ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

------------

LÝ NA (LI NA) THƠ ĐI SỨ CỦA SỨ THẦN TRUNG QUỐC ĐẾN VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X - XVIII

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

------------

LÝ NA (LI NA)

THƠ ĐI SỨ CỦA SỨ THẦN TRUNG QUỐC ĐẾN VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X - XVIII

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN KIM SƠN

HÀ NỘI - 2016

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này, tôi đã nhận đƣợc

sự hƣớng dẫn và giúp đỡ hết sức tận tình của ngƣời hƣớng dẫn khoa học

PGS.TS Nguyễn Kim Sơn, các thầy giáo, cô giáo của trƣờng Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, nhất là các thầy cô giáo

của Khoa Văn học và Phòng đào tạo Sau đại học; các thầy cô và bạn đồng

nghiệp Khoa Tiếng Việt của Học viện Ngoại ngữ - Đại học Dân tộc Quảng

Tây Trung Quốc. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến quý thầy

cô cà các bạn đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi

cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án.

Tôi rất mong muốn đƣợc tiếp thu những ý kiến nhận xét, chỉ dẫn của các

thầy giáo, cô giáo, của hội đồng chuyên môn và các bạn đồng nghiệp để khắc

phục những thiết sót, hạn chế để luận án đƣợc hoàn thiện hơn.

Hà Nội, tháng 07 năm 2016

Ngƣời viết

Lý Na (Li Na)

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các công

trình nghiên cứu khác có liên quan và đƣợc trích dẫn trong Luận án có chú

thích rõ ràng ở phần tài liệu tham khảo. Mọi nhận định, kiến giải, kết luận là

của bản thân, không sao chép từ bất kì một tài liệu nào. Nếu có gì sai sót, tôi

xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 07 năm 2016

Ngƣời viết

Lý Na (Li Na)

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TT Chữ viết tắt Viết đầy đủ

Thơ đi sứ 1 TĐS

Thơ xƣớng họa 2 TXH

Đại Việt sử ký toàn thƣ 3 ĐVSKTT

Lịch triều hiến chƣơng loại chí 4 LTHCLC

Tứ khố toàn thƣ 5 TKTT

Kiến văn tiểu lục 6 KVTL

Bắc sứ thông lục 7 BSTL

An Nam chí lƣợc 8 ANCL

Viện Nghiên cứu Hán Nôm 9 VNCHN

Việt sử thông giám cƣơng mục 10 VSTGCM

Đại Nam thực lục 11 ĐNTL

12 GCC Giao Châu cảo 交州稿

13 SGC Sứ Giao cảo 使交稿

14 VLC Vạn lý chí 萬里志

15 GHTC Giao Hành Trích cảo 交行摘稿

16 SGT Sứ Giao tập 使交集

17 SGN Sứ Giao ngâm 使交吟

DANH MỤC CÁC BẢNG Ở PHỤ LỤC

Bảng 2.2 Danh sách và sứ mệnh của các sứ đoàn Trung Quốc sang Việt Nam

Bảng 3.1 Tình hình mất còn của Sứ Giao tập các triều

Bảng 3.4 Thống kê số bài TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc

MỤC LỤC

Mở đầu ....................................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 3 2. Đối tƣợng nghiên cứu ....................................................................................... 6 3. Phạm vi nghiên cứu và tƣ liệu .......................................................................... 9 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................ 10 5. Đóng góp khoa học của Luận án .................................................................... 12 6. Bố cục của Luận án......................................................................................... 12 7. Quy ƣớc trình bày Luận án ............................................................................. 13 Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu......................................................... 14 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THƠ ĐI SỨ Ở MỘT SỐ NƢỚC THUỘC VÙNG VĂN HÓA HÁN ......................................................... 14 1.2. NGHIÊN CỨU THƠ ĐI SỨ CỦA SỨ THẦN VIỆT NAM TỚI TRUNG QUỐC ................................................................................................................. 15 1.2.1. Sƣu tập danh sách sứ thần hoặc văn bản ............................................ 16 1.2.2. Dịch thuật, giới thiệu công bố ............................................................ 16 1.2.3. Nghiên cứu từ các góc độ ................................................................... 17 1.3. NGHIÊN CỨU THƠ ĐI SỨ CỦA SỨ THẦN TRUNG QUỐC TỚI VIỆT NAM ................................................................................................................... 19 1.3.1. Nghiên cứu của học giả Việt Nam ..................................................... 19 1.3.2. Nghiên cứu của học giả Trung Quốc .................................................. 22 1.3.3. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu đã triển khai trƣớc đây ......... 27 1.4. ĐỀ XUẤT HƢỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN .............................. 29 Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 34 Chƣơng 2. Sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam, lƣợc sử thông sứ và giao lƣu văn hóa ..................................................................................................................... 35 2.1. LƢỢC SỬ SỰ HÌNH THÀNH MỐI QUAN HỆ THÔNG SỨ .................. 35 2.1.1. Nhìn lại quan hệ Trung - Việt trƣớc thế kỷ X .................................... 35 2.1.2. Sự hình thành mối quan hệ thông sứ .................................................. 35 2.2. GIỚI THIỆU SƠ LƢỢC VỀ SỨ ĐOÀN .................................................... 38 2.2.1. Thống kê số sứ đoàn Trung Quốc đã sang Việt Nam ......................... 38 2.2.2. Thƣởng phạt đối với sứ thần .............................................................. 41 2.3. NHIỆM VỤ CỦA SỨ ĐOÀN TRUNG QUỐC .......................................... 44 2.4. ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC ĐỘNG, HIỆU QUẢ CỦA CÔNG VIỆC THÔNG SỨ ....................................................................................................................... 47 Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................... 51 Chƣơng 3. Tình hình lƣu trữ, diện mạo văn bản, nội dung của thơ đi sứ ......... 52 3.1. TÌNH HÌNH, DIỆN MẠO VĂN BẢN THƠ ĐI SỨ ................................... 52 3.1.1. Tình hình, diện mạo các văn bản ....................................................... 52 3.1.1.1. Tình hình lƣu trữ của Sứ Giao tập các triều ................................... 53

1

3.1.1.2. Diện mạo các văn bản TĐS ............................................................ 55 3.1.2. Thống kê tác giả, tác phẩm đi sứ đƣợc lƣu trữ ................................... 58 3.2. NỘI DUNG CỦA THƠ ĐI SỨ .................................................................... 59 3.2.1. Chủ đề sáng tác .................................................................................. 59 3.2.1.1. Chủ đề về chính trị, ngoại giao ...................................................... 59 3.2.1.2. Chủ đề về sứ trình cũng như hoạt động trên sứ trình .................... 71 3.2.1.3. Chủ đề về cảnh vật mới lạ và cuộc sống người dân ...................... 79 3.2.1.4. Chủ đề về nhớ quê nhớ nhà ............................................................ 88 3.2.2. Cảm hứng chủ đạo.............................................................................. 93 3.2.2.1. Ý thức dân tộc ................................................................................. 93 3.2.2.2. Ý thức trách nhiệm của sứ thần ...................................................... 95 Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................... 98 Chƣơng 4. Thể loại và đặc điểm của thơ đi sứ ..................................................... 99 4.1. THỂ LOẠI CỦA THƠ ĐI SỨ ..................................................................... 99 4.1.1. Chia theo cấu trúc hình thức ............................................................. 99 4.1.2. Chia theo tiêu chí nội dung ............................................................. 102 4.2. BÚT PHÁP NGHỆ THUẬT CỦA THƠ ĐI SỨ ........................................ 113 4.2. 1. Tức cảnh sinh tình .......................................................................... 113 4.2. 2. Thác vật ngôn chí ............................................................................ 116 4.2.3. Tức cổ nghiệm kim ........................................................................... 119 4.2.4. Tức sự thư hoài ................................................................................. 123 4.3. ĐẶC ĐIỂM THƠ ĐI SỨ ........................................................................... 125 4.3.1. Mang đậm tính ký sự ........................................................................ 125 4.3.2. Tự sự kết hợp với trữ tình ................................................................ 134 4.3.3. Mang tính lƣu động di chuyển ......................................................... 137 4.3.4. Không qua nhiều trau chuốt ............................................................. 139 4.3.5. Chịu sự ảnh hƣởng của các bậc tiền bối ........................................... 142 Tiểu kết chƣơng 4 ............................................................................................. 147 Kết luận .................................................................................................................. 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 162 Phụ lục I: CÁC BẢNG BIỂU VỀ SỨ ĐOÀN VÀ TĐS ......................................... 162 Phụ lục II: TUYỂN DỊCH MỘT SỐ BÀI TĐS VÀ TXH ...................................... 171 Phụ lục III: DANH MỤC NHAN ĐỀ CÁC BÀI TĐS CỦA SỨ THẦN TRUNG QUỐC...................................................................................................................... 213 Phụ lục IV: CÁC BẢN SỨ TRÌNH ĐỒ .................................................................. 248

2

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam xƣa đƣợc gọi là Giao Chỉ. Năm 679, nhà Đƣờng đặt An Nam Đô hộ

phủ nên còn có tên gọi là An Nam. Trong sách cổ Hán văn, Việt Nam thƣờng đƣợc

gọi tắt là Giao, Trung Quốc đƣợc gọi tắt là Hoa. Thế kỷ X, Việt Nam trở thành một

nhà nƣớc phong kiến độc lập, sau đó hai nƣớc giữ mối quan hệ thông sứ đặc biệt.

Vua chúa hai nƣớc cử sứ thần đại diện cho vƣơng triều mình giao vãng công cán với

nhau. Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVIII, phía Trung Quốc đã cử hơn trăm sứ đoàn

sang Việt Nam, còn Việt Nam đã cử khoảng hai trăm sứ đoàn sang Trung Quốc.

Vai trò của sứ thần hết sức quan trọng trong công việc ngoại giao thời đó, họ

phải đấu trí đấu lực, mà thành công của nó nhiều khi đƣa đến những thành quả thật

bất ngờ, không kém gì tƣớng lĩnh võ quan. Chẳng hạn, bài 玉堂諸公贈送天使詩

序 Ngọc Đường chư công tặng tống thiên sứ thi tự của 王希賢 (Vƣơng Hy Hiền)

có câu: ―長纓致越非難事,寸石強秦君不勞 (Áo mũ xênh xang đi sứ khiến cho

vua nƣớc Nam Việt đến chầu chẳng phải là việc khó, dùng mẩu đá mà ép buộc

đƣợc nhà Tần mạnh, khiến nhà vua không phải khó nhọc)‖ [40, 402]; hay nhƣ giai

thoại về Từ Minh Thiện sang sứ Việt Nam: ―芳谷嘗奉使交阯國,其王子陳日炫

聞公善詩,舉 卮酒 立索吟。公口 占云 云。日炫遂納 款奉 貢,公聲名大振

(Phƣơng Cốc từng sang sứ nƣớc Giao Chỉ, vua Trần là Nhật Huyễn nghe nói ông

giỏi làm thơ, bèn nâng cốc rƣợu đứng lên đòi ông ngâm luôn một bài. Ông ứng

khẩu đọc ngay ra một bài. Vua Trần sau đó bèn cử sứ đoàn sang nạp cống, tiếng

tăm của ông nhân thế mà vang dội)‖ [106, 96]. Làm thơ giỏi mà thúc đẩy vua Trần

sang nạp cống có lẽ là hơi quá, nhƣng thông tin này cho biết hoạt động của sứ thần

có thể thúc đẩy sự việc đi đến những kết quả tốt đẹp.

3

Việc chọn sứ thần đều phải trải qua một sự lựa chọn cân nhắc thật kỹ càng

trong triều đình. Nhìn lại dòng chảy lịch sử, chúng tôi đƣợc biết những ngƣời đƣợc

cử đi sứ hầu nhƣ đều là những quan chức tài giỏi lỗi lạc, có tinh thần yêu nƣớc, bác

cổ thông kim, ứng đối nhanh trí, thông minh tháo vát, nhất là giỏi về làm thơ văn.

Đa số sứ thần là những ngƣời đỗ đạt khoa cử, những nhà văn hóa xuất sắc, có tên

tuổi trong triều đình.

Trong quá trình đi sứ, sứ thần phải vƣợt qua nhiều gian khổ, phải lƣu tâm

quan sát và hỏi han khắp nơi. Vì đƣợc trải nghiệm những điều bất bình thƣờng, còn

một trọng trách nữa là khi về phải tâu với vua, nên họ đã ghi lại những sự kiện lịch

sử quan trọng mà mình đã đích thân chứng kiến, cũng nhƣ những điều tai nghe mắt

thấy mới lạ ở dọc đƣờng, sáng tác ra nhiều tác phẩm văn học. Những tác phẩm này

đƣợc chúng tôi gọi là tác phẩm đi sứ. Tác phẩm đi sứ của sứ thần Trung Quốc đến

Việt Nam thƣờng đƣợc gọi tắt là Sứ Giao tập, ngƣợc lại, tác phẩm của sứ thần Việt

Nam sang Trung Quốc thƣờng đƣợc gọi tắt là Sứ Hoa tập. Các văn tập đi sứ mang

tên Sứ Giao văn tập, Sứ Hoa văn tập, An Nam ký sự, Hoa trình văn tập hay Hoàng

hoa thi tập1, v.v... tuyệt đại đa số sáng tác bằng chữ Hán cổ, ngoài ra có một số ít sứ

thần Việt Nam sáng tác bằng chữ Nôm. Trong những tác phẩm đi sứ, thơ ca chiếm

một tỷ trọng khá lớn, là một thể loại hết sức đƣợc sứ thần ƣa chuộng.

Những bài thơ đi sứ (dƣới đây xin viết tắt là TĐS) là thơ của các sứ thần làm

trong khi đi sứ, nói chuyện bang giao, ghi lại nhật ký hành trình, các cuộc giao tiếp

và nghi lễ ngoại giao, miêu tả và phản ánh đất nƣớc và con ngƣời nơi mình đi qua,

v.v... Nhƣ vậy là TĐS sẽ đƣợc xác định bằng cả trục thời gian (đi sứ) và bằng cả về

nội dung (chuyện đi sứ), do các sứ thần đƣợc lựa chọn từ những trí thức phong kiến

xuất chúng, có bản lĩnh chính trị và am hiểu sâu sắc về văn hóa văn học sáng tác.

Truyền thống xƣớng họa thơ ở Trung Quốc đã có từ lâu đời, các tầng lớp trí

1 Hoàng hoa (皇華) xuất hiện đầu tiên trong Kinh thi, bài 皇皇者華 Hoàng hoàng giả hoa, vốn là

bài thơ nói về việc sai khiến sứ thần; sau này gọi tắt là Hoàng hoa, để chỉ việc đi sứ.

thức sum họp với nhau rất hay xƣớng họa thơ. Chịu ảnh hƣởng của nền văn hóa và

4

văn học Hán cổ, sĩ phu Việt Nam cũng đã tạo dựng một truyền thống sáng tác văn

học bằng chữ Hán cổ từ rất lâu đời, trong đó gồm cả làm thơ và xƣớng họa thơ. Khi

đi sứ Trung Quốc hoặc gặp các sứ đoàn nƣớc khác nhƣ Triều Tiên, Lƣu Cầu ở Kinh

đô Trung Quốc, sứ thần Việt Nam thƣờng chủ động xƣớng họa và thù tặng thơ chữ

Hán cổ với quan chức Trung Quốc và sứ thần nƣớc bạn để kết bạn và giao lƣu.

Ngƣợc lại, khi sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam cũng thƣờng xƣớng họa và

thù tặng thơ với vua tôi Việt Nam, vua tôi Việt Nam tiếp sứ cũng chủ động xƣớng

họa thơ với sứ thần Trung Quốc. Nay tác phẩm TĐS của sứ thần Trung Quốc cũng

nhƣ thơ xƣớng họa (dƣới đây xin viết tắt là TXH) giữa họ với vua tôi Việt Nam

đƣợc lƣu trữ lại không còn nhiều nữa, nhƣng đó lại là những tác phẩm có giá trị văn

học cũng nhƣ lịch sử, nội dung phong phú, hình thức đa dạng, là nguồn tài sản văn

học quý giá, là kết tinh của mối quan hệ bang giao và giao lƣu văn hóa giữa hai

nƣớc. Tuy nhiên, vì một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, lĩnh vực này đến

nay vẫn ít ngƣời quan tâm đến.

Với tƣ cách là một giáo viên ngƣời Trung Quốc dạy tiếng Việt cho sinh viên

Trung Quốc, nghiên cứu sinh có thể đọc cả tƣ liệu Hán cổ và hiện đại, tƣ liệu tiếng

Việt, tiếng Anh, yêu thích văn học và lịch sử văn hóa Việt Nam cũng nhƣ Trung

Quốc, dƣới sự hƣớng dẫn của chuyên gia am hiểu về Nho học và văn học Việt Nam,

với mục đích tìm hiểu hệ thống TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam mang

đậm sắc thái thời phong kiến, nhất là muốn nắm bắt đƣợc đặc điểm và nghệ thuật

văn học của mảng thơ đó, đồng thời cũng nhằm tìm hiểu thêm mối quan hệ bang

giao nói chung và mối quan hệ giao lƣu văn học giữa tầng lớp trí thức hai nƣớc,

chúng tôi đã chọn Thơ đi sứ của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam từ thế kỷ X -

XVIII làm đề tài nghiên cứu của Luận án tiến sĩ.

Nhìn vào tiêu đề của luận án, có thể cho rằng luận án này trƣớc hết là một

công trình nghiên cứu về văn học và ngoại giao Trung Quốc. Nhƣng xét kỹ hơn nó

cũng thuộc về chuyên ngành văn học Việt Nam, bởi hoạt động đi sứ của những sứ

thần Trung Quốc là hƣớng tới và diễn ra ở Việt Nam, nội dung chủ yếu của nguồn

5

tài liệu liên quan mật thiết và trực tiếp tới Việt Nam, là thứ văn chƣơng có chủ đề -

đề tài, cảm hứng chủ đạo từ thực tế và lịch sử Việt Nam. Nên luận án này còn có thể

coi là một nghiên cứu bổ sung, hỗ trợ cần thiết cho chuyên ngành Việt Nam học

trong đó có nghiên cứu văn học, giúp cho mở rộng tầm nhìn, chuyển đổi góc nhìn

để tìm hiểu văn học cũng nhƣ tác phẩm Việt Nam. Đề tài này liên quan đến vài lĩnh

vực nhƣ sủ học, bang giao, văn hóa, văn học, v.v... có thể nhìn nhận và phân tích từ

các góc độ khác nhau, nhƣng công việc chính của chúng tôi là chỉnh lý văn bản và

tác phẩm, bất cứ nhìn nhận từ góc độ nào đều xung quanh hoặc phục vụ cho công

việc nghiên cứu văn học, phần nội dung quan trọng nhất trong Luận án.

2. Đối tƣợng nghiên cứu

Vùng đất Việt Nam cả trƣớc khi lẫn sau khi trở thành nhà nƣớc độc lập, đã có

không ít ngƣời Trung Nguyên và vùng Hoa Nam Trung Quốc di cƣ sang, có ngƣời

sang vì làm ăn buôn bán, có ngƣời chạy sang tránh loạn; có ngƣời sang làm Thái thú

nhƣ Tích Quang, Sĩ Nhiếp... Có ngƣời sang vì bị đi đày nhƣ Vƣơng Phúc Trị (bố

của Vƣơng Bột), Thẩm Thuyên Kỳ, hay Đỗ Thẩm Ngôn (ông nội của nhà thơ Đỗ

Phủ), Giải Tấn... Có ngƣời sang lánh nạn vì không chịu khuất phục vƣơng triều mới,

nhằm tìm cơ hội khôi phục giang sơn cũ nhƣ nhóm ngƣời Tống, ngƣời Minh

Hƣơng... Có ngƣời sang làm việc giao lƣu với chúa Nguyễn ở Đàng Trong nhƣ nhà

sƣ Thích Đại Sán thời nhà Thanh, sang Huế năm 1695 [91], v.v...

Tuy nhiên, đối tƣợng nghiên cứu trong Luận án tiến sĩ của chúng tôi chỉ hạn

chế ở phạm vi các vị sứ thần đại diện cho triều đình phong kiến Trung Quốc chính

thức sang sứ Việt Nam, nhằm thực hiện một sứ mệnh nào đó, đại đa số là ―đại sứ‖

(tức Chánh sứ, Phó sứ), có khi là những ―tùy viên‖ giỏi văn thơ, rất nổi bật đƣợc ghi

trong chính sử. Về tác phẩm đi sứ, chủ yếu là mảng TĐS Việt Nam của nhóm sứ thần

Trung Quốc này, cùng với các cặp TXH, tặng tiễn, đề vịnh giữa sứ thần Trung Quốc

và vua tôi ở Việt Nam. Trƣờng hợp chỉ có thơ tặng của vua tôi Việt Nam, không có

bài xƣớng hoặc bài họa của sứ thần Trung Quốc, chúng tôi tạm không đƣa vào phạm

6

vi nghiên cứu. Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu những thông tin lịch sử, văn hóa và văn

học thể hiện trong TĐS của sứ thần Trung Quốc đã đến Việt Nam từ thế kỷ X-XVIII,

tức tƣơng đƣơng với các thời Tống, Nguyên, Minh và đến tận thời Càn Long nhà

Thanh của Trung Quốc.

Vì quan hệ hai nƣớc trong thời kỳ đó là quan hệ giữa nƣớc lớn và nƣớc nhỏ, sứ

thần Trung Quốc là đại diện cho ―Thiên tử‖ của nƣớc lớn, nên đƣợc phía Việt Nam đƣa

tiễn và bảo vệ hết sức cẩn thận, bình dân khó mà có cơ hội tiếp cận đƣợc. Những ngƣời

dân tham gia công việc khiêng cáng, hộ vệ sứ đoàn đều là nông dân không có học,

không biết chữ Hán, tiếng Hán. Các quan chức Việt Nam phụ trách đón tiếp sứ thần dù

rất có học và đại bộ phận xuất thân khoa cử, nhƣng cũng không phải lúc nào muốn gặp

sứ thần cũng đƣợc, khi có việc phải tâu, xin phép rồi mới đƣợc vào yết kiến. Có khi

quan tiếp sứ chủ động tặng thơ sứ thần rồi, sứ thần Trung Quốc vẫn còn rất nghiêm túc,

kiên trì nguyên tắc ―sứ mệnh chưa xong tuyệt không làm thơ và xướng họa thơ‖, nhƣ

trƣờng hợp của sứ thần nhà Nguyên là Trần Phu sang sứ năm 1292 [66] và sứ thần nhà

Thanh là Lý Tiên Căn sang sứ năm 1669 [88].

Chúng tôi rút ra kết luận rằng: vì có sự ràng buộc về quy định, nên ngƣời Việt

Nam có cơ hội xƣớng họa thơ với sứ thần Trung Quốc chỉ có thể là các ông vua, các

vị trọng thần tham gia các buổi yết kiến hoặc yến tiệc, nên họ mới có thời gian tiếp

xúc với sứ thần nhiều nhất. Tóm lại, phần xƣớng họa thơ giữa sứ thần Trung Quốc

với ngƣời Việt Nam cũng chỉ giới hạn giữa sứ thần với vua tôi cấp cao Việt Nam.

Vì trong số tác phẩm đi sứ còn lƣu trữ lại đó, có những đề tài, thể loại và cảm

hứng tƣơng tự, tùy theo giá trị của tác phẩm và mục đích sử dụng, chúng tôi chỉ

chọn dịch khoảng 100 bài thơ mà chúng tôi cho là tiêu biểu và có thể đại diện cho

từng thời đại, từng sứ thần, từng đề tài và thể loại. Cũng vì nhiều bài TĐS Việt Nam

của sứ thần Trung Quốc quá rải rác và còn tồn nghi, cho nên để đảm bảo tính khoa

học, Luận án của chúng tôi chủ yếu dựa vào sáu bộ Sứ Giao thi đƣợc lƣu trữ hoàn

hảo và một số thi văn tập liên quan khác của các sứ thần. Xin đƣợc liệt kê:

7

- Giao Châu cảo của Nguyên sứ Trần Phu(元 陳孚《交州稿》)[66]

- Sứ Giao cảo của Minh sứ Lỗ Đạc(明 魯鐸《使交稿》)[76]

- Vạn lý chí của Minh sứ Trƣơng Hoằng Chí(明 張弘至《萬里志》)[73]

- Giao hành trích cảo của Minh sứ Từ Phu Viễn(明 俆孚遠《交行摘稿》)[81]

- Sứ Giao tập của Thanh sứ Ngô Quang(清 吳光《使交集》)[87]

- Sứ Giao ngâm của Thanh sứ Chu Xán(清 周燦《使交吟》)[89]

- Sứ Giao kỷ sự của Thanh sứ Chu Xán(清 周燦《使交紀事》)[89]

- Phó Dữ Lệ thi văn tập của Nguyên sứ Phó Dữ Lệ(元 傅與礪《傅與礪詩文集》)[69]

- Thiên Nam hành kỷ của Nguyên sứ Từ Minh Thiện(元 徐明善《天南行紀》)[67]

- Thúy Bình thi tập của Minh sứ Trƣơng Dĩ Ninh(明 張以寧《翠屏詩集》)[71]

- Văn Giản tập của Minh sứ Tôn Thừa Ân(明 孫承恩《文簡集》)[82]

- Vinh tiến tập của Minh sứ Ngô Bá Tông(明 吳伯宗《榮進集》)[78]

- Cam Tuyền văn tập của Minh sứ Trạm Nhƣợc Thủy(明 湛若水《甘泉文集》)[83]

- Trúc giản tập của Minh sứ Phan Hy Tăng(明 潘希曾《竹澗集》)[84]

- Lâm Đăng Châu tập của Minh sứ Lâm Đƣờng Thần(明 林唐臣《林登州集》)[72]

- Chất Am Chương Công thi văn tập của Minh sứ Chƣơng Sƣởng(明 章敞《質菴章

公詩文集》)[75]

- Nhâm Tuất Khóa sứ trình thi tập2, trong đó có thơ của Thanh sứ Đức Bảo, Cố

Nhữ Tu và quan chức tiếp sứ Việt Nam(《壬戍課使程詩集》清 德保、顧汝修和越

南阮春暄、陳名冧等)[36]

2 Tìm thấy thơ của Thanh sứ Đức Bảo và Cố Nhữ Tu cũng nhƣ thơ xƣớng họa của quan chức tiếp sứ Việt Nam trong quyển Nhâm tuất khóa sứ trình thi tập, ký hiệu: VHv. 2597, tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Vì ngƣời ta gôm thơ của năm Nhâm tuất 1742 và năm 1761 vào chung một quyển. Nên mới có tên tài liệu không khớp với năm tƣơng ứng.

8

- An Nam sứ sự kỷ yếu của Thanh sứ Lý Tiên Căn(清 李仙根《安南使事紀要》)[88]

3. Phạm vi nghiên cứu và tƣ liệu

- Phạm vi nghiên cứu

Quan hệ thông sứ giữa Việt Nam và Trung Quốc đƣợc bắt đầu từ giữa thế kỷ

X, kéo dài đến tận những năm 80 của thế kỷ XIX. Tuy nhiên, Luận án của chúng tôi

xin đƣợc giới hạn phạm vi trong khoảng thời gian từ thế kỷ X-XVIII. Thứ nhất là vì

nghiên cứu hết cả một quá trình dài nhƣ thế là một công việc rất khó, phạm vi quá

rộng, tƣ liệu cũng rất nhiều, nên chúng tôi tạm nghiên cứu giai đoạn từ thế kỷ X đến

XVIII. Thứ hai vì nội dung, quan niệm của tƣ liệu thế kỷ X-XVIII tƣơng đối thống

nhất, thế kỷ XIX thì khác với các thế kỷ trƣớc, phải đƣợc nghiên cứu riêng biệt và

dùng thể chế nghiên cứu khác để triển khai trong thời gian tới.

Quan hệ hai nƣớc Việt - Trung trƣớc thế kỷ XIX chủ yếu là do triều đình hai

nƣớc tự quyết định. Bƣớc vào thế kỷ XIX, tính chất xã hội của đã khác nhiều so với

trƣớc, phức tạp và nhiều quan hệ đan xen chồng chéo với nhau, có thêm sự ảnh

hƣởng và can thiệp rất mạnh của nƣớc thứ ba. Trƣớc năm 1802, các ông vua Việt

Nam thƣờng đƣợc phía Trung Quốc phong vƣơng là Giao Chỉ Quận vương hoặc An

Nam Quốc vương. Bắt đầu từ năm 1803 mới đổi quốc hiệu thành Việt Nam. Nên để

nghiên cứu những tác phẩm đi sứ của sứ thần Trung Quốc thể hiện rõ nét mối quan

hệ thông sứ phƣơng Đông bình thƣờng nhất giữa hai nƣớc Việt - Trung, chúng tôi

xin chỉ giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu đến trƣớc thế kỷ XIX.

- Phạm vi tư liệu

Chúng tôi đã tìm mọi biện pháp để khai thác nguồn tƣ liệu. Tƣ liệu mà chúng

tôi khảo sát trong Luận án, xin đƣợc giới hạn trong phạm vi không gian tra cứu ở

các thƣ viện và trung tâm lƣu trữ của Trung Quốc và Việt Nam, chẳng hạn nhƣ: Thƣ

viện Quốc gia Bắc Kinh, Trung tâm lƣu trữ Bắc Kinh, Thƣ viện Đại học Bắc Kinh,

Thƣ viện Quảng Tây, Thƣ viện Đại học Dân tộc Quảng Tây... (ở Trung Quốc); hay

VNCHN, Thƣ viện Quốc gia và Thƣ viện Khoa học Xã hội (ở Việt Nam).

9

Nguồn chính sử của Trung Quốc, chúng tôi tuyển chọn các quyển Thực lục, Tống sử,

Nguyên sử, Minh sử, Thanh sử cảo, Hội điển..., từ đó lập ra danh sách các sứ thần đã từng đi

sứ Việt Nam và tìm hiểu sứ mệnh hoặc các vấn đề liên quan đến chuyến đi sứ. Nguồn chính

sử của Việt Nam, chúng tôi chọn ĐVSKTT, Khâm định VSTGCM, LCHCLC... nhằm khai

thác tƣ liệu về các quan chức đã tham gia công việc tiếp đón sứ đoàn.

Chúng tôi còn tham khảo thêm các văn tập, bút ký của tủ sách tƣ gia cũng

nhƣ địa phƣơng chí của Trung Quốc. Hàng loạt tùng thƣ với quy mô lớn đƣợc ảnh

ấn và xuất bản phát hành ở Trung Quốc nhƣ TKTT, Tứ khố cấm hủy tùng san, Tứ

khố vị thu lục thư tịch san, Tứ khố tồn mục tùng thư, Tục tu TKTT, v.v… đã tạo điều

kiện thuận lợi cho chúng tôi sƣu tập tài liệu; trong đó, những sử tích, văn tập, thi tập

của sứ thần liên quan đến Luận án là những tƣ liệu đƣợc chúng tôi quan tâm nhất.

Bộ sách Việt Nam Hán Nôm văn hiến thư mục đề yếu cũng tạo điều kiện thuận

lợi cho việc tra cứu tài liệu văn tịch. Những thi văn tập của sĩ phu Việt Nam tham gia

tiếp đón sứ đoàn Trung Quốc, hay các tập sách nhƣ Thơ văn Lý-Trần, ANCL,

LCHCLC, Toàn Việt thi lục, Bang giao lục, KVTL, BSTL, Quế Đường thi tập, Nhâm

Tuất khóa sứ trình thi tập..., cũng là nguồn tƣ liệu hết sức quan trọng để chúng tôi tìm

ra các bài thơ thuộc phạm vi nghiên cứu và bổ sung thêm tài liệu. Chúng tôi còn thu

thập tƣ liệu qua mạng internet, áp dụng kỹ thuật hiện đại vào công việc nghiên cứu.

Tóm lại, nguồn tƣ liệu chính sử dụng trong Luận án gồm bốn loại: một là kỷ

yếu lịch sử bang giao giữa Trung Quốc - An Nam; hai là các bài tấu sớ cũng nhƣ

văn thƣ, thƣ từ, v.v... liên quan đến An Nam đƣợc lƣu trữ trong văn tập; ba là các

quyển Sứ Giao thi, Hành trạng, các bài Mộ chí minh do chính thành viên cùng sứ

đoàn soạn thảo; bốn là các quyển thi văn tập của sứ thần Việt Nam hoặc quan chức

Việt Nam tiếp đón sứ thần.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phƣơng pháp văn bản học. Luận án nghiên cứu TĐS của sứ thần Trung

10

Quốc, qua hoạt động trƣớc tác văn chƣơng của các sứ thần thời xƣa để tìm hiểu các

vấn đề mà Luận án chúng tôi quan tâm. Vì liên quan đến cổ văn, nhiều tài liệu đã

trải qua vài thế kỷ thăng trầm và nhiều lần sao chép hoặc in ấn lại, nên trƣớc hết

chúng tôi phải sử dụng phƣơng pháp văn bản học để chọn lọc văn bản đầy đủ và có

độ tin cậy cao phục vụ Luận án. Những văn bản nào đã đƣợc sử quán của triều đình

hiệu đính thì chúng tôi ƣu tiên dùng văn bản đó.

- Phƣơng pháp văn học sử. Luận án thuộc về lĩnh vực văn học trung đại,

do vậy, trên bình diện lý thuyết, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp thuộc lĩnh

vực văn học sử, nhƣ phƣơng pháp tiểu sử tác giả, phƣơng pháp lịch sử - xã hội, thi

pháp học, văn học so sánh, v.v... Lý luận văn học so sánh gợi dẫn chúng tôi đặt đối

tƣợng nghiên cứu vốn thuộc lĩnh vực văn học sử giới hạn ở từng dân tộc riêng rẽ,

nay mở rộng sang lĩnh vực của văn học khu vực, khảo sát nó trong văn cảnh giao

lƣu văn hóa văn học khu vực Đông Á mà Trung Quốc là hạt nhân, Việt Nam là

một nƣớc văn minh văn hiến nằm trong cùng một vùng văn hóa đó. Phƣơng pháp

văn học so sánh giúp cho chúng tôi so sánh thơ chữ Hán cổ của ngƣời Trung Quốc

và ngƣời Việt Nam, qua đó thấy đƣợc trình độ sử dụng và sáng tác văn học chữ

Hán của vua tôi Việt Nam.

Chúng tôi vừa khái quát hệ thống thể loại, hệ đề tài – chủ đề của tác phẩm,

vừa quan sát cận cảnh, khảo sát chất liệu, thủ pháp và đặc điểm nghệ thuật, đi sâu

tìm hiểu cấu trúc tầng bậc và giá trị của từng văn bản tác phẩm mà chúng tôi lựa

chọn nhƣ những mẫu tiêu biểu để nghiên cứu. Qua nghiên cứu ngôn ngữ thi ca,

chúng tôi tìm hiểu cách thức dùng từ và làm thơ của sứ thần. Vì đối tƣợng nghiên

cứu của Luận án là thơ ca, nên thi pháp học là một phƣơng pháp nghiên cứu quan

trọng mà chúng tôi phải sử dụng.

- Phƣơng pháp liên ngành. Mỗi chuyến đi sứ đều có bối cảnh và lý do lịch

sử cụ thể riêng của nó, Luận án là một đề tài thuộc lĩnh vực văn học nhƣng lại gắn

liền chặt chẽ với sử học cũng nhƣ văn hóa học, phƣơng pháp liên ngành giúp chúng

11

tôi quan sát diện mạo và những tác động của nhân tố bên ngoài đối với việc sáng tác

và tiếp nhận TĐS của các vị sứ thần, lý giải những vấn đề thuộc văn cảnh lịch sử và

văn hóa của các trƣớc tác TĐS. Phƣơng pháp liên ngành sẽ giúp chúng tôi vừa

nghiên cứu giá trị văn học, vừa tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa của TĐS, có thể

nhìn nhận sự kiện toàn diện hơn.

- Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng rộng rãi các thao tác nghiên cứu nhƣ:

phiên dịch – chú giải, thống kê, biểu đồ, mô tả, phân tích, so sánh, v.v...

5. Đóng góp khoa học của Luận án

Luận án có những điểm mới về nội dung: đó là đề tài – chủ đề nghiên cứu. Ở

Trung Quốc, đã có ngƣời nghiên cứu về văn học Việt Nam, nhƣng họ chủ yếu

nghiên cứu về lịch sử văn học Việt Nam. Cũng có ngƣời nghiên cứu về quan hệ đi

sứ giữa hai nƣớc, nhƣng họ chỉ nghiên cứu theo phƣơng pháp sử học. Kết hợp cả

văn học cổ và lịch sử quan hệ thông sứ để nghiên cứu toàn diện TĐS thời trung đại

và quan hệ hai nƣớc, đó là một công việc mới mẻ, thú vị và hấp dẫn.

Luận án đi sâu khảo sát mảng TĐS của sứ thần Trung Quốc, sẽ đóng góp cho

việc tìm hiểu mối quan hệ văn học toàn diện giữa hai nƣớc thời trung đại. Qua

những bài TĐS đó, có thể nắm bắt đƣợc mối quan hệ bang giao đặc biệt trong thời

phong kiến, những nội hàm văn hóa, lịch sử và phong tục tập quán giữa hai nƣớc.

Trong quá trình sƣu tập và chỉnh lý mảng TĐS này, chúng tôi sẽ khảo luận

tân giải về tác giả của một số bài thơ đã bị ngƣời đời sau làm nhầm lẫn. Qua đọc và

phân tích các bài TĐS, chúng tôi sẽ làm rõ một số vấn đề lịch sử, chẳng hạn thời

gian và nhân vật liên quan trong sự kiện đi sứ mà sử sách hai nƣớc đều không ghi

chép cụ thể, qua đó làm rõ những vấn đề mơ hồ, bổ sung và bổ di cho sử sách.

Sau này chúng tôi sẽ dịch Luận án ra tiếng Hán, nhằm giúp cho nhiều ngƣời

Trung Quốc hiểu thêm về mối quan hệ văn học thời trung đại giữa Trung Quốc và

Việt Nam, cung cấp thêm thông tin cho những ngƣời quan tâm đến vấn đề này.

6. Bố cục của Luận án

12

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận ra, Luận án gồm 4 chƣơng:

+ Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

+ Chƣơng 2: Sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam,

lƣợc sử thông sứ và giao lƣu văn hóa.

+ Chƣơng 3: Tình hình lƣu trữ, diện mạo văn bản,

nội dung của thơ đi sứ.

+ Chƣơng 4: Thể loại và đặc điểm của thơ đi sứ.

Cùng với các nội dung trên, ở cuối Luận án, chúng tôi đƣa thêm phần Phụ

lục để bổ sung đầy đủ chi tiết những vấn đề về tác giả và văn bản tác phẩm TĐS.

7. Quy ƣớc trình bày Luận án

Luận án của chúng tôi trình bày theo những quy định chung của Trƣờng Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Cụ thể:

+ Viết hoa toàn bộ: nhân danh, địa danh, quốc hiệu.

+ Viết hoa chữ cái đầu: tên thời đại (Xuân thu, Chiến quốc), tên tác phẩm,

tên một đơn vị tổ chức (Thƣ viện Đại học Bắc Kinh, Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

+ In nghiêng: tên tác phẩm (An Nam chí lược, Nam Giao hảo âm)

+ Chú thích: nếu trích dẫn tƣ liệu thì mở ngoặc vuông [..., ...]; trong đó chữ

số đầu là số thứ tự tƣ liệu đƣợc trích, chữ số sau là số trang.

+ Những bài thơ đƣợc chọn dịch, đã xuất hiện trong chính văn thì không đƣa

vào Phụ lục nữa, đƣợc chọn dịch ở Phụ lục thì chính văn không lặp lại nữa.

13

Chƣơng 1

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Sứ thần là nhà ngoại giao đặc biệt trong thời phong kiến, đa số là những văn

quan xuất sắc đã để lại các loại tác phẩm văn chƣơng đi sứ, nên đề tài nghiên cứu về

tác phẩm của họ cũng đã nhận đƣợc sự quan tâm ở các mức độ khác nhau của học

giả các nƣớc. Nhằm điểm lại những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc của học giả đi

trƣớc và chỉ ra hƣớng nghiên cứu của Luận án, dƣới đây chúng tôi xin tổng thuật

tình hình nghiên cứu đối tƣợng.

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THƠ ĐI SỨ Ở MỘT SỐ

NƢỚC THUỘC VÙNG VĂN HÓA HÁN

Hiện nay, đã có học giả của các nƣớc nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên,

Nhật Bản, Việt Nam, Mỹ và khu vực Đài Loan - Trung Quốc, v.v... tham gia vào

lĩnh vực nghiên cứu đề tài TĐS. Tuy nhiên, đại đa số học giả nghiên cứu theo

hƣớng từ các nƣớc lân cận vào Trung Quốc, gọi là Yên hành, nhƣ giữa Trung Quốc

với bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản, Lƣu Cầu chẳng hạn. Công trình

nghiên cứu về TĐS Trung Quốc của sứ thần bán đảo Triều Tiên và TĐS bán đảo

Triều Tiên của sứ thần Trung Quốc nhiều nhất, sau đó đến các công trình nghiên

cứu về TĐS Trung Quốc của sứ thần Việt Nam và sứ thần Nhật Bản. Công trình

nghiên cứu về TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc chỉ mới bắt đầu.

Chúng tôi xin điểm qua đôi chút về TĐS giữa Trung Quốc – bán đảo Triều

Tiên. Về TĐS của sứ thần Trung Quốc đến bán đảo Triều Tiên, từ thời nhà Minh trở

đi, các quyển Hoàng hoa tập ghi chép TĐS và TXH giữa sứ thần Trung Quốc và sĩ

phu Triều Tiên sau khi hoạt động đi sứ kết thúc thƣờng đƣợc in ấn phát hành, nên

đƣợc lƣu trữ tƣơng đối trọn vẹn. Theo thống kê, hiện nay còn lƣu trữ khoảng hơn 20

loại Hoàng hoa tập, đó là những tƣ liệu quý báu để nghiên cứu mối quan hệ giữa

Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Năm 2001, Hàn Quốc đã tập hợp các quyển Yên

14

Hành lục của sứ thần bán đảo Triều Tiên từng đi sứ Trung Quốc còn để lại thành

một bộ Yên hành lục toàn tập gồm 100 quyển [166]. Có lẽ vì có tƣ liệu đầy đủ và

thuận tiện nhƣ thế, nên nhiều học giả ở miền Đông Bắc Trung Quốc giáp giới với

Triều Tiên, cộng với học giả Hàn Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản đã triển khai hàng

loạt nghiên cứu về TĐS cũng nhƣ mối quan hệ thông sứ giữa hai nƣớc này. Học giả

Trung Quốc Điêu Thƣ Nhân và Sử Quế Vinh đã tổng kết lại tình hình nghiên cứu

này trong bài báo khoa học Tổng quát về những kết quả nghiên cứu về quan hệ

Trung - Triều thời cổ của các nước Hàn Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản trong thế kỷ

XX [133].

Các công trình luận án tiến sĩ, thạc sĩ và bài báo khoa học nhƣ Nghiên cứu

Hoàng hoa tập và sự giao lưu giữa Trung Quốc - Triều Tiên [130], Xung quanh địa

danh trong Hoàng hoa tập để tìm hiểu lộ trình của sứ thần [131], Về quan hệ sứ

thần đi lại giữa Trung - Triều thời nhà Minh [132], v.v... của học giả Trung Quốc

Đại lục cũng lần lƣợt đƣợc triển khai. Học giả Đài Loan Liêu Triệu Hanh cũng

nghiên cứu chuyến đi của sứ thần nhà Minh Chu Chi Phan sang sứ Triều Tiên [134].

Giữa hai nƣớc Trung - Nhật, giao lƣu văn hóa và văn học trong thời thịnh

Đƣờng rất chặt chẽ và nổi tiếng, nên kết quả nghiên cứu về TĐS trong thời kỳ này

tƣơng đối nhiều, bài Bàn về việc giao lưu thi ca giữa Trung – Nhật trong thời

Đường [162] chẳng hạn. Về thời Tống, Minh thì hay nghiên cứu về quan hệ thƣơng

mại, cơ chế cử và tiếp sứ thần [163]. Về thời Nguyên, Thanh, học giả hay nghiên

cứu về sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Trọng Hán khinh di (重漢輕夷) của Nhật Bản

đối với quan hệ bang giao hai nƣớc [164], v.v...

1.2. NGHIÊN CỨU THƠ ĐI SỨ CỦA SỨ THẦN VIỆT NAM TỚI

TRUNG QUỐC

Kết quả nghiên cứu về TĐS của sứ thần Việt Nam tới Trung Quốc đến nay đã

nhận đƣợc sự đóng góp của học giả Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ và khu

vực Đài Loan - Trung Quốc. Việt Nam hiện còn lƣu trữ đƣợc khá nhiều tác phẩm đi

15

sứ của sứ thần Việt Nam tới Trung Quốc tại VNCHN Hà Nội. Năm 2010, VNCHN

và Trƣờng Đại học Phúc Đán (Thƣợng Hải - Trung Quốc) đã hợp tác tiến hành vựng

tập những tác phẩm đi sứ thành bộ sách Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập

thành gồm 25 quyển, bắt đầu từ tác phẩm của sứ thần nhà Trần là Nguyễn Trung

Ngạn đến sứ thần nhà Nguyễn là Nguyễn Thuật, đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho

việc nghiên cứu TĐS của sứ thần Việt Nam tới Trung Quốc đƣợc triển khai dễ dàng

hơn. Về những kết quả nghiên cứu thuộc lĩnh vực này, chúng tôi xin liệt kê một vài

công trình và bài báo khoa học nổi bật nhƣ sau:

1.2.1. Sƣu tập danh sách sứ thần hoặc văn bản

Nhóm biên soạn Nguyễn Thị Thảo, Phạm Văn Thắm và Nguyễn Kim Oanh

của VNCHN có công trình Sứ thần Việt Nam (1996) [20], giới thiệu truyện ký của

117 sứ thần, danh sách của 463 sứ thần khác, cùng với danh sách của 220 sứ bộ,

gồm cả sứ bộ Việt Nam đi sứ Trung Quốc và sứ bộ Trung Quốc sang Việt Nam.

Công trình Chuyện đi sứ tiếp sứ thời xưa (2001) [14] của Nguyễn Thế Long,

đã thống kê các triều đại phong kiến Việt Nam từng có tới gần 300 sứ đoàn và hàng

ngàn ngƣời đỗ đạt đƣợc đảm nhận công việc đi sứ và tiếp sứ; đồng thời nêu một số

tấm gƣơng tiêu biểu liên quan đến đi sứ và tiếp sứ của Việt Nam.

Nguyễn Thanh Tùng có bài Vài nét về tình hình văn bản Hoàng Hoa sứ

trình đồ bản của Nguyễn Huy Oánh [23], giới thiệu về cuốn ―sứ trình đồ‖ sớm

nhất hiện còn, v.v...

1.2.2. Dịch thuật, giới thiệu công bố

Nhóm biên soạn Phạm Thiều, Đào Phƣơng Bình của VNCHN có công trình

Thơ đi sứ (1993) [22], giới thiệu, phiên âm và dịch nghĩa thơ Hán cổ của sứ thần

Việt Nam sáng tác trong khi đi sứ, và một số ít thơ tặng tiễn hoặc đối đáp với sứ giả

nƣớc ngoài đến Việt Nam, chủ yếu là với sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam.

Viện Văn học có quyển Bản dịch TĐS của sứ thần Việt Nam [27], phiên

âm và dịch nghĩa TĐS viết bằng chữ Hán chữ Nôm của sứ thần Việt Nam.

Phạm Thị Ngọc Anh có luận văn Thạc sĩ với đề tài là Tìm hiểu về thơ đi sứ

16

của các nhà thơ trung đại Việt Nam [1], giới thiệu về mảng thơ di sứ của nhiều sứ

thần Việt Nam trong thời trung đại, v.v...

1.2.3. Nghiên cứu từ các góc độ

- Văn học

Đi sâu phân tích TĐS của một vị sứ thần: có học giả chuyên khảo về các tác

phẩm đi sứ Trung Quốc của sứ thần nhà Trần là Nguyễn Trung Ngạn, sứ thần nhà

Lê là Phùng Khắc Khoan và Lê Quý Đôn, sứ thần nhà Nguyễn là Trịnh Hoài Đức,

Nguyễn Du và Nguyễn Văn Siêu... Chẳng hạn Nguyễn Thị Thanh Chung có bài

Chân dung tinh thần Nguyễn Văn Siêu trong Phương Đình Vạn lí tập (2011) [4];

Nguyễn Công Lý có bài Diện mạo thơ sứ trình trung đại Việt Nam và thơ đi sứ

của Nguyễn Trung Ngạn [16], để giới thiệu tổng thể thơ sứ trình của sứ thần Việt

Nam, đặc biệt giới thiệu về thơ đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn, sứ thần nhà Trần; Đỗ

Thị Thu Thủy có luận án với đề tài là Thơ đi sứ Việt Nam từ cuối triều Lê đến đầu

triều Nguyễn (1740-1820) đƣợc thông qua bảo vệ ở Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà

Nội vào tháng 8 năm 2015...

Mấy năm gần đây ở Trung Quốc, kết quả nghiên cứu về sứ thần Việt Nam đi

sứ Trung Quốc cũng nhiều dần, thậm chí có cả luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và

sau tiến sĩ chuyên khảo về vấn đề này. Chẳng hạn, học giả Trung Quốc Lƣu Ngọc

Quần đã có bài báo khoa học với nhan đề là Sứ thần Việt Nam và sự giao lưu văn

học giữa Trung Quốc - Việt Nam [145], giới thiệu các hoạt động văn học của sứ

thần Việt Nam đi sứ Trung Quốc đã đóng góp đáng kể vào việc giao lƣu văn học

giữa hai nƣớc; Trƣơng Ân Luyện của Đại học Ký Nam Trung Quốc có luận văn

thạc sĩ với đề tài là Nghiên cứu về sứ thần Phùng Khắc Khoan và Mai Lĩnh sứ

Hoa thi tập [147], khảo cứu chuyến sang sứ nhà Minh của Phùng Khắc Khoan và

tìm hiểu văn bản cũng nhƣ nội dung của Mai Lĩnh sứ Hoa thi tập, phản ánh tài

ngoại giao và tài văn thơ của Phùng Khắc Khoan. Chúng tôi cũng có bài Tìm hiểu

TXH giữa sứ thần Việt Nam với quan chức hộ tống sứ đoàn của nhà Thanh vào năm

1849, phân tích chuyến đi sứ Trung Quốc của sứ đoàn Phan Tĩnh, Mai Đức Thƣờng

17

và Nguyên Văn Siêu, phân tích TXH giữa họ với quan chức hộ tống sứ đoàn đƣợc

nhà Thanh cử là Ha Vấn Mai, Vƣơng Thạch Nguyên và Giả Trăn.

- Lịch sử, ngoại giao

Học giả Mỹ Liam C. Kelley có luận án tiến sĩ với đề tài là Beyond the

Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship [168]. Với tƣ

cách là ngƣời nƣớc thứ ba nhìn nhận quan hệ hai nƣớc khác, học giả này đã dựa trên

TĐS và hoạt động của sứ thần Việt Nam tới Trung Quốc để tìm hiểu quan hệ hai

nƣớc Việt - Trung trong thế kỷ XVI-XIX.

Có học giả chuyên khảo về các cuộc xƣớng họa thơ giữa sứ thần Việt Nam và

sứ thần Triều Tiên tại Bắc Kinh (Trung Quốc), vừa là nghiên cứu TĐS của sứ thần

Việt Nam, vừa là nghiên cứu tác phẩm thể hiện mối tình hữu nghị giữa Việt Nam và

bán đảo Triều Tiên. Về chủ đề này, Lý Xuân Chung đã có Luận án tiến sĩ Ngữ văn

chuyên ngành Hán Nôm với đề tài là Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng họa

của các sứ thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc [5]. Các học giả khác nhƣ Nguyễn

Tuấn Thịnh và Nguyễn Kim Sơn, Bùi Duy Tân, Nguyễn Minh Tƣờng, cũng nhƣ

một số học giả Hàn Quốc đã có các bài báo cáo khoa học về chuyên mục này.

- Văn hóa

Học giả Trung Quốc là Trần Quốc Bảo có báo cáo sau tiến sĩ với đề tài

Chuyển đổi góc nhìn và cấu tạo lại hình tượng: đế quốc Đại Thanh trong tầm

mắt của sứ thần Việt Nam - lấy “sứ Hoa hành ký” của các sứ thần Việt Nam đi

sứ nhà Thanh làm trung tâm khảo sát (năm 1667-1880) [148]. Dựa trên các tập

TĐS và hành ký đi sứ Trung Quốc của sứ thần Việt Nam, tác giả đã hình dung và

phác họa hình ảnh của Đế quốc Đại Thanh dƣới góc nhìn của họ, tức là nghiên cứu

theo hƣớng ngƣời Việt Nam nhìn nhận Trung Quốc, khai thác giá trị văn hóa, lịch

sử hàm chứa trong tác phẩm đi sứ của sứ thần Việt Nam.

Nhìn chung, nghiên cứu TĐS của sứ thần Việt Nam tới Trung Quốc, nhiều

nhất và đạt kết quả cao nhất, vẫn là học giả Việt Nam và Trung Quốc, học giả Hàn

Quốc chủ yếu nghiên cứu các cuộc xƣớng họa giữa sứ thần Việt Nam và Hàn Quốc

18

khi gặp gỡ tại Trung Quốc. Các học giả thƣờng dựa trên một hoặc một số tác phẩm

văn chƣơng đi sứ của sứ thần Việt Nam để nghiên cứu nội dung thơ, dịch thơ, sau

đó đi sâu tìm hiểu giá trị tƣ liệu văn học, lịch sử và ngoại giao; phƣơng pháp nghiên

cứu chủ yếu là phƣơng pháp của văn bản học, văn học, sử học, quan hệ quốc tế...

Đã có những kết quả nghiên cứu chuyên sâu, thể hiện sự quan tâm của học giả các

nƣớc dành cho các Yên hành tập bằng chữ Hán Nôm của sứ thần Việt Nam.

1.3. NGHIÊN CỨU THƠ ĐI SỨ CỦA SỨ THẦN TRUNG QUỐC TỚI

VIỆT NAM

Nghiên cứu về TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam, chủ yếu đƣợc

học giả Trung Quốc và Việt Nam chọn làm đối tƣợng nghiên cứu, học giả các nƣớc

khác có lẽ bị vƣớng vì chữ viết cũng nhƣ tƣ liệu, nên hiện chƣa quan tâm nhiều.

1.3.1. Nghiên cứu của học giả Việt Nam

Các công trình nghiên cứu về TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam và

TXH giữa sứ thần Trung Quốc với vua tôi tiếp sứ Việt Nam cho đến nay số lƣợng

vẫn không nhiều. Chỉ có vài bài báo giới thiệu một ông sứ thần Trung Quốc nào đó

và một số tác phẩm hoặc TĐS Việt Nam của họ:

- Giới thiệu văn bản

Học giả Việt Nam Phạm Văn Thắm có bài Giới thiệu văn bản An Nam tức

sự của sứ thần nhà Nguyên là Trần Phu [21], đây là bài thơ rất tiêu biểu và nổi tiếng

của Trần Phu sáng tác trong khi sang sứ Việt Nam năm 1293. Tác giả chủ yếu dựa

trên văn bản đƣợc ghi chép trong Bắc thư tải Nam sự [38] đƣợc lƣu trữ tại VNCHN,

phiên dịch đại bộ phận phần chú giải của bài thơ ngũ ngôn trƣờng luật phản ánh về

lễ nhạc, trang phục, thuế khóa, luật lệ, phong tục và đất nƣớc An Nam thời đó.

Học giả Việt Nam Nguyễn Thu Hiền có bài Giá trị của Thiên Nam hành kỷ

(Từ Minh Thiện) trong nghiên cứu bang giao giữa triều Trần (1226-1400) và

triều Nguyên (1260-1368) [8], giới thiệu tác phẩm Thiên Nam hành ký của sứ thần

nhà Nguyên là Từ Minh Thiện. Vị sứ thần nhà Nguyên này đã ghi chép lại sứ trình

19

và thƣ từ ngoại giao qua lại cũng nhƣ việc cống sính của triều đình hai nƣớc, nhƣng

trong quyển sách này lại không ghi chép có TĐS của sứ thần nhà Nguyên.

- Các mẩu chuyện liên quan

Một vài công trình khác của học giả Việt Nam chủ yếu dựa trên các bộ sử

Việt Nam nhƣ ĐVSKTT, VSTGCM, ĐNTL, LTHCLC... để chọn ra những mẩu

chuyện liên quan đến sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam và sự đón tiếp của phía

Việt Nam, đa số mang tính lịch sử chân thật, nhƣ các công trình Việt Hoa thông sứ

sử lược (1943) [3] do Sông Bằng soạn, Chuyện đi sứ, tiếp sứ thời xưa (2001) do

Nguyễn Thế Long soạn, Những mẩu chuyện đi sứ và tiếp sứ (2001) [9] do Học

viện Quan hệ Quốc tế Việt Nam soạn... Trong các công trình này có ghi chép một

vài bài TĐS hoặc TXH của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam, nhƣng số lƣợng

cũng không nhiều.

Việt Hoa thông sứ sử lược chủ yếu giới thiệu sơ qua nguyên nhân triều cống;

cống phẩm và tƣớc phong; hành trình sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc và sứ thần

Trung Quốc sang Việt Nam; nghi lễ tiếp, rƣớc sứ thần Việt Nam ở Trung Quốc và

sứ thần Trung Quốc ở Việt Nam; công quán đón rƣớc sứ thần và lễ tuyên phong...

Trong quyển này có ghi chép một nhóm TXH giữa sứ thần nhà Nguyên là Hoàng

Thƣờng với một cô thiếu nữ Việt Nam [3, 128].

Hai quyển sau ghi chép những mẩu chuyện về xƣớng họa thơ, đố câu chữ

hoặc biện luận giữa sứ thần Trung Quốc với quan chức Việt Nam, v.v... Chẳng hạn

nhƣ truyền thuyết xƣớng họa bài thơ Con ngỗng trên dòng sông xanh giữa sứ

thần nhà Tống là Lý Giác với nhà sƣ Đỗ Pháp Thuận của Việt Nam vào năm 987.

Đỗ Pháp Thuận giả làm ông lái đò lên đón Lý Giác, sau khi nghe Lý Giác thay đổi

vài chữ của hai câu thơ đầu tiên bài Vịnh ngỗng của Lạc Tân Vƣơng thành:

Nga nga lƣỡng nga nga,

鵝鵝兩鵝鵝, 仰面向天涯。 Ngƣỡng diện hƣớng thiên nha.

Đỗ Pháp Thuận liền bắt chƣớc thay đổi vài chữ của hai câu cuối bài thơ thành:

白毛鋪綠水, Bạch mao phô lục thủy, 紅棹擺青波。 Hồng trạo bãi thanh ba.

20

làm cho Lý Giác rất ngạc nhiên và vui mừng, giúp cho chuyến đi sứ đó diễn ra

thuận lợi [3, 114].

Chuyện Tâm trạng của sứ Nguyên kể về Nguyên sứ là Lƣơng Tăng và Trần

Phu sang sứ, Trần Phu đã làm bài thơ Giao Châu sứ hoàn cảm sự tả về cảm nghĩ

kinh hồn trong chuyến đi sứ An Nam năm 1293:

金戈影裏丹心苦, Kim qua ảnh lý đan tâm khổ,

銅鼓聲中白髮生。 Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh.

已幸歸來身健在, Dĩ hạnh quy lai thân kiện tại,

夢回猶覺瘴魂驚。 Mộng hồi do giác chƣớng hồn kinh.

Dịch nghĩa: Trông bóng giáo mác tấm lòng lo sợ, nghe tiếng trống đồng mà bạc cả

tóc. May được trở về thân mạnh khỏe, mỗi khi mộng thấy chuyện cũ hồn còn kinh

[14, 113].

Chuyện Nhà bác học Lê Quý Đôn ghi chép việc ông bị cách chức về quê. Ít

lâu sau, viên tú tài mà Lê Quý Đôn đã gặp ở Trung Quốc trong khi đi sứ Bắc Kinh

đã đỗ Trạng nguyên và đƣợc vua Thanh cử sang sứ nƣớc An Nam. Đến biên giới, sứ

thần này sai đƣa đến triều đình An Nam một tấm vóc trên viết một chữ 車 (thiếu

nét ngang ở dƣới) và yêu cầu An Nam đoán đúng thì sứ thần mới chịu qua ải. Vua

Lê cho triệu Lê Quý Đôn vào triều, ông liền viết 4 chữ ―phi xa bất đông‖ vào tấm

vóc rồi sai ngƣời đƣa lên biên giới, sứ Thanh phải chịu là đúng và qua ải để tiếp tục

cuộc hành trình đến Thăng Long. Nguyên chữ đó không ra chữ ―xa‖ cũng chẳng

phải chữ ―đông‖ vì thiếu nét. Nhƣng đó lại là một câu trong Kinh thi ―Phi xa bất

đông 非車不東‖ (tức là không phải chữ xa mà cũng chẳng phải chữ đông), một câu

gồm 4 chữ nhƣng chỉ viết một chữ mà đủ cả câu [14, 272].

Chuyện Sứ thần nhà Minh Tiền Phổ bắt bẻ về nghi thức đón tiếp và phong

vương ghi rằng, năm 1462, Tiền Phổ sang sứ, có sự tranh chấp về nghi lễ với vua

Việt Nam về 5 việc nhƣ hƣớng ngồi khi tiếp sứ thần Trung Quốc, lễ đón sứ thần, lễ

nghênh tiếp chiếu sắc, chỗ ngồi trong yến tiệc và cách đọc chiếu sắc. Hai bên đã

21

biện luận qua lại bốn, năm lần mới tiến hành lễ phong vƣơng. Tiền Phổ còn yêu cầu

vua tôi Việt Nam giỏi thơ văn phải làm thơ tiễn tặng sứ thần nhƣ ngày xƣa Tuyên

Tử đi sứ nƣớc chƣ hầu3 là nƣớc Trịnh, để sứ đoàn Tiền Phổ mang về nƣớc rồi trình

thơ cho vua Minh biết đƣợc tâm tƣ nguyện vọng của ngƣời Việt Nam [14, 189]. Còn

nhiều mẩu chuyện khác liên quan đến sứ thần Trung Quốc sang sứ Việt Nam nữa,

nhƣng Luận án xin chỉ nêu vài ví dụ nhƣ trên.

1.3.2. Nghiên cứu của học giả Trung Quốc

Các sứ thần Trung Quốc cũng nhƣ thơ văn đi sứ Việt Nam của họ bắt đầu

nhận đƣợc sự quan tâm của một số học giả Trung Quốc. Ở giai đoạn đầu, vai trò của

sứ thần Trung Quốc đi sứ Việt Nam chỉ đƣợc nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu

quan hệ hai nƣớc Việt - Trung thời Trung đại của ngành Lịch sử học Trung Quốc.

Các luận án tiến sĩ và bài báo khoa học chuyên ngành lịch sử học có thông tin sứ

thần một vƣơng triều nào đó của Trung Quốc sang sứ Việt Nam:

Mã Minh Đạt có bài báo Khảo cứu về thời nhà Nguyên cử sứ đoàn sang

Việt Nam (2002)[140], sử dụng phƣơng pháp sử học, tổng kết giới thiệu các sứ

đoàn và thành viên cũng nhƣ lý lịch tóm tắt của sứ thần mà triều Nguyên đã cử sang

sứ An Nam.

Đặng Xƣơng Hữu có luận án tiến sĩ với đề tài là Nghiên cứu về mối quan hệ

nhà Tống và Việt Nam (2004) [139], sử dụng phƣơng pháp sử học và quan hệ quốc

tế, có nói đến sứ thần thời nhà Tống đƣợc cử sang sứ An Nam, thống kê tổng số

đoàn và lập cả danh sách các sứ thần sang An Nam cũng nhƣ ngƣợc lại.

Trần Văn Nguyên có luận án tiến sĩ với đề tài là Nghiên cứu về mối quan hệ

giữa nhà Minh và An Nam (2005) [141], sử dụng phƣơng pháp sử học và quan hệ

quốc tế, ngoài giới thiệu mối quan hệ thông sứ giữa hai nƣớc trong thời nhà Minh,

còn giới thiệu các sứ đoàn và lập danh sách sứ thần trong đoàn đƣợc triều đình nhà 3 Chư hầu là chỉ quân vƣơng của các lãnh địa đƣợc vua phong tặng trong thời Tây Chu và Xuân thu, họ phải tuân theo lệnh vua, nạp cống thuế và bảo vệ nhà vua. Có quyền quản lý thuộc địa của mình, vƣơng vị đƣợc cha truyền con nối.

22

Minh cử sang sứ An Nam cũng nhƣ ngƣợc lại.

Tôn Hồng Niên có công trình Nghiên cứu về quan hệ tông phiên Trung -

Việt thời nhà Thanh (2006) [143], sử dụng phƣơng pháp sử học và quan hệ quốc tế,

giới thiệu mối quan hệ thông sứ giữa triều đình nhà Thanh với An Nam, thống kê và

lập bảng danh sách các sứ đoàn và thành viên trong đoàn đã đƣợc vua Thanh cử

sang sứ An Nam cũng nhƣ vua An Nam cử sang sứ nhà Thanh.

Ngƣu Quân Khải có công trình Nghiên cứu về mối quan hệ giữa gia tộc họ

Mạc Việt Nam và Trung Quốc (2012) [137], sử dụng phƣơng pháp sử học, quan hệ

quốc tế và văn học, giới thiệu gần hai trăm năm lịch sử mối quan hệ giữa nhà Mạc

và triều đình nhà Minh, nhà Thanh (Trung Quốc), trong đó có đề cập tới sứ thần

Trung Quốc đến Việt Nam cũng nhƣ một số TĐS của họ.

Những năm gần đây, trên cơ sở này, một số học giả đã tiếp tục đi sâu nghiên

cứu tác phẩm đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc từ góc độ văn học. Tuy nhiên,

về lĩnh vực này hiện vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, kết quả nghiên cứu chƣa nhiều,

chúng tôi thống kê đƣợc một số luận văn và bài báo khoa học liên quan nhƣ sau:

- Sƣu tập văn bản

Lƣu Ngọc Quần đã sử dụng phƣơng pháp văn hiến học để sƣu tập thống kê

văn bản tác phẩm đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc và công bố bài báo khoa

học Khảo cứu về văn tập đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc (2007) [145];

trong đó giới thiệu thông tin về văn tập đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc, đây

đƣợc coi là công việc tổng hợp đầu tiên về đề tài này ở Trung Quốc. Tác giả đã

khảo đính và tổng kết sơ bộ văn bản, diện mạo, nội dung tóm tắt và tình hình lƣu trữ

của những văn tập đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc, đƣa ra danh mục 30 sứ

thần và văn tập Sứ Giao tập, Sứ An Nam tập hay Ký hành của họ. Tác giả đã đi đến

một kết luận là, ngoài 2 văn tập không rõ nội dung ra, còn lại có 13 văn tập là các

loại Sứ hành lục mang nặng tính sử học, 15 văn tập là Thi văn tập giàu tính văn học,

có nghĩa là văn tập đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc là tính sử học và tính

văn học song song với nhau, chỉ tiếc là nhiều Sứ Giao tập nay đã không còn tìm

23

thấy. Riêng văn tập đi sứ Trung Quốc của sứ thần Việt Nam, có 8 văn tập là Yên

hành ký, 82 văn tập là Bắc sứ thi văn tập, dòng sáng tác chính về văn học đi sứ

Trung Quốc của sứ thần Việt Nam mang đậm tính văn học. Bài báo chỉ liệt kê tên sứ

thần và tên văn tập, không đi sâu vào nội dung và phân loại thể loại, cũng chƣa giới

thiệu đến TĐS Việt Nam của sứ thần cụ thể, hay kể sót một vài sứ thần có tác phẩm

đi sứ Việt Nam; tuy nhiên, tác giả đã mở ra một hƣớng nghiên cứu mới và đã làm

một công việc tra cứu cơ sở rất công phu.

Dƣơng Khuông Hòa có bài báo Tìm hiểu các văn bản của Phó Dữ Lệ thi tập

(2011) [157], sử dụng phƣơng pháp văn bản học, để tìm hiểu nguồn gốc của các văn

bản Phó Dữ Lệ thi tập. Tác giả đƣa ra kết luận rằng văn bản này tất cả có 21 bản

trong các triều. Trong đó có giới thiệu sự hình thành và các văn bản của văn tập đi

sứ An Nam - Nam chinh cảo của Phó Dữ Lệ, tiếc là văn tập này nay không còn

đƣợc lƣu trữ.

- Nghiên cứu về từng tác gia, thi tập, chuyến đi sứ

Vƣơng Hạo có luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học với đề tài là Giao

Châu cảo của Trần Phu với việc giao lưu văn hóa Việt - Trung thời nhà Nguyên

(2009) [150], nhìn từ góc độ sử học và văn học để phân tích tác phẩm đi sứ Việt

Nam Giao Châu cảo của Trần Phu, giới thiệu lý lịch và quá trình đi sứ của sứ đoàn,

đi sâu tìm hiểu tính ký sự và đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm. Có phân tích TĐS

Việt Nam của Trần Phu, đặc biệt là bài An Nam tức sự, dùng thơ phản ánh sứ trình

và tái hiện tình hình đất nƣớc con ngƣời An Nam đƣợc ghi trong tác phẩm. Tác giả

còn tìm thấy thêm hai văn tập đi sứ Việt Nam của sứ thần nhà Nguyên, tiếc là những

văn tập đƣợc nêu trong luận văn này tuyệt đại đa số đều không còn nữa. Luận văn

còn phân tích tác phẩm đi sứ An Nam thời nhà Nguyên, cũng nhƣ sự giao lƣu văn

hóa giữa triều Nguyên với An Nam. Đây là luận văn nghiên cứu về TĐS Việt Nam

của Trần Phu khá tỉ mỉ và toàn diện ở Trung Quốc, tạo cơ sở ban đầu cho việc đi sâu

nghiên cứu TĐS của Trần Phu.

24

Ngƣu Quân Khải có bài báo khoa học Giao hành trích cảo và chuyến đi sứ

An Nam của Từ Phu Viễn (2011) [154], sử dụng phƣơng pháp sử học và văn học,

dựa trên cơ sở của tập TĐS Giao hành trích cảo gồm 54 bài của sứ thần Nam Minh

là Từ Phu Viễn để tìm hiểu thêm tình hình chuyến đi sứ đó. Từ Phu Viễn đại diện

cho lực lƣợng Nam Minh bị chia cắt ở Phúc Kiến sang làm việc với chúa Trịnh để

xin đƣờng sang Vân Nam. Vì chúa Trịnh đòi khi tiếp kiến, Từ Phu Viễn phải hành lễ

khấu lạy, nhƣng Viễn không chấp nhận, hai bên không thể nhất trí, nên Từ Phu Viễn

đành phải quay về Phúc Kiến.

Từ Phu Viễn sang Việt Nam vừa bị ốm đau, vừa gặp phải chúa Trịnh đƣa ra

điều kiện khắt khe, nghĩ đến sứ mệnh trên vai mình, ông từng có lúc muốn chịu cúi

đầu, nhƣng lại không cam tâm, cuối cùng bị trì lƣu ở Việt Nam hơn ba tháng, nỗi

đau khổ và bất bình trong lòng đã đƣợc thể hiện ra thơ ca. Sứ đoàn Từ Phu Viễn là

một sứ đoàn do một thế lực đang suy yếu của Trung Quốc cử sang Việt Nam, họ đã

gặp phải phản ứng cứng rắn của chúa Trịnh, nên sự thất bại đó là điều khó tránh

khỏi. Trƣờng hợp sang sứ Việt Nam mà không làm trọn sứ mệnh trong lịch sử ngoại

giao giữa Trung Quốc với Việt Nam là không nhiều, nên đây là một sứ đoàn rất đặc

biệt trong lịch sử thông sứ hai nƣớc.

- Từ các góc độ khai thác tƣ liệu

+ Văn chƣơng

Dƣơng Phú Học có bài báo Chú giải cho vài bức thư gửi vua An Nam của

Trần Thành về việc Biện minh địa giới Khưu Ôn giữa nhà Minh và An Nam (1996)

[156], sử dụng phƣơng pháp văn bản học và chú giải học để đọc kỹ bức thƣ gửi vua

An Nam của sứ thần nhà Minh là Trần Thành. Trần Thành từng ba lần đi sứ Tây Vực,

năm 1396 ông đƣợc cử sang sứ An Nam. Trong khi biện luận địa giới Khƣu Ôn với

vua Trần Thuận Tông, lúc đầu nhờ thông sự phiên dịch, sau đó vì thấy ―以為執事者

告慮,重譯弗詳,故筆諸書志雲 (ngƣời dịch không chuyển đạt hết ý, nên đã viết thƣ

trực tiếp biện luận vói vua Trần) ‖ [74, 327]. Giữa Trần Thành và vua Trần tất cả có

25

bảy bức thƣ qua lại đƣợc ghi chép trong Trúc Sơn tiên sinh văn tập của Trần Thành.

Tác giả bài báo cho rằng bức thƣ đầu tiên của Trần Thành và thƣ phúc đáp của vua

Trần rất có giá trị lịch sử, nên đã chú giải cho hai bức thƣ này, nhằm cho ngƣời đọc

hiểu rõ hơn lịch sử của địa giới Khƣu Ôn và tất cả nội dung trong thƣ.

Lục Tiểu Yến, Diệp Thiếu Phi có bài báo khoa học Khảo cứu về sự kiện Lý

Giác đi sứ An Nam (2011) [155], sử dụng phƣơng pháp sử học và văn học để khảo cứu

về tính chân thực của chuyến đi sứ Việt Nam lần thứ hai vào năm 987 của Tống sứ Lý

Giác, sự kiện này chỉ đƣợc ghi trong ĐVSKTT, ngoài ra các sử sách Trung Quốc cũng

nhƣ Việt Nam đều không thấy có ghi chép, nên tác giả nhìn từ góc độ quan hệ giữa nhà

Tống và triều Lý, từ nội dung bài thơ Lý Giác tặng nhà sƣ Pháp Thuận để chứng minh

rằng, chuyến đi sứ lần này không có thật, bài thơ Vịnh ngỗng giữa Lý Giác và Pháp

Thuận cũng nhƣ bài thơ Lý Giác tặng Pháp Thuận trƣớc khi về nƣớc:

幸遇明時贊盛猷, Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,

一身兩度使交州。 Nhất thân lƣỡng độ Sứ Giao Châu.

東都兩別心尤戀, Đông Đô lƣỡng biệt tâm vƣu luyến,

南越千重望未休。 Nam Việt thiên trùng vọng vị hƣu.

馬踏煙雲穿浪石, Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,

車辭青障泛長流。 Xa từ thanh chƣớng phiếm trƣờng lƣu.

天外有天應遠照, Thiên ngoại hữu thiên ƣng viễn chiếu,

溪潭波靜見蟾秋。 Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

là tác phẩm do ngƣời đời sau thác danh mà làm, không phải đúng nhƣ ĐVSKTT đã

ghi. Sự kiện Lý Giác xƣớng họa thơ với Pháp Thuận chỉ có thể đƣợc coi là truyền

thuyết hoặc giai thoại, không phải chuyện có thật.

+ Lịch sử

Vƣơng Học Vĩ có luận văn thạc sĩ chuyên ngành sử học và quan hệ quốc tế

với đề tài là Nghiên cứu về sứ thần nhà Minh đi sứ An Nam thời Hồng Vũ năm

1368-1398 (2006) [151], giới thiệu chính sách đối ngoại, danh sách sứ thần và bản

26

đồ sứ trình sang Việt Nam của sứ đoàn thời Hồng Vũ nhà Minh; liệt kê danh sách

gồm 24 sứ thần, trong đó 7 sứ thần xuất thân từ tiến sĩ, chiếm 29.7%, giới thiệu chi

tiết lý lịch của 13 sứ thần có truyện ký trong sử sách; tham khảo nhiều sử liệu liên

quan, thống kê và liệt kê danh sách các sứ đoàn đi sứ Việt Nam cũng nhƣ Việt

Nam sang sứ Trung Quốc cùng kỳ; giới thiệu phƣơng pháp tuyển chọn cũng nhƣ

trách nhiệm, vai trò và tác dụng của sứ thần Trung Quốc trong việc đi sứ Việt Nam.

Tác giả cho rằng, sứ thần thời Hồng Vũ đi sứ Việt Nam chủ yếu là do tiến sĩ, thái

giám và hành nhân đảm nhiệm, đại đa số là văn quan. Luận văn đã ghi chép và

trích dẫn một số bài TĐS của họ để làm rõ vấn đề thời gian đi sứ, tình hình khó

nhọc và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt trên đƣờng đi sứ; chẳng hạn giới thiệu

một số bài TĐS An Nam của Lâm Đƣờng Thần đƣợc ghi chép trong quyển 林登州

集 Lâm Đăng Châu tập, nhƣ các bài 旅懷三章 Lữ hoài tam chương, 播村隘 Ải Bá

Thôn, 闕裏隘 Ải Khuyết Lý... TĐS của Đại học sĩ Trƣơng Dĩ Ninh đƣợc ghi chép

trong 翠屏集 Thúy Bình tập, v.v... Ở phần giới thiệu sứ trình đồ của sứ đoàn

Trƣơng Dĩ Ninh, tác giả đã kết hợp việc vẽ sứ trình đồ với chú giải bằng chính

TĐS, dùng tƣ liệu văn học nói chung và TĐS nói riêng bổ sung cho lĩnh vực lịch

sử mà sử sách không ghi chép tƣờng tận. Chúng tôi có tham khảo những bức sứ

trình đồ đó để phục vụ cho Luận án. Nhƣng vì là chuyên ngành sử học, nên tác giả

vẫn chủ yếu nghiên cứu theo phƣơng pháp sử học và quan hệ quốc tế, TĐS vẫn

chƣa phải là chính, chỉ hạn chế giới thiệu thơ của Trƣơng Dĩ Ninh và một số bài

thơ của Lâm Đƣờng Thần.

1.3.3. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu đã triển khai trƣớc đây

Tính đến thời điểm này, kết quả nghiên cứu của học giả Trung Quốc liên

quan đến sứ thần Trung Quốc đi sứ Việt Nam cũng nhƣ tác phẩm đi sứ của họ chủ

yếu có những kết quả nêu trên, đa số là nghiên cứu đơn lẻ, chƣa có nghiên cứu

27

chuyên sâu về cả mảng TĐS, điều đó chứng tỏ còn nhiều không gian nghiên cứu để

chúng tôi tiếp tục đi vào chuyên sâu.

Qua những nội dung trình bày ở trên, chúng tôi thấy có hai hiện tƣợng khá

thú vị. Thứ nhất là: bất cứ ở Việt Nam hay Trung Quốc, kết quả nghiên cứu về

các chuyến đi sứ Trung Quốc của sứ thần Việt Nam cũng nhƣ tác phẩm sứ Hoa

của họ nhiều hơn rất nhiều so với kết quả nghiên cứu các chuyến sang sứ Việt

Nam của sứ thần Trung Quốc cũng nhƣ tác phẩm Sứ Giao của họ.

Về nguyên nhân, có lẽ là vì những tác phẩm đi sứ có địa vị khác nhau ở mỗi

nƣớc của mình. Sứ thần Việt Nam thƣờng là những sĩ phu giỏi thơ văn, đi sứ lại

làm cả một tập thơ văn chữ Hán hoặc chữ Nôm hoàn chỉnh, có tập nhiều tới hơn

trăm bài, ghi chép và phản ánh những sự việc và sự vật mới lạ, nên những tác

phẩm sứ Hoa này có địa vị rất cao ở Việt Nam, thậm chí đƣợc quy thuộc một trong

những loại tác phẩm văn học tinh túy. Những tác phẩm này cũng đã làm cho chính

ngƣời Trung Quốc cũng nhƣ ngƣời các nƣớc ngoài hai nƣớc này phải thán phục

năng lực văn chƣơng chữ Hán cổ của sứ thần Việt Nam, do vậy đã thu hút đƣợc sự

chú ý và quan tâm cao độ của nhiều học giả Việt Nam, Trung Quốc và nƣớc ngoài,

dẫn đến kết quả có nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn đi sứ Trung Quốc của

sứ thần Việt Nam.

Đối với sứ thần Trung Quốc, dù rất nhiều sứ thần cũng xuất thân từ khoa cử,

nhƣng địa vị và tiếng tăm của họ ở Trung Quốc thƣờng không cao bằng sứ thần Việt

Nam ở Việt Nam. Dù có một vài sứ thần Trung Quốc cũng thuộc bậc đại học sĩ,

nhƣng tác phẩm và thành tích đi sứ Việt Nam của họ lại không nổi trội bằng các

thành tích khác của họ ở Trung Quốc. Việt Nam lại là một nƣớc nhỏ ở phía Nam, tƣ

tƣởng sĩ phu Trung Quốc cổ xƣa vốn coi đó là xứ nóng nực và hoang vu (炎荒之地),

nên thơ văn đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc ít đƣợc tôn vinh lên tầm cao.

Cùng với đó, điển tịch trong TKTT Trung Quốc cực nhiều, các tác phẩm Sứ Giao

này chỉ là giọt nƣớc trong biển cả bị chìm lấp. Theo đà nhận thức ngày càng nâng

28

cao của ngƣời hiện đại, đến nay mới dần có ngƣời quan tâm và nghiên cứu lĩnh vực

thơ văn đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc.

Thứ hai là: các kết quả nghiên cứu về thơ văn đi sứ đã đạt đƣợc trong

thời gian qua, đều chỉ nghiên cứu đơn lẻ một trong những tập thơ văn đi sứ

đƣợc lƣu trữ trọn vẹn.

Tác phẩm sứ Hoa của sứ thần Việt Nam đã đƣợc sao chụp thành một bộ văn

tập hoàn chỉnh, rất tiện cho nghiên cứu, nên kết quả nghiên cứu đã khá nhiều. Còn

tác phẩm Sứ Giao của sứ thần Trung Quốc, hiện nay chúng tôi mới chỉ tìm thấy sáu

bộ Sứ Giao tập đƣợc lƣu trữ nguyên vẹn, ngoài ra văn tập đi sứ Việt Nam của nhiều

sứ thần Trung Quốc trƣớc kia, nếu không bị thất lạc thì cũng chỉ rải rác đƣợc ghi

chép trong các văn tập khác. Trong sáu bộ Sứ Giao thi này, đến nay mới có hai bộ

đƣợc nghiên cứu chuyên sâu. Vì vƣớng phải khó khăn tìm tài liệu và khó khăn về

ngôn ngữ và văn tự, và ý nghĩa của TĐS chủ yếu là tự sự và thù tạc, nên đến nay kết

quả nghiên cứu về TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc vẫn còn rất khiêm tốn.

Vì nghiên cứu về lĩnh vực này, đòi hỏi phải có trình độ Hán ngữ và văn học

cổ nhất định, nên ngoài Trung Quốc và các nƣớc thuộc vùng văn hóa Hán nhƣ Việt

Nam, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản, thì hiện nay rất ít học giả tham gia. Nhiều

học giả phƣơng Tây nghiên cứu về các nƣớc này cũng chủ yếu nghiên cứu về lĩnh

vực lịch sử, đi sâu nghiên cứu lĩnh vực tác phẩm văn học đi sứ nói chung và thơ ca

đi sứ nói riêng còn chƣa nhiều. Văn học Trung Quốc với chiều dài thời gian và bề

rộng không gian rất lớn, nên ít học giả phƣơng Tây có điều kiện quan tâm.

1.4. ĐỀ XUẤT HƢỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

Trên cơ sở khảo sát nhƣ trên, chúng tôi thấy, lựa chọn TĐS của sứ thần Trung

Quốc đến Việt Nam làm đề tài luận án là việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Trong

quá trình thu thập và phân tích tài liệu, chúng tôi cũng đã viết đƣợc một vài bài báo

khoa học liên quan đến đề tài này (xin xem ở Danh mục công trình khoa học của

tác giả liên quan đến luận án):

29

- Khái quát về số lƣợng và tình hình lƣu trữ của TĐS

Bài Tổng thuật TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc từ thế kỷ X-XVIII,

dựa trên cơ sở những tƣ liệu đã thu thập đƣợc, tổng kết số sứ thần và số bài TĐS

Việt Nam của họ, quy nạp nội dung, chủ đề chính và những đóng góp có giá trị cho

lịch sử và giao lƣu văn hóa, văn học giữa hai nƣớc trong những bài thơ đó, tạo dựng

diện mạo khái quát chung cho đề tài nghiên cứu này.

Bài Khảo cứu lại tác giả của ba bài thơ liên quan đến sứ thần Trung Quốc

đến Việt Nam, khảo cứu lại tác giả của các bài nhƣ 答世子韻 Đáp Thế tử vận, 送使

吟 Tống sứ ngâm và 上問安南事 Hỏi đáp về nước An Nam, dựa trên cơ sở nội dung,

phƣơng pháp ép vận và cách xƣng hô trong thơ để phân tích và lập luận, hiệu đính

lại tác giả đích thực của các bài thơ này. Bài Đáp Thế tử vận nên thuộc về tác giả

Văn Cự, chứ không phải của Trí Hi Thiện nhƣ ANCL và Nguyên thi tuyển đã ghi

chép; bài Tống sứ ngâm nên thuộc về Nguyên sứ Hoàng Thƣờng, chứ không phải

của Mạc Ký nhƣ tập Thơ văn Lý - Trần đã ghi chép; bài Hỏi đáp về nước An Nam

nên thuộc về Minh sứ Ngô Bá Tông hay của Hồ Quý Ly thì còn phải chờ tìm thêm

bằng chứng để làm rõ. Đây cũng là một công việc hữu ích và có tính khoa học khi

chỉnh lý lại TĐS của sứ thần Trung Quốc.

- Tìm hiểu giá trị văn hóa Nho giáo và phƣơng thức giao lƣu

Sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam đã ghi lại những nét văn hóa Nho giáo để

lại ấn tƣợng sâu sắc mà họ đã đƣợc tận mắt chứng kiến. Bài Văn hóa Nho giáo Việt

Nam trong tầm nhìn của sứ thần Trung Quốc - nghiên cứu từ tư liệu TĐS, chính

là tìm hiểu về chủ đề này, dùng các bài TĐS và những đoạn ghi chép trong ký hành

của sứ thần để nhìn nhận văn hóa Nho giáo của Việt Nam theo nhận xét và đánh giá

của sứ thần Trung Quốc.

Bài Tìm hiểu phương thức giao lưu giữa sứ thần Trung Quốc với quan

chức tiếp sứ Việt Nam từ thế kỷ X-XVIII, đã tìm hiểu đƣợc sứ thần Trung Quốc

giao lƣu với vua tôi tiếp sứ Việt Nam chủ yếu thông qua thông ngôn truyền lời;

30

ngoài ra, họ còn giao lƣu bằng cách viết thƣ chữ Hán trực tiếp qua lại, thù tặng hoặc

xƣớng họa thơ chữ Hán với nhau. Vì có quan hệ đồng văn, dùng chung chữ viết là

chữ Hán, nên dù không có thông ngôn, họ vẫn có thể giao lƣu thoải mái bằng

phƣơng pháp bút đàm, đây là một hiện tƣợng rất thú vị.

- Chuyên khảo về TĐS và TXH của một sứ đoàn

Bài TXH giữa Thanh sứ Đức Bảo và Cố Nhữ Tu với quan chức tiếp sứ Việt

Nam được ghi chép trong sách cổ Việt Nam, Đức Bảo và Cố Nhữ Tu sang sứ Việt

Nam, vì vi phạm kỷ luật bị vua Càn Long xử phạt. Tác phẩm Sứ Giao của hai sứ

thần này cũng vì vậy mà bị cấm không cho lƣu hành, nên hiện nay ở Trung Quốc đã

không còn tìm thấy TĐS Việt Nam của họ nữa. Nhƣng chúng tôi phát hiện trong

những quyển sách cổ nhƣ Nhâm Tuất khóa sứ trình thi tập, Kiến văn tiểu lục, Bắc

sứ thông lục và Quế Đường thi tập đƣợc lƣu trữ ở VNCHN thì có ghi chép lại TXH

giữa họ với vua tôi tiếp sứ Việt Nam là vua Lê Hiển Tông, đại thần Trần Danh Lâm

và Nguyễn Xuân Huyên, khi về đến phủ Thái Bình của Quảng Tây gặp gỡ sứ thần

Việt Nam đi sứ nhà Thanh về là Trần Huy Mật và Lê Quý Đôn, cũng có xƣớng họa

thơ, tất cả là hơn 70 bài. Bài báo phân tích các cuộc xƣớng họa giữa Đức Bảo và Cố

Nhữ Tu với vua tôi Việt Nam, kết hợp phƣơng pháp văn học và sử học để giới thiệu

bối cảnh và nội dung xƣớng họa.

Những nội dung trình bày ở trên đều chỉ phân tích một khía cạnh nào đó của

TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc. Trên cơ sở này, chúng tôi sẽ nghiên cứu

chuyên sâu và hệ thống, mở rộng sang các nội dung phong phú khác, để đi đến quy

mô của một luận án tiến sĩ. Đây là lần đầu tiên khảo sát chọn văn bản toàn bộ là

TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam, lần đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về

mảng TĐS này, chứ không phải một tập TĐS nào đơn lẻ, nhằm nhìn nhận tổng thể

lĩnh vực này. Thơ ở đây với nghĩa rộng, gồm tất cả các hình thức thể loại thơ nhƣ cổ

thể và cận thể, phú, ca, hành, khúc, tuyệt cú, bát cú, Đƣờng luật... Luận án chúng tôi

có những ý tƣởng mới nhƣ:

31

Thứ nhất, nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về mảng TĐS Việt

Nam của sứ thần Trung Quốc. Lục tìm và tập hợp lại các tập thơ hoặc bài thơ Sứ

Giao rải rác trong nhiều quyển sách của sứ thần Trung Quốc tại các thƣ viện hoặc

trung tâm lƣu trữ của cả hai nƣớc Trung Quốc và Việt Nam. Coi các bài TĐS này là

một đối tƣợng nghiên cứu, phân tích hệ thống và toàn diện nội dung cũng nhƣ giá

trị cả mảng thơ.

Thứ hai, thẩm định văn bản, mô tả diện mạo TĐS. Nhận dạng, phân biệt

và xác định các bài thơ thuộc phạm vi nghiên cứu, khảo cứu lại tác giả của một số

bài thơ liên quan đến sứ thần Trung Quốc. Thống kê, mô tả tình hình diện mạo cũng

nhƣ tình hình lƣu trữ của tƣ liệu, nêu rõ nguồn trích dẫn của các tập thơ và bài thơ,

có những sao bản khác nhau thì sẽ so sánh và đối chiếu, đây cũng là nguồn tƣ liệu

chính phục vụ cho luận án, tạo cơ sở chất liệu nghiên cứu.

Thứ ba, tìm hiểu giá trị tƣ liệu về lịch sử, văn hóa và văn học. Qua những

bài TĐS đó, chúng ta có thể nắm bắt đƣợc các sự kiện đi sứ cũng nhƣ mối quan hệ

bang giao đặc biệt trong thời phong kiến, những nội hàm văn hóa, tình hình xã hội

và phong tục tập quán giữa hai nƣớc, đóng góp cho việc tăng cƣờng sự hiểu biết và

tin cậy lẫn nhau giữa nhân dân hai nƣớc. Trọng tâm là đi sâu tìm hiểu giá trị văn học

của mảng TĐS này, đây là phần trọng điểm nhất của Luận án, vừa phân tích vừa

thƣởng thức tác phẩm thơ. Công việc tìm hiểu giá trị văn học này sẽ đóng góp cho

tìm hiểu về nền văn học Trung Quốc và Việt Nam thời trung đại, tìm hiểu thêm mối

quan hệ văn học sâu sắc chặt chẽ giữa hai nƣớc từ thế kỷ X-XVIII.

Thứ tƣ, góp phần làm sáng tỏ công việc đón tiếp và xƣớng họa của ngƣời

Việt Nam. Khi sứ thần Trung Quốc sang, phía Việt Nam đã bố trí công việc đón tiếp.

Nhiều văn thần có tài văn chƣơng đảm nhiệm công việc này, nên đã để lại nhiều giai

thoại xƣớng họa thơ giữa sứ thần Trung Quốc và vua tôi tiếp sứ Việt Nam. Luận án

của chúng tôi góp phần làm sáng tỏ công việc ngoại giao của phía Việt Nam, đồng

thời cũng tìm hiểu về trình độ xƣớng họa thơ chữ Hán của sĩ phu Việt Nam.

32

Chúng tôi cho rằng, chỉnh lý nguồn tƣ liệu này, phân tích toàn diện và chuyên

sâu những nội dung cũng nhƣ giá trị về mọi mặt của nguồn tƣ liệu, vừa là nghiên

cứu văn học trung đại, vừa là nghiên cứu lịch sử, ngoại giao và văn hóa giữa hai

nƣớc Việt - Trung, nhƣ vậy sẽ sinh động hơn chỉ đơn thuần nghiên cứu về lịch sử.

33

Tiểu kết chƣơng 1

Quan hệ thông sứ thời phong kiến chủ yếu có ở châu Á, nên hiện nay chỉ có

Trung Quốc và các nƣớc đƣợc coi là thuộc vùng văn hóa Hán ở châu Á nghiên cứu

về đề tài TĐS, gần đây mới có thêm học giả Mỹ tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu

này. Nhìn chung, nghiên cứu về TĐS hai chiều của sứ thần hai nƣớc Trung Quốc và

Bán đảo Triều Tiên là tƣơng đối cân xứng. Giữa hai nƣớc Trung Quốc và Việt Nam

thì chủ yếu còn thiên về TĐS Trung Quốc của sứ thần Việt Nam. Tƣ liệu TĐS của

sứ thần Việt Nam tới Trung Quốc tập trung hơn so với tƣ liệu của sứ thần Trung

Quốc đến Việt Nam. Vì thế, bất cứ ở Trung Quốc hay Việt Nam, kết quả nghiên cứu

TĐS của sứ thần Việt Nam tới Trung Quốc cũng nhiều hơn so với kết quả nghiên

cứu TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam từ thế kỷ

X-XVIII vẫn đang ở giai đoạn ít ngƣời quan tâm, kết quả nghiên cứu chƣa nhiều,

hầu nhƣ chỉ nghiên cứu một phần rất nhỏ của lĩnh vực này. Hệ thống, toàn diện và

đi sâu nghiên cứu nội dung và giá trị của TĐS là ý tƣởng mới của Luận án chúng tôi.

Có một số bài TĐS của sứ thần Trung Quốc đã đƣợc phiên dịch và giới thiệu ở Việt

Nam, nhƣng số lƣợng còn ít. Luận án của chúng tôi sẽ chọn dịch nghĩa khoảng một

trăm bài thơ tiêu biểu nhằm phần nào lấp dần chỗ trống đó, cũng qua đó cho thấy tài

năng thơ văn của sứ thần Trung Quốc cũng nhƣ một số vua tôi Việt Nam tham gia

tiếp đón sứ đoàn Trung Quốc.

Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, nhƣng chúng tôi thấy, đây là đề tài rất cần

thiết và có ý nghĩa, cũng là đề tài thú vị và mới mẻ, có nội dung và thể loại phong

phú, đáp ứng mục đích nghiên cứu của chuyên ngành chúng tôi, hy vọng sẽ đóng

góp ít nhiều cho việc nghiên cứu văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam, cũng

nhƣ nghiên cứu quan hệ bang giao giữa hai nƣớc.

34

Chƣơng 2

Sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam,

lƣợc sử thông sứ và giao lƣu văn hóa

Trƣớc khi đi sâu tìm hiểu TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam, chúng

tôi tìm hiểu mối quan hệ thông sứ giữa hai nƣớc cũng nhƣ các thông tin liên quan

đến sứ thần và các chuyến đi sứ. Đây là cơ sở, bối cảnh, là tiền đề giúp chúng tôi đi

sâu tìm hiểu nội dung và giá trị của TĐS trong các chƣơng sau.

2.1. LƢỢC SỬ SỰ HÌNH THÀNH MỐI QUAN HỆ THÔNG SỨ

2.1.1. Nhìn lại quan hệ Trung - Việt trƣớc thế kỷ X

Theo học giả Việt Nam, trƣớc thời điểm giành đƣợc độc lập tự chủ (938),

Việt Nam trải qua thời kì Bắc thuộc dài khoảng một nghìn năm. Trong thời kì này,

có không ít sự kiện văn hóa, văn học chứng tỏ sự giao lƣu về mặt học thuật, văn

chƣơng giữa Việt Nam và Trung Quốc lúc bấy giờ. Một số Thái thú nhƣ Tích Quang,

Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp đƣợc sử sách ghi nhận nhƣ là những ngƣời góp phần truyền

bá học thuật ở Giao Chỉ. Một số nho sĩ bản địa nhƣ Lí Tiến, Lí Cầm, Trƣơng Trọng,

Khƣơng Công Phụ... đã từng sang Trung châu đi thi và thi đỗ, đƣợc cử làm quan.

Một số nho sĩ, văn nhân Trung Quốc cũng đã từng lánh nạn hoặc bị biếm trích đến

Giao Chỉ.

2.1.2. Sự hình thành mối quan hệ thông sứ

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp đƣợc loạn Mƣời hai sứ quân, thống nhất đƣợc

vùng Giao Chỉ, xây dựng Chính quyền tập quyền Trung ƣơng, đặt Quốc hiệu là Đại

Cồ Việt. Nhà Tống nhu nhƣợc phải tập trung sức lực chống lại quân Tây Hạ hùng

mạnh ở phía Tây Bắc, đành chấp nhận triều đình nhà Đinh.

Nhƣng vì vị trí địa lý láng giềng tiếp giáp, sức mạnh nhà nƣớc không cân

xứng, Trung Quốc ở miền Bắc vẫn lớn mạnh hơn, là mối đe dọa lớn nhất đối với

35

Việt Nam, nên quan hệ hai nƣớc không phải cắt đứt hẳn, mà là duy trì mối quan hệ

triều cống thời phong kiến rất đặc biệt ở châu Á cổ, biểu hiện về mặt chính trị là:

cầu phong và sách phong; về mặt kinh tế là: cống nạp và đáp tặng.

Năm 972 (năm Khai Bảo thứ năm thời Tống), Đinh Bộ Lĩnh cử sứ thần sang

nhà Tống cầu phong. Lúc đó nhà Tống mới thống nhất lại Trung Quốc, đối với vùng

xa miền Nam không muốn gây chiến. Nên năm sau, Tống Thái Tổ cử sứ thần

Vƣơng Chiêu Viễn, Dƣơng Trùng Mỹ sang ―Phong Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái

sư, sung chức Tĩnh Hải quân Tiết độ quan sát xử trí sứ‖ [65, Q2], mở màn cho việc

thông sứ với Việt Nam. Năm 975 (năm Khai Bảo thứ tám thời nhà Tống), Tống

Thái Tổ lại cử sứ thần sang phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận Vương, Đinh

Liễn làm Tiết độ sứ.

Từ đó đến các triều đại tiếp sau nhƣ tiền Lê, Lý, Trần, mãi đến triều Nguyễn,

mỗi khi có vua mới hay triều đại mới lên thay thế, triều đình Việt Nam đều cử sứ

thần sang Trung Quốc để xin đƣợc phong vƣơng, chỉ có đƣợc vƣơng triều Trung

Quốc sách phong mới đƣợc coi là 奉正朔 (phụng chính sóc), uy thế của vua Việt

Nam trong nƣớc hay giao thiệp với Trung Quốc mới danh chính ngôn thuận. Sau

khi đƣợc tin và xác nhận sự thật, thì vƣơng triều Trung Quốc lại cử sứ thần sang

sách phong. Khi Trung Quốc có vua mới lên ngôi cũng cử sứ thần sang thông báo,

tiện cho Việt Nam khi làm biểu dâng hoặc tấu sớ.

Từng thời kỳ nhất định, Việt Nam phải sang nạp cống phẩm cho Trung Quốc

và Trung Quốc có đáp tặng lại đồ sính. Đi cống lúc đầu không hạn kỳ, đến triều

Nguyên và Minh định ba năm một lần, từ thế kỷ XVII, tức cuối triều Minh đổi thành

sáu năm một lần hai kỳ cống phẩm. Từ triều Minh trở đi, quan hệ triều cống mới thật

sự thành lệ. Việc cống sính đối với cả hai nƣớc đều là một gánh nặng hao của tổn sức,

nên số lƣợng đồ cống và số lần đi cống đƣợc phía Việt Nam xin giảm và phía Trung

Quốc cũng nhất trí rồi cho giảm dần. Tuy nhiên vẫn phải tiến hành đúng hạn, vì

vƣơng triều Trung Quốc coi đó là sự thể hiện lòng thành của Việt Nam đối với Trung

36

Quốc, về sau này chú trọng hình thức hơn là nội dung cống sính.

Giữa hai nƣớc còn nhiều nội dung phải thông sứ, chẳng hạn nhƣ phía Việt

Nam phải cử sứ thần sang để báo tang vua mất và vua mới kế vị; sang mừng vua

Trung Quốc đăng cơ hoặc mừng thọ, mừng lập Thái tử, v.v... Phía Trung Quốc phải

cử sứ thần sang để điếu viếng vua Việt Nam đã mất; sang điều đình chiến sự giữa

Việt Nam với Chiêm Thành, giữa các lực lƣợng trong nƣớc Việt Nam, giữa biên

giới hai nƣớc, v.v... Mối quan hệ thông sứ giữa hai nƣớc Việt - Trung duy trì hơn

900 năm, đến tận năm 1885, sau khi triều đình nhà Thanh ký Hiệp ước Hội đính

Việt Nam với Pháp, thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam mới chấm dứt.

Quan hệ triều cống về hình thức là không bình đẳng, nhƣng thực chất lại phù

hợp với lợi ích và nhu cầu đƣơng thời của hai nƣớc. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam

bất đắc dĩ phải đi triều cống, bảy tỏ lòng thành với Trung Quốc; Trung Quốc cũng

chỉ cần Việt Nam sang triều cống, thực chất không can thiệp nhiều vào nội bộ việc

nƣớc của Việt Nam, chỉ nhằm giữ thể diện của một nƣớc lớn. Giữ đƣợc thế yên ở

miền Bắc, triều đình Việt Nam đã có thể tập trung phát triển sang phía Tây và miền

Nam. Nƣớc Ai Lao đã thần phục Việt Nam, nƣớc Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp

đã đƣợc sát nhập vào Việt Nam... Các vƣơng triều Trung Quốc cũng có thể dành

nhiều sức lực để đối phó với các lực lƣợng nổi dậy hùng mạnh hơn ở phía cực Bắc

hoặc Tây Bắc. Nên mối quan hệ triều cống đã trở thành quan hệ đi lại chính thức lâu

dài giữa hai nhà nƣớc trong thời phong kiến.

Dù trong khoảng thời gian đó, hai nƣớc có lúc cũng xảy ra xung đột quyết liệt,

nhƣ năm 981, cuộc chiến ở ải Chi Lăng chống quân nhà Tống do Lê Hoàn lãnh đạo;

Lý Thƣờng Kiệt đƣa quân đến Ung Châu, Quảng Tây; Trần Hƣng Đạo chỉ huy ba

lần đánh đuổi quân Nguyên Mông; Lê Lợi đánh thắng quân nhà Minh, kết thúc thời

Minh thuộc; Nguyễn Huệ đánh thắng quân nhà Thanh do Tôn Sĩ Nghị dẫn đầu, v.v...

Nhƣng sau mỗi cuộc xung đột, hai nƣớc lại nhanh chóng cử sứ thần sang để nối lại

quan hệ. Phía Việt Nam nhằm tránh sự quấy nhiễu và hạn chế những xung đột quân

sự có thể diễn ra phát xuất từ triều đình Trung Quốc, nên cố giữ thái độ nhún

37

nhƣờng, tỏ ra tuân theo đạo lý ―úy thiên sự đại‖ (sợ mệnh trời, thờ nƣớc lớn) trong

quan hệ bang giao. Phía Trung Quốc nhằm giữ đƣợc uy thế nƣớc lớn, giữ yên biên

giới miền Nam, nên cũng tỏ ra thái độ khoan nhân, ban tặng nhiều ân trạch, hoài

nhu viễn nhân (懷柔遠人), quan hệ mềm mỏng.

Nhìn chung, dù cũng có lúc quan hệ căng thẳng, nhƣng thời gian chung sống

hòa bình giữa hai nƣớc vẫn nhiều hơn. Mối quan hệ giữa hai nƣớc sau thế kỷ X, hữu

hảo vẫn là dòng chảy chính.

2.2. GIỚI THIỆU SƠ LƢỢC VỀ SỨ ĐOÀN

2.2.1. Thống kê số sứ đoàn Trung Quốc đã sang Việt Nam

Sau khi quan hệ thông sứ giữa hai nƣớc đƣợc thiết lập, mỗi khi có sự kiện

ngoại giao cần thiết thì triều đình Trung Quốc tuyển chọn những sứ thần phù hợp

điều kiện, đủ năng lực để đại diện sang Việt Nam thực hiện các sứ mệnh. Trong cơ

chế bộ máy của triều đình Trung Quốc thời phong kiến, Lễ bộ là một cơ cấu quan

trọng phụ trách quản lý các nhà trƣờng, khoa cử cũng nhƣ các nƣớc phiên thuộc và

việc giao vãng với nƣớc ngoài, là nơi hội tụ nhiều văn sĩ. Sứ thần đi sứ Việt Nam

thƣờng đƣợc tuyển chọn từ quan lại thuộc Lễ bộ, thƣờng thấy các sứ thần đi sứ với

các chức vụ nhƣ: Lễ bộ Thƣợng thƣ, Lễ bộ Thị lang, Lễ bộ Viên ngoại lang... Còn

có quan lại của các bộ, viện với các chức vụ khác nhƣ: Công bộ Lang trung, Công

bộ Thị lang, Binh bộ Lang trung, Hàn lâm Biên tu, Hành nhân...

Các triều đại Trung Quốc nhƣ Tống, Nguyên, Minh, Thanh không vì Việt

Nam là nƣớc láng giềng nhỏ mà coi thƣờng việc tuyển chọn sứ thần. Ngƣợc lại,

nhằm giữ gìn và tuyên dƣơng quốc uy quốc thể, triều đình Trung Quốc hầu nhƣ đều

đã cử những văn quan tài giỏi có danh vọng trong triều, cơ bản là những ngƣời đỗ

đạt khoa cử, thậm chí là những vị Trạng nguyên hoặc Đại học sĩ nhƣ Lý Nhƣợc

Chuyết, Lý Giác nhà Tống; Trƣơng Lập Đạo, Lý Tƣ Diễn, Trần Phu nhà Nguyên;

Trƣơng Dĩ Ninh, Trạm Nhƣợc Thủy, Ngô Bá Tông, Lỗ Đạc, La Nhữ Kính nhà Minh;

38

Chu Xán, Đức Bảo, Cố Nhữ Tu nhà Thanh... Trong bài thơ 安南國公善樂老人 贈

天使張顯卿使還 An Nam Quốc công Thiện Lạc lão nhân Tặng Thiên sứ Trương

Hiển Khanh sứ hoàn có câu rằng: ―盡道朝廷用文士,尚書志氣香秋天 (Đều nói

triều đình thích dùng văn sĩ, Quả nhiên chí khí của Lễ bộ Trƣơng Thƣợng thƣ làm

cho một mùa thu đầy hƣơng thơm)‖ [40, 416].

Theo thống kê chƣa đầy đủ của học giả Trung Quốc, từ năm nhà Tống cử sứ

đoàn đầu tiên sang Việt Nam, đến chuyến đi sứ thần nhà Thanh do Thành Văn làm

Chánh sứ vào năm 1793, với nhiều sứ mệnh, mục đích khác nhau, các vƣơng triều

Trung Quốc đã cử ít nhất 120 sứ đoàn sang Việt Nam (xem bảng 2.1 dƣới đây).

Bảng 2.1 Thống kê số sứ đoàn Trung Quốc đến Việt Nam từ năm 973-1793

Triều đại Số đoàn Nguồn tƣ liệu

Nhà Tống 25 Luận án TS của Đặng Xƣơng Hữu [135]

Nhà Nguyên 27 Bài báo khoa học của Mã Minh Đạt [136]

Nhà Minh 56 Luận án TS của Trần Văn Nguyên [137]

Nhà Thanh 12 Kết quả của Tôn Hồng Niên [139]

Tổng cộng 120

Dựa trên nguồn tƣ liệu trong bảng 2.1 trên đây, chúng tôi liệt kê ra danh sách

sứ thần và sứ mệnh của các sứ đoàn đƣợc triều đình Trung Quốc cử sang Việt Nam

trong phạm vi thời gian nghiên cứu (xem bảng 2.2 ở Phụ lục). Trong số những sứ

thần Trung Quốc đã đi sứ Việt Nam, có sứ thần hai lần, thậm chí ba lần sang sứ, nhƣ

Tống sứ Lý Nhƣợc Chuyết; Nguyên sứ Trƣơng Lập Đạo, Lý Tƣ Diễn, Lý Khắc

Trung; Minh sứ Chƣơng Sƣởng, Lâm Đƣờng Thần, Lã Nhƣợng... Trong đó có cặp

sứ thần rất đặc biệt, có quan hệ ông cháu là Minh sứ La Phục Nhân đi sứ tháng 12

năm 1369 và La Nhữ Kính (tiến sĩ năm 1404) đi sứ năm 1428, cả hai ông cháu đều

thanh liêm và đƣợc ngƣời đời sau ca ngợi.

39

Có sứ thần chính sử không ghi chép, nhƣng các quyển sách khác có ghi chép,

chẳng hạn Minh sứ 黃諫 (Hoàng Gián), KVTL có ghi chép ―Nguyễn Trực đón tiếp

Hoàng Gián, có họa thơ lƣu biệt của sứ thần 50 bài‖ [7, 376], và quyển Cam Túc

thông chí thời Ung Chính cũng có ghi chép sứ thần này, chính sử lại không thấy.

Minh sơ 余贵 (Dƣ Quý) sang sứ, triều đình nhà Trần cử Phạm Sƣ Mạnh đón tiếp và

có xƣớng họa thơ với Dƣ Quý [7, 653], sử sách Trung quốc không thấy có ghi chép

về thông tin này...

Những năm đầu thời nhà Tống, hai nƣớc thƣờng xuyên cử sứ thần đi lại lẫn

nhau. Trong vòng 32 năm tính từ năm 973-1005, Trung Quốc đã cử 13 sứ đoàn sang

Việt Nam, cứ trung bình 2,5 năm là có một chuyến sứ đoàn sang. Điều đó thể hiện

chính sách ngoại giao đối với Việt Nam của thời Tống sơ là không gây chiến, giữ

hòa hiếu với nhau. Triều đình nhà Tống phải dồn sức đối phó với kẻ thù phƣơng

Bắc nhƣ Tây Hạ và Liêu Quốc, miền Nam phải yên bình, nên quan hệ giữa hai nƣớc

hết sức chặt chẽ. Cuối thời Bắc Tống và thời Nam Tống, số sứ đoàn sang Việt Nam

bắt đầu thƣa dần.

Vua Nguyên cũng thƣờng xuyên cử sứ thần sang Việt Nam, từ năm 1257-1335,

trung bình cứ 3 năm lại cử một sứ đoàn sang. Thời Nguyên Nhân Tông (1311-1321)

và Nguyên Huệ Tông (từ 1335 đến hết thời Nguyên), không cử sứ đoàn nào khác

sang Việt Nam là vì trong hai khoảng thời gian đó không thay đổi vua. Thời Nguyên

Thế Tổ Hốt Tất Liệt, nhà Nguyên chủ yếu yêu cầu vua Việt Nam phải đích thân sang

chầu và tiếp nhận 六事 (Sáu điều): ―Quốc trƣởng (vua) phải vào chầu; đƣa con em

sang làm con tin; kê biên dân số; phải chịu quân dịch; phải nộp thuế; chịu đặt quan

Đạt lỗ hoa xích để kiểm soát các việc trong nƣớc‖4. Sau đó, thƣờng chỉ những khi có

vua mới lên ngôi mới cử sứ thần sang tuyên bố cho phía Việt Nam biết.

4《元史 世祖三》:“至元四年九月,又詔諭安南國:俾使其君長來朝;子弟入質;編民;出

軍役;納賦稅;置達魯花赤統治之”,這就是元與安南關係史上有名的“六事”。

Qua thông tin ở bảng trên có thể thấy rằng nhà Minh là triều đại cử sứ thần

40

sang Việt Nam nhiều nhất. Trƣớc khi Mạc Đăng Dung cƣớp ngôi nhà Lê, nhà Minh

thƣờng trung bình 3 năm cử một sứ đoàn sang Việt Nam. Nhƣng cũng có năm lần

lƣợt cử 3, 4 sứ đoàn sang, nhất là trong thời Minh Thái Tổ và Minh Thái Tông,

chẳng hạn trong năm 1395 và năm 1403 đã cử 3 sứ đoàn, năm 1370 đã cử đến 4 sứ

đoàn sang Việt Nam! Điều đó đã thể hiện chính sách ngoại giao của thời Minh sơ là

đƣa Việt Nam vào phạm vi ―不征之國 (các nƣớc không chinh chiến)‖, giữ hòa hiếu

và tăng cƣờng đi lại thƣờng xuyên với Việt Nam.

Nhƣng sau đó vì sự kiện Trần Thiêm Bình, không lâu sau lại có tƣớng nhà

Minh chết trận tại An Nam, nên Minh Thành Tổ phát động chiến tranh tấn công Việt

Nam và làm cho Việt Nam bị nội thuộc vào nhà Minh hai mƣơi năm từ năm 1407 -

1427. Sau khi khôi phục lại quan hệ thông sứ, sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam

vẫn chủ yếu là sách phong, điếu viếng vua Việt Nam và tuyên bố vua mới của triều

Minh lên ngôi. Đến giai đoạn thời Nam Minh, vì bận chống đối với lực lƣợng Mãn

Thanh, nên triều đình nhà Minh yếu dần, đi lại với Việt Nam cũng thƣa dần, và chủ

yếu mong Việt Nam có thể làm hậu phƣơng chống Mãn Thanh cho mình.

Thời nhà Thanh, chủ yếu là các triều vua Khang Hy, Ung Chính và Càn Long,

đây là ba đời vua thịnh vƣợng nhất triều nhà Thanh. Bắt đầu từ thời Khang Hy, vì

thƣơng xót sứ thần phải đi xa và tốn nhiều sức của, nên đã hạn chế số đoàn Việt

Nam sang cống, kỳ hạn cách nhau xa hơn, số lƣợng cống phẩm và thành viên sứ

đoàn đƣợc giảm bớt nhiều.

Phía nhà Thanh, tính đến năm 1793, trung bình là 10 năm cử một sứ đoàn

sang Việt Nam, chủ yếu là điếu viếng vua mất và sách phong vua mới cho Việt Nam.

Từ năm 1719 trở đi, sứ đoàn nhà Thanh sang điếu viếng và sách phong đƣợc hợp

nhất sứ mệnh do một sứ đoàn đảm nhiệm, chứ không cử hai sứ đoàn với hai sứ

mệnh khác nhau nhƣ trƣớc đây nữa.

2.2.2. Thƣởng phạt đối với sứ thần

Từng thời kỳ, từng sứ mệnh khác nhau, thành viên của các sứ đoàn cũng khác

nhau. Thời nhà Nguyên và nhà Thanh, chọn sứ thần thƣờng thể hiện đặc điểm chính

41

trị của chính quyền dân tộc thiểu số, mặt khác cũng hay tuyển dụng những quan chức

ngƣời dân tộc Hán tài hoa và có tiếng tăm. Có nhiều sứ đoàn nhà Thanh, Chánh, Phó

sứ thƣờng phân biệt là một quan chức dân tộc Mãn cộng với một quan chức dân tộc

Hán. Thời nhà Minh còn cử những Thái giám hoặc hành nhân đi sứ, thể hiện lòng tin

của vua Minh dành cho Thái giám.

Hầu nhƣ tất cả các sứ đoàn đều cố gắng hết mình để làm tròn sứ mệnh, đi sứ về

thƣờng đƣợc khen thƣởng hoặc thăng tiến. Nhƣ Trần Phu đi sứ về đƣợc thăng từ 翰林

國史院編修官 (Hàn lâm Quốc sử viện Biên tu) lên 翰林待制 (Hàn lâm Đãi chế).

Phó Dữ Lệ đi sứ về, từ một ngƣời dân không chức vụ gì bổ nhiệm làm 廣州文學教授

(Quảng Châu Văn học Giáo thụ). Lỗ Đạc đi sứ về đƣợc thăng từ Hàn lâm Biên tu lên

Quốc Tử Giám Tƣ nghiệp, ít lâu sau lại đƣợc thăng chức Nam Kinh Quốc Tử Giám

Tế tửu. Chu Xán đi sứ về đƣợc thăng từ Lễ bộ Lang trung lên chức 江西南康府知府

(Giang Tây Nam Khang phủ Tri phủ), Ô Hắc thăng Thị giảng Học sĩ, Minh Đồ đƣợc

thăng ba cấp, v.v...

Triều đình Trung Quốc còn những chính sách ƣu đãi dành cho sứ thần, nhƣ

kể về chuyện Trí Hi Thiện (tên tự là Tử Nguyên) triều Nguyên qua sự lựa chọn cạnh

tranh gay gắt mới đƣợc cử sang sứ Việt Nam, đƣợc Hứa Hữu Nhâm viết trong bài

Trí Tử Nguyên Việt Nam hành cảo tự rằng: ―皇上即位,故事遣使頒朔安南,行者

超三級,歸不駁降 (Vua mới lên ngôi, nên sai sứ sang An Nam ban lịch chính sóc,

ngƣời đi sứ đƣợc thăng ba cấp, về không giáng xuống cấp cũ)‖. Cũng chính vì vậy,

―故自售雜睞,而薦私者亦複沸騰,久不決,乃合議堂上 nên các quan trong triều

đều tranh nhau tiến cử bạn bè thân thích của mình, làm xôn xao hồi lâu vẫn không

quyết đƣợc, phải họp ý bàn bạc trên Minh đƣờng)‖. Cuối cùng ―欲行者,與智面較

優劣,眾口始塞 (sau khi thi đố trực tiếp với Trí Tử Nguyên, mọi ứng cử viên khác

đều phục) ‖, nên ―子元以禮部郎中,佩金符,為介使以行 (Tử Nguyên mới đƣợc

42

chọn làm Phó sứ với chức vụ là Lễ bộ Lang trung đeo bùa vàng mà sang sứ)‖5.

Đi sứ Việt Nam cũng nhƣ sang sứ Trung Quốc, khó khăn lắm mới thông tin

tức về nƣớc, nên trong sách Việt Nam có ghi ―lắm cụ cẩn thận, trƣớc khi khởi hành

đã ân cần dặn con cháu nếu không thấy mình về, thì cứ nhớ ngày đi mà cúng giỗ‖6,

thậm chí còn có câu ví là ―vất vả nhƣ đi sứ‖7 để tả nỗi khổ trên đƣờng đi sứ. Sứ

trình dài muôn dặm, phải lội sông vƣợt núi, qua các tuyến đƣờng hiểm trở hẻo lánh.

Miền Nam lại là xứ nóng nực, lam chƣớng ác nghiệt, nên có một số trƣờng hợp sứ

thần gặp rủi ro, nhƣ các trƣờng hợp sứ thần bị ốm đau thậm chí chết bệnh trên

đƣờng đi sứ. Chẳng hạn Minh sứ Lƣu Giản Đích chết khi đi sứ mới đến Nam Ninh,

Trƣơng Dĩ Ninh chết ở Việt Nam trên đƣờng đi sứ về, Du Đôn chết khi đi sứ về đến

Ngô Châu; Thanh sứ Tôn Trác chết khi đi sứ mới đến Toàn Châu, Quế Lâm v.v…

Đây chỉ kể những sứ thần đƣợc ghi tên, các thành viên sứ đoàn khác còn chƣa tính

và cũng không thể tính đƣợc.

Những sứ thần này thƣờng đƣợc ban cho lo liệu hậu sự, triều đình Trung

Quốc còn sắp xếp lo việc ổn thỏa cho cả vợ con của họ. Nhƣ Minh Thái Tổ sau khi

đƣợc tin Trƣơng Dĩ Ninh mất trên đƣờng đi sứ, đã ra lệnh: ―Đƣa quan tài Ninh về

quê an táng, dọc đƣờng các phủ, huyện phải điếu viếng, còn cung cấp bổng lộc hàng

năm cho vợ con‖ (還卒于道中,詔有司還其柩于家,所在致祭,給歳祿恤妻、

子)8. Biết đƣợc ―Phó sứ Tôn Trác mất trên đƣờng đi sứ sang Việt Nam, vua Lê đã

biếu phó nghi một trăm lạng bạc nhờ sứ đoàn mang về cho ngƣời nhà của Tôn Trác‖

(該國王因副使孫卓途中病故,送賻儀一百兩)9.

5 Cả đoạn tƣ liệu chữ Hán trích dẫn từ 至正集 Chí Chính tập quyển ba mƣơi của 許友壬 Hứa

Hữu Nhâm, tr. 217, ảnh ấn Tứ khố toàn thư, tập 1211.

6 Việt Hoa thông sứ, tr 49. 7 Việt Hoa thông sứ, tr 49. 8 Xem Minh sử, Liệt truyện 173, quyển 285. 9 Chu Xán: Sứ Giao kỷ sự, tr 274, tập 219 TKTT tồn mục tùng thư.

Hoạt động hàng ngày của sứ thần thƣờng có những quy định cơ bản nhƣ: ―諸

43

乘驛使臣,或枉道營私、橫索祗待,或訪舊逸遊,餓損馬乘,並申聞斷治 Những

vị sứ thần, nếu tiện đƣờng kinh doanh kiếm lợi, đòi hỏi tiền bạc và ngƣời hầu hạ,

hoặc du chơi thăm bạn, làm hại ngựa và các phƣơng tiện giao thông, đều phải bị cáo

buộc trị tội ‖ [96, 2629-2630]. Nên có trƣờng hợp sứ thần vi phạm một trong những

quy định nào đó trong quá trình đi sứ thì về nƣớc cũng bị kỷ luật. Minh sứ Nhâm

Hƣng Thái, tháng hai năm Hồng Đức thứ hai mƣơi chín đi sứ về bị giáng cấp từ Lễ

bộ Thƣợng thƣ xuống Giám sát Ngự sử, vì ―khi sang sứ An Nam, tự ý mua dân địa

phƣơng làm ngƣời hầu‖10; Minh sứ Nhạc Chƣơng và Trƣơng Đình Cƣơng, tháng

sáu năm Thành Hóa thứ mƣời ba, đi sứ về bị bắt giam vào ngục Tây Xƣởng, vì ―khi

sang sứ An Nam, đem hàng hóa tƣ nhân sang buôn bán, nhiều lần nhận vàng bạc và

quà cáp của vua An Nam‖11. Thanh sứ Cố Nhữ Tu, năm Càn Long thứ hai mƣơi sáu

đi sứ An Nam, sau khi rời An Nam về nƣớc, tự ý viết thƣ chỉ trích vua An Nam tiếp

đón sứ đoàn không chu đáo, nên bị ―cách chức‖, Chánh sứ Đức Bảo ―bị giáng ba

cấp‖12, v.v… Tuy nhiên, trƣờng hợp bị phạt rất ít xảy ra.

2.3. NHIỆM VỤ CỦA SỨ ĐOÀN TRUNG QUỐC

Mỗi sứ đoàn Trung Quốc sang Việt Nam đều có một nhiệm vụ nhất định,

thƣờng gặp là các nhiệm vụ nhƣ sách phong và điếu viếng vua Việt Nam, tuyên bố

Hoàng đế mới của Trung Quốc lên ngôi, chiêu dụ vua Việt Nam sang chầu, sang để

xin đƣờng đi Chiêm Thành, lên Vân Nam; bàn bạc công việc cứu hộ cứu nạn; tìm

mua đặc sản; tìm thợ lành nghề hoặc mỹ nhân, v.v... Trong đó liên quan đến giao

sính (交聘), sách phong, điếu viếng và tuyên bố lên ngôi là nhiều nhất. Nhiệm vụ

hay còn nói là sứ mệnh của các sứ đoàn Trung Quốc đƣợc chúng tôi ghi ở bảng 2.2.

10 Xem Minh Thái tổ Thực lục, quyển 244. 11 Xem Minh Hiến Tông Thực lục, quyển 167. 12 Xem Thanh Cao Tông Thực lục, quyển 656.

trong Phụ lục.

44

Thời nhà Tống, trong 25 chuyến đi sứ mà triều đình cử sang Việt Nam, có 13

chuyến là Quốc tín sứ, tức những việc liên quan đến giao sính giữa hai nƣớc, nhƣ

mang chiếu thƣ hoặc lệnh sắc phong sang, v.v... 8 chuyến là sang điếu viếng, trong đó

có một chuyến cùng triển khai Quốc tín sứ (năm 1028). Ngoài ra có hai chuyến là

Quan cáo sứ (官告使), tức sang để tuyên đọc chức vụ mà Hoàng đế nhà Tống phong

cho vua Việt Nam, còn lại có một chuyến là sang vỗ về (安抚) (trƣờng hợp các con

của Lê Hoàn tranh giành vƣơng vị, nên sang chiêu dụ anh em không nên giết hại

nhau), quản thúc (管押) (trƣờng hợp Trúc Đoan hộ vệ đƣa sắc thư lịch nhật 敕书历

日 sang) và giám sát kỷ cƣơng (监纲). Điều đó chứng tỏ sứ thần nhà Tống sang Việt

Nam vẫn chủ yếu thực hiện nhiệm vụ Quốc tín sứ và điếu viếng.

Thời nhà Nguyên, trong 27 chuyến đi sứ sang Việt Nam, ngoài một chuyến là

sang sách phong, một chuyến sang mƣợn đƣờng đi Chiêm Thành và một chuyến hộ

tống Trần Di Ái về nƣớc ra, còn lại các chuyến đều là sang tuyên bố vua mới lên

ngôi hoặc là chiêu dụ vua Việt Nam sang chầu Hoàng đế Trung Quốc. Nhiệm vụ

chiêu dụ vua An Nam sang chầu có tới 10 chuyến, đều triển khai ở thời Nguyên sơ,

cuối thời nhà Nguyên chỉ chủ yếu sang tuyên bố lên ngôi của Hoàng đế mới. Điều

đó cũng phản ánh, gần năm mƣơi năm đầu thời Nguyên, vua Nguyên lấy công việc

chinh phục và chiêu vụ vua Việt Nam đích thân sang chầu là chính, nhƣng cuối

cùng vẫn không thể ép đƣợc vua Việt Nam sang chầu. Do vậy, đành phải bỏ ý muốn

này, chỉ giữ quan hệ thông sứ bình thƣờng.

Thời nhà Thanh trong phạm vi nghiên cứu của Luận án có 12 chuyến sứ đƣợc

cử sang Việt Nam, ngoài chuyến đi sứ của Lý Tiên Căn năm 1669 sang điều giải

quan hệ giữa vua Lê và Đốc thống Mạc, chuyến đi sứ của Hàng Dực Lộc đi cùng

Nhâm Lan Chi năm 1728 sang giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới ra, còn lại đều

là sang sách phong hoặc điếu viếng. Điều đó đã phản ánh, thời Khang Hy- Càn

Long, nhà Thanh lấy phát triển sức lực nƣớc mình làm trọng tâm, mối quan hệ giữa

45

nhà Thanh và Việt Nam lúc đó hữu hảo là chính. Điều này chứng minh rằng quan hệ

thông sứ khi đó chỉ còn chú trọng duy trì cái hình thức, chỉ cần thể hiện lòng thành

của Việt Nam đối với nhà Thanh, cũng thể hiện tình cảm hoài nhu viễn nhân (mềm

mỏng với ngƣời nơi xa) của nhà Thanh dành cho Việt Nam.

Chỉ có thời nhà Minh, nhiệm vụ của sứ đoàn mới thật sự phong phú và đa

dạng. Trong 56 chuyến đƣợc chúng tôi đƣa vào nghiên cứu, ngoài các sứ mệnh

thƣờng gặp ra, có khoảng 23 chuyến là thực hiện các nhiệm vụ khác. Sang điều giải

quan hệ giữa An Nam và Chiêm Thành có 3 chuyến; ban các loại chiếu về khoa cử,

nghi lễ đón sứ thần và quy định về nạp cống, ban tặng hàng xa xỉ và tuyên bố bình

định sa mạc (tức dẹp xong tàn quân nhà Nguyên) có 6 chuyến; thu mua lƣơng thực,

đòi voi, tăng nhân và ngƣời đẹp, giống hoa quả lạ, hƣơng liệu và tế thần núi thì có 8

chuyến; sang đòi trả đất 3 chuyến; 1 chuyến hộ tống Trần Thiêm Bình về Việt Nam,

thời loạn lạc hộ tống sứ thần Việt Nam về nƣớc 1 chuyến và xin đƣờng lên Vân

Nam 1 chuyến. Chúng tôi phát hiện, các nhiệm vụ đặc biệt này chủ yếu diễn ra ở

thời Minh sơ, từ thời Minh Thái Tổ đến Minh Thành Tổ. Bắt đầu từ thời Hậu Lê,

nhiệm vụ của sứ đoànTrung Quốc sang Việt Nam lại trở về các nhiệm vụ thƣờng

gặp nhƣ sách phong, điếu viếng và tuyên bố vua mới lên ngôi, v.v... Từ một khía

cạnh khác, điều đó chứng minh rằng, quan hệ hai nƣớc Việt - Trung trong thời Minh

sơ rất chặt chẽ, qua lại rất thƣờng xuyên, thể hiện Minh sơ coi trọng phát triển mối

quan hệ với Việt Nam.

Trong các thời Tống, Minh và Thanh, sứ đoàn Trung Quốc thƣờng sang

phong vƣơng cho vua Việt Nam, nhƣng thời Nguyên hầu nhƣ chủ yếu xƣng vua

Việt Nam là Thế tử (世子), chứ không phong vƣơng cho nhƣ các triều khác. Vì nhà

Nguyên dù đã yêu cầu phía Việt Nam phải ba năm sang nạp cống một lần, nhƣng vì

quan hệ hai vƣơng triều không ổn định, nên lệ cống thƣờng không đƣợc tiến hành

đúng hạn đúng lệ. Việt Nam không chịu tiếp nhận sáu điều mà triều Nguyên ép

buộc. Nhiều ông vua Việt Nam hầu nhƣ lại không qua xin phong vƣơng với nhà

46

Nguyên mà đã tự xƣng là vƣơng. Nên ngoài năm 1261, nhà Nguyên từng cử sứ thần

sang phong vua Việt Nam làm An Nam Quốc vƣơng [35, 342]; năm 1281, ở Trung

Quốc phong Trần Di Ái làm An Nam Quốc vƣơng; năm 1286, ở Trung Quốc phong

Trần Ích Tắc làm An Nam Quốc vƣơng ra, sau đó vua Nguyên chƣa lần nào sang

phong vƣơng cho vua Việt Nam, suốt thời Nguyên chỉ gọi vua Việt Nam là Thế tử.

Trong Phó Dữ Lệ thi văn tập có một câu chuyện liên quan đến vấn đề xƣng hô Thế

tử này nhƣ sau:

Khi đi sứ đến Chân Định Hà Bắc, Phó Dữ Lệ phát hiện chiếu thƣ của nhà

Nguyên ghi vua Trần là An Nam Vương, sực nhớ lại từ khi Trần Hoảng chƣa xin

phong mà đã tự lập làm vƣơng đến giờ, phía Trung Quốc chỉ gọi vua Trần là Thế tử,

nên đã đề nghị với hai vị Chánh, Phó sứ quay về Kinh đô để sửa chiếu thƣ. Phó Dữ

Lệ đã có bài 使至真定赴都計事遇大雹傷榖 Đi sứ đến Chân Định quay về Kinh đô

có việc, gặp mưa đá gây thiệt hại cho lúa và 公事畢重發京師 Việc công hoàn tất lại

xuất phát từ Kinh thành (xin xem ở Phụ lục) ghi lại sự kiện này.

2.4. ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC ĐỘNG, HIỆU QUẢ CỦA CÔNG VIỆC

THÔNG SỨ

Thông sứ là một loại hình ngoại giao rất quan trọng trong thời phong kiến

của hai nƣớc. Công việc thông sứ trƣớc hết rất bổ ích cho trao đổi thông tin, tăng

cƣờng giao lƣu. Lúc đó truyền tin qua dịch trạm rất chậm nên thông tin với nhau hết

sức khó khăn và phải mất nhiều thời gian. Thông sứ là dịp tốt nhất để trao đổi thông

tin quan trọng trực tiếp, cử sứ thần tài giỏi, thông minh để hoàn thành sứ mệnh là

một cách để giao lƣu và truyền đạt thông tin chính trị giữa hai nƣớc.

Sứ thần, đặc biệt là Chánh, Phó sứ hầu nhƣ đều là các ông quan chức có phẩm

hàm cao trong triều, hiểu biết sâu rộng, phản ứng nhanh nhẹn, nắm bắt đƣợc tình

hình triều chính. Khi có sứ thần đến, vua nƣớc tiếp sứ thƣờng hỏi đến những vấn đề

mà vua sở tại quan tâm, sứ thần đều có thể trả lời trừ những vấn đề thuộc bí mật nhà

47

nƣớc. Triều đình hai nƣớc đều hay khảo nghiệm và thách thức sứ thần bằng nhiều

hình thức, nhƣ ra câu đố, làm thơ, họa thơ, v.v... Sứ thần phải phát huy cao độ tài

năng trí tuệ của mình để thắng trận trong cuộc đấu tranh chính trị ngoại giao này, để

giữ quốc uy quốc thể.

Công việc thông sứ còn giúp cho kịp thời giải quyết một số vấn đề liên quan

đến hai nƣớc, có tác động tích cực trong duy trì quan hệ hữu hảo giữa hai nƣớc.

Nhƣ năm 1369, khi An Nam và Chiêm Thành có tranh chấp, vì Chiêm Thành hồi đó

cũng đã thần phục Trung Quốc, sau khi nhận đƣợc lời tâu của phía Chiêm Thành,

phía Trung Quốc đã cử sứ thần là La Phục Nhân sang để điều giải quan hệ giữa An

Nam và Chiêm Thành. Thanh sứ đã có nhiều phen tranh biện với Việt Nam về hành

nghi lễ ―năm lạy ba khấu đầu‖ (五拜三叩) hay ―ba quỳ chín khấu đầu‖ (三跪九叩),

mãi đến năm 1761, chuyến đi sứ sự của Đức Bảo và Cố Nhữ Tu trở đi mới chấm

dứt và sau đó đều dùng nghi thức Mãn Thanh là ―ba quỳ chín khấu đầu‖.

Vì có mối quan hệ xin phong và sách phong với nhau, Trung Quốc có nghĩa

vụ bảo vệ các ông vua Việt Nam đã đƣợc triều đình Trung Quốc chính thức thừa

nhận và phong vƣơng. Khi ông vua đó bị các thế lực khác cƣớp ngôi, cử sứ thần

sang cầu viện với Trung Quốc, triều đình Trung Quốc thƣờng ra quân giúp đỡ, thực

hiện nghĩa vụ đối với nƣớc thụ phong. Khi Trung Quốc khai chiến với nƣớc khác,

đòi hỏi Việt Nam viện trợ lƣơng thực hoặc cho xin đƣờng, nếu hợp tình hợp lý thì

phía Việt Nam cũng cố gắng đáp ứng nhu cầu, thực hiện nghĩa vụ ủng hộ nƣớc sách

phong, duy trì mối quan hệ đặc biệt này.

Công việc thông sứ cũng đã thúc đẩy giao lƣu kinh tế và văn hóa, văn học.

Trao đổi cống phẩm và đáp tặng phẩm, cộng với buôn bán riêng biệt của một số sứ

thần, là một kiểu giao lƣu hàng hóa thời đó. Sứ thần và sĩ phu Việt Nam tặng thơ,

xƣớng họa thơ với nhau, xin đề bạt cho tác phẩm, v.v... là những hình thức giao lƣu

văn hóa, văn học. Hiện nay có một số tƣ liệu đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung

Quốc ở Trung Quốc không còn tìm thấy nữa, nhƣng lại có thể tìm thấy ở các thƣ

48

viện, nhất là VNCHN Việt Nam, chẳng hạn TĐS của sứ thần nhà Thanh là Cố Nhữ

Tu và Đức Bảo, vì hai sứ thần vi phạm quy định của triều đình nhà Thanh trên

đƣờng đi sứ về, nên bị vua Càn Long cách chức và giáng cấp, không cho phép lƣu

hành tác phẩm Sứ Giao, nên trong nƣớc giờ không còn tìm thấy tƣ liệu liên quan

nữa, nhƣng ở Việt Nam chúng tôi lại tìm thấy TĐS của hai sứ thần này. Thơ văn đi

sứ của một số sứ thần nhà Nguyên nay chỉ thấy có ghi chép trong ANCL của Lê

Trắc viết trong khi ở lại Trung Quốc.

Tác phẩm của một số quan chức Việt Nam tiếp sứ đoàn Trung Quốc nay

không thấy có ghi chép ở Việt Nam nữa, nhƣng thơ tặng và TXH với sứ thần của họ

lại đƣợc phát hiện trong tác phẩm của sứ thần Trung Quốc đƣợc lƣu truyền ở Trung

Quốc. Nhƣ trƣờng hợp TXH với Minh sứ Lỗ Đạc và Trƣơng Hoằng Chí của Bùi

Xƣơng Trạch, Doãn Hồng Duệ và Lê Sạn, v.v...

Tuy nhiên, quan hệ thông sứ cũng có những hạn chế, thứ nhất là về mặt hình

thức không bình đẳng, không đƣợc đối đẳng nhƣ ngày nay. Nƣớc nhỏ bởi các lý do

phải thần phục với nƣớc lớn mạnh hơn, phải định kỳ sang cống, lên ngôi phải xin

phong, v.v... Dù vậy, các nƣớc nhỏ vẫn ―ở trong thì xƣng đế, mà bên ngoài thì xƣng

vƣơng‖ [34, Q48]. Chỉ cần các nƣớc nhỏ tuân thủ lệ cầu phong và nạp cống, vƣơng

triều Trung Quốc hầu nhƣ cũng không can thiệp quá nhiều vào chính trị nội bộ của

các nƣớc nhỏ. Ông vua Việt Nam qua thủ đoạn không bình thƣờng lên ngôi rồi mới

sang Trung Quốc cầu phong, sau khi làm rõ tình hình vƣơng triều Trung Quốc đa số

đều thuận cho và sang sách phong.

Thứ hai, công việc thông sứ ở nhiều trƣờng hợp còn là một loại công việc tốn

sức. Mỗi chuyến đi sứ, cả hai nƣớc đều phải bỏ ra nhiều tiền của, dùng đến nhiều

binh lính, nhiều nhân lực để tham gia đi sứ và tiếp sứ, là một khoản chi tài chính

nhà nƣớc nặng nề. Nhất là các chuyến triều cống, có học giả đã nghiên cứu và so

sánh giá trị của cống phẩm và đáp tặng phẩm, đƣa ra kết luận rằng giá trị của đáp

tặng phẩm hầu nhƣ đều lớn hơn nhiều so với giá trị của cống phẩm.

49

Nhƣng mấy năm gần đây, cũng có học giả tính cả các khoản chi phí tiêu hao ở

dọc đƣờng của cả hai bên, lại đƣa ra kết luận rằng cả hai bên đều bỏ ra quá nhiều

tiền bạc và công sức để triển khai một lần triều cống. Triều cống đối với triều đình

hai nƣớc thật ra đều là một gánh nặng khổng lồ nhìn từ góc độ kinh tế, không có

bên nào thuần túy đƣợc hƣởng lợi cả [137, 198].

Nhìn chung, quan hệ thông sứ có mặt tích cực và phù hợp với điều kiện và

nhu cầu của xã hội đƣơng thời, phát huy hiệu quả nhất định trong duy trì quan hệ

hai nƣớc, nhƣng cũng có những hạn chế và bất cập mang tính lịch sử.

50

Tiểu kết chƣơng 2

Sau khi Việt Nam trở thành một nhà nƣớc phong kiến độc lập, vẫn giữ mối

quan hệ triều cống với Trung Quốc, có quan hệ thông sứ, nên đã có chuyện sứ thần

đi lại. Cử sứ thần và tiếp sứ thần là hai việc hệ trọng trong đời sống chính trị của

triều đình phong kiến hai nƣớc, từ đó đã quyết định những ngƣời đƣợc chọn làm sứ

thần hoặc tiếp sứ không phải là ngƣời tầm thƣờng, mà là những quan chức tài năng

đức độ xuất sắc. Mỗi sứ bộ đi sứ đều đƣợc giao một nhiệm vụ nhất định, thực hiện

một yêu cầu nhất định, hoặc hiếu hỉ, cống sính, hoặc tìm hiểu tình hình, v.v...

Sứ thần Trung Quốc qua các cuộc tiến cử và cạnh tranh gay gắt đƣợc vinh dự

vâng mệnh vua đi sứ Việt Nam. Trong số những sứ thần đó, có sứ thần là hai lần,

thậm chí ba lần sang sứ. Họ đã phát huy cao độ năng lực ngoại giao cũng nhƣ tài

năng văn học của mình, vừa làm tròn sứ mệnh, vừa sáng tác tác phẩm đi sứ. Họ giữ

đƣợc quốc uy quốc thể, đồng thời học hỏi và trao đổi với sĩ phu Việt Nam, đã củng

cố quan hệ ngoại giao và thúc đẩy giao lƣu văn hóa, văn học.

Nhìn chung, thời trung đại, giao thông, thƣơng mại và thông tin chƣa phát

triển, nên công việc thông sứ giữa hai nƣớc không chỉ phát huy vai trò của một hình

thức chính trị ngoại giao, mà còn có thể qua các hoạt động của sứ thần, phát huy tác

dụng rất lớn trong việc thúc đẩy giao lƣu văn hóa, văn học giữa nhân dân hai nƣớc,

nhƣ Lê Quý Đôn đã viết: ―Đi lại ba năm cũng chẳng phải lâu lắm, xin đƣợc sang

thăm Thƣợng quốc chính trị nhƣ thế nào và nhân vật ra sao‖ (三年往返亦不為久,

乞得仍往觀上國政治何如,人物何如) [31, phần tựa]. Tuy rằng công việc thông sứ

có những hạn chế nhất định, nhƣng nhìn chung, công việc thông sứ đã phát huy tác

động và có hiệu quả trong việc giúp cho giao lƣu và giữ quan hệ hữu hảo giữa hai

nƣớc, phù hợp với điều kiện xã hội đƣơng thời.

51

Chƣơng 3

Tình hình lƣu trữ, diện mạo văn bản,

nội dung của thơ đi sứ

Trƣớc khi đi sâu phân tích nội dung TĐS của sứ thần Trung Quốc, chúng tôi

đi vào tìm hiểu tình hình lƣu trữ, diện mạo văn bản của những tác phẩm đi sứ này,

thống kê những văn bản cũng nhƣ các bài TĐS còn lƣu trữ đến ngày nay, lập ra

danh mục TĐS và tác giả sứ thần.

3.1. TÌNH HÌNH, DIỆN MẠO VĂN BẢN THƠ ĐI SỨ

3.1.1. Tình hình, diện mạo các văn bản

Sứ thần Trung Quốc đi sứ Việt Nam đã hình thành một đội ngũ sáng tác TĐS

lớn, các sứ đoàn Trung Quốc cử sang Việt Nam, thƣờng có một viên Chánh sứ và

Phó sứ, cộng với vài nhân viên tùy tùng khác. Có một số lần là hai sứ đoàn đi cùng,

có khi sứ thần còn rủ cả bạn bè và ngƣời thân đi cùng, chẳng hạn Từ Minh Thiện đi

cùng Lý Tƣ Diễn, nhà văn áo vải Phó Dữ Lệ đi cùng Trí Hi Thiện, cháu chắt của

Chu Xán đi cùng đoàn để làm ngƣời Quản gia13... Chúng tôi thống kê đƣợc ít nhất

đã có 120 sứ đoàn sang Việt Nam, cứ trung bình mỗi sứ đoàn hai sứ thần mà tính,

thì cũng đã có ít nhất 240 sứ thần sang Việt Nam, tính đến các thành phần phụ thêm

khác, thì con số 300 sứ thần đã đến Việt Nam cũng là không sai.

Nhƣng tác phẩm đi sứ Việt Nam của những sứ thần này thƣờng bị chìm lấp

trong các kho sách khổng lồ, phồn tạp, những tác phẩm Sứ Giao này chỉ là một bộ

phận rất khiêm tốn trong đó, chƣa gây ảnh hƣởng rộng lớn, chƣa nhận đƣợc sự quan

13 Toàn Việt thi lục có chép bài 和虞英仁赠别诗 Họa thơ tiễn của Ngu Anh Nhân và 和虞英仁交 行十绝 Mười bài tuyệt cú họa thơ Ngu Anh Nhân, có câu chú giải ―英仁,周灿亲孙,随为管 家,颇有文情 (Anh Nhân, cháu chắt của Chu Xán, đi cùng đoàn làm quản gia, rất có tài văn chƣơng)‖.

tâm đáng kể ở Trung Quốc. Hơn nữa thời cổ điều kiện bảo quản sách lại toàn dựa

52

vào bản chép tay, có nhiều quyển lại không đƣợc trân trọng trong lúc bấy giờ, chƣa

kịp in khắc đã thất lạc, nên những tác phẩm Sứ Giao này đƣợc lƣu lại không còn

nhiều, đây là một việc rất tiếc trong quá trình tìm hiểu văn học đi sứ thời trung đại

giữa hai nƣớc.

3.1.1.1. Tình hình lƣu trữ của Sứ Giao tập các triều

Qua tra cứu, chúng tôi đƣợc biết nhiều sứ thần Trung Quốc đi sứ Việt Nam đã

sáng tác hàng loạt Sứ Giao tập, dƣới đây xin khảo sát tình hình lƣu trữ, tức tình hình

mất còn của những văn vản đó (xem bảng 3.1 ở Phụ lục). Các bảng trên cho thấy,

nhiều quyển Sứ Giao tập nay đã thất lạc, không còn tìm thấy nữa, số quyển đã mất

nhiều hơn so với số quyển còn lƣu trữ lại. Chúng tôi liệt kê có 30 quyển, đến nay

chỉ còn 9 quyển, chỉ chiếm chƣa đến một phần ba. Các quyển còn lại dù nay vẫn

còn thấy nhƣng đại đa số vẫn là ngƣời nhà, bạn bè của sứ thần hoặc ngƣời đời sau

thu thập và khôi phục lại, có vài quyển thuần túy là ghi chép, không có TĐS.

Dựa vào các văn bản còn lƣu trữ nói trên, tra cứu thêm các văn tập và các

quyển sách khác đƣợc lƣu trữ tại các thƣ viện lớn nói chung và các kho sách cổ nói

riêng ở Trung Quốc và Việt Nam, tính đến tháng 10 năm 2014, chúng tôi đã thu

thập đƣợc TĐS Việt Nam còn lƣu giữ của 40 sứ thần mà triều đình các thời Tống,

Nguyên, Minh, Thanh Trung Quốc cử sang Việt Nam, riêng TĐS của họ đã tìm

đƣợc 1225 bài, TXH với sứ thần Trung Quốc của vua tôi Việt Nam là 70 bài (bảng

3.2), tìm thấy sáu bộ Sứ Giao thi đƣợc lƣu trữ hoàn chỉnh (bảng 3.3):

Bảng 3.2 Thống kê sứ thần Trung Quốc có TĐS Việt Nam lƣu trữ lại

Triều đại

Số sứ thần có

Số TĐS

Số thơ họa tặng của vua

Số Sứ Giao

thơ lƣu trữ

tôi Việt Nam

thi

Nhà Tống

1

2

1

0

Nhà Nguyên

15

225

9

1

Nhà Minh

19

794

11

3

Nhà Thanh

5

204

49

2

Tổng cộng

40

1225

70

6

53

Bảng 3.3 Sáu bộ Sứ Giao thi đƣợc lƣu giữ hoàn chỉnh

Triều đại

Sứ thần

Tên thi tập

Tổng số thơ Thơ ở tuyến VN

Nhà Nguyên Trần Phu

Giao Châu cảo

106

18

Nhà Minh

Lỗ Đạc

Sứ Giao cảo

92

19

Nhà Minh

Trƣơng Hoằng Chí Vạn lý chí

146

19

Nhà Minh

Từ Phu Viễn

Giao hành trích cảo

55

45

Nhà Thanh Ngô Quang

Sứ Giao tập

123

8

Nhà Thanh Chu Xán

Sứ Giao ngâm

48

48

Tổng cộng

570

157

Nếu cứ tính theo tổng cộng có 240 sứ thần đã sang Việt Nam, số sứ thần có

thơ để lại chỉ chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn là khoảng 16.7%. Nhƣng dùng tổng

số bài thơ chia cho số sứ thần tính trung bình số bài của mỗi sứ thần lại có khoảng

30 bài/sứ thần, thì số lƣợng này lại không ít, điều đó cho thấy, ở mức độ nào đó đã

chứng minh rằng sứ thần Trung Quốc làm TĐS chắc chắn không phải là ít. Tỷ lệ số

sứ đoàn của từng triều đại, nhà Tống chiếm khoảng 20.8%, nhà Nguyên chiếm

khoảng 22.5%, nhà Minh chiếm khoảng 46.7% và nhà Thanh chiếm khoảng 10%.

Còn tỷ lệ TĐS của từng triều đại, thời Tống và Nguyên chiếm khảng 18.6%, thời

nhà Minh chiếm khoảng 64.6%, thời nhà Thanh 16.8%. Qua so sánh tỷ lệ số lƣợng

thơ và tỷ lệ số sứ đoàn của từng triều đại, ta có thể thấy họ có mối quan hệ tỷ lệ

thuận, số sứ đoàn nhiều thì số thơ cũng tƣơng đối nhiều hơn. Phải chăng điều đó lại

có thể chứng minh rằng, hầu nhƣ các sứ thần đều đã từng sáng tác TĐS?

Sáu quyển thi tập trong bảng 3.3 dù mang tên là Sứ Giao thi, nhƣng số bài

thơ thuộc sứ trình Việt Nam so với sứ trình Trung Quốc thì quá là khiêm tốn, ta có

thể rõ ràng nhận thấy điều này. Tất cả 570 bài thơ, thuộc sứ trình Việt Nam chỉ có

157 bài, chiếm tỷ lệ 27.5%, không tƣơng xứng với cái tên Sứ Giao đó lắm. Một là vì

thời gian đi lại ở Việt Nam thƣờng chỉ khoảng hai, ba mƣơi ngày, chiếm số thời gian

54

ngắn ngủi so với tổng số thời gian đi sứ gần một năm của sứ đoàn. Ngoài ra còn có

lý do về nguyên tắc. Trần Phu và Thanh sứ Lý Tiên Căn đã ghi rõ trong tác phẩm đi

sứ rằng ―入安南以官事未了,絕不作詩 (Vào An Nam, trƣớc khi hoàn thành sứ

mệnh tuyệt đối không làm thơ)‖. Còn có quy định và tâm lý cá nhân nữa, sứ thần

Trung Quốc không dễ dàng đƣợc tiếp xúc với ngƣời Việt Nam. Những quan chức

tiếp đón khi nào có việc công cán mới đƣợc yết kiến, nên TXH giữa sứ thần Trung

Quốc và ngƣời Việt Nam thực chất thƣờng diễn ra giữa ông vua và quan chức Việt

Nam đƣợc tham dự tiếp đón sứ đoàn, và xƣớng họa thƣờng tiến hành trên yến tiệc,

khi đón và đƣa tiễn sứ đoàn.

3.1.1.2. Diện mạo các văn bản TĐS

Các văn bản còn lƣu trữ lại gồm cả sao bản, khắc bản, ảnh ấn bản... Vì đã trải

qua quá nhiều thời thăng trầm, nên bản gốc hoặc bản in đầu tiên của các văn bản,

nhất là những văn bản triều Tống, Nguyên hầu nhƣ không còn tìm thấy nữa, chủ

yếu là các ấn bản, sao bản chụp lại, đại đa số ấn bản đƣợc ấn hành giữa thời Minh,

tức thế kỷ XV về sau, hoặc là tái ấn bản, sao bản thời nhà Thanh. Dƣới đây xin tìm

hiểu quá trình lƣu hành của ba văn bản để từ đó nhìn nhận diện mạo đại khái của

văn bản TĐS:

- Văn bản Giao Châu cảo của Trần Phu

Theo sự tìm hiểu của Vƣơng Hạo, Đông lý tục tập của Dƣơng Sĩ Kỳ [86] có

ghi: ―Giao Châu cảo là tác phẩm đi sứ An Nam của Trần Cƣơng Trung, phần đi

kèm ở sau có 玉堂稿 Ngọc Đường cảo... Có khắc bản ở Chiết Giang‖. TKTT tổng

mục có câu ghi chú tác phẩm của Trần Phu rằng: ―浙江巡府采进本 (Chiết Giang

tuần phủ thái tiến bản)‖, chứng tỏ Giao Châu cảo chủ yếu đƣợc khắc in và lƣu

truyền ở chính nguyên quán của Trần Phu là Đài Châu thuộc tỉnh Chiết Giang, và vì

Ngọc Đường cảo cũng thuộc tác phẩm kỷ hành, nên ngƣời sau đã hợp nhất hai tác

phẩm này thành chung một quyển. Ngoài ra, Trần Phu còn có nhiều công trình văn

55

học nữa. Qua ghi chép của các tập sách văn tịch chí nhƣ 千顷堂书目 Thiên Khoảnh

Đường thư mục, Nguyên sử phần Nghệ văn chí, Tứ khố Toàn thư Tổng mục, thì xem

ra nay chỉ còn 观光稿 Quan quang cảo, Giao Châu cảo và Ngọc Đường cảo, ngƣời

sau đã hợp ba quyển thi tập này thành bộ Trần Cương Trung thi tập. Tóm lại, Giao

Châu cảo đại khái đã trải qua một quá trình lƣu hành nhƣ sau: đơn độc một khắc

bản—khắc bản hợp nhất với Ngọc Đường cảo - Trần Cương Trung thi tập gồm ba

tác phẩm. Trần Cương Trung thi tập ngoài một khắc bản và một sao bản thời Minh

ra, còn có năm sao bản thời nhà Thanh.

- Văn bản Nam chinh cảo của Phó Dữ Lệ

Theo nhƣ bài tựa đã viết, Thi tập này lúc đầu chỉ có sao bản, sau đó em vợ

Phó Dữ Lệ sợ thất lạc mới tổ chức khắc in vào năm 1382. Nhƣng sau đó cũng đƣợc

hợp nhất với các thi tập khác của Phó Dữ Lệ trong quyển Phó Dữ Lệ thi văn tập.

Theo kết qua nghiên cứu của Dƣơng Khuông Hòa, Phó Dữ Lệ thi văn tập có

21 bản, trong đó thời Nguyên hai bản, một khắc bản thời Chí Chính và một sao bản,

nhƣng đều đã mất. Còn lại các bản khác nhau là thời Minh 5 bản, khắc bản thời

Hồng Vũ, khắc bản thời Hồng Trị, tàn bản khắc bản thời Minh, thi văn hợp nhất bản,

tuyển bản của Phan Thị Nhân; thời Thanh 8 bản, sao bản Kim Khản, sao bản Tra

Thận Hành, ảnh sao bản thời Càn Long, thi văn hợp biên sao bản, khắc bản Tảo

Diệp Sơn phòng, bản Tứ khố Toàn thư, tuyển bản Cố Tự Lập, tuyển bản Trƣơng

Cảnh Tinh; thời Dân Quốc có 6 bản, khắc bản Gia Nghiệp đƣờng năm Dân Quốc

thứ ba, tuyển bản Trần Diễn, bản in lại của Gia Nghiệp đƣờng năm 1963, bản in lại

của Gia Nghiệp đƣờng năm 1982, bản ảnh ấn Văn Uyên Các Tứ khố Toàn thư và

bản ảnh ấn Văn Tân Các Tứ khố Toàn thư.

- Văn bản An Nam kỷ hành tập của Trƣơng Dĩ Ninh

Trƣơng Dĩ Ninh đi sứ có sáng tác quyển An Nam kỷ hành tập, theo nhƣ 世善

堂书目 Thế Thiện đường Thư mục đã ghi, quyển này có khắc bản Trƣơng Long vào

56

năm Tuyên Đức thứ ba (1438), mang tên Nam quy kỷ hành tập, nhƣng nay không

thấy. Bài tựa Trần Liễn viết cho Thúy Bình tập của Trƣơng Dĩ Ninh rằng: ―Trƣơng

Tiên sinh có tác phẩm rất nhiều, về sau đa số đã thất lạc... nay cháu nội khôi phục lại

bản Sứ An Nam cảo cho khắc in, nên tác phẩm của ông mới đầy đủ lại dần‖ [71].

Nhƣng quyển Sứ An Nam cảo nay cũng không còn thấy, TĐS An Nam của Trƣơng Dĩ

Ninh nay chỉ rải rác thấy trong Thúy Bình tập đƣợc ngƣời đời sau qua nhiều lần thu

thập hoàn thiện và trong các tuyển tập thơ của ngƣời hâm mộ khác. Trƣơng Dĩ Ninh

là Trạng nguyên, cũng là nhà văn nổi tiếng ở xứ Phúc Kiến, đƣợc Minh Thái Tổ ƣu ái

và đƣợc nhiều ngƣời mến tài.

Tóm lại, qua miêu tả ba trƣờng hợp trên, tổng kết lại, chúng tôi thấy, cách lƣu

truyền TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc chủ yếu có hai hình thức: Một là

đƣợc lƣu hành với hình thức cả quyển Sứ Giao thi, đây thƣờng là ở giai đoạn thi tập

mới hoàn thành; hai là một số bài trong đó đƣợc ngƣời khác tuyển chọn vào các loại

văn tập khác, lƣu hành riêng biệt, chuyển từ triều này sang triều khác. Đại đa số Sứ

Giao thi mà chúng tôi thu thập đƣợc hôm nay chủ yếu nhờ cách lƣu truyền thứ hai,

nên dù không tập trung, số lƣợng cũng tƣơng đối khả quan. Còn một điều rất may là

tác phẩm của một số sứ thần Trung Quốc sang sứ Việt Nam cuối cùng cũng đã đƣợc

chỉnh lý và đƣa vào bộ sách TKTT, văn bản đƣợc giữ trong bộ sách này đều tƣơng

đối đầy đủ và đảm bảo độ tin cậy.

Trong quá trình thu tập tài liệu, chúng tôi phát hiện không có nhiều cơ hội để

chọn lọc và so sánh các dị bản, công việc tìm kiếm tài liệu của đông đảo sứ thần

nhƣ vậy là một công việc không dễ, hơn nữa khoảng cách thời gian rất dài, nên

lƣợng tìm kiếm càng thêm khó. Có thể tìm thấy tài liệu TĐS đã không dễ, các dị

bản cho dù có cũng không nhiều lắm. Và chúng tôi quyết định khi có dị bản, cũng

chủ yếu dựa vào các bản đã đƣợc đƣa vào TKTT, vì khi biên tập và soạn duyệt bộ

sách này, các học giả, chuyên gia thời nhà Thanh đã làm một công việc so sánh, đối

chiếu, biện biệt rất công phu và cẩn thận, là một bộ sách đã đƣợc vua Thanh chấp

nhận, nên rất đáng tin cậy. Khi làm một công việc tổng hợp nhƣ vậy, chúng tôi chủ

57

yếu dựa trên cơ sở kết quả chỉnh lý của họ để triển khai công việc nghiên cứu của

mình, cảm thấy đủ sức thuyết phục và phù hợp với nhu cầu của Luận án.

3.1.2. Thống kê tác giả, tác phẩm đi sứ đƣợc lƣu trữ

Chúng tôi chỉnh lý lại tƣ liệu của từng sứ thần có TĐS lƣu trữ, thống kê số

bài và liệt kê các văn tập hiện lƣu trữ những tác phẩm thơ này nhƣ sau (xin xem

bảng 3.4 và Danh mục nhan đề các bài TĐS ở Phụ lục). Các bảng trên cho thấy, sứ

thần các triều đại có TĐS lƣu trữ lại tƣơng đối nhiều là: Lý Giác thời nhà Tống;

Trần Phu, Phó Dữ Lệ, Lý Tƣ Diễn và Văn Cự thời nhà Nguyên; Trƣơng Hoằng Chí,

Lỗ Đạc, Lâm Đƣờng Thần, Trƣơng Dĩ Ninh, Tôn Thừa Ân thời nhà Minh; Ngô

Quang, Chu Xán, Đức Bảo và Cố Nhữ Tu thời nhà Thanh... Ngoài ra, tập thơ Nam

Giao hảo âm gồm 34 bài do mƣời quan chức Việt Nam tặng hoặc họa thơ của

Thanh sứ Chu Xán; Nhâm Tuất khóa Sứ trình thi tập ghi chép 60 bài TXH giữa

Thanh sứ Đức Bảo và Cố Nhữ Tu với quan chức tiếp sứ Việt Nam là Trần Danh

Lâm và Nguyễn Xuân Huyên. KVTL và BSTT cũng có ghi chép hơn chục bài TXH

giữa sứ thần Trung Quốc với vua tôi tiếp sứ ở Việt Nam.

Số sứ đoàn của thời nhà Minh nhiều nhất, nên TĐS Việt Nam của sứ thần nhà

Minh lƣu trữ đến ngày nay cũng nhiều nhất. Trong sáu bộ Sứ Giao thi lƣu trữ hoàn

chỉnh đó có một nửa là tác giả sứ thần nhà Minh. Trƣơng Hoằng Chí, Lỗ Đạc, Lâm

Đƣờng Thần, Chƣơng Sƣởng, Phan Hi Tăng có số lƣợng TĐS trên hai con số; Tôn

Thừa Ân vì An Nam hồi đó có loạn chỉ đi sứ đến Long Châu, nhƣng trên đoạn

đƣờng đã đi trong nƣớc cũng đã sáng tác khá nhiều bài thơ viết về sứ trình.

Tƣ liệu thời Tống Nguyên để lại rất ít, tra tìm trong Toàn Tống thi chúng tôi

cũng chỉ tìm thấy 2, 3 bài chắc chắn là liên quan đến sứ thần Trung Quốc đi sứ Việt

Nam. Đại bộ phận TĐS Việt Nam của sứ thần nhà Nguyên, chúng tôi tìm thấy trong

quyển ANCL, một quyển sách do chính ngƣời Việt Nam ngụ cƣ ở Trung Quốc biên

soạn, giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu quan hệ ngoại giao thời nhà Nguyên

với An Nam. TĐS của sứ thần nhà Minh rải rác trong các văn tập, nhƣng đa số vẫn

là các văn tập đã đƣợc đƣa vào kho sách TKTT. Trong ĐVSKTT, Bang giao lục của

58

Việt Nam, Quảng Tây thông chí cũng có một số bài. TĐS của sứ thần nhà Thanh

càng rải rác hơn, trong sách cổ của phía Việt Nam có ghi chép khá nhiều. Đây cũng

gợi ý cho chúng tôi phải chuyển đổi góc nhìn, dùng biện pháp nhìn nhận Trung

Quốc từ tài liệu của Việt Nam, sẽ cho chúng tôi có thêm những nhận thức mới.

Trên thực tế, số lƣợng TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc trong phạm

vi nghiên cứu đƣợc lƣu giữ chắc chắn không chỉ thế thôi, và trong số các bài thơ

đã thu thập đƣợc cũng có những bài còn tồn nghi. Nhƣng những tƣ liệu này đã

gồm 40 sứ thần thuộc các triều Tống, Nguyên, Minh, Thanh với các loại sứ mệnh

đầy đủ, số thơ hơn 1200 bài, gồm thơ viết ở cả sứ trình Trung Quốc và Việt Nam,

viết từ tự nhiên đến nhân văn, từ phong cảnh đến nội tâm của sứ thần, từ mùa xuân

đến mùa đông, từ TXH giữa sứ thần đến TXH giữa sứ thần và vua tôi Việt Nam,

v.v... nội dung rất đa dạng. Thể loại thơ phong phú, cổ thể, cận thể, ca, hành, phú,

khúc, tuyệt cú và luật thi có tất. Văn bản ngoài thi tập ra, còn có các văn bản kỷ

hành, kỷ yếu, nhật trình ký, v.v... Có cả văn bản sử học và văn học, đủ để hiểu rõ bối

cảnh chuyến đi sứ, các văn bản đã thu thập và chỉnh lý cơ bản đủ để phản ánh diện

mạo, đặc điểm, nội dung và nghệ thuật TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam.

3.2. NỘI DUNG CỦA THƠ ĐI SỨ

Nội dung của hơn nghìn bài TĐS này tƣơng đối phong phú, chúng tôi chủ yếu

khai thác từ hai khía cạnh: chủ đề và cảm hứng sáng tác để quy nạp phân tích nội

dung mảng TĐS của sứ thần Trung Quốc.

3.2.1. Chủ đề sáng tác

Nhìn về tổng thể, mảng TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam thời

trung đại gồm nhiều chủ đề, chúng tôi quy nạp có các chủ đề về chính trị, ngoại

giao; hành trình; sự vật mới lạ nơi đất khách và hình ảnh quê nhà… Những chủ đề

này đã thể hiện đặc điểm nội dung của TĐS, các chủ đề mà sứ thần lựa chọn trong

khi sáng tác luôn luôn liên quan hoặc trực tiếp phản ánh về các chuyến đi sứ.

3.2.1.1. Chủ đề về chính trị, ngoại giao

Công việc đi sứ trƣớc hết là thực hiện nhiệm vụ chính trị, ngoại giao. Với

59

vai trò và sứ mệnh đặc biệt nhƣ thế, sứ thần khi sáng tác thi ca, không thể không

đề cập đến những vấn đề hệ trọng đó. Chẳng hạn, khi sứ thần An Nam là Hàn lâm

Hiệu thƣ Nguyễn Pháp đi sứ nhà Minh về, đồng hành với Trƣơng Dĩ Ninh, có làm

bốn bài thất tuyệt để tặng, Trƣơng Dĩ Ninh đã họa tặng lại mỗi bài của Nguyễn

Pháp ba bài, tất cả mƣời hai bài thất ngôn tuyệt cú 安南使令上頭翰林校書阮法

獻詩四絶,次韻答之. Trong thơ, Trƣơng Dĩ Ninh nói rõ công việc đi sứ của mình

là đại diện Hoàng đế Trung Quốc sang sách phong An Nam Quốc vƣơng. Chúng

tôi xin lấy bài thơ đầu tiên trong đó làm ví dụ:

封王賜印出天家, Phong vƣơng tứ ấn xuất thiên gia,

授旨臨軒遣使華。 Thụ chỉ lâm hiên khiển sứ Hoa.

遥想南交迎詔日, Dao tƣởng Nam Giao nghênh chiếu nhật,

望雲羣拜六龍車。 Vọng vân quần bái lục long xa.

Dịch nghĩa:

Vua Minh ban tặng sắc phong vương và ấn hỉ,

Xuống chiếu chỉ cử sứ thần sang.

Ở xa đã tưởng tượng được cảnh vui đón chiếu thư ở Nam Giao,

Vua tôi đều cúi chào xe đựng chiếu chỉ.

Các bài thơ khác của Trƣơng Dĩ Ninh còn nói tới hoạt động ngoại giao của

sứ thần ở nƣớc bạn, chẳng hạn:

Bài 1

窮髪雕題已一家, Cùng phát điêu đề dĩ nhất gia,

日南使者覲京華。 Nhật Nam sứ giả cận Kinh Hoa.

君王親校燕山籍, Quân vƣơng thân hiệu Yên Sơn tịch,

駕出金根白象車。 Giá xuất kim căn bạch tƣợng xa.

Dịch nghĩa:

Thả tóc xăm mình nhưng đều chung một nhà,

Sứ thần Nhật Nam được ngắm cảnh Kinh đô.

60

Quân vương đích thân ra hội kiến,

Xe kiệu đưa đón rất hoành tráng.

Bài 2

騎馬成行醉挿花, Kỳ mã thành hàng túy tháp hoa,

天恩賜宴賞枋華。 Thiên ân tứ yến thƣởng phƣờng hoa.

知君無限傾葵意, Tri quân vô hạn khuynh quỳ ý,

長向南邊望日車。 Trƣờng hƣớng nam biên vọng nhật xa.

Dịch nghĩa:

Cưỡi ngựa song song để ngắm hoa,

Thiên tử mở tiệc thết đãi và cho xem biểu diễn.

Cho biết lòng anh luôn quan tâm hướng về An Nam,

Thường hay nhìn về phía Nam.

Nhiệm vụ của sứ thần, nhất là trong trƣờng hợp quan hệ căng thẳng, là không

hề nhẹ nhàng chút nào. Công việc đi sứ thời xƣa chủ yếu là do quan văn đảm nhiệm.

Dù đi sứ phải đối mặt với nhiều hiểm nguy, nhiều văn thần vẫn coi việc đƣợc bổ

nhiệm làm Hoàng hoa sứ giả là niềm vinh hạnh. Sứ thần thời nhà Hán là Tô Vũ

không ngại đƣờng xa vất vả đi sứ đến tận Tây Vực và bị giam giữ lại mƣời chín

năm, Trƣơng Khiên đã ba lần đi sứ Tây Vực, luôn luôn gƣơng mẫu để các vị sứ thần

sau này noi theo. Trƣơng Dĩ Ninh trong thơ 南京早發 Nam Kinh tảo phát có dẫn lời

của Tô Vũ chú giải rằng: ―蘇老泉云,丈夫不得為將,得為使折衝萬里外足矣 (Tô

Lão Tuyền nói, đấng mày râu không đƣợc làm tƣớng, đƣợc làm sứ thần vƣợt vạn

dặm đƣờng đi sứ cũng mãn nguyện rồi)‖ [71].

Sứ thần nhận mệnh vua thƣơng lƣợng, hòa giải quan hệ bang giao hai nƣớc.

Do vậy, khi hoàn thành sứ mệnh, họ thƣờng cảm thấy rất tự hào vì đã phát huy đƣợc

sức mạnh của văn đức trong việc giữ mối quan hệ bang giao, chỉ bằng văn đức mà

đã có thể làm cho hai nƣớc đỡ dùng binh đao, dân đỡ phải đau khổ, hiệu quả đạt

đƣợc thậm chí còn hơn võ lực. Sứ thần là cầu nối giữa hai nƣớc, những sứ thần

61

chính trực, có phẩm chất tốt, tích cực xúc tiến để giải quyết vấn đề và hoàn thành sứ

mệnh thì thƣờng đem lại hiệu quả bang giao tốt, giúp cho giữ gìn quan hệ hai nƣớc.

Chẳng hạn, Phó Dữ Lệ trong bài Thứ vận họa lại thơ Trí Lễ bộ tặng Hoàng Trung Châu

có câu tự hào về chức năng của sứ thần rằng: ―會見文翁化成俗,不勞壯士挽強弓

(Vừa thấy văn nhân chuyển hóa thành nền nếp, đã làm cho tráng sĩ không phải khó nhọc

giƣơng cung lên)‖. Bài thơ 書南寧驛 Thư Nam Ninh dịch đã cảm thán rằng:

歲晚馳驅憶帝京, Tuế vãn trì khu ức đế Kinh,

北風回首重闗情。 Bắc phong hồi thủ trọng quan tình.

中天日月廻金闕, Trung thiên nhật nguyệt hồi kim khuyết,

南極星辰繞玉衡。 Nam cực tinh thần nhiễu ngọc hành.

父老尚煩司馬檄, Phụ lão thƣợng phiền Tƣ Mã hịch,

蠻夷須用伏波兵。 Man di tu dụng Phục Ba binh.

也知文德能柔遠, Dã tri văn đức năng nhu viễn,

傳道新恩欲罷征。 Truyền đạo tân ân dục bãi chinh.

Dịch nghĩa:

Cuối năm cưỡi ngựa nhớ về Kinh đô,

Gió Bắc hiu hiu ôn lại tình biên quan.

Mặt trời mặt trăng soi sáng hoàng cung,

Các ngôi sao Nam cực vây quanh ngôi sao Bắc Đẩu.

Già cả phải nhờ bài Hịch Ba Thục của Tư Mã Tương Như,

Nơi man di phải dùng đến binh của Phục Ba tướng quân.

Cũng biết văn đức có thể vỗ về người ở xa,

Truyền bá ân trạch mới khiến không phải dùng đến chinh chiến nữa.

Sứ thần là nhà ngoại giao thời xƣa, nên tƣ tƣởng cũng nhƣ tác phẩm của họ là

một trong những sản phẩm của quan hệ bang giao, thể hiện đặc điểm bang giao thời

62

đó. Nhƣ An Nam kỷ hành của Từ Minh Thiện, ghi chép các văn thƣ ngoại giao qua

lại giữa sứ thần nhà Nguyên với An Nam, hai bên đấu trí đấu lực để duy trì chiến

lƣợc và lập trƣờng ngoại giao của mình, tài biện luận của Nguyên sứ đã giúp thúc

đẩy việc An Nam đồng ý sang triều Nguyên nạp cống. Bốn bức thƣ gửi vua Việt

Nam của Minh sứ Trần Thành về Biện luận địa giới Khưu Ôn cũng hết sức hay và

thể hiện tài hùng biện của sứ thần Trung Quốc, đã làm cho vua Việt Nam chấp nhận

ý kiến phân định của triều đình nhà Minh.

An Nam sứ sự kỷ yếu của Lý Tiên Căn [84], ghi chép chuyến đi sứ Việt Nam

của ông cùng với Dƣơng Triệu Kiệt để đòi vua Lê đồng ý cắt vùng Cao Bằng cho

tôn thất nhà Mạc hoạt động. Đây là một việc nhìn từ quan điểm ngày nay là không

thể nào chấp nhận đƣợc, nhƣng Lý Tiên Căn đã phát huy cao độ tài biện luận ngoại

giao của mình, và ép đƣợc vua Lê chấp nhận yêu cầu của nhà Thanh. Căn đã ghi

chép lại quá trình đi sứ và các cuộc biện luận với vua Lê trong sách, có giá trị bang

giao rất cao. Vì Căn cảm thấy công việc này rất nghiêm túc, nên khi chƣa xong việc,

quan chức tiếp sứ Việt Nam là 同存泽 (Đồng Tồn Trạch) trình thơ xin họa, ông đã

không đồng ý. Xong việc rồi mới bàn luận thơ với Đồng Tồn Trạch, tiếc là trong

sách không thấy ghi chép có TĐS của Lý Tiên Căn.

Sứ Giao kỷ sự của Chu Xán, đã ghi chép quá trình đi sứ và quá trình giải

quyết tranh chấp về nghi lễ thực hiện sách phong và tế viếng giữa hai bên. Thể hiện

tài biện luận của cả hai bên, phía Thanh sứ giỏi, phía Việt Nam cũng chẳng thua, hai

bên đều có thắng có thua. Về nghi lễ cuối cùng là tiến hành theo yêu cầu của nhà

Thanh, nhƣng về cái ấn tỉ cũ, nhà Thanh lại không đòi về đƣợc, Việt Nam đã tìm

mọi cách để từ chối trả lại, về việc này phía Việt Nam đã thắng cuộc.

TĐS Việt Nam của nhiều sứ thần Trung Quốc đã ca ngợi quan hệ hai nƣớc

giữ gìn đƣợc hữu hảo, điều đó cho thấy sự nỗ lực gắn kết quan hệ của sứ thần.

Chẳng hạn bài thơ 即席和世子韻 Tức tịch họa Thế tử vận của Tiêu Thái Đăng, sứ

63

thần nhà Nguyên, mong nƣớc An Nam từ nay trở thành nơi sống thanh bình, nhân

dân đƣợc hƣởng ân trạch và yên vui:

春風花雨落賓筵, Xuân phong hoa vũ lạc tân diên,

送子歸期看著鞭。 Tống tử quy kỳ khán trứ tiên.

從此安南成樂土, Tòng thử An Nam thành lạc thổ,

小心長輿戴堯天。 Tiểu tâm trƣờng dữ đới Nghiêu thiên.

Dịch nghĩa:

Gió mùa xuân làm hoa nở, hoa bày đầy tiệc tiễn sứ thần,

Tiễn sứ thần về nước nhìn roi ngựa vung lên.

Xứ An Nam từ nay trở thành nơi yên vui,

Cẩn thận và lâu dài cùng đội trời vua Nghiêu.

Sứ thần nhà Minh Trạm Nhƣợc Thủy khi họa thơ với vua Lê, đã khen ngợi

rằng chỉ mới đọc thơ đã biết đƣợc ―quốc phong‖, tức trình độ văn hóa của An Nam,

không khác gì miền Bắc, mong rằng hai nƣớc giữ đƣợc hòa bình hòa hiếu lâu dài:

山城水郭度重重, Sơn thành thủy quách độ trùng trùng,

初诵新诗见国风。 Sơ tụng tân thi kiến quốc phong.

南服莫言分土远, Nam phục mạc ngôn phân thổ viễn,

北辰长在普天中。 Bắc thần trƣờng tại phổ thiên trung.

春风浩荡花同舞, Xuân phong hạo đãng hoa đồng vũ,

化日昭回海共融。 Hóa nhật chiêu hồi hải cộng dung.

记得传宣天语意, Kí đắc truyền tuyên thiên ngữ ý,

64

永期中外天平同。 Vĩnh kỳ trung ngoại thiên bình đồng.

Dịch nghĩa:

Trèo núi lội nước trùng trùng điệp điệp,

Mới đọc thơ là đã cảm nhận được phong độ của nước An Nam.

Nước Nam đừng nói xa Trung Nguyên,

Cùng hưởng yên vui với Trung Quốc trên một trái đất.

Gió xuân hiu hiu hoa cùng múa,

Ánh nắng cùng chung chiếu biển cả.

Nhớ mãi lời nói vua nhà Minh,

Mong rằng Trung Quốc và nước ngoài đều chung sống hòa bình lâu đời.

Lúc Phó Dữ Lệ sang sứ, mối quan hệ giữa nhà Nguyên và An Nam đang

hữu hảo, không còn chiến tranh nữa. Bài 憑高 Bằng Cao đã thể hiện tình hữu hảo

giữa hai nƣớc: ―世祖初開業,安南早貢琛 (Lúc Nguyên Thế Tổ mới khai xƣớng

cơ nghiệp, An Nam đã sang triều cống)‖; ―使節猶頻入,蠻兵莫見侵 (Sứ giả

Trung Quốc sang Việt Nam thƣờng xuyên, binh lính man di không tấn công nữa)‖.

Qua tiếp xúc với quan chức tiếp sứ, đã cảm nhận đƣợc văn hóa văn minh của Việt

Nam, nên trong bài 書如月江橋市驛 Thư Như Nguyệt Giang Kiều Thị dịch có các

câu thơ khen rằng: ―禮從陸賈來時定,俗自任延去後殊。親見蠻邦慕冠冕,只

今聖德似唐虞 (Nghi lễ đã bắt đầu đƣợc quy định từ khi Lục Giả nhà Hán sang,

phong tục sau khi Nhâm Diên về đã khác. Tận mắt chứng kiến nƣớc Nam ái mộ

mũ vƣơng miện, thánh đức đƣơng triều hiền nhƣ vua Đƣờng Ngu)‖. Bài Đề Thiên

Sứ quán có câu: ―還家耆舊應相問,文化如今遍九垓 (Về nhà các bậc tiền bối

nếu có hỏi, sẽ nói rằng văn minh ngày nay đã phổ biến khắp mọi nơi)‖.

65

Cũng qua tiếp xúc và xƣớng họa thơ với vua tôi Việt Nam, sứ thần Trung

Quốc mới cảm nhận đƣợc trình độ văn hóa văn minh của Việt Nam, biết nƣớc Nam

này cũng thấm nhuần tƣ tƣởng và văn hóa Nho học, các sĩ phu đều thuộc làu làu Tứ

thư Ngũ kinh của Trung Quốc, là nƣớc có giáo hóa. Nguyên sứ Trƣơng Lập Đạo ba

lần sang sứ Việt Nam, đã làm bài thơ dƣới đây khen rằng:

遙望蒼煙鎖暮霞, Dao vọng thƣơng yên tỏa mộ hà,

市朝人逺隔諠譁。 Thị triều nhân viễn cách huyên hoa.

孤虛庭院無多所, Cô hƣ đình viện vô đa sở,

盛茂園林只一家。 Thịnh mậu viên lâm chỉ nhất gia.

南注雄津天漢水, Nam chú hùng tân thiên Hán thủy,

東開高樹木棉花。 Đông khai cao thụ mộc miên hoa.

安南雖小文章在, An Nam tuy tiểu văn chƣơng tại,

未可輕談井底蛙。 Vị khả khinh đàm tỉnh để oa.

Dịch nghĩa:

Nhìn về phía xa thấy khói xanh khóa ráng buổi chiều,

Cách xa chốn thành thị nên không bị ồn ào.

Từng ngôi nhà riêng có vườn thì không nhiều,

Chỉ có mỗi một vườn hoa cây cối um tùm

Nước nhà Hán chảy từ phía Bắc xuống phía Nam,

Phía Đông cây gạo đang nở hoa.

An Nam tuy là nước nhỏ, nhưng cũng có văn chương,

Đừng chê nước này là ếch ngồi đáy giếng.

Chu Xán qua tìm hiểu và tiếp xúc với quan chức tiếp sứ của Việt Nam, khi đi

sứ về qua Quỷ Môn Quan đã làm bài thơ 出鬼門關,以名不雅馴,擬易為畏天,

66

以昭木國事之美 Rời Quỷ Môn Quan, thấy tên không hay, định đổi tên thành Úy

Thiên, để biểu hiện cái đẹp của việc nước, vừa khen ngợi nhân tài Việt Nam, vừa

mong Việt Nam luôn luôn thần phục với triều đình nhà Thanh phƣơng Bắc:

衣冠文物重南疆14, Y quan văn vật trọng Nam cƣơng,

何事關名太不祥。 Hà sự quan danh thái bất tƣờng.

題曰畏天思此義, Đề viết Úy Thiên tƣ thử nghĩa,

萬年帶礪控炎荒。 Vạn niên đới lệ khống viêm hoang.

Dịch nghĩa:

Nước An Nam được coi trọng về mọi mặt từ ăn mặc đến văn vật,

Tại sao lại có cái tên quan ải với nghĩa xấu như thế.

Nay hãy đổi tên thành Úy Thiên quan,

Nghĩa của tên mới này nhằm làm cho xứ An Nam được yên vui và đội ơn

Thiên tử vạn nghìn năm.

Sứ thần Trung Quốc khi sang sứ Việt Nam đã thiết lập quan hệ hữu nghị với

sĩ phu Việt Nam, mối quan hệ này đƣợc tiếp tục phát triển sau khi sứ thần về nƣớc,

nhƣ trƣờng hợp giữa Phó Dữ Lệ với sĩ phu Việt Nam chẳng hạn. Vì đã để lại một ấn

tƣợng sâu sắc cho ngƣời Việt Nam là có tài văn học, chính trực, hiền lành, nên sau

chuyến đi sứ lần này, Phó Dữ Lệ đã đƣợc ngƣời Việt Nam trân trọng quý mến. Khi

rời Việt Nam, lễ tiễn chân đã đƣợc diễn ra trọng thể: ―華林村:國老把杯齊送別,

館人操紙解求書 (Vua tôi cùng nâng cốc tiễn biệt, ngƣời trong sứ quán trình giấy

14 該國人物理學有程泉、武睿、阮登高、胡士揚,經濟有莫挺之、阮忠彥、阮薦、梁士榮, 文學者頗眾 (Cai quốc nhân vật lý học hữu Trình Tuyền, Vũ Duệ, Nguyễn Đăng Cảo, Hồ Sĩ Dƣơng, kinh tế hữu Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi, Lƣơng Thế Vinh, văn học giả pha chúng. Dịch nghĩa: Nhân vật nổi tiếng của An Nam về lý học có Trình Tuyền, Vũ Duệ, Nguyễn Đăng Cảo, Hồ Sĩ Dương, giỏi về kinh tế thì có Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh, giỏi về văn học thì rất nhiều).

xin thơ xin chữ)‖. Theo bài tựa tiễn hành của Kiết Văn An Công: 大府交薦其賢,

67

及安南入貢使及國門 首問傅先生安在(Sứ thần Việt Nam sau đó sang sứ Trung

Quốc, lúc mới đến cửa khẩu đã hỏi thăm: ―Phó tiên sinh vẫn khỏe chứ ạ‖). Và qua

bài thơ 安南使饋香因分送京下諸公 Sứ thần An Nam biếu hương nên phân chia

cho các bạn ở Kinh thành, ta đƣợc biết, sứ thần còn có quà biếu Phó tiên sinh nữa,

chứng tỏ họ rất quý Phó Dữ Lệ:

南粵名香屑異材, Nam Việt danh hƣơng tiết dị tài,

遠人持贈比瓊瑰。 Viễn nhân trì tặng tỉ quỳnh khôi.

採絰銅柱秋雲濕, Thái điệp đồng trụ thu vân thấp,

重對珠崖夕雨開。 Trùng đối Châu Nhai tịch vũ khai.

入朝喜見朱鳶定, Nhập triều hỉ kiến Chu Diên định,

充貢還隨白雉來。 Sung cống hoàn tùy bạch trĩ lai.

久憶諸公擬分送, Cửu ức chƣ công nghĩ phân tống,

卻愁薏苡誤相猜。 Khƣớc sầu ý dĩ ngộ tƣơng sai.

Dịch nghĩa:

Đồ hương Nam Việt thuộc loại quý hiếm,

Sứ thần tặng tôi và tôi coi như báu vật.

Gặt hái từ bên đồng trụ còn ướt sương mùa thu,

Đến trước Châu Nhai chiều gặp trời mưa.

Vào chầu rất vui được biết An Nam được yên ổn,

Sang triều cống mang cả chim trĩ đến.

Lâu ngày nhớ các ông nên muốn chia cho,

Lại sợ sẽ bị hiểu lầm như ý dĩ của Mã Viện.

Phó Dữ Lệ tiếp xúc với sứ thần An Nam sang Trung Quốc, có bài thơ 岳陽中秋值安

南貢使因懷舊遊 Nhạc Dương Trung thu gặp sứ thần An Nam nên nhớ lại chuyến đi sứ lần

68

trước và bài 余嘉賓伴送南使因過家嶽陽有詩寄牋和答 Dư Gia Tân bạn tống sứ thần An

Nam khi qua nhà Nhạc Dương có thơ gửi tặng nên họa lại để ghi nhận sự kiện này:

越裳貢使出皇州, Việt Thƣờng cống sứ xuất Hoàng châu,

送節南來滿路秋。 Tống tiết Nam lai mãn lộ thu.

乘傳過家須倍喜, Thừa truyền quá gia tu bội hỉ,

擁旄歸國莫深愁。 Ủng mao quy quốc mạc thâm sầu.

南宮雨露通仙館, Nam cung vũ lộ thông tiên quán,

東壁星辰接禦樓。 Đông Bích tinh thần tiếp ngự lâu.

也念故人炎海去, Dã niệm cố nhân viêm hải khứ,

都門何日卻相求。 Đô môn hà nhật khƣớc tƣơng cầu.

Dịch nghĩa:

Sứ thần Việt Nam rời Bắc Kinh,

Đang lúc mùa thu tôi được tiễn sứ thần về miền Nam.

Được đi xe ngựa qua nhà nên vui thêm,

Có xe ngựa hộ tống đi về đừng buồn sầu.

Giọt mưa lộ của Nam cung đến thẳng nơi quán tiên,

Ngôi sao Đông Bích giáp liền ngự lâu.

Bạn bè về nơi nóng ẩm xa,

Không biết hôm nào mới được gặp lại ở Kinh thành.

Phó Dữ Lệ cũng nhƣ Trình Cự Phu và nhiều nhà văn nổi tiếng cùng thời khác,

kết bạn với Lê Trắc. Phó Dữ Lệ thi văn tập có 13 bài thơ thù tặng với Lê Trắc, nhƣ

酬黎別駕15Thù Lê biệt giá, 雪中舟過武昌寄黎別駕二首 Trong tuyết đi thuyền

qua Vũ Xương gửi Lê biệt giá hai bài, 和黎別駕四首 Họa thơ Lê biệt giá bốn bài.

15 Lê biệt giá tức Lê Trắc - ngƣời viết ghi chú.

Nhan đề thơ cho biết hai ngƣời đã xƣớng họa rất nhiều, nhƣng Lê Trắc chỉ còn lƣu

69

giữ có bài 送文史傅輿礪佐使安南 Tiễn Phó Dữ Lệ phụ tá đi sứ và bài 贈傅輿礪使

安南還 Chào đón Phó Dữ Lệ đi sứ An Nam về, tình bạn giữa hai ngƣời rất sâu nặng.

Khi sứ đoàn nhà Thanh do Đức Bảo và Cố Nhữ Tu dẫn đầu và sứ đoàn Việt

Nam do Trần Huy Mật, Lê Quý Đôn và Trịnh Xuân Thụ dẫn đầu gặp gỡ nhau ở phủ

Thái Bình tỉnh Quảng Tây năm 1761, dƣới sự sắp xếp của quan chức địa phƣơng là

Tra Lễ, họ đã có những cuộc du ngoạn, bàn luận học thuật và xƣớng họa thơ rất

tuyệt vời, tạo lập mối quan hệ hữu nghị với tình cảm thắm thiết.

Lý Tƣ Diễn đã dùng một bài thơ để giải đáp hai câu thơ: ―自顧不才慚錫土,

只緣多病欠朝天 (Tự thấy mình bất tài ngại gặp sĩ phu, chỉ vì sức khỏe yếu nên

không đi chầu Thiên tử Trung Quốc đƣợc)‖ của vua Trần, bày tỏ tấm lòng ƣu ái của

Thiên tử triều Nguyên dành cho An Nam rằng:

雨露汪洋普漢恩,Vũ lộ uông dƣơng phổ Hán ân,

鳳啣丹詔出紅雲。Phƣợng hàm đan chiếu xuất hồng vân.

拓開地角皆和氣,Thác khai địa giác giai hòa khí,

淨挾天河洗戰塵。Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần.

盡道璽書十行下,Tận đạo tỉ thƣ thập hàng hạ,

勝如琴殿五絃薰。Thắng nhƣ cầm điện ngũ huyền huân.

乾坤兼愛無南北,Càn khôn kiêm ái vô Nam Bắc,

何患雲雷復有屯。Hà hoạn vân lôi phúc hữu đồn.

Dịch nghĩa:

Ơn vua Trung Quốc như mưa và nước phổ biến cho tất cả,

Phượng hoàng cầm chiếu thư đỏ bay từ trên trời xuống.

Vùng đất xa xôi đều có hòa khí,

Sông Ngân hà trong trẻo rửa hết bụi chiến tranh.

Đều nói hết trong chiếu thư mười dòng,

Còn ấm áp hơn tiếng đàn năm dây trong cung vua.

Tình thương yêu càn khôn không phân chia Nam và Bắc,

70

Đừng sợ tượng quẻ Đồn16 lại có mây và sấm.

3.2.1.2. Chủ đề về sứ trình cũng như hoạt động trên sứ trình

TĐS đa số đƣợc sáng tác trên đƣờng đi sứ, nên thơ viết về sứ trình khá nhiều.

Sứ trình có tuyến trong nƣớc và tuyến ở An Nam, nhƣng khi làm thơ thƣờng hay

phân chia thành ba tuyến: từ Kinh đô xuống biên giới, đi lại ở An Nam và từ biên

giới về tới Kinh đô. Số lƣợng TĐS ở ba tuyến này cũng khác nhau, tuyến từ Kinh

đô xuống biên giới thƣờng nhiều nhất, ngƣợc lại thì rất ít. Có lẽ vì tuyến đi vừa mới

xuất phát, nên sứ thần có nhiều cảm hứng sáng tác hơn, đến lúc trở về đã mệt và

không còn nhiều cảm hứng nhƣ lúc mới đi nữa.

Lúc sứ đoàn khởi hành, thƣờng đƣợc vua ban thứ tặng phẩm và đƣợc bạn bè

đồng liêu tiễn chân hoặc làm thơ tặng để động viên và chúc phúc. Nhƣ Ngô Quang

trong bài Phụng mệnh đi sứ An Nam rời Kinh đô tạm biệt các bạn đồng nghiệp ở

quán các 奉使安南出都別館中諸年丈 viết rằng: ―天書朝捧鳳凰城,把袂題詩壯

我行。敢擬張騫通博望,寧如嚴助出承明 (Chiếu thƣ của Thiên tử bƣng trên tay,

bạn bè tặng thơ tiễn chân tôi. Khích lệ ngƣời đi sứ noi theo Trƣơng Khiên đi sứ Tây

Vực thành công đƣợc tôn Bá Vọng hầu, các ngài ở lại triều đình cũng nhƣ Nghiêm

Trợ xƣa giúp nhà vua)‖.

Trong tài liệu còn lƣu trữ, chúng tôi chỉ tìm thấy có sứ trình đồ của sứ thần Việt

Nam sang sứ Trung Quốc, sứ trình đồ của sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam thì

chƣa hề tìm thấy. Tùy theo tình hình chiến sự, an ninh xã hội và một số nguyên nhân

khác nhau, các sứ đoàn Trung Quốc sang Việt Nam đi theo các hành trình cũng hơi

khác nhau. Các bài TĐS viết về sứ trình thƣờng gồm các nội dung nhƣ các nơi, các

dịch trạm đi qua cũng nhƣ sự đón tiếp và các hoạt động trên sứ trình. Nhiều bài

TĐS lấy địa danh dọc sứ trình làm nhan đề thơ, nhƣ: ―Rời Thuận Thừa môn, quá Lô

Câu Cầu, Sứ đến Chân Định, Vũ Xương, sứ về đến Trường Sa, Hùng Bì Lĩnh, Quế

16《易·屯》,ví tình hình khó khăn nguy hiểm.

Lâm, Ung Châu, Tư Minh Châu... Đến Việt Nam: huyện Khâu Ôn, Ải Chi Lăng, đến

71

Kinh Bắc An Nam... Địa danh là một manh mối quan trọng trong thơ, chúng tôi phải

để tâm đến những thông tin nhƣ thế, nhằm nắm bắt tổng thể sứ trình. Từ những

thông tin đó, ta có thể hình dung ra sứ trình đồ. Chúng tôi lấy vài chuyến đi sứ có ghi

chép địa danh tƣơng đối đầy đủ trong TĐS để phân tích, hoàn nguyên lại sứ trình,

nhƣ chuyến đi sứ Trần Phu thời nhà Nguyên; Trƣơng Dĩ Ninh, Lỗ Đạc và Trƣơng

Hoằng Chí thời nhà Minh; Ngô Quang và Chu Xán thời nhà Thanh.

- Sứ trình của sứ đoàn Lƣơng Tăng và Trần Phu năm 1292

Nguyên sơ tức thời Nguyên Mông, vì có lực lƣợng Nam Tống chắn ở miền

Nam Trung Quốc, nên có khoảng thời gian sứ thần phải đi theo đƣờng Vân Nam

vào Việt Nam. Sau khi dẹp xong quân Nam Tống, lại đi theo đƣờng Quảng Tây. Sử

chép Trần Phu từng vẽ một bức sứ trình đồ, tiếc là nay đã không còn nữa.

Qua các địa danh xuất hiện trong Giao Châu cảo của Trần Phu, chúng tôi biết

đƣợc sứ đoàn đi đƣờng bộ kết hợp với đƣờng thủy: từ Bắc Kinh, men theo tuyến

đƣờng bộ Bắc Nam xuyên qua các nơi thuộc Trung Thƣ Hành Tỉnh nhƣ Lô Câu Cầu,

các thành thuộc Hà Bắc ngày nay nhƣ Thỉ Huyện, Bảo Định, Chân Định, Thạch Gia

Trang, Lâm Danh Quan, Hàn Đan, Từ Huyện, rồi đi xuống Hà Nam Giang Bắc Hành

Tỉnh. Cũng men theo đƣờng bộ Bắc Nam xuyên qua các nơi nhƣ Thƣơng Ân, Kỳ

Huyện, Cập Huyện, đến Nguyên Dƣơng, sau đó vƣợt sông Hoàng Hà đến Biện

Lƣơng (Khai Phong), tỉnh lỵ của Hà Nam. Tiếp theo đi qua các nơi nhƣ Chu Tiên,

Yên Lăng, Thƣợng Thái, Nhữ Nam, Mã Hƣơng, rồi vƣợt sông Trƣờng Giang đi vào

Hồ Quảng Hành Tỉnh, đi qua Hoàng Cƣơng, Vũ Xƣơng, Anh Vũ Châu của Hồ Bắc,

xuôi dòng sông Tiêu Tƣơng qua Động Đình, Hoành Châu, Vĩnh Châu của Hồ Nam,

đi vào Quảng Tây. Theo các dòng sông Quảng Tây đi qua Quế Lâm, Liễu Châu, Nam

Ninh, đến Giang Châu (Sùng Tả), Tƣ Minh Châu, vƣợt Ma Thiên Lĩnh rồi đi vào An

Nam (xin xem Phụ lục). Sứ trình An Nam thì sứ thần nhắc đến các dịch trạm nhƣ: Tƣ

Lăng Châu, Lộc Châu, Khƣu Ôn, Chi Lăng, Triêu Địa, Thị Cầu và Kinh thành.

- Sứ trình của sứ đoàn Trƣơng Dĩ Ninh và Ngƣu Lƣợng năm 1369

Hồi đó là thời Minh sơ, đóng đô tại Nam Kinh. Theo TĐS trong Thúy Bình

72

tập, sứ đoàn đi ngƣợc sông Trƣờng Giang về hƣớng Tây Nam, qua Đại Thắng Cảng,

núi Thái Thạch và Vu Hồ, đi vào tỉnh Giang Tây. Ở địa phận Giang Tây, từ hồ Bột

Dƣơng ngƣợc sông Cán Giang đi xuống miền Nam, đi qua phủ Nam Xƣơng, phủ

Lâm Giang, phủ Cát An, rồi đến phủ Cán Châu, lại men theo sông Chƣơng đi về

hƣớng Tây Nam, qua phủ Nam An rồi vƣợt qua núi Đại Vũ (tức Mai Lĩnh) vào địa

phận tỉnh Quảng Đông. Ở tuyến Quảng Đông thì đi qua các nơi nhƣ Nam Hùng,

Thiều Châu và Triệu Khánh; sau đó rẽ vào phủ Ngô Châu của tỉnh Quảng Tây,

ngƣợc sông Tây Giang qua Tuần Châu, Hoành Châu lên Nam Ninh, lại theo sông Tả

Giang đến Long Châu rồi vào An Nam. Sứ đoàn đi đƣờng thủy là chính.

Tuyến An Nam thì nhắc đến các dịch trạm nhƣ: Văn Lan Châu, Thị Cầu, Phú

Lƣơng Giang rồi Kinh đô.

- Sứ trình của sứ đoàn Lỗ Đạc và Trƣơng Hoằng Chí năm 1506

Hồi đó triều Minh đã dời Thủ đô lên Bắc Kinh. Trƣơng Hoằng Chí và Lỗ Đạc

cùng một sứ đoàn, nhƣng không xuất phát cùng một lúc, vì Lỗ Đạc đi thay Luân

Văn Tự không may phải về chịu tang bố. Khi đó, sứ đoàn Luân Văn Tự đã đi sứ tới

Giang Tây. Vạn lý chí của Trƣơng Hoằng Chí không ghi rõ sứ trình đoạn trƣớc, chỉ

bắt đầu với vài bài nhắc đến địa điểm ở Tô Châu và Chiết Giang, rồi đến các địa

điểm ở Giang Tây. Phải chăng Trƣơng Hoằng Chí ở đoạn trƣớc là đi theo kênh đào

Kinh Hàng xuống tận Chiết Giang, rồi mới rẽ sang Giang Tây? Sử sách không có tƣ

liệu nhiều về chuyến đi sứ này, nên chỉ có thể phỏng đoán nhƣ vậy.

Trƣơng Hoằng Chí trong bài tựa có nói rằng, đi sứ đến Phong Thành vì có

bạn tặng giấy trắng dặn ghi chép việc xứ lạ, nên mới bắt đầu để tâm quan sát. Ở

Giang Tây, đi qua các nơi nhƣ Giản Lâm, Phong Thành, Nam An, Lâm Giang, Viên

Châu và Tân Dụ; rồi lên thuyền ở Tƣơng Đông, qua các nơi nhƣ Lý Lăng, Hành

Châu, Ngô Khê và Vĩnh Châu của Hồ Nam, rồi vào Toàn Châu, Hƣng Yên Quế

Lâm, ở dịch trạm Tô Kiều hội hợp với Lỗ Đạc.

Sứ Giao cảo của Lỗ Đạc bắt đầu ghi chép từ Tiềm Giang, Công An của tỉnh

Hồ Bắc, đi xuống tỉnh Hồ Nam, qua các nơi nhƣ Lý Châu, Vũ Lăng, Ích Dƣơng,

73

Tƣơng Đàm, Hành Dƣơng, rồi vƣợt qua núi Hùng Bi đến Kỳ Dƣơng, Linh Lăng, đi

vào địa phận Quảng Tây. Đi tiếp qua các nơi nhƣ Tƣợng Châu, Lai Tân (ghềnh

Bạch Sa, ghềnh Cổ Tháp, ghềnh Bồng Lai, ghềnh Đổ Mệnh, Thiên Giang), rồi trèo

qua Thập Vạn Đại Sơn đến dịch trạm Tƣ Lung thuộc Thƣợng Lâm, đi qua Khôn

Luân Quan, theo sông Tả Giang đến phủ Thái Bình, Long Châu rồi đi vào An Nam.

Tuyến An Nam thì đi qua các dịch trạm nhƣ Yên Bác, Chi Lăng, sông Lô,

Xƣơng Giang, Lã Khôi dịch rồi đến công quán.

- Sứ trình của sứ đoàn Ngô Quang và Chu Chí Viễn năm 1664

Sứ đoàn Ngô Quang rời Bắc Kinh xuôi theo kênh đào Kinh Hàng qua Thiên

Tân (Hà Tây vụ), Hà Bắc (Thƣơng Châu) rồi vào tỉnh Sơn Đông (Lâm Thanh, Liêu

Thành, Đông A, Quải Kiếm Đài, Nhâm Thành, hồ Nam Dƣơng), dọc theo hồ Vi Sơn,

vƣợt sông Hoàng Hà xuống tỉnh Giang Tô, đến Hoài Âm lại đi xuống đến Dƣơng

Châu, sau đó đi ngƣợc Trƣờng Giang rẽ sang hƣớng Tây Nam đến Trừ Châu tỉnh An

Huy, đi qua Đại Liễu dịch, Bát Công Sơn của Hoài Nam, sau đó theo sông Tuyền

Hà ở Hoặc Khƣu đi đến huyện Cố Thủy tỉnh Hà Nam. Từ đó xuôi theo sông Hán

Giang xuống Hán Khẩu, Vũ Hán tỉnh Hà Bắc rồi Vũ Xƣơng, dọc đƣờng ngắm các

cảnh Hoàng Hạc lâu, Giang Hán Thƣ viện, Tình Xuyên lâu, rồi đến sông Giai Ngƣ.

Lại theo sông Tƣơng xuống hồ Động Đình vào Hành Sơn. Sau đó đi qua Hành Nhạc,

Hồi Nhạn Phong, đến Kỳ Dƣơng thuộc Vĩnh Châu rồi vƣợt núi Hùng Bi, qua Ngô

Khê rồi dọc sông xuống Toàn Châu tỉnh Quảng Tây, đi qua Quế Lâm, Dƣơng Sóc,

theo sông Quế xuôi xuống Ngô Châu, từ đó ngƣợc Tuần Giang, Ức Giang qua

Hoành Huyện lên Nam Ninh, lại theo sông Tả Giang đến phủ Thái Bình, phủ Tƣ

Minh, từ đó vào Lạng Sơn, qua Quỷ Môn Quan, Xƣơng Giang, Phú Lƣơng Giang.

Ngô Quang đi đƣờng thủy là chính, nên TĐS luôn nhắc đến 舟(chu, thuyền),

泊(bạc, đỗ thuyền), 泛(phiếm, trôi dạt).

- Sứ trình của sứ đoàn Chu Xán và Ô Hắc, Minh Đồ, Tôn Trác năm 1683

Chu Xán đi sứ về có bốn tác phẩm trình vua, nhƣng các tác phẩm đó lại

74

không ghi rõ sứ trình trƣớc khi đến Long Châu. Trong bài Văn tế người cùng đi sứ

Tôn Tử Trực Biên tu (Tử Trực là tên tự của Tôn Trác), có câu: ―Đầu hè năm sau, rời

Đô khởi hành, trèo Hằng Sơn, vƣợt Đại Hà (tức Hoàng Hà), nghỉ ngơi ở Ngạc Chử,

sƣơng cát mƣa gió, bốn ngƣời đều đồng hành không rời nhau. Đến Hành Dƣơng là

nơi làm quan của phụ thân Trác ngày xƣa‖17. Từ Hồ Nam vào Quảng Tây, Tôn Trác

cảm thấy không đƣợc khỏe, ở lại nghỉ ngơi không đồng hành với ba ngƣời, nhƣng

sứ đoàn đi đƣợc mƣơi ngày, thì nhận đƣợc tin buồn Tôn Trác mất ở Toàn Châu.

Qua đoạn văn này, chúng tôi biết đƣợc sứ đoàn sau khi rời Đô, đã đi qua tỉnh

Sơn Tây, rồi đi nhƣ sứ trình của sứ đoàn Trần Phu, qua Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam

rồi vào Quảng Tây, qua Quế Lâm, Nam Ninh đến Long Châu. Đoạn từ Long Châu

đi thì đƣợc Chu Xán ghi rất chi tiết trong Sứ Giao kỷ sự và Sứ Giao ngâm: ra Nam

Lăng Quan vào Văn Uyên Châu, đi qua phủ Lạng Sơn (phủ Trƣờng Khánh) - Lị

Nhân dịch (Yên Châu) - Quỷ Môn Quan - Chi Lăng dịch (Yên Châu) - Tiên Lệ dịch

(huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang) - Cần Doanh Dịch (huyện Bảo Lộc) - Xƣơng

Giang - sông Cầu - Thị Cầu dịch (phủ Từ Sơn) - Lã Khôi dịch (huyện Gia Lâm, phủ

Từ Sơn) - Công Quán.

Nhìn chung, các sứ đoàn đều kết hợp đƣờng bộ và đƣờng thủy bằng các

phƣơng tiện nhƣ thuyền, ngựa, xe ngựa và kiệu, v.v… Các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam và

Quảng Tây luôn là nơi tất phải đi qua. Lộ trình ở địa phận Hồ Bắc và Hồ Nam của

các sứ đoàn cơ bản giống nhau, đều theo sông Hán, sông Tƣơng đi vào Quảng Tây.

Vào Quảng Tây rồi thì có hai ngả đến Nam Ninh, một là từ Quế Lâm xuống Ngô

Châu rồi ngƣợc lên Hoành Huyện đến Nam Ninh; tuyến khác từ Quế Lâm qua Liễu

Châu đến Nam Ninh. Sau đó đều theo sông Tả Giang xuống cửa khẩu Long Châu,

Bằng Tƣờng hoặc ải Nam Quan để vào Việt Nam. Lộ trình chủ yếu khác ở đoạn từ

Kinh thành đến Hồ Bắc, có đoàn theo đƣờng bộ Bắc Nam, có đoàn theo kênh đào

17 客歲初夏,陛辭出都。閱恒山、渡大河,解驂鄂渚,鼓枻星沙,驛路風塵,江天煙雨,我

四人未嘗不相與俱也。及抵衡陽,為先生尊甫明刑舊地。

Kinh Hàng từ miền Đông Nam đi xuống.

75

Có sứ thần còn ghi cả thời gian đến ở nhan đề hay trong thơ, nhƣ vậy sứ trình

càng rõ ràng hơn, nhƣ sứ đoàn của Phó Dữ Lệ: Rời Bắc Kinh từ ngày mƣời một

tháng bảy (七月十一日赴安南), lạp nhật (ngày mồng 8 tháng chạp) vào Việt Nam

(臘日入安南), tháng giêng về đến Quế Lâm (桂林喜呂仲實僉憲至:正月交州奉

使歸); tháng giêng đi sứ Giao Châu về (正月交州奉使歸), tháng hai về đến Hành

Dƣơng (回鴈峯:二月衡陽鴈已回), Họa vận bài thơ Vượt đèo của Dương Chi Trực:

Sứ quân tháng ba từ Lĩnh Nam về (和楊支直度嶺韻:使君三月嶺南還),ngày hai

tám tháng sáu về đến Bắc Kinh (六月二十八日至京)18, đi lại gần một năm.

Sứ thần Trung Quốc viết về tuyến ở Việt Nam rất khái quát, nhƣng đều phân

biệt nhắc đến các dịch trạm đƣợc ghi trong sách cổ Việt Nam. Theo nhƣ phần Nghi

lễ khoản tiếp trong Bang giao chí của LTHCLC quyển 48 đã ghi, từ tỉnh Lạng Sơn

đến sông Hồng, dọc đƣờng có các dịch trạm nhƣ Pha Lũy, Mai Pha, Nhân Lý, Chi

Lăng, Tiên Lệ, Cần Doanh, Thọ Xƣơng, Thị Cầu và Lã Khôi. Các dịch trạm đều có

công quán để sứ đoàn nghỉ đêm hay dừng lại nghỉ ngơi trong chốc lát. Hồng Đức

bản đồ ghi rằng, bắt đầu từ thời nhà Tống, từ Quảng Tây vào Việt Nam có ba lối đi.

Một là từ Bằng Tƣờng vào, hai là từ ải Nam Quan vào, đi qua Pha Lũy dịch của

Văn Uyên Châu, phía bắc của Thoát Lãng Châu, đến Lạng Sơn Nha, qua Quỷ Môn

Quan, Tân Lệ, đến huyện Bảo Lộc, qua sông Xƣơng Giang đến phía nam huyện An

Việt, lại vƣợt sông Thị Cầu. Ba là từ phủ Tƣ Minh (tức Long Châu) vƣợt qua đèo

Ma Thiên Lĩnh vào Tƣ Lăng Châu, qua Bình Lộc, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang,

rồi vƣợt sông Thị Cầu, đi vào Kinh Bắc, từ phủ Từ Sơn đến Gia Lâm [57, 58].

Qua so sánh địa danh trong TĐS và tên dịch trạm của Việt Nam, chúng tôi

18 KVTL chép bài này với nhan đề là Ngày hai tám tháng sáu đến Kinh Bắc An Nam, sứ đoàn chỉ ở lại Việt Nam lúc tháng chạp, nên nói tháng sáu mới đến Kinh Bắc là không phù hợp với tình hình lúc đó.

phát hiện các sứ đoàn Trung Quốc đều chọn một trong ba lối đó để đi, theo sứ trình

76

qua các dịch trạm ở phủ Lạng Sơn, đến phủ Lạng Giang, Kinh Bắc rồi đến La

Thành (sau gọi là Thăng Long). Thời Đinh, Lê đóng đô ở Hoa Lƣ, sứ thần còn phải

đi tiếp đến đó. Sau khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long, lễ sách phong vƣơng Việt

Nam đƣợc diễn ra ở Thăng Long kể cả dƣới triều Nguyễn khi Kinh đô đã chuyển

vào Huế, trừ một lần do Thanh sứ Lao Sùng Quang sang phong vƣơng cho Tự Đức

vào năm 1849 đƣợc diễn ra ở Huế.

Từ biên giới đi đến Gia Lâm thƣờng đi mất khoảng 7, 8 ngày. Sứ thần Trung

Quốc đƣợc trú quán ở bên kia sông Hồng thuộc phủ Từ Sơn, tức địa phận Gia Lâm

ngày nay. Ngày hành lễ sứ đoàn phải vƣợt sông Phú Lƣơng (tức sông Nhị Hà) rồi

mới đến Hoàng thành Thăng Long.

Ngoài các chuyến đi sứ có quân vụ khẩn cấp phải đi liên tục và cấp tốc ra,

một số sứ đoàn có thơ văn ghi lại rằng, thành viên của sứ đoàn đến những nơi có

danh thắng nổi tiếng hoặc có bạn thân, ngƣời nhà ở nơi đi qua, thì thƣờng tranh thủ

dành chút ít thời gian để ghé thăm. Các cuộc gặp gỡ và du ngoạn với bạn bè và

ngƣời thân luôn đƣợc xuất hiện trong TĐS của sứ thần Trung Quốc; chẳng hạn: Sứ

Giao tập của Ngô Quang có các bài 舟過厯亭諸友留飲竟日率賦 Thuyền đi qua

Lịch Đình bạn bè giữ chân cùng uống rượu rồi làm thơ, 任城遊杜工部南池望太

白樓作 Ở Nhậm Thành du ngoạn Nam Trì của Đỗ Phủ xa trông lầu Thái Bạch mà

làm thơ, 秋日同慎魯詹劉六皆鄒桐崖汪惟光叔幼儀兄爾世弟天襄遊平山堂一

律 Ngày thu cùng người thân du ngoạn Bình Sơn Đường làm một bài thơ luật, 同饒

型萬大參登黃鶴樓作 Cùng Vạn Đại Sâm lên lầu Hoàng Hạc mà làm thơ, 龍隱巖

觀元祐黨人碑 Trên vách núi Long Ẩn ngắm bia của Nguyên Hựu, 屈總制臻善招

同金中丞紹武線將軍為山孟都統嗣軒朱儀曹印岡飲獨秀山園亭 Khuất Trăn

Thiện vời Kim Tự Hiên và Chu Ấn Cương uống rượu tại Viên Đình của Độc Tú Sơn

mà làm thơ...

77

Sứ thần đi qua các nơi di tích lịch sử, đặc biệt là những di tích liên quan đến

Việt Nam thì thƣờng có các hoạt động hoài cổ hoặc điếu viếng. Nhƣ đối với Phục

Ba Tƣớng quân Mã Viện thời Đông Hán, vì liên quan chặt chẽ với Giao Chỉ và

đƣợc tôn vinh trong sử sách Trung Quốc nên luôn đƣợc vua dặn và sứ thần Trung

Quốc thực hiện tế viếng. Chẳng hạn năm 1370, Vƣơng Liêm và Lâm Đƣờng Thần

sang sách phong, Minh Thái Tổ đã hạ lệnh cho hai sứ thần này tế viếng Mã Viện để

tƣởng niệm vì ngày xƣa Mã Viện có công dẹp loạn ở Giao Chỉ, trấn phục man di,

lập công to lớn (廉既行,詔復以漢伏波將軍馬援昔討交阯,鎮服蠻夷,其功甚

大,命廉祭之)19. Năm 1683, khi Chu Xán đi qua đền Phục Ba ở Quỷ Môn Quan,

cũng đã làm văn tế để viếng Mã Viện (初三日,行三十餘裏過鬼門關,有馬伏波

廟,例有祭其文)20. Đi qua các núi, các sông hiểm trở, sứ thần cũng hay thắp hƣơng

tế thần để cầu may cầu toàn. Đi qua mộ của những nhân vật lịch sử và di tích, sứ

thần lại hoài cổ vịnh thán...

Trƣớc khi sứ thần xuất phát, triều đình Trung Quốc đã có ―仪注 (nghi

chú)‖quy định về các vấn đề liên quan đến nghi lễ gửi sang. Sứ thần Trung Quốc

đến Nam Quan thì đã có các hậu mệnh sứ đƣợc vua Việt Nam cử ra nghênh tiếp và

khoản đãi, ở dọc đƣờng lại có các quan hậu tiếp. Các quán dịch đều có nhà cửa và

tiện nghi, sẵn đồ dùng hàng ngày, cung cấp đồ ăn đồ uống nhƣ lợn, ngỗng, gà, vịt,

cá, gạo, rƣợu, muối, dấm, trứng, trà, gừng, tỏi, củi, hoa quả, trầu cau... cho sứ thần

và thức ăn cho ngựa, chuẩn bị quà cáp để biếu tặng, v.v... [39, Q48]. Nhằm bảo vệ

tính mạng và tài sản của sứ thần, có một số quân canh gác và hộ vệ ngày đêm.

Việc đón tiếp sứ đoàn Trung Quốc đƣợc triều đình Việt Nam hết sức chú ý và

giao cho các quan chức cấp cao, đa số là quan chức đỗ đạt khoa cử, nhƣ Thƣợng thƣ,

年 月版,第

19 明 嚴從簡:《殊域周咨錄》,余思黎點校,中華書局出版, 20 Sứ Giao kỷ sự, tr 265, tập 219.

các sứ thần đã từng đi sứ, có tài ứng đối trông coi việc thù tiếp. Sau khi sứ thần đến

78

Thăng Long, vua tôi Việt Nam mở tiệc thết đãi, đƣa các mâm cỗ đến sứ quán. Triều

đình Việt Nam thƣờng dùng những lời lẽ hết sức khiêm tốn, hạ mình, đề cao sự sáng

suốt của các ông vua ―Thượng quốc‖, để sứ thần về nƣớc tâu với vua Trung Quốc.

Kết quả tốt nhất mà hai bên mong muốn là sự hài lòng cả hai bên.

Dọc đƣờng, sứ đoàn Trung Quốc đƣợc các quan chức địa phƣơng đi qua đón

tiếp nồng hậu và tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo an toàn. Ở tuyến Việt Nam đón

tiếp càng trọng thể và chu đáo. Mỗi dịch trạm và tỉnh thành đi qua đều dốc sức đón

tiếp, cung cấp đầy đủ các thứ cần thiết. Có sứ đoàn còn đƣợc các quan chức địa

phƣơng cố sắp xếp cho tranh thủ đi ngắm các thắng cảnh và luôn thể xƣớng họa thơ

với nhau. Đi đến những nơi có quan hệ đặc biệt với sứ thần, thì sự đón tiếp và sắp

xếp càng đặc biệt chu đáo. Chẳng hạn, khi Minh sứ Trƣơng Hoằng Chí đi sứ qua

Nam An tỉnh Giang Tây, nơi bố của ông là Trƣơng Bật đã từng làm Tri phủ. Do

Trƣơng Bật là quan hiền lành có tiếng tăm, giỏi thƣ pháp và văn chƣơng, nên

Trƣơng Hoằng Chí đƣợc quan dân địa phƣơng đón tiếp với tình cảm nồng hậu. Khi

đó, Trƣơng Hoằng Chí đang nán lại để chờ Lỗ Đạc xuất phát sau đến hội tụ rồi đồng

hành, nên ông có nhiều thời gian lƣu lại Nam An, thăm các nơi bố ông đã để lại dấu

ấn, cũng nhƣ thăm các bậc hào kiệt văn nhân là bạn thân của bố mình. Nên thơ ghi

chép về sứ trình ở Nam An trong Vạn lý chí của Trƣơng Hoằng Chí cũng khá nhiều.

3.2.1.3. Chủ đề về cảnh vật mới lạ và cuộc sống người dân

Thời xƣa giao thông không thuận tiện, đi lại khó khăn và mất thời gian, sứ

thần từ Bắc xuống Nam, rồi lại sang Việt Nam, đƣợc cảm nhận một nền văn hóa,

phong tục tập quán, con ngƣời và thiên nhiên khác hẳn với miền Bắc. Sứ thần đi

tuyến đƣờng rất dài, tận mắt nhìn thấy nhiều cảnh mới lạ. Những gì mắt thấy tai

nghe dọc đƣờng cũng nhƣ những cảm nhận và trải nghiệm của bản thân, khiến sứ

thần tìm thấy cảm hứng sáng tác. Những cảnh tƣợng khác biệt rõ rệt với Trung

Châu, nhƣ khi Trung Châu đang bao phủ tuyết dày trắng xóa, thì ở An Nam lại hoa

nở, cây xanh và trời ấm áp; các cảnh thiên nhiên hay thấy ở miền Nam và An Nam

nhƣ cây gạo, quả vải, trầu cau, nhà sàn, quả hồng... thƣờng là đối tƣợng trong chủ

79

đề sáng tác của sứ thần Trung Quốc.

Sứ thần lƣu tâm quan sát, ghi chép cả tiếng nói và những phong tục tập quán

chỉ thấy có ở Việt Nam, giữ lại tƣ liệu thời xƣa. TĐS của họ đã thể hiện những

điều mới lạ trên đƣờng đi sứ và ở nơi mình đi sứ. Ở thời xƣa, đi sứ nơi xa là một

công việc ít ngƣời đƣợc đảm nhiệm, nên những ghi chép và những bài TĐS rất chân

thực, chất phác của sứ thần, đã trở thành tƣ liệu quý báu, thậm chí trở thành những

tƣ liệu sớm nhất ghi chép về những sự kiện hay cảnh vật và con ngƣời, đƣợc đời sau

trích dẫn hoặc mƣợn làm bằng chứng. Nhƣ một số tục lạ, vật lạ của An Nam đƣợc

Trần Phu miêu tả trong bài ngũ ngôn trƣờng luật An Nam tức sự, hiện nay đã trở

thành tƣ liệu sớm nhất, rất có giá trị về văn hóa. Chẳng hạn, câu thơ 鼻飲如瓴

甋,頭飛似轆轤 giới thiệu về tục uống rƣợu bằng mũi và đầu có thể bay rời ngƣời

nhƣ con ròng rọc, đƣợc giải thích nhƣ sau: ―習以鼻飲如牛然,酒或以小管吸之。

峒民頭有能飛者,以兩耳為翼,夜飛往海際拾魚蝦而食,曉復歸,身完如故,

但頸下有痕如紅線耳 (Có tục uống bằng mũi nhƣ con trâu, rƣợu hút bằng ống

nhỏ. Thổ dân có ngƣời đầu có thể bay rời đƣợc, đôi tai làm cánh, tối bay ra biển

bắt tôm cá để ăn, sáng sớm hôm sau lại quay về, ngƣời trở lại nhƣ cũ, chỉ có vết

sẹo nhƣ sợi chỉ đỏ ở dƣới cổ)‖; hoặc tục 蚺皮為鼓擊,蝦鬣作笻扶 giới thiệu cách

dùng da trăn để làm mặt trống, ria tôm hùm có thể dùng để làm gậy, thì đƣợc giải

thích rằng: ―蚺蛇大者如合抱之木,長稱之,臘其皮,刮去鱗,以鞔鼓面,闊

數尺,但用背皮腹皮不與也。向明視之,黑質白華,章如方勝,交人樂,以

為前列。巨蝦大如柱,鬚有七八尺長者,海濱之人以為柱杖甚佳 (Con trăn lớn

bằng gỗ ngang tầm tay ôm của một ngƣời, lại dài, phơi khô da, tẩy vẩy đi, có thể

làm mặt trống rộng vài thƣớc, nhƣng da sau lƣng và bụng lại không thích hợp

dùng làm mặt trống. Giơ cao da nhìn dƣới ánh sáng, thì đen trắng rõ ràng, trông

80

nhƣ vẽ. Ngƣời Giao Chỉ có hoạt động vui chơi, luôn có trống đi trƣớc. Có tôm lớn

nhƣ cột nhà, ria dài bảy tám thƣớc, ngƣời ở ven biển dùng nó để làm gậy rất tốt)‖.

Trầu cau, sự vật rất bình thƣờng ở An Nam, luôn thấy có bán ở chợ, ―不解语

言长拍手,携筐知是卖槟榔 (Không hiểu ngôn ngữ nhƣng vẫn vỗ tay chào, thấy

họ mang rổ biết là bán trầu cau)‖. Nhƣng đối với sứ thần đến từ miền Bắc Trung

Quốc, thì đem trầu cau ra mời khách (miếng trầu là đầu câu chuyện) lại là một tục lạ.

Chu Xán trong bài 檳榔樹 Cây cau đã viết rằng:

翠幹森森傍水涯, Thúy cán sâm sâm bàng thủy nhai,

梢垂雀尾亂紛拏。 Tiêu thùy tƣớc vĩ loạn phân nô.

秋來結就檳榔菓, Thu lai kết tựu tân lang quả,

交子逢人代煮茶。 Giao tử phùng nhân đại chử trà.

Dịch nghĩa:

Thân cây xanh tươi mọc bên bờ nước,

Ngọn cây rủ xuống cứ như đuôi con công.

Mùa thu kết thành quả cau,

Người Giao Chỉ dùng trầu cau mời khách thay cho pha trà.

Bài An Nam nữ của Minh sứ Trần Thành đã hình dung một số phong tục tập

quán ở An Nam rằng: ―蔞葉檳榔染齒唇,短袍斜袂當衫裙。生來總不知簪履,

足跣頭童老此身 (Nhai trầu cau cho đỏ môi, mặc áo bà ba và quần váy, thả tóc

không buộc, trẻ già hay đi chân đất)‖. Nhìn thấy ngƣời dân hay ngồi bệt dƣới đất

cho mát, xung quanh nhà nào cũng có cây cau, lá trầu và cây bƣởi, Lý Tƣ Diễn đã

sáng tác bài Xem đánh cờ: ―地席跏趺午坐涼,棊邊袖手看人忙。檳榔蔞葉又春

緑,送到誰家橘柚香 (Buổi trƣa ngồi bệt trên đất cho mát, ngƣời đứng xem đánh

cờ rất đông. Cây cau mùa xuân đến lá rất xanh tƣơi, hoa bƣởi nhà nào thơm thế

nhỉ)‖. Sau bài thơ có câu đánh giá: ―安南柚花甚香,如茉莉,嶺北所無 (Hoa bƣởi

81

An Nam có mùi rất thơm, nhƣ hoa nhài, ở Lĩnh Bắc không có)‖. Bài thơ Vào Yên

Bá của Trƣơng Hoằng Chí có câu chú giải viết về ngƣời An Nam rằng: ―其人頗清

白、閒逸,皆剪發跣足,下體無裳,其上衣長者,僅掩臀耳。侍輿傳者,少異

加青帽或全衣,行則以兵護衛左右,言語不通,有問則張目視之而已 (Ngƣời

chân chất, thong thả và nhàn giật, đều cắt tóc ngắn và đi chân đất, không mặc quần,

áo trên dài che mông. Ngƣời khiêng kiệu hơi khác một chút là đội mũ xanh hoặc

mặc cả quần, lúc đi thì binh lính bảo vệ ở hai bên phải trái, không hiểu tiếng Hán,

khi bị hỏi thì chỉ biết nhìn nhau mà thôi)‖. Ngƣời Việt Nam vì trời nóng, trai gái

hay mặc quần áo ngắn và rộng, để tóc ngắn và đội nón, hay đi chân đất cũng đƣợc

sứ thần phản ánh trong thơ: ―居人男女纷成市,跣足宽衣发满肩 (Ngƣời dân nam

nữ sum họp thành chợ, hay đi chân đất, mặc áo rộng tóc xõa xuống vai)‖, ―大袖长

衣戴斗篷,提男扶老共匆匆 (Tay rộng áo dài và đội nón, đàn ông ngƣời già đều

đi rất nhanh)‖...

Những cảnh tƣợng của Việt Nam nhƣ mùa xuân đến sớm, mùa đông không

rét, lúc hoa mai ở miền Bắc Trung Quốc đang nở thì ở Việt Nam đã bắt đầu rụng;

An Nam ánh nắng và lƣợng mƣa đầy đủ, một năm có thể thu hoạch ba vụ lúa, đƣợc

ghi chép từ quyển Giao Châu ký thời Hán, TĐS của sứ thần cũng có miêu tả, nhƣ

Lỗ Đạc trong bài 過稻田 Đi qua ruộng lúa đã ghi chép rằng:

元日田苗上膝長, Nguyên nhật điền miêu thƣợng tất trƣờng,

交州四月稻登場。 Giao Châu tứ nguyệt đạo đăng trƣờng.

立冬時節重收穫, Lập đông thời tiết trùng thu hoạch,

端午人家落種忙。 Đoan ngọ nhân gia lạc chủng mang.

Dịch nghĩa:

Ngày Tết cây lúa đã cao bằng đầu gối,

Tháng tư đã gặt lúa cất trữ vào kho.

82

Đến lúc Lập đông lại thu hoạch,

Mọi người đều bận gieo mạ tiết Đoan ngọ.

Sứ thần Trung Quốc đến, vua Việt Nam thƣờng sắp xếp buổi ca nhạc để chào

mừng, qua xem ca múa nhạc, sứ thần Trung Quốc đƣợc biết và còn ghi chép lại tình

hình văn nghệ lúc đó của Việt Nam. Nhƣ khi Tống sứ là Tống Cảo sang sứ, trên yến

tiệc, Lê Hoàn: ―或自歌勸酒,莫能曉其詞(Tự hát mời rƣợu, những lời hát sứ thần

không hiểu đƣợc)‖. Bài An Nam tức sự của Trần Phu có câu chú thích rằng: ―嘗宴

於其集賢殿,男優女倡各十人皆地坐,有琵琶、秦箏三絃之屬,其謳與絃索相

和 (Từng dự yến tiệc ở điện Tập Hiền, nam nữ nghệ nhân mỗi bên mƣời ngƣời đều

ngồi đất, tay cầm các loại nhạc cụ nhƣ tì bà, Tần tranh tam21 huyền, v.v... Tiếng đàn

và tiếng hát hòa hợp với nhau)‖. Bài thơ 入安博 Nhập Yên Bác của Trƣơng Hoằng

Chí có ghi: ―除夜,從官令羣樂侑觴入,皆坐地以次起舞,眾樂和之 (Đêm Giao

thừa, quan chức Việt Nam sắp xếp nghệ nhân vào điện, đều ngồi đất rồi lần lƣợt lên

múa, có các loại nhạc hòa tấu)‖.

Đối với đặc sản Việt Nam, Chu Xán trong bài 馈宴有红柿志感 Cảm xúc khi

thấy quả hồng trên tiệc viết về quả hồng rằng: ―万颗珊瑚缀绛绒,剖来滋味美喉

咙 (Trông đỏ nhƣ hàng ngàn con san hô ghép lại, mở ra ăn thấy vị ngọt lịm)‖. Về

những phản ứng của ngƣời Việt Nam đối với đặc sản của Trung Quốc, Chu Xán có

bài 枝圓核桃皆交地所不產,擲輿前餉群兒來觀者 Quả óc chó tròn không có

ở Giao Chỉ, nên ném trước xe ngựa để cho bọn trẻ đến ngắm nhìn, để miêu tả sự

tò mò và cảm giác đó:

短髮披肩著淺紅, Đoản phát phi kiên trứ thiển hồng,

21 KVTL lại chép là “nhất” huyền, phần I, tr. 497.

平頭深目小蠻童。 Bình đầu thâm mục tiểu man đồng.

83

輿前擲菓群爭噉, Dƣ tiền trịch quả quần tranh hám,

共道天朝味不同。 Cộng đạo thiên triều vị bất đồng.

Dịch nghĩa:

Tóc ngắn thả xuống vai và mặc áo màu hồng,

Đầu phẳng mắt thâm bọn trẻ nhỏ.

Họ tranh nhau nếm thử quả hồ đào mà sứ thần cho,

Đều thưa rằng mùi vị của loại quả Thiên triều này quả nhiên là khác.

Dọc đƣờng còn những sự vật mới lạ khác nhƣ tiếng đàn sênh hoặc núi đá kỳ

lạ cũng đƣợc sứ thần chọn làm chủ đề sáng tác. Chẳng hạn, Minh sứ Lâm Đƣờng

Thần đã ghi rằng: ―牛君士良使還日南,晝行左江之滣,偶於清灘得一小石,

頂跡五寸許,其色深綠,娟秀潤麗,宛若峰巒之聳立。熙陽王君見而愛之,

牛君不靳因持贈焉。王君賦詩以謝,君復答之。併次其韻,用助二君清話二

首 (Khi cùng Ngƣu Sĩ Lƣơng, Vƣơng Liêm từ An Nam đi sứ về đến sông Tả

Giang, sáng sớm Sĩ Lƣơng ở bên bờ sông nhặt đƣợc một hòn đá nhỏ, cao khoảng

năm tấc, màu xanh thẫm, đẹp đẽ và hoa lệ, trông nhƣ ngọn núi nhô lên. Vƣơng

Liêm nhìn thấy cũng rất thích, Sĩ Lƣơng liền nhƣờng tặng cho. Vƣơng Liêm đã

cảm kích làm thơ để cảm ơn Sĩ Lƣơng tặng đá, Lƣơng họa thơ tặng lại. Lâm

Đƣờng Thần thấy vậy cũng nối vần họa thơ của hai ngƣời đó cho vui)‖, v.v...

Những bài thơ viết về phong tục tập quán và văn hóa của Việt Nam trong

mảng TĐS của sứ thần Trung Quốc, là những tƣ liệu cổ có giá trị, họ đã ghi nhận

văn hóa xã hội của một nƣớc Việt Nam trong các thời kỳ. Dù qua nhiều thế kỷ thay

đổi, chúng tôi vẫn có thể cảm nhận đƣợc một phần nào đó chính là nhờ những tƣ

liệu nhƣ vậy. Bài báo khoa học của chúng tôi: Văn hóa Nho giáo Việt Nam trong

cách nhìn của sứ thần Trung Quốc - nghiên cứu từ tư liệu TĐS, đã đƣợc triển khai

nghiên cứu dựa trên cơ sở này. Cảm nhận mới về văn hóa của đất nƣớc An Nam sau

84

khi tiếp xúc và tìm hiểu, sứ thần đã chuyển đổi nhận thức từ vùng đất Man di sang

đất nƣớc văn chƣơng và thanh giáo. Sự tôn trọng Nho học, trọng lễ trọng nghĩa ở

Việt Nam cũng đã để lại ấn tƣợng sâu sắc cho sứ thần Trung Quốc.

Văn Cự qua thù tặng thơ và tiếp xúc với Thế tử, đã đánh giá Thế tử trong bài

thơ tặng rằng: ―文章世子玉爲神,冠服雍容古佩紳(Văn chƣơng của Thế tử đẹp

nhƣ viên ngọc, quan phục ung dung nhƣ thân sĩ xƣa)‖. Minh sứ Lâm Đƣờng Thần

trong bài thơ 發安南 Phát An Nam viết rằng: ―安南古內地,儒書守章程 (An Nam

xƣa nội thuộc Trung Quốc, cũng đọc Nho thƣ và tôn thủ lễ giáo của Nho học)‖. Chu

Xán trong phần Tạp ký của Sứ Giao kỷ sự viết rằng: ―該國三教頗知崇儒。交州內

有國學文廟,各郡縣皆有學宮 (Nước này có tam giáo, nhưng rất tôn sùng Nho

giáo. Ở Giao Châu có Quốc học Văn miếu, các quận, huyện đều có học quan)‖.

Có những sứ thần còn lƣu tâm đến tiếng nói rồi dùng chữ Hán để ghi âm

tiếng Việt. Nhƣ Trần Phu trong An Nam tức sự có nêu mƣời tám ví dụ để ghi âm

tiếng Việt đời Trần: 勃未 (trời), 煙 (đất), 扶勃未 (mặt trời), 勃義 (mặt trăng),

教 (gió), 梅 (mây), 幹隈 (núi), 掠 (nƣớc), 未 (mắt), 皿 (miệng), 吒 (bố,

cha), 娜 (mẹ), 幹多 (con trai), 幹葢 (con gái), 重 (chồng), 陀被 (vợ), 領

(lành), 張領 (chẳng lành). Đánh giá ―語音侏離 大率類此聲急而浮,大似鳥語趨

進‖ (Tiếng nói An Nam líu lo, nói nhanh mà bổng, rất giống tiếng chim). Lâm

Đƣờng Thần cũng có ghi âm một vài từ nhƣ: 冷腮 (lành trai), 縷 (lụa), 昆艾

(con gái), 底鴉 (nọng ô). Chu Xán có ghi âm 格甘 (cửa)...

Dọc đƣờng nhiều sứ thần còn để ý tới cuộc sống chân thực, có nghèo khổ, có

yên vui của ngƣời dân, lấy đó làm đề tài sáng tác của mình. Nhƣ bài 過昌山渡 Quá

Xương Sơn độ của Trƣơng Hoằng Chí, phản ánh cuộc sống đơn sơ giản dị của dân,

nhƣng vẫn không tránh đƣợc bị bóc lột, đầu bài thơ có câu chú thích: ―土人呼村落

85

為團,多就山坳,以防虎,便耕作也(Ngƣời dân gọi làng là Đoàn, phần nhiều xây

ở khoảng đất bằng nằm giữa hai ngọn núi, để tránh hổ báo và tiện cho canh tác)‖:

團隱東西崦, Đoàn ẩn đông tây yêm,

田開上下坡。 Điền khai thƣợng hạ pha.

土風多儉樸, Thổ phong đa kiệm phác,

司社竟如何。 Ty xã cánh nhƣ hà.

Dịch nghĩa:

Bốn mặt của làng đều có núi,

Ruộng cũng ở trên dốc.

Phong tục giản dị và chất phác,

Ty xã rốt cuộc như thế nào nhỉ.

Cuộc sống của ngƣời dân cực khổ, bị bóc lột, phu dịch và thuế khóa nặng nề,

ốm đau vẫn phải đi lao dịch, khi thiên tai xảy ra, không còn gì thu hoạch mà vẫn bị

trƣng tô, thế mà quan lại thì cứ hƣởng lạc, mặc kệ sống chết của dân. Điều đó đã

đƣợc Lỗ Đạc phản ánh trong bài 民瘼 Dân mạc:

官僚紛送逆, Quan liêu phân tống nghịch,

庖廩美供需。 Bào lẫm mỹ cung nhu.

不有謀於野, Bất hữu mƣu vu dã,

寧知泣向隅。 Ninh tri khấp hƣớng ngung.

死前仍赴役, Tử tiền nhƣng phó dịch,

災後卻征租。 Tai hậu khƣớc chinh tô.

聖主憂勤在, Thánh chủ ƣu cần tại,

吾曹體悉無。 Ngô tào thể tất vô.

Dịch nghĩa:

Quan liêu luôn đi biếu tặng,

Cung cấp của ngon thứ lạ.

Dân không kiếm được sinh nhai,

Chỉ biết khóc ở góc trời.

Trước khi chết còn phải đi phu dịch,

86

Sau thiên tai vẫn bị trưng tô thuế.

Vua thường bảo quan phải yêu dân,

Sao bọn quan lại không thương dân.

Phó Dữ Lệ trong bài 廣西謠 Ca dao Quảng Tây đã miêu tả hiện tƣợng quan

quân còn ghê gớm hơn cả giặc thổ phỉ, cuộc sống cực khổ của dân:

廣西謠一何悲, Quảng Tây dao nhất hà bi,

水泠泠山淒淒 Thủy linh linh sơn thê thê.

寜逄猺賊過, Ninh bàng dao tặc qua,

莫逄官軍來, Mạc bàng quan quân lai,

猺賊尚可死, Dao tặc thƣợng khả tử,

官軍掠我妻與子。 Quan quân lƣợc ngã thê dữ tử.

Dịch nghĩa:

Ca dao Quảng Tây rất bi thảm,

Nước lạnh lẽo núi cằn cỗi.

Thà cho dặc thổ phỉ đi qua,

Còn hơn quân quan phủ đến đây.

Giặc thổ phỉ còn có thể đánh chết được,

Quan quân phủ cướp mất cả vợ con chúng tôi.

Có những sứ thần giàu lòng thƣơng dân, rất hiểu về nỗi khổ của dân, nhƣ bài

Thương người khiêng kiệu 惜肩夫 của Trƣơng Hoằng Chí, nhìn thấy ngƣời khiêng

cáng vất vả lên đèo xuống núi, mồ hôi nhễ nhại, toàn dựa vào sức lao động thân thể

để nuôi thân, nên đã cảm thán rằng, tại sao cùng là ngƣời đƣợc bố mẹ sinh ra mà

phận lại ―bất đồng‖ nhƣ thế:

乍登山路不勝疲, Sạ đăng sơn lộ bất thắng bì,

數里勞勞卻自如。 Số lý lao lao khƣớc tự nhƣ.

獨念肩輿亦人子, Độc niệm kiên dƣ diệc nhân tử,

此生何際得消除。 Thử sinh hà tế đắc tiêu trừ.

Dịch nghĩa:

Ta vừa leo núi đã thấy không nhẹ nhàng,

87

Nhưng người khiêng cáng đi liên tục mươi dặm vẫn thấy họ đi thoải mái.

Chỉ thương người khiêng cáng cũng là người được bố mẹ sinh ra,

Tại sao trong đời lại phải sống khổ hơn ta như thế.

Ngày nay, những nội dung đƣợc ghi chép và sáng tác trong tác phẩm của sứ

thần, đã tái hiện lại một xã hội phong phú đa dạng hơn nghìn năm trƣớc đây.

3.2.1.4. Chủ đề về nhớ quê nhớ nhà

Sứ thần đại đa số lại đang ở tuổi trung niên, trên có bố mẹ già, dƣới có con

thơ ấu, gánh nặng gia đình, rong ruổi sứ trình vạn dặm, sống chết chƣa biết chắc,

nên nỗi buồn nhớ nhà luôn luôn thể hiện rất đậm trong thơ. Vầng trăng, gà gáy,

chiêm bao đều khiến sứ thần nhớ cha già mẹ yếu, thƣơng con ốm vợ bệnh, ―隔歲無

音耗 (Một năm không tin tức gì)‖, làm cho sứ thần đau khổ đến nỗi trong lòng ―時

時欲斷腸 (Lúc nào cũng nhƣ dao cắt ruột)‖. Chƣơng Sƣởng có câu thơ ―今日天涯

吾憶汝,淚垂還似送別時 (Hôm nay nơi chân trời ta nhớ các con, vẫn dòng nƣớc

mắt chảy nhƣ ngày chia tay)‖.

Một bên là trung quân ái quốc, hoàn thành sứ mệnh; một bên lại là gia đình,

nhớ thƣơng da diết. Phó Dữ Lệ trong bài 次黃次舉韻 Nối vần thơ của Hoàng Thứ

Cử đã thể hiện rõ điều đó: ―奉使心常赤,逢人眼倍青。紀行多近事,愁思不堪聽

(Phụng mệnh đi sứ luôn có tấm lòng hăng hái, hễ gặp ai thì cũng luôn mong đợi tin

nhà. Kỷ hành phần lớn là ghi sự, nỗi sầu không dám nói quá nhiều)‖.

Đi sứ đất khách quê ngƣời, hàng ngày sứ thần gần nhƣ đều vội vã hành tẩu

đến một nơi mới lạ, họ cứ nhƣ lữ khách phiêu du suốt hành trình, phiêu bạt khắp nơi.

Càng xa nhà, ngƣời ―lữ khách‖ ấy càng thêm chất chứa nỗi nhớ niềm thƣơng. Khi

trong mơ, lúc chiều tối, lúc không đƣợc khỏe, sứ thần đều cảm thấy mình bơ vơ, cô

đơn buồn khổ, cảm thấy bất lực khi muốn kìm hãm tình cảm nhớ nhung quê nhà da

diết của mình. Khi còn ở Việt Nam, sau cơn chiêm bao tỉnh lại, còn ngẩn ngơ tƣởng

88

mình không phải xa nhà, mà cứ nhƣ thƣờng ngày ở nhà. Bài thơ 天使館偶成 Thiên

sứ quán ngẫu thành của Chƣơng Sƣởng đã bộc lộ cảm giác đó:

自承恩命泛星槎, Tự thừa ân mệnh phiếm tinh sà,

物候俄驚換歲華。 Vật hầu nga kinh hoán tuế hoa.

夢覺不知還是客, Mộng giác bất tri hoàn thị khách,

卻呼兒女早烹茶。 Khƣớc hô nhi nữ tảo phanh trà.

Dịch nghĩa:

Vâng mệnh vua đi sứ An Nam,

Thấy sự vật thời tiết lạ kinh ngạc vì đã sang năm mới.

Nằm mơ tỉnh dậy cứ quên mình đang ở đất khách,

Theo thói quen hàng ngày ở nhà gọi các con pha trà sớm.

Tình cảnh lữ khách đã làm cho sứ thần cảm thấy cô đơn và buồn rầu, tình

huống 客中送客 (khách trung tống khách) càng làm cho sứ thần thêm nhớ quê nhà

và ngƣời thân. Trƣơng Dĩ Ninh lúc 70 tuổi đi sứ An Nam (năm 1369) và phải ở lại

An Nam chờ sứ đoàn sau mang ấn tỉ khác sang rồi mới hành lễ sách phong và điếu

viếng. Trong khi chờ đợi, sứ đoàn khác do Hàn lâm Biên tu là La Phục Nhân dẫn

đầu sang sứ với nhiệm vụ khác, hoàn thành rồi chuẩn bị trở về trƣớc, khi ấy, Trƣơng

Dĩ Ninh bất đắc dĩ gặp phải tình cảnh ―khách trung tống khách‖, tuổi già sức yếu lại

xa nhà, bạn thân sang sau lại đƣợc về trƣớc, mình vẫn phải gửi thân ở đất khách,

không kìm nén đƣợc nên đã thốt ra câu thơ: ―Khách trung tống khách là ngƣời buồn

nhất‖ trong bài 次韻羅復仁編修 Thứ vận họa lại thơ của Biên tu La Phục Nhân:

棹歌聲起洱河濱, Trạo ca thanh khởi Nhĩ Hà tân,

君着先鞭我後塵。 Quân trƣớc tiên tiên ngã hậu trần.

山上安山猶逺使, Sơn thƣợng Yên Sơn do viễn sứ,

客中送客是愁人。 Khách trung tống khách thị sầu nhân.

心隨初日葵花轉, Tâm tùy sơ nhật quỳ hoa chuyển,

眼看薫風荔子新。 Nhãn khán huân phong lệ tử tân.

89

細數歸期同把酒, Tế sổ quy kỳ đồng bả tửu,

龍江梅信定先春。 Long Giang mai tín định tiên xuân.

Dịch nghĩa:

Tiếng chèo thuyền cất lên trên sông Nhĩ Hà,

Anh về trước tôi sẽ về sau.

Chúng ta đều là sứ thần từ xa đến,

Đất khách tiễn khách làm ta buồn.

Lòng hướng về nhà như hoa quỳ hướng về mặt trời,

Nhìn thấy quả vải đã sắp chín trên cây.

Nâng cốc chia tay đếm ngày về nước,

Long Giang hoa mai lúc đó chắc đã nở rộ.

Xa quê đi sứ, có sứ thần lúc đi đã 70 tuổi, có sứ thần có mẹ già, vợ bệnh và

con ốm ở nhà, có sứ thần không quen với thời tiết ẩm ƣớt và lam chƣớng xứ Nam

nên đã mắc bệnh, có thành viên chết trên đƣờng đi sứ, lo giặc cƣớp, nguy hiểm, bất

trắc... bao nhiêu lo âu và buồn phiền trong lòng, do vậy, đã có sứ thần nhiều đêm

nằm mơ thấy mình đƣợc trở về nhà (如何連夜還鄉夢,不怕關山行路難). Đề tài

quê nhà quả thực không thể thiếu vắng trong TĐS, suy từ bản tính con ngƣời, chúng

tôi dám khẳng định, các sứ thần chắc chắn đều đã từng sáng tác thơ về đề tài này.

Có nhiều bài thơ viết về nỗi nhớ cực kỳ da diết, khiến ngƣời đọc cũng phải

bồi hồi xúc động; chẳng hạn, bài 憶幼兒 Nhớ con thơ của Lỗ Đạc. Lúc Lỗ Đạc thu

dọn hành lý chuẩn bị lên đƣờng thì con bị ốm nằm giƣờng, biết bố sắp đi xa cứ khóc

mãi. Giờ đi sứ gần năm trời, không có thông tin gì về con, Lỗ Đạc lo lắng và đau

lòng đến nỗi hễ nhớ đến con là cứ nhƣ có dao cắt ruột cắt gan vậy:

阿嘉方就傳, A Giai phƣơng tựu truyện,

誦說已琅琅。 Tụng thuyết dĩ lang lang.

昔我治行李, Tích ngã trị hành lý,

憐渠病在床。 Liên cừ bệnh tại sàng.

啼知心獨苦, Đề tri tâm độc khổ,

疑為夢殊常。 Nghi vi mộng thù thƣờng.

90

隔歲無音耗, Cách tuế vô âm hao,

時時欲斷腸。 Thì thì dục đoạn trƣờng.

Dịch nghĩa:

Con Giai mới lớn lên, Đã có thể đọc thuộc làu làu. Ngày ta thu dọn hành lý, Thương con đang nằm bệnh trên giường. Khóc lóc là biết con đau khổ, Có khi chắc là vì nằm mơ ác mộng. Một năm không có tin tức gì về con, Khiến ta lúc nào cũng như có dao cắt ruột.

Đồng hành với Lỗ Đạc, anh hai của Trƣơng Hoằng Chí đang ở Vân Nam,

ngày mẹ tròn 80 tuổi, mỗi ngƣời mỗi ngả, hai đứa con xa nhà vạn dặm, không thể

về sum họp mừng thọ cho mẹ ở quê Giang Nam. Trăm sự hiếu làm đầu, nỗi đau

lòng đó đƣợc Trƣơng Hoằng Chí thể hiện sâu sắc trong bài thơ 壽日 Thọ nhật:

江南老母壽, Giang Nam lão mẫu thọ, 仲子滇南遊。 Trọng tử Điền Nam du. 季復南交使, Quý phúc Nam Giao sứ, 天涯最盡頭。 Thiên nhai tối tận đầu. 三方同一念, Tam phƣơng đồng nhất niệm, 異域耿孤愁。 Dị vực cảnh cô sầu. 何日登堂慶, Hà nhật đăng đƣờng khánh, 兄供弟勤酬。 Huynh cung đệ cần thù. 山靈如我慰, Sơn linh nhƣ ngã ủy, 岐路莫悠悠。 Kỳ lộ mạc du du.

Dịch nghĩa:

Mẹ ở Giang Nam hôm nay tròn tám mươi tuổi, Đứa con trai thứ hai ở Vân Nam. Con trai thứ ba lại đi sứ An Nam, Ở tận nơi cực Nam. Ba người chung một hướng thương nhớ, Con thì nhớ mẹ mẹ thì thương con. Chờ ngày về sum họp, Hai đứa con sẽ cùng mừng thọ bù cho mẹ.

91

Sơn linh nếu như biết được tình thương của ta, Xin hãy làm cho đường về ngắn lại.

Trƣờng hợp Trƣơng Dĩ Ninh tuổi 70 càng buồn thêm, phải chịu nhiều nỗi

khổ: ―老親未即土,二寡婦携孤兒在閩十口、在金陵,皆貧困,一子與婦在

松江,與安南為四處,何以堪此境也 (Mẹ già chƣa đƣợc an táng, hai bà quả phụ

với con mồ côi sống hoàn cảnh ở Phúc Kiến và Kinh Lăng, một đứa con với vợ ở

Tùng Giang, mình thì ở An Nam, bốn nơi tƣơng tƣ, còn gì khổ bằng)‖? Nên đã

sáng tác bài thơ dƣới đây đƣa cho sứ thần đi cùng là Ngƣu Lƣợng, khóc than rằng:

一身絶域已凄然, Nhất thân tuyệt vực dĩ thê nhiên,

三處離居更可憐。 Tam xứ li cƣ cánh khả liên.

中嵗恨孤蓬矢志, Trung tuế hận cô bồng thỉ chí,

暮齡忍誦蓼莪篇。 Mộ linh nhẫn tụng Lục Nga thiên.

愁深鳶堕蠻溪外, Sầu thâm diên đọa man khê ngoại,

夢斷鵑啼宰樹邊。 Mộng đoạn quyên đề tể thụ biên.

悔不阿奴長在側, Hối bất a nô trƣờng tại trắc,

盡情家祭過年年。 Tận tình gia tế quá niên niên.

Dịch nghĩa:

Một mình ở xứ xa buồn đã đành,

Ba nơi khác ở xa nhau càng đáng thương.

Tuổi trung niên hối tiếc mình không làm nên chí tang bồng hồ thỉ,

Tuổi già lại phụ lòng bố mẹ như bài thơ Lục Nga22đã than vãn.

Nỗi buồn như chim diều bay lượn xuống ngoài khê hoang xa,

Khóc trong mơ còn buồn hơn cả chim cuốc.

Ta hối tiếc không được luôn ở bên bố mẹ,

22 Lục Nga 小雅·蓼莪 là một bài thơ trong Kinh Thi, nội dung bày tỏ sự ân hận, đau đớn của một

hiếu tử không thực hiện đƣợc việc phụng dƣỡng, báo đáp công lao khó nhọc của cha mẹ.

Năm nào cũng được tận hưởng niềm vui cùng gia đình.

92

Dù cách bộc lộ trực tiếp hay không trực tiếp, đề tài về nỗi nhớ quê, nhớ nhà,

nhớ ngƣời thân đều luôn luôn đƣợc thể hiện trong TĐS của sứ thần Trung Quốc

cũng nhƣ sứ thần Việt Nam, lý do là bởi cả hai nƣớc đều chịu sự ảnh hƣởng của văn

hóa Nho giáo, chữ hiếu và quan niệm gia đình luôn luôn đƣợc nhấn mạnh đối với

mỗi con ngƣời.

3.2.2. Cảm hứng chủ đạo

Cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học nói chung, thơ ca nói riêng, có

liên quan đến tƣ tƣởng của tác phẩm, hơn nữa đƣợc thể hiện ra là những tình cảm

mạnh mẽ, tích cực mang chiều sâu tƣ tƣởng, bao quát chi phối các cảm hứng khác;

là niềm tin, niềm say mê khẳng định chân lý, là thái độ ngợi ca, đồng tình với

những điều thiêng liêng, cao quý, tốt đẹp. Vì gắn với cảm xúc mãnh liệt, nên cảm

hứng chủ đạo thƣờng mang tính ―thiên vị‖ đối với những gì đƣợc khẳng định, ngợi

ca. Chính điều đó tạo nên chất xúc tác, khiến tác phẩm có đƣợc khả năng thuyết

phục và sức lôi cuốn đặc biệt đối với ngƣời đọc. Với đặc điểm riêng của mình,

TĐS nổi bật lên hai cảm hứng chủ đạo, đó là ý thức dân tộc và ý thức trách nhiệm

của sứ thần.

3.2.2.1. Ý thức dân tộc

Cảm hứng chủ đạo trong TĐS của sứ thần Trung Quốc cũng nhƣ sứ thần Việt

Nam, trƣớc hết là ý thức dân tộc, tức là lòng tự hào và lòng yêu nƣớc.

Bởi lý do điều kiện lịch sử, ý thức dân tộc của sứ thần Trung Quốc có xuất

phát điểm từ vị thế của nƣớc lớn, có cơ sở từ ƣu thế của một đất nƣớc hùng mạnh,

có nền văn minh lâu đời; do vậy, họ luôn thể hiện khí thế và bày tỏ quốc uy quốc

thể của đất nƣớc mình và mong muốn đƣợc thấy thái độ và tình cảm ―úy Thiên‖ của

Việt Nam. Chẳng hạn, Nguyên sứ Lý Tƣ Diễn trong bài thơ 世子燕席索詩 làm theo

đề nghị của Thế tử Việt Nam ngay trên tiệc chiêu đãi đã viết: ―存誠乃可必事帝,保

國無如是畏天 (Có lòng thành ắt phải kính trọng Hoàng đế, giữ nƣớc chẳng gì

bằng sợ Trời)‖. Còn Thanh sứ Chu Xán, khi đi qua Quỷ Môn Quan đã làm thơ thể

93

hiện ý nguyện sửa tên Quỷ Môn Quan thành 畏天关 (Úy Thiên Quan). Chu Xán

còn có các câu thơ nói về ý nghĩa của việc ban sắc phong cho các nƣớc thần phục

Trung Quốc: ―共道天朝頒冊命,江山草木盡生輝 (Đều đƣợc Thiên triều ban sách

mệnh, sông núi cỏ cây rạng rỡ đất trời)‖; ―乾坤自是無遺照,行盡天南一樣明

(Càn khôn từ nay đều đƣợc chiếu sáng hết, đi đến trời Nam cũng đều sáng nhƣ

nhau)...‖ Điều đó đều thể hiện sứ thần có lòng tự hào dân tộc cực kỳ mạnh mẽ.

Sứ thần đã hết lời ca ngợi các thánh đức vua nƣớc mình là minh quân, ca

ngợi vai trò đóng góp tích cực vào việc giữ gìn quan hệ thái bình hòa hiếu với các

nƣớc sở tại của nƣớc mình. Nhƣ Trần Phu trong bài 交趾朝地驛即事 Tức sự ở

dịch trạm Triều Địa của Giao Chỉ có câu thơ rằng: ―帝德堯同大,山河共一天。

璽書行萬裏,銅柱又千年 (Đức của Hoàng đế lớn nhƣ vua Nghiêu, sơn hà đều

cùng chung một trời. Thƣ từ của Hoàng đế đi qua vạn dặm đƣờng, cột đồng trụ lại

đƣợc dựng lên một nghìn năm)‖. Nguyên sứ Văn Cự trong bài Đáp Thế tử vận có

câu thơ: ―仁恩同一視,珍重愛斯民 (Nhân nghĩa và ân tình mà Hoàng đế nhà

Nguyên dành cho An Nam là nhƣ nhau, dân An Nam luôn đƣợc trân trọng và yêu

mến)‖. Chu Xán trong bài 南關 Nam Quan có câu thơ rằng: ―聖德如天覆萬方,梯

山航海盡來王 (Đức thánh nhƣ trời bao phủ mọi nơi, các nƣớc xa xôi đều trèo

non vƣợt biển đến xin nhận sắc phong) ‖...

Nói chung, các sứ thần khi đƣợc giao nhiệm vụ, đều tâm niệm ―tráng quốc uy,

toàn quân mệnh‖, trong điều kiện và hoàn cảnh phải đấu tranh trên mặt trận ngoại

giao, họ đều thể hiện đƣợc lòng tự hào tự tôn dân tộc, lòng yêu nƣớc đặc biệt của

mình. Đó là lý do xuất hiện của các bài thơ vịnh về mộ mả tiên tổ của Triệu Đà ở

Chân Định, vịnh về đền miếu thờ Phục Ba Tƣớng quân Mã Viện của sứ thần Trung

Quốc, hay là ý muốn thay tên Quỷ Môn Quan bằng Úy Thiên Quan, tự xƣng là ―Sứ

giả Thiên triều‖, v.v...

94

3.2.2.2. Ý thức trách nhiệm của sứ thần

Thời xƣa, sứ thần là nhà ngoại giao có vai trò rất quan trọng trong mối quan

hệ bang giao. Các sứ thần Trung Quốc hầu nhƣ đều do văn quan đảm nhiệm, vì văn

quan ít khi đƣợc ra chiến trƣờng, không thể nhƣ các võ tƣớng dễ lập nên công trạng

ở chiến trƣờng hoặc biên ải. Cho nên có nhiều sứ thần coi đƣợc chọn đi sứ nơi xa

xôi, khí hậu ác nghiệt, đầy nguy hiểm và trắc trở nhƣ là một việc vinh quang và ý

nghĩa chẳng kém gì ra sa trƣờng đánh giặc. Ý thức trách nhiệm của việc đi sứ đƣợc

họ nhận thức sâu sắc và trở thành cảm hứng chủ đạo trong nhiều bài thơ. Chẳng hạn,

Trí Hi Thiện nhấn mạnh ý nghĩa của việc đi sứ trong bài thơ 安南喜雨 Mừng thấy

mưa ở An Nam:

楊僕樓船何用入? Dƣơng Bộc Lâu thuyền hà dụng nhập?

馬援銅柱不須標。 Mã Viện đồng trụ bất tu tiêu.

乾坤雨露通元氣, Càn khôn vũ lộ thông nguyên khí.

海嶽風雲逐使軺。 Hải nhạc phong vân trục sứ dao.

Dịch nghĩa:

Tội gì phải dùng đến quân đội của Dương Bộc Tướng quân?

Cần gì phải cắm cột đồng trụ như Mã Viện?

Mưa móc của đất trời thông với nguyên khí,

Mây gió núi sông đẩy xe sứ đi.

Khi đƣợc tuyển làm sứ thần cũng có sức ép, đa số sứ thần nửa mừng nửa lo,

mừng đƣợc đi sứ, lo ―靡及 (không đạt chuẩn)‖, lo cho công việc khó triển khai…

Lâm Đƣờng Thần có câu thơ rằng ―小臣職忝驅馳使,擬和皇華愧不才 (Chức nhỏ

may lại đƣợc đi sứ, muốn họa thơ Hoàng hoa nhƣng lại sợ không đủ tài)‖. Đứng

trƣớc sự quyến rũ của vàng bạc quà cáp và sắc đẹp, sứ thần đã giữ đƣợc khí tiết của

bậc sĩ quân tử. Nhiều sứ thần Trung Quốc đã từ chối việc làm nhƣ Lục Giả (sứ thần

95

nhà Hán, nhận túi vàng của Triệu Đà). Chẳng hạn, Lý Tƣ Diễn có bài 世子行贐有

禮辭之,世子舉陸賈事斖斖見愛,謝絕以詩 Vua An Nam biếu vàng bạc, lễ phép từ

chối, vua An Nam lại lấy chuyện Lục Giả làm ví dụ khuyên nhận, nên dùng thơ để

tạ tuyệt; Chƣơng Sƣởng trong bài 出坡垒关谢馈送 Rời cửa khẩu từ chối quà cáp có

câu ―誰謂南交多寶物,使回只帶舊醫方(Ai bảo An Nam nhiều báu vật, sứ về chỉ

mang phƣơng thuốc xƣa)‖.

Ý thức trách nhiệm càng đƣợc thể hiện rõ trong trƣờng hợp sứ thần không

làm tròn sứ mệnh. Dù nguyên do là vì điều kiện khách quan, nhƣng sứ thần đều cảm

thấy buồn bã, cho rằng mình đã phụ lòng nhà vua và triều đình. Minh sứ Tôn Thừa

Ân đã đi sứ tới Long Châu, nhƣng vì An Nam lúc đó có loạn nên sứ thần không vào

Việt Nam đƣợc, tức không làm tròn sứ mệnh vua giao, dù không phải lỗi tại mình,

nhƣng trong bài Xuất phát từ Long Châu, sứ thần cũng đã ân hận viết rằng:

交南已在即, Giao Nam dĩ tại tức,

望望隔片雲。 Vọng vọng cách phiến vân.

天意限夷邦, Thiên ý hạn di bang,

無緣被皇仁。 Vô duyên bị hoàng nhân.

Dịch nghĩa:

An Nam đã ở ngay trước mắt,

Cách nhau chỉ đám mây.

Ý trời không cho sang,

Vô duyên được hưởng ơn vua.

Sứ thần thƣờng là trung với vua, họ cố gắng hết mình để làm tròn sứ mệnh,

không làm nhục quân mệnh. Khi đến Việt Nam, nếu xảy ra sự tranh chấp về nghi lễ

với triều đình An Nam, các sứ thần đều cố gắng thuyết phục bằng lý lẽ, ân uy kiêm

dụng, nhằm làm cho đối phƣơng tuân theo yêu cầu của mình. Chẳng hạn, Trƣơng Dĩ

Ninh, thà ở Việt Nam chờ nửa năm chứ không chịu biến ―cát lễ‖ phong vƣơng thành

―hung lễ‖; Chu Xán qua tranh luận sáu ngày với triều đình Việt Nam để áp dụng nghi

96

lễ nhà Thanh trong khi phong vƣơng và điếu viếng; Hàng Dực Lộc và Nhậm Lan Chi

cũng nhƣ Đức Bảo và Cố Nhữ Tu kiên trì yêu cầu vua Việt Nam hành lễ ―tam khấu

cửu bái‖ (tức ba lần quỳ và chín lần lạy). Cũng với ý thức trách nhiệm, Nguyên sứ Lý

Trọng Tân, một họa sĩ vẽ trúc nổi tiếng, qua 和洞妙自真世子韻 họa thơ với Thế tử,

đã mƣợn hình ảnh cây trúc từ măng non trở nên cây trúc là gần và hƣớng tới mặt trời

hơn, bằng lý lẽ và lợi ích bang giao để thuyết phục Thế tử tạo lập quan hệ thông sứ

với Trung Quốc, tự nguyện sang chầu vua Nguyên; hay một Nguyên sứ khác là Văn

Cự, trong bài thơ 贈世子太虛子 Tặng Thế tử Thái Hư Tử với lý do ―toàn quân mệnh,

tráng quốc uy‖ đã ví lòng thành của Thế tử đối với Hoàng đế tựa nhƣ cây hƣớng

dƣơng luôn hƣớng về mặt trời.

Trách nhiệm của sứ thần Trung Quốc tức là phải vƣợt qua mọi khó khăn để

đến Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ, hoặc là sách phong, điếu viếng, hoặc là điều giải,

biện luận, nêu yêu cầu... Khi ở Việt Nam, phải làm cho bầu không khí giữa sứ thần

và nƣớc sở tại ấm cúng và cả hai bên đều vừa ý; đạt đƣợc mục đích đi sứ rồi, khi về

còn phải có TĐS để trình vua và tặng bạn bè nữa, chẳng hạn nhƣ Nguyên sứ Đỗ Hy

Vọng (tức Đỗ Dĩ Khả) đã nói rõ điều đó trong 4 câu thơ cuối bài TĐS đƣợc ghi

chép trong ANCL:

異域江山歸傑句, Dị vực giang sơn quy kiệt cú,

小邦臣子聽高談。 Tiểu bang thần tử thính cao đàm.

還朝不辱君王命, Hoàn triều bất nhục quân vƣơng mệnh,

茅屋青山分外甘。 Mao ốc thanh sơn phân ngoại cam.

Dịch nghĩa:

Vượt núi sông nước bạn trở về có thơ hay,

Vua tôi nước nhỏ láng giềng đều lắng nghe lời nói.

Không làm nhục quân mệnh mà về,

Nên nhà tranh núi non trước mắt cũng thấy đẹp biết bao.

Nhìn chung, cùng với niềm tự hào và lòng yêu nƣớc, các sứ thần còn thể hiện

ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với nhà vua của mình. Hai cảm hứng chủ đạo đó

97

xuyên suốt TĐS của các thời đại, cũng là cảm hứng chi phối các cảm hứng khác.

Tiểu kết chƣơng 3

Chúng tôi chỉnh lý theo từng triều đại, từng sứ thần, đƣa ra kết quả tƣ liệu

đã sƣu tập đƣợc. Nhiều tác phẩm đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc đã

không còn đƣợc lƣu trữ đến ngày nay. Đến nay chúng tôi thu thập đƣợc danh sách

40 sứ thần của các triều Tống, Nguyên, Minh, Thanh có TĐS lƣu trữ lại, số bài thơ

đƣợc đƣa vào nghiên cứu là hơn 1200 bài, trong đó có sáu bộ Sứ Giao thi đƣợc lƣu

trữ hoàn chỉnh. Văn bản của các thi tập không nhiều, những tƣ liệu này tìm thấy

tại thƣ viện và các trung tâm lƣu trữ của Trung Quốc và Việt Nam, tìm thấy trong

văn tập cá nhân của sứ thần, hoặc là thi tập, thi tuyển của các triều đại ở Trung

Quốc, hay thƣ tịch cổ ở Việt Nam, kể cả tìm thấy trên mạng Internet nữa. Ngoài

thơ, còn có các quyển Sứ hành kỷ, sứ sự kỷ yếu và tạp ký, v.v… Tƣ liệu đi sứ còn

lại của sứ thần Trung Quốc gồm cả tƣ liệu văn học và sử học, những tƣ liệu sử học

đƣợc dùng để tìm hiểu và làm rõ thêm bối cảnh và quá trình đi sứ.

Dựa trên tổng thể, chúng tôi tóm tắt chủ đề sáng tác của mảng TĐS của sứ

thần Trung Quốc đến Việt Nam gồm bốn nội dung lớn là về chính trị, ngoại giao;

về sứ trình; về cảnh vật mới lạ và cuộc sống ngƣời dân nhìn thấy dọc sứ trình; về

tình cảm nhớ quê, nhớ nhà, nhớ ngƣời thân. Sứ thần đã ghi lại sứ trình, những sự

kiện thích thân tham dự và những sự vật tận mắt chứng kiến, thƣờng liên quan trực

tiếp đến sứ sự, có độ tin cậy lớn. Những nội dung trong TĐS bổ ích và bổ di cho

chính sử, giúp cho tìm hiểu mối quan hệ bang giao Viêt – Trung thời trung đại, bổ

ích cho tìm hiểu phong tập tập quán và văn hóa Việt Nam thơi đó.

Cảm hứng chủ đạo trong TĐS của sứ thần Trung Quốc chủ yếu là ý thức dân

tộc và ý thức trách nhiệm của sứ thần. Các cảm hứng luôn luôn xoay quanh trọng

trách ―toàn quân mệnh, tráng quốc uy‖ trong chuyến đi sứ của sứ thần. Các cảm

hứng đó đều xuất phát chủ yếu từ những trải nghiệm đích thực chân chính, chứ

không phải là hƣ cấu hoặc tƣởng tƣợng của sứ thần, do vậy tính ký sự và giá trị sử

98

học rất cao, không chỉ đƣợc ngành văn học, mà cả ngành sử học cũng quan tâm đến.

Chƣơng 4

Thể loại và đặc điểm của thơ đi sứ

TĐS là một tiểu loại trong hệ thống các thể tài thơ ca thời trung đại. Với nội

dung, chủ đề - đề tài đặc biệt, TĐS vừa có đặc điểm chung của thơ ca, vừa có nét

riêng của chính mình. Ở chƣơng này chúng tôi sẽ phân tích, đánh giá về nghệ thuật

và đặc điểm của TĐS trên các phƣơng diện: thể loại, bút pháp cũng nhƣ đặc điểm

của mảng thơ này.

4.1. THỂ LOẠI CỦA THƠ ĐI SỨ

Nhằm tìm hiểu hệ thống thể loại TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam

từ thế kỷ X-XVIII, chúng tôi tạm chia thành hai tiểu loại dƣới đây:

4.1.1. Chia theo cấu trúc hình thức

Thơ đi sứ là một trong các thể tài thuộc hệ thống loại thể của thi ca cổ đại

Trung Quốc. Nhìn từ góc độ thể tài, chủ yếu chúng ta căn cứ vào đề tài – chủ đề, tức

nội dung của bài thơ. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ cấu trúc hình thức, TĐS cũng tƣơng

tự nhƣ thơ vịnh cảnh, thơ điền viên, thơ biên tái, thơ khuê phụ, v.v… Mỗi tác phẩm

thơ lại có thể thức của một thể loại thơ.

Thể thức của thi ca cổ đại Trung Quốc, đến đời Đƣờng đã rất hoàn bị, có thơ

cổ thể và thơ cận thể, trong đó dựa theo số chữ chia thành ngũ ngôn, thất ngôn, lục

ngôn, thất ngôn, tạp ngôn; dựa theo số câu lại chia thành tuyệt cú, luật thi, v.v... Cụ

thể gồm các loại nhƣ Cổ phong (bài 富良歌 Phú Lương ca của Trạm Nhƣợc Thủy

chẳng hạn), ngũ ngôn tuyệt cú, lục ngôn tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú, ngũ ngôn luật

thi, thất ngôn luật thi, ngũ ngôn trƣờng luật, thất ngôn trƣờng luật, ca, dao (bài 廣

西謠 Quảng Tây dao của Phó Dữ Lệ chẳng hạn), hành (bài 拒賊行 Cự tặc hành của

Tiền Phổ chẳng hạn), phú, tập cú, liên cú...

99

Dƣới đây, chúng tôi xin thống kê và phân tích các hình thức thơ có xuất hiện

trong sáu bộ Sứ Giao thi đƣợc lƣu trữ toàn vẹn (xem bảng 4.1 dƣới đây), và một số

hình thức thơ của sứ thần khác, tổng cộng bằng một nửa của tổng số TĐS, để thử

tổng kết.

TP

TC

TT

TB

NL

ca

phú

LC

đề

Bảng 4.1 Các thể loại thơ trong 6 bộ Sứ Giao thi

TL

NT

NB

CT

TC

作品

GCC

交州稿

SGC

37 4 16 3 107 20 9 7 10 1

使交稿

VLC

30 15 3 92 17 21 2 4

萬里志

GHTC

57 1 21 4 (3)23 146 43 11 4 2

交行摘

稿

SGT

1 6 3 1 4 55 37 2 1

使交集

SGN

4 3 3 65 6 123 12 10 20

使交吟

48 48

5 3 Cộng 570 181 129 11 44 118 36 17 13 10 1

23 Sáng tác cùng Lỗ Đạc, nên chung với con số của Sứ Giao cảo của Lỗ Đạc.

100

Bảng 4.1 cho thấy, ngoài tập Sứ Giao ngâm của Thanh sứ Chu Xán chỉ sử

dụng duy nhất một cấu trúc hình thức là thất ngôn tuyệt cú ra, còn lại năm quyển thi

tập đều có sử dụng các loại cấu trúc hình thức khác. Sứ thần đã sáng tác với hình

thức cổ thể và cận thể, cả hình thức chơi thơ nhƣ liên cú, tập cú và đề câu thơ nữa.

Thơ cận thể chiếm số nhiều, cổ thể chỉ chiếm một số lƣợng khiêm tốn. Hình thức

đƣợc sứ thần Trung Quốc sử dụng thƣờng xuyên và nhiều nhất, xếp theo thứ tự là

thất ngôn tuyệt cú (181), thất ngôn luật thi (129), ngũ ngôn luật thi (118), ngũ ngôn

tuyệt cú (44); tiếp theo là ngũ ngôn bài luật và thất ngôn bài luật, ca hành...

Thơ lục ngôn thì hiện nay chúng tôi chỉ duy nhất tìm thấy có tác phẩm của

Minh sứ Trạm Nhƣợc Thủy đi sứ năm 1512, ông đã từng sáng tác tập Nam Giao

phú, nhƣng nay không còn tìm thấy nữa, chỉ để lại 9 bài thơ lục ngôn tuyệt cú, 2 bài

thơ với thể Cổ phong là Phú Lương ca và 烟霞樂歌 Yên Hà lạc ca.

TĐS Việt Nam của sứ thần nhà Nguyên ghi chép trong ANCL, tất cả có 17

bài thơ, trong đó có 12 bài là hình thức thất ngôn luật thi, 4 bài thất ngôn tuyệt cú và

1 bài ngũ ngôn luật thi, không thấy có thơ ngũ ngôn tuyệt cú. Tuy nhiên, không ghi

chép không đồng nghĩa với sứ thần không sáng tác bằng hình thức này.

Những con số này, đã chứng minh một điều rằng: lƣợng thông tin lớn, lại

phải thu gọn trong một bài thơ, thời gian cho phép suy nghĩ trên sứ trình cũng

không nhiều, nên muốn nói hết ý hết lời, thất ngôn và bát cú với đặc điểm là số chữ

số câu tƣơng đối nhiều, đã thể hiện đƣợc thế mạnh trong diễn đạt, nên đƣợc sứ thần

ƣa dùng. Tuyệt cú số chữ càng ít, thất tuyệt so với ngũ tuyệt số chữ lại có thể nhiều

hơn, nên tƣơng đối mà nói, tần số sử dụng thất tuyệt cũng cao hơn ngũ tuyệt rất

nhiều. Hình thức ca và phú thỉnh thoảng đƣợc sứ thần dùng trong sáng tác để vịnh

phong cảnh, ca tụng nhân vật lịch sử, chẳng hạn vịnh về Mã Viện, Liễu Tông

Nguyên, vịnh núi cao, Quỷ Môn Quan và hoài cổ...

Thất ngôn luật thi là thể loại thơ cầu kỳ về kết cấu thanh vận so với các thể

loại thơ khác, đƣợc suy tôn là vƣơng miện của thơ chữ Hán cổ đại. Từ nhà Đƣờng

101

trở về sau, thất ngôn bát cú dần dần trở thành thƣớc đo, đánh giá tài hoa và học thức

của một nhà thơ. Có lẽ chính vì thế nên thất ngôn bát cú đã luôn luôn đƣợc sứ thần

dùng để sáng tác và xƣớng họa, thể hiện tài hoa thơ của sứ thần. Những bài thơ với

thể thất ngôn dễ truyền tụng và thể hiện đƣợc tài năng thơ của sứ thần, đƣợc sứ thần

dày công suy nghĩ để sáng tác, nên có sức sống mạnh mẽ, đƣợc lƣu truyền rộng rãi

và thƣờng đƣợc ghi chép trong các tuyển tập thơ của các đời sau.

Thơ với số chữ không nhiều, lại yêu cầu hết sức chặt chẽ về thanh và đối, làm

thơ tuyệt cú hay luật thi đều rất khó, nhƣng sứ thần Trung Quốc hay sứ thần Việt

Nam khi đi sứ đã làm đƣợc nhiều bài thơ nhƣ thế bên cạnh một công vụ ngoại giao

đặc biệt và sứ mệnh nặng nề. Điều này đã thể hiện tài năng làm thơ, tài văn chƣơng

rất giỏi của sứ thần, họ xứng đáng là những bậc văn nhân xuất sắc.

4.1.2. Chia theo tiêu chí nội dung

Căn cứ vào nội dung, tức đề tài và chủ đề thì TĐS còn có thể chia thành các

tiểu loại nhƣ sau:

- Thơ vịnh cảnh

Thơ vịnh cảnh là thơ đề vịnh cảnh vật thiên nhiên, thi nhân xƣa thƣờng thông

qua cảnh vật thiên nhiên để gửi gắm tâm tƣ tình cảm, hoặc thể hiện thái độ và triết

lý nhân sinh. Sứ thần Trung Quốc trên đƣờng đi sứ tận mắt nhìn thấy những cảnh

đẹp, nên thƣờng làm thơ ca vịnh. Chẳng hạn, Trần Phu đã sáng tác chùm thơ tám

bài 瀟湘八景24Tiêu Tương bát cảnh đề vịnh tám cảnh đẹp của Hồ Nam là: 烟寺晚

鐘 Chuông chiều Yên Tự, 江天暮雪 Tuyết chiều tối bên bờ sông, 瀟湘夜雨 Mưa tối

ở Tiêu Tương, 平沙落雁 Nhạn lạc ở Bình Sa, 遠浦歸帆 Thuyền về từ bờ xa, 山市

晴嵐 Khói tạnh chợ miền núi, 漁村返照 Nắng ánh làng chài. Lỗ Đạc sáng tác các

24 Tiêu Tƣơng là từ gọi tắt để chỉ vùng Hồ Nam.

bài nhƣ: 看雲 Ngắm cảnh mây, 全州引路松 Cây thông trên đường dẫn ở Toàn

102

Châu, Nhà cửa của người Việt Nam... Lâm Đƣờng Thần cũng có chùm thơ 龍州十

首 Mười bài vịnh cảnh Long Châu, ví Long Châu ở biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây

là 世外桃源 đào nguyên của thế giới khác.

Những bài thơ vịnh cảnh của sứ thần, thoạt xem dƣờng nhƣ chỉ miêu tả cảnh

vật trƣớc mắt, nhƣng đọc kỹ thì lại thấy, thật ra tác giả hầu nhƣ đều gửi gắm một

cảm xúc nào đó. Nhƣ bài 瀟湘夜雨 Tiêu Tương dạ vũ của Trần Phu, tác giả tả cảnh:

―昭潭黑雲起,橘洲風捲沙。亂雨灑篷急,驚墮檣上鴉。黿鼉互出沒,暗浪鳴

艣牙。漁燈半明滅,濕光穿蘆花 (Mây đen ùn ùn, gió cuốn cát bay tung, mƣa xối

xả, con quạ sợ hãi đến rơi xuống, cá sấu thò đầu ra rồi lại lặn xuống, sóng lớn hất

vào thuyền, đèn thuyền chài lúc mờ lúc tỏ nhƣ sắp bị thổi tắt)‖; nhƣng qua cảnh

tƣợng đó, ta có thể cảm nhận đƣợc tình hình đi sứ vất vả và hiểm nguy nhƣ thế nào,

qua đó hiểu đƣợc nỗi khó nhọc của sứ thần.

Trƣơng Dĩ Ninh có bài 安南即景 An Nam tức cảnh và 梧州即景 Ngô Châu

tức cảnh, miêu tả cảnh ngày nắng hoa nở, chim hót véo von, thể hiện niềm vui

đƣợc vâng mệnh đi sứ An Nam của mình. Dƣới đây là bài An Nam tức cảnh:

龍水南邊去, Long thủy nam biên khứ,

行穿萬竹林。 Hành xuyên vạn trúc lâm.

羊腸山險盡, Dƣơng trƣờng sơn hiểm tận,

蝸角地蟠深。 Oa giác địa bàn thâm.

銅柱千年恨, Đồng trụ thiên niên hận,

星槎萬里心。 Tinh xà vạn lý tâm.

朝來晴好景, Triêu lai tình hảo cảnh,

緑樹響春禽。 Lục thụ hƣởng xuân cầm.

103

Dịch nghĩa:

Dòng sông uốn lượn như con rồng chảy xuôi về Nam,

Xuyên qua ngàn vạn cây rừng.

Đường núi vòng vèo đầy nguy hiểm,

Nước nhỏ nhưng gốc rễ sâu xa.

Mối hận bị cắm cột đồng trụ đã nghìn năm,

Nỗi lòng đi sứ vượt vạn dặm.

Buổi sáng trời quang quẻ cảnh rất đẹp,

Mùa xuân, chim hót véo von trong lùm cây xanh um.

Nói chung, những thắng cảnh nổi tiếng ở vùng Hồ Nam, Hồ Bắc nhƣ Hoàng

Hạc lâu, hồ Động Đình, Đằng Vƣơng Các; các đền miếu thờ nhân vật lịch sử nhƣ

Liễu Tông Nguyên ở Liễu Châu, hay các di tích có liên quan đến Việt Nam nhƣ

đền miếu từ thờ Mã Viện (伏波廟, 伏波臺, 横州馬伏波祠), mồ mả tổ tiên Triệu

Đà ở Hà Bắc...; cảnh đẹp Quế Lâm, Liễu Châu của Quảng Tây...; cảnh tƣợng mùa

đông hoa vẫn nở tƣơi, cây cối xanh biếc; cảnh nguy hiểm ở các thác ghềnh hiểm

trở nhƣ 古塔灘 ghềnh Cổ Tháp, 蓬萊灘 ghềnh Bồng Lai, 賭命灘 ghềnh Đổ Mệnh,

cảnh cheo leo hùng vĩ của Quỷ Môn Quan, đƣờng đi khúc khuỷu ở ải Chi Lăng; cả

hình ảnh dân thƣờng Việt Nam hớn hở ngó xem sứ thần Trung Quốc, v.v... luôn

luôn đƣợc sứ thần hai nƣớc Việt - Trung miêu tả trong các bài thơ vịnh cảnh. Qua

những cảnh tƣợng đó, ngƣời đọc cảm nhận thấy nhiều ý vị sâu sắc đƣợc nhà thơ

gửi gắm.

- Thơ vịnh vật

Thơ vịnh vật xuất hiện rất sớm trong văn học Trung Quốc. Các nhà văn học

sử Trung Quốc đều cho rằng, bài thơ vịnh vật đầu tiên trong lịch sử văn học Trung

Quốc chính là bài 橘頌 Quất tụng, tức vịnh cây quýt của Khuất Nguyên. Thơ vịnh

104

vật thƣờng dùng thủ pháp 比興 tỷ hứng, khiến cho nội hàm thơ trở nên sâu sắc hơn.

Về mặt bản chất, đại đa số thơ vịnh vật cũng là thơ trữ tình, thông qua hình thức

vịnh vật để bộc lộ tƣ tƣởng tình cảm của mình.

Thơ vịnh vật trong TĐS cũng có nét riêng. Sứ thần Trung Quốc đã sáng tác

khá nhiều bài thơ đề vịnh các sự vật lạ lẫm chỉ thấy có ở miền Nam; chẳng hạn,

Thanh sứ Ngô Quang đã làm tám bài thơ nhƣ: 波羅密 Quả mít, 芭蕉 Chuối tiêu,

椰子 Quả dừa, 斑竹 Tre đốm, 倒掛 Chim Đảo Quải, 猿 Con vượn, 秦吉了 Chim

Tần cát liễu và 白鷳 Chim bạch nhàn chẳng hạn.

Chúng tôi xin lấy bài 秦吉了 Tần cát liễu của Ngô Quang làm ví dụ. Chim

Tần cát liễu còn gọi là cát liễu, liễu ca, bát ca (tức con chim vẹt), loại chim này rất

thông minh, có thể bắt chƣớc lời nói của ngƣời, bởi xuất xứ ở xứ Tần, nên đƣợc gọi

là Tần cát liễu. Bạch Cƣ Dị nhà Đƣờng từng làm bài thơ nhạc phủ với nhan đề là

Tần cát liễu, dùng hình ảnh con vẹt ám chỉ các gián quan (谏官), mỉa mai dân bị

oan không nơi tố cáo để rửa oan, gián quan lại không biện hộ giúp dân25. Ngô

Quang miêu tả chim vẹt có vẻ ngoài xinh đẹp, giỏi bắt chƣớc tiếng ngƣời, có ý chê

loại chim này tuy đẹp, nhƣng chỉ biết bắt chƣớc tiếng ngƣời, có lẽ là nhớ tới bài thơ

của Bạch Cƣ Dị, nên Ngô Quang viết rằng:

亦知緣舌誤, Diệc tri duyên thiệt ngộ,

翻自刷毛新。 Phiên tự loát mao tân.

婀娜花枝晝, A na hoa chi trú,

山窗學喚人。 Sơn song học hoán nhân.

Dịch nghĩa:

Cũng biết chú chim bị chỉ trích tại cái mỏ biết nói,

25 Câu thơ của Bạch Cƣ Dị là: 秦吉了,人雲爾是能言鳥,豈不見雞燕之冤苦。吾聞鳳凰百鳥

主,爾竟不為鳳凰之前致一言,安用噪噪閑言語。

Năm mới lông lại có thể mọc mới ra.

105

Yểu điểu và rất xinh đẹp,

Đậu ở cửa sổ vùng núi bắt chước tiếng người gọi.

Nhìn chung, các vật lạ ở dọc đƣờng, nhất là ở miền Nam Trung Quốc và ở

Việt Nam... luôn luôn đƣợc sứ thần ca vịnh. Mƣợn các loại vật để bày tỏ mong

muốn, cảm hoài, chí hƣớng của nhà thơ. Có nhiều bài thơ vừa là vịnh vật, đồng thời

cũng là vịnh sử, hoài cổ.

- Thơ vịnh sử

Thơ vịnh sử cũng là một tiểu loại thơ quan trọng trong nền thơ cổ điển, lấy đề

tài lịch sử làm đối tƣợng đề vịnh, nhằm trần thuật, đánh giá, điếu viếng hoặc ký thác

hoài bão, qua đó bộc lộ tình cảm, chí hƣớng của nhà thơ. Loại thơ này bắt nguồn từ

thời Tần Hán, bài thơ đầu tiên mang ý nghĩa thơ vịnh sử thật sự nên thuộc về bài

Vịnh sử 詠史 của Ban Cố thời Đông Hán. Thơ vịnh sử có nhiều tên gọi nhƣ: thuật

cổ, hoài cổ, lãm cổ, cảm cổ, cổ hứng, đọc sử và vịnh sử v.v... Có khi còn trực tiếp

lấy nhân vật và sự kiện lịch sử làm nhan đề bài thơ. Nó có đặc điểm chung là đều

lấy lịch sử làm chỗ dựa, kết hợp giữa cảm nhận lịch sử và suy ngẫm triết lý, dĩ cổ

nghiệm kim, lấy xƣa nói nay.

Sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam đã sáng tác khá nhiều bài thơ vịnh các

nhân vật và sự kiện lịch sử trên đƣờng đi sứ. Các sứ thần nhƣ Tô Vũ, Trƣơng Khiên,

Ban Siêu luôn là tấm gƣơng đƣợc sứ thần ca ngợi và noi theo, còn sứ thần nhƣ Lục

Giả nhà Hán vì có những hành vi không đẹp nên bị sứ thần đời sau phê phán. Các

nhân vật lịch sử liên quan đến Việt Nam nhƣ Mã Viện và cột đồng trụ, xe ý dĩ bị vu

oan là trân châu, Triệu Đà và mồ mả tổ tiên của họ Triệu 過真定尉佗先塚, 真定

懷古, Quang Vũ Đế nhà Hán và sự kiện Mã Viện 鄗南光武廟...; hoặc các di tích

lịch sử đi qua cũng nhƣ các nhân vật liên quan nhƣ Xích Bích và Tô Đông Pha;

Vĩnh Châu và 捕蛇者说 Thuyết người bắt rắn, Liễu Châu và chuyện đi đày của Liễu

Tông Nguyên; đền thờ Gia Cát Lƣợng 武候行祠公安道中, Lƣu Bị 沛公亭, 涿州

106

樓桑村先主廟, vua Nghiêu 韶州謁虞帝廟, 帝舜廟, Vƣơng Bột 滕王閣,Tể

tƣớng nhà Minh Hạ Nguyên Cát 過湘陰懷夏尚書元吉... đều đã trở thành cảm

hứng sáng tác cho sứ thần, gây nhiều cảm xúc cho độc giả.

Minh sứ Lâm Đƣờng Thần đã hai lần sang sứ An Nam, hai lần viếng miếu

Phục Ba 伏波廟, sau đó đã làm bài thơ vịnh cổ miếu và Mã Viện rằng:

南征昔日此登臨, Nam chinh tích nhật thử đăng lâm,

遺廟空山尚至今。 Di miếu không sơn thƣợng chí kim.

萬里風雲常慘澹, Vạn lý phong vân thƣờng thảm đạm,

千章松桂自蕭森。 Thiên chƣơng tùng quế tự tiêu sâm.

麒麟安用丹書像, Kỳ lân an dụng đan thƣ tƣợng,

薏苡難誣清白心。 Ý dĩ nan vu thanh bạch tâm.

愁聽烏蠻江上笛, Sầu thính Ô Man giang thƣợng địch,

夕陽一曲武溪深 。 Tịch dƣơng nhất khúc Võ Khê thâm.

Dịch nghĩa:

Trước đây Nam chinh từng đến đây,

Đền hoang ngày xưa nay vẫn còn trên núi rừng này .

Gió mây vạn lý rất ảm đạm,

Cây tùng cây quế tự mọc um tùm.

Là nhân tài cần gì nhất thiết phải được vẽ chân dung,

Ý dĩ cũng khó làm nhục sự thanh bạch của lòng thành.

26 Võ Khê thâm là tên bài ca cổ, do Mã Viện sáng tác khi sang An Nam. Viện có môn sinh giỏi thổi sáo, nên họa lời vào nhạc gọi tên là Võ Khê thâm (Võ Khê sâu thẳm). 古歌曲名。晉崔豹《古今注· 音樂》:“武溪深,乃馬援南征之所作也。援門生爰寄生 善吹笛,援作歌以和之,名曰《武溪 深》。其曲曰:滔滔武溪一何深,鳥飛不度,獸不能臨,嗟哉 武溪多毒淫!”

Tiếng sáo trên sông Ô Man thêm buồn,

107

Xế chiều lại nghe bài Võ Khê sâu.

Nhìn chung, nhiều sứ thần Trung Quốc làm thơ vịnh sử cũng kết hợp cả vịnh

cảnh vịnh vật, qua đó bộc lộ cảm thán của mình, sử dụng các thủ pháp phú, tỷ, hứng

để khi trực tiếp khi gián tiếp bộc lộ tƣ tƣởng tình cảm hoặc thể hiện thái độ và triết

lý của mình.

- Thơ nhật ký, nhật trình

Thơ nhật ký, nhật trình tức là thơ sáng tác để ghi lại lộ trình, hoạt động theo

tuyến tính thời gian của nhà thơ, cũng gọi là thơ kỷ hành hay thơ du ký. Sáng tác

thơ nhật ký/nhật trình, một mặt là để tả cảnh tả vật, trữ tình, mặt khác cũng là ghi

chép sứ trình, hành trình, tức vừa là thơ vừa là ký lục. Tác phẩm viết về nhật ký,

nhật trình chiếm một số lƣợng rất lớn trong TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt

Nam, vì TĐS mang đậm tính ký sự.

Các sứ thần có nhiều bài thơ điểm ra thông tin nhật trình. Nhƣ ở phần viết về

sứ trình chúng tôi đã giới thiệu, quyển Giao Châu cảo của Trần Phu, tên các bài thơ

hầu nhƣ đều là thông tin về nhật trình, các nơi đi qua trên hành trình đi sứ. Từ nơi

xuất phát là Thuận Thừa Môn cho đến khi đi sứ trở về, có 77 bài thơ là điểm lại nhật

trình, chiếm hơn 70% của cả thi tập.

Các bài thơ ghi rõ cả thông tin địa điểm và thời gian, càng thể hiện rõ rệt đặc

điểm của thơ nhật trình, nhƣ Trƣơng Hoằng Chí có các bài: ―過孫竹庒 Đi qua Tôn

Trúc Trang 丙寅九月三日啟行 Ngày mồng ba tháng chín năm Bính dần khởi

hành , 聽蘆笙 Nghe thổi đàn sênh (腊月十九日,舟至馱汨驛,登眺還坐盤石,

聞笙聲 Ngày mƣời chín tháng chạp, thuyền đi đến dịch trạm Đà Mịch, ngồi trên đá

ngắm về phía xa, nghe thấy tiếng sênh),入交南 Vào Giao Nam 十二月廿八日早,

發憑祥州 Sáng sớm ngày hai tám tháng mƣời hai, xuất phát từ Bằng Tƣờng), 入安

博 Vào Yên Bác (廿九日,雨行七十里,宿北峩驛 Ngày hai chín, đi trong mƣa bảy

108

mƣơi dặm, trú chân ở dịch trạm Bắc Nga , 交南元日 Ngày mồng một tháng giêng ở

Giao Nam 正德丁卯歲 Năm Đinh mão thời Chính Đức …

Nói chung, đi sứ phải đi liên tục, những bài thơ viết về nhật ký, nhật trình thể

hiện sứ trình và hoạt động của sứ đoàn, thƣờng có thể nhìn thấy trong các tập TĐS

của sứ thần, đây cũng là một đặc điểm nổi bật của mảng thơ này.

- Thơ xướng họa

Truyền thống xƣớng họa thơ giữa văn nhân mặc khách có từ lâu đời, đây

đƣợc coi là mỹ tục để so tài và kết bạn. Xƣớng họa có vài hình thức, có loại xƣớng

họa là phải gieo vần và dùng vần cũng nhƣ thứ tự đều y hệt nhau, có loại chỉ cần

gieo vần không bắt buộc dùng chữ y hệt, có loại là xƣớng họa theo ý nghĩa chứ

không theo cách gieo vần. Xƣớng họa đƣợc dùng ở nhiều trƣờng hợp, nhƣ khi thách

đó, ngƣời ta sẽ xƣớng một bài trƣớc, rồi yêu cầu ngƣời khác họa lại, hoặc quy định

về nội dung và vần, mọi ngƣời cứ luân phiên nhau làm thơ ngay tức khắc, loại TXH

này vì thế có tên gọi là thơ khẩu chiếm (口占,đọc ra thơ ngay tại chỗ). Khi muốn

kết bạn hoặc bày tỏ tài hoa của mình, khi ngƣời nào có thơ hay, hoặc đã làm bài thơ

đòi họa nhƣng vẫn chƣa có thơ họa hay, thì ngƣời nào muốn thể hiện tài năng của

mình là có thể chủ động tặng thơ họa, nếu hay thật sự thì sẽ đƣợc mọi ngƣời tán

thƣởng và kết bạn với nhau.

Sứ thần Trung Quốc không những tự sáng tác thơ văn, họ còn hay xƣớng họa

thơ, xƣớng họa giữa các thành viên trong sứ đoàn, xƣớng họa với bạn bè hoặc danh

nhân, quan chức địa phƣơng đi qua, vừa để khuây khỏa nỗi buồn trên đƣờng, vừa để

tăng cƣờng giao lƣu văn học và kết bạn. Trong các thi tập của sứ thần Trung Quốc

đến Việt Nam, TXH là một nội dung không thể thiếu đƣợc. TXH ở tuyến Trung

Quốc chủ yếu xƣớng họa về điều tâm đắc, về cảnh vật, hay một cảm xúc nào đó.

Chẳng hạn, Trí Hi Thiện xƣớng họa với Phó Dữ Lệ qua bài thơ Sáng sớm xuất phát

109

từ Hưng Yên của Trí Lễ bộ 和智禮部早發興安, Trƣơng Dĩ Ninh xƣớng họa với

Ngƣu Lƣợng qua hai bài thơ Dịch Bình Phủ Trung thu ngắm trăng dùng vận thơ

Ngưu Sĩ Lương làm thơ và Đền vua Thuấn nối vần Ngưu Sĩ Lương họa lại 平圃驛

中秋翫月用牛士良韻、舜廟詩次韻牛士良, Lâm Đƣờng Thần xƣớng họa với

Vƣơng Liêm qua bài thơ Đến An Nam nối vần Vương Biên tu họa lại 至安南次王

編修韻, Lỗ Đạc xƣớng họa với Trƣơng Hoằng Chí qua bài thơ Tả Giang liên cú 左

江聯句, Trạm Nhƣợc Thủy xƣớng họa với Phan Hi Tăng qua hai bài thơ Lương Gia

Trang bị gió cản nối vần họa lại Trạm Nội Hàn Nguyên Minh và Đêm đậu thuyền

Đằng Huyện nối vần họa lại Trạm Nội Hàn 梁家莊阻風次韻荅湛內翰元明、夜泊

藤縣次韻酬湛內翰, v.v...

Sứ thần Trung Quốc còn xƣớng họa thơ với vua tôi tiếp sứ của Việt Nam nữa.

Nhƣ ở phần mở đầu chúng tôi đã viết, đại thần Việt Nam tham gia tiếp đón sứ đoàn

Trung Quốc hầu nhƣ đều là ngƣời có tài văn chƣơng, nên họ thƣờng chủ động tặng

thơ xƣớng hoặc họa thơ với sứ thần Trung Quốc, để lại nhiều giai thoại về xƣớng

họa thơ trong lịch sử văn học cũng nhƣ thông sứ giữa hai nƣớc.

Sứ thần và ngƣời tiếp sứ tài giỏi qua lại với nhau, trao đổi thông tin và kiến

thức văn học, thúc đẩy sự phát triển của nền văn học hai nƣớc, rất bổ ích cho giao

lƣu thơ văn cổ xƣa. Ở tuyến Việt Nam, sứ thần xƣớng họa với quan chức tiếp sứ

Việt Nam, thù tặng thơ với vua Việt Nam hoặc đáp ứng sự thách thức của vua Việt

Nam ―khẩu chiếm‖ ngay tại yến tiệc, xƣớng họa giữa họ chủ yếu là ca ngợi và khen

thƣởng nhau, mang tính xã giao nhiều hơn, nhất là khi chúc mừng sứ mệnh đã hoàn

thành tốt đẹp. Tất nhiên, sau khi xƣớng họa, tình cảm sẽ càng gắn bó chặt chẽ hơn.

Các cuộc xƣớng họa đó cũng làm cho sứ thần Trung Quốc hiểu về tài hoa của sĩ phu

Việt Nam, nhiều bậc danh tài đã khiến cho sứ thần Trung Quốc phải khâm phục và

hết lời ca ngợi trong thơ. Từ góc nhìn của sứ thần Trung Quốc, phần nào cho thấy

110

trình độ thơ văn Hán ngữ cổ của sĩ phu Việt Nam.

Tiêu biểu nhất là những bài TXH giữa Thanh sứ là Đức Bảo, Cố Nhữ Tu với

quan chức tiếp sứ Việt Nam là Trần Danh Lâm, Nguyễn Xuân Huyên và thần đồng

Trần Y Trạch là cháu của Trần Danh Lâm. Từ khi qua cửa khẩu đến dịch trạm Thị

Kiều, sự giao lƣu giữa sứ thần và quan chức tiếp sứ chủ yếu chuyển qua chuyển lại

TXH chứ không gặp mặt trực tiếp. Chẳng hạn, khi sứ thần hỏi tuổi tác, chức vụ

của quan tiếp sứ, Trần Danh Lâm và Nguyễn Xuân Huyên đáp lại bằng thơ, khi sứ

thần làm thơ đƣa cho quan tiếp sứ, đọc xong thì quan tiếp sứ cũng gieo vần họa

tặng lại. Sau khi xƣớng họa 27 bài, sứ thần mới cho chép hai quan tiếp sứ vào yết

kiến. Về nhóm vận chữ ―噓、疎、虛、書、璵 (hƣ, sơ, hƣ, thƣ, dữ)‖, bốn ngƣời luân

phiên xƣớng họa 28 bài. Vì tài làm thơ và xƣớng họa của quan tiếp sứ rất xuất sắc

nên Cố Nhữ Tu đã đánh giá: ―風雅壇荒應作主,諸生原是魯庭璵 (Các ngài là

chủ của giới phong nhã nơi hoang xa, các ngài hóa ra là nhân tài của nƣớc Lỗ)‖27.

Tùy từng sứ mệnh và thời kỳ cũng nhƣ tình hình quan hệ hai nƣớc căng thẳng

hay không, sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam có ngƣời rất nghiêm túc, nhƣ Trần

Phu và Lý Tiên Căn chẳng hạn, nghiêm túc đến nỗi quan chức tiếp sứ của Việt Nam

trình thơ cũng không bàn luận thơ vì tự mình lập nguyên tắc là sứ sự chƣa xong sẽ

không nói gì đến thơ từ. Có ngƣời lại rất nhẹ nhàng, nhƣ Tiền Phổ và Chu Xán

chẳng hạn. Tiền Phổ đã chủ động đòi vua tôi Việt Nam có tài làm thơ phú tặng tiễn

sứ thần về Bắc Kinh và thu thập các bài thơ đó dâng cho vua Minh, bắt chƣớc cách

làm của Tuyên Tử thời xƣa khi đi sứ nƣớc Trịnh, nhằm qua thơ để tìm hiểu phong

tục đẹp xấu của nƣớc bạn (以见其俗之美恶然). Chu Xán sau khi sang Việt Nam đã

để tâm quan sát và hỏi han phong tục và tình hình đất nƣớc An Nam, nên đã sáng

tác hoặc biên soạn tác phẩm đi sứ bốn quyển, tạo dựng mối tình hữu nghị thơ văn

27 Ở đây Cố Nhữ Tu ca ngợi các trí thức An Nam có học vấn kế thừa đƣợc học phong của nƣớc Lỗ

(tức văn hóa Trung Quốc).

giữa sứ thần với quan chức tiếp sứ Việt Nam.

111

Nhƣng dù nghiêm túc đến mấy, sau khi sứ mệnh hoàn thành, sứ thần vẫn vui

lòng bàn thơ và làm thơ, Trần Phu đã làm bài trƣờng thiên An Nam tức sự nổi tiếng

và cùng họa thơ với quan chức tiếp sứ Việt Nam là Đinh Tƣớng Công. Giữa sứ thần

Trung Quốc và vua tôi Việt Nam đã để lại rất nhiều giai thoại về xƣớng họa thơ,

chúng tôi đã chỉnh lý một số cặp TXH giữa họ dƣới đây:

Bảng 4.2 Số bài TXH giữa sứ thần Trung Quốc và vua tôi Việt Nam

Triều đại

Sứ thần

Vua tôi VN

Số bài TXH

2

Nhà Nguyên Trần Phu

Đinh Tƣớng công

2

Nhà Nguyên Lý Cảnh Sơn

Trần Anh Vƣơng

2

Nhà Nguyên Tiêu Thái Đăng

Trần Nhân Vƣơng

2

Nhà Nguyên Văn Cự (Trí Hi

Trần Thái hƣ tử

thiện)

Nhà Nguyên Dƣơng Đình Trấn

Trần Thái hƣ tử

3 (Dƣơng 1, Trần 2)

2

Nhà Nguyên Triệu Tử Kỳ

Trần Thái hƣ tử

Nhà Nguyên Phó Dữ Lệ

Lê Trắc

4 (mỗi ngƣời 2)

Nhà Minh

Trƣơng Hoằng Chí,

Lê Dữ, Bùi Xƣơng Trạch,

9 (Chí 2, Đạc 1, Lê 2,

Lỗ Đạc

Doãn Hồng Nhuệ

Bùi 2, Doãn 2)

Nhà Minh

Trạm Nhƣợc Thủy Vua Uy Mục

4 (mỗi ngƣời 2)

Nhà Minh

Phan Hi Tăng

Vua Uy Mục

4 (mỗi ngƣời 2)

Nhà Thanh

Chu Xán

Nguyễn Đình Cổn,

10 (Xán 4, Cổn 2, Trụ

Nguyễn Đình Trụ, Vũ Duy

2, Khoang 2)

Khoang

Nhà Thanh

Đức Bảo,

Trần Danh Lâm, Nguyễn

72 (Đức 17, Cố 12,

Cố Nhữ Tu

Xuân Huyên, Trần Di

Lâm 18, Huyên 18,

Trạch, Lê Quý Đôn, Trần

Trạch 1, Đôn 3, Mật 1,

Huy Mật, Lê Hiển Tông

Hiển Tông 2)

Tổng cộng

14 sứ thần

18 vua tôi

116 bài

112

Trong đó, những cặp xƣớng họa giữa Đức Bảo, Cố Nhữ Tu và Trần Danh

Lâm, Nguyễn Xuân Huyên; giữa Chu Xán và 10 đại thần; giữa Lỗ Đạc, Trƣơng

Hoằng Chí và Lê Dữ, Bùi Xƣơng Trạch và Nguyễn Hồng Nhuệ còn để lại số bài thơ

nhiều nhất.

TXH trên đƣờng đi sứ của sứ thần đáng lẽ không phải là ít, tên nhiều bài thơ

đã ghi rõ thông tin đƣợc tặng nên họa lại, chỉ tiếc là các cặp TXH không đƣợc lƣu

trữ đầy đủ. Các bài thơ này vừa thể hiện tài văn chƣơng, vừa phản ánh tình hữu nghị

giữa sứ thần với bạn bè và quan chức tiếp sứ.

Tóm lại, TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam, nếu chia theo cấu trúc

hình thức thì gồm cả cổ thể và cận thể, cụ thể chi tiết hơn thì gồm cả nhạc phủ, ca

hành, tạp thi, tuyệt cú cổ cận thể, luật thi, trƣờng luật, từ phú, v.v... Từ số chữ mà

xét thì gồm cả ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn và tạp ngôn... Từ góc độ nội dung mà

xét, thì TĐS chủ yếu gồm các tiểu loại nhƣ thơ vịnh cảnh, thơ vịnh vật, thơ vịnh sử,

thơ xƣớng họa và thơ kỷ hành... Vì tính đặc thù của TĐS, nên có những bài vừa là

thơ vịnh cảnh, vịnh vật, đồng thời cũng mang đậm tính vịnh sử và kỷ hành, hoặc thơ

kỷ hành đồng thời cũng là thơ vịnh sử, vịnh vật...

4.2. BÚT PHÁP NGHỆ THUẬT CỦA THƠ ĐI SỨ

Ngoài những bài thơ ký sự, tự sự ra, sứ thần Trung Quốc đã sáng tác nhiều

bài thơ trữ tình. Có bài là trữ tình trực tiếp, có bài là trữ tình gián tiếp. Trong những

bài thơ trữ tình gián tiếp đó, sứ thần đã sử dụng các thủ pháp nghệ thuật nhƣ mƣợn

cảnh tả tình, thác vật ngôn chí, tức cổ nghiệm kim, tức sự thƣ hoài... hay các biện

pháp tu từ nhƣ tỉ dụ, so sánh, nhân cách hóa... để sáng tác.

4.2. 1. Tức cảnh sinh tình

Tức cảnh sinh tình là chỉ tác giả tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc trực tiếp với cảnh

vật, tạo nên cảm xúc đặc biệt, do vậy tức thì miêu tả cảnh vật khách quan, qua đó tế

nhị kín đáo bộc lộ tình cảm chủ quan trong lòng mình. Tức cảnh sinh tình cũng nhƣ

tả cảnh ngụ tình, là thủ pháp nghệ thuật đƣợc nhà thơ xƣa ƣa dùng. Trong thơ ca cổ

113

điển Trung Quốc, tùng, cúc, trúc, mai, núi đá, sông suối, sa mạc, đƣờng cổ, biên tái,

hoàng hôn, nguyệt dạ, gió thổi, mƣa bay, rừng cây và đồng cỏ, v.v... luôn luôn là

đối tƣợng đƣợc nhà thơ mô tả để bộc lộ tâm tình.

Sứ thần thƣờng tả cảnh thiên nhiên khắc nghiệt để thể hiện nỗi kinh sợ, qua

đó thể hiện nỗi vất vả khó nhọc và đầy hiểm nguy trên hành trình đi sứ; chẳng hạn

trong bài 祿州遇大風 Gặp gió to ở Lục Châu, Trần Phu đã miêu tả cảnh tƣợng mƣa

to gió lớn, cây cối bị quật đổ, bầu trời cát bay mù mịt, ngựa yếu không kêu nổi lông

dựng đứng nhƣ lông nhím, mặt mũi của chinh phu đen xám, để bày tỏ sự kinh sợ về

sự tàn phá ghê gớm của thiên nhiên vùng núi gây ra hậu quả nặng nề cho sứ đoàn:

岩壑驚搖木樹摧, Nham hác kinh dao mộc thụ thôi,

滿空苦霧捲塵埃。 Mãn không khổ vụ quyển trần ai.

黑風鬼國漂流去, Hắc phong quỷ quốc phiêu lƣu khứ,

赤懸神州夢寐回。 Xích huyền thần châu mộng mỵ hồi.

病馬不嘶毛似蝟, Bệnh mã bất tƣ mao tự vị,

征夫相對面如灰。 Chinh phu tƣơng đối diện nhƣ khôi.

夜深不解征衣睡, Dạ thâm bất giải chinh y thụy,

況有翻盆急雨來。 Huống hữu phiên bồn cấp vũ lai.

Dịch nghĩa:

Vách núi lung lay cây đổ xuống,

Cả bầu trời sương cát mù mịt.

Gió đen nước quỷ phiêu lưu đi,

Mộng mị được trở về chốn thần châu tươi đỏ.

Ngựa yếu không thể hý nổi, lông chẳng khác gì lông nhím,

Chinh phu nhìn nhau mặt mũi nhem nhuốc.

Đêm khuya đi ngủ không buồn cởi áo mũ,

114

Huống chi trời lại mưa như trút nước.

Một trong bốn bài thuộc chùm thơ 市橋道中四首 Viết trên đường Thị Kiều

của Trạm Nhƣợc Thủy cũng miêu tả cảnh vất vả trên tuyến sứ trình Việt Nam. Bài

thơ lục ngôn tuyệt cú miêu tả cảnh cầu gãy, làng mạc hoang vu và phải đi đò, qua

đó bày tỏ nỗi buồn và nỗi nhớ quê nhà:

斷橋雨涯流水, Đoạn kiều vũ nhai lƣu thủy,

孤村一帶平蕪。 Cô thôn nhất đới bình vu.

鄉夢初驚喚渡, Hƣơng mộng sơ kinh hoán độ,

每懷想見乘槎。 Mỗi hoài tƣởng kiến thừa sà.

Dịch nghĩa:

Cầu gãy mưa sông nước chảy,

Làng mạc một dải cô quạnh hoang vu.

Giấc mộng quê nhà bỗng bị tiếng gọi đò đánh thức,

Mỗi lần nhớ đến lại tưởng mình đang cưỡi bè (đi sứ).

Bên cạnh các bài tả cảnh thiên nhiên khốc liệt nhƣ trên, cũng có những bài tả

cảnh thiên nhiên rất đẹp; chẳng hạn, khi đi sứ đến Khê Động Long Châu, nơi cực

Nam ở biên thùy, thấy cuộc sống giản dị của ngƣời dân, thấy cảnh suối khe, hoa đào,

hệt nhƣ cảnh sống yên vui đƣợc nhà thơ thời Đông Tấn Đào Uyên Minh miêu tả

trong tác phẩm Đào hoa nguyên ký, Lâm Đƣờng Thần đã tức cảnh sinh tình làm

ngay bài thất ngôn tuyệt cú, ông đã phải thốt lên rằng, việc gì phải đi tìm tiên cảnh ở

Vũ Lăng trong tác phẩm của Đào Tiềm:

龍州溪洞極南邊, Long Châu Khê Động cực nam biên,

雞犬桑麻自一天。 Kê khuyển tang ma tự nhất thiên.

流水桃花今有路, Lƣu thủy đào hoa kim hữu lộ,

何須更覔武陵仙。 Hà tu cánh mịch Vũ Lăng tiên.

Dịch nghĩa:

115

Khê Động thuộc Long Châu ở nơi cực Nam,

Có đủ gà chó dâu gai tự thành khoảng trời riêng.

Hoa đào khe suối nay đã có lối vào,

Việc gì phải cố đi tìm tiên cảnh ở Vũ Lăng nữa.

Nói chung, sứ thần tả cảnh tự nhiên khắc nghiệt để nói lên nỗi vất vả khi đi

sứ, lại tả cảnh vui nhộn của cuộc sống con ngƣời để bộc lộ niềm vui đi sứ, hầu hết

các bài thơ đều tả cảnh theo nguyên tắc tình cảnh tƣơng sinh, tình cảnh dung hòa:

cảnh khắc nghiệt – ngƣời vất vả, cảnh vui – ngƣời vui, ít thấy bài nào mô tả theo

nguyên tắc tình cảnh đối lập: cảnh vui - ngƣời buồn, hay ngƣời buồn – cảnh vui nhƣ

trong các bài thơ của các nhà thơ lớn đời Đƣờng nhƣ Phong Kiều dạ bạc của

Trƣơng Kế, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu.

4.2. 2. Thác vật ngôn chí

Ngoài tức cảnh sinh tình hay tả cảnh ngụ tình, TĐS còn sử dụng thủ pháp

thác vật ngôn chí. Thác vật ngôn chí là thông qua miêu tả sự vật khách quan để bộc

lộ tình cảm, ký thác chí hƣớng và hoài bão của nhà thơ, là biện pháp nghệ thuật

thƣờng gắn liền chặt chẽ với thơ vịnh cảnh vịnh vật trong thơ ca cổ điển Trung

Quốc. Từ đời Hán, trong Mao thi tự, các học giả Nho gia đã nói đến ―詩言志 (thi

ngôn chí)‖. Nhà thơ sử dụng các thủ pháp nhƣ tỉ / hay tỉ hứng, tìm ra nét tƣơng

đồng giữa ―tình chí‖ và sự vật, mƣợn sự vật để thể hiện tình ý, nhƣ vậy nói về sự

vật nhƣng thực ra chủ yếu là nói về con ngƣời. Chẳng hạn, bài 愛蓮說 Ái liên thuyết

của 周敦頤 (Chu Đôn Di), thông qua miêu tả sự liêm khiết và trong sạch của hoa

sen để nói lên chí hƣớng cao thƣợng của mình, không chịu ―đồng quần hợp lƣu‖ với

kẻ xấu, giữ vững lập trƣờng chính trực của mình.

Sứ thần Trung Quốc trên đƣờng đi sứ, cũng thƣờng sử dụng thủ pháp thác vật

ngôn chí để sáng tác thơ, gửi gắm tình cảm, chí hƣớng của mình vào sự vật trƣớc

116

mắt. 劉克莊 (Lƣu Khắc Trang) thời Nam Tống là nhà thơ vịnh hoa mai nhiều nhất

ở Trung Quốc, ông đã sáng tác hơn trăm bài thơ liên quan đến hoa mai. Bài 落梅

Lạc mai của ông đã bộc lộ nỗi cảm thƣơng xót xa hoa mai rụng, ―一片能教一斷

腸,可堪平砌更堆牆 (Một cánh hoa rơi cũng khiến ngƣời đứt từng khúc ruột, nay

hoa mai rơi đầy bậc thang, đầy tƣờng nhà)‖, lúc ở trên cành thì hoa cao khiết đẹp đẽ

và thơm tho biết bao, nay rụng xuống cùng nằm với rêu xanh mốc, thỉnh thoảng chỉ

còn mùi thơm nhạt bám vào tay áo, qua đó kín đáo nói về thân phận mình, có lòng

nhiệt tình báo đáp nhà nƣớc, nhƣng không đƣợc trọng dụng, mà bị xua đuổi, hãm

hại; nỗi bi phẫn của tác giả nghẹn ngào trào sôi theo cánh hoa mai rụng.

Nguyên sứ Phó Dữ Lệ cũng có bài TĐS với tên là Lạc mai, buồn tiếc trƣớc

cảnh hoa và nhụy mai lần lƣợt rụng xuống, nhƣng sứ thần chủ yếu là dựa vào hoa

mai rụng và tiếng sáo dân tộc Khƣơng để bày tỏ đi sứ xa buồn và nhớ nhà, nhƣng

mình vẫn luôn tự hào đƣợc vâng mệnh đi sứ và đã hoàn thành sứ mệnh xuất sắc:

梅蕋紛紛落小池, Mai nhị phân phân lạc tiểu trì,

粉牆猶護折殘枝。 Phấn tƣờng do hộ chiết tàn chi.

臨風見影時堪惜, Lâm phong kiến ảnh thì kham tích,

步月聞香每自疑。 Bộ nguyệt văn hƣơng mỗi tự nghi.

萬點撲簷飄乍急, Vạn điểm phốc thiềm phiêu sạ cấp,

數回沾帽拂還遲。 Số hồi triêm mạo phất hoàn trì.

北來羌管多愁思, Bắc lai khƣơng quản đa sầu tứ,

好謝行人且莫吹。 Hảo tạ hành nhân thả mạc xuy.

Dịch nghĩa:

Hoa mai lả tả rụng xuống ao,

Tường hồng dường như đang bảo vệ cành hoa.

Đứng trước gió nhìn thấy rất đáng tiếc,

Đi dưới trăng ngửi thấy mùi thơm lại tự nghi ngờ.

Rụng nhiều dưới hiên và bay nhanh thế,

117

Vài bông rơi ở mũ còn chưa kịp phất đi.

Tiếng sáo Khương miền Bắc nghe buồn quá,

May mà người đi lại không thổi.

Khi đi sứ trong nƣớc Việt Nam, Chu Sán nhìn thấy loại cỏ dân gian gọi là cỏ

Thiên Thu, chắc thấy cái tên ngàn thu này rất hay, và cỏ lại luôn mọc cùng hàng rào

đầu làng, nên đã sáng tác bài 千秋草 Cỏ Thiên thu, qua vịnh loại cỏ này, để nói lên

công vệ bảo vệ và giữ gìn bang giao nhà nƣớc nhƣ sứ thần cũng là việc đƣợc ngợi

ca ngàn đời:

一枝挺出森青玉, Nhất chi đỉnh xuất sâm thanh ngọc,

兩葉分披展綠雲。 Lƣỡng diệp phân phi triển lục vân.

名是千秋兼可噉, Danh thị Thiên Thu kiêm khả đạm,

長栽籬落護山村。 Trƣờng tài li lạc hộ sơn thôn.

Dịch nghĩa:

Cây cỏ xanh xanh vươn lên cao,

Hai lá cỏ màu xanh mọc xòe ra hai bên như mây xanh.

Tên là cỏ Thiên Thu và cũng có thể ăn được,

Luôn luôn mọc bên hàng rào để cùng bảo vệ thôn làng.

Cây tùng luôn đƣợc văn nhân mặc khách dùng để làm tƣợng trƣng cho sự

thanh bạch liêm khiết của bậc quân tử. Qua các bài thơ của Lỗ Đạc mà chúng tôi đã

trích dẫn, chúng tôi biết đƣợc Đạc là một ngƣời chính trực thƣơng dân, ghét sự bóc

lột áp bức của những quan lại hiếp dân. Nên khi nhìn thấy rừng mƣời vạn cây tùng

(道傍十萬松) ở Toàn Châu Quế Lâm, Lỗ Đạc đã sáng tác chùm thơ 8 bài viết về

cây tùng, vừa ca ngợi rừng cây tùng, vừa bày tỏ chí hƣớng lập trƣờng của mình,

mong phong khí thanh liêm trên xã hội ngày càng nhiều dần:

平生愛松風, Bình sinh ái tùng phong,

耳中不常有。 Nhị trung bất thƣờng hữu.

於今終日聽, Ƣ kim chung nhật thính,

118

清緣諒非偶。 Thanh duyên lƣợng phi ngẫu.

Dịch nghĩa:

Cả đời đều thích nghe tiếng gió rừng cây tùng,

Tiếc là ít khi được nghe.

Nay lại suốt ngày được nghe thấy,

Mong rằng duyên số này không phải chỉ là ngẫu nhiên mới có được.

4.2.3. Tức cổ nghiệm kim

―Tức cổ nghiệm kim‖, ―dĩ cổ luận kim‖ (lấy xƣa nói nay), hay mệnh đề ―tích

cổ thƣơng kim‖ (nuối tiếc xƣa cảm thƣơng nay), là thủ pháp nghệ thuật mƣợn nhân

vật và sự kiện lịch sử đã qua ra để thể hiện cảm nhận, suy ngẫm, đánh giá về lịch sử

ngày xƣa và cuộc sống ngày nay; qua đó kín đáo bày tỏ thái độ, tƣ tƣởng và triết lý

của nhà thơ. Các vị sứ thần khi đi sứ, hành trình vất vả, song cũng có điều kiện kinh

lịch trong khoảng thời gian và không gian rất rộng dài, đi qua nhiều di tích lịch sử

gắn với các nhân vật và sự kiện lịch sử.

Sứ thần dùng thủ pháp ―dĩ cổ luận kim‖ trong sáng tác, thƣờng mƣợn điển

xƣa tích cũ trong sử sách; chẳng nhƣ dùng điển tích Mã Viện để nói quan hệ chặt

chẽ giữa hai nƣớc, dùng câu chuyện Lục Giả thời nhà Hán đi sứ để chê cƣời hành vi

xấu xí; đi qua mồ mả tổ tiên của Triệu Đà thì nhớ xƣa nói nay; đi qua các thành cổ

Hàn Đan, Xích Bích thì nhớ lại các nhân vật lịch sử của những cuộc đại chiến cổ

xƣa, thông qua đó bình luận, đánh giá sự việc trƣớc mắt, thƣờng là liên quan đến sứ

trình, sứ mệnh, hoặc tâm trạng đi sứ của mình...

Khi Phó Dữ Lệ đi sứ qua Chân Định, đã mƣợn câu chuyện thời nhà Hán xƣa

sáng tác bài 過真定尉佗先塚 Đi qua mồ mả tổ tiên của Triệu Đà ở Chân Định, tỏ ý

vua Nguyên đối xử với An Nam cũng muốn nhƣ vua nhà Hán, luôn ban tặng ân

28 Cuối thời Tần, Triệu Đà cát cứ Lĩnh Nam, tự phong Nam Hải Quận úy. Năm 207 trƣớc công nguyên, thôn tính cả Quế Lâm và Tƣợng Quận, xây dựng chính quyền cát cứ ―Nam Việt quốc‖ lấy Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay) làm trung tâm, tự lập là Nam Việt Võ Vƣơng. Ở vùng

trạch, xích lại quan hệ nhà nƣớc, cũng thông qua nói mồ mả tổ tiên Triệu Đà28 nay

119

vẫn còn, để nói nay nhà Nguyên cũng mong muốn giữ hòa hiếu với An Nam, mong

chuyến đi sứ có thể làm cho An Nam thần phục triều Nguyên nhƣ thời Triệu Đà

thần phục nhà Hán:

殊方久識漢廷尊, Thù phƣơng cửu thức Hán đình tôn,

異代能忘聖主恩。 Dị đại năng vong thánh chủ ân.

南粵若逢人借問, Nam Việt nhƣợc phùng nhân tá vấn,

尉佗先塚至今存。 Úy Đà tiên trủng chí kim tồn.

Dịch nghĩa:

Các nước nhỏ hoang xa từ xưa đã biết tôn phụng nhà Hán,

Các đời sau chớ nên quên ân trạch của các thánh chủ.

Nếu ở Nam Việt có ai hỏi,

Thì sẽ thưa rằng mồ mả tổ tiên của Triệu Đà nay vẫn còn giữ cẩn thận.

Minh sứ Trƣơng Dĩ Ninh trong bài thơ 自挽 Tự vãn sáng tác trƣớc khi mất

miền Bắc Việt Nam ngày nay đặt hai quận là Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhà Hán cử sứ thần Lục Giả sang thuyết phục, trong đó có nói đến mồ mả tổ tiên của Triệu Đà ở nguyên quán Chân Định – (Trung Quốc) Hà Bắc đƣợc triều đình nhà Hán trông coi cẩn thận, khiến Triệu Đà cảm động, nên năm 196 trƣớc công nguyên, Triệu Đà đã xin thần phục nhà Hán.

29 Trƣơng Dĩ Ninh sinh vào năm Tân sửu thời Nguyên (1301), mất ở An Nam vào ngày mồng 4 tháng 5 năm Hồng Vũ thứ ba (1370). Sau khi làm xong bài thơ Tự vãn này ông mất, hƣởng thọ 70 tuổi (按先生生於元辛丑,終於安南,洪武三年五月四日也。臨終自作此詩,是日而逝, 葢享年七十矣).

30 Truyện Quý Trát treo kiếm (季劄掛劍) kể rằng, Quý Trát đi sứ nƣớc Tấn, đi qua nƣớc Từ, quân vƣơng nƣớc Từ rất thích bảo kiếm của Trát, nhƣng không nói ra. Quý Trát biết thế, trong lòng đã hứa khi đi sứ về sẽ tặng. Đến lúc về, quân vƣơng nƣớc Từ đã mất ở nƣớc Sở. Quý Trát tặng kiếm cho quân vƣơng kế vị của nƣớc Từ, nhƣng thành viên trong sứ đoàn ngăn cản, và quân vƣơng kế vị cũng không dám nhận vì không có sự cho phép của tiên quân. Quý Trát nói: ―Trƣớc đây tôi đã hứa trong lòng, nay Từ quân mất mà không dâng, đó là nói dối lòng mình. Vì yêu cái kiếm mà làm ngƣợc trái tim mình, ngƣời liêm khiết chính trực không bao giờ làm nhƣ thế cả.‖ Thế là Quý Trát treo kiếm ở trên mộ của Từ quân rồi đi luôn. Sự tích giữ chữ tín của Quý Trát hai nghìn năm trƣớc đây đã đƣợc nhiều ngƣời ca tụng.

tại An Nam, đã mƣợn câu chuyện Quý Tử treo kiếm để bày tỏ lòng trung thành và

120

liêm khiết của mình không bao giờ thay đổi chính nhƣ Quý Trát, dù cả đời nghèo

khổ, đi sứ xa còn tự mang chăn rách mỏng đi theo, sứ về cũng chẳng mang theo túi

vàng nhƣ Lục Giả nhà Hán, con thơ đang đói khổ, mẹ hiền chƣa đƣợc chôn cất đàng

hoàng, nhƣng Dĩ Ninh không hề nao núng, vẫn giữ vững nguyên tắc làm ngƣời, làm

tôi của mình:

一世窮愁老翰林, Nhất thế cùng sầu lão Hàn lâm,

南歸旅櫬越山岑。 Nam quy lữ tử việt sơn sầm.

覆身粗有黔婁被, Phúc thân thô hữu Kiềm Lâu bị,

垂槖都無陸賈金。 Thùy thác đô vô Lục Giả kim.

稚子啼饑憂未艾, Trĩ tử đề cơ ƣu vị ngải,

慈親槁葬痛尤深。 Từ thân cảo táng thống vƣu thâm.

經過相識如相問, Kinh quá tƣơng thức nhƣ tƣơng vấn,

莫忘徐君掛劔心。 Mạc vong Từ quân quải kiếm tâm.

Dịch nghĩa:

Cả đời nghèo khổ trong Hàn lâm,

Từ An Nam về Kinh thành vượt đèo suối.

Che thân chỉ có tấm chăn rách,

Trong túi nào có vàng Lục Giả.

Con thơ kêu đói buồn chẳng dứt,

Mẹ hiền chôn cất sơ sài đau cắt lòng.

Người quen đi qua nếu có hỏi,

Chớ quên tấm lòng kẻ treo kiếm trên mộ Từ quân.

―Tích cổ thƣơng kim‖ (tiếc xƣa thƣơng nay) cũng là thủ pháp sứ thần thƣờng

sử dụng, nhất là trong thơ vịnh sử. Chẳng hạn, Trần Phu khi đi sứ đến cầu Triệu

121

Châu , nhìn thấy cái cầu dài khoảng trăm mét có tiếng tăm ngày xƣa, nay chỉ còn

dấu vết vành móng lừa và phủ rêu xanh, còn đâu sự hoành tráng và địa vị nhƣ ngày

xƣa nữa, do vậy đã sáng tác bài thơ 宿趙州驛 Trú ở dịch trạm Triệu Châu, cảm thán

nay sao khác xƣa nhiều nhƣ thế:

晉家曲沃舊池臺, Tấn gia khúc ốc cựu trì đài,

無數行人去又來。 Vô số hành nhân khứ hựu lai.

可惜石橋三百尺, Khả tích thạch kiều tam bách xích,

只留驢跡印青苔。 Chỉ lƣu lƣ tích ấn thanh đài.

Dịch nghĩa:

Đình đài ao vườn ngày xưa của nhà Tấn,

Biết bao hành khách đến rồi đi hết đợt này đến đợt khác.

Tiếc rằng cầu đá Triệu Châu dài ba trăm mét,

Nay chỉ còn lưu lại vết chân lừa in dấu trên rêu xanh.

Bài 見途人棄蹝有感 Cảm xúc khi thấy người đi đường vứt dép của Lỗ Đạc

qua miêu tả ngƣời đi đƣờng dép hỏng là vứt luôn ngay, kín đáo nói ―cổ nhân‖ chán

ghét quan trƣờng là từ bỏ ngay nhƣ ngƣời đi đƣờng vứt dép, và cảm thán ―kim

nhân‖ lại quá ham muốn quan vị quá:

行人著蹝竟日行, Hành nhân trứ sỉ cánh nhật hành,

敝來棄擲不少顧。 Tệ lai khí trịch bất thiểu cố.

31 趙州橋 Cầu Triệu Châu, truyền rằng Lỗ Ban xây nên. Trƣơng Thiết Quải cƣỡi lừa đi đến, cùng đi với Sài Vinh. Họ hỏi Lỗ Ban có đi qua cầu đƣợc không. Lỗ Ban tự tin mời họ đi. Ai ngờ Trƣơng Thiết Quải túi đựng mặt trời, mặt trăng, Sài Vinh đẩy cái xe chở núi Ngũ Nhạc, đi lên cầu thì cầu bắt đầu lung lay. Lỗ Ban liền nhảy xuống sông để nâng đỡ cầu, nên đã để lại vết tay dƣới cầu, trên mặt cầu thì để lại vết vành móng lừa, bánh xe.

古人棄官與此同, Cổ nhân khí quan dữ thử đồng,

122

此事難望今人做。 Thử sự nan vọng kim nhân tố.

Dịch nghĩa:

Hành khách đi dép cỏ trên đường một khoảng thời gian,

Dép hỏng thì cứ vứt đi luôn không tiếc gì.

Người xưa từ bỏ quan chức cũng dứt khoát như thế,

Việc như thế khó mà mong hiện nay có người làm được.

Nhìn chung, sứ thần thƣờng mƣợn cổ nhân cổ sự liên quan đến Tƣợng Quận,

Giao Chỉ, An Nam xƣa, nhƣ chuyện Mã Viện, Triệu Đà, Lục Giả, ý dĩ, v.v... để nói

về chuyến đi sứ của mình. Ngoài ra, khi đi qua các di tích liên quan đến anh hùng

hào kiệt của các đời, nhất là nhân vật thể hiện lòng trung lƣơng và liêm khiết trong

thời Tần Hán và Tam Quốc, sứ thần cũng thƣờng làm thơ ―dĩ cổ luận kim‖.

4.2.4. Tức sự thư hoài

Tức sự thƣ hoài là nhà thơ nhân gặp việc gì đó, trào dâng cảm xúc, nên phát

ra lời thơ, nội dung bao gồm tƣ hƣơng tƣ thân, tặng tiễn bằng hữu, bộc lộ cảm nhận

về nhân sinh, hoặc thể hiện thú nhàn thích...

Minh Sứ Phan Hy Tăng đi sứ ở Việt Nam, khi thấy tháng giêng ở An Nam

cây mạ bắt đầu trƣởng thành, đã nhớ lại hồi này ở Trung Nguyên tuyết mới bắt đầu

tan dần. Khi thấy ở An Nam dù không trồng đƣợc lúa mạch, nhƣng ngƣời An Nam

vẫn rất thông minh và khéo léo làm ra các loại bánh bằng lúa gạo, nên đã sáng tác

hai bài Tức sự để thƣ hoài cảm thán xứ sở này có điều kiện tốt trời cho để trồng lúa

nƣớc cũng nhƣ văn hóa lúa nƣớc ở xứ này:

Bài 1

平疇水漫緑成行, Bình trù thủy mạn lục thành hàng,

正月交人已揷秧。 Chính nguyệt Giao nhân dĩ tháp ƣơng.

記得中原舊遊處, Ký đắc Trung Nguyên cựu du xứ,

123

雪消晴隴麥初長。 Tuyết tiêu tình lũng mạch sơ trƣởng.

Dịch nghĩa:

Ruộng lúa nươccs bằng phẳng cây mạ xanh mọc song song,

Tháng giêng người Giao Chỉ đã gieo mạ xong.

Nhớ lại khi ở Trung Nguyên giờ này,

Tuyết tan trời nắng cây mạch mới bắt đầu mọc.

Bài 2

無雪元知麥不宜, Vô tuyết nguyên tri mạch bất nghi,

家家餅餌秫為之。 Gia gia bính nhĩ thuật vi chi.

前村日暮菜花發, Tiền thôn nhật mộ thái hoa phát,

錯望黄雲傍短籬。 Thác vọng hoàng vân bàng đoản ly.

Dịch nghĩa:

Nơi đây không tuyết biết là không hợp với trồng mạch,

Nhưng ở đây nhà nhà vẫn làm được các loại bánh bằng lúa gạo.

Chiều tối hoa cải dầu nở ở đầu làng,

Cứ ngờ là mây vàng gần hàng rào thấp bên vườn.

Khi trên đƣờng sứ trình vào mùa thu, nỗi nhớ nhà càng thêm sâu sắc, muốn

gửi thƣ về cho ngƣời nhà lại không ai đƣa thƣ giúp, nên Trƣơng Dĩ Ninh ở một

trong những bài thơ Tặng sứ thần Việt Nam Nguyễn Pháp đã sử dụng phƣơng pháp

ký ngụ (寄寓), ví hoa mai là thƣ từ, thƣ hoài nói rằng tiếc dịch trạm không có ngƣời

để chuyển hoa mai về, để ngụ ý rằng không thể gửi thƣ về nhà. Thơ rằng:

乘軺萬里已忘家, Thừa diêu vạn lý dĩ vong gia,

客思逢秋陡倍加。 Khách tứ phùng thu đẩu bội gia.

大庾嶺邊東去近, Đại Dú Lĩnh biên đông khứ cận,

124

惜無驛使寄梅花。 Tích vô dịch sứ ký mai hoa.

Dịch nghĩa:

Đi xe ngựa vạn dặm đã quên mất nhà,

Nhưng nỗi nhớ nhà ở đất khách đột nhiên tăng buồn vào dịp thu.

Đi về phía Đông của Đại Dư Lĩnh thì gần nhà,

Chỉ tiếc dịch trạm không ai chuyển hoa mai đến nhà giúp.

4.3. ĐẶC ĐIỂM THƠ ĐI SỨ

Qua những nội dung trình bày và phân tích ở trên, với tính đặc thù về vai trò

và nhiệm vụ của ngƣời sáng tác, chúng tôi quy nạp TĐS của sứ thần Trung Quốc

đến Việt Nam có những đặc điểm sáng tác nhƣ sau:

4.3.1. Mang đậm tính ký sự

Sứ thần sáng tác thơ văn thƣờng có hai mục đích, một là ký sự, ghi chép sự

việc mà sứ thần đích thân trải nghiệm, nhƣ nhật ký nhật trình, phát huy vai trò vừa

là sứ thần vừa là thƣ ký chép sử, để sau khi về nƣớc có thể báo cáo cho sử quán

hoặc trình vua, làm tƣ liệu lƣu trữ. Hai là sáng tác văn học, sứ thần hầu nhƣ đều

xuất thân khoa cử, làm thơ viết văn là một tài năng mà họ đã vun đắp bấy nhiêu

năm, nên những bài thơ đó cũng là tác phẩm văn học đƣợc họ dồn sức suy nghĩ.

Chúng tôi đã nhận xét đƣợc rằng, giá trị lịch sử của TĐS là hết sức nổi bật, thậm chí

chúng tôi còn tự cho là giá trị này có lúc còn cao hơn giá trị văn học của mảng thơ

này, vì nói thật là nhiều bài TĐS không thể sánh kịp thơ của nhiều nhà thơ thời

thịnh Đƣờng.

TĐS mang đậm tính ký sự, liên quan trực tiếp với chuyến sứ, tức là ghi chép

những điều tận mắt chứng kiến và đích thân từng trải của sứ thần. Mỗi quyển Sứ

Giao tập đều xung quanh một chuyến đi sứ, một loại sứ mệnh, ghi rõ nguyên nhân,

kết quả, sứ trình, thành viên trong đoàn, sự đón tiếp ở Trung Quốc và Việt Nam,

những giao thiệp khi gặp vƣớng mắc, v.v... Với các loại tên gọi nhƣ Nam du tập, An

125

Nam lục, An Nam kỷ hành, Sứ Giao cảo, Sứ Giao lục, An Nam hành cảo, Sứ sự kỷ

yếu, tạp ký, tức sự, ký sự, v.v... Các tác phẩm này đều có thể đƣợc gọi tắt là Sứ Giao

lục, đã là lục thì chủ yếu nói về việc ghi chép sự kiện.

Chẳng hạn sáu bộ Sứ Giao thi nay còn lƣu giữ hoàn hảo, Giao Châu cảo của

Trần Phu ghi chép về chuyến đi sứ chiêu dụ vua Trần vào chầu; Sứ Giao cảo của Lỗ

Đạc và Vạn lý chí của Trƣơng Hoằng Chí ghi chép về chuyến đi sứ tuyên bố vua

mới là Minh Vũ Tông lên ngôi; Giao hành trích cảo của Từ Phu Viễn ghi chép về

chuyến đi sứ Việt Nam nhằm xin đƣờng để đi lên Vân Nam, nhƣng vì không chịu

lạy chúa Trịnh nên không xin đƣợc đƣờng phải quay về; Sứ Giao tập của Ngô

Quang ghi chép về chuyến đi sứ sang tế viếng vua Lê Duy Kỳ; Sứ Giao ngâm của

Chu Xán ghi chép về chuyến đi sứ sang tế viếng hai vua đã mất và sách phong vua

mới kế ngôi của nhà Lê.

Các chuyến đi sứ dù rất đƣợc coi trọng, nhƣng các quyển chính sử cũng

thƣờng chỉ ghi thông tin vắn tắt, có sứ đoàn còn bị bỏ sót. Bản thân công việc đi sứ

đã là một sự kiện lịch sử quan trọng, sứ thần là những nhân vật đƣợc chứng kiến

lịch sử và đƣợc ghi chép vào lịch sử hai nƣớc Trung - Việt, nên tác phẩm văn học

sáng tác trong lúc đi sứ của họ chắc chắn mang đậm tính ký sự. Vì là những ghi

chép chân thực, độ tin cậy cao, nên tác phẩm đi sứ nói chung và TĐS nói riêng của

sứ thần có thể bổ sung cho sự thiếu sót của chính sử, giá trị lịch sử của mảng TĐS

này chính là nổi bật ở chỗ này. Chính sử thƣờng chỉ ghi chép họ tên Chánh, Phó sứ

của sứ đoàn, các thành viên khác không ghi chép. Nhƣng mỗi sứ đoàn thƣờng bao

gồm nhiều thành viên nhƣ phiên dịch, bảo vệ, hậu cần, ngƣời nhà và bạn bè đi

cùng... Qua thơ và văn đi sứ của sứ thần, chúng tôi có thể tìm thấy thêm thông tin

các thành viên khác, tạo dựng lại một sứ đoàn hoàn chỉnh. Các phƣơng tiện giao

thông chúng tôi cũng chỉ có thể tìm thấy trong thơ văn đi sứ của sứ thần. Trong thơ

hay xuất hiện các từ nhƣ: ngựa, yên ngựa, cƣơng ngựa, thuyền, bến, kiệu, kiệu phu...

chúng tôi có thể biết đƣợc sứ thần đi bộ, đi ngựa, đi thuyền và đi kiệu là chính.

Sử sách chỉ ghi thời gian đi hoặc về của sứ đoàn. TĐS ghi đủ các thời gian,

126

bốn mùa, thời tiết, làm cho độc giả biết đƣợc hiện tƣợng thời tiết của mỗi nơi, nhất

là sự khác biệt khá lớn trong mùa đông ở Việt Nam và miền Bắc Trung Quốc.

Những thời tiết khắc nghiệt nhƣ tuyết to, gió bão, nóng nực, ẩm ƣớt, đã làm cho

chúng ta biết đƣợc sự gian nan của sứ trình.

Có không ít sứ đoàn, sử sách Trung Quốc chỉ ghi sơ lƣợc, sử sách Việt Nam

nhƣ ĐVSKTT cũng không ghi chép. Những bài TĐS này đã giúp chúng ta hiểu rõ

thêm sự việc, nắm bắt toàn diện tình hình chuyến đi sứ. Có một số bài thơ thậm

chí đã giải thích đƣợc một số vấn đề lịch sử; chẳng hạn về thời gian đi sứ của Ngô

Bá Tông, Minh sử, Minh thực lục, ĐVSKTT cũng nhƣ văn tập của Ngô Bá Tông

đều không ghi rõ, chỉ ghi chép đức tính và tài văn chƣơng của Ngô Bá Tông để lại

ấn tƣợng sâu sắc ở xứ An Nam; tuy nhiên một bài TĐS của Lâm Đƣờng Thần đã

cung cấp thông tin: ―洪武十年再奉使安南還,道經豐城留館驛,父老乞留題急

筆賦此 (Hồng Vũ năm thứ mƣời lại phụng mệnh đi sứ An Nam về, đi qua Phong

Thành trú ở dịch trạm, bà con xin thơ chữ nên làm luôn bài thơ này)‖:

酡顏綠鬢映烏紗, Đà nhan lục mấn ánh ô sa,

奉使安南去路賒。 Phụng sứ An Nam khứ lộ xa.

金闕九天承紫誥, Kim khuyết cửu thiên thừa tử cáo,

銀河八月泛仙槎。 Ngân Hà bát nguyệt phiếm tiên sà.

行裝秪有梅花擔, Hành trang chỉ hữu mai hoa đảm,

載道寧無薏苡車。 Tải đạo ninh vô ý dĩ xa.

揮翰玉堂知有待, Huy hãn ngọc đƣờng tri hữu đãi,

五雲深處聽宣麻。 Ngũ vân thâm xứ thính tuyên ma.

Dịch nghĩa:

Mặt đỏ tóc xanh và đội mũ cánh chuồn,

Vâng mệnh đi sứ An Nam đường đi xa xôi.

Chốn kim khuyết ở chín tầng trời, là nơi nhận chiếu vua,

Sông Ngân tháng tám thả chiếc bè tiên.

127

Hành trang chỉ có gánh hoa mai,

Đâu có chở một xe ý dĩ trên đường về (như Mã Viện xưa).

Vung bút viết thư trên chốn ngọc đường biết là (nhà vua) ngóng đợi,

Ở nơi sâu xa nghe tiếng tuyên đọc chiếu thư.

Qua bài thơ này là chúng tôi có thể làm rõ đƣợc vấn đề thời gian chuyến đi sứ,

vì năm Hồng Vũ thứ mƣời (tức năm 1377) ấy, họ Lâm và họ Ngô cùng đi sứ Việt

Nam, nên nhờ thơ của Lâm Đƣờng Thần mà chúng tôi có thể giải đáp cho một vấn

đề lịch sử.

Năm Hồng Vũ thứ hai (tức năm 1369), Trƣơng Dĩ Ninh cùng với Ngƣu

Lƣợng sang sách phong vƣơng, chƣa đến nơi vua Trần đã mất. Ninh không chịu

dùng sắc phong đó phong vƣơng cho vua kế tiếp, mà yêu cầu An Nam cử sứ đoàn

sang báo tang và Ninh ở lại An Nam chờ sứ đoàn mới do triều Minh cử sang. Ninh

ở lại hơn nửa năm, ĐVSKTT không ghi chép gì về tình hình đó. Qua đọc các bài

TĐS của Trƣơng Dĩ Ninh rải rác trong Thúy Bình tập, chúng tôi có thể biết đƣợc khi

ở An Nam, có thƣ sinh Nguyễn Thái Xung và Nguyễn Đình Giới chép giúp quyển

Xuân Thu Xuân Vương chính nguyệt khảo và quyển An Nam hành cảo, thƣ pháp

khải thể chữ Hán của họ rất đẹp nên đã đƣợc Trƣơng lần lƣợt tặng tên tự là ―Dụng

Hòa‖ và ―Bảo Thiện‖, còn tặng thơ để khen ngợi. Dƣới đây xin chép lại bài thơ tặng

Nguyễn Thái Xung kể trên: 贈安南善書阮生,生名太沖,為予書 春秋春王正月

考 及 安南行藳 ,予喜其楷法遒美,更其字曰“用和”,而詩以贈之:

安南有生阮太沖, An Nam hữu sinh Nguyễn Thái Xung,

隶書國中稱最工。 Lệ thƣ quốc trung xƣng tối công,

勁如精兵槊善舞, Kính nhƣ tinh binh sóc thiện vũ,

疾若快匠斤成風。 Tật nhƣợc khoái tƣợng cân thành phong.

老夫持節使絶域, Lão phu trì tiết sứ tuyệt vực,

眼昏頭白垂龍鍾。 Nhãn hôn đầu bạch thùy long chung.

著書暇日使之寫, Trứ thƣ hạ nhật sử chi tả,

一笑聊足舒心胷。 Nhất tiếu liêu túc thƣ tâm hung.

128

寫書設官自漢代, Tả thƣ thiết quan tự Hán đại,

嗟汝乃在炎荒中。 Ta nhữ nãi tại viêm hoang trung.

迢迢嶺表產丹茘, Thiều thiều lĩnh biểu sản đan lệ,

鬱鬱澗底生青松。 Uất uất giản để sinh thanh tùng.

我興為爾作長句, Ngã hứng vi nhĩ tác trƣờng cú,

生起再拜生春容。 Sinh khởi tái bái sinh xuân dung.

獨不見, Độc bất kiến,

瓊州姜生遇蘇子, Quỳnh Châu Khƣơng sinh ngộ Tô Tử,

姓名亦可傳無窮。 Tính danh diệc khả truyền vô cùng.

Dịch nghĩa:

An Nam thư sinh Nguyễn Thái Xung,

Lệ thư đẹp nhất trong nước Nam.

Sức mạnh như binh hay múa giáo,

Nhanh như thợ sắt giỏi múa rìu32.

Lão già cầm tiết sứ nước ngoài,

Mắt mờ tóc bạc lưng lại còng.

Viết sách ngày nhàn bảo Xung chép,

Cười với nhau hài lòng rất khoái chí.

Đặt quan chép sách từ đời Hán,

Tiếc là Xung ở nước xứ nóng ẩm.

Xa rời Lĩnh Nam thấy quả vải đỏ,

Âm thầm đáy suối mọc cây thông.

Tôi vui viết thơ dài tặng thư sinh,

Kiếp sau hãy sinh nơi tươi đẹp.

Chẳng thấy sao,

32 Mƣợn cụm từ 運斤成風. 33 Mƣợn câu truyện Tô Đông Pha lúc 62 tuổi bị giáng chức đi Đan Châu, đào tạo Khƣơng Đƣờng

Tả ngƣời Quỳnh Châu trở thành ngƣời cử nhân đầu tiên ở Hải Nam.

Quỳnh Châu Họ Khương gặp Đông Pha33,

129

Tiếng tăm truyền tụng mãi ngàn đời.

Còn chuyện 予以使事留滯安南,安南人費安朗以隠宮,給事其國親貴近

臣家,老而彌謹。預於館人之役,朝夕奉事甚勤。拜求作詩,懇至再四,口占

二絶。予之一以志予念鄉之感,一以對景自釋焉 (đại thần Việt Nam là Phí An

Lãng đƣợc vua cử, sáng tối phụng sự Trƣơng Dĩ Ninh khi ở lại An Nam, ông Lãng

nhiều lần xin thơ, nên Trƣơng Dĩ Ninh đã làm luôn hai bài tuyệt cú vừa tỏ lòng

thƣơng nhớ quê nhà, vừa tự thƣ giãn giải tỏa):

Bài 1

抱珥江邊春水流, Bão Nhị Giang biên xuân thủy lƣu,

逺從東海過吾州。 Viễn tùng Đông Hải quá ngô châu.

若為寄得雙魚去, Nhƣợc vi ký đắc song ngƣ khứ,

直到玉灘溪上頭。 Trực đáo Ngọc Than khê thƣợng đầu.

Dịch nghĩa:

Mùa xuân ở bên sông Nhĩ Hà,

Con sông này chảy ra biển Đông đi qua quê hương tôi.

Nếu như có thể gửi gắm tình thương qua đôi con cá,

Là có thể bơi thẳng đến khe Ngọc Than ở quê tôi.

Bài 2

拍拍鳬鷗睡滿河, Phách phách phù âu thụy mãn hà,

鯉魚翻子跳晴波。 Lý ngƣ phiên tử khiêu tình ba.

怪來天上乘槎客, Quái lai thiên thƣợng thừa sà khách,

將到春風有許多。 Tƣơng đáo xuân phong hữu hứa đa.

Dịch nghĩa:

Chim âu bay rồi lại nghỉ ở trên sông,

Cá chép nhảy đi nhảy lại để lướt sóng.

Sứ thần nhà Minh từ Bắc đến,

Đưa đến An Nam luồng gió xuân ấm áp.

130

Ở lại Việt Nam một mình buồn nhƣ vậy, Trƣơng Dĩ Ninh cũng hay tự liên

tƣởng, câu chú giải cho bài thơ tặng Phí An Lãng, Ninh đã viết rằng: ―昔蘇長公云

齊魯大臣,史失其名,而黄四娘乃以杜子美詩傳於世。不知予詩之果傳乎否也,

漫書以為一笑 (Xƣa Tô Trƣờng Công nói: Đại thần Tề, Lỗ đều không có tên trong

sử sách, mà nàng Hoàng Tứ Nƣơng lại đƣợc truyền thế nhờ thơ Đỗ Tử Mỹ. Không

biết thơ của tôi tƣơng lai có đƣợc truyền tụng trên đời hay không, viết rồi tự cƣời để

thƣ giãn)‖.

Cùng năm đi sứ Việt Nam nhƣng sau chuyến Trƣơng Dĩ Ninh sáu tháng là sứ

đoàn sang điều giải chiến sự giữa An Nam và Chiêm Thành do Hàn lâm Biên tu La

Phục Nhân làm Chánh sứ, Binh bộ Chủ sự Trƣơng Phúc làm Phó sứ. Khi Trƣơng Dĩ

Ninh ở lại Việt Nam đã gặp La Phục Nhân và làm bài thơ Theo vận họa lại thơ tặng

của La Phục Nhân 次韻羅復仁編修 để tiễn sứ đoàn này về nƣớc trƣớc, bài thơ này

còn cho thêm thông tin chứng minh rằng La Phục Nhân có sáng tác TĐS Việt Nam,

chẳng qua giờ chúng tôi chƣa tìm thấy.

Qua TĐS của Trƣơng Dĩ Ninh, chúng tôi còn biết đƣợc sứ đoàn lúc sang Việt

Nam có đồng hành với sứ đoàn Việt Nam gồm các sứ thần nhƣ Đồng Thì Mẫn,

Đoàn Đệ, Nguyễn Pháp. Mỗi lần sứ thần Việt Nam tặng thơ, Trƣơng Dĩ Ninh đều có

thơ họa tặng lại, có khi tặng nhiều gấp hai ba lần thơ của sứ thần Việt Nam. Nhƣ

trƣờng hợp tặng lại thơ của Nguyễn Pháp và Đồng Thì Mẫn chẳng hạn, khi Đồng

Thì Mẫn lên thuyền xin gặp gỡ Trƣơng Dĩ Ninh và tặng thơ thuật hoài một bài, thì

Trƣơng Dĩ Ninh đã lấy bút họa tặng lại ngay hai bài để ca vịnh hai chuyến đi sứ

riêng biệt của Việt Nam và Trung Quốc diễn ra liên tục này (安南使者同時敏大夫

登舟相訪,獻詩述懐一首,就坐走筆次韻答之,以紀一時盛事云), mong sứ thần

Việt Nam sau khi về đến nƣớc kể kỹ ân trạch sâu nặng mà Hoàng đế nhà Minh đã

ban tặng cho (到家為說天恩重,早辦新春入貢舟). Đến Nam Xƣơng tỉnh Giang

131

Tây đƣợc quan địa phƣơng đón về dịch trạm, rồi cùng với sứ đoàn Việt Nam đến dự

tiệc do quan Tham chính mời (南昌行省迓至驛舍,同安南使宴於省叅,參政京

口滕弘有詩次韻答之), đến Quảng Châu lại có thơ tặng Đồng Thì Mẫn (廣州贈同

時敏 . Khi ở lại Việt Nam, lại giữ quan hệ rất tốt với quan chức đón tiếp, do vậy

thúc đẩy mối tình hữu nghị sâu sắc với sĩ phu Việt Nam.

TĐS của Tôn Thừa Ân viết ở đoạn Chiết Giang khá nhiều bài, qua các bài

nhƣ 使交過嘉興舟中對雨 Đi sứ Giao Châu đi thuyền qua Gia Hưng gặp mưa, 錢

塘候崇禮至有詩因和答 Khi ở Tiền Đường chờ Sùng Lễ đến có thơ nên họa đáp, ta

biết đƣợc, vì sứ đoàn đi qua đó và còn phải ở lại đó để chờ sứ thần là Du Đôn (tên

tự là Sùng Lễ) xuất phát sau, nên Tôn Thừa Ân đã đi thăm các thắng cảnh và bạn bè.

Cũng qua các bài nhƣ 哭都諫俞崇禮 Khóc vãn Đô gián Du Sùng Lễ và 發蒼梧 Xuất

phát từ Thương Ngô, ta biết đƣợc, 崇禮先十七日卒 (Sùng Lễ mất vào ngày mƣời

bảy tại Thƣơng Ngô) khi sứ đoàn trên đƣờng đi về (萬里今此歸,慰喜動顏色: Vạn

lý sứ trình nay trở về, vui mừng thể hiện trên nét mặt), ân hận rằng 同來不同返,惻

愴涕沾臆 (hai ngƣời cùng đi sứ nhƣng lại không thể cùng về đƣợc, buồn khóc vô

cùng thƣơng tiếc).

Nhiều sứ thần đã ghi chép sự kiện bằng hình thức thơ ca ngắn gọn và dễ hiểu,

vừa sinh động vừa thú vị, nên khi đọc lại những bài thơ đó là có thể cùng chứng

kiến lại sự kiện ngoại giao đầy sắc màu và âm thanh thời xƣa. Nhƣ có sứ thần dùng

thơ để ghi chép và phản ánh những nghi lễ đƣơng thời đƣợc thực hiện ở Việt Nam.

Chu Xán trong quyển Sứ Giao kỷ sự có ghi chép tỉ mỉ suốt cả quá trình thực hiện

nghi lễ sách phong và tế viếng, An Nam muốn dùng nghi lễ của mình, sứ thần lại

kiên trì nghi thức nhà Thanh, hai bên phải qua sáu ngày làm việc với nhau mới nhất

trí áp dụng nghi lễ ―Thiên triều‖ (依天朝儀). Trong thi tập Sứ Giao ngâm, ông chỉ

132

dùng tám bài thơ thất ngôn tuyệt cú tinh luyện đã phản ánh các khâu quan trọng của

nghi thức. Chẳng hạn về lễ sách phong:

Nghênh tiếp sứ thần rời sứ quán: ―花骢玉勒锦云飞,鼍鼓龙笙导御帏

(Ngựa và cƣơng trang trí đẹp đi trong trời đẹp, đánh trống thổi sáo dẫn sứ đoàn đi)‖;

đi thuyền qua sông Phú Lƣơng: ―昽曈日照富良江,青雀黄龙列画艭 (Mặt trời soi

sáng sông Phú Lƣơng, sứ thần ngồi trên thuyền đẹp đi qua sông)‖; đi qua hai cổng

rồi vào chính điện, tấu nhạc tạo không khí vui mừng: ―朱雀雙門 初進為大興門,再

進為朱雀門 向曉開,龍亭高置敬天臺 即國王殿,因時起名。蕃音奏處蠻王舞,

喜見皇恩遍八垓 (Hai cửa Chu Tƣớc mở ra trong buổi sớm, chỗ cao trên Long

Đình đặt đài kính thiên. Nhạc Phiên trỗi lên, vua Man múa. Mừng thấy ơn vua khắp

tám cõi xa)‖; ban sắc phong cho vua Lê: ―龍盤紫誥五花紋,爵拜名王赤土分

(Long bàn đựng chiếu sắc phong rực rỡ, vua Lê đƣợc phong làm Quốc vƣơng)‖;

ban ấn hỉ mới cho vua Lê: ―斗大黃金駝紐章,使臣雙手授蠻王 (Ấn hỉ mạ vàng

nhƣ khuy hình lạc đà mới tinh, đƣợc sứ thần hai tay tiến dâng trao vua Lê)‖; ban

tặng ngự bút bốn chữ lớn ―忠孝守邦 (Trung hiếu thủ bang)‖ của vua Khang Hy

tặng vua Lê, đây là niềm vinh dự đầu tiên dành cho các ông vua An Nam: ―宸翰親

揮日月光,龍書鳳篆照遐荒。交人奉作羲文畫,首出中天頌聖皇 (Vua Khang Hy

ngự bút viết thƣ pháp tặng vua Lê đã làm sáng ngời đất hoang xa. Ngƣời Giao Chỉ

tôn thờ nhƣ tranh vẽ của Phục Hy và Chu Văn Vƣơng, mọi ngƣời đều ca ngợi ân

trạch sáng chói của vua Thanh)‖.

Về lễ tế viếng: mọi ngƣời mặc áo tang đứng yên tĩnh và buồn thƣơng, đồ

cúng bày trên bàn thờ. Chánh sứ Ô Hắc tiến dâng tế văn vua Lê Duy Hỉ, tiếp theo là

Chu Xán tiến dâng tế văn vua Lê Duy Định, quan chức An Nam đọc xong rồi cho

đốt hóa vàng. Chu Xán đã dùng hai bài thơ miêu tả:

133

Bài 1

幡幢羽葆滿江涯, Phiên chàng vũ bảo mãn giang nhai,

為悼前臣禮並施。 Vị điệu tiền thần lễ tính thi.

情極榮哀人感歎, Tình cực vinh ai nhân cảm thán,

半生歡喜半生悲。 Bán sinh hoan hỉ bán sinh bi.

Dịch nghĩa:

Cờ phướn và lọng cắm lông chim phất phới,

Thực hiện lễ truy điệu tế viếng cố vương.

Vô cùng thương tiếc người cảm thán,

Nửa đời hoan hỉ, nửa đời bi.

Bài 2

圭璧牲醪並殿陳, Khuê bích sinh lao tính điện trần,

嗣君俯首自悲辛。 Tự quân phủ thủ tự bi tân.

兩王同日沾恩恤, Lƣỡng vƣơng đồng nhật triêm ân tuất,

銜結如何不動人。 Hàm kết nhƣ hà bất động nhân.

Dịch nghĩa:

Ngọc báu, gia cầm gia súc cúng bày trên bàn thờ,

Vua kế vị cúi đầu buồn đau.

Hai cố vương được viếng cùng một ngày,

Tình cảnh làm người sống rất xúc động.

Một bài thơ thông tin không nhiều, nhƣng nhiều bài, một tập thì sẽ ghi đƣợc

lƣợng thông tin tƣơng đối nhiều, huống chi TĐS lại thiên về ký sự, nên mảng thơ

này đã giúp đỡ chúng tôi làm rõ khá nhiều sự kiện.

4.3.2. Tự sự kết hợp với trữ tình

Tổng quan mảng TĐS, các bài thơ liên quan đến sứ trình và sự việc ngoại

giao thì thƣờng thiên về tự sự. Các bài nói về nỗi đau khổ mệt nhọc, nỗi nhớ nhà

nhớ ngƣời thân thì thƣờng thiên về trữ tình, vì sứ thần phải vạn lý hành, đi lại một

năm trời, trong khi đó ít có thông tin về ngƣời nhà, nỗi nhớ nhà của sứ thần thƣờng

hết sức khổ đau và da diết, nên khi họ bộc lộ nỗi lòng thì thƣờng rất buồn thƣơng,

làm cho ngƣời đọc có thể tƣởng tƣợng đƣợc sự tiều tụy, hết chuyến đi sứ là tóc cũng

134

bạc thêm nhiều. Nhƣng nói chung, có nhiều bài là kết hợp cả tự sự và trữ tình, thể

hiện mục đích sáng tác và tình cảm gửi gắm trong đó, nên phƣơng pháp phú, tỉ,

hứng luôn luôn đƣợc sử dụng trong sáng tác.

Có những bài TĐS, nhan đề thơ là ký sự, ghi rõ sứ trình, nhƣng nội dung thơ

vừa có ghi chép các thông tin liên quan đến sứ sự, vừa sử dụng các thủ pháp trữ tình.

Sứ thần sáng tác thơ với nhan đề là An Nam tức sự hoặc An Nam kỷ sự, phản ánh về

những gì tận mắt chứng kiến.

Trong số những bài thơ nhƣ vậy đƣợc lƣu trữ, tiêu biểu và toàn diện nhất là

bài ngũ ngôn trƣờng thiên An Nam tức sự (xem ở Phụ lục) của Trần Phu, có thơ, có

câu chú thích, tự sự về lịch sử và các hiện tƣợng văn hóa xã hội Việt Nam, giới

thiệu tỉ mỉ tình hình chính trị, vật sản và phong tục An Nam, cũng có những cảm

thán và nhận xét riêng của sứ thần, có giá trị tƣ liệu rất cao, giúp cho chúng tôi hiểu

biết thêm về An Nam thời đó. Minh sứ Phan Hi Tăng cũng có bài ngũ ngôn luật thi

Nam Giao kỷ sự (xin xem ở Phụ lục) để giới thiệu phong tục và xã hội An Nam lúc

đó, đây cũng là bài thơ dài thứ hai viết về phong tục Việt Nam nay còn lƣu trữ lại.

Chu Xán cũng đã sáng tác bài văn An Nam kỷ sự để ghi chép và phản ánh về đất

nƣớc An Nam, đƣợc Lê Quý Đôn đánh giá rằng: ―Kỷ sự có ghi chép tạp ký hơn

chục điều, bổ di cho nƣớc ta, dân số ở khắp nơi, địa thế bằng phẳng, ruộng đất mênh

mông, không bỏ hoang ruộng, làng mạc mọc lên ven đƣờng, ngƣời đông đất chật.

Những ghi chép về chế độ, nghi lễ, phong tục và khí hậu khá tƣờng tận‖ [7, 658].

Tập Giao hành trích cảo của Từ Phu Viễn đa số là tự sự kể về chuyến đi sứ

không hoàn thành sứ mệnh đó, nhƣng từ các câu thơ đó, ta cũng có thể cảm nhận

đƣợc nỗi lo âu, buồn phiền, băn khoăn không biết phải làm thế nào của sứ thần.

Sứ trình đƣờng đi khúc khuỷu ở Việt Nam đƣợc tự sự và trữ tình phản ánh

trong TĐS rằng: ―層岩密樹護重關,一線羊腸出萬山 (Núi rồi lại núi cây rừng rậm

rạp, đƣờng mòn ngoằn ngoèo đi ra từ ngàn lớp núi sâu)‖;―一水隨人千百折,中宵

135

勒馬問安州(Một dải nƣớc theo ngƣời đi qua hàng ngàn khúc chiết, nửa đêm ghìm

cƣơng ngựa hỏi An Châu)‖;―征車萬里入炎荒,馬骨棱棱客鬢蒼(Vạn lý xe trƣờng

chinh vào đất hoang xa, ngựa gầy đi rồi ngƣời tóc bạc)‖;―蒞仁驛西南有鬼門關,

迭巒密菁風景黯然 (Phía Tây Nam của dịch trạm Lị Nhân là Quỷ Môn Quan, núi

rừng trùng trùng điệp điệp trời tối om)‖…

Chính vì vất vả quá, nhớ nhà quá, và lúc mệt là lúc nhớ nhà và mong muốn

đƣợc về nhà nhất, nên khi hoàn thành sứ mệnh đƣợc trở về nƣớc là sứ thần hết sức

mừng rỡ và bắt đầu tƣởng tƣợng ngày sum họp gia đình. Thơ của Chu Xán thể hiện

rõ cảm xúc đó: ―萬里長征今北向,喜從天外計歸程 (Vạn lý trƣờng chinh hôm

nay bắt đầu đi về hƣớng Bắc, trong lòng vui mừng thầm tính ngày về đến nhà)‖.

Vợ quá cố của Phó Dữ Lệ quê ở Hồ Nam, trên đƣờng đi sứ về ông đã ghé

thăm bố vợ và có bài thơ 使還至長沙侍嚴親及外舅孫公游 Đi sứ về đến Trường Sa

cùng du ngoạn với bố vợ và cậu, đi thăm mộ vợ và sáng tác bài thơ 过故妻墓 Qua

mộ người vợ xưa; Lỗ Đạc nguyên quán Hồ Nam, lúc đi sứ qua nhà vừa đúng lúc kỷ

niệm ngày sinh của bố, nên đã ở lại một đêm cùng ngƣời nhà rồi sáng hôm sau lại đi

tiếp, Lỗ Đạc sáng tác bài thơ 衡陽值家君誕日寫懷 Qua Hành Dương đúng dịp kỷ

niệm ngày sinh của bố làm thơ tả nỗi lòng, vừa tự sự vừa cảm thán rằng:

秋槎乘便過庭闈, Thu sà thừa tiện quá đình vi,

天府程期可暫違。 Thiên phủ trình kỳ khả tạm vi.

壽日又逢仍是別, Thọ nhật hựu phùng nhƣng thị biệt,

故園只似未曾歸。 Cố viên chỉ tự vị tằng quy.

初雞聲裡聞寒雨, Sơ khê thanh lý văn hàn vũ,

回鴈峯頭送落暉。 Hồi Nhạn phong đầu tống lạc huy.

家遠書遲心許亂, Gia viễn thƣ trì tâm hứa loạn,

篋中漸愧老萊衣。 Khiếp trung tiệm quý Lão Lai y.

136

Dịch nghĩa:

Mùa thu cưỡi bè đi sứ qua nhà,

Xin tạm hoãn sứ trình với người nhà.

Gặp gỡ người nhà đúng ngày mừng thọ bố nhưng lại phải xa nhau ngay,

Quê hương cứ như chưa từng về.

Sáng sớm gà gáy trời mưa rét,

Mặt trời lặn xuống núi Hồi Nhạn.

Nhà ở xa nên thư đến muộn làm cho lòng nôn nao,

Thật hổ thẹn với chiếc áo của ông Lão Lai xưa cất trong hòm.

Nhà văn sáng tác thơ thƣờng hay gửi gắm tình cảm trong đó, TĐS cũng

không nằm ngoại lệ, nên TĐS càng thể hiện rõ đặc điểm tự sự kết hợp với trữ tình,

các ví dụ nêu trên chính là những minh chứng.

4.3.3. Mang tính lƣu động di chuyển

Sứ thần phải đi liên tục, mỗi cảnh vật và sự việc từng ngày đều luôn luôn

thay đổi. Nhƣ từ cảnh tuyết chuyển sang cảnh nắng nóng, từ cảnh lá rụng đến cảnh

cây cối um tùm xanh tƣơi, từ nơi phồn vinh đến nơi nghèo khổ nhiều giặc cƣớp, từ

đồng bằng đến vùng núi chẳng hạn. Sứ thần đã đƣợc trải nghiệm chứng kiến mọi

thứ, cảm giác đa dạng phong phú, từ những cảm thán về nỗi khổ sở, mệt nhọc, đến

những cảm xúc bất ngờ, mới lạ, hay những trạng thái tình cảm vui, buồn, giận, kinh

sợ... đều nếm trải hết. Các bài TĐS cũng thể hiện những biến đổi dọc tuyến sứ trình

lƣu động đó.

Nhƣ tập thơ của Trần Phu, chúng tôi đọc xong nhƣ đi một chuyến du lịch từ

Kinh đô nhà Nguyên đến Kinh thành Thăng Long, trải nghiệm thời tiết rét rồi đến

nóng mồ hôi nhễ nhại, trao đổi cùng ngƣời trong nƣớc rồi đến trao đổi với ngƣời An

Nam, vừa miêu tả cảnh đẹp quen thuộc trong nƣớc lại đến phong cảnh mới lạ ở

nƣớc bạn, rất thú vị và hấp dẫn. Chẳng hạn, Trần Phu trong bài 交趾境丘溫縣

137

Huyện Khưu Ôn Giao Chỉ viết rằng: ―九月出薊門,北風吹雪衣裘溫。正月至交

趾,赤日燒空汗如水 (Tháng chín ra Ký Môn, gió Bấc thổi mạnh tuyết lại rơi, phải

mặc áo da để cho ấm. Tháng giêng đến Giao Chỉ, mặt trời chói chang giữa trời, mồ

hôi cứ toát nhƣ nƣớc chảy)‖.

Hoặc viết về sứ trình di chuyển liên tục, vừa qua nơi này lại đến nơi khác,

dầm mƣa dãi nắng đi không ngừng, cứ nhƣ lữ khách đang lữ hành trên đƣờng,

nhƣng khác ở chỗ là sứ thần chƣa xong sứ mệnh thì không thể về đƣợc. Chẳng hạn

bài 有感 Hữu cảm của Trƣơng Dĩ Ninh viết rằng:

馬首桓州又懿州, Mã thủ Hoàn Châu hựu Ý Châu,

朔風秋冷黒貂裘。 Sóc phong thu lãnh hắc điêu cầu.

可憐吹得頭如雪, Khả liên xuy đắc đầu nhƣ tuyết,

更上安南萬里舟。 Cánh thƣớng An Nam vạn lý chu.

Dịch nghĩa:

Đầu ngựa Hoàn Châu lại Ý Châu,

Gió bấc mùa thu lạnh phải mặc áo da chồn.

Khổ thân tóc đã bạc phơ,

Lại lên thuyền đi vạn dặm sang An Nam.

Bốn câu thơ đầu của bài 武陵次沈提學壁間韻畱別吳廷儀 Ở Vũ Lăng nối

vần thơ của Thẩm Đề học đề trên vách tường lưu biệt Ngô Đình Nghi của Lỗ Đạc,

cũng viết về sự di chuyển liên tục rằng:

象郡程期幾月連, Tƣợng quận trình kỳ kỷ nguyệt liên,

馬頭日日換山川。 Mã đầu nhật nhật hoán sơn xuyên.

北瞻紫極寧遠咫, Bắc chiêm tử cực ninh viễn chỉ,

138

南遡青天或近邊。 Nam tố thanh thiên hoặc cận biên.

Dịch nghĩa:

Sứ trình đi tới Tượng Quận vài tháng liền,

Đầu ngựa ngày nào cũng đổi hướng núi khác.

Nhìn về hướng Bắc đã xa Kinh đô,

Hướng Nam thì đã gần biên giới.

Tập thơ của Chu Xán, vừa viết về niềm vui của Thiên sứ, nỗi khổ và sợ hãi

trên đƣờng đi ở vùng núi, vừa viết về cảm giác bất ngờ nhìn thấy của lạ ở Việt Nam,

rồi lại sôi nổi tranh luận về nghi lễ, cuối cùng là niềm vui hớn hở đƣợc trở về. Qua

thống kê sáu bộ Sứ Giao thi, chúng tôi còn phát hiện, so với tuyến đƣờng từ Kinh

đô xuống biên giới, TĐS ở tuyến từ biên giới ngƣợc lên về Kinh đô rất ít, chỉ lẻ tẻ

vài bài. Nguyên do có lẽ vì, thứ nhất là nhiều cảnh lặp lại, không gây hứng thú mới

lạ nhƣ lần đầu gặp nữa; thứ hai là sứ thần ở tuyến này chỉ mong sớm về đến Kinh

thành, báo cáo vua rồi về sum họp với ngƣời nhà, cho nên gắng đi nhanh cho xong

việc sớm; thứ ba là đến lúc này, sứ thần chắc đã cực mệt, không còn để nhiều tâm tƣ

vào việc sáng tác nữa.

Đọc các tập TĐS đƣợc lƣu giữ hoàn hảo, chúng ta rất dễ cảm nhận đƣợc sự

lƣu động di chuyển đó, chúng ta vừa nhƣ trải nghiệm một chuyến du ký qua những

phong cảnh khác lạ ở các nơi, từ Trung Quốc đến biên giới rồi đến tận Hà Nội.

4.3.4. Không qua nhiều trau chuốt

Thời gian cho ngẫm nghĩ về thơ của sứ thần không nhiều, không nhƣ khi tự

do sáng tác có thể suy nghĩ trong khoảng thời gian dài, sứ thần phải đi liên tục, phải

ghi ngay viết ngay, do vậy cảm xúc phần nhiều là chân thực của bản thân, khi tình

cảm phát ra thì viết liền một mạch. Đa số các bài là không có nhiều thời gian để trau

chuốt, nhất là những sứ thần vốn đã có tài hoa sáng tác, có tài ứng khẩu làm thơ nhƣ

Trần Phu, Phó Dữ Lệ và Phan Hy Tăng... Sứ thần đi đƣờng mệt, có khi không đƣợc

khỏe, đây chắc cũng là một nguyên nhân khiến họ không trau chuốt nhiều. Có sứ

139

thần trọng thực, trọng lý hơn là cầu kỳ và sự bay bổng của thơ nhƣ Trạm Nhƣợc

Thủy, Chu Xán; họ đã sáng tác nhiều bài thơ ít sự trau chuốt, mà chủ yếu là ký sự

và bày tỏ tình cảm hiện thời của mình.

Trên đƣờng sứ trình, có lúc gặp mƣa tuyết, mƣa đá hoặc gió bão rất khủng

khiếp. Có những đoàn đi đƣờng rất gấp và nhanh, đặc biệt là trong thời chiến hoặc

vì quân vụ khẩn cấp, chẳng hạn nhƣ chuyến đi của Trần Phu và Hoàng Phúc nhà

Minh, thì càng mệt và khổ hơn. Nói về nỗi gian truân của sứ trình, nhiều sứ thần đã

dùng các tính từ rất trực tiếp để biểu đạt thẳng thắn nhƣ: 苦(khổ), 難(nan), 驚

(kinh)... Bài 湘東登舟 Tương Đông đăng thuyền của Trƣơng Hoằng Chí có lời chú

thích: ―數日陸行甚苦,厭之。聞湘東可水行,惟民間小舟耳,遂不擇,往臥其

中 (Liên tục đi bộ chục ngày khổ đến phát chán. Nghe nói Tƣơng Đông có thể đi

thuyền, dù chỉ thuyền con của dân thƣờng, nhƣng cũng không chê nữa, vào nằm

trong đó luôn)‖. Lỗ Đạc có câu: ―我欲哦松下,官程苦見催 又以“偶來松樹下”為

韻 (Tôi muốn ngâm thơ dƣới cây thông, nhƣng khổ vì việc quan cứ ép buộc phải đi

ngay)‖. Bài 熊羆嶺 Núi Hùng Bi có câu nói rằng: ―熊羆嶺離天三尺三,人過要低

頭,馬過要卸鞍 (Cách trời chỉ có ba thƣớc ba, ngƣời qua phải cúi đầu, ngựa qua

phải tháo yên)‖ để tả nỗi nguy hiểm khi qua đèo; ―登登漸上熊羆嶺,嶺樹陰森路轉

平。忽見溪雲生腳底,始驚身在半空行(Từng bƣớc leo lên núi Hùng Bi, rừng rậm

tối om đƣờng phẳng dần. Bỗng thấy mây bốc lên từ dƣới chân, mới hốt hoảng kinh

sợ mình đang đi ở lƣng chừng trời)‖. Bài Mừng đi trên đường Dương Sóc 陽朔道

中志喜 có câu ―府江憂賊複驚灘,十日真成行路難 (Phủ Giang lo giặc lại kinh sợ

hiểm thác, chục ngày đi đƣờng thật khó đi quá)‖.

Khi sứ thần đến, vua Việt Nam cử đội nghi trƣợng hoàng cung để đón chào,

nhiều sứ thần đã sáng tác thơ miêu tả sự đón tiếp hoành tráng đó, thƣờng cũng miêu

140

tả trực tiếp, cộng với một vài tính từ cho có thêm sắc màu. Nhƣ các câu thơ: ―皂幟

朱矛擁轡驂,金輿黃屋載琅函 (Cờ đen giáo đỏ hộ tống đội ngựa xe, xe kiệu mạ

vàng chuyển tải chiếu chỉ)‖, ―鳴金摐鼓啟關門,鐵騎琱戈四面屯 (Chiêng trống

đánh xong cửa khẩu mở, kỵ binh và binh lính cầm giáo đứng hai bên chào đón)‖;

―金鎗畫盾護龍旗,披發班軍左右馳 (Đội cờ rồng có binh lính cầm giáo cầm lá

chắn hộ vệ, hai bên binh lính đều thả tóc thẳng)‖; ―大鼻長牙排巨象,前行肅肅整

朝儀 (Đội voi ngà dài đi phía trƣớc, triều nghi nghiêm túc và chỉnh tề)‖;―交官隊

隊排仙仗,咫尺天威靜不嘩 (Các hàng ngũ của quan chức Giao Chỉ đều xếp hàng

có trật tự, vừa uy nghiêm hoành tráng vừa yên tĩnh)‖; sứ thần ngồi trong xe kiệu mạ

vàng rực rỡ, ―交州士女盡滕歡,青衫黃笠羣趨走 (Trai gái Giao Châu đều vui

mừng, mặc áo xanh đội nón vàng từng đám đi nhanh cho kịp ngắm)‖; ―萬眾爭看擁

道周,士女如雲撥不開 (Hàng ngàn dân chúng chen đầy đƣờng, trai gái đông nhƣ

kiến không xua tan đƣợc)‖, chỉ nhằm mục đích ―爭得天朝使節看 (Đƣợc ngó mặt

sứ thần Thiên triều)‖...

Những bài thơ tả cảnh ngƣời dân đông vui và phấn khởi để ngó nhìn sứ thần

Trung Quốc cũng miêu tả rất chất phác. Chẳng hạn, Lâm Đƣờng Thần đã tả cảnh

nam thanh nữ tú chen chúc nhau ngắm nhìn sứ thần Trung Quốc và lời trầm trồ tấm

tắc khen sứ thần đẹp trai của các cô gái Việt Nam, qua đó bộc lộ niềm vui và niềm

tự hào kiêu hãnh đƣợc làm sứ thần của ―Thiên triều”:

士女填銜撥不開, Sĩ nữ điền hàm bát bất khai,

共看天使日邊來。 Cộng khan thiên sứ nhật biên lai.

白羅衫稱烏紗帽, Bạch la sam xứng ô sa mạo,

坐聽齊聲說泠腮。 Tọa thính tề thanh thuyết lãnh tai.

141

Dịch nghĩa:

Đàn bà con gái chen chúc chật ních trên đường,

Cùng ngắm nhìn sứ thần đến từ chân trời xa.

Áo lụa đẹp xứng với mũ ô sa (mũ cánh chuồn),

Ngồi trong kiệu nghe thấy họ đều khen rất đẹp trai.

Cũng có những bài thơ miêu tả cảnh tƣợng yên bình của ngƣời dân, không

cần dùng đến nhiều tính từ mỹ từ, chỉ cần miêu tả chất phác, chẳng hạn bài Trên

đường Giao Nam của Lỗ Đạc: ―笆柵茅苫稍如樓,上處居民下圈牛。繞屋試看

何障蔽,十尋刺竹蝟毛稠 (Nhà sàn gỗ mái tranh nóc nhọn trông nhƣ lầu, ngƣời ở

trên và trâu bò ở dƣới, quanh nhà có hàng rào thiên nhiên bao bọc bằng loại tre gai

dày của ngƣời dân Việt Nam)‖. Bài 滩山驿中站闻鸡声 Than Sơn Dịch trạm nghe

tiếng gà gáy viết về ẩm thực rằng: ―蕉葉盤餐刺竹房,扶蒥甘自和檳榔 (Đĩa bằng

lá chuối, hàng rào cây gai vây nhà, lá trầu nhai cùng với quả cau tƣơi)‖, ―強作清歡

椰瓠酒 (Ép mình phấn chấn uống rƣợu bằng vỏ quả dừa)‖; ―瀘江之水發南詔,龍

編古城居下流 (Sông Lô xuất phát từ Nam Chiếu, thành cổ Long Biên ở dƣới hạ

lƣu)‖; ―檳榔雜雞黍,田統馬人居 (Việt Nam còn nhiều ruộng, nhiều giống lúa và

hoa màu, ruộng, ngựa và ngƣời đ ều hoạt động gần nhà)‖.

Những bài TĐS chất phác không qua nhiều trau chuốt đó, dễ đọc dễ hiểu,

chính nhƣ câu thơ của Lý Bạch viết để khen thơ văn của bạn rằng ―清水出芙蓉,

天然去雕飾 (Nhƣ hoa phù dung chớm nở ở đầm nƣớc trong, tƣơi đẹp tự nhiên

không cần trang trí trang sức gì)‖.

4.3.5. Chịu sự ảnh hƣởng của các bậc tiền bối

Sáng tác chịu sự ảnh hƣởng của các bậc tiền bối, ở đây chúng tôi chỉ chịu sự

ảnh hƣởng về phong cách sáng tác thơ ca của các nhà thơ nổi tiếng thời thịnh

142

Đƣờng và chịu sự ảnh hƣởng của các sứ thần thời trƣớc. Những sứ thần đều là bậc

văn nhân, từ nhỏ học làm thơ chắc chắn chịu sự ảnh hƣởng rất nhiều của các nhà

thơ nổi tiếng thời trƣớc, nhất là thời Đƣờng, thời mà thi ca phát triển đến đỉnh cao

nhất. Đa số sứ thần làm thơ theo phong cách của thời Đƣờng Tống.

Đọc tập TĐS của Lỗ Đạc, chúng tôi phát hiện nhiều dấu vết chịu sự ảnh

hƣởng phong cách sáng tác của Đỗ Phủ, Thi Thánh luôn đƣợc Lỗ Đạc coi là thần

tƣợng; chẳng hạn, trong thi tập có nhiều chỗ nhắc đến Đỗ Phủ, cũng nhƣ rất chú

trọng phản ánh đời sống thực của nhân dân, nhƣ phong cách của Đỗ Phủ. Đom đóm

thƣờng chủ yếu thấy xuất hiện vào đêm mùa thu, nên khi Lỗ Đạc nhìn thấy con đom

đóm ở Quảng Tây vào đêm mùa đông, cảm thấy rất lạ nên đã liên tƣởng đến Đỗ

Phủ34, sáng tác ngay bài 思籠驛見螢 Nhìn thấy con đom đóm ở Dịch trạm Tư Lung,

qua đó bày tỏ nỗi nhớ quê của ngƣời đi sứ còn da diết hơn cả Đỗ Phủ (xa quê nhƣng

còn đƣợc ở trong nƣớc):

不省南荒地, Bất tỉnh nam hoang địa,

窮冬尚有螢。 Cùng đông thƣợng hữu huỳnh.

草中初訝火, Thảo trung sơ nhạ hỏa,

山外復疑星。 Sơn ngoại phục nghi tinh.

寒暑今難信, Hàn thử kim nan tín,

乖常自合經。 Quai thƣờng tự hợp kinh.

少陵如見汝, Thiếu Lăng nhƣ kiến nhữ,

愁思益難勝。 Sầu tứ ích nan thăng.

Dịch nghĩa:

Không ngờ ở nơi hoang xa miền Nam,

Mùa đông vẫn còn thấy con đom đóm.

Khi thấy nó trong thảm cỏ còn tưởng là lửa,

34 Đỗ Phủ từng làm bài thơ 見螢火 Nhìn thấy con đom đóm, cảm thán về thời tiết đã vào cuối thu tức cuối năm, thế mà vẫn không biết năm sau mình có thể về quê đƣợc không (滄江白發愁看 汝,來歲如今歸未歸).

Nhìn thấy nó ở trên núi còn tưởng là ngôi sao.

143

Nóng rét cũng rất không ngờ,

Nhưng sự thật đều có quy luật của một nơi.

Giả sử Thiếu Lăng nhìn thấy chúng bay,

Thì nỗi sầu sẽ càng khó kiềm chế.

Các điểm du lịch nhƣ Hoàng Hạc Lâu và Đằng Vƣơng Các, vì nhà thơ đời

Đƣờng nổi tiếng trƣớc đây là Thôi Hạo và Vƣơng Bột đã từng làm những bài thơ

bất hủ về hai nơi này, nên ngƣời khác không ai vƣợt qua đƣợc. Tuy nhiên, nhiều sứ

thần khi đi qua hai nơi này đều dựa vào cảm hứng và trải nghiệm của mình để làm

thơ, nội dung và hình thức tất nhiên có thay đổi. Nhƣ Trần Phu viết về Hoàng Hạc

Lâu bằng hình thức ca hành, đƣa thêm thành phần vịnh sử và cảm khái cá nhân vào

thơ. Đi qua nhiều nơi danh thắng hoặc di tích đã từng đƣợc các nhà thơ nổi tiếng

trƣớc đây làm thơ, sau đó đƣợc tuyền tụng, khi sứ thần cũng sáng tác thơ với đề tài -

chủ đề đó, họ thƣờng hay nhắc đến các thi nhân nổi tiếng. Có nhiều sứ thần còn trực

tiếp dùng luôn nhan đề bài thơ tƣơng tự, mƣợn cả ý tứ và tình cảm của nhà thơ nổi

tiếng trƣớc đây, để bày tỏ tình cảm tƣơng cận hoặc tƣơng tự với mình.

Khác với các nhà thơ thời xƣa, khi sứ thần viết về những phong cảnh Tiêu

Tƣơng từ xƣa luôn đƣợc văn nhân mặc khách miêu tả ca ngợi, đã đƣa thêm cảm xúc

đi sứ mệt nhọc vất vả vào trong TĐS, nên hình ảnh có khác với thơ của du khách

bình thƣờng. Đi qua các quan ải hoặc núi đồi hiểm trở ở Quảng Tây và vùng núi

Lạng Sơn, khi miêu tả địa thế hiểm yếu, sứ thần luôn bày tỏ lòng tự tin nhất định

vƣợt qua và hoàn thành sứ mệnh, càng hiểm yếu càng thể hiện trọng trách trên vai,

và khi đã vƣợt qua thì càng thấy phấn khích.

Dựa trên tài liệu hiện hữu, chúng tôi cũng tìm thấy nhiều manh mối để chứng

minh rằng: phong cách, tƣ duy và chủ đề sáng tác của những sứ thần đi sau chịu ảnh

hƣởng sâu sắc của các sứ thần đi trƣớc. Vì thế, sáu quyển Sứ Giao thi hoàn chỉnh đó,

còn có thể phát huy tác dụng làm tham chiếu để xác nhận các bài TĐS của sứ thần

khác, chẳng hạn dựa trên tập Giao Châu cảo của Trần Phu, tham chiếu tên, chủ đề

và cảm hứng của thơ, chúng tôi đã cho tái lập lại đại bộ phận tập TĐS Nam Chinh

144

Cảo của Phó Dữ Lệ.

Bài tựa của Nam Chinh Cảo cho biết Phó Dữ Lệ đã ghi những điều ―tai nghe

mắt thấy trên đường, rừng núi, thành quách, nhà cửa, mộ mả, thảo mộc, côn trùng,

bách vật, mưa gió nắng sương, sáng tối khí trời, cổ kim thay đổi, bệ trên bậc dưới,

phong tục nhân vật khác lạ, cảm hứng trong lòng, bật bởi tình cảm, phát ra thành

lời, nên đã làm thành thơ, tất cả hơn trăm bài‖. Từ quyển Phó Dữ Lệ Thi văn tập,

chúng tôi đã tìm ra vài chục bài TĐS tƣơng đối chắc chắn, có những bài thơ có rõ

thông tin nhƣ đi sứ An Nam, Sứ giả, Nhật Nam, Giao Châu, v.v... Một số bài thơ lấy

địa danh làm tên thơ, ở tuyến Quảng Tây và Việt Nam thì dễ nhận dạng, còn ở tuyến

trƣớc, bài nào không có thông tin rõ ràng, thì qua tham khảo so sánh với Giao Châu

Cảo của Trần Phu cùng thời đại là có thể đối chiếu xác nhận thêm. Phó Dữ Lệ chắc

chắn đã đọc tập TĐS của Trần Phu, và cũng ít nhiều chịu ảnh hƣởng phong cách

sáng tác của họ Trần đi trƣớc, có một số bài thơ còn trùng tên nhau.

Tất nhiên, cũng có sứ thần đi sau muốn đột phá vƣợt qua sứ thần đi trƣớc đã

tạo nên sự đa dạng, mỗi ngƣời một vẻ, có nét riêng và phong cách độc đáo của mình.

Tập Sứ Giao ngâm của Chu Xán tất cả các bài đều sáng tác ở tuyến Việt Nam, khác

với sứ thần thời trƣớc sáng tác chủ yếu ở tuyến Trung Quốc. Thơ làm ở tuyến Việt

Nam ít thì không xứng với nhan đề Sứ Giao lắm. Có lẽ vì vậy mà Chu Xán sau khi

đọc tác phẩm của nhiều sứ thần thời trƣớc và với tinh thần phê phán lối sáng tác đó,

nên khi sáng tác TĐS, đã làm khác hẳn với sứ thần đời trƣớc.

Chúng tôi đã so sánh các bài TĐS của các sứ thần khác thời đại, thì thấy

ngoài các bài tƣơng tự nhau về hình thức (nhƣ cùng nhan đề, cùng cách đặt nhan đề

bài thơ, cùng thể loại, thể tài, v.v...), thì thơ của các sứ thần không cùng thời đó còn

có sự tƣơng đồng cả về nội dung (nhƣ đề tài, chủ đề, cảm hứng chủ đạo, v.v...). Có

khác chăng chỉ là những chi tiết mới về hiện thực mang tính thời đại, mức độ biểu

hiện tình cảm, thái độ, tƣ tƣởng, hay những chi tiết riêng tƣ về đời sống cá nhân và

gia đình của sứ thần. Chẳng hạn, Nguyên sứ Trần Phu sáng tác bài An Nam tức sự,

nhiều sứ thần khác cũng sáng tác An Nam tức sự; tuy nhiên, phải thừa nhận rằng,

145

không bài nào có lƣợng thông tin đầy đủ nhƣ bài của Trần Phu. Cũng thế, nhiều sứ

thần đặt nhan đề cho tập thơ của mình gần gũi nhau: Sứ Giao cảo, Sứ Giao tập, Sứ

Giao ngâm; hoặc Hoàng Hoa tập, Hoàng Hoa ngâm, Sứ Hoa tập, v.v...

146

Tiểu kết chƣơng 4

Chúng tôi căn cứ cấu trúc hình thức và tiêu chí nội dung để chia ra các tiểu

loại thơ. Gồm cả thơ cổ thể và cận thể, bên cạnh các thể loại nhƣ lục ngôn và tạp

ngôn, trƣờng luật, ca, hành, phú, tập cú, liên cú... rất phong phú và đa dạng, thì các

thể loại đƣợc sứ thần sử dụng nhiều là thất ngôn luật thi, thất ngôn tuyệt cú, ngũ

ngôn luật thi, ngũ ngôn tuyệt cú. Về thể tài, TĐS có cả thơ vịnh cảnh, vịnh vật, vịnh

sử, lẫn thơ nhật ký hành trình và TXH...

Về các thủ pháp nghệ thuật nhƣ tức cảnh sinh tình, thác vật ngôn chí, dĩ cổ

nghiệm kim, tức sự thƣ hoài, hay các biện pháp tu từ nhƣ tỉ dụ, so sánh, v.v.. cũng

đƣợc sứ thần vận dụng thành thục, chuẩn mực trong TĐS. Ngoài vận dụng phổ biến

thủ pháp miêu tả - bộc lộ trực tiếp ra, các sứ thần còn sử dụng các thủ pháp miêu tả

- bộc lộ gián tiếp nhƣ ―tức cảnh sinh tình‖, ―thác vật ngôn chí‖ đƣợc vận dụng nhiều

trong thơ vịnh cảnh; các thủ pháp nghệ thuật nhƣ ―tức cổ nghiệm kim‖, ―dĩ cổ luận

kim‖, ―tích cổ thƣơng kim‖… đƣợc vận dụng nhiều trong thơ vịnh sử.

Nhìn tổng quát, chúng tôi cho rằng, với tính đặc thù về đề tài và ngƣời sáng

tác, nên TĐS có nét riêng của mình, đặc điểm của mảng TĐS của sứ thần Trung

Quốc đến Việt Nam thứ nhất là mang đậm tính ký sự; thứ hai các bài thơ có sự kết

hợp giữa tự sự và trữ tình; thứ ba là sang tác mang tính lƣu động, di chuyển liên tục;

thứ tƣ là sáng tác không qua nhiều trau chuốt; thứ năm là bút pháp và phong cách

sáng tác chịu sự ảnh hƣởng sâu sắc của tiền bối.

Các bài TĐS bất cứ viết về đề tài gì, dùng thủ pháp nghệ thuật gì, thể hiện

đặc điểm gì, đều xoay quanh sứ sự hoặc liên quan chặt chẽ đến sứ trình, lấy công

việc đi sứ làm hạt nhân.

147

Kết luận

Sau khi đã khảo sát TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam từ thế kỷ

X-XVIII qua bốn chƣơng của Luận án, chúng tôi đi đến một số kết luận nhƣ sau:

1. Hiện nay, công việc nghiên cứu TĐS đã đƣợc học giả Trung Quốc và các

nƣớc châu Á thuộc vùng văn hóa Hán triển khai. Tuy nhiên, đa số kết quả nghiên

cứu đã đạt đƣợc đều theo hƣớng từ các nƣớc lân cận vào Trung Quốc, cụ thể là

nghiên cứu TĐS theo sứ trình từ Bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, hay Nhật Bản sang

Trung Quốc, còn theo sứ trình từ Trung Quốc sang các nƣớc lân cận thì kết quả

nghiên cứu TĐS theo sứ trình từ Trung Quốc sang Bán đảo Triều Tiên là nhiều nhất,

từ Trung Quốc sang Việt Nam thì dù đã có một số kết quả bƣớc đầu, nhƣng chủ yếu

chỉ nghiên cứu đơn lẻ một tác phẩm hoặc một sứ thần nào đó, chứ chƣa có kết quả

nghiên cứu hệ thống, toàn diện và chuyên sâu. Trong quá trình thực hiện Luận án,

chúng tôi đã từng bƣớc tiến hành một số nghiên cứu và đã công bố 5 bài báo khoa

học ở cả Trung Quốc và Việt Nam, đặt nền tảng cho việc mở rộng, đi sâu nghiên

cứu theo quy mô của một luận án tiến sĩ.

2. Trƣớc khi đi sâu phân tích các giá trị TĐS của sứ thần Trung quốc đến Việt

Nam từ thế kỷ X-XVIII, chúng tôi đã tìm hiểu về mối quan hệ thông sứ trong lịch

sử giữa Trung Quốc và Việt Nam. Qua phân tích nguyên nhân hình thành và hình

thức của mối quan hệ thông sứ, chúng tôi nhận định rằng, hình thức ngoại giao đó là

phù hợp với điều kiện lịch sử và đòi hỏi thực tiễn của hai nƣớc lúc bấy giờ. Dựa

trên cơ sở nghiên cứu của các nhà sử học, chúng tôi đã thống kê số sứ đoàn và lập

danh sách các sứ thần Trung Quốc đã đi sứ Việt Nam, tìm hiểu những chính sách

khen thƣởng hoặc trừng phạt của triều đình Trung Quốc dành cho sứ thần. Qua tổng

kết nhiệm vụ, thành phần và hiệu quả công việc của các sứ đoàn Trung Quốc, chúng

tôi đã đi đến nhận định rằng, dù quan hệ thông sứ có những hạn chế bởi điều kiện

lịch sử, nhƣng mối quan hệ này cũng đã đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy quan

148

hệ chính trị, kinh tế, giao lƣu văn hóa và văn học giữa hai nƣớc.

3. Về diện mạo văn bản, chúng tôi đã lục tìm TĐS của từng sứ thần, nhƣng

điều đáng tiếc là nhiều tác phẩm chỉ còn nhan đề đƣợc nhắc đến trong các văn tịch

chí, chứ không còn tìm thấy nội dung văn bản nữa. TĐS trong các văn tập còn lƣu

trữ lại chắc không bằng một phần mƣời của tổng số, nhiều bài TĐS đƣợc phát hiện

và tìm thấy trong các tuyển tập thơ hoặc cổ thƣ của ngƣời khác. Mặc dù vậy, những

bài TĐS còn lƣu trữ lại đó cũng tƣơng đối nhiều và đa dạng. Chủ đề - tƣ tƣởng có

đặc điểm riêng nghiêng về tinh thần sứ mệnh (toàn quân mệnh, tráng quốc uy), nên

cảm hứng chủ đạo của TĐS chủ yếu thể hiện lòng tự hào, lòng yêu nƣớc, ý thức và

tinh thần trách nhiệm. Bên cạnh cảm hứng chủ đạo đó, TĐS cũng thể hiện tinh thần

nhân văn khi hƣớng mắt nhìn và ngòi bút vào cuộc sống của ngƣời dân, cảm thƣơng

cho nỗi khổ cực, nghèo đói của họ và căm hận những kẻ làm quan mà tham lam độc

ác, bóc lột ức hiếp dân chúng; hoặc khi bộc lộ nỗi nhớ quê nhớ nhà da diết, sự quan

tâm đầy tình thƣơng yêu đối với ngƣời thân luôn hài hòa với tinh thần trách nhiệm

đối với nhà vua. Mảng TĐS thể hiện đầy đủ giá trị quý báu về lịch sử, về quan hệ

bang giao cũng nhƣ về giao lƣu văn hóa và sáng tác văn học. Các bài TĐS chân

thực, giản dị, không cầu kỳ trau chuốt, song lại giàu tinh thần nhân văn và có giá trị

không nhỏ về lịch sử, bổ khuyết bổ di rất đáng tin cậy cho chính sử. Chúng tôi đã

chọn và đƣa vào phạm vi khảo sát hơn 1200 bài TĐS của 40 sứ thần thuộc các triều

Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Các bài thơ này đƣợc sáng tác ở cả sứ trình Trung Quốc

và Việt Nam, nội dung và hình thức đa dạng, phong phú, đủ độ tin cậy về văn bản và

yêu cầu học thuật, đồng thời cũng phản ánh đầy đủ chân thực diện mạo, đặc điểm về

cả nội dung và nghệ thuật TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam từ thế kỷ

X-XVIII.

4. Cuối cùng chúng tôi phân tích thể loại và đặc điểm văn học của mảng thơ

này. TĐS của Trung Quốc hình thành từ đời Hán, phát triển song hành và liên tục kế

thừa thành tựu của thơ ca cổ đại Trung Quốc qua các triều đại; do vậy về hình thức,

cũng nhƣ các thể tài thơ ca khác, TĐS vận dụng hầu khắp hệ thống thể loại – thể tài,

149

từ cổ thể đến cận thể, từ tuyệt cú cổ thể đến tuyệt cú cận thể, từ ca hành Nhạc phủ,

từ phú đến luật thi và bài luật, từ ngũ ngôn, thất ngôn là phổ biến đến lục ngôn và

tạp ngôn, v.v... về nội dung, TĐS cũng gồm đủ các các tiểu loại nhƣ thơ vịnh cảnh,

vịnh vật, vịnh sử, thơ nhật ký hành trình và TXH... Chúng tôi còn tổng kết mảng

TĐS có năm đặc điểm nhƣ mang đậm tính ký sự, tự sự kết hợp với trữ tìn, sáng tác

mang tính lƣu động di chuyển, sáng tác không qua nhiều trau chuốt và sáng tác chịu

sự ảnh hƣởng của tiền bối.

5. Luận án của chúng tôi, do giới hạn phạm vi nghiên cứu TĐS của sứ thần

Trung Quốc đến Việt Nam từ thế kỷ X-XVIII và phạm vi tƣ liệu cũng giới hạn trong

các loại sách đã đƣợc sao ấn, nên các tƣ liệu ngoài phạm vi này và tƣ liệu lƣu hành

ở dân gian chƣa đƣợc khai thác đầy đủ. Do vậy, một số công việc dƣới dây xuất

phát từ thực tế triển khai Luận án sẽ là hƣớng nghiên cứu tiếp theo:

- Mở rộng khảo sát đầy đủ văn bản các bài TĐS của sứ thần Trung Quốc đến

Việt Nam từ giữa thế kỷ X cho đến khi chấm dứt quan hệ thông sứ giữa hai nƣớc

vào cuối thế kỷ XIX. Kết quả của công việc này sẽ là công trình tập hợp những bài

TĐS của sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam, tin rằng đó sẽ là tập tƣ liệu quý báu cho

những ngƣời quan tâm nghiên cứu về văn học và sử học.

- Kết hợp với các học giả Việt Nam khảo sát cả mảng tƣ liệu TĐS của sứ thần

Việt Nam đến Trung Quốc, trên cơ sở đó tập hợp lại những bài TĐS của sứ thần

Trung Quốc đến Việt Nam và sứ thần Việt Nam đến Trung Quốc cùng kỳ. Giá trị tƣ

liệu của các quyển tập hợp sẽ đóng góp tích cực vào việc nghiên cứu so sánh TĐS,

lịch sử bang giao cũng nhƣ bổ khuyết đầy tin cậy cho chính sử của hai nƣớc Việt –

Trung.

- Trên cơ sở của các công trình tập hợp tƣ liệu trên, tiếp tục đi sâu nghiên cứu

TĐS trên cả hai lĩnh vực văn học và sử học, trên cả hai bình diện đơn nhất và so

sánh. Công việc này sẽ giúp chúng ta khẳng định đầy đủ và xác đáng đặc điểm và

giá trị của TĐS của sứ thần – thi nhân hai nƣớc Việt – Trung.

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Lý Na (2014), ―Tìm hiểu về thơ xƣớng họa giữa Thanh sứ Đức Bảo và Cố Nhữ

Tu với quan chức tiếp sứ Việt Nam‖, Tạp chí Khoa học Đại học Dân tộc Quảng

Tây, (2), tr. 124-128.

(《清使德保和顾汝修与安南官员唱和探析》,《广西民族大学学报》,

年 月第 卷第 期, 千字)

2. Lý Na (2014), ―Tổng thuật thơ đi sứ Việt Nam của sứ thần Trung Quốc từ thế kỷ

X - XVIII‖, Tạp chí Khoa học Học viện Bách Sắc, (3), tr. 96-103.

(《 ~ 世纪中国使安南(即今越南)使臣出使诗歌综述》,《百色学院学

报》, 年第 期, 千字)

3. Lý Na (2014), ―Khảo cứu lại tác giả của ba bài thơ liên quan đến sứ thần Trung

Quốc đến Việt Nam‖, Tạp chí Tùng hoành Đông Nam Á, (5), tr. 75-78.

年第 (《考究与中国赴越南使臣有关的三首诗作者》,《东南亚纵横》,

期, 千)

4. Lý Na (2014), ―Bƣớc đầu tìm hiểu thơ xƣớng họa giữa sứ thần Việt Nam với

quan bạn tống nhà Thanh trong chuyến sứ năm 1849‖, Tạp chí Khoa học Học

viện Sư phạm Quảng Tây, (6), tr. 59-63.

年越南如清使臣与清朝伴送官唱和诗刍议》,《广西师范学院学报》, (《

年 月第 期, 千字)

5. Lý Na (2014), ―Tìm hiểu phƣơng pháp giao lƣu giữa sứ thần Trung Quốc với

quan chức tiếp sứ Việt Nam từ thế kỷ X-XVIII‖, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế

Nghiên cứu và Giảng dạy Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Trung Quốc lần thứ

IV, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 317-323.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Phạm Thị Ngọc Anh (2009), Tìm hiểu về thơ đi sứ của các nhà thơ trung đại

Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Vinh.

2. Đặng Xuân Bảng (2000), Việt sử cương mục tiết yếu, Tái bản, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

3. Sông Bằng biên soạn (1943), Việt Hoa thông sứ sử lược, NXB Quốc học Thƣ xã,

Hà Nội.

4. Nguyễn Thị Thanh Chung (2011), ―Chân dung tinh thần Nguyễn Văn Siêu trong

Phương Đình Vạn lí tập‖, Nghiên cứu Văn học (12), tr. 49-60.

5. Lý Xuân Chung (2009), Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng họa của các sứ

thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc, Luận án tiến sĩ Ngữ văn chuyên ngành Hán

Nôm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

6. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Phan Đăng dịch,

NXB Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Thừa Thiên Huế.

7. Lê Quý Đôn (2008), Kiến văn tiểu lục, Nguyễn Khắc Thuần dịch, NXB Giáo

dục Việt Nam, Hà Nội.

8. Nguyễn Thu Hiền (2012), ―Giá trị của Thiên Nam hành ký (Từ Minh Thiện)

trong nghiên cứu bang giao giữa triều Trần (1226-1400) và triều Nguyên

(1260-1368)‖, Thông báo Hán Nôm học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, tr.

273-277.

9. Học viện Quan hệ Quốc tế Việt Nam (2001), Những mẩu chuyện đi sứ và tiếp sứ

(Tài liệu lƣu hành nội bộ).

10. Đinh Gia Khánh (Chủ biên) (2010), Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ

XVIII, Tái bản, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

11. Phạm Thị Hƣơng Lan (2014), Nghiên cứu văn bản Tây Sơn bang giao tập, Luận

văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

152

12. Ngô Cao Lãng (1995), Lịch triều tạp kỷ (Hoa Bằng dịch, chú giải; Văn Tân hiệu

đính), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

13. Tạ Ngọc Liễn (1995), Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XV - đầu

thế kỷ XVI, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Thế Long (2001), Chuyện đi sứ, tiếp sứ thời xưa, NXB Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

15. Nguyễn Thế Long (2005), Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Công Lý (2013), ―Diện mạo thơ sứ trình trung đại Việt Nam và thơ đi

sứ của Nguyễn Trung Ngạn‖, Tạp chí Khoa học ĐHSPTPHCM (49), tr. 95-108.

17. Đặng Hồng Nam (1995), Tuyển thơ các vua Trần, Hội Văn học nghệ thuật Nam

Hà, Nam Hà.

18. Trần Nghĩa, Francois Gros (chủ biên) (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư

mục đề yếu, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

19. Nguyễn Ngọc Nhuận (1997), Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang

giao đi sứ của Phan Huy Ích, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm, Trung

tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Việt Nam.

20. Nguyễn Thị Thảo, Phạm Văn Thắm, Nguyễn Kim Oanh (1996), Sứ thần Việt

Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

21. Phạm Văn Thắm (2008), ―Giới thiệu văn bản An Nam tức sự của sứ thần nhà

Nguyên Trần Phu‖, Tạp chí Hán Nôm (3), tr. 60-64.

22. Phạm Thiều, Đào Phƣơng Bình (1993), Thơ đi sứ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

23. Nguyễn Thanh Tùng (2011), ―Vài nét về tình hình văn bản Hoàng Hoa sứ trình

đồ bản của Nguyễn Huy Oánh‖, Tạp chí Hán Nôm (1), tr. 23-30.

24. Viện Văn học - Ủy ban Khoa học Xã hội (1977), Thơ văn Lý - Trần, T. I, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

25. Viện Văn học - Ủy ban Khoa học Xã hội (1988), Thơ văn Lý - Trần, T.II, Q.

Thƣợng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

153

26. Viện Văn học - Ủy ban Khoa học Xã hội (1978), Thơ văn Lý - Trần, T. III, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

27. Viện Văn học – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Bản dịch thơ đi sứ

của sứ thần Việt Nam (Bản thảo viết tay, tài liệu lƣu hành nội bộ).

28. Trần Ngọc Vƣơng (Chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX: Những

vấn đề lý luận và lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.

29. Nguyễn Hoàng Yến (2015), ―Tổng quan tình hình nghiên cứu về các tác phẩm đi

sứ Trung Quốc của Việt Nam ở nƣớc ngoài‖, Tạp chí Khoa học Trường Đại học

Cần Thơ (36), tr. 64-73.

Hán Nôm:

30. (越)黎贵惇:《全越诗》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.132/1-4。

31. (越)黎贵惇:《北使通录》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.179。

32. (越)黎贵惇:《桂堂诗集》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.576。

33. (越)黎贵惇:《大越通史》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.1389。

34. (越)黎贵惇:《云台类语》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.141。

35. (越)黎文休、吴士连等:《大越史记全书》,陈荆和校注,东京大学东洋

文化研究所刊印,1986 年。

36. (越)阮春暄、陈名冧,(清)德保、顾汝修等《壬戍课使程诗集》,越南

河内汉喃研究院藏本,编号 VHv. 2597。

37. (越)《李文巴诗抄》,法国巴黎亚洲协会图书馆藏本,编号 MS. B20。

38. (越)《北书载南事》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.177。

39. (越)潘辉注:《历朝宪章类志》,越南河内汉喃研究院藏本,A. 1551/1-8。

40. (越)黎崱:《安南志略》,武尚清点校,北京中华书局,2008 年。

册,齐鲁 41. (越)黄公寘等:《南交好音》,《四库全书存目丛书》,集部

书社, 年。

42. (越)武檰等,《历代登科录》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 VHv.650/1-2。

43. 越南河内汉喃研究院与中国复旦大学文史研究院合编:《越南汉文燕行文献

集成》(越南所藏编),复旦大学出版社,2010 年。

154

44. (越)《大宗裴氏家谱》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A. 958。

45. (越)黎澄:《南翁梦录》,《丛书集成新编》第 册,史地类,台湾新文

丰出版公司, 年。

(越)阮文超:《方亭诗类》,越南河内汉喃研究所藏本,编号 A.188/1-2。

(越)阮文超:《方亭文类》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 VHv.839。

越)潘清简等:《钦定越史通鉴纲目》,台湾“国立中央图书馆”影印,

年。

49. (越)张登桂等:《大南实录》,日本庆应义塾大学重印本,1953 年。

50. (越)《国朝乡科录》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 VHv.1652/1-3。

51. (越)《册使诗话附杂录》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A. 1651。

52. (越)黄德良编:《摘艳诗集》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 VHv. 2573。

53. (越)裴辉璧编:《皇越诗选》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A. 3162/1-12。

54. (越)《邦交公馆对联》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.2261。

55. (越)裴文异:《雉舟酬唱集》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A. 1218。

56. (越)潘孚先编:《越音诗集》,越南河内汉喃研究院藏本,编 A. 1925 (Q1-3),

A. 3038 (Q4-6)。

57. (越)《洪德版图》,东洋文库,10v891。

58. (越)裴玉櫃:《燕臺婴话》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 VHv.2153。

59. (越)《吴家文派》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 VHv. 1743/1-36。

60. (越)黎统:《邦交录》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A. 614。

61. (越)《南北往来柬札》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.276。

62. (越)《邦交好话》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 VHv.1831。

63. (越)冯克宽:《梅岭使华诗集》,越南河内汉喃研究院藏本,编号 A.241。

Tiếng Trung:

64. (宋)赵汝适著,杨博文校释:《诸蕃志校释》,北京中华书局,1996 年。

年。

65. (宋)周去非:《岭外代答》,北京中华书局

(元)陈孚:《陈刚中诗集》,《景印文渊阁四库全书》第 册,台湾商

务印书馆发行, 年。

155

(元)徐明善《芳谷集》,《景印文渊阁四库全书》第 册 台湾商务印

书馆发行, 年。

68. (元)程文海:《雪楼集》,文渊阁四库全书第 1202 册,台湾商务印书馆,

台北,1986 年。

册,台 (元)傅与砺:《傅与砺诗文集》,《景印文渊阁四库全书》第

湾商务印书馆发行, 1986 年。

70. (元)许有壬:《至正集》,北京图书馆古籍珍本丛刊,1998 年。

(明)张以宁:《翠屏集》,鹭江出版社,2012 年 9 月。

(明)林弼:《林登州文集》,《景印文渊阁四库全书》第 册,台湾商

务印书馆发行, 1986 年。

(明)张弘至:《万里志》,《张东海先生集》,清康熙间 张氏重

刊本。参考中国书法论坛网页资料,据网上信息,该书台湾中研院史语所

傅斯年图书馆藏有一部。

(明)陈诚:《陈竹山先生文集》,江西省图书馆藏清雍正七年刻本,《四库

全书存目丛书》集部第 ,济南齐鲁书社, 年。

(明)章敞:《质菴章公诗文集》,《四库全书存目丛书》集部第 ,济南

齐鲁书社, 年。

(明)鲁铎:《鲁文恪公文集》,卷五使交稿,《四库全书存目丛书》 史部 第

册,济南齐鲁书社,中共中央党校图书馆藏明隆庆元年方梁刻本。

(明)李东阳,周寅宾点校:《李东阳集》,岳麓书社, 年。

(明)吴伯宗:《荣进集》,《景印文渊阁四库全书》第 册,台湾商务

印书馆发行, 年。

(明)黄福:《黄忠宣公文集》十三卷别集六卷,《四库全书存目丛书》 史

部 第 册,济南齐鲁书社;清华大学图书馆藏明嘉靖冯时雍刻本。

(明)黄福:《奉使安南水程日记》,《丛书集成新编》 第 册 史地类

台湾新文丰出版社。

(明)徐孚远:《交行摘稿》,《丛书集成新编》第 册,文学类,台湾新

文丰出版社,1985 年。

(明)孙承恩:《文简集》卷十三至卷二十六,《景印文渊阁四库全书》第

156

册,台湾商务印书馆发行, 年。

(明)湛若水:《湛甘泉先生文集》,广东巡府采进本,山西大学图书馆藏

清康熙二十年黄楷刻本。

(明)潘希曾:《竹涧集》,《四库全书》集部 ,台湾商务印书馆,

年。

(明)严从简:《殊域周咨录》,北京中华书局,2009 年。

86. (明)杨士奇:《东里续集》,文渊阁四库全书,台湾商务印书馆,台北,

1986 年。

87. (清)吴光:《使交集》,霜红龛诗抄,上海国学扶轮社印行,1993 年影印。

88. (清)李仙根:《安南使事纪要》四卷,《四库全书存目丛书》 史部第

册,齐鲁书社;北京图书馆藏清抄本, 年。

(清)周灿:《使交纪事》、《使交吟》,《四库全书存目丛书》集部 册,

济南齐鲁书社, 年。

(清)成文:《玉汝堂诗集》,《四库未收书辑刊》,第拾辑,十五册,北京

出版社, 年。

(清)大汕:《海外纪事》,余思黎点校,北京中华书局,2008 年。

(清)贾臻:《接护越南贡使日记》,《丛书集成三编》史地类,第 册,

台湾新文丰出版公司, 年。

(清)劳崇光:《劳崇光诗词》,越南河内汉喃研究所,藏书号 。

(清)傅恒著,殷伟等点校:《皇清职贡图》,广陵书社,2008 年 4 月。

95. (元)脱脱:《宋史》,北京中华书局,1977 年。

96. (明)宋濂:《元史》,北京中华书局,1976 年。

97. (清)张廷玉:《明史》,北京中华书局校点本,1974 年。

98. 《明实录》,台湾“中央研究院”历史语言所校印本,1962 年。

99. 《清实录》,日本东京大藏出版株式会社影印版。

100. (清)赵尔巽等:《清史稿》,北京中华书局点校本, 年版。

101. (清)谢启发:《(嘉庆)广西通志》,光绪十七年桂垣书局再补刻本,第

2464 页。

(清)陈焯:《宋元诗会》,文渊阁四库全书,台湾商务印书馆,台北,1986 年。

157

103. (清)钱谦益:《列朝诗集小传》,上海古籍出版社,1983 年。

104. (清)张景星:《元诗别裁》,北京中华书局,1975 年。

105. (清)顾嗣立《元诗选》,北京中华书局,1987 年。

106. (清)陈衍辑撰,李梦生校点:《元诗纪事》,上海古籍出版社,1987 年。

107. (明)陈子龙:《皇明诗选》,华东师范大学出版社,1991 年。

(清)沈德潜,周准:《明诗别裁集》,上海古籍出版社 年。

109. (清)陈田 《明诗纪事》,续修四库全书,集部,诗文评类,天津图书馆

藏清贵阳陈氏听诗斋刻本影印。

110. (清)周维德集校:《全明诗话》,济南齐鲁书社。

111. (清)汪森:《粤西诗载》,文渊阁四库全书,台湾商务印书馆,台北,1986 年。

112. (清)胡应麟:《诗薮》,上海古籍出版社,1979 年。

113. 傅璇崇等主编:《全宋诗》,北京大学出版社,1995 年。

114. 徐世昌:《晚晴簃诗汇》,北京中华书局, 年。

115. 章培恒等主编:《全明诗》,上海古籍出版社,1990 年 12 月第 1 版。

116. 钱仲联主编:《清诗纪事》,凤凰出版社,2004 年。

117. 黄国安等:《中越关系史简编》,广西人民出版社,1986 年。

118. 王德明等编:《古代咏物诗精选点评》,广西师范大学出版社, 年。

119. 谭其骧主编:《中国历史地图集》元明时期,地图出版社, 年。

120. 谭其骧主编:《中国历史地图集》清时期,地图出版社, 年。

121. 赵望秦、张焕玲著:《古代咏史诗通论》,中国社会科学出版社,

年。

122. 任文京:《中国古代边塞诗史》,人民出版社, 年。

123. 刘大杰:《中国文学发展史》,百花文艺出版社,2007 年。

124. 袁行霈:《中国文学概论》,北京大学出版社,2010 年。

125. 万事慎、万士志:《古体诗苑》上、下册,黄山书社,2009 年。

126. 潘明兴:《中国古代诗歌概观》,广西师范大学出版社,1992 年。

127. 王德明:《古代咏物诗精选点评》,广西师范大学出版社,1995 年。

128. 席金友:《诗词基本知识》,内蒙古出版社,1980 年。

158

Các công trình hoặc luận án, luận văn liên quan của học giả khác

129. 姜维东:《刘鸿训、杨道寅与<辛酉皇华集>》,《长春师范学院学报》,2011

年第 5 期,32-36 页。

130. 孟宪尧:《<皇华集>与明代中朝友好交流研究》,延边大学博士论文,2012 年。

131. 孟宪尧、孟小泸:《明代中朝使臣经行路线考——以<皇华集>较为集中的

吟咏胜地为中心》,《华北大学学报》,2012 年第 3 期,55-60 页。

132. 刘喜涛:《封贡关系视角下明代中朝使臣往来研究》,东北师范大学博士论

文,2011 年

133. 刁书仁、史桂荣:《20 世纪韩国、朝鲜、日本对古代中朝关系史研究成果

概述》,《东北史地》,2006 年第 1 期,79-82 页。

134. 廖肇亨:《从“搜奇猎异”到“休明之化”——由朱之蕃看晚明中韩使节文化书

写的世界图像》,原载《汉学研究》第 29 卷第 2 期,2011 年 6 月,现参考

《 文 学 遗 产 》 网 络 版 :

http://wxyc.literature.org.cn/journals_article.aspx?id=2381。

135. 张秀民:《安南书目提要》,北京图书馆馆刊,1996 年第 1 期,58-62 页。

136. 何宗美:《茶陵派形成时间新证——兼谈茶陵派研究的相关问题》,厦门广

播电视大学学报,2012 年 8 月,第 3 期,36-43 页。

137. 牛军凯:《王室后裔与叛乱者——越南莫氏家族与中国关系研究》 ,世

界图书出版公司, 年。

138. 刘玉珺:《越南汉喃古籍的文献学研究》,北京中华书局,2007 年。

139. 邓昌友:《宋代中越关系研究》,暨南大学博士学位论文, 年。

140. 马明达:《元代出使安南考》,《专门史论集》,暨南大学出版社 年。

141. 陈文源:《明朝与安南关系研究》,暨南大学博士学位论文, 年。

142. 陈文源:《明朝士大夫的安南观》,《史林》2008 年 4 月,113-119 页。

143. 孙宏年:《清代中越宗藩关系》,黑龙江教育出版社, 年。

144. 何仟年:《越南古典诗歌传统的形成——莫前诗歌研究》,扬州大学博士论

文,2003 年。

145. 刘玉珺:《中国使节文集考述——越南篇》,《首都师范大学学报》,

159

年 期, - 页。

146. 刘玉珺:《越南使臣与中越文学交流》,《学术研究》,2007 年第 1 期,142-146 页。

147. 张恩练:《使臣冯克宽与<梅岭使华诗集>研究》,暨南大学硕士论文,2011 年。

148. 陈保国:《视觉切换与形象重构:越南使臣视野中的大清帝国——以清代

越南使臣“入华行纪”为考察中心(1667-1880)》,中山大学博士后出站报告,

2011 年。

期, 年第 149. 严明:《越南古代七律诗初探》,《学术届》月刊,总第

期, - 页。

150. 王皓:《陈孚 交州稿 与元代的中越文化交流》,四川师范大学文学院古代

文学硕士论文, 年。

年》,暨南大学硕士 151. 王学伟:《明洪武时期出访安南使臣研究 -

学位论文, 年。

152. 于燕:《清代中越使节研究》,山东大学硕士论文, 年。

153. 秦凤:《明代松江府作家研究》,上海师范大学古代文学硕士学位论文,2006 年。

年第 期, 154. 牛军凯:《交行摘稿与徐孚远安南之行》,《亚太研究》,

- 页。

年 月,第 155. 陆小燕,叶少飞:《李觉使安南考》,红河学院学报,

期, - 页。

年 156. 杨富学:陈诚《与安南辨明丘温地界书》笺释,江西社会科学,

第 期, - 页。

年 157. 杨匡和:《 傅与砺诗集 版本源流考述》,南昌工程学院学报,

月第 期, - 页。

158. 李超:《元代新余诗人傅若金四题》,载《新余高专学报》,2009 年 6 月第

3 期,44-46 页。

159. 曹合社:《张以宁诗文研究》,苏州大学中国古代文学专业硕士学位论文,

2009 年。

160. 林明华:《从一首诗看古代中越文化交流》,东南亚研究杂志,1988 年第 3

期,55-58 页。

161. 于在照:《论越南汉诗的产生及演变》,解放军外国语学院学报,1999 年 9

160

月第 5 期,90-93 页。

年第 期, 162. 邓阿宁:《论唐代中日往来诗歌交流》,《重庆大学学报》,

- 页。

163. 陈越:《明代日本来使接待制度研究——以策彥周良的 初渡集 为例》,浙

江大学硕士学位论文, 年。

164. 薛明:《日本学界关于清代中前期中日关系史的研究》,《外国问题研究》,

年第 期, - 页。

165. 彭吉:《清代前期中日官方往来停顿原因及其影响》,武汉大学硕士学位论

文, 年。

166. (韩)林基中等主编:《燕行录全集》,韩国东国大学校出版部,2001 年。

167. 文庄:《中越关系两千年》,社会科学文献出版社,2013 年。

Tiếng Anh:

168. Liam C. Kelley (2005), Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the

Sino-Vietnamese Relationship, University of Hawaii press, Honolulu.

161

PHỤ LỤC

Phụ lục I: CÁC BẢNG BIỂU VỀ SỨ ĐOÀN VÀ TĐS

Bảng 2.2 Danh sách và sứ mệnh của các sứ đoàn Trung Quốc sang Việt Nam

a. Thời nhà Tống (Bắc Tống 960-1127, Nam Tống 1127-1279)

(Ghi chú: ngƣời thứ nhất là Chánh sứ, ngƣời thứ hai là Phó sứ)

Thứ tự

Thời gian

Tên sứ thần

Sứ mệnh

đi sứ

Vƣơng Chiếu Viễn, Dƣơng Trùng Mỹ

Quan cáo sứ (官告使)

1

973

Cao Bảo Tự, Vƣơng Ngạn Phù

Quan cáo sứ

2

975

Quốc tín sứ (國信使)

Lô Tập, Lô Đa Tốn

3

980

Trƣơng Tông Quyền

Quốc tín sứ

4

983

Lý Nhƣợc Chuyết, Lý Giác

Quốc tín sứ

5

986

Lý Giác

Quốc tín sứ

6

987

Ngụy Tƣờng, Lý Độ

Quốc tín sứ

7

988

Tống Cảo, Vƣơng Thế Tắc

Quốc tín sứ

8

990

Vƣơng Tắc Thuận, Lý Cƣ Giản

Quốc tín sứ

9

993

Lý Nhƣợc Chuyết

Quốc tín sứ

10

995

Lý Kiến Trung (Lý Nhƣợc Chuyết)

(Chuyển vận sứ Quảng

11

996

Tây)

Quốc tín sứ

Bùi Dũ

Giám cƣơng sứ (監綱使)

12

999

Thiệu Hoa

Yên phủ sứ (安撫使)

13

1005

Vƣơng Duy Chính

Tế viếng và phong vƣơng

14

1028

Chƣơng Tần

Tế viếng

15

1029

Trần Khâm Minh

Quốc tín sứ

16

1053

Tô Yên Thế

Tế viếng

17

1055

Khang Vệ

Tế viếng

18

1072

Doãn Đông Cƣ

Tế viếng

19

1130

Chu Thị

Tế viếng

20

1138

Liêu Cừ

Tế viếng

21

1173

Trúc Đoan

Quản áp sứ

22

1197

Trần Khổng Thạc

Tế viếng

23

1212

Liêu Dƣơng Tôn

Quốc tín sứ

24

1258

Quốc tín sứ

25

Dƣơng Khánh Thành

1258

Nguồn tƣ liệu: Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà Tống với Việt Nam.

162

b. Thời Nguyên Mông(năm 1257-1368) Thứ tự

Tên sứ thần

Sứ mệnh

Thời gian đi sứ

Khuyết danh Na Lạt Đinh Mạnh Giáp, Lý Văn Tuấn Na Tộc Lạt Đinh Na Lạt Đinh Ninh Đoan Phủ, Trƣơng Lập Đạo Hốt Long Hải Nha, Trƣơng Đình Trân Trƣơng Lập Đạo

1257 1258 1260 1261 1262 1267 1268 1271

1 2 3 4 5 6 7 8

Không rõ Tuyên dụ宣谕 Tuyên dụ Sách phong Không rõ Không rõ Không rõ Tuyên bố dựng Quốc hiệu Đại Nguyên (大元) Không rõ

1272

9

Chiếu vua Trần vào chầu Chiếu vua Trần vào chầu

1275 1278

10 11

Diệp Thị Niết, Lý Nguyên, Hợp Tát Nhi Hải Nha Hợp Tát Nhi Hải Nha, Lý Khắc Trung Sài Thung, Ha Lạt Thoát Nhân, Lý Khắc Trung, Đổng Đoan Sài Thung, Lƣơng Tăng, Lý Khắc Trung

1279

12

Sài Thung, Lý Chấn

1281

13

Triệu Giã, Đào Bỉnh Trực

1283

14

Hợp Tát Nhi Hải Nha Diệc Mã Lạt Đan Đặc Hốt Lý

1285 1286

15 16

Chiếu vua Trần vào chầu, Trần Di Ái sang chầu Hộ tống Trần Di Ái về An Nam Xin đƣờng An Nam đi vào Chiêm Thành Chiếu dụ Hộ tống Trần Ích Tắc về An Nam Chiếu dụ vua Trần vào

1288

17

Lƣu Đình Trực, Lý Tƣ Diễn, Vạn Nô, Từ Minh Thiện Trƣơng Lập Đạo, Oai Đầu Lƣơng Tăng, Trần Phu

1291 1292

18 19

Lý Diễn, Tiêu Thái Đăng

1294

20

1301

Mã Hợp Mã, Kiều Tông Lƣợng

21

A Lý Khôi, Lý Kinh, Cao Phục Lễ

1308

22

Nãi Mã Đãi, Nhiếp Cổ Bạch, Đỗ Dữ Khả

1311

23

Giáo Hóa, Văn Cự

1321

24

1324 1332

25 26

chầu Không rõ Chiếu dụ vua Trần vào chầu Chiếu dụ vua Trần vào chầu Chiếu dụ vua Trần vào chầu Tuyên bố vua mới lên ngôi Tuyên bố vua mới lên ngôi Tuyên bố vua mới lên ngôi Không rõ Tuyên bố vua mới lên ngôi

Mã Hợp Mạc, Dƣơng Tông Thụy Tát Lý Ngõa, Triệu Kỳ Di (khoảng trong năm 1333-1334, Nguyên sứ Hoàng Thƣờng sang, đƣợc ghi trong Nam Ông mộng lục) Thiếp Trụ, Trí Hi Thiện, Phó Dữ Lịch

27

1335

Tuyên bố vua mới lên ngôi

Nguồn tƣ liệu: Khảo cứu về thời nhà Nguyên cử sứ đoàn sang Việt Nam

163

c. Thời nhà Minh(năm 1368-1644) Thứ tụ Thời gian đi

Tên sứ thần

Sứ mệnh

sứ

Lƣu Sán, Dịch Tế

1368

1

Chiếu dụ, tuyên bố Quốc

Trƣơng Dĩ Ninh, Ngƣu Lƣợng

2

hiệu Minh Sách phong

La Phúc Nhân, Trƣơng Phúc

3

Vƣơng Liêm, Lâm Đƣờng Thần

4

Hòa giải quan hệ giữa An Nam và Chiêm Thành Tế viếng và sách phong

Không rõ

5

Ban chiếu thƣ về khoa cử

Diêm Nguyên Phúc

Tế núi cao ở Việt Nam

6

Không rõ

7

Tháng 6-1369 Tháng 12-1369 Tháng 4-1370 Tháng 5-1370 Tháng 6-1370 Tháng 6-1370 1377年

8

Ban chiếu thƣ về bình định sa mạc Báo về nội dung nạp cống

Ngô Bá Tông, Lâm Đƣờng Thần, Cao Đạt Thiện 1378 Trần Năng tháng 2-1379 Không rõ

9 10

Tế viếng vua Trần Ban nghi chú cử sứ thần

đi nƣớc ngoài

Không rõ

11

Dụ An Nam và Chiêm

Thành đình chiến

Tháng 12-1379 1384

Dƣơng Bàn, Hứa Nguyên

12

thực An

Không rõ Lâm Bột

13 14

1385 Tháng 2-1386 1386

Lý Anh

15

Hình Văn Bá

16

Trƣng lƣơng Nam giúp Vân Nam Đòi 20 tăng nhân Đòi giống hoa quả lạ ở miền Nam Đòi 50 con voi, cung cấp lƣơng thảo cho Vân Nam Ban vải lụa, thêu cho vua

Đỗ Tử Hiền, U Lân

17

Trần Sách phong

Dƣơng Tĩnh

18 19

Tháng 3-1388 Tháng 12-1388 tháng 8-1395 Nhiệm Hanh Thái, Nghiêm Trấn Trực tháng 10-1395

Không rõ

1395

20

Chiếu dụ Dụ An Nam cung cấp quân lƣơng cho Long Châu Đòi tăng nhân, mát xoa

nữ

Trần Thành, Lã Nhƣờng Không rõ

1396 1402

21 22

Dụ vua Trần trả đất Tuyên bố vua mới lên

năm

Dƣơng Bột

23

ngôi Tế viếng

24

8-

Lã Nhƣờng, Khƣu Trí

Ban tặng cho An Nam

11

Hạ Chỉ Thiện

25

Sách phong

8-

Không rõ

26

Đầu 1403 Tháng 1403 Tháng nhuận- 1403 Tháng 1404

Dụ ngừng chiến với Chiêm Thành và Phủ Tƣ Minh Quảng Tây

1-

Lý Kỳ, Vƣơng Khu

27

2-

Nhiếp Thông

28

Dụ để rƣớc Trần Thiêm Bình về Bàn về đất Châu Ninh

Viễn của Vân Nam

Tháng 1405 Tháng 1405 1426

Sơn Thọ

29

1428

La Nhữ Kính, Hoàng Ký, Từ Vĩnh Đạt

30

Bổ nhiệm Lê Lợi làm Tri phủ Thanh Hóa Chiếu dụ và xác nhận sự thật

164

31 32

1429 1431

Từ Kỳ, Từ Vĩnh Đạt, Trƣơng Thông Chƣơng Thƣởng, Từ Kỳ

33 34 35

1433 1434 1436

Từ Kỳ Quách Tế, Chu Bật Lý Uất, Nại Hanh

36 37

1437 1442

Thang Đỉnh, Cao Dần Chƣơng Thƣởng, Hầu Tiến

38

1443

Chiếu dụ Lê Lợi Phong Lê Lợi Quyền An Nam Quốc sự Chiếu dụ Tế viếng Lê Lợi Phong Lê Lân Quyền Quốc vƣơng Đòi trả đất Sách phong An Nam Quốc vƣơng Tế viếng và sách phong

39 40 41 42 43

1450 1452 1460 1461 1462

Trình Kính Tống Kiệt, Tuyết Khiêm Biên Vĩnh Trần Kim, Quách Trọng Nam Doãn Mân, Vƣơng Dự Vƣơng Dụ Tiền Phổ, Vƣơng Dự Sài Thăng, Trƣơng Vinh

44 45 46 47 48

Lăng Tín, Thiệu Trấn Nhạc Chƣơng, Trƣơng Đình Cƣơng Lƣu Giản, Lã Hiến Thẩm Tƣờng, Đổng Thìn Từ Ngọc

Chiếu dụ Tuyên bố lập Thái tử Phong vƣơng Tế viếng Sách phong Lê Thánh Tông và Thu mua hƣơng liệu Tuyên bố lên ngôi Tuyên bố lập thái tử Chiếu dụ Tuyên bố lập Thái tử Tế viếng Lê Thánh Tông

49

Lƣơng Sừ, Vƣơng Chẩn

Phong Lê Huy An Nam

Quốc vƣơng

50

1465 1476 1487 1492 Tháng 11-1498 Tháng 12-1498 1505

Thẩm Đào, Hứa Thiên Tích

51

1506

Lỗ Đạc, Trƣơng Hồng Chí, Luân Văn Tự

52 53

1512 1522

54

1607

Trạm Nhƣợc Thủy, Phan Hy Tăng Tôn Thừa Ân, Dụ Đôn (chỉ đi sứ đến Long Châu, không vào đƣợc) Phạm Quang Dụ

55 56

1647 1658

Phan Kỳ, Lý Dùng Ấp Từ Phu Viễn, Hoàng Thần Dĩ, Trƣơng Hằng Vũ

Phong Lê Nghị An Nam Quốc vƣơng Võ Tông lên ngôi, chiếu dụ Phong Uy Mộc vƣơng Thế Tông lên ngôi, chiếu dụ Đƣa tuế cống sứ Việt Nam về nƣớc Phong vƣơng Duy Kỳ Xin đƣờng sang Vân Nam

Nguồn tƣ liệu: Nghiên cứu về Quan hệ triều Minh và An Nam

165

d. Thời nhà Thanh (năm 1644-1793)

Thứ tự Thời gian đi sứ

Tên sứ thần

Sứ mệnh

Ngô Quang, Chu Chí Viễn

Viếng Lê Duy Kỳ

1664

1

Trình Phƣơng Triều, Trƣơng Dịch

Phong vƣơng Duy Hỉ

1667

2

Bôn

Lý Tiên Căn

Điều giải vua Lê và đốc thống

1669

3

Mạc

Ô Hắc, Chu Sán

Viếng Duy Hỉ, Duy Định,

1683

4

Minh Đồ, Tôn Trác

Phong vƣơng Duy Chính

5、

1719

Đặng Đình Cát, Thành Văn

Phong vƣơng Duy Đào, Tế viếng

Hi Tông

Hàng Dực Lộc, Nhậm Lan Chi

Giải quyết tranh chấp biên giới

1728

6

Xuân Sơn, Lý Học Dụ

Viếng Dụ Tông, phong vƣơng

1734

7

Duy Cổ

Tùng Thọ, Trần Diễm

Viếng Thuần Tông, phong vƣơng

1737

8

Duy Y

Đức Bảo, Cố Nhữ Tu

Viếng Dực Tông, phong vƣơng

1761

9

Duy Thụy

Tôn Sĩ Nghị

Phong vƣơng Duy Kỳ

1788

10

Thành Lâm

Phong vƣơng Quang Trung

1789

11

Thành Lâm

Viếng Quang Trung, phong

1793

12

vƣơng Quang Toản

166

Bảng 3.1. Tình hình mất còn của Sứ Giao tập các triều

Thời Tống Nguyên: STT Sứ thần

Tình hình lƣu trữ Mất Mất Mất Mất Còn

1 Lý Độ 2 Đoàn Tín Thi 3 4 5

Trƣơng Lập Đạo Lý Khắc Trung Từ Minh Thiện

Trần Phu Tiêu Thái Đăng

Tác phẩm Phụng sứ Nam du tập 奉使南游集 Chinh hành tập 征行集 An Nam lục 安南录 Di An Nam thư 移安南书 An Nam kỷ hành 安南纪行 Cũng gọi Thiên Nam hành kỷ 天南行纪 Giao Châu cảo 交州稿 Sứ Giao lục 使交录 Nguyên chinh sứ Giao lục 元征使交录 An Nam hành kỷ 安南行纪 An Nam hành cảo 安南行稿 Nam chinh cảo 南征稿

6 7 8 Hà Trung 9 Văn Cự 10 Trí Hi Thiện 11

Phó Dữ Lệ

Còn Mất Mất Mất Mất Mất, rải rác trong văn tập khác

Thời nhà Minh: 1 Trƣơng Dĩ Ninh

An Nam kỉ hành tập 安南纪行集

2 Vƣơng Liêm 3 Lâm Đƣờng Thần

Nam chinh lục 南征录 Sứ An Nam tập 使安南集

4 Ngô Bá Tông

Sứ Giao tập 使交集

5 Nhâm Hanh Thái 6 Hoàng Phúc

Mất, rải rác trong Thúy Bình tập Mất Mất, rải rác trong Lâm Đăng Châu tập Mất, rải rác trong Vinh Tiến tập Mất Còn

7 Hoàng Giản 8 Tiền Phổ 9 Lã Hiến 10 Lỗ Đạc 11 Trƣơng Hoằng Chí 12 Tôn Thừa Ân

Sứ Giao cảo 使交稿 Phụng sứ An Nam thủy trình nhật ký 奉使安南水程日记 Sứ Nam cảo 使南稿 Sứ Giao lục 使交录 Sứ Giao cảo 使交稿 Sứ Giao cảo 使交稿 Vạn lý chí 万里志 Sứ Giao kỷ hành 使交纪行

13 Trạm Nhƣợc Thủy

Nam Giao phú 南交赋

Giao hành trích cảo 交行摘稿

Mất Mất Mất Còn Còn Mất, rải rác trong Văn Giản tập Mất, rải rác trong Trạm Cam Tuyền văn tập Còn

14 Từ Phu Viễn Thời nhà Thanh: 1 Ngô Quang 2 Lý Tiên Căn

Còn Còn

3 Dƣơng Triệu Kiệt 4 Chu Xán

Mất Còn

5 Đặng Đình Trạch

Sứ Giao tập 使交集 An Nam sứ sự kỷ yếu, An Nam tạp ký 安南使事纪要,安南杂记 Nhật Nam ký sự 日南记事 Sứ Giao kỷ sự 使交纪事, Sứ Giao ngâm 使交吟 Hoàng hoa thi thảo 皇华诗草

Mất

167

Bảng 3.4 Thống kê số bài TĐS Việt Nam của sứ thần Trung Quốc

Thời Tống Nguyên

Năm đi sứ

Sứ thần

TĐS TXH Hiện lƣu trữ trong văn tập

986

Lý Giác

1

ĐVSKTT, Thơ văn Lý - Trần

2

1267, 1271,

Trƣơng Lập Đạo

ANCL

1

1291

1279, 1292

Lƣơng Tăng

ANCL

1

Lý Tƣ Diễn

ANCL, Toàn Tống thi

5

1288

Từ Minh Thiện

ANCL, Nguyên thi tuyển

2

1288

Trần Phu

106

1

Trần Cương Trung thi tập, ảnh ấn Văn

1292

Uyên Các Tứ khố toàn thư

Lý Khán

ANCL

1

1294

Tiêu Thái Đăng

ANCL

1

1

1294

Lý Kinh

ANCL

1

1

1308

Đỗ Dữ Khả

ANCL

1

1311

Văn Cự

ANCL

3

1

1321

Dƣơng Tông Thụy

ANCL

1

2

1324

Triệu Kỳ Di

ANCL

1

1

1332

1333-1334

Hoàng Thƣờng

Nam Ông mục lục, Việt Hoa thông sứ,

2

Sơn Cư tạp thuật

Trí Hi Thiện

ANCL

1

1335

Phó Nhƣợc Kim

2

Phó Dữ Lệ thi tập, ảnh ấn Văn Uyên

98

1335

Các TKTT, Sơn cư tạp thuật

168

Thời nhà Minh:

Năm đi sứ

Sứ thần

TĐS TXH Hiện lƣu trữ trong văn tập

Trƣơng Dĩ Ninh

Thúy Bình tập, khâm định TKTT

1369

84

Ngƣu Lƣợng

1

Thúy Bình tập, ĐVSKTT

1369

2

1370, 1377

Lâm Đƣờng Thần

Lâm Đăng Châu tập, khâm định TKTT

95

1377

Ngô Hữu

Vinh tiến tập, ảnh ấn Văn Uyên các

3

TKTT

Quảng Tây thông chí

1395

Nhâm Hanh Thái

1

Minh thi tông

1395

Nghiêm Trấn Trực

2

Trần Trúc Sơn tiên sinh văn tập, TKTT

1396

Trần Thành

7

tồn mục tùng thư

1406

Hoàng Phúc

Hoàng Trung Tuyên công văn tập,

20

khắc bản thời Gia Tĩnh nhà Minh

1431, 1442

Chƣơng Sƣởng

Chất Am Chương công thi văn tập, sao

59

bản thời nhà Thanh

Minh thi tông

1431, 1433

Từ Kỳ

1

Bang giao lục, VNCHN A.614

1462

Tiền Phổ

11

Mạng internet

1487

Lƣu Cẩn

1

Lỗ Văn Khác công văn tập, khắc bản

1506

Lỗ Đạc

92

thời Long Khánh nhà Minh

1506

Trƣơng Hoằng Chí

146

6

Mạng internet

1506

2

Hứa Thiên Thích

ĐVSKTT, Minh thi tông

1512

27

Trạm Nhƣợc Thủy

2

ĐVSKTT, Trạm Cam Tuyền tiên sinh

văn tập

1512

Phan Hy Tăng

46

2

ĐVSKTT, Trúc Gián tập, khâm định

TKTT

1522

Tôn Thừa Ân

140

Văn Giản tập, ảnh ấn Văn Uyên Các

TKTT

1658

Từ Phu Viễn

55

Tùng thư tập thành tân biên

169

Thời nhà Thanh:

Năm đi sứ

Sứ thần

TĐS TXH Hiện lƣu trữ trong văn tập

1664

Ngô Quang

123

Gia Nghiệp Đƣờng Ngô Hƣng Lƣu thị

khắc bản

1683

Chu Xán

48

6

Nguyện Học Đường tập, khâm định

TKTT, khắc bản thời Khang Hy

1728

Nhâm Lan Chi

4

Vãn tình di thi hội, Thanh thi kỷ sự

1761

Đức Bảo

17

43

Nhâm Tuất khóa sứ trình thi tập,

KVTL, Bắc sứ thông lục, Quế Đường

thi tập

1761

Cố Nhữ Tu

12

Nhƣ của Đức Bảo

170

Phụ lục II: TUYỂN DỊCH MỘT SỐ BÀI TĐS VÀ TXH

I. THƠ THỜI NHÀ NGUYÊN 1. 傅與礪 PHÓ DỮ LỆ

Bài 1/1:

公事畢重發京師 Việc công hoàn tất lại xuất phát từ Kinh Thành

故人送別古城頭, Cố nhân tống biệt cổ thành đầu, 已去重來不敢留, Dĩ khứ trùng lai bất cảm lƣu. 司馬舊為持節使, Tƣ Mã cựu vi trì tiết sứ, 洪喬今作置書郵。 Hồng Kiều kim tác trí thƣ bƣu. 路蟠冀魏通江漢, Lộ bàn Kí Ngụy thông Giang Hán, 山盡荊吳入鬥牛。 Sơn tận Kinh Ngô nhập đấu ngƣu. 却到日南應萬里, Khƣớc đáo Nhật Nam ƣng vạn lý, 早春還憶鳳凰樓。 Tảo xuân hoàn ức Phƣợng Hoàng lâu.

Dịch nghĩa:

Bạn bè tiễn biệt ở đầu thành cổ, Đã đi rồi lại về không dám ở lại. Tư Mã Tương Như xưa từng cầm cờ tiết đi sứ, Hồng Kiều hôm nay làm việc đưa thư. Đường vòng qua Hà Bắc lại thông sang Trường Giang Hán Thủy, Núi hết nước Sở nước Ngô lại đến Lưỡng Quảng. Đi đến Nhật Nam dài vạn dặm, Đầu xuân vẫn còn nhớ lầu phượng hoàng.

Bài 2/2:

馬上 Trên ngựa

四牡光華照早秋, Tứ mẫu quang hoa chiếu tảo thu, 路人傳看使交州。 Lộ nhân truyền khán sứ Giao Châu. 青雲北起飛龍闕, Thanh vân bắc khởi phi long khuyết, 白日西明洗馬溝。 Bạch nhật tây minh Tẩy Mã câu. 山上浮圃兵後石, Sơn thƣợng phù phố binh hậu thạch, 道邊斤堠古時丘。 Đạo biên cân hầu cổ thì khâu. 據鞍欲訪前朝業, Cứ yên dục phỏng tiền triều nghiệp, 沙草微范水自流。 Sa thảo vi phạm thủy tự lƣu.

Dịch nghĩa:

Xe sứ thần rực rỡ soi sáng mùa thu, Người đi đường ngắm nhìn sứ thần đi Giao Châu. Mây xanh bay từ nơi Kinh thành, Ánh nắng mặt trời chiếu sáng ngòi Tẩy Mã. Vườn rừng trên núi và hòn đá sau binh lính, Đồn binh bên đường là đồi núi xưa. Lên ngựa muốn đi thăm sự nghiệp các triều đại trước, Cỏ mọc xanh tươi nước cứ mãi chảy trôi.

171

Bài 3/3:

將歸 Sắp về

道路南馳遠, Đạo lộ Nam trì viễn,

山河北望深。 Sơn hà Bắc vọng thâm.

班超晚投筆, Ban Siêu vãn đầu bút,

楊震夜辭金。 Dƣơng Trấn dạ từ kim

事徃徒勞問, Sự vãng đồ lao vấn,

詩成隻自吟。 Thi thành chích tự ngâm.

昔人閒倚柱, Tích nhân nhàn ỷ trụ

誰謝此時心。 Thùy tạ thử thì tâm.

Dịch nghĩa:

Đường đi hướng Nam xa xôi, Đoái trông về Bắc núi cao sông sâu. Ban Siêu chiều muộn quăng bút tòng quân, Dương Trấn đêm khuya chối từ vàng biếu. Chuyện đã qua không hỏi làm gì, Thơ làm xong chỉ tự ngâm. Người xưa nhàn rỗi tựa cột, Ai tạ ơn tấm lòng khi ấy.

Bài 4/4:

却侍姬 Từ chối Người đẹp hầu hạ

夜宿安南天使館, Dạ túc An Nam Thiên Sứ quán,

主人供帳爛相輝。 Chủ nhân cung trƣớng lạn tƣơng huy.

寶香燼起風過席, Bảo hƣơng tận khởi phong quá tịch,

銀燭花偏月照幃。 Ngân chúc hoa thiên nguyệt chiếu vi.

王母謾勞青鳥至, Vƣơng Mẫu mạn lao thanh điểu chí,

172

文簫先放彩鸞歸。 Văn Tiêu tiên phóng Thái Loan quy.

書生自是心如鐵, Thƣ sinh tự thị tâm nhƣ thiết,

莫遣行雲亂濕衣。 Mạc khiển hành vân loạn thấp y.

Dịch nghĩa:

Đêm nghỉ ở Thiên sứ quán An Nam, Chủ nhà thu xếp chăn màn sáng sủa. Hương bay theo gió thổi qua giường, Nến bạc sáng lại thêm trăng soi. Vương Mẫu uổng công sai chim xanh bay đến, Văn Tiêu thả cho chim Thái Loan bay về. Thư sinh vốn đã có ý chí sắt đá, Đừng khiến mây mưa tứ tung kẻo ướt cả xiêm y.

2. TỪ MINH THIỆN

Bài 1/5:

席上口占 Khẩu chiếm trên tiệc

乘傅入南中, Thừa truyền nhập Nam trung,

雲章照海紅。 Vân chƣơng chiếu hải hồng.

天邊龍虎氣, Thiên biên long hổ khí,

南徼馬牛風。 Nam khiếu mã ngƣu phong.

日月入荒燭, Nhật nguyệt nhập hoang chúc,

車書萬里同。 Xa thƣ vạn lý đồng.

丹青入王會, Đan thanh nhập vƣơng hội,

茅土胙無窮。 Mao thổ tộ vô cùng.

Dịch nghĩa:

Đi thuyền vào An Nam,

Ráng chiều chiếu đỏ rực biển cả.

Chân trời có khí thế của rồng và hổ,

Nước Nam có ngựa và trâu.

Mặt trời mặt trăng cùng chiếu sáng xứ hoang xa,

―Xa thư‖ dù cách xa vạn dặm nhưng đều giống nhau.

Một lòng trung thành dự tiệc vua,

Nhà tranh vách đất có tiệc linh đình.

3. TRẦN PHU

Bài 1/6:

173

安南即事 An Nam tức sự

聖德天無外, Thánh đức thiên vô ngoại,

恩光燭海隅。 Ân quang chúc hải ngung.

遂頒南越詔, Toại ban Nam Việt chiếu,

載命北門儒。 Tải mệnh Bắc môn nho.

萬裏秋持節, Vạn lý thu trì tiết,

千軍夜執殳。 Thiên quân dạ chấp thù.

前驅嚴弩矢, Tiền khu nghiêm nỗ thỉ,

後釁擁樵蘇。 Hậu hấn ủng tiều tô.

睠彼交州域, Quyến bỉ Giao Châu vực,

初為漢氏區。 Sơ vi Hán thị khu.

樓船征既克, Lâu thuyền chinh kí khắc,

征側叛還誅。 Trƣng Trắc bạn hoàn tru.

五代頹王紐, Ngũ đại đồi vƣơng nữu,

諸方裂霸圖。 Chƣ phƣơng liệt bá đồ.

遂令風氣隔, Toại lệnh phong khí cách,

頓覺版章殊。 Đốn giác bản chƣơng thù.

丁璉前猖獗, Đinh Liễn tiền xƣơng quyết,

黎桓後覬覦。 Lê Hoàn hậu kí du.

一朝陳業搆, Nhất triều Trần nghiệp cấu,

八葉李宗伹。 Bát diệp Lý tông thƣ.

下俗澆浮甚, Hạ tục kiêu phù thậm,

中華禮樂無。 Trung Hoa lễ nhạc vô.

諱嫌訛氏阮, Húy hiềm ngoa thị Nguyễn,

托制僭稱孤。 Thác chế tiếm xƣng cô.

祭祀宗祊絕, Tế tự tông banh tuyệt,

婚姻族屬汙。 Hôn nhân tộc thuộc ô.

尊卑雙跣足, Tôn ty song tiển túc,

老幼一圓顱。 Lão ấu nhất viên lô.

陟嶠輕于鹿, Trắc kiều khinh vu lộc,

泅波疾似鳧。 Tù ba tật tự phù.

斜鉤青繒帽, Tà câu thanh tăng mạo,

曲領黑羅襦。 Khúc lĩnh hắc la nho.

語笑堂前燕, Ngữ tiếu đƣờng tiền yến,

趨蹌屋上烏。 Xu thƣơng ốc thƣợng ô.

抵鴉身偃豕, Để nha thân yển thỉ,

174

羅我背拳狐。 La ngã bối quyền hồ.

寺號千齡陋, Tự hiệu thiên linh lậu,

州名萬劫愚。 Châu danh Vạn Kiếp ngu.

笙簫圍醜妓, Sênh tiêu vi xú kỹ,

牢醴祀淫巫。 Lao lễ tự dâm vu.

國尉青盤護, Quốc úy thanh bàn hộ,

軍掫白梃驅。 Quân trâu bạch đỉnh khu.

閱條親獄訟, Duyệt điều thân ngục tụng,

明字掌機樞。 Minh tự chƣởng cơ xu.

勃窣官中客, Bột suất quan trung khách,

鬅鬙座上奴。 Bằng tăng tọa thƣợng nô.

臺章中贊糾, Đài chƣơng trung tán cƣu,

邑賦大僚輸。 Ấp phú đại liêu thâu.

吏榷檳榔稅, Lại xác tân lang thuế,

人收安息租。 Nhân thu an tức tô.

黃金刑莫贖, Hoàng kim hình mạc thục,

紫葢律難踰。 Tử cái luật nan du.

安化橋危矣, Yên Hóa kiều nguy hĩ,

明靈閣岌乎。 Minh Linh các ngập hồ.

曲歌歎時世, Khúc ca thán thờì thế,

樂奏入皇都。 Nhạc tấu nhập hoàng đô.

龍蘂常穿壁, Long nhị thƣờng xuyên bích,

蔞藤不離盂。 Lâu đằng bất ly vu.

玳簪穿短髮, Đại trâm xuyên đoản phát,

蟲紐刻頑盧。 Trùng nữu khắc ngoan lô.

有室皆穿竇, Hữu thất giai xuyên đậu,

無床不尚爐。 Vô sàng bất thƣợng lô.

星華舟作市, Tinh hoa châu tác thị,

花福水為郛。 Hoa phúc thủy vi phù.

突兀山分臘, Đột ngột sơn phân lạp,

汪茫浪注瀘。 Uông mang lãng chú lô.

鼠關林翳密, Thử quan lâm ế mật,

狼塞澗縈紆。 Lang tái giản oanh vu.

士燮祠將壓, Sĩ Nhiếp từ tƣơng áp,

高駢塔未蕪。 Cao Biền tháp vị vu.

鐵船波影見, Thiết thuyền ba ảnh kiến,

175

銅柱土痕枯。 Đồng trụ thổ ngấn khô.

墟落多施榻, Khƣ lạc đa thi tháp,

巔崖屢變途。 Điên nhai lũ biến đồ.

千艘商斥鹵, Thiên sƣu thƣơng xích lỗ,

四穫粒膏腴。 Tứ hoạch lạp cao du.

短短桑苗圃, Đoản đoản tang miêu phố,

叢叢竹刺衢。 Tùng tùng trúc thứ cù.

牛蕉垂似劔, Ngƣu tiêu thùy tự kiếm,

龍荔綴如珠。 Long lệ xuyết nhƣ châu.

寶斚羅鸚鵡, Bảo giác la anh vũ,

名香屑鷓鴣。 Danh hƣơng tiết giá cô.

揭旌圖鬼像, Yết tinh đồ quỷ tƣợng,

擊柝聚兵徒。 Kích thác tụ binh đồ.

鼻飲如瓴甋, Tị ẩm nhƣ linh bộ,

頭飛似轆轤。 Đầu phi tự lộc lô.

蚺皮為鼓擊, Nhiễm bì vi cổ kích,

蝦鬣作笻扶。 Hà liệp tác cùng phù.

家必烹蛇虺, Gia tất phanh xà hủy,

人能幻虎貙。 Nhân năng ảo hổ khu.

魚鱗簷粲瓦, Ngƣ lân thiềm sán ngõa,

鵲尾海浮桴。 Thƣớc vĩ hải phù phù.

水弩含沙擲, Thủy nỗ hàm sa trịch,

山(反犬旁+參)出穴麄。Sơn sâm xuất huyệt thô.

鱷魚鳴霹靂, Ngạc ngƣ minh tích lịch,

蜃氣吐浮屠。 Thận khí thổ phù đồ.

寓縣傷分阻, Ngụ huyện thƣơng phân trở,

生靈困毒痛。 Sinh linh khốn độc thống.

舞階猶未格, Vũ giai do vị cách,

折簡豈能呼。 Chiết giản khỉ năng hô.

大社初傳祃, Đại xã sơ truyền mã,

轅門合受俘。 Viên môn hợp thụ phù.

貔貅微偃戢, Tì hƣu vi yển trấp,

蛇豕偶逃逋。 Xà thỉ ngẫu đào bô.

天已殂渠惡, Thiên dĩ tồ cừ ác,

民猶奉僭雛。 Dân do phụng tiếm sô.

勢如純據隴, Thế nhƣ thuần cứ lũng,

176

政似皓亡吳。 Chính tự hạo vong Ngô.

鳳劄重宣令, Phƣợng trát trùng tuyên lệnh,

狼心更伏辜。 Lang tâm cánh phục cô.

幸能寬斧鑕, Hạnh năng khoan phủ chất,

猶自戀泥塗。 Do tự luyến ni đồ.

獻頌尊天子, Hiến tụng tôn thiên tử,

騰章遣大夫。 Đằng chƣơng khiển đại phu.

象鞮言可訂, Tƣợng đê ngôn khả đính,

蠹冊事非誣。 Đố sách sự phi vu.

功欲收邊徼, Công dục thu biên kiếu,

威須仗廟謨。 Uy tu trƣợng miếu mô.

沐薰陳此什, Mộc huân Trần thử thập,

禮部小臣孚。 Lễ bộ tiểu thần Phu.

Dịch nghĩa:

Đức thánh của vua Nguyên không phân biệt nội ngoại, ân trạch phổ cập cả góc biển.

Chiếu thư gửi đến tận nước Nam, sứ mệnh này do nho sĩ nước Bắc đảm nhiệm.

Cầm cờ tiết đi sứ vạn dặm, quân phu tối cũng phải trực ca.

Quân đi trước cầm cung nỏ, người đi sau thì khiêng kiệu.

Sứ Giao Châu này, trước đây thuộc về nhà Hán.

Khi Trưng Trắc nổi dậy, đã bị Lâu thuyền tướng quân Mã Viện đánh dẹp.

Thời Ngũ đại vua chúa không tài, làm cho các chư hầu chia cắt bá nghiệp.

Đã làm cho phong khí bị ngăn cách, nên bản đồ thay đổi và khác xưa.

Lúc đầu là Đinh Liễn điên cuồng, sau đó là Lê Hoàn cướp ngôi.

Khi nhà Trần dựng lên, là kết thúc tám đời nhà Lý.

Phong tục đạm bạc và nông nổi, mất đi lễ nhạc Trung Hoa.

Vì kiêng húy nên đổi họ Nguyễn, cướp ngôi lại xưng là phù trợ vua mồ côi.

Mất cả tế viếng và đền miếu, hôn nhân hỗn loạn luôn.

Giàu nghèo đều đi chân đất, già trẻ đều để túm tóc trên đầu.

Đi bộ nhanh nhẹn như con hươu, bơi lặn nhanh như chim bay.

Đội mũ cài chéo màu xanh, áo lụa có cổ màu đen.

Con yến cười nói ở hiên nhà, con quạ bay lượn trên nóc nhà.

Ngồi kiệu như ổ lợn, người khiêng như con hồ ly.

177

Đền chùa nhiều hàng nghìn nhưng đơn sơ, cái tên châu Vạn Kiếp nghe buồn cười.

Kèn sáo cùng người ca múa, có tế viếng và dâm ô.

Đại tương có đĩa màu xanh bảo vệ, binh lính dùng trượng màu trắng để xua đuổi.

Có đọc cáo trạng và hình luật xử tội, minh bạch quản lý hệ thống khu mật.

Bột tốt là khách của người làm quan, bành tăng là người hầu bàn.

Có điều chương giải quyết tranh chấp, từng làng phải nộp phú thuế cho quan.

Quan lại thu thuế trầu cau, người có thuế an tức.

Hình phạt không thể dùng vàng chuộc tội, không thể vượt trên sự ràng buộc của pháp luật.

Cầu Yên Hóa đã gần sụp, Minh Linh cách cũng rung động.

Có bài ca để than thở thời thế, có nhạc tâu vào Kinh đô.

Ống thuốc lào treo trên tường, trầu cau không rời khay.

Kim thoa búi tóc ngắn, cái cài buộc túm tóc.

Nhà cửa đều như ở hang, không giường cũng không lô lửa.

Chợ nước bày bán hàng trên thuyền, chợ hoa hoa đựng bằng nước.

Núi cao có thể làm ranh giới, nước đều dồn chảy vào sông Lô.

Cửa khẩu cây cao rừng rậm, biên tái suối khe vòng vèo.

Đền Sĩ Nhiếp sắp sập, tháp Cao Biền chưa hoang vu.

Tàu sắt còn có bóng của Mã Viện, cột đồng dấu vết đất đã khô.

Có nhiều đã hư hỏng và sụp xuống, đỉnh nhai thường biến hướng đường.

Nhà buôn hàng đầy thuyền, bốn mùa gạo hạt to.

Vườn cây dâu ngắn có cây gai bao quanh.

Chuối tiêu rủ xuống như con kiếm, quả vải nhiều như hạt trân châu.

Vải lụa và con anh vũ, trầm hương cùng chim bắt cá.

Phất cờ có tượng ma quỷ, vỗ cây có binh lính hội tụ đến.

Uống rượu cần bằng mũi, đầu có thể bay đi như con quay.

Da trăn dùng làm trống, tia tôm dùng làm gậy.

Nhà nào cũng ăn rắn sâu, người có thể chỉ huy con hổ con báo.

Vẩy cá có thể dùng làm ngói, đuôi chim sẻ có thể dùng làm chèo.

Cung nỏ nước có cả cát, con sâm đi từ động huyết ra.

Cá xấu kêu ầm ầm, khí trời nhổ phù đồ.

Huyện châu buồn vì bị ngăn cách, người và động vật khổ vì ốm đau.

178

Không có bậc thềm và không ngăn cách, gấp sách làm sao có thể hoan hô.

Khi thiên hạ mới chuyển họ, bị bắt ở chỗ viên môn.

Con bì hiu mới ngừng lại hoạt động, con rắn lợn thỉnh thoảng chạy trốn được.

Thiên hạ đã trừ đi nguồn độc ác, tại sao nhân dân vẫn tôn người cướp ngôi.

Thế như Thuần đánh đổ Long, chính trị như Hạo diệt nhà Ngô.

Phượng hoàng tuyên bố lại chiêu lệnh, lòng dạ càng bái phục.

May mà khỏi dùng dao và rìu, nên còn có thể tự vui chơi chữ.

Nạp cống và ca tụng thiên tử, làm văn chương và cử sĩ phu đi.

Lời nói có thể ghi lại, viết thành sách không thể cãi lại được.

Muốn có công lao thu phục dân biên thùy, uy thế phải mượn đền thần.

Người viết thơ họ Trần, tên Phu là quan nhỏ trong Lễ bộ.

4. LÝ TRỌNG TÂN

Bài 1/7:

和洞妙自真世子韻 Nối vần Động Diệu Tự Chân Thế tử

筍芽先自稱龍種, Duẩn nha tiên tự xƣng long chủng,

文彩斑斕出土新。 Văn thái ban lan xuất thổ tân.

一日朝天便成竹, Nhất nhật triều thiên tiện thành trúc,

此君百倍越精神。 Thử quân bách bội việt tinh thần.

Dịch nghĩa:

Măng non tự xưng là con rồng,

Nhiều màu nhiều vẻ mọc lên đất.

Hễ mọc lên cao hướng về mặt trời là trở thành cây trúc,

Từ đó có khí thế hơn gấp trăm lần.

II. THƠ THỜI NHÀ MINH

1. TRẠM NHƢỢC THỦY

Bài 1/8:

富良歌(壬申正月二十六日安南作)Phú Lương ca

(Làm khi ở An Nam ngày hai sáu tháng Giêng năm Nhâm Thân)

乘玉節兮坐王子舟, Thừa ngọc tiết hề tọa vƣơng tử chu,

披霞纓兮雲裘。 Phi hà anh hề vân cầu.

擊蘭漿兮泛中流, Kích lan tƣơng hề phiếm trung lƣu,

179

馮夷舞兮蛟人遊。 Phùng Di vũ hề giao nhân du.

草萋兮荒洲, Thảo thê hề hoang châu,

悵獨立兮容與, Trƣớng độc lập hề dung dữ,

望五雲兮神州。 Vọng ngũ vân hề Thần châu.

Dịch nghĩa:

Tay cầm ngọc tiết đi sứ chừ đi thuyền của vương tử,

Đội mũ lễ chừ mặc áo vua ban.

Chèo thuyền chừ phiêu dạt trên sông nước,

Thấy thần nước Phùng Di múa chừ con thuồng luồng bơi lặn.

Cỏ mọc xanh tươi chừ bãi vắng vẻ,

Buồn một mình chừ thong dong,

Xa ngắm qua năm tầng mây chừ Kinh thành.

Bài 2/9:

市橋道中 Trên đường Thị Kiều

春草氣蒸行李, Xuân thảo khí chƣng hành lý,

朝花露滴征衣。 Triêu hoa lộ trích chinh y.

悵望平原雨濕, Trƣớng vọng bình nguyên vũ thấp,

欲尋舊路雲迷。 Dục tầm cựu lộ vân mê.

Dịch nghĩa:

Cỏ xuân trời nóng bốc hơi lên hành lý,

Hạt mưa móc ban mai làm ướt áo chinh nhân.

Buồn ngắm đồng bằng mưa ướt,

Muốn tìm đường đi cũ nhưng trời mù mịt.

樹杪鳩鳴雨霽, Thụ diểu cƣu minh vũ tế,

稻畦秧送風涼。 Đạo huề ƣơng tống phong lƣơng.

欲採楚襟香草, Dục thái Sở khâm hƣơng thảo,

已辭越橐難將。 Dã từ Việt thác nan tƣơng.

Dịch nghĩa:

Con chim đậu trên ngọn cây, trời tạnh,

Dưới ruộng cây lúa đung đưa trước gió mát.

Muốn hái cỏ thơm của nước Sở giắt áo,

Nhưng đã đi xa nước Việt nên không kịp nữa.

180

2. CÁC NHÓM THƠ XƢỚNG HỌA GIỮA TRƢƠNG HOẰNG CHÍ, LỖ ĐẠC VỚI LÊ DỮ, BÙI

XƢƠNG TRẠCH, DOÃN HỒNG NHUỆ (gồm 9 bài)

Bài 1/10:

交南元日 Giao Nam sáng mồng một Tết của Trƣơng Hoằng Chí

奉使天涯值歲除, Phụng sứ thiên nhai trị tuế trừ,

陽和忽布入交墟。 Dƣơng hòa hốt bố nhập Giao khƣ.

朝元紫殿椒花酒, Triều nguyên tử điện tiêu hoa tửu,

安博青郊刺竹居。 Yên Bác thanh giao thứ trúc cƣ.

□蕝率同天北壽, □ tuyệt suất đồng Thiên Bắc thọ,

屠蘓應憶日南車。 Đồ Tô ƣng ức Nhật Nam xa.

山川險易多諳曆, Sơn xuyên hiểm dị đa am lịch,

異域長途自起予。 Dị vực trƣờng đồ tự khởi dƣ.

Dịch nghĩa:

Phụng mệnh đi sứ nơi xa vào tiết trừ tịch, Gặp lúc Giao thừa trên đất Giao Chỉ. Được dự yến tiệc và uống rượu ngon trong điện, Ở trọ nhà có hàng rào tre gai tại Yên Bác. Nam Bắc cùng mừng năm mới như nhau, Đồ Tô nên nhớ hướng đi của Nhật Nam. Đường đi khó hay dễ đều trải nghiệm, Vượt đường xa đến xứ lạ tôi viết nên bài thơ này.

Bài 2/11:

Lê Dữ, tên tự là Doanh Phủ (瑩甫) họa thơ

自笑麄豪氣未除, Tự tiếu lệ hào khí vị trừ,

喜陪星旆過山墟。 Hỉ bồi tinh bái quá sơn khƣ.

使君素有四方志, Sứ quân tố hữu tứ phƣơng chí,

賤子多慚一室居。 Tiện tử đa tàm nhất thất cƣ.

客舍此時蒙吐玉, Khách xá thử thì mông thổ ngọc,

洛京他日憶行車。 Lạc Kinh tha nhật ức hành xa.

181

長江料得飛艎渡, Trƣờng Giang liệu đắc phi hoàng độ,

水面溶溶魚媵予。 Thủy diện dung dung ngƣ đằng dữ.

Dịch nghĩa:

Tự mừng hào khí nay vẫn còn, Vui mừng được cùng sứ thần thiên sứ đi qua vùng núi. Sứ thần từ xưa đã có chí hướng đi bốn phương, Tôi thì thường thẹn chỉ được ở trong nước thôi. Ở nơi nghỉ trọ may được thiên sứ tặng thơ hay, Hôm khác ở Lạc Kinh có nhớ lại chuyến đi lần này. Đi qua Trường Giang mong được đi thuyền, Mặt nước mông mênh cá nhảy chào tôi.

Bài 3/12:

Bùi Xƣơng Trạch, tên tự là Mậu Thịnh (茂盛) họa thơ

暖入郊原瘴霧除, Noãn nhập giao nguyên chƣớng vụ trừ,

使星兩兩曜炎墟。 Sứ tinh lƣỡng lƣỡng diệu viêm khƣ.

九天慶澤隨春布, Cửu thiên khánh trạch tùy xuân bố,

五色祥雲恍帝居。 Ngũ sắc tƣờng vân hoảng đế cƣ.

清節每欽無玷玉, Thanh tiết mỗi khâm vô điếm ngọc,

私情難挽薄旋車。 Tƣ tình nan vãn bạc hoàn xa.

道同豈限江南北, Đạo đồng khỉ hạn Giang Nam Bắc,

蒙贈瓊瑰數倡予。 Mông tặng quỳnh khôi sổ xƣớng dƣ.

Dịch nghĩa:

Sứ đoàn vào An Nam rồi làm cho lam chướng sương mù đều biến mất, Hai vị sứ thần như sao trời chiếu sáng nơi hoang xa này. Ân trạch của vua Minh đến cùng mùa xuân, Khí trời may mắn rực rỡ phủ che nơi vua ở. Thanh tiết không thể bị dơ bẩn, Tình riêng tư khó mà ngăn cản bánh xe.

182

Cùng chí hướng không hạn chế ở Giang Nam Giang Bắc, Tôi rất may được sứ thần tặng thơ hay.

Bài 4/13:

Doãn Hồng Nhuệ, tên tự là Bảo Xung (葆沖) họa thơ 東風送暖入階除, Đông phong tống noãn nhập giai trừ, 曉駕星軺度碧墟。 Hiểu giá tinh diêu độ bích khƣ. 鸑鷟欣瞻千里遠, Việt trạc hân chiêm thiên lý viễn, 鷦鷯自笑一巢居。 Tiêu liêu tự tiếu nhất sào cƣ. 每懷旅館難投轄, Mỗi hoài lữ quán nan đầu hạt, 偏喜今朝得衘車。 Thiên hỉ kim triêu đắc hàm xa. 圭誦瓗章珠在側, Khuê tụng tuấn chƣơng châu tại trắc, 語雲形穢豈欺予。 Ngữ vân hình uế khỉ khi dƣ.

Dịch nghĩa:

Gió đông đưa đến khí trời ấm áp, Sáng sớm cùng xe kiệu của sứ đoàn đi qua vùng núi. Chim nước vui mừng nhìn xa ngàn dặm, Chim tiêu liêu (một loại chim nhỏ) tự cười mình chỉ biết ở trong một ổ thôi. Mỗi lần ở trọ đều khó có người cùng chí hướng, Hôm nay may mắn được đi cùng xe sứ thần. Thơ tặng của sứ thần hay biết bao, So với tài của sứ thần tôi kém nhiều.

Bài 5/14:

歸途值雨謝迎送官 Lúc về gặp mưa cảm tạ các quan đưa đón sứ đoàn

của Trƣơng Hoằng Chí

歸路交山化雨零, 瘴煙消盡海峯青。 雲隨旌旆龍蛇遠, 春度郊原草木寧。 南北皇圖原一統, 衣冠清淑自三靈。 迢迢迎送今成別, 回首晴霞粲晚汀。

Quy lộ Giao sơn hóa vũ linh, Chƣớng yên tiêu tận hải phong thanh. Vân tùy tinh bái long xà viễn, Xuân độ giao nguyên thảo mộc ninh(1). Nam Bắc hoàng đồ nguyên nhất thống, Y quan thanh thục tự tam linh. Thiều thiều nghênh tống kim thành biệt, Hồi thủ tình hà sán vãn thinh.

Dịch nghĩa:

Trên đường về gặp phải mưa to, Khói lam chướng bị rửa sạch và núi non xanh biếc. Mây theo đoàn người đi đường núi, Cây cối An Nam mùa xuân xanh tươi. Nam Bắc trước đây cùng nhất thống, Trang phục thanh lịch thờ tam linh.

183

Hôm trước đón đoàn hôm nay tiễn đưa, Ngoái đầu mây chiều đang tỏa sáng bầu trời.

Bài 6/15:

別侍送諸官員次韻九山 Tạm biệt các vị quan viên tiễn sứ

nối vần thơ của Cửu Sơn của Lỗ Đạc

嶺樹嵐□草露零, 經旬馳送眼還青。 旆旌花柳春相媚, 尊俎笙簧夜未寧。 問訊每勞傳國語, 品題□為謝山靈。 三湘歸思君應識, 芳芷□蘭綠滿汀。

Lĩnh thụ lam □ thảo lộ linh, Kinh tuần trì tống nhãn hoàn thanh. Bái tinh hoa liễu xuân tƣơng mỵ, Tôn trở sênh hoàng dạ vị ninh. Vấn tấn mỗi lao truyền quốc ngữ, Phẩm đề □ vị tạ sơn linh. Tam Tƣơng quy tứ quân ƣng thức, Phƣơng chỉ □ lan lục mãn thinh.

Dịch nghĩa:

Cây cối xanh tươi cỏ hết sương, Hơn chục ngày đi qua vẫn xanh như thế. Mùa xuân tươi đẹp hoa nở rộ, Yến tiệc và âm nhạc vẫn còn vang dội. Mỗi lần hỏi han đều phải nhờ thông ngôn truyền lời, Làm thơ để tạ ơn sự phù hộ của thần núi. Sau khi về nước sẽ nhớ các ngài, Đâu đâu cũng là cây xanh hoa đẹp.

Bài 7/16:

Lê Dữ họa thơ

潦倒殘年六十零, Lạo đảo tàn niên lục thập linh, 遠蒙惠顧眼終青。 Viễn mông huệ cố nhãn chung thanh. 一時丁卒雖勞勩, Nhất thì đinh tốt tuy lao huân, 萬古封疆賴謐寧。 Vạn cổ phong cƣơng lại mật ninh. 體悉固能安眾志, Thể tất cố năng yên chúng chí, 公清應可服山靈。 Công thanh ƣng khả phục sơn linh. 歸囊況有多佳句, Quy nang huống hữu đa giai cú, 奚數王生詠鶴汀。 Hề sổ Vƣơng sinh vịnh hạc thinh.

Dịch nghĩa:

Năm nay sáu mươi chẳng làm nên gì,

May mắn được sứ thần tặng thơ làm sáng mắt.

Tuy rằng vất vả trong một lúc,

Nhưng giữ biên cương được yên ổn muôn vạn năm.

Ân trạch của vua nước Bắc có thể làm yên chí lòng dân,

184

Thanh tiết của sứ thần làm cho thần núi phải cúi chào.

Khi về túi thơ lại có nhiều thơ hay,

Như Vương sinh ngày xưa làm thơ vịnh bãi hạc vậy.

Bài 8/17:

Bùi Xƣơng Trạch họa thơ

駰原迢遞雨花零, Nhân nguyên thiều đệ vũ hoa linh, 相送頻蒙惠顧青。 Tƣơng tống tần mông huệ cố thanh. 且喜皇仁胥廣被, Thả hỉ hoàng nhân tƣ quảng bị, 休論王事未遑寧。 Hƣu luân vƣơng sự vị hoàng ninh. 多情歸興隨風急, Đa tình quy hứng tùy phong cấp, 無限詩神得酒靈。 Vô hạn thi thần đắc tửu linh. 最是相思相憶處, Tối thị tƣơng tƣ tƣơng ức xứ, 溶溶江月芷蘭汀。 Dung dung giang nguyệt chỉ lan thinh.

Dịch nghĩa:

Xe ngựa đi liên tục trong cơn mưa, Tiễn về may mắn được sứ thần tặng thơ hay. Rất vui được cảm nhận ân trạch của vua nước Bắc phổ biến khắp nơi, Không phải bàn luận về việc nước không được an ninh nữa. Đa tình quy hứng đi nhanh như gió, Những bài thơ hay làm được như có linh cảm của thần rượu. Sau khi chia tay nhung nhớ nhau, Nhất là lúc mặt trăng soi sáng mặt nước và hoa lan nở.

Bài 9/18:

Doãn Hồng Nhuệ họa thơ

霡霂方春喜既零, Mạch mộc phƣơng xuân hỉ kí linh, 向陽草木一般青。 Hƣớng dƣơng thảo mộc nhất ban thanh. 載途道路雖雲苦, Tải đồ đạo lộ tuy vân khổ, 服役兵夫敢自寧。 Phục dịch binh phu cảm tự ninh. 軆悉諒由君子志, Thể tất lƣợng do quân tử chí, 感通自是此心靈。 Cảm thông tự thị thử tâm linh. 無端塞外明朝別, Vô đoan tái ngoại minh triều biệt, 目送仙槎過遠汀。 Mục tống tiên sà quá viễn thinh.

Dịch nghĩa:

Mùa xuân ấm áp gặp trời mưa,

Cây cối núi rừng rất um tùm.

Tuy rằng đường đi sứ rất vất vả,

Nhưng lính dịch phu dịch đều được yên.

Được hưởng yên vui chính là nhờ ý chí của quân tử,

185

Cảm thông được từ tâm linh này.

Lại đến biên giới mai sẽ chia tay nhau,

Ánh mắt tiễn đưa sứ đoàn về.

3. PHAN HY TĂNG

Bài 1/19:

南交紀事 Nam Giao kỷ sự

往返南交道,

Vãng phản Nam Giao đạo,

東風浹二旬。

Đông phong giáp nhị tuần.

諏詢雖未廣,

Trâu tuần tuy vị quảng,

風土亦堪陳。

Phong thổ diệc kham trần.

漢將標銅地,

Hán tƣớng tiêu đồng địa,

堯官致日辰。

Nghiêu quan trí nhật thần.

鄙夷甘異習,

Bỉ di cam dị tập,

凋謝盡遺民。

Điêu tạ tận di dân.

【百年來中原遺黎盡矣】

(bách niên lai Trung Nguyên di Lê tận hĩ)

祝髪無男女,

Chúc phát vô nam nữ,

加冠別縉紳

Gia quán biệt tấn thân.

【髪稍覆額被頸惟使中國者乃長髪】。 (phát sảo phúc ngạch phi cảnh, duy sứ Trung

Quốc giả, nãi trƣờng phát)

黒牙喧鳥雀,

Hắc nha huyên điểu chích,

【多啖梹榔,齒黒如墨,惟孩提不爾】 (đa đạm tân lang, xỉ hắc nhƣ mặc, duy hài đề

bất nhĩ)

赤腳走荊榛。

Xích cƣớc tẩu kinh trăn.

【男女皆跣,惟有官者有履】(nam nữ giai tiển, duy hữu quan giả hữu lý)

席地多盤膝, Tịch địa đa bàn tất,

操舟悉祼身。 Thao chu tất khỏa thân.

野棲茅覆屋, Dã thê mao phúc ốc,

露積竹為囷。 Lộ tích trúc vi khuân.

斷雪無牟麥, Đoạn tuyết vô mâu mạch,

分秧及早春。 Phân ƣơng cập tảo xuân.

梹榔生咀嚼, Tân lang sinh thƣ tƣớc,

橘柚雜芳辛。 Quất trục tạp phƣơng tân.

蕉實黃初熟, Tiêu thực hoàng sơ thục,

椰漿白頗醇。 Da tƣơng bạch pha thuần.

珍竒難得象, Trân kỳ nan đắc tƣợng,

躔度易占鶉。 Triền độ dịch chiêm thuần.

沉水來猶逺, Trầm thủy lai do viễn,

186

生金出豈頻。 Sinh kim xuất khỉ tần.

盛陳兵肅肅, Thịnh trần binh túc túc,

絶少馬駪駪。 Tuyệt thiểu mã sằn sằn.

蛇虺當筵舞, Xà hủy đƣơng diên vũ,

螺蝦入鼎珍。 Loa hà nhập đỉnh trân.

稍依瀕海利, Sảo y tần hải lợi,

難與大方倫。 Nan dữ đại phƣơng luân.

文亦同王制, Văn diệc đồng vƣơng chế,

圭仍析帝臣。 Khuê nhƣng tích đế thần.

方言時假譯, Phƣơng ngôn thì giả dịch,

職貢歲常親。 Chức Cống tuế thƣờng thân.

自適飛潛性, Tự thích phi tiềm tính,

相忘覆載仁。 Tƣơng vong phúc tải nhân.

我歌聊志異, Ngã ca liêu chí dị,

何日盡還淳。 Hà nhật tận hoàn thuần.

Dịch nghĩa:

Đi lại đất An Nam, mưa gió hai mươi ngày.

Học hỏi dù chưa nhiều, phong thổ nói được chút.

Cột đồng cắm thời Hán, quan Nghiêu đã từng đến.

Phong tục có khác lạ, dân Bắc không còn nữa.

Trai gái đều thả tóc, ông quan mới đội mũ (mái tóc che nửa trán, tóc dài đến cổ, chỉ những

người đi sứ Trung Quốc mới để dài tóc)

Há miệng thấy răng đen (hay nhai trầu cau, răng đen như mực, chỉ trẻ con không như vậy),

chân không đi trên gai (trai gái đều đi chân đất, chỉ quan chức mới đi giầy)

Ngồi bệt trên chiếu đất, lái thuyền cởi trần áo.

Mái nhà lợp tranh lá, vựa thóc vây bằng tre.

Không tuyết không lùa mì, đầu xuân đã gieo mạ.

Nhai sống trầu và cau, cây bưởi quýt hoa thơm.

Quả chuối vàng mới chín, nước dừa trắng thơm ngon.

Voi không thuộc loài lạ, thường nhìn thấy thú chim.

Nước sông rất sâu xa, cát vàng không dễ với.

Binh tướng xếp hàng đầy, ít thấy ngựa trong quân.

Rắn trăn múa trên tiệc, ốc tôm thuộc loại ngon.

Chỉ là gần sát biển, chưa sánh nổi nước lớn.

Văn chương và chế độ, phân chia bậc quân thần.

Phiên dịch mới hiểu được, triều cống theo đúng lệ.

Vừa lòng bay lên lặn xuống, quên nhau phụ nghĩa nhân.

187

Ta ghi điều khác lạ, ngày sau lại ngẫm chơi.

III. THƠ THỜI NHÀ THANH

1. CÁC NHÓM THƠ XƢỚNG HỌA GIỮA CHU XÁN VỚI MƢỜI QUAN CHỨC TIẾP SỨ CỦA

VIỆT NAM (gồm 18 bài)

Bài 1/20:

安南官目入參 An Nam quan mục xin tham yết

瑞繞關門向日開, Thụy nhiễu quan môn hƣớng nhật khai,

龍旗隊隊護高臺。 Long kỳ đội đội hộ cao đài.

官員階下齊瞻仰, Quan viên giai hạ tề chiêm ngƣỡng,

喜見王人天上來。 Hỉ kiến vƣơng nhân thiên thƣợng lai.

Dịch nghĩa:

Cửa khẩu mở cửa ra hướng mặt trời,

Từng đội long kỳ hộ vệ long đình.

Đại thần xếp hàng chỉnh tề dưới bậc thềm để chiêm ngưỡng,

Vui mừng nhìn thấy sứ thần từ Thiên Quốc sang.

Bài 2/21:

Chu Xán đã dùng thơ thể hiện các thông tin của mình

姓自成康乘遠裔, Tính tự Thành Khang thừa viễn duệ,

名同星日照寰中。 Danh đồng tinh nhật chiếu hoàn trung.

家居豐鎬邠岐地, Gia cƣ Phong Cảo Mân Kì địa.

官忝文章禮樂宗。 Quan thiệm văn chƣơng lễ nhạc tông.

Dịch nghĩa:

Có họ xa với Chu Thành Vương,

Tên là từ chỉ ánh sáng chói lọi của ngôi sao và mặt trời.

Nhà ở đất Mân đất Kỳ Phong Cảo (Thiểm Tây),

Làm quan ở Lễ bộ chức vụ là Lang trung.

Bài 3/22:

Nguyễn Đình Trụ tặng thơ

巍巍令望播璋珪, Nguy nguy lệnh vọng bá chƣơng khuê,

分陝有人再見西。 Phân Thiểm hữu nhân tái kiến tây.

一品麟袍辭殿闕, Nhất phẩm lân bào từ điện khuyết,

千重鳥道渡山溪。 Thiên trùng điểu đạo độ sơn khê.

188

五花喜見恩綸渙, Ngũ hoa hỷ kiến ân luân hoán,

四字欣瞻御筆題。 Tứ tự hân chiêm ngự bút đề.

牡駕言歸長記取, Mẫu giá ngôn quy trƣờng ký thủ,

高名千載諒山齊。 Cao danh thiên tải Lạng Sơn tề.

Dịch nghĩa:

Oai vệ sứ thần tặng thơ hay,

Sứ thần này quê ở Thiểm Tây.

Sang sứ An Nam mặc lân bào nhất phẩm,

Vượt qua muôn trùng núi non và sông suối.

An Nam rất vui được nhận sắc phong của vua Thanh,

Và được ban tặng bốn chữ ngự bút.

Sứ thần về rồi sẽ nhớ mãi mãi,

Danh tiếng sẽ được ghi nhớ ngàn năm.

聖朝文德著宏休, Thánh triều văn đức trƣớc hoành hƣu,

為道濂溪更出周。 Vị đạo Liêm Khê cánh xuất Chu.

丹陛揮毫承顧問, Đan bệ huy hào thừa cố vấn,

璧華攬轡廣諮諏。 Bích hoa lãm bí quảng tƣ tu.

南交寵命贈光齎, Nam Giao sủng mệnh tặng quang tê,

北斗高名愈炳彪。 Bắc đẩu cao danh dũ bính bƣu.

歸路從容多好句, Quy lộ tthung dung đa hảo cú,

江山萬里盡囊收。 Giang sơn vạn lý tận nang thu.

Dịch nghĩa:

Văn đức xuất sắc ở thánh triều,

Vị sứ thần tên gọi Liêm Khê lại là họ Chu.

Sang sứ An Nam chăm học hỏi,

Ngồi trên xe ngựa luôn hỏi han.

An Nam được nhận ơn vua,

Hiền tài nước Bắc được lưu danh.

Trên đường làm được nhiều thơ hay,

Vạn lý giang sơn thu gom trong túi để mang về.

Bài 4/23:

留別安南阮廷柱、武惟匡、宋儒,陳璹四給事

Chu Xán tặng bài thơ Lưu biệt bốn vị Cấp sự là Nguyễn Đình Trụ,

Vũ Duy Khuông, Tống Nho, Trần Đào ở An Nam

關門曉日拜天顏, Quan môn hiểu nhật bái thiên nhan,

得識南交青瑣班。 Đắc thức Nam Giao thanh tỏa ban.

189

記得深林風雨夜, Ký đắc thâm lâm phong vũ dạ,

多君相伴出茶山。 Đa quân tƣơng bạn xuất Trà Sơn.

Dịch nghĩa:

Ngày mở cửa khẩu đón sứ đoàn,

Đã gặp gỡ các ngài tiếp sứ.

Còn nhớ đêm mưa đi qua rừng núi,

Các ngài đã đi cùng ra Trà Sơn.

迢遞關河幾萬里, Thiều đệ quan hà kỷ vạn lý,

殷勤酬唱恰三旬。 Ân cần thù xƣớng kháp tam tuần.

達人傾葢千秋重, Đạt nhân khuynh cái thiên thu trọng,

回首天南憶九真。 Hồi thủ thiên nam ức Cửu Chân.

Dịch nghĩa:

Đi sứ đường xa vạn dặm,

Ân cần thù xướng vừa khoảng ba mươi ngày.

Các ngài tài giỏi tiếng tăm ngàn thu còn xem trọng,

Ngoái đầu nhìn lại trời nam sẽ nhớ tới những ngày ở xứ Cửu Chân.

Bài 5/24:

Thơ họa của Nguyễn Đình Trụ

書銜咫尺近天顏, Thƣ hàm chỉ xích cận thiên nhan,

一代人文識馬班。 Nhất đại nhân văn thức mã ban.

遙望仙塵歸漢表, Dao vọng tiên trần quy Hán biểu,

春風曉日照燕山。 Xuân phong hiểu nhật chiếu Yên San.

Dịch nghĩa:

May mắn được gặp gỡ trực tiếp với thiên sứ,

Thuộc hạng hiền tài nổi tiếng nhất thời.

Nay đưa tiễn sứ thần về Trung Quốc,

Gió xuân ánh nắng chiếu Yên Sơn.

調成白雪足千里(1), Điệu thành bạch tuyết túc thiên lý, 坐對春風僅數旬。 萬里相思勞夢寐, 淡交君子自情真。

Tọa đối xuân phong cận sổ tuần. Vạn lý tƣơng tƣ lao mộng mị, Đạm giao quân tử tự tình chân.

Dịch nghĩa:

Đi xa ngàn dặm làm được thơ hay, Đi cùng sứ đoàn trong mùa xuân chỉ vài chục ngày.

190

Xa nhau vạn dặm rồi sẽ nhớ mãi sứ thần, May quá được kết bạn với quân tử tình cảm chân chất.

原文為“古”,疑是“裏”之誤。

Bài 6/25:

Hoàng Công Chất tặng thơ

詞源滾滾倒三江, Từ nguyên cổn cổn đảo tam giang, 筆力惟公可獨扛。 Bút lực duy công khả độc giang. 風度九齡人罕比, Phong độ cửu linh nhân hãn bì, 美才公旦世無雙。 Mỹ tài Công Đán thế vô song. 虞廷出入趨丹禁, Ngu đình xuất nhập xu đan cấm, 周道委蛇耀碧幢。 Chu đạo ủy xà diệu bích tràng. 盛典告成歸去日, Thịnh điển cáo thành quy khứ nhật, 千秋仰止重南邦。 Thiên thu ngƣỡng chỉ trọng Nam bang.

Dịch nghĩa:

Nguồn từ phong phú như nước chảy ra từ sông, Sứ thần họ Chu bút lực thật giỏi giang. Phong độ đẹp tựa Trương Cửu Linh ít ai sánh kịp, Tài năng giỏi như Chu Công Đán trên đời chỉ có một. Ra vào cung đình làm tròn sứ mệnh, Đường xá quanh co vất vả làm cho điện đình trở nên rực rỡ. Đại lễ diễn ra xong rồi trở về nước, Ngàn năm còn nhớ công lao của sứ thần.

王事賢勞任載驅, Vƣơng sự hiền lao nhiệm tái khu, 騑騑四牡照征途。 Phi phi tứ mẫu chiếu chinh đồ. 正言格論真君子, Chính ngôn cách luận chân quân tử, 博學多聞古大儒。 Bác học đa văn cổ đại nho. 東觀五經憑討論, Đông quan ngũ kinh bằng thảo luận, 南宮三禮定規模。 Nam cung tam lễ định quy mô. 功成遠域稱良使, Công thành viễn vực xƣng lƣơng sứ, 銜命無慚陸大夫。 Hàm mệnh vô tàm Lục Đại phu.

Dịch nghĩa:

Vượt bao gian khổ để làm tròn sứ mệnh vua trao,

Sứ đoàn người ngựa ra đi làm sáng chinh đồ.

Ngôn luận chính đáng quả đúng là bậc quân tử,

Học rộng biết nhiều xứng danh là bậc đại nho xưa.

Hiểu lý học nên luôn luôn có thể cùng thảo luận,

191

Tạo lập nghi lễ định quy mô cho An Nam.

Làm trọn sứ mệnh ở nơi xa đáng được khen là sứ thần xuất sắc,

Thành tích đi sứ không hề thua kém Lục Giả nhà Hán.

Bài 7/26:

留別安南阮司馬公望、黎司空僖、阮僉憲廷滾、黃大參公寊

Lưu biệt các quan chức ở An Nam là Nguyễn Công Vọng, Lê Hy,

Nguyễn Đình Cổn, Hoàng Công Chất

(Thơ của Chu Xán)

野岸荒亭偶駐驂, Dã ngạn hoang đình ngẫu trú tham,

奇聞勝槩許相探。 Kỳ văn thắng khái hứa tƣơng tham.

不因一介天王使, Bất nhân nhất giới thiên vƣơng sứ,

那得同聲到日南。 Na đắc đồng thanh đáo Nhật Nam.

Dịch nghĩa:

Dọc đường sứ trình thỉnh thoảng có dừng ngựa lại,

Những điều mới lạ và thắng cảnh đều hỏi han các ngài tiếp sứ.

Không ngại với sứ thần đến từ triều đình nhà Thanh,

Ở Nhật Nam cũng tìm thấy người tri âm.

才名奕奕世無雙, Tài danh dịch dịch thế vô song,

三譯常思戴上邦。 Tam dịch thƣờng tƣ đới thƣợng bang.

別後懷君何處是, Biệt hậu hoài quân hà xứ thị,

寒風落日富良江。 Hàn phong lạc nhật Phú Lƣơng giang.

Dịch nghĩa:

Tài danh xuất chúng độc nhất vô nhì,

Qua phiên dịch biết lòng kính trọng của các ngài dành cho Thượng Quốc.

Sau khi chia tay nhớ hoài các ngài tiếp sứ,

Nỗi nhớ như gió lạnh và mặt trời lặn xuống sông Phú Lương.

Bài 8/27:

Nguyễn Đình Cổn họa thơ

春風驛館喜停驂, Xuân phong dịch quán hỉ đình tham,

學海淵源取次探。 Học hải uyên nguyên thủ thứ tham.

茂叔座中惟霽月, Mậu Thúc tọa trung duy tế nguyệt,

照來天北又天南。 Chiếu lai thiên Bắc hựu thiên Nam.

192

Dịch nghĩa:

Rất vui khi sứ đoàn dừng nghỉ chân ở dịch quán dọc đường,

Vì khi đó có thể học hỏi sứ thần tri thức uyên bác đến từ Bắc quốc.

Ngồi cùng với sứ thần như khi trời nắng,

Soi sáng cả trời Bắc lẫn trời Nam.

東閣才名孰與雙, Đông các tài danh thục dữ song,

天章遙捧到南邦。 Thiên chƣơng dao bổng đáo Nam bang.

伊人一日三秋思, Y nhân nhất nhật tam thu tứ,

愁緒那堪對漢江。 Sầu tự na kham đối Hán Giang.

Dịch nghĩa:

Tài danh Đông Các không ai sánh kịp,

Vượt qua vạn dặm đến nước Nam cho chúng tôi được đọc thơ hay.

Sau khi về nước rồi, chúng tôi nhớ ngài da diết đến nỗi một ngày như ba năm,

Nỗi buồn sâu thẳm hơn cả dòng Hán Giang.

Bài 9/28:

Chu Xán tặng thơ Nguyễn Công Vọng

早歲從人勉用工, Tảo tuế tòng nhân miễn dụng công,

曾將小技鬥雕蟲。 Tằng tƣơng tiểu kỹ đấu điêu trùng.

而今欲究知能理, Nhi kim dục cứu tri năng lý,

甘與曹劉拜下風。 Cam dữ Tào Lƣu bái hạ phong.

Dịch nghĩa:

Lúc trẻ theo trào lưu dụng công làm thơ văn,

Từng đem kỹ xảo điêu khắc tỉa tót thi ca.

Nhưng nay chỉ ham mê nghiên cứu lý học,

Thơ văn thì cam chịu thua với họ Tào họ Lưu.

Bài 10/29:

Chu Xán tặng thơ phúc đáp Nguyễn Đình Trụ 莫將漢魏尊原始, Mạc tƣơng Hán Ngụy tôn nguyên thủy, 三百名篇尚可刪。 Tam bách danh thiên thƣợng khả san. 悟得一言無異旨, Ngộ đắc nhất ngôn vô dị chỉ, 好將詩訣問尼山。 Hảo tƣơng thi quyết vấn Ni sơn.

Dịch nghĩa:

193

Đừng nên tôn thờ thi ca thời Hán và thời Ngụy làm tiên tổ, Ba trăm bài thơ hay vẫn có thể bị cắt bỏ đi. Hiểu được một lời không khác ý chỉ, Mới có thể hỏi Trọng Ni (Khổng Tử) về bí quyết thi ca.

Bài 11/30:

Hoàng Công Chất tặng thơ

堯典傳中首曰欽, Nghiêu điển truyện trung thủ viết khâm, 淵源千載聖賢心。 Uyên nguyên thiên tải thánh hiền tâm. 江河就下歸滄海, Giang hà tựu hạ quy thƣơng hải, 泰華淩空聳碧岑。 Thái Hoa lăng không tủng bích sầm. 常與乾坤同久大, Thƣờng dữ càn khôn đồng cửu đại, 不因秦漢以浮沉。 Bất nhân Tần Hán dĩ phù trầm. 喜君際遇明良會, Hỉ quân tế ngộ minh lƣơng hội, 三代休隆複見今。 Tam đại hƣu long phục kiến câm (kim).

Dịch nghĩa:

Phần truyện sách Nghiêu điển trước hết là chữ khâm tức lòng kính trọng, Nguồn gốc sâu xa ngàn năm là ở tấm lòng của thánh hiền. Sông suối đều hội tụ vào biển, Núi Thái Sơn cao ngất trời. Những thứ đó đều tồn tại lâu đời cùng với trời đất, Không thăng trầm theo thịnh suy của nhà Tần nhà Hán. Rất vui được gặp sứ thần và được chỉ bảo, Sự hưng thịnh của thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) nay lại thấy.

束發登朝正少年, Thúc phát đăng triều chính thiếu niên, 高堂養志返林泉。 Cao đƣờng dƣỡng chí phản lâm tuyền. 不同屈宋爭奇句, Bất đồng Khuất Tống tranh kỳ cú, 且與程朱述舊編。 Thả dữ Trình Chu thuật cựu biên. 一代經綸推大用, Nhất đại kinh luân suy đại dụng, 千秋學問有真傳。 Thiên thu học vấn hữu chân truyền. 德兼忠孝如公少, Đức kiêm trung hiếu nhƣ công thiếu, 中外人推閔子騫。 Trung ngoại nhân suy Mẫn Tử Khiên.

Dịch nghĩa:

Khi còn trẻ búi tóc đã được đăng khoa,

Nay ở cao đường dưỡng chí quay về lâm tuyền.

Không tranh đua câu thơ hay với Khuất Nguyên, Tống Ngọc nữa,

Mà ham đọc lý học của Trình Di và Chu Hy.

194

Một đời kinh luân có tác dụng rất lớn,

Học vấn ngàn đời đã có người kế tiếp.

Có đức liêm quân và hiếu thảo như ngài là không nhiều,

Cả nước Bắc và nước Nam đều ví ngài như Mẫn Tử Khiên.

2. THƠ XƢỚNG HỌA GIỮA NHÓM ĐỨC BẢO, CỐ NHỮ TU VỚI TRẦN DANH LÂM,

NGUYỄN XUÂN HUYÊN, TRẦN Y TRẠCH, LÊ QUÝ ĐÔN, TRẦN HUY MẬT, LÊ HIỂN

TÔNG (gồm 33 bài)

Bài 1/31:

Chánh sứ Đức Bảo làm bài xƣớng trƣớc

同文久已入吹噓, Đồng văn cửu dĩ nhập xuy hƣ,

此見青雲業不疎。 Thử kiến thanh vân nghiệp bất sơ.

數誦錦彩嘉意厚, Sổ tụng cẩm thái gia ý hậu,

偶談銅柱愛心虛。 Ngẫu đàm đồng trụ ái tâm hƣ.

分明興受宣尼教, Phân minh hƣng thụ Tuyên Ni giáo,

是否仍遵解縉書。 Thị phủ nhƣng tôn Giải Tấn thƣ.

椽筆好將顛末寫, Duyên bút hảo tƣơng điên mạt tả,

莫珍為什等璠璵。 Mạc trân vị thập đẳng phiền dƣ.

Dịch nghĩa:

Đồng văn từ lâu ảnh hưởng cũng rất sâu,

Nay thấy hoạn lộ thênh thang sự nghiệp dày dặn.

Mấy bài thơ của các ngài lời đẹp ý sâu,

Ngẫu nhiên có nhắc lại cột đồng trụ ngày xưa.

Rõ ràng là đã tiếp nhận Nho giáo của Trọng Ni,

Không biết nay còn tôn sùng sách của Giải Tấn không?

Các ngài giỏi thơ đã viết tặng bài,

Sẽ được trân trọng như báu vật.

Bài 2/32:

Trần Danh Lâm họa thơ

吸來道味向南噓, Hấp lai đạo vị hƣớng Nam hƣ, 一視同人不外疎。 Nhất thị đồng nhân bất ngoại sơ. 膏雨沛落滋潤澤, Cao vũ bái lạc tƣ nhuận trạch, 冰壺瑩若見清虛。 Băng hồ doanh nhƣợc kiến thanh hƣ.

195

一天草木生春色, Nhất thiên thảo mộc sinh xuân sắc, 闔境旄倪傒鳳書。 Hạp cảnh mao nghê hề phƣợng thƣ. 末學幸蒙瑤句示, Mạt học hạnh mông dao cú thị, 勝於百玖與千璵。 Thắng vu bách cửu dữ thiên dƣ.

Dịch nghĩa:

Mùi thơm nay thổi sang nước Nam, Nam quốc Bắc quốc đều được coi trọng như nhau. Ân điển nhà vua ban như mưa móc thấm nhuần, Tấm lòng trong sạch tựa “băng tâm tại ngọc hồ”. Cây cỏ xanh tươi khắp nơi ngời sắc xuân, Cả nước vui mừng đón chiếu thư. Kẻ chậm tiến may được đọc thơ hay của sứ thần, Vui hơn cả nhận được châu báu.

Bài 3/33:

Nguyễn Xuân Huyên nối vần họa thơ

欲向春風借一噓, Dục hƣớng xuân phong tá nhất hƣ, 雕蟲末學愧荒疎。 Điêu trùng mạt học hối hoang sơ. 乍瞻瓊楮來寅館, Sạ chiêm quỳnh chử lai dần quán, 如見珠光落太虛。 Nhƣ kiến châu quang lạc thái hƣ. 兩地莫雲殊限域, Lƣỡng địa mạc vân thù hạn vực, 一天原是興車書。 Nhất thiên nguyên thị hứng xa thƣ. 旅陪今幸聆清記, Lữ bồi kim hạnh linh thanh ký, 上國端知產魯璵。 Thƣợng quốc đoan tri sản Lỗ dƣ.

Dịch nghĩa:

Muốn mượn chút sức lực của gió xuân, Kẻ điêu khắc tỉa tót chậm tiến như tôi thật là hổ thẹn. Chỉ đọc thơ hay của sứ thần, Như nhìn thấy hào quang ngọc trân châu rơi vào thái hư. Hai nước Nam Bắc đừng nói là khác khu vực, Cả hai nước đều quý trọng thi thư. May mắn được hộ tống sứ đoàn và được đọc thơ hay của sứ thần, Mới biết Thượng Quốc sản sinh ra nhiều nhân tài.

Bài 4/34:

Cố Nhữ Tu họa thơ

瀾氣氤氳就吸噓, Lan khí nhân uân tựu hấp hƣ,

嗟予學值老來疎。 Ta dữ học trị lão lai sơ.

196

仁膏浹洽沾朱土, Nhân cao giáp hiệp triêm Chu thổ,

文焰光芒照紫虛。 Văn diệm quang mang chiếu tử hƣ.

且向田間詢麥稷, Thả hƣớng điền gian tuần mạch tắc,

更求館牖閱詩書。 Cánh cầu quán dũ duyệt thi thƣ.

分明大器資時用, Phân minh đại khí tƣ thì dụng,

周鼎商敦曾國璵。 Chu đỉnh Thƣơng đôn tằng quốc dƣ.

Dịch nghĩa:

Hương khói nồng nàn đã cảm nhận thấy, Cảm khái tôi đã già lại không có học. Dinh dưỡng vun đắp thành thổ nhưỡng như đất nước Chu Vương, Hào quang văn học chiếu sáng tử hư. Vừa hỏi lúa mì ở ruộng đất, Càng đòi đọc thơ hay của các ngài tiếp sứ. Các ngài rõ ràng là đại khí của nước Nam, Nặng như cái đỉnh của nhà Chu và cái đôn của nhà Thương.

Bài 5/35:

Cố Nhữ Tu làm thơ mừng thọ Thái hậu

邨雞唱罷正黎明, Đôn kê xƣớng bãi chính lê minh,

跪拜荒原達至誠。 Quỵ bái hoang nguyên đạt chí thành.

天末山河臨海屋, Thiên mạt sơn hà lâm hải ốc,

女中堯舜耀長庚。 Nữ trung Nghiêu Thuấn diệu trƣờng canh.

直北傾心依紫極, Trực bắc khuynh tâm y tử cực,

安南飭館在芹營。 An Nam sức quán tại Cần Doanh.

遙想鸞輿過綺陌, Dao tƣởng loan dƣ quá ỷ mạch,

吾皇緩戀駐重旌。 Ngô hoàng hoãn luyến trú trùng tinh.

Dịch nghĩa:

197

Gà gáy xong đang lúc bình minh, Cúi lạy ở nơi hoang xa hướng về triều đình phương Bắc. Núi sông chân trời gần giáp biển, Đức tính của Thái hậu như vua Nghiêu vua Thuấn được trường tồn. Dù đang ở trong sứ quán đặt tại Cần Doanh, Nhưng lòng thần cứ như đang ở triều đình miền Bắc. Ở xa tưởng tượng cảnh xe loan của Thái hậu đi qua nơi được trang trí đẹp, Hoàng thượng đi chậm rãi thường ngoái đầu nhìn Thái hậu với ánh mắt yêu thương.

Bài 6/36:

Trần Danh Lâm họa thơ

才捧雲彩以報明, Tài bổng vân thái dĩ báo minh,

暗知君子盡忠誠。 Ám tri quân tử tận trung thành.

已踰南服催行駕, Dĩ du Nam phục thôi hành giá,

猶望西籌拜夀庚。 Do vọng tây trù bái thọ canh.

綺陌億年長慶倖, Ỷ mạch ức niên trƣờng khánh hạnh,

星軺萬里獨屏營。 Tinh diêu vạn lý độc Bình Doanh.

勸君強遣懷離思, Khuyến quân cƣờng khiển hoài ly tứ,

不數旬間便返旌。 Bất số tuần gian tiện phản tinh.

Dịch nghĩa:

Vừa mới đến báo sáng thấy vậy,

Đã thầm biết quân tử thể hiện lòng trung thành hết mức với Thái hậu.

Đã đi sứ đến An Nam rồi,

Vẫn còn bái vọng chúc thọ Thái hậu.

Triều đình ức niên phải vui mừng có thần trung thành,

Đang đi sứ vạn dặm đến Bình Doanh.

Khuyên ngài tạm gác tình nhớ thương,

Vì vài chục ngày nữa là sẽ được quay trở về nước rồi.

Bài 7/37:

198

Cố Nhữ Tu làm thơ khen Trần Danh Lâm và Nguyễn Xuân Huyên

安四子眼食俱佳 An tứ tử nhãn thực cụ giai

皇華載詠到天涯, Hoàng Hoa tải vịnh đáo thiên nhai,

屬國同文義不乖。 Thuộc quốc đồng văn nghĩa bất quai.

就裏誰誇風韻好, Tựu lý thùy khoa phong vận hảo,

陳謙齋與阮舒齋。 Trần Khiêm Trai dữ Nguyễn Thƣ Trai.

Dịch nghĩa:

Bốn ngài tiếp sứ của nước An Nam đều tài giỏi và đảm đang

Ca vịnh bài Hoàng hoa đi sứ đến tận chân trời,

Nước phiên thuộc An Nam có quan hệ đồng văn có nghĩa tình.

Trước mặt phải khen ai có tài hoa văn chương nhỉ,

Tất nhiên phải thuộc Trần Khiêm Trai và Nguyễn Thư Trai.

Bài 8/38:

Hai quan chức tiếp sứ cùng họa lại

好宗工寫作兩佳 Hảo tông công tả tác lƣỡng giai,

汪洋奇思也無涯, Uông dƣơng kỳ tứ dã vô nhai,

七歲成吟此更乖。 Thất tuế thành ngâm thử cánh quai.

忝駕有緣親雅記, Thiệm giá hữu duyên thân nhã ký,

欲珍瓊翰揭書齋。 Dục trân quỳnh hàn yết thƣ trai.

Dịch nghĩa:

Sứ thần có tài thư pháp và làm thơ đều giỏi cả,

Tư duy thơ văn rộng mở,

Lên bảy đã biết ngâm thơ và nay càng giỏi thêm.

May mắn được hộ tống sứ đoàn và được chép thơ hay của sứ thần,

Muốn trân trọng giữ những bài thơ này như châu báu trong thư trai.

Bài 9/39:

早渡昌江 Sáng sớm vượt sông Xương Giang

(Thơ của sứ thần Đức Bảo)

199

日當添線渡昌溪, Nhật đƣơng thiêm tuyến độ Xƣơng khê,

笑煞東坡人滿堤。 Tiếu sát Đông Pha nhân mãn đê.

縞服斜攜青箬笠, Cảo phục tà huề thanh nhƣợc lạp,

畫船橫剪碧玻璃。 Họa thuyền hoành tiễn bích pha li.

如丹花蕊開仍抱, Nhƣ đan hoa nhị khai nhƣng bão,

似筍銀針插欲齊。 Tự duẩn ngân châm tháp dục tề.

好色必知怡遇客, Hiếu sắc tất tri di ngộ khách,

林間時送語高低。 Lâm gian thì tống ngữ cao đê.

Dịch nghĩa:

Lúc đang bình minh đi thuyền qua Xương Giang,

Hai bên bờ sông đứng đầy người ngắm sứ đoàn.

Dân mặc áo vải thô và đội nón,

Thuyền đi rất nhanh trên sông biếc.

Hoa nhụy màu đỏ đang thành nụ,

Cây như măng non mọc chỉnh tề.

Đều biết đang có khách quý đến,

Thì thầm hồi lâu giữa cây rừng.

Bài 10/40:

Thơ họa của Nguyễn Xuân Huyên

昌江原不啻凡溪, Xƣơng Giang nguyên bất xí phàm khê, 舶枕晴灘鷺宿堤。 Bách chẩm tình than lộ túc đê. 將命北來人似錦, Tƣớng mệnh Bắc lai nhân tự cẩm, 周流董注水如璃。 Chu lƣu Đổng chú thủy nhƣ li. 脂顏滿岸攜漿鬧, Chi nhan mãn ngạn huề tƣơng náo, 畫鷁橫瀾截練齊。 Họa nghịch hoành lan tiệt luyện tề. 就問老天知早晚, Tựu vấn lão thiên tri tảo vãn, 陽生紅日尚低低。 Dƣơng sinh hồng nhật thƣợng đê đê.

Dịch nghĩa:

Xương Giang không phải là sông bình thường, Tàu thuyền đến neo và chim cò đến đậu. Người có sứ mệnh đến từ miền Bắc rất có tài, Nhiều sông xung quanh hội nhập vào và nước trong sạch. Hai bên bờ sông đầy trai gái vui chơi, Các thuyền vẽ chim ích đi đều trên sông. Ông trời là người điều khiển sáng tối, Mặt trời đang mọc lên một chút.

200

Bài 11/41:

Trần Danh Lâm tặng thơ

駕陪幾日去匆匆, Giá bồi kỷ nhật khứ thông thông, 劇歲今朝猶展恭。 Kịch tuế kim triêu do triển cung. 珠蕊惠將香味惹, Châu nhị huệ tƣơng hƣơng vị nhạ, 鈞音欵接厚情濃。 Khâm âm khoản tiếp hậu tình nồng. 近瞻繡衾華袍上, Cận chiêm tú khâm hoa bào thƣợng, 如在春風淑氣中。 Nhƣ tại xuân phong thục khí trung. 可指星槎歸去後, Khả chỉ tinh sà quy khứ hậu, 令人翹首坐朦朣。 Lệnh nhân kiều thủ tọa mông đồng.

Dịch nghĩa:

Vội vã đi cùng sứ đoàn vài ngày, Hôm nay may mắn được vào yết kiến sứ thần. Ngưỡng mộ tài hoa của sứ thần đã từ lâu, Vinh dự được sứ thần nhiệt tình khoản đãi. Được ngồi gần sứ thần mặc lân phục, Cảm giác như đang ngồi hứng gió dễ chịu của mùa xuân. Sau khi sứ thần quay trở về nước rồi, Sẽ khiến người ta ngồi nhớ lại cảm giác ngày hôm nay.

Bài 12/42:

Nguyễn Xuân Huyên tặng thơ

關山萬里出炎方, Quan sơn vạn lý xuất viêm phƣơng, 一路追隨九日長。 Nhất lộ truy tùy cửu nhật trƣờng. 晚見丹情原未諒, Vãn kiến đan tình nguyên vị lƣợng, 光容赤問正須忙。 Quang dung xích vấn chính tu mang. 前聆珠玉知多恕, Tiên linh châu ngọc tri đa thứ, 邊挹苓蘭剩得香。 Biên ấp linh lan thặng đắc hƣơng. 極竟鬥山還在望, Cực cánh đẩu sơn hoàn tại vọng, 幸留瓊渚又瑤章。 Hạnh lƣu quỳnh chử hựu dao chƣơng.

Dịch nghĩa:

Sứ thần vượt qua vạn lý đến với An Nam, Chúng tôi đi cùng sứ đoàn đã chín ngày. Mong được yết kiến sứ thần đã từ ngày đầu, Nay được yết kiến bận trả lời và học hỏi với sứ thần. Mấy ngày trước được đọc thơ hay của sứ thần đã biết là có tài, Nơi cực Nam rất may được thưởng thức. Các ngài quay về đi xa rồi tôi vẫn ngóng nhìn, May có thơ và tình cảm của sứ thần còn để lại.

201

Bài 13/43:

Đức Bảo họa lại thơ

夙因誰料結殊方, Túc nhân thùy liệu kết thù phƣơng, 與子庚詩興味長。 Dữ tử canh thi hứng vị trƣờng. 為答珠璣千珧富, Vị đáp châu cơ thiên diêu phú, 翻嫌日月兩輪忙。 Phiên hiềm nhật nguyệt lƣỡng luân mang. 手標浩落雲霞裏, Thủ tiêu hạo lạc vân hà lý, 雅意驪征簷葡香。 Nhã ý li chinh thiềm bồ hƣơng. 一曲驪歌天萬里, Nhất khúc li ca thiên vạn lý, 相思可慰是篇章。 Tƣơng tƣ khả ủy thị thiên chƣơng.

Dịch nghĩa:

Không ngờ được đi sứ nơi xa cực Nam này, Cùng bàn luận thi ca với các ngài rất thú vị. Để trả lời câu hỏi và đáp lại thơ, Cả hai bên đều phải bận rộn hoạt động. Thư pháp đẹp như mây ngũ sắc, Ý thơ hay như mùi hoa thơm ngát. Một khúc Li ca xa vạn dặm, Nhớ nhau may mà có thơ để đọc.

Bài 14/44:

Cố Nhữ Tu họa thơ

馳驅晨夕各匆匆, Trì khu thần tịch các thông thông, 慚愧開誠與布公。 Tàm quý khai thành dữ bố công. 如我良回簡命重, Nhƣ ngã lƣơng hồi giản mệnh trọng, 似君真屬主情濃。 Tự quân chân thuộc chủ tình nồng. 頻庚雅調風雲外, Tần canh nhã điệu phong vân ngoại, 共飫肥腴醞釀中。 Cộng ứ phì du uẩn nhƣỡng trung. 他日牽懷回首處, Tha nhật khiên hoài hồi thủ xứ, 曆披舊句發朦朧。 Lịch phi cựu cú phát mông lông.

Dịch nghĩa:

Sớm tối rong ruổi các ngài đều bận bịu, Hổ thẹn với lòng thẳng thắn và thật thà của các ngài. Tôi có sứ mệnh ở trên vai, Các ngài là chủ nhà rất nhiệt tình. Thơ hay qua lại đã nhiều lần, Cùng được học hỏi và nâng cao. Hôm khác nhớ lại những ngày này, Đọc lại thơ tình cảm vẫn thắm thiết.

202

Bài 15/45:

Đức Bảo tặng thơ

呂瑰少住愜予懷, Lã Khôi thiếu trú thiếp dƣ hoài, 得晤來評二子佳。 Đắc ngộ lai bình nhị tử giai. 峭若松筠臨古簡, Tiếu nhƣợc tùng duân lâm cổ giản, 煥如孔翠照丹崖。 Hoán nhƣ khổng thúy chiếu đan nhai. 周旋盡許從容中, Chu toàn tận hứa thung dung trúng, 唱和非徒律呂諧。 Xƣớng họa phi đồ luật lã hài. 回向天朝常記取, Hồi hƣớng thiên triều thƣờng ký thủ, 陳謙齋與阮舒齋。 Trần Khiêm Trai dữ Nguyễn Thƣ Trai.

Dịch nghĩa:

Nghỉ chân ngắn ngủi ở trạm dịch Lã Côi khiến tôi rất vui vẻ, Vì được gặp và cùng bàn thơ với hai ngài tài tử tiếp sứ này. Khí tiết như cây tùng đứng ở núi cao hiểm trở, Rực rỡ như chim công đứng trên vách đá đỏ. Mọi sự đối đáp đều ung dung ứng phó, Xướng họa vần và đối đều khéo, giai điệu rất hay. Sau khi về đến nước rồi chúng tôi sẽ thường xuyên nhớ lại, Các ngài Trần Khiêm Trai và Nguyễn Thư Trai.

Bài 16/46:

Trần Danh Lâm họa thơ

近瞻苓宇濶虛懷, Cận chiêm linh vũ khoát hƣ hoài,

潤飫龍團品味涯。 Nhuận ứ long đoàn phẩm vị nhai.

春蔭桂枝鋪黛色, Xuân ấm quế chi phô đại sắc,

秋高恒嶽掛蒼崖。 Thu cao hằng nhạc quải thƣơng nhai.

也知韻語交談善, Dã tri vận ngữ giao đàm thiện,

幸有文章唱和諧。 Hạnh hữu văn chƣơng xƣớng hòa hài.

別後思君披示楮, Biệt hậu tƣ quân phi thị chử,

溶溶皓月照書齋。 Dung dung hạo nguyệt chiếu thƣ trai.

Dịch nghĩa:

Đến gần gặp sứ thần thấy có khí chất hào hiệp, Sứ đoàn thiên quốc rất có phẩm vị.

203

Hơi ấm mùa xuân làm cho cành quế phô màu đẹp, Mùa thu mát mẻ làm cho núi non như treo màu xanh biếc. Am hiểu vần thơ khéo nói năng, Thơ văn xướng họa rất hài hòa. Sau khi xa nhau có nhớ nhung thì sẽ đọc lại thơ hay của sứ thần, Trong phòng sách dưới ánh trăng vằng vặc.

Bài 17/47:

Nguyễn Xuân Huyên họa thơ

遙將寵命達柔懷, Dao tƣơng sủng mệnh đạt nhu hoài,

飽看千山萬水佳。 Bão khán thiên sơn vạn thủy giai.

瀟灑問情偏得韻, Tiêu sái vấn tình thiên đắc vận,

汪洋曠度不為崖。 Uông dƣơng khoáng độ bất vi nhai.

瓊琚真許騷章擬, Quỳnh cƣ chân hứa tao chƣơng nghĩ,

金石堪將雅調諧。 Kim thạch kham tƣơng nhã điệu hài.

偏覺旅陪重有幸, Thiên giác lữ bồi trùng hữu hạnh,

文人何處不名齋。 Văn nhân hà xứ bất danh trai.

Dịch nghĩa:

Đi xa để truyền chiếu thư vỗ về của vua Thanh, Ngắm hết núi sông tươi đẹp dọc đường. Thoải mái hỏi han làm được thơ hay, Tư duy rộng mở không có giới hạn. Tặng đáp cho nhau làm bài thơ hay tựa như thơ Ly tao, Nhịp điệu hài hòa tựa như tiếng vàng đá. May mắn được hộ tống đi cùng sứ đoàn, Văn nhân khắp nơi thường dùng chữ Trai đặt tên cho mình.

Bài 18/48:

Đức Báo tặng thơ

囂張神童求試來, Hiêu trƣơng thần đồng cầu thí lai, 館門特許為伊開。 Quán môn đặc hứa vị y khai. 詩成不待三聲叫, Thi thành bất đãi tam thanh khiếu, □遠駕逢八斗才。 □ viễn giá phùng bát đấu tài.

204

器宇軒騰真驥子, Khí vũ hiên đằng chân kí tử, 嘉名寵錫稱鑾台。 Gia danh sủng tích xứng loan đài. 他年若與天朝貢, Tha niên nhƣợc dữ Thiên triều cống, 莫棄斯遭乃旨哉。 Mạc khí tƣ tao nãi chỉ tai.

Dịch nghĩa:

Thần đồng chủ động xin được yết kiến để làm thơ, Đã đặc biệt cho mở cửa quán để đón cháu vào. Chưa đánh xong ba hồi trống đã làm xong bài thơ, Ở nơi hoang xa lại gặp người tài giỏi như vậy. Khí vũ tuyên dương thật xứng là con nhà có học, Tiếng tăm như thế sau này chắc chắn sẽ là trọng thần. Về sau nếu các ngài nếu làm sứ thần sang Trung Hoa triều cống, Chớ quên điều dự kiến hôm nay nhé.

Bài 19/49:

Cố Nhữ Tu tặng thơ khen

懷鉛挾槧叩門來, Hoài duyên hiệp tạm khấu môn lai, 句裏心胸拓欵開。 Cú lí tâm hung thác khoản khai. 于璞先知瑚璉器, Vu Phác tiên tri Hồ Liên khí, 入林早決棟樑才。 Nhập lâm tảo quyết đống lƣơng tài. 鐘南好倚標銅柱, Chung Nam hảo ỷ tiêu đồng trụ, 拱北行瞻市駿台。 Củng Bắc hành chiêm thị tuấn đài. 舊業老夫拋已久, Cựu nghiệp lão phu phao dĩ cửu, 於今技癢亦狂哉。 Vu kim kỹ dƣỡng diệc cuồng tai.

Dịch nghĩa:

Cầm bút đem thi tập đến gõ cửa, Tài thơ trong lòng rất rộng mở. Vu Phác biết trước tài năng của Hồ Liên, Sự nghiệp biết chắc là lương đống của triều đình. Núi Chung Nam có thể tựa vào cột đồng trụ, Sang sứ nước Bắc có thể gặp lại nhau. Tôi bỏ làm thơ đã lâu năm, Hôm nay cũng điên cuồng muốn làm thử.

Bài 20/50:

Trần Y Trạch họa thơ

萬里星軺天上來, Vạn lý tinh diêu thiên thƣợng lai,

雛生何幸接誠開。 Sồ sinh hà hạnh tiếp thành khai.

雨膏潤黍濡洪霈, Vũ cao nhuận thử nhu hồng bái,

襪線裁花愧譾才。 Miệt tuyến tải hoa quý tiễn tài.

205

錦縵葩采凝鬥畔, Cẩm man ba thái ngƣng đẩu bạn,

彩生仙筆潤香台。 Thái sinh tiên bút nhuận hƣơng đài.

登瞻李杜光千丈, Đăng chiêm Lý Đỗ quang thiên trƣợng,

君子謙謙顧題哉。 Quân tử khiêm khiêm cố đề tai.

Dịch nghĩa:

Sứ thần đi xa vạn dặm từ Kinh đô Phương Bắc đến,

Cháu nhỏ rất mừng được yết kiến sứ thần.

Ân trạch và lời dạy bảo của sứ thần như nước mưa thấm nhuần,

Cháu nhỏ kiến thức có hạn không xứng với lời khen của các ngài.

Thơ của sứ thần hay như cẩm tú và hoa đẹp,

Làm cho đài nghiên thêm màu sắc rực rỡ.

Ngẩng đầu như nhìn thấy hào quang của Lý Bạch và Đỗ Phủ,

Các ngài là bậc quân tử thật khiêm tốn.

Bài 21/51:

Đức Bảo tặng thơ An Nam Quốc vƣơng

象星尊北極, Tƣợng tinh tôn Bắc Cực,

作鎮守炎方。 Tác trấn thủ viêm phƣơng.

幸沐分茅惠, Hạnh mộc phân mao huệ,

新頒脈土章。 Tân ban mạch thổ chƣơng.

慶傳銘帶礪, khánh truyền minh đới lệ,

榮衍捧圭璋。 Vinh diễn bổng khuê chƣơng.

幸際霑深澤, Hạnh tế triêm thâm trạch,

宜思續令望。 Nghi tƣ tục lệnh vong (vƣơng).

得邦忠是鵠, Đắc bang trung thị hộc,

保國孝為坊。 Bảo quốc hiếu vi phƣờng.

更廣詩書教, Cánh quảng thi thƣ giáo,

全臻仁讓鄉。 Toàn trăn nhân nhƣợng hƣơng.

屏翰名克付, Bình hàn danh khắc phó,

恭謹良誠良。 Cung cẩn lƣơng thành lƣơng.

一意無諭忒, Nhất ý vô dụ thắc,

千秋睹耿光。 Thiên thu đổ cảnh quang.

Dịch nghĩa:

Một lòng kính ngưỡng như các ngôi sao xung quanh hướng về sao Bắc Cực,

Cai quản giữ gìn đất nước ở xứ nóng bức nơi hoang xa.

Được vua Thanh ban ân trạch,

Có sắc phong làm Quốc vương.

Chúc mừng danh dự này được truyền nối nhau,

206

Vinh dự được tặng ngọc khuê.

Đã được thấm nhuần nhiều ân trạch, hy vọng tiếp tục giữ hòa hiếu.

Được làm Quốc vương lấy trung làm chí hướng,

Giữ nước nên lập trung hiếu phường.

Lại mở rộng việc giáo hóa Thi Thư,

Đức nhân nhựng phổ biến khắp nước.

Trọng thần có tiếng tăm được ghi nhớ,

Cung kính cẩn thận thương dân thuộc bậc quan lành.

Một lòng cung kính không thay đổi,

Ngàn đời được ngắm cảnh vẻ rang.

Bài 22/52:

An Nam Quốc vƣơng họa thơ

北紐端宸極,

Bắc nữu đoan thần cực,

南交入職方。

Nam Giao nhập chức phƣơng.

四乘華使節,

Tứ thừa Hoa sứ tiết,

九命賁王章。

Cửu mệnh bôn vƣơng chƣơng.

虞岳榮班瑞,

Ngu Nhạc vinh ban thụy,

周庭恪奉璋。

Chu đình khác phụng chƣơng.

開顏欣鳳睹,

Khai nhan hân phƣợng đổ,

拭目快雲望。

Thức mục khoái vân vƣơng (vong).

將事公平准,

Tƣơng sự công bình chuẩn,

稷躬禮義坊。

Tắc cung lễ nghĩa phƣờng.

文明□□軌,

Văn minh □ □ quỹ,

雅淡葛胥鄉。

Nhã đạm Cát Tƣ hƣơng.

礪操橫安子,

Lệ thao hoành Yên Tử,

吟懷寫富良。

Ngâm hoài tả Phú Lƣơng.

瑤瓊留永好,

Dao quỳnh lƣu vĩnh hảo,

台鬥挹餘光。

Đài đẩu ấp dƣ quang.

Dịch nghĩa:

Nước Nam luôn giữ lệ triều cống Thượng Quốc. Sứ thần sang sứ, truyền nhau thư mệnh của vua. Ngu Nhạc vinh quang vì sứ đoàn, luôn tuân thủ triều đình phương Bắc. Vui mừng được nhìn thấy, cứ mong nhanh chóng được chứng kiến. Mọi sự đều cố gắng xét cho công bằng, dạy dân cho biết lễ nghĩa. Rõ ràng dấu tích văn minh, làng mạc cũng nhã nhặn điềm đạm.

207

Khích lệ ca ngợi chuyện Yên Tử, ngâm thơ thì hay viết về sông Phú Lương. Thơ hay ghi chép lại tình hữu nghị, tài hoa của các ngài khiến ta được học hỏi.

Bài 23/53:

Cố Nhữ Tu tặng thơ An Nam Quốc vƣơng

慶衍南交繼序明, Khánh diễn Nam Giao tục tự minh, 炎方遮罩拱神京。 Viêm phƣơng bình tế củng thần kinh. 兩言忠孝能治國, Lƣỡng ngôn trung hiếu năng trị quốc, 千載共球幸守成。 Thiên tải cộng cầu hạnh thủ thành. 佛跡山巔摩漢直, Phật Tích sơn điên Ma Hán trực, 龍門江水照人情。 Long Môn giang thủy chiếu nhân tình. 海隅萬里非荒服, Hải ngung vạn lý phi hoang phục, 天畫西陲載赫聲。 Thiên họa tây thùy tải hách thanh.

Dịch nghĩa:

Mừng thấy An Nam yên vui và khai minh, Ở nơi hoang xa nhưng vẫn kính cẩn đối với Bắc quốc. Hai chữ trung, hiếu có thể trị nước, Giữ nước yên ổn cho ngàn năm. Đỉnh núi Phật Tích cao ngất trời, Nước sông Long Môn soi tình ta. Dù ở góc biển xa vạn dặm, Nhưng vẫn có nền nếp văn hóa, tiếng tăm vang dội trên đời.

Bài 24/54:

An Nam Quốc vƣơng nối vần họa đáp

日朗中天萬國明, Nhật lãng trung thiên vạn quốc minh, 使星光彩耀宜京。 Sứ tinh quang thái diệu nghi Kinh. 親承鳳誥知堯渥, Thân thừa phƣợng cáo tri Nghiêu ốc, 迎接鸞儀見舜成。 Nghênh tiếp loan nghi kiến Thuấn thành. 一路賢勞嵐霧霽, Nhất lộ hiền lao lam vụ tế, 億年聖澤海波清。 Ức niên thánh trạch hải ba thanh. 明朝宣室承清問, Minh triều tuyên thất thừa thanh vấn, 銅柱南來總教聲。 Đồng trụ nam lai tổng giáo thanh.

Dịch nghĩa:

Mặt trời giữa trời chiếu sáng mọi nước,

Quang huy của sứ thần làm rực rỡ Kinh thành.

Nhận được chiếu thư biết được đức Nghiêu,

Qua các nghi lễ là cảm nhận được thời vua Thuấn.

Sứ thần sang sứ làm tan sương mù,

208

Đức trạch của thánh nhân làm trong sạch nước biển.

Về nước vua Thanh nếu có hỏi,

Nhớ nói là phía Nam đồng trụ cũng là nước văn hiến.

Bài 25/55:

Lê Quý Đôn tặng thơ

王會堂堂盛九儀,

Vƣơng hội đƣờng đƣờng thịnh cửu nghi,

奉書介使拜丹墀。

漢家皇帝賢天子,

齊國陪臣賤有司。

秋轉輶軒離紫陛,

Phụng thƣ giới sứ bái đan trì. Hán gia hoàng đế hiền thiên tử(1), Tề quốc bồi thần tiện hữu ti(2). Thu chuyển du hiên li tử bệ,

春從恩詔到朱維。

敝邦竹箭尋常物,

可有人才當獎知。

Xuân tùng ân chiếu đáo Chu duy. Tệ bang trúc tiễn tầm thƣờng vật(3), Khả hữu nhân tài đƣơng tƣởng tri.

Dịch nghĩa:

Vương cung khang trang nghi lễ linh đình,

Sứ thần cầm chiếu thư lạy trước cung điện.

Vua Càn Long tài giỏi như vua nhà Hán,

Tôi chẳng qua chỉ là một bề tôi nhỏ của nước An Nam.

Mùa thu lên xe rời hoàng cung,

Mùa xuân lại mang ân trạch đến biên giới.

Nước hoang xa chúng tôi chỉ có cây tre bình thường,

Đâu có nhân tài như Thanh sứ vừa khen.

宮線初從律管添,

Cung tuyến sơ tùng luật quản thiêm,

寒雲珥水捲丹蟾。

Hàn vân Nhĩ thủy quyển đan thiềm.

下鄉正自歌魚藻,

塚宰誠堪養虎鹽。

兩稻八蠶天子福,

五風十雨聖人占。

Hạ hƣơng chính tự ca ngƣ tảo, Trủng tể thành kham dƣỡng hổ diêm(1). Lƣỡng đạo bát tàm thiên tử phúc(2), Ngũ phong thập vũ thánh nhân chiêm.

歸舟何幸逢龍節,

Quy chu hà hạnh phùng long tiết,

禿筆花前強自拈。

Thốc bút hoa tiền cƣỡng tự niêm.

Dịch nghĩa:

Âm nhạc vừa được thêm điệu, Mây lạnh trên sông Nhĩ bay cuốn mặt trăng. Ở thôn quê đang ca ngợi thu hoạch cá và rau, Các ngài sứ thần thật đáng được khen ngợi. Một năm hai vụ lúa và tám lần thu tơ tằm là nhờ ân trạch của Thiên tử, Được thuận mưa vừa gió là nhờ ơn bậc thánh nhân.

209

Thuyền sứ về nước may mắn biết bao được gặp hai vị sứ thần, Tài kém nhưng vẫn cố suy nghĩ làm thử thơ.

Bài 26/56:

Đức Bảo nối vần họa lại

拱向天朝作羽儀, Củng hƣớng thiên triều tác vũ nghi, 六年職貢獻龍墀。 Lục niên chức cống hiến long trì. 駢羅方物圖王會, Biền la phƣơng vật đồ vƣơng hội, 稠疊恩綸下所司。 Trù điệp ân luân hạ sở ty. 為報柔懷崇使節, Vị báo nhu hoài sùng sứ tiết, 好興禮讓固蕃維。 Hảo hƣng lễ nhƣợng cố phiên duy. 此行探得驚人句, Thử hành thám đắc kinh nhân cú, 為寄神童伊宅知。 Vị ký thần đồng Y Trạch tri.

Dịch nghĩa:

Một lòng kính trọng nước Bắc theo nghi lễ, Giữ lệ sáu năm một lần sang nạp cống. Nạp cống các loại đặc sản, Vua Thanh cũng đáp tặng các loại sản phẩm hảo hạng. Nhằm thể hiện tấm lòng vỗ về người xa nên cử sứ thần sang, Bằng cách lễ phép giữ hòa hiếu. Chuyến đi sứ lần này gặt hái được nhiều câu thơ hay, Cho tôi gửi lời hỏi thăm thần đồng Trần Y Trạch nhé.

Bài 27/57:

Cố Nhữ Tu nối vần họa lại

驛路霜華鬢髮添, Dịch lộ sƣơng hoa tấn phát thiêm, 五經皓魄湧寒蟾。 Ngũ kinh hạo phách dũng hàn thiềm. 差雲攻石能為玉, Sai vân công thạch năng vi ngọc, 敢道調羹用作鹽。 Cảm đạo điều canh dụng tác diêm. 郇伯有苗留雨潤, Tuần Bá hữu miêu lƣu vũ nhuận, 張騫偶客應星占。 Trƣơng Khiên ngẫu khách ứng tinh chiêm. 歸來小憩壺城裏, Quy lai tiểu khệ Hồ Thành lý, 一渙華前對手拈。 Nhất hoán hoa tiền đối thủ niêm.

Dịch nghĩa:

Dịch lộ vất vả nên đầu bạc thêm, Thuộc lòng ngũ kinh sáng như trăng trời. Sai mây tiến công đá có thể mài thành ngọc, Muốn làm canh ngọt phải cho muối. Tài hơn Tuần Bá giúp vua trị nước, Trương Khiên nếu gặp cũng phải bói sao.

210

Đi sứ về tạm nghỉ ở thành biên thùy này, Thể hiện tài hoa làm thơ có thể xong ngay lập tức.

Bài 28/58:

Dung Sào thi 榕巢詩 (Thơ của Tra Lễ)

老榕俯浩葉扶疎, Lão dung phủ hạo diệp phù sơ, 小架枝頭高結廬。 Tiểu giá chi đầu cao kết lô. 上古有民多木處, Thƣợng cổ hữu dân đa mộc xử, 瘴鄉惟我獨巢居。 Chƣớng hƣơng duy ngã độc sào cƣ. 樹涼夕影橫窗碧, Thụ lƣơng tịch ảnh hoành song bích, 水澹秋客梫檻虛。 Thủy đạm thu khách xâm hạm hƣ. 誰說陵空巔更險, Thùy thuyết lăng không điên cánh hiểm, 心安隱幾夢蘧蘧。 Tâm an ổn kỷ mộng cừ cừ.

Dịch nghĩa:

Cây đa um tùm lá xanh cành lớn, Có thể làm nhà gỗ ở trên cành đó. Thời thượng cổ đã có dân hay ở nhà gỗ, Nhưng ở nơi biên thùy này chỉ có tôi làm nhà ở trên cây như tổ chim. Bóng mát và cửa sổ xanh tươi, Nước chảy đi qua không ướt nhà. Ai bảo ở trên không như thế quá nguy hiểm, Nhà cửa chắc chắn ngủ rất yên ổn.

Bài 29/59:

Đức Bảo họa thơ

到來清興一筆疎, Đáo lai thanh hứng nhất bút sơ, 遍曆名園愛此廬。 Biến lịch danh viên ái thử lô. 八九椽騎榕樹架, Bát cửu duyên kị dung thụ giá, 煙霞容枕碧流居。 Yên hà dung chẩm bích lƣu cƣ. 橋因拜石澆花設, Kiều nhân bái thạch kiêu hoa thiết, 窗為尋詩貯月虛。 Song vị tầm thi trữ nguyệt hƣ. 把燭夜深看好句, Bả chúc dạ thâm khan hảo cú, 莫明栩栩抑蘧蘧。 Mạc minh hử hử ức cừ cừ.

Dịch nghĩa:

Nhìn thấy nhà trên cây như thế rất sảng khoái, Yêu nhất cái nhà này so với các kiểu nhà khác. Với tám, chín cái cột là cất được nhà trên cây đa, Ngày đêm gối mây và nhìn lá xanh đi ngủ. Cái cầu xây để tiện cho tưới hoa, Cửa sổ để ngắm trăng tìm nguồn cảm hứng.

211

Đêm thuya thắp nến để đọc sách, Hết sức sinh động và vui vẻ.

Bài 30/60:

Cố Nhữ Tu họa thơ

逸精雲上性風疎, Dật tinh vân thƣợng tính phong sơ, 偶向人間結此廬。 Ngẫu hƣớng nhân gian kết thử lô. 懷古何妨聊木處, Hoài cổ hà phòng liêu mộc xứ, 避暄豈必藉岩居。 Tị huyên khỉ tất tịch nham cƣ. 經營得間虯枝臥, Kinh doanh đắc gián cù chi ngọa, 依傍全空碧沼虛。 Y bàng toàn không bích chiểu hƣ. 獨坐澄心應寡過, Độc tọa trừng tâm ƣng quả quá, 車聲猶識大夫蘧。 Xa thanh do thức đại phu cừ.

Dịch nghĩa:

Thư giãn trên mây tính phóng khoáng, Xây nhà trên cây rất đặc biệt. Hoài cổ đâu nhất định ở nhà gỗ, Tránh né ồn ảo đâu tất phải ở nhà hang động? Nhà trên cành cây rất độc đáo, Như ở trên không có vườn xanh bao quanh. Ngồi một mình cho lòng được yên tĩnh và không ham muốn, Tiếng xe vẫn còn nhớ vị đại phu này.

Bài 31/61:

Lê Quý Đôn họa thơ

山漸相親偌漸疎, 蝸牛此隱小華廬。 出群鴻鵠存高步, 隨分鷦鷯見廣居。 花事到軒春澹蕩, 湖光搖檻月清虛。 理人太守多間靜, 坐使似幾□□蘧。

Sơn tiệm tƣơng thân nhƣợc tiệm sơ, Oa ngƣu thử ẩn tiểu hoa lƣ. Xuất quần hồng hộc tồn cao bộ, Tùy phận tiêu liêu kiến quảng cƣ. Hoa sự đáo hiên xuân đạm đãng, Hồ quang dao hạm nguyệt thanh hƣ. Lý nhân thái thú đa gián tĩnh, Tọa sử tự ky □ □ cừ.

Dịch nghĩa:

Núi như gần gũi hơn lại lớn hơn,

Cái nhà trên cây này như con ốc ẩn trong núi.

Đại bàng xuất chúng hay ở cao,

Chỉ có chim nhỏ bình thường ở thấp khắp nơi.

Mùa hoa nở là nhà đầy không khí xuân,

212

Nước hồ xanh biếc, mặt trăng sáng.

Thái thú bận việc lúc cần yên tĩnh,

Ngồi nhà trên cây là gián cách với đời.

Bài 32/62:

Trần Danh Lâm nối vần họa thơ

蒼松翠竹共扶疎,

Thƣơng tùng thúy trúc cộng phù sơ,

路入榕根巧結廬。

Lộ nhập dung căn xảo kết lô.

羞假雲龍傳塑繪,

Tu giả vân long truyền sóc hội,

耐憑鳥兒迭諸居。

Nại bằng điểu nhi điệt chƣ cƣ.

素琴響弄驚超偌,

Tố cầm hƣởng lộng kinh siêu nhƣợc,

青鳥時窺恍步虛。

Thanh điểu thì khuy hoảng bộ hƣ.

最是小橋低酌處,

不教錦綺換菅蘧。

Tối thị tiểu kiều đê chƣớc xứ, Bất giao cẩm ỷ hoán gian cừ(1).

Dịch nghĩa:

Cây tùng cây trúc cùng bao quanh,

Đường vào gốc cây đa làm bậc lên làm nhà trên cây.

Tạo giả mây trời truyền hình tượng,

Bắt chước con chim làm nhà ở.

Tiếng cầm vang lên trên cây như ở cõi tiên,

Con chim nhìn thấy tưởng nhầm nơi.

Cái cảm giác đặc biệt khi uống rượu ở trên cầu,

Là dùng lụa gấm cũng không đổi được.

Phụ lục III: DANH MỤC NHAN ĐỀ CÁC BÀI TĐS CỦA SỨ THẦN TRUNG QUỐC

I. Thời Tống Nguyên (16 sứ thần)

1. 李覺 Lý Giác (947-993), tên tự 仲明 Trọng Minh, đi sứ An Nam vào năm 986 cùng với Lý

Nhƣợc Chuyết, mang chiếu thƣ sang. ĐVSKTT ghi sang sứ lần hai vào năm 987.

(1) 詠鵝 Bài thơ Vịnh ngỗng cùng họa với Pháp Thuận (Việt Nam)

213

(2) Bài thơ không đầu đề, nội dung về Lần hai đi sứ Giao Châu

2. 張立道 Trƣơng Lập Đạo (?-1298), tên tự 顯卿 Hiển Khanh, ba lần đi sứ An Nam vào các

năm 1267, 1271 và 1291 để chiêu dụ vua Trần vào chầu.

(1) 尚書張顯卿 Bài thơ không đầu đề, chỉ ghi Thượng thư Trương Hiển Khanh.

3. 梁曾 Lƣơng Tăng (1242-1322), tên tự 贡父 Cống Phụ, hai lần đi sứ An Nam vào năm 1279 và

năm 1292 để chiêu dụ vua Trần vào chầu.

(1) 吃荔枝 Ăn vải

4. 李思衍 Lý Tƣ Diễn (khoảng 1240-1300), tên tự 昌翁 Xƣơng Ông, hiệu 两山 Lƣỡng Sơn, đi sứ

An Nam vào năm 1288 để chiêu dụ vua Trần vào chầu. KVTL ghi chép Diễn sang sứ vài lần.

(1) 世子燕席索詩 Thế tử đòi thơ trên tiệc

(2) 世子和前韻有自顧不才慚錫土只緣多病欠朝天之句即席次韻 Thê tử họa bài thơ trên có

câu “Thấy mình bất tài xấu hổ trước sứ thần, chỉ bởi sức khỏe yếu nên không sang chầu” nên thứ

vận họa lại trên tiệc

(3) 行贐有禮辭之世子舉陸賈事斖斖見愛謝絕以詩 Sắp về từ chối quà biếu, Thế tử nêu truyện

Lục Giả, biết Thế tử trân trọng quý mình nên từ chối bằng thơ

(4) 觀棊 Xem đánh cờ

(5) 思明州摩云岭 Đèo Ma Vân ở châu Tư Minh

5. 徐明善 Từ Minh Thiện (sinh khoảng năm 1251), tên tự 志友 Chí Hữu, đi sứ An Nam vào năm

1288 cùng với Lý Tƣ Diễn, để chiêu dụ vua Trần vào chầu.

(1) 佐兩山使交春夜觀棊贈世子 Phụ tá Lưỡng Sơn sứ Giao Châu đêm mùa xuân xem đánh cờ

tặng Thế tử

(2) 席上口占 Khẩu chiếm trên tiệc

6. 陈孚 Trần Phu (1259-1309), tên tự 刚中 Cƣơng Trung, đi sứ An Nam vào năm 1292 cùng với

Lƣơng Tăng để chiêu dụ vua Trần vào chầu. Có tập TĐS mang tên 交州稿 Giao Châu cảo.

(1) 出順承門 Xuất Thuận Thừa Môn

(2) 過盧溝橋 Đi qua Lô Câu cầu

(3) 良鄉縣早行 Buổi sáng sớm khởi hành từ Huyện Lương Hương

(4) 涿州 Trục Châu

(5) 樓桑廟 Lâu Tang Miếu

(6) 易州 Dị Châu

(7) 保定府 Phủ Bảo Định

(8) 中山府 Phủ Trung Sơn

(9) 真定懷古 Chân Định hoài cổ

214

(10) 過滹沱河 Di qua sông Hô Đà

(11) 宿趙州驛 Nghỉ đêm ở Triệu Châu dịch

(12) 望臺 Vọng Đài

(13) 鄗南光武廟 Hảo Nam Quang Vũ miếu

(14) 過臨洺驛大雨雪甚 Đi qua Lâm Danh dịch gặp mưa tuyết to

(15) 邯鄲懷古 Hàn Đan hoài cổ

(16) 磁州 Từ Châu

(17) 銅雀臺 Đồng Khước Đài

(18) 彰德道中 Trên đường Chương Đức

(19) 羑裏歌 Do Lý ca

(20) 淇州 Kỳ Châu

(21) 衛州 Vệ Châu

(22) 黃河 Hoàng Hà

(23) 博浪沙 Bá Lãng Sa

(24) 汴梁龍德故基 Quê hương Long Đức ở Biện Lương

(25) 登大相國寺資聖閣 Đăng Tư Thánh Các ở Tướng Quốc tự

(26) 石假山 Thạch Giả Sơn

(27) 朱仙驛 Chu Tiên dịch

(28) 鄢陵 Yên Lăng

(29) 上蔡縣驛 Thượng Thái Huyện dịch

(30) 蔡州 Thái Châu

(31) 蔡州至馬鄉遇大雪有作 Gặp mưa tuyết to ở làng Chí Mã của Thái Châu nên làm thơ

(32) 黃州黃陂驛 Hoang Pha dịch của Hoàng Châu

(33) 陽羅堡歌 Dương La Bảo ca

(34) 黃鶴樓歌 Hoàng Hạc Lâu ca

(35) 鄂渚晚眺 Ngắm cảnh chiều tối ở Ngạc Chử

(36) 鸚鵡洲 Anh Vũ Châu

(37) 呂仙亭 Lã Tiên đình

(38) 岳陽樓 Nhạc Dương lâu

(39) 潭州 Đàm Châu

(40) 瀟湘八景 Tiêu Tương bát cảnh

(41) 烟寺晚鐘 Chuông chiều ở Yên Tự

(42) 江天暮雪 Tuyết chiều tối bên bờ sông

(43) 瀟湘夜雨 Mưa tối ở Tiêu Tương

(44) 平沙落雁 Con nhạn khuất ở Bình Sa

(45) 遠浦歸帆 Thuyền về từ khơi

(46) 山市晴嵐 Khói tạnh chợ miền núi

(47) 漁村返照 Nắng ánh làng chài

215

(48) 衡州 Hoành Châu

(49) 永州 Vĩnh Châu

(50) 湘山寺無量壽佛 Vô Lượng Thọ Phật ở Tương Sơn Tự

(51) 磐石山 Núi Bàn Thạch

(52) 全州 Toàn Châu

(53) 靈川縣觀桂林山 Ngắm non Quế Lâm từ huyện Linh Xuyên

(54) 馬王閣 Mã Vương Các

(55) 樓棲霞之洞 Khê Hà động Huyền Nguyên Lâu ở trên núi Thất Tinh 七星山玄元

(56) 題水月澗 Đề Thủy Nguyệt giản

(57) 自永福縣過八十里山 Từ Huyện Vĩnh Phúc đi qua Bát Thập Lý Sơn

(58) 馬平謁柳侯廟 Thăm Liễu Hầu miếu ở Mã Bình

(59) 賔州 Tân Châu

(60) 過牂牁江 Đi qua sông Trang Kha

(61) 過邕州崐崘關 Đi qua ải Khôn Luân ở Ung Châu

(62) 邕州 Ung Châu

(63) 江州 Giang Châu

(64) 度三花嶺 Vượt đèo Tam Hoa

(65) 思明州元日 Ngày Nguyên nhật ở Tư Minh Châu

(66) 思明州 Tư Minh Châu

(67) 度摩雲嶺至思淩州 Vượt đèo Ma Vân đến Tư Lăng Châu

(68) 祿州遇大風 Gặp gió lớn ở Lộc Châu

(69) 交趾境丘溫縣 Huyện Khưu Ôn thuộc địa phận của Giao Chỉ

(70) 二月三日宿丘溫驛見新月正在天心,眾各驚異,因詩以記之 Ngày mồng ba tháng hai nghỉ

đêm ở Khưu Ôn dịch thấy mặt trăng ở ngay giữa lòng trời, mọi người kinh ngạc, nên làm thơ để

ghi nhớ

(71) 交趾支陵驛即事 Giao Chỉ Chi Lăng dịch tức sự

(72) 交趾朝地驛即事 Giao Chỉ Triêu Địa dịch tức sự

(73) 交趾橋市驛戲作藥名詩 Làm thơ bằng dược danh ở Giao Chỉ Kiều Thị dịch

(74) 入安南以官事未了絕不作詩,清明日感事,因集句成十絕,奉呈貢父尚書,並示世子及

諸大夫 (篇篇見寒食)Vào An Nam với nguyên tắc việc công chưa xong tuyệt không làm thơ, ngày

Thanh minh vì có cảm xúc về công việc, nên tập cú thành mười bài tuyệt cú để dâng Thượng thư

Cống Phụ cũng như Thế tử và các ngài sĩ phu (bài nào cũng có hai chữ Hàn thực)

(75) 交趾偽少保國相丁公文以詩餞行因次韻 Giao Chỉ Thiếu bảo Quốc tướng Đinh Công Văn

tặng thơ tiễn nên thứ vận họa lại (có bài thơ tặng của Đinh Công Văn)

(76) 老鼠關 Lão Thực quan

(77) 柳州道中 Trên đường Liễu Châu

(78) 至永州 Tới Vĩnh Châu

(79) 浯溪題元次山頌後 Ngô Khê đề thơ sau bài tụng Nguyên Thứ Sơn

216

(80) 迴衡山縣望南嶽呈禦史完顏正夫修撰龐夷簡 Đi về qua huyện Hoành Sơn ngoáy xem Nam

Nhạc trình Ngư sử Hoàn Nhan Chính Phu, Tu soạn Bàng Di Giản

(81) 迴過湘陰縣 Đi về qua huyện Tương Âm

(82) 泊安慶府呈貢父 Thuyền đậu ở Yên Khánh Phủ trình Cống Phụ

(83) 採石月題蛾眉亭 Đêm trăng ở bến Thái Thạch đề Nga Mi đình

(84) 交州使還感事二首 Giao Châu sứ hoàn cảm sự hai bài

(85) 安南即事 An Nam tức sự

7. 李衎 Lý Khán (1245-1320), tên tự 仲賓 Trọng Tân, đi sứ An Nam vào năm 1294 cùng với Tiêu

Thái Đăng để chiêu dụ vua trần vào chầu.

(1) 和洞妙自真世子韻 Họa Động Mẹo Tự Chân Thế tử vận

8. 蕭泰登 Tiêu Thái Đăng (1266—1303), tên tự 則平 Trắc Bình, hiệu Phƣơng Nhai 方崖, đi sứ

An Nam cùng với Lý Khán vào năm 1294.

(1) 即席和世子韻 Trên tiệc họa Thế tử vận

9. 李京 Lý Kinh (không rõ năm sinh và năm mất), tên tự 景山 Cảnh Sơn. Đi sứ An Nam vào năm

1308 để tuyên bố vua Nguyên mới lên ngôi.

(1) 侍郎李景山 Bài thơ không đầu đề, chỉ ghi Thị lang Lý Cảnh Sơn (Bài họa lại thơ tặng của Thế

tử)

10. 杜與可 Đỗ Dữ Khả (không rõ năm sinh và năm mất), tên tự 希望 Hy Vọng. Đi sứ An Nam vào

năm 1311 để tuyên bố vua Nguyên mới lên ngôi.

(1) 郎中杜希望 Bài thơ không đầu đề, chỉ ghi Lang trung Đỗ Hy Vọng

11. 文矩 Văn Cử (?-1323), tên tự 子方 Tử Phƣơng, đi sứ An Nam vào năm 1321 để tuyên bố

vua Nguyên mới lên ngôi.

(1) 郎中文子方 Bài thơ không đầu đề, chỉ ghi Lang trung Văn Tử Phương

(2) 贈世子太虛子 Tặng Thế tử Thái Hư Tử (có bài thơ tặng của Thế tử)

(3) 答世子韻 Đáp Thế tử vận (Có bài thơ tặng của Thế tử)

12. 楊宗瑞 Dƣơng Tông Thụy (không rõ năm sinh và năm mất), tên tự 庭鎮 Đình Trấn, đi sứ An

Nam vào năm 1324, tuyên bố vua Nguyên mới lên ngôi.

(1) 答太子世子韻 Đáp Thái tử Thế tử vận (Có hai bài thơ tặng của Thái tử)

13. 趙期頤 Triệu Kỳ Di (không rõ năm sinh và năm mất), tên tự 子期 Tử Kỳ, đi sứ An Nam vào

năm 1331 tuyên bố vua Nguyên mới lên ngôi.

217

(1) 和太子世子韻 Họa Thái tử Thế tử vận (Có bài thơ tặng của Thái tử)

14. 黃裳 Hoàng Thƣờng (không rõ năm sinh và năm mất), cũng không rõ tên tự, khoảng đi sứ An

Nam vào năm 1332-1334.

(1) 送使吟 Tống sử ngâm

(2) Bài thơ tuyệt cú không đầu đề viết trên quạt tặng ả Hồng (Có hai bài thơ tặng của ả Hồng)

15. 智熙善 Trí Hi Thiện (không rõ năm sinh và năm mất), tên tự 子元 Tử Nguyên, đi sứ An Nam

vào năm 1335 tuyên bố vua Nguyên mới lên ngôi.

(1) 安南喜雨 Mừng thấy mưa ở An Nam

16. 傅若金 Phó Nhƣợc Kim (1304-1343), tên tự 與礪 Dữ Lệ, đi sứ An Nam cùng với Trí Hi

Thiện vào năm 1335 tuyên bố vua Nguyên mới lên ngôi. (98 bài)

(1) 七月十一日赴安南 Ngày mười một tháng bảy khởi hành đi An Nam

(2) 盧溝橋 Lô Câu cầu

(3) 範陽 Phạm Dương

(4) 拒馬河 Cự Mã hà

(5) 欒成驛 Loan Thành dịch

(6) 至欒城使者亡其弓戲題 Đến Loan Thành sứ giả làm hỏng cai cung nên làm thơ đùa

(7) 涿州樓桑村先主廟二首 Trục Châu Lâu Tang thôn Tiên chủ miếu hai bài

(8) 過真定尉佗先塚 Đi qua mộ mả tiên tổ của Triệu Đà ở Chân định

(9) 使至真定,赴都計事,遇大雹傷榖,時逆臣唐其勢誅 Đi sứ đến Chân Định, về Kinh đô xử lý

chút việc, gặp mưa đá làm hỏng lúa, lúc đó nghịch thần họ Đường thế lực bị giảm yếu

(10) 公事畢重發京師 Việc công xong lại xuất phát từ Kinh thành

(11) 趙州石樑隋李春造上有張果老驢跡 Triệu Châu Thạch cầu do Lý Xuân nhà Tùy xây có vết

tích của con lừa Trương Thiết Quải

(12) 延津渡河 Qua đò Diên Tân

(13) 磁州 Từ Châu

(14) 淇州 Kỳ Châu

(15) 黃河 Hoàng Hà

(16) 汴梁 Biện Lương

(17) 上蔡 Thượng Thái

(18) 汝南 Nhữ Nam

(19) 崇仁峽 Sùng Nhân Hiệp

(20) 崇仁峽元日思親 Nguyên nhật đến Sùng Nhân Hiệp nhớ người nhà

(21) 蒲圻道 Phố Ký đạo

(22) 發武昌留別諸友 Rời Vũ Xương lưu biệt bạn bè

(23) 武昌 Vũ Xương

218

(24) 登南岳二首 Đăng Nam Nhạc hai bài

(25) 臨湘 Sắp đến Hồ Nam

(26) 衡湘驛 Hoành Tương dịch

(27) 長沙見嚴親 Gặp bố vợ ở Trường Sa

(28) 熊羆嶺 Đèo Hùng Bì

(29) 平江道中 Trên đường Bình Giang

(30) 廣西謠 Quảng Tây dao

(31) 八十里山行 Bát thập lý sơn hành

(32) 南屯老翁行 Nam Đồn lão ông hành

(33) 金竹道中書題驛壁 Trên đường Kim Trúc làm thơ đề vách dịch trạm

(34) 道旁松 Cây thông bên đường

(35) 栁先生祠 Đền Liễu tiên sinh

(36) 桂林 Quế Lâm

(37) 賔州 Tân Châu

(38) 仙奕山 Tiên Diệc Sơn

(39) 答別龍州蕭從事韶 (两首)Đáp biệt Long Châu Tòng sự Tiêu Thiều

(40) 大小石壘 Vách đá lớn cũng như nhỏ

(41) 臘日入安南 Lạp nhật vào An Nam

(42) 慿高 Đứng cao để nhìn

(43) 佗覧驛 Đà Lãm dịch

(44) 書如月江橋市驛 Thư Như Nguyệt Giang Kiều Thị dịch

(45) 瀘江 Sông Lô

(46) 題天使館 Đề Thiên sứ quán

(47) 却侍姬 Từ chối người đẹp hầu hà

(48) 落梅 Lạc mai

(49) 華林村 Hoa Lâm thôn

(50) 安南人以紙立馬求賦梅華 Người An Nam trình giấy xin thơ vịnh hoa mai ngay trên ngựa

(51) 將歸 Sắp về

(51) 馬上 Trên ngựa

(52) 次黃次舉韻 Thứ vận Hoàng thứ cử

(53) 善原道弟原性處問舍弟信 Hỏi thư em trai mình ở chỗ Nguyên Tính, em trai của Thiện

Nguyên Đạo

(54) 至京 Đến Kinh đô

(55) 酬景德載 Thù Cảnh Đức tải

(56) 書南寧驛 Thư Nam Ninh dịch

(57) 謁羅池廟 Thăm La Trì Miếu

(58) 興安縣 Huyện Hưng Yên

(59) 次韻智禮部贈黃忠州 Thứ vận bài thơ Trí Lễ bộ tặng Hoàng Trung Châu

219

(60) 還聞柳州破道阻將泝江 Về được tin Liễu Châu bị chắn đường nên đi ngược chiều sông

(61) 梧州嘉魚亭 Ngô Châu Gia Ngư đình

(62) 別靜江文學諸公 Lưu biệt các ngài giỏi văn hoc ở Tĩnh Giang

(63) 和智禮部早發興安 Họa bài thơ sáng sớm xuất phát từ Hưng Yên của Trí Lễ bộ

(64) 浯溪 Ngô Khê

(65) 贈黃天瑞 Tặng Hoàng Thiên Thụy

(66) 寄雅正卿 Gửi Nhã Chính khanh

(67) 桂林喜呂仲實僉憲至 Ở Quế Lâm mừng được gặp Lã Trọng Thực Kiêm hiến

(68) 寄湖廣僉憲姚子徴 Gửi Hồ Quảng Kiêm hiến Dao Tử Trưng

(69) 送羅用賓靖州教官兼簡諸從事 Tặng Tĩnh Châu Giáo quan La Dụng Tân và các tòng sự

(70) 寄王君實張孟功趙子期三首 Gửi Vương Quân Thực, Trương Mạnh Công, Triệu Tử Kỳ ba

bài

(71) 方壺 Phương Hồ

(72) 答何好禮 Đáp Hà Hảo Lễ

(73) 和余太守對雪見懷二首 Họa thơ thư hoài ngắm cảnh tuyết của Dư Thái thủ hai bài

(74) 別劉煥宗 Chia tay Lưu Hoán Tông

(75) 廣西即事二首 Quảng Tây tức sự hai bài

(76) 酬黎別駕 Thù Lê Biệt giá(Có bài tặng của Lê Biệt giá)

(77) 和黎別駕飄然樓 Họa bài thơ Phiêu nhiên lâu của Lê Biệt giá(Có bài thơ tặng của Lê Biệt

giá)

(78) 和楊支直度嶺韻 Họa vận vượt đèo của Dương Chi Trực

(79) 奉陳怡菴憲使二首 Phụng họa Trần Di Am Hiến sử hai bài

(80) 登嶽陽樓 Đăng Nhạc Dương Lâu

(81) 歸自安南贈中書掾淩仲明 Về từ An Nam tặng Trung thư đoàn Lăng Trọng Minh

(82) 使還至長沙侍嚴親及外舅孫公游 Sứ hoàn đến Trường Sa đi du ngoạn cùng bố vợ và anh vợ

Tôn công

(83) 過故妻墓 Đi qua mộ vợ đã mất

(84) 洞庭連天樓 Động Đình Liên Thiên lâu

(85) 衡州值雨 Đến Hoành Châu gặp mưa

(86) 題衡陽驛 Đề Hoành Dương dịch

(87) 回鴈峯 Hồi Nhạn phong

(88) 平安驛 Bình An dịch

(89) 武昌春日 Ngày xuân ở Vũ Xương

(90) 六月二十八日至京 Ngày hai tám tháng sáu về đến Kinh thành

II. Thời nhà Minh (19 sứ thần)

1. 張以寧 Trƣơng Dĩ Ninh (1301-1370), tên tự 志道 Chí Đạo, đi sứ An Nam vào năm 1369 để

sách phong. (84 bài)

220

(1) 南京早發 Sáng sớm xuất phát từ Nam Kinh

(2) 晚泊石頭城下,明旦發龍江 Tối đậu thuyền dưới thành Thạch Đầu, sáng sớm hôm sau xuất

phát từ Long Giang

(3) 到建寧贈星者蘇金臺 Đến Kiến Ninh tặng người bói tinh tướng Tô Kim Đài

(4) 南昌行省迓至驛舍,同安南使宴於省叅,參政京口滕弘有詩次韻答之 Hành Tỉnh Nam

Xương đón về dịch quán, cùng sứ giả An Nam dự tiệc, Tham chính Kinh Khẩu Đằng Hoằng có thơ

tặng nên thứ vận họa lại

(5) 過南昌 Đi qua Nam Xương

(6) 予使日南道,吉安府主來訪舟中,命醫者王本達饋以善藥,時予困於秋暑心目為之豁然,

感其意走筆為賦長句以贈 Trên đường đi sứ Nhật Nam, ông chủ Cát An Phủ lên thuyền thăm, bảo

thầy thuốc Vương Bản Đạt bốc thuốc cho, tôi đang bị trúng nắng thu thấy vậy tâm hồn thoái mái

luôn, nhằm bày tỏ cảm ơn nên làm bài thơ dài để tặng

(7) 舟中覩物憶亡兒烜 (四首)Trên thuyền nhìn vật nhớ lại con trai Hoàn đã mất

(8) 二十七日晚到萬安縣 (两首)Tối ngày hai bảy đến huyện Vạn An

(9) 夜聞雨田 Tối nghe tiếng mưa

(10) 康驿 Khang dịch

(11) 萬安邑令馮仲文家全椒與予舊識,鮑仲華提舉有瓜葛之好,傾葢情親戀戀有故人意,君

渡江舊人有恵政得民心 Lệnh ấp Vạn An Phùng Trọng Văn quê ở Toàn Giao là bạn quen của tôi,

Đề cử Bào Trọng Hoa có quan hệ thông gia, nhiệt tình đón tiếp như người nhà, hai ông làm quan

hiền lành yêu dân có tiếng tăm

(12) 南雄即事次牛士良韻 Nam Hùng tức sự thứ vận họa lại Ngưu Sĩ Lương

(13) 平圃驛中秋翫月用牛士良韻 Bình Phố dịch Trung thu ngắm trăng dùng vận của Ngưu Sĩ

Lương làm thơ

(14) 舜廟詩次韻牛士良 Thứ vận Ngưu Sĩ Lương bài Thuận miếu thơ

(15) 舟中望贑州 Trong thuyền ngắm nhìn Cán Châu

(16) 贑州城下 Dưới thành Cán Châu

(17) 過小孤山 Đi qua Tiểu Cô Sơn

(18) 晚到韶州 Tối đến Thiều Châu

(19) 張文獻祠 Đền Trương Văn Hiến

(20) 余襄公祠 Đền Dư Tương Công

(21) 題畫馬 Đề tranh vẽ ngựa

(22) 泊龜山 Đậu thuyền ở Quy Sơn

(23) 月子河阻風 Nguyệt Tử Hà bị chắn đường bởi gió

(24) 有感 Hữu cảm

(25) 為舟人萬氏題象圖 Đề thơ tranh voi cho họ Vạn là chủ con thuyền

(26) 安南使者同時敏大夫登舟相訪,獻詩述懐一首,就坐走筆次韻答之以紀一時盛事云 Sứ giả

An Nam Đồng Thì Mẫn lên thuyền thăm và tặng thơ thuật hoài một bài, nên đã cầm bút thứ vận

họa lại để ghi nhớ thịnh sự này

221

(27) 廣州贈同時敏 Quảng Châu tặng Đồng Thì Mẫn

(28) 廣州贈温陵龔景清鄉人 Ở Quảng Châu tặng thơ cho người cùng quê Công Cảnh Thanh

(29) 發廣州 Xuất phát từ Quảng Châu

(30) 峽山寺僧慧愚溪邀觀壁間舊題,因誦宋廖知縣一律有云―猿棄玉環歸後洞犀拖金鎻占前

灣‖,予謂其切實類唐許渾賦以繼之 Hiệp Sơn tự tăng mời tham quan thơ đề vách đá dọc Tuệ Ngu

Khê, bởi đọc bài thơ của Tri huyện Tống Liêu có câu “Con viện bỏ ngọc hoàn về hang tphía sau,

con tê kéo khóa vàng chiếm vịnh phía trước”, tôi cho là thơ thiết thực như thơ của Hứa Hốn nhà

Đường, nên làm thơ nối tiếp

(31) 廣州贈温陵龔景清鄉人 Ở Quảng Châu tặng thơ cho người cùng quê Công Cảnh Thanh

(32) 封川縣次韻典簿牛士良 Ở Phong Xuyên huyện thứ vận Điển bạ ngưu Sĩ Lương

(33) 梧州即景 Ngô Châu tức cảnh

(34) 帝舜廟 Đế Thuận miếu

(35) 烏岩灘馬伏波祠 Đền Phục Ba ở ghềnh Ô Nham

(36) 次韻士良子毅登雷破岩劉大王廟唱酬 Thứ vận bài xướng họa giữa Sĩ Lương và Tử Nghị về

Leo núi Lôi Phá thăm Lưu Đại vương miếu

(37) 立冬舟中即事 (两首)Ngày Lập đông trong thuyền tức sự

(38) 龍州答迎接官何符 Long Châu đáp quan nghênh tiếp là Hà Phủ

(39) 又答請命官阮士僑 (两首)Lại đáp quan thỉnh mệnh là Nguyễn sĩ Kiều

(40) 安南即事 An Nam tức sự

(41) 安南使令上頭翰林校書阮法獻詩四絶,次韻答之 (十二首)Sứ thần An Nam là Hàn Lâm

Hiệu thư Nguyễn Pháp tặngbốn bài tuyệt cú, nên họa tặng lại

(42) 奉旨使安南,長途秋熱,年衰神憊氣欎不舒,舟抵太和,舟中睡起烟雨空濛,秋意滿江,

宛然畫中所見,埃為之一空,漫成二絶以志之,時己酉七月二十四日也 Phụng sứ An Nam,

đường dài nắng khô hanh, tuổi già sức yếu không được khỏe. Khi đến Thái Hòa, lúc ngủ dậy trên

thuyền thấy mưa phùn liên miên, trên sông đầy cảnh mùa thu như được vẽ trong tranh, nên làm hai

bài tuyệt cú để ngợi ca, lúc đó là ngày hai tư tháng bảy năm Ất dầu.

(43) 代簡周幹臣廣東叅政二首 Dùng thơ thay thư gửi Tham chính Quảng Đông Chu Cán Thần

hai bài

(43) 代簡楊希武右丞安南驛書懐二首 Dùng thơ thay thư gửi Hữu thừa Dương Hy Vũ về Thư

hoài ở An Nam dịch hai bài

(45) 口占絶句四首以贈廣東省郎觀子毅 Khẩu chiêm bốn bài tứ tuyệt để tặng Quảng Đông Tỉnh

Lang Quán Tử Nghị

(46) 代簡廣西叅政劉允中 Dùng thơ thay thư gửi Thám chính Quảng Tây Lưu Doãn Trung

(47) 别廣東周叅政幹臣 (两首)Lưu biệt Tham chính Quảng Đông Chu Cán Thần

(48) 牛士良惠詩,既倚歌以和,仍賦長句一篇以答之 Ngưu Sĩ Lương tặng thơ, nhờ ca họa lại,

làm một bài thơ dài để đáp lại

(49) 有竹詩為張伯起子玄畧作 Có bài Trúc thi làm để tặng Huyền Lược là con trai của Trương

Bá Khởi

222

(50) 别胡長之 Lưu biệt Hồ Trường Chi

(51) 贈安南善書阮生,生名太沖,為予書春秋春王正月考及安南行藳,予喜其楷法遒美更其

字曰用和,而詩以贈之 Tặng An Nam thư sinh giỏi thư pháp Họ Nguyễn, tên là Thái Xung, chép

giúp tôi quyển Xuân thu Xuân Vương Chinh nguyệt khảo và An Nam hành cảo, tôi thấy khải thể

của thư sinh rất hay nên đổi tên tự là Dụng Hòa, và làm thơ tặng cho

(52) 贈安南善書阮生,生名廷玠,為予書春秋春王正月考及安南行藳,予喜其楷法遒美更其

字曰寶善,而詩以贈之 Tặng An Nam thư sinh giỏi thư pháp Họ Nguyễn, tên là Đình Giới, chép

giúp tôi quyển Xuân thu Xuân Vương Chinh nguyệt khảo và An Nam hành cảo, tôi thấy khải thể

của thư sinh rất hay nên đổi tên tự là Bảo Thiện, và làm thơ tặng cho

(53) 安南即景 An Nam tức cảnh

(54) 予以使事留滯安南,安南人費安朗以隠宫給事其國親貴近臣家,老而彌謹,預於館人之

役,朝夕奉事甚勤,拜求作詩懇至再四,口占二絶,予之一以志予念鄉之感,一以對景自釋

焉 Tôi vì sứ sự ở lại An Nam, người An Nam Phí An Lãng với Ẩn cung phụng sự hoàng thân cận

thần, chín chắn và cẩn thận, cử làm trong sứ quán, sáng tối phụng sự sứ đoàn, ông Lãng nhiều lần

xin thơ, nên khẩu chiêm hai bài tuyệt cú, vừa tỏ lòng thương nhớ quê nhà, vừa tự thư giãn giải tỏa

(55) 次韻羅復仁編修 Thứ vận La Phúc Nhân Biên tu

(57) 情事未申,視息宇内劬勞之旦,哀痛倍深悲歌以繼慟哭,所謂情見乎辭云爾,呈閻初陽

天使牛士良典簿 Vì vướng vào việc đời người, nhớ lại công ơn nuôi dưỡng của bố mẹ, cứ thấy đau

lòng buồn rầu và phát khóc lên, gọi là dùng thơ văn thể hiện tình cảm mình, thơ trình sứ thần Điển

bạ Ngưu Sĩ Lương

(58) 舟過是鬱孤臺,細雨閉蓬静坐,忽憶舊詩,因録於此,見百念灰冷衰老甚矣云 Khi đi qua

Ức Cô Đài, mưa phùn nên ngồi yên lặng trong thuyền, chợt nhớ lại bài thơ ngày xưa, nên viết ra để

cảm thán già yếu không còn đấu chí

(59) 自挽 Tự vãn

2. 牛諒 Ngƣu Lƣợng (không rõ năm sinh và năm mất), tên tự 士良 Sĩ Lƣơng, đi sứ An Nam để

sách phong cùng Trƣơng Dĩ Ninh vào năm 1369.

(1) 五月十三夜夢侍讀先生枕上成詩 Đêm ngày mười ba tháng năm gặp Thị độc tiên sinh (tức

Trƣơng Dĩ Ninh) trong mơ nên làm bài thơ này

(2) 作詩挽裕宗 Thơ vãn Lê Dục Tông

3. 林弼 Lâm Bật, còn có tên là 林唐臣 Lâm Đƣờng Thần (không rõ năm sinh và năm mất), tên tự

Nguyên Khải 元凱. Đi sứ An Nam lần đầu vào năm 1370 cùng với Hàn lâm Biên tu Vƣơng Liêm

để điếu viếng và sách phong vua An Nam, lần hai vào năm 1377 cùng với Ngô Bá Tông để sang

báo sự việc chức cống. (95 bài)

(1) 發京 Xuất phát từ Kinh thành

(2) 大勝驛阻風 Đại Thắng dịch bị chắn đường bởi gió

223

(3) 荻港舟中 Trên thuyền ở Địch Cảng

(4) 過采石 Qua núi Thái Thạch

(5) 江西送郭中敏還廣東 Ở Giang Tây tiễn Quách Trung Mẫn về Quảng Đông

(6) 安庆府 Phủ Yên Khánh

(7) 韶州謁虞帝廟 Thăm Ngu Đế miếu ở Thiều Châu

(8) 韶石 Thiều Thạch

(9) 清遠峽飛來寺 Phi Lai Tự ở Thanh Viễn Hiệp

(10) 英德舟中 Trên thuyền ở Anh Đức

(11) 舟中次熙陽編修韻 Trong thuyền thứ vận Hi Dương Biên tu

(12) 除夕 Giao thừa

(13) 人日 Nhân nhật

(14) 洪武三年四月望日同牛典簿王編修奉使安南陛辭 Ngày rằm tháng tư năm Hồng Vũ thứ ba

cùng Ngưu Điển bạ, Vương Biên tu phụng sứ An Na,từ biệt nhà vua khởi hành

(15) 望匡廬 Ngắm Khuông Lô

(16) 滕王閣 Đằng Vương các

(17) 徐儒宅 Căn nhà của Từ Nho

(18) 豐城呈王熙陽太守 Phong Thành trình thơ Vương Hi Dương Thái thủ

(19) 廬陵逢端午 Đến Lô Lăng đúng ngày Đoan ngọ

(20) 用韻贈高允令巡簡 Dùng vận tặng Cao Doãn Lệnh Tuần giản

(21) 南康縣 Huyện Nam Khang

(22) 次王太史韻呈廣東幕僚 Thứ vận bài thơ của Vương Thái sử để trình mạc liêu Quảng Đông

(23) 答劉蒼雪通守 Đáp Lưu Tang Tuyết Thông thủ

(24) 會觀子毅省郎 Gặp Quán Tử Nghị Tỉnh Lang

(25) 伏波廟 Phục Ba miếu

(26) 壽佛院用王太史韻 Ở Thọ Phật viện dùng vận thơ của Vương Thái sử

(27) 再用觀子毅省郎韻 Lại dùng vận thơ của Quán Tử Nghị Tỉnh Lang

(28) 廣西舟中 Trên thuyền ở Quảng Tây

(29) 用王編修韻呈梧州劉太守 Dùng vận thơ của Vương Biên tu để trình Ngô Châu Lưu Thái thủ

(30) 嘉魚亭次韻 Thứ vận Gia Ngư đình

(31) 平南縣 Huyện Bình Nam

(32) 和王太守潯州遇生辰之作 Họa bài thơ Vương Thái Thủ mừng ngày sinh ở Tuần Châu

(33) 恠石 Đá lạ

(34) 南寧府三首 Phủ Nam Ninh ba bài

(35) 左江七夕得牛字 Mồng bảy tháng bảy ở Tả Giang được chữ Ngưu

(36) 峒中婦 Phụ nữ trong động (tƣơng đƣơng làng, một đơn vị hành chính của vùng dân tộc thiểu số)

(37) 播村隘 Ải Bá Thôn

(38) 厥里隘 Ải Khuyết Lý

(39) 獠處隘 Ải Liêu Sở

224

(40) 龍州溪亭小集有作 Bài thơ sáng tác khi nghỉ ngơi ở Long Châu Khê đình

(41) 河字 Chữ Hà

(42) 西字 Chữ Tây

(43) 又得舍字 Lại được chữ Xá

(44) 伏波臺 Phụ Ba Đài

(45) 會越僧津斷橋 Gặp sư tặng Việt trên cầu Tân Đoạn

(46) 橋市樓 Kiều Thị Lâu

(47) 洱江驛口占八首 Nhị Hà dịch khẩu chiếm tám bài

(48) 至安南次王編修韻 Đến An Nam thứ vận bài thơ Vương Biên tu

(49) 答牛士良典簿 Đáp Ngưu Sĩ Lương Điển bạ

(50) 發安南呈牛典簿王編修 Xuất phát từ An Nam trình Ngưu Điển bạ và Vương Biên tu

(51) 再用牛典簿韻 Lại dùng vận của Ngưu Điển bạ

(52) 次張志道學士與龔景瑞詩韻 Thứ vận thơ giữa Trương Chí Đạo Học sĩ và Công Cảnh Thụy

(53) 發安南 Xuất phát từ An Nam

(54) 答安南使黎元譜二首 Đáp An Nam sứ Lê Nguyên Phổ hai bài

(55) 贈通事官阮勳 Tặng Thông sự quan Nguyên Huân

(56) 龍州十首 Long Châu mười bài

(57) 牛君士良使还日南昼行左江之滣,偶于清滩得一小石,顶跡五寸许,其色深绿娟秀润丽,

宛若峰峦之耸立,熙阳王君见而爱之,牛君不靳因持赠焉。王君赋诗以谢,君復答之,併

次其韵用助二君清话二首 Ngưu Sĩ Lương, từ An Nam đi sứ về đến sông Tả Giang, sáng sớm ở

bên bờ sông nhặt được một hòn đá nhỏ, cao khoảng năm tấc, màu xanh thẫm, đẹp đẽ và hoa lệ,

trông như ngọn núi nhô lên. Vương Liêm nhìn thấy cũng rất thích, Sĩ Lương liền nhường tặng cho.

Nên Vương Liêm làm thơ để cảm ơn Sĩ Lương đã tặng đá cho, Lương họa thơ tặng lại. Nên cũng

gieo vận họa thơ hai bài cùng hai người đó cho vui.

(58) 藤州 Đằng Châu

(59) 曲江逢至日 Khi đến Khúc Giang đang là ngày Chí nhật

(60) 用韻贈濮彥章 Dùng vận tặng Bộc Ngạn Chương

(61) 贛州嘉濟廟用王編修韻 Cán Châu Gia Tế miếu dùng Vương Biên tu vận

(62) 次滕仲弘參政見贈韻 Thứ vận bài thơ tặng của Tham chính Đằng Trọng Hoằng

(63) 贈黃林隱 Tặng Hoàng Lâm Ẩn

(64) 海上 Hải thượng

(65) 庾嶺 Ngu Lĩnh

(66) 重登飛來寺得來字 Thăm Phi Lai tự được chữ Lai

(67) 次蕭文煥教授韻 Thứ vận Giáo thụ Tiêu Văn Hoán

(68) 答莫季龍 Đáp Mạc Quý Long

(69) 廣州江亭次熙陽太守韻 Thứ vận Hi Dương Thái thủ ở Giang Đình Quảng Châu

(70) 赣州 Cán Châu

(71) 洪武十年再奉使安南還,道經豐城留館驛,父老乞留題急筆賦此 Hồng Vũ năm thứ mười

225

lại phụng mệnh đi sứ An Nam về, đi qua Phong Thành trú ở dịch quán, bà con xin thơ chữ nên

làm luôn bài thơ này.

(72) 辛亥正旦呈牛典簿王編修(洪武四年是年春除豐城)Nguyên đán năm Tân hợi trình Ngưu

Điển bạ, Vương Biên tu (đón Giao thừa ở Phong Thành vào năm Hồng Vũ thứ tư)

(73) 旅懷三章 Lữ hoài tam chương

4. 吳祐 Ngô Hữu (1334-1384), tên tự 伯宗 Bá Tông, đi sứ An Nam vào năm 1377 cùng với Lâm

Đƣờng Thần để sang báo sự việc chức cống.

(1) 奉使安南國聞角 Phụng sứ nước An Nam nghe tiếng thổi tù và

(2) 奉使安南赴召還京 Phụng sứ An Nam xong trở về Kinh thành

(3) 上問安南事(伯宗出使安南後奉旨召還京師,因上問而答也)Vua hỏi về nước An Nam (Bá Tông

đi sứ An Nam về được chiêu về Kinh thành, vì vua hỏi về An Nam nên trả lời bằng bài thơ này)

5. 任亨泰 Nhâm Hanh Thái, tên tự 古雍 Cổ Ung, đi sứ An Nam vào năm 1395 cùng với Nghiêm

Trấn Trực về việc dụ cùng đánh Long Châu Triệu Tông Thọ.

(1) 潯州道中詩 Thơ trên đường Tuần Châu

6. 嚴震直 Nghiêm Trấn Trực (1344-1402), lúc đầu tên là 子敏 Tử Mẫn, tên tự Trấn Trực, vì vua

Minh gọi bằng tên tƣ, nên sau đó đổi tên và tên tự với nhau. Đi sứ An Nam cùng với Nhâm Hanh

Thái vào năm 1395.

(1) 棲霞真境 Chân cảnh ở Thê Hà

(2) 永州舟中 Trong thuyền ở Vĩnh Châu

7. 陳誠 Trần Thành (1365-1457), tên tự 子魯 Tử Lỗ, hiệu 竹山 Trúc Sơn, đi sứ An Nam vào

năm 1396 cùng với Lã Nhƣợng để chiêu dụ vua Trần trả đất.

(1) 宿安南丘溫縣 Nghỉ đêm ở huyện Khưu Ôn An Nam

(2) 望寄狼站 Ngắm Ký Lang trạm

(3) 安南女 Cô gái An Nam

(4) 宴安南朝天閣 Dự tiệc ở Triều thiên các của An Nam

(5) 元宵舟中 Trên thuyền qua Nguyên tiêu

(6) 過梧州 Đi qua Ngô Châu

(7) 曲江夜泊 Đêm đậu thuyền ở Khúc Giang

8. 黃福 Hoàng Phúc (1363-1440), tên tự 如錫 Nhƣ Thiếc. Năm 1406 Vĩnh Lạc thứ tƣ, phụng sứ

An Nam để đô đốc quân hƣởng ở An Nam. Từng làm Bố chính ở Giao Chỉ mƣời chính năm. (20

bài)

(1) 七月初一日發龍江次日過三山 Mồng một tháng bảy xuất phát từ Long Giang, hôm sau đi qua

Tam Sơn

226

(2) 過櫓港 Đi qua Lỗ Cảng

(3) 過武昌 Qua Vũ Xương (hai bài)

(4) 長沙有懷 Trường Sa cảm hoài (hai bài)

(5) 巴陵阻風二絕 Hai bài tuyệt cú viết về Ba Lăng bị chắn đƣờng bởi gió

(6) 洞庭湖為巴陵之勝槩而岸有樓久雖摧圯而規模巨集壯足知其向之不草率也,希文一記録

之於上讀之使人追感不已,因又哦成一律 Hồ Động Đình là thắng cảnh xứ Ba Lăng, trên bờ có

lầu tuy lâu năm và cũ, nhưng quy mô hoành tráng là biết lúc xây rất kỹ càng. Phạm Hy Văn đã có

bài Nhạc Dương lâu ký làm cho người đọc cảm thán, nay có cảm xúc nên làm bài thơ

(7) 廣西漓水舟中 Trong thuyền đi trên sông Ly Giang Quảng Tây

(8) 全州舟中作 Trong thuyền đi qua Toàn Châu

(9) 過蒼梧 Đi qua Thương Ngô

(10) 過欽州 Đi qua Khâm Châu

(11) 潯州舟上 Trên thuyền ở Tuần Châu

(12) 詠蛩 Vịnh con trập

(13) 以識其實 Để nhận rõ sự thật

(14) 永樂四年閏七月二十三日至太平,八月朔偕大理公謁先師廟,廟在城北因而賦此 Ngày hai

ba tháng bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ tư đến Thái Bình, mồng một tháng tám cùng Đại Lý Công

thăm Tiên sư miếu ở phía Bắc của thành, nên làm bài thơ này

(15) 寓憑祥縣有懷奉陳吏部 Trú tại huyện Bằng Tường hữu cảm gửi Trần Lại bộ

(16) 四年八月十九日舟次東光小龍灣西岸,追慕先人忌辰,致奠之餘哀念不已,因成一律用

紀其實 Ngày mười chín tháng tám năm Vĩnh Lạc thứ tư đi thuyền đến bờ phía Tây của vịnh Tiểu

Rồng Đông Quang, đúng ngày giỗ tổ, giỗ xong thấy vẫn đau buồn thương tiếc, nên làm một luật

thi để ghi nhớ

(17) 龍灣舟上 Trên thuyền ở vịnh Rồng

9. 章敞 Chƣơng Sƣởng (1376-1437), tên tự 尚文 Thƣợng Văn, hiệu 質庵 Chất Am. Hai lần đi

sứ An Nam, lần đầu đi vào năm 1431 cùng với Từ Kỳ để phong Lê Lợi Quyền An Nam quốc sự,

lần hai đi vào năm 1435 cùng với Hầu Tiến để phong Lê Lân Quyền An Nam quốc sự. (59 bài)

(1) 過東阿懷貝秉彝 Đi qua Đông A hoài Bối Bỉnh Di

(2) 泊櫓港聞棹歌 Đậu thuyền ở Lỗ Cảng nghe hát thuyền ca

(3) 七月初六日次采石大淑人誕辰 Mồng sáu tháng bảy thứ vận bài thơ Mùng ngày sinh của Thái

phu nhân Thái Thạch

(4) 同安寄潛山教諭鄧宗經 Đồng An tặng thơ Tiềm Sơn Giáo dụ Đặng Tông Kinh

(5) 同安舟中書夢 Trong thuyền đi qua Đồng An thư mộng

(6) 舟經泰和寄同年余侍講因贈以曆 Thuyền đi qua Thái Hòa tặng bạn Dư Thị giảng vì được bạn

tặng lịch

(7) 宣德辛亥使安南次灤河 Năm Tuyên Đức Tân hợi đi sứ An Nam nghỉ ở Loan Hà

(8) 過湘陰懷夏尚書元吉 Đi qua Tương Âm nhớ lại Thượng thư Hạ Nguyên Cát

227

(9) 發臨湘夜遇風雨四顧悄然 Xuất phát từ Lâm Tương tối trời mưa gió nhìn xung quanh yên lặng

(10) 將入永州界即事次河洲驛書八月初二日 Sắp vào địa phận Vĩnh Châu tức sự đến Hà Châu

dịch thư vào ngày mồng hai tháng tám

(11) 次橫州憶司封手植菊九月八日 Đến Hoành Châu nhớ lại Ti Phong trồng cúc ngày mồng tám

tháng chín

(12) 九日橫州江上 Ngày mồng chín trên sông Hoành Châu

(13) 使安南過湘潭懷張知縣景安 Đi sứ An Nam qua Tương Đàm tưởng nhớ Tri Huyện Trương

Cảnh An

(14) 長沙懷周長史孟簡 Ở Trường Sa nhớ đến Chu Trường Sử, Mạnh Giản

(15) 衡山水急易站船 Hoành Sơn nước chảy xiết đập thuyền mạnh

(16) 過南嶽 Qua Nam Nhạc

(17) 夜宿武清寺 Tối nghỉ ở Vũ Thanh tự

(18) 醴陵道中 Trên đường Lý Lăng

(19) 宣德辛亥(1431)使安南過嘉魚 Tuyên Đức năm Tân hợi đi sứ An Nam qua Gia Ngư

(20) 梧州贈醫尹慶 Ngô Châu tặng thầy thuốc Doãn Khánh

(21) 潯州歌為都指揮田真賦 Bài Tuần Châu ca làm cho Đô chỉ huy Điền Chân

(22) 挽潯州劉通判教 Vãn Tuần Châu Thông phán Lưu Giáo

(23) 烏蠻灘歌 Ghềnh Ô Mân ca

(24) 烏蠻灘憶璠璵二兒 Ở ghềnh Ô Man nhớ hai đứa con trai Phán và Dữ

(25) 紀夢 Ghi mộng

(26) 過廣西次天寧寺水閣為默上人賦 (四首)Qua Quảng Tây thứ vận bài Thiên Ninh Tự Thủy

các tặng Mạc Thượng Nhân bốn bài

(27) 左江書懷 Tả Giang thư hoài

(28) 食左江魚 Ăn cá của sông Tả Giang

(29) 龍舟喜雨 Trên thuyền rồng mừng trời mưa

(30) 過壽康驛 Qua Thọ Khang dịch

(31) 過廣西大平府 Đi qua Phủ Thái Bình Quảng Tây

(32) 抵憑祥驛 Tới Bằng Tường dịch

(33) 不慱道中懷舍弟克平 Trên đường Bất Đoàn nhớ em trai Khắc Bình

(34) 安南道中不慱(地名)即事 An Nam Bất Đoàn dịch tức sự

(35) 歲除感懷是日立春二首 Cuối năm cảm hoài hai bài vào ngày lập xuân

(36) 天使館偶成 Thiên sứ quán ngẫu hứng

(37) 出坡壘關謝饋送 Rời Pha Lũy quan từ chối quà biếu

(38) 同安失道 (此十一月二十四日蓋自是月十九日龍江登舟至此雲霧已六日矣)Không nhìn

thấy đường ở Đồng An (Hôm nay ngày hai tư tháng mười một, từ ngày mười chín tháng này lên

thuyền ở Long Giang đến đây đa sương mù mịt sáu ngày liền)

(39) 過藤江(無迎接之禮,正月二日也)Qua Đằng Giang (Không có lễ đón tiếp, ngày mồng hai

tháng giêng)

228

(40) 宣德甲寅再使安南慶徐通政良玉壽 Tuyên Đức Giáp dần khi đi sứ An Nam lần hai mừng thọ

Thông chính Từ Lương Ngọc

(41) 過湘口拟徐通政良玉 Qua Tương Khẩu tặng Thông chính Từ Lương Ngọc

(42) 元旦書懷 Nguyên đán thư hoài

(43) 正月初九日卜隣(安南驛站名)枕上述懷 Mồng chín tháng giêng ở Bộc Lân dịch (dịch trạm

An Nam) thuật hoài khi còn nằm trên giường

(44) 使回至大平夢先大夫慰勞之以泣賦記 Sứ về đến Thái Bình Phủ nằm mơ thấy bố đã khuất về

hỏi thăm nên xúc động làm thơ để ghi nhớ

(45) 湞陽道中時聞遺詔 Trên đường Chinh Dương được nghe di chiếu

(46) 湞陽峽上紫薇花盛開 Ở Chinh Dương hiệp hoa bằng lăng nở rộ

(47) 英德道中瓶中紫薇花開,賞之聊為觧顏 Trên đường Anh Đức hoa bằng lăng trong lọ nở,

ngắm nhìn rồi hoa đẹp rồi làm thơ

(48) 英德道中 Trên đường Anh Đức

(49) 魯橋驛乘舟 Đi thuyền khi đi qua Lỗ Cầu dịch

(50) 潯陽晚眺 Cảnh chiều ở Tuần Dương

(51) 過繁昌官吏皆迯 Qua Phồn Xương quan lại đều chạy chốn

(52) 晉陽道中 Trên đường Tấn Dương

(53) 寄韓生弼 Gửi Hàn Sinh Bật

(54) 寄韓生弼 (客中相見以詩問之邦問父)Gửi Hàn Sinh Bật (gặp nhau trên đường đi xa làm

thơ nhờ hỏi thăm bố giúp)

(55) 臈目感懷 Lạp mục cảm hoài

10. 徐琦 Từ Kỳ (1385—1453), tên tự 良玉 Lƣơng Ngọc. Đi sứ An Nam cùng Chƣơng Sƣởng vào

năm 1431 để phong Lê Lợi Quyền An Nam quốc sự, lần hai đi cùng với Quách Tế vào năm 1433

để tuyên dụ.

(1) 客中有懷柬周巽菴陳未菴 Khách trung nhớ và gửi Chu Soạn Am và Trần Vị Am

11. 錢溥 Tiền Phổ (1408-1488), tên tự 原溥 Nguyên Phổ. Đi sứ An Nam vào năm 1462 để phong

Lê Hạo làm An Nam Quốc vƣơng.

(1) 拒賊行 Cự tặc hành

(2) 律詩十首再辭黎聖宗送贐禮 Luật thi mười bài từ chối quà biếu

12. 劉戩 Lƣu Giản, tên tự 景元 Cảnh Nguyên. Đi sứ An Nam vào năm 1487 để tuyên bố vua

Minh mới lên ngôi, và chiêu dụ Lê Tƣ Thành sang chầu triều Minh.

(1) 題扇詩謝辭贐禮 Thơ đề quạt từ chối quà biếu

13. 魯鐸 Lỗ Đạc (1461-1527), tên tự 振之 Chấn Chi, hiệu 蓮北 Liên Bắc. Đi sứ An Nam vào

năm 1506 cùng với Trƣơng Hoằng Chí để tuyên bố vua Minh mới lên ngôi. (92 bài)

229

(1) 潛江縣阻雨 Ở huyện Tiềm Giang bị chắn đường bởi mưa

(2) 武侯行祠公安道中 Đền Vũ Hầu ở trên đường Công An

(3) 澧州道中書所見 Trên đường Lý Châu thư hoài những gì đã nhìn thấy

(4) 清化驛次沈提學壁間韻 Thanh Hóa dịch thứ vận bài thơ đề trên vách đá của Thẩm đề học

(5) 武陵次沈提學壁間韻畱別吳廷儀 Ở Vũ Lăng thứ vận bài thơ đề trên vách đá lưu biệt Ngô

Đình Nghi

(6) 龍陽次壁間韻 Long Dương thứ vận bài thơ đề trên vách đá

(7) 楓樹 Cây phong

(8) 見途人棄蹝有感 Thấy người đi đường vứt dép hữu cảm

(9) 龍陽道中 Trên đường Long Dương

(10) 倦宿軍山鋪 Mệt mỏi nghỉ ở Quân Sơn Phố

(11) 民瘼 Dân mạc

(12) 方橋用韓昌黎韻仍衍其意 Ở Phương Cầu dùng vận của Hàn Thương Lê và vẫn theo ý nhà

thơ

(13) 益陽道中 Trên đường Ích Dương

(14) 午飯暮雲鋪 Dùng bữa trưa ở Mộ Vân Phố

(15) 湘潭察院次諸公題桂韻 Tương Đàm Sát viện thứ vận bài thơ vịnh quế của các bạn

(16) 茶園鋪午飯 Dùng bữa trưa ở Trà Viên Phố

(17) 望衡嶽次沈提學韻 Ngắm Hoành Nhạc thứ vận bài thơ Thẩm Đề học

(18) 姜湖南邀遊石鼓書院 二首 Khương Hồ Nam rủ thăm Thạch Cổ Thư viện (hai bài)

(19) 衡陽值家君誕日寫懷 Đến Hoành Dương đúng vào ngày sinh nhật của bố thư hoài

(20) 早發排山 Buổi sáng sớm xuất phát từ Bài Sơn

(21) 熊羆嶺 Đèo Hùng Bì Lĩnh

(22) 祁陽烏符觀次無上宮主韻 Kỳ Dương Ô Phủ Quán thứ vận Vô Thượng Cung chủ

(23) 看古詩有感 Đọc cổ thi hữu cảm

(24) 畫眉鋪 Họa Mi Phố

(25) 零陵道中 Trên đường Linh Lăng

(26) 安道鋪 Yên Đạo Phố

(27) 全州引路松 三首 Cây thông ven đường Toàn Châu (ba bài)

(28) 又以―偶來松樹下‖為韻 Lại lấy “ngẫu, lai, thông, thụ, hạ” làm vận thơ (năm bài)

(29) 興安道中雨行 Trên đường Hưng Yên đi trong mưa

(30) 靈川道中雨行次前韻 Trên đường Linh Xuyên đi trong mưa thứ vận bài trên

(31) 看雲 Ngắm mây

(32) 見囮鳥者有感 Thấy người bắt chim dụ chim khác hữu cảm

(33) 蘇橋驛次韻九龍山史 Tô Cầu dịch thứ vận Cửu Long Sơn sử

(34) 白沙灘壁嶂奇絕殆不可畫次九龍韻 Ghềnh Bạch Sa núi vách kỳ tuyệt khó mà vẽ được, thứ

vận thơ của Cửu Long

(35) 古塔灘 Ghềnh Cổ Tháp

230

(36) 蓬萊灘 Ghềnh Bổng lai

(37) 賭命灘 Ghềnh Đổ Mệnh

(38) 遷江縣次韻九龍 Huyện Thiên Giang thứ vận Cửu Long

(39) 過大關 Đi qua đại quan

(40) 思籠驛見螢 Tư Lung dịch nhìn thấy đom đóm

(41) 上林道中 Trên đường Thượng Lâm

(42) 崑崙關 Côn Luân quan

(43) 左江 Tả Giang

(44) 馱泊驛聽蘆笙與張九山限韻同賦 Đà Bạc dịch nghe tiếng đàn sênh dùng vận của Trương

Cửu Sơn làm thơ

(45) 入南交關 Vào Nam Giao quan

(46) 交南道中五絕 Năm bài tuyệt cú trên đường Giao Nam

(47) 丙寅除夜次安博驛用杜韻寫懷 二首 Giao thừa năm Bính dần nghỉ ở Yên Bá dịch dùng

vận thơ của Đỗ Phủ thư hoài (hai bài)

(48) 丁卯元旦仍前韻 Ngày Nguyên đán năm Đinh mão vẫn dùng vận thơ bài trên làm thơ

(49) 山行 Đi ở vùng núi

(50) 新春道中用前韻 Đầu xuân trên đường lại dùng vận thơ trên làm một bài

(51) 過稻田 Đi qua ruộng lúa

(52) 元宵 Nguyên tiêu

(53) 立春 Lập xuân

(54) 重宿安博驛次九山韻 Lại trú tại Yên Bá dịch thứ vận thơ của Cửu Sơn

(55) 與大頭目黎能讓 Tặng Đại đầu mục Lê Năng Nhượng

(56) 坡壘道中 Trên đường Pha Lũy

(57) 別侍送諸頭目次韻九山 Chia tay các quan chức đưa tiễn thứ vận thơ của Cửu Sơn

(58) 出關用山行韻 Qua cửa khẩu dùng vận bài thơ Đi ở vùng núi làm một bài

(59) 思父 Nhớ bố

(60) 憶幼兒 Nhớ con thơ

(61) 永淳縣 Huyện Vĩnh Thuần

(62) 橫州 Hoành Châu

(63) 烏蠻灘 Ghềnh Ô Man

(64) 府江舟中 四首 Trong thuyền trên Phủ Giang (bốn bài)

(65) 陽朔道中志喜三首 Vui mừng trên đường Dương Sóc (ba bài)

(66) 千秋峽阻風 Thiên Thu Hiệp bị chắn đường bởi gió

(67) 臨桂道中漁者 Người đánh cá trên đường Lâm Quế

(68) 嬭子山 Ni Tử Sơn

(69) 分水嶺 Nơi phân chia dòng sông

(70) 石期驛 Thạch Kỳ dịch

(71) 浯溪 Ngô Khê

231

(72) 盆桃初放佳甚恐開速詩以勒之 Hoa đào trong chậu chớm nở rất đẹp, lo nó chóng nở nên

làm thơ mong nó chậm nở

(73) 南寧道中與張時行司諫聯句 Trên đường Nam Ninh làm thơ liên cú với Trương Thì Hành

(74) 曉行宣化道中聯句 Sáng sớm đi trên đường Tuyên Hóa làm thơ liên cú

(75) 左江聯句二十韵 Tả Giang liên cú hai mươi vận

14. 張弘至 Trƣơng Hoằng Chí(?-1528), tên tự 時行 Thì Hành. Đi sứ An Nam vào năm 1506

cùng với Lỗ Đạc để tuyên bố vua Minh mới lên ngôi. (146 bài)

(1) 過孫竹庒 Đi qua Tôn Trúc trang

(2) 洙涇為沈士登題盛子昭畫,時在五湖一葦舟 Ở Chu Kính đề bức vẽ thạnh tử của Thẩm Sĩ

Đăng, lúc đó đang trong thuyền đi trên ngũ hồ

(3) 過石門 Qua Thạch Môn

(4) 夜雨看假山 Trong đêm mưa ngắm hòn non giả

(5) 寓吳山驛 Trú ở Ngô Sơn dịch

(6) 宿淛江驛驚潮 Ngủ ở Chế Giang dịch hoảng sợ bởi thủy triều

(7) 江行 Đi thuyền trên sông

(8) 宿草萍驛次林都憲見素題璧韻 Nghỉ ở Thảo Bình dịch thứ vận bài thơ đề trên đá của Đô hiến

Lâm Kiện Tố

(9) 再次前韻題草萍驛璧 Lại thứ vận thơ trên đề vách tường Thảo Bình dịch

(10) 南昌柬林粹夫 Nam Xương gửi Lâm Túy Phu

(11) 豐城夜行 Buổi tối đi Phong Thành

(12) 過南安謝父老修東海先翁生祠 Qua Nam An cảm ơn bà con đã xây đền thờ ông Đông Hải

(13) 臨江陸行十絕 Mười bài tuyệt cú về đi đường bộ ở Lâm Giang

(14) 至袁州界 Đến nơi giáp giới Viên Châu

(15) 聞雁寄姑蘓皇甫世庸年兄 Nghe tiếng chim nhạn gửi gắm nỗi nhớ tới Cô Tô anh Hoàng Phố

Thế Ung

(16) 晚渡新喻縣石子岡 Buổi chiều qua đò Thạch Tử của huyện Tân Dụ

(17) 過昌山渡 Qua đò Xương Sơn

(18) 過周濂溪行祠 Qua đền thờ Chu Liêm khê

(19) 湘東登舟 Lên thuyền ở Tương Đông

(20) 醴陵邑舟中 Trên thuyền ở Lý Lăng ấp

(21) 醴陵聞陳文鳴提學至,待之不遇,寄此 Ở Lý Lăng nghe Trần Văn Minh Đề học đến, chờ mà

không gặp, nên gửi bài thơ này

(22) 雨游石鼓書院 Thăm Thạch Cổ thư viện trong ngày mưa

(23) 湖上夜行寄崑山顧孔昭年丈 Buổi tối đi thuyền trên hồ gửi Côn Sơn bác Cố Khổng Chiêu

(24) 謝雍府長史携酒遠餞 Cảm tạ Trưởng sử Ung phủ mang tửu đến tiễn

(25) 發衡州道中 Xuất phát từ Hoành Châu

(26) 過白石舖 Qua Bạch Thạch phố

232

(27) 書排山舖 Thư hoài ở Bài Sơn phố

(28) 寄唐飭軒親家 Gửi thông gia Đường Thứ Hiên

(29) 讀烏符觀碑刻無上宮訪蔣暉詩,龙山史和韵 Đọc bài thơ Vô Thượng Cung thăm Tưởng Huy

khắc trên bia ở Ô Phủ quán rồi Cửu Long Sơn sử họa vận

(30) 聞錢與謙報寄錫山同年華文光 Nghe Tiền Dư Khiêm báo gửi Thích Sơn đồng niên Hoa Văn

Quang

(31) 雄羆嶺 Đèo Hùng Bì Lĩnh

(32) 祁陽見李一元同年 Gặp bạn đồng niên Lý Nhất Nguyên ở Kỳ Dương

(33) 次韻謝華少參、程銀臺枉顧梧溪 Thứ vận cảm tạ Hoa Thiếu tham, Trình Ngân đài đến thăm

ở Ngô Khê

(34) 用前韻謝程銀臺見留 (候魯內翰,故久在祁陽)Dùng vận bài trên để cảm tạ Trình Ngân đài

giữ ở lại (Phải chờ Lỗ Nội hãn, nên ở Kỳ Dương lâu ngày)

(35) 宿浯溪 Nghỉ ở Ngô Khê

(36) 懷蘄州仲兄後樂二首 Nhớ anh hai Hậu Lạc ở Cận Châu hai bài

(37) 湘口驛再會華少參夜話 Ở Tương Khẩu dịch gặp lại Hoa Thiếu tham nên cùng chuyện trò

đến khuya

(38) 再次前韻謝華庭禧見答 Lại dùng vận trên thứ vận bài thơ đáp tặng của Hoa Đình Hỉ

(39) 蓮亭 Liên đình

(40) 題陳千戶急流勇退卷 Đề Trần Thiên hộ Quyển lút rui khi nước đang chảy xiết

(41) 挽吳都司乃翁卷 Thơ vãn Ngô Đô ti Nãi Ông

(42) 遊永州高山寺 Thăm Cao Sơn tự ở Vĩnh Châu

(43) 別永州 Rời Vĩnh Châu

(44) 過全州 Qua Toàn Châu

(45) 山行 Đi ở vùng núi

(46) 遇興安尹齊士賢鄉同年 Gặp bạn đồng niên Hưng Yên Doãn Tề Hiền Hương

(47) 題紅梅二絕,為談司訓同年題 Hai bài tuyệt cú đề hoa mai đỏ, đề tặng bạn đồng niên Đàm Ti

huấn

(48) 興安謠二首 Hưng Yên dao hai bài

(49) 冬至賀聖節途次有紀 Ngày Đông chí trên đường có ghi nhận về Hạ thánh tiết

(50) 冬至日謁宣城書院 Ngày Đông chí đến thăm Tuyên Thành thư viện

(51) 宿蘓橋驛始會魯內翰偕行 Nghỉ ở Tô Cầu dịch, từ đây mới bắt đầu cùng hành với Lỗ Nội

hãn

(52) 象州問范元禧吏目 Đến Tượng Châu hỏi Lại mục Phạm Nguyên Hỉ

(53) 白沙堡奇石 (在來賓縣界)Đá lạ ở Bạch Sa Bảo (ở địa phận huyện Lai Tân)

(54) 賭命灘 Ghềnh Đổ Mệnh

(55) 來賓渡 Bến đò Lai Tân

(56) 蓬萊灘行 Đi qua ghềnh Bổng Lai

(57) 宿遷江邑 Nghỉ đêm ở Khiên Giang ấp

233

(58) 發遷江道中 Trên đường ở Khiên Giang

(59) 思籠驛紀事 Tư Lung dịch kỷ sự

(60) 和陳憲副歸田詩 Họa bài thơ Về với ruộng đồng của Trần Hiến phó

(61) 崑崙山 Côn Luân Sơn

(62) 次劉都憲送歸田韻 Thứ vận bài thơ Tiễn về với ruộng đồng của Lưu Đô hiến

(63) 古達灘 Ghềnh Cổ Đạt

(64) 聽蘆笙 Nghe đàn sênh

(65) 馱汨驛登眺 Đà Mịch dịch đứng cao nhìn phía xa

(66) 舟中晏起 Đi thuyền dậy muộn

(67) 太平府 Phủ Thái Bình

(68) 過洗馬灘 Qua ghềnh Tiển Mã

(69) 烏蠻灘 Ghềnh Ô Man

(70) 龍州 Long Châu

(71) 過馱海渡 Qua bến đò Đà Hải

(72) 南寧山行聯句 Liên cú khi đi ở vùng núi Nam Ninh

(73) 曉行宣化道中聯句 Liên cú khi sáng sớm đi qua Tuyên Hóa

(74) 入交南 Vào Giao Nam

(75) 入安博 Vào Yên Bá

(76) 交州守歲用老杜畫山水歌韻 Đêm Giao thừa ở Giao Châu dùng vận bài thơ Họa sơn thủy ca

của Đỗ Phủ

(77) 交南元日 Nguyên nhật ở Giao Nam (có bài họa ở quan chức An Nam nhƣ Lê Dữ Oanh Phủ

黎瑀瑩甫, Bùi Xƣơng Trạch Mậu Thịnh 裴昌澤茂盛, Doãn Hồng Tƣ Bảo Xung 尹宏滋葆沖)

(78) 過芝陵山 Qua núi ải Chi Lăng

(79) 元日道中疊用除夕韻 Nguyên nhật đi ở trên đường lại dùng vận đêm Giao thừa làm một bài

(80) 山行次魯公韻 Đi ở vùng vúi thứ vận thơ của Lỗ Công

(81) 見梅次前韻 Nhìn thấy hoa mai lại dụng vận bài trên làm thơ

(82) 渡瀘江見梅 Qua sông Lô nhìn thấy hoa mai

(83) 灘山驛中站聞雞聲 Đi qua Than Sơn dịch nghe tiếng gà gáy

(84) 早發呂瑰宿市橋驛 Sáng sớm xuất phát từ Lã Côi dịch, nghỉ đêm ở Thị Kiều dịch

(85) 自市橋驛至昌江驛宿 Đi từ Thị Cầu dịch, đến nghỉ đêm ở Xương Sơn dịch

(86) 渡昌江 Qua Xương Giang

(87) 歸自昌江,宿丕禮,夜雨日陰多風次前韵 Về từ Xương Giang, nghỉ đêm ở Phi Lễ dịch, đêm

mưa ngày râm mát và gió to, thứ vận bài trước làm thơ

(88) 歸途值雨謝迎送官 Trên đường về gặp trời mưa gửi lời cảm ơn tới các quan chức tiễn sứ

đoàn (Có bài thơ họa tặng của Lê Dữ, Bùi Xƣơng Trạch, Doãn Hồng Tƣ)

(89) 立春日道中五首 Năm bài thơ làm trên đường đi vào ngày lập xuân

(90) 山行喜晴 Đi ở vùng núi mừng trời nắng

(91) 再宿安博驛 Lại nghỉ đêm ở Yên Bá dịch

234

(92) 宿北峩驛 Nghỉ đêm ở Bắc Nga dịch

(93) 至界首關,聞後使沈、許、何三公至 Về đến cửa khẩu biên giới, được tin sứ thần đoàn sau là

ông Thẩm, Hứa và Hà sang

(94) 戲報後使三公 Thơ đùa với ba sứ thần đoàn sau

(95) 壽日 Ngày thọ

(96) 左江聯句 Tả Giang liên cú (cùng Lỗ Đạc)

(97) 永淳 Vĩnh Thuần

(98) 贈沈方伯 Tặng Thẩm Phương Bá

(99) 鷓鴣 Gà gô

(100) 德慶州奠教諭李經田先生墓 Châu Đức Khánh xây mộ của Giáo dụ ông Lý Kinh Điền

(101) 半仙亭 Bán Tiên đình

(102) 西坡為吳別駕賦 Ở Tây Pha làm thơ tặng Ngô Biệt giá

(103) 南海遇陳時雨繡衣 Nam Hải gặp Trần Thì Vũ Tú Y

(104) 清遠縣荅李元復遠送 Ở huyện Thanh Viễn đáp tặng Lý Nguyên Phúc tiễn xa

(105) 會監珠池傅太監於廣城 Gặp giám sat Châu Trì Phó Thái giám tại Quảng Thành

(106) 謁南安東海府君遺愛祠 Thăm đền Di ái thờ gia quân Đông Hải ở Nam An

(107) 餞東山寺 Tiễn biệt Đông Sơn Tự

(108) 餞別金蓮寺,壁間多先翁草墨 Tiễn biệt Kim Liên Tự, trên vách tường có di tích thảo thư

của gia quân khá nhiều

(109) 過小溪驛 Qua Tiểu Khê dịch

(110) 九牛驛遣送者歸 Cửu Ngưu dịch cho người tiễn đoàn đi về

(111) 和鄧太守夢游赤壁韻 Họa bài thơ mộng du Xích Bích của Đặng Thái thủ

(112) 和韵題五老圖 Họa vận bài thơ đề ngũ lão đồ

(113) 惶恐灘 Ghềnh Hoàng Khủng

(114) 萬安縣訪劉咸粟繡衣 Huyện Vạn An thăm Lưu Hàm Túc Tú y

(115) 容齋為南安鄧太守賦 Dung Trai tặng thơ Nam An Lưu Thái thủ

(116) 韶州道中憶友 Nhớ bạn trên đường Thiều Châu

(117) 吉安郡赴范別駕讌 Ở Cát An quận dự tiệc của Phạm Biệt giá

(118) 憶白鷴寄魯內翰 Nhớ lại con bạch nhàn gửi Lõ Nội hãn

(119) 題畫扇寄溧陽史巽仲年丈 四首 Thơ đề quạt gửi tặng Túc Dương bác Sử Dị Trọng

(120) 访李文昭不遇 Tìm Lý Văn Chiêu không gặp

(121) 歸至姑蘓,同會稽陶世和年兄晚酌 Về đến Cô Tô, cùng dùng bữa tối với anh Đào Thế Hòa

người Khoái Kê

(122) 南還,崑山顧殿元過小亭次韵 Về từ phía Nam, thứ vận bài thơ Côn Sơn Cố Điện nguyên

đi qua đình

(123) 南還,宋工部可葵、顧學士東江、沈大參東老、宋大參樗菴、唐藩幕飭軒過訪 Về từ phía

Nam, Công bộ Tống Khả Quỳ, Học sĩ Cố Đông Giang, Đại tham Thẩm Đông Lão và Tống Sủ

Am, Phiên mạc Đường Thứ Hiên qua thăm

235

15. 許天錫 Hứa Thiên Thích (1461-1508), tên tự 啟衷 Khải Trung. Đi sứ An Nam vào năm

Chính Đức 1506 cùng với Thẩm Đào Biên tu, sách phong Lê Nghị An Nam Quốc vƣơng.

(1) 謝辭安南國王厚贈 Cảm ơn và từ chối quà biếu của vua An Nam

(2) 晚次安南呂瑰站 Chiếu tối đi đến An Nam Lã Côi dịch

16. 湛若水 Trạm Nhƣợc Thủy (1466-1560), tên tự 元明 Nguyên Minh, hiệu 甘泉 Cam Tuyền.

Đi sứ An Nam vào năm 1512 cùng với Phan Hy Tăng, sách phong Uy Mục An Nam Quốc

vƣơng. (27 bài)

(1) 湛若水與安南國王唱和詩 (兩首)Thơ xướng họa giữa Trạm Nhược Thủy với vua An Nam

(Trạm Nhƣợc Thủy hai bài, vua An Nam hai bài)

(2) 市橋道中四首 Trên đường Thị Kiều bốn bài

(3) 曉發僕山驛至丕禮驛 Sáng sớm xuất phát từ Bộc Sơn dịch đi đến Phi Lễ dịch

(4) 曉枕偶成六言六首 Sáng sớm gối đầu ngẫu hứng lục ngôn sáu bài

(5) 過橫州吊秦少遊二絕句 Bài tuyệt cú điếu Tần Thiếu Du khi đi qua Hoành Châu

(6) 往卜鄰驛山間絕句 Bài tuyệt cú làm trên đường đi Bộc Lân dịch ở vùng núi

(7) 予從安南回,取道訪西樵 Tôi từ An Nam về, tiện đường đi thăm Tây Kiều

(8) 陽明贈方吏部歸樵四首金山出示次韻 Dương Minh tặng Phương Lại bộ về nghỉ ở vùng núi

bốn bài, Kim Sơn đưa cho đọc nên thứ vận

(9) 富良歌 Phú Lương ca

(10) 烟霞樂歌 Yên Hà lạc ca

(11) 龙州歌 Long Châu ca

(12) 感湖南道兵宪胡石屏衡州南岳礼际周至小诗二绝以致谢忱 Cảm ơn Hồ Nam đạo binh hiến

Hồ Thạch Bình đón tiếp rất chu đáo ở Nam Nhạc Hoành Châu, nên làm hai bài tuyệt cú để

bày tỏ lòng biết ơn

(13) 舟泊梁家庄櫽括与应元忠语 Thuyền đậu ở Lương Gia Trang ngắn gọn viết gửi Ứng Nguyên

Trung

17. 潘希曾 Phan Hy Tăng (1476-1532), tên tự 仲魯 Trọng Lỗ, đi sứ An Nam cùng với Trạm

Nhƣợc Thủy, sách phong Uy Mục An Nam Quốc vƣơng. (46 bài)

(1) 潘希曾與安南國王唱和詩(兩首)Thơ xướng họa giữa Phan Hy Tăng với vua An Nam (Phan

Hy Tăng hai bài, vua An Nam hai bài)

(2) 過熊羆嶺 Qua đèo Hùng Bì Lĩnh

(3) 永州道中 Trên đường Vĩnh Châu

(4) 臘月二十五日立春途中作 Ngày hai lăm tháng chạp lập xuân làm trên đường đi

(5) 梁家莊阻風次韻荅湛内翰元明 Lương Gia Trang bị chắn đường bởi gió thứ vận đáp tặng

Trạm Nguyên Minh Nội hãn

(6) 梧州吕仙亭次韻酬薛僉憲子純 Thứ vận thù tặng Thiêm hiến Tiết Tử Thuần ở Lã Tiên đình

236

Ngô Châu

(7) 夜泊藤縣次韻酬湛内翰 Tối đậu thuyền ở Đằng Huyện thứ vận Trạm Nội hãn

(8) 潯州東津驛書感 Tuần Châu Đông Tân dịch thư hoài

(9) 横州道中見日光識喜 Trên đường Hoành Châu nhìn thấy ánh nắng mừng rỡ

(10) 横州馬伏波祠 Đền thờ Mã Phục Ba ở Hoành Châu

(11) 獨卧 Nằm một mình

(12) 除日永淳道中得風 Giao thừa trên đường Vĩnh Thuần có gió

(13) 癸酉元日 Nguyên nhật Quý dầu

(14) 新年作 Mừng năm mới

(15) 次湛内翰韻四首 Thứ vận Trạm Nội hãn bốn bài

(16) 人日 Nhân nhật

(17) 病中遣懐 Khi ốm thư hoài

(18) 南寜太平之間巖石竒絶累日玩之不厭 Dọc đường từ Nam Ninh đến Thái Bình núi đá kỳ

tuyệt, ngắm vài ngày không thấy chán

(19) 龍州仙巖次湛内翰韻 Tiên nham Long Châu thứ vận Trạm Nội hãn

(20) 宿布村 Nghỉ đêm ở Bố Thôn

(21) 出鎮南闗 Ra Trấn Nam Quan

(22) 次安南坡壘驛 Đến Pha Lũy dịch của An Nam

(23) 北峨歌 Bắc Nga ca

(24) 不慱驛曉枕 Sáng sớm nằm gối ở Bất Đoàn dịch

(25) 卜隣驛 Bốc Lân dịch

(26) 僕山道中次湛内翰韻四首 Trên đường Bộc Sơn thứ vận Trạm Nội hãn bốn bài

(27) 丕禮道中 Trên đường Phi Lễ

(28) 壽昌河 Sông Thọ Xương

(29) 發市橋驛 Xuất phát từ Thị Kiều dịch

(30) 發吕瑰驛至王國 Đi từ Lã Côi dịch tới vương quốc (An Nam)

(31) 回渡富良江二首 Đi về qua Phú Lương Giang hai bài

(32) 回至吕瑰再次王韻辭其贐 Về tới Lã Côi dịch lại thứ vận từ chối quà biếu của vua An Nam

(33) 即事二首 Tức sự hai bài

(34) 回次坡壘示伴送陪臣 Đi về tới Pha Lũy dịch tặng thơ quan chức đưa tiễn sứ đoàn

(35) 南昌道中 Trên đường Nam Xương

(36) 泊湘東 Đậu thuyền ở Tương Đông

(37) 南交紀事 Nam Giao kỷ sứ

18. 孫承恩 Tôn Thừa Ân (1485-1565), tên tự 貞父 Chinh Phụ, hiệu 毅齋 Nghị Trai. Đi sứ An

Nam vào năm 1521 cùng với Du Đôn để tuyên bố vua Minh mới lên ngôi, nhƣng chỉ đi sứ

đến Long Châu là trở về, vì khi đó An Nam có loạn không vào đƣợc. (140 bài)

(1) 使交發雲間 Sứ Giao xuất phát từ ngày có mây

237

(2) 赴安南二首 Đi sứ An Nam hai bài

(3) 使交過嘉興舟中對雨 Sứ Giao đi thuyền qua Gia Hưng đối mưa

(4) 使交舟中雜詩六首 Trong thuyền sứ Giao làm tạp thơ

(5) 錢塘候崇禮至有詩因和答 Khi ở Tiền Đường chờ Sùng Lễ đến có thơ nên họa đáp

(6) 西湖 Tây Hồ

(7) 虎跑寺 Hổ Bảo Tự

(8) 錢塘 Tiền Đường

(9) 釣臺 Điếu Đài

(10) 遊龍淵寺二首 Thăm Long Uyên tự hai bài

(11) 重遊沈氏山庄四首 Thăm lại Thẩm thị sơn trang bốn bài

(12) 遊韓太監山園小酌二首 Thăm vườn hoa của Hàn Thái giám và cùng uống rượu hai bài

(13) 螺川與杜元吉話舊二首 Ở Loa Xuyên chuyện trò cùng Đỗ Nguyên Cát hai bài

(14) 草萍驛 Thảo Bình Dịch

(15) 東鄉縣 Huyện Đông Hương

(16) 南昌 Nam Xương

(17) 擬題滕王閣次韻 Thứ vận bài định đề Đằng Vương các

(18) 漳墅鎮 Trấn Chương Thự

(19) 螺川驛 Loa Xuyên dịch

(20) 十八灘 Mười tám ghềnh

(21) 新城, 南康南安之間居民築以禦盜 Thành mới, dân xây giữa Nam Khang và Nan An để

chống giặc

(22 ) 羅刹江 La Sát Giang

(23) 梅嶺 Mai Lĩnh

(24) 平浦驛 Bình Phố dịch

(25) 韶陽 Thiều Dương

(26) 清溪驛 Thanh Khê dịch

(27) 飛來寺 Phi Lai tự

(28) 麻墟水 Nước Ma Hư

(29) 麟山驛 Lân Sơn dịch

(30) 至梧州 Đến Ngô Châu

(31) 發梧州 Xuất phát từ Ngô Châu

(32) 江舟對月 Trên thuyền đối nguyệt

(33) 舟中有懷三府却寄二首 Trong thuyền nhớ tam phủ nên gửi hai bài

(34) 舟中夜雨 Trong thuyền ngắm cảnh mưa đêm

(35) 舟中對雨 二首 Trong thuyền đối mưa hai bài

(36) 鐵爐頂 Đỉnh Thiết Lư

(37) 白馬堡 Bạch Mã Bảo

(38) 相思洲 Tƣơng Tƣ Châu

238

(39) 斷藤峽 Hiệp Đoạn Đằng

(40) 潯州 Tuần Châu

(41) 烏蠻灘 Ghềnh Ô Man

(42) 火烟驛 Hỏa Yên dịch

(43) 白沙 Bạch Sa

(44) 同鄧太守子幾小酌崇禮舟中 Bị chắn đường bởi gió cùng Thái thủ Đặng Tử Kỉ uống rượu

trong thuyền của Sùng Lễ 阻風

(45) 舟行復值風 Đi thuyền lại gặp gió

(46) 阻風二首 Bị chắn đường bởi gió hai bài

(47) 南寧 Nam Ninh

(48) 千龍寨 Thiên Long trại

(49) 忠州 Trung Châu

(50) 忠州道中 Trên đường Trung Châu

(51) 屏巖 Bình Nham

(52) 鐙勒驛 Đăng Lặc dịch

(53) 太平 Thái Bình

(54) 龍州 Long Châu

(55) 題仙岩 Đề Tiên nham

(56) 遊仙岩二首 Du Tiên nham hai bài

(57) 龍州候信不至 Ở Long Châu chờ tin mãi không thấy

(58) 發龍州 (交南有事不果入)Xuất phát từ Long Châu (Giao Nam có việc không vào được)

(59) 歸途至南寧喜見二僕 三首 Về đến Nam Ninh mừng gặp hai đầy tớ (ba bài)

(60) 夢得家信 Mơ thấy nhận được thư nhà

(61) 題七星岩 Đề Thất Tinh nham

(62) 伏波廟二首 Phục Ba miếu hai bài

(63) 哭都諫俞崇禮 三首 Khóc vãn Đô gián Du Sùng Lễ ba bài

(64) 蒼梧 Thương Ngô

(65) 蒼梧元旦拜闕 Ngày Nguyên đán ở Thương Ngô lạy về hướng Kinh đô

(66) 發蒼梧 Xuất phát từ Thương Ngô

(67) 舟中漫興二首 Mạm hứng trong thuyền hai bài

(68) 晚泊 Tối nghỉ ở trên thuyền

(69) 飲呂仙亭醉賦 Thơ làm khi uống say ở Lã Tiên đình

(70) 贈吳黃洲五首 Tặng Ngô Hoàng Châu năm bài

(71) 留別黃洲二首 Lưu biệt Hoàng Châu hai bài

(72) 贈吳參戎四首 Tặng Ngô Tham nhung bốn bài

(73) 和韻謝吳參戎 Họa vận cảm ơn Ngô Tham nhung

(74) 和韻再贈 Lại họa vận tặng thơ

(75) 借韻述懷 Mượn vận trên thuật hoài

239

(76) 過梅嶺 Qua Mai Lĩnh

(77) 贛江 Cán Giang

(78) 桐江 Đồng Giang

(79) 贈鷗江徐老先生四首 Tặng ông Từ Âu Giang bốn bài

(80) 重會杜元吉昆玉二首 Gặp lại Đỗ Nguyên Cát Khôn Ngọc hai bài

(81) 夢家 Mơ thấy nhà

(82) 常山道中即事 Tức sự trên đường Thượng Sơn

(83) 常山喜得家信三首 Ở Thường Sơn mừng được thư nhà ba bài

(84) 季冬重遊韓太監山園二首 Mùa đông thăm lại vườn hoa của Hàn Thái giám hai bài

(85) 與蔣舜咨夜宴話別二首 Cùng dùng bữa tiệc tiễn với Tưởng Thuấn Tư hai bài

(86) 留別舜咨二首 Lưu biệt Thuấn Tư hai bài

(87) 舟中夜坐 Đêm ngồi trong thuyền

(88) 江夜 Cảnh đêm trên sông

(89) 謁韓襄毅祠 Thăm đền Hàn Tương Nghị

(90) 曲江舟中 Trên thuyền ở Khúc Giang

(91) 虎跑泉和坡翁韻三首 Ở Suổi Hổ Bão họa vận ông Pha ba bài

(92) 過嘉興 Qua Gia Hưng

(93) 歸次嘉興喜見兒姪來候二首 Về đến Gia Hưng mừng gặp cháu đến chờ hai bài

(94) 抵家 Đến nhà

(95) 抵家雜詩四首 Đến nhà làm tạp thơ bốn bài

19. 俆孚遠 Từ Phu Viễn (1599-1665), tên tự 闔公 Hợp Công, hiệu 复齋 Phục Trai. Đi sứ An

Nam vào năm 1658 nhằm xin đƣờng để đi lên tỉnh Vân Nam. (55 bài)

(1) 同黃臣以、張衡宇行交海 Cùng Hoàng Thần Dĩ và Trường Hành Vũ hành Giao biển

(2) 入交港同行者或雲此中有似三吳感賦 Vào Giao biển, người cùng hành nói nơi đây hơi giống

tam Ngô nên cảm thán làm thơ

(3) 同黃、張祀伏波將軍廟歌 Cùng với Hoàng, Trương thăm miếu Phục Ba Tướng quân ca

(4) 贈安南範禮部(名公著,僭稱尚書)Tặng An Nam Phạm Lễ bộ (tên Công Trứ, làm chức

Thƣợng thƣ)

(5) 贈黎禮部(名毅,僭稱侍郎,有詩三章贈餘)Tặng Lê Lễ bộ (tên Nghị, chức Thị lang, có thơ

ba bài tặng tôi)

(6) 題南越王尉陀廟 Đề miếu Nam Việt vương Đà

(7) 交州漫題 Giao Châu mạn hứng

(8) 在交日久傳語日變莫測其情,或言舊唐人有洩餘姓名者故愈欲餘謁晤而甘心焉 Ở Giao

Châu lâu ngày, hàng ngày truyền lời thay đổi không rõ sự tình ra sao, có tin rằng có

người Đường nào tiêt lộ danh tinh tôi, nên càng muốn khiến tôi đến yết kiến mới cam tâm

(9) 晦日同臣以、衡宇 Ngày cuối tháng cùng với Thần Dĩ, Hành Vũ

(10) 四月朔 Ngày mồng một tháng tư

240

(11) 二日 Mồng hai

(12) 三日 Mồng ba

(13) 四日 Mồng bốn

(14) 五日同黃、張飲歌 Mồng năm cùng Hoàng, Trương uống rượu

(15) 舟中雜感 Các loại cảm xúc trong thuyền

(16) 與臣以論行止 Cùng Thần Dĩ bàn luận về hành chỉ

(17) 偶題示黃、張二君 Ngẫu đề trình hai quân Hoàng và Trương

(18) 擬歸鷺 Viết về con cò

(19) 遣懷 Thư hoài

(20) 土風 Thổ phong

(21) 懷王先生 Nhớ Vương tiên sinh

(22) 再懷王先生 Lại nhớ Vương tiên sinh

(23) 與黃臣以論次人物懷唐梅臣先生 Cùng Hoàng Thần Dĩ bàn luận nhân vật nhớ lại Đường

Mai Thần tiên sinh

(24) 西望 Nhìn về phía Tây

(25) 隱語寄馬金吾 Gửi lời tới Mã Kim Ngã

(26) 傳周漳平將至亦作隱語未達也 Đồn rằng Chu Chương Bình sắp tới nên cũng gửi lời nhưng

không thấy đến

(27) 松月歌贈臣以 Tùng nguyệt ca tặng Thần Dĩ

(28) 贈寓交者蔣漸逵 Tặng người trú ở Giao Châu là Tưởng Tiệm Quỳ

(29) 贈寓交林明卿 Tặng người trú ở Giao Châu là Lâm Minh Khanh

(30) 臣以在交善病病熱也歌以發之 Thần Dĩ ở Giao Châu hay bị trúng nắng nên làm bài ca này

nhằm giúp cho đở

(31) 歸舟 Thuyền đi về

(32) 交州有鬼門關舟行過關乃入華界將歸作 Giao Châu có Quỷ Môn quan, đi thuyền qua đó là

vào địa phận nước mình, nên làm bài Sắp về

(33) 周漳平有書至寄書者被其國重罰信音絕矣 Chu Chương Bình có thư gửi đến, nhưng người

gửi thư bị bọn cầm quyền phạt nặng, nên thư không tới tay được

(34) 將回贈臣以職方(時臣以議欲間道行復命也)Sắp về tặng thơ Thần Dĩ Chức phương (lúc đó

Thần Dĩ định đi đƣờng khác để phục mệnh)

(35) 行瓊海入一線沙亦名角帶沙危險萬狀吾輩三人自擬必死矣口占 Từ Quỳnh Hải vào Nhất

Tuyến Sa, cũng gọi là Giác Đới Sa, cực kỳ nguy hiểm, ba người chúng tôi cứ ngờ sẽ chết

chắc nên khẩu chiêm

(36) 一線沙舟行 Bài thơ đi thuyền ở Nhất Tuyến Sa

(37) 行大洲頭歌 Hành Đại Châu Đầu ca

(38) 七夕西風過大洲頭 Mồng bảy tháng bảy đi theo chiều gió Tây qua Đại Châu Đầu

(39) 將至大星連日暴風 Sắp tới Đại Tinh nhưng gió bão mấy ngày liền

(40) 舟行迷道作 Làm thơ khi đi thuyền bị lạc đường

241

III. Thời nhà Thanh (5 sứ thần)

1. 吳光 Ngô Quang, tên tự 迪前 Địch Tiền, hiệu 長庚 Trƣờng Canh. Đi sứ An Nam vào năm

Khang Hy thứ ba cùng với Chu Chí Viễn, để điếu viêng Lê Duy Kỳ. (123 bài)

(1) 奉使安南出都別館中諸年丈 Phụng sứ An Nam rời Kinh thành chia tay với các ông trong

quán các

(2) 潞河舟中 Trong thuyền Lộ Hà

(3) 河西務 Hà Tây vụ

(4) 至日舟中作 Làm thơ trong thuyền vào ngày Chí nhật

(5) 天津 Thiên Tân

(6) 楊柳青 Dương liễu xanh tươi

(7) 流河驛 Lưu Hà dịch

(8) 舟中即事 Tức sự trong thuyền

(9) 滄州 Thương Châu

(10) 偶成 Ngẫu thành

(11) 月 Mặt trăng

(12) 舟過厯亭諸友留飲竟日率賦 Thuyền qua Lịch đình các bạn giữ lại uống rượu và làm thơ cả

ngày

(13) 臨清 Lâm Thanh

(14) 聊城懷古 Liêu Thành hoài cổ

(15) 東阿懷曹子建 Đông A hoài Tào Tử Kiến

(16) 掛劍臺 Quải kiếm đài

(17) 任城遊杜工部南池望太白樓作 Ở Nhâm Thành thăm Nam Trì của Đỗ Công bộ và ngắm

Thái Bạch lâu làm thơ

(18) 南陽湖 Hồ Nam Dương

(19) 微山湖 Hồ Vi Sơn

(20) 黃河 Sông Hoàng Hà

(21) 淮陰懷古 Hoài Âm hoài cổ

(22) 秋日同慎魯詹劉六皆鄒桐崖汪惟光叔幼儀兄爾世弟天襄遊平山堂一律 Thu nhật đi với

Thận Lỗ Chiêm, Lưu Lục và Châu Đồng Nhai, Uông Duy Quang, chú Ngẫu Nghi, anh Nhĩ Thế,

em Thiên Tương cùng thăm Bình Sơn Đường

(23) 滁州關山 Trừ Châu Quan Sơn

(24) 大柳驛 Đại Liễu dịch

(25) 八公山 Bát Công Sơn

(26) 中秋次霍丘泉河 Trung thu đến Hoặc Khưu Tuyền Hà

(27) 十六夜固始縣對月 Ngày mười sáu ngắm trăng ở huyện Cố Thủy

(28) 漢口 Hán Khẩu

(29) 同饒型萬大參登黃鶴樓作 Cùng Đại tham Nhiêu Hình Vạn đăng Hoàng Hạc Lâu

242

(30) 雨坐江漢書院 Trời mưa ngồi trong Giang Hán thư viện

(31) 晴川樓 Tình Xuyên Lâu

(32) 九日武昌舟中同朱印岡小酌 Mồng chín ở Vũ Xương cùng Chu Ấn Cương ngồi uống rượu

trong thuyền

(33) 嘉魚江行 Đi trên sông Gia Ngư

(34) 洞庭湖 Hồ Động Đình

(35) 湘江雜詠 Tạp vịnh trên sông Tương Giang

(36) 由湘潭赴衡山縣作 Làm thơ khi đi từ Tương Đàm đến Hành Sơn

(37) 衡嶽 Hành Nhạc

(38) 回雁峯 Hồi Nhạn phong

(39) 祁陽道中 Trên đường Kỳ Dương

(40) 熊羆嶺 Đèo Hùng Bì Lĩnh

(41) 遊浯溪元道州故宅 Thăm căn nhà của Nguyên Đạo Châu ngày xưa

(42) 鏡石 Đá gương

(43) 泊湘口二妃廟是瀟湘二水會處 Đậu thuyền ở cửa sông Tương, miếu Nhị Phi là nơi hội tụ

của sông Tiêu và sông Tương

(44) 雜詩 Tạp thi

(45) 永陽奇石歌 Vĩnh Dương đá lạ ca

(46) 愚溪謁柳侯祠 Thăm đền Liễu hầu ở Ngu Khê

(47) 湘山寺 Tương Sơn tự

(48) 全州有蘭生松巔漫成二絕 Ở Toàn Châu thấy có hoa lan mọc trên đỉnh cây tùng ngẫu hứng

hai bài tuyệt cú

(49) 獨秀山 Núi Độc Tú

(50) 七星洞 Động Thất Tinh

(51) 泊象鼻峯 Đậu thuyền ở núi vòi voi

(52) 畫山 Họa Sơn

(53) 初發始安江作 Làm thơ khi mới xuất phát từ An Giang

(54) 梧州即事 Ngô Châu tức sự

(55) 潯江道中 Trên đường Tuần Giang

(56) 烏蠻灘馬伏波廟 Mã Phục Ba miếu ở ghềnh Ô Man

(57) 太平府公廨 Công sở phủ Thái Bình

(58) 自思明府赴昭德關作 Làm thơ khi từ phủ Tư Minh sang Chiêu Đức quan

(59) 諒山道中 Trên đường Lạng Sơn

(60) 鬼門關 Quỷ Môn quan

(61) 昌江舟中 Trong thuyền đi trên Xương Giang

(62) 元夕富良江舟中 Nguyên tiêu trong thuyền trên sông Phú Lương

(63) 洞濮站 Trạm Động Bốc

(64) 昭德關 Chiêu Đức quan

243

(65) 白馬洞 Động Bạch Mã

(66) 太平江中石山歌 Núi đá ca trên sông Thái Bình

(67) 槎江雜詠十首 Sà Giang tạp vịnh mười bài

(68) 詠物八首 Vịnh vật tám bài

(69) 橫州穿山巖 Xuyên Sơn nham ở Hoành Châu

(70) 舟中感懷詶閔鶴臞學憲 Trong thuyền cảm hoài thù họa với Cù Học hiến người Mân Hạc

(71) 藤縣江中石 Hòn đá đứng giữa sông ở Đằng Huyện

(72) 榕樹歌 Cây đa ca

(73) 泊昭州 Đậu thuyền Chiêu Châu

(74) 登昭州城樓即事 Leo Chiêu Châu thành lầu tức sự

(75) 畫山歌 Họa Sơn ca

(76) 陽朔縣山歌 Huyện Dương Sóc sơn ca

(77) 遊劉仙巖 Thăm Lưu Tiên nham

(78) 棲霞寺 Thê Hà tự

(79) 龍隱洞 Động Long Ẩn

(80) 龍隱巖觀元祐黨人碑 Động Long Ẩn ngắm bia đá của người Nguyên Hựu Đảng

(81) 屈總制臻善招同金中丞紹武線將軍為山孟都統嗣軒朱儀曹印岡飲獨秀山園亭 Tổng chế

Khuất Trăn Thiện rủ Trung thừa Thiệu Vũ Kiam Tuyến Tướng quân cùng uống rượu với Sơm

Mạnh Đô thống tự Nghi tào Chu Ấn Cương ở đình trên núi Độc Tú

(82) 遊招隱山六洞 Thăm sáu hang động ở Chiêu Ẩn Sơn

(83) 伏波巖 Phục Ba nham

(84) 坐伏波巖亭子偶成 Ngồi ở đình trên Phục Ba nham ngẫu thành

(85) 詠龍鱗石盆 Vịnh chậu đá như hình vẩy rồng

(86) 遊伏波巖下還珠洞 Thăm động Hoàn Châu dưới Phục Ba nham

(87) 遊虞山韶音洞 Thăm động Thiều Âm ở Ngu Sơn

(88) 白龍洞 Động Bạch Long

(89) 遊木龍洞 Thăm động Mộc Long

(90) 登棲霞寺半山亭子得半字 Leo Thê Hà tự ở đình lưng núi được chữ Bán

2. 周燦 Chu Sán (khoảng sinh năm 1634), tên tự 星公 Tinh Công. Đi sứ An Nam cùng với Ô Hắc,

Minh Đồ và Tôn Trác, điếu viếng và phong vƣơng cho vua Lê. (48 bài)

(1) 南關 Nam Quan

(2) 俗傳將開關必雨,至期又晴,果然 Tục rằng sắp mở cửa khẩu tất mưa, đến ngày mở lại nắng,

quả nhiên là thế

(3) 啟關 Mở cửa khẩu

(4) 安南官目入參 Quan chức An Nam vào yết kiến

(5) 出關 Ra cửa khẩu

(6) 文淵州 Văn Uyên châu

244

(7) 諒山府係漢代伏波將軍所築,亦號伏波城 Phủ Lạng Sơn do Phục Ba Tướng quân nhà Hán

xây, nên cũng gọi là Phục Ba thành

(8) 銅柱在諒山府界內,馬伏波題六字其上雲:―銅柱折,交趾滅‖,交人歲時以沙土擁護移

道別出不令人見 Cột đồng trụ ở địa phận phủ Lạng Sơn, Mã Phục Ba đề sáu chữ ở trên cột rằng:

“Đồng trụ đổ, Giao Chỉ mất”, dân Giao Chỉ hay dùng cát đá vun đắp sau đó không nhìn thấy nữa

(9) 夜抵安州 Tối đi đến Yên Châu

(10) 述懷 Thuật hoài

(11) 蒞仁驛西南有鬼門關,疊巒密菁風景黯然 Phía tây nam của Lị Nhân dịch có Quỷ Môn quan,

núi rừng trùng điệp phong cảnh tối om

(12) 關外有伏波將軍祠 Ở ngoài cửa khẩu có đền Phục Ba Tướng quân

(13) 屯糜望月即先麗驛 Đồn Mê ngắm trăng, ở Tiên Lệ dịch

(14) 曉發屯糜 Sáng sớm xuất phát từ Đồn Mê

(15) 屯糜道中 Trên đường Đồn Mê

(16) 山行即事 Sơn hành tức sự

(17) 千秋草 Cỏ thiên thu

(18) 茶山早晴 Trà Sơn nắngsớm

(19) 壽昌驛該國遣官來迎 Đến An Nam Thọ Xương dịch có quan chức đến đón

(20) 內祀黎英王該國功臣,城鎮人 Đền thờ Lê Anh Vương, công thần nước này, người thị trấn

(21) 市橋道上 Trên đường Thị Kiều

(22) 枝圓核桃皆交地所不產,擲輿前餉群兒來觀者 Hồ đào tròn không có ở Giao Chỉ, nên ném

trước xe ngựa để cho bọn trẻ đến ngắm ăn thử

(23) 捄江看象渡江岸有紀 Ở sông Cầu thấy con voi qua sông ghi lại

(24) 過桂林路漸南矣,入交則愈南,每初夜望北斗不見,不免有天高辰遠之歎。一日夜半偶

起見七星爛然喜而有作 Qua Quế Lâm là xuống Nam dần, vào Giao Chỉ thì càng cực Nam.

Những đêm không nhìn thấy sao Bắc Đẩu, không khỏicảm thán đang ở nơi xa lạ. Một đêm khuya

dậy nhìn thấy Bắc Đẩu thất tinh trên trời, mừng quá nên làm thơ luôn

(25) 行冊封禮 Lễ sách phong

(26) 行諭祭禮 Lễ điếu viếng

(27) 該國王餽宴有紅柿誌感 Vua An Nam mời tiệc thấy có quả hồng đỏ hữu cảm

(28) 交官初見請姓氏爵裏 Quan chức Giao Chỉ lần đầu yết kiến xin họ tên quê quán

(29) 留別安南阮司馬公望黎司空僖阮僉憲廷滾黃大參公寊 Lưu biệt An Nam Tư mã Nguyễn

Công Vọng, Tư không Lê Hỉ, Kiêm hiến Nguyễn Đình Cổn và Đại tham Hoàng Công Chất (có

thơ họa của Nguyễn Đình Cổn)

(30) 四人復請詩教因示之 Bốn người lại xin học hỏi về làm thơ nên đưa thơ rằng

(31) 留別安南阮廷柱、武惟匡、宋儒,陳璹四給事 Lưu biệt An Nam bốn cấp sự là Nguyễn Đình

Trụ, Vũ Duy Khuông, Tống Nho và Trần Thọ (có thơ họa của Nguyển Đình Trụ và Vũ Duy

Khuông)

(32) 四人復請詩教因示之 Bốn người lại xin học hỏi về làm thơ nên đưa thơ rằng

245

(33) 雨中北發 Trong mưa xuất phát đi về phía Bắc

(34) 檳榔樹 Cây trầu cau

(35) 宿安昌渡一名天德小江 Nghỉ đêm ở bến Yên Xương, còn gọi là sông Thiên Đức

(36) 出鬼門關以名不雅馴擬易為畏天以昭木國事之美 Rời Quỷ Môn Quan, thấy tên không hay,

định đổi tên thành Úy Thiên, để biểu hiện cái đẹp của việc nước

(37) 留別安南阮擢用、阮公儒兩給事 Lưu biệt An Nam hai cấp sự là Nguyễn Trạc Dụng và

Nguyễn Công Nho

(38) 入關 Vào cửa khẩu

3. 任蘭枝 Nhâm Lan Chi (1677-1746), tên tự là 香谷 Hƣơng Cốc, còn tên tự 隨齋 Tùy Trai. Đi

sứ An Nam vào năm 1728 cùng với Hàng Diệc Lộc để định giới với An Nam.

(1) 大相嶺 Đèo Đại Tướng Lĩnh

(2) 關外 Ngoài cửa khẩu

(3) 古意 Cổ ý

(4) 越嶲 Việt Tây

4. 德保 Đức Bảo và 顧汝修 Cố Nhữ Tu. Đức Bảo hiệu 慎齋 Thận Trai. Cố Nhữ Tu tên tự 息存

Tức Tồn, hiệu 密齋 Mật Trai. Hai ngƣời cùng đi chuyến sứ sang An Nam để điếu viếng và

sách phong vua Lê vào năm 1761. (Đức Bảo 17 bài, Cố Nhữ Tu 12 bài)

(1) 到芹營驛,正使德保示詩一律 Đến Cần Doanh dịch, Chánh sứ Đức Bảo đưa thơ một bài (có

thơ họa của Trần Danh Lâm và Nguyễn Xuân Huyên)

(2) 粵早欽使官望拜,天朝皇太后壽。顧副使官詩 Sáng sớm hôm sau, sứ thần quay về hướng Bắc

lạy chúc thọ Thái hậu, Cố Phó sứ làm thơ một bài (có thơ họa của Trần Danh Lâm và Nguyễn

Xuân Huyên)

(3) 暮到壽昌公館,寫手本請安,副使顧批示 Chiều đến Thọ Xương công quán, trình thủ bản hỏi

thăm sức khỏe, Cố Nhữ Tu đưa thơ một bài (có thơ họa chung một bài của Trần và Nguyễn)

(4) 顧密齋次德慎齋原韻以示陳、阮庚和 Cố Nhữ Tu thứ vận thơ của Đức Bảo đưa Trần và

Nguyễn để xướng họa (có thơ họa của Nguyễn)

(5) 二十六早,自壽昌進發,正使德仍前韻答謝吏部 又仍前韻答阮監察 Sáng ngày hai sáu,

xuất phát từ Thọ Xương dịch, Đức Bảo lại dùng vận trước đáp tặng Trần và Nguyễn mỗi

người một bài (có thơ họa của Nguyễn)

(6) 副使顧再示前韻 Cố Nhữ Tu lại đưa thơ dùng vận trước (có thơ họa của Trần và Nguyễn) )

(7) 二十六日,次市球驛,正使德示二律 Ngày hai sáu, đến Thị Cầu dịch, Đức Bảo xuất trình hai

bài thơ ( có thơ họa mỗi ngƣời hai bài của Trần và Nguyễn)

(8) 副使顧三次噓韻以示 Cố Nhữ Tu lần ba dùng Hư vận trình thơ (có thơ họa của Trần và

Nguyễn)

(9) 顧副使四疊噓韻以示 Cố Nhữ Tu lần tư dùng Hư vận trình thơ (có thơ họa của Trần và

Nguyễn)

246

(10) 翌日,行至貂瑤公館,正使德庚答陳吏部原韻 Ngày hôm sau, đi đến Điêu Dao công quán,

Đức Bảo họa lại bài thơ tặng của Trần (Trần lại có thơ đáp tặng)

(11) 德正使庚答阮監察原韻 Đức Bảo họa lại bài thơ tặng của Nguyễn (Nguyễn lại có thơ đáp

tặng)

(12) 顧副使庚答陳吏部 Cố Nhữ Tu họa thơ của Trần (Trần lại đáp tặng)

(13) 顧副使庚答阮監察 Cố Nhữ Tu họa thơ của Nguyễn (Nguyễn lại đáp tặng)

(14) 追還呂瑰驛相見,德正使示一律 Lại gặp nhau ở Lã Côi dịch, Đức Bảo làm một bài thơ

(Trần và Nguyễn có thơ họa lại) )

(15) 德正使四疊噓韻以示 Đức Bảo lần tư dùng Hư vận làm thơ (Trần và Nguyễn có thơ họa)

(16) 德正使五用噓韻 Đức Bảo lần năm dùng Hư vận làm thơ (Trần và Nguyễn có thơ họa)

(17) 德正使六用噓韻以示 Đức Bảo lần sáu dùng Hư vận làm thơ (Trần và Nguyễn có thơ họa)

(18) 十二月初五日,德正使題示陳吏部 Mồng năm tháng mười hai, Đức Bảo tặng thơ Trần Danh

Lâm (Trần có thơ họa)

(19) 正使德示監察阮 Đức Bảo tặng thơ Nguyễn Xuân Huyên (Nguyễn có thơ họa)

(20) 正使德賦贈內學士小神童陳伊宅 Đức Bảo tặng thơ Nội học sĩ thần đồng Trần Y Trạch

(Trạch có thơ đáp tặng)

(21) 顧副使次德慎齋先生原韻贈內學士 Cố Nhữ Tu thứ vận thơ của Đức Bảo để tặng Nội học sĩ

(Trạch có thơ đáp tặng)

(22) 冊封正使德大人贈安南國王詩歌 Đức Bảo tặng thơ An Nam Quốc vương (Quốc vƣơng có

thơ họa lại)

(23) 冊封副使顧大人贈安南國王詩 Cố Nhữ Tu tặng thơ An Nam Quốc vương (Quốc vƣơng có

thơ họa lại)

(24) 德慎齋和詩黎貴惇 Đức Bảo họa thơ của Lê Quý Đôn (có thơ tặng của Lê Quý Đôn)

(25) 密齋和詩黎貴惇 Cố Nhữ Tu họa thơ của Lê Quý Đôn (có thơ tặng của Lê Quý Đôn)

(26) 慎齋和詩查禮 Đức Bảo họa thơ của Tra Lễ (có thơ làm của Tra Lễ)

(27) 密齋和詩查禮 Cố Nhữ Tu họa thơ của Tra Lễ (có thơ làm của Tra Lễ)

247

Phụ lục IV: CÁC BẢN SỨ TRÌNH ĐỒ

(Dựa trên bản đồ của Đàm Kỳ Tƣơng trong Trung Quốc lịch sử địa đồ tập để vẽ)

1. Sứ trình đồ của sứ đoàn Trần Phu

248

Đoạn rời Kinh Đô và ở địa phận Trung Thƣ Tỉnh

246

Đoạn ở Hà Nam Giang Bắc Hành Tỉnh

247

Đoạn ở Hồ Quảng Hành Tỉnh

248

2. Sứ trình đồ của sứ đoàn Trƣơng Dĩ Ninh

Đoạn đi từ Nam Kinh đến Giang Tây

249

Đoạn đi từ Giang Tây đến Quảng Đông

250

Đoạn đi từ Quảng Đông đến Quảng Tây

251

Đoạn đi từ Quảng Tây sang Việt Nam

252

3. Sứ trình đồ của Ngô Quang

Đoạn đi từ Kinh Đô đến Sơn Đông

253

Đoạn đi trong từ tỉnh Sơn Đông đến Giang Tô

254

Đoạn đi từ Giang Tô sang An Huy

255

Đoạn đi ở địa phận tỉnh Hồ Bắc

256

Đoạn đi ở địa phận Hồ Nam

257

Đoạn đi ở địa phận Quảng Tây

258