BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -----o0o-----

PHAN THỊ ĐỊNH

THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA

NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÍ HỌC

Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành

Mã số: 9.31.04.01

Hà Nội – 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -----o0o-----

PHAN THỊ ĐỊNH

THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA

NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÍ HỌC

Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành

Mã số: 9.31.04.01

Người hướng dẫn khoa học:

PGS, TS. Nguyễn Đức Sơn

TS. Hoàng Anh Phước

Hà Nội – 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu, kết quả nghiên

cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu

nào khác.

Tác giả luận án

Phan Thị Định

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến PGS.TS Nguyễn Đức Sơn và TS Hoàng Anh

Phước đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi, động viên tôi trong suốt quá trình học

tập và nghiên cứu luận án. Nhờ sự giúp đỡ, chỉ dạy sát sao, luôn đưa ra các yêu cầu cao về

chất lượng và tiến độ nghiên cứu mà tôi đã nỗ lực để hoàn thành luận án của mình.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Chủ nhiệm khoa Tâm lý- Giáo dục và

tập thể các thầy, cô, giảng viên khoa Tâm lý- Giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội

cùng các thầy cô giáo trong và ngoài khoa đã quan tâm, giúp đỡ và có những ý kiến đóng

góp quý báu cho nghiên cứu của tôi.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân; Các đồng chí

lãnh đạo đạo khoa Tâm lý đã tạo điều kiện, hỗ trợ và giúp đỡ, động viên, khuyến khích tôi

trong thời gian tôi làm luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và hỗ trợ tận tâm của các đồng

nghiệp, các đồng chí Cảnh sát khu vực, Cảnh sát Quản lý hành chính, Hiệu trưởng trường

Giáo dưỡng số 2, số 3, các đồng chí thuộc Cục Cảnh sát Quản lý Trại giam, cơ sở giáo dục

bắt buộc và trường giáo dưỡng, các anh/chị làm công tác xã hội ở các địa phương tôi làm

khảo sát, các em đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

về địa phương cư trú, trung tâm dạy nghề nhân đạo KOTO đã hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác

với tôi khi tiến hành điều tra, thu thập số liệu cũng như quan sát, phỏng vấn và có những

hoạt động trải nghiệm thực tế tại đây.

Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người bạn đã chia sẻ, động viên, hỗ

trợ tôi khi gặp khó khăn trong nghiên cứu cũng như trong cuộc sống; giúp tôi vững tâm

thực hiện nghiên cứu như mong muốn của mình.

Bản thân tôi nhận thấy kinh nghiệm nghiên cứu của mình còn hạn chế do đó đề tài

của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong được các thầy, cô và đồng nghiệp

đóng góp ý kiến của mình để tôi hoàn thiện luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn

NHỮNG TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

Từ, cụm từ Được viết tắt thành

An ninh Quốc gia ANQG

Biện pháp xử lý hành chính BPXLHC

Cảnh sát khu vực CSKV

Cảnh sát quản lý hành chính CSQLHC

Độ lệch chuẩn ĐLC

Điểm trung bình ĐTB

Trật tự an toàn xã hội TTATXH

Trường Giáo dưỡng TGD

MỤC LỤC

Trang

Nội dung

LỜI CAM ĐOAN i

LỜI CẢM ƠN ii

NHỮNG TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN iii

MỤC LỤC iv

DANH MỤC BẢNG v

DANH MỤC HÌNH vi

MỞ ĐẦU 1

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP 8

CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ

HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 8

1.1.1. Hướng nghiên cứu sự thích ứng về nghề nghiệp, thích ứng lao động 8

1.1.2. Hướng nghiên cứu sự thích ứng với môi trường văn hóa, thích ứng xã hội 10

1.1.3. Nghiên cứu về thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng 15

1.2. Lý luận về tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử 20

lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.2.1. Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng 20

1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành 22

chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.2.3. Khó khăn của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào 24

trường giáo dưỡng

1.2.4. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành 26

chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.3. Lý luận về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 30

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.3.1. Khái niệm thích ứng tâm lý 30

1.3.2. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong 41

biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.3.3. Biểu hiện và mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 44

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.4. Các yếu tố ảnh hướng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 47

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.4.1. Các yếu tố thuộc về chủ quan 47

1.4.2. Các yếu tố thuộc về khách quan 49

Tiểu kết chương 1 51

Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 53

2.1. Địa bàn và khách thể nghiên cứu 53

2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 53

2.1.2. Khách thể nghiên cứu 53

2.2. Tổ chức nghiên cứu 55

2.2.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận 55

2.2.2. Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn 56

2.2.3. Giai đoạn viết và hoàn thành luận án 57

2.3. Các phương pháp nghiên cứu 57

2.3.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu 57

2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 58

2.3.3. Phương pháp phỏng vấn sâu 61

2.3.4. Phương pháp quan sát 62

2.3.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp 62

2.3.6. Phương pháp thống kê toán học 63

2.3.7. Phương pháp chuyên gia 67

2.3.8. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch 68

2.4. Phân tích các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập 68

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường

giáo dưỡng

Tiểu kết chương 2 70

71 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ

VỚI TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG

BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

3.1.Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 71

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

72 3.1.1. Đánh giá chung

74 3.1.2. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt nhận thức

3.1.3. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 83

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt thái độ

3.1.4.Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành 93

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt hành vi

3.1.5. Tương quan giữa các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng 106

của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

3.1.6. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người 109

chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng theo một

số biến nhân khẩu học

3.2. Các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 117

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

3.2.1. Các yếu tố gắn với cá nhân dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng 118

của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

3.2.2. Các yếu tố gắn với môi trường (khách quan) dự báo ảnh hưởng thích ứng 134

tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý

hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

3.2.3. Tổng hợp mô hình các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái 145

hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa

vào trường giáo dưỡng

3.3. Nghiên cứu trường hợp thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của 148

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

3.3.1. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ cao 148

3.3.2. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ thấp 152

KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ TÂM LÝ HỌC

Tiểu kết chương 3 155

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

157

TÀI LIỆU THAM KHẢO

161

PHỤ LỤC

162

169

DANH MỤC BẢNG

Trang

Nội dung

Bảng 2.1 Mô tả mẫu nghiên cứu 53

Bảng 2.2 Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của thang và tiểu thang đo 63

Bảng 2.3 Mức độ thích ứng thể hiện ở các mặt biểu hiện 63

Bảng 3.1 Mức độ thích ứng tâm lý 72

Bảng 3.2 Thực trạng thích ứng nhận thức 76

Bảng 3.3 Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động học tập 78

Bảng 3.4 Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động lao động 80

Bảng 3.5 Thực trạng thích ứng thái độ trong quan hệ xã hội 87

Bảng 3.6 Thực trạng thích ứng thái độ trong sinh hoạt 87

Bảng 3.7 Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động học tập 89

Bảng 3.8 Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động lao động 91

Bảng 3.9 Thực trạng thích ứng hành vi trong quan hệ xã hội 96

Bảng 3.10 Thực trạng thích ứng hành vi trong sinh hoạt 96

Bảng 3.11 Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động học tập 99

Bảng 3.12 Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động lao động 101

Bảng 3.13 Tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý 106

Bảng 3.14 So sánh mức độ thích ứng tâm lý 110

Bảng 3.15a Dự báo từng yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý 119

Bảng 3.15b Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý 127

Bảng 3.16a Dự báo từng yếu tố thuộc về khách quan tác động thích ứng tâm lý 135

Bảng 3.16b Dự báo từng yếu tố thuộc về khách quan tác động thích ứng tâm lý 142

Bảng 3.17 Tổng hợp mô hình các yếu tố dự báo 146

DANH MỤC HÌNH

Nội dung Trang

Hình 1.1 Mô hình thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp 50

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Hình 3.1 Biểu đồ phân bố theo mức độ thích ứng tâm lý 71

Hình 3.2 Biểu đồ theo mức độ điểm trung bình thích ứng tâm lý 73

Hình 3.3 Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt nhận thức 75

Hình 3.4 Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ 84

Hình 3.5 Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ 86

Hình 3.6 Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi 94

Hình 3.7 Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi 95

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Mỗi loại hoạt động đều tiến hành theo phương thức và nội dung khác nhau, mỗi

cộng đồng xã hội có chuẩn mực xã hội riêng đòi hỏi con người phải tiếp thu tri thức, hình

thành kỹ năng kỹ xảo mới, biến đổi bản thân về các mặt nhận thức, thái độ, hành vi cho

phù hợp với cộng đồng và hoạt động có hiệu quả. Trong Tâm lý học gọi đó là thích ứng

tâm lý. Thích ứng tâm lý là khả năng và phương thức đặc thù để con người có thể tồn tại

và phát triển trong xã hội luôn biến đổi và nhiều thách thức. Thích ứng giúp con người

vượt qua những khó khăn, đạt được mục tiêu đã đề ra.

Với mọi người trong xã hội, thay đổi môi trường sống đã khó khăn, đối với người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về tái hòa nhập cộng đồng lại càng khó

khăn. Họ gặp khó khăn từ gia đình đến xã hội, từ tâm lý đến điều kiện kinh tế, từ vị thế đến

vai trò xã hội [32,tr.48]. Các em khó khăn trong giao tiếp đời thường với cả chính những

người mà trước đây theo họ là “khá thân”, khó khăn trong việc tiếp cận tri thức và lao động.

Về lý luận, đây là giai đoạn có nhiều xáo trộn về mặt tâm lý, đang định hình nhân cách [27,

tr.381]; lại là đối tượng đã thực hiện hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội do tâm lý tiêu cực

điều khiển nên khi trở về chấp hành theo những chẩn mực xã hội gặp nhiều khó khăn. Về

thực tiễn, những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi trở về địa

phương gặp rất nhiều trở ngại khi gia nhập vào các nhóm xã hội một phần do tự ti, mặc

cảm; một phần là sự kỳ thị của cộng đồng người sống xung quanh [39,tr.54].

Hướng tới sự thích ứng với hoạt động và môi trường sống, mỗi cá nhân phải hình

thành và rèn luyện những thuộc tính tâm lý cá nhân đảm bảo sự phù hợp với những yêu

cầu và đòi hỏi của một hoạt động và chuẩn mực của cộng đồng nhất định.

Tại các trường giáo dưỡng, dưới sự quản lý, tác động giáo dục, cảm hóa của cán bộ

giáo viên và chương trình giáo dục, học sinh thường xuyên được quan tâm, bảo vệ, chăm

sóc, giáo dục đặc biệt, giúp họ nhận rõ và sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh về thể

chất và tinh thần, phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp

luật và các quy tắc của cuộc sống, sớm hòa nhập cuộc sống bình thường trong mái ấm gia

đình và cộng đồng xã hội [44,tr.36]. Tuy nhiên, sau khi chấp hành xong biện pháp xử lý

hành chính đưa vào trường giáo dưỡng nhiều em vẫn luôn thường trực một tâm lý tự ti,

mặc cảm và "bất cần", sẵn sàng tái phạm trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Theo kết quả thống kê của Cục Cảnh sát Quản lý trại giam, Cơ sở giáo dục bắt buộc,

trường giáo dưỡng từ năm 2015 đến hết ngày 30/11/2019, tổng số người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về tái hòa nhập cộng đồng là 6.970 người [43], trung

bình mỗi năm có 1.394 người trở về cộng đồng. Đây là một bộ phận công dân "tương lai"

của đất nước, bộ phận công dân này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến tình hình

ANTT nơi họ trở về cư trú, sinh sống. Vì vậy, tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong những năm qua đã, đang được quan tâm và đạt

được những kết quả nhất định. Thực tiễn triển khai công tác này còn nhiều khó khăn, bất

cập: tổ chức bộ máy của các cơ quan được giao nhiệm vụ trách nhiệm giúp đỡ tái hòa nhập

cộng đồng cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đang trong quá trình

xây dựng, củng cố, nhất là ở cơ sở chưa được hoàn thiện; sự phối hợp giữa cơ quan chưa

chặt chẽ [32, tr.46], xã hội còn có định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử… Đây chính là một

trong những lý do cản trở quá trình tái hòa nhập cộng đồng dẫn đến tình trạng tái phạm ở

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng. Thực tế

trong tổng số 1.040 người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã có 636 người

tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật, bị xử lý hình sự và xử lý hành chính [44,tr.7]. Do

đó, giúp cho người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

tái hòa nhập cộng đồng xã hội, thích ứng với môi trường sống vừa "cũ" vừa "mới" đối với

họ là hoạt động phòng ngừa có “địa chỉ”, phòng ngừa trực tiếp nhất, có ý nghĩa trong phòng

ngừa tội phạm, tái phạm tội.

Từ những lí do trên, tác giả chọn nghiên cứu: “Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng” làm đề tài luận án tiến sĩ.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, từ đó xây dựng khung lý luận về vấn đề và đưa

ra một số khuyến nghị nâng cao sự thích ứng tâm lý.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Mức độ và biểu hiện thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

3.2. Khách thể nghiên cứu

168 Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng.

30 người làm công tác quản lý, giáo dục người chấp hành xong BPXLHC đưa vào

TGD ở các địa phương nơi họ về sinh sống như: Cảnh sát khu vực, cán bộ Hội phụ nữ,

người thân của họ.

4. Giả thuyết khoa học

Hiện nay, người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống

thích ứng với cuộc sống tại các cộng đồng xã hội chưa cao, biểu hiện ở các mặt nhận thức,

thái độ, hành vi qua các hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt thường

ngày. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác giả nghiên cứu đã xếp vào nhóm những yếu tố thuộc

về chủ quan và nhóm những yếu tố thuộc về khách quan.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Xây dựng khung lý luận về thích ứng, tái hòa nhập cộng đồng và các biểu hiện

của thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD .

5.2. Nghiên cứu thực trạng biểu hiện, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng tới sự thích

ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

5.3. Đề xuất một số gải pháp về tâm lý học nhằm nâng cao sự thích ứng với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD.

6. Phạm vi nghiên cứu

6.1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu

- Đề tài nghiên cứu thích ứng tâm lý như là quá trình chủ động, biến đổi bản thân cá

nhân để có được sự cân bằng với môi trường sống. Do vậy, đề tài nghiên cứu mức độ và

biểu hiện thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp

xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thông qua các mặt: nhận thức, thái độ, hành

vi và những yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng đó.

6.2. Phạm vi về thời gian nghiên cứu

Đề tài được triển khai nghiên cứu trong 4 năm 2017 - 2020.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp luận nghiên cứu

- Nguyên tắc phát triển

Thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người đã chấp hành xong biện pháp xử

lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng được xem như là một phạm trù thay đổi trong

từng giai đoạn từ khi họ chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng về sinh sống tại địa phương.

- Nguyên tắc hoạt động

Đề tài được tiến hành phân tích thực tiễn, xuất phát từ quan điểm cho rằng tâm lý

con người được hình thành trong hoạt động và giao tiếp và có nguồn gốc từ môi trường

sống. Mà thích ứng là một tất yếu đối với người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành

chính đưa vào trường giáo dưỡng tái hòa nhập cộng đồng xã hội. Do đó, muốn tìm hiểu rõ

về thích ứng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người đã chấp hành xong Quyết

định xử lý hành chính phải nghiên cứu thông qua hoạt động thực tiễn của họ.

- Nguyên tắc tiếp cận hệ thống

Con người là một thực thể xã hội nên hành vi của họ chịu sự chi phối, ảnh hưởng

của nhiều yếu tố khác nhau- yếu tố tâm lý cá nhân và yếu tố xã hội. Khi nghiên cứu thích

ứng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý

hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, chúng tôi luôn đặt trong mối quan hệ với môi

trường, với nhóm xã hội mà họ tham gia với tư cách thành viên.

7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

7.2.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu

Để xác định nội dung các khái niệm cơ bản, hình thành giả thuyết khoa học, khái

quát kết quả thu được từ các phương pháp cụ thể khác, xây dựng mô hình lý luận của đề

tài nghên cứu chúng tôi tiến hành sưu tầm, đọc, phân tích, tổng hợp hóa và khái quát hóa

những lý thuyết, những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được đăng tải trên các

sách, báo, tạp chí về những vấn đề liên quan đến thích ứng ở người đã chấp hành xong biện

pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng.

7.2.2. Phương pháp quan sát

Đề tài sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp từ các hoạt động sống của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD qua các hoạt động học tập, lao động, quan hệ

xã hội và sinh hoạt.

7.2.3. Phương pháp chuyên gia

Trong khuôn khổ luận án, phương pháp chuyên gia được sử dụng cả trong nghiên

cứu lý luận nhằm tranh thủ ý kiến đóng góp của các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh

vực tâm lý học và giáo dục đối tượng đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa

vào trường giáo dưỡng về nội dung nghiên cứu lý luận và thực tiễn của luận án.

7.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Đây là phương pháp sử dụng chủ yếu trong đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng mức độ

thích ứng của người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng; mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới quá

trình thích ứng của họ. Trên cơ sở đó xác định yếu tố nào có ảnh hưởng nhiều nhất tới quá

trình thích ứng của họ.

7.2.5. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch

Hồ sơ là tài liệu lưu giữ nhiều thông tin quan trọng, chi tiết như hoàn cảnh gia đình,

tiền sự, hành vi vi phạm mà họ đã thực hiện nên đề tài chỉ tiến hành nghiên cứu hồ sơ của

một số trường hợp cần thiết phục vụ cho việc phỏng vấn sâu và nghiên cứu điển hình.

7.2.6 Phương pháp nghiên cứu trường hợp

- Mục đích: Nghiên cứu sâu hơn về nhận thức, thái độ và hành vi của người đã chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; tìm hiểu nguyên nhân

cản trở họ chưa tích cực với cuộc sống, giúp họ tạo dựng được niềm tin vào bản thân và

cộng đồng, tích cực tham gia vào các quan hệ xã hội, học tập và lao động.

- Phương pháp: phỏng vấn sâu, quan sát, tham vấn cá nhân.

- Khách thể: Chúng tôi nghiên cứu 02 trường hợp điển hình (Chọn trong số những

người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đã được

điều tra bằng bảng hỏi).

- Địa điểm tiến hành: tại địa chỉ cụ thể của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD sinh sống.

7.2.7. Phương pháp phỏng vấn sâu.

Tiến hành phỏng vấn sâu với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD,

cán bộ là Cảnh sát khu vực, Cảnh sát hình sự, tổ trưởng tổ dân phố, cán bộ của các tổ chức

đoàn thể ở địa phương nơi cư trú của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD về sinh sống nhằm đưa ra một số biện pháp góp phần nâng cao sự thích ứng tâm lý,

tái hòa nhập cộng đồng của khách thể nghiên cứu.

7.2.8. Phương pháp thống kê toán học

Đề tài được sử dụng phương pháp xử lý số liệu SPSS để xác định mối tương quan

giữa các mặt, ảnh hưởng của các yếu tố, kiểm tra độ tin cậy của các biến, chạy và kiểm tra

tần số, vẽ biểu đồ.

8. Đóng góp mới của luận án

8.1. Về lý luận

- Tác giả khái quát một số xu hướng nghiên cứu về thích ứng nói chung và thích

ứng tâm lý nói riêng, một số nghiên cứu về tái hòa nhập cho các đối tượng cần được chú

ý, giúp đỡ trên thế giới và ở Việt Nam. Từ đó tác giả xây dựng được cơ sở lý luận về thích

ứng tâm lý ở đối tượng có tính đặc thù- người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính

đưa vào trường Giáo dưỡng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Tác giả đã chỉ rõ các

biểu hiện và nội dung của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Đề tài xác định được nội dung của một số yếu tố dự

báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD bao gồm các yếu tố thuộc về chủ quan và các yếu tố thuộc về khách quan.

- Kết quả nghiên cứu của luận án một mặt sẽ cung cấp những thông tin quan trọng

và mới mẻ trong những vấn đề lý luận và khẳng định sự cần thiết về thích ứng nói chung

và sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng cho tất cả các đối tượng chấp hành xong

biện pháp xử lý hành chính.

8.2. Về thực tiễn

Đề tài chỉ ra thực trạng thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thông qua các nội dung và

mặt biểu hiện. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng như một tài liệu tham

khảo trong các nhà trường, Học viện Công an nhân dân; các viện nghiên cứu xã hội và các

khoa xã hội, khoa Tâm lý các nhà trường; các nhà nghiên cứu về tâm lý học pháp lý, tâm

lý học tội phạm, cán bộ làm công tác quản lý, giáo dục tại các địa bàn cơ sở... để có thêm

kênh thông tin và kiến thức về thích ứng tâm lý người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD. Từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa khả năng thích ứng tâm lý của nhóm

khách thể này.

9. Cầu trúc của Luận án

Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình của tác giả liên quan đến luận

án, tài liệu tham khảo và phần phụ lục Luận án được cấu trúc theo 3 chương:

Chương 1. Lý luận về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu

Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực tiễn thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP

CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP

XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Hướng nghiên cứu sự thích ứng nghề nghiệp, thích ứng lao động

E. A. Ermolaeva năm 1969 nghiên cứu “Đặc điểm của sự thích ứng xã hội và nghề

nghiệp của sinh viên tốt nghiệp trường sư phạm”. Trong công trình này tác giả đã đưa ra

khái niệm thích ứng và chỉ số đặc trưng với thích ứng nghề nghiệp của những sinh viên

tốt nghiệp trường sư phạm. Theo bà, “thích ứng nghề nghiệp là một quá trình thích nghi

của con người với đặc điểm và điều kiện lao động tập thể nhất định”. Bà đưa ra bốn chỉ số

khách quan và ba chỉ số chủ quan của sự thích ứng nghề nghiệp. Bốn chỉ số khách quan:

chất lượng công việc, trình độ tay nghề, uy tín của cá nhân trong tập thể, sự tuân thủ kỷ

luật lao động và ba chỉ số chủ quan là: thái độ hài lòng với công việc, điều kiện làm việc,

mối quan hệ với người khác trong tập thể. Bà cũng chỉ ra những thời điểm thích ứng xuất

hiện, đó là: “ Khi làm quen với những điều kiện mới đó kéo theo những sự tiêu tốn sức lực

nhất định”. Mặc dù chỉ nghiên cứu lĩnh vực thích ứng lao động nhưng ý kiến của E. A.

Ermolaeva góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về thích ứng nhất là vấn đề chỉ số của sự

thích ứng [dẫn theo 28].

Năm 1979 A.I Serbacov và A.B. Mudric với công trình “Sự thích ứng nghề nghiệp

của thầy giáo” cũng gần giống quan điểm của E.A. Ermolaeva nhưng nhấn mạnh sự làm

quen với điều kiện và đặc điểm lao động cũng được xem là quá trính thích ứng. “Thích ứng

nghề nghiệp của người thầy giáo là quá trình thích nghi với những điều kiện thực tế của

hoạt động sư phạm thể hiện ở thầy giáo khi mới vào công tác ở trường phổ thông”. Hai tác

giả đã đưa ra cái nhìn chung về sự thích ứng tâm lý với nghề dạy học, đồng thời phân tích

các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan có ảnh hưởng đến thích ứng nghề nghiệp

[dẫn theo 30].

Khi con người thích ứng với nghề nghiệp, họ sẽ chủ động hơn, tích cực hơn trong

công việc, an tâm phấn khởi, say mê, dồn hết tâm trí, khả năng của mình vào hoạt động và

lúc này họ sẽ dễ dàng thực hiện công việc, tăng khả năng sáng tạo và hiệu suất lao động.

Năm 1983 với quan điểm “thích ứng nghề nghiệp là giai đoạn cuối cùng cho việc

hướng nghiệp, quá trình này diễn ra từ khi học phổ thông và bao gồm việc nắm kỹ năng,

kỹ xảo cần thiết, kỹ năng định hướng nhanh chóng quá trình hành động” của N.I. Klalughin

mà về sau hai nhà nghiên cứu tâm lý học là Ia.P. Colomiski và E.A.Panco đã phân biệt rõ

hai loại thích ứng: thích ứng sinh lý và thích ứng tâm lý- xã hội. Thích ứng sinh lý diễn ra

như một tự động hóa khi môi trường thay đổi, sự thay đổi này không kèm theo hành động

có mục đích của chủ thể tâm lý [dẫn theo 66, tr.56]. Thích ứng tâm lý- xã hội là một quá

trình biến đổi tích cực mà để có được nó chủ thể cần biểu hiện những nỗ lực chuyên biệt;

mặt khác mối quan hệ giữa con người với môi trường trong thích ứng tâm lý- xã hội khác

hẳn thích ứng sinh lý, đó là quan hệ hai chiều trong đó không chỉ hoàn cảnh tác động lên

con người mà con người tác động trở lại hoàn cảnh, tự mình thay đổi hoàn cảnh xã hội.

M.V. Vôlanen- nhà tâm lý học Ba Lan quan tâm đến vấn đề thích ứng nghề nghiệp

và tâm thế xã hội đối với việc làm của thanh niên. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy

giữa việc học và lao động nghề của thanh niên là thời gian chuyển tiếp có thể kéo dài từ 5

– 7 năm, được đặc trưng bởi hàng loạt các sự kiện như: những công việc tạm thời, thất

nghiệp, thậm chí cả sự thay đổi nghề [dẫn theo 38].

Ở một khía cạnh khác, Holland nghiên cứu sự phù hợp của các hình thái, các kiểu

nhân cách với môi trường nghề nghiệp tương ứng. Theo ông tính cách phù hợp với môi

trường nghề tương ứng sẽ hạn chế rất nhiều những rủi ro mà con người gặp phải trong công

việc, đẩy nhanh quá trình thích ứng nghề [dẫn theo 38, tr.79].

Năm 1979, A.E.Golomstooc khi nghiên cứu về “Sự lựa chọn nghề nghiệp và giáo

dục nhân cách cho học sinh”, tác giả đã không sử dụng thuật ngữ “thích ứng” (Адаптация)

mà sử dụng thuật ngữ “thích hợp” (Пригодностъ) để nói về sự thích nghi của con người

với nghề nghiệp. Trong đó, tác giả xem thích ứng là một quá trình bắt đầu từ nhận thức đến

hành động và đặc biệt nhấn mạnh đến mặt thái độ của quá trình thích hợp nghề nghiệp và

coi đó như là một thuộc tính của nhân cách. Ông viết: “ Sự thích ứng nghề nghiệp được thể

hiện ở chỗ con người lĩnh hội và thực hiện lao động có kết quả, đồng thời thể hiện tình cảm

thỏa mãn với công việc của mình” [14,tr.121]. Ngoài ra, ông cũng nêu lên lý thuyết về sự

thích ứng nghề nghiệp phù hợp với những tài liệu thực nghiệm của tâm lí học hiện đại. Tuy

nhiên, ông cũng chỉ mới đề cập tới vấn đề thích hợp nghề nghiệp nói chung chứ không đi

vào một nghề cụ thể [14, tr.66].

Một số nghiên cứu thích ứng với nghề nghiệp trong nước có thể điểm qua như sau.

Tác giả Nguyễn Thúy Bình với “Sự thích ứng của người giáo viên trẻ”, Nguyễn Thị Minh

Huyền có “Sự thích ứng với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên các

trường sư phạm”, Nguyễn Nguyệt Cầm “Sự thích ứng với nghề chế biến ăn uống của học

sinh ngành chế biến ăn uống trường trung học Thương mại và Du lịch” [dẫn theo 23].

Các công trình trên làm rõ khái niệm “thích ứng”, chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng

đến sự thích ứng nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, còn có “Kế hoạch đường đời và tự xác định nghề nghiệp của thanh

niên- sinh viên” của tác giả Nguyễn Thạc đề cập đến sự thích ứng nghề nghiệp và chỉ ra ý

nghĩa của nó đối với việc chọn nghề của sinh viên. Tác giả cho rằng thích ứng tốt sẽ tạo ra

sự ổn định nghề nghiệp, có sự tin tưởng vào sự đúng đắn của việc lựa chọn nghề. Đó là cơ

sở để khẳng định nhân cách và củng cố xu hướng nghề nghiệp của cá nhân .

1.1.2. Hướng nghiên cứu sự thích ứng với môi trường văn hóa mới, thích ứng

xã hội.

H. Spencer (1820- 1903) khi nghiên cứu về sự thích ứng của con người với môi

trường, ông đã chỉ ra con người sống trong xã hôi, cũng giống như các loài vật trong môi

trường tự nhiên, đấu tranh để tồn tại và chỉ những người thích ứng với môi trường sống

mới sống sót. Môi trường ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa: cả môi trường tự nhiên, cả môi

trường xã hội. Và sự thích ứng với điều kiện sống của môi trường nào cũng đều cần thiết

và có ý nghĩa với chủ thể, trong đó thích ứng tâm lý với môi trường xã hội là vấn đề nghiên

cứu của tâm lý học. Chính vì vậy, những nghiên cứu về sự thích ứng xã hội của con người

chủ yếu là những nghiên cứu về sự thích ứng với môi trường xã hội với tư cách con người

là thành viên của xã hôi và tham gia vào các mối quan hệ xã hội nhất định.

K. Oberg, nhà nhân chủng học người Mỹ, đưa ra khái niệm “sốc văn hóa”. Theo

ông, khi con người nhập vào một nền văn hóa mới luôn kèm theo những vấn đề về sức

khỏe tinh thần, cảm giác đánh mất bạn bè, những cảm xúc tiêu cực, địa vị, không thoải

mái, sự khó khăn trong định hướng giá trị và mâu thuẫn nội tâm [66,tr.178].

Vấn đề sốc văn hóa sau đó được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, chẳng hạn

như: P.S. Adler, E.H. Jacobson, A.C. Garza – Guerrero... và mặc dù, mỗi tác giả độc lập

nghiên cứu và đưa ra những giai đoạn khác nhau của sốc văn hóa nhưng tất cả đều cho rằng

triệu chứng của sốc văn hóa rất khác nhau: từ sự bất an thường xuyên về chất lượng thực

phẩm, điều kiện vệ sinh, nước uống, sợ tiếp xúc với người khác, mất ngủ, thiếu tự tin cho

đến rối loạn tâm thể, thậm chí tự tử.

Những công trình nghiên cứu khác về vấn đề sốc văn hóa cho thấy sốc văn hóa cũng

để lại những hiệu quả tích cực, đó là đưa con người tới những sự nỗ lực để tiếp nhận những

giá trị và những mô hình hành vi mới; những mô hình hành vi này sẽ giúp họ phát triển

nhân cách của bản thân. Nhà tâm lý học Berry J.W đã đề xuất thuật ngữ “stress

acculturation”- trạng thái căng thẳng do tiếp nhận và biến đổi văn hóa.

Ngày nay, thế giới đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa với những sự giao thoa

của các nền kinh tế đã kéo theo quá trình giao thoa, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia,

giữa các công dân giữa các quốc gia. Trong sự phát triển của toàn cầu hóa, một công cụ để

thích ứng với quá trình này là phát triển trí tuệ xuyên văn hóa (Gertesen & Soderberg,

2010). Những người sống ở nước ngoài (những nền văn hóa khác) học cách thích ứng với

các kỳ vọng và mối quan tâm khác nhau ở nơi làm việc, tầm quan trọng của các chuẩn mực

vị thế để phát triển các mối quan hệ hiệu quả ở công ty/ tổ chức.

Công trình nghiên cứu về thích ứng trong quá trình đào tạo nghề năm 1956, trong

cuốn “ Colonial Studens” (Sinh viên nước thuộc địa), Carey A.T nghiên cứu sự thích ứng

với quá trình học tập của sinh viên nước ngoài trong môi trường văn hóa mới. Ông phân

tích quá trình thích ứng với nền văn hóa Anh của sinh viên (chủ yếu là từ các nước Châu

Phi và Châu Á) các nước thuộc địa đến Anh học tập [54]. Trong phân tích của mình, Carey

A.T chú ý nhiều đến những khó khăn gắn liền với cuộc sống sinh viên và thái độ của sinh

viên Anh đối với họ.

Một số nhà tâm lý học nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên nước ngoài khi học

tập trong một môi trường văn hóa mới. A. Anumonye phỏng vấn 150 sinh viên châu Phi

học tập ở Anh và đưa ra những nguyên nhân gây hẫng hụt của sinh viên trong môi trường

sống mới. Trong số này, những nguyên nhân về văn hóa chiếm phần lớn. Theo ông, chính

sự không thích ứng với môi trường sống khiến sinh viên châu Phi gặp nhiều những khó

khăn trong thời gian học tập tại Anh) [50, tr.62].

Nhà nghiên cứu Triandic H. khi nghiên cứu về quá trình thích ứng gắn sốc văn hóa

với đường cong chữ U của quá trình thích ứng. Ông cho rằng quá trình thích ứng văn hóa

có 5 giai đoạn: 1- Giai đoạn “ trăng mật” đặc trưng bởi sự khâm phục, say mê, nhiệt huyết

của người đến và thái độ thân thiện, lịch sự của đại diện văn hóa mới; 2- Giai đoạn “khủng

hoảng” là những dị biệt về tư tưởng, ngôn ngữ, giá trị làm xuất hiện cảm giác không tương

thích, bất an, hẫng hụt, không thân thiện; 3- Giai đoạn khủng hoảng cao độ: sốc văn hóa

phát triển đến đỉnh điểm với những bệnh lý trầm trọng và trạng thái bất lực; 4- Giai đoạn

“phục hồi” với nỗ lực của bản thân, con người lĩnh hội ngôn ngữ và tiếp thu nền văn hóa

của nước di cư đến; 5- Giai đoạn “thích ứng”: con người thâm nhập vào môi trường sống

mới và nhận được từ đó sự “chấp nhận”[79, tr. 25]. Nhiều nhà tâm lý học khác hướng sự

chú ý vào vấn đề sức khỏe tinh thần khi con người chuyển sang môi trường sống mới.

Chẳng hạn, R. Still khi tiến hành khảo sát sức khỏe tinh thần ở sinh viên Anh và sinh viên

nước ngoài tại Hồng Kông nhận thấy tỉ lệ sinh viên có vấn đề về tâm lý như sau: Nigiênia:

28.1%; Aicập: 22.5%; Thổ Nhĩ Kỳ: 21%; Ấn Độ: 17.6% và Anh là 14%.

Tác giả Singh A.K. đã chỉ ra 3 nhóm vấn đề mà sinh viên Ấn Độ học ở Anh gặp

phải, đó là những vấn đề về học tập, cảm xúc và thích ứng. Kết quả “ nghiên cứu cho thấy

sẽ là sai lầm nếu cho rằng sinh viên Ấn Độ là nhóm ít phân hóa. Sự thích ứng của họ với

các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như xã hội, cá nhân và học tập phụ thuộc vào nhiều

yếu tố mà trước hết là địa vị xã hội, lứa tuổi, phẩm chất cá nhân, cấp học, loại trường và

thời hạn cư trú” ) [72, tr. 161].

Như vậy, những nghiên cứu về thích ứng với môi trường văn hóa mới đã được các

tác giả đề cập tập trung hướng tới mô tả sự thay đổi của con người cho phù hợp với sự thay

đổi của môi trường văn hóa mà trong đó họ là thành viên- chủ thể sẽ góp phần tạo ra và

làm phong phú những giá trị văn hóa đó.

Những nghiên cứu trên cho thấy thích ứng môi trường văn hóa, môi trường xã hội

đều có điểm chung là: những chiều cạnh khác nhau của tâm lý con người khi có sự thay

đổi về môi trường xã hội, môi trường văn hóa cũng như hệ quả của việc không thích ứng

sẽ xảy đến trong đời sống tâm lý cũng như hoạt động của các cá nhân rằng: những mặt

khác nhau của đời sống tâm lý con người khi thay đổi môi trường sống mới với những

chuẩn mực xã hội khác; việc không thích ứng với nó sẽ dần dẫn đến hậu quả tiêu cực trong

đời sống và hoạt động của con người. Tuy nhiên điểm khác biệt giữa các nghiên cứu trên

là có tác giả đề cập đến vấn đề sốc văn hóa như là biểu hiện của kém thích ứng với môi

trường văn hóa; có tác giả lại đưa ra các giai đoạn khác nhau của của quá trình thích ứng

khi sống trong những điều kiện thay đổi về vật chất.

Đây cũng là một trong những hướng nghiên cứu phổ biến tại Việt Nam về vấn đề

thích ứng. Các công trình theo hướng này chủ yếu tập trung vào sự thích ứng tâm lý với

điều kiện sống mới như: sự thích ứng với môi trường tập thể, thích ứng tâm lý với điều

kiện sống mới... có thể kể đến công trình của Lã Văn Mến: “Tìm hiểu sự thích ứng đối với

đời sống tập thể của sinh viên năm thứ nhất”. Trong công trình này tác giả đã phát hiện

thực trạng sự thích ứng với điều kiện tập thể của sinh viên năm thứ nhất và vai trò của các

yếu tố trong quá trình đó. Tác giả đề xuất những biện pháp nhằm đẩy mạnh sự thích ứng

của sinh viên với đời sống tập thể trong thời gian năm thứ nhất [dẫn theo 31, tr. 41].

Hoặc nghiên cứu về thay đổi môi trường sống có tác giả Chu Văn Đức với luận án

tiến sĩ về “Sự thích ứng của phạm nhân với chế độ sinh hoạt và chế độ lao động tại trại

giam”. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đa số phạm nhân mới nhập trại chỉ đạt mức độ

thích ứng trung bình với chế độ sinh hoạt và lao động. Thực trạng thích ứng của phạm nhân

với chế độ sinh hoạt và lao động ít biến đổi theo giới tính nhưng biến đổi mạnh theo trình

độ học vấn, tình trạng hôn nhân và mức án của phạm nhân. Quá trình thích ứng của phạm

nhân với chế độ sinh hoạt và chế độ lao động trong những năm đầu ở trại giam diễn ra liên

tục với cường độ không như nhau ở những giai đoạn khác nhau. Kết quả nghiên cứu cũng

cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự thích ứng của phạm nhân, trong đó có 3 yếu tố:

niềm tin vào tương lai, sự quan tâm của gia đình và mối quan hệ phạm nhân- phạm nhân

có ảnh hưởng đáng kể đến thực trạng thích ứng của phạm nhân với chế độ sinh hoạt và

chế độ lao động, trong đó niềm tin vào tương lai là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất [5, tr.121].

Theo hướng nghiên cứu này có các hướng nghiên cứu tập trung vào những nhóm

khách thể như sinh viên hay học sinh đầu, những người thay đổi môi trường sống. Tiêu

biểu như một số tác giả Trần Hoàng Yến “Sự thích ứng học tập của học sinh lớp 1”, Hoàng

Trần Doãn “sự thích ứng trong hoạt động học tập của sinh viên”, Nguyễn Minh Đức có “sự

thích ứng hoạt động học tập của học sinh lớp 6”. Các công trình trên đã hệ thống hóa các

vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động học tập của những nhóm khách thể có đặc điểm tâm

lý đặc trưng. Qua đó tìm hiểu thực trạng sự thích ứng với hoạt động học tập và xác định

nguyên nhân ảnh hưởng tới thích ứng học tập của nhóm khách thể này [dẫn theo 33].

Công trình của tác giả Phạm Thị Thục Oanh “Thích ứng tâm lý với quá trình chấp

hành án tại trại giam của phạm nhân nữ”. Trong luận án này tác giả đã làm rõ khái niệm

thích ứng dựa trên 3 mặt đó là: Nhận thức, cảm xúc và hành vi của phạm nhân trong quá

trình chấp hành án tại một số trại giam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã kết luận

phạm nhân có sự thích ứng về hành vi cao hơn thích ứng về mặt nhận thức và cảm xúc [32,

tr.151].

Năm 2012, tác giả Vũ Dũng với cuốn sách “Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội

yếu thế ở nước ta hiện nay”đề cập đến là nhóm người cao tuổi, nhóm người mắc bệnh hiểm

nghèo, nhóm trẻ em lang thang, cơ nhõ. Các nhóm xã hội này gặp nhiều khó khăn, bất cập

và thách thức trong cuộc sống và khả năng thích ứng, cũng như những thiếu hụt về kinh

nghiệm sống, về sức khỏe và khả năng thu nhập. Trong khi đó sự thích ứng xã hội là một

trong những điều kiện hàng đầu giúp con người sống và tồn tại. Sự thích ứng là điều kiện

giúp con người vượt qua những khó khăn trở ngại, hòa nhập và tồn tại một cách hiệu quả

với môi trường sống. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn đầy đủ về “nhóm xã

hội yếu thế” như những khó khăn, thuận lợi trong cuộc sống và đặc biệt là những khó khăn

trong việc hòa nhập vào cuộc sống xã hội hiện đại [9]. Thích ứng xã hội là vấn đề cần được

nghiên cứu sâu và có hệ thống dưới góc độ Tâm lý học.

Trong một số công trình nghiên cứu thích ứng với môi trường văn hóa và xã hội có

tác giả lại chỉ tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của thích ứng văn hóa và xã hội tới kết

quả học tập và những trạng thái tâm lý căng thẳng của con người. Mặc dù các kết quả thu

được có giá trị cao về mặt học thuật và thực tiễn nhưng chỉ tập trung vào mô tả các biểu

hiện và các chỉ số cụ thể của sự thích ứng hoặc không thích ứng với môi trường văn hóa,

môi trường xã hội mà chưa chú ý đến đưa ra những hướng cụ thể, chỉ ra cơ chế làm sao

con người có thể thích ứng được với những thay đổi của môi trường văn hóa, môi trường

xã hội một cách nhanh và hiệu quả.

1.1.3. Nghiên cứu về thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng

Trong công trình "Evidence-Based Review of Stroke Rehabilitation Community

Reintegration" tháng 3/2018 (Đánh giá dựa trên bằng chứng về phục hồi đột quỵ trong Tái

hòa nhập cộng đồng) của nhóm tác giả Tiến sĩ Katherine Salter PhD, Laura Allen MSc,

Marina Richardson MSc, Andreea Cotoi MSc, Alice Iliescu BSc, Breanne Carr BRLS,

Robert Teasell MD đã chỉ rõ tái hòa nhập cho các bệnh nhân phục hồi đột quỵ sẽ đạt kết

quả tốt khi có sự hỗ trợ xã hội. Và hỗ trợ xã hội được tìm thấy là có lợi trong việc cải thiện

tâm trạng, tương tác xã hội và thậm chí kết quả chức năng. Bệnh nhân đột quỵ được hưởng

lợi nhiều nhất từ hỗ trợ xã hội và hỗ trợ cảm xúc cao. Mạng lưới hỗ trợ xã hội lớn có ảnh

hưởng tích cực đến sự phục hồi thể chất và chất lượng cuộc sống của người sống sót sau

đột quỵ. Mặc dù các tổ chức xã hội quản lý, chăm sóc và hỗ trợ người bệnh tại nhà có thể

giúp cải thiện kiến thức và sự hài lòng giúp người bệnh nâng cao chất lượng cuộc sống

hoặc tâm trạng được cải thiện [62].

Trong công trình "Offender Reentry: Correctional Statistics, Reintegration into the

Community, and Recidivism" (Tái hòa nhập của Người phạm tội: Thống kê tương đối, tái

hòa nhập cộng đồng và phòng ngừa tái phạm) của tác giả Nathan James Analyst in Crime

Policy, tháng 1/ 2015

Trong công trình này, tác giả nêu rõ thống kê số người bị giam giữ ở Hoa Kỳ tăng

trưởng đều đặn trong gần 30 năm. Con số đã giảm dần kể từ năm 2008, nhưng đến năm

2012 vẫn còn hơn 2 triệu người bị giam trong các nhà tù khắp đất nước. Gần 5 triệu người

phạm tội dưới một số hình thức dựa vào cộng đồng giám sát. Các phạm nhân được chuẩn

bị các hoạt động và chương trình được tiến hành để chuẩn bị cho các tù nhân trở về an toàn

và sống như những công dân tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, một số người phạm tội trở lại

nhà tù vì thực hiện tội phạm mới hoặc vi phạm các chuẩn mực xã hội khi họ chưa kịp có

đủ thời gian và điều kiện làm quen với môi trường sống mới. Những người ra tù ít có khả

năng được tuyển dụng và có nhiều khả năng có tiền sử bệnh tâm thần hoặc lạm dụng chất

gây nghiện Tất cả đều được chứng minh là yếu tố nguy cơ tái phạm [67].

Ba giai đoạn được liên kết với các chương trình tái phạm tội: các chương trình diễn

ra trong thời gian chuẩn bị cho những phạm nhân được thả tự do; các chương trình diễn ra

nhằm mục đích để giúp họ liên lạc với gia đình,người thân, bạn bè với các dịch vụ khác

nhau họ có thể yêu cầu; và các chương trình dài hạn diễn ra với tư cách là cựu phạm nhân

tái hòa nhập vĩnh viễn vào cộng đồng của họ, nơi cộng đồng cung cấp cho người phạm tội

sự hỗ trợ và giám sát.

Chính phủ liên bang có liên quan đến các chương trình tái hòa nhập người phạm tội

thông qua việc cấp kinh phí.

Hội nghị Phát triển năng lực cộng đồng với chủ đề: "Strategies for Creating Offender

Reentry Programs in Indian Country" (Chiến lược Xây dựng chương trình tái hòa nhập

cộng đồng cho người phạm tội ở đất nước Ấn Độ) do Văn phòng Phát triển Năng lực Cộng

đồng (CCDO) đã tổ chức các cuộc thảo luận bàn tròn về vấn đề cộng đồng bản địa quan

tâm: vấn đề thực thi pháp luật, phòng chống tội phạm và tái hòa nhập cộng đồng. Chiến

lược này nhằm ngăn chặn, kiểm soát và giảm tội phạm bạo lực, lạm dụng ma túy, và hoạt

động của các băng đảng tại các khu dân cư trên cả nước. Chiến lược đề cập đến cách tiếp

cận theo hai hướng: 1) các cơ quan thực thi pháp luật và các công tố viên hợp tác trong

"loại bỏ" tội phạm bạo lực và những kẻ lạm dụng ma túy; phòng ngừa, can thiệp, điều trị

tại cộng đồng. 2) Lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động phát triển cộng đồng toàn diện,

cung cấp thông tin và các chương trình thực hành tái hòa nhập cộng đồng [73].

Xinh-ga-po đã có những mô hình thành công trong giúp đỡ người chấp hành xong

án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng. Điển hình như mạng lưới mô hình “Hành động của cộng

đồng trong tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù” (Community

Action for Rehabilitation of Ex-Offenders - viết tắt là CARE Network). Mô hình giúp đỡ

này được thành lập năm 2000, là sự chung tay, góp sức của nhiều cơ quan, tổ chức thuộc

chính phủ và cộng đồng. Lãnh đạo của mạng lưới là nhân viên thuộc Cục trại giam Xinh-

ga-po, các thành viên khác của mạng lưới là người của Bộ Nội vụ, Xinh-ga-po Corporation

of Rehabilitative Enterprises (SCORE), Bộ Cộng đồng, thanh niên và thể thao, Hội chăm

sóc Xinh-ga-po, Hội chống ma túy Xinh-ga-po, Hội đồng quốc gia về dịch vụ xã hội, Hội

hợp tác dịch vụ và công nghiệp (ISCOS). Mạng lưới là khối liên minh vững chắc, hợp tác

có hiệu quả của nhiều cơ quan, tổ chức, cùng góp nguồn lực và hành động cộng đồng trong

giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù, với khẩu hiệu hành động “Hy vọng, tự tin và cơ

hội cho người chấp hành xong án phạt tù” [dẫn theo 19, tr. 32]. Một trong những hoạt động

của mạng lưới trợ giúp của cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù được nhiều

người biết đến và khá hiệu quả ở Xinh-ga-po là dự án “Dải ruy-băng vàng” (Yellow Ribbon

Project). Dự án nhằm mục đích nâng cao nhận thức của cộng đồng về những khó khăn mà

người chấp hành xong án phạt tù phải đối mặt; khuyến khích sự tham gia của cộng đồng

trong việc tiếp nhận người có quá khứ phạm tội, cho họ cơ hội thứ hai làm lại cuộc đời và

thứ ba là tăng cường hiệu quả hành động của cộng đồng trong giúp đỡ người chấp hành

xong án phạt tù và gia đình họ.

Dự án đã quyên góp được trên 5 triệu đô la Mỹ, giúp đỡ trực tiếp cho người chấp

hành xong án phạt tù và gia đình họ về tài chính để ổn định cuộc sống, việc làm. Khoảng

2000 chủ doanh nghiệp Xinh-ga-po thông qua dự án đã cam kết và tiếp nhận người chấp

hành xong án phạt tù làm việc tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất; trên 80% người dân

Xinh-ga-po biết và ủng hộ chương trình, hiểu và nhận thức được mục đích ý nghĩa của dự

án đối với người chấp hành xong án phạt tù và xã hội; 70% bày tỏ lỗ lực và sẵn sàng giúp

đỡ, tiếp nhận người chấp hành xong án phạt tù. Như vậy, có thể khẳng định rằng mô hình

“Hành động của cộng đồng trong tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án

phạt tù” và Dự án “Dải Ruy-băng vàng” đã đạt được kết quả quan trọng trong nâng cao

nhận thức của cộng đồng về giúp đỡ người chấp hành xong hình phạt, người có quá khứ

phạm pháp; trực tiếp giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù về tài chính, tinh thần, việc

làm, giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

Bên cạnh đó, đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này như: Đề tài

“Những nhân tố quan trọng tác động đến sự tái hòa nhập cộng đồng thành công của người

chấp hành xong hình phạt tù” (Successful Prisoner Reentry: an anlysis of the most

important variables) của tác giả Anna Wilson, đã tập trung nghiên cứu và chỉ ra những yếu

tố tác động, ảnh hưởng đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong án

phạt tù ở miền Tây nước Úc. Thông qua kết quả điều tra, phỏng vấn tác giả chỉ ra rằng nơi

ở, việc làm, sự trợ giúp của cộng đồng và giáo dục, đào tạo là những nhân tố ảnh hưởng

lớn nhất đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong án phạt tù. Đặc

biệt chỉ ra vai trò quan trọng của gia đình và cộng đồng trong giúp đỡ người chấp hành

xong án phạt tù tái hòa nhập xã hội. Sự giúp đỡ của mạng lưới cộng đồng tác động lên khả

năng của một cá nhân có thể tiếp xúc với các dịch vụ như nhà ở, giáo dục, các cơ quan trợ

giúp, nghề nghiệp, việc làm, chăm sóc sức khỏe và trợ cấp về tài chính. Tác giả cũng chỉ

ra việc chỉ sử dụng tỷ lệ tái phạm tội của người chấp hành xong án phạt tù như là chỉ số cố

định để đánh giá sự thành công hay không của chương trình tái hòa nhập cộng đồng là chưa

thỏa đáng [dẫn theo 18, tr.53], vì vậy để đánh giá hiệu quả của chương trình tái hòa nhập

cộng đồng, mục đích và các phương pháp đánh giá khác nhau cần được nghiên cứu, phát

triển. Kết quả nghiên cứu của Anna Wilson có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn, có thể

được sử dụng và áp dụng trong điều kiện thực tiễn tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho

người chấp hành xong án phạt tù tại Việt Nam.

Bài viết “Bài học thực tiễn của quá trình tái hòa nhập xã hội của người mãn hạn tù

ở Nauy” của tác giả Stian Bonnvie Arntzen - Giám đốc điều hành của Tổ chức trợ giúp

pháp lý miễn phí của sinh viên Khoa Luật trường Đại học Oslo, Nauy, tại Hội thảo khoa

học “Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở Việt Nam

và Na Uy” năm 2009, đã đưa ra nhiều quan điểm và mô hình thành công trong giúp đỡ

người chấp hành xong hình phạt tù trở về tái hòa nhập cộng đồng. Mô hình “Juss-Buss”

được thành lập bởi sinh viên Khoa Luật, Đại học Oslo, Na- uy, từ năm 1971. Tổ chức này

có 04 nhóm chuyên môn, với “cơ quan là những chiếc xe buýt” [dẫn theo 18, tr.72], di

động đi trợ giúp pháp lý các tầng lớp nhân dân ở Oslo, trong đó đã thành công trong việc

triển khai các chương trình trợ giúp pháp lý miễn phí cho phạm nhân và người chấp hành

xong án phạt tù liên quan đến những khó khăn của họ khi trở về tái hòa nhập xã hội như

vấn đề nhà ở, chính sách, pháp luật, việc làm.

Tổng quan nghiên cứu vấn đề thích ứng tập trung chủ yếu ở góc độ tâm lý cá nhân

như: sự khủng hoảng, hẫng hụt, trạng thái cảm xúc tiêu cực… Có một số nghiên cứu về

thích ứng với môi trường sống mới và cũng mới chỉ đề cập đến thích ứng của một nhóm

người đặc biệt- người phạm tội vào trong môi trường trại giam: nơi có điều kiện sống và

kỷ luật chặt chẽ và mất một phần tự do nhưng còn chưa nhiều và hầu như chưa mô tả đầy

đủ các khía cạnh của sự thích ứng. Còn thích ứng với cuộc sống sau khi chấp hành xong

biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong quá trình tái hòa

nhập cộng đồng thì tác giả chưa thấy có một nghiên cứu nào mà chỉ là những nghiên cứu

ở góc độ quản lý nhà nước về An ninh trật tự. Tác giả Vũ Văn Hòa với luận án “Tổ chức tái

hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù theo chức năng của lực lượng Cảnh sát

nhân dân trong phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam”. Trong luận án, tác giả Vũ Văn Hòa đã chỉ ra

công tác tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù; bước chuẩn bị

và sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Nghiên cứu cũng chỉ nghiên cứu ở người chấp hành

xong án phạt tù về các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội là người Việt Nam về sinh sống tại

các gia đình ở các địa bàn dân cư.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã nghiên cứu về

sự thích ứng ở một số bình diện, có thể khái quát một số điểm chung của các công trình đó

như sau:

- Thích ứng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của cá nhân; thích ứng giúp cá

nhân nhanh chóng hòa nhập với môi trường sống, hoạt động và đem lại hiệu quả cao.

- Một số công trình đã nêu lên một số yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lý,

trong đó khẳng định yếu tố chủ quan của cá nhân đóng vai trò quan trọng giúp cá nhân

thích ứng với hoạt động.

Đến nay, vẫn chưa có công trình nào đề cập đến sự thích ứng của người chấp hành

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong quá trình tái hòa nhập

cộng đồng mà chỉ là một vài nghiên cứu hoặc gần giống về khách thể nghiên cứu mà thôi.

Trong những nghiên cứu được đưa ra, có thể thấy những nghiên cứu về thích ứng tâm lý

của con người với sự thay đổi của môi trường sống, điều kiện văn hóa xã hội mới được ưu

tiên đề cập đến hơn cả; trong đó bao gồm cả thích ứng với một số dạng hoạt động nhất định

của cá nhân là hoạt động học tập và hoạt động nghề nghiệp. Đồng thời các nghiên cứu ở

các khía cạnh khác nhau của các nhà khoa học cũng đề cập khá nhiều tới những vấn đề mà

tác giả có thể tham khảo trong phần nghiên cứu của mình.

1.2. Lý luận về tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.2.1. Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân nhân

dân cấp huyện ra quyết định, áp dụng đối với người chưa thành niên có hành vi vi phạm

theo quy định của pháp luật nhằm mục đích giúp họ học văn hóa, học nghề, lao động, sinh

hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường [37,tr.30]; [35,tr,92].

Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ 06 tháng đến 24 tháng.

Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng

1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội

phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự.

3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội

phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

4. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực hiện hành

vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách

nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

Như vậy người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng trở về tái hòa nhập cộng đồng về độ tuổi là người từ đủ 12 tuổi trở lên.

Theo quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam như: Bộ luật Hình sự, Luật Thi

hành án hình sự, Luật Đặc xá, Luật Xử lý vi phạm hành chính, đối tượng tái hòa nhập cộng

đồng bao gồm: người chấp hành xong án phạt tù, người chấp hành xong quyết định hành

chính đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Bởi, các đối tượng này đều là người có

hành vi vi phạm pháp luật đã bị xử lý và quản lý, giáo dục trong các trại giam, cơ sở giáo

dục, trường giáo dưỡng, họ phải sống cách ly với môi trường xã hội trong thời gian theo

quy định của bản án hoặc quyết định xử lý hành chính.

Tuy nhiên, người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng có một số đặc điểm mà trong phạm vi nghiên cứu của đề tài cần lưu ý:

- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng là

những người đã có hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, bị Tòa

án nhân dân cấp Quận, huyện ra Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

được trả tự do về với gia đình, cộng đồng. Sau khi chấp hành xong Quyết định xử lý hành

chính đưa vào trường giáo dưỡng, bản thân họ là người không bị coi là có án tích.

- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng khi

trở về cộng đồng gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, điều kiện sống, không có việc làm, tay

nghề, trình độ thấp, cá biệt có trường hợp khi chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính

đưa vào trường giáo dưỡng trở về không nơi cư trú, cần được sự quan tâm, giúp đỡ của các

cơ quan, tổ chức, xã hội, các nhà doanh nghiệp để họ ổn định được cuộc sống, trở thành

người công dân lương thiện.

- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng khi

trở về xã hội gặp không ít khó khăn, về khía cạnh tư tưởng, tâm lý, họ thường lo lắng, mặc

cảm, tự ty, xa lánh mọi người, không dễ dàng bộc lộ tâm tư, tình cảm để mọi người cảm

thông, chia sẻ. Vì vậy, khi trở về cộng đồng, xã hội họ cần được giúp đỡ, chia sẻ về mặt

tâm lý, tình cảm, trợ giúp về kinh tế, tư vấn tâm lý, pháp lý.

- Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trở

về cộng đồng thành phần đa dạng, phức tạp, không ít người trong thời gian chấp hành chưa

tỏ rõ sự tiến bộ, tích cực trong học tập, cải tạo nhưng hết thời gian chấp hành biện pháp xử

lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng được trả tự do nên còn tiềm ẩn những yếu tố dễ

tái phạm, dễ bị các đối tượng xấu lôi kéo tham gia thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.

- Những người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng trở về với cộng đồng đa số ở trong lứa tuổi đang định hình và phát triển nhân cách;

giai đoạn tâm lý có nhiều xáo trộn nhất nên dễ bị kích động, dễ bị rủ rê, lôi kéo..... nếu

không có biện pháp quản lý, giáo dục hợp lý. Do vậy xã hội cần có cách kiểm soát hợp lý.

Từ việc chỉ ra một số đặc điểm trên, người chấp hành xong biện pháp xử lý hành

chính đưa vào trường giáo dưỡng được hiểu như sau: Người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD là người đã nhận được sự giúp đỡ, giáo dục lại để xóa bỏ tâm lý tiêu

cực, hình thành tâm lý tích cực, thực hiện hành vi hợp chuẩn.

1.2.2. Một số đặc điểm tâm lý phổ biến của người chấp hành xong biện pháp xử

lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

- Tâm lý mặc cảm, tự ti là hiện tượng tâm lý phổ biến biểu hiện ra bên ngoài ở chủ

yếu người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Điều này thể hiện rõ ở việc

87/90 người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được khảo sát trả lời rằng lo

lắng, mặc cảm, tự ti, xa lánh mọi người, không dễ dàng bộc lộ tâm tư, tình cảm để mọi

người cảm thông, chia sẻ. Họ cho rằng những hành vi vi phạm của họ trước đây là những

vết nhơ, vết nhục trong cuộc đời họ, gia đình, họ hàng, làng xóm, khối phố. Đây cũng là

một trong những nguyên nhân tâm lý khiến cho họ nghĩ rằng đời thế là hết, buông xuôi, bỏ

mặc dễ thúc đẩy các em tham gia vào các tệ nạn xã hội, thực hiện hành vi tái phạm.

- Nhu cầu của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cần được nhìn

nhận vì đây là đặc điểm tâm lý nổi trội ở các em. Nhu cầu là trạng thái tâm lý của cá nhân

đòi hỏi cần được thỏa mãn đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Bản thân nhu cầu chưa thể hiện

được cá nhân đó là tốt hay xấu, phù hợp hay chưa phù hợp với chuẩn mực xã hội, mà

phương thức thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mới là yếu tố thể hiện suy nghĩ và hành vi của

cá nhân có phù hợp với chuẩn mực xã hội hay không. Chính phương thức thỏa mãn nhu

cầu là những hành vi thể hiện trong các quan hệ của cá nhân với môi trường sống, với

người khác và với chính bản thân mình. Ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD, do quá trình sinh sống, hoạt động chưa tích cực, chưa tiếp thu đúng, đủ sự giáo

dục hợp chuẩn hoặc bản thân các em có sự tiếp nhận lệch lạc các nội dung giáo dục nên ỷ

lại, không chịu lao động, thích ăn chơi, hưởng thụ cuộc sống. Nhu cầu của họ chủ yếu thiên

về thoả mãn nhu cầu vật chất, thỏa mãn những nhu cầu nhất thời, sẵn sàng làm mọi thứ chỉ

để thỏa mãn nhu cầu ngay lập tức. Do đặc điểm tâm- sinh lý lứa tuổi, tính hưng phấn cao

nhưng kiềm chế kém nên các hiện tượng tâm lý “kích thích” hình thành và có khả năng lấn

át và thúc đẩy hành động của các em [39, tr.53]. Kết quả khảo sát, đánh giá tình hình người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về cộng đồng cho thấy, tổng số 72/90

người không có việc làm, trong đó phỏng vấn sâu có 67 người không thích lao động, chiếm

74,2 %; chưa chủ động tìm kiếm việc làm 71 người chiếm 78,9 % [4]. Yếu tố này là nguyên

nhân đưa họ tiếp tục đi vào con đường phạm tội, nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân.

- Ý thức pháp luật và nhận thức xã hội thấp kém cũng là một trong những nguyên

nhân dẫn đến việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi tái hòa nhập

cộng đồng tái phạm trở lại. Điều này thể hiện rất rõ khi chúng tôi tiến hành tìm hiểu được

biết trong nội dung học tập và rèn luyện trong thời gian ở trường Giáo dưỡng, nhà trường

cũng có giảng dạy và tuyên truyền nội dung pháp luật, các kiến thức xã hội nhưng không

có nghĩa là người nào chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về cộng đồng

cũng đều có ý thức pháp luật, chấp hành pháp luật một cách đúng đắn. Mà một số đối tượng

khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về tái hòa nhập cộng đồng vẫn

không chấp hành các quy định của pháp luật, quy định của địa phương như không trở về

địa bàn cư trú, bỏ đi nơi khác, không trình diện với chính quyền địa phương, không làm

các thủ tục pháp lý; thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, thậm chí là phạm tội.

1.2.3. Khó khăn của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào

trường giáo dưỡng

Về hoạt động học tập

Hoạt động học tập là một quá trình, có mục đích- kế hoạch, có sự định hướng của

chủ thể giáo dục nhằm tiếp thu những tri thức và kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành

“cái” của riêng mình. Đây là quá trình đòi hỏi được thực hiện một cách liên tục, thường

xuyên, với các mục tiêu cụ thể của từng giai đoạn và cả quá trình. Với người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, hoạt động học tập thường bị “đứt quãng”, “gián

đoạn” vì chính chủ quan của các em không có ý chí vượt qua khó khăn trước mắt và lâu

dài của cuộc sống. Khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, quay trở lại thực

hiện hoạt động học tập, các em không có tri thức nền tảng để tiếp thu những tri thức tiếp

theo. Bản thân các em không còn tâm thế thực hiện hoạt động học tập. gặp phải một số khó

khăn nhất định như tri thức để các em tiếp thu không liền mạch, không thành hệ thống,

không có cơ sở để tiếp tục lĩnh hội tri thức mới. Bản thân các em cũng không có tâm thế

cho hoạt động học tập, thường trực một tâm lý “từng trải”, “vấp ngã” rồi có học cũng

“không nên cơm cháo gì” nên thực tế khảo sát bằng bảng hỏi thì đa số các em có học vấn

phổ thông ở mức tiểu học.

Về hoạt động lao động

Hoạt động lao đông ở con người khác xa với những hành vi bản năng của con vật ở

chỗ hoạt động lao động của con người có tâm lý- ý thức định hướng, điều khiển, điều chỉnh,

thể hiện việc đặt ra mục đích và những kết quả cần đạt được bằng những mô hình xây dựng

trong “não”. Tâm lý- ý thức chính là những tri thức, kinh nghiệm mà mỗi cá nhân tiếp thu

được từ những hoạt động và lao động có mục đích. Ở người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD, việc đề ra mục đích và kết quả trước khi tiến hành hoạt động lao

động có được thực hiện, xong trên thực tế so với lứa tuổi thì các em lại chưa có đủ tri thức

để chủ động tiến hành hoạt động lao động; chưa có bản lĩnh để giải quyết những khó khăn

trong nảy sinh trong quá trình lao động. Nên quá trình lao động của các em có được tiến

hành cũng chỉ là thực hiện một cách bị động, chưa thực sự là hoạt động theo đúng nghĩa

nên kết quả không cao. Khó khăn nhất trong hoạt động lao động với người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng là phải giúp các

em hình thành thái độ tích cực, đúng mực với lao động và các giá trị lao động và hơn nữa

là hình thành nhu cầu muốn được lao động.

Về quan hệ xã hội

Lứa tuổi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là ở tuổi thiếu

niên và đầu thanh niên. Đặc điểm tâm lý của giai đoạn lứa tuổi này là hình thành và phát

triển các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD theo khảo sát của tác giả thì chủ yếu là các quan hệ xã hội tiêu cực, chưa phù hợp

với các chuẩn mực xã hội như các em tham gia và gia nhập các nhóm không tích cực là

những bạn bè có cùng sở thích, hứng thú lệch chuẩn; chưa cư xử phù hợp với đạo đức và

văn hóa của xã hội trong quan hệ với mọi người. Vì không có tri thức và thái độ về các

chuẩn mực xã hội nên các em nhiều khi lại đánh giá những hành vi tích cực lại là không

phù hợp với các em, không thực hiện theo và cho rằng ngược lại mới là đúng với các quan

hệ xã hội. Với các tổ chức xã hội tại địa phương và người thân trong gia đình của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD phải có kế hoạch kiểm tra thường xuyên,

liên tục uốn nắn kịp thời phát hiện ra sai lệch từ nhận thức, thái độ và biểu hiện hành vi.

Về sinh hoạt

Sinh hoạt của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở việc

chấp hành phù hợp với những sinh hoạt của gia đình và quy định tại địa phương. Với hoạt

động này, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD gặp rất nhiều khó khăn

như: giờ giấc ăn, ngủ trong gia đình thường bê trễ, các em “ngủ nướng”, ăn theo sở thích,

vô điều độ... các quy định của địa phương thì “bỏ qua”, phù hợp thì làm không thích thì

mặc kệ.

Về mặt tâm lý

Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD luôn thường trực sẵn tâm lý

tự ti, không muốn tiếp xúc và giao tiếp rộng rãi với mọi người. Nhiều khi người thân trong

gia đình các em cũng lảng tránh, “bất đắc dĩ lắm” mới nói chuyện. Các em chưa thực sự

dám bày tỏ những khó khăn vướng mắc trong cuộc sống mà dễ buông xuôi theo kiểu “đời

thế là hết”, bế tắc tự đi tìm cách giải quyết riêng theo suy nghĩ mà mình cho là đáng phải

làm thế.

Hơn nữa về mặt khách quan, mọi người trong xã hội có chung một định kiến “đã có

tì vết là xấu”, không thể gột rửa được. Nên nhiều tổ chức trong cộng đồng còn e ngại,

không muốn tiếp nhận, chưa tạo điều kiện về công ăn việc làm cho người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD còn phổ biến. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cơ sở cũng

chưa quan tâm đúng mức đến người có quá khứ “lầm lỗi”. Những rào cản về công ăn việc

làm cũng như sự kì thị của xã hội đã gây ra nhiều khó khăn cho người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng [32,tr.88].

1.2.4. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành

chính đưa vào trường Giáo dưỡng

Hiện nay, các nước trên thế giới, kể cả Việt Nam các nhà nghiên cứu và thực tiễn

có nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập cộng đồng nhưng chủ yếu là những nghiên

cứu về tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù và nghiên cứu dưới

góc độ quản lý xã hội và quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Cho đến nay chưa có một

nghiên cứu nào về tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong Quyết định xử lý

hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

Cụ thể, một số quốc gia như Thái Lan, Hàn Quốc, tái hòa nhập cộng đồng là “sự trở

lại”, “sự trở về”, cũng có quan điểm cho rằng tái hòa nhập cộng đồng là “tái hoàn lương”.

Tuy nhiên, phần lớn các nước đều sử dụng thuật ngữ “tái hòa nhập cộng đồng” cho người

chấp hành xong án phạt tù. Nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp quản lý giáo dục tù

tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quốc Nhật. “Tái hòa nhập

cộng đồng là quá trình bình thường hóa tất cả các mối quan hệ xã hội của người tù tha về

để họ hội nhập với gia đình và cộng đồng nơi cư trú với tư cách là một thành viên của gia

đình, một công dân tốt của xã hội. Theo tác giả “tái hòa nhập là quá trình tác động tích cực

của các chủ thể trong xã hội bằng hệ thống các biện pháp nhằm giúp đỡ những người có

quá khứ tội lỗi, xóa bỏ mặc cảm của cộng đồng đối với họ và của bản thân họ đối với cộng

đồng, gia đình và xã hội để họ trở về là người dân lương thiện sống hòa nhập trong cộng

đồng” [31,tr.37].

Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quốc Nhật, khái niệm trên đã nêu lên

được điểm nổi bật của nội dung tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt

tù, kể cả về mặt xã hội, pháp lý. Tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án

phạt tù không chỉ là xóa bỏ những quá khứ lỗi lầm, mặc cảm mà còn tạo cơ hội bình thường

hóa để họ hòa nhập cộng đồng, tái hòa nhập cộng đồng; không phải chỉ là biện pháp quản

lý mà còn bao gồm cả giáo dục nhằm xóa bỏ những nhận thức sai lầm, xây dựng, hình

thành cho họ những giá trị đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội để họ thực

sự trở thành công dân tốt.

Tác giả đồng nhất với quan điểm của Nguyễn Quốc Nhật, tái hòa nhập cộng đồng

cho người chấp hành xong án phạt tù không chỉ là đưa họ về với gia đình, cộng đồng nơi

họ sinh sống mà phải tiếp tục giúp đỡ, tạo điều kiện, cho họ có cơ hội tham gia vào các

hoạt động của đời sống xã hội.

Từ việc tham khảo những nghiên cứu và thực tiễn tổ chức tái hòa nhập cộng đồng

cho người chấp hành xong án phạt tù, bản thân tác giả nhận thấy quá trình tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng có một số đặc điểm:

- Về mặt xã hội, người bị chấp hành Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường

giáo dưỡng bị sống cách ly với cuộc sống xã hội, không được tham gia vào các quan hệ xã

hội bình thường... Vì vậy, trong suy nghĩ, nhận thức của người chấp hành xong Quyết định

xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng khi trở về địa phương còn lạc hậu so với thực

tiễn cuộc sống, có tâm lý mặc cảm, tự ti, xa lánh mọi người. Bên cạnh đó, đời sống kinh

tế, việc làm cũng là những khó khăn, trở ngại khiến họ có suy nghĩ, cảm nhận không đúng.

Do đó, tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cần

có sự giúp đỡ về mặt tâm lý, xã hội việc làm... của tất cả các cá nhân và cộng đồng xã hội.

- Về khía cạnh tâm lý: tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD là quá trình tái phục hồi, hình thành các phẩm chất tâm lý tích cực;

hạn chế, loại bỏ các phẩm chất tâm lý tiêu cực ở họ; hướng tới và hình thành hành vi tích

cực, phù hợp với chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên, tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là quá trình hai chiều, một mặt là quá trình

người chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng hướng tới

cộng đồng, hòa nhập với cộng đồng và mặt khác cần có sự giúp đỡ của cộng đồng đối với

người chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, tạo điều

kiện cho họ sớm ổn định cuộc sống.

Quá trình vận động, phấn đấu của chính bản thân người chấp hành xong Quyết định

xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trở về tái hòa nhập cộng đồng cần sự tự giác,

nỗ lực phấn đấu trong rèn luyện, khắc phục, sửa chữa những sai lầm trong quá khứ bằng

chính khả năng của bản thân, cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng, xã hội đó là yếu tố quyết

định đến sự thành công của quá trình tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

Quyết định xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là quá trình cá nhân chủ động, tiếp nhận chuẩn

mực xã hội sau một thời gian nhất định bị tách biệt với môi trường xã hội, hình thành tâm

lý tích cực, xóa bỏ tâm lý tiêu cực, thực hiện hành vi hợp chuẩn, có ích cho xã hội.

Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

được thể hiện ở các hoạt động

Tái hòa nhập về hoạt động học tập

Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều ở giai đoạn, lứa tuổi

thiếu niên và đầu thanh niên. Ở lứa tuổi này đang tích lũy kinh nghiệm xã hội lịch sử thông

qua hoạt động học tập nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà hoạt động học tập của các em bị

dang dở dẫn đến những tri thức mà các em đã tiếp thu được chưa đủ để đáp ứng được các

yêu cầu của xã hội. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD phải đặt ưu tiên hàng đầu trong đánh giá thành công là các em có cơ hội

và chủ động chiếm lĩnh tri thức thông qua hoạt động học tập. Thông qua hoạt động

này sẽ đánh giá được họ có nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ của họ đối với

bản thân và cộng đồng xã hội hay không; là điều kiện để các em có cơ hội việc làm;

tự hoàn thiện nhân cách của mình theo hướng gắn liền với chuẩn mực xã hội.

Tái hòa nhập về hoạt động lao động

Thước đo tiếp theo trong đánh giá tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là các em thể hiện trong hoạt động lao động.

Lao động giúp cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có

điều kiện nhận thức được sai lầm đã qua, tự hình thành giá trị và niềm tin vào cuộc

sống. Khi các em ý thức biết trân trọng lao động, biết định hướng, có kỷ luật và vượt

qua khó khăn lúc đó các em có thích ứng.

Tái hòa nhập các quan hệ xã hội

Không có một cá nhân nào tồn tại ngoài các cộng đồng người. Trong các cộng đồng

người thì cá nhân đồng nghĩa phải thực hiện các vai trong quan hệ xã hội. Người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng không nằm ngoài quy luật trên. Để đánh giá họ

có thích ứng, có hòa nhập với nơi họ sẽ quay trở về lâu dài hay không phải nhìn nhận họ

trong các quan hệ xã hội với người thân, với họ hàng, làng xóm, với bạn bè. Họ sẽ thể hiện

vai xã hội của mình thông qua các quan hệ đó trong quá trình sinh sống tại địa phương.

Tái hòa nhập trong sinh hoạt

Tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD thể hiện qua sinh hoạt hàng ngày được nhóm tác giả đánh giá là những tiêu chí

quan trọng trong xây dựng thang đo thích ứng của họ. Việc chấp hành tốt các quy định

của địa phương, pháp luật của nhà nước trong sinh hoạt hàng ngày để đánh giá mức

độ thích ứng của họ.

1.3. Lý luận về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.3.1. Khái niệm thích ứng tâm lý

Một số cách tiếp cận thích ứng

Sự thích ứng của con người là một vấn đề đã được tâm lý học nghiên cứu từ lâu,

nhưng mức độ quan tâm, lập trường và phương pháp luận nghiên cứu của các trường phái

tâm lý có sự khác biệt căn bản. Vì vậy trong tâm lý học chưa có một sự thống nhất về lý

luận bản chất sự thích ứng. Một số lý thuyết chính nghiên cứu về bản chất sự thích ứng

trong tâm lý học.

Tiếp cận tâm lý học chức năng

Được khởi xướng bởi H.Spencer với luận điểm “cuộc sống là sự thích nghi liên tục

của các quan hệ bên trong và bên ngoài”, theo ông thích ứng là chức năng của tâm lý, ý

thức người. Trên lập trường của thực chứng luận và lý luận tiến hóa sinh học, H.Spencer

đã nhìn nhận hiện tượng tâm lý dưới góc nhìn sinh học, không thấy được bản chất xã hội

của sự thích ứng con người. W.James đã phát triển lý thuyết thích ứng của H.Spencer một

cách xuất sắc, trở thành một trường phái về thích ứng. Công cụ chính để nghiên cứu sự

thích ứng là “chức năng”, theo đó các hiện tượng tâm lý phải phục vụ cho sự thích ứng,

vào tính có ích của chúng cho cơ thể. Do đó, nguyên tắc căn bản nghiên cứu tâm lý là

nghiên cứu chức năng thích ứng của tâm lý và con đường để cá nhân thích ứng trước sự

thay đổi của môi trường.Cũng lần đầu tiên W.James đề xuất việc nghiên cứu tâm lý phải

nghiên cứu cả điều kiện của nó, đó là cấu trúc thần kinh đóng vai trò cơ sở vật chất của ý

thức người.

Tiếp cận phân tâm học

Phân tâm học được khởi xướng bởi S.Freud gọi là phân tâm học cổ điển. Xuất phát

từ cách nhìn nhận sinh học đối với nhân cách, theo đó, nhân cách là một cấu trúc chỉnh thể,

trọn vẹn với 3 thành tố: “cái nó” (id), “cái tôi” (ego), “siêu tôi” (superego) có vai trò và

chức năng khác nhau đối với đời sống con người. Theo S.Freud, cái bản năng này luôn bị

cấm đoán bởi cái xã hội. Để tồn tại, con người phải đạt được sự cân bằng, sự hài hòa giữa

hai cái đối lập “cái nó” và “cải siêu tôi”- đó chính là sự thích ứng [10, tr.43]. Thích ứng là

sự thỏa mãn hợp lý các bản năng tính dục trong những điều kiện xã hội nhất định. Lý thuyết

phân tâm học cổ điển xuất phát trên quan điểm sinh vật luận nên không phát hiện được bản

chất xã hội- lịch sử của sự thích ứng ở con người cũng như cơ thể của nó. Tuy nhiên lý

thuyết của ông cũng có những điểm, những mặt hợp lý khi giải quyết vấn đề thích ứng. Đó

là vai trò của vô thức, bản năng đối với hành vi, về mâu thuẫn của nó với những ràng buộc

xã hội và về nguyên nhân không thích nghi của các chứng bệnh tâm lý.

E.Fromm khi kế thừa lý thuyết phân tâm, ông đưa ra quan điểm cho rằng cần phải

xem xét hành vi thích ứng của nhân cách từ tính chất xã hội của môi trường, phải tìm kiếm

bản chất của sự thích ứng từ bản chất xã hội chứ không phải từ bản năng sinh vật. Ông

cũng nhìn nhận thấy mối quan hệ qua lại giữa nhân cách và môi trường xã hội, trong đó

con người là sản phẩm của xã hội, đồng thời là chủ thể của xã hội. Theo E.Fromm yếu tố

xã hội đóng vai trò quy định tính chất các sự thích ứng tâm lý cá nhân.

Tiếp cận tâm lý học hành vi

Lý thuyết hành vi giải quyết vấn đề thích ứng theo một đường hướng khác với các

trường phái trên vì J.Watson đã kế thừa quan điểm của các nhà tâm lý học động vật. Quan

điểm này (Thorndike) cho rằng về nguyên tắc, các quy luật và cơ chế thích ứng

(Adaptation) ở người giống động vật, chỉ có khác là môi trường sống của con người có

thêm một số yếu tố mới như ngôn ngữ và các quy tắc xã hội [dẫn theo 29, tr.147]. Vì vậy,

sự thích ứng người có cơ chế và quy luật phức tạp hơn nhưng đó không phải là sự khác

biệt về chất.

Kế thừa quan điểm của các nhà tâm lý học động vật, J.Watson cho rằng để tồn tại,

cá nhân học tập một hệ thống hành vi, ứng xử. Trong đó, những hành vi cụ thể có cơ sở là

các hành vi cũ, kinh nghiệm; cá nhân học được những hành vi mới cho phép nó giải quyết

những tình huống trong cuộc sống. Sự thích ứng kém là không học được hoặc hành vi

không đáp ứng được các yêu cầu của môi trường sống. Việc học tập được J.Watson xem

xét dưới góc độ hình thành kinh nghiệm và hành vi cá thể (tập nhiễm). Với lý luận hành

vi, ông coi con người là một cơ thể sống với một hệ thống kỹ xảo đã được học, phù hợp

với những đòi hỏi của môi trường xung quanh.

Lý thuyết hành vi còn có một xu hướng phát triển khác là tâm lý học hành vi nhận

thức mà tiêu biểu là W.Mischel. Theo ông khi xác định hành vi thích ứng không chỉ tính

đến nững biến số của hoàn cảnh mà còn phải tính đén các biến số của nhân cách, tâm lý

như năng lực, thói quen, tri thức, thái độ... Khác với chủ nghĩa hành vi cổ điển, W.Mischel

không chỉ nghiên cứu hành vi và tính quy định khách quan của nó mà còn coi trọng những

mặt bên trong, mặt chủ quan đặc biệt là các quá trình nhận thức. Ông đã nhìn nhận hành vi

thích ứng một cách đầy đủ, toàn vẹn hơn. Cùng với việc chú ý đến vai trò của các yếu tố

bên trong, W.Mischel đã phát hiện ra tính tích cực của chủ thể thích ứng. Đó không phải

là quá trình thụ động như trường phái cổ điển quan niệm mà có sự tương ứng giữa ý nghĩ

bên trong với hành vi bên ngoài và điều chỉnh hành vi là biểu hiện của sự điều chỉnh bản

thân và ý nghĩ bên trong.

Tiếp cận tâm lý học nhân văn

Tâm lý học nhân văn đại diện bởi A.Maslow cho rằng thích ứng là xử sự tích cực

của cá nhân với tư cách là chủ thể với thế giới xung quanh và với chính mình. A.Maslow

coi thích ứng là sự thể hiện cái vốn có của cá nhân trong những điều kiện sống nhất định.

Sự không thích ứng sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách. Tiền đề

tạo ra sự thích ứng là hệ thống nhu cầu của nhân cách, được sắp xếp theo thứ bậc mà nhu

cầu cao nhất là nhu cầu tự thể hiện- một nhu cầu bẩm sinh nhưng có tính chất nhân văn,

chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp thỏa mãn. Tính xã hội, tính người của các nhu cầu

là kết quả của quá trình hình thành và phát triển của loài người đã được ghi lại trong hệ

thống di truyền [dẫn theo 38].

C.Rogers cũng coi “tự thể hiện” là phạm trù cơ bản đối với thích ứng của nhân cách.

Một hệ thống được ý thức, được hình thành từ sự đánh giá bên ngoài và một hệ thống

nguyên thủy bên trong, vô thức. Sự sai biệt này tạo nên sự sai lệch của nhân cách và mức

độ khác nhau của sự thích ứng. Với những cá nhân cố gắng giữ cái tôi nguyên thủy sẽ có

một rào chắn tâm lý giữa họ và cộng đồng. Sự tự thể hiện ở họ sẽ kém phù hợp với thực tế.

Điều đó lại thúc đẩy việc hình thành những rào chắn tự bảo vệ mới, sự thích ứng của họ

với cuộc sống xã hội sẽ khó khăn bên trong. Ngược lại, những người hình thành được cái

tôi linh hoạt, phù hợp với đánh giá của xã hội sẽ tạo được khả năng tự thể hiện. Họ là những

người có khả năng tích ứng tốt [20, tr.57].

Mặc dù có điểm giống phân tâm học là coi sự phát triển nhân cách được quy định

bởi có sẵn bẩm sinh và có sự mâu thuẫn giữa nó- cái bên trong với cái xã hội bên ngoài.

Nhưng khác với S.Freud và các môn đệ của ông, C.Rogers và A.Maslow không quá nhấn

mạnh mâu thuẫn và đánh giá cao vai trò tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh xung quanh

cũng như cái thiên bẩm bên trong chính mính. Khi tham gia vào đời sống xã hội, cá nhân

tích cực, mềm dẻo tạo ra sự phù hợp cảu các ứng xử, hành vi của mính bằng sự thống nhất

cái bên trong với cái bên ngoài.

Tiếp cận tâm lý học nhận thức

Tâm lý học phát sinh được khai sinh bởi một trong những nhà tâm lý học hàng đầu

thế kỷ XX- đó là J.J.Piaget. Ông chuyên nghiên cứu về sự phát triển nhận thức trẻ em dưới

góc độ thích nghi.

Piaget cho rằng, trí khôn tồn tại và phát triển theo cơ chế thích nghi và những nguyên

tắc cơ bản của phát triển nhận thức giống như những nguyên tắc phát triển sinh học. Theo

đó, trí khôn là một cấu trúc và các thao tác nhận thức được ông coi là các động tác của tổ

chức trí khôn thích nghi với môi trường [33, tr.253].

Như vậy sự phát triển trí khôn được thực hiện bằng hai cơ chế đồng hóa và điều ứng

trong quan hệ cân bằng giữa chúng. Nhờ có hai cơ chế này mà từ số rất ít các sơ đồ ở trẻ

em phát triển thành hệ thống sơ đồ phức tạp và đúng đắn ở người lớn. Điều mà Piaget lưu

ý là các sơ đồ ở trẻ em khác với sơ đồ ở người lớn cả về nội dung và hình thức không có

nghĩa là trẻ em nhận thức sai mà đó là trình độ phát triển tất yếu của trí khôn trẻ, không

phải nó sai mà là mỗi ngày một đúng hơn [33 tr.47]. Tóm lại đồng hóa và điều ứng cùng

với sự tương quan giữa chúng, trí khôn trẻ biến đổi cả về định tính và định lượng tạo ra sự

phát triển trong cấu trúc trí khôn trẻ.

Tóm lại, vấn đề thích ứng tâm lý đã được sự quan tâm nghiên cứu công phu và

nghiêm túc của các nhà tâm lý học và đã thu được những kết quả đáng trân trọng. Tuy

nhiên, các quan điểm lý thuyết của mỗi trường phái đều có những hạt nhân hợp lý về vấn

đề thích ứng tâm lý, những đóng góp quan trọng vào quá trình phát hiện ra bản chất của

hiện tượng này.

Tâm lý học hoạt động và vấn đề thích ứng

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, một trường phái tâm lý học ra đời- tâm lý học

hoạt động. Lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở thế

giới quan và phương pháp luận, tâm lý học hoạt động đã trở thành một khoa học thực sự

khách quan và khoa học. Tâm lý học hoạt động gắn liền với tên tuổi của các nhà tâm lý

học nổi tiếng như L.X.Vugotxki, A.N.Leonchiev, X.L.Rubinstein, A.R.Luria,

P.Ia.Galperin...

Cùng với việc phê phán các cách tiếp cận sai lầm trên, tâm lý học hoạt động giải

quyết vấn đề theo phương hướng hoàn toàn khác. Một mặt thừa nhận con người phải thích

nghi với môi trường sống như là một sinh vật vì con người là một tồn tại tự nhiên; mặt

khác lại khẳng định con người là một thực thể xã hội nên phải đặt vấn đề một cách khác

đó là “con người xã hội” phải thích ứng.

L.X.Vugotxki đã chỉ rõ về sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và văn

hóa trong sự phát triển của trẻ em. Ông đã đưa ra một tư tưởng mới về bản chất của sự

thích nghi của con người. Một mặt trẻ hình thành các dạng thức cấp cao của hành vi, mặt

khác hình thành các chức năng tâm lý cấp cao của các hành vi ấy. Cả hai mặt của quá trình

này đều được thực hiện bằng cơ chế lĩnh hội nền văn hóa- xã hội [42, tr.135]. Những tư

tưởng đúng đắn và biện chứng của L.X.Vugotxki được các nhà tâm lý học Xô viết kế thừa,

phát triển và cụ thể hóa. Quan điểm của ông cũng là kim chỉ nam cho việc giải quyết các

vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài này.

Xuất phát từ những luận điểm cơ bản của tâm lý học hoạt động được đề xướng bởi

L.X.Vugotxki, A.N.Leonchiev đã phân tích sự khác biệt cơ bản giữa sự thích nghi của cá

thể sinh học và phát triển của con người về nội dung và cơ chế. Đó là quá cá thể tái tạo lại

được những chức năng và năng lực người đã hình thành trong quá trình lịch sử và những

năng lực và chức năng hình thành ở con người ấy là các cấu tạo tâm lý mới. Đối với những

cấu tạo này, các cơ chế và quá trình bẩm sinh di truyền chỉ là những điều kiện cần thiết bên

trong giúp cho các cấu tạo tâm lý mới cỏ thể xuất hiện. Như vậy về bản chất và nội dung

của sự thích ứng người và sự thích nghi có sự khác biệt về chất. A.N.Leonchiev cũng vạch

ra sự khác biệt về cơ chế của sự hình thành hành vi động vật và người “Ở động vật hành vi

được hình thành bởi kinh nghiệm loài và cá thể, trong đó sự hình thành kinh nghiệm cá thể

là đem hành vi loài thích nghi với những yếu tố biến động của môi trường bên ngoài. Còn

ở người, hành vi được hình thành bằng cơ chế và có quan hệ chặt chẽ với cơ chế kinh

nghiệm cá thể” [29,tr.237].

Với việc vạch ra sự khác biệt về chất giữa quá trình thích nghi sinh vật với thích

ứng xã hội- tâm lý của con người, A.N.Leonchiev là một trong những người đầu tiên trong

việc nghiên cứu hiện tượng này về phương diện lý luận và thực tiễn.

Quá trình thích ứng xã hội- tâm lý của con người gắn liền với quá trình hình thành

nhân cách. Sự hình thành nhân cách chính là quá trình hình thành mặt chủ thể của thích

ứng xã hội- tâm lý. Nhờ nhân cách, sự thích ứng xã hội- tâm lý trở thành một quá trình

tích cực, trong đó con người không chỉ đáp ứng tác động của môi trường mà còn cải biến

nó một cách tích cực. Tuy nhiên sự thích ứng không đồng nhất với sự hình thành nhân

cách. Đó là quá trình tương tác biện chứng giữa nhân cách với môi trường xã hội mà cả hai

phía đều có sự thay đổi trở nên phù hợp với nhau, đặc biệt là phía nhân cách. Vì vậy , sự

hình thành nhân cách và mức độ của nó không tất yếu quyết định mức độ thích ứng của cá

nhân. Nhưng sẽ không có sự thích ứng nếu không có sự hình thành nhân cách ở mức độ

nhất định [26, tr.89]. Vì vậy, có những người có nhân cách cao nhưng không thích ứng

được trong những điều kiện môi trường xã hội nhất định hay người mang bản chất của một

xã hội này nhưng có thể thích ứng với môi trường xã hội có bản chất khác. Với các phạm

trù hoạt động và giao tiếp, bản chất của sự cân bằng này đã được giải quyết.

Tâm lý học hoạt động khẳng định cuộc sống con người là một hệ thống các hoạt

động liên tục thay thế nhau. Hoạt động là phương thức của sự hình thành tồn tại và phát

triển của tâm lý người. Bằng hoạt động, con người cải biến thế giới tự nhiên, tạo ra thế giới

đồ vật vốn không có trong tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu xã hội của chính mình. Bằng hoạt

động con người còn tạo ra nhu cầu mới, vốn không phải là nhu cầu tự nhiên theo đúng

nghĩa của nó. Hoạt động là quan hệ đặc thù mang bản chất xã hội của con người với hiện

thực khách quan. Trong hoạt động, chủ thế và khách thể gắn với nhau bằng hai quá trình

khách thể hóa và chủ thể hóa [14,tr.223]. Trong sản xuất nhân cách được khách thể hóa,

trong tiêu dùng khách thể được nội tâm hóa. Trong đối tượng của hoạt động (thế giới đồ

vật) chứa đựng nội dung và phương thức hành động của con người đã tạo ra nó. Thông qua

hoạt động với đối tượng, chủ thể lĩnh hội phương thức và nội dung hành động của loài

người đã tạo ra nó. Thông qua đó, chủ thể lĩnh hội nội dung và phương thức đã ẩn tàng và

biến nó thành của riêng mình hình thành nên tâm lý, ý thức, nhân cách của chính mình.

Bằng hoạt động chủ thể lĩnh hội và sáng tạo ra thế giới đồ vật xung quanh. Vì vậy phải

xem xét sự thích ứng tâm lý người không phải theo quan điểm thuần túy sinh vật vì ở con

người, việc thích nghi với môi trường không cần tính trực tiếp, tính chất sinh vật. Thế giới

đồ vật do con người tạo ra ở xung quanh mình là môi trường bên ngoài mà con người phải

thích nghi, phải biến thành thành của riêng mình và nhờ thế giới đó con người thực hiện

cuộc sống của mình. Sự thích ứng tâm lý chính là quá trình con người hình thành các năng

lực hoạt động và các cấu tạo tâm lý mới. Bằng hoạt động, cá nhân thực hiện sự cân bằng

trong quan hệ với thế giới xung quanh với tư cách là chủ thể tiêu biểu mà biểu hiện trước

nhất và quan trọng nhất là tính tích cực.

Sự thích ứng của con người đã được giải quyết bằng quan hệ chủ thể- khách thể

trong quá trình hoạt động với đồ vật của chủ thể theo cách tiếp cận hoạt động. Theo đó,

thích ứng của con người là sự tích cực bằng hoạt động và trong hoạt động, mức độ thích

ứng phụ thuộc vào hoạt động và hiệu quả của nó. Để thích ứng được con người phải hòa

nhập vào hoạt động, chiếm lĩnh nó với tư cách là một chủ thể mang tính tích cực.

Như vậy, sự thích ứng và hoạt động có quan hệ hai mặt: 1. Con người phải thích

ứng với bản thân hoạt động. Hoạt động chỉ có kết quả khi cá nhân thích ứng được với nó.

2. Hoạt động là phương thức đồng thời là biểu hiện khách quan của sự thích ứng xã hội-

tâm lý của cá nhân.

Quá trình thích ứng bằng hoạt động của cá nhân được thực hiện trong điều kiện giao

tiếp xã hội. Trong quá trình giao tiếp với những người xung quanh, cá nhân tiếp nhận yêu

cầu về hoạt động, nội dung và cách thức của nó. Nói cách khác, cá nhân chỉ có thể hình

thành năng lực người bằng hoạt động trong quá trình giao tiếp. Giao tiếp không chỉ có vai

trò là điều kiện của sự thích ứng con người mà bản thân nó cũng là một mặt, một phương

thức của quá trình này. Vì vậy, thích ứng của con người là thích ứng trong quá trình quan

hệ xã hội trong cuộc sống cộng đồng. Sự hình thành các kiểu ứng xử người với người là

một mặt của sự hình thành nhân cách, cá nhân lĩnh hội được chúng trong quá trình giao

tiếp. Nói cách khác, bên cạnh sự thích ứng với hoạt động con người còn phải thích ứng với

giao tiếp xã hội như là điều kiện sống của của môi trường xã hội. Xem thích ứng được thực

hiện bằng cơ chế hoạt động và giao tiếp, tâm lý học hoạt động chú ý vai trò của yếu tố tâm

lý quyết định tính chủ thể của con người trong các quá trình đó- ý thức người. Ý thức là

trình độ cao nhất của sự phản ánh tâm lý chỉ có ở người. Với tính chất gián tiếp của nó, ý

thức của con người có khả năng tách ra khỏi mối quan hệ trực tiếp của cơ thể- môi trường

định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động của mình, làm cho nó không chỉ đáp ứng

được những kích thích cảm tính, trực tiếp mà còn đáp ứng được những kích thích gián tiếp

của môi trường một cách toàn diện, đầy đủ hơn [dẫn theo 23,tr.112]. Ý thức phát triển ở

mức độ cao nhất, cho phép con người không chỉ tạo ra hoạt động sống mà còn tự phản ánh

và tự tác động, tự biến đổi chính bản thân mình. Dưới góc độ ý thức và tự ý thức, thích ứng

của con người chính là sự hình thành ý thức và tự ý thức, những cấu trúc tâm lý cho phép

định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi một cách tự giác và tích cực; cao hơn là sự tự

đánh giá, tự kiểm tra, tự điều chỉnh hành vi cũng như những phẩm chất tâm lý của chính

mình để làm cho chúng phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Đó là lập trường và

lý luận cơ bản của tâm lý học hoạt động về bản chất của sự thích ứng tâm lý người.

Tóm lại, bản chất của sự thích ứng là một hình thức thích nghi đặc thù của con

người, một quá trình liên tục, tích cực và có ý nghĩa xã hội, trong đó cá nhân kiểm soát,

điều chỉnh thái độ, hành vi của mình; đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu và điều

kiện của môi trường xã hội để con người tồn tại và phát triển.

Thích ứng tâm lý

Thuật ngữ “thích ứng” (Adapto) hiện nay đang được dùng rộng rãi trong các lĩnh

vực khoa học và đời sống. Khái niệm này trong một số lĩnh vực được coi là đồng nghĩa với

“thích nghi” ( vì đều cùng là Adapto, Adaptation, Adanta…). Từ điển Tâm lý đề “thích

nghi”, “thích ứng” chung mục, coi thích ứng như thích nghi. Từ điển Tiếng Việt: “Thích

nghi có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh môi trường sống mới”, còn

thích ứng có 2 nghĩa: 1) Như thích nghi; 2) Là có những thay đổi cho phù hợp với điều

kiện, yêu cầu mới. Nghĩa 2 này hơi khác với thích nghi, hẹp hơn, nhấn mạnh những điều

kiện, yêu cầu mới là tạo ra sự thay đổi. Theo bản thân chúng tôi, thuật ngữ “ thích nghi”

được dùng trước hết và phổ biến trong sinh vật học. Có thể vẫn được dùng trong tâm lý

học để chỉ sự biến đổi của chủ thể cho phù hợp với những điều kiện của môi trường và hoạt

động. Nhưng A.N.Leonchiev đã chỉ rõ “Sự phát triển của con người không phải là quá trình

thích nghi hiểu theo nghĩa của từ này”. Với nội dung mới của hai khái niệm, tâm lý học có

thể dùng thuật ngữ thích ứng để tránh trùng lặp với thuật ngữ thích nghi trong sinh học

[dẫn theo 31,tr.43].

Triết học duy vật biện chứng cho rằng mọi hệ thống vật chất trong quá trinh tồn tại

của nó luôn duy trì một trang thái cân bằng với môi trường sống xung quanh, nó là quy luật

phổ biến. Tuy nhiên, sự cân bằng này có nội dung và hình thức, trình độ khác nhau ở những

hệ thống vật chất khác nhau. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, sự cân bằng cũng

phát triển ngày càng phức tạp, đa dạng và ở trình độ ngày càng cao hơn. Các tổ chức vật lý

có cân bằng vật lý, hóa học có cân bằng hóa học. Với tổ chức vật chất mới là cơ thể sinh

vật có một sự cân bằng mới, đó là sự thích nghi mà đặc điểm tạo nên sự khác biệt về chất

so với các hình thức cân bằng trước đó, là khả năng của các cơ thể sống tiếp nhận và có

cơ chế trả lời lên các kích thích, tác động từ môi trường. Tuy nhiên nội dung và cơ chế

thích nghi cũng như hình thức của nó ở các loài sinh vật khác nhau là khác nhau tùy thuộc

vào bản chất cơ thể (trình độ tổ chức) và tác động của môi trường trong mối quan hệ chặt

chẽ giữa hai yếu tố này: “cái đối với cơ thể là môi trường và tính chất của môi trường phụ

thuộc vào bản chất của cơ thể đó”[16,tr.68].

Khi nghiên cứu hiện tượng thích ứng tâm lý ở con người, người ta đã phát hiện được

một trình độ cao nhất của nó: sự thích ứng xã hội- tâm lý. Hình thức mới này có sự phát

triển về chất trong sự phát triển tâm lý nói chung- cả về cơ chế tâm lý- sinh lý (hệ thống

tín hiệu thứ 2) cả về mặt cơ chế xã hội.

Các nhà sinh lý học mà tiêu biểu là I.P.Paplov đã nhận ra mặt xã hội của thích ứng

con người và thừa nhận tính quy định xã hội đối với nó.

Tuy nhiên, chỉ xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của

C.Mac và F.Ănghen mới có thể giải thích một cách khoa học nội dung và cơ chế sự thích

ứng của con người.

Với việc khám phá ra vai trò của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành

người, C.Mac và F.Ănghen đã coi lao động là cơ chế chủ yếu của sự cân bằng con người

với thế giới xung quanh. Với lao động, con người đã tạo ra một loạt môi trường mới- môi

trường xã hội với hai hoạt động đặc trưng là hoạt động và giao tiếp. Để tồn tại và phát triển,

con người phải thích ứng với những yêu cầu của môi trường này- phải tham gia được các

hoạt động và quan hệ. Chủ nghĩa Mac cũng chỉ ra các nội dung của sự thích ứng mới này

là bằng hoạt động tích cực, con người lĩnh hội nền văn hóa (nội dung, phương thức hoạt

động và quan hệ) để hình thành những ứng xử mới, điều chỉnh những hành vi cũ phù hợp

với yêu cầu, điều kiện của hoạt động và quan hệ xã hội mới. Thích ứng này có thể gọi là

thích ứng xã hội- tâm lý, là hình thức cân bằng giữa con người với môi trường xã hội thay

đổi theo sơ đồ mới là: Cơ thể (chủ thể) ----- Phương tiện ----- Môi trường xã hội.

Để có trình độ thích ứng này, con người phải trở thành một chủ thể với những cấu

tạo tâm lý đặc trưng và nắm được phương tiện tác động bằng cơ chế lĩnh hội những kinh

nghiệm xã hội- lịch sử. Sự lĩnh hội này được thực hiện bằng phương thức hoạt động của

con người.

Từ phân tích trên rút ra một số điểm sau:

- Cân bằng với môi trường xung quanh là một quy luật phổ biến của mọi tổ chức

vật chất từ vận động vật lý đến xã hội. Tuy nhiên về hình thức, nội dung và cơ chế của sự

cân bằng phụ thuộc vào bản chất của nó và tính chất của môi trường. Cùng với sự phát

triển của thế giới vật chất, sự cân bằng cũng phát triển mà cao nhất là sự cân bằng giữa con

người với môi trường xã hôi dưới hình thức thích ứng xã hội- tâm lý.

- Con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội, ở nó có tất cả các hình

thức cân bằng của thế giới vật chất, có tất cả các trình độ của sự thích nghi từ thích nghi

sinh học có ở mọi sinh vật cho đến thích ứng xã hội- tâm lý. Trong đó thích ứng xã hội-

tâm lý là đặc trưng có vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo cân bằng giữa cơ thể và môi

trường, là hình thức thích nghi đặc biệt chỉ có ở loài người.

- Sự thích ứng là quá trình biến đổi trong đời sống tâm lý biểu hiện qua hệ thống

hành vi của cá nhân. Thích ứng là một cấu trúc có quan hệ biện chứng gồm hai thành tố cơ

bản: 1) Chủ thể nắm được những phương thức hành vi thích hợp, đáp ứng được các yêu

cầu, đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động như là phương tiện của sự thích ứng; 2) Chủ

thể cấu trúc lại những cấu tạo tâm lý mới hình thành ứng xử thích hợp. Sự phù hợp của

hành vi ứng xử cá nhân với môi trường sống mới là tiêu chí khách quan để đánh giá mức

độ thích ứng tâm lý của cá nhân.

- Sự thích ứng xuất hiện do tác động của môi trường sống hoặc hoạt động của cá

nhân. Hệ thống những ứng xử hiện tại không đáp ứng được những yêu cầu của điều kiện

sống là động lực của quá trình này. Tuy nhiên con người không thụ động mà tạo ra sự thích

ứng của mình với tư cách là chủ thể tích cực. Trong quá trình thích ứng có sự biến đổi kép,

không chỉ có chủ thể biến đổi để phù hợp với môi trường mà con người còn cải biến môi

trường làm biến đổi phù hợp với con người. “Bằng thích ứng xã hôi- tâm lý con người chủ

động tạo ra môi trường mới- môi trường văn hóa, làm cho tự nhiên mang tính người”.

- Cơ chế của sự thích ứng là sự lĩnh hội kinh nghiệm xã hội- lịch sử để hình thành

những cấu tạo tâm lý mới và cá nhân hình thành những hành vi, ứng xử đáp ứng được

những yêu cầu của điều kiện sống và hoạt động mới.

- Sự thích ứng xã hội- tâm lý có vai trò rất to lớn đối với cuộc sống con người. Thích

ứng là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự cân bằng của con người với môi trường xã hội,

mặt khác, những ứng xử thích hợp là cơ sở và biểu hiện của những phẩm chất nhân cách

mới được hình thành trên cơ sở đã thích ứng tâm lý.

Tóm lại: Thích ứng tâm lý là quá trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi, điều

chỉnh bản thân để hòa nhập vào môi trường sống mới, khắc phục những khó khăn của sự

thay đổi môi trường sống thể hiện ở sự cân bằng và phù hợp về nhận thức, thái độ và hành

vi trong bối cảnh mới.

1.3.2. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

là những cá nhân con người cụ thể có đời sống tâm lý riêng có thể giáo dục, cải tạo và thay

đổi được.

Do đó, dưới sự tác động giáo dục mang tính khoa học của cộng đồng xã hội có thể

giúp người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng loại

bỏ được những nét tâm lý tiêu cực, giúp họ định hình những nét tâm lý tích cực, giúp họ

hướng đến những hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội, đáp ứng được các yêu cầu

của chuẩn mực xã hội đặt ra để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội

nói chung và cá nhân nói riêng.

Môi trường TGD là môi trường đặc biệt, là nơi giáo dục những người đã vi phạm

pháp luật nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự xét cả về độ tuổi và tâm

lý. Mục đích là giúp các em xóa bỏ được những định hình tâm lý tiêu cực, cải tạo, biến đổi,

hình thành những phẩm chất tâm lý phù hợp với chuẩn mực xã hội, trở thành người tốt có

ích cho xã hội. Do vậy, TGD tuy là môi trường riêng biệt nhưng không tách biệt với môi

trường xã hội. Đặc biệt là nội quy TGD nêu ra những yêu cầu với những quy định được

thực hiện chặt chẽ, nghiêm khắc theo các quy định, quy chế cụ thể; các mối quan hệ trong

TGD. Khi chấp hành xong thời gian được quy định trong quyết định XLHC, các em được

trở về địa phương sinh sống. Sinh hoạt trong TGD các em đã làm quen và thực hiện sinh

hoạt, ăn uống, ngủ nghỉ theo quy định nhưng khi trở về địa phương sinh sống các em lại

cảm thấy lạ lẫm, mất tự tin trong hoạt động, giao tiếp, xuất hiện sự căng thẳng, lo âu rằng

không biết mình có đáp ứng được các yêu cầu về chuẩn mực xã hội trong hành vi hay

không. Một điều bắt buộc đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

là cho dù sớm hay muộn các em cũng phải thực hiện và tuân theo những yêu cầu của nội

quy địa phương và chuẩn mực xã hội. Do đó, xem xét sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháo XLHC đưa vào TGD ở đây không phải là

thích ứng tâm lý chung chung mà là thích ứng tâm lý với những quy định của chuẩn mực

xã hội, của địa phương. Tức là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD buộc

phải thích ứng một cách tự giác và tích cực với những yêu cầu của chuẩn mực xã hội đảm

bảo sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội. Do đó, có thể hiểu khái niệm như sau:

Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD là sự chủ động, tích cực thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi ở chủ

thể để thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện hành.

Từ khái niệm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể nêu ra một số đặc điểm sau:

- Thứ nhất, bản chất thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở đây là đạt được sự thay đổi và có sự hài hòa,

cân bằng, thống nhất tâm lý ở cả ba thành phần nhận thức, thái độ và hành vi. Theo lý

thuyết về thích ứng của Tremblay cho rằng bản chất của thích ứng đạt được chính là sự cân

bằng giữa trạng thái dễ chịu bên trong và dễ chịu bên ngoài trong mối quan hệ giữa cá nhân

và môi trường. Điều này cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

chỉ đạt được sự thích ứng tâm lý khi họ có sự thay đổi đồng thời về nhận thức, thái độ và

hành vi; bên cạnh đó có sự cân bằng, hài hòa giữa nhận thức, thái độ (là những trạng thái

tâm lý bên trong) với hành vi biểu hiện bên ngoài (những biểu hiện tâm lý bên ngoài).

Sự thay đổi đó ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đối với các

nội dung tham gia hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt càng lớn thì

mức độ thích ứng càng cao. Trong đó, những biểu hiện hành vi bên ngoài là dễ dàng nhận

ra nhất, mang tính khách quan chứ không phải theo ý muốn hay mong muốn tự nguyện,

chủ quan của bất cứ ai khi nhìn nhận. Do đó, những gánh nặng tâm lý bên trong đối với tư

tưởng, tình cảm đối với họ là rất lớn trong khi đó các điều kiện về cơ sở vật chất và thái độ

của xã hội không phải lúc nào cũng thuận lợi đối với họ. Trong khi đó, những yếu tố tâm

lý bên trong như nhu cầu, sở thích, thói quen, cái tôi của cá nhân,...tất cả những yếu tố này

buộc mỗi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD phải tự kiểm soát, tự điều

chỉnh để phù hợp và đáp ứng với những quy định chung của địa phương. Do đó, họ thường

xuyên phải đối mặt với những cảm xúc âm tính hay những xung đột hàng ngày do sự xung

đột về nhu cầu với hiện thực và đòi hỏi của xã hội. Những yếu tố tâm lý bên trong như

nhận thức, quan điểm, quan niệm hay đời sống tình cảm lại thuộc về chính trong con người

họ, ít bị kiểm soát hơn, ít bị đánh giá hơn. Do đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD trong nhiều tình huống dễ rơi vào trạng thái mất cân bằng giữa nhận thức,

cảm xúc bên trong con người với hành vi biểu hiện ra bên ngoài cho phù hợp với yêu cầu

của chuẩn mực xã hội.

- Thứ hai, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD là sự thích ứng tâm lý đặc biệt so với các thích ứng với

môi trường văn hóa nói chung hay thích ứng với học tập hoặc thích ứng nghề nghiệp mà

các nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Sự thích ứng mang tính đặc biệt thể hiện ở chỗ khách

thể là những người vừa phải trải qua một thời gian phải chấp hành, thực hiện các yêu cầu

của biện pháp XLHC, phải hạn chế tiếp xúc với gia đình và xã hội theo quy định của pháp

luật và trong xã hội còn có sự kỳ thị, định kiến. Mặc dù các cơ quan chức năng có sự chuẩn

bị tâm thế và sự kỳ vọng về các khách thể song phần nào đó họ vẫn có phần nào bị động

khi phải thay đổi môi trường sống. Do đó, để đạt được sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, các em phải trải qua

những khó khăn tâm lý nhất định. Hay nói cách khác, bản thân người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD phải thể hiện được vai trò chủ động, tự thân của mình trong việc

thích ứng với những quy định của địa phương. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải nhận

thức được những hoạt động lao động, học tập là cần thiết là có giá trị với bản thân và hoàn

toàn thoải mái khi thực hiện.

- Thứ ba, cơ chế thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là cơ chế bắt buộc. Mục đích của việc tái hòa nhập ở

họ dần phải thực hiện sinh hoạt, lao động, học tập theo những quy định của chuẩn mực xã

hội, hòa nhập với mọi người.... Chính vì vậy, cơ chế thích ứng tâm lý của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hoàn toàn khác với cơ chế thích ứng tâm lý mà các

nhà khoa học khi nghiên cứu về thích ứng tâm lý trước đó đã đề cập.

Như vậy, có thể thấy, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tới cùng đó là sự thay đổi về nhận thức, thái độ

và hành vi.

1.3.3. Biểu hiện và mức độ thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

- Thích ứng về mặt nhận thức

Để đánh giá sự thích ứng với quá trình tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt nhận thức cần xem

xét đến việc họ hiểu và có ý thức tự giác thực hiện nếp sống văn hóa theo chuẩn mực chung

của xã hội trong hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và giao tiếp hoặc cũng có thể

xem xét đến việc các em có sự biến chuyển về nhận thức như thế nào kể từ khi ra trường

đến thời điểm khảo sát. Đặc biệt, xem xét thích ứng tâm lý ở đây là thích ứng với các quy

định của địa phương hay các chuẩn mực xã hội nói chung nên sự thay đổi về nhận thức ở

đây là thay đổi về cách nghĩ, thể hiện rằng các em chấp nhận việc phải thực hiện các quy

định của địa phương đề ra, nhận thức rằng việc thực hiện các quy định đó về các hoạt động

học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt là phù hợp và cần thiết đối với họ trong quá

trình sinh sống. Đồng thời, bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

không có những suy nghĩ mang tính ứng phó, chống đối các quy định dù là công khai hay

ngấm ngầm hoặc suy nghĩ theo cách thể hiện sự coi thường các quy định. Các em biết chấp

nhận và nhìn nhận đúng vai trò, ý nghĩa của hoạt động học tập, hoạt động lao động, quan

hệ xã hội và sinh hoạt là cần thiết đối với quá trình hòa nhập xã hội của bản thân, giúp họ

hình hành những nét tâm lý tích cực, trở thành người có ích cho xã hội.

Thích ứng về mặt nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD thể hiện ở các mức độ dưới đây:

+ Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có

sự thay đổi rõ rệt, hoàn toàn chấp nhận việc thực hiện các nội quy của địa phương là cần

thiết; phải tham gia học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt theo đúng vị trí xã hội

của mình.

+ Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD đã có sự thay đổi nhưng chưa hoàn toàn chấp nhận việc thực hiện các yêu cầu của

chuẩn mực xã hội.

+ Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

gần như không có sự thay đổi, còn thụ động và chưa chấp nhận thực hiện các yêu cầu của

địa phương.

- Thích ứng về mặt thái độ

Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng có

thái độ nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, các chuẩn mực của xã hội trong học tập, lao

động, giao tiếp và các quan hệ xã hội.

Thích ứng về mặt thái độ thể hiện ở việc người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD cảm thấy đồng tình, hài lòng hoặc không có sự khó chịu, không có cảm xúc

tiêu cực hay cảm xúc âm tính khi họ thực hiện các yêu cầu của địa phương đối với những

người trở về như các em. Tức là ban đầu khi mới về địa phương, các em có thể không thoải

mái, khó chịu hay những cảm xúc âm tính khác nhau nhưng sau một thời gian về sinh sống

tại địa phương họ có sự thay đổi, cảm thấy đồng tình, không có cảm xúc âm tính hay cảm

xúc tiêu cực. Đồng thời không tỏ ra bức xúc, khó chịu về việc thực hiện các yêu cầu của

việc chấp hành các quy định của địa phương; không có cảm xúc mang tính chống đối.

Thích ứng về mặt thái độ được thể hiện rõ ở các nội dung đó là có cảm xúc thoải mái, tích

cực; chấp nhận và có cảm xúc tích cực khi thực hiện hoạt động học tập, lao động, quan hệ

xã hội và sinh hoạt.

Thích ứng về mặt thái độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

với tái hòa nhập cộng đồng thể hiện qua các mức độ dưới đây:

+ Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có

sự thay đổi hoàn toàn về cảm xúc, có sự thoải mái, cân bằng, không có cảm xúc âm tính ở

các hoạt động: hoạt động học tập, hoạt động lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt.

+ Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD đã có sự thay đổi về cảm xúc theo chiều hướng tích cực.

+ Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD gần như không có sự thay đổi về thái độ; trạng thái mất cân bằng là

chủ yếu.

- Thích ứng về mặt hành vi: Thích ứng hành vi biểu hiện ở chỗ người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp nhận tuân thủ, thực hiện các quy định của địa

phương một cách chủ động, tích cực. người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD phải thực hiện tốt các quy định của nội quy, quy định của địa phương trong sinh hoạt,

không vi phạm nội quy trong các hoạt động. Về hoạt động học tập, người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD tích cực tham gia học tập, thấy được vai trò, ý nghĩa của

việc học đối với bản thân và quá trình tái hòa nhập trước mắt và lâu dài. Về hoạt động lao

động, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thực hiện tốt các yêu cầu về

lao động, định mức sản phẩm và các quy định về thời gian lao động. Trong sinh hoạt chung

không có những hành vi, việc làm tiêu cực.

Thích ứng về mặt hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

với tái hòa nhập cộng đồng được thể hiện ở các mức độ dưới đây:

+ Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã

có sự thay đổi hoàn toàn, thực hiện được các yêu cầu một cách tích cực.

+ Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD đã có sự thay đổi về hành vi, nhưng chưa đầy đủ, tích cực; vẫn có tồn tại hành vi ứng

phó, chống đối.

+ Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ít

có sự thay đổi về hành vi, phần lớn vẫn có hành vi chống đối, ứng phó.

Như vậy, có thể thấy thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là sự cân bằng, hài hòa của 3 mặt:

nhận thức, thái độ và hành vi. Thành phần nhận thức biểu hiện ở việc người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có suy nghĩ chấp nhận thực hiện các hoạt động, cho

rằng thực hiện những nội dung đó là đúng đắn, phù hợp; coi việc thực hiện những quy định

đó là tốt cho bản thân, cần thiết và phù hợp. Thành phần thái độ thể hiện ở cảm xúc cân

bằng khi thực hiện các quy định của địa phương; không có cảm xúc âm tính hoặc không

thoải mái. Thích ứng ở mặt hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD thể hiện ở tính tích cực, thành thục của các em khi thực hiện các yêu cầu về thực hiện

nội quy khi tham gia học tập và lao động. Việc phân định ra thành 3 thành phần của sự

thích ứng tâm lý chỉ mang tính tương đối bởi hành vi là cơ sở rõ nét nhất để đánh giá mức

độ thích ứng về nhận thức hay thích ứng về thái độ của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD. Tuy nhiên, cần xem xét cả ba thành phần nhận thức, thái độ và hành

vi có sự bổ sung, tác động lẫn nhau, quyết định đến việc đánh giá mức độ thích ứng tâm lý

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở người

chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

1.4.1. Nhóm các yếu tố thuộc về chủ quan

- Yếu tố nhận thức: Theo quan điểm của Tâm lý học hoạt động thì nhận thức là yếu

tố đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi của con

người; là quá trình chủ thể tiếp nhận, phản ánh hiện thực khách quan những thuộc tính,

kiến thức để cấu tạo nên đời sống tâm lý của mình [14, tr.156]. Yếu tố nhận thức được đề

cập đến ở đây là sự nhận thức sai lệch về các chuẩn mực xã hội, nội quy của địa phương

dẫn đến những hành vi sai lệch của cá nhân.

Thực tế cho thấy, không ít các trường hợp có hành vi vi phạm tội pháp luật nhưng

cá nhân, chủ thể của hành động vẫn không tự nhìn nhận được hành vi của mình là hành vi

vi phạm pháp luật, gây hậu quả cho người khác và cho xã hội. Đây là nguyên nhân khiến

cho việc thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD bị ảnh hưởng. Bởi, không nhận thức được sẽ là hành vi mù quáng.

Chính vì vậy, khi tái hòa nhập, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thích

ứng được hay không phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của họ.

- Yếu tố tự ý thức là khả năng cá nhân nhìn nhận về bản thân mình và huy động sự

nỗ lực ý chí thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. Tác giả Nguyễn Hữu

Toàn cho rằng “tự ý thức sẽ giúp cho phạm nhân chấp hành một cách tự giác nội quy trại

giam trong quá trình chấp hành án và biết được “vị trí xã hội” của bản thân mình để vượt

qua khó khăn”. Với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, tự ý thức thể

hiện ra bằng việc cố gắng khắc phục mọi khó khăn hoặc đi đến một nơi xa lạ không ai biết

mình để sống nốt ...... Quá trình về sinh sống tại địa phương, họ muốn thích ứng được thì

phải không ngừng nỗ lực, vượt qua cám dỗ những nhu cầu cá nhân, sẽ phù hợp với đời

sống xã hội hiện tại. Tự ý thức phải được thể hiện ra bên ngoài bằng các hành vi tích cực,

phù hợp với các chuẩn mực xã hội; và trong nghiên cứu này gọi tắt là hành vi tích cực.

- Sự mặc cảm, tự ti lo âu ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Nghiên cứu của nhóm các nhà nghiên cứu đứng đầu là Janet I. và Warren D. cho

thấy có tương quan giữa sự lo lắng, nhìn nhận bản thân của cá nhân (mặc cảm, tự ti) với

những vấn đề về thích ứng tâm lý. Nghiên cứu cho thấy những lo lắng tâm lý và tính có

vấn đề có quan hệ tới thích ứng, đặc biệt là những loại hành vi kém thích ứng.

- Trầm cảm khi về sinh sống tại địa phương

Các tác giả MacKenzie và Goodstein (1985) cho rằng thời gian về sinh sống tại địa

phương được sự giúp đỡ về tinh thần và vật chất từ gia đình đến các tổ chức xã hội đặc biệt

là phải giúp họ tham gia các hoạt động cảu xã hội một cách say mê sẽ ảnh hưởng tích cực

đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD. Ngoài ra, theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả thì nhóm người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD mới về địa phương có mức độ trầm cảm

(sự căng thẳng tâm lý) cao hơn những người chấp hành xong người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD đã có thời gian về địa phương vừa đủ và lâu. Theo đó, thích ứng

tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD cũng bị tác động bởi yếu tố trầm cảm.

1.4.2. Những yếu tố thuộc về khách quan

- Gia đình

Gia đình đề cập đến ở đây chính là sự quan tâm của gia đình, người thân

Khi nghiên cứu về sự ảnh hưởng của mối quan hệ gia đình tới thích ứng tâm lý của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chúng tôi sử dụng kết quả nghiên

của các tác giả Edward Zamble, Frank J. Trong cuốn “Coping, Behavior and Adaptation in

Prison Inmates” đã cho ra kết quả rằng sự ảnh hưởng của gia đình hay các mối quan hệ với

bên ngoài cũng tác động đến thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

án phạt tù [56, tr132].

- Hàng xóm

Hàng xóm được hiểu là những người sống cùng trong cộng đồng, bạn bè cùng trang

lứa. Tuy nhiên đề cập trong nghiên cứu yếu tố này về thái độ và mối quan hệ của những

người sống trong cùng cộng đồng đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD mà họ cảm nhận được. Theo cảm nhận và đánh giá của họ về mối quan hệ đó với mọi

người trong cộng đồng được thiết lập theo các quan hệ xã hội giống hay khác khi họ sống

ở bên ngoài trước khi vào TGD với. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đến đâu và thực sự chi

phối đến sự thích ứng tâm lý tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC còn tùy thuộc vào việc các em có mức độ thế nào trong việc duy trì mối liên hệ,

thiết lập khoảng cách an toàn với các mối quan hệ khác.

- Xã hội

Sự quan tâm của chính quyền cơ sở, địa phương và các tổ chức xã hội nơi người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống

Khi đưa ra các yếu tố thuộc về khách quan dự báo có ảnh hưởng đến thích ứng tâm

lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD,

tác giả nhìn nhận từ góc độ Tâm lý học hoạt động với vai trò là nguồn gốc của tâm lý người

nói chung và thích ứng tâm lý nói riêng, những yếu tố thuộc môi trường sống vi mô và vĩ

mô đều là nơi gắn bó, cụ thể, gần gũi và là nơi diễn ra các hoạt động sống trực tiếp của mỗi

cá nhân nên đưa ra các yếu tố trên.

Từ những phân tích lý luận thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở trên, có thể mô hình hóa như sau:

Nội dung:

- Hoạt động học tập

Nhóm các yếu tố thuộc về chủ quan - Họat động lao động

(Cá nhân) - Quan hệ xã hội

Yếu tố dự báo - Sinh hoạt của cá nhân

Những yếu tố thuộc về khách quan Biểu hiện:

(Môi trường)

- Nhận thức

Thích ứng tâm lý với tái hòa nhâp cộng đồng của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD

- Thái độ

- Hành vi

Hình 1.1. Mô hình thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Tiểu kết chương 1

Như vậy, trong chương 1 có thể thấy hệ thống nghiên cứu của các tác giả trong và

ngoài nước đã thể hiện bức tranh tổng thể và khái quát về thích ứng tâm lý ở các góc độ

nhìn nhận khác nhau cả thích ứng nói chung và thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng.

Các nghiên cứu tâm lý học ở Việt Nam hiện nay rất ít những nghiên cứu về thích

ứng tâm lý của đối tượng có hành vi phạm tội; với nghiên cứu về thích ứng tâm lý của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong tái hòa nhập cộng đồng thì

chưa có một nghiên cứu nào. Chính vì vậy, việc chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về thích

ứng tâm lý với tài hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD làm đề tài luận án nghiên cứu.

Trên cơ sở phân tích các nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, tìm

hiểu thực tiễn nhóm nghiên cứu đã xây dựng một số khái niệm công cụ cho nghiên cứu

như sau:

Thích ứng tâm lý là quá trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi, điều chỉnh bản

thân để hòa nhập vào môi trường sống mới, khắc phục những khó khăn của sự thay đổi

môi trường sống thể hiện ở sự cân bằng và phù hợp về nhận thức, thái độ và hành động

trong bối cảnh mới.

Thích ứng tâm lý được thể hiện thông qua các hoạt động học tập, lao động, quan hệ

xã hội và sinh hoạt

Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD là sự chủ động, tích cực thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi ở chủ

thể để thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện hành.

Những nội dung của thích ứng tâm lý bao gồm: thích ứng với hoạt động học tập;

thích ứng với hoạt động lao động; thích ứng với các quan hệ xã hội và thích ứng với sinh

hoạt hàng ngày.

Ngoài ra, trên cơ sở tiếp cận và kế thừa các nghiên cứu của các nhà khoa học cũng giúp

chúng tôi xây dựng được nội dung và mô tả về các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD bao gồm các yếu

tố thuộc về chủ quan (yếu tố Trầm cảm, mặc cảm, nhận thức và hành vi tích cực) và các yếu

tố thuộc về khách quan (yếu tố gia đình, hàng xóm, tổ chức xã hội)

Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Địa bàn và khách thể nghiên cứu

2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu luận án đã lựa chọn một số tỉnh thuộc phía bắc của Việt Nam

(Từ Quảng Bình trở ra) để tìm hiểu về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD vì đây là những địa phương có số

lượng người bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào TGD lớn hơn so với các địa phương còn

lại trên cả nước [43]. Khi khảo sát, tác giả tiến hành trực tiếp tại tất cả các địa phương (tỉnh,

thành phố) nằm rải rác theo thống kê địa chỉ của Cục C10 nên cũng là một trở ngại đáng

kế. Tuy nhiên, tác giả có thuận lợi là nhận được sự giúp đỡ của các đồng nghiệp là CSKV,

CSQLHC ở các địa phương nên khi tiến hành tiếp cận và tổ chức nghiên cứu trên các khách

thể cũng được tiến hành đảm bảo tính khoa học, hợp lý. Đây cũng là một lý do để tác giả

luận án thực hiện nghiên cứu tại các địa phương này.

Tuy nhiên tác giả nghiên cứu nhiều khách thể nhất vẫn là các tỉnh giáp ranh với Hà

Nội như: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình, Bắc Giang.

2.1.2. Khách thể nghiên cứu

Tổng số khách thể giam gia nghiên cứu là 168 người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD. Trong đó có 12 người vừa tham gia trả lời phiếu khảo sát và vừa

tham gia phỏng vấn, trao đổi; nghiên cứu sâu 2 trường hợp.

Bảng 2.1. Mô tả mẫu nghiên cứu

Đặc điểm mẫu nghiên cứu Số lượng Tỉ lệ %

Nam 154 91,67

Giới tính

Nữ 14 8,33

Thành thị 15 91,07

Quê quán

Nông thôn 153 8,93

83 49,41 Dưới 6 tháng

Thời gian về địa phương sinh sống 6- 12 tháng 31 18,45

Trên 12 tháng 54 32,14

6 tháng và 12 tháng 27 16,08

Thời gian chấp hành ở TGD 18 tháng 58 34,52

24 tháng 83 49,40

1 lần 163 97,02

Số lần vào TGD

2 lần 5 2,98

Khá giả 19 11,31

Đủ ăn 123 73,21 Kinh tế của gia đình

Khó khăn 26 15,48

Dưới 14 tuổi 14 8,3

Từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi 38 22,7

Độ tuổi

Từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi 77 45,8

Từ đủ 18 tuổi trở lên 39 23,2

69,6 Xâm phạm về sở hữu 117

Hành vi vi phạm Xâm phạm về tính mạng, sức 51 30,3 khỏe, nhân phẩm, danh dự

Với các khách thể nghiên cứu đồng ý tham gia, chúng tôi phát phiếu hỏi và trực tiếp

hướng dẫn các em cách trả lời. Các em tự điền câu trả lời của mình vào phiếu hỏi. Tuy

nhiên, việc tiếp cận khách thể rất khó khăn. Nhiều em tự ti về quá khứ của mình, không

thích giao tiếp với ai… nên không hợp tác. Mặt khác, địa phương cư trú của các em nằm

rải rác khắp các tỉnh thành trên cả nước, mỗi quận, huyện chỉ có một vài em... Vì vậy, tác

giả chỉ thu thập được thông tin từ 168 khách thể. Trong số này, chúng tôi đã phỏng vấn sâu

12 em; nghiên cứu sâu 02 trường hợp.

Hầu hết khách thể trong mẫu nghiên cứu là nam giới, sống ở nông thôn, mới vào

trường giáo dưỡng một lần và có thời gian chấp hành ở trường giáo dưỡng từ 18 tháng trở

lên. Sau khi chấp hành xong thời gian tại TGD, đa số các em ở độ tuổi từ đủ 16 trở lên.

2.2. Tổ chức nghiên cứu

Luận án được tiến hành tổ chức nghiên cứu qua 3 giai đoạn

- Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận

- Giai đoạn 2: Khảo sát thực tiễn (bao gồm điều tra thử và điều tra chính thức)

- Giai đoạn 3: Viết luận án.

2.2.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận

- Xây dựng và hoàn thiện đề cương nghiên cứu: Tìm các tài liệu liên quan đến thích

ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD; phân tích, tổng hợp hệ thống tài liệu để xây dựng và hoàn thiện đề cương nghiên

cứu. Tổng quan lịch sử nghiên cứu trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan tới thích

ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD.

- Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD; xác định khái niệm công cụ

của đề tài (thích ứng tâm lý, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, tái hòa nhập cộng đồng...); chỉ ra một số thành

phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

- Xây dựng các khái niệm công cụ như khái niệm thích ứng tâm lý, thích ứng tâm

lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành cong biện pháp XLHC đưa vào TGD,

các khái niệm có liên quan, cụ thể hóa các mặt của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về các mặt biểu hiện nhận

thức, thái độ hành vi.

Thời gian: Từ 12/2017- 5/2019

2.2.2. Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn

Nghiên cứu thực tiễn được thực hiện qua giai đoạn khảo sát thử và khảo sát chính

thức. Nội dung của khảo sát thử:

Mục đích

- Xác định độ tin cậy, độ hiệu lực của thang đo, tiểu thang đo trong bảng hỏi , trên

cơ sở đó, chỉnh sửa các biến quan sát chưa đạt yêu cầu để hoàn thiện bảng hỏi.

- Chỉnh sửa phiếu phỏng vấn sâu và bảng quan sát trước khi khảo sát chính thức.

Thời gian, địa điểm

- Thời gian: từ tháng 8/2018 - 3/2019.

- Địa điểm: Một số xã của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; một số phường của Thành

phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

Bảng hỏi được sử dụng và được khảo sát ngẫu nhiên trên 20 người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống. Sau khi tiến hành điều tra thử,

kết quả cho thấy có 02 câu hỏi cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn, đó là câu hỏi thích

ứng về hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và câu hỏi về

các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Trong đó, câu hỏi thích ứng về hành vi của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được rút gọn bớt các biến tương tự

còn 24 items; câu hỏi về các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD sau khi kiểm tra độ tin

cậy Cronch Bach Anpha còn 31 items như bảng hỏi điều tra chính thức. Ngoài ra, các thang

đo còn lại không có sự điều chỉnh nào. Chi tiết của kết quả từng nhóm câu hỏi sẽ được trình

bày cụ thể ở phần Phương pháp xử lý dữ liệu và thang đo.

Sau khi điều chỉnh, bảng hỏi được đưa vào sử dụng để thu thập dữ liệu thực tế trong

giai đoạn khảo sát chính thức.

2.2.3. Giai đoạn viết và hoàn thành luận án

Mục đích

- Dựa vào các dữ liệu thu được từ nghiên cứu thực tiễn, phân tích số liệu và viết

luận án.

- Hoàn thành luận án

Thời gian: từ tháng12/2019 đến tháng 12/2020

2.3. Các phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu

Mục đích: Xây dựng cơ sở lý luận, xác định các quan điểm chủ đạo của luận án.

Nội dung nghiên cứu:

- Tổng hợp, phân tích, hệ thống về mặt lý luận các nghiên cứu về thích ứng tâm lý,

thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD ở trong và ngoài nước nhằm xác định những vấn đề cần nghiên cứu: các

thành phần, biểu hiện và mức độ của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Cách thức tiến hành:

- Thu thập những tài liệu, văn bản có liên quan tới đề tài

- Đọc và ghi ghép lại các tài liệu quan trọng

- Nguồn tài liệu: Sách, báo, tạp chí, công trình nghiên cứu (luận án, luận văn, bài

báo…). Từ khóa: Thích ứng, thích ứng tâm lý, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng,

thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, Trường GD.....

2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Mục đích:

- Tìm hiểu thực trạng mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

- Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD để đánh giá mức độ ảnh hưởng

của các yếu tố đó đối với thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Cách thức tiến hành xây dựng bảng hỏi: Tiến hành theo 3 bước

Bước 1: Xây dựng bảng hỏi

- Xây dựng nội dung theo mục đích nghiên cứu mà luận án đã đề ra.

- Xin ý kiến đóng góp của chuyên gia, những người có kinh nghiệm làm việc với

đối tượng lâu năm

Bước 2: Điều tra thử

Kết quả thu được từ điều tra thử sẽ được xem xét để

- Đánh giá độ tin cậy và xử lý số liệu

- Hoàn thiện bảng hỏi và tiến hành điều tra chính thức.

- Loại bỏ những từ ngữ không hợp thời

Bước 3: Khảo sát chính thức

Bước này nhằm mục đích thu số liệu để phân tích thực trạng thích ứng tâm lý với

tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Nội dung cơ bản của Bảng hỏi

Xây dựng các câu hỏi nhằm tập trung tìm hiểu các nội dung nghiên cứu mà luận án

đã đề ra, cụ thể:

Nội dung 1: Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong BPXLHC đưa vào TGD thể hiện ở 3 mặt: Nhận thức, thái độ, hành vi. Bảng hỏi

với 3 thành phần trên thể hiện ở 64 biến/ biểu hiện, được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu

về các quy định về Quản lý đối tượng tại địa bàn cơ sở năm 2010 [2, tr.36]. Đồng thời, tác

giả luận án phát triển một số nội dung liên quan dựa trên thang đo Hành vi đối phó và thích

ứng của phạm nhân (Coping behavior and adaptation in Prison inmates Scale) của nhóm

tác giả Edward Zamble, Frank J. Porporino (1988) [50, tr.98], bảng hỏi nhân cách về thích

ứng nhiều cấp độ đối với phạm nhân gồm 165 items của nhóm tác giả A.G. Maclacov và

X.V. Chermianhin soạn thảo [76, tr.192].

Bên cạnh các câu hỏi thông tin cá nhân của khách thể nghiên cứu, bảng hỏi gồm

các tiểu thang đo về mức độ thích ứng tâm lí của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD ở 3 mặt nhận thức, thái độ, hành vi trong 4 lĩnh vực là học tập, lao động,

quan hệ xã hội, sinh hoạt và các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lí đó.

Bảng hỏi thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong

BPXLHC đưa vào TGD ban đầu gồm 66 items, sau giai đoạn điều tra thử có 02 biến quan

sát bị loại bỏ do có hệ số tương quan biến tổng thấp. Bảng sử dụng trong điều tra chính

thức gồm 64 biến quan sát, chia làm các câu hỏi:

+ Câu hỏi đo thích ứng về nhận thức (câu 1): gồm 20 items. Trong đó, các nhóm

items tương ứng với các nội dung như: Thích ứng về nhận thức với hoạt động học tập: Từ

C1.1 đến C1.5; thích ứng về nhận thức với hoạt động lao động: từ C1.6 đến C1.10; Thích

ứng về nhận thức với quan hệ xã hội: Từ C1.11 đến C1.20

+ Câu hỏi đo thích ứng về cảm xúc (câu 2): gồm 20 items. Trong đó, các nội dung

tương ứng với các câu như sau: Thích ứng về cảm xúc với hoạt động học tập C2.1 đến

C2.5; Thích ứng về cảm xúc với lao động từ C2.6 đến C2.10; thích ứng về cảm xúc trong

quan hệ xã hội từ C2.10 đến C2.20.

+ Câu hỏi đo thích ứng hành vi (câu 3): gồm 24 items. Trong đó, các nội dung tương

ứng với các nhóm câu như sau: thích ứng về hành vi với học tập từ C3.1 đến C3.5; thích

ứng về hành vi trong lao động từ C3.6 đến C3.12; thích ứng về hành vi trong quan hệ xã

hội từ C3.13 đến C3.18; thích ứng về hành vi trong sinh hoạt từ C3.19 đến C3.24. (Chi tiết

xem Phụ lục 1.1)

Mức điểm được cho là 0, 1, 2, 3, 4 tương ứng với đánh dấu vào các cột “Hoàn toàn

đúng”, “Đúng nhiều hơn sai”, “Nửa đúng nửa sai”, “ Sai nhiều hơn đúng”, “Hoàn toàn sai”

cho các câu hỏi C1.1,C1.2, C1.3, C1.9, C1.10, C1.16, C2.1, C2.2, C2.3, C2.6, C2.8,C3.9,

C3.10,.C3.21, C4.1, C4.2, C4.3, C4.4, C4.5, C4.9, C4.14, C4.16, C5.4.: Các câu hỏi được

cho điểm theo mức 4, 3, 2, 1, 0, tương ứng với đánh dấu vào các cột “Hoàn toàn đúng”,

“Đúng nhiều hơn sai”, “Nửa đúng nửa sai”, “Sai nhiều hơn đúng”, “Hoàn toàn sai” với các

câu hỏi còn lại trong bảng hỏi.

Nội dung 2: Các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Nội dung này gồm các items dự

báo của nhóm các yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân) (Câu 4) và nhóm các yếu tố thuộc

về khách quan (môi trường) (Câu 5) của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD- (Chi tiết xem Phụ lục 1.1)

Nội dung 3: Ngoài các thang đo, phiếu khảo sát còn có phần thông tin về đặc điểm

của khách thể như giới tính, quê quán, hoàn cảnh kinh tế của gia đình, số lần vào trường

giáp dưỡng, thời gian chấp hành ở trường GD, … để so sánh sự khác biệt (tương quan)

giữa các biến số này với thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Tuy nhiên, khi xử lý số liệu từ bảng hỏi, Thang đo thích ứng tâm lí của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD gồm 3 tiểu thang đo: thích ứng về nhận thức,

thích ứng về thái độ và thích ứng về hành vi thì số lượng item được sử dụng như sau:

Các tiểu thang đo và thang đo Số item ban Số item sau khi

đầu gồm kiểm tra độ tin cậy

Tiểu thang đo thích ứng về nhận thức 20 15

Tiểu thang đo thích ứng về thái độ 20 17

Tiểu thang đo thích ứng về hành vi 24 18

Thang đo thích ứng chung 64 50

Cách thức tiến hành:

Bảng hỏi được chuyển trực tiếp cho từng khách thể nghiên cứu ở các địa phương

sinh sống của khách thể. Sau khi nghe giới thiệu và hướng dẫn, các khách thể tự trả lời các

câu hỏi trong bảng hỏi và được nhóm nghiên cứu thu lại ngay sau khi hoàn thành.

2.3.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

Mục đích:

Thu thập, bổ sung, và làm rõ thông tin đã thu được từ phương pháp khác để có thể

đánh giá trung thực, khách quan các biểu hiện và mức độ của thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và các yếu tố

ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lý đó.

Nội dung phỏng vấn:

- Hỏi về những khó khăn, rào cản tâm lý nảy sinh đối với người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD từ khi về địa phương sinh sống đến thời điểm khảo sát;

những tình huống đột xuất, bất ngờ hoặc có nguy cơ tạo nên xung đột, đấu tranh tâm lý ở

họ;

- Những cảm xúc điển hình của các em khi về địa phương sinh sống và đến thời

điểm được phỏng vấn; những áp lực tâm lý xuất phát từ đâu;

- Cách khắc phục những áp lực, khó khăn tâm lý của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD khi rơi vào các tình huống không thuận lợi; mối quan hệ với

mọi người nơi sinh sống và các tổ chức đoàn thể ở địa phương; việc thực hiện những quy

định của pháp luật,..

- Những thay đổi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể

hiện ở các khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi từ khi về địa phương sinh sống đến thời

điểm khảo sát.

Cách thức tiến hành:

Các câu hỏi phỏng vấn sâu được chuẩn bị theo một số nội dung chính dưới hình

thức câu hỏi mở để thu thập các thông tin cần thiết về khách thể và vấn đề cần nghiên cứu,

gồm: thông tin cá nhân, những cảm nhận, trải nghiệm và thay đổi của cá nhân từ khi trở về

địa phương sinh sống, đánh giá của họ về các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý. Tuy

nhiên, trong quá trình đàm thoại, các câu hỏi được sử dụng linh hoạt theo hướng tiếp cận

vấn đề của khách thể mà vẫn đảm bảo được mục tiêu phỏng vấn. Đôi khi, có những tình

huống là những cuộc trao đổi nhỏ, đàm thoại hay chia sẻ ngắn của nhóm nghiên cứu với

các em dựa trên một số tình huống thực tế mà các em gặp phải hoặc trải nghiệm hoặc trong

cuộc sống. Tiến hành phỏng vấn tại nơi thuận lợi cho việc khai thác thông tin từ người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD như nơi ở, nơi lao động, nơi học tập...

bằng hình thức ghi chép là chủ yếu.

Các tình huống nảy sinh các cuộc trò chuyện hoặc phỏng vấn cũng hết sức phong

phú dựa theo các mặt của đời sống xã hội, đôi khi là những câu chuyện, chia sẻ mang tính

giải tỏa áp lực tâm lý cho các em.

2.3.4. Phương pháp quan sát

Mục đích:

Bổ sung thông tin cho các phương pháp khác, tìm hiểu biểu hiện thích ứng với tái

hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và các yếu

tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý của họ...

Nội dung:

Quan sát một số biểu hiện tâm lý, hành vi của các em khi tham gia học tập; lao động;

quan hệ xã hội và sự chấp hành nội quy của địa phương trong sinh hoạt. Kết quả nghiên

cứu sẽ được trình bày phân tích ở chương sau.

Cách thức tiến hành:

Chúng tôi quan sát và ghi nhật ký các hoạt động tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hàng ngày. Nhật ký ghi lại những biểu

hiện thích ứng và không thích ứng hoặc hành vi mang tính ứng phó của họ; những cách

thức mà các em thường sử dụng để thích ứng được với việc chấp hành nội quy ở địa phương

cũng như những khó khăn tâm lý mà các em gặp phải. Do đặc thù đối tượng tiếp xúc nên

chúng tôi chỉ sử dụng máy ghi âm, không sử dụng ghi hình nên không có hình ảnh minh

họa cho kết quả quan sát ngoài những ghi chép về cuộc sống, sinh hoạt, học tập và lao động

thực tế của các em ở địa phương.

2.3.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp

Mục đích:

Phân tích, phác họa chân dung một số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD với các mức độ thích ứng với tái hòa nhập khác nhau khác nhau nhằm góp phần

khẳng định cơ sở lý luận của luận án và bổ sung cho kết quả nghiên cứu thực trạng.

Nội dung:

Tác giả luận án tập trung mô tả và phân tích những biểu hiện thích ứng tâm lý với

tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo

từng thành phần của thích ứng tâm lý, ở các em có mức độ thích ứng tâm lý cao- thấp khác

nhau; đồng thời tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lý của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thông qua tự nhận xét, đánh giá của họ trong

quá trình quan sát và phỏng vấn sâu.

Cách thức tiến hành:

Dựa trên thông tin thu thập được từ khảo sát thực trạng, qua quá trình quan sát và

phỏng vấn sâu, tác giả nghiên cứu tiến hành lựa chọn và phân tích trường hợp điển hình

theo nội dung trên.

2.3.6. Phương pháp thống kê toán học

Mục đích:

Phương pháp này nhằm xử lý số liệu thu được và chuẩn hóa thang đo sử dụng theo

đặc điểm khách thể cho phù hợp.

Số liệu thu được từ điều tra bảng hỏi được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản

20.0. Các phép phân tích thống kê mô tả và thống kê suy luận được dùng trong xử lý kết

quả nghiên cứu.

Phân tích kết quả nghiên cứu thực trạng mức độ thích ứng tâm lý

Kết quả nghiên cứu thu được từ điều tra bảng hỏi được chúng tôi xử lý bằng phần

mềm SPSS 20.0 for windows. Các thông số và các phép toán thống kê được sử dụng trong

nghiên cứu bao gồm:

- Hệ số Cronbach Anpha được sử dụng để đo độ tin cậy của một số nội dung trong

bảng hỏi như đo về các mặt thể hiện sự thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và các yếu tố ảnh hưởng. Độ tin cậy của

các items trong nghiên cứu này đạt từ 0,5 trở lên. Do đó, câu hỏi về các yếu tố ảnh hưởng

đảm bảo độ tin cậy của nghiên cứu.

Phân tích thống kê mô tả:

Các chỉ số phân tích thống kê mô tả được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm các

chỉ số như: tần suất, tỉ lệ, điểm trung bình, độ lệch chuẩn, trung vị.

Phân tích thống kê suy luận:

Các phép thống kê được sử dụng trong phân tích thống kê suy luận gồm:

* Phân tích tổng điểm thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, điểm từng thành phần trong các mặt nhận thức, thái

độ, hành vi của họ trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu chúng tôi sử dụng cách tính

điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD như sau:

- Tạo biến số thích ứng:

Xuất phát từ định nghĩa thích ứng là sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi để

phù hợp với môi trường sống được thể hiện ở một số mặt về học tập, lao động, quan hệ xã

hội và sinh hoạt nên bảng hỏi xây dựng đề nghị người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD trả lời bằng cách đánh dấu vào ý mà mình cho là phù hợp với mình nhất.

- Trên cơ sở này, các biểu hiện được đánh giá với mức điểm như sau ở các câu hỏi

C1.4, C1.5, C1.6, C1.7, C1.8, C1.11, C1.12, C1.13, C1.14, C1.15, C1.17, C1.18, C1.19,

C1.20, C2.4, C2.5, C2.7, C2.9, C2.10, C2.11, C2.12, C2.13, C2.14, C2.15, C2.16, C2.17,

C2.18, C2.19, C2.20, C3.1, C3.2, C3.3, C3.4, C3.5, C3.6, C3.7, C3.8, C3.11, C3.12, C3.13,

C3.14, C3.15, C3.16, C3.17, C3.18, C3.19, C3.20, C3.22, C3.23, C3.24, C4.6, C4.7, C4.8,

C4.10, C4.11, C4.12, C4.13, C4.15, C5.1, C5.2, C5.3, C5.5, C5.5, C5.6, C5.7, C5.8, C5.9,

C5.10, C5.11, C5.12, C5.13, C5.13, C5.14, C5.15

Hoàn toàn đúng: 4 điểm; Đúng nhiều hơn sai: 3 điểm; Nửa đúng nửa sai: 2 điểm;

Sai nhiều hơn đúng: 1 điểm; Sai hoàn toàn: 0 điểm.

Các biểu hiện được đánh giá với mức điểm ngược lại như sau ở các câu hỏi

C1.1,C1.2, C1.3, C1.9, C1.10, C1.16, C2.1, C2.2, C2.3, C2.6, C2.8,C3.9, C3.10,.C3.21,

C4.1, C4.2, C4.3, C4.4, C4.5, C4.9, C4.14, C4.16, C5.4

Hoàn toàn đúng: 0 điểm; Đúng nhiều hơn sai: 1 điểm; Nửa đúng nửa sai: 2 điểm;

Sai nhiều hơn đúng: 3 điểm; Hoàn toàn sai: 4 điểm

Có thể mô tả cách tính điểm thích ứng tâm lý của từng và các biểu hiện như sau:

Nội dung Đánh giá Điểm

C1.1, C1.2, C1.3, C1.9, C1.10, C1.16, C2.1, Hoàn toàn đúng 0

C2.2, C2.3, C2.6, C2.8, C3.9, C3.10, C3.21, C4.1, C4.2, Đúng nhiều hơn sai 1

C4.3, C4.4, C4.5, C4.9, C4.14, C4.16, C5.4 2 Nửa đúng nửa sai

3 Sai nhiều hơn đúng

4 Hoàn toàn sai

C1.4, C1.5, C1.6, C1.7, C1.8, C1.11, C1.12, 4 Hoàn toàn đúng

C1.13, C1.14, C1.15, C1.17, C1.18, C1.19, C1.20,

Đúng nhiều hơn sai 3 C2.4, C2.5, C2.7, C2.9, C2.10, C2.11, C2.12, C2.13,

C2.14, C2.15, C2.16, C2.17, C2.18, C2.19, C2.20, Nửa đúng nửa sai 2 C3.1, C3.2, C3.3, C3.4, C3.5, C3.6, C3.7, C3.8, C3.11,

Sai nhiều hơn đúng 1 C3.12, C3.13, C3.14, C3.15, C3.16, C3.17, C3.18,

C3.19, C3.20, C3.22, C3.23, C3.24, C4.6, C4.7, C4.8, Hoàn toàn sai 0

C4.10, C4.11, C4.12, C4.13, C4.15, C5.1, C5.2, C5.3,

C5.5, C5.5, C5.6, C5.7, C5.8, C5.9, C5.10, C5.11,

C5.12, C5.13, C5.13, C5.14, C5.15

- Sau đó, điểm thích ứng được tính bằng ĐTB hoặc tổng điểm thích ứng các biểu

hiện ở cả 3 mặt (nhận thức, thái độ , hành vi), biểu hiện từng mặt: nhận thức, thái độ, hành

vi ở trong từng hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội, sinh hoạt

Cách tính ĐTB

+ ĐTB thích ứng nhận thức được tính như sau:

∑TUNT = (TUNT1+ TUNT2 + TUNT3+......+ TUNT14+ TUNT15)/15

+ĐTB thích ứng thái độ được tính như sau:

∑TUTĐ = (TUTĐ1+ TUTĐ2 + TUTĐ3+......+ TUTĐ15 +TUTĐ16)/17

+ĐTB thích ứng hành vi được tính như sau:

∑TUHV = (TUHV1+ TUHV2 + TUHV3+......+ TUHV18+ TUHV19)/18

+ ĐTB thích ứng chung được tính như sau:

∑TUchung = (TUNT1+ TUNT2 + ....+ TUNT14+ TUNT15 + TUTĐ1+ TUTĐ2 +

....+ TUTĐ15 + TUTĐ16 + TUHV1+ TUHV2 + ...+ TUHV18+ TUHV19)/50

Từ đây có thể thấy, tính theo ĐTB thì ĐTB càng cao, mức độ thích ứng càng lớn.

Độ tin cậy của các tiểu thang đo và thang đo tính theo ĐTB thì tiểu thang đo thích ứng về

nhận thức là 0,75; tiểu thang đo thích ứng về thái độ là 0,78; của tiểu thang đo thích ứng

về hành vi là 0,86 và của toàn bộ thang đo thích ứng tâm lí là 0,91. Tất cả đều đạt độ tin

cậy (Phụ lục 2.3)

Do phân bố điểm thích ứng là phân bố chuẩn nên việc phân chia mức độ thích ứng

tác giả dựa vào lý luận của Gauss để phân vị. Từ đây, các mức độ thích ứng tâm lý được

xác định theo phân vị như sau:

Mức độ thích ứng

Điểm trung bình của thang đo và các tiểu thang đo

Thấp

Từ 0 đến dưới “M - 1SD”

Trung bình

Từ “M - 1SD” đến dưới “M + 1SD”

Cao

Từ “M + 1SD” đến điểm cao nhất

Theo đó, các mức độ thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD được phân định như sau:

- Mức độ thích ứng thấp: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chỉ

đạt được ĐTB từ dưới điểm M của ĐTB trừ đi một ĐLC mà bảng hỏi nêu ra ở tất cả các

khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi hoặc ở từng khía cạnh biểu hiện cụ thể của từng

thành phần thích ứng tâm lý của họ.

- Mức độ thích ứng trung bình: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD có ĐTB đạt được từ điểm M của ĐTB trừ đi một ĐLC đến dưới điểm M của ĐTB

cộng với một ĐLC mà bảng hỏi nêu ra ở tất cả các khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi

hoặc ở từng khía cạnh biểu hiện cụ thể của từng thành phần thích ứng tâm lý của họ.

- Mức độ thích ứng cao: người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có

ĐTB đạt được từ điểm M của ĐTB cộng với một ĐLC trở lên mà bảng hỏi nêu ra ở tất cả

các khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi hoặc ở từng khía cạnh biểu hiện cụ thể của

từng thành phần thích ứng tâm lý của họ.

Tính theo ĐTB thì có kết quả sau:

Bảng 2.2. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của thang và tiểu thang đo

Các thành phần Mặt nhận thức

Mặt thái độ

Mặt hành vi

Thích ứng chung

ĐTB 3,23 3,10 3,07 3,13

ĐLC 0,45 0,47 0,62 0,44

Theo lý luận của Gauss để phân vị có bảng để tính mức độ thích ứng sau:

Bảng 2.3. Mức độ thích ứng thể hiện ở các mặt biểu hiện

Mức độ thích ứng Mặt nhận thức

Mặt thái độ

Mặt hành vi

Thích ứng chung

Thấp ĐTB < 2,78 ĐTB < 2,63 ĐTB < 2,45 ĐTB < 2,69

Trung bình ĐTB từ 2,78 ĐTB từ 2,63 đến ĐTB từ 2,45 ĐTB từ 2,69

đến < 3,68 < 3,57 đến < 3,69 đến < 3,57

Cao từ 3,68

ĐTB trở lên ĐTB từ 3,57 trở lên ĐTB từ 3,69 trở lên ĐTB từ 3,57 trở lên

* Phân tích thống kê:

Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các phép phân tích thống kê dưới đây để

mô tả thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong

BPXLHC đưa vào TGD:

Các chỉ số thống kê: điểm trung bình, độ lệch chuẩn, tỉ lệ %, tương quan Pearson

được sử dụng để mô tả thực trạng thích ứng tâm lý đó

2.3.7 Phương pháp chuyên gia

Mục đích:

Phương pháp này tranh thủ ý kiến đóng góp của những người có kinh nghiệm, kiến

thức liên quan đến khách thể nghiên cứu; những người có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh

vực tâm lý học và giáo dục học; người làm công tác thực tiễn tại địa bàn cơ sở.

Hình thức:

Phỏng vấn xin ý kiến về đặc điểm tâm lý đối tượng đã chấp hành xong biện pháp

xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; phân tích chia sẻ 2 trường hợp người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

2.3.8. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch

Mục đích:

Nắm được tiểu sử, nhân thân, lai lịch, nguyên nhân của những hành vi đã, đang điễn

ra và dự đoán hành vi của các em.

Nội dung:

Đọc hồ sơ tại phòng và Cục Hồ sơ nghiệp vụ về một số khách thể nghiên cứu nắm

được thông tin quan trọng, chi tiết như hoàn cảnh gia đình, những tiền sự, hành vi vi phạm

mà họ đã thực hiện. Từ đó khuyến nghị biện pháp thích hợp để giúp người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD tái hòa nhập hiệu quả.

2.4. Phân tích các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý của với tái hòa nhập cộng

đồng ở người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Để đánh giá được các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD với các quy định tại địa phương, nhóm nghiên cứu chúng

tôi sử dụng cách phân tích Hồi quy tuyến tính để giải thích dự báo thích ứng tâm lý chung

và thích ứng tâm lý ở từng khía cạnh. Mô hình Hồi quy Tuyến tính được thực hiện với biến

phụ thuộc là thích ứng tâm lý chung, thích ứng nhận thức, thích ứng thái độ và thích ứng

hành vi; biến độc lập là các biến số như: yếu tố chủ quan thộc về bản thân người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và yếu tố khách quan thuộc về những yếu tố thuộc

về môi trường sống

Với các giá trị tham chiếu:

+ R2: Phương sai bình phương: là biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi

biến thiên của biến độc lập.

+ DW: Tự tương quan: Kiểm định biến độc lập có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc

không, nếu ảnh hưởng thì có quyết định không, ảnh hưởng ở mức độ nào. DW nằm trong

giới hạn tra trong bảng phụ lục tương đương với n và k

+ F: (đi kèm với Sig< 0,005) thể hiện mô hình hồi quy tuyến tính được xây dựng

phù hợp với mô hình tổng thể

+ Bêta: Tác động chặt hay không chặt, trị tuyệt đối của Bêta càng lớn thì tác động

biến thiên kéo theo càng nhiều. Giá trị âm là tác động tương quan biến thiên nghịch, giá trị

dương là tác động tương quan biến thiên thuận

+ VIF: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến. Trong nghiên cứu này hệ số VIF< 2 là

đạt đến độ không có hiện tượng cộng tuyến.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, tác giả đã trình bày tiến trình tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu

qua 3 giai đoạn và các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu lý luận cũng như nghiên

cứu thực tiễn. Các giai đoạn nghiên cứu gồm: Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận; Giai đoạn

2: Nghiên cứu khảo sát thực tiễn (gồm điều tra thử và điều tra chính thức); Giai đoạn 3:

Viết thành luận án. Các phương pháp tác giả đã sử dụng bao gồm: Phương pháp quan sát,

phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; phương pháp phỏng vấn sâu; phương pháp xử lý số

liệu bằng thống kê toán học; phương pháp phân tích chân dụng tâm lý điển hình..... Độ tin

cậy của từng item, các tiểu thang đo và thang đo đều đạt độ tin cậy cụ thể tiểu thang đo

thích ứng về nhận thức là 0,75; tiểu thang đo thích ứng về thái độ là 0,78; của tiểu thang

đo thích ứng về hành vi là 0,86 và của toàn bộ thang đo thích ứng tâm lí là 0,91. Công cụ

điều tra đã được tổ chức tiến hành nghiên cứu thử nghiệm, chỉnh sửa, bổ sung và được

hoàn thiện trước khi đưa vào điều tra chính thức. Sau khi thu thập được số liệu, tác giả tiếp

tục điều chỉnh và loại bớt biến để đạt độ tin cậy trong kết quả thu được khi xử lý.

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI

TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP

XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

3.1. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng

3.1.1. Đánh giá chung

Trước khi đi vào tìm hiểu thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, để có cái nhìn tổng thể về thích ứng

tâm lý của họ, chúng tôi xem xét kết quả kết quả nghiên cứu về thích ứng tâm lý chung của

người chấp hành xong biện pháp XLHC thể hiện ở biểu đồ tổng điểm thích ứng tâm lý

(Hình 3.1):

Hình 3.1. Biểu đồ phân bố theo mức độ Thích ứng tâm lý

Căn cứ trên biểu đồ phân bố điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (Hình 3.1) có thể thấy điểm

trung bình tổng điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là Mean = 3,13; trung vị Median= 3,24; điểm thấp

nhất Min = 1,89; điểm cao nhất Max= 3,85; độ lệch chuẩn SD = 0,435; độ nghiêng Sk=

0,187; độ dẹt của biểu đồ đo tổng điểm thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là Ku = 0,229. Biều đồ phân bố

tổng điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD theo hướng hình răng cưa và có xu hướng nghiêng phải. Kết

quả kiểm định Kolmogorov- Smirnov với Sig = 0,00 cho thấy biểu đồ đạt phân bố chuẩn

tuy nhiên điểm phân bố tập trung ở cực phải hơi nhỉnh hơn một chút so với cực trái và có

độ nhọn rõ rệt; sự dao động của ĐTB khá rộng từ 1,89 đến 3,85 điểm.Từ biểu đồ phân bố

tổng điểm thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD có thể thấy số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD có mức ĐTB thích ứng tâm lý ở mức thấp cũng tương đương số người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng có mức ĐTB thích ứng

tâm lý ở mức cao mặc dù phía bên trái biểu đồ có độ thoai thoải, nghiêng dốc ít hơn so với

phía bên phải của biểu đồ. Kết quả thu được cho thấy người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng có sự thích ứng tâm lý ở mức độ trung

bình theo phân mức điểm thu được là chủ yếu.

Thực trạng đó được thể hiện cụ thể hơn qua bảng dưới đây:

Bảng 3.1. Mức độ thích ứng tâm lý

Thấp Trung Cao Điểm Điểm ĐTB ĐLC

(%) bình (%) (%) thấp cao

nhất nhất

Thích ứng chung 14,3 70,2 15,5 1,75 4,00 3,13 0,44

Thích ứng về nhận thức 13,3 79,1 7,6 1,60 4,00 3,23 0,45

Thích ứng về thái độ 15,5 66,7 17,9 1,75 4,00 3,10 0,47

Thích ứng về hành vi 20,2 60,7 19,0 0,63 4,00 3,07 0,62

Với bảng 3.1 ta thấy, số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích

ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở mức độ thấp và mức độ cao thể hiện ở tất cả các

mặt đều thấp ( tất cả đều dưới 21,0%), trong khi đó thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng đạt mức trung bình đều trên 60,0% tất cả các mặt.

3. Thích ứng cao

2.Thích ứng trung bình

1. Thích ứng thấp

Hình 3.2. Biểu đồ theo mức độ Điểm trung bình thích ứng tâm lý

Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái

hòa nhập cộng đồng đạt ĐTB là 3,13 với ĐLC 0,44 ở mức độ thấp (14,3%), ở mức độ cao

là 15,5%. Trong khi đó số lượng người chấp hành biện pháp XLHC đưa vào TGD thích

ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở mức trung bình lên tới 117/168 người chiếm 70,2%. Như

vậy, số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng có mức độ thích ứng tâm lý ở mức trung bình là cao gấp 5,12 lần so với

số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý ở mức cao và

gấp 4,36 người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý ở mức

thấp. Và điều này cũng thể hiện ở từng mặt thích ứng về: nhận thức, thái độ và hành vi.

Vậy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa nhập cộng

đồng biểu hiện rõ nhất ở khía cạnh nào trong ba khía cạnh chung về thích ứng tâm lý?

Để làm rõ hơn, chúng tôi phân tích từng khía cạnh: nhận thức, thái độ và hành vi

của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của khách thể ở phân tích sau.

3.1.2. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành

xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng về mặt nhận thức

Nhận thức là những hiện tượng tâm lý đầu tiên xây dựng nên đời sống tâm lý của

con người. Và thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD về nhận thức là thành phần biểu hiện đầu tiên của thích ứng tâm

lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Thích ứng về nhận thức ở họ thể hiện việc đầu tiên là phải chấp nhận và tiến tới tự giác

thực hiện những hành vi tuân theo các chuẩn mực của địa phương nói riêng và của xã hội

nói chung, chấp nhận thực hiện các nội quy cụ thể trong các hoạt động hàng ngày khi sinh

sống tại địa phương như khi tham gia hoạt động học tập và hoạt động lao động, quan hệ xã

hội, các sinh hoạt cá nhân.... Trong quá trình đó có sự giám sát của gia đình và các tổ chức

xã hội giúp họ có điều kiện tự nhìn nhận lại bản thân và hành vi của mình một cách căn

bản. Thích ứng về mặt nhận thức giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD tự nhìn nhận lại các chuẩn mực xã hội và quy định của địa phương một cách đúng

đắn, tích cực trong đời sống tâm lý của mình, tự soi vào chính bản thân mình để thay đổi

cách nghĩ, quan điểm nhằm thích ứng được với môi trường sống. Kết quả nghiên cứu thích

ứng tâm lý về mặt nhận thức được thể hiện ở biểu đồ hình 3.3

Hình 3.3. Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt nhận thức

Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về nhận thức (hình 3.3) của người chấp

hành xong biện pháp XLHC cho thấy mức điểm trung bình Mean= 3,23; trung vị Median=

3,37. Đồng thời, mức điểm trung bình thấp nhất Min= 1,60 và mức điểm trung bình cao

nhất Max = 4,00, độ lệch chuẩn Std= 0,45 cho thấy có sự dao động khá lớn giữa các mức

điểm trung bình thích ứng về nhận thức ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD với tái hòa nhập cộng đồng. Biểu đồ có độ dẹt = 0,875 và biểu đồ có độ nghiêng trái

với Sk= 0,956 cho thấy biểu đồ phân bố tổng điểm thích ứng về nhận thức theo cấu trúc

hình răng cưa. Kết quả thể hiện phân bố điểm trung bình thích ứng về nhận thức của người

chấp hành xong biện pháp XLHC cũng chỉ đạt tiệm cận phân phối chuẩn. Phía điểm thấp

tập trung nhiều người có cùng quan điểm hơn là phía điểm cao. Điều này cho thấy thực tế

nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC chưa thực sự có những thay đổi về nhận

thức khi về sinh sống tại địa phương, họ chưa chấp nhận được một số quy định, chuẩn mực

hiện thời của xã hội hiện hành; trong thâm tâm, sâu thẳm tâm trí của họ vẫn còn có sự nghi

ngờ, băn khoăn.

Kết quả nghiên cứu trên cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD với tái hòa nhập cộng đồng đã thích ứng được với việc một số quy định của địa

phương và chuẩn mực xã hội về mặt nhận thức. Tuy nhiên đa số người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD chỉ thích ứng về nhận thức đạt mức độ trung bình là 79,1%

và dưới trung bình (thấp) là 13,3% (tổng chiếm tỉ lệ cao tới 92,4%. Trong đó, số người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về nhận thức ở mức cao chỉ đạt

7,6%. Số liệu cho thấy, số người thích ứng về nhận thức ở mức trung bình cao hơn gấp

11,25 lần so với số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về

nhận thức ở mức độ cao.

Kết quả nghiên cứu trên cho thấy mặc dù người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD đã thích ứng được với các quy định của địa phương tức là trong suy nghĩ,

nhận thức của họ đã phần nào đó chấp nhận tuân theo chuẩn mực xã hội nhưng họ lại chưa

thực sự thay đổi nhiều về nhận thức.

Để làm rõ hơn thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu một số

người về nhận thức của họ về hoạt động học tập, hoạt động lao động, quan hệ xã hội và

sinh hoạt của cá nhân. Trước hết, để đánh giá sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về nhận thức, chúng ta

cùng xem bảng dưới đây để thấy rõ hơn những biểu hiện sự thích ứng tâm lý về nhận thức

của họ.

Bảng 3.2. Thực trạng thích ứng nhận thức

Những nội dung nhiều người thích ứng được ĐTB ĐLC

Học tập giúp tôi có được kiến thức và cơ hội việc làm 3,70 0,817

Lao động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống 3,73 0,698

Lao động giúp tôi rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì 3,70 0,722

Những nội dung nhiều người chưa thích ứng

Đôi khi tôi tìm lý do để không phải lao động 0,98 1,191

Tôi hiểu mình sẽ gặp khó khăn để có bạn bè mới 1,95 1,527

Tôi biết rằng hàng xóm cần có thời gian để hiểu và thông cảm cho tôi 2,51 1,345

Học tập là điều bắt buộc đối với tôi 2,75 1,348

Các hoạt động sinh hoạt tại địa phương còn đơn điệu 2,42 1,420

Mọi người xung quanh tôi chấp hành tốt quy định của địa phương 2,22 1,349

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Ở bảng 3.2, theo công thức của Gauss ơe bảng 2.2 chia ra 3 mức thích ứng thấp sẽ

có ĐTB < 2,78, thích ứng trung bình có ĐTB từ 2,78 đến 3,68, những giá trị ĐTB về nhận

thức > 3,68 là thích ứng ở mức độ cao. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.2 cho thấy thích ứng

về nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập

có sự chênh lệch và dao động khá xa ở ĐTB từ 0,98 (ở nội dung nhiều người không thích

ứng) cho đến 3,73 (ở nội dung nhiều người thích ứng được). Mức ĐTB cao nhất là sự nhận

thức với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

với nội dung "Lao động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống” với ĐTB = 3,73; ĐLC = 0,698.

Tiếp theo, thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mức cao được thể hiện ở mức ĐTB = 3,70 và ĐLC

lần lượt là 0,722 và 0,817 với nội dung tương ứng là "lao động giúp tôi rèn luyện sức khỏe

và sự kiên trì” và “Học tập sẽ giúp tôi có thêm kiến thức và cơ hội việc làm”. Còn lại, những

mô tả các nội dung khác đều có mức ĐTB thấp từ 2,22 đến 0,98. Kết quả trên cho thấy chỉ

có 3/15 nội dung là biểu hiện của thích ứng nhận thức với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD có thể thích ứng được, thể hiện ở chỗ có

12/168 người biểu hiện tương ứng với 7,1% người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD có nhận thức được về vai trò của lao động và học tập đối với đời sống của cá

nhân nói chung và đối với hoàn cảnh hiện tại của họ nói riêng; ngoài ra, những biểu hiện

khác thì có tỉ lệ người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức trung

bình 134/168 tương ứng với 79,1% và thấp là 22/168 tương đương 13,3%. Như vậy có thể

thấy trong nhận thức về việc phải thực hiện một số hoạt động theo qui định của địa phương

sinh sống, chỉ một số ít người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức

được. Phần lớn chỉ nhận thức được ở mức trung bình (79,1%) thậm chí còn thấp (13,3%).

Kết quả này cũng tương đồng với kết quả quan sát sinh hoạt hàng ngày của một số

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi họ tham gia vào các quan hệ xã

hội và việc thực hiện theo nội quy địa phương cho thấy, đôi khi họ vẫn có những xung đột

với nhau trong các quan hệ xã hội và với chính các quy định, chuẩn mực xã hội mà họ vẫn

còn nhiều bỡ ngỡ như: việc phải ăn ngủ điều độ, đúng giờ giấc, phải lao động và sản phẩm

làm ra phải đạt chất lượng, việc học tập có kiểm tra đánh giá thực sự chứ không như giai

đoạn trước đây các em tùy tiện trong mọi hoạt động và sinh hoạt.

Có thể dẫn lời chia sẻ của một người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD về điều này như sau "cháu về nhà ở mà nhiều lúc cháu có cảm giác đây chưa phải là

nhà của cháu. Mọi thứ đều xa lạ đối với cháu. Từ quan hệ với mọi người trong gia đình

cháu cũng thấy bỡ ngỡ, mọi nếp sinh hoạt cũng xa lạ như kiểu lệch múi giờ, mệt mỏi và

căng thẳng như chuẩn bị có một trận bão. Cái gì cũng có mà như kiểu lúc nào cũng thiếu

thốn và cái gì cũng thèm được như khi xưa”. (N.T.Y- 19 tuổi, Cẩm Hà, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh).

Cụ thể một số hoạt động thể hiện thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về nhận thức đối với hoạt

động học tập. Kết quả nghiên cứu về thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động học tập

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 3.3. Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động học tập

Những nội dung thể hiện thích ứng với hoạt động học tập ĐTB ĐLC

Học tập pháp luật chỉ là hình thức, không cần thiết, không có ích gì 3,48 1,153

Nội dung học tập giáo dục công dân, đạo đức chỉ là lý thuyết suông 3,20 1,260

Tôi thấy bắt buộc phải học tập văn hóa là điều khó khăn đối với tôi 2,75 1,348

Học tập văn hóa giúp tôi có thêm kiến thức và cơ hội việc làm 3,70 0,817

Tôi thấy mình cần thiết phải học để bổ sung kiến thức 3,61 0,871

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Hoạt động học tập là hoạt động được tiến hành thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi con

người. Với những người đã từng thực hiện những hành vi sai lệch các chuẩn mực xã hội, việc tổ

chức thường xuyên, liên tục và lâu dài hoạt động học tập nhằm giúp họ lĩnh hội tri thức, kinh

nghiệm xã hội- lịch sử, có nhận thức đúng đắn về các chuẩn mực xã hội là điều vô cùng cần thiết.

Theo Luật Trẻ em Điều 73, khoản 1, điểm b thì Ủy ban nhân dân xã/phường nơi trẻ em về cư trú

có trách nhiệm tổ chức học văn hóa, học nghề, học kỹ năng sống cho các em.

Kết quả nghiên cứu thể hiện ở bảng 3.3 cho thấy với hoạt động học tập, mức độ

thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức

có mức ĐTB dao động từ 2,75 đến 3,70 là không quá lớn, nhưng lại chủ yếu là mức ĐTB

ở mức trung bình. Trong đó, ĐTB cao nhất = 3,70, ĐLC = 0,817 là item hỏi về "học tập

văn hóa giúp tôi có thêm kiến thức và cơ hội việc làm” với 142 em tương ứng với 84,5%

cho thấy với nội dung này thì các em nhận thức được vai trò của học tập. Ngoài ra, với

những mô tả khác về việc học tập theo các quy định khác của địa phương cho thấy người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chưa đánh giá cao, chủ yếu là trung bình.

Điều này cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD về nhận thức với hoạt động học tập đạt mức trung bình. Đa số người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã tin vào lợi ích của học văn hóa và các quy

định của địa phương nhưng lại chưa nhận thức được một cách đầy đủ và thấu đáo. Như

vậy, từ bảng 3.3 có thể thấy, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích

ứng với những hoạt động học tập nào có ý nghĩa, thiết thực với chính cuộc sống của họ sau

khi chấp hành xong ở TGD. Đồng thời, bản thân họ chưa thực sự chấp nhận với các nội

dung học tập này. Bởi việc học tập này thường có sự tham gia giám sát của một số tổ chức

xã hội như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên... và nhận xét của chính quyền nên hoạt động học

tập được người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thực hiện tốt hơn cả.

Thực trạng thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD về mặt nhận thức còn thể hiện ở hoạt động lao động. Hoạt động lao động là một trong

những loại hình hoạt động đóng vai trò quyết định cho sự hình thành và phát triển tâm lý cá

nhân đặc biệt là trong việc xóa bỏ những nét tâm lý tiêu cực đã hình thành chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD và hình thành phẩm chất tâm lý tích cực ở họ. Mục đích của

hoạt động lao động trong tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là giáo dục, cải tạo họ hình thành những

phẩm chất tâm lý tích cực trong nhân cách của họ; đồng thời là tiêu chuẩn để xã hội và cộng

đồng đánh giá sự tiến bộ của các em. Xuất phát từ mục đích này, việc tổ chức cho người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD lao động phù hợp với lứa tuổi và tình hình ở địa

phương phong phú và đa dạng. Đó chủ yếu là những công việc lao động chân tay, thủ công hoặc

nghề nông nghiệp. Do vậy, thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD ở mặt nhận thức về hoạt động lao động được thể hiện khá tương đồng ở bảng 3.4.

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.4 cho thấy nhận thức của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD về hoạt động lao động cũng thể hiện sự đánh giá cao của họ về

hoạt động lao động đối với sự tiến bộ của họ.

Bảng 3.4. Thực trạng thích ứng nhận thức với hoạt động lao động

Một sô nội dung về thích ứng hoạt động lao động ĐTB ĐLC

Lao động sẽ giúp cho thời gian hàng ngày trôi nhanh hơn 3,17 1,217

Lao động giúp tôi rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì 3,70 0,722

Lao động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống 3,73 0,698

Đôi khi tôi tìm lý do nào đó để đỡ phải lao động 0,98 1,191

Tôi thấy phải lao động là điều khó khăn đối với tôi 3,20 1,181

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Trong đó, mức ĐTB cao nhất = 3,73; ĐLC = 0,698 là mô tả nhận thức của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về vai trò của hoạt động lao động như "lao

động giúp tôi hiểu hơn về cuộc sống” và tiếp theo là ĐTB= 3,70; ĐLC= 0,722 là “lao động

giúp tôi rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì". Tiếp theo là những mô tả có mức ĐTB = 3,20

thể hiện nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về hoạt động

lao động "Tôi thấy lao động không quá khó khăn với tôi" và "lao động giúp thời gian hàng

ngày của tôi trôi nhanh hơn” với mức ĐTB là 3,17.

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở nhận thức về hoạt động

lao động có mức thích ứng khá cao so với các hoạt động khác như hoạt động học tập, quan

hệ xã hôi hay sinh hoạt. Như vậy, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

có sự đánh giá cao hơn về vai trò, ý nghĩa của lao động đối với quá trình về sinh sống tại

địa phương của bản thân và tương lai của họ sau này. Nhưng đa số người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD vẫn chưa thích ứng và đáp ứng được một số quy định, yêu

cầu trong quá trình lao động về khối lượng, định mức, thời gian giờ giấc. Kết quả này cho

thấy họ chưa thực sự thay đổi nhận thức theo chiều hướng tích cực với hoạt động lao động.

Khi quan sát quá trình tham gia lao động của một số người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD cho thấy, hoạt động lao động là một trong những căn cứ quan

trọng để cho chúng ta có những nhận định ban đầu về việc họ có thích ứng được với cuộc

sống ở địa phương hay không. Do đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD thích ứng với hoạt động lao động có phần cao hơn so với hoạt động học tập hay quan

hệ xã hội và sinh hoạt. Kết quả này cũng phù hợp với những chia sẻ của một số người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tham gia phỏng vấn sâu, có 7 trong số 12 người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi được phỏng vấn chia sẻ rằng "lao động

đầy đủ và có hiệu quả giúp mọi người nhìn nhận chúng cháu theo hướng thiện cảm hơn,

chúng cháu có điều kiện để chứng minh với mọi người về sự hướng thiện của chúng cháu.

Hơn nữa, vì là thay đổi môi trường sống nên chúng cháu cũng chưa có được nhiều các

quan hệ xã hội ở địa phương nên lao động giúp thời gian trôi nhanh hơn với chúng cháu

mà chúng cháu cũng khuây khỏa đầu óc, bớt thời gian lo nghĩ về gia đình và những việc

khác”. (T.T.H.- 21C, Lò Lợn, Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội). Tuy nhiên, cũng có một

số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi được hỏi lại cho rằng " may

có việc làm sớm chứ nếu không có việc làm thì cũng chẳng biết làm gì cô ạ". Điều này cho

thấy, bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng chưa thực sự

nhiệt tình, tự nguyện thực hiện hoạt động lao động mà họ thực hiện chỉ vì những lợi ích

trước mắt. Do đó, trong sâu thẳm đời sống tâm lý, suy nghĩ và quan điểm của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, họ chưa đề cao vai trò của lao động và cũng

không sẵn sàng, tự nguyện lao động một cách tích cực, hăng say.

Một khía cạnh nữa khi quan sát các quan hệ xã hội và sinh hoạt trong cuộc sống của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể nói về mặt nhận thức, người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức được tình trạng của mình là

đang bị thiếu thốn các quan hệ xã hội trong môi trường sống mới này, các em e dè trong

giao tiếp, tự ti với tất cả mọi người kể cả người thân nên họ có xu hướng thỏa mãn nhu cầu

thiếu thốn của mình trong các quan hệ xã hội. Đây cũng là điều kiện để người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tạo dựng vị thế xã hội của mình trong môi trường

sống tại địa phương. Điều này thể hiện ở cách các em xưng hô với những người lớn tuổi ở

địa phương trong quá trình giao tiếp bằng “con” và đặt họ vào vai vế “cô”, “dì”, “chú”,

“bác”... trong các cuộc nói chuyện đã nói lên sự thay đổi bước đầu đó. Từ đây, có thể thấy,

những việc làm này xuất phát từ nhu cầu của phần lớn người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD muốn xóa bỏ bớt sự kỳ thị, định kiến của mọi người trong xã hội với

những người đã có những “lầm lỗi” trước đây, muốn được mọi người đối xử như mọi người

khác. Đây bản chất là những hành vi ứng phó của các em, quan điểm mang tính ứng phó

với những quy định, yêu cầu của địa phương chứ chưa phải là sự thay đổi về quan điểm,

nhận thức để thích ứng, đáp ứng với những yêu cầu của xã hôi hay địa phương đối với

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Có thể nói, nhận thức, quan điểm của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD là khía cạnh khó biểu hiện ra bên ngoài, do đó, khó có thể căn cứ vào đó để đánh

giá việc các em thích ứng tâm lý cao hay thấp với các yêu cầu của địa phương ngoại trừ họ

thực sự nhận thức và ăn năn hối cải thông qua hành vi. Thực tiễn quan sát cuộc sống sinh

hoạt và lao động của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi về sinh

sống ở địa phương cho thấy, mặc dù họ vẫn chấp hành tốt nội quy, quy định của địa phương

nhưng về tâm lý, bản thân họ chỉ thích ứng ở mức độ nhất định chứ không thích ứng với

tất cả các tiêu chí đánh giá về thích ứng tâm lý mà nhóm nghiên cứu đã đưa ra. Kết quả

này cho thấy mặc dù khi đã về địa phương sinh sống, người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD vẫn có biểu hiện chấp hành đầy đủ, đúng các quy định của địa phương

về hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt nhưng về mặt tâm lý các em

vẫn chưa thực sự thích ứng đạt yêu cầu.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu đã cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức có

sự dao động khá lớn thể hiện ở ĐTB thích ứng về nhận thức từ 0,98 đến 3,73; trong đó

79,1% người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng ở mức trung bình.

Kết quả nghiên cứu này tương ứng với mức ĐTB về thích ứng tâm lý của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức đạt từ 2,78 đến 3,68. Trong đó,

mức độ thích ứng nhận thức về hoạt động học tập là có mức điểm cao hơn cả so với nhận

thức về lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt. Điều này sẽ được làm rõ hơn ở phân tích về

thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mặt thái độ.

3.1.3. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng về mặt thái độ

Thích ứng về mặt thái độ với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở chỗ họ cảm thấy thoải mái, không khó chịu hoặc

không cảm thấy bị áp lực, mệt mỏi khi thể hiện các hoạt động của mình về học tập, lao

động, quan hệ xã hội, sinh hoạt. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được thể hiện ở hình 3.4.

Thấp

Trung bình

hấp Cao

Hình 3.4. Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ

Hình 3.4 cho thấy mức điểm trung bình thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ có sự phân bố rộng

và không đều ở nhiều mức độ khác nhau từ 1,75 điểm đến 4,00 điểm, tương ứng với thích

ứng được từ thấp nhất là 0,6% đến cao nhất là 8,9% trong tổng số các tiêu chí tác giả đưa

ra để điều tra về mặt thái độ. Trong đó, theo công thức phân chia mức độ của Gauss thì số

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đạt ĐTB thích ứng đạt mức độ thích

ứng thấp chiếm tỉ lệ 15,5% tương ứng với 22/168 người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD được hỏi. Bên cạnh đó, nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD có mức ĐTB thích ứng về mặt thái độ đạt mức độ trung bình, có 119 người,

chiếm tỉ lệ 66,7%. Nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức

ĐTB thích ứng đạt mức cao chiếm tỉ lệ 19,0%, tương đương 22 người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD.

Như vậy, căn cứ trên mức ĐTB thích ứng và tỉ lệ đáp ứng được các tiêu chí của

nhóm nghiên cứu về việc chấp hành chuẩn mực xã hội thì phần lớn người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng tâm lý về thái độ ở mức độ trung bình và

thấp, chiếm đến 82,2% số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được

khảo sát, tương ứng hơn 4/5 các em và tỉ lệ người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD đạt mức độ thích ứng về thái độ ở mức cao chiếm tỉ lệ khiêm tốn là 19,0%. Kết

quả này cho thấy mặc dù người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã được

chuẩn bị trước về tâm thế trước khi ra trường về tái hòa nhập vào cộng đồng xã hội, đã

được học tập và giáo dục về các chuẩn mực xã hội nhất là các chuẩn mực về mặt pháp luật,

nhiều em cũng có những sự thay đổi nhất định về mặt nhận thức nhưng sự thay đổi đó còn

chậm, chưa rõ ràng; sự cân bằng, thoải mái về thái độ của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng còn ở mức độ chưa cao là chủ yếu và

thường xuyên hơn cả.

Hình 3.5. Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt thái độ

Biểu đồ phân bố tổng điểm trung bình thích ứng về thái độ ở hình 3.5 cho thấy điểm

trung bình Mean = 3,10; trung vị Median= 3,15 cho thấy có 66,7% người chấp hành xong

biện pháp XLHC chỉ thích ứng được với mức độ trung bình về mặt thái độ, 19,0% người

chấp hành xong biện pháp XLHC thích ứng ở mức độ cao, còn lại là thấp với 15,5%. Đồng

thời, điểm trung bình thấp nhất về thích ứng thái độ Min = 1,75 và điểm tổng trung bình

cao nhất về thích ứng thái độ Max = 4,00 cho thấy mức điểm trung bình thích ứng về thái

độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng có biên độ dao động lớn. Biểu đồ có độ lệch chuẩn Std= 0,47; độ nhọn

Ku= 0,64 và có độ nghiêng trái với Sk= -0,867 cho thấy biểu đồ phân bố điểm trung bình

thích ứng về thái độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC có cấu trúc hình răng cưa

với phân bố đạt chuẩn bởi điểm phân bố tập trung ở giữa của biểu đồ, tuy nhiên, phía điểm

thấp vẫn tập trung nhiều hơn phía điểm cao. Kết quả nghiên cứu thể hiện rằng nhiều người

chấp hành xong biện pháp XLHC chưa có sự thay đổi đáng kể về thái độ kể từ khi vẫn còn

ở trong TGD cho tới khi về địa phương sinh sống, một số người vẫn có thái độ chưa tích

cực là chủ đạo, chưa có sự cân bằng về cảm xúc khi chấp hành những quy định của địa

phương- nơi ở vừa mới vừa cũ đối với các em. Mới vì đây là nơi các em vừa tạm xa một

thời gian và những thay đổi tại địa phương thời điểm đó, cũ là vì đây đa số là môi trường

sống thân quen của các em trong một thời gian dài trước đây. Biểu hiện ở chỗ điểm trung

bình thích ứng về thái độ phân bố ở mức điểm trung bình vẫn chiếm chủ đạo, điểm trung

bình ở mức cao rất ít, còn lại là thấp. Hay nói cách khác, sự thích ứng tâm lý về mặt thái

độ ở người chấp hành xong biện pháp XLHC ở mức trung bình là chủ yếu.

Do ĐBT của thích ứng tâm lý về thái độ với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức ĐTB thấp nên trong phần phân

tích thích ứng về thái độ, các bảng được bố trí theo một trục như trình bày ở bảng 3.5; 3.6;

3.7; 3.8. Trước hết, các biểu hiện cụ thể hơn của thực trạng thích ứng tâm lý của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ gắn với thực hiện các hoạt động

quan hệ xã hội và sinh hoạt được thể hiện ở bảng 3.5 và 3.6.

Bảng 3.5. Thực trạng thích ứng thái độ trong quan hệ xã hội

Nội dung thích ứng tâm lý về quan hệ xã hội ĐTB ĐLC

Tôi thấy khá hài lòng với các bạn của tôi 2,92 1,127

Tôi không thấy khó chịu về sự dò xét của mọi người xung quanh 2,24 1,395

Tôi thấy thoải mái với mọi người trong gia đình 3,62 0,867

Mọi người đối xử tốt với tôi 3,23 1,003

Tôi hay giúp đỡ mọi người xung quanh 2,90 1,130

Bảng 3.6. Thực trạng thích ứng thái độ trong sinh hoạt

Nội dung thích ứng tâm lý trong sinh hoạt ĐTB ĐLC

Sinh hoạt chung với mọi người trong cộng đồng tôi thấy cũng ổn 2,98 1,137

Tôi dần quen với quy định về giờ giấc đi ngủ, xem ti vi, các việc 3,61 0,758

khác

Tôi thấy yên tâm khi làm việc theo thời gian biểu 3,47 0,978

Tôi thấy hài lòng vì đã làm theo được quy định của địa phương 3,35 0,961

Tôi thấy khá ổn với cuộc sống hiện tại 3,52 0,986

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.5 và 3.6 cho thấy mức độ thì ĐTB < 2,62 thuộc mức

thấp; ĐTB> 3,56 thuộc mức cao; 2,62< ĐTB< 3,56 thuộc mức trung bình thì người chấp

hành xong BPXLHC đưa vào TGD thích ứng về thái độ gắn với thực hiện các quan hệ xã

hội và sinh hoạt ở mức trung bình là chủ yếu. Ở bảng 3.6 chỉ có 1 item đạt ĐTB ở mức

thích ứng cao là “ Tôi thấy thoải mái với mọi người trong gia đình” với mức ĐTB là 3,62

và ở bảng 3.7 cũng chỉ có 1 item đạt ĐTB ở mức cao là “Tôi dần quen với quy định về giờ

giấc đi ngủ, xem ti vi, các việc khác” với mức ĐTB là 3,61.

Ở bảng 3.5 có một nội dung khi trả lời thu được kết quả đạt ở mức thích ứng thấp

với ĐTB là 2,24 đó là “ Tôi không thấy khó chiu về sự dò xét của những người xung

quanh”. Còn lại đều đều đạt mức thích ứng trung bình với mức ĐTB từ 2,62 đến 3,56. Như

vậy, dữ liệu nghiên cứu cho thấy nội dung thích ứng thái độ được biểu hiện qua hoạt động

quan hệ xã hội và sinh hoạt của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với

tái hòa nhập cộng đồng đạt ở mức trung bình là chủ yếu, không mâu thuẫn với kết quả đã

phân tích ở bảng 3.5, chỉ có khác là tỉ lệ nội dung thích ứng thái độ được biểu hiện qua hoạt

động quan hệ xã hội ở mức cao (là 20%) nhỉnh hơn một chút so với thích ứng ở mức độ

cao ở mặt thích ứng thái độ nói chung (là 17,9%) thể hiện ở bảng 3.6.

Để làm rõ hơn cho kết quả nghiên cứu này, chúng tôi được sự chia sẻ như sau "Một

giọt máu đào hơn ao nước lã cô ạ, cháu chỉ thích được ở bên người thân nhất là mẹ cháu.

Chỉ khi bị vấp váp như thế này mới cảm nhận được mọi người trong nhà tốt với cháu thật.

Ngoài xã hội mỗi người một tính cách mà như chúng cháu thì khó được xã hội chấp nhận

và cảm thông như trong nhà, nên khi hễ xảy ra việc gì mà không tốt thì mọi người dễ dàng

nghĩ đến cháu,... " (NHV, Ngõ 234, phố Bạch Đằng, Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội”.

Hay "Mọi thứ quả thật ban đầu là khó khăn lắm để theo được sinh hoạt của mọi người ở

đây. Song những lúc như thế cháu lại phải tự nhủ mình không còn ít tuổi để bắt đầu lại

nữa...”( PVK, phường Đông Kinh, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

Mặc dù chỉ có 1 item với nội dung “Tôi không thấy khó chịu về sự dò xét của mọi

người xung quanh” chiếm có 10% tiêu chí mà nhóm tác giả đưa ra về thích ứng thái độ

biểu hiện ở quan hệ xã hội, xong cũng cho thấy đặc điểm tâm lý lứa tuổi nổi bật ở các em

được thể hiện rõ, đó là khi các em thể hiện mình không thành công thì lại quay ngược 180

độ đó là bất chấp mọi người nhận xét, nhìn nhận thế nào không quan trọng, miễn là mình

vẫn là mình, rồi sau này mọi người sẽ hiểu ra. Điều này cũng minh chứng cho kết quả

quan sát quan hệ và sinh hoạt của một số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD cho thấy các em thường có những xung đột nảy sinh do cảm xúc tức giận, ức chế, sự

khó chịu với những đánh giá của người khác. Để hình thành một phản ứng tự vệ lâu dài thì

các em phải làm ngơ và kết quả là không quá khó chịu khi người khác nhận xét về mình.

Thậm chí có những trường hợp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD do

không nhận thức được lỗi vi phạm của bản thân, không cảm thấy thỏa đáng với mức bị xử

lý với mình kết hợp với nhiều lý do khác mà phải vào TGD chấp hành biện pháp XLHC

nên khi chấp hành xong trở về địa phương đã rơi vào tình trạng trầm cảm, trở nên ít nói,

lầm lì thậm chí nảy sinh ý định tự tử hoặc tự hủy hoại bản thân.

Bên cạnh việc thể hiện sự thích ứng qua quan hệ xã hội và sinh hoạt, thực trạng

thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt thái độ

còn được thể hiện ở hoạt động học tập được mô tả ở bảng 3.8 dưới đây.

Bảng 3.7. Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động học tập

Nội dung thích ứng thái độ thể hiện trong hoạt động học tập ĐTB ĐLC

Tôi thấy không thích thú gì khi phải học tập 2,77 1,339

Việc học tập pháp luật làm tôi thấy mệt mỏi, buồn chán 3,06 1,280

Tôi thấy học giáo dục công dân thật buồn chán 2,37 1,503

Việc học nghề làm tôi thấy dễ chịu 3,36 1,040

Tôi thích được học lại từ đầu 2,55 1,348

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Kết quả ở bảng 3.7. cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức ĐTB thấp. 3/5 item tương đương 60% tiêu chí mà

nhóm tác giả đưa ra nhận được câu trả lời ở mức độ thích ứng thấp. Đó là “tôi thấy không

thích thú gì khi phải học tập” có ĐTB là 2,77; “Tôi thấy học giáo dục công dân thật buồn

chán” và “ Tôi thích được học lại từ đầu”

Chỉ có 2 item nhận được câu trả lời thể hiện thích ứng ở mức độ trung bình đó là

“việc học tập pháp luật làm tôi thấy mệt mỏi và buồn chán” và “Việc học nghề làm tôi thấy

dễ chịu” với mức ĐTB lần lượt là 3,36 và 3,06. Thực tiễn công tác tổ chức tái hòa nhập

cộng đồng cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hiện nay ở một số

địa phương đã bắt đầu chú trọng vào việc dạy văn hóa và giáo dục kiến thức xã hội nói

chung, tuy nhiên công tác này chưa thực sự đạt hiệu quả như mong đợi của xã hội còn chưa

nói tới nhiều địa phương chưa để ý đến công tác này. Về khía cạnh tổ chức hoạt động giáo

dục kiến thức xã hội cho các đối tượng là tù tha về, tác giả Vũ Văn Hòa cho rằng các địa

phương hiện nay tổ chức cho các đối tượng chấp hành xong án về địa phương học tập chỉ

dừng lại ở một số nội dung hạn chế, chưa cụ thể và chưa đi vào chiều sâu. Với đối tượng

là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống nhóm

tác giả nghiên cứu cũng nhận thấy điều này thể hiện ở một số người mà nhóm tác giả phỏng

vấn trả lời “...Bọn này tin sao được cô, chúng nó lại ngựa quen đường cũ mà.....” (VHH,

tổ dân phố số 7, Trần Nhật Duật, Thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc); “Bố mẹ chúng nó còn

chẳng giáo dục được nữa là ra xã hội, cứ để pháp luật trừng trị” ( BKL số 3, khối 5,

phường Trần Thái Tông, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh); “Đứa nào nó nghe thì

nghe từ đầu không để ra nông nỗi này, không dạy được đâu”( NNL, số 2, Lê Phụng Hiểu,

phường Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.......

Như vậy, từ kết quả nghiên cứu có thể thấy nội dung về thích ứng thái độ với hoạt

động học tập tại địa phương dễ khiến người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD có thái độ chưa tích cực như cảm thấy áp lực, buồn chán, mệt mỏi, chưa hình thành

động cơ học tập. Họ không thoải mái, tích cực khi thực hiện hoạt động học tập. Dữ liệu

nghiên cứu chứng minh rằng trong sâu thẳm thế giới nội tâm của họ, họ chỉ chấp nhận và

thay đổi thái độ ở mức độ thấp; đồng thời không hoàn toàn thoải mái, cân bằng khi thực

hiện các yêu cầu hay quy định về học tập ở địa phương. Không có người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD nào thích ứng được với hoạt động học tập ở mức độ cao.

Nguyên nhân của thực trạng này có thể do một số yếu tố như: trình độ chuyên môn

của cán bộ chuyên trách ở địa phương còn hạn chế về phương pháp giáo dục, nội dung giáo

dục còn khô cứng, chưa phù hợp với đối tượng (chủ yếu là những văn bản, quy định pháp

luật, các Văn bản về quy định của địa phương....), các nội dung học tập chưa cụ thể và đi

vào chiều sâu. Bên cạnh đó, hình thức tổ chức cho các em học tập còn đơn điệu (chủ yếu

là tập trung đến văn phòng Ủy ban để giáo dục mà chưa chú trọng phương pháp giáo dục

cá biệt....), trong khi các hoạt động chú trọng về nâng cao đời sống tinh thần như hoạt động

phong trào, văn hóa văn nghệ lại ít được chú trọng (bởi vì mỗi địa phương cũng chỉ có vài

ba đối tượng là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trở về nên cũng khó

cho người tổ chức). Chính vì vậy, nội dung về hoạt động học tập cho người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD không khiến cho họ có hứng thú, sự thoải mái và từ đó khó

thích ứng và hình thành được thái độ tích cực đối với hoạt động học tập.

Một nội dung khác cũng cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ đó là hoạt động

lao động. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.8

Bảng 3.8. Thực trạng thích ứng thái độ trong hoạt động lao động

Thích ứng thái độ thể hiện trong hoạt động lao động ĐTB ĐLC

Tôi không thích phải lao động 3,25 1,203

Tôi thấy khó chịu khi bị nhắc nhở trong quá trình lao động 1,82 1,486

Tôi thấy khó chịu khi bị bắt buộc phải lao động 2,72 1,371

Tôi thấy vui khi tự mình làm ra được sản phẩm mới 3,68 0,849

Khi hoàn thành công việc tôi thấy bình thường 2,63 1,334

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Kết quả nghiên cứu cho thấy nhìn chung, thực trạng thích ứng về thái độ thể hiện

trong hoạt động lao động có mức ĐTB cao hơn một chút so với hoạt động học tập. Mức

ĐTB về thích ứng với hoạt động lao động của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD dao động từ 1,82 đến 3,68. Ngoài ra, chỉ có 1 items có mức ĐTB ở mức thấp là

1,82 là “ Tôi thấy khó chịu khi bị nhắc nhở trong quá trình lao động” là items cho thấy

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD không cảm thấy thoải mái, mất cân

bằng khi thực hiện trong hoạt động lao động.

Bảng 3.8 cho thấy phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

có thái độ tích cực khi lao động đạt hiệu quả và được tôn trọng trong quá trình lao động.

Nhưng cũng có quy định mà nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

còn có sự thích ứng về thái độ chưa cao. Những qui định mà nhiều người chưa thích ứng

được về mặt thái độ là những quy định mang tính áp đặt, yêu cầu trong hoạt động lao động.

Điều này thể hiện rằng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thay

đổi về thái độ đối với hoạt động lao động tuy nhiên họ vẫn chưa thích ứng được với các

yêu cầu, quy định mang tính bắt buộc, cưỡng chế trong lao động mà các em phải thực hiện.

Nguyên nhân của thực trạng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng về thái độ trong hoạt động lao động cao hơn so với

hoạt động học tập bởi kết quả lao động là căn cứ định lượng nhìn thấy và là cơ sở dễ dàng

đánh giá thái độ tiến bộ hay không ở họ. Do đó, khi họ nhận thức được điều này các em có

cơ sở hình thành thái độ tích cực trong lao động. Chính vì vậy, người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD sẽ có động lực tích cực hơn trong hoạt động lao động, khi mọi

người khuyến khích, động viên kịp thời và ghi nhận sự tiến bộ của họ. Thực tế kết quả

quan sát cũng cho thấy do có sự quy định về thời gian làm việc, về sản lượng, số lượng sản

phẩm đặt ra trong quá trình lao động, nên việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD đôi khi có thái độ khó chịu, mệt mỏi, hay không thích lao động là điều dễ nhận

thấy. Bởi theo tác giả Vũ văn Hòa thì hiện nay một số địa phương còn tổ chức cho người

chấp hành xong án về địa phương lao động công ích vào ngày thứ 7 hoặc chủ nhật. Những

điều này có thể tác động tạo nên tâm lý không thoải mái cho người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD khi tham gia vào hoạt động lao động. Do đó, mức độ thích ứng

về thái độ chưa cao, tức là người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có tham

gia lao động đầy đủ, nhưng bản thân họ không thoải mái, có thái độ chưa tích cực trong

quá trình lao động.

Bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trước đó ở lứa tuổi

chưa thành niên nên đa số các em chưa được đào tạo nghề. Khi phải vào TGD chấp hành

chủ yếu là rèn luyện và học tập, định hướng nghề cũng chỉ phù hợp với một số em do bị

bắt buộc nên khách quan thấy rằng đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD chưa có tay nghề và không có tay nghề cao, chủ yếu là lao động phổ thông, giản đơn.

Do vậy, cũng phần nào lý giải kết quả nghiên cứu về thực trạng thích ứng tâm lý của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về thái độ cũng ở mức chưa cao. Điều này

cũng không trái với quy luật tâm lý thông thường của con người nói chung, việc phải lao

động trong điều kiện chưa có tay nghề và không có kinh nghiệm cao dễ tạo cho họ một tâm

lý lo lắng, áp lực khiến họ khó có thể hình thành thái độ tích cực.

3.1.4. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng về mặt hành vi

Thích ứng về mặt hành vi là mặt biểu hiện ra bên ngoài của sự thích ứng tâm lý

trong cấu trúc tâm lý bao gồm thích ứng bên trong là thích ứng về nhận thức, thái độ; thích

ứng bên ngoài là mặt biểu hiện thích ứng về hành vi. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi biểu

hiện ở chỗ người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp nhận tuân thủ, thực

hiện các yêu cầu, quy định của chuẩn mực xã hội đối với các cá nhân sống trong cộng đồng

đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cộng đồng. Kết quả nghiên cứu thực trạng thích

ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD về mặt hành vi được thể hiện khái quát qua hình 3.6 dưới đây.

Hình 3.6. Biểu đồ điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi

Kết quả nghiên cứu ở Hình 3.6 cho thấy ĐTB thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi thấp

hơn so với thích ứng về nhận thức và thích ứng về thái độ được thể hiện ở kết quả nghiên

cứu. Điều này thể hiện ở mức ĐTB thích ứng về hành vi có sự dao động khá lớn từ ĐTB

là 0,63 tới 4.00. Trong đó, mức thích ứng thấp với ĐTB < 2,45 điểm tương đương 34 người

chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD tương ứng với 20,2%; đạt mức thích ứng trung

bình với ĐTB từ 2,45 đến dưới 3,69 là 102 người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD

tương ứng 60,7%; còn lại 32 người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD có ĐTB từ

3,69 trở lên chiếm 19,0%.

Nhằm làm rõ thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong BPXLHC đưa vào TGD về mặt hành vi phải nghiên cứu trên các nội dung mà

thích ứng biểu hiện đó là: quan hệ xã hội và sinh hoạt, hoạt động học tập và hoạt động lao

động.

Hình 3.7. Biểu đồ phân bố điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi

Ở biểu đồ phân bố tổng điểm trung bình thích ứng về mặt hành vi (Hình 3.7) có thể

thấy mức tổng điểm trung bình Mean = 3,07; điểm trung vị Median = 3,18 cho thấy người

chấp hành xong biện pháp XLHC thích ứng chủ yếu ở mức trung bình, tương ứng với mức

độ thích ứng trung bình. Mức điểm trung bình thấp nhất Min = 0,63; điểm cao nhất Max =

4,00 cho thấy có sự chênh lệch lớn về biên độ dao động tổng điểm thích ứng về hành vi

của người chấp hành xong biện pháp XLHC với độ lệch chuẩn là Std= 0,617. Bên cạnh đó,

biểu đồ có hướng nghiêng trái với Sk= -0,875 và độ dẹt 0,524 cho thấy biểu đồ phân bố

tổng điểm trung bình thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC về mặt

hành vi có cấu trúc theo hình răng cưa với xu hướng nghiêng trái và dẹt trái, tuy nhiên vẫn

tiệm cận phân phối chuẩn, phía thích ứng tâm lý về hành vi đạt điểm trung bình vẫn tập

trung nhiều (với 60,7%), là chủ yếu; phía thích ứng tâm lý đạt điểm cao vẫn ít nhất (19,0%),

còn lại là thích ứng thấp (20,2%). Kết quả nghiên cứu trên cho thấy người chấp hành xong

biện pháp XLHC mặc dù có nhiều cố gắng trong sự thay đổi về hành vi nhưng vẫn chưa

đều ở từng cá nhân và ở giữa các cá nhân với nhau.

Trước hết, thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi trong quan hệ xã hội và sinh

hoạt tại địa phương của họ được thể hiện ở bảng 3.9 và 3.10.

Bảng 3.9. Thực trạng thích ứng hành vi trong quan hệ xã hội

Nội dung thích ứng hành vi trong quan hệ xã hội ĐTB ĐLC

Tôi gặp lại bạn bè như chưa từng có chuyện xảy ra 1,89 1,431

Tôi gặp và trò chuyện với hàng xóm một cách bình thường 2,90 1,356

Tôi thiết lập quan hệ tốt với nhiều người 3,01 1,166

Mọi người giúp đỡ tôi nhiệt tình 3,02 1,189

Tôi ứng xử với mọi người trong gia đình bình thường 3,48 0,985

Bảng 3.10. Thực trạng thích ứng hành vi trong sinh hoạt

Nội dung thích ứng hành vi trong sinh hoạt ĐTB ĐLC

Tôi thực hiện tốt các quy định của địa phương 3,05 1,142

Tôi nhanh chóng hòa nhập với mọi người ở địa phương 3,27 1.087

Đôi khi tôi vẫn bị vi phạm quy định của địa phương 2,42 1,319

Tự dạy sớm rất ngại nhưng tôi đang cố gắng thực hiện 3,13 1,305

Tôi sinh hoạt theo mọi người trong gia đình 3,04 1,310

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Từ bảng 3.9 và 3.10 cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quan hệ xã hội và sinh

hoạt cho thấy có sự thích ứng ở mức chưa cao và có biên độ dao động mức ĐTB từ 1,89

đến 3,48. Trong đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về

mặt hành vi ở mức thấp (ĐTB < 2,45) chỉ có 2/10 biểu hiện là “ Tôi gặp lại bạn bè như

chưa hề có chuyện gì xảy ra” và “đôi khi tôi vẫn vi phạm quy định của địa phương” nhưng

cũng không có biểu hiện nào đạt mức cao (ĐTB > 3,69). Còn lại 8/10 biểu hiện là thích

ứng đạt ở mức độ trung bình. Điều này cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD chưa thực hiện được các yêu cầu này trong quá trình sinh sống tại địa phương.

Thực tế quan sát cách thức sinh hoạt và quan hệ xã hội hay giao tiếp của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hàng ngày tại một số địa phương cho thấy đây chính

là những hoạt động tối thiểu mà các em phải thực hiện trong cuộc sống thường ngày. Hơn

nữa, phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chủ yếu là đang ở lứa

tuổi người chưa thành niên, đang trong giai đoạn định hình và phát triển nhân cách, tâm lý

có nhiều xáo trộn nên các em khó hình dung ra cuộc sống thực sự ở địa phương thế nào

những thay đổi nhanh chóng của thực tế xã hội. Do vậy, việc người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với những hoạt động trên chỉ đạt mức trung bình và

thấp, không đạt mức cao. Chính vì vậy, việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD cảm thấy họ khó khăn hòa nhập với cuộc sống ngoài xã hội về mặt hành vi.

Như vậy, dữ liệu cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

đã thực hiện được các quy định của địa phương về quan hệ xã hội và sinh hoạt song vẫn ở

mức độ chưa cao, thể hiện sự chưa thích ứng hoàn toàn. Liệu có sự mâu thuẫn trong thực

trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi chấp hành quy định của địa phương.

Thực tế qua quan sát và phỏng vấn sâu những người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD thì có thể thấy sự khác biệt này có lẽ là hai mặt của một vấn đề. Trong

quá trình trao đổi, trò chuyện thì có tới nhiều hơn 5 lần số người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD mà chúng tôi hỏi về việc họ đã vi phạm một số quy định của địa

phương như: trốn không tham gia học tập pháp luật mà địa phương tổ chức, Không tham

gia đủ ngày công lao động, nại cớ ốm đau, xưng hô chưa phù hợp trong một số quan hệ xã

hội, chưa chịu tham gia một số hoạt động do một số tổ chức xã hội ở địa phương tổ chức,

hay gây gổ đánh nhau, xích mích với hàng xóm...... Những người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD này cho rằng "chúng cháu chỉ muốn được học có thực hành

luôn cùng chứ cứ học lý thuyết suông như môn pháp luật thì buồn ngủ lắm( TNL, Thị trấn

Quế, Kim Bảng, Hà Nam) hay “Cháu đã nhịn nó lắm rồi mà nó cứ gây sự với cháu, đằng

nào cũng mang tiếng đi TGD về thì sợ gì”( NDA, thành phố Tam Điệp, Ninh Bình) hoặc

“Tham gia các hoạt động phong trào đông vui thì vui thật nhưng cũng lắm người dèm

pha”( NNL, Lê Phụng Hiểu, Hoàn Kiếm, Hà Nội)

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng được một số đồng chí là Cảnh sát khu vực nơi có người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hiện đang làm công tác giáo dục, quản lý

và theo dõi kịp thời uốn nắn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chia

sẻ thêm rằng "do xã hội vẫn còn những dịnh kiến nhất định về các em nên nhiều khi do tâm

lý lứa tuổi ở giai đoạn này là tự khẳng định bản thân nên các em sẵn sàng “chống trả” lại

những định kiến đó” hay một đồng chí Cảnh sát khu vực khác cho rằng: “người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là đối tượng cần được quan tâm và giúp đỡ kịp thời

để uốn nắn chứ không nhắc nhở kịp thời là thành thói quen xấu”,..... Điều này đôi khi được

họ lý giải là không cố tình vi phạm nội quy, hay không nắm rõ quy định của địa phương

nhưng thực tế công tác quản lý giáo dục đối tượng tái hòa nhập cộng đồng cho thấy có

những xung đột của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với nhau nhưng

nếu họ biết kiềm chế cảm xúc thì lại thành bài học cho chính các em. Do đó, các đồng chí

Cảnh sát khu vực làm việc rất chặt chẽ vấn đề những vi phạm nội quy ở địa phương của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Mặc dù về cơ bản họ chấp hành và

thực hiện tốt nội quy địa phương, nhưng chỉ cần lơ là hoặc không kiểm tra thường xuyên thì

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD sẽ lợi dụng sơ hở để dễ dàng vi phạm.

Kết quả này cũng tương ứng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa cho

thấy khi tiến hành khảo sát thì có tới 85,33% người chấp hành xong án phạt tù về địa

phương dễ dàng vi phạm khi có điều kiện hoặc lợi dụng sơ hở trong quản lý để vị phạm

nội quy của địa phương mà họ buộc phải thực hiện [18, tr.58].

Kết quả nghiên cứu trên thể hiện tính hai mặt trong thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD: một mặt họ

phải thích ứng với những yêu cầu cụ thể của địa phương vì đó là chuẩn mực xã hội mang

tính bắt buộc các cá nhân sống trong cộng đồng đó phải tuân theo đảm bảo sự tồn tại và

phát triển của cộng đồng và hiển nhiên phải thực hiện như: nề nếp sinh hoạt trong gia đình,

ăn, mặc, ngủ, nghỉ và giao tiếp (chủ yếu là xưng hô) ..... nhưng mặt khác các em lại chưa

thực sự nhận thức sâu sắc và chưa hình thành thái độ tích cực với các yêu cầu biểu hiện

mặt hành vi nên thích ứng ở mức độ thấp hoặc có biểu hiện chống đối lại. Điều này có liên

quan đến thích ứng về nhận thức với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quan hệ xã hội và sinh hoạt, tức là họ không chịu

nhìn nhận mình sẽ được đặt vào vị trí được mọi người tôn trọng, các em luôn tự ti, mặc

cảm về lỗi của mình gây ra như kết quả nghiên cứu về thực trạng thích ứng nhận thức đã

đề cập ở mục 3.1.2.

Đây có thể coi là những hành vi mang tính ứng phó với việc các em luôn nhìn nhận

bị mọi người xa lánh, phản ứng với những khó khăn trong quá trình thiết lập các mối quan

hệ và sinh hoạt theo nề nếp ở gia đình và địa phương. Xét về khía cạnh cân bằng tâm lý thì

những hành vi ứng phó giúp cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

phần nào cảm thấy đã tự trấn an được tâm lý của mình nhưng không phải tất cả hành vi

ứng phó đều được cho là phù hợp với quy định của địa phương cũng như phù hợp với yêu

cầu của pháp luật. Nó thể hiện sự thích ứng tâm lý ở mức độ thấp của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quan hệ xã hội và sinh hoạt.

Nội dung biểu hiện tiếp theo thể hiện thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi là

thích ứng hành vi gắn với hoạt động học tập. Kết quả nghiên cứu về thích ứng hành vi gắn

với hoạt động học tập được thể hiện ở bảng 3.11.

Bảng 3.11. Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động học tập

Nội dung thích ứng hành vi gắn với hoạt động học tập ĐTB ĐLC

Tôi tích cực tham gia hoạt động học tập 3,15 1,119

Tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên nội dung học tập 2,70 1,317

Tôi tham gia đầy đủ các buổi học nghề 3,20 1,140

Tôi tham gia đầy đủ các buổi học văn hóa 3,13 1,291

Tôi hay trao đổi với mọi người về nội dung học tập 3,04 1,191

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Bảng 3.11 cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích

ứng ở mức cao với hoạt động học tập liên quan đến học nghề, lao động với ĐTB cao hơn

3,20. Tức là với những yêu cầu về học nghề thì các em rất hào hứng học nghề được biểu

hiện thể hiện hiện tốt và tích cực tham gia. Ngược lại, với những yêu cầu về học tập văn

hóa, pháp luật hay những hoạt động học tập khác thì người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD lại có mức thích ứng tâm lý thấp hơn với mức ĐTB dao động từ 2,70

đến 3,15 cho thấy với những yêu cầu này thì tất cả người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD được tiến hành điều tra nghiên cứu thực hiện đạt được mức độ trung bình.

Không có mức thấp nhưng cũng không có ai đạt mức cao. Từ đây có thể thấy: về học tập,

phần đông người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã tham gia đầy đủ các

hoạt động học nghề khi địa phương tổ chức, trao đổi với nhau về nội dung học được. Tuy

nhiên, phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều chưa thực sự

tích cực tham gia các hoạt động học tập về văn hóa hay học pháp luật, giáo dục công dân,

ít trao đổi với cán bộ về nội dung học tập mà chủ yếu tích cực về học nghề.

Nguyên nhân chủ yếu vì người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về

địa phương chưa hoặc thậm chí không còn tâm thế học văn hóa; tuổi của các em mong

muốn có một nghề có thu nhập để ổn định cuộc sống. Mong ước của các em là hoàn toàn

chính đáng song các em chưa được đào tạo nghề, chưa có tay nghề nên chỉ có thể thực hiện

được lao động giản đơn, tay chân và học nghề qua việc được tổ chức lao động. Điều này

dễ dẫn đến hiện tượng các em ý thức nhưng lại không thấy thoải mái tâm lý khi tham gia

những hoạt động học tập. Do vậy không có em thích ứng ở mức thấp cũng chẳng có em

nào thích ứng ở mức cao với hành vi học tập. Thực tế hiện nay, một số tổ chức xã hội ở địa

phương vẫn chưa chú trọng hoạt động này với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD hoặc chỉ chú ý đến chỉ tiêu sản xuất mà quên đi nhiệm vụ giáo dục [10, tr.46].

Có lẽ chính những nguyên nhân này khiến cho thực trạng thích ứng về hành vi gắn với hoạt

động học tập của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở địa phương đạt

mức độ tương đối thấp.

Trong số những hoạt động thể hiện sự thích ứng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD thì những mô tả về hoạt động lao động cho thấy người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có xu hướng thích ứng nhích hơn so với thích

ứng với thực hiện quan hệ xã hội và sinh hoạt. Vì vậy, việc người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động lao động là minh

chứng cho thấy họ có sự thích ứng tâm lý cao về mặt hành vi thể hiện ở hoạt động lao động.

Kết quả nghiên cứu thực trạng thích ứng mặt hành vi gắn với hoạt động lao động được thể

hiện ở bảng 3.12 dưới đây

Bảng 3.12. Thực trạng thích ứng hành vi trong hoạt động lao động

Nội dung thích ứng hành vi gắn với hoạt động lao động ĐTB ĐLC

Tôi tham gia đầy đủ ngày công lao động 3,35 1,038

Tôi hoàn thành định mức lao động 3,36 0,974

Tôi thành thạo các thao tác lao động 3,27 1,075

Đôi khi tôi vẫn lấy lý do để không phải lao động 2,98 1,322

Tôi không chủ động, không sáng tạo khi lao động, ai bảo gì làm đấy 2,95 1,280

Tôi hay nói chuyện với mọi người khi lao động 1,80 1,369

Kết quả lao động của tôi chưa được như ý 1,92 1,476

Ghi chú: Điểm đã được qui đổi cùng chiều theo hướng tích cực

Bảng 3.12 cho thấy thực trạng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi gắn với hành vi lao

động thể hiện hai đặc điểm.

Thứ nhất, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng

thấp về hành vi đối với một số biểu hiện trong lao động như “Tôi hay nói chuyện với mọi

người khi lao động”; “Kết quả lao động của tôi chưa được như ý” đều đạt điểm trung bình

ở mức thấp là 1,80 và 1,92. Còn lại với mức ĐTB đều đạt ở mức trung bình từ 2,95 đến

3,36; không có item nào đạt mức điểm cao. Tức là với những quy định cứng thì hầu hết tất

cả người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều có sự thích ứng về hành vi.

Bởi đây chính là căn cứ chủ yếu để xét kết quả của quá trình tái hòa nhập cộng đồng ở họ,

những hoạt động này được quản lý và kiểm tra chặt chẽ một cách công khai nên một số

hầu hết đều thực hiện tốt.

Thứ hai, một số biểu hiện có mức ĐTB thấp cho thấy người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng tâm lý ở mức thấp với các hoạt động khác nhau

(như "không chủ động hay sáng tạo khi lao động, ai bảo gì thì làm nấy", "hay trò chuyện

với những chị em khác" hay "lấy lý do để không phải lao động", hoặc "kết quả lao động

chưa được như ý". Đây là những mô tả cho thấy mặc dù của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện tính thích ứng với những hoạt động thể hiện được sự

hoàn thành định mức lao động của họ nhằm làm căn cứ để có thể xem xét khi xét sự tiến

bộ của họ. Tuy nhiên, trong quá trình lao động sản xuất, người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD vẫn thể hiện mức độ thích ứng tâm lý về mặt hành vi ở mức độ thấp.

Điều này thể hiện ở việc họ vi phạm nội quy lao động, vi phạm quy định trong lao động,

sản phẩm làm ra chưa đạt chất lượng cao.... Thực tế quan sát cách thức sinh hoạt, lao động

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tham gia lao

động cho thấy trong quá trình lao động, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD luôn lợi dụng những sơ hở của người quản lý để vi phạm những lỗi nhỏ. Như vậy,

với hoạt động lao động, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã thích

ứng được đối với một số yêu cầu về ngày công, định mức lao động và thao tác lao động.

Tuy nhiên đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD lao động một cách

bị động, chứ không chủ động, kết quả lao động chưa như ý. Có thể thấy, những hành vi lao

động dễ dàng bị giám sát đều được phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD tuân thủ, thực hiện tốt theo yêu cầu của lao động, còn những gì không hoặc khó

có thể giám sát được chặt chẽ thì đa số họ làm việc theo kiểu cầm chừng.

Nhằm lý giải và làm rõ hơn thực trạng thích ứng về hành vi gắn với hoạt động lao

động của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi được cán bộ

phường N.T.N- TP. Thái Bình, tỉnh Thái bình chia sẻ thêm "quá trình tổ chức lao động

cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, thường phải theo dõi rất sát

sao, vì đối tượng này thường hay lợi dụng quá trình quản lý chưa nghiêm để thực hiện một

số vi phạm. Trong quá trình lao động, có trường hợp giả vờ ốm để được nghỉ lao động,

thoái thác việc mình cho người khác ".

Từ những kết quả trên có thể thấy một mặt ở những thời điểm bị quản lý, quan sát

và đánh giá một cách chặt chẽ như tham gia giao tiếp xã hội trong tập thể khi tham gia học

tập, khi lao động hay giao tiếp với mọi người thì người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD biểu hiện sự thích ứng tâm lý về hành vi ở mức độ trung bình là chủ yếu

(trên 70%). Mặt khác, trong đời sống nội tâm của bản thân họ hoặc khi không bị quản lý

chặt chẽ (những thời điểm mà không phải lúc nào cũng có người giám sát và bao quát

được) thì người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng ở mức

thấp (về nhận thức, thái độ) và được biểu hiện ra thông qua những hành vi bị nghiêm cấm,

không được phép thực hiện. Để hiểu hơn về thực trạng trên, có thể dẫn lời của một đồng

chí là phó Chủ tịch phường T.T- Hoàn Kiếm- Hà Nội chia sẻ với nhóm nghiên cứu khi

chúng tôi trao đổi những băn khoăn của mình khi thấy có sự khác biệt về nhận thức, thái

độ và hành vi trong thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD với việc thực hiện các quy định của địa phương trong sinh hoạt tại địa phương.

"Quản lý, giáo dục cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tái

hòa nhập cộng đồng là công việc đặc biệt. Bởi mình với tư cách là cán bộ quản lý, chỉ đạo

trực tiếp anh em làm việc này phải luôn thật nhân văn, gần gũi, tôn trọng họ nhưng mặt

khác cũng phải nghiêm túc quán triệt và chấp hành các nguyên tắc đảm bảo họ tin tưởng

và nhận thức được mục đích của xã hội. Họ là những người được theo dõi để uốn nắn nên

luôn có xu hướng bằng cách nào đó hạn chế tối đa những sự ảnh hưởng, chi phối của

những người quan tâm đến họ”.

Hay như chia sẻ của một chị là Chi hội trưởng chi hội phụ nữ (45 tuổi) phường B.Đ-

Gia lâm- Hà Nội- người trực tiếp gặp gỡ và giáo dục đối tượng là người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD cho hay "nói theo quan điểm triết học thì bản chất công

tác giáo dục, quản lý người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tái hòa nhập

cộng đồng có thể coi như biểu hiện của đấu tranh giai cấp. Bởi người làm công tác quản

lý thông qua kỹ năng, nghiệp vụ, trình độ, tâm huyết và năng lực công tác của bản thân

thực hiện nhiệm vụ quản lý, giáo dục những người đã có lầm lỗi trở về tái hòa nhập cộng

đồng quy định một cách nghiêm túc, chặt chẽ nhưng cũng đảm bảo tính nhân văn, thể hiện

tình người trong đó. Nhưng mặt khác, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD là đối tượng bị quản lý, giáo dục với tâm thế và vị thế của mình, luôn bằng cách này

hay cách khác những hiện tượng tâm lý tiêu cực trỗi dậy để thúc đẩy họ vi phạm nội quy,

vi phạm quy chế, thậm chí có trường hợp tái phạm”.

Từ kết quả nghiên cứu thực trạng thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở các mặt nhận thức,

thái độ, hành vi qua các biểu đồ hình 3.2; 3.5; 3.7 có thể rút ra một số điểm như sau:

Về hình dáng và cấu trúc của cả 3 biểu đồ 3.2; 3.5; 3.7 đều có cùng hình dáng là có

hướng nghiêng trái rõ rệt và có cấu trúc hình răng cưa; đồng thời có hình giống hình 3.1-

thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích

ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng. Tất cả các biểu đồ đều có số người có mức ĐTB

thấp tập trung nhiều hơn số người có mức điểm cao.

Tuy nhiên, cả 3 biểu đồ lại có sự khác nhau rõ rệt là ở khoảng điểm cao nhất- thấp

nhất, mức điểm cao nhất tập trung nhiều ở các mode khác nhau và tịnh tiến theo những

hướng khác nhau. Nếu như ở biểu đồ 3.2 thì trung bình điểm thích ứng nhận thức có mức

điểm trung bình dao động từ 1,60 đến 4,0 thì biểu đồ 3.7 thích ứng hành vi có mức điểm

trung bình dao động từ 0,63 đến 4,00; biểu đồ 3.5 về thích ứng thái độ lại có mức điểm

trung bình dao động thấp nhất từ 1,75 đến 4,00. Ngoài ra, mức điểm trung bình có tỉ lệ

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng đạt được cao nhất (mode) ở cả 3 biểu đồ cũng có sự khác nhau. Cao nhất là thích

ứng về nhận thức ở mức điểm trung bình 3,23; tiếp theo là thích ứng về thái độ ở mức điểm

trung bình 3,10 và thấp nhất là thích ứng về mặt hành vi ở mức điểm trung bình 3,07. Điều

này cho thấy có sự khác biệt rõ về thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở cả 3 khía cạnh nhận

thức, thái độ và hành vi, thể hiện sự mất cân bằng giữa những biểu hiện tâm lý bên trong

như nhận thức, thái độ với hành vi tâm lý biểu hiện ra bên ngoài. Điều này cũng dễ dàng

lý giải vì nhận thức ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể đã nhận

thức được và cũng rất mong muốn thích ứng được với môi trường sống ở địa phương,

không vi phạm để làm lại từ đầu. Tuy nhiên, mong muốn với thực tế thì khác biệt rất nhiều

và các em gặp khó khăn trong việc mong muốn của bản thân với việc đáp ứng yêu cầu của

xã hội. Chính quá trình đấu tranh tâm lý từ nhận thức tới thái độ với tái hòa nhập cộng đồng

mà điểm trung bình ở mặt thái độ thấp hơn. Điểm trung bình thích ứng hành vi thấp nhất

thể hiện rõ thực trạng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm

lý với tái hòa nhập cộng đồng khi biểu hiện ra bằng hành vi khó khăn hơn rất nhiều khi về

địa phương sinh sống, đặc biệt là sự thay đổi về hành vi để phù hợp với những quy định

hoặc các yêu cầu của địa phương trong quá trình sinh sống.

Kết quả đánh giá chung về thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở mức trung bình trên

cơ sở khái quát cả ba thành phần thích ứng về nhận thức, về thái độ và về hành vi như trên

có cả sự tương đồng và khác biệt với nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013) trong

Luận án “Tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù theo chức

năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân” ở góc độ An ninh trật tự.

Sự tương đồng thể hiện ở chỗ, kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013)

cũng cho thấy người chấp hành xong án phạt tù nói chung vẫn còn những phản kháng lại

một số quy định của địa phương dẫn đến vi phạm với lỗi nhỏ còn người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng chỉ đạt thích ứng ở mức độ trung bình với cả ba mặt

nhận thức, thái độ, hành vi.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013) chỉ xem xét tái hòa

nhập cộng đồng ở góc độ An ninh trật tự, chỉ xét ở bình diện hành vi của cá nhân. Tức là

tác giả chỉ xem xét thành phần biểu hiện ra bên ngoài của tâm lý của cá nhân người chấp

hành xong án phạt tù chứ chưa đề cập đến những thành phần đóng vai trò định hướng, điều

khiển, điều chỉnh hành vi – đó là đời sống tâm lý của người chấp hành xong án phạt tù mặt

nhận thức và thái độ, đây chính là yếu tố quyết định đến hành vi của họ. Do đó, trong kết

quả nghiên cứu của mình, tác giả Vũ Văn Hòa chỉ dừng lại ở việc chỉ mô tả hành vi tái hòa

nhập của người chấp hành xong án phạt tù khi chấp hành xong án.

Như vậy, kết quả nghiên cứu về thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng cho thấy họ thích ứng tâm lý

ở mức trung bình với những tiêu chí và quy định của địa phương có sự dao động khá lớn.

Trong đó, biểu đồ nghiên cứu cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD với tái hòa nhập cộng đồng có mức thích ứng về hành vi là thấp nhất và thích ứng về

nhận thức là cao nhất. Kết quả này chứng minh rằng người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD đã chấp nhận thực hiện các yêu cầu hay quy định của địa phương

nơi sinh sống nhưng trong đời sống tâm lý của họ (thể hiện ở thích ứng nhận thức cao nhất),

họ vẫn phải đấu tranh, giằng co và chưa chưa hoàn toàn chấp nhận (thích ứng thái độ thấp

hơn), không cảm thấy thoải mái và khó để thực hiện thành hành vi bên ngoài vì còn nhiều

yếu tố tác động sẽ đề cập đến phần sau (thích ứng hành vi thấp nhất).

3.1.5. Tương quan giữa các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng

Từ những kết quả nghiên cứu ở trên, có thể đánh giá sự tương quan giữa các thành

phần của sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD ở các khía cạnh: nhận thức, thái độ và hành vi được thể hiện ở

bảng 3.13 dưới đây:

Bảng 3.13. Tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý

Thích ứng chung Mặt nhận thức

Mặt thái độ Mặt hành vi

Thích ứng chung

1 0,782 0,862 0,894

Mặt nhận thức

0,782 1 0,534 0,524

Mặt thái độ

0,862 0,534 1 0,675

Mặt hành vi

0,894 0,524 0,675 1

Kết quả ở bảng 3.13 về sự tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý với tái

hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa về nhận thức, về cảm

xúc, về hành vi và thích ứng chung. Hệ số tương quan Pearson của các mặt với nhau theo

chiều thuận và ở mức độ trung bình đến tương quan chặt chẽ với r > 0,5 và p < 0,01. Mối

quan hệ giữa các thành phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:

Sự tương quan giữa các yếu tố cấu thành của sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều diễn ra theo

chiều thuận và có sự tương quan không đồng đều với các mức độ tương quan chặt chẽ khác

nhau từ mức độ trung bình đến chặt chẽ (với r = 0,534 đến 0,894). Điều này đồng nghĩa

với việc khi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cảm thấy khó khăn

trong việc nhận thức đúng đắn về việc chấp hành đúng các quy định của địa phương bao

gồm tham gia các hoạt động giáo dục và thiếu tích cực lao động, quan hệ xã hội và sinh

hoạt chưa đúng chuẩn mực thì ở họ cũng sẽ nảy sinh những cảm xúc âm tính với những

hoạt động này. Do đó, họ sẽ có cảm thấy có một số trở ngại khi thực hiện các hành vi cụ

thể nhằm đạt được các yêu cầu, mục tiêu đã đề ra khi sinh sống tại địa phương. Như vậy,

dữ liệu nghiên cứu cho thấy rằng các mặt của thích ứng không tồn tại độc lập mà có liên

quan đến nhau, trong đó thích ứng thái độ và thích ứng hành vi có tương quan với nhau

mạnh hơn so với tương quan giữa chúng với thích ứng nhận thức. Đây là điểm cho thấy sự

thống nhất giữa các mặt này trên bình diện chung.

Về xu hướng chung thích ứng ở từng lĩnh vực, khi xem xét tỷ lệ giữa các yêu cầu

nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng được với số yêu

cầu mà nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD không thích ứng được

ở các bảng dữ liệu cho thấy, trong số 4 hoạt động thích ứng (thực hiện quan hệ xã hội, sinh

hoạt, học tập và lao động) thì thích ứng với hoạt động lao động và sinh hoạt được thể hiện

rõ ràng hơn và có điểm thích ứng ở mức cao hơn ở cả 2 mặt: nhận thức, và hành vi. Thích

ứng với hoạt động học tập thể hiện mờ nhạt hơn. Còn riêng mặt thích ứng thái độ, ở cả 3

lĩnh vực, đều không có yêu cầu nào mà đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD thích ứng được. Tuy vậy, để có đánh giá chính xác hơn về sự thống nhất này thì

vẫn cần thêm bằng chứng bởi số lượng các yêu cầu thích ứng được và chưa thích ứng được

khi so sánh với nhau có phần khập khiễng. Tuy nhiên, sự tương quan giữa sự thích ứng tâm

lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

về mặt nhận thức với sự thích ứng tâm lý chung lại có mức độ chặt chẽ hơn với r = 0,782;

tương quan giữa thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt thái độ với thích ứng chung có mức độ tương quan

chặt chẽ với r = 0,862 và tương quan giữa thích ứng về hành vi với thích ứng chung có

mức độ tương quan chặt với r = 0,894.

Trong 3 mặt thích ứng tâm lý được xem xét, thích ứng về mặt nhận thức thể hiện ở

nhiều người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hơn so với thích ứng về mặt

hành vi và thái độ bên trong. Trong đó, hành vi là mặt có mức độ thích ứng thấp nhất, thể

hiện rằng, hành vi phải là sự điều khiển bởi nhận thức và thái độ, mà nhận thức và thái độ

là đặc tính khó có thể kiểm soát ở cá nhân nói chung và người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD nói riêng. Xem xét hệ số tương quan giữa 3 mặt cũng cho thấy rằng

hành vi có tương quan mạnh hơn với thái độ chứ không phải nhận thức. Tức là trong 3 mặt

thì nhận thức là mặt được người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng

cao nhất trong 3 mặt thể hiện, tiếp đến là mặt thái độ và thấp nhất là mặt hành vi. Sự giảm

dần mức độ thích ứng từ nhận thức đến thái độ rồi hành vi là lý giải cho lập luận ở trên.

Có thể suy luận ở một mức độ nào đó rằng, ở người chấp hành xong BPXLHC đưa

vào TGD, từ thích ứng về mặt nhận thức của họ có thể dự báo được sự thích ứng về mặt

thái độ và hành vi tuân thủ các quy định của địa phương trong quá trình tái hòa nhập. Đồng

thời cũng cho thấy, mặc dù thích ứng tâm lý của họ là phức tạp, những vẫn có và tuân theo

qui luật chung của tâm lý con người.

Xuất phát từ chỉ số độ chênh giữa ba thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD là bằng chứng cho thấy,

thích ứng chung là một chỉ báo tương đối. Vì thế, khi nghiên cứu về thích ứng trên đối

tượng này, việc xem xét trên từng thành phần của sự thích ứng sẽ cho thấy rõ hơn những

đặc trưng về sự thích ứng của họ.

Kết quả nghiên cứu có thể tóm lược lại như sau:

Thứ nhất, đánh giá chung người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở mức độ trung bình và thấp thể hiện ở cả ba

nội dung thích ứng là thích ứng về mặt nhận thức, thích ứng về mặt thái độ và thích ứng về

mặt hành vi và thể hiện ở tất cả các hoạt động như học tập, lao động, quan hệ xã hội và

sinh hoạt.

Thứ hai, ở cả ba thành phần của sự thích ứng có sự chênh lệch nhất định khi phần

lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng ở mức độ trung bình

về mặt nhận thức và thái độ nhưng lại thích ứng ở mức độ thấp về mặt hành vi. Các mức

độ thích ứng trên biểu hiện một cách thống nhất và bổ sung lẫn nhau trong cùng một chỉnh

thể là sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vàoTGD, nó được bộc lộ với các mức độ khác nhau khi người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD tham gia vào việc thực hiện các hoạt động đặc trưng của

hoạt động tái hòa nhập cộng đồng.

Thứ ba, xét riêng từng thành phần của sự thích ứng tâm lý cũng cho thấy kết quả

đạt mức độ thích ứng thấp và trung bình ở mỗi thành phần của thích ứng tâm lý người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Tuy nhiên, mỗi thành phần của sự thích ứng

lại có phân chia các mức độ thích ứng theo tỉ lệ khác nhau do nội dung thích ứng đề ra.

Thứ tư, các thành phần của sự thích ứng có tương quan với nhau từ trung bình đến

tương quan chặt chẽ ở cả ba thành phần nhận thức, thái độ và hành vi.

Cuối cùng, về tổng thể, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vàoTGD với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đạt ở mức độ trung bình.

3.1.6. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo một số

đặc điểm nhân khẩu

Phân tích mối quan hệ giữa các mức độ thích ứng với các đặc điểm khách thể khác nhau

như giới tính, quê quán, số lần vào chấp hành ở TGD, thời gian chấp hành ở TGD, thời gian về

sinh sống ở địa phương từ khi rời TGD, hoàn cảnh kinh tế gia đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy

các mức độ thích ứng tâm lý thể hiện ở thích ứng chung, thích ứng về nhận thức, thích ứng về

thái độ và thích ứng về hành vi đểu có mối quan hệ khác nhau với các đặc điểm khách thể của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Bảng 3.14. So sánh mức độ thích ứng tâm lý

Mặt nhận thức

Mặt thái độ

Mặt hành vi

Thích ứng chung

Đặc điểm

Sig

ĐTB

Sig

ĐTB

Sig

ĐTB

Sig

ĐTB

(2-tail)

(2-tail)

(2-tail)

(2-tail)

Nam

Giới tính

Nữ

0,47 3,2334 0,347 3,1063 0,096 3,0988 0,057 3,1462

T. thị

3,1429 2,9821 2,8120 2,9790

Khu vực

địa lý

N. thôn

0,526 3,2958 0,569 3,1625 0,191 3,2737 0,299 3,2440

Dưới 6

3,2190 3,0895 3,0554 3,1213

tháng

3,1747 3,0873 3,0958 3,1193

6-12

Thời gian

tháng

3,2440 3,0806 3,0883 3,1376

về địa

Trên 12

0,304 0,915 0,847 0,925

phương

tháng

Dư dả

3,2940 3,1181 3,0351 3,1490

Điều kiện

kinh tế

Đủ ăn

3,1480 3,0559 3,0499 3,0846

của gia

Khó

3,2663 3,1174 3,1326 3,1721 0,139 0,611 0,061 0,105

đình

khăn

6tháng,

3,0913 3,0240 2,8198 2,9784

Thời gian

12tháng

ở trường

3,1622 2,8695 2,6503 2,8641

18tháng

0,155 0,487 0,142 0,144

giáo

dưỡng

24tháng

3,2069 3,1228 3,0844 3,1380

1 lần

3,1848 3,0550 3,0222 3,0872

Số lần

vào tại

2 lần

3,2327 3,0997 3,0788 3,1371

TGD

3 lần

3,0000 2,9750 2,9474 2,9741 0,252 0,562 0,640 0,412

3.1.6.1. So sánh mức độ thích ứng tâm lý theo giới tính

Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD so sánh theo giới tính cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD có giới tính là nam có mức độ thích ứng tốt hơn người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện đều ở cả 3 mặt: nhận thức, thái độ, hành vi và cả thích ứng

chung. Cụ thể, thích ứng về mặt nhận thức ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD có giới tính là nam có mức độ thích ứng tốt hơn người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD có giới tính là nữ với sig( 2- tailed) là 0,47. ĐTB của giới nam là 3,2334 và ĐTB

của giới nữ là 3,1429. Về mặt thái độ, thích ứng ở giới nam có ĐTB là 3,1063 và ở giới nữ có

ĐTB là 2,9821 và sig (2- tailed) là 0,347. Vể mặt hành vi, giới nam có ĐTB là 3,0988 và giới

nữ là 2,8120 với sig (2-tailed0 là 0,96. Điều này cũng phù hợp với phần trên đã phân tích, trình

bày rằng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng về mặt hành vi là

thấp nhất và thích ứng về mặt nhận thức có mức cao nhất không mâu thuẫn khi phân tích trong

mối quan hệ với giới tính. Và khi đánh giá thích ứng nói chung của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD trong mối quan hệ với giới tính là giới tính nam có ĐTB là 3,1462;

giới tính nữ có ĐTB là 2,9790. Tác giả cũng phân tích theo lát cắt dọc về các mặt nhận thức, thái

độ và hành vi của các hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội, sinh hoạt thì cũng nhận được

kết quả giới tính nam có mức độ thích ứng tốt hơn giới tính nữ tương ứng với mức ĐTB ( xem

phần phụ lục).

Kết quả nghiên cứu ở trên có điểm tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ

Văn Hòa khi nghiên cứu về tái hòa nhập cho người chấp hành xong án phạt tù cũng đã chỉ ra

rằng việc thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội là điều khá khó khăn

của người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống. Vì hành vi là cái thể hiện ra

bên ngoài dễ dàng đánh giá thông qua chuẩn chung của xã hội, các tiêu chuẩn được quy định rõ

ràng trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ.

3.1.6.2. So sánh mức độ thích ứng tâm lý theo khu vực địa lý

So sánh mức độ thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo mức án cho thấy những người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương là thành thị có ĐTB cao hơn

so với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương là

vùng nông thôn, lần lượt ĐTB là 3,2440 và 3,1213, Điều này có thể lý giải xuất phát từ đặc điểm

về cách sống của người dân vùng nông thôn và thành thị có sự khác nhau cơ bản mà người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức được rằng sống ở thành thị thì mối

quan hệ với hàng xóm không bị ràng buộc chặt chẽ bằng sinh sống ở vùng nông thôn. Do

vậy các em ít chịu sự đánh giá từ hàng xóm mà chỉ sống với người thân trong gia đình.

Điều này thể hiện ở bảng số liệu phần phụ lục. Thích ứng về mặt nhận thức, những người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống ở thành thị có ĐTB= 3,2958,

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống ở vùng nông thân là

ĐTB= 3,2190. Thích ứng về mặt thái độ, những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD về sinh sống ở thành thị có ĐTB= 3,1625, người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD về sinh sống ở vùng nông thân là ĐTB= 3,0895. Thích ứng về mặt hành vi,

những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống ở thành thị có

ĐTB= 3,2737 và những người về sinh sống ở khu vực nông thôn là ĐTB= 3,0554. Thể hiện ở

cả 3 mặt nhận thức, thái độ, hành vi cũng phù hợp với thích ứng chung trong mối quan hệ

với nơi về tái hòa nhập cộng đồng. Về điều này, chúng tôi được chị P.T.N (45 tuổi, cán bộ

công tác tại phòng Tái hòa nhập cộng đồng của Cục C11- Bộ Công an) chia sẻ thêm "những

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có quê quán ở thành thị thì kể cả khi

đang học tập và rèn luyện tại TGD cũng luôn được gia đình quan tâm, động viên và phối

hợp với nhà trường trong việc giáo dục nhưng ngược lại một số cháu ở vùng nông thôn vì

điều kiện kinh tế khó khăn hơn nên khi các cháu về gia đình cũng ít có điều kiện chia sẻ,

an ủi với các cháu. Qua theo dõi mảng này chúng tôi thấy các cháu về tái hòa nhập ở vùng

thành thị khá hợp tác trong thực hiện nội quy, quy định của địa phương sinh sống trong

học tập và lao động, quan hệ xã hội, sinh hoạt; còn một số cháu ở vùng nông thôn chứ

chưa phải là tất cả có sự khác biệt so với những người chấp hành xong BPXLHC đưa vào

TGD về sinh sống ở vùng thành thị".

3.1.6.3. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD theo thời gian về sinh sống ở địa phương

So sánh các mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo thời gian về sinh sống tại địa phương chúng tôi chia

là 3 mức khi nghiên cứu đó là: Dưới 6 tháng, từ 6 – 12 tháng, trên 12 tháng. Kết quả nghiên cứu

cho thấy người chấp hành xong người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có

mức độ thích ứng về các mặt khá tương đồng.

Nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống

dưới 6 tháng có ĐTB thích ứng về mặt nhận thức là 3,1747; nhóm người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống từ 6 đến 12 tháng là 3,2440 và nhóm

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương từ trên 12

tháng là 3,2940. Điều này có thể lý giải khi cá nhân nói chung và người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD nói riêng khi bị thay đổi môi trường sống sẽ khó khăn để thay đổi

và khi thay đổi cho phù hợp với môi trường sống mới. Sẽ phải mất một thời gian để cá nhân

đó thích ứng dần dần. Sau một thời gian nhất định, cá nhân sẽ điều chỉnh nhận thức, thái độ và

hành vi phù hợp với môi trường sống mới mà ta gọi đó là thích ứng. Không giống về mặt nhận

thức, thích ứng về mặt thái độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với

tái hòa nhập cộng đồng có một chút biến đổi khác. Đó là thích ứng về mặt thái độ của nhóm

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thời gian về sinh sống ở địa phương

dưới 6 tháng có ĐTB = 3,0873; nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

có thời gian về sinh sống tại địa phương từ 6- 12 tháng có ĐTB = 3,0806 và nhóm người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương từ 12 tháng trở lên có

ĐTB = 3,1181. Điều này cho thấy thích ứng về mặt thái độ thì nhóm người về sinh sống tại

địa phương thời gian từ 6 đến 12 tháng là có mức thấp nhất, thích ứng thái độ của nhóm có

thời gian về sinh sống tại địa phương từ trên 12 tháng vẫn là cao nhất. Chỉ có 2 nhóm người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt nhận thức và thái độ là chuyển vị trí

xếp hạng cho nhau

3.1.6.4. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo điều kiện kinh tế của

gia đình

Khi so sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo mức độ kinh tế của

gia đình, nhóm tác giả chia mức độ kinh tế gia đình của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD làm 3 mức độ khác nhau theo đánh giá chung của xã hội, đó là: mức

độ dư dả; mức độ đủ ăn; mức độ khó khăn. Qua nghiên cứu cho thấy những người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương với gia đình có mức

kinh tế dư dả thì ĐTB của thích ứng về nhận thức là 3,1480; thích ứng về thái độ là 3,0559; thích

ứng về hành vi là 3,0499. Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống

tại địa phương với gia đình có mức kinh tế đủ ăn thì ĐTB của thích ứng về nhận thức là 3,2663;

thích ứng về thái độ là 3,1174; thích ứng về hành vi là 3,1326. Người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD về sinh sống tại địa phương với gia đình có mức kinh tế khó khăn

thì ĐTB của thích ứng về nhận thức là 3,0913; thích ứng về thái độ là 3,02401174; thích ứng về

hành vi là 2,8198. Nhìn vào kết quả so sánh đó ta thấy trong mối quan hệ với mức độ kinh tế

của gia đình thì mức độ thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD ở mặt nhận thức là cao nhất, tiếp theo đến mặt thái độ và thấp nhất

là mặt hành vi. Như vậy cũng không mâu thuẫn với phần phân tích trên về thích ứng chung của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng với thích

ứng với tái hòa nhập cộng đồng người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong

mối quan hệ với mức độ kinh tế của gia đình. Điều này có thể lý giải xuất phát từ nguồn gốc

tâm lý cá nhân là từ môi trường sống, cụ thể ở đây là điều kiện mức độ kinh tế của gia đình,

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nhận thức và có thái độ rõ ràng được

thể hiện bằng hành vi khi gia đình có mức kinh tế dư dả là điều kiện ban đầu có thể giúp cho các

em có công ăn việc làm, được học tập lại những kiến thức đã mất... thì sẽ dễ dàng thích ứng với

cuộc sống ở địa phương. Ngược lại, khi gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn sẽ là một thử

thách thêm vào trong quá trình thích ứng với cuộc sống ở địa phương.

3.1.6.5. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo thời gian chấp hành

tại trường giáo dưỡng

So sánh các mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo thời gian chấp hành tại TGD chúng tôi chia làm 3

mức khi nghiên cứu đó là: 6 tháng và 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức độ thích ứng về các mặt như

sau:

Nhóm người chấp hành xong người biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành với

thời gian 6 và 12 tháng tại TGD có ĐTB thích ứng về mặt nhận thức là 3,1622; nhóm người;

nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với thời gian tại TGD là 18

tháng là 3,2069 và nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với thời gian

tại TGD là 24 tháng là 3,1845. Từ số liệu có thể thấy rất rõ rằng với các em có thời hạn ở TGD

là 6 và 12 tháng thì thích ứng kém nhất, tiếp đến là nhóm người có thời gian chấp hành tại

TGD 24 tháng (thời hạn dài nhất ở TGD); Nhóm người có thời hạn chấp hành tại TGD là 12

và 18 tháng khi chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả năng thích ứng cao

hơn cả. Điều này có thể lý giải thời gian chấp hành tại TGD có ảnh hưởng đến các em khi chấp

hành xong thời hạn về địa phương sinh sống. Với thời hạn thấp nhất là 6 và 12 tháng chấp

hành tại TGD thì các em vừa kịp làm quen với môi trường sống “đặc biệt” về nội quy, nề nếp,

kỷ luật thì lại thay đổi môi trường sống nên sẽ khó khăn để thay đổi nhanh chóng cho phù hợp

với môi trường xã hội. Điều này mới lý giải vì sao nhóm người này có mức độ thích ứng thấp

nhất trong 3 nhóm người khi so sánh theo thời gian chấp hành tại TGD. Thời hạn chấp hành

tại TGD 18 tháng là đủ thời gian để cá nhân thích ứng với môi trường sống mới và bắt đầu

xuất hiện nhu cầu thay đổi, tìm kiếm chuẩn mực mới. Đây là giai đoạn mà nhóm người này

được về địa phương sinh sống có mức thích ứng cao hơn so với nhóm còn lại với các nội quy

của địa phương. Với nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thời

gian chấp hành tại TGD với thời hạn là 18 tháng có mức thích ứng cao nhất cả về nhận thức,

thái độ và hành vi thậm chí là cả thích ứng nói chung với tái hòa nhập cộng đồng. Đây là thời

gian vừa đủ tương đối với cá nhân để cá nhân điều chỉnh nhận thức, thái độ và hành vi phù

hợp với môi trường sống. Không giống về mặt nhận thức, thích ứng về mặt hành vi của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng có sự dao động

biến đổi lớn. Cao nhất là nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có

thời gian chấp hành tại TGD 18 tháng và thấp nhất là nhóm người có thời hạn chấp hành tại

TGD là 6 và 12 tháng. Cũng lý giải như trên là quy luật thích ứng và chai dạn về xúc cảm của

cá nhân. Đến một giới hạn nhất định mới đạt đến độ thích ứng, nhưng quá thời hạn nhất định

cũng dẫn đến trạng thái bão hòa xảm xúc và thậm chí chai dạn. Giới hạn ở đây là về thời gian

sinh sống và thay đổi.

3.1.6.6. So sánh mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng theo số lần chấp hành tại

trường giáo dưỡng

So sánh các mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo số lần chấp hành tại TGD chúng tôi chia là 3 mức

độ khi nghiên cứu đó là: 1 lần, 2 lần, 3 lần. Tuy nhiên kết quả thu được tất cả các khách thể được

điều tra nghiên cứu cho thấy không có người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

chấp hành đến lần thứ 3, chỉ có 1 lần là chủ yếu; chấp hành lần thứ 2 tại TGD có 27% .

Nhìn vào kết quả bảng 3.14 ta thấy nhóm người người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD chấp hành tại TGD lần 1 có ĐTB thích ứng về mặt nhận thức là 3,2327;

nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành tại TGD lần 2 là

3,0000; cũng tương tự thích ứng về mặt thái độ lần lượt là 3,0997 và 2,9750; thích ứng về mặt

hành vi là 3,0788 và 2,9471; thích ứng chung với tái hòa nhập cộng đồng là 3,1371 và 2,9741

tác giả nhận thấy nhóm người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành tại

TGD lần 1 có ĐTB thích ứng cao hơn ĐTB thích ứng của nhóm người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD chấp hành tại TGD lần 2 cả về tất cả các mặt riêng và cả thích ứng

chung. Điều này có thể lý giải theo nhìn nhận của tác giả hành vi của con người luôn chịu sự

chi phối, điều khiển, điều chỉnh của tâm lý chính người đó, hành vi vi phạm pháp luật cũng

vậy, là kết quả của sự tương tác, đấu tranh giữa tâm lý tích cực và tâm lý tiêu cực. Tâm lý tiêu

cực thắng thế, “lấn át” tâm lý tích cực dẫn đến việc cá nhân thực hiện hành vi sai lệch chuẩn

mực xã hội trong đó có hành vi vi phạm pháp luật. Vào TGD lần 1 để học tập, loại bỏ tâm lý

tiêu cực nhưng chưa triệt để loại bỏ hoàn toàn tâm lý tiêu cực thì đây chính một trong những

nguyên nhân có nguy cơ cao dẫn các em đến tái phạm. Với những lần tái phạm thì tâm lý tiêu

cực đã được liên tục củng cố, những phương thức thỏa mãn nhu cầu sai lệch chuẩn mực xã hội

trở thành nhu cầu và mục đích của các em đây chính là điều lý giải nếu chấp hành ở TGD từ

lần thứ 2 trở đi sẽ càng thích ứng kém hơn những lần trước. Từ kết quả nghiên cứu này rút ra

ý nghĩa và một số biện pháp thích hợp trong công tác giáo dục đối tượng trong quá trình chấp

hành tại TGD và tái hòa nhập cộng đồng

3.2. Các yếu tố dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng

Như đã đề cập về mối quan hệ, tác động của các yếu tố gắn với cá nhân (mặt chủ quan)

và các yếu tố gắn với tác động của môi trường sống (mặt khách quan) theo lý thuyết của

Tremblay đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD. Ở phần này, nhóm nghiên cứu chúng tôi phân tích một số yếu tố

dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD với những mức độ và mô hình ảnh hưởng khác nhau dựa trên kết quả

phân tích mô hình Hồi quy tuyến tính trên cơ sở mã hóa lại các biến độc lập và biến phụ thuộc.

Trong đó, biến phụ thuộc là các biến đo thích ứng tâm lý chung và từng thành phần thích ứng

về mặt nhận thức, thái độ và hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD và đều chỉ thực hiện phân tích Hồi quy tuyến tính đối với những trường hợp có thích ứng

tâm lý từ mức độ trung bình trở lên.

Theo lý thuyết của Tâm lý học Hoạt động thì các yếu tố có ảnh hưởng tới sự hình

thành và phát triển tâm lý cá nhân và thích ứng tâm lý bao gồm yếu tố sinh học, yếu tố môi

trường sống và yếu tố hoạt động của cá nhân [dẫn theo 26, tr.7]. Trong nghiên cứu này,

chúng tôi chỉ khảo sát những yếu tố gắn với nhận thức và hoạt động (thuộc về chủ quan)

và môi trường sống (thuộc về khách quan) của cá nhân với 31 mô tả khác nhau (xem thêm

phần phụ lục).

3.2.1. Các yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân) dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với

tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào

trường Giáo dưỡng

Kết quả nghiên cứu dự báo các yếu tố gắn với hoạt động của cá nhân tới thích ứng

tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

sau khi sử dụng mô hình Hồi quy tuyến tính và đã loại bớt đi các biến số dự báo không tác

động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD, thu được kết quả như ở bảng 3.15a và 3.15b

Dự báo yếu tố Trầm cảm tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Trước hết phải hiểu Trầm cảm hay Rối loạn trầm

cảm (MDD, Major Depressive Disorder) là một chứng rối loạn tâm thần phổ biến.

Các biểu hiện của triệu chứng bao gồm: tâm trạng buồn bã vô cớ kéo dài liên

tiếp; mất hứng thú, mất niềm tin với cuộc sống và cả các hoạt động cá nhân đã từng cảm

thấy thú vị; các thói quen sinh hoạt bình thường cũng trở nên khó khăn; họ cảm thấy uể oải

thiếu năng lượng. Có thể thỉnh thoảng những người mắc bệnh trầm cảm còn ảo tưởng hoặc

gặp ảo giác.

Thuật ngữ major depressive disorder (rối loạn trầm cảm) được đưa ra bởi một nhóm

bác sĩ lâm sàng Hoa Kỳ vào giữa những năm 1970. Nguyên nhân của rối loạn trầm cảm

chủ yếu được cho là sự kết hợp của các yếu tố di truyền, môi trường và tâm lý. Trầm cảm

đa số ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống cá nhân, công việc hoặc hành vi hàng ngày cũng

như thói quen ngủ, ăn uống và sức khỏe nói chung

Hậu quả nghiêm trọng nhất của trầm cảm chính là hành vi tự sát hoặc thực hiện hành

vi sai lệch chuẩn mực xã hội.

Những người trầm cảm sẽ bận tâm - hoặc suy ngẫm nhiều hơn về - những suy nghĩ

và cảm giác vô dụng, tội lỗi hoặc hối tiếc không phù hợp, bất lực hoặc tuyệt vọng.

Bảng 3.15a. Dự báo từng yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý

Nhân tố Thích ứng chung

Mặt Nhận thức

Mặt Thái độ

Mặt Hành vi

Bêta

Sig

-0,40

000

1,000

VIF Bêta -0,14

Sig VIF Bêta -0,32 1,000 000

Sig VIF Bêta -0,30 000 1,000

Sig VIF 000 1,000

R2= 0,62; sig=000;

R2=0,53;sig= 000;

R2= 0,29; sig=000;

Trầm cảm

R2= 0,20;sig= 000;

DW=1,539

DW=1,570

DW=1,528

DW=1,623

1,000

-0,15

000

1,000

1,000

1,000

-0,36

000

-0,28

000

-,33

000

Nhận

R2=0,13; sig= 000;

R2=0,18; sig=000;

R2=0,11;sig= 000;

thức

R2=0,19;sig= 000; DW=1556

DW=1,513

DW=1,588

DW=1,546

1,000

0,42

000

1,000

1,000

1,000

0,53

000

0,42

000

0,50

000

Hành vi

R2=0,29; sig= 000;

R2=0,17; sig=000;

R2=0,25; sig=000;

tích cực

R2=0,18; sig=000; DW=1,699

DW=1,627

DW=1,624

DW=1,699

1,000

1,000

1,000

1,000

-0,23

000

-0,41

000

-0,38

000

-0,40

000

Mặc

R2=0,17;sig= 000;

R2=0,16; sig=000;

R2=0,15; sig=000;

R2=0,16;sig= 000;

cảm

DW=1,653

DW=1,642

DW=1,628

DW=1,625

Kết quả bảng 3.15a cho thấy mô hình dự báo của trầm cảm (xem thêm phụ lục 3.3) đều

có ý nghĩa thống kê với sig= 0,000, tức yếu tố trầm cảm (và các biến số của trầm cảm) có khả

năng dự báo chính xác đến thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và hành

vi của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD theo chiều nghịch (giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ thuộc đều âm).

Mô hình nghiên cứu xem xét khả năng tác động của 5 biến số và cả 5 biến số khi chạy

độ tin cậy đạt 0,776 điều này giải thích yếu tố trầm cảm có khả năng dự báo có ý nghĩa thống

kê đối với thích ứng tâm lý chung và từng thành phần của thích ứng tâm lý đó là trầm cảm. Dữ

liệu cho thấy những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD) có xác xuất thích

ứng tâm lý bằng 62,0% những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD không

có trầm cảm.

Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013) cũng cho thấy nhóm các yếu tố

liên quan đến tâm lý của người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương thì có tới 23%

liên quan tới căng thẳng tâm lý ở mức độ trầm cảm (tress). Tác giả cho rằng các vấn đề

liên quan đến sức khỏe tinh thần và các quy trình liên quan đến điều trị các vấn đề tâm thần

có dùng thuốc và can thiệp y khoa đều có sự ảnh hưởng tới tái hòa nhập của họ và các phản

ứng chống đối của họ với các quy định của địa phương [58].

Mức độ dự báo của yếu tố trầm cảm tới các thành phần của thích ứng tâm lý của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được được mô tả ở bảng 3.15a.

Từ bảng 3.15a cho thấy yếu tố trầm cảm có mức dự báo khác nhau tới từng thành

phần của thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái

hòa nhập cộng đồng. Kết quả ở mô hình Hồi quy tuyến tính cho thấy yếu tố trầm cảm đều

dự báo đến các thành phần của sự thích ứng tâm lý đạt mức có ý nghĩa về mặt thống kê với

sig= 0,000. Trong đó trầm cảm có mức dự báo tác động cao nhất tới thích ứng về thái độ

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (R2 = 0,53; và sig= 0,000), tiếp

theo là dự báo tới thích ứng về mặt hành vi (sig = 0,000; R2 = 0,29). Tuy nhiên, từ bảng

trên ta thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có vấn đề về trầm cảm và

cũng cho thấy dự báo mức độ tác động của trầm cảm tới các thành phần của thích ứng tâm

lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, đặc biệt là về thích ứng nhận

thức- những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có vấn đề về trầm cảm

chỉ thích ứng được với 20% so với những người không có vấn đề về trầm cảm.

Chia sẻ thêm về những vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nữ dự báo có thể tác động đến thích ứng tâm lý, chị

V.T.P, Hội trưởng Hội phụ nữ phường N.T.N (Bắc Ninh), 13 năm làm công tác Hội cho

rằng "quá trình tham gia công tác Hội của tôi, tôi thấy có một số người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD ở phường luôn có sự lo lắng, đặc biệt là những người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở độ tuổi trưởng thành (trên 18 tuổi) thì nỗi lo

lắng của họ dường như nhiều hơn, họ ủ rũ, không muốn ăn, gầy rộc người.... Hoặc một số

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện sự căng thẳng như phá phách,

ngang tàng, thực hiện những hành vi vi phạm nội quy của địa phương, như trường hợp

N.V.H, thờ ơ với mọi người, tư tưởng diễn biến phức tạp, thậm chí không nói chuyện với

người nhà, nhiều khi có hành động bột phát. Chúng tôi phải mất rất nhiều thời gian để tiếp

cận, tâm sự, chia sẻ và động viên; dần dần họ đó mới bắt đầu hòa đồng và tư tưởng dần

ổn định". Những chia sẻ của chị Hội trưởng hội phụ nữ có thể thấy những vấn đề liên quan

đến sức khỏe tâm thần của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có tác

động nhất định tới quá trình tái hòa nhập về nơi sinh sống, sự tích cực phấn đấu của họ,

hay nói cách khác là vấn đề sức khỏe tâm thần (trầm cảm) có sự tác động tới thích ứng tâm

lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hòa nhập

cộng đồng.

Như vậy, yếu tố trầm cảm của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

dự báo có khả năng làm giảm thích ứng tâm lý của họ với quá trình tái hòa nhập cộng đồng

ở cả thích ứng chung và ở cả ba thành phần thích ứng tâm lý là thích ứng nhận thức, thích

ứng thái độ và thích ứng hành vi.

Dự báo yếu tố Mặc cảm tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Theo từ điển Tâm lý học Mặc cảm là những cảm xúc, cảm nghĩ bị dồn nén, đẩy vào

vô thức nhưng vẫn tiếp tục chi phối hành vi. Đây là cơ cấu tâm lý bình thường xuất hiện vào

một lứa tuổi nhất định, rồi theo đà trưởng thành được giải tỏa dần, hòa nhập vào những cơ cấu

tâm lý của những giai đoạn kế tiếp.

Với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo quy định pháp luật thì

đây là lứa tuổi dễ bị dồn nén nhiều ức chế, suy nghĩ cảm xúc của lứa tuổi. Nếu giai đoạn trước

chưa được giải tỏa hết những cảm xúc, suy nghĩ đến giai đoạn này dồn thêm những ẩn ức của

lứa tuổi sẽ tác động đến cuộc sống sinh hoạt cá nhân nói chung đặc biệt là quá trình tái hòa

nhập cộng đồng.của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Theo bảng 3.15a thì yếu tố mặc cảm dự báo tác động đến thích ứng tâm lý chung và cả

các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD với R2 của thích ứng tâm lý chung = 0,17 và sig= 0,000; thích ứng

nhận thức có R2= 0,16 và sig= 0,000; thích ứng về thái độ là 0,15 và sig= 0,000; thích ứng về

hành vi là 0,16 và sig= 0,000. Giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ thuộc đều âm tức là yếu tố

mặc cảm tác động theo chiều nghịch đến tất cả các biến nghiên cứu và sig đều = 0,000 tức các

giá trị đều có ý nghĩa về mặt thống kê.

Dự báo yếu tố Nhận thức tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Nhận thức sai lệch các chuẩn mực xã hội ở người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD đó là sự thiếu hiểu biết, vốn tri thức, kinh nghiệm của họ về ứng xử trong các

quan hệ xã hội. Đề cập đến vấn đề này, tác giả Đỗ Thị Thu Trang (2017) cho rằng phần

lớn các em học sinh TGD có trình độ văn hóa và ý thức pháp luật thấp; không nhận thức

đầy đủ về các chuẩn mực xã hội, bị động trong các quan hệ, chưa hình thành ý thức tôn

trọng chuẩn mực xã hội nói chung đặc biệt là chuẩn mực pháp luật... đó là bệnh “ấu trĩ

pháp luật”. Do đó, theo tác giả, học sinh TGD sau khi ra trường sẽ bỡ ngỡ, lạ lẫm với những

ứng xử đời thường, các em phải có thời gian để chủ động làm quen và thích ứng với cuộc

sống. Đồng thời, theo tác giả, sẽ có trường hợp mà những người làm công tác quản lý tại

địa phương phải lưu ý trước rằng nhiều em khi chấp hành xong Quyết định XLHC tại các

TGD vẫn chưa nhận thức được hết lỗi của bản thân, thậm chí đổ lỗi cho người khác hoặc

cho rằng mình bị oan, Quyết định xử lý quá nặng,...[44, tr.56]. Đây là những biểu hiện điển

hình về những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội nói chung và chuẩn mực pháp luật

nói riêng ở các em mà trong nghiên cứu gặp phải. Trong các phần mô tả đề cập đến nội

dung này chúng tôi gọi chung là nhận thức.

Mô hình xem xét khả năng tác động của 5 biến số mô tả nhận thức sai lệch của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về các chuẩn mực xã hội nhưng chỉ có 4

biến số có khả năng dự báo có ý nghĩa thống kê đối với thích ứng tâm lý của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (xem thêm phụ lục 3.1; 3.2) với p sig= 0,000. Đó

là các biến: "vẫn coi mọi chuyện như bình thường"; "mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì đến";

"việc học tập hay lao động chẳng có ích gì" và "không thấy vấn đề gì về những sai trái

trước đây của mình". Cụ thể dữ liệu nghiên cứu cho thấy các biến có ảnh hưởng theo chiều

nghịch đến thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

(Bêta>0) với giá trị về tỉ số chênh từ 2,11.

Dữ liệu nghiên cứu cho thấy những biểu hiện nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội có

mức dự báo tới thích ứng tâm lý chung với các mức độ khác nhau ở từng biểu hiện. Trong đó,

việc người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD "không thấy vấn đề gì về hành vi

sai trái trước đây của mình" có tính dự báo cao hơn tới cả tới thích ứng tâm lý của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (Bêta = 0,39; sig= 0,002); tiếp theo là các biểu hiện

khác cũng có mức độ dự báo tác động như nhau là "vẫn coi mọi chuyện như bình thường";

"mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì đến"; "việc học tập hay lao động chẳng có ích gì" (Bêta

lần lượt là 0,21; 0,23 và 0,19; sig đều là 0,000).

Những nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội được biểu hiện khá rõ khi các em về

địa phương chưa thực sự tự giác khi tham gia học tập, lao động hay chấp hành nội quy địa

phương, tham gia học tập họ ít trao đổi với người học những vấn đề còn khúc mắc, chưa

hiểu, chấp nhận học cho xong theo quy định hoặc khi tham gia lao động họ có những hành

vi như nại cớ ốm đau xin nghỉ, không đảm bảo chất lượng sản phẩm tạo ra. Trao đổi với

chúng tôi về vấn đề này, một đồng chí Cảnh sát khu vực phường M.M (Bắc Ninh) "Các

em thường hay kéo bè kéo cánh những người cùng chung cảnh ngộ để chơi với nhau rồi rủ

nhau cùng thực hiện những hành vi phạm pháp luật tiếp theo. Ngoài ra, một số em còn có

biểu hiện giả vờ ốm, không lao động”.

Thậm chí, em L.T.T (phường Đ.S, H.B)cho rằng: “việc chấp hành đúng pháp luật

chỉ mang lại thiệt thòi thôi”.

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy cả các biểu hiện nhận thức sai lệch về chuẩn

mực xã hội có khả năng dự báo thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD. Trên cơ sở tập hợp kết quả quan sát và phỏng vấn sâu người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và cán bộ làm công tác quản lý, giáo dục tại địa

bàn cơ sở có thể lý giải nguyên nhân của sự ảnh hưởng của nhận thức đó tới thích ứng tâm

lý của họ với việc chấp hành các quy định tại địa phương với một số điểm căn bản như:

Thứ nhất, ngay ở chính bản thân mỗi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD có sự coi thường các quy định của địa phương và chưa thực sự có thái độ ăn năn

hối cải, vẫn cho rằng Quyết định xử lý hành chính đó đối với các em là quá nặng. Đề cập

đến luận điểm này, tác giả Đỗ Bá Cở (2012) cho rằng đặc trưng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD là thiếu nhận thức về các quy định của chuẩn mực xã hội,

có những em không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật; có những em dù biết hành

vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình làm [27].

Điều này được thể hiện khá rõ khi chúng tôi phỏng vấn một số người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD thì được trả lời rằng "Lần đầu cháu tham gia trò đánh bạc,bị

bắt, cháu chỉ bị phạt Cảnh cáo, không phải đi TGD. Lần thứ hai, cháu tái phạm đánh bạc và

còn rủ bạn đánh bạc nên bị đi TGD. Bây giờ hết thời hạn về địa phương, cháu thấy bình thường

vì cháu có trộm cắp của ai cái gì đâu chỉ là đánh bạc thôi mà (Đ.T.H, 17 tuổi, Lạng Sơn).

Đồng thời, một trong những đặc trưng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD theo kết quả quan sát được cho thấy họ lại rất linh hoạt và khôn khéo trong

giao tiếp so với các bạn bình thường cùng trang lứa, biết lợi dụng sơ hở của mọi người để vi

phạm nội quy của địa phương hoặc mang lại lợi ích cho mình .

Thứ hai, để lý giải rõ hơn nguyên nhân của thực trạng người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD có nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội nhưng lại có xác xuất

dự báo thích ứng tâm lý cao hơn có thể thấy rõ đó là hiệu quả của công tác quản lý, giáo

dục đối tượng tại địa bàn cơ sở của các cán bộ địa phương. Qua quan sát thực tiễn và đối

chiếu với nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học quản

lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ sở cho thấy các cán bộ ở địa phương đã rất chú trọng

giáo dục pháp luật, giáo dục công dân, hình thành thói quen hành vi văn hóa cho họ ngay

từ khi họ mới về địa phương. Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Hiền Thu (2016) cho thấy

trong các nội dung giáo dục phổ biến ở địa bàn cơ sở thì nội dung cần chú ý giáo dục pháp

luật chiếm 88% nội dung giáo dục cho các đối tượng chấp hành xong biện pháp xử lý hành

chính, coi giáo dục pháp luật là bước đầu trang bị cho họ những nhận thức cơ bản nhất để

trở thành công dân lương thiện cho xã hội. Cũng theo tác giả, việc giáo dục pháp luật cho

người chấp hành xong biện pháp XLHC được thực hiện thông qua khai thác thu thập thông

tin và phải phù hợp với đối tượng giáo dục, quản lý. Đặc biệt là giáo dục pháp luật bằng

phương pháp thuyết phục, tác động dần dần để họ thay đổi nhận thức sai lệch của mình về

các chuẩn mực xã hội[4, tr.181]. Đồng thời, để có thể hiểu rõ hơn sự thay đổi nhận thức

sai lệch về chuẩn mực xã hội của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có

tác động đến thích ứng tâm lý của họ ra sao, chị P. M. H (cán bộ phụ trách công tác xã hội,

45 tuổi, 22 năm công tác) chia sẻ thêm "Đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD khi mới về địa phương đa số rất hạn chế về hiểu biết xã hội. Có những em

mặc dầu đã đi đủ 2 năm ở TGD về vẫn không đồng ý với Quyết định của tòa án, hay đòi

gặp chúng tôi để kêu oan, đòi phải được trả lại “công bằng”, tư tưởng diễn biến phức tạp

và hay vi phạm nội quy địa phương tuy là những lỗi không đáng kể. Nhưng cán bộ chúng

tôi đã lắng nghe, chia sẻ và giải đáp những thắc mắc của họ, giúp họ dần dần nhận ra lỗi

lầm và sai trái của bản thân. Cùng với thời gian, họ cũng nhận ra sai trái của mình, tu tỉnh

lại và thích ứng tốt hơn với cuộc sống, lao động và học tập hơn. Tuy rằng không phải người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nào khi về địa phương cũng thích ứng nhanh

với cuộc sống ở địa phương nhưng cán bộ chúng tôi vẫn hết sức kiên trì để giáo dục họ,

giúp họ yên tâm tin tưởng vào sự hướng thiện tích cực của mình....".

Để có thể đánh giá rõ hơn nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội dự báo tới thích

ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với việc các quy định

tại địa phương, chúng tôi thu được kết quả phân tích về nhận thức dự báo tới các thành

phần thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD bảng 3.15a

Kết quả ở bảng 3.15a cho thấy mức độ dự báo của các biểu hiện về nhận thức của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tới các thành phần thích ứng tâm lý

của họ có sự khác nhau; nhưng tất cả các biểu hiện đều đạt mức ý nghĩa thống kê (sig< 0,005)

và biểu hiện đều có thể dự báo tới tất cả các thành phần của sự thích ứng tâm lý của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với việc chấp hành nội quy của địa phương.

Như vậy, yếu tố nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả năng dự báo cao tới các thành phần của thích ứng

tâm lý: thích ứng nhận thức, thích ứng thái độ và thích ứng hành vi.

Yếu tố hành vi tích cực

Yếu tố này là khả năng cá nhân nhìn nhận về bản thân mình và huy động sự nỗ lực

ý chí thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. Dữ liệu thu được từ bẳng

3.15a cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, tự ý thức thể hiện

ra bằng các hành vi tích cực như việc cố gắng khắc phục mọi khó khăn hoặc đi đến một nơi

xa lạ không ai biết mình để sống nốt ...... Tự ý thức phải được thể hiện ra bên ngoài bằng

các hành vi tích cực, phù hợp với các chuẩn mực xã hội; và trong nghiên cứu này gọi tắt là

hành vi tích cực.

Kết quả bảng 3.15a cho thấy mô hình dự báo của hành vi tích cực (xem thêm phụ lục

3.3) đều có ý nghĩa thống kê với sig= 0,000, tức yếu tố hành vi tích cực (và các biến số của nó)

có khả năng dự báo chính xác đến thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và

hành vi của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD theo chiều thuận (giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ thuộc đều dương).

Mô hình nghiên cứu xem xét khả năng tác động

của các biến số khi chạy độ tin cậy đạt 0,63 điều này giải thích yếu tố hành vi tích cực có khả

năng dự báo có ý nghĩa thống kê đối với thích ứng tâm lý chung và từng thành phần của thích

ứng tâm lý. Dữ liệu cho thấy những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD)

có xác xuất thích ứng tâm lý bằng 29,0% những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD không thực hiện hành vi tích cực.

Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan tác động đến thích ứng tâm lý chung và từng

thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

Nhìn vào bảng 3.15b ta thấy chỉ số sig của các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới

thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD đều < 0,005 tức là các số liệu thu thập được đều có ý nghĩa về mặt thống kê và chấp

nhận được. Tuy nhiên, tác động đến các thành phần khác nhau và giữa các thành phần với

thích ứng chung cũng khác nhau. Cụ thể:

Bảng 3.15b. Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý

Nhân tố Thích ứng chung Mặt Nhận thức

Mặt Thái độ

Mặt Hành vi

Bêta Sig VIF Bêta

Sig VIF Bêta

Sig VIF Bêta Sig VIF

Trầm

-0,15 0,000 1,270

-0,19 0,002 1,270

-0,28

0,001 1,270

-0,18 0,001 1,270

cảm

Nhận

-0,18 0,001 1,294

--0,23 0,004 1,294

-0,29 0,002 1,294

-0,15 0,003 1,294

thức

HV tích

0,43 0,000 1,041

0,37 0,000 1,041

0,31

0,000 1,041

0,40 0,000 1,041

cực

Mặc

-0,22 0,003 1,170

-0,10 0,001 1,170

-0,23

0,004 1,170

-0,22

004

1,170

cảm

R2=0,39; sig=000;

R2=0,24;sig= 000;

R2=0,27; sig=000;

R2=0,35 ; sig=000;

DW=,1469

DW= 1,694

DW=1,654

DW=1,458

Các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đạt chỉ số R2= 0,39 với

sig=0,000 điều này cho thấy nếu từng yếu tố đơn biến của chủ quan tác động đến thích ứng

tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD khác biệt so với khi tổng hợp thành mô hình đa biến này. Điều này giải thích rằng khi

các yếu tố đứng một mình ( hoặc trầm cảm hoặc mặc cảm hay nhận thức sai lệch của cá nhân

về các quy định của địa phương) chưa có sự ảnh hưởng lẫn nhau sẽ tác động tới biến phụ thuộc

theo các mức độ khác nhau; và giữa các biến độc lập có sự chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau.

Dễ dàng đánh giá hiện tượng này phù hợp các quy luật của hiện thực khác quan trong mối

quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng trong cuộc sống.

Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,469 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=

0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,496 như bảng trên thì 0,340< 1,496< 1,733.

Điều này phù hợp với R2 ở trên biến độc lập tác động và ảnh hưởng đến biến phụ thuộc.

Với DW=1,496 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến độc lập.

Chính điều này mà nhóm tác giả khi nghiên cứu và thu được kết quả sẽ lưu ý trong phần

đề xuất giải pháp giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với

tái hòa nhập cộng đồng

Giá trị với sig= 0,000 chứng tỏ R2 bình phương của tổng thể khác 0. Đồng nghĩa với

mô hình hồi quy tuyến tính xây dựng được phù hợp với tổng thể thực tế

Cột hệ số Bêta > 0 của yếu tố hành vi tích cực tác động theo chiều thuận đến biến

thích ứng tâm lý chung, còn lại các yếu tố trầm cảm, mặc cảm, nhận thức có Bêta< 0,

nghĩa là các biến đó tác động theo chiều nghịch đến thích ứng tâm lý chung. Ngoài ra có

thể so sánh xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố: hệ số B càng lớn thì yếu tố đó có

mức độ ảnh hưởng càng cao đối với biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu. Yếu tố Hành

vi tích cực sẽ có ảnh hưởng và biến đổi biến phụ thuộc thích ứng tâm lý chung lớn nhất với

Bêta= 0,43, tiếp theo là nhân tố Mặc cảm với Bêta= -0,22; Nhận thức với hệ số B = -0,18;

biến Trầm cảm lại có chỉ số Bêta nhỏ nhất với Bêta= -0,15. Khi kiểm tra giả định về hiện

tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng

đại phương sai VIF (Variance inflation factor) ta thấy theo bảng 3.15b tất cả các biến đều

có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.15b cho thấy tất cả các biến của nhân tố Trầm cảm,

mặc cảm , hành vi tích cực và nhận thức đều có thể dự báo đến thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với các chỉ số

đều có ý nghĩa thống kê (sig<0,005). Tuy nhiên, tại mỗi mô hình thì các biến số đều có khả

năng dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD là khác nhau.

Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo

dưỡng về mặt nhận thức.

Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) của thích ứng nhận

thức là 0,24 và sig= 0,000, các giá trị thu được có ý nghĩa thống kê và tin tưởng được, biến

phụ thuộc thích ứng tâm lý chung được giải thích bởi các biến nhân tố độc lập. Điều này

cho thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với tập dữ liệu của mẫu ở mức chấp nhận.

Điều này được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này dễ dàng tiếp nhận sự giáo dục

từ phía gia đình và các tổ chức giáo dục khác song do lứa tuổi đang định hình và phát triển

nhân cách, chưa thể tập trung chú ý vào một đối tượng nhất định nên có thể thấy rằng

R2mặc dù nhỏ nhưng cũng đã đạt được độ tin cậy dự báo chính xác về thích ứng tâm lý với

tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt

nhận thức.

Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,694 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=

0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,694 như bảng trên thì 0,340< 1,694< 1,733.

Điều này phù hợp với R ở trên về sự tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc. Với

DW=1,694 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến độc lập. Chính

điều này mà nhóm tác giả khi nghiên cứu và thu được kết quả sẽ lưu ý trong phần đề xuất

giải pháp giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa

nhập cộng đồng về mặt nhận thức.

Các giá trị ở cột Sig. của các nhân tố đều < 0,005 chứng tỏ các biến độc lập đều tác

động có ý nghĩa thống kê đến biến phụ thuộc, các giả thiết đều được chấp nhận. Ngoài ra

có thể so sánh xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố với giá trị của cột số Bêta của

các yếu tố: Hệ số Bêta của nhân tố trầm cảm, mặc cảm và nhận thức đều < 0 tức là một số

biến trong ba nhân tố này tác động theo chiều nghịch đến biến phụ thuộc thích ứng về mặt

nhận thức. Trầm cảm có Bêta= -0,19; Mặc cảm với Bêta= -0,10 và nhân tố Nhận thức với

Bêta= -0,23, nghĩa là khi nhân tố trầm cảm, mặc cảm hoặc nhân tố nhận thức tăng/giảm 1

đơn vị thì biến Thích ứng về mặt nhận thức giảm/tăng tương ứng 1,9; 1,0 hoặc 2,3 đơn vị.

Chỉ có nhân tố hành vi tích cực tác động theo chiều thuận đến thích ứng về mặt nhận thức

với hệ số B = 0,37. Khi kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa

các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF thì tất cả các biến

đều có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo

dưỡng về mặt thái độ.

Với bảng 3.15b, hệ số Phương sai bình phương (R2) của thích ứng thái độ là 0,27

với sig= 0,000. Điều này được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này đang định hình

và phát triển nhân cách, các nhà Tâm lý học gọi đây là “giai đoạn khủng hoảng”, “thất

thường lúc nắng lúc mưa” nên có thể lúc này các em vui đấy, xong lại buồn được luôn,

chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống nên có thể các em ý thức được vị

trí của mình, các yêu cầu phải chấp hành nhưng chưa hình thành được thái độ tích cực với

việc phải chấp hành các quy định khi sinh sống tại địa phương nên có R2 đạt được độ tin

cậy dự báo chính xác về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt thái độ để có những khuyến nghị cho phù hợp

và đúng đối tượng.

Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,654 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=

0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,654 như bảng trên thì 0,340< 1,654< 1,733..

Với DW=1,654 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến độc lập.

Điều này sẽ lưu ý trong phần đề xuất giải pháp giúp người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng về mặt thái độ.

Bảng 3.15b trên, kiểm định các giả thuyết sử dụng phần mềm SPSS: các giá trị ở cột

Sig. đều <5% chứng tỏ các biến độc lập đều tác động có ý nghĩa thống kê đến biến phụ thuộc,

nghĩa là các giả thiết đều được chấp nhận. Chỉ có hệ số B của nhân tố Hành vi tích cực > 0 tức

là các nhân tố hành vi tích cực có tác động theo chiều thuận đến biến phụ thuộc là thích ứng

về mặt thái độ. Còn lại hệ số B của các nhân tố trầm cảm, mặc cảm, nhận thức đều âm với lần

lượt là -0,28; -0,23, -0,29, nghĩa là khi các biến này tác động theo chiều nghịch đến biến phụ

thuộc Thích ứng về thái độ. Kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa

các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF thì tất cả các nhân tố

đều có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo

dưỡng về mặt hành vi.

Hệ số Phương sai bình phương (R2) của thích ứng hành vi là 0,35 và sig= 0,000 cho

thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với tập dữ liệu của mẫu. Lý giải điều này bởi

đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này dễ dàng tiếp nhận sự giáo dục từ phía gia đình và các tổ

chức giáo dục khác song do lứa tuổi đang định hình và phát triển nhân cách, chưa thể tập

trung chú ý vào một đối tượng nhất định nên có thể nhận thức đúng nhưng chưa chắc đã

thể hiện ra bằng hành vi như mô hình dự định ban đầu, có thể chấp nhận được độ tin cậy

và có thể dùng để dự báo về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi từ đó có đề lưu ý trong xuất biện

pháp thích hợp nhằm nâng cao thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi.

Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,458 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=

0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,458 như bảng trên thì 0,340< 1,458< 1,733.

Biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không quyết định được biến phụ thuộc.

Bảng 3.15b trên, kiểm định các giả thuyết sử dụng phần mềm SPSS: các giá trị ở

cột Sig. Đều< 0,005 chứng tỏ các biến độc lập đều tác động có ý nghĩa thống kê đến biến

phụ thuộc. Nghĩa là các giả thiết đều được chấp nhận. Các giá trị của hệ số Bêta đều dương

chứng tỏ các biến độc lập dều có tác động đến biến phụ thuộc theo chiều thuận. Hệ số B

của biến Trầm cảm, mặc cảm và nhận thức tăng/giảm 1 đơn vị thì biến Thích ứng về mặt

hành vi tăng/giảm tương ứng 1,26; 3,14 và 2,01 đơn vị. Kiểm tra giả định về hiện tượng đa

cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương

sai VIF (Variance inflation factor) ta thấy theo bảng 3.15b tất cả các biến đều có VIF đều

bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố thuộc về chủ quan có khả năng dự

báo thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và hành vi của thích ứng

tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Trên cơ sở tập hợp kết quả quan sát và phỏng vấn sâu người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD và một số cán bộ làm công tác quản lý, giáo dục đối tượng tại địa bàn

cơ sở, khu dân cư có thể lý giải nguyên nhân của sự ảnh hưởng của các mặt chủ quan và

khách quan của người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng.

Thứ nhất, ngay ở chính bản thân mỗi người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD khi trở về địa phương sinh sống chưa thực sự cởi mở, tích cực với các hoạt động

của chính quyền địa phương tổ chức. Họ luôn tự tạo cho mình rào cản “tâm lý” như: mặc

cảm, tự ti, mình là đồ bỏ đi. Khi gặp khó khăn trong quá trình tái hòa nhập ở giai đoạn đầu

thường buông xuôi, bỏ mặc, chưa thực sự cố gắng để vượt qua, nhiều người còn đổ lỗi cho

số phận. Vẫn còn một bộ phận người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD còn

mắc bệnh ấu trĩ pháp luật nghĩa là chưa có nhận thức về pháp luật một cách đầy đủ nên

trong một số trường hợp không biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật; cũng lại có

những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD dù biết hành vi của mình là

vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình tái phạm [61, tr.27]. Điều này được thể hiện khá rõ

khi chúng tôi phỏng vấn một số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì

được trả lời rằng "Lúc đầu về, cháu ngại lắm chứ. Nhưng cô bảo chả lẽ cứ ngại thì không

làm gì à. Cuộc sống vẫn tiếp tục thì cháu vẫn phải gắng gượng mà sống. Cháu bị đi TGD

vì hành vi đánh bạc cũng chỉ là bị xử lý hành chính, không phải là án nhưng nhiều người

không biết cứ nhìn cháu như kiểu cháu đi trại chấp hành án về. Làm sao xóa bỏ được suy

nghĩ trong đầu mấy người như vậy nên cháu thấy cũng không cần thiết phải xấu hổ" (Đ.T.L,

xã Mai Sơn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình).

Đồng thời, một trong những đặc trưng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng theo kết quả quan sát được cho

thấy họ lại rất linh hoạt và khéo léo trong giao tiếp với mọi người, nhưng đồng thời rất nhạy cảm

và quan tâm thái độ của mọi người đối với mình dù chỉ là những tiểu tiết hành vi rất nhỏ. Ví dụ,

trường hợp em N. D. A (phường Trung Sơn, TP Tam Điệp, Ninh Bình): “trong một lần lao động

tại xưởng, em cố gắng để làm tốt công việc và sản phẩm của mình nhưng em nghe “lỏm” thấy

anh quản lý nhắc tới em mặc dù không có gì là xúc phạm tới em nhưng cũng có ý chưa nhìn

nhận đúng mức cố gắng của em. Em chán và không thiết phấn đấu hay thể hiện bản thân mình

nữa. Chỉ cần đạt định mức như mọi người là được, nổi trội hơn người cũng bị nghi ngờ”.

Thứ hai, để lý giải rõ hơn nguyên nhân của thực trạng người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD chưa thích ứng cao với tái hòa nhập cộng đồng nhưng lại có xác

xuất dự báo thích ứng tâm lý nhỉnh hơn so với thực tế có thể thấy rõ đó là hiệu quả của

công tác quản lý, giáo dục của cán bộ tại một số địa phương hiện nay. Qua quan sát thực

tiễn và đối chiếu với nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa

học quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ sở cho thấy cán bộ địa phương đã rất chú

trọng giáo dục pháp luật, giáo dục công dân cho các em ngay từ khi người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa phương sinh sống Kết quả nghiên cứu của tác giả

Vũ Hiền Thu (2017) cho thấy trong các nội dung giáo dục phổ biến cho người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở địa phương thì nội dung cần chú ý giáo dục pháp

luật chiếm 68% nội dung giáo dục, còn lại là giáo dục nghề, học văn hóa và các chuẩn mực

xã hội khác; coi giáo dục chuẩn mực xã hội nói chung và chuẩn mực pháp luật nói riêng là

bước đầu trang bị cho các em những nhận thức cơ bản nhất để trở thành công dân lương

thiện, có ích cho xã hội [30, tr. 93]. Cũng theo tác giả, việc giáo dục các chuẩn mực xã hội

đặc biệt là các kiến thức về chuẩn mực pháp luật cho người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD được thực hiện thông qua nhiều hình thức nhắm tránh sự đơn điệu,

nhàm chán giúp cho người được giáo dục có hứng thú tiếp thu một cách hiệu quả, dần dần

để các em thay đổi nhận thức của mình [30, tr. 122]. Đồng thời, để có thể hiểu rõ hơn sự

thay đổi nhận thức của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, đồng chí

T.P.T (Cảnh sát khu vực phường H.B, TP Uông Bí, Quảng Ninh, 37 tuổi, 17 năm công tác)

chia sẻ thêm "Đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi mới về

địa phương sinh sống, các em rất hạn chế về nhận thức pháp luật. Do trình độ hiểu biết,

do đặc điểm tâm lý lứa tuổi nên có những em mặc dù chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD về rồi mà vẫn không đồng ý với Quyết định xử lý hành chính đưa vào TGD

đối với mình, liên tục gặp và hỏi có đúng không. Chúng tôi đã lắng nghe, chia sẻ và giải

đáp những thắc mắc của các em, giúp họ dần dần nhận ra lỗi lầm của mình và tính đúng

đắn, công minh của pháp luật. Cùng với thời gian, họ cũng dần hiểu ra thể hiện qua việc

tích cực học tập, lao động và thích ứng tốt hơn với cuộc sống. Tuy rằng không phải người

nào cũng thích ứng nhanh với tái hòa nhập cộng đồng nhưng chúng tôi vẫn hết sức kiên

trì để giáo dục họ, giúp họ yên tâm phấn đấu....".

3.2.2. Dự báo yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến số thuộc về khách quan như các yếu tố thuộc

về gia đình, mối quan hệ với hàng xóm, bạn bè (gọi tắt là hàng xóm), Sự quan tâm của

chính quyền, các tổ chức xã hội (chính quyền) đều có ý nghĩa thống kê với chỉ số sig<

0,005 (xem thêm phụ lục 3.3; 3.4; 3.5) cho thấy có khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý

chung và các thành phần của thích ứng tâm lý và khả năng dự báo chính xác cao. Điều đó

có nghĩa là các yếu tố như gia đình, hàng xóm, chính quyền có khả năng dự báo thích ứng

tâm lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Tuy nhiên, không phải tất cả các biến số

đều có khả năng tác động đến thích ứng tâm lý chung và có khả tác động đến tất cả các mặt

biểu hiện của thích ứng tâm lý.

Kết quả nghiên cứu từ bảng 16a cho thấy các biến số thuộc về các yếu tố khách quan

như yếu tố thuộc về gia đình, yếu tố hàng xóm, xã hội đều có ý nghĩa thống kê với chỉ số

sig < 0,005 (xem thêm phụ lục 3.3; 3.4; 3.5) cho thấy có khả năng dự báo tới thích ứng tâm

lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý. Tuy nhiên, không phải tất cả các biến số đều

có khả năng tác động như nhau đến thích ứng tâm lý chung và có khả tác động đến tất cả

các mặt biểu hiện của thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD.

Bảng 3.16a. Dự báo từng yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý

Nhân

Thích ứng chung

Mặt Nhận thức

Mặt Thái độ

Mặt Hành vi

tố

Bêta

Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta Sig VIF

0,427 0.000 1,000 0,214 0,004 1000 0,363 0,000 1,000 0,473 0,000 1,000

Gia

R2= 0,224; sig=0,000 R2= 0,108; sig=0,004 R2 = 0,126; sig=0,000 R2= 0,219; sig=0,000

0,115 0,001 1,000 0,115 0,001 1,000 0,157 0,001 1,000 0,275 0,000 1,000

đình

R2= 0,174; sig=0,001 R2= 0,107; sig=0,001 R2= 0,109; sig=0,001 R2= 0,103; sig=0,000

Hàng

0,478 0,000 1,000 0,301 0,000 1,000 0,371 0,000 1,000 0,512 0,000 1,000

xóm

R2= 0,102; sig=0,000 R2= 0,185; sig=0,000 R2= 0,132; sig=0,000 R2= 0,168; sig=0,000

hội

Dự báo yếu tố Gia đình tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Trong khảo sát nghiên cứu về tái hòa nhập của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD thì gia đình, đặc biệt là mối quan hệ với gia đình ảnh hưởng đến thích

ứng tâm lý chung và cả ba thành phần của thích ứng tâm lý với p đều có ý nghĩa về mặt

thống kê (sig < 0,001). Tuy nhiên, mỗi biểu hiện lại có sự ảnh hưởng riêng đến từng thành

phần khác nhau. Theo đó, sự động viên, an ủi của gia đình để “gia đình giúp tôi có việc

làm” đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả năng dự báo

giúp cho họ thích ứng tâm lý. Với Bêta = 0,427; sig=0,000 là dự báo sự tác động của gia

đình đến thích ứng tâm lý chung, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với dự báo tác động đến thích

ứng về mặt hành vi với Bêta= 0,473 và sig= 0,000, tiếp theo là tác động đến thích ứng về

thái độ (Bêta=0,363), cuối cùng là tác động đến thích ứng về nhận thức có Bêta=0,214..

Đây là biểu hiện có mức dự báo tới thích ứng về hành vi cao nhất trong các biểu hiện

Như vậy, gia đình của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả

năng dự báo các thành phần thích ứng tâm lý, trong đó mức dự báo có khả năng tác động

lớn nhất là thích ứng về hành vi, tiếp theo là dự báo tác động tới thích ứng tâm lý chung.

Có thể lý giải nguyên nhân yếu tố gia đình của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD dự báo tới khả năng thích ứng tâm lý của họ nói chung và tới các thành phần

thích ứng tâm lý như sau:

Thứ nhất, bản thân người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa

phương việc đầu tiên phải chấp hành các quy định của cộng đồng sinh sống: ra trình diện,

nội Quyết định đã chấp hành xong, thực hiện các thủ tục hành chính, đăng ký sinh hoạt bắt

buộc... nên thời gian đầu gia đình phải hướng dẫn chủ yếu về mặt hành vi cho cac em để

nhanh chóng làm đúng thủ tục pháp lý.

Thứ hai, không phải tất cả người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

đều duy trì mối liên hệ, được gặp gỡ gia đình trong suốt thời gian ở TGD theo quy định.

Thực tế, công tác tổ chức, phối hợp giáo dục học sinh TGD với gia đình các em tuy có hiệu

quả nhưng vẫn còn hạn chế. Theo tác giả Đỗ Thị Thu Trang (2017) thì việc tổ chức các

"Hội nghị gia đình học sinh" được tổ chức hàng năm ở các TGD nhưng khôgn phải gia

đình nào cũng hưởng ứng và cam kết thực hiện. Do điều kiện kinh tế khó khăn, nhiều gia

đình học sinh không có điều kiện để phối hợp, thăm gặp, động viên các em; thậm chí có

những em không có người thăm nuôi, gửi thư, quà. Đặc biệt, theo tác giả, nhiều gia đình

học sinh TGD do chưa hiểu trách nhiệm của mình trong công tác phối hợp giáo dục con

em mình nên vẫn có trường hợp người nhà tiếp tay cho các em trốn khỏi TGD hay vi phạm

nội quy TGD, cất giấu đồ vật cấm, ma túy, tiền trong đồ thăm gặp [44, tr.82]. Nên khi các

em về địa phương gia đình chưa thể trở thành điểm tin cậy an toàn, gần gũi để chia sẻ, động

viên, giúp các em có nhận thức đùng đắn, hình thành thái độ tích cực mà mới chỉ hướng

dẫn hành vi theo tình huống nhất thời, đối phó. [44]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ

nghiên cứu về thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

với chấp hành các quy định của địa phương nên có thể thấy những tác động, ảnh hưởng

của gia đình các em tới khả năng thích ứng tâm lý của các em thực sự mạnh mẽ, theo chiều

thuận với tất cả các chỉ số Bêta đều dương (>0).

Theo đó, sự thông cảm, động viên, an ủi và chia sẻ của gia đình đối với người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD trong tái hòa nhập cộng đồng có khả năng dự

báo giúp cho họ thích ứng về nhận thức tốt hơn, thái độ tích cực hơn trong việc chấp hành

các quy định tại địa phương sinh sống trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Mặc dù dự

báo thích ứng về mặt nhận thức chưa cao nhưng các số liệu có ý nghĩa thống kê nên vẫn

được chấp nhận để sau khi loại hết các biến nên ta thấy Gia đình vẫn và sẽ là điểm tựa và

nơi an toàn nhất cho người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Hơn nữa, Khi so sánh điều kiện kinh tế gia đình với việc thích ứng với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cũng cho thấy kinh tế

gia đình gặp khó khăn, thì các thành viên trong gia đình chưa có nhiều thời gian và điều kiện

để phối hợp, động viên người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Đặc biệt, theo

tác giả, nhiều gia đình người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD còn chưa hiểu

trách nhiệm của mình trong công tác phối hợp giáo dục người thân của mình với các tổ chức

xã hội, chính quyền địa phương nên vẫn có trường hợp người nhà “vô tình” tiếp tay và đẩy

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD vi phạm nội quy địa phương.

Những nguyên nhân này được mô tả rõ hơn khi chúng tôi người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD chia sẻ " Phần lớn chúng cháu đã về đến đây đều tin tưởng

ở gia đình ở rất nhiều và muốn làm lại từ đầu để chứng minh cho mọi người hiểu chúng cháu

chưa phải là đồ bỏ đi, nếu không bọn cháu đã bỏ đi thật xa. Nên có rất nhiều đứa chúng cháu

phải chấp nhận mất thời gian đầu ở địa phương là khó khăn nhưng đã lường hết trước và

mong mọi người chấp nhận chúng cháu. Cháu về cũng được hơn năm, gần 2 năm rồi nên cũng

dần quen, cố gắng lao động, không vi phạm nội quy đảm bảo ngày công, chất lượng sản phẩm.

Cháu cứ tự nhủ cố gắng không làm gì để người thân phiền lòng thêm cô ạ!...." (N. H. V. huyện

Bố Trạch, Quảng Bình)

Từ đây có thể hiểu, việc người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD phải tự

quyết định trong việc thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của mình với các quy định của

địa phương mà không thể lệ thuộc vào bất cứ yếu tố nào kể cả gia đình rất phù hợp với

luận điểm trong Tâm lý học Hoạt động là yếu tố quyết định đối với sự hình thành và phát

triển tâm lý cá nhân. Những yếu tố còn lại như môi trường sống, giáo dục, bẩm sinh... có

tác động nhưng không thể thay thế được vai trò của bản thân cá nhân đó. Trước pháp luật

thì mọi cá nhân đều công bằng với nhau nên thực tế này lại tạo nên động lực để người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tự khẳng định mình trong cuộc sống xã hội với

thích ứng tốt hơn về nhận thức, thái độ, hành vi.

Dự báo yếu tố Hàng xóm tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Dữ liệu nghiên cứu ở bảng 3.16a cho thấy yếu tố hàng xóm và các mối quan hệ với

bạn bè cho thấy khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng theo chiều thuận với Bêta>0 và sig<0,005.

Từ đây có thể thấy sự chia sẻ, động viên của hàng xóm, bạn bè là vô cùng cần thiết

đối với người người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ngoài quan hệ trong

gia đình của họ, Tuy nhiên, hàng xóm và bạn bè không thể dễ dàng chia sẻ, cảm thông và

ngay lập tức có ảnh hưởng tích cực để người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD thích ứng với cuộc sống ở cộng đồng. Bản thân người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD khi về địa phương sinh sống cũng mang sẵn mặc cảm tự ti với tất cả

mọi người xung quanh nên nếu các em nhận được sự chia sẻ, động viên, an ủi của những

người ngoài gia đình thì hoặc các em nghi ngờ (thích ứng tâm lý thấp) hoặc các em vui vẻ

nhanh chóng hòa nhập cuộc sống (thích ứng tâm lý cao). Thực tế thì xác xuất xuất hiện sự

thích ứng tâm lý cao thấp hơn so với thích ứng thấp và theo chiều tác động. Tuy nhiên, yếu

tố hàng xóm và mối quan hệ với bạn bè cho thấy dự báo khả năng tác động tới thích ứng

tâm lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý.

Kết quả nghiên cứu ở trên càng được khẳng định và làm rõ hơn khi nhóm nghiên

cứu chúng tôi tiến hành trao đổi, phỏng vấn các em khi các em thực hiện hoạt động lao

động hay học tập. Chúng tôi trao đổi, phỏng vấn những người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD khi họ mới về địa phương và bắt đầu những buổi đầu học tập hoặc

lao động. Thông thường, việc đầu tiên các em sẽ làm quen và tìm hiểu những “người bạn

mới” của mình,tự tạo ra những “không gian văn hóa”, sinh hoạt riêng đặc thù của các em

như: hỏi han về gia đình, lý do vào TGD, quá trình sinh sống trong TGD.... và các em cũng

họ chia sẻ và quy tắc ứng xử với nhau trong tập thể hay lớp học này... Đây là môi trường

sống ngoài gia đình nên các em có tâm thế “đề phòng”, “cảnh giác” cao. Qua môi trường

này, các em học được cách kiểm soát và cân bằng cảm xúc của bản thân sao cho phù hợp

với yêu cầu của địa phương (về vấn đề này, nhóm nghiên cứu chúng tôi sẽ đề cập và nghiên

cứu sâu hơn ở một nghiên cứu khác bên ngoài luận án). Đây được coi là nguyên nhân lý

giải về sự ảnh hưởng của yếu tố hàng xóm và các quan hệ bạn bè của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ảnh hưởng thuận đến các mặt trong thích ứng tâm lý:

nhận thức, thái độ và hành vi.

Kết quả nghiên cứu ở trên có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ

Văn Hòa ở góc độ Quản lý nhà nước về An ninh trật tự với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong án phạt tù khi cho rằng ảnh hưởng của hàng xóm và bạn bè ở địa

phương không mạnh bằng sự quan tâm của gia đình [18]. Thực trạng nghiên cứu này có

phần tương đồng với những kết quả quan sát được khi các em tham gia học tập hay thực

hiện quan hệ xã hội, các em đều thể hiện sự bình ổn, kiểm soát cảm xúc, ít có hành vi a dua,

chỉ trả lời chung chung khi được hỏi về những bạn bên cạnh rằng "cháu thấy bạn ấy cũng ổn

mà”, “cháu chưa hiểu hết về bạn ấy” hay cười và im lặng mà thực tế có thể họ chưa hài lòng về

bạn. Đây là thực tế cuộc sống thường ngày vẫn diễn ra tại các lớp học hay tập thể này. Các em

phải chấp hành nội quy địa phương chính là cách để các em thích ứng tâm lý được với tái hòa

nhập đôi khi, các mối quan hệ với hàng xóm và bạn bè tạo cho các em sự chưa dễ chịu.

Thực tế những nhóm hay lớp học, tập thể kiểu này chủ yếu là dành cho những người vi

phạm pháp luật, nên họ sống với nhau theo cách không hoàn toàn tin tưởng và phòng thủ về tâm

lý với nhau, những xung đột, mâu thuẫn hàng ngày nảy sinh do sự thiếu hụt giao tiếp với bên

ngoài, do sự thiếu hụt kiến thức về các chuẩn mực xã hội.... Tất cả sẽ tạo nên áp lực không nhỏ

đến sự thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khi về

địa phương. Các em phải chấp nhận và thích ứng tâm lý với những quy luật này để tồn tại và

sinh sống trở thành người lương thiện trong xã hội.

Dự báo yếu tố xã hội tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng

Dữ liệu nghiên cứu ở bảng 3.16b cho thấy yếu tố xã hội (Chính quyền và các tổ

chức xã hội) có khả năng dự báo tới cả thích ứng tâm lý chung và ba thành phần thích ứng

tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với cuộc sống ở địa

phương và đều tác động theo chiều thuận thể hiện ở chỉ số sig có ý nghĩa thống kê đều

=0,000 và Bêta lần lượt là 0,478; 0,301, 0,371 và 0,512. Theo đó yếu tố xã hội có khả năng

dự báo tác động mạnh nhất tới thích ứng về hành vi (giống yếu tố Gia đình đã phân tích ở

trên); khi biến chính quyền tăng/giảm 1 đơn vị thì biến hành vi tăng/giảm 5,12 đơn vị và

ARS= 0,168 cũng ở mức cao; tiếp theo là khả năng dự báo tác động tới thích ứng chung và

thấp nhất là khả năng dự báo tác động tới thích ứng về nhận thức. Như vậy, có thể thấy,

yếu tố chính quyền với những công cụ và quyền lực của mình tuy không cho khả năng dự

báo thích ứng tâm lý chung cao nhất nhưng lại tác động mạnh mẽ nhất tới thích ứng về

hành vi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo chiều hướng chấp

nhận và làm theo. Kết quả này cùng với những kết quả quan sát mà chúng tôi thu được cho

thấy sự quan tâm của các tổ chức xã hội và những người có trách nhiệm ở địa phương đã có sự

cải thiện trong những năm qua. Thay vì mờ nhạt, giao tiếp theo cách giao tiếp xã giao thủ tục

hành chính thông thường là chủ yếu, thì bây giờ đa số các địa phương đã có cán bộ chuyên trách

(Phó chủ tịch phường/xã phụ trách mảng xã hội của địa phương, Cảnh sát khu vực, Đoàn thanh

niên, Hội phụ nữ...) nên giao tiếp có tính chất chia sẻ, động viên giúp đỡ là nguyên tắc hàng đầu.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi được lý giải rõ hơn khi phỏng vấn một số người người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD “Ban đầu cháu rất ngại giao tiếp với các cô chú

đến hỏi thăm khi cháu mới về, cháu thường “né”, tránh tiếp xúc. Sau vài lần cháu thấy cũng đỡ

và hiểu dần các cô chú ấy” ( T.H.Q Lộc Bình, Lạng Sơn) hay “... khi mọi người đến nhà cháu

và giao tiếp, cháu thường nghĩ cách đối phó. Nhờ người nhà cháu giải thích cháu thấy yên tâm

dần và tin tưởng các cô chú ấy” (Đ.A.T phường Thổ Quan, Đống Đa, Hà Nội) . Điều này cho

thấy, các em luôn tạo một khoảng cách tâm lý nhất định đối với tất cả cán bộ của địa phương,

thậm chí cả bạn bè và có ảnh hưởng tới thích ứng với tái hòa nhập của các em. Chia sẻ với chúng

tôi về điều này, chị N.T.H, Phó chủ tịch Hội phụ nữ phường đã có thời gian tham gia công tác

Hội 22 năm cho biết thêm "Các chị em chúng tôi ở đây gắn bó với công việc Hội và trách nhiệm

thực sự. Khi địa phương có cháu bị đi TGD chị em lại đặt ra vấn đề trong cách nuôi dạy và công

tác bảo vệ trẻ em chưa được an toàn và thấy có phần trách nhiệm của mình. Do đó, chúng tôi

luôn hết sức tận tâm, chu đáo và nhiệt tình trong công tác giáo dục lại khi các cháu được trở về

địa phương sinh sống. Bằng nhiệt huyết của mình, chúng tôi đã giúp đỡ nhiều cháu làm quen,

thích nghi, ổn định cuộc sống qua trao đổi, chia sẻ, động viên kịp thời các chấu. Tuy nhiên, mỗi

cháu có hoàn cảnh, lý do khác nhau, mặc cảm tự ti sẵn nên chị em chúng tôi cũng phải tham

mưu, đề xuất chính quyền địa phương tổ chức diễn đàn, hường dẫn động viên kịp thời những

mong các cháu tiến bộ”

Như vậy, trên cơ sở phân tích các yếu tố gắn với môi trường dự báo tới các thành phần

của sự thích ứng tâm lý có thể tóm tắt thành một số điểm chính như sau:

Một là, các yếu tố thuộc về gia đình và xã hội của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD dự báo khả năng tác động đến tất cả các thành phần thích ứng tâm lý của

các em. Trong đó, khả năng dự báo tác động mạnh nhất là tới thích ứng về hành vi, sau đó là

thích ứng chung.

Hai là, mối quan hệ với hàng xóm và bạn bè của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD cho thấy khả năng dự báo tác động theo chiều thuận tời mặt nhận thức ,

còn lại tác động theo chiều nghịch.

Ba là, tổ chức xã hội và chính quyền là yếu tố dự báo cao nhất tới thích ứng tâm lý của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Các yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

Theo lý thuyết của Tremblay (1992), tác giả nêu ra các yếu tố gắn với môi trường

ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý là điều kiện xã hội vi mô, điều kiện xã hội vĩ mô. Trong

nghiên cứu này, chúng tôi nghiên cứu các yếu tố gắn với môi trường vi mô đó là các mối

quan hệ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng

đồng như: mối quan hệ với gia đình, mối quan hệ với bạn bè, hàng xóm và mối quan hệ

với các tổ chức xã hội và chính quyền.

Kết quả nghiên cứu dự báo các yếu tố gắn với hoạt động và môi trường sống của cá

nhân tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD sau khi sử dụng mô hình Hồi quy tuyến tính và đã loại bớt đi các biến

số dự báo không tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi thu được kết quả như ở bảng 3.16b

Bảng 3.16b. Dự báo các yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý

Nhân

Thích ứng chung

Mặt Nhận thức

Mặt Thái độ

Mặt Hành vi

tố

Bêta

Sig VIF Bêta

Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta

Sig VIF

0,290 0,000 1,161 0,137 0,004 1,161 0,256 0,001 1,161 0,320 0,000 1,161

Gia

0,017 0,004 1,034 0,179 0,001 1,034 0,080 0,002 1,034 0,104 0,000 1,034

đình

Hàng

0,370 0,000 1,161 0,279 0,000 1,161 0,265 0,001 1,161 0,379 0,000 1,161

xóm

hội

R2= 0,129;sig=0,004;

R2= 0,118; sig=0,004;

R2= 0,189; sig=0,002;

R2= 0,256;sig=0,000;

DW=1,611

DW=1,589

DW=1,600

DW=1,644

Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) là 0,129 và sig, 0,004.

Kết quả này chấp nhận được và điều này cũng được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa

tuổi này ở các em là tính thất thường, dễ bốc đồng, dễ bị kích động bởi các yếu tố trong

môi trường sống. Cả 3 yếu tố thuộc về khách quan đều có tác động theo chiều thuận đến

thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với giá

trị tương ứng của Bêta>0 . Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về khách quan tác động đến thích

ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là R2=0,129 và

sig= 0,004 đều là những giá trị có ý nghĩa thống kê. Kiểm tra giá trị VIF đều < 2 tức là không

có hiện tượng đa cộng tuyến.

Các yếu tố thuộc về khách quan dự báo tác động thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo

dưỡng về mặt nhận thức.

Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) thích ứng nhận thức

đạt 0,118 và sig= 0,004 điều này cho thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với tập

dữ liệu của mẫu và các số liệu thu được có ý nghĩa về mặt thống kê. Khi thu được kết quả

bảng 3.16b tác giả đã phải loại bỏ bớt một số biến trong các yếu tố không có tác động dự

báo biến phụ thuộc về mặt nhận thức.

Như vậy nhìn vào trên ta thấy cả 3 yếu tố đều có tác động theo chiều thuận đến thích

ứng tâm lý về mặt nhận thức. Cụ thể yếu tố chính quyền có ảnh hưởng nhiều nhất với Bêta=

0,279 và sig= 0,000 tức là yếu tố chính quyền tăng/giảm 1 đơn vị thì thích ứng tâm lý về

nhận thức tăng/giảm 2,79 đơn vị; tiếp theo là yếu tố hàng xóm tăng/giảm 1 đơn vị thì thích

ứng tâm lý về nhận tăng/giảm 1,79 đơn vị; biến là Gia đình khả năng dự báo có ý nghĩa

thống kê đối với biến phụ thuộc là thích ứng về mặt nhận thức theo tỉ lệ 1: 1,37 đơn vị.

Như vậy các yếu tố thuộc môi trường sống đều có khả năng dự báo thích ứng về mặt nhận

thức với tái hòa nhập cộng đồng của NCHXBPXLHC đưa vào TGD.

Các yếu tố thuộc về khách quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo

dưỡng về mặt thái độ.

Với bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) thích ứng thái độ là 0,189

và sig= 0,002 biến thiên của biến phụ thuộc thích ứng về mặt thái độ được giải thích bởi

các biến nhân tố độc lập. Điều này cho thấy mô hình hồi quy tuyến tính này phù hợp với

tập dữ liệu của mẫu. Thích ứng về mặt thái độ đạt đến độ chặt. Điều này cũng được lý giải

bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này đang định hình và phát triển nhân cách. Tâm lý các

em ở giai đoạn này mặc dù đã có chính kiến của chính mình từ những kinh nghiệm của bản

thân cá nhân và lĩnh hội từ nhừng giai đoạn trước nhưng các em vẫn chịu tác động rất nhiều

từ môi trường sống. Do vậy tính cách thay đổi thất thường, lúc “nắng”, lúc ”mưa” nên các

nhà Tâm lý học gọi đây là “giai đoạn khủng hoảng”.

Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,600 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=

0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,600 như bảng trên thì 0,340< 1,600< 1,733.

Điều này phù hợp với R2 ở trên. Với DW=1,600 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không

quyết định được biến độc lập. Chính điều này mà nhóm tác giả khi nghiên cứu và thu được

kết quả sẽ lưu ý trong phần đề xuất giải pháp tác động đến các yếu tố thuộc về khách quan

giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hòa nhập cộng

đồng về mặt thái độ.

Từ Bảng 3.16b trên, kiểm định các giả thuyết sử dụng phần mềm SPSS: các giá trị

ở cột Sig. đều < 0,005 chứng tỏ các biến độc lập đều tác động có ý nghĩa thống kê đến biến

phụ thuộc. Nghĩa là các giả thiết đều được chấp nhận. Giá trị Bêta dương, điều này chứng

tỏ các biến độc lập có tác động thuận đến biến phụ thuộc là thích ứng về mặt thái độ.

Khi kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc

lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance inflation factor) ta

thấy theo bảng 3.16b tất cả các biến đều có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ không có hiện

tượng đa cộng tuyến.

Các yếu tố thuộc về khách quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường

Giáo dưỡng về mặt hành vi.

Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương (R2) là 0,256 và sig= 0,000

điều này cho biết các giá trị thu được có ý nghĩa về mặt thống kê, biến thiên của biến phụ

thuộc thích ứng về mặt hành vi được giải thích bởi các biến nhân tố độc lập. Điều này cũng

được lý giải bởi đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này dễ dàng tiếp nhận sự giáo dục từ phía

gia đình và các tổ chức giáo dục khác song do lứa tuổi đang định hình và phát triển nhân

cách, chưa thể tập trung chú ý vào một đối tượng nhất định nên nhiều khi nhận thức đúng,

có thái độ tích cực với các quy định của địa phương song khi thể hiện ra bên ngoài bằng

hành vi vẫn chưa có sự thống nhất với mặt nhận thức, thái độ. Kết quả này có thể chấp

nhận được và có thể dùng để dự báo về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi để từ đó có đề xuất

biện pháp thích hợp nhằm nâng cao thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi nói riêng góp phần nâng cao

thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD.

Với hệ số tự tương quan DW=1,644 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không

quyết định được biến phụ thuộc.

Kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan giữa các biến độc lập)

thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance inflation factor) ta thấy tất

cả các yếu tố đều có VIF nhỏ hơn 2 chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Như vậy, trên cơ sở phân tích các yếu tố thuộc về khách quan dự báo ảnh hưởng tới thích

ứng tâm lý chung và các thành phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD có thể tóm tắt thành một số điểm chính như sau:

Một là, yếu tố gia đình và xã hội của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD dự báo khả năng tác động đến tất cả các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Trong đó, khả năng

dự báo tác động mạnh nhất là tới thích ứng về hành vi, sau đó là thích ứng về thái độ.

Hai là, yếu tố hàng xóm, bạn bè cho thấy khả năng dự báo tác động tới thích ứng với tái

hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về cả 3 mặt

của thích ứng tâm lý và thích ứng chung.

3.2.3. Tổng hợp mô hình dự báo các yếu tố tác động đến thích ứng tâm lý với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường

giáo dưỡng

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu ở trên về các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với

tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể

tổng hợp ở bảng 3.17 dưới đây:

Bảng 17. Tổng hợp mô hình các yếu tố dự báo

Nhân

Mặt Nhận thức

Mặt Thái độ

Mặt Hành vi

Thích ứng chung

tố

Bêta Sig VIF Bêta

Sig VIF Bêta Sig VIF Bêta Sig VIF

-0,23 0,000 1,154

-0,11

0,001 1,154

-0,24 0,003 1,154

-0,26 0,004 1,154

Trầm cảm

Nhận

-0,27 0,002 1,234

-0,10

0,001 1,234

-0,12 0,004 1,234

-0,16 0,002 1,234

thức

Hành vi

0,35

0,000 1,637

0,22 0,002 1,637 0,26

0,000 1,637 0,32

0,000 1,637

tích cực

-0,17 0,001 1,522

-0,19 0,002 1,522

-0,15 0,002 1,522

-0,18 0,004 1,522

Mặc cảm

0,18

0,001 1,584

0,11 0,001 1,584 0,15

0,002 1,584 0,18

0,002 1,584

Gia đình

0,26

0,000 1,493

0,24 0,004 1,493 0.11

0,000 1,493 0,19

0,002 1,493

Hàng xóm

0,22

0,002 1,569

0,23 0,002 1,569 0,33

0,000 1,569 0,32

0,000 1,569

Xã hội

R2= 0,33;sig= 0,000;

R2= 0,33; sig=0,000;

R2= 0,49; sig=0,000;

R2= 0,49; sig=0,000;

DW=1,561

DW=1,664

DW=1,511

DW=1,531

Kết quả cho thấy cả 6 yếu tố của mô hình đa biến đều có ý nghĩa thống kê với sig

=0,000(< 0,005). Các yếu tố thuộc về chủ quan cá nhân như Trầm cảm, mặc cảm, nhận

thức hay hành vi tích cực đến các yếu tố thuộc về khách quan như việc Gia đình, hàng

xóm, xã hội đều có khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Cụ thể dữ liệu nghiên cứu cho thấy các yếu tố thuộc về khách quan cá nhân có tác động

tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD mạnh hơn là các yếu tố thuộc về chủ quan. Các giá trị Bêta dương tức là tương

quan biến đổi theo chiều thuận thể hiện ở các yếu tố hành vi tích cực; gia đình; hàng xóm và

xã hội; các yếu tố Trầm cảm; mặc cảm và nhận thức có Bêta < 0 tức là tác động ảnh hưởng

theo chiều nghịch. Điều này mới thấy sự tác động lẫn nhau giữa các nhân tố trong quá trình

tác động đến các biến phụ thuộc nghiên cứu. Với người chấp hành xong biện pháp XLHC

đưa vào TGD những tác động từ môi trường sống có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống

nói chung và tái hòa nhập nói riêng của họ.

Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Hiền Thu (2017) có

căn nguyên từ tâm lý lứa tuổi, tâm lý của người “có vết”. Đó là xu hướng hướng ra bên

ngoài nhưng lại vướng mặc cảm, tự ti; bản thân các em rất mong muốn mọi người trong xã

hội, những người sống xung quanh xóa bỏ định kiến đối với “vết” của các em, trông chờ

sự hỗ trợ, giúp đỡ cảm thông của người thân trong gia đình, chính quyền, các tổ chức xã

hội, hướng dẫn để các em hình thành thói thực hiện các nội quy của địa phương để thích

ứng được với môi trường sống [3].

Từ kết quả nghiên cứu về các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng

đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có thể rút ra một số điểm

chính như sau:

Khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì tất cả các yếu tố mà nhóm nghiên cứu

đưa ra dự báo tới thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tuy nhiên mức độ khác nhau. Các yếu tố thuộc về

chủ quan dự báo mạnh hơn các yếu tố thuộc về khách quan. Xét theo từng yếu tố riêng lẻ

thì yếu tố hành vi tích cực tác động đồng đều và mạnh nhất tới thích ứng tâm lý chung và

từng thành phần thích ứng tâm lý. Các yếu tố còn lại cho thấy khả năng dự báo nhưng mức

độ thấp hơn tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Các yếu tố thuộc về chủ quan dự báo tác động đến thích ứng tâm lý chung và các

thành phần của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD tuy nhiên chưa đồng đều và chưa thể hiện tính quyết định

trong tương quan với các yếu tố thuộc về khách quan nhưng không thể thiếu. Điều này lý

giải từ quan điểm của Tâm lý học hoạt động đó là hành vi của con người chịu sự định

hướng điều khiển điều chỉnh của tâm lý chính họ; mà tâm lý con người hình thành và phát

triển được quyết định bởi hoạt động của cá nhân và có nguồn gốc từ môi trường sống. Đây

là mối quan hệ biện chứng có tính quyết định giải thích tất cả hành vi của con người. Mà

thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng là qúa trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi đời

sống tâm lý để thay đổi hành vi cho phù hợp với cộng đồng. Đồng thời, khi chấp hành

xong thời gian ở TGD quay trở về địa phương, họ phải đối diện với những phức tạp, thách

thức và khó khăn tâm lý do môi trường sống thay đổi, sự nhìn nhận của xã hội... nên tạo

ra những áp lực rất lớn tới đời sống tinh thần của họ, buộc họ vừa phải thích ứng với những

yêu cầu có tính chất bắt buộc của nhóm, cộng đồng xã hội mà họ sinh sống vừa phải linh

hoạt trong ứng xử. Trong những thay đổi như vậy buộc người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD phải tự mình tìm ra cơ chế, cách thức riêng để có thể thích ứng được

với những yêu cầu của cộng đồng vừa thích ứng được với các mối quan hệ phức tạp của cá

nhân.

3.3. Nghiên cứu trường hợp thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng

3.3.1. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ cao.

3.3.1.1. Mô tả trường hợp.

Họ và tên: N.T.T. (tên được giấu); Năm sinh: 2001

Quê quán: xã Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên

Thời gian chấp hành ở TGD: 24 tháng

Thời gian đã về địa phương sinh sống: 3 năm 3 tháng

ĐTB tự đánh giá thích ứng tâm lý: 3,62/4,00 điểm

Kinh tế gia đình: Đủ ăn

Đang sinh sống tại Hà Nội

N.T.T đang là nhân viên làm việc tại chuỗi cửa hàng KOTO tại Hà Nội. T được đào

tạo và giao nhiệm vụ là nhân viên chạy bàn tại Nhà hàng số 59- Văn Miếu, Hà Nội. Năm

2015, N.T.T nhận quyết định Xử phạt hành chính đưa vào TGD của Tòa án nhân dân huyệ

nhận thức, n Đại Từ, Thái Nguyên với hành vi vi phạm là Trộm cắp tài sản. Quá trình học

tập và rèn luyện tại TGD số 2 ở Ninh Bình, T nhận thức được lỗi của mình, yên tâm học

tập cải tạo tốt. Kết quả T được Trung tâm dạy nghề nhân đạo KOTO xét chọn đào tạo và

hướng nghiệp để làm việc tại chuỗi nhà hàng của trung tâm. Sau khi chấp hành xong tại

TGD số 2, T được Trung tâm KOTO bố trí ăn, ở và học tập tại Trung tâm. Trải qua thời

gian thử thách, thăm dò, quan sát và được đánh giá về các tiêu chí như phẩm chất, thái độ

và hành vi chấp hành nội quy tốt, không vi phạm nội quy của Trung tâm. Có thái độ thành

khẩn, cầu thị, lễ độ trong giao tiếp và ứng xử với cán bộ và những học viên khác, T được

đào tạo nghề và tiếng Anh giao tiếp 1 năm, được bố trí vào làm việc tại chuỗi nhà hàng tại

Hà Nội. Hiện nay T tự tin sống bằng lao động chân chính của mình tại nhà hàng của Trung

tâm. Chúng tôi quan sát thấy T rất nhanh nhạy, chủ động trong các công việc được giao,

hòa nhã giao tiếp với khách hàng và đồng nghiệp. Theo các tiêu chí đánh giá N.T.T có sự

thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD và thể hiện ở thích ứng về từng mặt nhận thức, thái độ và hành vi đều ở mức khá cao

và đồng đều. Kết quả tự đánh giá về thích ứng tâm lý từng thành phần cụ thể sau: thích ứng

về nhận thức: ĐTB là 3,74; thích ứng về thái độ: ĐTB là3,62; thích ứng về hành vi: ĐTB

là 3,50. Các biểu hiện thích ứng tâm lý của N.T.T với tái hòa nhập cộng đồng của người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD như sau:

Thích ứng về nhận thức:

Qua quan sát thực tiễn và phỏng vấn có thể thấy N.T.T là một trong số ít những

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD hiện đang lao có công ăn việc làm

khá ổn định. Tự chắt chiu, chi tiêu, làm chủ cuộc sống của mình bằng lao động chân chính.

T thỏ thẻ “ trước tết em gửi biếu bà ngoại và mẹ em 3 triệu đồng, đây là lần đầu tiên em

có tiền biếu người thân yêu nhất để bắt đầu cuộc sống hồi sinh của em”. L.P.A là đồng

nghiệp của T nhận xét “T tự giác làm việc, rất có ý thức chấp hành tốt quy định của Nhà

hàng, có thái độ ứng xử với khách hàng và đồng nghiệp phù hợp. Đặc biệt với các công

việc được chị Nhóm trưởng giao, T luôn chủ động hỏi và tập trung hoàn thành tốt nhất có

thể”. Trao đổi với nhóm nghiên cứu chúng tôi, anh Phạm Anh Tuấn- người sáng lập và gây

quỹ của tổ chức KOTO cho biết: "Thời gian đầu mới vào trung tâm, T cũng như một số

học sinh TGD được lựa chọn vào đào tạo tại trung tâm còn hoang mang, dao động vì không

hiểu tương lai mình có thực sự được thay đổi và đặc biệt còn dè dặt trong giao tiếp với

nhân viên của trung tâm. Hoàn cảnh gia đình T cũng khá đặc biệt, 1 mẹ, 1 con ở với bà

ngoại, bố mẹ bỏ nhau và bố lấy vợ khác từ khi T còn nhỏ. Trong thời gian ở TGD bố gần

như không thăm gặp, gửi quà, chỉ có mẹ em thỉnh thoảng tới thăm. Khi chúng tôi hỏi han

và động viên em đã phá bỏ dần những rào cảm tâm lý và kết quả thay đổi như bây giờ ".

Với hoàn cảnh đặc biệt như vậy nên khi trao đổi với chúng tôi, T chia sẻ "ở đây trước mắt

vẫn vất vả và thiếu thốn cô ạ. Nhưng em đã coi đây là nơi em được sinh ra lần thứ 2 em sẽ

cố gắng vượt qua để góp sức vào xây dựng trung tâm để cho nhiều em có hoàn cảnh như

em có cơ hội làm lại”

“Hồi mới đến chấp hành ở TGD, cháu nghĩ “vào tù” là hết, tưởng không thể vượt

qua giai đoạn này. Vì nhà cháu không có người thăm gặp mấy nên cháu cứ học tập và rèn

luyện cho tốt, thành khẩn và chân thành, trung thực với các thầy cô giáo". Như vậy, sự

thay đổi trong cách nghĩ, sự nhận thức đúng đắn của N.T.T đã giúp em có được sự tự tin,

xóa bỏ mặc cảm tự ti và được các thầy cô giáo, cán bộ trung tâm nhìn nhận giao công việc

nên T đã dần thể hiện được bản thân theo hướng tích cực. Khi chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD, T được nhận vào trung tâm KOTO và vẫn thái độ thành khẩn, hướng

thiện mong muốn có cơ hội làm lại từ đầu T. đã thực sự thích ứng được với môi trường

sống về mặt nhận thức.

Thích ứng về thái độ

Về khía cạnh thái độ, N.T.T là một trong số ít người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD có điểm thích ứng về thái độ ở mức cao so với phần lớn số người

chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được khảo sát trong nghiên cứu của chúng

tôi. Tâm sự, trao đổi với nhóm chúng tôi, N.T.T chia sẻ rằng "Lúc mới ra trường mặc dù

được trung tâm nhận vào nhưng cháu lo lắng lắm vì thực sự không biết có ổn về sau không,

cháu không lo nghèo khó chỉ sợ lại bị phiêu dạt như trước đây chỉ vì thái độ của mọi người

xung quanh. Có thể nói, sự thay đổi ở T là cả một quá trình mà phải gạt ra những điều theo

T là "không cần thiết" để đạt được đích là "được về nhà an toàn". Cuộc sống trôi qua đôi

khi khiến cho T ban đầu mới ra trường "thấy nản! Nhiều khi do mọi người cùng thiếu thốn

tình cảm nên hay cáu gắt lắm ạ. Tính cháu lại không thích va chạm với ai, chỉ có mong

muốn được yên ổn thôi cô ạ". Theo quan sát của chúng tôi, các em ở Trung tâm được sự

quan tâm, giáo dục của cán bộ quản lý nên ứng xử với nhau rất tốt, biết nhường nhịn, đôi

khi xung đột, mâu thuẫn với nhau nhưng lại có cách giải quyết hợp lý để cùng nhau hòa

nhập cuộc sống. Điều này chứng tỏ các em đã kìm nén được thái độ tiêu cực sau thời gian

dài ở TGD, đã ít nhiều biết cách cân bằng cảm xúc, nhu cầu của bản thân để từ đó không

để những cảm xúc tiêu cực làm ảnh hưởng đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng của mình.

Thích ứng về hành vi

Về khía cạnh hành vi, N.T.T là người rất chú ý đến những quy định của Trung tâm

thể hiện thông qua giao tiếp, ứng xử của T với các thành viên trong Trung tâm và với người

thân trong gia đình. Việc N.T.T được Trung tâm dạy nghề nhân đâọ KOTO lựa chọn để

dạy nghề đã cho thấy rõ điều này. Trong thời gian quan sát cuộc sống sinh hoạt, học tập và

lao động của T tại trung tâm, kết quả thu được cho thấy T luôn tích cực học tập và thực

hành nghề, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong công việc được mọi người giao. Đồng

thời trong quá trình làm việc, có gì không rõ thường chủ động hỏi những người đi trước.

Để đạt được như hiện tại, T cho hay "Lúc mới đầu mặc dù là một trong số ít người được

trung tâm lựa chọn vào dạy nghề nhưng cháu cũng chán lắm, thể hiện cũng hay cáu gắt

với mọi người; nhưng cháu vẫn phải cố kìm nén lại và tự nhủ rằng mình phải cố gắng. Nói

về N.T.T, anh P.A.T- Giám đốc trung tâm KOTO cho biết: "đặc thù của việc học và thực

hành nghề ở đây là hàng ngày tiếp xúc với đủ các thành phần trong xã hội, họ lại là

“thượng đế” của chúng tôi nên đòi hỏi phải làm cho khách hàng hài lòng, đó là cam kết

và chát lượng để chúng tôi tồn tại được và N.T.T đã phần nào làm tôi yên tâm về sự tự giác

trong làm việc: nghiêm túc, đúng mực mặc dù lúc đầu phải nhắc nhở đôi chút. Tôi rất hài

lòng về em. Ở đây T có cơ hội thể hiện những rằng mặc dù em đã có điểm sai trái xong em

đã sửa chữa, khắc phục được về mặt nhân cách". Ngoài ra, về phía bản thân mình, T cũng

luôn chú ý đề cao tinh thần trách nhiệm "Cháu biết các cô thương cháu nên mới cho cháu

được học nghề ở đây và cũng là sự tạo điều kiện và nhân văn của các cô đối với cháu. Vì

thế, cháu không dám làm gì vi phạm nội quy của trung tâm hay lười học. Bởi vì cháu biết

rất nhiều bạn khác muốn được vào đây học mà không được. Được vào đây có cơ hội có

việc làm sau này và không gây nhàm chán vì có thời gian rỗi; đồng thời, cũng là cơ hội tốt

để cháu tránh xa được sự coi thường của mấy người ngoài xã hội "

3.3.1.2. Đánh giá trường hợp

Trường hợp N.T.T. là trường hợp tiêu biểu của sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập

cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mức tốt xuất phát

từ việc nhận thức đúng đắn vị trí của mình và những điều cần phải làm trong các mối quan

hệ mới. Từ đó T tìm cho bản thân mình cách để cân bằng cảm xúc bản thân, hình thánh

thái độ phù hợp như không có thái độ và cảm xúc tiêu cực, hạn chế được những xúc cảm

âm tính và yên tâm học tập để làm lại từ đầu. Chính vì vậy, T tạo được niềm tin cho mọi

người về sự tiến bộ và phù hợp với cuộc sống hiện tại.

Trường hợp của N.T.T đã cho thấy sự nỗ lực của bản thân để thay đổi nhận thức,

thái độ và hành vi khi họ chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD- đây chính là

động lực giúp họ thích ứng được với tái hòa nhập cộng đồng. Điều này xuất phát từ chỗ họ

cần có nhận thức rõ ràng và đúng đắn, cân bằng được cảm xúc để có thái độ đúng đắn và

đặc biệt là luôn luôn hướng thiện, tránh vi phạm.

3.3.2. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ thấp

3.3.2.1. Mô tả trường hợp

Họ và tên: C.T.P (tên được giấu); Năm sinh: 2002

Quê quán: Phường Vệ An, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

Thời gian vào TGD: 24 tháng

Thời gian đã về địa phương sinh sống: 9 tháng.

Điều kiện kinh tế gia đình: Đủ ăn

ĐTB tự đánh giá thích ứng đạt: 1,95 (với các điểm thành phần từng biểu hiện là:

thích ứng về nhận thức ĐTB đạt 2,13; thích ứng về thái độ ĐTB đạt 1,80; thích ứng về

hành vi ĐTB đạt 1,92).

C.T.P chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ngày 27/1/2019. Hoàn cảnh

của P rất đặc biệt: Bố chết, mẹ bỏ đi lấy chồng và ở bên nước ngoài không có thông tin. Ở

với bà ngoại từ nhỏ; năm 2015 bà ngoại mất, không có người thân thích nuôi dưỡng em bỏ

nhà đi lang. Trong quá trình học tập và rèn luyện tại TGD số 2 Ninh Bình, P không có bất

kỳ người thân nào đến thăm gặp. Nghiên cứu hồ sơ, trao đổi với P chúng tôi biết em bị bắt

vào TGD về hành vi tham gia đánh bạc đánh bạc bị bắt quả tang. Quan sát P trong quá

trình sinh sống tại địa phương chúng tôi nhận thấy em là một người khá giảo hoạt trong

giao tiếp và nhanh nhạy trong ứng xử. Các biểu hiện thích ứng kém của P trong quá trình

sinh sống ở địa phương chủ yếu là thích ứng kém với thực hiện nội quy của địa phương và

được mô tả như sau:

- P sống một mình khá vất vả với cuộc sống và luôn thể hiện thái độ khó chịu tất cả

mọi người hàng xómg quanh em. Do không có người thân thích và cũng chưa được đào

tạo bất cứ nghề gì nên P phải tự đi kiếm việc tự do để sinh sống. Những hôm không tìm

được việc P lại quay về rửa bát thuê cho quán bún gần nhà để kiếm miếng ăn, thỉnh thoảng

P to tiếng, gây gổ và có thái độ khó chịu với những người cùng làm thuê khác.

Vào nhà P quan sát thấy nhà em khá bừa bộn, mặc dù có một mình ở lại là con gái

nhưng nhà và khu vệ sinh không sạch sẽ và đặc biệt rác rưởi quanh nhà nhưng cũng không

quét dọn.

- Vào các buổi tối thời tiết khó chịu, chưa ngủ được, P gây mất trật tự bằng cách rủ

bạn bè đến hát hoặc nói chuyện làm ồn, gây ảnh hưởng đến các hộ cư dân xung quanh. Mọi

người có ý kiến thì P phản ứng bằng cách làm ồn ào thêm hoặc “cãi cùn”. Kết quả là 2 lần

Công an phường phải đến lập biên bản và kiểm điểm P từ khi về địa phương cho đến nay.

Đặc biệt, trong một tình huống mâu thuẫn từ trước và không chào hỏi người lớn tuổi

hơn, khi bị nhắc nhở, P đã nhổ nước bọt xuống đất trước mặt người lớn tuổi hàng xóm.

Tuy không gây ra hậu quả nghiêm trọng về người hay tài sản gì nhưng thể hiện sự chưa

thích ứng với cuộc sống nơi em ở.

Trao đổi với nhóm nghiên cứu, C.T.P nói rằng "cháu còn trẻ, cháu không muốn bị

mọi người đối xử với cháu thế này, hơi một tí có việc xảy ra ở đây như mất cắp hay con

cháu họ không ra gì toàn hướng sang nhà cháu chửi đổng.Cuộc sống đã khó lại càng chán

vì không biết bây giờ lại đi đâu. Cái gì cũng thiếu, mùa hè nóng như thế này, nhà cháu

cũng chì có mỗi cái quạt cháu mua lại của bọn đồng nát cháu vẫn phải chịu.... "

- Ngoài ra, quan sát quá trình lao động của P khi có việc làm thuê, dù ở nhà cá nhân

hay làm nông nghiệp, trồng trọt chúng tôi thu được một số điều: P thực hiện hành vi chưa

tự giác. Cụ thể việc lau dọn sân vườn cho chủ nhà thì P cũng chỉ làm đúng theo hợp đồng,

cỏ không nhổ, không tưới nước cho cây, chủ nhà nhắc thì P bảo không nói trước khi làm

và mặc cả phải trả thêm tiền thì mới làm.... “cháu chỉ có cơm với rau thôi cô ạ. Bây giờ

cháu muốn được đi khỏi nơi này nên cháu đang tìm người mua nhà được giá là cháu bán

3.3.2.2. Đánh giá trường hợp

Trường hợp C.T.P tiêu biểu cho sự thích ứng tâm lý kém với cuộc sống ở địa

phương. Do mới về địa phương chưa đến 1 năm nên có thể P chưa biết cách kiểm soát, tiết

chế những nhu cầu, sở thích cá nhân cũng như thay đổi lối sống, cách sinh hoạt cho phù

hợp với điều kiện thực tế của mình và đáp ứng với yêu cầu của nội quy ở địa phương.

Chính vì vậy, P đã vi phạm nội quy ở địa phương và bị cán bộ địa phương nhắc nhở, giáo

dục riêng nhưng chưa có sự thay đổi rõ rệt.

Trường hợp C.T.P đã cho thấy sự mất cân bằng tâm lý giữa những mong muốn, nhu

cầu, cảm xúc của cá nhân với những yêu cầu, quy định bắt buộc phải thực hiện đối với một

công dân làm nảy sinh những hành vi chống đối cộng đồng, vi phạm nội quy.

Tiểu kết chương 3

Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi rút ra một số kết luận

chính như sau:

Phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng ở mức

độ trung bình với các quy định của địa phương. Điều này thể hiện ở cả ba khía cạnh nhận

thức, thái độ và hành vi. Trong đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

có mức điểm ĐTB thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng về mặt nhận thức cao hơn

so với điểm ĐTB thích ứng về mặt thái độ và hành vi. Kết quả này cho thấy người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD mới bắt đầu chấp nhận những yêu cầu của cộng

đồng xã hội nơi họ sinh sống nhưng chưa chưa hoàn toàn có sự thay đổi về nhận thức, thái

độ và hành vi của bản thân để phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội mặc dù trong sâu

thẳm họ vẫn luôn mong muốn điều này. Điều này thể hiện ở việc người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD chưa thực sự chấp nhận làm theo và thực hiện theo những

quy định của địa phương một cách chủ động và tích cực.

Sự tương quan giữa các khía cạnh của thích ứng tâm lý chủ yếu diễn ra theo chiều

thuận, với mức độ tương quan vừa và chặt, đặc biệt là tương quan giữa thích ứng về nhận

thức, thích ứng về cảm xúc với thích ứng tâm lý chung. Tuy nhiên, do khách thể nghiên

cứu chưa nhiều nên mối quan hệ giữa các yếu tố về nhân khẩu học với thích ứng tâm lý

chưa có ý nghĩa về mặt thống kê.

Các yếu tố dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở một số yếu tố thuộc về chủ quan và

khách quan. Trong đó, yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân) có khả năng dự báo mạnh mẽ

hơn so với yếu tố thuộc về khách quan tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD; tất cả các yếu tố thuộc về khách

quan và yếu tố hành vi tích cực thuộc về chủ quan cá nhân tác động theo chiều thuận và

còn lại có tác động theo chiều nghịch tới thích ứng tâm lý.

Kết quả nghiên cứu từ phần nghiên cứu 2 trường hợp điểm hình cung cấp thêm

thông tin về chân dung người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng

cao và thích ứng thấp với tái hòa nhập cộng đồng. Từ đây cho thấy cái nhìn sâu sắc hơn về

các khía cạnh khác nhau của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ TÂM LÝ HỌC

1. Kết luận

Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, có thể rút ra một số kết luận như sau:

1.1. Về lý luận

- Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đều chỉ ra tầm quan trọng của thích ứng tâm

lý nói chung trong một số lĩnh vực và hoạt động của đời sống xã hội nhưng cho đến hiện nay

chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

nghiên cứu và chỉ ra thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD là sự chủ động, tích cực thay đổi nhận thức, thái độ và hành

vi ở chủ thể để thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội hiện hành.

- Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

XLHC đưa vào TGD được thể hiện ở các nội dung: hoạt động học tập, hoạt động lao động,

quan hệ xã hội và sinh hoạt. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là một chỉnh thể thống nhất gồm ba thành phần:

nhận thức, thái độ và hành vi.

- Các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành

xong biện pháp XLHC đưa vào TGD bao gồm: 1. các yếu tố thuộc về chủ quan (cá nhân);

2. các yếu tố thuộc về khách quan (môi trường).

1.2. Về thực tiễn

Nghiên cứu chỉ ra rằng đại đa số người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

đạt mức độ thích ứng ở mức trung bình với các yêu cầu, quy định của địa phương ở cả ba phương

diện nhận thức, thái độ và hành vi. Đánh giá chung, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng

của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mức độ trung bình.

Trong các thành phần của sự thích ứng thì người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa

vào TGD có mức độ thích ứng về nhận thức cao hơn cả so với thích ứng về thái độ và hành vi.

Nghiên cứu cũng cho thấy, trong các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý chung với tái hòa

nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì yếu tố thuộc

về chủ quan có khả năng dự báo mạnh hơn so với các yếu tố thuộc về khách quan tới thích ứng

tâm lý. Đối với các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thì kết quả nghiên cứu cho thấy sự quan tâm, động

viên, giúp đỡ của các tổ chức xã hội và chính quyền; của gia đình và đặc biệt là tự ý thức (hành

vi tích cực) của cá nhân có khả năng dự báo cao nhất tới thích ứng về hành vi của người chấp

hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

Các kết quả nghiên cứu là cơ sở để nhóm nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn một số vấn đề

khác liên quan đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong

biện pháp XLHC đưa vào TGD như cần trang bị cho người đang chấp hành biện pháp XLHC

đưa vào TGD những kiến thức, kỹ năng gì khi chuẩn bị ra trường về địa phương sinh sống nhằm

nâng cao hơn khả năng thích ứng tâm lý của họ với đời sống xã hội. Cùng với đó là gia đình,

các tổ chức xã hội, cán bộ ở phương cần có những kiến thức về khách thể, về hoạt động để nâng

cao khả năng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện

pháp XLHC đưa vào TGD, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, giáo dục các đối tượng

đặc biệt ở địa bàn cơ sở góp phần giữ ổn định trật tự xã hội.

2. Một số giải pháp về tâm lý học

Xuất phát từ các kết quả nghiên cứu thực tiễn nói trên và tổng hợp một số nghiên cứu

trước đó có thể thấy nếu người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được trang bị

kiến thức pháp luật đúng đắn, đầy đủ, được chăm sóc sức khỏe tinh thần, quan tâm tốt hơn thì

sẽ tăng khả năng thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng khi họ ra khỏi TGD. Do đó, cần

phải có các biện pháp tác động để nâng cao sự thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của

người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, nhóm nghiên cứu gợi ý một số khuyến

nghị sau:

2.1. Đối với gia đình của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

- Các thành viên trong gia đình phải xác định trách nhiệm và vai trò trong việc nuôi dạy

các em đặc biệt là trong việc giáo dục lại, giúp người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD tái hòa nhập một cách thuận lợi nhất, an toàn nhất.

- Phối hợp và tạo điều kiện với các tổ chức xã hội ở địa phương triệt để đấu tranh và xóa

bỏ những yếu tố tiêu cực trong môi trường sống có nguy cơ cao ảnh hưởng và lôi kéo các em

quay trở lại vi phạm pháp luật.

- Tạo môi trường gần gũi, lành mạnh để các em bình thường hóa các quan hệ xã hội, sinh

hoạt và có cơ hội học tập, lao động phát triển lành mạnh.

2.2. Đối với Chính quyền địa phương và lực lượng nòng cốt

- Xây dựng, đề xuất kế hoạch cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất như tạo dựng không gian

kiến trúc cảnh quan ở địa phương thoáng, sạch, đẹp nhằm tạo cảm giác thân thiện, gần gũi với

mọi người nói chung và với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Có như

vậy tạo nên ở họ cảm xúc tích cực, thoải mái khi về địa phương

- Tích cực hơn nữa trong việc xây dựng môi trường văn hóa trong các khu dân cư nhằm

tạo nên bầu không khí thân thiện, thấu hiểu và chia sẻ, đồng cảm giữa những người bình thường

với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và giữa họ với nhau. Điều này giúp

cho các em cảm thấy thân thiện, thoải mái hơn từ đó họ giảm được nguy cơ rơi vào trạng thái

rối nhiễu tâm lý như trầm cảm- lo âu- stress, làm ảnh hưởng đến khả năng thích ứng tâm lý với

cuộc sống mới ở địa phương.

- Trong quá trình đánh giá kết quả tái hòa nhập cộng đồng cho các đối tượng nói chung

và người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD nói riêng cần căn cứ vào những thay

đổi, biến chuyển của họ dựa trên cả ba khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi; đồng thời dựa

trên mức độ chấp nhận, mức độ thay đổi của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào

TGD trong việc thực hiện các yêu cầu của địa phương.

2.3. Đối với Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường

Giáo dưỡng

- Cần hình thành, tự rèn luyện cho bản thân nhận thức rõ ràng về việc phải chấp hành các

chuẩn mực xã hội nói chung và nội quy địa phương là đúng đắn và cần thiết nhưng cũng phải

trải qua vô vàn những khó khăn, thách thức. Các em xác định quá trình tái hòa nhập của các em

không đơn độc, luôn có sự can thiệp hay hỗ trợ từ xã hội đến gia đình để giúp các em tránh bị

sốc tâm lý, mong chờ về tương lai, có niềm tin về cuộc sống.

- Phải xây dựng và rèn luyện thói quen sinh hoạt, ăn mặc, học tập và lao động theo sự

sắp xếp, tổ chức của gia đình, cộng đồng xã hội; hạn chế những nhu cầu không phù hợp với hoàn

cảnh hiện tại.

- Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cần được trang bị và rèn

luyện kỹ năng sống tích cực để có thể tìm ra những cách thức nhất định vượt qua khó khăn

tâm lý trong giai đoạn mới ra trường GD tái hòa nhập cộng đồng và biết cân bằng trạng

thái tâm lý của bản thân, tránh nguy cơ rơi vào trạng thái trầm cảm- lo âu- stress.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính

đưa vào trường giáo dưỡng góp phần nâng cao hiệu quả công tác tái hòa nhập cộng

đồng. Tạp chí khoa học và giáo dục CSND số tháng 4/2020

2. Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp

xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng. Tạp chí Tâm lý học số 262- tháng

01/2021

3. Yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp

hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng. Tạp chí Tâm lý

học số 268- tháng 7/2021

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Công an (2012), thông tư số 71/2012/TT-BCA, ngày 27 tháng 11 năm 2012, phân

công trách nhiệm quan hệ phối hợp giữa công an nhân dân trong việc thực hiện công tác tái hòa

nhập cộng đồng

2. Chính Phủ, Nghị định 49/2020/NĐ-CP, ngày 17 tháng 4 năm 2020, hướng đẫn

Luật thi hành án hình sự về tái hòa nhập cộng đồng

3. Nguyễn Văn Đài (2013), Giáo trình Quản lý giáo dục đối tượng tại địa bàn cơ

sở, Học viện CSND.

4. Phan Thị Định (2020), "Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người chấp hành xong

biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng góp phần nâng cao công tác tái

hòa nhập cộng đồng", Tạp chí Khoa học và giáo dục CSND, tr 27-31.

5. Chu Văn Đức (2006), Sự thích ứng của phạm nhân với chế độ sinh hoạt và chế

độ lao động tại trại giam, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Hà Nội.

6. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

7. Vũ Dũng (2011), Tâm lý học xã hội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB

Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

8. Vũ Dũng (2012), Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở ngước ta hiện

nay, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

9. Trần Thị Minh Đức (2004), Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ nhất-

Đại học Quốc gia Hà Nội với môi trường đại học, Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp

Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. S.Freud (2001), (ND. Nguyễn Xuân Hiển), Nhập môn phân tâm học, Nxb. Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

11. Jo. Godefrold (1998), Những con đường của Tâm lý học, tập 2, Tủ sách NT.

12. Đường Minh Giới, Phan Xuân Sơn (2017), Lý luận cơ bản về quản lý và giáo

dục cải tạo phạm nhân ở Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Công an Nhân dân

13. Golomstock A. E., (1979), Quan niệm giáo dục và lý thuyết về sự thích ứng nghề

nghiệp, NXB Giáo dục, Hà Nội.

14. Phạm Minh Hạc (2003), Một số công trình tâm lý học A.N. Leonchiev, NXB

Giáo dục.

15. Lê Văn Hảo & Knud S. Larsen (2012), Hành vi tổ chức trong một thế giới đang

thay đổi, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. B.R. Hergenhahn (2003), Nhập môn lịch sử tâm lý học, NXB Thống kê, Hà Nội.

17. Vũ Văn Hòa (2014), Giáo trình giáo dục phạm nhân, Học viện Cảnh sát nhân

dân, Hà Nội.

18. Vũ Văn Hòa (2013), Tổ chức tái hòa nhập cho người chấp hành xong án phạt

tù, Luận án tiến sĩ luật học.

19. Trần Thị Tân Hương (2006), Tội phạm nữ ở thành phố Hồ Chí Minh và khả

năng tái hội nhập của họ, Luận án tiến sĩ Xã hội học.

20. Đặng Phương Kiệt (chủ biên) (2001), Cơ sở tâm lí học ứng dụng, Nxb. ĐHQG,

Hà Nội.

21. Lê Ngọc Lan (2002), "Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên", tạp chí

Tâm lý học tháng 3.

22. Laura Knight-Jadczyk, Đại cương về chứng thái nhân cách,

http://cassiopaea.org/forum/index.php?topic=6459.msg88442#msg88442

23. Phan Quốc Lâm (1999), Sự thích ứng với hoạt động học tập của học sinh lớp 1,

Luận án tiến sĩ Tâm lý học.

24. Nguyễn Hồi Loan- Đặng Thanh Nga (2004), Tâm lý học pháp lý, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

25. Lê Thị Minh Loan (2012), Thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sau khi tốt

nghiệp: Thực trạng, nguyên nhân và một số kiến nghị, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế, Đại học

Quốc gia Hà Nội, trang 388-401.

26. Lomov B. Ph. (2000) (Nguyễn Đức Hưởng, Dương Diệu Hoa, Phan Trọng Ngọ-

dịch), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội.

27. Nguyễn Thị Thanh Mai (2009), Mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh

viên hệ cao đẳng- Trường đại học Công nghiệp Hà Nội, Luận án tiến sĩ.

28. Đặng Thanh Nga (2010), Sự thích ứng với hoạt động học tập theo phương thức

đào tạo tín chủ của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài khoa học cấp trường.

29. Phan Trọng Ngọ (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, NXB Đại học Sư

Phạm.

30. Vũ Thị Nho, Sự thích ứng với hoạt động học tập của học sinh tiểu học, Luận án

tiến sĩ.

31. Nguyễn Quốc Nhật (2008), Thực trạng và giải pháp quản lý giáo dục tù tha tái

hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý nhà nước về ANTT.

32. Phạm Thị Thục Oanh (2019), Thích ứng tâm lý của phạm nhân nữ với chấp hành

án phạt tù có thời hạn tại trại giam, Luận án tiến sĩ.

33. Piaget J. (1996), Tuyển tập tâm lý học, NXB Giáo dục.

34. Nguyễn Ngọc Phú (2004), Lịch sử tâm lí học, Nxb.ĐHQG, Hà Nội.

35. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự

2015.

36. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Thi hành án

hình sự 2010.

37. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật xử lý vi phạm

hành chính.

38. Mã Ngọc Thể (2016), Thích ứng của sinh viên dân tộc thiểu số với hoạt động học

tập, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

39. Vũ Hiền Thu (2016), Quản lý, giáo dục đối tượng chấp hành xong biện pháp xử

lý hành chính về địa bàn cơ sở, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

40. Nguyễn Xuân Thức (2005), Sự thích ứng hoạt động học rèn luyện nghiệp vụ của

sinh viên đại học sư phạm, Tạp chí Tâm lý học số 8, 2005

41. Nguyễn Hữu Toàn (2014), Tự ý thức về hành vi chấp hành án phạt tù của phạm nhân

trong trại giam, Luận án tiến sĩ Tâm lý học.

42. Đỗ Mạnh Tôn (1996), Nghiên cứu sự thích ứng đối với học tập và rèn luyện của học

viên các trường sĩ quan quân đội, Luận án tiến sĩ Tâm lý học.

43. Tổng cục VIII, Bộ Công an, Tổng kết công tác thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư

pháp từ 2014 đến hết năm 2018.

44. Đỗ Thị Thu Trang (2017), Công tác quản lý giáo dục học sinh tại các trường giáo

dưỡng, Luận án tiến sĩ Quản lý nhà nước về ANTT.

45. Từ điển Luật học (2006) NXB Tư pháp và NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

46. L.V.Vugotxki (1997), Tuyển tập Tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

47. Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển Tâm lý, NXB Ngoại văn Hà Nội.

48. Nguyễn Như Ý, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học Bách Khoa, Hà Nội, 2015

Tiếng Anh

49. A Muecke, S Lenthall, M Lindeman (2011), "Culture shock and healthcare

workers in remote Indigenous communities of Australia: what do we know and how can

we measure it?" Centre for Remote Health, Flinders University and Charles Darwin

University, Alice Springs, Northern Territory, Australia.

50. Anumonye A. (1970), African Student in Ailen Cultures- London

51. Adler, P. (1975) "The transitional experience: An alternative view of culture

shock", Journal of Humanistic Psychology 15, 13-23

52. Allen B.P (1990): Personal adjustment- California University USA.

53. Berry J.W (1990), Psychology of acculturation //J.Berman (Ed) Cross- Cutural

Perspectives/ Lincoln.

54. Carey A.T (1956), Colonical Students, L.,

55. Castro, Vanessa Smith, Acculturation an psychological adaptation,

www.doi.contentdirections.com/mr/greenwood.

56. Edward Zamble , Frank J. Porporino (1988), Coping, Behavior, and Adaptation

in Prison Inmates, Springer-Verlag publicshing.

57. Edwin M.Schur (1969), Our criminal society, USA

58. Hopkins J., Malleson N., Sarnoff I., (1957), "Som non-intellectual correlates of

success and failure among university students".// Bristish Journal of Sociology, 9, pages

25- 36.

59. Hamboyan, H., and A. K. Bryan (1995), "International Students. Culture Shock

Can Affect the Health of Students from Abroad", Canadian Family Physician 41:1713–

1716.

60. Jacobson E.H (1963), "Sojourn research: a definition of the field"./ Journal of

Social Issues, 19.

61. Janet I. Warren, Susan Hurt Ann, Booker Loper và Preeti Chauhan

(2004),Exploring Prison adjustment among Female: Issues of Measurement and

Prediction, Virginia University, American.

62. Katherine Salter PhD (cand.), Laura Allen MSc, Marina Richardson MSc,

Andreea Cotoi MSc, Alice Iliescu BSc, Breanne Carr BRLS, Robert Teasell MD, March

2018 “Evidence-Based Review of Stroke Rehabilitation- Community Reintegration

63. Marisa Singer (2012), "Human Behavior in the Prison Environment: Adaptation

as Survival", Journal of Social work. (https://silbermanvoices.wordpress.com/article-6-

vol-3/)

64. MacKenzie và Goodstein (1985) “The dependent between time in living

hometowm to community reintergration”

65. Oberg, K. (1954). Culture Shock. In Youblisher in Bobbs-Merril Series in

Social Sciences, Retrieved December 11, 2011,

from: http://www.youblisher.com/p/53061-Please-Add-a-Title/

66. Oberg K.(1960), "Cutural Shock: Adjustment to new cutural environments".//

Practical Anthropology, 177- 182.

67. Offender Reentry: Correctional Statistics, Reintegration into the Community,

and Recidivism Nathan James Analyst in Crime Policy January 12, 2015

68. Peter Creed, Tracy Fallon, Michelle Hood (2005), The relationship between

career adapbility person and Situation variable and career concerns in young adults, School

of Psychology, Griffith University, Australia.

69. Randall Allen Lowry (1998), A long-term follow- up of seriuos female

offenders.

70. Richard S. Lazarus (1969), Pattern of adjustment and human effectiveness-

McGraw-Hill book company, USA.

71. Raymond J. Corsini (1999), The dictionary of Psychology, USA.

72. Singgh A.K. (1963), Indian Students in Britian, Bombay.

73. Shivani Tomar (2013), Review article “The Psychological effects of

Incarceration inmates: Can we promote positive emotion in inmates”, Delhi Psychiatry

Journal Vol 16 No1, April 2013.

74. Strategies for Creating offender reentry programs in Indian counntry

75. Super D. E., & Knasel E. G, (1981), "Career development in adulthooh: Some

theoretical problems and a possible solution", British Journal of Guidance & counselling,.

76. Savickas M. L. (1994), "Measuring career development: Current status and

future derection", The career Development Quarterly.

77. Savickas M. L. (1997), "Career adaptability: An intergrative for Life- Span,

Life-Space Theory", The career Development Quarterly.

78. Savickas M. L. (2005), The Theory and Practive of career construction, In

Brown S. D., & Lent R. W. (Eds), Career development and counseling: Putting theory an

research to work, Hoboken, NJ: John Wiley.

79. Triandic H. (1994), Culture and social behavior.-N.Y.

80. Todd R. Clear, Michael D. Reisig, Carolyn Petrosino, Geoge F. Cole (2015),

American Corrections in brief, Third edition, Boston USA.

81. Yuefang Zhou, Divya Jindal-Snape, Keith Topping & John Todman (2008),

"Theoretical models of culture shock and adaptation in international students in higher

education", Studies in Higher Education Vol. 33, No. 1, 63–75.

Tiếng Nga

82. Лысков , Курбатова (1986), Юридическая психология, Изд. Лен.Уни.,

Лениндрад.

83. Ковалев А.Г.(1968), Психологические основы исправления и правона-

рушителя, Изд. Юридическая литература, М.

84. Сундуров Ф.Р, Социально-психологические и правовые аспекты

исправления и перевоспитания правонарушителей. Изд. Казанского Уни.

Website

85. https://www.hastac.org/blogs/natali-creglia/2016/12/01/impact-cultural-shock-

mental-health. Đăng bài ngày 1/12/2016.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: BỘ CÔNG CỤ NGHIÊN CỨU

PHỤ LỤC 1.1- BẢNG HỎI ĐIỀU TRA CHÍNH THỨC

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CÁ NHÂN

KHOA TÂM LÝ- GIÁO DỤC

Chúng tôi đang nghiên cứu để đề xuất một số biện pháp giúp các em thích ứng tốt hơn

với cuộc sống cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường

giáo dưỡng. Những thông tin em cung cấp trong nghiên cứu này sẽ chỉ phục vụ cho mục đích

nghiên cứu khoa học và được tuyệt đối giữ bí mật.

Chúng tôi rất mong em hợp tác, chia sẻ bằng cách trả lời các câu hỏi dưới đây một cách

xác thực nhất, không bỏ qua bất kỳ câu hỏi nào. Em hãy lựa chọn phương án trả lời đầu tiên

xuất hiện trong suy nghĩ của mình bằng cách đánh dấu X vào cột mức độ tương ứng đúng với

suy nghĩ của em nhất hoặc viết ra câu trả lời của mình.

Câu 1: Dưới đây là một số mệnh đề nói về cảm nhận của một số bạn về việc tham gia các

hoạt động ở địa phương sau khi chấp hành xong biện pháp xử phạt hành chính đưa vào

trường giáo dưỡng. Còn em thì nghĩ thế nào?

STT Nội dung Mức độ

Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn

toàn nhiều đúng nhiều toàn sai

đúng hơn nửa hơn

sai sai đúng

1 Việc học tập pháp luật không có

ích gì, chỉ là hình thức, không

cần thiết

2 Nội dung học tập Giáo dục công

dân, đạo đức chỉ là lý thuyết

suông

3 Bắt buộc phải học tập văn hóa là

điều khó khăn đối với tôi

4 Học tập giúp tôi học hỏi được

nhiều kiến thức và sau này có cơ

hội việc làm hơn

5 Tôi thấy mình cần thiết phải học

để bổ sung kiến thức

6 Lao động sẽ giúp cho thời gian

hàng ngày của tôi trôi nhanh

hơn

7 Lao động giúp tôi rèn luyện sức

khỏe và sự kiên trì

8 Lao động giúp tôi hiểu hơn về

cuộc sống

9 Đôi khi tôi tìm lý do nào đó để

đỡ phải lao động

10 Tôi thấy phải lao động là điều

khó khăn đối với tôi

11 Tôi hiểu rằng mình sẽ gặp khó

khăn để có bạn bè mới.

12 Để có bạn bè mới tôi cần phải

chủ động làm quen và thiết lập

quan hệ

13 Tôi biết rằng hàng xóm xung

quanh không dễ dàng chấp nhận

tôi

14 Để hàng xóm không e ngại tôi,

cũng cần có thời gian

15 Tôi cần phải thể hiện sự quan

tâm đến các thành viên trong gia

đình chứ không chỉ chờ đợi họ

quan tâm đến tôi.

16 Các hoạt động, sinh hoạt tinh

thần giải trí mà địa phương tổ

chức còn đơn điệu nghèo nàn

17 Tham gia các hoạt động cùng

với những người khác là cách

tốt để tôi hòa nhập với họ

18 Việc đi ngủ, xem tivi, làm các

việc khác theo quy định giờ giấc

là cần thiết

19 Tôi luôn cố gắng để tham gia các

hoạt động cùng mọi người trong

địa phương

20 Mọi người quanh tôi chấp hành

tốt quy định của địa phương

Câu 2: Một số bạn có cảm xúc, tâm trạng như sau khi về tham gia các hoạt động tại địa

phương, còn em có cảm xúc và suy nghĩ thế nào?

STT Nội dung Mức độ

Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn

toàn nhiều đúng nhiều toàn sai

đúng hơn nửa hơn

sai sai đúng

1 Tôi không thấy thích thú gì khi

học tập

2 Việc học tập pháp luật làm tôi

thấy mệt mỏi, buồn chán

3 Tôi thấy học môn Giáo dục

công dân thật đơn điệu

4 Việc học nghề làm tôi thấy dễ

chịu

5 Tôi thích được học lại từ đầu

6 Tôi không thích phải lao động

7 Tôi thấy khó chịu khi bị nhắc

nhở trong quá trình lao động

8 Tôi thấy khó chịu khi bị bắt

buộc phải lao động

9 Tự mình làm ra một sản phẩm

mới tôi cảm thấy rất vui

10 Khi hoàn thành một công việc gì

đó tôi thấy bình thường

11 Tôi thấy khá hài lòng với các

bạn của tôi

12 Tôi không thấy khó chịu về sự

dò xét của một số người sống

quanh tôi

13 Tôi thấy thoải mái với mọi

người trong gia đình tôi

14 Mọi người đối xử tốt với tôi

15 Tôi hay giúp mọi người xung

quanh việc vặt

16 Việc phải sinh hoạt chung trong

cộng đồng với nhiều người tôi

thấy cũng khá ổn

17 Tôi dần quen với các quy định

giờ giấc về việc đi ngủ, xem tivi,

làm các việc khác

18 Việc làm theo thời gian biểu

hàng ngày làm tôi thấy yên tâm,

có kỷ luật

19 Tôi thấy rất hài lòng vì đã làm

theo được nội quy của địa

phương

20 Tôi khá ổn với nếp sống hiện tại

Câu 3: Một số bạn đã có hành vi như sau khi tham gia các hoạt động tại địa phương,

còn em thế nào?

Nội dung Mức độ

STT Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn

toàn nhiều đúng nhiều toàn sai

đúng hơn nửa hơn

sai sai đúng

1 Tôi tích cực khi tham gia hoạt

động học tập

2 Tôi thường xuyên trao đổi với

giáo viên về nội dung học tập

3 Tôi tham gia đầy đủ các buổi

học nghề

4 Tôi tham gia đủ các buổi học văn

hóa

5 Tôi thường trao đổi với mọi

người xung quanh về những điều

học được

6 Tôi tham gia đầy đủ các ngày

công lao động

7 Tôi thực hiện hoàn thành định

mức lao động

8 Tôi thực hiện thành thạo các

thao tác lao động

9 Đôi khi tôi vẫn lấy lý do nào đó

để không phải lao động

10 Tôi không chủ động cũng chẳng

sáng tạo khi lao động, ai bảo gì

làm đấy

11 Trong quá trình lao động, tôi

hay trò chuyện với người khác

12 Kết quả lao động của tôi chưa

được như ý

13 Tôi gặp gỡ bạn bè như chưa có

chuyện từng xảy ra với tôi.

14 Tôi hay phản ứng trước hành vi

quá khích của mọi người

15 Tôi gặp gỡ và trò chuyện với

hàng xóm một cách bình thường

16 Tôi có quan hệ khá tốt với nhiều

người

17 Tôi luôn giúp đỡ mọi người

nhiệt tình

18 Tôi ứng xử với mọi người trong

gia đình một cách bình thường

19 Tôi thực hiện tốt các quy định

của địa phương

20 Tôi nhanh chóng hòa nhập với

cuộc sống địa phương

21 Đôi khi tôi vẫn bị vi phạm quy

định của địa phương

22 Tôi luôn cố gắng để thực hiện

quy định của địa phương

23 Tự dạy sớm rất ngại nhưng tôi

đang cố gắng thực hiện bằng

được

24 Tôi ăn, ngủ theo giờ giấc của

mọi người trong gia đình

Câu 4: Sinh sống ở địa phương khi gặp khó khăn em có suy nghĩ thế nào?

STT Khó khăn Mức độ

Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn

toàn nhiều đúng nhiều toàn sai

đúng hơn nửa hơn

sai sai đúng

1 Tôi cảm thấy chán nản và thất

vọng

2 Tôi cảm thấy bất hạnh

3 Tôi thường xuyên bị mất ngủ từ

khi về địa phương

4 Tôi luôn thấy căng thẳng, mệt

mỏi

5 Tôi sợ hãi về những điều sắp xảy

ra

6 Công việc học tập và lao động

rất hữu ích giúp tôi hòa nhập

cuộc sống

7 Tôi ân hận về những gì mình đã

gây ra

8 Tôi không muốn nói chuyện hay

tiếp xúc với bất cứ ai

9 Với tôi coi như là hết chẳng làm

lại được gì.

10 Tôi khó để lấy lại được cân bằng

trong cuộc sống từ khi trở về sinh

sống ở địa phương

11 Vẫn coi như mọi chuyện bình

thường

12 Cố gắng tìm cách nào đó để khắc

phục

13 Trao đổi, trò chuyện với một số

người xung quanh

14 Có ý định đến một nơi xa (không

ai biết mình) để tiếp tục sống nốt

15 Mặc kệ mọi chuyện đến đâu thì

đến

16 Muốn tự tử

Câu 5: Nhìn nhận của em về sự giúp đỡ của những người trong gia đình, hàng xóm và

các tổ chức xã hội ở địa phương từ khi em chấp hành xong biện pháp xử phạt hành

chính đưa vào trường giáo dưỡng về sinh sống tại địa phương?

STT Khó khăn Mức độ

Hoàn Đúng Nửa Sai Hoàn

toàn nhiều đúng nhiều toàn sai

đúng hơn nửa hơn

sai sai đúng

1 Những người sống xung quanh

tôi không tin là tôi có thể trở nên

tốt hơn

2 Mọi người thường né tránh

những người như tôi

3 Mọi người thường che dấu thái

độ thật của họ đối với tôi

4 Tôi hay nghe tiếng bàn tán sau

lưng của các bạn tôi

5 Tôi hay bị các chú công an gọi

hỏi khi địa phương xảy ra các sự

việc như mất cắp vặt hoặc tụ tập

đánh nhau

6 Gia đình động viên chia sẻ với

tôi

7 Gia đình tạo điều kiện để tôi học

tập

8 Gia đình khuyến khích tôi có

thêm bạn bè mới

9 Gia đình giúp tôi có việc làm

10 Mọi người trong gia đình rất

thông cảm với điều kiện của tôi

hiện nay

11 Hàng xóm động viên chia sẻ với

tôi.

12 Các cấp chính quyền tạo điều

kiện để tôi học tập

13 Địa phương hỗ trợ giúp tôi có

việc làm

14 Mọi người xung quanh đều công

nhận sự tiến bộ của tôi

15 Đoàn thanh niên và Hội phụ nữ ở

địa bàn hay hỏi thăm, gặp gỡ và

động viên tôi bằng cả tinh thần

và vật chất

Xin em vui lòng cho biết những thông tin dưới đây.

Giới tính:

Nam Nữ

Thời gian em đã về địa phương sinh sống:

Dưới 6 6-12 Trên 12 tháng

tháng tháng

Thời gian em chấp hành ở trường giáo dưỡng:.............. tháng

Số lần em vào trường Giáo dưỡng:................lần

Gia đình em có mức sống:

Đầy đủ, dư dả Đủ ăn Khó khăn, thiếu

thốn

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của em!

PHỤ LỤC1.2. BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU

I. Thông tin cá nhân

- Năm sinh: ............................. - Hành vi vi phạm:.................................................

- Thời gian chấp hành ở trường Giáo dưỡng: .............. tháng

- Số lần vào trường Giáo dưỡng: ............. lần

- Thời gian đã về địa phương sinh sống .....:...... tháng

- Hoàn cảnh gia đình:

GĐ đầy đủ bố mẹ GĐ chỉ còn bố hoặc mẹ Không còn bố hoặc mẹ

II. Quá trình về địa phương sinh sống

1. Em hãy chia sẻ về những khó khăn mà em gặp từ khi về địa phương sinh sống?

2. Những ngày đầu mới về địa phương, em có suy nghĩ như thế nào?

3. Những ngày đầu mới về địa phương, những tình huống nào để lại cho em cảm xúc

nhớ nhất?

4. Em hãy chia sẻ về những điều mà em cảm thấy đã có sự thay đổi từ khi về địa

phương sinh sống cho đến hiện tại ?

5. Từ khi về địa phương sinh sống, những lúc gặp khó khăn, em đã làm như thế nào

để vượt qua?

6. Những thay đổi trong suy nghĩ của bản thân từ khi mới về đến thời điểm hiện tại?

Có điều gì đặc biệt khiến em cảm thấy khó để thay đổi?

7. Tâm trạng, cảm xúc của em bây giờ như thế nào? Có những điểm gì khác so với

thời gian đầu em mới về địa phương?

8. Em đánh giá công việc lao động của mình như thế nào?

9. Em thấy việc học tập của em tốt chứ?

10. Ngày đầu mới về địa phương em có căng thẳng và lo lắng không? Điều đó ảnh

hưởng như thế nào tới em?

11. Hàng xóm, những người dân và tổ chức xã hội ở địa phương có chia sẻ khó khăn,

giúp đỡ em không?

PHỤ LỤC 1.3. PHIẾU QUAN SÁT

Ngày......tháng.......năm.........

I. Người được quan sát: ....................................................................................................

II. Người quan sát: ............................................................................................................

III. Địa điểm quan sát: .....................................................................................................

IV. Nội dung quan sát:

1. Sinh hoạt trong gia đình:

- Sự phân chia các công việc chung trong gia đình; thái độ của từng thành viên thực hiện công

việc chung đó.

- Các hành vi không tích cực

- Các tình huống nảy sinh mâu thuẫn giữa các thành viên

2. Hoạt động học tập:

- Số lượng học sinh tham gia học tập

- Mức độ tham gia vào giờ học tập của các em

- Cảm xúc, thái độ của ................. trong giờ học tập

3. Hoạt động lao động

- Tính tích cực, tự giác, chủ động của ...................

- Cảm xúc chủ đạo của................... khi lao động

- Các biểu hiện chống đối trong quá trình lao động

- Các tình huống có vấn đề nảy sinh trong quá trình lao động.

PHỤ LỤC 2: KẾT QUẢ XỬ LÝ DỮ LIỆU

3.1. Thích ứng tính theo điểm trung bình

3.1.1. Thích ứng nhận thức

Reliability Statistics

Cronbach's

N of Items

Alpha

.750

15

Mean

Std. Deviation

N

Viec hoc tap phap luat

khong có ich gi, chi la hinh

3.48

1.153

168

thuc, khong can thiet

Noi dung hoc tap giao duc

cong dan, dao duc chi la ly

3.20

1.260

168

thuyet suong

toi thay bat buoc phai hoc

tap van hoa la dieu kho

2.75

1.438

168

khan doi voi toi

hoc tap giup toi hoc hoi

duoc nhieu kien thuc va sau

3.70

.817

168

nay co co hoi viec lam hon

Toi thay minh can thiet phai

3.61

.781

168

hoc de bo sung kien thuc

Lao dong giup toi ren luyen

3.70

.722

168

suc khoe va su kien tri

Lao dong giup toi hieu hon

3.73

.698

168

ve cuoc song

Toi thay phai lao dong la

3.20

1.181

168

dieu kho khan doi voi toi

De co ban be moi toi phai

chu dong lam quen va thiet

3.13

1.224

168

lap quan he

de hang xom khong e ngai

3.23

1.187

168

toi cung can co thoi gian

Item Statistics

Toi can the hien su quan

tam den cac thanh vien

3.48

1.015

168

trong gia dinh

Tham gia cac hoat dong voi

moi nguoi là cach tot de toi

3.69

.758

168

hoa nhap voi ho

Di ngu, xem tivi, lam cac

viec khac theo quy dinh la

3.39

1.056

168

can thiet

Toi luon co gang tham gia

cac hoat dong o dia phuong

3.10

1.222

168

cung moi nguoi

Moi nguoi xung quanh toi

chap hanh tot quy dinh dia

2.96

1.049

168

phuong

3.1.2. Thích ứng về mặt thái độ

Reliability Statistics

Cronbach's

N of Items

Alpha

.784

17

Item Statistics

Mean

Std. Deviation

N

Toi khong thich thu gi khi

2.77

1.339

168

phai hoc tap

Viec hoc tap phap luat lam

3.06

1.280

168

toi thay met moi, buon chan

Viec hoc nghe lam toi thay

3.36

1.040

168

de chiu

Toi thich duoc hoc lai tu

2.55

1.438

168

dau

Toi khong thich phai lao

3.25

1.203

168

dong

Toi thay kho chiu khi bi bat

2.72

1.371

168

buoc phai lao dong

Toi thay vui khi tu minh

3.68

.849

168

lam ra duoc san pham moi

Toi thay kha hai long voi

2.92

1.127

168

cac ban cua toi

Toi khong thay kho chiu ve

su do xet cua nguoi xung

2.24

1.395

168

quanh

Tôi thay thoai mai voi moi

3.62

.867

168

nguoi trong gia dinh

3.23

1.003

168

Moi nguoi doi xu tot voi toi

Toi hay giup moi nguoi

2.90

1.130

168

xung quanh

Sinh hoat chung voi moi

nguoi trong cong dong toi

2.98

1.137

168

thay cung on

Toi dan quen voi quy dinh

ve gio giac di ngu, xem tivi,

3.61

.758

168

lam viec khac

Toi thay yen tam khi lam

3.47

.978

168

viec theo thoi gian bieu

Toi thay hai long vi da làm

theo duoc noi quy dia

3.35

.961

168

phuong

Toi thay kha on voi cuoc

3.52

.896

168

song hien tai

3.1.3. Thích ứng về mặt hành vi

Reliability Statistics

Cronbach's

Cronbach's

N of Items

Alpha

Alpha Based on

Standardized

Items

.863

.869

18

Item Statistics

Mean

Std. Deviation

N

Toi thuc hien tot cac quy

3.05

1.242

168

dinh cua dia phuong

Toi nhannh chong hoa nhap

3.27

1.087

168

voi dia phuong

Toi luon co gang thuc hien

3.50

.848

168

quy dinhcua dia phuong

Tu day som rat ngai nhung

3.13

1.305

168

toi dang co gang thuc hien

Toi sinh hoat theo moi

3.04

1.310

168

nguoi tronng gia dinh

Tôi tich cuc tham gia hoat

3.15

1.119

168

dong hoc tap

Toi thuong xuyen trao doi

voi giao vien ve noi dung

2.70

1.317

168

hoc tap

Toi tham gia day du cac

3.20

1.140

168

buoi hoc nghe

Toi tham gia day du cac

3.13

1.291

168

buoi hoc van hoa

Toi hay trao doi voi moi

3.04

1.191

168

nguoi ve noi dung hoc duoc

Toi tham gia day du ngay

3.35

1.038

168

cong lao dong

Toi hoan thanh dinh muc

3.36

.974

168

lao dong

Toi thanh thao cac thao tac

3.27

1.075

168

lao dong

Toi khong chu dong, khong

sang tao khi lao dong, ai

2.95

1.280

168

bao gi lam day

Toi gap va tro chuyen voi

hang xom mot cach binh

2.90

1.356

168

thuong

toi có quan he tot voi nhieu

3.01

1.166

168

nguoi

Moi nguoi giup do toi nhiet

3.02

1.189

168

tinh

Toi ung xu voi moi nguoi

3.48

.985

168

trong gia dinh binh thuong

3.1.4. Thích ứng chung

Reliability Statistics

Cronbach's

N of Items

Alpha

.914

50

Item Statistics

Mean

Std. Deviation

N

Tôi tich cuc tham gia hoat

3.15

1.119

168

dong hoc tap

Toi thuong xuyen trao doi

voi giao vien ve noi dung

2.70

1.317

168

hoc tap

Toi tham gia day du cac

3.20

1.140

168

buoi hoc nghe

Toi tham gia day du cac

3.13

1.291

168

buoi hoc van hoa

Toi hay trao doi voi moi

3.04

1.191

168

nguoi ve noi dung hoc duoc

Toi tham gia day du ngay

3.35

1.038

168

cong lao dong

Toi hoan thanh dinh muc

3.36

.974

168

lao dong

Toi thanh thao cac thao tac

3.27

1.075

168

lao dong

Toi khong chu dong, khong

sang tao khi lao dong, ai

2.95

1.280

168

bao gi lam day

Toi gap va tro chuyen voi

hang xom mot cach binh

2.90

1.356

168

thuong

toi có quan he tot voi nhieu

3.01

1.166

168

nguoi

Moi nguoi giup do toi nhiet

3.02

1.189

168

tinh

Toi ung xu voi moi nguoi

3.48

.985

168

trong gia dinh binh thuong

Toi thuc hien tot cac quy

3.05

1.242

168

dinh cua dia phuong

Toi nhannh chong hoa nhap

3.27

1.087

168

voi dia phuong

Toi luon co gang thuc hien

3.50

.848

168

quy dinhcua dia phuong

Tu day som rat ngai nhung

3.13

1.305

168

toi dang co gang thuc hien

Toi sinh hoat theo moi

3.04

1.310

168

nguoi tronng gia dinh

Viec hoc tap phap luat

khong có ich gi, chi la hinh

3.48

1.153

168

thuc, khong can thiet

Noi dung hoc tap giao duc

cong dan, dao duc chi la ly

3.20

1.260

168

thuyet suong

toi thay bat buoc phai hoc

tap van hoa la dieu kho

2.75

1.438

168

khan doi voi toi

hoc tap giup toi hoc hoi

duoc nhieu kien thuc va sau

3.70

.817

168

nay co co hoi viec lam hon

Toi thay minh can thiet phai

3.61

.781

168

hoc de bo sung kien thuc

Lao dong giup toi ren luyen

3.70

.722

168

suc khoe va su kien tri

Lao dong giup toi hieu hon

3.73

.698

168

ve cuoc song

Toi thay phai lao dong la

3.20

1.181

168

dieu kho khan doi voi toi

De co ban be moi toi phai

chu dong lam quen va thiet

3.13

1.224

168

lap quan he

de hang xom khong e ngai

3.23

1.187

168

toi cung can co thoi gian

Toi can the hien su quan

tam den cac thanh vien

3.48

1.015

168

trong gia dinh

Tham gia cac hoat dong voi

moi nguoi là cach tot de toi

3.69

.758

168

hoa nhap voi ho

Di ngu, xem tivi, lam cac

viec khac theo quy dinh la

3.39

1.056

168

can thiet

Toi luon co gang tham gia

cac hoat dong o dia phuong

3.10

1.222

168

cung moi nguoi

Moi nguoi xung quanh toi

chap hanh tot quy dinh dia

2.96

1.049

168

phuong

Toi khong thich thu gi khi

2.77

1.339

168

phai hoc tap

Viec hoc tap phap luat lam

3.06

1.280

168

toi thay met moi, buon chan

Viec hoc nghe lam toi thay

3.36

1.040

168

de chiu

Toi thich duoc hoc lai tu

2.55

1.438

168

dau

Toi khong thich phai lao

3.25

1.203

168

dong

Toi thay kho chiu khi bi bat

2.72

1.371

168

buoc phai lao dong

Toi thay vui khi tu minh

3.68

.849

168

lam ra duoc san pham moi

Toi thay kha hai long voi

2.92

1.127

168

cac ban cua toi

Toi khong thay kho chiu ve

su do xet cua nguoi xung

2.24

1.395

168

quanh

Tôi thay thoai mai voi moi

3.62

.867

168

nguoi trong gia dinh

3.23

1.003

168

Moi nguoi doi xu tot voi toi

Toi hay giup moi nguoi

2.90

1.130

168

xung quanh

Sinh hoat chung voi moi

nguoi trong cong dong toi

2.98

1.137

168

thay cung on

Toi dan quen voi quy dinh

ve gio giac di ngu, xem tivi,

3.61

.758

168

lam viec khac

Toi thay yen tam khi lam

3.47

.978

168

viec theo thoi gian bieu

Toi thay hai long vi da làm

theo duoc noi quy dia

3.35

.961

168

phuong

Toi thay kha on voi cuoc

3.52

.896

168

song hien tai

3.2. Tương quan giữa các thành phần thích ứng

Correlations

tuchung1 matnhanthuc matthaido mathanhvi

Pearson Correlation

1

.782**

.862**

.894**

tuchung1

Sig. (2-tailed)

.000

.000

.000

N

168

168

168

168

Pearson Correlation

.534**

.524**

.782**

1

matnhanthuc

Sig. (2-tailed)

.000

.000

.000

N

168

168

168

168

Pearson Correlation

.862**

.534**

1

.675**

Matthaido

Sig. (2-tailed)

.000

.000

.000

N

168

168

168

168

Pearson Correlation

.894**

.524**

.675**

1

mathanhvi

Sig. (2-tailed)

.000

.000

.000

N

168

168

168

168

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

3.3. Kết quả xử lý Hồi quy của các yếu tố

3.3.1. Chạy nhân tố

Rotated Component Matrixa

Component

1

2

3

4

Toi luon thay cang thang va

.757

-.269

met moi

Toi cam thay chan nan va

.713

-.106

.107

.144

that vong

Toi so hai ve nhung dieu

.661

-.116

.249

sap xay ra

.619

.141

.184

Toi cam thay bat hanh

Toi thuong xuyen bi mat

.583

-.176

ngu tu khi ve dia phuong

Toi muon tu tu

.743

Mac ke moi chuyen den dau

-.139

.693

-.105

thi den

Toi co y dinh den mot noi xa

khong ai biet minh de song

-.345

.596

-.164

not

Cong viec hoc tap va lao

dong rat huu ich giup toi

.159

-.471

.409

.229

hoa nhap cuoc song

Toi tim cach nao do de khac

-.109

-.137

.785

.102

phuc

Toi hay tro chuyen voi moi

.349

-.157

.657

nguoi xung quanh

Toi coi nhu moi chuyen van

.212

.385

.554

binh thuong

Toi coi nhu het chang lam

.240

-.130

.807

lai duoc gi

Toi kho de can bang duoc

.574

cuoc song tu khi ve dia

.435

phuong

toi khong muon noi chuyen

.317

-.293

.289

.546

va tiep xuc voi bat ky ai

Toi an han ve nhung dieu

-.344

.419

.541

da gay ra

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

a. Rotation converged in 8 iterations.

Rotated Component Matrixa

Component

1

2

3

Cac cap chinh quyen tao

.820

dieu kien de toi hoc tap

Dia phuong ho tro giup toi

.812

-.139

.105

co viec lam

Doan thanh nien va hoi phu

nu o dia ban hay hoi tham,

.761

-.122

dong vien toi

Hang xom dong vien chia

.641

-.273

.365

se voi toi

Moi nguoi xung quanh deu

.635

-.195

.250

cong nhan su tien bo cua toi

Moi nguoi thuong ne tranh

-.158

.794

nhung nguoi nhu toi

Moi nguoi thuong che giau

thai do that cua ho doi voi

-.267

.728

toi

Toi hay nghe tieng cac ban

.241

-.697

ban tán sau lung

Nhung nguoi quanh toi

-.101

.643

-.124

khong tin là toi tien bo

Toi hay bi cac chu Cong an

.249

.468

goi khi dia phuong co viec

Gia dinh dong vien chia se

.785

voi toi

.707

Gia dinh giup toi co viec lam

.242

Moi nguoi trong gia dinh rat

.678

thong cam voi hoan canh

.310

hien tai cua toi

Gia dinh toi khuyen khich toi

.537

.298

có them ban be moi

Gia dinh tao dieu kien de toi

-.158

-.131

.419

hoc tap

Extraction Method: Principal Component Analysis.

Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.

a. Rotation converged in 5 iterations.

ANOVAa

Model

Sum of Squares

Df

Mean Square

F

Sig.

Regression

31.687

5

6.337

.

.b

1

Residual

.000

162

.000

Total

31.687

167

a. Dependent Variable: tuchung1

b. Predictors: (Constant), mathanhvi, matchuquan, matnhanthuc, matkhachquan, matthaido

Coefficientsa

Model

Unstandardized

Standardized

t

Sig.

Collinearity Statistics

Coefficients

Coefficients

Std.

B

Beta

Tolerance

VIF

Error

(Constant)

-1.659E-017

.000

.

.

Matchuqua

1.056E-017

.000

.000

.745

1.342

.

.

n

matkhachq

1.069E-016

.000

.000

.546

1.830

.

.

uan

1

matnhanth

.

.

.654

1.529

.333

.000

.342

uc

.

.

.467

2.142

matthaido

.333

.000

.361

.

.

.370

2.699

mathanhvi

.333

.000

.472

a. Dependent Variable: tuchung1

Model Summaryb

Model

R

R Square

Adjusted R

Std. Error of the

Durbin-Watson

Square

Estimate

1

1.000a

1.000

1.000

.00000

.191

a. Predictors: (Constant), mathanhvi, matchuquan, matnhanthuc, matkhachquan,

matthaido

b. Dependent Variable: tuchung1

ANOVAa

Model

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

Regression

31.687

5

6.337

.

.b

1

Residual

.000

162

.000

Total

31.687

167

a. Dependent Variable: tuchung1

b. Predictors: (Constant), mathanhvi, matchuquan, matnhanthuc, matkhachquan, matthaido

Collinearity Diagnosticsa

Model Dim

Eigenvalue

Condition

Variance Proportions

ensio

Index

(Constant) matchuquan matkhachqu

matnhan

matthaido

mathanhvi

n

an

thuc

1

5.886

1.000

.00

.00

.00

.00

.00

.00

2

.045

11.474

.03

.00

.03

.88

.01

.00

3

.038

12.367

.05

.56

.03

.07

.00

.02

1

4

.015

19.735

.31

.32

.00

.01

.03

.47

5

.008

26.400

.02

.02

.55

.03

.73

.02

6

.008

27.585

.59

.09

.39

.00

.23

.49

a. Dependent Variable: tuchung1

Residuals Statisticsa

Minimum Maximum

Mean

Std. Deviation

N

Predicted Value

1.8871

3.8465

3.1322

.43559

168

Residual

.00000

.00000

.00000

.00000

168

Std. Predicted Value

-2.859

1.640

.000

1.000

168

Std. Residual

.

.

.

.

0

a. Dependent Variable: tuchung1

3.4. Bảng tra kết quả Hồi quy dL và dU (trích)

Bảng A.1: Mô hình với hệ số cắt theo Savin và White (1977)

 Thống kê DW ở mức ý nghĩa 1% của các giá trị dL và dU

*k’ là số biến giải thích (không bao gồm hệ số cắt)

k’*=1

k’=2

k’=3

k’=4

k’=5

k’=6

k’=7

n

dL

dU

dL

dU

dL

dU

dL

dU

dL

dU

dL

dL

dU

6

0.390

1.142 —–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

7

0.435

1.036

0.294

1.676 —–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

8

0.497

1.003

0.345

1.489

0.229

2.102 —–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

9

0.554

0.998

0.408

1.389

0.279

1.875

0.183

2.433 —–

—–

—–

—–

—–

10

0.604

1.001

0.466

1.333

0.340

1.733

0.230

2.193

0.150

2.690 —–

—–

—–

11

0.653

1.010

0.519

1.297

0.396

1.640

0.286

2.030

0.193

2.453

0.124

2.892 —–

12

0.697

1.023

0.569

1.274

0.449

1.575

0.339

1.913

0.244

2.280

0.164

2.665

0.105

13

0.738

1.038

0.616

1.261

0.499

1.526

0.391

1.826

0.294

2.150

0.211

2.490

0.140

14

0.776

1.054

0.660

1.254

0.547

1.490

0.441

1.757

0.343

2.049

0.257

2.354

0.183

15

0.811

1.070

0.700

1.252

0.591

1.465

0.487

1.705

0.390

1.967

0.303

2.244

0.226

16

0.844

1.086

0.738

1.253

0.633

1.447

0.532

1.664

0.437

1.901

0.349

2.153

0.269

17

0.873

1.102

0.773

1.255

0.672

1.432

0.574

1.631

0.481

1.847

0.393

2.078

0.313

18

0.902

1.118

0.805

1.259

0.708

1.422

0.614

1.604

0.522

1.803

0.435

2.015

0.355

19

0.928

1.133

0.835

1.264

0.742

1.416

0.650

1.583

0.561

1.767

0.476

1.963

0.396

20

0.952

1.147

0.862

1.270

0.774

1.410

0.684

1.567

0.598

1.736

0.515

1.918

0.436

21

0.975

1.161

0.889

1.276

0.803

1.408

0.718

1.554

0.634

1.712

0.552

1.881

0.474

22

0.997

1.174

0.915

1.284

0.832

1.407

0.748

1.543

0.666

1.691

0.587

1.849

0.510

23

1.017

1.186

0.938

1.290

0.858

1.407

0.777

1.535

0.699

1.674

0.620

1.821

0.545

24

1.037

1.199

0.959

1.298

0.881

1.407

0.805

1.527

0.728

1.659

0.652

1.797

0.578

25

1.055

1.210

0.981

1.305

0.906

1.408

0.832

1.521

0.756

1.645

0.682

1.776

0.610

26

1.072

1.222

1.000

1.311

0.928

1.410

0.855

1.517

0.782

1.635

0.711

1.759

0.640

27

1.088

1.232

1.019

1.318

0.948

1.413

0.878

1.514

0.808

1.625

0.738

1.743

0.669

28

1.104

1.244

1.036

1.325

0.969

1.414

0.901

1.512

0.832

1.618

0.764

1.729

0.696

29

1.119

1.254

1.053

1.332

0.988

1.418

0.921

1.511

0.855

1.611

0.788

1.718

0.723

30

1.134

1.264

1.070

1.339

1.006

1.421

0.941

1.510

0.877

1.606

0.812

1.707

0.748

31

1.147

1.274

1.085

1.345

1.022

1.425

0.960

1.509

0.897

1.601

0.834

1.698

0.772

32

1.160

1.283

1.100

1.351

1.039

1.428

0.978

1.509

0.917

1.597

0.856

1.690

0.794

33

1.171

1.291

1.114

1.358

1.055

1.432

0.995

1.510

0.935

1.594

0.876

1.683

0.816

34

1.184

1.298

1.128

1.364

1.070

1.436

1.012

1.511

0.954

1.591

0.896

1.677

0.837

35

1.195

1.307

1.141

1.370

1.085

1.439

1.028

1.512

0.971

1.589

0.914

1.671

0.857

36

1.205

1.315

1.153

1.376

1.098

1.442

1.043

1.513

0.987

1.587

0.932

1.666

0.877

37

1.217

1.322

1.164

1.383

1.112

1.446

1.058

1.514

1.004

1.585

0.950

1.662

0.895

38

1.227

1.330

1.176

1.388

1.124

1.449

1.072

1.515

1.019

1.584

0.966

1.658

0.913

39

1.237

1.337

1.187

1.392

1.137

1.452

1.085

1.517

1.033

1.583

0.982

1.655

0.930

40

1.246

1.344

1.197

1.398

1.149

1.456

1.098

1.518

1.047

1.583

0.997

1.652

0.946

45

1.288

1.376

1.245

1.424

1.201

1.474

1.156

1.528

1.111

1.583

1.065

1.643

1.019

50

1.324

1.403

1.285

1.445

1.245

1.491

1.206

1.537

1.164

1.587

1.123

1.639

1.081

55

1.356

1.428

1.320

1.466

1.284

1.505

1.246

1.548

1.209

1.592

1.172

1.638

1.134

60

1.382

1.449

1.351

1.484

1.317

1.520

1.283

1.559

1.248

1.598

1.214

1.639

1.179

65

1.407

1.467

1.377

1.500

1.346

1.534

1.314

1.568

1.283

1.604

1.251

1.642

1.218

70

1.429

1.485

1.400

1.514

1.372

1.546

1.343

1.577

1.313

1.611

1.283

1.645

1.253

75

1.448

1.501

1.422

1.529

1.395

1.557

1.368

1.586

1.340

1.617

1.313

1.649

1.284

80

1.465

1.514

1.440

1.541

1.416

1.568

1.390

1.595

1.364

1.624

1.338

1.653

1.312

85

1.481

1.529

1.458

1.553

1.434

1.577

1.411

1.603

1.386

1.630

1.362

1.657

1.337

90

1.496

1.541

1.474

1.563

1.452

1.587

1.429

1.611

1.406

1.636

1.383

1.661

1.360

95

1.510

1.552

1.489

1.573

1.468

1.596

1.446

1.618

1.425

1.641

1.403

1.666

1.381

100

1.522

1.562

1.502

1.582

1.482

1.604

1.461

1.625

1.441

1.647

1.421

1.670

1.400

150

1.611

1.637

1.598

1.651

1.584

1.665

1.571

1.679

1.557

1.693

1.543

1.708

1.530

200

1.664

1.684

1.653

1.693

1.643

1.704

1.633

1.715

1.623

1.725

1.613

1.735

1.603

16

0.060

3.446 —–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

17

0.084

3.286

0.053

3.506 —–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

18

0.113

3.146

0.075

3.358

0.047

3.557 —–

—–

—–

—–

—–

—–

—–

19

0.145

3.023

0.102

3.227

0.067

3.420

0.043

3.601 —–

—–

—–

—–

—–

20

0.178

2.914

0.131

3.109

0.092

3.297

0.061

3.474

0.038

3.639 —–

—–

—–

21

0.212

2.817

0.162

3.004

0.119

3.185

0.084

3.358

0.055

3.521

0.035

3.671 —–

22

0.246

2.729

0.194

2.909

0.148

3.084

0.109

3.252

0.077

3.412

0.050

3.562

0.032

23

0.281

2.651

0.227

2.822

0.178

2.991

0.136

3.155

0.100

3.311

0.070

3.459

0.046

24

0.315

2.580

0.260

2.744

0.209

2.906

0.165

3.065

0.125

3.218

0.092

3.363

0.065

25

0.348

2.517

0.292

2.674

0.240

2.829

0.194

2.982

0.152

3.131

0.116

3.274

0.085

26

0.381

2.460

0.324

2.610

0.272

2.758

0.224

2.906

0.180

3.050

0.141

3.191

0.107

27

0.413

2.409

0.356

2.552

0.303

2.694

0.253

2.836

0.208

2.976

0.167

3.113

0.131

28

0.444

2.363

0.387

2.499

0.333

2.635

0.283

2.772

0.237

2.907

0.194

3.040

0.156

29

0.474

2.321

0.417

2.451

0.363

2.582

0.313

2.713

0.266

2.843

0.222

2.972

0.182

30

0.503

2.283

0.447

2.407

0.393

2.533

0.342

2.659

0.294

2.785

0.249

2.909

0.208

31

0.531

2.248

0.475

2.367

0.422

2.487

0.371

2.609

0.322

2.730

0.277

2.851

0.234

32

0.558

2.216

0.503

2.330

0.450

2.446

0.399

2.563

0.350

2.680

0.304

2.797

0.261

33

0.585

2.187

0.530

2.296

0.477

2.408

0.426

2.520

0.377

2.633

0.331

2.746

0.287

34

0.610

2.160

0.556

2.266

0.503

2.373

0.452

2.481

0.404

2.590

0.357

2.699

0.313

35

0.634

2.136

0.581

2.237

0.529

2.340

0.478

2.444

0.430

2.550

0.383

2.655

0.339

36

0.658

2.113

0.605

2.210

0.554

2.310

0.504

2.410

0.455

2.512

0.409

2.614

0.364

37

0.680

2.092

0.628

2.186

0.578

2.282

0.528

2.379

0.480

2.477

0.434

2.576

0.389

0.702

2.073

0.651

2.164

0.601

2.256

0.552

2.350

0.504

2.445

0.458

2.540

0.414

38

0.723

2.055

0.673

2.143

0.623

2.232

0.575

2.323

0.528

2.414

0.482

2.507

0.438

39

0.744

2.039

0.694

2.123

0.645

2.210

0.597

2.297

0.551

2.386

0.505

2.476

0.461

40

0.835

1.972

0.790

2.044

0.744

2.118

0.700

2.193

0.655

2.269

0.612

2.346

0.570

45

0.913

1.925

0.871

1.987

0.829

2.051

0.787

2.116

0.746

2.182

0.705

2.250

0.665

50

0.979

1.891

0.940

1.945

0.902

2.002

0.863

2.059

0.825

2.117

0.786

2.176

0.748

55

1.037

1.865

1.001

1.914

0.965

1.964

0.929

2.015

0.893

2.067

0.857

2.120

0.822

60

1.087

1.845

1.053

1.889

1.020

1.934

0.986

1.980

0.953

2.027

0.919

2.075

0.886

65

1.131

1.831

1.099

1.870

1.068

1.911

1.037

1.953

1.005

1.995

0.974

2.038

0.943

70

1.170

1.819

1.141

1.856

1.111

1.893

1.082

1.931

1.052

1.970

1.023

2.009

0.993

75

1.205

1.810

1.177

1.844

1.150

1.878

1.122

1.913

1.094

1.949

1.066

1.984

1.039

80

1.236

1.803

1.210

1.834

1.184

1.866

1.158

1.898

1.132

1.931

1.106

1.965

1.080

85

1.264

1.798

1.240

1.827

1.215

1.856

1.191

1.886

1.166

1.917

1.141

1.948

1.116

90

1.290

1.793

1.267

1.821

1.244

1.848

1.221

1.876

1.197

1.905

1.174

1.943

1.150

95

1.314

1.790

1.292

1.816

1.270

1.841

1.248

1.868

1.225

1.895

1.203

1.922

1.181

100

1.473

1.783

1.458

1.799

1.444

1.814

1.429

1.830

1.414

1.847

1.400

1.863

1.385

150

1.561

1.791

1.550

1.801

1.539

1.813

1.528

1.824

1.518

1.836

1.507

1.847

1.495

200