VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐĂNG PHÚ

TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

VIỆT NAM HIỆN NAY: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ

PHÒNG NGỪA

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số: 9.38.01.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa

Hà Nội - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài Luận án tiến sĩ là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu

của riêng tôi.

Các số liệu được sử dụng trong Luận án hoàn toàn được thu thập từ thực tế,

chính xác, đáng tin cậy, có nguồn gốc rõ ràng, được xử lý trung thực khách quan,

chưa từng được ai công bố ở đâu và trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

NGUYỄN ĐĂNG PHÚ

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

TAND : Tòa án nhân dân

GS.TS : Giáo sư, Tiến sĩ

PGS.TS : Phó Giáo sư, Tiến sĩ

TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

Nxb : Nhà xuất bản

GTGT : Giá trị gia tăng

XNK : Xuất nhập khẩu

Cont’ : Container

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 8

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.................................................................. 8

1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận tội phạm học ...................................................... 8

1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến tội buôn lậu ................................................ 11

1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam .................................................................. 12

1.2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận tội phạm học .................................................... 12

1.2.2. Tình hình nghiên cứu thực tế, cụ thể về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu .. 15

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu ........................................................................ 18

1.3.1. Những kết quả nghiên cứu mà luận án sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển ............... 18

1.3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu đề tài luận án .......................... 20

1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ............................................... 20

1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................... 20

1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu ..................................................................................... 22

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 23

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG

NAM BỘ VIỆT NAM ............................................................................................. 25

2.1. Khái quát lý luận về tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ .............................................................................................................................. 25

2.1.1. Khái niệm buôn lậu và tội buôn lậu ................................................................ 25

2.1.2. Khái niệm tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ..................... 27

2.2. Phần rõ (phần hiện) của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ ..................................................................................................................... 31

2.2.1. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ .............................................................................................................................. 31

2.2.2. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ .................... 35

2.2.3. Diễn biến của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ......... 48

2.2.4. Tính chất của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ....... 53

2.3. Phần ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ........ 70

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 85

CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI BUÔN

LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ VIỆT NAM ............................. 87

3.1. Khái quát lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ........................................................................... 87

3.1.1. Khái niệm nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ ................................................................................................... 87

3.1.2. Phân loại nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ ................................................................................................... 90

3.2. Các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ ........................................................................................................... 93

3.2.1. Nguyên nhân, điều kiện về đặc điểm địa lý, tự nhiên ...................................... 93

3.2.2. Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế, xã hội ....................................................... 94

3.2.3. Nguyên nhân, điều kiện về văn hóa, giáo dục và tâm lý xã hội ...................... 97

3.2.4. Nguyên nhân, điều kiện về pháp luật ............................................................ 102

3.2.5. Nguyên nhân, điều kiện về quản lý xã hội ..................................................... 104

3.2.6. Nguyên nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt động phòng ngừa .................... 108

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 113

CHƯƠNG 4. PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN

MIỀN ĐÔNG NAM BỘ VIỆT NAM .................................................................. 115

4.1. Khái quát lý luận về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ ......................................................................................................... 115

4.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ .......................................................................................................... 115

4.1.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ ............................................................................................................................ 119

4.1.3. Chủ thể và biện pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ .......................................................................................................... 121

4.2. Các giải pháp cụ thể phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ ......................................................................................................... 128

4.2.1. Giải pháp hạn chế nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ từ đặc điểm địa lý, tự nhiên ............................................. 128

4.2.2. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về kinh tế, xã hội của tình hình

tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ........................................................ 130

4.2.3. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về văn hóa, giáo dục và tâm lý

xã hội của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ....................... 134

4.2.4. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về pháp luật của tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ............................................................. 139

4.2.5. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về tổ chức, quản lý của tình hình

tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ........................................................ 141

4.2.6. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt động

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu của các chủ thể chuyên trách trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ .......................................................................................................... 143

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ...................................................................................... 147

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ...................... 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152

PHẦN PHỤ LỤC ....................................................................................................... 1

PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: KẾT QUẢ KHẢO SÁT……...……………………...………………..1

PHỤ LỤC 2: TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM

BỘ TỪ NĂM 2011 ĐẾN 2020......……………..………………………………….10

PHỤ LỤC 3: TỔNG HỢP CÁC LOẠI, TRỊ GIÁ HÀNG HÓA BUÔN LẬU,

PHƯƠNG THỨC, THỦ ĐOẠN, THU LỢI BẤT CHÍNH TRONG MỘT SỐ VỤ

ÁN BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ TỪ NĂM 2011 ĐẾN

2020………………………………………………………………………………...47

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tiến trình đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới của Đảng và Nhà nước ta,

bên cạnh những thuận lợi cơ bản, chúng ta đang phải đối diện với nhiều khó khăn,

thách thức. Một trong số đó là tình trạng buôn lậu diễn ra hết sức phức tạp cả về quy

mô, tính chất lẫn phương thức, thủ đoạn hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ đến sản

xuất trong nước, gây thất thu ngân sách, thiệt hại đến những chủ thể làm ăn chân

chính và người tiêu dùng. Khi nền sản xuất trong nước còn mất cân đối, sản phẩm

sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng cả về số

lượng, chất lượng và giá cả, cùng với những hạn chế trong quản lý kinh tế của nhà

nước đã tạo điều kiện cho người buôn lậu không ngừng lợi dụng để thực hiện hành

vi buôn lậu nhằm trục lợi. Miền Đông Nam Bộ nước ta gồm thành phố Hồ Chí

Minh – là trung tâm kinh tế thương mại lớn nhất cả nước và các tỉnh Bình Dương,

Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh. Theo số liệu năm 2019, tổng

dân số của miền Đông Nam Bộ là 17.828.907 người trên một diện tích

23.564,4 km², mật độ dân số là 706 người/km², chiếm 18,5% dân số cả nước.[95]

Đây là khu vực kinh tế phát triển nhất Việt Nam, đóng góp hơn 2/3 thu ngân sách

hàng năm, có tỷ lệ đô thị hóa 62,8%. Với những lợi thế quan trọng về biên giới

đường thủy, đường hàng không và đường bộ để phát triển kinh tế, miền Đông Nam

Bộ cũng là nơi có điều kiện thuận lợi để người buôn lậu khai thác, xâm phạm

nghiêm trọng đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.

Trong thời gian qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở miền Đông

Nam Bộ đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực chỉ đạo các cơ quan chức năng

chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội buôn lậu, tập trung triển khai nhiều biện

pháp nhằm thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước như: Quyết định số

389/QĐ-TTg ngày 19/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo

quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; Nghị quyết số

111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về hoạt động phòng, chống vi phạm

pháp luật và tội phạm, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân

1

và hoạt động thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo; Nghị quyết số 41/NQ-CP

ngày 09/6/2015 của Chính phủ về việc đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương

mại và hàng giả trong tình hình mới; Kế hoạch số 1239/KH-BCĐ389 ngày 13 tháng

12 năm 2017 về tăng cường hoạt động phòng, chống buôn lậu, sản xuất, kinh doanh

phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng; Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ

tướng Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2018 về tăng cường đấu tranh chống buôn lậu,

gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng thuộc nhóm

hàng dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược liệu và vị thuốc y học cổ

truyền; Quyết định số 195/QĐ-BCĐ ngày 23 tháng 3 năm 2020 của Ban chỉ đạo Quốc

gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả về việc ban hành quy chế tiếp

nhận, xử lý tin báo về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Sự chỉ đạo tích cực

của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong đấu tranh phòng chống tội buôn

lậu ở miền Đông Nam Bộ đã góp phần phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh

tế-xã hội của vùng, phát huy được sức mạnh của hệ thống chính trị, khối đại đoàn

kết toàn dân tham gia hoạt động phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật nói

chung, tội buôn lậu nói riêng, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

Tuy vậy, trong những năm qua trên địa bàn miền Đông Nam Bộ tình hình tội

buôn lậu vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, độ ẩn cao với tính chất, mức độ của hành

vi phạm tội ngày càng nguy hiểm, tinh vi, có những vụ buôn lậu lớn, có tổ chức -

đường dây, có sự tiếp tay, giúp sức của một số cán bộ thoái hóa, biến chất trong các

cơ quan nhà nước, trị giá hàng lậu lên đến hàng chục tỷ đồng, thậm chí hàng trăm tỷ

đồng, xảy ra trong một thời gian dài mới bị phát hiện, điều tra, xử lý gây thiệt hại

nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự trên địa bàn, làm

giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và hệ thống chính

trị ở địa phương. Vì vậy tăng cường đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu là một

trong những nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói

chung và miền Đông Nam Bộ nói riêng hiện nay.

Để phòng ngừa hiệu quả hơn đối với tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ, trước hết cần phải phân tích để làm sáng tỏ tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ; qua đó, xác định nguyên nhân, điều kiện làm phát

sinh tình hình tội buôn lậu trên địa bàn này và xây dựng hệ thống các giải pháp

phòng ngừa phù hợp với đặc điểm của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

2

Đông Nam Bộ.

Từ những lý do đã nêu, nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu “Tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ Việt Nam hiện nay: Tình hình, nguyên nhân và

phòng ngừa” là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng đòi hỏi về phát triển kinh tế xã hội ổn

định trong giai đoạn hiện nay ở miền Đông Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở đánh giá, phân tích tình hình tội buôn lậu, xác định nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Luận án kiến

giải hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội buôn lậu phù hợp với đặc điểm và điều

kiện của miền Đông Nam Bộ.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây cần phải thực hiện để đạt được mục đích

nghiên cứu của đề tài luận án, đó là:

Thứ nhất: Nghiên cứu lý luận và pháp luật, nhiệm vụ này bao gồm những hoạt

động cụ thể như: tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu lý luận về tội phạm học,

về tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và phòng

ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội buôn lậu nói riêng; nghiên cứu

các quy định của pháp luật và những tài liệu khác liên quan đến tội buôn lậu và

chính sách, chủ trương, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ. Các nhiệm vụ cụ thể của phần này bao gồm: làm sáng tỏ

những vấn đề lý luận về tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ,

những vấn đề lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ và những vấn đề lý luận, pháp lý về phòng ngừa tình hình

tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Thứ hai: Nghiên cứu thực tế, bao gồm các hoạt động sau:

Tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên

của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ

năm 2011 đến năm 2020 của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn bàn miền Đông

Nam Bộ từ số liệu thống kê thường xuyên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Tìm, thu thập các bản án xét xử tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2020 và xử lý, phân tích, so sánh theo

3

các tiêu chí tội phạm học cần thiết.

Các hoạt động nghiên cứu thực tế được sử dụng để thu thập các số liệu phục

vụ cho việc phân tích các thông số về chất và lượng của tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020, các nghiên

cứu thực tế là cơ sở cho các hoạt động nghiên cứu sáng tạo.

Thứ ba: Nghiên cứu sáng tạo, bao gồm các công việc cụ thể sau:

Phân tích, làm rõ tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ trong

thời gian 10 năm, từ năm 2011 đến năm 2020, với các thông số về thực trạng (mức

độ), cơ cấu, diễn biến và tính chất; phân tích nguyên nhân ẩn của tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Xác định các yếu tố thuộc về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Phân tích các hạn chế trong thực trạng phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ.

Thiết lập hệ thống các giải pháp phòng ngừa tội buôn lậu trong thời gian tới

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, học thuyết tiến bộ về

nguyên nhân, điều kiện của tội phạm; phòng ngừa tội phạm; tình hình tội buôn lậu

và mối quan hệ của tình hình tội buôn lậu với các hiện tượng, quá trình kinh tế-xã

hội khác, tức là làm rõ quy luật của sự phạm tội buôn lậu trên địa bàn các tỉnh,

thành phố thuộc miền Đông Nam Bộ; các số liệu về truy cứu và xét xử về tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án

Đề tài được tác giả nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành tội phạm học và

phòng ngừa tội phạm.

Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các vụ án buôn lậu trong vòng 10 năm (từ

2011 đến năm 2020), bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của tòa án và

các bản án hình sự sơ thẩm điển hình về tội buôn lậu ở các tỉnh, thành phố trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ.

Về không gian: Đề tài luận án được thực hiện trên phạm vi ở các tỉnh, thành

4

phố trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Về tội danh: Tội danh nghiên cứu là tội buôn lậu theo quy định tại Điều 188

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận án dựa trên phép duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. Phép duy vật biện chứng cho phép tác

giả luận án xem xét mối quan hệ biện chứng giữa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ với những hiện tượng xã hội khác như: tình hình kinh tế, xã hội;

văn hóa, giáo dục; tình hình về pháp luật, tình hình quản lý nhà nước, thực trạng hệ

thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm… Phân tích mối quan hệ biện chứng này

cho phép tác giả xác định nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ và xây dựng hệ thống những biện pháp để tác động vào tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ một cách hiệu quả nhất.

Bên cạnh phép duy vật biện chứng, phép duy vật lịch sử cho phép tác giả nghiên

cứu tình hình tội buôn lậu trong điều kiện khách quan và chủ quan của hiện tượng này

với giới hạn không gian và thời gian nhất định. Trong mỗi điều kiện lịch sử, các hiện

tượng, sự vật có đặc điểm về lượng và chất khác nhau và chịu sự chi phối, tác động

biện chứng của các hiện tượng tồn tại ở giai đoạn lịch sử đó. Chính vì vậy, phép duy

vật lịch sử cho phép tác giả nghiên cứu tình hình tội buôn lậu trong những điều kiện cụ

thể của địa bàn miền Đông Nam Bộ, đúc kết những đặc điểm về lượng và chất của tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn nghiên cứu, từ đó xác định nguyên nhân, điều kiện và

biện pháp phòng ngừa tương ứng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Với hướng tiếp cận liên ngành, đa ngành mang tính hệ thống và lịch sử, tác giả sử

dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác nhau, cụ thể như: Phương

pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp

thống kê; phương pháp so sánh; phương pháp hệ thống; phương pháp lịch sử cụ thể,

phương pháp điều tra xã hội học.

- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn được sử dụng trong toàn bộ luận án.

Cụ thể, tác giả sử dụng lý luận về tội phạm học để phân tích, đánh giá: Tình hình tội

buôn lậu trên thực tiễn từ đó rút ra những nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn

5

lậu; hoạt động phòng ngừa tội buôn lậu trong thực tiễn, từ đó khái quát thành lý luận về

phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ; kết hợp lý luận và thực tiễn

làm cơ sở đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ.

- Các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương

pháp lịch sử cụ thể, được kết hợp và sử dụng một cách hợp lý trong từng chương

của luận án.

- Phương pháp hệ thống còn được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận án nhằm

trình bày các vấn đề, các nội dung theo một trình tự, một bố cục hợp lý, chặt chẽ, có

sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích, yêu

cầu đã được xác định của luận án.

- Phương pháp điều tra xã hội học với bảng hỏi chi tiết gồm các câu hỏi đóng

và câu hỏi mở được sử dụng để khảo sát đa dạng các chủ thể tham gia vào hoạt

động phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Phương pháp này

được sử dụng để đánh giá phần ẩn của tình hình tội buôn lậu, đánh giá đặc điểm của

tội buôn lậu, xác định nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu và giải

pháp phòng ngừa.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Thứ nhất, Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm học và

phòng ngừa tội phạm cụ thể đối với tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2020.

Thứ hai, Luận án đã làm rõ được tình hình tội buôn lậu; nguyên nhân, điều kiện

của tình hình tội buôn lậu; thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu gắn

liền với đặc điểm đặc thù của miền Đông Nam Bộ về vị trí địa lý tự nhiên, kinh tế -

xã hội, văn hóa, giáo dục.

Thứ ba, Luận án kiến giải các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ một cách phù hợp và có hệ

thống. Về cơ bản, các giải pháp bảo đảm tính khả thi.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án

Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về phòng ngừa tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ Việt Nam một cách có hệ thống. Luận án đóng góp những

6

vấn đề có ý nghĩa lý luận như sau:

- Luận án chỉ ra những vấn đề lý luận cơ bản về phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ Việt Nam; Luận án đi sâu phân tích, đánh giá

về mức độ (thực trạng), cơ cấu, diễn biến và tính chất trong phần rõ (phần hiện) của

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, mức độ ẩn và nguyên nhân

ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ trong 10 năm từ năm

2011 đến năm 2020;

- Luận án làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên nhân, điều kiện của

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, những nguyên nhân, điều

kiện đặc thù dẫn đến sự phát sinh, tồn tại tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

- Trên cơ sở đánh giá về tình hình tội buôn lậu; nguyên nhân, điều kiện của

tình hình tội buôn lậu; thực trạng phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ; những thành công, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt

động phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Luận án đề xuất

các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ trong thời gian tới.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Các giải pháp mà luận án đề xuất có tính chất chỉ dẫn đối với các cơ quan chức

năng trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội buôn lậu, nhất là địa bàn

miền Đông Nam Bộ.

- Làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong hoạt động thực tiễn

phòng ngừa tội buôn lậu; làm tư liệu tham khảo cho học viên, sinh viên các trường Đại

học, Cao đẳng,…

7. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận án gồm 4

chương. Cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài

luận án

Chương 2: Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ Việt Nam

Chương 3: Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ Việt Nam

Chương 4: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

7

Việt Nam

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận tội phạm học

Phòng ngừa tội phạm luôn là mục tiêu nghiên cứu và là mục tiêu cuối cùng

của tội phạm học. Tuy nhiên, do khác nhau về văn hóa, phong tục tập quán, thể chế

chính trị, điều kiện kinh tế nên việc nghiên cứu về tội phạm học và phòng ngừa tội

phạm nói chung cũng có những nét đặc trưng riêng. Qua nghiên cứu các tài liệu

nước ngoài, tác giả tóm tắt một số công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án

như sau:

E. Buchholz, R. Hartmann, J. Lekschas và G. Stiller, “Tội phạm học xã hội

chủ nghĩa”, Nxb Staatsverlag Berlin, 1971. Trên cơ sở quan điểm Mác-xít, các tác

giả đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản của tội phạm học. Theo tác giả, tội phạm

học có hai loại, đó là tội phạm học xã hội chủ nghĩa và tội phạm học tư sản. Trong

đó, tội phạm học xã hội chủ nghĩa được xem là tội phạm học Mác-Lênin và được

định nghĩa là một ngành khoa học xã hội mà đối tượng của nó bao gồm các vấn đề

xã hội cũng như các vấn đề tâm lý tội phạm.

Kudriavsev, “Tính nguyên nhân của tội phạm học”, Nxb Pháp lý Matxcova,

1974. Đây là công trình có ý nghĩa tham khảo trong quá trình nghiên cứu phương

pháp luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, có giá trị thiết thực

đối với nghiên cứu sinh trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu của mình.

Buchholz E, John Lekschas, Richard Hartmann, “Những vấn đề lý luận về luật

hình sự, tố tụng hình sự và tội phạm học”, Viện thông tin khoa học xã hội, 1982.

Đây là tác phẩm của nhiều nhà luật học tên tuổi. Tác phẩm nghiên cứu các vấn đề lý

luận chung về luật hình sự, tố tụng hình sự và tội phạm học. Nội dung nghiên cứu

những vấn đề lý luận về tội phạm học được trình bày ở phần III của cuốn sách.

Trong phần nội dung này đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản của tội phạm học trên

cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin. Các tác giả Buchholz E, John Lekschas, Richard

Hartmann cho rằng, tội phạm học được phân làm hai loại, tội phạm học xã hội chủ

8

nghĩa và tội phạm học tư sản, trong đó, tội phạm học xã hội chủ nghĩa được xem là

tội phạm học Mác-Lênin và được định nghĩa là một ngành khoa học xã hội mà đối

tượng của nó bao gồm các vấn đề xã hội cũng như các vấn đề tâm lý tội phạm. Còn

các tác giả Liên Xô như V.N.Kudrjacev thì con người phạm tội không phải là

nguyên nhân của tội phạm, mặc dù con người khi quyết định phạm tội thì cái quyết

định đó là nguyên nhân gần nhất, theo tác giả môi trường xã hội là cái có vai trò

quyết định trong việc giải thích nguyên nhân của các hiện tượng xã hội trong đó có

tội phạm. Xuất phát từ quan điểm triết học Mác – Lênin để đánh giá vai trò của điều

kiện khách quan, trong đó có điều kiện thúc đẩy việc phạm tội, có điều kiện đóng

vai trò tích cực trong việc phòng ngừa tội phạm và như vậy việc đấu tranh phòng

chống tội phạm không chỉ dừng lại ở việc xóa bỏ nguyên nhân của tội phạm, dù đó

là cơ bản, mà phải song song tiến hành việc thủ tiêu các điều kiện thúc đẩy tội phạm

phát triển.

Susan Geason và Paul Wilson, “Phòng chống tội phạm”, Nxb Viện tư pháp

Úc, 1988. Cuốn sách đã đưa ra quan điểm phòng ngừa tội phạm bằng cách nâng cao

chất lượng sống cho con người thông qua nhiều hình thức khác nhau. Đồng thời

khẳng định biện pháp phòng ngừa tốt nhất chính là việc triệt tiêu các điều kiện

phạm tội. Tác giả đã khái quát được tình hình tội phạm và đưa ra nguyên nhân làm

phát sinh tội phạm, đưa ra một số giải pháp về kinh tế để phòng ngừa tội phạm đối

với nhóm tội hay tội phạm cụ thể.

Can Ueda, “Tội phạm và tội phạm học ở Nhật Bản” do GS.TS. Nguyễn Xuân

Yêm và GS.TS. Hồ Trọng Ngũ dịch từ bản tiếng Nga của Nxb Tiến Bộ Maxcova,

1989. Cuốn sách đã nghiên cứu đến các biện pháp đấu tranh chống tội phạm. Tác

giả đã đặc biệt nhấn mạnh và khẳng định các chính sách kinh tế văn hóa xã hội đều

là các biện pháp đấu tranh chống tội phạm, đồng thời khẳng định chủ thể của hoạt

động chống tội phạm gồm cả các nhà khoa học bên cạnh các chủ thể là cơ quan nhà

nước và các tổ chức xã hội. Điều đó có nghĩa là để phòng ngừa tội phạm có hiệu

quả thì đòi hỏi cả hệ thống chính trị, xã hội phải vào cuộc thông qua các biện pháp

tổng hợp bao gồm cả các chính sách kinh tế, văn hóa.

Tim Newbukin, “Giáo trình tội phạm học”, Vương Quốc Anh, 1998. Cuốn

sách có 6 phần, 36 chương. Tác phẩm nghiên cứu về phòng chống tội phạm tình

huống, phòng chống tội phạm cộng đồng và ngăn ngừa tội phạm liên kết. Cuốn sách

9

cũng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các quan điểm, quan niệm và các biện pháp

phòng ngừa tội phạm dựa trên khía cạnh tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực với

những vấn đề cơ bản của nó mà chưa nghiên cứu các biện pháp ngăn ngừa tội phạm

cụ thể.

Dasetakob, “Tội phạm học”, Nxb Trung tâm pháp lý Press, 2006. Tác giả

cuốn sách đã chỉ rõ cơ sở lý luận của tội phạm học, nguyên nhân làm phát sinh và

điều kiện tồn tại của tội phạm nói chung và những giải pháp cơ bản để phòng ngừa

tội phạm. Đồng thời tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề lý luận của tội phạm

học, như hành vi phạm tội phổ biến, đến nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội

trong xã hội.

Hans Dieter Schwind, “Tội phạm học với ví dụ thực tế”, Nxb Kriminalistik,

Heidelberg, 2007. Cuốn sách đã đề cập đến vấn đề thiết thực cho việc nhận thức

toàn diện, sâu sắc về tội phạm học từ quá trình hình thành ở các thế kỷ trước cho

đến hiện đại. Đồng thời, tác giả giải thích tại sao lịch sử tội phạm học lại có nhiều

trường phái tội phạm học và nhiều học thuyết về tình hình tội phạm như vậy. Lý do

chính mà tác giả khẳng định là ở vấn đề phương pháp luận, cái phải được sử dụng

để nhận thức từ những vấn đề khái quát đến chi tiết. Tác giả đã đưa ra quan điểm

phải hệ thống hóa các khoa học pháp lý hình sự một cách chi tiết hơn trong đó có

tội phạm học. Cách hiểu và cách nghiên cứu tình hình tội phạm, nguyên nhân và

phòng ngừa tội phạm ...ở mức độ lý luận chung và áp dụng cụ thể đều được tác giả

đề cập một cách thực tế sâu sắc ở địa bàn châu Âu. Cuốn sách có giá trị cho nhận

thức và nghiên cứu phát triển tội phạm học ở nước ta.

Inshakov, “Nghiên cứu lý luận và phân tích tình hình tội phạm ẩn”, Nxb

Matxcova, 2011. Tác phẩm là một công trình khoa học có giá trị, cuốn sách đã

nghiên cứu rất sâu sắc những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ẩn, chỉ ra cách

thức, quy trình phân tích, đánh giá tình hình tội phạm ẩn. Nghiên cứu tình hình tội

phạm một cách đầy đủ để hướng tới việc phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, đòi hỏi

phải nghiên cứu đồng thời cả về phần ẩn và phần hiện của tình hình tội phạm. Bởi

vậy, tác giả cho rằng đây là một công trình có ý nghĩa tham khảo có giá trị để tác

giả triển khái luận án của mình nhằm giải quyết phần ẩn của tình hình tội phạm

buôn lậu trên địa bàn các tỉnh, thành thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ.

Frank Schmalleger, “Tội phạm học ngày nay” (tái bản lần thứ 6), Nxb

10

Prentice Hall, 2012. Cuốn sách đã nhấn mạnh đến hai vấn đề quan trọng là đối

tượng nghiên cứu và tính liên ngành của tội phạm học. Đây là một vấn đề hết sức

sâu sắc, điều này có nghĩa là nghiên cứu về tội phạm học không chỉ bó hẹp ở việc

nhận thức chủ yếu của khoa học tội phạm học mà phải hiểu biết các vấn đề của

khoa học khác, để từ đó có cái nhìn tổng quan về các vấn đề liên quan đến tội phạm,

trên cơ sở đó phân tích tổng hợp để tìm ra các quy luật của sự phạm tội để có các

giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm. Với lần tái bản thứ 6, Tác giả Frank

Schmalleger cũng đã cập nhật những xu hướng thay đổi của tội phạm trong thế giới

hiện đại, phân tích những ảnh hưởng và diễn biến mới trong đặc điểm của hành vi

phạm tội và nguyên nhân của tội phạm.

1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến tội buôn lậu

Trong khi các công trình nghiên cứu lý luận về tội phạm học khá phong phú,

cần đề cập rằng các công trình nghiên cứu chuyên biệt về phòng ngừa tội buôn lậu

trong khoa học tội phạm học không nhiều. Tùy theo quan điểm lập pháp của các

nước khác nhau, hành vi buôn lậu cũng được quy định khác nhau trong pháp luật

của các nước. Các nước Đông Âu thì cho rằng buôn lậu là tội phạm và quy định

trong Bộ luật hình sự còn Pháp, Nhật Bản thì chỉ coi buôn lậu là vi phạm hành

chính trong lĩnh vực hải quan. Các nhà lập pháp của Liên Xô (trước đây) đã đồng

nhất hành vi buôn lậu với hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, họ

không đề cập đến mục đích mang hàng hóa qua biên giới có nhằm mục đích buôn

bán kiếm lời hay không, theo đó buôn lậu là mang hàng hóa trái phép hoặc đồ vật

có giá trị qua biên giới Liên Xô bằng cách ngụy trang, che giấu trong những thùng

hàng đặc biệt hoặc sử dụng hồ sơ, giấy tờ hải quan giả và đối tượng buôn lậu hàng

hóa tập trung vào chất nổ, thuốc độc, ma túy, vũ khí, thiết bị quân sự [3].

Richard Platt, “Lịch sử chống buôn lậu ở Anh”, Nxb History Press, 2012. Nội

dung cuốn sách đề cập đến sự hình thành và phát triển của tình hình buôn lậu ở Anh

vào thế kỷ 18. Trong đó có sự mô tả chi tiết các phương thức, thủ đoạn của việc

buôn lậu qua các thời kỳ và các biện pháp phòng ngừa buôn lậu của các cơ quan

chức trách ở Anh.

Marko Hajdinjak, “Chống buôn lậu ở Đông Nam châu Âu: Cuộc chiến tranh

Nam Tư và sự phát triển của mạng lưới tội phạm khu vực ở Balkan”, Trung tâm

Nghiên cứu dân chủ (CSD), Sofia, Bulgaria xuất bản năm 2002. Nội dung cuốn sách

11

đề cập đến sự xuất hiện buôn lậu ở khu vực Đông Nam Châu Âu trong cuộc chiến

tranh ở Nam Tư và các lệnh trừng phạt quốc tế đối với quốc gia này; Đối tượng buôn

lậu được nghiên cứu là ma túy, thuốc lá và nạn buôn người trong khu vực.

Hallam Stuck, Luận án tiến sỹ, “Suy nghĩ lại về buôn lậu”, Trung tâm Tội phạm

học, Trường đại học Oxford, 2019. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả phân tích

những vấn đề mới, những hành vi phạm tội qua biên giới, mà tác giả gọi là “buôn lậu”.

Mặc dù tác phẩm tập trung vào buôn bán người, nhưng nhiều kiến thức tổng quát về

buôn bán qua biên giới và hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm qua biên giới

hữu ích cho việc tham khảo vào đề tài phòng ngừa buôn lậu nói chung.

Nhìn chung, các bài viết, sách, công trình nghiên cứu trên thế giới về buôn lậu

và tội buôn lậu, phòng chống buôn lậu ở các khía cạnh, mức độ và ở các khu vực

địa lý khác nhau. Trong đó, quan điểm cho rằng buôn lậu được xác định là hành vi

mang hàng hóa một cách trái phép vào hoặc ra khỏi biên giới quốc gia của một

nước để buôn bán kiếm lời được nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam

nghiên cứu áp dụng để phòng chống buôn lậu và tội buôn lậu.

1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

1.2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận tội phạm học

Ở Việt Nam, bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước đã xuất hiện những bài

viết về tội phạm học trên các báo, tạp chí khoa học như: tạp chí Luật học, tạp chí

Nhà nước và Pháp luật,... Những bài viết ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng

của của các loại tạp chí, bản tin khoa học trong các ngành bảo vệ pháp luật và cùng

với sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học pháp lý từ các nước

xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô vào Việt Nam, quá trình này gắn liền với quá

trình thực hiện chủ trương phát triển đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học xã hội của

Đảng và Nhà nước ta.

Hiện nay ở Việt Nam đã có khá nhiều sách chuyên khảo về tội phạm học, những

cuốn sách đã nghiên cứu một cách sâu sắc, phản ánh nội dung lý luận quan trọng về

các vấn đề cơ bản của tội phạm học với tính cách là một khoa học độc lập. Có thể khái

quát một số tài liệu, công trình khoa học điển hình như sau:

Võ Khánh Vinh, “Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt

Nam”, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,

1994. Tác phẩm đã đi sâu nghiên cứu các nội dung về tình hình tội phạm, nguyên

12

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, phòng ngừa tội phạm, phòng ngừa tình

hình tội phạm, dự báo và kế hoạch hóa hoạt động đấu tranh với tình hình tội phạm

và đưa ra khái niệm tình hình tội phạm như sau: Tình hình tội phạm là một hiện

tượng xã hội, pháp lý tiêu cực, được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp, bao

gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc

gia) nhất định và khoảng thời gian nhất định. Đồng thời vấn đề lý luận về đánh giá

tình hình tội phạm đã được đề cập một cách cụ thể, đặc biệt là tình hình tội phạm ở

nước ta giai đoạn 1986-1992 đã được nghiên cứu lần đầu tiên trên cơ sở lý luận của

tội phạm học, trong đó bao gồm cả phần ẩn và phần hiện của tình hình tội phạm.

Tác phẩm còn đề cập một nội dung quan trọng khác là mô hình nhận thức về tội

phạm và kẻ phạm tội cũng như nguyên nhân của tội phạm, đồng thời nhận định các

vấn đề nhận thức về tội phạm học dù có khác nhau nhưng đều có mô hình nhận thức

chung đó, với nhìn nhận như vậy, tác phẩm đi phân tích những quan điểm khác

nhau về tội phạm học.

Võ Khánh Vinh, Đào Trí Úc, “Tội phạm học Việt Nam – một số vấn đề lý luận

và thực tiễn”, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, do Nxb Công an nhân dân,

2000. Tác phẩm do tập thể tác giả hàng đầu ở nước ta viết, cuốn sách phản ánh những

vấn đề lý luận then chốt của tội phạm học, như nghiên cứu quá trình hình thành và

phát triển của tội phạm học Việt Nam; về đối tượng nghiên cứu của tội phạm học

Việt Nam; về phương pháp nghiên cứu tội phạm học và những vấn đề phòng ngừa tội

phạm. Tác phẩm đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tội phạm và tình hình tội phạm là

mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”, tình hình tội phạm với tính cách là hiện

tượng xã hội giữ vai trò là “cái chung” nên chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua các tội

phạm với tính cách là các hành vi của từng cá nhân riêng biệt giữ vai trò là “cái

riêng”. Tác phẩm cũng đặc biệt nhấn mạnh dự báo tình hình tội phạm không chỉ là

hướng nghiên cứu của tội phạm học mà còn là nhu cầu cấp bách của thực tiễn đấu

tranh phòng và chống tội phạm.

Lê Văn Tới, “Buôn lậu và chống buôn lậu”, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000.

Nội dung cuốn sách nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của buôn lậu, kinh nghiệm

chống buôn lậu của một số nước trên thế giới. Khái quát thực trạng buôn lậu và

chống buôn lậu ở nước ta. Dự báo về tình hình buôn lậu và kiến nghị các giải pháp

chống buôn lậu.

13

Nguyễn Xuân Yêm, “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”, Nxb

Công an nhân dân Hà Nội, 2001. Tác phẩm đã đề cập đến hai nội dung nghiên cứu

đó là tội phạm học đại cương và tội phạm học chuyên ngành. Cuốn sách đề cập đến

việc phòng ngừa một số loại tình hình tội phạm cụ thể. Tác giả chỉ nêu ra một số

đặc điểm tội phạm học của tội phạm cụ thể, qua đó tác giả chỉ ra một số nguyên

nhân và điều kiện của loại tội phạm đó rồi đưa ra giải pháp phòng ngừa, mà chưa đi

sâu nghiên cứu các khía cạnh mang bản chất của tình hình tội phạm.

Phạm Văn Tỉnh, “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam”,

Nxb Tư pháp Hà Nội, 2007. Tác giả đã quan tâm nghiên cứu khái niệm và các đặc

điểm của tình hình tội phạm ở Việt Nam dưới góc độ tội phạm học từ năm 1986 đến

năm 2003; nghiên cứu đặc điểm định tính và định lượng của tình hình tội phạm ở

nước ta; các loại tội phạm ẩn ở nước ta và giải pháp đấu tranh; đề xuất một số giải

pháp đấu tranh với tình hình tội phạm ở nước ta. Đây là cuốn sách có nội dung cung

cấp những kiến thức cơ bản một cách có hệ thống về tội phạm học, tạo cơ sở cho

việc nghiên cứu tình hình tội phạm ở nước ta, tác phẩm có giá trị thiết thực, cụ thể

đáp ứng yêu cầu về nghiên cứu tình hình tội phạm. Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật

biện chứng, tác giả đã phân tích khái niệm tình hình tội phạm và đã chỉ ra một cách

dứt khoát khách thể nghiên cứu của tội phạm học là tình hình tội phạm.

Dương Tuyết Miên, “Tội phạm học đương đại”, Nxb Chính trị - Hành chính,

Hà Nội, 2013. Cuốn sách bao gồm 6 chương: Hành vi lệch lạc và tội phạm học;

khái niệm tội phạm học; những người được coi là nhà tội phạm học; đối tượng

nghiên cứu của tội phạm học; phương pháp nghiên cứu của tội phạm học; vấn đề

nhân tố thời gian trong nghiên cứu tội phạm học. Cuốn sách đã khái quát và cung

cấp được cái nhìn đầy đủ hơn về ngành khoa học này với nhiều nội dung phong

phú, thiết thực trong nghiên cứu về tội phạm học.

Võ Khánh Vinh, “Giáo trình tội phạm học”, Nxb Công an nhân dân Hà Nội,

2014. Cuốn sách đã nghiên cứu một cách sâu sắc, khoa học các vấn đề cơ bản của

tội phạm học như: nghiên cứu về khái niệm tội phạm học, về đối tượng, nhiệm vụ

và vị trí của tội phạm học trong hệ thống các khoa học; các phương pháp nghiên

cứu của tội phạm học; về hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng ngừa và chống tình

hình tội phạm; nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng tội phạm

học, tội phạm học tư sản và tội phạm học xã hội chủ nghĩa. Nội dung tác phẩm đã

14

khẳng định các tư tưởng nền tảng của tội phạm học và có giá trị thiết thực để áp

dụng cụ thể để nghiên cứu sinh triển khai nghiên cứu đề tài. Tác phẩm đã chỉ rõ đối

tượng nghiên cứu của tội phạm học chính là quy luật về tình hình tội phạm dưới tất

cả các biểu hiện của nó, các quy luật về tính quyết định luận và nhân quả, các quy

luật thể hiện việc tình hình tội phạm chịu sự tác động của các quá trình và hiện

tượng xã hội khác nhau. Đó là những tư tưởng tội phạm học Mác-xít về tình hình tội

phạm, về vấn đề nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, về nhân thân người

phạm tội trong tội phạm học và cả những tư tưởng nền tảng về dự báo tình hình tội

phạm, cũng như về mục đích của tội phạm học, tức là phòng ngừa tội phạm ở nước

ta nói chung và phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ nói riêng.

Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh, “Giáo trình tội phạm học“, Trường Đại

học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức, 2014. Giáo trình gồm 8 chương:

Khái niệm tội phạm học và vị trí của tội phạm học trong hệ thống các khoa học;

Lịch sử các học thuyết tội phạm học trên thế giới; Tình hình tội phạm; Nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội phạm; Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể;

Nhân thân người phạm tội; Phòng ngừa tội phạm; Dự báo tình hình tội phạm và kế

hoạch hóa hoạt động phòng ngừa tội phạm. Giáo trình cung cấp lý luận khoa học để

đánh giá đúng tình hình tội phạm, giải thích quy luật phát sinh, tồn tại, phát triển

tình hình tội phạm để có cơ sở tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm.

Lê Thị Sơn, Dương Tuyết Miên, Nguyễn Ngọc Hòa, Lý Văn Quyên, Trần

Hữu Tráng, “Giáo trình tội phạm học”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công

an nhân dân, 2015. Đây là giáo trình được biên soạn tái bản lần thứ 3 sau lần đầu

biên soạn năm 1998 và được sửa đổi bổ sung năm 2004. Giáo trình trang bị những

tri thức lý luận cơ bản về tội phạm học, gồm 8 chương: Khái niệm và nhiệm vụ của

tội phạm học, quá trình hình thành và phát triển của tội phạm học, phương pháp

nghiên cứu của tội phạm học, tình hình tội phạm, nguyên nhân của tội phạm, nhân

thân người phạm tội, nạn nhân của tội phạm và phòng ngừa tội phạm.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu thực tế, cụ thể về phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu

Luận án tiến sĩ Luật học “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc vận

chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, năm 2000 của tác giả Nguyễn

Đức Bình. Luận án đã nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội buôn

15

lậu, đánh giá thực trạng và diễn biến tình hình tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái

phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, tìm ra một hệ thống các giải pháp đồng bộ

nhằm phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này.

Đối tượng nghiên cứu của luận án là tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép

hàng hóa, tiền tệ qua biên giới quy định tại Điều 97 Bộ luật Hình sự năm 1985 trong

khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 1999.

Luận án tiến sĩ Luật học “Phòng ngừa tội buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền

của Bộ đội biên phòng”, năm 2000 của tác giả Hoàng Xuân Chiến. Luận án đã phân

tích, nghiên cứu một số vấn đề cơ bản của tội phạm buôn lậu và hoạt động phòng ngừa

tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền; đánh giá thực trạng tình hình hoạt động

của tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền; nguyên nhân, điều kiện của tội

phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền; thực trạng tổ chức và hoạt động phòng

ngừa tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền của Bộ đội biên phòng; dự báo

tình hình hoạt động của tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền, trên cơ sở đó đề

xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm buôn lậu trên

tuyến biên giới đất liền của Bộ đội biên phòng.

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những đặc điểm, quy luật hoạt động của tội

phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam và hoạt động phòng ngừa tội phạm

buôn lậu của Bộ đội biên phòng trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến nam 1999.

Luận án tiến sĩ Luật học “Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát

nhân dân đối với các vụ án buôn lậu”, năm 2001 của tác giả Đỗ Đình Hòa. Luận án

đã nghiên cứu làm rõ những lý luận buôn lậu và tổ chức hoạt động điều tra của lực

lượng Cảnh sát nhân dân đối với các vụ án về buôn lậu; thực trạng tình hình buôn

lậu ở Việt Nam và tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân đối

với các vụ án về buôn lậu và rút ra các nhận xét, đánh giá về tổ chức hoạt động điều

tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân đối với các vụ án buôn lậu và trên cơ sở đó

luận án đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động điều tra của

lực lượng Cảnh sát nhân dân đối với các vụ án buôn lậu.

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những lý luận cơ bản và cơ sở pháp lý về tội

buôn lậu và tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân đối với các vụ

án buôn lậu; thực trạng tình hình buôn lậu ở Việt Nam và các đặc điểm hình sự của tội

phạm buôn lậu; tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân đối với các

16

vụ án buôn lậu ở Việt Nam trong thời gian từ năm 1994 đến năm 1999.

Luận văn thạc sĩ Luật học “Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu tại

thành phố Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay” năm 2004 của tác giả Nguyễn

Đăng Phú. Luận văn đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội phạm buôn

lậu và hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu; tình hình tội buôn lậu,

nguyên nhân, điều kiện của tội buôn lậu và công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm buôn lậu tại thành phố Hồ Chí Minh của các lực lượng chức năng tại thành

phố Hồ Chí Minh từ năm 1997 đến 2003. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra dự báo về

tình hình tội buôn lậu tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới và đề xuất các

giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này.

Luận án tiến sĩ Luật học “Chuyên án trinh sát đấu tranh chống tội phạm buôn

lậu của lực lượng cảnh sát kinh tế”, năm 2013 của tác giả Nguyễn Văn Tuấn. Nội

dung luận án phân tích, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài

nước về những vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Luận án đã

làm rõ nhận thức cơ bản về tội phạm buôn lậu và những vấn đề lý luận về chuyên

án trinh sát trong đấu tranh chống tội phạm buôn lậu; phân tích làm rõ tình hình

diễn biến và đặc điểm hình sự của tội phạm buôn lậu ở Việt Nam trong thời gian

qua; thực trạng chuyên án trinh sát đấu tranh chống tội phạm buôn lậu của lực

lượng Cảnh sát kinh tế; những kết quả đã đạt được, những tồn tại, khó khăn, vướng

mắc và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, luận án dự báo tình hình tội phạm buôn lậu và

đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả chuyên án trinh sát đấu tranh chống tội

phạm buôn lậu của lực lượng Cảnh sát kinh tế trong thời gian tới.

Luận án tiến sĩ Luật học “Quan hệ phối hợp giữa lực lượng cảnh sát kinh tế và

Bộ độ biên phòng trong phát hiện, điều tra tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới

đất liền Việt - Trung”, năm 2013 của tác giả Nguyễn Quốc Đoàn. Luận án đã

nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện về lý luận về tội phạm buôn lậu và khảo sát, đánh

giá thực trạng tình hình tội phạm buôn lậu, tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả quan

hệ phối hợp giữa hai lực lượng cảnh sát kinh tế và Bộ độ biên phòng trong phát

hiện, điều tra tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền Việt – Trung.

Luận án tiến sĩ Luật học “Phòng, chống tội buôn lậu trên tuyến biên giới Tây

Nam Việt Nam hiện nay”, năm 2015 của tác giả Nguyễn Thành Long. Luận án

nghiên cứu các nội dung chủ yếu: Lý luận về phòng, chống tội buôn lậu; Tình hình,

17

nguyên nhân, điều kiện của tội buôn lậu và thực trạng phòng, chống tội buôn lậu

trên tuyến biên giới Tây Nam Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng, chống phù

hợp với địa bàn tuyến biên giới Tây Nam. Luận án nghiên cứu các quan điểm khoa

học về đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu và thực tiễn phòng chống tội buôn lậu

trên tuyến biên giới Tây Nam trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2013.

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu

1.3.1. Những kết quả nghiên cứu mà luận án sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển

Các công trình nghiên cứu nhìn chung đã đưa ra các vấn đề lý luận cơ bản của

tội phạm học cũng như khái niệm buôn lậu. Hầu hết các công trình đều nhận định

tội phạm trong đó có tội buôn lậu là một hiện tượng xã hội tiêu cực, nó luôn chứa

đựng đặc tính chống lại lợi ích xã hội, cộng đồng, trật tự xã hội, quyền và lợi ích cơ

bản của công dân. Tội phạm có nguồn gốc xã hội, vì vậy các phương pháp xã hội

học là phương pháp đúng đắn để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng để từ đó đưa ra các giải pháp phòng

ngừa tội phạm một cách có hiệu quả nhất.

Những vấn đề lý luận về tội phạm trong các công trình nói trên ít nhiều còn

khác nhau về khái niệm, thuật ngữ của tội phạm học. Hầu hết các nhà khoa học đầu

ngành hiện nay ở nước ta nói chung và tội phạm học nói riêng đều được đào tạo ở

nước ngoài, trong đó có nhiều nhà tội phạm học được đào tạo ở các nước khác nhau

như Nga (Liên Xô cũ), Đức (Đông Đức cũ)... Điều này ít nhiều có ảnh hưởng đến

các quan điểm khác nhau về lý luận tội phạm học. Nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục

nghiên cứu dựa trên quan điểm của các nhà khoa học tại Viện hàn lâm Khoa học xã

hội Việt Nam làm cơ sở lý luận nghiên cứu cho luận án của mình.

Thông qua các công trình nghiên cứu cho thấy các công trình đã đưa ra một số

giải pháp phòng, chống tội buôn lậu. Đó là những kinh nghiệm quý báu mà nghiên

cứu sinh có thể tham khảo, phát triển trong công việc nghiên cứu đề tài của mình.

Các công trình đó phải kể đến: Luận án tiến sĩ Luật học “Phòng, chống tội buôn lậu

trên tuyến biên giới Tây Nam Việt Nam hiện nay”, năm 2015 của tác giả Nguyễn

Thành Long; Luận án tiến sĩ Luật học “Chuyên án trinh sát đấu tranh chống tội

phạm buôn lậu của lực lượng cảnh sát kinh tế”, năm 2013 của tác giả Nguyễn Văn

Tuấn; Luận án tiến sĩ Luật học “Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc vận

chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, năm 2000 của tác giả Nguyễn

18

Đức Bình; Luận án tiến sĩ Luật học “Phòng ngừa tội buôn lậu trên tuyến biên giới

đất liền của Bộ đội biên phòng”, năm 2000 của tác giả Hoàng Xuân Chiến; Luận

văn thạc sĩ Luật học “Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu tại thành phố Hồ

Chí Minh trong tình hình hiện nay”, năm 2004 của tác giả Nguyễn Đăng Phú.

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu ở các góc độ khác

nhau, địa bàn khác nhau và thời điểm khác nhau hoặc có những công trình chỉ nghiên

cứu một số hành vi khách quan cụ thể của tội buôn lậu như: Sách Chống buôn lậu

trong khu vực Đông Nam Châu Âu của tác giả Marko Hajdinjak, được Trung tâm

Nghiên cứu dân chủ (CSD), Sofia, Bulgaria xuất bản năm 2002, chỉ nghiên cứu đối

tượng buôn lậu là ma túy, thuốc lá và nạn buôn người trong khu vực.

Các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy, hầu hết các công trình đều không

nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu – Đây là một nội

dung quan trọng trong việc nghiên cứu tình hình tội buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ

Việt Nam. Chỉ có hai công trình nghiên cứu thực tế đề cập đến nội dung này, đó là:

Luận văn thạc sĩ Luật học “Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu tại thành phố

Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay” của tác giả Nguyễn Đăng Phú, nhưng còn

nhiều hạn chế. Công trình thứ hai nghiên cứu đến nội dụng này là Luận án tiến sĩ

Luật học “Phòng, chống tội buôn lậu trên tuyến biên giới Tây Nam Việt Nam hiện

nay” của tác giả Nguyễn Thành Long, đây là tác phẩm nghiên cứu khá đầy đủ về

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu, tuy nhiên đây là công trình

nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên tuyến

biên giới Tây Nam Việt Nam. Miền Đông Nam Bộ là khu vực có nhiều điều kiện

thuận lợi về vị trí địa lý tự nhiên, giao thông và điều kiện về kinh tế xã hội cho các

đối tượng buôn lậu hoạt động, đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế

thương mại lớn nhất cả nước, là nơi tiêu thụ và trạm trung chuyển hàng lậu đi khắp

nơi trên cả nước, tình hình tội buôn lậu diễn biến hết sức phức tạp trên địa bàn trong

thời gian qua đòi hỏi phải có các giải pháp phòng ngừa hiệu quả.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu đề tài “Tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ Việt Nam hiện nay: Tình hình, nguyên nhân và

phòng ngừa” là thực sự cần thiết trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở

nước ta hiện nay. Thông qua phân tích, đánh giá các công trình nghiên cứu nước

ngoài đã cung cấp cho tác giả có cái nhìn khái quát hơn về lý luận tội phạm học, về

19

tội buôn lậu, đặc biệt là các biện pháp phòng ngừa tội buôn lậu. Luận án sẽ phân

tích, tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn tình hình tội buôn lậu ở Việt Nam

nói chung và ở địa bàn miền Đông Nam Bộ nói riêng để có những phương án vận

dụng phù hợp trong Luận án của mình.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu đề tài luận án

Luận án kế thừa những kết quả quan trọng, phù hợp của các công trình nghiên

cứu trước đã đạt được để áp dụng, giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận án, những

nội dung cần nghiên cứu trong đề tài là:

Một là: Trước hết xuất phát từ đề tài nghiên cứu là “Tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”. Vì vậy việc nghiên

cứu nội dung của đề tài mang tính chất đặc thù, trên cơ sở vị trí địa lý tự nhiên, điều

kiện kinh tế, văn hóa xã hội của các tỉnh, thành phố thuộc miền Đông Nam Bộ.

Hai là: Trên cơ sở số liệu thu thập được, luận án cần đưa ra những đánh giá về

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, bao gồm phần hiện (phần

rõ) và phần ẩn của tình hình tội buôn lậu.

Ba là: Nhận định về các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Bốn là: Từ phân tích các đặc điểm về chất và lượng của tình hình tội buôn lậu,

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ, luận án đưa ra một cách có hệ thống những giải pháp phòng ngừa tội buôn lậu

trên địa bàn.

1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu

Với chuyên ngành nghiên cứu tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, câu hỏi

nghiên cứu trọng tâm của Luận án là: Làm thế nào để hạn chế, khắc phục tình hình

tội buôn lậu trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc miền Đông Nam Bộ?

Để tìm được giải đáp cho câu hỏi nghiên cứu trọng tâm nêu trên, luận án đặt ra

và giải quyết các câu hỏi nghiên cứu cụ thể tương ứng với các nhóm vấn đề sau đây:

Thứ nhất, nhóm các câu hỏi liên quan đến phân tích, đánh giá tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ:

- Những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình tội

20

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ? Có những quan điểm lý luận khác nhau

không, quan điểm chính thống sử dụng trong luận án để đánh giá thông số về lượng

và chất của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ?

- Mức độ (thực trạng), cơ cấu, diễn biến và tính chất trong phần rõ (phần hiện)

của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ trong 10 năm qua như

thế nào?

- Mức độ ẩn và nguyên nhân ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ trong 10 năm qua như thế nào? Phương pháp sử dụng để xác định

vấn đề này?

Trả lời các câu hỏi nêu trên sẽ cho phép tác giả phân tích một cách khoa học

và hệ thống về tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Đây là tiền

đề quan trọng để xác định nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn nghiên cứu; từ đó đưa ra những giải pháp phòng ngừa thích hợp, tương ứng.

Thứ hai, nhóm các câu hỏi liên quan đến phân tích, xác định nguyên nhân, điều kiện

của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ:

- Những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ? Có những cách phân loại, tiếp cận khác nhau

về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ không? Luận án sử dụng cách phân loại nào để làm căn cứ nghiên cứu nguyên

nhân, điều kiện cụ thể của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ?

- Những nguyên nhân, điều kiện chung nào của tình hình tội phạm dẫn đến sự phát

sinh, tồn tại tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ?

- Những nguyên nhân, điều kiện đặc thù nào dẫn đến sự phát sinh, tồn tại tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ? Những nguyên nhân, điều kiện đặc thù này có liên

quan đến đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế - xã hội, tâm lý, giáo dục, thực trạng

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu của miền Đông Nam Bộ?

- Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên các tỉnh, thành phố

thuộc miền Đông Nam Bộ có sự khác nhau không? Những nguyên nhân, điều kiện

phổ biến chung?

Các câu hỏi nêu trên đòi hỏi sự phân tích, đánh giá toàn diện nhiều hiện tượng

xã hội liên quan trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Trả lời được các câu hỏi nêu trên

có vai trò quan trọng đối với việc tìm ra giải pháp để phòng ngừa hiệu quả tình hình

21

tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Thứ ba, nhóm câu hỏi liên quan đến hệ thống giải pháp phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ:

- Những vấn đề lý luận cơ bản về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ? Có những chủ thể nào tham gia vào phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ? Trong đó, chủ thể nào có vai trò nòng

cốt? Có những nhóm biện pháp nào để phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ?

- Thực trạng phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

như thế nào, bao gồm thực trạng về cơ sở phòng ngừa, thực trạng về tổ chức phòng

ngừa và thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa? Những thành công, hạn

chế và nguyên nhân của những hạn chế?

- Cần có những giải pháp gì để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ?

1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu

Với các câu hỏi nghiên cứu nêu trên và dựa trên nền tảng lý thuyết về tình

hình tội phạm và phòng ngừa tội phạm, Luận án có những giả thuyết nghiên cứu đối

với từng nhóm câu hỏi nêu trên như sau:

Thứ nhất, khoa học tội phạm học đã phát triển lâu đời trên thế giới và ở Việt

Nam. Cho đến nay, khoa học tội phạm học ở Việt Nam đã phát triển và hình thành

được hệ thống lý luận khá toàn diện về tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện

của tình hình tội phạm và giải pháp phòng ngừa. Luận án kế thừa những tri thức

khoa học này làm nền tảng lý luận để nghiên cứu tình hình, nguyên nhân và giải

pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Đây là

việc nghiên cứu ứng dụng, áp dụng những tri thức, lý luận chung vào phòng ngừa

một loại tội cụ thể trên một địa bàn cụ thể. Trong trường hợp có quan điểm khác

nhau, Luận án sử dụng quan điểm chính thống trong các giáo trình tội phạm học,

đặc biệt là các ấn phẩm có giá trị khoa học cao, được thừa nhận trong chuyên ngành

nghiên cứu.

Thứ hai, tác giả giả thuyết rằng tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ vẫn diễn biến phức tạp, chưa có xu hướng giảm. Qua quan sát thực tiễn,

tác giả thấy rằng trên thị trường còn nhiều loại hàng hóa lưu thông không rõ nguồn

22

gốc, có nhãn mác nổi tiếng nhưng giá lại thấp. Ngoài ra, so với một số loại tội khác,

tác giả cho rằng tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có độ ẩn

cao vì một số lý do như: các vụ án thường chỉ phát hiện người vận chuyển, khó phát

hiện chủ hàng; những loại hàng hóa đặc biệt đã bị xử lý về các tội danh tương ứng

khác như tội buôn bán hàng cấm, tội buôn bán hàng giả…; hành vi tham nhũng của

một số cán bộ có thể cộng hưởng làm tăng mức độ ẩn của tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn nghiên cứu.

Thứ ba, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh, tồn tại tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ là vấn đề then chốt của quá trình nghiên cứu, nhưng hiện

nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích được một cách toàn diện quy

luật tồn tại, phát sinh của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Trong hoạt động phòng ngừa tội phạm, đòi hỏi tất yếu phải có những nền tảng về tư

tưởng chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, pháp luật đặc trưng và phải có sự

điều chỉnh của Nhà nước, các ngành, các cấp trên địa bàn các tỉnh, thành miền Đông

Nam Bộ. Vì vậy, cần phải đánh giá toàn diện, khoa học nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Thứ tư, dựa trên lý luận về tội phạm học, tác giả xác định, để phòng ngừa hiệu

quả tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ cần phải huy động đồng

bộ, toàn thể các chủ thể tham gia, bao gồm các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội,

các cơ quan chuyên trách, đoàn thể, gia đình và cá nhân.

Với thực tế diễn biến phức tạp của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ, tác giả giả thuyết rằng hoạt động phòng ngừa còn nhiều hạn chế,

cần phải làm rõ các hạn chế này để nâng cao hiệu quả ngăn chặn tội buôn lậu.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trên thế giới và ở nước ta, vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm và phòng

ngừa tội buôn lậu đã được nhiều nhà khoa học và những người làm công tác thực

tiễn nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài

báo đã được công bố. Những công trình này đã giải quyết được các vấn đề lý luận

nền tảng làm cơ sở để thực hiện đề tài này như: khái niệm, đặc điểm và các thông số

của tình hình tội phạm; nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm; phòng

ngừa tình hình tội phạm. Những vấn đề lý luận cơ bản được phát triển và ứng dụng

23

vào đề tài để nghiên cứu về tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Ngoài ra,

một số công trình đã có những phân tích về tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ, phát hiện những vấn đề nhất định trong thực tiễn phòng ngừa loại

tội này. Tuy nhiên, một cách tổng quát, các nghiên cứu trước đây tiếp cận ở một góc

độ nhất định, chưa cập nhật được những vấn đề mới và chưa toàn diện. Trong

chương này, tác giả đã phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu trong và ngoài

nước, xác định những vấn đề kế thừa, những vấn đề còn hạn chế cần tiếp tục phải

giải quyết trong Luận án.

Để thực hiện đề tài đã chọn, tác giả đã kế thừa những thành tựu về tội phạm

học, những công trình đã công bố về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội

buôn lậu nói riêng một cách có chọn lọc; trên cơ sở phân tích, tổng hợp các kết quả

nghiên cứu về tình hình tội phạm cụ thể (hoặc nhóm tội cụ thể) trên phạm vi địa bàn

tỉnh hoặc vùng gồm nhiều tỉnh, vùng của các công trình đã công bố, trên cơ sở lý

luận của tội phạm học, trong đó phần ẩn và phần hiện sẽ giúp tác giả có những định

hướng cụ thể trong quá trình triển khai luận án; khảo sát thực tiễn, tổng hợp, phân

tích, đánh giá tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ và rút ra

nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn; phân tích, đánh giá

thực tiễn phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, chỉ ra

những hạn chế, thiếu sót và rút ra nguyên nhân của những hạn chế thiếu sót đó làm

cơ sở cho việc đề ra các giải pháp phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

24

Nam Bộ.

CHƯƠNG 2

TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN

MIỀN ĐÔNG NAM BỘ VIỆT NAM

2.1. Khái quát lý luận về tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

2.1.1. Khái niệm buôn lậu và tội buôn lậu

Hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hóa xuất hiện từ khi nền kinh tế - xã hội đã

phát triển đến một trình độ nhất định, của cải trong xã hội không những đủ đảm bảo

cho đời sống của các thành viên trong xã hội mà còn có tích lũy và dư thừa. Quá

trình trao đổi, buôn bán lúc đầu chỉ là sự trao đổi những mặt hàng thiết yếu phục vụ

cho đời sống và sản xuất trong phạm vi nhỏ hẹp giữa các cá nhân có nhu cầu. Cùng

với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, trao đổi hàng hóa cũng không ngừng phát

triển và làm xuất hiện tầng lớp thương nhân, chuyên làm trung gian trao đổi hàng hóa

giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hoạt động của tầng lớp thương nhân khiến cho

việc trao đổi hàng hóa không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà còn ngày càng

phát triển rộng trên phạm vi toàn cầu. Sự mở rộng phạm vi của hoạt động mua bán,

trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản

xuất dần đi tới sự chuyển hóa cao. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thương mại

quốc tế thì hoạt động buôn lậu cũng phát triển theo làm tổn hại đến lợi ích của các quốc

gia. Có thể nói buôn lậu là hiện tượng kinh tế - xã hội tiêu cực, phức tạp xuất hiện trong

hoạt động lưu thông hàng hóa cùng với sự ra đời của hàng rào thuế quan. Một trong

những nguyên nhân tồn tại và phát triển của tình trạng buôn lậu là sự chênh lệch về giá

cả và nhu cầu sử dụng hàng hóa ở các vùng địa lý khác nhau, giữa các nền kinh tế có

sức sản xuất khác nhau. Vậy buôn lậu là gì?

Khái niệm về buôn lậu hàng hóa đến nay vẫn còn là một vấn đề gây nhiều

tranh cãi. Một số quốc gia trên thế giới thì coi buôn lậu là hành vi gian lận thương

mại đặc biệt nguy hiểm. Tổ chức Hải quan Thế giới (World Customs Organization)

họp tại thủ đô Nairobi của nước Cộng hòa Kenya ngày 09/6/1997 thống nhất đưa ra

khái niệm như sau: “Buôn lậu là gian lận thương mại nhằm che giấu sự kiểm tra,

kiểm soát của hải quan bằng mọi thủ đoạn, phương tiện trong việc đưa hàng hóa lén

25

lút qua biên giới”. [94]

Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau thì việc đánh giá, nhìn nhận hiện

tượng buôn lậu cũng khác nhau. Ở Việt Nam thuật ngữ buôn lậu đã có từ lâu trong

dân gian và được các nhà ngôn ngữ học định nghĩa như sau: “buôn lậu là các hành

vi buôn bán hàng trốn thuế hoặc hàng quốc cấm” hay “buôn lậu là mua bán những

mặt hàng cấm và trốn đóng thuế theo quy định”. Như vậy hai khái niệm trên đều có

nghĩa là trong kinh doanh buôn bán, nếu có các hành vi trốn thuế, gian lận… thì đều

được xem là buôn lậu. Quan niệm trên đến nay vẫn còn tồn tại phổ biến trong nhận

thức của nhiều người Việt Nam. Nói về buôn lậu người ta nghĩ ngay đến việc buôn

bán hàng quốc cấm, trốn lậu thuế, buôn bán gian lận.

Khác với nhận thức trên, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì buôn lậu là:

1. Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hóa hoặc ngoại tệ,

kim khí và đá quý, những vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa mà Nhà nước cấm

xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc hàng hóa nói chung qua biên giới mà trốn thuế và

trốn sự kiểm tra của hải quan.

2. Hành vi buôn bán trốn thuế, lậu thuế những hàng hóa ở trong nước mà Nhà

nước cấm kinh doanh.

Với bản chất là một hoạt động kinh tế bất hợp pháp mang tính xã hội, buôn lậu

chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về buôn lậu của từng

quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội cũng khác

nhau. Những nước có nền kinh tế phát triển thì khuyến khích xuất khẩu hàng hóa có

sức cạnh tranh ra nước ngoài để chiếm thị trường, chỉ ngăn chặn những mặt hàng

có ảnh hưởng xấu như ma túy, chất nổ…Đối với những nước đang phát triển, mức

sản xuất thấp, giá cả hàng hóa, nhu cầu tiêu dùng của xã hội lớn thì tình trạng buôn

lậu là một vấn đề nan giải.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi, mua bán hàng hóa cho hoạt động

từ trong và ngoài nước trong phát triển kinh tế, hiện nay, ở nước ta có những khu

vực phi thuế quan. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 4 Luật Thuế xuất khẩu, thuế

nhập khẩu năm 2016, khu phi thuế quan là những khu vực kinh tế nằm trong lãnh

thổ Việt Nam, được thành lập theo quy định của pháp luật, có ranh giới địa lý xác

định, ngăn cách với khu vực bên ngoài bằng hàng rào cứng, bảo đảm điều kiện cho

hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan của cơ quan hải quan và các cơ

26

quan có liên quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và phương tiện, hành

khách xuất cảnh, nhập cảnh; quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu phi thuế

quan với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu.[43]

Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về buôn lậu như

sau:“Buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế

quan vào nội địa và ngược lại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá

quý hoặc các vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hóa dân tộc”.

Để đấu tranh phòng ngừa và xử lý tình trạng buôn lậu ngày càng phát triển và

tinh vi hơn dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều nước trên thế giới nói chung và

Nhà nước ta nói riêng có quy định về các hình thức xử lý khác nhau, tùy thuộc vào

tính chất và mức độ vi phạm của hành vi buôn lậu. Một trong những hình thức xử lý

hành vi buôn lậu nghiêm khắc nhất là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm

này. Theo quy định của Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), tội buôn lậu được quy định tại Điều 188,

Chương XVIII về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và được sửa đổi, bổ sung tại

khoản 38 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự số

100/2015/QH13.

Từ những quy định trên, có thể đưa ra khái niệm về tội buôn lậu như sau: “Tội

buôn lậu là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do

người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện bằng

cách buôn bán trái phép qua biên giới hoặc khu vực phi thuế quan vào nội địa và

ngược lại những loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý”.

Cũng cần đề cập rằng, trước đây do BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm

2009) chưa có quy định rõ nên trong thực tế hành vi buôn bán hàng giả và hành vi

buôn bán một số loại hàng cấm qua biên giới bị xử lý về tội buôn lậu. Tuy nhiên,

theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi buôn bán

trái phép một số loại hàng cấm, hàng giả qua biên giới không bị xử lý về tội buôn

lậu mà xử lý về tội danh tương ứng là tội buôn bán hàng cấm hoặc tội buôn bán

hàng giả ở dấu hiệu định khung tăng nặng “buôn bán qua biên giới”.[40]

2.1.2. Khái niệm tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Tình hình tội phạm là đối tượng nghiên cứu cơ bản, đầu tiên của tội phạm học.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm là khái niệm còn đang có sự tranh luận nhất định,

27

chưa thống nhất hoàn toàn về thuật ngữ cũng như nội hàm, đặc biệt là các thông số

của tình hình tội phạm. Có thể thấy rằng, khái niệm tình hình tội phạm được hình thành

và hoàn thiện theo thời gian cùng với các công trình nghiên cứu lý luận, đánh dấu sự

chuyển mức độ nhận thức từ sự kiện, hành vi và khái niệm tội phạm đơn nhất đến một

khái niệm khái quát và phức tạp hơn. [73, tr.54]

Theo tác giả Dương Tuyết Miên: “Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận

động của (các) tội phạm (hoặc nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm) đã xảy ra

trong một đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định”. [28, tr.79] Khái niệm

này có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của giáo trình tội phạm học của

trường Đại học Luật Hà Nội.

Theo giáo trình tội phạm học của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí

Minh, “Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật hình sự, mang

tính giai cấp, luôn thay đổi theo quá trình lịch sử, được thể hiện bằng tổng thể thống

nhất các tội phạm xảy ra trong một không gian, thời gian nhất định”. Khái niệm này

cho rằng tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội bao gồm tổng thể thống nhất các

tội phạm xảy ra trong một giới hạn không gian và thời gian chứ không phải từng hành

vi phạm tội riêng lẻ và đây là một hiện tượng có tính lịch sử, tính trái pháp luật hình sự,

tính giai cấp. [32, tr.134]

Theo PGS. TS. Phạm Văn Tỉnh,“Tình hình tội phạm là hiện tượng tâm - sinh

lý - xã hội tiêu cực, vừa mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý

hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện thông qua tổng thể các hành vi

phạm tội cùng chủ thể thực hiện các hành vi đó trong một đơn vị thời gian và không

gian nhất định”.[53, tr.74] Khác với cách tiếp cận trên (tập trung vào việc chỉ ra các

thông số của tình hình tội phạm), khái niệm này mô tả các đặc điểm (thuộc tính) của

tình hình tội phạm. Theo đó, tình hình tội phạm được xác định là một hiện tượng xã

hội mang nhiều đặc điểm: đặc điểm tâm – sinh lý tiêu cực, đặc điểm lịch sử, đặc

điểm cụ thể, đặc điểm pháp lý hình sự, đặc điểm giai cấp.

Cũng với cách tiếp cận như trên, khái niệm: “Tình hình tội phạm là một hiện

tượng xã hội, pháp lý- hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp

bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc

gia) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định”. Với khái niệm này, tình hình

tội phạm là hiện tượng xã hội gồm các đặc điểm sau: đặc điểm pháp lý hình sự, đặc

28

điểm lịch sử, đặc điểm giai cấp. [73, tr.61]

Trong các quan điểm trên, quan điểm thứ tư theo tác giả là toàn diện và đầy đủ

nhất. Một mặt vừa nêu lên được bản chất của hiện tượng xã hội đang diễn ra trong

xã hội, mặt khác bao hàm được nội dung phản ánh của hiện tượng tội phạm là một

tổng thể hoàn chỉnh bao gồm các nội dung cấu thành tổng thể đó, mối liên hệ của

các yếu tố trong tổng thể, mối liên hệ của tổng thể đó với bên ngoài là các quá trình,

hiện tượng xã hội khác.

Tình hình tội phạm phát sinh trong giai đoạn nhất định của xã hội loài người, khi

môi trường xã hội hội đủ các yếu tố cần thiết để tội phạm ra đời. Sau khi ra đời, tình

hình tội phạm phải được sự chấp nhận của môi trường xã hội để tồn tại trong đó. Bản

chất của nó mang nội dung xã hội, chống lại quy chuẩn xã hội, do con người sống

trong xã hội thực hiện, có nguyên nhân từ chính môi trường xã hội, gây hại cho đời

sống xã hội. Đó phải là hiện tượng xã hội chứ không thể là hiện tượng nào khác.

Tình hình tội phạm không phải là hiện tượng thúc đẩy sự phát triển xã hội mà

là hiện tượng xã hội tiêu cực, đối ngược lại các quy chuẩn chung, chuẩn mực đảm

bảo cho sự tồn tại, phát triển của xã hội, vì vậy cần phải phòng ngừa tình hình tội

phạm. Hậu quả của tình hình tội phạm để lại cho xã hội rất lớn, đó không chỉ là thiệt

hại về thể chất, vật chất, tinh thần… mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã

hội. Tình hình tội phạm cũng mang tính pháp lý - hình sự. Luật hình sự quy định

những hành vi bị coi là tội phạm và với nguyên tắc “Nullum crimen sine lege”

(không có tội khi không có luật), những hành vi nguy hiểm nhưng chưa được luật

hình sự quy định thì không bị coi là tội phạm. Trên quan điểm của chính sách hình

sự, hoạt động tội phạm hóa, phi tội phạm hóa, hình sự hóa, phi hình sự hóa đều tác

động đến “bức tranh” tổng thể của tình hình tội phạm.

Tình hình tội phạm phát sinh và tồn tại trong xã hội có giai cấp, nên tình hình tội

phạm mang tính giai cấp. Tính giai cấp thể hiện trong việc Nhà nước, đại diện cho giai

cấp thống trị, quy định những hành vi nào là tội phạm. Nhà nước sử dụng luật hình sự

như một công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp đang nắm giữ quyền lực chính trị và

điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội theo định hướng của giai cấp thống trị.

Xã hội luôn vận động, phát triển và thay đổi, tình hình tội phạm phải chịu sự

tác động của các quá trình xã hội, hiện tượng xã hội khác. Trong những hoàn cảnh

cụ thể khác nhau, tình hình tội phạm có thực trạng (mức độ), cơ cấu, diễn biến và

29

tính chất khác nhau. Đây là đặc điểm cần phải nhận thức một cách biện chứng để

khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề đặt ra trong phòng ngừa tội phạm phải chỉ ra được

đâu là nguyên nhân tạo ra sự thay đổi đó từ trong chính các quá trình xã hội, hiện

tượng xã hội xảy ra trong môi trường của chính xã hội cụ thể tạo ra tình hình tội

phạm mà chúng ta đang khảo sát.

Tình hình tội phạm là tổng thể thống nhất của các tội phạm đã xảy ra trong

một khoảng thời gian và không gian nhất định. Tổng thể thống nhất này được biểu

hiện bằng các nội dung, bộ phận cấu thành và mối quan hệ qua lại biện chứng của

các yếu tố cấu thành. Khi ta chia nội dung của tình hình tội phạm thành các tiêu chí

như thực trạng (mức độ), diễn biến, cơ cấu, tính chất đó là cách để nhận thức có hệ

thống. [32, tr.174]

Từ những phân tích như trên, có thể xây dựng khái niệm tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ như sau: “Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ là hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính pháp lý - hình sự, tính lịch

sử, tính giai cấp bao gồm hệ thống tổng thể các tội buôn lậu đã xảy ra trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ trong khoảng thời gian nhất định”.

Như vậy, khi nghiên cứu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ, nhà nghiên cứu có thể giới hạn những khoảng thời gian nhất định để làm rõ

được tính lịch sử của hiện tượng này cũng như các thông số của nó. Ngoài ra, tình

hình tội phạm là hiện tượng xã hội, khi nghiên cứu, giải quyết về tình hình tội phạm

của địa bàn nào đó phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng,

quá trình xã hội diễn ra trên địa bàn đó, phải chỉ ra được nguyên nhân tình hình tội

phạm trong mối quan hệ qua lại với các quá trình kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo

dục..., những đặc điểm riêng có của địa phương đó tác động đến tình hình tội phạm.

Ngược lại khi tổ chức các biện pháp phòng ngừa phải thấy được tác dụng phòng

ngừa tội phạm trong chính các giải pháp về kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục… để

triển khai nó cùng với các biện pháp chuyên biệt trong một tổng thể mang lại hiệu

quả lâu dài, ổn định bền vững.

Tình hình tội phạm là đối tượng nghiên cứu cơ bản, đầu tiên, mọi nghiên cứu để

giải quyết về một tình hình tội phạm cụ thể phải được xuất phát từ chính tình hình tội

phạm đó, các vấn đề nghiên cứu khác như nguyên nhân điều kiện, nhân thân người

phạm tội, nạn nhân đều phải xuất phát từ thực tiễn của tình hình tội phạm. Có như vậy

30

mới đảm bảo được tính thực tiễn, công trình có giá trị áp dụng trên thực tế.

Tình hình tội phạm là hệ thống tổng thể các tội phạm đã xảy ra, phần lớn trong

đó đã được phát hiện, xử lý và đưa vào thống kê tội phạm gọi là phần tội phạm rõ,

phần còn lại của tội phạm đã xảy ra nhưng vì lý do nào đó chưa bị phát hiện, xử lý

và chưa được đưa vào thống kê tội phạm gọi là phần tội phạm ẩn.

2.2. Phần rõ (phần hiện) của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ

2.2.1. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ

Trong những năm gần đây, tình hình tội buôn lậu ở nước ta nói chung và ở

khu vực miền Đông Nam Bộ nói riêng diễn biến phức tạp với những phương thức,

thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Mức độ của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ thể hiện qua các bảng, biểu thống kê sau đây:

Bảng 2.1. Số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ (2011 – 2020)

Số vụ

Số người phạm tội

Năm

2011

21

40

2012

21

38

2013

12

25

2014

23

38

2015

14

36

2016

18

41

2017

7

18

2018

15

49

2019

12

37

2020

8

35

Tổng cộng

151

357

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho thấy, tổng số vụ án

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ trong 10 năm qua là 151 vụ với tổng số

31

người phạm tội là 357 người. Tỷ lệ số người phạm tội trên số vụ án cho thấy, các vụ án

buôn lậu thường có đồng phạm, số người phạm tội trung bình của các vụ án buôn lậu là

2 người. Số lượng các vụ án buôn lậu phát hiện và xử lý nhiều nhất là năm 2014 với 23

vụ. Số người phạm tội buôn lậu bị phát hiện và xử lý nhiều nhất là năm 2018 với 49

người. Nhìn chung, số vụ án và số người phạm tội chưa có xu hướng giảm ổn định.

Bảng 2.2. Số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn các tỉnh của miền

Đông Nam Bộ (2011 – 2020)

Bình Phước

Tây Ninh

Đồng Nai

TP. Hồ Chí Minh

Bình Dương

Bà Rịa - Vũng Tàu

Năm

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

17

1

1

0

0

13

22

0

0

0

0

2011

7

18

2

3

0

0

11

17

0

0

0

0

2012

8

7

0

0

0

0

9

18

0

0

0

0

2013

3

15

2

2

0

0

10

21

0

0

0

0

2014

11

12

0

0

0

0

7

24

0

0

0

0

2015

7

18

1

1

0

0

11

22

0

0

0

0

2016

6

16

0

0

0

0

2

2

0

0

0

0

2017

5

29

1

4

0

0

4

16

0

0

0

0

2018

10

29

1

1

0

0

2

7

0

0

0

0

2019

9

27

0

0

1

1

2

3

0

0

2

4

3

2020

8

1

1

0

0

69

188

12

71

152

2

4

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Theo bảng thống kê trên, trong vòng 10 năm, từ năm 2011 – 2020, tội buôn

lậu xảy ra tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh với 69 vụ và 188 người phạm tội

buôn lậu, Tây Ninh với 71 vụ và 152 người phạm tội buôn lậu và, tiếp theo là Bình

Phước với 8 vụ và 12 người phạm tội buôn lậu.

Đáng chú ý là xuyên suốt số liệu thống kê trong 10 năm, ở địa bàn tỉnh Đồng Nai

không có vụ án buôn lậu nào bị đưa ra xét xử; tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Dương

số vụ án buôn lậu bị đưa ra xét xử rất ít, Bà Rịa – Vũng Tàu với 2 vụ và 4 người phạm 32

tội buôn lậu, tại Bình Dương con số này là 1 vụ với 1 người phạm tội buôn lậu. Số liệu

này cho thấy sự đáng lo ngại về khả năng phát hiện và xử lý tội phạm ở các địa bàn đã

nêu. Điều này cũng phản ánh tỷ lệ ẩn cao của tội buôn lậu và tác giả sẽ phân tích vấn

đề này ở phần ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Bảng 2.3. Tỷ trọng tội buôn lậu so với tổng số tội xâm phạm trật tự quản

lý kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Số vụ

Số người

Năm

Tội buôn lậu

Tỷ lệ (%)

Tội buôn lậu

Tỷ lệ (%)

Chương XVIII (Các tội xâm phạm TTQLKT)

Chương XVIII (Các tội xâm phạm TTQLKT)

21

136

15.44%

40

268

14.93%

2011

21

199

10.55%

38

324

11.73%

2012

12

214

5.61%

25

350

7.14%

2013

23

258

8.91%

38

410

9.27%

2014

14

266

5.26%

36

471

7.64%

2015

18

166

10.84%

41

308

13.31%

2016

7

83

8.43%

18

171

10.53%

2017

15

181

8.29%

49

412

11.89%

2018

12

240

5.00%

37

444

8.33%

2019

8

279

2.87%

35

531

6.59%

2020

151

2022

7.47%

357

3689

9.68%

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Xét trong tổng số tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xảy ra trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ trong 10 năm qua, số vụ buôn lậu chiếm tỷ lệ 7.47%; trong khi

đó, số người phạm tội buôn lậu chiếm tỷ lệ 9.68% trong tổng số người phạm tội

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Điều này cho thấy, trong các tội xâm phạm trật tự

33

quản lý kinh tế, tội buôn lậu là một loại tội tương đối phổ biến.

Bảng 2.4. Hệ số người phạm tội buôn lậu so với diện tích và dân cư trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Địa bàn

Dân số (người)

Số người phạm tội

Diện tích (km2)

Hệ số người phạm tội so với diện tích (người/km2)

Hệ số người phạm tội so với dân cư (người / 100.000 dân)

2

2,095

8,993,082

188

0.08974

TP. Hồ Chí Minh

1

6,857

994,679

0.00175

12

Bình Phước

1

2,695

2,426,561

0.000371058

0.04

Bình Dương

13

4,029

1,169,165

152

0.03773

Tây Ninh

0

0

5,903

3,097,107

0

Đồng Nai

4

1,985

1,148,313

0.002015113

0.35

Bà Rịa - Vũng Tàu

2

Đông Nam Bộ

23,564

17,828,907

357

0.01515

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban dân số

Hệ số người phạm tội buôn lậu so với diện tích cho thấy thành phố Hồ Chí

Minh là địa phương có hệ số cao nhất với khoảng 0.09 người phạm tội tương ứng

với 1km2, tiếp đến là Tây Ninh khoảng 0.04 người, Bình Phước và Bà Rịa - Vũng

Tàu khoảng 0.002, Bình Dương khoảng 0.0004 người phạm tội tương ứng với

1km2; so với dân cư thì Tây Ninh là địa bàn có hệ số cao nhất với 13 người phạm

tội tương ứng với 100.000 dân, tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh với 2 người,

Bình Phước với 1 người, Bà Rịa – Vũng Tàu với 0.35 người và Bình Dương với

34

0.04 người phạm tội buôn lậu tương ứng với 100.000 dân.

Bảng 2.5. Cấp độ nguy hiểm của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn các tỉnh

thuộc miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Thứ bậc nguy Thứ bậc nguy Hệ số Cấp độ hiểm xét theo hiểm xét theo tiêu cực Địa bàn nguy hiểm diện tích dân số (1+2) (1) (2)

2 2 4 2 TP. Hồ Chí Minh

3 3 6 3 Bình Phước

5 5 10 5 Bình Dương

1 1 2 1 Tây Ninh

0 0 0 0 Đồng Nai

4 4 8 4 Bà Rịa - Vũng Tàu

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Căn cứ vào bảng thống kê về cấp độ nguy hiểm, nếu xét về số vụ phạm tội

trên diện tích thì tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh có tính nguy hiểm

cao nhất, tiếp theo là thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu và

Bình Dương. Xét về số người phạm tội trên số dân, tình hình tội buôn lậu ở Tây

Ninh cũng có tính nguy hiểm cao nhất, tiếp theo là thành phố Hồ Chí Minh, Bình

Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Dương. Tổng hợp về tính nguy hiểm tính theo

cả diện tích và dân số, tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh có tính

nguy hiểm cao nhất, tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Phước, Bà

Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương.

2.2.2. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

2.2.2.1. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ so với

cả nước (cơ cấu ngoài)

Miền Đông Nam Bộ nước ta gồm có 01 thành phố và 5 tỉnh, bao gồm: thành

phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Tây

Ninh. Phía Tây và Tây - Nam giáp đồng bằng sông Cửu Long nơi có tiềm năng lớn

về nông nghiệp, là vựa lúa lớn nhất nước ta; phía Đông và Đông Nam giáp biển

35

Đông, giàu tài nguyên hải sản, dầu mỏ và khí đốt và thuận lợi cho việc xây dựng

các cảng biển tạo ra đầu mối liên hệ kinh tế thương mại với các nước trong khu vực

và quốc tế; phía Tây Bắc giáp với Campuchia có các cửa khẩu thuộc địa bàn tỉnh

Tây Ninh tạo mối giao lưu rộng rãi với Campuchia, Thái Lan, Lào, Myanmar. Với

điều kiện vị trí địa lý, giao thông đi lại thuận tiện cũng chính là điều kiện thuận lợi

cho tội phạm buôn lậu xảy ra phức tạp tại khu vực này.

Bảng 2.6. Tỷ trọng số vụ, số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ so với cả nước (2011 - 2020)

Số vụ

Số người

Miền

Năm

Miền Đông

Cả

Tỷ lệ

Cả nước

Tỷ lệ (%)

Nam Bộ

nước

(%)

Đông Nam Bộ

21

89

23.60%

40

141

28.37%

2011

21

73

28.77%

38

126

30.16%

2012

12

88

13.64%

25

151

16.56%

2013

23

90

25.56%

38

165

23.03%

2014

14

101

13.86%

36

162

22.22%

2015

18

105

17.14%

41

204

20.10%

2016

7

88

7.95%

18

136

13.24%

2017

15

36

41.67%

49

84

58.33%

2018

12

24

50.00%

37

85

43.53%

2019

8

19

42.11%

35

74

47.30%

2020

151

713

21.18%

357

1328

26.88%

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Xét về cơ cấu vụ và người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

và cả nước trong 10 năm qua, có thể thấy tình hình tội buôn lậu trên địa bàn này rất

36

đáng lo ngại, chiếm 21.18% so với cả nước về số vụ buôn lậu và 26.88% so với cả

nước về số người buôn lậu. Điều này càng cho thấy việc nghiên cứu để phòng ngừa

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có ý nghĩa thực tiễn to lớn.

Nếu việc phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn này hiệu quả sẽ kéo theo

việc làm giảm 1/5 tổng số vụ án buôn lậu trên cả nước.

2.2.2.2. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

khu vực hành chính

Bảng 2.7. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

đơn vị hành chính (2011 - 2020)

Đơn vị

Số vụ

Tỷ trọng

69

45.70%

TP. Hồ Chí Minh

8

5.30%

Bình Phước

1

0.66%

Bình Dương

71

47.02%

Tây Ninh

0

0.00%

Đồng Nai

2

1.32%

Bà Rịa - Vũng Tàu

151

100%

Đông Nam Bộ

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Căn cứ theo Bảng 2.7 về cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ theo đơn vị hành chính từ năm 2011 đến 2020, có thể thấy cơ cấu tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có sự phân biệt rõ rệt. Trong đó tại Tây Ninh

và thành phố Hồ Chí Minh là 2 khu vực có số lượng tội buôn lậu bị cơ quan chức

năng đưa ra xét xử cao nhất và mức độ tăng giảm không đồng đều qua các năm. Cụ

thể, tại Tây Ninh tình hình tội buôn lậu bị cơ quan chức năng xử lý ở mức cao nhất.

Trong vòng 10 năm kể từ 2011 đến năm 2020, tại Tây Ninh tổng số vụ bị xử lý là

71 vụ, chiếm tỷ lệ 47.02%; tại thành phố Hồ Chí Minh là 69 vụ, chiếm tỷ lệ 45.7%;

tại Bình Phước là 8 vụ, chiếm tỷ lệ 5.3%; Bà Rịa - Vũng Tàu 2 vụ, chiếm tỷ lệ

1.32%; Bình Dương 1 vụ, chiếm tỷ lệ 0.66%. Tại tỉnh Đồng Nai trong suốt 10 năm

qua lại không có vụ tội buôn lậu nào được xử lý. Vậy nguyên nhân gì khiến cho sự

37

phân bố tội buôn lậu ở các tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương và Đồng Nai

chiếm tỷ lệ rất ít hoặc không có trên địa bàn miền Đông Nam Bộ?

Theo tác giả, trước tiên là về vị trí địa lý, giao thông đi lại giữa các tỉnh, thành

tuy cùng trong một khu vực nhưng có sự khác biệt nhau khá lớn. Theo đó, thành

phố Hồ Chí Minh với vị trí địa lý, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp

tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa

- Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam

Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm

thành phố cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của

khu vực Đông Nam Á, thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng

về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là

một cửa ngõ quốc tế. Về giao thông đường không, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là

sân bay lớn thứ hai Việt Nam về diện tích và lớn nhất về công suất nhà ga. Về giao

thông đường thủy, thành phố Hồ Chí Minh có 4 cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé,

Nhà Bè, Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết,

Bình Lợi, Bình Phước... Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam,

chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước. Cảng

Bến Nghé nằm phía hạ lưu sông Sài Gòn, rộng 32 ha, tổng chiều dài cầu cảng 528 m,

có thể cho tàu có tải trọng từ 15.000 - 20.000 tấn cập bến.

Còn về tỉnh Tây Ninh, nằm ở vị trí cầu nối giữa thành phố Hồ Chí Minh và thủ

đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và là một trong những tỉnh nằm

trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh có thành phố Tây Ninh nằm

cách thành phố Hồ Chí Minh 99km theo đường Quốc lộ 22, cách biên

giới Campuchia 40 km về phía Tây Bắc. Bên cạnh đó, tỉnh Tây Ninh còn có đường

Xuyên Á đi qua với chiều dài gần 28 km, nối thành phố Hồ Chí

Minh với Campuchia thông qua cửa khẩu Mộc Bài. Tây Ninh có 2 tuyến sông chính

là tuyến sông Sài Gòn và tuyến sông Vàm Cỏ Đông. Ngoài ra địa bàn tỉnh Tây Ninh

còn có cảng sông Bến Kéo nằm trên sông Vàm Cỏ Đông. Với điều kiện giao thông đi

lại thuận lợi, còn là cầu nối giữa thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh của

vương quốc Camphuchia đã tạo điều kiện cho hoạt động buôn lậu diễn ra liên tục và

ngày càng gia tăng tại khu vực này.

Như vậy với vị trí địa lý thuận lợi, giao thông phát triển nhất là đường hàng

38

không, đường bộ và đường thủy của hai tỉnh, thành phố trên là một trong những

nguyên nhân khiến tình hình tội buôn lậu tại khu vực này bùng phát và có xu hướng gia

tăng dần đều qua các năm, trong khi đó các địa phương còn lại trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ tỷ lệ tội buôn lậu khá thấp và không có xu hướng tăng dần qua các năm.

Nguyên nhân tiếp theo của cơ cấu tình hình tội buôn lậu như trên theo tác giả

nghiên cứu cho rằng, đó là do sự phát triển về kinh tế, xã hội giữa các địa phương trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ không đồng đều dẫn đến cơ cấu tình hình tội buôn lậu có sự

khác nhau. Thành phố Hồ Chí Minh được biết đến là thành phố lớn nhất Việt Nam, đồng

thời cũng là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục quan trọng

bậc nhất của Việt Nam. Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung

ương được xếp loại đô thị loại đặc biệt của Việt Nam, cùng với thủ đô Hà Nội. Thành

phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đi đầu trong phát triển kinh tế của Việt Nam đa dạng về lĩnh

vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du

lịch, tài chính.... Bên cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh với dân số đông, mật độ cao trong

nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhiều các tệ nạn xã hội,

như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới đời sống

xã hội người dân tại địa phương.

Cùng với đó tỉnh Tây Ninh được xem là một trong những cửa ngõ giao lưu

về quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với Campuchia, Thái Lan…Đồng thời tỉnh có vị

trí quan trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh tế trọng

điểm phía Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngành công

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Tây Ninh ngày càng phát triển vững chắc đồng thời

đã xây dựng được hệ thống các nhà máy chế biến nông sản tại các vùng chuyên canh

như các nhà máy mía đường, các nhà máy chế biến bột củ mì, các nhà máy chế biến

mủ cao su, từng bước xây dựng các khu công nghiệp trong tỉnh.

Như vậy, với điều kiện về giao thông thuận lợi, thế mạnh về kinh tế và mật độ

dân số đông, nguồn lao động dồi dào tại hai tỉnh, thành phố là Tây Ninh và thành

phố Hồ Chí Minh chính là nguyên nhân chính dẫn đến cơ cấu tình hình tội buôn lậu

tại hai khu vực này cao hơn hẳn những địa phương còn lại trong khu vực. Bên cạnh

đó cũng có thể kể đến các tác động từ các chính sách tuyên truyền pháp luật tại địa

phương, vai trò của các cơ quan chức năng trong phòng, chống tội buôn lậu tại các

khu vực là không giống nhau dẫn đến sự phân bố không đều về loại tội phạm này

39

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương trong 10 năm qua số vụ tội buôn lậu được

xử lý chiếm tỷ lệ rất ít với chỉ 1 vụ ở tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai không có vụ

tội buôn lậu nào được xử lý. Nguyên nhân chính xuất phát từ vị trí địa lý các tỉnh

Bình Dương và Đồng Nai không có biên giới đường hàng không, cảng biển như

thành phố Hồ Chí Minh và biên giới đường bộ như Tây Ninh, Bình Phước. Hàng

hóa xuất nhập khẩu của các khu công nghiệp được làm thủ tục tại các khu vực hải

quan nội địa trên địa bàn rõ ràng đã hạn chế nguyên nhân và điều kiện phạm tội của

loại tội phạm này.

Tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi có biên giới cảng biển, mặt hàng buôn bán

trái phép chủ yếu là xăng dầu, công tác đấu tranh, xử lý đối tượng vi phạm gặp

nhiều khó khăn không chỉ xuất phát từ phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi, xảo

quyệt của chúng mà còn khó khăn trong việc xác định dấu hiệu “qua biên giới” trên

biển. Các đối tượng buôn lậu xăng dầu thường xuyên thay đổi tên, số hiệu tàu, sử

dụng biển số giả của nước ngoài để hoạt động, lợi dụng “danh nghĩa” tàu dịch vụ

hậu cần thuỷ sản để mua xăng dầu không rõ nguồn gốc trên biển sau đó bán lại cho

các tàu khác nhưng không xuất hóa đơn nhằm trốn thuế. Các đối tượng buôn lậu

xăng dầu thường lợi dụng vùng biển rộng, lực lượng chống buôn lậu mỏng, chúng

móc nối, liên hệ với nhau bằng các phương tiện thông tin hiện đại để nhanh chóng

đối phó với lực lượng chức năng khi bị phát hiện, truy bắt nhằm kịp thời tẩu thoát

gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc thu thập chứng cứ để xử lý và đây

là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trong suốt 10 năm qua

chỉ có 2 vụ tội buôn lậu được xử lý tại địa phương này.

2.2.2.3. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

đặc điểm nhân thân của người phạm tội

Thứ nhất, cơ cấu của tình hình tội buôn lậu theo đặc điểm về giới tính của người

phạm tội

Số liệu bị cáo phạm tội buôn lậu xét theo giới tính như Bảng 2.15 dưới đây sẽ

cho phép chúng ta nhận diện "bức tranh" về cơ cấu tình hình tội buôn lậu theo đặc

40

điểm về giới tính của người phạm tội.

Bảng 2.15. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

theo đặc điểm giới tính của người phạm tội (2011 - 2020)

Năm

Nữ

Tỉ lệ nữ

Nam

Tỉ lệ Nam

Tổng

2011

3

7.50%

37

92.50%

40

2012

6

15.79%

32

84.21%

38

2013

11

44.00%

14

56.00%

25

2014

9

23.68%

29

76.32%

38

2015

7

19.44%

29

80.56%

36

2016

7

17.07%

34

82.93%

41

2017

1

5.56%

17

94.44%

18

2018

0

0.00%

49

100.00%

49

2019

5

13.51%

32

86.49%

37

2020

5

14.29%

30

85.71%

35

Tổng

54

15.13%

303

84.87%

357

Biểu đồ 2.16. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo đặc

điểm giới tính của người phạm tội (2011 – 2020)

41

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Theo đó, ở khu vực miền Đông Nam Bộ, tỷ lệ người phạm tội buôn lậu là nam giới qua các năm 2011 - 2020 luôn cao hơn nữ giới nhiều lần. Tỷ lệ nam giới bị cơ quan chức năng xử lý chiếm 84.87%, nữ chiếm 15.13%. Điều này có thể được lý giải như sau: Do những đặc điểm về tâm sinh lý, nam giới dễ bị ảnh hưởng của các thói hư tật xấu, dễ hình thành trạng thái tâm lý tiêu cực hơn so với nữ giới. Trong gia đình, nam giới thường là trụ cột, lao động chính, có trách nhiệm nuôi sống các thành viên trong gia đình. Mặt khác, hiện nay tình trạng thất nghiệp ở nông thôn có xu hướng ngày càng tăng, những người không có việc làm ở nông thôn phải lên thành thị tìm việc làm để bảo đảm cuộc sống gia đình, trong đó nam giới có nhiều thuận lợi hơn nữ giới trong tìm kiếm việc làm ở các địa phương khác. Chính vì vậy, nam giới rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ tham gia vào hoạt động buôn lậu (thực tế cho thấy hàng năm, một lực lượng lớn những người lao động thiếu việc làm ở các vùng nông thôn tiếp tục bổ sung vào đội ngũ cửu vạn cõng hàng nhập lậu thuê cho người buôn lậu ở các khu vực biên giới, cửa khẩu). Hơn nữa, nam giới lại có sức khoẻ, phù hợp với việc phải đi xa, mang vác nặng; bản chất của nam giới thường táo bạo, liều lĩnh hơn nữ giới. Do vậy, khi tham gia vào các đường dây buôn lậu, nam giới ngày càng tỏ ra có ưu thế hơn so với nữ giới.

Thứ hai, cơ cấu của tình hình tội buôn lậu theo độ tuổi của người phạm tội.

Bảng 2.20. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo đặc điểm về tuổi của người phạm tội (2011 - 2020)

Dưới 18 tuổi

Từ 18 đến 30 tuổi

Trên 30 tuổi

Năm

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

Số người

2011

40

0

0.00%

9

22.50%

31

77.50%

2012

38

0

0.00%

8

21.05%

30

78.95%

2013

25

3

12.00%

13

52.00%

9

36.00%

2014

38

0

0.00%

21

55.26%

17

44.74%

2015

36

0

0.00%

8

22.22%

28

77.78%

2016

41

0

0.00%

7

17.07%

34

82.93%

2017

18

0

0.00%

1

5.56%

17

94.44%

2018

49

0

0.00%

10

20.41%

39

79.59%

2019

37

0

0.00%

5

13.51%

32

86.49%

2020

35

0

0.00%

2

5.71%

33

94.29%

3

Tổng cộng

357

0.84%

84

23.53%

270

75.63%

42

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Qua phân tích số liệu trên về tình hình tội buôn lậu theo độ tuổi trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ, ta nhận thấy sự biến đổi rõ rệt về cơ cấu tội buôn lậu xét theo

độ tuổi. Sự thay đổi đang diễn ra theo hướng số người phạm tội dưới 18 tuổi chiếm

số lượng rất ít. Trong khi đó, số người phạm tội trong độ tuổi từ 18 đến dưới 30 tuổi

cũng có xu hướng giảm tuy nhiên không đồng đều giữa các năm.

Số người phạm tội có độ tuổi trên 30 tuổi phạm tội buôn lậu chiếm đại đa số.

Qua khảo sát 10 năm ở miền Đông Nam Bộ từ 2011 đến 2020, số người phạm tội

buôn lậu ở độ tuổi này chiếm 75.63% so với 23.53% số người phạm tội ở độ tuổi từ

18 đến 30 và 0.84% người dưới 18 tuổi.

Số người phạm tội buôn lậu trên 30 tuổi chiếm tỷ lệ lớn là vì những người

trong độ tuổi này họ là những người có hoạt động kinh tế độc lập, có gia đình riêng

và họ phải gánh vác trách nhiệm nuôi sống gia đình. Mặt khác, họ là những người

có kinh nghiệm sống, có khả năng đánh giá thị trường, có quan hệ sâu rộng nên có

nhiều thuận lợi, điểm mạnh để buôn lậu. Sự gia tăng về tỷ trọng của số bị cáo trên

30 tuổi ngày càng tiệm cận đến số tuyệt đối còn cho thấy sự thay đổi về chất của tội

buôn lậu. Chính vì vậy, tình hình tội buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ những năm

gần đây diễn biến phức tạp và ngày càng tinh vi hơn.

Thứ ba, cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

thành phần dân tộc.

Bảng 2.28. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

đặc điểm thành phần dân tộc của người phạm tội (2011 - 2020)

Đông Nam Bộ

Năm

Dân tộc khác

Tỷ lệ Dân tộc khác

Dân tộc kinh

Tỷ lệ Dân tộc kinh

2011

0

0.00%

40

100.00%

40

2012

1

2.63%

37

97.37%

38

2013

0

0.00%

25

100.00%

25

2014

0

0.00%

38

100.00%

38

2015

0

0.00%

36

100.00%

36

2016

0

0.00%

41

100.00%

41

2017

2

11.11%

16

88.89%

18

2018

1

2.04%

48

97.96%

49

2019

0

0.00%

37

100.00%

37

2020

0

0.00%

35

100.00%

35

Tổng

4

1.12%

353

98.88%

357

43

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Từ bảng số liệu về cơ cấu tình hình tội buôn lậu theo thành phần dân tộc, có

thể thấy tỷ lệ người phạm tội trong các vụ án buôn lậu là người dân tộc Kinh luôn

chiếm tỷ lệ cao. Trong khi đó, tỷ lệ là người dân tộc ít người luôn chiếm tỷ lệ rất

thấp, tổng số người phạm tội buôn lậu thuộc dân tộc ít người ở miền Đông Nam Bộ

trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến 2020 chiếm 1.12% so với 98.88% là dân

tộc Kinh. Sự chênh lệch rõ nét trong tỷ trọng tội phạm buôn lậu xét theo thành phần

dân tộc có xuất xứ từ đặc điểm dân tộc của nước ta. Việt Nam tuy là quốc gia có 54

dân tộc cùng chung sống nhưng theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm

2019 của Tổng cục Thống kê, dân tộc Kinh chiếm tới 85,3% dân số của cả nước;

các dân tộc khác chiếm 14,7%. [98] Hơn nữa, dân tộc Kinh là dân tộc sống tập

trung ở các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các vùng đồng bằng và duyên hải ven

biển, có cơ hội tiếp xúc nhiều với hoạt động giao lưu thương mại và có thế mạnh về

vốn nên dễ tham gia vào các hoạt động buôn lậu.

Việc xem xét cơ cấu tình hình tội buôn lậu theo đặc điểm về thành phần dân

tộc cho thấy người dân tộc kinh thực hiện tội buôn lậu chiếm đại đa số. Trong các

năm 2011, 2013 đến 2016 và các năm 2019, 2020 số người phạm tội buôn lậu là

dân tộc kinh chiếm tỷ lệ 100%. Từ kết quả phân tích này, khi xây dựng các biện

pháp phòng ngừa tội buôn lậu cần tập trung vào người dân tộc kinh.

Thứ tư, cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

đặc điểm về nghề nghiệp của người phạm tội

Trong các số liệu thống kê chính thống của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về

tội buôn lậu, không có số liệu về đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội; vì vậy

tác giả luận án đã nghiên cứu một số vụ án buôn lậu tương đối điển hình trên địa

bàn và thống kê về tình trạng nghề nghiệp của người phạm tội. Số liệu cụ thể thể

hiện trong Bảng thống kê dưới đây.

Biểu đồ 2.32. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

44

theo đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Bức tranh về cơ cấu nghề nghiệp của người phạm tội buôn lậu cho thấy đặc

thù của tình hình tội phạm này so với các tội phạm phổ biến khác xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế. Đặc thù này thể hiện ở chỗ người phạm tội thuộc nhiều ngành nghề

khác nhau từ những người không công ăn việc làm (chiếm 7%) đến những người

làm ngành nghề kinh doanh buôn bán tự do, làm thuê, làm ruộng chiếm tỷ lệ nhiều

nhất (46%). Đặc biệt nhiều chủ doanh nghiệp lợi dụng việc kinh doanh xuất, nhập

khẩu để thực hiện hành vi buôn lậu, chiếm tỷ lệ 14% trong tổng số người buôn lậu.

Ngoài ra, người phạm tội giữ vai trò chính trong các đường dây buôn lậu thường

xây dựng các mối quan hệ, móc nối với những cán bộ thoái hóa, biến chất trong lực

lượng hải quan, thuế, cửa khẩu để thực hiện hoạt động đưa hàng hóa qua biên giới

vì vậy tỷ lệ người phạm tội (đồng phạm) là cán bộ, công chức cũng chiếm tỷ lệ

không nhỏ là 11%. Đặc thù nghề nghiệp cũng thể hiện qua số liệu 8% người phạm

tội buôn lậu là những người hoạt động dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu

và 9% là thuyền viên, phiên dịch viên, lái xe.

Thứ năm, cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

45

đặc điểm về trình độ văn hóa của người phạm tội

Trong các số liệu thống kê chính thống của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về

tội buôn lậu, cũng không có số liệu về đặc điểm trình độ văn hóa của người phạm

tội; vì vậy tác giả luận án đã nghiên cứu một số vụ án buôn lậu tương đối điển hình

trên địa bàn và thống kê về trình độ văn hóa của người phạm tội.

Biểu đồ 2.33. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

theo đặc điểm về trình độ văn hóa của người phạm tội

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Về trình độ văn hóa, người phạm tội cũng rất đa dạng, từ người không biết

chữ, tiểu học đến đại học. Trong đó, người phạm tội không biết chữ chiếm 9%, tiểu

học 22%, trung học cơ sở 20%. Tuy nhiên, chủ yếu người phạm tội có trình độ văn

hóa ở bậc trung học phổ thông, chiếm tỷ lệ 47%. Điều này phản ánh đúng thực tế là

người phạm tội buôn lậu thường là chủ hàng, có trình độ tương đối để thực hiện các

hoạt động tính toán, tổ chức ở mức độ nhất định. Số liệu này phản ánh sự khác biệt

về trình độ văn hóa của người phạm tội buôn lậu so với một số loại tội phạm phổ

46

biến xâm phạm sở hữu.

2.2.2.4. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

hình phạt áp dụng đối với người phạm tội

Biểu đồ 2.34. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Nhìn vào bảng thống kê về cơ cấu các hình phạt áp dụng đối với người phạm tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ 10 năm qua từ 2011 đến 2020 ta thấy,

mức hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm được áp dụng đối với người phạm tội là phổ

biến nhất, đạt tỷ lệ 26.61%; tiếp theo là phạt tù cho hưởng án treo (miễn chấp hành

hình phạt tù có điều kiện, áp dụng đối với người phạm tội bị phạt không quá 3 năm

tù) với tỷ lệ 23.53%. Hình phạt phạt tiền ít được áp dụng, tỷ lệ 10.92%. Mức hình

phạt tù trên 15 năm chiếm tỷ lệ rất thấp 2.80%.

So sánh chi tiết về cơ cấu các hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn

47

lậu được biểu thị trong biểu đồ dưới đây:

Biểu đồ 2.35. So sánh cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ qua từng năm (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Với biểu đồ ở trên, có thể thấy hình phạt phổ biến áp dụng đối với người

phạm tội buôn lậu là tù có thời hạn trong hai phạm vi: dưới 3 năm tù và từ 3 năm

đến 7 năm. Ngoài ra, trong các năm từ 2011 đến 2013, rất nhiều trường hợp người

phạm tội được hưởng án treo. Số lượng phạt tù cho hưởng án treo giảm nhiều sau

khi Tòa án nhân dân tối cao có văn bản hướng dẫn về áp dụng án treo và do vậy, số

lượng án treo đối với người phạm tội buôn lậu giảm mạnh và giữ tương đối ổn định

trong các năm từ 2014 đến 2020. Cần đề cập thêm rằng, hình phạt tiền đã được các

Tòa án áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu, nhưng tỷ lệ chưa cao. Tác giả cho

rằng, đây là loại tội có động cơ kinh tế, vì vậy, theo tinh thần cải cách tư pháp, cần

tăng cường áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội.

2.2.3. Diễn biến của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Ở nước ta, trong nhiều năm gần đây, tình hình tội buôn lậu đã và đang diễn

biến phức tạp, có xu hướng tăng nhanh cả về quy mô đến chủng loại hàng hoá và

48

thiệt hại gây ra. Miền Đông Nam Bộ cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó.

2.2.3.1. Diễn biến về mức độ (thực trạng) của tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ

Bảng 2.44. Diễn biến về số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ của năm sau so với năm trước (2011 - 2020)

Tăng/giảm so với

Số người

Tăng/giảm so với

Năm

Số vụ

năm trước

phạm tội

năm trước

21

100.00%

100.00%

40

2011

21

95.00%

100.00%

38

2012

12

65.79%

57.14%

25

2013

23

152.00%

191.67%

38

2014

14

94.74%

60.87%

36

2015

18

113.89%

128.57%

41

2016

7

43.90%

38.89%

18

2017

15

272.22%

214.29%

49

2018

12

75.51%

80.00%

37

2019

8

94.59%

66.67%

35

2020

Tổng cộng

151

357

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.45. Diễn biến về số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ của các năm sau so với một năm gốc (2011 - 2020)

Năm

Số vụ

Tăng/giảm so với năm 2011

Số người phạm tội

Tăng/giảm so với năm 2011

21

100.00%

40

100.00%

2011

21

95.00%

38

100.00%

2012

12

62.50%

25

57.14%

2013

23

95.00%

38

109.52%

2014

14

90.00%

36

66.67%

2015

18

102.50%

41

85.71%

2016

7

45.00%

18

33.33%

2017

15

122.50%

49

71.43%

2018

12

92.50%

37

57.14%

2019

8

87.50%

35

38.10%

2020

357

Tổng cộng

151

49

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng thống kê về diễn biến tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ của năm sau so với năm trước cho thấy:

Trong giai đoạn nghiên cứu, chúng ta có thể nhận thấy xu hướng tăng giảm

không rõ rệt về số vụ và số người phạm tội buôn lậu với mức độ tăng giảm xen kẽ

và không đồng đều giữa các năm. Chẳng hạn, so với năm 2012 thì năm 2013 chỉ

bằng 57.14% về số vụ và 65.79% về số người, so với năm 2013 thì năm 2014 tăng

191.67% về số vụ và 152% về số người.

Năm 2017 có tỷ lệ giảm về số vụ và số người buôn lậu thấp nhất so với năm

trước, tương ứng là 38.89% về số vụ và 43.90% về số người. Đây là những năm Bộ

luật hình sự 2015 mới có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 và các cơ quan tiếp tục đóng

góp ý kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017 để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc

đấu tranh với tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng và Bộ luật hình sự 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 thì năm 2018 số vụ buôn

lậu tăng hơn gấp đôi và tăng gần gấp ba về số người so với năm 2017.

Diễn biến về số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ của các năm sau so với năm gốc 2011 cho thấy tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ diễn biến phức tạp. Tuy số vụ và số người phạm tội có

xu hướng giảm với mức độ tăng giảm không đồng đều giữa các năm sau so với năm

gốc nhưng số lượng người đồng phạm trong một vụ án lại có xu hướng gia tăng,

giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 trung bình 1 vụ án buôn lậu có 2 người tham

gia thực hiện tội phạm thì giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 trung bình 1 vụ án

buôn lậu có 3 người tham gia, thậm chí trong các năm liên tiếp 2018, 2019 và 2020

mối vụ án buôn lậu có từ trên 3 người đến trên 4 người tham gia thực hiện tội

50

phạm..

Biểu đồ 2.8. Diễn biến về số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Nhìn vào bảng diễn biến tình hình tội buôn lậu của năm sau so với năm trước,

cũng như biểu đồ diễn biến trong 10 năm có thể thấy, tình hình tội buôn lậu có xu

hướng giảm về số vụ nhưng gia tăng về số người phạm tội và không đồng đều qua

các năm. Tuy nhiên, đây mới chỉ là tội buôn lậu bị các cơ quan chức năng phát hiện

xử lý, còn so với loại tội phạm buôn lậu xảy ra trong thực tế, những con số thống kê

trên đây chỉ là "phần nổi của tảng băng chìm", bởi độ ẩn của loại tội phạm này

chiếm tỷ lệ rất cao.

2.2.3.2. Diễn biến về cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ

Thứ nhất, diễn biến về cơ cấu độ tuổi của người phạm tội buôn lậu trên địa

51

bàn miền Đông Nam Bộ

Biểu đồ 2.21. Diễn biến về cơ cấu tuổi của người phạm tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Với diễn biến trên cho thấy số người phạm tội buôn lậu trên 30 tuổi chiếm tỷ

lệ cao nhất. Nếu xét về lực lượng lao động chính trong xã hội, đây là nhóm đã

trưởng thành và là nòng cốt thực hiện các nhiệm vụ chính yếu trong lao động, sản

xuất và nuôi dưỡng, chăm sóc gia đình. Vì vậy, giải pháp phòng ngừa bên cạnh các

giải pháp giáo dục, cần chú trọng các giải pháp về kinh tế.

Số người phạm tội buôn lậu từ 18 đến 30 tuổi trong năm 2013, 2014 chiếm

hơn ½ trong tổng số người phạm tội. Tỷ trọng này cho thấy các biện pháp phòng

ngừa cần chú ý tập trung vào nhóm đối tượng này. Đây là nhóm người đã bắt đầu ở

giai đoạn trưởng thành và dần hình thành hệ thống giá trị ổn định nên việc giáo dục,

cải tạo cần được thực hiện đồng thời với các biện pháp khác như định hướng nghề

nghiệp, đào tạo nghề.

Thứ hai, diễn biến về cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Diễn biến về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu thể hiện ở

52

Biểu đồ dưới đây.

Biểu đồ 2.43. Diễn biến về cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ trên cho thấy, trong những năm 2011 đến 2014, phạt tù cho hưởng án

treo được áp dụng khá phổ biến đối với người phạm tội buôn lậu, nhưng từ năm

2015 đến 2020 có xu hướng hạn chế. Diễn biến về cơ cấu hình phạt cho thấy tỷ lệ

hình phạt tiền áp dụng đối với người phạm tội có xu hướng giảm từ năm 2011 đến

2016 năm và có biểu hiện gia tăng từ năm 2017 đến 2020, hình phạt dưới 3 năm tù

được áp dụng nhiều từ năm 2013 đến 2018; hình phạt từ 3 năm đến 7 năm tù được

áp dụng khá phổ biến; hình phạt trên 15 năm tù ít được áp dụng.

2.2.4. Tính chất của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Căn cứ vào tình hình thực tế, diễn biến và mức độ tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ đã phân tích ở trên, có thể thấy tình hình tội buôn lậu tại khu

vực này có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp với mức độ nghiệm trọng, quy mô

lớn và thủ đoạn tinh vi hơn nhiều so với trước đây.

Các tuyến và cách thức vận chuyển

Vùng Đông Nam Bộ là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực phía

Nam, đầu tàu phát triển cho toàn miền. Với một nền kinh tế, văn hóa, xã hội phát

triển đa dạng, phong phú, nhiều cửa ngõ giao thương cả trên đường bộ, đường thủy 53

và đường hàng không là những điều kiện thuận lợi cho hoạt động buôn lậu nảy sinh

và phát triển. Sự hội nhập của các nền văn hóa tiên tiến trên thế giới tạo sức hút

mạnh mẽ, kéo theo những hệ lụy của kinh tế thị trường, những nhận thức sai lầm

thiếu hiểu biết về hàng hóa được lưu hành và cấm lưu hành là con đường để hàng

lậu được tuồn vào khu vực một cách mạnh mẽ.

Hàng lậu qua tuyến đường bộ: Việt Nam có nhiều tỉnh có biên giới đường bộ

giáp Vương quốc Campuchia. Hàng lậu qua tuyến biên giới đường bộ giữa Việt

Nam và Vương quốc Campuchia chủ yếu tập trung ở tuyến biên giới Tây Nam gồm

các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và tuyến biên giới Tây Ninh,

Bình Phước thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Hàng lậu gồm đủ các loại khác

nhau, như hàng tiêu dùng, hàng cấm, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng,

hàng không qua kiểm dịch, hàng quá hạn sử dụng,... Trong đó, hàng cấm là hàng

tiêu dùng và vật tư, phương tiện đã qua sử dụng, phế liệu, phế thải, hóa chất độc hại

có tác hại rất xấu trước mắt và lâu dài tới con người, vật nuôi, cây trồng, môi

trường; hàng giả, hàng nhái có nguồn gốc nhập lậu thường là các mặt hàng dập sẵn

nhãn mác hàng hóa nước ngoài hoặc Việt Nam, như tiền Việt Nam giả, ngoại tệ,

thuốc lá ngoại, mỹ phẩm, quần áo, giày dép, hàng may mặc, gỗ, thuốc tân dược,

rượu ngoại, thực phẩm, ngũ cốc, phụ tùng ô-tô, xe máy, hàng điện tử các loại...

trong đó, có các mặt hàng rất tinh xảo khó phân biệt giữa hàng giả với hàng thật.

Tùy theo đặc điểm, trị giá của hàng hóa mà đối tượng buôn lậu lựa chọn

phương thức và phối hợp sử dụng các thủ đoạn khác nhau khi vận chuyển hàng lậu

qua tuyến đường bộ như ngụy trang, che giấu hàng lậu khi đi qua cửa khẩu, lợi

dụng nhiều đường mòn, lối mở dọc chiều dài 1137 km biên giới giữa Việt Nam và

Campuchia để buôn lậu thuốc lá, vàng, ngoại tệ, đồ điện dân dụng, hàng điện tử,

quần áo…[Phụ lục 3]

Hàng lậu qua tuyến đường thủy: Ở địa bàn miền Đông Nam Bộ, nhất là

thành phố Hồ Chí Minh, tuyến đường thủy là tuyến buôn lậu trọng điểm bởi

thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế thương mại lớn nhất cả nước có

nhiều cảng biển, các phương thức thủ đoạn buôn lậu như không khái báo, khai

báo gian dối, làm giả hồ sơ giấy tờ xuất nhập khẩu, đưa và nhận hối lộ, lợi dụng

các hình thức kinh doanh V/v.. đều được các đối tượng buôn lậu sử dụng để thực

hiện hành vi buôn lậu qua tuyến buôn lậu này. Ngoài ra, đối tượng buôn lậu vận

chuyển hàng lậu thường hoạt động về ban đêm, dùng tàu biển công suất lớn, sử

dụng các phương tiện thông tin hiện đại để liên lạc và nghiên cứu, theo dõi chặt

chẽ quy luật hoạt động của các lực lượng chức năng chống buôn lậu. Khi bị các

lực lượng kiểm tra phát hiện, bắt giữ, các đối tượng này sẵn sàng vứt hàng xuống 54

biển để phi tang và chống trả quyết liệt. Ngoài các mặt hàng trọng yếu nói trên,

thì việc xuất lậu các mặt hàng như gỗ tròn, gỗ đỏ, gỗ xẻ khai thác từ rừng tự

nhiên, đặc biệt là gỗ sưa, động, thực vật hoang dã quý hiếm (có loại thuộc “sách

đỏ”, thuộc diện cấm khai thác), di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trên tuyến biển

cũng diễn ra khá phức tạp. Tại các cảng biển, lợi dụng những kẻ hở, bất cập

trong cơ chế, chính sách, quy trình thủ tục hải quan, đặc biệt là chính sách ưu đãi

trong đầu tư gia công, sản xuất hàng xuất khẩu, ưu đãi về tạm nhập, tái xuất,

chuyển khẩu, thông quan hàng hóa các đối tượng thực hiện việc “tạm nhập”, rồi

“tái xuất” sang nước thứ 3, nhưng thực tế thì chỉ “tái xuất trên hồ sơ” còn hàng

hóa thì “tuồn” vào thị trường nội địa hoặc có “tái xuất” nhưng tới phao số 0 lại

tìm cách đưa hàng hóa quay trở lại Việt Nam để tiêu thụ... [29]

Trên tuyến hàng không, thủ đoạn của các đối tượng buôn lậu thường gặp là cất

giấu hàng hóa trong người, trong hành lý, không khai báo khi xuất, nhập cảnh, lợi

dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thu mua hàng từ nước ngoài sau đó

tách hóa đơn, chia nhỏ cho nhiều người khi làm thủ tục hải quan để lợi dụng định

mức miễn thuế vận chuyển trái phép hàng lậu, lợi dụng hàng là quà biếu, quà

tặng… để buôn lậu.

Trên tuyến bưu điện, một số đối tượng sử dụng thủ đoạn chia nhỏ số lượng

hàng hóa, gửi về nhiều địa chỉ khác nhau nhưng thực chất chỉ có một người nhận.

Hàng lậu qua tuyến hàng không và bưu điện chủ yếu là hàng gọn nhẹ, giá trị

kinh tế cao, dễ cất giấu, như máy ảnh, camera, điện thoại di động, đồng hồ đeo tay,

mỹ phẩm, đồ trang sức, kim loại quý, đá quý, ngoại tệ, sừng tê giác, ma túy và ma

túy tổng hợp, thuốc chữa bệnh, vũ khí, công cụ hỗ trợ,... [29]

Lợi dụng tình hình đời sống và trình độ văn hóa dân cư còn thấp, đặc biệt ở

các vùng biên giới, đây là một trong những nguyên nhân để đối tượng buôn lậu lợi

dụng, lôi kéo và mua chuộc để tiếp tay cho bọn chúng, nguy hiểm hơn là bọn chúng

dùng các thủ đoạn ràng buộc trách nhiệm của người vận chuyển với hàng hóa buôn

lậu như phải đặt cược 1/2 giá trị lô hàng mới được vận chuyển, tạo thái độ kiên

quyết bảo vệ hàng lậu và bất hợp tác với lực lượng chức năng, gây khó khăn lớn

cho việc bắt giữ cũng như xử lý các hành vi vi phạm. Những người buôn lậu còn

được gọi là “đầu nậu” thường giấu mặt, lợi dụng cư dân biên giới làm “cửu vạn” (có

thể là những cư dân biên giới và những người dân từ các tỉnh khác lên biên giới làm

ăn) để vận chuyển hàng lậu theo nhiều kiểu khác nhau.

Để trốn tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng, các đối tượng buôn lậu

hiện nay có xu hướng liên kết với nhau, cùng góp vốn để gom hàng. Việc góp vốn

sẽ làm cho rủi ro được phân chia theo từng chuyến hàng, nếu chuyến này bị phát 55

hiện thì vẫn còn chuyến khác để bù đắp, nhờ đó mà tổn thất về vốn là rất ít. Hơn

nữa, nếu bị cơ quan Công an, Biên phòng hay Hải quan bắt giữ thì giá trị cũng như

lượng hàng hoá của mỗi người lại thấp hơn mức quy định làm căn cứ để truy cứu

trách nhiệm hình sự. Đồng thời, hiện nay các đối tượng buôn lậu luôn núp bóng

dưới danh nghĩa pháp nhân, thành lập những doanh nghiệp “ma” để qua mắt cơ

quan chức năng, thậm chí tạo thành những đường dây buôn lậu rất lớn, có sự phân

công nhiệm vụ ở từng khâu gom hàng, vận chuyển hàng và tiêu thụ hàng nhằm

phân chia rủi ro tối đa. Số lượng tội phạm buôn lậu hiện nay không chỉ gồm các cá

nhân móc nối với nhau mà thậm chí còn có nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động

này. Nhất là trong điều kiện hiện nay, lợi dụng sự thông thoáng của pháp luật trong

đăng ký doanh nghiệp, số doanh nghiệp được thành lập hàng năm ngày càng tăng,

nhiều doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá. Và không chỉ có

doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà cả một số doanh nghiệp nhà nước cũng tham

gia buôn lậu. Việc lợi dụng chính sách xuất nhập khẩu để buôn lậu thường có sự

móc nối, tiếp tay của một số cán bộ, công chức Nhà nước thoái hoá, biến chất trong

các lực lượng chức năng. Điều này khiến cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm

buôn lậu gặp nhiều khó khăn bởi hành vi buôn lậu đã được che đậy bởi các hành vi

phạm tội khác như tham nhũng, hối lộ, cố ý làm trái các quy định về quản lý kinh tế

gây hậu quả nghiêm trọng... Xu hướng lợi dụng các kẽ hở trong chính sách của Nhà

nước về xuất khẩu, nhập khẩu để buôn bán hàng hoá trái phép cũng sẽ tăng lên nếu

như chúng ta không nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật

đồng bộ. Nguy hiểm hơn là các đường dây buôn lậu xuyên quốc gia do các đối

tượng có thế mạnh về kinh tế đứng sau móc nối với các đối tượng buôn lậu ở các nước

trong khu vực tạo thành những đường dây buôn lậu xuyên quốc gia. Điều này sẽ càng

gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, bắt giữ và triệt phá các

đường dây buôn lậu lớn.

Bên cạnh đó, thủ đoạn của các đối tượng buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ ngày càng tinh vi hơn nhằm qua mặt các cơ quan chức năng. Các đối tượng

buôn lậu đã, đang và sẽ tiếp tục lợi dụng mọi kẽ hở của pháp luật để hoạt động buôn

lậu như: chính sách tạm nhập tái xuất, quá cảnh để buôn lậu; lợi dụng chính sách

xuất khẩu, nhập khẩu được hưởng mức thuế suất thấp để buôn lậu. Đặc biệt là

chúng còn lợi dụng những kẽ hở trong quy định về thủ tục hải quan để buôn lậu.

Các quy định về hải quan hiện nay là một bước tiến lớn trong việc cải cách thủ tục

hải quan, đảm bảo sự thông thoáng trong việc thông quan hàng hoá. Tuy vậy, các

đối tượng buôn lậu đã khai thác triệt để các quy định về thủ tục hải quan để buôn

lậu như: lợi dụng quy định về "miễn kiểm" để giấu hàng trong các container; khai 56

báo sai về số lượng, chủng loại hàng hoá; móc nối với đối tác nước ngoài thay đổi

một phần kiểu dáng, tên gọi sản phẩm để hưởng mức thuế thấp hơn... Vụ 213

container của 56 doanh nghiệp vận chuyển quá cảnh qua cảng Cát Lái – thành phố

Hồ Chí Minh (cửa khẩu nơi đi) để trung chuyển bằng đường bộ sang Campuchia

nhưng đột nhiên mất tích là minh chứng cho thủ đoạn của đối tượng buôn lậu hiện

nay. Mặc khác, các đối tượng buôn lậu còn làm giấy tờ giả, sử dụng các loại giấy tờ

không hợp lệ để buôn lậu. Người phạm tội buôn lậu có thể lập các hợp đồng kinh tế,

các giấy tờ chứng minh đã hoàn tất thủ tục hải quan, giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu

giả để buôn lậu. Họ còn sử dụng hồ sơ bán đấu giá hàng lậu, hoá đơn VAT để trống

ngày, tem hàng nhập khẩu giả... để quay vòng vận chuyển hàng lậu hoặc hợp thức

hóa hàng hoá khi bị phát hiện. Một số đối tượng buôn lậu, chủ yếu là các chủ doanh

nghiệp còn dùng tình cảm, vật chất mua chuộc một số cán bộ thoái hoá, biến chất

trong các lực lượng có chức năng đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu. Đây là

thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt và rất hiệu quả, chúng thường móc nối với một số

cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác tuần tra, kiểm soát, giám sát hàng hoá xuất

khẩu, nhập khẩu; móc nối với những địa phương mà ở đó đang có sự khuyến khích

"mở cửa" nhằm thu thuế, tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương để buôn lậu.

Ngoài ra, lợi dụng việc đưa hàng miễn thuế vào các khu kinh tế cửa khẩu, khu

bảo thuế để chuyển hàng nhập lậu, các đối tượng kinh doanh bao gồm thương nhân

trong nước và thương nhân nước ngoài đã mang hàng với thuế suất bằng 0% qua

cửa khẩu quốc tế đưa vào bán tại các khu kinh tế cửa khẩu, khu bảo thuế, chợ biên

giới. Từ đây, các đối tượng buôn lậu tổ chức thu mua gom lại và dùng hóa đơn bán

hàng (để hợp thức hóa hàng lậu) rồi dùng các phương tiện khác nhau hoặc lợi dụng

người đi du lịch để vận chuyển hàng lậu vào các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Phương thức thủ đoạn mà các đối tượng thường sử dụng là lợi dụng địa hình biên

giới nhiều đường mòn lối mở, nhà dân xây sát biên giới để vận chuyển trái phép

hàng hóa qua biên giới.

Về hàng hóa buôn lậu

Về hàng hóa buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ vô cùng phong phú và

đa dạng, hàng nhập lậu phổ biến là hàng điện tử, điện lạnh, máy móc công nghiệp,

lốp xe ô tô đã qua sử dụng, phế liệu kim loại, nhựa công nghiệp, đồ điện dân dụng,

vải may mặc, rượu ngoại, thuốc lá ngoại, tiền Việt Nam, vàng, ngoại tệ, mỹ phẩm,

dược phẩm, phụ gia và hóa chất tẩy rửa, thực phẩm chức năng, yến nguyên liệu, yến

sào, hạt điều, gỗ, cây thông, sừng tê giác, súng hơi, thiết bị phục vụ nhu cầu của thị

trường và có nguồn gốc khá phong phú. Các loại hàng hoá này được nhập lậu theo

từng mặt hàng, thường có nguồn gốc xuất xứ từ các nước trong khu vực hoặc hàng 57

hóa có nhu cầu cao. Chẳng hạn như các mặt hàng rượu ngoại, thuốc lá ngoại, vàng,

ngoại tệ, đồ điện tử, điện thoại di động, phụ gia và hóa chất tẩy rửa, thiết bị ô tô, mỹ

phẩm, yến sào… hàng hóa loại này thường có nguồn gốc từ Nhật Bản, Nga, Hàn

Quốc, Singapore, Malaysia, Indonesia, Campuchia; hàng là máy móc công nghiệp,

linh kiện máy công nghiệp được nhập lậu từ Mỹ; hàng là hạt điều, sừng tê giác được

nhập lậu từ Nam Phi…. bên cạnh đó cũng có các mặt hàng gia dụng như các loại

máy lạnh, linh kiện ô tô, vải vóc, quần áo, đồ chơi trẻ em đa số là hàng Thái Lan,

Trung Quốc nhập qua khu vực qua biên giới Campuchia, thành phố Hồ Chí Minh;

Đặc biệt nguy hiểm hơn, trong thời gian gần đây, rất nhiều hàng hóa được buôn lậu

về khu vực miền Đông Nam Bộ là các hàng hóa dư thừa, ế ẩm hay không được tiêu

thụ tại các nước khác lại được nhập khẩu lậu vào nước ta như lốp xe ô tô đã qua sử

dụng [Phụ lục 3].

Bảng 2.46. Trị giá hàng buôn lậu trong một số vụ án điển hình trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Số thứ tự Loại hàng hóa Trị giá (VNĐ)

Hàng điện tử 75,540,156,764.00 1

Máy móc công nghiệp, lốp xe ô tô đã

qua sử dụng, phế liệu kim loại, nhựa 15,756,897,410.00 2

công nghiệp

Đồ điện dân dụng, vải may mặc 4,639,432,000.00 3

Rượu bia, thuốc lá ngoại 2,613,220,161.00 4

Tiền Việt Nam, vàng, ngoại tệ 8,887,120,660.00 5

Mỹ phẩm, dược phẩm, phụ gia và hóa 6,904,368,890.00 6 chất tẩy rửa

66,280,973,086.67 7 Thực phẩm chức năng, yến huyết, yến nguyên liệu, yến sào

Gỗ, cây thông tùng, sừng tê giác, súng 2,874,336,250.00 8 hơi

Nguồn: Tác giả tự thống kê từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn Đông Nam Bộ

Bảng thống kê trị giá hàng buôn lậu từ 43 vụ án điển hình trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ cho thấy hàng điện tử được nhập lậu có trị giá cao nhất, lên đến hơn

58

75 tỷ đồng. Mặt hàng thứ hai có trị giá buôn lậu cao là thực phẩm chức năng và các

sản phẩm từ chim yến, trị giá hàng lậu lên đến hơn 66 tỷ đồng trong các vụ án. [Phụ

lục 3, tr.47, 48, 49, 50]

Ở đây cần lưu ý rằng, sở dĩ đối tượng buôn lậu hàng hóa là gỗ quý, cây thông

tùng, sừng tê giác, súng hơi bị xử lý về tội buôn lậu là do trước đây trong thực tiễn

áp dụng BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), việc buôn bán hàng cấm

(những loại hàng hóa không tách thành tội danh riêng) bị xử lý về tội buôn lậu.

BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có sự thay đổi trong quy định về xử lý

những trường hợp này. Căn cứ vào điểm k, khoản 2, Điều 190, việc buôn bán hàng

cấm (những loại hàng cấm không tách thành tội danh riêng) bị xử lý về tội buôn bán

hàng cấm với dấu hiệu định khung tăng nặng “Buôn bán qua biên giới, trừ hàng hóa

là thuốc lá điếu nhập lậu”.

Biểu đồ 2.47. Tỷ trọng các loại hàng hóa buôn lậu trong một số vụ án điển hình

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

59

Nguồn: Tác giả tự thống kê từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Theo Biểu đồ trên trong số các loại hàng hóa nhập lậu, hàng điện tử được nhập

lậu nhiều nhất, chiếm tỷ lệ 41,17%. Nhóm hàng hóa được nhập lậu nhiều thứ hai

trong danh mục là thực phẩm chức năng và các sản phẩm của chim yến, chiếm tỷ lệ

36,12%. Điều này rất đáng lo ngại vì Việt Nam là nước nông nghiệp và rất nhiều

gia đình, hộ cá thể nuôi yến để sản xuất. Việc nhập lậu gây thiệt hại cho sự phát

triển kinh tế trong nước.

Về phương thức, thủ đoạn hoạt động buôn lậu

Ngày nay, với sự phát triển bùng nổ của khoa học, công nghệ trên tất cả các

nước khiến công tác đấu tranh, phòng chống tội buôn lậu ngày càng khó khăn do

các phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Với các đường dây buôn bán xuyên

quốc gia, đối tượng buôn lậu luôn tìm mọi thủ đoạn, bất chấp mọi nguy hiểm để

kiếm lời bất hợp pháp. Ở nước ta, do những đặc điểm riêng, nền kinh tế đang trong

thời kỳ phát triển, pháp luật đang ngày càng hoàn thiện, công tác quản lý kinh tế -

xã hội đang được chú trọng nhưng còn bất cập nên các thủ đoạn buôn lậu cũng có

những đặc điểm riêng. Đặc biệt, tại địa bàn miền Đông Nam Bộ với vị trí địa lý

thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nền kinh tế phát triển mạnh là

một trong những nguyên nhân cơ bản tạo điều kiện thuận lợi khiến tội buôn lậu tại

địa bàn này gia tăng, diễn biến phức tạp với những phương thức tinh vi, đa dạng

gây nhiều khó khăn cho công tác đấu tranh, xử lý tội phạm. Dưới đây là một số

phương thức, thủ đoạn phổ biến mà đối tượng phạm tội buôn lậu trên địa bàn

thường sử dụng:

Một là, không khai báo, khai báo gian dối, khai giảm số lượng hàng nhập

khẩu (hoặc lập hồ sơ giả để giảm số lượng hàng hóa) nhằm trốn thuế, trốn tránh sự

kiểm tra, kiểm soát hải quan đối với hàng hóa khi đi qua cửa khẩu.

Đây là phương thức buôn lậu khá phổ biến xảy ra ở tất cả các tuyến buôn lậu

từ đường bộ, đường thủy đến đường hàng không. Nghiêm trọng hơn, các đối tượng

buôn lậu không chỉ đơn thuần là không khai báo hay khai báo gian dối, khai giảm

số lượng hàng hóa nhằm trốn thuế mà hành vi không khai báo xảy ra trong một thời

gian dài, gây hậu quả nghiêm trọng, trốn thuế với số lượng lớn mới bị phát hiện do

có sự tiếp tay của các cán bộ, công chức trong các cơ quan có chức năng quản lý

xuất nhập khẩu của nhà nước đã gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra, xử lý tội

phạm. Có thể kể đến một số vụ án điển hình sau đây:

Vụ án: Mai Thị Kim Thoa làm việc cho một người Camphuchia tên Key Thye

với công việc nhận vàng nữ trang được đưa trái phép từ Campuchia vào Việt Nam

và đã bị phòng Cảnh sát Kinh tế - Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang

cùng toàn bộ tang vật là 01 thùng carton có quấn băng keo trong bên ngoài, bên 60

trong là vàng nữ trang trị giá hơn 8 tỷ đồng.

Vụ án: Phạm Văn Thành thuê Công ty TNHH TMDV Giao nhận QNN làm

thủ tục nhập khẩu phế liệu về Việt Nam. Nhưng khi kiểm tra Chi cục Hải Quan

Cảng Sài Gòn khu vực 1 phát hiện trong 36 mặt hàng chỉ có 1 mặt hàng đúng như

khai báo, còn lại 35 loại hàng hoá không khai báo hải quan nhằm mục đích trốn

thuế nhập khẩu.

Vụ án: Võ Thị Hằng Ni là giám đốc công ty Lập Cường đã liên lạc và thuê

Huỳnh Chí Cường làm thủ tục hải quan và nhờ Cường tìm cách khai báo số lượng

hàng hoá giảm xuống khoảng 50% để trốn thuế.

Vụ án do Hà Văn Phụng tổ chức cùng 9 đối tượng buôn lậu khác đã bị phòng

Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Công an tỉnh Tây

Ninh phối hợp Công an huyện Bến Cầu bắt giữ, hàng lậu gồm: 16.400 bao thuốc lá

điếu nhập lậu các loại (hiệu Marlboro, Hero, Jet, Esse, 555), 75 thùng sữa Ensure và

90 chai rượu Ballantines… hàng lậu được vận chuyển trốn tránh sự kiểm tra, kiểm

soát hải quan qua khu vực ấp Voi, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.

Vụ án: Lý Quân Kiệt (giám đốc công ty TNHH Vĩnh Hảo) đã khai báo gian

dối, với thủ đoạn nhập khẩu bàn phím máy vi tính từ Hồng Kông về Việt Nam là

loại hàng có giá trị thấp nhưng Kiệt đã mua 300 máy laptop có giá trị cao đóng vào

phần trong cùng của container khi lập hồ sơ mua bán, vận chuyển và khai báo. Kiệt

đã chỉ đạo cho nhân viên đánh máy vào tờ khai hải quan cửa khẩu Cảng Sài Gòn

khu vực 1 nhưng không kê khai 300 chiếc laptop nêu trên và cũng không làm văn

bản bổ sung hồ sơ kê khai hàng hoá trước khi làm thủ tục hải quan.

Vụ án: Võ Ngọc Phượng kinh doanh nhỏ lẻ mặt hàng yến nuôi trong nước tại

chợ Bình Tây. Năm 2010, Phượng đăng ký hộ kinh doanh Yến Sào Phúc Thịnh tại

số 68 Tháp Mười, phường 2, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh. Phượng mua yến từ

các nguồn hàng trong nước và mua từ Malaysia, Indonesia. Khi có hàng, Phượng

trực tiếp hoặc cử người sang Malaysia, Indonesia xem chất lượng và thoả thuận giá

cả. Tuỳ trọng lượng mỗi chuyến hàng mà Phượng cử thêm người đi vận chuyển yến

về Việt Nam cho Phượng. Mỗi chuyến đi có từ 01 đến 02 hoặc 03 người, mỗi người

mang từ 01 đến 02 vali yến, mỗi vali chứa từ 15 đến 20kg yến nguyên liệu. Để

mang hàng hoá qua cửa khẩu sân bay, Võ Ngọc Phượng tìm gặp và nhờ Nguyễn

Minh Đức (công chức hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài) và Nguyễn

Quang Hưng (Đội phó Đội Thủ tục hành lý nhập khẩu) tạo điều kiện giúp cho việc

vận chuyển qua cổng kiểm soát mà không khai báo hải quan.

Từ ngày 20/05/2011 đến ngày 19/12/2012, Võ Ngọc Phượng đã nhập lậu vào

Việt Nam 9.676,56 kg trị giá 63.147.261.206,67 đồng không khai báo hải quan, gây 61

thất thu cho ngân sách nhà nước gần 10 tỷ đồng tiền thuế.

Vụ án: Phan Quang Vinh và Phan Thị Dạ Hương là các thành viên trong nhóm

làm dịch vụ giao nhận hàng hóa tại kho hàng của công ty TNHH dịch vụ hàng hóa

Tân Sơn Nhất (Kho TCS). Khi có khách hàng đến nhờ nhận hàng hóa từ nước ngoài

gửi về thì nhóm của Vinh sẽ nhận làm dịch vụ từ khâu: mở tờ khai hải quan, nhận

hàng từ kho TCS, cùng các bước kiểm tra hải quan theo quy định thay cho khách

hàng. Trong vụ án này, Phan Quang Vinh được một người phụ nữ tên Hoa nhờ làm

dịch vụ nhận 13 kiện hàng từ Hồng Kông về Việt Nam. Sau khi 13 kiện hàng trên

về đến kho TCS, Phan Quang Vinh và Phan Thị Dạ Hương đứng ra làm thủ tục giao

nhận toàn bộ lô hàng. Trong đó, Vinh là người trực tiếp làm thủ tục giấy tờ cho việc

nhận hàng và chỉ kê khai là quà biếu (như giày dép, quần áo, dầu nóng, túi xách, đồ

chơi trẻ em,…) thay vì kê khai đúng mặt hàng thực tế là 844 điện thoại di động và

máy tính bảng trị giá hơn 9 tỷ đồng. Phan Thị Dạ Hương là người thực hiện việc

nhận hàng từ kho TCS ra. Tinh vi hơn, bọn chúng đã sử dụng tên của người khác để

làm thủ tục nhận hàng và có sự bàn bạc giúp sức của Nguyễn Hoàng Minh là nhân

viên công ty TNHH dịch vụ hàng hóa Tân Sơn Nhất, Minh đã lấy hàng ra khỏi kho

TCS không qua khu vực kiểm hóa và ký giả chữ ký chủ hàng vào phiếu xuất kho ở

mục người nhận hàng. Các tờ khai hải quan Vinh chỉ điền các thông tin về người

nhận hàng (Kiền và Mai), địa chỉ thường trú của người nhận hàng, chữ “Gift” (quà

tặng), còn các mục khác đều bỏ trống thông tin, mục chữ ký của người khai báo,

Vinh tự ký tên Kiền và Mai. [Phụ lục 3, tr.50, 51, 52, 53, 54]

Hai là, lợi dụng hình thức kinh doanh tạm nhập, tái xuất, quá cảnh, trung

chuyển hàng hóa tại các cảng, cửa khẩu hay nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất

hàng xuất khẩu để buôn lậu.

Theo quy định tại Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm

2005 thì khái niệm tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hoá theo pháp luật

Việt Nam được quy định cụ thể như sau:

- Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc

từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan

riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt

Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam.

- Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc

đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải

quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam

và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam.

62

Tạm nhập tái xuất, quá cảnh những là phương thức kinh doanh phổ biến, tuy

nhiên vì đích đến không phải Việt Nam, mà qua Việt Nam sang quốc gia khác, nên

chính sách quản lý cũng thông thoáng hơn. Tuy nhiên, lợi dụng sự thông thoáng này

cùng với việc cơ quan chức năng quản lý ngày càng chặt hoạt động buôn lậu nên

nhiều đối tượng đã lợi dụng tạm nhập tái xuất để buôn lậu. Theo Ông Nguyễn

Khánh Quang, Cục phó Cục Điều tra chống buôn lậu – Tổng cục hải quan thì hình

thức kinh doanh tạm nhập tái xuất, quá cảnh đang được các đối tượng buôn lậu sử

dụng ngày càng tinh vi hơn với quy mô lớn nhằm nhập khẩu hàng hóa lậu vào Việt

Nam. Vụ 213 container chở hàng hóa bỗng mất tích tại thành phố Hồ Chí Minh thể

hiện điều đó. Theo Báo dân trí ngày 07/8/2017, trước đó trong 2 năm 2015 - 2016, Cơ

quan hải quan đã phát hiện vụ 213 container của 56 doanh nghiệp vận chuyển quá

cảnh qua cảng Cát Lái – thành phố Hồ Chí Minh (cửa khẩu nơi đi) để trung chuyển

bằng đường bộ, sau đó xuất đi Campuchia (cửa khẩu nơi đến). Tuy nhiên, số

container trên đã được các doanh nghiệp này vận chuyển khỏi cảng Cát Lái mà không

được đưa đến cửa khẩu xuất theo quy định. Trong quá trình điều tra xác minh hơn

213 container, ngành hải quan đã chủ động làm việc với công an, bắt giữ hơn 100

container hàng hóa có hình thức vi phạm tương tự nói trên. Tại cảng Cát Lái và ở tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu, lực lượng chức năng đã bắt giữ được từ 60 - 70 container, các

hàng hóa trên các container này đều là hàng cũ nhập lậu, hàng cấm nhập.

Vụ án buôn lậu do Thái Huy (Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH

DNF Global) đã lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất hàng hóa và sử dụng pháp

nhân của nhiều công ty khác nhau để làm thủ tục tạm nhập khẩu hàng nhưng thay vì

phải tái xuất theo quy định thì Huy đã liên hệ và bán hàng cho các doanh nghiệp

trong nước để trục lợi. Cụ thể: Trong khoảng thời gian từ tháng 03/2014 đến tháng

01/2015, Thái Huy đã sử dụng pháp nhân của các công ty gồm: Công ty Tất Đạt,

Công ty TNHH Lê Gia, Công ty Dịch vụ Việt để tạm nhập hàng trăm container lốp

xe ô tô đã qua sử dụng với tổng trọng lượng hơn 5000 tấn nhưng không tái xuất mà

đem tiêu thụ ở thị trường nội địa với số tiền thu được khi bán lốp xe ô tô cho các

chủ thể kinh doanh trong nước là 7.969.172.000 đồng.

Lợi dụng hình thức kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng

xuất khẩu để buôn lậu. Tiêu biểu cho thủ đoạn buôn lậu ở hình thứ này là vụ án xảy

ra ở tỉnh Bình Phước. Theo đó, Thái Bình Duơng với ý định thành lập công ty cổ

phần xuất nhập khẩu nông sản Thái Bình (công ty Thái Bình) để kinh doanh nông

sản, nhưng không có cổ đông góp vốn nên tháng 02/2015 Dương nhờ thêm Nguyễn

Ngọc Bình và Nguyễn Ngọc Chinh đứng tên cổ đông góp vốn trên danh nghĩa để

63

thành lập công ty Thái Bình. Dương kinh doanh đến khoảng tháng 07/2016, nhận

thấy hình thức nhập hạt điều từ Châu Phi về để sản xuất, xuất khẩu được miễn thuế

nhập khẩu. Dương nảy sinh ý định lợi dụng loại hình này để thực hiện hành vi nhập

khẩu hạt điều nguyên liệu về sản xuất một phần, một phần sẽ lén bán ra thị trường

trong nước mà không khai báo với cơ quan hải quan. Để thực hiện được ý định trên,

Dương thuê khu đất ở ấp Thái Dũng, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình

Phước của ông Phạm Trần Minh Đức, rồi mua, lắp đặt máy móc chế biến điều. Sau

đó, thông báo cơ sở sản xuất, nơi giữ nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị và sản

phẩm xuất khẩu gửi Chi cục hải quan Chơn Thành, tỉnh Bình Phước để bảo đảm

điều kiện được nhập khẩu hạt điều sản xuất, xuất khẩu. Qua kiểm tra, Chi cục hải

quan Chơn Thành nhận thấy công ty Thái Bình nhập khẩu và yêu cầu công ty thực

hiện đúng quy định về quản lí hàng hoá nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu.

Từ ngày 08/09/2016 đến 15/01/2018, Dương sử dụng tư cách pháp nhân

công ty Thái Bình đã nhiều lần mở tổng cộng 70 tờ khai hải quan nhập khẩu theo

loại hình E31 (nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu) tại Chi cục hải quan

Chơn Thành để nhập khẩu 11.072.571kg hạt điều chưa bóc vỏ xuất xứ từ các nước

Châu Phi với tổng trị giá hàng hoá là 440.109.362.821,15 đồng nhưng thực xuất chỉ

02 tờ khai tương đương 20.275,92kg nhân hạt điều. Trị giá hàng hoá buôn lậu lên

đến hơn 416 tỷ đồng. [Phụ lục 3, tr.60, 61, 62, 63]

Ba là, thành lập và giải thể nhiều công ty, thuê người làm giám đốc, làm giả

giấy tờ hồ sơ xuất nhập khẩu, mua chuộc, đưa, nhận hối lộ của công chức hải quan

tiếp tay cho hành vi buôn lậu; xuất khống hóa đơn nhằm hợp thức hóa hàng lậu;

thành lập công ty “ma”, lợi dụng nhiệm vụ được giao, lợi dụng danh nghĩa các

công ty khác nhau để buôn lậu.

Đối tượng buôn lậu sử dụng phương thức thủ đoạn này, hành vi buôn lậu

thường được thực hiện có tổ chức, có sự phân công nhiệm vụ cho từng thành viên

trong tổ chức tội phạm, hành vi phạm tội diễn ra trong một thời gian dài mới bị phát

hiện và việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xử lý gặp nhiều khó khăn do hành vi

buôn lậu được che đậy bởi các hành vi phạm tội khác của người có chức vụ, quyền

hạn như nhận hối lộ, cố ý làm trái quy định về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm

trọng hay thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Vụ án buôn lậu do Trần Minh Luận và đồng phạm thực hiện là một trong

những điển hình cho phương thức thủ đoạn này. Trần Minh Luận và đồng phạm đã

thành lập nhiều công ty với chức năng, lĩnh vực kinh doanh khác nhau, trực tiếp

64

đứng tên giám đốc hoặc thuê người khác làm giám đốc công ty, đăng ký thay đổi

chủ sở hữu công ty, thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty nhưng thực

chất hoạt động của các công ty này đều do Luận điều hành. Từ năm 2010 đến năm

2014 Luận và Nguyễn Cường Thành Tín đã thành lập các công ty Bảo Trí, Nam Hà

Sơn, ABC, DLC (Luận thành lập) và công ty Jos Tín Nguyễn (Tín thành lập) và sử

dụng pháp nhân của các công ty Cao Dương, Khải Lợi để buôn lậu. Hành vi buôn

lậu của Luận và đồng phạm diễn ra trong một thời gian dài với trị giá hàng phạm

pháp đặc biệt lớn mới bị phát hiện và xử lý xuất phát từ thủ đoạn hoạt động buôn

lậu của chúng như: không khai báo; khai báo gian dối; giả mạo chữ ký; khi bị phát

hiện thì lấy lý do gửi nhầm để xin xuất khẩu hàng hóa trở lại; hàng hóa được đưa về

kho của công ty để bảo quản, chờ kết quả kiểm tra để thông quan thì bán ra thị

trường nội địa để trục lợi; đưa và nhận hối lộ; lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi

thi hành công vụ V/v.. Bằng thủ đoạn này Luận và đồng phạm đã thực hiện hành vi

buôn lậu từ năm 2013 đến năm 2015 mới bị phát hiện, trị giá hàng phạm pháp mà

cơ quan chức năng chứng minh được trên 20 tỷ đồng.

Hành vi lợi dụng các điều kiện thuận lợi trong việc thành lập và giải thể công

ty để hoạt động buôn lậu. Nguyễn Văn Sinh (Việt kiều Mỹ) và Đoàn Đức Thắng

(thường sử dụng tên giả là Trần Minh Thắng, Trần Văn Thắng hoặc Nguyễn Văn

Thắng) thuê Vũ Mạnh Dũng làm giám đốc và Đỗ Thị Diệu Lợi – nhân viên kế toán

thành lập Công ty TNHH DV XNK KAL để làm trung gian cho việc nhập hàng hóa

trái phép của Sinh và Thắng.

Năm 2010, Nguyễn Văn Sinh thành lập công ty An Khang Lạc và làm giám

đốc công ty An Khang Lạc đến ngày 21/3/2012 thì thay đổi đăng ký kinh doanh,

thuê Vũ Mạnh Dũng là đối tượng không có nghề nghiệp làm giám đốc. Để tránh bị

cơ quan chức năng phát hiện và thuận tiện cho việc tiêu hủy các tài liệu chứng cứ

liên quan đến các phi vụ buôn lậu, Sinh tiến hành giải thể Công ty TNHH MTV An

Khang Lạc thành lập Công ty TNHH Nông ngư cơ Thắng Lợi hoạt động đến tháng

7/2013 thì ngưng hoạt động để thành lập Công ty KAL. Cả 02 Công ty thành lập

sau Sinh, Thắng đều thuê Vũ Mạnh Dũng làm giám đốc. Ngoài Vũ Mạnh Dũng thì

Đỗ Thị Diệu Lợi cũng do Nguyễn Văn Sinh tuyển dụng và đã làm việc cho công ty

mà Sinh và đồng phạm lập ra nhằm mục đích buôn bán phụ tùng xe đầu kéo. Lợi có

vai trò bán hàng, quản lý thu – chi tài chính của công ty, báo cáo, gửi email, chuyển

tiền sang Mỹ cho Sinh và làm các công việc cụ thể khác do Sinh chỉ đạo. Với thủ

65

đoạn này, Sinh và Thắng đã nhập lậu tổng công 27 container phụ tùng xe đầu kéo

đã qua sử dụng trị giá 5.618.395.000 đồng nhưng khai báo với hải quan là máy xúc,

máy phát điện đã qua sử dụng, cần trục, máy tiện, máy hàn…

Vụ án: Nguyễn Trọng Kỳ đã lợi dụng các chuyến đi Singapore để dự hội

thảo, tập huấn sử dụng các mẫu hàng mới, dự triển lãm hội chợ để mua một số

mặt hàng máy văn phòng như máy photocopy, máy đèn chiếu và các phụ kiện rồi

chia nhỏ hàng ra nhờ khách du lịch mang ra sân bay không khai báo hải quan

mang về Việt Nam bán thu lời bất chính. Để che giấu hành vi phạm tội của mình,

Kỳ đã bỏ vốn thành lập công ty Hạ Đan, thuê người đứng tên giám đốc, phó

giám đốc công ty xuất khống hóa đơn bán hàng để hợp thức hóa số hàng buôn

lậu; sử dụng hoá đơn GTGT của các công ty khác nhau nhằm hợp thức hoá đầu

vào hoá đơn xuất khống cho công ty Thiên Minh. Hành vi buôn lậu của Kỳ được

thực hiện trong một thời gian dài từ năm 2001 đến năm 2007 và đến năm 2010

mới bị xử lý. Với phương thức này, chỉ tính riêng 10 chuyến đi Singgapore trong

khoảng thời gian từ 2004 đến 2005, Kỳ đã buôn lậu các loại máy chiếu và phụ

kiện, máy photocopy và phụ kiện, máy tính tiền, máy fax, mực máy photo, mực

máy fax… hiệu Sharp vào Việt Nam không khai báo Hải quan trị giá

2.237.805.000 đồng.

Vụ án: Trần Thanh Thảo và Bành Sĩ Thắng cùng nhập khẩu hàng hoá đã qua

sử dụng (cấm nhập khẩu) từ Nhật Bản về Việt Nam để tiêu thụ. Thảo và Thắng đã

sử dụng nhiều công ty với các chức năng kinh doanh khác nhau và mỗi công ty

được sử dụng phù hợp với mục đích của từng khâu trong quá trình thực hiện hành vi

buôn lậu: sử dụng công ty TNHH Giấy Kraft Vina để nhập hàng lậu (máy lạnh, máy

giặt, máy xử lý không khí, chén đĩa ly sành sứ đã qua sử dụng nhưng khai báo hải

quan là nhập khẩu “giấy bìa”); đơn vị nhập khẩu là Công ty TNHH Giấy Kraft

Vina, sử dụng pháp nhân công ty Huỳnh Khang làm đại lý giao nhận hàng hóa xuất

nhập khẩu nhưng trên thực tế là công ty “ma” không tồn tại V/v.. bằng thủ đoạn này

bọn chúng đã qua mặt được các cơ quan quản lý nhà nước như: Chi cục hải quan

hàng đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, cụm cảng Hiệp Phước…[Phụ lục 3, tr.54, 55,

56, 57, 58, 59, 60]

Theo Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng một số đối tượng lợi

dụng sự thông thoáng của pháp luật trong thành lập doanh nghiệp, lợi dụng pháp

nhân để buôn lậu, việc tìm ra chủ đích thực chỉ đạo thành lập các doanh nghiệp này

đang là thách thức lớn với cơ quan hải quan và cơ quan công an. Trong vụ 213

66

container mất tích tại Cảng Cát Lái – thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan hải quan đã

xác định, các đối tượng đã lợi dụng các yếu tố thuận lợi trong khâu cấp phép đăng

ký kinh doanh và quản lý sau cấp phép để hoạt động buôn lậu, qua quá trình xác

minh của cơ quan hải quan thì 56 doanh nghiệp có 213 container nêu trên đều đã

không còn hoạt động hoặc không có trụ sở tại địa chỉ đăng ký.

Theo báo điện tử Người đưa tin ngày 31/3/2018, một doanh nghiệp “ma” có

trụ sở tại tỉnh Bình Phước đã bị khởi tố về tội buôn lậu, đó là Công ty TNHH MTV

Sản xuất - Thương mại - Xuất nhập khẩu New Bình Phước (đường số 3, khu phố 2,

thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước).

Trước đó, vào cuối năm 2017 doanh nghiệp này nhập khẩu 1 container về

cảng Cát Lái, thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, qua soi chiếu, lực lượng chức

năng phát hiện số hàng trên là hàng cấm nên đưa vào diện giám sát trọng điểm.

Điều đáng nói, đại diện công ty này đã từ chối nhận hàng với lý do người gửi nhầm

lẫn, công ty không ký hợp đồng mua mặt hàng này. Qua kiểm tra, lô hàng này đều

là đồ điện gia dụng đã qua sử dụng (thuộc danh mục cấm nhập khẩu) với hàng trăm

máy giặt, máy lạnh, nồi cơm điện, bếp từ trị giá trên 1,1 tỷ đồng. Cơ quan chức

năng cũng đã tiến hành kiểm tra tại trụ sở thì doanh nghiệp này không hoạt động.

Đại diện chi cục Thuế thị xã Đồng Xoài cũng cho biết doanh nghiệp này chưa nộp

hồ sơ khai thuế và không có doanh nghiệp nào hoạt động tại địa chỉ đăng ký nêu

trên. Dù vậy trên cổng thông tin doanh nghiệp quốc gia, công ty TNHH MTV New

Bình Phước vẫn đang trong tình trạng hoạt động.

Cũng theo báo Người đưa tin cho hay hàng loạt doanh nghiệp “ma” được

thành lập tập trung ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh như: Quận 2, Tân Bình, Tân

Phú… để hoạt động buôn lậu các hàng hóa điện lạnh, điện gia dụng… Thời gian

gần đây, lực lượng hải quan tỉnh Bình Phước cũng đã phát hiện nhiều doanh nghiệp

“ma” đăng ký địa chỉ kinh doanh tại Bình Phước để buôn lậu cùng nhóm mặt hàng:

điện lạnh, điện gia dụng…Chiêu thức được sử dụng là từ chối nhận hàng khi bị phát

hiện. Sau đó, các đối tượng này tiếp tục lập công ty mới để hoạt động.

Dù các vụ việc buôn lậu bị phát hiện, lực lượng chức năng cũng chỉ ngăn

chặn, chứ chưa thể xử lý triệt để, tóm được đối tượng đứng sau thâu tóm, ngay cả

khi có quyết định khởi tố vụ án. Thực tế có nhiều vụ việc đã bị khởi tố. Tuy nhiên,

cơ quan chức năng vẫn chưa thể tìm ra thủ phạm và nhiều trong số đó đã phải tạm

đình chỉ điều tra.

Bên cạnh các phương thức buôn lậu tinh vi với quy mô lớn như trên, thì các

67

đối tượng buôn lậu còn sử dụng rất nhiều các thủ đoạn khác nhau tại các tuyến khác

nhau như lợi dụng chính sách cho đem theo hàng hóa của những người học tập, lao

động ở nước ngoài, tiêu chuẩn hàng hóa được phép mua đối với thuyền viên, chế độ

quà biếu; khai báo sai tên hàng, số lượng, chủng loại; xuất xứ hàng hóa; hoặc lợi

dụng quy định cho phép hàng chuyển tiếp, hàng chuyển khẩu, chế độ kiểm hóa theo

yêu cầu của khách hàng; kiểm hóa theo tỷ lệ phần trăm – quản lý rủi ro; móc nối với

một số phần tử thoái hóa trong cơ quan chức năng của như: Biên phòng, hải quan…

Trên tuyến biển, đối tượng buôn lậu hoạt động bán công khai chủ yếu là các

thủy thủ tàu viễn dương, lợi dụng các phương tiện của Nhà nước để buôn lậu

hoặc lợi dụng các chế độ chính sách quy định về hành lý, chế độ của những

người thường xuyên làm việc trên các tàu biển để buôn lậu. Khi bị truy bắt gắt

gao chúng chuyển sang hoạt động bí mật; cụ thể các tàu chở hàng lậu ở nước

ngoài về thường trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan chức năng, lén lút

đưa hàng vào bờ; hàng hóa thường là hàng cấm, hàng có giá trị kinh tế cao, lãi

suất lớn. Ngoài ra, chúng còn tổ chức lực lượng ngầm theo dõi, nắm bắt quy luật

hoạt động của các lực lượng công an, hải quan, quản lý thị trường, biên phòng ...

nắm tình hình về giờ xuất phát và hành trình của tàu tuần tra, chống buôn lậu của

các cơ quan chức năng để đối phó.

Tác hại của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Tác hại đối với nền kinh tế

Trong xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài những thành tựu

đáng ghi nhận về sự tăng trưởng kinh tế, miền Đông Nam Bộ phải đối mặt với rất

nhiều khó khăn, cản trở sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Một trong

những nguyên nhân tác động tiêu cực đến nền sản xuất trong nước và ảnh hưởng

đến thương mại quốc tế là sự tồn tại phức tạp của tình hình tội buôn lậu.

Buôn lậu được coi là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến nền kinh tế

của một quốc gia. Nó làm suy yếu các ngành công nghiệp, nền sản xuất địa phương,

không khuyến khích hàng hóa nhập khẩu hợp pháp và giảm nguồn thu ngân sách

nhà nước. Tuy nhiên, một thực tế đang xảy ra ở phần lớn các nước đang phát triển

là tồn tại một nền kinh tế ngầm song hành với các hoạt động kinh tế chính thức. Và

điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, gây cản trở và

làm lệch hướng đối với chiến lược phát triển các ngành sản xuất trong nước.

Hoạt động buôn lậu đối với những hàng hóa nhập lậu, trốn thuế thường là

những hàng hóa có lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là lợi thế về giá thấp hơn đối với

68

hàng hóa sản xuất trong nước hoặc hàng nhập khẩu chính ngạch. Khi xuất hiện

những hàng hóa nhập lậu với một lượng đủ lớn tại một thị trường, sự bình ổn giá cả

của thị trường sẽ bị phá vỡ. Nguyên nhân của tình trạng này là do dung lượng thị

trường của Việt Nam ngày càng phát triển, tốc độ phát triển ngày càng cao, độ mở

của nền kinh tế lớn nên giao thương hàng hóa ngày càng tăng, đi liền với đó là sự

xuất hiện nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân làm ăn không đúng đắn, lợi dụng sự

sơ hở của pháp luật và các cơ quan quản lý nhà nước đưa hàng hóa nhập lậu vào

tiêu thụ tại thị trường nội địa.

Đặc biệt, Đông Nam Bộ là vùng kinh tế trọng điểm phát triển ngành công

nghiệp lớn nhất cả nước. Do đó, hoạt động buôn lậu ngày càng gia tăng sẽ tạo ra

môi trường kinh doanh bất bình đẳng cho các doanh nghiệp. Khi tất cả các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu đều đóng thuế xuất nhập khẩu, thì giá trị thuế phải nộp sẽ

được đưa vào chi phí kinh doanh và giá trị thuế là giống nhau với những doanh

nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng. Trong khi đó các hàng hóa nhập lậu, trốn thuế lại

ngang nhiên tồn tại trên thị trường cạnh tranh trực tiếp với hàng được bảo hộ, gây

thiệt hại cho doanh nghiệp làm ăn đúng pháp luật, dẫn đến các doanh nghiệp không

còn đủ nguồn lực tập trung vào nghiên cứu, phát triển (R&D), nâng cao năng lực

cạnh tranh, tăng năng lực sản xuất.

Tác hại đối với an ninh, chính trị

Buôn lậu ảnh hưởng đối với nền kinh tế, tất yếu ảnh hưởng đến an ninh chính trị

của miền Đông Nam Bộ. Hàng hóa nhập lậu làm cho thị trường hỗn loạn, Nhà nước

không kiểm soát được tình hình hoạt động xuất nhập khẩu và các chính sách đầu tư

đối với nước ngoài; ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, làm giảm các khoản chi cho

các quỹ phúc lợi xã hội, làm gia tăng tệ nạn xã hội. Những khoản thu nhập có từ buôn

lậu làm cho một bộ phận làm ăn bất chính giàu lên, sống sa đọa, coi thường kỷ cương

phép nước, làm suy giảm khả năng điều hành công việc của nhà nước, tất yếu Nhà

nước sẽ suy yếu, ảnh hưởng đến chủ quyền và an ninh quốc gia.

Ngày nay với xu thế toàn cầu hóa kinh tế ngày càng mạnh mẽ; việc không

thắng nổi về mặt quân sự thì việc dùng kinh tế để xâm lược đang được các thế lực

thù địch sử dụng một cách triệt để, vừa tinh vi, vừa thủ đoạn. Với ưu thế về kinh tế,

khoa học kỹ thuật, một số thế lực thù địch đang lợi dụng chính sách hội nhập để

thực hiện "diễn biến hòa bình", "chiến tranh biên giới mềm", chính sách dùng hàng

hóa, viện trợ giúp đỡ có điều kiện... tạo thói quen lệ thuộc kinh tế, dẫn đến lệ thuộc

69

về chính trị.

Tác hại về mặt văn hóa - xã hội

Lợi nhuận của buôn lậu làm gia tăng chênh lệch giàu và nghèo, làm cho một số

nhà sản xuất đi lạc hướng, số người không có việc làm ngày một tăng. Buôn lậu lôi kéo

một lực lượng lao động tham gia, bỏ sản xuất đi làm cửu vạn, vận chuyển trái phép

hàng hóa qua biên giới, trật tự an toàn xã hội biến động.

Buôn lậu là một trong những nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xã hội, ảnh

hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục. Vì hám lợi họ đã có những hành động đi ngược

lại giá trị đạo đức truyền thống để chạy theo đồng tiền và chính đồng tiền có được

một cách dễ dàng từ buôn lậu dễ đưa họ tới những tệ nạn như cờ bạc, ma túy, mại

dâm. Song song với việc nhập hàng lậu, đối tượng buôn lậu còn nhập tài liệu phản

động, tranh ảnh khiêu dâm, cổ vũ lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền, làm ảnh

hưởng đến nhân cách con người, ảnh hưởng cả thế hệ lười lao động, sáng tạo.

Bên cạnh đó, những hàng hóa nhập lậu về tiêu thụ tại nước ta hiện nay chủ yếu

là mặt hàng chất lượng kém, hàng bị cấm nhập khẩu. Hiện nay trong tuyến biên giới

tại các cửa khẩu, nhiều hàng hóa kém chất lượng được ồ ạt tuồn về Việt Nam như

gà thải loại, bánh kẹo, hàng tiêu dùng, quần áo, giày dép... Khi những mặt hàng kém

chất lượng bị nhập lậu, thị trường Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ

hàng hóa dư thừa, ế ẩm của nước ngoài ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.

Tóm lại, buôn lậu đã ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, nền kinh tế quốc dân, kỷ

cương xã hội, gây cản trở đến việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách kinh

tế, chính trị, văn hóa - xã hội của Đảng và Nhà nước. Tâm lý làm giàu bất chính đã

lũng đoạn, chi phối, thúc đẩy một bộ phận dân cư chạy theo đồng tiền, bất chấp kỷ

cương, phép nước và các chuẩn mực đạo đức. Nguy hại hơn buôn lậu còn là “người

bạn đồng hành” với tham nhũng, làm suy thoái đạo đức, nhân cách.

2.3. Phần ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Quan sát các số liệu tội buôn lậu được phát hiện và xử lý trên địa bàn các

thành phố, tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ trong thời gian 10 năm, từ 2011 đến 2020

cho thấy tình hình tội buôn lậu trên địa bàn này có độ ẩn cao. Trong suốt thời kỳ

nghiên cứu, số liệu thống kê thể hiện không có tội buôn lậu nào được phát hiện và

đưa ra xét xử ở tỉnh Đồng Nai. Ở các tỉnh Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu số vụ án

buôn lậu được đưa ra xét xử cũng rất ít với chỉ 1 vụ ở tỉnh Bình Dương và 2 vụ ở

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngược lại với số liệu về tội buôn lậu, trong thực tế tồn tại

một số lượng lớn hàng hóa không rõ nguồn gốc vẫn được lưu thông trên thị trường,

70

vì vậy tác giả đã tiến hành phân tích số liệu trong các giai đoạn tố tụng hình sự về

tội buôn lậu trong giai đoạn nghiên cứu, đồng thời khảo sát và phỏng vấn một số

cán bộ làm công tác thực tiễn để xác định nguyên nhân ẩn và độ ẩn của tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Về mức độ ẩn

Để đánh giá mức độ ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ, tác giả đã sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp và so sánh tỷ lệ

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ; so sánh tỷ lệ này với miền Tây Nam Bộ và cả nước trong cùng khoảng thời gian

10 năm (từ 2011 - 2020). Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phương pháp điều tra xã

hội học để tham khảo ý kiến chuyên gia và đa dạng các chủ thể khác về tính chất,

mức độ ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Số liệu ở Phụ lục 2 về số vụ phạm tội buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ trong 10

năm qua cho thấy tổng số vụ buôn lậu bị các cơ quan chức năng khởi tố là 527 vụ

với 632 bị can và xét xử là 151 vụ với 357 bị cáo, tỷ lệ xét xử/khởi tố chỉ ở mức

28.65% về số vụ và 56.49% về số người. Tại thành phố Hồ Chí Minh, nơi có nhiều

điều kiện thuận lợi cho tội buôn lậu hoạt động và cũng là nơi tiêu thụ hàng lậu nhiều

nhất miền Đông Nam Bộ, tỷ lệ xét xử so với khởi tố cũng chỉ ở mức 19%. Trên

nhiều địa phương khác, như Bình Dương khởi tố 13 vụ chỉ xét xử 1 vụ, tỷ lệ xét

xử/khởi tố là 7.69% và Bà Rịa - Vũng Tàu khởi tố 42 vụ chỉ xét xử 2 vụ, tỷ lệ xét

xử/khởi tố là 4.76%. Đặc biệt, tại tỉnh Đồng Nai, 10 năm qua không khởi tố vụ án

nào về tội buôn lậu. Điều này phản ánh tỷ lệ ẩn rất cao của tình hình tội buôn lậu

71

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Bảng 2.48. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn miền ĐNB giai đoạn 2011 - 2020

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Tỷ lệ (%, số người)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Xét xử/ khởi tố

Xét xử/ truy tố

Đình chỉ/ khởi tố

Xét xử/ khởi tố

Xét xử/ truy tố

Đình chỉ/ khởi tố

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

2011

36

54

4

4

27

45

0

0

21

40

58.33

77.78

11.11

74.07

88.89

7.41

2012

31

37

1

0

16

23

0

0

21

38

67.74

131.25

102.70

165.22

3.23

0.00

2013

48

71

1

1

21

37

0

0

12

25

25.00

57.14

35.21

67.57

2.08

1.41

2014

36

89

0

0

13

28

0

0

23

38

63.89

176.92

42.70

135.71

0.00

0.00

2015

45

88

3

1

20

55

0

1

14

36

31.11

70.00

40.91

65.45

6.67

2.27

2016

55

66

0

1

19

36

0

0

18

41

32.73

94.74

62.12

113.89

0.00

1.52

2017

68

66

1

0

4

5

0

0

7

18

10.29

175.00

27.27

360.00

1.47

0.00

2018

76

74

1

0

11

32

0

0

15

49

19.74

136.36

66.22

153.13

1.32

0.00

2019

65

39

4

0

7

28

0

0

12

37

18.46

171.43

94.87

132.14

6.15

0.00

2020

67

48

3

0

14

26

0

0

8

35

11.94

57.14

72.92

134.62

4.48

0.00

7

0

1

3.42

527

632 18

152

315

151

357

28.65

99.34

56.49

113.33

1.27

Tổng cộng

72

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.49. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong các năm

(2011 - 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Xét xử/khởi tố

2011

19

28

3

12

21

3

0

0

36.84%

58.33%

15.79%

7

17

2012

20

22

1

6

10

0

0

0

40.00%

133.33%

5.00%

8

18

2013

29

35

0

9

16

0

0

0

10.34%

33.33%

0.00%

3

7

2014

26

56

0

5

9

0

0

0

11

42.31%

220.00%

0.00%

15

2015

30

49

1

8

21

1

0

1

23.33%

87.50%

3.33%

7

12

2016

40

44

0

6

14

1

0

0

15.00%

100.00%

0.00%

6

18

2017

53

46

0

2

3

0

0

0

9.43%

250.00%

0.00%

5

16

2018

51

51

0

7

17

0

0

0

10

19.61%

142.86%

0.00%

29

2019

47

25

4

3

18

0

0

0

19.15%

300.00%

8.51%

9

29

2020

48

25

0

5

8

0

0

0

6.25%

60.00%

0.00%

3

27

9

5

0

1

Tổng cộng

363

381

63

137

69

188

19.01%

109.52%

2.48%

73

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.50. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong các năm

(2011 - 2020)

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Khởi tố

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Số bị can

2011

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

0

0

2012

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

0

0

2013

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

0

0

2014

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

1

0

2015

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

0

0

2016

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

1

0

2017

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

3

2

2018

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

2

4

2019

0

0

1

2

0

0

0

0.00

0.00

0.00

0

2

2

2020

0

0

1

1

0

1

1

25.00

100.00

0.00

0

4

8

0

0

2

3

0

1

1

7.69

50.00

0.00

0

Tổng cộng

13

16

74

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.51. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong các

năm (2011 - 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Đình chỉ/khởi tố

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

-

-

-

2011

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

-

-

-

2012

2

1

1

1

0

0

0

0

0

0

-

0.00%

50.00%

2013

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

-

-

-

2014

1

0

1

0

0

0

0

0

0

0

-

0.00%

100.00%

2015

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

-

-

-

2016

5

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00%

-

0.00%

2017

16

2

1

0

0

0

0

0

0

0

0.00%

-

6.25%

2018

12

4

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00%

-

0.00%

2019

6

3

3

0

3

5

0

0

2

4

33.33%

66.67%

50.00%

2020

42

10

6

1

3

5

0

0

2

4

-

4.76%

14.29%

Tổng cộng

75

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Cần nhấn mạnh rằng, tình trạng ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ không phải là trường hợp đặc biệt. Để xem xét tình trạng ẩn của tình

hình tội buôn lậu một cách chính xác và toàn diện hơn, tác giả đã kiểm tra số liệu

khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử ở một số địa bàn khác. Số liệu thể hiện trong các

76

bảng sau.

Bảng 2.52. Số vụ và số bị can, bị cáo ở các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ (2011 – 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị cáo

7

25

0

0

4

7

0

0

4

7

2011

57.14%

100.00%

0.00%

4

21

0

0

3

14

0

0

0

0

2012

0.00%

0.00%

0.00%

6

10

0

0

2

3

0

0

3

5

2013

50.00%

150.00%

0.00%

7

8

1

0

3

4

0

0

1

2

2014

14.29%

33.33%

14.29%

16

32

12

19

11

18

0

0

0

0

2015

68.75%

91.67%

0.00%

14

7

6

1

0

2

4

1

1

5

2016

71.43%

250.00%

28.57%

4

3

2

0

2

2

0

0

2

2

2017

50.00%

100.00%

50.00%

1

4

0

0

1

3

1

3

1

3

2018

100.00%

100.00%

100.00%

3

5

1

1

1

1

0

0

1

1

2019

33.33%

100.00%

33.33%

7

13

0

0

2

8

0

0

0

0

2020

0.00%

0.00%

0.00%

Tổng cộng

62

127

5

1

32

65

2

4

28

52

45.16%

87.50%

11.29%

77

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Số liệu trên cho thấy, trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, tổng số vụ buôn lậu bị

các cơ quan chức năng khởi tố trong 10 năm qua là 62 vụ với 127 bị can và xét xử

là 28 vụ với 52 bị cáo, tỷ lệ xét xử/khởi tố là 45.16% về số vụ và 41% về số người.

Số vụ buôn lậu bị các cơ quan chức năng khởi tố tập trung chủ yếu ở các tỉnh có

tuyến biên giới Tây Nam gồm: Kiên giang, An Giang, Long An và Đồng Tháp. Các

tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau không khởi tố

vụ buôn lậu nào.

Trên địa bàn cả nước, số liệu khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án buôn

lậu trong 10 năm qua, tổng số vụ buôn lậu bị khởi tố là 1496 vụ với 2467 bị can và

xét xử là 713 vụ với 1328 bị cáo, tỷ lệ xét xử/khởi tố là 47.66% về số vụ và 53.83%

78

về số người.

Bảng 2.53. Số vụ và số bị can, bị cáo ở các giai đoạn tố tụng của các vụ án buôn lậu trên địa bàn cả nước (2011 - 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số bị can

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Số vụ

1

1

89

141

125

218

5

6

101

172

71.20%

88.12%

4.80%

2011

2

1

73

126

109

169

2

0

74

132

66.97%

98.65%

2.75%

2012

3

2

88

151

162

274

2

2

97

163

54.32%

90.72%

2.47%

2013

0

0

90

165

170

352

4

1

88

205

52.94%

102.27%

2.35%

2014

1

122

224

11

101

162

201

454

10

10

50.25%

102.27%

5.47%

2015

1

1

109

216

105

204

178

269

7

10

58.99%

96.33%

4.49%

2016

2

2

88

136

179

248

13

16

73

108

49.16%

120.55%

8.38%

2017

0

0

36

84

123

169

5

1

38

95

29.27%

94.74%

4.07%

2018

1

0

24

85

118

148

2

1

19

69

20.34%

126.32%

1.69%

2019

0

0

19

74

131

166

3

0

31

100

14.50%

61.29%

2.29%

2020

8

1496

2,467

53

47

752

1484

21

713

1,328

47.66%

94.81%

4.08%

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao 79

Xét tương quan số liệu khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án buôn lậu

trong 10 năm qua trên các địa bàn miền Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ so với cả nước

cho thấy, tình trạng ẩn của tình hình tội buôn lậu nói chung và ở miền Đông Nam

Bộ nói riêng khá cao. Mặc dù hàng hóa buôn lậu, không rõ nguồn gốc vẫn tồn tại

trên thị trường nhưng số lượng vụ án bị xét xử về tội buôn lậu có tỷ lệ thấp. Trên

địa bàn cả nước về số vụ buôn lậu có tỷ lệ xét xử/khởi tố là 47.66%, ở địa bàn miền

Tây Nam Bộ là 45.16%, trong khi ở miền Đông Nam Bộ tỷ lệ này là 28.65%. Điều

đó cho thấy tỷ lệ giữa xét xử và khởi tố về tội này ở miền Đông Nam Bộ là rất thấp.

Ngoài ra, tác giả cũng đã dùng phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát đa

dạng các chủ thể, gồm các chuyên gia, doanh nghiệp và những người tiêu dùng

hàng hóa. Mặt khác, tác giả cũng so sánh, đối chiếu với số liệu trong phần hiện của

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ thông qua số liệu vụ án và

người phạm tội đã bị các cơ quan chức năng xử lý và thông tin về hàng hóa không

rõ nguồn gốc trên thị trường.

Qua nghiên cứu nhiều vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, do “đứt

đoạn” về thông tin đầu vào của hàng hóa ở nước ngoài nên cơ quan chức năng không

thể mở rộng điều tra và vì vậy không mở rộng được vụ án hoặc không thu thập được

những chứng cứ cần thiết để xử lý toàn bộ đường dây buôn lậu. Với câu hỏi: “Mức độ

xảy ra tình hình tội buôn lậu trên địa bàn của Anh (Chị) như thế nào?”, kết quả trả lời

được biểu thị trong biểu đồ sau:

Với câu hỏi: “Kết quả phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn của Anh (Chị) trong

80

thời gian qua có đạt yêu cầu so với tình hình thực tiễn hay không?”, kết quả trả lời:

Với câu hỏi: “Anh (Chị) đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội buôn lậu trên địa

bàn của mình như thế nào theo các mức sau đây?”, kết quả trả lời:

Như vậy, qua nhiều cách tiếp cận trong đó có phương pháp khảo sát, tác giả

cho rằng tỷ lệ ẩn của tội buôn lậu rất cao, mức độ ẩn cấp độ 4 theo các công trình

khoa học về phân loại độ ẩn.

Vùng ẩn

Vùng ẩn của tội buôn lậu là những lĩnh vực có điều kiện thuận lợi để người

phạm tội che giấu hành vi phạm tội của mình. Trong quá trình phạm tội, một trong

những khâu quan trọng và cũng là điểm yếu của người buôn lậu là cất giấu và vận

chuyển hàng hóa qua biên giới, nếu như vận chuyển qua biên giới thành công thì

người buôn lậu sẽ thuận lợi hơn trong việc bán hàng lậu, trộn lẫn hàng hóa vào thị

trường qua các kênh bán lẻ hoặc bán hàng online. Người phạm tội thường cất giấu,

vận chuyển hàng lậu bằng cách giấu vào các lô hàng hoặc container hàng hóa được

nhập khẩu hợp pháp khác hoặc lén lút dùng các phương tiện giao thông như xe, 81

tàu, máy bay, ghe, xuồng hoặc đi bộ qua những vùng ít bị kiểm tra, giám sát để vận

chuyển đến điểm tập kết. Vì vậy, tác giả cho rằng vùng ẩn của tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ là lĩnh vực vận tải hành khách, hàng hóa trên các tuyến

giao thông đường bộ, đường thủy và đối với một số hàng hóa gọn nhẹ, giá trị cao,

người phạm tội sử dụng đường hàng không. Tuy nhiên, phương thức vận chuyển

chủ yếu là lĩnh vực vận tải hàng hóa, hành khách trên các tuyến đường bộ và

đường biển. Để vận chuyển, giao nhận hàng lậu, người phạm tội lựa chọn những

địa điểm, con đường kín đáo.

Ngoài ra, hiện nay thị trường Việt Nam còn tồn tại dưới dạng nhỏ, lẻ với rất

nhiều người tham gia vào hoạt động thương mại, mua bán hàng hóa không đăng ký

kinh doanh và không chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước, một trong

những phương thức điển hình của hình thức này là họ đã lợi dụng thương mại điện

tử để thực hiện hành vi buôn lậu. Do vậy, thị trường mua bán hàng lẻ cũng chính là

vùng ẩn thứ hai của tội buôn lậu; ở các nước phát triển, hàng hóa được phân phối

theo những kênh có tổ chức, từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Với phương thức

ổn định như vậy, khi hàng lậu xuất hiện sẽ dễ bị phát hiện. Hơn nữa, do nhà sản

xuất trực tiếp có kênh phân phối đến người tiêu dùng nên hàng lậu không rẻ hơn

hàng chính hãng. Do vậy, quan sát thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam và

thói quen tiêu thụ hàng rẻ của người tiêu dùng Việt Nam, có thể thấy rằng vùng ẩn

thứ hai chính là thị trường tiêu thụ hàng lẻ ở Việt Nam. Muốn khắc phục điều này

cần phải tăng cường sự đầu tư và sản xuất của các chính hãng ở nước ta. Để kiểm

tra phân tích của mình, tác giả đã đặt câu hỏi: “Hàng lậu thường được phát hiện ở

địa bàn nào”, kết quả trả lời tương thích với phân tích, đánh giá của tác giả về vùng

Địa bàn nhiều dân nghèo, trình độ thấp

82

ẩn của tội buôn lậu như sau:

Từ những kết quả phân tích về vùng ẩn trên, trong phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ cần chú ý vào các tuyến đường giao thông, đặc

biệt là khu vực cửa khẩu. Ngoài ra, cũng cần chú ý những địa bàn đông dân cư, nhiều

cửa hàng bán lẻ các sản phẩm không thuộc các nhà phân phối chính thức.

Nguyên nhân ẩn

Nguyên nhân ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ xuất

phát từ nhiều lý do khác nhau, trước hết là do tính chất tinh vi, bí mật, kín đáo đặc

trưng của loại tội phạm này nên các cơ quan chức năng không phát hiện được, đây là

tội phạm ẩn tự nhiên. Trong nhiều vụ án, người phạm tội giấu hàng lậu lẫn trong các

container hàng hóa khác nhập khẩu hợp pháp mà không khai báo; hoặc lén lút đưa qua

biên giới ở những điểm ít người qua lại, ít có sự giám sát hoặc thực hiện vào những

thời điểm ít có sự giao thông và tuần tra, kiểm soát của lực lượng chức năng.

Một nguyên nhân ẩn của tình hình tội buôn lậu nói chung và ở địa bàn miền

Đông Nam Bộ là việc xử lý các tội danh khác, ví dụ: Tội vận chuyển trái phép hàng

hóa qua biên giới; Tội buôn bán hàng cấm hoặc tội buôn bán hàng giả. Trong nhiều vụ

án, cơ quan chức năng chỉ phát hiện được người vận chuyển, không xử lý được người

buôn lậu (đầu nậu) do thiếu chứng cứ để chứng minh mục đích vận chuyển hàng hóa

qua biên giới nhằm buôn bán kiếm lời. Đây là khó khăn lớn nhất làm cho hầu hết các

trường hợp phát hiện chỉ bị xử lý về tội nhẹ hơn là tội vận chuyển trái phép hàng hóa

qua biên giới. Người buôn lậu thường không có mặt tại hiện trường vụ án, phân tán

hàng hóa thành những lượng nhỏ và thuê người khác vận chuyển lén lút qua biên giới.

Chủ hàng thỏa thuận với người vận chuyển về trường hợp bị phát hiện thì chủ động

vứt bỏ hàng hóa hoặc không khai ra người chủ hàng để trốn tránh trách nhiệm.

Ngoài trường hợp xử lý về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới,

một số hàng hóa đưa qua biên giới là hàng cấm hoặc các hàng hóa có tính năng đặc

biệt mà Bộ luật hình sự đã quy định các tội danh riêng; vì vậy, nhiều vụ án đưa

hàng hóa qua biên giới bị xử lý về tội buôn bán hàng cấm hoặc tội danh riêng tương

ứng. Một trong các nguyên nhân làm ẩn cao tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ là việc xử lý về tội danh buôn bán hàng giả. Theo quy định hiện

hành, tại Nghị định 08/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2013 quy định xử phạt

vi phạm hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả; hàng giả là hàng

hóa có đặc điểm: (i) không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công

dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị

83

sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc

đăng ký; hoặc (ii) Hàng hóa có hàm lượng, định lượng chất chính, tổng các chất

dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với

tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi

trên nhãn, bao bì hàng hóa. Chính vì vậy, khi chủ hàng không kiểm tra hàng hóa

hoặc cố ý lấy nguồn hàng rẻ để kiếm lời nhiều, họ có thể mua bán hàng “fake” vì

vậy khi phát hiện họ có thể bị xử lý về tội buôn báng hàng giả.

Ngoài ra, hiệu quả phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ thời gian qua là chưa cao, hoạt động phát hiện, mở rộng điều tra còn thấp

vì nguồn hàng hóa ở nước ngoài, nhưng việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng

trong và ngoài nước chưa nhịp nhàng, chưa hiệu quả. Có thể thấy rất ít vụ án được

phát hiện, điều tra ở trong nước mà mở rộng bắt giữ được những người chủ mưu,

đầu nậu là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài. Những hạn chế

trong hoạt động hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan

chức năng là một trong những nguyên nhân dẫn đến độ ẩn cao của loại tội này, đây

chính là tội phạm ẩn nhân tạo.

Thống kê tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng, kết quả thống kê càng chính xác

càng giúp cơ quan chức năng phân tích và đánh giá tình hình tội phạm để đưa ra dự

báo và tiến hành các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Theo Thông tư số

05/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 12/11/2018 của VKSND

tối cao, TAND tối cao, Bộ Công An và Bộ Quốc Phòng (Thông tư 05/2018) quy

định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê hình sự thì hoạt động

thống kê gồm thống kê kết quả tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm; thống

kê tội phạm trong giai đoạn khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm, kết quả giải quyết các

vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Trong đó, Viện Kiểm sát nhân dân có trách

nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan trong thống kê hình sự. Các vụ

án được thống kê theo tội danh nghiêm trọng nhất hoặc tội danh có hình phạt cao

nhất của bị can, bị cáo đầu vụ; nếu bị can, bị cáo đầu vụ có nhiều tội danh có cùng

mức độ nghiêm trọng, cùng mức hình phạt thì thống kê theo các tội danh quy định

trong các điều luật của BLHS được áp dụng để khởi tố, truy tố, xét xử từ điều luật

có số nhỏ nhất đến điều luật có số lớn nhất”. Quy định này cho thấy nếu trường hợp

bị can, bị cáo thực hiện nhiều tội phạm thì được thống kê theo nguyên tắc thu hút

về tội danh có khung hình phạt cao hơn. Như vậy, nếu người phạm tội thực hiện

nhiều tội phạm thì họ chỉ được thống kê về tội danh có hình phạt cao hơn, còn tội

84

danh có hình phạt thấp hơn sẽ không được thống kê. Điều này sè làm ẩn một số

lượng không nhỏ tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện, đây chính là sai số

trong thống kê và là một trong các nguyên nhân ẩn, còn gọi là ẩn thống kê. Tại Hội

nghị tổng kết 10 năm thực hiện Thông tư số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC- BCA-

BQP ngày 22/9/2015 (văn bản này đã bị thay thế bằng Thông tư 05/2018 nêu trên),

các cơ quan chức năng cũng đã chỉ ra một trong những nguyên nhân phổ biển của

tội phạm ẩn thống kê là do sự chậm trễ trong báo cáo tình hình tội phạm giữa các

cơ quan với nhau hay cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án thống kê tội phạm

theo một số tiêu chí khác nhau nên thiếu thống nhất. Mặc dù, trong những năm gần

đây các cơ quan đã cố gắng cải thiện số liệu thống kê nhưng vẫn chưa khắc phục

hết các hạn chế. Vì vậy đây vẫn là một trong các nguyên nhân ẩn của tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ trong thời gian qua.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Buôn lậu và tình hình tội buôn lậu là hiện tượng kinh tế - xã hội, xuất hiện từ

khi các hoạt động thương mại phát triển cùng với sự ra đời của hàng rào thuế quan.

Buôn lậu và tội buôn lậu đã và đang là vấn đề hết sức nóng bỏng được dư luận cả

nước quan tâm, là tác nhân cản trở quá trình phát triển của các quốc gia, dân tộc.

Với những đặc trưng của kinh tế, chính trị xã hội và đặc điểm tự nhiên của

miền Đông Nam Bộ, ở khu vực này tình hình tội buôn lậu đang có nhiều diễn biến

phức tạp. Xét trong tổng số vụ án buôn lậu trên cả nước, số vụ buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ chiếm 1/5, một tỷ lệ đáng lo ngại. Trong đó, xét về cấp độ

nguy hiểm thì tình hình tội buôn lậu ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây

Ninh cao nhất, kế đến là Bình Phước. Trong tổng số các tội xâm phạm trật tự quản

lý kinh tế xảy ra ở miền Đông Nam Bộ, tội buôn lậu chiếm tỷ trọng cao. Số vụ buôn

lậu bị phát hiện, xử lý mới chỉ là phần nổi của tảng băng và đang có chiều hướng

gia tăng; thành phần tham gia buôn lậu có nhiều biến động về giới tính, độ tuổi và

nghề nghiệp; phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt... Phần chìm của

tảng băng, hay phần ẩn của tình hình tội buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ cao, đặc

biệt mức độ ẩn rất cao ở tỉnh Đồng Nai khi trong suốt 10 năm không có vụ án buôn

lậu nào được xử lý, các tỉnh Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu cũng chỉ xét xử từ 1

đến 2 vụ. Nguyên nhân ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, trước hết là do tính chất tinh vi, bí mật, kín

đáo đặc trưng của loại tội phạm này. Các vụ án buôn lậu được đưa ra xét xử thường

85

có đồng phạm, trong đó nhiều vụ buôn lậu có sự tiếp tay, bao che của một số cán bộ

thoái hóa, biến chất trong các cơ quan nhà nước càng làm cho tính chất của vụ án

trở nên nghiêm trọng và phức tạp bởi hành vi buôn lậu được che đậy bởi các hành

vi phạm tội khác như nhận hối lộ, cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản

lý kinh tế, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng… gây nhiều khó khăn cho

công tác phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm.

Ngoài ra có những nguyên nhân ẩn đặc thù, đó là hành vi đưa hàng hóa qua

biên giới chỉ phát hiện người vận chuyển nên bị xử lý về tội vận chuyển trái phép

hàng hóa qua biên giới.

Các mặt hàng buôn lậu khá đa dạng, bao gồm hàng điện tử, mỹ phẩm, thực

phẩm chức năng, thực phẩm dinh dưỡng…[Phụ lục 3]. Giá trị hàng hóa của một số

vụ buôn lậu rất lớn. Các phương thức, thủ đoạn hoạt động mà đối tượng buôn lậu

thường sử dụng là không khai báo, khai báo gian dối hàng nhập khẩu; thành lập và

giải thể nhiều công ty (với mục đích chính là để tiêu hủy chứng cứ liên quan đến

hành vi buôn lậu), thành lập các công ty “ma” (thực chất không tồn tại trên thực tế),

làm giả hồ sơ, giấy tờ xuất nhập khẩu; lợi dụng các hình thức tạm nhập, tái xuất,

chuyển khẩu, nhập nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu rồi tiêu thụ hàng hóa

trong thị trường nội địa để trục lợi diễn ra chủ yếu trên các tuyến biên giới đường

bộ, đường thủy và đường hàng không.

Tương quan phần hiện và phần ẩn của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ như tác giả đã phân tích đã tạo nên bức tranh tổng thể về tình hình

tội buôn lậu trên địa bàn. Có thể khẳng định rằng, tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ đang diễn ra hết sức phức tạp cả về quy mô lẫn tính chất, với

những thủ đoạn ngày càng tinh vi và cần thiết phải nâng cao hiệu quả phòng ngừa.

Để phòng ngừa hiệu quả tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ, cần xác định được nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn tại tình hình tội

buôn lậu; từ đó thực hiện đồng bộ các giải pháp. Vì vậy, trong Chương tiếp theo, tác

giả sẽ phân tích về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

86

miền Đông Nam Bộ.

CHƯƠNG 3

NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN

ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ VIỆT NAM

3.1. Khái quát lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

3.1.1. Khái niệm nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ

Mỗi một quá trình, hiện tượng xã hội đều có tính chất hai mặt, vừa mang tính

tích cực nhưng đồng thời cũng có những điểm tiêu cực nhất định. Tình hình tội

phạm là một hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực, phát sinh trong nhiều lĩnh vực

khác nhau của đời sống xã hội, có mối quan hệ và tác động qua lại với các hiện

tượng quá trình xã hội khác. Để phòng ngừa tội phạm, cần nghiên cứu làm sáng tỏ

những hiện tượng, quá trình xã hội làm nảy sinh tội phạm và quy định tội phạm như

là hậu quả của các hiện tượng, quá trình đó. Nếu không xác định được nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội phạm thì không thể đưa ra các giải pháp phòng ngừa

tội phạm. Quá trình nghiên cứu tội phạm nói chung và đối với tội buôn lậu nói riêng

luôn gắn liền với quá trình tìm tòi, phát hiện ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội.

Nguyên nhân của tình hình tội phạm là tập hợp những ảnh hưởng, quá trình xã

hội trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm [31, tr.90]. Nguyên nhân của tình hình tội

phạm là những hiện tượng có trước tội phạm về thời gian. Trong mối quan hệ giữa

nguyên nhân, điều kiện với tình hình tội phạm thì nguyên nhân là nhân tố trực tiếp làm

phát sinh tình hình tội phạm, luôn thể hiện những mâu thuẫn về nhiều mặt trong đời

sống xã hội và những mâu thuẫn này tồn tại một cách ổn định về mặt thời gian.

Điều kiện của tình hình tội phạm là những thiếu sót cụ thể trong các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa… Các điều kiện này không tự mình làm phát

sinh ra tội phạm mà chỉ có tác dụng tạo cơ hội, điều kiện cho quá trình phát sinh

tình hình tội phạm. Hay có thể hiểu, điều kiện của tình hình tội phạm là những nhân

tố không có khả năng trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm, không chứa đựng

những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội nhưng lại tạo ra những khả năng và hoàn

cảnh thuận lợi để nguyên nhân nhanh chóng làm phát sinh tình hình tội phạm. Điều

kiện thường biểu hiện sự sơ hở và thiếu sót trong các hoạt động quản lý nhà nước,

quản lý xã hội. Đó là những nhân tố tồn tại kém ổn định, dễ bị phá vỡ và thay đổi.

87

Bản thân tình hình tội phạm trong xã hội cũng có thể trở thành nguyên nhân

và điều kiện của chính nó làm phát sinh tình hình tội phạm. Nguyên nhân và điều

kiện luôn có sự thay đổi liên tục về mặt lịch sử, một nhóm nguyên nhân và điều

kiện có khả năng làm phát sinh nhiều nhóm tội, loại tội khác và bản thân tình

hình tội phạm cũng được coi là hậu quả đến từ các nhóm nguyên nhân và điều

kiện. Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là tổng hợp

những ảnh hưởng và quá trình xã hội, xác định tình hình tội phạm là hậu quả của

chúng. Đó là toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội làm phát sinh tình hình

tội phạm [31, tr.87].

Những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên các lĩnh vực kinh tế,

xã hội, tư tưởng, chính trị, văn hóa, giáo dục… sẽ dẫn đến việc hình thành các quan

điểm mang tính chống đối xã hội và từ quan điểm này đối tượng sẽ thực hiện hành vi

phạm tội. Bên cạnh việc nghiên cứu, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội thì còn

tìm ra các điều kiện, các hiện tượng có vai trò ngăn ngừa sự ảnh hưởng của các nguyên

nhân và điều kiện của tội phạm, đồng thời khám phá ra cơ chế tác động qua lại giữa

nguyên nhân và điều kiện với nhau dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.

Có thể nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm với ba mức

độ khác nhau, đó là nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

nói chung, của mọi tội phạm; nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình

nhóm tội phạm và nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của loại tội phạm cụ thể.

Đối với tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu được lý

giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân

và kết quả của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả trong triết học Mác-Lênin.

Vận dụng quan điểm này, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội buôn lậu phải dựa trên nền tảng cơ sở lý luận về nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm nói chung và đặc thù tình hình tội buôn lậu nói

riêng. Tình hình tội buôn lậu là một hiện tượng xã hội, sẽ bị đẩy lùi và tiến tới bị

triệt tiêu khi mà các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh ra nó bị hạn chế

hoặc không còn tồn tại.

Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa tình hình tội phạm và các tội phạm cụ thể là

mối quan hệ tuân theo quy luật giữa toàn thể và bộ phận, cái chung và cái đơn nhất,

giữa hệ thống và bộ phận. Theo trình tự vận động của nhận thức bắt nguồn từ nhận

thức sự vật cá biệt và riêng biệt rồi mới tiến gần đến nhận thức sự vật nói chung.

Đầu tiên, người ta nhận thức bản chất riêng biệt của nhiều sự vật khác nhau, rồi sau

88

mới có thể tiến tới việc khái quát và nhận thức bản chất chung của các loại sự vật.

Sau khi đã nhận thức bản chất chung đó, dùng nhận thức chung đó để chỉ đạo, tiếp

tục nghiên cứu những sự vật cụ thể chưa nghiên cứu hoặc nghiên cứu sâu và tìm ra

bản chất riêng biệt của nó. Như thế mới có thể bổ sung, làm phong phú và phát triển

sự nhận thức về bản chất chung đó và làm cho sự nhận thức về bản chất chung đó

khỏi thành cái khô khan, cứng nhắc. Đó là hai quá trình của nhận thức: Một cái từ

riêng đến chung, một cái từ chung đến riêng. Lý luận về tội phạm học Việt Nam

nghiên cứu, lý giải nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung và

nguyên nhân của tội phạm cụ thể, các tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự được

quy định theo Chương, tương ứng với nhóm tội phạm. Tội buôn lậu là một trong

các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại được quy định tại

Điều 188 thuộc mục 1, Chương XVIII của Bộ luật hình sự 2015. Tội phạm này

được áp dụng đối với cả chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là cá nhân và pháp

nhân. Việc quy định pháp nhân phạm tội chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm

buôn lậu là một trong những quy định mới của Bộ luật hình sự 2015.

GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng "Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã

hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình" và

"Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm

nhiều bộ phận cấu thành nó" [73, tr.86]. Nghiên cứu về tội phạm học Mác xít, có quan

điểm cho rằng “...tìm ra mối liên hệ nhân - quả giữa tình hình tội phạm và các hiện

tượng, các quá trình kinh tế - xã hội khác vì mục đích phòng ngừa tội phạm, tức là ngăn

ngừa tội phạm và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” [55, tr.36].

Theo giáo trình tội phạm học của PGS.TS. Dương Tuyết Miên: “Nguyên nhân

của tội phạm là tổng hợp các nhân tố mà sự tác động qua lại giữa chúng đưa đến

việc thực hiện tội phạm của người phạm tội” [28, tr. 98]. Khái niệm này chỉ ra rằng

khi nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, bên cạnh việc chỉ ra,

làm sáng tỏ các hiện tượng xã hội tiêu cực nào có ảnh hưởng đến tình hình tội

phạm, thì còn cần phải nghiên cứu sự tương tác giữa các hiện tượng đó. Chính sự

tương tác của các hiện tượng tiêu cực làm phát sinh, tồn tại tình hình tội phạm.

Trong khái niệm của mình, PGS.TS. Dương Tuyến Miên sử dụng thuật ngữ “các

nhân tố” để chỉ các hiện tượng tiêu cực.

Từ định nghĩa về tình hình tội phạm đã nêu ở Chương 2, có thể thấy rằng mối

quan hệ giữa tình hình tội phạm và các tội cụ thể là mối quan hệ tuân theo quy luật

89

giữa toàn thể và bộ phận, cái chung và cái đơn nhất, giữa hệ thống và bộ phận. Nói

cách khác, tình hình tội buôn lậu là một bộ phận của tình hình tội phạm nói chung.

Nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn tại tình hình tội phạm nói chung cũng là

những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn tại tình hình tội buôn lậu. Tuy

nhiên, với tính chất là cái đơn nhất, tình hình tội buôn lậu có những nguyên nhân và

điều kiện đặc thù.

Tựu chung lại, tội phạm học với tính cách là đối tượng nghiên cứu khoa học,

được các nhà nghiên cứu về tội phạm học nhìn nhận trong tổng thể xã hội “rộng hẹp

khác nhau” nhằm lý giải khoa học và có cơ sở thực tiễn. Nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm được các nhà khoa học về tội phạm học lý giải dựa trên

những hiện tượng và quá trình xã hội. Còn nguyên nhân và điều kiện của các tội

phạm cụ thể được lý giải dựa trên cơ chế tâm lý xã hội của hành vi tội phạm.

Từ những đánh giá chung về quy luật hình thành và phát triển của tội phạm, có

thể thấy những quy luật đó biểu hiện ở các tầng nấc cụ thể như sau [68, tr.187]: Quy

luật xã hội hóa cá nhân, trong đó có chứa khả năng của sự đi lệch ra khỏi quỹ đạo

phát triển nhân cách bình thường; quy luật hình thành, duy trì và phát triển của các

nhóm xã hội, các loại môi trường, trong quá trình tương tác giữa các nhân cách có

sự hình thành và ảnh hưởng của lối sống phạm tội; các quy luật phát sinh và phát

triển của những quá trình lớn trong xã hội có ảnh hưởng đến tình hình tội phạm nói

chung và đến từng cá nhân nói riêng; các quy luật của quá trình vận hành hệ thống

kiểm tra, giáo dục xã hội.

Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể hiểu “Nguyên nhân, điều kiện của tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ là tổng hợp những hiện tượng xã

hội tiêu cực trong sự tương tác với nhau làm phát sinh, tồn tại tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ”.

3.1.2. Phân loại nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ

Có nhiều tiêu chí phân loại nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu

nói chung và tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ nói riêng.

Nhưng thông thường, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu được

phân loại dựa trên các căn cứ sau:

Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động

Căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động, nguyên nhân và điều kiện của tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có thể phân loại thành:

90

- Nguyên nhân và điều kiện chung: đây là những hiện tượng tiêu cực phổ biến

trên cả nước, làm phát sinh tình hình tội buôn lậu trên cả nước nói chung, trong đó

miền Đông Nam Bộ như một bộ phận cấu thành. Đặc điểm của loại nguyên nhân và

điều kiện này là phạm vi và mức độ tác động rộng, mang tính chung, bao quát.

- Nguyên nhân và điều kiện đặc thù mang tính vùng, miền: Đặc điểm của loại

nguyên nhân và điều kiện này là phạm vi và mức độ tác động hẹp hơn nguyên nhân

và điều kiện chung vì gắn với các đặc điểm đặc thù của vùng, miền. Khi nghiên cứu

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ, cần làm rõ những đặc điểm riêng biệt nào chỉ tác động, làm phát sinh và tồn tại

tình hình tội buôn lậu ở địa bàn miền Đông Nam Bộ mà không phải là nguyên nhân,

điều kiện của tình hình tội buôn lậu ở những địa bàn khác. Những hiện tượng, đặc

điểm tiêu cực đặc thù làm phát sinh, tồn tại tình hình tội buôn lậu ở địa bàn miền

Đông Nam Bộ liên quan chặt chẽ đến những đặc điểm về vị trí địa lý, dân cư, kinh

tế, xã hội và văn hóa của vùng miền này.

- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể: là nguyên nhân và điều kiện

có phạm vi, mức độ tác động hẹp nhất, chỉ tác động đến từng cá nhân người phạm

tội, trong một tình huống, hoàn cảnh phạm tội cụ thể và do vậy nguyên nhân, điều

kiện của tội phạm cụ thể luôn là những tình huống và sự kiện mang tính đơn nhất và

chỉ làm phát sinh một hành vi phạm tội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nguyên nhân,

điều kiện của những tội buôn lậu cụ thể sẽ giúp nhà tội phạm học tìm ra quy luật

chung để từ đó triển khai các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

Thứ hai, căn cứ vào nội dung của sự tác động

Căn cứ vào nội dung của sự tác động, có thể phân loại nguyên nhân, điều kiện

của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ như sau:

- Nguyên nhân và điều kiện về đặc điểm tự nhiên: đối với tội buôn lậu, đây là

những đặc điểm về vị trí địa lý tự nhiên của miền Đông Nam Bộ như đặc điểm biên

giới, tuyến giao thông mà người phạm tội có thể khai thác vào việc thực hiện tội phạm.

- Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế xã hội: đây chính là những mâu thuẫn,

hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

làm phát sinh và tồn tại tình hình tội buôn lậu tại đây.

- Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa – giáo dục, tâm lý xã hội: thể hiện sự

xung đột và mâu thuẫn của các loại trào lưu, giá trị văn hóa, phong tục tập quán,

thói quen sở thích và thị hiếu của một bộ phận dân cư không phù hợp với chuẩn

91

mực xã hội hiện đại.

- Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức, quản lý xã hội: phát sinh chủ yếu từ

những sai sót yếu kém, mâu thuẫn trong các hoạt động quản lý.

- Nguyên nhân và điều kiện về pháp luật: đây chính là những hạn chế trong hệ

thống pháp luật quy định về thuế, hải quan, chế độ ngoại thương và các quy định

của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để xử lý tội buôn lậu.

- Nguyên nhân và điều kiện về hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tội phạm:

đây chính là những hạn chế trong thực tiễn phòng ngừa tội phạm mà chính bản thân

nó trở thành nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ.

Thứ ba, căn cứ vào nguồn gốc hình thành có thể phân loại thành:

- Nguyên nhân và điều kiện chủ quan: Đến từ phía các chủ thể hoạt động

phòng, chống tội phạm, từ nội tại của các quốc gia nơi có tình hình tội phạm tồn tại,

phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, do con người thực hiện tác động đến

sự vật, hiện tượng trong xã hội.

- Nguyên nhân và điều kiện chủ quan của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đồng Nam Bộ chính là tổng hợp các hiện tượng kinh tế, xã hội, chính trị, tư

tưởng, tâm lí xã hội, tổ chức trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, mang tính chất tiêu

cực, phát sinh từ nội tại, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, do con người

tác động, thực hiện làm phát sinh, quyết định tình hình tội buôn lậu trên địa bàn.

- Nguyên nhân và điều kiện khách quan: Là những nhân tố tác động từ những

xu thế quá trình mang tính khu vực và quốc tế. Là những nguyên nhân tác động đến

sự vật, hiện tượng, tồn tại bên ngoài ý chí chủ quan của con người, không phụ thuộc

vào ý chí chủ quan của con người.

Như vậy, nguyên nhân và điều kiện khách quan của tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đồng Nam Bộ chính là tổng hợp các hiện tượng kinh tế, xã hội, chính

trị, tư tưởng, tâm lí xã hội, tổ chức trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, mang tính chất

tiêu cực tồn tại bên ngoài ý chí chủ quan của con người, tác động qua lại và thâm

nhập lẫn nhau, làm phát sinh, quyết định tình hình tội buôn lậu.

Khi nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu, tác giả sẽ

tiếp cận từ cách phân loại theo nội dung của sự tác động (cách phân loại thứ 2 như đã

trình bày ở trên). Đồng thời, tác giả cũng lồng ghép với cách phân loại thứ nhất để

92

làm sáng tỏ những nguyên nhân, điều kiện có tính đặc thù của miền Đông Nam Bộ.

3.2. Các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ

3.2.1. Nguyên nhân, điều kiện về đặc điểm địa lý, tự nhiên

Như số liệu đã nêu trong Chương 2, miền Đông Nam Bộ là khu vực có tỷ

trọng tội buôn lậu cao so với cả nước (chiếm hơn 1/5 tổng số vụ). Hàng hóa buôn

lậu được vận chuyển vào miền Đông Nam Bộ qua tất cả các tuyến giao thông gồm

đường bộ, đường hàng không và đường thủy.

Hàng hóa buôn lậu được vận chuyển qua tuyến biên giới đường bộ tiếp giáp 2

tỉnh Tây Ninh và Bình Phước với Vương quốc Campuchia tập trung chủ yếu qua

biên giới Tây Ninh để thuận lợi cho việc vận chuyển về thành phố Hồ Chí Minh

tiêu thụ, do khoảng cách địa lý và hạ tầng giao thông thuận tiện giữa Tây Ninh và

thành phố Hồ Chí Minh. Đây cũng là lý do giải thích vì sao cùng có biên giới đường

bộ với Campuchia nhưng số vụ án buôn lậu được phát hiện và xử lý trên địa bàn

tỉnh Tây Ninh nhiều hơn rất nhiều so với tỉnh Bình Phước. Hàng hóa buôn lậu được

vận chuyển vào miền Đông Nam Bộ qua tuyến đường hàng không và đường thủy

tập trung chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh với nhiều cảng biển và cảng hàng

không quốc tế Tân Sơn Nhất. Đặc điểm thuận lợi về địa lý và tự nhiên của miền

Đông Nam Bộ đã đóng góp vào nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh, tồn tại tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn.

Đông Nam Bộ là một trong hai phần của Nam Bộ Việt Nam, có tên gọi khác

ngắn gọn được người dân Việt Nam thường gọi là Miền Đông. Đông Nam Bộ có diện

tích chiếm 7,5% diện tích cả nước (gần 23,6 nghìn km2) với dân số chiếm 18,5% tổng

dân số cả nước. Đông Nam Bộ được cấu thành bởi 6 tỉnh, thành phố: thành phố Hồ Chí

Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai.

Đông Nam Bộ là khu vực tập trung nhiều đô thị nằm giữa các tỉnh Nam Trung

Bộ và Nam Tây Nguyên, phía Tây và Tây Nam giáp Đồng bằng sông Cửu Long,

phía Tây Bắc giáp với Campuchia có cửa khẩu Tây Ninh tạo mối giao lưu rộng rãi

với Campuchia, Thái Lan, Lào, Myanmar. Phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông

với biên giới biển và các tuyến giao thông hàng hải [101].

Như vậy, Đông Nam Bộ là vùng có vị trí địa lý đặc biệt, thuận tiện trong giao

lưu kinh tế, thông thương qua các cảng biển cả trong và ngoài nước. Là trung tâm ở

khu vực Đông Nam Á, cầu nối vùng Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ với

Đồng bằng sông Cửu Long nên có ý nghĩa quan trọng đến sự phát triển kinh tế – xã

93

hội của vùng,tạo khả năng giao lưu kinh tế với các vùng xung quanh và quốc tế, đây

là đặc điểm thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và chính vì vậy người phạm tội

đã khai thác đặc điểm này của miền Đông Nam Bộ vào việc buôn lậu hàng hóa.

Vị trí địa lý của miền Đông Nam Bộ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng đồng thời cũng tạo nên nhiều cơ hội cho người buôn

lậu khai thác, tiêu thụ hàng lậu; vì vậy thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, đa

dạng, phức tạp.

Bên cạnh những đặc điểm về vị trí địa lý, miền Đông Nam Bộ còn sở hữu

những điều kiện tự nhiên mang nét đặc trưng riêng. Đất đai chủ yếu là đất xám, đất

ba-zan thích hợp trồng cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu, mía đường, thuốc lá,

hoa quả…Địa hình Đông Nam Bộ chủ yếu là đồi núi thấp và thoải, từ Tây Bắc

xuống Đông Nam độ cao giảm dần tạo thuận lợi trong hoạt động xây dựng. Khí hậu

thuộc loại cận xích đạo gió mùa, nóng ẩm quanh năm thích hợp cho việc trồng trọt

cả 4 mùa. Sông ngòi có sông Đồng Nai có giá trị về thủy điện đồng thời cung cấp

nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt của con người. Nguồn tài nguyên rừng không

nhiều nhưng vẫn đảm bảo được sự sống cho sinh thủy ở các sông và là địa điểm du

lịch thú vị thích hợp cho việc phát triển du lịch. Biển có nhiều thủy, hải sản, biển

ấm và ngư trường rộng, đặc biệt gần đường hàng hải quốc tế thuận lợi cho khai

thác, đánh bắt. Đông Nam Bộ là khu vực thuận lợi cho phát triển khai thác dầu khí

thềm lục địa, đánh bắt hải sản và du lịch biển.

Với những đặc điểm tự nhiên như vậy, miền Đông Nam Bộ được đánh giá là

vùng đất tiềm năng, với nhiều nguồn tài nguyên, điều kiện phát triển tốt, là địa điểm du

lịch nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử có giá trị lớn. Điều kiện tự nhiên này đã tạo thuận

lợi cho miền Đông Nam Bộ trở thành một trong các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.

Như đã phân tích về thực trạng (mức độ) của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ, các tỉnh có số vụ buôn lậu xảy ra nhiều là thành phố Hồ Chí Minh, Tây

Ninh và Bình Phước. Đây là những tỉnh, thành phố có sự giao lưu kinh tế lớn, khối

lượng hàng hóa lưu thông và nhu cầu tiêu dùng hàng hóa cao.

Tóm lại, đặc điểm địa lý, điều kiện tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ là những

yếu tố thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của vùng; nhưng đồng thời

cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo điều kiện cho tội buôn lậu gia tăng và

diễn biến phức tạp.

3.2.2. Nguyên nhân, điều kiện về kinh tế, xã hội

Tội buôn lậu là loại tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; vi phạm chế độ quản

94

lý nhà nước về ngoại thương. Nói cách khác, tội buôn lậu liên quan chặt chẽ đến sự

giao thương hàng hóa và các chính sách, hàng rào thuế quan. Vì thế, nguyên nhân

và điều kiện về kinh tế - xã hội là một trong những nguyên nhân, điều kiện quan

trọng làm phát sinh, tồn tại tình hình tội buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ.

Để có cơ sở phân tích nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ từ khía cạnh kinh tế, xã hội, tác giả đã tiến hành khảo

sát những nơi hay xảy ra tội buôn lậu hàng hóa. Kết quả khảo sát cho thấy, tội buôn

lậu thường xảy ra ở những nơi cửa khẩu giao thông, nơi tập trung dân cư, phát triển

kinh tế [Phụ lục 1]. Ở khía cạnh này, Đông Nam Bộ được đánh giá là vùng có kinh

tế phát triển nhất Việt Nam, dẫn đầu cả nước về xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước

ngoài, tổng sản phẩm quốc nội, cũng như nhiều yếu tố kinh tế - xã hội khác. Đây

chính là điều kiện cho tình hình tội buôn lậu tồn tại và diễn biến phức tạp.

Đến nay, miền Đông Nam bộ chiếm khoảng 40% GDP cả nước, đóng góp hơn

60% thu ngân sách quốc gia, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính theo đầu người cao

gần gấp 2,5 lần mức bình quân cả nước; có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất nước; tốc độ tăng

trưởng kinh tế của vùng luôn cao hơn khoảng 1,4 đến 1,6 lần tốc độ tăng trưởng bình

quân chung cả nước [101]. Tốc độ tăng trưởng này dẫn đến sự tập trung đông dân cư ở

các tỉnh, thành phố thuộc miền Đông Nam Bộ; đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh.

Người dân di cư đến đây để lao động sản xuất, sinh sống và tiêu dùng khối lượng lớn

hàng hóa. Để tiết kiệm chi tiêu, có một phần dân số thích dùng hàng ngoại nhập, hàng

hiệu giá rẻ. Chính vì vậy, miền Đông Nam Bộ trở thành thị trường tiêu thụ hàng buôn

lậu nhiều tiềm năng.

Một cách tổng quát, mức độ phát triển kinh tế của vùng Đông Nam Bộ nhìn

chung cao hơn cả nước ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực (công nghiệp công nghệ

cao, dịch vụ du lịch, viễn thông, tài chính, ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng và triển

khai, đào tạo nhân lực). Đông Nam Bộ là trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả

nước. Một mạng lưới dày đặc các khu công nghiệp, tập trung ở các tỉnh, thành lớn,

nhất là thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, theo số liệu đã phân tích ở Chương 2

và Phụ lục 1, tình hình tội buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ chiếm 1/5 so với cả nước,

và xét theo địa giới hành chính thì tình hình tội buôn lậu chiếm tỷ trọng cao nhất ở

Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, Đông Nam Bộ là vùng có hệ thống kết cấu hạ tầng khá đồng bộ,

tập trung các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, trung tâm y tế, nguồn nhân lực

dồi dào và có kỹ năng, là địa bàn có môi trường đầu tư hấp dẫn. Trong vùng đã hình

95

thành mạng lưới đô thị vệ tinh, trong một không gian mở thông thoáng, có tính liên

kết với nhau thông qua các tuyến trục và vành đai đang được xây dựng. Vùng Đông

Nam Bộ còn là "Trung tâm hội nhập quốc tế" lớn nhất nước với Cảng biển trung

chuyển quốc tế Cái Mép - Thị Vải (đã định hình), Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và

Cảng hàng không trung chuyển quốc tế Long Thành (sẽ được xây dựng). Sự thuận

lợi về tuyến giao thông bên cạnh những yếu tố tích cực đã trở thành điều kiện quan

trọng để người buôn lậu vận chuyển hàng hóa, che giấu hành vi phạm tội trong quá

trình vận chuyển hàng hóa ra vào cảng biển, cảng hàng không và đan lẫn vào sự

giao thông dày đặc của người và hàng hóa trong vùng.

Miền Đông Nam Bộ là vùng kinh tế động lực quan trọng hàng đầu của cả

nước, là cầu nối của Việt Nam ra thế giới. Song song với việc kinh tế ngày càng

phát triển, thì tình hình tội phạm cũng theo đó càng gia tăng, với nhiều thủ đoạn tinh

vi, trong đó phải kể đến là sự gia tăng về tình hình tội buôn lậu tại các tuyến biên

giới trên đất liền và buôn lậu trên tuyến đường biển.

Đông Nam Bộ là nơi đông dân, mật độ dân số cao với tỉ lệ dân thành thị cao

nhất nước ta. Ngoài ra, vì miền Đông Nam Bộ là trung tâm kinh tế - xã hội nên sự

di cư dân từ nơi khác đến để sinh sống và tìm việc làm ngày càng đông gây nên sự

báo động về dân số [101].

Theo kết quả điều tra dân số đến năm 2019, tổng dân số của vùng Đông Nam

Bộ là 17.828.907 người (không kể số người tạm trú lâu dài) trên một diện tích là

23.564,4 km², với mật độ dân số bình quân 706 người/km², chiếm khoảng 18,5%

dân số cả nước. Đây là khu vực kinh tế phát triển nhất Việt Nam, có tỷ lệ đô thị hóa

62,8% [104].

Mật độ dân số cao, tỉ lệ dân di cư đến vùng Đông Nam Bộ lớn, nhu cầu sử

dụng hàng hóa của người dân ngày càng cao, nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày

càng có sự thay đổi, yêu cầu của người tiêu dùng tăng cả về số lượng và chất lượng

cũng như hình thức, mẫu mã của sản phẩm hàng hóa. Dân đông, nhu cầu sử dụng

hàng hóa càng cao, là một trong những yếu tố kích thích nền sản xuất của xã hội

phát triển nhưng khi nền sản xuất còn mất cân đối, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng

yêu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng lậu xâm

nhập vào.

Mặt khác, dân đông, tỉ lệ thất nghiệp cao cũng là một trong những yếu tố

khiến tình hình tội buôn lậu phát sinh và gia tăng. Lợi nhuận do buôn lậu mang lại

là rất lớn, là điều hấp dẫn đối với các đối tượng có mong muốn kiếm tiền bất chính.

96

Trên thị trường có rất nhiều mặt hàng lậu khác nhau, có những mặt hàng hóa tiêu

dùng thông thường có giá trị nhỏ, nhưng cũng có những mặt hàng có giá trị rất cao

như: rượu ngoại, điện thoại, máy tính, thuốc tân dược nhập ngoại, đặc biệt là các

loại đá quý như kim cương, vàng và ngoại tệ.... Theo đánh giá của một số chuyên

gia trong Hiệp hội thuốc lá thì buôn lậu thuốc lá tại Việt Nam đang thu siêu lợi

nhuận chỉ sau buôn ma túy. Cụ thể, thuốc lá nhãn hiệu Hero chênh lệch từ 8.000-

10.000 đồng/bao; Jet 10.000-12.000 đồng/bao; Esse 3.500-4.000 đồng/bao. Vì siêu

lợi nhuận nên các đối tượng xấu tìm mọi cách, thủ đoạn tinh vi để nhập lậu thuốc

lá. Hay như mặt hàng điện thoại Iphone 7, nếu mua ở nước ngoài thì một chiếc

có giá 600USD (khoảng 15 triệu đồng) thì về đến Việt Nam, giá thị trường lên đến

25 triệu đồng; tương tự, một chiếc Iphone 7 Plus giá 800USD (19 triệu đồng) thì về

Việt Nam giá 30 triệu đồng [21]. Chính vì lợi nhuận cao do các mặt hàng lậu đem

lại đã kích thích các đối tượng sử dụng mọi thủ đoạn, tìm mọi cách để thực hiện

hành vi buôn lậu.

Tóm lại, Đông Nam Bộ là vùng có nền kinh tế phát triển mạnh, đặc điểm dân

cư đa dạng, phong phú. Sự phát triển kinh tế của vùng Đông Nam Bộ đã có nhiều

đóng góp to lớn vào sự phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, việc kinh tế Đông

Nam Bộ phát triển, lượng dân cư đông cũng kéo theo việc nảy sinh những tệ nạn,

những vấn đề phức tạp gây ảnh hưởng đến hoạt động quản lý kinh tế, trật tự an toàn

của xã hội. Đặc biệt là việc phát sinh và gia tăng tình hình tội buôn lậu. Bởi vậy,

đặc điểm kinh tế, đặc điểm dân cư cũng là một trong những nguyên nhân, điều kiện

chung của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

3.2.3. Nguyên nhân, điều kiện về văn hóa, giáo dục và tâm lý xã hội

Nguyên nhân, điều kiện về văn hóa, giáo dục

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra

bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện

trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau,

liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Khi nghiên cứu

quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã

khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ bản là "sản xuất

vật chất" và "sản xuất tinh thần". Do đó, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và

văn hóa tinh thần [103].

Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh

97

trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá

trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.

Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí, nguyên tắc chi

phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói riêng, chi phối hoạt động ứng

xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được con người sáng tạo và

tích lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và

những phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.

Văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt

động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.

Giáo dục là một quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm

chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sống xã hội, lao động sản xuất, bằng cách tổ chức

việc truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người. Giáo dục

được hiểu dưới hai góc độ [95]:

Một là, giáo dục được xem như là tập hợp các tác động sư phạm đến người

học với tư cách là một đối tượng đơn nhất;

Hai là, giáo dục được xem như là một hoạt động xã hội, dạng tái sản xuất ra

lực lượng lao động mới. Ở đây, đối tượng là thế hệ trẻ, là tập hợp các đối tượng đơn

nhất. Giáo dục là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động;

Như vậy, có thể hiểu giáo dục là một quá trình hoạt động có ý thức, có mục

đích, có kế hoạch của một người hay một nhóm người nhằm tác động vào hệ

thống nhận thức của con người, để làm phát triển trí thông minh, phát triển khả

năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan và làm phát triển nhận thức của

người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có những phẩm chất phù hợp với

yêu cầu được đặt ra. Giáo dục làm tăng trưởng trí thông minh căn bản và tính

hướng thiện của con người.

Giáo dục còn được hiểu là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng và

thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự

hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm

nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận hay hành động

đều có thể được xem là có tính giáo dục.

Đối với tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, hành vi phạm tội được

xác định xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ trình độ văn

hóa và khả năng nhận thức của người phạm tội, thường là người phạm tội có lối

98

sống không lành mạnh; lười lao động, ham hưởng thụ, không có việc làm; có thói

quen và quan hệ xã hội xấu; trình độ văn hóa thấp, nhận thức pháp luật từ hạn chế

đến những người có trình độ văn hóa cao, hiểu biết pháp luật. Những nguyên nhân

này, tiêu điểm đều xuất phát từ quan hệ giáo dục.

Như đã phân tích trong Bảng cơ cấu về độ tuổi của người phạm tội ở chương 2

của luận án, một trong những nhóm người phạm tội buôn lậu khá phổ biến ở miền

Đông Nam Bộ là ở độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm tỷ lệ 23.53% trong tổng số người

phạm tội buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ, đây là độ tuổi đã có một trình độ và sự

hình thành văn hóa cá nhân nhất định. Chính do sự sai lệch trong nhận thức về các

giá trị trong cuộc sống đã dẫn đến những cá nhân này thực hiện hành vi phạm tội.

Mặt khác, qua khảo sát 43 vụ án buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ về cơ cấu trình độ

văn hóa của người phạm tội cho thấy, người phạm tội ở nhóm người có trình độ văn

hóa thấp chiếm tỷ lệ khá cao, trong đó người không biết chữ chiếm tỷ lệ 9%, tiểu

học 22%; người không có việc làm chiếm tỷ lệ 7%, người kinh doanh tự do, làm

thuê chiếm tỷ lệ cao 46%. Chính vì vậy, việc đề cao giáo dục, hình thành nhân cách

con người là một trong những yêu cầu thiết yếu góp phần quan trọng vào hoạt động

phòng ngừa tội buôn lậu. Trong đó, gia đình được coi là cái nôi, ảnh hưởng trực tiếp

đến việc hình thành nhân cách con người, vì vậy việc giáo dục thông qua gia đình là

rất quan trọng. Mặt khác, hoạt động giáo dục, nâng cao nhận thức và đạo đức của

con người trong nhà trường và xã hội thông qua các chương trình đào tạo, tuyên

truyền cũng quan trọng không kém. Để hoạt động giáo dục nhằm phòng ngừa hạn

chế tội phạm đạt hiệu quả thì cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà

trường và toàn xã hội.

Một khi trình độ văn hóa, khả năng nhận thức của con người được nâng cao,

nhận thức được việc buôn lậu, tác hại của buôn lậu, hành vi buôn lậu là sai trái thì

việc phát sinh, thực hiện hành vi phạm tội nói chung, phạm tội buôn lậu nói riêng sẽ

được hạn chế và đẩy lùi.

Buôn lậu và gian lận thương mại ở nước ta đã xuất hiện từ nhiều năm nay và

đặc biệt phát triển sau khi nước ta mở cửa thị trường, tăng cường hội nhập với diễn

biến ngày càng phức tạp trên tất cả các tuyến, bằng nhiều hình thức khác nhau. Là

quốc gia đang phát triển có quy mô dân số hơn 90 triệu người, nằm ở trung tâm khu

vực sản xuất năng động của thế giới. Khi nền sản xuất của nước ta còn nhỏ bé, sức

cạnh tranh yếu đối với hàng hóa ngoại thì Việt Nam nói chung và Đông Nam Bộ

nói riêng là địa điểm hấp dẫn đối với hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và

99

hàng giả.

Nguyên nhân, điều kiện về tâm lý xã hội

Con người luôn sống trong một môi trường xã hội nhất định: gia đình, trường

học, môi trường làm việc. Trong quá trình đó, các cá nhân có sự tác động qua lại lẫn

nhau. Sự tác động này đã điều chỉnh thái độ, hành vi của cá nhân và nhóm dẫn đến

quá trình xã hội hoá cá nhân, hình thành nên những hiện tượng tâm lý đặc trưng của

nhóm. Tâm lý xã hội bao gồm những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội

nảy sinh từ tác động qua lại trong hoạt động và giao tiếp giữa các thành viên trong

nhóm, chi phối thái độ hành vi của các cá nhân khi hiện diện trong nhóm. Những

hiện tượng tâm lý xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau, chi phối lẫn nhau.

Tâm lý xã hội thể hiện qua dư luận xã hội trở thành chuẩn mực điều chỉnh hành

vi của cá nhân. Dư luận xã hội là một biểu hiện đặc trưng của tâm lý xã hội. Đó là

thái độ của cộng đồng, của xã hội đối với một vấn đề gì đó, đặc biệt là đối với những

vấn đề có tính tiêu cực. Khi dư luận xã hội lên tiếng thì cá nhân không dám hoặc e

ngại thực hiện một hành vi nào đó có tính lệch chuẩn. Trái lại, khi dư luận xã hội

không lên tiếng thì cá nhân sẵn sàng thực hiện hành vi lệch chuẩn của mình [15].

Tâm lý xã hội là tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội trong một cộng đồng người

nó đan xen vào nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong tâm lý xã hội có sự hiện diện

tâm lý của các cá nhân và trong tâm lý cá nhân có dấu ấn của tâm lý xã hội.

Tâm lý xã hội có diễn biến rất phức tạp mặc dù được hình thành và phát triển có

quy luật. Khi xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên

phức tạp và đa dạng, sẽ dẫn đến nảy sinh nhiều các hiện tượng tâm lý xã hội khác

nhau. Việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng

trong thực tiễn hiện nay. Nghiên cứu tâm lý xã hội giúp cho chúng ta hiểu được bản

chất và vai trò của tâm lý con người, tâm lý của cộng đồng người. Vì con người chủ

yếu sống trong các nhóm xã hội. Các nhóm xã hội này cũng là nhân tố quyết định

hình thành và phát triển nhân cách của con người. Các nhóm xã hội là các thành tố

tạo nên xã hội. Hay nói cách khác, xã hội được hình thành từ các nhóm xã hội. Khi cá

nhân muốn thể hiện, khẳng định quan điểm, năng lực và tính cách của mình thì anh ta

phải thể hiện qua các nhóm xã hội mà anh ta là thành viên, qua cộng đồng mà anh ta

sinh sống chứ không phải thể hiện khi anh ta sống đơn lẻ. Chỉ qua nghiên cứu tâm lý

xã hội chúng ta mới hiểu được đầy đủ hơn tâm lý của con người.

Vùng Đông Nam Bộ là địa bàn vô cùng phức tạp, ẩn chứa nhiều tiềm năng

phát triển và cũng kéo theo những hệ lụy của quá trình phát triển, đời sống xã hội ngày

100

càng thay đổi, nhu cầu của nhân dân càng tăng và có cung thì phải có cầu, trong tình

hình như vậy nhưng sức sản xuất trong nước không đáp ứng được và nạn buôn lậu nảy

sinh trên những điều kiện tâm lý xã hội sau:

Thứ nhất, do nhu cầu sử dụng hàng hóa của người dân ngày càng cao, nhưng

nền sản xuất của nước ta còn mất cân đối, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu,

thị hiếu của người tiêu dùng. Trong khi đó, hàng hóa tại thị trường các nước khác như

Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả các quốc gia châu Âu như Anh,

Pháp, Đức... rất đa dạng, phong phú về chủng loại, luôn thay đổi về hình thức, mẫu

mã, chất lượng khá tốt, giá cả thị trường thấp hơn hoặc chỉ ngang bằng hàng hoá

cùng loại sản xuất trong nước nên hàng nhập lậu có giá thấp hơn hàng hóa sản xuất

trong nước. Mặt khác, nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng có sự thay đổi, yêu

cầu của người tiêu dùng tăng cả về số lượng và chất lượng cũng như hình thức, mẫu

mã của sản phẩm hàng hóa. Mức sống của đại bộ phận nhân dân đã cao hơn nhiều so

với trước đây, không chỉ dừng ở mức “ăn no, mặc ấm” mà phải “ăn ngon, mặc đẹp” và

xu thế sính hàng ngoại ngày càng lan rộng trong đại bộ phận nhân dân không phân biệt

tầng lớp. Đa số người dân vùng Đông Nam Bộ có mức sống khá và nhu cầu tiêu dùng

lớn, các khu công nghiệp thu hút lao động từ khắp nơi trên cả nước là thị trường rộng

lớn cho việc tiêu thụ các mặt hàng, trong khi đó các mặt hàng sản xuất trong nước

nghèo nàn về mẫu mã, hạn chế về chất lượng không đủ sức cạnh tranh và lôi kéo được

người tiêu dùng ủng hộ cho hàng trong nước, khẩu hiệu “người Việt Nam ưu tiên dùng

hàng Việt Nam” chỉ đúng với một số mặt hàng rất nhỏ. Sự phổ biến của công nghệ

thông tin tạo điều kiện cho người tiêu dùng tiếp cận được nhiều mặt hàng từ nhiều quốc

gia trên thế giới đáp ứng được thị hiếu của họ nhưng nếu nhập khẩu bằng con đường

chính ngạch sẽ chịu thuế xuất cao và quá trình kiểm duyệt khắt khe. Xuất phát từ nhu

cầu đó, hàng hóa do nước ngoài sản xuất có xu hướng cạnh tranh và tìm cách xâm

nhập vào thị trường nước ta bằng con đường buôn lậu [21]. Ngoài ra, cũng còn tồn

tại tâm lý muốn sử dụng hàng hóa rẻ tiền của một bộ phận người dân, họ cho rằng

không cần tốn nhiều chi phí chi trả cho hàng hóa cùng nhãn mác để mua hàng hóa nhập

khẩu chính ngạch. Điều này dẫn tới sự tồn tại nhu cầu sử dụng hàng nhập lậu và vì thế

tạo điều kiện cho tội buôn lậu phát triển.

Thứ hai, xuất phát từ lợi nhuận do buôn lậu mang lại, còn tồn tại tâm lý muốn

làm giàu nhanh, muốn hưởng thụ nhưng không phải lao động. Thực tế cho thấy tình

hình buôn lậu diễn biến phức tạp do chính lợi nhuận mà hàng lậu mang lại. Bên

cạnh đó đời sống người dân khu vực giáp ranh còn thấp, thiếu công ăn việc làm,

101

thiếu thu nhập và buôn lậu là cách để có thêm thu nhập. Trên thị trường có rất nhiều

mặt hàng lậu khác nhau, có những mặt hàng hóa tiêu dùng thông thường có giá trị nhỏ

nhưng cũng có những mặt hàng có giá trị rất cao như: rượu ngoại, điện thoại, máy tính,

thuốc tân dược nhập ngoại, đặc biệt là các loại đá quý như kim cương, vàng, đá quý,

ngoại tệ.... Theo đánh giá của một số chuyên gia trong Hiệp hội thuốc lá thì buôn lậu

thuốc lá tại Việt Nam đang thu siêu lợi nhuận chỉ sau buôn ma túy. [21]

Thứ ba, phổ biến trong cộng đồng dân cư vẫn còn tâm lý thờ ơ đối với

hoạt động chống buôn lậu, cho rằng đó chỉ là nhiệm vụ của cơ quan chức

năng. Có thể thấy rằng, hiện nay chống buôn lậu chưa được xã hội coi trọng.

Người dân thường cho rằng đó là việc của cơ quan chức năng, chứ không mấy

để tâm đến hoạt động buôn lậu. Hoạt động giáo dục và tuyên truyền cần tập

trung cho người dân nhận thức được tác hại của hoạt động buôn lậu là việc

mang những hàng hóa không đóng thuế, không được kiểm duyệt vào thị

trường Việt Nam sẽ không những ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế mà nó

còn ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người dân. Từ đó, người dân sẽ

tham gia tích cực vào hoạt động đấu tranh phòng, chống hoạt động buôn lậu.

Chưa gắn quyền lợi và trách nhiệm của người dân đối với hoạt động buôn lậu để

người dân ý thức được những tác hại của buôn lậu mang đến cho nền kinh tế nên

chưa tích cực tham gia đẩy lùi buôn lậu làm trong sạch nền kinh tế. [21]

3.2.4. Nguyên nhân, điều kiện về pháp luật

Trước hết là vấn đề lập pháp, hệ thống các văn bản pháp quy chưa được xây

dựng hoàn thiện, chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời, để luôn đảm bảo tính hiệu

quả và phù hợp với thực tế. Theo các cơ quan chức năng, hiện việc triển khai các

biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn rất khó khăn bởi hiện hệ thống pháp

luật của nước ta chưa đồng bộ, còn chồng chéo, pháp luật vừa thiếu, nhiều điều luật

lại chưa phù hợp dẫn đến việc áp dụng khó khăn, kém hiệu quả. Hệ thống luật pháp

hiện thiếu đồng bộ, quy chế, quy trình chưa đầy đủ, phân định trách nhiệm chưa rõ

ràng, phối hợp giữa các lực lượng chưa chặt chẽ.

Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu và chống

buôn lậu còn chung chung, thiếu những chế tài cụ thể và nghiêm minh, không đồng

bộ hoặc sơ hở để tội phạm lợi dụng buôn lậu, buôn bán hàng cấm, vận chuyển trái

phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Theo Điều 188 Bộ luật hình sự năm 2015 thì

tội buôn lậu được định nghĩa là buôn bán trái phép qua biên giới, tuy nhiên khái

niệm “biên giới” hiện nay đã thay đổi rất nhiều. Trên thực tế, trong hoạt động đấu

102

tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trên biển thì việc xác định yếu tố biên giới là

rất khó khăn vì hoạt động đi lại của các tàu hàng được điều chỉnh theo Luật biển và

Công ước quốc tế về hàng hải [30].

Về pháp luật hình sự, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

(sau đây viết tắt là BLHS năm 2015) đã mở rộng khái niệm tội phạm quy định tại

Điều 8 thì chủ thể của tội phạm bao gồm cả pháp nhân thương mại phạm tội. Đồng

thời, Điều 76 BLHS năm 2015 quy định phạm vi tội phạm mà pháp nhân thương

mại phải chịu trách nhiệm hình sự, trong đó có tội buôn lậu. Mặt khác, Điều 441 Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có quy định về những vấn đề cần phải chứng

minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội. Tuy nhiên, cho đến nay

những quy định rất mới này của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 vẫn chưa có

văn bản hướng dẫn, trong khi nhận thức của những người tiến hành tố tụng về các vấn

đề này còn hạn chế, còn tồn tại các quan điểm khác nhau, thiếu thống nhất. Chính sự

thiếu vắng các văn bản hướng dẫn trong bối cảnh lần đầu tiên nước ta quy định trách

nhiệm hình sự của pháp nhân là một trong những nguyên nhân, điều kiện tồn tại của

tình hình tội buôn lậu do pháp nhân thương mại thực hiện.

Trước đây, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) chưa quy định

trường hợp buôn bán qua biên giới hàng cấm hoặc hàng giả thì bị truy cứu trách

nhiệm hình sự về tội buôn lậu hay tội buôn báng hàng cấm hoặc tội buôn bán hàng

giả. Chính vì vậy, trong thực tế vẫn còn có những quan điểm khác nhau về việc định

tội danh đối với hành vi buôn bán hàng cấm, hàng giả qua biên giới. Ví dụ: vụ án

buôn bán thuốc ung thư qua biên giới do Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

xét xử sở thẩm và kết án về tội buôn lậu, nhưng sau đó nhiều luật sư và những nhà

nghiên cứu lại cho rằng việc xét xử về tội buôn lậu chưa phản ánh đúng tính chất,

mức độ nguy hiểm của hành vi. BLHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế này

bằng cách chỉ rõ, “buôn bán qua biên giới” là dấu hiệu định khung tăng nặng của tội

buôn bán hàng giả, tội buôn bán hàng cấm. Tuy nhiên, như vậy, để định tội danh

chính xác thì các văn bản quy định về hàng cấm, hàng giả cũng cần phải hoàn thiện,

cập nhật để bảo đảm tính chuẩn mực trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngoài ra, cho đến nay, nước ta có nhiều đạo luật về phòng, chống tội phạm

nhưng riêng lẻ về những lĩnh vực khác nhau như: Luật phòng, chống ma túy năm

2000; Luật phòng, chống mua bán người năm 2011; Luật phòng, chống rửa tiền

năm 2012; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. Tổng thể, Việt Nam vẫn chưa

có luật phòng, chống tội phạm để quy định bao quát nhiều vấn đề liên quan đến tội

103

phạm, trong đó có tội buôn lậu. Chúng tôi thiết nghĩ, Việt Nam cần ban hành Luật

Phòng, chống tội phạm.

3.2.5. Nguyên nhân, điều kiện về quản lý xã hội

Quản lý xã hội là quá trình tác động, gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua hệ thống các chủ trương, đường lối,

chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước nhằm đạt được mục tiêu chung, góp

phần tăng trưởng, phát triển xã hội về mọi mặt. Hoạt động quản lý xã hội thực chất

bắt nguồn từ sự phân công nguồn lực con người nhằm đạt được hiệu quả cao hơn.

Vùng Đông Nam Bộ là địa bàn tương đối rộng và phức tạp, hoạt động quản lý của

các cấp, các ngành và của từng địa phương gặp rất nhiều khó khăn.

Mặt khác, đất nước ta chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị

trường, mở rộng giao thương hội nhập, phát triển với nền kinh tế khu vực và thế

giới, trong đó vùng Đông Nam Bộ được đánh giá là đầu tàu của khu vực phía Nam.

Trình độ, kinh nghiệm quản lý và điều hành kinh tế còn nhiều hạn chế, nền sản xuất

trong nước còn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước cả về chủng loại

cũng như chất lượng hàng hóa. Điều này dẫn đến nhiều kẻ hở trong hoàn thiện việc

điều hành, quản lý nền kinh tế.

Cũng như sự phát triển của công nghệ thông tin, hàng giả, hàng kém chất

lượng diễn ra với quy mô rộng, đòi hỏi sự phối hợp thường xuyên và có chuyên

môn của các cơ quan quản lý. Tình hình tội buôn lậu trên địa bàn khu vực diễn ra cả

trên đường bộ, đường thủy và đường hàng không qua các cửa khẩu quốc tế và từ

khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại ngày càng tấp nập, sôi động nhưng cơ

chế quản lý và xử lý của nhà nước lại chưa bao quát và tiếp cận hết. [50]

Từ những số liệu phân tích về tình hình tội buôn lậu cho thấy hoạt động quản

lý và xử lý hành vi buôn lậu tuy đã đạt được những thành quả đáng kể nhưng vẫn

chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ

hiện nay. Hoạt động quản lý tình hình buôn lậu của các bộ, ngành, địa phương, các

lực lượng chức năng thời gian qua nổi lên nhiều vấn đề chưa đáp ứng được những

diễn biến mới của nạn buôn lậu, không thể nhận diện hết các phương thức, thủ đoạn

của các đối tượng buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất kinh doanh hàng giả, các

đối tượng chủ mưu, cầm đầu để có biện pháp đấu tranh ngăn chặn, triệt phá hiệu

quả. Hoạt động chống buôn lậu của các cơ quan, ban ngành chưa đi sâu đi sát vào

quần chúng nhân dân, chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm của mỗi người dân

trong việc tuân thủ, chấp hành pháp luật tạo sự đồng thuận giữa nhà nước và nhân

104

dân trong cuộc chiến chống nạn buôn lậu.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ; việc xác định rõ trách nhiệm người

đứng đầu theo từng địa bàn, lĩnh vực phụ trách; điều chuyển, đề xuất điều chuyển,

thay thế người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có

biểu hiện bao che, dung túng cho buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; chưa

mạnh tay xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực

quản lý của các bộ ngành không còn phù hợp liên quan đến hoạt động chống buôn

lậu, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung các quy định còn sơ hở thuộc lĩnh vực quản lý

chuyên ngành để hỗ trợ lực lượng chức năng nâng cao hiệu quả hoạt động chống

buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong thời gian tới.

Hạn chế trong quản lý về việc thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh tế:

Việc các doanh nghiệp được thành lập một cách tràn lan, dưới nhiều hình thức đã

tạo điều kiện cho tội buôn lậu núp bóng doanh nghiệp để hoạt động mà không bị xử

lý hoặc bị xử lý nhưng mức phạt chưa cao, chưa đủ sức răn đe. Qua đó đã phát hiện

phương thức gian lận mới, nhiều doanh nghiệp được thành lập theo quy định của

pháp luật nhưng qua xác minh hầu hết đều là doanh nghiệp “ma”. Các đối tượng

gian lận thương mại đã lợi dụng sự thông thoáng từ khâu thành lập doanh nghiệp,

thuê mượn giấy tờ tùy thân để thành lập doanh nghiệp. Khi cơ quan điều tra đến xác

minh thì đó chỉ là những doanh nghiệp trên giấy, không hoạt động trên thực tế. Vụ

án buôn lậu do Trần Thanh Thảo và Bành Sĩ Thắng cùng nhập khẩu hàng hoá đã

qua sử dụng (cấm nhập khẩu) từ Nhật Bản về Việt Nam để tiêu thụ thu lợi là một

trong những ví dụ tiêu biểu cho thủ đoạn này. Theo đó, tháng 07/2016, Thắng liên

hệ với Hạnh (định cư tại Nhật Bản) để mua 01 container hàng hoá gồm: máy lạnh,

máy giặt, máy xử lý không khí, chén đĩa ly sành sứ (hàng hoá đã qua sử dụng, cấm

nhập khẩu). Khi hàng về tới cảng Hiệp Phước, Thảo cung cấp tài liệu về lô hàng

không đúng với số hàng thực tế nhập khẩu có trong container và thuê Lê Quang

Phúc thực hiện dịch vụ nhập khẩu. Phúc sử dụng pháp nhân là Công ty Huỳnh

Khang làm đại lý giao nhận, còn đơn vị nhập khẩu là Công ty TNHH Giấy Kraft

Vina (thị xã Bến Cát, Bình Dương), hàng hóa khai báo là giấy bìa (theo yêu cầu của

Thảo). Ngay sau khi hàng được vận chuyển về tới kho và đem đi tiêu thụ thì bị lực

lượng chức năng phát hiện bắt giữ.

Điều đáng nói trong vụ án này là kết quả xác minh của phòng Cảnh sát kinh tế

Công an thành phố Hồ Chí Minh: tại cảng vụ Hiệp Phước không có bất cứ thông

105

tin, tài liệu nào về đại diện công ty Giấy Kraft Vina đến làm việc tại cảng để nhận

conterner hàng trên; xác minh tại Công ty TNHH Giấy Kraft Vina, kết quả: công ty

không nhập hàng theo tờ khai hải quan của công ty Huỳnh Khang như nêu trên; xác

minh công ty Huỳnh Khang, kết quả: tại địa chỉ đăng ký không có công ty này hoạt

động, người đứng tên giám đốc công ty là Huỳnh Tấn Trung. Ông Trung là giáo

viên tại tỉnh Quảng Ngãi khai: trong 1 lần vào thành phố Hồ Chí Minh thì bị mất

chứng minh nhân dân. Bản thân ông không làm thủ tục thành lập và không biết gì

về Công ty Huỳnh Khang.

Như vậy, trong vụ án này, Thảo và Thắng đã sử dụng nhiều công ty với các

chức năng kinh doanh khác nhau và mỗi công ty được sử dụng phù hợp với mục

đích của từng khâu trong quá trình thực hiện hành vi buôn lậu: sử dụng công ty

TNHH Giấy Kraft Vina để nhập hàng lậu (máy lạnh, máy giặt, máy xử lý không

khí, chén đĩa ly sành sứ đã qua sử dụng nhưng khai báo hải quan là nhập khẩu “giấy

bìa”); đơn vị nhập khẩu là Công ty TNHH Giấy Kraft Vina, sử dụng pháp nhân

công ty Huỳnh Khang làm đại lý giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu nhưng trên

thực tế là công ty “ma” không tồn tại V/v.. bằng phương thức thủ đoạn này bọn

chúng đã qua mặt được các cơ quan quản lý nhà nước như: Chi cục hải quan hàng

đầu tư Tp. HCM, cụm cảng Hiệp Phước, …

Hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả thông qua các

hoạt động hỗ trợ từ phía các hiệp hội, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài

nước chưa được chú trọng và khai thác triệt để; hoạt động hợp tác quốc tế, phối hợp với

các tổ chức, thương hiệu toàn cầu hợp tác chống hàng trốn thuế còn lỏng lẻo và còn

mang tính hình thức chưa đi vào khuôn khổ.

Cơ quan trực tiếp được chính phủ giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, xử lý

hành vi buôn lậu tại địa bàn miền Đông Nam Bộ hoạt động chưa thực sự hiệu quả,

việc triển khai chưa quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để thực hiện nhiệm vụ được

giao; gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị với kết quả thực hiện

nhiệm vụ. Đồng thời, việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng, chống

buôn lậu chưa được chú trọng. Thêm vào đó, hoạt động xử lý các hành vi tiêu cực,

bao che, tiếp tay cho vi phạm đạt hiệu quả không đáng kể. Cơ chế chính sách pháp

luật liên quan đến hoạt động chống buôn lậu, cơ chế, chính sách không còn phù

hợp... Những quy định còn bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật, văn bản quản lý về thương mại, quản lý thị trường và xử lý vi

phạm hành chính, việc rà soát, chấn chỉnh, hoàn thiện chính sách thương mại biên

106

giới, khu thương mại, chính sách kinh doanh hàng xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập

tái xuất, không để các đối tượng lợi dụng buôn lậu.

Hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm của lực lượng Quản lý thị trường triển khai

chưa thật sự đồng bộ các kế hoạch chuyên đề trọng điểm về chống buôn lậu thuốc

lá; chống buôn lậu, gian lận thương mại xăng dầu; phòng, chống buôn lậu, sản xuất,

kinh doanh các mặt hàng giả kém chất lượng là dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm

chức năng, vật tư nông nghiệp, bia, rượu, đồ uống; quản lý an toàn thực phẩm đối

với sản xuất, kinh doanh rượu và sử dụng hóa chất trong sản xuất, chế biến thực

phẩm; kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong sản xuất, kinh doanh gas, khí dầu mỏ

hoá lỏng...việc xử lý thuốc lá nhập lậu; kho chứa hàng hóa vi phạm là tang vật; chi

phí lưu giữ hàng vi phạm; khó khăn trong xử lý hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí

tuệ… Chưa làm tốt hoạt động điều tra cơ bản, nắm tình hình thị trường, lập danh

sách đối tượng, cơ sở có biểu hiện nghi vấn về buôn lậu, gian lận thương mại; các

kho tàng, bến bãi chứa hàng lậu.

Sự phối hợp với các lực lượng chức năng như hải quan, biên phòng, công an,

cảnh sát biển và các cơ quan thanh tra chuyên ngành để xây dựng các phương án cụ

thể kiểm tra, xử lý các đường dây, ổ nhóm, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu; kịp

thời ngăn chặn việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, hàng lậu, hàng giả,

hàng kém chất lượng trên địa bàn còn chưa chặt chẽ và thiếu sự đồng bộ...

Trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ thuốc lá điếu nhập lậu vẫn “vô tư”

được bày bán, tàng trữ và sử dụng công khai, bất chấp việc không tuân thủ quy định

pháp luật Việt Nam. Trong đó, hành vi phổ biến là không in cảnh báo sức khỏe

bằng hình ảnh, không ghi rõ nơi sản xuất, thời gian sản xuất và thời hạn sử dụng.

Bên cạnh đó, các sản phẩm này không dán tem thuốc lá, không thực hiện quy định

về công bố chất lượng, không tuân thủ quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm.

Từ thực trạng trên cho thấy, vấn đề quản lý xã hội đóng một vai trò rất quan

trọng trong việc phòng, chống tội phạm nói chung, tội buôn lậu nói riêng. Hoạt

động quản lý xã hội nếu được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả sẽ góp phần

ngăn ngừa tội phạm, trừng trị và xử lý người phạm tội. Nhưng nếu, hoạt động quản

lý xã hội không được đảm bảo thì nó sẽ là một trong những nguyên nhân, điều kiện

góp phần làm phát sinh và gia tăng tình hình tội phạm, trong đó có tội buôn lậu. Để

có thể khắc phục được điều này, đòi hỏi việc thực hiện quản lý xã hội phải có một

cơ chế, chính sách đường lối đúng đắn, xây dựng được những biện pháp phù hợp.

Đồng thời phải có sự phối kết hợp chặt chẽ, sự đồng thuận của toàn Đảng, toàn dân.

107

Có như vậy mới nhận diện được những mặt còn yếu kém trong vấn đề quản lý xã

hội, tiến tới khắc phục và xóa bỏ những hạn chế yếu kém này nhằm xây dựng một

cơ chế quản lý xã hội phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của

Việt Nam nói chung và miền Đông Nam Bộ nói riêng.

3.2.6. Nguyên nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt động phòng ngừa

Hành vi buôn lậu là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây thất thu cho

ngân sách nhà nước, tác động tiêu cực đến nền kinh tế, những tác hại mà buôn lậu

mang lại là vô cùng to lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền sản xuất trong nước,

không chỉ Nhà nước bị thất thu thuế, thậm chí người dân phải ngậm ngùi sử dụng

hàng kém chất lượng mà còn gây ảnh hưởng thiệt hại nặng nề đối với những cá

nhân, tổ chức làm ăn chân chính. Doanh nghiệp làm sao có thể lớn mạnh, hay nói

cách khác là làm sao để không bị teo tóp khi đang bị hàng lậu với thủ đoạn tinh vi

chèn ép. Đó là chưa kể kéo theo “làm hư” một bộ phận cán bộ đang tiếp tay, bảo kê

cho buôn lậu và dần hình thành tệ tham nhũng gây bức xúc trong xã hội, một thói

quen “văn hóa phong bì” thì mới xong việc. Buôn lậu đang là một vấn nạn cần được

ngăn chặn và xử lý một cách có hiệu quả. Muốn làm được như vậy thì đòi hỏi cấp

thiết là hoạt động phòng ngừa phải hiệu quả để buôn lậu không tiếp diễn, phát sinh

và phát triển nhanh chóng.

Mặc dù thời gian qua, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố

gắng và tích cực trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chống buôn lậu, gian lận

thương mại, hàng giả và đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng

thắn nhìn nhận, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả vẫn đang diễn

ra hết sức phức tạp với thủ đoạn tinh vi, quy mô ngày càng lớn, diễn ra với không

gian rộng, từ hải đảo đến đất liền, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến

nông thôn...đặc biệt là khu vực miền Đông Nam Bộ, làm ảnh hưởng đời sống, sức

khỏe người tiêu dùng, gây mất niềm tin trong giới kinh doanh và ảnh hưởng xấu

đến trật tự an toàn xã hội. Tác giả đã tiến hành khảo sát ý kiến về hạn chế trong hoạt

động phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ và nhận được kết

108

quả như sau [Phụ lục 1]:

Thiếu đồng bộ, thống nhất trong chỉ đạo và thực hiện

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đảm bảo yêu cầu

Phòng ngừa nghiệp vụ còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo

Quy định của pháp luật về phòng, chống buôn lậu chưa rõ ràng, thống nhất

Tham khảo kết quả khảo sát trên và phân tích thực tiễn phòng, chống tội buôn

lậu trên địa bàn từ nhiều góc độ, theo tác giả những hạn chế trong hoạt động phòng

ngừa tội buôn lậu bao gồm các khía cạnh sau:

Hạn chế trong nhận thức về phòng ngừa buôn lậu: một số cấp ủy, chính quyền

chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động phòng, chống buôn lậu,

gian lận thương mại và hàng giả trong phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến còn thờ ơ

trong chỉ đạo, tuyên truyền, kiểm tra đôn đốc, phối hợp hoạt động. Một bộ phận

không nhỏ người dân hưởng lợi từ hoạt động buôn lậu và nguồn lợi đó cũng được

đóng góp vào nền kinh tế địa phương, góp phần tạo công ăn việc làm và giải quyết

khó khăn trong việc khan hiếm nguồn hàng mỗi dịp cao điểm lễ, tết.... các cơ quan

ban ngành có chức năng không thể xử lý hết và đành phó mặc cho các đối tượng

buôn lậu có dịp hoạt động mạnh mẽ. Không thể không nói đến lợi nhuận khổng lồ

từ việc buôn lậu mang đến, có sức hút mạnh mẽ và chi phối đến cả cán cân quyền

lực, các đối tượng đã lợi dụng nó để lôi kéo những người làm hoạt động quản lý để

họ không làm tròn trách nhiệm của mình trong hoạt động thực thi công vụ. Trong

nhiều trường hợp vì lợi ích cục bộ nên đã làm ngơ, buông lỏng quản lý, đáng chú ý

là một bộ phận cán bộ, chiến sĩ thừa hành nhiệm vụ thiếu tinh thần trách nhiệm,

thiếu rèn luyện phẩm chất đạo đức dẫn đến tha hóa, biến chất, lợi dụng chức vụ,

quyền hạn để trục lợi, bảo kê, tiếp tay cho bọn buôn lậu và hàng giả... [48]

Hạn chế trong xử lý tội buôn lậu: việc thực thi các quy định của pháp luật liên

quan đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu còn nhiều bất cập,

kém hiệu quả như: Kết quả khởi tố, điều tra các vụ án buôn lậu còn thấp; đối tượng

109

chủ mưu, đầu nậu lớn bị phát hiện, bắt giữ còn chiếm tỷ lệ ít; số vụ việc được phát

hiện chủ yếu là xử lý hành chính nên họ có điều kiện phạm tội trở lại.

Theo quy định tại Điều 188 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),

hành vi khách quan cấu thành tội buôn lậu là buôn bán trái phép hàng hóa qua biên

giới ở định lượng luật định. Mục đích của hành vi buôn lậu là kiếm lợi nhuận. Đây

là đặc điểm quan trọng để phân biệt tội buôn lậu với tội vận chuyển trái phép hàng

hóa qua biên giới. Trong thực tế, việc chứng minh mục đích buôn bán kiếm lời của

người phạm tội rất khó khăn vì thực tế người phạm tội thường không thừa nhận mục

đích này để được xử lý về tội nhẹ hơn. Chính vì vậy, đây cũng là một khó khăn, hạn

chế trong thực tiễn xử lý tội buôn lậu.

Ngoài ra, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định trách

nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, nhưng trong suốt thời gian qua, chưa có

vụ án nào liên quan đến pháp nhân bị khởi tố. Có thể thấy rằng, đây là một hạn chế

trong thực tiễn phòng ngừa tội buôn lậu do pháp nhân thương mại thực hiện.

Hạn chế trong phòng ngừa riêng: hoạt động đấu tranh phòng, chống nói chung

và phòng ngừa nói riêng đối với tội buôn lậu của các lực lượng chức năng còn một

số hạn chế, thiếu sót. Việc kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng như

lực lượng quản lý thị trường, hải quan, cảnh sát kinh tế chưa được thống nhất,

thường xuyên, tích cực, tạo nhiều kẽ hở cho các đối tượng buôn lậu hoạt động. Mỗi

cơ quan có những quy định đặc thù chi phối nên việc phối hợp cùng nhau để triển

khai các hoạt động phòng ngừa gặp nhiều khó khăn. Việc xử lý các đối tượng buôn

lậu còn thiên về xử lý hành chính, chưa có tác dụng giáo dục, răn đe đối tượng, mức

xử phạt đối với tội buôn lậu còn nhẹ chưa tương xứng với lợi nhuận mà hành vi phạm

tội mang lại cho đối tượng.

Hạn chế về lực lượng phòng ngừa: Lực lượng trực tiếp thực hiện hoạt động

đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu trên địa bàn, trong đó có lực lượng Cảnh sát

kinh tế còn mỏng, trình độ nghiệp vụ không đồng đều, một số cán bộ chiến sỹ vẫn

còn biểu hiện lơ là, mất cảnh giác hoặc có biểu hiện ngại va chạm; có nơi, có lúc

còn biểu hiện buông lỏng quản lý, chưa có phương án phòng, chống thường xuyên

để chủ động phòng ngừa, kiềm chế hành vi buôn lậu. Bên cạnh đó một bộ phận cán

bộ làm hoạt động quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa còn nhiều sơ hở, tiếp tay cho

hoạt động buôn lậu; một bộ phận cán bộ, chiến sỹ, công chức các lực lượng chức

năng còn thiếu tinh thần trách nhiệm, có biểu hiện tha hóa, lợi dụng chức vụ, quyền

hạn để bảo kê, tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu. Mối quan hệ phối hợp với các

110

lực lượng có liên quan: Hải quan, bộ đội Biên phòng, cơ quan quản lý cảng biển,

hàng không, an ninh hàng không, … phối hợp lực lượng, hỗ trợ điều kiện cơ sở vật

chất để thực hiện khám người, phương tiện vận tải, đồ vật, nơi cất giấu tang vật,

phương tiện vi phạm hành chính theo thủ tục hành chính và áp giải người vi phạm;

phối hợp, hỗ trợ lực lượng, phương tiện trong việc lấy lời khai, thu thập thông tin,

tài liệu, chứng cứ, mở rộng điều tra, xác lập chuyên án; phối hợp trong việc lập hồ

sơ và xử lý các vụ việc vi phạm thiếu chặt chẽ trong hoạt động kiểm soát chống

buôn lậu qua cửa khẩu, hệ thống thông tin quản lý và kết nối mạng giữa các đơn vị

này còn nhiều hạn chế làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý, chống buôn lậu [21].

Hạn chế về trang thiết bị, kinh phí: trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt động

này còn hạn hẹp, do vậy trên từng mặt chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ đấu

tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trong tình hình mới. Để thực hiện hành vi

buôn lậu, các đối tượng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi khác nhau như lợi dụng các

khoang rỗng sẵn có hoặc tạo ra các khoang rỗng trên các phương tiện giao thông,

trong hành lý, đồ dùng cá nhân như chế tạo các va li hai đáy, ngăn bình chứa xăng

thành hai đáy, đóng thêm tầng nóc trên ôtô để cất giấu hàng lậu, trốn tránh sự kiểm

soát của cơ quan chức năng khi làm thủ tục nhập cảnh, do đó trong nhiều trường

hợp khi soi chiếu qua cổng từ, máy soi tia X cũng khó phát hiện được hàng lậu.

Hoặc các đối tượng sử dụng các phương tiện có vận tốc cao để vận chuyển hàng

lậu. Thiếu lực lượng để triển khai hoạt động nắm tình hình, kiểm tra, kiểm soát

thường xuyên tại các đầu mối giao thông, các tuyến đường bộ, đường sắt, đường

thủy, đường biển và hàng không; đặc biệt là tại các địa bàn trọng điểm.

Kinh phí cho việc tiêu hủy hàng giả, hàng kém chất lượng gặp nhiều khó khăn,

nhất là đối với hàng hoá là thuốc bảo vệ thực vật, hoá chất độc hại, động, thực vật

và sản phẩm có nguồn gốc động, thực vật ở dạng tươi sống, sơ chế có nguy cơ cao

về dịch bệnh, an toàn thực phẩm và khó khăn trong việc lưu giữ, bảo quản. Phương

tiện nghiệp vụ còn thiếu, lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tại các địa phương có địa bàn kênh rạch nhiều, hoạt động buôn bán chủ yếu diễn ra

trên sông nước nhưng lực lượng quản lý thị trường không có xuồng máy, ca nô để kiểm

tra, kiểm soát [21].

Có thể nói trang thiết bị phục vụ cho hoạt động chống buôn lậu có vai trò rất

quan trọng trong việc trợ giúp phát hiện hàng lậu. Hiện nay, hàng lậu vô cùng đa

dạng và phong phú cả về số lượng và hình thức nên bản thân con người không thể

phát hiện ra hết mà cần có sự hỗ trợ của khoa học công nghệ, trong khi đó, các máy

111

móc, phương tiện hỗ trợ việc kiểm tra, phát hiện hàng hóa của các lực lượng chức

năng, trong đó có lực lượng hải quan, quản lý thị trường, cục cảnh sát phòng chống

tội phạm về buôn lậu (năm 2018 đã được sáp nhập vào cục cảnh sát điều tra tội

phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu) còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của

hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trong tình hình hiện nay. Mặt

khác, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức thực hiện

chức năng quản lý xuất nhập khẩu, đấu tranh phòng chống buôn lậu chưa đồng đều

cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tham mưu, kiểm tra, xử lý vi phạm.

Hạn chế trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp: chưa huy động được sức

mạnh tổng hợp của cả xã hội vào cuộc. Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền một số

nơi, một số bộ, ban, ngành còn chưa quan tâm, chưa thực sự quyết liệt trong lãnh

đạo, chỉ đạo hoạt động kiểm tra, thanh tra, điều tra, phát hiện xử lý vi phạm pháp

luật. Vai trò của các lực lượng chức năng ở cơ sở còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng

được lực lượng nòng cốt, chưa sâu sát nắm bắt tình hình cơ sở, khu dân cư. Trách

nhiệm của một bộ phận cán bộ chuyên trách, người đứng đầu chưa cao, còn biểu

hiện bao che, thậm chí “bảo kê” cho các hành vi vi phạm pháp luật; Chưa kết hợp

chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa và chủ động phát hiện tội buôn lậu; Chưa có cơ

chế phối hợp hoạt động giữa các lực lượng có chức năng đấu tranh phòng chống

buôn lậu giữa các địa phương, vùng miền có biên giới đường bộ với Vương quốc

Campuchia.

Một số cán bộ, công chức có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng hoặc thiếu tinh

thần trách nhiệm, không có quyết tâm cao trong hoạt động phòng, chống buôn lậu,

gian lận thương mại và hàng giả, chưa kiên quyết trong xử lý vi phạm nhưng chưa

bị phát hiện.

Qua đó, có thể thấy, phòng ngừa tội phạm là một trong những hoạt động quan

trọng nhằm góp phần ngăn chặn việc phát sinh và gia tăng tội phạm nói chung, tội

buôn lậu nói riêng. Việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ phải căn cứ trên những nội dung của các biện pháp phòng

ngừa mang tính chất chung và căn cứ vào đặc điểm đặc trưng riêng của miền Đông

Nam Bộ. Nếu hoạt động phòng ngừa tội phạm không phù hợp, không thực hiện

đồng bộ chặt chẽ thì nó sẽ trở thành một trong những nguyên nhân, điều kiện thuận

lợi cho tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng phát sinh và diễn biến ngày

112

càng phức tạp.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Tội buôn lậu là loại tội có tính lịch sử, một hiện tượng tiêu cực của xã hội, nó

đã và đang diễn biến phức tạp và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời

sống kinh tế xã hội của đất nước, ảnh hưởng không nhỏ đến sự quản lý kinh tế của

Nhà nước đồng thời đó cũng là trở ngại lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước. Buôn lậu được xác định là một trong những tội phạm nguy hiểm,

không chỉ làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, gây thất thu thuế cho Nhà nước

mà còn đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của người

tiêu dùng. Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội buôn lậu đạt hiệu quả thì cần phải

phân tích, xác định các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn tại tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn.

Như đã phân tích ở Chương 2, tình hình buôn lậu đang diễn biến ngày càng

phức tạp trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Trên cơ sở các thông số đã phân tích về

tình hình tội buôn lậu trên địa bày này, tác giả đã phân tích khái quát những vấn đề

lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu, trên cơ sở đó xác định

những nhóm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam bộ gồm: nguyên nhân và điều kiện về kinh tế, xã hội; nguyên nhân và

điều kiện về tâm lý xã hội; nguyên nhân và điều kiện về quản lý xã hội; nguyên

nhân và điều kiện về văn hóa, giáo dục; nguyên nhân và điều kiện về hạn chế trong

hoạt động phòng ngừa và các nguyên nhân, điều kiện khác.

Trong các nguyên nhân và điều kiện đã phân tích, tác giả luận án đặc biệt chú

trọng đến nguyên nhân và điều kiện về kinh tế, xã hội của tình hình tội buôn lậu.

Trong đó, hiện tượng nhập lậu một số loại hàng hóa xuất phát từ tình trạng loại

hàng hóa này chưa được cung cấp rộng rãi và chính thức trên thị trường miền Đông

Nam Bộ hoặc hàng hóa nhập khẩu chính thức vẫn cao hơn giá của hàng hóa nhập

lậu. Ngoài ra, nguyên nhân và điều kiện về kinh tế, xã hội liên quan chặt chẽ với

nguyên nhân, điều kiện về tâm lý xã hội, trong đó đáng quan tâm là tâm lý chuộng

hàng nhập ngoại giá rẻ đã tạo ra nhu cầu đối với hàng hóa nhập lậu. Sự hạn chế

trong nhận thức của người dân về ảnh hưởng của tội buôn lậu đối với sự phát triển

kinh tế - chính trị của đất nước đã làm cho một bộ phận người dân có xu hướng sử

dụng hàng nhập lậu. Điều này làm gia tăng tính phức tạp về điều kiện tồn tại của

tình hình tội buôn lậu. Bên cạnh các nguyên nhân, điều kiện đặc thù đã đề cập; một

số hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

113

Đông Nam Bộ cũng là điều kiện tồn tại của loại tội này. Khi đưa hàng hóa qua biên

giới, chủ hàng hóa thường thuê người khác vận chuyển, vì vậy việc thu thập chứng

cứ để buộc tội người buôn lậu khá khó khăn. Nhiều trường hợp, chỉ truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với người vận chuyển hàng hóa. Cũng cần đề cập rằng, Việt Nam

có đường biên giới dài với các nước lân cận. Miền Đông Nam Bộ có một số tỉnh

biên giới ráp gianh với Campuchia và có tuyến đường bộ phát triển. Hạn chế trong

quản lý biên giới và quản lý hàng hóa nhập khẩu cũng là một trong những nguyên

nhân và điều kiện tồn tại của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn.

Việc nghiên cứu cơ sở lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội

phạm nói chung, tội buôn lậu nói riêng, gắn với những đặc điểm của vùng miền

Đông Nam Bộ sẽ giúp hiểu rõ và xác định chính xác những nguyên nhân điều kiện

cụ thể ảnh hưởng, tác động đến tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội buôn lậu

114

trên địa bàn này một cách hiệu quả.

CHƯƠNG 4

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU

TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ VIỆT NAM

4.1. Khái quát lý luận về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ

4.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ

4.1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội buôn lậu

Phòng ngừa tội phạm và sự cần thiết của phòng ngừa tội phạm đã tồn tại từ rất

lâu trong lịch sử loài người để bảo vệ, duy trì trật tự và công bằng xã hội, góp phần

bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Trong khoa học tội phạm học,

“phòng ngừa tội phạm” là đích đến của toàn bộ các hoạt động nghiên cứu các đối

tượng khác nhau của tội phạm học, bao gồm tình hình tội phạm, nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, đặc

điểm nhân thân người phạm tội và dự báo tình hình tội phạm. Tuy nhiên, cần phải

đề cập rằng hiện vẫn còn nhiều định nghĩa khác nhau về phòng ngừa tội phạm. Điều

này có những hạt nhân tích cực nhất định ở chỗ, những quan điểm khác nhau về

“phòng ngừa tội phạm” giúp tác giả phân tích sâu sắc những đặc điểm của khái

niệm “phòng ngừa tội phạm”.

Giáo trình của các cơ sở đào tạo luật, các công trình nghiên cứu của nhiều tác

giả khác nhau cũng đưa ra định nghĩa về phòng ngừa tội phạm ở nhiều cấp độ khác

nhau như khái niệm “phòng ngừa tội phạm” nói chung, khái niệm phòng ngừa một

nhóm hoặc một loại tội phạm cụ thể. Trong các tài liệu đó, có thể kể đến một số tài

liệu quan trọng sau:

Giáo trình tội phạm học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (1999) đã chỉ

ra khái niệm phòng ngừa tội phạm theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội

phạm bao hàm, một mặt không để cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và

điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát

hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo,

giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội; theo

nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, không để cho tội

phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên của xã hội phải chịu hình

phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong công

115

tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội.

Giáo trình Tội phạm học của Học viện Cảnh sát nhân dân cho rằng: “Phòng

ngừa tội phạm là không để tội phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để các

thành viên trong xã hội phải chịu các hình phạt khắc nghiệt của pháp luật, nếu tội

phạm xảy ra thì kịp thời phát hiện, điều tra khám phá để truy tố, xét xử, tiến hành

giáo dục và cải tạo người phạm tội trở thành người công dân có ích cho xã hội”.

[49, tr.72]

GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Phòng ngừa tội phạm là hệ thống nhiều

mức độ các biện pháp mang tính chất nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm

khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm

yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội

phạm” [73, tr.154]. Khá tương đồng về quan điểm, giáo trình tội phạm học của

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh xác định: “Phòng ngừa tội phạm là

việc sử dụng hệ thống các biện pháp mang tính xã hội và tính nhà nước nhằm khắc

phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, hạn chế và loại trừ tội phạm

ra khỏi đời sống xã hội.” [31, tr. 276] Như vậy, theo dòng quan điểm này, phòng

ngừa tội phạm là hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó

có thể hạn chế và tiến tới loại trừ tình hình tội phạm.

Tội buôn lậu vẫn diễn ra hàng ngày, vì vậy điều tra, khám phá, xử lý tội này là

cấp thiết để bảo vệ trật tự, an ninh chính trị và kinh tế xã hội của đất nước. Tuy

nhiên, với tình hình buôn lậu diễn ra ngày càng phức tạp với những phương thức

thủ đoạn tinh vi như trên địa bàn miền Đông Nam Bộ hiện nay thì cần chú trọng

nhiều hơn đến công tác phòng ngừa tình hình tội buôn lậu để hạn chế mức độ, phạm

vi, tính chất nguy hiểm, thiệt hại do tội buôn lậu gây ra cho xã hội ta hiện nay. Có

thể nói, phòng ngừa tình hình tội buôn lậu là hoạt động của các cơ quan nhà nước,

lực lượng chức năng, tổ chức xã hội và cá nhân công dân nhằm tác động lên những

yếu tố là nguyên nhân, điều kiện thực hiện tội phạm hoặc có nguy cơ làm phát sinh

những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu nhằm làm giảm thiểu tội

phạm này và hạn chế những tác hại, hậu quả do tội buôn lậu gây ra. Đấu tranh với

tội buôn lậu phải là hoạt động đồng bộ, có hệ thống, có sự phối hợp chặt chẽ của tất

cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập thể và cá nhân dưới sự lãnh

đạo của Đảng nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tội phạm này. Với hai

nội dung phòng và chống trong cuộc đấu tranh với tội phạm nói chung và tội buôn

lậu nói riêng thì phòng ngừa luôn được Đảng và Nhà nước ta đặt lên hàng đầu. Hoạt

116

động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu là hoạt động mang lại hiệu quả từ xa. Quá

trình thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội buôn lậu là quá trình liên tục

không ngừng thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội, giáo dục, pháp luật và nghiệp

vụ trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội. Trên cơ sở tổng hợp các phân

tích trên cộng với thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ trong thời gian vừa qua, tác giả đưa ra khái niệm phòng

ngừa tình hình tội buôn lậu như sau:

“Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ là việc

sử dụng hệ thống các biện pháp nhà nước và xã hội nhằm khắc phục, hạn chế

những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ, làm giảm bớt và kiểm soát tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ.”

Với định nghĩa nêu trên, để phòng ngừa hiệu quả tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ, trước hết cần phải phân tích, xác định đúng những

nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh và tồn tại tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ. Ngoài ra, nếu chỉ dừng lại ở việc xác định nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội buôn lậu là chưa đủ, mà điều cần thiết là phải tìm ra được

những biện pháp phù hợp và tốt nhất trong điều kiện của các chủ thể phòng ngừa tội

phạm để tổ chức thực hiện những biện pháp tác động một cách hiệu quả đến nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn này.

4.1.1.2. Đặc điểm của phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ

Căn cứ vào những số liệu thực tế cho thấy, tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Đặc

biệt là tình trạng buôn lậu có tổ chức, làm giả các chứng từ, giấy tờ để trốn tránh các

cơ quan chức năng khi kiểm tra, đặc biệt nguy hiểm hơn là tội phạm núp bóng dưới

các doanh nghiệp “ma”, lôi kéo dụ dỗ các cán bộ, công chức tham gia các đường

dây buôn lậu xuyên quốc gia. Như vậy để phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ đạt kết quả tốt thì trước hết phải nhận thức được các

đặc điểm của phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn này.

Thứ nhất, phòng ngừa tình hình tội buôn lậu không chỉ là nhiệm vụ của một cơ

quan, tổ chức và cũng không phải của một ngành khoa học nào trong lĩnh vực tư

pháp hình sự mà nó chính là nhiệm vụ chung của mọi công dân và toàn xã hội, mà

trong đó các cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức nói chung và các cán bộ,

117

công chức trong các cơ quan có chức năng phòng chống buôn lậu phải quyết tâm

thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội buôn lậu để làm gương cho mọi công dân noi

theo. Các cơ quan chức năng phải xây dựng được cơ sở và các nguyên tắc trong hoạt

động phòng ngừa, xác định chủ thể phòng ngừa, lập và xây dựng kế hoạch phòng

ngừa đầy đủ, khoa học và có hệ thống các biện pháp phòng ngừa. Cần nhấn mạnh

rằng, tuyên truyền vận động mọi công dân tham gia phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu trên địa phương, đó là nhiệm vụ bảo vệ đất nước và cũng chính là bảo vệ cuộc

sống của chính mình. Do đó, nếu thực hiện tốt chức năng này mới có thể từng bước

ngăn chặn tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội buôn lậu nói riêng trong xã

hội, qua đó từng bước đẩy lùi và tiến tới loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội.

Thứ hai, phòng ngừa tình hình tội buôn lậu chính là mục tiêu cuối cùng và là

chức năng quan trọng nhất trong hoạt động đấu tranh với loại tội này trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ. Vì chỉ khi làm tốt các chức năng mô tả, giải thích và dự báo

thì mới có thể tìm ra được những biện pháp tác động vào quy luật phát sinh, tồn tại

và phát triển của tội phạm, đồng thời khắc phục được các nguyên nhân và điều kiện

phạm tội cũng như những tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cũng trên cơ

sở những chức năng đã nêu mới có thông tin đầy đủ để xây dựng kế hoạch phòng ngừa,

nhận diện những diễn biến tội phạm và tình hình tội phạm trong tương lai, khả năng

xuất hiện, thay đổi của tội phạm cũ và tội phạm mới, diễn biến và quy luật của quá

trình tội phạm hóa - phi tội phạm hóa, hình sự hóa - phi hình sự hóa, cũng như những

biến đổi của đời sống xã hội khác.

Thứ ba, phòng ngừa tình hình tội buôn lậu bao gồm tổng thể các biện pháp

phòng ngừa: chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, pháp luật, quản

lý Nhà nước... Bản chất của phòng ngừa tội phạm, suy cho cùng, chính là đưa ra

những giải pháp mang tính chủ động hơn, tích cực hơn và có hiệu quả hơn trong

công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Đặc biệt, chính những giải pháp của

ngành khoa học này là tiền đề rất quan trọng để thực hiện tốt đường lối xử lý về

hình sự, cũng như trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đặc biệt

là tội phạm buôn lậu hiện nay, đồng thời đây cũng chính là phương diện xã hội rộng

lớn và bao quát hơn của cuộc đấu tranh đối diện và trực diện với tội phạm.

Thứ tư, mục đích cuối cùng (mục đích lý tưởng) của phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu chính là không có bất kỳ công dân nào phải bị điều tra, truy tố và xét xử.

Nói một cách khác, không để bất kỳ công dân nào trong xã hội phải bị xử lý, bị truy

cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt về tội buôn lậu. Đó chính là một xã

118

hội văn minh, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và một nền kinh tế phát triển vững

mạnh cho toàn bộ người dân. Bên cạnh đó, công tác phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu đạt kết quả tốt sẽ tiết kiệm một khoản rất lớn về chi phí, tiền của và sức lực cho

Nhà nước, cho xã hội trong việc điều tra, truy tố, xét xử trong việc khắc phục hậu quả

của tội phạm gây ra cho xã hội, trong công tác cải tạo, giáo dục và thi hành án đối với

người phạm tội.

4.1.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ

Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ là hoạt

động khó khăn và phức tạp, có khả năng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của những

con người nhất định nên cần tuân thủ những nguyên tắc nhằm bảo đảm cho hoạt

động phòng ngừa tội này không vi phạm quyền con người và đạt hiệu quả cao. Theo

tác giả, phòng ngừa tội buôn lậu cần tuân thủ các nguyên tắc: nguyên tắc pháp chế,

nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc cụ thể hóa.

Tổ chức và hoạt động của hệ thống phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ là hoạt động khó khăn và phức tạp có ảnh hưởng lớn đến hiệu

quả của hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trong phạm vi cả nước. Nhà nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất coi trọng công tác phòng ngừa tình hình tội

phạm. Đánh giá trên thực tế công tác phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ và các điều kiện khác về tự nhiên, kinh tế xã hội đòi hỏi hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, hoạt động phòng ngừa và các

biện pháp phòng ngừa phải tuyệt đối tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm

2013 của Việt Nam đã quy định những quyền con người, quyền cơ bản của công dân.

Khi thực hiện phòng ngừa tình hình tội buôn lậu, các chủ thể cần tuyệt đối tuân thủ

các quy định này. Ngoài ra, BLHS, BLTTHS và các quy định liên quan cũng đã đưa

ra được khung pháp lý về xử lý hình sự đối với người phạm tội. Trong hoạt động

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, thì tuân theo

nguyên tắc pháp chế là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất. Để nguyên tắc pháp chế

được tuân thủ thì yêu cầu đặt ra là các quy định của pháp luật liên quan đến phòng

ngừa tội phạm phải được hoàn thiện đầy đủ, bên cạnh đó, ý thức tuân thủ các quy

định pháp luật từ các chủ thể phòng ngừa tội phạm cũng giữ vai trò rất quan trọng.

Các biện pháp phòng ngừa cũng như các chủ thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa

tội phạm phải tuân thủ các quy định của pháp luật về xác định tội phạm buôn lậu

119

nhằm mục đích bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người

có liên quan hoặc người chịu sự tác động của các biện pháp phòng ngừa.

Thứ hai, nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa, với nguyên tắc này, mọi cơ

quan, tổ chức, công dân đều có thể và cần phải tham gia vào họat động phòng ngừa

tội buôn lậu và cơ quan nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho các chủ thể được tham

gia vào hoạt động phòng ngừa tội buôn lậu. Mặt khác, cơ quan Nhà nước cũng cần

áp dụng các biện pháp cần thiết để phát huy mọi nguồn lực trong xã hội vào việc

phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Bên cạnh đó, cơ quan

chức năng cần lôi cuốn mỗi người dân vào hoạt động phòng ngừa tội buôn lậu,

không sử dụng, tiêu thụ hàng hóa rẻ cho hoạt động buôn lậu. Chú ý lôi cuốn các tổ

chức đại diện cho nhân dân vào hoạt động này (Hội đồng nhân dân các cấp).

Thứ ba, nguyên tắc nhân đạo, các biện pháp phòng ngừa không làm hạ thấp

danh dự con người mà cần khôi phục, cải tạo con người; cưỡng chế là cần thiết song

đó là biện pháp để đưa và hướng con người trở về cuộc sống lương thiện; cưỡng chế

với tư cách tác động khôi phục con người không thể đồng nghĩa với cưỡng bức

mang tính hành hạ con người. Ngoài ra, các biện pháp cưỡng chế hình sự chỉ được

áp dụng khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định.

Thứ tư, nguyên tắc khoa học và tiến bộ, việc áp dụng các biện pháp phòng

ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ phải có căn cứ khoa

học, phải dựa trên kiến thức lý luận tội phạm học và phải dựa trên các công trình

nghiên cứu về tình hình tội buôn lậu, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn này. Các biện pháp đó phải mang tính tiến bộ, đồng bộ và có

hiệu quả đồng thời cần phải ưu tiên ứng dụng các tiến bộ khoa học đã có và đang

phát triển. Các biện pháp phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo cho mọi người có

cơ hội phát triển bình đẳng, không được phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính,

thành phần chính trị.

Thứ năm, nguyên tắc phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa giữa các chủ

thể phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Phòng ngừa

phải mang tính hệ thống, có sự điều hành thống nhất và chặt chẽ giữa nhà nước, xã

hội và cá nhân. Hình thức, nội dung và phạm vi của hoạt động phòng ngừa cần phải

được xác định thống nhất giữa các chủ thể. Sự phối hợp là rất cần thiết để tránh sự

trùng lặp, dẫm chân lên nhau trong việc cùng triển khai những biện pháp nhất định,

đồng thời huy động được điểm mạnh của mỗi chủ thể. Mặt khác, trong sự phối hợp

giữa các chủ thể cần phải quy định rõ trách nhiệm của mỗi chủ thể để tránh sự đùn

120

đẩy trách nhiệm lẫn nhau dẫn đến không chủ thể nào chịu trách nhiệm về hiệu quả

của hoạt động phòng ngừa. Ngoài ra, để sự phối hợp thật sự hiệu quả, cần có những

quy trình rõ ràng trong việc xử lý những vấn đề thuộc nội dung của hoạt động

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Thứ sáu, nguyên tắc cụ thể của hoạt động phòng ngừa. Hoạt động phòng ngừa

cần phải mang tính cụ thể về lĩnh vực phòng ngừa, hành vi phòng ngừa, địa điểm

phòng ngừa cũng như đối tượng phòng ngừa. Tính cụ thể sẽ đảm bảo tính hiệu quả

của công tác phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

trong việc khắc phục nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu. Đặc biệt,

trong hoạt động phòng ngừa riêng, cần khoanh vùng được những đối tượng tình

nghi để có những biện pháp hiệu quả ngăn chặn họ thực hiện hành vi buôn lậu. Đối

với các đối tượng có nhân thân khác nhau, thì tùy thuộc vào độ tuổi, trình độ học

vấn, nghề nghiệp, đặc biệt là đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội cao như

người chưa thành niên, người không có nghề nghiệp, người có nhân thân xấu, người

có tiền án, tiền sự … cần áp dụng những biện pháp phòng ngừa riêng biệt. Hơn nữa,

ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền tồn tại những đặc điểm đặc trưng về điều kiện tự

nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến tình hình tội buôn lậu… Chính vì vậy, việc

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ cần phải có những

biện pháp tương ứng với những đặc điểm về tự nhiên và xã hội.

4.1.3. Chủ thể và biện pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ

4.1.3.1. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ

Chủ thể phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ là

những cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trên địa bày này. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ bao gồm các loại sau: (i) chủ thể lãnh đạo quá trình, hoạt động

phòng ngừa và (ii) chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa.

Chủ thể lãnh đạo quá trình, hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Chủ thể lãnh đạo quá trình phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, trong đó có

tình hình tội buôn lậu là Đảng Cộng sản Việt Nam. Với vai trò là tổ chức chính trị duy

nhất lãnh đạo xã hội (Điều 4 Hiến pháp 2013), Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo các

quá trình và hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung, trong đó có tội buôn lậu thông

121

qua các Nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong

hoạt động phòng ngừa nhóm tội phạm này còn thể hiện ở sự tiên phong giữ vai trò

nòng cốt trong hoạt động phòng ngừa tội phạm của các Đảng viên.

Như vậy, trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, chủ thể lãnh đạo quá trình, hoạt

động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu là Đảng ủy của các tỉnh, thành phố trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ. Hoạt động phòng ngừa của các chủ thể này thể hiện trong

các nghị quyết và công tác nhân sự.

Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ

Như đã phân tích về đặc điểm và nguyên tắc của hoạt động phòng ngừa tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, chủ thể của hoạt động phòng

ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ sẽ bao gồm đa dạng

các cơ quan, tổ chức và cá nhân sau đây:

(1) Nhóm chủ thể là cơ quan lập pháp

Chủ thể ban hành các văn bản luật về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên

cả nước, trong đó có miền Đông Nam Bộ là Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền

lực nhà nước duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, vì vậy Quốc hội là chủ thể

phòng ngừa tội phạm có vai trò đặc biệt quan trọng. Quốc Hội ban hành luật điều

chỉnh hoạt động phòng ngừa các tội phạm, trong đó có tội buôn lậu. Có thể kể đến

các văn bản quan trọng như: Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật thi hành án hình sự năm 2010, Nghị

quyết 111/2015/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm,

công tác của viện kiểm sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án

năm 2016 và các năm tiếp theo. Ngoài ra, Quốc hội còn có vai trò kiểm tra, giám sát

hoạt động của các cơ quan nhà nước, của cán bộ nhằm phòng ngừa các hành vi

phạm tội; tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật

về phòng ngừa tội buôn lậu.

Chủ thể ban hành văn bản pháp quy về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ là hội đồng nhân dân các cấp của các tỉnh, thành phố

thuộc địa bàn miền Đông Nam Bộ. Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,

hội đồng nhân dân các cấp có vai trò quan trọng trong phòng ngừa tội buôn lậu, thể

hiện trong việc đưa ra các nghị quyết, quyết định những chủ trương, biện pháp phát

triển kinh tế xã hội để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Bên cạnh

đó, thông qua Nghị quyết trong các kỳ họp, hội đồng nhân dân quyết định ban hành các

122

văn bản pháp quy về phòng ngừa tội phạm ở địa phương, trong đó có phòng ngừa tội

buôn lậu, đồng thời kiểm tra giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương trong

việc phòng ngừa các hành vi phạm tội.

(2) Nhóm chủ thể là cơ quan hành pháp

Chủ thể triển khai thi hành pháp luật phòng ngừa tội phạm bao gồm Chính

phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền

chuyên môn, các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức và các cá nhân, công dân.

Chính phủ

Chính phủ có vai trò phòng ngừa tình hình tội buôn lậu thông qua triển khai

thi hành các quy định của Quốc Hội và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành

các văn bản luật về phòng ngừa tội phạm do Quốc hội ban hành, ví dụ: Nghị định số

01/2015/NĐ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2015 quy định chi tiết phạm vi địa bàn hoạt

động hải quan; trách nhiệm phối hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái

phép hàng hóa qua biên giới; Nghị định số 12/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm

2018 sửa đổi, bổ sung Nghị định 01/2015/NĐ-CP đã nêu. Bên cạnh đó, với vị trí là

cơ quan hành pháp cao nhất, Chính phủ triển khai các biện pháp phòng ngừa tình

hình tội buôn lậu mang tính xã hội như xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát

triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, tạo công ăn việc làm cho người lao động...trong

toàn quốc gia để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân góp phần

phòng ngừa tội phạm. Ngoài ra, Chính phủ còn có vai trò lãnh đạo hoạt động phòng,

chống tội buôn lậu thông qua Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống buôn lậu, gian lận

thương mại và hàng giả thành lập theo Quyết định số 389/QĐ-TTg ngày 19 tháng

03 năm 2014 (gọi tắt là “Ban chỉ đạo 389”).

Uỷ ban nhân dân các cấp

Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ triển

khai các chương trình phòng ngừa các tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, hàng

giả của Chính phủ, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các

cấp về các chương trình phòng ngừa tội phạm tại địa phương. Bên cạnh đó, Ủy ban

nhân dân các cấp còn xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa,

giáo dục ở địa phương để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân có tác

dụng phòng ngừa tội phạm; xây dựng các chương trình kế hoạch, lãnh đạo hoạt

động phòng ngừa tội buôn lậu ở địa phương. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân các cấp có

vai trò quan trọng trong việc phát động quần chúng nhân dân tham gia phòng ngừa

123

tội buôn lậu, quản lý các đối tượng có tiền án, tiền sự, người có nhân thân xấu, tham

gia cùng với các cơ quan khác giám sát, giáo dục người phạm tội buôn lậu, gian lận

thương mại, hàng giả tại địa phương.

Các cơ quan hành chính nhà nước chuyên môn

Các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm các Bộ, Sở, Phòng…từ trung ương

đến địa phương. Tùy vào chức năng, nhiệm vụ của mình, các chủ thể này tiến hành

triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa tội buôn lậu trong phạm vi toàn quốc hay

trong từng địa phương nhất định. Hình thức của hoạt động triển khai, thi hành pháp

luật phòng ngừa tội buôn lậu thể hiện thông qua việc hướng dẫn thi hành pháp luật

phòng ngừa tội buôn lậu hoặc thông qua việc xây dựng, triển khai các biện pháp

phát triển kinh tế, văn hóa cho người dân nhằm tạo cơ sở cho phòng ngừa tội phạm

này trên thực tế.

Các cơ quan công an và Viện kiểm sát

Cơ quan công an là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh phòng, chống tội phạm

(Điều 3 Luật Công an nhân dân 2018 quy định về vị trí của công an nhân dân) cho

nên cơ quan công an có vai trò tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong việc hoạch

định các chương trình phòng, chống tội phạm, trong đó có tội buôn lậu; trực tiếp

tham gia hoạt động phòng, chống tội buôn lậu thông qua chức năng nhiệm vụ của

mình như kịp thời phát hiện, điều tra, khởi tố vụ án, khởi tố bị can, là chủ thể giữ

vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện cho các chủ thể khác, nhất là

quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động phòng, chống tội buôn lậu.

Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp (Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014) có vai trò trong việc

phối hợp với các chủ thể khác xây dựng, triển khai các chương trình phòng, chống tội

buôn lậu, thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống buôn lậu và đưa

ra những kiến nghị về các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát

có vai trò trực tiếp trong việc kiểm sát hoạt động điều tra tội buôn lậu, thực hiện chức

năng truy tố và buộc tội trong hoạt động xét xử tội buôn lậu.

(3) Nhóm chủ thể là cơ quan tư pháp

Với chức năng là cơ quan xét xử (Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014), tòa

án nhân dân các cấp có vai trò phòng ngừa tội buôn lậu thông qua hoạt động xét xử tội

buôn lậu để phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung cho toàn xã hội, giám sát hoạt

động thi hành án đối với người phạm tội. Ngoài ra, tòa án nhân dân các cấp còn có vai

trò trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phối hợp với các chủ thể khác xây dựng

124

và triển khai các kế hoạch phòng, chống tội phạm, trong đó có tội buôn lậu.

(4) Nhóm chủ thể là các tổ chức và các cá nhân

Các tổ chức có vai trò phòng ngừa tội buôn lậu bao gồm các tổ chức chính trị,

tổ chức xã hội nghề nghiệp, đặc biệt là các tổ chức kinh tế… Các tổ chức này tham

gia phòng ngừa tội buôn lậu thông qua việc giáo dục, kiểm tra, giám sát cán bộ,

nhân viên thuộc tổ chức mình thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội buôn lậu,

cung cấp thông tin, tài liệu có ý nghĩa phòng ngừa tội phạm nói chung, trong đó có

tội buôn lậu cho các cơ quan chức năng, phối hợp với các chủ thể khác thực hiện

các chương trình phòng ngừa tội buôn lậu. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào chức năng

của mình, các tổ chức này giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chương

trình, kế hoạch phát triển kinh tế, nâng cao trình độ văn hóa cho người dân - những

yếu tố bảo đảm cho việc ngăn ngừa cá nhân không phạm tội buôn lậu vì thiếu thốn

vật chất hoặc hạn chế trong ý thức pháp luật.

Doanh nghiệp - chủ thể quan trọng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu: như đã phân tích về tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ, người phạm tội buôn lậu sử dụng doanh nghiệp, thông qua doanh nghiệp để

hoạt động buôn lậu vì vậy, doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng của hoạt động

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu. Nếu doanh nghiệp phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trong phạm vi hoạt động của mình một cách hiệu quả, sẽ đóng góp tích

cực vào phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên toàn địa bàn nói chung.

Các cá nhân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tội buôn lậu thông qua việc

phát hiện và tố giác tội phạm, giúp đỡ những người có tiền án tiền sự tại địa phương

cải tạo hòa nhập cộng đồng, tích cực hưởng ứng các chương trình kế hoạch phòng

ngừa tội buôn lậu từ các cơ quan chức năng, đặc biệt là có vai trò quan trọng trong

việc quản lý các thành viên trong gia đình không thực hiện các hành vi phạm tội nói

chung, trong đó có tội buôn lậu.

Nhìn chung, các chủ thể phòng ngừa tội buôn lậu bao gồm nhiều chủ thể khác

nhau với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Mặc dù mỗi chủ thể có nhiệm vụ

khác nhau nhưng để đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động phòng ngừa tội

buôn lậu đòi hỏi các chủ thể này phải thường xuyên phối hợp hoạt động với nhau

một cách nhịp nhàng, đồng bộ.

4.1.3.2. Biện pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ

Do tội phạm là hiện tượng xã hội, phát sinh và tồn tại trong xã hội do hàng

125

loạt các nguyên nhân và điều kiện khác nhau có phạm vi tác động khác nhau, vì vậy

các biện pháp phòng ngừa tội phạm phải mang tính xã hội, bao gồm tổng hợp tất cả

các biện pháp có thể để tác động vào nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Các biện

pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có thể

phân loại thành các nhóm khác nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau.

Căn cứ vào bản chất phòng ngừa, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ bao gồm các biện pháp mang tính xã hội nhằm

ngăn ngừa trước không để cho tội phạm xảy ra (có thể gọi các biện pháp này là các

biện pháp “ngăn ngừa tội phạm”) và các biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước

nhằm phát hiện, xử lý khi tội phạm xảy ra (có thể gọi các biện pháp này là các biện

pháp “trấn áp, xử lý tội phạm”).

Căn cứ vào nội dung của các biện pháp tác động, các biện pháp phòng ngừa

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có thể phân loại thành các

biện pháp về kinh tế - xã hội, các biện pháp về văn hóa, giáo dục, các biện pháp về

tâm lý xã hội, các biện pháp quản lý xã hội, các biện pháp về pháp luật…

Biện pháp kinh tế - xã hội được hiểu là những biện pháp tác động vào các

chính sách phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, địa phương nhằm phát triển nền

kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất của người dân, phòng ngừa

tình trạng phạm tội buôn lậu vì không được đáp ứng nhu cầu vật chất tối thiểu. Biện

pháp này là một trong những biện pháp quan trọng trong phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ vì xuất phát từ nhận thức rằng buôn lậu

và tội buôn lậu có nguồn gốc kinh tế, xuất hiện từ khi có hàng rào thuế quan. Người

phạm tội buôn lậu luôn tìm mọi phương thức thủ đoạn để thực hiện hoạt động buôn

bán hàng hoá trái phép qua biên giới quốc gia nhằm thu lợi nhuận và trốn tránh sự

quản lý của Nhà nước, tránh việc đóng thuế. Do đó, khi đời sống vật chất cùng toàn

bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội được cải thiện thì ý thức xã hội

thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội sẽ có những thay đổi tương ứng. Do đó,

để đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu có hiệu quả, cần coi biện pháp về kinh tế -

xã hội là một trong những giải pháp nền tảng cơ bản và quan trọng nhất.

Biện pháp tâm lý - văn hóa xã hội là những biện pháp tác động vào nhận thức,

tinh thần của con người, giúp con người nhận thức được tác hại của buôn lậu, tính

nguy hiểm của tệ nạn buôn lậu và sử dụng hàng lậu, định hướng cho con người

những giá trị, những nhu cầu tinh thần lành mạnh làm nền tảng cho quá trình hình

126

thành ý thức pháp luật đúng đắn, đặc biệt là làm thay đổi nhận thức, đề cao việc

kiếm tiền chân chính thay vì lối sống muốn làm giàu nhanh, đặt lợi ích vật chất và

đồng tiền lên trên hết, ngại vượt khó.

Biện pháp tổ chức - quản lý xã hội là biện pháp tăng cường tổ chức quản lý

khu vực dân cư, nhất là khu vực tập trung nhiều người có nguy cơ cao, những khu

vực bán hàng lậu, những tuyến đường di chuyển của hàng lậu. Bên cạnh đó, biện

pháp tổ chức - quản lý còn thể hiện ở việc tổ chức quản lý những đối tượng có tiền

án, tiền sự.

Biện pháp pháp luật là biện pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật liên

quan đến phòng ngừa và xử lý các hành vi phạm tội buôn lậu, đó có thể là các quy

định về phòng ngừa tội phạm nói chung, phòng ngừa tội buôn lậu nói riêng và đặc

biệt là các quy định về quy trình và sự phối hợp của các chủ thể trong hoạt động

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Căn cứ vào đối tượng chịu sự tác động của các biện pháp, các biện pháp

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ bao gồm những

biện pháp áp dụng cho tất cả mọi người trong xã hội hay còn gọi là biện pháp phòng

ngừa chung và biện pháp áp dụng cho những người có nhân thân đặc biệt, có nguy

cơ cao trong việc phạm tội hay còn gọi là biện pháp phòng ngừa riêng. Biện pháp

phòng ngừa đối với người đã phạm tội, biện pháp phòng ngừa đối với những người

có nhân thân khác nhau như người chưa thành niên, cán bộ công chức, người đang

làm việc trong môi trường có khả năng phát sinh tệ nạn xã hội. Biện pháp áp dụng

cho tất cả mọi người trong xã hội chủ yếu là những biện pháp mang tính xã hội như

phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần, tăng cường tuyên

truyền, giáo dục, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Biện pháp phòng ngừa áp dụng cho

những đối tượng có nhân thân đặc biệt, người có tiền án, tiền sự là những biện pháp

cưỡng chế nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục các đối tượng này và các biện

pháp quản lý để hạn chế những điều kiện, hoàn cảnh mà họ có thể khai thác vào

việc tái phạm tội. Biện pháp áp dụng cho người đã phạm tội là những biện pháp

mang tính nghiệp vụ do các chủ thể là cơ quan nhà nước áp dụng trên cơ sở các quy

định của pháp luật liên quan đến việc áp dụng trách nhiệm hình sự, thi hành án.

Căn cứ vào địa bàn cần phòng ngừa, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ bao gồm những biện pháp áp dụng trên

toàn bộ địa bàn miền Đông Nam Bộ và những biện pháp áp dụng trên mỗi tỉnh,

thành phố thuộc miền Đông Nam Bộ. Việc phân loại các biện pháp dựa trên địa bàn

127

dựa vào lý do mỗi tỉnh có những đặc trưng nhất định. Ví dụ: Tỉnh Tây Ninh có biên

giới đường bộ, trong khi đó tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có biên giới đường biển, thành

phố Hồ Chí Minh lại là trung tâm tập trung đông dân cư và các hoạt động buôn bán.

Nói cách khác, biện pháp phòng ngừa áp dụng trên từng địa phương là những biện

pháp phòng ngừa phù hợp với những đặc điểm địa lý, dân cư, lịch sử của từng địa

phương có liên quan đến tội buôn lậu. Tuy nhiên, cần đề cập rằng công trình nghiên

cứu này chủ yếu tập trung vào những biện pháp phòng ngừa đặc trưng cho cả miền

Đông Nam Bộ, bởi lẽ hoạt động phòng ngừa tội phạm ở từng địa phương là đối

tượng và phạm vi nghiên cứu của một số công trình tội phạm học đã thực hiện.

4.2. Các giải pháp cụ thể phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ

4.2.1. Giải pháp hạn chế nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ từ đặc điểm địa lý, tự nhiên

Như đã phân tích tại Chương 3, một trong các nguyên nhân, điều kiện của tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ là vị trí địa lý đặc biệt, thuận tiện

trong giao lưu kinh tế, thông thương, cầu nối của vùng Tây Nguyên và duyên hải

Nam Trung Bộ với đồng bằng sông Cửu Long. Miền Đông Nam Bộ có biên giới bộ

(thông qua tỉnh Tây Ninh, Bình Phước), biên giới biển (thành phố Hồ Chí Minh và

tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) và biên giới đường hàng không (sân bay Tân Sơn Nhất ở

thành phố Hồ Chí Minh và sân bay Long Thành trong tương lai ở Đồng Nai) thuận

lợi cho việc vận chuyển hàng lậu từ nước ngoài vào Việt Nam. Chính vì vậy, để

phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn này cần phải có những biện pháp để hạn chế

người buôn lậu khai thác chính vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên của miền Đông Nam

Bộ vào việc thực hiện tội phạm.

Hoàn thiện hệ thống giám sát cửa khẩu và biên giới

Đặc trưng trong đặc điểm pháp lý của tội buôn lậu là mua bán hàng hóa trái

phép qua biên giới. Việt Nam có chiều dài biên giới đường bộ tiếp giáp với Vương

quốc Campuchia là 1137 km, chính sách hình sự về phòng chống buôn lậu của 2

nước khác nhau. Trong khi Việt Nam tổ chức phòng chống buôn lậu, gian lận

thương mại rất nghiêm khắc thì Campuchia thực hiện chính sách mở cửa biên giới

để lưu thông hàng hóa. Chính vì vậy, giám sát cửa khẩu và biên giới rất quan trọng

đối với phòng, chống buôn lậu. Để giám sát cửa khẩu tốt, cần chú trọng cả việc tổ

chức lực lượng kết hợp với trang thiết bị hiện đại. Trước thực trạng mỗi ngày rất

nhiều hàng hóa và người ra và vào lãnh thổ, đặc biệt là các dịp lễ, tết với khối lượng

128

hàng hóa ra vào rất lớn; các cơ quan chức năng cần ứng dụng sự phát triển của khoa

học công nghệ vào cải thiện biện pháp giám sát cửa khẩu. Lực lượng chức năng cần

tăng cường lắp đặt hệ thống camera thông minh ở khu vực cửa khẩu quốc tế để

phòng, chống buôn lậu. Các camera này cần được kết nối với máy chủ và lực lượng

chức năng bố trí trực thường xuyên. Bên cạnh đó, cũng cần tăng ứng dụng công

nghệ scan đối chiếu, có đầu đọc hộ chiếu, có thể nhận dạng khuôn mặt, biển số xe để

phát hiện các đối tượng tình nghi. Cần tăng cường lắp đặt camera đặc biệt ghi hình ban

đêm ở các điểm “nóng” gần biên giới nhằm phát hiện các đối tượng buôn lậu.

Tại một số cửa khẩu có hoạt động buôn bán sôi động, cần được tăng cường tổ

chức lực lượng vì khi số lượng cán bộ chiến sỹ thiếu sẽ khó bảo đảm việc trực thường

xuyên 24/24h. Biện pháp tuần tra kiểm soát biên giới cần được tăng cường về tần suất

và chất lượng. Các chuyến tuần tra cần bảo đảm tuyệt đối sự bí mật, tránh trường hợp

thông tin rò rỉ, các đối tượng buôn lậu biết trước kế hoạch của cơ quan chức năng nên

chuẩn bị phương án tẩu tán, che giấu hành vi vi phạm. Khi tuần tra cần chuẩn bị

phương án phát hiện đối tượng để nhuần nhuyễn trong xử lý, tránh trường hợp không

bắt giữ được chủ hàng hóa, chỉ bắt giữ được những người vận chuyển.

Ngoài ra, bên cạnh lực lượng chuyên trách, cũng cần tiến hành các hoạt động tâm

lý, tuyên truyền, giáo dục để mỗi gia đình, mỗi hộ dân sống ở khu vực biên giới là một

“biên phòng” cho đất nước nói chung và chống buôn lậu nói riêng. Phát huy sức mạnh

của quần chúng nhân dân trong phòng, chống buôn lậu cần được coi là biện pháp quan

trọng cần được tiến hành bền bỉ, thường xuyên và lâu dài.

Kiểm soát tại các cảng hàng không, cảng biển

Bên cạnh các biện pháp giám sát cửa khẩu và biên giới đã nêu, trong các tỉnh

miền Đông Nam Bộ, thành phố Hồ Chí Minh có sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất,

thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều cảng biển quốc tế. Vì vậy,

trong các biện pháp phòng ngừa buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ cần chú

trọng sự quản lý, giám sát, kiểm tra các cảng hàng không và cảng biển. Cần đề cập

rằng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về kiểm tra, giám sát an ninh hàng không

và hàng hải ví dụ như: Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT ngày 29 tháng 3 năm 2019

về quy định chi tiết Chương trình an ninh hàng không và kiểm soát chất lượng an

ninh hàng không Việt Nam; Nghị định số 77/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 7 năm 2017

quy định về quản lý, bảo vệ an ninh, trật tự tại cửa khẩu cảng. Để giám sát cảng hàng

không và cảng biển tốt, tăng hiệu quả phát hiện và xử lý buôn lậu thì cần triển khai

thực hiện tốt các nội dung trong các văn bản này. Đồng thời, tăng cường tổ chức lực

129

lượng tinh nhuệ, vững vàng chuyên môn nghiệp vụ tại các cảng này.

4.2.2. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về kinh tế, xã hội của

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Giải pháp này xuất phát từ nhận thức buôn lậu và tội buôn lậu có nguồn gốc

kinh tế, xuất hiện từ khi có hàng rào thuế quan; người phạm tội buôn lậu luôn tìm

mọi phương thức thủ đoạn để thực hiện hoạt động buôn bán hàng hoá trái phép qua

biên giới quốc gia thu lợi nhuận. Do đó, khi đời sống vật chất cùng toàn bộ những

điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội được cải thiện thì ý thức xã hội thuộc lĩnh

vực đời sống tinh thần của xã hội sẽ có những thay đổi tương ứng. Do đó, để đấu

tranh phòng, chống tội buôn lậu có hiệu quả, cần coi giải pháp về kinh tế - xã hội là

một trong những giải pháp nền tảng cơ bản và quan trọng nhất, thể hiện qua những

biện pháp cụ thể sau đây.

Đẩy mạnh sản xuất trong nước

- Đẩy mạnh phát triển nền sản xuất trong nước nhằm nâng cao sức cạnh tranh

của hàng hoá Việt Nam ngay trong thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Để hàng

hoá Việt Nam có sức cạnh tranh cần chú ý đổi mới quy trình, công nghệ sản xuất,

cải tiến về mẫu mã hàng hoá, giảm thiểu các chi phí sản xuất để sản phẩm có giá

phù hợp với mức sống trung bình của người dân, không ngừng nâng cao chất lượng

sản phẩm. Như đã phân tích về đối tượng buôn lậu đa số là hàng ngoại nhập, vì vậy

cần từng bước hình thành tâm lý, thói quen dùng hàng sản xuất trong nước, chiếm

lĩnh lòng tin của người tiêu dùng trong nước.

- Xây dựng định hướng phát triển ngành, hàng cụ thể, phù hợp với nhu cầu

tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trên cơ sở quy luật cung - cầu của nền kinh tế thị

trường. Cùng với sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp thì chúng ta cần quan

tâm làm tốt hoạt động quy hoạch vùng, miền để có thể phát huy tối đa mọi lợi thế

sẵn có, định hướng đầu tư cho các doanh nghiệp, cải tiến thiết bị công nghệ nhằm tạo

ra hàng hoá và dịch vụ đa dạng, có chất lượng tốt, giá thành bằng hoặc thấp hơn hàng

ngoại nhập; đẩy mạnh việc thiết lập hệ thống phân phối, quảng bá thương hiệu, sản

phẩm. Có như vậy mới kích thích được sức mua của người tiêu dùng đối với hàng

trong nước.

Tăng cường chính sách thu hút, khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp,

đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài

Tăng cường chính sách thu hút, khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp tới

các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, đặc biệt là các vùng giáp biên,

130

ven biển, góp phần tạo công ăn việc làm, không ngừng nâng cao đời sống của người

dân ở các khu vực biên giới, ven biển. Đặc biệt là có chính sách khuyến khích đầu

tư thích đáng nhằm phát triển kinh tế tạo đòn bẩy phát triển về văn hoá - xã hội ở

những khu vực này. Kết hợp lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội

với nhau nhằm đảm bảo sự phát triển đồng đều và công bằng xã hội. Việc xây dựng

và phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo ở vùng biên giới phải được sự phối

hợp lãnh đạo thống nhất của các cấp ủy đảng và có sự tiến hành đồng bộ của chính

quyền các cấp, các bộ, ngành liên quan... Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội

phải có những dự án, kế hoạch cụ thể, chú ý tới mục tiêu, hiệu quả kinh tế.

Như đã nêu trong Chương 3, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tội

buôn lậu là tâm lý thích dùng hàng ngoại, hàng hiệu rẻ tiền của một bộ phận dân cư;

chính vì vậy, cần khuyến khích những nhà sản xuất nước ngoài đầu tư vào Việt Nam;

sản xuất và cung cấp hàng hóa ngay tại Việt Nam để người dân có thể sử dụng hàng

chính hãng, có bảo hành sản phẩm mà không cần dùng đến hàng lậu. Đây là một giải

pháp rất quan trọng để phòng ngừa tội buôn lậu.

Hỗ trợ giải quyết tốt việc làm cho người lao động

- Quan tâm đến các chính sách, hỗ trợ giải quyết tốt vấn đề việc làm cho

người lao động, tích cực hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp hàng năm thông qua việc tập trung

đào tạo nghề cho người lao động, thu hút đầu tư để tạo thêm việc làm cho người lao

động. Giải quyết tốt việc làm cũng có nghĩa là thu hẹp số người thất nghiệp, góp

phần hạn chế người vi phạm pháp luật trong đó có tội buôn lậu. Thực hiện tốt các

giải pháp về kinh tế - xã hội mà trước hết là giải quyết việc làm cho người lao động

sẽ góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến tới không ngừng nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Đời sống vật chất và

tinh thần được nâng lên, các nhu cầu từng bước được thoả mãn thì một mặt là cơ sở,

tiền đề giúp họ có những nhận thức đầy đủ hơn về pháp luật cũng như các vấn đề xã

hội, mặt khác nhờ đó hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong đó có tội

buôn lậu và tội buôn lậu.

- Thông qua các chính sách xã hội và bằng chính sách xã hội, đáp ứng ngày

càng tốt hơn các nhu cầu và điều kiện thiết yếu cho người lao động. Với thu nhập có

thể đáp ứng được cuộc sống, họ sẽ giảm bớt việc sử dụng những hàng hóa rẻ tiền từ

nguồn buôn lậu. Điều này sẽ góp phần khắc phục điều kiện tồn tại của tội buôn lậu.

Theo quy luật cung cầu, khi nhu cầu giảm xuống hoặc triệt tiêu thì một cách tương

ứng, nguồn cung cũng giảm xuống và tiến tới triệt tiêu. Chính vì vậy, cơ quan quản

131

lý của các tỉnh, thành phố trên địa bàn miền Đông Nam Bộ cần sớm hoàn thiện

chính sách khuyến khích đầu tư, đặc biệt là tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát

triển, tạo ra nhiều việc làm hơn với thu nhập cao hơn. Mặt khác, Nhà nước cũng cần

chú ý hoàn thiện hơn nữa môi trường xã hội và thị trường lao động lành mạnh, tạo

mọi điều kiện để doanh nghiệp và người lao động phát huy hết khả năng của mình.

Tăng cường phòng ngừa buôn lậu trong thương mại điện tử

Cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, người buôn lậu cũng lợi dụng

triệt để phương thức mua bán này để tiêu thụ hàng lậu. Rất nhiều Website giả mạo

doanh nghiệp có uy tín để cung cấp thông tin sai lệch về hàng hóa, dịch vụ lừa dối

người tiêu dùng, chúng sử dụng các hình ảnh có thể là hàng thật để quảng cáo, chào

bán với giá rẻ hơn rất nhiều so với các cửa hàng chính hãng nhằm lôi kéo người tiêu

dùng có nhu cầu mua sắm sử dụng hàng hiệu giá rẻ như: đồng hồ, mắt kính, giày

dép, thuốc lá xì gà, rượu ngoại, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, điện thoại di

động… Các đối tượng này đã thông qua Website để quảng bá, giới thiệu sản phẩm

chào bán sau đó chuyển hàng và thanh toán trực tuyến với khách hàng; các trang

website được tạo ra và đóng lại trong thời gian nhanh chóng khiến các lực lượng

chức năng khó phát hiện cũng như thu thập chứng cứ để xử lý.

Với tính chất đặc thù của thương mại điện tử là người mua và người bán

không gặp mặt nhau mà chỉ giao tiếp với nhau thông qua môi trường mạng, hàng

hóa thì được phân tán nhỏ lẻ, cất giấu ở nhiều nơi, không bán hàng trực tiếp mà

thông qua khâu trung gian: cộng tác viên, học sinh, sinh viên… là một trong những

đặc điểm thuận lợi cho các đối tượng lợi dụng để tiêu thụ hàng lậu.[96]

Công tác phát hiện, kiểm tra và xử lý hành vi lợi dụng thương mại điện tử để

buôn lậu gặp nhiều khó khăn do việc xử lý đòi hỏi phải có dấu hiệu, chứng cứ vi

phạm cụ thể. Trong khi đó các giao dịch thanh toán trên mạng đều có rủi ro bị hủy,

xóa dấu vết, các đối tượng kinh doanh thường không có địa điểm kinh doanh rõ

ràng, không thể kiểm tra ngay được. Do việc kiểm soát hoạt động mua bán thông

qua giao dịch thương mại điện tử chỉ có thể được thực hiện khi doanh nghiệp kinh

doanh trên Website thương mại điện tử thực hiện việc khai báo với cơ quan quản lý

nhà nước và do vậy thông tin liên quan đến hàng hóa được gửi đến cơ quan quản lý

muộn hơn rất nhiều so với thời điểm giao dịch thương mại điện tử được xác lập.

Hàng hóa được thanh toán qua mạng nên người hải quan khai trong nhiều trường

hợp không xuất trình được chứng từ thanh toán do thực hiện thanh toán điện tử qua

các thẻ thông minh. Trong trường hợp yêu cầu xuất trình chứng từ thanh toán cần

132

phải qua ngân hàng để xin thông tin sao kê. Để tránh phiền phức cũng như được

hưởng chính sách về thuế, người khai hải quan thường khai là quà biếu, quà tặng

thay vì khai báo việc giao dịch bằng thương mại điện tử.

Một trong những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế nêu trên là do hệ

thống văn bản pháp luật liên quan chưa theo kịp với sự phát triển của kinh tế thị

trường, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe, kiến thức chuyên môn, trang thiết bị phục

vụ công tác quản lý hoạt động thương mại điện tử của các lực lượng chức năng còn

hạn chế, công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng còn chưa kịp thời, thường

xuyên.

Vì vậy để ngăn chặn, phòng ngừa việc lợi dụng thương mại điện tử để thực

hiện hành vi buôn lậu cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau:

Ban hành thủ tục hải quan bảo đảm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh

thương mại điện tử lưu giữ hàng hóa tại kho ngoại quan trước khi giao hàng cho

khách hàng bảo đảm quản lý được hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Do nhận thức,

kỹ năng nhận biết của người tiêu dùng còn nhiều hạn chế hoặc do hám rẻ nên biết

hàng lậu, hàng cấm, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc mà vẫn mua. Do

đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho doanh nghiệp, người

tiêu dùng, nhất là nhận thức về hàng lậu, hàng cấm, hàng giả, hàng nhái.

Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, các lực lượng chức

năng trong công tác quản lý của mình, chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn,

phòng ngừa hiệu quả các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại trong hoạt động

thương mại điện tử; từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến hoạt

động thương mại điện tử:

+ Bộ Tài chính cần chỉ đạo Tổng cục hải quan có biện pháp phát hiện, điều tra,

xử lý hành vi lợi dụng thương mại điện tử để buôn lậu, gian lận thương mại, hàng

giả; chỉ đạo Tổng cục thuế phối hợp các lực lượng chức năng tăng cường công tác

quản lý thuế đối với loại hình kinh doanh thương mại điện tử, truy thu thuế đối với

các tổ chức, cá nhân có hành vi kinh doanh trên mạng mà không khai báo với cơ

quan thuế, khi phát hiện có nghi vấn chủ động chia sẻ, cung cấp thông tin cho các

cơ quan liên quan khác để cùng phối hợp xử lý kịp thời.

+ Bộ Công thương có trách nhiệm chỉ đạo, rà soát, thanh tra, kiểm tra toàn

diện đối với việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động thương mại

133

điện tử, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.

+ Bộ Thông tin và truyền thông thực hiện việc ngừng, tạm ngừng, thu hồi giấy

phép và địa chỉ IP đối với các Website, mạng xã hội được sử dụng để vi phạm pháp

luật trong hoạt động thương mại điện tử.

+ Ngân hàng nhà nước Việt nam chỉ đạo các ngân hàng thực hiện tốt việc cung

cấp thông tin theo quy định cho cơ quan thuế và các lực lượng chức năng khác phục

vụ cho việc kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử,

phong tỏa tài khoản khi cần thiết để ngăn chặn việc thanh toán, chuyển tiền đối với

các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật.

+ Bộ Công thương chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ

Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục hải quan, Hải quan địa phương, Tổng cục thuế,

Quản lý thị trường, chính quyền địa phương rà soát hệ thống văn bản pháp luật liên

quan đến hoạt động cấp phép, thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật trong

hoạt động thương mại điện tử; kịp thời phát hiện những bất cập, sơ hở, chồng chéo

để thống nhất kiến nghị, đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban

hành mới văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử;

các biện pháp quản lý, nghiệp vụ, ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả quản

lý, phát hiện, đấu tranh phòng ngừa các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, vi

phạm pháp luật.

4.2.3. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về văn hóa, giáo dục và

tâm lý xã hội của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Hệ thống các biện pháp thuộc về văn hóa, giáo dục và tâm lý - xã hội có mối

quan hệ mật thiết với các biện pháp về kinh tế và các biện pháp này cần được tiến

hành đồng bộ. Các biện pháp về kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất của người

dân là yếu tố quan trọng để thực hiện các chính sách về nâng cao trình độ học vấn, ý

thức pháp luật giảm bớt việc sử dụng hàng lậu và tăng cường đấu tranh với nạn

buôn lậu. Ngược lại, trình độ học vấn, ý thức pháp luật được nâng cao là những yếu

tố giúp người dân có việc làm ổn định, cải thiện đời sống vật chất. Khi thực hiện

biện pháp này, cần chú ý các vấn đề sau đây:

Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục ý thức chống hàng lậu

Đây được coi là một biện pháp hết sức quan trọng trong hoạt động phòng ngừa

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Hoạt động phổ biến, tuyên

truyền, giáo dục pháp luật luôn là yêu cầu cần thiết đối với đời sống pháp lý nói

chung và đời sống xã hội nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động giáo dục, phổ

134

biến pháp luật, đặc biệt là các hành vi buôn lậu và sử dụng hàng lậu chưa có được

sự tập trung đúng mức của các ngành, các cấp nên kết quả đạt được còn thấp so với

yêu cầu, sự hiểu biết pháp luật của cán bộ, nhân dân còn nhiều hạn chế. Để thực

hiện tốt hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến được với đời sống

người dân, các cơ quan chức năng cần:

- Tổ chức các buổi tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật đến mọi tầng lớp

công dân, đặc biệt là các nội dung về đấu tranh phòng, chống buôn lậu như: các quy

định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, xuất

nhập khẩu, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội

buôn lậu... Các nội dung đưa ra phải được chọn lọc, hệ thống hoá sao cho phù hợp

với khả năng tiếp thu của đối tượng ở các độ tuổi khác nhau. Tập trung tuyên

truyền, giáo dục cho đối tượng là nam giới có độ tuổi trên 30 tuổi.

- Tăng cường đổi mới các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật. Hoạt động

phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải đa dạng, sinh động, thông qua các

hình thức, phương pháp truyền tải thích hợp như: Thông qua các cuộc thi tìm hiểu

pháp luật về tội buôn lậu và hoạt động đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu, quy chế

khu vực biên giới... qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo, đài; đồng thời,

Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền cho người dân hiểu tác hại của

buôn lậu đối với nền kinh tế và tác động tiêu cực của nó đến sự phát triển của xã

hội, những phương thức, thủ đoạn mà bọn tội phạm buôn lậu thường sử dụng để rủ

rê, lôi kéo quần chúng nhân dân giúp sức tiếp tay cho chúng.

- Tăng cường cuộc vận động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác

tội buôn lậu nhằm tạo thế chủ động tấn công tội phạm buôn lậu ở mọi địa bàn, mọi

thời điểm như: biểu dương, khen thưởng kịp thời những gương người tốt, việc tốt

trong đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu, đưa tin kịp thời về kết quả phát hiện, xử

lý các vi phạm, tội phạm buôn lậu.

Việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần được

thực hiện đối với cộng đồng dân cư mà còn phải được thực hiện ngay trong đội ngũ

cán bộ, công chức nhà nước, đặc biệt là những cán bộ chiến sĩ trực tiếp thực hiện

nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống buôn lậu bởi chính họ sẽ là người giải thích và áp

dụng các quy định của pháp luật để chống lại nạn buôn lậu.

Tăng cường nhận thức chuyên sâu về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu cho

các chủ thể phòng ngừa

Để tăng cường nhận thức ở các chủ thể phòng ngừa về việc cần phòng ngừa

135

sớm tình hình tội buôn lậu, chú ý đến khắc phục nguyên nhân và điều kiện làm phát

sinh và tồn tại tội buôn lậu; cần phải tổ chức tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều cách

thức khác nhau như: sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các buổi

tuyên truyền, tập huấn cho một nhóm chủ thể, mời chuyên gia tư vấn cho những vấn

đề cụ thể chuyên sâu trong phòng ngừa tội buôn lậu.

Đối với mỗi biện pháp, cần chú ý những đặc thù riêng của từng biện pháp, khi sử

dụng các phương tiện thông tin đại chúng như báo hình, báo viết, các mạng xã hội cần

hướng đến các chủ thể phòng ngừa là người tiêu dùng (người sử dụng hàng hóa), các

doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Với đối tượng tuyên truyền đại trà cần tập trung

vào những nội dung thiết thực, đơn giản; chú trọng ở các khía cạnh giúp phát hiện hàng

hóa buôn lậu, phòng ngừa buôn lậu ở các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu,

khuyến khích các doanh nghiệp tham gia bảo vệ hàng hóa trong nước.

Biện pháp tổ chức các buổi tuyên truyền, tập huấn rất quan trọng đối với việc

nâng cao nhận thức chuyên sâu cho chủ thể phòng ngừa tội buôn lậu, đặc biệt là chủ

thể chuyên trách. Để thực hiện biện pháp này, người tuyên truyền cần am hiểu sâu

sắc các khía cạnh của phòng ngừa tội buôn lậu, vì vậy, cần sử dụng thêm đội ngũ

chuyên gia ở các cơ sở đào tạo bên cạnh các lực lượng tuyên truyền hiện có. Nội

dung tăng cường nhận thức, bao gồm: tình hình tội buôn lậu; phương thức, thủ đoạn

thực hiện các hành vi phạm tội; những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội

buôn lậu, trong đó phải đặc biệt nhấn mạnh những nguyên nhân thuộc về nhận thức

và ý thức trách nhiệm của các chủ thể phòng ngừa; các biện pháp để phòng ngừa tội

buôn lậu; sự cần thiết phải đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các

cơ quan chuyên trách với các chủ thể khác trong phòng ngừa tình hình tội buôn lậu.

Sử dụng chuyên gia tư vấn cho những vấn đề cụ thể trong phòng ngừa tội

buôn lậu là một biện pháp ít được đề cập trong các công trình nghiên cứu. Theo tác

giả, đây là một biện pháp quan trọng, có thể áp dụng vào từng hoàn cảnh, điều kiện

phòng ngừa cụ thể. Chẳng hạn, cơ quan hải quan ở sân bay hoặc cảng biển có thể

nêu vấn đề họ gặp phải và mời chuyên gia cho ý kiến làm thế nào để tăng cường

phòng ngừa tội buôn lậu. Với kiến thức và kinh nghiệm của mình, chuyên gia có thể

chỉ ra những “lỗ hổng” trong hoạt động phòng ngừa và đưa ra biện pháp cụ thể phù

hợp với từng chủ thể trong hoạt động của họ.

Giáo dục, xây dựng tâm lý và nhận thức đúng đắn về việc không dùng hàng lậu

Thực tế thời gian qua, các doanh nghiệp và cơ quan chức năng đã có những

phong trào vận động người dân không dùng hàng lậu, ví dụ như: dùng hàng nội là

136

yêu nước, bảo vệ thương hiệu Việt… Những hoạt động này đã từng bước xây dựng

tâm lý dùng hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam. Điều này sẽ giúp làm giảm tình

hình tội buôn lậu ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn miền Đông Nam Bộ nói

riêng. Tuy nhiên, cho đến nay tâm lý và nhận thức này vẫn chưa được hình thành

vững chắc và đồng bộ trong toàn bộ người dân. Vì vậy, đối với biện pháp giáo dục,

cần chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục cho những tầng lớp, thành phần nhân dân

khác nhau ý thức không dùng hàng rẻ do buôn lậu. Hình thức, phương thức tuyên

truyền và nội dung tuyên truyền cần được thiết kế, xây dựng phù hợp với trình độ

học vấn, thói quen tiêu dùng của đối tượng được tuyên truyền, đảm bảo tính sinh

động và thiết thực để người nghe cảm thụ sâu sắc.

Chủ thể tuyên truyền không nhất thiết phải là các cơ quan nhà nước mà cần

huy động các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa nội địa tham gia vào

hoạt động giáo dục, tuyên truyền chống hàng lậu. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể

sử dụng những chương trình khuyến khích dùng hàng nội địa như: đổi bộ phận của

sản phẩm đã được sử dụng lấy sản phẩm mới, tích lũy điểm thưởng, khách hàng

thân thiết… Một số doanh nghiệp đã áp dụng thành công nhiều biện pháp khuyến

khích khách hàng sử dụng sản phẩm trong nước, các doanh nghiệp khác có thể học

tập để cùng thay đổi thói quen và tâm lý ưa dùng hàng ngoại.

Các biện pháp tâm lý, giáo dục các đối tượng có nguy cơ cao đối với việc thực

hiện hành vi buôn lậu

Biện pháp giáo dục cần hướng đến đồng thời cả hai mục đích, đó là phòng

ngừa chung và phòng ngừa riêng. Với mục đích phòng ngừa riêng, tác giả chú trọng

vào biện pháp giáo dục những đối tượng có nguy cơ cao đối với việc thực hiện tội

buôn lậu. Căn cứ vào kết quả phân tích về tình hình tội buôn lậu theo đặc điểm nhân

thân người phạm tội buôn lậu, có thể thấy rằng một trong số các nhóm người buôn

lậu khá phổ biến là người không có công việc ổn định, trình độ văn hóa thấp. Ngoài

ra, về mặt địa lý, tội buôn lậu thường xảy ra ở các tuyến biên giới, hàng lậu thường

xuất hiện ở các khu đông dân cư, tập trung buôn bán, thương mại; như vậy việc giáo

dục tuyên truyền cần tập trung vào những người không có công việc ổn định, có

tiền án, tiền sự; sống ở nơi biên giới hoặc ở những nơi tập trung đông dân cư, sôi

động về hoạt động thương mại. Việc tuyên truyền, giáo dục những đối tượng này

cần chú ý những vấn đề sau:

- Chính quyền các tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là tỉnh Tây Ninh,

thành phố Hồ Chí Minh cần có những chương trình đầu tư lâu dài trong việc nâng

137

cao trình độ văn hóa, nâng cao ý thức pháp luật những người có nguy cơ phạm tội

cao. Các chương trình này phải gắn kết chặt chẽ với việc đào tạo nghề để họ có thể

tìm được việc làm ổn định, nâng cao đời sống vật chất. Thực tế cho thấy, những

người lao động chân chính, nhất là người có trình độ học vấn thấp sẽ vất vả hơn và

thu nhập thấp hơn rất nhiều so với những người thực hiện hành vi phạm tội buôn

lậu. Chính vì vậy, vấn đề rất khó khăn hiện nay là làm thế nào để thay đổi nhận

thức, thói quen của những người phạm tội buôn lậu, giúp họ hiểu được hậu quả của

việc thực hiện tội phạm buôn lậu, sự cần thiết phải chấm dứt những hành vi vi

phạm, hướng họ đến cuộc sống lương thiện.

- Các biện pháp giáo dục phòng ngừa không thực hiện theo phong trào mà cần

thường xuyên để “mưa dầm, thấm đất”, xây dựng được sự ủng hộ và giám sát của

cả cộng đồng đối với người có nguy cơ cao. Nêu cao những gương điển hình tại địa

phương có thể là một cách tuyên truyền, giáo dục; chỉ ra cho họ thấy được lợi ích

của ý thức tuân thủ pháp luật và các hình phạt nghiêm khắc sẽ bị áp dụng nếu thực

hiện hành vi phạm tội. Mặt khác, do trình độ học vấn thấp, đời sống tinh thần thiếu

thốn, các đối tượng này có thể thay đổi tâm lý, nhận thức khi họ cảm nhận được sự

quan tâm, cảm thông của những người xung quanh và các tổ chức đoàn hội gần gũi

với cuộc sống hàng ngày của họ.

- Việc tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa tội buôn lậu cần đặc biệt chú trọng

đến trẻ em ở những gia đình nghèo, gia đình có người phạm tội buôn lậu. Trẻ em ở

những gia đình này thường tiếp xúc nhiều với những quan điểm, hình ảnh phạm tội vì

vậy bị khiếm khuyết trong quá trình xã hội hóa. Chính vì lẽ ấy, việc giáo dục, giúp đỡ

từ sớm đối với trẻ em trong những gia đình này rất quan trọng. Chính quyền địa

phương cần phối hợp với các đoàn thể để đưa các trẻ em đến trường, đối với những

em lớn, đối tượng thanh niên trong các gia đình này cần vận động, tuyên truyền với

hoạt động hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm. Để thực hiện các biện pháp trên, những

cán bộ Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ giữ vai trò rất quan trọng vì các chủ thể này là

người trực tiếp tiếp cận, hiểu rõ hoàn cảnh gia đình từng hộ trong khu vực.

- Ngoài ra, để phòng ngừa chuyên sâu cho những đối tượng có nguy cơ cao

trong việc thực hiện tội phạm buôn lậu do điều kiện làm việc như: phi công, tiếp

viên đối với tuyến buôn lậu đường hàng không, các tàu trưởng và nhân viên trên tàu

hỏa, thuyền trưởng và thuyền viên của tàu vận tải đối với tuyến buôn lậu bằng

đường thủy và đường sắt, cần chú ý tổ chức các buổi tuyên truyền, tập huấn. Nội

dung cần thiết kế riêng về đặc thù trong hoạt động phòng ngừa của các chủ thể này.

138

Nhìn chung, nhóm các biện pháp về văn hóa, giáo dục, tâm lý – xã hội này cần

được kết hợp chặt chẽ với các biện pháp về kinh tế, bởi lẽ khi được đáp ứng một đời

sống vật chất cơ bản thì con người mới có khả năng tiếp nhận những kiến thức về

giáo dục, văn hóa cũng như các biện pháp định hướng tâm lý tích cực.

4.2.4. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về pháp luật của tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh mọi hoạt động xã hội

và hành vi của cá nhân, tổ chức. Biện pháp về pháp luật trong hoạt động phòng

ngừa tình hình tội buôn lậu đòi hỏi chúng ta phải có một hệ thống pháp luật hoàn

thiện và đồng bộ, đặc biệt là các quy định của pháp luật về thuế, thủ tục hải quan,

chính sách xuất nhập khẩu, pháp luật hình sự....Tuy nhiên, nhiều văn bản còn có

những kẽ hở, thậm chí chồng chéo mà người buôn lậu có thể lợi dụng. Người phạm

tội buôn lậu rất đa dạng thuộc mọi thành phần và ở nhiều độ tuổi khác nhau, bên

cạnh những người buôn lậu có trình độ văn hóa thấp, thất nghiệp, không có thu

nhập ổn định,… luôn tồn tại những người buôn lậu chuyên nghiệp với đặc điểm là

những người có tiềm lực kinh tế khá giả, am hiểu mặt hàng, có kinh nghiệm trong

kinh doanh buôn bán, thậm chí các đối tượng này có trình độ văn hóa cao, am hiểu

pháp luật, họ đã lợi dụng sự thông thoáng trong quy định pháp luật về đăng ký

doanh nghiệp, người phạm tội buôn lậu đã thành lập nhiều doanh nghiệp “ma” thuê

người làm đại diện để thực hiện hành vi buôn lậu. Do đó, để khắc phục những sơ

hở, tồn tại trên, tác giả cho rằng cần tiến hành các biện pháp sau:

- Rà soát, đánh giá, tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về xuất

nhập khẩu cũng như các vấn đề liên quan đến hoạt động ngoại thương. Qua đó,

khắc phục những quy định bất hợp lý, chưa phù hợp. Hiệu quả điều chỉnh của các

quy định pháp luật chỉ có thể đạt được như mong muốn nếu không còn các quy định

chồng chéo, mâu thuẫn.

- Sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, đặc biệt là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

để phù hợp với điều kiện mới hiện nay; mạnh dạn giảm thuế xuất nhập khẩu đối với

những mặt hàng mà hàng nội địa có khả năng cạnh tranh. Cần sớm ban hành văn

bản quy định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn hiện nay về chuyển khẩu, tạm nhập,

tái xuất, quá cảnh và văn bản quy định về quy chế quản lý hoạt động xuất nhập

khẩu qua biên giới, chế độ miễn kiểm hoá... để tránh tình trạng rất nhiều tội phạm

buôn lậu hiện nay lợi dụng kẽ hở của pháp luật về tạm nhập tái xuất, quá cảnh,

trung chuyển để buôn lậu hàng hóa vào nước ta.

139

- Đồng thời, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm, sự phối kết hợp của các cơ

quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các lực lượng chức năng và công dân trong hoạt

động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu. Mặt khác, việc thực hiện pháp luật

cũng đòi hỏi phải có sự nhất quán, với những hướng dẫn cụ thể, chi tiết, tránh việc

áp dụng pháp luật tùy tiện, dễ tạo ra kẽ hở cho các đối tượng lợi dụng để buôn lậu.

- Lần đầu tiên, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về

trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với tội buôn lậu. Tuy nhiên, từ

khi BLHS năm 2015 có hiệu lực cho đến nay, vẫn chưa có vụ án nào khởi tố đối với

các pháp nhân vi phạm. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này không phải do trên thực

tế không có hành vi phạm tội, mà do các quy định của BLHS năm 2015 chưa rõ

ràng, dẫn đến các cơ quan chức năng có tâm lý chờ đợi văn bản giải thích. Cụ thể,

Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những vấn đề cần phải chứng

minh khi truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại bao gồm: lỗi của

pháp nhân và lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân. [41] Ngoài ra, Điều 8

BLHS năm 2015 quy định rằng: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy

định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân

thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”. Như vậy, để truy cứu pháp nhân

thương mại về tội buôn lậu, cần phải chứng minh được lỗi cố ý của pháp nhân. Tuy

nhiên, BLHS năm 2015 chưa quy định các dấu hiệu về lỗi cố ý của pháp nhân. [40]

Đây chính là một khó khăn trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp

nhân thương mại liên quan. Vì vậy, tham khảo một số tài liệu về trách nhiệm hình sự

của pháp nhân, tác giả cho rằng cần sửa đổi Điều 8 BLHS năm 2015 theo hướng quy

định mang tính bao quát hơn. Điều 8 BLHS năm 2015 chỉ nên quy định “Tội phạm là

hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, bị cấm bởi BLHS này và phải bị xử lý hình sự.”

Từ đó, có thể chứng minh lỗi của pháp nhân thương mại phạm tội theo quy định tại

Điều 75 BLHS năm 2015.

- Như đã phân tích về nguyên nhân, điều kiện về pháp luật của tình hình tội

buôn lậu, tác giả đã đề cập đến vấn đề Việt Nam chưa có Luật phòng, chống tội

phạm để quy định những vấn đề quan trọng về phòng, chống tội phạm nói chung,

trong đó có tội buôn lậu, đặc biệt là vấn đề phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, Luật

phòng, chống tội phạm cần sớm được ban hành và gồm những nội dung chính như:

các nguyên tắc của phòng ngừa và chống tội phạm, các chủ thể tham gia vào phòng,

chống tội phạm và trách nhiệm của từng loại chủ thể, sự phối hợp của các chủ thể

trong phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, luật này cần quy định về tổ chức lực lượng

140

phòng ngừa tội phạm chuyên trách.

4.2.5. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về tổ chức, quản lý của

tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu, biện pháp về tổ chức,

quản lý có mối quan hệ chặt chẽ với biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục, tâm lý.

Quản lý cần được hiểu bao gồm cả quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước

và các cơ chế về chính sách. Biện pháp về tổ chức, quản lý bao gồm các nội dung

dưới đây:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức liên quan đến phòng, chống buôn lậu:

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các lực lượng có chức

năng phòng, chống buôn lậu vững mạnh và tinh nhuệ; tập trung đào tạo và đào tạo

lại nguồn cán bộ cho các lực lượng này theo hướng nâng cao trình độ và năng lực

hoạt động; thường xuyên làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, kiểm tra, đánh giá cán

bộ đúng thực lực, sẵn sàng thay thế những cán bộ non kém về nghiệp vụ, suy giảm

về phẩm chất đạo đức; xử lý nghiêm mọi trường hợp cán bộ, công chức nhà nước

sai phạm, bất kể người đó đang đảm nhiệm vị trí hoạt động nào; nêu cao tinh thần

tự chịu trách nhiệm trước công việc trong phạm vi khả năng và thẩm quyền của

mình. Bên cạnh đó, chúng ta phải có chế độ đãi ngộ thích đáng đối với những người

làm công tác phòng ngừa, đấu tránh chống buôn lậu (chính sách về tiền lương, tiền

thưởng, phụ cấp, đào tạo...) để người thực hiện hoạt động chống buôn lậu và gian

lận thương mại yên tâm, dốc tâm vào thực hiện nhiệm vụ.

- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện bộ máy Nhà nước theo hướng tinh giản, khắc

phục những bất cập, chồng chéo trong cơ chế quản lý. Tăng cường sự phối hợp hiệu

quả giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động phòng ngừa sẽ đảm bảo cho việc quản

lý những hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu, ngoại thương được thống nhất và

thông suốt, tránh tình trạng các cơ quan quản lý Nhà nước đùn đẩy công việc cho

nhau, tạo ra những khoảng trống trong quản lý để người buôn lậu lợi dụng thực hiện

tội phạm.

- Đổi mới hơn nữa cơ chế quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động xuất khẩu,

nhập khẩu; theo dõi chặt chẽ những loại hàng hoá đã tạm nhập vào nước ta. Đồng

thời, quản lý chặt các mặt hàng đang lưu thông trên thị trường nội địa, thường

xuyên kiểm tra mặt hàng phải dán tem theo quy định về dán tem nhập khẩu để hàng

lậu không có cơ hội được bày bán công khai.

- Đối với cơ quan quản lý các kho ngoại quan, trong sự phát triển của khoa

141

học công nghệ, cần đầu tư, cải tiến các phương tiện, thiết bị kỹ thuật (hệ thống

camera ghi hình có khẩu độ quan sát rộng, hình ảnh có độ phân giải cao, các thiết

bị, hệ thống phát hiện đột nhập…) nhằm hỗ trợ việc giám sát, theo dõi, quản lý hoạt

động đi lại, vận chuyển hàng hoá… Tăng cường kiểm tra, thay thế, gia cố hệ thống

bảo vệ, đèn chiếu sáng tại các địa điểm quan trọng để phòng ngừa những hành vi

buôn lậu.

- Quản lý chặt chẽ việc cấp giấy thông hành cho người dân ở khu vực biên

giới, tránh tình trạng người dân từ nơi khác đến dễ dàng làm giấy thông hành để

xuất cảnh và buôn bán hàng hoá trái phép qua biên giới. Tăng cường hoạt động

quản lý nhân khẩu, hộ khẩu đối với dân cư khu vực biên giới, nắm vững sự biến

động của dân cư trong khu vực để có biện pháp quản lý thích hợp, nhất là đối với

lao động từ các địa phương khác đến sinh sống, làm ăn; đồng thời quản lý và theo

dõi chặt chẽ các loại phương tiện giao thông ra vào khu vực biên giới.

Nâng cao hiệu quả quản lý của các doanh nghiệp

Như đã phân tích, không chỉ cá nhân sử dụng doanh nghiệp như một phương

tiện để thực hiện tội phạm và che giấu hành vi phạm tội mà theo quy định của

BLHS năm 2015, chính doanh nghiệp cũng có thể trở thành chủ thể của tội buôn

lậu. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp quản lý để phòng ngừa tội

buôn lậu. Cụ thể, doanh nghiệp cần chấp hành đúng các quy định pháp luật có liên

quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh; đặc biệt là các văn bản pháp luật liên

quan đến thuế xuất khẩu, nhập khẩu, các quy định về hải quan, các quy định về sở

hữu trí tuệ…

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần quản lý tốt công tác tuyển dụng để phòng ngừa

người lao động, người quản lý doanh nghiệp núp dưới vỏ bọc người lao động chân

chính hoạt động buôn lậu; nhắc nhở người lao động chấp hành pháp luật, tích cực

thông tin về những hành vi nghi ngờ liên quan đến buôn lậu. Doanh nghiệp cần có

nội quy ra vào doanh nghiệp chặt chẽ, quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ của lực

lượng bảo vệ, người lao động và khách hàng đến liên hệ công tác; kiểm tra chặt chẽ

hàng hóa, phương tiện ra vào doanh nghiệp.

Đối với các doanh nghiệp được hoạt động tạm nhập, tái xuất phải chủ động

xây dựng các kế hoạch, phương án đảm bảo an ninh, an toàn trong doanh nghiệp;

tích cực tham gia xây dựng và thực hiện các quy chế phối hợp với các lực lượng

chuyên trách trong phòng ngừa, phát hiện tội phạm; thường xuyên liên hệ các cơ

quan chức năng, tổ chức huấn luyện nâng cao khả năng giải quyết các tình huống

142

khi có sự việc xảy ra. Đồng thời, khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm bên

trong doanh nghiệp cần nhanh chóng thông báo đến cơ quan chức năng để hỗ trợ,

kịp thời bảo vệ hiện trường, không để hiện trường bị xáo trộn. Ngoài ra, cần tạo điều

kiện thuận lợi cho các lực lượng chuyên trách (đặc biệt là các lực lượng của cơ quan

công an) trong việc triển khai các biện pháp phòng ngừa, điều tra, xử lý các vụ việc

có liên quan đến buôn lậu.

Đối với doanh nghiệp trong các khu chế xuất, cần tiếp tục nhân rộng các mô

hình tự quản, khuyến khích người lao động tham gia các mô hình, phong trào tự

quản nhằm huy động đông đảo người lao động tham gia phòng ngừa tội buôn lậu.

4.2.6. Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt

động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu của các chủ thể chuyên trách trên địa

bàn miền Đông Nam Bộ

Như tác giả đã phân tích ở phần nguyên nhân và điều kiện về hạn chế trong

hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, hoạt

động phòng ngừa riêng và hiệu quả xử lý tội buôn lậu vẫn chưa cao, tổ chức lực

lượng còn yếu và phối hợp chưa thật sự hiệu quả, các trang thiết bị hiện đại để

phòng, chống buôn lậu còn thiếu. Với những nguyên nhân, điều kiện trên; tác giả

đưa ra một số biện pháp sau:

Tăng cường nhận thức về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn một bộ

phận cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội chưa thực sự ý thức được trách nhiệm

của mình trong phòng ngừa tình hình tội buôn lậu. Vì vậy, thời gian tới các cấp

chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần quan tâm hơn đến hoạt động

phòng ngừa tình hình tội buôn lậu, đồng thời tuyên truyền, vận động, hướng dẫn đối

với chủ doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và ý thức pháp

luật của các chủ doanh nghiệp trong phòng ngừa tội buôn lậu.

Hoạt động tuyên truyền cần làm rõ được những tác động và hậu quả của buôn

lậu đối với nền kinh tế về quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, cá nhân trong

phòng ngừa buôn lậu. Việc tuyên truyền sẽ giúp họ xác định đúng đắn vị trí, vai trò

cũng như lợi ích của mình khi tham gia hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu; giúp họ thấy được việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa trước hết là bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chính mình.

Đối với các chủ thể chuyên trách, việc tuyên truyền về nhận thức phòng ngừa

tình hình tội buôn lậu tránh chung chung, trừu tượng mà cần phải dựa trên những

143

thông tin đầy đủ về thông số của tình hình tội buôn lậu, các kết quả nghiên cứu về

nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu và cơ sở khoa học, thực tiễn của

các biện pháp phòng ngừa.

Tăng cường hiệu quả phòng ngừa riêng, xử lý người phạm tội buôn lậu

Thực tiễn xử lý tội phạm buôn lậu cho thấy, những vụ án buôn lậu có tổ chức

rất khó bị phát hiện, nhiều trường hợp chỉ phát hiện được người vận chuyển (người

cửu vạn) và không truy tìm được đến chủ hàng. Chính vì vậy, việc xử lý người

phạm tội buôn lậu cần phải được chú trọng, kết hợp với xử lý người vận chuyển trái

phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Để đạt được điều này cần chú ý những biện

pháp sau:

Nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án buôn lậu: việc xử lý tin báo, tố giác

cần kịp thời, chính xác, nhuần nhuyễn bởi vì nếu các cơ quan chức năng không

nhanh chóng xử lý thì khi cảm thấy có “động”, người buôn lậu nhanh chóng tẩu tán

hàng hóa hoặc thậm chí từ bỏ hàng hóa để trốn trách trách nhiệm. Giá trị lượng

hàng hóa buôn lậu có ý nghĩa quan trọng đối với việc định tội và định khung hình

phạt. Vì vậy, khi khám nghiệm hiện trường và thu giữ vật chứng cần chú ý sự chính

xác của các thông tin để tránh trường hợp nhầm lẫn giữa các loại hàng hóa, nguồn

gốc xuất xứ, loại hàng dẫn đến việc xác định sai giá trị hàng hóa hoặc khó khăn

trong việc xác định giá trị hàng hóa buôn lậu, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Hoạt động điều tra cần khéo léo, am hiểu tâm lý của người phạm tội để đấu tranh

với những người vận chuyển, khuyến khích họ cung cấp thông tin về chủ hàng.

Viện kiểm sát cần sát sao trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều

tra để củng cố chứng cứ, tăng hiệu quả truy tố, xử lý người phạm tội.

Bên cạnh đó, các cơ quan chuyên trách cần chú ý đến hợp tác quốc tế trong

đấu tranh với tội phạm buôn lậu.Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và chính

sách hội nhập kinh tế, lưu lượng người và hàng hóa ra và vào lãnh thổ hàng ngày là

rất lớn, người phạm tội đã khai thác ngay chính điều kiện này vào việc thực hiện tội

phạm. Chính vì vậy, để đấu tranh hiệu quả với tội buôn lậu, các cơ quan chuyên

trách của chúng ta cần phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của nước ngoài để có

thông tin phát hiện, xử lý tội phạm đồng thời phối hợp bắt giữ những đối tượng tổ

chức buôn lậu.

Tăng cường tổ chức lực lượng và cơ chế phối hợp giữa các chủ thể chuyên

trách phòng ngừa

Các chủ thể chuyên trách giữ nhiệm vụ chính trong hoạt động phòng ngừa tội

144

buôn lậu. Lực lượng này chủ yếu bao gồm các cơ quan công an, viện kiểm sát, hải

quan, bộ đội biên phòng, quản lý thị trường. Hoàn thiện tổ chức lực lượng phòng

ngừa chuyên trách trong đấu tranh với tội buôn lậu và nâng cao chất lượng phối hợp

giữa các chủ thể là rất quan trọng. Vì vậy, cần chú trọng những biện pháp sau:

Hoàn thiện tổ chức bộ máy và thống nhất phân công, phân cấp các lực lượng

nghiệp vụ có chức năng phòng ngừa buôn lậu ở các cửa khẩu, đường biên giới và

trong nội địa.

Trong thời gian qua, cơ cấu tổ chức bộ máy và việc phân công, phân cấp giữa

các đơn vị, lực lượng công an còn bất cập, chưa thống nhất, dẫn đến nhiều lúc, nhiều

nơi công tác nghiệp vụ chưa được tiến hành một cách thường xuyên, đồng bộ làm cho

hiệu quả công tác phòng ngừa buôn lậu chưa cao. Vì vậy, cần phân định rõ chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi tiến hành các hoạt động phòng ngừa cho từng

lực lượng cụ thể, tránh chồng chéo.

Công an các tỉnh cần phối hợp với lực lượng hải quan để thống nhất quy định

phân công phân cấp và mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, lực lượng thực hiện

phòng ngừa buôn lậu. Đặc biệt là sự phối hợp trao đổi thông tin giữa các lực lượng

nghiệp vụ cảnh sát, công an cửa khẩu, đơn vị bộ đội biên phòng với hải quan. Các lực

lượng nghiệp vụ cảnh sát theo chức năng của mình phải thường xuyên trao đổi thông

tin về doanh nghiệp với lực lượng an ninh kinh tế và hải quan để chủ động phòng

ngừa, đấu tranh chống buôn lậu. Nhất là cần trao đổi thông tin về hoạt động sản xuất

kinh doanh, tài chính, người buôn bán hàng hóa và những vấn đề khác có liên quan

để chủ động đề ra các kế hoạch phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.

Các lực lượng công an, viện kiểm sát, quản lý thị trường và các cơ quan hữu

quan cần kiểm tra, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện tốt việc quản lý con người,

quản lý tài sản của mình. Thông qua công tác của lực lượng an ninh kinh tếlà lực

lượng có thẩm quyền trực tiếp tiếp xúc và thu thập thông tin từ bên trong các doanh

nghiệp để kịp thời phát hiện những sai phạm cũng như những sơ hở, thiếu sót của

doanh nghiệp có nguy cơ trở thành nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh các loại tội

phạm. Từ đó, đề ra các biện pháp phối hợp phòng ngừa tội buôn lậu có hiệu quả.

Phân công, phân cấp rõ chức năng thực hiện các biện pháp quản lý hành chính

cho các lực lượng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, công an cửa khẩu,

đồn công an để tăng cường quản lý nhân khẩu; quản lý, kiểm tra các doanh nghiệp, cá

nhân kinh doanh các lĩnh vực có thể xảy ra hành vi buôn lậu. Tăng cường tuần tra ở

các tuyến cửa khẩu để kịp thời phát hiện tội buôn lậu. Thiết lập các trạm kiểm tra liên

145

hợp tại các tuyến vận chuyển để ngăn chặn hàng lậu.

Tăng cường hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa

Mặc dù từ năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

389/QĐ-TTg ngày 19 tháng 03 năm 2014 thành lập Ban chỉ đạo quốc gia chống

buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (gọi tắt là Ban chỉ đạo 389). Sau đó, các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã thành lập Ban chỉ đạo của địa

phương một cách tương ứng. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các đơn vị trong phòng,

chống buôn lậu vẫn còn hạn chế. Vì vậy, các Ban chỉ đạo cần tiếp tục rà soát để

khắc phục những hạn chế này. Một số địa phương đã thực hiện, ví dụ: ngày

25/5/2019, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số

2179/QĐ-UBND về kiện toàn Ban chỉ đạo và Bộ phận thường trực Ban chỉ đạo

chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh. [99]; ngày 21/12/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định

số 69/2016/QĐ-UBND về việc ban hành Quy chế quy định trách nhiệm và quan hệ

phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh

phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

Việc này cần được rà soát và thực hiện trên tất cả các tỉnh của miền Đông Nam Bộ.

Ngoài việc các ngành, lực lượng chức năng của các tỉnh thuộc miền Đông

Nam Bộ cần triển khai nghiêm và chặt chẽ chương trình tổng thể quốc gia về chống

buôn lậu và gian lận thương mại còn phải xây dựng cơ chế phối hợp giữa các chủ

thể có chức năng phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại với các tỉnh biên giới

Tây Nam trong việc trao đổi thông tin, chuyên môn, nghiệp vụ...nhằm thực hiện

được những giải pháp quyết liệt, phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng, tránh tình

trạng chồng chéo, bỏ trống và nâng cao được hiệu quả công tác đấu tranh phòng,

chống của các lực lượng chức năng.

Trong công tác phối hợp phát hiện tội buôn lậu, cơ quan công an, cơ quan hải

quan, bộ đội biên phòng và quản lý thị trường là những lực lượng nòng cốt. Ngoài

ra, các cơ quan chức năng khác tiếp tục phối hợp tốt hơn các hoạt động, triển khai

các quy chế phối hợp thông qua các chương trình phòng, chống buôn lậu trên địa

bàn hay trong từng khu vực cụ thể, giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp với các

đoàn thể ở địa phương như Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Ban chấp hành khu phố…

trong việc quản lý những người có nguy cơ cao trong việc thực hiện tội phạm như

những người có tiền án, tiền sự; những người không có công việc ổn định, thất

146

nghiệp, những người lười lao động.

Một vấn đề khác cần được quan tâm hiện nay là tăng cường phối hợp giữa cơ

quan công an, Viện Kiểm sát và Tòa án để sự phối hợp giữa ba cơ quan này được

tiến hành thường xuyên, đạt mục tiêu chung là góp phần giải quyết các vụ án nhanh

chóng, đúng pháp luật nhưng không vi phạm nguyên tắc hoạt động độc lập của từng

cơ quan thì cần phải được thực hiện dựa trên một quy chế nhất định, trong đó quy

định rõ nội dung phối hợp, cách thức phối hợp, nhiệm vụ cụ thể của từng chủ thể

trong hoạt động phối hợp.

Đầu tư trang thiết bị, kinh phí

Để đấu tranh hiệu quả với tội buôn lậu cần chú trọng về trang thiết bị. Lực

lượng hải quan cần ứng dụng triệt để công nghệ thông tin, tăng cường sử dụng các

trang thiết bị, kỹ thuật quản lý hiện đại trong hoạt động kiểm soát hải quan để có thể

kịp thời phân tích thông tin, xác định trọng điểm, chủ động phòng ngừa.

Việc tổ chức vận hành hệ thống giám sát trực tuyến, hỗ trợ các đơn vị kiểm

soát hải quan rất quan trọng đối với việc kịp thời phát hiện, xử lý các vụ việc vi

phạm. Ngoài ra, lực lượng hải quan đã triển khai cảnh báo tự động trên hệ thống

thông quan điện tử e-customs, hệ thống thông tin tình báo, nhưng vẫn cần tiếp tục

nâng cấp, hoàn chỉnh các chức năng để kịp thời hỗ trợ lực lượng kiểm soát hải quan.

Ngoài ra, cũng cần hoàn thiện hệ thống định vị GPS xe, tàu vận chuyển hàng

hóa trên các tuyến giao thông, hệ thống theo dõi hoạt động tàu biển vận chuyển

xăng dầu, hệ thống xe chỉ huy giám sát và ngăn chặn cơ động. Tăng cường đầu tư,

trang bị các phương tiện, trang thiết bị hiện đại như tàu cao tốc, thiết bị máy bay

không người lái UAV. Trong thực tiễn, đã có trường hợp lực lượng phòng, chống buôn

lậu không được đầu tư trang thiết bị đúng mức nên đã không đuổi bắt được đối tượng

buôn lậu hoặc có trường hợp do trang thiết bị quá yếu nên không đủ sức răn đe, đối

tượng vi phạm quay lại tấn công cán bộ chống buôn lậu, xâm phạm tính mạng, sức

khỏe của người thi hành công vụ.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu là một nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra không

chỉ với những cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này mà

còn là nhiệm vụ của cả cộng đồng và của mỗi người dân.

Đông Nam Bộ là vùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh, hoạt động buôn

bán trao đổi hàng hóa diễn ra sôi động trên cả đường bộ, đường biển và đường hàng

không. Đây cũng là địa bàn hoạt động buôn lậu diễn biến phức tạp, đòi hỏi chính

147

quyền địa phương cũng như các ngành phải có những biện pháp hiệu quả hơn để

hạn chế, ngăn chặn tình trạng này. Trong phạm vi chương này tác giả tập trung vào

việc phân tích làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, từ đó đưa ra một số giải pháp cụ thể để phòng

ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn.

Tương ứng với việc xác định các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ tại Chương 3, tác giả đã đề xuất các giải

pháp để phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội buôn lậu trong điều kiện cụ thể của

miền Đông Nam Bộ. Các nhóm giải pháp được thiết kế bao gồm: giải pháp khắc

phục nguyên nhân, điều kiện về đặc điểm địa lý, tự nhiên; giải pháp khắc phục

nguyên nhân, điều kiện về kinh tế, xã hội; giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều

kiện về văn hóa, giáo dục và tâm lý xã hội; giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều

kiện về pháp luật; giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về quản lý xã hội;

giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt động phòng

ngừa.

Một số giải pháp đặc thù liên quan đến tình hình tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ được tác giả chú trọng gồm: tăng cường kiểm soát nội bộ về

biên giới, đặc biệt là các tuyến buôn lậu đã được phát hiện qua các vụ án thực tiễn;

tăng cường hợp tác với các nước lân cận để kiểm soát hàng hóa qua biên giới. Liên

quan đến nhận thức của người dân và tâm lý dùng hàng nhập lậu giá rẻ, cần tiếp tục

nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục nhân dân tích cực tham gia hoạt

động đấu tranh phòng ngừa tình hình tội buôn lậu. Đặc biệt, giải pháp về kinh tế -

xã hội là một trong những giải pháp căn bản ở các khía cạnh sau. Thứ nhất, khi

hàng hóa được sản xuất trong nước có chất lượng cao, có thể thay thế hàng ngoại

nhập với giả rẻ hơn, người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng hàng hóa trong nước.

Thứ hai, khi những nhà đầu tư nước ngoài sản xuất các hàng hóa (vẫn đang phải

nhập từ nước ngoài) để cung cấp tại thị trường Việt Nam, việc nhập lậu sẽ không

còn tạo ra những nguồn thu nhập cạnh tranh và do vậy sẽ dần bị thay thế, từ bỏ.

Ngoài ra, củng cố các lực lượng phòng ngừa tình hình tội buôn lậu theo hướng hiện

đại và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng; hoàn thiện các quy định

148

của pháp luật hình sự có liên quan là những giải pháp đã được luận án phân tích.

KẾT LUẬN

Buôn lậu là một hiện tượng kinh tế xã hội tiêu cực, xuất hiện từ khi các hoạt động

thương mại phát triển cùng với sự ra đời của hàng rào thuế quan. Buôn lậu và tội buôn

lậu luôn là vấn đề nóng bỏng được dư luận cả nước quan tâm, là yếu tố cản trở sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tội buôn lậu xâm phạm đến chế độ

quản lý Nhà nước về ngoại thương, sự quản lý của Nhà nước đối với hàng hóa ra và

vào lãnh thổ.

Với những đặc trưng về kinh tế, chính trị xã hội và đặc điểm tự nhiên của

miền Đông Nam Bộ, tình hình tội buôn lậu ở khu vực này diễn biến phức tạp, mức

độ ẩn cao, phương thức thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ

án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ diễn ra trong một thời gian dài với trị

giá hàng lậu lên đến vài chục tỷ đồng, thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Trong những

năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở miền Đông Nam Bộ đã có

nhiều chủ trương, biện pháp tích cực chỉ đạo các cơ quan chức năng chủ động

phòng ngừa, đấu tranh chống tội buôn lậu. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn

lậu đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần không nhỏ vào việc ổn định tình

hình kinh tế, chính trị trên địa bàn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và

khách quan, hiệu quả phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam bộ vẫn

còn những hạn chế nhất định.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ từ năm 2011 đến 2020, luận án đã đạt

được những kết quả chủ yếu sau đây:

1. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về tình hình, nguyên

nhân và phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ Việt Nam, khảo

sát và tổng kết thực tiễn trong 10 năm qua.

2. Trên cơ sở lý luận của tội phạm học, luận án đã phân tích, làm rõ những vấn

đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ;

khảo sát thực tiễn, phân tích, đánh giá tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ, trong đó tương quan phần hiện và phần ẩn của tội buôn lậu đã phản ánh bức

tranh toàn cảnh của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn. Qua số liệu thống kê các vụ án

đã phát hiện được và phương pháp điều tra xã hội học, có thể khẳng định tội buôn lậu

là loại tội phạm có độ ẩn rất lớn. Qua nghiên cứu những vụ án thực tế, luận án cũng

đã làm sáng tỏ các tuyến buôn lậu, cách thức vận chuyển hàng lậu cũng như những

phương thức thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi buôn lậu.

3. Từ kết quả phân tích, đánh giá tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ và trên cơ sở lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội 149

buôn lậu, luận án đã phân tích, xác định được những nguyên nhân điều kiện làm

phát sinh, tồn tại tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, bao gồm;

nguyên nhân, điều kiện về đặc điểm địa lý, tự nhiên; nguyên nhân, điều kiện về kinh

tế, xã hội; nguyên nhân, điều kiện về văn hóa, giáo dục và tâm lý xã hội; nguyên

nhân, điều kiện về pháp luật; nguyên nhân, điều kiện về quản lý xã hội; nguyên

nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt động phòng ngừa.

4. Luận án đã phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Đồng thời, tương ứng với những nguyên

nhân, điều kiện đã xác định, luận án đề xuất hệ thống giải pháp phòng ngừa tình

hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ bao gồm: Giải pháp hạn chế

nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

từ đặc điểm địa lý, tự nhiên; Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về kinh

tế, xã hội; Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về văn hóa, giáo dục và tâm

lý xã hội; Giải pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện về pháp luật; Giải pháp khắc

phục nguyên nhân, điều kiện về tổ chức, quản lý; Giải pháp khắc phục nguyên

nhân, điều kiện về hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội buôn lậu của

các chủ thể chuyên trách trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

Phòng ngừa tội phạm nói chung và tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ nói riêng là nhiệm vụ quan trọng đặt ra không chỉ với những cơ quan có chức

năng đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này mà còn là nhiệm vụ của toàn Đảng,

toàn dân. Hoạt động phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ phải

luôn đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của chính

quyền địa phương, sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành, nhất là các cơ quan

chuyên trách có chức năng phòng chống tội buôn lậu làm nòng cốt như cơ quan hải

quan, công an, bộ đội biên phòng, buản lý thị trường, thuế vụ; các biện pháp phòng

ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ phải được tiến hành trong mối

liên hệ với nhau, giải quyết tình hình tội phạm từ nguyên nhân, điều kiện của nó

nhằm phát huy tối đa hiệu quả phòng ngừa.

Trong phạm vi nội dung và đối tượng nghiên cứu, luận án “Tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ Việt Nam: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”

đã giải quyết được những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn như mục đích và

nhiệm vụ của luận án đã đặt ra, góp phần hoàn thiện lý luận và nâng cao hiệu quả

150

phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Đăng Phú, năm 2019, Một số nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ hiện nay, Tạp chí khoa học, Viện Đại học Mở

2. Nguyễn Đăng Phú, năm 2019, Dự báo và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường

Hà Nội, số 59 năm 2019.

phòng ngừa tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Tạp chí Nhân lực Khoa

3. Nguyễn Đăng Phú, năm 2020, Tình hình buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ - Nguyên

học xã hội, số 12 năm 2019.

151

nhân và giải pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7 năm 2020.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Ban chỉ đạo Quốc gia (2017), Kế hoạch số 1239/KH-BCĐ 389 ngày 13 tháng

12 năm 2017, về tăng cường hoạt động phòng, chống buôn lậu, sản xuất, kinh

doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật giả, kém chất lượng.

2. Ban chỉ đạo Quốc gia (2020), Quyết định số 195/QĐ-BCĐ389 ngày 23 tháng

3 năm 2020 của Ban chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại

và hàng giả về việc ban hành quy chế tiếp nhận, xử lý tin báo về buôn lậu,

gian lận thương mại và hàng giả.

3. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (1988), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.

4. Lê Thanh Bình (l998), Chống buôn lậu và gian lận thương mại, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

5. Nguyễn Đức Bình (2000), Đấu tranh phòng, chống tội buôn lậu hoặc vận

chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, Luận án tiến sĩ luật học,

Trường đại học Luật Hà Nội.

6. Hoàng Xuân Chiến (2000), Phòng ngừa tội buôn lậu trên tuyến biên giới đất

liền của Bộ đội biên phòng, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân

dân.

7. Chính phủ, (2013), Nghị định 08/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2013

quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng

giả.

8. Chính phủ (2014), Quyết định số 389/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày

19 tháng 3 năm 2014 về thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian

lận thương mại và hàng giả.

9. Chính phủ (2015), Nghị định số 01/2015/NĐ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2015

quy định chi tiết phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; trách nhiệm phối hợp

trong phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.

10. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 về việc

đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình

152

mới.

11. Chính phủ (2018), Nghị định số 12/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 01/2015/NĐ-CP ngày 02 tháng 01

năm 2015 quy định chi tiết phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; trách nhiệm

phối hợp trong phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua

biên giới.

12. Chính phủ (2018), Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 19

tháng 6 năm 2018 về tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương

mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng thuộc nhóm hàng

dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, dược liệu và vị thuốc y học cổ

truyền.

13. Đại học Quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Quốc Đoàn (2013), Quan hệ phối hợp giữa lực lượng cảnh sát kinh tế

và Bộ độ biên phòng trong phát hiện, điều tra tội phạm buôn lậu trên tuyến

biên giới đất liền Việt - Trung, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân.

15. Vũ Dũng (2015), Sự khác biệt giữa tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội

https://www.suckhoetamthan.net/tam-ly-thuc-hanh/Su-khac-biet-giua-tam-ly-

ca-nhan-va-tam-ly-xa-hoi-1515.html;

16. Đại học Luật Hà Nội (2003) Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

17. Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Công an nhân

dân, Hà Nội.

18. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Công an nhân

dân, Hà Nội.

19. Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hình sự 2017, Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội.

20. Phạm Hồng Hải (2000), Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lí luận và thực

tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Nguyễn Xuân Hải - Phạm Hữu Hoàn, (2017) http://csnd.vn/Home/Nghien-

cuu-Trao-doi/2612/Nguyen-nhan-cua-toi-pham-buon-lau-va-mot-so-giai-

phap-nang-cao-hieu-qua-phong-ngua-toi-pham-buon-lau-cua-luc-luong-

153

Canh-sat-kinh-te.

22. Nguyễn Thị Phương Hoa (2010) “Đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm –

Một số vấn đề lý luận ”, Tạp chí khoa học pháp lý (1).

23. Đỗ Đình Hòa (2001), Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân

dân đối với các vụ án buôn lậu, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát

nhân dân.

24. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, Tạp chí

luật học số 06/2007.

25. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an

nhân dân, Hà Nội.

26. Nguyễn Bỉnh Lại (2013), Đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại ở

nước ta hiện nay;

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=20301&

print=true;

27. Nguyễn Thành Long (2015) Phòng, chống tội buôn lậu trên tuyến biên giới

Tây Nam Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã

hội.

28. Dương Tuyết Miên (2010) Giáo trình tội phạm học, Nxb. Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

29. Nguyễn Ngọc Minh (2015) “Tình hình tội phạm buôn lậu trong điều kiện Việt

Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN - Một số nhận định và kiến nghị”,

Tạp chí Cảnh sát nhân dân ngày 21/01/2015.

30. Lê Hoài Nam, Trưởng Khoa CSKT, T32 - Đại úy, TS. Ngô Trung Hòa, Giảng

viên Khoa NV CSKT, T32 (2015), Tác động của hoạt động buôn lậu, gian lận

thương mại đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam;

http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/592/Tac-dong-cua-hoat-dong-

buon-lau-gian-lan-thuong-mai-doi-voi-su-phat-trien-kinh-te-Viet-Nam;

31. Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh (2013), Giáo trình tội phạm học,

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

32. Võ Thị Kim Oanh và Lê Nguyên Thanh (2014), Giáo trình tội phạm học,

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia

154

Việt Nam.

33. Nguyễn Đăng Phú (2004), Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu tại

Thành phố Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học,

Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

34. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1999.

35. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

36. Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp 2014.

37. Quốc hội (2014), Luật Hải quan 2014.

38. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.

39. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân 2014.

40. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

41. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

42. Quốc hội (2005), Luật thương mại năm 2005.

43. Quốc hội (2016), Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016.

44. Quốc hội (2018), Luật Công an nhân dân 2018.

45. Quốc hội (2018), Luật phòng, chống tham nhũng.

46. Quốc hội (2015), Nghị quyết số: 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc

hội về hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và hoạt động thi hành án năm

2016 và các năm tiếp theo.

47. Hồ Sỹ Sơn (2012), “ Khái niệm và các dấu hiệu của tội phạm nhìn từ góc độ

so sánh pháp luật hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật (10).

48. Học viện Cảnh sát nhân dân, “Tình hình tội phạm buôn lậu trong điều kiện

Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN - Một số nhận định và kiến

nghị”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân ngày 21/01/2015;https://baomoi.com/pho-

thu-tuong-nguyen-xuan-phuc-ngan-chan-va-day-lui-buon-lau-gian-lan-thuong-

mai-va-hang-gia/c/13792815.epi;

49. Học viện Cảnh sát nhân dân (2002), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Công an

155

nhân dân.

50. Lê Thu (2014), Buôn lậu tại các tỉnh trọng điểm Đông Nam bộ giảm, nhưng

vẫn phức tạp; https://www.baohaiquan.vn/Pages/Buon-lau-tai-cac-tinh-trong-

diem-Dong-Nam-bo-giam-nhung-van-phuc-tap.aspx;

51. Lệ Thúy (2018), Buôn lậu, gian lận thương mại: Từ công khai đi vào... tinh

vi;http://cand.com.vn/Thi-truong/Tu-cong-khai-di-vao-tinh-vi-504501/;

52. Phạm Văn Tỉnh (2004), Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước

ta hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật.

53. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc độ

của tội phạm học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2007 và Phạm Văn

Tỉnh, Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam, Nxb. Tư Pháp

2007.

54. Phạm Văn Tỉnh (2014), “Nội dung của chiến lược phòng ngừa tội phạm ở

Việt Nam hiện nay – nhận thức và lý luận”, Tạp chí nhân lực khoa học xã hội

(3).

55. Phạm Văn Tỉnh (2014), Bài giảng tội phạm học, Học viện Khoa học Xã hội -

Viện Hàn lâm khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

56. Lê VănTới (2000), Buôn lậu và chống buôn lậu, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

57. Bảo Trâm (2017), Vùng Đông Nam bộ: Tăng trưởng kinh tế cần 'sếu đầu đàn'

https://baomoi.com/vung-dong-nam-bo-tang-truong-kinh-te-can-seu-dau-

dan/c/23409285.epi;

58. Trần Hữu Tráng (2010), “Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội

phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta”, Tạp chí Luật học (1).

59. Đức Trung (2017), Đông Nam bộ chậm hình thành một không gian kinh tế

vùng thống nhất, http://www.sggp.org.vn/dong-nam-bo-cham-hinh-thanh-mot-

khong-gian-kinh-te-vung-thong-nhat-471497.html

60. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Truyền thông KH&CN (2017), Phát triển

liên kết vùng Đông Nam Bộ: Cần phát huy được tiềm năng, thế mạnh của từng

địa phương, https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/12909/phat-trien-lien-ket-

vung-dong-nam-bo--can-phat-huy-duoc-tiem-nang--the-manh-cua-tung-dia-

156

phuong.aspx

61. Nguyễn Văn Tuấn (2013), Chuyên án trinh sát đấu tranh chống tội phạm buôn

lậu của lực lượng cảnh sát kinh tế, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát

nhân dân.

62. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước, Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND ngày 18

tháng 11 năm 2016 về việc ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối

hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh

phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn tỉnh

Bình Phước.

63. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Quyết định số 32/2017/QĐ-UBND ngày 12

tháng 9 năm 2017 về việc ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối

hợp hoạt động giữa các sở, ban, ngành, các cấp, các lực lượng chức năng

trong công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng

giả trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

64. Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, Quyết định số 69/2016/QĐ-UBND ngày 21

tháng 12 năm 2016 về việc ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối

hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh

phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn tỉnh Tây

Ninh.

65. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định số 2179/QĐ-UBND

ngày 25 tháng 5 năm 2019 về kiện toàn Ban Chỉ đạo và Bộ phận Thường trực

Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh.

66. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (2010 - 2019), Thông tin về số liệu thống kê

của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (nguồn trích xuất số liệu).

67. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công An và Bộ

Quốc Phòng (2018), Thông tư số 05/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-

BQP ngày 12/11/2018 của VKSND tối cao, TAND tối cao, Bộ Công An và Bộ

Quốc Phòng quy định phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện thống kê

hình sự.

68. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Tội phạm học, luật hình sự và

157

luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam – một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

70. Viện thông tin khoa học xã hội (1982), Những vấn đề lý luận về luật hình sự,

tố tụng hình sự và tội phạm học, Hà Nội.

71. Trịnh Tiến Việt (2008), “Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới gốc độ tội

phạm học”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 185-199;

72. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb. Công an nhân dân, Hà

Nội.

73. Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an Nhân dân, Hà

Nội.

74. Nguyễn Hồng Vinh (2007), “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm

sát nhân dân”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

75. Nguyễn Hồng Vinh (2007), “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện kiểm

sát nhân dân”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

76. Võ Khánh Vinh (2007), Tội phạm học Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

77. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà

Nội.

78. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

79. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà

Nội.

80. Nguyễn Xuân Yêm (1994), Tội phạm học quốc tế - Những bàn tay bạch tuộc,

NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,

Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

82. Nguyễn Xuân Yêm và Hồ Trọng Ngũ dịch (1989), Can Ueda (1989), Tội

phạm và tội phạm học ở Nhật Bản, Nxb. Tiến Bộ, Matxcova.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

83. Dasetakob (2006), Criminology, Tội phạm học, Nxb. Trung tâm pháp lý Press.

84. E. Buchholz, R. Hartmann, J. Lekschas và G. Stiller (1971) Socialist

158

criminology, Tội phạm học xã hội chủ nghĩa, Nxb. Staatsverlag Berlin.

85. Frank Schmalleger (2002), Criminology today, Tội phạm học ngày nay, Nxb.

Prentice Hall.

86. Hans Dieter Schwind (2007), Criminology with real examples Tội phạm học

với ví dụ thực tế, Nxb. Kriminalistik, Heidelberg.

87. Hallam Stuck (2019), Rethinking the Smuggling, Ph.D. Thesis, Suy nghĩ lại về

buôn lậu, Luận án tiến sỹ, Centre for Criminology, Oxford University, Trung

tâm Tội phạm học, Trường đại học Oxford.

88. Inshakov (2011), Theoretical research and analysis of the hidden crime

situation, Nghiên cứu lý luận và phân tích tình hình tội phạm ẩn, Nxb. Pháp

lý, Matxcova.

89. Kudriavsev (1974), Calculate the cause of criminology, Tính nguyên nhân của

tội phạm học, Nxb Pháp lý, Matxcova.

90. Marko Hajdinjak (2002), Smuggling in Southeast Europe: The Yugoslav Wars

and the Development of Regional Criminal Networks in the Balkans, Buôn lậu

ở Đông Nam châu Âu: Cuộc chiến tranh Nam Tư và sự phát triển của mạng

lưới tội phạm khu vực ở Balkan, Center for the Study of Democracy, Trung

tâm nghiên cứu Dân chủ.

91. Richard Platt (2012), Smuggling in the British Isles: A history, Lịch sử chống

buôn lậu ở Anh, Nxb. History Press.

92. Susan Geason và Paul Wilson (1988), Crime Prevention, Phòng chống tội

phạm, Australian Institute of Justice , Nxb.Viện tư pháp Úc.

93. Tim Newbukin (1998), The Crime Curriculum, Giáo trình Tội phạm học, Nxb.

Routlege.

CÁC TRANG WEB THAM KHẢO

94. http://www.wcoomd.org/en/topics/facilitation/instrument-and-

tools/tools/glossary-of-international-customs-terms.aspx (truy cập ngày

12/4/2017)

95. https://vi.kipkis.com/Kh%C3%A1i_ni%E1%BB%87m_gi%C3%A1o_d%E1

%BB%A5c;Khái niệm giáo dục; (truy cập ngày 09/5/2018)

96. https://doanhnghiepvn.vn/kinh-te/thuong-mai-dien-tu-bi-loi-dung-de-buon-

159

lau/20190923121336331 (truy cập ngày 7/6/2019)

97. https://baodautu.vn/danh-gia-giua-ky-ke-hoach-ktxh-vung-dong-nam-bo-va-

dong-bang-song-cuu-long-d87169.html (truy cập 2/7/2019)

98. http://tongdieutradanso.vn/thong-cao-bao.html Tổng điều tra dân số và nhà ở

năm 2019, Thông cáo báo chí, tại (truy cập ngày 15/7/2019)

99. http://congbao.hochiminhcity.gov.vn/tin-tuc-tong-hop/kien-toan-ban-chi-

%C4%91ao-va-bo-phan-thuong-truc-ban-chi-%C4%91ao-chong-buon-lau-

gian-lan-thuong-mai-va-hang-gia-tren-%C4%91ia-ban-thanh-pho-ho-chi-minh

(truy cập ngày 15/7/2019).

100. https://doanhnghiepvn.vn/kinh-te/thuong-mai-dien-tu-bi-loi-dung-de-buon-

lau/20190923121336331 (truy cập ngày 24/9/2019)

101. https://dinhnghia.vn/dong-nam-bo.html; Tổng hợp điều kiện tự nhiên và xã hội

của Đông Nam Bộ; (truy cập ngày 15/3/2020)

102. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Nam_B%E1%BB%99#:~

:text=Tuy%20nhi%C3%AAn%20ch%E1%BB%89%20sau%2010,18.5%25%

20d%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20c%E1%BA%A3%20n%C6%B0%E1

%BB%9Bc. (dân số miền Đông Nam Bộ Việt Nam, truy cập ngày 10/7/2020).

103. https://loigiaihay.com/khai-niem-van-hoa-nen-van-hoa-va-nen-van-hoa-xa-

hoi-chu-nghia-c126a20322.html#ixzz5WIgvp53J; Khái niệm văn hóa, nền văn

hóa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa;

104. https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Nam_B%E1%BB%99_(V

160

i%E1%BB%87t_Nam) Đông Nam Bộ Việt Nam;

PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

KẾT QUẢ KHẢO SÁT

1

PHẦN I. THÔNG TIN CƠ BẢN CỦA NGƯỜI TRẢ LỜI

PHẦN II. NỘI DUNG KHẢO SÁT

2

1. Nhóm câu hỏi về tình hình tội buôn lậu

Địa bàn nhiều dân nghèo, trình độ thấp

Địa bàn khác (nếu có):2 câu trả lời

địa bàn trung chuyển, có tính chất trung tâm

cửa khẩu quốc tế hàng không

3

4

Cấu kết người khác để tạo đường dây

Lôi kéo, khống chế đối tượng cờ bạc

Dùng tiền để hối lộ lực lương chức năng

Phi tang hàng lậu khi bị phát hiện

Hoạt động tại địa bàn, tuyến trọng điêm

Thay đổi thủ đoạn thường xuyên

1.12. Loại hàng lậu phổ biến trên địa bàn của Anh (Chị) là gì? (Đánh số từ 1 đến 9 theo

từng loại hàng lậu tương ứng, trong đó số càng nhỏ là phổ biến nhất và số càng lớn là ít

phổ biến hơn)

5

Địa bàn đông dân cư, kinh tế phát triển

Công tác quản lý xã hội, phòng chống buôn lậu của nhà nước còn hạn chế

Ảnh hưởng của tình hình tội phạm về buôn lậu ở trong và ngoài nước

Ý kiến khác (nếu có): 0 câu trả lời

6

2. Nhóm câu hỏi về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội buôn lậu

Địa bàn kém phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội

Địa bàn phức tạp về tội phạm, nhiều tệ nạn xã hội

Địa bàn nhiều chợ, chợ tạm, chợ cóc, chợ lưu động

Thiếu đồng bộ, thống nhất trong chỉ đạo và thực hiện

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đảm bảo yêu cầu

Phòng ngừa nghiệp vụ còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo

Quy định của pháp luật về phòng, chống buôn lậu chưa rõ ràng, thống nhất

Ý kiến khác (nếu có):0 câu trả lời

Tuyên truyền, vận động nhân dân, tổ chức phòng, chống buôn lậu

Tiến hành biện pháp Nghiệp vụ của Ngành

Biện pháp kinh tế, khuyến khích bằng lợi ích vật chất

7

3. Nhóm câu hỏi về giải pháp phòng ngừa tình hình tội buôn lậu

Biện pháp khác (nếu có):2 câu trả lời

 Không sử dụng hàng lậu, chỉ sử dụng hàng hóa có xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng.

 Mở rộng hiểu biết, nhận thức về buôn lậu

8

Thiếu kinh phí, công cụ, phương tiện chuyên dụng hỗ trợ

Không nắm rõ tình hình, thủ dodạn hoạt động của đối tượng phạm tội

Tội phạm thường có yếu tố nước ngoài

Có sự bao che, bảo kê của cán bộ, chính quyền địa phương

3.5 Theo Anh (Chị), để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội buôn lậu hiện nay cần tập

trung tiến hành các biện pháp nào? (Xếp hạng theo thứ tự từ 1 đến 9 theo mức độ

quan trọng giảm dần, số càng nhỏ thì càng quan trọng, số càng lớn thì càng ít quan

9

trọng)

PHỤ LỤC 2

TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

(Từ năm 2011 đến 2020)

Bảng 2.1. Số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ (2011 – 2020)

Số vụ

Số người phạm tội

Năm

2011

21

40

2012

21

38

2013

12

25

2014

23

38

2015

14

36

2016

18

41

2017

7

18

2018

15

49

2019

12

37

2020

8

35

Tổng cộng

151

357

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.2. Số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn các tỉnh của

miền Đông Nam Bộ (2011 – 2020)

Bình Phước

Tây Ninh

Đồng Nai

TP. Hồ Chí Minh

Bình Dương

Bà Rịa - Vũng Tàu

Năm

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

Số người

Số vụ

Số người

Số vụ

Số người

Số vụ

2011

7

17

1

1

0

0

13

22

0

0

0

0

2012

8

18

2

3

0

0

11

17

0

0

0

0

2013

3

7

0

0

0

0

9

18

0

0

0

0

2014

11

15

2

2

0

0

10

21

0

0

0

0

2015

7

12

0

0

0

0

7

24

0

0

0

0

10

6

2016

18

1

1

0

0

11

22

0

0

0

0

5

2017

16

0

0

0

0

2

2

0

0

0

0

2018

10

29

1

4

0

0

4

16

0

0

0

0

9

2019

29

1

1

0

0

2

7

0

0

0

0

3

27

0

0

1

1

2

3

0

0

2

4

2020

8

1

1

0

0

2

4

69

188

12

71

152

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.3. Tỷ trọng tội buôn lậu so với tổng số tội xâm phạm trật tự quản

lý kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Số vụ

Số người

Năm

Tội buôn lậu

Tỷ lệ (%)

Tội buôn lậu

Tỷ lệ (%)

Chương XVIII (Các tội xâm phạm TTQLKT)

Chương XVIII (Các tội xâm phạm TTQLKT)

21

136

15.44%

40

268

14.93%

2011

21

199

10.55%

38

324

11.73%

2012

12

214

5.61%

25

350

7.14%

2013

23

258

8.91%

38

410

9.27%

2014

14

266

5.26%

36

471

7.64%

2015

18

166

10.84%

41

308

13.31%

2016

7

83

8.43%

18

171

10.53%

2017

15

181

8.29%

49

412

11.89%

2018

12

240

5.00%

37

444

8.33%

2019

8

279

2.87%

35

531

6.59%

2020

151

2022

7.47%

357

3689

9.68%

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.4. Hệ số người phạm tội buôn lậu so với diện tích và dân cư trên địa

11

bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Hệ số người

Dân số

Số người

Hệ số người phạm tội so

Địa bàn

Diện tích

phạm tội so với dân cư

(người)

phạm tội

(km2)

với diện tích (người/km2)

(người / 100.000 dân)

2,095

8,993,082

188

0.08974

2

TP. Hồ Chí Minh

6,857

994,679

0.00175

1

12

Bình Phước

2,695

2,426,561

0.000371058

0.04

1

Bình Dương

4,029

1,169,165

152

0.03773

13

Tây Ninh

5,903

3,097,107

0

0

0

Đồng Nai

1,985

1,148,313

0.002015113

0.35

4

Bà Rịa - Vũng Tàu

2

Đông Nam Bộ

23,564

17,828,907

357

0.01515

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban dân số

Bảng 2.5. Cấp độ nguy hiểm của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn các tỉnh

thuộc miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Thứ bậc nguy Thứ bậc nguy Hệ số Cấp độ hiểm xét theo hiểm xét theo tiêu cực Địa bàn nguy hiểm diện tích dân số (1+2) (1) (2)

2 4 2 2 TP. Hồ Chí Minh

3 6 3 3 Bình Phước

5 10 5 5 Bình Dương

1 2 1 1 Tây Ninh

0 0 0 0 Đồng Nai

4 8 4 4 Bà Rịa - Vũng Tàu

12

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Bảng 2.6. Tỷ trọng số vụ, số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ so với cả nước (2011 - 2020)

Số vụ

Số người

Năm

Tỷ lệ (%)

Miền Đông Nam Bộ

Cả nước

Tỷ lệ (%)

Miền Đông Nam Bộ

Cả nước

2011

21

89

23.60%

40

141

28.37%

2012

21

73

28.77%

38

126

30.16%

2013

12

88

13.64%

25

151

16.56%

2014

23

90

25.56%

38

165

23.03%

2015

14

101

13.86%

36

162

22.22%

2016

18

105

17.14%

41

204

20.10%

2017

7

88

7.95%

18

136

13.24%

2018

15

36

41.67%

49

84

58.33%

2019

12

24

50.00%

37

85

43.53%

2020

8

19

42.11%

35

74

47.30%

151

713

21.18%

357

1328

26.88%

Tổng cộng

13

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.7. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

đơn vị hành chính (2011 - 2020)

Đơn vị

Số vụ

Tỷ trọng

69

45.70%

TP. Hồ Chí Minh

8

5.30%

Bình Phước

1

0.66%

Bình Dương

71

47.02%

Tây Ninh

0

0.00%

Đồng Nai

2

1.32%

Bà Rịa - Vũng Tàu

151

100%

Đông Nam Bộ

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.8. Diễn biến về số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

14

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.9. Diễn biến số vụ, số người buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ so với cả nước (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.10. Diễn biến số vụ, số người buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh (2011 – 2020)

15

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.11. Diễn biến số vụ, số người buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Phước

(2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.12. Diễn biến số vụ, số người buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

(2011 – 2020)

16

Nguồn: Viện kiểm sát nân dân tối cao

Biểu đồ 2.13. Diễn biến số vụ, số người buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Dương

(2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.14. Diễn biến số vụ, số người buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng

Tàu (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

17

Bảng 2.15. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

theo đặc điểm giới tính của người phạm tội (2011 - 2020)

Năm

Nữ

Tỉ lệ nữ

Nam

Tỉ lệ Nam

Tổng

2011

3

7.50%

37

92.50%

40

2012

6

15.79%

32

84.21%

38

2013

11

44.00%

14

56.00%

25

2014

9

23.68%

29

76.32%

38

2015

7

19.44%

29

80.56%

36

2016

7

17.07%

34

82.93%

41

2017

1

5.56%

17

94.44%

18

2018

0

0.00%

49

100.00%

49

2019

5

13.51%

32

86.49%

37

2020

5

14.29%

30

85.71%

35

Tổng

54

15.13%

303

84.87%

357

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.16. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo đặc

điểm giới tính của người phạm tội (2011 – 2020)

18

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.17. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh theo đặc điểm giới tính của người phạm tội (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.18. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh theo

đặc điểm giới tính của người phạm tội (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.19. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Phước theo

đặc điểm giới tính của người phạm tội (2011 – 2020)

19

Nguồn: Viện kiểm sát nhân tdân tối cao

Bảng 2.20. Cơ cấu của tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

theo đặc điểm về tuổi của người phạm tội (2011 - 2020)

Dưới 18 tuổi

Từ 18 đến 30 tuổi

Trên 30 tuổi

Năm

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

Số người

40

2011

0

0.00%

9

22.50%

31

77.50%

38

2012

0

0.00%

8

21.05%

30

78.95%

25

2013

3

12.00%

13

52.00%

9

36.00%

38

2014

0

0.00%

21

55.26%

17

44.74%

36

2015

0

0.00%

8

22.22%

28

77.78%

41

2016

0

0.00%

7

17.07%

34

82.93%

18

2017

0

0.00%

1

5.56%

17

94.44%

49

2018

0

0.00%

10

20.41%

39

79.59%

37

2019

0

0.00%

5

13.51%

32

86.49%

35

2020

0

0.00%

2

5.71%

33

94.29%

3

357

0.84%

84

23.53%

270

75.63%

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.21. Diễn biến về cơ cấu tuổi của người phạm tội buôn lậu trên địa

20

bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.22. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

theo đặc điểm độ tuổi của người phạm tội (2011 – 2020)

Dưới 18 tuổi

Từ 18 đến 30 tuổi

Trên 30 tuổi

Số

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ từ

Năm

Số người

Tỷ lệ trên

người

dưới 18

dưới 18

từ 18 - 30

18 - 30

trê 30 tuổi

30 tuổi

tuổi

tuổi

tuổi

tuổi

17

2011

0

0.00%

0

0.00%

17

100.00%

18

2012

0

0.00%

2

11.11%

16

88.89%

7

2013

1

14.29%

3

42.86%

3

42.86%

15

2014

0

0.00%

1

6.67%

14

93.33%

12

2015

0

0.00%

2

16.67%

10

83.33%

18

2016

0

0.00%

2

11.11%

16

88.89%

16

2017

0

0.00%

0

0.00%

16

100.00%

29

2018

0

0.00%

9

31.03%

20

68.97%

29

2019

0

0.00%

3

10.34%

26

89.66%

27

2020

0

0.00%

1

8.33%

26

91.67%

Tổng

1

188

0.58%

23

13.29%

164

86.13%

cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.23. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo

đặc điểm độ tuổi của người phạm tội (2011 – 2020)

21

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.24. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh theo đặc điểm độ

tuổi của người phạm tội (2011 – 2020)

Dưới 18 tuổi

Từ 18 đến 30 tuổi

Trên 30 tuổi

Năm

Số người

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

22

2011

0

0.00%

9

40.91%

13

59.09%

17

2012

0

0.00%

4

23.53%

13

76.47%

18

2013

2

11.11%

10

55.56%

6

33.33%

21

2014

0

0.00%

19

90.48%

2

9.52%

24

2015

0

0.00%

6

25.00%

18

75.00%

22

2016

0

0.00%

4

18.18%

18

81.82%

2

2017

0

0.00%

1

50.00%

1

50.00%

16

2018

0

0.00%

0

0.00%

16

100.00%

7

2019

0

0.00%

2

28.57%

5

71.43%

3

2020

0

0.00%

1

25.00%

2

75.00%

Tổng

2

152

1.31%

56

36.60%

94

62.09%

cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.25. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh theo

22

đặc điểm độ tuổi của người phạm tội (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.26. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Phước theo

đặc điểm độ tuổi của người phạm tội (2011 – 2020)

Dưới 18 tuổi

Từ 18 đến 30 tuổi

Trên 30 tuổi

Năm

Số người

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

Số người

Tỷ lệ

2011

1

0

0.00%

0

0.00%

1

100.00%

2012

3

0

0.00%

2

66.67%

1

33.33%

2013

0

0

0.00%

0

0.00%

0

0.00%

2014

2

0

0.00%

1

50.00%

1

50.00%

2015

0

0

0.00%

0

0.00%

0

0.00%

2016

1

0

0.00%

1

100.00%

0

0.00%

2017

0

0

0.00%

0

0.00%

0

0.00%

2018

4

0

0.00%

1

25.00%

3

75.00%

2019

1

0

0.00%

0

0.00%

1

100.00%

2020

0

0

0.00%

0

0.00%

0

0.00%

12

0

0.00%

5

41.67%

7

58.33%

Tổng cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.27. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Phước

23

theo đặc điểm độ tuổi của người phạm tội (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.28. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo

đặc điểm thành phần dân tộc của người phạm tội (2011 – 2020)

Dân tộc

Tỷ lệ Dân

Dân tộc

Tỷ lệ Dân tộc

Đông Nam Bộ

Năm

khác

tộc khác

kinh

kinh

40

100.00%

2011

0

0.00%

40

37

97.37%

2012

1

2.63%

38

25

100.00%

2013

0

0.00%

25

38

100.00%

2014

0

0.00%

38

36

100.00%

2015

0

0.00%

36

41

100.00%

2016

0

0.00%

41

16

88.89%

2017

2

11.11%

18

48

97.96%

2018

1

2.04%

49

37

100.00%

2019

0

0.00%

37

35

100.00%

2020

0

0.00%

35

353

98.88%

Tổng

4

1.12%

357

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.29. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

24

theo đặc điểm dân tộc của người phạm tội (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.30. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh theo đặc điểm dân tộc của người phạm tội (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.31. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh theo đặc

điểm dân tộc của người phạm tội (2011 – 2020)

25

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.32. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

theo đặc điểm nghề nghiệp của người phạm tội

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Biểu đồ 2.33. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

theo đặc điểm về trình độ văn hóa của người phạm tội

26

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Biểu đồ 2.34. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.35. So sánh cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn

lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ qua từng năm (2011 - 2020)

27

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.36. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.37. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên

địa bàn tỉnh Tây Ninh (2011 – 2020)

28

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.38. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên

địa bàn tỉnh Bình Phước (2011 – 2020)

29

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.39. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 – 2020)

Phạt tù cho

Từ 3 năm

Từ trên 7 năm

Phạt tiền

Dưới 3 năm tù

Trên 15 năm

Tổng số

hưởng án treo

đến 7 năm tù

đến 15 năm tù

Năm

người

Số

Số

Tỷ lệ

Số

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

phạm tội

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Số người

Tỷ lệ %

người

người

%

người

người

%

người

%

2011

40

6

15.00

19

47.50

4

10.00

17.50

3

7.50

1

2.50

7

2012

38

3

7.89

17

44.74

3

7.89

21.05

6

15.79

1

2.63

8

2013

25

3

12.00

14

56.00

3

12.00

16.00

1

4.00

0

0.00

4

2014

38

1

2.63

6

15.79

14

36.84

21.05

6

15.79

3

7.89

8

2015

36

5

13.89

2

5.56

10

27.78

30.56

7

19.44

1

2.78

11

2016

41

2

4.88

5

12.20

17

41.46

2

4.88

12.20

10

24.39

5

2017

18

0

0.00

3

16.67

9

50.00

16.67

3

16.67

0

0.00

3

2018

49

5

10.20

6

12.24

2

4.08

59.18

7

14.29

0

0.00

29

2019

37

9

24.32

7

18.92

4

10.81

16.22

9

24.32

2

5.41

6

2020

35

5

14.29

5

14.29

4

11.43

40.00

7

20.00

0

0.00

14

Tổng

95

357

39

10.92

84

23.53

70

19.61

26.61

59

16.53

10

2.80

cộng

30

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.40. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (2011 – 2020)

Phạt tiền

Dưới 3 năm tù

Trên 15 năm

Phạt tù cho hưởng án treo

Từ 3 năm đến 7 năm tù

Từ trên 7 năm đến 15 năm tù

Năm

Tổng số người phạm tội

Số người

Số người

Số người

Số người

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Số người

Tỷ lệ %

Số người

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

17

2011

0

0.00

5

29.41

2

11.76

6

3

17.65

1

5.88

35.29

18

2012

0

0.00

4

22.22

1

5.56

7

5

27.78

1

5.56

38.89

7

2013

0

0.00

5

71.43

0

0.00

2

0

0.00

0

0.00

28.57

15

2014

0

0.00

2

13.33

3

20.00

4

4

26.67

2

13.33

26.67

12

2015

0

0.00

1

8.33

4

33.33

4

2

16.67

1

8.33

33.33

18

2016

0

0.00

1

5.56

3

16.67

2

2

11.11

11.11

10

55.56

16

2017

0

0.00

1

6.25

9

56.25

3

3

18.75

0

0.00

18.75

29

2018

0

0.00

6

20.69

0

0.00

20

3

10.34

0

0.00

68.97

29

2019

4

13.79

7

24.14

4

13.79

6

8

27.59

0

0.00

20.69

27

2020

0

0.00

5

18.52

4

14.81

14

4

14.81

0

0.00

51.85

4

2.13

15.96

68

7

3.72

188

37

19.68

30

36.17

42

22.34

Tổng cộng

31

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.41: Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh (2011 – 2020)

Phạt tù cho

Từ 3 năm

Từ trên 7 năm

Tổng số

Phạt tiền

Dưới 3 năm tù

Trên 15 năm

hưởng án treo

đến 7 năm tù

đến 15 năm tù

người

Năm

phạm

Số

Tỷ lệ

Số

Số

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Số người

Tỷ lệ %

tội

người

%

người

người

người

%

người

22

2011

6

27.27

14

63.64

1

1

4.55

0

0.00

0

0.00

4.55

17

2012

3

17.65

11

64.71

2

1

5.88

0

0.00

0

0.00

11.76

18

2013

3

16.67

9

50.00

3

2

11.11

1

5.56

0

0.00

16.67

21

2014

1

4.76

2

9.52

11

4

19.05

2

9.52

1

4.76

52.38

24

2015

5

20.83

1

4.17

6

7

29.17

5

20.83

0

0.00

25.00

22

2016

2

9.09

3

13.64

14

3

13.64

0

0.00

0

0.00

63.64

2

2017

0

0.00

2

100

0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0.00

16

2018

1

6.25

0

0.00

2

9

56.25

4

25.00

0

0.00

12.50

7

2019

5

71.43

0

0.00

0

0

0.00

1

14.29

1

14.29

0.00

3

2020

1

33.33

0

0.00

0

0

0.00

2

66.67

0

0.00

0.00

Tổng

2

1.32

152

27

17.76

42

27.63

39

25.66

27

17.76

15

9.87

cộng

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

32

Bảng 2.42. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Phước (2011 – 2020)

Tổng số

Phạt tù cho hưởng

Từ 3 năm

Từ trên 7 năm

Phạt tiền

Dưới 3 năm tù

Trên 15 năm

người

án treo

đến 7 năm tù

đến 15 năm tù

Năm

phạm

Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Số người

Tỷ lệ %

Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ %

Số người Tỷ lệ %

tội

1

2011

0

0.00

0.00

0

1

100

0

0.00

0

0.00

0

0.00

3

2012

0

0.00

66.67

2

0

0.00

0

0.00

1

33.33

0

0.00

0

2013

0

0.00

0.00

0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

0.00

2

2014

0

0.00

100

2

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

2015

0

0.00

0.00

0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

0.00

1

2016

0

0.00

100

1

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

2017

0

0.00

0.00

0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

0.00

4

2018

4

100

0.00

0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

0.00

1

2019

0

100

0.00

0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

1

0.00

0

2020

0

100

0.00

0

0

0.00

0

0.00

0

0.00

0

0.00

Tổng

4

5

1

8.33

0

0.00

1

8.33

1

8.33

12

33.33

41.67

cộng

33

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.43. Diễn biến về cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người phạm tội

buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

34

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.44. Diễn biến về số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ của năm sau so với năm trước (2011 - 2020)

Năm

Số vụ

Tăng/giảm so với năm trước

Số người phạm tội

Tăng/giảm so với năm trước

100.00%

40

100.00%

21

2011

100.00%

38

95.00%

21

2012

57.14%

25

65.79%

12

2013

191.67%

38

152.00%

23

2014

60.87%

36

94.74%

14

2015

128.57%

41

113.89%

18

2016

38.89%

18

43.90%

7

2017

214.29%

49

272.22%

15

2018

80.00%

37

75.51%

12

2019

2020

66.67%

35

94.59%

8

357

Tổng cộng

151

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.45. Diễn biến về số vụ và số người phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ của các năm sau so với một năm gốc (2011 - 2020)

Năm

Số vụ

Tăng/giảm so với năm 2011

Số người phạm tội

Tăng/giảm so với năm 2011

40

100.00%

100.00%

21

2011

38

95.00%

100.00%

21

2012

25

62.50%

57.14%

12

2013

38

95.00%

109.52%

23

2014

36

90.00%

66.67%

14

2015

41

102.50%

85.71%

18

2016

18

45.00%

33.33%

7

2017

49

122.50%

71.43%

15

2018

37

92.50%

57.14%

12

2019

35

87.50%

38.10%

8

2020

Tổng cộng

357 151 Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

35

Bảng 2.46. Trị giá hàng buôn lậu trong một số vụ án điển hình trên địa bàn

miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

Số thứ tự Loại hàng hóa Trị giá (VNĐ)

Hàng điện tử 75,540,156,764.00 1

Máy móc công nghiệp, lốp xe ô tô đã

15,756,897,410.00 2

qua sử dụng, phế liệu kim loại, nhựa công nghiệp

Đồ điện dân dụng, vải may mặc 4,639,432,000.00 3

Rượu bia, thuốc lá ngoại 2,613,220,161.00 4

Tiền Việt Nam, vàng, ngoại tệ 8,887,120,660.00 5

Mỹ phẩm, dược phẩm, phụ gia và hóa 6,904,368,890.00 6 chất tẩy rửa

Thực phẩm chức năng, yến huyết, yến 66,280,973,086.67 7 nguyên liệu, yến sào

Gỗ, cây thông tùng, sừng tê giác, súng 2,874,336,250.00 8 hơi

36

Nguồn: Tác giả tự thống kê từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn Đông Nam Bộ

Biểu đồ 2.47. Tỷ trọng các loại hàng hóa buôn lậu trong một số vụ án điển hình

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ (2011 - 2020)

37

Nguồn: Tác giả tự thống kê từ 43 vụ án buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

Bảng 2.48. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn miền ĐNB giai đoạn 2011 - 2020

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Tỷ lệ (%, số người)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Xét xử/ khởi tố

Xét xử/ truy tố

Đình chỉ/ khởi tố

Xét xử/ khởi tố

Xét xử/ truy tố

Đình chỉ/ khởi tố

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

2011

36

54

4

4

27

45

0

0

21

40

58.33

77.78

11.11

74.07

88.89

7.41

2012

31

37

1

0

16

23

0

0

21

38

67.74

131.25

102.70

165.22

3.23

0.00

2013

48

71

1

1

21

37

0

0

12

25

25.00

57.14

35.21

67.57

2.08

1.41

2014

36

89

0

0

13

28

0

0

23

38

63.89

176.92

42.70

135.71

0.00

0.00

2015

45

88

3

1

20

55

0

1

14

36

31.11

70.00

40.91

65.45

6.67

2.27

2016

55

66

0

1

19

36

0

0

18

41

32.73

94.74

62.12

113.89

0.00

1.52

2017

68

66

1

0

4

5

0

0

7

18

10.29

175.00

27.27

360.00

1.47

0.00

2018

76

74

1

0

11

32

0

0

15

49

19.74

136.36

66.22

153.13

1.32

0.00

2019

65

39

4

0

7

28

0

0

12

37

18.46

171.43

94.87

132.14

6.15

0.00

2020

67

48

3

0

14

26

0

0

8

35

11.94

57.14

72.92

134.62

4.48

0.00

7

0

1

3.42

527

632 18

152

315

151

357

28.65

99.34

56.49

113.33

1.27

Tổng cộng

38

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.49. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong các năm

(2011 - 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Xét xử/khởi tố

2011

36.84%

58.33%

15.79%

7

17

19

28

3

12

21

3

0

0

2012

40.00%

133.33%

5.00%

8

18

20

22

1

6

10

0

0

0

2013

10.34%

33.33%

0.00%

3

7

29

35

0

9

16

0

0

0

2014

11

42.31%

220.00%

0.00%

15

26

56

0

5

9

0

0

0

2015

23.33%

87.50%

3.33%

7

12

30

49

1

8

21

1

0

1

2016

15.00%

100.00%

0.00%

6

18

40

44

0

6

14

1

0

0

2017

9.43%

250.00%

0.00%

5

16

53

46

0

2

3

0

0

0

2018

10

19.61%

142.86%

0.00%

29

51

51

0

7

17

0

0

0

2019

19.15%

300.00%

8.51%

9

29

47

25

4

3

18

0

0

0

2020

6.25%

60.00%

0.00%

3

27

48

25

0

5

8

0

0

0

9

5

0

1

Tổng cộng

363

381

63

137

69

188

19.01%

109.52%

2.48%

39

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.50. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong các năm

(2011 - 2020)

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Khởi tố

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Số bị can

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2011

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2012

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2013

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2014

0

1

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2015

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2016

0

1

0

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2017

0

3

2

0

0

0

0

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2018

0

2

4

0

0

1

2

0

0

0

0.00

0.00

0.00

2019

0

2

2

0

0

1

1

0

1

1

25.00

100.00

0.00

2020

0

4

8

0

0

2

3

0

1

1

7.69

50.00

0.00

Tổng cộng

0

13

16

40

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.51. Số vụ và số bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong các

năm (2011 - 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Số vụ

Đình chỉ/khởi tố

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

2011

0

0

0

0

0

0

-

0

0

-

-

0

0

2012

0

0

0

0

0

0

-

0

0

-

-

0

0

2013

2

1

1

1

0

0

0.00%

50.00%

0

0

-

0

0

2014

0

0

0

0

0

0

-

0

0

-

-

0

0

2015

1

0

1

0

0

0

0.00%

100.00%

0

0

-

0

0

2016

0

0

0

0

0

0

-

0

0

-

-

0

0

2017

5

0

0

0

0

0

0.00%

0

0

-

0.00%

0

0

2018

16

2

1

0

0

0

0.00%

0

0

-

6.25%

0

0

2019

12

4

0

0

0

0

0.00%

0

0

-

0.00%

0

0

2020

6

3

3

0

3

5

2

4

33.33%

66.67%

50.00%

0

0

42

10

6

1

3

5

2

4

-

4.76%

14.29%

0

0

Tổng cộng

41

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.52. Số vụ và số bị can, bị cáo ở các giai đoạn tố tụng về tội buôn lậu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ (2011 – 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị cáo

7

25

0

0

4

7

0

0

4

7

2011

57.14%

100.00%

0.00%

4

21

0

0

3

14

0

0

0

0

2012

0.00%

0.00%

0.00%

6

10

0

0

2

3

0

0

3

5

2013

50.00%

150.00%

0.00%

7

8

1

0

3

4

0

0

1

2

2014

14.29%

33.33%

14.29%

16

32

12

19

11

18

0

0

0

0

2015

68.75%

91.67%

0.00%

14

7

6

1

0

2

4

1

1

5

2016

71.43%

250.00%

28.57%

4

3

2

0

2

2

0

0

2

2

2017

50.00%

100.00%

50.00%

1

4

0

0

1

3

1

3

1

3

2018

100.00%

100.00%

100.00%

3

5

1

1

1

1

0

0

1

1

2019

33.33%

100.00%

33.33%

7

13

0

0

2

8

0

0

0

0

2020

0.00%

0.00%

0.00%

Tổng cộng

62

127

5

1

32

65

2

4

28

52

45.16%

87.50%

11.29%

42

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.53. Số vụ và số bị can, bị cáo ở các giai đoạn tố tụng của các vụ án buôn lậu trên địa bàn cả nước (2011 - 2020)

Khởi tố

Truy tố

Xét xử

Tỷ lệ (%, số vụ)

Cơ quan điều tra đình chỉ

Viện kiểm sát đình chỉ

Năm

Số vụ

Số vụ

Số bị can

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số vụ

Số bị can

Số bị cáo

Xét xử/khởi tố

Xét xử/truy tố

Đình chỉ/khởi tố

Số vụ

125

218

5

6

101

172

89

141

1

1

2011

71.20%

88.12%

4.80%

109

169

2

0

74

132

73

126

2

1

2012

66.97%

98.65%

2.75%

162

274

2

2

97

163

88

151

3

2

2013

54.32%

90.72%

2.47%

170

352

4

1

88

205

90

165

0

0

2014

52.94%

102.27%

2.35%

201

454

10

10

122

224

11

101

162

1

2015

50.25%

102.27%

5.47%

178

269

7

10

109

216

105

204

1

1

2016

58.99%

96.33%

4.49%

179

248

13

16

73

108

88

2

2

136

2017

49.16%

120.55%

8.38%

123

169

5

1

38

95

36

84

0

0

2018

29.27%

94.74%

4.07%

118

148

2

1

19

69

24

85

1

0

2019

20.34%

126.32%

1.69%

131

166

3

0

31

100

19

74

0

0

2020

14.50%

61.29%

2.29%

8

1496

2,467

53

47

752

1484

21

713

1,328

47.66%

94.81%

4.08%

Tổng cộng

43

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bảng 2.54. Số vụ và số bị cáo phạm tội buôn lậu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ (2011 – 2020)

Long

Tiền

Bến

Trà

Vĩnh

Đồng

An

Kiên

Cần

Hậu

Sóc

Bạc

Tổng

an

Giang

Tre

Vinh

Long

Tháp

Giang

Giang

Thơ

giang

Trăng

Liêu

Mau

cộng

Năm

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Số

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

bị

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

cáo

2011

0

0

1

1

0

0

1

3

2

3

4

7

2012

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

2013

0

0

0

0

2

3

1

2

0

0

3

5

2014

0

0

0

0

1

1

0

1

0

0

1

2

2015

2

4

0

0

1

1

4

4

4

9

11

18

2016

2

3

0

0

1

1

1

8

1

2

14

5

2017

0

0

0

0

0

0

0

0

2

2

2

2

2018

0

0

0

0

0

0

1

3

0

0

1

3

2019

1

1

0

0

0

0

0

0

0

0

1

1

2020

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

Tổng

5

8

0

0

0

0

0

0

1

1

5

6

8

21

9

16

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

28

52

cộng

44

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.55. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ về số vụ

theo đơn vị hành chính (2011 – 2020)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.56. Cơ cấu tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ về

số người theo đơn vị hành chính (2011 – 2020)

45

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Biểu đồ 2.57. Diễn biến tình hình tội buôn lậu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

(2011 – 2020)

46

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

PHỤ LỤC 3

TỔNG HỢP CÁC LOẠI, TRỊ GIÁ HÀNG HÓA BUÔN LẬU, PHƯƠNG

THỨC, THỦ ĐOẠN, THU LỢI BẤT CHÍNH TRONG MỘT SỐ VỤ ÁN

BUÔN LẬU TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

(Từ năm 2011 đến 2020)

Qua khảo sát 43 vụ án buôn lậu điển hình xảy ra trên địa bàn miền Đông Nam

Bộ từ năm 2011 đến 2020, tác giả tổng hợp, phân loại các loại hàng hóa buôn lậu,

phương thức thủ đoạn hoạt động, tuyến buôn lậu và thu lợi bất chính từ hoạt động

buôn lậu cụ thể như sau:

1. LOẠI HÀNG HÓA BUÔN LẬU, SỐ LƯỢNG VÀ TRỊ GIÁ

1.1. Hàng điện tử

- 578 sản phẩm các loại, bao gồm: máy photocopy, máy đèn chiếu, máy fax, hộp

mực máy photo, máy fax, máy tính tiền cùng các linh kiện khác… hiệu Sharp,

tổng trị giá 2.165.660.000 đồng1

- 2.750 bàn phím máy vi tính, 100 chiếc có nhãn hiệu DELL, 200 chiếc có nhãn

hiệu ASUS, tổng trị giá 3.572.190.000 đồng2

- 844 điện thoại di động và máy tính bảng, tổng trị giá 9.016.384.000 đồng3

- 09 tủ lạnh, 60 máy xử lý không khí, 209 cục lạnh máy lạnh, 208 cục nóng máy

lạnh, 08 máy giặt, 20 bộ loa, dàn âm thanh, 120 máy scan đều là hàng ngoại đã

qua sử dụng thuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu, tổng trị giá 1.320.854.000

đồng4

- 18 container gồm: điều hòa, máy giặt, tủ lạnh, nồi cơm điện đã qua sử dụng

(thuộc hàng cấm nhập khẩu theo quy định của luật pháp Việt Nam), tổng trị giá

9.540.976.264 đồng5

- 17.953 cái máy điện thoại di động hiệu Samsung, Sony Ericson, Motorola…

tổng trị giá 49.500.000.000 đồng6

- 21 máy ảnh và phụ kiện máy ảnh, 02 điện htoại di động, trị giá 424.092.500

1 Bản án số: 359/2010/HSST, ngày 27/12/2011 2 Bản án số: 237/2010/HSST, ngày 25/8/2011 3 Bản án số: 402/2017/HSST, ngày 01/12/2017 4 Bản án số: 388/2018/HSST, ngày 26/10/2018 5 Bản án số: 379/2019/HSST, ngày 10/10/2019 6 Bản án số: 422/2012/HSST, ngày 27/12/2012

47

đồng7

1.2. Máy móc công nghiệp, lốp xe ô tô đã qua sử dụng, phế liệu kim loại, nhựa

công nghiệp

- 27 container hàng nhập là máy móc, phụ tùng xe đầu kéo đã qua sử dụng xen

lẫn máy thủy, máy phát điện đã qua sử dụng (tất cả đều là hàng cấm nhập

khẩu), tổng trị giá 5.618.395.000 đồng8

- 8.270 kg hợp kim đồng dạng thỏi, tổng trị giá 645.060.000 đồng9

- 22 tấn hạt nhựa nguyên sinh PP, 13 phụ tùng xe ô tô các loại mới 100%, 07 phụ

tùng xe ô tô các loại đã qua sử dụng, tổng trị giá 1.524.270.410 đồng10

- 2.249,08 tấn lốp xe ô tô đã qua sử dụng, tổng trị giá 7.969.172.000 đồng11

1.3. Đồ điện dân dụng, vải may mặc

- 600 cái máy nghiền trái cây HF2001PS và 100 cái máy chế biến hoá quả, tổng

trị giá 580.500.000 đồng12

- 48.926 mét vải, trị giá 3.156.932.000 đồng13

- 625 cây vải ngoại nhập các loại, trị giá 902.000.000 đồng14

1.4. Rượu ngoại, thuốc lá ngoại

- 259 cây thuốc lá nhãn hiệu Parliament; 224 chai rượu nhãn hiệu Macallan 18

năm và 108 chai rượu Beluga, tổng trị giá 1.347.780.161 đồng15

- 12 chai rượu Chivas trị giá 24.000.000 đồng16

- 18 chai rượu Ballantines Aged 30 year, 24 chai Ballantines Aged 21 year, 48

chai Ballantines Aged 17 year, tổng trị giá 241.710.00017

- 62.000 bao thuốc lá hiệu Hero và Seven, trị giá 223.300.000 đồng18

- 200 gói thuốc lá hiệu Esse, trị giá 5.000.000 đồng19

- 440 gói thuốc lá hiệu Hero, trị giá 5.720.000 đồng20

7 Bản án số: 36/2012/HSST, ngày 15/8/2012 8 Bản án số: 250/2015/HSST, ngày 27/7/2015 9 Bản án số: 294/2016/HSST, ngày 22/8/2016 10 Bản án số: 312/2016/HSST, ngày 29/8/2016 11 Bản án số: 281/2019/HSST, ngày 29/7/2019 12 Bản án số: 305/2011/HSST, ngày 19/9/2011 13 Bản án số: 375/2011/HSST, ngày 28/11/2011 14 Bản án số: 179/2013/HSST, ngày 23/5/2013 15 Bản án số: 458/2018/HSST, ngày 23/11/2018 16 Bản án số: 47/2012/HSST, ngày 06/11/2012 17 Bản án số: 26/2014/HSST, ngày 26/4/2014 18 Bản án số: 51/2012/HSST, ngày 13/11/2012 19 Bản án số: 04/2013/HSST, ngày 06/02/2013 20 Bản án số: 59/2013/HSST, ngày 19/9/2013

48

- 700 gói thuốc lá hiệu Hero và Jet, trị giá 91.000.000 đồng21

- 400 gói thuốc lá hiệu Hero và Jet, trị giá 5.200.000 đồng22

- 5.700 gói thuốc lá hiệu 555, Hero, Jet và Oris Slims, trị giá 99.750.000 đồng23

- 16.400 gói thuốc lá các loại , trị giá 229.600.000 đồng24

- 550 gói thuốc lá hiệu Hero và Jet, trị giá 7.100.000 đồng25

- 2000 gói thuốc lá hiệu Hero và Jet, trị giá 29.400.000 đồng26

- 570 gói thuốc lá hiệu Hero và Jet, trị giá 7.600.000 đồng27

- 2000 gói thuốc lá hiệu 555 và Jet, trị giá 30.200.000 đồng28

- 5120 gói thuốc lá ngoại, trị giá 66.560.000 đồng29

- 9600 gói thuốc lá ngoại hiệu Hero, Jet, trị giá 120.000.000 đồng30

- 6100 gói thuốc lá ngoại hiệu Hero, Jet, 555, Scott, Esse, Caraven, trị giá

79.300.000 đồng31

1.5. Tiền Việt Nam, vàng, ngoại tệ

- 11 vòng, 08 đoạn dây, 02 khoen, 02 bông tai 02 nhẫn và 04 mặt dây chuyền

bằng vàng (định giá 71.061.250 đồng) và 291.580.000 đồng tiền mặt, tổng trị

giá 362.641.250 đồng32

- 3.540 chỉ vàng, trị giá 8.524.479.410 đồng33

1.6. Mỹ phẩm, dược phẩm, phụ gia và hóa chất tẩy rửa

- 96 mặt hàng là mỹ phẩm, dược phẩm, phụ gia và hóa chất tẩy rửa xuất xứ Nhật

Bản, trị giá 6.407.264.890 đồng34

- Sơn móng nailalive 1860 lọ, chất Wax lông phụ nữ 240 hũ, sơn móng tay hiệu

OPI 3785 lọ, cát biển chà chân 16 bình, nước làm bóng móng tay 64 bình, chất

asiton rửa móng tay 400 bình, sơn bóng 428 lọ, tất cả đều được sản xuất tại Mỹ.

tổng trị giá 497.104.000 đồng35

21 Bản án số: 58/2013/HSST, ngày 19/9/2013 22 Bản án số: 82/2013/HSST, ngày 18/12/2013 23 Bản án số: 66/2014/HSST, ngày 25/9/2014 24 Bản án số: 26/2014/HSST, ngày 26/4/2014 25 Bản án số: 36/2016/HSST, ngày 23/6/2016 26 Bản án số: 30/2016/HSST, ngày 07/6/2016 27 Bản án số: 21/2016/HSST, ngày 22/4/2016 28 Bản án số: 12/2016/HSST, ngày 16/3/2016 29 Bản án số: 37/2011/HSST, ngày 29/4/2011 30 Bản án số: 81/2016/HSST, ngày 31/8/2016 31 Bản án số: 17/2016/HSST, ngày 25/3/2016 32 Bản án số: 34/2010/HSST, ngày 18/8/2011 33 Bản án số: 356/2017/HSST, ngày 29/9/2017 34 Bản án số: 379/2019/HSST, ngày 10/10/2019 35 Bản án số: 97/2013/HSST, ngày 26/3/2013

49

1.7. Thực phẩm chức năng, yến nguyên liệu, yến sào

- 9 container thực phẩm chức năng, thực phẩm dinh dưỡng Ensure, trị giá

3.133.711.880 đồng36

- 9.676,56 kg yến các loại, trị giá 63.147.261.206,67 đồng37

1.8. Gỗ, cây thông, sừng tê giác, súng hơi38

- 68,644 m3 gỗ xẻ nhóm I, trị giá 1.023.236.250 đồng39

- 30,027 m3 gỗ cẩm lai, giáng hương, trị giá 610.000.000 đồng40

- 06 cây thông Nhật (Tùng La Hán), trị giá 910.000.000 đồng41

- 02 sừng tê giác từ Nam Phi có trọng lượng 3,2 kg, trị giá 161.000.000 đồng42

- 80 khẩu súng hơi kèm 14 ống giảm thanh và 11 hộp đạn, trị giá 40.000.000

đồng43

- 12.27 m3 gỗ căm xe và mật chuông, trị giá 130.100.000 đồng44

1.9. Hạt điều thô

Nhập khẩu 11.072.571kg hạt điều chưa bóc vỏ xuất xứ từ các nước Châu Phi

để sản xuất hàng xuất khẩu, trị giá 416.140.316.000 đồng45

2. PHƯƠNG THỨC, THỦ ĐOẠN HOẠT ĐỘNG BUÔN LẬU

Qua nghiên cứu, khảo sát các vụ án buôn lậu xảy ra trên địa bàn miền Đông

Nam Bộ giai đoạn từ năm 2011 đến 2020, tác giả có thể tổng hợp về phương thức,

thủ đoạn hoạt động của đối tượng buôn lậu thành các nhóm như sau:

2.1. Không khai báo, khai báo gian dối, khai giảm số lượng hàng nhập khẩu

(hoặc lập hồ sơ giả để giảm số lượng hàng hóa) nhằm trốn thuế, trốn tránh sự

kiểm tra, kiểm soát hải quan đối với hàng hóa khi đi qua cửa khẩu được thể hiện

qua các vụ án sau:

- Năm 2015, Nhữ Quốc Toản đi trên chuyến bay từ Liên Bang Nga về sân bay Tân

36 Bản án số: 379/2019/HSST, ngày 10/10/2019 37 Bản án số: 317/2015/HSST, ngày 26/8/2015 38Trước đây, trong thực tiễn áp dụng BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), việc buôn bán hàng cấm (những loại hàng hóa không tách thành tội danh riêng) bị xử lý về Tội buôn lậu. BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có sự thay đổi trong quy định về xử lý những trường hợp này. Căn cứ vào điểm k khoản 2 Điều 190, việc buôn bán hàng cấm (những loại hàng cấm không tách thành tội danh riêng) bị xử lý về Tội buôn bán hàng cấm với dấu hiệu định khung tăng năng “Buôn bán qua biên giới, trừ hàng hóa là thuốc lá điếu nhập lậu”. Xem điểm k khoản 2 Điều 190 Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm. 39 Bản án số: 48/2012/HSST, ngày 18/9/2012 40 Bản án số: 101/2013/HSST, ngày 02/8/2013 41 Bản án số: 397/2012/HSST, ngày 13/12/2012 42 Bản án số: 239/2014/HSST, ngày 18/6/2014 43 Bản án số: 316/2014/HSST, ngày 12/8/2014 44 Bản án số: 58/2018/HSST, ngày 17/7/2018 45 Bản án số: 43/2019/HSST, ngày 26/11/2019

50

Sơn Nhất mang theo 19 kiện hành lý, mỗi kiện 32 kg. Đến sân bay Tân Sơn Nhất

(TSN), Toản làm thủ tục nhập cảnh người nhưng không khai báo hải quan đối với

số hành lý mang theo. Khi Toản đưa 19 kiện hành lý đi qua máy soi chiếu thì hải

quan sân bay TSN phát hiện 18 kiện hành lý có chứa hàng hóa nhập khẩu có điều

kiện và số lượng vượt quá định mức của người nhập cảnh. Cơ quan hải quan cửa

khẩu sân bay quốc tế TSN đã tiến hành kiểm tra thực tế toàn bộ 18 kiện hành lý và

lập biên bản về việc Toản nhập khẩu trái phép số hàng hóa gồm: 259 cây thuốc lá

nhãn hiệu Parliament; 224 chai rượu nhãn hiệu Macallan 18 năm và 108 chai rượu

Beluga (sau khi đã trừ đi định mức của người nhập cảnh) đều do nước ngoài sản

xuất46.

- Công ty TNHH một thành viên Kim Thanh Thịnh do Sun Shang Xin (quốc tịch

Trung Quốc) thành lập, quản lý và điều hành; thuê bà Nguyễn Thị Niệm làm giám

đốc, là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trụ sở công ty đặt tại 180, đường

số 7, phường Bình trị Đông, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh; ngành nghề

kinh doanh: mua bán vải, thảm, đệm, chăn, màn…

Ngày 09/02/2010, Cơ quan cảnh sát điều tra – công an thành phố Hồ Chí

Minh phối hợp với Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn KV1 tiến hành kiểm tra

container DFSU-2222593 của công ty TNHH Kim Thanh Thịnh (theo hợp đồng

giữa công ty TNHH Kim Thanh Thịnh mua vải may của công ty ZHEJIANG

QIANDA IMP & EXP CO. LTD) phát hiện số vải nhập thực tế là 371 cuộn, tương

đương 22.284m vải nhưng công ty Kim Thanh Thịnh chỉ khai báo trong tờ khai Hải

quan là 366 cuộn tương đương 6.800m vải, số lượng vải không khai báo là

15.484m. Ngoài ra, cơ quan điều tra còn phát hiện các tờ khai nhập khẩu trước đó

nhập vải may rèm các loại công ty TNHH Kim Thanh Thịnh mua của công ty

ZHEJIANG QIANDA IMP & EXP CO. LTD với tổng số lượng 33.442m qua Cảng

Cát Lái không khai báo Hải quan. Cơ quan chức năng thu giữ tại công ty TNHH

Kim Thanh Thịnh được 32.262m, số còn lại 1.180m đã tiêu thụ không thu hồi

được. Tổng trị giá hàng phạm pháp là 3.156.932.000 đồng.

Sun Shang Xin thuê một số đối tượng trung gian bên ngoài (không rõ lai lịch)

lập hồ sơ giả, khai báo Hải quan với số lượng vải nhập thấp hơn thực tế nhằm trốn

46 Bản án số: 458/2018/HSST, ngày 23/11/2018 47 Bản án số: 375/2011/HSST, ngày 28/11/2011

51

thuế nhập khẩu, trục lợi47.

- Năm 2008, Võ Ngọc Phượng kinh doanh nhỏ lẻ mặt hàng yến nuôi trong nước tại

sạp 326 Trần Bình, chợ Bình Tây. Năm 2010, Phượng đăng ký hộ kinh doanh Yến

Sào Phúc Thịnh tại số 68 Tháp Mười, phường 2, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

Phượng mua yến từ các nguồn hàng trong nước và mua của các ông Jony, Hugo,

Xíu, Kinh, Toàn, Cánh, Lái, Lím, Kui ở Malaysia, Indonesia mà Phượng quen biết

từ trước. Khi có hàng, họ điện thoại để Phượng trực tiếp hoặc cử người sang

Malaysia, Indonesia xem chất lượng và thoả thuận giá cả. Tuỳ trọng lượng mỗi

chuyến hàng mà Phượng cử thêm người đi vận chuyển yến về Việt Nam cho

Phượng. Mỗi chuyến đi có từ 01 đến 02 hoặc 03 người, mỗi người mang từ 01 đến

02 vali yến, mỗi vali chứa từ 15 đến 20kg yến nguyên liệu. Để mang hàng hoá qua

cửa khẩu sân bay, Võ Ngọc Phượng tìm gặp và nhờ Nguyễn Minh Đức (công chức

Hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài) và Nguyễn Quang Hưng (Đội phó Đội

Thủ tục hành lý nhập khẩu) tạo điều kiện giúp cho việc vận chuyển qua cổng kiểm

soát mà không khai báo hải quan.

Từ ngày 20/05/2011 đến ngày 19/12/2012, Võ Ngọc Phượng đã nhập lậu vào

Việt Nam 9.676,56kg trị giá 63.147.261.206,67 đồng không khai báo hải quan48.

- Công ty TNHH Vĩnh Hảo có chức năng sửa chữa, mua bán máy vi tính và linh kiện,

lắp ráp máy vi tính. Lý Quân Kiệt (giám đốc công ty) đã có hành vi gian dối, với

thủ đoạn nhập khẩu bàn phím máy vi tính từ Hồng Kông về Việt Nam là loại hàng

có giá trị thấp nhưng Kiệt đã mua 300 máy laptop có giá trị cao đóng vào phần

trong cùng của container khi lập hồ sơ mua bán, vận chuyển và khai báo hải quan.

Kiệt đã chỉ đạo cho nhân viên đánh máy vào tờ khai với cơ quan Hải quan cửa khẩu

nhưng không kê khai 300 chiếc laptop nêu trên và cũng không làm văn bản bổ sung

hồ sơ kê khai hàng hoá trước khi làm thủ tục hải quan49.

- Võ Thị Hằng Ni là giám đốc công ty Lập Cường đã liên lạc và thuê Huỳnh Chí

Cường làm thủ tục Hải quan và nhờ Cường tìm cách khai báo số lượng hàng hoá

giảm xuống khoảng 50% để trốn thuế50.

- Phạm Văn Thành đã thuê Công ty TNHH TMDV Giao nhận QNN làm thủ tục nhập

khẩu phế liệu về Việt Nam. Nhưng khi kiểm tra Chi cục Hải quan Cảng Sài Gòn

48 Bản án số: 317/2015/HSST, ngày 26/8/2015 49 Bản án số: 237/2010/HSST, ngày 25/8/2011 50 Bản án số: 305/2011/HSST, ngày 19/9/2011

52

khu vực 1 phát hiện trong 36 mặt hàng chỉ có 1 mặt hàng đúng như khai báo, đó là:

400 kg phế liệu nhựa trị giá 933.200 đồng, còn lại 35 loại hàng hoá không khai báo

gồm 22 tấn hạt nhựa nguyên sinh PP, phụ tùng xe ô tô, 13 mặt hàng xe ô tô các loại

mới 100%, 07 mặt hàng xe ô tô các loại đã qua sử dụng, 14 mặt hàng đồ dùng trẻ

sơ sinh. Phạm Văn Thành khai đã khai báo gian dối hàng hóa trị giá 1.524.270.410

đồng, Thành đã mua nhiều mặt hàng nhưng chỉ khai báo là nhựa phế liệu nhằm

mục đích trốn thuế nhập khẩu51.

- Phan Quang Vinh và Phan Thị Dạ Hương là các thành viên trong nhóm làm dịch vụ

giao nhận hàng hóa tại kho hàng của công ty TNHH dịch vụ hàng hóa Tân Sơn

Nhất (Kho TCS). Khi có khách hàng đến nhờ nhận hàng hóa từ nước ngoài gửi về

thì nhóm của Vinh sẽ nhận làm dịch vụ từ khâu: mở tờ khai hải quan, nhận hàng từ

kho TCS, cùng các bước kiểm tra hải quan theo quy định thay cho khách hàng.

Trong vụ án này, Phan Quang Vinh được một người phụ nữ tên Hoa nhờ làm dịch

vụ nhận 13 kiện hàng từ Hồng Kông về Việt Nam. Sau khi 13 kiện hàng trên về đến

kho TCS, Phan Quang Vinh và Phan Thị Dạ Hương đứng ra làm thủ tục giao nhận

toàn bộ lô hàng. Trong đó, Vinh là người trực tiếp làm thủ tục giấy tờ cho việc

nhận hàng và chỉ kê khai là quà biếu (như giày dép, quần áo, dầu nóng, túi xách, đồ

chơi trẻ em,…) thay vì kê khai đúng mặt hàng thực tế là 844 điện thoại di động và

máy tính bảng trị giá hơn 9 tỷ đồng nhằm mục đích trốn thuế. Phan Thị Dạ Hương

là người thực hiện việc nhận hàng từ kho TCS ra. Tinh vi hơn, bọn chúng đã mượn

tên người khác (Kiền và Mai) để sử dụng làm thủ tục nhận hàng và có sự bàn bạc

giúp sức của Nguyễn Hoàng Minh là nhân viên công ty TNHH dịch vụ hàng hóa

Tân Sơn Nhất, Minh đã lấy hàng ra khỏi kho TCS không qua khu vực kiểm hóa và

ký giả chữ ký chủ hàng vào phiếu xuất kho ở mục người nhận hàng. Các tờ khai hải

quan Vinh chỉ điền các thông tin về người nhận hàng (Kiền và Mai), địa chỉ thường

trú của người nhận hàng, chữ “Gift” (quà tặng), còn các mục khác đều bỏ trống

thông tin, mục chữ ký của người khai báo, Vinh tự ký tên Kiền và Mai52.

Hành vi cất giấu hàng hóa trong người, trong phương tiện vận tải, trốn tránh

sự kiểm tra, kiểm soát hải quan khi đi qua biên giới, cửa khẩu. Thủ đoạn này

thường được đối tượng buôn lậu áp dụng đối với hàng hóa nhỏ gọn, giá trị cao (như

51 Bản án số: 312/2016/HSST, ngày 29/8/2016 52 Bản án số: 402/2017/HSST, ngày 01/12/2017

53

vàng bạc, thuốc lá ngoại, ngoại tệ, điện thoại di động, sừng tê giác) và thường xảy

ra trên tuyến biên giới đường bộ, đường hàng không. Sau đó bọn chúng tập kết

hàng tại 1 địa điểm trong nội địa để phân phối ra thị trường trong nước. Điển hình

là vụ Nguyễn Thị Thuỳ Dung và đồng phạm đã nhập lậu và tiêu thụ tại thành phố

Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận từ tháng 08/2004 đến khi bị phát hiện (tháng

6/2005) với số lượng lớn là 17.953 điện thoại di động hiệu Samsung, Sony Ericson,

Motorola… trị giá hơn 3 triệu USD53.

- Mai Thị Kim Thoa làm việc cho một người Camphuchia tên Key Thye với công

việc nhận vàng nữ trang được đưa trái phép từ Campuchia vào Việt Nam và đã bị

Phòng Cảnh sát Kinh tế - Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang cùng toàn

bộ tang vật là 01 thùng carton có quấn băng keo trong bên ngoài, bên trong là vàng

nữ trang trị giá hơn 8 tỷ đồng54.

- Thang Kuy Kev cùng Keng Pichy (đều mang quốc tịch Campuchia) đi xe Suzuki

Smash, biển kiếm soát 1AA-8481 Pnumpeenh đem theo 526.880.000 VNĐ, 11

vòng, 08 đoạn dây, 02 khoen, 02 bông tai, 04 mặt dây chuyền vàng và 58.500 RIA

(tiền Campuchia) đến cửa khẩu Hoa Lư để làm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam.

Để tránh bị các cơ quan chức năng của Việt Nam kiểm tra trước khi qua cửa khẩu,

Kuy Kev nhờ Keng Pichy cất giữ 60.000.000VNĐ, Kuy Kev cất giữ trong người

90.000.000 VNĐ, số tiền còn lại 376.880.000 VNĐ, 03 điện thoại di dộng hiệu

Nokia N73, 1200, 2626 (trong đó N73 là của Keng Pichy), 58.500 RIA cùng 11

vòng vàng, 08 đoạn dây, 02 khoen, 02 bông tai và 04 mặt dây chuyền vàng Kuy

Kev dấu trong cốp xe môtô55.

- Ngày 25/06/2007, khi về đến sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất trong lúc làm thủ tục

nhập cảnh Hoàng Văn Chung đã không khai báo hải quan. Qua kiểm tra hành lý,

Hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã phát hiện 02 sừng tế giác mà Chung đã

cất giấu trong vali hành lý trên chuyến bay từ Nam Phi về Việt Nam để bán lại

kiếm lời56.

2.2. Thành lập và giải thể nhiều công ty, thuê người làm giám đốc, làm giả giấy

tờ hồ sơ xuất nhập khẩu, mua chuộc, đưa, nhận hối lộ của công chức hải quan

53 Bản án số: 422/2012/HSST, ngày 27/12/2012 54 Bản án số: 356/2017/HSST, ngày 29/9/2017 55 Bản án số: 34/2010/HSST, ngày 18/8/2011 56 Bản án số: 239/2014/HSST, ngày 18/6/2014

54

tiếp tay cho hành vi buôn lậu; xuất khống hóa đơn nhằm hợp thức hóa hàng lậu;

thành lập công ty “ma”… lợi dụng nhiệm vụ được giao, lợi dụng danh nghĩa các

công ty khác nhau để buôn lậu thể hiện qua các vụ án sau:

- Tháng 03/2013, Trần Minh Luận thành lập Công ty TNHH giao nhận ABC Việt

Nam (Công ty ABC) kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu. Luận

thuê Nguyễn Trung Kiệt (con trai của Nguyễn Văn Khiêm, lái xe của Luận) đứng

tên giám đốc công ty, giao cho Nguyễn Thị Ngọc Hà làm thủ tục thành lập công ty

và giữ chức vụ kế toán; sử dụng nhà riêng tại số 23 Vân Côi, Phường 7, quận Tân

Bình, thành phố Hồ Chí Minh làm trụ sở chính của công ty. Tháng 03/2015, Luận

chỉ đạo Hà và Khiêm thành lập Công ty TNHH DCL (Công ty DCL), thuê Huỳnh

Kim Dũng (em vợ Khiêm) đứng tên giám đốc, Khiêm là thành viên góp vốn, Hà

mạo danh Huỳnh Kim Dũng để ký các giấy tờ pháp lý của công ty. Mọi hoạt động

của 02 công ty này do Luận chỉ đạo, điều hành. Luận bàn bạc với Nguyễn Cường

Thành Tín thành lập công ty TNHH thương mại dịch vụ xuất khẩu Jos Tín Nguyễn

(Công ty Jos Tín Nguyễn) vào tháng 08/2014 và đứng tên giám đốc. Ngày

18/07/2015, Tín làm thủ tục đăng ký thay đổi chủ sở hữu công ty, lấy tên Huỳnh

Kim Dũng là người đại diện theo pháp luật của công ty, nhưng thực chất Tín vẫn là

chủ sở hữu, điều hành mọi hoạt động của công ty, ký mạo danh Huỳnh Kim Dũng

trên các giấy tờ pháp lý của công ty.

Khoảng tháng 07/2015, sau khi mua gom hàng hóa tại Nhật Bản (Luận và

đồng phạm khai chủ hàng không xác định được), thuê hãng tàu vận chuyển về Việt

Nam, Luận chỉ đạo Hà sử dụng pháp nhân Công ty ABC khai báo bản khai hàng

hóa để nhập khẩu 12 cont’ hàng hóa (cấm nhập khẩu) cho các công ty: DLC và Cao

Dương, Khải Lợi (Tín cung cấp thông tin pháp lý của 02 công ty Cao Dương, Khải

Lợi cho Hà). Tín cung cấp thông tin cho hãng tàu T.S Lines khai báo Bản khai hàng

hóa nhập khẩu 06 cont’ hàng (cấm nhập khẩu) cho các Công ty Jos Tín Nguyễn,

DLC. Để che giấu hành vi nhập khẩu trái phép, Hà và Tín đã khai báo hải quan,

cung cấp thông tin cho hãng tàu T.S Lines khai báo hải quan hàng hóa nhập khẩu là

các loại hàng được phép nhập khẩu, như: Máy móc cũ thuộc diện được nhập khẩu,

bột cao lanh, giấy dán tường, bột đất sét,… .

Từ ngày 21/08/2015 đến ngày 25/09/2015, hãng tàu T.S Lines vận chuyển 18

cont’ hàng hóa của Luận, Tín và đồng phạm từ Nhật Bản về Việt Nam qua các

55

Cảng tại thành phố Hồ Chí Minh; gửi hàng là các công ty Nhật Bản, nhận hàng là

các Công ty DLC (11 cont’), Cao Dương (02 cont’), Khải Lợi (02 cont’), và Jos Tín

Nguyễn (03 cont’). Toàn bộ hàng hóa trong 18 cont’ gồm: điều hòa, máy giặt, tủ

lạnh, nồi cơm điện đã qua sử dụng (thuộc hàng cấm nhập khẩu theo quy định của

luật pháp Việt Nam). Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh phát hiện toàn bộ hàng

hóa trong 18 cont’ là hàng vi phạm.

Như vậy, từ tháng 07/2015 đến tháng 09/2015, Trần Minh Luận chỉ đạo

Nguyễn Thị Ngọc Hà, Nguyễn Văn Khiêm và Nguyễn Cường Thành Tín (Giám

đôc Công ty Joss Tín Nguyễn) sử dụng pháp nhân Công ty ABC để làm dịch vụ

xuất nhập khẩu hàng hoá, sử dụng pháp nhân các Công ty DCL, Cao Dương, Khải

Lợi và Jos Tín Nguyễn để kê khai là chủ các lô hàng trái phép trong 18 cont’ gồm

hàng điện tử, hàng điện lạnh đã qua sử dụng (hàng cấm nhập khẩu) từ nước ngoài

về Việt Nam tiêu thụ. Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự, trị giá 18

cont’ hàng hóa phạm pháp là 9.540.976.264 đồng.

Tiếp đến, Luận chỉ đạo Hà sử dụng pháp nhân Công ty TNHH thương mại

dịch vụ Nam Hà Sơn (Công ty Nam Hà Sơn do Luận thành lập) để đăng ký tờ khai

hải quan, lập hợp đồng ngoại (sales contract), hóa đơn thương mại (commercial

invoice), phiếu liệt kê hàng hóa (packing list) và các chứng từ pháp lý khác, đồng

thời ký giả tên người bán hàng trên các chứng từ, tài liệu để hợp thức hồ sơ nhập

khẩu lô hàng có 111 mặt hàng gồm: thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm, phụ gia và

hóa chất tẩy rửa từ Nhật Bản về Việt Nam tiêu thụ, trong đó có 05 mặt hàng Công

ty Nam Hà Sơn kê khai trên tờ khai hải quan, trị giá hàng hóa kê khai là

791.387.110 đồng; 96 mặt hàng còn lại không khai báo trên tờ khai hải quan, trị giá

hàng hóa phạm pháp không khai báo nhập khẩu trái phép là 6.407.264.890 đồng

Từ ngày 29/4/2014 đến 4/6/2014, Công ty Bảo Trí (do Luận thành lập) nhập

khẩu 9 cont’ của các công ty Blue Ocean Express và Dat Nguyen, làm thủ tục hải

quan tại cảng cảng Cát Lái, thành phố Hồ Chí Minh và đăng ký làm thủ tục kiểm tra

nhà nước về an toàn thực phẩm tại Trung tâm 3. Hàng hoá nhập khẩu có nhiều loại

khác nhau, gồm: Thực phẩm chức năng, thực phẩm dinh dưỡng, bút bi, đá bật lửa,

giấy. Trong đó có thực phẩm dinh dưỡng Ensure ghi nhãn “Not tobe sold in

Vietnam or Mexico” chưa được Cục an toàn thực phẩm (ATTP) cấp “Xác nhận

công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm” theo quy định. Luận đã chỉ đạo, giao

56

cho Hà, Khiêm làm thủ tục hải quan, đăng ký kiểm tra chất lượng hàng hoá. Hà đã

khai báo, mở tờ khai hải quan, tự lập hợp đồng ngoại…Toàn bộ hàng hoá đã được

Trung tâm 3 và Chi cục Hải quan Cát Lái giải quyết, bàn giao cho doanh nghiệp

đem hàng về kho để bảo quản, làm thủ tục kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm

trước khi được xem xét thông quan.

Quá trình làm thủ tục hải quan, vì muốn công chức hải quan tạo điều kiện

thuận lợi trong quá trình kiểm hóa, Luận chỉ đạo Hà, Khiêm tìm cách tiếp cận và

đưa hối lộ cho Nguyễn Hoàng Sơn (công chức Chi cục Hải quan cảng Cát Lái)

90.000.000 đồng để Sơn tạo điều kiện thông quan 02 lô hàng của Công ty Bảo Trí.

Tuy nhiên, sau khi được cơ quan Hải quan cho Công ty đem hàng về kho để bảo

quản, chờ kết quả kiểm tra chuyên ngành và làm thủ tục thông quan thì Luận, Hà và

Khiêm đã đem toàn bộ số thực phẩm là sữa Ensure ghi nhãn “Not to be sold in

Vietnam and Mexico” nêu trên bán cho các đối tượng tiêu thụ trong nước. Trị giá

hàng hoá vi phạm được xác định theo trị giá hải quan là 3.133.711.880 đồng.

Như vậy, Trần Minh Luận và đồng phạm đã thành lập nhiều công ty với chức

năng, lĩnh vực kinh doanh khác nhau, trực tiếp đứng tên giám đốc hoặc thuê người

khác làm giám đốc công ty, đăng ký thay đổi chủ sở hữu công ty, thay đổi người đại

diện theo pháp luật của công ty V/v.. nhưng thực chất hoạt động của các công ty

này đều do Luận điều hành. Từ năm 2010 đến năm 2014 Luận và Nguyễn Cường

Thành Tín đã thành lập các công ty Bảo Trí, Nam Hà Sơn, ABC, DLC (Luận thành

lập) và Công ty Jos Tín Nguyễn (Tín thành lập) và sử dụng pháp nhân của các công

ty Cao Dương, Khải Lợi để buôn lậu. Hành vi buôn lậu của Luận và đồng phạm

diễn ra trong một thời gian dài với trị giá hàng phạm pháp đặc biệt lớn mới bị phát

hiện và xử lý xuất phát từ thủ đoạn hoạt động buôn lậu của chúng như: không khai

báo; khai báo gian dối; giả mạo chữ ký; khi bị phát hiện thì lấy lý do gửi nhầm để

xin xuất khẩu hàng hóa trở lại; hàng hóa được đưa về kho của công ty để bảo quản,

chờ kết quả kiểm tra để thông quan thì bán ra thị trường nội địa để trục lợi; đưa và

nhận hối lộ; lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ V/v..57

- Nguyễn Văn Sinh (Việt kiều Mỹ) và Đoàn Đức Thắng (đang bị A92 truy nã về tội

buôn lậu, thường sử dụng tên giả là Trần Minh Thắng, Trần Văn Thắng hoặc

57 Bản án số: 379/2019/HSST, ngày 10/10/2019

57

Nguyễn Văn Thắng) thuê Vũ Mạnh Dũng làm giám đốc và Đỗ Thị Diệu Lợi – nhân

viên kế toán thành lập Công ty TNHH DV XNK KAL để làm trung gian cho việc

nhập hàng hóa trái phép của Sinh và Thắng.

Năm 2010, Nguyễn Văn Sinh thành lập Công ty An Khang Lạc và làm giám

đốc Công ty An Khang Lạc đến ngày 21/3/2012 thì thay đổi đăng ký kinh doanh,

thuê Vũ Mạnh Dũng là đối tượng không có nghề nghiệp làm giám đốc. Để tránh bị

cơ quan chức năng phát hiện và thuận tiện cho việc tiêu hủy các tài liệu chứng cứ

liên quan đến các phi vụ buôn lậu, Sinh tiến hành giải thể Công ty TNHH MTV An

Khang Lạc thành lập Công ty TNHH Nông ngư cơ Thắng Lợi hoạt động đến tháng

7/2013 thì ngưng hoạt động để thành lập Công ty KAL. Cả 02 công ty thành lập sau

Sinh, Thắng đều thuê Vũ Mạnh Dũng làm giám đốc. Ngoài Vũ Mạnh Dũng thì Đỗ

Thị Diệu Lợi cũng do Nguyễn Văn Sinh tuyển dụng và dã làm việc cho công ty mà

Sinh và đồng phạm lập ra nhằm mục đích buôn bán phụ tùng xe đầu kéo. Lợi có vai

trò bán hàng, quản lý thu chi tài chính của công ty, báo cáo, gửi email, chuyển tiền

sang Mỹ cho Sinh và làm các công việc cụ thể khác do Sinh chỉ đạo. Với thủ đoạn

này, Sinh và Thắng đã nhập lậu tổng công 27 cont’ phụ tùng xe đầu kéo đã qua sử

dụng trị giá 5.618.395.000 đồng nhưng khai báo với hải quan là máy xúc, máy phát

điện đã qua sử dụng, cần trục, máy tiện, máy hàn…

Đây là vụ án buôn lậu có tổ chức, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội diễn

ra trong một thời gian dài, dưới sự điều hành của các đối tượng ở nước ngoài mà

các bị cáo Vũ Mạnh Dũng, Đỗ Thị Diệu Lợi, Lê Công Hớn, Nguyễn Văn Bình đều

là những đồng phạm giúp sức tích cực58.

- Tháng 6/1996 Công ty Thiên Minh (chức năng mua bán, đại lý hàng ký gửi, cung

ứng xuất khẩu, hàng kim khí điện máy, điện lạnh, điện tử, công nghệ phẩm, văn

phòng phẩm… do ông Lê Kiên Thành làm giám đốc; trụ sở tại Quận 7, thành phố

Hồ Chí Minh) tuyển dụng Nguyễn Trọng Kỳ làm cửa hàng trưởng, sau là Phó giám

đốc Công ty Thiên Minh - kiêm giám đốc chi nhánh. Sau khi phát hiện chi nhánh

công ty thua lỗ, ông Thành có ý định giải thể chi nhánh thì Nguyễn Trọng Kỳ xin

ông Thành cho Kỳ nhận khoán kinh doanh độc lập với công ty và được sử dụng

pháp nhân, tài khoản của công ty để hoạt động, mỗi tháng Kỳ nộp cho công ty

10.000.000 đồng quản lý phí. Do đó, kể từ tháng 01/2001 đến tháng 7/2006 chi

58 Bản án số: 250/2015/HSST, ngày 27/7/2015

58

nhánh kinh doanh độc lập và Kỳ là người chỉ đạo, quyết định mọi hoạt động của chi

nhánh nhưng sử dụng pháp nhân và tài khoản của công ty để giao dịch. Từ năm

2001 đến năm 2007, Nguyễn Trọng Kỳ đã lợi dụng các chuyến đi Singapore để dự

hội thảo, tập huấn sử dụng các mẫu hàng mới, dự triển lãm hội chợ để mua một số

mặt hàng máy văn phòng như máy photocpy, máy đèn chiếu và các phụ kiện rồi

chia nhỏ hàng ra nhờ khách du lịch mang ra sân bay không khai báo hải quan mang

về Việt Nam bán thu lời bất chính. Để che giấu hành vi phạm tội của mình, Kỳ đã

bỏ vốn thành lập công ty Hạ Đan, thuê người đứng tên giám đốc, phó giám đốc

công ty xuất khống hóa đơn bán hàng để hợp thức hóa số hàng buôn lậu; sử dụng

hoá đơn GTGT của các công ty khác nhau nhằm hợp thức hoá đầu vào hoá đơn xuất

khống cho công ty Thiên Minh. Bằng thủ đoạn này, chỉ tính riêng 10 chuyến đi

Singgapore trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2005, Kỳ đã buôn lậu các loại máy

chiếu và phụ kiện, máy photocopy và phụ kiện, máy tính tiền, máy fax, mực máy

photo, mực máy fax… hiệu Sharp vào Việt Nam không khai báo Hải quan trị giá

2.237.805.000 đồng59.

- Trần Thanh Thảo rủ Bành Sĩ Thắng cùng nhập khẩu hàng hoá đã qua sử dụng (cấm

nhập khẩu) từ Nhật Bản về Việt Nam để tiêu thụ thu lợi. Tháng 07/2016, Thắng liên

hệ với Hạnh (bạn của Thắng định cư tại Nhật Bản) để mua 01 cont’ hàng hoá gồm:

máy lạnh, máy giặt, máy xử lý không khí, chén đĩa ly sành sứ (hàng hoá đã qua sử

dụng). Khi hàng về tới cảng Hiệp Phước, Trần Thanh Thảo cung cấp tài liệu về lô

hàng không đúng với số hàng thực tế nhập khẩu có trong cont’ và thuê Lê Quang

Phúc thực hiện dịch vụ nhập khẩu. Phúc soạn thảo Tờ khai hải quan đối với cont’

hàng nêu trên và sử dụng pháp nhân Công ty Huỳnh Khang (do Thảo cung cấp

thông tin) làm đại lý giao nhận, còn đơn vị nhập khẩu là Công ty TNHH Giấy Kraft

Vina (trụ sở tại Lô D-6A-CN, KCN Mỹ Phước 3, thị xã Bến Cát, Bình Dương),

hàng hóa khai báo là giấy bìa (theo yêu cầu của Thảo). Ngay sau khi hàng được vận

chuyển về tới kho, Trần Thanh Thảo thuê xe tải đến vận chuyển hàng hoá được bốc

từ Cont’ WFHU 5142305 đi tiêu thụ thì bị Phòng Cảnh sát kinh tế - Công an thành

phố Hồ Chí Minh phối hợp lực lượng Bộ đội biên phòng thành phố Hồ Chí Minh

phát hiện bắt giữ. Số hàng hoá do Trần Thanh Thảo và Bành Sĩ Thắng vi phạm

gồm: 2.774 chén, đĩa, ly sành sứ; 09 tủ lạnh, 60 máy xử lý không khí; 209 cục lạnh

59 Bản án số: 359/2010/HSST, ngày 27/12/2011

59

máy lạnh, 208 cục nóng máy lạnh, 08 máy giặt, 20 bộ loa, dàn âm thanh; 120 máy

scan (tất cả các loại hàng hoá trên đều là hàng ngoại đã qua sử dụng thuộc danh

mục hàng cấm nhập khẩu) trị giá là 1.320.854.000 đồng.

Điều đáng nói trong vụ án này là kết quả xác minh của Phòng Cảnh sát kinh tế

Công an thành phố Hồ Chí Minh: tại cảng vụ Hiệp Phước không có bất cứ thông

tin, tài liệu nào về đại diện công ty Giấy Kraft Vina đến làm việc tại cảng để nhận

cont’ hàng trên; xác minh tại Công ty TNHH Giấy Kraft Vina, kết quả: công ty

không nhập hàng theo tờ khai hải quan của công ty Huỳnh Khang như nêu trên; xác

minh công ty Huỳnh Khang, kết quả: tại địa chỉ đăng ký không có công ty này hoạt

động, người đứng tên giám đốc công ty là Huỳnh Tấn Trung. Ông Trung là giáo

viên tại tỉnh Quảng Ngãi khai: trong 1 lần vào thành phố Hồ Chí Minh thì bị mất

chứng minh nhân dân. Bản thân ông không làm thủ tục thành lập và không biết gì

về Công ty Huỳnh Khang.

Như vậy, trong vụ án này, Thảo và Thắng đã sử dụng nhiều công ty với các

chức năng kinh doanh khác nhau và mỗi công ty được sử dụng phù hợp với mục

đích của từng khâu trong quá trình thực hiện hành vi buôn lậu: sử dụng công ty

TNHH Giấy Kraft Vina để nhập hàng lậu (máy lạnh, máy giặt, máy xử lý không

khí, chén đĩa ly sành sứ đã qua sử dụng nhưng khai báo hải quan là nhập khẩu

“giấy bìa”); đơn vị nhập khẩu là Công ty TNHH Giấy Kraft Vina, sử dụng pháp

nhân công ty Huỳnh Khang làm đại lý giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu nhưng

trên thực tế là công ty “ma” không tồn tại V/v.. bằng phương thức thủ đoạn này bọn

chúng đã qua mặt được các cơ quan quản lý nhà nước như: Chi cục hải quan hàng

đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, cụm cảng Hiệp Phước, …60.

- Nguyễn Thị Xuân Dung, được tuyển dụng làm Trưởng phòng XNK Công ty may

mặc xuất khẩu Pao Yuan Việt Nam, Dung đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, móc nối

với Trần Trọng Cẩn bàn bạc, thoả thuận dùng hợp đồng may gia công của công ty

Pao Yuan nhập nguyên phụ liệu may gia công theo dạng hàng tạm nhập tái xuất

không phải nộp thuế nhập khẩu và thuế GTGT để nhập lậu vải cho Trần Trọng Cẩn

tiêu thụ ở thị trường trong nước nhằm trục lợi61.

2.3. Lợi dụng hình thức tạm nhập – tái xuất hay nhập khẩu nguyên vật liệu để

60 Bản án số: 388/2018/HSST, ngày 26/10/2018 61 Bản án số: 179/2013/HSST, ngày 23/5/2013

60

sản xuất hàng xuất khẩu để buôn lậu thể hiện qua các vụ án sau:

- Trong khoảng thời gian từ tháng 03/2014 đến tháng 01/2015, Thái Huy (Chủ tịch

Hội đồng thành viên Công ty TNHH DNF Global) đã sử dụng pháp nhân của các

công ty gồm:

Thứ nhất, Công ty Tất Đạt về việc xin mở tờ khai tạm nhập lốp ô tô đã qua sử

dụng từ Hoa Kỳ để tái xuất theo hợp đồng được ký kết giữa Công ty Tất Đạt với

Công ty HMN INVESTMENT GROUP CO., LTD (Campuchia). Theo đó, 09 cont’

chứa 2.250 chiếc lốp xe ô tô đã qua sử dụng đã được thông quan, đồng thời lập biên

bản bàn giao hàng hoá cho công ty Tất Đạt để thực hiện việc tái xuất tại Chi cục Hải

quan cửa khẩu cảng Hoa Lư, tỉnh Bình Phước sang Campuchia.

Tuy nhiên, Thái Huy đã không làm thủ tục tái xuất mà đã liên hệ bán toàn bộ

số lốp ô tô đã qua sử dụng cho Công ty DVA trị giá 621.000.000 đồng. Công ty

DVA đã thanh toán hết số tiền cho Thái Huy bằng tiền mặt và đã xử lý toàn bộ số

lốp xe đã mua đốt ép lấy dầu.

Thứ hai, Công ty TNHH Lê Gia về việc tạm nhập 4.250 lốp ô tô đã qua sử

dụng (tương đương 429,58 tấn), đã hoàn thành thủ tục hải quan tạm nhập và đã

được bàn giao hàng chuyển cửa khẩu ngày 25/7/2014 để tái xuất tại chi cục hải

quan cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh sang Campuchia.

Tuy nhiên, cũng với thủ đoạn như trên, Thái Huy đã thuê công ty TNHH

TMDV Vận tải Tuấn Hiệp vận chuyển toàn bộ số lốp trên ra khỏi Cảng Sài Gòn

KV4 để tiêu thụ tại thị trường Việt Nam. Cụ thể Thái Huy đã bán cho ông Lê Tiến

Dũng (chủ cơ sở Duy Chiến) 72,36 tấn, trị giá 195.392.000 đồng và bán cho Công

ty DVA 357,22 tấn, trị giá 1.071.660.000 đồng.

Thứ ba, Công ty Dịch vụ Việt về việc tạm nhập 10 container lốp xe ô tô đã

qua sử dụng và tiêu thụ 10 container chứa 2.000 lốp ô tô đã qua sử dụng (tương

đương 254,4 tấn) tại thị trường Việt Nam, trị giá 789.280.000 đồng; sử dụng pháp

nhân của Công ty DNF Global thực hiện hành vi tạm nhập 99 cont’ lốp xe đã qua sử

dụng và tiêu thụ hết 9.994 lốp ô tô đã qua sử dụng (tương đương 2.249,08 tấn) tại

thị trường Việt Nam, trị giá 5.291.840.000 đồng

Tổng số tiền thu được khi bán lốp xe ô tô cho các chủ thể kinh doanh trong

nước 7.969.172.000 đồng

Như vậy, Thái Huy (Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH DNF

61

Global) đã lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất hàng hóa và sử dụng pháp nhân của

nhiều công ty khác nhau để làm thủ tục tạm nhập khẩu hàng nhưng thay vì phải tái

xuất theo quy định thì Huy đã liên hệ và bán hàng cho các doanh nghiệp trong nước

để trục lợi62.

- Thái Bình Duơng với ý định thành lập công ty cổ phần xuất nhập khẩu nông sản

Thái Bình (công ty Thái Bình) để kinh doanh nông sản, nhưng không có cổ đông

góp vốn, nên tháng 02/2015, Dương nhờ thêm Nguyễn Ngọc Bình và Nguyễn Ngọc

Chinh đứng tên cổ đông góp vốn trên danh nghĩa để thành lập công ty Thái Bình.

Ngày 09/02/2015, công ty được Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí

Minh cấp mã số thuế: 0313133738. Sau đó, công ty Thái Bình thay đổi địa chỉ kinh

doanh, tư cách thành viên, vốn điều lệ 5 lần.

Dương kinh doanh đến khoảng tháng 07/2016, nhận thấy hình thức nhập hạt

điều từ Châu Phi về để sản xuất, xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu. Dương nảy

sinh ý định lợi dụng loại hình này để thực hiện hành vi nhập khẩu hạt điều nguyên

liệu về sản xuất một phần, một phần sẽ lén bán ra thị trường trong nước mà không

khai báo với cơ quan Hải quan. Đến tháng 08/2016, để thực hiện được ý định trên,

Dương thuê khu đất ở ấp Thái Dũng, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình

Phước của ông Phạm Trần Minh Đức, rồi mua, lắp đặt máy móc chế biến điều. Sau

đó, thông báo cơ sở sản xuất, nơi giữ nguyên liệu, vật tư, máy móc thiết bị và sản

phẩm xuất khẩu gửi Chi cục Hải quan Chơn Thành để bảo đảm điều kiện được nhập

khẩu hạt điều sản xuất, xuất khẩu. Qua kiểm tra, Chi cục Hải quan Chơn Thành

nhận thấy công ty Thái Bình nhập khẩu và yêu cầu công ty thực hiện đúng quy định

về quản lý hàng hoá nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu.

Từ ngày 08/09/2016 đến 15/01/2018, Dương sử dụng tư cách pháp nhân công

ty Thái Bình đã nhiều lần mở tổng cộng 70 tờ khai hải quan nhập khẩu theo loại

hình E31 (nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu) tại Chi cục Hải quan Chơn

Thành để nhập khẩu 11.072.571kg hạt điều chưa bóc vỏ xuất xứ từ các nước Châu

Phi. Tổng trị giá hàng hoá là 440.109.362.821,15 đồng

Sau khi số lượng điều được thông quan, đang trên đường vận chuyển hoặc đã

62 Bản án số: 281/2019/HSST, ngày 29/7/2019

62

vận chuyển về kho thì Dương lén bán cho nhiều người.

Với mục đích ban đầu là nhập điều nguyên liệu về sản xuất để xuất khẩu một

phần, lén bán ra thị trường một phần, Dương thuê người chế biến một phần ra điều

nhân xuất khẩu để Chi cục Hải quan Chơn Thành không phát hiện hành vi lén bán

hạt điều nguyên liệu ra thị trường nội địa của mình. Đến cuối năm 2017, Dương đã

bán hết máy móc chế biến điều. Công ty Thái Bình của Dương khi này mới mở 02

tờ khai (ngày 30/11/2016 và 23/11/2017) theo loại hình E62 (xuất sản phẩm sản

xuất xuất khẩu) xuất khẩu 20.275,92kg nhân hạt điều với tổng trị giá là

4.728.931,10 đồng.

Số hạt điều đang tồn kho tại cơ sở sản xuất công ty Thái Bình là 441.389kg, trị

giá 19.240.115.091 đồng.

Tổng trị giá hàng hoá công ty Thái Bình mở tờ khai nhập khẩu là

440.109.362.821,15 đồng. Như vậy, trị giá hàng hoá buôn lậu là:

440.109.362.821,15 đồng - 4.728.931.728,10 đồng - 19.240.115.091 đồng =

416.140.316.002,5 đồng.

Dương xác định việc mua bán hạt điều Châu Phi sau khi nhập về Việt Nam là

mua bán sang tay, không làm hợp đồng, không xuất hoá đơn, giá cả mua bán lên

xuống thất thường nên có khi lời, có khi lỗ và do không ghi chép sổ sách theo dõi

nên Dương ước lượng đã thu lợi bất chính khoảng gần 1 tỷ đồng và số tiền này

Dương dùng hết vào việc tiêu xài cá nhân và chi trả lương cho công nhân. Việc

chuyển số điều nguyên liệu nhập khẩu sang tiêu thụ nội địa là do Dương tự quyết

định, tự thực hiện, không bàn bạc, không chia số tiền thu lợi cho các thành viên

khác của công ty, vì Dương chỉ nhờ đứng tên thành viên chứ những người này

không góp vốn, không tham gia vào bất kỳ hoạt động nào của công ty.

Dương đã nhờ người đứng tên dùm để thành lập công ty cổ phần, những người

được Dương nhờ không góp vốn vào công ty, không biết việc Dương tự ý chuyển

mục đích sử dụng hàng hoá thuộc đối tượng miễn thuế không đúng mục đích mà

không khai báo. Lợi nhuận thu được Dương cũng không chia cho các thành viên

của công ty. Toàn bộ hoạt động điều hành công ty đều do Dương thực hiện và chịu

trách nhiệm, nên căn cứ theo Điều 75 BLHS thì không đủ cơ sở truy cứu trách

63 Bản án số: 43/2019/HSST, ngày 26/11/2019

63

nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là công ty Thái Bình63.

3. THU LỢI BẤT CHÍNH TỪ HOẠT ĐỘNG BUÔN LẬU

Trong tổng số 43 vụ án buôn lậu đã khảo sát chỉ có 6 vụ là cơ quan chức năng có

đủ chứng cứ chứng minh người phạm tội thu lợi bất chính và số người thu lợi bất

chính trong 6 vụ án này là 10 người với tổng số tiền chưa đến 6 tỷ đồng. Cụ thể như

sau:

- Tịch thu số tiền Nguyễn Trọng Kỳ thu lợi bất chính là 433.132.000 đồng64

- Tịch thu số tiền Nguyễn Hoàng Mỹ thu lợi bất chính là 3.000.000 đồng65

- Tịch thu số tiền Đặng Yến Khang thu lợi bất chính là 30.000.000 đồng66

- Tịch thu số tiền Phan Thanh Giang thu lợi bất chính là 30.000.000 đồng67.

- Tịch thu số tiền Võ Ngọc Phượng thu lợi bất chính là 1.801.280.400 đồng68.

- Tịch thu số tiền Nguyễn Trung Công thu lợi bất chính là 68.850.000 đồng69.

- Tịch thu số tiền Nguyễn Quang Hưng thu lợi bất chính là 1.719.778.910

đồng70.

- Tịch thu số tiền Nguyễn Minh Đức thu lợi bất chính là 741.621.090 đồng71.

- Tịch thu số tiền Nguyễn Hoàng Sơn thu lợi bất chính là 90.000.000 đồng72.

- Tịch thu số tiền Thái Bình Dương thu lời bất chính là 830.000.000 đồng73.

Có thể thấy rằng, số tiền mà người phạm tội thu lời bất chính mà các cơ quan

chức năng chứng minh được chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với trị giá tang vật phạm pháp

mà các cơ quan chức năng đã bắt giữ được và càng ít hơn nhiều so với trị giá hàng

lậu do các cơ quan chức năng đã phát hiện, thu giữ, xử lý. Chẳng hạn, vụ Võ Ngọc

Phượng tổ chức buôn lậu yến sào với trị giá hàng lậu lên đến hơn 63 tỷ đồng nhưng

tài liệu, chứng cứ chỉ chứng minh được số tiền thu lợi bất chính chỉ vào khoảng 1,8

tỷ đồng; vụ Thái Bình Dương lợi dụng hình thức kinh doanh nhập hạt điều chưa bóc

vỏ từ các nước Châu Phi để sản xuất xuất khẩu trị giá hơn 416 tỷ đồng nhưng các cơ

64 Bản án số: 359/2010/HSST, ngày 27/12/2011 65 Bản án số: 222/2012/HSST, ngày 27/12/2012 66 Bản án số: 375/2011/HSST, ngày 28/11/2011 67 Bản án số: 375/2011/HSST, ngày 28/11/2011 68 Bản án số: 317/2015/HSST, ngày 26/8/2015 69 Bản án số: 317/2015/HSST, ngày 26/8/2015 70 Bản án số: 317/2015/HSST, ngày 26/8/2015 71 Bản án số: 317/2015/HSST, ngày 26/8/2015 72 Bản án số: 379/2019/HSST, ngày 10/10/2019 73 Bản án số: 43/2019/HSST, ngày 26/11/2019

64

quan chức năng chỉ chứng minh được số tiền thu lợi bất chính chỉ là 830 triệu đồng.