thích
ứng tâm lý của đối tượng có hành vi phạm tội; với nghiên cứu về thích ứng tâm lý của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong tái hòa nhập cộng đồng thì
chưa có một nghiên cứu nào. Chính vì vậy, việc chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về thích
ứng tâm lý với tài hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD làm đề tài luận án nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích các nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, tìm
hiểu thực tiễn nhóm nghiên cứu đã xây dựng một số khái niệm công cụ cho nghiên cứu
như sau:
Thích ứng tâm lý là quá trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi, điều chỉnh bản
thân để hòa nhập vào môi trường sống mới, khắc phục những khó khăn của sự thay đổi
môi trường sống thể hiện ở sự cân bằng và phù hợp về nhận thức, thái độ và hành động
trong bối cảnh mới.
Thích ứng tâm lý được thể hiện thông qua các hoạt động học tập, lao động, quan hệ
xã hội và sinh hoạt
Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD là sự chủ động, tích cực thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi ở chủ
thể để thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện hành.
Những nội dung của thích ứng tâm lý bao gồm: thích ứng với hoạt động học tập;
thích ứng với hoạt động lao động; thích ứng với các quan hệ xã hội và thích ứng với sinh
hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, trên cơ sở tiếp cận và kế thừa các nghiên cứu của các nhà khoa học cũng giúp
chúng tôi xây dựng được nội dung và mô tả về các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD bao gồm các yếu
tố thuộc về chủ quan (yếu tố Trầm cảm, mặc cảm, nhận thức và hành vi tích cực) và các yếu
tố thuộc về khách quan (yếu tố gia đình, hàng xóm, tổ chức xã hội)
Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa bàn và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu luận án đã lựa chọn một số tỉnh thuộc phía bắc của Việt Nam
(Từ Quảng Bình trở ra) để tìm hiểu về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD vì đây là những địa phương có số
lượng người bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào TGD lớn hơn so với các địa phương còn
lại trên cả nước [43]. Khi khảo sát, tác giả tiến hành trực tiếp tại tất cả các địa phương (tỉnh,
thành phố) nằm rải rác theo thống kê địa chỉ của Cục C10 nên cũng là một trở ngại đáng
kế. Tuy nhiên, tác giả có thuận lợi là nhận được sự giúp đỡ của các đồng nghiệp là CSKV,
CSQLHC ở các địa phương nên khi tiến hành tiếp cận và tổ chức nghiên cứu trên các khách
thể cũng được tiến hành đảm bảo tính khoa học, hợp lý. Đây cũng là một lý do để tác giả
luận án thực hiện nghiên cứu tại các địa phương này.
Tuy nhiên tác giả nghiên cứu nhiều khách thể nhất vẫn là các tỉnh giáp ranh với Hà
Nội như: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình, Bắc Giang.
2.1.2. Khách thể nghiên cứu
Tổng số khách thể giam gia nghiên cứu là 168 người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD. Trong đó có 12 người vừa tham gia trả lời phiếu khảo sát và vừa
tham gia phỏng vấn, trao đổi; nghiên cứu sâu 2 trường hợp.
Bảng 2.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Đặc điểm mẫu nghiên cứu Số lượng Tỉ lệ %
Nam 154 91,67
Giới tính
Nữ 14 8,33
Thành thị 15 91,07
Quê quán
Nông thôn 153 8,93
83 49,41 Dưới 6 tháng
Thời gian về địa phương sinh sống 6- 12 tháng 31 18,45
Trên 12 tháng 54 32,14
6 tháng và 12 tháng 27 16,08
Thời gian chấp hành ở TGD 18 tháng 58 34,52
24 tháng 83 49,40
1 lần 163 97,02
Số lần vào TGD
2 lần 5 2,98
Khá giả 19 11,31
Đủ ăn 123 73,21 Kinh tế của gia đình
Khó khăn 26 15,48
Dưới 14 tuổi 14 8,3
Từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi 38 22,7
Độ tuổi
Từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi 77 45,8
Từ đủ 18 tuổi trở lên 39 23,2
69,6 Xâm phạm về sở hữu 117
Hành vi vi phạm Xâm phạm về tính mạng, sức 51 30,3 khỏe, nhân phẩm, danh dự
Với các khách thể nghiên cứu đồng ý tham gia, chúng tôi phát phiếu hỏi và trực tiếp
hướng dẫn các em cách trả lời. Các em tự điền câu trả lời của mình vào phiếu hỏi. Tuy
nhiên, việc tiếp cận khách thể rất khó khăn. Nhiều em tự ti về quá khứ của mình, không
thích giao tiếp với ai… nên không hợp tác. Mặt khác, địa phương cư trú của các em nằm
rải rác khắp các tỉnh thành trên cả nước, mỗi quận, huyện chỉ có một vài em... Vì vậy, tác
giả chỉ thu thập được thông tin từ 168 khách thể. Trong số này, chúng tôi đã phỏng vấn sâu
12 em; nghiên cứu sâu 02 trường hợp.
Hầu hết khách thể trong mẫu nghiên cứu là nam giới, sống ở nông thôn, mới vào
trường giáo dưỡng một lần và có thời gian chấp hành ở trường giáo dưỡng từ 18 tháng trở
lên. Sau khi chấp hành xong thời gian tại TGD, đa số các em ở độ tuổi từ đủ 16 trở lên.
2.2. Tổ chức nghiên cứu
Luận án được tiến hành tổ chức nghiên cứu qua 3 giai đoạn
- Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận
- Giai đoạn 2: Khảo sát thực tiễn (bao gồm điều tra thử và điều tra chính thức)
- Giai đoạn 3: Viết luận án.
2.2.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận
- Xây dựng và hoàn thiện đề cương nghiên cứu: Tìm các tài liệu liên quan đến thích
ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD; phân tích, tổng hợp hệ thống tài liệu để xây dựng và hoàn thiện đề cương nghiên
cứu. Tổng quan lịch sử nghiên cứu trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan tới thích
ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD.
- Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD; xác định khái niệm công cụ
của đề tài (thích ứng tâm lý, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, tái hòa nhập cộng đồng...); chỉ ra một số thành
phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
- Xây dựng các khái niệm công cụ như khái niệm thích ứng tâm lý, thích ứng tâm
lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành cong biện pháp XLHC đưa vào TGD,
các khái niệm có liên quan, cụ thể hóa các mặt của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về các mặt biểu hiện nhận
thức, thái độ hành vi.
Thời gian: Từ 12/2017- 5/2019
2.2.2. Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn
Nghiên cứu thực tiễn được thực hiện qua giai đoạn khảo sát thử và khảo sát chính
thức. Nội dung của khảo sát thử:
Mục đích
- Xác định độ tin cậy, độ hiệu lực của thang đo, tiểu thang đo trong bảng hỏi , trên
cơ sở đó, chỉnh sửa các biến quan sát chưa đạt yêu cầu để hoàn thiện bảng hỏi.
- Chỉnh sửa phiếu phỏng vấn sâu và bảng quan sát trước khi khảo sát chính thức.
Thời gian, địa điểm
- Thời gian: từ tháng 8/2018 - 3/2019.
- Địa điểm: Một số xã của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; một số phường của Thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Bảng hỏi được sử dụng và được khảo sát ngẫu nhiên trên 20 người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống. Sau khi tiến hành điều tra thử,
kết quả cho thấy có 02 câu hỏi cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn, đó là câu hỏi thích
ứng về hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và câu hỏi về
các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Trong đó, câu hỏi thích ứng về hành vi của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được rút gọn bớt các biến tương tự
còn 24 items; câu hỏi về các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD sau khi kiểm tra độ tin
cậy Cronch Bach Anpha còn 31 items như bảng hỏi điều tra chính thức. Ngoài ra, các thang
đo còn lại không có sự điều chỉnh nào. Chi tiết của kết quả từng nhóm câu hỏi sẽ được trình
bày cụ thể ở phần Phương pháp xử lý dữ liệu và thang đo.
Sau khi điều chỉnh, bảng hỏi được đưa vào sử dụng để thu thập dữ liệu thực tế trong
giai đoạn khảo sát chính thức.
2.2.3. Giai đoạn viết và hoàn thành luận án
Mục đích
- Dựa vào các dữ liệu thu được từ nghiên cứu thực tiễn, phân tích số liệu và viết
luận án.
- Hoàn thành luận án
Thời gian: từ tháng12/2019 đến tháng 12/2020
2.3. Các phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
Mục đích: Xây dựng cơ sở lý luận, xác định các quan điểm chủ đạo của luận án.
Nội dung nghiên cứu:
- Tổng hợp, phân tích, hệ thống về mặt lý luận các nghiên cứu về thích ứng tâm lý,
thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD ở trong và ngoài nước nhằm xác định những vấn đề cần nghiên cứu: các
thành phần, biểu hiện và mức độ của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Cách thức tiến hành:
- Thu thập những tài liệu, văn bản có liên quan tới đề tài
- Đọc và ghi ghép lại các tài liệu quan trọng
- Nguồn tài liệu: Sách, báo, tạp chí, công trình nghiên cứu (luận án, luận văn, bài
báo…). Từ khóa: Thích ứng, thích ứng tâm lý, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng,
thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, Trường GD.....
2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Mục đích:
- Tìm hiểu thực trạng mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
- Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD để đánh giá mức độ ảnh hưởng
của các yếu tố đó đối với thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Cách thức tiến hành xây dựng bảng hỏi: Tiến hành theo 3 bước
Bước 1: Xây dựng bảng hỏi
- Xây dựng nội dung theo mục đích nghiên cứu mà luận án đã đề ra.
- Xin ý kiến đóng góp của chuyên gia, những người có kinh nghiệm làm việc với
đối tượng lâu năm
Bước 2: Điều tra thử
Kết quả thu được từ điều tra thử sẽ được xem xét để
- Đánh giá độ tin cậy và xử lý số liệu
- Hoàn thiện bảng hỏi và tiến hành điều tra chính thức.
- Loại bỏ những từ ngữ không hợp thời
Bước 3: Khảo sát chính thức
Bước này nhằm mục đích thu số liệu để phân tích thực trạng thích ứng tâm lý với
tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Nội dung cơ bản của Bảng hỏi
Xây dựng các câu hỏi nhằm tập trung tìm hiểu các nội dung nghiên cứu mà luận án
đã đề ra, cụ thể:
Nội dung 1: Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong BPXLHC đưa vào TGD thể hiện ở 3 mặt: Nhận thức, thái độ, hành vi. Bảng hỏi
với 3 thành phần trên thể hiện ở 64 biến/ biểu hiện, được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu
về các quy định về Quản lý đối tượng tại địa bàn cơ sở năm 2010 [2, tr.36]. Đồng thời, tác
giả luận án phát triển một số nội dung liên quan dựa trên thang đo Hành vi đối phó và thích
ứng của phạm nhân (Coping behavior and adaptation in Prison inmates Scale) của nhóm
tác giả Edward Zamble, Frank J. Porporino (1988) [50, tr.98], bảng hỏi nhân cách về thích
ứng nhiều cấp độ đối với phạm nhân gồm 165 items của nhóm tác giả A.G. Maclacov và
X.V. Chermianhin soạn thảo [76, tr.192].
Bên cạnh các câu hỏi thông tin cá nhân của khách thể nghiên cứu, bảng hỏi gồm
các tiểu thang đo về mức độ thích ứng tâm lí của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD ở 3 mặt nhận thức, thái độ, hành vi trong 4 lĩnh vực là học tập, lao động,
quan hệ xã hội, sinh hoạt và các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lí đó.
Bảng hỏi thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong
BPXLHC đưa vào TGD ban đầu gồm 66 items, sau giai đoạn điều tra thử có 02 biến quan
sát bị loại bỏ do có hệ số tương quan biến tổng thấp. Bảng sử dụng trong điều tra chính
thức gồm 64 biến quan sát, chia làm các câu hỏi:
+ Câu hỏi đo thích ứng về nhận thức (câu 1): gồm 20 items. Trong đó, các nhóm
items tương ứng với các nội dung như: Thích ứng về nhận thức với hoạt động học tập: Từ
C1.1 đến C1.5; thích ứng về nhận thức với hoạt động lao động: từ C1.6 đến C1.10; Thích
ứng về nhận thức với quan hệ xã hội: Từ C1.11 đến C1.20
+ Câu hỏi đo thích ứng về cảm xúc (câu 2): gồm 20 items. Trong đó, các nội dung
tương ứng với các câu như sau: Thích ứng về cảm xúc với hoạt động học tập C2.1 đến
C2.5; Thích ứng về cảm xúc với lao động từ C2.6 đến C2.10; thích ứng về cảm xúc trong
quan hệ xã hội từ C2.10 đến C2.20.
+ Câu hỏi đo thích ứng hành vi (câu 3): gồm 24 items. Trong đó, các nội dung tương
ứng với các nhóm câu như sau: thích ứng về hành vi với học tập từ C3.1 đến C3.5; thích
ứng về hành vi trong lao động từ C3.6 đến C3.12; thích ứng về hành vi trong quan hệ xã
hội từ C3.13 đến C3.18; thích ứng về hành vi trong sinh hoạt từ C3.19 đến C3.24. (Chi tiết
xem Phụ lục 1.1)
Mức điểm được cho là 0, 1, 2, 3, 4 tương ứng với đánh dấu vào các cột “Hoàn toàn
đúng”, “Đúng nhiều hơn sai”, “Nửa đúng nửa sai”, “ Sai nhiều hơn đúng”, “Hoàn toàn sai”
cho các câu hỏi C1.1,C1.2, C1.3, C1.9, C1.10, C1.16, C2.1, C2.2, C2.3, C2.6, C2.8,C3.9,
C3.10,.C3.21, C4.1, C4.2, C4.3, C4.4, C4.5, C4.9, C4.14, C4.16, C5.4.: Các câu hỏi được
cho điểm theo mức 4, 3, 2, 1, 0, tương ứng với đánh dấu vào các cột “Hoàn toàn đúng”,
“Đúng nhiều hơn sai”, “Nửa đúng nửa sai”, “Sai nhiều hơn đúng”, “Hoàn toàn sai” với các
câu hỏi còn lại trong bảng hỏi.
Nội dung 2: Các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Nội dung này gồm các items dự
báo của nhóm các yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân) (Câu 4) và nhóm các yếu tố thuộc
về khách quan (môi trường) (Câu 5) của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD- (Chi tiết xem Phụ lục 1.1)
Nội dung 3: Ngoài các thang đo, phiếu khảo sát còn có phần thông tin về đặc điểm
của khách thể như giới tính, quê quán, hoàn cảnh kinh tế của gia đình, số lần vào trường
giáp dưỡng, thời gian chấp hành ở trường GD, … để so sánh sự khác biệt (tương quan)
giữa các biến số này với thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Tuy nhiên, khi xử lý số liệu từ bảng hỏi, Thang đo thích ứng tâm lí của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD gồm 3 tiểu thang đo: thích ứng về nhận thức,
thích ứng về thái độ và thích ứng về hành vi thì số lượng item được sử dụng như sau:
Các tiểu thang đo và thang đo Số item ban Số item sau khi
đầu gồm kiểm tra độ tin cậy
Tiểu thang đo thích ứng về nhận thức 20 15
Tiểu thang đo thích ứng về thái độ 20 17
Tiểu thang đo thích ứng về hành vi 24 18
Thang đo thích ứng chung 64 50
Cách thức tiến hành:
Bảng hỏi được chuyển trực tiếp cho từng khách thể nghiên cứu ở các địa phương
sinh sống của khách thể. Sau khi nghe giới thiệu và hướng dẫn, các khách thể tự trả lời các
câu hỏi trong bảng hỏi và được nhóm nghiên cứu thu lại ngay sau khi hoàn thành.
2.3.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Mục đích:
Thu thập, bổ sung, và làm rõ thông tin đã thu được từ phương pháp khác để có thể
đánh giá trung thực, khách quan các biểu hiện và mức độ của thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và các yếu tố
ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lý đó.
Nội dung phỏng vấn:
- Hỏi về những khó khăn, rào cản tâm lý nảy sinh đối với người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD từ khi về địa phương sinh sống đến thời điểm khảo sát;
những tình huống đột xuất, bất ngờ hoặc có nguy cơ tạo nên xung đột, đấu tranh tâm lý ở
họ;
- Những cảm xúc điển hình của các em khi về địa phương sinh sống và đến thời
điểm được phỏng vấn; những áp lực tâm lý xuất phát từ đâu;
- Cách khắc phục những áp lực, khó khăn tâm lý của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD khi rơi vào các tình huống không thuận lợi; mối quan hệ với
mọi người nơi sinh sống và các tổ chức đoàn thể ở địa phương; việc thực hiện những quy
định của pháp luật,..
- Những thay đổi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể
hiện ở các khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi từ khi về địa phương sinh sống đến thời
điểm khảo sát.
Cách thức tiến hành:
Các câu hỏi phỏng vấn sâu được chuẩn bị theo một số nội dung chính dưới hình
thức câu hỏi mở để thu thập các thông tin cần thiết về khách thể và vấn đề cần nghiên cứu,
gồm: thông tin cá nhân, những cảm nhận, trải nghiệm và thay đổi của cá nhân từ khi trở về
địa phương sinh sống, đánh giá của họ về các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý. Tuy
nhiên, trong quá trình đàm thoại, các câu hỏi được sử dụng linh hoạt theo hướng tiếp cận
vấn đề của khách thể mà vẫn đảm bảo được mục tiêu phỏng vấn. Đôi khi, có những tình
huống là những cuộc trao đổi nhỏ, đàm thoại hay chia sẻ ngắn của nhóm nghiên cứu với
các em dựa trên một số tình huống thực tế mà các em gặp phải hoặc trải nghiệm hoặc trong
cuộc sống. Tiến hành phỏng vấn tại nơi thuận lợi cho việc khai thác thông tin từ người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD như nơi ở, nơi lao động, nơi học tập...
bằng hình thức ghi chép là chủ yếu.
Các tình huống nảy sinh các cuộc trò chuyện hoặc phỏng vấn cũng hết sức phong
phú dựa theo các mặt của đời sống xã hội, đôi khi là những câu chuyện, chia sẻ mang tính
giải tỏa áp lực tâm lý cho các em.
2.3.4. Phương pháp quan sát
Mục đích:
Bổ sung thông tin cho các phương pháp khác, tìm hiểu biểu hiện thích ứng với tái
hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và các yếu
tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý của họ...
Nội dung:
Quan sát một số biểu hiện tâm lý, hành vi của các em khi tham gia học tập; lao động;
quan hệ xã hội và sự chấp hành nội quy của địa phương trong sinh hoạt. Kết quả nghiên
cứu sẽ được trình bày phân tích ở chương sau.
Cách thức tiến hành:
Chúng tôi quan sát và ghi nhật ký các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hàng ngày. Nhật ký ghi lại những biểu
hiện thích ứng và không thích ứng hoặc hành vi mang tính ứng phó của họ; những cách
thức mà các em thường sử dụng để thích ứng được với việc chấp hành nội quy ở địa phương
cũng như những khó khăn tâm lý mà các em gặp phải. Do đặc thù đối tượng tiếp xúc nên
chúng tôi chỉ sử dụng máy ghi âm, không sử dụng ghi hình nên không có hình ảnh minh
họa cho kết quả quan sát ngoài những ghi chép về cuộc sống, sinh hoạt, học tập và lao động
thực tế của các em ở địa phương.
2.3.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Mục đích:
Phân tích, phác họa chân dung một số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD với các mức độ thích ứng với tái hòa nhập khác nhau khác nhau nhằm góp phần
khẳng định cơ sở lý luận của luận án và bổ sung cho kết quả nghiên cứu thực trạng.
Nội dung:
Tác giả luận án tập trung mô tả và phân tích những biểu hiện thích ứng tâm lý với
tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo
từng thành phần của thích ứng tâm lý, ở các em có mức độ thích ứng tâm lý cao- thấp khác
nhau; đồng thời tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lý của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thông qua tự nhận xét, đánh giá của họ trong
quá trình quan sát và phỏng vấn sâu.
Cách thức tiến hành:
Dựa trên thông tin thu thập được từ khảo sát thực trạng, qua quá trình quan sát và
phỏng vấn sâu, tác giả nghiên cứu tiến hành lựa chọn và phân tích trường hợp điển hình
theo nội dung trên.
2.3.6. Phương pháp thống kê toán học
Mục đích:
Phương pháp này nhằm xử lý số liệu thu được và chuẩn hóa thang đo sử dụng theo
đặc điểm khách thể cho phù hợp.
Số liệu thu được từ điều tra bảng hỏi được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản
20.0. Các phép phân tích thống kê mô tả và thống kê suy luận được dùng trong xử lý kết
quả nghiên cứu.
Phân tích kết quả nghiên cứu thực trạng mức độ thích ứng tâm lý
Kết quả nghiên cứu thu được từ điều tra bảng hỏi được chúng tôi xử lý bằng phần
mềm SPSS 20.0 for windows. Các thông số và các phép toán thống kê được sử dụng trong
nghiên cứu bao gồm:
- Hệ số Cronbach Anpha được sử dụng để đo độ tin cậy của một số nội dung trong
bảng hỏi như đo về các mặt thể hiện sự thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và các yếu tố ảnh hưởng. Độ tin cậy của
các items trong nghiên cứu này đạt từ 0,5 trở lên. Do đó, câu hỏi về các yếu tố ảnh hưởng
đảm bảo độ tin cậy của nghiên cứu.
Phân tích thống kê mô tả:
Các chỉ số phân tích thống kê mô tả được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm các
chỉ số như: tần suất, tỉ lệ, điểm trung bình, độ lệch chuẩn, trung vị.
Phân tích thống kê suy luận:
Các phép thống kê được sử dụng trong phân tích thống kê suy luận gồm:
* Phân tích tổng điểm thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, điểm từng thành phần trong các mặt nhận thức, thái
độ, hành vi của họ trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu chúng tôi sử dụng cách tính
điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD như sau:
- Tạo biến số thích ứng:
Xuất phát từ định nghĩa thích ứng là sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi để
phù hợp với môi trường sống được thể hiện ở một số mặt về học tập, lao động, quan hệ xã
hội và sinh hoạt nên bảng hỏi xây dựng đề nghị người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD trả lời bằng cách đánh dấu vào ý mà mình cho là phù hợp với mình nhất.
- Trên cơ sở này, các biểu hiện được đánh giá với mức điểm như sau ở các câu hỏi
C1.4, C1.5, C1.6, C1.7, C1.8, C1.11, C1.12, C1.13, C1.14, C1.15, C1.17, C1.18, C1.19,
C1.20, C2.4, C2.5, C2.7, C2.9, C2.10, C2.11, C2.12, C2.13, C2.14, C2.15, C2.16, C2.17,
C2.18, C2.19, C2.20, C3.1, C3.2, C3.3, C3.4, C3.5, C3.6, C3.7, C3.8, C3.11, C3.12, C3.13,
C3.14, C3.15, C3.16, C3.17, C3.18, C3.19, C3.20, C3.22, C3.23, C3.24, C4.6, C4.7, C4.8,
C4.10, C4.11, C4.12, C4.13, C4.15, C5.1, C5.2, C5.3, C5.5, C5.5, C5.6, C5.7, C5.8, C5.9,
C5.10, C5.11, C5.12, C5.13, C5.13, C5.14, C5.15
Hoàn toàn đúng: 4 điểm; Đúng nhiều hơn sai: 3 điểm; Nửa đúng nửa sai: 2 điểm;
Sai nhiều hơn đúng: 1 điểm; Sai hoàn toàn: 0 điểm.
Các biểu hiện được đánh giá với mức điểm ngược lại như sau ở các câu hỏi
C1.1,C1.2, C1.3, C1.9, C1.10, C1.16, C2.1, C2.2, C2.3, C2.6, C2.8,C3.9, C3.10,.C3.21,
C4.1, C4.2, C4.3, C4.4, C4.5, C4.9, C4.14, C4.16, C5.4
Hoàn toàn đúng: 0 điểm; Đúng nhiều hơn sai: 1 điểm; Nửa đúng nửa sai: 2 điểm;
Sai nhiều hơn đúng: 3 điểm; Hoàn toàn sai: 4 điểm
Có thể mô tả cách tính điểm thích ứng tâm lý của từng và các biểu hiện như sau:
Nội dung Đánh giá Điểm
C1.1, C1.2, C1.3, C1.9, C1.10, C1.16, C2.1, Hoàn toàn đúng 0
C2.2, C2.3, C2.6, C2.8, C3.9, C3.10, C3.21, C4.1, C4.2, Đúng nhiều hơn sai 1
C4.3, C4.4, C4.5, C4.9, C4.14, C4.16, C5.4 2 Nửa đúng nửa sai
3 Sai nhiều hơn đúng
4 Hoàn toàn sai
C1.4, C1.5, C1.6, C1.7, C1.8, C1.11, C1.12, 4 Hoàn toàn đúng
C1.13, C1.14, C1.15, C1.17, C1.18, C1.19, C1.20,
Đúng nhiều hơn sai 3 C2.4, C2.5, C2.7, C2.9, C2.10, C2.11, C2.12, C2.13,
C2.14, C2.15, C2.16, C2.17, C2.18, C2.19, C2.20, Nửa đúng nửa sai 2 C3.1, C3.2, C3.3, C3.4, C3.5, C3.6, C3.7, C3.8, C3.11,
Sai nhiều hơn đúng 1 C3.12, C3.13, C3.14, C3.15, C3.16, C3.17, C3.18,
C3.19, C3.20, C3.22, C3.23, C3.24, C4.6, C4.7, C4.8, Hoàn toàn sai 0
C4.10, C4.11, C4.12, C4.13, C4.15, C5.1, C5.2, C5.3,
C5.5, C5.5, C5.6, C5.7, C5.8, C5.9, C5.10, C5.11,
C5.12, C5.13, C5.13, C5.14, C5.15
- Sau đó, điểm thích ứng được tính bằng ĐTB hoặc tổng điểm thích ứng các biểu
hiện ở cả 3 mặt (nhận thức, thái độ , hành vi), biểu hiện từng mặt: nhận thức, thái độ, hành
vi ở trong từng hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội, sinh hoạt
Cách tính ĐTB
+ ĐTB thích ứng nhận thức được tính như sau:
∑TUNT = (TUNT1+ TUNT2 + TUNT3+......+ TUNT14+ TUNT15)/15
+ĐTB thích ứng thái độ được tính như sau:
∑TUTĐ = (TUTĐ1+ TUTĐ2 + TUTĐ3+......+ TUTĐ15 +TUTĐ16)/17
+ĐTB thích ứng hành vi được tính như sau:
∑TUHV = (TUHV1+ TUHV2 + TUHV3+......+ TUHV18+ TUHV19)/18
+ ĐTB thích ứng chung được tính như sau:
∑TUchung = (TUNT1+ TUNT2 + ....+ TUNT14+ TUNT15 + TUTĐ1+ TUTĐ2 +
....+ TUTĐ15 + TUTĐ16 + TUHV1+ TUHV2 + ...+ TUHV18+ TUHV19)/50
Từ đây có thể thấy, tính theo ĐTB thì ĐTB càng cao, mức độ thích ứng càng lớn.
Độ tin cậy của các tiểu thang đo và thang đo tính theo ĐTB thì tiểu thang đo thích ứng về
nhận thức là 0,75; tiểu thang đo thích ứng về thái độ là 0,78; của tiểu thang đo thích ứng
về hành vi là 0,86 và của toàn bộ thang đo thích ứng tâm lí là 0,91. Tất cả đều đạt độ tin
cậy (Phụ lục 2.3)
Do phân bố điểm thích ứng là phân bố chuẩn nên việc phân chia mức độ thích ứng
tác giả dựa vào lý luận của Gauss để phân vị. Từ đây, các mức độ thích ứng tâm lý được
xác định theo phân vị như sau:
Mức độ thích ứng
Điểm trung bình của thang đo và các tiểu thang đo
Thấp
Từ 0 đến dưới “M - 1SD”
Trung bình
Từ “M - 1SD” đến dưới “M + 1SD”
Cao
Từ “M + 1SD” đến điểm cao nhất
Theo đó, các mức độ thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD được phân định như sau:
- Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chỉ
đạt được ĐTB từ dưới điểm M của ĐTB trừ đi một ĐLC mà bảng hỏi nêu ra ở tất cả các
khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi hoặc ở từng khía cạnh biểu hiện cụ thể của từng
thành phần thích ứng tâm lý của họ.
- Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD có ĐTB đạt được từ điểm M của ĐTB trừ đi một ĐLC đến dưới điểm M của ĐTB
cộng với một ĐLC mà bảng hỏi nêu ra ở tất cả các khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi
hoặc ở từng khía cạnh biểu hiện cụ thể của từng thành phần thích ứng tâm lý của họ.
- Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có
ĐTB đạt được từ điểm M của ĐTB cộng với một ĐLC trở lên mà bảng hỏi nêu ra ở tất cả
các khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi hoặc ở từng khía cạnh biểu hiện cụ thể của
từng thành phần thích ứng tâm lý của họ.
Tính theo ĐTB thì có kết quả sau:
Bảng 2.2. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của thang và tiểu thang đo
Các thành phần Mặt nhận thức
Mặt thái độ
Mặt hành vi
Thích ứng chung
ĐTB 3,23 3,10 3,07 3,13
ĐLC 0,45 0,47 0,62 0,44
Theo lý luận của Gauss để phân vị có bảng để tính mức độ thích ứng sau:
Bảng 2.3. Mức độ thích ứng thể hiện ở các mặt biểu hiện
Mức độ thích ứng Mặt nhận thức
Mặt thái độ
Mặt hành vi
Thích ứng chung
Thấp ĐTB < 2,78 ĐTB < 2,63 ĐTB < 2,45 ĐTB < 2,69
Trung bình ĐTB từ 2,78 ĐTB từ 2,63 đến ĐTB từ 2,45 ĐTB từ 2,69
đến < 3,68 < 3,57 đến < 3,69 đến < 3,57
Cao từ 3,68
ĐTB trở lên ĐTB từ 3,57 trở lên ĐTB từ 3,69 trở lên ĐTB từ 3,57 trở lên
* Phân tích thống kê:
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các phép phân tích thống kê dưới đây để
mô tả thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong
BPXLHC đưa vào TGD:
Các chỉ số thống kê: điểm trung bình, độ lệch chuẩn, tỉ lệ %, tương quan Pearson
được sử dụng để mô tả thực trạng thích ứng tâm lý đó
2.3.7 Phương pháp chuyên gia
Mục đích:
Phương pháp này tranh thủ ý kiến đóng góp của những người có kinh nghiệm, kiến
thức liên quan đến khách thể nghiên cứu; những người có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh
vực tâm lý học và giáo dục học; người làm công tác thực tiễn tại địa bàn cơ sở.
Hình thức:
Phỏng vấn xin ý kiến về đặc điểm tâm lý đối tượng đã chấp hành xong biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; phân tích chia sẻ 2 trường hợp người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
2.3.8. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch
Mục đích:
Nắm được tiểu sử, nhân thân, lai lịch, nguyên nhân của những hành vi đã, đang điễn
ra và dự đoán hành vi của các em.
Nội dung:
Đọc hồ sơ tại phòng và Cục Hồ sơ nghiệp vụ về một số khách thể nghiên cứu nắm
được thông tin quan trọng, chi tiết như hoàn cảnh gia đình, những tiền sự, hành vi vi phạm
mà họ đã thực hiện. Từ đó khuyến nghị biện pháp thích hợp để giúp người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD tái hòa nhập hiệu quả.
2.4. Phân tích các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý của với tái hòa nhập cộng
đồng ở người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Để đánh giá được các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD với các quy định tại địa phương, nhóm nghiên cứu chúng
tôi sử dụng cách phân tích Hồi quy tuyến tính để giải thích dự báo thích ứng tâm lý chung
và thích ứng tâm lý ở từng khía cạnh. Mô hình Hồi quy Tuyến tính được thực hiện với biến
phụ thuộc là thích ứng tâm lý chung, thích ứng nhận thức, thích ứng thái độ và thích ứng
hành vi; biến độc lập là các biến số như: yếu tố chủ quan thộc về bản thân người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và yếu tố khách quan thuộc về những yếu tố thuộc
về môi trường sống
Với các giá trị tham chiếu:
+ R2: Phương sai bình phương: là biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi
biến thiên của biến độc lập.
+ DW: Tự tương quan: Kiểm định biến độc lập có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc
không, nếu ảnh hưởng thì có quyết định không, ảnh hưởng ở mức độ nào. DW nằm trong
giới hạn tra trong bảng phụ lục tương đương với n và k
+ F: (đi kèm với Sig< 0,005) thể hiện mô hình hồi quy tuyến tính được xây dựng
phù hợp với mô hình tổng thể
+ Bêta: Tác động chặt hay không chặt, trị tuyệt đối của Bêta càng lớn thì tác động
biến thiên kéo theo càng nhiều. Giá trị âm là tác động tương quan biến thiên nghịch, giá trị
dương là tác động tương quan biến thiên thuận
+ VIF: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến. Trong nghiên cứu này hệ số VIF< 2 là
đạt đến độ không có hiện tượng cộng tuyến.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, tác giả đã trình bày tiến trình tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu
qua 3 giai đoạn và các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu lý luận cũng như nghiên
cứu thực tiễn. Các giai đoạn nghiên cứu gồm: Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận; Giai đoạn
2: Nghiên cứu khảo sát thực tiễn (gồm điều tra thử và điều tra chính thức); Giai đoạn 3:
Viết thành luận án. Các phương pháp tác giả đã sử dụng bao gồm: Phương pháp quan sát,
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp xử lý số
liệu bằng thống kê toán học; phương pháp phân tích chân dụng tâm lý điển hình..... Độ tin
cậy của từng item, các tiểu thang đo và thang đo đều đạt độ tin cậy cụ thể tiểu thang đo
thích ứng về nhận thức là 0,75; tiểu thang đo thích ứng về thái độ là 0,78; của tiểu thang
đo thích ứng về hành vi là 0,86 và của toàn bộ thang đo thích ứng tâm lí là 0,91. Công cụ
điều tra đã được tổ chức tiến hành nghiên cứu thử nghiệm, chỉnh sửa, bổ sung và được
hoàn thiện trước khi đưa vào điều tra chính thức. Sau khi thu thập được số liệu, tác giả tiếp
tục điều chỉnh và loại bớt biến để đạt độ tin cậy trong kết quả thu được khi xử lý.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI
TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP
XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
3.1. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng
3.1.1. Đánh giá chung
Trước khi đi vào tìm hiểu thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, để có cái nhìn tổng thể về thích ứng
tâm lý của họ, chúng tôi xem xét kết quả kết quả nghiên cứu về thích ứng tâm lý chung của
người chấp hành xong biện pháp XLHC thể hiện ở biểu đồ tổng điểm thích ứng tâm lý
(Hình 3.1):
Hình 3.1. Biểu đồ phân bố theo mức độ Thích ứng tâm lý
Căn cứ trên biểu đồ phân bố điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (Hình 3.1) có thể thấy điểm
trung bình tổng điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là Mean = 3,13; trung vị Median= 3,24; điểm thấp
nhất Min = 1,89; điểm cao nhất Max= 3,85; độ lệch chuẩn SD = 0,435; độ nghiêng Sk=
0,187; độ dẹt của biểu đồ đo tổng điểm thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là Ku = 0,229. Biều đồ phân bố
tổng điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD theo hướng hình răng cưa và có xu hướng nghiêng phải. Kết
quả kiểm định Kolmogorov- Smirnov với Sig = 0,00 cho thấy biểu đồ đạt phân bố chuẩn
tuy nhiên điểm phân bố tập trung ở cực phải hơi nhỉnh hơn một chút so với cực trái và có
độ nhọn rõ rệt; sự dao động của ĐTB khá rộng từ 1,89 đến 3,85 điểm.Từ biểu đồ phân bố
tổng điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD có thể thấy số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD có mức ĐTB thích ứng tâm lý ở mức thấp cũng tương đương số người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng có mức ĐTB thích ứng
tâm lý ở mức cao mặc dù phía bên trái biểu đồ có độ thoai thoải, nghiêng dốc ít hơn so với
phía bên phải của biểu đồ. Kết quả thu được cho thấy người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng có sự thích ứng tâm lý ở mức độ trung
bình theo phân mức điểm thu được là chủ yếu.
Thực trạng đó được thể hiện cụ thể hơn qua bảng dưới đây:
Bảng 3.1. Mức độ thích ứng tâm lý
Thấp Trung Cao Điểm Điểm ĐTB ĐLC
(%) bình (%) (%) thấp cao
nhất nhất
Thích ứng chung 14,3 70,2 15,5 1,75 4,00 3,13 0,44
Thích ứng về nhận thức 13,3 79,1 7,6 1,60 4,00 3,23 0,45
Thích ứng về thái độ 15,5 66,7 17,9 1,75 4,00 3,10 0,47
Thích ứng về hành vi 20,2 60,7 19,0 0,63 4,00 3,07 0,62
Với bảng 3.1 ta thấy, số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích
ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở mức độ thấp và mức độ cao thể hiện ở tất cả các
mặt đều thấp ( tất cả đều dưới 21,0%), trong khi đó thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng đạt mức trung bình đều trên 60,0% tất cả các mặt.
3. Thích ứng cao
2.Thích ứng trung bình
1. Thích ứng thấp
Hình 3.2. Biểu đồ theo mức độ Điểm trung bình thích ứng tâm lý
Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái
hòa nhập cộng đồng đạt ĐTB là 3,13 với ĐLC 0,44 ở mức độ thấp (14,3%), ở mức độ cao
là 15,5%. Trong khi đó số lượng người chấp hành biện pháp XLHC đưa vào TGD thích
ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở mức trung bình lên tới 117/168 người chiếm 70,2%. Như
vậy, số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng có mức độ thích ứng tâm lý ở mức trung bình là cao gấp 5,12 lần so với
số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý ở mức cao và
gấp 4,36 người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý ở mức
thấp. Và điều này cũng thể hiện ở từng mặt thích ứng về: nhận thức, thái độ và hành vi.
Vậy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa nhập cộng
đồng biểu hiện rõ nhất ở khía cạnh nào trong ba khía cạnh chung về thích ứng tâm lý?
Để làm rõ hơn, chúng tôi phân tích từng khía cạnh: nhận thức, thái độ và hành vi
của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của khách thể ở phân tích sau.
3.1.2. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng về mặt nhận thức
Nhận thức là những hiện tượng tâm lý đầu tiên xây dựng nên đời sống tâm lý của
con người. Và thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD về nhận thức là thành phần biểu hiện đầu tiên của thích ứng tâm
lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Thích ứng về nhận thức ở họ thể hiện việc đầu tiên là phải chấp nhận và tiến tới tự giác
thực hiện những hành vi tuân theo các chuẩn mực của địa phương nói riêng và của xã hội
nói chung, chấp nhận thực hiện các nội quy cụ thể trong các hoạt động hàng ngày khi sinh
sống tại địa phương như khi tham gia hoạt động học tập và hoạt động lao động, quan hệ xã
hội, các sinh hoạt cá nhân.... Trong quá trình đó có sự giám sát của gia đình và các tổ chức
xã hội giúp họ có điều kiện tự nhìn nhận lại bản thân và hành vi của mình một cách căn
bản. Thích ứng về mặt nhận thức giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD tự nhìn nhận lại các chuẩn mực xã hội và quy định của địa phương một cách đúng
đắn, tích cực trong đời sống tâm lý của mình, tự soi vào chính bản thân mình để thay đổi
cách nghĩ, quan điểm nhằm thích ứng được với môi trường sống. Kết quả nghiên cứu thích
ứng tâm lý về mặt nhận thức được thể hiện ở biểu đồ hình 3.3
Hình 3.3. Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt nhận thức
Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về nhận thức (hình 3.3) của người chấp
hành xong biện pháp XLHC cho thấy mức điểm trung bình Mean= 3,23; trung vị Median=
3,37. Đồng thời, mức điểm trung bình thấp nhất Min= 1,60 và mức điểm trung bình cao
nhất Max = 4,00, độ lệch chuẩn Std= 0,45 cho thấy có sự dao động khá lớn giữa các mức
điểm trung bình thích ứng về nhận thức ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD với tái hòa nhập cộng đồng. Biểu đồ có độ dẹt = 0,875 và biểu đồ có độ nghiêng trái
với Sk= 0,956 cho thấy biểu đồ phân bố tổng điểm thích ứng về nhận thức theo cấu trúc
hình răng cưa. Kết quả thể hiện phân bố điểm trung bình thích ứng về nhận thức của người
chấp hành xong biện pháp XLHC cũng chỉ đạt tiệm cận phân phối chuẩn. Phía điểm thấp
tập trung nhiều người có cùng quan điểm hơn là phía điểm cao. Điều này cho thấy thực tế
nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC chưa thực sự có những thay đổi về nhận
thức khi về sinh sống tại địa phương, họ chưa chấp nhận được một số quy định, chuẩn mực
hiện thời của xã hội hiện hành; trong thâm tâm, sâu thẳm tâm trí của họ vẫn còn có sự nghi
ngờ, băn khoăn.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD với tái hòa nhập cộng đồng đã thích ứng được với việc một số quy định của địa
phương và chuẩn mực xã hội về mặt nhận thức. Tuy nhiên đa số người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD chỉ thích ứng về nhận thức đạt mức độ trung bình là 79,1%
và dưới trung bình (thấp) là 13,3% (tổng chiếm tỉ lệ cao tới 92,4%. Trong đó, số người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về nhận thức ở mức cao chỉ đạt
7,6%. Số liệu cho thấy, số người thích ứng về nhận thức ở mức trung bình cao hơn gấp
11,25 lần so với số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về
nhận thức ở mức độ cao.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy mặc dù người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD đã thích ứng được với các quy định của địa phương tức là trong suy nghĩ,
nhận thức của họ đã phần nào đó chấp nhận tuân theo chuẩn mực xã hội nhưng họ lại chưa
thực sự thay đổi nhiều về nhận thức.
Để làm rõ hơn thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu một số
người về nhận thức của họ về hoạt động học tập, hoạt động lao động, quan hệ xã hội và
sinh hoạt của cá nhân. Trước hết, để đánh giá sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về nhận thức, chúng ta
cùng xem bảng dưới đây để thấy rõ hơn những biểu hiện sự thích ứng tâm lý về nhận thức
của họ.
Bảng 3.2. Thực trạng thích ứng nhận thức
Những nội dung nhiều người thích ứng được ĐTB ĐLC
Học tập giúp tôi có được kiến thức và cơ hội việc làm 3,70 0,817
Lao động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống 3,73 0,698
Lao động giúp tôi rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì 3,70 0,722
Những nội dung nhiều người chưa thích ứng
Đôi khi tôi tìm lý do để không phải lao động 0,98 1,191
Tôi hiểu mình sẽ gặp khó khăn để có bạn bè mới 1,95 1,527
Tôi biết rằng hàng xóm cần có thời gian để hiểu và thông cảm cho tôi 2,51 1,345
Học tập là điều bắt buộc đối với tôi 2,75 1,348
Các hoạt động sinh hoạt tại địa phương còn đơn điệu 2,42 1,420
Mọi người xung quanh tôi chấp hành tốt quy định của địa phương 2,22 1,349
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Ở bảng 3.2, theo công thức của Gauss ơe bảng 2.2 chia ra 3 mức thích ứng thấp sẽ
có ĐTB < 2,78, thích ứng trung bình có ĐTB từ 2,78 đến 3,68, những giá trị ĐTB về nhận
thức > 3,68 là thích ứng ở mức độ cao. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.2 cho thấy thích ứng
về nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập
có sự chênh lệch và dao động khá xa ở ĐTB từ 0,98 (ở nội dung nhiều người không thích
ứng) cho đến 3,73 (ở nội dung nhiều người thích ứng được). Mức ĐTB cao nhất là sự nhận
thức với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
với nội dung "Lao động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống” với ĐTB = 3,73; ĐLC = 0,698.
Tiếp theo, thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mức cao được thể hiện ở mức ĐTB = 3,70 và ĐLC
lần lượt là 0,722 và 0,817 với nội dung tương ứng là "lao động giúp tôi rèn luyện sức khỏe
và sự kiên trì” và “Học tập sẽ giúp tôi có thêm kiến thức và cơ hội việc làm”. Còn lại, những
mô tả các nội dung khác đều có mức ĐTB thấp từ 2,22 đến 0,98. Kết quả trên cho thấy chỉ
có 3/15 nội dung là biểu hiện của thích ứng nhận thức với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD có thể thích ứng được, thể hiện ở chỗ có
12/168 người biểu hiện tương ứng với 7,1% người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD có nhận thức được về vai trò của lao động và học tập đối với đời sống của cá
nhân nói chung và đối với hoàn cảnh hiện tại của họ nói riêng; ngoài ra, những biểu hiện
khác thì có tỉ lệ người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức trung
bình 134/168 tương ứng với 79,1% và thấp là 22/168 tương đương 13,3%. Như vậy có thể
thấy trong nhận thức về việc phải thực hiện một số hoạt động theo qui định của địa phương
sinh sống, chỉ một số ít người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức
được. Phần lớn chỉ nhận thức được ở mức trung bình (79,1%) thậm chí còn thấp (13,3%).
Kết quả này cũng tương đồng với kết quả quan sát sinh hoạt hàng ngày của một số
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi họ tham gia vào các quan hệ xã
hội và việc thực hiện theo nội quy địa phương cho thấy, đôi khi họ vẫn có những xung đột
với nhau trong các quan hệ xã hội và với chính các quy định, chuẩn mực xã hội mà họ vẫn
còn nhiều bỡ ngỡ như: việc phải ăn ngủ điều độ, đúng giờ giấc, phải lao động và sản phẩm
làm ra phải đạt chất lượng, việc học tập có kiểm tra đánh giá thực sự chứ không như giai
đoạn trước đây các em tùy tiện trong mọi hoạt động và sinh hoạt.
Có thể dẫn lời chia sẻ của một người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD về điều này như sau "cháu về nhà ở mà nhiều lúc cháu có cảm giác đây chưa phải là
nhà của cháu. Mọi thứ đều xa lạ đối với cháu. Từ quan hệ với mọi người trong gia đình
cháu cũng thấy bỡ ngỡ, mọi nếp sinh hoạt cũng xa lạ như kiểu lệch múi giờ, mệt mỏi và
căng thẳng như chuẩn bị có một trận bão. Cái gì cũng có mà như kiểu lúc nào cũng thiếu
thốn và cái gì cũng thèm được như khi xưa”. (N.T.Y- 19 tuổi, Cẩm Hà, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh).
Cụ thể một số hoạt động thể hiện thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về nhận thức đối với hoạt
động học tập. Kết quả nghiên cứu về thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động học tập
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 3.3. Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động học tập
Những nội dung thể hiện thích ứng với hoạt động học tập ĐTB ĐLC
Học tập pháp luật chỉ là hình thức, không cần thiết, không có ích gì 3,48 1,153
Nội dung học tập giáo dục công dân, đạo đức chỉ là lý thuyết suông 3,20 1,260
Tôi thấy bắt buộc phải học tập văn hóa là điều khó khăn đối với tôi 2,75 1,348
Học tập văn hóa giúp tôi có thêm kiến thức và cơ hội việc làm 3,70 0,817
Tôi thấy mình cần thiết phải học để bổ sung kiến thức 3,61 0,871
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Hoạt động học tập là hoạt động được tiến hành thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi con
người. Với những người đã từng thực hiện những hành vi sai lệch các chuẩn mực xã hội, việc tổ
chức thường xuyên, liên tục và lâu dài hoạt động học tập nhằm giúp họ lĩnh hội tri thức, kinh
nghiệm xã hội- lịch sử, có nhận thức đúng đắn về các chuẩn mực xã hội là điều vô cùng cần thiết.
Theo Luật Trẻ em Điều 73, khoản 1, điểm b thì Ủy ban nhân dân xã/phường nơi trẻ em về cư trú
có trách nhiệm tổ chức học văn hóa, học nghề, học kỹ năng sống cho các em.
Kết quả nghiên cứu thể hiện ở bảng 3.3 cho thấy với hoạt động học tập, mức độ
thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức
có mức ĐTB dao động từ 2,75 đến 3,70 là không quá lớn, nhưng lại chủ yếu là mức ĐTB
ở mức trung bình. Trong đó, ĐTB cao nhất = 3,70, ĐLC = 0,817 là item hỏi về "học tập
văn hóa giúp tôi có thêm kiến thức và cơ hội việc làm” với 142 em tương ứng với 84,5%
cho thấy với nội dung này thì các em nhận thức được vai trò của học tập. Ngoài ra, với
những mô tả khác về việc học tập theo các quy định khác của địa phương cho thấy người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chưa đánh giá cao, chủ yếu là trung bình.
Điều này cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD về nhận thức với hoạt động học tập đạt mức trung bình. Đa số người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã tin vào lợi ích của học văn hóa và các quy
định của địa phương nhưng lại chưa nhận thức được một cách đầy đủ và thấu đáo. Như
vậy, từ bảng 3.3 có thể thấy, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích
ứng với những hoạt động học tập nào có ý nghĩa, thiết thực với chính cuộc sống của họ sau
khi chấp hành xong ở TGD. Đồng thời, bản thân họ chưa thực sự chấp nhận với các nội
dung học tập này. Bởi việc học tập này thường có sự tham gia giám sát của một số tổ chức
xã hội như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên... và nhận xét của chính quyền nên hoạt động học
tập được người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thực hiện tốt hơn cả.
Thực trạng thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD về mặt nhận thức còn thể hiện ở hoạt động lao động. Hoạt động lao động là một trong
những loại hình hoạt động đóng vai trò quyết định cho sự hình thành và phát triển tâm lý cá
nhân đặc biệt là trong việc xóa bỏ những nét tâm lý tiêu cực đã hình thành chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD và hình thành phẩm chất tâm lý tích cực ở họ. Mục đích của
hoạt động lao động trong tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là giáo dục, cải tạo họ hình thành những
phẩm chất tâm lý tích cực trong nhân cách của họ; đồng thời là tiêu chuẩn để xã hội và cộng
đồng đánh giá sự tiến bộ của các em. Xuất phát từ mục đích này, việc tổ chức cho người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD lao động phù hợp với lứa tuổi và tình hình ở địa
phương phong phú và đa dạng. Đó chủ yếu là những công việc lao động chân tay, thủ công hoặc
nghề nông nghiệp. Do vậy, thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD ở mặt nhận thức về hoạt động lao động được thể hiện khá tương đồng ở bảng 3.4.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.4 cho thấy nhận thức của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD về hoạt động lao động cũng thể hiện sự đánh giá cao của họ về
hoạt động lao động đối với sự tiến bộ của họ.
Bảng 3.4. Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động lao động
Một sô nội dung về thích ứng hoạt động lao động ĐTB ĐLC
Lao động sẽ giúp cho thời gian hàng ngày trôi nhanh hơn 3,17 1,217
Lao động giúp tôi rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì 3,70 0,722
Lao động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống 3,73 0,698
Đôi khi tôi tìm lý do nào đó để đỡ phải lao động 0,98 1,191
Tôi thấy phải lao động là điều khó khăn đối với tôi 3,20 1,181
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Trong đó, mức ĐTB cao nhất = 3,73; ĐLC = 0,698 là mô tả nhận thức của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về vai trò của hoạt động lao động như "lao
động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống” và tiếp theo là ĐTB= 3,70; ĐLC= 0,722 là “lao động
giúp tôi rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì". Tiếp theo là những mô tả có mức ĐTB = 3,20
thể hiện nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về hoạt động
lao động "Tôi thấy lao động không quá khó khăn với tôi" và "lao động giúp thời gian hàng
ngày của tôi trôi nhanh hơn” với mức ĐTB là 3,17.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở nhận thức về hoạt động
lao động có mức thích ứng khá cao so với các hoạt động khác như hoạt động học tập, quan
hệ xã hôi hay sinh hoạt. Như vậy, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
có sự đánh giá cao hơn về vai trò, ý nghĩa của lao động đối với quá trình về sinh sống tại
địa phương của bản thân và tương lai của họ sau này. Nhưng đa số người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD vẫn chưa thích ứng và đáp ứng được một số quy định, yêu
cầu trong quá trình lao động về khối lượng, định mức, thời gian giờ giấc. Kết quả này cho
thấy họ chưa thực sự thay đổi nhận thức theo chiều hướng tích cực với hoạt động lao động.
Khi quan sát quá trình tham gia lao động của một số người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD cho thấy, hoạt động lao động là một trong những căn cứ quan
trọng để cho chúng ta có những nhận định ban đầu về việc họ có thích ứng được với cuộc
sống ở địa phương hay không. Do đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD thích ứng với hoạt động lao động có phần cao hơn so với hoạt động học tập hay quan
hệ xã hội và sinh hoạt. Kết quả này cũng phù hợp với những chia sẻ của một số người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tham gia phỏng vấn sâu, có 7 trong số 12 người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi được phỏng vấn chia sẻ rằng "lao động
đầy đủ và có hiệu quả giúp mọi người nhìn nhận chúng cháu theo hướng thiện cảm hơn,
chúng cháu có điều kiện để chứng minh với mọi người về sự hướng thiện của chúng cháu.
Hơn nữa, vì là thay đổi môi trường sống nên chúng cháu cũng chưa có được nhiều các
quan hệ xã hội ở địa phương nên lao động giúp thời gian trôi nhanh hơn với chúng cháu
mà chúng cháu cũng khuây khỏa đầu óc, bớt thời gian lo nghĩ về gia đình và những việc
khác”. (T.T.H.- 21C, Lò Lợn, Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội). Tuy nhiên, cũng có một
số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi được hỏi lại cho rằng " may
có việc làm sớm chứ nếu không có việc làm thì cũng chẳng biết làm gì cô ạ". Điều này cho
thấy, bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng chưa thực sự
nhiệt tình, tự nguyện thực hiện hoạt động lao động mà họ thực hiện chỉ vì những lợi ích
trước mắt. Do đó, trong sâu thẳm đời sống tâm lý, suy nghĩ và quan điểm của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, họ chưa đề cao vai trò của lao động và cũng
không sẵn sàng, tự nguyện lao động một cách tích cực, hăng say.
Một khía cạnh nữa khi quan sát các quan hệ xã hội và sinh hoạt trong cuộc sống của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể nói về mặt nhận thức, người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức được tình trạng của mình là
đang bị thiếu thốn các quan hệ xã hội trong môi trường sống mới này, các em e dè trong
giao tiếp, tự ti với tất cả mọi người kể cả người thân nên họ có xu hướng thỏa mãn nhu cầu
thiếu thốn của mình trong các quan hệ xã hội. Đây cũng là điều kiện để người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tạo dựng vị thế xã hội của mình trong môi trường
sống tại địa phương. Điều này thể hiện ở cách các em xưng hô với những người lớn tuổi ở
địa phương trong quá trình giao tiếp bằng “con” và đặt họ vào vai vế “cô”, “dì”, “chú”,
“bác”... trong các cuộc nói chuyện đã nói lên sự thay đổi bước đầu đó. Từ đây, có thể thấy,
những việc làm này xuất phát từ nhu cầu của phần lớn người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD muốn xóa bỏ bớt sự kỳ thị, định kiến của mọi người trong xã hội với
những người đã có những “lầm lỗi” trước đây, muốn được mọi người đối xử như mọi người
khác. Đây bản chất là những hành vi ứng phó của các em, quan điểm mang tính ứng phó
với những quy định, yêu cầu của địa phương chứ chưa phải là sự thay đổi về quan điểm,
nhận thức để thích ứng, đáp ứng với những yêu cầu của xã hôi hay địa phương đối với
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Có thể nói, nhận thức, quan điểm của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD là khía cạnh khó biểu hiện ra bên ngoài, do đó, khó có thể căn cứ vào đó để đánh
giá việc các em thích ứng tâm lý cao hay thấp với các yêu cầu của địa phương ngoại trừ họ
thực sự nhận thức và ăn năn hối cải thông qua hành vi. Thực tiễn quan sát cuộc sống sinh
hoạt và lao động của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi về sinh
sống ở địa phương cho thấy, mặc dù họ vẫn chấp hành tốt nội quy, quy định của địa phương
nhưng về tâm lý, bản thân họ chỉ thích ứng ở mức độ nhất định chứ không thích ứng với
tất cả các tiêu chí đánh giá về thích ứng tâm lý mà nhóm nghiên cứu đã đưa ra. Kết quả
này cho thấy mặc dù khi đã về địa phương sinh sống, người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD vẫn có biểu hiện chấp hành đầy đủ, đúng các quy định của địa phương
về hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt nhưng về mặt tâm lý các em
vẫn chưa thực sự thích ứng đạt yêu cầu.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu đã cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức có
sự dao động khá lớn thể hiện ở ĐTB thích ứng về nhận thức từ 0,98 đến 3,73; trong đó
79,1% người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng ở mức trung bình.
Kết quả nghiên cứu này tương ứng với mức ĐTB về thích ứng tâm lý của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức đạt từ 2,78 đến 3,68. Trong đó,
mức độ thích ứng nhận thức về hoạt động học tập là có mức điểm cao hơn cả so với nhận
thức về lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt. Điều này sẽ được làm rõ hơn ở phân tích về
thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mặt thái độ.
3.1.3. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng về mặt thái độ
Thích ứng về mặt thái độ với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở chỗ họ cảm thấy thoải mái, không khó chịu hoặc
không cảm thấy bị áp lực, mệt mỏi khi thể hiện các hoạt động của mình về học tập, lao
động, quan hệ xã hội, sinh hoạt. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được thể hiện ở hình 3.4.
Thấp
Trung bình
hấp Cao
Hình 3.4. Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ
Hình 3.4 cho thấy mức điểm trung bình thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ có sự phân bố rộng
và không đều ở nhiều mức độ khác nhau từ 1,75 điểm đến 4,00 điểm, tương ứng với thích
ứng được từ thấp nhất là 0,6% đến cao nhất là 8,9% trong tổng số các tiêu chí tác giả đưa
ra để điều tra về mặt thái độ. Trong đó, theo công thức phân chia mức độ của Gauss thì số
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đạt ĐTB thích ứng đạt mức độ thích
ứng thấp chiếm tỉ lệ 15,5% tương ứng với 22/168 người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD được hỏi. Bên cạnh đó, nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD có mức ĐTB thích ứng về mặt thái độ đạt mức độ trung bình, có 119 người,
chiếm tỉ lệ 66,7%. Nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức
ĐTB thích ứng đạt mức cao chiếm tỉ lệ 19,0%, tương đương 22 người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD.
Như vậy, căn cứ trên mức ĐTB thích ứng và tỉ lệ đáp ứng được các tiêu chí của
nhóm nghiên cứu về việc chấp hành chuẩn mực xã hội thì phần lớn người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng tâm lý về thái độ ở mức độ trung bình và
thấp, chiếm đến 82,2% số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được
khảo sát, tương ứng hơn 4/5 các em và tỉ lệ người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD đạt mức độ thích ứng về thái độ ở mức cao chiếm tỉ lệ khiêm tốn là 19,0%. Kết
quả này cho thấy mặc dù người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã được
chuẩn bị trước về tâm thế trước khi ra trường về tái hòa nhập vào cộng đồng xã hội, đã
được học tập và giáo dục về các chuẩn mực xã hội nhất là các chuẩn mực về mặt pháp luật,
nhiều em cũng có những sự thay đổi nhất định về mặt nhận thức nhưng sự thay đổi đó còn
chậm, chưa rõ ràng; sự cân bằng, thoải mái về thái độ của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng còn ở mức độ chưa cao là chủ yếu và
thường xuyên hơn cả.
Hình 3.5. Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ
Biểu đồ phân bố tổng điểm trung bình thích ứng về thái độ ở hình 3.5 cho thấy điểm
trung bình Mean = 3,10; trung vị Median= 3,15 cho thấy có 66,7% người chấp hành xong
biện pháp XLHC chỉ thích ứng được với mức độ trung bình về mặt thái độ, 19,0% người
chấp hành xong biện pháp XLHC thích ứng ở mức độ cao, còn lại là thấp với 15,5%. Đồng
thời, điểm trung bình thấp nhất về thích ứng thái độ Min = 1,75 và điểm tổng trung bình
cao nhất về thích ứng thái độ Max = 4,00 cho thấy mức điểm trung bình thích ứng về thái
độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng có biên độ dao động lớn. Biểu đồ có độ lệch chuẩn Std= 0,47; độ nhọn
Ku= 0,64 và có độ nghiêng trái với Sk= -0,867 cho thấy biểu đồ phân bố điểm trung bình
thích ứng về thái độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC có cấu trúc hình răng cưa
với phân bố đạt chuẩn bởi điểm phân bố tập trung ở giữa của biểu đồ, tuy nhiên, phía điểm
thấp vẫn tập trung nhiều hơn phía điểm cao. Kết quả nghiên cứu thể hiện rằng nhiều người
chấp hành xong biện pháp XLHC chưa có sự thay đổi đáng kể về thái độ kể từ khi vẫn còn
ở trong TGD cho tới khi về địa phương sinh sống, một số người vẫn có thái độ chưa tích
cực là chủ đạo, chưa có sự cân bằng về cảm xúc khi chấp hành những quy định của địa
phương- nơi ở vừa mới vừa cũ đối với các em. Mới vì đây là nơi các em vừa tạm xa một
thời gian và những thay đổi tại địa phương thời điểm đó, cũ là vì đây đa số là môi trường
sống thân quen của các em trong một thời gian dài trước đây. Biểu hiện ở chỗ điểm trung
bình thích ứng về thái độ phân bố ở mức điểm trung bình vẫn chiếm chủ đạo, điểm trung
bình ở mức cao rất ít, còn lại là thấp. Hay nói cách khác, sự thích ứng tâm lý về mặt thái
độ ở người chấp hành xong biện pháp XLHC ở mức trung bình là chủ yếu.
Do ĐBT của thích ứng tâm lý về thái độ với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức ĐTB thấp nên trong phần phân
tích thích ứng về thái độ, các bảng được bố trí theo một trục như trình bày ở bảng 3.5; 3.6;
3.7; 3.8. Trước hết, các biểu hiện cụ thể hơn của thực trạng thích ứng tâm lý của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ gắn với thực hiện các hoạt động
quan hệ xã hội và sinh hoạt được thể hiện ở bảng 3.5 và 3.6.
Bảng 3.5. Thực trạng thích ứng thái độ trong quan hệ xã hội
Nội dung thích ứng tâm lý về quan hệ xã hội ĐTB ĐLC
Tôi thấy khá hài lòng với các bạn của tôi 2,92 1,127
Tôi không thấy khó chịu về sự dò xét của mọi người xung quanh 2,24 1,395
Tôi thấy thoải mái với mọi người trong gia đình 3,62 0,867
Mọi người đối xử tốt với tôi 3,23 1,003
Tôi hay giúp đỡ mọi người xung quanh 2,90 1,130
Bảng 3.6. Thực trạng thích ứng thái độ trong sinh hoạt
Nội dung thích ứng tâm lý trong sinh hoạt ĐTB ĐLC
Sinh hoạt chung với mọi người trong cộng đồng tôi thấy cũng ổn 2,98 1,137
Tôi dần quen với quy định về giờ giấc đi ngủ, xem ti vi, các việc 3,61 0,758
khác
Tôi thấy yên tâm khi làm việc theo thời gian biểu 3,47 0,978
Tôi thấy hài lòng vì đã làm theo được quy định của địa phương 3,35 0,961
Tôi thấy khá ổn với cuộc sống hiện tại 3,52 0,986
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.5 và 3.6 cho thấy mức độ thì ĐTB < 2,62 thuộc mức
thấp; ĐTB> 3,56 thuộc mức cao; 2,62< ĐTB< 3,56 thuộc mức trung bình thì người chấp
hành xong BPXLHC đưa vào TGD thích ứng về thái độ gắn với thực hiện các quan hệ xã
hội và sinh hoạt ở mức trung bình là chủ yếu. Ở bảng 3.6 chỉ có 1 item đạt ĐTB ở mức
thích ứng cao là “ Tôi thấy thoải mái với mọi người trong gia đình” với mức ĐTB là 3,62
và ở bảng 3.7 cũng chỉ có 1 item đạt ĐTB ở mức cao là “Tôi dần quen với quy định về giờ
giấc đi ngủ, xem ti vi, các việc khác” với mức ĐTB là 3,61.
Ở bảng 3.5 có một nội dung khi trả lời thu được kết quả đạt ở mức thích ứng thấp
với ĐTB là 2,24 đó là “ Tôi không thấy khó chiu về sự dò xét của những người xung
quanh”. Còn lại đều đều đạt mức thích ứng trung bình với mức ĐTB từ 2,62 đến 3,56. Như
vậy, dữ liệu nghiên cứu cho thấy nội dung thích ứng thái độ được biểu hiện qua hoạt động
quan hệ xã hội và sinh hoạt của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với
tái hòa nhập cộng đồng đạt ở mức trung bình là chủ yếu, không mâu thuẫn với kết quả đã
phân tích ở bảng 3.5, chỉ có khác là tỉ lệ nội dung thích ứng thái độ được biểu hiện qua hoạt
động quan hệ xã hội ở mức cao (là 20%) nhỉnh hơn một chút so với thích ứng ở mức độ
cao ở mặt thích ứng thái độ nói chung (là 17,9%) thể hiện ở bảng 3.6.
Để làm rõ hơn cho kết quả nghiên cứu này, chúng tôi được sự chia sẻ như sau "Một
giọt máu đào hơn ao nước lã cô ạ, cháu chỉ thích được ở bên người thân nhất là mẹ cháu.
Chỉ khi bị vấp váp như thế này mới cảm nhận được mọi người trong nhà tốt với cháu thật.
Ngoài xã hội mỗi người một tính cách mà như chúng cháu thì khó được xã hội chấp nhận
và cảm thông như trong nhà, nên khi hễ xảy ra việc gì mà không tốt thì mọi người dễ dàng
nghĩ đến cháu,... " (NHV, Ngõ 234, phố Bạch Đằng, Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội”.
Hay "Mọi thứ quả thật ban đầu là khó khăn lắm để theo được sinh hoạt của mọi người ở
đây. Song những lúc như thế cháu lại phải tự nhủ mình không còn ít tuổi để bắt đầu lại
nữa...”( PVK, phường Đông Kinh, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).
Mặc dù chỉ có 1 item với nội dung “Tôi không thấy khó chịu về sự dò xét của mọi
người xung quanh” chiếm có 10% tiêu chí mà nhóm tác giả đưa ra về thích ứng thái độ
biểu hiện ở quan hệ xã hội, xong cũng cho thấy đặc điểm tâm lý lứa tuổi nổi bật ở các em
được thể hiện rõ, đó là khi các em thể hiện mình không thành công thì lại quay ngược 180
độ đó là bất chấp mọi người nhận xét, nhìn nhận thế nào không quan trọng, miễn là mình
vẫn là mình, rồi sau này mọi người sẽ hiểu ra. Điều này cũng minh chứng cho kết quả
quan sát quan hệ và sinh hoạt của một số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD cho thấy các em thường có những xung đột nảy sinh do cảm xúc tức giận, ức chế, sự
khó chịu với những đánh giá của người khác. Để hình thành một phản ứng tự vệ lâu dài thì
các em phải làm ngơ và kết quả là không quá khó chịu khi người khác nhận xét về mình.
Thậm chí có những trường hợp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD do
không nhận thức được lỗi vi phạm của bản thân, không cảm thấy thỏa đáng với mức bị xử
lý với mình kết hợp với nhiều lý do khác mà phải vào TGD chấp hành biện pháp XLHC
nên khi chấp hành xong trở về địa phương đã rơi vào tình trạng trầm cảm, trở nên ít nói,
lầm lì thậm chí nảy sinh ý định tự tử hoặc tự hủy hoại bản thân.
Bên cạnh việc thể hiện sự thích ứng qua quan hệ xã hội và sinh hoạt, thực trạng
thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt thái độ
còn được thể hiện ở hoạt động học tập được mô tả ở bảng 3.8 dưới đây.
Bảng 3.7. Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động học tập
Nội dung thích ứng thái độ thể hiện trong hoạt động học tập ĐTB ĐLC
Tôi thấy không thích thú gì khi phải học tập 2,77 1,339
Việc học tập pháp luật làm tôi thấy mệt mỏi, buồn chán 3,06 1,280
Tôi thấy học giáo dục công dân thật buồn chán 2,37 1,503
Việc học nghề làm tôi thấy dễ chịu 3,36 1,040
Tôi thích được học lại từ đầu 2,55 1,348
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Kết quả ở bảng 3.7. cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức ĐTB thấp. 3/5 item tương đương 60% tiêu chí mà
nhóm tác giả đưa ra nhận được câu trả lời ở mức độ thích ứng thấp. Đó là “tôi thấy không
thích thú gì khi phải học tập” có ĐTB là 2,77; “Tôi thấy học giáo dục công dân thật buồn
chán” và “ Tôi thích được học lại từ đầu”
Chỉ có 2 item nhận được câu trả lời thể hiện thích ứng ở mức độ trung bình đó là
“việc học tập pháp luật làm tôi thấy mệt mỏi và buồn chán” và “Việc học nghề làm tôi thấy
dễ chịu” với mức ĐTB lần lượt là 3,36 và 3,06. Thực tiễn công tác tổ chức tái hòa nhập
cộng đồng cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hiện nay ở một số
địa phương đã bắt đầu chú trọng vào việc dạy văn hóa và giáo dục kiến thức xã hội nói
chung, tuy nhiên công tác này chưa thực sự đạt hiệu quả như mong đợi của xã hội còn chưa
nói tới nhiều địa phương chưa để ý đến công tác này. Về khía cạnh tổ chức hoạt động giáo
dục kiến thức xã hội cho các đối tượng là tù tha về, tác giả Vũ Văn Hòa cho rằng các địa
phương hiện nay tổ chức cho các đối tượng chấp hành xong án về địa phương học tập chỉ
dừng lại ở một số nội dung hạn chế, chưa cụ thể và chưa đi vào chiều sâu. Với đối tượng
là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống nhóm
tác giả nghiên cứu cũng nhận thấy điều này thể hiện ở một số người mà nhóm tác giả phỏng
vấn trả lời “...Bọn này tin sao được cô, chúng nó lại ngựa quen đường cũ mà.....” (VHH,
tổ dân phố số 7, Trần Nhật Duật, Thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc); “Bố mẹ chúng nó còn
chẳng giáo dục được nữa là ra xã hội, cứ để pháp luật trừng trị” ( BKL số 3, khối 5,
phường Trần Thái Tông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh); “Đứa nào nó nghe thì
nghe từ đầu không để ra nông nỗi này, không dạy được đâu”( NNL, số 2, Lê Phụng Hiểu,
phường Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.......
Như vậy, từ kết quả nghiên cứu có thể thấy nội dung về thích ứng thái độ với hoạt
động học tập tại địa phương dễ khiến người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD có thái độ chưa tích cực như cảm thấy áp lực, buồn chán, mệt mỏi, chưa hình thành
động cơ học tập. Họ không thoải mái, tích cực khi thực hiện hoạt động học tập. Dữ liệu
nghiên cứu chứng minh rằng trong sâu thẳm thế giới nội tâm của họ, họ chỉ chấp nhận và
thay đổi thái độ ở mức độ thấp; đồng thời không hoàn toàn thoải mái, cân bằng khi thực
hiện các yêu cầu hay quy định về học tập ở địa phương. Không có người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD nào thích ứng được với hoạt động học tập ở mức độ cao.
Nguyên nhân của thực trạng này có thể do một số yếu tố như: trình độ chuyên môn
của cán bộ chuyên trách ở địa phương còn hạn chế về phương pháp giáo dục, nội dung giáo
dục còn khô cứng, chưa phù hợp với đối tượng (chủ yếu là những văn bản, quy định pháp
luật, các Văn bản về quy định của địa phương....), các nội dung học tập chưa cụ thể và đi
vào chiều sâu. Bên cạnh đó, hình thức tổ chức cho các em học tập còn đơn điệu (chủ yếu
là tập trung đến văn phòng Ủy ban để giáo dục mà chưa chú trọng phương pháp giáo dục
cá biệt....), trong khi các hoạt động chú trọng về nâng cao đời sống tinh thần như hoạt động
phong trào, văn hóa văn nghệ lại ít được chú trọng (bởi vì mỗi địa phương cũng chỉ có vài
ba đối tượng là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về nên cũng khó
cho người tổ chức). Chính vì vậy, nội dung về hoạt động học tập cho người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD không khiến cho họ có hứng thú, sự thoải mái và từ đó khó
thích ứng và hình thành được thái độ tích cực đối với hoạt động học tập.
Một nội dung khác cũng cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ đó là hoạt động
lao động. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.8
Bảng 3.8. Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động lao động
Thích ứng thái độ thể hiện trong hoạt động lao động ĐTB ĐLC
Tôi không thích phải lao động 3,25 1,203
Tôi thấy khó chịu khi bị nhắc nhở trong quá trình lao động 1,82 1,486
Tôi thấy khó chịu khi bị bắt buộc phải lao động 2,72 1,371
Tôi thấy vui khi tự mình làm ra được sản phẩm mới 3,68 0,849
Khi hoàn thành công việc tôi thấy bình thường 2,63 1,334
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhìn chung, thực trạng thích ứng về thái độ thể hiện
trong hoạt động lao động có mức ĐTB cao hơn một chút so với hoạt động học tập. Mức
ĐTB về thích ứng với hoạt động lao động của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD dao động từ 1,82 đến 3,68. Ngoài ra, chỉ có 1 items có mức ĐTB ở mức thấp là
1,82 là “ Tôi thấy khó chịu khi bị nhắc nhở trong quá trình lao động” là items cho thấy
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD không cảm thấy thoải mái, mất cân
bằng khi thực hiện trong hoạt động lao động.
Bảng 3.8 cho thấy phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
có thái độ tích cực khi lao động đạt hiệu quả và được tôn trọng trong quá trình lao động.
Nhưng cũng có quy định mà nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
còn có sự thích ứng về thái độ chưa cao. Những qui định mà nhiều người chưa thích ứng
được về mặt thái độ là những quy định mang tính áp đặt, yêu cầu trong hoạt động lao động.
Điều này thể hiện rằng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thay
đổi về thái độ đối với hoạt động lao động tuy nhiên họ vẫn chưa thích ứng được với các
yêu cầu, quy định mang tính bắt buộc, cưỡng chế trong lao động mà các em phải thực hiện.
Nguyên nhân của thực trạng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng về thái độ trong hoạt động lao động cao hơn so với
hoạt động học tập bởi kết quả lao động là căn cứ định lượng nhìn thấy và là cơ sở dễ dàng
đánh giá thái độ tiến bộ hay không ở họ. Do đó, khi họ nhận thức được điều này các em có
cơ sở hình thành thái độ tích cực trong lao động. Chính vì vậy, người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD sẽ có động lực tích cực hơn trong hoạt động lao động, khi mọi
người khuyến khích, động viên kịp thời và ghi nhận sự tiến bộ của họ. Thực tế kết quả
quan sát cũng cho thấy do có sự quy định về thời gian làm việc, về sản lượng, số lượng sản
phẩm đặt ra trong quá trình lao động, nên việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD đôi khi có thái độ khó chịu, mệt mỏi, hay không thích lao động là điều dễ nhận
thấy. Bởi theo tác giả Vũ văn Hòa thì hiện nay một số địa phương còn tổ chức cho người
chấp hành xong án về địa phương lao động công ích vào ngày thứ 7 hoặc chủ nhật. Những
điều này có thể tác động tạo nên tâm lý không thoải mái cho người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD khi tham gia vào hoạt động lao động. Do đó, mức độ thích ứng
về thái độ chưa cao, tức là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có tham
gia lao động đầy đủ, nhưng bản thân họ không thoải mái, có thái độ chưa tích cực trong
quá trình lao động.
Bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trước đó ở lứa tuổi
chưa thành niên nên đa số các em chưa được đào tạo nghề. Khi phải vào TGD chấp hành
chủ yếu là rèn luyện và học tập, định hướng nghề cũng chỉ phù hợp với một số em do bị
bắt buộc nên khách quan thấy rằng đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD chưa có tay nghề và không có tay nghề cao, chủ yếu là lao động phổ thông, giản đơn.
Do vậy, cũng phần nào lý giải kết quả nghiên cứu về thực trạng thích ứng tâm lý của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ cũng ở mức chưa cao. Điều này
cũng không trái với quy luật tâm lý thông thường của con người nói chung, việc phải lao
động trong điều kiện chưa có tay nghề và không có kinh nghiệm cao dễ tạo cho họ một tâm
lý lo lắng, áp lực khiến họ khó có thể hình thành thái độ tích cực.
3.1.4. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng về mặt hành vi
Thích ứng về mặt hành vi là mặt biểu hiện ra bên ngoài của sự thích ứng tâm lý
trong cấu trúc tâm lý bao gồm thích ứng bên trong là thích ứng về nhận thức, thái độ; thích
ứng bên ngoài là mặt biểu hiện thích ứng về hành vi. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi biểu
hiện ở chỗ người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp nhận tuân thủ, thực
hiện các yêu cầu, quy định của chuẩn mực xã hội đối với các cá nhân sống trong cộng đồng
đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cộng đồng. Kết quả nghiên cứu thực trạng thích
ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD về mặt hành vi được thể hiện khái quát qua hình 3.6 dưới đây.
Hình 3.6. Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi
Kết quả nghiên cứu ở Hình 3.6 cho thấy ĐTB thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi thấp
hơn so với thích ứng về nhận thức và thích ứng về thái độ được thể hiện ở kết quả nghiên
cứu. Điều này thể hiện ở mức ĐTB thích ứng về hành vi có sự dao động khá lớn từ ĐTB
là 0,63 tới 4.00. Trong đó, mức thích ứng thấp với ĐTB < 2,45 điểm tương đương 34 người
chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD tương ứng với 20,2%; đạt mức thích ứng trung
bình với ĐTB từ 2,45 đến dưới 3,69 là 102 người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD
tương ứng 60,7%; còn lại 32 người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD có ĐTB từ
3,69 trở lên chiếm 19,0%.
Nhằm làm rõ thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong BPXLHC đưa vào TGD về mặt hành vi phải nghiên cứu trên các nội dung mà
thích ứng biểu hiện đó là: quan hệ xã hội và sinh hoạt, hoạt động học tập và hoạt động lao
động.
Hình 3.7. Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi
Ở biểu đồ phân bố tổng điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi (Hình 3.7) có thể
thấy mức tổng điểm trung bình Mean = 3,07; điểm trung vị Median = 3,18 cho thấy người
chấp hành xong biện pháp XLHC thích ứng chủ yếu ở mức trung bình, tương ứng với mức
độ thích ứng trung bình. Mức điểm trung bình thấp nhất Min = 0,63; điểm cao nhất Max =
4,00 cho thấy có sự chênh lệch lớn về biên độ dao động tổng điểm thích ứng về hành vi
của người chấp hành xong biện pháp XLHC với độ lệch chuẩn là Std= 0,617. Bên cạnh đó,
biểu đồ có hướng nghiêng trái với Sk= -0,875 và độ dẹt 0,524 cho thấy biểu đồ phân bố
tổng điểm trung bình thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC về mặt
hành vi có cấu trúc theo hình răng cưa với xu hướng nghiêng trái và dẹt trái, tuy nhiên vẫn
tiệm cận phân phối chuẩn, phía thích ứng tâm lý về hành vi đạt điểm trung bình vẫn tập
trung nhiều (với 60,7%), là chủ yếu; phía thích ứng tâm lý đạt điểm cao vẫn ít nhất (19,0%),
còn lại là thích ứng thấp (20,2%). Kết quả nghiên cứu trên cho thấy người chấp hành xong
biện pháp XLHC mặc dù có nhiều cố gắng trong sự thay đổi về hành vi nhưng vẫn chưa
đều ở từng cá nhân và ở giữa các cá nhân với nhau.
Trước hết, thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi trong quan hệ xã hội và sinh
hoạt tại địa phương của họ được thể hiện ở bảng 3.9 và 3.10.
Bảng 3.9. Thực trạng thích ứng hành vi trong quan hệ xã hội
Nội dung thích ứng hành vi trong quan hệ xã hội ĐTB ĐLC
Tôi gặp lại bạn bè như chưa từng có chuyện xảy ra 1,89 1,431
Tôi gặp và trò chuyện với hàng xóm một cách bình thường 2,90 1,356
Tôi thiết lập quan hệ tốt với nhiều người 3,01 1,166
Mọi người giúp đỡ tôi nhiệt tình 3,02 1,189
Tôi ứng xử với mọi người trong gia đình bình thường 3,48 0,985
Bảng 3.10. Thực trạng thích ứng hành vi trong sinh hoạt
Nội dung thích ứng hành vi trong sinh hoạt ĐTB ĐLC
Tôi thực hiện tốt các quy định của địa phương 3,05 1,142
Tôi nhanh chóng hòa nhập với mọi người ở địa phương 3,27 1.087
Đôi khi tôi vẫn bị vi phạm quy định của địa phương 2,42 1,319
Tự dạy sớm rất ngại nhưng tôi đang cố gắng thực hiện 3,13 1,305
Tôi sinh hoạt theo mọi người trong gia đình 3,04 1,310
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Từ bảng 3.9 và 3.10 cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quan hệ xã hội và sinh
hoạt cho thấy có sự thích ứng ở mức chưa cao và có biên độ dao động mức ĐTB từ 1,89
đến 3,48. Trong đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về
mặt hành vi ở mức thấp (ĐTB < 2,45) chỉ có 2/10 biểu hiện là “ Tôi gặp lại bạn bè như
chưa hề có chuyện gì xảy ra” và “đôi khi tôi vẫn vi phạm quy định của địa phương” nhưng
cũng không có biểu hiện nào đạt mức cao (ĐTB > 3,69). Còn lại 8/10 biểu hiện là thích
ứng đạt ở mức độ trung bình. Điều này cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD chưa thực hiện được các yêu cầu này trong quá trình sinh sống tại địa phương.
Thực tế quan sát cách thức sinh hoạt và quan hệ xã hội hay giao tiếp của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hàng ngày tại một số địa phương cho thấy đây chính
là những hoạt động tối thiểu mà các em phải thực hiện trong cuộc sống thường ngày. Hơn
nữa, phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chủ yếu là đang ở lứa
tuổi người chưa thành niên, đang trong giai đoạn định hình và phát triển nhân cách, tâm lý
có nhiều xáo trộn nên các em khó hình dung ra cuộc sống thực sự ở địa phương thế nào
những thay đổi nhanh chóng của thực tế xã hội. Do vậy, việc người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với những hoạt động trên chỉ đạt mức trung bình và
thấp, không đạt mức cao. Chính vì vậy, việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD cảm thấy họ khó khăn hòa nhập với cuộc sống ngoài xã hội về mặt hành vi.
Như vậy, dữ liệu cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
đã thực hiện được các quy định của địa phương về quan hệ xã hội và sinh hoạt song vẫn ở
mức độ chưa cao, thể hiện sự chưa thích ứng hoàn toàn. Liệu có sự mâu thuẫn trong thực
trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi chấp hành quy định của địa phương.
Thực tế qua quan sát và phỏng vấn sâu những người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD thì có thể thấy sự khác biệt này có lẽ là hai mặt của một vấn đề. Trong
quá trình trao đổi, trò chuyện thì có tới nhiều hơn 5 lần số người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD mà chúng tôi hỏi về việc họ đã vi phạm một số quy định của địa
phương như: trốn không tham gia học tập pháp luật mà địa phương tổ chức, Không tham
gia đủ ngày công lao động, nại cớ ốm đau, xưng hô chưa phù hợp trong một số quan hệ xã
hội, chưa chịu tham gia một số hoạt động do một số tổ chức xã hội ở địa phương tổ chức,
hay gây gổ đánh nhau, xích mích với hàng xóm...... Những người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD này cho rằng "chúng cháu chỉ muốn được học có thực hành
luôn cùng chứ cứ học lý thuyết suông như môn pháp luật thì buồn ngủ lắm( TNL, Thị trấn
Quế, Kim Bảng, Hà Nam) hay “Cháu đã nhịn nó lắm rồi mà nó cứ gây sự với cháu, đằng
nào cũng mang tiếng đi TGD về thì sợ gì”( NDA, thành phố Tam Điệp, Ninh Bình) hoặc
“Tham gia các hoạt động phong trào đông vui thì vui thật nhưng cũng lắm người dèm
pha”( NNL, Lê Phụng Hiểu, Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng được một số đồng chí là Cảnh sát khu vực nơi có người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hiện đang làm công tác giáo dục, quản lý
và theo dõi kịp thời uốn nắn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chia
sẻ thêm rằng "do xã hội vẫn còn những dịnh kiến nhất định về các em nên nhiều khi do tâm
lý lứa tuổi ở giai đoạn này là tự khẳng định bản thân nên các em sẵn sàng “chống trả” lại
những định kiến đó” hay một đồng chí Cảnh sát khu vực khác cho rằng: “người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là đối tượng cần được quan tâm và giúp đỡ kịp thời
để uốn nắn chứ không nhắc nhở kịp thời là thành thói quen xấu”,..... Điều này đôi khi được
họ lý giải là không cố tình vi phạm nội quy, hay không nắm rõ quy định của địa phương
nhưng thực tế công tác quản lý giáo dục đối tượng tái hòa nhập cộng đồng cho thấy có
những xung đột của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với nhau nhưng
nếu họ biết kiềm chế cảm xúc thì lại thành bài học cho chính các em. Do đó, các đồng chí
Cảnh sát khu vực làm việc rất chặt chẽ vấn đề những vi phạm nội quy ở địa phương của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Mặc dù về cơ bản họ chấp hành và
thực hiện tốt nội quy địa phương, nhưng chỉ cần lơ là hoặc không kiểm tra thường xuyên thì
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD sẽ lợi dụng sơ hở để dễ dàng vi phạm.
Kết quả này cũng tương ứng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa cho
thấy khi tiến hành khảo sát thì có tới 85,33% người chấp hành xong án phạt tù về địa
phương dễ dàng vi phạm khi có điều kiện hoặc lợi dụng sơ hở trong quản lý để vị phạm
nội quy của địa phương mà họ buộc phải thực hiện [18, tr.58].
Kết quả nghiên cứu trên thể hiện tính hai mặt trong thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD: một mặt họ
phải thích ứng với những yêu cầu cụ thể của địa phương vì đó là chuẩn mực xã hội mang
tính bắt buộc các cá nhân sống trong cộng đồng đó phải tuân theo đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của cộng đồng và hiển nhiên phải thực hiện như: nề nếp sinh hoạt trong gia đình,
ăn, mặc, ngủ, nghỉ và giao tiếp (chủ yếu là xưng hô) ..... nhưng mặt khác các em lại chưa
thực sự nhận thức sâu sắc và chưa hình thành thái độ tích cực với các yêu cầu biểu hiện
mặt hành vi nên thích ứng ở mức độ thấp hoặc có biểu hiện chống đối lại. Điều này có liên
quan đến thích ứng về nhận thức với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quan hệ xã hội và sinh hoạt, tức là họ không chịu
nhìn nhận mình sẽ được đặt vào vị trí được mọi người tôn trọng, các em luôn tự ti, mặc
cảm về lỗi của mình gây ra như kết quả nghiên cứu về thực trạng thích ứng nhận thức đã
đề cập ở mục 3.1.2.
Đây có thể coi là những hành vi mang tính ứng phó với việc các em luôn nhìn nhận
bị mọi người xa lánh, phản ứng với những khó khăn trong quá trình thiết lập các mối quan
hệ và sinh hoạt theo nề nếp ở gia đình và địa phương. Xét về khía cạnh cân bằng tâm lý thì
những hành vi ứng phó giúp cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
phần nào cảm thấy đã tự trấn an được tâm lý của mình nhưng không phải tất cả hành vi
ứng phó đều được cho là phù hợp với quy định của địa phương cũng như phù hợp với yêu
cầu của pháp luật. Nó thể hiện sự thích ứng tâm lý ở mức độ thấp của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quan hệ xã hội và sinh hoạt.
Nội dung biểu hiện tiếp theo thể hiện thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi là
thích ứng hành vi gắn với hoạt động học tập. Kết quả nghiên cứu về thích ứng hành vi gắn
với hoạt động học tập được thể hiện ở bảng 3.11.
Bảng 3.11. Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động học tập
Nội dung thích ứng hành vi gắn với hoạt động học tập ĐTB ĐLC
Tôi tích cực tham gia hoạt động học tập 3,15 1,119
Tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên nội dung học tập 2,70 1,317
Tôi tham gia đầy đủ các buổi học nghề 3,20 1,140
Tôi tham gia đầy đủ các buổi học văn hóa 3,13 1,291
Tôi hay trao đổi với mọi người về nội dung học tập 3,04 1,191
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Bảng 3.11 cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích
ứng ở mức cao với hoạt động học tập liên quan đến học nghề, lao động với ĐTB cao hơn
3,20. Tức là với những yêu cầu về học nghề thì các em rất hào hứng học nghề được biểu
hiện thể hiện hiện tốt và tích cực tham gia. Ngược lại, với những yêu cầu về học tập văn
hóa, pháp luật hay những hoạt động học tập khác thì người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD lại có mức thích ứng tâm lý thấp hơn với mức ĐTB dao động từ 2,70
đến 3,15 cho thấy với những yêu cầu này thì tất cả người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD được tiến hành điều tra nghiên cứu thực hiện đạt được mức độ trung bình.
Không có mức thấp nhưng cũng không có ai đạt mức cao. Từ đây có thể thấy: về học tập,
phần đông người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã tham gia đầy đủ các
hoạt động học nghề khi địa phương tổ chức, trao đổi với nhau về nội dung học được. Tuy
nhiên, phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều chưa thực sự
tích cực tham gia các hoạt động học tập về văn hóa hay học pháp luật, giáo dục công dân,
ít trao đổi với cán bộ về nội dung học tập mà chủ yếu tích cực về học nghề.
Nguyên nhân chủ yếu vì người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về
địa phương chưa hoặc thậm chí không còn tâm thế học văn hóa; tuổi của các em mong
muốn có một nghề có thu nhập để ổn định cuộc sống. Mong ước của các em là hoàn toàn
chính đáng song các em chưa được đào tạo nghề, chưa có tay nghề nên chỉ có thể thực hiện
được lao động giản đơn, tay chân và học nghề qua việc được tổ chức lao động. Điều này
dễ dẫn đến hiện tượng các em ý thức nhưng lại không thấy thoải mái tâm lý khi tham gia
những hoạt động học tập. Do vậy không có em thích ứng ở mức thấp cũng chẳng có em
nào thích ứng ở mức cao với hành vi học tập. Thực tế hiện nay, một số tổ chức xã hội ở địa
phương vẫn chưa chú trọng hoạt động này với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD hoặc chỉ chú ý đến chỉ tiêu sản xuất mà quên đi nhiệm vụ giáo dục [10, tr.46].
Có lẽ chính những nguyên nhân này khiến cho thực trạng thích ứng về hành vi gắn với hoạt
động học tập của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở địa phương đạt
mức độ tương đối thấp.
Trong số những hoạt động thể hiện sự thích ứng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD thì những mô tả về hoạt động lao động cho thấy người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có xu hướng thích ứng nhích hơn so với thích
ứng với thực hiện quan hệ xã hội và sinh hoạt. Vì vậy, việc người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động lao động là minh
chứng cho thấy họ có sự thích ứng tâm lý cao về mặt hành vi thể hiện ở hoạt động lao động.
Kết quả nghiên cứu thực trạng thích ứng mặt hành vi gắn với hoạt động lao động được thể
hiện ở bảng 3.12 dưới đây
Bảng 3.12. Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động lao động
Nội dung thích ứng hành vi gắn với hoạt động lao động ĐTB ĐLC
Tôi tham gia đầy đủ ngày công lao động 3,35 1,038
Tôi hoàn thành định mức lao động 3,36 0,974
Tôi thành thạo các thao tác lao động 3,27 1,075
Đôi khi tôi vẫn lấy lý do để không phải lao động 2,98 1,322
Tôi không chủ động, không sáng tạo khi lao động, ai bảo gì làm đấy 2,95 1,280
Tôi hay nói chuyện với mọi người khi lao động 1,80 1,369
Kết quả lao động của tôi chưa được như ý 1,92 1,476
Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực
Bảng 3.12 cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi gắn với hành vi lao
động thể hiện hai đặc điểm.
Thứ nhất, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng
thấp về hành vi đối với một số biểu hiện trong lao động như “Tôi hay nói chuyện với mọi
người khi lao động”; “Kết quả lao động của tôi chưa được như ý” đều đạt điểm trung bình
ở mức thấp là 1,80 và 1,92. Còn lại với mức ĐTB đều đạt ở mức trung bình từ 2,95 đến
3,36; không có item nào đạt mức điểm cao. Tức là với những quy định cứng thì hầu hết tất
cả người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều có sự thích ứng về hành vi.
Bởi đây chính là căn cứ chủ yếu để xét kết quả của quá trình tái hòa nhập cộng đồng ở họ,
những hoạt động này được quản lý và kiểm tra chặt chẽ một cách công khai nên một số
hầu hết đều thực hiện tốt.
Thứ hai, một số biểu hiện có mức ĐTB thấp cho thấy người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng tâm lý ở mức thấp với các hoạt động khác nhau
(như "không chủ động hay sáng tạo khi lao động, ai bảo gì thì làm nấy", "hay trò chuyện
với những chị em khác" hay "lấy lý do để không phải lao động", hoặc "kết quả lao động
chưa được như ý". Đây là những mô tả cho thấy mặc dù của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện tính thích ứng với những hoạt động thể hiện được sự
hoàn thành định mức lao động của họ nhằm làm căn cứ để có thể xem xét khi xét sự tiến
bộ của họ. Tuy nhiên, trong quá trình lao động sản xuất, người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD vẫn thể hiện mức độ thích ứng tâm lý về mặt hành vi ở mức độ thấp.
Điều này thể hiện ở việc họ vi phạm nội quy lao động, vi phạm quy định trong lao động,
sản phẩm làm ra chưa đạt chất lượng cao.... Thực tế quan sát cách thức sinh hoạt, lao động
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tham gia lao
động cho thấy trong quá trình lao động, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD luôn lợi dụng những sơ hở của người quản lý để vi phạm những lỗi nhỏ. Như vậy,
với hoạt động lao động, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã thích
ứng được đối với một số yêu cầu về ngày công, định mức lao động và thao tác lao động.
Tuy nhiên đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD lao động một cách
bị động, chứ không chủ động, kết quả lao động chưa như ý. Có thể thấy, những hành vi lao
động dễ dàng bị giám sát đều được phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD tuân thủ, thực hiện tốt theo yêu cầu của lao động, còn những gì không hoặc khó
có thể giám sát được chặt chẽ thì đa số họ làm việc theo kiểu cầm chừng.
Nhằm lý giải và làm rõ hơn thực trạng thích ứng về hành vi gắn với hoạt động lao
động của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi được cán bộ
phường N.T.N- TP. Thái Bình, tỉnh Thái bình chia sẻ thêm "quá trình tổ chức lao động
cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, thường phải theo dõi rất sát
sao, vì đối tượng này thường hay lợi dụng quá trình quản lý chưa nghiêm để thực hiện một
số vi phạm. Trong quá trình lao động, có trường hợp giả vờ ốm để được nghỉ lao động,
thoái thác việc mình cho người khác ".
Từ những kết quả trên có thể thấy một mặt ở những thời điểm bị quản lý, quan sát
và đánh giá một cách chặt chẽ như tham gia giao tiếp xã hội trong tập thể khi tham gia học
tập, khi lao động hay giao tiếp với mọi người thì người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD biểu hiện sự thích ứng tâm lý về hành vi ở mức độ trung bình là chủ yếu
(trên 70%). Mặt khác, trong đời sống nội tâm của bản thân họ hoặc khi không bị quản lý
chặt chẽ (những thời điểm mà không phải lúc nào cũng có người giám sát và bao quát
được) thì người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng ở mức
thấp (về nhận thức, thái độ) và được biểu hiện ra thông qua những hành vi bị nghiêm cấm,
không được phép thực hiện. Để hiểu hơn về thực trạng trên, có thể dẫn lời của một đồng
chí là phó Chủ tịch phường T.T- Hoàn Kiếm- Hà Nội chia sẻ với nhóm nghiên cứu khi
chúng tôi trao đổi những băn khoăn của mình khi thấy có sự khác biệt về nhận thức, thái
độ và hành vi trong thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD với việc thực hiện các quy định của địa phương trong sinh hoạt tại địa phương.
"Quản lý, giáo dục cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tái
hòa nhập cộng đồng là công việc đặc biệt. Bởi mình với tư cách là cán bộ quản lý, chỉ đạo
trực tiếp anh em làm việc này phải luôn thật nhân văn, gần gũi, tôn trọng họ nhưng mặt
khác cũng phải nghiêm túc quán triệt và chấp hành các nguyên tắc đảm bảo họ tin tưởng
và nhận thức được mục đích của xã hội. Họ là những người được theo dõi để uốn nắn nên
luôn có xu hướng bằng cách nào đó hạn chế tối đa những sự ảnh hưởng, chi phối của
những người quan tâm đến họ”.
Hay như chia sẻ của một chị là Chi hội trưởng chi hội phụ nữ (45 tuổi) phường B.Đ-
Gia lâm- Hà Nội- người trực tiếp gặp gỡ và giáo dục đối tượng là người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD cho hay "nói theo quan điểm triết học thì bản chất công
tác giáo dục, quản lý người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tái hòa nhập
cộng đồng có thể coi như biểu hiện của đấu tranh giai cấp. Bởi người làm công tác quản
lý thông qua kỹ năng, nghiệp vụ, trình độ, tâm huyết và năng lực công tác của bản thân
thực hiện nhiệm vụ quản lý, giáo dục những người đã có lầm lỗi trở về tái hòa nhập cộng
đồng quy định một cách nghiêm túc, chặt chẽ nhưng cũng đảm bảo tính nhân văn, thể hiện
tình người trong đó. Nhưng mặt khác, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD là đối tượng bị quản lý, giáo dục với tâm thế và vị thế của mình, luôn bằng cách này
hay cách khác những hiện tượng tâm lý tiêu cực trỗi dậy để thúc đẩy họ vi phạm nội quy,
vi phạm quy chế, thậm chí có trường hợp tái phạm”.
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở các mặt nhận thức,
thái độ, hành vi qua các biểu đồ hình 3.2; 3.5; 3.7 có thể rút ra một số điểm như sau:
Về hình dáng và cấu trúc của cả 3 biểu đồ 3.2; 3.5; 3.7 đều có cùng hình dáng là có
hướng nghiêng trái rõ rệt và có cấu trúc hình răng cưa; đồng thời có hình giống hình 3.1-
thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích
ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng. Tất cả các biểu đồ đều có số người có mức ĐTB
thấp tập trung nhiều hơn số người có mức điểm cao.
Tuy nhiên, cả 3 biểu đồ lại có sự khác nhau rõ rệt là ở khoảng điểm cao nhất- thấp
nhất, mức điểm cao nhất tập trung nhiều ở các mode khác nhau và tịnh tiến theo những
hướng khác nhau. Nếu như ở biểu đồ 3.2 thì trung bình điểm thích ứng nhận thức có mức
điểm trung bình dao động từ 1,60 đến 4,0 thì biểu đồ 3.7 thích ứng hành vi có mức điểm
trung bình dao động từ 0,63 đến 4,00; biểu đồ 3.5 về thích ứng thái độ lại có mức điểm
trung bình dao động thấp nhất từ 1,75 đến 4,00. Ngoài ra, mức điểm trung bình có tỉ lệ
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng đạt được cao nhất (mode) ở cả 3 biểu đồ cũng có sự khác nhau. Cao nhất là thích
ứng về nhận thức ở mức điểm trung bình 3,23; tiếp theo là thích ứng về thái độ ở mức điểm
trung bình 3,10 và thấp nhất là thích ứng về mặt hành vi ở mức điểm trung bình 3,07. Điều
này cho thấy có sự khác biệt rõ về thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở cả 3 khía cạnh nhận
thức, thái độ và hành vi, thể hiện sự mất cân bằng giữa những biểu hiện tâm lý bên trong
như nhận thức, thái độ với hành vi tâm lý biểu hiện ra bên ngoài. Điều này cũng dễ dàng
lý giải vì nhận thức ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể đã nhận
thức được và cũng rất mong muốn thích ứng được với môi trường sống ở địa phương,
không vi phạm để làm lại từ đầu. Tuy nhiên, mong muốn với thực tế thì khác biệt rất nhiều
và các em gặp khó khăn trong việc mong muốn của bản thân với việc đáp ứng yêu cầu của
xã hội. Chính quá trình đấu tranh tâm lý từ nhận thức tới thái độ với tái hòa nhập cộng đồng
mà điểm trung bình ở mặt thái độ thấp hơn. Điểm trung bình thích ứng hành vi thấp nhất
thể hiện rõ thực trạng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm
lý với tái hòa nhập cộng đồng khi biểu hiện ra bằng hành vi khó khăn hơn rất nhiều khi về
địa phương sinh sống, đặc biệt là sự thay đổi về hành vi để phù hợp với những quy định
hoặc các yêu cầu của địa phương trong quá trình sinh sống.
Kết quả đánh giá chung về thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở mức trung bình trên
cơ sở khái quát cả ba thành phần thích ứng về nhận thức, về thái độ và về hành vi như trên
có cả sự tương đồng và khác biệt với nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013) trong
Luận án “Tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù theo chức
năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân” ở góc độ An ninh trật tự.
Sự tương đồng thể hiện ở chỗ, kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013)
cũng cho thấy người chấp hành xong án phạt tù nói chung vẫn còn những phản kháng lại
một số quy định của địa phương dẫn đến vi phạm với lỗi nhỏ còn người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng chỉ đạt thích ứng ở mức độ trung bình với cả ba mặt
nhận thức, thái độ, hành vi.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013) chỉ xem xét tái hòa
nhập cộng đồng ở góc độ An ninh trật tự, chỉ xét ở bình diện hành vi của cá nhân. Tức là
tác giả chỉ xem xét thành phần biểu hiện ra bên ngoài của tâm lý của cá nhân người chấp
hành xong án phạt tù chứ chưa đề cập đến những thành phần đóng vai trò định hướng, điều
khiển, điều chỉnh hành vi – đó là đời sống tâm lý của người chấp hành xong án phạt tù mặt
nhận thức và thái độ, đây chính là yếu tố quyết định đến hành vi của họ. Do đó, trong kết
quả nghiên cứu của mình, tác giả Vũ Văn Hòa chỉ dừng lại ở việc chỉ mô tả hành vi tái hòa
nhập của người chấp hành xong án phạt tù khi chấp hành xong án.
Như vậy, kết quả nghiên cứu về thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng cho thấy họ thích ứng tâm lý
ở mức trung bình với những tiêu chí và quy định của địa phương có sự dao động khá lớn.
Trong đó, biểu đồ nghiên cứu cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD với tái hòa nhập cộng đồng có mức thích ứng về hành vi là thấp nhất và thích ứng về
nhận thức là cao nhất. Kết quả này chứng minh rằng người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD đã chấp nhận thực hiện các yêu cầu hay quy định của địa phương
nơi sinh sống nhưng trong đời sống tâm lý của họ (thể hiện ở thích ứng nhận thức cao nhất),
họ vẫn phải đấu tranh, giằng co và chưa chưa hoàn toàn chấp nhận (thích ứng thái độ thấp
hơn), không cảm thấy thoải mái và khó để thực hiện thành hành vi bên ngoài vì còn nhiều
yếu tố tác động sẽ đề cập đến phần sau (thích ứng hành vi thấp nhất).
3.1.5. Tương quan giữa các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng
Từ những kết quả nghiên cứu ở trên, có thể đánh giá sự tương quan giữa các thành
phần của sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD ở các khía cạnh: nhận thức, thái độ và hành vi được thể hiện ở
bảng 3.13 dưới đây:
Bảng 3.13. Tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý
Thích ứng chung Mặt nhận thức
Mặt thái độ Mặt hành vi
Thích ứng chung
1 0,782 0,862 0,894
Mặt nhận thức
0,782 1 0,534 0,524
Mặt thái độ
0,862 0,534 1 0,675
Mặt hành vi
0,894 0,524 0,675 1
Kết quả ở bảng 3.13 về sự tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý với tái
hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa về nhận thức, về cảm
xúc, về hành vi và thích ứng chung. Hệ số tương quan Pearson của các mặt với nhau theo
chiều thuận và ở mức độ trung bình đến tương quan chặt chẽ với r > 0,5 và p < 0,01. Mối
quan hệ giữa các thành phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Sự tương quan giữa các yếu tố cấu thành của sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều diễn ra theo
chiều thuận và có sự tương quan không đồng đều với các mức độ tương quan chặt chẽ khác
nhau từ mức độ trung bình đến chặt chẽ (với r = 0,534 đến 0,894). Điều này đồng nghĩa
với việc khi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cảm thấy khó khăn
trong việc nhận thức đúng đắn về việc chấp hành đúng các quy định của địa phương bao
gồm tham gia các hoạt động giáo dục và thiếu tích cực lao động, quan hệ xã hội và sinh
hoạt chưa đúng chuẩn mực thì ở họ cũng sẽ nảy sinh những cảm xúc âm tính với những
hoạt động này. Do đó, họ sẽ có cảm thấy có một số trở ngại khi thực hiện các hành vi cụ
thể nhằm đạt được các yêu cầu, mục tiêu đã đề ra khi sinh sống tại địa phương. Như vậy,
dữ liệu nghiên cứu cho thấy rằng các mặt của thích ứng không tồn tại độc lập mà có liên
quan đến nhau, trong đó thích ứng thái độ và thích ứng hành vi có tương quan với nhau
mạnh hơn so với tương quan giữa chúng với thích ứng nhận thức. Đây là điểm cho thấy sự
thống nhất giữa các mặt này trên bình diện chung.
Về xu hướng chung thích ứng ở từng lĩnh vực, khi xem xét tỷ lệ giữa các yêu cầu
nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng được với số yêu
cầu mà nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD không thích ứng được
ở các bảng dữ liệu cho thấy, trong số 4 hoạt động thích ứng (thực hiện quan hệ xã hội, sinh
hoạt, học tập và lao động) thì thích ứng với hoạt động lao động và sinh hoạt được thể hiện
rõ ràng hơn và có điểm thích ứng ở mức cao hơn ở cả 2 mặt: nhận thức, và hành vi. Thích
ứng với hoạt động học tập thể hiện mờ nhạt hơn. Còn riêng mặt thích ứng thái độ, ở cả 3
lĩnh vực, đều không có yêu cầu nào mà đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD thích ứng được. Tuy vậy, để có đánh giá chính xác hơn về sự thống nhất này thì
vẫn cần thêm bằng chứng bởi số lượng các yêu cầu thích ứng được và chưa thích ứng được
khi so sánh với nhau có phần khập khiễng. Tuy nhiên, sự tương quan giữa sự thích ứng tâm
lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
về mặt nhận thức với sự thích ứng tâm lý chung lại có mức độ chặt chẽ hơn với r = 0,782;
tương quan giữa thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt thái độ với thích ứng chung có mức độ tương quan
chặt chẽ với r = 0,862 và tương quan giữa thích ứng về hành vi với thích ứng chung có
mức độ tương quan chặt với r = 0,894.
Trong 3 mặt thích ứng tâm lý được xem xét, thích ứng về mặt nhận thức thể hiện ở
nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hơn so với thích ứng về mặt
hành vi và thái độ bên trong. Trong đó, hành vi là mặt có mức độ thích ứng thấp nhất, thể
hiện rằng, hành vi phải là sự điều khiển bởi nhận thức và thái độ, mà nhận thức và thái độ
là đặc tính khó có thể kiểm soát ở cá nhân nói chung và người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD nói riêng. Xem xét hệ số tương quan giữa 3 mặt cũng cho thấy rằng
hành vi có tương quan mạnh hơn với thái độ chứ không phải nhận thức. Tức là trong 3 mặt
thì nhận thức là mặt được người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng
cao nhất trong 3 mặt thể hiện, tiếp đến là mặt thái độ và thấp nhất là mặt hành vi. Sự giảm
dần mức độ thích ứng từ nhận thức đến thái độ rồi hành vi là lý giải cho lập luận ở trên.
Có thể suy luận ở một mức độ nào đó rằng, ở người chấp hành xong BPXLHC đưa
vào TGD, từ thích ứng về mặt nhận thức của họ có thể dự báo được sự thích ứng về mặt
thái độ và hành vi tuân thủ các quy định của địa phương trong quá trình tái hòa nhập. Đồng
thời cũng cho thấy, mặc dù thích ứng tâm lý của họ là phức tạp, những vẫn có và tuân theo
qui luật chung của tâm lý con người.
Xuất phát từ chỉ số độ chênh giữa ba thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD là bằng chứng cho thấy,
thích ứng chung là một chỉ báo tương đối. Vì thế, khi nghiên cứu về thích ứng trên đối
tượng này, việc xem xét trên từng thành phần của sự thích ứng sẽ cho thấy rõ hơn những
đặc trưng về sự thích ứng của họ.
Kết quả nghiên cứu có thể tóm lược lại như sau:
Thứ nhất, đánh giá chung người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở mức độ trung bình và thấp thể hiện ở cả ba
nội dung thích ứng là thích ứng về mặt nhận thức, thích ứng về mặt thái độ và thích ứng về
mặt hành vi và thể hiện ở tất cả các hoạt động như học tập, lao động, quan hệ xã hội và
sinh hoạt.
Thứ hai, ở cả ba thành phần của sự thích ứng có sự chênh lệch nhất định khi phần
lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng ở mức độ trung bình
về mặt nhận thức và thái độ nhưng lại thích ứng ở mức độ thấp về mặt hành vi. Các mức
độ thích ứng trên biểu hiện một cách thống nhất và bổ sung lẫn nhau trong cùng một chỉnh
thể là sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vàoTGD, nó được bộc lộ với các mức độ khác nhau khi người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD tham gia vào việc thực hiện các hoạt động đặc trưng của
hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, xét riêng từng thành phần của sự thích ứng tâm lý cũng cho thấy kết quả
đạt mức độ thích ứng thấp và trung bình ở mỗi thành phần của thích ứng tâm lý người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Tuy nhiên, mỗi thành phần của sự thích ứng
lại có phân chia các mức độ thích ứng theo tỉ lệ khác nhau do nội dung thích ứng đề ra.
Thứ tư, các thành phần của sự thích ứng có tương quan với nhau từ trung bình đến
tương quan chặt chẽ ở cả ba thành phần nhận thức, thái độ và hành vi.
Cuối cùng, về tổng thể, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vàoTGD với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đạt ở mức độ trung bình.
3.1.6. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo một số
đặc điểm nhân khẩu
Phân tích mối quan hệ giữa các mức độ thích ứng với các đặc điểm khách thể khác nhau
như giới tính, quê quán, số lần vào chấp hành ở TGD, thời gian chấp hành ở TGD, thời gian về
sinh sống ở địa phương từ khi rời TGD, hoàn cảnh kinh tế gia đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy
các mức độ thích ứng tâm lý thể hiện ở thích ứng chung, thích ứng về nhận thức, thích ứng về
thái độ và thích ứng về hành vi đểu có mối quan hệ khác nhau với các đặc điểm khách thể của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Bảng 3.14. So sánh mức độ thích ứng tâm lý
Mặt nhận thức
Mặt thái độ
Mặt hành vi
Thích ứng chung
Đặc điểm
Sig
ĐTB
Sig
ĐTB
Sig
ĐTB
Sig
ĐTB
(2-tail)
(2-tail)
(2-tail)
(2-tail)
Nam
Giới tính
Nữ
0,47 3,2334 0,347 3,1063 0,096 3,0988 0,057 3,1462
T. thị
3,1429 2,9821 2,8120 2,9790
Khu vực
địa lý
N. thôn
0,526 3,2958 0,569 3,1625 0,191 3,2737 0,299 3,2440
Dưới 6
3,2190 3,0895 3,0554 3,1213
tháng
3,1747 3,0873 3,0958 3,1193
6-12
Thời gian
tháng
3,2440 3,0806 3,0883 3,1376
về địa
Trên 12
0,304 0,915 0,847 0,925
phương
tháng
Dư dả
3,2940 3,1181 3,0351 3,1490
Điều kiện
kinh tế
Đủ ăn
3,1480 3,0559 3,0499 3,0846
của gia
Khó
3,2663 3,1174 3,1326 3,1721 0,139 0,611 0,061 0,105
đình
khăn
6tháng,
3,0913 3,0240 2,8198 2,9784
Thời gian
12tháng
ở trường
3,1622 2,8695 2,6503 2,8641
18tháng
0,155 0,487 0,142 0,144
giáo
dưỡng
24tháng
3,2069 3,1228 3,0844 3,1380
1 lần
3,1848 3,0550 3,0222 3,0872
Số lần
vào tại
2 lần
3,2327 3,0997 3,0788 3,1371
TGD
3 lần
3,0000 2,9750 2,9474 2,9741 0,252 0,562 0,640 0,412
3.1.6.1. So sánh mức độ thích ứng tâm lý theo giới tính
Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD so sánh theo giới tính cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD có giới tính là nam có mức độ thích ứng tốt hơn người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện đều ở cả 3 mặt: nhận thức, thái độ, hành vi và cả thích ứng
chung. Cụ thể, thích ứng về mặt nhận thức ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD có giới tính là nam có mức độ thích ứng tốt hơn người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD có giới tính là nữ với sig( 2- tailed) là 0,47. ĐTB của giới nam là 3,2334 và ĐTB
của giới nữ là 3,1429. Về mặt thái độ, thích ứng ở giới nam có ĐTB là 3,1063 và ở giới nữ có
ĐTB là 2,9821 và sig (2- tailed) là 0,347. Vể mặt hành vi, giới nam có ĐTB là 3,0988 và giới
nữ là 2,8120 với sig (2-tailed0 là 0,96. Điều này cũng phù hợp với phần trên đã phân tích, trình
bày rằng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về mặt hành vi là
thấp nhất và thích ứng về mặt nhận thức có mức cao nhất không mâu thuẫn khi phân tích trong
mối quan hệ với giới tính. Và khi đánh giá thích ứng nói chung của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD trong mối quan hệ với giới tính là giới tính nam có ĐTB là 3,1462;
giới tính nữ có ĐTB là 2,9790. Tác giả cũng phân tích theo lát cắt dọc về các mặt nhận thức, thái
độ và hành vi của các hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội, sinh hoạt thì cũng nhận được
kết quả giới tính nam có mức độ thích ứng tốt hơn giới tính nữ tương ứng với mức ĐTB ( xem
phần phụ lục).
Kết quả nghiên cứu ở trên có điểm tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ
Văn Hòa khi nghiên cứu về tái hòa nhập cho người chấp hành xong án phạt tù cũng đã chỉ ra
rằng việc thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội là điều khá khó khăn
của người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống. Vì hành vi là cái thể hiện ra
bên ngoài dễ dàng đánh giá thông qua chuẩn chung của xã hội, các tiêu chuẩn được quy định rõ
ràng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ.
3.1.6.2. So sánh mức độ thích ứng tâm lý theo khu vực địa lý
So sánh mức độ thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo mức án cho thấy những người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương là thành thị có ĐTB cao hơn
so với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương là
vùng nông thôn, lần lượt ĐTB là 3,2440 và 3,1213, Điều này có thể lý giải xuất phát từ đặc điểm
về cách sống của người dân vùng nông thôn và thành thị có sự khác nhau cơ bản mà người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức được rằng sống ở thành thị thì mối
quan hệ với hàng xóm không bị ràng buộc chặt chẽ bằng sinh sống ở vùng nông thôn. Do
vậy các em ít chịu sự đánh giá từ hàng xóm mà chỉ sống với người thân trong gia đình.
Điều này thể hiện ở bảng số liệu phần phụ lục. Thích ứng về mặt nhận thức, những người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống ở thành thị có ĐTB= 3,2958,
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống ở vùng nông thân là
ĐTB= 3,2190. Thích ứng về mặt thái độ, những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD về sinh sống ở thành thị có ĐTB= 3,1625, người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD về sinh sống ở vùng nông thân là ĐTB= 3,0895. Thích ứng về mặt hành vi,
những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống ở thành thị có
ĐTB= 3,2737 và những người về sinh sống ở khu vực nông thôn là ĐTB= 3,0554. Thể hiện ở
cả 3 mặt nhận thức, thái độ, hành vi cũng phù hợp với thích ứng chung trong mối quan hệ
với nơi về tái hòa nhập cộng đồng. Về điều này, chúng tôi được chị P.T.N (45 tuổi, cán bộ
công tác tại phòng Tái hòa nhập cộng đồng của Cục C11- Bộ Công an) chia sẻ thêm "những
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có quê quán ở thành thị thì kể cả khi
đang học tập và rèn luyện tại TGD cũng luôn được gia đình quan tâm, động viên và phối
hợp với nhà trường trong việc giáo dục nhưng ngược lại một số cháu ở vùng nông thôn vì
điều kiện kinh tế khó khăn hơn nên khi các cháu về gia đình cũng ít có điều kiện chia sẻ,
an ủi với các cháu. Qua theo dõi mảng này chúng tôi thấy các cháu về tái hòa nhập ở vùng
thành thị khá hợp tác trong thực hiện nội quy, quy định của địa phương sinh sống trong
học tập và lao động, quan hệ xã hội, sinh hoạt; còn một số cháu ở vùng nông thôn chứ
chưa phải là tất cả có sự khác biệt so với những người chấp hành xong BPXLHC đưa vào
TGD về sinh sống ở vùng thành thị".
3.1.6.3. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD theo thời gian về sinh sống ở địa phương
So sánh các mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo thời gian về sinh sống tại địa phương chúng tôi chia
là 3 mức khi nghiên cứu đó là: Dưới 6 tháng, từ 6 – 12 tháng, trên 12 tháng. Kết quả nghiên cứu
cho thấy người chấp hành xong người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có
mức độ thích ứng về các mặt khá tương đồng.
Nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống
dưới 6 tháng có ĐTB thích ứng về mặt nhận thức là 3,1747; nhóm người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống từ 6 đến 12 tháng là 3,2440 và nhóm
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương từ trên 12
tháng là 3,2940. Điều này có thể lý giải khi cá nhân nói chung và người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD nói riêng khi bị thay đổi môi trường sống sẽ khó khăn để thay đổi
và khi thay đổi cho phù hợp với môi trường sống mới. Sẽ phải mất một thời gian để cá nhân
đó thích ứng dần dần. Sau một thời gian nhất định, cá nhân sẽ điều chỉnh nhận thức, thái độ và
hành vi phù hợp với môi trường sống mới mà ta gọi đó là thích ứng. Không giống về mặt nhận
thức, thích ứng về mặt thái độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với
tái hòa nhập cộng đồng có một chút biến đổi khác. Đó là thích ứng về mặt thái độ của nhóm
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thời gian về sinh sống ở địa phương
dưới 6 tháng có ĐTB = 3,0873; nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
có thời gian về sinh sống tại địa phương từ 6- 12 tháng có ĐTB = 3,0806 và nhóm người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương từ 12 tháng trở lên có
ĐTB = 3,1181. Điều này cho thấy thích ứng về mặt thái độ thì nhóm người về sinh sống tại
địa phương thời gian từ 6 đến 12 tháng là có mức thấp nhất, thích ứng thái độ của nhóm có
thời gian về sinh sống tại địa phương từ trên 12 tháng vẫn là cao nhất. Chỉ có 2 nhóm người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức và thái độ là chuyển vị trí
xếp hạng cho nhau
3.1.6.4. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo điều kiện kinh tế của
gia đình
Khi so sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo mức độ kinh tế của
gia đình, nhóm tác giả chia mức độ kinh tế gia đình của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD làm 3 mức độ khác nhau theo đánh giá chung của xã hội, đó là: mức
độ dư dả; mức độ đủ ăn; mức độ khó khăn. Qua nghiên cứu cho thấy những người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương với gia đình có mức
kinh tế dư dả thì ĐTB của thích ứng về nhận thức là 3,1480; thích ứng về thái độ là 3,0559; thích
ứng về hành vi là 3,0499. Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống
tại địa phương với gia đình có mức kinh tế đủ ăn thì ĐTB của thích ứng về nhận thức là 3,2663;
thích ứng về thái độ là 3,1174; thích ứng về hành vi là 3,1326. Người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương với gia đình có mức kinh tế khó khăn
thì ĐTB của thích ứng về nhận thức là 3,0913; thích ứng về thái độ là 3,02401174; thích ứng về
hành vi là 2,8198. Nhìn vào kết quả so sánh đó ta thấy trong mối quan hệ với mức độ kinh tế
của gia đình thì mức độ thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD ở mặt nhận thức là cao nhất, tiếp theo đến mặt thái độ và thấp nhất
là mặt hành vi. Như vậy cũng không mâu thuẫn với phần phân tích trên về thích ứng chung của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng với thích
ứng với tái hòa nhập cộng đồng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong
mối quan hệ với mức độ kinh tế của gia đình. Điều này có thể lý giải xuất phát từ nguồn gốc
tâm lý cá nhân là từ môi trường sống, cụ thể ở đây là điều kiện mức độ kinh tế của gia đình,
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức và có thái độ rõ ràng được
thể hiện bằng hành vi khi gia đình có mức kinh tế dư dả là điều kiện ban đầu có thể giúp cho các
em có công ăn việc làm, được học tập lại những kiến thức đã mất... thì sẽ dễ dàng thích ứng với
cuộc sống ở địa phương. Ngược lại, khi gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn sẽ là một thử
thách thêm vào trong quá trình thích ứng với cuộc sống ở địa phương.
3.1.6.5. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo thời gian chấp hành
tại trường giáo dưỡng
So sánh các mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo thời gian chấp hành tại TGD chúng tôi chia làm 3
mức khi nghiên cứu đó là: 6 tháng và 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức độ thích ứng về các mặt như
sau:
Nhóm người chấp hành xong người biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành với
thời gian 6 và 12 tháng tại TGD có ĐTB thích ứng về mặt nhận thức là 3,1622; nhóm người;
nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với thời gian tại TGD là 18
tháng là 3,2069 và nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với thời gian
tại TGD là 24 tháng là 3,1845. Từ số liệu có thể thấy rất rõ rằng với các em có thời hạn ở TGD
là 6 và 12 tháng thì thích ứng kém nhất, tiếp đến là nhóm người có thời gian chấp hành tại
TGD 24 tháng (thời hạn dài nhất ở TGD); Nhóm người có thời hạn chấp hành tại TGD là 12
và 18 tháng khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả năng thích ứng cao
hơn cả. Điều này có thể lý giải thời gian chấp hành tại TGD có ảnh hưởng đến các em khi chấp
hành xong thời hạn về địa phương sinh sống. Với thời hạn thấp nhất là 6 và 12 tháng chấp
hành tại TGD thì các em vừa kịp làm quen với môi trường sống “đặc biệt” về nội quy, nề nếp,
kỷ luật thì lại thay đổi môi trường sống nên sẽ khó khăn để thay đổi nhanh chóng cho phù hợp
với môi trường xã hội. Điều này mới lý giải vì sao nhóm người này có mức độ thích ứng thấp
nhất trong 3 nhóm người khi so sánh theo thời gian chấp hành tại TGD. Thời hạn chấp hành
tại TGD 18 tháng là đủ thời gian để cá nhân thích ứng với môi trường sống mới và bắt đầu
xuất hiện nhu cầu thay đổi, tìm kiếm chuẩn mực mới. Đây là giai đoạn mà nhóm người này
được về địa phương sinh sống có mức thích ứng cao hơn so với nhóm còn lại với các nội quy
của địa phương. Với nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thời
gian chấp hành tại TGD với thời hạn là 18 tháng có mức thích ứng cao nhất cả về nhận thức,
thái độ và hành vi thậm chí là cả thích ứng nói chung với tái hòa nhập cộng đồng. Đây là thời
gian vừa đủ tương đối với cá nhân để cá nhân điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi phù
hợp với môi trường sống. Không giống về mặt nhận thức, thích ứng về mặt hành vi của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng có sự dao động
biến đổi lớn. Cao nhất là nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có
thời gian chấp hành tại TGD 18 tháng và thấp nhất là nhóm người có thời hạn chấp hành tại
TGD là 6 và 12 tháng. Cũng lý giải như trên là quy luật thích ứng và chai dạn về xúc cảm của
cá nhân. Đến một giới hạn nhất định mới đạt đến độ thích ứng, nhưng quá thời hạn nhất định
cũng dẫn đến trạng thái bão hòa xảm xúc và thậm chí chai dạn. Giới hạn ở đây là về thời gian
sinh sống và thay đổi.
3.1.6.6. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo số lần chấp hành tại
trường giáo dưỡng
So sánh các mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo số lần chấp hành tại TGD chúng tôi chia là 3 mức
độ khi nghiên cứu đó là: 1 lần, 2 lần, 3 lần. Tuy nhiên kết quả thu được tất cả các khách thể được
điều tra nghiên cứu cho thấy không có người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
chấp hành đến lần thứ 3, chỉ có 1 lần là chủ yếu; chấp hành lần thứ 2 tại TGD có 27% .
Nhìn vào kết quả bảng 3.14 ta thấy nhóm người người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD chấp hành tại TGD lần 1 có ĐTB thích ứng về mặt nhận thức là 3,2327;
nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành tại TGD lần 2 là
3,0000; cũng tương tự thích ứng về mặt thái độ lần lượt là 3,0997 và 2,9750; thích ứng về mặt
hành vi là 3,0788 và 2,9471; thích ứng chung với tái hòa nhập cộng đồng là 3,1371 và 2,9741
tác giả nhận thấy nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành tại
TGD lần 1 có ĐTB thích ứng cao hơn ĐTB thích ứng của nhóm người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành tại TGD lần 2 cả về tất cả các mặt riêng và cả thích ứng
chung. Điều này có thể lý giải theo nhìn nhận của tác giả hành vi của con người luôn chịu sự
chi phối, điều khiển, điều chỉnh của tâm lý chính người đó, hành vi vi phạm pháp luật cũng
vậy, là kết quả của sự tương tác, đấu tranh giữa tâm lý tích cực và tâm lý tiêu cực. Tâm lý tiêu
cực thắng thế, “lấn át” tâm lý tích cực dẫn đến việc cá nhân thực hiện hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội trong đó có hành vi vi phạm pháp luật. Vào TGD lần 1 để học tập, loại bỏ tâm lý
tiêu cực nhưng chưa triệt để loại bỏ hoàn toàn tâm lý tiêu cực thì đây chính một trong những
nguyên nhân có nguy cơ cao dẫn các em đến tái phạm. Với những lần tái phạm thì tâm lý tiêu
cực đã được liên tục củng cố, những phương thức thỏa mãn nhu cầu sai lệch chuẩn mực xã hội
trở thành nhu cầu và mục đích của các em đây chính là điều lý giải nếu chấp hành ở TGD từ
lần thứ 2 trở đi sẽ càng thích ứng kém hơn những lần trước. Từ kết quả nghiên cứu này rút ra
ý nghĩa và một số biện pháp thích hợp trong công tác giáo dục đối tượng trong quá trình chấp
hành tại TGD và tái hòa nhập cộng đồng
3.2. Các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng
Như đã đề cập về mối quan hệ, tác động của các yếu tố gắn với cá nhân (mặt chủ quan)
và các yếu tố gắn với tác động của môi trường sống (mặt khách quan) theo lý thuyết của
Tremblay đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD. Ở phần này, nhóm nghiên cứu chúng tôi phân tích một số yếu tố
dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD với những mức độ và mô hình ảnh hưởng khác nhau dựa trên kết quả
phân tích mô hình Hồi quy tuyến tính trên cơ sở mã hóa lại các biến độc lập và biến phụ thuộc.
Trong đó, biến phụ thuộc là các biến đo thích ứng tâm lý chung và từng thành phần thích ứng
về mặt nhận thức, thái độ và hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD và đều chỉ thực hiện phân tích Hồi quy tuyến tính đối với những trường hợp có thích ứng
tâm lý từ mức độ trung bình trở lên.
Theo lý thuyết của Tâm lý học Hoạt động thì các yếu tố có ảnh hưởng tới sự hình
thành và phát triển tâm lý cá nhân và thích ứng tâm lý bao gồm yếu tố sinh học, yếu tố môi
trường sống và yếu tố hoạt động của cá nhân [dẫn theo 26, tr.7]. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi chỉ khảo sát những yếu tố gắn với nhận thức và hoạt động (thuộc về chủ quan)
và môi trường sống (thuộc về khách quan) của cá nhân với 31 mô tả khác nhau (xem thêm
phần phụ lục).
3.2.1. Các yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân) dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với
tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường Giáo dưỡng
Kết quả nghiên cứu dự báo các yếu tố gắn với hoạt động của cá nhân tới thích ứng
tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
sau khi sử dụng mô hình Hồi quy tuyến tính và đã loại bớt đi các biến số dự báo không tác
động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD, thu được kết quả như ở bảng 3.15a và 3.15b
Dự báo yếu tố Trầm cảm tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Trước hết phải hiểu Trầm cảm hay Rối loạn trầm
cảm (MDD, Major Depressive Disorder) là một chứng rối loạn tâm thần phổ biến.
Các biểu hiện của triệu chứng bao gồm: tâm trạng buồn bã vô cớ kéo dài liên
tiếp; mất hứng thú, mất niềm tin với cuộc sống và cả các hoạt động cá nhân đã từng cảm
thấy thú vị; các thói quen sinh hoạt bình thường cũng trở nên khó khăn; họ cảm thấy uể oải
thiếu năng lượng. Có thể thỉnh thoảng những người mắc bệnh trầm cảm còn ảo tưởng hoặc
gặp ảo giác.
Thuật ngữ major depressive disorder (rối loạn trầm cảm) được đưa ra bởi một nhóm
bác sĩ lâm sàng Hoa Kỳ vào giữa những năm 1970. Nguyên nhân của rối loạn trầm cảm
chủ yếu được cho là sự kết hợp của các yếu tố di truyền, môi trường và tâm lý. Trầm cảm
đa số ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống cá nhân, công việc hoặc hành vi hàng ngày cũng
như thói quen ngủ, ăn uống và sức khỏe nói chung
Hậu quả nghiêm trọng nhất của trầm cảm chính là hành vi tự sát hoặc thực hiện hành
vi sai lệch chuẩn mực xã hội.
Những người trầm cảm sẽ bận tâm - hoặc suy ngẫm nhiều hơn về - những suy nghĩ
và cảm giác vô dụng, tội lỗi hoặc hối tiếc không phù hợp, bất lực hoặc tuyệt vọng.
Bảng 3.15a. Dự báo từng yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý
Nhân tố Thích ứng chung
Mặt Nhận thức
Mặt Thái độ
Mặt Hành vi
Bêta
Sig
-0,40
000
1,000
VIF Bêta -0,14
Sig VIF Bêta -0,32 1,000 000
Sig VIF Bêta -0,30 000 1,000
Sig VIF 000 1,000
R2= 0,62; sig=000;
R2=0,53;sig= 000;
R2= 0,29; sig=000;
Trầm cảm
R2= 0,20;sig= 000;
DW=1,539
DW=1,570
DW=1,528
DW=1,623
1,000
-0,15
000
1,000
1,000
1,000
-0,36
000
-0,28
000
-,33
000
Nhận
R2=0,13; sig= 000;
R2=0,18; sig=000;
R2=0,11;sig= 000;
thức
R2=0,19;sig= 000; DW=1556
DW=1,513
DW=1,588
DW=1,546
1,000
0,42
000
1,000
1,000
1,000
0,53
000
0,42
000
0,50
000
Hành vi
R2=0,29; sig= 000;
R2=0,17; sig=000;
R2=0,25; sig=000;
tích cực
R2=0,18; sig=000; DW=1,699
DW=1,627
DW=1,624
DW=1,699
1,000
1,000
1,000
1,000
-0,23
000
-0,41
000
-0,38
000
-0,40
000
Mặc
R2=0,17;sig= 000;
R2=0,16; sig=000;
R2=0,15; sig=000;
R2=0,16;sig= 000;
cảm
DW=1,653
DW=1,642
DW=1,628
DW=1,625
Kết quả bảng 3.15a cho thấy mô hình dự báo của trầm cảm (xem thêm phụ lục 3.3) đều
có ý nghĩa thống kê với sig= 0,000, tức yếu tố trầm cảm (và các biến số của trầm cảm) có khả
năng dự báo chính xác đến thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và hành
vi của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD theo chiều nghịch (giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ thuộc đều âm).
Mô hình nghiên cứu xem xét khả năng tác động của 5 biến số và cả 5 biến số khi chạy
độ tin cậy đạt 0,776 điều này giải thích yếu tố trầm cảm có khả năng dự báo có ý nghĩa thống
kê đối với thích ứng tâm lý chung và từng thành phần của thích ứng tâm lý đó là trầm cảm. Dữ
liệu cho thấy những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD) có xác xuất thích
ứng tâm lý bằng 62,0% những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD không
có trầm cảm.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013) cũng cho thấy nhóm các yếu tố
liên quan đến tâm lý của người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương thì có tới 23%
liên quan tới căng thẳng tâm lý ở mức độ trầm cảm (tress). Tác giả cho rằng các vấn đề
liên quan đến sức khỏe tinh thần và các quy trình liên quan đến điều trị các vấn đề tâm thần
có dùng thuốc và can thiệp y khoa đều có sự ảnh hưởng tới tái hòa nhập của họ và các phản
ứng chống đối của họ với các quy định của địa phương [58].
Mức độ dự báo của yếu tố trầm cảm tới các thành phần của thích ứng tâm lý của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được được mô tả ở bảng 3.15a.
Từ bảng 3.15a cho thấy yếu tố trầm cảm có mức dự báo khác nhau tới từng thành
phần của thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái
hòa nhập cộng đồng. Kết quả ở mô hình Hồi quy tuyến tính cho thấy yếu tố trầm cảm đều
dự báo đến các thành phần của sự thích ứng tâm lý đạt mức có ý nghĩa về mặt thống kê với
sig= 0,000. Trong đó trầm cảm có mức dự báo tác động cao nhất tới thích ứng về thái độ
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (R2 = 0,53; và sig= 0,000), tiếp
theo là dự báo tới thích ứng về mặt hành vi (sig = 0,000; R2 = 0,29). Tuy nhiên, từ bảng
trên ta thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có vấn đề về trầm cảm và
cũng cho thấy dự báo mức độ tác động của trầm cảm tới các thành phần của thích ứng tâm
lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, đặc biệt là về thích ứng nhận
thức- những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có vấn đề về trầm cảm
chỉ thích ứng được với 20% so với những người không có vấn đề về trầm cảm.
Chia sẻ thêm về những vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nữ dự báo có thể tác động đến thích ứng tâm lý, chị
V.T.P, Hội trưởng Hội phụ nữ phường N.T.N (Bắc Ninh), 13 năm làm công tác Hội cho
rằng "quá trình tham gia công tác Hội của tôi, tôi thấy có một số người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD ở phường luôn có sự lo lắng, đặc biệt là những người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở độ tuổi trưởng thành (trên 18 tuổi) thì nỗi lo
lắng của họ dường như nhiều hơn, họ ủ rũ, không muốn ăn, gầy rộc người.... Hoặc một số
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện sự căng thẳng như phá phách,
ngang tàng, thực hiện những hành vi vi phạm nội quy của địa phương, như trường hợp
N.V.H, thờ ơ với mọi người, tư tưởng diễn biến phức tạp, thậm chí không nói chuyện với
người nhà, nhiều khi có hành động bột phát. Chúng tôi phải mất rất nhiều thời gian để tiếp
cận, tâm sự, chia sẻ và động viên; dần dần họ đó mới bắt đầu hòa đồng và tư tưởng dần
ổn định". Những chia sẻ của chị Hội trưởng hội phụ nữ có thể thấy những vấn đề liên quan
đến sức khỏe tâm thần của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có tác
động nhất định tới quá trình tái hòa nhập về nơi sinh sống, sự tích cực phấn đấu của họ,
hay nói cách khác là vấn đề sức khỏe tâm thần (trầm cảm) có sự tác động tới thích ứng tâm
lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hòa nhập
cộng đồng.
Như vậy, yếu tố trầm cảm của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
dự báo có khả năng làm giảm thích ứng tâm lý của họ với quá trình tái hòa nhập cộng đồng
ở cả thích ứng chung và ở cả ba thành phần thích ứng tâm lý là thích ứng nhận thức, thích
ứng thái độ và thích ứng hành vi.
Dự báo yếu tố Mặc cảm tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Theo từ điển Tâm lý học Mặc cảm là những cảm xúc, cảm nghĩ bị dồn nén, đẩy vào
vô thức nhưng vẫn tiếp tục chi phối hành vi. Đây là cơ cấu tâm lý bình thường xuất hiện vào
một lứa tuổi nhất định, rồi theo đà trưởng thành được giải tỏa dần, hòa nhập vào những cơ cấu
tâm lý của những giai đoạn kế tiếp.
Với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo quy định pháp luật thì
đây là lứa tuổi dễ bị dồn nén nhiều ức chế, suy nghĩ cảm xúc của lứa tuổi. Nếu giai đoạn trước
chưa được giải tỏa hết những cảm xúc, suy nghĩ đến giai đoạn này dồn thêm những ẩn ức của
lứa tuổi sẽ tác động đến cuộc sống sinh hoạt cá nhân nói chung đặc biệt là quá trình tái hòa
nhập cộng đồng.của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Theo bảng 3.15a thì yếu tố mặc cảm dự báo tác động đến thích ứng tâm lý chung và cả
các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD với R2 của thích ứng tâm lý chung = 0,17 và sig= 0,000; thích ứng
nhận thức có R2= 0,16 và sig= 0,000; thích ứng về thái độ là 0,15 và sig= 0,000; thích ứng về
hành vi là 0,16 và sig= 0,000. Giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ thuộc đều âm tức là yếu tố
mặc cảm tác động theo chiều nghịch đến tất cả các biến nghiên cứu và sig đều = 0,000 tức các
giá trị đều có ý nghĩa về mặt thống kê.
Dự báo yếu tố Nhận thức tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Nhận thức sai lệch các chuẩn mực xã hội ở người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD đó là sự thiếu hiểu biết, vốn tri thức, kinh nghiệm của họ về ứng xử trong các
quan hệ xã hội. Đề cập đến vấn đề này, tác giả Đỗ Thị Thu Trang (2017) cho rằng phần
lớn các em học sinh TGD có trình độ văn hóa và ý thức pháp luật thấp; không nhận thức
đầy đủ về các chuẩn mực xã hội, bị động trong các quan hệ, chưa hình thành ý thức tôn
trọng chuẩn mực xã hội nói chung đặc biệt là chuẩn mực pháp luật... đó là bệnh “ấu trĩ
pháp luật”. Do đó, theo tác giả, học sinh TGD sau khi ra trường sẽ bỡ ngỡ, lạ lẫm với những
ứng xử đời thường, các em phải có thời gian để chủ động làm quen và thích ứng với cuộc
sống. Đồng thời, theo tác giả, sẽ có trường hợp mà những người làm công tác quản lý tại
địa phương phải lưu ý trước rằng nhiều em khi chấp hành xong Quyết định XLHC tại các
TGD vẫn chưa nhận thức được hết lỗi của bản thân, thậm chí đổ lỗi cho người khác hoặc
cho rằng mình bị oan, Quyết định xử lý quá nặng,...[44, tr.56]. Đây là những biểu hiện điển
hình về những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội nói chung và chuẩn mực pháp luật
nói riêng ở các em mà trong nghiên cứu gặp phải. Trong các phần mô tả đề cập đến nội
dung này chúng tôi gọi chung là nhận thức.
Mô hình xem xét khả năng tác động của 5 biến số mô tả nhận thức sai lệch của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về các chuẩn mực xã hội nhưng chỉ có 4
biến số có khả năng dự báo có ý nghĩa thống kê đối với thích ứng tâm lý của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (xem thêm phụ lục 3.1; 3.2) với p sig= 0,000. Đó
là các biến: "vẫn coi mọi chuyện như bình thường"; "mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì đến";
"việc học tập hay lao động chẳng có ích gì" và "không thấy vấn đề gì về những sai trái
trước đây của mình". Cụ thể dữ liệu nghiên cứu cho thấy các biến có ảnh hưởng theo chiều
nghịch đến thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
(Bêta>0) với giá trị về tỉ số chênh từ 2,11.
Dữ liệu nghiên cứu cho thấy những biểu hiện nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội có
mức dự báo tới thích ứng tâm lý chung với các mức độ khác nhau ở từng biểu hiện. Trong đó,
việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD "không thấy vấn đề gì về hành vi
sai trái trước đây của mình" có tính dự báo cao hơn tới cả tới thích ứng tâm lý của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (Bêta = 0,39; sig= 0,002); tiếp theo là các biểu hiện
khác cũng có mức độ dự báo tác động như nhau là "vẫn coi mọi chuyện như bình thường";
"mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì đến"; "việc học tập hay lao động chẳng có ích gì" (Bêta
lần lượt là 0,21; 0,23 và 0,19; sig đều là 0,000).
Những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội được biểu hiện khá rõ khi các em về
địa phương chưa thực sự tự giác khi tham gia học tập, lao động hay chấp hành nội quy địa
phương, tham gia học tập họ ít trao đổi với người học những vấn đề còn khúc mắc, chưa
hiểu, chấp nhận học cho xong theo quy định hoặc khi tham gia lao động họ có những hành
vi như nại cớ ốm đau xin nghỉ, không đảm bảo chất lượng sản phẩm tạo ra. Trao đổi với
chúng tôi về vấn đề này, một đồng chí Cảnh sát khu vực phường M.M (Bắc Ninh) "Các
em thường hay kéo bè kéo cánh những người cùng chung cảnh ngộ để chơi với nhau rồi rủ
nhau cùng thực hiện những hành vi phạm pháp luật tiếp theo. Ngoài ra, một số em còn có
biểu hiện giả vờ ốm, không lao động”.
Thậm chí, em L.T.T (phường Đ.S, H.B)cho rằng: “việc chấp hành đúng pháp luật
chỉ mang lại thiệt thòi thôi”.
Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy cả các biểu hiện nhận thức sai lệch về chuẩn
mực xã hội có khả năng dự báo thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD. Trên cơ sở tập hợp kết quả quan sát và phỏng vấn sâu người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và cán bộ làm công tác quản lý, giáo dục tại địa
bàn cơ sở có thể lý giải nguyên nhân của sự ảnh hưởng của nhận thức đó tới thích ứng tâm
lý của họ với việc chấp hành các quy định tại địa phương với một số điểm căn bản như:
Thứ nhất, ngay ở chính bản thân mỗi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD có sự coi thường các quy định của địa phương và chưa thực sự có thái độ ăn năn
hối cải, vẫn cho rằng Quyết định xử lý hành chính đó đối với các em là quá nặng. Đề cập
đến luận điểm này, tác giả Đỗ Bá Cở (2012) cho rằng đặc trưng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD là thiếu nhận thức về các quy định của chuẩn mực xã hội,
có những em không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật; có những em dù biết hành
vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình làm [27].
Điều này được thể hiện khá rõ khi chúng tôi phỏng vấn một số người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD thì được trả lời rằng "Lần đầu cháu tham gia trò đánh bạc,bị
bắt, cháu chỉ bị phạt Cảnh cáo, không phải đi TGD. Lần thứ hai, cháu tái phạm đánh bạc và
còn rủ bạn đánh bạc nên bị đi TGD. Bây giờ hết thời hạn về địa phương, cháu thấy bình thường
vì cháu có trộm cắp của ai cái gì đâu chỉ là đánh bạc thôi mà (Đ.T.H, 17 tuổi, Lạng Sơn).
Đồng thời, một trong những đặc trưng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD theo kết quả quan sát được cho thấy họ lại rất linh hoạt và khôn khéo trong
giao tiếp so với các bạn bình thường cùng trang lứa, biết lợi dụng sơ hở của mọi người để vi
phạm nội quy của địa phương hoặc mang lại lợi ích cho mình .
Thứ hai, để lý giải rõ hơn nguyên nhân của thực trạng người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD có nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội nhưng lại có xác xuất
dự báo thích ứng tâm lý cao hơn có thể thấy rõ đó là hiệu quả của công tác quản lý, giáo
dục đối tượng tại địa bàn cơ sở của các cán bộ địa phương. Qua quan sát thực tiễn và đối
chiếu với nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học quản
lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ sở cho thấy các cán bộ ở địa phương đã rất chú trọng
giáo dục pháp luật, giáo dục công dân, hình thành thói quen hành vi văn hóa cho họ ngay
từ khi họ mới về địa phương. Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Hiền Thu (2016) cho thấy
trong các nội dung giáo dục phổ biến ở địa bàn cơ sở thì nội dung cần chú ý giáo dục pháp
luật chiếm 88% nội dung giáo dục cho các đối tượng chấp hành xong biện pháp xử lý hành
chính, coi giáo dục pháp luật là bước đầu trang bị cho họ những nhận thức cơ bản nhất để
trở thành công dân lương thiện cho xã hội. Cũng theo tác giả, việc giáo dục pháp luật cho
người chấp hành xong biện pháp XLHC được thực hiện thông qua khai thác thu thập thông
tin và phải phù hợp với đối tượng giáo dục, quản lý. Đặc biệt là giáo dục pháp luật bằng
phương pháp thuyết phục, tác động dần dần để họ thay đổi nhận thức sai lệch của mình về
các chuẩn mực xã hội[4, tr.181]. Đồng thời, để có thể hiểu rõ hơn sự thay đổi nhận thức
sai lệch về chuẩn mực xã hội của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có
tác động đến thích ứng tâm lý của họ ra sao, chị P. M. H (cán bộ phụ trách công tác xã hội,
45 tuổi, 22 năm công tác) chia sẻ thêm "Đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD khi mới về địa phương đa số rất hạn chế về hiểu biết xã hội. Có những em
mặc dầu đã đi đủ 2 năm ở TGD về vẫn không đồng ý với Quyết định của tòa án, hay đòi
gặp chúng tôi để kêu oan, đòi phải được trả lại “công bằng”, tư tưởng diễn biến phức tạp
và hay vi phạm nội quy địa phương tuy là những lỗi không đáng kể. Nhưng cán bộ chúng
tôi đã lắng nghe, chia sẻ và giải đáp những thắc mắc của họ, giúp họ dần dần nhận ra lỗi
lầm và sai trái của bản thân. Cùng với thời gian, họ cũng nhận ra sai trái của mình, tu tỉnh
lại và thích ứng tốt hơn với cuộc sống, lao động và học tập hơn. Tuy rằng không phải người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nào khi về địa phương cũng thích ứng nhanh
với cuộc sống ở địa phương nhưng cán bộ chúng tôi vẫn hết sức kiên trì để giáo dục họ,
giúp họ yên tâm tin tưởng vào sự hướng thiện tích cực của mình....".
Để có thể đánh giá rõ hơn nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội dự báo tới thích
ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với việc các quy định
tại địa phương, chúng tôi thu được kết quả phân tích về nhận thức dự báo tới các thành
phần thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD bảng 3.15a
Kết quả ở bảng 3.15a cho thấy mức độ dự báo của các biểu hiện về nhận thức của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tới các thành phần thích ứng tâm lý
của họ có sự khác nhau; nhưng tất cả các biểu hiện đều đạt mức ý nghĩa thống kê (sig< 0,005)
và biểu hiện đều có thể dự báo tới tất cả các thành phần của sự thích ứng tâm lý của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với việc chấp hành nội quy của địa phương.
Như vậy, yếu tố nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả năng dự báo cao tới các thành phần của thích ứng
tâm lý: thích ứng nhận thức, thích ứng thái độ và thích ứng hành vi.
Yếu tố hành vi tích cực
Yếu tố này là khả năng cá nhân nhìn nhận về bản thân mình và huy động sự nỗ lực
ý chí thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. Dữ liệu thu được từ bẳng
3.15a cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, tự ý thức thể hiện
ra bằng các hành vi tích cực như việc cố gắng khắc phục mọi khó khăn hoặc đi đến một nơi
xa lạ không ai biết mình để sống nốt ...... Tự ý thức phải được thể hiện ra bên ngoài bằng
các hành vi tích cực, phù hợp với các chuẩn mực xã hội; và trong nghiên cứu này gọi tắt là
hành vi tích cực.
Kết quả bảng 3.15a cho thấy mô hình dự báo của hành vi tích cực (xem thêm phụ lục
3.3) đều có ý nghĩa thống kê với sig= 0,000, tức yếu tố hành vi tích cực (và các biến số của nó)
có khả năng dự báo chính xác đến thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và
hành vi của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD theo chiều thuận (giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ thuộc đều dương).
Mô hình nghiên cứu xem xét khả năng tác động
của các biến số khi chạy độ tin cậy đạt 0,63 điều này giải thích yếu tố hành vi tích cực có khả
năng dự báo có ý nghĩa thống kê đối với thích ứng tâm lý chung và từng thành phần của thích
ứng tâm lý. Dữ liệu cho thấy những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD)
có xác xuất thích ứng tâm lý bằng 29,0% những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD không thực hiện hành vi tích cực.
Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan tác động đến thích ứng tâm lý chung và từng
thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
Nhìn vào bảng 3.15b ta thấy chỉ số sig của các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới
thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD đều < 0,005 tức là các số liệu thu thập được đều có ý nghĩa về mặt thống kê và chấp
nhận được. Tuy nhiên, tác động đến các thành phần khác nhau và giữa các thành phần với
thích ứng chung cũng khác nhau. Cụ thể:
Bảng 3.15b. Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý
Nhân tố Thích ứng chung Mặt Nhận thức
Mặt Thái độ
Mặt Hành vi
Bêta Sig VIF Bêta
Sig VIF Bêta
Sig VIF Bêta Sig VIF
Trầm
-0,15 0,000 1,270
-0,19 0,002 1,270
-0,28
0,001 1,270
-0,18 0,001 1,270
cảm
Nhận
-0,18 0,001 1,294
--0,23 0,004 1,294
-0,29 0,002 1,294
-0,15 0,003 1,294
thức
HV tích
0,43 0,000 1,041
0,37 0,000 1,041
0,31
0,000 1,041
0,40 0,000 1,041
cực
Mặc
-0,22 0,003 1,170
-0,10 0,001 1,170
-0,23
0,004 1,170
-0,22
004
1,170
cảm
R2=0,39; sig=000;
R2=0,24;sig= 000;
R2=0,27; sig=000;
R2=0,35 ; sig=000;
DW=,1469
DW= 1,694
DW=1,654
DW=1,458
Các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đạt chỉ số R2= 0,39 với
sig=0,000 điều này cho thấy nếu từng yếu tố đơn biến của chủ quan tác động đến thích ứng
tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD khác biệt so với khi tổng hợp thành mô hình đa biến này. Điều này giải thích rằng khi
các yếu tố đứng một mình ( hoặc trầm cảm hoặc mặc cảm hay nhận thức sai lệch của cá nhân
về các quy định của địa phương) chưa có sự ảnh hưởng lẫn nhau sẽ tác động tới biến phụ thuộc
theo các mức độ khác nhau; và giữa các biến độc lập có sự chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau.
Dễ dàng đánh giá hiện tượng này phù hợp các quy luật của hiện thực khác quan trong mối
quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong cuộc sống.
Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,469 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=
0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,496 như bảng trên thì 0,340< 1,496< 1,733.
Điều này phù hợp với R2 ở trên biến độc lập tác động và ảnh hưởng đến biến phụ thuộc.
Với DW=1,496 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến độc lập.
Chính điều này mà nhóm tác giả khi nghiên cứu và thu được kết quả sẽ lưu ý trong phần
đề xuất giải pháp giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với
tái hòa nhập cộng đồng
Giá trị với sig= 0,000 chứng tỏ R2 bình phương của tổng thể khác 0. Đồng nghĩa với
mô hình hồi quy tuyến tính xây dựng được phù hợp với tổng thể thực tế
Cột hệ số Bêta > 0 của yếu tố hành vi tích cực tác động theo chiều thuận đến biến
thích ứng tâm lý chung, còn lại các yếu tố trầm cảm, mặc cảm, nhận thức có Bêta< 0,
nghĩa là các biến đó tác động theo chiều nghịch đến thích ứng tâm lý chung. Ngoài ra có
thể so sánh xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố: hệ số B càng lớn thì yếu tố đó có
mức độ ảnh hưởng càng cao đối với biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu. Yếu tố Hành
vi tích cực sẽ có ảnh hưởng và biến đổi biến phụ thuộc thích ứng tâm lý chung lớn nhất với
Bêta= 0,43, tiếp theo là nhân tố Mặc cảm với Bêta= -0,22; Nhận thức với hệ số B = -0,18;
biến Trầm cảm lại có chỉ số Bêta nhỏ nhất với Bêta= -0,15. Khi kiểm tra giả định về hiện
tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng
đại phương sai VIF (Variance inflation factor) ta thấy theo bảng 3.15b tất cả các biến đều
có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.15b cho thấy tất cả các biến của nhân tố Trầm cảm,
mặc cảm , hành vi tích cực và nhận thức đều có thể dự báo đến thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với các chỉ số
đều có ý nghĩa thống kê (sig<0,005). Tuy nhiên, tại mỗi mô hình thì các biến số đều có khả
năng dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD là khác nhau.
Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng về mặt nhận thức.
Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) của thích ứng nhận
thức là 0,24 và sig= 0,000, các giá trị thu được có ý nghĩa thống kê và tin tưởng được, biến
phụ thuộc thích ứng tâm lý chung được giải thích bởi các biến nhân tố độc lập. Điều này
cho thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với tập dữ liệu của mẫu ở mức chấp nhận.
Điều này được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này dễ dàng tiếp nhận sự giáo dục
từ phía gia đình và các tổ chức giáo dục khác song do lứa tuổi đang định hình và phát triển
nhân cách, chưa thể tập trung chú ý vào một đối tượng nhất định nên có thể thấy rằng
R2mặc dù nhỏ nhưng cũng đã đạt được độ tin cậy dự báo chính xác về thích ứng tâm lý với
tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt
nhận thức.
Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,694 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=
0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,694 như bảng trên thì 0,340< 1,694< 1,733.
Điều này phù hợp với R ở trên về sự tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc. Với
DW=1,694 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến độc lập. Chính
điều này mà nhóm tác giả khi nghiên cứu và thu được kết quả sẽ lưu ý trong phần đề xuất
giải pháp giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa
nhập cộng đồng về mặt nhận thức.
Các giá trị ở cột Sig. của các nhân tố đều < 0,005 chứng tỏ các biến độc lập đều tác
động có ý nghĩa thống kê đến biến phụ thuộc, các giả thiết đều được chấp nhận. Ngoài ra
có thể so sánh xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố với giá trị của cột số Bêta của
các yếu tố: Hệ số Bêta của nhân tố trầm cảm, mặc cảm và nhận thức đều < 0 tức là một số
biến trong ba nhân tố này tác động theo chiều nghịch đến biến phụ thuộc thích ứng về mặt
nhận thức. Trầm cảm có Bêta= -0,19; Mặc cảm với Bêta= -0,10 và nhân tố Nhận thức với
Bêta= -0,23, nghĩa là khi nhân tố trầm cảm, mặc cảm hoặc nhân tố nhận thức tăng/giảm 1
đơn vị thì biến Thích ứng về mặt nhận thức giảm/tăng tương ứng 1,9; 1,0 hoặc 2,3 đơn vị.
Chỉ có nhân tố hành vi tích cực tác động theo chiều thuận đến thích ứng về mặt nhận thức
với hệ số B = 0,37. Khi kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa
các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF thì tất cả các biến
đều có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng về mặt thái độ.
Với bảng 3.15b, hệ số Phương sai bình phương (R2) của thích ứng thái độ là 0,27
với sig= 0,000. Điều này được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này đang định hình
và phát triển nhân cách, các nhà Tâm lý học gọi đây là “giai đoạn khủng hoảng”, “thất
thường lúc nắng lúc mưa” nên có thể lúc này các em vui đấy, xong lại buồn được luôn,
chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống nên có thể các em ý thức được vị
trí của mình, các yêu cầu phải chấp hành nhưng chưa hình thành được thái độ tích cực với
việc phải chấp hành các quy định khi sinh sống tại địa phương nên có R2 đạt được độ tin
cậy dự báo chính xác về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt thái độ để có những khuyến nghị cho phù hợp
và đúng đối tượng.
Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,654 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=
0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,654 như bảng trên thì 0,340< 1,654< 1,733..
Với DW=1,654 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến độc lập.
Điều này sẽ lưu ý trong phần đề xuất giải pháp giúp người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng về mặt thái độ.
Bảng 3.15b trên, kiểm định các giả thuyết sử dụng phần mềm SPSS: các giá trị ở cột
Sig. đều <5% chứng tỏ các biến độc lập đều tác động có ý nghĩa thống kê đến biến phụ thuộc,
nghĩa là các giả thiết đều được chấp nhận. Chỉ có hệ số B của nhân tố Hành vi tích cực > 0 tức
là các nhân tố hành vi tích cực có tác động theo chiều thuận đến biến phụ thuộc là thích ứng
về mặt thái độ. Còn lại hệ số B của các nhân tố trầm cảm, mặc cảm, nhận thức đều âm với lần
lượt là -0,28; -0,23, -0,29, nghĩa là khi các biến này tác động theo chiều nghịch đến biến phụ
thuộc Thích ứng về thái độ. Kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa
các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF thì tất cả các nhân tố
đều có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng về mặt hành vi.
Hệ số Phương sai bình phương (R2) của thích ứng hành vi là 0,35 và sig= 0,000 cho
thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với tập dữ liệu của mẫu. Lý giải điều này bởi
đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này dễ dàng tiếp nhận sự giáo dục từ phía gia đình và các tổ
chức giáo dục khác song do lứa tuổi đang định hình và phát triển nhân cách, chưa thể tập
trung chú ý vào một đối tượng nhất định nên có thể nhận thức đúng nhưng chưa chắc đã
thể hiện ra bằng hành vi như mô hình dự định ban đầu, có thể chấp nhận được độ tin cậy
và có thể dùng để dự báo về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi từ đó có đề lưu ý trong xuất biện
pháp thích hợp nhằm nâng cao thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi.
Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,458 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=
0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,458 như bảng trên thì 0,340< 1,458< 1,733.
Biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến phụ thuộc.
Bảng 3.15b trên, kiểm định các giả thuyết sử dụng phần mềm SPSS: các giá trị ở
cột Sig. Đều< 0,005 chứng tỏ các biến độc lập đều tác động có ý nghĩa thống kê đến biến
phụ thuộc. Nghĩa là các giả thiết đều được chấp nhận. Các giá trị của hệ số Bêta đều dương
chứng tỏ các biến độc lập dều có tác động đến biến phụ thuộc theo chiều thuận. Hệ số B
của biến Trầm cảm, mặc cảm và nhận thức tăng/giảm 1 đơn vị thì biến Thích ứng về mặt
hành vi tăng/giảm tương ứng 1,26; 3,14 và 2,01 đơn vị. Kiểm tra giả định về hiện tượng đa
cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương
sai VIF (Variance inflation factor) ta thấy theo bảng 3.15b tất cả các biến đều có VIF đều
bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố thuộc về chủ quan có khả năng dự
báo thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và hành vi của thích ứng
tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Trên cơ sở tập hợp kết quả quan sát và phỏng vấn sâu người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD và một số cán bộ làm công tác quản lý, giáo dục đối tượng tại địa bàn
cơ sở, khu dân cư có thể lý giải nguyên nhân của sự ảnh hưởng của các mặt chủ quan và
khách quan của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ nhất, ngay ở chính bản thân mỗi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD khi trở về địa phương sinh sống chưa thực sự cởi mở, tích cực với các hoạt động
của chính quyền địa phương tổ chức. Họ luôn tự tạo cho mình rào cản “tâm lý” như: mặc
cảm, tự ti, mình là đồ bỏ đi. Khi gặp khó khăn trong quá trình tái hòa nhập ở giai đoạn đầu
thường buông xuôi, bỏ mặc, chưa thực sự cố gắng để vượt qua, nhiều người còn đổ lỗi cho
số phận. Vẫn còn một bộ phận người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD còn
mắc bệnh ấu trĩ pháp luật nghĩa là chưa có nhận thức về pháp luật một cách đầy đủ nên
trong một số trường hợp không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật; cũng lại có
những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD dù biết hành vi của mình là
vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình tái phạm [61, tr.27]. Điều này được thể hiện khá rõ
khi chúng tôi phỏng vấn một số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì
được trả lời rằng "Lúc đầu về, cháu ngại lắm chứ. Nhưng cô bảo chả lẽ cứ ngại thì không
làm gì à. Cuộc sống vẫn tiếp tục thì cháu vẫn phải gắng gượng mà sống. Cháu bị đi TGD
vì hành vi đánh bạc cũng chỉ là bị xử lý hành chính, không phải là án nhưng nhiều người
không biết cứ nhìn cháu như kiểu cháu đi trại chấp hành án về. Làm sao xóa bỏ được suy
nghĩ trong đầu mấy người như vậy nên cháu thấy cũng không cần thiết phải xấu hổ" (Đ.T.L,
xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình).
Đồng thời, một trong những đặc trưng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng theo kết quả quan sát được cho
thấy họ lại rất linh hoạt và khéo léo trong giao tiếp với mọi người, nhưng đồng thời rất nhạy cảm
và quan tâm thái độ của mọi người đối với mình dù chỉ là những tiểu tiết hành vi rất nhỏ. Ví dụ,
trường hợp em N. D. A (phường Trung Sơn, TP Tam Điệp, Ninh Bình): “trong một lần lao động
tại xưởng, em cố gắng để làm tốt công việc và sản phẩm của mình nhưng em nghe “lỏm” thấy
anh quản lý nhắc tới em mặc dù không có gì là xúc phạm tới em nhưng cũng có ý chưa nhìn
nhận đúng mức cố gắng của em. Em chán và không thiết phấn đấu hay thể hiện bản thân mình
nữa. Chỉ cần đạt định mức như mọi người là được, nổi trội hơn người cũng bị nghi ngờ”.
Thứ hai, để lý giải rõ hơn nguyên nhân của thực trạng người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD chưa thích ứng cao với tái hòa nhập cộng đồng nhưng lại có xác
xuất dự báo thích ứng tâm lý nhỉnh hơn so với thực tế có thể thấy rõ đó là hiệu quả của
công tác quản lý, giáo dục của cán bộ tại một số địa phương hiện nay. Qua quan sát thực
tiễn và đối chiếu với nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa
học quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ sở cho thấy cán bộ địa phương đã rất chú
trọng giáo dục pháp luật, giáo dục công dân cho các em ngay từ khi người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống Kết quả nghiên cứu của tác giả
Vũ Hiền Thu (2017) cho thấy trong các nội dung giáo dục phổ biến cho người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở địa phương thì nội dung cần chú ý giáo dục pháp
luật chiếm 68% nội dung giáo dục, còn lại là giáo dục nghề, học văn hóa và các chuẩn mực
xã hội khác; coi giáo dục chuẩn mực xã hội nói chung và chuẩn mực pháp luật nói riêng là
bước đầu trang bị cho các em những nhận thức cơ bản nhất để trở thành công dân lương
thiện, có ích cho xã hội [30, tr. 93]. Cũng theo tác giả, việc giáo dục các chuẩn mực xã hội
đặc biệt là các kiến thức về chuẩn mực pháp luật cho người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD được thực hiện thông qua nhiều hình thức nhắm tránh sự đơn điệu,
nhàm chán giúp cho người được giáo dục có hứng thú tiếp thu một cách hiệu quả, dần dần
để các em thay đổi nhận thức của mình [30, tr. 122]. Đồng thời, để có thể hiểu rõ hơn sự
thay đổi nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, đồng chí
T.P.T (Cảnh sát khu vực phường H.B, TP Uông Bí, Quảng Ninh, 37 tuổi, 17 năm công tác)
chia sẻ thêm "Đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi mới về
địa phương sinh sống, các em rất hạn chế về nhận thức pháp luật. Do trình độ hiểu biết,
do đặc điểm tâm lý lứa tuổi nên có những em mặc dù chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD về rồi mà vẫn không đồng ý với Quyết định xử lý hành chính đưa vào TGD
đối với mình, liên tục gặp và hỏi có đúng không. Chúng tôi đã lắng nghe, chia sẻ và giải
đáp những thắc mắc của các em, giúp họ dần dần nhận ra lỗi lầm của mình và tính đúng
đắn, công minh của pháp luật. Cùng với thời gian, họ cũng dần hiểu ra thể hiện qua việc
tích cực học tập, lao động và thích ứng tốt hơn với cuộc sống. Tuy rằng không phải người
nào cũng thích ứng nhanh với tái hòa nhập cộng đồng nhưng chúng tôi vẫn hết sức kiên
trì để giáo dục họ, giúp họ yên tâm phấn đấu....".
3.2.2. Dự báo yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến số thuộc về khách quan như các yếu tố thuộc
về gia đình, mối quan hệ với hàng xóm, bạn bè (gọi tắt là hàng xóm), Sự quan tâm của
chính quyền, các tổ chức xã hội (chính quyền) đều có ý nghĩa thống kê với chỉ số sig<
0,005 (xem thêm phụ lục 3.3; 3.4; 3.5) cho thấy có khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý
chung và các thành phần của thích ứng tâm lý và khả năng dự báo chính xác cao. Điều đó
có nghĩa là các yếu tố như gia đình, hàng xóm, chính quyền có khả năng dự báo thích ứng
tâm lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Tuy nhiên, không phải tất cả các biến số
đều có khả năng tác động đến thích ứng tâm lý chung và có khả tác động đến tất cả các mặt
biểu hiện của thích ứng tâm lý.
Kết quả nghiên cứu từ bảng 16a cho thấy các biến số thuộc về các yếu tố khách quan
như yếu tố thuộc về gia đình, yếu tố hàng xóm, xã hội đều có ý nghĩa thống kê với chỉ số
sig < 0,005 (xem thêm phụ lục 3.3; 3.4; 3.5) cho thấy có khả năng dự báo tới thích ứng tâm
lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý. Tuy nhiên, không phải tất cả các biến số đều
có khả năng tác động như nhau đến thích ứng tâm lý chung và có khả tác động đến tất cả
các mặt biểu hiện của thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD.
Bảng 3.16a. Dự báo từng yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý
Nhân
Thích ứng chung
Mặt Nhận thức
Mặt Thái độ
Mặt Hành vi
tố
Bêta
Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta Sig VIF
0,427 0.000 1,000 0,214 0,004 1000 0,363 0,000 1,000 0,473 0,000 1,000
Gia
R2= 0,224; sig=0,000 R2= 0,108; sig=0,004 R2 = 0,126; sig=0,000 R2= 0,219; sig=0,000
0,115 0,001 1,000 0,115 0,001 1,000 0,157 0,001 1,000 0,275 0,000 1,000
đình
R2= 0,174; sig=0,001 R2= 0,107; sig=0,001 R2= 0,109; sig=0,001 R2= 0,103; sig=0,000
Hàng
0,478 0,000 1,000 0,301 0,000 1,000 0,371 0,000 1,000 0,512 0,000 1,000
xóm
Xã
R2= 0,102; sig=0,000 R2= 0,185; sig=0,000 R2= 0,132; sig=0,000 R2= 0,168; sig=0,000
hội
Dự báo yếu tố Gia đình tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Trong khảo sát nghiên cứu về tái hòa nhập của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD thì gia đình, đặc biệt là mối quan hệ với gia đình ảnh hưởng đến thích
ứng tâm lý chung và cả ba thành phần của thích ứng tâm lý với p đều có ý nghĩa về mặt
thống kê (sig < 0,001). Tuy nhiên, mỗi biểu hiện lại có sự ảnh hưởng riêng đến từng thành
phần khác nhau. Theo đó, sự động viên, an ủi của gia đình để “gia đình giúp tôi có việc
làm” đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả năng dự báo
giúp cho họ thích ứng tâm lý. Với Bêta = 0,427; sig=0,000 là dự báo sự tác động của gia
đình đến thích ứng tâm lý chung, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với dự báo tác động đến thích
ứng về mặt hành vi với Bêta= 0,473 và sig= 0,000, tiếp theo là tác động đến thích ứng về
thái độ (Bêta=0,363), cuối cùng là tác động đến thích ứng về nhận thức có Bêta=0,214..
Đây là biểu hiện có mức dự báo tới thích ứng về hành vi cao nhất trong các biểu hiện
Như vậy, gia đình của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả
năng dự báo các thành phần thích ứng tâm lý, trong đó mức dự báo có khả năng tác động
lớn nhất là thích ứng về hành vi, tiếp theo là dự báo tác động tới thích ứng tâm lý chung.
Có thể lý giải nguyên nhân yếu tố gia đình của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD dự báo tới khả năng thích ứng tâm lý của họ nói chung và tới các thành phần
thích ứng tâm lý như sau:
Thứ nhất, bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa
phương việc đầu tiên phải chấp hành các quy định của cộng đồng sinh sống: ra trình diện,
nội Quyết định đã chấp hành xong, thực hiện các thủ tục hành chính, đăng ký sinh hoạt bắt
buộc... nên thời gian đầu gia đình phải hướng dẫn chủ yếu về mặt hành vi cho cac em để
nhanh chóng làm đúng thủ tục pháp lý.
Thứ hai, không phải tất cả người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
đều duy trì mối liên hệ, được gặp gỡ gia đình trong suốt thời gian ở TGD theo quy định.
Thực tế, công tác tổ chức, phối hợp giáo dục học sinh TGD với gia đình các em tuy có hiệu
quả nhưng vẫn còn hạn chế. Theo tác giả Đỗ Thị Thu Trang (2017) thì việc tổ chức các
"Hội nghị gia đình học sinh" được tổ chức hàng năm ở các TGD nhưng khôgn phải gia
đình nào cũng hưởng ứng và cam kết thực hiện. Do điều kiện kinh tế khó khăn, nhiều gia
đình học sinh không có điều kiện để phối hợp, thăm gặp, động viên các em; thậm chí có
những em không có người thăm nuôi, gửi thư, quà. Đặc biệt, theo tác giả, nhiều gia đình
học sinh TGD do chưa hiểu trách nhiệm của mình trong công tác phối hợp giáo dục con
em mình nên vẫn có trường hợp người nhà tiếp tay cho các em trốn khỏi TGD hay vi phạm
nội quy TGD, cất giấu đồ vật cấm, ma túy, tiền trong đồ thăm gặp [44, tr.82]. Nên khi các
em về địa phương gia đình chưa thể trở thành điểm tin cậy an toàn, gần gũi để chia sẻ, động
viên, giúp các em có nhận thức đùng đắn, hình thành thái độ tích cực mà mới chỉ hướng
dẫn hành vi theo tình huống nhất thời, đối phó. [44]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ
nghiên cứu về thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
với chấp hành các quy định của địa phương nên có thể thấy những tác động, ảnh hưởng
của gia đình các em tới khả năng thích ứng tâm lý của các em thực sự mạnh mẽ, theo chiều
thuận với tất cả các chỉ số Bêta đều dương (>0).
Theo đó, sự thông cảm, động viên, an ủi và chia sẻ của gia đình đối với người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong tái hòa nhập cộng đồng có khả năng dự
báo giúp cho họ thích ứng về nhận thức tốt hơn, thái độ tích cực hơn trong việc chấp hành
các quy định tại địa phương sinh sống trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Mặc dù dự
báo thích ứng về mặt nhận thức chưa cao nhưng các số liệu có ý nghĩa thống kê nên vẫn
được chấp nhận để sau khi loại hết các biến nên ta thấy Gia đình vẫn và sẽ là điểm tựa và
nơi an toàn nhất cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Hơn nữa, Khi so sánh điều kiện kinh tế gia đình với việc thích ứng với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng cho thấy kinh tế
gia đình gặp khó khăn, thì các thành viên trong gia đình chưa có nhiều thời gian và điều kiện
để phối hợp, động viên người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Đặc biệt, theo
tác giả, nhiều gia đình người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD còn chưa hiểu
trách nhiệm của mình trong công tác phối hợp giáo dục người thân của mình với các tổ chức
xã hội, chính quyền địa phương nên vẫn có trường hợp người nhà “vô tình” tiếp tay và đẩy
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD vi phạm nội quy địa phương.
Những nguyên nhân này được mô tả rõ hơn khi chúng tôi người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD chia sẻ " Phần lớn chúng cháu đã về đến đây đều tin tưởng
ở gia đình ở rất nhiều và muốn làm lại từ đầu để chứng minh cho mọi người hiểu chúng cháu
chưa phải là đồ bỏ đi, nếu không bọn cháu đã bỏ đi thật xa. Nên có rất nhiều đứa chúng cháu
phải chấp nhận mất thời gian đầu ở địa phương là khó khăn nhưng đã lường hết trước và
mong mọi người chấp nhận chúng cháu. Cháu về cũng được hơn năm, gần 2 năm rồi nên cũng
dần quen, cố gắng lao động, không vi phạm nội quy đảm bảo ngày công, chất lượng sản phẩm.
Cháu cứ tự nhủ cố gắng không làm gì để người thân phiền lòng thêm cô ạ!...." (N. H. V. huyện
Bố Trạch, Quảng Bình)
Từ đây có thể hiểu, việc người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD phải tự
quyết định trong việc thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của mình với các quy định của
địa phương mà không thể lệ thuộc vào bất cứ yếu tố nào kể cả gia đình rất phù hợp với
luận điểm trong Tâm lý học Hoạt động là yếu tố quyết định đối với sự hình thành và phát
triển tâm lý cá nhân. Những yếu tố còn lại như môi trường sống, giáo dục, bẩm sinh... có
tác động nhưng không thể thay thế được vai trò của bản thân cá nhân đó. Trước pháp luật
thì mọi cá nhân đều công bằng với nhau nên thực tế này lại tạo nên động lực để người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tự khẳng định mình trong cuộc sống xã hội với
thích ứng tốt hơn về nhận thức, thái độ, hành vi.
Dự báo yếu tố Hàng xóm tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Dữ liệu nghiên cứu ở bảng 3.16a cho thấy yếu tố hàng xóm và các mối quan hệ với
bạn bè cho thấy khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng theo chiều thuận với Bêta>0 và sig<0,005.
Từ đây có thể thấy sự chia sẻ, động viên của hàng xóm, bạn bè là vô cùng cần thiết
đối với người người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ngoài quan hệ trong
gia đình của họ, Tuy nhiên, hàng xóm và bạn bè không thể dễ dàng chia sẻ, cảm thông và
ngay lập tức có ảnh hưởng tích cực để người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD thích ứng với cuộc sống ở cộng đồng. Bản thân người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD khi về địa phương sinh sống cũng mang sẵn mặc cảm tự ti với tất cả
mọi người xung quanh nên nếu các em nhận được sự chia sẻ, động viên, an ủi của những
người ngoài gia đình thì hoặc các em nghi ngờ (thích ứng tâm lý thấp) hoặc các em vui vẻ
nhanh chóng hòa nhập cuộc sống (thích ứng tâm lý cao). Thực tế thì xác xuất xuất hiện sự
thích ứng tâm lý cao thấp hơn so với thích ứng thấp và theo chiều tác động. Tuy nhiên, yếu
tố hàng xóm và mối quan hệ với bạn bè cho thấy dự báo khả năng tác động tới thích ứng
tâm lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý.
Kết quả nghiên cứu ở trên càng được khẳng định và làm rõ hơn khi nhóm nghiên
cứu chúng tôi tiến hành trao đổi, phỏng vấn các em khi các em thực hiện hoạt động lao
động hay học tập. Chúng tôi trao đổi, phỏng vấn những người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD khi họ mới về địa phương và bắt đầu những buổi đầu học tập hoặc
lao động. Thông thường, việc đầu tiên các em sẽ làm quen và tìm hiểu những “người bạn
mới” của mình,tự tạo ra những “không gian văn hóa”, sinh hoạt riêng đặc thù của các em
như: hỏi han về gia đình, lý do vào TGD, quá trình sinh sống trong TGD.... và các em cũng
họ chia sẻ và quy tắc ứng xử với nhau trong tập thể hay lớp học này... Đây là môi trường
sống ngoài gia đình nên các em có tâm thế “đề phòng”, “cảnh giác” cao. Qua môi trường
này, các em học được cách kiểm soát và cân bằng cảm xúc của bản thân sao cho phù hợp
với yêu cầu của địa phương (về vấn đề này, nhóm nghiên cứu chúng tôi sẽ đề cập và nghiên
cứu sâu hơn ở một nghiên cứu khác bên ngoài luận án). Đây được coi là nguyên nhân lý
giải về sự ảnh hưởng của yếu tố hàng xóm và các quan hệ bạn bè của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ảnh hưởng thuận đến các mặt trong thích ứng tâm lý:
nhận thức, thái độ và hành vi.
Kết quả nghiên cứu ở trên có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ
Văn Hòa ở góc độ Quản lý nhà nước về An ninh trật tự với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong án phạt tù khi cho rằng ảnh hưởng của hàng xóm và bạn bè ở địa
phương không mạnh bằng sự quan tâm của gia đình [18]. Thực trạng nghiên cứu này có
phần tương đồng với những kết quả quan sát được khi các em tham gia học tập hay thực
hiện quan hệ xã hội, các em đều thể hiện sự bình ổn, kiểm soát cảm xúc, ít có hành vi a dua,
chỉ trả lời chung chung khi được hỏi về những bạn bên cạnh rằng "cháu thấy bạn ấy cũng ổn
mà”, “cháu chưa hiểu hết về bạn ấy” hay cười và im lặng mà thực tế có thể họ chưa hài lòng về
bạn. Đây là thực tế cuộc sống thường ngày vẫn diễn ra tại các lớp học hay tập thể này. Các em
phải chấp hành nội quy địa phương chính là cách để các em thích ứng tâm lý được với tái hòa
nhập đôi khi, các mối quan hệ với hàng xóm và bạn bè tạo cho các em sự chưa dễ chịu.
Thực tế những nhóm hay lớp học, tập thể kiểu này chủ yếu là dành cho những người vi
phạm pháp luật, nên họ sống với nhau theo cách không hoàn toàn tin tưởng và phòng thủ về tâm
lý với nhau, những xung đột, mâu thuẫn hàng ngày nảy sinh do sự thiếu hụt giao tiếp với bên
ngoài, do sự thiếu hụt kiến thức về các chuẩn mực xã hội.... Tất cả sẽ tạo nên áp lực không nhỏ
đến sự thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi về
địa phương. Các em phải chấp nhận và thích ứng tâm lý với những quy luật này để tồn tại và
sinh sống trở thành người lương thiện trong xã hội.
Dự báo yếu tố xã hội tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
Dữ liệu nghiên cứu ở bảng 3.16b cho thấy yếu tố xã hội (Chính quyền và các tổ
chức xã hội) có khả năng dự báo tới cả thích ứng tâm lý chung và ba thành phần thích ứng
tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với cuộc sống ở địa
phương và đều tác động theo chiều thuận thể hiện ở chỉ số sig có ý nghĩa thống kê đều
=0,000 và Bêta lần lượt là 0,478; 0,301, 0,371 và 0,512. Theo đó yếu tố xã hội có khả năng
dự báo tác động mạnh nhất tới thích ứng về hành vi (giống yếu tố Gia đình đã phân tích ở
trên); khi biến chính quyền tăng/giảm 1 đơn vị thì biến hành vi tăng/giảm 5,12 đơn vị và
ARS= 0,168 cũng ở mức cao; tiếp theo là khả năng dự báo tác động tới thích ứng chung và
thấp nhất là khả năng dự báo tác động tới thích ứng về nhận thức. Như vậy, có thể thấy,
yếu tố chính quyền với những công cụ và quyền lực của mình tuy không cho khả năng dự
báo thích ứng tâm lý chung cao nhất nhưng lại tác động mạnh mẽ nhất tới thích ứng về
hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo chiều hướng chấp
nhận và làm theo. Kết quả này cùng với những kết quả quan sát mà chúng tôi thu được cho
thấy sự quan tâm của các tổ chức xã hội và những người có trách nhiệm ở địa phương đã có sự
cải thiện trong những năm qua. Thay vì mờ nhạt, giao tiếp theo cách giao tiếp xã giao thủ tục
hành chính thông thường là chủ yếu, thì bây giờ đa số các địa phương đã có cán bộ chuyên trách
(Phó chủ tịch phường/xã phụ trách mảng xã hội của địa phương, Cảnh sát khu vực, Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ...) nên giao tiếp có tính chất chia sẻ, động viên giúp đỡ là nguyên tắc hàng đầu.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi được lý giải rõ hơn khi phỏng vấn một số người người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD “Ban đầu cháu rất ngại giao tiếp với các cô chú
đến hỏi thăm khi cháu mới về, cháu thường “né”, tránh tiếp xúc. Sau vài lần cháu thấy cũng đỡ
và hiểu dần các cô chú ấy” ( T.H.Q Lộc Bình, Lạng Sơn) hay “... khi mọi người đến nhà cháu
và giao tiếp, cháu thường nghĩ cách đối phó. Nhờ người nhà cháu giải thích cháu thấy yên tâm
dần và tin tưởng các cô chú ấy” (Đ.A.T phường Thổ Quan, Đống Đa, Hà Nội) . Điều này cho
thấy, các em luôn tạo một khoảng cách tâm lý nhất định đối với tất cả cán bộ của địa phương,
thậm chí cả bạn bè và có ảnh hưởng tới thích ứng với tái hòa nhập của các em. Chia sẻ với chúng
tôi về điều này, chị N.T.H, Phó chủ tịch Hội phụ nữ phường đã có thời gian tham gia công tác
Hội 22 năm cho biết thêm "Các chị em chúng tôi ở đây gắn bó với công việc Hội và trách nhiệm
thực sự. Khi địa phương có cháu bị đi TGD chị em lại đặt ra vấn đề trong cách nuôi dạy và công
tác bảo vệ trẻ em chưa được an toàn và thấy có phần trách nhiệm của mình. Do đó, chúng tôi
luôn hết sức tận tâm, chu đáo và nhiệt tình trong công tác giáo dục lại khi các cháu được trở về
địa phương sinh sống. Bằng nhiệt huyết của mình, chúng tôi đã giúp đỡ nhiều cháu làm quen,
thích nghi, ổn định cuộc sống qua trao đổi, chia sẻ, động viên kịp thời các chấu. Tuy nhiên, mỗi
cháu có hoàn cảnh, lý do khác nhau, mặc cảm tự ti sẵn nên chị em chúng tôi cũng phải tham
mưu, đề xuất chính quyền địa phương tổ chức diễn đàn, hường dẫn động viên kịp thời những
mong các cháu tiến bộ”
Như vậy, trên cơ sở phân tích các yếu tố gắn với môi trường dự báo tới các thành phần
của sự thích ứng tâm lý có thể tóm tắt thành một số điểm chính như sau:
Một là, các yếu tố thuộc về gia đình và xã hội của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD dự báo khả năng tác động đến tất cả các thành phần thích ứng tâm lý của
các em. Trong đó, khả năng dự báo tác động mạnh nhất là tới thích ứng về hành vi, sau đó là
thích ứng chung.
Hai là, mối quan hệ với hàng xóm và bạn bè của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD cho thấy khả năng dự báo tác động theo chiều thuận tời mặt nhận thức ,
còn lại tác động theo chiều nghịch.
Ba là, tổ chức xã hội và chính quyền là yếu tố dự báo cao nhất tới thích ứng tâm lý của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Các yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Theo lý thuyết của Tremblay (1992), tác giả nêu ra các yếu tố gắn với môi trường
ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý là điều kiện xã hội vi mô, điều kiện xã hội vĩ mô. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi nghiên cứu các yếu tố gắn với môi trường vi mô đó là các mối
quan hệ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng
đồng như: mối quan hệ với gia đình, mối quan hệ với bạn bè, hàng xóm và mối quan hệ
với các tổ chức xã hội và chính quyền.
Kết quả nghiên cứu dự báo các yếu tố gắn với hoạt động và môi trường sống của cá
nhân tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD sau khi sử dụng mô hình Hồi quy tuyến tính và đã loại bớt đi các biến
số dự báo không tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi thu được kết quả như ở bảng 3.16b
Bảng 3.16b. Dự báo các yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý
Nhân
Thích ứng chung
Mặt Nhận thức
Mặt Thái độ
Mặt Hành vi
tố
Bêta
Sig VIF Bêta
Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta
Sig VIF
0,290 0,000 1,161 0,137 0,004 1,161 0,256 0,001 1,161 0,320 0,000 1,161
Gia
0,017 0,004 1,034 0,179 0,001 1,034 0,080 0,002 1,034 0,104 0,000 1,034
đình
Hàng
0,370 0,000 1,161 0,279 0,000 1,161 0,265 0,001 1,161 0,379 0,000 1,161
xóm
Xã
hội
R2= 0,129;sig=0,004;
R2= 0,118; sig=0,004;
R2= 0,189; sig=0,002;
R2= 0,256;sig=0,000;
DW=1,611
DW=1,589
DW=1,600
DW=1,644
Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) là 0,129 và sig, 0,004.
Kết quả này chấp nhận được và điều này cũng được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa
tuổi này ở các em là tính thất thường, dễ bốc đồng, dễ bị kích động bởi các yếu tố trong
môi trường sống. Cả 3 yếu tố thuộc về khách quan đều có tác động theo chiều thuận đến
thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với giá
trị tương ứng của Bêta>0 . Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về khách quan tác động đến thích
ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là R2=0,129 và
sig= 0,004 đều là những giá trị có ý nghĩa thống kê. Kiểm tra giá trị VIF đều < 2 tức là không
có hiện tượng đa cộng tuyến.
Các yếu tố thuộc về khách quan dự báo tác động thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng về mặt nhận thức.
Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) thích ứng nhận thức
đạt 0,118 và sig= 0,004 điều này cho thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với tập
dữ liệu của mẫu và các số liệu thu được có ý nghĩa về mặt thống kê. Khi thu được kết quả
bảng 3.16b tác giả đã phải loại bỏ bớt một số biến trong các yếu tố không có tác động dự
báo biến phụ thuộc về mặt nhận thức.
Như vậy nhìn vào trên ta thấy cả 3 yếu tố đều có tác động theo chiều thuận đến thích
ứng tâm lý về mặt nhận thức. Cụ thể yếu tố chính quyền có ảnh hưởng nhiều nhất với Bêta=
0,279 và sig= 0,000 tức là yếu tố chính quyền tăng/giảm 1 đơn vị thì thích ứng tâm lý về
nhận thức tăng/giảm 2,79 đơn vị; tiếp theo là yếu tố hàng xóm tăng/giảm 1 đơn vị thì thích
ứng tâm lý về nhận tăng/giảm 1,79 đơn vị; biến là Gia đình khả năng dự báo có ý nghĩa
thống kê đối với biến phụ thuộc là thích ứng về mặt nhận thức theo tỉ lệ 1: 1,37 đơn vị.
Như vậy các yếu tố thuộc môi trường sống đều có khả năng dự báo thích ứng về mặt nhận
thức với tái hòa nhập cộng đồng của NCHXBPXLHC đưa vào TGD.
Các yếu tố thuộc về khách quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng về mặt thái độ.
Với bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) thích ứng thái độ là 0,189
và sig= 0,002 biến thiên của biến phụ thuộc thích ứng về mặt thái độ được giải thích bởi
các biến nhân tố độc lập. Điều này cho thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với
tập dữ liệu của mẫu. Thích ứng về mặt thái độ đạt đến độ chặt. Điều này cũng được lý giải
bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này đang định hình và phát triển nhân cách. Tâm lý các
em ở giai đoạn này mặc dù đã có chính kiến của chính mình từ những kinh nghiệm của bản
thân cá nhân và lĩnh hội từ nhừng giai đoạn trước nhưng các em vẫn chịu tác động rất nhiều
từ môi trường sống. Do vậy tính cách thay đổi thất thường, lúc “nắng”, lúc ”mưa” nên các
nhà Tâm lý học gọi đây là “giai đoạn khủng hoảng”.
Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,600 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=
0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,600 như bảng trên thì 0,340< 1,600< 1,733.
Điều này phù hợp với R2 ở trên. Với DW=1,600 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không
quyết định được biến độc lập. Chính điều này mà nhóm tác giả khi nghiên cứu và thu được
kết quả sẽ lưu ý trong phần đề xuất giải pháp tác động đến các yếu tố thuộc về khách quan
giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa nhập cộng
đồng về mặt thái độ.
Từ Bảng 3.16b trên, kiểm định các giả thuyết sử dụng phần mềm SPSS: các giá trị
ở cột Sig. đều < 0,005 chứng tỏ các biến độc lập đều tác động có ý nghĩa thống kê đến biến
phụ thuộc. Nghĩa là các giả thiết đều được chấp nhận. Giá trị Bêta dương, điều này chứng
tỏ các biến độc lập có tác động thuận đến biến phụ thuộc là thích ứng về mặt thái độ.
Khi kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc
lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance inflation factor) ta
thấy theo bảng 3.16b tất cả các biến đều có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện
tượng đa cộng tuyến.
Các yếu tố thuộc về khách quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
Giáo dưỡng về mặt hành vi.
Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) là 0,256 và sig= 0,000
điều này cho biết các giá trị thu được có ý nghĩa về mặt thống kê, biến thiên của biến phụ
thuộc thích ứng về mặt hành vi được giải thích bởi các biến nhân tố độc lập. Điều này cũng
được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này dễ dàng tiếp nhận sự giáo dục từ phía
gia đình và các tổ chức giáo dục khác song do lứa tuổi đang định hình và phát triển nhân
cách, chưa thể tập trung chú ý vào một đối tượng nhất định nên nhiều khi nhận thức đúng,
có thái độ tích cực với các quy định của địa phương song khi thể hiện ra bên ngoài bằng
hành vi vẫn chưa có sự thống nhất với mặt nhận thức, thái độ. Kết quả này có thể chấp
nhận được và có thể dùng để dự báo về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi để từ đó có đề xuất
biện pháp thích hợp nhằm nâng cao thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi nói riêng góp phần nâng cao
thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD.
Với hệ số tự tương quan DW=1,644 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không
quyết định được biến phụ thuộc.
Kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc lập)
thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance inflation factor) ta thấy tất
cả các yếu tố đều có VIF nhỏ hơn 2 chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Như vậy, trên cơ sở phân tích các yếu tố thuộc về khách quan dự báo ảnh hưởng tới thích
ứng tâm lý chung và các thành phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD có thể tóm tắt thành một số điểm chính như sau:
Một là, yếu tố gia đình và xã hội của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD dự báo khả năng tác động đến tất cả các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Trong đó, khả năng
dự báo tác động mạnh nhất là tới thích ứng về hành vi, sau đó là thích ứng về thái độ.
Hai là, yếu tố hàng xóm, bạn bè cho thấy khả năng dự báo tác động tới thích ứng với tái
hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về cả 3 mặt
của thích ứng tâm lý và thích ứng chung.
3.2.3. Tổng hợp mô hình dự báo các yếu tố tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu ở trên về các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với
tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể
tổng hợp ở bảng 3.17 dưới đây:
Bảng 17. Tổng hợp mô hình các yếu tố dự báo
Nhân
Mặt Nhận thức
Mặt Thái độ
Mặt Hành vi
Thích ứng chung
tố
Bêta Sig VIF Bêta
Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta Sig VIF
-0,23 0,000 1,154
-0,11
0,001 1,154
-0,24 0,003 1,154
-0,26 0,004 1,154
Trầm cảm
Nhận
-0,27 0,002 1,234
-0,10
0,001 1,234
-0,12 0,004 1,234
-0,16 0,002 1,234
thức
Hành vi
0,35
0,000 1,637
0,22 0,002 1,637 0,26
0,000 1,637 0,32
0,000 1,637
tích cực
-0,17 0,001 1,522
-0,19 0,002 1,522
-0,15 0,002 1,522
-0,18 0,004 1,522
Mặc cảm
0,18
0,001 1,584
0,11 0,001 1,584 0,15
0,002 1,584 0,18
0,002 1,584
Gia đình
0,26
0,000 1,493
0,24 0,004 1,493 0.11
0,000 1,493 0,19
0,002 1,493
Hàng xóm
0,22
0,002 1,569
0,23 0,002 1,569 0,33
0,000 1,569 0,32
0,000 1,569
Xã hội
R2= 0,33;sig= 0,000;
R2= 0,33; sig=0,000;
R2= 0,49; sig=0,000;
R2= 0,49; sig=0,000;
DW=1,561
DW=1,664
DW=1,511
DW=1,531
Kết quả cho thấy cả 6 yếu tố của mô hình đa biến đều có ý nghĩa thống kê với sig
=0,000(< 0,005). Các yếu tố thuộc về chủ quan cá nhân như Trầm cảm, mặc cảm, nhận
thức hay hành vi tích cực đến các yếu tố thuộc về khách quan như việc Gia đình, hàng
xóm, xã hội đều có khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Cụ thể dữ liệu nghiên cứu cho thấy các yếu tố thuộc về khách quan cá nhân có tác động
tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD mạnh hơn là các yếu tố thuộc về chủ quan. Các giá trị Bêta dương tức là tương
quan biến đổi theo chiều thuận thể hiện ở các yếu tố hành vi tích cực; gia đình; hàng xóm và
xã hội; các yếu tố Trầm cảm; mặc cảm và nhận thức có Bêta < 0 tức là tác động ảnh hưởng
theo chiều nghịch. Điều này mới thấy sự tác động lẫn nhau giữa các nhân tố trong quá trình
tác động đến các biến phụ thuộc nghiên cứu. Với người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD những tác động từ môi trường sống có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống
nói chung và tái hòa nhập nói riêng của họ.
Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Hiền Thu (2017) có
căn nguyên từ tâm lý lứa tuổi, tâm lý của người “có vết”. Đó là xu hướng hướng ra bên
ngoài nhưng lại vướng mặc cảm, tự ti; bản thân các em rất mong muốn mọi người trong xã
hội, những người sống xung quanh xóa bỏ định kiến đối với “vết” của các em, trông chờ
sự hỗ trợ, giúp đỡ cảm thông của người thân trong gia đình, chính quyền, các tổ chức xã
hội, hướng dẫn để các em hình thành thói thực hiện các nội quy của địa phương để thích
ứng được với môi trường sống [3].
Từ kết quả nghiên cứu về các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể rút ra một số điểm
chính như sau:
Khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì tất cả các yếu tố mà nhóm nghiên cứu
đưa ra dự báo tới thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tuy nhiên mức độ khác nhau. Các yếu tố thuộc về
chủ quan dự báo mạnh hơn các yếu tố thuộc về khách quan. Xét theo từng yếu tố riêng lẻ
thì yếu tố hành vi tích cực tác động đồng đều và mạnh nhất tới thích ứng tâm lý chung và
từng thành phần thích ứng tâm lý. Các yếu tố còn lại cho thấy khả năng dự báo nhưng mức
độ thấp hơn tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo tác động đến thích ứng tâm lý chung và các
thành phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD tuy nhiên chưa đồng đều và chưa thể hiện tính quyết định
trong tương quan với các yếu tố thuộc về khách quan nhưng không thể thiếu. Điều này lý
giải từ quan điểm của Tâm lý học hoạt động đó là hành vi của con người chịu sự định
hướng điều khiển điều chỉnh của tâm lý chính họ; mà tâm lý con người hình thành và phát
triển được quyết định bởi hoạt động của cá nhân và có nguồn gốc từ môi trường sống. Đây
là mối quan hệ biện chứng có tính quyết định giải thích tất cả hành vi của con người. Mà
thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng là qúa trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi đời
sống tâm lý để thay đổi hành vi cho phù hợp với cộng đồng. Đồng thời, khi chấp hành
xong thời gian ở TGD quay trở về địa phương, họ phải đối diện với những phức tạp, thách
thức và khó khăn tâm lý do môi trường sống thay đổi, sự nhìn nhận của xã hội... nên tạo
ra những áp lực rất lớn tới đời sống tinh thần của họ, buộc họ vừa phải thích ứng với những
yêu cầu có tính chất bắt buộc của nhóm, cộng đồng xã hội mà họ sinh sống vừa phải linh
hoạt trong ứng xử. Trong những thay đổi như vậy buộc người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD phải tự mình tìm ra cơ chế, cách thức riêng để có thể thích ứng được
với những yêu cầu của cộng đồng vừa thích ứng được với các mối quan hệ phức tạp của cá
nhân.
3.3. Nghiên cứu trường hợp thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng
3.3.1. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ cao.
3.3.1.1. Mô tả trường hợp.
Họ và tên: N.T.T. (tên được giấu); Năm sinh: 2001
Quê quán: xã Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên
Thời gian chấp hành ở TGD: 24 tháng
Thời gian đã về địa phương sinh sống: 3 năm 3 tháng
ĐTB tự đánh giá thích ứng tâm lý: 3,62/4,00 điểm
Kinh tế gia đình: Đủ ăn
Đang sinh sống tại Hà Nội
N.T.T đang là nhân viên làm việc tại chuỗi cửa hàng KOTO tại Hà Nội. T được đào
tạo và giao nhiệm vụ là nhân viên chạy bàn tại Nhà hàng số 59- Văn Miếu, Hà Nội. Năm
2015, N.T.T nhận quyết định Xử phạt hành chính đưa vào TGD của Tòa án nhân dân huyệ
nhận thức, n Đại Từ, Thái Nguyên với hành vi vi phạm là Trộm cắp tài sản. Quá trình học
tập và rèn luyện tại TGD số 2 ở Ninh Bình, T nhận thức được lỗi của mình, yên tâm học
tập cải tạo tốt. Kết quả T được Trung tâm dạy nghề nhân đạo KOTO xét chọn đào tạo và
hướng nghiệp để làm việc tại chuỗi nhà hàng của trung tâm. Sau khi chấp hành xong tại
TGD số 2, T được Trung tâm KOTO bố trí ăn, ở và học tập tại Trung tâm. Trải qua thời
gian thử thách, thăm dò, quan sát và được đánh giá về các tiêu chí như phẩm chất, thái độ
và hành vi chấp hành nội quy tốt, không vi phạm nội quy của Trung tâm. Có thái độ thành
khẩn, cầu thị, lễ độ trong giao tiếp và ứng xử với cán bộ và những học viên khác, T được
đào tạo nghề và tiếng Anh giao tiếp 1 năm, được bố trí vào làm việc tại chuỗi nhà hàng tại
Hà Nội. Hiện nay T tự tin sống bằng lao động chân chính của mình tại nhà hàng của Trung
tâm. Chúng tôi quan sát thấy T rất nhanh nhạy, chủ động trong các công việc được giao,
hòa nhã giao tiếp với khách hàng và đồng nghiệp. Theo các tiêu chí đánh giá N.T.T có sự
thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD và thể hiện ở thích ứng về từng mặt nhận thức, thái độ và hành vi đều ở mức khá cao
và đồng đều. Kết quả tự đánh giá về thích ứng tâm lý từng thành phần cụ thể sau: thích ứng
về nhận thức: ĐTB là 3,74; thích ứng về thái độ: ĐTB là3,62; thích ứng về hành vi: ĐTB
là 3,50. Các biểu hiện thích ứng tâm lý của N.T.T với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD như sau:
Thích ứng về nhận thức:
Qua quan sát thực tiễn và phỏng vấn có thể thấy N.T.T là một trong số ít những
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hiện đang lao có công ăn việc làm
khá ổn định. Tự chắt chiu, chi tiêu, làm chủ cuộc sống của mình bằng lao động chân chính.
T thỏ thẻ “ trước tết em gửi biếu bà ngoại và mẹ em 3 triệu đồng, đây là lần đầu tiên em
có tiền biếu người thân yêu nhất để bắt đầu cuộc sống hồi sinh của em”. L.P.A là đồng
nghiệp của T nhận xét “T tự giác làm việc, rất có ý thức chấp hành tốt quy định của Nhà
hàng, có thái độ ứng xử với khách hàng và đồng nghiệp phù hợp. Đặc biệt với các công
việc được chị Nhóm trưởng giao, T luôn chủ động hỏi và tập trung hoàn thành tốt nhất có
thể”. Trao đổi với nhóm nghiên cứu chúng tôi, anh Phạm Anh Tuấn- người sáng lập và gây
quỹ của tổ chức KOTO cho biết: "Thời gian đầu mới vào trung tâm, T cũng như một số
học sinh TGD được lựa chọn vào đào tạo tại trung tâm còn hoang mang, dao động vì không
hiểu tương lai mình có thực sự được thay đổi và đặc biệt còn dè dặt trong giao tiếp với
nhân viên của trung tâm. Hoàn cảnh gia đình T cũng khá đặc biệt, 1 mẹ, 1 con ở với bà
ngoại, bố mẹ bỏ nhau và bố lấy vợ khác từ khi T còn nhỏ. Trong thời gian ở TGD bố gần
như không thăm gặp, gửi quà, chỉ có mẹ em thỉnh thoảng tới thăm. Khi chúng tôi hỏi han
và động viên em đã phá bỏ dần những rào cảm tâm lý và kết quả thay đổi như bây giờ ".
Với hoàn cảnh đặc biệt như vậy nên khi trao đổi với chúng tôi, T chia sẻ "ở đây trước mắt
vẫn vất vả và thiếu thốn cô ạ. Nhưng em đã coi đây là nơi em được sinh ra lần thứ 2 em sẽ
cố gắng vượt qua để góp sức vào xây dựng trung tâm để cho nhiều em có hoàn cảnh như
em có cơ hội làm lại”
“Hồi mới đến chấp hành ở TGD, cháu nghĩ “vào tù” là hết, tưởng không thể vượt
qua giai đoạn này. Vì nhà cháu không có người thăm gặp mấy nên cháu cứ học tập và rèn
luyện cho tốt, thành khẩn và chân thành, trung thực với các thầy cô giáo". Như vậy, sự
thay đổi trong cách nghĩ, sự nhận thức đúng đắn của N.T.T đã giúp em có được sự tự tin,
xóa bỏ mặc cảm tự ti và được các thầy cô giáo, cán bộ trung tâm nhìn nhận giao công việc
nên T đã dần thể hiện được bản thân theo hướng tích cực. Khi chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD, T được nhận vào trung tâm KOTO và vẫn thái độ thành khẩn, hướng
thiện mong muốn có cơ hội làm lại từ đầu T. đã thực sự thích ứng được với môi trường
sống về mặt nhận thức.
Thích ứng về thái độ
Về khía cạnh thái độ, N.T.T là một trong số ít người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD có điểm thích ứng về thái độ ở mức cao so với phần lớn số người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được khảo sát trong nghiên cứu của chúng
tôi. Tâm sự, trao đổi với nhóm chúng tôi, N.T.T chia sẻ rằng "Lúc mới ra trường mặc dù
được trung tâm nhận vào nhưng cháu lo lắng lắm vì thực sự không biết có ổn về sau không,
cháu không lo nghèo khó chỉ sợ lại bị phiêu dạt như trước đây chỉ vì thái độ của mọi người
xung quanh. Có thể nói, sự thay đổi ở T là cả một quá trình mà phải gạt ra những điều theo
T là "không cần thiết" để đạt được đích là "được về nhà an toàn". Cuộc sống trôi qua đôi
khi khiến cho T ban đầu mới ra trường "thấy nản! Nhiều khi do mọi người cùng thiếu thốn
tình cảm nên hay cáu gắt lắm ạ. Tính cháu lại không thích va chạm với ai, chỉ có mong
muốn được yên ổn thôi cô ạ". Theo quan sát của chúng tôi, các em ở Trung tâm được sự
quan tâm, giáo dục của cán bộ quản lý nên ứng xử với nhau rất tốt, biết nhường nhịn, đôi
khi xung đột, mâu thuẫn với nhau nhưng lại có cách giải quyết hợp lý để cùng nhau hòa
nhập cuộc sống. Điều này chứng tỏ các em đã kìm nén được thái độ tiêu cực sau thời gian
dài ở TGD, đã ít nhiều biết cách cân bằng cảm xúc, nhu cầu của bản thân để từ đó không
để những cảm xúc tiêu cực làm ảnh hưởng đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng của mình.
Thích ứng về hành vi
Về khía cạnh hành vi, N.T.T là người rất chú ý đến những quy định của Trung tâm
thể hiện thông qua giao tiếp, ứng xử của T với các thành viên trong Trung tâm và với người
thân trong gia đình. Việc N.T.T được Trung tâm dạy nghề nhân đâọ KOTO lựa chọn để
dạy nghề đã cho thấy rõ điều này. Trong thời gian quan sát cuộc sống sinh hoạt, học tập và
lao động của T tại trung tâm, kết quả thu được cho thấy T luôn tích cực học tập và thực
hành nghề, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong công việc được mọi người giao. Đồng
thời trong quá trình làm việc, có gì không rõ thường chủ động hỏi những người đi trước.
Để đạt được như hiện tại, T cho hay "Lúc mới đầu mặc dù là một trong số ít người được
trung tâm lựa chọn vào dạy nghề nhưng cháu cũng chán lắm, thể hiện cũng hay cáu gắt
với mọi người; nhưng cháu vẫn phải cố kìm nén lại và tự nhủ rằng mình phải cố gắng. Nói
về N.T.T, anh P.A.T- Giám đốc trung tâm KOTO cho biết: "đặc thù của việc học và thực
hành nghề ở đây là hàng ngày tiếp xúc với đủ các thành phần trong xã hội, họ lại là
“thượng đế” của chúng tôi nên đòi hỏi phải làm cho khách hàng hài lòng, đó là cam kết
và chát lượng để chúng tôi tồn tại được và N.T.T đã phần nào làm tôi yên tâm về sự tự giác
trong làm việc: nghiêm túc, đúng mực mặc dù lúc đầu phải nhắc nhở đôi chút. Tôi rất hài
lòng về em. Ở đây T có cơ hội thể hiện những rằng mặc dù em đã có điểm sai trái xong em
đã sửa chữa, khắc phục được về mặt nhân cách". Ngoài ra, về phía bản thân mình, T cũng
luôn chú ý đề cao tinh thần trách nhiệm "Cháu biết các cô thương cháu nên mới cho cháu
được học nghề ở đây và cũng là sự tạo điều kiện và nhân văn của các cô đối với cháu. Vì
thế, cháu không dám làm gì vi phạm nội quy của trung tâm hay lười học. Bởi vì cháu biết
rất nhiều bạn khác muốn được vào đây học mà không được. Được vào đây có cơ hội có
việc làm sau này và không gây nhàm chán vì có thời gian rỗi; đồng thời, cũng là cơ hội tốt
để cháu tránh xa được sự coi thường của mấy người ngoài xã hội "
3.3.1.2. Đánh giá trường hợp
Trường hợp N.T.T. là trường hợp tiêu biểu của sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mức tốt xuất phát
từ việc nhận thức đúng đắn vị trí của mình và những điều cần phải làm trong các mối quan
hệ mới. Từ đó T tìm cho bản thân mình cách để cân bằng cảm xúc bản thân, hình thánh
thái độ phù hợp như không có thái độ và cảm xúc tiêu cực, hạn chế được những xúc cảm
âm tính và yên tâm học tập để làm lại từ đầu. Chính vì vậy, T tạo được niềm tin cho mọi
người về sự tiến bộ và phù hợp với cuộc sống hiện tại.
Trường hợp của N.T.T đã cho thấy sự nỗ lực của bản thân để thay đổi nhận thức,
thái độ và hành vi khi họ chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD- đây chính là
động lực giúp họ thích ứng được với tái hòa nhập cộng đồng. Điều này xuất phát từ chỗ họ
cần có nhận thức rõ ràng và đúng đắn, cân bằng được cảm xúc để có thái độ đúng đắn và
đặc biệt là luôn luôn hướng thiện, tránh vi phạm.
3.3.2. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ thấp
3.3.2.1. Mô tả trường hợp
Họ và tên: C.T.P (tên được giấu); Năm sinh: 2002
Quê quán: Phường Vệ An, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Thời gian vào TGD: 24 tháng
Thời gian đã về địa phương sinh sống: 9 tháng.
Điều kiện kinh tế gia đình: Đủ ăn
ĐTB tự đánh giá thích ứng đạt: 1,95 (với các điểm thành phần từng biểu hiện là:
thích ứng về nhận thức ĐTB đạt 2,13; thích ứng về thái độ ĐTB đạt 1,80; thích ứng về
hành vi ĐTB đạt 1,92).
C.T.P chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ngày 27/1/2019. Hoàn cảnh
của P rất đặc biệt: Bố chết, mẹ bỏ đi lấy chồng và ở bên nước ngoài không có thông tin. Ở
với bà ngoại từ nhỏ; năm 2015 bà ngoại mất, không có người thân thích nuôi dưỡng em bỏ
nhà đi lang. Trong quá trình học tập và rèn luyện tại TGD số 2 Ninh Bình, P không có bất
kỳ người thân nào đến thăm gặp. Nghiên cứu hồ sơ, trao đổi với P chúng tôi biết em bị bắt
vào TGD về hành vi tham gia đánh bạc đánh bạc bị bắt quả tang. Quan sát P trong quá
trình sinh sống tại địa phương chúng tôi nhận thấy em là một người khá giảo hoạt trong
giao tiếp và nhanh nhạy trong ứng xử. Các biểu hiện thích ứng kém của P trong quá trình
sinh sống ở địa phương chủ yếu là thích ứng kém với thực hiện nội quy của địa phương và
được mô tả như sau:
- P sống một mình khá vất vả với cuộc sống và luôn thể hiện thái độ khó chịu tất cả
mọi người hàng xómg quanh em. Do không có người thân thích và cũng chưa được đào
tạo bất cứ nghề gì nên P phải tự đi kiếm việc tự do để sinh sống. Những hôm không tìm
được việc P lại quay về rửa bát thuê cho quán bún gần nhà để kiếm miếng ăn, thỉnh thoảng
P to tiếng, gây gổ và có thái độ khó chịu với những người cùng làm thuê khác.
Vào nhà P quan sát thấy nhà em khá bừa bộn, mặc dù có một mình ở lại là con gái
nhưng nhà và khu vệ sinh không sạch sẽ và đặc biệt rác rưởi quanh nhà nhưng cũng không
quét dọn.
- Vào các buổi tối thời tiết khó chịu, chưa ngủ được, P gây mất trật tự bằng cách rủ
bạn bè đến hát hoặc nói chuyện làm ồn, gây ảnh hưởng đến các hộ cư dân xung quanh. Mọi
người có ý kiến thì P phản ứng bằng cách làm ồn ào thêm hoặc “cãi cùn”. Kết quả là 2 lần
Công an phường phải đến lập biên bản và kiểm điểm P từ khi về địa phương cho đến nay.
Đặc biệt, trong một tình huống mâu thuẫn từ trước và không chào hỏi người lớn tuổi
hơn, khi bị nhắc nhở, P đã nhổ nước bọt xuống đất trước mặt người lớn tuổi hàng xóm.
Tuy không gây ra hậu quả nghiêm trọng về người hay tài sản gì nhưng thể hiện sự chưa
thích ứng với cuộc sống nơi em ở.
Trao đổi với nhóm nghiên cứu, C.T.P nói rằng "cháu còn trẻ, cháu không muốn bị
mọi người đối xử với cháu thế này, hơi một tí có việc xảy ra ở đây như mất cắp hay con
cháu họ không ra gì toàn hướng sang nhà cháu chửi đổng.Cuộc sống đã khó lại càng chán
vì không biết bây giờ lại đi đâu. Cái gì cũng thiếu, mùa hè nóng như thế này, nhà cháu
cũng chì có mỗi cái quạt cháu mua lại của bọn đồng nát cháu vẫn phải chịu.... "
- Ngoài ra, quan sát quá trình lao động của P khi có việc làm thuê, dù ở nhà cá nhân
hay làm nông nghiệp, trồng trọt chúng tôi thu được một số điều: P thực hiện hành vi chưa
tự giác. Cụ thể việc lau dọn sân vườn cho chủ nhà thì P cũng chỉ làm đúng theo hợp đồng,
cỏ không nhổ, không tưới nước cho cây, chủ nhà nhắc thì P bảo không nói trước khi làm
và mặc cả phải trả thêm tiền thì mới làm.... “cháu chỉ có cơm với rau thôi cô ạ. Bây giờ
cháu muốn được đi khỏi nơi này nên cháu đang tìm người mua nhà được giá là cháu bán
3.3.2.2. Đánh giá trường hợp
Trường hợp C.T.P tiêu biểu cho sự thích ứng tâm lý kém với cuộc sống ở địa
phương. Do mới về địa phương chưa đến 1 năm nên có thể P chưa biết cách kiểm soát, tiết
chế những nhu cầu, sở thích cá nhân cũng như thay đổi lối sống, cách sinh hoạt cho phù
hợp với điều kiện thực tế của mình và đáp ứng với yêu cầu của nội quy ở địa phương.
Chính vì vậy, P đã vi phạm nội quy ở địa phương và bị cán bộ địa phương nhắc nhở, giáo
dục riêng nhưng chưa có sự thay đổi rõ rệt.
Trường hợp C.T.P đã cho thấy sự mất cân bằng tâm lý giữa những mong muốn, nhu
cầu, cảm xúc của cá nhân với những yêu cầu, quy định bắt buộc phải thực hiện đối với một
công dân làm nảy sinh những hành vi chống đối cộng đồng, vi phạm nội quy.
Tiểu kết chương 3
Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi rút ra một số kết luận
chính như sau:
Phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng ở mức
độ trung bình với các quy định của địa phương. Điều này thể hiện ở cả ba khía cạnh nhận
thức, thái độ và hành vi. Trong đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
có mức điểm ĐTB thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng về mặt nhận thức cao hơn
so với điểm ĐTB thích ứng về mặt thái độ và hành vi. Kết quả này cho thấy người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD mới bắt đầu chấp nhận những yêu cầu của cộng
đồng xã hội nơi họ sinh sống nhưng chưa chưa hoàn toàn có sự thay đổi về nhận thức, thái
độ và hành vi của bản thân để phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội mặc dù trong sâu
thẳm họ vẫn luôn mong muốn điều này. Điều này thể hiện ở việc người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD chưa thực sự chấp nhận làm theo và thực hiện theo những
quy định của địa phương một cách chủ động và tích cực.
Sự tương quan giữa các khía cạnh của thích ứng tâm lý chủ yếu diễn ra theo chiều
thuận, với mức độ tương quan vừa và chặt, đặc biệt là tương quan giữa thích ứng về nhận
thức, thích ứng về cảm xúc với thích ứng tâm lý chung. Tuy nhiên, do khách thể nghiên
cứu chưa nhiều nên mối quan hệ giữa các yếu tố về nhân khẩu học với thích ứng tâm lý
chưa có ý nghĩa về mặt thống kê.
Các yếu tố dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở một số yếu tố thuộc về chủ quan và
khách quan. Trong đó, yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân) có khả năng dự báo mạnh mẽ
hơn so với yếu tố thuộc về khách quan tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD; tất cả các yếu tố thuộc về khách
quan và yếu tố hành vi tích cực thuộc về chủ quan cá nhân tác động theo chiều thuận và
còn lại có tác động theo chiều nghịch tới thích ứng tâm lý.
Kết quả nghiên cứu từ phần nghiên cứu 2 trường hợp điểm hình cung cấp thêm
thông tin về chân dung người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng
cao và thích ứng thấp với tái hòa nhập cộng đồng. Từ đây cho thấy cái nhìn sâu sắc hơn về
các khía cạnh khác nhau của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ TÂM LÝ HỌC
1. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, có thể rút ra một số kết luận như sau:
1.1. Về lý luận
- Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đều chỉ ra tầm quan trọng của thích ứng tâm
lý nói chung trong một số lĩnh vực và hoạt động của đời sống xã hội nhưng cho đến hiện nay
chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
nghiên cứu và chỉ ra thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD là sự chủ động, tích cực thay đổi nhận thức, thái độ và hành
vi ở chủ thể để thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện hành.
- Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD được thể hiện ở các nội dung: hoạt động học tập, hoạt động lao động,
quan hệ xã hội và sinh hoạt. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là một chỉnh thể thống nhất gồm ba thành phần:
nhận thức, thái độ và hành vi.
- Các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD bao gồm: 1. các yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân);
2. các yếu tố thuộc về khách quan (môi trường).
1.2. Về thực tiễn
Nghiên cứu chỉ ra rằng đại đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
đạt mức độ thích ứng ở mức trung bình với các yêu cầu, quy định của địa phương ở cả ba phương
diện nhận thức, thái độ và hành vi. Đánh giá chung, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mức độ trung bình.
Trong các thành phần của sự thích ứng thì người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD có mức độ thích ứng về nhận thức cao hơn cả so với thích ứng về thái độ và hành vi.
Nghiên cứu cũng cho thấy, trong các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý chung với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì yếu tố thuộc
về chủ quan có khả năng dự báo mạnh hơn so với các yếu tố thuộc về khách quan tới thích ứng
tâm lý. Đối với các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì kết quả nghiên cứu cho thấy sự quan tâm, động
viên, giúp đỡ của các tổ chức xã hội và chính quyền; của gia đình và đặc biệt là tự ý thức (hành
vi tích cực) của cá nhân có khả năng dự báo cao nhất tới thích ứng về hành vi của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Các kết quả nghiên cứu là cơ sở để nhóm nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn một số vấn đề
khác liên quan đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD như cần trang bị cho người đang chấp hành biện pháp XLHC
đưa vào TGD những kiến thức, kỹ năng gì khi chuẩn bị ra trường về địa phương sinh sống nhằm
nâng cao hơn khả năng thích ứng tâm lý của họ với đời sống xã hội. Cùng với đó là gia đình,
các tổ chức xã hội, cán bộ ở phương cần có những kiến thức về khách thể, về hoạt động để nâng
cao khả năng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, giáo dục các đối tượng
đặc biệt ở địa bàn cơ sở góp phần giữ ổn định trật tự xã hội.
2. Một số giải pháp về tâm lý học
Xuất phát từ các kết quả nghiên cứu thực tiễn nói trên và tổng hợp một số nghiên cứu
trước đó có thể thấy nếu người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được trang bị
kiến thức pháp luật đúng đắn, đầy đủ, được chăm sóc sức khỏe tinh thần, quan tâm tốt hơn thì
sẽ tăng khả năng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng khi họ ra khỏi TGD. Do đó, cần
phải có các biện pháp tác động để nâng cao sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, nhóm nghiên cứu gợi ý một số khuyến
nghị sau:
2.1. Đối với gia đình của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
- Các thành viên trong gia đình phải xác định trách nhiệm và vai trò trong việc nuôi dạy
các em đặc biệt là trong việc giáo dục lại, giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD tái hòa nhập một cách thuận lợi nhất, an toàn nhất.
- Phối hợp và tạo điều kiện với các tổ chức xã hội ở địa phương triệt để đấu tranh và xóa
bỏ những yếu tố tiêu cực trong môi trường sống có nguy cơ cao ảnh hưởng và lôi kéo các em
quay trở lại vi phạm pháp luật.
- Tạo môi trường gần gũi, lành mạnh để các em bình thường hóa các quan hệ xã hội, sinh
hoạt và có cơ hội học tập, lao động phát triển lành mạnh.
2.2. Đối với Chính quyền địa phương và lực lượng nòng cốt
- Xây dựng, đề xuất kế hoạch cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất như tạo dựng không gian
kiến trúc cảnh quan ở địa phương thoáng, sạch, đẹp nhằm tạo cảm giác thân thiện, gần gũi với
mọi người nói chung và với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Có như
vậy tạo nên ở họ cảm xúc tích cực, thoải mái khi về địa phương
- Tích cực hơn nữa trong việc xây dựng môi trường văn hóa trong các khu dân cư nhằm
tạo nên bầu không khí thân thiện, thấu hiểu và chia sẻ, đồng cảm giữa những người bình thường
với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và giữa họ với nhau. Điều này giúp
cho các em cảm thấy thân thiện, thoải mái hơn từ đó họ giảm được nguy cơ rơi vào trạng thái
rối nhiễu tâm lý như trầm cảm- lo âu- stress, làm ảnh hưởng đến khả năng thích ứng tâm lý với
cuộc sống mới ở địa phương.
- Trong quá trình đánh giá kết quả tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng nói chung
và người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nói riêng cần căn cứ vào những thay
đổi, biến chuyển của họ dựa trên cả ba khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi; đồng thời dựa
trên mức độ chấp nhận, mức độ thay đổi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD trong việc thực hiện các yêu cầu của địa phương.
2.3. Đối với Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường
Giáo dưỡng
- Cần hình thành, tự rèn luyện cho bản thân nhận thức rõ ràng về việc phải chấp hành các
chuẩn mực xã hội nói chung và nội quy địa phương là đúng đắn và cần thiết nhưng cũng phải
trải qua vô vàn những khó khăn, thách thức. Các em xác định quá trình tái hòa nhập của các em
không đơn độc, luôn có sự can thiệp hay hỗ trợ từ xã hội đến gia đình để giúp các em tránh bị
sốc tâm lý, mong chờ về tương lai, có niềm tin về cuộc sống.
- Phải xây dựng và rèn luyện thói quen sinh hoạt, ăn mặc, học tập và lao động theo sự
sắp xếp, tổ chức của gia đình, cộng đồng xã hội; hạn chế những nhu cầu không phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại.
- Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cần được trang bị và rèn
luyện kỹ năng sống tích cực để có thể tìm ra những cách thức nhất định vượt qua khó khăn
tâm lý trong giai đoạn mới ra trường GD tái hòa nhập cộng đồng và biết cân bằng trạng
thái tâm lý của bản thân, tránh nguy cơ rơi vào trạng thái trầm cảm- lo âu- stress.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng góp phần nâng cao hiệu quả công tác tái hòa nhập cộng
đồng. Tạp chí khoa học và giáo dục CSND số tháng 4/2020
2. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng. Tạp chí Tâm lý học số 262- tháng
01/2021
3. Yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng. Tạp chí Tâm lý
học số 268- tháng 7/2021
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Công an (2012), thông tư số 71/2012/TT-BCA, ngày 27 tháng 11 năm 2012, phân
công trách nhiệm quan hệ phối hợp giữa công an nhân dân trong việc thực hiện công tác tái hòa
nhập cộng đồng
2. Chính Phủ, Nghị định 49/2020/NĐ-CP, ngày 17 tháng 4 năm 2020, hướng đẫn
Luật thi hành án hình sự về tái hòa nhập cộng đồng
3. Nguyễn Văn Đài (2013), Giáo trình Quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ
sở, Học viện CSND.
4. Phan Thị Định (2020), "Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người chấp hành xong
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng góp phần nâng cao công tác tái
hòa nhập cộng đồng", Tạp chí Khoa học và giáo dục CSND, tr 27-31.
5. Chu Văn Đức (2006), Sự thích ứng của phạm nhân với chế độ sinh hoạt và chế
độ lao động tại trại giam, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Hà Nội.
6. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
7. Vũ Dũng (2011), Tâm lý học xã hội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB
Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
8. Vũ Dũng (2012), Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở ngước ta hiện
nay, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
9. Trần Thị Minh Đức (2004), Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ nhất-
Đại học Quốc gia Hà Nội với môi trường đại học, Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp
Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. S.Freud (2001), (ND. Nguyễn Xuân Hiển), Nhập môn phân tâm học, Nxb. Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
11. Jo. Godefrold (1998), Những con đường của Tâm lý học, tập 2, Tủ sách NT.
12. Đường Minh Giới, Phan Xuân Sơn (2017), Lý luận cơ bản về quản lý và giáo
dục cải tạo phạm nhân ở Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Công an Nhân dân
13. Golomstock A. E., (1979), Quan niệm giáo dục và lý thuyết về sự thích ứng nghề
nghiệp, NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Phạm Minh Hạc (2003), Một số công trình tâm lý học A.N. Leonchiev, NXB
Giáo dục.
15. Lê Văn Hảo & Knud S. Larsen (2012), Hành vi tổ chức trong một thế giới đang
thay đổi, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. B.R. Hergenhahn (2003), Nhập môn lịch sử tâm lý học, NXB Thống kê, Hà Nội.
17. Vũ Văn Hòa (2014), Giáo trình giáo dục phạm nhân, Học viện Cảnh sát nhân
dân, Hà Nội.
18. Vũ Văn Hòa (2013), Tổ chức tái hòa nhập cho người chấp hành xong án phạt
tù, Luận án tiến sĩ luật học.
19. Trần Thị Tân Hương (2006), Tội phạm nữ ở thành phố Hồ Chí Minh và khả
năng tái hội nhập của họ, Luận án tiến sĩ Xã hội học.
20. Đặng Phương Kiệt (chủ biên) (2001), Cơ sở tâm lí học ứng dụng, Nxb. ĐHQG,
Hà Nội.
21. Lê Ngọc Lan (2002), "Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên", tạp chí
Tâm lý học tháng 3.
22. Laura Knight-Jadczyk, Đại cương về chứng thái nhân cách,
http://cassiopaea.org/forum/index.php?topic=6459.msg88442#msg88442
23. Phan Quốc Lâm (1999), Sự thích ứng với hoạt động học tập của học sinh lớp 1,
Luận án tiến sĩ Tâm lý học.
24. Nguyễn Hồi Loan- Đặng Thanh Nga (2004), Tâm lý học pháp lý, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
25. Lê Thị Minh Loan (2012), Thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sau khi tốt
nghiệp: Thực trạng, nguyên nhân và một số kiến nghị, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội, trang 388-401.
26. Lomov B. Ph. (2000) (Nguyễn Đức Hưởng, Dương Diệu Hoa, Phan Trọng Ngọ-
dịch), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
27. Nguyễn Thị Thanh Mai (2009), Mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh
viên hệ cao đẳng- Trường đại học Công nghiệp Hà Nội, Luận án tiến sĩ.
28. Đặng Thanh Nga (2010), Sự thích ứng với hoạt động học tập theo phương thức
đào tạo tín chủ của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài khoa học cấp trường.
29. Phan Trọng Ngọ (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, NXB Đại học Sư
Phạm.
30. Vũ Thị Nho, Sự thích ứng với hoạt động học tập của học sinh tiểu học, Luận án
tiến sĩ.
31. Nguyễn Quốc Nhật (2008), Thực trạng và giải pháp quản lý giáo dục tù tha tái
hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý nhà nước về ANTT.
32. Phạm Thị Thục Oanh (2019), Thích ứng tâm lý của phạm nhân nữ với chấp hành
án phạt tù có thời hạn tại trại giam, Luận án tiến sĩ.
33. Piaget J. (1996), Tuyển tập tâm lý học, NXB Giáo dục.
34. Nguyễn Ngọc Phú (2004), Lịch sử tâm lí học, Nxb.ĐHQG, Hà Nội.
35. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự
2015.
36. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Thi hành án
hình sự 2010.
37. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật xử lý vi phạm
hành chính.
38. Mã Ngọc Thể (2016), Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học
tập, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
39. Vũ Hiền Thu (2016), Quản lý, giáo dục đối tượng chấp hành xong biện pháp xử
lý hành chính về địa bàn cơ sở, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
40. Nguyễn Xuân Thức (2005), Sự thích ứng hoạt động học rèn luyện nghiệp vụ của
sinh viên đại học sư phạm, Tạp chí Tâm lý học số 8, 2005
41. Nguyễn Hữu Toàn (2014), Tự ý thức về hành vi chấp hành án phạt tù của phạm nhân
trong trại giam, Luận án tiến sĩ Tâm lý học.
42. Đỗ Mạnh Tôn (1996), Nghiên cứu sự thích ứng đối với học tập và rèn luyện của học
viên các trường sĩ quan quân đội, Luận án tiến sĩ Tâm lý học.
43. Tổng cục VIII, Bộ Công an, Tổng kết công tác thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư
pháp từ 2014 đến hết năm 2018.
44. Đỗ Thị Thu Trang (2017), Công tác quản lý giáo dục học sinh tại các trường giáo
dưỡng, Luận án tiến sĩ Quản lý nhà nước về ANTT.
45. Từ điển Luật học (2006) NXB Tư pháp và NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
46. L.V.Vugotxki (1997), Tuyển tập Tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
47. Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển Tâm lý, NXB Ngoại văn Hà Nội.
48. Nguyễn Như Ý, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học Bách Khoa, Hà Nội, 2015
Tiếng Anh
49. A Muecke, S Lenthall, M Lindeman (2011), "Culture shock and healthcare
workers in remote Indigenous communities of Australia: what do we know and how can
we measure it?" Centre for Remote Health, Flinders University and Charles Darwin
University, Alice Springs, Northern Territory, Australia.
50. Anumonye A. (1970), African Student in Ailen Cultures- London
51. Adler, P. (1975) "The transitional experience: An alternative view of culture
shock", Journal of Humanistic Psychology 15, 13-23
52. Allen B.P (1990): Personal adjustment- California University USA.
53. Berry J.W (1990), Psychology of acculturation //J.Berman (Ed) Cross- Cutural
Perspectives/ Lincoln.
54. Carey A.T (1956), Colonical Students, L.,
55. Castro, Vanessa Smith, Acculturation an psychological adaptation,
www.doi.contentdirections.com/mr/greenwood.
56. Edward Zamble , Frank J. Porporino (1988), Coping, Behavior, and Adaptation
in Prison Inmates, Springer-Verlag publicshing.
57. Edwin M.Schur (1969), Our criminal society, USA
58. Hopkins J., Malleson N., Sarnoff I., (1957), "Som non-intellectual correlates of
success and failure among university students".// Bristish Journal of Sociology, 9, pages
25- 36.
59. Hamboyan, H., and A. K. Bryan (1995), "International Students. Culture Shock
Can Affect the Health of Students from Abroad", Canadian Family Physician 41:1713–
1716.
60. Jacobson E.H (1963), "Sojourn research: a definition of the field"./ Journal of
Social Issues, 19.
61. Janet I. Warren, Susan Hurt Ann, Booker Loper và Preeti Chauhan
(2004),Exploring Prison adjustment among Female: Issues of Measurement and
Prediction, Virginia University, American.
62. Katherine Salter PhD (cand.), Laura Allen MSc, Marina Richardson MSc,
Andreea Cotoi MSc, Alice Iliescu BSc, Breanne Carr BRLS, Robert Teasell MD, March
2018 “Evidence-Based Review of Stroke Rehabilitation- Community Reintegration
63. Marisa Singer (2012), "Human Behavior in the Prison Environment: Adaptation
as Survival", Journal of Social work. (https://silbermanvoices.wordpress.com/article-6-
vol-3/)
64. MacKenzie và Goodstein (1985) “The dependent between time in living
hometowm to community reintergration”
65. Oberg, K. (1954). Culture Shock. In Youblisher in Bobbs-Merril Series in
Social Sciences, Retrieved December 11, 2011,
from: http://www.youblisher.com/p/53061-Please-Add-a-Title/
66. Oberg K.(1960), "Cutural Shock: Adjustment to new cutural environments".//
Practical Anthropology, 177- 182.
67. Offender Reentry: Correctional Statistics, Reintegration into the Community,
and Recidivism Nathan James Analyst in Crime Policy January 12, 2015
68. Peter Creed, Tracy Fallon, Michelle Hood (2005), The relationship between
career adapbility person and Situation variable and career concerns in young adults, School
of Psychology, Griffith University, Australia.
69. Randall Allen Lowry (1998), A long-term follow- up of seriuos female
offenders.
70. Richard S. Lazarus (1969), Pattern of adjustment and human effectiveness-
McGraw-Hill book company, USA.
71. Raymond J. Corsini (1999), The dictionary of Psychology, USA.
72. Singgh A.K. (1963), Indian Students in Britian, Bombay.
73. Shivani Tomar (2013), Review article “The Psychological effects of
Incarceration inmates: Can we promote positive emotion in inmates”, Delhi Psychiatry
Journal Vol 16 No1, April 2013.
74. Strategies for Creating offender reentry programs in Indian counntry
75. Super D. E., & Knasel E. G, (1981), "Career development in adulthooh: Some
theoretical problems and a possible solution", British Journal of Guidance & counselling,.
76. Savickas M. L. (1994), "Measuring career development: Current status and
future derection", The career Development Quarterly.
77. Savickas M. L. (1997), "Career adaptability: An intergrative for Life- Span,
Life-Space Theory", The career Development Quarterly.
78. Savickas M. L. (2005), The Theory and Practive of career construction, In
Brown S. D., & Lent R. W. (Eds), Career development and counseling: Putting theory an
research to work, Hoboken, NJ: John Wiley.
79. Triandic H. (1994), Culture and social behavior.-N.Y.
80. Todd R. Clear, Michael D. Reisig, Carolyn Petrosino, Geoge F. Cole (2015),
American Corrections in brief, Third edition, Boston USA.
81. Yuefang Zhou, Divya Jindal-Snape, Keith Topping & John Todman (2008),
"Theoretical models of culture shock and adaptation in international students in higher
education", Studies in Higher Education Vol. 33, No. 1, 63–75.
Tiếng Nga
82. Лысков , Курбатова (1986), Юридическая психология, Изд. Лен.Уни.,
Лениндрад.
83. Ковалев А.Г.(1968), Психологические основы исправления и правона-
рушителя, Изд. Юридическая литература, М.
84. Сундуров Ф.Р, Социально-психологические и правовые аспекты
исправления и перевоспитания правонарушителей. Изд. Казанского Уни.
Website
85. https://www.hastac.org/blogs/natali-creglia/2016/12/01/impact-cultural-shock-
mental-health. Đăng bài ngày 1/12/2016.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: BỘ CÔNG CỤ NGHIÊN CỨU
PHỤ LỤC 1.1- BẢNG HỎI ĐIỀU TRA CHÍNH THỨC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CÁ NHÂN
KHOA TÂM LÝ- GIÁO DỤC
Chúng tôi đang nghiên cứu để đề xuất một số biện pháp giúp các em thích ứng tốt hơn
với cuộc sống cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng. Những thông tin em cung cấp trong nghiên cứu này sẽ chỉ phục vụ cho mục đích
nghiên cứu khoa học và được tuyệt đối giữ bí mật.
Chúng tôi rất mong em hợp tác, chia sẻ bằng cách trả lời các câu hỏi dưới đây một cách
xác thực nhất, không bỏ qua bất kỳ câu hỏi nào. Em hãy lựa chọn phương án trả lời đầu tiên
xuất hiện trong suy nghĩ của mình bằng cách đánh dấu X vào cột mức độ tương ứng đúng với
suy nghĩ của em nhất hoặc viết ra câu trả lời của mình.
Câu 1: Dưới đây là một số mệnh đề nói về cảm nhận của một số bạn về việc tham gia các
hoạt động ở địa phương sau khi chấp hành xong biện pháp xử phạt hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng. Còn em thì nghĩ thế nào?
STT Nội dung Mức độ
Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn
toàn nhiều đúng nhiều toàn sai
đúng hơn nửa hơn
sai sai đúng
1 Việc học tập pháp luật không có
ích gì, chỉ là hình thức, không
cần thiết
2 Nội dung học tập Giáo dục công
dân, đạo đức chỉ là lý thuyết
suông
3 Bắt buộc phải học tập văn hóa là
điều khó khăn đối với tôi
4 Học tập giúp tôi học hỏi được
nhiều kiến thức và sau này có cơ
hội việc làm hơn
5 Tôi thấy mình cần thiết phải học
để bổ sung kiến thức
6 Lao động sẽ giúp cho thời gian
hàng ngày của tôi trôi nhanh
hơn
7 Lao động giúp tôi rèn luyện sức
khỏe và sự kiên trì
8 Lao động giúp tôi hiểu hơn về
cuộc sống
9 Đôi khi tôi tìm lý do nào đó để
đỡ phải lao động
10 Tôi thấy phải lao động là điều
khó khăn đối với tôi
11 Tôi hiểu rằng mình sẽ gặp khó
khăn để có bạn bè mới.
12 Để có bạn bè mới tôi cần phải
chủ động làm quen và thiết lập
quan hệ
13 Tôi biết rằng hàng xóm xung
quanh không dễ dàng chấp nhận
tôi
14 Để hàng xóm không e ngại tôi,
cũng cần có thời gian
15 Tôi cần phải thể hiện sự quan
tâm đến các thành viên trong gia
đình chứ không chỉ chờ đợi họ
quan tâm đến tôi.
16 Các hoạt động, sinh hoạt tinh
thần giải trí mà địa phương tổ
chức còn đơn điệu nghèo nàn
17 Tham gia các hoạt động cùng
với những người khác là cách
tốt để tôi hòa nhập với họ
18 Việc đi ngủ, xem tivi, làm các
việc khác theo quy định giờ giấc
là cần thiết
19 Tôi luôn cố gắng để tham gia các
hoạt động cùng mọi người trong
địa phương
20 Mọi người quanh tôi chấp hành
tốt quy định của địa phương
Câu 2: Một số bạn có cảm xúc, tâm trạng như sau khi về tham gia các hoạt động tại địa
phương, còn em có cảm xúc và suy nghĩ thế nào?
STT Nội dung Mức độ
Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn
toàn nhiều đúng nhiều toàn sai
đúng hơn nửa hơn
sai sai đúng
1 Tôi không thấy thích thú gì khi
học tập
2 Việc học tập pháp luật làm tôi
thấy mệt mỏi, buồn chán
3 Tôi thấy học môn Giáo dục
công dân thật đơn điệu
4 Việc học nghề làm tôi thấy dễ
chịu
5 Tôi thích được học lại từ đầu
6 Tôi không thích phải lao động
7 Tôi thấy khó chịu khi bị nhắc
nhở trong quá trình lao động
8 Tôi thấy khó chịu khi bị bắt
buộc phải lao động
9 Tự mình làm ra một sản phẩm
mới tôi cảm thấy rất vui
10 Khi hoàn thành một công việc gì
đó tôi thấy bình thường
11 Tôi thấy khá hài lòng với các
bạn của tôi
12 Tôi không thấy khó chịu về sự
dò xét của một số người sống
quanh tôi
13 Tôi thấy thoải mái với mọi
người trong gia đình tôi
14 Mọi người đối xử tốt với tôi
15 Tôi hay giúp mọi người xung
quanh việc vặt
16 Việc phải sinh hoạt chung trong
cộng đồng với nhiều người tôi
thấy cũng khá ổn
17 Tôi dần quen với các quy định
giờ giấc về việc đi ngủ, xem tivi,
làm các việc khác
18 Việc làm theo thời gian biểu
hàng ngày làm tôi thấy yên tâm,
có kỷ luật
19 Tôi thấy rất hài lòng vì đã làm
theo được nội quy của địa
phương
20 Tôi khá ổn với nếp sống hiện tại
Câu 3: Một số bạn đã có hành vi như sau khi tham gia các hoạt động tại địa phương,
còn em thế nào?
Nội dung Mức độ
STT Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn
toàn nhiều đúng nhiều toàn sai
đúng hơn nửa hơn
sai sai đúng
1 Tôi tích cực khi tham gia hoạt
động học tập
2 Tôi thường xuyên trao đổi với
giáo viên về nội dung học tập
3 Tôi tham gia đầy đủ các buổi
học nghề
4 Tôi tham gia đủ các buổi học văn
hóa
5 Tôi thường trao đổi với mọi
người xung quanh về những điều
học được
6 Tôi tham gia đầy đủ các ngày
công lao động
7 Tôi thực hiện hoàn thành định
mức lao động
8 Tôi thực hiện thành thạo các
thao tác lao động
9 Đôi khi tôi vẫn lấy lý do nào đó
để không phải lao động
10 Tôi không chủ động cũng chẳng
sáng tạo khi lao động, ai bảo gì
làm đấy
11 Trong quá trình lao động, tôi
hay trò chuyện với người khác
12 Kết quả lao động của tôi chưa
được như ý
13 Tôi gặp gỡ bạn bè như chưa có
chuyện từng xảy ra với tôi.
14 Tôi hay phản ứng trước hành vi
quá khích của mọi người
15 Tôi gặp gỡ và trò chuyện với
hàng xóm một cách bình thường
16 Tôi có quan hệ khá tốt với nhiều
người
17 Tôi luôn giúp đỡ mọi người
nhiệt tình
18 Tôi ứng xử với mọi người trong
gia đình một cách bình thường
19 Tôi thực hiện tốt các quy định
của địa phương
20 Tôi nhanh chóng hòa nhập với
cuộc sống địa phương
21 Đôi khi tôi vẫn bị vi phạm quy
định của địa phương
22 Tôi luôn cố gắng để thực hiện
quy định của địa phương
23 Tự dạy sớm rất ngại nhưng tôi
đang cố gắng thực hiện bằng
được
24 Tôi ăn, ngủ theo giờ giấc của
mọi người trong gia đình
Câu 4: Sinh sống ở địa phương khi gặp khó khăn em có suy nghĩ thế nào?
STT Khó khăn Mức độ
Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn
toàn nhiều đúng nhiều toàn sai
đúng hơn nửa hơn
sai sai đúng
1 Tôi cảm thấy chán nản và thất
vọng
2 Tôi cảm thấy bất hạnh
3 Tôi thường xuyên bị mất ngủ từ
khi về địa phương
4 Tôi luôn thấy căng thẳng, mệt
mỏi
5 Tôi sợ hãi về những điều sắp xảy
ra
6 Công việc học tập và lao động
rất hữu ích giúp tôi hòa nhập
cuộc sống
7 Tôi ân hận về những gì mình đã
gây ra
8 Tôi không muốn nói chuyện hay
tiếp xúc với bất cứ ai
9 Với tôi coi như là hết chẳng làm
lại được gì.
10 Tôi khó để lấy lại được cân bằng
trong cuộc sống từ khi trở về sinh
sống ở địa phương
11 Vẫn coi như mọi chuyện bình
thường
12 Cố gắng tìm cách nào đó để khắc
phục
13 Trao đổi, trò chuyện với một số
người xung quanh
14 Có ý định đến một nơi xa (không
ai biết mình) để tiếp tục sống nốt
15 Mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì
đến
16 Muốn tự tử
Câu 5: Nhìn nhận của em về sự giúp đỡ của những người trong gia đình, hàng xóm và
các tổ chức xã hội ở địa phương từ khi em chấp hành xong biện pháp xử phạt hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng về sinh sống tại địa phương?
STT Khó khăn Mức độ
Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn
toàn nhiều đúng nhiều toàn sai
đúng hơn nửa hơn
sai sai đúng
1 Những người sống xung quanh
tôi không tin là tôi có thể trở nên
tốt hơn
2 Mọi người thường né tránh
những người như tôi
3 Mọi người thường che dấu thái
độ thật của họ đối với tôi
4 Tôi hay nghe tiếng bàn tán sau
lưng của các bạn tôi
5 Tôi hay bị các chú công an gọi
hỏi khi địa phương xảy ra các sự
việc như mất cắp vặt hoặc tụ tập
đánh nhau
6 Gia đình động viên chia sẻ với
tôi
7 Gia đình tạo điều kiện để tôi học
tập
8 Gia đình khuyến khích tôi có
thêm bạn bè mới
9 Gia đình giúp tôi có việc làm
10 Mọi người trong gia đình rất
thông cảm với điều kiện của tôi
hiện nay
11 Hàng xóm động viên chia sẻ với
tôi.
12 Các cấp chính quyền tạo điều
kiện để tôi học tập
13 Địa phương hỗ trợ giúp tôi có
việc làm
14 Mọi người xung quanh đều công
nhận sự tiến bộ của tôi
15 Đoàn thanh niên và Hội phụ nữ ở
địa bàn hay hỏi thăm, gặp gỡ và
động viên tôi bằng cả tinh thần
và vật chất
Xin em vui lòng cho biết những thông tin dưới đây.
Giới tính:
Nam Nữ
Thời gian em đã về địa phương sinh sống:
Dưới 6 6-12 Trên 12 tháng
tháng tháng
Thời gian em chấp hành ở trường giáo dưỡng:.............. tháng
Số lần em vào trường Giáo dưỡng:................lần
Gia đình em có mức sống:
Đầy đủ, dư dả Đủ ăn Khó khăn, thiếu
thốn
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của em!
PHỤ LỤC1.2. BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU
I. Thông tin cá nhân
- Năm sinh: ............................. - Hành vi vi phạm:.................................................
- Thời gian chấp hành ở trường Giáo dưỡng: .............. tháng
- Số lần vào trường Giáo dưỡng: ............. lần
- Thời gian đã về địa phương sinh sống .....:...... tháng
- Hoàn cảnh gia đình:
GĐ đầy đủ bố mẹ GĐ chỉ còn bố hoặc mẹ Không còn bố hoặc mẹ
II. Quá trình về địa phương sinh sống
1. Em hãy chia sẻ về những khó khăn mà em gặp từ khi về địa phương sinh sống?
2. Những ngày đầu mới về địa phương, em có suy nghĩ như thế nào?
3. Những ngày đầu mới về địa phương, những tình huống nào để lại cho em cảm xúc
nhớ nhất?
4. Em hãy chia sẻ về những điều mà em cảm thấy đã có sự thay đổi từ khi về địa
phương sinh sống cho đến hiện tại ?
5. Từ khi về địa phương sinh sống, những lúc gặp khó khăn, em đã làm như thế nào
để vượt qua?
6. Những thay đổi trong suy nghĩ của bản thân từ khi mới về đến thời điểm hiện tại?
Có điều gì đặc biệt khiến em cảm thấy khó để thay đổi?
7. Tâm trạng, cảm xúc của em bây giờ như thế nào? Có những điểm gì khác so với
thời gian đầu em mới về địa phương?
8. Em đánh giá công việc lao động của mình như thế nào?
9. Em thấy việc học tập của em tốt chứ?
10. Ngày đầu mới về địa phương em có căng thẳng và lo lắng không? Điều đó ảnh
hưởng như thế nào tới em?
11. Hàng xóm, những người dân và tổ chức xã hội ở địa phương có chia sẻ khó khăn,
giúp đỡ em không?
PHỤ LỤC 1.3. PHIẾU QUAN SÁT
Ngày......tháng.......năm.........
I. Người được quan sát: ....................................................................................................
II. Người quan sát: ............................................................................................................
III. Địa điểm quan sát: .....................................................................................................
IV. Nội dung quan sát:
1. Sinh hoạt trong gia đình:
- Sự phân chia các công việc chung trong gia đình; thái độ của từng thành viên thực hiện công
việc chung đó.
- Các hành vi không tích cực
- Các tình huống nảy sinh mâu thuẫn giữa các thành viên
2. Hoạt động học tập:
- Số lượng học sinh tham gia học tập
- Mức độ tham gia vào giờ học tập của các em
- Cảm xúc, thái độ của ................. trong giờ học tập
3. Hoạt động lao động
- Tính tích cực, tự giác, chủ động của ...................
- Cảm xúc chủ đạo của................... khi lao động
- Các biểu hiện chống đối trong quá trình lao động
- Các tình huống có vấn đề nảy sinh trong quá trình lao động.
PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ XỬ LÝ DỮ LIỆU
3.1. Thích ứng tính theo điểm trung bình
3.1.1. Thích ứng nhận thức
Reliability Statistics
Cronbach's
N of Items
Alpha
.750
15
Mean
Std. Deviation
N
Viec hoc tap phap luat
khong có ich gi, chi la hinh
3.48
1.153
168
thuc, khong can thiet
Noi dung hoc tap giao duc
cong dan, dao duc chi la ly
3.20
1.260
168
thuyet suong
toi thay bat buoc phai hoc
tap van hoa la dieu kho
2.75
1.438
168
khan doi voi toi
hoc tap giup toi hoc hoi
duoc nhieu kien thuc va sau
3.70
.817
168
nay co co hoi viec lam hon
Toi thay minh can thiet phai
3.61
.781
168
hoc de bo sung kien thuc
Lao dong giup toi ren luyen
3.70
.722
168
suc khoe va su kien tri
Lao dong giup toi hieu hon
3.73
.698
168
ve cuoc song
Toi thay phai lao dong la
3.20
1.181
168
dieu kho khan doi voi toi
De co ban be moi toi phai
chu dong lam quen va thiet
3.13
1.224
168
lap quan he
de hang xom khong e ngai
3.23
1.187
168
toi cung can co thoi gian
Item Statistics
Toi can the hien su quan
tam den cac thanh vien
3.48
1.015
168
trong gia dinh
Tham gia cac hoat dong voi
moi nguoi là cach tot de toi
3.69
.758
168
hoa nhap voi ho
Di ngu, xem tivi, lam cac
viec khac theo quy dinh la
3.39
1.056
168
can thiet
Toi luon co gang tham gia
cac hoat dong o dia phuong
3.10
1.222
168
cung moi nguoi
Moi nguoi xung quanh toi
chap hanh tot quy dinh dia
2.96
1.049
168
phuong
3.1.2. Thích ứng về mặt thái độ
Reliability Statistics
Cronbach's
N of Items
Alpha
.784
17
Item Statistics
Mean
Std. Deviation
N
Toi khong thich thu gi khi
2.77
1.339
168
phai hoc tap
Viec hoc tap phap luat lam
3.06
1.280
168
toi thay met moi, buon chan
Viec hoc nghe lam toi thay
3.36
1.040
168
de chiu
Toi thich duoc hoc lai tu
2.55
1.438
168
dau
Toi khong thich phai lao
3.25
1.203
168
dong
Toi thay kho chiu khi bi bat
2.72
1.371
168
buoc phai lao dong
Toi thay vui khi tu minh
3.68
.849
168
lam ra duoc san pham moi
Toi thay kha hai long voi
2.92
1.127
168
cac ban cua toi
Toi khong thay kho chiu ve
su do xet cua nguoi xung
2.24
1.395
168
quanh
Tôi thay thoai mai voi moi
3.62
.867
168
nguoi trong gia dinh
3.23
1.003
168
Moi nguoi doi xu tot voi toi
Toi hay giup moi nguoi
2.90
1.130
168
xung quanh
Sinh hoat chung voi moi
nguoi trong cong dong toi
2.98
1.137
168
thay cung on
Toi dan quen voi quy dinh
ve gio giac di ngu, xem tivi,
3.61
.758
168
lam viec khac
Toi thay yen tam khi lam
3.47
.978
168
viec theo thoi gian bieu
Toi thay hai long vi da làm
theo duoc noi quy dia
3.35
.961
168
phuong
Toi thay kha on voi cuoc
3.52
.896
168
song hien tai
3.1.3. Thích ứng về mặt hành vi
Reliability Statistics
Cronbach's
Cronbach's
N of Items
Alpha
Alpha Based on
Standardized
Items
.863
.869
18
Item Statistics
Mean
Std. Deviation
N
Toi thuc hien tot cac quy
3.05
1.242
168
dinh cua dia phuong
Toi nhannh chong hoa nhap
3.27
1.087
168
voi dia phuong
Toi luon co gang thuc hien
3.50
.848
168
quy dinhcua dia phuong
Tu day som rat ngai nhung
3.13
1.305
168
toi dang co gang thuc hien
Toi sinh hoat theo moi
3.04
1.310
168
nguoi tronng gia dinh
Tôi tich cuc tham gia hoat
3.15
1.119
168
dong hoc tap
Toi thuong xuyen trao doi
voi giao vien ve noi dung
2.70
1.317
168
hoc tap
Toi tham gia day du cac
3.20
1.140
168
buoi hoc nghe
Toi tham gia day du cac
3.13
1.291
168
buoi hoc van hoa
Toi hay trao doi voi moi
3.04
1.191
168
nguoi ve noi dung hoc duoc
Toi tham gia day du ngay
3.35
1.038
168
cong lao dong
Toi hoan thanh dinh muc
3.36
.974
168
lao dong
Toi thanh thao cac thao tac
3.27
1.075
168
lao dong
Toi khong chu dong, khong
sang tao khi lao dong, ai
2.95
1.280
168
bao gi lam day
Toi gap va tro chuyen voi
hang xom mot cach binh
2.90
1.356
168
thuong
toi có quan he tot voi nhieu
3.01
1.166
168
nguoi
Moi nguoi giup do toi nhiet
3.02
1.189
168
tinh
Toi ung xu voi moi nguoi
3.48
.985
168
trong gia dinh binh thuong
3.1.4. Thích ứng chung
Reliability Statistics
Cronbach's
N of Items
Alpha
.914
50
Item Statistics
Mean
Std. Deviation
N
Tôi tich cuc tham gia hoat
3.15
1.119
168
dong hoc tap
Toi thuong xuyen trao doi
voi giao vien ve noi dung
2.70
1.317
168
hoc tap
Toi tham gia day du cac
3.20
1.140
168
buoi hoc nghe
Toi tham gia day du cac
3.13
1.291
168
buoi hoc van hoa
Toi hay trao doi voi moi
3.04
1.191
168
nguoi ve noi dung hoc duoc
Toi tham gia day du ngay
3.35
1.038
168
cong lao dong
Toi hoan thanh dinh muc
3.36
.974
168
lao dong
Toi thanh thao cac thao tac
3.27
1.075
168
lao dong
Toi khong chu dong, khong
sang tao khi lao dong, ai
2.95
1.280
168
bao gi lam day
Toi gap va tro chuyen voi
hang xom mot cach binh
2.90
1.356
168
thuong
toi có quan he tot voi nhieu
3.01
1.166
168
nguoi
Moi nguoi giup do toi nhiet
3.02
1.189
168
tinh
Toi ung xu voi moi nguoi
3.48
.985
168
trong gia dinh binh thuong
Toi thuc hien tot cac quy
3.05
1.242
168
dinh cua dia phuong
Toi nhannh chong hoa nhap
3.27
1.087
168
voi dia phuong
Toi luon co gang thuc hien
3.50
.848
168
quy dinhcua dia phuong
Tu day som rat ngai nhung
3.13
1.305
168
toi dang co gang thuc hien
Toi sinh hoat theo moi
3.04
1.310
168
nguoi tronng gia dinh
Viec hoc tap phap luat
khong có ich gi, chi la hinh
3.48
1.153
168
thuc, khong can thiet
Noi dung hoc tap giao duc
cong dan, dao duc chi la ly
3.20
1.260
168
thuyet suong
toi thay bat buoc phai hoc
tap van hoa la dieu kho
2.75
1.438
168
khan doi voi toi
hoc tap giup toi hoc hoi
duoc nhieu kien thuc va sau
3.70
.817
168
nay co co hoi viec lam hon
Toi thay minh can thiet phai
3.61
.781
168
hoc de bo sung kien thuc
Lao dong giup toi ren luyen
3.70
.722
168
suc khoe va su kien tri
Lao dong giup toi hieu hon
3.73
.698
168
ve cuoc song
Toi thay phai lao dong la
3.20
1.181
168
dieu kho khan doi voi toi
De co ban be moi toi phai
chu dong lam quen va thiet
3.13
1.224
168
lap quan he
de hang xom khong e ngai
3.23
1.187
168
toi cung can co thoi gian
Toi can the hien su quan
tam den cac thanh vien
3.48
1.015
168
trong gia dinh
Tham gia cac hoat dong voi
moi nguoi là cach tot de toi
3.69
.758
168
hoa nhap voi ho
Di ngu, xem tivi, lam cac
viec khac theo quy dinh la
3.39
1.056
168
can thiet
Toi luon co gang tham gia
cac hoat dong o dia phuong
3.10
1.222
168
cung moi nguoi
Moi nguoi xung quanh toi
chap hanh tot quy dinh dia
2.96
1.049
168
phuong
Toi khong thich thu gi khi
2.77
1.339
168
phai hoc tap
Viec hoc tap phap luat lam
3.06
1.280
168
toi thay met moi, buon chan
Viec hoc nghe lam toi thay
3.36
1.040
168
de chiu
Toi thich duoc hoc lai tu
2.55
1.438
168
dau
Toi khong thich phai lao
3.25
1.203
168
dong
Toi thay kho chiu khi bi bat
2.72
1.371
168
buoc phai lao dong
Toi thay vui khi tu minh
3.68
.849
168
lam ra duoc san pham moi
Toi thay kha hai long voi
2.92
1.127
168
cac ban cua toi
Toi khong thay kho chiu ve
su do xet cua nguoi xung
2.24
1.395
168
quanh
Tôi thay thoai mai voi moi
3.62
.867
168
nguoi trong gia dinh
3.23
1.003
168
Moi nguoi doi xu tot voi toi
Toi hay giup moi nguoi
2.90
1.130
168
xung quanh
Sinh hoat chung voi moi
nguoi trong cong dong toi
2.98
1.137
168
thay cung on
Toi dan quen voi quy dinh
ve gio giac di ngu, xem tivi,
3.61
.758
168
lam viec khac
Toi thay yen tam khi lam
3.47
.978
168
viec theo thoi gian bieu
Toi thay hai long vi da làm
theo duoc noi quy dia
3.35
.961
168
phuong
Toi thay kha on voi cuoc
3.52
.896
168
song hien tai
3.2. Tương quan giữa các thành phần thích ứng
Correlations
tuchung1 matnhanthuc matthaido mathanhvi
Pearson Correlation
1
.782**
.862**
.894**
tuchung1
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.000
N
168
168
168
168
Pearson Correlation
.534**
.524**
.782**
1
matnhanthuc
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.000
N
168
168
168
168
Pearson Correlation
.862**
.534**
1
.675**
Matthaido
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.000
N
168
168
168
168
Pearson Correlation
.894**
.524**
.675**
1
mathanhvi
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.000
N
168
168
168
168
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
3.3. Kết quả xử lý Hồi quy của các yếu tố
3.3.1. Chạy nhân tố
Rotated Component Matrixa
Component
1
2
3
4
Toi luon thay cang thang va
.757
-.269
met moi
Toi cam thay chan nan va
.713
-.106
.107
.144
that vong
Toi so hai ve nhung dieu
.661
-.116
.249
sap xay ra
.619
.141
.184
Toi cam thay bat hanh
Toi thuong xuyen bi mat
.583
-.176
ngu tu khi ve dia phuong
Toi muon tu tu
.743
Mac ke moi chuyen den dau
-.139
.693
-.105
thi den
Toi co y dinh den mot noi xa
khong ai biet minh de song
-.345
.596
-.164
not
Cong viec hoc tap va lao
dong rat huu ich giup toi
.159
-.471
.409
.229
hoa nhap cuoc song
Toi tim cach nao do de khac
-.109
-.137
.785
.102
phuc
Toi hay tro chuyen voi moi
.349
-.157
.657
nguoi xung quanh
Toi coi nhu moi chuyen van
.212
.385
.554
binh thuong
Toi coi nhu het chang lam
.240
-.130
.807
lai duoc gi
Toi kho de can bang duoc
.574
cuoc song tu khi ve dia
.435
phuong
toi khong muon noi chuyen
.317
-.293
.289
.546
va tiep xuc voi bat ky ai
Toi an han ve nhung dieu
-.344
.419
.541
da gay ra
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 8 iterations.
Rotated Component Matrixa
Component
1
2
3
Cac cap chinh quyen tao
.820
dieu kien de toi hoc tap
Dia phuong ho tro giup toi
.812
-.139
.105
co viec lam
Doan thanh nien va hoi phu
nu o dia ban hay hoi tham,
.761
-.122
dong vien toi
Hang xom dong vien chia
.641
-.273
.365
se voi toi
Moi nguoi xung quanh deu
.635
-.195
.250
cong nhan su tien bo cua toi
Moi nguoi thuong ne tranh
-.158
.794
nhung nguoi nhu toi
Moi nguoi thuong che giau
thai do that cua ho doi voi
-.267
.728
toi
Toi hay nghe tieng cac ban
.241
-.697
ban tán sau lung
Nhung nguoi quanh toi
-.101
.643
-.124
khong tin là toi tien bo
Toi hay bi cac chu Cong an
.249
.468
goi khi dia phuong co viec
Gia dinh dong vien chia se
.785
voi toi
.707
Gia dinh giup toi co viec lam
.242
Moi nguoi trong gia dinh rat
.678
thong cam voi hoan canh
.310
hien tai cua toi
Gia dinh toi khuyen khich toi
.537
.298
có them ban be moi
Gia dinh tao dieu kien de toi
-.158
-.131
.419
hoc tap
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.
a. Rotation converged in 5 iterations.
ANOVAa
Model
Sum of Squares
Df
Mean Square
F
Sig.
Regression
31.687
5
6.337
.
.b
1
Residual
.000
162
.000
Total
31.687
167
a. Dependent Variable: tuchung1
b. Predictors: (Constant), mathanhvi, matchuquan, matnhanthuc, matkhachquan, matthaido
Coefficientsa
Model
Unstandardized
Standardized
t
Sig.
Collinearity Statistics
Coefficients
Coefficients
Std.
B
Beta
Tolerance
VIF
Error
(Constant)
-1.659E-017
.000
.
.
Matchuqua
1.056E-017
.000
.000
.745
1.342
.
.
n
matkhachq
1.069E-016
.000
.000
.546
1.830
.
.
uan
1
matnhanth
.
.
.654
1.529
.333
.000
.342
uc
.
.
.467
2.142
matthaido
.333
.000
.361
.
.
.370
2.699
mathanhvi
.333
.000
.472
a. Dependent Variable: tuchung1
Model Summaryb
Model
R
R Square
Adjusted R
Std. Error of the
Durbin-Watson
Square
Estimate
1
1.000a
1.000
1.000
.00000
.191
a. Predictors: (Constant), mathanhvi, matchuquan, matnhanthuc, matkhachquan,
matthaido
b. Dependent Variable: tuchung1
ANOVAa
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Regression
31.687
5
6.337
.
.b
1
Residual
.000
162
.000
Total
31.687
167
a. Dependent Variable: tuchung1
b. Predictors: (Constant), mathanhvi, matchuquan, matnhanthuc, matkhachquan, matthaido
Collinearity Diagnosticsa
Model Dim
Eigenvalue
Condition
Variance Proportions
ensio
Index
(Constant) matchuquan matkhachqu
matnhan
matthaido
mathanhvi
n
an
thuc
1
5.886
1.000
.00
.00
.00
.00
.00
.00
2
.045
11.474
.03
.00
.03
.88
.01
.00
3
.038
12.367
.05
.56
.03
.07
.00
.02
1
4
.015
19.735
.31
.32
.00
.01
.03
.47
5
.008
26.400
.02
.02
.55
.03
.73
.02
6
.008
27.585
.59
.09
.39
.00
.23
.49
a. Dependent Variable: tuchung1
Residuals Statisticsa
Minimum Maximum
Mean
Std. Deviation
N
Predicted Value
1.8871
3.8465
3.1322
.43559
168
Residual
.00000
.00000
.00000
.00000
168
Std. Predicted Value
-2.859
1.640
.000
1.000
168
Std. Residual
.
.
.
.
0
a. Dependent Variable: tuchung1
3.4. Bảng tra kết quả Hồi quy dL và dU (trích)
Bảng A.1: Mô hình với hệ số cắt theo Savin và White (1977)
Thống kê DW ở mức ý nghĩa 1% của các giá trị dL và dU
*k’ là số biến giải thích (không bao gồm hệ số cắt)
k’*=1
k’=2
k’=3
k’=4
k’=5
k’=6
k’=7
n
dL
dU
dL
dU
dL
dU
dL
dU
dL
dU
dL
dL
dU
6
0.390
1.142 —–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
7
0.435
1.036
0.294
1.676 —–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
8
0.497
1.003
0.345
1.489
0.229
2.102 —–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
9
0.554
0.998
0.408
1.389
0.279
1.875
0.183
2.433 —–
—–
—–
—–
—–
10
0.604
1.001
0.466
1.333
0.340
1.733
0.230
2.193
0.150
2.690 —–
—–
—–
11
0.653
1.010
0.519
1.297
0.396
1.640
0.286
2.030
0.193
2.453
0.124
2.892 —–
12
0.697
1.023
0.569
1.274
0.449
1.575
0.339
1.913
0.244
2.280
0.164
2.665
0.105
13
0.738
1.038
0.616
1.261
0.499
1.526
0.391
1.826
0.294
2.150
0.211
2.490
0.140
14
0.776
1.054
0.660
1.254
0.547
1.490
0.441
1.757
0.343
2.049
0.257
2.354
0.183
15
0.811
1.070
0.700
1.252
0.591
1.465
0.487
1.705
0.390
1.967
0.303
2.244
0.226
16
0.844
1.086
0.738
1.253
0.633
1.447
0.532
1.664
0.437
1.901
0.349
2.153
0.269
17
0.873
1.102
0.773
1.255
0.672
1.432
0.574
1.631
0.481
1.847
0.393
2.078
0.313
18
0.902
1.118
0.805
1.259
0.708
1.422
0.614
1.604
0.522
1.803
0.435
2.015
0.355
19
0.928
1.133
0.835
1.264
0.742
1.416
0.650
1.583
0.561
1.767
0.476
1.963
0.396
20
0.952
1.147
0.862
1.270
0.774
1.410
0.684
1.567
0.598
1.736
0.515
1.918
0.436
21
0.975
1.161
0.889
1.276
0.803
1.408
0.718
1.554
0.634
1.712
0.552
1.881
0.474
22
0.997
1.174
0.915
1.284
0.832
1.407
0.748
1.543
0.666
1.691
0.587
1.849
0.510
23
1.017
1.186
0.938
1.290
0.858
1.407
0.777
1.535
0.699
1.674
0.620
1.821
0.545
24
1.037
1.199
0.959
1.298
0.881
1.407
0.805
1.527
0.728
1.659
0.652
1.797
0.578
25
1.055
1.210
0.981
1.305
0.906
1.408
0.832
1.521
0.756
1.645
0.682
1.776
0.610
26
1.072
1.222
1.000
1.311
0.928
1.410
0.855
1.517
0.782
1.635
0.711
1.759
0.640
27
1.088
1.232
1.019
1.318
0.948
1.413
0.878
1.514
0.808
1.625
0.738
1.743
0.669
28
1.104
1.244
1.036
1.325
0.969
1.414
0.901
1.512
0.832
1.618
0.764
1.729
0.696
29
1.119
1.254
1.053
1.332
0.988
1.418
0.921
1.511
0.855
1.611
0.788
1.718
0.723
30
1.134
1.264
1.070
1.339
1.006
1.421
0.941
1.510
0.877
1.606
0.812
1.707
0.748
31
1.147
1.274
1.085
1.345
1.022
1.425
0.960
1.509
0.897
1.601
0.834
1.698
0.772
32
1.160
1.283
1.100
1.351
1.039
1.428
0.978
1.509
0.917
1.597
0.856
1.690
0.794
33
1.171
1.291
1.114
1.358
1.055
1.432
0.995
1.510
0.935
1.594
0.876
1.683
0.816
34
1.184
1.298
1.128
1.364
1.070
1.436
1.012
1.511
0.954
1.591
0.896
1.677
0.837
35
1.195
1.307
1.141
1.370
1.085
1.439
1.028
1.512
0.971
1.589
0.914
1.671
0.857
36
1.205
1.315
1.153
1.376
1.098
1.442
1.043
1.513
0.987
1.587
0.932
1.666
0.877
37
1.217
1.322
1.164
1.383
1.112
1.446
1.058
1.514
1.004
1.585
0.950
1.662
0.895
38
1.227
1.330
1.176
1.388
1.124
1.449
1.072
1.515
1.019
1.584
0.966
1.658
0.913
39
1.237
1.337
1.187
1.392
1.137
1.452
1.085
1.517
1.033
1.583
0.982
1.655
0.930
40
1.246
1.344
1.197
1.398
1.149
1.456
1.098
1.518
1.047
1.583
0.997
1.652
0.946
45
1.288
1.376
1.245
1.424
1.201
1.474
1.156
1.528
1.111
1.583
1.065
1.643
1.019
50
1.324
1.403
1.285
1.445
1.245
1.491
1.206
1.537
1.164
1.587
1.123
1.639
1.081
55
1.356
1.428
1.320
1.466
1.284
1.505
1.246
1.548
1.209
1.592
1.172
1.638
1.134
60
1.382
1.449
1.351
1.484
1.317
1.520
1.283
1.559
1.248
1.598
1.214
1.639
1.179
65
1.407
1.467
1.377
1.500
1.346
1.534
1.314
1.568
1.283
1.604
1.251
1.642
1.218
70
1.429
1.485
1.400
1.514
1.372
1.546
1.343
1.577
1.313
1.611
1.283
1.645
1.253
75
1.448
1.501
1.422
1.529
1.395
1.557
1.368
1.586
1.340
1.617
1.313
1.649
1.284
80
1.465
1.514
1.440
1.541
1.416
1.568
1.390
1.595
1.364
1.624
1.338
1.653
1.312
85
1.481
1.529
1.458
1.553
1.434
1.577
1.411
1.603
1.386
1.630
1.362
1.657
1.337
90
1.496
1.541
1.474
1.563
1.452
1.587
1.429
1.611
1.406
1.636
1.383
1.661
1.360
95
1.510
1.552
1.489
1.573
1.468
1.596
1.446
1.618
1.425
1.641
1.403
1.666
1.381
100
1.522
1.562
1.502
1.582
1.482
1.604
1.461
1.625
1.441
1.647
1.421
1.670
1.400
150
1.611
1.637
1.598
1.651
1.584
1.665
1.571
1.679
1.557
1.693
1.543
1.708
1.530
200
1.664
1.684
1.653
1.693
1.643
1.704
1.633
1.715
1.623
1.725
1.613
1.735
1.603
16
0.060
3.446 —–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
17
0.084
3.286
0.053
3.506 —–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
18
0.113
3.146
0.075
3.358
0.047
3.557 —–
—–
—–
—–
—–
—–
—–
19
0.145
3.023
0.102
3.227
0.067
3.420
0.043
3.601 —–
—–
—–
—–
—–
20
0.178
2.914
0.131
3.109
0.092
3.297
0.061
3.474
0.038
3.639 —–
—–
—–
21
0.212
2.817
0.162
3.004
0.119
3.185
0.084
3.358
0.055
3.521
0.035
3.671 —–
22
0.246
2.729
0.194
2.909
0.148
3.084
0.109
3.252
0.077
3.412
0.050
3.562
0.032
23
0.281
2.651
0.227
2.822
0.178
2.991
0.136
3.155
0.100
3.311
0.070
3.459
0.046
24
0.315
2.580
0.260
2.744
0.209
2.906
0.165
3.065
0.125
3.218
0.092
3.363
0.065
25
0.348
2.517
0.292
2.674
0.240
2.829
0.194
2.982
0.152
3.131
0.116
3.274
0.085
26
0.381
2.460
0.324
2.610
0.272
2.758
0.224
2.906
0.180
3.050
0.141
3.191
0.107
27
0.413
2.409
0.356
2.552
0.303
2.694
0.253
2.836
0.208
2.976
0.167
3.113
0.131
28
0.444
2.363
0.387
2.499
0.333
2.635
0.283
2.772
0.237
2.907
0.194
3.040
0.156
29
0.474
2.321
0.417
2.451
0.363
2.582
0.313
2.713
0.266
2.843
0.222
2.972
0.182
30
0.503
2.283
0.447
2.407
0.393
2.533
0.342
2.659
0.294
2.785
0.249
2.909
0.208
31
0.531
2.248
0.475
2.367
0.422
2.487
0.371
2.609
0.322
2.730
0.277
2.851
0.234
32
0.558
2.216
0.503
2.330
0.450
2.446
0.399
2.563
0.350
2.680
0.304
2.797
0.261
33
0.585
2.187
0.530
2.296
0.477
2.408
0.426
2.520
0.377
2.633
0.331
2.746
0.287
34
0.610
2.160
0.556
2.266
0.503
2.373
0.452
2.481
0.404
2.590
0.357
2.699
0.313
35
0.634
2.136
0.581
2.237
0.529
2.340
0.478
2.444
0.430
2.550
0.383
2.655
0.339
36
0.658
2.113
0.605
2.210
0.554
2.310
0.504
2.410
0.455
2.512
0.409
2.614
0.364
37
0.680
2.092
0.628
2.186
0.578
2.282
0.528
2.379
0.480
2.477
0.434
2.576
0.389
0.702
2.073
0.651
2.164
0.601
2.256
0.552
2.350
0.504
2.445
0.458
2.540
0.414
38
0.723
2.055
0.673
2.143
0.623
2.232
0.575
2.323
0.528
2.414
0.482
2.507
0.438
39
0.744
2.039
0.694
2.123
0.645
2.210
0.597
2.297
0.551
2.386
0.505
2.476
0.461
40
0.835
1.972
0.790
2.044
0.744
2.118
0.700
2.193
0.655
2.269
0.612
2.346
0.570
45
0.913
1.925
0.871
1.987
0.829
2.051
0.787
2.116
0.746
2.182
0.705
2.250
0.665
50
0.979
1.891
0.940
1.945
0.902
2.002
0.863
2.059
0.825
2.117
0.786
2.176
0.748
55
1.037
1.865
1.001
1.914
0.965
1.964
0.929
2.015
0.893
2.067
0.857
2.120
0.822
60
1.087
1.845
1.053
1.889
1.020
1.934
0.986
1.980
0.953
2.027
0.919
2.075
0.886
65
1.131
1.831
1.099
1.870
1.068
1.911
1.037
1.953
1.005
1.995
0.974
2.038
0.943
70
1.170
1.819
1.141
1.856
1.111
1.893
1.082
1.931
1.052
1.970
1.023
2.009
0.993
75
1.205
1.810
1.177
1.844
1.150
1.878
1.122
1.913
1.094
1.949
1.066
1.984
1.039
80
1.236
1.803
1.210
1.834
1.184
1.866
1.158
1.898
1.132
1.931
1.106
1.965
1.080
85
1.264
1.798
1.240
1.827
1.215
1.856
1.191
1.886
1.166
1.917
1.141
1.948
1.116
90
1.290
1.793
1.267
1.821
1.244
1.848
1.221
1.876
1.197
1.905
1.174
1.943
1.150
95
1.314
1.790
1.292
1.816
1.270
1.841
1.248
1.868
1.225
1.895
1.203
1.922
1.181
100
1.473
1.783
1.458
1.799
1.444
1.814
1.429
1.830
1.414
1.847
1.400
1.863
1.385
150
1.561
1.791
1.550
1.801
1.539
1.813
1.528
1.824
1.518
1.836
1.507
1.847
1.495
200