BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-------------
ĐẶNG VĂN CƯỜNG
THAM NHŨNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TẠI CÁC QUỐC GIA CHUYỂN ĐỔI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP.HCM, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-------------
ĐẶNG VĂN CƯỜNG
THAM NHŨNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TẠI CÁC QUỐC GIA CHUYỂN ĐỔI
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Vũ Thị Minh Hằng 2. TS Nguyễn Thị Huyền
TP.HCM, NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
--------Δ--------
Tôi xin cam đoan luận án Tiến sĩ với đề tài “Tham nhũng và tăng trưởng
kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi” là công trình nghiên cứu độc lập của
tôi. Các thông tin, số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc trích
dẫn rõ ràng, cụ thể và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
TP.HCM, ngày 5 tháng 10 năm 2016
Nghiên cứu sinh
Đặng Văn Cường
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
--------Δ--------
2SLS: Two Stage Least Square (bình phương tối thiểu hai giai đoạn)
AIC: Akaike’s information Criterion
SIC: Schwaz Information Criterion
DGMM: difference GMM (GMM sai phân)
FDI: Foreign Direct Investment (đầu tư trực tiếp nước ngoài)
FEM: Fixed Effect Model (mô hình hiệu ứng cố định)
GMM: Generalized Method of Moments (phương pháp ước lượng tổng
quát hóa dựa trên moment)
GSL: Generalized Least Square (bình phương tối thiểu tổng quát hóa)
PRS: Political Risk Service
REM: Random Effect Model (mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên)
TFP: Total Factor Productivity (nhân tố sản xuất tổng hợp)
DANH MỤC BẢNG BIỂU
--------Δ--------
Trang
Chương 2 Khung lý thuyết các yếu tố tác động tham nhũng
Bảng 2.1: Các yếu tố tác động đến tham nhũng ......................................... 41
Chương 3 Khung lý thuyết tham nhũng tác động đến tăng trưởng
Bảng 3.1: Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm ...................................... 69
Chương 4 Kết quả nghiên cứu và thảo luậ3
Bảng 4.1: Các biến sử dụng trong mô hình ................................................. 93
Bảng 4.2: Thống kê mô tả biến ................................................................... 94
Bảng 4.3 : Ma trận hệ số tương quan các biến .......................................... 105
Bảng 4.4 : Ma trận hệ số tương quan các biến .......................................... 106
Chương 5 Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Bảng 5.1 : Kiểm định tính dừng các biến ................................................. 110
Bảng 5.2 : Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu ................................................. 111
Bảng 5.3 : Kiểm định quan hệ nhân quả Granger ..................................... 112
Bảng 5.4 : Kết quả kiểm định Wald .......................................................... 112
Bảng 5.5 : Kết quả hồi quy các biến ......................................................... 114
Bảng 5.6 : Kết quả hồi quy bằng PP ước lượng 2SLS .............................. 125
Bảng 5.7 : Hiệu ứng từng phân ................................................................. 128
Bảng 5.8 : Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng ............................. 132
Bảng 5.9 : Kết quả hồi quy bằng PP 2SLS ............................................... 135
Bảng 5.10 : Kết quả kiểm định hiệu ứng hội tụ ........................................ 138
Bảng 5.11 : Kết quả hồi quy bằng PP GLS ............................................... 139
Bảng 5.12 : Kết quả hồi quy PP GMM ..................................................... 152
DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
--------Δ--------
Trang
Chương 1 Giới thiệu tổng quan về nghiên cứu
Hình 1.1 Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế ............................................... 9
Hình 1.2 Quy trình thực hiện nghiên cứu ................................................... 17
Chương 2 Khung lý thuyết các yếu tố tác động tham nhũng
Hình 2.1: Lý thuyết nguyên nhân gây ra tham nhũng ................................. 34
Chương 3 Khung lý thuyết tham nhũng tác động đến tăng trưởng
Hình 3.1: Các kênh truyền dẫn của tham nhũng đến tăng trưởng .............. 59
Chương 4 Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Biểu đồ 4.1: Tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi ............................... 95
Biểu đồ 4.2 : Thu nhập bình quân ............................................................... 96
Biểu đồ 4.3 : Mức độ tự do kinh tế ............................................................. 97
Biểu đồ 4.4 : Mức độ tự do dân chủ ............................................................ 98
Biểu đồ 4.5 : Tỷ lệ thất nghiệp .................................................................... 99
Biểu đồ 4.6 : Tỷ lệ lạm phát ...................................................................... 100
Biểu đồ 4.7 : Tốc độ tăng dân số ............................................................... 101
Biểu đồ 4.8 : Độ mở thương mại............................................................... 102
Biểu đồ 4.9 : Tỷ lệ học sinh ...................................................................... 103
Biểu đồ 4.10 : Tỷ lệ đầu tư ........................................................................ 104
Biểu đồ 4.11 : Tỷ lệ chi tiêu dùng công .................................................... 105
Chương 5 Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Biểu đồ 5.1 : Mối quan hệ giữa tự do kinh tế và tham nhũng .................. 115
Biểu đồ 5.2 : Mối quan hệ giữa dân chủ và tham nhũng .......................... 117
Biểu đồ 5.3 : Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng ......................... 119
Biểu đồ 5.4 : Mối quan hệ giữa lạm phát và tham nhũng ......................... 120
Biểu đồ 5.5: Mối quan hệ giữa trình độ dân trí và tham nhũng ................ 121
Biểu đồ 5.6: Mối quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tham nhũng .............. 122
Biểu đồ 5.7: Mối quan hệ giữa nguồn gốc pháp lý và tham nhũng .......... 123
Biểu đồ 5.8 : Tác động từng phần của tự do kinh tế ................................. 129
Biểu đồ 5.9 : Tác động từng phần của dân chủ ......................................... 130
Biểu đồ 5.10 : Mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng ....... 134
Biểu đồ 5.11 : Tác động tham nhũng đến tăng trưởng ............................. 141
Biểu đồ 5.12 : Tác động tự do kinh tế đến tăng trưởng ............................ 141
Biểu đồ 5.13 : Tác động dân chủ đến tăng trưởng .................................... 143
Biểu đồ 5.14 : Tác động đầu tư đến tăng trưởng ...................................... 144
Biểu đồ 5.15 : Tác động trình độ dân trí ................................................... 145
Biểu đồ 5.16 : Tác động tốc độ tăng dân số .............................................. 146
Biểu đồ 5.17 : Tác động chi tiêu dùng công ............................................. 147
Biểu đồ 5.18 : Hiệu ứng tương tác của dân chủ và tham nhũng ............... 149
Biểu đồ 5.19 : Hiệu ứng tương tác của tự do kinh tế và tham nhũng ....... 150
MỤC LỤC
--------Δ--------
Trang
Chương 1 Giới thiệu khái quát về đề tài nghiên cứu ............................... 1
1.1. Tính cấp thiết của luận án .............................................................. 1
1.2. Tình hình nghiên cứu có liên quan ................................................ 4
1.3. Khoảng trống nghiên cứu và mục tiêu........................................... 9
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................... 12
1.5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................. 12
1.6. Kết quả và đóng góp mới của luận án ......................................... 15
1.7. Quy trình nghiên cứu ................................................................... 16
1.8. Kết cấu của luận án ...................................................................... 17
Chương 2 Khung lý thuyết các yếu tố tác động tham nhũng ............... 20
Giới thiệu chương 2 .............................................................................. 20
2.1. Khung khái niệm ........................................................................... 21
2.1.1. Tổng quan về thể chế .............................................................. 21
2.1.2. Tổng quan về tham nhũng ...................................................... 25
2.2. Lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng ......................... 30
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm ....................................................... 34
Kết luận chương 2 ................................................................................ 42
Chương 3 Lý thuyết tác động tham nhũng đến tăng trưởng ................ 43
Giới thiệu chương 3 .............................................................................. 43
3.1. Khái niệm tổng quan .................................................................... 44
3.2. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế...................................................... 46
3.2.1. Tham nhũng và tăng trưởng .................................................... 46
2.2.2. Kênh truyền dẫn tác động của tham nhũng ............................ 52
3.3. Các nghiên cứu thực nghiệm ....................................................... 60
3.2.1. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tiêu cực ....................... 60
3.2.2. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tích cực ....................... 65
Kết luận chương 3 ................................................................................ 71
Chương 4 Mô hình, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ..................... 73
Giới thiệu chương 4 .............................................................................. 73
4.1. Mô hình thực nghiệm .................................................................... 74
4.1.1. Các yếu tố tác động đến tham nhũng ...................................... 74
4.1.2. Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng ............................ 75
4.2. Phương pháp ước lượng ............................................................... 76
4.2.1. Mô hình các thành phần sai số cố định ................................... 76
4.2.2. Mô hình các thành phần sai số ngẫu nhiên ............................. 77
4.2.3. Ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) ................ 78
4.2.4. Ước lượng với biến công cụ ................................................... 79
4.2.5. Phương pháp ước lượng D-GMM .......................................... 80
4.3. Các bước phân tích dữ liệu .......................................................... 82
4.3.1. Kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng..................... 83
4.3.2. Kiểm định hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng 84
4.3.3 Kiểm định lý thuyết chất bôi trơn của tham nhũng ................. 85
4.4. Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................ 86
4.4.1. Mô tả biến ............................................................................... 86
4.4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu ........................................ 93
Kết luận chương 4 ............................................................................... 106
Chương 5 Kết quả nghiên cứu và thảo luận ........................................ 108
Giới thiệu chương 5 ........................................................................... 108
5.1. Kết quả kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng ....... 109
5.1.1. Kiểm định quan hệ nhân quả Granger .................................. 109
5.1.2. Phân tích mô hình tuyến tính cơ bản .................................... 113
5.1.3. Kiểm tra tính vững của mô hình ........................................... 124
5.1.4. Phân tích hiệu ứng từng phần ............................................... 127
5.2. Kết quả kiểm định mối quan hệ phi tuyến ............................... 131
5.2.1. Mối quan hệ phi tuyến .......................................................... 131
5.2.2. Kiểm tra tính vững ................................................................ 135
5.3. Kết quả kiểm định hiệu ứng chất bôi trơn của tham nhũng .. 137
5.3.1. Kiểm định giả thuyết hiệu ứng hội tụ ................................... 137
5.3.2. Kết quả thực nghiệm mô hình cơ sở ..................................... 139
5.3.3. Kết quả thực nghiệm mô hình biến tương tác ...................... 147
5.3.4. Phân tích tính vững bằng phương pháp D-GMM ................. 150
Kết luận chương 5 .............................................................................. 153
Chương 6 Kết luận và hàm ý chính sách .............................................. 154
Giới thiệu chương 6 ............................................................................ 154
6.1. Các phát hiện chính .................................................................... 154
6.2. Gợi ý về chính sách ..................................................................... 156
6.2.1. Các giải pháp góp phần kiểm soát tham nhũng .................... 156
6.2.2. Các giải pháp cho tăng trưởng kinh tế .................................. 164
6.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................... 167
Kết luận chương 6 .............................................................................. 168
Kết luận chung ......................................................................................... 169
Danh muc các công trình công bố .......................................................... 173
Tài liệu tham khảo .................................................................................. 177
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của luận án
Do ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, từ lâu tham nhũng đã trở thành chủ đề
trọng tâm trong các lĩnh vực khoa học chính trị và kinh tế học. Vấn đề
chống tham nhũng hiện đang là một trong những vấn đề được ưu tiên hàng
đầu trong chương trình cải cách thể chế cho tiến trình phát triển tại các
quốc gia chuyển đổi. Theo tài liệu “Các hình thái tham nhũng” của Ngân
hàng thế giới (2008), những nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm trong vòng
một thập kỷ qua đã chỉ ra một cách thuyết phục rằng sự yếu kém trong điều
hành nhà nước (thể chế) thường dẫn đến các hình thức tham nhũng và nó
được xem là gây cản trở đối với đầu tư, làm chậm tăng trưởng kinh tế và
kìm hãm các nỗ lực xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, các nhà hoạch định
chính sách có thể sử dụng các công cụ chẩn đoán để đánh giá về các ưu
tiên cải cách trong các lĩnh vực hay xảy ra tham nhũng với phạm vi rộng
hơn và đánh giá về tác động tiềm tàng của các biện pháp cải cách này theo
thời gian. Nhưng việc tìm hiểu sâu hơn về các nguyên nhân gây ra tham
nhũng vẫn đối mặt với nhiều khó khăn và việc xác định yếu tố nào là quan
trọng dẫn đến tình trạng tham nhũng ngày càng trầm trọng, dai dẵn thì vẫn
chưa được giải quyết.
Đến thời điểm hiện nay, các quốc gia chuyển đổi1 vẫn đang trong giai đoạn
1 Theo bài nghiên cứu về “Chống tham nhũng trong giai đoạn chuyển tiếp: khảo sát đa quốc gia tìm hiểu ý kiến về các nhà lãnh đạo” của WorldBank (2000)bao gồm các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Những quốc gia này được WDI (2014) xếp vào các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp. Rada & Taylor (2006) sử dụng dữ liệu của 57 quốc gia để nghiên cứu về sự phân hóa tăng trưởng và cấu trúc kinh tế của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Trong bài nghiên cứu của Iwasaki & Suzuki (2012), tác giả chỉ sử dụng dữ liêu của 32 quốc gia để khảo sát các yếu tố tác động đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi (do thiếu dữ liệu của chỉ số tham nhũng). Trong công trình này, do hạn chế về mặt dữ liệu của biến CPI được khai thác từ tổ chức Transparency International, tác giả sử dụng dữ liệu của 46 quốc gia theo tiêu chuẩn của WDI (2014) (xem thêm phụ lục).
thực hiện cải cách thể chế để hướng đến mục tiêu tạo lập môi trường kinh
1
doanh minh bạch, công bằng và ổn định chính sách nhằm thu hút dòng vốn
đầu tư thúc đẩy tiến trình phát triển đất nước. Chính sách cải cách này đã
mang lại những thành công bước đầu khi các nền kinh tế này đã đẩy mạnh
tiến trình công nghiệp hóa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế,
đạt được nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội… Nhưng,
song hành với những thành tựu đó, các quốc gia này vẫn đang đối mặt với
nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng. Trong đó, sự lây lan của nạn tham
nhũng tràn ngập vào mọi khía cạnh của đời sống kinh tế xã hội được xem
là vấn đề đáng lo ngại nhất. Theo báo cáo của WorldBank (2007b), thực tế
chỉ có 8 trong tổng số 34 quốc gia chuyển đổi có chỉ số kiểm soát tham
nhũng vượt mức trung trình của toàn thế giới trong giai đoạn 1996 – 2006
(kiểm soát tốt tham nhũng). Những nghiên cứu học thuật trước đây đã chỉ
ra rằng nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này được cho là do các quốc
gia chuyển đổi có chất lượng khung thể chế kém, thiếu cả mức độ dân chủ
và tự do kinh tế, và thu nhập của giới công chức còn thấp so với đại diện
khu vực tư (Acemoglu & Verdier, 2000; Treisman, 2000).
Những nghiên cứu dựa vào kinh nghiệm gần đây về hậu quả của tham
nhũng cũng cho thấy tham nhũng bóp méo sự phân bổ nguồn lực do đó nó
làm cho các nguồn ngân sách đi chệch hướng sang những lĩnh vực hoạt
động có thể dễ dàng hối lộ hay chi trả tiền hoa hồng phi pháp. Chẳng hạn,
nguồn ngân sách đi chệch hướng từ chi tiêu thường xuyên sang các khoản
đầu tư cơ bản để giúp giới chức dễ dàng trục lợi (Mauro, 1998; Tanzi &
Davoodi, 1998). Trong nhiều trường hợp, người nghèo chính là đối tượng
phải chịu gánh nặng lớn nhất từ sự chệch hướng này (Gupta & ctg, 2002;
Gyimah-Brempong, 2002).
Những kết quả nghiên cứu nói trên đã góp phần nâng cao nhận thức của
các nhà hoạch định chính sách, nhà tài trợ, cộng đồng doanh nghiệp và
công chúng nói chung về hậu quả không mong muốn của tham nhũng,
2
đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết cấp bách phải giải quyết những nguyên
nhân gốc rễ của nạn tham nhũng. Các nghiên cứu cũng đem đến cho các
nhà hoạch định chính sách một động lực thúc đẩy rất cần thiết để nhìn nhận
vấn đề này một cách nghiêm túc hơn.
Tuy nhiên, những nghiên cứu học thuật trước đây về tham nhũng, dù có
phạm vi rộng và ý nghĩa soi sáng, nhưng còn bị hạn chế về cách đánh giá
và sử dụng các phương pháp định lượng. Vấn đề thách thức hiện nay là các
nghiên cứu trước đây chưa sử dụng bộ dữ liệu đồng nhất về tham nhũng và
xuyên suốt để đánh giá đồng thời về các nguyên nhân gây ra tham nhũng
và hậu quả của nó, tác động của tham nhũng đến yếu tố kinh tế và xã hội.
Bên cạnh đó, việc lựa chọn mẫu khảo sát của các quốc gia có sự tương
đồng về chất lượng thể chế và thu nhập cũng chưa được quan tâm nhiều từ
các nhà nghiên cứu. Và việc thiếu tiếp cận các phương pháp ước lượng
hiện đại dành cho dữ liệu bảng nhằm xử lý vấn đề nội sinh tiềm ẩn cũng là
một hạn chế lớn của các nghiên cứu này.
Vì vậy, tác giả cho rằng việc thực hiện một nghiên cứu để tìm kiếm bằng
chứng về các nguyên nhân của tình trạng tham nhũng và đánh giá tác động
của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh của các quốc gia
chuyển đổi bằng việc sử dụng bộ dữ liệu đáng tin cậy về chỉ số tham nhũng
và ứng dụng các phương pháp ước lượng đảm bảo một kết quả chính xác là
thật sự cần thiết và mang tính cấp bách. Tác giả tin rằng kết quả của nghiên
cứu như vậy sẽ cung cấp các bằng chứng khoa học giúp chính phủ và các
cơ quan quản lý nhà nước ở cấp vĩ mô có thể xây dựng, lựa chọn giải pháp
hợp lý trong việc cải tiến điều hành nhà nước và chống tham nhũng hiệu
quả tại các quốc gia này.
3
1.2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án và vấn đề nghiên
cứu
Gần đây, các nghiên cứu về các yếu tố tác động đến tham nhũng là rất đa
dạng và phong phú. Các nghiên cứu này tập trung vào việc tìm hiểu các
nguyên nhân gây ra tham nhũng và từ đó tìm ra các giải pháp giảm mức độ
tham nhũng. Các nhà kinh tế và người hoạch định chính sách đã từng nhấn
mạnh vai trò của các yếu tố thể chế như là mức độ tự do kinh tế và tự do
dân chủ trong việc chống tham nhũng (Krueger, 1974; Treisman, 2007).
Mặc dù có nhiều sự đồng thuận trong các tài liệu thực nghiệm nhưng vẫn
tồn tại một vài vấn đề chưa được giải quyết. Chẳng hạn, nghiên cứu của
Rock (2009) và Treisman (2000) cho thấy mức độ tự do kinh tế lớn hơn
làm giảm mức độ tham nhũng, trong khi đó vai trò của mức độ dân chủ thì
lại không rõ ràng.
Nghiên cứu của Krueger (1974) đã thiết lập một kịch bản về hoạt động
tham nhũng và đã chỉ ra rằng: tại các nền kinh tế định hướng thị trường,
chính phủ quy định các giới hạn lên các hoạt động kinh tế làm gia tăng
mức độ tham nhũng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bởi vì các đại diện
khu vực tư không muốn mất quá nhiều thời gian cho việc xếp hàng chờ đợi
khi sử dụng các dịch vụ công nên họ chấp nhận thực hiện các khoản chi trả
bất hợp pháp cho giới công chức. Buchanan & Brennan (1980) nhấn mạnh
rằng tương tự hiệu ứng của cạnh tranh trong thị trường sản xuất, cạnh trạnh
chính trị làm giảm khả năng các công chức trục lợi khi cung cấp các dịch
vụ công. Tuy nhiên, Shleifer (1993) đã thảo luận về hiệu ứng của phi tập
trung đến tham nhũng và đưa ra kết luận ngược lại.
Theo tìm hiểu của tác giả, các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc đánh giá
tác động của chất lượng thể chế đến tham nhũng, nhưng tác giả vẫn chưa
tìm thấy một nghiên cứu định lượng nào đo lường xem việc mở rộng mức
độ tự do kinh tế và gia tăng mức độ dân chủ tác động như thế nào đến việc
4
phòng chống tham nhũng ở các quốc gia chuyển đổi. Do đó, tác giả tin
rằng việc thực hiện một nghiên cứu định lượng về vấn đề này sẽ cung cấp
bằng chứng hữu ích cần thiết và đáng tin cậy về mặt khoa học giúp cho các
nhà hoạch định chính sách có thêm một số chỉ dẫn nhằm xây dựng các
chiến lược cụ thể và đưa ra giải pháp cải cách thể chế hiệu quả trong việc
phòng chống tham nhũng.
Bên cạnh yếu tố chất lượng thể chế, yếu tố thu nhập tác động đến tham
nhũng cũng được quan tâm nhiều nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm
trước đây. Nghiên cứu của Graf Lambsdorff (2005) đã cho rằng thu nhập
thấp của giới chức chính là nguyên nhân tác động tiêu cực đến tham nhũng
ở các quốc gia. Kết quả của nghiên cứu này đã nhận được một vài sự đồng
thuận nhưng cũng tồn tại không ít các ý kiến trái chiều. Các nghiên cứu
ủng hộ kết quả này cho thấy tham nhũng chịu sự tác động tiêu cực từ thu
nhập bình quân ở các quốc gia, do đó các quốc gia giàu (thu nhập bình
quân đầu người cao) thường được cảm nhận là ít tham nhũng hơn ở các
quốc gia nghèo (thu nhập bình quân đầu người thấp). Tuy nhiên, thực tế
cho thấy điều này gần như không xảy ra ở các quốc gia chuyển đổi. Sau
thời gian cải cách, nền kinh tế tại các quốc gia này đã có những chuyển
biến tích cực và được thể hiện thông qua các thành tựu như tổng sản phẩm
quốc nội tăng, thu nhập trung bình được cải thiện, tỷ lệ nghèo đói giảm,
phúc lợi xã hội được chính phủ quan tâm nhiều hơn,… nhưng vấn nạn
tham nhũng chẳng những không được cải thiện mà lại có khuynh hướng
tăng cao cả về quy mô và hình thức. Báo cáo của Worldbank (2014) đã
cung cấp bằng chứng cho vấn đề này khi mà chỉ có 8 trong 32 quốc gia
chuyển đổi có thể kiểm soát tham nhũng ở mức độ chấp nhận được, nghĩa
là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh
tế thị trường của các quốc gia này lại không giúp giảm tham nhũng mà
ngược lại làm gia tăng tham nhũng.
5
Một hạn chế của các nghiên cứu trước đây khi tiếp cận chủ đề sự tác động
của thu nhập lên tham nhũng là chỉ tập trung vào mối quan hệ tuyến tính.
Trong khi đó, khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng
trưởng kinh tế của Dzhumashev (2014) cho thấy rằng mối quan hệ này
không hẳn là mối quan hệ tuyến tính mà có thể là phi tuyến. Lý thuyết này
hàm ý khi một quốc gia bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi, thu
nhập của người dân tăng cao và kéo theo các hoạt động tham nhũng cũng
diễn ra phổ biến hơn, mức độ phức tạp hơn, nhưng khi nền kinh tế bước
vào giai đoạn phát triển ổn định thì tham nhũng có khuynh hướng giảm vì
một số lý do như là: sức ép cải cách thể chế trong quá trình hội nhập, cạnh
tranh chính trị ngày càng lớn thông qua cơ chế bỏ phiếu công bằng, sự tự
do dân chủ và tự do báo chí,… Mối quan hệ phi tuyến này cũng đã được
kiểm chứng trong mô hình lý thuyết và kết quả thực nghiệm của Saha &
Gounder (2013), tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ sử dụng phương pháp ước
lượng PLS (Pooled Least Square) cho dữ liệu bảng và chưa xử lý vấn đề
nội sinh có thể tồn tại trong mô hình nên kết quả của nghiên cứu này có thể
bị chệch và không đáng tin cậy.
Tác giả cho rằng các nghiên cứu trước đây về tác động của thu nhập đến
tham nhũng vẫn tồn tại một số hạn chế như: thứ nhất, các nghiên cứu thực
nghiệm này được thực hiện dựa trên các mẫu khảo sát của nhiều nhóm
quốc gia khác nhau nên dẫn đến việc không đồng nhất về mức thu nhập,
không có sự tương đồng về chất lượng thể chế cũng như sự tương đồng của
các biến kiểm soát; và thứ hai, các nghiên cứu này dựa trên giả định mối
quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng là mối quan hệ tuyến tính cho nên đã
bỏ qua việc kiểm định khả năng tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa chúng.
Vì vậy, tác giả cho rằng thật sự cần thiết thực hiện một nghiên cứu định
lượng nhằm khảo sát mối quan hệ đa chiều (gồm tuyến tính và phi tuyến)
giữa thu nhập và tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Bởi vì bối cảnh
6
chất lượng thể chế và kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi có thể tác động
làm cho tham nhũng có xu thế biến thiên phi tuyến theo thu nhập. Như đã
đề cập phía trên, chất lượng thể chế tại các quốc gia chuyển đổi chỉ ở mức
trung bình thấp và do đó dễ dẫn đến sự thao túng và tùy tiện trong việc sử
dụng quyền lực của giới công chức nhằm tư lợi. Khi nền kinh tế bước vào
giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển, thu nhập của công chúng có xu hướng
tăng và cơ hội cho các hoạt động kinh doanh cũng bắt đầu mở ra. Khi đó,
để nắm bắt các cơ hội này cũng như khai thác các ưu đãi chính sách, đại
diện khu vực tư sẵn sàng cạnh tranh nhau thực hiện các khoản chi trả phi
pháp cho giới công chức xem như là một phần thưởng cho sự giúp đỡ của
họ. Trong bối cảnh đó, tham nhũng sẽ có chiều hướng tăng cao trong giai
đoạn đầu của thời kỳ đổi mới và phát triển. Tuy nhiên, về lâu dài, các hành
vi này sẽ làm xói mòn niềm tin của công chúng vào chính phủ, chúng có
tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh, gây sụt giảm dòng vốn đầu
tư từ nước ngoài và đặc biệt là không phù hợp với các quy chuẩn đạo đức
xã hội. Trước sức ép đó cùng với xu hướng hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu, chính phủ các quốc gia chuyển đổi buộc phải tiến hành cải cách thể
chế nhằm bài trừ vấn nạn tham nhũng để hướng đến mục tiêu phát triển
kinh tế lâu bền và ổn định về sau.
Ở khía cạnh khác, các nghiên cứu đánh giá hậu quả của tham nhũng tại các
quốc gia, đặc biệt tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế, cũng
thu hút sự quan tâm lớn trong giới học thuật và những chuyên gia nghiên
cứu chính sách. Mặc dù chủ đề này đã được thực hiện rất nhiều, nhưng kết
quả của các nghiên cứu này vẫn còn gây nhiều tranh cải cả về phương diện
đạo đức cũng như ảnh hưởng kinh tế. Nghiên cứu của Mauro (1995) cho
thấy sự tác động tiêu cực của tham nhũng đến đầu tư và qua đó cũng ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Kết quả này cũng đã nhận được nhiều sự
đồng thuận từ các nghiên cứu về sau như Brunetti & Weder (1998) và Mo
7
(2001). Theo Choe & ctg (2013), khi khu vực tư và khu vực công tương tác
nhau, giới công chức luôn sẵn sàng lạm dụng chức vụ, quyền lực chính trị
của mình cho mục đích tham nhũng và hành động này được cho là gây trở
ngại cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khác cho rằng tham nhũng chưa hẵn hoàn
toàn tiêu cực mà đôi khi lại có lợi cho tăng trưởng. Bardhan (1997) đã
minh họa các trường hợp mà tham nhũng có thể đã thúc đẩy phát triển kinh
tế trong một giai đoạn lịch sử của châu Âu và Mỹ. Bên cạnh đó, Beck &
Maher (1986) và Lien (1986) lập luận rằng tham nhũng giúp cải thiện hiệu
quả hoạt động của chính phủ. Nghiên cứu của Leff (1964), Huntington
(2006) và Leys (1965) cũng cho thấy tham nhũng có tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế nhờ việc giảm thiểu các trở ngại từ thủ tục hành chính,
sự thiếu minh bạch của hệ thống pháp lý. Từ đó, các tác giả đã ví tham
nhũng như chất bôi trơn giúp kích hoạt sự vận hành của một thể chế quan
liêu và giảm thiểu các rào cản gây trở ngại cho đầu tư và tăng trưởng.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, mức độ tham nhũng tại các quốc
gia chuyển đổi diễn biến theo chiều hướng tiêu cực, tăng về quy mô và đa
dạng về hình thức (Campos & Pradhan, 2007). Nguyên nhân của tình trạng
này được cho là do điều kiện mức độ dân chủ thấp và tự do kinh tế còn hạn
chế, chất lượng thể chế yếu kém. Bên cạnh đó, việc áp đặt các quyền lực
chính trị và sự chi phối của giới công chức đến các hoạt động kinh tế xã
hội vẫn còn quá lớn thì người dân buộc phải dùng tiền làm chất bôi trơn là
điều khó tránh khỏi. Khi đó, chất bôi trơn này được cho rằng có tác động
tích cực đến hiệu quả kinh tế bởi vì nó giúp kích hoạt sự vận hành của bộ
máy chính quyền quan liêu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua cơ
chế “speed money” (Aidt, 2009).
Tóm lại, các nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến tham nhũng cũng như
đánh giá tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế đã được khảo
8
sát rất nhiều. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng các
nghiên cứu trước đây vẫn chưa tiếp cận chủ đề này một cách hoàn thiện bởi
vì hiện nay chưa có một nghiên cứu định lượng nào tiến hành thực nghiệm
đồng thời cả về các nguyên nhân gây ra tham nhũng và tác động của tham
nhũng đến tăng trưởng kinh tế trên cùng một mẫu khảo sát, đặc biệt hơn là
vấn đề này cũng chưa được thực hiện tại các quốc gia chuyển đổi. Ngoài
ra, việc chưa sử dụng các phương pháp ước lượng hiện đại như là 2SLS
hoặc GMM để xử lý vấn đề nội sinh trong các mô hình thực nghiệm cũng
là một hạn chế trong các nghiên cứu trước đây. Xuất phát từ lý do trên, tác
giả quyết định lựa chọn đề tài “Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tại
các quốc gia chuyển đổi” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.
Vấn đề nghiên cứu của luận án được thể hiện thông qua sơ đồ sau:
Hình 1.1: Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế
Thể chế
Tăng
trưởng
Tham nhũng
kinh
tế
Các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội
Nguồn: tổng hợp của tác giả
1.3. Khoảng trống nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
Như tác giả đã đề cập, các nghiên cứu trước đây về xác định các nguyên
nhân gây ra tham nhũng đã được thực hiện rất nhiều. Trong các yếu tố đó,
9
yếu tố về chất lượng thể chế và thu nhập luôn được các học giả quan tâm
và xem là biến chính trong các mô hình thực nghiệm. Tuy nhiên, một hạn
chế quan trọng của các nghiên cứu này là chỉ tiếp cận khung thể chế chính
trị và được đại diện bởi chỉ số mức độ dân chủ của các quốc gia.
Heckelman & ctg (2008) và Saha & ctg (2013) cho rằng cách tiếp cận này
là chưa phản ánh đầy đủ chất lượng thể chế của quốc gia. Chất lượng thể
chế phải bao gồm thể chế chính trị (nền dân chủ) và thể chế kinh tế (tự do
kinh tế). Mặt khác, các nghiên cứu hiện hành chỉ dừng lại ở việc đánh giá
mối quan hệ tuyến tính giữa thu nhập và tham nhũng, trong khi đó các mô
hình lý thuyết và thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây của Treisman
(2000), Saha & Gounder (2013), Kotera & ctg (2012) và Dzhumashev
(2014) cho rằng mối quan hệ này có thể phi tuyến.
Như vậy, mục tiêu thứ nhất của nghiên cứu này là đánh giá các yếu tố tác
động đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Trong đó, nghiên cứu sẽ
tiến hành phân tích định lượng sự tác động của việc cải thiện chất lượng thể
chế đến tham nhũng ở nhiều mức độ khác nhau và khảo sát khả năng tồn tại
mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng tại các quốc gia này.
Xuất phát từ vấn đề người đại diện của lý thuyết lựa chọn công, Becker và
Stigler (1974) cho rằng giới công chức luôn có động lực để trục lợi (rent-
seeking). Vì vậy, họ luôn nổ lực để tối đa hóa thu nhập của mình bằng việc
cố ý tạo ra các rào cản thủ tục hành chính và sự lạm dụng quyền lực công.
Trong bối cảnh đó, đại diện khu vực tư nhân muốn tham gia vào thị trường
phải chấp nhận chi trả các khoản tiền đút lót cho giới chức. Vấn đề này đã
được nghiên cứu rất nhiều thông qua mô hình lý thuyết và nghiên cứu thực
nghiệm. Hầu hết các kết luận từ các nghiên cứu này đều cho rằng tham
nhũng gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ở một góc độ khác,
Lui (1985) đã sử dụng mô hình xếp hàng (Queuing Model) để giải thích
cho khía cạnh tích cực của việc chi trả các khoản bôi trơn của các đại diện
10
kinh doanh. Nghiên cứu này cho rằng tham nhũng giúp giảm thời gian cho
việc phải xếp hàng chờ đợi và giúp khu vực tư tiết kiệm được thời gian cho
các hoạt động kinh doanh, từ đó giúp thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, Aidt
(2009) cũng ủng hộ cho giả thuyết về chất bôi trơn của tham nhũng. Ông
cho rằng, trong điều kiện chất lượng thể chế còn quá thấp, tham nhũng hoạt
động như cơ chế “speed money” giúp kích hoạt sự vận hành của bộ máy
chính quyền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, mục tiêu thứ hai của
nghiên cứu này là sử dụng mô hình nghiên cứu định lượng nhằm khảo sát
khả năng tham nhũng đóng vai trò là chất bôi trơn để kích hoạt sự vận hành
của các bộ máy nhà nước, giúp khu vực tư tránh được các rào cản về mặt
thủ tục hành chính, sự phức tạp của các quy định và qua đó nó sẽ giúp đẩy
nhanh tiến trình hoạt động kinh doanh và làm gia tăng sản lượng cho nền
kinh tế trong điều kiện chất lượng thể chế yếu kém tại các quốc gia chuyển
đổi. Một cách cụ thể, nghiên cứu này tiến hành lượng hóa tác động của sự
kết hợp giữa tham nhũng và thể chế lên tăng trưởng nhằm đánh giá các
khoản đút lót cho giới công chức sẽ giúp đại diện khu vực tư có thể tránh
được các rào cản thủ tục hành chính hoặc thúc đẩy tiến trình vận hành của
bộ máy quan liêu và qua đó có thể tiết kiệm được thời gian cũng như dễ
dàng thực hiện các hoạt động kinh doanh tại các quốc gia chuyển đổi.
Để đạt được hai mục tiêu nghiên cứu trên, nội dung của luận án phải trả lời
được 5 câu hỏi nghiên cứu sau:
(1) Các yếu tố nào tác động đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển
đổi?
(2) Chất lượng thể chế (thể chế chính trị và thể chế kinh tế) tác động
như thế nào đến việc kiểm soát hành vi tham nhũng hay không?
(3) Tác động của thu nhập đến tham nhũng của các quốc gia chuyển đổi
liệu có sự khác biệt trong ngắn hạn và dài hạn? (có tồn tại mối quan
hệ phi tuyến không?).
11
(4) Tham nhũng tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế tại các
quốc gia chuyển đổi?
(5) Trong điều kiện chất lượng thể chế của các quốc gia chuyển đổi,
tham nhũng có động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế?
Trong đó, câu hỏi (1), (2) và (3) gắn với mục tiêu nghiên cứu thứ nhất của
luận án, câu hỏi (4) và (5) gắn với mục tiêu nghiên cứu thứ hai của luận
án.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như tác giả đã đề cập, các nghiên cứu trước đây chưa thực hiện việc đánh
giá các yếu tố tác động đến tham nhũng và ảnh hưởng của tham nhũng đến
nền kinh tế trong cùng một mẫu khảo sát. Vì vậy, nghiên cứu này khai thác
dữ liệu của các quốc gia có mức độ tương đồng về thu nhập (trung bình và
thấp), tương đồng về chất lượng thể chế và đang trong bối cảnh có nền
kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường.
Do hạn chế về dữ liệu của biến tham nhũng, luận án tiến hành thu thập dữ
liệu của 46 quốc gia trong giai đoạn 2002 – 2014. Chỉ số Cảm nhận tham
nhũng (CPI) của Tổ chức Minh bạch Quốc tế là chỉ số mà cho tới nay được
biết đến nhiều nhất và sử dụng nhiều nhất liên quan đến tham nhũng
(WorldBank, 2000). Mặc dù những khảo sát thường niên về chỉ số này
được bắt đầu từ năm 1995, tuy nhiên, số lượng các quốc gia chuyển đổi
được khảo sát trong giai đoạn từ 1995 – 2001 là rất ít và chỉ được khảo sát
phổ biến kể từ năm 2002.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào lý thuyết lựa chọn công, trong đó điển hình là lý thuyết “lựa chọn
giữa thất bại thị trường và tham nhũng” của Acemoglu & Verdier (2000)
và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, luận án xây dựng mô hình
nghiên cứu các yếu tố tác động đến tham nhũng trên cơ sở mô hình của
12
Saha & Gounder (2013) nhằm đánh giá sự tác động của chất lượng thể chế
và thu nhập bên cạnh các biến kiểm soát về kinh tế, xã hội đến mức độ
tham nhũng. Bên cạnh đó, để tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về mối
quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng, nghiên cứu sẽ thêm vào
mô hình tuyến tính biến bình phương của thu nhập dựa trên đề xuất về mối
quan hệ hình chữ U ngược của Wooldridge (2012). Đồng thời, để đánh giá
tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế, luận án sẽ kết hợp giữa
hàm tăng trưởng Cobb-Douglas và lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Barro
(1990) để xây dựng hàm tăng trưởng mở rộng cho biến tham nhũng và thể
chế. Nhằm kiểm định vai trò chất bôi trơn của tham nhũng, luận án mở
rộng mô hình bằng cách thêm vào biến tương tác giữa tham nhũng và thể
chế.
Để xác định dấu và độ lớn của các hệ số hồi, phương pháp nghiên cứu định
lượng được sử dụng trong luận án là các phương pháp ước lượng cho mô
hình hồi quy với dữ liệu bảng cân đối. Trước hết, luận án áp dụng phương
pháp ước lượng FEM và REM khảo sát sự tác động của các yếu tố khác
biệt giữa các quốc gia nhưng chưa đưa vào mô hình là tác động cố định hay
tác động ngẫu nhiên thông qua kiểm định Hausman. Nếu kết quả kiểm định
cho thấy hiệu ứng cố định giải thích tốt hơn cho mô hình thực nghiệm thì
nghiên cứu này sử dụng mô hình hiệu ứng cố định (FEM) để ước lượng độ
lớn hệ số các biến giải thích trong mô hình và ngược lại. Ngoài ra, Moulton
(1986) và Moulton (1990) cho rằng khi sử dụng dữ liệu bảng để phân tích
giữa các quốc gia có thể gặp phải sự hiện diện của hiệu ứng nhóm dẫn tới
vấn đề sai số trong các kết luận thống kê. Vì vậy, sau khi ước lượng mô
hình bằng phương pháp FEM hoặc REM, luận án sẽ tiến hành các bước
kiểm định nhằm chuẩn đoán xem mô hình có bị vi phạm các giả định về
phương sai không đổi và không tự tương quan hay không. Nếu có, luận án
sẽ tiếp tục sử dụng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát
13
(generalized least square) để xử lý hiện tượng tự tương quan của các quan
sát trong phạm vi quốc gia và phương sai thay đổi giữa các quốc gia.
Trong mô hình các yếu tố tác động đến tham nhũng, nghiên cứu của Mauro
(1995) và Saha & ctg (2013) đều cho thấy đây là mối quan hệ tương hỗ hai
chiều. Do đó, mô hình có thể xảy ra hiện tượng nội sinh do mối quan hệ
tương hỗ giữa tham nhũng và thu nhập. Khi đó, các ước lượng FEM và
GLS có thể bị chệch. Vì vậy, luận án sử dụng phương pháp bình phương
tối thiểu hai giai đoạn (two stage least square) hồi quy với biến công cụ để
kiểm tra tính vững của các ước lượng trong mô hình này. Đồng thời, luận
án sử dụng kiểm định Sargan – Hansen để xem xét việc sử dụng các biến
công cụ có thỏa mãn điều kiện “overidentifying restriction” hay không.
Các mô hình tăng trưởng thường bao gồm các biến bị nội sinh. Chẳng hạn,
khi đầu tư tăng cao sẽ thúc đẩy tăng trưởng, sau đó tăng trưởng cũng thúc
đẩy đầu tư nhiều hơn. Saha & Gounder (2013) nghi ngờ sự ngoại sinh của
biến tham nhũng khi việc đo lường biến này tương quan chặt chẽ và tăng
mạnh cùng với mức độ phát triển kinh tế. Điều này dẫn đến vấn đề đồng
thời làm cho các ước lượng truyền thống bị chệch. Ước lượng GMM là kỹ
thuật ước lượng dựa vào biến công cụ và có nhiều ưu điểm so với các ước
lượng truyền thống (2SLS). Ước lượng truyền thống sẽ không chính xác
khi có sự hiện diện của phương sai thay đổi. Ước lượng GMM sử dụng các
điều kiện moment cho phép tạo ra các ước lượng chính xác ngay cả khi có
sự xuất hiện của sự không nhất quán của các đơn vị chéo (Hansen, 2000;
Hayashi, 2000). Để kiểm tra tính vững của ước lượng, nghiên cứu sử dụng
phương pháp GMM sai phân được phát triển cho mô hình bảng động tuyến
tính (Arellano & Bond, 1991; Arellano & Bover, 1995; Holtz-Eakin & ctg,
1988). Trong mô hình bảng động, sự hiện diện của biến trễ của biến phụ
thuộc có thể dẫn đến hiện tượng tự tương quan. Khi đó, ước lượng GMM
sai phân sẽ xử lý được vấn đề này bằng cách lấy giá trị trễ của các biến phụ
14
thuộc làm công cụ. Ngoài ra, khi chuyển sang hồi quy với biến sai phân
bậc 1, các thiên chệch tiềm ẩn do bỏ sót biến và các hiệu ứng cố định của
các đơn vị chéo (địa lí, nhân khẩu học) cũng sẽ được loại bỏ. Cuối cùng,
Jodson et al. (1996) và Roodman (2006) cho rằng GMM sai phân thích hợp
cho dữ liệu bảng với thời gian ngắn và số đơn vị chéo lớn.
1.6. Kết quả và đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu thực nghiệm tại các quốc gia chuyển đổi cho ra các kết quả nổi
bật sau: (1) việc cải thiện chất lượng thể chế giúp giảm mức độ tham nhũng
và tồn tại sự tác động tương hỗ giữa chất lượng thể chế chính trị và thể chế
kinh tế trong việc kiểm soát tham nhũng; (2) việc cải thiện thu nhập có tác
động tích cực trong việc bài trừ nạn tham nhũng; (3) tồn tại mối quan hệ
phi tuyến giữa thu nhập và mức độ tham nhũng tại các quốc gia khảo sát;
(4) trong điều kiện chất lượng thể chế kém tại các quốc gia khảo sát, tham
nhũng thực sự là chất bôi trơn giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
So với các nghiên cứu trước cùng chủ đề mà tác giả đã tham khảo, luận án
có những đóng góp mới như sau:
Luận án sử dụng đồng thời chất lượng thể chế chính trị và thể chế
kinh tế vào trong mô hình định lượng thông qua việc sử dụng hai chỉ
số tương đồng về cách đo lường đó là mức độ dân chủ (giá trị từ 0
đến 10) và chỉ số tự do kinh tế (giá trị từ 0 đến 10). Bằng việc ứng
dụng các phương pháp ước lượng hiện đại cho bộ dữ liệu bảng của
46 quốc gia có cùng mức độ thu nhập trong giai đoạn 2002 – 2014,
tác giả tin rằng kết quả của luận án rất đáng tin cậy và có độ chính
xác cao;
Luận án lần đầu tiên ứng dụng phương pháp định lượng được đề
xuất bởi Wooldridge (2012) để xác định tác động riêng phần của
từng yếu tố chất lượng thể chế trong mô hình biến tương tác. Từ đó,
15
luận án xác định điểm ngưỡng của mức độ dân chủ và tự do kinh tế
trong việc chống tham nhũng tại các quốc gia khảo sát;
Luận án lần đầu tiên ứng dụng phương pháp định lượng để kiểm
định lý thuyết về hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng
được đề xuất bởi Dzhumashev (2014). Từ kết quả thực nghiệm, luận
án xác định giá trị của điểm ngưỡng (điểm chuyển) từ tác động
dương sang tác động âm của thu nhập lên tham nhũng để so sánh với
kết quả thực nghiệm của Saha & ctg (2013);
Luận án lần đầu tiên phân tích định lượng bằng phương pháp GMM
để kiểm định giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện
chất lượng thể chế kém tại các quốc gia khảo sát;
Chủ đề nghiên cứu tuy có sự tương đồng với một vài nghiên cứu trên
thế giới, tuy nhiên, mẫu khảo sát được tác giả thu thập gồm 46 các
quốc gia có cùng nhóm thu nhập và mục tiêu nghiên cứu của luận án
là không trùng lắp với các nghiên cứu đã có.
1.7. Quy trình nghiên cứu
- Bước một, tác giả lược khảo khung lý thuyết và các kết quả thực
nghiệm để xác định lỗ hổng nghiên cứu;
- Bước hai, xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu;
- Bước ba, xác định khung lý thuyết nền và mô hình nghiên cứu thực
nghiệm;
- Bước bốn, thu thập dữ liệu và lựa chọn phương pháp ước lượng;
- Bước năm, phân tích định lượng và bình duyệt kết quả;
- Cuối cùng, đưa ra các gợi ý về mặt chính sách.
16
Lược khảo lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
Xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Xác định khung lý thuyết và mô hình thực nghiệm
Thu thập dữ liệu và phân tích định lượng
Phân tích định lượng và bình duyệt kết quả
Kết luận và đưa ra gợi ý chính sách
Hình 1.2: Quy trình thực hiện nghiên cứu
1.8. Kết cấu của luận án
Nội dung của luận án được tác giả trình bày trong 6 chương, ngoài chương
1 đã giới thiệu tổng quan về sự cần thiết cũng như mục tiêu nghiên cứu, 5
chương còn lại của luận án được thiết kế như sau:
Chương 2: Khung lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng.
Trong chương này luận án trình bày khung lý thuyết để giải thích nguyên
nhân dẫn đến vấn nạn tham nhũng từ các tài liệu trước đây. Khung lý
thuyết chủ đạo mà nghiên cứu này dựa vào để lý giải cho hiện tượng tham
nhũng bao gồm lý thuyết lựa chọn công và lý thuyết lựa chọn giữa thất bại
của thị trường và tham nhũng. Bên cạnh đó, luận án cũng đã tổng quan các
nghiên cứu thực nghiệm trước đây để xác định các yếu tố định lượng nhằm
17
xây dựng mô hình thực nghiệm về các yếu tố tác động đến tham nhũng tại
các quốc gia chuyển đổi.
Chương 3: Khung lý thuyết tăng trưởng kinh tế. Chương này dẫn giải
cho người đọc thấy được sự kết hợp giữa lý thuyết tăng trưởng nội sinh của
Barro (1990) và hàm tăng trưởng Cobb – Douglas. Từ đó, luận án đã ứng
dụng mô hình tăng trưởng để mở rộng cho các yếu về thể chế và tham
nhũng. Tiếp theo, luận án tổng hợp các kênh truyền dẫn sự tác động của
tham nhũng đến tăng trưởng thông qua việc lược khảo các nghiên cứu thực
nghiệm trước đây. Cuối cùng, chương này cũng đã tổng hợp các nghiên
cứu thực nghiệm trước đây để cho thấy kết quả của các nghiên cứu này vẫn
còn gây nhiều tranh cãi. Đó cũng là lý do quan trọng để luận án này tiến
hành thực nghiệm tác động của tham nhũng đến tăng trưởng dưới vai trò
của chất lượng thể chế tại các quốc gia chuyển đổi.
Chương 4: Mô hình và phương pháp nghiên cứu. Xuất phát từ khung lý
thuyết trong chương 2 và chương 3, cùng với việc kế thừa các mô hình
thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây, chương này sẽ xây dựng các
mô hình thực nghiệm của luận án, bao gồm: mô hình các yếu tố tác động
đến tham nhũng và mô hình tác động của tham nhũng đến tăng trưởng.
Điểm nổi bật của chương này là đã trình bày chi tiết các bước tiến hành và
phương pháp ước lượng để nhằm tìm kiếm bằng chứng cho các mục tiêu
nghiên cứu của luận án. Cuối cùng, việc đo lường biến và nguồn khai thác
dữ liệu cũng đã được trình bày chi tiết trong chương này.
Chương 5: Kết quả nghiên cứu và thảo luận. Dựa vào mô hình thực
nghiệm và dữ liệu thu thập của 46 quốc gia chuyển đổi, tác giả sử dụng
công cụ hỗ trợ là phần mềm Stata 13.0 để thực hiện các kiểm định và ước
lượng hệ số hồi quy các biến trong mô hình. Sau đó, tác giả thảo luận kết
quả thực nghiệm dựa trên nền tảng lý thuyết nghiên cứu và đối chiếu với
các nghiên cứu trước đây nhằm luận giải kết quả một cách logic và thuyết
18
phục. Kết quả này cung cấp các minh chứng giúp trả lời các câu hỏi nghiên
cứu của luận án.
Chương 6: Kết luận và hàm ý chính sách. Chương này đã tóm lược lại
các kết quả thực nghiệm chính gắn với mục tiêu nghiên cứu của luận án.
Từ đó, luận án đưa ra một số các hàm ý về mặt chính sách nhằm kiểm soát
các hành vi tham nhũng và các giải pháp cho tăng trưởng kinh tế lành
mạnh (không dựa vào tham nhũng). Tác giả tin rằng các gợi ý này có thể
cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách khi
thực hiện các giải pháp chống tham nhũng. Đồng thời, chương này cũng
nhìn nhận một số các hạn chế mà luận án chưa thể giải quyết được. Đây
cũng là chương cuối cùng của luận án.
19
CHƯƠNG 2
KHUNG LÝ THUYẾT CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN THAM NHŨNG
Giới thiệu
Mục tiêu thứ nhất của luận án là đánh giá các yếu tố tác động đến tham
nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Trong đó, luận án tập trung đánh giá tác
động của chất lượng thể chế đến tham nhũng và kiểm định sự tồn tại của
hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tham nhũng là một khái niệm đa
chiều và phức tạp. Kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu này cho thấy
không chỉ các yếu tố kinh tế như phát triển kinh tế, tự do kinh tế, lạm phát
và phân phối thu nhập… mà còn các yếu tố về chính trị, xã hội và văn hóa
như dân chủ, ổn định chính trị, giới tính và sự đa dạng dân tộc hoặc ngôn
ngữ có ảnh hưởng quan trọng đến tham nhũng. Vì vậy, chương 2 sẽ trình
bày khung khái niệm tổng quan về tham nhũng theo các nghiên cứu trước
đây cũng như của các tổ chức chuyên nghiên cứu về tham nhũng như là
Worldbank, Transparency International. Từ đó, luận án cũng trình bày
khung khái niệm và cách đo lường tham nhũng trong luận án này.
Lý thuyết lựa chọn công cho thấy để khắc phục khiếm khuyết của kinh tế
thị trường đòi hỏi sự can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên, sự can thiệp này
sẽ xuất hiện hành vi tham nhũng của giới chức do vấn đề người đại diện và
vấn đề trục lợi (cả kinh tế lẫn chính trị). Từ đó, các học giả tiên phong
trong việc xây dựng lý thuyết lựa chọn công cho rằng tham nhũng hình
thành từ chính thể chế và việc bài trừ tham nhũng một phần do việc thiết kế
khung thể chế. Bên cạnh các yếu tố thể chế, Acemoglu & Verdier (2000)
cho thấy thu nhập có vai trò quan trọng trong việc chống tham nhũng bởi vì
20
giới chức sẽ luôn có động cơ để trục lợi khi mà tiền lương của khu vực
công không thỏa mãn cho nhu cầu của họ.
Như vậy, chương này sẽ trình bày khung lý thuyết làm nền tảng cho nghiên
cứu các yếu tố tác động đến tham nhũng bao gồm lý thuyết lựa chọn công
và các nhánh lý thuyết có liên quan. Bên cạnh đó, các nghiên cứu thực
nghiệm về các yếu tố tác động đến tham nhũng cũng là sẽ được trình bày
chi tiết trong chương này để làm tảng cho việc xây dựng mô hình nghiên
cứu thực nghiệm ở phần sau.
2.1. Khung khái niệm
2.1.1. Tổng quan về thể chế
Veblen (1857) được xem là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên đặt
nền móng về thể chế, theo đó thể chế là tính qui chuẩn của hành vi hoặc
các qui tắc xác định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành
viên của một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự tuân thủ các qui tắc
đó là do bản thân tự kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống chế.
James (2006) cho rằng thể chế chính phủ thiết lập khuôn khổ cho các hoạt
động kinh tế trong phạm vi quốc gia. Một thể chế tốt sẽ tạo ra môi trường
thuận lợi thúc đẩy các hoạt động kinh tế, sự sáng tạo, tăng trưởng và phát
triển. Ngược lại, thể chế kém gây ra các đình trệ cho nền kinh tế. Hai đặc
điểm điển hình ở các nền kinh tế phát triển đó là dân chủ và tình trạng của
các quy định pháp luật. Trong khi đó, James (2006) cũng cho rằng hai đặc
tính này của thể chế là không chắc chắn tồn tại đồng thời. Tuy nhiên, hai
đặc tính này lại tương quan chặt chẽ với nhau.
North (1981) định nghĩa thể chế “là tập hợp các quy định, thủ tục thi hành,
các quy định về hành vi đạo đức được thiết lập nhằm ràng buộc các hành vi
của cá nhân trong điều kiện tối đa hóa thu nhập và độ hữu dụng”. Vấn đề
quan trọng trong khái niệm này cũng như các tài liệu khác đề cập đó là sự
21
ràng buộc. Vì thế, hiến pháp và các quy định về quyền bầu cử là minh
chứng tốt cho thể chế. Tuy nhiên, chính sách tốt được thể hiện bằng các chỉ
số mà cho phép sự tự do hay không. Bên cạnh đó, các khía cạnh quan trọng
khác của một thể chế cho rằng các ràng buộc hợp lý thì cần được duy trì
lâu dài (thậm chí là trường tồn). Cụ thể, trong ngắn hạn, các ràng buộc này
không nên bị làm lu mờ hoặc thậm chí bị thay thế bởi những người không
thích chúng.
Theo tài liệu về thể chế của North (1990) cho rằng : “Thể chế là phát minh
của con người với những ràng buộc nhằm cơ cấu sự tương tác chính trị,
kinh tế và xã hội. Nó bao gồm cả những ràng buộc không chính thức (sự
chấp thuận, điều kiêng kỵ, phong tục, tín ngưỡng, và quy tắc xử sự), và luật
lệ chính thức (hiến pháp, luật, quyền sở hữu)”. Trong suốt chiều dài lịch
sử, thể chế đã được phát minh bởi con người để tạo nên một trật tự và giảm
thiểu sự không chắc chắn trong hoạt động trao đổi. Cùng với các ràng buộc
quy chuẩn về kinh tế, con người xác định khuynh hướng lựa chọn, vì vậy
xác định chi phí giao dịch và chi phí sản xuất. Thể chế tạo ra cấu trúc khích
lệ cho nền kinh tế. Khi cấu trúc tiến triển theo chiều hướng tích cực sẽ giúp
định hình cho phương hướng thay đổi của kinh tế hướng tới sự phát triển
bền vững, nhưng đôi khi cấu trúc này cũng có thể dẫn đến sự đình trệ hay
suy tàn nền kinh tế.
Ostrom (1990) đưa ra định nghĩa quan trọng về thể chế “thể chế được định
nghĩa là tập hợp các quy định mang tính thực thi được sử dụng để lựa chọn
ai là người phù hợp ra các quyết định tại một số vũ đài, những hành động
nào được cho phép hoặc bị hạn chế, những quy định chung nào sẽ được
thực hiện, thủ tục nào phải tuân thủ, những thông tin gì phải được cung cấp
hoặc không được phép cung cấp, những khoản chi trả nào được phân chia
cho các cá nhân tùy thuộc vào các hành động của họ”. Theo định nghĩa
22
này, thuật ngữ “vũ đài” (arena) được hiểu là tương tự như thuật ngữ về “trò
chơi” (game) của North (1993).
Theo Boin & Christensen (2008), trong bài viết về sự phát triển của các thể
chế công cho rằng khi chúng ta mô tả về thể chế công nghĩa là chúng ta
đang nói về những tính chất đặc biệt của thể chế đó. Nó đặc biệt bởi vì
trước giờ nó đã phát triển theo phương cách vững chắc và hiệu quả trong
công việc mà được xem là rất có giá trị đối với các bên có liên quan cả
trong và ngoài nước. Sự độc đáo của thể chế công là do sự kết hợp của hai
tính chất đặc trưng sau:
- Thứ nhất, thể chế công đặc biệt bởi vì nó đã phát triển và hợp tác một
cách hiệu quả nhằm xử lý các mục tiêu phức tạp và mâu thuẫn lẫn nhau.
Theo cách làm này, thể chế giúp cho người lao động làm công việc của
họ: thể chế sẽ chỉ ra cho người lao động biết được họ nên làm gì và
không nên làm gì; bên cạnh đó, thể chế cũng giúp người lao động cảm
nhận được thế giới xung quanh mình đang sống.
- Thứ hai, thể chế nhận được sự ủng hộ ở mức độ cao: thể chế được chấp
nhận và công nhận rộng rãi. Nó có một bản sắc riêng biệt hợp pháp
(Berger & Luckmann, 1966). Cách làm việc của một thể chế sẽ xây
dựng thương hiệu cho nó. Một nhận thức tổng quát về thể chế từ bên
ngoài cho rằng thể chế là mong đợi, phù hợp và thích hợp trong phạm vi
hệ thống được tạo ra từ các quy tắc, giá trị, niềm tin và quyền lợi
(Suchman, 1995).
Ở khía cạnh khác, cơ quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID, 2002)
định nghĩa thể chế công là một hệ thống phức tạp của sự tương tác giữa các
cấu trúc, truyền thống, chức năng và quy trình đặc trưng bởi giá trị của
trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và sự tham gia. Kaufmann & Kraay
(2002) cũng định nghĩa thể chế công là truyền thống và các tổ chức mà
chính quyền được thực thi trong một quốc gia. Theo tác giả, điều này bao
23
gồm quá trình các chính phủ được tuyển chọn, kiểm soát và thay thế; khả
năng chính phủ để thiết lập và thực thi chính sách; sự tôn trọng của người
dân và nhà nước đối với các tổ chức để quyết định sự tương tác giữa kinh
tế và xã hội.
Theo Acemoglu & Robinson (2013), thể chế là các qui tắc tác động đến sự
vận hành của nền kinh tế và động cơ khuyến khích của dân chúng. Do đó,
thể chế kinh tế sinh ra các luồng động lực và vạch ra giới hạn cho các tác
nhân kinh tế. Thể chế kinh tế chia thành hai loại : thể chế kinh tế dung hợp
và thể chế kinh tế chiếm đoạt. Thể chế kinh tế dung hợp (inclusive
economic institutions) cho phép và khuyến khích sự tham gia của đại đa số
dân chúng vào các hoạt động kinh tế, sử dụng tốt nhất tài năng và trình độ
của họ, giúp các cá nhân thực hiện những lựa chọn mình mong muốn. Thể
chế kinh tế chiếm đoạt (extractive economic institutions) không có các đặc
trung nêu trên mà ở đó, chúng được thiết kế để tước đoạt hay khai thác thu
nhập hay của cải của nhóm này để phục vụ cho một nhóm khác. Nói một
cách đơn giản là thu nhập của người dân được khai thác để phục vụ cho
một nhóm nhỏ những người cầm quyền và một số ít đối tượng liên quan.
Chất lượng thể chế
Theo Schneider (1999) định nghĩa chất lượng thể chế công như là việc thi
hành thẩm quyền hoặc kiểm soát để quản lý hoạt động và tài nguyên của
một quốc gia. Có nhiều tiêu chí đánh giá chất lượng thể chế. Theo World
Bank, có 6 tiêu chí được áp dụng để đánh giá chất lượng thể chế: tiếng nói
của người dân và trách nhiệm giải trình của chính quyền; ổn định chính trị;
hiệu quả của chính quyền; chất lượng thực thi chính sách; tuân thủ luật
pháp; và, khả năng kiểm soát tham nhũng.
Các nghiên cứu khác đã sử dụng các chỉ số khác nhau để đo lường chất
lượng thể chế. La Porta (1999) đo lường hiệu suất hoạt động của chính phủ
bằng cách sử dụng các chỉ số của chính phủ can thiệp vào thị trường, trong
24
đó bao gồm các chỉ số quyền tài sản (mức độ pháp luật bảo vệ tài sản cá
nhân) và chỉ số điều lệ thương nghiệp (quy định liên quan đến việc thành
lập doanh nghiệp và duy trì hoạt động của nó).
Saha & Gounder (2013) và Heckelman & Powell (2010) cho rằng khung
thể chế bao gồm thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Trong đó, thể chế
chính trị được đại diện bằng nền dân chủ của quốc gia và thể chế kinh tế
được đại diện bằng tự do kinh tế. Các tác giả này đã sử dụng biến tự do
kinh tế (Economic Freedom) của EFW (the economic freedom of the
world) đại diện cho thể chế kinh tế và kết quả cho thấy mức độ tự do kinh
tế tác động làm giảm tham nhũng cho tất cả các trường hợp. Barro (1996a)
tiến hành nghiên cứu thực nghiệm xuyên quốc gia trên các yếu tố quyết
định tăng trưởng. Tác giả sử dụng chỉ số mức độ dân chủ được lấy từ
Freedom House đại diện cho yếu tố thể chế chính trị.
Như vậy, chất lượng thể chế là một khái niệm đa chiều và việc đo lường nó
còn phụ thuộc vào cách tiếp cận cũng như quan điểm của nhà nghiên cứu.
Trong nghiên cứu này, dựa trên bài nghiên cứu của Saha & Gounder
(2013) và Heckelman & Powell (2010), tác giả tiếp cận chất lượng thể chế
bao gồm chất lượng thể chế chính trị được đại diện bởi chỉ số mức độ dân
chủ và chất lượng thể chế kinh tế được đại diện bởi chỉ số tự do kinh tế.
1.1.2. Tổng quan về tham nhũng
Do sự tác động đa dạng đến các khía cạnh kinh tế, văn hóa và đạo đức xã
hội nên tham nhũng luôn được xem là chủ đề trọng tâm trong các lĩnh vực
khoa học chính trị và kinh tế học. Những nghiên cứu học thuật về nguyên
nhân và hậu của tham nhũng (trong khu vực công) được thực hiện từ một
vài thập kỷ trước đây. Chẳng hạn như, luận thuyết của Scott (1972) về
tham nhũng chính trị đã có những ảnh sâu xa đến tận sau này vì trong đó
nêu lên nhiều hình thái khác nhau của tham nhũng như : đó là thói tham
nhũng quan liêu, cơ chế xin – cho và gia đình trị, và chi phối nhà nước.
25
Tham nhũng quan liêu hoặc tham nhũng hành chính công đề cập đến hành
vi cố ý tạo ra những méo mó trong thực thi pháp luật, quy chế và quy định
hiện hành nhằm đem lại lợi ích cho các cá nhân trong và ngoài chính phủ
bằng các phương pháp không hợp pháp và thiếu minh bạch (Worldbank,
2000). Ví dụ như một cá nhân hối lội cán bộ thu thuế để giảm trách nhiệm
nộp thuế.
Cơ chế xin – cho và gia đình trị đề cập đến sự thiên vị mà những cá nhân
nắm quyền lực dành cho những nhóm đối tượng thuộc một phạm vi hẹp để
đổi lấy sự hỗ trợ chính trị. Đối xử thiên vị với một số cá nhân, trao hợp
đồng từ một nguồn duy nhất,… là những ví dụ cho hình thái tham nhũng
này.
Chi phối nhà nước đề cập đến các hành động của cá nhân, nhóm người
hoặc các công ty trong khối nhà nước cũng như tư nhân nhằm gây ảnh
hưởng đến việc xây dựng luật, quy định, quy chế, nghị định và các chính
sách khác của chính phủ nhằm làm lợi cho bản thân (WorldBank, 2000).
Những năm thập niên 1990, tham nhũng trở thành chủ đề thu hút một
lượng lớn các quan tâm của các nhà nghiên cứu và giới học giả. Hiện nay,
tham nhũng cũng là một hiện tượng đang được xem xét rộng rãi ở hầu hết
các quốc gia bất kể là phát triển hay đang phát triển, nhỏ hay lớn, theo định
hướng thị trường hay hình thức khác. Chính vì lý do này mà đã có nhiều
nghiên cứu về vấn đề tham nhũng, đặc biệt các nghiên cứu về các yếu tố
tác động đến tham nhũng. Những nghiên cứu này bao gồm Billger & Goel
(2009), Del Monte & Papagni (2007), Glaeser & Saks (2006), Goel &
Nelson (1998), La Porta & ctg (1999), Saha & ctg (2009), Treisman
(2000)... Tuy nhiên, khái niệm về tham nhũng rất đa dạng, vẫn chưa có sự
đồng nhất và chưa thật sự rõ ràng.
Trong từ điển của Oxford (2000), tham nhũng được mô tả như: [1] hành vi
gian lận hoặc phi pháp, đặc biệt là những người làm trong chính quyền; [2]
26
hành động làm thay đổi từ chuẩn đạo đức thành thiếu đạo đức của hành vi.
Vì vậy, tham nhũng bao gồm ba yếu tố quan trọng là đạo đức, hành vi và
quyền lực. Gould (1991) cho rằng định nghĩa tham nhũng như là vấn đề
đạo đức, nghĩa là tham nhũng là hiện tượng trái đạo đức và trái với luân
thường đạo lý mà bao gồm tập hợp các sự lệch lạc đạo đức so với các
chuẩn đạo đức của xã hội.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) định nghĩa
“tham nhũng là việc lạm dụng quyền lực được giao phó để nhằm tư lợi”.
Tương tự, theo nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (The World
Bank Group) “tham nhũng là lạm dụng công quyền nhằm tư lợi”. Việc lạm
quyền ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng. Khu vực công được cho là bị
lạm quyền khi một đại diện nhận, gạ gẫm hoặc sách nhiễu hối lộ. Nó cũng
bị lạm dụng khi các đại diện tư nhân chủ động đưa hối lộ để phá vỡ các
chính sách công và quy trình công vì các lợi thế cạnh tranh cũng như lợi
nhuận. Khu vực công cũng có thể bị lạm dụng vì lợi ích cá nhân ngay cả
khi không có hối lộ xảy ra, thông qua sự bảo trợ và gia đình trị, các hành vi
trộm cắp tài sản nhà nước, hay sự chuyển hướng của các khoản thu của nhà
nước.
Tham nhũng cũng được hiểu là việc sử dụng những đặc quyền của khu vực
công để mưu lợi cá nhân, nó được xem là vấn đề nghiêm trọng ở các nước
đang phát triển (Beekman & ctg, 2013; Jain, 2001; Stiglitz, 2002). Một số
hoạt động phi pháp như gian lận, rửa tiền, buôn bán ma túy, hoạt động chợ
đen không cấu thành nên tội tham nhũng do chúng không hoàn toàn đòi hỏi
các đặc quyền của khu vực công. Tuy nhiên, các cá nhân thực hiện các hoạt
động nói trên thường liên hệ với các quan chức và chính trị gia. Mặt khác,
các hoạt động này thường không thể phát triển mạnh nếu không có yếu tố
tham nhũng (Jain, 2001).
27
Như vậy, có thể hiểu tham nhũng là một hành động trục lợi cá nhân đến từ
việc lạm dụng các quyền lợi, đặc quyền của khu vực công. Trong bài
nghiên cứu của mình, Amundsen (2000) cho rằng tham nhũng tồn tại ở các
dạng : hối lộ, biển thủ, gian lận và tống tiền.
Hối lộ được định nghĩa là một khoản chi trả (dạng tiền hoặc vật chất) được
đưa hay nhận trong một quan hệ tham nhũng. Về bản chất, việc chi hay
nhận hối lộ chính là tham nhũng. Một khoản hối lộ có thể được hiểu là một
số tiền cố định, số phần trăm theo hợp đồng hay một khoản tiền tồn tại ở
bất kỳ một dạng nào được trả cho một quan chức đại diện cho nhà nước để
thực hiện hợp đồng hay phân phối lợi ích tới các doanh nghiệp, cá nhân.
Hối lộ cũng có thể được xem là một loại thuế không chính thống khi các
quan chức chính quyền đòi hỏi các khoản chi trả hoặc quà tặng từ các đội
tượng khác. Các thuật ngữ khác như lại quả, tiền trà nước, tiền đút lót, tiền
bôi trơn đều dùng để chỉ về hội lộ dưới góc nhìn của công chúng. Các
khoản tiền này cần thiết hoặc được yêu cầu để việc thực hiện các công việc
hành chính nhanh chóng, thuận lợi hoặc được ưu tiên hơn. Bằng các loại
chi phí bôi trơn này, doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh có thể mua
được ưu tiên chính trị và né tránh các gánh nặng về thuế và các quy định,
mua các thị trường được bảo hộ hoặc độc quyền, các giấy phép…
Biển thủ được hiểu là việc đánh cắp các nguồn lực công bởi các quan chức
chính quyền, là một dạng của sử dụng sai các quỹ tiền tệ công. Biển thủ
được thực hiện khi một quan chức chính phủ đánh cắp từ các định chế công
mà họ đang làm việc và từ các nguồn lực họ quản lý nhân danh nhà nước
và chính phủ. Tuy nhiên, các nhân viên không trung thành của các doanh
nghiệp tư nhân cũng có thể biển thủ tiền và nguồn lực từ người chủ của họ.
Biển thủ là một dạng của tham nhũng bằng việc lợi dụng quyền lực.
Gian lận là một tội phạm kinh tế liên quan đến các hành động lừa gạt, bịp
bợm, lừa đảo. Đây là thuật ngữ luật học rộng hơn và phổ biến hơn, trong
28
đó bao hàm cả hối lộ và biển thủ. Gian lận xảy ra khi các đại diện của
chính quyền tham gia vào mạng lưới giao dịch bất hợp pháp và tống tiền
khi các tổ chức tội phạm kinh tế giả mạo, buôn lậu khi có sự phê chuẩn và
tham gia của chính quyền.
Tống tiền là việc tiền hoặc các nguồn lực khác bị bòn rút bằng cách ép
buộc, bạo lực hoặc đe dọa. Tiền bảo kê có thể bị bòn rút theo cách tạo ra
môi trường không an toàn cho các cá nhân, người kinh doanh để đổi lấy sự
yên bình. Chỉ những người trả đủ tiền thì mới không bị tiếp tục quấy nhiễu.
Tống tiền căn bản cũng là một dạng của tham nhũng nhưng số tiền này
được bòn rút một cách khá bạo lực. Sự đổi chác lấy lợi ích giữa các bên bị
mất cân bằng nghiêm trọng. Tham nhũng dưới hình thức tống tiền thường
được hiểu là một dạng bòn rút từ bên dưới. Ví dụ, khi một tổ chức mafia ở
Nga hoặc ở Ý có khả năng gây ảnh hưởng đến các quan chức chính quyền
và toàn bộ cơ quan nhà nước thông qua việc đe dọa hoặc ám sát có chủ
đích. Các tổ chức này sẽ nhận được các ưu tiên và đặc quyền kinh tế và tự
do trong thuế, quy định và các vụ truy tố pháp luật. Ngoài ra, tham nhũng
dạng này có thể tồn tại dưới hình thức từ trên xuống khi tổ chính quyền là
tổ chức mafia lớn nhất. Ví dụ, khi chính quyền, đặc biệt là các dịch vụ bảo
vệ của họ, là các nhóm bán quân sự tống tiền từ các cá nhân và tổ chức
kinh doanh cho việc không bị quấy nhiễu. Các dạng quấy nhiễu có thể là đe
dọa đánh thuế nặng, trì hoãn việc cấp giấy phép, các cuộc điều tra liên
ngành dưới nhiều hình thức.
Tham nhũng có thể phân loại thành : tham nhũng vặt và tham nhũng lớn.
Tham nhũng vặt có thể xảy ra ở cấp độ đường phố, xảy ra hằng ngày.
Tham nhũng dạng này xuất hiện khi người dân tiếp xúc với các quan chức
thấp hoặc trung bình ở những nơi như trường học, bệnh viện, cơ quan công
an, cơ quan hành chính cấp cơ sở,… Quy mô giao tiền giao dịch thường là
nhỏ và chủ yếu ảnh hưởng đến cá nhân (June & ctg, 2008). Tham nhũng
29
lớn thường xảy ra ở cấp độ chính quyền cao – nơi có khả năng bóp méo
chính sách hay thậm chí bóp méo chức năng chính quyền, tạo điều kiện cho
người lãnh đạo hưởng lợi trên tổn thất của hàng hóa công. Tham nhũng lớn
đôi khi tương đồng với tham nhũng chính trị (Rohwer, 2009).
Nhiều nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa tham nhũng và
tăng trưởng kinh tế, trong đó có Shleifer & Vishny (1993) cho rằng “tham
nhũng là việc bán tài sản của chính phủ nhằm tư lợi”.
Tóm lại, khái niệm về tham nhũng là đa dạng, tùy thuộc vào mục tiêu
nghiên cứu và cách tiếp cận mà nó có thể được hiểu theo các ý nghĩa khác
nhau. Trong nghiên cứu này, tác giả mong muốn xem xét vai trò của chất
lượng thể chế đối với hoạt động tham nhũng của giới công chức, đồng thời
xem xét sự ảnh hưởng của tham nhũng này đối với tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia. Vì vậy, thuật ngữ tham nhũng trong nghiên cứu này là đề cập
đến tham nhũng hành chính công của giới công chức, họ lạm dụng chức
vụ, quyền hạn của mình để thay đổi quy định, quy trình của pháp luật vì
mục tiêu tư lợi và làm tổn hại đến môi trường kinh doanh cạnh tranh.
2.2. Lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng
Các mô hình lý thuyết về nguyên nhân của tham nhũng thường xoay quanh
vấn đề về mối quan hệ đại diện giữa giới công chức và các đại diện kinh tế
(Becker & Stigler, 1974; Klitgaard, 1988). Bởi vì hoạt động tham nhũng
bao gồm hai chủ thể là bên đưa (đại diện khu vực tư) và bên nhận (giới
công chức) các khoản tiền bất hợp pháp. Như vậy, nếu một quốc gia không
tồn tại chính phủ, nền kinh tế thị trường tự do hoàn toàn, thì không xuất
hiện các ràng buộc pháp luật, không có những đại diện thừa quyền và khi
đó cũng không thể tồn tại tham nhũng. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường
luôn tồn tại những khiếm khuyết của nó mà ở đó có hai vấn đề không thể
tự giải quyết khi không có chính phủ đó là: thất bại thị trường và bất bình
đẳng thu nhập. Khi đó, lý thuyết lựa chọn công ra đời khi lý thuyết về hiệu
30
quả tuyệt đối của nền kinh tế thị trường không hoàn toàn đúng nữa. Nói
cách khác, lý thuyết lựa chọn công ủng hộ cho sự tồn tại của chính phủ để
giải quyết các thất bại của thị trường. Khi nền kinh tế thị trường không thể
tự khắc phục các khiếm khuyết của chính mình thì tất yếu phải có sự can
thiệp của thế lực bên ngoài và rõ ràng là không ai có thể làm tốt được vai
trò của mình hơn là chính phủ (Olson, 1965).
Trong bài nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, Treisman
(2000) đặt ra câu hỏi: “tại sao các giới chức tại một số quốc gia lạm dụng
công quyền để nhằm tư lợi thường xuyên hơn và nhận tiền đút lót nhiều
hơn so với giới chức ở các quốc gia khác?”. Câu trả lời là sự cân đối giữa
chi phí kỳ vọng của hành vi tham nhũng bao gồm chi phí xã hội, chi phí
tâm lý cũng như chi phí tài chính so với lợi ích kỳ vọng của họ. Các nhà
khoa học chính trị và kinh tế học cho rằng nhiều đặc tính của một quốc gia
như là kinh tế, chính trị và hệ thống pháp luật có thể ảnh hưởng đến chi phí
kỳ vọng và lợi ích kỳ vọng của giới chức.
Chi phí kỳ vọng rõ ràng nhất chính là rủi ro bị phát hiện và bị phạt. Xác
suất của việc bị phát hiện phụ thuộc phần lớn vào hiệu lực của hệ thống
pháp luật của quốc gia. Hai khía cạnh có liên quan của hệ thống pháp luật
được phân biệt. Thứ nhất, hệ thống luật pháp khác biệt về mức độ bảo vệ
và tạo ra cơ hội từ việc chấp nhận chủ sở hữu tài sản khu vực tư bị xâm hại
bởi hành vi tham nhũng của giới chức. La Porta & ctg (1999) cho rằng hệ
thống luật Ango-Saxon hay còn gọi là hệ thống Thông luật (common law)
khác biệt theo chiều hướng này so với hệ thống luật dân sự (civil law).
Trong khi luật Ango-Saxon được phát triển đầu tiên ở Anh được xem như
là sự bảo vệ cho Nghị viện và chủ sở hữu nhằm chống lại sự xâm phạm của
chế độ quốc chủ, hệ thống luật dân sự từ thời Napoleon, Bismarkian được
phát triển như một công cụ cho chế độ quốc chủ nhằm xây dựng nhà nước
và kiểm soát đời sống kinh tế (La Porta, 1999). Hệ thống Thông luật được
31
xây dựng từ các tiền lệ được hình thành từ chính các quan tòa, thường là
đồng minh với tầng lớp quý tộc nhiều tài sản nhằm chống lại nhà vua,
trong khi đó hệ thống luật dân sự được thiết lập từ bộ luật được các nhà
luật học soạn thảo theo mệnh lệnh của nhà vua. Vì vậy, các tác giả đưa ra
giả thuyết rằng sự bảo vệ tài sản lớn hơn trong hệ thống Thông luật cải
thiện hiệu quả chính phủ ở nhiều khía cạnh bao gồm giảm nạn tham nhũng.
Thứ hai, hệ thống luật pháp không chỉ khác biệt trong công thức và mục
đích ban đầu của luật mà còn khác biệt về kỳ vọng và việc thực thi của nó.
Vai trò xã hội của luật và tầm quan trọng của luật trong các trật tự xã hội
cũng khác nhau giữa các quốc gia. Sự sẵn sàng của tòa án để theo đuổi các
hồ sơ mà thậm chí kết quả của nó sẽ đe dọa hệ thống cấp bậc trong xã hội
sẽ làm tăng cơ hội phát hiện các vụ án tham nhũng của giới chức.
Bên cạnh hệ thống pháp luật, rủi ro bị phát hiện tham nhũng cũng sẽ cao
hơn ở các quốc gia dân chủ hơn và hệ thống chính trị mở (Diamond &
Plattner, 1996). Sự tự do kết giao và tự do báo giới sẽ giúp tạo ra các nhóm
quan tâm cộng đồng và những nhà báo gắn với sứ mệnh và quyền tố cáo
việc lạm quyền. Sự ràng buộc công dân lớn hơn có thể dẫn đến việc giám
sát chặt chẽ hơn (Putnam & ctg, 1994). Ở những quốc gia dân chủ, những
người cạnh tranh cho các chức vụ trong giới chức thường có nhiều động cơ
để phát hiện và tố giác các các hành vi lạm quyền của những người đương
nhiệm tại các cuộc bỏ phiếu.
Bên cạnh xác suất bị phát hiện, giới chức luôn cân nhắc đến các hậu quả
cho hành vi tham nhũng của mình để quyết định có thực hiện tham nhũng
hay không. Các hình thức xử phạt đối với các hành vi phi pháp rõ ràng là
có liên quan đến hành vi tham nhũng. Ngay khi bị phát hiện, giới chức
tham nhũng gần như bị mất việc thì chắc chắn ảnh hưởng đến quyết định
có thực hiện tham nhũng hay không (Van Rijckeghem & Weder, 1997).
32
Tương tự, có nhiều yếu tố tác động đến lợi ích kỳ vọng từ hành vi tham
nhũng mà ở đó giới chức sẽ cân đối để phù hợp với chi phí kỳ vọng. Một
trong những biểu hiện rõ ràng nhất của lợi ích kỳ vọng thường được hiểu
bằng tổng thu nhập thực mà giới chức nhận được. Đây được xem là lý do
để mong đợi tham nhũng sẽ giảm ở các quốc gia phát triển. Acemoglu &
Verdier (2000) cho rằng tiền lương mà giới chức nhận được ảnh hưởng lớn
đến hành vi tham nhũng của họ. Để đánh giá vai trò của cơ chế chi trả
lương cho giới công chức nhằm ngăn ngừa tình trạng tham nhũng khi chính
phủ can thiệp vào nền kinh tế, Acemoglu & Verdier (2000) đã mô hình hóa
cơ chế tiền lương thông qua bất đẳng thức: (xem thêm chi tiết tại phụ lục
1−𝑞
1−𝑞
𝑛
01)
𝑞
𝑞
1−𝑛
(2.1) 𝑤 ≥ ∗ 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) = ∗ 𝜎 ∗ 𝑒 ∗
Trong đó, w là tiền lương, n là đại lượng đại diện cho phần doanh nghiệp
trong nền kinh tế, biểu diễn nguồn thu thuế mà các doanh nghiệp lựa
chọn công nghệ xấu phải trả và khoản trợ cấp mà doanh nghiệp lựa chọn
công nghệ tốt nhận được là , σ được thể hiện tiền đút lót (tham nhũng), e
là chi phí cho việc lựa chọn công nghệ tốt của doanh nghiệp, và công chức
tham nhũng có thể bị phát hiện với xác suất 𝑞. Nếu bất đẳng thức 2.1 bị vi
phạm, tất cả công chức sẽ là tham nhũng. Trong trường hợp này, các doanh
nghiệp nhận 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) về lựa chọn công nghệ của họ, và sự can thiệp của
chính phủ là hoàn toàn lãng phí. Như vậy, khi có sự can thiệp của chính
phủ thì cơ chế chi trả tiền lương cho giới công chức phải thỏa mãn điều
kiện (2.1) nếu không muốn các công chức tham nhũng.
Như vậy, ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, tiền lương mà giới chức
nhận được có xu hướng cao hơn và do đó họ sẽ có khuynh hướng ít tham
nhũng hơn. Bên cạnh đó, Lipset & Lenz (2000) cho rằng phát triển kinh tế
33
có tác động lan tỏa tích cực đến giáo dục, trình độ dân trí và qua đó sẽ giúp
tăng cường việc phát hiện và tố giác hành vi tham nhũng.
Hình 2.1: Lý thuyết nguyên nhân gây ra tham nhũng
Hệ thống chính trị
Thu nhập
Dân chủ
Hệ thống luật pháp
Rủi ro bị phát hiện và xử phạt
Chi phí kỳ vọng
Lợi ích kỳ vọng
Tham nhũng
Nguồn: tổng hợp của tác giả
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tham nhũng là một khái niệm đa
chiều và phức tạp. Kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu này cho thấy
không chỉ các yếu tố kinh tế như phát triển kinh tế, tự do kinh tế, lạm phát và
phân phối thu nhập… mà còn các yếu tố về chính trị, xã hội và văn hóa như
dân chủ, ổn định chính trị, giới tính và sự đa dạng dân tộc hoặc ngôn ngữ có
ảnh hưởng quan trọng đến tham nhũng. Nghiên cứu của Ata & Arvas (2011)
cho thấy nguồn gốc của tham nhũng rất đa dạng và phức tạp giống như hình
thức của nó. Các nghiên cứu thực nghiệm về các nguyên nhân của tham
nhũng thường tập trung vào các thể chế chính trị, các quy định của chính
34
phủ, hệ thống pháp luật, mức thu nhập, tiền lương khu vực công, độ mở
thương mại, giới tính, giáo dục, tôn giáo, sự đa dạng ngôn ngữ dân tộc,
nghèo đói cũng như vai trò của chủ nghĩa thực dân (Andvig & ctg, 2000).
Trong nghiên cứu này, tác giả khảo sát tác động của thu nhập, chất lượng
khung thể chế và các yếu tố kinh tế, văn hóa đến tham nhũng tại các quốc
gia chuyển đổi. Tuy nhiên, mục tiêu trọng tâm của nghiên cứu là tập trung
phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và hoạt động tham nhũng tại các quốc
gia này. Vì vậy, bài viết tập trung thảo luận và phân tích các yếu tố sau:
Tăng trưởng kinh tế
Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tăng trưởng kinh tế
đến tham nhũng đều sử dụng biến thu nhập bình quân đầu người làm biến
đại diện cho tăng trưởng kinh tế (Damania & ctg, 2004; Husted &
Estudios, 1999). Thu nhập được sử dụng để kiểm soát sự khác nhau về tiến
trình phát triển kinh tế giữa các quốc gia. Ata & Arvas (2011) cho rằng sự
thiếu hụt các nguồn lực kinh tế có thể được xem như là một yếu tố cơ bản
dẫn đến tham nhũng. Mặc dù tham nhũng là một hiện tượng tồn tại ở hầu
hết các quốc gia, tuy nhiên, hiện tượng này có thể xuất hiện nhanh hơn ở
các nước có thu nhập thấp so với ở các nước có thu nhập cao. Ở các quốc
gia có thu nhập cao, tồn tại một số động lực đối kháng có thể ngăn ngừa sự
lây lan của tham nhũng (Alam, 1995; Myint, 2000).
Dưới góc độ kinh tế học vi mô, sự khác biệt trong thu nhập giữa các quốc
gia tác động không giống nhau đến chi phí của tham nhũng và qua đó nó
cũng làm cho mức độ tham nhũng khác nhau. Vì vậy, việc làm giàu của
khu vực tư thông qua các giao dịch phi pháp phụ thuộc vào chi phí và lợi
ích mà họ nhận được từ hoạt động tham nhũng. Giới công chức cũng sẽ suy
đoán chi phí của việc nhận hối lộ (chi phí về mặt đạo đức, xã hội, kinh tế)
với lợi ích mong đợi của họ. Kết quả của sự suy đoán này có thể phụ thuộc
vào hệ thống chính trị, pháp lý và sự phát triển kinh tế của quốc gia.
35
Nghiên cứu của Becker (1974) cho thấy mức lương cao hơn của công chức
sẽ làm tăng chi phí của việc nhận hối lộ (giảm tham nhũng).
Dựa theo quan điểm cho rằng thu nhập cao của công chức sẽ làm tăng chi
phí cơ hội của hoạt động tham nhũng, nghĩa là quốc gia nghèo được kỳ
vọng là tham nhũng nhiều hơn so với các quốc gia giàu, nghiên cứu của
Sandholtz & Koetzle (2000) chỉ ra rằng do giá trị biên của thu nhập ở các
quốc gia nghèo là lớn nên thu nhập tăng thêm sẽ ảnh hưởng đáng kể đến
chi phí của cả người đưa và nhận hối lộ. Người đưa hối lộ sẽ được lợi khi
mà khoản đút lót này tạo ra cơ hội cho họ kiếm tiền nhiều hơn. Tương tự,
người nhận hối lộ cảm thấy xứng đáng cho rủi ro của việc nhận hối lộ khi
mà giá trị thu được là lớn hơn so với tiền lương chính thức của họ. Kết quả
nghiên cứu Leys (1965) cho thấy tiền lương của công chức ở các quốc gia
nghèo không đáp ứng nhu cầu cuộc sống cho nên các khoản đút lót của khu
vực tư trở nên rất hấp dẫn đối với họ. Ngoài ra, mối quan hệ nghịch giữa
thu nhập và tham nhũng cũng được ủng hộ bởi các nghiên cứu thực nghiệm
trước đây của Braun (2004), Kunicová & Rose-Ackerman (2005),
Lederman & ctg (2005), Brown & ctg (2011) và Chang & Golden (2007).
Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết:
Giả thuyết 1: quốc gia có mức thu nhập cao hơn sẽ làm giảm mức độ tham
nhũng.
Dân chủ
Bên cạnh thu nhập thì khung thể chế cũng là một trong những yếu tố được
nghiên cứu nhiều về sư tác động đến tham nhũng. Việc giảm tham nhũng
phụ thuộc rất lớn vào việc thiết kế khung thể chế của một quốc gia, nó
được xem là yếu tố có thể chống tham nhũng một cách hiệu quả. Saha &
Gounder (2013) và Heckelman & Powell (2010) cho rằng khung thể chế
bao gồm thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Trong đó, thể chế chính trị
36
được đại diện bằng nền dân chủ của quốc gia và thể chế kinh tế được đại
diện bằng tự do kinh tế.
Theo Schumpeter (2012), nền dân chủ là một hệ thống chính trị để người
dân lựa chọn và thay thế các chính phủ thông qua bầu cử tự do và công
bằng. Điều này đã phát triển thành một đặc tính của dân chủ là trách nhiệm
giải trình của chính phủ. Trách nhiệm giải trình gồm hai loại là trách nhiệm
giải trình dọc và trách nhiệm giải trình ngang: trách nhiệm giải trình dọc
biểu thị trách nhiệm của chính phủ đối với mọi người thông qua bầu cử;
trách nhiệm giải trình ngang dùng để kiểm tra và tạo sự công bằng trong
chính phủ. Trong bài nghiên cứu của Kant (2003), tác giả cho rằng bầu cử
tự do làm tăng khả năng các quan chức tham nhũng sẽ bị trừng phạt và việc
kiểm tra tính hiệu quả và sự cân bằng trong chính phủ có thể hạn chế hoạt
động tham nhũng của các quan chức.
Kotera (2012) với dữ liệu trên 82 quốc gia trong giai đoạn từ năm 1995 đến
2008, sử dụng phương pháp ước lượng OLS đã củng cố mối quan hệ giữa
quy mô chính phủ và tham nhũng dưới sự tác động của nền dân chủ. Ông
cho rằng ở các quốc gia mà mức độ dân chủ vừa đủ, sự tăng quy mô chính
phủ sẽ giảm tham nhũng bởi vì chính phủ được bổ nhiệm bằng việc bầu cử
tự do và hợp pháp hoặc từ quyết định của số đông công chúng. Trái lại, ở
các quốc gia mức độ dân chủ quá thấp, cơ cấu chính phủ không hoạt động
tốt, và kết quả là quy mô chính phủ lớn làm cho tham nhũng nhiều hơn.
Qua đó, tác giả kết luận rằng để tận dụng vai trò can thiệp của chính phủ
mà không làm tăng tham nhũng, sự phát huy dân chủ là rất cần thiết, vì sự
tiến bộ của nền dân chủ sẽ làm quá trình kiểm tra và cân bằng hoạt động
tốt, từ đó, một sự gia tăng trong quy mô chính phủ sẽ dẫn tới sự giảm đi
mức độ tham nhũng. Kết quả này cũng nhận được sự ủng hộ từ nghiên cứu
thực nghiệm của Montinola & Jackman (2002), Braun (2004), Kunicová &
37
Rose-Ackerman (2005) và Lederman (2005). Từ đó, nghiên cứu này cũng
đưa ra giả thuyết rằng:
Giả thuyết 2: mức độ dân chủ có mối quan hệ nghịch với mức độ tham
nhũng của quốc gia.
Tự do kinh tế
Tự do kinh tế được hiểu là không có sức ép hoặc các ràng buộc từ chính
phủ đến hoạt động sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ
(Chafuen & Guzman, 2000). Người dân tại các nền kinh tế mở được tự do
nhập khẩu không chỉ hàng hóa, vốn đầu tư mà còn có thể tự do trao đổi
thông tin và ý tưởng kinh doanh. Điều này cho thấy mức độ tự do kinh tế
sẽ đẩy lùi sự kiểm soát của chính phủ như áp đặt quota, giấy phép, thủ tục
hành chính… Do đó, tự do kinh tế làm giảm cơ hội giúp công chức trục lợi.
Kết quả thực nghiệm của Ades & Di Tella (1999) cho thấy độ mở thương
mại có mối quan hệ nghịch với tham nhũng. Kết quả này cũng nhận được
sự đồng thuận của Treisman (2000) khi cho rằng độ mở thương mại giúp
giảm tham nhũng tại các quốc gia. Ngoài ra, Tanzi & Davoodi (1998) cũng
cho rằng tham nhũng thường cũng liên quan đến các hoạt động của chính
phủ và đặc biệt khi chính phủ gắn với sự độc quyền và việc sử dụng quyền
lực một cách tùy nghi. Do đó, các chính phủ lớn hơn và mức độ can thiệp
của chính phủ nhiều hơn trong nền kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tham nhũng (Herzfeld & Weiss, 2003). Vì vậy, tác giả đưa ra giả
thuyết rằng:
Giả thiết 3: tự do kinh tế càng được mở rộng, mức độ tham nhũng càng
giảm.
Tỷ lệ thất nghiệp
Tại các quốc gia đang phát triển, tình trạng thất nghiệp gia tăng cũng là
một trong các chủ đề đáng quan tâm. Thất nghiệp gia tăng kéo theo rất
38
nhiều các hệ lụy về kinh tế xã hội. Khi cá nhân không có công việc để tạo
ra đủ thu nhập đáp ứng nhu cầu cuộc sống, họ sẽ sẵn sàng làm bất cứ việc
gì để tồn tại kể cả những việc bất hợp pháp. Nghiên cứu của Kristiansen &
Ramli (2006) trong trường hợp Indonesia đã chỉ ra rằng quá trình mua bán
chức vụ trong khu vực công diễn ra theo khuynh hướng ngày càng tăng và
đa dạng cho tất cả các vị trí ở các bộ phận khác nhau nhằm gia tăng thu
nhập. Theo đó, khi tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao thì hoạt động mua bán này
diễn ra phổ biến hơn đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Tác giả đưa ra
giả thuyết:
Giả thuyết 4: tỷ lệ thất nghiệp được kỳ vọng có mối quan hệ thuận với mức
độ tham nhũng.
Trình độ học vấn
Khi mức độ dân trí thấp, người dân không hiểu biết đầy đủ quyền giám sát
hoạt động khu vực công của họ. Chính việc này đã tạo điều kiện cho hoạt
động tham nhũng diễn ra phổ biến hơn ở các quốc gia đang phát triển. Ali
& Isse (2002) cho rằng trình độ dân trí cao có thể thúc đẩy ý thức lòng yêu
nước và trách nhiệm công dân trong xã hội. Nó cũng nâng cao khả năng
nhận thức về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân. Từ đó, họ biết
rằng việc giám sát hoạt động của chính phủ và phòng chống tham nhũng là
một phần trong quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ này. Vì vậy, mức độ dân trí
là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tham nhũng tại các
quốc gia đang phát triển.
Giả thuyết 5: trình độ học vấn được cải thiện sẽ đẩy lùi được nạn tham
nhũng của quốc gia.
Lạm phát
Lạm phát làm giảm mức lương thực tế và do đó nó ảnh hưởng tiêu cực đến
sức mua của người dân. Khi sức mua của đồng tiền bị giảm, cuộc sống của
39
người dân có mức thu nhập trung bình và thấp trở nên khó khăn hơn. Nhằm
đảm bảo nhu cầu cuộc sống, những cá nhân này có thể trở nên bất chấp
pháp luật và làm bất kỳ công việc gì kể cả gian lận, hối lộ, tham ô để tạo ra
thêm thu nhập. Rất nhiều người tin rằng lạm phát có thể gây ra "rủi ro đạo
đức" (Paldam, 2002). Khi đó, nó có thể tạo cơ hội cho các hành vi vi phạm
pháp luật và trái đạo đức như là gian lận, lừa dối, tham ô (Braun, 2004).
Lạm phát có thể tác động đến mức độ tham nhũng một cách gián tiếp.
Braun cho rằng lạm phát cao có thể làm giảm mức độ đầu tư và tăng
trưởng kinh tế, do đó, nó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ tham
nhũng. Vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết sau đây:
Giả thuyết 6: lạm phát cao trong một quốc gia làm gia tăng mức độ tham
nhũng.
Hệ thống pháp lý và tư pháp
Treisman (2000) cho rằng giới công chức có thể phân tích việc cân đối
giữa chi phí kỳ vọng của hành động tham nhũng bao gồm chi phí tâm lí, xã
hội và tài chính so với lợi ích kỳ vọng. Chi phí rõ ràng nhất là rủi ro bị phát
hiện và hình phạt. Xác suất bị phát hiện phụ thuộc rất nhiều vào hiệu lực
của hệ thống pháp lý quốc gia. Nghiên cứu của La Porta (1999) cho thấy
các quốc gia có hệ thống pháp lý được xây dựng dựa trên nguồn gốc pháp
lý theo Luật Anglo-Saxon (common law) sẽ có khuynh hướng nghiêm khắc
và hiệu quả hơn vì vậy cũng ít tham nhũng hơn. Cả Treisman và La Porta
đều cho rằng các quốc gia có hệ thống pháp lý theo Luật Anglo-Saxon (có
nguồn gốc từ Anh hoặc trước đây là thuộc địa của Anh) có xu hướng giảm
tham nhũng. Theo tài liệu của (WorldBank, 2000), các nghiên cứu dựa trên
kinh nghiệm cho thấy trong bối cảnh chưa có luật định tốt và chưa có hệ
thống tư pháp và tố tụng hiệu quả, pháp quyền sẽ tồn tại nhiều điểm yếu,
ngăn cản quá quá trình đấu tranh phòng chống tham nhũng.
40
Giả thuyết 7: mức độ tham nhũng giảm ở các quốc gia có hệ thống pháp lý
và tư pháp hiệu quả.
Bảng 2.1: Các yếu tố tác động đến tham nhũng
Yếu tố
Tác động nghịch chiều
Thu nhập (phân phối thu nhập)
Tác động thuận chiều Fréchette (2006), Braun (2004)
(2005), Lederman
Tự do kinh tế
Dân chủ
Graeff & Mehlkop (2003), Paldam (2002)
Recanatini,
&
Iwasaki & Suzuki (2012), Chang & Golden (2007), Brown (2011), Kunicová & Rose- (2005), Ackerman Damania (2004), Dreher & Herzfeld (2005), Alt & Lassen (2003), Brunetti & Weder (2003), Graeff & Mehlkop (2003), Herzfeld & Weiss (2003), Knack & Azfar (2003), Persson & ctg (2003), Tavares (2003), (Fisman & Gatti, 2002), (Bonaglia & ctg, 2001), (Swamy & ctg, 2001), (Abed & Davoodi, 2002), (Rauch & Evans, 2000), (Treisman, 2000), (Wei, 2000), (Ades & Di (Goldsmith, 1999), Van Tella, 1999), Rijckeghem & Weder (1997) (Gurgur & Shah, 2014), Kunicová & Rose- Ackerman (2005), (Park, 2003), (Ali & Isse, 2002), (Treisman, 2000), (Goldsmith, 1999) Gurgur & Shah (2014), (Iwasaki & Suzuki, 2012), Chang & Golden (2007), Kunicová (2005), Lederman & Rose-Ackerman (2005), Braun (2004), Damania (2004), Dreher & Herzfeld (2005), Knack & Azfar (2003), Paldam (2002), (Bonaglia, 2001), (Broadman 2001), (Treisman, 2000), (Wei, 2000), (Ades & Di Tella, 1999), (Goldsmith, 1999), Van Rijckeghem & Weder (1997)
Lạm phát
Tỷ lệ thất nghiệp Kristiansen & Ramli (2006) Braun (2004), Paldam (2002)
Trình độ học vấn Fréchette (2006)
Hệ thống pháp lý
Ali & Isse (2002), Alt & Lassen (2003), Brunetti & Weder (2003), (Persson, 2003), (Rauch & Evans, 2000), (Ades & Di Tella, 1999), Van Rijckeghem & Weder (1997) Treisman (2000), La Porta (1999), Gatti (1999)
Nguồn: tổng hợp của tác giả
41
Kết luận chương 2
Các yếu tố tác động đến tham nhũng là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm thực hiện từ nghiên cứu dạng tổng hợp so sánh đến các nghiên
cứu định lượng với dữ liệu, phương pháp và kết quả khác nhau. Các nghiên
cứu này đã có những đóng góp rất lớn về khung lý thuyết và bằng chứng
thực nghiệm. Từ các nghiên cứu trước đây, tác giả xác định những điểm
nhấn cần tập trung nghiên cứu để hoàn thiện thêm trong luận án này như
sau:
- Biến nghiên cứu: các nghiên cứu trước đây có đề cập đến vai trò
của chất lượng khung thể chế, tuy nhiên, việc sử dụng đồng thời thể
chế chính trị và thể chế kinh tế trong các nghiên cứu định lượng hiện
còn rất hạn chế.
- Dữ liệu nghiên cứu: các nghiên cứu trước đây cũng đã tập trung
khai thác dữ liệu nghiên cứu ở cấp độ quốc gia. Tuy nhiên, nghiên
cứu định lượng sử dụng bộ dữ liệu đồng nhất của các quốc gia có
mức độ tương đồng về thu nhập và chất lượng khung thể chế đặc
biệt là các quốc gia chuyển đổi vẫn chưa được thực hiện phổ biến.
- Phương pháp nghiên cứu: Mặc dù các nghiên cứu được thực hiện
bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng việc sử dụng các phương
pháp ước lượng mới để xử lý vấn đề nội sinh vẫn chưa được các tác
giả quan tâm xử lý.
Do vậy, tác giả cho rằng việc thực một nghiên cứu định lượng nhằm khắc
phục các khoảng trống nghiên cứu trước đây là thật sự cần thiết.
42
CHƯƠNG 3
LÝ THUYẾT TÁC ĐỘNG THAM NHŨNG ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Giới thiệu
Hậu quả của tham nhũng cũng là chủ đề được bàn luận nhiều trong các
nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, tham nhũng tác động như thế nào đến
tăng trưởng kinh tế vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Kết quả cho thấy tham
nhũng gây cản trở tăng trưởng có lẽ nhận được nhiều sự đồng thuận từ các
nhà nghiên cứu. Nhưng cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng tham
nhũng không hoàn toàn tiêu cực mà trong một số trường hợp tham nhũng
chính là chất bôi trơn giúp thúc đẩy bánh xe tăng trưởng. Bardhan (1997)
đã minh họa các trường hợp mà tham nhũng có thể đã thúc đẩy phát triển
kinh tế trong một giai đoạn lịch sử của châu Âu và châu Mỹ. Bên cạnh đó,
Beck & Maher (1986) và Lien (1986) lập luận rằng tham nhũng giúp cải
thiện hiệu quả hoạt động của chính phủ. Nghiên cứu của Leff (1964),
Huntington (2006) và Leys (1965) cũng cho thấy tham nhũng có tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế nhờ việc giảm thiểu các trở ngại từ thủ tục
hành chính, sự thiếu minh bạch của hệ thống pháp lý. Từ đó, các tác giả đã
ví tham nhũng như chất bôi trơn giúp kích hoạt sự vận hành của thể chế
quan liêu và giảm thiểu các rào cản gây trở ngại cho đầu tư và tăng trưởng.
Mục tiêu của chương này là xây dựng khung lý thuyết sự tác động của
tham nhũng đến tăng trưởng. Luận án phát triển mô hình tăng trưởng dựa
vào hàm sản xuất Cobb-Douglas kết hợp với lý thuyết tăng trưởng nội sinh
của Barro (1990) khi xem xét vai trò của chi tiêu chính phủ đối với tăng
trưởng kinh tế. Từ khung lý thuyết này, luận án tổng hợp các lý thuyết
nghiên cứu mở rộng về sự tồn tại của hai giả thuyết tác động của tham
nhũng, bao gồm: giả thuyết tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng và giả
43
thuyết tham nhũng đóng vai trò chất bôi trơn. Sau đó, luận án tổng hợp
bằng chứng thực nghiệm về các kênh truyền dẫn mà qua đó tham nhũng tác
động đến tăng trưởng. Cuối cùng, luận án tổng hợp các kết quả nghiên cứu
thực nghiệm trước đây cho cả hai giả thuyết sự tác động của tham nhũng.
3.1. Khái niệm tổng quan
Theo định nghĩa của World Bank, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về
lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế,
trước hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số.
Một cách cụ thể hơn, (Nafziger, 2006) định nghĩa tăng trưởng kinh tế là sự
gia tăng về lượng hoặc sự gia tăng lên về thu nhập bình quân đầu người của
một nước. Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô
sản lượng quốc gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia bình quân trên đầu
người qua một thời gian nhất định. Bản chất của tăng trưởng kinh tế là sự
đảm bảo gia tăng cả quy mô sản lượng và sản lượng bình quân trên đầu
người.
Một cách tổng quát, ta có thể đo lường tăng trưởng kinh tế bằng các chỉ
tiêu: tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm
quốc nội bình quân đầu người.
Tổng sản phẩm quốc nội - GDP (Gross Domestic Product): GDP là giá trị
bằng tiền của tất cả các sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được sản
xuất trên phạm vi lãnh thổ của một nước trong một thời gian nhất định
(thường là một năm). GDP thường được tính bằng 3 phương pháp sau:
Phương pháp 1: Phương pháp trực tiếp (theo tổng thu nhập)
GDP = W + R + i + Π + Ti + De
Trong đó
W: tiền lương
44
R: thu nhập cho thuê
i: thu nhập của người cho vay (lãi)
Π: lợi nhuận của chủ doanh nghiệp
Ti: thuế gián thu
De: bù đắp hao mòn tài sản cố định
Phương pháp 2: Phương pháp gián tiếp (theo giá trị gia tăng)
𝐺𝐷𝑃 = ∑ 𝑉𝐴
Trong đó: VA= giá trị sản lượng- giá trị sản phẩm trung gian
Phương pháp 3: theo luồng chi tiêu
GDP = C + I + G + X – M
Trong đó
C: tiêu dùng của hộ gia đình
I: chi cho đầu tư
G: chi tiêu của Chính phủ
X: giá trị hàng xuất khẩu
Tổng sản phẩm quốc dân- GNP (Gross National Product): GNP là giá trị
bằng tiền của tất cả các sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra
bởi công dân của một nước trong một thời gian nhất định (thường là một
năm).
GNP = GDP + NFFI = GDP + IFFI − OFFI
Trong đó
NFFI: thu nhập yếu tồ ròng từ nước ngoài.
IFFI: thu nhập từ nước ngoài chuyển vào trong nước.
45
OFFI: thu nhập từ trong nước chuyển ra nước ngoài.
Tổng sản phẩm tính bình quân đầu người (mức thu nhập bình quân đầu
người- PCI- Per Capital Income): PCI = Y/P với Y: GDP (GNP), P: tổng
dân số.
3.2. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế
3.2.1. Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế
Các mô hình tăng trưởng tân cổ điển như Solow (1956) và Swan (1956)
không tính đến vai trò can thiệp của chính phủ nên không thể trực tiếp phân
tích tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng
trong dài hạn hoàn toàn được quyết định bởi tốc độ tăng của các biến ngoại
sinh như vốn vật chất, vốn con người và tiến bộ công nghệ. Theo thời gian,
nhiều nhà kinh tế đã đưa vai trò của chính phủ vào các mô hình tăng trưởng
tân cổ điển. Điển hình là mô hình lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Barro
(1990). Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Barro (1990) giả định tổng sản
phẩm bình quân đầu người dựa trên đầu tư khu vực tư nhân bình quân và
chi tiêu chính phủ bình quân.
Dựa trên lý thuyết tăng trưởng trường phái tân cổ điển, Barro (1990) đưa ra
mô hình nghiên cứu xem xét một cách có hệ thống dựa trên các hành vi tối
đa hoá lợi ích của các tác nhân trong nền kinh tế, mô hình tăng trưởng này
vẫn được được sử dụng phổ biến khi các nhà kinh tế xem xét mối quan hệ
giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế. Barro (1990) giả định chi
tiêu chính phủ đối với hàng hoá và dịch vụ công có ảnh hưởng tích cực đến
sản xuất của khu vực tư nhân. Hàm tổng sản xuất trong nền kinh tế có dạng
hàm sản xuất Cobb-Douglas như sau:
Y= A L1-α Kα G1-α (3.1)
Ta có 0 < α <1 với L là lao động, K là tư bản, Y là sản lượng của nền kinh
tế, G là tổng chi tiêu chính phủ và A là tiến trình cải tiến công nghệ. Để
đơn giản, Barro (1990) giả định L (tổng lực lượng lao động trong nền kinh
46
tế) là cố định. Với L cố định, phương trình (3.1) cho thấy rằng công nghệ
sản xuất của nền kinh tế có hiệu suất không đổi theo quy mô đối với các
đầu vào chi tiêu chính phủ và tư bản. Hàm tổng sản xuất (3.1) có thể được
biểu diễn dưới dạng biến bình quân một lao động như sau:
y = A kα G1-α (3.2)
Với 𝑦 = 𝑌/𝐿 và k = K/ L lần lượt là sản lượng và tư bản bình quân
một đơn vị lao động.
Barro (1990) giả định rằng chính phủ tài trợ cho chi tiêu của mình bằng
cách áp dụng một mức thuế suất cố định τ. Điều này cũng hàm ý rằng
chính phủ luôn thực hiện cán cân ngân sách cân bằng. Do vậy, τ cũng được
hiểu như tỷ lệ chi tiêu công của chính phủ, ta có:
τ Ly = G ( 0 < τ < 1 ) (3.3)
Kết hợp với (3.1) và (3.2), ta có:
G = τ1/α (AL) 1/α k (3.4)
Do tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu chính phủ cấu thành nên tổng thu nhập
trong nền kinh tế nên phương trình tích luỹ cơ bản có thể được viết như
sau:
(3.5) 𝑘̇ = s (1- τ) y – δk
Trong đó, δ là tỉ lệ hao mòn của tư bản và s là tỉ lệ tiết kiệm cố định của
khu vực tư nhân.
Chia cả hai vế phương trình (3.5) cho k và kết hợp với (3.2), (3.3) và (3.4)
chúng ta có thể thu được tốc độ tăng trưởng của sản lượng Yy, như sau:
(3.6) Yy = α [s (1- τ) ( τAL)(1-α)/α + δ]
Độ co giãn của sản lượng bình quân và chi tiêu khu vực chính phủ α còn
phụ thuộc vào yếu tố tham nhũng: 𝛼 = 𝛾(1 − 𝜑) với 𝜑 là chỉ số tham
nhũng trong khu vực chính phủ (Haque & Kneller, 2008). Nếu 𝜑 càng lớn
thì tác động của chi tiêu chính phủ lên tăng trưởng càng giảm xuống. Nếu
𝜑 = 0 thì chi tiêu chính phủ đạt được độ co giãn theo lý thuyết. Giả thuyết
47
này hàm ý tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế. Hiểu theo cách
khác, giả thuyết này cho rằng tham nhũng tạo ra sự thiếu hiệu quả chứ
không phải là sửa chữa nó. Quan điểm này đã có từ lâu đời trong lý thuyết
lựa chọn công của Buchanan & Tullock (1962) và Rose-Ackerman (1999).
Gần đây nó cũng được xây dựng mới bởi Shleifer & Vishny (1993, 1998).
Họ đã đặt ra thuật ngữ “the grabbing hand” để mô tả cách thức tham nhũng
phát sinh bởi vì các quan chức chính phủ luôn tìm cách trục lợi bất cứ khi
nào có thể dựa trên những hạn chế của nền kinh tế, pháp lý và thể chế
chính trị.
Tuy nhiên, một số các nhà nghiên cứu khác đã không hoàn toàn đồng tình
với giả thuyết trên. Họ cho rằng tham nhũng tác động như thế nào đối với
tăng trưởng thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế xã hội khác. Để làm
rõ hơn vấn đề này, luận án sẽ dẫn chứng một vài nghiên cứu lý thuyết nổi
bật sau:
Trước hết là nghiên cứu của Levine & Renelt (1992), khung lý thuyết của
nghiên cứu này đã nhận dạng bốn biến tác động vững đến tăng trưởng kinh
tế. Chúng bao gồm: tỷ lệ đầu tư trên GDP, tỷ lệ tăng dân số, mức độ ban
đầu của GDP bình quân đầu người và biến đại điện cho nguồn vốn con
người. Hai biến đầu tiên thuộc về thành phần tăng trưởng và hai biến còn
lại thuộc về thành phần phát triển. Dựa trên công trình này và các tài liệu
nghiên cứu trước đây, Levine & Renelt (1992) cho rằng tỷ lệ tăng trưởng
của năng suất sản xuất được xác định như sau:
(3.7) 𝑦 = 𝛾(𝑐𝑜𝑟, 𝑦0, ℎ𝑢𝑚𝑎𝑛)
Trong đó cor là chỉ số thể hiện mức độ tham nhũng, 𝑦0 là GDP bình quân
ban đầu và human là chỉ số thể hiện nguồn vốn con người. Dấu kỳ vọng
của GDP bình quân ban đầu mang dấu âm là bởi khuynh hướng hội tụ về
khoảng trống tri thức giữa các quốc gia đã được đề cập trong tài liệu về
48
tăng trưởng nội sinh. Quốc gia có khoảng cách tri thức lớn hơn sẽ dễ dàng
hơn để tăng năng suất của mình thông qua việc học, bắt chước và làm quen
với kỹ thuật từ các nền kinh tế dẫn đầu (Barro, 1991). Theo Benhabib &
Spiegel (1994), nguồn vốn con người tác động tích cực lên tăng trưởng của
nhân tố sản xuất tổng hợp bởi vì lực lượng lao động được đào tạo thì sẽ tốt
hơn trong việc học tập, sáng tạo và thực thi các kỹ thuật mới, từ đó thúc
đẩy tăng trưởng năng suất sản xuất cao hơn. Tuy nhiên, khung lý thuyết
này cho rằng rất khó để đưa ra nhận xét về kỳ vọng dấu của tham nhũng
đối với nhân tố sản xuất tổng hợp.
Leff (1964) với bài báo nổi bật trong những năm 1960 có tên “Phát triển
kinh tế thông qua tham nhũng hành chính”. Ông đã khởi sướng quan điểm
cho rằng tham nhũng có lợi cho tăng trưởng hay còn được hiểu là tham
nhũng tạo chất bôi trơn cho bánh xe tăng trưởng. Mặc dù ý tưởng của bài
viết này còn sơ khai nhưng nó được xem là đã đặt nền tảng lý thuyết “tham
nhũng thúc đẩy tăng trưởng” cho những công trình nghiên cứu về sau như
là Lui (1985), Back & Maher (1986) và cả những công trình thực nghiệm
gần đây.
Tiếp theo, luận án trích dẫn vắn tắt mô hình lý thuyết của Aidt & Dutta
(2008). Khung lý thuyết này có cái nhìn đa chiều về tác động của tham
nhũng đối với tăng trưởng. Nghiên cứu này giả định một nền kinh tế trong
đó các cá nhân có thể lựa chọn giữa hai ngành nghề: Một là, cá nhân có thể
là một công nhân và kiếm được thu nhập tiền lương w(.), hoặc hai là, họ có
thể trở thành một doanh nhân, thuê nhân công và kiếm được lợi nhuận
ai(.). Trong đó, ai là tài năng hay năng suất của cá nhân i. Để cho đơn
giản, chúng ta giả sử rằng các cá nhân hoặc là tài năng với ai = a> 1 hoặc
không tài năng với ai = 1. Tiền lương ngày càng tăng trong số lượng doanh
nghiệp và được biểu thị bởi n. Mặt khác, lợi nhuận đang ngày càng giảm
trong n bởi vì ngày càng có sự cạnh tranh hơn. Một cá nhân quyết định trở
49
thành một doanh nhân nếu 𝑎𝑖(𝑛) − 𝑤(𝑛) > 0. Trong một thị trường tự
do, cá nhân tài năng thiết lập các công ty cho đến khi thu nhập kiếm được
từ hai công việc là như nhau, tức là 𝑎(𝐻) − 𝑤(𝐻) = 0 trong đó 𝐻 là
số lượng doanh nghiệp ở trạng thái cân bằng. Chúng tôi cho rằng nếu
thuyết phúc lợi ban đầu và sản lượng đầu ra được phân bổ một cách hiệu
quả thì không có lý do cho sự can thiệp của chính phủ.
Tuy nhiên, giả sử rằng chính phủ áp dụng một hệ thống cấp phép mà đòi
hỏi mỗi cá nhân phải nhận được sự cho phép để thành lập một công ty. Hệ
thống này không có ảnh hưởng đến nền kinh tế trừ khi chính phủ ban hành
giấy phép ít hơn số lượng doanh nghiệp ở trạng thái cân bằng H. Trong
trường hợp này, nền kinh tế sẽ phân bổ không hiệu quả và những doanh
nhân thành đạt kiếm được nhiều hơn so với mức lương hiện tại.
Bây giờ, chúng ta xem xét hai kịch bản khác nhau:
Trong kịch bản đầu tiên, số lượng giấy phép được đưa ra và ít hơn so
với H. Nhiệm vụ của chính phủ là phân bổ các giấy phép trong dân chúng.
Nó sẽ được thực hiện dễ dàng nếu cá nhân tài năng có thể được quan sát
được nhưng thường nó không thể. Một cách khác đó là phân bổ giấy phép
một cách ngẫu nhiên, nhưng nếu làm như vậy, một số doanh nghiệp sẽ phá
sản do được điều hành bởi các doanh nhân bất tài. Một khả năng khác là
một chính phủ tham nhũng sẽ bán giấy phép cho nhà thầu cao nhất. Rõ
ràng, bằng cách thiết lập giá tại mức sao cho > 0 thì những cá
nhân tài năng sẽ trả tiền hối lộ. Kết quả, số lượng có hạn của giấy phép sẽ
được đưa vào sử dụng một cách tốt nhất có thể: tham nhũng là tăng cường
hiệu quả trong trường hợp mà sản lượng đầu ra được sản xuất nhiều hơn
trong nền kinh tế có tham nhũng so với nền kinh tế không có tham nhũng.
Tuy nhiên, có hai điểm quan trọng cần chú ý. Thứ nhất, nền kinh tế tham
nhũng vẫn tồn tại sự phân bổ không hiệu quả, vì vậy tham nhũng chỉ có thể
50
được xem là nâng cao hiệu quả như là sự lựa chọn thứ hai tốt nhất. Tức là,
với các biến dạng không thể tránh khỏi đã được tạo ra bởi chính phủ, tham
nhũng có thể phát huy hiệu quả bằng cách giúp các đại diện để tránh được
các biến dạng; nhưng sự lựa chọn tốt nhất chính là loại bỏ sự méo mó của
chính phủ. Thứ hai, người ta sẽ phải hỏi tại sao các “bánh xe” cần được bôi
trơn ở vòng đầu tiên, và câu hỏi đó dẫn chúng ta đến kịch bản thứ hai.
Giả sử rằng mục đích của chính phủ là để trục lợi từ nền kinh tế. Một chính
phủ như vậy sẽ bán số giấy phép () cho khu vực tư nhân với mức giá p()
và thu được khoản tiền là p(). Tuy nhiên, để trục lợi thì thu nhập phải
được tạo ra thông qua sự khan hiếm giả tạo. Cách làm như vậy là để tạo ra
một hệ thống cấp phép không hiệu quả với số lượng giới hạn các giấy phép
so với khả năng cung cấp. Như trước đây, những giấy phép này sẽ được
nắm giữ bởi các doanh nhân tài năng, nhưng rõ ràng là số lượng giấy phép
nhằm tối đa hóa lượng tiền tham nhũng thì được cấp dưới mức phân bổ
hiệu quả (H) vì nếu chính phủ đã cấp giấy phép ở mức hiệu quả H thì
không có ai sẽ sẵn sàng trả tiền cho họ. Nói cách khác, các nhà chính trị cố
ý tạo ra các méo mó trong việc phân bổ giấy phép với mong muốn duy trì
tình trạng khang hiếm giả tạo để nhằm trục lợi. Và thậm chí nếu tham
nhũng có thể giúp khắc phục những quy định rườm rà trong ngắn hạn, thì
trong dài hạn nó tạo ra động lực để sinh ra nhiều quy định hơn. Như vậy,
tham nhũng tạo ra sự méo mó trong việc phân bổ nguồn lực và dẫn đến sự
thiếu hiệu quả.
Khung phân tích lý thuyết trên cho thấy tác động của tham nhũng đến tăng
trưởng kinh tế vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Để thấy rõ hơn về cơ chế dẫn
suất sự tác động của tham nhũng đến tăng trưởng, luận án sẽ trình bày và
đánh giá các kênh truyền dẫn của tham nhũng thông qua một số các bằng
chứng sẵn có và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây ở phần tiếp theo
sau.
51
3.2.2. Kênh truyền dẫn tác động của tham nhũng đến tăng trưởng
Sức mạnh của thị trường cạnh tranh là phân bổ các nguồn lực kinh tế một
cách có hiệu quả và nó đóng vai trò ý nghĩa quan trọng đối với chính sách
kinh tế. Tuy nhiên, sự không hoàn hảo của thị trường thường dẫn đến kết
quả kém mà chính phủ có thể giảm thiểu bằng cách can thiệp đúng đắn và
có mục tiêu vào tiến trình kinh tế. Các biện pháp can thiệp của chính phủ
bao gồm các quy định về hoạt động kinh doanh để bù đắp hoặc chí ít là
giảm thiểu những tác động của sự không hoàn hảo của thị trường (ví dụ:
thông tin không hoàn hảo và bất đối xứng, các yếu tố ngoại tác tiêu cực,
thiếu hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực,…). Và sự tồn tại của hàng
hóa công đòi hỏi các chính phủ phải tổ chức việc cung ứng chúng. Để đảm
bảo nguồn lực tài chính tài trợ cho các hoạt động thiết thực đó của chính
phủ, sau này chính phủ đã áp đặt một hệ thống thuế. Trong bối cảnh này,
sự xuất hiện của tham nhũng là khả thi bởi vì các đại diện có thể che giấu
hành động tham nhũng của mình, và bởi vì chính phủ sẽ phải tốn kém quá
nhiều chi phí để kiểm soát các hoạt động của họ. Tuy nhiên, chính phủ
cũng có thể kiểm soát tình trạng tham nhũng một cách đáng kể thông qua
việc thiết kế một cấu trúc thể chế gắn với chất lượng quản lý trong khu vực
công, đặc biệt thể chế gắn với quyền tự do ngôn luận, tự do báo giới và
trách nhiệm giải trình. Điều này giải thích tại sao một số nước dù có quy
mô khu vực công lớn nhưng vẫn được xếp vào nhóm tham nhũng ít nhất
(ví dụ như hầu như tất cả các nước Scandinavian), nhờ vào chất lượng quản
trị khu vực công vượt trội của họ. Chính sách chống tham nhũng có hiệu
quả cần phải cố gắng để đảm bảo một thể chế công minh bạch và trách
nhiệm, chứ không phải là tập trung vào mức độ tham gia của chính phủ.
Tóm tắt sau về các kênh truyền dẫn qua đó tham nhũng có thể ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh tế dựa trên các cuộc khảo sát và các nghiên cứu trước
đây. Các tài liệu này bao gồm cả mối quan hệ nhân quả được tranh luận
52
gay gắt dựa trên các mô hình lý thuyết chính thức cũng như các phỏng
đoán của các chuyên gia với minh chứng ít thuyết phục hơn.
Đầu tư tư nhân
Khi đầu tư doanh nghiệp tư nhân là đối tượng mà các quy định luật pháp
hướng tới, tham nhũng dưới hình thức hối lộ để xử lý các yêu cầu thích
hợp sẽ làm tăng chi phí đầu tư (Bardhan, 1996). Điều này sẽ làm giảm lợi
nhuận của nhà đầu tư và do đó khối lượng tổng thể của đầu tư tư nhân cũng
sẽ giảm. Ngoài ra, nó có thể dẫn đến sự chuyển hướng đầu tư vào những dự
án kém hiệu quả (hoặc các công ty di chuyển sang khu vực phi chính thức)
để tránh phải trả tiền hối lộ, bao gồm việc phân bổ tối ưu các nguồn lực.
Trong cả hai trường hợp, mức sản lượng và tỷ lệ tăng trưởng sẽ bị giảm.
Ngoài các khoản hối lộ trực tiếp, tham nhũng thường cũng đòi hỏi chi phí
bổ sung về sự chậm trễ và các thủ tục cần thiết theo quy định chỉ để làm
tăng mức độ đút lót. Hậu quả của việc gia tăng chi phí giao dịch có ảnh
hưởng tiêu cực tương tự về đầu tư giống như hối lộ trực tiếp.
Ảnh hưởng của tham nhũng lên đầu tư là một trong những kênh truyền dẫn
được khảo sát thường xuyên nhất. Các nghiên cứu thực nghiệm này bao
gồm Mauro (1995), Dreher & Herzfeld (2005), Pellegrini & Gerlagh
(2004). Phần lớn các nghiên cứu tìm thấy một tác động tiêu cực đáng kể về
mặt thống kê của tham nhũng lên đầu tư, mặc dù kết quả định lượng có thể
khác nhau đáng kể. Một nghiên cứu của Campos & ctg (1999) cho thấy
quy mô của ảnh hưởng này cũng phụ thuộc vào khả năng dự báo của tham
nhũng, tức là có tham nhũng là tập trung hay phi tập trung.
Bên cạnh đó, tác động của tham nhũng lên dòng vốn FDI đã được nghiên
cứu rộng rãi, bởi vì trong thực tế đầu tư này có xu hướng chịu sự giám sát
của chính phủ mạnh hơn so với đầu tư trong nước, do đó làm tăng khả
năng hoạt động tham nhũng. Công trình của Ngân hàng Thế giới trong
53
trường hợp ở Nga về dịch vụ hải quan của nó cung cấp một minh họa thú
vị về vấn đề này.
Chính việc giảm lợi nhuận, tham nhũng có xu hướng làm giảm lượng vốn
FDI. Dòng vốn này sẽ ở mức bằng không nếu các nhà đầu tư nước ngoài
muốn tránh hoàn toàn các quốc gia tham nhũng (Javorcik & Wei, 2009).
Tham nhũng tác động lên FDI thường được chú ý đặc biệt vì FDI có thể
đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ: nhà đầu tư
nước ngoài thường mang theo công nghệ tiên tiến và kiến thức quản lý, qua
đó thúc đẩy sự phổ biến của công nghệ và do đó nâng cao tỷ lệ tiến bộ kỹ
thuật và tốc độ tăng trưởng sản lượng ở các nước tiếp nhận (UNCTAD,
2011). Quá trình này bị cản trở khi mà tham nhũng làm giảm dòng vốn
FDI. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, người ta cũng đã chứng minh rằng FDI
có thể là nguyên nhân chính của tham nhũng, đặc biệt là ở các nước nghèo
nhưng lại giàu tài nguyên phong phú, khi các nhà đầu tư quốc tế cố gắng để
đạt được quyền tiếp cận và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên
(khoáng sản, rừng, đất nông nghiệp) bằng cách chi trả các khoản hối lộ cho
các quan chức chính phủ, những người đang kiểm soát quyền tiếp cận này
(Leite & Weidmann, 1999). Trường hợp tham nhũng như vậy là thành
công trong việc phá vỡ những rào cản của chính phủ được thiết lập để bảo
vệ môi trường, nó có thể dẫn đến những tác động trái ngược nhau về việc
thúc đẩy GDP của đất nước, nhưng làm giảm phúc lợi tổng thể của xã hội
vì đã làm tổn hại đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Một số nghiên cứu thực nghiệm phân biệt tác động tiêu cực của tham
nhũng đối với FDI gồm có Smarzynska & Wei (2000), Javorcik & Wei
(2009), và Voyer & Beamish (2004). Tuy nhiên, trong một cuộc khảo sát
đánh giá các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, Al-Sadig (2009) cho rằng
các kết quả này có thể bị bắt bẻ về nền tảng phương pháp luận, và do đó
không thuyết phục. Ông tóm tắt kết quả thực nghiệm của mình như sau:
54
"Các hồi quy dữ liệu chéo phù hợp với lập luận rằng tham nhũng gây cản
trở các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, khi chúng tôi chuyển qua các
phương pháp đối với dữ liệu bảng, các tác động tiêu cực của tham nhũng
biến mất ngay khi chúng tôi kiểm soát chất lượng thể chế của nước chủ
nhà". Đây là một dấu hiệu của sự tương quan chặt chẽ giữa tác động của
tham nhũng và khuôn khổ thể chế cho nền kinh tế hoạt động. Những phát
hiện này ủng hộ nhiều hơn việc cho ra các chính sách tập trung vào chất
lượng và tính minh bạch của thể chế như một phương tiện để chống tham
nhũng hiệu quả.
Cạnh tranh và độ mở thương mại
Trong nhiều trường hợp tham nhũng có thể làm tổn hại môi trường cạnh
tranh hiệu quả, chẳng hạn việc làm suy yếu các quy định và việc thực thi
chống độc quyền nhằm khắc phục những khiếm khuyết của thị trường,
hoặc bằng cách tạo ra rào cản cho doanh nghiệp mới tham gia vào thị
trường, hoặc các hạn chế khác về cạnh tranh để bảo vệ đặc quyền của các
công ty đã được thành lập (OECD, 2010). Điều này gây ra các trở ngại bởi
vì cạnh tranh hiệu quả đã được công nhận là hệ điều hành quyết định của
tăng năng suất và đổi mới (Aghion & ctg, 2002; Nickell, 1996). Nếu không
có sự thôi thúc của cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ có ít động lực để tăng
hiệu quả và đổi mới. Chính việc phá hoại cạnh tranh thông qua việc hối lộ
hoặc sự bảo kê, công ty có khuynh hướng nỗ lực để trục lợi hơn là hướng
tới cạnh tranh cải tiến chất lượng đầu ra nhằm đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Tham nhũng cũng có thể trực tiếp gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh
khi chính phủ là người mua hàng, bằng cách loại trừ đối thủ cạnh tranh
tiềm năng hoặc tạo điều kiện cho các nhà thầu để tránh cạnh tranh bằng
cách gian lận thầu trong quy trình mua sắm công (OECD, 2010b).
Các hiệu ứng xói mòn của tham nhũng đối với cạnh tranh hiệu quả là quá
rõ ràng, Emerson (2006) đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm cho thấy tham
55
nhũng thực sự làm giảm cạnh tranh. Do sự phức tạp của việc đo lường cạnh
tranh, rất khó để ước tính thiệt hại về sản lượng hoặc tăng trưởng thông qua
kênh truyền dẫn này với độ chính xác (Ahn, 2002). Tuy nhiên, những tác
động tiêu cực của tham nhũng đối với sản lượng thông qua cơ chế truyền
dẫn này đã được thực hiện (cùng với các hiệu ứng khác) trong các phương
trình tổng hợp để đánh giá sự tác động của tham nhũng đối với sản lượng.
Nguyên nhân là do thiếu cạnh tranh trong việc tạo ra lợi nhuận và thường
các quyết định của chính quyền sẽ xác định doanh nghiệp nào được hưởng
lợi thế, chính điều này làm tăng phạm vi cho hoạt động tham nhũng (Ades
& Di Tella, 1999). Ngược lại, trong một thị trường cạnh tranh, các doanh
nghiệp chỉ có thể thành công bằng cách làm hài lòng khách hàng, vì vậy
quyết định chính quyền là không có liên quan. Điều này phù hợp với quan
sát rằng tham nhũng có thể ít đi ở các nền kinh tế mở hơn và cho phép cạnh
tranh nước ngoài.
Các mối quan hệ cạnh tranh và tham nhũng có liên quan chặt chẽ với các
tác động của tham nhũng đối với độ mở của nền kinh tế thương mại và đầu
tư. Bởi vì độ mở nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phổ biến của
các đối thủ cạnh tranh có hiệu quả. Một số nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy có một mối quan hệ nghịch giữa độ mở của nền kinh tế và mức độ
cảm nhận tham nhũng. Hầu hết các nghiên cứu đều giả định mối quan hệ
nhân quả đi từ những rào cản hành chính nhằm giảm bớt sự cởi mở (bằng
cách quy định các khoản đút lót và gia tăng quyền lực của giới chức) tới
mức cao hơn của tham nhũng, phù hợp kết quả nghiên cứu của (Krueger,
1974). Krueger (1974) minh họa các hoạt động tìm kiếm đặc lợi tạo ra
thông qua hạn ngạch, rõ ràng bao gồm cả tham nhũng. Beck & ctg (1991)
tìm thấy Luật thực hành tham nhũng ngoại quốc năm 1977 được ban hành
tại Hoa Kỳ, trong đó cấm các công ty Mỹ tham gia vào tham nhũng, hạn
chế khả năng cạnh tranh với các công ty từ các nước khác. Tuy nhiên, nó
56
cũng có thể là các chính trị gia và quan chức cố ý tạo ra các rào cản thương
mại nhằm tăng các khoản đút lót, hàm ý tồn tại mối quan hệ nhân quả
ngược. Trong tất cả các trường hợp này, chất lượng quản trị khu vực công
có thể được mong đợi sẽ dung hòa thế cân bằng của mối quan hệ tham
nhũng và độ mở bất kể mối quan hệ này tồn tại như thế nào (Soudis, 2009).
Theo kết quả của các nghiên cứu này cho thấy, chính sách chống tham
nhũng phải dựa vào việc tăng cường chất lượng và trách nhiệm giải trình
của thể chế công.
Vốn con người
Tham nhũng làm biến dạng đầu tư vào vốn con người thông qua bốn cơ
chế. Đầu tiên, tham nhũng làm suy yếu quản lý thuế và có thể dẫn đến hành
vi trốn thuế và miễn giảm thuế không đúng đối tượng. Từ đó, doanh thu
thuế thấp hơn và giảm bớt các nguồn lực sẵn có để tài trợ cho việc cung
cấp các dịch vụ công cộng, bao gồm giáo dục và y tế (Mauro, 1997;
Johnson & ctg, 1999; Gupta & ctg, 2002). Thứ hai, tham nhũng thêm vào
các chi phí điều hành của chính phủ, và do đó làm giảm các nguồn lực sẵn
có cho các mục tiêu khác trong đó có liên quan đến nguồn nhân lực. Thứ
ba, tham nhũng ảnh hưởng đến các thành phần của chi tiêu chính phủ
(Mauro, 1997, 1998). Quan chức tham nhũng có nhiều khả năng lựa chọn
để thực hiện các loại chi tiêu của chính phủ cho phép họ trục lợi (nhận hối
lộ) không bị phát hiện. Kết quả thực nghiệm của Mauro (1998) và Gupta &
ctg (2000) đều cho thấy tham nhũng ảnh hưởng bất lợi đến việc cung cấp
các dịch vụ giáo dục và y tế. Cuối cùng, tham nhũng có thể làm giảm tỷ lệ
chi thường xuyên dành cho các hoạt động và bảo trì (Tanzi & Davoodi,
1998). Hơn nữa, để đổi lấy tiền hối lộ, một hệ thống tham nhũng đang có
xu hướng tăng thông qua các hợp đồng mua sắm công có chất lượng thấp
hơn (Mauro, 1997). Điều này có thể làm giảm chất lượng của các dịch vụ
57
giáo dục và y tế và ảnh hưởng đến khả năng của nhà nước để nâng cao
trình độ học vấn và các tiêu chuẩn sức khỏe tổng thể.
Chi tiêu chính phủ
Các tác động tiềm năng của tham nhũng đến chi tiêu chính phủ được đo
bằng tỷ lệ chi tiêu công trên GDP gồm hai mặt. Một mặt, tham nhũng có
thể khuyến khích tăng trưởng và phân bổ hiệu quả các nguồn lực của chính
phủ như các quan chức tham nhũng tìm cách tối đa hóa tiềm năng trục lợi
của họ (Montinola & Jackman, 2002). Trong bối cảnh đầu tư công, một số
bằng chứng thực nghiệm đã được tìm thấy để ủng hộ quan điểm rằng tham
nhũng tăng đầu tư công (Haque & Kneller, 2014; Tanzi & Davoodi, 1998).
Mặt khác, các quan chức tham nhũng có thể mất một lộ trình thay thế và tối
đa hóa thu nhập từ tham nhũng của họ bằng cách hạn chế số lượng các
khoản chi tiêu công. Hoặc bằng cách báo cáo thấp công quỹ có sẵn để tiêu
thụ hoặc bằng cách chuyển hướng vào quỹ tư nhân (thường bí mật), và do
đó tham nhũng có thể giảm quy mô chính phủ. Elliot (1997) cung cấp một
số bằng chứng sơ bộ về vấn đề này, trong đó bà cho biết kích thước của
ngân sách nhà nước so với GDP giảm với mức độ tham nhũng. Hơn nữa,
tham nhũng đã được tìm thấy để làm giảm nguồn thu ngân sách (Johnson
& ctg, 1998).
Các nghiên cứu khác của Mauro (1998) và Gupta & ctg (2000) tìm thấy
rằng tham nhũng ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục
và y tế, trong khi tăng tỷ lệ chi tiêu quân sự. Hiệu ứng ròng của tất cả các
kênh truyền dẫn này là để gây một hiệu suất phụ tối ưu của khu vực công
cả về nguồn thu và chi tiêu. Điều này không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến
hiệu quả tổng thể của nền kinh tế, mà còn có thể tác động vào nhận thức
của người dân về hiệu quả của chính phủ và sự sẵn lòng của họ để hợp tác,
làm cho nó khó khăn hơn cho chính phủ thực hiện chức năng điều tiết nền
kinh tế và cung cấp hàng hóa công một cách phù hợp.
58
Tham nhũng
Các kênh truyền dẫn
(tham nhũng tác động lên tăng trưởng)
Đầu tư
Chi tiêu chính phủ
Cạnh tranh & độ mở
Vốn con người
tư nhân
Sức khỏe
Chi phí đầu tư Chi phí sản
Thành phần chi tiêu Thành phần
nguồn nhân lực
Suy yếu các quy định và độc quyền
xuất
Trình độ dân
Rào cản
Chuyển hướng
đầu tư ổn định tài
trí
thương mại
đầu tư
khóa
Phát triển kỹ
Dòng vốn FDI
năng
Tăng trưởng kinh tế
Hình 3.1: Các kênh truyền dẫn của tham nhũng đến tăng trưởng
Nguồn: tác giả tổng hợp
59
3.3. Các nghiên cứu thực nghiệm
Mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế là gì? Và mối quan hệ
này có thể tiết lộ liệu rằng tham nhũng nâng cao hiệu quả hay không?
Nhiều học giả đã cố gắng trả lời những câu hỏi này bằng cách tìm kiếm
một mối quan hệ từ các dữ liệu về tăng trưởng kinh tế và chỉ số nhận thức
tham nhũng giữa các quốc gia xuất phát từ các cuộc khảo sát của các nhà
phân tích rủi ro, các doanh nhân và công dân ở các nước khác nhau.
Theo tìm hiểu của tác giả, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về mối
quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng tập trung vào việc tìm kiếm bằng
chứng về sự tác động của mức độ tham nhũng tổng hợp đến thu nhập bình
quân hoặc tốc độ tăng trưởng nhưng không phân biệt theo loại tham nhũng
hay các kênh truyền dẫn khác nhau. Nhìn chung, kết quả thực nghiệm của
các nghiên cứu này vẫn còn nhiều tranh cãi theo hai hướng của khung lý
thuyết phân tích về tác động của tham nhũng lên tăng trưởng. Do đó, luận
án tiến hành tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây theo hai
hướng đó, bao gồm tác động tiêu cực và tích cực của tham nhũng.
3.3.1. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tiêu cực của tham nhũng
Một số nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy dù không chắc chắn
nhưng nhìn chung tham nhũng làm giảm tăng trưởng. Nghĩa là các nghiên
cứu thực nghiệm ủng hộ nhiều hơn cho giả thuyết “tham nhũng gây cản trở
cho tăng trưởng” (Grabbing hand). Trong phần này, luận án sẽ tổng hợp
các nghiên cứu thực nghiệm cho giả thuyết tác động tiêu cực của tham
nhũng như sau:
Từ bằng chứng vi mô
Vào giữa những năm 1980, nhà xã hội học De Soto (1990) đã thực hiện
một thí nghiệm xã hội rất thú vị ở Peru. Ông nhận thấy nhiều hoạt động
kinh tế và sự tích lũy tài sản quá nhiều đã diễn ra ngoài nền kinh tế chính
60
thức và ông muốn tìm hiểu tại sao. Để thực hiện điều này, ông yêu cầu các
nhóm của các nhà nghiên cứu đi khảo sát thực tế và thực hiện một nhiệm
vụ đơn giản là: để có được các loại giấy phép và sự phê chuẩn cần thiết về
mặt pháp lý để bắt đầu một nhà máy may trong một thị trấn nghèo Lima và
ghi lại thời gian và những nỗ lực được yêu cầu cho nó. Kết quả của thực
nghiệm là rất đáng quan tâm. Nó mất khoảng 300 ngày của 6 giờ mỗi ngày
hoặc gặp những tình huống khó khăn gì cũng sẽ tương ứng với 32 lần
lương tối thiểu hàng tháng để hoàn thành nhiệm vụ. Và đó là lý do tại sao
hầu hết các doanh nhân muốn ở lại khu vực phi chính thức và cũng là lý do
tại sao những người cố gắng để tránh tệ quan liêu bằng việc chi trả các
khoản hối lộ và xem nó như là “tốc độ của đồng tiền” (speed money).
Một bằng chứng quan trọng khác cho rằng tham nhũng gây trở ngại cho sự
phát triển xuất phát từ các cuộc điều tra về chi tiêu gần đây được thực hiện
bởi Ngân hàng Thế giới. Mục đích của các nghiên cứu này là để xác định
tỷ lệ số tiền của quỹ dành cho các chương trình chi tiêu cụ thể thực sự được
dùng đúng nơi dự định. Một trong những nghiên cứu đầu tiên là được thực
hiện ở Uganda vào đầu những năm 1990 của Reinikka & Svensson (2004).
Vào thời điểm đó, Uganda mới vừa thoát khỏi một thời gian dài của chế độ
độc tài và chiến tranh nên hệ thống trường tiểu học bị sụp đổ. Các trường
học đã được tài trợ một phần thông qua trợ cấp định suất bằng cách phân
bổ một số tiền cố định cho mỗi học sinh theo học. Quy định này giúp dễ
dàng để tính ra số tiền mỗi trường sẽ được nhận. Sau đó, một so sánh giữa
những gì đã được giải ngân từ kho bạc và những gì các trường đã thực sự
nhận được để đo sự lạm dụng công quỹ. Tính toán này cho thấy ít nhất
khoảng 12% số tiền dự định của các quỹ không bao giờ được nhận bởi các
trường tiểu học. Rõ ràng đã làm tổn hại cho bậc giáo dục tiểu học do tham
nhũng trong các cơ quan hành chính huyện, cơ quan chịu trách nhiệm về
việc phân bổ số tiền cho các trường học sau khi tiền được giải ngân từ kho
61
bạc. Nghiên cứu tiếp theo từ các nước khác trong khu vực đã tiết lộ nhỏ
hơn một chút, nhưng vẫn còn rất lớn sự rò rỉ của các quỹ. Do tầm quan
trọng của giáo dục tiểu học trong việc bồi dưỡng phát triển, loại tham
nhũng này rõ ràng là không hiệu quả.
Olken (2006) đã thực hiện thêm một bước nữa trong nghiên cứu của ông về
một chương trình chống đói nghèo của Indonesia nhằm phân phối gạo với
giá trợ cấp cho hộ gia đình nghèo. Ông không chỉ ghi nhận rằng ít nhất
18% số gạo biến mất (được dự đoán là bị đánh cắp bởi các trưởng thôn
tham nhũng), mà ông còn cho rằng tham nhũng đã biến một chương trình
có thể cải thiện phúc lợi xã hội nhưng trên thực tế nó lại làm giảm phúc lợi
xã hội với các ước tính hợp lý của chi phí cận biên của công quỹ.
Đến bằng chứng vĩ mô
Venard (2013) phân tích mối quan hệ giữa chất lượng thể chế, mức độ
tham nhũng và sự phát triển kinh tế, bằng cách sử dụng dữ liệu chéo theo
các quốc gia ở 120 nước bao gồm cả quốc gia có chất lượng thể chế cao và
thấp, dữ liệu được thu thập tại 4 năm 1998, 2001, 2004 và 2007 và phương
pháp ước lượng mô hình cấu trúc PLS (Partial least squares). Kết quả thực
nghiệm cho thấy cả tham nhũng và chất lượng thể chế có tác động tiêu cực
đến phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy kết quả thú vị
về sự tương tác giữa tham nhũng và chất lượng thể chế đến tăng trưởng.
Việc cải thiện chất lượng thể chế và giảm tham nhũng có hiệu quả hơn cho
sự phát triển kinh tế ở các nước có chất lượng thể chế thấp so với các nước
có chất lượng thể chế cao.
Saha & Gounder (2013) đã thu thập số liệu của 100 quốc gia phát triển và
đang phát triển để khảo sát sự tác động của tham nhũng lên tăng trưởng
kinh tế bằng các phương pháp hồi quy phức tạp. Nghiên cứu kết luận tham
nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Tác giả cũng đề nghị việc thiết
62
lập một nền kinh tế tự do, chính sách thể chế phù hợp sẽ giúp làm giảm
tham nhũng.
Tarek & Ahmed (2013) khảo sát sự tác động của tham nhũng đến tăng
trưởng của 30 quốc gia đang phát triển từ năm 1998-2011. Kết quả thực
nghiệm cho thấy tham nhũng tác động bất lợi đến hoạt động kinh tế và mức
độ tham nhũng sẽ nghiêm trọng hơn ở các nước có mức thu nhập thấp, kinh
tế ít hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tham nhũng trở nên
nghiêm trọng hơn ở các nước đang phát triển bởi một hệ thống luật pháp
yếu kém và mức thu nhập thấp của giới công chức.
Nghiên cứu của Hodge & ctg (2011) nhằm khám phá mối quan hệ giữa
tham nhũng và tăng trưởng và xác định các yếu tố tác động đến tham
nhũng. Để giải quyết 2 mục tiêu trên các tác giả đã tiến hành xây dựng mô
hình và nghiên cứu thực nghiệm với dữ liệu tại 81 quốc gia từ khoảng thời
gian 1984-2005 và sử dụng phương pháp bình phương bé nhất ba giai đoạn
(3SLS). Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng tham nhũng cản trở sự tăng
trưởng bằng cách giảm đầu tư vào vốn vật chất, vốn con người, và gia tăng
sự bất ổn chính trị.
Ugur & Dasgupta (2011) cũng đã tổng hợp 1002 nghiên cứu trong đó có
115 nghiên cứu rất chi tiết về vấn đề này. Trong nghiên cứu này, tác giả đã
tổng hợp các minh chứng thống kê nằm trong 53 kết quả thực nghiệm với
596 ước lượng. Sau đó, dựa vào các bằng chứng này, tác giả đưa ra các kết
luận tổng hợp về tác động của tham nhũng lên thu nhập bình quân từ các
nhóm quốc gia khác nhau. Các phương pháp ước lượng phân vị đã được
thực hiện riêng cho các quốc gia thu nhập thấp và các quốc gia thu nhập
cao. Kết quả cho thấy tham nhũng tác động tiêu cực lên tăng trưởng cho cả
hai nhóm. Tại quốc gia có thu nhập thấp, kết quả ước lượng cho thấy trung
bình khoảng 0.59 điểm phân tram trong thu nhập bị giảm khi chỉ số tham
nhũng tăng lên một đơn vị.
63
Một trong những nguyên nhân được nhắc đến liên tục trong các nghiên cứu
thực nghiệm mà làm cho kết quả thực nghiệm khác nhau đó là chất lượng
thể chế. Tác động của tham nhũng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường thể
chế ở các quốc gia. Aidt & ctg (2008) đã xây dựng mô hình sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa tham nhũng và thể chế một cách rõ ràng và các tác giả đã
tiến hành thực nghiệm cho mô hình này. Mô hình của họ đã thiết lập một
hiệu ứng ngưỡng phân biệt giữa thể chế chất lượng cao và thể chế có chất
lượng thấp. Sau đó, họ đã kiểm định mô hình lý thuyết sự tác động của
tham nhũng lên tăng trưởng cho hiệu ứng ngưỡng. Kết quả thực nghiệm
cho ra hai kịch bản về thể chế: tại các quốc gia có chất lượng thể chế chính
trị cao, tham nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế; trong khi đó,
tại các quốc gia có chất lượng thể chế kém, tác động của tham nhũng lên
tăng trưởng là không có ý nghĩa thống kê.
Campos & ctg (2010) đã khảo sát để cho ra một nghiên cứu tổng hợp từ
460 các ước lượng thực nghiệm về tác động của tham nhũng lên tăng
trưởng từ 41 bài nghiên cứu khác nhau. Bài tổng hợp này cho ra kết quả
như sau: có khoảng 32% các kết quả ước lượng cho thấy tham nhũng tác
động tiêu cực và có ý nghĩa lên tăng trưởng, 62% là không có ý nghĩa
thống kê và chỉ 6% các ước lượng cho thấy tham nhũng tác động tích cực
và có ý nghĩa lên tăng trưởng. Các tác giả này đưa ra kết luận: Các bằng
chứng vĩ mô ở cấp quốc gia cho thấy tham nhũng không là chất bôi trơn để
thúc đẩy tăng trưởng như mong đợi; Các biến độ mở thương mại và chất
lượng thể chế là các biến kiểm soát quan trọng trong các mô hình thực
nghiệm. Các tác giả cũng nhấn mạnh rằng các nghiên cứu này chưa đưa
được chỉ số chất lượng thể chế vào mô hình, thay vào đó, các nghiên cứu
này chỉ sử dụng các chỉ số quản trị khu vực công làm biến đại diện cho
chất lượng thể chế. Đây chính là hạn chế đáng kể của các nghiên cứu trước
đây.
64
Nghiên cứu của Mo (2001) đã xây dựng mô hình lý thuyết về tác động của
tham nhũng lên tăng trưởng qua các kênh truyền dẫn. Sau đó, Ông thu thập
dữ liệu của 54 quốc gia và tính trung bình 5 năm cho giai đoạn 1960 đến
1995 và dữ liệu hàng năm của 49 quốc gia từ 1996 đến 2000. Bằng phương
pháp ước lượng OLS có trọng số và phương pháp 2SLS để kiểm tra tính
vững của mô hình, kết quả thực nghiệm cho thấy tham nhũng tác động tiêu
cực đến kênh truyền dẫn vốn vật chất và vốn con người nhưng lại có tác
động tích cực lên kênh truyền dẫn ổn định chính trị. Nghiên cứu kết luận
chung là tham nhũng tác động tiêu cực lên tăng trưởng với mức tác động là
cứ tăng lên 1% trong mức độ tham nhũng sẽ làm giảm 0,72% tốc độ tăng
trưởng.
Mauro (1995) cho thấy tham nhũng tác động tiêu cực lên thu nhập bình
quân của 58 quốc gia trong giai đoạn 1960 – 1985. Nghiên cứu này cho
thấy nếu các quốc gia cải thiện được một đơn vị của chỉ số tham nhũng sẽ
làm tăng 0.8 điểm phần trăm của tốc độ tăng hàng năm của thu nhập bình
quân. Kết quả này cũng đã được khẳng định với nhiều bằng chứng khoa
học của các nghiên cứu sau này như là Knack & Keefer (1995), Mauro
(1997), Leite & Weidmann (1999), Tanzi & Davoodi (1998) và Méon &
Sekkat (2005).
3.3.2. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tích cực của tham nhũng
Ngược lại, hiện có rất ít bằng chứng thực nghiệm để trả lời câu hỏi về quan
điểm liệu tham nhũng tăng cường hiệu quả hay không? Điều này là bởi vì
“giả thuyết chất bôi trơn” không hàm ý rằng tham nhũng là có lợi ở khắp
mọi nơi. Giả thuyết này chỉ giả định rằng tham nhũng có thể đóng vai trò
như một thiết bị trợ giúp (Helping hand) trong một số tình huống mà các
khía cạnh khác của chính phủ bị thiếu hoặc chính sách kinh tế được cho là
không hiệu quả. Theo đó, nếu giả thuyết này là đúng, thì mối quan hệ giữa
tham nhũng và tăng trưởng kinh tế phải đi kèm với điều kiện dựa trên cấu
65
trúc thể chế của quốc gia. Hơn nữa, mối quan hệ này là không đồng nhất
với các hiệu ứng tích cực cho tăng trưởng tại các mức thấp của tham
nhũng. Điều này là bởi vì không có hệ thống tham nhũng nào được cho là
hoàn toàn có thể giúp các doanh nghiệp tránh được các rào cản. Những
hiểu biết này đã được khám phá trong một số đóng góp gần đây trong các
tài liệu nghiên cứu với nhiều cách kiểm định khác nhau về “giả thuyết chất
bôi trơn” (Grease of wheel) dành cho dữ liệu bảng cấp quốc gia.
Nghiên cứu của Méon & Sekkat (2005) nhằm kiểm định giả thuyết chất bôi
trơn của tham nhũng. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu tất cả quốc gia phát
triển và đang phát triển trong giai đoạn 1970 đến 1998. Biến tham nhũng
được khai thác từ cả hai nguồn của Worldbank và TI. Kết quả cho thấy
hiệu quả biên của tham nhũng đến tăng trưởng là có điều kiện tùy thuộc
vào môi trường thể chế. Cụ thể, tác động biên của tham nhũng đối với tăng
trưởng là dương tại các quốc gia có thể chế chính trị hoặc chính sách thiếu
hiệu quả và tiêu cực. Kết quả này một lần nữa được xác nhận bởi nghiên
cứu về sau của Méon & Weill (2010). Tương tự, Méndez & Sepúlveda
(2006) cho thấy có tồn tại một mức tối đa cho tăng trưởng của tham nhũng.
Cụ thể, tại các cấp độ thấp của tham nhũng, tác dụng có lợi của tham
nhũng lấn át tác động có hại và ngược lại.
Aidt & Dutta (2008) xây dựng mô hình lý thuyết về tác động của tham
nhũng đến tăng trưởng với các cấu trúc thể chế khác nhau. Kết quả cho
thấy tác động của tham nhũng tùy thuộc vào từng chế độ cụ thể và từng
quốc gia được phân chia thành các chế độ tham nhũng khác nhau, dựa trên
điều kiện về chất lượng thể chế của họ. Cụ thể, ở các nước có chất lượng
thể chế tốt, tác động của tham nhũng lên tăng trưởng là tiêu cực, trong khi
ở các nước có chất lượng thể chế kém, thì tác động này là tích cực (hoặc ít
tiêu cực).
66
Heckelman & Powell (2010) nghiên cứu mối quan hệ giữa tham nhũng và
tăng trưởng gắn với môi trường thể chế (dân chủ và tự do kinh tế). Bài
nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 83 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm
1995 – 2005 bằng phương pháp bình phương bé nhất theo trọng số
(Weighted Least Squares). Nghiên cứu tìm thấy những kết quả rất đặc biệt
và mối quan hệ này phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng thể chế của quốc
gia. Cụ thể, tham nhũng được phát hiện là có lợi cho tăng trưởng tại các
quốc gia có nền dân chủ cao. Kết quả này dường như là khá đặc biệt nhưng
nó phù hợp với nghiên cứu của Méon (2005) và Méndez (2006). Ngoài ra,
nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng tham nhũng thúc thúc đẩy tăng
trưởng tại các quốc gia có mức độ tự do kinh tế thấp và tác động tích cực
này sẽ bị giảm khi tự do kinh tế được cải thiện.
Nghiên cứu của Egger & Winner (2005) bằng việc sử dụng dữ liệu của 73
quốc gia phát triển và kém phát triển đã cho thấy tham nhũng là sự kích
thích để thu hút dòng vốn FDI bởi vì tham nhũng giúp doanh nghiệp tránh
được các quy định rờm rà và các hạn chế về quản lý hành chính. Ý tưởng
chung là tham nhũng tạo điều kiện cho các giao dịch có lợi đáng lẽ ra nó
không xảy ra. Khi làm như vậy, nó thúc đẩy sự hiệu quả bằng cách cho
phép các cá nhân trong khu vực tư nhân sửa chữa hoặc loại trừ những thất
bại của chính phủ.
Ngoài ra, một số tác giả khác cũng ca ngợi vai trò của tham nhũng trong
việc giúp các đại diện kinh tế có thể tránh được những hệ lụy từ các chính
sách kém hiệu quả. Lui (1985) đã ứng dụng mô hình xếp hàng trong việc
xin cấp giấy chứng nhận kinh doanh và kết quả cho thấy tham nhũng có thể
sẽ giảm thiểu đến mức thấp nhất giá trị của chi phí thời gian cho việc xếp
hàng. Lý do là khoản hối lộ cho các quan chức có thể tạo ra động lực để
đẩy nhanh tốc độ tiến trình xử lý khi mà hệ thống quản lý hành chính quá
chậm chạp và các quan chức tham nhũng sẽ đưa ra các quyết định nhanh
67
hơn. Nghiên cứu lý thuyết tiên phong của Leff (1964) khám phá mối quan
hệ thú vị giữa tham nhũng và tăng trưởng. Tham nhũng hoạt động giống
như động cơ của tăng trưởng trong điều kiện nền hành chính bị trì hoãn và
các quy định hà khắc của chính phủ. Nhờ đó, tham nhũng thúc đẩy hiệu
quả của nền kinh tế và tác động tích cực đến tăng trưởng. Bayley (1966)
cho rằng tham nhũng có thể khắc phục một bộ máy quan liêu bằng cách cải
thiện chất lượng thể chế và có thể giúp doanh nghiệp tư nhân tránh được
một chính sách công gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh của họ, và qua
đó giúp họ tìm ra các giải pháp tích cực và phù hợp. Điều này có thể cho
phép cải thiện hiệu quả của chính sách công, thậm chí ông cho rằng nó
cũng nằm trong các mục tiêu của chính phủ.
Tóm lại, các nghiên cứu thực nghiệm đã cung cấp một số bằng chứng
khẳng định sự tồn tại của giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng lên tăng
trưởng. Tuy nhiên, hiệu ứng này là không chắc chắn cho tất cả các quốc gia
mà nó chỉ xuất hiện trong một số trường hợp các quốc gia có chất lượng
thể chế kém. Nhưng, theo tìm hiểu của tác giả, những nghiên cứu trước đây
về giả thuyết này phần lớn chỉ dừng lại ở mức phân tích thực trạng, so sánh
và suy luận từ thực trạng tham nhũng và chất lượng thể chế nên chưa cung
cấp nhiều các luận cứ mang tính khoa học hàn lâm. Các nghiên cứu định
lượng dựa trên các mô hình lý thuyết về tác động tích cực của tham nhũng
lên tăng trưởng chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây. Nhưng, tác giả
nhận thấy rằng các nghiên cứu định lượng này vẫn tồn tại một số hạn chế
cần được khắc phục như: việc sử dụng bộ dữ liệu bảng có nhiều giá trị
“missing” của biến tham nhũng sẽ dẫn đến các kết quả ước lượng không
chính xác; sử dụng phương pháp ước lượng dựa trên các giả định truyền
thống của hồi quy tuyến tính cổ điển cho dữ liệu bảng sẽ gặp phải các
thách thức về vấn đề nội sinh trong mô hình hoặc hiện tượng phương sai
thay đổi giữa các đơn vị chéo sẽ dẫn đến kết quả ước lượng có thể bị
68
chệch; và cuối cùng, việc sử dụng bộ dữ liệu bảng chưa có sự đồng nhất
giữa các quốc gia về chất lượng thể chế và mức thu nhập có thể làm cho
kết quả ước lượng chưa cung cấp bằng chứng đủ mạnh cho các nhà hoạch
định chính sách. Từ đó, tác giả cho rằng việc khảo sát lý thuyết chất bôi
trơn của tham nhũng trong bối cảnh các quốc gia chuyển đổi là thật sự có ý
nghĩa về mặt khoa học hàn lâm cũng như ý nghĩa thực tiễn hiện nay.
Bảng 3.1: Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm
Nghiên cứu Kết quả
Phương pháp phân tích
Campos (2010)
1. Tác động tiêu cực Một tổng hợp từ 460 lượng của 41 ước nghiên cứu khác nhau nhằm so sánh các kết quả thực nghiệm và tìm hiểu nguyên nhân của sự khác biệt giữa các kết quả.
Ugur & Dasgupta (2011)
tích
tích
32% các ước lượng cho kết quả tham nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng, 62% mối quan hệ này là không có ý nghĩa thống kê, 6% kết quả tác tham nhũng động tích cực đến tăng trưởng. Kết quả cho thấy tại các quốc gia có thu nhập thấp, chỉ số cảm nhận tham nhũng tăng 0.59 điểm phần trăm sẽ làm giảm 1 đơn vị tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập bình quân.
Mauro (1995)
Tổng hợp kết quả của 115 nghiên cứu, trong đó có 32 nghiên cứu mô hình lý thuyết và thực 84 phân trung nghiệm. Tập phân tác động tham nhũng đến tăng trưởng tại các quốc gia có thu nhập thấp Sử dụng dữ liệu bảng của 58 quốc gia trong giai đoạn 1960 – 1985.
Mo (2001)
Sử dụng dữ liệu bảng cấp quốc gia, nghiên Nghiên cứu này cho thấy nếu các quốc gia cải thiện được một đơn vị của chỉ số tham nhũng sẽ làm tăng 0.8 điểm phần trăm của tốc độ tăng hàng năm của thu nhập bình quân Tham nhũng tăng lên 1% đơn vị làm giảm tốc
69
lượng
độ tăng bình quân của GDP 0.72 điểm phần trăm.
lên Pellegrini & Gerlagh (2004)
Tác động tổng thể của tham nhũng thu nhập bình quân giảm ở mức 0.38 điểm phần trăm.
Aidt (2008)
trường
tác cứu ước động của tham nhũng lên tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng phương pháp OLS có trọng số và 2SLS. Nghiên cứu đánh giá tác động trực tiếp và gián tham tiếp của nhũng lên tăng trưởng thông qua dữ liệu bảng. Các kênh truyền tiếp được dẫn gián phân tích bao gồm đầu tư tài sản cố định, chính sách mở cửa, trình độ học vấn và ổn định chính trị Nghiên cứu kiểm định giả thuyết tác động của tham nhũng lên tăng trưởng trong bối cảnh môi thể chế khác nhau.
Venard (2013)
Kết quả cho thấy hiệu ứng của tham nhũng phụ thuộc vào chất lượng thể chế. Các quốc gia có chất lượng thể chế tốt, tham nhũng tác động tiêu cực nhiều hơn đến tăng trưởng so với các quốc gia có chất lượng thể chế kém. Kết quả thực nghiệm cho thấy cả tham nhũng và chất lượng thể chế có tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế.
Sử dụng dữ liệu chéo theo các quốc gia ở 120 nước bao gồm cả quốc gia có chất lượng thể chế cao và thấp, dữ liệu được thu thập tại 4 năm 1998, 2001, 2004 và 2007. Sử dụng dữ liệu bảng của các quốc gia.
Nghiên cứu kết luận tham nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng Saha & Gounder (2013), Tarek & Ahmed (2013)
2. Tác động tích cực Méon & Sekkat (2005) Sử dụng dữ liệu tất cả quốc gia phát triển và đang phát triển trong Kết quả cho thấy hiệu quả biên của tham nhũng đến tăng trưởng
70
giai đoạn 1970 đến 1998. Phương pháp ước lượng dành cho dữ liệu bảng.
Aidt & Dutta (2008)
Mô hình hóa lý thuyết tác động tham nhũng đến tăng trưởng.
Heckelman & Powell (2010)
là có điều kiện tùy thuộc vào môi trường thể chế. Cụ thể, tác động biên của tham nhũng đối với tăng trưởng là dương tại các quốc gia có thể chế trị hoặc chính chính sách thiếu hiệu quả và tiêu cực. Các nước có chất lượng thể chế tốt, tác động của tham nhũng lên tăng trưởng là tiêu cực, trong khi ở các nước có chất lượng thể chế kém, thì tác động này là tích cực. Tham nhũng được phát hiện là có lợi cho tăng trưởng tại các quốc gia có nền dân chủ cao.
Egger & Winner (2005)
Sử dụng dữ liệu của 83 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm 1995 – 2005 bằng phương pháp bình phương bé trọng số theo nhất (Weighted Least Squares). Sử dụng dữ liệu của 73 quốc gia phát triển và kém phát triển
Tham nhũng là sự kích thích để thu hút dòng vốn FDI bởi vì tham nhũng doanh giúp nghiệp tránh được các quy định rờm rà và các hạn chế về quản lý hành chính
Nguồn: tổng hợp của tác giả
Kết luận chương 3
Chương này đã trình bày khung lý thuyết tác động tham nhũng đến tăng
trưởng dựa vào hàm sản xuất Cobb-Douglas và lý thuyết tăng trưởng nội
sinh của Barro (1990). Khung lý thuyết về tham nhũng và tăng trưởng cho
thấy tham nhũng không hoàn toàn tác động tiêu cực đến tăng trưởng mà
đôi khi mang lại lợi ích đối với tăng trưởng khi mà chất lượng thể chế yếu
71
kém. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cũng đã cho thấy vẫn chưa có
sự đồng thuận về tác động của tham nhũng đến tăng trưởng và kết quả thực
nghiệm của mối quan hệ này phụ thuộc vào phạm vi khảo sát, các biến
kiểm soát và phương pháp ước lượng. Cơ sở lý thuyết này làm nền tảng
cho việc xây dựng mô hình kinh tế lượng và mô hình thực nghiệm cho các
phần sau.
72
CHƯƠNG 4
MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Giới thiệu
Như tác giả đã đề cập, việc xác định các yếu tố tác động đến tham nhũng là
vấn đề quan trọng. Nó giúp cho các nhà hoạch định chính sách lựa chọn
các giải pháp chiến lược trong cuộc chiến chống tham nhũng một cách hiệu
quả và lâu dài. Cho dù tham nhũng có thể tác động tích cực đến tăng
trưởng tại các quốc gia chuyển đổi, tuy nhiên, về khía cạnh đạo đức không
nên dựa vào tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng. Một quốc gia muốn phát
triển vững mạnh cần phải có các quan chức liêm chính, tận tụy và mẫn cán.
Vì vậy, nghiên cứu tổng hợp nền tảng lý thuyết và sử dụng kết quả từ các
nghiên cứu thực nghiệm trước đây của Ata & Arvas (2011), Treisman
(2000), Saha & Gounder (2013) và Kotera (2012) cho việc xây dựng mô
hình thực nghiệm các yếu tố tác động đến tham nhũng tại các nền kinh tế
chuyển đổi.
Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng là không đồng nhất giữa các hệ
thống chính trị khác nhau. Tham nhũng tồn tại ở quốc gia dân chủ hay ở
quốc gia chuyên quyền là vấn đề quan trọng. Tanzi (1998) và Mauro
(1995) cho thấy các quốc gia chuyên quyền tham nhũng nhiều hơn các
quốc gia dân chủ. Trong một hệ thống dân chủ, mọi công dân đều có cơ hội
để bỏ phiếu cho người mà mình thích để trở thành nhà chính trị. Vì vậy, kết
quả là chính phủ đại diện cho số đông công dân. Đó cũng là một xã hội tối
ưu cho người dân muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Khi đó, tham nhũng
được mong đợi gây trở ngại cho tăng trưởng bởi vì hoạt động này gây méo
mó trong việc phân bổ các nguồn lực kinh tế. Hơn nữa, tham nhũng có thể
thay đổi các ưu đãi cho các đại diện kinh tế. Trong trường hợp này, năng
73
suất sẽ bị giảm vì các ưu đãi cho các doanh nghiệp bị dịch chuyển từ khu
vực sản xuất sang các hoạt động tham nhũng.
Điều này hoàn toàn khác biệt ở các quốc gia chuyên chế nơi mà tự do
chính trị và tự do kinh tế bị giới hạn. Trong điều kiện mức độ dân chủ thấp
và tự do kinh tế chưa cao tại các quốc gia chuyển đổi, quyền lực chính trị
và sự chi phối của giới công chức đến các hoạt động kinh tế xã hội còn quá
lớn thì việc người dân dùng tiền làm chất bôi trơn là điều khó tránh khỏi.
Khi đó, chất bôi trơn này có thể kích hoạt sự vận hành của bộ máy chính
quyền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để đánh giá tác động của tham
nhũng đến tăng trưởng ở các nền kinh tế chuyển đổi, nghiên cứu ứng dụng
phương pháp định lượng để ước lượng độ lớn của các hệ số trong mô hình.
Mô hình dùng cho ước lượng này được phát triển từ mô hình lý thuyết về
vai trò của khung thể chế trong mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng
trưởng do De Vaal & Ebben (2011) đề xuất.
4.1. Mô hình thực nghiệm
4.1.1. Các yếu tố tác động đến tham nhũng
Dựa vào lý thuyết nguyên nhân dẫn đến tham nhũng đã được đề cập trong
chương 2 và các mô hình thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây, mô
hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến tham nhũng trong bài nghiên cứu
này được tác giả tổng hợp dựa trên bài nghiên cứu của Treisman (2000),
Saha & Gounder (2013) và Kotera (2012). Tác giả tiến hành phân tích dựa
trên mối quan hệ tuyến tính cổ điển bằng việc sử dụng các biến đại diện
cho nền kinh tế xã hội (thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ
thất nghiệp và tỷ lệ học sinh đầu vào bậc tiểu học), các biến đại diện cho
khung thể chế (nền dân chủ và tự do kinh tế) và nguồn gốc pháp lý (các
quốc gia theo luật Ango-Saxon). Mô hình tuyến tính có dạng:
𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛽2𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛽3𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 +
(4.1) 𝛽4𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛽5𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛽6𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 + 𝛽7𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡
74
Trong đó :
- i và t là chỉ số về quốc gia và thời gian.
- cor là biến phụ thuộc về tham nhũng
ln_gdppc là thu nhập bình quân đầu người ở dạng logarit -
- inflation là tỷ lệ lạm phát
- unemploy là tỷ lệ thất nghiệp
- school là tỷ lệ học sinh đang theo học cấp bậc tiểu học
- ecofree là tự do kinh tế
- demo là tự do dân chủ
- legal là nguồn gốc pháp lý (biến giả)
4.1.2. Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế dưới vai trò
của chất lượng thể chế
Để đánh giá sự tác động của tham nhũng đến tăng trưởng dưới vai trò của
khung thể chế, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu từ mô hình lý thuyết
tăng trưởng nội sinh của Barro (1990). Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của
Barro (1990) giả định tổng lực lượng lao động trong nền kinh tế là cố định,
tổng sản phẩm bình quân đầu người dựa trên đầu tư khu vực tư nhân và chi
tiêu chính phủ:
y =f(g,k)= A kα G1-α
Từ đó, mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên phương trình tuyến
tính dữ liệu bảng. Phương trình thực nghiệm được xây dựng dựa trên bài
nghiên cứu của Heckelman & Powell (2010), Siddiqui & Ahmed (2013) và
Lee & Kim (2009) có dạng:
ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 + 𝛽2𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛽3𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛽4𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 ∗
𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛽5𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 ∗ 𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛽6𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛽7𝑖𝑛𝑣𝑒𝑠𝑡𝑖𝑡 + 𝛽8𝑝𝑜𝑝𝑖𝑡 +
(4.2) 𝛽9𝑡𝑜𝑝𝑖𝑡 + 𝛽10𝐺𝑜𝑣_𝐸𝑥𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡
75
Trong đó:
- i và t là chỉ số về quốc gia và thời gian
- gdppc là thu nhập bình quân đầu người
- cor là chỉ số cảm nhận tham nhũng
- ecofree là tự do kinh tế
- demo là tự do dân chủ
- school là tỷ lệ học sinh đang theo học cấp bậc tiểu học
- invest là tỷ lệ đầu tư so với GDP
- pop là tốc độ gia tăng dân số
- top là độ mở thương mại
- Gov_Ex là tỷ lệ chi tiêu dùng chính phủ
4.2. Phương pháp ước lượng
Để đạt được các mục tiêu của luận án, nghiên cứu sử dụng các phương
pháp ước lượng dành cho dữ liệu bảng. Phương trình tuyến tính tổng quát
có dạng:
(4.3) 𝑦 = 𝑋𝛽 + 𝑍𝛿 + 𝑢
Trong mô hình này, 𝑦 là n vector các biến ngẫu nhiên, X và Z là ma trận
các biến giải thích với các bậc 𝑛 × 𝑘 và 𝑛 × 𝑞, β là k vector của các tham
số, δ là q vector các biến ngẫu nhiên không quan sát được với trung bình
bằng 0 và phương sai là D, và 𝑢 là n vector các sai số ngẫu nhiên với trung
bình bằng 0 và phương sai là R, 𝑢 không tương quan với δ. Vì vậy,
2𝐼
𝑣𝑎𝑟(𝑦) = 𝑉 = 𝑍𝐷𝑍′ + 𝑅. Để ước lượng, chúng ta giả định δ và 𝑢 có phân
phối chuẩn và 𝑅 = 𝜎𝑢
4.2.1. Mô hình các thành phần sai số cố định (FEM)
Mô hình các thành phần sai số được viết lại:
𝑦 = 𝑋𝛽 + 𝑍1𝛿1 + ⋯ + 𝑍𝑐𝛿𝑐 + 𝑢 (4.4)
76
Trong đó, Zi là ma trận cấp 𝑛 × 𝑞𝑖 của các biến giả cho mỗi nhóm qi hoặc
mức độ của yếu tố i trong mẫu, 𝛿𝑖 là vector qi của các biến ngẫu nhiên với 2𝐼. 𝛿𝑖 và 𝛿𝑗 cũng được giả định là không trung bình bằng 0 và 𝑣𝑎𝑟(𝛿𝑖) = 𝜎𝑖
tương quan 𝑖 ≠ 𝑗. Để ước lượng phương trình này, Harville (1977) đề xuất
′
phương pháp maximum likelihood với:
𝑐 2 2𝐼 + ∑ 𝜎𝑖 𝑖=1
𝑉 = 𝜎𝑢 𝑍𝑖𝑍𝑖
Đề tài sử dụng phương pháp FEM để xác định độ lớn hệ số hồi quy trong
mô hình. Phương pháp FEM có thể giúp khắc phục sự thiên chệch do sai số
trong đo lường các biến, sự bỏ sót biến hoặc các yếu tố riêng có của từng
quốc gia cố định theo thời gian mà chưa đưa vào được trong mô hình
(Wooldridge, 2012).
4.2.2. Mô hình các thành phần sai số ngẫu nhiên (REM)
Ngược lại với mô hình FEM, mô hình REM được sử dụng khi chúng ta
quan tâm đến sự khác biệt của mỗi quốc gia ảnh hướng đến mô hình chung.
Mô hình REM còn được hiểu là chúng ta đang giả định các đặc điểm của
từng quốc gia là ngẫu nhiên và không có tương quan với biến độc lập trong
mô hình.
Kiểm định lựa chọn mô hình phù hợp
Sau đó, nghiên cứu cũng sử dụng kiểm định Hausman để xem xét sự phù
hợp cho việc lựa chọn giữa mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình
hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) với giả thuyết H0: cov(Xit,Ci)=0 (nghĩa là
không tồn tại hiệu ứng cố định giữa các đơn vị chéo).
Nghĩa là nếu giả thuyết H0 bị bác bỏ, chúng ta nên lựa chọn mô hình FEM.
Kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan
Moulton (1986, 1990) cho rằng dữ liệu bảng cũng đặt ra nhiều vấn đề trong
quá trình ước lượng. Vì dữ liệu bảng được quan sát ở nhiều đơn vị chéo
77
khác nhau nên có thể dẫn đến hiện tượng phương sai thay đổi giữa các đơn
vị và vấn đề tương quan trong các chuỗi quan sát. Do đó, luận án sẽ sử
dụng các kiểm định để phát chẩn đoán cho mô hình ước lượng với giả
thuyết : không bị phương sai thay đổi và không bị tự tương quan. Nếu giả
thuyết trên bị bác bỏ, luận án sẽ sử dụng phương pháp ước lượng GLS ở
bước tiếp theo.
4.2.3. Ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS)
Giả thiết quan trọng trong mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển là các yếu tố
sai số xuất hiện trong hàm hồi quy tổng thể có phương sai không thay đổi,
nghĩa là chúng có cùng phương sai; đồng thời không có quan hệ tương
quan chuỗi giữa các sai số, nghĩa là không có hiện tượng tự tương quan.
Khi các giả thiết này bị vi phạm, hiện tượng phương sai thay đổi và tự
tương quan sẽ khiến cho các hệ số hồi quy ước lượng được bằng phương
pháp bình phương nhỏ nhất dù vẫn tuyến tính và không thiên lệch, nhưng
không còn là ước lượng hiệu quả nhất. Tuy nhiên, Moulton (1986) và
Moulton (1990) cho rằng khi sử dụng dữ liệu bảng để phân tích có thể gặp
phải sự hiện diện của hiệu ứng nhóm dẫn tới vấn đề sai số trong các kết
luận thống kê.
Khắc phục những nhược điểm này, phương pháp GLS (generalized least
squares) được đặt dưới giả định rằng mô hình là hoàn toàn xác định, có sự
khác biệt về phương sai sai số ở mỗi nhóm đối tượng, nhưng là không đổi
trong phạm vi từng đối tượng. Với những giả thiết này, GLS đem lại ước
lượng tiệm cận hiệu quả và vững. Đồng thời, việc ước lượng cũng cho
phép khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi trong mô
hình hồi quy với dữ liệu bảng. Vì vậy, Scot & Holt (1982) đề xuất sử dụng
phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) sẽ ít bị thiên chệch
hơn trong các sai số chuẩn dùng để ước lượng các hệ số góc.
78
Trường hợp bỏ qua hiệu ứng nhóm, uớc lượng OLS và sai số chuẩn không
điều chỉnh được tính theo công thức :
𝛽̂ = (𝑋′𝑋)−1𝑋′𝑦, 𝑣𝑎𝑟̂ (𝛽̂) = 𝑠2(𝑋′𝑋)−1
𝑠2 = 𝑦′(𝑦 − 𝑋𝛽̂)/(𝑛 − 𝑘)
Moulton (1986) đề xuất sử dụng phương pháp kiểm định nhân tử Lagrange
để kiểm tra sự hiện diện của hiệu ứng nhóm. Khi đó, ước lượng GLS được
dùng để tính các sai số chuẩn gần đúng bằng phương pháp maximum
likelihood :
𝛽̃ = (𝑋′𝑉̃ −1𝑋)−1𝑋′𝑉̃ −1𝑦, 𝑣𝑎𝑟̃ (𝛽̃) = (𝑋′𝑉̃ −1𝑋)−1
Trong đó 𝑉̃ được tính tại các ước lượng của thành phần phương sai hoặc
hiệp phương sai. Cuối cùng, sai số chuẩn điều chỉnh OLS được tính theo
công thức :
𝑣𝑎𝑟̃ (𝛽̂) = (𝑋′𝑋)−1𝑋′𝑉̃ 𝑋(𝑋′𝑋)−1
Mô hình chuyển đổi cuối cùng lúc này thỏa mãn các giả thiết của mô hình
cổ điển, không có phương sai thay đổi và tự tương quan. Do đó, áp dụng
phương pháp OLS trên mô hình này sẽ thu được ước lượng vững, hiệu quả
và không chệch.
4.2.4. Ước lượng với biến công cụ
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cũng cho thấy tham nhũng có tác
động đến thu nhập (Mauro, 1995). Vì vậy, mô hình nghiên cứu này có khả
năng xảy ra hiện tượng nội sinh do mối quan hệ tương hỗ giữa biến tham
nhũng và biến thu nhập. Ngoài ra, việc sử dụng biến đại diện như CPI thay
cho tham nhũng có thể dẫn đến sai số trong đo lường hoặc bỏ sót biến cũng
dẫn đến hiện tượng nội sinh. Để khắc phục tính thiên chệch của ước lượng
do hiện tượng nội sinh gây ra, tác giả sử dụng phương pháp ước lượng với
79
biến công cụ bằng phương pháp bình phương tối thiểu hai giai đoạn (2SLS)
nhằm kiểm tra tính vững cho mối quan hệ này. Phương pháp này được
Bollen (1995, 1996) đề xuất và phát triển. Các nghiên cứu thực nghiệm của
Li & Harmer (1998), Oczkowski & Farrell (1998), Farrell (2000),
Oczkowski (2001), Farrell & Oczkowski (2002), và Smith & ctg (2002,
2003) cho thấy sử dụng 2SLS cho thấy kết quả ước lượng giảm tính thiên
chệch so với các ước lượng truyền thống.
Xét mô hình tăng trưởng (1), giả sử biến X bị nội sinh nghĩa là 𝐸(𝑈/𝑋) ≠
0
𝑜𝑙𝑠) ≠ 𝛽 (ước lượng bị chệch)
Khi đó nếu dùng OLS thì 𝐸(𝛽̂
Trong trường hợp tồn tại các biến W sao cho :
- W không tương quan với U (𝐸(𝑈/𝑊) = 0)
- W có tương quan với các biến nội sinh X (𝑐𝑜𝑣(𝑋, 𝑊) ≠ 0)
𝑖𝑣 = (𝑊′𝑋)−1𝑊′𝑌 được chứng minh là ước lượng không chệch
Khi đó 𝛽̂
và vững của β.
Để kiểm tra mô hình có bị nội sinh và việc sử dụng ước lượng 2SLS là cần
thiết, tác giả dựa vào đề xuất của Davidson & MacKinnon (1993) cho dữ
liệu bảng. Ngoài ra, kiểm định Sagan-Hansen cũng được sử dụng để đánh
giá việc sử dụng các biến làm biến công cụ cho thu nhập có thỏa mãn ràng
buộc nhận dạng quá mức (overidentifying restriction).
4.2.5. Phương pháp ước lượng Difference GMM
Các nghiên cứu về tăng trưởng cần chú ý đến sự tương tác giữa các giá trị
của biến tăng trưởng theo thời gian. Do vậy, các mô hình tăng trưởng
thường được xây dựng dựa theo mô hình tự hồi quy. Khi bộ dữ liệu là dữ
liệu bảng, mô hình phù hợp để cho ra các ước lượng không chệch và vững
là mô hình dữ liệu bảng động (Barro, 1996b). Ngoài ra, các mô hình tăng
80
trưởng cũng thường bao gồm các biến bị nội sinh (ngoại sinh yếu). Chẳng
hạn, khi đầu tư tăng cao sẽ dẫn đến tăng trưởng cao, sau đó khi tăng trưởng
cao sẽ thúc đẩy đầu tư nhiều hơn. Saha & Gounder (2013) nghi ngờ sự
ngoại sinh của biến tham nhũng khi việc đo lường biến này tương quan
chặt chẽ và tăng mạnh cùng với mức độ phát triển kinh tế. Điều này dẫn
đến vấn đề đồng thời làm cho các ước lượng truyền thống bị chệch.
Ước lượng GMM là kỹ thuật ước lượng dựa vào biến công cụ và có nhiều
ưu điểm so với các ước lượng truyền thống (2SLS). Ước lượng truyền
thống sẽ không chính xác khi có sự hiện diện của phương sai thay đổi. Ước
lượng GMM sử dụng các điều kiện moment cho phép tạo ra các ước lượng
chính xác ngay cả khi có sự xuất hiện của sự không nhất quán của các đơn
vị chéo (Hansen, 2000; Hayashi, 2000).
Để kiểm tra tính vững của ước lượng, nghiên cứu sử dụng phương pháp
Difference GMM được phát triển cho mô hình bảng động tuyến tính
(Arellano & Bond, 1991; Arellano & Bover, 1995; Holtz-Eakin, 1988).
Theo GMM, phương trình ước lượng sẽ được biến đổi thành phương trình
sai phân có dạng:
∆𝑦𝑖𝑡 = 𝛾∆𝑦𝑖𝑡−1 + 𝛽∆𝑋𝑖𝑡 + 𝛿∆𝑍𝑖𝑡 + ∆𝑢𝑖𝑡
Với ∆ là toán tử sai phân bậc 1.
Khi chuyển sang hồi quy với biến sai phân bậc 1, các thiên chệch tiềm ẩn
do bỏ sót biến và các hiệu ứng cố định của các đơn vị chéo (địa lí, nhân
khẩu học) sẽ được loại bỏ. Tuy nhiên, sai phân hóa làm cho ∆𝑦𝑖𝑡−1 tương
quan với ∆𝑢𝑖𝑡 và khiến các ước lượng của mô hình bị chệch. Khi đó, ước
lượng GMM sai phân sẽ xử lý được vấn đề này bằng cách lấy giá trị trễ của
các biến phụ thuộc làm công cụ. Arellano & Bond (1991) đề xuất sử dụng
các đỗ trễ từ 𝑦𝑖𝑡−2 làm biến công cụ cho ∆𝑦𝑖𝑡−1 vì 𝑦𝑖𝑡−2 có tương quan với
81
∆𝑦𝑖𝑡−1 nhưng không tương quan với ∆𝑢𝑖𝑡, trong điều kiện 𝑢𝑖𝑡 không bị tương quan chuỗi. Ta có :
𝐸|𝑌𝑖,𝑡−𝑠∆𝑢𝑖𝑡| = 0 với t=3,4,…,T và 𝑠 ≥ 2
Mặt khác, giả định ngoại sinh hoàn toàn của các biến giải thích không còn
đúng trong trường hợp có hiện tương nhân quả ngược (𝐸|𝑋𝑖,𝑡−𝑠𝑢𝑖𝑡| ≠ 0
với 𝑡 < 𝑠). Vì vậy, đối với các biến giải thích bị nội sinh yếu hay được xác
định trước thì chỉ có các độ trễ của nó mới phù hợp làm biến công cụ :
𝐸|𝑋𝑖,𝑡−𝑠∆𝑢𝑖𝑡| = 0 với t=3,4,…,T và 𝑠 ≥ 2
Với các giả định trên, phương trình có thể được ước lượng với GMM. Cuối
cùng, Jodson et al. (1996) và Roodman (2006) cho rằng GMM sai phân
thích hợp cho dữ liệu bảng với T nhỏ và N lớn.
Sau đó, luận án tiếp tục thực hiện các kiểm định sự phù hợp của ước lượng
GMM bao gồm kiểm định khả năng xảy ra tự tương quan của sai số mô
hình và giá trị của biến công cụ. Kiểm định Arellano-Bond về tự tương
quan có giả thuyết H0: không tự tương quan và được áp dụng cho số dư
sai phân. Kiểm định tiến trình AR(1) trong sai phân bậc 1 thường bác bỏ
giả thuyết H0. Cho nên, kiểm định AR(2) quan trọng hơn bởi vì nó kiểm
tra tự tương quan ở các cấp độ. Tính hợp lí của các biến công cụ được sử
dụng trong ước lượng GMM được đánh giá qua thống kê Sargan. Kiểm
đinh Sargan là kiểm định giới hạn về nội sinh của mô hình (overidentifying
restrictions). Kiểm định Sargan với giả thuyết H0 biến công cụ là biến
ngoại sinh, nghĩa là không tương quan với sai số trong mô hình. Vì vậy, giá
trị thống kê Sargan càng lớn càng tốt.
4.3. Các bước phân tích dữ liệu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận án tiến hành các bước kiểm
định như sau:
82
4.3.1. Kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng
Trước tiên để trả lời cho câu hỏi: Các yếu tố nào tác động đến tham nhũng
tại các quốc gia chuyển đổi? tác giả kiểm định các yếu tố tác động đến
tham nhũng trong phương trình (4.1). Sau đó, để trả lời câu hỏi : chất
lượng thể chế tác động nhứ thế nào đến kiểm soát hành vi tham nhũng? mô
hình tuyến tính (4.1) được mở rộng để khảo sát sự tương tác giữa thể chế
kinh tế (tự do kinh tế) và thể chế chính trị (mức độ dân chủ) đến mức độ
tham nhũng bằng cách đưa vào mô hình biến tương tác của hai yếu tố này.
Khi đó, phương trình (4.1) trở thành:
𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛾0 + 𝛾1𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛾2𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛾3𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 ∗ 𝑑𝑒𝑚𝑜 +
𝛾4ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛾5𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 + 𝛾6𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛾7𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 +
(4.5) 𝛾8𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡
Trong phương trình thực nghiệm (4.5), luận án quan tâm đến hệ số hồi quy
của biến tương tác 𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 ∗ 𝑑𝑒𝑚𝑜. Hệ số 𝛾3 thể hiện hiệu ứng của biến
tương tác tự do kinh tế và dân chủ và cũng là mục tiêu quan trọng trong
nghiên cứu này. Khi đó, hiệu ứng riêng phần của biến eco_free và biến
demo đến tham nhũng được xác định như sau:
(4.6a) ∆𝑐𝑜𝑟/∆𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 = 𝛾1 + 𝛾3𝑑𝑒𝑚𝑜
(4.6b) ∆𝑐𝑜𝑟/∆𝑑𝑒𝑚𝑜 = 𝛾2 + 𝛾3𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒
Nếu 𝛾3 < 0 thì phương trình (4.6a) cho thấy một điểm phần trăm tăng lên
của chỉ số tự do kinh tế tạo ra một sự giảm nhiều hơn trong mức độ tham
nhũng với mức độ dân chủ cao hơn. Tương tự, nếu 𝛾3 < 0 thì phương trình
(4.6b) cho thấy một điểm phần trăm tăng lên của chỉ số dân chủ tạo ra một
sự giảm nhiều hơn trong mức độ tham nhũng với mức độ tự do kinh tế cao
hơn.
83
Trong phương trình hồi quy này, luận án sử dụng biến legal là biến giả,
nhận giá trị bằng 1 khi quốc gia có hệ thống pháp lý được xây dựng dựa
trên nguồn gốc pháp lý theo Luật Anglo-Saxon và nhận giá trị 0 cho các
trường hợp khác. Khi đó, phương pháp ước lượng FEM sẽ không phù hợp
do biến giả legal có giá trị không thay đổi theo thời gian sẽ bị loại ra khỏi
kết quả ước lượng. Vì vậy, luận án sử dụng phương pháp ước lượng GLS
để xác định độ lớn của các hệ số hồi quy và sử dụng phương pháp 2SLS để
kiểm tra tính vững cho mô hình.
4.3.2. Kiểm định hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng
Để trả lời cho câu hỏi: có tồn tại hiệu ứng phi tuyến trong mối quan hệ
giữa thu nhập và tham nhũng hay không? Luận án tiến hành mở rộng mô
hình tuyến tính thành hàm đa thức bằng cách thêm vào mô hình biến
gdppc2. Khi đó, phương trình (4.1) trở thành:
𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛼2(ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡)2 + 𝛼3𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛼4𝑒𝑐𝑜_𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛼5𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛼6𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛼7𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 +
(4.7) 𝛼8𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜗𝑖𝑡
Trong phương trình (4.7), hiệu ứng phi tuyến của thu nhập được thể hiện
thông qua hệ số hồi quy α1 và α2. Hiệu ứng phi tuyến tồn tại khi mà dấu kỳ
vọng của α1 là dương và α2 là âm2. Dấu kỳ vọng của α1 và α2 thể hiện mối
quan hệ parabol (chữ U ngược) giữa thu nhập và tham nhũng. Trên đường
parabol này sẽ tồn tại một giá trị xác định của thu nhập làm cho tác động
của nó lên tham nhũng bằng 0. Giá trị xác định này được xem là ngưỡng
của thu nhập trong hiệu ứng phi tuyến phương trình (4.7). Do đó, thu nhập
trước giá trị ngưỡng sẽ tác động dương lên tham nhũng và tác động âm sau
giá trị ngưỡng. Nghĩa là, trong giai đoạn đầu thời kỳ chuyển đổi, một sự
2 Xem Wooldridge (2012) về ước lượng phi tuyến và dấu kỳ vọng của hệ số trong mối quan hệ parabol
gia tăng trong thu nhập sẽ làm tăng tham nhũng và sẽ tiếp tục tăng cho đến
84
khi đạt mức cực đại (mức ngưỡng). Nhưng sau đó, khi nền kinh tế bước
vào giai đoạn phát triển ổn định, sự tăng lên trong thu nhập sẽ làm giảm
tham nhũng.
Luận án sử dụng phương pháp ước lượng FEM và GLS để xác định độ lớn
của các hệ số hồi quy. Sau đó, luận án sử dụng phương pháp 2SLS để kiểm
tra tính vững cho mô hình.
4.3.3. Kiểm định lý thuyết chất bôi trơn của tham nhũng đối với tăng
trưởng
Để kiểm định khả năng tồn tại lý thuyết chất bôi trơn của tham nhũng, luận
án tiến hành các bước kiểm định cho phương trình (4.2) như sau:
Đầu tiên, để trả lời cho câu hỏi: Tham nhũng tác động như thế nào đến
tăng trưởng kinh tế? luận án kiểm định sự tác động của tham nhũng và các
yếu tố kinh tế vĩ mô đến tăng trưởng. Kỳ vọng dấu của biến tham nhũng
lúc này là âm. Điều này hàm ý tham nhũng là tiêu cực đối với tăng trưởng.
Sau đó, để trả lời cho câu hỏi: Trong điều kiện chất lượng thể chế kém tại
các quốc gia chuyển đổi, tham nhũng có trở thành chất bôi trơn để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế? Luận án kiểm định hiệu ứng chất bôi trơn của
tham nhũng theo chất lượng thể chế. Đây cũng là một trong những mục
tiêu quan trọng của nghiên cứu này. Vì vậy, mô hình thực nghiệm đưa vào
biến tương tác giữa tham nhũng và khung thể chế được thể hiện bằng
cor*demo và cor*ecofree. Khi đó, tác động của tham nhũng đến tăng
trưởng trong phương trình (4.2) được thể hiện lần lượt hệ số (β1 + β5demo)
và (β1 + β4ecofree) như sau:
- Khi chưa đưa biến tương tác vào mô hình, tác động của tham nhũng
lên tăng trưởng được kỳ vọng mang dấu âm, nghĩa là β1 < 0.
- Khi đưa biến tương tác cor*demo vào mô hình, nghiên cứu đánh giá
tác động của tham nhũng lên tăng trưởng dưới vai trò của thể chế
85
chính trị. Hệ số tác động trong điều kiện này là β1 và β5. Giả thuyết
chất bôi trơn ngụ ý rằng tham nhũng tác động tích cực đến tăng
trưởng nếu chất lượng thể chế chính trị là rất thấp. Khi giá trị của
biến demo tiến đến 0, nếu β1 mang dấu dương thì tác động của tham
nhũng là tích cực lên tăng trưởng. Và khi chất lượng thể chế được
cải thiện, tác động của tham nhũng trở nên tiêu cực đối với tăng
trưởng. Khi đó β5 sẽ mang dấu âm. Vì vậy, giả thuyết chất bôi trơn
sẽ không bị bác bỏ nếu β1>0 và β5 <0. Ngược lại, giả thuyết gây cản
trở xảy ra khi β1<0 và β5>0.
- Tương tự, khi thêm biến tương tác cor*ecofree vào mô hình, nghiên
cứu đánh giá tác động của tham nhũng lên tăng trưởng dưới vai trò
của thể chế kinh tế. Hệ số tác động trong điều kiện này là β1 và β4.
Giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện thể chế kinh
tế không bị bác bỏ nếu β1>0 và β4 <0.
Trong phần kiểm định này, luận án sử dụng phương pháp GLS để ước
lượng các hệ số hồi quy của mô hình tuyến tính. Bên cạnh đó, theo lý
thuyết tăng trưởng nội sinh các mô hình tăng trưởng thường là mô hình
động. Vì vậy, để kiểm tra tính vững của mô hình, tác giả sử dụng phương
pháp GMM cho dữ liệu bảng động.
4.4. Dữ liệu nghiên cứu
4.4.1. Mô tả biến
Biến tham nhũng: cor
Tham nhũng được đo lường như thế nào? Mặc dù có một lượng lớn các
nghiên cứu về tham nhũng, người ta vẫn chưa thể đo lường chính xác mức
độ của tham nhũng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã cố gắng ước lượng
tham nhũng. Trong các nghiên cứu của họ, tham nhũng được tính dựa trên
các dữ liệu cấp độ vi mô, chẳng hạn như dữ liệu dựa trên các dự án cơ sở
86
hạ tầng hoặc dữ liệu được thu thập từ việc khảo sát cấp độ công ty. Dù vậy,
các dữ liệu này không thể dùng cho việc phân tích so sánh.
Có hai cách tiếp cận cơ bản để đo lường tham nhũng ở cấp độ vĩ mô: (1)
cảm nhận chung và (2) động cơ của hành vi tham nhũng. Nhóm thứ nhất
phản ánh cảm nhận của cộng đồng hoặc của một số nhóm đại diện phản hồi
(còn được xem là các chuyên gia) quan tâm đến việc thiếu công bằng trong
các giao dịch công. Vì vậy, cảm nhận tham nhũng là cách đo lường gián
tiếp mức độ tham nhũng thực. Cách tiếp cận thứ hai đựa trên các cuộc khảo
sát giữa những người đút lót tiềm năng và những người được đút lót. Với
cách tiếp cận này, nhà nghiên cứu có thể thu thập thông tin về mức độ
thường xuyên của tham nhũng xảy ra trong nhiều loại giao dịch (The
Hungarian Gallup Institution, 2000).
Golden & Picci (2005) đánh giá việc đo lường tham nhũng dựa trên kết quả
khảo sát sẽ có ít nhất hai điểm yếu bản năng. Thứ nhất, độ tin cậy vào
thông tin khảo sát về tham nhũng thì rất mờ mịt. Người trả lời có liên quan
trực tiếp đến tham nhũng có thể có động cơ để phản ánh thiếu trung thực
mức độ của tham nhũng, người không có liên quan thì thiếu thông tin chính
xác. Thứ hai, độ tin cậy vào chỉ số tham nhũng có thể giảm giá trị theo thời
gian. Có một mối nguy là người được phỏng vấn sẽ trả lời những gì họ tin
là dựa vào các kết quả đã được công chúng hóa hơn là mức độ tham nhũng
thực.
Việc chọn mẫu đại diện, các khảo sát trong cộng đồng chung có thể sẽ tốt
hơn. Tuy nhiên, những người được khảo sát này có thể không có kinh
nghiệm hoặc thiếu am hiểu về tham nhũng. Cảm nhận của họ cũng không
ổn định theo thời gian bởi vì nó phụ thuộc rất nhiều vào mức độ quan tâm
đến tham nhũng mà họ tiếp nhận từ phương tiện truyền thông. Trong khi
đó, việc sử dụng các nhóm chuyên gia để cung cấp nguồn thông tin về cảm
nhận tham nhũng có thể thu thập thông tin lớn nhất về tham nhũng mặc dù
87
không cần thiết được bày tỏ trung thực. Hạn chế trong trường hợp này là có
thể nhóm được khảo sát không hoàn toàn mang tính đại diện.
Kaufmann & Kraay (2002) chỉ ra rằng ưu điểm của việc khảo sát các
chuyên gia là nó được thiết kế rõ ràng cho việc so sánh giữa các quốc gia.
Điểm bất lợi của phương pháp này là cuộc khảo sát thể hiện quan điểm của
một số chuyên gia trong mỗi quốc gia, vì vậy chất lượng của cuộc khảo sát
phụ thuộc vào sự hiểu biết của các chuyên gia được lựa chọn ở các quốc
gia.
Các loại chỉ số tham nhũng
Tác giả bắt đầu với chỉ số tham nhũng được xây dựng bởi PRS – ICRG.
Chỉ số này đã được tạo ra từ đầu thập niên 1980 và bao gồm gần 150 quốc
gia phát triển và đang phát triển. Dữ liệu PRS gồm các chỉ số về chính trị,
kinh tế và tài chính. Mỗi chỉ số được phân hạng cụ thể. Tham nhũng là một
trong 12 thành tố về rủi ro chính trị, được đo lường từ mức 0 đến 6, điểm
cao hơn nghĩa là hiệu quả hơn. Nghiên cứu của Tanzi & Davoodi (1998) sử
dụng chỉ số này.
Chỉ số tham nhũng thứ hai được xây dựng bởi Kaufmann & ctg (2011) của
chỉ số Worldbank. Chỉ số này là một phần của chỉ số rộng hơn và được gọi
là chỉ số quản trị. Chỉ số này được công bố cho mỗi giai đoạn 2 năm và bao
gồm gần 200 quốc gia. Nó được tính toán dựa trên nền tảng của 100 biến
riêng lẻ về cảm nhận tham nhũng và được thu thập từ 40 nguồn dữ liệu của
hơn 30 tổ chức khác nhau.
Chỉ số thứ ba có lẽ là chỉ số được biết đến nhiều nhất đó là CPI. CPI được
tính toán bởi Lambsdorff và được đại diện bởi tổ chức Minh bạch Quốc tế
(TI) từ năm 1995. Đây cũng là chỉ số được xây dựng dựa trên các chỉ số
được khảo sát. CPI được thiết kế để đánh giá cảm nhận của những người
có thông tin về mức độ tham nhũng (các chuyên gia) và được chấm điểm
88
theo mức từ 0 (tham nhũng cao) đến 10 (tham nhũng thấp). CPI tổng hợp
cảm nhận của những người được khảo sát theo mức độ của tham nhũng
(tham nhũng được định nghĩa là việc lạm dụng công quyền nhằm tư lợi).
Mức độ tham nhũng này phản ánh tần số chi trả tham nhũng và các rào cản
bị áp đặt trong kinh doanh (Lambsdorff, 2003).
Để xây dựng chỉ số này, cần sử dụng một vài kỹ thuật chuẩn hóa dữ liệu
bởi vì mỗi bản khảo sát có hệ thống thang đo riêng của nó và phân phối dữ
liệu. Kỹ thuật đầu tiên là chuẩn hóa. Dựa theo trọng số, mỗi nguồn được
0̅̅̅̅)
0 − 𝑌𝑗
𝑠 = (𝑌𝑖,𝑗 𝑌𝑖,𝑗
2 𝜎𝐶𝑡−1 ̅̅̅̅̅̅ 2 + 𝐶𝑡−1 𝜎 0 𝑌𝑗
0 là điểm ban đầu được cung cấp
chuẩn hóa theo công thức sau:
𝑠 là điểm được chuẩn hóa, 𝑌𝑖,𝑗
Trong đó, 𝑌𝑖,𝑗
bởi nguồn thứ I cho quốc gia thứ j, 𝐶𝑡−1 là chỉ số cảm nhận tham nhũng năm cuối, 𝜎2 là độ lệch chuẩn, và dấu gạch chỉ giá trị trung bình của biến.
Cách tiếp cận này phụ thuộc rất nhiều vào phân phối của dữ liệu, vì vậy các
tiếp cận thay thế đã được sử dụng – kỹ thuật kết nối phân vị, đặc biệt khi
nguồn dữ liệu có hình thức phân phối khác so với của CPI. Việc phân hạng
một quốc gia được thực hiện bằng phương pháp này. Chẳng hạn ta có hai
nguồn dữ liệu bao gồm một tập các quốc gia, nguồn 𝑗𝑡 và 𝐶𝑃𝐼𝑡−1. Tại năm
t, nguồn j đánh giá cho quốc gia 𝑖1, 𝑖2, 𝑖3, 𝑖4, 𝑖5 với các giá trị lần lượt là 4.5,
3.5, 3.0, 2.0 và 1.5 dựa trên thang đo 0 – 5. Ở năm t-1, CPI cũng được đánh
giá cho 5 quốc gia trên với giá trị lần lượt là 8.0, 9.5, 3.5, 4.5 và 2.5 theo
thang đo từ 0 – 10. Kỹ thuật nối phân vị sắp xếp lại trật tự điểm và thiết kế
chúng cho các quốc gia 𝑖1, 𝑖2, 𝑖3, 𝑖4, 𝑖5 với giá trị là 9.5, 8.0, 4.5, 3.5 và 2.5
theo trình tự các quốc gia được sắp xếp theo nguồn 𝑗𝑡. Thủ tục này được áp
dụng cho tất cả các nguồn và chỉ số được tính toán từ trung bình giản đơn
của giá trị được chuẩn hóa (Lambsdorff, 2002, 2003).
89
Trong bài nghiên cứu này, biến cor là chỉ số về tham nhũng được đo lường
bằng chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) và được thu thập từ nguồn của Tổ
chức Minh bạch Quốc tế3. Chỉ số này được đo lường theo điểm từ 0 đến
10, theo đó quốc gia nào có điểm càng nhỏ càng ít tham nhũng và ngược
lại. Vì vậy, khi đưa vào mô hình thực nghiệm tác giả điều chỉnh lại sao cho
giá trị càng lớn càng ít tham nhũng bằng cách lấy 10 trừ đi điểm của CPI.
Biến chất lượng thể chế chính trị: demo
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây của Schumpeter (2012), Kant
(2003) và Kotera & ctg (2011) đều nhấn mạnh vai trò của chất lượng thể
chế chính trị đối với tham nhũng. Tuy nhiên, việc đo lường chất lượng thể
chế chính trị là không dễ dàng. Các nghiên cứu của Heckelman & Powell
(2010) và Saha & Gounder (2013) đều sử dụng chỉ số tự do dân chủ để đại
diện cho chất lượng thể chế chính trị. Biến demo là mức độ dân chủ được
xây dựng bằng cách lấy trung bình của chỉ số quyền chính trị và tự do công
dân được cung cấp bởi tổ chức Freedom House. Chỉ số này được đo lường
theo thang điểm từ 1 đến 10. Giá trị thấp nhất thể hiện thể chế dân chủ
nhất. Vì vậy, biến này cũng được mã hóa lại sao cho giá trị càng lớn là
càng dân chủ bằng cách lấy 10 trừ đi giá trị trung bình của quyền chính trị
và tự do dân chủ.
Biến chất lượng thể chế kinh tế : ecofree
Cũng giống như chất lượng thể chế chính trị, chúng ta không thể đo lường
trực tiếp chất lượng thể chế kinh tế. Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã sử dụng
chỉ số tự do kinh tế làm biến đại diện cho chất lượng thể chế kinh tế như là
Heckelman et al. (2008) và Peev & Mueller (2012). Trong nghiên cứu này,
tác giả đo lường biến chất lượng thể chế kinh tế dựa vào chỉ số tự do kinh
tế của báo cáo thường niên thế giới được đề xuất bởi Gwartney & ctg 3 Chỉ số này đã được sử dụng phổ biến nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, chẳng hạn như Ades & Di Tella (1999), Sandholtz & Koetzle (2000), Treisman (2000), Montinola & Jackman (2002), Gupta (2002), Ali & Isse (2002), Emerson (2006)…
90
(2006). Chỉ số này hiện đang sử dụng 37 tiêu chí để đo lường mức độ tự do
của năm khu vực : quy mô chính phủ ; cấu trúc pháp lý và quyền sở hữu ;
tiếp cận đồng tiền mạnh ; tự do trao đổi với người nước ngoài ; và các quy
định về tín dụng, lao động và kinh doanh. Thang điểm của từng khu vực
được dựa trên giá trị trung bình của các thành phần khác nhau trong khu
vực đó. Mỗi thành phần thì được gán cho giá trị từ 0 đến 10. Giá trị càng
cao càng tự do. Giá trị chỉ số tổng thể được tính bình quân theo điểm số
của năm khu vực này.
Các biến kinh tế vĩ mô
- gdppc: Biến phụ thuộc tăng trưởng kinh tế. Biến này được đo lường
bằng thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành và được thu
thập từ WDI. Khi đưa vào mô hình hồi quy, biến này được lấy
logarit.
- school: là biến về trình độ dân trí. Nghiên cứu sử dụng biến tỷ lệ học
sinh đầu vào cấp tiểu học thể hiện trình độ dân trí của quốc gia để
đại diện cho vốn con người (Barro & ctg, 1993). Biến này được tính
theo tỷ lệ % giữa tổng số học sinh học tiểu học không phân biệt độ
tuổi so với nhóm dân số trong độ tuổi theo học cấp học này. Biến
này được khai thác từ nguồn WDI.
- invest: là biến vốn đầu tư trong nền kinh tế. Biến invest là tỷ lệ vốn
đầu tư trên gdp của quốc gia đại diện cho vốn vật chất trong mô hình
tăng trưởng. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.
- pop : là tốc độ gia tăng dân số hàng năm đại diện cho hiệu ứng của
sự gia tăng nhân khẩu học lên tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu
người. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.
- top : là biến thể hiện độ mở nền kinh tế (tổng giá trị xuất khẩu và
nhập khẩu) theo gdp. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.
91
- unemploy: là biến tỷ lệ thất nghiệp. Biến này được khai thác từ
nguồn WDI.
- inflation : là tỷ lệ lạm phát được đại diện bằng chỉ số giá tiêu dùng.
Biến này được khai thác từ nguồn WDI.
- Gov_Ex : là chi tiêu công được đại diện bằng chỉ số tỷ lệ chi tiêu
dùng chính phủ so với GDP. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.
- legal : nguồn gốc pháp lý. Biến này dùng để đánh giá nguồn gốc
pháp lý tác động đến tham nhũng. Đây là biến giả và nhận giá trị 1
cho các quốc gia có nguồn gốc pháp lý theo luật Ango-Saxon
(common law). Biến này được tác giả khai thác từ nghiên cứu của La
Port & ctg (1999).
92
Bảng 4.1: Các biến sử dụng trong mô hình
Ký hiệu Tên biến Đo lường Nguồn
gdppc Thu nhập bình quân Thu nhập bình quân thực hàng WDI
năm (giá hiện hành $)
cor Tham nhũng Chỉ số cảm nhận tham nhũng của TI
Transparency International
demo Dân chủ Trung bình của chỉ số tự do dân Freedom
chủ và quyền chính trị House
ecofree Tự do kinh tế Giá trị trung bình của năm khu EFW data
vực theo Báo cáo thường niên Thế
giới
invest Tổng vốn đầu tư Tính theo tỷ lệ % trên GDP WDI
pop Tốc độ gia tăng dân Tỷ lệ % gia tăng dân số hàng năm WDI
số
top Độ mở thương mại Tỷ lệ % của giá trị xuất khẩu và WDI
nhập khẩu theo GDP
unemploy Tỷ lệ thất nghiệp % tỷ lệ thất nghiệp hàng năm WDI
inflation Tỷ lệ lạm phát Chỉ số giá tiêu dùng hàng năm (%) WDI
school Trình độ dân trí Tỷ lệ học sinh đầu vào bậc tiểu WDI
học trong độ tuổi (%)
Gov_Ex Chi tiêu công Tỷ lệ chi tiêu dùng chính phủ trên WDI
GDP
legal Nguồn gốc pháp lý Biến giả (giá trị 1 và 0) La Porta
(1999)
Nguồn: tổng hợp của tác giả
4.4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu
Để tìm kiếm bằng chứng định lượng nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu,
luận án tiến hành khai thác và sử dụng bộ dữ liệu của 46 quốc gia có nền
93
kinh tế chuyển đổi trong giai đoạn 2002 – 2014. Như vậy, dữ liệu cho
nghiên cứu này là dữ liệu bảng cân đối bao gồm 506 quan sát. Để có cái
nhìn rõ hơn về bộ dữ liệu nghiên cứu, luận án thực hiện thống kê mô tả giá
trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và giá trị bé nhất của các biến
quan sát (trừ biến giả). Bên cạnh đó, để có cái nhìn trực diện về mức độ
dao động và phân phối của dữ liệu, luận án thực hiện thống kê bằng biểu
đồ phân phối dạng hộp (Box Plot).
Biến
Quan sát
Trung bình
lệch
Lớn nhất
Nhỏ nhất
Độ chuẩn
598 598 598 598 598 598 598 598 598 598 598 598
0,35 1.005,6 0,65 1,32 0,69 5,78 8,1 34,82 1,00 8,27 17,75 5,81
2,95 1.246,3 7,2 5,92 6,23 7,0 8,14 82,08 2,01 23,51 103,96 14,01
3,67 108,014 8,4 8,5 7,73 -8,975 0,60 209,87 4,02 3,94 149,95 39,58
2,03 4.712,8 4,7 3,5 4,35 34,695 77,0 21,67 -1,3 63,94 41,04 3,46
ln_gdppc gdppc cor demo ecofree inflation unemploy top pop invest school gov_ex Nguồn: Tính toán tác giả
Bảng 4.2: Thống kê mô tả biến
Kết quả thống kê mô tả các biến trong mẫu khảo sát cho thấy giá trị trung
bình chỉ số tham nhũng ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi là 7,2/10.
Chỉ số này cho thấy mức độ tham nhũng ở các quốc gia này là tương đối
cao, trong đó có một số quốc gia mức tham nhũng lên tới 8.4 chẳng hạn
Cambodia, Chad, Burundi… Giá trị trung bình của chỉ số tự do kinh tế là
6,3/10 và tự do dân chủ là 5,9/10. Giá trị này cho thấy chất lượng khung
thể chế ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi ở mức trung bình khá.
Tuy vậy, vẫn có một số quốc gia có chất lượng thể chế rất thấp khi mà giá
trị nhỏ nhất của chỉ số này chỉ ở mức 4,5 và 3,5.
94
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.1: Tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi
Biểu đồ 4.1 cung cấp bằng chứng trực diện của tham nhũng tại các quốc
gia khảo sát giai đoạn 2002 – 2014. Chúng ta dễ dàng nhận thấy mức độ
tham nhũng phân phối từ khoảng 5.8 đến 8.4, trong đó mức dao động từ
6.8 đến 7.7 là phổ biến. Biểu đồ một lần nữa cho thấy mức độ tham nhũng
tại các quốc gia trong mẫu khảo sát là tương đối cao và đáng báo động. Do
đó, việc tìm kiếm bằng chứng về nguyên nhân của tình trạng này là thật sự
cần thiết để giúp các nhà quản lý tìm kiếm giải pháp chống tham nhũng.
95
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.2: Thu nhập bình quân
Kết quả thống kê mô tả cho thấy biến thu nhập bình quân của các quốc gia
trong giai đoạn khảo sát tương đối thấp và mức độ chênh lệch thu nhập khá
lớn. Một số quốc gia có thu nhập cao lên đến 4.712 USD trong khi các
quốc gia có thu nhập thấp thì chỉ 108 USD. Biểu đồ 4.2 cũng cho thấy thu
nhập bình quân tập trung chủ yếu ở mức dưới 500 USD đến 1.600 USD và
một vài trường hợp vượt mức 3.100 USD được xem là các quốc gia cá biệt
(giá trị outlier trong mẫu khảo sát). Một điểm rất đáng quan tâm ở đây là
các quốc gia có thu nhập thấp nhất trong mẫu cũng chính là quốc gia có
mức độ tham nhũng cao như là Burundi, Chad, Guinea, Tijikistan,
Paraguay… Dữ liệu cho thấy các quốc gia này có mức tham nhũng trên 8
nhưng thu nhập thực bình quân mức dưới 1.000 USD.
96
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.3: Mức độ tự do kinh tế
Giá trị trung bình của chỉ số tự do kinh tế là 6.23/10. Giá trị này cho thấy
chất lượng khung thể chế ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi chỉ ở
mức trung bình khá. Tuy vậy, vẫn có một số quốc gia có chất lượng thể chế
rất thấp khi mà giá trị nhỏ nhất của chỉ số này chỉ ở mức 4.5 và 3.5. Biểu
đồ 4.3 cho thấy chỉ số tự do kinh tế tại các quốc gia trong giai đoạn khảo
sát tập trung khoảng 5.8 đến 7.8. Theo Gwartney & cộng sự (2006), chỉ số
tự do kinh tế ở mức như vậy khá phù hợp để tạo môi trường thông thoáng
cho các hoạt động kinh doanh. Một điều thú vị là các quốc gia có chỉ số tự
do kinh tế cao trong mẫu khảo sát thì thu nhập bình quân cũng tương đối
cao nhưng mức độ tham nhũng cũng cao như là El Salvardo có chỉ số tham
nhũng là khoảng 6.2, chỉ số tự do kinh tế là 7.2 và thu nhập bình quân là
hơn 3.800 USD. Tương tự, ở Guatemala các chỉ tiêu này lần lượt là 6.7, 7.3
và 3.350 USD.
97
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.4: Mức độ dân chủ
Ngược lại với tự do kinh tế, mức độ dân chủ tại các quốc gia chuyển đổi là
rất thấp. Điều này hàm ý quyền chính trị và tự do dân chủ tại các quốc gia
này là rất bị giới hạn. Kết quả thống kê mô tả cho thấy giá trị trung bình
của biến demo chỉ ở mức 5.9. Bên cạnh đó, biểu đồ 4.4 cũng cho thấy mật
độ phân phối giá trị của chỉ số này tập trung trong khoảng từ 4.5 cho đến
6.8. Trong khi đó, một số quốc gia có mức độ dân chủ rất thấp ở mức dưới
4 như là Chad, Cote, Guinea và Việt Nam. Các quốc gia này cũng được
biết đến như là thiên đường của nạn tham nhũng. Đây là một điều đáng lo
ngại bởi vì các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy vai trò quan
trọng của nền dân chủ trong việc bài trừ tham nhũng.
Tỷ lệ thấy nghiệp tại các quốc gia trong giai đoạn khảo sát ở mức cao, giá
trị trung bình của chỉ số này lên đến là 8,14%. Biểu đồ 4.5 cho thấy mặc dù
mật độ phân phối của giá trị này tập trung ở mức khoảng từ 5 đến 8%,
nhưng vẫn có một số quốc gia tỷ lệ thất nghiệp cao vượt mức 15% và có
những trường hợp tỷ lệ thất nghiệp lên đến 38%. Các quốc gia có tỷ lệ thất
98
nghiệp cao như là Lesotho, Mauritania, Swaziland khi mà tỷ lệ thất nghiệp
luôn ở mức trên 20% hàng năm. Như đã đề cập trong phần các nghiên cứu
thực nghiệm, tỷ lệ thất nghiệp cao có thể dẫn đến nguy cơ tiềm ẩn về các tệ
nạn xã hội, trong đó bao gồm cả những việc làm trái đạo đức và bất chấp
pháp luật để mưu sinh. Vì vậy, vấn đề này có thể tác động tiêu cực đến việc
kiểm soát tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi.
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.5: Tỷ lệ thất nghiệp
Chỉ số lạm phát dao động phổ biến trong khoảng từ 5% đến 10%. Giá trị
trung bình của chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn khảo sát là 7%. Biểu đồ 4.6
cho thấy hầu hết các quốc gia kiểm soát tốt chỉ số lạm phát khi giữ mức giá
trong suốt giai đoạn tương đối ổn định và ở mức vừa phải (một con số).
Tuy nhiên, một vài quốc gia vẫn chưa kiểm soát tốt chỉ số này khi để chỉ số
giá tiêu dùng vượt mức 20% như là Bunrudi, Cambodia, Ghana, Kenya…
Điều thú vị là giá trị của chỉ số này là âm xảy ra tại một vài năm ở các quốc
gia như Burkina Faco, Cambodia, Chad, Mali… nghĩa là nền kinh tế của
các quốc gia này có xảy ra tình trạng giảm phát trong giai đoạn khảo sát.
99
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.6: Tỷ lệ lạm phát
Tốc độ gia tăng dân số tại các quốc gia khảo sát được giữ ở mức tương đối
thấp, trung bình chỉ khoảng 2%. Đây là một tín hiệu tốt cho mục tiêu tăng
trưởng tại các quốc gia này. Mặc dù biết rằng các quốc gia đang chuyển đổi
nền kinh tế dựa vào lực lượng lao động là chủ yếu, nhưng với tỷ lệ thất
nghiệp tương đối cao thì tốc độ tăng dân số quá lớn sẽ tạo ra áp lực giải
quyết việc làm. Biểu đồ 4.7 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp dao động phổ biến từ
1,4 % đến 2,8%. Giá trị lớn nhất của chỉ số này là 3,85% và giá trị nhỏ nhất
là -0,99%. Các quốc gia có tỷ lệ gia tăng dân số cao nhất trong mẫu như là
Chad và Niger, Benin, Burundi… Các quốc gia có tốc độ tăng dân số thấp
nhất như là Georgia, El Salvador, Moldova…
100
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.7: Tốc độ tăng dân số
Giá trị của độ mở thương mại được đo lường bằng cách lấy tổng cộng giá
trị xuất nhập khẩu so với GDP. Kết quả thống kê mô tả cho thấy giá trị
trung bình của chỉ số này trong giai đoạn khảo sát là 82 %. Điều này cho
thấy các quốc gia chuyển đổi đang có xu hướng mở cửa và hội nhập vào
nền kinh tế thế giới ở mức độ ngày càng tăng. Biểu đồ 4.8 cho thấy có một
số trường hợp chỉ số này vượt mức 200%. Các quốc gia có độ mở thương
mại cao như là Lesotho và Swaziland. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số
quốc gia có độ mở thương mại khá thấp ở mức dưới 50% như là Benin,
Burundi, India, Nepal….
101
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.8: độ mở thương mại
Tỷ lệ học sinh bậc tiểu học trong độ tuổi đi học đạt mức trung bình 103%.
Tỷ lệ này được Ngân hàng Thế giới thống kê dựa trên số học sinh đầu vào
bậc tiểu học không phân biệt độ tuổi so với dân số đang trong độ tuổi của
bậc học này. Tỷ lệ này cao hơn 100% cho thấy có nhiều học sinh nằm
ngoài độ tuổi đến trường nhưng vẫn còn học ở bậc này. Điều này hàm ý
mức độ học muộn, chậm đến trường so với độ tuổi vẫn còn tồn tại ở các
quốc gia chuyển đổi. Bên cạnh đó, một vài quốc gia có số học sinh không
chịu đến trường trong độ tuổi đi học rất cao khi mà tỷ lệ đến trường chỉ ở
mức dưới 70%, thậm chí một số trường hợp dưới 50%. Từ đó cho thấy
trình độ dân trí tại các quốc gia chuyển đổi vẫn còn ở mức thấp. Tuy nhiên,
biểu đồ 4.9 cho thấy tình trạng này chỉ xảy ra ở một số ít quốc gia.
102
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.9: Tỷ lệ học sinh
Giá trị trung bình của tỷ lệ đầu tư chỉ ở mức 23,5% so với GDP. Biểu đồ
4.10 cho thấy chỉ số này phân bổ tập trung vào khoảng từ 18% đến 27%.
Đây là một tỷ lệ tương đối thấp trong khi các quốc gia chuyển đổi tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vốn vật chất. Một số quốc gia có tỷ lệ
đầu tư khá lớn, trên mức 40%, như là Chad, Mongolia, Mauritania…
Ngược lại, một số quốc gia có tỷ lệ đầu tư rất thấp dưới mức 10% như là
Burundi, Gambia, Swaziland.
103
Nguồn : Tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.10: Tỷ lệ đầu tư
Tỷ lệ chi tiêu dùng công trên GDP tại các quốc gia khảo sát đạt mức trung
bình chỉ khoảng 14%. Giá trị nhỏ nhất của chỉ số này đạt tỷ lệ 3,46%. Đây
là tỷ lệ chi tiêu dùng rất thấp tại các quốc gia có thu nhập thấp như
Cambodia, Chad… Hầu hết các quốc gia khảo sát đều có mức thu nhập
trung bình thấp và do đó nguồn thu dành cho chi tiêu dùng của chính phủ
cũng tương đối thấp. Các quốc gia có tỷ lệ chi tiêu dùng công cao như là
Burundi, Georgia, Lesotho…
104
Biểu đồ 4.11: Tỷ lệ chi tiêu dùng công
Nguồn: tính toán của tác giả
Biểu đồ 4.11 cho thấy tỷ lệ chi tiêu dùng tại các quốc gia chủ yếu tập trung
trong khoảng từ 10 đến 18%. Điều này một lần nữa cho thấy mức độ chi
tiêu chính phủ còn rất thấp. Vì vậy, tác giả cho rằng tỷ lệ này sẽ rất khó hỗ
trợ cho việc thực hiện các khoản chi cho lĩnh vực y tế và giáo dục nhằm
góp phần tạo nguồn nhân lực có trình độ tri thức và nền tảng sức khỏe tốt
cho nền kinh tế.
Bảng 4.3: Ma trận hệ số tương quan các biến trong mô hình các yếu tố tác động đến tham nhũng
Cor
ecofree
inflation 0,1700***
demo 0,2601*** 0,1523*** 0,2472*** 0,2448*** 0,0372 -0,0716*** -0,0319 0,0163 0,0529 0,1196*** 0,1238***
-0,3883*** -0,1873*** -0,2840*** -0,1224*** -0,1638*** 0,1093*** -0,1646***
gdppc 0,0950** 0,1314*** -0,1373*** -0,1385***
school unemploy -0,046 -0,0682* 0,1196*** 0,1365*** 0,0787*
Biến demo ecofree Ln_gdppc school unemploy inflation legal Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%.
Nguồn : Tính toán của tác giả
105
Kết quả thống kê hệ số tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình
thực nghiệm các yếu tố tác động đến tham nhũng được thể hiện tại bảng
4.3. Kết quả cho thấy dấu của các biến giải thích trong mô hình là phù hợp
với kỳ vọng và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%. Ngoại trừ biến
tỷ lệ thất nghiệp lại mang dấu dương trong khi kỳ vọng là dấu âm. Ngoài
ra, hệ số tương quan giữa các cặp biến tương đối nhỏ nên khả năng xuất
hiện đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy là thấp.
Bảng 4.4: Ma trận hệ số tương quan các biến trong mô hình tăng trưởng
Biến
ln_gdppc
cor
demo
Ecofree
school
invest
pop
top
cor
-0,2840***
0,2232***
0,2450*** 0,0235 -0,2940*** 0,0653 -0,1132***
0,2601*** 0,0372 0,1860*** -0,1532*** -0,0903** 0,2342***
-0,3883*** -0,1873*** -0,1235*** -0,1869*** 0,1780*** 0,0379 -0,3007***
0,1523*** 0,2472*** 0,0953** 0,0693* -0,5593*** 0,2747*** -0,0700*
-0,046 0,1857*** 0,1643***
-0,3773*** -0,0843***
demo ecofree school invest 0,0288 pop -0,1843*** top 0,1139*** gov_ex -0,0402 Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Tính toán tác giả
Kết quả thống kê hệ số tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình
thực nghiệm tác động của tham nhũng đến tăng trưởng dưới vai trò chất
lượng khung thế chế được thể hiện trong bảng 4.4. Kết quả cho thấy dấu
của các biến giải thích trong mô hình là phù hợp với kỳ vọng và đều có ý
nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%. Ngoài ra, (Evans, 1996) cho rằng hệ số
tương quan giữa các cặp biến tương đối nhỏ nên khả năng xuất hiện đa
cộng tuyến trong mô hình hồi quy là thấp.
Kết luận chương 4
Với mục tiêu nhận dạng các yếu tố tác động đến tham nhũng và xem xét
tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh chất lượng khung
thể chế còn nhiều hạn chế tại các quốc gia chuyển đổi, nghiên cứu lựa chọn
mẫu 46 quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi trong giai đoạn 2002 – 2014
106
(phụ lục 1). Chương 4 dựa vào khung lý thuyết được trình bày ở chương 2
và chương 3 và mô hình thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây để xây
dựng mô hình tăng trưởng dưới sự tác động của tham nhũng và khung thể
chế. Bên cạnh đó, chương này cũng đã xây dựng mô hình các yếu tố tác
động đến tham nhũng trong đó có xem xét hiệu ứng phi tuyến giữa thu
nhập và tham nhũng. Cuối cùng, chương 4 cũng đã trình bày chiến lược
phân tích dữ liệu và các phương pháp ước lượng FEM, GLS, biến công cụ
2SLS và GMM dành cho dữ liệu bảng nhằm đạt được các mục tiêu nghiên
cứu và làm căn cứ cho các bước thực nghiệm tiếp theo.
107
CHƯƠNG 5
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Giới thiệu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận án tiến hành thực nghiệm nhằm
trả lời lần lượt các câu hỏi nghiên cứu. Trước tiên, luận án tập trung đánh
giá tác động của chất lượng thể chế đến tham nhũng tại các quốc gia
chuyển đổi. Sau đó, luận án khảo sát mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập
và tham nhũng tại các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Với mục tiêu
này, nghiên cứu đưa vào mô hình biến bình phương của biến thu nhập cùng
với việc kiểm soát các biến kinh tế xã hội và khung thể chế các quốc gia.
Để đánh giá hệ số hồi quy của các biến trong mô hình, tác giả sử dụng mô
hình hiệu ứng cố định cho dữ liệu bảng. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính
vững cho các ước lượng, phương pháp GLS và 2SLS cũng được sử dụng
trong các kết quả ước lượng. Kết quả nghiên cứu chứng minh có sự xuất
hiện của hiệu ứng phi tuyến trong mối quan hệ này. Nghĩa là, thu nhập tăng
lên sẽ làm tăng tham nhũng ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi, nhưng
sau đó nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phát triển ổn định, tăng thu nhập
sẽ giúp giảm thiểu nạn tham nhũng.
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về tác động của tham nhũng lên
tăng trưởng xem chất lượng thể chế như là biến kiểm soát. Bên cạnh đó,
chất lượng thể chế kinh tế cũng chưa được quan tâm nhiều trong các
nghiên cứu này. Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này xem xét vai trò
của chất lượng thể chế bao gồm thể chế chính trị (nền dân chủ) và thể chế
kinh tế (tự do kinh tế) trong mối quan hệ tham nhũng và tăng trưởng bằng
cách đưa vào mô hình biến tương tác giữa chất lượng thể chế với tham
nhũng. Để đánh giá hệ số hồi quy các biến trong mô hình, nghiên cứu sử
dụng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) dành
108
cho dữ liệu bảng. Bên cạnh đó, bài viết sử dụng phương pháp GMM để xử
lý hiện tượng nội sinh giữa các biến, phương sai thay đổi hoặc/và tương
quan sai số của mô hình. Kết quả cho thấy tham nhũng gây cản trở cho
tăng trưởng. Tuy nhiên, biến tương tác thể hiện vai trò tích cực của tham
nhũng đối với tăng trưởng trong điều kiện chất lượng thể chế thấp tại các
quốc gia khảo sát.
5.1. Kết quả kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng
5.1.1. Kiểm định quan hệ nhân quả giữa thu nhập và tham nhũng
Để xác định mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa hai biến thu nhập và
tham nhũng, bài viết sử dụng mô hình kiểm định nhân quả Granger. Theo
Granger (2001), một chuỗi dừng Yt được xem là nguyên nhân của một
chuỗi dừng Xt nếu các giá trị quá khứ của Yt làm giảm sai số dự báo
phương sai của Xt một cách có ý nghĩa thống kê vói giả định các thông tin
khác không liên quan. Trong thực hành, phương pháp kiểm định nhân quả
Granger thường được tiến hành bằng cách hồi quy Xt với các độ trễ của
chính nó và các độ trễ của Yt. Các độ trễ của Yt đồng thời có ý nghĩa thống
kê sẽ dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết H0: Yt không phải là nguyên nhân của
Xt.
Do kiểm định nhân quả Granger yêu cầu các chuỗi dừng, nên các biến
tham gia sẽ được kiểm định tính dừng cho dữ liệu bảng. Sau đó, kiểm định
Granger được thiết lập trên một mô hình VAR cho dữ liệu bảng (Holtz-
Eakin, 1988).
𝑝 𝑗=1
𝑝 𝑗=1
+ ∑ 𝑙𝑛_𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 = 𝜑10 + ∑ 𝜑1𝑗ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖,𝑡−𝑗 𝜔1𝑗𝑐𝑜𝑟𝑖,𝑡−𝑗 + 𝜇1𝑖 +
(5.1) 𝜗1𝑖𝑡
𝑞 𝑙=1
𝑞 𝑙=1
𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝜑20 + ∑ 𝜑2𝑙𝑐𝑜𝑟𝑖,𝑡−𝑙 + ∑ 𝜔2𝑙ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖,𝑡−𝑙 + 𝜇2𝑖 + 𝜗2𝑖𝑡
(5.2)
109
𝜇𝑖 đại diện cho sự khác biệt của mỗi quốc gia. 𝜗𝑖𝑡 được giả định là có phân
phối độc lập theo các quốc gia và có trung bình là 0, tuy nhiên phương sai
có thể thay đổi theo quốc gia và theo thời gian. Ước lượng mô hình trên
bằng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) sẽ không xử lý được hiện
tượng nội sinh do 𝜇𝑖 tác động đến gdppc thời kỳ này những chúng cũng có
thể tác động đến gdppc ở các thời kỳ trước đó (Nickell, 1981). Theo đề
xuất của Hartwig (2009), kiểm định nhân quả Granger sử dụng phương
pháp ước lượng GMM theo Arellano & Bover (1995). Ý nghĩa của mối
quan hệ được xác lập thông qua mức ý nghĩa của kiểm định Wald (kiểm
định F) và các hệ số hồi quy.
H0: 𝜔1𝑗 = 0 ∀ 𝑗 hoặc H0: 𝜔2𝑙𝑗 = 0 ∀ 𝑙
Để thực hiện kiểm định nhân quả Granger, trước tiên tác giả kiểm tra tính
dừng của các biến theo các kiểm định Augmented Dickey Fuller (ADF),
Phillips-Perron (PP) và Im-Pesaran-Shin (IPS). Giả thiết H0 của kiểm định
này là tồn tại nghiệm đơn vị, có nghĩa các biến không dừng.
Bảng 5.1: Kiểm định tính dừng của biến cor và ln_gdppc
ADF
PP
IPS
Không xu thế
Xu thế
Không xu thế
Xu thế
Không xu thế
Xu thế
cor ln_gdppc d.cor d.ln_gdppc
0,7977 2,2112 9,5729*** 11,5696***
-2,2125 1,348 5,5331*** 15,6683***
1,1267 0,7326 11,5434*** 17,3462***
0,5143 0,0616 3,3055*** 9,9490***
0,6238 1,3659 -3,7606*** -6,2954***
0,0345 1,1603 0,3287 -5,2154***
Ghi chú: *** thể hiện ý nghĩa ở mức 1%.
Nguồn : Tính toán của tác giả
Kết quả kiểm định tính dừng được thể hiện trong Bảng 5.1. Các kiểm định
về tính dừng của biến tham nhũng và thu nhập bình quân đều không dừng
cho tất cả các kiểm định không xu thế và có xu thế. Tuy nhiên, khi lấy sai
phân bậc 1 thì các kiểm định đều thống nhất về tính dừng của các biến. Vì
110
vậy, bước tiếp theo luận án sẽ thực hiện kiểm định Granger với các biến sai
phân bậc 1 của biến tham nhũng và thu nhập bình quân.
Để lựa chọn độ trễ tối ưu cho kiểm định Granger, luận án dựa theo đề xuất
của Atukeren (2007) và Hartwwig (2009) sử dụng các tiêu chuẩn AIC
(Akaike’s information Criterion) và SIC (Schwaz Information Criterion).
Bảng 5.2 thể hiện các kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu. Theo các tiêu chuẩn
này, phương trình 5.1 có độ trễ tối ưu là 1 và phương trình 5.2 có độ trễ tối
ưu là 6.
Bảng 5.2: Kết quả lựa chọn đỗ trễ tối ưu
Độ trễ tối ưu phương tình 5.1
Đỗ trễ 1
Độ trễ 2
Độ trễ 3
AIC
-1315,61*
-1172,75
-1000,13
BIC
-1122,36*
-977,344
-803,854
Độ trễ tối ưu phương tình 5.2
Đỗ trễ 1
Độ trễ 2
Độ trễ 3
AIC
147,111
138,587
119,823*
BIC
340,352
333,99
316,099*
Ghi chú: * thể hiện độ trễ tối ưu với các giá trị AIC, SIC nhỏ nhất
Nguồn: tính toán của tác giả
Tiếp theo, mối quan hệ giữa thu nhập bình quân và tham nhũng sẽ được
làm rõ bằng kiểm định nhân quả Granger cho dữ liệu bảng. Phương trình
5.1 và 5.2 sẽ được ước lượng theo phương pháp GMM một bước và
phương pháp GMM hai bước. Trong giả định các thành phần sai số độc lập
và phương sai đồng nhất (cho cả đơn vị và thời gian) thì GMM một bước
sẽ cho các ước lượng vững. Nhưng nếu có xảy ra tương quan chuỗi hoặc
phương sai số thay đổi ở các thành phần chuỗi thì áp dụng GMM hai bước
sẽ cho ra kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, GMM hai bước xây dựng ma trận
phương sai và hiệp phương sai dựa trên các ước lượng của các phần dư nên
111
kết quả của kiểm định t sẽ bị chệch (Arellano & Bond, 1991). Do đó, khi
sử dụng GMM hai bước luận án sẽ sử dụng phương pháp điều chỉnh ma
trận phương sai – hiệp phương sai theo Windmeijer (2005).
Bảng 5.3: Kiểm định quan hệ nhân quả Granger
GMM một bước
GMM hai bước
Biến phụ thuộc
Δln_gdppc
Δln_gdppc
Δcor
Δcor
0,2982***
0,3536***
Δln_gdppcit-1
-0,0026**
-0,0001**
Δcorit-1
-2,5103***
-3,005***
Δln_gdppcit-3
-0,2030**
-0,2025**
Δcorit-3
AR(2)
0,203
0,216
0,412
0,322
Sargan – Hansen
0,354
0,588
0,196
0,152
N
368
368
322
322
Ghi chú: ***, ** biểu thị cho mức ý nghĩa 1% và 5%.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 5.3 thể hiện mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa biến tham nhũng và
biến thu nhập bình quân. Kết quả cho thấy giữa các biến đều tồn tại mối
quan hệ hai chiều với mức ý nghĩa 1% và 5%.
Tiếp theo, luận án sẽ tiến hành thủ tục kiểm định Wald. Trong Bảng 5.4
trình bày giá trị χ2 và ý nghĩa thống kê của kiểm định Wald với các phương
tình 5.1 và 5.2. Kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ nghịch chiều giữa thu
nhập và tham nhũng.
Bảng 5.4: Kết quả kiểm định Wald
GMM một bước
GMM hai bước
43,10***
Δcor Δln_gdppc
11,80***
54,39***
Δln_gdppc Δcor
50,52***
Ghi chú: *** biểu thị cho mức ý nghĩa 1%
Nguồn: Tính toán của tác giả
112
5.1.2. Phân tích mô hình tuyến tính cơ bản
Như tác giả đã đề cập, trong mô hình các yếu tố tác động đến tham nhũng,
luận án có sử dụng biến legal đại diện cho nguồn gốc pháp lý của các quốc
gia. Biến này là biến giả và không đổi theo thời gian, do đó, phương pháp
ước lượng FEM không được lựa chọn để ước lượng cho mô hình. Trong
khi đó, thực hiện kiểm định Hausman cho kết quả giá trị P-value < 0 nên
luận án cũng không sử dụng phương pháp REM mà chuyển qua sử dụng
phương pháp GLS để ước lượng các hệ số hồi quy cho mô hình này.
- Bước 1, để đánh giá tác động của yếu tố chất lượng thể chế đến mức
độ tham nhũng, nghiên cứu tiến hành kiểm định mô hình tác động
khi chưa đưa vào các biến kiểm soát về kinh tế và nguồn gốc pháp
lý. Kết quả được thể hiện ở cột (1).
- Bước 2, luận án kiểm định lại mô hình khi thêm vào mô hình các
biến kiểm soát là các yếu tố kinh tế vĩ mô. Kết quả thể hiện ở cột (2).
- Bước 3, luận án thêm vào mô hình biến kiểm soát nguồn gốc pháp lý
(biến giả). Kết quả thể hiện ở cột (3).
- Cuối cùng, tác giả lặp lại công việc này khi thêm vào mô hình biến
tương tác giữa chất lượng thể chế chính trị và chất lượng thể chế
kinh tế (cột 4 và cột 5).
113
Biến phụ thuộc cor, cột 1 chưa đưa vào mô hình các biến kiểm soát, cột 2 đưa vào mô hình biến kiểm soát kinh tế vĩ mô, cột 3 đưa vào mô hình biến kiểm soát nguồn gốc pháp lý, cột 4 đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco, cột 5 đưa vào mô hình biến legal.
Bảng 5.5: Kết quả hồi quy giữa các biến bằng phương pháp GLS
Biến
(1) GLS
(2) GLS
(3) GLS
(4) GLS
(5) GLS
-0,4513*** -0,2981** 0,0545*** 9,7826*** 0,0000 598 46
-0,2197*** -0,0653** -0,4259*** -0,0019** -0,0144*** 0,0109*** -0,2313*** 9,6964*** 0,0000 598 46
-0,2226*** -0,0213* -0,3759*** -0,0025*** -0,0135*** 0,0105*** 9,8267*** 0,0000 598 46
-0,5922*** -0,4134*** -0,5506*** -0,0008 -0,0034 0,0044** 0,0756*** 12,6472*** 0,0000 598 46
-0,6168*** -0,4278*** -0,5541*** -0,0008 -0,0037* 0,0045** 0,0789*** -0,0518** 12,3716*** 0,0000 598 46
demo ecofree ln_gdppc school unemploy inflation demo*eco legal Const Wald test Quan sát Quốc gia Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%
Nguồn: tính toán của tác giả
Kết quả khảo sát sự tác động của mức độ dân chủ, tự do kinh tế và hiệu
ứng tương tác giữa chúng đến mức độ tham nhũng được thực hiện với các
biến kiểm soát khác nhau bằng phương pháp GLS (Bảng 5.5). Trước hết,
cột 1 thể hiện sự tác động này khi chưa đưa vào mô hình các biến kiểm
soát về kinh tế và nguồn gốc pháp lý. Kết quả cho thấy biến demo và
ecofree có tác động âm lên tham nhũng ở mức ý nghĩa 1%, trong khi đó
biến tương tác demo*eco tác động dương lên tham nhũng. Kết quả tác
động của hai yếu tố này sẽ được thảo luận chi tiết trong phần phân tích hiệu
ứng từng phần.
Tiếp theo, luận án đánh giá tác động của mức độ dân chủ và tự do kinh tế
đến tham nhũng khi thêm vào mô hình các biến kiểm soát về kinh tế vĩ mô
và văn hóa nhưng không bao gồm biến tương tác giữa dân chủ và tự do
kinh tế (cột 2 và cột 3). Cuối cùng, kết quả thực nghiệm được lặp lại với
các biến kiểm soát và đồng thời đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco
được thể hiện ở cột 4 và cột 5.
114
Tác động của yếu tố thể chế
Các kết quả đều cho thấy tác động của dân chủ, tự do kinh tế và hiệu ứng
tương tác giữa chúng đều nhất quán với kết quả ban đầu về dấu và ý nghĩa
thống kê. Như vậy, kết quả thực nghiệm cho thấy việc cải thiện chất lượng
thể chế chính trị và thể chế kinh tế giúp giảm tình trạng tham nhũng tại các
quốc gia đang chuyển đổi. Điều này cũng đã được đề cập trong kết quả
thực nghiệm của (Saha & ctg, 2011). Một quốc gia khi mà người dân được
tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí được nâng cao thì chắc chắn sẽ kịp
thời phản ánh các tình trạng tiêu cực trong khu vực công, nhất là tệ quan
liêu và nạn tham nhũng. Nghiên cứu của WorldBank (2007b) cũng đã cho
thấy để phòng tránh tham nhũng các quốc gia cần thực hiện nguyên tắc
chung của cải cách thể chế như tăng tính minh bạch, tăng trách nhiệm giải
trình, giảm thói tùy tiện và quyền lực độc quyền. Hạn chế cơ chế xin – cho
và sự chị phối của nhà nước vào các hoạt động kinh tế sẽ giúp giảm tham
nhũng hành chính tại các quốc gia này.
Biểu đồ 5.1: Mối quan hệ giữa tự do kinh tế và tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
115
Biểu đồ 5.1 cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa tham nhũng và tự do
kinh tế khi mà giá trị của biến ecofree càng lớn thì mức độ tham nhũng
càng có giá trị nhỏ. Worldbank (1997) cho rằng một sự yếu kém mang tính
thể chế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho tham nhũng chính là sự tham gia
quá sâu của nhà nước vào nền kinh tế. Các chính sách tạo ra một khoảng
cách giả tạo giữa cung và cầu, hoặc cho phép các quan chức tự làm theo ý
mình cũng là nguồn gốc tạo ra tham nhũng. Các chính sách này gồm sở
hữu nhà nước với tỷ trọng lớn, nhà nước cung cấp phần lớn các dịch vụ,
các điều kiện luật kinh doanh và các sắc thuế quá khắt khe, áp dụng quy
định một cách độc đoán và hạn chế thương mại. Trong bối cảnh này, các
quan chức có thể tư lợi từ vị trí công việc của họ thông qua các hành vi đòi
hối lộ, hạch sách, tướt đoạt tài sản và bán chỗ làm. Các cơ sở dữ liệu đã
khẳng định rằng tham nhũng có mức độ nghiêm trọng hơn tại các nước có
nhiều chính sách kinh tế bị bóp méo (WorldBank, 1997). Tại một số nước
đang phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi, nguồn tham nhũng
nghiêm trọng chính là sự tập trung hóa quyền lực kinh tế trong tay các tổ
chức độc quyền – là những chủ thể sẽ gây ảnh hưởng chính trị đối với
chính phủ nhằm phục vụ lợi ích cá nhân. Hiện tượng này đặc biệt đúng tại
các nước có nguồn lực tự nhiên dồi dào, các nhà độc quyền về khai thác
nguồn lợi tự nhiên như dầu, khí đốt có thể nắm trong tay quyền lực kinh tế
và chính trị. Điều này dễ dẫn đến các hình thức tham nhũng như là: trốn
thuế, tài khoản hải ngoại, mua giấy phép, mua phiếu bầu và tìm mọi cách
hạn chế cạnh tranh, hạn chế nhà cung cấp khác gia nhập thị trường.
Một cơ chế làm việc không phù hợp với việc tăng tính minh bạch và trách
nhiệm giải trình của chính phủ cũng tạo điều kiện để tham nhũng gia tăng.
Sự thiếu minh bạch, cơ chế giám sát không phù hợp, thực thi pháp luật yếu
kém và hệ thống bầu cử thiếu hiệu quả cũng làm giảm cơ hội phát hiện
tham nhũng. Tăng tính dân chủ sẽ giúp tăng trách nhiệm giải trình của
116
chính phủ và cơ quan nhà nước. Cách thức vận hành của cơ chế giải trình
có thể làm tăng hoặc giảm ảnh hưởng của các bộ máy khác nhau và của các
đơn vị trong chính phủ. Những cơ chế giải trình theo chiều ngang này bao
gồm luật chống tham nhũng, các quy tắc đạo đức, báo cáo nội bộ, yêu cầu
kiểm toán, các cơ quan điều tra, cưỡng chế tư pháp và giám sát lập pháp.
Mặt khác, cơ chế giải trình cũng có thể vận hành giữa chính phủ và dân
chúng. Các cơ chế giải trình theo chiều dọc này gồm các cuộc tuyển cử tự
do và công bằng, truyền thông tự do và độc lập, quyền tự do hội họp và
phát ngôn. Quyền tự do công dân này giúp đấu tranh chống tham nhũng
một cách rất hiệu quả.
Biểu đồ 5.2: Mối quan hệ giữa dân chủ và tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
Biểu đồ 5.2 cũng cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa tham nhũng và
mức độ dân chủ của quốc gia. Nền dân chủ được thể hiện thông qua quyền
chính trị và quyền tự do công dân. Các quyền này cho phép công dân được
bầu cử tự do, tự do ngôn luận và tự do báo chí. Quyền bầu cử tự do của
117
công dân sẽ thúc đẩy quá trình cạnh tranh chính trị. (Johnston, 1998) đã
quan sát thấy rằng sự cạnh tranh chính trị yếu kém thường góp phần làm
xuất hiện tham nhũng chính trị nghiêm trọng. Khi đó, báo chí độc lập có
thể hành động như một đối trọng với tham nhũng – vốn luôn có cơ hội phát
triển nếu không có sự cạnh tranh này. Báo chí chỉ đơn giản là đại diện cho
các cuộc tranh luận làm tăng tính cạnh tranh kinh tế và cạnh tranh chính trị.
Như Johnston (1998) đã quan sát “sự cạnh tranh kinh tế và chính trị mạnh
mẽ có thể làm tăng trách nhiệm giải trình, mở ra các phương thuốc đối phó
với mạng lưới tham nhũng và tạo động lực để các thủ lĩnh chính trị hành
động chống tham nhũng”. Hai yếu tố khác có mối tương quan chặt chẽ với
mức độ tham nhũng cao là “sự tham gia ít ỏi của quần chúng vào đời sống
chính trị và quyền tự do công dân ít được bảo vệ” (Johnston, 1998). Một
lần nữa, truyền thông đóng vai trò là đối trọng. Điều này đặc biệt đúng khi
các tin tức truyền thông tập trung khích lệ các cuộc tranh luận chính trị,
động viên dân chúng tham gia vào đời sống chính trị và ủng hộ quyền tự do
công dân, tự do ngôn luận. Tóm lại, cả kết quả hồi quy và biểu đồ thống kê
đều thể hiện mối quan hệ nghịch giữa chất lượng thể chế chính trị và tham
nhũng của quốc gia chuyển đổi. Do đó, việc cải thiện chất lượng thể chế
chính trị sẽ góp phần làm giảm tham nhũng tại các quốc gia này.
Tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô
Biến ln_gdppc mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong tất cả
các mô hình. Điều này cho thấy việc cải thiện thu nhập giúp kiểm soát
tham nhũng hiệu quả tại các quốc gia này. Thực tế cho thấy thu nhập bình
quân đầu người tại các quốc gia khảo sát là rất thấp. Vì vậy, tiền lương của
công chức là không cao. Đây có thể được xem là động cơ thúc đẩy các giới
công chức tham nhũng nhiều hơn. Điều này cũng đã được mình chứng
trong mô hình lý thuyết của Acemoglu & Verdier (2000) về mối quan hệ
giữa tiền lương khu vực công và tham nhũng. Theo khảo sát của
118
WorldBank (2013) về nguyên dân dẫn đến tham nhũng tại Việt Nam, có
đến 79,1% cán bộ công chức đồng ý tham nhũng là do mức lương khu vực
công thấp so với khu vực tư. Số liệu thực tế cho thấy trong giai đoạn khảo
sát một số quốc gia có thu nhập tăng lên rất nhanh và tình trạng tham
nhũng giảm xuống đáng kể. Ghana là minh chứng điển hình cho kết quả
này. Thu nhập bình quân ở Ghana vào năm 2002 chỉ ở mức 312 USD và
chỉ số tham nhũng ở mức 6,1. Nhưng đến năm 2012, thu nhập bình quân
của quốc gia này tăng lên 1.646 USD thì chỉ số tham nhũng giảm xuống
chỉ còn 5,5.
Biểu đồ 5.3: Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
Biểu đồ 5.3 cũng cho thấy đường hồi quy của biến tham nhũng dốc xuống
khi mà giá tri của biến ln_gdppc càng lớn. Nhìn chung, nghèo đói làm suy
yếu các cơ chế thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính
phủ. Nghèo đói khiến mọi người tập trung vào lo cuộc mưu sinh và có ít
thời gian và sức lực để theo dõi tính minh bạch của chính phủ. Các cấp độ
119
phát triển thấp cũng giảm chất lượng giáo dục và trình độ dân trí, lạm hạn
chế khả năng của công dân trong việc theo dõi hoạt động của các quan
chính phủ (Triesman, 2000). Trong chính phủ, cấp độ phát triển thấp cũng
làm giảm nguồn lực dành để thực thi và duy trì các cơ chế theo dõi và giám
sát (Worldbank, 2000).
Hệ số hồi quy của biến inflation cũng mang dấu dương và có ý nghĩa thống
kê. Bởi vì nếu lạm phát không được kiểm soát tốt sẽ làm cho thu nhập thực
tế của công chức bị giảm và dẫn đến mức độ tham nhũng gia tăng. Kết quả
này phù hợp với kỳ vọng dấu ban đầu. Điều này cho thấy việc kiểm soát lạm
phát tốt sẽ góp phần hạn chế mức độ tham nhũng tại các quốc gia khảo sát.
Lạm phát tăng cao sẽ tác động tiêu cực cho hoạt động kinh tế. Một trong số
đó chính là thu nhập thực của giới công chức bị giảm và ảnh hưởng đến mức
độ thỏa dụng của họ. Khi các nhu cầu cơ bản của giới chức không được đáp
ứng thì sẽ dễ phát sinh các hành vi tiêu cực như gian lận, tham ô, … Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu thực nghiệm của Braun (2004).
Biểu đồ 5.4: Mối quan hệ giữa lạm phát và tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
120
Biểu đồ 5.4 cho thấy khi biến lạm phát nhận giá trị càng lớn thì biến tham
nhũng cũng có khuynh hướng tăng cao.
Hệ số hồi quy của biến school mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở cột 2
và cột 3. Điều này cho thấy trình độ dân trí càng cao càng góp phần kiểm
soát được hành vi tham nhũng. Người dân có trình độ dân trí cao sẽ nhận
thức được quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của mình. Từ đó,
họ biết rằng việc giám sát hoạt động của chính phủ và phòng chống tham
nhũng là một phần trong quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ này. Kết quả này
cũng hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu trước đây của Ali & Isse (2002).
Biểu đồ 5.5: Mối quan hệ giữa trình độ dân trí và tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
Cuối cùng, phát hiện thú vị và trái ngược với giả thuyết kỳ vọng của kết
quả thực nghiệm là hệ số hồi quy của biến unemploy mang dấu âm. Điều
này cho thấy khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng lại làm giảm mức độ tham
nhũng tại các quốc gia này. Kết quả này có thể được giải thích là khi người
dân không có việc làm thu nhập của họ là rất thấp hoặc bằng không, vì vậy
121
người dân không đủ điều kiện để thực hiện các khoản hối lộ cho giới chức.
Kết quả này mâu thuẫn với kết quả thực nghiệm của Saha & Gounder
(2013). Tuy nhiên, nghiên cứu của Saha & Gounder (2013) được thực hiện
tại các quốc gia phát triển và đang phát triển cho nên sự khác biệt trong
thực nghiệm là điều không thể tránh khỏi.
Biểu đồ 5.6: Mối quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
Hệ thống luật pháp
Hệ số hồi quy của biến giả legal mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê bằng
phương pháp ước lượng GLS và 2SLS. Điều này cho thấy các quốc gia có
nguồn gốc pháp lý theo hệ thống Thông luật (Luật Anglo-Saxon) có
khuynh hướng làm giảm tham nhũng. Hệ thống luật pháp và hiệu lực thi
hành luật pháp không đồng bộ, chất lượng thấp và hiệu quả kém là tình
trạng khá phổ biến tại các quốc gia khảo sát. Các quan hệ Pháp luật – Kỷ
cương, Công dân – Nhà nước và Công chức – Công dân không rành mạch,
122
sáng tỏ do thiếu công khai, minh bạch sẽ là kẽ hở nghiêm trọng trong quản
lý, nuôi dưỡng tham nhũng. Điều này đã được đề cập trong nghiên cứu
“hình phạt và tội phạm” của Becker (1974). Do đó, tình trạng tham nhũng
diễn ra phổ biến, dưới nhiều hình thức và ngày càng trầm trọng tại một số
quốc gia trong mẫu khảo sát một phần là do luật pháp chưa đủ nghiêm
minh. Nếu các hình thức xử phạt chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe thì tình
trạng tham nhũng sẽ còn diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Kết quả
nghiên cứu này cũng hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu của Triesman
(2000) và La Porta (1999). Nghiên cứu này cho thấy các quốc gia có hệ
thống pháp lý được xây dựng dựa trên nguồn gốc pháp lý theo hệ thống
Thông luật (Common Law) sẽ có khuynh hướng nghiêm khắc và hiệu quả
hơn vì vậy cũng ít tham nhũng hơn.
Mặc dù các bộ luật phù hợp có thể là thành tố cần thiết để ban hành các
chính sách và can thiệp chống tham nhũng, song dường như chúng chẳng
bao giờ là đủ. (Pope, 2000) đã chỉ ra rằng việc thiếu các bộ luật chống
tham nhũng ít khi là trở ngại, mà chính chất lượng yếu kém và thực hiện
chưa đầy đủ các bộ luật này mới là nguyên nhân chính khiến các nỗ lực
chống tham nhũng trở nên ít hiệu quả. Vì vậy, chất lượng và mức độ thực
hiện của hệ thống luật pháp cần được quan tâm đặc biệt bởi quốc hội. trong
việc ngăn chặn tham nhũng.
123
Biểu đồ 5.7: Mối quan hệ giữa nguồn gốc pháp lý và tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
5.1.3. Kiểm tra tính vững của mô hình
Như tác giả đã đề cập, các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy mối quan
hệ giữa tham nhũng và thu nhập là mối quan hệ tương hỗ. Vì vậy, mô hình
có khả năng xảy ra hiện tượng nội sinh và dẫn đến kết quả ước lượng bị
chệch. Để khắc phục tình trạng này, nghiên cứu thực hiện bước kiểm tra
tính vững cho mô hình thực nghiệm bằng phương pháp 2SLS.
124
Cột 6 chưa đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco và nguồn gốc pháp lý, cột 7 đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco, cột 8 đưa vào mô hình biến legal và cột 9 đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco và biến legal.
Bảng 5.6: Kết quả hồi quy bằng phương pháp ước lượng với biến công cụ
Biến
(9) 2SLS
(8) 2SLS
(6) 2SLS
(7) 2SLS
-0,8592*** -0,6338*** -1,1882*** -0,0023 -0,0059** 0,0101*** 0,1237*** -0,049 15,3896*** 0,0000
-0,0980*** -0,0793** -1,2363*** 0,0793** -0,0017 -0,0066** -0,0645* 11,1207*** 0,0000
-0,1001*** -0,0781** -1,2317*** -0,0018 -0,0065** 0,0099*** 11,1190*** 0,0000
-0,8641*** -0,6380*** -1,1852*** -0,0024 -0,0058** 0,0103*** 0,1243*** 15,4092*** 0,0000
0,0014
0,0014
0,0018
0,0018
0.6819
0.3877
0.7782
0.4835
598 46
598 46
598 46
demo eco_free Ln_gdppc school unemploy inflation demo*eco legal Const Wald test Davidson-MacKinnon (p-value) Sargan-Hansen (p- value) 598 Quan sát Quốc gia 46 Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%
Nguồn: tính toán của tác giả
Để kiểm tra mô hình có bị nội sinh và thật sự cần dùng 2SLS, tác giả dựa
vào đề xuất của Davidson & MacKinnon (1993) cho dữ liệu bảng. Kiểm
định Davidson & MacKinnon với giả thuyết H0 mô hình không xảy ra hiện
tượng nội sinh. Kết quả kiểm định bảng 4 cho thấy giá trị p-value ở các cột
đều nhở hơn 0,01 nên ta bác bỏ giả thiết H0 (mức ý nghĩa 1%), nghĩa là mô
hình có xảy ra hiện tượng nội sinh. Vì vậy, sử dụng phương pháp 2SLS với
các biến công cụ là phù hợp.
Treisman (2000) và Gallup & ctg (1999) cho rằng khoảng cách địa lý của
quốc gia với đường xích đạo có tương quan với mức độ phát triển kinh tế
(được đo lường bằng thu nhập) do vấn đề khí hậu và bệnh tật, trong khi đó
khoảng cách địa lý không tương quan đến tình trạng tham nhũng của quốc
gia. Do đó, khoảng cách địa lý được sử dụng làm biến công cụ là phù hợp.
125
Biến này được thu thập dựa trên kết quả tính toán của La Porta (1999). Bên
cạnh đó, Sachs & Warner (1997) cũng cho rằng tuổi thọ trung bình phản
ánh tình trạng sức khỏe cộng đồng. Trong khi đó, tuổi thọ trung bình tương
quan chặt chẽ với mức độ phát triển kinh tế quốc gia (thu nhập bình quân)
nhưng tỷ lệ này không ảnh hưởng đến mức độ tham nhũng của quốc gia.
Biến này được thu thập từ WDI. Vì vậy, nghiên cứu sử dụng biến khoảng
cách với đường xích đạo của các quốc gia và biến tuổi thọ trung bình làm
công cụ cho biến thu nhập để xử lý hiện tượng nội sinh bằng phương pháp
2SLS.
Tính hợp lí của các biến công cụ sử dụng trong phương pháp 2SLS được
đánh giá thông qua thống kê Sargan – Hansen. Kiểm đinh Sargan – Hansen
xác định tính chất phù hợp của biến công cụ dùng trong mô hình. Đây là
kiểm định giới hạn nội sinh của mô hình (overidentifying restrictions) với
giả thuyết H0 biến công cụ là biến ngoại sinh, nghĩa là không tương quan
với sai số của mô hình. Vì thế, giá trị Sargan càng lớn càng tốt. Kiểm định
Sargan-Hansen cho thấy các biến công cụ dự báo tốt cho biến thu nhập
trong mô hình (p-value lớn hơn mức ý nghĩa 10%).
Kết quả kiểm tra tính vững bằng phương pháp 2SLS thể hiện ở Bảng 5.6
cho thấy dấu và ý nghĩa thống kê của các biến demo, ecofree, gdppc,
inflation, legal và demo_ecofree là không đổi so với phương pháp GLS
(Bảng 5.5). Kết quả phân tích tính vững của ước lượng khẳng định bằng
chứng mạnh mẽ các yếu tố tác động đến tham nhũng tại các nền kinh tế
chuyển đổi.
Kết quả này đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm để trả lời cho câu
hỏi nghiên cứu thứ nhất của luận án.
126
5.1.4. Phân tích hiệu ứng từng phần
Từ gốc rễ, tham nhũng nảy nở trong điều kiện nghèo đói và sự suy yếu của
các thể chế nhà nước. Chính các hệ thống yếu kém thể chế chứ không phải
vấn đề đạo đức đã xui khiến người ta thực hiện hành vi tham nhũng. Điều
này giải thích vì sao tham nhũng có xu hướng xảy ra nhiều hơn tại các
nước đang phát triển hoặc đang trong quá trình chuyển đổi (WorldBank,
2007a).
Kết quả Bảng 5.5 (cột 2 và 3) và Bảng 5.6 (cột 6 và 7) phản ánh vai trò
mức độ dân chủ và tự do kinh tế trong việc kiểm soát tham nhũng. Hệ số
hồi quy của các biến này mang dấu âm cho thấy mức độ tham nhũng sẽ
giảm khi tự do kinh tế ngày càng được cải thiện và mức độ dân chủ được
mở rộng để hướng đến nền kinh tế thông thoáng và minh bạch. Kết quả này
cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Saha (2009, 2013),
Emerson (2006) và Sandholtz & Koetzle (2000).
Tuy nhiên, để thấy rõ tác động của biến tương tác giữa dân chủ và tự do
kinh tế đến tham nhũng, hiệu ứng từng phần được ước lượng dựa vào
phương trình (4.6a) và (4.6b) (chương 4). Theo Wooldridge (2012), để
đánh giá tác động từng phần của các biến trong mô hình biến tương tác,
𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛾0 + 𝛿1𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛿2𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛾3(𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 − 𝜇1) ∗ (𝑑𝑒𝑚𝑜 − 𝜇2) +
𝛾4𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛾5𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 + 𝛾6𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛾7𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛾8𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡
chúng ta thêm vào mô hình các số hạng 𝜇1 và 𝜇2 vào các thành phần biến tương tác. Khi đó, phương trình (4.5) trở thành:
(5.1)
Trong đó 𝜇1 và 𝜇2 nhận giá trị từ 0 đến 10. Hệ số 𝛿1 đo lường hiệu ứng
riêng phần của biến ecofree lên tham nhũng khi 𝜇2 nhận giá trị từ 0 đến 10
cho chỉ số dân chủ. Tương tự, 𝛿2 đo lường hiệu ứng từng phần của dân chủ
khi 𝜇1 nhận giá trị từ 0 đến 10 cho chỉ số tự do kinh tế (xem thêm
127
Wooldridge (2012), trang 226 và 227). Tác giả sử dụng phương pháp GLS
và 2SLS để ước lượng cho phương trình (5.1), kết quả như sau:
Cột 10 và cột 11 thể hiện kết quả hồi quy tác động riêng phần của biến tự do kinh tế khi biến demo nhận các giá trị từ 0 đến 10, cột 12 và cột 13 thể hiện kết quả hồi quy tác động riêng phần của biến dân chủ khi biến eco_free nhận các giá trị từ 0 đến 10.
Bảng 5.7: Hiệu ứng từng phần của mức độ dân chủ và tự do kinh tế lên tham nhũng bằng phương pháp GLS và 2SLS
Mức độ
𝜹𝟏 (GLS) (10) demo = 1, 2,… 10
𝜹𝟏 (2SLS) (11) demo =1, 2,… 10
-0,6338*** -0,5101*** -0,3863*** -0,2626*** -0,1389** -0,0151 0,1086*** 0,2323*** 0,3561*** 0,4798*** 0,6035***
-0,4278*** -0,3489*** -0,2700*** -0,1911*** -0,1122*** -0,0333 0,0456 0,1245*** 0,2034*** 0,2823*** 0,3612***
𝜹𝟐 (GLS) (12) ecofree = 1, 2,… 10 -0,6168*** -0,5379*** -0,4590*** -0,3801*** -0,3012*** -0,2223*** -0,1434*** -0,0645** 0,0144 0,0933 0,1722**
𝜹𝟐 (2SLS) (13) ecofree = 1, 2,… 10 -0,8592*** -0,7354*** -0,6117*** -0,4880*** -0,3643*** -0,2405*** -0,1168*** 0,0069 0,1307** 0,2544*** 0,3781***
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%
Nguồn: tính toán của tác giả
Kết quả cột (10) và cột (11) thể hiện tác động từng phần của tự do kinh tế
lên tham nhũng tại các mức khác nhau của chỉ số dân chủ (từ 0 đến 10)
bằng hai phương pháp ước lượng GLS và 2SLS. Kết quả cho thấy tự do
kinh tế làm giảm tham nhũng đáng kể khi mức độ dân chủ thấp, nhưng khi
mức độ dân chủ vượt qua điểm ngưỡng (mức 5 và 6), tác động của tự do
kinh tế đến việc kiểm soát tham nhũng trở nên không quan trọng và không
hiệu quả. Chúng ta cũng cần lưu ý điểm ngưỡng của mức độ dân chủ ở đây
là từ 5 đến 6, tại mức này sẽ làm cho tự do kinh tế không tác động đến việc
kiểm soát tham nhũng (điểm ngưỡng bằng phương pháp ước lượng 2SLS là
5). Như vậy, kết quả này khẳng định tự do kinh tế thật sự giúp kiểm soát
tham nhũng hiệu quả khi mà mức độ dân chủ thấp.
128
Biểu đồ 5.8: Tác động từng phần của tự do kinh tế đến tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
Biểu đồ 5.8 cho thấy khi mức độ dân chủ ở mức thấp dưới 6/10 thì hệ số
hồi quy của biến tương tác mức độ dân chủ và tự do kinh tế mang dấu âm
(phía dưới trục hoành). Và khi mức độ dân chủ được tăng lên tiệm cận giá
trị 6/10 thì hệ số hồi quy biến tương tác chuyển sang dấu dương (phía trên
trục hoành).
Tương tự, cột (12) và cột (13) thể hiện tác động từng phần của dân chủ đến
tham nhũng tại các mức khác nhau của chỉ số tự do kinh tế (từ 0 đến 10)
bằng hai phương pháp ước lượng GLS và 2SLS. Kết quả cũng cho thấy
mức độ dân chủ giúp kiểm soát tham nhũng khi tự do kinh tế thấp và khi tự
do kinh tế vượt qua điểm ngưỡng thì tác động này không còn hiệu lực. Tuy
nhiên, điều đáng chú ý ở đây là điểm ngưỡng của tự do kinh tế là cao hơn
so với mức độ dân chủ (từ 7 đến 8). Kết quả này hàm ý ở các quốc gia khi
129
mà tự do kinh tế còn hạn chế thì việc mở rộng mức độ dân chủ giúp kiểm
soát tham nhũng hiệu quả hơn.
So sánh kết quả của mức độ dân chủ và tự do kinh tế ta thấy mức độ dân
chủ có vai trò quan trọng hơn trong việc kiểm soát hành vi tham nhũng so
với tự do kinh tế.
Biểu đồ 5.9: Tác động từng phần của dân chủ đến tham nhũng
Nguồn: tính toán của tác giả
Biểu đồ 5.9 cho thấy hệ số hồi quy biến tương tác nằm phía dưới trục
hoành (mang dấu âm) khi mà biến tự do kinh tế đạt giá trị ở mức thấp hơn
7,5/10. Và khi mức độ tự do kinh tế vượt qua điểm này thì hệ số hồi quy
của biến tương tác chuyển sang mang dấu dương.
Từ kết quả phân tích định lượng cho thấy chất lượng thể chế có vai trò
quan trọng đối với việc kiểm soát các hoạt động tham nhũng. Điều này
khẳng định việc mở rộng chất lượng khung thể chế sẽ giúp bài trừ nạn
tham nhũng tại các quốc gia khảo sát.
130
Như vậy, kết quả này đã đưa ra bằng chứng rõ ràng về tác động của
chất lượng thể chế đến mức độ tham nhũng để trả lời cho câu hỏi
nghiên cứu thứ hai của luận án.
5.2. Kết quả kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham
nhũng
5.2.1. Phân tích kết quả
Bài viết sử dụng kiểm định Hausman (1978) để lựa chọn giữa mô hình hiệu
ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên của các yếu tố không quan sát được.
Thực chất, kiểm định Hausman là xem xét có tồn tại sự tương quan giữa
thành phần sai số và các biến giải thích hay không. Nếu kiểm định
Hausman cho một kết quả có ý nghĩa thì mô hình FEM phù hợp hơn so với
mô hình REM. Kết quả cột 1 và cột 2 cho thấy xác suất bác bỏ giả thuyết
H0 với mức ý nghĩa 5%, nghĩa là các thành phần sai số có tương quan với
biến giải thích. Do đó mô hình FEM là thích hợp để phân tích cho nghiên
cứu này. Tuy nhiên, khi thực hiện kiểm định phương sai thay đổi giữa các
đơn vị chéo và tự tương quan giữa các quan sát trong cùng đơn vị cho thấy
mô hình hiệu ứng cố định xảy ra các hiện tượng này. Vì vậy, luận án tiếp
tục thực hiện các ước lượng bằng phương pháp GLS.
Để kiểm định có tồn tại hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng
tại các quốc gia chuyển đổi hay không, luận án tiến hành thực nghiệm dựa
theo nguyên tắc thử và sai của hàm đa thức bằng cách thêm các biến bậc
hai và bậc ba vào trong mô hình và được thực hiện theo trình tự sau:
- Bước 1, chạy hồi quy đối với phương trình tuyến tính;
- Bước 2, chạy hồi quy đối với phương trình phi tuyến bậc 2;
- Bước 3, chạy hồi quy đối với phương trình phi tuyến bậc 3.
Kết quả thực nghiệm được thể hiện như sau:
131
Cột 1 và cột 4 thể hiện kết quả mô hình tuyến tính bằng phương pháp FEM và GLS, cột 2 và
cột 5 thể hiện kết quả mô hình phi tuyến bậc 2 bằng phương pháp FEM và GLS, cột 3 và cột 6
thể hiện kết quả mô hình phi tuyến bậc 3 bằng phương pháp FEM và GLS. Tuy nhiên, mô hình
phi tuyến bậc 3 không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 5.8 : Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
Biến
FEM
FEM
FEM
GLS
GLS
GLS
Ln_gdppc
2.5907***
0.5335
-0.5430***
2.3429**
-5.2435
Ln_gdppc^2
-1.0373***
0.0989
-0.4942***
2.1451
Ln_gdppc^3
-0.6031***
-0.079
-0.3025
demo
-0.0785**
-0.0686**
-0.0685**
-0.1189***
-0.1184***
-0.1190***
ecofree
-0.0996**
-0.0784*
-0.0790*
-0.0067**
-0.0025*
-0.0037
school
-0.003
-0.0056***
-0.0054**
-0.0006
-0.0008
-0.0006
unemploy
-0.0065**
-0.0067**
-0.0067**
-0.0038*
-0.0041*
-0.0043*
inflation
0.0104***
0.0038**
0.0043**
0.0042**
0.0103***
0.0103***
legal
-0.0445**
-0.0481*
-0.0462
constant
5.3663***
12.6463
10.4066***
7.336
9.5917*** 0,0000
5.4891*** 0,0000
0,0000
Wald test (p-
value)
Quan sát
598
598
598
598
598
598
Quốc gia
46
46
46
46
46
46
Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Trước tiên, tác giả tập trung phân tích mối quan hệ tuyến tính giữa thu
nhập và tham nhũng ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi của phương
trình (1). Kết quả ước lượng hệ số hồi quy của phương trình tuyến tính
được trình bày ở cột (1) của Bảng 5.8. Hệ số hồi quy của biến ln_gdppc
mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả này hỗ trợ cho giả
thuyết kinh tế quốc gia tăng lên sẽ làm giảm tham nhũng, do đó thu nhập
tăng lên cũng kiềm hãm mức độ tham nhũng. Nghèo đói tạo ra động cơ tiêu
cực ở các quan chức nhà nước, các doanh nhân và các hộ gia đình. Đối với
các quan chức nhà nước, động cơ vòi tiền tham nhũng là rất cao vì họ nhận
được đồng lương thấp và đôi khi còn phải đối mặt với nhiều nguy cơ đau
132
ốm, tai nạn và thất nghiệp. Đối với doanh nhân, động cơ theo đuổi lợi
nhuận thông qua tham nhũng là rất cao vì họ khan hiếm vốn, người lao
động có kỹ năng thấp, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa thấp và các điều kiện
khác đã làm giảm cơ hội tiến bước trên thị trường (Johnston, 1993). Đối
với hộ gia đình, động cơ chi tiền hối lộ là rất lớn vì hàng hóa và dịch vụ
khan hiếm cũng như các nhu cầu thiết yếu khác không được thỏa mãn. Số
liệu thực tế cho thấy trong giai đoạn khảo sát một số quốc gia có thu nhập
tăng lên rất nhanh và tình trạng tham nhũng giảm xuống đáng kể. Ví dụ
trường hợp ở Ghana, thu nhập bình quân ở Ghana vào năm 2002 chỉ ở mức
312 USD trong khi đó chỉ số tham nhũng là 6,1. Nhưng đến năm 2014, thu
nhập bình quân của quốc gia này tăng lên 1.646 USD và chỉ số tham nhũng
giảm xuống chỉ còn 5,5. Tương tự, thu nhập bình quân ở Ấn Độ trong giai
đoạn nghiên cứu tăng gần 210% (từ 486 USD lên 1.503 USD) và chỉ số
tham nhũng giảm từ 7,3 xuống còn 6,4.
Kết quả thực nghiệm mối quan hệ phi tuyến thể hiện ở cột 2 và cột 3. Kết
quả ước lượng của mô hình FEM (cột 2) ghi nhận sự tồn tại của mối quan
hệ phi tuyến giữa thu nhập bình quân và tham nhũng dưới dạng hình chữ U
ngược. Lý thuyết hình chữ U ngược ngụ ý mức độ tham nhũng tăng lên
trong giai đoạn đầu nhưng sau đó giảm khi thu nhập bình quân đầu người ở
các quốc gia tăng lên. Hệ số hồi quy của biến ln_gdppc mang dấu dương,
biến ln_gdppc bình phương mang dấu âm và đều có ý nghĩa thống kê trong
mô hình FEM và GLS (cột 2 và cột 5) cho thấy tồn tại hiệu ứng phi tuyến
giữa thu nhập và tham nhũng. Điều này cho biết tham nhũng tăng trong
giai đoạn thu nhập bình quân thấp và giảm khi thu nhập bình quân ở các
quốc gia chuyển đổi tăng lên. Kết quả thực nghiệm một lần nữa khẳng định
lý thuyết về hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng là thật sự tồn
tại (Dzhumashev, 2014). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả thực
nghiệm của Saha & ctg (2013). Tuy nhiên, nghiên cứu của Saha & ctg
133
(2013) thực hiện cho 100 quốc gia bao gồm quốc gia có thu nhập thấp,
trung bình và cao trong giai đoạn 1995 – 2008. Từ đó, Saha & ctg (2013)
đã kết luận điểm ngưỡng (điểm chuyển) của mối quan hệ parabol này là
mức giá trị 7 và được tính theo công thức:
| ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐 = |𝛿1 2𝛿2⁄
Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này cho thấy hệ số hồi quy của biến
ln_gdppc bằng 2,59 và của biến ln_gdppc^2 bằng -0,60. Từ đó, ta tính ra
giá trị điểm ngưỡng ở vào khoảng 2,16. Nghĩa là nhỏ hơn rất nhiều so với
phát hiện của Saha & ctg (2013). Điều này cho thấy điểm ngưỡng để
chuyển từ tham nhũng cao sang tham nhũng thấp của các quốc gia chuyển
đổi thấp hơn mức trung bình chung của các quốc gia trên thế giới theo
nghiên cứu của Saha & ctg (2013).
Biểu đồ 5.10: Mối quan hệ phi tuyến giữa tham nhũng và thu nhập
Nguồn: tính toán của tác giả
134
Biểu đồ 5.10 cho thấy mối quan hệ giữa tham nhũng và thu nhập là một
đường cong parabol (hình chữ U ngược). Nhìn vào biểu đồ ta thấy tham
nhũng có khuynh hướng tăng trong giai đoạn đầu khi giá trị logarit của thu
nhập thấp dưới giá trị 2. Nhưng khi giá trị này tăng lên thì tham nhũng có
khuynh hướng giảm xuống. Biểu đồ này một lần nữa cho thấy mối quan hệ
phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng là thật sự có tồn tại.
5.2.2. Kiểm tra tính vững
Trong phần này, luận án tiếp tục thực hiện kiểm định mô hình bằng
phương pháp ước lượng sử dụng biến công cụ. Tuy nhiên, do phương trình
phi tuyến bậc 3 không có ý nghĩa thống kê cho phương pháp ước lượng
FEM và GLS nên phần này luận án chỉ kiểm định tính vững cho mô hình
tuyến tính và mô hình phi tuyến bậc 2.
Bảng 5.9: Kết quả hồi quy các biến bằng phương pháp 2SLS
(5)
(6)
Biến
2SLS
2SLS
2,7021**
Ln_gdppc
-0,6672***
-0,5718***
Ln_gdppc^2
-0,1230***
demo
-0,0980***
-0,2626***
eco_free
-0,2101***
-0,0144
-0,011
unemploy
-0,0013
-0,0013
school
0,0101***
inflation
0,0095***
legal
-0,0645*
-0,0873*
10,8648***
constant
14,1532**
0,022**
0,012**
Davidson-MacKinnon
(p-value)
0.4835
0.1177
Sargan-Hansen (p-value)
598
598
Quan sát
46
46
Quốc gia
Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Tính toán của tác giả
135
Tương tự như phần trên, để kiểm tra mô hình có bị nội sinh và thật sự cần
dùng 2SLS, tác giả dựa vào đề xuất của Davidson & MacKinnon (1993)
cho dữ liệu bảng. Kiểm định Davidson & MacKinnon với giả thuyết H0
mô hình không xảy ra hiện tượng nội sinh. Kết quả kiểm định cột 5 và 6
cho thấy giá trị p-value bằng 0,0581 và 0,0120 nên ta bác bỏ giả thiết H0
(mức ý nghĩa 10% và 5%), nghĩa là mô hình có xảy ra hiện tượng nội sinh.
Vì vậy, sử dụng phương pháp 2SLS với các biến công cụ là phù hợp.
Để sử dụng phương pháp ước lượng 2SLS, tác giả sử dụng lại các biến
gồm khoảng cách địa lý của quốc gia với đường xích đạo (Gallup, 1999;
Treisman, 2000) và tuổi thọ trung bình (Sachs & Warner, 1997) để làm
biến công cụ cho biến thu nhập bình quân. Tính hợp lí của các biến công cụ
sử dụng trong phương pháp 2SLS được đánh giá thông qua thống kế
Sargan – Hansen. Kiểm đinh Sargan – Hansen xác định tính chất phù hợp
của biến công cụ dùng trong mô hình. Đây là kiểm định giới hạn nội sinh
của mô hình (overidentifying restrictions) với giả thuyết H0 biến công cụ
là biến ngoại sinh, nghĩa là không tương quan với sai số của mô hình. Vì
thế, giá trị Sargan càng lớn càng tốt. Kiểm định Sargan-Hansen cho thấy
các biến công cụ dự báo tốt cho biến thu nhập trong mô hình.
Kết quả ước lượng 2SLS tại cột (5) khẳng định lại vai trò của thu nhập
trong việc kiểm soát tham nhũng trong mô hình tuyến tính là thật sự có ý
nghĩa. Và cột (6) cũng cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và
tham nhũng là vững. Kết quả phân tích tính vững của ước lượng cung cấp
bằng chứng mạnh mẽ rằng thu nhập tăng lên sẽ giúp giảm tham nhũng tại
các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Như vậy, kết quả thực nghiệm này
đã đưa ra bằng chứng tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham
nhũng.
136
Kết quả thực nghiệm này cũng đã trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ
ba của đề tài đó là có tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và
tham nhũng hay không?
5.2. Kết quả kiểm định hiệu ứng chất bôi trơn của tham nhũng
5.3.1. Kiểm định giả thuyết hiệu ứng hội tụ
Mô hình Solow với tăng trưởng kinh tế dài hạn trên lao động được giải
thích bởi nâng cao hiệu quả lao động và bởi sự tăng trưởng của tỷ lệ vốn
trên lao động đã tạo nên khuôn khổ cho sự phát triển khái niệm “Năng suất
yếu tố tổng hợp, TFP”. Từ mô hình này, thuật ngữ “hội tụ có điều kiện”
cũng được phát triển và sử dụng rộng rãi. Các tính chất này được dựa trên
giả định về lợi tức giảm dần của vốn, do đó các nền kinh tế có tích lũy vốn
trên lao động thấp thường có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn do tỷ suất lợi
tức cao.
Phương pháp ước lượng thường được sử dụng để đánh giá các yếu tố tác
động đến tăng trưởng là ước lượng đối với đơn vị chéo. Phương pháp này
được ứng dụng đầu tiên bởi Mankiw & ctg (1990) và được phát triển gần
đây bởi Rodrik & ctg (2004), Glaeser & ctg (2004) và Lee & Kim (2009).
Các nghiên cứu này lấy bình quân các biến thay đổi theo thời gian qua các
năm. Khi đó, phương pháp OLS được sử dụng để ước lượng cho mô hình
tăng trưởng. Phương pháp này có ưu điểm là nó cho phép ước lượng các hệ
số dựa trên các biến không thay đổi theo thời gian. Biến phụ thuộc được
tính bằng cách lấy GDP per capita năm cuối giai đoạn khảo sát trừ cho
GDP per capita năm đầu tiên. Hiệu ứng hội tụ xảy ra khi hệ số hồi quy của
biến GDP per capita tại năm đầu tiên của giai đoạn khảo sát mang dấu âm.
Kết quả ước lượng như sau:
137
Biến phụ thuộc là ln_gdppc, biến initial_gdppc là thu nhập bình quân đầu giai đoạn khảo sát,
cột 1 thể hiện kết quả hồi quy khi chưa vào mô hình các biến kiểm soát, cột 2 thể hiện kết quả
hồi quy khi đưa vào mô hình các biến kiểm soát.
Bảng 5.10: Kết quả kiểm định hiệu ứng hội tụ
(1)
(2)
Biến
OLS
OLS
initial_gdppc
-0,0001
-0,00012*
invest
0,0064
popg
-0,0834**
top
0,0006
school
-0,0016
eco_free
0,0349
demo
0,0051
cor
0,0313
Gov_Ex
-0,003
Constant
0,4842 ***
0,2406
Quan sát
46
46
R2
0,013
0,3559
Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Tính toán tác giả
Hệ số hồi quy của biến gdppc đầu giai đoạn khảo sát (năm 2002) mang dấu
âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 10% cho thấy tồn tại hiệu ứng hội tụ tại
các quốc gia khảo sát. Nghĩa là các quốc gia có GDP ban đầu cao sẽ có tốc
độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, trong khi đó các quốc gia có GDP ban đầu
thấp sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, do đó các quốc gia có thu
nhập thấp vẫn có khả năng bắt kịp các quốc gia có thu nhập cao hơn. Như
vậy, Kết quả thực nghiệm cho thấy có tồn tại hiệu ứng hội tụ tại các quốc
gia chuyển đồi và kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả thực nghiệm
của Lee & Kim (2009).
138
5.3.2. Kết quả thực nghiệm mô hình cơ sở
Như tác giả đã đề cập trong phần các bước phân tích dữ liệu, để lựa chọn
phương pháp ước lượng phù hợp cho dữ liệu bảng, luận án tiến hành kiểm định
Hausman và kết quả cho thấy giá trị P_value là nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%. Vì
vậy, phương pháp ước lượng phù hợp là phương pháp hiệu ứng cố định. Tuy
nhiên, sau khi chạy mô hình hình hiệu ứng cố định (FEM), luận án thực hiện
các kiểm định chuẩn đoán sự phù hợp cho mô hình, kết quả kiểm định phương
sai thay đổi cũng cho giá trị P_value nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%, nghĩa là mô
hình bị xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Do đó, để khắc phục hiện tượng
không đồng nhất phương sai giữa các đơn vị chéo và khả năng xảy ra tự tương
quan giữa các quan sát của từng quốc gia, nghiên cứu sử dụng phương pháp
ước lượng GLS để ước lượng các hệ số hồi quy của mô hình. Kết quả như sau:
Biến phụ thuộc ln_gdppc, cột 1 kết quả hồi quy khi chưa đưa biến tương tác vào mô hình, cột 2
kết quả hồi quy khi đưa biến tương tác giữa demo và cor, cột 3 kết quả hồi quy khi đưa biến
tương tác giữa eco_free và cor.
Bảng 5.11: Kết quả hồi quy giữa các biến bằng phương pháp GLS
(1)
(2)
(3)
Biến
GLS
GLS
GLS
-0.0405*** 0.0144** 0.0097* 0.0021*** 0.0023*** -0.1315*** -0.0001 -0.0038**
0.0461*** 0.0132* 0.0162** 0.0021*** 0.0023*** -0.1329*** -0.0001 -0.0037** -0.0011**
0.0307** 0.0223** -0.0079 0.0021*** 0.0023*** -0.1327*** -0.0001 -0.0037** -0.0013*
cor demo ecofree school inv pop top Gov_Ex demo*cor cco*cor Constant
3.2582*** 0,0000
3.2987*** 0,0000
3.1856*** 0,0000
Wald test (p-value)
598
598
598
Quan sát
46
46
46
Quốc gia
Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Tính toán tác giả
139
Bảng 5.11 thể hiện kết quả hồi quy sự tác động của tham nhũng đến tăng
trưởng kinh tế. Trong trường hợp tác giả kiểm soát khung thể chế (biến dân
chủ và biến tự do kinh tế) và các yếu tố kinh tế xã hội (cột 1), hệ số của
biến cor mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả này lần
nữa khẳng định tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng. Điều này cũng đã
được phát hiện trong các nghiên cứu của Heckelman (2008), Meon (2005)
và Tanzi (1997). Kết quả này phản ánh đúng thực trạng hiện nay tại các
quốc gia có thu nhập thấp. Số liệu thực tế đã cho thấy các quốc gia có thu
nhập rất thấp trong mẫu khảo sát nhưng chỉ số tham nhũng lại ở mức cao
như là Cambodia, Chad, Burundi. Như vậy, nếu chỉ xét đến tác động độc
lập của tham nhũng lên tăng trưởng thì kết quả thực nghiệm ủng hộ cho giả
thuyết “Grabbing hand” của tham nhũng. Điều tra của Mauro (1997) về
hơn 100 quốc gia đã đưa ra đánh giá định lượng về ảnh hưởng này. Tác giả
kết luận rằng nếu một quốc gia tăng điểm số chống tham nhũng của nó
thêm 2,38 điểm trên thang điểm 10 thì tốc độ tăng trưởng tổng thu nhâp
quốc nội sẽ tăng hơn 0,5%.
Tham nhũng có thể làm suy yếu tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh.
Các chính sách sai lầm, các tiến trình không được dự báo và chi tiêu công
bị bóp méo đều làm tổn hại đến phát triển kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng tiêu
cực đến quyền sở hữu tài sản, giảm cạnh tranh, phân bổ nguồn lực không
hiệu quả, làm giảm cho cơ sở hạ tầng bị xuống cấp và làm giảm chi tiêu
cho giáo dục (Murphy & ctg, 1990). Người nghèo sẽ là những người phải
gánh chịu nhiều nhất khi có tham nhũng. Như đã nhấn mạnh trong nghiên
cứu của (De Soto, 2000), tiền hối lộ mà quan chức nhà nước yêu cầu là đại
diện các loại thuế có hại cho doanh nghiệp vì chúng chiếm tỷ trọng lớn hơn
trong thu nhập của các doanh nghiệp nhỏ khi so với các doanh nghiệp lớn.
Ngoài ra, tham nhũng còn hủy hoại hoạt động cung cấp các dịch vụ công,
chẳng hạn như chăm sóc y tế và giáo dục, là những dịch vụ rất quan trọng
140
đối với cuộc sống của người nghèo. Tại những nơi mà quan chức đòi hối lộ
để cung cấp dịch vụ, người nghèo thậm chí sẽ không được tiếp cận ngay cả
các dịch vụ chất lượng thấp.
Biểu đồ 5.11: Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế
Nguồn: tính toán của tác giả
Biểu đồ 5.11 cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa thu nhập và tham
nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Tham nhũng tác động lên tăng trưởng
kinh tế theo nhiều cách thức. Ở cấp độ vi mô, nhiều bằng chứng thực
nghiệm cho thấy tham nhũng làm giảm hiệu quả trong việc phân bổ và sử
dụng các yếu tố sản xuất (Dal Bó & Rossi, 2007). Ở cấp độ vĩ mô, tham
nhũng đã được chứng minh có ảnh hưởng tiêu cực đến GDP bình quân đầu
người và tăng trưởng (Ades & Di Tella, 1999; Mauro, 1997). Số liệu thực
tế cũng đã cho thấy các quốc gia có mức độ tham nhũng cao thường có tốc
độc tăng trưởng thấp.
141
Bên cạnh đó, kết quả cột 1 cũng cho thấy hệ số hồi quy của biến demo và
eco_free mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy chất
lượng thế chế tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Phát hiện này cho
thấy vai trò quan trọng của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng đặc biệt
là các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi (Heckelman, 2008; Lee et al.,
2008). Như đã đề cập, các quốc gia chuyển đổi có mức độ dân chủ thấp và
tự do kinh tế chưa cao, việc mở rộng mức độ dân chủ và đẩy mạnh chính
sách cải cách để tiến đến một nền kinh tế tự do mang lại lợi ích rất nhiều
trong việc thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện thu nhập ở các quốc gia này.
Biểu đồ 5.12: Tác động của tự do kinh tế đến tăng trưởng
Nguồn: tính toán của tác giả
142
Biểu đồ 5.13: Tác động của dân chủ đến tăng trưởng
Nguồn: tính toán của tác giả
Biểu đồ 5.12 và 5.13 cho thấy tồn tại mối quan hệ thuận chiều giữa chất
lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi. Nghiên
cứu của Kaufmann & Kraay (2002) cũng đã tìm thấy mối tương quan mạnh
mẽ và tích cực giữa thu nhập bình quân đầu người và chất lượng thể chế
công. Số liệu thực tế cũng đã cho thấy các quốc gia có thu nhập bình quân
cao như El Savador, Georgia, Paraguay… đều có thu nhập trung bình trên
mức 3.000 USD và có chỉ số tự do kinh tế và tự do dân chủ trên mức
6,5/10. (Rivera‐Batiz, 2002) cho rằng thể chế cải thiện dân chủ giúp thúc
đẩy tăng trưởng thông qua các hành động hạn chế quan chức tham nhũng.
Nghiên cứu thực nghiệm của ông cho thấy dân chủ là một yếu tố quan
trọng kích thích sự thay đổi công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra,
Campos & Nugent (1999) sử dụng các phương pháp riêng để xác định mức
độ quy định của pháp luật và ổn định chính trị tác động đến GDP. Nghiên
cứu kết luận quy định của pháp luật và ổn định chính trị là cần thiết để đảm
143
bảo hệ thống pháp lý trong sạch nhằm loại bỏ những trở ngịa trong việc thu
hút đầu tư nước ngoài và góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Kết quả thực nghiệm cho thấy tỷ lệ đầu tư có tác động tích cực đến tăng
trưởng của quốc gia với mức ý nghĩa cao. Kết quả này lần nữa khẳng định
vai trò quan trọng của yếu tố vốn vật chất trong các mô hình tăng trưởng đã
được đề cập trong nhiều nghiên cứu trước đây. Điều này cho thấy tăng
trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi vẫn phụ thuộc vào tăng trưởng
vốn. Kết quả này phản ánh đúng thực trạng hiện nay về trình độ phát triển
và khả năng ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn hạn chế tại các
nền kinh tế này. Kết quả này phù hợp với kết quả thực nghiệm trong tất cả
bốn giai đoạn khảo sát của Ekanayake & Chatrna (2010).
Biểu đồ 5.14: Tác động của đầu tư đến tăng trưởng
Nguồn: tính toán của tác giả
Ngoài ra, kết quả thực nghiệm cũng cho thấy hệ số hồi quy của biến trình
độ dân trí mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở mức cao (mức 1%).
Điều này cho thấy trình độ dân trí tác động tích cực đối với tăng trưởng
144
kinh tế. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mô hình lý thuyết của hàm
Cobb-Douglass về vai trò của nguồn vốn con người. Kết quả nghiên cứu
này tiếp tục khẳng định vai trò của nguồn nhân lực có trình độ tri thức đối
với công cuộc phát triển đất nước, nhất là các nước đang chuyển đổi.
Biểu đồ 5.15: Tác động của trình độ dân trí đến tăng trưởng
Nguồn: tính toán của tác giả
Hệ số hồi quy của biến popg mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê. Nghĩa
là tốc độ gia tăng dân số ở các quốc gia chuyển đổi tác động tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế. Kết quả này hàm ý tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia
chuyển đổi không phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng vốn lao động. Ngược
lại, tốc độ gia tăng dân số gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế ở
các quốc gia này. Điều này có thể được lý giải là do tỷ lệ thất nghiệp tại
các quốc gia này hiện ở mức khá cao (trung bình chiếm tỷ lệ 8,15% dân
số), do đó việc bổ sung thêm nguồn lực lao động không có ý nghĩa cho
tăng trưởng mà đôi khi trở thành áp lực về mặt kinh tế xã hội.
145
Biểu đồ 5.16: Tác động của tốc độ tăng dân số đến tăng trưởng
Nguồn: tính toán của tác giả
Biến Gov_Ex có ý nghĩa thống kê và mang dấu âm. Điều này cho thấy chi
tiêu công tác động tiêu cực đối với tăng trưởng tại các quốc gia khảo sát.
Một quốc gia nếu có mức chi tiêu công vừa phải cùng với việc chính phủ
thực hiện kiểm soát chi tiêu công hiệu quả sẽ góp phần tạo các hiệu ứng
tích cực thúc đẩy tăng trưởng. Nhưng ngược lại, nếu việc kiểm soát chi tiêu
công không hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí, nguồn lực tài chính
quốc gia được phân bổ vào các lĩnh vực không mang lại lợi ích cho xã hội,
cho cộng đồng sẽ gây ra các hiệu ứng tiêu cực đối với tăng trưởng. Các
quốc gia khảo sát mặt dù tỷ lệ chi tiêu công của chính phủ không cao so
với GDP nhưng trong bối cảnh tham nhũng cao và chất lượng thể chế còn
hạn chế thì khoản chi tiêu công này gây tác động tiêu cực cho tăng trưởng
cũng là điều khó tránh khỏi. Các nghiên cứu trước đây của Landau (1983),
Marlow (1988) và Fölster & Henrekson (2001) cũng cho thấy chi tiêu công
tác động tiêu cực đối với tăng trưởng.
146
Biểu đồ 5.17: Tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế
Nguồn: tính toán của tác giả
Cuối cùng, kết quả thực nghiệm cho thấy hệ số hồi quy của biến top không
có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, khi chúng tôi thực hiện với phương pháp
ước lượng GMM sai phân thì biến top tác động có ý nghĩa thống kê và
mang dấu dương. Điều này cũng đã được chứng minh trong rất nhiều các
nghiên cứu thực nghiệm trước đây về vai trò tích cực của độ mở thương
mại đối với tăng trưởng kinh tế.
Kết quả thực nghiệm của mô hình tuyến tính cơ bản đã trả lời được
câu hỏi nghiên cứu thứ tư của luận án “tham nhũng tác động như thế
nào đối với tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi?”
5.3.3. Kết quả thực nghiệm mô hình biến tương tác
Như vậy, kết quả thực nghiệm của luận án cũng đã ủng hộ cho giả thuyết
tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế và kết quả này cũng trùng
khớp với nhiều nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Tuy nhiên, luận án cho
147
rằng trong bối cảnh các quốc gia có chất lượng thể chế yếu kém, sự trì trệ
của bộ máy chính quyền và nền hành chính công sẽ gây cản trở tăng trưởng
kinh tế một cách nghiêm trọng hơn. Và trong bối cảnh đó, đại diện khu vực
tư muốn tham gia hoạt động kinh doanh tại các thị trường này thì phải chấp
nhận các khoản đút lót cho giới công chức, đặc biệt là những người nắm
quyền trong khu vực công. Khi đó, tham nhũng cũng có thể đóng vai trò là
“Helping Hand” (bàn tay giúp đỡ) bởi nó góp phần “bôi trơn” bánh xe
thương mại ở quốc gia có thể chế còn mang nặng tính hành chính. Do đó,
kết quả thực nghiệm này kỳ vọng rằng các khoản đút lót sẽ giúp các doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tiết kiệm được
chi phí hành chính, tiết kiệm thời gian chờ đợi và tận dụng các ưu đãi về
mặt chính sách trong bối cảnh chất lượng khung thể chế còn nhiều hạn chế
tại các quốc gia này (Heckelman & Powell, 2010).
Chính vì lý do trên, luận án xác định mục tiêu trọng tâm là kiểm định vai
trò chất bôi trơn của tham nhũng đối với tăng trưởng trong điều kiện chất
lượng thể chế yếu kém của các quốc gia chuyển đổi. Để đạt được mục tiêu
này, luận án đã lần lượt thêm vào mô hình biến tương tác giữa tham nhũng
và biến đại diện cho chất lượng thể chế chính trị và kết quả được thể hiện
tại cột 2 của Bảng 5.11. Sau đó, luận án tiếp tục thêm vào mô hình biến
tương tác giữa tham nhũng và biến đại diện cho chất lượng thể chế kinh tế
và kết quả được thể hiện tại cột 3 của Bảng 5.11.
Cột 2 thể hiện kết quả hồi quy khi thêm vào mô hình biến tương tác giữa
tham nhũng và dân chủ (thể chế chính trị). Khi đó, biến tham nhũng có tác
động tích cực đến tăng trưởng ở mức ý nghĩa 10%. Trong khi đó, hệ số hồi
quy của biến tương tác demo*cor mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở
mức 1%, nghĩa là tham nhũng trở nên tiêu cực cho tăng trưởng ở các quốc
gia có chỉ số dân chủ cao (chất lượng thể chế được cải thiện). Kết quả này
148
khẳng định sự tồn tại của giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng lên tăng
trưởng khi chất lượng thể chế chính trị là thấp.
Biểu đồ 5.18: Hiệu ứng tương tác của dân chủ và tham nhũng lên
tăng trưởng
Nguồn: tính toán của tác giả
Tương tự, khi thêm vào mô hình biến tương tác eco*cor (cột 3) kết quả hồi
quy cũng cho thấy hệ số biến cor mang dấu dương và biến tương tác mang
dấu âm. Điều này có nghĩa là trong điều kiện mức độ tự do kinh tế thấp
tham nhũng sẽ trở thành chất bôi trơn giúp thúc đẩy tăng trưởng, nhưng khi
mức độ tự do kinh tế được cải thiện thì tham nhũng trở nên tiêu cực cho
tăng trưởng. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Venard (2013).
149
Biểu đồ 5.19: Hiệu ứng tương tác của tự do kinh tế và tham nhũng lên
tăng trưởng
Nguồn: tính toán của tác giả
Kết quả thực nghiệm trên cho thấy tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng
kinh tế nói chung. Tuy nhiên, trong điều kiện chất lượng thể chế tương đối
thấp, tham nhũng có thể giúp kích hoạt cơ chế vận hành của nền hành
chính và khắc phục các rào cản của chính sách và từ đó giúp thúc đẩy tăng
trưởng.
Kết quả thực nghiệm của mô hình biến tương tác này cũng đã trả lời
cho câu hỏi nghiên cứu thứ năm của luận án là “trong điều kiện chất
lượng thể chế kém tại các quốc gia chuyển đổi, tham nhũng có trở
thành chất bôi trơn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?”.
5.3.4. Phân tích tính vững bằng phương pháp D-GMM
Như đã phân tích trong phần phương pháp ước lượng, tham nhũng và tăng
trưởng có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Bên cạnh đó, các mô hình tăng
trưởng thường bao gồm các biến bị nội sinh. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng
150
cao sẽ dẫn đến tăng trưởng cao, sau đó khi tăng trưởng cao sẽ thúc đẩy đầu
tư nhiều hơn. Saha & Gounder (2013) nghi ngờ sự ngoại sinh của biến
tham nhũng khi việc đo lường biến này tương quan chặt chẽ và tăng mạnh
cùng với mức độ phát triển kinh tế. Điều này dẫn đến vấn đề đồng thời làm
cho các ước lượng GLS, 2SLS có thể bị chệch.
Như vậy, để xử lý vấn đề nội sinh và khả năng bị phương sai thay đổi của
sai số trong mô hình, nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng GMM
sai phân để kiểm định tính vững của ước lượng trên. Trước khi thể hiện kết
quả ước lượng, nghiên cứu kiểm tra xem có sự tồn tại của tự tương quan
bậc 2 của sai số và kiểm tra tính hợp lý của các biến công cụ. Kiểm định
Arellano-Bond cho thấy chấp nhận giả thuyết H0, nghĩa là sai số không bị
tự tương quan bậc 2. Kiểm định Hansen cũng cho thấy việc sử dụng các
biến công cụ trong ước lượng system GMM là có tính hiệu lực. Kết quả
được thể hiện trong Bảng 5.12.
151
Biến phụ thuộc ln_gdppc, cột 4 kết quả hồi quy khi chưa đưa biến tương tác vào mô hình, cột 5
kết quả hồi quy khi đưa biến tương tác giữa demo và cor, cột 6 kết quả hồi quy khi đưa biến
tương tác giữa eco_free và cor.
Bảng 5.12: Kết quả hồi quy các biến bằng phương pháp D-GMM
(4)
(5)
(6)
Biến
D-GMM
D-GMM
D-GMM
0,9482*** 0,0034** 0,0115*** 0,0160** 0,0004 -0,0092 0,0027* 0,0016*** -0,0155***
0,9317*** 0,0179** 0,0193* 0,0135** 0,0005 -0,0125 0,0058*** 0,0075*** -0,0232***
Ln_gdp(-1) cor demo eco_free school popg top invest Gov_Ex demo*cor
0,9398*** -0,0008* 0,0107** 0,0130** 0,0005 -0,0063 0,0033* 0,0016** -0,0207***
eco*cor
-0,0005*
AR(2)
0,715
0,310
-0,002* 0,423
Sargan test
0.273
0.714
0.317
Quan sát
506
506
506
Quốc gia
46
46
46
Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Tính toán tác giả
Cột 4 cho thấy dấu của các biến cor, demo, eco_free, invest, popg, top,
school và Gov_Ex đều không thay đổi. Điều này cho thấy kết quả thực
nghiệm sự tác động của các biến này đến tăng trưởng là vững.
Cột 5 và cột 6 thể hiện kết quả hồi quy D-GMM khi thêm biến tương tác
demo*cor và eco*cor, kết quả cho thấy dấu của các hệ số hồi quy của các
biến cor, demo, ecofree, demo*cor và eco*cor là tương tự kết quả trên cột
2, cột 3 của Bảng 5.12. Vì vậy, sự tác động của các biến này là vững.
152
Kết luận chương 5
Chương này đã trình bày kết quả thực nghiệm các yếu tố tác động đến mức
độ tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Kết quả cho thấy cả chất lượng
thể chính trị lẫn thể chế kinh tế đều có vai trò quan trọng trong việc kiểm
soát tham nhũng. Cụ thể, việc tăng cường chất lượng thể chế thông qua
việc mở rộng chỉ số tự do kinh tế và tự do dân chủ sẽ giúp giảm tham
nhũng tại các quốc gia này. Ngoài ra, kết quả phân tích mô hình biến tương
tác cũng cho thấy chất lượng thể chế chính trị và chất lượng thể chế kinh
tế có vai trò tương hỗ lẫn nhau trong việc bài trừ nạn tham nhũng, tuy
nhiên, mức ngưỡng của các tác động là không giống nhau.
Bên cạnh đó, một phát hiện thú vị của nghiên cứu này là tồn tại mối quan
hệ hình chữ U ngược giữa thu nhập và tham nhũng. Đây là một phát hiện
mới và khác với các nghiên cứu trước đây. Các nghiên cứu trước đây chỉ
quan tâm đến mối quan hệ tuyến tính nghịch giữa thu nhập và tham nhũng,
nghĩa là cải thiện thu nhập sẽ giúp hạn chế tham nhũng một cách tích cực.
Tuy nhiên, kết quả thực nghiệm cho thấy giai đoạn đầu của sự phát triển,
thu nhập người dân tăng lên lại thúc đẩy hoạt động tham nhũng nhiều hơn
tại các quốc gia chuyển đổi. Sau đó, khi nền kinh tế đi vào giai đoạn phát
triển ổn định thu nhập tăng lên làm giảm tham nhũng đáng kể.
Chương 5 cũng đã thể hiện kết quả thực nghiệm sự tác động của tham
nhũng đến tăng trưởng kinh tế dưới vai trò của chất lượng khung thể chế.
Nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy vai trò tích cực của tham nhũng trong
điều kiện chất lượng thể chế kém tại các quốc gia chuyển đổi. Khi đó, tham
nhũng trở thành chất bôi trơn góp phần thúc đẩy sự vận hành của nền hành
chính trì trệ và giảm thiểu các trở ngại bị gây ra bởi giới công chức từ đó
giúp cải thiện tăng trưởng.
153
CHƯƠNG 6
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Giới thiệu
Tham nhũng vẫn còn là một vấn đề nghiêm trọng ở các quốc gia đang
chuyển đổi. Mặc dù kết quả thực nghiệm cho thấy có tồn tại hiệu ứng chất
bôi trơn của tham nhũng, nhưng tác giả tin rằng vẫn tồn tại một bộ phận
lớn công chúng cảm thấy quan ngại về tham nhũng. Theo kết quả khảo sát
của Worldbank về góc nhìn tham nhũng năm 2013 tại Việt Nam, có ít nhất
một phần ba tổng số người được hỏi coi tham nhũng là một trong ba vấn đề
nghiêm trọng nhất mà nước ta đang phải đối mặt (WorldBank, 2013). Các
khuyến nghị dưới đây được rút ra trực tiếp từ các phát hiện của kết quả
thực nghiệm, từ việc xác định yếu tố tác động đến phân tích giải pháp cần
thiết để kiểm soát các hành vi tham nhũng của giới công chức.
Trong phần này, luận án bắt đầu từ việc tóm lược các phát hiện chính của
kết quả thực nghiệm. Sau đó, luận án đưa ra những khuyến nghị liên quan
đến chất lượng thể chế và những thay đổi về luật pháp và quy định nhằm
bài trừ nạn tham nhũng. Cuối cùng, luận án chuyển sang các giải pháp
nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế theo xu hướng tạo lập môi trường đầu tư
thông thoáng, minh bạch và không có tham nhũng.
6.1. Các phát hiện chính của nghiên cứu
Mục tiêu thứ nhất của nghiên cứu này là khảo sát các yếu tố tác động đến
tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Với bộ dữ liệu thu thập giai đoạn
2002-2012 và ứng dụng các phương pháp ước lượng FEM, GLS và 2SLS
dành cho dữ liệu bảng, kết quả thực nghiệm cho thấy tự do kinh tế và dân
chủ là hai tố quan trọng đại diện cho chất lượng thể chế của quốc gia trong
154
việc kiểm soát tham nhũng, nghĩa là việc thiết kế khung thể hướng đến một
nền kinh tế tự do và mở rộng nền dân chủ của quốc gia có tác động tích cực
đến việc bài trừ vấn nạn tham nhũng tại các quốc gia. Hai yếu tố này cùng
tồn tại và bổ trợ cho nhau trong việc chống tham nhũng. Khi một nền kinh
tế thiếu dân chủ thì việc cải thiện tự do kinh tế sẽ giúp bài trừ tham nhũng
hiệu quả. Ngược lại, việc mở rộng mức độ dân chủ cũng giúp chống tham
nhũng tại các nền kinh tế còn thiếu môi trường kinh doanh thông thoáng và
minh bạch (tự do kinh tế thấp). Bên cạnh đó, kết quả thực nghiệm cũng cho
thấy việc kiểm soát lạm phát và các quốc gia có nguồn gốc pháp lý từ Anh
cũng sẽ giúp hạn chế tình trạng tham nhũng tại các quốc gia khảo sát. Cuối
cùng, hệ số hồi quy của biến tỷ lệ thất nghiệp có tác động âm và có ý nghĩa
thống kê trong các kết quả ước lượng.
Mục tiêu thứ hai của nghiên cứu này là khám phá sự tồn tại mối quan hệ
phi tuyến giữa thu nhập và mức độ tham nhũng ở các quốc gia có nền kinh
tế chuyển đổi, tác giả tiến hành phân tích hồi quy sự tác động của thu nhập
bình quân đầu người cùng với khung thể chế và yếu tố kinh tế xã hội đến
tham nhũng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cải thiện thu nhập có tác
động tích cực trong việc kiểm soát và chống tham nhũng tại các quốc gia
khảo sát. Tuy nhiên, mối quan hệ này là phi tuyến, nghĩa là giai đoạn đầu
của sự phát triển sẽ làm tăng tham nhũng tại các quốc gia có nền kinh tế
chuyển đổi nhưng sau đó khi nền kinh tế đi vào giai đoạn phát triển ổn định
sẽ làm giảm tham nhũng đáng kể.
Kiểm định vai trò chất bôi trơn của tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế
trong điều kiện chất lượng thể chế còn yếu kém cũng là mục tiêu cuối cùng
của nghiên cứu này. Kết quả thực nghiệm cho thấy tham nhũng có tác động
tích cực đối với tăng trưởng kinh tế bởi vì tham nhũng giúp khu vực tư
nhân tránh được các rào cản về mặt quản lý hành chính, thủ tục pháp lý
rườm rà và sự đình trệ của bộ máy công chức. Điều này cho thấy giả thuyết
155
về “speed money” hay “greases of the wheel” là có tồn tại ở các quốc gia
khảo sát.
6.2. Các gợi ý chính sách
6.2.1. Các giải pháp góp phần kiểm soát tham nhũng
Đấu tranh chống tham nhũng đòi hỏi phải giải quyết tận gốc những nguyên
nhân gây ra nó. Đặc biệt tại những nơi tham nhũng đã lan ra trên diện rộng
thì đấu tranh chống tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra và cưỡng
chế cho từng trường hợp thì chưa đủ. Nổ lực này cần hướng tới mục tiêu
giảm cơ hội thực hiện hành vi tham nhũng, tăng cạnh tranh trong nền kinh
tế, tăng cường minh bạch chính trị, tăng sự tham gia của xã hội dân sự vào
các quá trình hoạch định, thực thi và theo dõi thực thi chính sách.
Các nhà hoạch định chính sách cần xác định họ nên tập trung nỗ lực vào
các yếu tố dễ dàng thực hiện các chiến lược phòng chống tham nhũng, hay
tập trung nỗ lực vào những yếu tố dễ dàng dập tắt tham nhũng với kết quả
cao nhất, cho dù những nỗ lực này đòi hỏi phải tiến hành nhiều cuộc đàm
phán chính trị. Sẽ không có câu trả lời theo thông lệ. Chính phủ sẽ lựa chọn
yếu tố cần tập trung dựa trên nguồn lực và cam kết, và chỉ nên đưa ra câu
trả lời sau khi chẩn đoán tổng thể các yếu tố tác động đến tham nhũng. Từ
kết quả thực nghiệm trên cùng với giới hạn của phạm vi nghiên cứu các
yếu tố tác động đến tham nhũng, luận án đưa ra một số các giải pháp góp
phần kiểm soát hoạt động tham nhũng tại các quốc gia có nền kinh tế
chuyển đổi như sau:
Thứ nhất, các quốc gia cần xác định mục tiêu trọng tâm cho chiến lược
chống tham nhũng đó là cần thiết lập chất lượng khung thể chế hiệu quả.
Nó được thể hiện bằng việc cải thiện chỉ số tự do kinh tế nhằm tạo lập môi
trường kinh tế thông thoáng và minh bạch. Khi chỉ số tự do kinh tế được
cải thiện đồng nghĩa với việc một quốc gia có đáp ứng được tiêu chí về hệ
156
thống pháp luật và quyền sở hữu, xây dựng được đồng tiền lành mạnh, thể
hiện sự tự do thương mại quốc tế và các quy định rõ ràng sẽ giúp thu hút
đầu tư, tạo việc làm cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc mở rộng mức độ
dân chủ cũng là yếu tố quan trọng của chất lượng khung thể chế quốc gia.
Dân chủ ở đây được thể hiện thông qua cơ chế bầu cử tự do, công bằng và
tự do báo chí. Quyền tự do báo chí cho phép giới truyền thông có nhiều cơ
hội hơn để công khai, lên án những sai sót của các quan chức nhà nước
nhằm kỷ luật và ngăn chặn sự tái diễn về sau. Đưa chủ đề tham nhũng vào
trong môi trường giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm
trong toàn dân trong việc chống tham nhũng. Dẫu biết rằng việc cải cách
một hệ thống chính trị nhằm mang lại một nền dân chủ toàn diện hơn
không phải là điều dễ dàng và nhanh chóng, nhưng rõ ràng là nó rất cần
thiết và cấp bách trong việc giảm thiểu và bài trừ vấn nạn tham nhũng. Tác
giả cho rằng điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển
vì loại bỏ tham nhũng không chỉ là để duy trì đạo đức xã hội mà còn mở ra
nhiều cơ hội phát triển đất nước. Các yếu tố này sẽ giúp quốc gia ngăn
chặn và bài trừ tham nhũng hiệu quả. Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy:
những năm vừa qua, chính phủ đã thực hiện cơ chế cải cách nền hành
chính công hướng đến việc tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng.
Điều này đã đem lại những thành quả rất đáng tự hào: chỉ số tăng trưởng
kinh tế ở mức cao so với các quốc gia trong khu vực, thu hút vốn đầu tư
trong nước và nước ngoài ngày càng tăng, chỉ số năng lực cạnh tranh quốc
gia ngày càng được cải thiện… Tuy nhiên, theo số liệu tác giả thu thập
trong bài nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn 2002 – 2012 chỉ số cảm nhận
tham nhũng của Việt Nam lại có chiều hướng tăng cao, nếu năm 2002 chỉ
số CPI là 5.86 thì đến năm 2012 tăng lên đến 6.42. Mặc dù chỉ số tự do
kinh tế của Việt Nam ở mức khá cao trong nhóm các quốc gia khảo sát
(trung bình giai đoạn khoảng 7.5) nhưng mức độ dân chủ lại rất thấp (trung
bình giai đoạn khoảng 3.8). Vì vậy, quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng
157
chính phủ Việt Nam cần thiết mở rộng hơn nữa mức độ dân chủ thông qua
cơ chế bầu cử công bằng và tự do ngôn luận thì mới có thể bài trừ vấn nạn
tham nhũng hiệu quả.
Củng cố thể chế bầu cử có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc cải
cách thể chế
Ở cấp độ quốc gia, nếu luật bầu cử không hợp lý (hoặc nếu thực thi yếu
kém dù luật rất tốt), chi phí bầu cử có thể trở nên rất tốn kém, khiến cho
các nhà hoạt động chính trị phải tìm kiếm các nguồn tài trợ cho chiến dịch
vận động bầu cử. Điều này gây ra nhiều tác động tiêu cực ở cấp ngành
(WorldBank, 2008). Nhu cầu này thường được giải quyết bằng cách bóp
méo các chính sách, quy chế và quyết định số phân bổ ngân sách hàng
năm. Trong bối cảnh không có một hệ thống tuyển dụng và xét tuyển thăng
chức cho cán bộ dựa trên thành tích công việc, những nhân viên có năng
lực yếu kém vẫn có thể tìm được cách “chui” lên các vị trí cao hơn trong hệ
thống chính trị. Những nhân viên như vậy thường trở thành đàn em dưới
trướng các ông chủ hoạt động chính trị và sẽ là người trực tiếp thu xếp
những vụ thông thầu hay các mạng lưới tham nhũng. Nói tóm lại, các thể
chế bầu cử yếu kém có thể khuyến khích sự chi phối nhà nước là hiện
tượng hay xảy ra ở cấp ngành. Việc này sẽ thúc đẩy tham nhũng tại cấp cơ
quan và cấp dự án. Do đó, nếu muốn duy trì các nỗ lực để giảm tham
nhũng một cách đáng kể thì không thể không có những cải cách đối với cơ
chế bầu cử.
Về phía chính phủ, cần nhận thức đúng bản chất cũng như thấy được ý
nghĩa thực sự của việc thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ và cơ
quan quản lý nhà nước. Điều này được thể hiện thông qua việc chính phủ
và cơ quan quản lý nhà nước cung cấp, giải thích các thông tin về thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Vì thế, trách nhiệm giải trình được xem là
158
phương thức, công cụ để minh bạch hóa các quyết định, hành vi quản lý,
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, qua đó góp phần phòng
ngừa tham nhũng và giảm tệ quan liêu. Về pháp lý, trách nhiệm giải trình
của cơ quan nhà nước thường chỉ đặt ra khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết
định, hành vi của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, chúng tôi hàm ý sâu xa
hơn đó là thể hiện thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ công chức với tinh
thần “thân dân” và “gần dân” hơn. Làm được điều này không những góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham
nhũng mà còn nêu cao phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ công chức là luôn tôn
trọng nhân dân.
Về phía người dân, cần ràng buộc trách nhiệm cung cấp dịch vụ công.
Người dân cần ràng buộc chính phủ về trách nhiệm đối với các dịch vụ mà
chính phủ cung cấp, người dân cần có cơ hội lên tiếng và thể hiện mức độ
hài lòng của mình về chất lượng dịch vụ công. Nhằm nâng cao tính năng
động của người dân trong việc thực hiện sự giám sát chính phủ trong hoạt
động công thì thông tin đóng một vai trò quan trọng. Người dân nên phát
huy các phiếu trưng cầu ý kiến và sử dụng chúng như một cơ chế phản hồi
thông tin. Các phiếu trưng cầu ý kiến nên được sử dụng rộng rãi hơn và kết
quả của các cuộc điều tra cần được công bố đều đặn như một phần của quy
trình chia sẻ thông tin. Có như vậy thì vấn nạn tham nhũng mới được giải
quyết triệt để.
Thứ hai, cải thiện thu nhập của giới công chức nên được xem là một trong
những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Một trong những căn nguyên của bệnh
tham nhũng chính là thu nhập (Heckelman & Powell, 2010; Saha &
Gounder, 2013; Treisman, 2000). Trong mẫu khảo sát cho thấy tỷ lệ tham
nhũng luôn ở mức cao tại các quốc gia có thu nhập thấp. Ở các quốc gia
như Burundi, Chad, Guinea và Tajikistan, thu nhập bình quân chỉ ở mức
159
dưới 300 USD nhưng chỉ số tham nhũng là rất cao (từ 7.7 trở lên). Kết quả
hồi quy đã cho thấy thu nhập giúp hạn chế tình trạng tham nhũng một cách
có ý nghĩa thống kê. Như vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh các giải pháp để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, việc ưu tiên ngân sách thực hiện chính sách
cải cách lương trong khu vực công sẽ là giải pháp thiết thực trong việc
chống tham nhũng. Vì suy cho cùng, nạn tham nhũng xuất phát từ thu nhập
thấp trong khu vực công, và nhất là khi tiền lương khu vực công còn thấp
hơn so với thu nhập khu vực tư thì vấn nạn tham nhũng sẽ còn tiếp tục tái
diễn. Vì vậy, tác giả cho rằng việc thực hiện chính sách cải cách lương
nhằm giảm chênh lệch quá lớn tại các nền kinh tế này sẽ giúp hạn chế tình
trạng tham nhũng hiệu quả hơn. Chỉ số gdppc của Việt Nam trong mẫu
khảo sát tăng từ 477 USD năm 2002 lên 1.755 USD năm 2012, kèm theo
đó là Việt Nam liên tục thực hiện cải cách tiền lương khu vực công trong
giai đoạn này, năm 2002 mức lương tối thiểu là 290.000 đồng/tháng đã
tăng lên 1.050.000 đồng/tháng vào năm 2012. Tuy nhiên, tổng thu nhập mà
người lao động nhận được trong khu vực công được cho là còn thấp hơn rất
nhiều so với khu vực tư và nhất là khi so sánh với khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài. Chính sự chênh lệch này cũng được xem là nguyên nhân dẫn
đến chỉ số tham nhũng ở Việt Nam có chiều hướng ngày càng tăng. Vì vậy,
Việt Nam cần quan tâm hơn nữa trong cơ chế trả lương để nhằm giảm
chênh lệch thu nhập của công chức so với lao động làm việc khu vực tư.
Từ đó, công chức sẽ giảm việc gây khó khăn cho người dân để nhằm trục
lợi.
Bên cạnh cải cách thu nhập cho người lao động, việc tạo ra một môi trường
làm việc thuận lợi, khiến nhân viên phát triển được sự nghiệp sẽ đảm bảo
cho người lao động tiếp tục cam kết với cải cách. Báo cáo của Worldbank
(2008) cho thấy thật sai lầm nếu nhận định rằng tất cả giới công chức làm
việc trong khu vực công đều tham nhũng. Thông thường, người ta thấy
160
rằng nếu có một bộ phận nhỏ cán bộ, công chức tham nhũng đến mức
không thể cứu vãn được thì cũng có khoảng chừng ấy cán bộ, công chức
đấu tranh chống lại tham nhũng, đại đa số còn lại tỏ ra trung lập hoặc tham
nhũng một cách thụ động (Worldbank, 2008). Đó là những cán bộ, công
chức bằng lòng trong một cơ chế mà động cơ làm việc bị bóp méo, nơi mà
tham nhũng chẳng những không bị trừng trị mà còn được khuyến khích. Vì
vậy, cần triển khai một hệ thống khách quan và có sự tham gia để đánh giá
hiệu quả công việc, tổ chức các chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình
độ cho người lao động, thăng tiến dựa trên thành tích, động viên khen
thưởng cần gắn với hiệu quả làm việc. Một hệ thống minh bạch cần hạn
chế bớt sự tùy tiện của cấp quản lý khi quyết định luân chuyển cán bộ.
Việc làm này chắc chắn sẽ chặn đứng cơ hội phát sinh tham nhũng của giới
công chức trong khu vực công.
Thứ ba, khi nền kinh tế ở các quốc gia bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ
chuyển đổi, tham nhũng có xu hướng gia tăng do khu vực tư có xu hướng
đút lót nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho mình. Khi đó, một quốc gia
được thiết lập với khung thể chế chính trị hướng đến việc mở rộng nền dân
chủ thông qua bầu cử tự do và công bằng sẽ giúp ngăn chặn và loại trừ
tham nhũng hiệu quả hơn. Người dân cần được tự do thể hiện quyền được
lựa chọn người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt lên nắm quyền. Đồng
thời có quyền bỏ phiếu bãi nhiệm và thay thế khi người lãnh đạo không
hoàn thành trách nhiệm hoặc có hành vi làm dụng công quyền nhằm tư lợi.
Các quyền này sẽ là động lực để người dân giám sát các hoạt động của bộ
máy chính quyền và phản ảnh tình trạng tiêu cực trong quá trình thực thi
công quyền của các quan chức trong khu vực công. Điều này chắc chắn sẽ
giúp kiềm chế hoạt động tham nhũng hiệu quả. Từ đó, góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính khu vực công tạo
điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
161
Thứ tư, kết quả thực nghiệm cho thấy các quốc gia có hệ thống pháp luật
có nguồn gốc từ Anh hoặc là thuộc địa cũ của Anh sẽ ít tham nhũng hơn
các quốc gia khác. Kết luận này đã từng được đề cập trong nghiên cứu
“hình phạt và tội phạm” của Becker (1974). Điều này hàm ý các quốc gia
nên tăng cường hiệu lực của hệ thống thực thi pháp luật giúp phòng chống
tham nhũng hiệu quả. Tình trạng tham nhũng diễn ra phổ biến, dưới nhiều
hình thức và ngày càng trầm trọng tại một số quốc gia trong mẫu khảo sát
một phần là do luật pháp chưa đủ nghiêm minh.Tuy có nhiều nguyên nhân
gây ra tham nhũng, nhưng rõ ràng việc xử lý còn mang tính nương nhẹ
hoặc không xử lý nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe đối với các đối tượng
tham nhũng thì tình trạng tham nhũng sẽ còn diễn biến theo chiều hướng
tiêu cực và sẽ tạo tiền lệ xấu trong việc bài trừ nạn tham nhũng tại các quốc
gia này. Theo kết quả khảo sát của WorldBank (2013) cho thấy “khoảng
90% số người được hỏi trong cả ba nhóm người dân, doanh nghiệp và cán
bộ công chức đều cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến tham nhũng là
không xử lý nghiêm minh đối tượng tham nhũng”. Cuộc khảo sát này cũng
cho kết quả có đến 69% cán bộ công chức được hỏi cho rằng một số người
đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị thường có xu hướng xử lý nhẹ các vụ
việc tham nhũng để giữ uy tín cho đơn vị và bản thân mình. Điều này chắc
chắn sẽ gây nên sự hoài nghi trong dân chúng. Do đó, tác giả nhận thấy
việc cải thiện hệ thống pháp luật phù hợp với truyền thống luật của Anh
nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật sẽ góp phần chống tham
nhũng hiệu quả tại một số quốc gia khảo sát. Thiết nghĩ, các quốc gia nên
áp dụng kinh nghiệm của Singapore để cho mọi người giác ngộ và thực
hiện “không muốn tham nhũng, không dám tham nhũng và cũng không
thể tham nhũng” bởi hàng rào kiểm soát và sự cảnh báo trừng phạt rất
nghiêm khắc.
162
Vì một số lý do, thúc đẩy cải cách pháp lý và tư pháp từ trước đến giờ vẫn
được coi là một ưu tiên của nhiều nhà tài trợ. Các nghiên cứu dựa trên kinh
nghiệm cho thấy, trong bối cảnh chưa có các luật định tốt và chưa có hệ
thống tư pháp và tố tụng hoạt động hiệu quả, pháp quyền sẽ tồn tại nhiều
điểm yếu, ngăn cản đầu tư và sự phát triển kinh tế xã hội. Kiềm chế tham
nhũng phụ thuộc vào việc làm thế nào để không tạo cơ hội khuyến khích
các cá nhân tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Dù là các công ty
xây dựng câu kết với nhau trong các hợp đồng làm đường, cán bộ nhà nước
lấy trộm các trang thiết bị đồ dùng y tế, cán bộ thu thuế quấy rầy người nộp
thuế, các nhà hoạt động chính trị bao che cho những kẻ khai thác gỗ lậu,
hay các ngân hàng tảng lờ các hoạt động đáng ngờ thì con người vẫn sẽ
tiếp tục tham gia hành vi tham nhũng khi mà xác suất bị khởi tố và kết án
vẫn chưa đủ lớn. Như các nghiên cứu tình huống cụ thể cho thấy cải cách
hành chính và cải cách quy trình chắc chắn gây ra những vết rạn nứt trong
hệ thống tham nhũng. Nhưng suy cho cùng, các nỗ lực này vẫn phải được
bổ trợ bởi các cải tiến trong việc thực thi luật. Hệ thống pháp lý và tư pháp
kém hiệu của các nước chuyển đổi chính là cơ hội để cải cách hành chính
và cải cách quy trình một cách cấp thiết và triệt để.
Cuối cùng, lạm phát có tác động tiêu cực đến việc chống tham nhũng tại
các quốc gia này. Từ lâu, lạm phát được xem là vấn đề gây ra nhiều tác
động tiêu cực đến tình hình kinh tế xã hội nói chung. Đặc biệt, tỷ lệ lạm
phát bình quân tương đối cao tại các quốc gia khảo sát khoảng 7,5% sẽ gây
ra nhiều hệ lụy trong đó có ảnh hưởng đến vấn đề gia tăng tham nhũng. Vì
vậy, các quốc gia cần xây dựng chiến lược kiểm soát chỉ số giá cả tiêu
dùng cũng góp phần trong việc giảm thiểu tình trạng tham nhũng.
163
6.2.2. Các giải pháp cho tăng trưởng kinh tế
Những năm gần đây, yêu cầu ngăn chặn đại dịch tham nhũng ngày càng trở
nên bức xúc trong công chúng. Yêu cầu này càng cấp thiết hơn do cộng
đồng tài trợ quốc tế muốn đảm bảo rằng nguồn vốn mà họ cung cấp được
sử dụng đúng đắn (Worldbank, 2008). Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng
cho rằng tham nhũng thường được coi là một trong những trở ngại nghiêm
trọng nhất đối với phát triển. Mặc dù kết quả thực nghiệm tại các quốc gia
chuyển đổi cho thấy tham nhũng đóng vai trò là chất bôi trơn cho tăng
trưởng trong điều kiện chất lượng thể chế còn yếu kém, nhưng nếu các
quốc gia dựa vào tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng thì rõ ràng đây là
việc làm trái đạo đức, không hợp lòng dân và đi ngược với xu hướng của
thời đại. Vì vậy, luận án đưa ra một số các giải pháp đảm bảo cho tăng
trưởng trong điều kiện hạn chế của chất lượng khung thể chế tại các quốc
gia chuyển đổi như sau:
Thứ nhất, trong điều kiện chất lượng thể chế kinh tế hiện nay còn quá thấp,
tham nhũng trở thành chất bôi trơn thúc đẩy tăng trưởng. Điều này hàm ý
rằng các quốc gia chuyển đổi nếu thực hiện chính sách cứng rắn để bài trừ
tham nhũng thì phải chấp nhận sự đình trệ của nền kinh tế. Bởi vì, các quốc
gia đang chuyển đổi không được đánh giá cao về các chính sách nhằm thúc
đẩy sự tự do kinh doanh. Khi mà vẫn còn tồn tại các rào cản và sự bất minh
trong chính sách kinh tế, thiếu sự minh bạch thì khu vực tư nhân khó có thể
xâm nhập, tham gia hoạt động kinh doanh tại các quốc gia này. Ngay cả
trong một môi trường kinh tế tương đối tự do hóa, chính phủ vẫn có tiếng
nói quyết định đối với một loạt các vấn đề. Các chính sách của chính phủ
cơ bản là điều tiết các vấn đề về cung cầu cho một số mặt hàng thiết yếu
như năng lượng, nhiên liệu…, thủ tục pháp định và hành chính, phân bổ
nguồn lực, cấp giấy phép hoặc chính sách ưu đãi. Tuy nhiên, các chính
sách này thường được đề ra nhưng không được nghiên cứu kỹ các vấn đề
164
và hầu như không hoặc chỉ tham khảo rất ít các ý kiến của các bên có liên
quan. Hệ quả là chính sách hóa ra thiếu hợp lý. Sự yếu kém trong hoạch
định chính sách càng nghiêm trọng hơn vì các quan chức chính phủ không
phải chịu sự giám sát của quần chúng khi cấp giấy phép hay quyết định
trao hợp đồng. Hoàn cảnh như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tham
nhũng. Khi đó, tăng trưởng kinh tế được cho là thiếu bền vững và không
công bằng (Worldbank, 2008). Theo xu hướng phát triển bền vững của nền
kinh tế đương đại, đa phần các nhà nghiên cứu cũng như người dân đều
đồng thuận với quan điểm cho rằng các quốc gia không nên duy trì tình
trạng tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng.Vì vậy, để hướng đến mục tiêu
đảm bảo tăng trưởng kinh tế lâu dài và ổn định, các quốc gia này cần phải
cải thiện mức độ tự do kinh doanh dựa vào 37 tiêu chí của Báo cáo thường
niên thế giới. Chính việc làm này sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thông
thoáng và minh bạch, từ đó giúp thu hút đầu tư và cải thiện được tăng
trưởng kinh tế.
Thứ hai, tham nhũng cũng đóng vai trò chất bôi trơn thúc đẩy sự vận hành
của thể chế chính trị và qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng khi điều kiện
mức độ dân chủ còn thấp. Nghĩa là tham nhũng thực hiện chức năng làm
chất xúc tác đẩy nhanh tiến độ xử lý công việc hành chính đang còn mang
nặng tính quan liêu, trì trệ và giúp khu vực tư tiết kiệm được thời gian khi
sử dụng dịch vụ công. Qua đó, tham nhũng được cho là có tác động tích
cực đến tăng trưởng. Tuy nhiên, về khía cạnh đạo đức, không thể dựa vào
tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng. Khảo sát xã hội học về phòng chống
tham nhũng được thực hiện bởi Ngân hàng Thế giới tại các quốc gia đang
phát triển năm 2013 cho thấy: “cán bộ công chức tùy tiện trong quyết định
của mình bị nhìn nhận như đang gây khó khăn cho người dân và doanh
nghiệp để vòi các khoản tiền không chính thức. Nhiều doanh nghiệp nói
rằng họ phải trả những khoản ngoài quy định chỉ để giải quyết nhanh công
165
việc và tránh các thủ tục phiền hà” (WorldBank, 2013). Vì vậy, việc cải
thiện chất lượng thể chế chính trị thông qua việc thực hiện cải cách thủ tục
hành chính, trao quyền cho các cơ quan truyền thông, mở rộng quyền bầu
cử tự do và công bằng sẽ giúp loại bỏ sự tùy tiện đang giúp giới công chức
có thể lạm dụng để tham nhũng. Khi chất lượng thể chế được cải thiện,
doanh nghiệp sẽ tránh được các rào cản về mặt thủ tục hành chính mà
không phải chi thêm khoản chi phí nào qua đó sẽ góp phần tạo động lực
thu hút doanh nghiệp đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ ba, kết quả thực nghiệm cho thấy vốn đầu tư giúp thúc đẩy tiến trình
tăng trưởng của các quốc gia chuyển đổi. Vì vậy, các quốc gia nên tận
dụng và tăng cường việc khai thác nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Vốn được xem là chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng ở các quốc gia đang phát
triển. Ngoài ra, vốn còn được xem là yếu tố quan trọng giúp đất nước thoát
khỏi nghèo đói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm góp phần thúc đẩy tăng
trưởng nhanh hơn và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Các nghiên cứu
trước đây của các nhà kinh tế đã chứng minh vai trò của vốn bằng các mô
hình kinh tế với kết quả thực nghiệm đáng tin cậy. Ngày nay, cùng với sự
gia tăng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đã và đang được quan tâm rất nhiều, đặc biệt là đối với
các nước có nền kinh tế đang phát triển. Vốn FDI có vai trò quan trọng
trong việc tạo động lực tăng trưởng cho các nước tiếp nhận vốn đầu tư. FDI
có thể cung cấp các nguồn vốn và nguồn ngoại tệ cho đầu tư, tạo điều kiện
thuận lợi cho chuyển giao kỹ năng quản lý và kiến thức công nghệ, tăng
tính cạnh tranh của nền kinh tế trong nước, tạo ra cơ hội việc làm, gia tăng
sự tiếp cận thị trường toàn cầu cho hàng hóa xuất nhập khẩu … Ở các quốc
gia đang phát triển, khả năng khai thác nguồn vốn trong nước còn hạn chế,
vì vậy việc thu hút dòng vốn FDI là thật sự cần thiết. Muốn vậy, các quốc
166
gia này cần hoàn thiện thể chế pháp lý theo hướng phát triển và kích thích
thu hút vốn đầu tư nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.
Và cuối cùng, trình độ dân trí và độ mở thương mại có tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế. Khi trình độ dân trí được cải thiện cũng sẽ dễ dàng
trong việc thực hiện các mục tiêu mở rộng nền dân chủ, cải thiện mức độ tự
do kinh doanh và hạn chế tình trạng tham nhũng tại các nền kinh tế chuyển
đổi. Chính điều này sẽ giúp các quốc gia đạt được mục tiêu tăng trưởng ổn
định và bền vững về sau.
6.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Do hạn chế về mặt dữ liệu nên nghiên cứu chỉ khảo sát dữ liệu của 46 quốc
gia từ năm 2002 đến năm 2012, vì vậy, tác giả tin rằng mẫu khảo sát của
nghiên cứu này là tương đối nhỏ. Nếu có thể gia tăng cỡ mẫu bằng việc gia
tăng đơn vị chéo và thời gian khảo sát thì kết quả ước lượng sẽ hiệu quả
hơn. Bên cạnh đó, khoảng thời gian từ 2002 đến 2012 cũng được xem là
tương đối ngắn và do đó kết quả thực nghiệm chưa mang tính đại diện cao.
Nếu như giai đoạn khảo sát dài hơn thì kết quả thực nghiệm có thể sẽ khác.
Luận án có nhiều giả định. Một trong số đó chính là sự chính xác của dữ
liệu thực nghiệm. Bởi vì việc đo lường chính xác chỉ số tham nhũng là rất
khó cho nên luận án đã sử dụng chỉ số cảm nhận tham nhũng để làm biến
đại diện cho mức độ tham nhũng. Tác giả cho rằng việc sử dụng biến đại
diện này sẽ còn gây ra nhiều tranh cãi và sẽ thật sự thuyết phục hơn nếu có
thể đo lường trực tiếp mức độ tham nhũng tại các quốc gia để đưa vào mô
hình.
Một số biến trong mô hình như là thu nhập bình quân, dân chủ và tự do
kinh tế sẽ có những độ trễ nhất định đối với mức độ tham nhũng và tăng
trưởng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chưa đưa được các đỗ trễ
167
vào trong các mô hình để có cái nhìn toàn diện hơn về các yếu tố tác động
đến tham nhũng và tăng trưởng.
Trong các nghiên cứu tiếp theo, tác giả sẽ nỗ lực để khắc phục các hạn chế
trên và khám phá các thêm một số kênh truyền dẫn của tham nhũng đến
tăng trưởng qua việc thu hút dòng vốn FDI hoặc các khoản nhận viện trợ
của các quốc gia chuyển đổi nhằm tìm kiếm các bằng chứng toàn diện hơn
về vấn đề nghiên cứu.
Kết luận chương 6
Từ phân tích khung lý thuyết trong chương 2 và chương 3, xây dựng mô
hình thực nghiệm trong chương 4 kết hợp với kết quả thực nghiệm trong
chương 5, chương này đã kết luận lại các phát hiện chính trong nghiên cứu
thực nghiệm gắn với các mục tiêu nghiên cứu đã được xác định trong
chương 1. Từ những bằng chứng khoa học đó, chương 6 của nghiên cứu đã
đề xuất một số các giải pháp đối với thu nhập cũng như việc cải thiện chất
lượng khung thể chế trong việc bài trừ nạn tham nhũng tại các quốc gia
chuyển đổi. Bên cạnh đó, chương 6 cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm
đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững mà không phải dựa vào
tham nhũng. Và cuối cùng, nghiên cứu cũng nhìn nhận những hạn chế
trong quá trình thực hiện đề tài cũng như hướng nghiên cứu tiếp theo.
168
KẾT LUẬN CHUNG
Tham nhũng là một trong những vấn đề luôn nhận được sự quan tâm của
giới học giả cũng như những nhà hoạch định chính sách. Đặc biệt ở các
quốc gia chuyển đổi khi mà tình trạng tham nhũng luôn ở mức cao cùng
với đó là chất lượng thể chế còn nhiều hạn chế. Theo các nghiên cứu trước
đây của các cá nhân và các tổ chức, khái niệm cũng như việc đo lường
tham nhũng là đa dạng và phức tạp. Nó tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu
và cách tiếp cận của người nghiên cứu. Luận án này quan tâm đến vấn đề
tham nhũng của giới chức làm việc khu vực công và vì vậy tham nhũng ở
đây được hiểu là “lạm dụng công quyền để nhằm tư lợi”. Luận án cũng sử
dụng chỉ số cảm nhận tham nhũng được khảo sát bởi tổ chức Minh bạch
Quốc tế để đại diện cho biến tham nhũng trong việc thực hiện các nghiên
cứu định lượng.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh tham nhũng bị gây ra bởi nhiều yếu tố,
nhưng đa phần các học giả này đều cho rằng chất lượng thể chế quốc gia và
thu nhập của giới chức là hai nguyên nhân quan trọng dẫn đến hành vi
tham nhũng. Một trong những hạn chế của các nghiên cứu hiện hành là vẫn
chưa có sự đồng thuận về việc mở rộng tự do kinh tế và gia tăng mức độ
dân chủ có đều làm giảm tham nhũng ở các quốc gia có mức độ tham
nhũng khác nhau hay không? Và các nghiên cứu trước đây chỉ tập trung
vào việc đánh giá hiệu ứng tuyến tính của mối quan hệ giữa thu nhập và
tham nhũng. Trong khi đó, khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tham
nhũng và tăng trưởng kinh tế của Dzhumashev (2014) cho thấy rằng mối
quan hệ này là không đồng nhất và phức tạp. Mối quan hệ phi tuyến này
cũng đã được khẳng định trong mô hình lý thuyết và kết quả thực nghiệm
của Saha & Gounder (2013). Vì vậy, bài viết của luận án này ra đời nhằm
169
tìm kiếm bằng chứng để khắc phục các hạn chế của các nghiên cứu trước
đây.
Để xây dựng khung lý thuyết cho nghiên cứu, luận án đã tiếp cận lý thuyết
lựa chọn công, trong đó lý thuyết nổi bật nhất chính là “lựa chọn giữa thấy
bại thị trường và tham nhũng” của Acemoglu & Verdier (2000). Trên cơ sở
khung lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng, luận án đã xây dựng
mô hình thực nghiệm và sử dụng dữ liệu của 46 quốc gia chuyển đổi giai
đoạn 2002 – 2012 để khảo sát vai trò của chất lượng khung thể chế đến
tham nhũng cũng như kiểm định khả năng tồn tại mối quan hệ phi tuyến
giữa thu nhập và tham nhũng. Luận án đã sử dụng phương pháp ước lượng
FEM, GLS và 2SLS để xác định độ lớn các hệ số hồi quy trong mô hình
thực nghiệm.
Kết quả cho thấy việc cải thiện chất lượng thể chế chính trị và thể chế kinh
tế sẽ giúp giảm tham nhũng hiệu quả ở các quốc gia này. Bên cạnh đó, việc
phân tích tác động từng phần của biến tương tác giữa thể chế chính trị và
thể chế kinh tế còn cho thấy tự do kinh tế làm giảm tham nhũng đáng kể
khi mức độ dân chủ thấp (mức ngưỡng 5 và 6) và tương tự, mức độ dân
chủ cũng giúp kiểm soát tham nhũng khi tự do kinh tế thấp (mức ngưỡng là
7 và 8). Cuối cùng, kết quả thực nghiệm cũng cho thấy có tồn tại mối quan
hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng.
Một hạn chế nữa của các nghiên cứu trước đây là chỉ xây dựng mô hình lý
thuyết về giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng nhằm giúp đại diện khu
vực tư tránh được các rào cản của thủ tục quản lý hành chính và tệ quan
liêu của một số quốc gia có chất lượng thể chế yếu kém, nhưng các nghiên
cứu này chưa khảo sát thực nghiệm hiệu ứng này một cách đầy đủ. Ngoài
ra, các nghiên cứu này chỉ tập trung vào một khía cạnh của chất lượng thể
chế (hoặc là chất lượng thể chế chính trị; hoặc là chất lượng thể chế kinh
tế) mà chưa quan tâm đến việc đưa cả hai yếu tố này vào mô hình thực
170
nghiệm. Vì vậy, luận án này cũng hướng tới mục tiêu kiểm định giả thuyết
chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện chất lượng thể chế của các
quốc gia chuyển đổi bao gồm cả thể chế chính trị và thể chế kinh tế.
Để xây dựng mô hình tăng trưởng, luận án phát triển mô hình tăng trưởng
của Solow (1956) mở rộng cho yếu tố chất lượng thể chế và tham nhũng.
Từ mô hình thực nghiệm này, luận án đã đưa vào mô hình lần lượt biến
tương tác giữa tham nhũng và thể chế chính trị, tham nhũng và thể chế kinh
tế nhằm khảo sát giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng. Luận án đã sử
dụng dữ liệu của các quốc gia chuyển đổi như trên và ứng dụng phương
pháp ước lượng GLS cho dữ liệu bảng tĩnh và GMM sai phân cho dữ liệu
bảng động. Kết quả cho thấy giả thuyết chất bôi trơn là thật sự tồn tại trong
điều kiện chất lượng thể chế yếu kém của các quốc gia khảo sát.
Từ kết quả thực nghiệm và bình duyệt kết quả nghiên cứu, luận án đã gợi ý
các giải pháp nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và giải pháp cho tăng
trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi.
Như vậy, so với các nghiên cứu cùng chủ đề, kết quả nghiên cứu của luận
án có những đóng góp mới:
Luận án lần đầu tiên ứng dụng các phương pháp định lượng bằng các
ước lượng GLS và 2SLS để đo lường hiệu ứng từng phần của các chỉ
số tự do kinh tế (thể chế kinh tế) và tự do dân chủ (thể chế chính trị)
lên mức độ tham nhũng và xác định điểm ngưỡng của các tác động
này.
Luận án lần đầu tiên kiểm định hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và
tham nhũng ở các quốc gia chuyển đổi và kết quả cho thấy hiệu ứng
phi tuyến là thật sự có tồn tại tại các quốc gia khảo sát.
Luận án lần đầu tiên ứng dụng phương pháp GMM sai phân kiểm
định giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện chất
lượng khung thể chế của các quốc gia chuyển đổi. Kết quả thực
171
nghiệm cho thấy tham nhũng có tác động tích cực đến tăng trưởng
trong điều kiện mức độ tự do kinh tế còn hạn chế và tự do dân chủ
chưa cao tại các quốc gia này.
172
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
Tạp chí khoa học
1. Đặng Văn Cường, 2016, “Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng
kinh tế: Vai trò của chất lượng thể chế” Tạp chí Kinh tế & Phát triển,
số 228, 33-42.
2. Đặng Văn Cường, 2016, “Tác động của tự do kinh tế, dân chủ đến
tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi” Tạp chí Công nghệ Ngân
hàng, số 118, 16-26.
3. Đặng Văn Cường, 2015, “Mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và
tham nhũng tại các nền kinh tế chuyển đổi”, Tạp chí Kinh tế & Phát
triển, số 222, 62-70.
4. Đặng Văn Cường, 2015, “Quy mô chính phủ, dân chủ và tham
nhũng tại các nước ASEAN+6”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số
110, 23-30.
5. Đặng Văn Cường, 2015, “Tác động của viện trợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển”, Tạp chí Công nghệ
Ngân hàng, số 114, 52-62.
6. Đặng Văn Cường, 2015, “Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng
trưởng kinh tế: bằng chứng ở các nước Đông Nam Á”, Tạp chí Phát
triển & Hội nhập, số 23(33), 19-24.
7. Đặng Văn Cường, 2014, “Tác động của chi tiêu công đến giảm
nghèo: Minh chứng thực nghiệm tại VN”, Tạp chí Công nghệ Ngân
hàng, số 104, 45-53.
8. Đặng Văn Cường, 2014, “Tác động của chi tiêu công đến tăng
trưởng kinh tế: Bằng chứng bằng dữ liệu chuỗi tại TP.HCM”, Tạp
chí Phát triển & Hội nhập, số 18(28), 27-33.
9. Đặng Văn Cường, 2013, “Sự ảnh hưởng của nợ công đến nhập siêu:
minh chứng thực nghiệm tại VN”, Tạp chí Thông tin và Dự báo
Kinh tế - Xã hội, số 92, 29-35.
Đề tài nghiên cứu khoa học
1. Chủ nhiệm đề tài: Tác động của gánh nặng thuế và tham nhũng đến
FDI tại các nước ASEAN, năm 2016, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường.
2. Chủ nhiệm đề tài: Mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham
nhũng tại các nền kinh tế chuyển đổi, năm 2015, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường.
3. Chủ nhiệm đề tài: Tác động của chi tiêu công đến giảm nghèo: Minh
chứng thực nghiệm tại VN, năm 2014, đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường.
4. Chủ nhiệm đề tài: Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế:
Bằng chứng thực nghiệm tại VN, năm 2013, đề tài nghiên cứu khoa
học cấp trường.
5. Thành viên đề tài: Sự hài lòng của doanh nghiệp đối với dịch vụ
hành chính công tại TP.HCM, năm 2011, đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường.
Hội thảo khoa học
1. Hội thảo khoa học quốc tế: Tác động của gánh nặng thuế và tham
nhũng đến FDI tại các nước ASEAN, năm 2016, trường Đại học
Thương mại và Đại học Huế.
2. Hội thảo khoa học cấp quốc gia: Tác động FDI đến thị trường tài
chính tại các nước ASEAN, năm 2016, trường Đại học Ngân hàng,
trường Đại học Kinh tế Luật và Đại học Mở.
3. Hội thảo khoa học cấp quốc gia: Tác động của tự do kinh tế, dân chủ
đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi, năm 2015, trường Đại
học Kinh tế Luật và Đại học Mở.
4. Hội thảo khoa học cấp trường: The effect of corruption on economic
growth: the role of institutional quality, năm 2015, trường Đại học
Kinh tế TP.HCM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Abed, G. T., & Davoodi, H. R. (2002),"Corruption, structural reforms, and economic performance in the transition economies", IMF Working Paper, 132(SSRN), 1-48. Acemoglu, D., & Robinson, J. A. (2013),"Why nations fail: the origins of power, prosperity and poverty", Journal of Organizational Change Management, 32(1), 154-156. Acemoglu, D., & Verdier, T. (2000),"The choice between market failures and corruption", American economic review, 90(1), 194-211. Ades, A., & Di Tella, R. (1999),"Rents, competition, and corruption", American economic review, 89(4), 982-993. Aghion, P., Bloom, N., Blundell, R., Griffith, R., & Howitt, P. (2002),"Competition and innovation: An inverted U relationship", The Quarterly Journal of Economics, 120(2), 701-728. Aidt, T., Dutta, J., & Sena, V. (2008),"Governance regimes, corruption and growth: Theory and evidence", Journal of Comparative Economics, 36(2), 195-220. Aidt, T. S. (2009),"Corruption, institutions, and economic development", Oxford Review of Economic Policy, 25(2), 271-291. Aidt, T. S., & Dutta, J. (2008),"Policy compromises: corruption and regulation in a democracy", Economics & Politics, 20(3), 335-360. Al-Sadig, A. (2009),"Effects of Corruption on FDI Inflows, The", Cato Journal, 29(2), 267-274.
10. Alam, M. S. (1995),"A theory of limits on corruption and some
applications", Kyklos, 48(3), 419-435.
11. Ali, A. M., & Isse, H. S. (2002),"Determinants of economic corruption: a
cross-country comparison", Cato J., 22(3), 449-466.
12. Alt, J. E., & Lassen, D. D. (2003),"The political economy of institutions and corruption in American states", Journal of Theoretical Politics, 15(3), 341-365.
13. Amundsen, I. (2000),"Corruption: Concepts and Definitions", Christian
Michelsen.
14. Andvig, J. C., Fjeldstad, O.-H., Amundsen, I., & Søreide, T. (2000),"Research on Corruption A policy oriented survey", American Economic Review, 90(15), 150-158.
15. Arellano, M., & Bond, S. (1991),"Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations", The review of economic studies, 58(2), 277-297.
16. Arellano, M., & Bover, O. (1995),"Another look at the instrumental Journal of
error-components models",
estimation of
variable econometrics, 68(1), 29-51.
17. Ata, A. Y., & Arvas, M. A. (2011),"Determinants of economic corruption: a cross-country data analysis", International Journal of Business and Social Science, 2(13), 161-169.
-------Δ--------
18. Bardhan, P. (1996),"The nature of institutional impediments to economic development", Center for International and Development Economics Research, 22(4), 1920-1946.
19. Bardhan, P. (1997),"Corruption and development: a review of issues",
Journal of economic literature, 35(3), 1320-1346.
20. Barro, R. J. (1990),"Government spending in a simple model of endogenous growth", Journal of political Economy, 98(5), 103-106. 21. Barro, R. J. (1991),"Economic growth in a cross section of countries", The
Quarterly Journal of Economics, 106(2), 407-443.
22. Barro, R. J. (1996a). Determinants of economic growth: a cross-country
empirical study: National Bureau of Economic Research.
23. Barro, R. J. (1996b),"Determinants of economic growth: a cross-country
empirical study", Journal of Comparative Economics, 26(4), 822-824.
24. Barro, R. J., Mankiw, N. G., & Sala-i-Martin, X. (1993),"Capital mobility in neoclassical models of growth", American Economic Review, 85(Mar), 103-115.
25. Bayley, D. H. (1966),"The effects of corruption in a developing nation",
Political Research Quarterly, 19(4), 719-732.
26. Beck, P. J., & Maher, M. W. (1986),"A comparison of bribery and
bidding in thin markets", economics letters, 20(1), 1-5.
27. Beck, P. J., Maher, M. W., & Tschoegl, A. E. (1991),"The impact of the Foreign Corrupt Practices Act on US exports", Managerial and Decision Economics, 12(4), 295-303.
28. Becker, G. S. (1974)," Crime and punishment: An economic approach Essays in the Economics of Crime and Punishment" (pp. 1-54): UMI. 29. Becker, G. S., & Stigler, G. J. (1974),"Law enforcement, malfeasance, and compensation of enforcers", The Journal of Legal Studies, 3(1), 1-18. 30. Beekman, G., Bulte, E. H., & Nillesen, E. E. (2013),"Corruption and economic activity: Micro level evidence from rural Liberia", European Journal of Political Economy, 30, 70-79.
31. Benhabib, J., & Spiegel, M. M. (1994),"The role of human capital in economic development evidence from aggregate cross-country data", Journal of Monetary economics, 34(2), 143-173.
32. Berger, P., & Luckmann, T. (1966),"The social construction of knowledge: A treatise in the sociology of knowledge", Open Road Media: Soho, NY, USA.
33. Billger, S. M., & Goel, R. K. (2009),"Do existing corruption levels matter in controlling corruption?: Cross-country quantile regression estimates", Journal of Development Economics, 90(2), 299-305.
34. Boin, A., & Christensen, T. (2008),"The development of public institutions: reconsidering the role of leadership", Administration & Society, 40(3), 271-297.
35. Bonaglia, F., Braga de Macedo, J., & Bussolo, M. (2001),"How globalization improves governance", CEPR Discussion Paper (SSRN), 2992.
36. Braun, M. (2004),"Inflation,
inflation variability, and corruption",
Economics & Politics, 16(1), 77-100.
37. Broadman, H. G., & Recanatini, F. (2001),"Seeds of corruption–Do market institutions matter?", MOST: Economic Policy in Transitional Economies, 11(4), 359-392.
38. Brown, D. S., Touchton, M., & Whitford, A. B. (2011),"Political polarization as a constraint on government: evidence from corruption", World Development, 39(9), 430-442.
39. Brunetti, A., & Weder, B.
(1998),"Investment and
institutional uncertainty: a comparative study of different uncertainty measures", Weltwirtschaftliches Archiv, 134(3), 513-533.
40. Brunetti, A., & Weder, B. (2003),"A free press is bad news for
corruption", Journal of Public economics, 87(7), 1801-1824.
41. Buchanan, J. M., & Brennan, G. (1980). The power to tax: Analytic foundations of a fiscal constitution. London, Cambridge University Press. 42. Buchanan, J. M., & Tullock, G. (1962),"The Calculus of Consent: Logical Foundations of Constitutional Democracy", Schlüsselwerke der Politikwissenschaft, 12(5), 56-60.
43. Campos, J. E., Lien, D., & Pradhan, S. (1999),"The impact of corruption on investment: Predictability matters", World development, 27(6), 1059- 1067.
44. Campos, J. E., & Pradhan, S. (2007). The many faces of corruption: tracking vulnerabilities at the sector level. Washington, DC, USA, World Bank Publications.
45. Campos, N. F., Dimova, R. D., & Saleh, A. (2010),"Whither corruption? A quantitative survey of the literature on corruption and growth", IZA Discussion Paper, 5334.
46. Campos, N. F., & Nugent, J. B. (1999),"Development performance and the institutions of governance: evidence from East Asia and Latin America", World Development, 27(3), 439-452.
47. Chafuen, A. A., & Guzman, E. (2000),"Economic freedom and
corruption", 2000 Index of Economic Freedom, 51-63.
48. Chang, E. C., & Golden, M. A. (2007),"Electoral systems, district magnitude and corruption", British Journal of Political Science, 37(01), 115-137.
49. Choe, C., Dzhumashev, R., Islam, A., & Khan, Z. H. (2013),"The Effect of Informal Networks on Corruption in Education: Evidence from the Household Survey Data in Bangladesh", The Journal of Development Studies, 49(2), 238-250.
50. Dal Bó, E., & Rossi, M. A. (2007),"Corruption and inefficiency: Theory and evidence from electric utilities", Journal of Public Economics, 91(5), 939-962.
51. Damania, R., Fredriksson, P. G., & Mani, M. (2004),"The persistence of corruption and regulatory compliance failures: theory and evidence", Public choice, 121(3-4), 363-390.
52. Davidson, R., & MacKinnon, J. G. (1993),"Estimation and inference in
econometrics", OUP Catalogue.
53. De Soto, H. (1990),"The other path: The invisible revolution in the third
world", Mid-Atlantic Journal of Business, 25(6), 89-92.
54. De Soto, H. (2000). The mystery of capital: Why capitalism triumphs in
the West and fails everywhere else. Basic books.
55. De Vaal, A., & Ebben, W. (2011),"Institutions and the relation between corruption and economic growth", Review of Development Economics, 15(1), 108-123.
56. Del Monte, A., & Papagni, E. (2007),"The determinants of corruption in Italy: Regional panel data analysis", European Journal of Political Economy, 23(2), 379-396.
57. Diamond, L. J., & Plattner, M. F. (1996). The global resurgence of
democracy. Baltimore, Johns Hopkins University Press.
58. Dreher, A., & Herzfeld, T. (2005),"The economic costs of corruption: A
survey and new evidence", Available at SSRN 734184.
60.
61.
62.
63.
64.
65.
59. Dzhumashev, R. (2014),"Corruption and growth: The role of governance, public spending, and economic development", Economic Modelling, 37, 202-215. Egger, P., & Winner, H. (2005),"Evidence on corruption as an incentive for foreign direct investment", European journal of political economy, 21(4), 932-952. Emerson, P. M. (2006),"Corruption, competition and democracy", Journal of Development Economics, 81(1), 193-212. Evans, P. (1996),"Government action, social capital and development: reviewing the evidence on synergy", World development, 24(6), 1119- 1132. Fisman, R., & Gatti, R. (2002),"Decentralization and corruption: evidence across countries", Journal of Public Economics, 83(3), 325-345. Fölster, S., & Henrekson, M. (2001),"Growth effects of government expenditure and taxation in rich countries", European Economic Review, 45(8), 1501-1520. Fréchette, G. R. (2006),"Panel data analysis of the time-varying determinants of corruption", Journal of Pub lic Economics, 83, 325-344.
66. Gallup, J. L., Sachs, J. D., & Mellinger, A. D. (1999),"Geography and economic development", International regional science review, 22(2), 179-232.
67. Gatti, R. (1999),"Corruption and trade tariffs, or a case for uniform
tariffs", World Bank Policy Research Working Paper, 2216.
68. Glaeser, E. L., La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., & Shleifer, A. (2004),"Do institutions cause growth?", Journal of economic Growth, 9(3), 271-303.
69. Glaeser, E. L., & Saks, R. E. (2006),"Corruption in america", Journal of
Public Economics, 90(6), 1053-1072.
70. Goel, R. K., & Nelson, M. A. (1998),"Corruption and government size: a
disaggregated analysis", Public Choice, 97(1-2), 107-120.
71. Golden, M. A., & Picci, L. (2005),"Proposal for a new measure of corruption, illustrated with Italian data", Economics & Politics, 17(1), 37- 75.
72. Goldsmith, A. A. (1999),"Slapping the grasping hand", American Journal
of Economics and Sociology, 58(4), 865-883.
73. Graeff, P., & Mehlkop, G. (2003),"The impact of economic freedom on corruption: different patterns for rich and poor countries", European Journal of Political Economy, 19(3), 605-620.
74. Graf Lambsdorff, J. (2005),"Consequences and causes of corruption: What do we know from a cross-section of countries?", ISSN, 34(5), 1435- 3520.
75. Granger, C. (2001),"Investigating causal relations by econometric models and cross-spectral methods", Econometric Society Monographs, 33(6), 31- 47.
76. Gupta, S., Davoodi, H., & Alonso-Terme, R. (2002),"Does corruption affect income inequality and poverty?", Economics of governance, 3(1), 23-45.
77. Gupta, S., Davoodi, H. R., & Tiongson, E. (2000),"Corruption and the provision of health care and education services", IMF Working Paper, 116.
78. Gurgur, T., & Shah, A. (2014),"Localization and Corruption: Panacea or Pandoras Box?", Annals of Economics and Finance, 15(1), 109-136. 79. Gwartney, J., Lawson, R., & Hall, J. (2006),"Economic freedom of the
world", Annual report, Fraser Institute.
80. Gyimah-Brempong, K. (2002),"Corruption, economic growth, and income
inequality in Africa", Economics of Governance, 3(3), 183-209.
81. Haque, M. E., & Kneller, R. (2008),"Public investment and growth: The role of corruption", Centre for Growth and Business Cycle Research discussion paper series, 98.
82. Haque, M. E., & Kneller, R. (2014),"Why does Public Investment Fail to Raise Economic Growth? The Role of Corruption", The Manchester School, 83(6), 623-651.
83. Hartwig, J. (2009),"A panel Granger-causality test of endogenous vs.
exogenous growth", SSRN, 231, 34.
84. Heckelman, J. C., & Powell, B. (2010),"Corruption and the institutional environment for growth", Comparative Economic Studies, 52(3), 351-378. 85. Herzfeld, T., & Weiss, C. (2003),"Corruption and legal (in) effectiveness: an empirical investigation", European Journal of Political Economy, 19(3), 621-632.
86. Hodge, A., Shankar, S., Rao, D., & Duhs, A. (2011),"Exploring the links between corruption and growth", Review of Development Economics, 15(3), 474-490.
87. Holtz-Eakin, D., Newey, W., & Rosen, H. S. (1988),"Estimating vector autoregressions with panel data", Journal of the Econometric Society, 56(6), 1371-1395.
88. Huntington, S. P. (2006). Political order in changing societies. New
Haven and London, Yale University Press.
89. Husted, B. W., & Estudios, I. T. y. d. (1999),"Wealth, culture, and
90.
91.
92.
93.
94.
95.
corruption", Journal of International Business Studies, 30(2), 339-359. Iwasaki, I., & Suzuki, T. (2012),"The determinants of corruption in transition economies", Economics Letters, 114(1), 54-60. Jain, A. K. (2001),"Corruption: A review", Journal of economic surveys, 15(1), 71-121. Javorcik, B. S., & Wei, S.-J. (2009),"Corruption and cross-border investment in emerging markets: Firm-level evidence", Journal of International Money and Finance, 28(4), 605-624. Johnson, S., Kaufmann, D., & Zoido-Lobaton, P. (1998),"Regulatory discretion and the unofficial economy", American Economic Review, 88(2), 387-392. Johnston, M. (1998). What can be done about entrenched corruption? Paper presented at the Annual World Bank Conference on Development Economics 1997. June, R., Laberge, M., Nahem, J., & Integrity, G. (2008). A Users' Guide to Measuring Corruption. United Nations Development Programme, UNDP Oslo Governance Centre.
96. Kant, I. (2003). To Perpetual peace: A philosophical sketch. Hackett
Publishing, Cambridge University Press Cambridge.
97. Kaufmann, D., & Kraay, A. (2002),"Growth without governance", World
Bank Policy Research Working Paper(2928).
98. Kaufmann, D., Kraay, A., & Mastruzzi, M. (2011),"The worldwide governance indicators: methodology and analytical issues", Hague Journal on the Rule of Law, 3(02), 220-246.
99. Klitgaard, R. (1988). Controlling corruption. Univ of California Press. 100. Knack, S., & Azfar, O. (2003),"Trade intensity, country size and
corruption", Economics of Governance, 4(1), 1-18.
101. Knack, S., & Keefer, P. (1995),"Institutions and economic performance: Cross‐country tests using alternative institutional measures", Economics & Politics, 7(3), 207-227.
102. Kotera, G., Mizuno, N., Okada, K., & Samreth, S. (2011),"Ethnic Diversity, Democracy, and Health: Theory and Evidence", KIER Discussion Paper, 790.
103. Kotera, G., Okada, K., & Samreth, S. (2012),"Government size, democracy, and corruption: An empirical investigation", Economic Modelling, 29(6), 2340-2348.
104. Kristiansen, S., & Ramli, M. (2006),"Buying an income: The market for civil service positions in Indonesia", Contemporary Southeast Asia: A Journal of International and Strategic Affairs, 28(2), 207-233.
105. Krueger, A. O. (1974),"The political economy of the rent-seeking
society", The American economic review, 64(3), 291-303.
106. Kunicová, J., & Rose-Ackerman, S. (2005),"Electoral rules and constitutional structures as constraints on corruption", British Journal of Political Science, 35(04), 573-606.
107. La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. (1999),"The quality of government", Journal of Law, Economics, and organization, 15(1), 222-279.
Index–Framework Document
2002",
108. Lambsdorff, J. G. (2002),"Background Paper to the 2002 Corruption Transparency Perceptions International and University of Göttingen.(http://www. transparency. org).
109. Lambsdorff, J. G. (2003). Background Paper to the 2003 Corruption
Perceptions Index: mimeo: Transparency International.
110. Landau, D. (1983),"Government expenditure and economic growth: a
cross-country study", Southern Economic Journal, 783-792.
111. Lederman, D., Loayza, N. V., & Soares, R. R. (2005),"Accountability and corruption: Political institutions matter", Economics & Politics, 17(1), 1- 35.
112. Lee, K., & Kim, B.-Y. (2009),"Both institutions and policies matter but differently for different income groups of countries: Determinants of long- run economic growth revisited", World Development, 37(3), 533-549.
113. Leff, N. H. (1964),"Economic development
through bureaucratic
corruption", American behavioral scientist, 8(3), 8-14.
(June 1999).
114. Leite, C. A., & Weidmann, J. (1999),"Does mother nature corrupt? Natural resources, corruption, and economic growth", Natural Resources, Corruption, and Economic Growth IMF Working Paper(99/85).
115. Levine, R., & Renelt, D. (1992),"A sensitivity analysis of cross-country
growth regressions", The American economic review, 82(4), 942-963.
116. Leys, C. (1965),"What is the Problem about Corruption?", The Journal of
Modern African Studies, 3(02), 215-230.
117. Lien, D.-H. D. (1986),"A note on competitive bribery games", Economics
Letters, 22(4), 337-341.
118. Lipset, S. M., & Lenz, G. S. (2000),"Corruption, culture, and markets",
Culture matters: How values shape human progress, 112, 112.
119. Lui, F. T. (1985),"An equilibrium queuing model of bribery", The journal
of political economy, 93(4), 760-781.
120. Mankiw, N. G., Romer, D., & Weil, D. N. (1990),"A contribution to the empirics of economic growth", Quarterly Journal of Economics, 107(2), 407-437.
121. Marlow, M. L. (1988),"Fiscal decentralization and government size",
Public Choice, 56(3), 259-269.
122. Mauro, P. (1995),"Corruption and growth", The quarterly journal of
economics, 110(3), 681-712.
123. Mauro, P. (1997),"The effects of corruption on growth, investment, and government expenditure: a cross-country analysis", IMF Working Paper, 96/98, 1-28.
124. Mauro, P. (1998),"Corruption and the composition of government
expenditure", Journal of Public economics, 69(2), 263-279.
125. Méndez, F., & Sepúlveda, F. (2006),"Corruption, growth and political regimes: cross country evidence", European Journal of Political Economy, 22(1), 82-98.
126. Méon, P.-G., & Sekkat, K. (2005),"Does corruption grease or sand the
wheels of growth?", Public choice, 122(1-2), 69-97.
127. Méon, P.-G., & Weill, L. (2010),"Is corruption an efficient grease?",
World development, 38(3), 244-259.
128. Mo, P. H. (2001),"Corruption and economic growth", Journal of
comparative economics, 29(1), 66-79.
129. Montinola, G. R., & Jackman, R. W. (2002),"Sources of corruption: a cross-country study", British Journal of Political Science, 32(01), 147- 170.
130. Moulton, B. R. (1986),"Random group effects and the precision of
regression estimates", Journal of econometrics, 32(3), 385-397.
131. Moulton, B. R. (1990),"An illustration of a pitfall in estimating the effects of aggregate variables on micro units", The review of Economics and Statistics, 19(2), 334-338.
132. Murphy, K. M., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1990). The allocation of
talent: Implications for growth: National Bureau of Economic Research.
133. Myint, U. (2000),"Corruption: Causes, consequences and cures", Asia
pacific development journal, 7(2), 33-58.
134. Nafziger, E. W. (2006). From Seers to Sen: the meaning of economic development. Research Paper, UNU-WIDER, United Nations University (UNU).
135. Nickell, S. (1981),"Biases in dynamic models with fixed effects", Journal
of the Econometric Society, 49(6), 1417-1426.
136. Nickell, S. J. (1996),"Competition and corporate performance", Journal of
political economy, 104(4), 724-746.
137. North, D. (1981). Structure and change in economic history. Norton. 138. North, D. C. (1990). Institutions, institutional change and economic
performance. Cambridge university press.
139. North, D. C. (1993),"Institutions and credible commitment", Journal of Institutional and Theoretical Economics (JITE)/Zeitschrift für die gesamte Staatswissenschaft, 11-23.
140. Olken, B. A. (2006),"Corruption and the costs of redistribution: Micro
evidence from Indonesia", Journal of public economics, 90(4), 853-870.
141. Olson, M. (1965). The logic ofcollective action (Vol. 124). Harvard
Economic Studies
142. Ostrom, E. (1990). Governing the commons: The evolution of institutions
for collective action. Cambridge university press.
143. Paldam, M. (2002),"The cross-country pattern of corruption: economics, culture and the seesaw dynamics", European Journal of Political Economy, 18(2), 215-240.
144. Park, H. (2003),"Determinants of corruption: A cross-national analysis",
Multinational Business Review, 11(2), 29-48.
145. Peev, E., & Mueller, D. C. (2012),"Democracy, economic freedom and
growth in transition economies", Kyklos, 65(3), 371-407.
146. Pellegrini, L., & Gerlagh, R. (2004),"Corruption's effect on growth and its
transmission channels", Kyklos, 57(3), 429-456.
147. Persson, T., Tabellini, G., & Trebbi, F. (2003),"Electoral rules and corruption", journal of the European Economic Association, 1(4), 958- 989.
148. Pope, J. (2000). Confronting corruption: The elements of a national
integrity system. Transparency International.
149. Putnam, R. D., Leonardi, R., & Nanetti, R. Y. (1994). Making democracy work: Civic traditions in modern Italy. Princeton, Princeton university press.
150. Rada, C., & Taylor, L. (2006),"Developing and transition economies in the late 20th century: diverging growth rates, economic structures, and sources of demand", DESA Working Paper, 34.
151. Rauch, J. E., & Evans, P. B. (2000),"Bureaucratic structure and bureaucratic performance in less developed countries", Journal of public economics, 75(1), 49-71.
152. Reinikka, R., & Svensson, J. (2004),"Local capture: evidence from a central government transfer program in Uganda", The Quarterly Journal of Economics, 119(2), 679-705.
153. Rivera‐Batiz, F. L. (2002),"Democracy, governance, and economic growth: theory and evidence", Review of Development Economics, 6(2), 225-247.
154. Rock, M. T. (2009),"Corruption and democracy", Journal of Development
Studies, 45(1), 55-75.
155. Rodrik, D., Subramanian, A., & Trebbi, F. (2004),"Institutions rule: the primacy of institutions over geography and integration in economic development", Journal of economic growth, 9(2), 131-165.
156. Rohwer, A. (2009),"Measuring corruption: A comparison between the transparency international's corruption perceptions index and the world bank's worldwide governance indicators", CESifo DICE Report, 7(3), 42- 52.
157. Rose-Ackerman, S. (1999),"Political corruption and democracy", Conn. J.
Int'l L., 14(2), 363-371.
158. Sachs, J. D., & Warner, A. M. (1997),"Fundamental sources of long-run
growth", The American Economic Review, 87(2), 184-188.
159. Saha, S., & Gounder, R. (2013),"Corruption and economic development nexus: variations across income levels in a non-linear framework", Economic Modelling, 31, 70-79.
160. Saha, S., Gounder, R., & Saha, S. (2011),"Does higher levels of democracy and economic freedom reduce corruption: some cross-national and regional evidence", Australasian Development Economics Workshop, 7.
161. Saha, S., Gounder, R., & Su, J.-J. (2009),"The interaction effect of economic freedom and democracy on corruption: A panel cross-country analysis", Economics Letters, 105(2), 173-176.
162. Sandholtz, W., & Koetzle, W. (2000),"Accounting for corruption: trade", International studies
Economic structure, democracy, and quarterly, 44(1), 31-50.
163. Schneider, A. L. (1999),"Public-private partnerships in the US prison
system", American Behavioral Scientist, 43(1), 192-208.
164. Schumpeter, J. (2012). Capitalism, socialism, and democracy. Start
Publishing LLC.
165. Scott, J. C. (1972). Comparative political corruption. Prentice Hall. 166. Shleifer, W.
(1993),"Corruption", National Bureau of Economic
Research, 02138(Cambridge).
167. Siddiqui, D. A., & Ahmed, Q. M. (2013),"The effect of institutions on economic growth: A global analysis based on GMM dynamic panel estimation", Structural Change and Economic Dynamics, 24, 18-33. 168. Smarzynska, B. K., & Wei, S.-J. (2000),"Corruption and composition of foreign direct investment: Firm-level evidence", NBER Working Paper, 7969.
169. Solow, R. M. (1956),"A contribution to the theory of economic growth",
The quarterly journal of economics, 70(1), 65-94.
170. Stiglitz, J. (2002),"Transparency in government", The right to tell: The
role of mass media in economic development, 4, 27-44.
171. Suchman, M. C. (1995),"Managing legitimacy: Strategic and institutional
approaches", Academy of management review, 20(3), 571-610.
172. Swamy, A., Knack, S., Lee, Y., & Azfar, O. (2001),"Gender and
corruption", Journal of development economics, 64(1), 25-55.
173. Swan, T. (1956),"Economic growth and capital accumulation", Economic
record, 32, 334-361.
174. Tanzi, V., & Davoodi, H. (1998). Corruption, public investment, and
growth. Tokyo, Springer Japan.
175. Tarek, B. A., & Ahmed, Z. (2013),"Governance and Economic Performance in Developing Countries: An Empirical Study", Journal of Economics Studies and Research, 2013, b1-13.
176. Tavares, J. (2003),"Does foreign aid corrupt?", Economics Letters, 79(1),
99-106.
177. Treisman, D. (2000),"The causes of corruption: a cross-national study",
Journal of public economics, 76(3), 399-457.
178. Treisman, D. (2007),"What have we learned about the causes of corruption from ten years of cross-national empirical research?", Annu. Rev. Polit. Sci., 10, 211-244.
179. Ugur, M., & Dasgupta, N. (2011),"Evidence on the economic growth impacts of corruption in low-income countries and beyond", London: EPPI-Centre, Social Science Research Unit, Institute of Education, University of London, 2.
180. Van Rijckeghem, C., & Weder, B. (1997),"Corruption and the rate of temptation: do low wages in the civil service cause corruption?", IMF Working Paper, 97/73.
181. Venard, B.
(2013),"Institutions, Corruption
and
Sustainable
Development", Economics Bulletin, 33(4), 2545-2562.
182. Voyer, P. A., & Beamish, P. W. (2004),"The effect of corruption on Japanese foreign direct investment", Journal of Business Ethics, 50(3), 211-224.
183. Wei, S.-J. (2000),"How taxing is corruption on international investors?",
Review of economics and statistics, 82(1), 1-11.
184. Wooldridge, J. (2012). Introductory econometrics: A modern approach.
South-Western, Cengage Learning.
185. WorldBank. (1997). World Development Report 1997. Washington, DC:
World Bank.
186. WorldBank. (2000). Anticorruption in Transition. A Contribution to the
Policy Debate. Washington, DC: Worldbank.
187. WorldBank. (2007a). Vai trò của quốc hội trong hạn chế tham nhũng.
Washington, DC: Worldbank.
188. WorldBank.
(2007b),"Worldwide Governance
Indicators
2007",
WGI2007.
189. WorldBank. (2008). Các hình thái Tham nhũng - Giám sát khả năng Tham nhũng ở cấp ngành. Hà Nội, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. 190. WorldBank. (2013). Tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức (Vol. 2). Vietnam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
PHỤ LỤC
--------Δ--------
Phụ lục 1: Lý thuyết lựa chọn giữa thất bại thị trường và tham nhũng (Acemoglu & Verdier, 2000)
Chúng ta xem xét trạng thái nền kinh tế ổn định bao gồm một tập hợp các
đại diện bàng quan với rủi ro (risk-neutral agents) với đại lượng 1. Các đại
diện này có thể lựa chọn giữa hai hành động: họ có thể trở thành người
kinh doanh, hoặc là nếu có một chính quyền, họ có thể trở thành công chức.
Các doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn một trong hai vấn đề công nghệ:
“xấu” hoặc “tốt”. Cả hai công nghệ này đều tạo ra sản lượng như nhau ở
mức y. Tuy nhiên, chi phí là khác nhau. Công nghệ xấu có chi phí bằng 0,
trong khi công nghệ tốt có chi phí là e và . Chúng ta lựa chọn
thuật ngữ “xấu” và “tốt” là bởi vì công nghệ tốt sẽ tạo ra ngoại tác tích cực.
Đặt n là đại lượng đại diện cho phần doanh nghiệp trong nền kinh tế, và
là phần doanh nghiệp lựa chọn công nghệ tốt. Chúng ta giả định rằng
có một hiệu ứng tích cực phi tiền tệ lên thu nhập của các đại diện bằng với
. Hơn nữa,
ta cũng giả định chi phí sử dụng công nghệ tốt để ngoại tác đủ lớn hơn so với chi phí tư nhân. Chúng là phi tiền tệ. Các giả định
này nhằm làm cho việc phân tích doanh thu thuế cực đại độc lập với lựa
chọn công nghệ nhưng cũng không ảnh hưởng đến kết quả của chúng ta.
Mô hình tự do kinh doanh
Trong mô hình cân bằng phi tập trung, không có chính phủ, tất cả các đại
diện trở thành đại diện kinh doanh, vì thế . Khi đó, thu nhập cho cả hai
hoạt động trên là:
i
(1.1)
Vì thế, cho tất cả và điểm cân bằng duy nhất khi và
Khi thì điều kiện tốt nhất đầu tiên tại điểm và : tất cả đại
diện là doanh nghiệp và đều chọn công nghệ tốt. Tuy nhiên, kết quả này
không bền vững như điểm cân bằng phi tập trung bởi vì mỗi cá nhân có
chiến lược riêng biệt mà họ có thể lựa chọn công nghệ xấu. Đặc biệt, họ
không thích tạo ra các ngoại tác tích cực cho các đại diện khác.
Ràng buộc tối ưu khi có tham nhũng
Bây giờ, chúng ta xem xét đến trường hợp có sự can thiệp của chính phủ
quy định việc lựa chọn công nghệ. Ở đây, chúng ta giả định sự can thiệp
của chính phủ nhằm tối đa thặng dư xã hội. Vì vậy, không cần phải bận tâm
đến việc phân phối cũng như trục lợi trong chính phủ. Nếu việc lựa chọn
công nghệ của đại diện là hoàn toàn có thể quan sát được thì điểm tối ưu
nhất sẽ đạt được. Tuy nhiên, trên thực tế giả định việc lựa chọn công nghệ
là hoàn toàn không quan sát được. Chính phủ sẽ tuyển dụng một số đại diện
vào khu vực công để kiểm tra các doanh nghiệp và đề nghị loại công nghệ
nào nên đưa vào sử dụng. Để đơn giản, chúng ta giả định rằng một công
chức chỉ giám sát một doanh nghiệp.
Chúng ta biểu diễn nguồn thu thuế mà các doanh nghiệp lựa chọn công
nghệ xấu phải trả là và khoản trợ cấp mà doanh nghiệp lựa chọn công
nghệ tốt nhận được là (cả hai được áp đặt khi mà doanh nghiệp bị kiểm
tra). Chú ý rằng, chúng ta không giả định , vì thế các doanh nghiệp có
công nghệ tốt vẫn có thể bị đánh thuế. Chúng ta thể hiện tiền lương của
công chức bằng . Trước khi kiểm tra, chúng ta không biết doanh nghiệp
nào đã lựa chọn công nghệ xấu, việc kiểm tra là ngẫu nhiên. Vì thế, xác
ii
suất để một doanh nghiệp bị kiểm tra là , đây là phần
công chức được phân chia từ các doanh nghiệp nếu không có nhiều công
chức hơn so với doanh nghiệp.
Bây giờ, chúng ta kết hợp hai trong ba thành phần cơ bản: (i) cần tuyển
công chức để ra các quyết định độc lập hoặc thu thập thông tin; và (ii) khả
năng xảy ra tham nhũng. Một công chức có thể khai thác lợi ích thông tin
theo quy định mà anh ta am hiểu. Điều này có thể thực hiện trong hai
trường hợp. Thứ nhất, khi gặp doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tốt, công
chức sẽ đe dọa là nếu không đưa tiền hối lộ thì anh ta sẽ báo cáo là công
nghệ xấu. Thứ hai, khi gặp doanh nghiệp sử dụng công nghệ xấu, công
chức đề nghị đưa tiền để báo cáo là tốt. Trong cả hai trường hợp, việc tối đa
hóa thặng dư mà công chức có thể thu được là 𝑠 + 𝜏. Chúng ta giả định
rằng cả hai trường hợp công chức có thể thu được phần σ của khoản này
như là tiền đút lót.
Công chức tham nhũng có thể bị phát hiện với xác suất 𝑞. Trong trường
hợp này, công chức nhận hình phạt nghiêm khắc theo trách nhiệm pháp lý
giới hạn; công chức mất hết toàn bộ thu nhập. Chú ý rằng (1 − 𝑞) là sự đo
lường lợi ích thông tin của công chức. Khi mà 𝑞 = 0, thì tham nhũng
không bao giờ bị phát hiện. Ngược lại, nếu 𝑞 = 1, tham nhũng ngay lập tức
bị phát hiện. Chúng ta cũng cần lưu ý về ràng buộc trách nhiệm pháp lý
giới hạn: Bởi vì tất cả đại diện đều là cá nhân bang quan với rủi ro, một
mức phạt nặng khi bị phát hiện sẽ không khuyến khích công chức tham
nhũng.
Các giai đoạn của sự kiện sẽ được diễn ra theo trình tự sau:
1. Chính phủ thông báo mức lương khu vực công 𝑤, khoản thuế 𝜏,
khoản trợ cấp 𝑠, và số lượng công chức được thuê tối đa là (1 − 𝑛).
2. Các đại diện tự lựa chọn nghề của họ. Nếu có nhiều hơn các ứng
iii
viên làm việc cho khu vực công so với (1 − 𝑛), khi đó (1 − 𝑛) của
chúng được lựa chọn ngẫu nhiên và phần còn lại làm việc cho doanh
nghiệp.
3. Những người tham gia vào khu vực tư lựa chọn một công nghệ. Sự
lựa chọn công nghệ của họ không được quan sát bởi các đại diện
khác trong giai đoạn này.
4. Mỗi công chức kiểm tra ngẫu nhiên một doanh nghiệp và sẽ phát
hiện ra một doanh nghiệp đã lựa chọn công nghệ tốt hay xấu.
5. Sau đó, mỗi công chức quyết định có nên cấu kết với doanh nghiệp
hay không. Nếu công chức quyết định không nhận tiền thì công chức
sẽ báo cáo trung thực và trò chơi kết thúc. Trong trường hợp công
chức chấp nhận hối lộ thì báo cáo của công chức hoàn toàn phụ
thuộc vào phản ứng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp chấp nhận
lời đề nghị và chi tiền thì ngay tại thời điểm này công chức cho ra
báo cáo theo thỏa thuận. Nếu doanh nghiệp từ chối lời đề nghị, chắc
chắn công chức sẽ báo cáo dự án là xấu.
6. Cuối cùng, bước thứ 6 là báo cáo của công chức bị kiểm tra và số
công chức ra báo cáo sai bị phát hiện với xác suất 𝑞. Tất cả khoản
thu của công chức ra báo cáo sai sẽ bị tịch thu.
Bởi vì tất cả đại diện, đặc biệt là tất cả công chức, là đồng nhất nên sẽ có
một điều kiện duy nhất quyết định đến việc có chi trả tiền hối lộ hay không.
Nếu trung thực, công chức nhận được mức lương 𝑤. Nếu tham nhũng, họ
có thể mất tất cả với xác suất 𝑞, và 1 − 𝑞 là xác suất mà công chức nhận
được cả lương và tiền đút lót 𝑏 = 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠). Vì vậy, nếu ràng buộc về
1−𝑞
1−𝑞
𝑛
tham nhũng là bất đẳng thức
𝑞
𝑞
1−𝑛
(1.2) 𝑤 ≥ ∗ 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) = ∗ 𝜎 ∗ 𝑒 ∗
bị vi phạm, tất cả công chức sẽ là tham nhũng. Trong trường hợp này, các
iv
doanh nghiệp nhận 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) về lựa chọn công nghệ của họ, và sự can
thiệp của chính phủ là hoàn toàn lãng phí. Như vậy, sự can thiệp của chính
phủ thỏa mãn điều kiện (1.2). Quan sát này cũng giải thích tại sao tham
nhũng lại gây hại cho nền kinh tế. Vai trò của sự can thiệp chính phủ để
chuyển đổi các điều kiện trước đây lên sự lựa chọn công nghệ để mà các
quyết định sau này có hiệu lực. Khi công chức tham nhũng, việc chuyển
đổi là vô điều kiện và can thiệp của chính phủ không tác động lâu dài lên
các lựa chọn về sau.
Ngược lại, khi (1.2) thỏa mãn, không công chức nào dám nhận hối lộ. Vì
vậy, chúng ta cần đảm bảo ràng buộc về tham nhũng (1.2) và các ràng buộc
𝑥
khác đối với chính sách chính phủđược thỏa mãn. Kết hợp (1.1) với hình
1−𝑛
thức rút gọn của ràng buộc ngân sách, 𝑤 + = 𝑦, cho ra ràng buộc tham
𝑦
1−𝑞
nhũng trong khoảng (𝑥, 𝑛) như sau:
𝑦 − (
𝑒
𝑒
𝑞
𝑥 ≤ + ∗ 𝜎) ∗ 𝑛 (1.3)
Trong trường hợp nguồn thu chính phủ giảm thấp để tài trợ cho sự phân
phối khi mà các doanh nghiệp lựa chọn công nghệ tốt. Và cách duy nhất để
tăng nguồn thu là phải có một vài doanh nghiệp lựa chọn công nghệ xấu để
chính phủ đánh thuế 𝜏 = 𝑦. Chúng ta có mệnh đề sau:
𝑦
Mệnh đề 1: giả sử rằng công chức là tham nhũng. Sự phân bổ tối ưu là:
𝑒
1. Nếu ≥ [1 + 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞]2 và 𝛽 > √𝑒 ∗ (√𝑦 + √𝑒) thì sự can
2
1−𝑞
1−𝑞
𝑦
thiệp chính phủ 𝑛 = 𝑥 = 𝑛̂
𝑞
𝑞
𝑒
2. Nếu ∈ (1 + 𝜎 ∗ ; [1 + 𝜎 ∗ ] ) và 𝛽 > 2𝑒 + 𝑒 ∗ 𝜎 ∗ (1 −
𝑦
𝑦
𝑞)/𝑞, thì sự phân bổ tối ưu có sự can thiệp chính phủ 𝑛 = 𝑥 = 𝑛𝑐
𝑒
𝑒
𝑦
1
3. Nếu < [1 + 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞] và 𝛽 > 𝑒 + 𝑦/ [ − 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞] thì
𝑒
2
can thiệp chính phủ với 𝑛 = , 𝑥 = 1/2 [ − 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞].
v
4. Các trường hợp khác, phân bổ tối ưu là ngẫu nhiên.
Mệnh đề 1 cho chúng ta rút ra nhiều kết luận. Thứ nhất, khi 𝑞 đủ lớn hoặc
𝜎 là nhỏ thì tham nhũng dễ dàng được ngăn ngừa và tham nhũng của công
chức là không quan trọng. Điều này được lý giải là bởi vì tiền lương của
khu vực công là hấp dẫn đối với công chức và cũng rèn luyện họ. Ngược
lại, nếu 𝑞 nhỏ hoặc 𝜎 là lớn thì tham nhũng cám dỗ công chức. Để chống
tham nhũng, các công chức phải được trả một khoản thu nhập. Cùng với
câu hỏi thất bại thị trường có đủ nghiêm trọng (β cao), có cần thiết cho xã
hội để kéo một lượng lớn các đại diện từ khu vực sản xuất và trả cho họ
một khoản thu nhập theo yêu cầu để nhằm khắc phục thất bại của thị
vi
trường.
Phụ lục 2 : Lý thuyết thể chế và tăng trưởng
Mô hình kinh tế này được sửa đổi dựa trên mô hình tăng trưởng Solow
(1956). Hàng hóa được sản xuất bằng cách sử dụng kỹ thuật lợi nhuận
không đổi theo quy mô (constant return to scale - CRS) trong một thị
trường cạnh tranh hoàn hảo. Thể chế được giả định đóng vai trò trung tâm
trong việc xác định các yếu tố năng suất và công nghệ, do đó sản lượng (Y)
được sản xuất theo hàm sản xuất sau:
(2.1) Y = f (A(T, t), K(T, t), L(T, t))
Trong đó L là lao động, 𝐴 ≥ 1 là chỉ số thể hiện mức độ kỹ thuật, K là vốn,
T là chỉ số thể hiện chất lượng của thể chế và t là thời gian.
Chúng tôi giả định rằng nền kinh tế đại diện là nhỏ và có quyền truy cập
vào nền công nghệ được tạo ra mà phát triển với một tốc độ không đổi của
g. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng của lực lượng lao động và tỷ lệ tham gia lực
𝐿̇ 𝐿
lượng lao động là không đổi theo thời gian, nghĩa là = 𝑛, trong đó n là
tốc độ tăng trưởng dân số. Hơn nữa, T được giả định là tăng theo chất
lượng của thể chế mà giải thích cho việc thực thi các hợp đồng và quyền sở
hữu, điều này đồng nghĩa với hệ thống phát luật là đáng tin cậy và hiệu
quả, nghĩa là sự minh bạch của nền hành chính công, nguyên tắc thị trường
chuyên nghiệp (không kiểm soát giá). Để đơn giản, T được giả định là hằng
số và có phân phối chuẩn từ 0 đến 1 (0 < T ≤ 1). Do đó, T đạt giá trị 1 khi
nền kinh tế có thể chế tốt nhất.
Phương trình (2.1) đặt ra một câu hỏi lớn: làm thế nào để thể chế ảnh
hưởng đến việc áp dụng các công nghệ sẵn có và năng suất của vốn vật
chất? Có thể lập luận rằng các thể chế kém ngăn chặn việc sử dụng các
công nghệ có sẵn (Tebaldi & Elmslie, 2008) và hạn chế hiệu quả đạt được
từ các đổi mới hiện tại (Matthews, 1986). Vì vậy, tốt (xấu) của thể chế làm
vii
tăng (giảm) hiệu quả của công nghệ và mở rộng cho cả năng suất lao động
và vốn. Đối với vốn, nó đã được chứng minh rằng thể chế kém (tham
nhũng và thực thi kém của pháp luật và hợp đồng) giảm lợi nhuận trên vốn
và giảm tích lũy vốn (Brunetti & ctg, 1998; Lambsdorff, 1999; Mauro,
1995; Wei, 2000). Chúng tôi xem xét những ý tưởng này bằng cách phát
triển hai phương trình thay thế. Đầu tiên, chúng ta bỏ qua những tác động
của các thể chế về việc áp dụng công nghệ và tập trung phân tích về ảnh
hưởng của thể chế về năng suất vốn vật chất. Sau đó, chúng tôi phát triển
một mô hình tổng quát hơn giải thích cho sự tác động của các thể chế về
việc áp dụng công nghệ và năng suất vốn.
2.1. Mô hình cơ sở
Phần này trình bày phương cách khám phá để giải thích cho sự tác động
của thể chế đến năng suất vốn vật chất. Đặc biệt, chúng tôi giả định rằng độ
co giãn của sản lượng đối với vốn bị ảnh hưởng bởi thể chế. Chính xác
hơn, thể chế tốt hơn làm tăng thêm năng suất vốn và do đó, ảnh hưởng đến
việc góp vốn để sản xuất. Công thức:
(2.2)
Trong đó, 0 < α <1,
Đặt và
Khi đó, hàm sản xuất được viết lại như sau:
(2.3)
Kết hợp phương trình (2.3) và phương trình tích lũy vốn ta được:
(2.4)
Phương trình (2.4) cho thấy, nền kinh tế sẽ hội tụ về trạng thái cân bằng khi
viii
mà
Điều này cho phép xử lý phương trình (2.4) với mục tiêu vốn đầu tư ở trạng
thái ổn định
(2.5)
Dấu "*" biểu thị giá trị trạng thái ổn định. Phương trình (2.5) có nghĩa là
thể chế tác động tích cực đến trạng thái ổn định của vốn, do đó, nó cũng
ảnh hưởng tích cực đến mức độ trạng thái ổn định sản lượng hiệu quả cho
mỗi lao động. Cụ thể hơn, thế chế tốt hơn (T lớn hơn) tăng lợi nhuận trên
tích lũy vốn, làm tăng đầu tư và dẫn đến vốn hiệu quả ở một mức độ ổn
định cao hơn (k*) và sản lượng hiệu quả cho mỗi lao động (y*). Tuy nhiên,
tốc độ tăng trưởng dài hạn của sản lượng trên mỗi lao động vẫn được quyết
định bởi mức độ tiến bộ kỹ thuật.
Gọi , sử dụng điều kiện
Lấy log phương trình 3 ta được:
(2.6)
Theo đó, mô hình này hàm ý rằng các quốc gia sẽ giàu hơn hay nghèo hơn
là do chất lượng thể chế của họ. Phương trình (2.5) ngụ ý rằng các quốc gia
giàu hơn có thể có thể chế tốt hơn các quốc gia nghèo. Phương trình (2.6)
cho thấy rằng vườn như không có sự ảnh hưởng của chất lượng của thể chế
lên tốc độ tăng trưởng dài hạn của một quốc gia. Như vậy, thể chế có ảnh
hưởng về mức độ nhưng không ảnh hưởng tăng trưởng. Việc thiếu các hiệu
ứng tăng trưởng được tìm thấy trong phương trình 2.6 là không phù hợp
với các tài liệu về tăng trưởng hiện có (xem chi tiết trong Tebaldi &
ix
Elmslie, 2008).
Mô hình Solow điều chỉnh này cũng chính thức hóa ý tưởng rằng thể chế
kém có thể gây ra bẫy nghèo và phân hóa thu nhập. Phương trình (2.4), mô
tả cụ thể trong hình 1, cho thấy chất lượng của thể chế tạo ra trạng thái ổn
định khác nhau. Hãy xem xét hai nền kinh tế với điều kiện ban đầu giống
nhau δ, n, g, tỷ lệ tiết kiệm s, công nghệ (A), và vốn ban đầu (k0), nhưng
nền kinh tế P được gán cho thể chế kém (Tp) so với nền kinh tế R, do đó
TR> TP. Mô hình này có nghĩa là sự khác biệt về chất lượng của các thể chế
sẽ tạo ra trạng thái ổn định khác nhau được thể hiện bằng và . Quốc
gia P sẽ tăng trưởng cho đến khi đạt được điểm và bị kẹt tại điểm này.
Ngược lại, quốc gia R với điều kiện ban đầu giống nhau, nhưng được ưu
đãi với thể chế tốt hơn (TR), sẽ phát triển ổn định đạt được một trạng thái
ổn định cao hơn . Trạng thái phát triển thấp hơn có thể được hiểu như
cái bẫy nghèo của một quốc gia có thể chế kém. Vì vậy, mô hình cho thấy
thể chế kém sẽ tạo ra bẫy nghèo và cách duy nhất để thoát nghèo đó là
thông qua việc cải thiện chất lượng của thể chế. Kết quả này cũng phù hợp
với North (1990), người đã đạt ra câu hỏi năng lực của xã hội để loại trừ
khung thể chế yếu kém truyền thống mà cản trở các nước nghèo thu hẹp
khoảng cách thu nhập với các nước giàu.
x
Hình 1: Thể chế và tăng trưởng
Nguồn: Trích từ bài nghiên cứu của Tebaldi (2008)
2.2. Mô hình mở rộng
Các tài liệu cho thấy thể chế có thể tạo ra những khó khăn (ví dụ như sự
không hoàn hảo của thị trường lao động, hoặc khả năng thương lượng liên
minh, hoặc quy định của Chính phủ) để sử dụng công nghệ có sẵn
(Baldwin & Lin, 2002; Haucap & Wey, 2004; Tebaldi & Elmslie, 2008).
Đồng thời một thể chế tốt hơn cũng cho phép các đại diện kinh tế có thể
hợp tác với nhau hiệu quả hơn và cuối cùng thúc đẩy năng suất các nhân tố
(Matthews, 1986). Từ mô hình cơ sở, chúng tôi xây dựng lại hàm sản xuất
như sau:
(2.7)
Phương trình (2.7) thể hiện các kết hợp các tác động của thể chế lên sản
lượng trong hàm sản xuất Solow truyền thống. Vì T là một thước đo chuẩn
về chất lượng thể chế có giá trị chạy từ 0 đến 1, một nền kinh tế có thể chế
tốt nhất (T = 1) sẽ có hàm sản xuất giống như trong mô hình Solow chuẩn.
Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia đều có chất lượng thể chế tương
xi
tự nhau. Vì vậy, mô hình Solow là một trường hợp đặc biệt khi thể chế
không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. Hơn nữa, các hạn tử đại
diện cho các ngoại tác của thể chế đến việc áp dụng công nghệ và năng suất
các nhân tố tổng hợp. Điều đó cho thấy một đất nước với một thể chế kém
sẽ không thể hưởng lợi đầy đủ từ việc tăng năng suất tiềm năng được tạo ra
bởi các công nghệ có sẵn. Mô hình này được xử lý bằng cách đặt
và , từ đó cho phép chúng tôi viết hàm sản xuất trong điều kiện
hiệu quả trên lao động:
(2.8)
Phương trình tích lũy hiệu quả trên vốn được tính như sau:
(2.9)
Mô hình này đạt trạng thái ổn định khi , vì vậy:
(2.10)
Mô hình mở rộng cho thấy rằng thể chế tác động dài hạn lên mức độ và tốc
độ tăng trưởng dài hạn sản lượng đầu ra của mỗi lao động. Cho ,
, sử dụng , lấy log đạo hàm phương trình (2.6) ta được:
(2.11)
Vì vậy, mô hình hàm ý tốc độ tăng trưởng của sản lượng trên mỗi lao động
là không chỉ được quyết định bởi sự thay đổi công nghệ, mà còn bị ảnh
hưởng bởi chất lượng của thể chế. Một nền kinh tế có thể tiếp cận với công
xii
nghệ tiên tiến, nhưng với một thể chế kém của nó có thể cản trở việc áp
dụng các công nghệ sẵn có và làm giảm năng suất của các yếu tố sản xuất,
gây cản trở tăng trưởng kinh tế. Thể chế cũng ảnh hưởng đến thời gian
truyền dẫn của sản lượng của mỗi công nhân. Hình 2 mô tả các trường hợp
trong đó một nền kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ và sau đó, vào
thời điểm , một cú sốc ngoại sinh cải thiện chất lượng của thể chế từ T1
đến T2 (T2 >T1 ). Sự cải thiện về chất lượng của thể chế tạo ra một sự thay
đổi toàn diện lên mức sản lượng của mỗi công nhân.
Hình 2: Tác động của chất lượng thể chế đến sản lượng trên mỗi lao động
Nguồn: Trích từ bài nghiên cứu của Tebaldi (2008)
Sự ảnh hưởng của thể chế lên sản lượng của mỗi công nhân bắt nguồn
không chỉ từ những tác động của nó đối với hiệu quả chuyển giao và trạng
thái ổn định của công nghệ, mà còn từ những tác động của nó đối với sự
tích lũy vốn. Thể chế ảnh hưởng đến năng suất biên của vốn và do đó ảnh
hưởng đến các khoản đầu tư và tích lũy vốn. Trường hợp đặc biệt, cho tỷ số
là hằng số và có giá trị xoay quanh trạng thái ổn định, bằng cách lấy đạo
hàm phương trình 8 theo k, ta đánh giá được các tình huống phát sinh của
xiii
nó xung quanh các trạng thái ổn định được cho:
(2.12)
Điều này ngụ ý rằng sự cải thiện chất lượng của thể chế có ảnh hưởng
tương ứng lên trạng thái ổn định năng suất biên của vốn. Nói cách khác, thể
chế tốt làm tăng lợi nhuận đầu tư, thúc đẩy tích lũy vốn, cuối cùng làm tăng
sản lượng của mỗi công nhân. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu
thực nghiệm của (Brunetti, 1998; Mauro, 1995; Wei, 2000) khi thấy rằng
xiv
sự tích lũy vốn đang bị ảnh hưởng xấu bởi một thể chế yếu kém.
Phụ lục 3: Lý thuyết tác động của thể chế đến mối quan hệ tham
nhũng và tăng trưởng
3.1. Mô hình cơ bản cho tham nhũng và tăng trưởng
Để khảo sát vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng
trưởng De Vaal & Ebben (2011) đã xây dựng mô hình sự tác động trực tiếp
và gián tiếp của tham nhũng lên tăng trưởng. Tác giả phát triển mô hình hai
tầng, trong đó mô hình tầng thứ nhất thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa
tham nhũng và tăng trưởng, và mô hình tầng thứ hai thể hiện sự tương tác
giữa tham nhũng và thể chế đến mối quan hệ này.
Mô hình thứ nhất dựa theo nghiên cứu của Mauro (2004), ông xây dựng mô
hình chứng minh tham nhũng làm giảm hiệu suất sản xuất và gây cản trở
tăng trưởng. Căn cứ xây dựng mô hình này được dựa vào khung lý thuyết
của Barro (1988), khi đó hàng hóa công được cung cấp bởi chính phủ và
hoạt động giống như đầu vào cho sản xuất của khu vực tư. Lợi nhuận theo
quy mô của khu vực tư có thể giảm dần, nhưng lợi nhuận xã hội có thể
không đổi hoặc tăng lên. Mauro đưa tham nhũng vào mô hình như một
khoản trục lợi làm thay đổi tỷ lệ tăng trưởng.
Nền kinh tế bao gồm các đại diện kinh tế và các đại diện này cố gắng để tối
đa hóa tổng hữu dụng theo hàm:
∞ 0
(3.1) 𝑈 = ∫ 𝑢(𝑐)𝑒−𝜌𝑡𝑑𝑡
Trong đó c là tiêu dùng bình quân đầu người và ρ thể hiện tỷ lệ không đổi
của sở thích theo thời gian. Hàng hóa tiêu dùng được sản xuất bởi các đại
diện kinh tế sử dụng vốn, lao động và hàng hóa công G theo phương trình
sau:
xv
(3.2) 𝑌 = 𝐹(𝐾, 𝐿, 𝐺)
Yếu tố G thể hiện vai trò sản xuất của chính phủ trong mô hình. Tuy nhiên,
sự kết hợp với vai trò của chính phủ cũng tạo môi trường cho tham nhũng
hành chính hoạt động. Các đại diện kinh tế sẽ nổ lực để sử dụng hàng hóa
công vì lợi ích của chính họ thay vì sử dụng chúng cho hoạt động sản xuất.
Trong mô hình này, các cá nhân phân bổ thời gian của họ cho hoạt động
sản xuất (L) và tham nhũng (S). Vì vậy, tham nhũng có hai ảnh hưởng đến
đầu ra: đeo đuổi mục tiêu tham nhũng sẽ làm giảm thời gian dành để sản
xuất; trong khi đó nó cũng hàm ý rằng giảm lượng hàng hóa công đưa vào
tiến trình sản xuất như một yếu tố đầu vào. Cụ thể:
(3.3) 𝑌 = 𝐾1−𝛼𝐿𝛼[𝐺(1 − 𝑆)]𝛼
Các cá nhân phân bổ thời gian của họ cho hoạt động sản xuất và tham
nhũng. Tại điểm cân bằng, lương ròng phải bằng với năng suất biên của
tham nhũng. Đối với từng cá nhân, năng suất biên của tham nhũng là G.
Khi chính phủ sản xuất nhiều hàng hóa công, người tham nhũng có thể
chiếm đoạt một lượng hàng hóa công nhiều hơn. Năng suất biên của lao
động là tiền lương ròng sau thuế và bằng (1 − 𝜏)𝜕𝑌/𝜕𝐿. Từ phương trình
(3.3), ta có
= 𝛼 𝜕𝑌 𝜕𝐿 𝑌 𝐿
Bởi vì lương ròng phải bằng năng suất biên của tham nhũng nên giá trị cân
bằng của L trở thành:
𝜕𝑌
𝐿 = 1 − 𝑆 = 𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺
𝜕𝐾
Thay giá trị L vào hàm sản xuất thu được năng suất biên của vốn sẽ tạo
ra sự gia tăng cho hàm tăng trưởng:
xvi
− 𝜌 (1 − 𝜏)𝜕𝑌 𝜕𝐾 𝛾 = 𝜎
𝛼
𝛼
1
1
1−𝛼 [𝐺(1 − 𝑆)] )
𝛼 1−𝛼 − 𝜌]
𝜎
1−𝛼 ( 𝑌
(3.4) = ] [(1 − 𝜏)(1 − 𝛼) [𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺
Là phương trình có thuế với 1/𝜎 đại diện độ co giãn thay đổi theo thời gian
trong tiêu dùng. Phương trình này có giá trị bằng hoặc gần bằng 1 (Mauro,
𝛼 1−𝛼 làm
2002), nghĩa là tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng. [𝐺(1 − 𝑆)]
𝛼
1−𝛼 cũng làm giảm đầu vào lao động tối ưu (bằng 1-S). Ngoài
giảm lượng hàng hóa công đưa vào tiến trình sản xuất, trong khi đó
] [𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺
ra, Barro (1988) cũng cho thấy tác động của chi tiêu chính phủ lên tăng
trưởng – G làm cho vốn hiệu quả hơn nhưng cũng ám chỉ rằng gánh nặng
thuế làm giảm đầu vào lao động, tăng chi tiêu chính phủ cũng tạo điều kiện
cho tham nhũng hoạt động. Điều này dẫn đến một sự gia tăng trong hoạt
động tham nhũng và hậu quả là làm giảm hiệu suất sản xuất.
3.2. Mô hình kết hợp thể chế
Để kết hợp ảnh hưởng của thể chế lên mối quan hệ giữa tham nhũng và
tăng trưởng, chúng tôi mở rộng mô hình cơ bản với tầng thứ hai, tầng thể
chế. Bây giờ, chúng tôi mở rộng mô hình với mức độ ổn định chính trị và
hệ thống chính trị.
a. Ổn định chính trị
Một mức độ vững chắc về ổn định chính trị là điều kiện cần thiết cho sản
xuất và phát triển kinh tế. Trong bối cảnh ổn định chính trị, người dân có
niềm tin vững bền và sự tự tin trong việc đầu tư và hoạt động sản xuất.
Ngược lại, trong môi trường bất ổn chính trị, hoạt động sản xuất sẽ bị giảm
sút. Hơn nữa, khi xảy ra bất ổn chính trị sẽ dễ dấn tình trạng vô chính phủ
và bạo loạn. Khi đó, môi trường hoạt động sản xuất là không hiệu quả. Vì
vậy, ổn định chính trị là yếu tố quan trọng của khung thể chế tác động đến
xvii
sản xuất và tăng trưởng.
Để tích hợp vai trò của ổn định chính trị, hàm sản xuất tầng thứ nhất cần
được thay đổi và hàm sản xuất mới được hình thành. Theo Klein et al.
(1999), hàm sản xuất là sự kết hợp giữa hàm sản xuất dài hạn với biến phụ.
Trong hàm thứ nhất, hàm sản xuất phụ thuộc vào vốn, lao động và hàng
hóa công. Biến phụ được thêm vào trong trường hợp này là yếu tố ổn định
chính trị. Vì vậy, ổn định chính trị thúc đẩy sản xuất và là môi trường quan
trọng cho sản xuất:
(3.5) 𝑌 = 𝐾1−𝛼𝐿𝛼[𝐺(1 − 𝑆)]𝛼[𝑆𝑡𝑎𝑏]
Bản thân mức độ ổn định chính trị cũng phụ thuộc vào tham nhũng, một
trong vô số các yếu tố tác động đến nó. Tuy nhiên, sự tác động của tham
nhũng đến ổn định chính trị khác nhau trong bối cảnh ổn định chính trị và
bất ổn chính trị. Khi một quốc gia có môi trường ổn định chính trị, tham
nhũng gây trở ngại cho ổn định chính trị. Ngược lại, trong bối cảnh bất ổn
chính trị, tham nhũng lại thúc đẩy bất ổn chính trị. Khi đó, tham nhũng là
một cách để ổn định hệ thống kinh tế với nhau, hoặc để tránh hệ thống đổ
vỡ. Để định hình các hiệu ứng ngưỡng, chúng tôi giả định hàm ổn định
chính trị như sau:
𝑆𝑡𝑎𝑏 = 𝑋 + 𝑆[𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑆𝑡𝑎𝑏]
Trong đó X thể hiện một tập các yếu tố khác ngoài tham nhũng ảnh hưởng đến ổn định chính trị, và 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ là mức ngưỡng trên (dưới) của ổn định chính
trị mà tham nhũng tác động đến ổn định chính trị là tiêu cực (tích cực).
Phương trình này được viết lại
𝑆𝑡𝑎𝑏 = (𝑋 + 𝑆. 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅)/(1 + 𝑆)
Nó cho thấy chỉ khi (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋) > 0 thì tham nhũng sẽ tác động tích cực
1 𝑑𝑆𝑡𝑎𝑏/𝑑𝑆 = (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋)/(1 − 𝑆)2
xviii
đến ổn định chính trị1. Bằng trực giác cho thấy chỉ khi các yếu tố khác
không đủ để nâng mức ổn định vượt qua mức ngưỡng, tham nhũng mới tác
động tích cực đến ổn định chính trị.
𝛼
𝛼
1
1
Điều này hàm ý cho một tỷ lệ tăng trưởng như sau:
1−𝛼 (
1−𝛼 [𝐺(1 − )
𝜎
𝑌
1
𝛾 = ] [(1 − 𝜏)(1 − 𝛼) [𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺
𝛼 1−𝛼 (
1−𝛼 − 𝜌] (3.6) )
𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆
𝑆)]
Như đã bình luận, tham nhũng tác động đến tăng trưởng trực tiếp thông qua
sự tác động đến lựa chọn đầu vào lao động và làm giảm phần hàng hóa
𝛼
công sẵn có cho sản xuất khu vực tư. Bây giờ, tác động này cũng xuất hiện
1−𝛼. Nhưng tác động này )
𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆
thông qua tác động lên ổn định chính trị (
là không rõ ràng, nó phụ thuộc vào mức độ ổn định chính trị trong xã hội
mà làm cho tham nhũng tác động tích cực hoặc tiêu cực lên ổn định chính
trị.
Một cách chính thức, tác động của tham nhũng lên tỷ lệ tăng trưởng được
cho bởi
𝑆
1−𝑆
𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋
= } ) − 𝜕𝛾 𝜕𝑆 𝑆 𝛾 𝜎𝛾 + 𝜌 (1 − 𝛼)𝜎𝜌 𝑆 { 1 + 𝑆 2𝛼𝑆 1 − 𝑆 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋 ( 𝑋 + 𝑆. 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅
1−𝑆
𝜎𝛾+𝜌 (1−𝛼)𝜎𝜌
1+𝑆
𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅) − 2𝛼} > (
(3.7) = { <⁄ 0
Như vậy, tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế là tiêu cực nếu
mức ngưỡng của ổn định là đủ thấp, vì thế tham nhũng cũng tác động tiêu
cực đến ổn định chính trị. Trường hợp khác, tham nhũng có thể thúc đẩy
tăng trưởng và lao động được cung cấp không quá quan trọng trong sản
xix
xuất (α nhỏ). Tham nhũng làm giảm lượng lao động được sử dụng trực tiếp
cho hoạt động sản xuất vì thế tầm quan trọng của lao động trong sản xuất
trở nên nhỏ hơn.
b. Hệ thống chính trị
Tối ưu hóa các lựa chọn cung cấp lao động
Giá trị tối ưu xã hội của L được lấy bởi hiệu suất biên của lao động bằng
𝑌
với hiệu suất biên của tham nhũng. Trong điều kiện hệ thống chính phủ dân
𝐿
trong khi đó hiệu suất chủ tương thích, hiệu suất biên của lao động là 𝛼
𝑑𝑌
𝑌
𝛼𝑌
biên của tham nhũng là:
𝑑𝑆
1+𝑆
𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋 𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅] −
1−𝑆
(3.8) = [
Điều này khác biệt từ hiệu suất biên của tham nhũng cho mỗi cá nhân. Hơn nữa, 𝑑𝑌/𝑑𝑆 là tích cực chỉ khi 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ > 𝑋, nghĩa là khi ổn định chính trị
thấp hơn mức ngưỡng. Trong trường hợp này, phương trình (3.8) chứng
minh rằng tham nhũng có 2 tác động đối lập nhau. Khi tham nhũng là tập
trung, sự so sánh tương quan giữa tác động biên của tham nhũng và của sản
xuất so với phần doanh thu thuế vẫn không đổi, (1 − 𝛼)𝜏𝑌. Khi đó, lựa chọn lao động tối ưu khi 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋 > 0:
𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋
(3.9) 𝐿 = 2𝛼(𝑆 + 1) [ ]
L tối ưu tương quan thuận với sự hiện diện của tham nhũng trong xã hội
khi và chỉ khi các yếu tố khác tác động đến ổn định chính trị (X) giảm thấp hơn mức ngưỡng của ổn định (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅). Khi đó, tham nhũng được hiểu là tạo
ra ngoại tác tích cực đến ổn định chính trị. Nếu ngoại tác tích cực này
không xuất hiện, lợi ích biên của tham nhũng trở thành tiêu cực (thể hiện
xx
phương trình 3.8).
Tác động không rõ ràng của tham nhũng lên tăng trưởng cũng được phản
ánh trong hàm tăng trưởng. Sử dụng giá trị cân bằng của L từ phương trình
𝛼
𝛼
1
𝐺
3.9, hàm tăng trưởng trở thành
1−𝛼 (
1−𝛼 (1 − )
𝜎
𝑌
1
𝛾 = ] [(1 − 𝜏)(1 − 𝛼) [2𝛼(𝑆 + 1) 𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋
𝛼 1−𝛼 (
1−𝛼 − 𝜌] (3.10) )
𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆
𝑆)
𝛼
Như phân tích trên, tham nhũng tác động đến tăng trưởng thông thay đổi
1−𝛼, và đầu vào của hàng hóa công, )
𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆
𝛼 1−𝛼, cho sản xuất tư nhân. Và bây giờ tham nhũng còn tác động
mức độ ổn định chính trị, (
𝛼
1−𝛼. Tác động
(1 − 𝑆)
] thông qua việc tuyển dụng lao động [2𝛼(𝑆 + 1) 𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋
cuối cùng này tăng lên bởi vì các nhà hoạch định biết rằng tham nhũng
cũng có hậu quả cho tổng sản lượng đầu ra. Ngoài ra, tham nhũng chỉ tác
động tích cực đến tăng trưởng khi mà mức độ ổn định giảm thấp hơn mức
ngưỡng.
Tối ưu hóa cung cấp hàng hóa công
Bây giờ, ủng hộ quan điểm cho rằng lập kế hoạch xã hội có liên quan đến
việc lựa chọn mức độ tối ưu về cung cấp hàng hóa công, khi đó các quyết
định cung lao động phụ thuộc vào G. Điểm này giảm xuống để giả định
rằng chính phủ cân bằng chi phí biên và lợi ích của G được dựa trên hàm
sản xuất tổng hợp với sự kết hợp của lựa chọn cung lao động tối ưu của cá
𝑌
nhân mà chúng tôi đã tìm thấy từ phần trên. Nhắc lại 𝐿 = 1 − 𝑆 = 𝛼(1 −
𝐺
và bỏ qua sự tác động của ổn định chính trị đến sản lượng, hàm sản 𝜏)
xuất trở thành:
xxi
𝑌 = 𝐾1−𝛼[(1 − 𝜏)𝛼]2𝛼𝑌2𝛼𝐺−𝛼
𝛼 2𝛼−1
Sắp xếp lại phương trình ta có:
2𝛼 1−2𝛼𝐾
1−𝛼 1−2𝛼𝐺
(3.11) 𝑌 = [(1 − 𝜏)𝛼]
𝑑𝑌
Trường hợp tham nhũng tập trung, chi phí biên của cung cấp hàng hóa
𝑑𝐺
𝐺
𝛼
công là bằng 1 và lợi ích biên là . Điều này ngụ ý
𝑌
2𝛼−1
= 𝜏
Là tích cực khi và chỉ khi 𝛼 > 1/2. Khi đó, lao động phải đủ lớn trong sản
xuất cuối cùng để chứng minh tham nhũng tập trung để tạo ra một lượng
tích cực của G.
𝑑𝑌
Trong trường hợp chính phủ dân chủ hợp lý, chi phí biên của cung cấp
𝑑𝐺
𝐺
𝛼
hàng hóa công là 1 trong khi lợi ích biên là lượng . Điều này mang lại
𝑌
= 2𝛼−1
Bởi vì cân đối ngân sách yêu cầu 𝐺 = 𝜏𝑌. Một lần nữa, cung cấp hàng hóa
công là tích cực khi 𝛼 > 1/2, trong trường hợp này G/Y cũng cao hơn so
với trước đây.
Khảo sát việc cung cấp hàng hóa công tối ưu khi có sự hiện diện của thể
chế, chẳng hạn ổn định chính trị, kết quả có thể thay đổi. Bởi vì lựa chọn
cung lao động tối ưu của cá nhân vẫn không đổi, hàm sản xuất được mở
𝛼
rộng từ phương trình (3.11) như sau:
2𝛼 1−2𝛼𝐾
1−𝛼 1−2𝛼𝐺
2𝛼−1𝑆𝑡𝑎𝑏(𝐺)
𝑌 = [(1 − 𝜏)𝛼]
Khi đó, 𝑆𝑡𝑎𝑏(𝐺) = (𝑋 + 𝑆(𝐺). 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅)/(1 + 𝑆(𝐺)). Hàm ý của sự bao gồm
𝑑𝑌
𝛼
𝑌
𝑌
Stab(G) trong hàm sản xuất có thể được khảo sát thông qua dY/dG :
2 )
𝑑𝐺
2𝛼−1
𝐺
𝐺
𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋 (𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅)(1+𝑆)
xxii
= [ ] + 𝛼(1 − 𝜏) (
Do đó, trong điều kiện ổn định chính trị, khi tham nhũng tác động tích cực đến ổn định chính trị (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋 > 0) thì dY/dG tăng lên. Bởi vì chi phí
biên của việc tạo ra G là không đổi cho cả hai trường hợp tham nhũng tập
trung và chính phủ dân chủ hợp lí, điều này ngụ ý rằng nếu tham nhũng tạo
ra ngoại tác tích cực thông qua ổn định chính trị thì việc gia tăng chi tiêu
cho hàng hóa công là tối ưu.
Tóm lại, mô hình tầng thứ nhất cho thấy trong điều kiện không có có khung
thể chế thì tham nhũng kìm hãm tăng trưởng thông qua việc làm giảm
lượng đầu vào của hàng hóa công cho khu vực sản xuất và giảm đầu vào
của lao động. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng trở
nên không chắc chắn khi đưa yếu tố khung thể chế vào mô hình phân tích.
Khi mức độ ổn định chính trị lớn hơn so với ngưỡng ổn định chính trị,
tham nhũng tác động tiêu cực đến ổn định chính trị và vì vậy tham nhũng
cũng gây cản trở tăng trưởng. Ngược lại, khi mức độ ổn định chính trị thấp
hơn so với ngưỡng ổn định chính trị, tham nhũng tác động tích cực đến ổn
định chính trị và vì vậy tham nhũng thúc đẩy tăng trưởng.
Tương tự, hệ thống chính trị cũng tác động đến mối quan hệ giữa tham
nhũng và tăng trưởng. Ứng dụng mô hình tầng thứ hai để so sánh tham
nhũng tại xã hội dân chủ và tham nhũng tại hệ thống chuyên chế và cho
thấy tham nhũng thúc đẩy tăng trưởng hay không còn tùy thuộc vào môi
xxiii
trường thể chế.
Phụ lục 4: Các quốc gia trong mẫu nghiên cứu
xxiv
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 Quốc gia Benin Bolivia Burkina Faso Burundi Cambodia Cameroon Chad Congo, Rep. Cote d'Ivoire Egypt, Arab Rep. El Salvador Gambia, The Georgia Ghana Guatemala Guinea Honduras India Indonesia Kenya Kyrgyz Republic Lesotho Madagascar STT 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 Quốc gia Malawi Mali Mauritania Moldova Mongolia Morocco Mozambique Nepal Nicaragua Niger Pakistan Paraguay Philippines Rwanda Senegal Sri Lanka Swaziland Tajikistan Tanzania Togo Uganda Ukraine Vietnam