BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

-------------

ĐẶNG VĂN CƯỜNG

THAM NHŨNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

TẠI CÁC QUỐC GIA CHUYỂN ĐỔI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP.HCM, NĂM 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

-------------

ĐẶNG VĂN CƯỜNG

THAM NHŨNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

TẠI CÁC QUỐC GIA CHUYỂN ĐỔI

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS Vũ Thị Minh Hằng 2. TS Nguyễn Thị Huyền

TP.HCM, NĂM 2016

LỜI CAM ĐOAN

--------Δ--------

Tôi xin cam đoan luận án Tiến sĩ với đề tài “Tham nhũng và tăng trưởng

kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi” là công trình nghiên cứu độc lập của

tôi. Các thông tin, số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc trích

dẫn rõ ràng, cụ thể và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình

nghiên cứu nào khác.

TP.HCM, ngày 5 tháng 10 năm 2016

Nghiên cứu sinh

Đặng Văn Cường

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

--------Δ--------

2SLS: Two Stage Least Square (bình phương tối thiểu hai giai đoạn)

AIC: Akaike’s information Criterion

SIC: Schwaz Information Criterion

DGMM: difference GMM (GMM sai phân)

FDI: Foreign Direct Investment (đầu tư trực tiếp nước ngoài)

FEM: Fixed Effect Model (mô hình hiệu ứng cố định)

GMM: Generalized Method of Moments (phương pháp ước lượng tổng

quát hóa dựa trên moment)

GSL: Generalized Least Square (bình phương tối thiểu tổng quát hóa)

PRS: Political Risk Service

REM: Random Effect Model (mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên)

TFP: Total Factor Productivity (nhân tố sản xuất tổng hợp)

DANH MỤC BẢNG BIỂU

--------Δ--------

Trang

Chương 2 Khung lý thuyết các yếu tố tác động tham nhũng

Bảng 2.1: Các yếu tố tác động đến tham nhũng ......................................... 41

Chương 3 Khung lý thuyết tham nhũng tác động đến tăng trưởng

Bảng 3.1: Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm ...................................... 69

Chương 4 Kết quả nghiên cứu và thảo luậ3

Bảng 4.1: Các biến sử dụng trong mô hình ................................................. 93

Bảng 4.2: Thống kê mô tả biến ................................................................... 94

Bảng 4.3 : Ma trận hệ số tương quan các biến .......................................... 105

Bảng 4.4 : Ma trận hệ số tương quan các biến .......................................... 106

Chương 5 Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Bảng 5.1 : Kiểm định tính dừng các biến ................................................. 110

Bảng 5.2 : Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu ................................................. 111

Bảng 5.3 : Kiểm định quan hệ nhân quả Granger ..................................... 112

Bảng 5.4 : Kết quả kiểm định Wald .......................................................... 112

Bảng 5.5 : Kết quả hồi quy các biến ......................................................... 114

Bảng 5.6 : Kết quả hồi quy bằng PP ước lượng 2SLS .............................. 125

Bảng 5.7 : Hiệu ứng từng phân ................................................................. 128

Bảng 5.8 : Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng ............................. 132

Bảng 5.9 : Kết quả hồi quy bằng PP 2SLS ............................................... 135

Bảng 5.10 : Kết quả kiểm định hiệu ứng hội tụ ........................................ 138

Bảng 5.11 : Kết quả hồi quy bằng PP GLS ............................................... 139

Bảng 5.12 : Kết quả hồi quy PP GMM ..................................................... 152

DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

--------Δ--------

Trang

Chương 1 Giới thiệu tổng quan về nghiên cứu

Hình 1.1 Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế ............................................... 9

Hình 1.2 Quy trình thực hiện nghiên cứu ................................................... 17

Chương 2 Khung lý thuyết các yếu tố tác động tham nhũng

Hình 2.1: Lý thuyết nguyên nhân gây ra tham nhũng ................................. 34

Chương 3 Khung lý thuyết tham nhũng tác động đến tăng trưởng

Hình 3.1: Các kênh truyền dẫn của tham nhũng đến tăng trưởng .............. 59

Chương 4 Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Biểu đồ 4.1: Tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi ............................... 95

Biểu đồ 4.2 : Thu nhập bình quân ............................................................... 96

Biểu đồ 4.3 : Mức độ tự do kinh tế ............................................................. 97

Biểu đồ 4.4 : Mức độ tự do dân chủ ............................................................ 98

Biểu đồ 4.5 : Tỷ lệ thất nghiệp .................................................................... 99

Biểu đồ 4.6 : Tỷ lệ lạm phát ...................................................................... 100

Biểu đồ 4.7 : Tốc độ tăng dân số ............................................................... 101

Biểu đồ 4.8 : Độ mở thương mại............................................................... 102

Biểu đồ 4.9 : Tỷ lệ học sinh ...................................................................... 103

Biểu đồ 4.10 : Tỷ lệ đầu tư ........................................................................ 104

Biểu đồ 4.11 : Tỷ lệ chi tiêu dùng công .................................................... 105

Chương 5 Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Biểu đồ 5.1 : Mối quan hệ giữa tự do kinh tế và tham nhũng .................. 115

Biểu đồ 5.2 : Mối quan hệ giữa dân chủ và tham nhũng .......................... 117

Biểu đồ 5.3 : Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng ......................... 119

Biểu đồ 5.4 : Mối quan hệ giữa lạm phát và tham nhũng ......................... 120

Biểu đồ 5.5: Mối quan hệ giữa trình độ dân trí và tham nhũng ................ 121

Biểu đồ 5.6: Mối quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tham nhũng .............. 122

Biểu đồ 5.7: Mối quan hệ giữa nguồn gốc pháp lý và tham nhũng .......... 123

Biểu đồ 5.8 : Tác động từng phần của tự do kinh tế ................................. 129

Biểu đồ 5.9 : Tác động từng phần của dân chủ ......................................... 130

Biểu đồ 5.10 : Mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng ....... 134

Biểu đồ 5.11 : Tác động tham nhũng đến tăng trưởng ............................. 141

Biểu đồ 5.12 : Tác động tự do kinh tế đến tăng trưởng ............................ 141

Biểu đồ 5.13 : Tác động dân chủ đến tăng trưởng .................................... 143

Biểu đồ 5.14 : Tác động đầu tư đến tăng trưởng ...................................... 144

Biểu đồ 5.15 : Tác động trình độ dân trí ................................................... 145

Biểu đồ 5.16 : Tác động tốc độ tăng dân số .............................................. 146

Biểu đồ 5.17 : Tác động chi tiêu dùng công ............................................. 147

Biểu đồ 5.18 : Hiệu ứng tương tác của dân chủ và tham nhũng ............... 149

Biểu đồ 5.19 : Hiệu ứng tương tác của tự do kinh tế và tham nhũng ....... 150

MỤC LỤC

--------Δ--------

Trang

Chương 1 Giới thiệu khái quát về đề tài nghiên cứu ............................... 1

1.1. Tính cấp thiết của luận án .............................................................. 1

1.2. Tình hình nghiên cứu có liên quan ................................................ 4

1.3. Khoảng trống nghiên cứu và mục tiêu........................................... 9

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................... 12

1.5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................. 12

1.6. Kết quả và đóng góp mới của luận án ......................................... 15

1.7. Quy trình nghiên cứu ................................................................... 16

1.8. Kết cấu của luận án ...................................................................... 17

Chương 2 Khung lý thuyết các yếu tố tác động tham nhũng ............... 20

Giới thiệu chương 2 .............................................................................. 20

2.1. Khung khái niệm ........................................................................... 21

2.1.1. Tổng quan về thể chế .............................................................. 21

2.1.2. Tổng quan về tham nhũng ...................................................... 25

2.2. Lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng ......................... 30

2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm ....................................................... 34

Kết luận chương 2 ................................................................................ 42

Chương 3 Lý thuyết tác động tham nhũng đến tăng trưởng ................ 43

Giới thiệu chương 3 .............................................................................. 43

3.1. Khái niệm tổng quan .................................................................... 44

3.2. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế...................................................... 46

3.2.1. Tham nhũng và tăng trưởng .................................................... 46

2.2.2. Kênh truyền dẫn tác động của tham nhũng ............................ 52

3.3. Các nghiên cứu thực nghiệm ....................................................... 60

3.2.1. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tiêu cực ....................... 60

3.2.2. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tích cực ....................... 65

Kết luận chương 3 ................................................................................ 71

Chương 4 Mô hình, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ..................... 73

Giới thiệu chương 4 .............................................................................. 73

4.1. Mô hình thực nghiệm .................................................................... 74

4.1.1. Các yếu tố tác động đến tham nhũng ...................................... 74

4.1.2. Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng ............................ 75

4.2. Phương pháp ước lượng ............................................................... 76

4.2.1. Mô hình các thành phần sai số cố định ................................... 76

4.2.2. Mô hình các thành phần sai số ngẫu nhiên ............................. 77

4.2.3. Ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) ................ 78

4.2.4. Ước lượng với biến công cụ ................................................... 79

4.2.5. Phương pháp ước lượng D-GMM .......................................... 80

4.3. Các bước phân tích dữ liệu .......................................................... 82

4.3.1. Kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng..................... 83

4.3.2. Kiểm định hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng 84

4.3.3 Kiểm định lý thuyết chất bôi trơn của tham nhũng ................. 85

4.4. Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................ 86

4.4.1. Mô tả biến ............................................................................... 86

4.4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu ........................................ 93

Kết luận chương 4 ............................................................................... 106

Chương 5 Kết quả nghiên cứu và thảo luận ........................................ 108

Giới thiệu chương 5 ........................................................................... 108

5.1. Kết quả kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng ....... 109

5.1.1. Kiểm định quan hệ nhân quả Granger .................................. 109

5.1.2. Phân tích mô hình tuyến tính cơ bản .................................... 113

5.1.3. Kiểm tra tính vững của mô hình ........................................... 124

5.1.4. Phân tích hiệu ứng từng phần ............................................... 127

5.2. Kết quả kiểm định mối quan hệ phi tuyến ............................... 131

5.2.1. Mối quan hệ phi tuyến .......................................................... 131

5.2.2. Kiểm tra tính vững ................................................................ 135

5.3. Kết quả kiểm định hiệu ứng chất bôi trơn của tham nhũng .. 137

5.3.1. Kiểm định giả thuyết hiệu ứng hội tụ ................................... 137

5.3.2. Kết quả thực nghiệm mô hình cơ sở ..................................... 139

5.3.3. Kết quả thực nghiệm mô hình biến tương tác ...................... 147

5.3.4. Phân tích tính vững bằng phương pháp D-GMM ................. 150

Kết luận chương 5 .............................................................................. 153

Chương 6 Kết luận và hàm ý chính sách .............................................. 154

Giới thiệu chương 6 ............................................................................ 154

6.1. Các phát hiện chính .................................................................... 154

6.2. Gợi ý về chính sách ..................................................................... 156

6.2.1. Các giải pháp góp phần kiểm soát tham nhũng .................... 156

6.2.2. Các giải pháp cho tăng trưởng kinh tế .................................. 164

6.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................... 167

Kết luận chương 6 .............................................................................. 168

Kết luận chung ......................................................................................... 169

Danh muc các công trình công bố .......................................................... 173

Tài liệu tham khảo .................................................................................. 177

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Tính cấp thiết của luận án

Do ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, từ lâu tham nhũng đã trở thành chủ đề

trọng tâm trong các lĩnh vực khoa học chính trị và kinh tế học. Vấn đề

chống tham nhũng hiện đang là một trong những vấn đề được ưu tiên hàng

đầu trong chương trình cải cách thể chế cho tiến trình phát triển tại các

quốc gia chuyển đổi. Theo tài liệu “Các hình thái tham nhũng” của Ngân

hàng thế giới (2008), những nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm trong vòng

một thập kỷ qua đã chỉ ra một cách thuyết phục rằng sự yếu kém trong điều

hành nhà nước (thể chế) thường dẫn đến các hình thức tham nhũng và nó

được xem là gây cản trở đối với đầu tư, làm chậm tăng trưởng kinh tế và

kìm hãm các nỗ lực xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, các nhà hoạch định

chính sách có thể sử dụng các công cụ chẩn đoán để đánh giá về các ưu

tiên cải cách trong các lĩnh vực hay xảy ra tham nhũng với phạm vi rộng

hơn và đánh giá về tác động tiềm tàng của các biện pháp cải cách này theo

thời gian. Nhưng việc tìm hiểu sâu hơn về các nguyên nhân gây ra tham

nhũng vẫn đối mặt với nhiều khó khăn và việc xác định yếu tố nào là quan

trọng dẫn đến tình trạng tham nhũng ngày càng trầm trọng, dai dẵn thì vẫn

chưa được giải quyết.

Đến thời điểm hiện nay, các quốc gia chuyển đổi1 vẫn đang trong giai đoạn

1 Theo bài nghiên cứu về “Chống tham nhũng trong giai đoạn chuyển tiếp: khảo sát đa quốc gia tìm hiểu ý kiến về các nhà lãnh đạo” của WorldBank (2000)bao gồm các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Những quốc gia này được WDI (2014) xếp vào các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp. Rada & Taylor (2006) sử dụng dữ liệu của 57 quốc gia để nghiên cứu về sự phân hóa tăng trưởng và cấu trúc kinh tế của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Trong bài nghiên cứu của Iwasaki & Suzuki (2012), tác giả chỉ sử dụng dữ liêu của 32 quốc gia để khảo sát các yếu tố tác động đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi (do thiếu dữ liệu của chỉ số tham nhũng). Trong công trình này, do hạn chế về mặt dữ liệu của biến CPI được khai thác từ tổ chức Transparency International, tác giả sử dụng dữ liệu của 46 quốc gia theo tiêu chuẩn của WDI (2014) (xem thêm phụ lục).

thực hiện cải cách thể chế để hướng đến mục tiêu tạo lập môi trường kinh

1

doanh minh bạch, công bằng và ổn định chính sách nhằm thu hút dòng vốn

đầu tư thúc đẩy tiến trình phát triển đất nước. Chính sách cải cách này đã

mang lại những thành công bước đầu khi các nền kinh tế này đã đẩy mạnh

tiến trình công nghiệp hóa và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế,

đạt được nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội… Nhưng,

song hành với những thành tựu đó, các quốc gia này vẫn đang đối mặt với

nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng. Trong đó, sự lây lan của nạn tham

nhũng tràn ngập vào mọi khía cạnh của đời sống kinh tế xã hội được xem

là vấn đề đáng lo ngại nhất. Theo báo cáo của WorldBank (2007b), thực tế

chỉ có 8 trong tổng số 34 quốc gia chuyển đổi có chỉ số kiểm soát tham

nhũng vượt mức trung trình của toàn thế giới trong giai đoạn 1996 – 2006

(kiểm soát tốt tham nhũng). Những nghiên cứu học thuật trước đây đã chỉ

ra rằng nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này được cho là do các quốc

gia chuyển đổi có chất lượng khung thể chế kém, thiếu cả mức độ dân chủ

và tự do kinh tế, và thu nhập của giới công chức còn thấp so với đại diện

khu vực tư (Acemoglu & Verdier, 2000; Treisman, 2000).

Những nghiên cứu dựa vào kinh nghiệm gần đây về hậu quả của tham

nhũng cũng cho thấy tham nhũng bóp méo sự phân bổ nguồn lực do đó nó

làm cho các nguồn ngân sách đi chệch hướng sang những lĩnh vực hoạt

động có thể dễ dàng hối lộ hay chi trả tiền hoa hồng phi pháp. Chẳng hạn,

nguồn ngân sách đi chệch hướng từ chi tiêu thường xuyên sang các khoản

đầu tư cơ bản để giúp giới chức dễ dàng trục lợi (Mauro, 1998; Tanzi &

Davoodi, 1998). Trong nhiều trường hợp, người nghèo chính là đối tượng

phải chịu gánh nặng lớn nhất từ sự chệch hướng này (Gupta & ctg, 2002;

Gyimah-Brempong, 2002).

Những kết quả nghiên cứu nói trên đã góp phần nâng cao nhận thức của

các nhà hoạch định chính sách, nhà tài trợ, cộng đồng doanh nghiệp và

công chúng nói chung về hậu quả không mong muốn của tham nhũng,

2

đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết cấp bách phải giải quyết những nguyên

nhân gốc rễ của nạn tham nhũng. Các nghiên cứu cũng đem đến cho các

nhà hoạch định chính sách một động lực thúc đẩy rất cần thiết để nhìn nhận

vấn đề này một cách nghiêm túc hơn.

Tuy nhiên, những nghiên cứu học thuật trước đây về tham nhũng, dù có

phạm vi rộng và ý nghĩa soi sáng, nhưng còn bị hạn chế về cách đánh giá

và sử dụng các phương pháp định lượng. Vấn đề thách thức hiện nay là các

nghiên cứu trước đây chưa sử dụng bộ dữ liệu đồng nhất về tham nhũng và

xuyên suốt để đánh giá đồng thời về các nguyên nhân gây ra tham nhũng

và hậu quả của nó, tác động của tham nhũng đến yếu tố kinh tế và xã hội.

Bên cạnh đó, việc lựa chọn mẫu khảo sát của các quốc gia có sự tương

đồng về chất lượng thể chế và thu nhập cũng chưa được quan tâm nhiều từ

các nhà nghiên cứu. Và việc thiếu tiếp cận các phương pháp ước lượng

hiện đại dành cho dữ liệu bảng nhằm xử lý vấn đề nội sinh tiềm ẩn cũng là

một hạn chế lớn của các nghiên cứu này.

Vì vậy, tác giả cho rằng việc thực hiện một nghiên cứu để tìm kiếm bằng

chứng về các nguyên nhân của tình trạng tham nhũng và đánh giá tác động

của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh của các quốc gia

chuyển đổi bằng việc sử dụng bộ dữ liệu đáng tin cậy về chỉ số tham nhũng

và ứng dụng các phương pháp ước lượng đảm bảo một kết quả chính xác là

thật sự cần thiết và mang tính cấp bách. Tác giả tin rằng kết quả của nghiên

cứu như vậy sẽ cung cấp các bằng chứng khoa học giúp chính phủ và các

cơ quan quản lý nhà nước ở cấp vĩ mô có thể xây dựng, lựa chọn giải pháp

hợp lý trong việc cải tiến điều hành nhà nước và chống tham nhũng hiệu

quả tại các quốc gia này.

3

1.2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án và vấn đề nghiên

cứu

Gần đây, các nghiên cứu về các yếu tố tác động đến tham nhũng là rất đa

dạng và phong phú. Các nghiên cứu này tập trung vào việc tìm hiểu các

nguyên nhân gây ra tham nhũng và từ đó tìm ra các giải pháp giảm mức độ

tham nhũng. Các nhà kinh tế và người hoạch định chính sách đã từng nhấn

mạnh vai trò của các yếu tố thể chế như là mức độ tự do kinh tế và tự do

dân chủ trong việc chống tham nhũng (Krueger, 1974; Treisman, 2007).

Mặc dù có nhiều sự đồng thuận trong các tài liệu thực nghiệm nhưng vẫn

tồn tại một vài vấn đề chưa được giải quyết. Chẳng hạn, nghiên cứu của

Rock (2009) và Treisman (2000) cho thấy mức độ tự do kinh tế lớn hơn

làm giảm mức độ tham nhũng, trong khi đó vai trò của mức độ dân chủ thì

lại không rõ ràng.

Nghiên cứu của Krueger (1974) đã thiết lập một kịch bản về hoạt động

tham nhũng và đã chỉ ra rằng: tại các nền kinh tế định hướng thị trường,

chính phủ quy định các giới hạn lên các hoạt động kinh tế làm gia tăng

mức độ tham nhũng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bởi vì các đại diện

khu vực tư không muốn mất quá nhiều thời gian cho việc xếp hàng chờ đợi

khi sử dụng các dịch vụ công nên họ chấp nhận thực hiện các khoản chi trả

bất hợp pháp cho giới công chức. Buchanan & Brennan (1980) nhấn mạnh

rằng tương tự hiệu ứng của cạnh tranh trong thị trường sản xuất, cạnh trạnh

chính trị làm giảm khả năng các công chức trục lợi khi cung cấp các dịch

vụ công. Tuy nhiên, Shleifer (1993) đã thảo luận về hiệu ứng của phi tập

trung đến tham nhũng và đưa ra kết luận ngược lại.

Theo tìm hiểu của tác giả, các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc đánh giá

tác động của chất lượng thể chế đến tham nhũng, nhưng tác giả vẫn chưa

tìm thấy một nghiên cứu định lượng nào đo lường xem việc mở rộng mức

độ tự do kinh tế và gia tăng mức độ dân chủ tác động như thế nào đến việc

4

phòng chống tham nhũng ở các quốc gia chuyển đổi. Do đó, tác giả tin

rằng việc thực hiện một nghiên cứu định lượng về vấn đề này sẽ cung cấp

bằng chứng hữu ích cần thiết và đáng tin cậy về mặt khoa học giúp cho các

nhà hoạch định chính sách có thêm một số chỉ dẫn nhằm xây dựng các

chiến lược cụ thể và đưa ra giải pháp cải cách thể chế hiệu quả trong việc

phòng chống tham nhũng.

Bên cạnh yếu tố chất lượng thể chế, yếu tố thu nhập tác động đến tham

nhũng cũng được quan tâm nhiều nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm

trước đây. Nghiên cứu của Graf Lambsdorff (2005) đã cho rằng thu nhập

thấp của giới chức chính là nguyên nhân tác động tiêu cực đến tham nhũng

ở các quốc gia. Kết quả của nghiên cứu này đã nhận được một vài sự đồng

thuận nhưng cũng tồn tại không ít các ý kiến trái chiều. Các nghiên cứu

ủng hộ kết quả này cho thấy tham nhũng chịu sự tác động tiêu cực từ thu

nhập bình quân ở các quốc gia, do đó các quốc gia giàu (thu nhập bình

quân đầu người cao) thường được cảm nhận là ít tham nhũng hơn ở các

quốc gia nghèo (thu nhập bình quân đầu người thấp). Tuy nhiên, thực tế

cho thấy điều này gần như không xảy ra ở các quốc gia chuyển đổi. Sau

thời gian cải cách, nền kinh tế tại các quốc gia này đã có những chuyển

biến tích cực và được thể hiện thông qua các thành tựu như tổng sản phẩm

quốc nội tăng, thu nhập trung bình được cải thiện, tỷ lệ nghèo đói giảm,

phúc lợi xã hội được chính phủ quan tâm nhiều hơn,… nhưng vấn nạn

tham nhũng chẳng những không được cải thiện mà lại có khuynh hướng

tăng cao cả về quy mô và hình thức. Báo cáo của Worldbank (2014) đã

cung cấp bằng chứng cho vấn đề này khi mà chỉ có 8 trong 32 quốc gia

chuyển đổi có thể kiểm soát tham nhũng ở mức độ chấp nhận được, nghĩa

là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh

tế thị trường của các quốc gia này lại không giúp giảm tham nhũng mà

ngược lại làm gia tăng tham nhũng.

5

Một hạn chế của các nghiên cứu trước đây khi tiếp cận chủ đề sự tác động

của thu nhập lên tham nhũng là chỉ tập trung vào mối quan hệ tuyến tính.

Trong khi đó, khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng

trưởng kinh tế của Dzhumashev (2014) cho thấy rằng mối quan hệ này

không hẳn là mối quan hệ tuyến tính mà có thể là phi tuyến. Lý thuyết này

hàm ý khi một quốc gia bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi, thu

nhập của người dân tăng cao và kéo theo các hoạt động tham nhũng cũng

diễn ra phổ biến hơn, mức độ phức tạp hơn, nhưng khi nền kinh tế bước

vào giai đoạn phát triển ổn định thì tham nhũng có khuynh hướng giảm vì

một số lý do như là: sức ép cải cách thể chế trong quá trình hội nhập, cạnh

tranh chính trị ngày càng lớn thông qua cơ chế bỏ phiếu công bằng, sự tự

do dân chủ và tự do báo chí,… Mối quan hệ phi tuyến này cũng đã được

kiểm chứng trong mô hình lý thuyết và kết quả thực nghiệm của Saha &

Gounder (2013), tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ sử dụng phương pháp ước

lượng PLS (Pooled Least Square) cho dữ liệu bảng và chưa xử lý vấn đề

nội sinh có thể tồn tại trong mô hình nên kết quả của nghiên cứu này có thể

bị chệch và không đáng tin cậy.

Tác giả cho rằng các nghiên cứu trước đây về tác động của thu nhập đến

tham nhũng vẫn tồn tại một số hạn chế như: thứ nhất, các nghiên cứu thực

nghiệm này được thực hiện dựa trên các mẫu khảo sát của nhiều nhóm

quốc gia khác nhau nên dẫn đến việc không đồng nhất về mức thu nhập,

không có sự tương đồng về chất lượng thể chế cũng như sự tương đồng của

các biến kiểm soát; và thứ hai, các nghiên cứu này dựa trên giả định mối

quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng là mối quan hệ tuyến tính cho nên đã

bỏ qua việc kiểm định khả năng tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa chúng.

Vì vậy, tác giả cho rằng thật sự cần thiết thực hiện một nghiên cứu định

lượng nhằm khảo sát mối quan hệ đa chiều (gồm tuyến tính và phi tuyến)

giữa thu nhập và tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Bởi vì bối cảnh

6

chất lượng thể chế và kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi có thể tác động

làm cho tham nhũng có xu thế biến thiên phi tuyến theo thu nhập. Như đã

đề cập phía trên, chất lượng thể chế tại các quốc gia chuyển đổi chỉ ở mức

trung bình thấp và do đó dễ dẫn đến sự thao túng và tùy tiện trong việc sử

dụng quyền lực của giới công chức nhằm tư lợi. Khi nền kinh tế bước vào

giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển, thu nhập của công chúng có xu hướng

tăng và cơ hội cho các hoạt động kinh doanh cũng bắt đầu mở ra. Khi đó,

để nắm bắt các cơ hội này cũng như khai thác các ưu đãi chính sách, đại

diện khu vực tư sẵn sàng cạnh tranh nhau thực hiện các khoản chi trả phi

pháp cho giới công chức xem như là một phần thưởng cho sự giúp đỡ của

họ. Trong bối cảnh đó, tham nhũng sẽ có chiều hướng tăng cao trong giai

đoạn đầu của thời kỳ đổi mới và phát triển. Tuy nhiên, về lâu dài, các hành

vi này sẽ làm xói mòn niềm tin của công chúng vào chính phủ, chúng có

tác động tiêu cực đến môi trường kinh doanh, gây sụt giảm dòng vốn đầu

tư từ nước ngoài và đặc biệt là không phù hợp với các quy chuẩn đạo đức

xã hội. Trước sức ép đó cùng với xu hướng hội nhập vào nền kinh tế toàn

cầu, chính phủ các quốc gia chuyển đổi buộc phải tiến hành cải cách thể

chế nhằm bài trừ vấn nạn tham nhũng để hướng đến mục tiêu phát triển

kinh tế lâu bền và ổn định về sau.

Ở khía cạnh khác, các nghiên cứu đánh giá hậu quả của tham nhũng tại các

quốc gia, đặc biệt tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế, cũng

thu hút sự quan tâm lớn trong giới học thuật và những chuyên gia nghiên

cứu chính sách. Mặc dù chủ đề này đã được thực hiện rất nhiều, nhưng kết

quả của các nghiên cứu này vẫn còn gây nhiều tranh cải cả về phương diện

đạo đức cũng như ảnh hưởng kinh tế. Nghiên cứu của Mauro (1995) cho

thấy sự tác động tiêu cực của tham nhũng đến đầu tư và qua đó cũng ảnh

hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Kết quả này cũng đã nhận được nhiều sự

đồng thuận từ các nghiên cứu về sau như Brunetti & Weder (1998) và Mo

7

(2001). Theo Choe & ctg (2013), khi khu vực tư và khu vực công tương tác

nhau, giới công chức luôn sẵn sàng lạm dụng chức vụ, quyền lực chính trị

của mình cho mục đích tham nhũng và hành động này được cho là gây trở

ngại cho tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khác cho rằng tham nhũng chưa hẵn hoàn

toàn tiêu cực mà đôi khi lại có lợi cho tăng trưởng. Bardhan (1997) đã

minh họa các trường hợp mà tham nhũng có thể đã thúc đẩy phát triển kinh

tế trong một giai đoạn lịch sử của châu Âu và Mỹ. Bên cạnh đó, Beck &

Maher (1986) và Lien (1986) lập luận rằng tham nhũng giúp cải thiện hiệu

quả hoạt động của chính phủ. Nghiên cứu của Leff (1964), Huntington

(2006) và Leys (1965) cũng cho thấy tham nhũng có tác động tích cực đến

tăng trưởng kinh tế nhờ việc giảm thiểu các trở ngại từ thủ tục hành chính,

sự thiếu minh bạch của hệ thống pháp lý. Từ đó, các tác giả đã ví tham

nhũng như chất bôi trơn giúp kích hoạt sự vận hành của một thể chế quan

liêu và giảm thiểu các rào cản gây trở ngại cho đầu tư và tăng trưởng.

Trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, mức độ tham nhũng tại các quốc

gia chuyển đổi diễn biến theo chiều hướng tiêu cực, tăng về quy mô và đa

dạng về hình thức (Campos & Pradhan, 2007). Nguyên nhân của tình trạng

này được cho là do điều kiện mức độ dân chủ thấp và tự do kinh tế còn hạn

chế, chất lượng thể chế yếu kém. Bên cạnh đó, việc áp đặt các quyền lực

chính trị và sự chi phối của giới công chức đến các hoạt động kinh tế xã

hội vẫn còn quá lớn thì người dân buộc phải dùng tiền làm chất bôi trơn là

điều khó tránh khỏi. Khi đó, chất bôi trơn này được cho rằng có tác động

tích cực đến hiệu quả kinh tế bởi vì nó giúp kích hoạt sự vận hành của bộ

máy chính quyền quan liêu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua cơ

chế “speed money” (Aidt, 2009).

Tóm lại, các nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến tham nhũng cũng như

đánh giá tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế đã được khảo

8

sát rất nhiều. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng các

nghiên cứu trước đây vẫn chưa tiếp cận chủ đề này một cách hoàn thiện bởi

vì hiện nay chưa có một nghiên cứu định lượng nào tiến hành thực nghiệm

đồng thời cả về các nguyên nhân gây ra tham nhũng và tác động của tham

nhũng đến tăng trưởng kinh tế trên cùng một mẫu khảo sát, đặc biệt hơn là

vấn đề này cũng chưa được thực hiện tại các quốc gia chuyển đổi. Ngoài

ra, việc chưa sử dụng các phương pháp ước lượng hiện đại như là 2SLS

hoặc GMM để xử lý vấn đề nội sinh trong các mô hình thực nghiệm cũng

là một hạn chế trong các nghiên cứu trước đây. Xuất phát từ lý do trên, tác

giả quyết định lựa chọn đề tài “Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế tại

các quốc gia chuyển đổi” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.

Vấn đề nghiên cứu của luận án được thể hiện thông qua sơ đồ sau:

Hình 1.1: Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế

Thể chế

Tăng

trưởng

Tham nhũng

kinh

tế

Các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội

Nguồn: tổng hợp của tác giả

1.3. Khoảng trống nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu

Như tác giả đã đề cập, các nghiên cứu trước đây về xác định các nguyên

nhân gây ra tham nhũng đã được thực hiện rất nhiều. Trong các yếu tố đó,

9

yếu tố về chất lượng thể chế và thu nhập luôn được các học giả quan tâm

và xem là biến chính trong các mô hình thực nghiệm. Tuy nhiên, một hạn

chế quan trọng của các nghiên cứu này là chỉ tiếp cận khung thể chế chính

trị và được đại diện bởi chỉ số mức độ dân chủ của các quốc gia.

Heckelman & ctg (2008) và Saha & ctg (2013) cho rằng cách tiếp cận này

là chưa phản ánh đầy đủ chất lượng thể chế của quốc gia. Chất lượng thể

chế phải bao gồm thể chế chính trị (nền dân chủ) và thể chế kinh tế (tự do

kinh tế). Mặt khác, các nghiên cứu hiện hành chỉ dừng lại ở việc đánh giá

mối quan hệ tuyến tính giữa thu nhập và tham nhũng, trong khi đó các mô

hình lý thuyết và thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây của Treisman

(2000), Saha & Gounder (2013), Kotera & ctg (2012) và Dzhumashev

(2014) cho rằng mối quan hệ này có thể phi tuyến.

Như vậy, mục tiêu thứ nhất của nghiên cứu này là đánh giá các yếu tố tác

động đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Trong đó, nghiên cứu sẽ

tiến hành phân tích định lượng sự tác động của việc cải thiện chất lượng thể

chế đến tham nhũng ở nhiều mức độ khác nhau và khảo sát khả năng tồn tại

mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng tại các quốc gia này.

Xuất phát từ vấn đề người đại diện của lý thuyết lựa chọn công, Becker và

Stigler (1974) cho rằng giới công chức luôn có động lực để trục lợi (rent-

seeking). Vì vậy, họ luôn nổ lực để tối đa hóa thu nhập của mình bằng việc

cố ý tạo ra các rào cản thủ tục hành chính và sự lạm dụng quyền lực công.

Trong bối cảnh đó, đại diện khu vực tư nhân muốn tham gia vào thị trường

phải chấp nhận chi trả các khoản tiền đút lót cho giới chức. Vấn đề này đã

được nghiên cứu rất nhiều thông qua mô hình lý thuyết và nghiên cứu thực

nghiệm. Hầu hết các kết luận từ các nghiên cứu này đều cho rằng tham

nhũng gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ở một góc độ khác,

Lui (1985) đã sử dụng mô hình xếp hàng (Queuing Model) để giải thích

cho khía cạnh tích cực của việc chi trả các khoản bôi trơn của các đại diện

10

kinh doanh. Nghiên cứu này cho rằng tham nhũng giúp giảm thời gian cho

việc phải xếp hàng chờ đợi và giúp khu vực tư tiết kiệm được thời gian cho

các hoạt động kinh doanh, từ đó giúp thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, Aidt

(2009) cũng ủng hộ cho giả thuyết về chất bôi trơn của tham nhũng. Ông

cho rằng, trong điều kiện chất lượng thể chế còn quá thấp, tham nhũng hoạt

động như cơ chế “speed money” giúp kích hoạt sự vận hành của bộ máy

chính quyền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, mục tiêu thứ hai của

nghiên cứu này là sử dụng mô hình nghiên cứu định lượng nhằm khảo sát

khả năng tham nhũng đóng vai trò là chất bôi trơn để kích hoạt sự vận hành

của các bộ máy nhà nước, giúp khu vực tư tránh được các rào cản về mặt

thủ tục hành chính, sự phức tạp của các quy định và qua đó nó sẽ giúp đẩy

nhanh tiến trình hoạt động kinh doanh và làm gia tăng sản lượng cho nền

kinh tế trong điều kiện chất lượng thể chế yếu kém tại các quốc gia chuyển

đổi. Một cách cụ thể, nghiên cứu này tiến hành lượng hóa tác động của sự

kết hợp giữa tham nhũng và thể chế lên tăng trưởng nhằm đánh giá các

khoản đút lót cho giới công chức sẽ giúp đại diện khu vực tư có thể tránh

được các rào cản thủ tục hành chính hoặc thúc đẩy tiến trình vận hành của

bộ máy quan liêu và qua đó có thể tiết kiệm được thời gian cũng như dễ

dàng thực hiện các hoạt động kinh doanh tại các quốc gia chuyển đổi.

Để đạt được hai mục tiêu nghiên cứu trên, nội dung của luận án phải trả lời

được 5 câu hỏi nghiên cứu sau:

(1) Các yếu tố nào tác động đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển

đổi?

(2) Chất lượng thể chế (thể chế chính trị và thể chế kinh tế) tác động

như thế nào đến việc kiểm soát hành vi tham nhũng hay không?

(3) Tác động của thu nhập đến tham nhũng của các quốc gia chuyển đổi

liệu có sự khác biệt trong ngắn hạn và dài hạn? (có tồn tại mối quan

hệ phi tuyến không?).

11

(4) Tham nhũng tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế tại các

quốc gia chuyển đổi?

(5) Trong điều kiện chất lượng thể chế của các quốc gia chuyển đổi,

tham nhũng có động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế?

Trong đó, câu hỏi (1), (2) và (3) gắn với mục tiêu nghiên cứu thứ nhất của

luận án, câu hỏi (4) và (5) gắn với mục tiêu nghiên cứu thứ hai của luận

án.

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Như tác giả đã đề cập, các nghiên cứu trước đây chưa thực hiện việc đánh

giá các yếu tố tác động đến tham nhũng và ảnh hưởng của tham nhũng đến

nền kinh tế trong cùng một mẫu khảo sát. Vì vậy, nghiên cứu này khai thác

dữ liệu của các quốc gia có mức độ tương đồng về thu nhập (trung bình và

thấp), tương đồng về chất lượng thể chế và đang trong bối cảnh có nền

kinh tế đang chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường.

Do hạn chế về dữ liệu của biến tham nhũng, luận án tiến hành thu thập dữ

liệu của 46 quốc gia trong giai đoạn 2002 – 2014. Chỉ số Cảm nhận tham

nhũng (CPI) của Tổ chức Minh bạch Quốc tế là chỉ số mà cho tới nay được

biết đến nhiều nhất và sử dụng nhiều nhất liên quan đến tham nhũng

(WorldBank, 2000). Mặc dù những khảo sát thường niên về chỉ số này

được bắt đầu từ năm 1995, tuy nhiên, số lượng các quốc gia chuyển đổi

được khảo sát trong giai đoạn từ 1995 – 2001 là rất ít và chỉ được khảo sát

phổ biến kể từ năm 2002.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Dựa vào lý thuyết lựa chọn công, trong đó điển hình là lý thuyết “lựa chọn

giữa thất bại thị trường và tham nhũng” của Acemoglu & Verdier (2000)

và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, luận án xây dựng mô hình

nghiên cứu các yếu tố tác động đến tham nhũng trên cơ sở mô hình của

12

Saha & Gounder (2013) nhằm đánh giá sự tác động của chất lượng thể chế

và thu nhập bên cạnh các biến kiểm soát về kinh tế, xã hội đến mức độ

tham nhũng. Bên cạnh đó, để tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về mối

quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng, nghiên cứu sẽ thêm vào

mô hình tuyến tính biến bình phương của thu nhập dựa trên đề xuất về mối

quan hệ hình chữ U ngược của Wooldridge (2012). Đồng thời, để đánh giá

tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế, luận án sẽ kết hợp giữa

hàm tăng trưởng Cobb-Douglas và lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Barro

(1990) để xây dựng hàm tăng trưởng mở rộng cho biến tham nhũng và thể

chế. Nhằm kiểm định vai trò chất bôi trơn của tham nhũng, luận án mở

rộng mô hình bằng cách thêm vào biến tương tác giữa tham nhũng và thể

chế.

Để xác định dấu và độ lớn của các hệ số hồi, phương pháp nghiên cứu định

lượng được sử dụng trong luận án là các phương pháp ước lượng cho mô

hình hồi quy với dữ liệu bảng cân đối. Trước hết, luận án áp dụng phương

pháp ước lượng FEM và REM khảo sát sự tác động của các yếu tố khác

biệt giữa các quốc gia nhưng chưa đưa vào mô hình là tác động cố định hay

tác động ngẫu nhiên thông qua kiểm định Hausman. Nếu kết quả kiểm định

cho thấy hiệu ứng cố định giải thích tốt hơn cho mô hình thực nghiệm thì

nghiên cứu này sử dụng mô hình hiệu ứng cố định (FEM) để ước lượng độ

lớn hệ số các biến giải thích trong mô hình và ngược lại. Ngoài ra, Moulton

(1986) và Moulton (1990) cho rằng khi sử dụng dữ liệu bảng để phân tích

giữa các quốc gia có thể gặp phải sự hiện diện của hiệu ứng nhóm dẫn tới

vấn đề sai số trong các kết luận thống kê. Vì vậy, sau khi ước lượng mô

hình bằng phương pháp FEM hoặc REM, luận án sẽ tiến hành các bước

kiểm định nhằm chuẩn đoán xem mô hình có bị vi phạm các giả định về

phương sai không đổi và không tự tương quan hay không. Nếu có, luận án

sẽ tiếp tục sử dụng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát

13

(generalized least square) để xử lý hiện tượng tự tương quan của các quan

sát trong phạm vi quốc gia và phương sai thay đổi giữa các quốc gia.

Trong mô hình các yếu tố tác động đến tham nhũng, nghiên cứu của Mauro

(1995) và Saha & ctg (2013) đều cho thấy đây là mối quan hệ tương hỗ hai

chiều. Do đó, mô hình có thể xảy ra hiện tượng nội sinh do mối quan hệ

tương hỗ giữa tham nhũng và thu nhập. Khi đó, các ước lượng FEM và

GLS có thể bị chệch. Vì vậy, luận án sử dụng phương pháp bình phương

tối thiểu hai giai đoạn (two stage least square) hồi quy với biến công cụ để

kiểm tra tính vững của các ước lượng trong mô hình này. Đồng thời, luận

án sử dụng kiểm định Sargan – Hansen để xem xét việc sử dụng các biến

công cụ có thỏa mãn điều kiện “overidentifying restriction” hay không.

Các mô hình tăng trưởng thường bao gồm các biến bị nội sinh. Chẳng hạn,

khi đầu tư tăng cao sẽ thúc đẩy tăng trưởng, sau đó tăng trưởng cũng thúc

đẩy đầu tư nhiều hơn. Saha & Gounder (2013) nghi ngờ sự ngoại sinh của

biến tham nhũng khi việc đo lường biến này tương quan chặt chẽ và tăng

mạnh cùng với mức độ phát triển kinh tế. Điều này dẫn đến vấn đề đồng

thời làm cho các ước lượng truyền thống bị chệch. Ước lượng GMM là kỹ

thuật ước lượng dựa vào biến công cụ và có nhiều ưu điểm so với các ước

lượng truyền thống (2SLS). Ước lượng truyền thống sẽ không chính xác

khi có sự hiện diện của phương sai thay đổi. Ước lượng GMM sử dụng các

điều kiện moment cho phép tạo ra các ước lượng chính xác ngay cả khi có

sự xuất hiện của sự không nhất quán của các đơn vị chéo (Hansen, 2000;

Hayashi, 2000). Để kiểm tra tính vững của ước lượng, nghiên cứu sử dụng

phương pháp GMM sai phân được phát triển cho mô hình bảng động tuyến

tính (Arellano & Bond, 1991; Arellano & Bover, 1995; Holtz-Eakin & ctg,

1988). Trong mô hình bảng động, sự hiện diện của biến trễ của biến phụ

thuộc có thể dẫn đến hiện tượng tự tương quan. Khi đó, ước lượng GMM

sai phân sẽ xử lý được vấn đề này bằng cách lấy giá trị trễ của các biến phụ

14

thuộc làm công cụ. Ngoài ra, khi chuyển sang hồi quy với biến sai phân

bậc 1, các thiên chệch tiềm ẩn do bỏ sót biến và các hiệu ứng cố định của

các đơn vị chéo (địa lí, nhân khẩu học) cũng sẽ được loại bỏ. Cuối cùng,

Jodson et al. (1996) và Roodman (2006) cho rằng GMM sai phân thích hợp

cho dữ liệu bảng với thời gian ngắn và số đơn vị chéo lớn.

1.6. Kết quả và đóng góp mới của luận án

Nghiên cứu thực nghiệm tại các quốc gia chuyển đổi cho ra các kết quả nổi

bật sau: (1) việc cải thiện chất lượng thể chế giúp giảm mức độ tham nhũng

và tồn tại sự tác động tương hỗ giữa chất lượng thể chế chính trị và thể chế

kinh tế trong việc kiểm soát tham nhũng; (2) việc cải thiện thu nhập có tác

động tích cực trong việc bài trừ nạn tham nhũng; (3) tồn tại mối quan hệ

phi tuyến giữa thu nhập và mức độ tham nhũng tại các quốc gia khảo sát;

(4) trong điều kiện chất lượng thể chế kém tại các quốc gia khảo sát, tham

nhũng thực sự là chất bôi trơn giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

So với các nghiên cứu trước cùng chủ đề mà tác giả đã tham khảo, luận án

có những đóng góp mới như sau:

 Luận án sử dụng đồng thời chất lượng thể chế chính trị và thể chế

kinh tế vào trong mô hình định lượng thông qua việc sử dụng hai chỉ

số tương đồng về cách đo lường đó là mức độ dân chủ (giá trị từ 0

đến 10) và chỉ số tự do kinh tế (giá trị từ 0 đến 10). Bằng việc ứng

dụng các phương pháp ước lượng hiện đại cho bộ dữ liệu bảng của

46 quốc gia có cùng mức độ thu nhập trong giai đoạn 2002 – 2014,

tác giả tin rằng kết quả của luận án rất đáng tin cậy và có độ chính

xác cao;

 Luận án lần đầu tiên ứng dụng phương pháp định lượng được đề

xuất bởi Wooldridge (2012) để xác định tác động riêng phần của

từng yếu tố chất lượng thể chế trong mô hình biến tương tác. Từ đó,

15

luận án xác định điểm ngưỡng của mức độ dân chủ và tự do kinh tế

trong việc chống tham nhũng tại các quốc gia khảo sát;

 Luận án lần đầu tiên ứng dụng phương pháp định lượng để kiểm

định lý thuyết về hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng

được đề xuất bởi Dzhumashev (2014). Từ kết quả thực nghiệm, luận

án xác định giá trị của điểm ngưỡng (điểm chuyển) từ tác động

dương sang tác động âm của thu nhập lên tham nhũng để so sánh với

kết quả thực nghiệm của Saha & ctg (2013);

 Luận án lần đầu tiên phân tích định lượng bằng phương pháp GMM

để kiểm định giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện

chất lượng thể chế kém tại các quốc gia khảo sát;

 Chủ đề nghiên cứu tuy có sự tương đồng với một vài nghiên cứu trên

thế giới, tuy nhiên, mẫu khảo sát được tác giả thu thập gồm 46 các

quốc gia có cùng nhóm thu nhập và mục tiêu nghiên cứu của luận án

là không trùng lắp với các nghiên cứu đã có.

1.7. Quy trình nghiên cứu

- Bước một, tác giả lược khảo khung lý thuyết và các kết quả thực

nghiệm để xác định lỗ hổng nghiên cứu;

- Bước hai, xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu;

- Bước ba, xác định khung lý thuyết nền và mô hình nghiên cứu thực

nghiệm;

- Bước bốn, thu thập dữ liệu và lựa chọn phương pháp ước lượng;

- Bước năm, phân tích định lượng và bình duyệt kết quả;

- Cuối cùng, đưa ra các gợi ý về mặt chính sách.

16

Lược khảo lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm

Xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Xác định khung lý thuyết và mô hình thực nghiệm

Thu thập dữ liệu và phân tích định lượng

Phân tích định lượng và bình duyệt kết quả

Kết luận và đưa ra gợi ý chính sách

Hình 1.2: Quy trình thực hiện nghiên cứu

1.8. Kết cấu của luận án

Nội dung của luận án được tác giả trình bày trong 6 chương, ngoài chương

1 đã giới thiệu tổng quan về sự cần thiết cũng như mục tiêu nghiên cứu, 5

chương còn lại của luận án được thiết kế như sau:

Chương 2: Khung lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng.

Trong chương này luận án trình bày khung lý thuyết để giải thích nguyên

nhân dẫn đến vấn nạn tham nhũng từ các tài liệu trước đây. Khung lý

thuyết chủ đạo mà nghiên cứu này dựa vào để lý giải cho hiện tượng tham

nhũng bao gồm lý thuyết lựa chọn công và lý thuyết lựa chọn giữa thất bại

của thị trường và tham nhũng. Bên cạnh đó, luận án cũng đã tổng quan các

nghiên cứu thực nghiệm trước đây để xác định các yếu tố định lượng nhằm

17

xây dựng mô hình thực nghiệm về các yếu tố tác động đến tham nhũng tại

các quốc gia chuyển đổi.

Chương 3: Khung lý thuyết tăng trưởng kinh tế. Chương này dẫn giải

cho người đọc thấy được sự kết hợp giữa lý thuyết tăng trưởng nội sinh của

Barro (1990) và hàm tăng trưởng Cobb – Douglas. Từ đó, luận án đã ứng

dụng mô hình tăng trưởng để mở rộng cho các yếu về thể chế và tham

nhũng. Tiếp theo, luận án tổng hợp các kênh truyền dẫn sự tác động của

tham nhũng đến tăng trưởng thông qua việc lược khảo các nghiên cứu thực

nghiệm trước đây. Cuối cùng, chương này cũng đã tổng hợp các nghiên

cứu thực nghiệm trước đây để cho thấy kết quả của các nghiên cứu này vẫn

còn gây nhiều tranh cãi. Đó cũng là lý do quan trọng để luận án này tiến

hành thực nghiệm tác động của tham nhũng đến tăng trưởng dưới vai trò

của chất lượng thể chế tại các quốc gia chuyển đổi.

Chương 4: Mô hình và phương pháp nghiên cứu. Xuất phát từ khung lý

thuyết trong chương 2 và chương 3, cùng với việc kế thừa các mô hình

thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây, chương này sẽ xây dựng các

mô hình thực nghiệm của luận án, bao gồm: mô hình các yếu tố tác động

đến tham nhũng và mô hình tác động của tham nhũng đến tăng trưởng.

Điểm nổi bật của chương này là đã trình bày chi tiết các bước tiến hành và

phương pháp ước lượng để nhằm tìm kiếm bằng chứng cho các mục tiêu

nghiên cứu của luận án. Cuối cùng, việc đo lường biến và nguồn khai thác

dữ liệu cũng đã được trình bày chi tiết trong chương này.

Chương 5: Kết quả nghiên cứu và thảo luận. Dựa vào mô hình thực

nghiệm và dữ liệu thu thập của 46 quốc gia chuyển đổi, tác giả sử dụng

công cụ hỗ trợ là phần mềm Stata 13.0 để thực hiện các kiểm định và ước

lượng hệ số hồi quy các biến trong mô hình. Sau đó, tác giả thảo luận kết

quả thực nghiệm dựa trên nền tảng lý thuyết nghiên cứu và đối chiếu với

các nghiên cứu trước đây nhằm luận giải kết quả một cách logic và thuyết

18

phục. Kết quả này cung cấp các minh chứng giúp trả lời các câu hỏi nghiên

cứu của luận án.

Chương 6: Kết luận và hàm ý chính sách. Chương này đã tóm lược lại

các kết quả thực nghiệm chính gắn với mục tiêu nghiên cứu của luận án.

Từ đó, luận án đưa ra một số các hàm ý về mặt chính sách nhằm kiểm soát

các hành vi tham nhũng và các giải pháp cho tăng trưởng kinh tế lành

mạnh (không dựa vào tham nhũng). Tác giả tin rằng các gợi ý này có thể

cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách khi

thực hiện các giải pháp chống tham nhũng. Đồng thời, chương này cũng

nhìn nhận một số các hạn chế mà luận án chưa thể giải quyết được. Đây

cũng là chương cuối cùng của luận án.

19

CHƯƠNG 2

KHUNG LÝ THUYẾT CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

ĐẾN THAM NHŨNG

Giới thiệu

Mục tiêu thứ nhất của luận án là đánh giá các yếu tố tác động đến tham

nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Trong đó, luận án tập trung đánh giá tác

động của chất lượng thể chế đến tham nhũng và kiểm định sự tồn tại của

hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng.

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tham nhũng là một khái niệm đa

chiều và phức tạp. Kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu này cho thấy

không chỉ các yếu tố kinh tế như phát triển kinh tế, tự do kinh tế, lạm phát

và phân phối thu nhập… mà còn các yếu tố về chính trị, xã hội và văn hóa

như dân chủ, ổn định chính trị, giới tính và sự đa dạng dân tộc hoặc ngôn

ngữ có ảnh hưởng quan trọng đến tham nhũng. Vì vậy, chương 2 sẽ trình

bày khung khái niệm tổng quan về tham nhũng theo các nghiên cứu trước

đây cũng như của các tổ chức chuyên nghiên cứu về tham nhũng như là

Worldbank, Transparency International. Từ đó, luận án cũng trình bày

khung khái niệm và cách đo lường tham nhũng trong luận án này.

Lý thuyết lựa chọn công cho thấy để khắc phục khiếm khuyết của kinh tế

thị trường đòi hỏi sự can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên, sự can thiệp này

sẽ xuất hiện hành vi tham nhũng của giới chức do vấn đề người đại diện và

vấn đề trục lợi (cả kinh tế lẫn chính trị). Từ đó, các học giả tiên phong

trong việc xây dựng lý thuyết lựa chọn công cho rằng tham nhũng hình

thành từ chính thể chế và việc bài trừ tham nhũng một phần do việc thiết kế

khung thể chế. Bên cạnh các yếu tố thể chế, Acemoglu & Verdier (2000)

cho thấy thu nhập có vai trò quan trọng trong việc chống tham nhũng bởi vì

20

giới chức sẽ luôn có động cơ để trục lợi khi mà tiền lương của khu vực

công không thỏa mãn cho nhu cầu của họ.

Như vậy, chương này sẽ trình bày khung lý thuyết làm nền tảng cho nghiên

cứu các yếu tố tác động đến tham nhũng bao gồm lý thuyết lựa chọn công

và các nhánh lý thuyết có liên quan. Bên cạnh đó, các nghiên cứu thực

nghiệm về các yếu tố tác động đến tham nhũng cũng là sẽ được trình bày

chi tiết trong chương này để làm tảng cho việc xây dựng mô hình nghiên

cứu thực nghiệm ở phần sau.

2.1. Khung khái niệm

2.1.1. Tổng quan về thể chế

Veblen (1857) được xem là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên đặt

nền móng về thể chế, theo đó thể chế là tính qui chuẩn của hành vi hoặc

các qui tắc xác định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành

viên của một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự tuân thủ các qui tắc

đó là do bản thân tự kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống chế.

James (2006) cho rằng thể chế chính phủ thiết lập khuôn khổ cho các hoạt

động kinh tế trong phạm vi quốc gia. Một thể chế tốt sẽ tạo ra môi trường

thuận lợi thúc đẩy các hoạt động kinh tế, sự sáng tạo, tăng trưởng và phát

triển. Ngược lại, thể chế kém gây ra các đình trệ cho nền kinh tế. Hai đặc

điểm điển hình ở các nền kinh tế phát triển đó là dân chủ và tình trạng của

các quy định pháp luật. Trong khi đó, James (2006) cũng cho rằng hai đặc

tính này của thể chế là không chắc chắn tồn tại đồng thời. Tuy nhiên, hai

đặc tính này lại tương quan chặt chẽ với nhau.

North (1981) định nghĩa thể chế “là tập hợp các quy định, thủ tục thi hành,

các quy định về hành vi đạo đức được thiết lập nhằm ràng buộc các hành vi

của cá nhân trong điều kiện tối đa hóa thu nhập và độ hữu dụng”. Vấn đề

quan trọng trong khái niệm này cũng như các tài liệu khác đề cập đó là sự

21

ràng buộc. Vì thế, hiến pháp và các quy định về quyền bầu cử là minh

chứng tốt cho thể chế. Tuy nhiên, chính sách tốt được thể hiện bằng các chỉ

số mà cho phép sự tự do hay không. Bên cạnh đó, các khía cạnh quan trọng

khác của một thể chế cho rằng các ràng buộc hợp lý thì cần được duy trì

lâu dài (thậm chí là trường tồn). Cụ thể, trong ngắn hạn, các ràng buộc này

không nên bị làm lu mờ hoặc thậm chí bị thay thế bởi những người không

thích chúng.

Theo tài liệu về thể chế của North (1990) cho rằng : “Thể chế là phát minh

của con người với những ràng buộc nhằm cơ cấu sự tương tác chính trị,

kinh tế và xã hội. Nó bao gồm cả những ràng buộc không chính thức (sự

chấp thuận, điều kiêng kỵ, phong tục, tín ngưỡng, và quy tắc xử sự), và luật

lệ chính thức (hiến pháp, luật, quyền sở hữu)”. Trong suốt chiều dài lịch

sử, thể chế đã được phát minh bởi con người để tạo nên một trật tự và giảm

thiểu sự không chắc chắn trong hoạt động trao đổi. Cùng với các ràng buộc

quy chuẩn về kinh tế, con người xác định khuynh hướng lựa chọn, vì vậy

xác định chi phí giao dịch và chi phí sản xuất. Thể chế tạo ra cấu trúc khích

lệ cho nền kinh tế. Khi cấu trúc tiến triển theo chiều hướng tích cực sẽ giúp

định hình cho phương hướng thay đổi của kinh tế hướng tới sự phát triển

bền vững, nhưng đôi khi cấu trúc này cũng có thể dẫn đến sự đình trệ hay

suy tàn nền kinh tế.

Ostrom (1990) đưa ra định nghĩa quan trọng về thể chế “thể chế được định

nghĩa là tập hợp các quy định mang tính thực thi được sử dụng để lựa chọn

ai là người phù hợp ra các quyết định tại một số vũ đài, những hành động

nào được cho phép hoặc bị hạn chế, những quy định chung nào sẽ được

thực hiện, thủ tục nào phải tuân thủ, những thông tin gì phải được cung cấp

hoặc không được phép cung cấp, những khoản chi trả nào được phân chia

cho các cá nhân tùy thuộc vào các hành động của họ”. Theo định nghĩa

22

này, thuật ngữ “vũ đài” (arena) được hiểu là tương tự như thuật ngữ về “trò

chơi” (game) của North (1993).

Theo Boin & Christensen (2008), trong bài viết về sự phát triển của các thể

chế công cho rằng khi chúng ta mô tả về thể chế công nghĩa là chúng ta

đang nói về những tính chất đặc biệt của thể chế đó. Nó đặc biệt bởi vì

trước giờ nó đã phát triển theo phương cách vững chắc và hiệu quả trong

công việc mà được xem là rất có giá trị đối với các bên có liên quan cả

trong và ngoài nước. Sự độc đáo của thể chế công là do sự kết hợp của hai

tính chất đặc trưng sau:

- Thứ nhất, thể chế công đặc biệt bởi vì nó đã phát triển và hợp tác một

cách hiệu quả nhằm xử lý các mục tiêu phức tạp và mâu thuẫn lẫn nhau.

Theo cách làm này, thể chế giúp cho người lao động làm công việc của

họ: thể chế sẽ chỉ ra cho người lao động biết được họ nên làm gì và

không nên làm gì; bên cạnh đó, thể chế cũng giúp người lao động cảm

nhận được thế giới xung quanh mình đang sống.

- Thứ hai, thể chế nhận được sự ủng hộ ở mức độ cao: thể chế được chấp

nhận và công nhận rộng rãi. Nó có một bản sắc riêng biệt hợp pháp

(Berger & Luckmann, 1966). Cách làm việc của một thể chế sẽ xây

dựng thương hiệu cho nó. Một nhận thức tổng quát về thể chế từ bên

ngoài cho rằng thể chế là mong đợi, phù hợp và thích hợp trong phạm vi

hệ thống được tạo ra từ các quy tắc, giá trị, niềm tin và quyền lợi

(Suchman, 1995).

Ở khía cạnh khác, cơ quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID, 2002)

định nghĩa thể chế công là một hệ thống phức tạp của sự tương tác giữa các

cấu trúc, truyền thống, chức năng và quy trình đặc trưng bởi giá trị của

trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và sự tham gia. Kaufmann & Kraay

(2002) cũng định nghĩa thể chế công là truyền thống và các tổ chức mà

chính quyền được thực thi trong một quốc gia. Theo tác giả, điều này bao

23

gồm quá trình các chính phủ được tuyển chọn, kiểm soát và thay thế; khả

năng chính phủ để thiết lập và thực thi chính sách; sự tôn trọng của người

dân và nhà nước đối với các tổ chức để quyết định sự tương tác giữa kinh

tế và xã hội.

Theo Acemoglu & Robinson (2013), thể chế là các qui tắc tác động đến sự

vận hành của nền kinh tế và động cơ khuyến khích của dân chúng. Do đó,

thể chế kinh tế sinh ra các luồng động lực và vạch ra giới hạn cho các tác

nhân kinh tế. Thể chế kinh tế chia thành hai loại : thể chế kinh tế dung hợp

và thể chế kinh tế chiếm đoạt. Thể chế kinh tế dung hợp (inclusive

economic institutions) cho phép và khuyến khích sự tham gia của đại đa số

dân chúng vào các hoạt động kinh tế, sử dụng tốt nhất tài năng và trình độ

của họ, giúp các cá nhân thực hiện những lựa chọn mình mong muốn. Thể

chế kinh tế chiếm đoạt (extractive economic institutions) không có các đặc

trung nêu trên mà ở đó, chúng được thiết kế để tước đoạt hay khai thác thu

nhập hay của cải của nhóm này để phục vụ cho một nhóm khác. Nói một

cách đơn giản là thu nhập của người dân được khai thác để phục vụ cho

một nhóm nhỏ những người cầm quyền và một số ít đối tượng liên quan.

Chất lượng thể chế

Theo Schneider (1999) định nghĩa chất lượng thể chế công như là việc thi

hành thẩm quyền hoặc kiểm soát để quản lý hoạt động và tài nguyên của

một quốc gia. Có nhiều tiêu chí đánh giá chất lượng thể chế. Theo World

Bank, có 6 tiêu chí được áp dụng để đánh giá chất lượng thể chế: tiếng nói

của người dân và trách nhiệm giải trình của chính quyền; ổn định chính trị;

hiệu quả của chính quyền; chất lượng thực thi chính sách; tuân thủ luật

pháp; và, khả năng kiểm soát tham nhũng.

Các nghiên cứu khác đã sử dụng các chỉ số khác nhau để đo lường chất

lượng thể chế. La Porta (1999) đo lường hiệu suất hoạt động của chính phủ

bằng cách sử dụng các chỉ số của chính phủ can thiệp vào thị trường, trong

24

đó bao gồm các chỉ số quyền tài sản (mức độ pháp luật bảo vệ tài sản cá

nhân) và chỉ số điều lệ thương nghiệp (quy định liên quan đến việc thành

lập doanh nghiệp và duy trì hoạt động của nó).

Saha & Gounder (2013) và Heckelman & Powell (2010) cho rằng khung

thể chế bao gồm thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Trong đó, thể chế

chính trị được đại diện bằng nền dân chủ của quốc gia và thể chế kinh tế

được đại diện bằng tự do kinh tế. Các tác giả này đã sử dụng biến tự do

kinh tế (Economic Freedom) của EFW (the economic freedom of the

world) đại diện cho thể chế kinh tế và kết quả cho thấy mức độ tự do kinh

tế tác động làm giảm tham nhũng cho tất cả các trường hợp. Barro (1996a)

tiến hành nghiên cứu thực nghiệm xuyên quốc gia trên các yếu tố quyết

định tăng trưởng. Tác giả sử dụng chỉ số mức độ dân chủ được lấy từ

Freedom House đại diện cho yếu tố thể chế chính trị.

Như vậy, chất lượng thể chế là một khái niệm đa chiều và việc đo lường nó

còn phụ thuộc vào cách tiếp cận cũng như quan điểm của nhà nghiên cứu.

Trong nghiên cứu này, dựa trên bài nghiên cứu của Saha & Gounder

(2013) và Heckelman & Powell (2010), tác giả tiếp cận chất lượng thể chế

bao gồm chất lượng thể chế chính trị được đại diện bởi chỉ số mức độ dân

chủ và chất lượng thể chế kinh tế được đại diện bởi chỉ số tự do kinh tế.

1.1.2. Tổng quan về tham nhũng

Do sự tác động đa dạng đến các khía cạnh kinh tế, văn hóa và đạo đức xã

hội nên tham nhũng luôn được xem là chủ đề trọng tâm trong các lĩnh vực

khoa học chính trị và kinh tế học. Những nghiên cứu học thuật về nguyên

nhân và hậu của tham nhũng (trong khu vực công) được thực hiện từ một

vài thập kỷ trước đây. Chẳng hạn như, luận thuyết của Scott (1972) về

tham nhũng chính trị đã có những ảnh sâu xa đến tận sau này vì trong đó

nêu lên nhiều hình thái khác nhau của tham nhũng như : đó là thói tham

nhũng quan liêu, cơ chế xin – cho và gia đình trị, và chi phối nhà nước.

25

Tham nhũng quan liêu hoặc tham nhũng hành chính công đề cập đến hành

vi cố ý tạo ra những méo mó trong thực thi pháp luật, quy chế và quy định

hiện hành nhằm đem lại lợi ích cho các cá nhân trong và ngoài chính phủ

bằng các phương pháp không hợp pháp và thiếu minh bạch (Worldbank,

2000). Ví dụ như một cá nhân hối lội cán bộ thu thuế để giảm trách nhiệm

nộp thuế.

Cơ chế xin – cho và gia đình trị đề cập đến sự thiên vị mà những cá nhân

nắm quyền lực dành cho những nhóm đối tượng thuộc một phạm vi hẹp để

đổi lấy sự hỗ trợ chính trị. Đối xử thiên vị với một số cá nhân, trao hợp

đồng từ một nguồn duy nhất,… là những ví dụ cho hình thái tham nhũng

này.

Chi phối nhà nước đề cập đến các hành động của cá nhân, nhóm người

hoặc các công ty trong khối nhà nước cũng như tư nhân nhằm gây ảnh

hưởng đến việc xây dựng luật, quy định, quy chế, nghị định và các chính

sách khác của chính phủ nhằm làm lợi cho bản thân (WorldBank, 2000).

Những năm thập niên 1990, tham nhũng trở thành chủ đề thu hút một

lượng lớn các quan tâm của các nhà nghiên cứu và giới học giả. Hiện nay,

tham nhũng cũng là một hiện tượng đang được xem xét rộng rãi ở hầu hết

các quốc gia bất kể là phát triển hay đang phát triển, nhỏ hay lớn, theo định

hướng thị trường hay hình thức khác. Chính vì lý do này mà đã có nhiều

nghiên cứu về vấn đề tham nhũng, đặc biệt các nghiên cứu về các yếu tố

tác động đến tham nhũng. Những nghiên cứu này bao gồm Billger & Goel

(2009), Del Monte & Papagni (2007), Glaeser & Saks (2006), Goel &

Nelson (1998), La Porta & ctg (1999), Saha & ctg (2009), Treisman

(2000)... Tuy nhiên, khái niệm về tham nhũng rất đa dạng, vẫn chưa có sự

đồng nhất và chưa thật sự rõ ràng.

Trong từ điển của Oxford (2000), tham nhũng được mô tả như: [1] hành vi

gian lận hoặc phi pháp, đặc biệt là những người làm trong chính quyền; [2]

26

hành động làm thay đổi từ chuẩn đạo đức thành thiếu đạo đức của hành vi.

Vì vậy, tham nhũng bao gồm ba yếu tố quan trọng là đạo đức, hành vi và

quyền lực. Gould (1991) cho rằng định nghĩa tham nhũng như là vấn đề

đạo đức, nghĩa là tham nhũng là hiện tượng trái đạo đức và trái với luân

thường đạo lý mà bao gồm tập hợp các sự lệch lạc đạo đức so với các

chuẩn đạo đức của xã hội.

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) định nghĩa

“tham nhũng là việc lạm dụng quyền lực được giao phó để nhằm tư lợi”.

Tương tự, theo nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (The World

Bank Group) “tham nhũng là lạm dụng công quyền nhằm tư lợi”. Việc lạm

quyền ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng. Khu vực công được cho là bị

lạm quyền khi một đại diện nhận, gạ gẫm hoặc sách nhiễu hối lộ. Nó cũng

bị lạm dụng khi các đại diện tư nhân chủ động đưa hối lộ để phá vỡ các

chính sách công và quy trình công vì các lợi thế cạnh tranh cũng như lợi

nhuận. Khu vực công cũng có thể bị lạm dụng vì lợi ích cá nhân ngay cả

khi không có hối lộ xảy ra, thông qua sự bảo trợ và gia đình trị, các hành vi

trộm cắp tài sản nhà nước, hay sự chuyển hướng của các khoản thu của nhà

nước.

Tham nhũng cũng được hiểu là việc sử dụng những đặc quyền của khu vực

công để mưu lợi cá nhân, nó được xem là vấn đề nghiêm trọng ở các nước

đang phát triển (Beekman & ctg, 2013; Jain, 2001; Stiglitz, 2002). Một số

hoạt động phi pháp như gian lận, rửa tiền, buôn bán ma túy, hoạt động chợ

đen không cấu thành nên tội tham nhũng do chúng không hoàn toàn đòi hỏi

các đặc quyền của khu vực công. Tuy nhiên, các cá nhân thực hiện các hoạt

động nói trên thường liên hệ với các quan chức và chính trị gia. Mặt khác,

các hoạt động này thường không thể phát triển mạnh nếu không có yếu tố

tham nhũng (Jain, 2001).

27

Như vậy, có thể hiểu tham nhũng là một hành động trục lợi cá nhân đến từ

việc lạm dụng các quyền lợi, đặc quyền của khu vực công. Trong bài

nghiên cứu của mình, Amundsen (2000) cho rằng tham nhũng tồn tại ở các

dạng : hối lộ, biển thủ, gian lận và tống tiền.

Hối lộ được định nghĩa là một khoản chi trả (dạng tiền hoặc vật chất) được

đưa hay nhận trong một quan hệ tham nhũng. Về bản chất, việc chi hay

nhận hối lộ chính là tham nhũng. Một khoản hối lộ có thể được hiểu là một

số tiền cố định, số phần trăm theo hợp đồng hay một khoản tiền tồn tại ở

bất kỳ một dạng nào được trả cho một quan chức đại diện cho nhà nước để

thực hiện hợp đồng hay phân phối lợi ích tới các doanh nghiệp, cá nhân.

Hối lộ cũng có thể được xem là một loại thuế không chính thống khi các

quan chức chính quyền đòi hỏi các khoản chi trả hoặc quà tặng từ các đội

tượng khác. Các thuật ngữ khác như lại quả, tiền trà nước, tiền đút lót, tiền

bôi trơn đều dùng để chỉ về hội lộ dưới góc nhìn của công chúng. Các

khoản tiền này cần thiết hoặc được yêu cầu để việc thực hiện các công việc

hành chính nhanh chóng, thuận lợi hoặc được ưu tiên hơn. Bằng các loại

chi phí bôi trơn này, doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh có thể mua

được ưu tiên chính trị và né tránh các gánh nặng về thuế và các quy định,

mua các thị trường được bảo hộ hoặc độc quyền, các giấy phép…

Biển thủ được hiểu là việc đánh cắp các nguồn lực công bởi các quan chức

chính quyền, là một dạng của sử dụng sai các quỹ tiền tệ công. Biển thủ

được thực hiện khi một quan chức chính phủ đánh cắp từ các định chế công

mà họ đang làm việc và từ các nguồn lực họ quản lý nhân danh nhà nước

và chính phủ. Tuy nhiên, các nhân viên không trung thành của các doanh

nghiệp tư nhân cũng có thể biển thủ tiền và nguồn lực từ người chủ của họ.

Biển thủ là một dạng của tham nhũng bằng việc lợi dụng quyền lực.

Gian lận là một tội phạm kinh tế liên quan đến các hành động lừa gạt, bịp

bợm, lừa đảo. Đây là thuật ngữ luật học rộng hơn và phổ biến hơn, trong

28

đó bao hàm cả hối lộ và biển thủ. Gian lận xảy ra khi các đại diện của

chính quyền tham gia vào mạng lưới giao dịch bất hợp pháp và tống tiền

khi các tổ chức tội phạm kinh tế giả mạo, buôn lậu khi có sự phê chuẩn và

tham gia của chính quyền.

Tống tiền là việc tiền hoặc các nguồn lực khác bị bòn rút bằng cách ép

buộc, bạo lực hoặc đe dọa. Tiền bảo kê có thể bị bòn rút theo cách tạo ra

môi trường không an toàn cho các cá nhân, người kinh doanh để đổi lấy sự

yên bình. Chỉ những người trả đủ tiền thì mới không bị tiếp tục quấy nhiễu.

Tống tiền căn bản cũng là một dạng của tham nhũng nhưng số tiền này

được bòn rút một cách khá bạo lực. Sự đổi chác lấy lợi ích giữa các bên bị

mất cân bằng nghiêm trọng. Tham nhũng dưới hình thức tống tiền thường

được hiểu là một dạng bòn rút từ bên dưới. Ví dụ, khi một tổ chức mafia ở

Nga hoặc ở Ý có khả năng gây ảnh hưởng đến các quan chức chính quyền

và toàn bộ cơ quan nhà nước thông qua việc đe dọa hoặc ám sát có chủ

đích. Các tổ chức này sẽ nhận được các ưu tiên và đặc quyền kinh tế và tự

do trong thuế, quy định và các vụ truy tố pháp luật. Ngoài ra, tham nhũng

dạng này có thể tồn tại dưới hình thức từ trên xuống khi tổ chính quyền là

tổ chức mafia lớn nhất. Ví dụ, khi chính quyền, đặc biệt là các dịch vụ bảo

vệ của họ, là các nhóm bán quân sự tống tiền từ các cá nhân và tổ chức

kinh doanh cho việc không bị quấy nhiễu. Các dạng quấy nhiễu có thể là đe

dọa đánh thuế nặng, trì hoãn việc cấp giấy phép, các cuộc điều tra liên

ngành dưới nhiều hình thức.

Tham nhũng có thể phân loại thành : tham nhũng vặt và tham nhũng lớn.

Tham nhũng vặt có thể xảy ra ở cấp độ đường phố, xảy ra hằng ngày.

Tham nhũng dạng này xuất hiện khi người dân tiếp xúc với các quan chức

thấp hoặc trung bình ở những nơi như trường học, bệnh viện, cơ quan công

an, cơ quan hành chính cấp cơ sở,… Quy mô giao tiền giao dịch thường là

nhỏ và chủ yếu ảnh hưởng đến cá nhân (June & ctg, 2008). Tham nhũng

29

lớn thường xảy ra ở cấp độ chính quyền cao – nơi có khả năng bóp méo

chính sách hay thậm chí bóp méo chức năng chính quyền, tạo điều kiện cho

người lãnh đạo hưởng lợi trên tổn thất của hàng hóa công. Tham nhũng lớn

đôi khi tương đồng với tham nhũng chính trị (Rohwer, 2009).

Nhiều nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa tham nhũng và

tăng trưởng kinh tế, trong đó có Shleifer & Vishny (1993) cho rằng “tham

nhũng là việc bán tài sản của chính phủ nhằm tư lợi”.

Tóm lại, khái niệm về tham nhũng là đa dạng, tùy thuộc vào mục tiêu

nghiên cứu và cách tiếp cận mà nó có thể được hiểu theo các ý nghĩa khác

nhau. Trong nghiên cứu này, tác giả mong muốn xem xét vai trò của chất

lượng thể chế đối với hoạt động tham nhũng của giới công chức, đồng thời

xem xét sự ảnh hưởng của tham nhũng này đối với tăng trưởng kinh tế của

các quốc gia. Vì vậy, thuật ngữ tham nhũng trong nghiên cứu này là đề cập

đến tham nhũng hành chính công của giới công chức, họ lạm dụng chức

vụ, quyền hạn của mình để thay đổi quy định, quy trình của pháp luật vì

mục tiêu tư lợi và làm tổn hại đến môi trường kinh doanh cạnh tranh.

2.2. Lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng

Các mô hình lý thuyết về nguyên nhân của tham nhũng thường xoay quanh

vấn đề về mối quan hệ đại diện giữa giới công chức và các đại diện kinh tế

(Becker & Stigler, 1974; Klitgaard, 1988). Bởi vì hoạt động tham nhũng

bao gồm hai chủ thể là bên đưa (đại diện khu vực tư) và bên nhận (giới

công chức) các khoản tiền bất hợp pháp. Như vậy, nếu một quốc gia không

tồn tại chính phủ, nền kinh tế thị trường tự do hoàn toàn, thì không xuất

hiện các ràng buộc pháp luật, không có những đại diện thừa quyền và khi

đó cũng không thể tồn tại tham nhũng. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường

luôn tồn tại những khiếm khuyết của nó mà ở đó có hai vấn đề không thể

tự giải quyết khi không có chính phủ đó là: thất bại thị trường và bất bình

đẳng thu nhập. Khi đó, lý thuyết lựa chọn công ra đời khi lý thuyết về hiệu

30

quả tuyệt đối của nền kinh tế thị trường không hoàn toàn đúng nữa. Nói

cách khác, lý thuyết lựa chọn công ủng hộ cho sự tồn tại của chính phủ để

giải quyết các thất bại của thị trường. Khi nền kinh tế thị trường không thể

tự khắc phục các khiếm khuyết của chính mình thì tất yếu phải có sự can

thiệp của thế lực bên ngoài và rõ ràng là không ai có thể làm tốt được vai

trò của mình hơn là chính phủ (Olson, 1965).

Trong bài nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, Treisman

(2000) đặt ra câu hỏi: “tại sao các giới chức tại một số quốc gia lạm dụng

công quyền để nhằm tư lợi thường xuyên hơn và nhận tiền đút lót nhiều

hơn so với giới chức ở các quốc gia khác?”. Câu trả lời là sự cân đối giữa

chi phí kỳ vọng của hành vi tham nhũng bao gồm chi phí xã hội, chi phí

tâm lý cũng như chi phí tài chính so với lợi ích kỳ vọng của họ. Các nhà

khoa học chính trị và kinh tế học cho rằng nhiều đặc tính của một quốc gia

như là kinh tế, chính trị và hệ thống pháp luật có thể ảnh hưởng đến chi phí

kỳ vọng và lợi ích kỳ vọng của giới chức.

Chi phí kỳ vọng rõ ràng nhất chính là rủi ro bị phát hiện và bị phạt. Xác

suất của việc bị phát hiện phụ thuộc phần lớn vào hiệu lực của hệ thống

pháp luật của quốc gia. Hai khía cạnh có liên quan của hệ thống pháp luật

được phân biệt. Thứ nhất, hệ thống luật pháp khác biệt về mức độ bảo vệ

và tạo ra cơ hội từ việc chấp nhận chủ sở hữu tài sản khu vực tư bị xâm hại

bởi hành vi tham nhũng của giới chức. La Porta & ctg (1999) cho rằng hệ

thống luật Ango-Saxon hay còn gọi là hệ thống Thông luật (common law)

khác biệt theo chiều hướng này so với hệ thống luật dân sự (civil law).

Trong khi luật Ango-Saxon được phát triển đầu tiên ở Anh được xem như

là sự bảo vệ cho Nghị viện và chủ sở hữu nhằm chống lại sự xâm phạm của

chế độ quốc chủ, hệ thống luật dân sự từ thời Napoleon, Bismarkian được

phát triển như một công cụ cho chế độ quốc chủ nhằm xây dựng nhà nước

và kiểm soát đời sống kinh tế (La Porta, 1999). Hệ thống Thông luật được

31

xây dựng từ các tiền lệ được hình thành từ chính các quan tòa, thường là

đồng minh với tầng lớp quý tộc nhiều tài sản nhằm chống lại nhà vua,

trong khi đó hệ thống luật dân sự được thiết lập từ bộ luật được các nhà

luật học soạn thảo theo mệnh lệnh của nhà vua. Vì vậy, các tác giả đưa ra

giả thuyết rằng sự bảo vệ tài sản lớn hơn trong hệ thống Thông luật cải

thiện hiệu quả chính phủ ở nhiều khía cạnh bao gồm giảm nạn tham nhũng.

Thứ hai, hệ thống luật pháp không chỉ khác biệt trong công thức và mục

đích ban đầu của luật mà còn khác biệt về kỳ vọng và việc thực thi của nó.

Vai trò xã hội của luật và tầm quan trọng của luật trong các trật tự xã hội

cũng khác nhau giữa các quốc gia. Sự sẵn sàng của tòa án để theo đuổi các

hồ sơ mà thậm chí kết quả của nó sẽ đe dọa hệ thống cấp bậc trong xã hội

sẽ làm tăng cơ hội phát hiện các vụ án tham nhũng của giới chức.

Bên cạnh hệ thống pháp luật, rủi ro bị phát hiện tham nhũng cũng sẽ cao

hơn ở các quốc gia dân chủ hơn và hệ thống chính trị mở (Diamond &

Plattner, 1996). Sự tự do kết giao và tự do báo giới sẽ giúp tạo ra các nhóm

quan tâm cộng đồng và những nhà báo gắn với sứ mệnh và quyền tố cáo

việc lạm quyền. Sự ràng buộc công dân lớn hơn có thể dẫn đến việc giám

sát chặt chẽ hơn (Putnam & ctg, 1994). Ở những quốc gia dân chủ, những

người cạnh tranh cho các chức vụ trong giới chức thường có nhiều động cơ

để phát hiện và tố giác các các hành vi lạm quyền của những người đương

nhiệm tại các cuộc bỏ phiếu.

Bên cạnh xác suất bị phát hiện, giới chức luôn cân nhắc đến các hậu quả

cho hành vi tham nhũng của mình để quyết định có thực hiện tham nhũng

hay không. Các hình thức xử phạt đối với các hành vi phi pháp rõ ràng là

có liên quan đến hành vi tham nhũng. Ngay khi bị phát hiện, giới chức

tham nhũng gần như bị mất việc thì chắc chắn ảnh hưởng đến quyết định

có thực hiện tham nhũng hay không (Van Rijckeghem & Weder, 1997).

32

Tương tự, có nhiều yếu tố tác động đến lợi ích kỳ vọng từ hành vi tham

nhũng mà ở đó giới chức sẽ cân đối để phù hợp với chi phí kỳ vọng. Một

trong những biểu hiện rõ ràng nhất của lợi ích kỳ vọng thường được hiểu

bằng tổng thu nhập thực mà giới chức nhận được. Đây được xem là lý do

để mong đợi tham nhũng sẽ giảm ở các quốc gia phát triển. Acemoglu &

Verdier (2000) cho rằng tiền lương mà giới chức nhận được ảnh hưởng lớn

đến hành vi tham nhũng của họ. Để đánh giá vai trò của cơ chế chi trả

lương cho giới công chức nhằm ngăn ngừa tình trạng tham nhũng khi chính

phủ can thiệp vào nền kinh tế, Acemoglu & Verdier (2000) đã mô hình hóa

cơ chế tiền lương thông qua bất đẳng thức: (xem thêm chi tiết tại phụ lục

1−𝑞

1−𝑞

𝑛

01)

𝑞

𝑞

1−𝑛

(2.1) 𝑤 ≥ ∗ 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) = ∗ 𝜎 ∗ 𝑒 ∗

Trong đó, w là tiền lương, n là đại lượng đại diện cho phần doanh nghiệp

trong nền kinh tế, biểu diễn nguồn thu thuế mà các doanh nghiệp lựa

chọn công nghệ xấu phải trả và khoản trợ cấp mà doanh nghiệp lựa chọn

công nghệ tốt nhận được là , σ được thể hiện tiền đút lót (tham nhũng), e

là chi phí cho việc lựa chọn công nghệ tốt của doanh nghiệp, và công chức

tham nhũng có thể bị phát hiện với xác suất 𝑞. Nếu bất đẳng thức 2.1 bị vi

phạm, tất cả công chức sẽ là tham nhũng. Trong trường hợp này, các doanh

nghiệp nhận 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) về lựa chọn công nghệ của họ, và sự can thiệp của

chính phủ là hoàn toàn lãng phí. Như vậy, khi có sự can thiệp của chính

phủ thì cơ chế chi trả tiền lương cho giới công chức phải thỏa mãn điều

kiện (2.1) nếu không muốn các công chức tham nhũng.

Như vậy, ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, tiền lương mà giới chức

nhận được có xu hướng cao hơn và do đó họ sẽ có khuynh hướng ít tham

nhũng hơn. Bên cạnh đó, Lipset & Lenz (2000) cho rằng phát triển kinh tế

33

có tác động lan tỏa tích cực đến giáo dục, trình độ dân trí và qua đó sẽ giúp

tăng cường việc phát hiện và tố giác hành vi tham nhũng.

Hình 2.1: Lý thuyết nguyên nhân gây ra tham nhũng

Hệ thống chính trị

Thu nhập

Dân chủ

Hệ thống luật pháp

Rủi ro bị phát hiện và xử phạt

Chi phí kỳ vọng

Lợi ích kỳ vọng

Tham nhũng

Nguồn: tổng hợp của tác giả

2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng tham nhũng là một khái niệm đa

chiều và phức tạp. Kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu này cho thấy

không chỉ các yếu tố kinh tế như phát triển kinh tế, tự do kinh tế, lạm phát và

phân phối thu nhập… mà còn các yếu tố về chính trị, xã hội và văn hóa như

dân chủ, ổn định chính trị, giới tính và sự đa dạng dân tộc hoặc ngôn ngữ có

ảnh hưởng quan trọng đến tham nhũng. Nghiên cứu của Ata & Arvas (2011)

cho thấy nguồn gốc của tham nhũng rất đa dạng và phức tạp giống như hình

thức của nó. Các nghiên cứu thực nghiệm về các nguyên nhân của tham

nhũng thường tập trung vào các thể chế chính trị, các quy định của chính

34

phủ, hệ thống pháp luật, mức thu nhập, tiền lương khu vực công, độ mở

thương mại, giới tính, giáo dục, tôn giáo, sự đa dạng ngôn ngữ dân tộc,

nghèo đói cũng như vai trò của chủ nghĩa thực dân (Andvig & ctg, 2000).

Trong nghiên cứu này, tác giả khảo sát tác động của thu nhập, chất lượng

khung thể chế và các yếu tố kinh tế, văn hóa đến tham nhũng tại các quốc

gia chuyển đổi. Tuy nhiên, mục tiêu trọng tâm của nghiên cứu là tập trung

phân tích mối quan hệ giữa thu nhập và hoạt động tham nhũng tại các quốc

gia này. Vì vậy, bài viết tập trung thảo luận và phân tích các yếu tố sau:

Tăng trưởng kinh tế

Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tăng trưởng kinh tế

đến tham nhũng đều sử dụng biến thu nhập bình quân đầu người làm biến

đại diện cho tăng trưởng kinh tế (Damania & ctg, 2004; Husted &

Estudios, 1999). Thu nhập được sử dụng để kiểm soát sự khác nhau về tiến

trình phát triển kinh tế giữa các quốc gia. Ata & Arvas (2011) cho rằng sự

thiếu hụt các nguồn lực kinh tế có thể được xem như là một yếu tố cơ bản

dẫn đến tham nhũng. Mặc dù tham nhũng là một hiện tượng tồn tại ở hầu

hết các quốc gia, tuy nhiên, hiện tượng này có thể xuất hiện nhanh hơn ở

các nước có thu nhập thấp so với ở các nước có thu nhập cao. Ở các quốc

gia có thu nhập cao, tồn tại một số động lực đối kháng có thể ngăn ngừa sự

lây lan của tham nhũng (Alam, 1995; Myint, 2000).

Dưới góc độ kinh tế học vi mô, sự khác biệt trong thu nhập giữa các quốc

gia tác động không giống nhau đến chi phí của tham nhũng và qua đó nó

cũng làm cho mức độ tham nhũng khác nhau. Vì vậy, việc làm giàu của

khu vực tư thông qua các giao dịch phi pháp phụ thuộc vào chi phí và lợi

ích mà họ nhận được từ hoạt động tham nhũng. Giới công chức cũng sẽ suy

đoán chi phí của việc nhận hối lộ (chi phí về mặt đạo đức, xã hội, kinh tế)

với lợi ích mong đợi của họ. Kết quả của sự suy đoán này có thể phụ thuộc

vào hệ thống chính trị, pháp lý và sự phát triển kinh tế của quốc gia.

35

Nghiên cứu của Becker (1974) cho thấy mức lương cao hơn của công chức

sẽ làm tăng chi phí của việc nhận hối lộ (giảm tham nhũng).

Dựa theo quan điểm cho rằng thu nhập cao của công chức sẽ làm tăng chi

phí cơ hội của hoạt động tham nhũng, nghĩa là quốc gia nghèo được kỳ

vọng là tham nhũng nhiều hơn so với các quốc gia giàu, nghiên cứu của

Sandholtz & Koetzle (2000) chỉ ra rằng do giá trị biên của thu nhập ở các

quốc gia nghèo là lớn nên thu nhập tăng thêm sẽ ảnh hưởng đáng kể đến

chi phí của cả người đưa và nhận hối lộ. Người đưa hối lộ sẽ được lợi khi

mà khoản đút lót này tạo ra cơ hội cho họ kiếm tiền nhiều hơn. Tương tự,

người nhận hối lộ cảm thấy xứng đáng cho rủi ro của việc nhận hối lộ khi

mà giá trị thu được là lớn hơn so với tiền lương chính thức của họ. Kết quả

nghiên cứu Leys (1965) cho thấy tiền lương của công chức ở các quốc gia

nghèo không đáp ứng nhu cầu cuộc sống cho nên các khoản đút lót của khu

vực tư trở nên rất hấp dẫn đối với họ. Ngoài ra, mối quan hệ nghịch giữa

thu nhập và tham nhũng cũng được ủng hộ bởi các nghiên cứu thực nghiệm

trước đây của Braun (2004), Kunicová & Rose-Ackerman (2005),

Lederman & ctg (2005), Brown & ctg (2011) và Chang & Golden (2007).

Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết:

Giả thuyết 1: quốc gia có mức thu nhập cao hơn sẽ làm giảm mức độ tham

nhũng.

Dân chủ

Bên cạnh thu nhập thì khung thể chế cũng là một trong những yếu tố được

nghiên cứu nhiều về sư tác động đến tham nhũng. Việc giảm tham nhũng

phụ thuộc rất lớn vào việc thiết kế khung thể chế của một quốc gia, nó

được xem là yếu tố có thể chống tham nhũng một cách hiệu quả. Saha &

Gounder (2013) và Heckelman & Powell (2010) cho rằng khung thể chế

bao gồm thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Trong đó, thể chế chính trị

36

được đại diện bằng nền dân chủ của quốc gia và thể chế kinh tế được đại

diện bằng tự do kinh tế.

Theo Schumpeter (2012), nền dân chủ là một hệ thống chính trị để người

dân lựa chọn và thay thế các chính phủ thông qua bầu cử tự do và công

bằng. Điều này đã phát triển thành một đặc tính của dân chủ là trách nhiệm

giải trình của chính phủ. Trách nhiệm giải trình gồm hai loại là trách nhiệm

giải trình dọc và trách nhiệm giải trình ngang: trách nhiệm giải trình dọc

biểu thị trách nhiệm của chính phủ đối với mọi người thông qua bầu cử;

trách nhiệm giải trình ngang dùng để kiểm tra và tạo sự công bằng trong

chính phủ. Trong bài nghiên cứu của Kant (2003), tác giả cho rằng bầu cử

tự do làm tăng khả năng các quan chức tham nhũng sẽ bị trừng phạt và việc

kiểm tra tính hiệu quả và sự cân bằng trong chính phủ có thể hạn chế hoạt

động tham nhũng của các quan chức.

Kotera (2012) với dữ liệu trên 82 quốc gia trong giai đoạn từ năm 1995 đến

2008, sử dụng phương pháp ước lượng OLS đã củng cố mối quan hệ giữa

quy mô chính phủ và tham nhũng dưới sự tác động của nền dân chủ. Ông

cho rằng ở các quốc gia mà mức độ dân chủ vừa đủ, sự tăng quy mô chính

phủ sẽ giảm tham nhũng bởi vì chính phủ được bổ nhiệm bằng việc bầu cử

tự do và hợp pháp hoặc từ quyết định của số đông công chúng. Trái lại, ở

các quốc gia mức độ dân chủ quá thấp, cơ cấu chính phủ không hoạt động

tốt, và kết quả là quy mô chính phủ lớn làm cho tham nhũng nhiều hơn.

Qua đó, tác giả kết luận rằng để tận dụng vai trò can thiệp của chính phủ

mà không làm tăng tham nhũng, sự phát huy dân chủ là rất cần thiết, vì sự

tiến bộ của nền dân chủ sẽ làm quá trình kiểm tra và cân bằng hoạt động

tốt, từ đó, một sự gia tăng trong quy mô chính phủ sẽ dẫn tới sự giảm đi

mức độ tham nhũng. Kết quả này cũng nhận được sự ủng hộ từ nghiên cứu

thực nghiệm của Montinola & Jackman (2002), Braun (2004), Kunicová &

37

Rose-Ackerman (2005) và Lederman (2005). Từ đó, nghiên cứu này cũng

đưa ra giả thuyết rằng:

Giả thuyết 2: mức độ dân chủ có mối quan hệ nghịch với mức độ tham

nhũng của quốc gia.

Tự do kinh tế

Tự do kinh tế được hiểu là không có sức ép hoặc các ràng buộc từ chính

phủ đến hoạt động sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ

(Chafuen & Guzman, 2000). Người dân tại các nền kinh tế mở được tự do

nhập khẩu không chỉ hàng hóa, vốn đầu tư mà còn có thể tự do trao đổi

thông tin và ý tưởng kinh doanh. Điều này cho thấy mức độ tự do kinh tế

sẽ đẩy lùi sự kiểm soát của chính phủ như áp đặt quota, giấy phép, thủ tục

hành chính… Do đó, tự do kinh tế làm giảm cơ hội giúp công chức trục lợi.

Kết quả thực nghiệm của Ades & Di Tella (1999) cho thấy độ mở thương

mại có mối quan hệ nghịch với tham nhũng. Kết quả này cũng nhận được

sự đồng thuận của Treisman (2000) khi cho rằng độ mở thương mại giúp

giảm tham nhũng tại các quốc gia. Ngoài ra, Tanzi & Davoodi (1998) cũng

cho rằng tham nhũng thường cũng liên quan đến các hoạt động của chính

phủ và đặc biệt khi chính phủ gắn với sự độc quyền và việc sử dụng quyền

lực một cách tùy nghi. Do đó, các chính phủ lớn hơn và mức độ can thiệp

của chính phủ nhiều hơn trong nền kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động tham nhũng (Herzfeld & Weiss, 2003). Vì vậy, tác giả đưa ra giả

thuyết rằng:

Giả thiết 3: tự do kinh tế càng được mở rộng, mức độ tham nhũng càng

giảm.

Tỷ lệ thất nghiệp

Tại các quốc gia đang phát triển, tình trạng thất nghiệp gia tăng cũng là

một trong các chủ đề đáng quan tâm. Thất nghiệp gia tăng kéo theo rất

38

nhiều các hệ lụy về kinh tế xã hội. Khi cá nhân không có công việc để tạo

ra đủ thu nhập đáp ứng nhu cầu cuộc sống, họ sẽ sẵn sàng làm bất cứ việc

gì để tồn tại kể cả những việc bất hợp pháp. Nghiên cứu của Kristiansen &

Ramli (2006) trong trường hợp Indonesia đã chỉ ra rằng quá trình mua bán

chức vụ trong khu vực công diễn ra theo khuynh hướng ngày càng tăng và

đa dạng cho tất cả các vị trí ở các bộ phận khác nhau nhằm gia tăng thu

nhập. Theo đó, khi tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao thì hoạt động mua bán này

diễn ra phổ biến hơn đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Tác giả đưa ra

giả thuyết:

Giả thuyết 4: tỷ lệ thất nghiệp được kỳ vọng có mối quan hệ thuận với mức

độ tham nhũng.

Trình độ học vấn

Khi mức độ dân trí thấp, người dân không hiểu biết đầy đủ quyền giám sát

hoạt động khu vực công của họ. Chính việc này đã tạo điều kiện cho hoạt

động tham nhũng diễn ra phổ biến hơn ở các quốc gia đang phát triển. Ali

& Isse (2002) cho rằng trình độ dân trí cao có thể thúc đẩy ý thức lòng yêu

nước và trách nhiệm công dân trong xã hội. Nó cũng nâng cao khả năng

nhận thức về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân. Từ đó, họ biết

rằng việc giám sát hoạt động của chính phủ và phòng chống tham nhũng là

một phần trong quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ này. Vì vậy, mức độ dân trí

là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tham nhũng tại các

quốc gia đang phát triển.

Giả thuyết 5: trình độ học vấn được cải thiện sẽ đẩy lùi được nạn tham

nhũng của quốc gia.

Lạm phát

Lạm phát làm giảm mức lương thực tế và do đó nó ảnh hưởng tiêu cực đến

sức mua của người dân. Khi sức mua của đồng tiền bị giảm, cuộc sống của

39

người dân có mức thu nhập trung bình và thấp trở nên khó khăn hơn. Nhằm

đảm bảo nhu cầu cuộc sống, những cá nhân này có thể trở nên bất chấp

pháp luật và làm bất kỳ công việc gì kể cả gian lận, hối lộ, tham ô để tạo ra

thêm thu nhập. Rất nhiều người tin rằng lạm phát có thể gây ra "rủi ro đạo

đức" (Paldam, 2002). Khi đó, nó có thể tạo cơ hội cho các hành vi vi phạm

pháp luật và trái đạo đức như là gian lận, lừa dối, tham ô (Braun, 2004).

Lạm phát có thể tác động đến mức độ tham nhũng một cách gián tiếp.

Braun cho rằng lạm phát cao có thể làm giảm mức độ đầu tư và tăng

trưởng kinh tế, do đó, nó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ tham

nhũng. Vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết sau đây:

Giả thuyết 6: lạm phát cao trong một quốc gia làm gia tăng mức độ tham

nhũng.

Hệ thống pháp lý và tư pháp

Treisman (2000) cho rằng giới công chức có thể phân tích việc cân đối

giữa chi phí kỳ vọng của hành động tham nhũng bao gồm chi phí tâm lí, xã

hội và tài chính so với lợi ích kỳ vọng. Chi phí rõ ràng nhất là rủi ro bị phát

hiện và hình phạt. Xác suất bị phát hiện phụ thuộc rất nhiều vào hiệu lực

của hệ thống pháp lý quốc gia. Nghiên cứu của La Porta (1999) cho thấy

các quốc gia có hệ thống pháp lý được xây dựng dựa trên nguồn gốc pháp

lý theo Luật Anglo-Saxon (common law) sẽ có khuynh hướng nghiêm khắc

và hiệu quả hơn vì vậy cũng ít tham nhũng hơn. Cả Treisman và La Porta

đều cho rằng các quốc gia có hệ thống pháp lý theo Luật Anglo-Saxon (có

nguồn gốc từ Anh hoặc trước đây là thuộc địa của Anh) có xu hướng giảm

tham nhũng. Theo tài liệu của (WorldBank, 2000), các nghiên cứu dựa trên

kinh nghiệm cho thấy trong bối cảnh chưa có luật định tốt và chưa có hệ

thống tư pháp và tố tụng hiệu quả, pháp quyền sẽ tồn tại nhiều điểm yếu,

ngăn cản quá quá trình đấu tranh phòng chống tham nhũng.

40

Giả thuyết 7: mức độ tham nhũng giảm ở các quốc gia có hệ thống pháp lý

và tư pháp hiệu quả.

Bảng 2.1: Các yếu tố tác động đến tham nhũng

Yếu tố

Tác động nghịch chiều

Thu nhập (phân phối thu nhập)

Tác động thuận chiều Fréchette (2006), Braun (2004)

(2005), Lederman

Tự do kinh tế

Dân chủ

Graeff & Mehlkop (2003), Paldam (2002)

Recanatini,

&

Iwasaki & Suzuki (2012), Chang & Golden (2007), Brown (2011), Kunicová & Rose- (2005), Ackerman Damania (2004), Dreher & Herzfeld (2005), Alt & Lassen (2003), Brunetti & Weder (2003), Graeff & Mehlkop (2003), Herzfeld & Weiss (2003), Knack & Azfar (2003), Persson & ctg (2003), Tavares (2003), (Fisman & Gatti, 2002), (Bonaglia & ctg, 2001), (Swamy & ctg, 2001), (Abed & Davoodi, 2002), (Rauch & Evans, 2000), (Treisman, 2000), (Wei, 2000), (Ades & Di (Goldsmith, 1999), Van Tella, 1999), Rijckeghem & Weder (1997) (Gurgur & Shah, 2014), Kunicová & Rose- Ackerman (2005), (Park, 2003), (Ali & Isse, 2002), (Treisman, 2000), (Goldsmith, 1999) Gurgur & Shah (2014), (Iwasaki & Suzuki, 2012), Chang & Golden (2007), Kunicová (2005), Lederman & Rose-Ackerman (2005), Braun (2004), Damania (2004), Dreher & Herzfeld (2005), Knack & Azfar (2003), Paldam (2002), (Bonaglia, 2001), (Broadman 2001), (Treisman, 2000), (Wei, 2000), (Ades & Di Tella, 1999), (Goldsmith, 1999), Van Rijckeghem & Weder (1997)

Lạm phát

Tỷ lệ thất nghiệp Kristiansen & Ramli (2006) Braun (2004), Paldam (2002)

Trình độ học vấn Fréchette (2006)

Hệ thống pháp lý

Ali & Isse (2002), Alt & Lassen (2003), Brunetti & Weder (2003), (Persson, 2003), (Rauch & Evans, 2000), (Ades & Di Tella, 1999), Van Rijckeghem & Weder (1997) Treisman (2000), La Porta (1999), Gatti (1999)

Nguồn: tổng hợp của tác giả

41

Kết luận chương 2

Các yếu tố tác động đến tham nhũng là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm thực hiện từ nghiên cứu dạng tổng hợp so sánh đến các nghiên

cứu định lượng với dữ liệu, phương pháp và kết quả khác nhau. Các nghiên

cứu này đã có những đóng góp rất lớn về khung lý thuyết và bằng chứng

thực nghiệm. Từ các nghiên cứu trước đây, tác giả xác định những điểm

nhấn cần tập trung nghiên cứu để hoàn thiện thêm trong luận án này như

sau:

- Biến nghiên cứu: các nghiên cứu trước đây có đề cập đến vai trò

của chất lượng khung thể chế, tuy nhiên, việc sử dụng đồng thời thể

chế chính trị và thể chế kinh tế trong các nghiên cứu định lượng hiện

còn rất hạn chế.

- Dữ liệu nghiên cứu: các nghiên cứu trước đây cũng đã tập trung

khai thác dữ liệu nghiên cứu ở cấp độ quốc gia. Tuy nhiên, nghiên

cứu định lượng sử dụng bộ dữ liệu đồng nhất của các quốc gia có

mức độ tương đồng về thu nhập và chất lượng khung thể chế đặc

biệt là các quốc gia chuyển đổi vẫn chưa được thực hiện phổ biến.

- Phương pháp nghiên cứu: Mặc dù các nghiên cứu được thực hiện

bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng việc sử dụng các phương

pháp ước lượng mới để xử lý vấn đề nội sinh vẫn chưa được các tác

giả quan tâm xử lý.

Do vậy, tác giả cho rằng việc thực một nghiên cứu định lượng nhằm khắc

phục các khoảng trống nghiên cứu trước đây là thật sự cần thiết.

42

CHƯƠNG 3

LÝ THUYẾT TÁC ĐỘNG THAM NHŨNG ĐẾN

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Giới thiệu

Hậu quả của tham nhũng cũng là chủ đề được bàn luận nhiều trong các

nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, tham nhũng tác động như thế nào đến

tăng trưởng kinh tế vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Kết quả cho thấy tham

nhũng gây cản trở tăng trưởng có lẽ nhận được nhiều sự đồng thuận từ các

nhà nghiên cứu. Nhưng cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng tham

nhũng không hoàn toàn tiêu cực mà trong một số trường hợp tham nhũng

chính là chất bôi trơn giúp thúc đẩy bánh xe tăng trưởng. Bardhan (1997)

đã minh họa các trường hợp mà tham nhũng có thể đã thúc đẩy phát triển

kinh tế trong một giai đoạn lịch sử của châu Âu và châu Mỹ. Bên cạnh đó,

Beck & Maher (1986) và Lien (1986) lập luận rằng tham nhũng giúp cải

thiện hiệu quả hoạt động của chính phủ. Nghiên cứu của Leff (1964),

Huntington (2006) và Leys (1965) cũng cho thấy tham nhũng có tác động

tích cực đến tăng trưởng kinh tế nhờ việc giảm thiểu các trở ngại từ thủ tục

hành chính, sự thiếu minh bạch của hệ thống pháp lý. Từ đó, các tác giả đã

ví tham nhũng như chất bôi trơn giúp kích hoạt sự vận hành của thể chế

quan liêu và giảm thiểu các rào cản gây trở ngại cho đầu tư và tăng trưởng.

Mục tiêu của chương này là xây dựng khung lý thuyết sự tác động của

tham nhũng đến tăng trưởng. Luận án phát triển mô hình tăng trưởng dựa

vào hàm sản xuất Cobb-Douglas kết hợp với lý thuyết tăng trưởng nội sinh

của Barro (1990) khi xem xét vai trò của chi tiêu chính phủ đối với tăng

trưởng kinh tế. Từ khung lý thuyết này, luận án tổng hợp các lý thuyết

nghiên cứu mở rộng về sự tồn tại của hai giả thuyết tác động của tham

nhũng, bao gồm: giả thuyết tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng và giả

43

thuyết tham nhũng đóng vai trò chất bôi trơn. Sau đó, luận án tổng hợp

bằng chứng thực nghiệm về các kênh truyền dẫn mà qua đó tham nhũng tác

động đến tăng trưởng. Cuối cùng, luận án tổng hợp các kết quả nghiên cứu

thực nghiệm trước đây cho cả hai giả thuyết sự tác động của tham nhũng.

3.1. Khái niệm tổng quan

Theo định nghĩa của World Bank, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về

lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế,

trước hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số.

Một cách cụ thể hơn, (Nafziger, 2006) định nghĩa tăng trưởng kinh tế là sự

gia tăng về lượng hoặc sự gia tăng lên về thu nhập bình quân đầu người của

một nước. Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô

sản lượng quốc gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia bình quân trên đầu

người qua một thời gian nhất định. Bản chất của tăng trưởng kinh tế là sự

đảm bảo gia tăng cả quy mô sản lượng và sản lượng bình quân trên đầu

người.

Một cách tổng quát, ta có thể đo lường tăng trưởng kinh tế bằng các chỉ

tiêu: tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm

quốc nội bình quân đầu người.

Tổng sản phẩm quốc nội - GDP (Gross Domestic Product): GDP là giá trị

bằng tiền của tất cả các sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được sản

xuất trên phạm vi lãnh thổ của một nước trong một thời gian nhất định

(thường là một năm). GDP thường được tính bằng 3 phương pháp sau:

 Phương pháp 1: Phương pháp trực tiếp (theo tổng thu nhập)

GDP = W + R + i + Π + Ti + De

Trong đó

W: tiền lương

44

R: thu nhập cho thuê

i: thu nhập của người cho vay (lãi)

Π: lợi nhuận của chủ doanh nghiệp

Ti: thuế gián thu

De: bù đắp hao mòn tài sản cố định

 Phương pháp 2: Phương pháp gián tiếp (theo giá trị gia tăng)

𝐺𝐷𝑃 = ∑ 𝑉𝐴

Trong đó: VA= giá trị sản lượng- giá trị sản phẩm trung gian

 Phương pháp 3: theo luồng chi tiêu

GDP = C + I + G + X – M

Trong đó

C: tiêu dùng của hộ gia đình

I: chi cho đầu tư

G: chi tiêu của Chính phủ

X: giá trị hàng xuất khẩu

Tổng sản phẩm quốc dân- GNP (Gross National Product): GNP là giá trị

bằng tiền của tất cả các sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng được tạo ra

bởi công dân của một nước trong một thời gian nhất định (thường là một

năm).

GNP = GDP + NFFI = GDP + IFFI − OFFI

Trong đó

NFFI: thu nhập yếu tồ ròng từ nước ngoài.

IFFI: thu nhập từ nước ngoài chuyển vào trong nước.

45

OFFI: thu nhập từ trong nước chuyển ra nước ngoài.

Tổng sản phẩm tính bình quân đầu người (mức thu nhập bình quân đầu

người- PCI- Per Capital Income): PCI = Y/P với Y: GDP (GNP), P: tổng

dân số.

3.2. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế

3.2.1. Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế

Các mô hình tăng trưởng tân cổ điển như Solow (1956) và Swan (1956)

không tính đến vai trò can thiệp của chính phủ nên không thể trực tiếp phân

tích tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng

trong dài hạn hoàn toàn được quyết định bởi tốc độ tăng của các biến ngoại

sinh như vốn vật chất, vốn con người và tiến bộ công nghệ. Theo thời gian,

nhiều nhà kinh tế đã đưa vai trò của chính phủ vào các mô hình tăng trưởng

tân cổ điển. Điển hình là mô hình lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Barro

(1990). Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Barro (1990) giả định tổng sản

phẩm bình quân đầu người dựa trên đầu tư khu vực tư nhân bình quân và

chi tiêu chính phủ bình quân.

Dựa trên lý thuyết tăng trưởng trường phái tân cổ điển, Barro (1990) đưa ra

mô hình nghiên cứu xem xét một cách có hệ thống dựa trên các hành vi tối

đa hoá lợi ích của các tác nhân trong nền kinh tế, mô hình tăng trưởng này

vẫn được được sử dụng phổ biến khi các nhà kinh tế xem xét mối quan hệ

giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế. Barro (1990) giả định chi

tiêu chính phủ đối với hàng hoá và dịch vụ công có ảnh hưởng tích cực đến

sản xuất của khu vực tư nhân. Hàm tổng sản xuất trong nền kinh tế có dạng

hàm sản xuất Cobb-Douglas như sau:

Y= A L1-α Kα G1-α (3.1)

Ta có 0 < α <1 với L là lao động, K là tư bản, Y là sản lượng của nền kinh

tế, G là tổng chi tiêu chính phủ và A là tiến trình cải tiến công nghệ. Để

đơn giản, Barro (1990) giả định L (tổng lực lượng lao động trong nền kinh

46

tế) là cố định. Với L cố định, phương trình (3.1) cho thấy rằng công nghệ

sản xuất của nền kinh tế có hiệu suất không đổi theo quy mô đối với các

đầu vào chi tiêu chính phủ và tư bản. Hàm tổng sản xuất (3.1) có thể được

biểu diễn dưới dạng biến bình quân một lao động như sau:

y = A kα G1-α (3.2)

Với 𝑦 = 𝑌/𝐿 và k = K/ L lần lượt là sản lượng và tư bản bình quân

một đơn vị lao động.

Barro (1990) giả định rằng chính phủ tài trợ cho chi tiêu của mình bằng

cách áp dụng một mức thuế suất cố định τ. Điều này cũng hàm ý rằng

chính phủ luôn thực hiện cán cân ngân sách cân bằng. Do vậy, τ cũng được

hiểu như tỷ lệ chi tiêu công của chính phủ, ta có:

τ Ly = G ( 0 < τ < 1 ) (3.3)

Kết hợp với (3.1) và (3.2), ta có:

G = τ1/α (AL) 1/α k (3.4)

Do tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu chính phủ cấu thành nên tổng thu nhập

trong nền kinh tế nên phương trình tích luỹ cơ bản có thể được viết như

sau:

(3.5) 𝑘̇ = s (1- τ) y – δk

Trong đó, δ là tỉ lệ hao mòn của tư bản và s là tỉ lệ tiết kiệm cố định của

khu vực tư nhân.

Chia cả hai vế phương trình (3.5) cho k và kết hợp với (3.2), (3.3) và (3.4)

chúng ta có thể thu được tốc độ tăng trưởng của sản lượng Yy, như sau:

(3.6) Yy = α [s (1- τ) ( τAL)(1-α)/α + δ]

Độ co giãn của sản lượng bình quân và chi tiêu khu vực chính phủ α còn

phụ thuộc vào yếu tố tham nhũng: 𝛼 = 𝛾(1 − 𝜑) với 𝜑 là chỉ số tham

nhũng trong khu vực chính phủ (Haque & Kneller, 2008). Nếu 𝜑 càng lớn

thì tác động của chi tiêu chính phủ lên tăng trưởng càng giảm xuống. Nếu

𝜑 = 0 thì chi tiêu chính phủ đạt được độ co giãn theo lý thuyết. Giả thuyết

47

này hàm ý tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế. Hiểu theo cách

khác, giả thuyết này cho rằng tham nhũng tạo ra sự thiếu hiệu quả chứ

không phải là sửa chữa nó. Quan điểm này đã có từ lâu đời trong lý thuyết

lựa chọn công của Buchanan & Tullock (1962) và Rose-Ackerman (1999).

Gần đây nó cũng được xây dựng mới bởi Shleifer & Vishny (1993, 1998).

Họ đã đặt ra thuật ngữ “the grabbing hand” để mô tả cách thức tham nhũng

phát sinh bởi vì các quan chức chính phủ luôn tìm cách trục lợi bất cứ khi

nào có thể dựa trên những hạn chế của nền kinh tế, pháp lý và thể chế

chính trị.

Tuy nhiên, một số các nhà nghiên cứu khác đã không hoàn toàn đồng tình

với giả thuyết trên. Họ cho rằng tham nhũng tác động như thế nào đối với

tăng trưởng thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế xã hội khác. Để làm

rõ hơn vấn đề này, luận án sẽ dẫn chứng một vài nghiên cứu lý thuyết nổi

bật sau:

Trước hết là nghiên cứu của Levine & Renelt (1992), khung lý thuyết của

nghiên cứu này đã nhận dạng bốn biến tác động vững đến tăng trưởng kinh

tế. Chúng bao gồm: tỷ lệ đầu tư trên GDP, tỷ lệ tăng dân số, mức độ ban

đầu của GDP bình quân đầu người và biến đại điện cho nguồn vốn con

người. Hai biến đầu tiên thuộc về thành phần tăng trưởng và hai biến còn

lại thuộc về thành phần phát triển. Dựa trên công trình này và các tài liệu

nghiên cứu trước đây, Levine & Renelt (1992) cho rằng tỷ lệ tăng trưởng

của năng suất sản xuất được xác định như sau:

(3.7) 𝑦 = 𝛾(𝑐𝑜𝑟, 𝑦0, ℎ𝑢𝑚𝑎𝑛)

Trong đó cor là chỉ số thể hiện mức độ tham nhũng, 𝑦0 là GDP bình quân

ban đầu và human là chỉ số thể hiện nguồn vốn con người. Dấu kỳ vọng

của GDP bình quân ban đầu mang dấu âm là bởi khuynh hướng hội tụ về

khoảng trống tri thức giữa các quốc gia đã được đề cập trong tài liệu về

48

tăng trưởng nội sinh. Quốc gia có khoảng cách tri thức lớn hơn sẽ dễ dàng

hơn để tăng năng suất của mình thông qua việc học, bắt chước và làm quen

với kỹ thuật từ các nền kinh tế dẫn đầu (Barro, 1991). Theo Benhabib &

Spiegel (1994), nguồn vốn con người tác động tích cực lên tăng trưởng của

nhân tố sản xuất tổng hợp bởi vì lực lượng lao động được đào tạo thì sẽ tốt

hơn trong việc học tập, sáng tạo và thực thi các kỹ thuật mới, từ đó thúc

đẩy tăng trưởng năng suất sản xuất cao hơn. Tuy nhiên, khung lý thuyết

này cho rằng rất khó để đưa ra nhận xét về kỳ vọng dấu của tham nhũng

đối với nhân tố sản xuất tổng hợp.

Leff (1964) với bài báo nổi bật trong những năm 1960 có tên “Phát triển

kinh tế thông qua tham nhũng hành chính”. Ông đã khởi sướng quan điểm

cho rằng tham nhũng có lợi cho tăng trưởng hay còn được hiểu là tham

nhũng tạo chất bôi trơn cho bánh xe tăng trưởng. Mặc dù ý tưởng của bài

viết này còn sơ khai nhưng nó được xem là đã đặt nền tảng lý thuyết “tham

nhũng thúc đẩy tăng trưởng” cho những công trình nghiên cứu về sau như

là Lui (1985), Back & Maher (1986) và cả những công trình thực nghiệm

gần đây.

Tiếp theo, luận án trích dẫn vắn tắt mô hình lý thuyết của Aidt & Dutta

(2008). Khung lý thuyết này có cái nhìn đa chiều về tác động của tham

nhũng đối với tăng trưởng. Nghiên cứu này giả định một nền kinh tế trong

đó các cá nhân có thể lựa chọn giữa hai ngành nghề: Một là, cá nhân có thể

là một công nhân và kiếm được thu nhập tiền lương w(.), hoặc hai là, họ có

thể trở thành một doanh nhân, thuê nhân công và kiếm được lợi nhuận

ai(.). Trong đó, ai là tài năng hay năng suất của cá nhân i. Để cho đơn

giản, chúng ta giả sử rằng các cá nhân hoặc là tài năng với ai = a> 1 hoặc

không tài năng với ai = 1. Tiền lương ngày càng tăng trong số lượng doanh

nghiệp và được biểu thị bởi n. Mặt khác, lợi nhuận đang ngày càng giảm

trong n bởi vì ngày càng có sự cạnh tranh hơn. Một cá nhân quyết định trở

49

thành một doanh nhân nếu 𝑎𝑖(𝑛) − 𝑤(𝑛) > 0. Trong một thị trường tự

do, cá nhân tài năng thiết lập các công ty cho đến khi thu nhập kiếm được

từ hai công việc là như nhau, tức là 𝑎(𝐻) − 𝑤(𝐻) = 0 trong đó 𝐻 là

số lượng doanh nghiệp ở trạng thái cân bằng. Chúng tôi cho rằng nếu

thuyết phúc lợi ban đầu và sản lượng đầu ra được phân bổ một cách hiệu

quả thì không có lý do cho sự can thiệp của chính phủ.

Tuy nhiên, giả sử rằng chính phủ áp dụng một hệ thống cấp phép mà đòi

hỏi mỗi cá nhân phải nhận được sự cho phép để thành lập một công ty. Hệ

thống này không có ảnh hưởng đến nền kinh tế trừ khi chính phủ ban hành

giấy phép ít hơn số lượng doanh nghiệp ở trạng thái cân bằng H. Trong

trường hợp này, nền kinh tế sẽ phân bổ không hiệu quả và những doanh

nhân thành đạt kiếm được nhiều hơn so với mức lương hiện tại.

Bây giờ, chúng ta xem xét hai kịch bản khác nhau:

Trong kịch bản đầu tiên, số lượng giấy phép được đưa ra và ít hơn so

với H. Nhiệm vụ của chính phủ là phân bổ các giấy phép trong dân chúng.

Nó sẽ được thực hiện dễ dàng nếu cá nhân tài năng có thể được quan sát

được nhưng thường nó không thể. Một cách khác đó là phân bổ giấy phép

một cách ngẫu nhiên, nhưng nếu làm như vậy, một số doanh nghiệp sẽ phá

sản do được điều hành bởi các doanh nhân bất tài. Một khả năng khác là

một chính phủ tham nhũng sẽ bán giấy phép cho nhà thầu cao nhất. Rõ

ràng, bằng cách thiết lập giá tại mức sao cho > 0 thì những cá

nhân tài năng sẽ trả tiền hối lộ. Kết quả, số lượng có hạn của giấy phép sẽ

được đưa vào sử dụng một cách tốt nhất có thể: tham nhũng là tăng cường

hiệu quả trong trường hợp mà sản lượng đầu ra được sản xuất nhiều hơn

trong nền kinh tế có tham nhũng so với nền kinh tế không có tham nhũng.

Tuy nhiên, có hai điểm quan trọng cần chú ý. Thứ nhất, nền kinh tế tham

nhũng vẫn tồn tại sự phân bổ không hiệu quả, vì vậy tham nhũng chỉ có thể

50

được xem là nâng cao hiệu quả như là sự lựa chọn thứ hai tốt nhất. Tức là,

với các biến dạng không thể tránh khỏi đã được tạo ra bởi chính phủ, tham

nhũng có thể phát huy hiệu quả bằng cách giúp các đại diện để tránh được

các biến dạng; nhưng sự lựa chọn tốt nhất chính là loại bỏ sự méo mó của

chính phủ. Thứ hai, người ta sẽ phải hỏi tại sao các “bánh xe” cần được bôi

trơn ở vòng đầu tiên, và câu hỏi đó dẫn chúng ta đến kịch bản thứ hai.

Giả sử rằng mục đích của chính phủ là để trục lợi từ nền kinh tế. Một chính

phủ như vậy sẽ bán số giấy phép () cho khu vực tư nhân với mức giá p()

và thu được khoản tiền là p(). Tuy nhiên, để trục lợi thì thu nhập phải

được tạo ra thông qua sự khan hiếm giả tạo. Cách làm như vậy là để tạo ra

một hệ thống cấp phép không hiệu quả với số lượng giới hạn các giấy phép

so với khả năng cung cấp. Như trước đây, những giấy phép này sẽ được

nắm giữ bởi các doanh nhân tài năng, nhưng rõ ràng là số lượng giấy phép

nhằm tối đa hóa lượng tiền tham nhũng thì được cấp dưới mức phân bổ

hiệu quả (H) vì nếu chính phủ đã cấp giấy phép ở mức hiệu quả H thì

không có ai sẽ sẵn sàng trả tiền cho họ. Nói cách khác, các nhà chính trị cố

ý tạo ra các méo mó trong việc phân bổ giấy phép với mong muốn duy trì

tình trạng khang hiếm giả tạo để nhằm trục lợi. Và thậm chí nếu tham

nhũng có thể giúp khắc phục những quy định rườm rà trong ngắn hạn, thì

trong dài hạn nó tạo ra động lực để sinh ra nhiều quy định hơn. Như vậy,

tham nhũng tạo ra sự méo mó trong việc phân bổ nguồn lực và dẫn đến sự

thiếu hiệu quả.

Khung phân tích lý thuyết trên cho thấy tác động của tham nhũng đến tăng

trưởng kinh tế vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Để thấy rõ hơn về cơ chế dẫn

suất sự tác động của tham nhũng đến tăng trưởng, luận án sẽ trình bày và

đánh giá các kênh truyền dẫn của tham nhũng thông qua một số các bằng

chứng sẵn có và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây ở phần tiếp theo

sau.

51

3.2.2. Kênh truyền dẫn tác động của tham nhũng đến tăng trưởng

Sức mạnh của thị trường cạnh tranh là phân bổ các nguồn lực kinh tế một

cách có hiệu quả và nó đóng vai trò ý nghĩa quan trọng đối với chính sách

kinh tế. Tuy nhiên, sự không hoàn hảo của thị trường thường dẫn đến kết

quả kém mà chính phủ có thể giảm thiểu bằng cách can thiệp đúng đắn và

có mục tiêu vào tiến trình kinh tế. Các biện pháp can thiệp của chính phủ

bao gồm các quy định về hoạt động kinh doanh để bù đắp hoặc chí ít là

giảm thiểu những tác động của sự không hoàn hảo của thị trường (ví dụ:

thông tin không hoàn hảo và bất đối xứng, các yếu tố ngoại tác tiêu cực,

thiếu hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực,…). Và sự tồn tại của hàng

hóa công đòi hỏi các chính phủ phải tổ chức việc cung ứng chúng. Để đảm

bảo nguồn lực tài chính tài trợ cho các hoạt động thiết thực đó của chính

phủ, sau này chính phủ đã áp đặt một hệ thống thuế. Trong bối cảnh này,

sự xuất hiện của tham nhũng là khả thi bởi vì các đại diện có thể che giấu

hành động tham nhũng của mình, và bởi vì chính phủ sẽ phải tốn kém quá

nhiều chi phí để kiểm soát các hoạt động của họ. Tuy nhiên, chính phủ

cũng có thể kiểm soát tình trạng tham nhũng một cách đáng kể thông qua

việc thiết kế một cấu trúc thể chế gắn với chất lượng quản lý trong khu vực

công, đặc biệt thể chế gắn với quyền tự do ngôn luận, tự do báo giới và

trách nhiệm giải trình. Điều này giải thích tại sao một số nước dù có quy

mô khu vực công lớn nhưng vẫn được xếp vào nhóm tham nhũng ít nhất

(ví dụ như hầu như tất cả các nước Scandinavian), nhờ vào chất lượng quản

trị khu vực công vượt trội của họ. Chính sách chống tham nhũng có hiệu

quả cần phải cố gắng để đảm bảo một thể chế công minh bạch và trách

nhiệm, chứ không phải là tập trung vào mức độ tham gia của chính phủ.

Tóm tắt sau về các kênh truyền dẫn qua đó tham nhũng có thể ảnh hưởng

đến hiệu quả kinh tế dựa trên các cuộc khảo sát và các nghiên cứu trước

đây. Các tài liệu này bao gồm cả mối quan hệ nhân quả được tranh luận

52

gay gắt dựa trên các mô hình lý thuyết chính thức cũng như các phỏng

đoán của các chuyên gia với minh chứng ít thuyết phục hơn.

Đầu tư tư nhân

Khi đầu tư doanh nghiệp tư nhân là đối tượng mà các quy định luật pháp

hướng tới, tham nhũng dưới hình thức hối lộ để xử lý các yêu cầu thích

hợp sẽ làm tăng chi phí đầu tư (Bardhan, 1996). Điều này sẽ làm giảm lợi

nhuận của nhà đầu tư và do đó khối lượng tổng thể của đầu tư tư nhân cũng

sẽ giảm. Ngoài ra, nó có thể dẫn đến sự chuyển hướng đầu tư vào những dự

án kém hiệu quả (hoặc các công ty di chuyển sang khu vực phi chính thức)

để tránh phải trả tiền hối lộ, bao gồm việc phân bổ tối ưu các nguồn lực.

Trong cả hai trường hợp, mức sản lượng và tỷ lệ tăng trưởng sẽ bị giảm.

Ngoài các khoản hối lộ trực tiếp, tham nhũng thường cũng đòi hỏi chi phí

bổ sung về sự chậm trễ và các thủ tục cần thiết theo quy định chỉ để làm

tăng mức độ đút lót. Hậu quả của việc gia tăng chi phí giao dịch có ảnh

hưởng tiêu cực tương tự về đầu tư giống như hối lộ trực tiếp.

Ảnh hưởng của tham nhũng lên đầu tư là một trong những kênh truyền dẫn

được khảo sát thường xuyên nhất. Các nghiên cứu thực nghiệm này bao

gồm Mauro (1995), Dreher & Herzfeld (2005), Pellegrini & Gerlagh

(2004). Phần lớn các nghiên cứu tìm thấy một tác động tiêu cực đáng kể về

mặt thống kê của tham nhũng lên đầu tư, mặc dù kết quả định lượng có thể

khác nhau đáng kể. Một nghiên cứu của Campos & ctg (1999) cho thấy

quy mô của ảnh hưởng này cũng phụ thuộc vào khả năng dự báo của tham

nhũng, tức là có tham nhũng là tập trung hay phi tập trung.

Bên cạnh đó, tác động của tham nhũng lên dòng vốn FDI đã được nghiên

cứu rộng rãi, bởi vì trong thực tế đầu tư này có xu hướng chịu sự giám sát

của chính phủ mạnh hơn so với đầu tư trong nước, do đó làm tăng khả

năng hoạt động tham nhũng. Công trình của Ngân hàng Thế giới trong

53

trường hợp ở Nga về dịch vụ hải quan của nó cung cấp một minh họa thú

vị về vấn đề này.

Chính việc giảm lợi nhuận, tham nhũng có xu hướng làm giảm lượng vốn

FDI. Dòng vốn này sẽ ở mức bằng không nếu các nhà đầu tư nước ngoài

muốn tránh hoàn toàn các quốc gia tham nhũng (Javorcik & Wei, 2009).

Tham nhũng tác động lên FDI thường được chú ý đặc biệt vì FDI có thể

đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ: nhà đầu tư

nước ngoài thường mang theo công nghệ tiên tiến và kiến thức quản lý, qua

đó thúc đẩy sự phổ biến của công nghệ và do đó nâng cao tỷ lệ tiến bộ kỹ

thuật và tốc độ tăng trưởng sản lượng ở các nước tiếp nhận (UNCTAD,

2011). Quá trình này bị cản trở khi mà tham nhũng làm giảm dòng vốn

FDI. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, người ta cũng đã chứng minh rằng FDI

có thể là nguyên nhân chính của tham nhũng, đặc biệt là ở các nước nghèo

nhưng lại giàu tài nguyên phong phú, khi các nhà đầu tư quốc tế cố gắng để

đạt được quyền tiếp cận và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên

(khoáng sản, rừng, đất nông nghiệp) bằng cách chi trả các khoản hối lộ cho

các quan chức chính phủ, những người đang kiểm soát quyền tiếp cận này

(Leite & Weidmann, 1999). Trường hợp tham nhũng như vậy là thành

công trong việc phá vỡ những rào cản của chính phủ được thiết lập để bảo

vệ môi trường, nó có thể dẫn đến những tác động trái ngược nhau về việc

thúc đẩy GDP của đất nước, nhưng làm giảm phúc lợi tổng thể của xã hội

vì đã làm tổn hại đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Một số nghiên cứu thực nghiệm phân biệt tác động tiêu cực của tham

nhũng đối với FDI gồm có Smarzynska & Wei (2000), Javorcik & Wei

(2009), và Voyer & Beamish (2004). Tuy nhiên, trong một cuộc khảo sát

đánh giá các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, Al-Sadig (2009) cho rằng

các kết quả này có thể bị bắt bẻ về nền tảng phương pháp luận, và do đó

không thuyết phục. Ông tóm tắt kết quả thực nghiệm của mình như sau:

54

"Các hồi quy dữ liệu chéo phù hợp với lập luận rằng tham nhũng gây cản

trở các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, khi chúng tôi chuyển qua các

phương pháp đối với dữ liệu bảng, các tác động tiêu cực của tham nhũng

biến mất ngay khi chúng tôi kiểm soát chất lượng thể chế của nước chủ

nhà". Đây là một dấu hiệu của sự tương quan chặt chẽ giữa tác động của

tham nhũng và khuôn khổ thể chế cho nền kinh tế hoạt động. Những phát

hiện này ủng hộ nhiều hơn việc cho ra các chính sách tập trung vào chất

lượng và tính minh bạch của thể chế như một phương tiện để chống tham

nhũng hiệu quả.

Cạnh tranh và độ mở thương mại

Trong nhiều trường hợp tham nhũng có thể làm tổn hại môi trường cạnh

tranh hiệu quả, chẳng hạn việc làm suy yếu các quy định và việc thực thi

chống độc quyền nhằm khắc phục những khiếm khuyết của thị trường,

hoặc bằng cách tạo ra rào cản cho doanh nghiệp mới tham gia vào thị

trường, hoặc các hạn chế khác về cạnh tranh để bảo vệ đặc quyền của các

công ty đã được thành lập (OECD, 2010). Điều này gây ra các trở ngại bởi

vì cạnh tranh hiệu quả đã được công nhận là hệ điều hành quyết định của

tăng năng suất và đổi mới (Aghion & ctg, 2002; Nickell, 1996). Nếu không

có sự thôi thúc của cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ có ít động lực để tăng

hiệu quả và đổi mới. Chính việc phá hoại cạnh tranh thông qua việc hối lộ

hoặc sự bảo kê, công ty có khuynh hướng nỗ lực để trục lợi hơn là hướng

tới cạnh tranh cải tiến chất lượng đầu ra nhằm đáp ứng nhu cầu của khách

hàng. Tham nhũng cũng có thể trực tiếp gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh

khi chính phủ là người mua hàng, bằng cách loại trừ đối thủ cạnh tranh

tiềm năng hoặc tạo điều kiện cho các nhà thầu để tránh cạnh tranh bằng

cách gian lận thầu trong quy trình mua sắm công (OECD, 2010b).

Các hiệu ứng xói mòn của tham nhũng đối với cạnh tranh hiệu quả là quá

rõ ràng, Emerson (2006) đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm cho thấy tham

55

nhũng thực sự làm giảm cạnh tranh. Do sự phức tạp của việc đo lường cạnh

tranh, rất khó để ước tính thiệt hại về sản lượng hoặc tăng trưởng thông qua

kênh truyền dẫn này với độ chính xác (Ahn, 2002). Tuy nhiên, những tác

động tiêu cực của tham nhũng đối với sản lượng thông qua cơ chế truyền

dẫn này đã được thực hiện (cùng với các hiệu ứng khác) trong các phương

trình tổng hợp để đánh giá sự tác động của tham nhũng đối với sản lượng.

Nguyên nhân là do thiếu cạnh tranh trong việc tạo ra lợi nhuận và thường

các quyết định của chính quyền sẽ xác định doanh nghiệp nào được hưởng

lợi thế, chính điều này làm tăng phạm vi cho hoạt động tham nhũng (Ades

& Di Tella, 1999). Ngược lại, trong một thị trường cạnh tranh, các doanh

nghiệp chỉ có thể thành công bằng cách làm hài lòng khách hàng, vì vậy

quyết định chính quyền là không có liên quan. Điều này phù hợp với quan

sát rằng tham nhũng có thể ít đi ở các nền kinh tế mở hơn và cho phép cạnh

tranh nước ngoài.

Các mối quan hệ cạnh tranh và tham nhũng có liên quan chặt chẽ với các

tác động của tham nhũng đối với độ mở của nền kinh tế thương mại và đầu

tư. Bởi vì độ mở nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phổ biến của

các đối thủ cạnh tranh có hiệu quả. Một số nghiên cứu thực nghiệm cho

thấy có một mối quan hệ nghịch giữa độ mở của nền kinh tế và mức độ

cảm nhận tham nhũng. Hầu hết các nghiên cứu đều giả định mối quan hệ

nhân quả đi từ những rào cản hành chính nhằm giảm bớt sự cởi mở (bằng

cách quy định các khoản đút lót và gia tăng quyền lực của giới chức) tới

mức cao hơn của tham nhũng, phù hợp kết quả nghiên cứu của (Krueger,

1974). Krueger (1974) minh họa các hoạt động tìm kiếm đặc lợi tạo ra

thông qua hạn ngạch, rõ ràng bao gồm cả tham nhũng. Beck & ctg (1991)

tìm thấy Luật thực hành tham nhũng ngoại quốc năm 1977 được ban hành

tại Hoa Kỳ, trong đó cấm các công ty Mỹ tham gia vào tham nhũng, hạn

chế khả năng cạnh tranh với các công ty từ các nước khác. Tuy nhiên, nó

56

cũng có thể là các chính trị gia và quan chức cố ý tạo ra các rào cản thương

mại nhằm tăng các khoản đút lót, hàm ý tồn tại mối quan hệ nhân quả

ngược. Trong tất cả các trường hợp này, chất lượng quản trị khu vực công

có thể được mong đợi sẽ dung hòa thế cân bằng của mối quan hệ tham

nhũng và độ mở bất kể mối quan hệ này tồn tại như thế nào (Soudis, 2009).

Theo kết quả của các nghiên cứu này cho thấy, chính sách chống tham

nhũng phải dựa vào việc tăng cường chất lượng và trách nhiệm giải trình

của thể chế công.

Vốn con người

Tham nhũng làm biến dạng đầu tư vào vốn con người thông qua bốn cơ

chế. Đầu tiên, tham nhũng làm suy yếu quản lý thuế và có thể dẫn đến hành

vi trốn thuế và miễn giảm thuế không đúng đối tượng. Từ đó, doanh thu

thuế thấp hơn và giảm bớt các nguồn lực sẵn có để tài trợ cho việc cung

cấp các dịch vụ công cộng, bao gồm giáo dục và y tế (Mauro, 1997;

Johnson & ctg, 1999; Gupta & ctg, 2002). Thứ hai, tham nhũng thêm vào

các chi phí điều hành của chính phủ, và do đó làm giảm các nguồn lực sẵn

có cho các mục tiêu khác trong đó có liên quan đến nguồn nhân lực. Thứ

ba, tham nhũng ảnh hưởng đến các thành phần của chi tiêu chính phủ

(Mauro, 1997, 1998). Quan chức tham nhũng có nhiều khả năng lựa chọn

để thực hiện các loại chi tiêu của chính phủ cho phép họ trục lợi (nhận hối

lộ) không bị phát hiện. Kết quả thực nghiệm của Mauro (1998) và Gupta &

ctg (2000) đều cho thấy tham nhũng ảnh hưởng bất lợi đến việc cung cấp

các dịch vụ giáo dục và y tế. Cuối cùng, tham nhũng có thể làm giảm tỷ lệ

chi thường xuyên dành cho các hoạt động và bảo trì (Tanzi & Davoodi,

1998). Hơn nữa, để đổi lấy tiền hối lộ, một hệ thống tham nhũng đang có

xu hướng tăng thông qua các hợp đồng mua sắm công có chất lượng thấp

hơn (Mauro, 1997). Điều này có thể làm giảm chất lượng của các dịch vụ

57

giáo dục và y tế và ảnh hưởng đến khả năng của nhà nước để nâng cao

trình độ học vấn và các tiêu chuẩn sức khỏe tổng thể.

Chi tiêu chính phủ

Các tác động tiềm năng của tham nhũng đến chi tiêu chính phủ được đo

bằng tỷ lệ chi tiêu công trên GDP gồm hai mặt. Một mặt, tham nhũng có

thể khuyến khích tăng trưởng và phân bổ hiệu quả các nguồn lực của chính

phủ như các quan chức tham nhũng tìm cách tối đa hóa tiềm năng trục lợi

của họ (Montinola & Jackman, 2002). Trong bối cảnh đầu tư công, một số

bằng chứng thực nghiệm đã được tìm thấy để ủng hộ quan điểm rằng tham

nhũng tăng đầu tư công (Haque & Kneller, 2014; Tanzi & Davoodi, 1998).

Mặt khác, các quan chức tham nhũng có thể mất một lộ trình thay thế và tối

đa hóa thu nhập từ tham nhũng của họ bằng cách hạn chế số lượng các

khoản chi tiêu công. Hoặc bằng cách báo cáo thấp công quỹ có sẵn để tiêu

thụ hoặc bằng cách chuyển hướng vào quỹ tư nhân (thường bí mật), và do

đó tham nhũng có thể giảm quy mô chính phủ. Elliot (1997) cung cấp một

số bằng chứng sơ bộ về vấn đề này, trong đó bà cho biết kích thước của

ngân sách nhà nước so với GDP giảm với mức độ tham nhũng. Hơn nữa,

tham nhũng đã được tìm thấy để làm giảm nguồn thu ngân sách (Johnson

& ctg, 1998).

Các nghiên cứu khác của Mauro (1998) và Gupta & ctg (2000) tìm thấy

rằng tham nhũng ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục

và y tế, trong khi tăng tỷ lệ chi tiêu quân sự. Hiệu ứng ròng của tất cả các

kênh truyền dẫn này là để gây một hiệu suất phụ tối ưu của khu vực công

cả về nguồn thu và chi tiêu. Điều này không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến

hiệu quả tổng thể của nền kinh tế, mà còn có thể tác động vào nhận thức

của người dân về hiệu quả của chính phủ và sự sẵn lòng của họ để hợp tác,

làm cho nó khó khăn hơn cho chính phủ thực hiện chức năng điều tiết nền

kinh tế và cung cấp hàng hóa công một cách phù hợp.

58

Tham nhũng

Các kênh truyền dẫn

(tham nhũng tác động lên tăng trưởng)

Đầu tư

Chi tiêu chính phủ

Cạnh tranh & độ mở

Vốn con người

tư nhân

 Sức khỏe

 Chi phí đầu tư  Chi phí sản

 Thành phần chi tiêu  Thành phần

nguồn nhân lực

 Suy yếu các quy định và độc quyền

xuất

 Trình độ dân

 Rào cản

 Chuyển hướng

đầu tư  ổn định tài

trí

thương mại

đầu tư

khóa

 Phát triển kỹ

 Dòng vốn FDI

năng

Tăng trưởng kinh tế

Hình 3.1: Các kênh truyền dẫn của tham nhũng đến tăng trưởng

Nguồn: tác giả tổng hợp

59

3.3. Các nghiên cứu thực nghiệm

Mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế là gì? Và mối quan hệ

này có thể tiết lộ liệu rằng tham nhũng nâng cao hiệu quả hay không?

Nhiều học giả đã cố gắng trả lời những câu hỏi này bằng cách tìm kiếm

một mối quan hệ từ các dữ liệu về tăng trưởng kinh tế và chỉ số nhận thức

tham nhũng giữa các quốc gia xuất phát từ các cuộc khảo sát của các nhà

phân tích rủi ro, các doanh nhân và công dân ở các nước khác nhau.

Theo tìm hiểu của tác giả, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về mối

quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng tập trung vào việc tìm kiếm bằng

chứng về sự tác động của mức độ tham nhũng tổng hợp đến thu nhập bình

quân hoặc tốc độ tăng trưởng nhưng không phân biệt theo loại tham nhũng

hay các kênh truyền dẫn khác nhau. Nhìn chung, kết quả thực nghiệm của

các nghiên cứu này vẫn còn nhiều tranh cãi theo hai hướng của khung lý

thuyết phân tích về tác động của tham nhũng lên tăng trưởng. Do đó, luận

án tiến hành tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây theo hai

hướng đó, bao gồm tác động tiêu cực và tích cực của tham nhũng.

3.3.1. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tiêu cực của tham nhũng

Một số nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho thấy dù không chắc chắn

nhưng nhìn chung tham nhũng làm giảm tăng trưởng. Nghĩa là các nghiên

cứu thực nghiệm ủng hộ nhiều hơn cho giả thuyết “tham nhũng gây cản trở

cho tăng trưởng” (Grabbing hand). Trong phần này, luận án sẽ tổng hợp

các nghiên cứu thực nghiệm cho giả thuyết tác động tiêu cực của tham

nhũng như sau:

Từ bằng chứng vi mô

Vào giữa những năm 1980, nhà xã hội học De Soto (1990) đã thực hiện

một thí nghiệm xã hội rất thú vị ở Peru. Ông nhận thấy nhiều hoạt động

kinh tế và sự tích lũy tài sản quá nhiều đã diễn ra ngoài nền kinh tế chính

60

thức và ông muốn tìm hiểu tại sao. Để thực hiện điều này, ông yêu cầu các

nhóm của các nhà nghiên cứu đi khảo sát thực tế và thực hiện một nhiệm

vụ đơn giản là: để có được các loại giấy phép và sự phê chuẩn cần thiết về

mặt pháp lý để bắt đầu một nhà máy may trong một thị trấn nghèo Lima và

ghi lại thời gian và những nỗ lực được yêu cầu cho nó. Kết quả của thực

nghiệm là rất đáng quan tâm. Nó mất khoảng 300 ngày của 6 giờ mỗi ngày

hoặc gặp những tình huống khó khăn gì cũng sẽ tương ứng với 32 lần

lương tối thiểu hàng tháng để hoàn thành nhiệm vụ. Và đó là lý do tại sao

hầu hết các doanh nhân muốn ở lại khu vực phi chính thức và cũng là lý do

tại sao những người cố gắng để tránh tệ quan liêu bằng việc chi trả các

khoản hối lộ và xem nó như là “tốc độ của đồng tiền” (speed money).

Một bằng chứng quan trọng khác cho rằng tham nhũng gây trở ngại cho sự

phát triển xuất phát từ các cuộc điều tra về chi tiêu gần đây được thực hiện

bởi Ngân hàng Thế giới. Mục đích của các nghiên cứu này là để xác định

tỷ lệ số tiền của quỹ dành cho các chương trình chi tiêu cụ thể thực sự được

dùng đúng nơi dự định. Một trong những nghiên cứu đầu tiên là được thực

hiện ở Uganda vào đầu những năm 1990 của Reinikka & Svensson (2004).

Vào thời điểm đó, Uganda mới vừa thoát khỏi một thời gian dài của chế độ

độc tài và chiến tranh nên hệ thống trường tiểu học bị sụp đổ. Các trường

học đã được tài trợ một phần thông qua trợ cấp định suất bằng cách phân

bổ một số tiền cố định cho mỗi học sinh theo học. Quy định này giúp dễ

dàng để tính ra số tiền mỗi trường sẽ được nhận. Sau đó, một so sánh giữa

những gì đã được giải ngân từ kho bạc và những gì các trường đã thực sự

nhận được để đo sự lạm dụng công quỹ. Tính toán này cho thấy ít nhất

khoảng 12% số tiền dự định của các quỹ không bao giờ được nhận bởi các

trường tiểu học. Rõ ràng đã làm tổn hại cho bậc giáo dục tiểu học do tham

nhũng trong các cơ quan hành chính huyện, cơ quan chịu trách nhiệm về

việc phân bổ số tiền cho các trường học sau khi tiền được giải ngân từ kho

61

bạc. Nghiên cứu tiếp theo từ các nước khác trong khu vực đã tiết lộ nhỏ

hơn một chút, nhưng vẫn còn rất lớn sự rò rỉ của các quỹ. Do tầm quan

trọng của giáo dục tiểu học trong việc bồi dưỡng phát triển, loại tham

nhũng này rõ ràng là không hiệu quả.

Olken (2006) đã thực hiện thêm một bước nữa trong nghiên cứu của ông về

một chương trình chống đói nghèo của Indonesia nhằm phân phối gạo với

giá trợ cấp cho hộ gia đình nghèo. Ông không chỉ ghi nhận rằng ít nhất

18% số gạo biến mất (được dự đoán là bị đánh cắp bởi các trưởng thôn

tham nhũng), mà ông còn cho rằng tham nhũng đã biến một chương trình

có thể cải thiện phúc lợi xã hội nhưng trên thực tế nó lại làm giảm phúc lợi

xã hội với các ước tính hợp lý của chi phí cận biên của công quỹ.

Đến bằng chứng vĩ mô

Venard (2013) phân tích mối quan hệ giữa chất lượng thể chế, mức độ

tham nhũng và sự phát triển kinh tế, bằng cách sử dụng dữ liệu chéo theo

các quốc gia ở 120 nước bao gồm cả quốc gia có chất lượng thể chế cao và

thấp, dữ liệu được thu thập tại 4 năm 1998, 2001, 2004 và 2007 và phương

pháp ước lượng mô hình cấu trúc PLS (Partial least squares). Kết quả thực

nghiệm cho thấy cả tham nhũng và chất lượng thể chế có tác động tiêu cực

đến phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy kết quả thú vị

về sự tương tác giữa tham nhũng và chất lượng thể chế đến tăng trưởng.

Việc cải thiện chất lượng thể chế và giảm tham nhũng có hiệu quả hơn cho

sự phát triển kinh tế ở các nước có chất lượng thể chế thấp so với các nước

có chất lượng thể chế cao.

Saha & Gounder (2013) đã thu thập số liệu của 100 quốc gia phát triển và

đang phát triển để khảo sát sự tác động của tham nhũng lên tăng trưởng

kinh tế bằng các phương pháp hồi quy phức tạp. Nghiên cứu kết luận tham

nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Tác giả cũng đề nghị việc thiết

62

lập một nền kinh tế tự do, chính sách thể chế phù hợp sẽ giúp làm giảm

tham nhũng.

Tarek & Ahmed (2013) khảo sát sự tác động của tham nhũng đến tăng

trưởng của 30 quốc gia đang phát triển từ năm 1998-2011. Kết quả thực

nghiệm cho thấy tham nhũng tác động bất lợi đến hoạt động kinh tế và mức

độ tham nhũng sẽ nghiêm trọng hơn ở các nước có mức thu nhập thấp, kinh

tế ít hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tham nhũng trở nên

nghiêm trọng hơn ở các nước đang phát triển bởi một hệ thống luật pháp

yếu kém và mức thu nhập thấp của giới công chức.

Nghiên cứu của Hodge & ctg (2011) nhằm khám phá mối quan hệ giữa

tham nhũng và tăng trưởng và xác định các yếu tố tác động đến tham

nhũng. Để giải quyết 2 mục tiêu trên các tác giả đã tiến hành xây dựng mô

hình và nghiên cứu thực nghiệm với dữ liệu tại 81 quốc gia từ khoảng thời

gian 1984-2005 và sử dụng phương pháp bình phương bé nhất ba giai đoạn

(3SLS). Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng tham nhũng cản trở sự tăng

trưởng bằng cách giảm đầu tư vào vốn vật chất, vốn con người, và gia tăng

sự bất ổn chính trị.

Ugur & Dasgupta (2011) cũng đã tổng hợp 1002 nghiên cứu trong đó có

115 nghiên cứu rất chi tiết về vấn đề này. Trong nghiên cứu này, tác giả đã

tổng hợp các minh chứng thống kê nằm trong 53 kết quả thực nghiệm với

596 ước lượng. Sau đó, dựa vào các bằng chứng này, tác giả đưa ra các kết

luận tổng hợp về tác động của tham nhũng lên thu nhập bình quân từ các

nhóm quốc gia khác nhau. Các phương pháp ước lượng phân vị đã được

thực hiện riêng cho các quốc gia thu nhập thấp và các quốc gia thu nhập

cao. Kết quả cho thấy tham nhũng tác động tiêu cực lên tăng trưởng cho cả

hai nhóm. Tại quốc gia có thu nhập thấp, kết quả ước lượng cho thấy trung

bình khoảng 0.59 điểm phân tram trong thu nhập bị giảm khi chỉ số tham

nhũng tăng lên một đơn vị.

63

Một trong những nguyên nhân được nhắc đến liên tục trong các nghiên cứu

thực nghiệm mà làm cho kết quả thực nghiệm khác nhau đó là chất lượng

thể chế. Tác động của tham nhũng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường thể

chế ở các quốc gia. Aidt & ctg (2008) đã xây dựng mô hình sự phụ thuộc

lẫn nhau giữa tham nhũng và thể chế một cách rõ ràng và các tác giả đã

tiến hành thực nghiệm cho mô hình này. Mô hình của họ đã thiết lập một

hiệu ứng ngưỡng phân biệt giữa thể chế chất lượng cao và thể chế có chất

lượng thấp. Sau đó, họ đã kiểm định mô hình lý thuyết sự tác động của

tham nhũng lên tăng trưởng cho hiệu ứng ngưỡng. Kết quả thực nghiệm

cho ra hai kịch bản về thể chế: tại các quốc gia có chất lượng thể chế chính

trị cao, tham nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế; trong khi đó,

tại các quốc gia có chất lượng thể chế kém, tác động của tham nhũng lên

tăng trưởng là không có ý nghĩa thống kê.

Campos & ctg (2010) đã khảo sát để cho ra một nghiên cứu tổng hợp từ

460 các ước lượng thực nghiệm về tác động của tham nhũng lên tăng

trưởng từ 41 bài nghiên cứu khác nhau. Bài tổng hợp này cho ra kết quả

như sau: có khoảng 32% các kết quả ước lượng cho thấy tham nhũng tác

động tiêu cực và có ý nghĩa lên tăng trưởng, 62% là không có ý nghĩa

thống kê và chỉ 6% các ước lượng cho thấy tham nhũng tác động tích cực

và có ý nghĩa lên tăng trưởng. Các tác giả này đưa ra kết luận: Các bằng

chứng vĩ mô ở cấp quốc gia cho thấy tham nhũng không là chất bôi trơn để

thúc đẩy tăng trưởng như mong đợi; Các biến độ mở thương mại và chất

lượng thể chế là các biến kiểm soát quan trọng trong các mô hình thực

nghiệm. Các tác giả cũng nhấn mạnh rằng các nghiên cứu này chưa đưa

được chỉ số chất lượng thể chế vào mô hình, thay vào đó, các nghiên cứu

này chỉ sử dụng các chỉ số quản trị khu vực công làm biến đại diện cho

chất lượng thể chế. Đây chính là hạn chế đáng kể của các nghiên cứu trước

đây.

64

Nghiên cứu của Mo (2001) đã xây dựng mô hình lý thuyết về tác động của

tham nhũng lên tăng trưởng qua các kênh truyền dẫn. Sau đó, Ông thu thập

dữ liệu của 54 quốc gia và tính trung bình 5 năm cho giai đoạn 1960 đến

1995 và dữ liệu hàng năm của 49 quốc gia từ 1996 đến 2000. Bằng phương

pháp ước lượng OLS có trọng số và phương pháp 2SLS để kiểm tra tính

vững của mô hình, kết quả thực nghiệm cho thấy tham nhũng tác động tiêu

cực đến kênh truyền dẫn vốn vật chất và vốn con người nhưng lại có tác

động tích cực lên kênh truyền dẫn ổn định chính trị. Nghiên cứu kết luận

chung là tham nhũng tác động tiêu cực lên tăng trưởng với mức tác động là

cứ tăng lên 1% trong mức độ tham nhũng sẽ làm giảm 0,72% tốc độ tăng

trưởng.

Mauro (1995) cho thấy tham nhũng tác động tiêu cực lên thu nhập bình

quân của 58 quốc gia trong giai đoạn 1960 – 1985. Nghiên cứu này cho

thấy nếu các quốc gia cải thiện được một đơn vị của chỉ số tham nhũng sẽ

làm tăng 0.8 điểm phần trăm của tốc độ tăng hàng năm của thu nhập bình

quân. Kết quả này cũng đã được khẳng định với nhiều bằng chứng khoa

học của các nghiên cứu sau này như là Knack & Keefer (1995), Mauro

(1997), Leite & Weidmann (1999), Tanzi & Davoodi (1998) và Méon &

Sekkat (2005).

3.3.2. Bằng chứng thực nghiệm về tác động tích cực của tham nhũng

Ngược lại, hiện có rất ít bằng chứng thực nghiệm để trả lời câu hỏi về quan

điểm liệu tham nhũng tăng cường hiệu quả hay không? Điều này là bởi vì

“giả thuyết chất bôi trơn” không hàm ý rằng tham nhũng là có lợi ở khắp

mọi nơi. Giả thuyết này chỉ giả định rằng tham nhũng có thể đóng vai trò

như một thiết bị trợ giúp (Helping hand) trong một số tình huống mà các

khía cạnh khác của chính phủ bị thiếu hoặc chính sách kinh tế được cho là

không hiệu quả. Theo đó, nếu giả thuyết này là đúng, thì mối quan hệ giữa

tham nhũng và tăng trưởng kinh tế phải đi kèm với điều kiện dựa trên cấu

65

trúc thể chế của quốc gia. Hơn nữa, mối quan hệ này là không đồng nhất

với các hiệu ứng tích cực cho tăng trưởng tại các mức thấp của tham

nhũng. Điều này là bởi vì không có hệ thống tham nhũng nào được cho là

hoàn toàn có thể giúp các doanh nghiệp tránh được các rào cản. Những

hiểu biết này đã được khám phá trong một số đóng góp gần đây trong các

tài liệu nghiên cứu với nhiều cách kiểm định khác nhau về “giả thuyết chất

bôi trơn” (Grease of wheel) dành cho dữ liệu bảng cấp quốc gia.

Nghiên cứu của Méon & Sekkat (2005) nhằm kiểm định giả thuyết chất bôi

trơn của tham nhũng. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu tất cả quốc gia phát

triển và đang phát triển trong giai đoạn 1970 đến 1998. Biến tham nhũng

được khai thác từ cả hai nguồn của Worldbank và TI. Kết quả cho thấy

hiệu quả biên của tham nhũng đến tăng trưởng là có điều kiện tùy thuộc

vào môi trường thể chế. Cụ thể, tác động biên của tham nhũng đối với tăng

trưởng là dương tại các quốc gia có thể chế chính trị hoặc chính sách thiếu

hiệu quả và tiêu cực. Kết quả này một lần nữa được xác nhận bởi nghiên

cứu về sau của Méon & Weill (2010). Tương tự, Méndez & Sepúlveda

(2006) cho thấy có tồn tại một mức tối đa cho tăng trưởng của tham nhũng.

Cụ thể, tại các cấp độ thấp của tham nhũng, tác dụng có lợi của tham

nhũng lấn át tác động có hại và ngược lại.

Aidt & Dutta (2008) xây dựng mô hình lý thuyết về tác động của tham

nhũng đến tăng trưởng với các cấu trúc thể chế khác nhau. Kết quả cho

thấy tác động của tham nhũng tùy thuộc vào từng chế độ cụ thể và từng

quốc gia được phân chia thành các chế độ tham nhũng khác nhau, dựa trên

điều kiện về chất lượng thể chế của họ. Cụ thể, ở các nước có chất lượng

thể chế tốt, tác động của tham nhũng lên tăng trưởng là tiêu cực, trong khi

ở các nước có chất lượng thể chế kém, thì tác động này là tích cực (hoặc ít

tiêu cực).

66

Heckelman & Powell (2010) nghiên cứu mối quan hệ giữa tham nhũng và

tăng trưởng gắn với môi trường thể chế (dân chủ và tự do kinh tế). Bài

nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 83 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm

1995 – 2005 bằng phương pháp bình phương bé nhất theo trọng số

(Weighted Least Squares). Nghiên cứu tìm thấy những kết quả rất đặc biệt

và mối quan hệ này phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng thể chế của quốc

gia. Cụ thể, tham nhũng được phát hiện là có lợi cho tăng trưởng tại các

quốc gia có nền dân chủ cao. Kết quả này dường như là khá đặc biệt nhưng

nó phù hợp với nghiên cứu của Méon (2005) và Méndez (2006). Ngoài ra,

nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng tham nhũng thúc thúc đẩy tăng

trưởng tại các quốc gia có mức độ tự do kinh tế thấp và tác động tích cực

này sẽ bị giảm khi tự do kinh tế được cải thiện.

Nghiên cứu của Egger & Winner (2005) bằng việc sử dụng dữ liệu của 73

quốc gia phát triển và kém phát triển đã cho thấy tham nhũng là sự kích

thích để thu hút dòng vốn FDI bởi vì tham nhũng giúp doanh nghiệp tránh

được các quy định rờm rà và các hạn chế về quản lý hành chính. Ý tưởng

chung là tham nhũng tạo điều kiện cho các giao dịch có lợi đáng lẽ ra nó

không xảy ra. Khi làm như vậy, nó thúc đẩy sự hiệu quả bằng cách cho

phép các cá nhân trong khu vực tư nhân sửa chữa hoặc loại trừ những thất

bại của chính phủ.

Ngoài ra, một số tác giả khác cũng ca ngợi vai trò của tham nhũng trong

việc giúp các đại diện kinh tế có thể tránh được những hệ lụy từ các chính

sách kém hiệu quả. Lui (1985) đã ứng dụng mô hình xếp hàng trong việc

xin cấp giấy chứng nhận kinh doanh và kết quả cho thấy tham nhũng có thể

sẽ giảm thiểu đến mức thấp nhất giá trị của chi phí thời gian cho việc xếp

hàng. Lý do là khoản hối lộ cho các quan chức có thể tạo ra động lực để

đẩy nhanh tốc độ tiến trình xử lý khi mà hệ thống quản lý hành chính quá

chậm chạp và các quan chức tham nhũng sẽ đưa ra các quyết định nhanh

67

hơn. Nghiên cứu lý thuyết tiên phong của Leff (1964) khám phá mối quan

hệ thú vị giữa tham nhũng và tăng trưởng. Tham nhũng hoạt động giống

như động cơ của tăng trưởng trong điều kiện nền hành chính bị trì hoãn và

các quy định hà khắc của chính phủ. Nhờ đó, tham nhũng thúc đẩy hiệu

quả của nền kinh tế và tác động tích cực đến tăng trưởng. Bayley (1966)

cho rằng tham nhũng có thể khắc phục một bộ máy quan liêu bằng cách cải

thiện chất lượng thể chế và có thể giúp doanh nghiệp tư nhân tránh được

một chính sách công gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh của họ, và qua

đó giúp họ tìm ra các giải pháp tích cực và phù hợp. Điều này có thể cho

phép cải thiện hiệu quả của chính sách công, thậm chí ông cho rằng nó

cũng nằm trong các mục tiêu của chính phủ.

Tóm lại, các nghiên cứu thực nghiệm đã cung cấp một số bằng chứng

khẳng định sự tồn tại của giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng lên tăng

trưởng. Tuy nhiên, hiệu ứng này là không chắc chắn cho tất cả các quốc gia

mà nó chỉ xuất hiện trong một số trường hợp các quốc gia có chất lượng

thể chế kém. Nhưng, theo tìm hiểu của tác giả, những nghiên cứu trước đây

về giả thuyết này phần lớn chỉ dừng lại ở mức phân tích thực trạng, so sánh

và suy luận từ thực trạng tham nhũng và chất lượng thể chế nên chưa cung

cấp nhiều các luận cứ mang tính khoa học hàn lâm. Các nghiên cứu định

lượng dựa trên các mô hình lý thuyết về tác động tích cực của tham nhũng

lên tăng trưởng chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây. Nhưng, tác giả

nhận thấy rằng các nghiên cứu định lượng này vẫn tồn tại một số hạn chế

cần được khắc phục như: việc sử dụng bộ dữ liệu bảng có nhiều giá trị

“missing” của biến tham nhũng sẽ dẫn đến các kết quả ước lượng không

chính xác; sử dụng phương pháp ước lượng dựa trên các giả định truyền

thống của hồi quy tuyến tính cổ điển cho dữ liệu bảng sẽ gặp phải các

thách thức về vấn đề nội sinh trong mô hình hoặc hiện tượng phương sai

thay đổi giữa các đơn vị chéo sẽ dẫn đến kết quả ước lượng có thể bị

68

chệch; và cuối cùng, việc sử dụng bộ dữ liệu bảng chưa có sự đồng nhất

giữa các quốc gia về chất lượng thể chế và mức thu nhập có thể làm cho

kết quả ước lượng chưa cung cấp bằng chứng đủ mạnh cho các nhà hoạch

định chính sách. Từ đó, tác giả cho rằng việc khảo sát lý thuyết chất bôi

trơn của tham nhũng trong bối cảnh các quốc gia chuyển đổi là thật sự có ý

nghĩa về mặt khoa học hàn lâm cũng như ý nghĩa thực tiễn hiện nay.

Bảng 3.1: Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm

Nghiên cứu Kết quả

Phương pháp phân tích

Campos (2010)

1. Tác động tiêu cực Một tổng hợp từ 460 lượng của 41 ước nghiên cứu khác nhau nhằm so sánh các kết quả thực nghiệm và tìm hiểu nguyên nhân của sự khác biệt giữa các kết quả.

Ugur & Dasgupta (2011)

tích

tích

32% các ước lượng cho kết quả tham nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng, 62% mối quan hệ này là không có ý nghĩa thống kê, 6% kết quả tác tham nhũng động tích cực đến tăng trưởng. Kết quả cho thấy tại các quốc gia có thu nhập thấp, chỉ số cảm nhận tham nhũng tăng 0.59 điểm phần trăm sẽ làm giảm 1 đơn vị tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập bình quân.

Mauro (1995)

Tổng hợp kết quả của 115 nghiên cứu, trong đó có 32 nghiên cứu mô hình lý thuyết và thực 84 phân trung nghiệm. Tập phân tác động tham nhũng đến tăng trưởng tại các quốc gia có thu nhập thấp Sử dụng dữ liệu bảng của 58 quốc gia trong giai đoạn 1960 – 1985.

Mo (2001)

Sử dụng dữ liệu bảng cấp quốc gia, nghiên Nghiên cứu này cho thấy nếu các quốc gia cải thiện được một đơn vị của chỉ số tham nhũng sẽ làm tăng 0.8 điểm phần trăm của tốc độ tăng hàng năm của thu nhập bình quân Tham nhũng tăng lên 1% đơn vị làm giảm tốc

69

lượng

độ tăng bình quân của GDP 0.72 điểm phần trăm.

lên Pellegrini & Gerlagh (2004)

Tác động tổng thể của tham nhũng thu nhập bình quân giảm ở mức 0.38 điểm phần trăm.

Aidt (2008)

trường

tác cứu ước động của tham nhũng lên tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng phương pháp OLS có trọng số và 2SLS. Nghiên cứu đánh giá tác động trực tiếp và gián tham tiếp của nhũng lên tăng trưởng thông qua dữ liệu bảng. Các kênh truyền tiếp được dẫn gián phân tích bao gồm đầu tư tài sản cố định, chính sách mở cửa, trình độ học vấn và ổn định chính trị Nghiên cứu kiểm định giả thuyết tác động của tham nhũng lên tăng trưởng trong bối cảnh môi thể chế khác nhau.

Venard (2013)

Kết quả cho thấy hiệu ứng của tham nhũng phụ thuộc vào chất lượng thể chế. Các quốc gia có chất lượng thể chế tốt, tham nhũng tác động tiêu cực nhiều hơn đến tăng trưởng so với các quốc gia có chất lượng thể chế kém. Kết quả thực nghiệm cho thấy cả tham nhũng và chất lượng thể chế có tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế.

Sử dụng dữ liệu chéo theo các quốc gia ở 120 nước bao gồm cả quốc gia có chất lượng thể chế cao và thấp, dữ liệu được thu thập tại 4 năm 1998, 2001, 2004 và 2007. Sử dụng dữ liệu bảng của các quốc gia.

Nghiên cứu kết luận tham nhũng tác động tiêu cực đến tăng trưởng Saha & Gounder (2013), Tarek & Ahmed (2013)

2. Tác động tích cực Méon & Sekkat (2005) Sử dụng dữ liệu tất cả quốc gia phát triển và đang phát triển trong Kết quả cho thấy hiệu quả biên của tham nhũng đến tăng trưởng

70

giai đoạn 1970 đến 1998. Phương pháp ước lượng dành cho dữ liệu bảng.

Aidt & Dutta (2008)

Mô hình hóa lý thuyết tác động tham nhũng đến tăng trưởng.

Heckelman & Powell (2010)

là có điều kiện tùy thuộc vào môi trường thể chế. Cụ thể, tác động biên của tham nhũng đối với tăng trưởng là dương tại các quốc gia có thể chế trị hoặc chính chính sách thiếu hiệu quả và tiêu cực. Các nước có chất lượng thể chế tốt, tác động của tham nhũng lên tăng trưởng là tiêu cực, trong khi ở các nước có chất lượng thể chế kém, thì tác động này là tích cực. Tham nhũng được phát hiện là có lợi cho tăng trưởng tại các quốc gia có nền dân chủ cao.

Egger & Winner (2005)

Sử dụng dữ liệu của 83 quốc gia trong khoảng thời gian từ năm 1995 – 2005 bằng phương pháp bình phương bé trọng số theo nhất (Weighted Least Squares). Sử dụng dữ liệu của 73 quốc gia phát triển và kém phát triển

Tham nhũng là sự kích thích để thu hút dòng vốn FDI bởi vì tham nhũng doanh giúp nghiệp tránh được các quy định rờm rà và các hạn chế về quản lý hành chính

Nguồn: tổng hợp của tác giả

Kết luận chương 3

Chương này đã trình bày khung lý thuyết tác động tham nhũng đến tăng

trưởng dựa vào hàm sản xuất Cobb-Douglas và lý thuyết tăng trưởng nội

sinh của Barro (1990). Khung lý thuyết về tham nhũng và tăng trưởng cho

thấy tham nhũng không hoàn toàn tác động tiêu cực đến tăng trưởng mà

đôi khi mang lại lợi ích đối với tăng trưởng khi mà chất lượng thể chế yếu

71

kém. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cũng đã cho thấy vẫn chưa có

sự đồng thuận về tác động của tham nhũng đến tăng trưởng và kết quả thực

nghiệm của mối quan hệ này phụ thuộc vào phạm vi khảo sát, các biến

kiểm soát và phương pháp ước lượng. Cơ sở lý thuyết này làm nền tảng

cho việc xây dựng mô hình kinh tế lượng và mô hình thực nghiệm cho các

phần sau.

72

CHƯƠNG 4

MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Giới thiệu

Như tác giả đã đề cập, việc xác định các yếu tố tác động đến tham nhũng là

vấn đề quan trọng. Nó giúp cho các nhà hoạch định chính sách lựa chọn

các giải pháp chiến lược trong cuộc chiến chống tham nhũng một cách hiệu

quả và lâu dài. Cho dù tham nhũng có thể tác động tích cực đến tăng

trưởng tại các quốc gia chuyển đổi, tuy nhiên, về khía cạnh đạo đức không

nên dựa vào tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng. Một quốc gia muốn phát

triển vững mạnh cần phải có các quan chức liêm chính, tận tụy và mẫn cán.

Vì vậy, nghiên cứu tổng hợp nền tảng lý thuyết và sử dụng kết quả từ các

nghiên cứu thực nghiệm trước đây của Ata & Arvas (2011), Treisman

(2000), Saha & Gounder (2013) và Kotera (2012) cho việc xây dựng mô

hình thực nghiệm các yếu tố tác động đến tham nhũng tại các nền kinh tế

chuyển đổi.

Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng là không đồng nhất giữa các hệ

thống chính trị khác nhau. Tham nhũng tồn tại ở quốc gia dân chủ hay ở

quốc gia chuyên quyền là vấn đề quan trọng. Tanzi (1998) và Mauro

(1995) cho thấy các quốc gia chuyên quyền tham nhũng nhiều hơn các

quốc gia dân chủ. Trong một hệ thống dân chủ, mọi công dân đều có cơ hội

để bỏ phiếu cho người mà mình thích để trở thành nhà chính trị. Vì vậy, kết

quả là chính phủ đại diện cho số đông công dân. Đó cũng là một xã hội tối

ưu cho người dân muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Khi đó, tham nhũng

được mong đợi gây trở ngại cho tăng trưởng bởi vì hoạt động này gây méo

mó trong việc phân bổ các nguồn lực kinh tế. Hơn nữa, tham nhũng có thể

thay đổi các ưu đãi cho các đại diện kinh tế. Trong trường hợp này, năng

73

suất sẽ bị giảm vì các ưu đãi cho các doanh nghiệp bị dịch chuyển từ khu

vực sản xuất sang các hoạt động tham nhũng.

Điều này hoàn toàn khác biệt ở các quốc gia chuyên chế nơi mà tự do

chính trị và tự do kinh tế bị giới hạn. Trong điều kiện mức độ dân chủ thấp

và tự do kinh tế chưa cao tại các quốc gia chuyển đổi, quyền lực chính trị

và sự chi phối của giới công chức đến các hoạt động kinh tế xã hội còn quá

lớn thì việc người dân dùng tiền làm chất bôi trơn là điều khó tránh khỏi.

Khi đó, chất bôi trơn này có thể kích hoạt sự vận hành của bộ máy chính

quyền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để đánh giá tác động của tham

nhũng đến tăng trưởng ở các nền kinh tế chuyển đổi, nghiên cứu ứng dụng

phương pháp định lượng để ước lượng độ lớn của các hệ số trong mô hình.

Mô hình dùng cho ước lượng này được phát triển từ mô hình lý thuyết về

vai trò của khung thể chế trong mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng

trưởng do De Vaal & Ebben (2011) đề xuất.

4.1. Mô hình thực nghiệm

4.1.1. Các yếu tố tác động đến tham nhũng

Dựa vào lý thuyết nguyên nhân dẫn đến tham nhũng đã được đề cập trong

chương 2 và các mô hình thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây, mô

hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến tham nhũng trong bài nghiên cứu

này được tác giả tổng hợp dựa trên bài nghiên cứu của Treisman (2000),

Saha & Gounder (2013) và Kotera (2012). Tác giả tiến hành phân tích dựa

trên mối quan hệ tuyến tính cổ điển bằng việc sử dụng các biến đại diện

cho nền kinh tế xã hội (thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ

thất nghiệp và tỷ lệ học sinh đầu vào bậc tiểu học), các biến đại diện cho

khung thể chế (nền dân chủ và tự do kinh tế) và nguồn gốc pháp lý (các

quốc gia theo luật Ango-Saxon). Mô hình tuyến tính có dạng:

𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛽2𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛽3𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 +

(4.1) 𝛽4𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛽5𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛽6𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 + 𝛽7𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡

74

Trong đó :

- i và t là chỉ số về quốc gia và thời gian.

- cor là biến phụ thuộc về tham nhũng

ln_gdppc là thu nhập bình quân đầu người ở dạng logarit -

- inflation là tỷ lệ lạm phát

- unemploy là tỷ lệ thất nghiệp

- school là tỷ lệ học sinh đang theo học cấp bậc tiểu học

- ecofree là tự do kinh tế

- demo là tự do dân chủ

- legal là nguồn gốc pháp lý (biến giả)

4.1.2. Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế dưới vai trò

của chất lượng thể chế

Để đánh giá sự tác động của tham nhũng đến tăng trưởng dưới vai trò của

khung thể chế, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu từ mô hình lý thuyết

tăng trưởng nội sinh của Barro (1990). Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của

Barro (1990) giả định tổng lực lượng lao động trong nền kinh tế là cố định,

tổng sản phẩm bình quân đầu người dựa trên đầu tư khu vực tư nhân và chi

tiêu chính phủ:

y =f(g,k)= A kα G1-α

Từ đó, mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên phương trình tuyến

tính dữ liệu bảng. Phương trình thực nghiệm được xây dựng dựa trên bài

nghiên cứu của Heckelman & Powell (2010), Siddiqui & Ahmed (2013) và

Lee & Kim (2009) có dạng:

ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 + 𝛽2𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛽3𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛽4𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 ∗

𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛽5𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 ∗ 𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛽6𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛽7𝑖𝑛𝑣𝑒𝑠𝑡𝑖𝑡 + 𝛽8𝑝𝑜𝑝𝑖𝑡 +

(4.2) 𝛽9𝑡𝑜𝑝𝑖𝑡 + 𝛽10𝐺𝑜𝑣_𝐸𝑥𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡

75

Trong đó:

- i và t là chỉ số về quốc gia và thời gian

- gdppc là thu nhập bình quân đầu người

- cor là chỉ số cảm nhận tham nhũng

- ecofree là tự do kinh tế

- demo là tự do dân chủ

- school là tỷ lệ học sinh đang theo học cấp bậc tiểu học

- invest là tỷ lệ đầu tư so với GDP

- pop là tốc độ gia tăng dân số

- top là độ mở thương mại

- Gov_Ex là tỷ lệ chi tiêu dùng chính phủ

4.2. Phương pháp ước lượng

Để đạt được các mục tiêu của luận án, nghiên cứu sử dụng các phương

pháp ước lượng dành cho dữ liệu bảng. Phương trình tuyến tính tổng quát

có dạng:

(4.3) 𝑦 = 𝑋𝛽 + 𝑍𝛿 + 𝑢

Trong mô hình này, 𝑦 là n vector các biến ngẫu nhiên, X và Z là ma trận

các biến giải thích với các bậc 𝑛 × 𝑘 và 𝑛 × 𝑞, β là k vector của các tham

số, δ là q vector các biến ngẫu nhiên không quan sát được với trung bình

bằng 0 và phương sai là D, và 𝑢 là n vector các sai số ngẫu nhiên với trung

bình bằng 0 và phương sai là R, 𝑢 không tương quan với δ. Vì vậy,

2𝐼

𝑣𝑎𝑟(𝑦) = 𝑉 = 𝑍𝐷𝑍′ + 𝑅. Để ước lượng, chúng ta giả định δ và 𝑢 có phân

phối chuẩn và 𝑅 = 𝜎𝑢

4.2.1. Mô hình các thành phần sai số cố định (FEM)

Mô hình các thành phần sai số được viết lại:

𝑦 = 𝑋𝛽 + 𝑍1𝛿1 + ⋯ + 𝑍𝑐𝛿𝑐 + 𝑢 (4.4)

76

Trong đó, Zi là ma trận cấp 𝑛 × 𝑞𝑖 của các biến giả cho mỗi nhóm qi hoặc

mức độ của yếu tố i trong mẫu, 𝛿𝑖 là vector qi của các biến ngẫu nhiên với 2𝐼. 𝛿𝑖 và 𝛿𝑗 cũng được giả định là không trung bình bằng 0 và 𝑣𝑎𝑟(𝛿𝑖) = 𝜎𝑖

tương quan 𝑖 ≠ 𝑗. Để ước lượng phương trình này, Harville (1977) đề xuất

phương pháp maximum likelihood với:

𝑐 2 2𝐼 + ∑ 𝜎𝑖 𝑖=1

𝑉 = 𝜎𝑢 𝑍𝑖𝑍𝑖

Đề tài sử dụng phương pháp FEM để xác định độ lớn hệ số hồi quy trong

mô hình. Phương pháp FEM có thể giúp khắc phục sự thiên chệch do sai số

trong đo lường các biến, sự bỏ sót biến hoặc các yếu tố riêng có của từng

quốc gia cố định theo thời gian mà chưa đưa vào được trong mô hình

(Wooldridge, 2012).

4.2.2. Mô hình các thành phần sai số ngẫu nhiên (REM)

Ngược lại với mô hình FEM, mô hình REM được sử dụng khi chúng ta

quan tâm đến sự khác biệt của mỗi quốc gia ảnh hướng đến mô hình chung.

Mô hình REM còn được hiểu là chúng ta đang giả định các đặc điểm của

từng quốc gia là ngẫu nhiên và không có tương quan với biến độc lập trong

mô hình.

Kiểm định lựa chọn mô hình phù hợp

Sau đó, nghiên cứu cũng sử dụng kiểm định Hausman để xem xét sự phù

hợp cho việc lựa chọn giữa mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình

hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) với giả thuyết H0: cov(Xit,Ci)=0 (nghĩa là

không tồn tại hiệu ứng cố định giữa các đơn vị chéo).

Nghĩa là nếu giả thuyết H0 bị bác bỏ, chúng ta nên lựa chọn mô hình FEM.

Kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan

Moulton (1986, 1990) cho rằng dữ liệu bảng cũng đặt ra nhiều vấn đề trong

quá trình ước lượng. Vì dữ liệu bảng được quan sát ở nhiều đơn vị chéo

77

khác nhau nên có thể dẫn đến hiện tượng phương sai thay đổi giữa các đơn

vị và vấn đề tương quan trong các chuỗi quan sát. Do đó, luận án sẽ sử

dụng các kiểm định để phát chẩn đoán cho mô hình ước lượng với giả

thuyết : không bị phương sai thay đổi và không bị tự tương quan. Nếu giả

thuyết trên bị bác bỏ, luận án sẽ sử dụng phương pháp ước lượng GLS ở

bước tiếp theo.

4.2.3. Ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS)

Giả thiết quan trọng trong mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển là các yếu tố

sai số xuất hiện trong hàm hồi quy tổng thể có phương sai không thay đổi,

nghĩa là chúng có cùng phương sai; đồng thời không có quan hệ tương

quan chuỗi giữa các sai số, nghĩa là không có hiện tượng tự tương quan.

Khi các giả thiết này bị vi phạm, hiện tượng phương sai thay đổi và tự

tương quan sẽ khiến cho các hệ số hồi quy ước lượng được bằng phương

pháp bình phương nhỏ nhất dù vẫn tuyến tính và không thiên lệch, nhưng

không còn là ước lượng hiệu quả nhất. Tuy nhiên, Moulton (1986) và

Moulton (1990) cho rằng khi sử dụng dữ liệu bảng để phân tích có thể gặp

phải sự hiện diện của hiệu ứng nhóm dẫn tới vấn đề sai số trong các kết

luận thống kê.

Khắc phục những nhược điểm này, phương pháp GLS (generalized least

squares) được đặt dưới giả định rằng mô hình là hoàn toàn xác định, có sự

khác biệt về phương sai sai số ở mỗi nhóm đối tượng, nhưng là không đổi

trong phạm vi từng đối tượng. Với những giả thiết này, GLS đem lại ước

lượng tiệm cận hiệu quả và vững. Đồng thời, việc ước lượng cũng cho

phép khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi trong mô

hình hồi quy với dữ liệu bảng. Vì vậy, Scot & Holt (1982) đề xuất sử dụng

phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) sẽ ít bị thiên chệch

hơn trong các sai số chuẩn dùng để ước lượng các hệ số góc.

78

Trường hợp bỏ qua hiệu ứng nhóm, uớc lượng OLS và sai số chuẩn không

điều chỉnh được tính theo công thức :

𝛽̂ = (𝑋′𝑋)−1𝑋′𝑦, 𝑣𝑎𝑟̂ (𝛽̂) = 𝑠2(𝑋′𝑋)−1

𝑠2 = 𝑦′(𝑦 − 𝑋𝛽̂)/(𝑛 − 𝑘)

Moulton (1986) đề xuất sử dụng phương pháp kiểm định nhân tử Lagrange

để kiểm tra sự hiện diện của hiệu ứng nhóm. Khi đó, ước lượng GLS được

dùng để tính các sai số chuẩn gần đúng bằng phương pháp maximum

likelihood :

𝛽̃ = (𝑋′𝑉̃ −1𝑋)−1𝑋′𝑉̃ −1𝑦, 𝑣𝑎𝑟̃ (𝛽̃) = (𝑋′𝑉̃ −1𝑋)−1

Trong đó 𝑉̃ được tính tại các ước lượng của thành phần phương sai hoặc

hiệp phương sai. Cuối cùng, sai số chuẩn điều chỉnh OLS được tính theo

công thức :

𝑣𝑎𝑟̃ (𝛽̂) = (𝑋′𝑋)−1𝑋′𝑉̃ 𝑋(𝑋′𝑋)−1

Mô hình chuyển đổi cuối cùng lúc này thỏa mãn các giả thiết của mô hình

cổ điển, không có phương sai thay đổi và tự tương quan. Do đó, áp dụng

phương pháp OLS trên mô hình này sẽ thu được ước lượng vững, hiệu quả

và không chệch.

4.2.4. Ước lượng với biến công cụ

Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cũng cho thấy tham nhũng có tác

động đến thu nhập (Mauro, 1995). Vì vậy, mô hình nghiên cứu này có khả

năng xảy ra hiện tượng nội sinh do mối quan hệ tương hỗ giữa biến tham

nhũng và biến thu nhập. Ngoài ra, việc sử dụng biến đại diện như CPI thay

cho tham nhũng có thể dẫn đến sai số trong đo lường hoặc bỏ sót biến cũng

dẫn đến hiện tượng nội sinh. Để khắc phục tính thiên chệch của ước lượng

do hiện tượng nội sinh gây ra, tác giả sử dụng phương pháp ước lượng với

79

biến công cụ bằng phương pháp bình phương tối thiểu hai giai đoạn (2SLS)

nhằm kiểm tra tính vững cho mối quan hệ này. Phương pháp này được

Bollen (1995, 1996) đề xuất và phát triển. Các nghiên cứu thực nghiệm của

Li & Harmer (1998), Oczkowski & Farrell (1998), Farrell (2000),

Oczkowski (2001), Farrell & Oczkowski (2002), và Smith & ctg (2002,

2003) cho thấy sử dụng 2SLS cho thấy kết quả ước lượng giảm tính thiên

chệch so với các ước lượng truyền thống.

Xét mô hình tăng trưởng (1), giả sử biến X bị nội sinh nghĩa là 𝐸(𝑈/𝑋) ≠

0

𝑜𝑙𝑠) ≠ 𝛽 (ước lượng bị chệch)

Khi đó nếu dùng OLS thì 𝐸(𝛽̂

Trong trường hợp tồn tại các biến W sao cho :

- W không tương quan với U (𝐸(𝑈/𝑊) = 0)

- W có tương quan với các biến nội sinh X (𝑐𝑜𝑣(𝑋, 𝑊) ≠ 0)

𝑖𝑣 = (𝑊′𝑋)−1𝑊′𝑌 được chứng minh là ước lượng không chệch

Khi đó 𝛽̂

và vững của β.

Để kiểm tra mô hình có bị nội sinh và việc sử dụng ước lượng 2SLS là cần

thiết, tác giả dựa vào đề xuất của Davidson & MacKinnon (1993) cho dữ

liệu bảng. Ngoài ra, kiểm định Sagan-Hansen cũng được sử dụng để đánh

giá việc sử dụng các biến làm biến công cụ cho thu nhập có thỏa mãn ràng

buộc nhận dạng quá mức (overidentifying restriction).

4.2.5. Phương pháp ước lượng Difference GMM

Các nghiên cứu về tăng trưởng cần chú ý đến sự tương tác giữa các giá trị

của biến tăng trưởng theo thời gian. Do vậy, các mô hình tăng trưởng

thường được xây dựng dựa theo mô hình tự hồi quy. Khi bộ dữ liệu là dữ

liệu bảng, mô hình phù hợp để cho ra các ước lượng không chệch và vững

là mô hình dữ liệu bảng động (Barro, 1996b). Ngoài ra, các mô hình tăng

80

trưởng cũng thường bao gồm các biến bị nội sinh (ngoại sinh yếu). Chẳng

hạn, khi đầu tư tăng cao sẽ dẫn đến tăng trưởng cao, sau đó khi tăng trưởng

cao sẽ thúc đẩy đầu tư nhiều hơn. Saha & Gounder (2013) nghi ngờ sự

ngoại sinh của biến tham nhũng khi việc đo lường biến này tương quan

chặt chẽ và tăng mạnh cùng với mức độ phát triển kinh tế. Điều này dẫn

đến vấn đề đồng thời làm cho các ước lượng truyền thống bị chệch.

Ước lượng GMM là kỹ thuật ước lượng dựa vào biến công cụ và có nhiều

ưu điểm so với các ước lượng truyền thống (2SLS). Ước lượng truyền

thống sẽ không chính xác khi có sự hiện diện của phương sai thay đổi. Ước

lượng GMM sử dụng các điều kiện moment cho phép tạo ra các ước lượng

chính xác ngay cả khi có sự xuất hiện của sự không nhất quán của các đơn

vị chéo (Hansen, 2000; Hayashi, 2000).

Để kiểm tra tính vững của ước lượng, nghiên cứu sử dụng phương pháp

Difference GMM được phát triển cho mô hình bảng động tuyến tính

(Arellano & Bond, 1991; Arellano & Bover, 1995; Holtz-Eakin, 1988).

Theo GMM, phương trình ước lượng sẽ được biến đổi thành phương trình

sai phân có dạng:

∆𝑦𝑖𝑡 = 𝛾∆𝑦𝑖𝑡−1 + 𝛽∆𝑋𝑖𝑡 + 𝛿∆𝑍𝑖𝑡 + ∆𝑢𝑖𝑡

Với ∆ là toán tử sai phân bậc 1.

Khi chuyển sang hồi quy với biến sai phân bậc 1, các thiên chệch tiềm ẩn

do bỏ sót biến và các hiệu ứng cố định của các đơn vị chéo (địa lí, nhân

khẩu học) sẽ được loại bỏ. Tuy nhiên, sai phân hóa làm cho ∆𝑦𝑖𝑡−1 tương

quan với ∆𝑢𝑖𝑡 và khiến các ước lượng của mô hình bị chệch. Khi đó, ước

lượng GMM sai phân sẽ xử lý được vấn đề này bằng cách lấy giá trị trễ của

các biến phụ thuộc làm công cụ. Arellano & Bond (1991) đề xuất sử dụng

các đỗ trễ từ 𝑦𝑖𝑡−2 làm biến công cụ cho ∆𝑦𝑖𝑡−1 vì 𝑦𝑖𝑡−2 có tương quan với

81

∆𝑦𝑖𝑡−1 nhưng không tương quan với ∆𝑢𝑖𝑡, trong điều kiện 𝑢𝑖𝑡 không bị tương quan chuỗi. Ta có :

𝐸|𝑌𝑖,𝑡−𝑠∆𝑢𝑖𝑡| = 0 với t=3,4,…,T và 𝑠 ≥ 2

Mặt khác, giả định ngoại sinh hoàn toàn của các biến giải thích không còn

đúng trong trường hợp có hiện tương nhân quả ngược (𝐸|𝑋𝑖,𝑡−𝑠𝑢𝑖𝑡| ≠ 0

với 𝑡 < 𝑠). Vì vậy, đối với các biến giải thích bị nội sinh yếu hay được xác

định trước thì chỉ có các độ trễ của nó mới phù hợp làm biến công cụ :

𝐸|𝑋𝑖,𝑡−𝑠∆𝑢𝑖𝑡| = 0 với t=3,4,…,T và 𝑠 ≥ 2

Với các giả định trên, phương trình có thể được ước lượng với GMM. Cuối

cùng, Jodson et al. (1996) và Roodman (2006) cho rằng GMM sai phân

thích hợp cho dữ liệu bảng với T nhỏ và N lớn.

Sau đó, luận án tiếp tục thực hiện các kiểm định sự phù hợp của ước lượng

GMM bao gồm kiểm định khả năng xảy ra tự tương quan của sai số mô

hình và giá trị của biến công cụ. Kiểm định Arellano-Bond về tự tương

quan có giả thuyết H0: không tự tương quan và được áp dụng cho số dư

sai phân. Kiểm định tiến trình AR(1) trong sai phân bậc 1 thường bác bỏ

giả thuyết H0. Cho nên, kiểm định AR(2) quan trọng hơn bởi vì nó kiểm

tra tự tương quan ở các cấp độ. Tính hợp lí của các biến công cụ được sử

dụng trong ước lượng GMM được đánh giá qua thống kê Sargan. Kiểm

đinh Sargan là kiểm định giới hạn về nội sinh của mô hình (overidentifying

restrictions). Kiểm định Sargan với giả thuyết H0 biến công cụ là biến

ngoại sinh, nghĩa là không tương quan với sai số trong mô hình. Vì vậy, giá

trị thống kê Sargan càng lớn càng tốt.

4.3. Các bước phân tích dữ liệu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận án tiến hành các bước kiểm

định như sau:

82

4.3.1. Kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng

Trước tiên để trả lời cho câu hỏi: Các yếu tố nào tác động đến tham nhũng

tại các quốc gia chuyển đổi? tác giả kiểm định các yếu tố tác động đến

tham nhũng trong phương trình (4.1). Sau đó, để trả lời câu hỏi : chất

lượng thể chế tác động nhứ thế nào đến kiểm soát hành vi tham nhũng? mô

hình tuyến tính (4.1) được mở rộng để khảo sát sự tương tác giữa thể chế

kinh tế (tự do kinh tế) và thể chế chính trị (mức độ dân chủ) đến mức độ

tham nhũng bằng cách đưa vào mô hình biến tương tác của hai yếu tố này.

Khi đó, phương trình (4.1) trở thành:

𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛾0 + 𝛾1𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛾2𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛾3𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 ∗ 𝑑𝑒𝑚𝑜 +

𝛾4ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛾5𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 + 𝛾6𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛾7𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 +

(4.5) 𝛾8𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡

Trong phương trình thực nghiệm (4.5), luận án quan tâm đến hệ số hồi quy

của biến tương tác 𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 ∗ 𝑑𝑒𝑚𝑜. Hệ số 𝛾3 thể hiện hiệu ứng của biến

tương tác tự do kinh tế và dân chủ và cũng là mục tiêu quan trọng trong

nghiên cứu này. Khi đó, hiệu ứng riêng phần của biến eco_free và biến

demo đến tham nhũng được xác định như sau:

(4.6a) ∆𝑐𝑜𝑟/∆𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 = 𝛾1 + 𝛾3𝑑𝑒𝑚𝑜

(4.6b) ∆𝑐𝑜𝑟/∆𝑑𝑒𝑚𝑜 = 𝛾2 + 𝛾3𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒

Nếu 𝛾3 < 0 thì phương trình (4.6a) cho thấy một điểm phần trăm tăng lên

của chỉ số tự do kinh tế tạo ra một sự giảm nhiều hơn trong mức độ tham

nhũng với mức độ dân chủ cao hơn. Tương tự, nếu 𝛾3 < 0 thì phương trình

(4.6b) cho thấy một điểm phần trăm tăng lên của chỉ số dân chủ tạo ra một

sự giảm nhiều hơn trong mức độ tham nhũng với mức độ tự do kinh tế cao

hơn.

83

Trong phương trình hồi quy này, luận án sử dụng biến legal là biến giả,

nhận giá trị bằng 1 khi quốc gia có hệ thống pháp lý được xây dựng dựa

trên nguồn gốc pháp lý theo Luật Anglo-Saxon và nhận giá trị 0 cho các

trường hợp khác. Khi đó, phương pháp ước lượng FEM sẽ không phù hợp

do biến giả legal có giá trị không thay đổi theo thời gian sẽ bị loại ra khỏi

kết quả ước lượng. Vì vậy, luận án sử dụng phương pháp ước lượng GLS

để xác định độ lớn của các hệ số hồi quy và sử dụng phương pháp 2SLS để

kiểm tra tính vững cho mô hình.

4.3.2. Kiểm định hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng

Để trả lời cho câu hỏi: có tồn tại hiệu ứng phi tuyến trong mối quan hệ

giữa thu nhập và tham nhũng hay không? Luận án tiến hành mở rộng mô

hình tuyến tính thành hàm đa thức bằng cách thêm vào mô hình biến

gdppc2. Khi đó, phương trình (4.1) trở thành:

𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛼2(ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡)2 + 𝛼3𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛼4𝑒𝑐𝑜_𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛼5𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛼6𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛼7𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 +

(4.7) 𝛼8𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜗𝑖𝑡

Trong phương trình (4.7), hiệu ứng phi tuyến của thu nhập được thể hiện

thông qua hệ số hồi quy α1 và α2. Hiệu ứng phi tuyến tồn tại khi mà dấu kỳ

vọng của α1 là dương và α2 là âm2. Dấu kỳ vọng của α1 và α2 thể hiện mối

quan hệ parabol (chữ U ngược) giữa thu nhập và tham nhũng. Trên đường

parabol này sẽ tồn tại một giá trị xác định của thu nhập làm cho tác động

của nó lên tham nhũng bằng 0. Giá trị xác định này được xem là ngưỡng

của thu nhập trong hiệu ứng phi tuyến phương trình (4.7). Do đó, thu nhập

trước giá trị ngưỡng sẽ tác động dương lên tham nhũng và tác động âm sau

giá trị ngưỡng. Nghĩa là, trong giai đoạn đầu thời kỳ chuyển đổi, một sự

2 Xem Wooldridge (2012) về ước lượng phi tuyến và dấu kỳ vọng của hệ số trong mối quan hệ parabol

gia tăng trong thu nhập sẽ làm tăng tham nhũng và sẽ tiếp tục tăng cho đến

84

khi đạt mức cực đại (mức ngưỡng). Nhưng sau đó, khi nền kinh tế bước

vào giai đoạn phát triển ổn định, sự tăng lên trong thu nhập sẽ làm giảm

tham nhũng.

Luận án sử dụng phương pháp ước lượng FEM và GLS để xác định độ lớn

của các hệ số hồi quy. Sau đó, luận án sử dụng phương pháp 2SLS để kiểm

tra tính vững cho mô hình.

4.3.3. Kiểm định lý thuyết chất bôi trơn của tham nhũng đối với tăng

trưởng

Để kiểm định khả năng tồn tại lý thuyết chất bôi trơn của tham nhũng, luận

án tiến hành các bước kiểm định cho phương trình (4.2) như sau:

Đầu tiên, để trả lời cho câu hỏi: Tham nhũng tác động như thế nào đến

tăng trưởng kinh tế? luận án kiểm định sự tác động của tham nhũng và các

yếu tố kinh tế vĩ mô đến tăng trưởng. Kỳ vọng dấu của biến tham nhũng

lúc này là âm. Điều này hàm ý tham nhũng là tiêu cực đối với tăng trưởng.

Sau đó, để trả lời cho câu hỏi: Trong điều kiện chất lượng thể chế kém tại

các quốc gia chuyển đổi, tham nhũng có trở thành chất bôi trơn để thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế? Luận án kiểm định hiệu ứng chất bôi trơn của

tham nhũng theo chất lượng thể chế. Đây cũng là một trong những mục

tiêu quan trọng của nghiên cứu này. Vì vậy, mô hình thực nghiệm đưa vào

biến tương tác giữa tham nhũng và khung thể chế được thể hiện bằng

cor*demo và cor*ecofree. Khi đó, tác động của tham nhũng đến tăng

trưởng trong phương trình (4.2) được thể hiện lần lượt hệ số (β1 + β5demo)

và (β1 + β4ecofree) như sau:

- Khi chưa đưa biến tương tác vào mô hình, tác động của tham nhũng

lên tăng trưởng được kỳ vọng mang dấu âm, nghĩa là β1 < 0.

- Khi đưa biến tương tác cor*demo vào mô hình, nghiên cứu đánh giá

tác động của tham nhũng lên tăng trưởng dưới vai trò của thể chế

85

chính trị. Hệ số tác động trong điều kiện này là β1 và β5. Giả thuyết

chất bôi trơn ngụ ý rằng tham nhũng tác động tích cực đến tăng

trưởng nếu chất lượng thể chế chính trị là rất thấp. Khi giá trị của

biến demo tiến đến 0, nếu β1 mang dấu dương thì tác động của tham

nhũng là tích cực lên tăng trưởng. Và khi chất lượng thể chế được

cải thiện, tác động của tham nhũng trở nên tiêu cực đối với tăng

trưởng. Khi đó β5 sẽ mang dấu âm. Vì vậy, giả thuyết chất bôi trơn

sẽ không bị bác bỏ nếu β1>0 và β5 <0. Ngược lại, giả thuyết gây cản

trở xảy ra khi β1<0 và β5>0.

- Tương tự, khi thêm biến tương tác cor*ecofree vào mô hình, nghiên

cứu đánh giá tác động của tham nhũng lên tăng trưởng dưới vai trò

của thể chế kinh tế. Hệ số tác động trong điều kiện này là β1 và β4.

Giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện thể chế kinh

tế không bị bác bỏ nếu β1>0 và β4 <0.

Trong phần kiểm định này, luận án sử dụng phương pháp GLS để ước

lượng các hệ số hồi quy của mô hình tuyến tính. Bên cạnh đó, theo lý

thuyết tăng trưởng nội sinh các mô hình tăng trưởng thường là mô hình

động. Vì vậy, để kiểm tra tính vững của mô hình, tác giả sử dụng phương

pháp GMM cho dữ liệu bảng động.

4.4. Dữ liệu nghiên cứu

4.4.1. Mô tả biến

Biến tham nhũng: cor

Tham nhũng được đo lường như thế nào? Mặc dù có một lượng lớn các

nghiên cứu về tham nhũng, người ta vẫn chưa thể đo lường chính xác mức

độ của tham nhũng. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã cố gắng ước lượng

tham nhũng. Trong các nghiên cứu của họ, tham nhũng được tính dựa trên

các dữ liệu cấp độ vi mô, chẳng hạn như dữ liệu dựa trên các dự án cơ sở

86

hạ tầng hoặc dữ liệu được thu thập từ việc khảo sát cấp độ công ty. Dù vậy,

các dữ liệu này không thể dùng cho việc phân tích so sánh.

Có hai cách tiếp cận cơ bản để đo lường tham nhũng ở cấp độ vĩ mô: (1)

cảm nhận chung và (2) động cơ của hành vi tham nhũng. Nhóm thứ nhất

phản ánh cảm nhận của cộng đồng hoặc của một số nhóm đại diện phản hồi

(còn được xem là các chuyên gia) quan tâm đến việc thiếu công bằng trong

các giao dịch công. Vì vậy, cảm nhận tham nhũng là cách đo lường gián

tiếp mức độ tham nhũng thực. Cách tiếp cận thứ hai đựa trên các cuộc khảo

sát giữa những người đút lót tiềm năng và những người được đút lót. Với

cách tiếp cận này, nhà nghiên cứu có thể thu thập thông tin về mức độ

thường xuyên của tham nhũng xảy ra trong nhiều loại giao dịch (The

Hungarian Gallup Institution, 2000).

Golden & Picci (2005) đánh giá việc đo lường tham nhũng dựa trên kết quả

khảo sát sẽ có ít nhất hai điểm yếu bản năng. Thứ nhất, độ tin cậy vào

thông tin khảo sát về tham nhũng thì rất mờ mịt. Người trả lời có liên quan

trực tiếp đến tham nhũng có thể có động cơ để phản ánh thiếu trung thực

mức độ của tham nhũng, người không có liên quan thì thiếu thông tin chính

xác. Thứ hai, độ tin cậy vào chỉ số tham nhũng có thể giảm giá trị theo thời

gian. Có một mối nguy là người được phỏng vấn sẽ trả lời những gì họ tin

là dựa vào các kết quả đã được công chúng hóa hơn là mức độ tham nhũng

thực.

Việc chọn mẫu đại diện, các khảo sát trong cộng đồng chung có thể sẽ tốt

hơn. Tuy nhiên, những người được khảo sát này có thể không có kinh

nghiệm hoặc thiếu am hiểu về tham nhũng. Cảm nhận của họ cũng không

ổn định theo thời gian bởi vì nó phụ thuộc rất nhiều vào mức độ quan tâm

đến tham nhũng mà họ tiếp nhận từ phương tiện truyền thông. Trong khi

đó, việc sử dụng các nhóm chuyên gia để cung cấp nguồn thông tin về cảm

nhận tham nhũng có thể thu thập thông tin lớn nhất về tham nhũng mặc dù

87

không cần thiết được bày tỏ trung thực. Hạn chế trong trường hợp này là có

thể nhóm được khảo sát không hoàn toàn mang tính đại diện.

Kaufmann & Kraay (2002) chỉ ra rằng ưu điểm của việc khảo sát các

chuyên gia là nó được thiết kế rõ ràng cho việc so sánh giữa các quốc gia.

Điểm bất lợi của phương pháp này là cuộc khảo sát thể hiện quan điểm của

một số chuyên gia trong mỗi quốc gia, vì vậy chất lượng của cuộc khảo sát

phụ thuộc vào sự hiểu biết của các chuyên gia được lựa chọn ở các quốc

gia.

Các loại chỉ số tham nhũng

Tác giả bắt đầu với chỉ số tham nhũng được xây dựng bởi PRS – ICRG.

Chỉ số này đã được tạo ra từ đầu thập niên 1980 và bao gồm gần 150 quốc

gia phát triển và đang phát triển. Dữ liệu PRS gồm các chỉ số về chính trị,

kinh tế và tài chính. Mỗi chỉ số được phân hạng cụ thể. Tham nhũng là một

trong 12 thành tố về rủi ro chính trị, được đo lường từ mức 0 đến 6, điểm

cao hơn nghĩa là hiệu quả hơn. Nghiên cứu của Tanzi & Davoodi (1998) sử

dụng chỉ số này.

Chỉ số tham nhũng thứ hai được xây dựng bởi Kaufmann & ctg (2011) của

chỉ số Worldbank. Chỉ số này là một phần của chỉ số rộng hơn và được gọi

là chỉ số quản trị. Chỉ số này được công bố cho mỗi giai đoạn 2 năm và bao

gồm gần 200 quốc gia. Nó được tính toán dựa trên nền tảng của 100 biến

riêng lẻ về cảm nhận tham nhũng và được thu thập từ 40 nguồn dữ liệu của

hơn 30 tổ chức khác nhau.

Chỉ số thứ ba có lẽ là chỉ số được biết đến nhiều nhất đó là CPI. CPI được

tính toán bởi Lambsdorff và được đại diện bởi tổ chức Minh bạch Quốc tế

(TI) từ năm 1995. Đây cũng là chỉ số được xây dựng dựa trên các chỉ số

được khảo sát. CPI được thiết kế để đánh giá cảm nhận của những người

có thông tin về mức độ tham nhũng (các chuyên gia) và được chấm điểm

88

theo mức từ 0 (tham nhũng cao) đến 10 (tham nhũng thấp). CPI tổng hợp

cảm nhận của những người được khảo sát theo mức độ của tham nhũng

(tham nhũng được định nghĩa là việc lạm dụng công quyền nhằm tư lợi).

Mức độ tham nhũng này phản ánh tần số chi trả tham nhũng và các rào cản

bị áp đặt trong kinh doanh (Lambsdorff, 2003).

Để xây dựng chỉ số này, cần sử dụng một vài kỹ thuật chuẩn hóa dữ liệu

bởi vì mỗi bản khảo sát có hệ thống thang đo riêng của nó và phân phối dữ

liệu. Kỹ thuật đầu tiên là chuẩn hóa. Dựa theo trọng số, mỗi nguồn được

0̅̅̅̅)

0 − 𝑌𝑗

𝑠 = (𝑌𝑖,𝑗 𝑌𝑖,𝑗

2 𝜎𝐶𝑡−1 ̅̅̅̅̅̅ 2 + 𝐶𝑡−1 𝜎 0 𝑌𝑗

0 là điểm ban đầu được cung cấp

chuẩn hóa theo công thức sau:

𝑠 là điểm được chuẩn hóa, 𝑌𝑖,𝑗

Trong đó, 𝑌𝑖,𝑗

bởi nguồn thứ I cho quốc gia thứ j, 𝐶𝑡−1 là chỉ số cảm nhận tham nhũng năm cuối, 𝜎2 là độ lệch chuẩn, và dấu gạch chỉ giá trị trung bình của biến.

Cách tiếp cận này phụ thuộc rất nhiều vào phân phối của dữ liệu, vì vậy các

tiếp cận thay thế đã được sử dụng – kỹ thuật kết nối phân vị, đặc biệt khi

nguồn dữ liệu có hình thức phân phối khác so với của CPI. Việc phân hạng

một quốc gia được thực hiện bằng phương pháp này. Chẳng hạn ta có hai

nguồn dữ liệu bao gồm một tập các quốc gia, nguồn 𝑗𝑡 và 𝐶𝑃𝐼𝑡−1. Tại năm

t, nguồn j đánh giá cho quốc gia 𝑖1, 𝑖2, 𝑖3, 𝑖4, 𝑖5 với các giá trị lần lượt là 4.5,

3.5, 3.0, 2.0 và 1.5 dựa trên thang đo 0 – 5. Ở năm t-1, CPI cũng được đánh

giá cho 5 quốc gia trên với giá trị lần lượt là 8.0, 9.5, 3.5, 4.5 và 2.5 theo

thang đo từ 0 – 10. Kỹ thuật nối phân vị sắp xếp lại trật tự điểm và thiết kế

chúng cho các quốc gia 𝑖1, 𝑖2, 𝑖3, 𝑖4, 𝑖5 với giá trị là 9.5, 8.0, 4.5, 3.5 và 2.5

theo trình tự các quốc gia được sắp xếp theo nguồn 𝑗𝑡. Thủ tục này được áp

dụng cho tất cả các nguồn và chỉ số được tính toán từ trung bình giản đơn

của giá trị được chuẩn hóa (Lambsdorff, 2002, 2003).

89

Trong bài nghiên cứu này, biến cor là chỉ số về tham nhũng được đo lường

bằng chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) và được thu thập từ nguồn của Tổ

chức Minh bạch Quốc tế3. Chỉ số này được đo lường theo điểm từ 0 đến

10, theo đó quốc gia nào có điểm càng nhỏ càng ít tham nhũng và ngược

lại. Vì vậy, khi đưa vào mô hình thực nghiệm tác giả điều chỉnh lại sao cho

giá trị càng lớn càng ít tham nhũng bằng cách lấy 10 trừ đi điểm của CPI.

Biến chất lượng thể chế chính trị: demo

Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây của Schumpeter (2012), Kant

(2003) và Kotera & ctg (2011) đều nhấn mạnh vai trò của chất lượng thể

chế chính trị đối với tham nhũng. Tuy nhiên, việc đo lường chất lượng thể

chế chính trị là không dễ dàng. Các nghiên cứu của Heckelman & Powell

(2010) và Saha & Gounder (2013) đều sử dụng chỉ số tự do dân chủ để đại

diện cho chất lượng thể chế chính trị. Biến demo là mức độ dân chủ được

xây dựng bằng cách lấy trung bình của chỉ số quyền chính trị và tự do công

dân được cung cấp bởi tổ chức Freedom House. Chỉ số này được đo lường

theo thang điểm từ 1 đến 10. Giá trị thấp nhất thể hiện thể chế dân chủ

nhất. Vì vậy, biến này cũng được mã hóa lại sao cho giá trị càng lớn là

càng dân chủ bằng cách lấy 10 trừ đi giá trị trung bình của quyền chính trị

và tự do dân chủ.

Biến chất lượng thể chế kinh tế : ecofree

Cũng giống như chất lượng thể chế chính trị, chúng ta không thể đo lường

trực tiếp chất lượng thể chế kinh tế. Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã sử dụng

chỉ số tự do kinh tế làm biến đại diện cho chất lượng thể chế kinh tế như là

Heckelman et al. (2008) và Peev & Mueller (2012). Trong nghiên cứu này,

tác giả đo lường biến chất lượng thể chế kinh tế dựa vào chỉ số tự do kinh

tế của báo cáo thường niên thế giới được đề xuất bởi Gwartney & ctg 3 Chỉ số này đã được sử dụng phổ biến nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, chẳng hạn như Ades & Di Tella (1999), Sandholtz & Koetzle (2000), Treisman (2000), Montinola & Jackman (2002), Gupta (2002), Ali & Isse (2002), Emerson (2006)…

90

(2006). Chỉ số này hiện đang sử dụng 37 tiêu chí để đo lường mức độ tự do

của năm khu vực : quy mô chính phủ ; cấu trúc pháp lý và quyền sở hữu ;

tiếp cận đồng tiền mạnh ; tự do trao đổi với người nước ngoài ; và các quy

định về tín dụng, lao động và kinh doanh. Thang điểm của từng khu vực

được dựa trên giá trị trung bình của các thành phần khác nhau trong khu

vực đó. Mỗi thành phần thì được gán cho giá trị từ 0 đến 10. Giá trị càng

cao càng tự do. Giá trị chỉ số tổng thể được tính bình quân theo điểm số

của năm khu vực này.

Các biến kinh tế vĩ mô

- gdppc: Biến phụ thuộc tăng trưởng kinh tế. Biến này được đo lường

bằng thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành và được thu

thập từ WDI. Khi đưa vào mô hình hồi quy, biến này được lấy

logarit.

- school: là biến về trình độ dân trí. Nghiên cứu sử dụng biến tỷ lệ học

sinh đầu vào cấp tiểu học thể hiện trình độ dân trí của quốc gia để

đại diện cho vốn con người (Barro & ctg, 1993). Biến này được tính

theo tỷ lệ % giữa tổng số học sinh học tiểu học không phân biệt độ

tuổi so với nhóm dân số trong độ tuổi theo học cấp học này. Biến

này được khai thác từ nguồn WDI.

- invest: là biến vốn đầu tư trong nền kinh tế. Biến invest là tỷ lệ vốn

đầu tư trên gdp của quốc gia đại diện cho vốn vật chất trong mô hình

tăng trưởng. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.

- pop : là tốc độ gia tăng dân số hàng năm đại diện cho hiệu ứng của

sự gia tăng nhân khẩu học lên tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu

người. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.

- top : là biến thể hiện độ mở nền kinh tế (tổng giá trị xuất khẩu và

nhập khẩu) theo gdp. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.

91

- unemploy: là biến tỷ lệ thất nghiệp. Biến này được khai thác từ

nguồn WDI.

- inflation : là tỷ lệ lạm phát được đại diện bằng chỉ số giá tiêu dùng.

Biến này được khai thác từ nguồn WDI.

- Gov_Ex : là chi tiêu công được đại diện bằng chỉ số tỷ lệ chi tiêu

dùng chính phủ so với GDP. Biến này được khai thác từ nguồn WDI.

- legal : nguồn gốc pháp lý. Biến này dùng để đánh giá nguồn gốc

pháp lý tác động đến tham nhũng. Đây là biến giả và nhận giá trị 1

cho các quốc gia có nguồn gốc pháp lý theo luật Ango-Saxon

(common law). Biến này được tác giả khai thác từ nghiên cứu của La

Port & ctg (1999).

92

Bảng 4.1: Các biến sử dụng trong mô hình

Ký hiệu Tên biến Đo lường Nguồn

gdppc Thu nhập bình quân Thu nhập bình quân thực hàng WDI

năm (giá hiện hành $)

cor Tham nhũng Chỉ số cảm nhận tham nhũng của TI

Transparency International

demo Dân chủ Trung bình của chỉ số tự do dân Freedom

chủ và quyền chính trị House

ecofree Tự do kinh tế Giá trị trung bình của năm khu EFW data

vực theo Báo cáo thường niên Thế

giới

invest Tổng vốn đầu tư Tính theo tỷ lệ % trên GDP WDI

pop Tốc độ gia tăng dân Tỷ lệ % gia tăng dân số hàng năm WDI

số

top Độ mở thương mại Tỷ lệ % của giá trị xuất khẩu và WDI

nhập khẩu theo GDP

unemploy Tỷ lệ thất nghiệp % tỷ lệ thất nghiệp hàng năm WDI

inflation Tỷ lệ lạm phát Chỉ số giá tiêu dùng hàng năm (%) WDI

school Trình độ dân trí Tỷ lệ học sinh đầu vào bậc tiểu WDI

học trong độ tuổi (%)

Gov_Ex Chi tiêu công Tỷ lệ chi tiêu dùng chính phủ trên WDI

GDP

legal Nguồn gốc pháp lý Biến giả (giá trị 1 và 0) La Porta

(1999)

Nguồn: tổng hợp của tác giả

4.4.2. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu

Để tìm kiếm bằng chứng định lượng nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu,

luận án tiến hành khai thác và sử dụng bộ dữ liệu của 46 quốc gia có nền

93

kinh tế chuyển đổi trong giai đoạn 2002 – 2014. Như vậy, dữ liệu cho

nghiên cứu này là dữ liệu bảng cân đối bao gồm 506 quan sát. Để có cái

nhìn rõ hơn về bộ dữ liệu nghiên cứu, luận án thực hiện thống kê mô tả giá

trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và giá trị bé nhất của các biến

quan sát (trừ biến giả). Bên cạnh đó, để có cái nhìn trực diện về mức độ

dao động và phân phối của dữ liệu, luận án thực hiện thống kê bằng biểu

đồ phân phối dạng hộp (Box Plot).

Biến

Quan sát

Trung bình

lệch

Lớn nhất

Nhỏ nhất

Độ chuẩn

598 598 598 598 598 598 598 598 598 598 598 598

0,35 1.005,6 0,65 1,32 0,69 5,78 8,1 34,82 1,00 8,27 17,75 5,81

2,95 1.246,3 7,2 5,92 6,23 7,0 8,14 82,08 2,01 23,51 103,96 14,01

3,67 108,014 8,4 8,5 7,73 -8,975 0,60 209,87 4,02 3,94 149,95 39,58

2,03 4.712,8 4,7 3,5 4,35 34,695 77,0 21,67 -1,3 63,94 41,04 3,46

ln_gdppc gdppc cor demo ecofree inflation unemploy top pop invest school gov_ex Nguồn: Tính toán tác giả

Bảng 4.2: Thống kê mô tả biến

Kết quả thống kê mô tả các biến trong mẫu khảo sát cho thấy giá trị trung

bình chỉ số tham nhũng ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi là 7,2/10.

Chỉ số này cho thấy mức độ tham nhũng ở các quốc gia này là tương đối

cao, trong đó có một số quốc gia mức tham nhũng lên tới 8.4 chẳng hạn

Cambodia, Chad, Burundi… Giá trị trung bình của chỉ số tự do kinh tế là

6,3/10 và tự do dân chủ là 5,9/10. Giá trị này cho thấy chất lượng khung

thể chế ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi ở mức trung bình khá.

Tuy vậy, vẫn có một số quốc gia có chất lượng thể chế rất thấp khi mà giá

trị nhỏ nhất của chỉ số này chỉ ở mức 4,5 và 3,5.

94

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.1: Tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi

Biểu đồ 4.1 cung cấp bằng chứng trực diện của tham nhũng tại các quốc

gia khảo sát giai đoạn 2002 – 2014. Chúng ta dễ dàng nhận thấy mức độ

tham nhũng phân phối từ khoảng 5.8 đến 8.4, trong đó mức dao động từ

6.8 đến 7.7 là phổ biến. Biểu đồ một lần nữa cho thấy mức độ tham nhũng

tại các quốc gia trong mẫu khảo sát là tương đối cao và đáng báo động. Do

đó, việc tìm kiếm bằng chứng về nguyên nhân của tình trạng này là thật sự

cần thiết để giúp các nhà quản lý tìm kiếm giải pháp chống tham nhũng.

95

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.2: Thu nhập bình quân

Kết quả thống kê mô tả cho thấy biến thu nhập bình quân của các quốc gia

trong giai đoạn khảo sát tương đối thấp và mức độ chênh lệch thu nhập khá

lớn. Một số quốc gia có thu nhập cao lên đến 4.712 USD trong khi các

quốc gia có thu nhập thấp thì chỉ 108 USD. Biểu đồ 4.2 cũng cho thấy thu

nhập bình quân tập trung chủ yếu ở mức dưới 500 USD đến 1.600 USD và

một vài trường hợp vượt mức 3.100 USD được xem là các quốc gia cá biệt

(giá trị outlier trong mẫu khảo sát). Một điểm rất đáng quan tâm ở đây là

các quốc gia có thu nhập thấp nhất trong mẫu cũng chính là quốc gia có

mức độ tham nhũng cao như là Burundi, Chad, Guinea, Tijikistan,

Paraguay… Dữ liệu cho thấy các quốc gia này có mức tham nhũng trên 8

nhưng thu nhập thực bình quân mức dưới 1.000 USD.

96

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.3: Mức độ tự do kinh tế

Giá trị trung bình của chỉ số tự do kinh tế là 6.23/10. Giá trị này cho thấy

chất lượng khung thể chế ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi chỉ ở

mức trung bình khá. Tuy vậy, vẫn có một số quốc gia có chất lượng thể chế

rất thấp khi mà giá trị nhỏ nhất của chỉ số này chỉ ở mức 4.5 và 3.5. Biểu

đồ 4.3 cho thấy chỉ số tự do kinh tế tại các quốc gia trong giai đoạn khảo

sát tập trung khoảng 5.8 đến 7.8. Theo Gwartney & cộng sự (2006), chỉ số

tự do kinh tế ở mức như vậy khá phù hợp để tạo môi trường thông thoáng

cho các hoạt động kinh doanh. Một điều thú vị là các quốc gia có chỉ số tự

do kinh tế cao trong mẫu khảo sát thì thu nhập bình quân cũng tương đối

cao nhưng mức độ tham nhũng cũng cao như là El Salvardo có chỉ số tham

nhũng là khoảng 6.2, chỉ số tự do kinh tế là 7.2 và thu nhập bình quân là

hơn 3.800 USD. Tương tự, ở Guatemala các chỉ tiêu này lần lượt là 6.7, 7.3

và 3.350 USD.

97

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.4: Mức độ dân chủ

Ngược lại với tự do kinh tế, mức độ dân chủ tại các quốc gia chuyển đổi là

rất thấp. Điều này hàm ý quyền chính trị và tự do dân chủ tại các quốc gia

này là rất bị giới hạn. Kết quả thống kê mô tả cho thấy giá trị trung bình

của biến demo chỉ ở mức 5.9. Bên cạnh đó, biểu đồ 4.4 cũng cho thấy mật

độ phân phối giá trị của chỉ số này tập trung trong khoảng từ 4.5 cho đến

6.8. Trong khi đó, một số quốc gia có mức độ dân chủ rất thấp ở mức dưới

4 như là Chad, Cote, Guinea và Việt Nam. Các quốc gia này cũng được

biết đến như là thiên đường của nạn tham nhũng. Đây là một điều đáng lo

ngại bởi vì các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy vai trò quan

trọng của nền dân chủ trong việc bài trừ tham nhũng.

Tỷ lệ thấy nghiệp tại các quốc gia trong giai đoạn khảo sát ở mức cao, giá

trị trung bình của chỉ số này lên đến là 8,14%. Biểu đồ 4.5 cho thấy mặc dù

mật độ phân phối của giá trị này tập trung ở mức khoảng từ 5 đến 8%,

nhưng vẫn có một số quốc gia tỷ lệ thất nghiệp cao vượt mức 15% và có

những trường hợp tỷ lệ thất nghiệp lên đến 38%. Các quốc gia có tỷ lệ thất

98

nghiệp cao như là Lesotho, Mauritania, Swaziland khi mà tỷ lệ thất nghiệp

luôn ở mức trên 20% hàng năm. Như đã đề cập trong phần các nghiên cứu

thực nghiệm, tỷ lệ thất nghiệp cao có thể dẫn đến nguy cơ tiềm ẩn về các tệ

nạn xã hội, trong đó bao gồm cả những việc làm trái đạo đức và bất chấp

pháp luật để mưu sinh. Vì vậy, vấn đề này có thể tác động tiêu cực đến việc

kiểm soát tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi.

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.5: Tỷ lệ thất nghiệp

Chỉ số lạm phát dao động phổ biến trong khoảng từ 5% đến 10%. Giá trị

trung bình của chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn khảo sát là 7%. Biểu đồ 4.6

cho thấy hầu hết các quốc gia kiểm soát tốt chỉ số lạm phát khi giữ mức giá

trong suốt giai đoạn tương đối ổn định và ở mức vừa phải (một con số).

Tuy nhiên, một vài quốc gia vẫn chưa kiểm soát tốt chỉ số này khi để chỉ số

giá tiêu dùng vượt mức 20% như là Bunrudi, Cambodia, Ghana, Kenya…

Điều thú vị là giá trị của chỉ số này là âm xảy ra tại một vài năm ở các quốc

gia như Burkina Faco, Cambodia, Chad, Mali… nghĩa là nền kinh tế của

các quốc gia này có xảy ra tình trạng giảm phát trong giai đoạn khảo sát.

99

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.6: Tỷ lệ lạm phát

Tốc độ gia tăng dân số tại các quốc gia khảo sát được giữ ở mức tương đối

thấp, trung bình chỉ khoảng 2%. Đây là một tín hiệu tốt cho mục tiêu tăng

trưởng tại các quốc gia này. Mặc dù biết rằng các quốc gia đang chuyển đổi

nền kinh tế dựa vào lực lượng lao động là chủ yếu, nhưng với tỷ lệ thất

nghiệp tương đối cao thì tốc độ tăng dân số quá lớn sẽ tạo ra áp lực giải

quyết việc làm. Biểu đồ 4.7 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp dao động phổ biến từ

1,4 % đến 2,8%. Giá trị lớn nhất của chỉ số này là 3,85% và giá trị nhỏ nhất

là -0,99%. Các quốc gia có tỷ lệ gia tăng dân số cao nhất trong mẫu như là

Chad và Niger, Benin, Burundi… Các quốc gia có tốc độ tăng dân số thấp

nhất như là Georgia, El Salvador, Moldova…

100

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.7: Tốc độ tăng dân số

Giá trị của độ mở thương mại được đo lường bằng cách lấy tổng cộng giá

trị xuất nhập khẩu so với GDP. Kết quả thống kê mô tả cho thấy giá trị

trung bình của chỉ số này trong giai đoạn khảo sát là 82 %. Điều này cho

thấy các quốc gia chuyển đổi đang có xu hướng mở cửa và hội nhập vào

nền kinh tế thế giới ở mức độ ngày càng tăng. Biểu đồ 4.8 cho thấy có một

số trường hợp chỉ số này vượt mức 200%. Các quốc gia có độ mở thương

mại cao như là Lesotho và Swaziland. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số

quốc gia có độ mở thương mại khá thấp ở mức dưới 50% như là Benin,

Burundi, India, Nepal….

101

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.8: độ mở thương mại

Tỷ lệ học sinh bậc tiểu học trong độ tuổi đi học đạt mức trung bình 103%.

Tỷ lệ này được Ngân hàng Thế giới thống kê dựa trên số học sinh đầu vào

bậc tiểu học không phân biệt độ tuổi so với dân số đang trong độ tuổi của

bậc học này. Tỷ lệ này cao hơn 100% cho thấy có nhiều học sinh nằm

ngoài độ tuổi đến trường nhưng vẫn còn học ở bậc này. Điều này hàm ý

mức độ học muộn, chậm đến trường so với độ tuổi vẫn còn tồn tại ở các

quốc gia chuyển đổi. Bên cạnh đó, một vài quốc gia có số học sinh không

chịu đến trường trong độ tuổi đi học rất cao khi mà tỷ lệ đến trường chỉ ở

mức dưới 70%, thậm chí một số trường hợp dưới 50%. Từ đó cho thấy

trình độ dân trí tại các quốc gia chuyển đổi vẫn còn ở mức thấp. Tuy nhiên,

biểu đồ 4.9 cho thấy tình trạng này chỉ xảy ra ở một số ít quốc gia.

102

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.9: Tỷ lệ học sinh

Giá trị trung bình của tỷ lệ đầu tư chỉ ở mức 23,5% so với GDP. Biểu đồ

4.10 cho thấy chỉ số này phân bổ tập trung vào khoảng từ 18% đến 27%.

Đây là một tỷ lệ tương đối thấp trong khi các quốc gia chuyển đổi tăng

trưởng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vốn vật chất. Một số quốc gia có tỷ lệ

đầu tư khá lớn, trên mức 40%, như là Chad, Mongolia, Mauritania…

Ngược lại, một số quốc gia có tỷ lệ đầu tư rất thấp dưới mức 10% như là

Burundi, Gambia, Swaziland.

103

Nguồn : Tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.10: Tỷ lệ đầu tư

Tỷ lệ chi tiêu dùng công trên GDP tại các quốc gia khảo sát đạt mức trung

bình chỉ khoảng 14%. Giá trị nhỏ nhất của chỉ số này đạt tỷ lệ 3,46%. Đây

là tỷ lệ chi tiêu dùng rất thấp tại các quốc gia có thu nhập thấp như

Cambodia, Chad… Hầu hết các quốc gia khảo sát đều có mức thu nhập

trung bình thấp và do đó nguồn thu dành cho chi tiêu dùng của chính phủ

cũng tương đối thấp. Các quốc gia có tỷ lệ chi tiêu dùng công cao như là

Burundi, Georgia, Lesotho…

104

Biểu đồ 4.11: Tỷ lệ chi tiêu dùng công

Nguồn: tính toán của tác giả

Biểu đồ 4.11 cho thấy tỷ lệ chi tiêu dùng tại các quốc gia chủ yếu tập trung

trong khoảng từ 10 đến 18%. Điều này một lần nữa cho thấy mức độ chi

tiêu chính phủ còn rất thấp. Vì vậy, tác giả cho rằng tỷ lệ này sẽ rất khó hỗ

trợ cho việc thực hiện các khoản chi cho lĩnh vực y tế và giáo dục nhằm

góp phần tạo nguồn nhân lực có trình độ tri thức và nền tảng sức khỏe tốt

cho nền kinh tế.

Bảng 4.3: Ma trận hệ số tương quan các biến trong mô hình các yếu tố tác động đến tham nhũng

Cor

ecofree

inflation 0,1700***

demo 0,2601*** 0,1523*** 0,2472*** 0,2448*** 0,0372 -0,0716*** -0,0319 0,0163 0,0529 0,1196*** 0,1238***

-0,3883*** -0,1873*** -0,2840*** -0,1224*** -0,1638*** 0,1093*** -0,1646***

gdppc 0,0950** 0,1314*** -0,1373*** -0,1385***

school unemploy -0,046 -0,0682* 0,1196*** 0,1365*** 0,0787*

Biến demo ecofree Ln_gdppc school unemploy inflation legal Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%.

Nguồn : Tính toán của tác giả

105

Kết quả thống kê hệ số tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình

thực nghiệm các yếu tố tác động đến tham nhũng được thể hiện tại bảng

4.3. Kết quả cho thấy dấu của các biến giải thích trong mô hình là phù hợp

với kỳ vọng và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%. Ngoại trừ biến

tỷ lệ thất nghiệp lại mang dấu dương trong khi kỳ vọng là dấu âm. Ngoài

ra, hệ số tương quan giữa các cặp biến tương đối nhỏ nên khả năng xuất

hiện đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy là thấp.

Bảng 4.4: Ma trận hệ số tương quan các biến trong mô hình tăng trưởng

Biến

ln_gdppc

cor

demo

Ecofree

school

invest

pop

top

cor

-0,2840***

0,2232***

0,2450*** 0,0235 -0,2940*** 0,0653 -0,1132***

0,2601*** 0,0372 0,1860*** -0,1532*** -0,0903** 0,2342***

-0,3883*** -0,1873*** -0,1235*** -0,1869*** 0,1780*** 0,0379 -0,3007***

0,1523*** 0,2472*** 0,0953** 0,0693* -0,5593*** 0,2747*** -0,0700*

-0,046 0,1857*** 0,1643***

-0,3773*** -0,0843***

demo ecofree school invest 0,0288 pop -0,1843*** top 0,1139*** gov_ex -0,0402 Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%

Nguồn: Tính toán tác giả

Kết quả thống kê hệ số tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình

thực nghiệm tác động của tham nhũng đến tăng trưởng dưới vai trò chất

lượng khung thế chế được thể hiện trong bảng 4.4. Kết quả cho thấy dấu

của các biến giải thích trong mô hình là phù hợp với kỳ vọng và đều có ý

nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%. Ngoài ra, (Evans, 1996) cho rằng hệ số

tương quan giữa các cặp biến tương đối nhỏ nên khả năng xuất hiện đa

cộng tuyến trong mô hình hồi quy là thấp.

Kết luận chương 4

Với mục tiêu nhận dạng các yếu tố tác động đến tham nhũng và xem xét

tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh chất lượng khung

thể chế còn nhiều hạn chế tại các quốc gia chuyển đổi, nghiên cứu lựa chọn

mẫu 46 quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi trong giai đoạn 2002 – 2014

106

(phụ lục 1). Chương 4 dựa vào khung lý thuyết được trình bày ở chương 2

và chương 3 và mô hình thực nghiệm của các nghiên cứu trước đây để xây

dựng mô hình tăng trưởng dưới sự tác động của tham nhũng và khung thể

chế. Bên cạnh đó, chương này cũng đã xây dựng mô hình các yếu tố tác

động đến tham nhũng trong đó có xem xét hiệu ứng phi tuyến giữa thu

nhập và tham nhũng. Cuối cùng, chương 4 cũng đã trình bày chiến lược

phân tích dữ liệu và các phương pháp ước lượng FEM, GLS, biến công cụ

2SLS và GMM dành cho dữ liệu bảng nhằm đạt được các mục tiêu nghiên

cứu và làm căn cứ cho các bước thực nghiệm tiếp theo.

107

CHƯƠNG 5

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Giới thiệu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận án tiến hành thực nghiệm nhằm

trả lời lần lượt các câu hỏi nghiên cứu. Trước tiên, luận án tập trung đánh

giá tác động của chất lượng thể chế đến tham nhũng tại các quốc gia

chuyển đổi. Sau đó, luận án khảo sát mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập

và tham nhũng tại các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Với mục tiêu

này, nghiên cứu đưa vào mô hình biến bình phương của biến thu nhập cùng

với việc kiểm soát các biến kinh tế xã hội và khung thể chế các quốc gia.

Để đánh giá hệ số hồi quy của các biến trong mô hình, tác giả sử dụng mô

hình hiệu ứng cố định cho dữ liệu bảng. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính

vững cho các ước lượng, phương pháp GLS và 2SLS cũng được sử dụng

trong các kết quả ước lượng. Kết quả nghiên cứu chứng minh có sự xuất

hiện của hiệu ứng phi tuyến trong mối quan hệ này. Nghĩa là, thu nhập tăng

lên sẽ làm tăng tham nhũng ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi, nhưng

sau đó nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phát triển ổn định, tăng thu nhập

sẽ giúp giảm thiểu nạn tham nhũng.

Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về tác động của tham nhũng lên

tăng trưởng xem chất lượng thể chế như là biến kiểm soát. Bên cạnh đó,

chất lượng thể chế kinh tế cũng chưa được quan tâm nhiều trong các

nghiên cứu này. Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này xem xét vai trò

của chất lượng thể chế bao gồm thể chế chính trị (nền dân chủ) và thể chế

kinh tế (tự do kinh tế) trong mối quan hệ tham nhũng và tăng trưởng bằng

cách đưa vào mô hình biến tương tác giữa chất lượng thể chế với tham

nhũng. Để đánh giá hệ số hồi quy các biến trong mô hình, nghiên cứu sử

dụng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) dành

108

cho dữ liệu bảng. Bên cạnh đó, bài viết sử dụng phương pháp GMM để xử

lý hiện tượng nội sinh giữa các biến, phương sai thay đổi hoặc/và tương

quan sai số của mô hình. Kết quả cho thấy tham nhũng gây cản trở cho

tăng trưởng. Tuy nhiên, biến tương tác thể hiện vai trò tích cực của tham

nhũng đối với tăng trưởng trong điều kiện chất lượng thể chế thấp tại các

quốc gia khảo sát.

5.1. Kết quả kiểm định các yếu tố tác động đến tham nhũng

5.1.1. Kiểm định quan hệ nhân quả giữa thu nhập và tham nhũng

Để xác định mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa hai biến thu nhập và

tham nhũng, bài viết sử dụng mô hình kiểm định nhân quả Granger. Theo

Granger (2001), một chuỗi dừng Yt được xem là nguyên nhân của một

chuỗi dừng Xt nếu các giá trị quá khứ của Yt làm giảm sai số dự báo

phương sai của Xt một cách có ý nghĩa thống kê vói giả định các thông tin

khác không liên quan. Trong thực hành, phương pháp kiểm định nhân quả

Granger thường được tiến hành bằng cách hồi quy Xt với các độ trễ của

chính nó và các độ trễ của Yt. Các độ trễ của Yt đồng thời có ý nghĩa thống

kê sẽ dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết H0: Yt không phải là nguyên nhân của

Xt.

Do kiểm định nhân quả Granger yêu cầu các chuỗi dừng, nên các biến

tham gia sẽ được kiểm định tính dừng cho dữ liệu bảng. Sau đó, kiểm định

Granger được thiết lập trên một mô hình VAR cho dữ liệu bảng (Holtz-

Eakin, 1988).

𝑝 𝑗=1

𝑝 𝑗=1

+ ∑ 𝑙𝑛_𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 = 𝜑10 + ∑ 𝜑1𝑗ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖,𝑡−𝑗 𝜔1𝑗𝑐𝑜𝑟𝑖,𝑡−𝑗 + 𝜇1𝑖 +

(5.1) 𝜗1𝑖𝑡

𝑞 𝑙=1

𝑞 𝑙=1

𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝜑20 + ∑ 𝜑2𝑙𝑐𝑜𝑟𝑖,𝑡−𝑙 + ∑ 𝜔2𝑙ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖,𝑡−𝑙 + 𝜇2𝑖 + 𝜗2𝑖𝑡

(5.2)

109

𝜇𝑖 đại diện cho sự khác biệt của mỗi quốc gia. 𝜗𝑖𝑡 được giả định là có phân

phối độc lập theo các quốc gia và có trung bình là 0, tuy nhiên phương sai

có thể thay đổi theo quốc gia và theo thời gian. Ước lượng mô hình trên

bằng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) sẽ không xử lý được hiện

tượng nội sinh do 𝜇𝑖 tác động đến gdppc thời kỳ này những chúng cũng có

thể tác động đến gdppc ở các thời kỳ trước đó (Nickell, 1981). Theo đề

xuất của Hartwig (2009), kiểm định nhân quả Granger sử dụng phương

pháp ước lượng GMM theo Arellano & Bover (1995). Ý nghĩa của mối

quan hệ được xác lập thông qua mức ý nghĩa của kiểm định Wald (kiểm

định F) và các hệ số hồi quy.

H0: 𝜔1𝑗 = 0 ∀ 𝑗 hoặc H0: 𝜔2𝑙𝑗 = 0 ∀ 𝑙

Để thực hiện kiểm định nhân quả Granger, trước tiên tác giả kiểm tra tính

dừng của các biến theo các kiểm định Augmented Dickey Fuller (ADF),

Phillips-Perron (PP) và Im-Pesaran-Shin (IPS). Giả thiết H0 của kiểm định

này là tồn tại nghiệm đơn vị, có nghĩa các biến không dừng.

Bảng 5.1: Kiểm định tính dừng của biến cor và ln_gdppc

ADF

PP

IPS

Không xu thế

Xu thế

Không xu thế

Xu thế

Không xu thế

Xu thế

cor ln_gdppc d.cor d.ln_gdppc

0,7977 2,2112 9,5729*** 11,5696***

-2,2125 1,348 5,5331*** 15,6683***

1,1267 0,7326 11,5434*** 17,3462***

0,5143 0,0616 3,3055*** 9,9490***

0,6238 1,3659 -3,7606*** -6,2954***

0,0345 1,1603 0,3287 -5,2154***

Ghi chú: *** thể hiện ý nghĩa ở mức 1%.

Nguồn : Tính toán của tác giả

Kết quả kiểm định tính dừng được thể hiện trong Bảng 5.1. Các kiểm định

về tính dừng của biến tham nhũng và thu nhập bình quân đều không dừng

cho tất cả các kiểm định không xu thế và có xu thế. Tuy nhiên, khi lấy sai

phân bậc 1 thì các kiểm định đều thống nhất về tính dừng của các biến. Vì

110

vậy, bước tiếp theo luận án sẽ thực hiện kiểm định Granger với các biến sai

phân bậc 1 của biến tham nhũng và thu nhập bình quân.

Để lựa chọn độ trễ tối ưu cho kiểm định Granger, luận án dựa theo đề xuất

của Atukeren (2007) và Hartwwig (2009) sử dụng các tiêu chuẩn AIC

(Akaike’s information Criterion) và SIC (Schwaz Information Criterion).

Bảng 5.2 thể hiện các kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu. Theo các tiêu chuẩn

này, phương trình 5.1 có độ trễ tối ưu là 1 và phương trình 5.2 có độ trễ tối

ưu là 6.

Bảng 5.2: Kết quả lựa chọn đỗ trễ tối ưu

Độ trễ tối ưu phương tình 5.1

Đỗ trễ 1

Độ trễ 2

Độ trễ 3

AIC

-1315,61*

-1172,75

-1000,13

BIC

-1122,36*

-977,344

-803,854

Độ trễ tối ưu phương tình 5.2

Đỗ trễ 1

Độ trễ 2

Độ trễ 3

AIC

147,111

138,587

119,823*

BIC

340,352

333,99

316,099*

Ghi chú: * thể hiện độ trễ tối ưu với các giá trị AIC, SIC nhỏ nhất

Nguồn: tính toán của tác giả

Tiếp theo, mối quan hệ giữa thu nhập bình quân và tham nhũng sẽ được

làm rõ bằng kiểm định nhân quả Granger cho dữ liệu bảng. Phương trình

5.1 và 5.2 sẽ được ước lượng theo phương pháp GMM một bước và

phương pháp GMM hai bước. Trong giả định các thành phần sai số độc lập

và phương sai đồng nhất (cho cả đơn vị và thời gian) thì GMM một bước

sẽ cho các ước lượng vững. Nhưng nếu có xảy ra tương quan chuỗi hoặc

phương sai số thay đổi ở các thành phần chuỗi thì áp dụng GMM hai bước

sẽ cho ra kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, GMM hai bước xây dựng ma trận

phương sai và hiệp phương sai dựa trên các ước lượng của các phần dư nên

111

kết quả của kiểm định t sẽ bị chệch (Arellano & Bond, 1991). Do đó, khi

sử dụng GMM hai bước luận án sẽ sử dụng phương pháp điều chỉnh ma

trận phương sai – hiệp phương sai theo Windmeijer (2005).

Bảng 5.3: Kiểm định quan hệ nhân quả Granger

GMM một bước

GMM hai bước

Biến phụ thuộc

Δln_gdppc

Δln_gdppc

Δcor

Δcor

0,2982***

0,3536***

Δln_gdppcit-1

-0,0026**

-0,0001**

Δcorit-1

-2,5103***

-3,005***

Δln_gdppcit-3

-0,2030**

-0,2025**

Δcorit-3

AR(2)

0,203

0,216

0,412

0,322

Sargan – Hansen

0,354

0,588

0,196

0,152

N

368

368

322

322

Ghi chú: ***, ** biểu thị cho mức ý nghĩa 1% và 5%.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 5.3 thể hiện mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa biến tham nhũng và

biến thu nhập bình quân. Kết quả cho thấy giữa các biến đều tồn tại mối

quan hệ hai chiều với mức ý nghĩa 1% và 5%.

Tiếp theo, luận án sẽ tiến hành thủ tục kiểm định Wald. Trong Bảng 5.4

trình bày giá trị χ2 và ý nghĩa thống kê của kiểm định Wald với các phương

tình 5.1 và 5.2. Kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ nghịch chiều giữa thu

nhập và tham nhũng.

Bảng 5.4: Kết quả kiểm định Wald

GMM một bước

GMM hai bước

43,10***

Δcor  Δln_gdppc

11,80***

54,39***

Δln_gdppc  Δcor

50,52***

Ghi chú: *** biểu thị cho mức ý nghĩa 1%

Nguồn: Tính toán của tác giả

112

5.1.2. Phân tích mô hình tuyến tính cơ bản

Như tác giả đã đề cập, trong mô hình các yếu tố tác động đến tham nhũng,

luận án có sử dụng biến legal đại diện cho nguồn gốc pháp lý của các quốc

gia. Biến này là biến giả và không đổi theo thời gian, do đó, phương pháp

ước lượng FEM không được lựa chọn để ước lượng cho mô hình. Trong

khi đó, thực hiện kiểm định Hausman cho kết quả giá trị P-value < 0 nên

luận án cũng không sử dụng phương pháp REM mà chuyển qua sử dụng

phương pháp GLS để ước lượng các hệ số hồi quy cho mô hình này.

- Bước 1, để đánh giá tác động của yếu tố chất lượng thể chế đến mức

độ tham nhũng, nghiên cứu tiến hành kiểm định mô hình tác động

khi chưa đưa vào các biến kiểm soát về kinh tế và nguồn gốc pháp

lý. Kết quả được thể hiện ở cột (1).

- Bước 2, luận án kiểm định lại mô hình khi thêm vào mô hình các

biến kiểm soát là các yếu tố kinh tế vĩ mô. Kết quả thể hiện ở cột (2).

- Bước 3, luận án thêm vào mô hình biến kiểm soát nguồn gốc pháp lý

(biến giả). Kết quả thể hiện ở cột (3).

- Cuối cùng, tác giả lặp lại công việc này khi thêm vào mô hình biến

tương tác giữa chất lượng thể chế chính trị và chất lượng thể chế

kinh tế (cột 4 và cột 5).

113

Biến phụ thuộc cor, cột 1 chưa đưa vào mô hình các biến kiểm soát, cột 2 đưa vào mô hình biến kiểm soát kinh tế vĩ mô, cột 3 đưa vào mô hình biến kiểm soát nguồn gốc pháp lý, cột 4 đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco, cột 5 đưa vào mô hình biến legal.

Bảng 5.5: Kết quả hồi quy giữa các biến bằng phương pháp GLS

Biến

(1) GLS

(2) GLS

(3) GLS

(4) GLS

(5) GLS

-0,4513*** -0,2981** 0,0545*** 9,7826*** 0,0000 598 46

-0,2197*** -0,0653** -0,4259*** -0,0019** -0,0144*** 0,0109*** -0,2313*** 9,6964*** 0,0000 598 46

-0,2226*** -0,0213* -0,3759*** -0,0025*** -0,0135*** 0,0105*** 9,8267*** 0,0000 598 46

-0,5922*** -0,4134*** -0,5506*** -0,0008 -0,0034 0,0044** 0,0756*** 12,6472*** 0,0000 598 46

-0,6168*** -0,4278*** -0,5541*** -0,0008 -0,0037* 0,0045** 0,0789*** -0,0518** 12,3716*** 0,0000 598 46

demo ecofree ln_gdppc school unemploy inflation demo*eco legal Const Wald test Quan sát Quốc gia Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%

Nguồn: tính toán của tác giả

Kết quả khảo sát sự tác động của mức độ dân chủ, tự do kinh tế và hiệu

ứng tương tác giữa chúng đến mức độ tham nhũng được thực hiện với các

biến kiểm soát khác nhau bằng phương pháp GLS (Bảng 5.5). Trước hết,

cột 1 thể hiện sự tác động này khi chưa đưa vào mô hình các biến kiểm

soát về kinh tế và nguồn gốc pháp lý. Kết quả cho thấy biến demo và

ecofree có tác động âm lên tham nhũng ở mức ý nghĩa 1%, trong khi đó

biến tương tác demo*eco tác động dương lên tham nhũng. Kết quả tác

động của hai yếu tố này sẽ được thảo luận chi tiết trong phần phân tích hiệu

ứng từng phần.

Tiếp theo, luận án đánh giá tác động của mức độ dân chủ và tự do kinh tế

đến tham nhũng khi thêm vào mô hình các biến kiểm soát về kinh tế vĩ mô

và văn hóa nhưng không bao gồm biến tương tác giữa dân chủ và tự do

kinh tế (cột 2 và cột 3). Cuối cùng, kết quả thực nghiệm được lặp lại với

các biến kiểm soát và đồng thời đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco

được thể hiện ở cột 4 và cột 5.

114

Tác động của yếu tố thể chế

Các kết quả đều cho thấy tác động của dân chủ, tự do kinh tế và hiệu ứng

tương tác giữa chúng đều nhất quán với kết quả ban đầu về dấu và ý nghĩa

thống kê. Như vậy, kết quả thực nghiệm cho thấy việc cải thiện chất lượng

thể chế chính trị và thể chế kinh tế giúp giảm tình trạng tham nhũng tại các

quốc gia đang chuyển đổi. Điều này cũng đã được đề cập trong kết quả

thực nghiệm của (Saha & ctg, 2011). Một quốc gia khi mà người dân được

tự do ngôn luận và quyền tự do báo chí được nâng cao thì chắc chắn sẽ kịp

thời phản ánh các tình trạng tiêu cực trong khu vực công, nhất là tệ quan

liêu và nạn tham nhũng. Nghiên cứu của WorldBank (2007b) cũng đã cho

thấy để phòng tránh tham nhũng các quốc gia cần thực hiện nguyên tắc

chung của cải cách thể chế như tăng tính minh bạch, tăng trách nhiệm giải

trình, giảm thói tùy tiện và quyền lực độc quyền. Hạn chế cơ chế xin – cho

và sự chị phối của nhà nước vào các hoạt động kinh tế sẽ giúp giảm tham

nhũng hành chính tại các quốc gia này.

Biểu đồ 5.1: Mối quan hệ giữa tự do kinh tế và tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

115

Biểu đồ 5.1 cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa tham nhũng và tự do

kinh tế khi mà giá trị của biến ecofree càng lớn thì mức độ tham nhũng

càng có giá trị nhỏ. Worldbank (1997) cho rằng một sự yếu kém mang tính

thể chế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho tham nhũng chính là sự tham gia

quá sâu của nhà nước vào nền kinh tế. Các chính sách tạo ra một khoảng

cách giả tạo giữa cung và cầu, hoặc cho phép các quan chức tự làm theo ý

mình cũng là nguồn gốc tạo ra tham nhũng. Các chính sách này gồm sở

hữu nhà nước với tỷ trọng lớn, nhà nước cung cấp phần lớn các dịch vụ,

các điều kiện luật kinh doanh và các sắc thuế quá khắt khe, áp dụng quy

định một cách độc đoán và hạn chế thương mại. Trong bối cảnh này, các

quan chức có thể tư lợi từ vị trí công việc của họ thông qua các hành vi đòi

hối lộ, hạch sách, tướt đoạt tài sản và bán chỗ làm. Các cơ sở dữ liệu đã

khẳng định rằng tham nhũng có mức độ nghiêm trọng hơn tại các nước có

nhiều chính sách kinh tế bị bóp méo (WorldBank, 1997). Tại một số nước

đang phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi, nguồn tham nhũng

nghiêm trọng chính là sự tập trung hóa quyền lực kinh tế trong tay các tổ

chức độc quyền – là những chủ thể sẽ gây ảnh hưởng chính trị đối với

chính phủ nhằm phục vụ lợi ích cá nhân. Hiện tượng này đặc biệt đúng tại

các nước có nguồn lực tự nhiên dồi dào, các nhà độc quyền về khai thác

nguồn lợi tự nhiên như dầu, khí đốt có thể nắm trong tay quyền lực kinh tế

và chính trị. Điều này dễ dẫn đến các hình thức tham nhũng như là: trốn

thuế, tài khoản hải ngoại, mua giấy phép, mua phiếu bầu và tìm mọi cách

hạn chế cạnh tranh, hạn chế nhà cung cấp khác gia nhập thị trường.

Một cơ chế làm việc không phù hợp với việc tăng tính minh bạch và trách

nhiệm giải trình của chính phủ cũng tạo điều kiện để tham nhũng gia tăng.

Sự thiếu minh bạch, cơ chế giám sát không phù hợp, thực thi pháp luật yếu

kém và hệ thống bầu cử thiếu hiệu quả cũng làm giảm cơ hội phát hiện

tham nhũng. Tăng tính dân chủ sẽ giúp tăng trách nhiệm giải trình của

116

chính phủ và cơ quan nhà nước. Cách thức vận hành của cơ chế giải trình

có thể làm tăng hoặc giảm ảnh hưởng của các bộ máy khác nhau và của các

đơn vị trong chính phủ. Những cơ chế giải trình theo chiều ngang này bao

gồm luật chống tham nhũng, các quy tắc đạo đức, báo cáo nội bộ, yêu cầu

kiểm toán, các cơ quan điều tra, cưỡng chế tư pháp và giám sát lập pháp.

Mặt khác, cơ chế giải trình cũng có thể vận hành giữa chính phủ và dân

chúng. Các cơ chế giải trình theo chiều dọc này gồm các cuộc tuyển cử tự

do và công bằng, truyền thông tự do và độc lập, quyền tự do hội họp và

phát ngôn. Quyền tự do công dân này giúp đấu tranh chống tham nhũng

một cách rất hiệu quả.

Biểu đồ 5.2: Mối quan hệ giữa dân chủ và tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

Biểu đồ 5.2 cũng cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa tham nhũng và

mức độ dân chủ của quốc gia. Nền dân chủ được thể hiện thông qua quyền

chính trị và quyền tự do công dân. Các quyền này cho phép công dân được

bầu cử tự do, tự do ngôn luận và tự do báo chí. Quyền bầu cử tự do của

117

công dân sẽ thúc đẩy quá trình cạnh tranh chính trị. (Johnston, 1998) đã

quan sát thấy rằng sự cạnh tranh chính trị yếu kém thường góp phần làm

xuất hiện tham nhũng chính trị nghiêm trọng. Khi đó, báo chí độc lập có

thể hành động như một đối trọng với tham nhũng – vốn luôn có cơ hội phát

triển nếu không có sự cạnh tranh này. Báo chí chỉ đơn giản là đại diện cho

các cuộc tranh luận làm tăng tính cạnh tranh kinh tế và cạnh tranh chính trị.

Như Johnston (1998) đã quan sát “sự cạnh tranh kinh tế và chính trị mạnh

mẽ có thể làm tăng trách nhiệm giải trình, mở ra các phương thuốc đối phó

với mạng lưới tham nhũng và tạo động lực để các thủ lĩnh chính trị hành

động chống tham nhũng”. Hai yếu tố khác có mối tương quan chặt chẽ với

mức độ tham nhũng cao là “sự tham gia ít ỏi của quần chúng vào đời sống

chính trị và quyền tự do công dân ít được bảo vệ” (Johnston, 1998). Một

lần nữa, truyền thông đóng vai trò là đối trọng. Điều này đặc biệt đúng khi

các tin tức truyền thông tập trung khích lệ các cuộc tranh luận chính trị,

động viên dân chúng tham gia vào đời sống chính trị và ủng hộ quyền tự do

công dân, tự do ngôn luận. Tóm lại, cả kết quả hồi quy và biểu đồ thống kê

đều thể hiện mối quan hệ nghịch giữa chất lượng thể chế chính trị và tham

nhũng của quốc gia chuyển đổi. Do đó, việc cải thiện chất lượng thể chế

chính trị sẽ góp phần làm giảm tham nhũng tại các quốc gia này.

Tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô

Biến ln_gdppc mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% trong tất cả

các mô hình. Điều này cho thấy việc cải thiện thu nhập giúp kiểm soát

tham nhũng hiệu quả tại các quốc gia này. Thực tế cho thấy thu nhập bình

quân đầu người tại các quốc gia khảo sát là rất thấp. Vì vậy, tiền lương của

công chức là không cao. Đây có thể được xem là động cơ thúc đẩy các giới

công chức tham nhũng nhiều hơn. Điều này cũng đã được mình chứng

trong mô hình lý thuyết của Acemoglu & Verdier (2000) về mối quan hệ

giữa tiền lương khu vực công và tham nhũng. Theo khảo sát của

118

WorldBank (2013) về nguyên dân dẫn đến tham nhũng tại Việt Nam, có

đến 79,1% cán bộ công chức đồng ý tham nhũng là do mức lương khu vực

công thấp so với khu vực tư. Số liệu thực tế cho thấy trong giai đoạn khảo

sát một số quốc gia có thu nhập tăng lên rất nhanh và tình trạng tham

nhũng giảm xuống đáng kể. Ghana là minh chứng điển hình cho kết quả

này. Thu nhập bình quân ở Ghana vào năm 2002 chỉ ở mức 312 USD và

chỉ số tham nhũng ở mức 6,1. Nhưng đến năm 2012, thu nhập bình quân

của quốc gia này tăng lên 1.646 USD thì chỉ số tham nhũng giảm xuống

chỉ còn 5,5.

Biểu đồ 5.3: Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

Biểu đồ 5.3 cũng cho thấy đường hồi quy của biến tham nhũng dốc xuống

khi mà giá tri của biến ln_gdppc càng lớn. Nhìn chung, nghèo đói làm suy

yếu các cơ chế thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính

phủ. Nghèo đói khiến mọi người tập trung vào lo cuộc mưu sinh và có ít

thời gian và sức lực để theo dõi tính minh bạch của chính phủ. Các cấp độ

119

phát triển thấp cũng giảm chất lượng giáo dục và trình độ dân trí, lạm hạn

chế khả năng của công dân trong việc theo dõi hoạt động của các quan

chính phủ (Triesman, 2000). Trong chính phủ, cấp độ phát triển thấp cũng

làm giảm nguồn lực dành để thực thi và duy trì các cơ chế theo dõi và giám

sát (Worldbank, 2000).

Hệ số hồi quy của biến inflation cũng mang dấu dương và có ý nghĩa thống

kê. Bởi vì nếu lạm phát không được kiểm soát tốt sẽ làm cho thu nhập thực

tế của công chức bị giảm và dẫn đến mức độ tham nhũng gia tăng. Kết quả

này phù hợp với kỳ vọng dấu ban đầu. Điều này cho thấy việc kiểm soát lạm

phát tốt sẽ góp phần hạn chế mức độ tham nhũng tại các quốc gia khảo sát.

Lạm phát tăng cao sẽ tác động tiêu cực cho hoạt động kinh tế. Một trong số

đó chính là thu nhập thực của giới công chức bị giảm và ảnh hưởng đến mức

độ thỏa dụng của họ. Khi các nhu cầu cơ bản của giới chức không được đáp

ứng thì sẽ dễ phát sinh các hành vi tiêu cực như gian lận, tham ô, … Kết quả

này phù hợp với nghiên cứu thực nghiệm của Braun (2004).

Biểu đồ 5.4: Mối quan hệ giữa lạm phát và tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

120

Biểu đồ 5.4 cho thấy khi biến lạm phát nhận giá trị càng lớn thì biến tham

nhũng cũng có khuynh hướng tăng cao.

Hệ số hồi quy của biến school mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở cột 2

và cột 3. Điều này cho thấy trình độ dân trí càng cao càng góp phần kiểm

soát được hành vi tham nhũng. Người dân có trình độ dân trí cao sẽ nhận

thức được quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của mình. Từ đó,

họ biết rằng việc giám sát hoạt động của chính phủ và phòng chống tham

nhũng là một phần trong quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ này. Kết quả này

cũng hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu trước đây của Ali & Isse (2002).

Biểu đồ 5.5: Mối quan hệ giữa trình độ dân trí và tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

Cuối cùng, phát hiện thú vị và trái ngược với giả thuyết kỳ vọng của kết

quả thực nghiệm là hệ số hồi quy của biến unemploy mang dấu âm. Điều

này cho thấy khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng lại làm giảm mức độ tham

nhũng tại các quốc gia này. Kết quả này có thể được giải thích là khi người

dân không có việc làm thu nhập của họ là rất thấp hoặc bằng không, vì vậy

121

người dân không đủ điều kiện để thực hiện các khoản hối lộ cho giới chức.

Kết quả này mâu thuẫn với kết quả thực nghiệm của Saha & Gounder

(2013). Tuy nhiên, nghiên cứu của Saha & Gounder (2013) được thực hiện

tại các quốc gia phát triển và đang phát triển cho nên sự khác biệt trong

thực nghiệm là điều không thể tránh khỏi.

Biểu đồ 5.6: Mối quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

Hệ thống luật pháp

Hệ số hồi quy của biến giả legal mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê bằng

phương pháp ước lượng GLS và 2SLS. Điều này cho thấy các quốc gia có

nguồn gốc pháp lý theo hệ thống Thông luật (Luật Anglo-Saxon) có

khuynh hướng làm giảm tham nhũng. Hệ thống luật pháp và hiệu lực thi

hành luật pháp không đồng bộ, chất lượng thấp và hiệu quả kém là tình

trạng khá phổ biến tại các quốc gia khảo sát. Các quan hệ Pháp luật – Kỷ

cương, Công dân – Nhà nước và Công chức – Công dân không rành mạch,

122

sáng tỏ do thiếu công khai, minh bạch sẽ là kẽ hở nghiêm trọng trong quản

lý, nuôi dưỡng tham nhũng. Điều này đã được đề cập trong nghiên cứu

“hình phạt và tội phạm” của Becker (1974). Do đó, tình trạng tham nhũng

diễn ra phổ biến, dưới nhiều hình thức và ngày càng trầm trọng tại một số

quốc gia trong mẫu khảo sát một phần là do luật pháp chưa đủ nghiêm

minh. Nếu các hình thức xử phạt chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe thì tình

trạng tham nhũng sẽ còn diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Kết quả

nghiên cứu này cũng hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu của Triesman

(2000) và La Porta (1999). Nghiên cứu này cho thấy các quốc gia có hệ

thống pháp lý được xây dựng dựa trên nguồn gốc pháp lý theo hệ thống

Thông luật (Common Law) sẽ có khuynh hướng nghiêm khắc và hiệu quả

hơn vì vậy cũng ít tham nhũng hơn.

Mặc dù các bộ luật phù hợp có thể là thành tố cần thiết để ban hành các

chính sách và can thiệp chống tham nhũng, song dường như chúng chẳng

bao giờ là đủ. (Pope, 2000) đã chỉ ra rằng việc thiếu các bộ luật chống

tham nhũng ít khi là trở ngại, mà chính chất lượng yếu kém và thực hiện

chưa đầy đủ các bộ luật này mới là nguyên nhân chính khiến các nỗ lực

chống tham nhũng trở nên ít hiệu quả. Vì vậy, chất lượng và mức độ thực

hiện của hệ thống luật pháp cần được quan tâm đặc biệt bởi quốc hội. trong

việc ngăn chặn tham nhũng.

123

Biểu đồ 5.7: Mối quan hệ giữa nguồn gốc pháp lý và tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

5.1.3. Kiểm tra tính vững của mô hình

Như tác giả đã đề cập, các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy mối quan

hệ giữa tham nhũng và thu nhập là mối quan hệ tương hỗ. Vì vậy, mô hình

có khả năng xảy ra hiện tượng nội sinh và dẫn đến kết quả ước lượng bị

chệch. Để khắc phục tình trạng này, nghiên cứu thực hiện bước kiểm tra

tính vững cho mô hình thực nghiệm bằng phương pháp 2SLS.

124

Cột 6 chưa đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco và nguồn gốc pháp lý, cột 7 đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco, cột 8 đưa vào mô hình biến legal và cột 9 đưa vào mô hình biến tương tác demo*eco và biến legal.

Bảng 5.6: Kết quả hồi quy bằng phương pháp ước lượng với biến công cụ

Biến

(9) 2SLS

(8) 2SLS

(6) 2SLS

(7) 2SLS

-0,8592*** -0,6338*** -1,1882*** -0,0023 -0,0059** 0,0101*** 0,1237*** -0,049 15,3896*** 0,0000

-0,0980*** -0,0793** -1,2363*** 0,0793** -0,0017 -0,0066** -0,0645* 11,1207*** 0,0000

-0,1001*** -0,0781** -1,2317*** -0,0018 -0,0065** 0,0099*** 11,1190*** 0,0000

-0,8641*** -0,6380*** -1,1852*** -0,0024 -0,0058** 0,0103*** 0,1243*** 15,4092*** 0,0000

0,0014

0,0014

0,0018

0,0018

0.6819

0.3877

0.7782

0.4835

598 46

598 46

598 46

demo eco_free Ln_gdppc school unemploy inflation demo*eco legal Const Wald test Davidson-MacKinnon (p-value) Sargan-Hansen (p- value) 598 Quan sát Quốc gia 46 Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%

Nguồn: tính toán của tác giả

Để kiểm tra mô hình có bị nội sinh và thật sự cần dùng 2SLS, tác giả dựa

vào đề xuất của Davidson & MacKinnon (1993) cho dữ liệu bảng. Kiểm

định Davidson & MacKinnon với giả thuyết H0 mô hình không xảy ra hiện

tượng nội sinh. Kết quả kiểm định bảng 4 cho thấy giá trị p-value ở các cột

đều nhở hơn 0,01 nên ta bác bỏ giả thiết H0 (mức ý nghĩa 1%), nghĩa là mô

hình có xảy ra hiện tượng nội sinh. Vì vậy, sử dụng phương pháp 2SLS với

các biến công cụ là phù hợp.

Treisman (2000) và Gallup & ctg (1999) cho rằng khoảng cách địa lý của

quốc gia với đường xích đạo có tương quan với mức độ phát triển kinh tế

(được đo lường bằng thu nhập) do vấn đề khí hậu và bệnh tật, trong khi đó

khoảng cách địa lý không tương quan đến tình trạng tham nhũng của quốc

gia. Do đó, khoảng cách địa lý được sử dụng làm biến công cụ là phù hợp.

125

Biến này được thu thập dựa trên kết quả tính toán của La Porta (1999). Bên

cạnh đó, Sachs & Warner (1997) cũng cho rằng tuổi thọ trung bình phản

ánh tình trạng sức khỏe cộng đồng. Trong khi đó, tuổi thọ trung bình tương

quan chặt chẽ với mức độ phát triển kinh tế quốc gia (thu nhập bình quân)

nhưng tỷ lệ này không ảnh hưởng đến mức độ tham nhũng của quốc gia.

Biến này được thu thập từ WDI. Vì vậy, nghiên cứu sử dụng biến khoảng

cách với đường xích đạo của các quốc gia và biến tuổi thọ trung bình làm

công cụ cho biến thu nhập để xử lý hiện tượng nội sinh bằng phương pháp

2SLS.

Tính hợp lí của các biến công cụ sử dụng trong phương pháp 2SLS được

đánh giá thông qua thống kê Sargan – Hansen. Kiểm đinh Sargan – Hansen

xác định tính chất phù hợp của biến công cụ dùng trong mô hình. Đây là

kiểm định giới hạn nội sinh của mô hình (overidentifying restrictions) với

giả thuyết H0 biến công cụ là biến ngoại sinh, nghĩa là không tương quan

với sai số của mô hình. Vì thế, giá trị Sargan càng lớn càng tốt. Kiểm định

Sargan-Hansen cho thấy các biến công cụ dự báo tốt cho biến thu nhập

trong mô hình (p-value lớn hơn mức ý nghĩa 10%).

Kết quả kiểm tra tính vững bằng phương pháp 2SLS thể hiện ở Bảng 5.6

cho thấy dấu và ý nghĩa thống kê của các biến demo, ecofree, gdppc,

inflation, legal và demo_ecofree là không đổi so với phương pháp GLS

(Bảng 5.5). Kết quả phân tích tính vững của ước lượng khẳng định bằng

chứng mạnh mẽ các yếu tố tác động đến tham nhũng tại các nền kinh tế

chuyển đổi.

Kết quả này đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm để trả lời cho câu

hỏi nghiên cứu thứ nhất của luận án.

126

5.1.4. Phân tích hiệu ứng từng phần

Từ gốc rễ, tham nhũng nảy nở trong điều kiện nghèo đói và sự suy yếu của

các thể chế nhà nước. Chính các hệ thống yếu kém thể chế chứ không phải

vấn đề đạo đức đã xui khiến người ta thực hiện hành vi tham nhũng. Điều

này giải thích vì sao tham nhũng có xu hướng xảy ra nhiều hơn tại các

nước đang phát triển hoặc đang trong quá trình chuyển đổi (WorldBank,

2007a).

Kết quả Bảng 5.5 (cột 2 và 3) và Bảng 5.6 (cột 6 và 7) phản ánh vai trò

mức độ dân chủ và tự do kinh tế trong việc kiểm soát tham nhũng. Hệ số

hồi quy của các biến này mang dấu âm cho thấy mức độ tham nhũng sẽ

giảm khi tự do kinh tế ngày càng được cải thiện và mức độ dân chủ được

mở rộng để hướng đến nền kinh tế thông thoáng và minh bạch. Kết quả này

cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Saha (2009, 2013),

Emerson (2006) và Sandholtz & Koetzle (2000).

Tuy nhiên, để thấy rõ tác động của biến tương tác giữa dân chủ và tự do

kinh tế đến tham nhũng, hiệu ứng từng phần được ước lượng dựa vào

phương trình (4.6a) và (4.6b) (chương 4). Theo Wooldridge (2012), để

đánh giá tác động từng phần của các biến trong mô hình biến tương tác,

𝑐𝑜𝑟𝑖𝑡 = 𝛾0 + 𝛿1𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒𝑖𝑡 + 𝛿2𝑑𝑒𝑚𝑜𝑖𝑡 + 𝛾3(𝑒𝑐𝑜𝑓𝑟𝑒𝑒 − 𝜇1) ∗ (𝑑𝑒𝑚𝑜 − 𝜇2) +

𝛾4𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐𝑖𝑡 + 𝛾5𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛𝑖𝑡 + 𝛾6𝑢𝑛𝑒𝑚𝑝𝑙𝑜𝑦𝑖𝑡 + 𝛾7𝑠𝑐ℎ𝑜𝑜𝑙𝑖𝑡 + 𝛾8𝑙𝑒𝑔𝑎𝑙𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡

chúng ta thêm vào mô hình các số hạng 𝜇1 và 𝜇2 vào các thành phần biến tương tác. Khi đó, phương trình (4.5) trở thành:

(5.1)

Trong đó 𝜇1 và 𝜇2 nhận giá trị từ 0 đến 10. Hệ số 𝛿1 đo lường hiệu ứng

riêng phần của biến ecofree lên tham nhũng khi 𝜇2 nhận giá trị từ 0 đến 10

cho chỉ số dân chủ. Tương tự, 𝛿2 đo lường hiệu ứng từng phần của dân chủ

khi 𝜇1 nhận giá trị từ 0 đến 10 cho chỉ số tự do kinh tế (xem thêm

127

Wooldridge (2012), trang 226 và 227). Tác giả sử dụng phương pháp GLS

và 2SLS để ước lượng cho phương trình (5.1), kết quả như sau:

Cột 10 và cột 11 thể hiện kết quả hồi quy tác động riêng phần của biến tự do kinh tế khi biến demo nhận các giá trị từ 0 đến 10, cột 12 và cột 13 thể hiện kết quả hồi quy tác động riêng phần của biến dân chủ khi biến eco_free nhận các giá trị từ 0 đến 10.

Bảng 5.7: Hiệu ứng từng phần của mức độ dân chủ và tự do kinh tế lên tham nhũng bằng phương pháp GLS và 2SLS

Mức độ

𝜹𝟏 (GLS) (10) demo = 1, 2,… 10

𝜹𝟏 (2SLS) (11) demo =1, 2,… 10

-0,6338*** -0,5101*** -0,3863*** -0,2626*** -0,1389** -0,0151 0,1086*** 0,2323*** 0,3561*** 0,4798*** 0,6035***

-0,4278*** -0,3489*** -0,2700*** -0,1911*** -0,1122*** -0,0333 0,0456 0,1245*** 0,2034*** 0,2823*** 0,3612***

𝜹𝟐 (GLS) (12) ecofree = 1, 2,… 10 -0,6168*** -0,5379*** -0,4590*** -0,3801*** -0,3012*** -0,2223*** -0,1434*** -0,0645** 0,0144 0,0933 0,1722**

𝜹𝟐 (2SLS) (13) ecofree = 1, 2,… 10 -0,8592*** -0,7354*** -0,6117*** -0,4880*** -0,3643*** -0,2405*** -0,1168*** 0,0069 0,1307** 0,2544*** 0,3781***

0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa ở mức 10%, 5%, 1%

Nguồn: tính toán của tác giả

Kết quả cột (10) và cột (11) thể hiện tác động từng phần của tự do kinh tế

lên tham nhũng tại các mức khác nhau của chỉ số dân chủ (từ 0 đến 10)

bằng hai phương pháp ước lượng GLS và 2SLS. Kết quả cho thấy tự do

kinh tế làm giảm tham nhũng đáng kể khi mức độ dân chủ thấp, nhưng khi

mức độ dân chủ vượt qua điểm ngưỡng (mức 5 và 6), tác động của tự do

kinh tế đến việc kiểm soát tham nhũng trở nên không quan trọng và không

hiệu quả. Chúng ta cũng cần lưu ý điểm ngưỡng của mức độ dân chủ ở đây

là từ 5 đến 6, tại mức này sẽ làm cho tự do kinh tế không tác động đến việc

kiểm soát tham nhũng (điểm ngưỡng bằng phương pháp ước lượng 2SLS là

5). Như vậy, kết quả này khẳng định tự do kinh tế thật sự giúp kiểm soát

tham nhũng hiệu quả khi mà mức độ dân chủ thấp.

128

Biểu đồ 5.8: Tác động từng phần của tự do kinh tế đến tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

Biểu đồ 5.8 cho thấy khi mức độ dân chủ ở mức thấp dưới 6/10 thì hệ số

hồi quy của biến tương tác mức độ dân chủ và tự do kinh tế mang dấu âm

(phía dưới trục hoành). Và khi mức độ dân chủ được tăng lên tiệm cận giá

trị 6/10 thì hệ số hồi quy biến tương tác chuyển sang dấu dương (phía trên

trục hoành).

Tương tự, cột (12) và cột (13) thể hiện tác động từng phần của dân chủ đến

tham nhũng tại các mức khác nhau của chỉ số tự do kinh tế (từ 0 đến 10)

bằng hai phương pháp ước lượng GLS và 2SLS. Kết quả cũng cho thấy

mức độ dân chủ giúp kiểm soát tham nhũng khi tự do kinh tế thấp và khi tự

do kinh tế vượt qua điểm ngưỡng thì tác động này không còn hiệu lực. Tuy

nhiên, điều đáng chú ý ở đây là điểm ngưỡng của tự do kinh tế là cao hơn

so với mức độ dân chủ (từ 7 đến 8). Kết quả này hàm ý ở các quốc gia khi

129

mà tự do kinh tế còn hạn chế thì việc mở rộng mức độ dân chủ giúp kiểm

soát tham nhũng hiệu quả hơn.

So sánh kết quả của mức độ dân chủ và tự do kinh tế ta thấy mức độ dân

chủ có vai trò quan trọng hơn trong việc kiểm soát hành vi tham nhũng so

với tự do kinh tế.

Biểu đồ 5.9: Tác động từng phần của dân chủ đến tham nhũng

Nguồn: tính toán của tác giả

Biểu đồ 5.9 cho thấy hệ số hồi quy biến tương tác nằm phía dưới trục

hoành (mang dấu âm) khi mà biến tự do kinh tế đạt giá trị ở mức thấp hơn

7,5/10. Và khi mức độ tự do kinh tế vượt qua điểm này thì hệ số hồi quy

của biến tương tác chuyển sang mang dấu dương.

Từ kết quả phân tích định lượng cho thấy chất lượng thể chế có vai trò

quan trọng đối với việc kiểm soát các hoạt động tham nhũng. Điều này

khẳng định việc mở rộng chất lượng khung thể chế sẽ giúp bài trừ nạn

tham nhũng tại các quốc gia khảo sát.

130

Như vậy, kết quả này đã đưa ra bằng chứng rõ ràng về tác động của

chất lượng thể chế đến mức độ tham nhũng để trả lời cho câu hỏi

nghiên cứu thứ hai của luận án.

5.2. Kết quả kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham

nhũng

5.2.1. Phân tích kết quả

Bài viết sử dụng kiểm định Hausman (1978) để lựa chọn giữa mô hình hiệu

ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên của các yếu tố không quan sát được.

Thực chất, kiểm định Hausman là xem xét có tồn tại sự tương quan giữa

thành phần sai số và các biến giải thích hay không. Nếu kiểm định

Hausman cho một kết quả có ý nghĩa thì mô hình FEM phù hợp hơn so với

mô hình REM. Kết quả cột 1 và cột 2 cho thấy xác suất bác bỏ giả thuyết

H0 với mức ý nghĩa 5%, nghĩa là các thành phần sai số có tương quan với

biến giải thích. Do đó mô hình FEM là thích hợp để phân tích cho nghiên

cứu này. Tuy nhiên, khi thực hiện kiểm định phương sai thay đổi giữa các

đơn vị chéo và tự tương quan giữa các quan sát trong cùng đơn vị cho thấy

mô hình hiệu ứng cố định xảy ra các hiện tượng này. Vì vậy, luận án tiếp

tục thực hiện các ước lượng bằng phương pháp GLS.

Để kiểm định có tồn tại hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng

tại các quốc gia chuyển đổi hay không, luận án tiến hành thực nghiệm dựa

theo nguyên tắc thử và sai của hàm đa thức bằng cách thêm các biến bậc

hai và bậc ba vào trong mô hình và được thực hiện theo trình tự sau:

- Bước 1, chạy hồi quy đối với phương trình tuyến tính;

- Bước 2, chạy hồi quy đối với phương trình phi tuyến bậc 2;

- Bước 3, chạy hồi quy đối với phương trình phi tuyến bậc 3.

Kết quả thực nghiệm được thể hiện như sau:

131

Cột 1 và cột 4 thể hiện kết quả mô hình tuyến tính bằng phương pháp FEM và GLS, cột 2 và

cột 5 thể hiện kết quả mô hình phi tuyến bậc 2 bằng phương pháp FEM và GLS, cột 3 và cột 6

thể hiện kết quả mô hình phi tuyến bậc 3 bằng phương pháp FEM và GLS. Tuy nhiên, mô hình

phi tuyến bậc 3 không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 5.8 : Mối quan hệ giữa thu nhập và tham nhũng

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

Biến

FEM

FEM

FEM

GLS

GLS

GLS

Ln_gdppc

2.5907***

0.5335

-0.5430***

2.3429**

-5.2435

Ln_gdppc^2

-1.0373***

0.0989

-0.4942***

2.1451

Ln_gdppc^3

-0.6031***

-0.079

-0.3025

demo

-0.0785**

-0.0686**

-0.0685**

-0.1189***

-0.1184***

-0.1190***

ecofree

-0.0996**

-0.0784*

-0.0790*

-0.0067**

-0.0025*

-0.0037

school

-0.003

-0.0056***

-0.0054**

-0.0006

-0.0008

-0.0006

unemploy

-0.0065**

-0.0067**

-0.0067**

-0.0038*

-0.0041*

-0.0043*

inflation

0.0104***

0.0038**

0.0043**

0.0042**

0.0103***

0.0103***

legal

-0.0445**

-0.0481*

-0.0462

constant

5.3663***

12.6463

10.4066***

7.336

9.5917*** 0,0000

5.4891*** 0,0000

0,0000

Wald test (p-

value)

Quan sát

598

598

598

598

598

598

Quốc gia

46

46

46

46

46

46

Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.

Nguồn: Tính toán của tác giả

Trước tiên, tác giả tập trung phân tích mối quan hệ tuyến tính giữa thu

nhập và tham nhũng ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi của phương

trình (1). Kết quả ước lượng hệ số hồi quy của phương trình tuyến tính

được trình bày ở cột (1) của Bảng 5.8. Hệ số hồi quy của biến ln_gdppc

mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả này hỗ trợ cho giả

thuyết kinh tế quốc gia tăng lên sẽ làm giảm tham nhũng, do đó thu nhập

tăng lên cũng kiềm hãm mức độ tham nhũng. Nghèo đói tạo ra động cơ tiêu

cực ở các quan chức nhà nước, các doanh nhân và các hộ gia đình. Đối với

các quan chức nhà nước, động cơ vòi tiền tham nhũng là rất cao vì họ nhận

được đồng lương thấp và đôi khi còn phải đối mặt với nhiều nguy cơ đau

132

ốm, tai nạn và thất nghiệp. Đối với doanh nhân, động cơ theo đuổi lợi

nhuận thông qua tham nhũng là rất cao vì họ khan hiếm vốn, người lao

động có kỹ năng thấp, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa thấp và các điều kiện

khác đã làm giảm cơ hội tiến bước trên thị trường (Johnston, 1993). Đối

với hộ gia đình, động cơ chi tiền hối lộ là rất lớn vì hàng hóa và dịch vụ

khan hiếm cũng như các nhu cầu thiết yếu khác không được thỏa mãn. Số

liệu thực tế cho thấy trong giai đoạn khảo sát một số quốc gia có thu nhập

tăng lên rất nhanh và tình trạng tham nhũng giảm xuống đáng kể. Ví dụ

trường hợp ở Ghana, thu nhập bình quân ở Ghana vào năm 2002 chỉ ở mức

312 USD trong khi đó chỉ số tham nhũng là 6,1. Nhưng đến năm 2014, thu

nhập bình quân của quốc gia này tăng lên 1.646 USD và chỉ số tham nhũng

giảm xuống chỉ còn 5,5. Tương tự, thu nhập bình quân ở Ấn Độ trong giai

đoạn nghiên cứu tăng gần 210% (từ 486 USD lên 1.503 USD) và chỉ số

tham nhũng giảm từ 7,3 xuống còn 6,4.

Kết quả thực nghiệm mối quan hệ phi tuyến thể hiện ở cột 2 và cột 3. Kết

quả ước lượng của mô hình FEM (cột 2) ghi nhận sự tồn tại của mối quan

hệ phi tuyến giữa thu nhập bình quân và tham nhũng dưới dạng hình chữ U

ngược. Lý thuyết hình chữ U ngược ngụ ý mức độ tham nhũng tăng lên

trong giai đoạn đầu nhưng sau đó giảm khi thu nhập bình quân đầu người ở

các quốc gia tăng lên. Hệ số hồi quy của biến ln_gdppc mang dấu dương,

biến ln_gdppc bình phương mang dấu âm và đều có ý nghĩa thống kê trong

mô hình FEM và GLS (cột 2 và cột 5) cho thấy tồn tại hiệu ứng phi tuyến

giữa thu nhập và tham nhũng. Điều này cho biết tham nhũng tăng trong

giai đoạn thu nhập bình quân thấp và giảm khi thu nhập bình quân ở các

quốc gia chuyển đổi tăng lên. Kết quả thực nghiệm một lần nữa khẳng định

lý thuyết về hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng là thật sự tồn

tại (Dzhumashev, 2014). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả thực

nghiệm của Saha & ctg (2013). Tuy nhiên, nghiên cứu của Saha & ctg

133

(2013) thực hiện cho 100 quốc gia bao gồm quốc gia có thu nhập thấp,

trung bình và cao trong giai đoạn 1995 – 2008. Từ đó, Saha & ctg (2013)

đã kết luận điểm ngưỡng (điểm chuyển) của mối quan hệ parabol này là

mức giá trị 7 và được tính theo công thức:

| ln _𝑔𝑑𝑝𝑝𝑐 = |𝛿1 2𝛿2⁄

Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này cho thấy hệ số hồi quy của biến

ln_gdppc bằng 2,59 và của biến ln_gdppc^2 bằng -0,60. Từ đó, ta tính ra

giá trị điểm ngưỡng ở vào khoảng 2,16. Nghĩa là nhỏ hơn rất nhiều so với

phát hiện của Saha & ctg (2013). Điều này cho thấy điểm ngưỡng để

chuyển từ tham nhũng cao sang tham nhũng thấp của các quốc gia chuyển

đổi thấp hơn mức trung bình chung của các quốc gia trên thế giới theo

nghiên cứu của Saha & ctg (2013).

Biểu đồ 5.10: Mối quan hệ phi tuyến giữa tham nhũng và thu nhập

Nguồn: tính toán của tác giả

134

Biểu đồ 5.10 cho thấy mối quan hệ giữa tham nhũng và thu nhập là một

đường cong parabol (hình chữ U ngược). Nhìn vào biểu đồ ta thấy tham

nhũng có khuynh hướng tăng trong giai đoạn đầu khi giá trị logarit của thu

nhập thấp dưới giá trị 2. Nhưng khi giá trị này tăng lên thì tham nhũng có

khuynh hướng giảm xuống. Biểu đồ này một lần nữa cho thấy mối quan hệ

phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng là thật sự có tồn tại.

5.2.2. Kiểm tra tính vững

Trong phần này, luận án tiếp tục thực hiện kiểm định mô hình bằng

phương pháp ước lượng sử dụng biến công cụ. Tuy nhiên, do phương trình

phi tuyến bậc 3 không có ý nghĩa thống kê cho phương pháp ước lượng

FEM và GLS nên phần này luận án chỉ kiểm định tính vững cho mô hình

tuyến tính và mô hình phi tuyến bậc 2.

Bảng 5.9: Kết quả hồi quy các biến bằng phương pháp 2SLS

(5)

(6)

Biến

2SLS

2SLS

2,7021**

Ln_gdppc

-0,6672***

-0,5718***

Ln_gdppc^2

-0,1230***

demo

-0,0980***

-0,2626***

eco_free

-0,2101***

-0,0144

-0,011

unemploy

-0,0013

-0,0013

school

0,0101***

inflation

0,0095***

legal

-0,0645*

-0,0873*

10,8648***

constant

14,1532**

0,022**

0,012**

Davidson-MacKinnon

(p-value)

0.4835

0.1177

Sargan-Hansen (p-value)

598

598

Quan sát

46

46

Quốc gia

Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.

Nguồn: Tính toán của tác giả

135

Tương tự như phần trên, để kiểm tra mô hình có bị nội sinh và thật sự cần

dùng 2SLS, tác giả dựa vào đề xuất của Davidson & MacKinnon (1993)

cho dữ liệu bảng. Kiểm định Davidson & MacKinnon với giả thuyết H0

mô hình không xảy ra hiện tượng nội sinh. Kết quả kiểm định cột 5 và 6

cho thấy giá trị p-value bằng 0,0581 và 0,0120 nên ta bác bỏ giả thiết H0

(mức ý nghĩa 10% và 5%), nghĩa là mô hình có xảy ra hiện tượng nội sinh.

Vì vậy, sử dụng phương pháp 2SLS với các biến công cụ là phù hợp.

Để sử dụng phương pháp ước lượng 2SLS, tác giả sử dụng lại các biến

gồm khoảng cách địa lý của quốc gia với đường xích đạo (Gallup, 1999;

Treisman, 2000) và tuổi thọ trung bình (Sachs & Warner, 1997) để làm

biến công cụ cho biến thu nhập bình quân. Tính hợp lí của các biến công cụ

sử dụng trong phương pháp 2SLS được đánh giá thông qua thống kế

Sargan – Hansen. Kiểm đinh Sargan – Hansen xác định tính chất phù hợp

của biến công cụ dùng trong mô hình. Đây là kiểm định giới hạn nội sinh

của mô hình (overidentifying restrictions) với giả thuyết H0 biến công cụ

là biến ngoại sinh, nghĩa là không tương quan với sai số của mô hình. Vì

thế, giá trị Sargan càng lớn càng tốt. Kiểm định Sargan-Hansen cho thấy

các biến công cụ dự báo tốt cho biến thu nhập trong mô hình.

Kết quả ước lượng 2SLS tại cột (5) khẳng định lại vai trò của thu nhập

trong việc kiểm soát tham nhũng trong mô hình tuyến tính là thật sự có ý

nghĩa. Và cột (6) cũng cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và

tham nhũng là vững. Kết quả phân tích tính vững của ước lượng cung cấp

bằng chứng mạnh mẽ rằng thu nhập tăng lên sẽ giúp giảm tham nhũng tại

các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Như vậy, kết quả thực nghiệm này

đã đưa ra bằng chứng tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham

nhũng.

136

Kết quả thực nghiệm này cũng đã trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ

ba của đề tài đó là có tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và

tham nhũng hay không?

5.2. Kết quả kiểm định hiệu ứng chất bôi trơn của tham nhũng

5.3.1. Kiểm định giả thuyết hiệu ứng hội tụ

Mô hình Solow với tăng trưởng kinh tế dài hạn trên lao động được giải

thích bởi nâng cao hiệu quả lao động và bởi sự tăng trưởng của tỷ lệ vốn

trên lao động đã tạo nên khuôn khổ cho sự phát triển khái niệm “Năng suất

yếu tố tổng hợp, TFP”. Từ mô hình này, thuật ngữ “hội tụ có điều kiện”

cũng được phát triển và sử dụng rộng rãi. Các tính chất này được dựa trên

giả định về lợi tức giảm dần của vốn, do đó các nền kinh tế có tích lũy vốn

trên lao động thấp thường có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn do tỷ suất lợi

tức cao.

Phương pháp ước lượng thường được sử dụng để đánh giá các yếu tố tác

động đến tăng trưởng là ước lượng đối với đơn vị chéo. Phương pháp này

được ứng dụng đầu tiên bởi Mankiw & ctg (1990) và được phát triển gần

đây bởi Rodrik & ctg (2004), Glaeser & ctg (2004) và Lee & Kim (2009).

Các nghiên cứu này lấy bình quân các biến thay đổi theo thời gian qua các

năm. Khi đó, phương pháp OLS được sử dụng để ước lượng cho mô hình

tăng trưởng. Phương pháp này có ưu điểm là nó cho phép ước lượng các hệ

số dựa trên các biến không thay đổi theo thời gian. Biến phụ thuộc được

tính bằng cách lấy GDP per capita năm cuối giai đoạn khảo sát trừ cho

GDP per capita năm đầu tiên. Hiệu ứng hội tụ xảy ra khi hệ số hồi quy của

biến GDP per capita tại năm đầu tiên của giai đoạn khảo sát mang dấu âm.

Kết quả ước lượng như sau:

137

Biến phụ thuộc là ln_gdppc, biến initial_gdppc là thu nhập bình quân đầu giai đoạn khảo sát,

cột 1 thể hiện kết quả hồi quy khi chưa vào mô hình các biến kiểm soát, cột 2 thể hiện kết quả

hồi quy khi đưa vào mô hình các biến kiểm soát.

Bảng 5.10: Kết quả kiểm định hiệu ứng hội tụ

(1)

(2)

Biến

OLS

OLS

initial_gdppc

-0,0001

-0,00012*

invest

0,0064

popg

-0,0834**

top

0,0006

school

-0,0016

eco_free

0,0349

demo

0,0051

cor

0,0313

Gov_Ex

-0,003

Constant

0,4842 ***

0,2406

Quan sát

46

46

R2

0,013

0,3559

Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%

Nguồn: Tính toán tác giả

Hệ số hồi quy của biến gdppc đầu giai đoạn khảo sát (năm 2002) mang dấu

âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 10% cho thấy tồn tại hiệu ứng hội tụ tại

các quốc gia khảo sát. Nghĩa là các quốc gia có GDP ban đầu cao sẽ có tốc

độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, trong khi đó các quốc gia có GDP ban đầu

thấp sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, do đó các quốc gia có thu

nhập thấp vẫn có khả năng bắt kịp các quốc gia có thu nhập cao hơn. Như

vậy, Kết quả thực nghiệm cho thấy có tồn tại hiệu ứng hội tụ tại các quốc

gia chuyển đồi và kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả thực nghiệm

của Lee & Kim (2009).

138

5.3.2. Kết quả thực nghiệm mô hình cơ sở

Như tác giả đã đề cập trong phần các bước phân tích dữ liệu, để lựa chọn

phương pháp ước lượng phù hợp cho dữ liệu bảng, luận án tiến hành kiểm định

Hausman và kết quả cho thấy giá trị P_value là nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%. Vì

vậy, phương pháp ước lượng phù hợp là phương pháp hiệu ứng cố định. Tuy

nhiên, sau khi chạy mô hình hình hiệu ứng cố định (FEM), luận án thực hiện

các kiểm định chuẩn đoán sự phù hợp cho mô hình, kết quả kiểm định phương

sai thay đổi cũng cho giá trị P_value nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%, nghĩa là mô

hình bị xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Do đó, để khắc phục hiện tượng

không đồng nhất phương sai giữa các đơn vị chéo và khả năng xảy ra tự tương

quan giữa các quan sát của từng quốc gia, nghiên cứu sử dụng phương pháp

ước lượng GLS để ước lượng các hệ số hồi quy của mô hình. Kết quả như sau:

Biến phụ thuộc ln_gdppc, cột 1 kết quả hồi quy khi chưa đưa biến tương tác vào mô hình, cột 2

kết quả hồi quy khi đưa biến tương tác giữa demo và cor, cột 3 kết quả hồi quy khi đưa biến

tương tác giữa eco_free và cor.

Bảng 5.11: Kết quả hồi quy giữa các biến bằng phương pháp GLS

(1)

(2)

(3)

Biến

GLS

GLS

GLS

-0.0405*** 0.0144** 0.0097* 0.0021*** 0.0023*** -0.1315*** -0.0001 -0.0038**

0.0461*** 0.0132* 0.0162** 0.0021*** 0.0023*** -0.1329*** -0.0001 -0.0037** -0.0011**

0.0307** 0.0223** -0.0079 0.0021*** 0.0023*** -0.1327*** -0.0001 -0.0037** -0.0013*

cor demo ecofree school inv pop top Gov_Ex demo*cor cco*cor Constant

3.2582*** 0,0000

3.2987*** 0,0000

3.1856*** 0,0000

Wald test (p-value)

598

598

598

Quan sát

46

46

46

Quốc gia

Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%

Nguồn: Tính toán tác giả

139

Bảng 5.11 thể hiện kết quả hồi quy sự tác động của tham nhũng đến tăng

trưởng kinh tế. Trong trường hợp tác giả kiểm soát khung thể chế (biến dân

chủ và biến tự do kinh tế) và các yếu tố kinh tế xã hội (cột 1), hệ số của

biến cor mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Kết quả này lần

nữa khẳng định tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng. Điều này cũng đã

được phát hiện trong các nghiên cứu của Heckelman (2008), Meon (2005)

và Tanzi (1997). Kết quả này phản ánh đúng thực trạng hiện nay tại các

quốc gia có thu nhập thấp. Số liệu thực tế đã cho thấy các quốc gia có thu

nhập rất thấp trong mẫu khảo sát nhưng chỉ số tham nhũng lại ở mức cao

như là Cambodia, Chad, Burundi. Như vậy, nếu chỉ xét đến tác động độc

lập của tham nhũng lên tăng trưởng thì kết quả thực nghiệm ủng hộ cho giả

thuyết “Grabbing hand” của tham nhũng. Điều tra của Mauro (1997) về

hơn 100 quốc gia đã đưa ra đánh giá định lượng về ảnh hưởng này. Tác giả

kết luận rằng nếu một quốc gia tăng điểm số chống tham nhũng của nó

thêm 2,38 điểm trên thang điểm 10 thì tốc độ tăng trưởng tổng thu nhâp

quốc nội sẽ tăng hơn 0,5%.

Tham nhũng có thể làm suy yếu tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh.

Các chính sách sai lầm, các tiến trình không được dự báo và chi tiêu công

bị bóp méo đều làm tổn hại đến phát triển kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng tiêu

cực đến quyền sở hữu tài sản, giảm cạnh tranh, phân bổ nguồn lực không

hiệu quả, làm giảm cho cơ sở hạ tầng bị xuống cấp và làm giảm chi tiêu

cho giáo dục (Murphy & ctg, 1990). Người nghèo sẽ là những người phải

gánh chịu nhiều nhất khi có tham nhũng. Như đã nhấn mạnh trong nghiên

cứu của (De Soto, 2000), tiền hối lộ mà quan chức nhà nước yêu cầu là đại

diện các loại thuế có hại cho doanh nghiệp vì chúng chiếm tỷ trọng lớn hơn

trong thu nhập của các doanh nghiệp nhỏ khi so với các doanh nghiệp lớn.

Ngoài ra, tham nhũng còn hủy hoại hoạt động cung cấp các dịch vụ công,

chẳng hạn như chăm sóc y tế và giáo dục, là những dịch vụ rất quan trọng

140

đối với cuộc sống của người nghèo. Tại những nơi mà quan chức đòi hối lộ

để cung cấp dịch vụ, người nghèo thậm chí sẽ không được tiếp cận ngay cả

các dịch vụ chất lượng thấp.

Biểu đồ 5.11: Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế

Nguồn: tính toán của tác giả

Biểu đồ 5.11 cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa thu nhập và tham

nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Tham nhũng tác động lên tăng trưởng

kinh tế theo nhiều cách thức. Ở cấp độ vi mô, nhiều bằng chứng thực

nghiệm cho thấy tham nhũng làm giảm hiệu quả trong việc phân bổ và sử

dụng các yếu tố sản xuất (Dal Bó & Rossi, 2007). Ở cấp độ vĩ mô, tham

nhũng đã được chứng minh có ảnh hưởng tiêu cực đến GDP bình quân đầu

người và tăng trưởng (Ades & Di Tella, 1999; Mauro, 1997). Số liệu thực

tế cũng đã cho thấy các quốc gia có mức độ tham nhũng cao thường có tốc

độc tăng trưởng thấp.

141

Bên cạnh đó, kết quả cột 1 cũng cho thấy hệ số hồi quy của biến demo và

eco_free mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy chất

lượng thế chế tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Phát hiện này cho

thấy vai trò quan trọng của chất lượng thể chế đối với tăng trưởng đặc biệt

là các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi (Heckelman, 2008; Lee et al.,

2008). Như đã đề cập, các quốc gia chuyển đổi có mức độ dân chủ thấp và

tự do kinh tế chưa cao, việc mở rộng mức độ dân chủ và đẩy mạnh chính

sách cải cách để tiến đến một nền kinh tế tự do mang lại lợi ích rất nhiều

trong việc thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện thu nhập ở các quốc gia này.

Biểu đồ 5.12: Tác động của tự do kinh tế đến tăng trưởng

Nguồn: tính toán của tác giả

142

Biểu đồ 5.13: Tác động của dân chủ đến tăng trưởng

Nguồn: tính toán của tác giả

Biểu đồ 5.12 và 5.13 cho thấy tồn tại mối quan hệ thuận chiều giữa chất

lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi. Nghiên

cứu của Kaufmann & Kraay (2002) cũng đã tìm thấy mối tương quan mạnh

mẽ và tích cực giữa thu nhập bình quân đầu người và chất lượng thể chế

công. Số liệu thực tế cũng đã cho thấy các quốc gia có thu nhập bình quân

cao như El Savador, Georgia, Paraguay… đều có thu nhập trung bình trên

mức 3.000 USD và có chỉ số tự do kinh tế và tự do dân chủ trên mức

6,5/10. (Rivera‐Batiz, 2002) cho rằng thể chế cải thiện dân chủ giúp thúc

đẩy tăng trưởng thông qua các hành động hạn chế quan chức tham nhũng.

Nghiên cứu thực nghiệm của ông cho thấy dân chủ là một yếu tố quan

trọng kích thích sự thay đổi công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra,

Campos & Nugent (1999) sử dụng các phương pháp riêng để xác định mức

độ quy định của pháp luật và ổn định chính trị tác động đến GDP. Nghiên

cứu kết luận quy định của pháp luật và ổn định chính trị là cần thiết để đảm

143

bảo hệ thống pháp lý trong sạch nhằm loại bỏ những trở ngịa trong việc thu

hút đầu tư nước ngoài và góp phần vào tăng trưởng kinh tế.

Kết quả thực nghiệm cho thấy tỷ lệ đầu tư có tác động tích cực đến tăng

trưởng của quốc gia với mức ý nghĩa cao. Kết quả này lần nữa khẳng định

vai trò quan trọng của yếu tố vốn vật chất trong các mô hình tăng trưởng đã

được đề cập trong nhiều nghiên cứu trước đây. Điều này cho thấy tăng

trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi vẫn phụ thuộc vào tăng trưởng

vốn. Kết quả này phản ánh đúng thực trạng hiện nay về trình độ phát triển

và khả năng ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn hạn chế tại các

nền kinh tế này. Kết quả này phù hợp với kết quả thực nghiệm trong tất cả

bốn giai đoạn khảo sát của Ekanayake & Chatrna (2010).

Biểu đồ 5.14: Tác động của đầu tư đến tăng trưởng

Nguồn: tính toán của tác giả

Ngoài ra, kết quả thực nghiệm cũng cho thấy hệ số hồi quy của biến trình

độ dân trí mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở mức cao (mức 1%).

Điều này cho thấy trình độ dân trí tác động tích cực đối với tăng trưởng

144

kinh tế. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mô hình lý thuyết của hàm

Cobb-Douglass về vai trò của nguồn vốn con người. Kết quả nghiên cứu

này tiếp tục khẳng định vai trò của nguồn nhân lực có trình độ tri thức đối

với công cuộc phát triển đất nước, nhất là các nước đang chuyển đổi.

Biểu đồ 5.15: Tác động của trình độ dân trí đến tăng trưởng

Nguồn: tính toán của tác giả

Hệ số hồi quy của biến popg mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê. Nghĩa

là tốc độ gia tăng dân số ở các quốc gia chuyển đổi tác động tiêu cực đến

tăng trưởng kinh tế. Kết quả này hàm ý tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia

chuyển đổi không phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng vốn lao động. Ngược

lại, tốc độ gia tăng dân số gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế ở

các quốc gia này. Điều này có thể được lý giải là do tỷ lệ thất nghiệp tại

các quốc gia này hiện ở mức khá cao (trung bình chiếm tỷ lệ 8,15% dân

số), do đó việc bổ sung thêm nguồn lực lao động không có ý nghĩa cho

tăng trưởng mà đôi khi trở thành áp lực về mặt kinh tế xã hội.

145

Biểu đồ 5.16: Tác động của tốc độ tăng dân số đến tăng trưởng

Nguồn: tính toán của tác giả

Biến Gov_Ex có ý nghĩa thống kê và mang dấu âm. Điều này cho thấy chi

tiêu công tác động tiêu cực đối với tăng trưởng tại các quốc gia khảo sát.

Một quốc gia nếu có mức chi tiêu công vừa phải cùng với việc chính phủ

thực hiện kiểm soát chi tiêu công hiệu quả sẽ góp phần tạo các hiệu ứng

tích cực thúc đẩy tăng trưởng. Nhưng ngược lại, nếu việc kiểm soát chi tiêu

công không hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí, nguồn lực tài chính

quốc gia được phân bổ vào các lĩnh vực không mang lại lợi ích cho xã hội,

cho cộng đồng sẽ gây ra các hiệu ứng tiêu cực đối với tăng trưởng. Các

quốc gia khảo sát mặt dù tỷ lệ chi tiêu công của chính phủ không cao so

với GDP nhưng trong bối cảnh tham nhũng cao và chất lượng thể chế còn

hạn chế thì khoản chi tiêu công này gây tác động tiêu cực cho tăng trưởng

cũng là điều khó tránh khỏi. Các nghiên cứu trước đây của Landau (1983),

Marlow (1988) và Fölster & Henrekson (2001) cũng cho thấy chi tiêu công

tác động tiêu cực đối với tăng trưởng.

146

Biểu đồ 5.17: Tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế

Nguồn: tính toán của tác giả

Cuối cùng, kết quả thực nghiệm cho thấy hệ số hồi quy của biến top không

có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, khi chúng tôi thực hiện với phương pháp

ước lượng GMM sai phân thì biến top tác động có ý nghĩa thống kê và

mang dấu dương. Điều này cũng đã được chứng minh trong rất nhiều các

nghiên cứu thực nghiệm trước đây về vai trò tích cực của độ mở thương

mại đối với tăng trưởng kinh tế.

Kết quả thực nghiệm của mô hình tuyến tính cơ bản đã trả lời được

câu hỏi nghiên cứu thứ tư của luận án “tham nhũng tác động như thế

nào đối với tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi?”

5.3.3. Kết quả thực nghiệm mô hình biến tương tác

Như vậy, kết quả thực nghiệm của luận án cũng đã ủng hộ cho giả thuyết

tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế và kết quả này cũng trùng

khớp với nhiều nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Tuy nhiên, luận án cho

147

rằng trong bối cảnh các quốc gia có chất lượng thể chế yếu kém, sự trì trệ

của bộ máy chính quyền và nền hành chính công sẽ gây cản trở tăng trưởng

kinh tế một cách nghiêm trọng hơn. Và trong bối cảnh đó, đại diện khu vực

tư muốn tham gia hoạt động kinh doanh tại các thị trường này thì phải chấp

nhận các khoản đút lót cho giới công chức, đặc biệt là những người nắm

quyền trong khu vực công. Khi đó, tham nhũng cũng có thể đóng vai trò là

“Helping Hand” (bàn tay giúp đỡ) bởi nó góp phần “bôi trơn” bánh xe

thương mại ở quốc gia có thể chế còn mang nặng tính hành chính. Do đó,

kết quả thực nghiệm này kỳ vọng rằng các khoản đút lót sẽ giúp các doanh

nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tiết kiệm được

chi phí hành chính, tiết kiệm thời gian chờ đợi và tận dụng các ưu đãi về

mặt chính sách trong bối cảnh chất lượng khung thể chế còn nhiều hạn chế

tại các quốc gia này (Heckelman & Powell, 2010).

Chính vì lý do trên, luận án xác định mục tiêu trọng tâm là kiểm định vai

trò chất bôi trơn của tham nhũng đối với tăng trưởng trong điều kiện chất

lượng thể chế yếu kém của các quốc gia chuyển đổi. Để đạt được mục tiêu

này, luận án đã lần lượt thêm vào mô hình biến tương tác giữa tham nhũng

và biến đại diện cho chất lượng thể chế chính trị và kết quả được thể hiện

tại cột 2 của Bảng 5.11. Sau đó, luận án tiếp tục thêm vào mô hình biến

tương tác giữa tham nhũng và biến đại diện cho chất lượng thể chế kinh tế

và kết quả được thể hiện tại cột 3 của Bảng 5.11.

Cột 2 thể hiện kết quả hồi quy khi thêm vào mô hình biến tương tác giữa

tham nhũng và dân chủ (thể chế chính trị). Khi đó, biến tham nhũng có tác

động tích cực đến tăng trưởng ở mức ý nghĩa 10%. Trong khi đó, hệ số hồi

quy của biến tương tác demo*cor mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở

mức 1%, nghĩa là tham nhũng trở nên tiêu cực cho tăng trưởng ở các quốc

gia có chỉ số dân chủ cao (chất lượng thể chế được cải thiện). Kết quả này

148

khẳng định sự tồn tại của giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng lên tăng

trưởng khi chất lượng thể chế chính trị là thấp.

Biểu đồ 5.18: Hiệu ứng tương tác của dân chủ và tham nhũng lên

tăng trưởng

Nguồn: tính toán của tác giả

Tương tự, khi thêm vào mô hình biến tương tác eco*cor (cột 3) kết quả hồi

quy cũng cho thấy hệ số biến cor mang dấu dương và biến tương tác mang

dấu âm. Điều này có nghĩa là trong điều kiện mức độ tự do kinh tế thấp

tham nhũng sẽ trở thành chất bôi trơn giúp thúc đẩy tăng trưởng, nhưng khi

mức độ tự do kinh tế được cải thiện thì tham nhũng trở nên tiêu cực cho

tăng trưởng. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Venard (2013).

149

Biểu đồ 5.19: Hiệu ứng tương tác của tự do kinh tế và tham nhũng lên

tăng trưởng

Nguồn: tính toán của tác giả

Kết quả thực nghiệm trên cho thấy tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng

kinh tế nói chung. Tuy nhiên, trong điều kiện chất lượng thể chế tương đối

thấp, tham nhũng có thể giúp kích hoạt cơ chế vận hành của nền hành

chính và khắc phục các rào cản của chính sách và từ đó giúp thúc đẩy tăng

trưởng.

Kết quả thực nghiệm của mô hình biến tương tác này cũng đã trả lời

cho câu hỏi nghiên cứu thứ năm của luận án là “trong điều kiện chất

lượng thể chế kém tại các quốc gia chuyển đổi, tham nhũng có trở

thành chất bôi trơn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế?”.

5.3.4. Phân tích tính vững bằng phương pháp D-GMM

Như đã phân tích trong phần phương pháp ước lượng, tham nhũng và tăng

trưởng có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Bên cạnh đó, các mô hình tăng

trưởng thường bao gồm các biến bị nội sinh. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng

150

cao sẽ dẫn đến tăng trưởng cao, sau đó khi tăng trưởng cao sẽ thúc đẩy đầu

tư nhiều hơn. Saha & Gounder (2013) nghi ngờ sự ngoại sinh của biến

tham nhũng khi việc đo lường biến này tương quan chặt chẽ và tăng mạnh

cùng với mức độ phát triển kinh tế. Điều này dẫn đến vấn đề đồng thời làm

cho các ước lượng GLS, 2SLS có thể bị chệch.

Như vậy, để xử lý vấn đề nội sinh và khả năng bị phương sai thay đổi của

sai số trong mô hình, nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng GMM

sai phân để kiểm định tính vững của ước lượng trên. Trước khi thể hiện kết

quả ước lượng, nghiên cứu kiểm tra xem có sự tồn tại của tự tương quan

bậc 2 của sai số và kiểm tra tính hợp lý của các biến công cụ. Kiểm định

Arellano-Bond cho thấy chấp nhận giả thuyết H0, nghĩa là sai số không bị

tự tương quan bậc 2. Kiểm định Hansen cũng cho thấy việc sử dụng các

biến công cụ trong ước lượng system GMM là có tính hiệu lực. Kết quả

được thể hiện trong Bảng 5.12.

151

Biến phụ thuộc ln_gdppc, cột 4 kết quả hồi quy khi chưa đưa biến tương tác vào mô hình, cột 5

kết quả hồi quy khi đưa biến tương tác giữa demo và cor, cột 6 kết quả hồi quy khi đưa biến

tương tác giữa eco_free và cor.

Bảng 5.12: Kết quả hồi quy các biến bằng phương pháp D-GMM

(4)

(5)

(6)

Biến

D-GMM

D-GMM

D-GMM

0,9482*** 0,0034** 0,0115*** 0,0160** 0,0004 -0,0092 0,0027* 0,0016*** -0,0155***

0,9317*** 0,0179** 0,0193* 0,0135** 0,0005 -0,0125 0,0058*** 0,0075*** -0,0232***

Ln_gdp(-1) cor demo eco_free school popg top invest Gov_Ex demo*cor

0,9398*** -0,0008* 0,0107** 0,0130** 0,0005 -0,0063 0,0033* 0,0016** -0,0207***

eco*cor

-0,0005*

AR(2)

0,715

0,310

-0,002* 0,423

Sargan test

0.273

0.714

0.317

Quan sát

506

506

506

Quốc gia

46

46

46

Ghi chú: *, **, *** biểu thị cho ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%.

Nguồn: Tính toán tác giả

Cột 4 cho thấy dấu của các biến cor, demo, eco_free, invest, popg, top,

school và Gov_Ex đều không thay đổi. Điều này cho thấy kết quả thực

nghiệm sự tác động của các biến này đến tăng trưởng là vững.

Cột 5 và cột 6 thể hiện kết quả hồi quy D-GMM khi thêm biến tương tác

demo*cor và eco*cor, kết quả cho thấy dấu của các hệ số hồi quy của các

biến cor, demo, ecofree, demo*cor và eco*cor là tương tự kết quả trên cột

2, cột 3 của Bảng 5.12. Vì vậy, sự tác động của các biến này là vững.

152

Kết luận chương 5

Chương này đã trình bày kết quả thực nghiệm các yếu tố tác động đến mức

độ tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Kết quả cho thấy cả chất lượng

thể chính trị lẫn thể chế kinh tế đều có vai trò quan trọng trong việc kiểm

soát tham nhũng. Cụ thể, việc tăng cường chất lượng thể chế thông qua

việc mở rộng chỉ số tự do kinh tế và tự do dân chủ sẽ giúp giảm tham

nhũng tại các quốc gia này. Ngoài ra, kết quả phân tích mô hình biến tương

tác cũng cho thấy chất lượng thể chế chính trị và chất lượng thể chế kinh

tế có vai trò tương hỗ lẫn nhau trong việc bài trừ nạn tham nhũng, tuy

nhiên, mức ngưỡng của các tác động là không giống nhau.

Bên cạnh đó, một phát hiện thú vị của nghiên cứu này là tồn tại mối quan

hệ hình chữ U ngược giữa thu nhập và tham nhũng. Đây là một phát hiện

mới và khác với các nghiên cứu trước đây. Các nghiên cứu trước đây chỉ

quan tâm đến mối quan hệ tuyến tính nghịch giữa thu nhập và tham nhũng,

nghĩa là cải thiện thu nhập sẽ giúp hạn chế tham nhũng một cách tích cực.

Tuy nhiên, kết quả thực nghiệm cho thấy giai đoạn đầu của sự phát triển,

thu nhập người dân tăng lên lại thúc đẩy hoạt động tham nhũng nhiều hơn

tại các quốc gia chuyển đổi. Sau đó, khi nền kinh tế đi vào giai đoạn phát

triển ổn định thu nhập tăng lên làm giảm tham nhũng đáng kể.

Chương 5 cũng đã thể hiện kết quả thực nghiệm sự tác động của tham

nhũng đến tăng trưởng kinh tế dưới vai trò của chất lượng khung thể chế.

Nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy vai trò tích cực của tham nhũng trong

điều kiện chất lượng thể chế kém tại các quốc gia chuyển đổi. Khi đó, tham

nhũng trở thành chất bôi trơn góp phần thúc đẩy sự vận hành của nền hành

chính trì trệ và giảm thiểu các trở ngại bị gây ra bởi giới công chức từ đó

giúp cải thiện tăng trưởng.

153

CHƯƠNG 6

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Giới thiệu

Tham nhũng vẫn còn là một vấn đề nghiêm trọng ở các quốc gia đang

chuyển đổi. Mặc dù kết quả thực nghiệm cho thấy có tồn tại hiệu ứng chất

bôi trơn của tham nhũng, nhưng tác giả tin rằng vẫn tồn tại một bộ phận

lớn công chúng cảm thấy quan ngại về tham nhũng. Theo kết quả khảo sát

của Worldbank về góc nhìn tham nhũng năm 2013 tại Việt Nam, có ít nhất

một phần ba tổng số người được hỏi coi tham nhũng là một trong ba vấn đề

nghiêm trọng nhất mà nước ta đang phải đối mặt (WorldBank, 2013). Các

khuyến nghị dưới đây được rút ra trực tiếp từ các phát hiện của kết quả

thực nghiệm, từ việc xác định yếu tố tác động đến phân tích giải pháp cần

thiết để kiểm soát các hành vi tham nhũng của giới công chức.

Trong phần này, luận án bắt đầu từ việc tóm lược các phát hiện chính của

kết quả thực nghiệm. Sau đó, luận án đưa ra những khuyến nghị liên quan

đến chất lượng thể chế và những thay đổi về luật pháp và quy định nhằm

bài trừ nạn tham nhũng. Cuối cùng, luận án chuyển sang các giải pháp

nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế theo xu hướng tạo lập môi trường đầu tư

thông thoáng, minh bạch và không có tham nhũng.

6.1. Các phát hiện chính của nghiên cứu

Mục tiêu thứ nhất của nghiên cứu này là khảo sát các yếu tố tác động đến

tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi. Với bộ dữ liệu thu thập giai đoạn

2002-2012 và ứng dụng các phương pháp ước lượng FEM, GLS và 2SLS

dành cho dữ liệu bảng, kết quả thực nghiệm cho thấy tự do kinh tế và dân

chủ là hai tố quan trọng đại diện cho chất lượng thể chế của quốc gia trong

154

việc kiểm soát tham nhũng, nghĩa là việc thiết kế khung thể hướng đến một

nền kinh tế tự do và mở rộng nền dân chủ của quốc gia có tác động tích cực

đến việc bài trừ vấn nạn tham nhũng tại các quốc gia. Hai yếu tố này cùng

tồn tại và bổ trợ cho nhau trong việc chống tham nhũng. Khi một nền kinh

tế thiếu dân chủ thì việc cải thiện tự do kinh tế sẽ giúp bài trừ tham nhũng

hiệu quả. Ngược lại, việc mở rộng mức độ dân chủ cũng giúp chống tham

nhũng tại các nền kinh tế còn thiếu môi trường kinh doanh thông thoáng và

minh bạch (tự do kinh tế thấp). Bên cạnh đó, kết quả thực nghiệm cũng cho

thấy việc kiểm soát lạm phát và các quốc gia có nguồn gốc pháp lý từ Anh

cũng sẽ giúp hạn chế tình trạng tham nhũng tại các quốc gia khảo sát. Cuối

cùng, hệ số hồi quy của biến tỷ lệ thất nghiệp có tác động âm và có ý nghĩa

thống kê trong các kết quả ước lượng.

Mục tiêu thứ hai của nghiên cứu này là khám phá sự tồn tại mối quan hệ

phi tuyến giữa thu nhập và mức độ tham nhũng ở các quốc gia có nền kinh

tế chuyển đổi, tác giả tiến hành phân tích hồi quy sự tác động của thu nhập

bình quân đầu người cùng với khung thể chế và yếu tố kinh tế xã hội đến

tham nhũng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cải thiện thu nhập có tác

động tích cực trong việc kiểm soát và chống tham nhũng tại các quốc gia

khảo sát. Tuy nhiên, mối quan hệ này là phi tuyến, nghĩa là giai đoạn đầu

của sự phát triển sẽ làm tăng tham nhũng tại các quốc gia có nền kinh tế

chuyển đổi nhưng sau đó khi nền kinh tế đi vào giai đoạn phát triển ổn định

sẽ làm giảm tham nhũng đáng kể.

Kiểm định vai trò chất bôi trơn của tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế

trong điều kiện chất lượng thể chế còn yếu kém cũng là mục tiêu cuối cùng

của nghiên cứu này. Kết quả thực nghiệm cho thấy tham nhũng có tác động

tích cực đối với tăng trưởng kinh tế bởi vì tham nhũng giúp khu vực tư

nhân tránh được các rào cản về mặt quản lý hành chính, thủ tục pháp lý

rườm rà và sự đình trệ của bộ máy công chức. Điều này cho thấy giả thuyết

155

về “speed money” hay “greases of the wheel” là có tồn tại ở các quốc gia

khảo sát.

6.2. Các gợi ý chính sách

6.2.1. Các giải pháp góp phần kiểm soát tham nhũng

Đấu tranh chống tham nhũng đòi hỏi phải giải quyết tận gốc những nguyên

nhân gây ra nó. Đặc biệt tại những nơi tham nhũng đã lan ra trên diện rộng

thì đấu tranh chống tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra và cưỡng

chế cho từng trường hợp thì chưa đủ. Nổ lực này cần hướng tới mục tiêu

giảm cơ hội thực hiện hành vi tham nhũng, tăng cạnh tranh trong nền kinh

tế, tăng cường minh bạch chính trị, tăng sự tham gia của xã hội dân sự vào

các quá trình hoạch định, thực thi và theo dõi thực thi chính sách.

Các nhà hoạch định chính sách cần xác định họ nên tập trung nỗ lực vào

các yếu tố dễ dàng thực hiện các chiến lược phòng chống tham nhũng, hay

tập trung nỗ lực vào những yếu tố dễ dàng dập tắt tham nhũng với kết quả

cao nhất, cho dù những nỗ lực này đòi hỏi phải tiến hành nhiều cuộc đàm

phán chính trị. Sẽ không có câu trả lời theo thông lệ. Chính phủ sẽ lựa chọn

yếu tố cần tập trung dựa trên nguồn lực và cam kết, và chỉ nên đưa ra câu

trả lời sau khi chẩn đoán tổng thể các yếu tố tác động đến tham nhũng. Từ

kết quả thực nghiệm trên cùng với giới hạn của phạm vi nghiên cứu các

yếu tố tác động đến tham nhũng, luận án đưa ra một số các giải pháp góp

phần kiểm soát hoạt động tham nhũng tại các quốc gia có nền kinh tế

chuyển đổi như sau:

Thứ nhất, các quốc gia cần xác định mục tiêu trọng tâm cho chiến lược

chống tham nhũng đó là cần thiết lập chất lượng khung thể chế hiệu quả.

Nó được thể hiện bằng việc cải thiện chỉ số tự do kinh tế nhằm tạo lập môi

trường kinh tế thông thoáng và minh bạch. Khi chỉ số tự do kinh tế được

cải thiện đồng nghĩa với việc một quốc gia có đáp ứng được tiêu chí về hệ

156

thống pháp luật và quyền sở hữu, xây dựng được đồng tiền lành mạnh, thể

hiện sự tự do thương mại quốc tế và các quy định rõ ràng sẽ giúp thu hút

đầu tư, tạo việc làm cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc mở rộng mức độ

dân chủ cũng là yếu tố quan trọng của chất lượng khung thể chế quốc gia.

Dân chủ ở đây được thể hiện thông qua cơ chế bầu cử tự do, công bằng và

tự do báo chí. Quyền tự do báo chí cho phép giới truyền thông có nhiều cơ

hội hơn để công khai, lên án những sai sót của các quan chức nhà nước

nhằm kỷ luật và ngăn chặn sự tái diễn về sau. Đưa chủ đề tham nhũng vào

trong môi trường giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm

trong toàn dân trong việc chống tham nhũng. Dẫu biết rằng việc cải cách

một hệ thống chính trị nhằm mang lại một nền dân chủ toàn diện hơn

không phải là điều dễ dàng và nhanh chóng, nhưng rõ ràng là nó rất cần

thiết và cấp bách trong việc giảm thiểu và bài trừ vấn nạn tham nhũng. Tác

giả cho rằng điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển

vì loại bỏ tham nhũng không chỉ là để duy trì đạo đức xã hội mà còn mở ra

nhiều cơ hội phát triển đất nước. Các yếu tố này sẽ giúp quốc gia ngăn

chặn và bài trừ tham nhũng hiệu quả. Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy:

những năm vừa qua, chính phủ đã thực hiện cơ chế cải cách nền hành

chính công hướng đến việc tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng.

Điều này đã đem lại những thành quả rất đáng tự hào: chỉ số tăng trưởng

kinh tế ở mức cao so với các quốc gia trong khu vực, thu hút vốn đầu tư

trong nước và nước ngoài ngày càng tăng, chỉ số năng lực cạnh tranh quốc

gia ngày càng được cải thiện… Tuy nhiên, theo số liệu tác giả thu thập

trong bài nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn 2002 – 2012 chỉ số cảm nhận

tham nhũng của Việt Nam lại có chiều hướng tăng cao, nếu năm 2002 chỉ

số CPI là 5.86 thì đến năm 2012 tăng lên đến 6.42. Mặc dù chỉ số tự do

kinh tế của Việt Nam ở mức khá cao trong nhóm các quốc gia khảo sát

(trung bình giai đoạn khoảng 7.5) nhưng mức độ dân chủ lại rất thấp (trung

bình giai đoạn khoảng 3.8). Vì vậy, quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng

157

chính phủ Việt Nam cần thiết mở rộng hơn nữa mức độ dân chủ thông qua

cơ chế bầu cử công bằng và tự do ngôn luận thì mới có thể bài trừ vấn nạn

tham nhũng hiệu quả.

Củng cố thể chế bầu cử có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc cải

cách thể chế

Ở cấp độ quốc gia, nếu luật bầu cử không hợp lý (hoặc nếu thực thi yếu

kém dù luật rất tốt), chi phí bầu cử có thể trở nên rất tốn kém, khiến cho

các nhà hoạt động chính trị phải tìm kiếm các nguồn tài trợ cho chiến dịch

vận động bầu cử. Điều này gây ra nhiều tác động tiêu cực ở cấp ngành

(WorldBank, 2008). Nhu cầu này thường được giải quyết bằng cách bóp

méo các chính sách, quy chế và quyết định số phân bổ ngân sách hàng

năm. Trong bối cảnh không có một hệ thống tuyển dụng và xét tuyển thăng

chức cho cán bộ dựa trên thành tích công việc, những nhân viên có năng

lực yếu kém vẫn có thể tìm được cách “chui” lên các vị trí cao hơn trong hệ

thống chính trị. Những nhân viên như vậy thường trở thành đàn em dưới

trướng các ông chủ hoạt động chính trị và sẽ là người trực tiếp thu xếp

những vụ thông thầu hay các mạng lưới tham nhũng. Nói tóm lại, các thể

chế bầu cử yếu kém có thể khuyến khích sự chi phối nhà nước là hiện

tượng hay xảy ra ở cấp ngành. Việc này sẽ thúc đẩy tham nhũng tại cấp cơ

quan và cấp dự án. Do đó, nếu muốn duy trì các nỗ lực để giảm tham

nhũng một cách đáng kể thì không thể không có những cải cách đối với cơ

chế bầu cử.

Về phía chính phủ, cần nhận thức đúng bản chất cũng như thấy được ý

nghĩa thực sự của việc thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ và cơ

quan quản lý nhà nước. Điều này được thể hiện thông qua việc chính phủ

và cơ quan quản lý nhà nước cung cấp, giải thích các thông tin về thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Vì thế, trách nhiệm giải trình được xem là

158

phương thức, công cụ để minh bạch hóa các quyết định, hành vi quản lý,

hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, qua đó góp phần phòng

ngừa tham nhũng và giảm tệ quan liêu. Về pháp lý, trách nhiệm giải trình

của cơ quan nhà nước thường chỉ đặt ra khi có yêu cầu của các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết

định, hành vi của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, chúng tôi hàm ý sâu xa

hơn đó là thể hiện thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ công chức với tinh

thần “thân dân” và “gần dân” hơn. Làm được điều này không những góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham

nhũng mà còn nêu cao phẩm chất tốt đẹp của đội ngũ công chức là luôn tôn

trọng nhân dân.

Về phía người dân, cần ràng buộc trách nhiệm cung cấp dịch vụ công.

Người dân cần ràng buộc chính phủ về trách nhiệm đối với các dịch vụ mà

chính phủ cung cấp, người dân cần có cơ hội lên tiếng và thể hiện mức độ

hài lòng của mình về chất lượng dịch vụ công. Nhằm nâng cao tính năng

động của người dân trong việc thực hiện sự giám sát chính phủ trong hoạt

động công thì thông tin đóng một vai trò quan trọng. Người dân nên phát

huy các phiếu trưng cầu ý kiến và sử dụng chúng như một cơ chế phản hồi

thông tin. Các phiếu trưng cầu ý kiến nên được sử dụng rộng rãi hơn và kết

quả của các cuộc điều tra cần được công bố đều đặn như một phần của quy

trình chia sẻ thông tin. Có như vậy thì vấn nạn tham nhũng mới được giải

quyết triệt để.

Thứ hai, cải thiện thu nhập của giới công chức nên được xem là một trong

những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Một trong những căn nguyên của bệnh

tham nhũng chính là thu nhập (Heckelman & Powell, 2010; Saha &

Gounder, 2013; Treisman, 2000). Trong mẫu khảo sát cho thấy tỷ lệ tham

nhũng luôn ở mức cao tại các quốc gia có thu nhập thấp. Ở các quốc gia

như Burundi, Chad, Guinea và Tajikistan, thu nhập bình quân chỉ ở mức

159

dưới 300 USD nhưng chỉ số tham nhũng là rất cao (từ 7.7 trở lên). Kết quả

hồi quy đã cho thấy thu nhập giúp hạn chế tình trạng tham nhũng một cách

có ý nghĩa thống kê. Như vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh các giải pháp để

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, việc ưu tiên ngân sách thực hiện chính sách

cải cách lương trong khu vực công sẽ là giải pháp thiết thực trong việc

chống tham nhũng. Vì suy cho cùng, nạn tham nhũng xuất phát từ thu nhập

thấp trong khu vực công, và nhất là khi tiền lương khu vực công còn thấp

hơn so với thu nhập khu vực tư thì vấn nạn tham nhũng sẽ còn tiếp tục tái

diễn. Vì vậy, tác giả cho rằng việc thực hiện chính sách cải cách lương

nhằm giảm chênh lệch quá lớn tại các nền kinh tế này sẽ giúp hạn chế tình

trạng tham nhũng hiệu quả hơn. Chỉ số gdppc của Việt Nam trong mẫu

khảo sát tăng từ 477 USD năm 2002 lên 1.755 USD năm 2012, kèm theo

đó là Việt Nam liên tục thực hiện cải cách tiền lương khu vực công trong

giai đoạn này, năm 2002 mức lương tối thiểu là 290.000 đồng/tháng đã

tăng lên 1.050.000 đồng/tháng vào năm 2012. Tuy nhiên, tổng thu nhập mà

người lao động nhận được trong khu vực công được cho là còn thấp hơn rất

nhiều so với khu vực tư và nhất là khi so sánh với khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài. Chính sự chênh lệch này cũng được xem là nguyên nhân dẫn

đến chỉ số tham nhũng ở Việt Nam có chiều hướng ngày càng tăng. Vì vậy,

Việt Nam cần quan tâm hơn nữa trong cơ chế trả lương để nhằm giảm

chênh lệch thu nhập của công chức so với lao động làm việc khu vực tư.

Từ đó, công chức sẽ giảm việc gây khó khăn cho người dân để nhằm trục

lợi.

Bên cạnh cải cách thu nhập cho người lao động, việc tạo ra một môi trường

làm việc thuận lợi, khiến nhân viên phát triển được sự nghiệp sẽ đảm bảo

cho người lao động tiếp tục cam kết với cải cách. Báo cáo của Worldbank

(2008) cho thấy thật sai lầm nếu nhận định rằng tất cả giới công chức làm

việc trong khu vực công đều tham nhũng. Thông thường, người ta thấy

160

rằng nếu có một bộ phận nhỏ cán bộ, công chức tham nhũng đến mức

không thể cứu vãn được thì cũng có khoảng chừng ấy cán bộ, công chức

đấu tranh chống lại tham nhũng, đại đa số còn lại tỏ ra trung lập hoặc tham

nhũng một cách thụ động (Worldbank, 2008). Đó là những cán bộ, công

chức bằng lòng trong một cơ chế mà động cơ làm việc bị bóp méo, nơi mà

tham nhũng chẳng những không bị trừng trị mà còn được khuyến khích. Vì

vậy, cần triển khai một hệ thống khách quan và có sự tham gia để đánh giá

hiệu quả công việc, tổ chức các chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình

độ cho người lao động, thăng tiến dựa trên thành tích, động viên khen

thưởng cần gắn với hiệu quả làm việc. Một hệ thống minh bạch cần hạn

chế bớt sự tùy tiện của cấp quản lý khi quyết định luân chuyển cán bộ.

Việc làm này chắc chắn sẽ chặn đứng cơ hội phát sinh tham nhũng của giới

công chức trong khu vực công.

Thứ ba, khi nền kinh tế ở các quốc gia bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ

chuyển đổi, tham nhũng có xu hướng gia tăng do khu vực tư có xu hướng

đút lót nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho mình. Khi đó, một quốc gia

được thiết lập với khung thể chế chính trị hướng đến việc mở rộng nền dân

chủ thông qua bầu cử tự do và công bằng sẽ giúp ngăn chặn và loại trừ

tham nhũng hiệu quả hơn. Người dân cần được tự do thể hiện quyền được

lựa chọn người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt lên nắm quyền. Đồng

thời có quyền bỏ phiếu bãi nhiệm và thay thế khi người lãnh đạo không

hoàn thành trách nhiệm hoặc có hành vi làm dụng công quyền nhằm tư lợi.

Các quyền này sẽ là động lực để người dân giám sát các hoạt động của bộ

máy chính quyền và phản ảnh tình trạng tiêu cực trong quá trình thực thi

công quyền của các quan chức trong khu vực công. Điều này chắc chắn sẽ

giúp kiềm chế hoạt động tham nhũng hiệu quả. Từ đó, góp phần nâng cao

chất lượng và hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính khu vực công tạo

điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.

161

Thứ tư, kết quả thực nghiệm cho thấy các quốc gia có hệ thống pháp luật

có nguồn gốc từ Anh hoặc là thuộc địa cũ của Anh sẽ ít tham nhũng hơn

các quốc gia khác. Kết luận này đã từng được đề cập trong nghiên cứu

“hình phạt và tội phạm” của Becker (1974). Điều này hàm ý các quốc gia

nên tăng cường hiệu lực của hệ thống thực thi pháp luật giúp phòng chống

tham nhũng hiệu quả. Tình trạng tham nhũng diễn ra phổ biến, dưới nhiều

hình thức và ngày càng trầm trọng tại một số quốc gia trong mẫu khảo sát

một phần là do luật pháp chưa đủ nghiêm minh.Tuy có nhiều nguyên nhân

gây ra tham nhũng, nhưng rõ ràng việc xử lý còn mang tính nương nhẹ

hoặc không xử lý nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe đối với các đối tượng

tham nhũng thì tình trạng tham nhũng sẽ còn diễn biến theo chiều hướng

tiêu cực và sẽ tạo tiền lệ xấu trong việc bài trừ nạn tham nhũng tại các quốc

gia này. Theo kết quả khảo sát của WorldBank (2013) cho thấy “khoảng

90% số người được hỏi trong cả ba nhóm người dân, doanh nghiệp và cán

bộ công chức đều cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến tham nhũng là

không xử lý nghiêm minh đối tượng tham nhũng”. Cuộc khảo sát này cũng

cho kết quả có đến 69% cán bộ công chức được hỏi cho rằng một số người

đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị thường có xu hướng xử lý nhẹ các vụ

việc tham nhũng để giữ uy tín cho đơn vị và bản thân mình. Điều này chắc

chắn sẽ gây nên sự hoài nghi trong dân chúng. Do đó, tác giả nhận thấy

việc cải thiện hệ thống pháp luật phù hợp với truyền thống luật của Anh

nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật sẽ góp phần chống tham

nhũng hiệu quả tại một số quốc gia khảo sát. Thiết nghĩ, các quốc gia nên

áp dụng kinh nghiệm của Singapore để cho mọi người giác ngộ và thực

hiện “không muốn tham nhũng, không dám tham nhũng và cũng không

thể tham nhũng” bởi hàng rào kiểm soát và sự cảnh báo trừng phạt rất

nghiêm khắc.

162

Vì một số lý do, thúc đẩy cải cách pháp lý và tư pháp từ trước đến giờ vẫn

được coi là một ưu tiên của nhiều nhà tài trợ. Các nghiên cứu dựa trên kinh

nghiệm cho thấy, trong bối cảnh chưa có các luật định tốt và chưa có hệ

thống tư pháp và tố tụng hoạt động hiệu quả, pháp quyền sẽ tồn tại nhiều

điểm yếu, ngăn cản đầu tư và sự phát triển kinh tế xã hội. Kiềm chế tham

nhũng phụ thuộc vào việc làm thế nào để không tạo cơ hội khuyến khích

các cá nhân tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp. Dù là các công ty

xây dựng câu kết với nhau trong các hợp đồng làm đường, cán bộ nhà nước

lấy trộm các trang thiết bị đồ dùng y tế, cán bộ thu thuế quấy rầy người nộp

thuế, các nhà hoạt động chính trị bao che cho những kẻ khai thác gỗ lậu,

hay các ngân hàng tảng lờ các hoạt động đáng ngờ thì con người vẫn sẽ

tiếp tục tham gia hành vi tham nhũng khi mà xác suất bị khởi tố và kết án

vẫn chưa đủ lớn. Như các nghiên cứu tình huống cụ thể cho thấy cải cách

hành chính và cải cách quy trình chắc chắn gây ra những vết rạn nứt trong

hệ thống tham nhũng. Nhưng suy cho cùng, các nỗ lực này vẫn phải được

bổ trợ bởi các cải tiến trong việc thực thi luật. Hệ thống pháp lý và tư pháp

kém hiệu của các nước chuyển đổi chính là cơ hội để cải cách hành chính

và cải cách quy trình một cách cấp thiết và triệt để.

Cuối cùng, lạm phát có tác động tiêu cực đến việc chống tham nhũng tại

các quốc gia này. Từ lâu, lạm phát được xem là vấn đề gây ra nhiều tác

động tiêu cực đến tình hình kinh tế xã hội nói chung. Đặc biệt, tỷ lệ lạm

phát bình quân tương đối cao tại các quốc gia khảo sát khoảng 7,5% sẽ gây

ra nhiều hệ lụy trong đó có ảnh hưởng đến vấn đề gia tăng tham nhũng. Vì

vậy, các quốc gia cần xây dựng chiến lược kiểm soát chỉ số giá cả tiêu

dùng cũng góp phần trong việc giảm thiểu tình trạng tham nhũng.

163

6.2.2. Các giải pháp cho tăng trưởng kinh tế

Những năm gần đây, yêu cầu ngăn chặn đại dịch tham nhũng ngày càng trở

nên bức xúc trong công chúng. Yêu cầu này càng cấp thiết hơn do cộng

đồng tài trợ quốc tế muốn đảm bảo rằng nguồn vốn mà họ cung cấp được

sử dụng đúng đắn (Worldbank, 2008). Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng

cho rằng tham nhũng thường được coi là một trong những trở ngại nghiêm

trọng nhất đối với phát triển. Mặc dù kết quả thực nghiệm tại các quốc gia

chuyển đổi cho thấy tham nhũng đóng vai trò là chất bôi trơn cho tăng

trưởng trong điều kiện chất lượng thể chế còn yếu kém, nhưng nếu các

quốc gia dựa vào tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng thì rõ ràng đây là

việc làm trái đạo đức, không hợp lòng dân và đi ngược với xu hướng của

thời đại. Vì vậy, luận án đưa ra một số các giải pháp đảm bảo cho tăng

trưởng trong điều kiện hạn chế của chất lượng khung thể chế tại các quốc

gia chuyển đổi như sau:

Thứ nhất, trong điều kiện chất lượng thể chế kinh tế hiện nay còn quá thấp,

tham nhũng trở thành chất bôi trơn thúc đẩy tăng trưởng. Điều này hàm ý

rằng các quốc gia chuyển đổi nếu thực hiện chính sách cứng rắn để bài trừ

tham nhũng thì phải chấp nhận sự đình trệ của nền kinh tế. Bởi vì, các quốc

gia đang chuyển đổi không được đánh giá cao về các chính sách nhằm thúc

đẩy sự tự do kinh doanh. Khi mà vẫn còn tồn tại các rào cản và sự bất minh

trong chính sách kinh tế, thiếu sự minh bạch thì khu vực tư nhân khó có thể

xâm nhập, tham gia hoạt động kinh doanh tại các quốc gia này. Ngay cả

trong một môi trường kinh tế tương đối tự do hóa, chính phủ vẫn có tiếng

nói quyết định đối với một loạt các vấn đề. Các chính sách của chính phủ

cơ bản là điều tiết các vấn đề về cung cầu cho một số mặt hàng thiết yếu

như năng lượng, nhiên liệu…, thủ tục pháp định và hành chính, phân bổ

nguồn lực, cấp giấy phép hoặc chính sách ưu đãi. Tuy nhiên, các chính

sách này thường được đề ra nhưng không được nghiên cứu kỹ các vấn đề

164

và hầu như không hoặc chỉ tham khảo rất ít các ý kiến của các bên có liên

quan. Hệ quả là chính sách hóa ra thiếu hợp lý. Sự yếu kém trong hoạch

định chính sách càng nghiêm trọng hơn vì các quan chức chính phủ không

phải chịu sự giám sát của quần chúng khi cấp giấy phép hay quyết định

trao hợp đồng. Hoàn cảnh như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tham

nhũng. Khi đó, tăng trưởng kinh tế được cho là thiếu bền vững và không

công bằng (Worldbank, 2008). Theo xu hướng phát triển bền vững của nền

kinh tế đương đại, đa phần các nhà nghiên cứu cũng như người dân đều

đồng thuận với quan điểm cho rằng các quốc gia không nên duy trì tình

trạng tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng.Vì vậy, để hướng đến mục tiêu

đảm bảo tăng trưởng kinh tế lâu dài và ổn định, các quốc gia này cần phải

cải thiện mức độ tự do kinh doanh dựa vào 37 tiêu chí của Báo cáo thường

niên thế giới. Chính việc làm này sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thông

thoáng và minh bạch, từ đó giúp thu hút đầu tư và cải thiện được tăng

trưởng kinh tế.

Thứ hai, tham nhũng cũng đóng vai trò chất bôi trơn thúc đẩy sự vận hành

của thể chế chính trị và qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng khi điều kiện

mức độ dân chủ còn thấp. Nghĩa là tham nhũng thực hiện chức năng làm

chất xúc tác đẩy nhanh tiến độ xử lý công việc hành chính đang còn mang

nặng tính quan liêu, trì trệ và giúp khu vực tư tiết kiệm được thời gian khi

sử dụng dịch vụ công. Qua đó, tham nhũng được cho là có tác động tích

cực đến tăng trưởng. Tuy nhiên, về khía cạnh đạo đức, không thể dựa vào

tham nhũng vì mục tiêu tăng trưởng. Khảo sát xã hội học về phòng chống

tham nhũng được thực hiện bởi Ngân hàng Thế giới tại các quốc gia đang

phát triển năm 2013 cho thấy: “cán bộ công chức tùy tiện trong quyết định

của mình bị nhìn nhận như đang gây khó khăn cho người dân và doanh

nghiệp để vòi các khoản tiền không chính thức. Nhiều doanh nghiệp nói

rằng họ phải trả những khoản ngoài quy định chỉ để giải quyết nhanh công

165

việc và tránh các thủ tục phiền hà” (WorldBank, 2013). Vì vậy, việc cải

thiện chất lượng thể chế chính trị thông qua việc thực hiện cải cách thủ tục

hành chính, trao quyền cho các cơ quan truyền thông, mở rộng quyền bầu

cử tự do và công bằng sẽ giúp loại bỏ sự tùy tiện đang giúp giới công chức

có thể lạm dụng để tham nhũng. Khi chất lượng thể chế được cải thiện,

doanh nghiệp sẽ tránh được các rào cản về mặt thủ tục hành chính mà

không phải chi thêm khoản chi phí nào qua đó sẽ góp phần tạo động lực

thu hút doanh nghiệp đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng.

Thứ ba, kết quả thực nghiệm cho thấy vốn đầu tư giúp thúc đẩy tiến trình

tăng trưởng của các quốc gia chuyển đổi. Vì vậy, các quốc gia nên tận

dụng và tăng cường việc khai thác nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.

Vốn được xem là chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng ở các quốc gia đang phát

triển. Ngoài ra, vốn còn được xem là yếu tố quan trọng giúp đất nước thoát

khỏi nghèo đói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm góp phần thúc đẩy tăng

trưởng nhanh hơn và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Các nghiên cứu

trước đây của các nhà kinh tế đã chứng minh vai trò của vốn bằng các mô

hình kinh tế với kết quả thực nghiệm đáng tin cậy. Ngày nay, cùng với sự

gia tăng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) đã và đang được quan tâm rất nhiều, đặc biệt là đối với

các nước có nền kinh tế đang phát triển. Vốn FDI có vai trò quan trọng

trong việc tạo động lực tăng trưởng cho các nước tiếp nhận vốn đầu tư. FDI

có thể cung cấp các nguồn vốn và nguồn ngoại tệ cho đầu tư, tạo điều kiện

thuận lợi cho chuyển giao kỹ năng quản lý và kiến thức công nghệ, tăng

tính cạnh tranh của nền kinh tế trong nước, tạo ra cơ hội việc làm, gia tăng

sự tiếp cận thị trường toàn cầu cho hàng hóa xuất nhập khẩu … Ở các quốc

gia đang phát triển, khả năng khai thác nguồn vốn trong nước còn hạn chế,

vì vậy việc thu hút dòng vốn FDI là thật sự cần thiết. Muốn vậy, các quốc

166

gia này cần hoàn thiện thể chế pháp lý theo hướng phát triển và kích thích

thu hút vốn đầu tư nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.

Và cuối cùng, trình độ dân trí và độ mở thương mại có tác động tích cực

đến tăng trưởng kinh tế. Khi trình độ dân trí được cải thiện cũng sẽ dễ dàng

trong việc thực hiện các mục tiêu mở rộng nền dân chủ, cải thiện mức độ tự

do kinh doanh và hạn chế tình trạng tham nhũng tại các nền kinh tế chuyển

đổi. Chính điều này sẽ giúp các quốc gia đạt được mục tiêu tăng trưởng ổn

định và bền vững về sau.

6.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Do hạn chế về mặt dữ liệu nên nghiên cứu chỉ khảo sát dữ liệu của 46 quốc

gia từ năm 2002 đến năm 2012, vì vậy, tác giả tin rằng mẫu khảo sát của

nghiên cứu này là tương đối nhỏ. Nếu có thể gia tăng cỡ mẫu bằng việc gia

tăng đơn vị chéo và thời gian khảo sát thì kết quả ước lượng sẽ hiệu quả

hơn. Bên cạnh đó, khoảng thời gian từ 2002 đến 2012 cũng được xem là

tương đối ngắn và do đó kết quả thực nghiệm chưa mang tính đại diện cao.

Nếu như giai đoạn khảo sát dài hơn thì kết quả thực nghiệm có thể sẽ khác.

Luận án có nhiều giả định. Một trong số đó chính là sự chính xác của dữ

liệu thực nghiệm. Bởi vì việc đo lường chính xác chỉ số tham nhũng là rất

khó cho nên luận án đã sử dụng chỉ số cảm nhận tham nhũng để làm biến

đại diện cho mức độ tham nhũng. Tác giả cho rằng việc sử dụng biến đại

diện này sẽ còn gây ra nhiều tranh cãi và sẽ thật sự thuyết phục hơn nếu có

thể đo lường trực tiếp mức độ tham nhũng tại các quốc gia để đưa vào mô

hình.

Một số biến trong mô hình như là thu nhập bình quân, dân chủ và tự do

kinh tế sẽ có những độ trễ nhất định đối với mức độ tham nhũng và tăng

trưởng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chưa đưa được các đỗ trễ

167

vào trong các mô hình để có cái nhìn toàn diện hơn về các yếu tố tác động

đến tham nhũng và tăng trưởng.

Trong các nghiên cứu tiếp theo, tác giả sẽ nỗ lực để khắc phục các hạn chế

trên và khám phá các thêm một số kênh truyền dẫn của tham nhũng đến

tăng trưởng qua việc thu hút dòng vốn FDI hoặc các khoản nhận viện trợ

của các quốc gia chuyển đổi nhằm tìm kiếm các bằng chứng toàn diện hơn

về vấn đề nghiên cứu.

Kết luận chương 6

Từ phân tích khung lý thuyết trong chương 2 và chương 3, xây dựng mô

hình thực nghiệm trong chương 4 kết hợp với kết quả thực nghiệm trong

chương 5, chương này đã kết luận lại các phát hiện chính trong nghiên cứu

thực nghiệm gắn với các mục tiêu nghiên cứu đã được xác định trong

chương 1. Từ những bằng chứng khoa học đó, chương 6 của nghiên cứu đã

đề xuất một số các giải pháp đối với thu nhập cũng như việc cải thiện chất

lượng khung thể chế trong việc bài trừ nạn tham nhũng tại các quốc gia

chuyển đổi. Bên cạnh đó, chương 6 cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm

đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững mà không phải dựa vào

tham nhũng. Và cuối cùng, nghiên cứu cũng nhìn nhận những hạn chế

trong quá trình thực hiện đề tài cũng như hướng nghiên cứu tiếp theo.

168

KẾT LUẬN CHUNG

Tham nhũng là một trong những vấn đề luôn nhận được sự quan tâm của

giới học giả cũng như những nhà hoạch định chính sách. Đặc biệt ở các

quốc gia chuyển đổi khi mà tình trạng tham nhũng luôn ở mức cao cùng

với đó là chất lượng thể chế còn nhiều hạn chế. Theo các nghiên cứu trước

đây của các cá nhân và các tổ chức, khái niệm cũng như việc đo lường

tham nhũng là đa dạng và phức tạp. Nó tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu

và cách tiếp cận của người nghiên cứu. Luận án này quan tâm đến vấn đề

tham nhũng của giới chức làm việc khu vực công và vì vậy tham nhũng ở

đây được hiểu là “lạm dụng công quyền để nhằm tư lợi”. Luận án cũng sử

dụng chỉ số cảm nhận tham nhũng được khảo sát bởi tổ chức Minh bạch

Quốc tế để đại diện cho biến tham nhũng trong việc thực hiện các nghiên

cứu định lượng.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh tham nhũng bị gây ra bởi nhiều yếu tố,

nhưng đa phần các học giả này đều cho rằng chất lượng thể chế quốc gia và

thu nhập của giới chức là hai nguyên nhân quan trọng dẫn đến hành vi

tham nhũng. Một trong những hạn chế của các nghiên cứu hiện hành là vẫn

chưa có sự đồng thuận về việc mở rộng tự do kinh tế và gia tăng mức độ

dân chủ có đều làm giảm tham nhũng ở các quốc gia có mức độ tham

nhũng khác nhau hay không? Và các nghiên cứu trước đây chỉ tập trung

vào việc đánh giá hiệu ứng tuyến tính của mối quan hệ giữa thu nhập và

tham nhũng. Trong khi đó, khung lý thuyết về mối quan hệ giữa tham

nhũng và tăng trưởng kinh tế của Dzhumashev (2014) cho thấy rằng mối

quan hệ này là không đồng nhất và phức tạp. Mối quan hệ phi tuyến này

cũng đã được khẳng định trong mô hình lý thuyết và kết quả thực nghiệm

của Saha & Gounder (2013). Vì vậy, bài viết của luận án này ra đời nhằm

169

tìm kiếm bằng chứng để khắc phục các hạn chế của các nghiên cứu trước

đây.

Để xây dựng khung lý thuyết cho nghiên cứu, luận án đã tiếp cận lý thuyết

lựa chọn công, trong đó lý thuyết nổi bật nhất chính là “lựa chọn giữa thấy

bại thị trường và tham nhũng” của Acemoglu & Verdier (2000). Trên cơ sở

khung lý thuyết các yếu tố tác động đến tham nhũng, luận án đã xây dựng

mô hình thực nghiệm và sử dụng dữ liệu của 46 quốc gia chuyển đổi giai

đoạn 2002 – 2012 để khảo sát vai trò của chất lượng khung thể chế đến

tham nhũng cũng như kiểm định khả năng tồn tại mối quan hệ phi tuyến

giữa thu nhập và tham nhũng. Luận án đã sử dụng phương pháp ước lượng

FEM, GLS và 2SLS để xác định độ lớn các hệ số hồi quy trong mô hình

thực nghiệm.

Kết quả cho thấy việc cải thiện chất lượng thể chế chính trị và thể chế kinh

tế sẽ giúp giảm tham nhũng hiệu quả ở các quốc gia này. Bên cạnh đó, việc

phân tích tác động từng phần của biến tương tác giữa thể chế chính trị và

thể chế kinh tế còn cho thấy tự do kinh tế làm giảm tham nhũng đáng kể

khi mức độ dân chủ thấp (mức ngưỡng 5 và 6) và tương tự, mức độ dân

chủ cũng giúp kiểm soát tham nhũng khi tự do kinh tế thấp (mức ngưỡng là

7 và 8). Cuối cùng, kết quả thực nghiệm cũng cho thấy có tồn tại mối quan

hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham nhũng.

Một hạn chế nữa của các nghiên cứu trước đây là chỉ xây dựng mô hình lý

thuyết về giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng nhằm giúp đại diện khu

vực tư tránh được các rào cản của thủ tục quản lý hành chính và tệ quan

liêu của một số quốc gia có chất lượng thể chế yếu kém, nhưng các nghiên

cứu này chưa khảo sát thực nghiệm hiệu ứng này một cách đầy đủ. Ngoài

ra, các nghiên cứu này chỉ tập trung vào một khía cạnh của chất lượng thể

chế (hoặc là chất lượng thể chế chính trị; hoặc là chất lượng thể chế kinh

tế) mà chưa quan tâm đến việc đưa cả hai yếu tố này vào mô hình thực

170

nghiệm. Vì vậy, luận án này cũng hướng tới mục tiêu kiểm định giả thuyết

chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện chất lượng thể chế của các

quốc gia chuyển đổi bao gồm cả thể chế chính trị và thể chế kinh tế.

Để xây dựng mô hình tăng trưởng, luận án phát triển mô hình tăng trưởng

của Solow (1956) mở rộng cho yếu tố chất lượng thể chế và tham nhũng.

Từ mô hình thực nghiệm này, luận án đã đưa vào mô hình lần lượt biến

tương tác giữa tham nhũng và thể chế chính trị, tham nhũng và thể chế kinh

tế nhằm khảo sát giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng. Luận án đã sử

dụng dữ liệu của các quốc gia chuyển đổi như trên và ứng dụng phương

pháp ước lượng GLS cho dữ liệu bảng tĩnh và GMM sai phân cho dữ liệu

bảng động. Kết quả cho thấy giả thuyết chất bôi trơn là thật sự tồn tại trong

điều kiện chất lượng thể chế yếu kém của các quốc gia khảo sát.

Từ kết quả thực nghiệm và bình duyệt kết quả nghiên cứu, luận án đã gợi ý

các giải pháp nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và giải pháp cho tăng

trưởng kinh tế tại các quốc gia chuyển đổi.

Như vậy, so với các nghiên cứu cùng chủ đề, kết quả nghiên cứu của luận

án có những đóng góp mới:

 Luận án lần đầu tiên ứng dụng các phương pháp định lượng bằng các

ước lượng GLS và 2SLS để đo lường hiệu ứng từng phần của các chỉ

số tự do kinh tế (thể chế kinh tế) và tự do dân chủ (thể chế chính trị)

lên mức độ tham nhũng và xác định điểm ngưỡng của các tác động

này.

 Luận án lần đầu tiên kiểm định hiệu ứng phi tuyến giữa thu nhập và

tham nhũng ở các quốc gia chuyển đổi và kết quả cho thấy hiệu ứng

phi tuyến là thật sự có tồn tại tại các quốc gia khảo sát.

 Luận án lần đầu tiên ứng dụng phương pháp GMM sai phân kiểm

định giả thuyết chất bôi trơn của tham nhũng trong điều kiện chất

lượng khung thể chế của các quốc gia chuyển đổi. Kết quả thực

171

nghiệm cho thấy tham nhũng có tác động tích cực đến tăng trưởng

trong điều kiện mức độ tự do kinh tế còn hạn chế và tự do dân chủ

chưa cao tại các quốc gia này.

172

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

Tạp chí khoa học

1. Đặng Văn Cường, 2016, “Tác động của tham nhũng đến tăng trưởng

kinh tế: Vai trò của chất lượng thể chế” Tạp chí Kinh tế & Phát triển,

số 228, 33-42.

2. Đặng Văn Cường, 2016, “Tác động của tự do kinh tế, dân chủ đến

tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi” Tạp chí Công nghệ Ngân

hàng, số 118, 16-26.

3. Đặng Văn Cường, 2015, “Mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và

tham nhũng tại các nền kinh tế chuyển đổi”, Tạp chí Kinh tế & Phát

triển, số 222, 62-70.

4. Đặng Văn Cường, 2015, “Quy mô chính phủ, dân chủ và tham

nhũng tại các nước ASEAN+6”, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số

110, 23-30.

5. Đặng Văn Cường, 2015, “Tác động của viện trợ nước ngoài đến tăng

trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển”, Tạp chí Công nghệ

Ngân hàng, số 114, 52-62.

6. Đặng Văn Cường, 2015, “Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng

trưởng kinh tế: bằng chứng ở các nước Đông Nam Á”, Tạp chí Phát

triển & Hội nhập, số 23(33), 19-24.

7. Đặng Văn Cường, 2014, “Tác động của chi tiêu công đến giảm

nghèo: Minh chứng thực nghiệm tại VN”, Tạp chí Công nghệ Ngân

hàng, số 104, 45-53.

8. Đặng Văn Cường, 2014, “Tác động của chi tiêu công đến tăng

trưởng kinh tế: Bằng chứng bằng dữ liệu chuỗi tại TP.HCM”, Tạp

chí Phát triển & Hội nhập, số 18(28), 27-33.

9. Đặng Văn Cường, 2013, “Sự ảnh hưởng của nợ công đến nhập siêu:

minh chứng thực nghiệm tại VN”, Tạp chí Thông tin và Dự báo

Kinh tế - Xã hội, số 92, 29-35.

Đề tài nghiên cứu khoa học

1. Chủ nhiệm đề tài: Tác động của gánh nặng thuế và tham nhũng đến

FDI tại các nước ASEAN, năm 2016, đề tài nghiên cứu khoa học cấp

trường.

2. Chủ nhiệm đề tài: Mối quan hệ phi tuyến giữa thu nhập và tham

nhũng tại các nền kinh tế chuyển đổi, năm 2015, đề tài nghiên cứu

khoa học cấp trường.

3. Chủ nhiệm đề tài: Tác động của chi tiêu công đến giảm nghèo: Minh

chứng thực nghiệm tại VN, năm 2014, đề tài nghiên cứu khoa học

cấp trường.

4. Chủ nhiệm đề tài: Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế:

Bằng chứng thực nghiệm tại VN, năm 2013, đề tài nghiên cứu khoa

học cấp trường.

5. Thành viên đề tài: Sự hài lòng của doanh nghiệp đối với dịch vụ

hành chính công tại TP.HCM, năm 2011, đề tài nghiên cứu khoa học

cấp trường.

Hội thảo khoa học

1. Hội thảo khoa học quốc tế: Tác động của gánh nặng thuế và tham

nhũng đến FDI tại các nước ASEAN, năm 2016, trường Đại học

Thương mại và Đại học Huế.

2. Hội thảo khoa học cấp quốc gia: Tác động FDI đến thị trường tài

chính tại các nước ASEAN, năm 2016, trường Đại học Ngân hàng,

trường Đại học Kinh tế Luật và Đại học Mở.

3. Hội thảo khoa học cấp quốc gia: Tác động của tự do kinh tế, dân chủ

đến tham nhũng tại các quốc gia chuyển đổi, năm 2015, trường Đại

học Kinh tế Luật và Đại học Mở.

4. Hội thảo khoa học cấp trường: The effect of corruption on economic

growth: the role of institutional quality, năm 2015, trường Đại học

Kinh tế TP.HCM

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

Abed, G. T., & Davoodi, H. R. (2002),"Corruption, structural reforms, and economic performance in the transition economies", IMF Working Paper, 132(SSRN), 1-48. Acemoglu, D., & Robinson, J. A. (2013),"Why nations fail: the origins of power, prosperity and poverty", Journal of Organizational Change Management, 32(1), 154-156. Acemoglu, D., & Verdier, T. (2000),"The choice between market failures and corruption", American economic review, 90(1), 194-211. Ades, A., & Di Tella, R. (1999),"Rents, competition, and corruption", American economic review, 89(4), 982-993. Aghion, P., Bloom, N., Blundell, R., Griffith, R., & Howitt, P. (2002),"Competition and innovation: An inverted U relationship", The Quarterly Journal of Economics, 120(2), 701-728. Aidt, T., Dutta, J., & Sena, V. (2008),"Governance regimes, corruption and growth: Theory and evidence", Journal of Comparative Economics, 36(2), 195-220. Aidt, T. S. (2009),"Corruption, institutions, and economic development", Oxford Review of Economic Policy, 25(2), 271-291. Aidt, T. S., & Dutta, J. (2008),"Policy compromises: corruption and regulation in a democracy", Economics & Politics, 20(3), 335-360. Al-Sadig, A. (2009),"Effects of Corruption on FDI Inflows, The", Cato Journal, 29(2), 267-274.

10. Alam, M. S. (1995),"A theory of limits on corruption and some

applications", Kyklos, 48(3), 419-435.

11. Ali, A. M., & Isse, H. S. (2002),"Determinants of economic corruption: a

cross-country comparison", Cato J., 22(3), 449-466.

12. Alt, J. E., & Lassen, D. D. (2003),"The political economy of institutions and corruption in American states", Journal of Theoretical Politics, 15(3), 341-365.

13. Amundsen, I. (2000),"Corruption: Concepts and Definitions", Christian

Michelsen.

14. Andvig, J. C., Fjeldstad, O.-H., Amundsen, I., & Søreide, T. (2000),"Research on Corruption A policy oriented survey", American Economic Review, 90(15), 150-158.

15. Arellano, M., & Bond, S. (1991),"Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations", The review of economic studies, 58(2), 277-297.

16. Arellano, M., & Bover, O. (1995),"Another look at the instrumental Journal of

error-components models",

estimation of

variable econometrics, 68(1), 29-51.

17. Ata, A. Y., & Arvas, M. A. (2011),"Determinants of economic corruption: a cross-country data analysis", International Journal of Business and Social Science, 2(13), 161-169.

-------Δ--------

18. Bardhan, P. (1996),"The nature of institutional impediments to economic development", Center for International and Development Economics Research, 22(4), 1920-1946.

19. Bardhan, P. (1997),"Corruption and development: a review of issues",

Journal of economic literature, 35(3), 1320-1346.

20. Barro, R. J. (1990),"Government spending in a simple model of endogenous growth", Journal of political Economy, 98(5), 103-106. 21. Barro, R. J. (1991),"Economic growth in a cross section of countries", The

Quarterly Journal of Economics, 106(2), 407-443.

22. Barro, R. J. (1996a). Determinants of economic growth: a cross-country

empirical study: National Bureau of Economic Research.

23. Barro, R. J. (1996b),"Determinants of economic growth: a cross-country

empirical study", Journal of Comparative Economics, 26(4), 822-824.

24. Barro, R. J., Mankiw, N. G., & Sala-i-Martin, X. (1993),"Capital mobility in neoclassical models of growth", American Economic Review, 85(Mar), 103-115.

25. Bayley, D. H. (1966),"The effects of corruption in a developing nation",

Political Research Quarterly, 19(4), 719-732.

26. Beck, P. J., & Maher, M. W. (1986),"A comparison of bribery and

bidding in thin markets", economics letters, 20(1), 1-5.

27. Beck, P. J., Maher, M. W., & Tschoegl, A. E. (1991),"The impact of the Foreign Corrupt Practices Act on US exports", Managerial and Decision Economics, 12(4), 295-303.

28. Becker, G. S. (1974)," Crime and punishment: An economic approach Essays in the Economics of Crime and Punishment" (pp. 1-54): UMI. 29. Becker, G. S., & Stigler, G. J. (1974),"Law enforcement, malfeasance, and compensation of enforcers", The Journal of Legal Studies, 3(1), 1-18. 30. Beekman, G., Bulte, E. H., & Nillesen, E. E. (2013),"Corruption and economic activity: Micro level evidence from rural Liberia", European Journal of Political Economy, 30, 70-79.

31. Benhabib, J., & Spiegel, M. M. (1994),"The role of human capital in economic development evidence from aggregate cross-country data", Journal of Monetary economics, 34(2), 143-173.

32. Berger, P., & Luckmann, T. (1966),"The social construction of knowledge: A treatise in the sociology of knowledge", Open Road Media: Soho, NY, USA.

33. Billger, S. M., & Goel, R. K. (2009),"Do existing corruption levels matter in controlling corruption?: Cross-country quantile regression estimates", Journal of Development Economics, 90(2), 299-305.

34. Boin, A., & Christensen, T. (2008),"The development of public institutions: reconsidering the role of leadership", Administration & Society, 40(3), 271-297.

35. Bonaglia, F., Braga de Macedo, J., & Bussolo, M. (2001),"How globalization improves governance", CEPR Discussion Paper (SSRN), 2992.

36. Braun, M. (2004),"Inflation,

inflation variability, and corruption",

Economics & Politics, 16(1), 77-100.

37. Broadman, H. G., & Recanatini, F. (2001),"Seeds of corruption–Do market institutions matter?", MOST: Economic Policy in Transitional Economies, 11(4), 359-392.

38. Brown, D. S., Touchton, M., & Whitford, A. B. (2011),"Political polarization as a constraint on government: evidence from corruption", World Development, 39(9), 430-442.

39. Brunetti, A., & Weder, B.

(1998),"Investment and

institutional uncertainty: a comparative study of different uncertainty measures", Weltwirtschaftliches Archiv, 134(3), 513-533.

40. Brunetti, A., & Weder, B. (2003),"A free press is bad news for

corruption", Journal of Public economics, 87(7), 1801-1824.

41. Buchanan, J. M., & Brennan, G. (1980). The power to tax: Analytic foundations of a fiscal constitution. London, Cambridge University Press. 42. Buchanan, J. M., & Tullock, G. (1962),"The Calculus of Consent: Logical Foundations of Constitutional Democracy", Schlüsselwerke der Politikwissenschaft, 12(5), 56-60.

43. Campos, J. E., Lien, D., & Pradhan, S. (1999),"The impact of corruption on investment: Predictability matters", World development, 27(6), 1059- 1067.

44. Campos, J. E., & Pradhan, S. (2007). The many faces of corruption: tracking vulnerabilities at the sector level. Washington, DC, USA, World Bank Publications.

45. Campos, N. F., Dimova, R. D., & Saleh, A. (2010),"Whither corruption? A quantitative survey of the literature on corruption and growth", IZA Discussion Paper, 5334.

46. Campos, N. F., & Nugent, J. B. (1999),"Development performance and the institutions of governance: evidence from East Asia and Latin America", World Development, 27(3), 439-452.

47. Chafuen, A. A., & Guzman, E. (2000),"Economic freedom and

corruption", 2000 Index of Economic Freedom, 51-63.

48. Chang, E. C., & Golden, M. A. (2007),"Electoral systems, district magnitude and corruption", British Journal of Political Science, 37(01), 115-137.

49. Choe, C., Dzhumashev, R., Islam, A., & Khan, Z. H. (2013),"The Effect of Informal Networks on Corruption in Education: Evidence from the Household Survey Data in Bangladesh", The Journal of Development Studies, 49(2), 238-250.

50. Dal Bó, E., & Rossi, M. A. (2007),"Corruption and inefficiency: Theory and evidence from electric utilities", Journal of Public Economics, 91(5), 939-962.

51. Damania, R., Fredriksson, P. G., & Mani, M. (2004),"The persistence of corruption and regulatory compliance failures: theory and evidence", Public choice, 121(3-4), 363-390.

52. Davidson, R., & MacKinnon, J. G. (1993),"Estimation and inference in

econometrics", OUP Catalogue.

53. De Soto, H. (1990),"The other path: The invisible revolution in the third

world", Mid-Atlantic Journal of Business, 25(6), 89-92.

54. De Soto, H. (2000). The mystery of capital: Why capitalism triumphs in

the West and fails everywhere else. Basic books.

55. De Vaal, A., & Ebben, W. (2011),"Institutions and the relation between corruption and economic growth", Review of Development Economics, 15(1), 108-123.

56. Del Monte, A., & Papagni, E. (2007),"The determinants of corruption in Italy: Regional panel data analysis", European Journal of Political Economy, 23(2), 379-396.

57. Diamond, L. J., & Plattner, M. F. (1996). The global resurgence of

democracy. Baltimore, Johns Hopkins University Press.

58. Dreher, A., & Herzfeld, T. (2005),"The economic costs of corruption: A

survey and new evidence", Available at SSRN 734184.

60.

61.

62.

63.

64.

65.

59. Dzhumashev, R. (2014),"Corruption and growth: The role of governance, public spending, and economic development", Economic Modelling, 37, 202-215. Egger, P., & Winner, H. (2005),"Evidence on corruption as an incentive for foreign direct investment", European journal of political economy, 21(4), 932-952. Emerson, P. M. (2006),"Corruption, competition and democracy", Journal of Development Economics, 81(1), 193-212. Evans, P. (1996),"Government action, social capital and development: reviewing the evidence on synergy", World development, 24(6), 1119- 1132. Fisman, R., & Gatti, R. (2002),"Decentralization and corruption: evidence across countries", Journal of Public Economics, 83(3), 325-345. Fölster, S., & Henrekson, M. (2001),"Growth effects of government expenditure and taxation in rich countries", European Economic Review, 45(8), 1501-1520. Fréchette, G. R. (2006),"Panel data analysis of the time-varying determinants of corruption", Journal of Pub lic Economics, 83, 325-344.

66. Gallup, J. L., Sachs, J. D., & Mellinger, A. D. (1999),"Geography and economic development", International regional science review, 22(2), 179-232.

67. Gatti, R. (1999),"Corruption and trade tariffs, or a case for uniform

tariffs", World Bank Policy Research Working Paper, 2216.

68. Glaeser, E. L., La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., & Shleifer, A. (2004),"Do institutions cause growth?", Journal of economic Growth, 9(3), 271-303.

69. Glaeser, E. L., & Saks, R. E. (2006),"Corruption in america", Journal of

Public Economics, 90(6), 1053-1072.

70. Goel, R. K., & Nelson, M. A. (1998),"Corruption and government size: a

disaggregated analysis", Public Choice, 97(1-2), 107-120.

71. Golden, M. A., & Picci, L. (2005),"Proposal for a new measure of corruption, illustrated with Italian data", Economics & Politics, 17(1), 37- 75.

72. Goldsmith, A. A. (1999),"Slapping the grasping hand", American Journal

of Economics and Sociology, 58(4), 865-883.

73. Graeff, P., & Mehlkop, G. (2003),"The impact of economic freedom on corruption: different patterns for rich and poor countries", European Journal of Political Economy, 19(3), 605-620.

74. Graf Lambsdorff, J. (2005),"Consequences and causes of corruption: What do we know from a cross-section of countries?", ISSN, 34(5), 1435- 3520.

75. Granger, C. (2001),"Investigating causal relations by econometric models and cross-spectral methods", Econometric Society Monographs, 33(6), 31- 47.

76. Gupta, S., Davoodi, H., & Alonso-Terme, R. (2002),"Does corruption affect income inequality and poverty?", Economics of governance, 3(1), 23-45.

77. Gupta, S., Davoodi, H. R., & Tiongson, E. (2000),"Corruption and the provision of health care and education services", IMF Working Paper, 116.

78. Gurgur, T., & Shah, A. (2014),"Localization and Corruption: Panacea or Pandoras Box?", Annals of Economics and Finance, 15(1), 109-136. 79. Gwartney, J., Lawson, R., & Hall, J. (2006),"Economic freedom of the

world", Annual report, Fraser Institute.

80. Gyimah-Brempong, K. (2002),"Corruption, economic growth, and income

inequality in Africa", Economics of Governance, 3(3), 183-209.

81. Haque, M. E., & Kneller, R. (2008),"Public investment and growth: The role of corruption", Centre for Growth and Business Cycle Research discussion paper series, 98.

82. Haque, M. E., & Kneller, R. (2014),"Why does Public Investment Fail to Raise Economic Growth? The Role of Corruption", The Manchester School, 83(6), 623-651.

83. Hartwig, J. (2009),"A panel Granger-causality test of endogenous vs.

exogenous growth", SSRN, 231, 34.

84. Heckelman, J. C., & Powell, B. (2010),"Corruption and the institutional environment for growth", Comparative Economic Studies, 52(3), 351-378. 85. Herzfeld, T., & Weiss, C. (2003),"Corruption and legal (in) effectiveness: an empirical investigation", European Journal of Political Economy, 19(3), 621-632.

86. Hodge, A., Shankar, S., Rao, D., & Duhs, A. (2011),"Exploring the links between corruption and growth", Review of Development Economics, 15(3), 474-490.

87. Holtz-Eakin, D., Newey, W., & Rosen, H. S. (1988),"Estimating vector autoregressions with panel data", Journal of the Econometric Society, 56(6), 1371-1395.

88. Huntington, S. P. (2006). Political order in changing societies. New

Haven and London, Yale University Press.

89. Husted, B. W., & Estudios, I. T. y. d. (1999),"Wealth, culture, and

90.

91.

92.

93.

94.

95.

corruption", Journal of International Business Studies, 30(2), 339-359. Iwasaki, I., & Suzuki, T. (2012),"The determinants of corruption in transition economies", Economics Letters, 114(1), 54-60. Jain, A. K. (2001),"Corruption: A review", Journal of economic surveys, 15(1), 71-121. Javorcik, B. S., & Wei, S.-J. (2009),"Corruption and cross-border investment in emerging markets: Firm-level evidence", Journal of International Money and Finance, 28(4), 605-624. Johnson, S., Kaufmann, D., & Zoido-Lobaton, P. (1998),"Regulatory discretion and the unofficial economy", American Economic Review, 88(2), 387-392. Johnston, M. (1998). What can be done about entrenched corruption? Paper presented at the Annual World Bank Conference on Development Economics 1997. June, R., Laberge, M., Nahem, J., & Integrity, G. (2008). A Users' Guide to Measuring Corruption. United Nations Development Programme, UNDP Oslo Governance Centre.

96. Kant, I. (2003). To Perpetual peace: A philosophical sketch. Hackett

Publishing, Cambridge University Press Cambridge.

97. Kaufmann, D., & Kraay, A. (2002),"Growth without governance", World

Bank Policy Research Working Paper(2928).

98. Kaufmann, D., Kraay, A., & Mastruzzi, M. (2011),"The worldwide governance indicators: methodology and analytical issues", Hague Journal on the Rule of Law, 3(02), 220-246.

99. Klitgaard, R. (1988). Controlling corruption. Univ of California Press. 100. Knack, S., & Azfar, O. (2003),"Trade intensity, country size and

corruption", Economics of Governance, 4(1), 1-18.

101. Knack, S., & Keefer, P. (1995),"Institutions and economic performance: Cross‐country tests using alternative institutional measures", Economics & Politics, 7(3), 207-227.

102. Kotera, G., Mizuno, N., Okada, K., & Samreth, S. (2011),"Ethnic Diversity, Democracy, and Health: Theory and Evidence", KIER Discussion Paper, 790.

103. Kotera, G., Okada, K., & Samreth, S. (2012),"Government size, democracy, and corruption: An empirical investigation", Economic Modelling, 29(6), 2340-2348.

104. Kristiansen, S., & Ramli, M. (2006),"Buying an income: The market for civil service positions in Indonesia", Contemporary Southeast Asia: A Journal of International and Strategic Affairs, 28(2), 207-233.

105. Krueger, A. O. (1974),"The political economy of the rent-seeking

society", The American economic review, 64(3), 291-303.

106. Kunicová, J., & Rose-Ackerman, S. (2005),"Electoral rules and constitutional structures as constraints on corruption", British Journal of Political Science, 35(04), 573-606.

107. La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. (1999),"The quality of government", Journal of Law, Economics, and organization, 15(1), 222-279.

Index–Framework Document

2002",

108. Lambsdorff, J. G. (2002),"Background Paper to the 2002 Corruption Transparency Perceptions International and University of Göttingen.(http://www. transparency. org).

109. Lambsdorff, J. G. (2003). Background Paper to the 2003 Corruption

Perceptions Index: mimeo: Transparency International.

110. Landau, D. (1983),"Government expenditure and economic growth: a

cross-country study", Southern Economic Journal, 783-792.

111. Lederman, D., Loayza, N. V., & Soares, R. R. (2005),"Accountability and corruption: Political institutions matter", Economics & Politics, 17(1), 1- 35.

112. Lee, K., & Kim, B.-Y. (2009),"Both institutions and policies matter but differently for different income groups of countries: Determinants of long- run economic growth revisited", World Development, 37(3), 533-549.

113. Leff, N. H. (1964),"Economic development

through bureaucratic

corruption", American behavioral scientist, 8(3), 8-14.

(June 1999).

114. Leite, C. A., & Weidmann, J. (1999),"Does mother nature corrupt? Natural resources, corruption, and economic growth", Natural Resources, Corruption, and Economic Growth IMF Working Paper(99/85).

115. Levine, R., & Renelt, D. (1992),"A sensitivity analysis of cross-country

growth regressions", The American economic review, 82(4), 942-963.

116. Leys, C. (1965),"What is the Problem about Corruption?", The Journal of

Modern African Studies, 3(02), 215-230.

117. Lien, D.-H. D. (1986),"A note on competitive bribery games", Economics

Letters, 22(4), 337-341.

118. Lipset, S. M., & Lenz, G. S. (2000),"Corruption, culture, and markets",

Culture matters: How values shape human progress, 112, 112.

119. Lui, F. T. (1985),"An equilibrium queuing model of bribery", The journal

of political economy, 93(4), 760-781.

120. Mankiw, N. G., Romer, D., & Weil, D. N. (1990),"A contribution to the empirics of economic growth", Quarterly Journal of Economics, 107(2), 407-437.

121. Marlow, M. L. (1988),"Fiscal decentralization and government size",

Public Choice, 56(3), 259-269.

122. Mauro, P. (1995),"Corruption and growth", The quarterly journal of

economics, 110(3), 681-712.

123. Mauro, P. (1997),"The effects of corruption on growth, investment, and government expenditure: a cross-country analysis", IMF Working Paper, 96/98, 1-28.

124. Mauro, P. (1998),"Corruption and the composition of government

expenditure", Journal of Public economics, 69(2), 263-279.

125. Méndez, F., & Sepúlveda, F. (2006),"Corruption, growth and political regimes: cross country evidence", European Journal of Political Economy, 22(1), 82-98.

126. Méon, P.-G., & Sekkat, K. (2005),"Does corruption grease or sand the

wheels of growth?", Public choice, 122(1-2), 69-97.

127. Méon, P.-G., & Weill, L. (2010),"Is corruption an efficient grease?",

World development, 38(3), 244-259.

128. Mo, P. H. (2001),"Corruption and economic growth", Journal of

comparative economics, 29(1), 66-79.

129. Montinola, G. R., & Jackman, R. W. (2002),"Sources of corruption: a cross-country study", British Journal of Political Science, 32(01), 147- 170.

130. Moulton, B. R. (1986),"Random group effects and the precision of

regression estimates", Journal of econometrics, 32(3), 385-397.

131. Moulton, B. R. (1990),"An illustration of a pitfall in estimating the effects of aggregate variables on micro units", The review of Economics and Statistics, 19(2), 334-338.

132. Murphy, K. M., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1990). The allocation of

talent: Implications for growth: National Bureau of Economic Research.

133. Myint, U. (2000),"Corruption: Causes, consequences and cures", Asia

pacific development journal, 7(2), 33-58.

134. Nafziger, E. W. (2006). From Seers to Sen: the meaning of economic development. Research Paper, UNU-WIDER, United Nations University (UNU).

135. Nickell, S. (1981),"Biases in dynamic models with fixed effects", Journal

of the Econometric Society, 49(6), 1417-1426.

136. Nickell, S. J. (1996),"Competition and corporate performance", Journal of

political economy, 104(4), 724-746.

137. North, D. (1981). Structure and change in economic history. Norton. 138. North, D. C. (1990). Institutions, institutional change and economic

performance. Cambridge university press.

139. North, D. C. (1993),"Institutions and credible commitment", Journal of Institutional and Theoretical Economics (JITE)/Zeitschrift für die gesamte Staatswissenschaft, 11-23.

140. Olken, B. A. (2006),"Corruption and the costs of redistribution: Micro

evidence from Indonesia", Journal of public economics, 90(4), 853-870.

141. Olson, M. (1965). The logic ofcollective action (Vol. 124). Harvard

Economic Studies

142. Ostrom, E. (1990). Governing the commons: The evolution of institutions

for collective action. Cambridge university press.

143. Paldam, M. (2002),"The cross-country pattern of corruption: economics, culture and the seesaw dynamics", European Journal of Political Economy, 18(2), 215-240.

144. Park, H. (2003),"Determinants of corruption: A cross-national analysis",

Multinational Business Review, 11(2), 29-48.

145. Peev, E., & Mueller, D. C. (2012),"Democracy, economic freedom and

growth in transition economies", Kyklos, 65(3), 371-407.

146. Pellegrini, L., & Gerlagh, R. (2004),"Corruption's effect on growth and its

transmission channels", Kyklos, 57(3), 429-456.

147. Persson, T., Tabellini, G., & Trebbi, F. (2003),"Electoral rules and corruption", journal of the European Economic Association, 1(4), 958- 989.

148. Pope, J. (2000). Confronting corruption: The elements of a national

integrity system. Transparency International.

149. Putnam, R. D., Leonardi, R., & Nanetti, R. Y. (1994). Making democracy work: Civic traditions in modern Italy. Princeton, Princeton university press.

150. Rada, C., & Taylor, L. (2006),"Developing and transition economies in the late 20th century: diverging growth rates, economic structures, and sources of demand", DESA Working Paper, 34.

151. Rauch, J. E., & Evans, P. B. (2000),"Bureaucratic structure and bureaucratic performance in less developed countries", Journal of public economics, 75(1), 49-71.

152. Reinikka, R., & Svensson, J. (2004),"Local capture: evidence from a central government transfer program in Uganda", The Quarterly Journal of Economics, 119(2), 679-705.

153. Rivera‐Batiz, F. L. (2002),"Democracy, governance, and economic growth: theory and evidence", Review of Development Economics, 6(2), 225-247.

154. Rock, M. T. (2009),"Corruption and democracy", Journal of Development

Studies, 45(1), 55-75.

155. Rodrik, D., Subramanian, A., & Trebbi, F. (2004),"Institutions rule: the primacy of institutions over geography and integration in economic development", Journal of economic growth, 9(2), 131-165.

156. Rohwer, A. (2009),"Measuring corruption: A comparison between the transparency international's corruption perceptions index and the world bank's worldwide governance indicators", CESifo DICE Report, 7(3), 42- 52.

157. Rose-Ackerman, S. (1999),"Political corruption and democracy", Conn. J.

Int'l L., 14(2), 363-371.

158. Sachs, J. D., & Warner, A. M. (1997),"Fundamental sources of long-run

growth", The American Economic Review, 87(2), 184-188.

159. Saha, S., & Gounder, R. (2013),"Corruption and economic development nexus: variations across income levels in a non-linear framework", Economic Modelling, 31, 70-79.

160. Saha, S., Gounder, R., & Saha, S. (2011),"Does higher levels of democracy and economic freedom reduce corruption: some cross-national and regional evidence", Australasian Development Economics Workshop, 7.

161. Saha, S., Gounder, R., & Su, J.-J. (2009),"The interaction effect of economic freedom and democracy on corruption: A panel cross-country analysis", Economics Letters, 105(2), 173-176.

162. Sandholtz, W., & Koetzle, W. (2000),"Accounting for corruption: trade", International studies

Economic structure, democracy, and quarterly, 44(1), 31-50.

163. Schneider, A. L. (1999),"Public-private partnerships in the US prison

system", American Behavioral Scientist, 43(1), 192-208.

164. Schumpeter, J. (2012). Capitalism, socialism, and democracy. Start

Publishing LLC.

165. Scott, J. C. (1972). Comparative political corruption. Prentice Hall. 166. Shleifer, W.

(1993),"Corruption", National Bureau of Economic

Research, 02138(Cambridge).

167. Siddiqui, D. A., & Ahmed, Q. M. (2013),"The effect of institutions on economic growth: A global analysis based on GMM dynamic panel estimation", Structural Change and Economic Dynamics, 24, 18-33. 168. Smarzynska, B. K., & Wei, S.-J. (2000),"Corruption and composition of foreign direct investment: Firm-level evidence", NBER Working Paper, 7969.

169. Solow, R. M. (1956),"A contribution to the theory of economic growth",

The quarterly journal of economics, 70(1), 65-94.

170. Stiglitz, J. (2002),"Transparency in government", The right to tell: The

role of mass media in economic development, 4, 27-44.

171. Suchman, M. C. (1995),"Managing legitimacy: Strategic and institutional

approaches", Academy of management review, 20(3), 571-610.

172. Swamy, A., Knack, S., Lee, Y., & Azfar, O. (2001),"Gender and

corruption", Journal of development economics, 64(1), 25-55.

173. Swan, T. (1956),"Economic growth and capital accumulation", Economic

record, 32, 334-361.

174. Tanzi, V., & Davoodi, H. (1998). Corruption, public investment, and

growth. Tokyo, Springer Japan.

175. Tarek, B. A., & Ahmed, Z. (2013),"Governance and Economic Performance in Developing Countries: An Empirical Study", Journal of Economics Studies and Research, 2013, b1-13.

176. Tavares, J. (2003),"Does foreign aid corrupt?", Economics Letters, 79(1),

99-106.

177. Treisman, D. (2000),"The causes of corruption: a cross-national study",

Journal of public economics, 76(3), 399-457.

178. Treisman, D. (2007),"What have we learned about the causes of corruption from ten years of cross-national empirical research?", Annu. Rev. Polit. Sci., 10, 211-244.

179. Ugur, M., & Dasgupta, N. (2011),"Evidence on the economic growth impacts of corruption in low-income countries and beyond", London: EPPI-Centre, Social Science Research Unit, Institute of Education, University of London, 2.

180. Van Rijckeghem, C., & Weder, B. (1997),"Corruption and the rate of temptation: do low wages in the civil service cause corruption?", IMF Working Paper, 97/73.

181. Venard, B.

(2013),"Institutions, Corruption

and

Sustainable

Development", Economics Bulletin, 33(4), 2545-2562.

182. Voyer, P. A., & Beamish, P. W. (2004),"The effect of corruption on Japanese foreign direct investment", Journal of Business Ethics, 50(3), 211-224.

183. Wei, S.-J. (2000),"How taxing is corruption on international investors?",

Review of economics and statistics, 82(1), 1-11.

184. Wooldridge, J. (2012). Introductory econometrics: A modern approach.

South-Western, Cengage Learning.

185. WorldBank. (1997). World Development Report 1997. Washington, DC:

World Bank.

186. WorldBank. (2000). Anticorruption in Transition. A Contribution to the

Policy Debate. Washington, DC: Worldbank.

187. WorldBank. (2007a). Vai trò của quốc hội trong hạn chế tham nhũng.

Washington, DC: Worldbank.

188. WorldBank.

(2007b),"Worldwide Governance

Indicators

2007",

WGI2007.

189. WorldBank. (2008). Các hình thái Tham nhũng - Giám sát khả năng Tham nhũng ở cấp ngành. Hà Nội, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. 190. WorldBank. (2013). Tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức (Vol. 2). Vietnam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

PHỤ LỤC

--------Δ--------

Phụ lục 1: Lý thuyết lựa chọn giữa thất bại thị trường và tham nhũng (Acemoglu & Verdier, 2000)

Chúng ta xem xét trạng thái nền kinh tế ổn định bao gồm một tập hợp các

đại diện bàng quan với rủi ro (risk-neutral agents) với đại lượng 1. Các đại

diện này có thể lựa chọn giữa hai hành động: họ có thể trở thành người

kinh doanh, hoặc là nếu có một chính quyền, họ có thể trở thành công chức.

Các doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn một trong hai vấn đề công nghệ:

“xấu” hoặc “tốt”. Cả hai công nghệ này đều tạo ra sản lượng như nhau ở

mức y. Tuy nhiên, chi phí là khác nhau. Công nghệ xấu có chi phí bằng 0,

trong khi công nghệ tốt có chi phí là e và . Chúng ta lựa chọn

thuật ngữ “xấu” và “tốt” là bởi vì công nghệ tốt sẽ tạo ra ngoại tác tích cực.

Đặt n là đại lượng đại diện cho phần doanh nghiệp trong nền kinh tế, và

là phần doanh nghiệp lựa chọn công nghệ tốt. Chúng ta giả định rằng

có một hiệu ứng tích cực phi tiền tệ lên thu nhập của các đại diện bằng với

. Hơn nữa,

ta cũng giả định chi phí sử dụng công nghệ tốt để ngoại tác đủ lớn hơn so với chi phí tư nhân. Chúng là phi tiền tệ. Các giả định

này nhằm làm cho việc phân tích doanh thu thuế cực đại độc lập với lựa

chọn công nghệ nhưng cũng không ảnh hưởng đến kết quả của chúng ta.

Mô hình tự do kinh doanh

Trong mô hình cân bằng phi tập trung, không có chính phủ, tất cả các đại

diện trở thành đại diện kinh doanh, vì thế . Khi đó, thu nhập cho cả hai

hoạt động trên là:

i

(1.1)

Vì thế, cho tất cả và điểm cân bằng duy nhất khi và

Khi thì điều kiện tốt nhất đầu tiên tại điểm và : tất cả đại

diện là doanh nghiệp và đều chọn công nghệ tốt. Tuy nhiên, kết quả này

không bền vững như điểm cân bằng phi tập trung bởi vì mỗi cá nhân có

chiến lược riêng biệt mà họ có thể lựa chọn công nghệ xấu. Đặc biệt, họ

không thích tạo ra các ngoại tác tích cực cho các đại diện khác.

Ràng buộc tối ưu khi có tham nhũng

Bây giờ, chúng ta xem xét đến trường hợp có sự can thiệp của chính phủ

quy định việc lựa chọn công nghệ. Ở đây, chúng ta giả định sự can thiệp

của chính phủ nhằm tối đa thặng dư xã hội. Vì vậy, không cần phải bận tâm

đến việc phân phối cũng như trục lợi trong chính phủ. Nếu việc lựa chọn

công nghệ của đại diện là hoàn toàn có thể quan sát được thì điểm tối ưu

nhất sẽ đạt được. Tuy nhiên, trên thực tế giả định việc lựa chọn công nghệ

là hoàn toàn không quan sát được. Chính phủ sẽ tuyển dụng một số đại diện

vào khu vực công để kiểm tra các doanh nghiệp và đề nghị loại công nghệ

nào nên đưa vào sử dụng. Để đơn giản, chúng ta giả định rằng một công

chức chỉ giám sát một doanh nghiệp.

Chúng ta biểu diễn nguồn thu thuế mà các doanh nghiệp lựa chọn công

nghệ xấu phải trả là và khoản trợ cấp mà doanh nghiệp lựa chọn công

nghệ tốt nhận được là (cả hai được áp đặt khi mà doanh nghiệp bị kiểm

tra). Chú ý rằng, chúng ta không giả định , vì thế các doanh nghiệp có

công nghệ tốt vẫn có thể bị đánh thuế. Chúng ta thể hiện tiền lương của

công chức bằng . Trước khi kiểm tra, chúng ta không biết doanh nghiệp

nào đã lựa chọn công nghệ xấu, việc kiểm tra là ngẫu nhiên. Vì thế, xác

ii

suất để một doanh nghiệp bị kiểm tra là , đây là phần

công chức được phân chia từ các doanh nghiệp nếu không có nhiều công

chức hơn so với doanh nghiệp.

Bây giờ, chúng ta kết hợp hai trong ba thành phần cơ bản: (i) cần tuyển

công chức để ra các quyết định độc lập hoặc thu thập thông tin; và (ii) khả

năng xảy ra tham nhũng. Một công chức có thể khai thác lợi ích thông tin

theo quy định mà anh ta am hiểu. Điều này có thể thực hiện trong hai

trường hợp. Thứ nhất, khi gặp doanh nghiệp ứng dụng công nghệ tốt, công

chức sẽ đe dọa là nếu không đưa tiền hối lộ thì anh ta sẽ báo cáo là công

nghệ xấu. Thứ hai, khi gặp doanh nghiệp sử dụng công nghệ xấu, công

chức đề nghị đưa tiền để báo cáo là tốt. Trong cả hai trường hợp, việc tối đa

hóa thặng dư mà công chức có thể thu được là 𝑠 + 𝜏. Chúng ta giả định

rằng cả hai trường hợp công chức có thể thu được phần σ của khoản này

như là tiền đút lót.

Công chức tham nhũng có thể bị phát hiện với xác suất 𝑞. Trong trường

hợp này, công chức nhận hình phạt nghiêm khắc theo trách nhiệm pháp lý

giới hạn; công chức mất hết toàn bộ thu nhập. Chú ý rằng (1 − 𝑞) là sự đo

lường lợi ích thông tin của công chức. Khi mà 𝑞 = 0, thì tham nhũng

không bao giờ bị phát hiện. Ngược lại, nếu 𝑞 = 1, tham nhũng ngay lập tức

bị phát hiện. Chúng ta cũng cần lưu ý về ràng buộc trách nhiệm pháp lý

giới hạn: Bởi vì tất cả đại diện đều là cá nhân bang quan với rủi ro, một

mức phạt nặng khi bị phát hiện sẽ không khuyến khích công chức tham

nhũng.

Các giai đoạn của sự kiện sẽ được diễn ra theo trình tự sau:

1. Chính phủ thông báo mức lương khu vực công 𝑤, khoản thuế 𝜏,

khoản trợ cấp 𝑠, và số lượng công chức được thuê tối đa là (1 − 𝑛).

2. Các đại diện tự lựa chọn nghề của họ. Nếu có nhiều hơn các ứng

iii

viên làm việc cho khu vực công so với (1 − 𝑛), khi đó (1 − 𝑛) của

chúng được lựa chọn ngẫu nhiên và phần còn lại làm việc cho doanh

nghiệp.

3. Những người tham gia vào khu vực tư lựa chọn một công nghệ. Sự

lựa chọn công nghệ của họ không được quan sát bởi các đại diện

khác trong giai đoạn này.

4. Mỗi công chức kiểm tra ngẫu nhiên một doanh nghiệp và sẽ phát

hiện ra một doanh nghiệp đã lựa chọn công nghệ tốt hay xấu.

5. Sau đó, mỗi công chức quyết định có nên cấu kết với doanh nghiệp

hay không. Nếu công chức quyết định không nhận tiền thì công chức

sẽ báo cáo trung thực và trò chơi kết thúc. Trong trường hợp công

chức chấp nhận hối lộ thì báo cáo của công chức hoàn toàn phụ

thuộc vào phản ứng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp chấp nhận

lời đề nghị và chi tiền thì ngay tại thời điểm này công chức cho ra

báo cáo theo thỏa thuận. Nếu doanh nghiệp từ chối lời đề nghị, chắc

chắn công chức sẽ báo cáo dự án là xấu.

6. Cuối cùng, bước thứ 6 là báo cáo của công chức bị kiểm tra và số

công chức ra báo cáo sai bị phát hiện với xác suất 𝑞. Tất cả khoản

thu của công chức ra báo cáo sai sẽ bị tịch thu.

Bởi vì tất cả đại diện, đặc biệt là tất cả công chức, là đồng nhất nên sẽ có

một điều kiện duy nhất quyết định đến việc có chi trả tiền hối lộ hay không.

Nếu trung thực, công chức nhận được mức lương 𝑤. Nếu tham nhũng, họ

có thể mất tất cả với xác suất 𝑞, và 1 − 𝑞 là xác suất mà công chức nhận

được cả lương và tiền đút lót 𝑏 = 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠). Vì vậy, nếu ràng buộc về

1−𝑞

1−𝑞

𝑛

tham nhũng là bất đẳng thức

𝑞

𝑞

1−𝑛

(1.2) 𝑤 ≥ ∗ 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) = ∗ 𝜎 ∗ 𝑒 ∗

bị vi phạm, tất cả công chức sẽ là tham nhũng. Trong trường hợp này, các

iv

doanh nghiệp nhận 𝜎 ∗ (𝜏 + 𝑠) về lựa chọn công nghệ của họ, và sự can

thiệp của chính phủ là hoàn toàn lãng phí. Như vậy, sự can thiệp của chính

phủ thỏa mãn điều kiện (1.2). Quan sát này cũng giải thích tại sao tham

nhũng lại gây hại cho nền kinh tế. Vai trò của sự can thiệp chính phủ để

chuyển đổi các điều kiện trước đây lên sự lựa chọn công nghệ để mà các

quyết định sau này có hiệu lực. Khi công chức tham nhũng, việc chuyển

đổi là vô điều kiện và can thiệp của chính phủ không tác động lâu dài lên

các lựa chọn về sau.

Ngược lại, khi (1.2) thỏa mãn, không công chức nào dám nhận hối lộ. Vì

vậy, chúng ta cần đảm bảo ràng buộc về tham nhũng (1.2) và các ràng buộc

𝑥

khác đối với chính sách chính phủđược thỏa mãn. Kết hợp (1.1) với hình

1−𝑛

thức rút gọn của ràng buộc ngân sách, 𝑤 + = 𝑦, cho ra ràng buộc tham

𝑦

1−𝑞

nhũng trong khoảng (𝑥, 𝑛) như sau:

𝑦 − (

𝑒

𝑒

𝑞

𝑥 ≤ + ∗ 𝜎) ∗ 𝑛 (1.3)

Trong trường hợp nguồn thu chính phủ giảm thấp để tài trợ cho sự phân

phối khi mà các doanh nghiệp lựa chọn công nghệ tốt. Và cách duy nhất để

tăng nguồn thu là phải có một vài doanh nghiệp lựa chọn công nghệ xấu để

chính phủ đánh thuế 𝜏 = 𝑦. Chúng ta có mệnh đề sau:

𝑦

Mệnh đề 1: giả sử rằng công chức là tham nhũng. Sự phân bổ tối ưu là:

𝑒

1. Nếu ≥ [1 + 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞]2 và 𝛽 > √𝑒 ∗ (√𝑦 + √𝑒) thì sự can

2

1−𝑞

1−𝑞

𝑦

thiệp chính phủ 𝑛 = 𝑥 = 𝑛̂

𝑞

𝑞

𝑒

2. Nếu ∈ (1 + 𝜎 ∗ ; [1 + 𝜎 ∗ ] ) và 𝛽 > 2𝑒 + 𝑒 ∗ 𝜎 ∗ (1 −

𝑦

𝑦

𝑞)/𝑞, thì sự phân bổ tối ưu có sự can thiệp chính phủ 𝑛 = 𝑥 = 𝑛𝑐

𝑒

𝑒

𝑦

1

3. Nếu < [1 + 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞] và 𝛽 > 𝑒 + 𝑦/ [ − 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞] thì

𝑒

2

can thiệp chính phủ với 𝑛 = , 𝑥 = 1/2 [ − 𝜎 ∗ (1 − 𝑞)/𝑞].

v

4. Các trường hợp khác, phân bổ tối ưu là ngẫu nhiên.

Mệnh đề 1 cho chúng ta rút ra nhiều kết luận. Thứ nhất, khi 𝑞 đủ lớn hoặc

𝜎 là nhỏ thì tham nhũng dễ dàng được ngăn ngừa và tham nhũng của công

chức là không quan trọng. Điều này được lý giải là bởi vì tiền lương của

khu vực công là hấp dẫn đối với công chức và cũng rèn luyện họ. Ngược

lại, nếu 𝑞 nhỏ hoặc 𝜎 là lớn thì tham nhũng cám dỗ công chức. Để chống

tham nhũng, các công chức phải được trả một khoản thu nhập. Cùng với

câu hỏi thất bại thị trường có đủ nghiêm trọng (β cao), có cần thiết cho xã

hội để kéo một lượng lớn các đại diện từ khu vực sản xuất và trả cho họ

một khoản thu nhập theo yêu cầu để nhằm khắc phục thất bại của thị

vi

trường.

Phụ lục 2 : Lý thuyết thể chế và tăng trưởng

Mô hình kinh tế này được sửa đổi dựa trên mô hình tăng trưởng Solow

(1956). Hàng hóa được sản xuất bằng cách sử dụng kỹ thuật lợi nhuận

không đổi theo quy mô (constant return to scale - CRS) trong một thị

trường cạnh tranh hoàn hảo. Thể chế được giả định đóng vai trò trung tâm

trong việc xác định các yếu tố năng suất và công nghệ, do đó sản lượng (Y)

được sản xuất theo hàm sản xuất sau:

(2.1) Y = f (A(T, t), K(T, t), L(T, t))

Trong đó L là lao động, 𝐴 ≥ 1 là chỉ số thể hiện mức độ kỹ thuật, K là vốn,

T là chỉ số thể hiện chất lượng của thể chế và t là thời gian.

Chúng tôi giả định rằng nền kinh tế đại diện là nhỏ và có quyền truy cập

vào nền công nghệ được tạo ra mà phát triển với một tốc độ không đổi của

g. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng của lực lượng lao động và tỷ lệ tham gia lực

𝐿̇ 𝐿

lượng lao động là không đổi theo thời gian, nghĩa là = 𝑛, trong đó n là

tốc độ tăng trưởng dân số. Hơn nữa, T được giả định là tăng theo chất

lượng của thể chế mà giải thích cho việc thực thi các hợp đồng và quyền sở

hữu, điều này đồng nghĩa với hệ thống phát luật là đáng tin cậy và hiệu

quả, nghĩa là sự minh bạch của nền hành chính công, nguyên tắc thị trường

chuyên nghiệp (không kiểm soát giá). Để đơn giản, T được giả định là hằng

số và có phân phối chuẩn từ 0 đến 1 (0 < T ≤ 1). Do đó, T đạt giá trị 1 khi

nền kinh tế có thể chế tốt nhất.

Phương trình (2.1) đặt ra một câu hỏi lớn: làm thế nào để thể chế ảnh

hưởng đến việc áp dụng các công nghệ sẵn có và năng suất của vốn vật

chất? Có thể lập luận rằng các thể chế kém ngăn chặn việc sử dụng các

công nghệ có sẵn (Tebaldi & Elmslie, 2008) và hạn chế hiệu quả đạt được

từ các đổi mới hiện tại (Matthews, 1986). Vì vậy, tốt (xấu) của thể chế làm

vii

tăng (giảm) hiệu quả của công nghệ và mở rộng cho cả năng suất lao động

và vốn. Đối với vốn, nó đã được chứng minh rằng thể chế kém (tham

nhũng và thực thi kém của pháp luật và hợp đồng) giảm lợi nhuận trên vốn

và giảm tích lũy vốn (Brunetti & ctg, 1998; Lambsdorff, 1999; Mauro,

1995; Wei, 2000). Chúng tôi xem xét những ý tưởng này bằng cách phát

triển hai phương trình thay thế. Đầu tiên, chúng ta bỏ qua những tác động

của các thể chế về việc áp dụng công nghệ và tập trung phân tích về ảnh

hưởng của thể chế về năng suất vốn vật chất. Sau đó, chúng tôi phát triển

một mô hình tổng quát hơn giải thích cho sự tác động của các thể chế về

việc áp dụng công nghệ và năng suất vốn.

2.1. Mô hình cơ sở

Phần này trình bày phương cách khám phá để giải thích cho sự tác động

của thể chế đến năng suất vốn vật chất. Đặc biệt, chúng tôi giả định rằng độ

co giãn của sản lượng đối với vốn bị ảnh hưởng bởi thể chế. Chính xác

hơn, thể chế tốt hơn làm tăng thêm năng suất vốn và do đó, ảnh hưởng đến

việc góp vốn để sản xuất. Công thức:

(2.2)

Trong đó, 0 < α <1,

Đặt và

Khi đó, hàm sản xuất được viết lại như sau:

(2.3)

Kết hợp phương trình (2.3) và phương trình tích lũy vốn ta được:

(2.4)

Phương trình (2.4) cho thấy, nền kinh tế sẽ hội tụ về trạng thái cân bằng khi

viii

Điều này cho phép xử lý phương trình (2.4) với mục tiêu vốn đầu tư ở trạng

thái ổn định

(2.5)

Dấu "*" biểu thị giá trị trạng thái ổn định. Phương trình (2.5) có nghĩa là

thể chế tác động tích cực đến trạng thái ổn định của vốn, do đó, nó cũng

ảnh hưởng tích cực đến mức độ trạng thái ổn định sản lượng hiệu quả cho

mỗi lao động. Cụ thể hơn, thế chế tốt hơn (T lớn hơn) tăng lợi nhuận trên

tích lũy vốn, làm tăng đầu tư và dẫn đến vốn hiệu quả ở một mức độ ổn

định cao hơn (k*) và sản lượng hiệu quả cho mỗi lao động (y*). Tuy nhiên,

tốc độ tăng trưởng dài hạn của sản lượng trên mỗi lao động vẫn được quyết

định bởi mức độ tiến bộ kỹ thuật.

Gọi , sử dụng điều kiện

Lấy log phương trình 3 ta được:

(2.6)

Theo đó, mô hình này hàm ý rằng các quốc gia sẽ giàu hơn hay nghèo hơn

là do chất lượng thể chế của họ. Phương trình (2.5) ngụ ý rằng các quốc gia

giàu hơn có thể có thể chế tốt hơn các quốc gia nghèo. Phương trình (2.6)

cho thấy rằng vườn như không có sự ảnh hưởng của chất lượng của thể chế

lên tốc độ tăng trưởng dài hạn của một quốc gia. Như vậy, thể chế có ảnh

hưởng về mức độ nhưng không ảnh hưởng tăng trưởng. Việc thiếu các hiệu

ứng tăng trưởng được tìm thấy trong phương trình 2.6 là không phù hợp

với các tài liệu về tăng trưởng hiện có (xem chi tiết trong Tebaldi &

ix

Elmslie, 2008).

Mô hình Solow điều chỉnh này cũng chính thức hóa ý tưởng rằng thể chế

kém có thể gây ra bẫy nghèo và phân hóa thu nhập. Phương trình (2.4), mô

tả cụ thể trong hình 1, cho thấy chất lượng của thể chế tạo ra trạng thái ổn

định khác nhau. Hãy xem xét hai nền kinh tế với điều kiện ban đầu giống

nhau δ, n, g, tỷ lệ tiết kiệm s, công nghệ (A), và vốn ban đầu (k0), nhưng

nền kinh tế P được gán cho thể chế kém (Tp) so với nền kinh tế R, do đó

TR> TP. Mô hình này có nghĩa là sự khác biệt về chất lượng của các thể chế

sẽ tạo ra trạng thái ổn định khác nhau được thể hiện bằng và . Quốc

gia P sẽ tăng trưởng cho đến khi đạt được điểm và bị kẹt tại điểm này.

Ngược lại, quốc gia R với điều kiện ban đầu giống nhau, nhưng được ưu

đãi với thể chế tốt hơn (TR), sẽ phát triển ổn định đạt được một trạng thái

ổn định cao hơn . Trạng thái phát triển thấp hơn có thể được hiểu như

cái bẫy nghèo của một quốc gia có thể chế kém. Vì vậy, mô hình cho thấy

thể chế kém sẽ tạo ra bẫy nghèo và cách duy nhất để thoát nghèo đó là

thông qua việc cải thiện chất lượng của thể chế. Kết quả này cũng phù hợp

với North (1990), người đã đạt ra câu hỏi năng lực của xã hội để loại trừ

khung thể chế yếu kém truyền thống mà cản trở các nước nghèo thu hẹp

khoảng cách thu nhập với các nước giàu.

x

Hình 1: Thể chế và tăng trưởng

Nguồn: Trích từ bài nghiên cứu của Tebaldi (2008)

2.2. Mô hình mở rộng

Các tài liệu cho thấy thể chế có thể tạo ra những khó khăn (ví dụ như sự

không hoàn hảo của thị trường lao động, hoặc khả năng thương lượng liên

minh, hoặc quy định của Chính phủ) để sử dụng công nghệ có sẵn

(Baldwin & Lin, 2002; Haucap & Wey, 2004; Tebaldi & Elmslie, 2008).

Đồng thời một thể chế tốt hơn cũng cho phép các đại diện kinh tế có thể

hợp tác với nhau hiệu quả hơn và cuối cùng thúc đẩy năng suất các nhân tố

(Matthews, 1986). Từ mô hình cơ sở, chúng tôi xây dựng lại hàm sản xuất

như sau:

(2.7)

Phương trình (2.7) thể hiện các kết hợp các tác động của thể chế lên sản

lượng trong hàm sản xuất Solow truyền thống. Vì T là một thước đo chuẩn

về chất lượng thể chế có giá trị chạy từ 0 đến 1, một nền kinh tế có thể chế

tốt nhất (T = 1) sẽ có hàm sản xuất giống như trong mô hình Solow chuẩn.

Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia đều có chất lượng thể chế tương

xi

tự nhau. Vì vậy, mô hình Solow là một trường hợp đặc biệt khi thể chế

không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. Hơn nữa, các hạn tử đại

diện cho các ngoại tác của thể chế đến việc áp dụng công nghệ và năng suất

các nhân tố tổng hợp. Điều đó cho thấy một đất nước với một thể chế kém

sẽ không thể hưởng lợi đầy đủ từ việc tăng năng suất tiềm năng được tạo ra

bởi các công nghệ có sẵn. Mô hình này được xử lý bằng cách đặt

và , từ đó cho phép chúng tôi viết hàm sản xuất trong điều kiện

hiệu quả trên lao động:

(2.8)

Phương trình tích lũy hiệu quả trên vốn được tính như sau:

(2.9)

Mô hình này đạt trạng thái ổn định khi , vì vậy:

(2.10)

Mô hình mở rộng cho thấy rằng thể chế tác động dài hạn lên mức độ và tốc

độ tăng trưởng dài hạn sản lượng đầu ra của mỗi lao động. Cho ,

, sử dụng , lấy log đạo hàm phương trình (2.6) ta được:

(2.11)

Vì vậy, mô hình hàm ý tốc độ tăng trưởng của sản lượng trên mỗi lao động

là không chỉ được quyết định bởi sự thay đổi công nghệ, mà còn bị ảnh

hưởng bởi chất lượng của thể chế. Một nền kinh tế có thể tiếp cận với công

xii

nghệ tiên tiến, nhưng với một thể chế kém của nó có thể cản trở việc áp

dụng các công nghệ sẵn có và làm giảm năng suất của các yếu tố sản xuất,

gây cản trở tăng trưởng kinh tế. Thể chế cũng ảnh hưởng đến thời gian

truyền dẫn của sản lượng của mỗi công nhân. Hình 2 mô tả các trường hợp

trong đó một nền kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ và sau đó, vào

thời điểm , một cú sốc ngoại sinh cải thiện chất lượng của thể chế từ T1

đến T2 (T2 >T1 ). Sự cải thiện về chất lượng của thể chế tạo ra một sự thay

đổi toàn diện lên mức sản lượng của mỗi công nhân.

Hình 2: Tác động của chất lượng thể chế đến sản lượng trên mỗi lao động

Nguồn: Trích từ bài nghiên cứu của Tebaldi (2008)

Sự ảnh hưởng của thể chế lên sản lượng của mỗi công nhân bắt nguồn

không chỉ từ những tác động của nó đối với hiệu quả chuyển giao và trạng

thái ổn định của công nghệ, mà còn từ những tác động của nó đối với sự

tích lũy vốn. Thể chế ảnh hưởng đến năng suất biên của vốn và do đó ảnh

hưởng đến các khoản đầu tư và tích lũy vốn. Trường hợp đặc biệt, cho tỷ số

là hằng số và có giá trị xoay quanh trạng thái ổn định, bằng cách lấy đạo

hàm phương trình 8 theo k, ta đánh giá được các tình huống phát sinh của

xiii

nó xung quanh các trạng thái ổn định được cho:

(2.12)

Điều này ngụ ý rằng sự cải thiện chất lượng của thể chế có ảnh hưởng

tương ứng lên trạng thái ổn định năng suất biên của vốn. Nói cách khác, thể

chế tốt làm tăng lợi nhuận đầu tư, thúc đẩy tích lũy vốn, cuối cùng làm tăng

sản lượng của mỗi công nhân. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu

thực nghiệm của (Brunetti, 1998; Mauro, 1995; Wei, 2000) khi thấy rằng

xiv

sự tích lũy vốn đang bị ảnh hưởng xấu bởi một thể chế yếu kém.

Phụ lục 3: Lý thuyết tác động của thể chế đến mối quan hệ tham

nhũng và tăng trưởng

3.1. Mô hình cơ bản cho tham nhũng và tăng trưởng

Để khảo sát vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng

trưởng De Vaal & Ebben (2011) đã xây dựng mô hình sự tác động trực tiếp

và gián tiếp của tham nhũng lên tăng trưởng. Tác giả phát triển mô hình hai

tầng, trong đó mô hình tầng thứ nhất thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa

tham nhũng và tăng trưởng, và mô hình tầng thứ hai thể hiện sự tương tác

giữa tham nhũng và thể chế đến mối quan hệ này.

Mô hình thứ nhất dựa theo nghiên cứu của Mauro (2004), ông xây dựng mô

hình chứng minh tham nhũng làm giảm hiệu suất sản xuất và gây cản trở

tăng trưởng. Căn cứ xây dựng mô hình này được dựa vào khung lý thuyết

của Barro (1988), khi đó hàng hóa công được cung cấp bởi chính phủ và

hoạt động giống như đầu vào cho sản xuất của khu vực tư. Lợi nhuận theo

quy mô của khu vực tư có thể giảm dần, nhưng lợi nhuận xã hội có thể

không đổi hoặc tăng lên. Mauro đưa tham nhũng vào mô hình như một

khoản trục lợi làm thay đổi tỷ lệ tăng trưởng.

Nền kinh tế bao gồm các đại diện kinh tế và các đại diện này cố gắng để tối

đa hóa tổng hữu dụng theo hàm:

∞ 0

(3.1) 𝑈 = ∫ 𝑢(𝑐)𝑒−𝜌𝑡𝑑𝑡

Trong đó c là tiêu dùng bình quân đầu người và ρ thể hiện tỷ lệ không đổi

của sở thích theo thời gian. Hàng hóa tiêu dùng được sản xuất bởi các đại

diện kinh tế sử dụng vốn, lao động và hàng hóa công G theo phương trình

sau:

xv

(3.2) 𝑌 = 𝐹(𝐾, 𝐿, 𝐺)

Yếu tố G thể hiện vai trò sản xuất của chính phủ trong mô hình. Tuy nhiên,

sự kết hợp với vai trò của chính phủ cũng tạo môi trường cho tham nhũng

hành chính hoạt động. Các đại diện kinh tế sẽ nổ lực để sử dụng hàng hóa

công vì lợi ích của chính họ thay vì sử dụng chúng cho hoạt động sản xuất.

Trong mô hình này, các cá nhân phân bổ thời gian của họ cho hoạt động

sản xuất (L) và tham nhũng (S). Vì vậy, tham nhũng có hai ảnh hưởng đến

đầu ra: đeo đuổi mục tiêu tham nhũng sẽ làm giảm thời gian dành để sản

xuất; trong khi đó nó cũng hàm ý rằng giảm lượng hàng hóa công đưa vào

tiến trình sản xuất như một yếu tố đầu vào. Cụ thể:

(3.3) 𝑌 = 𝐾1−𝛼𝐿𝛼[𝐺(1 − 𝑆)]𝛼

Các cá nhân phân bổ thời gian của họ cho hoạt động sản xuất và tham

nhũng. Tại điểm cân bằng, lương ròng phải bằng với năng suất biên của

tham nhũng. Đối với từng cá nhân, năng suất biên của tham nhũng là G.

Khi chính phủ sản xuất nhiều hàng hóa công, người tham nhũng có thể

chiếm đoạt một lượng hàng hóa công nhiều hơn. Năng suất biên của lao

động là tiền lương ròng sau thuế và bằng (1 − 𝜏)𝜕𝑌/𝜕𝐿. Từ phương trình

(3.3), ta có

= 𝛼 𝜕𝑌 𝜕𝐿 𝑌 𝐿

Bởi vì lương ròng phải bằng năng suất biên của tham nhũng nên giá trị cân

bằng của L trở thành:

𝜕𝑌

𝐿 = 1 − 𝑆 = 𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺

𝜕𝐾

Thay giá trị L vào hàm sản xuất thu được năng suất biên của vốn sẽ tạo

ra sự gia tăng cho hàm tăng trưởng:

xvi

− 𝜌 (1 − 𝜏)𝜕𝑌 𝜕𝐾 𝛾 = 𝜎

𝛼

𝛼

1

1

1−𝛼 [𝐺(1 − 𝑆)] )

𝛼 1−𝛼 − 𝜌]

𝜎

1−𝛼 ( 𝑌

(3.4) = ] [(1 − 𝜏)(1 − 𝛼) [𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺

Là phương trình có thuế với 1/𝜎 đại diện độ co giãn thay đổi theo thời gian

trong tiêu dùng. Phương trình này có giá trị bằng hoặc gần bằng 1 (Mauro,

𝛼 1−𝛼 làm

2002), nghĩa là tham nhũng gây cản trở cho tăng trưởng. [𝐺(1 − 𝑆)]

𝛼

1−𝛼 cũng làm giảm đầu vào lao động tối ưu (bằng 1-S). Ngoài

giảm lượng hàng hóa công đưa vào tiến trình sản xuất, trong khi đó

] [𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺

ra, Barro (1988) cũng cho thấy tác động của chi tiêu chính phủ lên tăng

trưởng – G làm cho vốn hiệu quả hơn nhưng cũng ám chỉ rằng gánh nặng

thuế làm giảm đầu vào lao động, tăng chi tiêu chính phủ cũng tạo điều kiện

cho tham nhũng hoạt động. Điều này dẫn đến một sự gia tăng trong hoạt

động tham nhũng và hậu quả là làm giảm hiệu suất sản xuất.

3.2. Mô hình kết hợp thể chế

Để kết hợp ảnh hưởng của thể chế lên mối quan hệ giữa tham nhũng và

tăng trưởng, chúng tôi mở rộng mô hình cơ bản với tầng thứ hai, tầng thể

chế. Bây giờ, chúng tôi mở rộng mô hình với mức độ ổn định chính trị và

hệ thống chính trị.

a. Ổn định chính trị

Một mức độ vững chắc về ổn định chính trị là điều kiện cần thiết cho sản

xuất và phát triển kinh tế. Trong bối cảnh ổn định chính trị, người dân có

niềm tin vững bền và sự tự tin trong việc đầu tư và hoạt động sản xuất.

Ngược lại, trong môi trường bất ổn chính trị, hoạt động sản xuất sẽ bị giảm

sút. Hơn nữa, khi xảy ra bất ổn chính trị sẽ dễ dấn tình trạng vô chính phủ

và bạo loạn. Khi đó, môi trường hoạt động sản xuất là không hiệu quả. Vì

vậy, ổn định chính trị là yếu tố quan trọng của khung thể chế tác động đến

xvii

sản xuất và tăng trưởng.

Để tích hợp vai trò của ổn định chính trị, hàm sản xuất tầng thứ nhất cần

được thay đổi và hàm sản xuất mới được hình thành. Theo Klein et al.

(1999), hàm sản xuất là sự kết hợp giữa hàm sản xuất dài hạn với biến phụ.

Trong hàm thứ nhất, hàm sản xuất phụ thuộc vào vốn, lao động và hàng

hóa công. Biến phụ được thêm vào trong trường hợp này là yếu tố ổn định

chính trị. Vì vậy, ổn định chính trị thúc đẩy sản xuất và là môi trường quan

trọng cho sản xuất:

(3.5) 𝑌 = 𝐾1−𝛼𝐿𝛼[𝐺(1 − 𝑆)]𝛼[𝑆𝑡𝑎𝑏]

Bản thân mức độ ổn định chính trị cũng phụ thuộc vào tham nhũng, một

trong vô số các yếu tố tác động đến nó. Tuy nhiên, sự tác động của tham

nhũng đến ổn định chính trị khác nhau trong bối cảnh ổn định chính trị và

bất ổn chính trị. Khi một quốc gia có môi trường ổn định chính trị, tham

nhũng gây trở ngại cho ổn định chính trị. Ngược lại, trong bối cảnh bất ổn

chính trị, tham nhũng lại thúc đẩy bất ổn chính trị. Khi đó, tham nhũng là

một cách để ổn định hệ thống kinh tế với nhau, hoặc để tránh hệ thống đổ

vỡ. Để định hình các hiệu ứng ngưỡng, chúng tôi giả định hàm ổn định

chính trị như sau:

𝑆𝑡𝑎𝑏 = 𝑋 + 𝑆[𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑆𝑡𝑎𝑏]

Trong đó X thể hiện một tập các yếu tố khác ngoài tham nhũng ảnh hưởng đến ổn định chính trị, và 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ là mức ngưỡng trên (dưới) của ổn định chính

trị mà tham nhũng tác động đến ổn định chính trị là tiêu cực (tích cực).

Phương trình này được viết lại

𝑆𝑡𝑎𝑏 = (𝑋 + 𝑆. 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅)/(1 + 𝑆)

Nó cho thấy chỉ khi (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋) > 0 thì tham nhũng sẽ tác động tích cực

1 𝑑𝑆𝑡𝑎𝑏/𝑑𝑆 = (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋)/(1 − 𝑆)2

xviii

đến ổn định chính trị1. Bằng trực giác cho thấy chỉ khi các yếu tố khác

không đủ để nâng mức ổn định vượt qua mức ngưỡng, tham nhũng mới tác

động tích cực đến ổn định chính trị.

𝛼

𝛼

1

1

Điều này hàm ý cho một tỷ lệ tăng trưởng như sau:

1−𝛼 (

1−𝛼 [𝐺(1 − )

𝜎

𝑌

1

𝛾 = ] [(1 − 𝜏)(1 − 𝛼) [𝛼(1 − 𝜏) 𝑌 𝐺

𝛼 1−𝛼 (

1−𝛼 − 𝜌] (3.6) )

𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆

𝑆)]

Như đã bình luận, tham nhũng tác động đến tăng trưởng trực tiếp thông qua

sự tác động đến lựa chọn đầu vào lao động và làm giảm phần hàng hóa

𝛼

công sẵn có cho sản xuất khu vực tư. Bây giờ, tác động này cũng xuất hiện

1−𝛼. Nhưng tác động này )

𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆

thông qua tác động lên ổn định chính trị (

là không rõ ràng, nó phụ thuộc vào mức độ ổn định chính trị trong xã hội

mà làm cho tham nhũng tác động tích cực hoặc tiêu cực lên ổn định chính

trị.

Một cách chính thức, tác động của tham nhũng lên tỷ lệ tăng trưởng được

cho bởi

𝑆

1−𝑆

𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋

= } ) − 𝜕𝛾 𝜕𝑆 𝑆 𝛾 𝜎𝛾 + 𝜌 (1 − 𝛼)𝜎𝜌 𝑆 { 1 + 𝑆 2𝛼𝑆 1 − 𝑆 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋 ( 𝑋 + 𝑆. 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅

1−𝑆

𝜎𝛾+𝜌 (1−𝛼)𝜎𝜌

1+𝑆

𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅) − 2𝛼} > (

(3.7) = { <⁄ 0

Như vậy, tác động của tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế là tiêu cực nếu

mức ngưỡng của ổn định là đủ thấp, vì thế tham nhũng cũng tác động tiêu

cực đến ổn định chính trị. Trường hợp khác, tham nhũng có thể thúc đẩy

tăng trưởng và lao động được cung cấp không quá quan trọng trong sản

xix

xuất (α nhỏ). Tham nhũng làm giảm lượng lao động được sử dụng trực tiếp

cho hoạt động sản xuất vì thế tầm quan trọng của lao động trong sản xuất

trở nên nhỏ hơn.

b. Hệ thống chính trị

Tối ưu hóa các lựa chọn cung cấp lao động

Giá trị tối ưu xã hội của L được lấy bởi hiệu suất biên của lao động bằng

𝑌

với hiệu suất biên của tham nhũng. Trong điều kiện hệ thống chính phủ dân

𝐿

trong khi đó hiệu suất chủ tương thích, hiệu suất biên của lao động là 𝛼

𝑑𝑌

𝑌

𝛼𝑌

biên của tham nhũng là:

𝑑𝑆

1+𝑆

𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋 𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅] −

1−𝑆

(3.8) = [

Điều này khác biệt từ hiệu suất biên của tham nhũng cho mỗi cá nhân. Hơn nữa, 𝑑𝑌/𝑑𝑆 là tích cực chỉ khi 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ > 𝑋, nghĩa là khi ổn định chính trị

thấp hơn mức ngưỡng. Trong trường hợp này, phương trình (3.8) chứng

minh rằng tham nhũng có 2 tác động đối lập nhau. Khi tham nhũng là tập

trung, sự so sánh tương quan giữa tác động biên của tham nhũng và của sản

xuất so với phần doanh thu thuế vẫn không đổi, (1 − 𝛼)𝜏𝑌. Khi đó, lựa chọn lao động tối ưu khi 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋 > 0:

𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋

(3.9) 𝐿 = 2𝛼(𝑆 + 1) [ ]

L tối ưu tương quan thuận với sự hiện diện của tham nhũng trong xã hội

khi và chỉ khi các yếu tố khác tác động đến ổn định chính trị (X) giảm thấp hơn mức ngưỡng của ổn định (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅). Khi đó, tham nhũng được hiểu là tạo

ra ngoại tác tích cực đến ổn định chính trị. Nếu ngoại tác tích cực này

không xuất hiện, lợi ích biên của tham nhũng trở thành tiêu cực (thể hiện

xx

phương trình 3.8).

Tác động không rõ ràng của tham nhũng lên tăng trưởng cũng được phản

ánh trong hàm tăng trưởng. Sử dụng giá trị cân bằng của L từ phương trình

𝛼

𝛼

1

𝐺

3.9, hàm tăng trưởng trở thành

1−𝛼 (

1−𝛼 (1 − )

𝜎

𝑌

1

𝛾 = ] [(1 − 𝜏)(1 − 𝛼) [2𝛼(𝑆 + 1) 𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋

𝛼 1−𝛼 (

1−𝛼 − 𝜌] (3.10) )

𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆

𝑆)

𝛼

Như phân tích trên, tham nhũng tác động đến tăng trưởng thông thay đổi

1−𝛼, và đầu vào của hàng hóa công, )

𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 1+𝑆

𝛼 1−𝛼, cho sản xuất tư nhân. Và bây giờ tham nhũng còn tác động

mức độ ổn định chính trị, (

𝛼

1−𝛼. Tác động

(1 − 𝑆)

] thông qua việc tuyển dụng lao động [2𝛼(𝑆 + 1) 𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅ 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋

cuối cùng này tăng lên bởi vì các nhà hoạch định biết rằng tham nhũng

cũng có hậu quả cho tổng sản lượng đầu ra. Ngoài ra, tham nhũng chỉ tác

động tích cực đến tăng trưởng khi mà mức độ ổn định giảm thấp hơn mức

ngưỡng.

Tối ưu hóa cung cấp hàng hóa công

Bây giờ, ủng hộ quan điểm cho rằng lập kế hoạch xã hội có liên quan đến

việc lựa chọn mức độ tối ưu về cung cấp hàng hóa công, khi đó các quyết

định cung lao động phụ thuộc vào G. Điểm này giảm xuống để giả định

rằng chính phủ cân bằng chi phí biên và lợi ích của G được dựa trên hàm

sản xuất tổng hợp với sự kết hợp của lựa chọn cung lao động tối ưu của cá

𝑌

nhân mà chúng tôi đã tìm thấy từ phần trên. Nhắc lại 𝐿 = 1 − 𝑆 = 𝛼(1 −

𝐺

và bỏ qua sự tác động của ổn định chính trị đến sản lượng, hàm sản 𝜏)

xuất trở thành:

xxi

𝑌 = 𝐾1−𝛼[(1 − 𝜏)𝛼]2𝛼𝑌2𝛼𝐺−𝛼

𝛼 2𝛼−1

Sắp xếp lại phương trình ta có:

2𝛼 1−2𝛼𝐾

1−𝛼 1−2𝛼𝐺

(3.11) 𝑌 = [(1 − 𝜏)𝛼]

𝑑𝑌

Trường hợp tham nhũng tập trung, chi phí biên của cung cấp hàng hóa

𝑑𝐺

𝐺

𝛼

công là bằng 1 và lợi ích biên là . Điều này ngụ ý

𝑌

2𝛼−1

= 𝜏

Là tích cực khi và chỉ khi 𝛼 > 1/2. Khi đó, lao động phải đủ lớn trong sản

xuất cuối cùng để chứng minh tham nhũng tập trung để tạo ra một lượng

tích cực của G.

𝑑𝑌

Trong trường hợp chính phủ dân chủ hợp lý, chi phí biên của cung cấp

𝑑𝐺

𝐺

𝛼

hàng hóa công là 1 trong khi lợi ích biên là lượng . Điều này mang lại

𝑌

= 2𝛼−1

Bởi vì cân đối ngân sách yêu cầu 𝐺 = 𝜏𝑌. Một lần nữa, cung cấp hàng hóa

công là tích cực khi 𝛼 > 1/2, trong trường hợp này G/Y cũng cao hơn so

với trước đây.

Khảo sát việc cung cấp hàng hóa công tối ưu khi có sự hiện diện của thể

chế, chẳng hạn ổn định chính trị, kết quả có thể thay đổi. Bởi vì lựa chọn

cung lao động tối ưu của cá nhân vẫn không đổi, hàm sản xuất được mở

𝛼

rộng từ phương trình (3.11) như sau:

2𝛼 1−2𝛼𝐾

1−𝛼 1−2𝛼𝐺

2𝛼−1𝑆𝑡𝑎𝑏(𝐺)

𝑌 = [(1 − 𝜏)𝛼]

Khi đó, 𝑆𝑡𝑎𝑏(𝐺) = (𝑋 + 𝑆(𝐺). 𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅)/(1 + 𝑆(𝐺)). Hàm ý của sự bao gồm

𝑑𝑌

𝛼

𝑌

𝑌

Stab(G) trong hàm sản xuất có thể được khảo sát thông qua dY/dG :

2 )

𝑑𝐺

2𝛼−1

𝐺

𝐺

𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅−𝑋 (𝑋+𝑆.𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅̅)(1+𝑆)

xxii

= [ ] + 𝛼(1 − 𝜏) (

Do đó, trong điều kiện ổn định chính trị, khi tham nhũng tác động tích cực đến ổn định chính trị (𝑆𝑡𝑎𝑏̅̅̅̅̅̅ − 𝑋 > 0) thì dY/dG tăng lên. Bởi vì chi phí

biên của việc tạo ra G là không đổi cho cả hai trường hợp tham nhũng tập

trung và chính phủ dân chủ hợp lí, điều này ngụ ý rằng nếu tham nhũng tạo

ra ngoại tác tích cực thông qua ổn định chính trị thì việc gia tăng chi tiêu

cho hàng hóa công là tối ưu.

Tóm lại, mô hình tầng thứ nhất cho thấy trong điều kiện không có có khung

thể chế thì tham nhũng kìm hãm tăng trưởng thông qua việc làm giảm

lượng đầu vào của hàng hóa công cho khu vực sản xuất và giảm đầu vào

của lao động. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng trở

nên không chắc chắn khi đưa yếu tố khung thể chế vào mô hình phân tích.

Khi mức độ ổn định chính trị lớn hơn so với ngưỡng ổn định chính trị,

tham nhũng tác động tiêu cực đến ổn định chính trị và vì vậy tham nhũng

cũng gây cản trở tăng trưởng. Ngược lại, khi mức độ ổn định chính trị thấp

hơn so với ngưỡng ổn định chính trị, tham nhũng tác động tích cực đến ổn

định chính trị và vì vậy tham nhũng thúc đẩy tăng trưởng.

Tương tự, hệ thống chính trị cũng tác động đến mối quan hệ giữa tham

nhũng và tăng trưởng. Ứng dụng mô hình tầng thứ hai để so sánh tham

nhũng tại xã hội dân chủ và tham nhũng tại hệ thống chuyên chế và cho

thấy tham nhũng thúc đẩy tăng trưởng hay không còn tùy thuộc vào môi

xxiii

trường thể chế.

Phụ lục 4: Các quốc gia trong mẫu nghiên cứu

xxiv

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 Quốc gia Benin Bolivia Burkina Faso Burundi Cambodia Cameroon Chad Congo, Rep. Cote d'Ivoire Egypt, Arab Rep. El Salvador Gambia, The Georgia Ghana Guatemala Guinea Honduras India Indonesia Kenya Kyrgyz Republic Lesotho Madagascar STT 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 Quốc gia Malawi Mali Mauritania Moldova Mongolia Morocco Mozambique Nepal Nicaragua Niger Pakistan Paraguay Philippines Rwanda Senegal Sri Lanka Swaziland Tajikistan Tanzania Togo Uganda Ukraine Vietnam