VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐÀO TRUNG HIẾU
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH ĐA CẤP: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐÀO TRUNG HIẾU
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH ĐA CẤP: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 93.80.105
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Hữu Tráng
Người hướng
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả đề cập trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc
trích dẫn rõ ràng và chính xác.
Tác giả luận án
Đào Trung Hiếu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................ 8
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................. 12
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ..................................................... 20
1.4. Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu .......................................................... 24
1.5. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................... 25
Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................... 25
Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM ...................... 27
2.1. Những vấn đề lý luận về tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp ................................................................................... 27
2.2. Thực tiễn tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp tại Việt Nam, giai đoạn 2011 - 2020 .............................................. 40
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................... 65
Chương 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH
ĐA CẤP .................................................................................................................... 67
3.1. Những lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp ........................................... 67
3.2. Thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp tại Việt Nam, giai đoạn 2011 - 2020 ............... 71
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................. 101
Chương 4: GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH ĐA CẤP
TẠI VIỆT NAM .................................................................................................... 103
4.1. Những vấn đề lý luận về giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp ......................................... 103
4.2. Thực tiễn triển khai phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp tại Việt Nam ................................................. 111
4.3. Dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp tại Việt Nam ................................................................................. 119
4.4. Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp ................................................................................. 125
Tiểu kết Chương 4 ................................................................................................. 148
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149
DANH MỤC CÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152
PHỤ LỤC 1 ............................................................................................................ 164
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT An ninh trật tự
BHĐC Bán hàng đa cấp
BLHS Bộ luật hình sự
CAND Công an nhân dân
CĐTS Chiếm đoạt tài sản
CSĐT Cảnh sát điều tra
CT&BVNTD Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng
CP Cổ phần
KDĐC Kinh doanh đa cấp
KDTPTĐC Kinh doanh phương thức đa cấp
MLĐC Mạng lưới đa cấp
NCS Nghiên cứu sinh
NXB Nhà xuất bản
PTKDĐC Phương thức kinh doanh đa cấp
QLNN Quản lý Nhà nước
QLTT Quản lý thị trường
TAND Tòa án nhân dân
THTP Tình hình tội phạm
TNHS Trách nhiệm hình sự
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TP Thành phố
VKSND Viện Kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm đầu của thế kỷ XX, phương thức kinh
doanh đa cấp - (hình thức bán lẻ hàng hóa trực tiếp đến tay người tiêu dùng thông qua
mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh), đã phát triển mạnh mẽ và
được thừa nhận rộng rãi tại hơn 170 quốc gia. Năm 1998, phương thức kinh doanh
này du nhập vào thị trường Việt Nam, nhưng phải tới năm 2004 mới được pháp luật
thừa nhận và điều chỉnh tại Luật Cạnh tranh, Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày
24/8/2005, sau đó là Nghị định số 42/2014 ngày 14/5/2014 và hiện nay là Nghị định
40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức
đa cấp.
Quá trình hoạt động tại Việt Nam, hoạt động kinh doanh đa cấp đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những phương thức bán lẻ phổ biến, tạo
công ăn việc làm cho nhiều người và đóng góp nhất định vào sự tăng trưởng kinh tế của
đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, lĩnh vực này đã xảy ra nhiều
hiện tượng biến tướng phức tạp, trong đó hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ
đoạn lợi dụng phương thức kinh doanh đa cấp đã và đang gây ra những hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng đối với nền kinh tế và đời sống dân sinh, đồng thời tác động xấu
đến tình hình trật tự an toàn xã hội. Bằng cách đưa ra các thông tin gian dối, khuếch
trương sai sự thật về lợi ích khi tham gia mạng lưới kinh doanh để kích thích lòng
tham, tính hám lợi của con người, người phạm tội tổ chức ra một hệ thống gồm nhiều
tầng, nhiều nhánh dưới danh nghĩa, “vỏ bọc” như kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, tiền
tệ, sản phẩm thông tin số, nhận uỷ thác đầu tư, mua bán cổ phần, nhượng quyền kinh
doanh…theo phương thức đa cấp, nhằm huy động tài chính từ người tham gia để
chiếm đoạt.
Mô hình biến tướng này rất giống với kinh doanh đa cấp hợp pháp ở chỗ cùng
tổ chức và hoạt động trên cơ sở mạng lưới người tham gia. Sự khác biệt là mô hình
này thu tiền của người tham gia dưới nhiều danh nghĩa, hình thức khác nhau. Số tiền
đó người phạm tội chiếm hưởng sau khi trừ đi chi phí duy trì hệ thống và trích % nhất
định để trả lãi cho các thành viên tuyến trên. Bù lại, người tham gia được quyền tuyển
1
dụng người mới vào tuyến dưới của mình, để được hưởng thù lao, hoa hồng phát triển
mạng lưới. Như vậy, bản chất của mô hình này là thu tiền của những người tuyến
dưới để trả cho các cấp trên, lấy tiền của người vào sau trả cho người tham gia trước
trong mạng lưới, hoàn toàn không hướng đến mục tiêu bán lẻ hàng hóa đến tay người
tiêu dùng theo đúng nghĩa của kinh doanh đa cấp, không tạo ra bất kỳ giá trị gia tăng
nào cho nền kinh tế. Chính vì vậy, mạng lưới kinh doanh đa cấp bất chính tất yếu sẽ
đổ vỡ khi không còn tìm được người tham gia mới (do không có tiền để “nuôi” hệ
thống và trả lãi cho người tham gia). Khi đó người phạm tội có thể tuyên bố phá sản,
đóng cửa công ty, đánh sập trang web hoặc bỏ trốn cùng với tiền của các thành viên.
Hậu quả là số đông những người tham gia ở các cấp thấp sẽ bị mất tiền.
Trong giai đoạn 2011 - 2020, hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực kinh doanh
theo phương thức đa cấp còn thiếu chặt chẽ; hoạt động quản lý Nhà nước và công tác
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống sai phạm, tiêu cực trong lĩnh vực này còn nhiều
hạn chế, bất cập. Bên cạnh đó, nhận thức của cộng đồng xã hội về phương thức kinh
doanh đa cấp còn khá mơ hồ. Những yếu tố trên đã tạo điều kiện cho sự biến tướng, nhất
là các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có môi trường thuận lợi để phát triển, gây ra
những hậu quả, thiệt hại vô cùng nặng nề trong đời sống xã hội.
Trong 10 năm, cả nước đã phát hiện và xử lý hình sự 21 vụ án lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp có quy mô đặc biệt lớn, với hàng nghìn
tỷ đồng của hàng triệu người dân đã bị chiếm đoạt và không có khả năng thu hồi.
Điển hình như vụ án lừa đảo xảy ra tại Công ty Liên Kết Việt với khoảng 66.880
người tham gia, bị chiếm đoạt số tiền 1.121.000.000.000 đồng; vụ án tại Công ty
TNHH nhượng quyền thương mại Thăng Long với khoảng 36.000 người tham gia, bị
chiếm đoạt hơn 706.000.000.000 đồng...
Không chỉ gây ra những thiệt hại kinh tế đặc biệt lớn, loại tội này còn là tác
nhân góp phần làm băng hoại đạo đức xã hội. Nhiều người tham gia mạng lưới đa cấp
bất chính mặc dù đã nhận ra bản chất gian dối, nhưng vì lợi ích vật chất nên vẫn tiếp
tục dụ dỗ, lôi kéo người thân, bạn bè của mình tham gia. Kết quả là cả một dây
chuyền lừa đảo được tổ chức công khai và ngày càng lan rộng theo cấp số nhân. Vấn
nạn này đã tác động trực tiếp đến tình hình an ninh trật tự, làm gia tăng các loại tội
phạm và vi phạm pháp luật khác, đồng thời làm suy giảm lòng tin của cộng đồng xã
2
hội đối với một phương thức kinh doanh chứa đựng nhiều đặc điểm ưu việt.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, tình hình
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp tiếp tục diễn biến hết
sức phức tạp. Lợi dụng những tiến bộ, thành tựu khoa học công nghệ, hành vi phạm
tội này đã và đang có nhiều “biến thể” mới rất tinh vi, phức tạp, khó lường, như huy
động vốn góp, nhận ủy thác đầu tư, bán cổ phần nội bộ theo phương thức đa cấp, đầu
tư tài chính online, kinh doanh dịch vụ, sản phẩm thông tin số, kinh doanh ngoại hối,
vàng ảo, tiền ảo, bất động sản, nhượng quyền kinh doanh…
Với sức mạnh kết nối, lan tỏa không biên giới do công nghệ, Internet đem lại,
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực này có thể xảy ra ở quy mô quốc gia,
xuyên quốc gia, với số lượng nạn nhân, thiệt hại vật chất…là không có giới hạn. Do
đó, nếu không có những giải pháp chủ động phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn, thì
hậu quả của loại tội này đối với đời sống xã hội sẽ vô cùng nặng nề.
Cho đến nay, những nghiên cứu khoa học đã công bố trong nước về lĩnh vực
kinh doanh đa cấp chủ yếu dưới góc độ Kinh tế học hoặc Khoa học quản lý, luật
Hành chính, luật Thương mại…theo hướng đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật,
tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này. Ngoài ra, cũng đã có một
số nghiên cứu ở cấp độ luận văn, đề tài khoa học về hiện tượng bán hàng đa cấp bất
chính. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ chuyên
ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp, trên các phương diện như: tình hình, nguyên nhân - điều
kiện và các giải pháp phòng ngừa tình hình tội này.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn,
NCS lựa chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa
cấp: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, để làm luận án tiến sĩ luật
học, chuyên ngành “Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm”, mã số: 93.80.105.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là thông qua việc tiếp cận trên cả hai bình diện
lý luận và thực tiễn tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, góp phần hoàn
thiện lý luận và đề xuất các giải pháp phòng ngừa tình hình tội này tại Việt Nam trong
3
những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, tổng quan về tình hình nghiên cứu ngoài nước, trong nước về các vấn
đề có liên quan đến đề tài luận án, nhằm kế thừa và xác định những vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu trong luận án;
Thứ hai, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC tại Việt Nam; phân tích các thông số về thực trạng, diễn biến, cơ cấu và tính
chất để đánh giá thực tiễn tình hình tội này trong 10 năm (giai đoạn 2011 - 2020);
Thứ ba, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam;
Thứ tư, dự báo tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC và đề xuất các
giải pháp nhằm phòng ngừa tình hình tội này trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý luận và thực tiễn của tình
hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, nguyên nhân và điều kiện của tình hình
và giải pháp phòng ngừa tình hình tội này tại Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: phạm vi nghiên cứu của luận giới hạn ở tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” quy định tại Điều 139 (BLHS 1999), nay là Điều 174 (BLHS năm 2015); giới hạn ở
các vấn đề lý luận và thực tiễn về tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tình hình
và các giải pháp phòng ngừa tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam.
- Về thời gian: luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu các hành vi phạm tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã bị xử lý hình sự trong 10 năm (giai đoạn 2011 - 2020).
- Về đối tượng: phạm vi đối tượng khảo sát của luận án bao gồm người phạm tội,
người bị hại, một số cộng đồng người, nhóm xã hội có liên quan đến hoạt động kinh
doanh đa cấp, các chủ thể ban hành giải pháp (Chính phủ, Bộ Công thương…) và chủ
thể thực hiện giải pháp phòng ngừa THTP (chính quyền các cấp, các bộ, ngành chức
năng, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ quan điều tra, VKSND, TAND);
- Về địa bàn nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu thực tiễn của luận án là địa bàn
4
toàn quốc, tập trung khảo sát tại các đô thị lớn là địa bàn trọng điểm của loại tội này.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận án
4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ
nghĩa duy vật lịch sử - Triết học Mác Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phòng ngừa THTP nói chung, phòng ngừa tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng. Trong luận án, cách tiếp cận đa ngành,
liên ngành khoa học xã hội; đa ngành, liên ngành luật học được NCS sử dụng trong
việc nghiên cứu các nội dung của đề tài.
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Căn cứ nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu trong từng chương của đề tài, NCS
lựa chọn phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp hệ thống, nghiên cứu tài liệu: thu thập, hệ thống, nghiên cứu các
văn bản pháp lý, các công trình khoa học, tài liệu đã công bố, các báo cáo sơ kết, tổng
kết, các bản án, số liệu thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các ngành chức
năng có liên quan đến đề tài luận án làm nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu. Phương
pháp này sử dụng nhiều nhất tại các Chương 1, 2, 3 của luận án;
Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích: xây dựng hệ thống các biểu mẫu
dựa trên việc thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu thu thập từ các cơ quan chức năng,
phục vụ việc phân tích, đánh giá tình hình, nguyên nhân, điều kiện và thực trạng hoạt
động phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC để đưa ra các
đánh giá, luận cứ khoa học cho các giải pháp. Phương pháp này được sử dụng tại các
Chương 2, 3, 4 của luận án;
Phương pháp so sánh: sử dụng để so sánh tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC với THTP lừa đảo CĐTS nói chung và các tội xâm phạm sở hữu; so sánh
THTP tại các địa bàn khác nhau. Phương pháp này sử dụng chủ yếu tại Chương 2;
Phương pháp nghiên cứu điển hình: sử dụng để nghiên cứu các vụ án lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC điển hình, nhằm làm rõ tính chất, mức độ của hành vi
phạm tội, động cơ phạm tội, phương thức thủ đoạn phạm tội, nhân thân người phạm
tội, nạn nhân trong cơ chế hình thành tội phạm. Phương pháp này sử dụng chủ yếu tại
5
các Chương 2, 3 của luận án;
Phương pháp khảo sát thực tế: sử dụng để nghiên cứu các phương thức, thủ
đoạn, phạm tội mới trong lĩnh vực KDĐC, khảo sát thực trạng tổ chức lực lượng và
các biện pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Phương
pháp này được sử dụng chủ yếu tại các Chương 2, 4;
Phương pháp điều tra xã hội học: sử dụng để thu thập ý kiến từ các nhóm đối
tượng người dân tại khu vực nông thôn, đô thị, sinh viên, người sử dụng mạng xã hội,
người tham gia bán hàng đa cấp; người có chức danh tư pháp như điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán trong các cơ quan tiến hành tố tụng; người phạm tội trong những
vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC…để làm rõ mức độ ẩn, nhân thân người
phạm tội và nạn nhân tội phạm, và nguyên nhân, điều kiện của THTP; hiệu quả
phòng ngừa đã đạt được cùng những hạn chế, thiếu sót trong phòng ngừa THTP này.
Phương pháp này được sử dụng tại các Chương 2, 3. Số liệu điều tra xã hội học được
NCS xử lý trên máy vi tính bằng chương trình (phần mềm) SPSS/PC (bộ chương
trình thống kê cho Khoa học xã hội);
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: sử dụng để tổng kết và rút ra những vấn đề
có tính quy luật của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC và công tác
phòng ngừa THTP, trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các báo cáo sơ kết, tổng kết,
các báo cáo chuyên đề về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực KDĐC của các cơ quan chức năng. Phương pháp này chủ yếu áp
dụng tại Chương 4.
Phương pháp phỏng vấn ý kiến chuyên gia: phỏng vấn, trao đổi với các nhà
khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong thực
tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, để xác
định những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân của những hạn chế trong phòng ngừa
THTP. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu tại các Chương 3, 4.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ thống ở cấp độ
tiến sĩ chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC, với đóng góp mới về mặt khoa học, như:
(i) Làm rõ tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam, giai
6
đoạn 2011 - 2020;
(ii) Làm rõ những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020;
(iii) Dự báo tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, đề xuất giải pháp
phòng ngừa tình hình tội này trong những năm tiếp theo.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt khoa học
Luận án góp phần bổ sung lý luận về THTP, nguyên nhân và điều kiện của
THTP, phòng ngừa THTP nói chung và tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC nói riêng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án có có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Tội phạm học và lĩnh vực Khoa học luật hình sự.
Đồng thời là tài liệu tham khảo cho cơ quan chức năng QLNN về hoạt động KDĐC,
cơ quan thực thi pháp luật trong việc hoạch định chính sách, xây dựng các biện pháp
phòng ngừa THTP nói chung và tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận án được kết cấu gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh
đa cấp tại Việt Nam.
Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp tại Việt Nam.
Chương 4: Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
7
trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp tại Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hiện nay các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án,
có thể phân chia thành nhóm các công trình nghiên cứu lý luận dưới góc độ Tội phạm
học và phòng ngừa THTP; nhóm công trình nghiên cứu về KDĐC và tội lừa đảo
CĐTS.
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận Tội phạm học và phòng ngừa tình
hình tội phạm
1.1.1.1. Nghiên cứu lý luận về tình hình tội phạm
Sách chuyên khảo: “Crime situation in France from 1840 to 1886 - Dynamics
and causes” (dịch: THTP ở Pháp từ năm 1840 đến năm 1886 - động thái và các
nguyên nhân) của tác giả người Pháp Paul Lafargue. Đây là công trình nghiên cứu
khá công phu về THTP tại Pháp với khoảng thời gian khảo sát rất dài (47 năm). Bằng
phương pháp của khoa học thống kê tư pháp và nghiên cứu tổng quan rất kỹ lưỡng,
tác giả đã tiếp cận khảo sát và tiến hành đánh giá THTP gắn với đặc điểm tình hình xã
hội. Tài liệu này đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là đặt nền móng cho sự hình
thành, phát triển của khoa học Tội phạm học Mác xít [136].
1.1.1.2. Nghiên cứu lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
Sách chuyên khảo: “Why did they commit crimes? The state of juvenile
deliquency in capitalist countries” - (dịch: Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh,
thiếu niên phạm tội ở các nước tư bản chủ nghĩa) [133]. Đây là nghiên cứu chuyên
sâu về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, tiếp cận từ yếu tố thu nhập, xem xét
mối liên hệ giữa nhu cầu cá nhân với yếu tố thu nhập, hoàn cảnh sống, phân tầng xã
hội, hố cách biệt giàu nghèo, những tác động tiêu cực của văn hóa suy đồi, bạo lực,
sử dụng vũ khí…đối với việc hình thành các đặc điểm tâm lý người phạm tội…là
những nội dung cơ bản trong nghiên cứu của tác giả Melinikova E.B;
Luận án tiến sĩ: “Examining Violent and Property Crimes in the Provinces of
Turkey for the Years of 2000 and 2007” - (dịch: Phân tích tội phạm có sự dụng bạo
lực và xâm phạm tài sản ở một số tỉnh của Thổ Nhĩ Kỳ từ 2000 đến 2007) của Mus
8
Ekrem [128]. Tác giả cho rằng hoàn cảnh sống (gia đình, cộng đồng) và tình trạng
kinh tế là hai yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến nguyên nhân của tội phạm xâm
phạm sở hữu và bạo lực. Theo đó, tình trạng gia đình có ảnh hưởng mạnh nhất đến tội
phạm liên quan đến bạo lực, còn hoàn cảnh kinh tế là chỉ báo quan trọng, nhất của tội
phạm liên quan đến sở hữu;
Công trình chuyên khảo: “An introduction to Crime and Criminology” (dịch:
Giới thiệu về tội phạm và tội phạm học) của các tác giả Hennessy Hayes và Tim
Prenzler [129]. Nghiên cứu này chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm từ khía
cạnh nạn nhân, từ môi trường sống, từ chính sách pháp luật của quốc gia, từ môi
trường giáo dục tiêu biểu. Đó là kết quả nghiên cứu đúc kết từ thực tiễn và tổng hợp
những quan điểm khác nhau tại Australia trong lĩnh vực nghiên cứu về THTP, nhân
thân người phạm tội…;
1.1.1.3. Nghiên cứu lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm
Sách chuyên khảo: “Justification of crime prevention” (dịch: Cơ sở lý luận của
việc phòng ngừa tình hình tội phạm), do Minkovskij G.M (chủ biên) [134] là nghiên
cứu chuyên sâu về cơ sở lý luận của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Theo tác giả,
hoạt động phòng ngừa tội phạm bao gồm các biện pháp để loại trừ các hiện tượng
tiêu cực, các điều kiện sống không lành mạnh và không ổn định…ra khỏi đời sống xã
hội nhằm triệt tiêu những mầm mống làm nảy sinh tội phạm, giáo dục và cải tạo
những người có thể phạm tội hoặc đã phạm tội, Bên cạnh đó phát triển các tiền đề
cho việc nâng cao trình độ văn hoá của các thành viên trong xã hội, làm cho họ có thể
phát huy được tính tích cực của mình. Hoạt động phòng ngừa tội phạm liên quan mật
thiết với việc không ngừng hoàn thiện nguyên tắc pháp chế và bảo đảm sự điều chỉnh
toàn diện của pháp luật, đồng thời phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
và các cơ quan nhà nước. Những vấn đề cốt lõi của hoạt động phòng ngừa tội phạm
đã được tác giả luận giải một cách sâu sắc trong công trình này, như vấn đề bảo vệ
pháp chế XHCN và bảo vệ quyền công dân; phòng ngừa tội phạm phải mang tính
đồng bộ, toàn diện, tổng hợp các biện pháp chung của toàn xã hội và các biện pháp
đặc biệt kết hợp và phối hợp chặt chẽ với nhau, trong đó có xác định rõ phương
hướng chủ đạo; kết hợp nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh chống tội phạm với các nhiệm
vụ trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục; quần chúng tham gia rộng rãi và
9
tích cực vào việc phòng ngừa tội phạm…;
Sách chuyên khảo: “Crime and Criminology in Japan” (dịch: Tội phạm và tội
phạm học ở Nhật Bản) của GS.TS Can Ueda. Tác giả cho rằng bản chất của hoạt
động phòng ngừa tội phạm là làm suy yếu những yếu tố thúc đẩy hay thuận lợi cho
việc thực hiện tội phạm và tăng cường các yếu tố đối kháng với tội phạm [123, tr.150].
Tác giả phân tích các hiện tượng xã hội hiện nay như quá trình đô thị hóa, phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội, sự di cư, tập trung dân cư do…đã những yếu tố gây ra sự
xáo trộn trong xã hội, mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội, hạn chế sự đoàn kết
dân cư trong khu vực về phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Về chủ thể của hoạt động
phòng ngừa tội phạm, tác giả cho rằng còn có cả các nhà khoa học, bên cạnh các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân;
Sách chuyên khảo: “Preventing Crime: What Works, What Doesn’t, What’s
Promising” (dịch: Phòng ngừa tội phạm: Các chương trình hiệu quả, chương trình
không hiệu quả và chương trình tiềm năng) của Lawrence A.Sherman [132]. Tác giả
cho rằng một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác phòng ngừa tội phạm,
đó là đánh giá hiệu quả đạt được trong từng mặt hoạt động phòng ngừa cụ thể, chứ
không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của THTP,
xây dựng và tổ chức tiến hành các biện pháp phòng ngừa. Việc đánh giá cần chỉ ra
biện pháp nào khả thi cần tiếp tục nhân rộng, biện pháp nào không hiệu quả, cần rút
kinh nghiệm và biện pháp nào có tiềm năng phát huy tính hiệu quả trong tương lai
cần duy trì, thí điểm;
Sách chuyên khảo: “The Oxford Handbook of Crime Prevention” (dịch: Sổ tay
phòng ngừa tội phạm của đại học Oxford) của Brandon C. Welsh và David P.
Farrington, các tác giả đã chỉ ra rằng việc phòng ngừa sớm THTP cần được ưu tiên
hàng đầu trong chiến lược phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Nội dung
của phòng ngừa tội phạm của suy cho cùng là việc áp dụng các biện pháp tối ưu để
từng bước loại trừ hoàn toàn những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của
THTP [122].
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lĩnh vực kinh doanh đa cấp và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Nghiên cứu về lĩnh vực kinh doanh đa cấp có các cuốn sách tiêu biểu như “Làn
10
sóng thứ ba - kỷ nguyên mới trong ngành kinh doanh theo mạng” của Richard Poe
(2003); “Kinh doanh theo mạng từ A đến Z” của Don và Nancy Failla (2003);
Armway Forever - The Amazing Story of a Global Business Phenomenon (dịch: Mãi
mãi Armway - Câu chuyện về một hiện tượng kinh doanh toàn cầu)… của Kathyryn
A.Jones (2013)…Các tác giả đã tiếp cận, làm rõ các vấn đề liên quan đến hoạt động
KDTPTĐC dưới nhiều khía cạnh như lịch sử hình thành và phát triển của PTKDĐC
trên thế giới; bản chất, khái niệm và các vấn đề có liên quan đến kinh doanh theo
mạng…Chẳng hạn, sách “Làn sóng thứ ba – kỷ nguyên mới trong ngành kinh theo
mạng” của Richard Poe đã phân chia quá trình phát triển của phương thức bán hàng
đa cấp thành ba giai đoạn chính. Tác giả cũng đã phân tích các đặc điểm đặc trưng
của phương thức kinh doanh này, xu thế phát triển của phương thức bán hàng đa cấp
trong tương lai [137]. Sách "Kinh doanh theo mạng từ A đến Z" của các tác giả Don
và Nancy Failla mang đặc điểm của cuốn cẩm nang hướng dẫn kỹ năng cho người
tham gia bán hàng đa cấp, trả lời cho những câu hỏi mà những khách hàng tiềm năng
thường đặt ra; những vấn đề thường được những phân phối viên mới tham gia công
việc quan tâm nhất; những phân phối viên nghiêm túc muốn phát triển mạng lưới của
mình. Thông qua đó, cuốn sách đã phản ánh những vấn đề cốt lõi của phương thức
kinh doanh này, làm rõ khái niệm và các vấn đề có liên quan đến kinh doanh theo
mạng [126]. Sách: “Multilevel Marketing - Good or Bad” của Dan Farrell đã phân
tích những ưu - nhược điểm của phương thức KDĐC, đặc biệt là mặt trái của phương
thức kinh doanh này cũng những hệ lụy của nó đối với xã hội. Tác giả cũng khuyến
nghị những cách thức để làm cho hình thức KDĐC trở nên có hiệu quả, góp phần
thúc đẩy hoạt động thương mại [127].
Các nghiên cứu về hành vi lừa đảo CĐTS mà NCS có điều kiện tiếp cận, tham
khảo chủ yếu phản ánh về loại tội này trên các lĩnh vực cụ thể. Chẳng hạn, luận văn
“Recognition and Reporting of Insurance Fraud in Comparison to Property Crimes”
(dịch: Nhận dạng và trình báo tội lừa đảo bảo hiểm so với các tội về tài sản) của
Aneta (2010) nghiên cứu về thủ đoạn phạm tội lừa đảo trong lĩnh vực bảo hiểm,
nhưng cũng đề cập khá sâu về các đặc điểm nhân thân người phạm tội lừa đảo,
nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm lừa đảo [121]. Cuốn sách “Cyber crime
and business: How not to caught by the online phisherman” (dịch: Tội phạm mạng và
11
kinh doanh: làm thế nào để không bị mắc bẫy những kẻ câu thông tin trên mạng) của
Nykodym.N., Kahle-Piasecki có nội dung phân tích tình hình tội lừa đảo CĐTS qua
mạng internet ở Mỹ [135]. Thông qua việc phân tích những phương thức, thủ đoạn
lừa đảo phổ biến đang diễn ra hiện nay trên không gian mạng, trong đó có đề cập đến
thủ đoạn lừa đảo trên mạng kiểu Ponzi (lừa đảo huy động tài chính đa cấp), tác giả đã
khuyến nghị những biện pháp bảo mật thông tin, phát hiện những nguy cơ trong quá
trình sử dụng mạng Internet. Sách “Computer Crime” - (dịch: Tội phạm máy tính)
của Catherine H.Conl và J.Thomas M Ewen [125] là tài liệu nghiên cứu chuyên sâu
về tội phạm sử dụng máy tính, nhưng đề cập rất sâu về các hình thức lừa đảo CĐTS
trên không gian mạng hiện nay. Các tác giả đã đưa ra khái niệm, mô tả về các phương
thức, thủ đoạn của tội lừa đảo trên các hệ thống máy tính, như lừa đảo trên dịch vụ
điện thoại; lừa đảo bằng các phương tiện chứa thông tin thanh toán giả; lừa đảo bằng
các biện pháp tác động vào hệ thống dữ liệu để làm sai lệch nội dung thông tin, nhằm
tạo sự nhầm tưởng của nạn nhân để CĐTS, huy động tài chính đa cấp qua mạng...
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Những nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận án gồm sách giáo trình,
sách chuyên khảo, bài báo và đề tài khoa học, luận án, luận văn,…có thể phân chia
thành các nhóm công trình nghiên cứu lý luận cơ bản của Tội phạm học và phòng
ngừa tình hình tội phạm; nhóm công trình nghiên cứu dưới góc độ luật Hình sự làm
rõ những đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo CĐTS; nhóm tài liệu nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về KDĐC và những thủ đoạn KDĐC bất chính; nhóm tài
liệu nghiên cứu về tình hình, nguyên nhân và giải pháp đấu tranh phòng, chống tình
hình tội lừa đảo CĐTS.
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận cơ bản của Tội phạm học và
phòng ngừa tình hình tội phạm
1.2.1.1. Nghiên cứu lý luận về tình hình tội phạm
THTP là khái niệm cơ bản đầu tiên, giữ vị trí cốt lõi, trung tâm, được sử dụng
phổ biến trong tất cả các tài liệu ngành Tội phạm học. Đa số tác giả quan niệm THTP
là tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm. Chẳng hạn, tác giả Võ Khánh Vinh
trong “Giáo trình Tội phạm học” (2013) đã luận giải các vấn đề lý luận về THTP
thông qua việc chuyển mức độ nhận thức từ sự kiện, hành vi và khái niệm tội phạm
12
đơn nhất đến một khái niệm chung hơn, khái quát hơn, phức tạp hơn và phân tích các
dấu hiệu và thuộc tính của THTP. Thông qua việc phân tích các dấu hiệu, các thuộc
tính của THTP, tác giả đã đưa ra khái niệm: “THTP là một hiện tượng xã hội, pháp lý
- hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể
thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định
và trong một khoảng thời gian nhất định” [114, tr.60]. Các tác giả Phạm Văn Tỉnh,
Lê Thế Tiệm và Phạm Tự Phả cũng đồng tình với quan điểm nhìn nhận THTP là hệ
thống các tội phạm (nói chung). Chẳng hạn, Lê Thế Tiệm và Phạm Tự Phả viết: “Với
tính cách là một hiện tượng xã hội - pháp lý, tình hình tội phạm hàm chứa trong nó tổ
hợp các tội phạm và đối tượng gây ra các tội phạm ấy ở một quốc gia hay một vùng
lãnh thổ - hành chính nào đó, trong một khoảng thời gian nhất định” [95, tr.5].
Khác với quan điểm trên, tác giả Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng THTP là trạng
thái, xu thế vận động của các tội phạm (hoặc nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm),
đã xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian xác định, chứ không phải là
tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm [48, tr 252]. Ông cho rằng cần phân biệt
rõ sự khác nhau giữa tội phạm và THTP, đó là sự khác nhau giữa bản thân hiện tượng
với trạng thái và xu thế vận động của hiện tượng đó, nên không thể đồng nhất 2 khái
niệm này với nhau. Tác giả Nguyễn Xuân Yêm cũng coi THTP là trạng thái, xu thế
vận động của hiện tượng tội phạm với định nghĩa: “Tình hình tội phạm là toàn bộ
tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm
trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi
quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định” [118, tr 24].
Trong bài: “Tọa đàm về một số thuật ngữ tội phạm học” đăng trên Tạp chí Luật
học số 7/2009, tác giả Trần Hữu Tráng đã tổng thuật các quan điểm khác nhau của
giới nghiên cứu về khái niệm THTP, phản ánh cách nhìn nhận dưới nhiều chiều cạnh,
gợi mở tư duy sâu hơn, toàn diện hơn về các vấn đề cơ bản, cốt lõi của Tội phạm học
[84, tr75-84]. Tuy còn những khác biệt trong cách hiểu về THTP, nhưng các tác giả
đều thống nhất xác định THTP được biểu hiện qua các thông số (đặc điểm) về lượng
và các thông số về chất của nó. Trong đó, yếu tố thực trạng (mức độ) và động thái
(diễn biến) của THTP là những thông số (đặc điểm) về lượng, còn cơ cấu và tính chất
13
của THTP là những thông số (đặc điểm) về chất của nó.
Trong lý luận Tội phạm học, vấn đề “tội phạm rõ” và “tội phạm ẩn” chiếm vị trí
quan trọng, được các tác giả tập trung luận giải. Chẳng hạn, trong bài: “Bàn về tội
phạm rõ, tội phạm ẩn trong Tội phạm học” (2010), tác giả Dương Tuyết Miên cho
rằng việc xác định tội phạm rõ phải dựa trên thông số về số vụ án xảy ra trên thực tế
(chứ không phải là số vụ án bị đưa ra xét xử trên thực tế) và chỉ khi làm như vậy mới
phản ánh chính xác về thực trạng của THTP [65].
1.2.1.2. Nghiên cứu lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
Nguyên nhân và điều kiện của THTP là một trong những nội dung nghiên cứu
cốt lõi của Tội phạm học. Tác giả Trần Hữu Tráng cho rằng nguyên nhân của tội
phạm là sự tác động qua lại giữa các yếu tố khách quan của môi trường sống với các
yếu tố chủ quan thuộc về cá nhân con người [86, tr 43]. Theo tác giả Võ Khánh Vinh,
nguyên nhân và điều kiện của THTP được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu
cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của THTP như là
hậu quả của mình [114, tr.79].
Việc nghiên cứu nguyên nhân của tình hình tội phạm, có vị trí quan trọng trong
lý luận Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Tác giả Trần Hữu Tráng viết:
“…muốn làm giảm tội phạm, vấn đề quan trọng là phải phân tích làm rõ nguyên
nhân làm phát sinh tội phạm. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể xây dựng được hệ thống
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu góp phần làm hạn chế hoặc triệt tiêu các nguyên
nhân này” [86, tr 43]. Tác giả Nguyễn Xuân Yêm cũng nhấn mạnh mọi sự giải thích
không đúng, không khoa học bất kỳ nào về nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm,
sẽ dẫn đến sự sai lệch trong thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm [118, tr154].
Về cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm, đa số tác giả khẳng định khi tìm hiểu về nó phải nghiên cứu cả nguyên
nhân bắt nguồn từ phía xã hội và nguyên nhân xuất phát từ cá nhân người phạm tội,
cũng như sự tác động của nguyên nhân xã hội tới cá nhân, dẫn đến sự hình thành
nhân cách lệch lạc của cá nhân người phạm tội, từ đó phát sinh tội phạm, vì tội phạm
là hiện tượng có tính chất cá nhân và xã hội. Ngoài ra, cần tìm hiểu về tình huống cụ
thể, bởi vì nhiều khi tình huống đóng vai trò như là nguyên nhân phát sinh tội phạm.
Trong nghiên cứu cơ chế hành vi phạm tội, việc xác định những yếu tố thúc đẩy
14
một người trở thành nạn nhân của tội phạm có ý nghĩa rất lớn, nhưng đây là vấn đề còn
mới mẻ đối với Tội phạm học Việt Nam. Theo tác giả Dương Tuyết Miên, nghiên cứu về
nạn nhân học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tìm ra cơ chế phù hợp để bảo vệ
nạn nhân của tội phạm được tốt hơn cũng như có những cảnh báo cần thiết để hạn chế
nguy cơ cá nhân có thể trở thành nạn nhân của tội phạm, từ đó góp phần vào việc phòng
ngừa và kiểm soát tội phạm, duy trì trật tự, ổn định xã hội [64, tr 142].
1.2.1.3. Lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm
Mục đích cuối cùng của Tội phạm học là tìm ra các giải pháp phòng ngừa tội
phạm. Chính vì vậy trong các nghiên cứu lý thuyết Tội phạm học, vấn đề phòng ngừa
tội phạm luôn giữ vị trí trọng tâm. Tác giả Võ Khánh Vinh khẳng định phòng ngừa
THTP là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất nhà nước, xã hội và
nhà nước xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc
làm vô hiệu hóa (làm yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại
bỏ THTP. Theo tác giả, phòng ngừa THTP cần được thực hiện bằng cách phòng ngừa
chung toàn xã hội và phòng ngừa chuyên môn (chuyên ngành) [114, tr.143]. Trong
sách “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”, tác giả Nguyễn Xuân Yêm
đã luận giải sâu sắc các vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm, từ cơ sở kinh tế - xã
hội và tư tưởng của phòng ngừa tội phạm; các chủ thể phòng ngừa tội phạm; các biện
pháp phòng ngừa tội phạm; các nguyên tắc trong đấu tranh phòng chống tội phạm
đến các hệ thống phòng ngừa tội phạm; phòng ngừa các tội phạm cụ thể (Tội phạm
học chuyên ngành). Ông cho rằng phòng ngừa tội phạm “là hoạt động cải tạo các
quan hệ xã hội nhằm mục đích loại trừ những nguyên nhân tội phạm, loại trừ các
điều kiện tạo thuận lợi phát sinh ra các hành vi phạm tội, hạn chế hoặc cô lập các
nhân tố tội phạm hoặc có sự ảnh hưởng đến sự hình thành các đặc điểm chống xã hội
của con người phạm tội” [118, tr.196].
Nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tội phạm tại Việt Nam, tác giả Đào Trí
Úc xác định các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp; các cơ quan quản lý nhà nước;
các cơ quan tư pháp; các tổ chức và cá nhân…là chủ thể triển khai các hoạt động
phòng ngừa tội phạm ở cấp độ xã hội chung và ở cấp độ chuyên ngành. Nội dung
của các biện pháp phòng ngừa tội phạm được xác định trên cơ sở tính chất của sự
phòng ngừa, bao gồm các biện pháp kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa tư tưởng, tổ
15
chức quản lý, pháp luật và biện pháp phòng ngừa theo chức năng [104]. Nghiên cứu
của các tác giả Lê Thế Tiệm và Phạm Tự Phả cũng đã chỉ dẫn việc xây dựng một hệ
thống các biện pháp phòng ngừa đa dạng, khoa học và mang tính khả thi cao, theo
các tiêu chí về lĩnh vực phòng ngừa; tính chất của THTP; phạm vi lãnh thổ; tính
chất tác động của các biện pháp phòng ngừa…[95].
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc
độ luật Hình sự, Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Tội lừa đảo CĐTS đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới góc độ luật Hình sự,
Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trong các luận án, luận văn, sách chuyên khảo,
giáo trình luật hình sự, bình luận khoa học BLHS, tạp chí chuyên ngành...Trong đó có
một số nghiên cứu chuyên sâu liên quan đến đề tài luận án mà NCS đã tham khảo,
tiêu biểu như:
Luận án: “Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do người
nước ngoài thực hiện ở Việt Nam” (2016) của tác giả Lê Quang Thành [96]. Đây là
công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về phòng ngừa THTP và phòng ngừa tội
lừa đảo CĐTS do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam, giai đoạn 2005 - 2014.
Tác giả đã khảo sát tình hình tội lừa đảo CĐTS do người nước ngoài thực hiện và chỉ
ra nguyên nhân, điều kiện của THTP, phân tích các kết quả đạt được trong thực tiễn
hoạt động phòng ngừa tình hình tội này; những khó khăn, hạn chế trong thực tiễn
phòng ngừa tình hình tội này. Trên cơ sở dự báo THTP, tác giả đã đưa ra những giải
pháp tăng cường phòng ngừa tình hình lừa đảo CĐTS do người nước ngoài thực hiện
ở Việt Nam.
Luận án: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn miền Đông Nam bộ: tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” (2018) của tác giả Bùi Thị Lan Hương
[53] nghiên cứu về THTP lừa đảo CĐTS, nguyên nhân và điều kiện của tình hình của
tội này trên địa bàn miền Đông Nam bộ, giai đoạn 2007 - 2017. Tác giả đã khái quát
THTP lừa đảo CĐTS, cung cấp những thông số mới nhất về THTP trên địa bàn miền
Đông Nam bộ. Đồng thời bằng việc lý giải sự tác động qua lại giữa các hiện tượng xã
hội tiêu cực thuộc môi trường sống và các cá nhân có đặc điểm nhân cách tiêu cực do
chịu sự tác động của những hiện tượng xã hội tiêu cực. Luận án đã làm rõ “tính địa lý
học” của THTP lừa đảo CĐTS, nguyên nhân và điều kiện của THTP trên địa bàn
16
miền Đông Nam bộ.
Luận án: “Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Việt Nam”
(2008) của tác giả Lê Đăng Doanh [42] là công trình nghiên cứu về THTP lừa đảo
CĐTS trong phạm vi 1996 - 2006. Trên cơ sở các số liệu thực tế được thống kê và
thu thập trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã phân tích những đặc điểm, tính chất và
quy luật diễn biến của tội lừa đảo CĐTS; phân tích làm rõ các nguyên nhân và điều
kiện phạm tội cũng như cơ chế hình thành hành vi phạm tội lừa đảo CĐTS; phân tích
các cơ sở, các yếu tố ảnh hưởng đến THTP và đưa ra các dự báo về hệ số tội phạm,
xu hướng diễn biến về THTP lừa đảo CĐTS trong tương lai; đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội này trong những năm tiếp theo.
Luận văn: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” (2017) của tác giả Tạ Thùy Châu
[29] là công trình nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của THTP lừa đảo CĐTS
trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, giai đoạn 2012 - 2017. Tác giả đã luận giải, phân tích
các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo CĐTS trong BHLS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009); nghiên cứu THTP lừa đảo CĐTS trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, nguyên
nhân và điều kiện khách quan - chủ quan, mối quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và
điều kiện của tội này với nhân thân người phạm tội và nạn nhân của tội phạm. NCS
tham khảo tài liệu này trong Chương 3 của luận án.
Luận văn: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề lý luận và thực tiễn”
(2007) của tác giả Trần Thị Phương Hiền [51] là nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý
hình sự của tội lừa đảo CĐTS theo Điều 139 BLHS năm 1999. Tác giả đã đi sâu
nghiên cứu quá trình lập pháp hình sự về tội lừa đảo CĐTS; phân tích luận giải các
hình thức trách nhiệm pháp lý; đánh giá THTP; nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
kết quả hoạt động điều tra, xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng; phân
tích những phương thức, thủ đoạn phạm tội lừa đảo CĐTS phổ biến, những sơ hở,
thiếu sót trong hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội là nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, từ đó đề xuất những biện pháp đấu tranh, phòng chống loại tội
này, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự.
1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về phương thức kinh doanh đa cấp
Hiện nay, các nghiên cứu về kinh doanh đa cấp ở trong nước có một số luận án,
luận văn, bài báo khoa học, đề tài khoa học, sách chuyên khảo...Trong số đó, NCS đã
17
tham khảo một số công trình nghiên cứu tiêu biểu, liên quan đến đề tài luận án như:
Luận án: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam
hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội (2016) của tác giả Lê Bí Bo [27]. Đây là công
trình nghiên cứu chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính. Tác giả đã làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận về QLNN đối với hoạt động BHĐC như bản chất, nội
hàm của phương thức BHĐC; làm rõ nhu cầu, vai trò và tính đặc thù trong nội dung
QLNN đối với hoạt động BHĐC; phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật
và thực tiễn thực hiện công tác QLNN đối với hoạt động BHĐC ở Việt Nam từ năm
2004 đến 2016 và chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập. Trên cơ sở đó tác giả đề
xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với hoạt động BHĐC ở
Việt Nam trong tình hình mới. Tại thời điểm khảo sát của luận án, tác giả đã phản ánh
tương đối đầy đủ những hiện tượng tiêu cực, biến tướng, vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực BHĐC. Theo đó, nguyên nhân quan trọng dẫn đến sai phạm đó là do sự mơ hồ,
hạn chế trong nhận thức, thiếu hiểu biết về mô hình BHĐC và tâm lý hám lời của một
bộ phận người dân; hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân về
hình thức BHĐC còn hạn chế; cơ quan QLNN cấp cơ sở chưa quản lý, giám sát tốt
hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC, dẫn đến số vụ việc tiêu cực liên quan đến
BHĐC còn nhiều; việc kiểm tra chất lượng hàng hóa còn nhiều bất cập; sự phối hợp
theo ngành dọc giữa Cục CT&BVNTD và Sở Công thương các địa phương trong
quản lý BHĐC và giữa các cơ quan QLNN với các hiệp hội BHĐC, hội bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng còn lỏng lẻo, không thường xuyên, chưa xây dựng được cơ chế
phối hợp quản lý và thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý BHĐC; sự yếu kém, hạn
chế trong hoạt động phòng ngừa vi phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trên cơ
sở phân tích thực trạng, tác giả đã kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả QLNN trong lĩnh vực này;
Đề tài: “Hệ thống pháp luật quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại một số quốc
gia - Kinh nghiệm cho Việt Nam” (2005) của Cục CT&BVNTD, Bộ Công thương
[21]. Đây là một nghiên cứu công phu về pháp luật các quốc gia trong quản lý lĩnh
vực BHĐC. Trước tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực KDĐC diễn biến phức
tạp tại Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân của sai
phạm, như hệ thống pháp luật về quản lý còn nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ, có nhiều
18
“lỗ hổng” bị doanh nghiệp khai thác, lợi dụng để thực hiện hành vi BHĐC bất chính;
việc xử lý những sai phạm còn thiếu nghiêm khắc, các chế tài chưa đủ sức răn đe,
ngăn chặn vi phạm;
Luận văn: “Pháp luật về kinh doanh đa cấp” (2006), Đại học Luật TP Hồ Chí
Minh của tác giả Hà Ngọc Sơn [81] đã đưa ra cách phân biệt giữa BHĐC bất chính
với BHĐC hợp pháp, dựa vào các dấu hiệu như: cách thức tuyển người vào mạng
mạng lưới; những người vào trước luôn luôn có thu nhập cao hơn người vào sau tạo
ra một “mô hình kim tự tháp”; người tham gia phải có đóng góp bắt buộc khi vào
công ty; khác biệt về sản phẩm; nếu như BHĐC hợp pháp giá trị đi xuống là sản
phẩm hoặc dịch vụ có chất lượng cao, mang lại giá trị đích thực hoặc tương xứng với
đồng tiền bỏ ra, thì trong “hình tháp ảo” giá trị đi xuống là một giá trị “ảo”, chỉ có giá
trị tạm thời;
Nghiên cứu: “Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam, thực trạng và
giải pháp”, Tạp chí Thương mại, số 17/2015 của tác giả Bùi Trung Thướng [99] đã
đề xuất 5 kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả QLNN, phòng ngừa sai phạm trong
lĩnh vực này, như: tiếp tục chính sách quản lý hoạt động KDTPTĐC; cần có sự xem
xét và phát triển tách bạch hai bộ phận khác nhau của chính sách này (chính sách
quản lý đặc thù và chính sách quản lý chung); đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên
truyền phổ biến về kiến thức và pháp luật cho tất cả các đối tượng thành phần trong
xã hội nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp của người tham gia KDĐC; tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; tăng cường
phối hợp với cơ quan quản lý từ trung ương tới địa phương;
Bài báo: “Bán hàng đa cấp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam” (2006), Tạp
chí luật học số 05/2006 của Trần Thị Bảo Ánh [1]. Tác giả cho rằng BHĐC theo “mô
hình kim tự tháp” có hình thức tương tự như kinh doanh theo mạng thông thường,
nên rất dễ gây nhầm lẫn. Về bản chất của KDĐC biến tướng là sự huy động vốn, dồn
hàng cho người tham gia, chủ yếu tập trung vào việc lôi kéo, dụ dỗ người tham gia
bằng các thủ đoạn lừa dối…
Các bài báo “Đặc điểm hình sự của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
kinh doanh theo phương thức đa cấp, Tạp chí Cảnh sát số: 93 (240) tháng 7/2018;
“Một số phương thức, thủ đoạn phạm tội trong kinh doanh đa cấp thông qua mô hình
19
“Kim tự tháp”, Tạp chí Công an nhân dân số: 09/2018; “Đặc điểm pháp lý của tội lừa
đảo trong kinh doanh đa cấp”, Tạp chí Kiểm sát số: 01/2019; “Phòng ngừa lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong kinh doanh đa cấp: Cần bắt đầu từ chính người dân”, Tạp chí
Kiểm sát online, đăng ngày 21/07/2020; “Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về
tiền ảo: Giải pháp phòng ngừa tội phạm lừa đảo theo phương thức đa cấp trong thời
kỳ cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí Kiểm sát online, đăng ngày 14/08/2020 của
NCS, là những nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội lừa đảo trong lĩnh vực KDĐC
trong quá trình thực hiện đề tài luận án này [54], [55], [56], [57], [58].
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Đánh giá khái quát giá trị khoa học và thực tiễn của các công trình khoa học liên
quan trực tiếp đến đề tài luận án, NCS có một số nhận xét như sau:
1.3.1. Về lí luận
1.3.1.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu lý thuyết Tội phạm học đã trang bị nền
tảng lý luận cơ bản để triển khai thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trong từng
chương của luận án. Trên cơ sở khung lý thuyết đó, tác giả sẽ vận dụng vào việc
nghiên cứu tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC; nguyên nhân và điều
kiện của THTP, giải pháp phòng ngừa tình hình tội này;
Thứ hai, các nghiên cứu dưới góc độ Khoa học luật hình sự đã cung cấp những
tri thức lý luận cần thiết về tội lừa đảo CĐTS, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu tình
hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Bên cạnh đó, những nghiên cứu về
phòng ngừa tội lừa đảo CĐTS đã gợi mở cho tác giả nhiều ý tưởng trong việc thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu;
Thứ ba, các nghiên cứu về KDĐC và hiện tượng BHĐC bất chính dưới góc độ
Luật học, Kinh tế học đã cung cấp tri thức nền tảng, tác giả có thể kế thừa trong việc
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án.
1.3.1.2. Những vấn đề còn chưa thống nhất
Thứ nhất, trong lý thuyết Tội phạm học hiện vẫn còn nhiều quan điểm khoa học
chưa thống nhất, khiến cho việc xây dựng khái niệm để nghiên cứu đề tài luận án gặp
khó khăn. Ngoài ra, đến nay vẫn chưa có những chỉ dẫn về phương pháp tiếp cận đa
ngành, liên ngành, xuyên ngành trong Tội phạm học, là trở ngại cho việc triển khai
20
các hướng tiếp cận vấn đề cần nghiên cứu của luận án;
Thứ hai, chưa có hệ thống khái niệm mang tính công cụ để nghiên cứu về tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Có thể nói, lý luận về tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC là vấn đề hoàn toàn mới mẻ trong nghiên cứu khoa học ở nước ta
hiện nay. Đó là “khoảng trống” khoa học mà tác giả sẽ khai thác, nhưng cũng là thách
thức vì không được kế thừa thành quả từ các nghiên cứu trước.
1.3.2. Về thực tiễn
1.3.2.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về tội lừa đảo CĐTS dưới góc độ Luật hình
sự, Tội phạm học đã khảo sát ở các mức độ khác nhau về THTP, tình hình áp dụng
pháp luật, tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự và kết quả xét xử tội lừa đảo
CĐTS của Tòa án...cho thấy “bức tranh tổng thể” tình hình tội này ở nước ta qua các
thời kỳ, có giá trị tham khảo cho tác giả trong việc nghiên cứu về thực trạng, cơ cấu
của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC trong tổng thể tình hình tội lừa
đảo CĐTS nói chung;
Thứ hai, các nghiên cứu về tình hình KDĐC trong thời gian qua giúp tác giả có
cái nhìn khái quát nhất về hoạt động của phương thức kinh doanh này kể từ khi du
nhập vào Việt Nam cho đến nay. Ngoài ra, hành vi KDĐC bất chính đã được khảo sát,
bước đầu đã mô tả được những đặc điểm, những mánh khóe, phương thức thủ đoạn
lừa đảo đã xảy ra ở Việt Nam. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về thực trạng quản lý nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh đa cấp đã chỉ ra được một số tồn tại, hạn chế, bất
cập, lỗ hổng trong chính sách pháp luật, cơ chế quản lý, chất lượng hoạt động quản lý
nhà nước của cơ quan chức năng. Các thông tin, số liệu mà nghiên cứu đã công bố,
tác giả có thể kế thừa.
1.3.2.2. Những vấn đề chưa được làm rõ
Thứ nhất, đa số nghiên cứu về phương thức KDĐC ở cấp độ luận văn, đề tài
khoa học cấp Bộ…được triển khai theo phương pháp tiếp cận chuyên ngành, cụ thể là
dưới góc độ luật học hoặc kinh tế học, với hướng nghiên cứu chủ đạo là nhằm hoàn
thiện các chính sách pháp luật về quản lý lĩnh vực này, chứ chưa tiếp cận nghiên cứu
lĩnh vực này theo phương pháp đa ngành, liên ngành, xuyên ngành. Nghĩa là lĩnh vực
KDĐC mới chỉ được tiếp cận nghiên cứu bằng phương pháp của một ngành khoa học,
chứ chưa được nhìn nhận, xem xét, đánh giá dưới nhiều chiều cạnh, góc độ khác nhau
21
bởi phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau. Điều này khiến đối
tượng nghiên cứu chưa được xem xét ở quy mô toàn diện. Một số nghiên cứu chủ yếu
dựa trên thống kê của ngành chức năng và thông tin trên báo chí, chưa sử dụng các
công cụ nghiên cứu khác như phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu,
nghiên cứu điển hình (hồ sơ vụ án), phương pháp chuyên gia…để khai thác, thu thập
và phân tích thông tin, làm rõ tình hình….Đây là điểm hạn chế mà tác giả cần khắc
phục trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
1.3.3. Về giải pháp phòng, chống
1.3.3.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, các tác giả đều kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện chính sách pháp
luật về quản lý nhà nước, hoặc nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm,
phòng ngừa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nhất định.
Các quan điểm giải pháp đều được xây dựng trên cơ sở đường lối chính sách
của Đảng và pháp luật thực định, hệ thống giải pháp khá toàn diện và có trọng tâm,
trọng điểm, hướng đến mục tiêu giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn;
Thứ hai, một số công trình đã khảo sát, phân tích quy định của pháp luật nước
ngoài về quản lý KDĐC, rút ra những bài học bổ ích cho Việt Nam.
Phương pháp so sánh luật thực định tại các công trình đã công bố có ý nghĩa
tham khảo đối với tác giả khi thực hiện đề tài luận án;
1.3.3.2. Những vấn đề còn chưa được nghiên cứu sâu
Thứ nhất, trong một số công trình nghiên cứu về phòng ngừa tội lừa đảo CĐTS
hoặc hoàn thiện pháp luật về quản lý hoạt động KDĐC, vẫn có những giải pháp được
đưa ra khá chung chung, nặng về lý thuyết, thiếu tính khả thi, một số khảo sát thực
tiễn còn sơ sài, chưa đủ số liệu, hoặc kiến nghị những điều vượt quá điều kiện, khả
năng thực tế hoặc thiếu vắng những cơ chế để hiện thực hóa các kết quả nghiên
cứu...Mặt khác, thực tiễn cuộc sống hiện nay trong lĩnh vực KDĐC đã và đang nảy
sinh những vấn đề phức tạp mới nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập…
Thứ hai, chưa có công trình nào kiến nghị giải pháp phòng ngừa tình hình tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Những đề xuất về hoàn thiện pháp luật trong
quản lý lĩnh vực KDĐC để phòng chống sai phạm, chỉ là một khía cạnh trong hệ
thống giải pháp để giải quyết vấn đề này. Đây là “khoảng trống” khoa học mà tác giả
22
đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu.
1.3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích kết quả nghiên cứu đã công bố trên cả ba phương diện: lý
luận, thực tiễn và quan điểm giải pháp, tác giả xác định những vấn đề cần làm sâu sắc
thêm và những điểm mới cần giải quyết trong luận án như sau:
1.3.4.1. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm
Một là, làm rõ thêm lý luận về phương thức KDĐC;
Hai là, làm rõ tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC;
Ba là, làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC;
Bốn là, làm rõ các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC;
1.3.4.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Vì luận án là công trình lần đầu tiên nghiên cứu về tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC dưới góc độ Tội phạm học, do đó cần giải quyết
những vấn đề như:
Về lý luận: xây dựng lý luận về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, gồm
các vấn đề như khái niệm, các đặc điểm pháp lý của loại tội này; phân biệt giữa tội
này với tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp (Điều 217a
BLHS) và tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS); định nghĩa khái niệm tình hình
tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC;
Về thực tiễn: vận dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, đa ngành làm rõ các
vấn đề: tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam, giai đoạn
2011 - 2020; nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này, nhân thân người phạm
tội, nạn nhân của tội phạm...; thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC; đưa ra các dự báo khoa học về tình hình tội này tại Việt
Nam trong thời gian tới.
Về giải pháp: kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC, có giá trị tham khảo đối với việc hoạch định chính sách và
thực tiễn công tác bảo vệ pháp luật. Trong đó nhấn mạnh giải pháp phòng ngừa tội
23
phạm từ phía nạn nhân, như thông qua các biện pháp khác nhau để nâng cao nhận
thức cho người dân, giúp họ chủ động phòng tránh cạm bẫy của tội phạm; phát huy
vai trò của truyền thông, báo chí trong hoạt động phòng ngừa xã hội.
1.4. Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu
1.4.1. Cơ sở lý thuyết
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, NCS sử dụng lý thuyết Tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm; lý thuyết luật học so sánh; lý thuyết Xã hội học tội phạm; lý
thuyết Tâm lý học tội phạm; lý thuyết về Tự do cạnh tranh; lý thuyết về Hợp đồng...
1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu của luận án, NCS xác định các câu
hỏi nghiên cứu trên 3 khía cạnh: lý luận, thực tiễn và giải pháp như sau:
1.4.2.1. Về lý thuyết
- Nội hàm của khái niệm "tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC" là gì?
- Tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có những đặc điểm pháp lý gì?
- Phân biệt giữa tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC với tội vi phạm quy
định về kinh doanh theo phương thức đa cấp (Điều 217a BLHS) và tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản (Điều 290 BLHS) ở những điểm nào?
- Nội hàm của khái niệm tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là gì?
- Khái niệm các thông số của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC là gì?
- Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC là gì?
- Khái niệm giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC là gì?
1.4.2.2. Về thực tiễn
- Tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam, giai đoạn
2011 - 2020 diễn ra như thế nào?
- Tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam, giai đoạn
2011 – 2020 do các nguyên nhân và điều kiện nào?
- Hoạt động phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại
24
Việt Nam, giai đoạn 2011 – 2020 có những ưu điểm và hạn chế gì?
- Diễn biến của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam
trong những năm tiếp theo như thế nào?
1.4.2.3. Về giải pháp phòng ngừa
- Phòng ngừa tội phạm dựa trên các quan điểm, đường lối, chủ trương nào của
Đảng, dựa trên cơ sở pháp luật nào của Nhà nước?
- Có những giải pháp nào để phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC?
1.5. Giả thuyết nghiên cứu
- Chưa có lý luận riêng về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC cũng như
chưa có lý luận riêng về phòng ngừa tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Giả
thuyết này đòi hỏi NCS vận dụng cơ sở lý luận chung của khoa học luật Hình sự và
Tội phạm học để làm sáng tỏ những giả thuyết nêu trên;
- Chưa có nghiên cứu làm rõ thực tiễn tình hình, nguyên nhân - điều kiện của
tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, thực tiễn phòng ngừa tình hình
tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam, giai đoạn 2011- 2020. Với
giả thuyết này, thông qua việc thu thập thông tin tài liệu, phân tích các số liệu thống
kê do các cơ quan chức năng cung cấp và khảo sát thực tiễn, NCS cần làm sáng tỏ
các vấn đề thực tiễn nêu trên;
- Cần có những giải pháp khoa học và đồng bộ để phòng ngừa tình hình tội lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam trong những năm tiếp theo. Với giả
thuyết này, NCS cần đề xuất được các giải pháp khoa học, khả thi để nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội này trong thời gian tới.
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1, NCS đã trình bày tổng quan kết quả nghiên cứu ở nước
ngoài và trong nước có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án, bao gồm các nhóm tài
liệu về lý luận Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm theo cấu trúc lý luận về THTP,
lý luận về nguyên nhân và điều kiện của THTP, lý luận về phòng ngừa THTP; nhóm
tài liệu nghiên cứu về tội lừa đảo CĐTS dưới góc độ Khoa học luật Hình sự, Tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm; nhóm tài liệu nghiên cứu về phương thức KDĐC
25
cùng các biến tướng trong lĩnh vực này.
Đánh giá kết quả nghiên cứu trên cả 2 phương diện lý luận và thực tiễn, NCS
thấy rằng các nhóm công trình khoa học này đã cung cấp tri thức, trang bị cơ sở lý
luận cùng các luận cứ khoa học cho việc triển khai đề tài luận án. Mặt khác, thông
qua nghiên cứu, NCS xác định vấn đề tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình, các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
chưa từng được nghiên cứu tại Việt Nam ở cấp độ luận án tiến sĩ, chuyên ngành Tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Những nghiên cứu đã công bố trước đó chưa đề cập, hoặc đề cập không sâu,
hay tiếp cận vấn đề KDĐC với mục đích nghiên cứu khác, như để hoàn thiện hệ
thống pháp luật quản lý lĩnh vực KDĐC, tăng cường sự QLNN đối với lĩnh vực này.
Trên cơ sở đánh giá tổng quan các giá trị của các công trình nghiên cứu đã
công bố trên các khía cạnh lý luận và thực tiễn nói trên, làm rõ các vấn đề chưa
được nghiên cứu hoặc nghiên cứu chưa sâu, hoặc chưa được đề cập, NCS đã xác
định những điểm mới cần giải quyết trong luận án, làm rõ cơ sở lý thuyết, câu hỏi
nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu định hướng cho hoạt động nghiên cứu tại các
26
chương tiếp theo.
Chương 2
TÌNH HÌNH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM
2.1. Những vấn đề lý luận về tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Việc tiếp cận, giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được triển khai trên cơ sở nhận thức lý luận về lĩnh vực
KDĐC, cùng với việc phân tích, làm rõ khái niệm và các đặc điểm pháp lý của tội lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC.
2.1.1. Khái niệm lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Theo từ điển Tiếng Việt, khái niệm “lĩnh vực” chỉ phạm vi, nội dung hoạt động,
nghiên cứu, phân biệt với các phạm vi hoạt động, nghiên cứu khác [110, tr.551].
Trong luận án, nội hàm khái niệm “lĩnh vực KDĐC” chỉ các hoạt động từ đầu tư đến
cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ trên thị trường bằng cách sử dụng PTKDĐC.
PTKDĐC do nhà hóa học người Mỹ Karl Rendorg (1887 - 1973) sáng tạo ra
trong khoảng những năm 1927 - 1934 tại Hoa Kỳ. Từ cách dịch khác nhau đối với
cụm từ tiếng Anh: “Multi-level marketing”, phương thức kinh doanh này còn được
gọi với các tên khác nhau có ý nghĩa tương đương như: “bán hàng đa cấp”;“truyền
tiêu đa cấp”; “kinh doanh theo mạng”; “kinh doanh đa cấp”;“tiếp thị đa tầng”;
”kinh doanh theo phương thức đa cấp” [27, tr.13].
PTKDĐC dựa trên một thói quen của con người. Đó là khi mua được sản phẩm
ưng ý, người mua thường kể cho những người trong mạng lưới quan hệ của họ về ưu
điểm của sản phẩm đã mua, nhờ vậy mà thông tin sản phẩm được lan tỏa nhanh
chóng trong cộng đồng. Nếu khách hàng trở thành nhà phân phối thì sẽ tận dụng được
các mối quan hệ cá nhân của họ để phát triển thị trường bán lẻ. Khi đó mạng lưới tiêu
thụ sản phẩm sẽ được mở rộng theo “cấp số nhân”, bởi các mối quan hệ của con
người là không giới hạn. PTKDĐC sử dụng kết hợp cả nguyên lý chia sẻ và nguyên
lý phát triển theo cấp số nhân để làm cơ sở phát triển cho hệ thống phân phối của
27
mình [21, tr.13].
Theo Don Failla, PTKDĐC là “hình thức kinh doanh sử dụng những người hợp
thành một tổ chức, để lưu hành hàng hóa và dịch vụ từ điểm sản xuất đến người tiêu
dùng, bằng phương pháp tiếp xúc trực tiếp giữa con người với con người” [126, tr.5].
KDĐC là một mô hình kinh doanh hiện đại, được pháp luật nhiều quốc gia thừa
nhận. Tại Việt Nam, để hòa nhập với xu hướng chung của thế giới cũng như đáp ứng
tình hình thực tế, hành lang pháp lý về KDĐC đã dần được hoàn thiện. Trên cơ sở
quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005. Sau đó là Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày
14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Trước sự phức tạp của tình hình vi
phạm liên quan đến hoạt động KDĐC, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
40/2018/NĐ-CP ngày 2/5/2018 với nhiều quy định quản lý chặt chẽ đối với phương
thức kinh doanh này.
Khoản 1, Điều 3, Nghị định 40/2018 quy định về quản lý hoạt động KDTPTĐC
định nghĩa:“Kinh doanh theo phương thức đa cấp là hoạt động kinh doanh sử dụng
mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh, trong đó, người tham gia
được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của
mình và của những người khác trong mạng lưới” [40].
Điều 4, Nghị định này quy định: “Hoạt động kinh doanh theo phương thức đa
cấp chỉ được thực hiện đối với hàng hóa”. Như vậy, chỉ doanh nghiệp BHĐC với
những hàng hóa không bị cấm theo quy định tại khoản 2, Điều 4, Nghị định này mới
được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động BHĐC. Mọi hoạt động sử dụng phương
thức kinh doanh này đối với các đối tượng không phải là hàng hóa đều bị cấm và
không được cấp giấy chứng nhận. Các hoạt động KDTPTĐC mà không có giấy
chứng nhận bị coi là vi phạm và xử lý theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong thực
tiễn hoạt động KDĐC đã xảy ra nhiều vụ huy động vốn góp, nhận ủy thác đầu tư,
nhượng quyền kinh doanh, bán cổ phần nội bộ…theo phương thức đa cấp. Về bản
chất đó là việc lợi dụng PTKDĐC để kinh doanh các đối tượng bị cấm kinh doanh
theo phương thức này.
Khoản 21, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2020 định nghĩa: “Kinh doanh là việc
28
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường, nhằm đáp ứng mục
đích tìm kiếm lợi nhuận”.
Theo tinh thần của khái niệm này thì toàn bộ các hoạt động từ đầu tư hoặc cung
ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ trên thị trường…khi thực hiện theo phương thức đa
cấp, mặc nhiên phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về quản lý hoạt động KDĐC.
Lĩnh vực KDĐC là phạm vi, nội dung của các hoạt động nêu trên khi được thực hiện
theo PTKDĐC.
Từ nhận thức trên, có thể hiểu: “Lĩnh vực kinh doanh đa cấp là phạm vi,
nội dung của các hoạt động đầu tư hoặc cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ
trên thị trường thông qua mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều
nhánh, trong đó người tham gia được hưởng lợi ích kinh tế từ kết quả kinh
doanh của mình và của những người khác trong mạng lưới”.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp
2.1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Khái niệm “tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC” được sử dụng trong luận
án không phải là một tội danh được quy định trong BLHS, mà là một khái niệm trong
Tội phạm học để chỉ một hiện tượng xã hội tiêu cực xảy ra trong lĩnh vực KDĐC.
Tuy nhiên, để nghiên cứu về tội này cần dựa trên nền tảng lý luận về tội phạm.
Khoản 1, Điều 8, BLHS năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [78].
Trong Khoa học luật Hình sự, lừa đảo CĐTS được hiểu là hành vi bằng thủ
đoạn gian dối cố ý chuyển dịch tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác,
thành tài sản của mình một cách trái pháp luật. Đối tượng tác động của hành vi chiếm
29
đoạt phải là những tài sản còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lý của người chủ tài sản
hoặc người quản lý tài sản. Trong tội này, thủ đoạn gian dối luôn có trước hành vi
chiếm đoạt. Nghĩa là để chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội phải có ý định
CĐTS từ trước, sau đó mới dùng thủ đoạn gian dối, cố ý đưa ra thông tin không đúng
sự thật làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin tưởng mà trao tài sản cho
mình. Thủ đoạn gian dối là căn cứ để người bị hại “tự nguyện” trao tài sản.
Từ nhận thức trên, có thể định nghĩa: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý, bằng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin
nhầm, tưởng giả là thật, mà tự nguyện trao tài sản cho họ chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt trái pháp luật đối với tài sản đó”.
Lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là một dạng hành vi phạm tội cụ thể của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam (năm 1998), hoạt
động KDĐC đã có những biến tướng hết sức phức tạp. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã
lợi dụng cách thức tổ chức mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh của
mô hình KDĐC để thực hiện hành vi huy động tài chính dưới nhiều danh nghĩa, hình
thức khác nhau. Về bản chất đó hoàn toàn không phải là KDĐC chân chính, mà chỉ là sự
lợi dụng các đặc điểm, nguyên lý xây dựng và cách thức vận hành hệ thống của
PTKDĐC để thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS. Trên thực tế, hành vi lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC chủ yếu diễn ra dưới 2 hình thức như sau:
Một là, dựa trên hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghĩa là có sản phẩm cụ
thể. Ở hình thức này thì sản phẩm cũng chỉ là cái cớ nhằm che đậy cho hành vi lừa
dối, chiếm đoạt tiền của người tham gia. Chủ thể thực hiện những hành vi này thường
là các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận BHĐC, nhưng trong quá trình hoạt
động đã cố ý làm trái các quy định về hoạt động KDĐC, làm méo mó, biến tướng
phương thức kinh doanh này để trục lợi;
Hai là, không dựa trên việc bán lẻ sản phẩm hàng hóa cụ thể đến tay người tiêu
dùng theo đúng bản chất của KDĐC chân chính. Người phạm tội lập ra doanh nghiệp
các website, sàn giao dịch…để huy động tài chính trong xã hội dưới nhiều danh
nghĩa, vỏ bọc khác nhau, như góp vốn vào các dự án, uỷ thác đầu tư, mua bán cổ
phần, nhượng quyền kinh doanh, đầu tư ngoại hối, kinh doanh tiền ảo, đầu tư bất
30
động sản, kinh doanh dịch vụ, sản phẩm thông tin số... theo mô hình đa cấp. Mọi hoạt
động đều xoay quanh việc thu hút tiền từ những người tham gia mới vào mạng lưới.
Chủ thể thực hiện hành vi này thường không có giấy chứng nhận BHĐC.
Để thu hút sự quan tâm của cộng đồng, người phạm tội lấy lợi ích làm “mồi nhử”,
chủ động đưa ra các thông tin gian dối, sai sự thật về mô hình tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp; về lãi suất và lợi ích khi tham gia kinh doanh; về khả năng sinh lời mà mô
hình đem lại…để kích thích lòng tham, tính hám lợi của người dân, khiến họ tin tưởng
mà nộp tiền cho doanh nghiệp để được quyền tham gia kinh doanh.
Nhằm phát triển mạng lưới đa cấp, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư mới, người
phạm tội cam kết, hứa hẹn áp dụng chế độ trả thù lao, tiền thưởng, hoa hồng với lãi
suất rất cao cho người tham gia khi lôi kéo được thêm người khác cùng đầu tư, kinh
doanh trong mạng lưới. Trước sức hấp dẫn của lợi ích kinh tế, nhiều người đã tích
cực phát triển hệ thống, làm cho mô hình huy động tài chính phát triển nhanh chóng
theo cấp số nhân. Số tiền mà người tham gia đã đóng cho doanh nghiệp người phạm
tội không sử dụng vào mục đích kinh doanh để tạo ra giá trị gia tăng và của cải vật
chất cho xã hội, mà dùng để chi phí duy trì hệ thống, trả thù lao, tiền lãi, tiền thưởng
cho người tham gia tuyến trên, số tiền còn lại họ chiếm đoạt.
Dùng tiền của người tham gia sau, trả lãi cho người vào mạng lưới trước, thu
tiền của tuyến dưới trả cho các tuyến trên, là bản chất của mô hình này. Do đó, khi
không thể tìm được thêm nhà đầu tư mới, tất yếu hệ thống sẽ sụp đổ vì không thể trả
lãi cho các tuyến trên. Khi đó, bằng việc tuyên bố phá sản hay đóng cửa công ty,
dừng hoạt động website hoặc bỏ trốn…người phạm tội chiếm đoạt số tiền lớn của đông
đảo người tham gia trong mạng lưới đa cấp. Mô hình này hoàn toàn không phải là
KDĐC chân chính vì không hướng đến mục tiêu trao đổi, bán lẻ sản phẩm hàng hóa đến
tận tay người tiêu dùng theo đúng nghĩa của phương thức kinh doanh này. Về bản chất,
đó là hành vi lợi dụng phương thức KDĐC để thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS.
Từ các lẽ trên, có thể hiểu: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp là một dạng hành vi phạm tội cụ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện bằng thủ đoạn sử dụng phương thức kinh doanh đa cấp một cách gian dối, bất
chính để huy động tài chính dưới nhiều hình thức khác nhau và chiếm đoạt tài sản
31
của người tham gia”.
Định nghĩa này đã chỉ ra bản chất cốt lõi của hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC, đó là việc người phạm tội sử dụng phương thức KDĐC một cách gian
dối, bất chính, biểu hiện bằng việc kinh doanh đối với các đối tượng không phải là
hàng hóa, hoặc biến tướng hoạt động kinh doanh hàng hóa; cố ý đưa ra thông tin gian
dối về mô hình tổ chức và hoạt động, về lợi nhuận để lôi kéo người tham gia; dùng
tiền của người tham gia sau, trả lãi cho người tham gia trước để mở rộng mạng lưới
đa cấp, nhằm thu hút vốn dưới nhiều danh nghĩa, hình thức khác nhau và chiếm đoạt
tài sản của những người tham gia.
2.1.2.2. Đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp
Tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có đầy đủ các đặc điểm pháp lý quy
định trong cấu thành tội phạm của tội lừa đảo CĐTS (nói chung) về khách thể, mặt
khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội lừa đảo CĐTS được quy định tại Điều 139
- BLHS năm 1999, Điều 174 - BLHS năm 2015, cụ thể như sau:
(i) Khách thể của tội phạm: Tội lừa đảo CĐTS trực tiếp xâm phạm quyền sở
hữu đối với tài sản. Đối tượng tác động của tội này là tài sản thuộc quyền sở hữu của
cá nhân người tham gia MLĐC.
(ii) Mặt khách quan của tội phạm: Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC, “hành vi gian dối” và “hành vi chiếm đoạt” được biểu hiện
như sau:
- Hành vi gian dối: được thực hiện để tạo lập ra mạng lưới gồm nhiều cấp,
nhiều nhánh, nhằm phục vụ cho các hoạt động lừa đảo CĐTS dưới các danh nghĩa,
hình thức như: huy động vốn đầu tư; kinh doanh dịch vụ đa cấp; uỷ thác đầu tư;
nhượng quyền kinh doanh; kinh doanh dịch vụ và sản phẩm thông tin số (như tiền ảo,
gian hàng ảo, vàng tài khoản…); kinh doanh sản phẩm hàng hoá hữu hình...
Bằng việc cố ý đưa ra những thông tin gian dối, giả mạo, sai sự thật về tổ chức,
hoạt động, tư cách pháp nhân, quy mô, thương hiệu, vị thế, tiềm lực tài chính…của
doanh nghiệp, hoặc tạo ra những “mồi nhử lợi ích” như hứa hẹn, cam kết về các
khoản hoa hồng, tiền thưởng, thù lao, lãi suất rất cao, các lợi ích kinh tế khác sẽ đạt
được khi tham gia vào MLĐC và lôi kéo được người khác cùng tham gia; về triển
32
vọng kinh doanh mà mô hình đem lại…người phạm tội chủ động tạo ra sự tin tưởng
của cộng đồng xã hội vào mô hình kinh doanh hiệu quả cao và an toàn, với lợi ích
kinh tế cao, khả năng làm giàu nhanh chóng…, để nhiều người bỏ tiền tham gia đầu
tư, kinh doanh với doanh nghiệp, thông qua đó hình thành nên một mạng lưới gồm
nhiều cấp, nhiều nhánh. Quy mô của mạng lưới càng rộng thì khả năng thu hút tài
chính từ người tham gia để chiếm đoạt càng lớn.
Hành vi gian dối luôn có trước hành vi CĐTS, thường bắt đầu ngay từ thời điểm
người phạm tội khởi xướng ra mô hình hoạt động theo kiểu KDĐC. Đồng thời hành
vi này theo suốt quá trình phát triển của hệ thống đa cấp. Thông qua hành vi gian dối
để lôi kéo người tham gia, mà MLĐC luôn có xu hướng được mở rộng. Giữa hành vi
lừa dối và hành vi CĐTS trong tội này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa
dối tạo điều kiện cho hành vi CĐTS được thực hiện một cách công khai, dễ dàng.
- Hành vi chiếm đoạt tài sản: hành vi CĐTS của người tham gia MLĐC diễn ra
sau hành vi gian dối, được thể hiện thông qua việc dịch chuyển tài sản đang do người
tham gia MLĐC quản lý, thành tài sản của người phạm tội. Hành vi CĐTS trong tội
này xảy ra sau thời điểm người tham gia nộp tiền cho doanh nghiệp (để góp vốn, mua
cổ phần, đầu tư dự án, nhượng quyền kinh doanh…). Hành vi chiếm đoạt tiền của
người tham gia dưới một trong số các hình thức như: sau khi trích ra một tỷ lệ nhất
định để chi phí duy trì MLĐC, trả thù lao, tiền thưởng, lãi suất cho các tuyến trên
trong mạng lưới, hoặc để trả lãi thời gian đầu cho chính người nộp tiền, người phạm
tội chiếm đoạt phần lớn số tiền còn lại; hoặc khi đã huy động được số lượng tiền lớn
từ người tham gia, người phạm tội có thể đóng cửa công ty, đánh sập website, bỏ trốn
cùng với tiền của người tham gia, hoặc dùng các thuật toán can thiệp trái phép vào
quá trình vận hành của hệ thống máy tính để làm sai lệch kết quả giao dịch, khiến nhà
đầu tư thua lỗ (trong các vụ án kinh doanh sàn ngoại hối, thương mại điện tử, vàng tài
khoản, tiền ảo…).
Hậu quả của tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là thiệt hại về tài sản.
Khoản 1 của Điều 139 - BLHS 1999 quy định hành vi cấu thành tội phạm nếu giá trị
tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên. Tại Điều 174 - BLHS 2015, giá trị tài
sản bị chiếm đoạt khởi điểm của tội này đã tăng lên mức 2.000.000 đồng trở lên, còn
nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, thì phải kèm theo điều kiện đã bị xử
33
phạt VPHC về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội này, hoặc một trong các
tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS 2015,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc gây ảnh hưởng xấu đến ANTT…
(iii) Mặt chủ quan của tội phạm: Tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được
thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, với động cơ vụ lợi và mục đích CĐTS. Người phạm
tội biết rõ việc lừa dối với mục đích CĐTS là hành vi nguy hiểm cho xã hội và mong
muốn hành vi gian dối đó đạt được mục đích là CĐTS.
(iv) Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
là bất kỳ người nào có năng lực TNHS theo quy định của BLHS, nghĩa là người có
khả năng nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội; có độ tuổi
phù hợp với chính sách hình sự của nhà nước. Theo quy định tại Điều 12 - BLHS
năm 2015 về tuổi chịu TNHS, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội
phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về
hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 174;
Hình phạt: Điều 139 - BLHS 1999; Điều 174 - BLHS 2015 đều quy định bốn
(4) khung hình phạt đối với người phạm tội, với mức hình phạt thấp nhất là 6 tháng tù
và cao nhất là tử hình (với Điều 139 - BLHS 1999); tù chung thân (Điều 174 - BLHS
2015). Ngoài ra, tại Điều 139 - BLHS 1999 và Điều 174 - BLHS 2015 còn quy định
hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định đối với người phạm tội.
2.1.3. Khái niệm tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp
Thuật ngữ THTP hiện vẫn tồn tại rất nhiều quan điểm tiếp cận, luận giải khác
nhau trong giới nghiên cứu Tội phạm học Việt Nam.
GS.TS Đỗ Ngọc Quang cho rằng THTP là khái niệm được ghép từ hai danh từ
“tình hình” và “tội phạm”. Trong Từ điển tiếng Việt, “tình hình” có nghĩa là “trạng
thái và xu thế phát triển của sự vật”, còn “tội phạm” là các hành vi thoả mãn các
dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm theo quy định của BLHS. Như vậy THTP được
hiểu là số liệu về tội phạm được điều tra, truy tố, xét xử” [84].
GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa cũng luận giải THTP là trạng thái, xu thế vận động
34
của các tội phạm (hoặc nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm), đã xảy ra trong đơn
vị không gian và đơn vị thời gian xác định, chứ không phải là tổng thể thống nhất (hệ
thống) các tội phạm [48, tr 252].
Theo PGS.TS Lê Thị Sơn thì cụm từ “tình hình tội phạm” chỉ diễn biến của
hiện tượng tội phạm, là sự phản ánh của hiện tượng tội phạm dưới góc độ là hiện
tượng xã hội của nhiều người (hay nhiều vụ việc) phạm tội [83].
Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Tình
hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật hình sự, mang tính
giai cấp và thay đổi theo quá trình của của lịch sử; được thể hiện ở một tổng hợp
các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất
định” [89, tr.91].
Đồng tình với quan điểm trên, PGS. TS Phạm Văn Tỉnh nêu khái niệm THTP
như sau: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính lịch sử cụ
thể và pháp lý hình sự, có tính giai cấp và được biểu hiện thông qua tổng thể các tội
phạm cùng các chủ thể thực hiện các tội phạm đó trong một đơn vị hành chính lãnh
thổ nhất định và trong một thời gian cụ thể nhất định” [76, tr.10]. Ông cho rằng,
đấu tranh với tội phạm dưới góc độ Tội phạm học không phải chỉ dựa trên quan
điểm xem tội phạm là những hành vi riêng lẻ - đơn nhất, mà phải nhìn nhận tội
phạm trong tổng thể của nó, trong mối quan hệ của nó với “toàn bộ xã hội”, và
trong chừng mực đó thì đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học chính là THTP.
Đây cũng là quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh. Ông viết: “Tình hình tội
phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang
tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện
trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định” [100,
tr.61]. Với định nghĩa này, mức độ nhận thức được chuyển từ sự kiện, hành vi và
khái niệm tội phạm đơn nhất, đến một khái niệm chung hơn, khái quát hơn, phức tạp
hơn, tức là đi từ nhận thức thấp đến mức độ nhận thức cao hơn, khái quát những nhận
thức đã đạt được.
NCS tán thành với quan điểm coi THTP là khái niệm chỉ tổng thể thống nhất
các tội phạm đã thực hiện trong xã hội, gắn với một địa bàn nhất định và ở một
khoảng thời gian nhất định. Trên cơ sở đó, NCS tiếp cận vấn đề tình hình tội lừa đảo
35
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC ở cấp độ là một hiện tượng xã hội tiêu cực, chứ không
phải là hành vi phạm tội mang tính riêng lẻ, đơn nhất. Đó là tổng thể các vụ án lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xảy ra và người phạm tội này trong phạm vi thời
gian khảo sát của đề tài luận án (giai đoạn 2011 - 2020).
Với nhận thức trên, NCS cho rằng: “Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp là một hiện tượng xã hội tiêu cực, được biểu hiện
thông qua tổng thể các hành vi phạm tội và chủ thể thực hiện hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự, thông qua việc sử dụng phương
thức kinh doanh đa cấp một cách gian dối, bất chính, trên một địa bàn và trong một
khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được hiểu là “bức
tranh” khái quát về tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra bằng thủ đoạn sử dụng
PTKDĐC một cách gian dối, bất chính để lừa đảo CĐTS, bao gồm cả số vụ đã bị
phát hiện và số vụ chưa bị phát hiện cùng chủ thể thực hiện tội phạm, trên một địa
bàn và trong một khoảng thời gian nhất định. Tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là một hiện tượng
xã hội tiêu cực: Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, THTP là một hiện tượng xã
hội chứ không phải một hiện tượng tự nhiên, điều này có nghĩa THTP có nguồn gốc
trong xã hội, tồn tại trong xã hội, có nội dung xã hội, có nguyên nhân trong xã hội
và số phận của nó cũng mang tính xã hội [114, tr.55]. Tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC là một hiện tượng xã hội tiêu cực, được hình thành bởi những
hành vi của con người cụ thể sinh sống và làm việc trên một địa bàn nhất định, chịu
tác động của các điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội của địa bàn đó, có quan hệ chặt
chẽ với các hiện tượng, quá trình xã hội khác. Tính tiêu cực của hiện tượng này
phản ánh ở việc đã gây ra những thiệt hại vật chất đặc biệt lớn đối với người tham
gia, đồng thời gây ra nhiều hệ luỵ nguy hiểm về an ninh, trật tự, góp phần làm băng
hoại, xuống cấp đạo đức xã hội;.
Thứ hai, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là một hiện tượng
xã hội mang tính lịch sử: Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng mọi hiện tượng trong xã
hội và trong tự nhiên không phải ở trạng thái tĩnh tại, bất biến mà thường xuyên
36
biến đổi, thay đổi [114, tr.55]. Với tính cách là một hiện tượng xã hội, tình hình tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC luôn có sự vận động và biến đổi phụ thuộc vào
các điều kiện lịch sử và xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hiện
tượng này xuất hiện khi trong lòng xã hội chứa đựng những yếu tố cần thiết là
nguyên nhân và điều kiện cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó;
Thứ ba, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là một hiện tượng xã
hội mang tính giai cấp: Tính giai cấp của THTP thể hiện ở nguồn gốc xuất hiện, ở
các nguyên nhân nhất định, ở nội dung của các tội phạm cụ thể - các thực thể, tế bào
cấu thành nên hiện tượng đó và cả ở số phận của nó trong tương lai [114, tr.56].
Tính giai cấp của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC thể hiện ở quan
điểm, chính sách hình sự áp dụng đối với tội này.
Thứ tư, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là một hiện tượng có
giới hạn về không gian và thời gian: Việc nghiên cứu THTP trong Tội phạm học
không thể diễn ra ở một không gian và một thời gian chung chung, mà phải được
giới hạn trong một chỉnh thể thống nhất về không gian và thời gian nhất định. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án, thời gian khảo sát được giới hạn trong phạm
vi 10 năm - giai đoạn 2011 – 2020, trên địa bàn toàn quốc. Tập trung khảo sát tại
các đô thị lớn là địa bàn trong điểm của loại tội này.
2.1.4. Các thông số của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh
vực kinh doanh đa cấp
Tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC (giai đoạn 2011 - 2020)
được phản ánh thông qua phần hiện và phần ẩn của THTP.
2.1.4.1. Phần hiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực
kinh doanh đa cấp
PGS.TS Phạm Văn Tỉnh cho rằng phần hiện của THTP là toàn bộ những hành
vi phạm tội và chủ thể của các hành vi đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật
hình sự ở từng đơn vị hành chính - lãnh thổ, hay trên phạm vi toàn quốc, trong những
khoảng thời gian nhất định và được ghi nhận trong thống kê hình sự [92, tr.55].
Theo quan điểm này, phần hiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC là toàn bộ các hành vi phạm tội và người phạm tội đã được xử lý hình sự
trong cả nước, thể hiện qua các thông số như: mức độ (thực trạng), diễn biến (động
37
thái), cơ cấu và tính chất của THTP.
- Thông số về thực trạng (mức độ)
Mức độ của THTP là số lượng tội phạm đã thực hiện và những người thực hiện
các tội phạm đó trên một địa bàn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định
[114, tr.62]. Mức độ của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC giai đoạn
2011 - 2020 là số lượng vụ phạm tội này đã xảy ra, số người phạm tội này đã bị xét
xử (đã có bản án sơ thẩm).
- Thông số về động thái (diễn biến)
Động thái (diễn biến) của THTP là sự vận động và sự thay đổi của thực trạng và
cơ cấu của THTP, là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm hay ổn định tương đối của
THTP nói chung, hoặc của một nhóm tội phạm, hoặc một tội phạm cụ thể, xảy ra
trong một khoảng thời gian nhất định (một năm, ba năm, năm năm, mười năm...) [114,
tr.64]. Diễn biến của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là sự vận động,
thay đổi về mức độ và cơ cấu, cũng như phản ánh xu hướng tăng, giảm, hay ổn định
tương đối của nó.
- Thông số về cơ cấu
Cơ cấu của THTP là tỉ trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác nhau
trong số lượng chung của chúng trong khoảng thời gian nhất định và ở một lãnh thổ
(địa bàn) nhất định [114, tr.65].
Nghiên cứu về cơ cấu của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
trên các khía cạnh như: cơ cấu theo giới tính; độ tuổi; cơ cấu theo trình độ học vấn;
theo đơn vị hành chính; cơ cấu theo phương thức thủ đoạn phạm tội; cơ cấu theo
công cụ, phương tiện phạm tội; cơ cấu theo thời gian, địa điểm gây án; cơ cấu theo
đặc điểm nhân thân của người phạm tội; cơ cấu theo đặc điểm của nạn nhân...để biết
về kết cấu bên trong của các con số tạo nên tình hình tội này.
- Thông số về tính chất
Tính chất của THTP thể hiện mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội trong cơ cấu,
cũng như đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Tính chất của THTP được làm
sáng tỏ thông qua cơ cấu của nó [114, tr.66]. Tính chất của tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC phản ánh mức độ nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng
khác nhau của tình hình tội này ở từng thời gian và không gian khác nhau, thông qua
38
tương quan về tỷ lệ giữa các thành phần tạo nên cơ cấu của tình hình tội này, như tỷ lệ
giữa tội phạm nghiêm trọng và ít nghiêm trọng, tỷ lệ giữa số người phạm tội bị phạt
tù và không bị phạt tù... như vậy, tính chất của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC chính là kết quả của sự đánh giá đối với mức độ, cơ cấu và động thái của
tình hình tội này.
2.1.4.2. Phần ẩn của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp
Phần ẩn là “mảnh ghép” còn lại, cấu thành nên THTP. Do đó để có cái nhìn
toàn diện về THTP, cần phải xác định về phần ẩn của THTP.
Phần ẩn của THTP là tổng thể các hành vi phạm tội (cùng các chủ thể của các
hành vi đó) đã xảy ra trong thực tế, song không bị phát hiện, không bị xử lý theo quy
định của pháp luật hình sự hoặc không có trong thống kê hình sự [92, tr.74]. Tội
phạm ẩn gồm có: tội phạm ẩn tự nhiên (tội phạm ẩn khách quan); tội phạm ẩn nhân
tạo (tội phạm ẩn chủ quan) và tội phạm ẩn thống kê. Tội phạm ẩn khách quan là
những tội phạm đã xảy ra trong thực tế, song các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự không có thông tin về chúng. Tội phạm ẩn chủ quan là toàn bộ các tội
phạm đã xảy ra mà thông tin về chúng đã được các chủ thể trực tiếp đấu tranh phòng,
chống tội phạm nắm được, song vì những lý do khác nhau, các tội phạm đó trong một
thời gian nhất định hoặc vĩnh viễn không bị xử lý, hoặc xử lý không đúng theo quy
định của pháp luật [92, tr.33]. Tội phạm ẩn thống kê (có tác giả gọi là sai số thống kê)
bao gồm những hành vi phạm tội (và chủ thể của nó) đã bị xử lý bằng chế tài hình sự,
song vì nhiều lý do khác nhau, số này bị lọt ra ngoài con số thống kê hình sự, những
con số làm nền cho việc đánh giá THTP [92, tr.57]. Việc xác định độ ẩn của từng loại
tội phạm hoặc từng nhóm tội phạm cần phải dựa vào mức độ bộc lộ của sự phạm tội
và các quan hệ của nó với các chủ thể khác có liên quan như người bị hại, nhân
chứng [118, tr.37].
Như vậy, phần ẩn của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là toàn
bộ các hành vi phạm tội này đã xảy ra trên thực tế, cùng số người phạm tội, nhưng
không phát hiện; hoặc đã bị phát hiện nhưng vì lý do nào đó mà không bị xử lý hình
sự; hoặc chưa đưa vào thống kê hình sự của các cơ quan có thẩm quyền.
Việc đánh giá độ ẩn của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC cũng
39
chỉ ở mức độ tương đối.
Theo GS, TS Đào Trí Úc mức độ ẩn của THTP gồm có bốn cấp độ [104, tr.37].
Với cách phân loại này thì độ ẩn của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
được xếp loại ở cấp độ II, tức là thuộc nhóm những tội phạm bị ẩn khuất thứ II.
2.2. Thực tiễn tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp tại Việt Nam, giai đoạn 2011 - 2020
Vì số vụ án và người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xử lý
hình sự trong giai đoạn 2011 - 2020 không được bóc tách cụ thể tại các thống kê hình
sự đã thu thập.
Để làm rõ tình hình tội này, NCS đã thu thập, phân tích, so sánh, đối chiếu từ rất
nhiều nguồn tư liệu, số liệu khác nhau tại các đơn vị: Cục C01; C02; C03; A05 - Bộ
Công an; Công an các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nghệ
An, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đắc Lắk, Tây Ninh; số liệu từ Cục thống kê tội phạm
và công nghệ thông tin VKSND Tối cao; Vụ tổng hợp TAND Tối cao; Văn phòng
TAND TP Hà Nội, Cục CT&BVNTD - Bộ Công thương.
Đồng thời, NCS đã đối chiếu số liệu thu thập được với thông tin về các vụ án
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xảy ra trong toàn quốc được đăng tải trên các
báo chính thống, các cổng thông tin điện tử của ban ngành hữu quan...để tìm ra các số
liệu liên quan đến đề tài.
Thực tiễn tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC (giai đoạn 2011 -
2020) được phản ánh một phần thông qua phần hiện (tội phạm rõ), bao gồm các
thông số về thực trạng (mức độ), diễn biến (động thái), cơ cấu và tính chất của THTP:
2.2.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Trong giai đoạn 2011 - 2020, trong toàn quốc đã xảy ra 21 vụ án với 59 người
phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xét xử sơ thẩm (đã có bản án) [102].
Cụ thể: năm 2011 có 02 vụ và 06 người phạm tội; năm 2012 có 01 vụ và 03 người
phạm tội; năm 2013 có 02 vụ và 05 người phạm tội; năm 2014 có 01 vụ và 04 người
phạm tội; năm 2015 có 03 vụ và 07 người phạm tội; năm 2016 có 02 vụ và 06 người
phạm tội; năm 2017 có 02 vụ và 07 người phạm tội; năm 2018 có 02 vụ và 06 người
40
phạm tội; năm 2019 có 03 vụ và 07 người phạm tội; năm 2020 có 03 vụ và 08 người
phạm tội. Bình quân mỗi năm, trong cả nước xảy ra 2,1 vụ với 5,9 người phạm tội lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC (xem bảng 1.1, phần phụ lục).
So sánh tương quan giữa số vụ và người phạm tội này với tổng số vụ án và
người phạm tội lừa đảo CĐTS nói chung đã bị xét xử theo Điều 139 - BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Điều 174 - BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), thấy rằng:
- Trong tổng số 22.385 vụ án với 28.054 người phạm tội lừa đảo CĐTS theo
Điều 139 - BLHS năm 1999, có 18 vụ với 47 người phạm tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC, chiếm 0,08% tổng số vụ và 0,16% tổng số người phạm tội.
- Trong tổng số 1583 vụ án với 1849 người phạm tội lừa đảo CĐTS (theo Điều
174 - BLHS năm 2015), có 03 vụ với 12 người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC, chiếm 0,18% tổng số vụ và 0,64% người phạm tội (xem bảng 1.2 - phần
phụ lục).
Có thể thấy rằng số vụ án và người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số vụ án và người phạm tội lừa đảo CĐTS
nói chung.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giai đoạn 2011- 2020 cho thấy có nhiều vụ án
về bản chất là phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, nhưng do có liên quan
đến yếu tố công nghệ cao, như kinh doanh sản phẩm thông tin số (gian hàng ảo, tiền
ảo, vàng tài khoản...), xây dựng MLĐC trên nền tảng công nghệ, huy động tài chính
trên không gian mạng..., nên được các cơ quan tiến hành tố tụng định tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số, thực hiện hành vi
CĐTS theo Điều 226b - BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi CĐTS, theo
Điều 290 - BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Để làm rõ hơn mức độ của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
trong giai đoạn 2011-2020, NCS tiến hành so sánh tương quan giữa số vụ án và người
phạm tội trong lĩnh vực KDĐC nhưng đã xét xử theo các Điều 226b (BLHS 1999);
Điều 290 (BLHS 2015), với tổng số vụ án và người phạm tội đã xét xử theo các điều
41
luật nêu trên. Kết quả như sau:
Trong tổng số 239 vụ, 303 người phạm tội bị xét xử theo Điều 226b (BLHS 1999),
có 17 vụ (chiếm 7,11%), 35 người phạm tội trong lĩnh vực KDĐC (chiếm 11,55%);
Trong tổng số 85 vụ, 167 người phạm tội bị xét xử theo Điều 290 (BLHS 2015),
có 6 vụ (chiếm 7,05%), 14 người phạm tội trong lĩnh vực KDĐC (chiếm 8,38%) (xem
bảng 1.3 - phần phụ lục).
Khảo sát việc xử lý tội phạm theo Điều 217a - BLHS 2015, thấy cả nước chưa
xét xử vụ án nào theo tội danh này.
Để có cái nhìn tổng quát về tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực KDĐC,
ngoài việc nghiên cứu những vụ án đã xử lý về hình sự, NCS còn tìm hiểu về tình
hình XLVPHC trong lĩnh vực này. Theo thống kê của Cục CT&BVNTD - Bộ Công
thương, số vụ XLVPHC trong lĩnh vực KDĐC trong năm 2011 là 2 vụ, năm 2012 là 4
vụ; năm 2013 là 3 vụ; năm 2014 là 14 vụ; năm 2015 là 18 vụ; năm 2016 là 18 vụ;
năm 2017 là 19 vụ; năm 2018 là 41 vụ; năm 2019 là 10 vụ và năm 2020 là 13 vụ
(xem bảng 1.14 – phần phụ lục).
Có thể thấy số lượng các vụ XLVPHC trong lĩnh vực KDĐC gia tăng đột biến
từ năm 2014 trở lại đây, cùng với chủ trương xiết chặt quản lý lĩnh vực KDĐC.
Chỉ tính riêng 2 năm 2019 - 2020, Cục CT&BVNTD đã xử phạt nhiều doanh
nghiệp KDĐC với số tiền lớn về những vi phạm trong kinh doanh. Cụ thể đã xử phạt
Công ty TNHH Thiên Sư Việt Nam số tiền 585.000.000 đồng; xử phạt 250.000.000
đồng đối với Công ty TNHH MTV New Image Việt Nam; xử phạt 370.000.000 đồng
đối với Công ty TNHH Người lái xe mặt trời Việt Nam. Năm 2020 xử phạt Công ty
TNHH Morinda Việt Nam số tiền 605.000.000 đồng và quyết định thu hồi giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động BHĐC; xử phạt 250.000.000 đồng đối với Công ty CP Liên
kết Việt Nam; phạt Công ty TNHH MTV Thương mại Mỹ Lợi số tiền 710.000.000
đồng [24].
Phân tích các biên bản XLVPHC, thấy sai phạm chủ yếu của các công ty BHĐC
như cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia mạng
lưới BHĐC, về tính chất, công dụng của hàng hóa; cho người tham gia BHĐC nhận
lợi ích kinh tế từ việc dụ dỗ người khác tham gia BHĐC...Những hành vi này phản
ánh hiện tướng biến tướng trong KDĐC của các doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt
42
động trong lĩnh vực này, tiềm ẩn nguy cơ tội phạm lừa đảo CĐTS. Chẳng hạn, Công
ty TNHH nhượng quyền thương mại Thăng Long đã bị xử phạt 460.000.000 đồng về
hành vi cung cấp các thông tin sai lệch về tính chất và công dụng của hàng hóa, về lợi
ích vật chất khi tham gia MLĐC vào năm 2016, trước khi bị khởi tố về tội lừa đảo
CĐTS vào năm 2017 [24].
2.2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Diễn biến (động thái) của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là
sự thay đổi thực trạng xét về mức độ và về tính chất trong đơn vị thời gian xác định.
Việc đánh giá diễn biến THTP giúp cho việc dự đoán xu hướng vận động của tội
phạm trong tương lai, để xây dựng có giải pháp phòng ngừa THTP phù hợp.
Diễn biến của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC (giai đoạn 2011
- 2020) thể hiện qua Bảng 1.6 - phần phụ lục. Theo đó, trung bình mỗi năm xảy ra 2,1
vụ với 5,9 người phạm tội này.
Bằng phương pháp so sánh định gốc tính theo năm, tác giả lấy số liệu về số vụ
và số người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC năm 2011 là gốc và ấn
định là 100%, để tính mức độ tăng giảm của THTP cho các năm tiếp theo. Theo đó,
năm 2012 giảm 50% về số vụ và số người phạm tội; năm 2013 giữ nguyên số vụ,
giảm 16,67% số người phạm tội; năm 2014 giảm 50% về số vụ, giảm 33,34% số
người phạm tội; năm 2015 tăng 50% số vụ, tăng 16,66% số người phạm tội; năm
2016 giữ nguyên số vụ và số người phạm tội; năm 2017 giữ nguyên số vụ, tăng
16,66% số người phạm tội; năm 2018 giữ nguyên số vụ và số người phạm tội; năm
2019 tăng 50% số vụ, tăng 16,66% số người phạm tội; năm 2020 tăng 50% số vụ,
tăng 33,33% số người phạm tội (xem Bảng 1.6 - phần phụ lục).
Qua phương pháp so sánh định gốc, có thể thấy tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam trong 10 năm qua diễn biến khá phức tạp, không
theo quy luật nhất định so với năm gốc (2011). Chẳng hạn, năm 2012 số lượng vụ án
và người phạm tội giảm một nửa; năm 2013 giữ nguyên số vụ, giảm số người phạm
tội. Nhưng từ năm 2015 trở đi, THTP có chiều hướng gia tăng năm sau tăng cao hơn
năm trước.
Để làm rõ động thái của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC trong
43
10 năm qua, ngoài phương pháp so sánh định gốc, NCS còn sử dụng phương pháp so
sánh liên hoàn để xác định tỷ lệ tăng giảm của năm sau so với năm liền trước. Theo
đó, năm sau sẽ lấy năm trước liền kề làm gốc để xác định tỷ lệ tăng giảm qua hàng
năm. Bảng 1.7 - phần phụ lục thể hiện số vụ án và số người phạm tội có xu hướng
tăng dần đều từ năm 2014 đến năm 2020. Qua nghiên cứu, có thể thấy diễn biến của
tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam trong 10 năm qua khá
phức tạp, với chiều hướng tăng dần qua mỗi năm. Điều này có nguyên nhân từ việc
thực hiện chủ trương xiết chặt QLNN đối với lĩnh vực KDĐC, các cơ quan chức năng
đã tăng cường nắm tình hình, kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật, nên số vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được phát hiện ngày
càng tăng.
2.2.3. Cơ cấu của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp
Nghiên cứu các đặc điểm về cơ cấu của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC giúp nhận biết các đặc điểm về chất của THTP.
2.2.3.1. Cơ cấu xét về địa bàn xảy ra tội phạm
Nghiên cứu 21 vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xảy ra, thấy địa
bàn đô thị xảy ra 19 vụ (chiếm 90,47%) với 52 người phạm tội (chiếm 88,13%). Địa
bàn nông thôn, miền núi xảy ra 02 vụ (chiếm 9,52%) với 7 người phạm tội (chiếm
11,86%) (xem Bảng 1.5 - phần phụ lục). Thời gian qua hầu hết các băng nhóm tội
phạm này đều đặt trụ sở chính của doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động lừa đảo tại
các đô thị lớn có mật độ dân số đông, như TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh...Đồng thời,
mở ra các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các địa phương khác [102]. Bên cạnh đó,
hoạt động lừa đảo trong lĩnh vực này còn diễn ra mạnh mẽ trên không gian mạng.
Với sự phổ cập của mạng viễn thông, mạng internet đến mọi vùng miền trong
cả nước như hiện nay, loại tội này có thể gây án ở bất kỳ nơi đâu. Số liệu nêu trên chỉ
là thống kê địa bàn nơi xét xử 21 vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Trên
thực tế, loại tội này đã xảy ra ở nhiều địa phương, nhưng không bị phát hiện và xử lý
hình sự, nên không có trong số liệu thống kê.
2.2.3.2. Cơ cấu xét theo phương thức, thủ đoạn phạm tội
Trong số 21 vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC xảy ra giai đoạn 2011 -
44
2020, có 5 vụ huy động vốn đầu tư dự án (chiếm 23,33 %); 03 vụ kinh doanh dịch vụ
đa cấp (chiếm 16,66%); 05 vụ kinh doanh sản phẩm thông tin số, đầu tư tiền ảo (chiếm
23,33 %); 02 vụ ủy thác đầu tư, nhượng quyền kinh doanh (chiếm 9,52%); 06 vụ bán
sản phẩm hàng hoá hữu hình (chiếm 28,57 %) - (xem Bảng 1.11 - phần phụ lục).
Một là, lừa đảo thông qua hình thức huy động vốn đa cấp: điển hình như vụ
án lừa đảo CĐTS xảy ra tại Công ty IDT. Tại Bản án số: 186/2018/HS-ST ngày
21/5/2018, TANDTP Hà Nội xác định hành vi phạm tội của Phạm Thanh Hải (Chủ
tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty IDT) như sau: Từ năm 2008, Phạm Thanh Hải
tổ chức huy động vốn đa cấp thông qua việc thành lập trang mạng xã hội
“hoclamgiau.vn”. Bị cáo tổ chức các cuộc hội thảo, giới thiệu Công ty IDT đang
triển khai các dự án có lãi suất cao, làm giàu từ cây mắc ca “tỷ đô” để dụ dỗ người
dân tham gia đầu tư vào các dự án của mình. Hải đưa ra các hợp đồng với lãi suất
cao gấp nhiều lần lãi suất ngân hàng (từ 40 đến 50%/năm), cắt lãi lại ngay sau khi
nộp tiền (mặc dù chưa có hoạt động kinh doanh), đồng thời khuyến khích được mở
rộng mạng lưới huy động vốn đa cấp bằng cách chi từ 2 đến 10% tiền thưởng kết
nối môi giới trong mỗi hợp đồng mới. Bằng thủ đoạn trên, từ tháng 10/2014 đến
tháng 10/2015, Hải đã huy động được số tiền rất lớn từ 2574 nhà đầu tư với tổng số
tiền trên 2,725.000.000.000 đồng. Sau khi có tiền, Hải sử dụng số tiền này vào mục
đích cá nhân, chủ yếu là cho vay thanh toán gốc lãi cho những hợp đồng đến hạn; chi
thưởng kết nối; chi phí tổ chức và các hội thảo tham quan du lịch quảng bá dự án để
tiếp tục mở rộng mạng lưới huy động vốn của nhiều người. TANDTP Hà Nội đã
tuyên phạt mức án tù chung thân về tội lừa đảo CĐTS đối với Phạm Thanh Hải [102].
Hai là, lừa đảo CĐTS thông qua hình thức kinh doanh dịch vụ đa cấp: điển
hình như vụ án “Lâm Phúc Hùng cùng đồng bọn phạm tội lừa đảo CĐTS, xảy ra tại
Công ty TNHH Diamond Holiday Đông Nam Á”. Tại bản án số: 145/2018/HS-ST
ngày 8/8/2018 của TANDTP Hà Nội, hành vi phạm tội của các bị cáo được xác định
như sau: Lâm Phúc Hùng là Tổng giám đốc Công ty TNHH Diamond Holiday Đông
Nam Á. Tháng 2/2010, thấy trang mạng nước ngoài: “Usdiamondholyday.com” có
quảng cáo hình thức kinh doanh thương mại điện tử đa cấp, sản phẩm là gói dịch vụ
đặt phòng du lịch 4 ngày 3 đêm ở các khách sạn từ 3 đến 5 sao, hoặc khu Resorts trên
toàn thế giới, với giá 325 USD/1 mã số ID (dành cho 2 người/phòng), Hùng đã
45
chuyển 1.000 USD vào trang này để mua Evochers (Code), tạo các mã ID và hệ
thống thành viên của DHT. Mặc dù công ty của Hùng không có chức năng và không
được phép kinh doanh lữ hành, thương mại điện tử hay KDĐC, nhưng Hùng vẫn
thành lập ra và làm chủ nhiệm Câu lạc bộ Du khách, để tổ chức lôi kéo nhiều người
tham gia KDĐC với dịch vụ này. Thủ đoạn phạm tội như sau: khi khách hàng nộp
vào hệ thống 340 USD để mua gói dịch vụ đặt phòng du lịch, sẽ được công ty cấp
cho một mã số ID và sẽ được xếp vào 1 “bàn vàng”. Khi bàn này đủ 15 người tham
gia thì bàn trưởng (người lôi kéo thêm được 14 người tiếp theo) sẽ được thưởng
1.000 USD trong ví điện tử, gắn với mã ID. Ngoài ra, bàn trưởng “bàn vàng” sẽ tiếp
tục được chuyển sang “bàn đỏ”. Khi “bàn đỏ” hội đủ 64 người là bàn trưởng “bàn
vàng”, thì trưởng “bàn đỏ” lại được “bật ra” để tham gia hỗ trợ các “bàn đỏ” khác,
với số tiền thưởng là 15.000 USD. Tuy nhiên số tiền này chỉ được trích ra 5.000 USD
để trả cho khách, còn 10.000 USD phải để trong ví điện tử. Tương tự, những người ở
“bàn vàng” còn lại tại thời điểm bàn trưởng chuyển lên “bàn đỏ” sẽ được tách ra
thành 2 “bàn vàng” khác nhau, để lôi kéo đủ 15 người tham gia mỗi bàn thì sẽ được
nâng vị thế và nhận tiền thưởng “ảo”. Bằng thủ đoạn trên, tính đến tháng 12/2011,
Hùng và đồng bọn đã thu được khoảng 80.000.000.000 đồng, cùng hơn 253.000 USD
của gần 11.000 người tham gia, nhưng cơ quan điều tra mới chỉ xác định được 986 bị
hại. Số tiền thu của khách hàng, Hùng “cắt lại” 15 USD để phục vụ hoạt động của
CLB, chuyển một phần vào hệ thống chung để trả khách hàng, còn lại bị cáo Hùng và
đồng bọn chiếm hưởng. Riêng Hùng hưởng lợi hơn 8,5.000.000.000 đồng. TANDTP
Hà Nội đã tuyên phạt bị cáo Lâm Phúc Hùng 14 năm tù giam, 8 đồng phạm của Hùng
chịu mức án từ 3 đến 13 năm tù [102].
Ba là, lừa đảo thông qua hình thức kinh doanh sản phẩm thông tin số (gian
hàng ảo, tiền ảo, vàng tài khoản...): điển hình như vụ án xảy ra tại Công ty CP đào
tạo mua bán trực tuyến (Công ty MB24). Tại bản án số: 189/2014/HS-ST ngày
30/6/2014 của TANDTP Hà Nội, hành vi phạm tội của các bị cáo được xác định như
sau: tháng 5/2011, Nguyễn Tuấn Minh, Ngô Văn Huy, Lê Văn Cường, Nguyễn Mạnh
Hà thành lập ra Công ty MB24, đặt trụ sở tại Hà Nội. Mặc dù không được Cục
Thương mại điện tử, Bộ Công thương cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ sàn
giao dịch thương mại điện tử, nhưng các bị cáo đã tuyên truyền trên website
46
muaban24.vn là sàn giao dịch thương mại điện tử và bán các gian hàng ảo với giá 5,2
triệu/gian cho người tham gia. Hội viên đóng tiền mặt vào hệ thống, được quy ra
điểm D (điểm ảo). Sau khi trừ đi chi phí duy trì hệ thống và trả thưởng nhằm lôi kéo
thêm nhiều người tham gia, các bị cáo rút tiền thật của khách hàng ra chia nhau. Để
phát triển mạng lưới đa cấp trên mạng, các bị cáo thực hiện chính sách cắt thưởng
ngay đối với hội viên, nếu lôi kéo được thêm người khác bỏ tiền mua gian hàng. Số
tiền hoa hồng, thù lao phát triển hệ thống trả tới 1600.000/gian hàng, được lấy từ tiền
của hội viên vào sau trả cho người vào trước. Với thủ đoạn trên, từ tháng 5/2011 đến
tháng 7/2012, các bị cáo đã mở ra 31 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố, riêng tại Hà
Nội có 05 chi nhánh. Tổng số đã bán được 121.349 gian hàng ảo cho khách với số
tiền thu được hơn 631.000.000.000 đồng. Trong đó, các bị cáo đã chiếm đoạt
31.000.000.000 đồng. TAND TP Hà Nội đã tuyên phạt các bị cáo mức án từ 12 đến
16 năm tù giam [102].
Bốn là, lừa đảo thông qua việc bán sản phẩm hàng hoá hữu hình: điển hình như
vụ án “Lê Xuân Giang cùng đồng bọn phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, xảy ra tại
Công ty CP Liên kết sản xuất thương mại Việt Nam”. Kết quả điều tra xác định: Công
ty CP tập đoàn thiết bị y tế BQP (viết tắt là Công ty BQP) và Công ty Liên Kết Việt
đều do Lê Xuân Giang thành lập và điều hành hoạt động. Từ tháng 3/2014 đến tháng
11/2015, lợi dụng việc Công ty Liên Kết Việt được cấp giấy phép BHĐC, Giang và
đồng phạm đã cung cấp thông tin sai lệch, gian dối cho các khách hàng để tạo lòng
tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như giới thiệu Công ty
Liên Kết Việt là công ty con của Công ty BQP – một doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc
Phòng, kinh doanh đúng pháp luật, có lợi nhuận cao, có nhiều đóng góp với xã hội,
được Nhà nước tặng nhiều bằng khen. Tuy nhiên, thực chất các bằng khen, giấy
chứng nhận đều do chính Lê Xuân Giang làm giả. Để thu hút người tham gia, các bị
cáo đã đặt ra những quy định trái pháp luật về hoạt động BHĐC, như chỉ cần đóng
tiền vào công ty (không cần lấy hàng hóa ra để kinh doanh) là trở thành nhà phân
phối của doanh nghiệp; một người có thể đứng tên nhiều mã hàng. Các đối tượng đặt
ra mô hình trả thưởng theo hình kim tự tháp, lấy tiền của người tham gia sau trả cho
người tham gia trước. Số tiền thưởng, tiền hoa hồng hứa hẹn sẽ trả cho các nạn nhân
lên tới trên 65% tổng số tiền thu được của chính khách hàng. Hàng hóa đưa vào mạng
47
lưới kinh doanh gồm máy khử độc Ozone Advance great - 13 và một số thực phẩm
chức năng như: Ngũ Linh đông trùng hạ thảo, Bổ não vương, Dưỡng cốt vương,
Sâm nhung đông trùng hạ thảo...Ngoài ra, các đối tượng triển khai liên tục trên toàn
hệ thống 5 chương trình thi đua khuyến mại, kích cầu chạy song hành với việc chi
trả hoa hồng; đưa ra những khoản khuyến mại lớn, như nộp vào công ty 7.000.000
đồng (sau là 8,6.000.000 đồng) sẽ nhận được tiền thưởng lên tới 409.000.000 đồng;
nếu lôi kéo được nhiều người tham gia sẽ nhận được quà thưởng là ô tô trị giá tới
1.000.000.000 đồng, nhà trị giá 1,8.000.000.000 đồng, tặng chuyến đi du lịch nước
ngoài, được lên chức và được ăn chia phần trăm số tiền thu được lến tới
10.000.000.000 đồng mỗi tháng...Với thủ đoạn trên, từ tháng 3/2014 đến tháng
11/2015, ổ nhóm này đã phát triển 34 chi nhánh, văn phòng đại diện, đại lý tại 27
tỉnh, thành, lôi kéo được hơn 68.000 người ở 49 tỉnh, thành phố tham gia, chiếm
đoạt khoảng 1,121.000.000.000 đồng [102].
Năm là, lừa đảo thông qua hình thức ủy thác đầu tư, nhượng quyền kinh doanh:
điển hình như vụ án “Hsu Minh Jung cùng đồng bọn phạm tội lừa đảo CĐTS xảy ra
tại Công ty TNHH tư vấn đầu tư Khải Thái”. Tại bản án số: 215/2017/HS-ST ngày
15/12/2017 của TANDTP Hà Nội, hành vi phạm tội của các bị cáo được xác định như
sau: Năm 2011, Hsu Minh Jung (tức Saga, quốc tịch Đài Loan) cùng một số đối
tượng người Việt Nam thành lập ra Công ty Khải Thái với 3 chi nhánh, 18 phòng
kinh doanh và khoảng 200 nhân viên, do Hsu Minh Jung làm Tổng giám đốc điều
hành. Hoạt động của công ty là điều hành sàn giao dịch vàng, kinh doanh vàng tài
khoản, kinh doanh ngoại tệ bằng hình thức tài khoản trên mạng, huy động vốn thông
qua hình thức ký hợp đồng “ủy thác đầu tư”. Đây đều là những ngành nghề không có
trong đăng ký kinh doanh của Công ty Khải Thái.
Quá trình hoạt động, nhằm thu hút khách hàng nộp tiền vào công ty, cùng với
việc đưa thông tin sai sự thật, tổ chức các sự kiện lớn, đưa khách hàng và nhân viên
ra nước ngoài tham quan để khuếch trương thanh thế, kêu gọi nộp tiền uỷ thác để đầu
tư kinh doanh vào các sàn vàng quốc tế với mức lãi suất từ 3 đến 3,5% tháng, 30 -
45%/năm, các bị cáo còn sử dụng phương thức đa cấp để phát triển mạng lưới kinh
doanh, thông qua chính sách trả thưởng rất cao cho nhân viên hoặc khách hàng nếu
lôi kéo được thêm người mới tham gia uỷ thác đầu tư. Chẳng hạn, nếu kêu gọi, huy
48
động được khoản uỷ thác từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, sẽ được
thưởng trực tiếp 50.000.000 đồng, cùng đồ vật quý, tài sản có giá trị như điện thoại
iPhone, iPad hay dây chuyền vàng.
Bằng thủ đoạn trên, từ tháng 12/2012 đến tháng 9/2014, nhóm này đã thu của
1.586 khách hàng số tiền 501,1.000.000.000 đồng. Trong đó có 10,4000.000.000
khách hàng kinh doanh vàng tài khoản và 490,6000.000.000 là tiền ủy thác đầu tư.
Công ty đã trả cho khách hàng 177,9.000.000.000 đồng; còn lại 323,1.000.000.000
đồng. Khi vụ việc bị phát giác chỉ có 717 người đến trình báo. Do đó, cơ quan điều
tra chỉ xác định được số tiền ủy thác là 280.000.000.000 đồng. Những người này đã
được nhận lãi 17,5.000.000.000 đồng. Như vậy, số tiền các bị cáo chiếm đoạt là
264.000.000.000 đồng. TANDTP Hà Nội đã tuyên phạt tù chung thân đối với Hsu
Ming Jung, 7 đồng phạm khác nhận mức án phạt từ 4 năm đến 18 năm tù giam [102].
Điểm chung nhất trong các vụ án đã xảy ra đó là các bị cáo đều tuyên
truyền các thông tin gian dối về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, về lợi
ích có thể đạt được khi tham gia, lấy lợi ích vật chất làm mồi nhử để kích thích
lòng tham, tính hám lợi của người dân, sử dụng phương thức đa cấp để phát
triển hệ thống, lấy tiền của người tham gia cấp dưới trả lãi cho các tuyến trên.
Trong quá trình gây án, người phạm tội thường tẩu tán tài sản do phạm tội mà
có, như đầu tư mua sắm bất động sản hoặc chuyển tiền ra nước ngoài. Khi bị
khởi tố điều tra, người phạm tội thường khai báo gian dối, đổ lỗi cho các tuyến
dưới làm sai chứ không phải chủ ý của ban lãnh đạo doanh nghiệp…
2.2.3.3. Cơ cấu xét theo hình thức phạm tội
Trong tổng số 21 vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xảy ra giai đoạn
2011 - 2020, số vụ án có đồng phạm là 20 vụ, chiếm 95,23%; số vụ án phạm tội đơn
lẻ (không có đồng phạm) là 1 vụ, chiếm 4,76% (xem Bảng 1.9 - phần phụ lục). Số
liệu trên cho thấy hầu hết các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đều được
thực hiện dưới hình thức đồng phạm, thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Các
băng, ổ nhóm tội phạm thường hoạt động công khai, dưới hình thức pháp nhân
(doanh nghiệp) có đăng ký kinh doanh, như Công ty Cộng đồng Việt, Công ty Tâm
Mặt trời, Công ty MB24, Công ty Liên kết Việt...Chỉ có duy nhất 01 vụ phạm tội đơn
lẻ, không có đồng phạm, là vụ án Phạm Thanh Hải phạm tội lừa đảo CĐTS, xảy ra tại
49
Công ty CP thương mại, đầu tư và phát triển quốc tế (IDT). Trong số 20 vụ án có
đồng phạm, có 08 vụ dưới hình thức thành lập doanh nghiệp có đăng ký hoạt động
KDĐC (chiếm 40%); 12 vụ dưới hình thức thành lập doanh nghiệp không đăng ký
hoạt động KDĐC (chiếm 60%) - (xem Bảng 1.10 - phần phụ lục).
2.2.3.4. Cơ cấu xét theo động cơ, mục đích phạm tội
Nghiên cứu động cơ, mục đích phạm tội của các người phạm tội trong các vụ
án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC không chỉ góp phần làm rõ được nguyên
nhân thực hiện tội phạm, mà còn giúp cho việc đánh giá một cách chính xác tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Kết quả nghiên cứu hồ sơ 21 vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC giai
đoạn 2011 - 2020 với 59 người phạm tội cho thấy 100% số người phạm tội với động
cơ vụ lợi, không có động cơ khác. Họ là những người đứng đầu doanh nghiệp và
một số thành viên tuyến trên, khi sử dụng phương thức KDĐC để thực hiện hành vi
lừa đảo CĐTS của người tham gia MLĐC, họ được thúc đẩy bởi tâm lý muốn thỏa
mãn nhu cầu vật chất như mua sắm nhà cửa, nhà đất, xe cộ, ăn chơi, sống cuộc đời xa
hoa, dư giả...Mục đích tư lợi (chiếm đoạt được tài sản của người tham gia mạng lưới
KDĐC) là kết quả trong ý thức chủ quan của 100% người phạm tội trong giai đoạn này.
Không có người phạm tội với mục đích khác (xem Bảng 1.12 - phần phụ lục).
2.2.3.5. Cơ cấu xét theo chế tài cấp sơ thẩm áp dụng đối với người phạm tội
Trong số 59 người phạm tội đã bị kết án về tội này, bị xử phạt tù có thời hạn từ
1 - 3 năm có 3/59 người (chiếm 5,08%); bị phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm có 9/59
người (chiếm 15,25%); bị phạt tù từ trên 7 năm đến 15 năm có 36/59 người (chiếm
61,01%); bị phạt tù có thời hạn trên 15 năm tù đến tù chung thân có 11/59 người
(chiếm 18.64%).
Như vậy, số người phạm tội chịu hình phạt tù từ trên 7 đến 15 năm chiếm tỷ lệ
cao nhất (chiếm 61,01%), số người bị phạt tù từ 1 đến 3 năm có tỷ lệ thấp nhất
(chiếm 5,08%). Điều này phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC trong thời gian qua là rất nghiêm trọng (xem
Bảng 1.8 - phần phụ lục).
2.2.3.6. Cơ cấu xét theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội
Nghiên cứu cơ cấu của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC theo
50
đặc điểm nhân thân người phạm tội giúp cho việc giải thích tội phạm, cơ chế hành vi
phạm tội, xác định nguyên nhân và điều kiện của THTP. Kết quả nghiên cứu các đặc
điểm nhân thân người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Bảng 1.13 -
phần phụ lục như sau:
- Xét theo đặc điểm giới tính của người phạm tội:
Phân tích yếu tố giới tính của 59 người phạm tội trong 21 vụ án lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC cho thấy nam giới chiếm đa số, với 33/59 người (chiếm
63,09%), nữ giới có 26/59 người (chiếm 36,91%).
- Xét theo đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội:
Phân tích độ tuổi 59 người phạm tội, độ tuổi từ từ 18 đến 30 tuổi có 10 người
(chiếm 16,94%); từ 31 đến 45 tuổi có 37 người (chiếm 45,76%); trên 45 tuổi có 12
người (chiếm 20,33%). Không có người phạm tội nào dưới 18 tuổi. Như vậy, người
phạm tội này chủ yếu ở độ tuổi từ 31 đến 45.
- Xét theo trình độ học vấn của người phạm tội:
Phân tích trình độ học vấn của người phạm tội, thấy đa số người phạm tội đều
có trình độ đại học, cao đẳng, với 38/59 người (chiếm 64,40%). Tiếp đến trình độ
trung học phổ thông với 17 người, chiếm 28,81%. Trình độ trung học cơ sở chỉ có 01
người (chiếm 1,69%). Không có người mù chữ hoặc ở cấp tiểu học. Kết quả trên cho
thấy người phạm tội này có trình độ học vấn tương đối cao.
- Xét theo đặc điểm về tiền án, tiền sự của người phạm tội: Nghiên cứu lý lịch
các người phạm tội, có 5/59 người có tiền án, tiền sự (chiếm 8,47%); 54/59 người
(chiếm 91,52%) chưa có tiền án, tiền sự.
- Xét theo đặc điểm về dân tộc và quốc tịch: Cơ cấu tội phạm theo đặc điểm dân
tộc là một loại cơ cấu nhân chủng học, phản ánh sự tương quan giữa mức độ phạm tội
của người dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh trong THTP. Trong số 59 người phạm tội,
dân tộc Kinh chiếm đa số với 57/59 người (chiếm 96,61%); chỉ có 02 người thuộc các
dân tộc khác (chiếm 3,38%).
Về đặc điểm quốc tịch của người phạm tội, có 57 người có quốc tịch Việt Nam,
(chiếm 96,61%); 03 người có quốc tịch nước ngoài, chiếm 5,08%.
- Xét theo đặc điểm về nơi cư trú của người phạm tội:
Trong số 59 người phạm tội, có 21/59 người thường trú tại địa bàn thực hiện tội
51
phạm (chiếm 35,59%); 38/59 người tạm trú tại địa bàn gây án (chiếm 64,40%) - (xem
Bảng 1.13 - phần phụ lục). Cư trú (thường trú và tạm trú) tại đô thị có 43/59 người
(chiếm 72,88%); cư trú tại nông thôn, miền núi có 16/59 người, chiếm 27,11%).
- Xét theo đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội:
Nghiên cứu lý lịch 59 người phạm tội cho thấy:
+ Về quan hệ gia đình: Có 5 người chưa kết hôn (chiếm 8,47%); 7 người đã ly
hôn (chiếm 6,77%); còn lại 47 người đã kết hôn (chiếm 79,66%). Như vậy có thể
thấy phần lớn những người phạm tội này đều đã kết hôn. Điều này phù hợp với cơ
cấu về độ tuổi của người phạm tội (phổ biến nhất từ 31 đến 45 tuổi, chiếm 45,76%,
tiếp đến độ tuổi trên 45, chiếm 20,33%).
+ Về hoàn cảnh gia đình: Tiến hành điều tra xã hội học đối với 45/59 phạm
nhân đang chấp hành án phạt tù về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại các
trại giam Hồng Ka (xã Hưng Khánh, Trấn Yên, Yên Bái); Trại giam Ninh Khánh, (xã
Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình); Trại giam Tân Lập (xã Vô Tranh, Hạ Hòa, Phú Thọ);
Trại giam Thủ Đức (Z-30D, TP Hồ Chí Minh); Trại giam Thanh Xuân (xã Mỹ Hưng,
Thanh Oai, Hà Nội).
Với câu hỏi: “Anh (chị) có hoàn cảnh gia đình như thế nào trước khi phạm tội
lừa đảo trong KDTPTĐC?”, có 16/45 phạm nhân (chiếm tỷ lệ 35,55%) cho biết có
tình trạng gia đình khuyết thiếu (cấu trúc không hoàn hảo, như cha mẹ ly hôn, mồ côi,
cha mẹ đang chấp hành án phạt tù); 29/45 phạm nhân (chiếm tỷ lệ 64,44%) gia đình
có đầy đủ cha mẹ; 12/45 người (chiếm 26,66%) cho biết có bố mẹ hoặc người thân
trong gia đình không gương mẫu, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội; 34/45
người (chiếm tỷ lệ 75,55%) cho biết có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không
ổn định; có 11 người (chiếm 24,44%) cho biết có thu nhập kinh tế ổn định;
- Xét theo đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của người phạm tội:
Nghiên cứu lý lịch 59 người phạm tội, thấy địa vị xã hội của họ: có 5/59 người
(chiếm 8,47%) là cán bộ công chức; có 54/59 người (chiếm 91,52%) kinh doanh tự do.
Về nghề nghiệp, có 29/59 người (chiếm 49,15%) không có nghề nghiệp; 25/59
người (chiếm 42,37%) có công việc, nghề nghiệp không ổn định; 5/59 người (chiếm
8,47%) là cán bộ, công chức, viên chức. Như vậy, số người phạm tội không có nghề
52
nghiệp, hoặc nghề nghiệp không ổn định chiếm tỷ lệ cao.
Một điểm đáng chú ý khác liên quan đến yếu tố nghề nghiệp của người phạm
tội, đó là lịch sử tham gia các hoạt động KDĐC của họ.
Theo khảo sát, có tới 47/59 người (chiếm 79,66%) đã từng tham gia hoạt động
KDĐC. Trong quá trình đó, họ học được những mánh lới, thủ đoạn KDĐC bất chính,
gian dối để trục lợi. Sau khi doanh nghiệp họ tham gia bị xử lý, họ thành lập mới
hoặc tham gia những doanh nghiệp KDĐC bất chính với vai trò tích cực hơn, dẫn đến
việc bị xử lý hình sự (xem Bảng 1.13 - phần phụ lục).
2.2.3.7. Cơ cấu của tình hình tội lừa đảo trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp xét
theo đặc điểm nạn nhân.
Nghiên cứu cơ cấu của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC theo
đặc điểm nạn nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích tội phạm, xác định vai
trò của nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm tội, xác định nguyên nhân và điều kiện
của THTP, từ đó xây dựng các giải pháp phòng ngừa THTP từ khía cạnh nạn nhân.
Nạn nhân trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC thường rất đông,
tỷ lệ thuận với quy mô của MLĐC. Chẳng hạn, trong vụ án xảy ra tại Công ty Liên
kết Việt, kết quả điều tra xác định có tới 66.880 người đã nộp số tiền
gần 2,100.000.000.000 đồng cho công ty này, bị chiếm đoạt 1.121.000.000.000 đồng.
Trong đó, Cơ quan CSĐT - Bộ Công an đã lấy lời khai đối với 7.346 người có trình
báo. Đây là những người đã mua gần 77.000 mã sản phẩm với tổng số tiền
hơn 658.000.000.000 đồng. Trong vụ án xảy ra tại Công ty MB24, có tới 17.000 nạn
nhân, bị thiệt hại hơn 630.000.000.000 đồng. Tương tự, có 39.000 người bị chiếm
đoạt 122.000.000.000 đồng trong vụ án Công ty Tâm mặt trời...[102].
Để làm rõ các đặc điểm của nạn nhân trong các vụ án lừa đảo KDĐC, tác giả sử
dụng phương pháp nghiên cứu điển hình từ 100/7.346 người bị thiệt hại tài sản (đã
lấy lời khai) trong vụ án xảy ra tại Công ty Liên Kết Việt (lựa chọn ngẫu nhiên từ
danh sách bị hại trong vụ án do Cơ quan CSĐT - Bộ Công an cung cấp), kết hợp với
việc điều tra xã hội học thông qua công cụ mạng xã hội. Trả lời “Bảng khảo sát ý kiến
về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC” được tác giả đăng tải trên tài khoản mạng
xã hội Facebook, trang Fanpage cá nhân và diễn đàn Oto fun, có 198/512 người cho
biết bản thân từng là nạn nhân của các vụ lừa đảo KDĐC. Kết quả phân tích đặc điểm
53
nạn nhân như sau:
- Xét theo đặc điểm giới tính của nạn nhân:
Trong vụ án xảy ra tại Công ty Liên kết Việt, có 67/100 nạn nhân là nữ giới
(chiếm 67%), trong khi nam giới chỉ có 33 người (chiếm 33% ). Trong số 198/512
người xác nhận từng là nạn nhân trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC, có 135 người là nữ giới (chiếm 68,18%), còn lại là nam giới (63 người,
chiếm 31,81%).
- Xét theo đặc điểm về độ tuổi của nạn nhân:
Phân tích độ tuổi của 100 nạn nhân trong vụ án xảy ra tại Công ty Liên kết Việt,
thấy từ 20 đến 34 tuổi có 13/100 người, (chiếm 13%); từ 35 đến 50 tuổi có 17/100
người (chiếm 17%); từ 50 đến 65 tuổi có 43/100 người (chiếm 43%) - là tỷ lệ cao
nhất; trên 65 tuổi có 27/100 người (chiếm 27%); không có nạn nhân nào dưới 18 tuổi.
Trong số 198 nạn nhân trả lời bảng hỏi, có 27/198 người trong độ tuổi từ 20 đến 34
(chiếm 13,63%); có 42/198 người trong độ tuổi từ 35 đến 50 (chiếm 21,21%); có
95/198 người trong độ tuổi từ 50 đến 65 tuổi (chiếm 47,97%) - là tỷ lệ cao nhất; trên
65 tuổi có 34/198 người (chiếm 17,17%); không có nạn nhân nào dưới 18 tuổi. Kết
quả phân tích 2 số liệu trên cho thấy, độ tuổi từ 50 đến 65 là nạn nhân chủ yếu của tội
lừa đảo trong lĩnh vực KDĐC.
- Xét theo trình độ học vấn của nạn nhân:
Phân tích trình độ học vấn của nạn nhân trong vụ án xảy ra tại Công ty Liên kết
Việt và kết quả điều tra xã hội học, thấy nạn nhân của loại tội này chủ yếu thuộc
nhóm xã hội có trình độ học vấn tương đối thấp.
Cụ thể, mù chữ có 05/100 người (chiếm 05%); trình độ tiểu học, trung học cơ
sở có 36/100 người (chiếm 36%); trung học phổ thông có 42/100 người (chiếm 42%);
trình độ đại học, cao đẳng có 17 người (chiếm 17%).
Trong số 198 nạn nhân trả lời bảng hỏi, có 76/198 người (chiếm 38,38 %) có
trình độ học vấn cấp trung học cơ sở; có 63/198 người (chiếm 31,81%) có trình độ
học vấn cấp trung học phổ thông; có 59/198 người (chiếm 29,79 %) có trình độ đại
học, cao đẳng.
- Xét theo đặc điểm về dân tộc và quốc tịch:
Trong số 100 nạn nhân của vụ án xảy ra tại Công ty Liên kết Việt, có 66 người
(chiếm tỷ lệ 66%) là dân tộc Kinh; 34 người (chiếm tỷ lệ 34%) thuộc các dân tộc
54
khác. Tất cả số nạn nhân đều có quốc tịch Việt Nam.
Trong số 198 nạn nhân trả lời bảng hỏi, có 129/198 người (chiếm 65,15 %) là
dân tộc Kinh, còn lại 69 người (chiếm 34,84%) thuộc các dân tộc khác.
- Xét theo đặc điểm về nơi cư trú của nạn nhân:
Trong số 100 nạn nhân của vụ Liên kết Việt, có 41/100 người (chiếm 41%) cư
trú tại các thành phố, trung tâm đô thị lớn; 59/100 người (chiếm 59%) cư trú tại vùng
nông thôn, miền núi và các đô thị nhỏ.
Trong số 198 nạn nhân trả lời bảng hỏi, có 97 người (chiếm 48,98%) cư trú tại
các thành phố, trung tâm đô thị lớn; có 101 người (chiếm 51,01%) cư trú tại vùng
nông thôn, miền núi và các đô thị nhỏ.
- Xét theo đặc điểm địa vị xã hội và nghề nghiệp của nạn nhân:
Nghiên cứu địa vị xã hội của 100 nạn nhân trong vụ án xảy ra tại Công ty Liên
kết Việt, thấy có 12/100 người (chiếm 12%) là cán bộ lãnh đạo trong hệ thống cơ
quan hành chính Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội; có 17/100 người (chiếm 17%) là
cán bộ công chức, viên chức; có 71/100 người (chiếm 71%) không giữ chức vụ.
Về nghề nghiệp, có 71/100 người (chiếm 71%) làm nông nghiệp, sinh viên các
trường đại học, cao đẳng, kinh doanh tự do, làm thuê cho các doanh nghiệp; 29/100
người (chiếm 29 %) là cán bộ công chức, viên chức.
Trong số 198 nạn nhân trả lời bảng hỏi, có 53/198 người (chiếm 26,76%) có
nghề nghiệp ổn định, còn lại 145/198 người (chiếm 73,23%) lao động tự do, sinh viên
các trường đại học, cao đẳng, kinh doanh tự do, làm thuê cho các doanh nghiệp...
Như vậy, số nạn nhân chủ yếu của tội lừa đảo KDĐC là người lao động tự do,
sinh viên các trường, người kinh doanh buôn bán, làm thuê cho các doanh nghiệp, có
thu nhập không ổn định...
- Xét theo đặc điểm động cơ tham gia kinh doanh đa cấp của nạn nhân:
Trong số 100 nạn nhân của vụ án xảy ra tại Công ty Liên kết Việt, có 81/100
người (chiếm 81%) có động cơ muốn làm giàu nhanh chóng, tăng thu nhập để thỏa
mãn các nhu cầu vật chất. Thay vì phải tham gia hoạt động bán hàng và phát triển
mạng lưới tiêu thụ để được hưởng lợi ích từ kết quả kinh doanh, nhiều người coi đây
là việc đầu tư sinh lời, nên lại bỏ tiền mua thật nhiều hàng hoá (thậm chí không biết
để làm gì), hoặc rủ rê lôi kéo nhiều người khác tham gia để nhanh chóng được tăng
55
thứ bậc trong MLĐC chứ không chú ý đến kết quả kinh doanh thực sự; 19 người
(chiếm 19%) tham gia vào mạng lưới KDĐC vì thiếu hiểu biết, nhận thức sai về
KDĐC tin vào lời dụ dỗ của các đối tượng lừa đảo. Trong số 198 nạn nhân trả lời
bảng hỏi, có 159/198 người (chiếm 80,30%) có động cơ muốn làm giàu nhanh chóng;
26/198 người (chiếm 13,13%) cho biết tham gia KDĐC bất chính do nhận thức mơ
hồ về phương thức kinh doanh này; 13/198 người (chiếm 6,56%) cho biết tham gia vì
cả nể, bị người thân, bạn bè vận động, lôi kéo.
2.2.4. Tính chất của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực
kinh doanh đa cấp
Từ kết quả nghiên cứu về thực trạng, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020, cho thấy tính
chất của tình hình tội này như sau:
- Tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có tính chất rất nghiêm
trọng, thể hiện ở quy mô của tội phạm, mức độ hậu quả thiệt hại bằng tiền và số
người bị hại. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong số vụ án lừa đảo CĐTS nói
chung, nhưng loại tội này đã gây ra những hậu quả thiệt hại đặc biệt lớn trong đời
sống dân sinh, hiếm có tội phạm xâm phạm sở hữu nào có thể vượt qua được. Chẳng
hạn như vụ lừa đảo xảy ra tại Công ty Liên kết Việt, 66.880 người tham gia đã bị thiệt
hại 1,121.000.000.000 đồng; vụ án tại Công ty MB24 với 17.000 người mua bán
“gian hàng ảo”, bị thiệt hại hơn 630.000.000.000 đồng; vụ án tại Công ty Tâm mặt
trời với khoảng 39.000 thành viên, bị chiếm đoạt khoảng 122.000.000.000 đồng.
Không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC còn tác động tiêu cực đến nền kinh tế và tình hình ANTT, làm phát sinh hoặc
gia tăng nhiều loại tội phạm và vi phạm pháp luật khác.
- Tính chất của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được phản
ánh qua chế tài mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với loại tội này.
Theo thống kê về mức hình phạt tù được áp dụng đối với người phạm tội này, có tới
36/59 người (chiếm 61,01%) bị xử phạt tù từ trên 7 đến 15 năm tù; 11 người (chiếm
18.64%) bị kết án phạt trên 15 năm tù đến tù chung thân. Mức hình phạt căn cứ vào
tính quy mô của hành vi phạm tội, tính chất và mức độ hậu quả thiệt hại mà loại tội
này đã gây ra trong đời sống xã hội, đồng thời phản ánh thái độ nghiêm khắc của Nhà
56
nước ta trong việc xử lý hành vi phạm tội này.
- Tính chất phức tạp, nguy hiểm của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC còn được thể hiện qua phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm. Nghiên cứu
hình thức thực hiện tội phạm cho thấy, thực hiện dưới hình thức đồng phạm (phạm tội có
tổ chức) chiếm tới 95,23%. Đây là tỷ lệ rất cao so với các loại tội phạm thông thường.
Thủ đoạn phạm tội của các nhóm lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC ngày
càng trở nên đa dạng, tinh vi, phức tạp hơn trước, thường xuyên cập nhật và ứng dụng
những tiến bộ của khoa học công nghệ vào hoạt động phạm tội.
Nếu như trước đây, các doanh nghiệp KDĐC bất chính chủ yếu hoạt động trong
lĩnh vực bán sản phẩm hàng hoá cụ thể, thì hiện nay thủ đoạn lừa đảo đã có nhiều
biến thể mới tinh vi, phức tạp, xảo quyệt hơn.
Chẳng hạn như hành vi huy động tài chính đa cấp diễn ra ngày càng nhiều hơn
trên không gian mạng, núp dưới danh nghĩa góp vốn đầu tư dự án, nhượng quyền kinh
doanh, mua bán cổ phần, mua bán gian hàng “ảo”, kinh doanh tiền “ảo”, sân chơi ngoại
hối, thương mại điện tử, khoá học làm giàu...là những lĩnh vực không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Nghị định 40/2018/NĐ-CP, với mục đích “lách luật”, gây khó khăn
trong công tác quản lý và xử lý vi phạm (xem Bảng 1.11 - phần phụ lục).
- Tính chất nguy hiểm của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
còn được thể hiện qua các đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Người phạm tội
trong các vụ án đã xử lý hình sự đa số đều có trình độ học vấn cao. Số tốt nghiệp
trung học phổ thông chiếm 28,81%%; số có trình độ trên đại học, đại học, cao đẳng
chiếm 64,40% (xem Bảng 1.13 - phần phụ lục). Chẳng hạn, số người phạm tội trong
vụ án xảy ra tại Công ty MB24, Công ty Cộng đồng Việt, Tâm Mặt trời, Công ty
IDT...đều được đào tạo bài bản trong các chuyên ngành kinh tế, hoặc công nghệ
thông tin, có tri thức ở trình độ cao, am hiểu tâm lý xã hội và dày dặn kinh nghiệm
thương trường, có khả năng hùng biện, có tài tổ chức, nhanh nhạy tiếp thu cái mới,
cái tiến bộ, làm chủ khoa học công nghệ...Khi họ vận dụng kiến thức, khả năng vào
những hành động vi phạm pháp luật, thì tính chất nguy hiểm của hành vi, quy mô của
hậu quả thiệt hại luôn lớn gấp nhiều lần so với hậu quả của những tội phạm xâm
phạm sở hữu thông thường, do người có trình độ hạn chế thực hiện. Một điểm đáng
57
chú ý khác, đó là số người phạm tội trong các vụ án này chưa có tiền án, tiền sự
chiếm tỷ lệ khá cao (91,52%). Vì thế họ thường nằm ngoài danh sách quản lý nghiệp
vụ (đối tượng sưu tra kinh tế, hình sự) của ngành Công an.
Chính vì không có những “vấn đề” từ trước, nên họ không bị chú ý cho đến khi
hành vi phạm tội bị phát giác, đồng nghĩa với việc công tác điều tra cơ bản, quản lý
nghiệp vụ để kịp thời phát hiện và ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm không được triển
khai đối với đối tượng thuộc hệ loại này.
2.2.5. Đánh giá phần ẩn của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Một bộ phận cấu thành nên bức tranh tổng thể của tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC trong giai đoạn 2011 - 2020, đó là phần ẩn của tình hình tội này.
Bằng phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn chuyên gia, nghiên cứu điển hình,
NCS đã khảo sát, phân tích, luận giải một số vấn đề liên quan đến phần ẩn của tình
hình. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chỉ có thể đánh giá mức độ ẩn của THTP một
cách tương đối, gần sát với thực tế.
2.2.5.1. Mức độ ẩn của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực
kinh doanh đa cấp
Phòng CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu (PC03) - Công an TP
Hà Nội trong giai đoạn 2011 - 2020 đã tiếp nhận, giải quyết nhiều tố giác, tin báo tội
phạm và thụ lý điều tra nhiều vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Để tìm hiểu
về mức độ ẩn của THTP, NCS đã tiến hành phát phiếu điều tra xã hội học và phỏng
vấn sâu đối với 100 điều tra viên, trinh sát viên của đơn vị này.
Với câu hỏi: “Theo đánh giá của đồng chí, tỷ lệ vụ phạm lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC chưa được phát hiện chiếm bao nhiêu phần trăm so với tổng số vụ án
đã xảy ra trên thực tế?”, thu được kết quả như sau: Trong 100 phiếu thu về, có 36
phiếu (36%) nhận định số vụ án chưa được phát hiện chiếm từ 50 - 60% trên tổng số
vụ đã xảy ra trên thực tế; 25 phiếu (25%) cho rằng số vụ án chưa được phát hiện
chiếm từ 61 đến 70%; 16 phiếu (16%) nhận định số vụ án chưa được phát hiện chiếm
từ 71 đến 80%; còn lại 23 phiếu (23%) trả lời với các tỉ lệ khác nhau. Như vậy, mức
độ ẩn trung bình của loại tội này khoảng 60% [82].
Để làm rõ hơn các vấn đề liên quan đến THTP ẩn của loại tội này, NCS đã tiến
58
hành điều tra xã hội học tại một số cộng đồng dân cư, nơi hoạt động lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC đã diễn ra phức tạp, với nhiều nạn nhân trình báo việc bị dụ dỗ
tham gia KDĐC dẫn đến thiệt hại tài sản, như tại Khu đô thị mới Linh Đàm (P.
Hoàng Liệt, Q. Hoàng Mai, TP. Hà Nội); xã Diễn An (huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ
An; trường Đại học Công đoàn Hà Nội. Kết quả như sau:
- Trong 100 phiếu điều tra xã hội học thu về hợp lệ tại xã Diễn An, huyện Diễn
Châu, tỉnh Nghệ An, có 63/100 phiếu (63%) trả lời đã từng tham gia vào hoạt động
KDĐC; 37/100 phiếu (37%) trả lời chưa từng tham gia KDĐC. Trong số 63/100
phiếu trả lời đã từng tham gia vào hoạt động BHĐC, có 59/63 phiếu (59%) cho biết
đã bị mất một khoản tiền khi tham gia vào hoạt động này; 57/63% phiếu cho biết đã
mời chào, rủ rê người thân, bạn bè, đồng nghiệp cùng tham gia vào mạng lưới KDĐC,
với mong muốn thu lại được khoản tiền đã mất và nhận được thù lao, hoa hồng phát
triển mạng lưới. Trong số 37/100 phiếu (37%) trả lời chưa từng tham gia KDĐC, có
20/37 phiếu trả lời biết những người xung quanh là nạn nhân trong các vụ lừa đảo
trong KDĐC. Trong số 59/63 người cho biết đã bị mất một khoản tiền khi tham gia
KDĐC, nhưng chỉ có 11/63 người (11%) cho biết đã làm đơn trình báo, tố giác việc bản
thân bị lừa, hoặc thấy người khác làm đơn trình báo, tố giác các công ty KDĐC bất chính
tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền [82]. Phỏng vấn trực tiếp một số hộ dân trong khu
vực, được biết có nhiều người dân địa phương đã bị mất một khoản tiền khá lớn khi tham
gia vào MLĐC của Công ty TNHH quảng cáo trực tuyến DDB (Công ty DDB). Tuy họ
đã làm đơn tố cáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ ngày 20/01/2017 nhưng đến
nay, cơ quan chức năng vẫn chưa có động thái gì để giải quyết sự việc, cũng như giúp họ
đòi lại số tiền đã đóng vào công ty này [82].
- Trong 200 phiếu điều tra thu về hợp lệ tại khu đô thị mới Linh Đàm, (P. Hoàng
Liệt, Q. Hoàng Mai, TP. Hà Nội), có 98/200 người (49%) trả lời đã từng tham gia vào
hoạt động KDĐC; 40/200 người (20%) cho biết đã từng là nạn nhân của các vụ lừa
đảo trong lĩnh vực KDĐC; 48 người (24%) xác nhận rằng có biết những người xung
quanh là nạn nhân trong các vụ lừa đảo trong lĩnh vực KDĐC; 30 người cho biết bản
thân hoặc thấy người khác trình báo với cơ quan chức năng về việc bị lừa đảo [82].
- Trong 100 phiếu điều tra với đối tượng là sinh viên trường Đại học Công đoàn
Hà Nội, có 100% số phiếu trả lời đã từng nghe nói, đọc tài liệu hoặc nghiên cứu về
59
PTKDĐC. Tìm hiểu sâu kỹ hơn với câu hỏi: “Ông/bà đã từng tham gia kinh doanh
đa cấp hay chưa?”; kết quả có 36/100 phiếu cho biết đã từng tham gia vào các công
ty KDĐC (chiếm 36%); 20/100 phiếu thừa nhận đã bị thiệt hại một số tiền khi tham
gia KDĐC (chiếm 20%). Tuy nhiên, 20% số sinh viên thừa nhận bị mất tiền đều trả
lời họ không làm đơn trình báo, tố giác doanh nghiệp KDĐC với cơ quan chức năng.
Lý do được đưa ra chủ yếu là vì số tiền bị mất không lớn, hoặc không tin vào khả
năng được cơ quan chức năng giúp thu hồi được tiền đã nộp; nghĩ rằng có báo án
cũng không lấy lại được tiền. Một số khác ngại tiếp xúc vì lo phiền hà về thủ tục, mất
thời gian, ảnh hưởng đến công việc, học tập [82].
Với kết quả điều tra xã hội học nêu trên, có thể thấy tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC có độ ẩn khá cao. Trên thực tế đã xảy ra nhiều vụ án nhưng không
được phát hiện, không xử lý hình sự, nên không có trong số liệu thống kê tội phạm.
2.2.5.2. Thời gian ẩn, địa bàn ẩn của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh
vực kinh doanh đa cấp:
Về thời gian ẩn, tính khoảng thời gian từ thời điểm hành vi phạm tội đầu tiên
được thực hiện đến thời điểm vụ án được phát hiện hoặc bị tố cáo, trong 21 vụ án lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có thời gian ẩn như sau: số vụ án được phát hiện
trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm: 2 vụ (chiếm 9,52%); số vụ án được phát
hiện trong khoảng thời gian từ trên 1 năm đến 2 năm: 13 vụ (chiếm 61,90%); số vụ án
được phát hiện trong khoảng thời gian từ trên 2 năm đến 3 năm: 4 vụ (chiếm 19,04%);
số vụ án được phát hiện trong khoảng thời gian từ trên 3 năm đến 4 năm: 2 vụ (chiếm
9,52%) [102].
Như vậy, qua phân tích thời gian phát hiện tội phạm trong 21 vụ án, có thể thấy
đa số các vụ phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có thời gian ẩn trong
khoảng thời gian từ trên 1 năm đến 2 năm (chiếm 61,90%); tiếp đến là khoảng thời
gian từ trên 2 năm đến 3 năm (chiếm 19,04%); số vụ có thời gian ẩn trên 3 năm và số
vụ được phát hiện trong khoảng thời gian 1 năm bằng nhau (chiếm 9,52%) [102].
Về địa bàn ẩn, trong 21 vụ án, có 19/21 vụ (chiếm 90,47%) xảy ra tại địa bàn
đô thị lớn, chỉ có 02 vụ (chiếm 9,52%) xảy ra tại nông thôn, miền núi [102].
Điều này phù hợp với thực tiễn là hầu hết các băng nhóm lừa đảo CĐTS trong
60
lĩnh vực KDĐC đều đặt trụ sở chính của doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động lừa
đảo tại các đô thị lớn, tập trung chủ yếu tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh...đồng thời
mở ra các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các địa phương khác.
Số liệu trên cho thấy địa bàn ẩn của tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
chủ yếu tại các đô thị. Tại vùng nông thôn, miền núi, tuy đã xảy ra loại tội này, nhưng
đó không phải là địa bàn hoạt động thường xuyên, chủ yếu.
2.2.5.3. Nguyên nhân của tội phạm ẩn
(i) Nguyên nhân từ phía nạn nhân: Độ ẩn của THTP phụ thuộc rất nhiều vào
hành động tố giác tội phạm của nạn nhân. Đặc biệt, tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của công dân...nên nếu nạn nhân không
tố giác tội phạm thì cơ quan chức năng không có căn cứ để tiến hành các hoạt động
điều tra xác minh. Không có nạn nhân thì dẫu muốn, các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng không thể làm gì dù nắm được thông tin tội phạm. Các vụ án lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC đã xét xử trong thời gian vừa qua đều do có sự tố cáo của
người bị hại.
Để tìm hiểu tỷ lệ tố giác tội phạm với tội lừa đảo trong lĩnh vực KDĐC, ngoài
việc tiến hành điều tra thực địa theo phương pháp truyền thống tại một số cộng đồng
dân cư đặc thù, NCS còn ứng dụng công nghệ trong thiết kế và đăng tải nội dung điều
tra xã hội học trực tuyến trên mạng Internet, để lấy ý kiến cộng đồng người sử dụng
mạng xã hội.“Bảng khảo sát ý kiến về tội lừa đảo trong kinh doanh đa cấp” được tác
giả đăng tải trên tài khoản mạng xã hội Facebook và trang Fanpage cá nhân, trên một
số diễn đàn có đông đảo thành viên như Oto fun. Kết quả đã có 512 người thuộc
nhiều các thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi sinh sống khác nhau...đã phản hồi bằng
cách câu trả lời trực tuyến về từng vấn đề trong bảng hỏi [82]. Trong số đó, có 198
người cho biết bản thân từng là nạn nhân của các vụ lừa đảo trong lĩnh vực KDĐC.
Với câu hỏi: “Khi bị doanh nghiệp KDĐC lừa đảo, ông/bà có trình báo, tố giác sự
việc với cơ quan chức năng hay không?”, chỉ có 62/198 người cho biết đã làm đơn tố
giác tội phạm (chiếm tỷ lệ 31,31%); còn 136 người (chiếm 68,69%) cho biết đã
không tố giác tội phạm vì các lý do:
- Không tin vào khả năng cơ quan chức năng sẽ bảo vệ mình, thu hồi được tiền
đã đóng vào công ty; nghĩ rằng có báo án cũng không lấy lại được tiền. Nguyên nhân
61
này chiếm 35,29% (48/136 người).
- Người bị hại vì số tiền bị mất không lớn, hoặc không muốn mất thời gian đi tố
giác tội phạm. Nguyên nhân này chiếm 22,05% (30/136 người), chủ yếu là học sinh,
sinh viên bị bạn bè lôi kéo đóng tiền để tham gia vào MLĐC, nhưng nhanh chóng
nhận ra bản chất lừa đảo và kịp thời rút khỏi các công ty này. Số tiền bị mất thường
dưới 2.000.000 đồng. Với suy nghĩ thiệt hại nhỏ, có tố cáo đến cơ quan chức năng
cũng không được giải quyết mà chỉ mất thời gian, nên nhiều người đã không thực
hiện nghĩa vụ tố giác tội phạm.
- Một lý do nữa khiến cho nạn nhân không muốn tố cáo người phạm tội, đó là vì
tâm lý e ngại việc tố giác tội phạm sẽ liên đới đến mình, vì bản thân cũng ít nhiều
dính dáng đến đến hành vi phạm tội đó. Trong nhiều vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC, nhiều người vì đã trót đóng tiền vào công ty, để thu hồi lại khoản tiền đó
và được hưởng hoa hồng, thù lao phát triển hệ thống...nên đã tiếp tục rủ rê, lôi kéo
người khác tham gia vào MLĐC. Bên cạnh đó, cũng có không ít người cũng đã biết
rõ từ trước sự lừa dối của hoạt động KDĐC bất chính và tham gia với sự chủ động để
thu được những lợi ích kinh tế, chứ không phải bị lừa gạt, dụ dỗ, cả tin. Đó là những
người tham gia nhiều MLĐC bất chính. Khi một MLĐC nào đó bị sụp đổ, họ tham
gia MLĐC khác, thậm chí lấy kinh nghiệm từ việc hoạt động KDĐC bất chính trước
đó, để thành lập ra các công ty, doanh nghiệp hoạt động KDĐC lừa đảo. Với những
đối tượng này, bản thân họ cũng ý thức được việc làm của mình là sai trái, giúp sức
cho hoạt động lừa đảo của những người cầm đầu doanh nghiệp, nên không muốn tố
cáo vì sợ liên luỵ đến bản thân. Nguyên nhân này chiếm 15,44 % (21/136 người).
- Một số nạn nhân khi tham gia vào mạng lưới KDĐC bất chính vì lòng tham,
tính hám lợi. Trong quá trình làm việc, chính họ cũng đã “vẽ” ra những lợi ích
tưởng tượng để lôi kéo người khác. Vì vậy khi bị doanh nghiệp lừa đảo mất tiền, họ
có tâm lý xấu hổ và tự trách mình, chấp nhận thiệt hại, chứ không muốn làm to
chuyện để bảo toàn danh dự, che dấu sai lầm của mình. Đây là nguyên nhân tâm lý
cản trở nạn nhân báo án, chiếm 8,08% (11/136 người).
- Nhận thức mơ hồ về KDĐC cùng các biến tướng của nó trong một bộ phận
quần chúng nhân dân, cũng là nguyên nhân quan trọng khiến tội phạm lừa đảo trong lĩnh
vực này có độ ẩn cao. Nhiều người do nhận thức, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa
62
có thói quen đối chiếu hành vi và quy phạm pháp luật hay không đánh giá được tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi có dấu hiệu lừa đảo, thậm chí khi bị thiệt hại không
biết phải trình báo với ai, ở đâu...Nguyên nhân này chiếm 14,70 % (20/136 người).
- Một nguyên nhân khá “đặc biệt” khác, đó là chính nạn nhân bao che cho người
phạm tội. Nhiều người nhận thức rằng nếu để chủ doanh nghiệp bị “đi tù”, đồng
nghĩa với việc khoản tiền đã đóng vào công ty của họ sẽ mất trắng. Để “ông chủ” bên
ngoài xã hội thì còn có cơ hội mà đòi lại số tiền đã đầu tư [82]. Điển hình như tại
phiên tòa xét xử người phạm tội Hsu Minh Jung (tức Saga, quốc tịch Đài Loan), cựu
Tổng Giám đốc Công ty Khải Thái, nhiều người bị hại đồng loạt quay sang ủng hộ
cho người phạm tội. Có 06/136 người (chiếm 4,41%) xác nhận không tố giác tội
phạm vì lý do này.
(ii) Nguyên nhân từ chủ thể tội phạm: Đặc điểm của tội lừa đảo CĐTS nói
chung, tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng là bằng những hành vi gian
dối tạo lòng tin ở người khác, để họ lầm tưởng mà tự nguyện trao tài sản. Nghiên cứu
21 vụ án đã xảy ra cho thấy: để trốn tránh trách nhiệm trước pháp luật, chủ thể thực
hiện tội phạm luôn có ý thức che dấu hành vi phạm tội của mình bằng các thủ đoạn
tinh vi. Chẳng hạn, việc yêu cầu người tham gia mạng lưới KDĐC ký các hợp đồng
dân sự, như hợp đồng góp vốn đầu tư dự án, hợp đồng mua bán cổ phần, nhượng
quyền kinh doanh, hợp đồng mua bán hàng hóa...nhằm che đậy bản chất thật sự của
việc huy động vốn của người tham gia để chiếm đoạt. Khi xảy ra khiếu kiện, sự việc
bị hiểu thành tranh chấp trong giao dịch dân sự giữa các bên, gây khó khăn cho hoạt
động điều tra làm rõ bản chất vụ án. Thủ đoạn đàm phán riêng, “bẻ từng chiếc đũa”
cũng được chủ doanh nghiệp KDĐC áp dụng khi bị người tham gia khiếu kiện. Thời
gian quan nhiều người dân bức xúc vì bị lừa, làm đơn tố cáo doanh nghiệp với cơ
quan chức năng hoặc báo chí. Thấy tình hình phức tạp, doanh nghiệp liền tổ chức
cuộc gặp riêng để đàm phán, chấp nhận trả họ chút tiền và yêu cầu rút đơn kiện.
Nhiều người khi thấy vấn đề của mình được giải quyết, đồng ý không tố cáo và rút
đơn hay dừng ý định tố cáo, vì vậy sự việc không được làm rõ. Các đối tượng lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC hiện nay thường sử dụng mạng Internet như một công
cụ để thực hiện tội phạm. Trên không gian mạng, người phạm tội có khả năng ẩn
danh rất cao. Vì không trực tiếp làm việc với nhà đầu tư, nên khi họ đánh sập trang
63
web, xóa dấu vết trên mạng thì nạn nhân không biết tố cáo ai. Cơ quan chức năng
cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc truy tìm đối tượng gây án. Trong nhiều vụ án,
người phạm tội sau khi chiếm đoạt được khoản tiền lớn, thường bỏ trốn ra nước ngoài,
gây khó khăn cho việc điều tra xử lý tội phạm [102].
(iii) Nguyên nhân từ hạn chế trong hoạt động của cơ quan chức năng, từ sự
thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp luật: Tỷ lệ ẩn của tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC còn có nguyên nhân từ những hạn chế, tồn tại trong công tác tiếp nhận
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố liên quan đến tội phạm và
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực KDĐC. Phỏng vấn sâu một số lãnh đạo, điều tra
viên tại Văn phòng Cơ quan CSĐT - Công an TP Hà Nội (PC01), được biết tình trạng
khá phổ biến tại nhiều cơ quan điều tra đó là vì điều kiện quân số hạn chế nên chỉ tập
trung giải quyết các vụ án đã khởi tố, các vụ trọng án hoặc vụ việc nhạy cảm, dư luận
quan tâm hoặc có chỉ đạo từ cấp trên...Vì vậy công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo tội phạm ở nhiều đơn vị chưa đạt yêu cầu, với các lỗi phổ biến như: phân loại
tin báo chưa chính xác, không vào sổ thụ lý tin báo, không ban hành quyết định phân
công điều tra viên giải quyết, thiếu kế hoạch xác minh, vi phạm thời hạn giải quyết
tin báo hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, chậm ban hành hoặc gửi
thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, công
tác tổ chức xác minh nguồn tin báo, tố giác tội phạm chưa được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh đó, hoạt động phòng ngừa và điều tra tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC còn nhiều hạn chế. Theo báo cáo công tác năm của Phòng PC03 - Công an TP
Hà Nội, tình trạng người phạm tội lừa đảo CĐTS nằm ngoài diện quản lý nghiệp vụ
còn chiếm tỷ lệ cao; phần lớn nguồn tin về các vụ án lừa đảo CĐTS đều đến từ những
người bị hại, chứ không từ các biện pháp nghiệp vụ trinh sát. Trong hoạt động điều
tra, công tác mở rộng vụ án để phát hiện đường dây, tổ chức tội phạm hoạt động lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC còn hạn chế; tiến độ thụ lý các vụ án loại này còn
chậm do quy mô của tội phạm rất lớn, phải điều tra trong thời gian rất dài, làm giảm
tính răn đe của pháp luật đối với tội phạm.
Hệ thống pháp luật về quản lý KDTPTĐC chưa hoàn thiện cũng là nguyên nhân
quan trọng làm tăng tỷ lệ ẩn của THTP. Chẳng hạn, Nghị định 40/2018/NĐ-CP, Điều
217a Bộ luật Hình sự 2015 được ban hành với mục đích tăng cường QLNN và ngăn
64
ngừa sớm những hành vi KDĐC bất chính. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều doanh nghiệp
không BHĐC mà lại huy động tài chính trực tiếp, bán cổ phần nội bộ, nhượng quyền
kinh doanh, góp vốn hợp tác đầu tư vào dự án... theo phương thức đa cấp. Theo
Khoản 16, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2014, thì “kinh doanh là việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi". Với định
nghĩa này, các hoạt động huy động vốn nằm ngoài phạm vi “từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ", do đó thiếu cơ sở pháp lý để xác định là hoạt động
kinh doanh. Vì vay các hoạt động huy động vốn dù có tính chất đa cấp nhưng vẫn
không thể kết luận là hoạt động KDTPTĐC, do đó không thuộc diện bị quản lý theo
quy định của Nghị định số 40/2018/NĐ-CP. Việc áp dụng Điều 217a “Tội vì phạm
quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp" cũng vì vậy gặp vướng mắc.
Những bất cập này dẫn tới việc đánh giá hành vi phạm tội dễ bị bỏ lọt, làm gia tăng tỷ
lệ tội phạm ẩn.
Tiểu kết Chương 2
PTKDĐC đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới từ rất lâu, vì là phương thức
kinh doanh hiện đại, có nhiều điểm ưu việt như mang lại nhiều giá trị, lợi ích cho
doanh nghiệp, cho người tiêu dùng, đồng thời tạo được nhiều việc làm cho xã hội.
Sau hơn 2 thập kỷ du nhập vào Việt Nam, bên cạnh những doanh nghiệp làm
ăn chân chính, có đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, thì phương
thức kinh doanh này đã bị lợi dụng và biến tướng thành những hành vi vi phạm pháp
luật. Thời gian qua, lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC diễn biến rất phức tạp. Thủ
đoạn huy động vốn của người tham gia MLĐC núp dưới danh nghĩa kêu gọi góp vốn
đầu tư dự án, nhượng quyền kinh doanh, mua bán cổ phần, kinh doanh tiền ảo, kinh
doanh sản phẩm thông tin số…đã gây ra những hậu quả thiệt hại vô cùng nặng nề
trong đời sống xã hội. Hành vi lừa đảo trong lĩnh vực này không chỉ trong phạm vi
một địa phương, mà đã lan rộng trong phạm vi toàn quốc. Bước vào thời kỳ Cách
mạng công nghiệp 4.0, tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã triệt để khai thác,
ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông, phương tiện điện tử vào việc thực hiện tội
phạm, khiến cho quy mô của hoạt động phạm tội không có giới hạn, số lượng nạn
65
nhân rất lớn, cùng với nó là hậu quả đối với xã hội hết sức nặng nề.
Trước năm 2016, vì nhận thức của cộng đồng về KDĐC còn mơ hồ, sự thiếu
hoàn thiện của hệ thống pháp luật, sự buông lỏng quản lý cùng những hạn chế trong
công tác phòng ngừa và phát hiện, điều tra xử lý…mà loại tội này có điều kiện lộng
hành. Việc xử lý hình sự các vụ án thường chậm trễ, luôn đi sau tội phạm, khi mà hậu
quả đã xảy ra, với số lượng đông đảo người tham gia bị thiệt hại và không có khả
năng thu hồi.
KDĐC là phương thức kinh doanh hiện đại, nhưng ẩn chứa nhiều khả năng bị
biến tướng thành các hành vi vi phạm pháp luật. Để lĩnh vực kinh doanh này thực sự
lành mạnh thì công tác QLNN cùng nhận thức của cộng đồng xã hội cần được phải
được nâng cao. Việc kịp thời phát hiện tội phạm và xử lý nghiêm minh đối với các
doanh nghiệp KDĐC bất chính, lợi dụng phương thức KDĐC để thực hiện hành vi
lừa đảo người tham gia, sẽ góp phần lành mạnh hoá ngành kinh tế này.
Trong Chương 2, NCS đã xây dựng lý luận về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC, làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý của loại tội này, phân biệt giữa tội này và
các hành vi vi phạm pháp luật khác có liên quan. Trên cơ sở nhận thức lý luận về tội
này, NCS đã trình bày lý luận tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC,
phân tích các thông số của THTP. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, NCS đã trình bày
tương đối chi tiết tổng thể tình hình tội này, đi sâu phân tích các thông số thực trạng,
diễn biến, cơ cấu, tính chất của THTP. Để có bức tranh tổng thể về THTP, NCS đã
tiến hành nhiều cuộc điều tra xã hội học khá công phu, nhằm làm rõ phần ẩn, nguyên
nhân ẩn của tình hình tội này tại Việt Nam, giai đoạn 2011 – 2020, để tạo tiền đề cần
thiết cho việc nghiên cứu, luận giải nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa
66
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC trong chương tiếp theo.
Chương 3
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH ĐA CẤP
3.1. Những lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
3.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 cho thấy, mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong số
vụ án lừa đảo CĐTS đã xét xử theo Điều 139 - BLHS 1999; Điều 174 - BLHS 2015,
nhưng tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC giai đoạn 2011 - 2020 diễn
biến rất phức tạp, đã gây ra những hậu quả nặng nề trong đời sống xã hội. Do đó, để
xây dựng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội này, cần dựa trên kết quả nghiên cứu,
làm rõ các nguyên nhân và điều kiện của THTP.
Hiện nay trong giới nghiên cứu Tội phạm học Việt Nam đang tồn tại nhiều quan
điểm tiếp cận và cách luận giải khác nhau về phạm trù nguyên nhân và điều kiện của
THTP.
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà cho rằng: “Nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm
là nghiên cứu cơ chế tác động của môi trường xã hội đến con người để hình thành
nhân cách của họ cũng như nghiên cứu cơ chế tác động qua lại giữa nhân cách đó và
môi trường để hình thành ý định thực hiện hành vi phạm tội và kết quả là tội phạm
xảy ra trong điều kiện nhất định” [50].
Theo PGS. TS Lê Cảm, nguyên nhân của THTP là nguyên nhân chung của toàn
bộ tổng số tội phạm (tổng số người thực hiện các hành vi phạm tội) [109]. Điều kiện
tuy không sản sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ thúc đẩy sự tương tác sinh ra
kết quả. Về bản chất, điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh
nhất định [56, tr.81].
PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh nêu quan điểm: “Để nguyên nhân sinh ra kết quả nhất
định nào đó thì quá trình tương tác phải diễn ra trong điều kiện nhất định. Điều kiện
67
tuy không sản sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh
ra kết quả. Vậy nên, về bản chất, điều kiện là những sự kiện, tình huống, hoàn cảnh
nhất định” [55].
Từ cách tiếp cận coi nguyên nhân và điều kiện của THTP là hệ thống các hiện
tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng, quyết định sự ra đời
của THTP như là hậu quả của mình [114, tr.87], GS.TS Võ Khánh Vinh định nghĩa:
“Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong
mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là
hậu quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã
hội tiêu cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm và các tội phạm, mà là hỗ trợ,
làm dễ dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân”
[114, tr.80]. Ông cho rằng giữa các nguyên nhân và điều kiện của THTP có sự tác
động qua lại chặt chẽ với nhau. Các điều kiện không tự mình sinh ra được tội phạm,
và nếu thiếu điều kiện thì nguyên nhân hoặc là không thể hình thành, hoặc không thể
thực hiện được. Nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP theo một cơ chế riêng,
cụ thể con người con người chịu sự tác động qua lại của những hiện xã hội tiêu cực
nên đã hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực. Tuy nhiên, đặc điểm nhân thân
tiêu cực này chưa làm phát sinh tội phạm nếu không có sự tác động của tình huống xã
hội cụ thể. Hiển nhiên là tội phạm không thể phát sinh ở một người cho dù nhân cách
có xấu xa đến mấy, nhưng không bị những yếu tố tiêu cực bên ngoài môi trường sống
tác động vào. Đồng thời, nếu người đó không có những phẩm chất, nhân cách xấu thì
những yếu tố tiêu cực từ môi trường sống có tác động đến mấy, cũng không thể làm
tội phạm phát sinh. “Những điều kiện, những yếu tố của môi trường bên ngoài hay
những quá trình tâm lí bên trong con người, dù ở mức độ bất lợi và xấu như thế nào
đi chăng nữa, tự nó đều không phải là nguyên nhân và điều kiện của hành vi phạm
tội cụ thể, mà phải là sự tương tác, kết hợp của hai loại yếu tố đó mới trở thành
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể” [68].
Với luận giải nêu trên, vấn đề nguyên nhân và điều kiện của THTP được khái
quát hoá ở mức độ cao nhất. NCS đồng tình và kế thừa quan điểm khoa học này bởi
vì vấn đề tình hình tội lừa đảo trong lĩnh vực KDĐC được nghiên cứu ở cấp độ một
68
hiện tượng xã hội tiêu cực, nằm trong tổng thể của THTP nói chung và trong mối
quan hệ giữa nó với toàn bộ xã hội, chứ không phải những hành vi phạm tội mang
tính riêng lẻ - đơn nhất.
Từ nhận thức đó, NCS cho rằng: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp là các hiện tượng xã hội
tiêu cực, trong mối liên hệ tương tác qua lại làm phát sinh tổng thể các hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn sử dụng phương thức kinh doanh đa cấp một
cách gian dối, bất chính để chiếm đoạt tài sản của người tham gia”.
Với định nghĩa trên, vấn đề nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được NCS tiếp cận theo nội dung, trên các phương diện
như: những hạn chế trong môi trường kinh tế - xã hội, văn hoá giáo dục; những hạn
chế trong công tác QLNN đối với lĩnh vực KDĐC; những hạn chế trong hệ thống
pháp luật về KDĐC; vai trò nạn nhân của tội phạm; những yếu tố tiêu cực trong nhân
thân người phạm tội. Quá trình nghiên cứu, phân tích về các hạn chế này được triển
khai trên cơ sở lý luận tâm lý học hành vi, cơ chế hành vi phạm tội,… để làm sáng tỏ
sự tác động của các yếu tố tiêu cực trong môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội…đến
việc hình thành nhân cách lệch chuẩn trong tâm lý người phạm tội, cũng như sự
tương tác giữa các tình huống trong thực tế đời sống với các đặc điểm bên trong của
người phạm tội, làm nảy sinh ý định phạm tội, kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm
và quyết định gây án.
Mặc dù nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC là hai phạm trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc làm phát sinh
tình hình tội này. Tuy nhiên, việc phân định rạch ròi đâu là nguyên nhân, đâu là điều
kiện sẽ rất khó khăn và cũng chỉ mang tính chất tương đối, vì một hiện tượng xã hội
tiêu cực, trong trường hợp này có thể là nguyên nhân, nhưng ở tình huống khác lại là
điều kiện làm phát sinh THTP. Hơn nữa, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
đòi hỏi phải loại trừ mọi yếu tố thuộc về nguyên nhân và điều kiện của THTP.
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC có ý nghĩa định hướng tư duy cho công tác phòng ngừa THTP, chủ
động xây dựng các biện pháp phòng ngừa THTP một cách khoa học và hiệu quả trên
cơ sở nắm bắt quy luật phát sinh, tồn tại, phát triển của nó. Đồng thời góp phần vào
69
công tác hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách pháp
luật…phù hợp để hạn chế, giảm thiểu và loại trừ dần dần các hiện tượng xã hội tiêu
cực là nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP.
3.1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Tội phạm học Việt Nam phân chia nguyên nhân, điều kiện của THTP trên cơ
sở các tiêu chí về cơ chế, mức độ tác động, nội dung tác động và bản chất của sự tôn
trọng xã hội [91, tr.139]. Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC rất đa dạng, phức tạp và có thể tiếp cận nghiên cứu
theo nhiều góc độ khác nhau.
Trong phạm vi đề tài luận án, NCS lựa chọn cách tiếp cận nghiên cứu vấn đề
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC theo
các nội dung cụ thể như sau:
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ những hạn chế trong môi trường
kinh tế - xã hội;
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ những hạn chế trong môi trường văn
hoá, đạo đức xã hội;
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ những hạn chế trong hoạt động quản
lý Nhà nước về KDĐC;
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ những hạn chế trong hệ thống pháp
luật về KDĐC;
- Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ những hạn chế trong công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cho người dân;
- Nhóm nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ chính nạn nhân của tội phạm
(khía cạnh nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm tội);
- Nhóm nguyên nhân và điều kiện phát từ những đặc điểm tâm lý tiêu cực của
cá nhân người phạm tội.
Việc nghiên cứu, luận giải các nguyên nhân và tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC dựa trên cơ sở lý luận về cơ chế hành vi phạm tội, để giải thích
70
vì sao hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế.
3.2. Thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp tại Việt Nam, giai đoạn 2011 - 2020
Tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là một hiện tượng xã hội,
phát sinh và tồn tại trong lòng xã hội, nên chịu sự tác động từ những hiện tượng tiêu
cực trong môi trường sống của cá nhân con người. Những hiện tượng tiêu cực từ môi
trường gia đình, nhà trường, nơi sinh hoạt, làm việc, hạn chế trong môi trường xã hội
vĩ mô như tình hình kinh tế xã hội, văn hoá giáo dục, những thiếu sót, hạn chế trong
chính sách pháp luật, trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của cơ quan Nhà
nước…có vai trò tác động, ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách, lối sống
của con người. Sự biến dạng trong nhân cách của cá nhân người phạm tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được hình thành do ảnh hưởng của những yếu tố tiêu
cực khách quan trong môi trường sống, bao giờ cũng có trong cơ chế hành vi phạm
tội của người đó.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có những hiện tượng xã hội tiêu cực trong sự
tương tác với các đặc điểm tâm lý cá nhân, tạo thành nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC như sau:
3.2.1. Hạn chế trong môi trường kinh tế - xã hội
Những hạn chế trong môi trường kinh tế - xã hội trong sự tương tác với đặc
điểm cá nhân người phạm tội là nguyên nhân hình thành nên nhân cách sai lệch, làm
nảy sinh động cơ phạm tội, đồng thời tạo ra những tình huống, điều kiện thuận lợi để
hành vi phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được thực hiện trên thực tế.
Nghiên cứu thực tiễn nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ hạn chế trong môi
trường kinh tế - xã hội, làm phát sinh tình hình tội này, thấy có những vấn đề như:
Một là, tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm, thu nhập thấp, không
ổn định, đời sống khó khăn:
Trong giai đoạn 2011 – 2020, các vụ lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tập
trung chủ yếu tại các đô thị lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, với 19/21 vụ (chiếm
90,47%) và 52/59 người phạm tội (chiếm 88,13%). Đây là địa bàn các nhóm tội phạm
đặt trụ sở chính của doanh nghiệp, từ đó mở rộng chi nhánh sáng các địa phương
71
khác [102]. Như vậy, có thể thấy môi trường kinh tế - xã hội tại các đô thị có những
yếu tố tiêu cực, khi tương tác với các đặc điểm cá nhân người phạm tội, tạo nên nhân
cách sai lệch là nguyên nhân tâm lý – xã hội trong cơ chế hành vi của tội này.
Nghiên cứu tại Chương 2 cho thấy có 29/59 người phạm tội (chiếm 49,15%)
không có nghề nghiệp; 25/59 người (chiếm 42,37%) có công việc, nghề nghiệp
không ổn định; 5/59 người (chiếm 8,47%) là cán bộ, công chức, viên chức. Như vậy,
số người phạm tội không có nghề nghiệp, hoặc nghề nghiệp không ổn định chiếm tỷ
lệ cao. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, vấn đề lao động - việc làm - thu nhập có quan hệ mật
thiết với THTP. Khi thất nghiệp, thiếu việc làm, thu nhập thấp hoặc không đủ đáp ứng
các nhu cầu cơ bản thiết yếu trong đời sống, con người luôn đứng trước yêu cầu phải
kiếm được tiền để duy trì cuộc sống. Sự thúc bách của nhu cầu kiếm sống khiến
người dân dễ bị lôi cuốn vào hoạt động phạm tội, hoặc trở thành nạn nhân của hiện
tượng xã hội tiêu cực này.
Quá trình đô thị hóa, việc xây dựng các khu đô thị mới, khu công nghiệp, mở
rộng đường giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng...đã thu hẹp dần diện tích nông
nghiệp. Một bộ phận nông dân do không còn đất canh tác và không có trình độ, chưa
kịp thích ứng với mức sống và lối sống công nghiệp…nên bị đào thải, rơi vào tình
trạng thất nghiệp, thiếu việc làm hoặc phải làm công việc giản đơn, thu nhập bấp
bênh. Những bất bình đẳng càng thấy rất rõ khi so sánh với nhóm thu nhập cao và
nhóm dân số có hộ khẩu thường trú tại đô thị. Một nghiên cứu về vấn đề người nghèo
ở TP Hồ Chí Minh cho thấy mức sống của người nghèo thấp hơn người giàu 7 lần.
Do thu nhập thấp, các hộ nghèo phải dành 80% thu nhập chi cho bữa ăn hằng ngày
(nhưng vẫn không đủ), chỉ còn 20% dành cho học hành, chữa bệnh, đi lại. Người
nghèo còn rất khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ, an sinh xã hội như giáo dục,
chăm sóc sức khỏe. Theo thống kê, có gần 20% trẻ em hộ nghèo trong độ tuổi không
được đến trường, cũng gần bằng số đó phải bỏ học, số trẻ em suy dinh dưỡng chiếm
38,8%. Một vấn đề khác đó là tình trạng thiếu nhà ở của dân nghèo đô thị và những
người mới nhập cư vào thành phố. Thống kê của UNFPA cho thấy, hiện 25% cư dân
thành thị Việt Nam không đủ tiền để mua nhà ở; 20% nhà ở thành thị bị xếp vào loại
không đạt tiêu chuẩn. TP Hồ Chí Minh hiện còn có 300 ngàn người đang sống trong
72
các nhà ổ chuột, 30% dân số Hà Nội phải sống trong môi trường chật chội với diện tích
ở không quá 3m2/người [159]. Do vậy, trên thực tế người nghèo ở đô thị còn nghèo
hơn hộ nghèo ở nông thôn và rất nhiều vấn đề xã hội phức tạp đã phát sinh từ đây.
Sức ép từ cuộc mưu sinh tác động trực tiếp đến THTP xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt nói chung, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
nói riêng. Trước hết, trong điều kiện sống không đảm bảo được các nhu cầu tối
thiểu, mọi nỗ lực của con người đều hướng tới việc đáp ứng được các nhu cầu chi
tiêu, sinh hoạt, ổn định cuộc sống và có tích lũy, làm giàu. Từ sự quan tâm quá đáng
đến lợi ích vật chất, tính vụ lợi dần trở thành động cơ chi phối hành động của con
người trong mọi hoạt động xã hội. Mục đích kiếm được nhiều tiền trở thành động
lực xui khiến, thúc đẩy nhiều người dám làm mọi việc, bất chấp mọi thủ đoạn để có
tiền, sa vào con đường phạm tội. Việc sử dụng phương thức KDĐC để hoạt động
lừa đảo CĐTS đã đem lại nguồn thu lớn một cách nhanh chóng, càng thúc đẩy
người phạm tội dấn sâu vào việc phát triển quy mô, mở rộng mạng lưới KDĐC bất
chính. Càng kiếm được nhiều tiền bằng các phương pháp bất hợp pháp thì các nhu
cầu thô thiển về vật chất ngày càng được đề cao. Nghiên cứu tại Chương 2 cho thấy
100% người phạm tội này đều có động cơ vụ lợi và mục đích CĐTS của người khác
để thỏa mãn nhu cầu vật chất, như mua sắm nhà cửa, xe cộ, ăn chơi...là minh chứng
cụ thể cho vấn đề này. Ở chiều ngược lại, cũng chính vì những khó khăn trong đời
sống, tạo ra động lực kích thích, thúc đẩy người dân tìm cách kiếm tiền để làm giàu
bằng mọi cách. Điều này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để hành vi lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được thực hiện trên thực tế. Với thủ đoạn tuyên truyền
gian dối, hứa hẹn lợi nhuận rất cao khi bỏ tiền góp vốn tham gia KDĐC, các nhóm
tội phạm dễ dàng đánh trúng vào lòng tham, tính hám lợi của số đông người dân
không am hiểu về phương thức kinh doanh này, nhưng đầy khát vọng kiếm tiền
cùng mong muốn làm giàu nhanh chóng, từng bước dẫn dụ họ tham gia vào mạng
lưới KDĐC bất chính để chiếm đoạt tài sản. Điển hình như trường hợp bị cáo
Nguyễn Thế Anh (quê quán ở Hòa Vang, TP Đà Nẵng), tạm trú tại Hà Nội. Sau một
thời gian làm thuê cho một số công ty đa cấp, nhận thấy khả năng kiếm tiền từ việc
lừa đảo huy động vốn nên ngày 25-9-2015 bị cáo cùng đồng bọn đã thành lập Công
ty CP thương mại đầu tư Phúc Gia Bảo 868 (địa chỉ tại số 44/7 Đỗ Quang, phường
73
Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội). Quá trình hoạt động, nhóm này tự quảng cáo mình
là đối tác chính thức của một tập đoàn của Mỹ, chuyên kinh doanh cà phê, nấm linh
chi đỏ, xây dựng chuỗi siêu thị mi-ni tự chọn, cửa hàng vật tư nông nghiệp, du lịch...
Nhằm xây dựng mạng lưới huy động vốn, nhóm này đã đưa ra các gói đầu tư với lãi
suất rất cao. Chẳng hạn, với gói 36,6.000.000 đồng, sau 6 tháng nhà đầu tư nhận
được 126.000.000 đồng; gói 72,6.000.000 đồng sau 10 tháng có lãi suất hơn
2000.000.000 đồng. Nếu khách hàng giới thiệu thêm người tham gia đầu tư khác, số
tiền hoa hồng được hưởng có thể lên tới cả trăm triệu đồng. Bằng thủ đoạn nêu trên,
từ tháng 7/2015 đến tháng 2/2016 nhiều chi nhánh của công ty được thành lập tại
TP Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Bình Định, Đắk Lắk…, thu của hơn 600 nhà đầu tư
số tiền khoảng 323.000.000.000 đồng, chiếm đoạt 120.000.000.000 đồng để chia
nhau. Tại Bản án số: 274/2018/HS-ST ngày 28/11/2018, TANDTP Hà Nội đã xử
phạt tù chung thân đối với Nguyễn Thế Anh, 13 đồng phạm khác bị xử phạt từ 24
tháng tù đến 16 năm tù về cùng tội danh nêu trên [102].
Trong số nạn nhân các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xảy ra
những năm qua, có nhiều người là sinh viên đại học, cao đẳng ở ngoại tỉnh trọ học
trên địa bàn các thành phố lớn. Kết quả điều tra xã hội học tại Đại học Công đoàn
Hà Nội cho thấy, có tới 36/100 sinh viên được hỏi cho biết đã từng tham gia vào các
công ty KDĐC (chiếm 36%); 20/100 sinh viên thừa nhận đã bị thiệt hại một số tiền
khi tham gia KDĐC (chiếm 20%). Lý do là vì cuộc sống tại thành phố với chi phí
rất đắt đỏ, nhiều sinh viên có nhu cầu làm thêm để trang trải cho việc ăn ở, sinh hoạt,
học tập…. Do kinh nghiệm sống còn hạn chế, không lường hết những phức tạp
trong đời sống đô thị, cùng với đặc điểm tâm lý lứa tuổi là ham thích, quan tâm đến
những trào lưu mới lạ như những phương thức kinh doanh hiện đại, tiên tiến du
nhập từ nước ngoài về…nên sinh viên rất dễ bị “sập bẫy” của các băng nhóm tội
phạm lừa đảo bằng thủ đoạn lợi dụng phương thức KDĐC. Thông qua mạng lưới
“chân rết” tại các trường, nhiều nhóm tội phạm đã chèo kéo, rủ rê, dụ dỗ sinh viên
“đầu tư” để tham gia vào MLĐC do chúng dựng lên. Nhiều sinh viên bị lừa phỉnh
đã “cắm” thẻ sinh viên, giấy tờ tuỳ thân để vay lãi nặng lấy tiền đóng cho những
74
công ty đa cấp lừa đảo và bị chiếm đoạt.
Hai là, tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hoá và sự phát triển vượt bậc
của khoa học, công nghệ:
Toàn cầu hoá và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ trong thập
niên vừa qua đã làm gia tăng của nhiều loại tội phạm phi truyền thống, với những
phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, rất tinh vi, có tổ chức, xuyên quốc gia. Tại các
đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, rất nhiều thủ đoạn lừa đảo mới trong lĩnh
vực KDĐC bắt nguồn từ nước ngoài, được các đối tượng trong nước vận dụng để gây
án, hoặc cấu kết với tội phạm quốc tế thực hiện hành vi lừa đảo xuyên quốc gia.
Trong đó, nổi lên thủ đoạn lừa đảo Ponzi (huy động vốn đa cấp dưới danh nghĩa đầu
tư vào dự án, kinh doanh các loại tiền ảo, gian hàng ảo, ví điện tử, vàng tài khoản…)
trên không gian mạng. Điển hình như vụ Wu Run Hua (SN 1987, quốc tịch Trung
Quốc); và Yeo Alex Siak Chuan tức Anson Yang (SN 1979, quốc tịch Singapore) cấu
kết với Đoàn Văn Đạt (quê quán Vĩnh Bảo, Hải Phòng) tổ chức kêu gọi đầu tư tài
chính theo kiểu đa cấp vào công ty GGV, thuộc Tập đoàn GGV (Global Gaming
Ventures Limited). Các đối tượng đưa ra 4 gói đầu tư như sau: gói 1 sao (đầu tư
1.000 USD bằng 25.000.000 đồng) được nhận lãi 3%/tháng và nhận lãi đều trong
vòng 36 tháng gần bằng 24.000.000 đồng; gói 2 sao (4.000 USD bằng 100.000.000
đồng) nhận lãi 6%/tháng trong 36 tháng bằng 190.080.000 đồng; gói 3 sao (13.000
USD bằng 325.000.000 đồng) nhận lãi 9%/tháng trong 36 tháng bằng 960.000.000
đồng; gói 4 sao (40.000 USD bằng 1.000.000.000 đồng), nhận lãi 12%/tháng trong 36
tháng bằng 3,8.000.000.000 đồng. Hết 36 tháng nhà đầu tư sẽ được nhận lãi gốc sau
khi trừ đi phí quản lý tài khoản. Ngoài số lãi như cách tính trên, thì nhà đầu tư còn
được hưởng hoa hồng theo mô hình đa cấp với nhiều mức khác nhau, khi giới thiệu
được người khác cùng tham gia vào mạng lưới. Toàn bộ việc đầu tư này không hề có
hợp đồng, nhưng vì hám lời nên nhiều người vẫn tham gia. Thời gian đầu, nhà đầu tư
được Wu Run Hua và Anson Yang dùng chính tiền đầu tư của họ để trả lãi cho họ
theo cam kết. Tuy nhiên đến đầu tháng 3-2017, công ty ngừng trả lãi và nhà đầu tư
cũng không rút tiền ra được. Đến cuối tháng 5-2017, Wu Run Hua và Anson Yang đã
xuất cảnh khỏi Việt Nam. Đoàn Văn Đạt và đồng phạm người Việt bị khởi tố điều tra
về cáo buộc đã chiếm đoạt số tiền trên 13,5.000.000.000 đồng của các nhà đầu tư.
75
Một điển hình khác là vụ lừa đảo huy động vốn đa cấp qua thông qua trang website:
“hero8.org”, xảy ra tháng 10/2016 tại Công ty CP Phương Thái An do Nguyễn Thị
Minh Phương cầm đầu. Kết quả điều tra xác định, Phương cùng đồng bọn đã mở ra
trang web hero8.org để mời gọi đầu tư, góp vốn cho công ty theo hình thức đầu tư
theo mã pin ID. Nhà đầu tư phải mua mã pin ID với mức tiền 10,16 triệu đồng, trong
đó phí mã pin ID 2,16 triệu đồng, số vốn góp 8 triệu đồng được hứa hẹn sẽ trả lãi suất
rất cao. Cụ thể, các đối tượng hứa hẹn sau 5 ngày góp vốn, mỗi mã pin ID sẽ nhận
được 39,6.000.000 đồng tiền lãi, nếu giới thiệu người tham gia hệ thống góp vốn sẽ
được hưởng hoa hồng. Đến khi bị bắt (tháng 10/2016), Phương và đồng bọn đã huy
động được 21.405 khách hàng, chiếm đoạt gần 140.000.000.000 đồng [102].
Lý do khiến các thủ đoạn phạm tội mới có điều kiện phát triển tại các đô thị như
Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, vì đây là đầu mối giao thương trong nước và quốc tế, cập
nhật nhanh nhất với những xu hướng, trào lưu, phương thức sản xuất kinh doanh hiện
đại của thế giới. Trong điều kiện mặt bằng thu nhập của một bộ phận dân cư đô thị
khá cao so với các địa phương khác, người dân có điều kiện về tài chính để tham gia
đầu tư vào các loại hình, phương thức kinh doanh mới lạ du nhập từ nước ngoài, nhất
là các hình thức kinh doanh mang tính “thời thượng” nhằm phát triển khối tài sản của
mình, tạo thu nhập thụ động để đảm bảo an toàn tài chính và không ngừng nâng cao
chất lượng cuộc sống. Nắm bắt nhu cầu này, các đối tượng lừa đảo đã cấp đã triệt để
khai thác, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi núp danh nghĩa các mô hình kinh doanh hiện
đại du nhập từ nước ngoài để chiếm đoạt tài sản của người tham gia…
3.2.2. Hạn chế trong môi trường văn hoá, đạo đức xã hội
Tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC trong giai đoạn 2011 - 2020 chủ yếu
phát sinh tại các thành phố lớn. Có thể khái quát như sau:
Quá trình đô thị hóa kéo theo sự tích tụ, tập trung dân cư với mật độ dân số cao,
rất nhiều hiện tượng xã hội phức tạp vì quan hệ xã hội ở đô thị mang tính chất giao
tiếp, đa dạng, phức tạp và đan xen nhau. Khác với văn hóa nông thôn, đặc trưng của
văn hóa đô thị tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh xuất phát từ sự tập trung của dân cư phi
nông nghiệp, sinh sống trong những quần thể kiến trúc theo kiểu bàn cờ. Ở các đô thị
này, quan hệ cư trú - ứng xử có kết cấu giản đơn, thường chỉ bao gồm các thành tố
như gia đình - đường phố - xã hội, khác với kết cấu theo kiểu gia đình - họ tộc - láng
76
giềng - làng xóm - xã hội ở nông thôn. Người thành thị khi bước chân ra khỏi nhà đã
hoà mình với xã hội. Điều này khiến cho quan hệ giữa các cá nhân trong đời sống đô
thị chủ yếu trên cơ sở luật pháp và thị trường, sự gắn kết cộng đồng lỏng lẻo hơn ở
nông thôn và mang đậm chất “lý tính”, “lạnh lùng”, sòng phẳng trên cơ sở nhu cầu,
lợi ích thực dụng của mỗi cá nhân.
Tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có rất nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội. Phân tầng
xã hội ở đô thị đang diễn ra mạnh mẽ, đã thúc đẩy việc hình thành nhân cách của các
tầng lớp dân cư đô thị. Văn hóa đô thị là một thể hỗn hợp giữa văn hóa bác học, văn
hóa dân gian và văn hóa đại chúng (văn hóa thị dân). Trong khi văn hóa bác học đóng
vai trò chủ yếu sản sinh ra các chuẩn mực văn hóa, văn hóa dân gian tạo tiềm năng,
môi trường nuôi dưỡng và thể hiện các chuẩn mực văn hóa, thì dưới tác động của cơ
chế kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, văn hóa thị dân dễ bị
tầm thường hóa, dễ dẫn đến chỗ dung dưỡng các hành vi phản văn hóa như mê tín dị
đoan, cờ bạc, ma túy, mại dâm. Sự thẩm lậu và lưu hành các loại hình văn hóa ngoại
lai, “ngoài luồng”, độc hại, các loại hình dịch vụ văn hóa nhạy cảm… đã làm nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp trong đời sống đô thị, không phù hợp với giá trị truyền thống
của dân tộc, góp phần làm suy đồi, băng hoại đạo đức xã hội. Điều này lại có quan hệ
biện chứng với sự gia tăng của THTP. Bởi vì văn hoá là của số đông dân cư, mà theo
quy luật tâm lý nhóm xã hội, hành vi của mỗi cá nhân sẽ bị văn hóa của cộng đồng
mà mình là thành viên chi phối, tác động. Ở một nền văn hóa, đạo đức tốt, được cộng
đồng tôn sùng, nó sẽ có sức mạnh bắt buộc mọi thành viên phải tuân theo. Và như
vậy thì cái gốc phát sinh tội phạm sẽ không còn, khi mà những ứng xử đi ngược lại
các giá trị, chuẩn mực chung lúc mới manh nha hình thành thì đã bị cộng đồng lên án
mạnh mẽ, đấu tranh bài trừ, tẩy chay, nên sẽ không có cơ hội phát triển lên thành tội
phạm. Ngược lại, khi nền văn hóa, đạo đức xã hội xuống cấp, suy yếu, nó sẽ không còn
đủ sức tác động, chi phối được hành vi của các cá nhân trong xã hội. Con người khi
không cảm thấy ứng xử lệch chuẩn là điều đáng xấu hổ, sẽ có xu hướng làm mọi việc
miễn là có lợi cho mình, bất chấp các quy định của pháp luật và các giá trị đạo đức.
Thực tế đã chứng minh sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức xã hội đã tác động
trực tiếp đến THTP nói chung, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói
77
riêng, được biểu hiện qua tỷ lệ 100% số bị cáo trong các vụ án đã xét xử đều phạm tội
này với động cơ vụ lợi, coi đồng tiền là tất cả, chà đạp nên các giá trị đạo đức truyền
thống vì lợi ích vật chất.
Thị trường vận động theo quy luật của mình, thông qua các công cụ, trong đó
đặc biệt nổi lên vai trò của tiền tệ. Từ đây xuất hiện sự lệch lạc về thang giá trị, khi
đồng tiền được quá coi trọng và đề cao, thậm chí kiếm được nhiều tiền trở thành “lẽ
sống” của không ít người. Hiện nay lối sống thực dụng, tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân,
xem trọng giá trị vật chất hơn giá trị tinh thần, coi thường các chuẩn mực đạo đức,
pháp luật…đã trở thành một xu thế ứng xử của một bộ phận người trong xã hội. Lối
sống này khiến cho con người trở nên lười biếng, ích kỉ, thích hưởng thụ, đua đòi xa
hoa, sẵn sàng bất chấp tất cả để đạt được mục đích và lợi ích. Trong đời sống tại các
đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, vì mục tiêu thỏa mãn các nhu cầu vật chất,
nhiều người hướng tới việc kiếm tiền bằng mọi cách, mong muốn làm giàu nhanh
chóng, dẫn đến thái độ làm ăn kiểu chụp giật, sẵn sàng bỏ qua các quy tắc xử sự,
chuẩn mực đạo đức xã hội và pháp luật, chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý và kỷ
cương, phép nước. Động cơ phạm tội của nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt đều được hình thành bởi sự thúc đẩy bên trong, hướng đến việc thỏa
mãn các nhu cầu vật chất thô thiển. Điều này như một nguyên nhân tâm lý xã hội của
hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Hiện tượng người thân lừa dối nhau
tham gia vào mạng lưới KDĐC bất chính để được hưởng thù lao, hoa hồng…rất phổ
biến. Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 về tình huống nạn nhân tham gia vào KDĐC
dẫn đến bị thiệt hại về tài sản cho thấy: trong 100 bị hại của vụ án xảy ra tại Công ty
Liên kết Việt, có 81/100 người (chiếm 81%) tham gia KDĐC để được hưởng các
khoản tiền thưởng, hoa hồng, thù lao phát triển mạng lưới. Để đạt được mục tiêu này,
họ đã rủ rê lôi kéo thêm nhiều người khác tham gia. Kết quả khảo sát trực tuyến trên
mạng thông qua bảng hỏi, có 13/198 người (chiếm 6,56%) cho biết tham gia KDĐC
vì cả nể, bị người thân, bạn bè vận động, lôi kéo. Số liệu trên cho thấy nhiều người vì
tiền mà sẵn sàng bước qua những rào cản luân lý, các giá trị đạo đức truyền thống
ngàn đời của dân tộc. Cũng vì vậy mà mạng lưới lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC được tổ chức công khai, phát triển theo cấp số nhân, lan rộng ở nhiều địa
phương trong cả nước, gây nên những hệ lụy vô cùng nặng nề đối với đạo đức xã hội,
78
khi mà mọi mối quan hệ huyết thống, dòng tộc, bầu bạn…bị thương mại hóa.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là sự cạnh tranh (tranh
giành về lợi ích kinh tế, chạy đua để chiếm ưu thế tương đối so với đối thủ giữa các
chủ thể tham gia thị trường), đã tạo ra áp lực, thách thức rất lớn đối với những người
kinh doanh trên thương trường. Việc xử lý hài hòa giữa kinh doanh theo đúng pháp
luật và kiếm được nhiều lợi nhuận trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Vì mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận mà nhiều người sẵn sàng thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp được cấp phép KDĐC nhưng trong quá trình hoạt
động, trước sức hấp dẫn của lợi nhuận, đã vi phạm các điều cấm trong hoạt động
KDĐC, từng bước biến tướng, thực hiện hành vi lừa đảo để trục lợi từ người tham gia
mạng lưới. Điển hình như Công ty Liên Kết Việt; Công ty nhượng quyền thương mại
Thăng Long; Công ty Việt Phát (Vipha Việt Nam).v.v.
3.2.3. Hạn chế trong hoạt động quản lý Nhà nước về kinh doanh đa cấp
Sự hạn chế, yếu kém trong hoạt động QLNN đóng vai trò điều kiện làm phát
sinh tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, đồng thời tạo ra các tình
huống có tính chất tạo cơ hội thuận lợi để chủ thể (đã có sẵn ý định phạm tội) dễ dàng
thực hiện tội phạm trên thực tế. Đánh giá việc thực hiện các chức năng QLNN về
KDĐC giai đoạn 2011 - 2020, thấy có những hạn chế, yếu kém trên các phương diện
như sau:
Một là, hạn chế trong việc quản lý doanh nghiệp KDĐC: Trong giai đoạn 2011
- 2020, hầu hết các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC xảy ra đều có một
phần nguyên nhân từ việc công tác QLNN đối với hoạt động KDĐC bị buông lỏng.
Cụ thể, trong tổng số 20 vụ án có đồng phạm (chiếm 40%) có đăng ký hoạt động
KDĐC, có 8 vụ các đối tượng cầm đầu doanh nghiệp trong quá trình hoạt động đã lợi
dụng sự buông lỏng quản lý để thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS. Điển hình như các
vụ án xảy ra tại Công ty Liên Kết Việt, Công ty TNHH nhượng quyền thương mại
Thăng Long; Cộng đồng Việt, Công ty Tâm Mặt trời…
Nghiên cứu thực trạng QLNN về hoạt động KDĐC tại Sở Công thương TP Hà
Nội, TP Hồ Chí Minh, thấy những hạn chế được bắt nguồn từ những quy định chưa
chặt chẽ, dẫn đến tình trạng cơ quan quản lý không nắm bắt được diễn biến tình hình
79
hoạt động của doanh nghiệp KDĐC trên địa bàn [25].
Cụ thể, trong giai đoạn 2011- 2014, thực hiện Điều 16, Nghị định số
110/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về “Quản lý hoạt động BHĐC”;
Khoản 2, Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005 của Bộ Thương mại về
“Hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP”, cơ quan cấp
giấy đăng ký tổ chức BHĐC là các sở Công thương nơi doanh nghiệp đề nghị cấp
giấy đăng ký. Điều này dẫn đến một thực tế là mỗi sở Công thương lại có những đánh
giá khác nhau về các điều kiện cấp giấy đăng ký tổ chức BHĐC cho doanh nghiệp,
nhất là với điều kiện “có chương trình bán hàng minh bạch và không trái pháp luật”
của doanh nghiệp, theo quy định tại khoản 4, Điều 14, Nghị định 110/2005/NĐ-CP
[25]. Theo phản ánh của sở Công thương TP Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh thì
một chương trình bán hàng của doanh nghiệp BHĐC có thể được sở Công thương
của tỉnh này công nhận, nhưng lại không được công nhận ở tỉnh khác. Việc giám định
mô hình kinh doanh nào của BHĐC là đúng pháp luật và cho phép hoạt động cũng rất
khó khăn, phức tạp. Đã từng xảy ra tình huống Sở Công thương TP. Hồ Chí Minh
quy định cấm mô hình đa cấp trả hoa hồng theo sơ đồ nhị phân, vì cho đó là kinh
doanh đa cấp “hình tháp ảo” không hợp lệ, trong khi các sở Công thương Cần Thơ,
Bến Tre, Bạc Liêu…hoặc là không đồng ý, không ý kiến, hoặc chấp nhận cho doanh
nghiệp có mô hình trả thưởng này hoạt động. Điều đó dẫn đến tình trạng doanh
nghiệp xin cấp giấy đăng ký tổ chức BHĐC tại các địa phương ít có kinh nghiệm về
quản lý BHĐC, rồi mở rộng hoạt động của mình vào các địa bàn tỉnh khác và thực
hiện những hành vi KDĐC bất chính, nhưng địa phương đó không kiểm soát được
[23]. Mặt khác, việc doanh nghiệp BHĐC có hoạt động tại các tỉnh nơi doanh nghiệp
không đặt trụ sở chính, dẫn đến sự chồng chéo trong công tác giám sát và quản lý
hoạt động BHĐC giữa các cơ quan QLNN, giữa cơ quan QLNN với doanh nghiệp,
tạo ra kẽ hở dẫn đến tình trạng lừa đảo trong kinh doanh BHĐC không được phát
hiện kịp thời. Điển hình như vụ án lừa đảo xảy ra tại Công ty TNHH nhượng quyền
thương mại Thăng Long. Doanh nghiệp này có trụ sở chính tại khu đô thị mới Trung
Hòa, Nhân Chính (Cầu Giấy, Hà Nội), nhưng đã mở 21 đại lý trên phạm vi cả nước,
hoạt động trong thời gian dài, thu của khách hàng khoảng 700.000.000.000 đồng. Kết
quả điều tra chứng minh các đối tượng đã chiếm đoạt hơn 110.000.000.000 đồng của
80
1.540 bị hại. Trước khi bị xử lý hình sự, vào tháng 8/2016, công ty này đã bị Cục
CT&BVNTD xử phạt 460.000.000 đồng, vì nhiều lỗi, trong đó có việc không thực
hiện nghĩa vụ thông báo đến sở Công thương nơi tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo
theo quy định của pháp luật; đưa thông tin gây nhầm lẫn cho khách hàng về công
dụng của hàng hóa…[24].
Từ năm 2014 đến nay, Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014, sau đó là
Nghị định 40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 của Chính phủ được ban hành theo hướng
ngày càng thắt chặt quản lý hoạt động BHĐC. Nhằm khắc phục các bất cập nêu trên,
thẩm quyền cấp phép được chuyển về Bộ Công thương với đầu mối duy nhất là Cục
CT&BVNTD nhằm thống nhất quản lý hoạt động KDĐC trong cả nước.
Việc tập trung quản lý tại Bộ Công thương giúp hạn chế các “lỗ hổng” trong
công tác quản lý cấp giấy chứng nhận đăng ký tổ chức BHĐC [40].
Hai là, hạn chế trong việc kiểm soát hoạt động KDĐC: Hiệu quả công tác
QLNN về KDĐC phụ thuộc rất lớn vào năng lực trình độ, ý thức trách nhiệm của cán
bộ làm công tác quản lý lĩnh vực này. Theo báo cáo của Bộ Công thương, trong 10
năm từ 2005 - 2014 tình trạng bộ máy, con người tiến hành hoạt động QLNN về
KDĐC tại Bộ Công thương và sở Công thương, chi cục QLTT các địa phương còn
mỏng, năng lực hạn chế, trong khi tốc độ phát triển của hình thức kinh doanh này rất
nhanh, với số lượng người tham gia đông đảo, dẫn đến tình trạng không sâu sát trong
công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động KDĐC. Chẳng hạn, tại Sở Công
thương TP Hồ Chí Minh, bộ phận phụ trách QLNN về BHĐC trong nhiều năm chỉ có
3 cán bộ, gồm cả lãnh đạo và nhân viên, trong khi đó tại thời điểm ngày 31/12/2014
toàn TP Hồ Chí Minh có tới 62 doanh nghiệp đăng ký hoạt động BHĐC, với hơn
600.000 người tham gia…[25]. Trong giai đoạn này, hệ thống thông tin chính thức về
BHĐC còn ít, chưa đầy đủ và khó tiếp cận. Trên website của sở Công thương các
tỉnh, thành phố hầu như không có thông tin về hoạt động BHĐC trên địa bàn. Sự phối
hợp giữa các cơ quan QLNN với các hiệp hội BHĐC, hội bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng...trong quản lý các doanh nghiệp BHĐC còn lỏng lẻo, chưa thường xuyên và
chủ động. Quan hệ phối hợp theo ngành dọc giữa Cục CT&BVNTD và sở Công
thương cấp tỉnh trong hoạt động quản lý BHĐC, giữa ngành Công thương và các
ngành liên quan như Công an, Y tế, Tài chính…còn hạn chế, không thường xuyên,
81
chưa xây dựng được cơ chế phối hợp quản lý và thông tin để nâng cao hiệu quả quản
lý BHĐC. Nhiều địa phương chưa ban hành quy định về quản lý hoạt động BHĐC
trên địa bàn, cơ chế phối hợp với các ban ngành liên quan. Công tác thanh tra, kiểm
tra không thường xuyên, chủ yếu diễn ra khi có đơn tố cáo khiếu nại của người dân.
Trong khi để thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, nhiều nhóm tội
phạm phải tiếp cận người dân thông qua hoạt động tổ chức sự kiện có đông người
tham gia ở cơ sở. Chính vì sơ hở, thiếu sót, hạn chế trong việc quản lý, kiểm tra, giám
sát các hoạt động KDĐC trên địa bàn, mà cơ quan chức năng không kịp thời phát
hiện, ngăn chặn, tạo ra những điều kiện thuận lợi để loại tội này phát sinh và gây hậu
quả nghiêm trọng trong đời sống xã hội.
3.2.4. Hạn chế trong hệ thống pháp luật về kinh doanh đa cấp
Những hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực KDĐC
đóng vai trò là điều kiện làm phát sinh tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực này,
đồng thời tạo ra các tình huống mang tính cơ hội để tội phạm được thực hiện trên
thực tế.
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 cho thấy hầu hết các vụ lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC đã xảy ra đều liên quan đến những bất cập, hạn chế của hệ thống
pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Chẳng hạn, lợi dụng việc luật chưa quy định về
quản lý KDĐC đối với loại hình kinh doanh dịch vụ, sản phẩm số, huy động vốn, ủy
thác đầu tư, nhượng quyền kinh doanh...nên có 5 vụ (23,33%) thực hiện bằng thủ
đoạn kêu gọi đầu tư tiền ảo, sản phẩm thông tin số; 03 vụ (14,28%) kinh doanh dịch
vụ đa cấp; 5 vụ (23,33%) huy động vốn đầu tư dự án; 02 vụ (9,52%) bằng thủ đoạn
ủy thác đầu tư, nhượng quyền kinh doanh; lợi dụng những sơ hở trong quy định về
quản lý hoạt động BHĐC, có 6 vụ (chiếm 28,57%) phạm tội bằng thủ đoạn núp dưới
hình thức bán sản phẩm hàng hoá hữu hình.
Những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực KDĐC trong
giai đoạn 2011 - 2020 như sau:
Một là, hạn chế trong các quy định quản lý hoạt động KDĐC: Phương thức
KDĐC du nhập và phát triển mạnh tại Việt Nam từ đầu những năm 2000, nhưng phải
đến năm 2004 Nhà nước ta mới chính thức điều chỉnh lĩnh vực này bằng các văn bản
pháp luật, như Luật Cạnh tranh năm 2004; Nghị định số 110/2005/NĐ - CP ngày
82
24/8/2005 của Chính phủ; Thông tư số 19/2005/TT - BTM ngày 08/11/2005 của Bộ
Thương mại; Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014. Hiện nay là Nghị định
số 40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 về quản lý hoạt động KDĐC.
Những bất cập trong Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của
Chính phủ về quản lý hoạt động BHĐC đã dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong việc
kiểm tra, giám sát hoạt động KDĐC trên thực tế, không kịp thời phát hiện, xử lý
những hành vi KDĐC bất chính, lừa đảo tại cơ sở. Chẳng hạn, Nghị định này chỉ quy
định trách nhiệm của doanh nghiệp BHĐC báo cáo định kỳ 06 tháng/lần với sở Công
thương tại địa phương doanh nghiệp đăng ký tổ chức BHĐC, mà không có nghĩa vụ
báo cáo với sở Công thương nơi doanh nghiệp thông báo hoạt động…[31]. Đó là “lỗ
hổng” lớn trong quy định, dẫn đến tình trạng các cơ quan chức năng tại các địa
phương này khó theo dõi tình hình hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC, không
kịp thời phát hiện những hành vi KDĐC bất chính, lừa đảo trên địa bàn. Chưa hết,
việc Bộ Công thương giao cho các địa phương tiếp nhận thông báo KDĐC của các
doanh nghiệp trên địa bàn, mà không cần đăng ký địa điểm hoạt động, đã gây thêm
khó khăn cho việc quản lý ở cơ sở [25]. Minh chứng cho hậu quả từ việc quản lý
không chặt chẽ, dẫn đến tội phạm phát sinh, đó là hầu hết các đối tượng cầm đầu
doanh nghiệp (có giấy đăng ký hoạt động BHĐC) trước khi bị xử lý về hình sự, đều
đã bị XPVPHC về hành vi thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ báo cáo
định kỳ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền [24]. Điển hình như việc xử phạt các
Công ty CP thương mại dịch vụ Hoàng Long Việt (ở P.4, TP. Vĩnh Long); Công ty CP
Liên minh tiêu dùng Việt (Vietnet); Công ty CP Japan Life Việt Nam… [24]. Cũng tại
Nghị định này, Điều 12 quy định ràng buộc trách nhiệm giữa doanh nghiệp KDĐC và
hợp tác viên. Theo đó, nếu lỗi thuộc về ai thì người đó sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại [31]. Tuy nhiên, quy định như vậy dễ dẫn đến tình trạng quy kết, đùn đẩy
trách nhiệm cho nhau, khiến cho việc xử lý trở nên vô cùng khó khăn. Quy định về
chế tài xử phạt cũng tồn tại những bất cập. Chẳng hạn, Điều 23, Nghị định
110/2005/NĐ-CP quy định việc xử phạt vi phạm trong hoạt động BHĐC dừng lại ở
mức độ bồi thường thiệt hại, hoặc xử lý hành chính [31]. Rõ ràng, xử phạt như vậy là
không thỏa đáng so với những thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu khi mạng lưới sụp
đổ. Tại Nghị định 120/2005/ND-CP quy định xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
83
cạnh tranh, hành vi KDĐC bất chính có thể bị xử phạt từ 50 đến 70,000.000 đồng, sai
phạm ở quy mô lớn có thể bị phạt tới 100,000.000 đồng [32]. Mức độ XPVPHC như
vậy cũng chưa đủ sức răn đe, nếu đem so sánh với lợi nhuận doanh nghiệp thu được.
Từ những bất cập đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày
14/5/2014 về quản lý hoạt động BHĐC (thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP)
theo hướng thắt chặt quản lý đối với hoạt động này. Thế nhưng Nghị định
42/2014/NĐ-CP vẫn còn nhiều hạn chế, như việc chưa quy định về kiểm soát giá của
sản phẩm BHĐC [36]. Lợi dụng lỗ hổng này, doanh nghiệp bán giá cao gấp nhiều lần
so với giá trị thực tế của sản phẩm, về bản chất chính vẫn là việc huy động vốn của
người tham gia núp dưới danh nghĩa bán sản phẩm. Điển hình như trường hợp Công
ty TNHH Trường Giang Việt Nam nhập các sản phẩm: Truong Giang Liver; Truong
Giang Calcium; Truong Giang Calcium Kid; Truong Giang Queen với giá chỉ từ
12.000 đồng đến 18.000 đồng, nhưng bán ra cho người trong MLĐC của công ty với
giá 990.000 đồng (chưa có VAT). Mức chênh lệch giữa giá nhập vào, bán ra từ 50 đến
82 lần [27, tr.117]. Điểm bất cập khác trong Nghị định 42/2014/NĐ-CP là về thẩm
quyền xử lý vi phạm đối với hoạt động BHĐC. Theo đó, quyền xử lý các vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này chỉ thuộc về Cục CT&BVNTD, nên khi sở Công thương
các tỉnh phát hiện sai phạm, phải chờ quyết định xử phạt từ cơ quan này với thủ tục
phức tạp và mất rất nhiều thời gian [25]. Bên cạnh đó, Nghị định 71/2014/NĐ-CP
ngày 21/7/2014 của Chính phủ cũng tồn tại những điểm bất hợp lý, như việc quy định
mức phạt cao nhất đối với mỗi hành vi vi phạm về BHĐC là 200.000.000 đồng. Nếu
so sánh với lợi nhuận thu được từ hoạt động KDĐC bất chính, thì mức phạt này có
thể thấy là quá thấp, không đủ sức răn đe để phòng ngừa sai phạm, dẫn tới việc các
doanh nghiệp sẵn sàng vì lợi nhuận mà chịu phạt để tiếp tục hoạt động. Chẳng hạn
như Công ty Liên kết Việt đã bị Cục CT&BVNTD xử phạt 570.000.000.000 đồng về
05 lỗi vi phạm quy định về KDĐC [24]. Sau khi nộp phạt, công ty này tiếp tục hoạt
động cho đến khi Lê Xuân Giang và đồng phạm bị Cục CSĐTTP về tham nhũng,
kinh tế, buôn lậu (C03) - Bộ Công an khởi tố, bắt tạm giam về hành vi lừa đảo CĐTS.
Hai là, hạn chế trong các quy định về xử lý hành vi KDĐC biến tướng: Theo
quy định, mọi hoạt động KDTPTĐC đối với các đối tượng không phải là hàng hóa
đều bị cấm và không được cấp giấy chứng nhận. Các hoạt động KDTPTĐC mà
84
không có giấy chứng nhận bị coi là vi phạm và xử lý theo quy định pháp luật. Thực
tiễn hoạt động trong lĩnh vực KDĐC đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp, cá nhân thực
hiện huy động vốn góp, nhận ủy thác đầu tư, bán cổ phần nội bộ theo phương thức đa
cấp… Về bản chất đây là những hoạt động KDĐC biến tướng có tính chất lừa đảo.
Tuy nhiên việc áp dụng các quy định pháp lý hiện hành và quản lý hoạt động
KDTPTĐC để ngăn chặn trước khi hậu quả lừa đảo CĐTS xảy ra thì gặp vướng mắc.
Cụ thể, theo quy định tại khoản 1, Điều 3, Nghị định số 40/2018/NĐ-CP thì
KDTPTĐC là hoạt động kinh doanh. Trong khi đó theo Khoản 16, Điều 4, Luật
Doanh nghiệp 2014 thì “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Vì quy định trên nên các cơ
quan chức năng gặp lúng túng khi xác định các hoạt động huy động vốn có phải hay
không phải là hoạt động kinh doanh, do các hoạt động này nằm ngoài phạm vi “từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ”. Do không xác định được rõ
ràng những hoạt động này có phải là hoạt động kinh doanh hay không, nên không đủ
cơ sở xác định những hoạt động này là KDTPTĐC mặc dù được thực hiện theo
phương thức đa cấp. Cũng chính vì thế mà những hoạt động như huy động vốn, cho
vay, mua bán ngoại tệ, tiền ảo…theo phương thức đa cấp nằm ngoài phạm vi điều
chỉnh của Nghị định số 40/2018/NĐ-CP, không thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận
và cũng không bị xử lý theo quy định của pháp luật về KDTPTĐC. Nghị định số
141/2018/NĐ-CP ngày 8/10/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Nghị định quy định xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động KDTPTĐC cũng
không có quy định nào về xử phạt đối với những hành vi này. Bất cập này còn tạo ra
một vướng mắc khác về thẩm quyền xử lý vi phạm. Theo quy định hiện hành, việc
QLNN đối với hoạt động KDTPTĐC thuộc chức năng của Cục CT&BVNTD. Tuy
nhiên cơ quan này chỉ thực hiện QLNN đối với các doanh nghiệp thuộc diện được
cấp giấy chứng nhận và chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động BHĐC của các doanh nghiệp
này. Các hoạt động huy động tài chính, kinh doanh ngoại tệ, tiền ảo, cho vay theo
phương thức đa cấp… mặc dù bị cấm theo quy định pháp luật, nhưng vì nằm ngoài
phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 40/2018/NĐ-CP, không bị xử lý theo quy định của
85
pháp luật về KDTPTĐC, nên không thuộc phạm vi QLNN và thẩm quyền xử lý của Bộ
Công thương. Vấn đề đặt ra là việc quản lý và xử lý vi phạm những hoạt động này sẽ
thực hiện theo quy định pháp luật nào, thuộc thẩm quyền của cơ quan nào?
Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành giới hạn hoạt động quản lý BHĐC chỉ trong
phạm vi bán lẻ hàng hóa (tức các sản phẩm hữu hình), còn các loại hình phi vật chất
khác như dịch vụ, sản phẩm thông tin số thì vẫn bỏ ngỏ, không có khung pháp lý để
quản lý, điều chỉnh. Lợi dụng “lỗ hổng” này, các nhóm tội phạm đã núp danh nghĩa
kinh doanh dịch vụ đa cấp (như dịch vụ thương mại điện tử, giáo dục, du lịch…) để
CĐTS của người tham gia mà không bị xử lý, vì không có chế tài. Điển hình như vụ
án lừa đảo CĐTS bằng thủ đoạn cung cấp gói dịch vụ du lịch xảy ra tại Công ty
TNHH Diamond Holiday Đông Nam Á (xem Mục 2.2.3.2, Chương 2). Chỉ khi hoạt
động kinh doanh dịch vụ đa cấp được thừa nhận, thì cơ quan chức năng mới có công
cụ pháp lý để quản lý và xử lý hành vi sử dụng các gói dịch vụ làm “bình phong” che
đậy việc huy động vốn trái phép. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, loại hình dịch vụ
được pháp luật cho phép KDĐC và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Chẳng hạn, tại
Đài Loan và Canada, pháp luật về BHĐC được áp dụng đối với mọi hình thức kinh
KDĐC, không phân biệt hàng hóa hay dịch vụ [21, tr.15]. Hiện nay, mặc dù khung
pháp lý điều chỉnh lĩnh vực KDĐC đang được hoàn thiện, theo hướng xiết chặt quản
lý phòng chống tiêu cực, biến tướng, nhưng tại Nghị định số 40/2018/NĐ-CP (đang
có hiệu lực thi hành) vẫn tồn tại “lỗ hổng” cũ, đó là vẫn chưa có khung pháp lý để
quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ đa cấp.
Trong thời gian dài, hệ thống pháp luật nước ta thiếu những công cụ hữu hiệu
để phát hiện sớm và xử lý nghiêm hành vi KDĐC biến tướng nhằm CĐTS. Hình thức
xử lý chủ yếu dừng lại ở việc tịch thu giấy phép kinh doanh, hoặc bắt buộc doanh
nghiệp đình chỉ hoạt động [24]. Trên thực tế, các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
này được phát hiện rất muộn, khi hậu quả thiệt hại đã xảy ra đặc biệt lớn, gây rúng
động dư luận xã hội. Việc vận dụng Điều 139 (BLHS 1999), Điều 174 (BLHS 2015)
để xử lý hành vi phạm tội này thường gặp khó khăn và rất mất thời gian, do phải
chứng minh yếu tố hậu quả thiệt hại. Vì vậy đến khi truy cứu TNHS thì đã quá muộn,
hậu quả đã xảy ra không thể khắc phục được.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình loại tội này, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ
86
sung năm 2017) đã bổ sung Điều 217a (tội “Vi phạm về kinh doanh theo phương thức
đa cấp”, để xử lý hình sự các trường hợp KDĐC trái phép [78]. Theo đó, người nào
lợi dụng phương thức đa cấp để lừa đảo CĐTS, thì không bị xử lý theo Điều 217a,
mà bị xử lý theo Điều 174; nếu có yếu tố sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thì sẽ xử lý theo Điều 290, BLHS 2015. Quy định thì khá rõ ràng,
nhưng khi thực hiện trên thực tế rất dễ xảy ra tình trạng áp dụng chồng chéo, gây khó
khăn cho cơ quan xử lý trong việc phân định rõ trường hợp nào áp dụng Điều 174,
trường hợp nào xử lý về tội quy định tại Điều 217a. Giữa 2 chế tài này đòi hỏi phải
rất cụ thể ở hành vi và hậu quả xảy ra, để từ đó áp dụng vào điều luật nào cho phù
hợp, đảm bảo sự công bằng. Ngoài ra, do khung hình phạt quy định tại Điều 217a nhẹ
hơn rất nhiều so với các tội quy định ở Điều 174 và Điều 290, BLHS 2015. Điều này
dẫn tới tình trạng đối tượng phạm tội "trú ngụ, ẩn náu" để tránh bị xử lý theo các điều
luật có hình phạt nghiêm khắc hơn.
Những năm gần đây, hàng loạt đồng tiền ảo đã du nhập vào Việt Nam như
Bitcoin, Onecoin, ILCOIN, Gemcoin, Octa… Cùng với đó, mô hình kinh doanh tiền
ảo cũng xuất hiện. Từ năm 2017, thủ đoạn lừa đảo huy động vốn đa cấp dưới hình
thức kinh doanh tiền “ảo” đang diễn ra nhức nhối, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng
cho các nhà đầu tư. Số lượng các vụ lừa đảo tiền “ảo” ngày càng tăng, có nguyên
nhân do tội phạm thực hiện khá dễ dàng vì tác động trực tiếp vào tâm lý hám lợi
nhưng thiếu kiến thức về đầu tư tài chính và công nghệ của người dân. Ngày
21/7/2017, Ngân hàng Nhà nước có Công văn 5747/NHNN - PC gửi Văn phòng
Chính phủ về việc không công nhận đồng Bitcoin cũng như đồng tiền “ảo” khác. Tuy
nhiên cho đến nay vẫn chưa có khung pháp lý điều chỉnh lĩnh vực này, chưa có những
quy phạm cấm đoán rõ ràng, cũng như chưa có những quy định về trách nhiệm của
các cơ quan trong việc kiểm soát hoạt động liên quan đến tiền “ảo”, dẫn đến những
khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý tội phạm. Đây đang là lĩnh vực ẩn chứa nhiều
nguy cơ phát sinh tội phạm.
3.2.5. Hạn chế trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao
nhận thức cho người dân
Những hạn chế trong công tác phổ biến pháp luật cho người dân đóng vai trò là
87
điều kiện làm phát sinh tình hình tội lừa đảo CĐTS. Đồng thời, trong cơ chế của hành
vi phạm tội, điều này giữ vị trí trong khâu thực hiện tội phạm, tạo ra các tình huống
thuận lợi, dễ dàng để hành vi lừa đảo được thực hiện trên thực tế.
Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường làm thay đổi quan điểm, nhận thức,
thang giá trị, lối sống, xu thế ứng xử của nhiều người. Chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng, chạy theo đồng tiền, tuyệt đối hóa giá trị vật chất, tâm lý muốn làm giàu
nhanh chóng, kiếm tiền bằng mọi giá…là nguyên nhân tâm lý xã hội sâu xa thúc đẩy
con người thực hiện hành vi phạm tội, hoặc trở thành nạn nhân của tội phạm. Điều
này thể hiện rất rõ trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đã xảy ra,
người phạm tội gây án vì mục đích vụ lợi, còn nạn nhân thì vì hám lợi nên sập bẫy
của tội phạm. Các đối tượng triệt để lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân về
phương thức KDĐC và các biến tướng của nó, dùng mồi nhử lợi ích để đánh vào lòng
tham, mong muốn làm giàu nhanh chóng của nhiều người để lôi kéo họ tham gia vào
mạng lưới KDĐC bất chính, dẫn đến hậu quả bị lừa đảo CĐTS.
Những hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng chống
tội phạm và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực KDĐC giai đoạn 2011 - 2020 được làm
rõ thông qua phương pháp điều tra xã hội học, toạ đàm, trao đổi.
Khảo sát tại xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An (là nơi đã xảy ra loại
tội này), với câu hỏi: “Ông/bà có biết các quy định của pháp luật về KDĐC và các
thủ đoạn lừa đảo trong lĩnh vực này hay không?. Nếu có thì biết qua kênh báo chí,
mạng internet hay hoạt động tuyên truyền pháp luật của chính quyền và các cơ quan
chức năng?”. Trong 100 phiếu điều tra hợp lệ thu về, kết quả như sau: có 82 phiếu
(82%) trả lời không biết quy định của pháp luật về KDĐC và các thủ đoạn lừa đảo
trong lĩnh vực này; 18 phiếu (18%) cho biết đã tìm hiểu các quy định của pháp luật về
KDĐC và các thủ đoạn lừa đảo trong KDĐC qua báo chí (báo điện tử, truyền hình)
và thông tin trên mạng internet. Chưa có lần nào được nghe tuyên truyền vấn đề này
từ chính quyền hay các cơ quan có trách nhiệm. Thăm dò ý kiến người sử dụng mạng
xã hội trên các diễn đàn, tài khoản mạng xã hội Facebook và trang Fanpage cá nhân,
có 512 người phản hồi “Bảng khảo sát ý kiến về tội lừa đảo trong kinh doanh đa
cấp”. Kết quả có 489 người (chiếm 95,5%) cho biết đã tìm hiểu về hoạt động BHĐC,
88
các quy định pháp luật có liên quan, những thủ đoạn phạm tội trong lĩnh vực này từ
báo chí (báo viết, báo nói, báo hình) và thông tin trên mạng Internet; có 23 người
(chiếm 4,5%) cho biết tìm hiểu qua đọc sách, các ấn phẩm in [82].
Như vậy, có thể thấy hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về KDĐC trực
tiếp đến người dân hầu như chưa được triển khai bởi chính quyền hoặc các cơ quan
chức năng, mà chủ yếu là các cơ quan truyền thông, báo chí đăng tải những thông tin
này. Tại website của nhiều sở Công thương các tỉnh, thông tin về hoạt động BHĐC,
các văn bản pháp lý liên quan cũng rất nghèo nàn.
Tìm hiểu về những hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
KDĐC thông qua tọa đàm, trao đổi, nghiên cứu hồ sơ tại Phòng phổ biến, giáo dục
pháp luật, sở Tư pháp một số tỉnh, thành phố như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh,
Bình Dương, cho thấy bình quân mỗi năm, sở Tư pháp các tỉnh này tổ chức khoảng
6000 cuộc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho trên 500.000 lượt người;
phát miễn phí hàng nghìn tài liệu tuyên truyền các loại. Tuy nhiên, những nội dung
tuyên truyền, không liên quan đến hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực KDĐC,
mà chủ yếu về các lĩnh vực như dân sự, hình sự, đất đai, luật giao thông đường bộ,
hôn nhân gia đình, hành chính…[80].
Qua tọa đàm trao đổi, các chuyên viên pháp lý phòng Phổ biến, giáo dục pháp
luật, Sở Tư pháp TP Hà Nội cho biết lý do pháp luật về KDĐC chưa được đưa vào
các chương trình tuyên truyền pháp luật của địa phương trong thời gian qua, vì đây là
lĩnh vực pháp lý phức tạp, mang tính chuyên biệt, diện đối tượng quan tâm hẹp,
không phải tình huống phổ biến trong đời sống. Tại tủ sách pháp luật của thư viện các
xã, phường tại Hà Nội cũng đã trang bị nhiều đầu sách, trong đó có sách hỏi đáp về
KDĐC. Tuy nhiên theo các chuyên gia, hiệu quả khai thác không cao, hiếm khi có
người dân đến đọc sách pháp luật tại các địa điểm này [80]. Khảo sát tại 5 trường
THPT tại tỉnh Bình Dương, thấy hoạt động tuyên truyền pháp luật cho học sinh chỉ
tập trung vào các lĩnh vực pháp luật liên quan đến đối tượng học sinh, như luật giao
thông đường bộ, phòng chống ma túy, bạo lực học đường, chứ không liên quan đến
lĩnh vực KDĐC [82]. Hiện nay, việc mời các chuyên gia nói chuyện chuyên đề, phổ
biến các kỹ năng cho học sinh đã được nhiều trường ở các cấp học quan tâm. Khảo
sát tại 7 trường THCS, THPT trên địa bàn TP Hà Nội, được biết nội dung kỹ năng
89
trang bị cho học sinh chủ yếu về vấn đề phòng chống bạo lực học đường, mua bán
người, bắt cóc trẻ em, phòng chống tác hại của ma túy, kỹ năng sử dụng mạng xã
hội… chứ chưa có bài giảng nào về cách kiếm tiền hợp pháp, cách ứng xử đúng đắn
với tiền, cách tiết chế lòng tham, tính hám lợi, cách nhận diện và đối phó với các thủ
đoạn lừa đảo trong đời sống. Trong khi đây là những kỹ năng rất quan trọng, giúp
giới trẻ khi bước vào cuộc sống tự lập có những tri thức cần thiết để tỉnh táo trước
những cám dỗ, không bị sa vào cạm bẫy của tội phạm, biết cách để bảo vệ tài sản của
mình, cũng như không gây hại cho cộng đồng để đạt được lợi ích cá nhân. Nếu được
trang bị những tri thức cần thiết này, sẽ giúp trẻ hình thành nhân cách tích cực, biết
ứng xử trong cuộc sống phù hợp với đòi hỏi của xã hội và pháp luật [82].
Qua nghiên cứu 21 vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, có tới 64,40 %
người phạm tội có trình độ học vấn ở mức đại học, cao đẳng; 28,81% là số người có
trình độ học vấn ở bậc trung học phổ thông trở lên. Điều này cho thấy người phạm tội
trong các vụ án này đều có đủ khả năng nhận thức và năng lực điều chỉnh hành vi,
biết rõ về tính trái pháp luật trong hành vi của mình nhưng vẫn cố ý thực hiện những
hành vi bất hợp pháp đó. Có thể thấy trình độ học vấn không phải yếu tố quyết định
việc một người có thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hay không. Chỉ khi được
giáo dục tốt về kỹ năng sống, nhận biết đúng sai, hình thành nên ý thức tôn trọng
pháp luật, tôn trọng xã hội, tự giác hành xử theo chuẩn mực, mới có thể hình thành
nên những phẩm chất tâm lý tích cực, giúp cá nhân có sức “đề kháng” với những tiêu
cực từ môi trường sống, xa lánh được nguy cơ trở thành tội phạm.
3.2.6. Khía cạnh nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm tội
Trong cơ chế của hành vi phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, nạn
nhân có vai trò quan trọng, thể hiện trong cả 3 khâu: làm nảy sinh ý định phạm tội; kế
hoạch hóa việc thực hiện tội phạm và quyết định gây án của người phạm tội. Đồng
thời, yếu tố nạn nhân còn tạo ra các tình huống có tính chất cơ hội thuận lợi để tội
phạm được thực hiện trên thực tế. Yếu tố lỗi từ phía nạn nhân được người phạm tội
triệt để khai thác hoặc làm nảy sinh ý định phạm tội, được phản ánh trong cơ chế tâm
lý - xã hội của hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC như sau:
(i) Hạn chế trong nhận thức của nạn nhân: mục tiêu mà người phạm tội lừa đảo
CĐTS hướng tới là những người thiếu kiến thức về kinh tế, chưa hề có khái niệm về
90
BHĐC, ít cập nhật các vấn đề mới phát sinh trong đời sống.
Phân tích trình độ học vấn của 100 nạn nhân trong vụ Liên kết Việt và 198
người trả lời bảng hỏi, cho thấy nạn nhân của tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC chủ yếu thuộc nhóm xã hội có trình độ học vấn tương đối thấp. Chẳng hạn,
trong số 100 nạn nhân vụ Liên kết Việt, chỉ có 17 người (17%) có trình độ cao đẳng,
đại học, còn lại 83% là người có từ trình độ phổ thông trở xuống đến mù chữ...; trong
số 198 người trả lời bảng hỏi, có 59/198 người (chiếm 29,79%) trình độ đại học, cao
đẳng, còn lại 139/198 người (chiếm 70,20%) có từ trình độ phổ thông trở xuống.
Ngoài ra, phân tích yếu tố độ tuổi của 100 nạn nhân trong vụ Liên kết Việt và 198
người trả lời bảng hỏi, cho thấy nạn nhân của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 50 đến 65 [82]. Có thể thấy ở độ tuổi trên
50, nhiều người đã có chút tài sản tích lũy được, đứng trước nhu cầu có thêm tài sản
để yên tâm dưỡng già, lại thiếu cập nhật tình hình xã hội, khả năng phân tích, phản
biện thông tin hạn chế nên dễ bị các nhóm tội phạm lừa đảo dụ dỗ, lôi kéo tham gia
mạng lưới KDĐC bất chính, dẫn đến bị CĐTS. Phân tích lý do trở thành nạn nhân, có
19/100 người (chiếm 19%) trong vụ Liên kết Việt và 26/198 người trả lời bảng hỏi
(chiếm 13,13%) cho biết lý do họ tham gia vào mạng lưới KDĐC là vì thiếu hiểu biết,
nhận thức mơ hồ về phương thức kinh doanh này, nhẹ dạ cả tin vào lời dụ dỗ của
người phạm tội.
Thời gian qua, hàng vạn nông dân các tỉnh bị các nhóm tội phạm lừa đảo dụ dỗ
bỏ tiền mua các sản phẩm với giá cao để được quyền tham gia vào mạng lưới BHĐC.
Theo khảo sát, có tới 59/100 nạn nhân của vụ Liên kết Việt (chiếm 59%) và 101/198
người trả lời bảng hỏi (chiếm 51,01%) cho biết đang cư trú tại vùng nông thôn, miền
núi và các đô thị nhỏ [82]. Có thể thấy “cơn bão đa cấp” càn quét qua bao miền quê
và để lại những hậu quả vô cùng nặng nề. Những gói đầu tư được quảng cáo mang lại
lợi nhuận “khủng” đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Nhiều hộ gia đình
vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền mua sản phẩm hay các gói đầu tư, với hy vọng
đổi đời, có khoản thu nhập ổn định để “an toàn tài chính”, rốt cuộc bị tán gia bại sản.
Người dân chưa được biết và hưởng lợi từ hình thức kinh doanh này là bao, nhưng
những hệ lụy từ KDĐC lừa đảo đã đẩy hàng vạn người dân nghèo thêm nghèo khó,
91
túng quẫn, tan vỡ hạnh phúc gia đình.
(ii) Tâm lý hám lợi, muốn thoát nghèo, làm giàu nhanh chóng của nạn nhân:
Do những khó khăn trong đời sống mà một bộ phận nhân dân luôn có nhu cầu kiếm
tiền, muốn tận dụng mọi cơ hội để thoát nghèo, làm giàu nhanh chóng, có thu nhập
ổn định để đáp ứng nhu cầu vật chất, để yên tâm trong bối cảnh xã hội đang biến
động với đầy rẫy rủi ro khó lường…Điều này khiến họ rất dễ “sập bẫy” của tội phạm.
Kết quả điều tra xã hội học tại xã Diễn An, Diễn Châu, Nghệ An cho thấy, trong 100
phiếu điều tra, có 63 phiếu (63%) trả lời đã từng tham gia vào hoạt động BHĐC,
trong số đó có tới 59/63 phiếu (59%) cho biết đã bị thiệt hại kinh tế khi tham gia vào
BHĐC. Đây là địa bàn có nhiều nạn nhân của các nhóm tội phạm hoạt động lừa đảo
theo KDĐC [82]. Qua phỏng vấn sâu nhiều người dân từng tham gia BHĐC và bị lừa,
họ cho biết lý do sâu xa khiến họ tin theo lời dụ dỗ của các nhóm tội phạm lừa đảo,
chủ yếu là vì mong muốn thoát nghèo. Tại địa bàn này, đời sống người dân vất vả,
khó khăn chật vật trong việc tìm kiếm việc làm, vì tư liệu sản xuất hạn chế (ruộng đất
canh tác bị thu hẹp trong quá trình đô thị hóa hoặc do Nhà nước thu hồi đất giao cho
doanh nghiệp...), không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, không có nghề phụ để đa
dạng hóa nguồn thu nhập. Tại Phòng PC03 - Công an TP Hà Nội (là đơn vị đã thụ lý
nhiều vụ án tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC), với câu hỏi: “Theo
đồng chí, những người làm công việc gì dễ trở thành nạn nhân của tình hình tội lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC?”, trong 100 phiếu thu về, có 75 phiếu (75%) cho
biết nạn nhân chủ yếu là nông dân lao động nông nghiệp tại khu vực nông thôn và
sinh viên, tiểu thương tại các đô thị; 12 phiếu (12%) cho biết nạn nhân chủ yếu là
người không có nghề nghiệp, không có việc làm và thu nhập ổn định; 13 phiếu (13%)
xác định các thành phần xã hội khác [82].
Như vậy, có thể thấy những người có thu nhập thấp, hoàn cảnh kinh tế khó
khăn...thường dễ bị các nhóm lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC lừa gạt. Bởi đồng
hành cùng với sự thiếu thốn trong đời sống, thường là những hạn chế về trình độ văn
hóa và nhận thức pháp luật. Khi đó người dân dễ bị dẫn dụ trước những khoản lãi
suất rất cao được quảng cáo để rồi trở thành nạn nhân của tội phạm.
Tâm lý hám lợi, sự ham muốn vật chất là yếu tố chủ đạo trong nhu cầu, hứng
thú, định hướng giá trị của nạn nhân trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
92
KDĐC đã xảy ra. Kết quả nghiên cứu điển hình từ 100/7.346 nạn nhân (đã lấy lời
khai) trong vụ Liên Kết Việt và 198/512 người trả lời bảng hỏi trên mạng xã hội, cho
thấy đại đa số nạn nhân tham gia MLĐC bất chính và trở thành nạn nhân vì tin vào
khả năng nhanh chóng có được các khoản thu nhập cao mà không phải vất vả làm
việc. Chẳng hạn, có tới 81/100 nạn nhân (chiếm 81%) của vụ Liên kết Việt; 159/198
người trả lời bảng hỏi (chiếm 80,30%) cho biết có động cơ muốn làm giàu nhanh
chóng, tăng thu nhập để đáp ứng nhu cầu vật chất. Mặt khác, kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy nữ giới là nạn nhân chủ yếu trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC, với 67/100 người (chiếm 67%) trong vụ Liên Kết Việt và 135/198 người trả
lời bảng hỏi (chiếm 68,18%) [82]. Có thể thấy do đặc điểm giới tính, phụ nữ thường
nhẹ dạ cả tin, tính hám lợi cao, lại hạn chế về khả năng phân tích, chỉ thấy cơ hội mà
không thấy được rủi ro trong thông tin các nhóm tội phạm đưa ra, nên họ dễ bị dẫn dụ
và sập bẫy tội phạm hơn so với nam giới. Thủ đoạn quen thuộc của các doanh nghiệp
lừa đảo luôn là tổ chức những buổi hội thảo, hội nghị khách hàng, đại hội hoa
hồng…Dùng phương pháp “truyền khẩu” (giao tiếp trực tiếp) để lôi kéo đông người
đến tham dự. Tại sự kiện, đánh vào lòng tham, tâm lý hám lợi, muốn thành triệu phú,
tỷ phú một cách nhanh nhất của người dân, thông điệp mà các nhóm tội phạm đưa ra
luôn là những lời quảng cáo sai sự thật về khả năng sinh lợi khi tham gia vào mạng
lưới, những viễn cảnh giàu sang, không cần phải làm gì mà vẫn có thu nhập cao…để
tạo ra cho họ ảo tưởng về một hình thức kinh doanh siêu lợi nhuận. Người dân bị hấp
dẫn trước cơ hội làm giàu nhanh chóng, lợi nhuận cao gấp hàng chục lần so với lãi
suất tiền gửi ngân hàng, cộng với hoa hồng khi giới thiệu thêm người mới nên rất dễ
bị mắc lừa. Tâm lý đám đông cuồng nhiệt tại các sự kiện, nhiều khi do đám “cò mồi”
phát động, khiến những người từ chỗ còn nghi ngờ về thông tin doanh nghiệp đưa ra,
đến chỗ mất khả năng tư duy độc lập, bị thúc đẩy, dẫn dụ và làm theo lời kêu gọi
tham gia vào MLĐC. Yếu tố tâm lý chi phối nạn nhân lúc này là sợ mất đi cơ hội
kiếm tiền, đồng thời lòng tin vào thông điệp của doanh nghiệp được xây dựng bởi sự
yên tâm vì thấy có nhiều người khác cũng tham gia. Đặc biệt, các nhóm tội phạm
thường rất tinh quái khi chúng mời đến dự sự kiện những người nổi tiếng, hay quan
chức để lợi dụng tên tuổi họ như một sự bảo đảm về tính nghiêm túc trong làm ăn
93
doanh nghiệp, sự trung thực của thông điệp đưa ra.
(iii) Tâm lý luyến tiếc tài sản của nạn nhân: Một khía cạnh khác của vấn đề nạn
nhân trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đó là vai trò thực hành của
họ trong việc thực hiện tội phạm. Tiến hành phỏng vấn 80 người từng tham gia vào
MLĐC của Công ty MB24, có tới 63/80 người cho biết sau khi bỏ tiền 5,200.000
mua gian hàng “ảo” để được quyền tham gia vào mạng lưới của công ty này, họ cũng
ý thức được việc không có mua bán hàng hóa, chỉ đơn thuần lôi kéo người khác vào
mua gian hàng “ảo” để hưởng hoa hồng, tiền thưởng phát triển hệ thống là không
đúng, nhưng do tâm lý luyến tiếc tài sản, “trót đâm lao phải theo lao”, vì đã đóng tiền
vào hệ thống thì cố mà thu hồi lại bằng cách đi mời chào người khác vào tuyến dưới
của mình [82].
Kết quả khảo sát từ 100 nạn nhân vụ Liên kết Việt và 198 người trả lời bảng
hỏi về nghề nghiệp của họ khi tham gia vào hoạt động KDĐC cho thấy, đa số nạn
nhân làm nông nghiệp, lao động tự do, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, người
kinh doanh tự do, làm thuê cho các doanh nghiệp (71/100 người trong vụ Liên kết
Việt và 145/198 người trả lời bảng hỏi) [82]. Với đặc điểm nghề nghiệp như vậy, họ
không cam tâm chịu mất số tiền đã đóng vào các doanh nghiệp KDĐC lừa đảo. Khi
việc đòi lại không có kết quả thì nhiều người chọn cách đi dụ dỗ, mời chào các mối
quan hệ của mình cùng tham gia vào mạng lưới, để thu hồi lại số tiền đã nộp. Quá
trình lôi kéo người khác, họ cũng cố ý lan truyền những thông tin không có thật,
thậm chí là bịp bợm về lợi ích khi gia nhập mạng lưới, làm mọi cách để người khác
tin và bị dẫn dụ bỏ tiền mua gian hàng “ảo”. Chính vì vậy, nhiều người bị chiếm
đoạt tiền trong vụ án này đã không hợp tác trong quá trình điều tra, không có tên
trong danh sách người bị hại của vụ án. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về
đánh giá vai trò của những người tham gia mạng lưới KDĐC bất chính. Bản thân họ
có thể là nạn nhân của các tuyến trên, nhưng đồng thời là người thực hành hoặc giúp
sức cho đối tượng cầm đầu thực hiện tội phạm, bởi chính họ tích cực lôi kéo người
khác vào làm tuyến dưới của mình và được hưởng lợi (hoa hồng, tiền thưởng) từ
việc làm này.
Tóm lại, sự thiếu hiểu biết và lòng tham, tính hám lợi của nạn nhân là “khâu
yếu nhất” trong công tác phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
94
KDĐC. Do đó, một trong số các giải pháp quan trọng để phòng ngừa THTP đó là
việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức, giáo dục pháp luật để nâng cao
nhận thức cho người dân về phương thức KDĐC cùng những biến tướng của nó.
3.2.7. Đặc điểm tâm lý tiêu cực của cá nhân người phạm tội
Trong cơ chế hành vi phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, những đặc
điểm tiêu cực, sai lệch trong nhân cách của người phạm tội được hình thành trong sự
tác động qua lại với môi trường sống của cá nhân đó. Trong những tình huống cụ thể,
những đặc điểm này đóng vai trò như là nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm
tội, thể hiện ở cả 3 khâu: làm nảy sinh ý định phạm tội; kế hoạch hóa việc thực hiện
tội phạm và quyết định gây án.
Nghiên cứu sự hình thành các đặc điểm tâm lý tiêu cực thúc đẩy một người thực
hiện hành vi phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, không thể tách rời hoàn
cảnh cụ thể tại môi trường sống của người đó. Những yếu tố bên ngoài như nơi cư trú,
hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội và nghề nghiệp, có ý nghĩa quan trọng đối với sự
hình thành nên các đặc điểm tâm lý tiêu cực của người phạm tội, cũng như đóng vai
trò là điều kiện làm phát sinh tình hình tội này.
Hoàn cảnh gia đình có tác động lớn tới việc hình thành nhu cầu, ham muốn vật
chất, hứng thú kiếm tiền bằng mọi giá, định hướng giá trị lệch lạc của người phạm tội.
Qua phỏng vấn 45/59 phạm nhân đang thụ hình cải tạo tại các trại giam Hồng Ka;
Ninh Khánh; Tân Lập; Thủ Đức; Thanh Xuân…về tác động ảnh hưởng của hôn nhân
đối với hành vi phạm tội, có 34/45 người (chiếm tỷ lệ 75,55%) cho biết khi đã có gia
đình riêng, cuộc mưu sinh với những áp lực nặng nề về “cơm áo gạo tiền”, khiến họ
luôn có khát khao thoát nghèo, mong muốn kiếm được thật nhiều tiền bằng mọi giá,
làm giàu nhanh chóng. Đặc biệt, cuộc sống tại các đô thị, với chi phí sinh hoạt đắt đỏ,
sự chênh lệch mức sống, phân hóa giàu nghèo trong các cộng đồng dân cư…đặt họ
đứng trước nhiều áp lực, nhất là áp lực kiếm tiền để theo kịp mức sống cao ở đô thị.
Khi có cơ hội làm giàu bằng việc tổ chức ra hoạt động KDĐC bất chính, họ đã bất
chấp pháp luật để thực hiện hành vi lừa dối cộng đồng người tham gia vào MLĐC
nhằm CĐTS của họ.
Nơi cư trú, nơi sinh sống là môi trường chứa đựng các điều kiện kinh tế, văn
hóa - xã hội đặc thù, có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách cá
95
nhân. Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 về đặc điểm nơi cư trú và địa bàn hoạt động
của người phạm tội cùng hệ số tội phạm theo dân số, cho thấy trong số 59 người
phạm tội, có 52/59 người (chiếm 88,13%) cư trú tại địa bàn đô thị, có 7 người (chiếm
11,86%) cư trú tại vùng nông thôn. Có thể thấy loại tội này chủ yếu xảy ra tại các đô
thị lớn, và đó cũng là nơi cư trú, tạm trú, sinh sống chủ yếu của người phạm tội. Lý
do là vì các đô thị lớn thường có dân số đông; mặt bằng trình độ dân trí cao; nhanh
nhạy tiếp cận với các trào lưu kinh doanh mới; là đầu mối giao thương thuận tiện; có
đầy đủ cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho việc phát triển mạng lưới
KDĐC…Các vụ án lớn trong lĩnh vực này đều xảy ra tại doanh nghiệp đặt trụ sở
chính tại TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, như Công ty CP MB24; Công ty CP Liên Kết
Việt; Công ty TNHH Diamond Holiday Đông Nam Á; Công ty CP Tâm Mặt Trời;
Công ty CP đầu tư thương mại dịch vụ Cộng Đồng Việt; Công ty CP đầu tư du lịch
Xuyên Việt…
Bên cạnh yếu tố gia đình, nơi cư trú thì nghề nghiệp và địa vị xã hội cũng có những
ảnh hưởng quan trọng tới việc hình thành nên các đặc điểm tâm lý tiêu cực của người
phạm tội. Trong số 59 người phạm tội thuộc 21 vụ án đã xử lý hình sự, có 54 người
(chiếm 91,52%) không giữ chức vụ, địa vị trong xã hội. Trước khi phạm tội, họ chủ yếu
kinh doanh tự do, làm ăn buôn bán nhỏ lẻ hoặc làm thuê cho các doanh nghiệp.
Qua phỏng vấn 45 phạm nhân trong các trại giam về nghề nghiệp của họ trước
khi tham gia vào hoạt động phạm tội, họ đều cho biết thu nhập từ các công việc trước
đây không ổn định, không đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi về vật chất mà họ mong
muốn đạt được. Chính vì vậy họ đã thành lập ra các tổ chức để hoạt động lừa đảo
theo mô hình đa cấp nhằm nhanh chóng kiếm được nhiều tiền. Mặt khác, số phạm
nhân được hỏi cũng cho biết chính đặc điểm tự do trong công việc, nghề nghiệp, gắn
với thương trường, khiến họ không bị ràng buộc bởi các quy định pháp luật (như đối
với cán bộ, công chức, viên chức), được tự do quyết định công việc làm ăn của mình,
nên chọn cách tổ chức hoạt động lừa đảo theo mô hình đa cấp để kiếm tiền nhanh
chóng. Do những rào cản từ quy định của Luật doanh nghiệp 2014; Luật cán bộ, công
chức; Luật viên chức và Luật phòng chống tham nhũng…về việc cấm cán bộ, công
chức, viên chức được thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, chỉ có quyền
góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty CP, công ty TNHH, công ty
96
hợp danh…nên số cán bộ, công chức, viên chức...phạm tội này chỉ chiếm 8,47% (05
người). Con số 5 cán bộ, công chức bị xử lý hình sự, là tự ý tham gia tổ chức điều
hành hoạt động KDĐC bất chính để tăng thu nhập cải thiện đời sống.
Những yếu tố bất lợi trong quá trình xã hội hóa cá nhân, bao gồm những hạn
chế trong môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội, trong hệ thống pháp luật,…cùng những
hạn chế từ môi trường sống, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp của người phạm tội như đã
phân tích trên đây, trong sự tương tác với các đặc điểm tâm sinh lý cá nhân, làm hình
thành ở người phạm tội những sai lệch về nhân cách, biểu hiện cụ thể như sau:
Về nhu cầu: Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người, là đòi hỏi, mong
muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển.
Nhu cầu phản ánh sự phụ thuộc của con người vào môi trường bên ngoài, được cảm
nhận như trạng thái thiếu hụt về một cái gì đó và thúc đẩy con người tìm cách hành
động để có được nó. Chính vì vậy, nhu cầu là nguyên nhân sâu xa bên trong của hành
vi. Mọi hành động của con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự thỏa
mãn nhu cầu.
Đặc điểm nổi bật trong nhu cầu của người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC, đó là sự mong muốn, đòi hỏi quá cao về vật chất, là lòng tham, khát
vọng về sự giàu sang. Bên cạnh đó là xu hướng lệch chuẩn trong việc tìm kiếm các
biện pháp để thỏa mãn nhu cầu. Do có ham muốn vượt quá khả năng, nên người
phạm tội không thể dùng biện pháp thông thường, mà phải dùng các biện pháp không
phù hợp, đi ngược lại những chuẩn mực đạo đức và pháp luật để thỏa mãn nhu cầu
của mình.
Tiến hành điều tra xã hội học đối với 45/59 phạm nhân đang chấp hành án phạt
tù về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, có 45/45 người được hỏi (100%) cho
biết họ có nhu cầu vật chất rất cao, muốn có nhiều tiền để mua sắm nhà cửa, nhà đất,
xe cộ, ăn chơi, đi du lịch nước ngoài, sống cuộc đời xa hoa, dư giả, thượng
lưu...Chính nhu cầu cao về vật chất không thể đáp ứng được bằng các biện pháp bình
thường vì vượt quá khả năng của bản thân, dưới tác động tương thích của điều
kiện bên ngoài, đã biến thành động cơ thúc đẩy họ tổ chức ra các công ty KDĐC bất
chính để thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS.
Về hứng thú: nhu cầu tạo ra hứng thú. Hứng thú là sự rung động tâm lý được
97
bộc lộ qua thái độ ham thích của con người đối với sự vật, hiện tượng nào đó. Trong
cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội, hứng thú có vai trò làm cho người phạm
tội gắn với mục tiêu hơn, giúp họ có thêm “năng lượng tinh thần” để vượt qua khó
khăn, quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng. Phỏng vấn 45 phạm nhân đang chấp
hành án phạt tù về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, có 41/45 người được hỏi
(91,11%) cho biết họ có ham muốn hưởng thụ vật chất rất cao, thường bị lôi cuốn,
hấp dẫn, thậm chí là bị ám ảnh bởi lối sống xa hoa, dư giả vật chất, giàu sang phú quý.
Chính hứng thú kiếm tiền bằng mọi giá để thỏa mãn nhu cầu vật chất đã khiến họ tập
trung cao độ, “toàn tâm, toàn ý” hướng sự quan tâm của mình vào việc tìm kiếm các
cách thức, chiêu trò để thu hút, lôi kéo, dụ dỗ người tham gia vào MLĐC bất chính.
Quá trình thực hiện tội phạm, những cảm xúc này đã giúp họ bền bỉ thực hiện các
nhiệm vụ đã xác định, luôn tìm cách điều chỉnh hành vi để chinh phục được mục tiêu
chiếm đoạt được tài sản của người tham gia, vượt qua mọi khó khăn để đạt mục đích
phạm tội.
Về định hướng giá trị: Định hướng giá trị là cấu tạo tâm lý đặc trưng của nhân
cách, là cơ sở của hành vi, thúc đẩy con người hành động để đạt được mục đích trong
cuộc sống. Đặc điểm nổi bật về định hướng giá trị trong tâm lý của người phạm tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, đó là quá thiên về giá trị vật chất. Ở họ có nhận
thức sai lệch về thang giá trị trong đời sống. Với họ đồng tiền có giá trị và quyền
năng tuyệt đối, là thước đo của sự thành công của mỗi cá nhân. Từ đó, họ có xu
hướng đề cao sức mạnh của đồng tiền, coi lợi ích cá nhân là tuyệt đối, mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận là duy nhất đúng đắn. Định hướng giá trị sai lệch được củng cố theo
thời gian, trong quá trình sống dưới sự ảnh hưởng, tác động của môi trường xung
quanh, thúc đẩy người phạm tội dành mọi hứng thú, tâm huyết vào việc tìm kiếm các
giá trị vật chất, chi phối, hướng cuộc sống của họ theo những khuôn mẫu có sẵn mà
họ tự vạch ra và sẵn sàng làm mọi việc để đạt được thứ mình cho là đúng đắn. Cũng
chính sự lệch lạc trong định hướng giá trị, tác động đến việc hình thành ý thức đạo
đức, ý thức pháp luật trong cá nhân người phạm tội.
Về ý thức đạo đức: Ý thức đạo đức được hiểu là toàn bộ những quan niệm, tri
thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị
thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng…và về những quy tắc đánh
98
giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân
trong xã hội. Sự sai lệch so với những chuẩn mực chung trong ý thức đạo đức của
người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC thể hiện ở chỗ họ quá đề cao lợi
ích cá nhân, quá coi trọng đồng tiền, sẵn sàng chà đạp nên các chuẩn mực đạo đức
như lòng tin, sự trung thực, tín nghĩa. Đặc trưng của hành vi lừa đảo trong lĩnh vực
này, đó là vì tiền thưởng, thù lao, hoa hồng phát triển hệ thống, mà những người
phạm tội sẵn sàng dùng mọi cách như tuyên truyền gian dối về lợi ích, để lôi kéo
những người thân, họ hàng, bạn bè…bỏ tiền nộp cho doanh nghiệp để được quyền
tham gia mạng lưới KDĐC; sẵn sàng bước qua những rào cản đạo đức, gây hại cho
những người xung quanh, miễn là có lợi cho mình. Sự vô cảm, ích kỷ cao độ trong lối
sống được biểu hiện rất rõ ở ý thức đạo đức của người phạm tội. Kết quả nghiên cứu
tại Chương 2 cho thấy 100% người phạm tội đều có động cơ vụ lợi và mục đích
chiếm đoạt được tài sản của người tham gia KDĐC. Không có người phạm tội với
mục đích khác (xem Bảng 1.12 - phần phụ lục).
Về ý thức pháp luật: Ý thức pháp luật được hiểu là tổng thể những tri thức, quan
niệm, quan điểm, học thuyết về pháp luật thể hiện sự nhận thức, thái độ, tình cảm của
con người đối với pháp luật. Ở cấp độ cá nhân, ý thức pháp luật phản ánh sự hiểu biết
về pháp luật và thái độ đối với pháp luật của cá nhân. Đối với người phạm tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, đặc điểm nổi bật trong ý thức pháp luật của họ đó là sự
không tôn trọng, coi thường các giá trị pháp luật. Đa số người phạm tội trong 21 vụ
án đã xảy ra giai đoạn 2011 - 2020 đều được đào tạo hết Chương trình giáo dục phổ
thông (17/59 người, chiếm 28,81%); 38/59 người tốt nghiệp cao đẳng, đại học, sau
đại học, có kiến thức chuyên ngành kinh tế, kế toán, thương mại…(chiếm 64,40%).
Điều này chứng tỏ họ có đủ khả năng và điều kiện để nhận thức về pháp luật, biết rõ
những việc bị pháp luật cấm không được làm, nhưng vì lợi nhuận họ bất chấp, thậm
chí còn sử dụng những hiểu biết, khả năng, trình độ của mình để “lách luật”, cố tình
khai thác, lợi dụng những kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Điển
hình như vụ án Phạm Đức Tài. Theo Bản án số: 408/2017/HS-ST ngày 28/8/2017 của
TANDTP Hà Nội, mặc dù biết rõ kinh doanh vàng tài khoản bị cấm tại Việt Nam,
nhưng vì mục đích vụ lợi, trong khoảng thời gian từ tháng 10/2013 đến 05/02/2015,
Tài vẫn thành lập ra Công ty CP đầu tư và kinh doanh trang sức quốc tế IG (trụ sở tại
99
số 165 Thái Hà, quận Đống Đa, Hà Nội), lập các chi nhánh tại Thanh Hóa và Thái
Nguyên. Quá trình hoạt động, Tài chỉ đạo Lưu Công Khánh thuê viết phần mềm MT4
để thiết lập giao dịch kinh doanh vàng qua tài khoản trên mạng Internet cho nhà đầu
tư. Nhằm tạo lòng tin để thu hút người giao dịch, Tài và Khánh giới thiệu IG là công
ty môi giới của một doanh nghiệp chuyên kinh doanh sàn vàng quốc tế có tên
Napmig. Tuy nhiên, Công ty Napmig không tồn tại trên thực tế. Mặc dù không được
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp phép, nhưng
Công ty IG đã thực hiện hành vi hướng dẫn, đào tạo nhà đầu tư sử dụng phần mềm
MT4 để giao dịch mua bán vàng miếng, kinh doanh vàng ký quỹ, huy động vốn. Để
được cấp tài khoản, người dùng phải mua các gói 2.500 USD hoặc 5.000 USD. Trên
sàn, nhà đầu tư còn có thể giao dịch mua bán ngoại tệ, trang sức bạc...Trong quá trình
hoạt động, khoảng 500 người đã tham gia giao dịch sàn ảo IG trái phép với gần 4.000
lượng vàng. Số tiền nhà đầu tư nộp vào hơn 8,2 triệu USD và rút ra 5,2 triệu USD. Qua
đó, nhóm của Tài đã chiếm đoạt gần 3 triệu USD (tương đương hơn 65.000.000.000
đồng). Đáng lưu ý là người phạm tội của vụ án đều có trình độ văn hóa 12/12, nhiều
người được đào tạo về các chuyên ngành kinh tế, luật, công nghệ thông tin.
Có thể thấy trình độ học vấn cao của người phạm tội trong lĩnh vực này, lại là
một trong những điều kiện làm phát sinh THTP. Vấn đề ở chỗ những đặc điểm lệch
lạc, tiêu cực trong tâm lý người phạm tội đã tác động chi phối đến ý thức chấp hành
pháp luật của họ. Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội này thì việc giáo dục nâng cao
nhận thức, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý thức phục vụ nhân dân, phục vụ cộng
đồng, cùng kỹ năng ứng xử trong cuộc sống phù hợp với giá trị đạo đức, chuẩn mực
pháp luật, có vai trò vô cùng quan trọng.
Về động cơ, mục đích phạm tội: Động cơ phạm tội là các yếu tố tâm lý bên
trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Cơ sở của động cơ là hệ
thống nhu cầu. Khi nhu cầu không được thỏa mãn, dưới tác động tương thích
của điều kiện bên ngoài thì động cơ thúc đẩy con người hành động được nảy sinh
nhằm đáp ứng nhu cầu. Mục đích phạm tội được xác định trên cơ sở động cơ, đó là
kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành vi phạm
tội. Tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,
người phạm tội đã xác định rõ mục đích trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Điều
100
này phù hợp với kết quả nghiên cứu động cơ, mục đích phạm tội trong 21 vụ án tình
hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC (giai đoạn 2011 - 2020) với 100%
người phạm tội với động cơ vụ lợi, ngoài ra không có động cơ khác. Được thúc đẩy
bởi tâm lý muốn thỏa mãn nhu cầu vật chất như mua sắm nhà cửa, nhà đất, xe cộ, ăn
chơi, sống cuộc đời xa hoa, dư giả...họ đã tổ chức ra hoạt động KDĐC biến tướng để
huy động tài chính từ người tham gia mạng lưới. Mục đích CĐTS là tiền của người
tham gia mạng lưới KDĐC luôn có trong ý thức chủ quan của họ, không có người
phạm tội với mục đích khác.
Những đặc điểm tâm lý tiêu cực nói trên đóng vai trò là nguyên nhân tâm lý xã
hội trong cơ chế hành vi phạm tội này, được hình thành trong sự tác động qua lại với
những điều kiện xã hội không thuận lợi trong quá trình xã hội hoá cá nhân, khi gặp
các tình huống thuận lợi làm nảy sinh ý định phạm tội.
Tiểu kết Chương 3
Với quan điểm tiếp cận nghiên cứu tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC ở cấp độ một hiện tượng xã hội tiêu cực, bao gồm tổng thể hành vi phạm tội
và chủ thể thực hiện tội này tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, trong Chương 3
NCS đã trình bày những nhận thức lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội này. Đồng thời, từ kết quả nghiên cứu tại Chương 2, tác giả đã đi sâu phân tích,
luận giải trên cơ sở số liệu, bằng chứng để làm rõ những yếu tố tiêu cực của môi
trường sống trong sự tương tác với các đặc điểm tâm sinh lý cá nhân, hình thành nên
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này.
Bám sát lý luận Tội phạm học về cơ chế hành vi phạm tội, NCS đã phân tích,
chứng minh các yếu tố bất lợi trong quá trình xã hội hóa cá nhân đã tác động như thế
nào đến sự hình thành các đặc điểm tâm lý tiêu cực, lệch chuẩn của cá nhân người
phạm tội. Những yếu tố bất lợi được nhận diện bao gồm hạn chế trong môi trường
kinh tế - xã hội, văn hóa giáo dục, hạn chế trong công tác QLNN đối với lĩnh vực
KDĐC; cũng như những lỗ hổng của hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này;
những hạn chế từ công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, những sai lầm của nạn
nhân trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. NCS đã phân tích, luận
giải về các tác động đó đối với việc hình thành đặc điểm tâm lý cá nhân tiêu cực của
người phạm tội, trên các khía cạnh như nhu cầu, hứng thú, định hướng giá trị, ý thức
101
pháp luật, động cơ mục đích phạm tội… Trong những điều kiện, hoàn cảnh, tình
huống nhất định khiến một người đã có sẵn trong tâm lý các đặc điểm tiêu cực nảy
sinh ý định phạm tội, kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm và quyết định gây án.
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC, tạo ra cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng hệ thống các giải pháp phòng
102
ngừa tình hình tội này trong những năm tiếp theo.
Chương 4
GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM
4.1. Những vấn đề lý luận về giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
4.1.1. Khái niệm giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Phòng, chống tội phạm là yêu cầu tất yếu khách quan của mọi quốc gia, được
xác định là chiến lược bảo đảm cho sự ổn định và phát triển.
Ở nước ta, phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, cấp
bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các
văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý, chỉ đạo điều hành thống
nhất của Nhà nước [38] Trong đó, phòng ngừa được xác định là phương hướng chính,
kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ; kịp thời khắc phục
những tồn tại hạn chế, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm; coi trọng
công tác phòng ngừa xã hội từ cộng đồng, gia đình và ngay từ cơ sở; tuyên truyền, giáo
dục, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao cảnh giác, ý thức trách nhiệm chấp hành pháp
luật, tích cực, tự giác tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm [38].
Phòng ngừa THTP là vấn đề lý luận và thực tiễn rất phức tạp, được khoa học
pháp lý cùng nhiều ngành khoa học cùng quan tâm nghiên cứu. Có nhiều quan điểm
khoa học khác nhau về vấn đề này. Chẳng hạn, GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng:
“Việc phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang
tính chất Nhà nước, xã hội, và Nhà nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng
cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [114, tr.155].
Tác giả Lê Thế Tiệm và Phạm Tự Phả nêu quan điểm: “Phòng ngừa tội phạm
103
tức là không để cho tội phạm xảy ra và gây nên những hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
không để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu các hình phạt khắc nghiệt của
pháp luật. Và nếu có tội phạm có xảy ra thì phải kịp thời phát hiện, xử lý để đảm bảo
cho tội phạm không thể tránh khỏi hình phạt, giáo dục và cải tạo người phạm tội trở
thành công dân có ích cho xã hội” [95, tr.89].
Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang, phòng ngừa tội phạm cần được hiểu theo hai
nghĩa: “Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội
phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội và bằng mọi cách để ngăn
chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm
tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công
dân có ích cho xã hội. Còn theo nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không để cho tội
phạm xảy ra, không để cho tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành
viên nào của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí
cần thiết cho Nhà nước trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục
người phạm tội” [70, tr.185-199].
Trong Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Phòng chống tội phạm trong giai đoạn
mới”, GS.TS Nguyễn Phùng Hồng và tập thể tác giả đã xác định: “Phòng ngừa tội phạm
là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tập thể lao động và cá nhân
công dân nhằm tác động lên những yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hoặc
có nguy cơ làm phát sinh những nguyên nhân, điều kiện về tội phạm nhằm làm giảm
thiểu tội phạm và những tác hại hậu quả do tội phạm gây ra” [59, tr.43].
Các công trình nghiên cứu lý thuyết Tội phạm học chủ yếu phân tích, luận giải
về các biện pháp phòng ngừa THTP, tức là nghiên cứu các hình thức, cách thức tác
động lên đối tượng của hoạt động phòng ngừa. Vấn đề giải pháp phòng ngừa THTP
chưa được đề cập.
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “giải pháp” nghĩa là “phương pháp giải
quyết một vấn đề cụ thể nào đó” [110, tr 373], còn “biện pháp” nghĩa là “cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể” [110, tr 62]. Hai khái niệm này không đồng nhất
về mặt ngữ nghĩa. Có thể hiểu “giải pháp” là phương hướng, chủ trương, đường lối
có tính định hướng để giải quyết một vấn đề nào đó, còn “biện pháp” là hình thức
diễn ra hành động cụ thể để giải quyết vấn đề, là con đường để tác động đến đối
104
tượng. Nói cách khác, để triển khai thực hiện giải pháp, cần có các biện pháp cụ thể.
Tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là hiện tượng xã hội tiêu cực
và phức tạp bởi chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đời sống xã hội. Do
đó việc phòng ngừa tình hình tội này cần phải được tiến hành bằng nhiều giải pháp
khác nhau. Các giải pháp này có vai trò chỉ đạo, định hướng cho hoạt động phòng
ngừa và để triển khai trên thực tế, cần các biện pháp cụ thể. Chẳng hạn như để triển
khai giải pháp kinh tế - xã hội để loại trừ các yếu tố tiêu cực là nguyên nhân và điều
kiện nảy sinh tình hình tội này, cần có những biện pháp cụ thể như giải quyết việc
làm cho người lao động, tăng cường an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo…Hay đối
với giải pháp hoàn thiện về hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực KDĐC, có những
biện pháp cụ thể như nghiên cứu, đánh giá những “lỗ hổng” pháp lý là nguyên nhân
và điều kiện nảy sinh tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, trên cơ sở đó
tiến hành bổ sung, sửa đổi các quy định đã lạc hậu, ban hành các văn bản pháp quy
mới theo hướng tăng cường QLNN, xiết chặt kiểm soát hoạt động KDĐC…
Với nhận thức trên, có thể hiểu: “Giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp là các quan điểm chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước, định hướng cho việc sử dụng hệ thống các biện pháp của Nhà
nước và xã hội tác động đến các yếu tố tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của tình
hình tội này, nhằm khắc phục, ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra, từng bước hạn
chế, đẩy lùi và tiến tới loại trừ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”.
Nội hàm của định nghĩa này bao gồm những vấn đề cơ bản như sau:
Về nội dung: giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC là các quan điểm có tính chất chỉ đạo, định hướng cho việc sử dụng hệ thống
các biện pháp khác nhau của Nhà nước và xã hội tác động đến các yếu tố tiêu cực là
nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội này;
Về chủ thể ban hành giải pháp: Đảng và Nhà nước (bao gồm Chính phủ, chính
quyền các cấp, các cơ quan QLNN về hoạt động KDTPTĐC);
Về biện pháp phòng ngừa THTP: sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau,
từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật, tổ chức quản lý, tuyên truyền giáo dục,
đến các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn;
Về hướng, mục tiêu của hoạt động phòng ngừa: tác động vào các yếu tố tiêu
105
cực là nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC;
nhằm ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra, từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới
loại trừ tình hình tội này ra khỏi đời sống xã hội.
4.1.2. Cơ sở ban hành giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Việc ban hành hệ thống các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC được tiến hành dựa trên những cơ sở như sau:
4.1.2.1. Cơ sở lý luận
Với cách tiếp cận theo hướng đi từ bản chất xã hội của con người để tìm ra
nguyên nhân của tội phạm, Các Mác và Ph.Ăng ghen chỉ rõ phương hướng cơ bản
nhất của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm là hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Tư tưởng này đã được V.I. Lênin đã phát triển một cách toàn diện và sâu sắc trong
các tác phẩm của mình như “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”,
“Nhà nước và cách mạng”. Ông cho rằng khâu quyết định của việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm là phải xác định được nguyên nhân và điều kiện nảy sinh ra tội phạm,
đồng thời phải xây dựng được một hệ thống các biện pháp để loại trừ những nguyên
nhân, điều kiện đó.
Từ những quan điểm nói trên, có thể thấy THTP nói chung, tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng là một hiện tượng xã hội chỉ xuất hiện trong
một giai đoạn nhất định và sẽ mất đi khi nguyên nhân làm phát sinh ra nó không còn
nữa. Như vậy, việc ban hành và triển khai các giải pháp phòng ngừa tình hình tội này
về lý luận là hoàn toàn có thể thực hiện được, khi xác định được đúng nguyên nhân
và điều kiện làm phát sinh hoặc thúc đẩy nó phát triển.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học Tội phạm học Việt Nam là
nền tảng lý luận vững chắc cho việc ban hành các giải pháp phòng ngừa tình hình tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC.
4.1.2.2. Cơ sở chính trị
Cơ sở chính trị của việc ban hành các giải pháp phòng ngừa THTP nói chung,
tình hình tội lừa đào CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng, xuất phát từ những quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta về công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng qua từng thời kỳ.
106
Chẳng hạn, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020” đã xác định: “Hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm
theo hướng xây dựng các cơ quan bảo vệ pháp luật là nòng cốt, phát huy sức mạnh
của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Hoàn thiện
chính sách hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa…” [8]. Kết luận số
05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW tiếp tục chỉ rõ: “Công tác phòng, chống tội
phạm là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu dài, cùng với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội” [4]. Các văn bản như Chỉ thị số 09-CT/TW ngày
01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới” [3]; Chỉ thị số 46-
CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo ANTT trong tình hình mới” [11]; Kết luận số 44-KL/TW ngày
22/01/2019 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW
của Ban Bí thư khoá XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới” [5]. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIII với rất nhiều nội dung về phòng chống tội phạm…đã cho thấy
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đấu tranh phòng, chống tội phạm là sự nghiệp
của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, kết hợp chặt chẽ với tính tích cực
của quần chúng, cùng với công tác nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong đó, công tác phòng ngừa được xác định là phương hướng chính; chủ động
phòng ngừa; lấy phòng ngừa làm cơ bản…
4.1.2.3. Cơ sở pháp lý
Nền tảng pháp lý cơ bản, quan trọng nhất để ban hành các giải pháp phòng
ngừa THTP nói chung, phòng ngừa tình hình tội lừa đào CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
nói riêng ở nước ta đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật qua
các thời kỳ. Theo đó, phòng ngừa tội phạm được xác định là trách nhiệm của toàn xã
hội, việc tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm phải trên cơ sở tuân thủ triệt để
các quy định của Hiến pháp và pháp luật. BLHS nước ta là công cụ pháp lý quan
trọng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Hành vi lừa đảo CĐTS đã được
107
quy định rất sớm trong BLHS qua các thời kỳ để làm cơ sở đấu tranh, xử lý với tội
này [73; 78]. Tại BLTTHS, Luật CAND, Luật tổ chức CQĐT hình sự, Luật Tổ chức
VKSND với quy định về chức năng, nhiệm vụ của một số chủ thể, đã tạo cơ sở pháp
lý cho việc tiến hành các hoạt động phòng ngừa THTP, trong đó có tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC. Chẳng hạn, Khoản 1, Điều 5 - BLTTHS 2015 quy định:
“Trong phạm vi trách nhiệm của mình, cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm” [77]. Điều 8, Luật Tổ chức Cơ quan
điều tra hình sự năm 2015, quy định cơ quan điều tra có nhiệm vụ: “Tiến hành điều
tra các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm
và người thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố. Tìm ra nguyên nhân,
điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp
khắc phục và ngăn ngừa” [76]. Bên cạnh đó, trong những năm qua Chính phủ đã ra
nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng trong công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điển hình như Quyết định số 282/QĐ-TTg
ngày 24/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số
48/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Quyết định số 1217/2012/QĐ-TTg ngày
06/9/2012 của Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng,
chống tội phạm giai đoạn 2012-2015; Quyết định số 623/2016/QĐ-TTg ngày
14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống
tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030; Chỉ thị số 21/CT-TTg
ngày 25/5 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường phòng ngừa, xử lý hoạt
động lừa đảo CĐTS…Trên cơ sở đó, các bộ, ngành liên quan đã ban hành những quy
định về công tác phòng, chống tội phạm như: Chỉ thị số 02/CT-BCA-C41 và các
Thông tư số 18, 19, 20, 21, 22/2013/ TT-BCA-C41 của Bộ Công an quy định công
tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân, ban hành ngày 01/4/2013; Chỉ
thị số 04/CTVKSTC ngày 17/5/2012 của VKSND Tối cao về tăng cường các biện
pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp;
Thông tư liên tịch số 06/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT ngày 2/8/2013 hướng
dẫn thi hành bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội
108
phạm và kiến nghị khởi tố…Những văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để đề ra
các giải pháp định hướng cho việc tổ chức lực lượng và triển khai các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC.
4.1.2.4. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của việc đề ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC chính là tình hình tội này, được biểu hiện bằng tổng thể
các hành vi phạm tội cùng các chủ thể thực hiện hành vi đó tại Việt Nam, đã trình bày
tại Chương 2.
Giữa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC với việc đề ra giải pháp
phòng ngừa tình hình tội này có mối quan hệ mật thiết, tác động hai chiều với nhau.
Thứ nhất, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là cái có trước, chi phối,
quyết định nội dung các giải pháp phòng ngừa tình hình tội này. Ngược lại, việc
nghiên cứu xây dựng các giải pháp phòng ngừa, cũng như việc áp dụng các biện pháp
phòng ngừa cụ thể phải căn cứ trên kết quả nghiên cứu, nắm rõ về thực trạng, diễn
biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội này trên từng địa bàn cụ thể, trong từng giai
đoạn nhất định. Thứ hai, căn cứ vào thực tiễn tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC, các chủ thể hoạch định giải pháp phòng ngừa sẽ lựa chọn các biện pháp
tổ chức triển khai tương thích. Ở chiều ngược lại, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC phản ánh chính kết quả áp dụng các giải pháp, biện pháp phòng ngừa
trên thực tế. Các thông số về lượng và chất của THTP, sự tăng, giảm biến động của
THTP ở thời điểm trước và sau khi áp dụng các biện pháp phòng ngừa, sự thay đổi về
tính chất, mức độ nguy hiểm của THTP qua từng năm; độ ẩn, tỷ lệ ẩn của THTP…là
những cơ sở quan trọng để đánh giá tính khoa học, khả thi của các giải pháp phòng
ngừa đã đề ra, cũng như hiệu quả hoạt động phòng ngừa THTP đã đạt được. Đây là
căn cứ để tiếp tục có những thay đổi, điều chỉnh trong nội dung các giải pháp, biện
pháp phòng ngừa để hoạt động này hợp lý hơn, đạt được các mục tiêu mong muốn
trong tương lai.
4.1.3. Chủ thể ban hành, đối tượng thực hiện giải pháp phòng ngừa tình
hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Ở nước ta, phòng ngừa tội phạm được xác định là phương hướng chính, là
nhiệm vụ chung của toàn xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của
109
Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và mọi
công dân. Do đó, chủ thể ban hành các giải pháp phòng ngừa THTP là các cơ quan
QLNN theo chức năng, nhiệm vụ được phân công, nội dung các giải pháp là sự cụ thể
hóa đường lối lãnh đạo của Đảng về công tác phòng, chống tội phạm.
Trong lĩnh vực KDĐC, chủ thể trực tiếp ban hành các giải pháp phòng ngừa tình
hình tội lừa đảo CĐTS và hành vi vi phạm pháp luật khác gồm Chính phủ, các cơ quan
QLNN như Bộ Công thương và các bộ, ban ngành có liên quan, UBND cấp tỉnh.
Đối tượng thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS và
hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực KDĐC bao gồm các tổ chức Đảng,
chính quyền các cấp, các cơ quan QLNN mà trọng tâm là các cơ quan Công an,
VKSND và TAND.
Bên cạnh đó, đối tượng có trách nhiệm tham gia thực hiện các giải pháp phòng
ngừa tình hình tội này còn bao gồm các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, tập thể
lao động và mọi công dân…
Đối tượng chịu sự tác động của các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo
CĐTS lĩnh vực KDĐC, là tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực KDĐC, hoặc sử
dụng phương thức KDĐC để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, nạn nhân của tội phạm cũng là đối tượng chịu sự tác động của các giải
pháp phòng ngừa, bởi vì nạn nhân có vai trò rất quan trọng trong cơ chế hành vi
phạm tội lừa đảo CĐTS lĩnh vực KDĐC. Phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nạn nhân
giúp ngăn chặn, loại trừ đi những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội này.
4.1.4. Nhiệm vụ của việc xây dựng, ban hành giải pháp phòng ngừa tình
hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Những nhiệm vụ đặt ra trong công tác xây dựng các giải pháp phòng ngừa tình
hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC bao gồm:
Một là, phân tích làm rõ đặc điểm tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC; nghiên cứu tìm ra những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân làm phát sinh tình
hình tội này, phát hiện những điều kiện có thể tạo ra cơ hội, khả năng thuận lợi cho
việc thực hiện hành vi phạm tội; nghiên cứu, nắm bắt phương thức, thủ đoạn, cách
110
thức thực hiện hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC;
Hai là, khảo sát, phân tích, đánh giá, làm rõ thực tiễn và hiệu quả hoạt động
phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, phát hiện kịp thời
những sơ hở, thiếu sót về lý luận, cũng như hạn chế bất cập trong hoạt động thực tiễn,
để chấn chỉnh, sửa đổi hoặc bổ sung các giải pháp phòng ngừa tình hình tội này.
Ba là, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn, xây dựng các giải pháp
mang tính định hướng cho việc kế hoạch hóa hoạt động phòng ngừa tình hình tội lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, tạo cơ sở để các cơ quan chức năng đề xuất các
biện pháp phòng ngừa thích hợp, như củng cố, hoàn thiện, xây dựng mới quy trình
quản lý hoạt động KDĐC; đề xuất, kiến nghị xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh hoạt động phòng ngừa tình hình tội này.
Để tiến hành có hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC, đòi hỏi phải triển khai đồng bộ hệ thống các biện pháp có tính
khả thi.
Biện pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có thể
chia thành 2 nhóm, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến những nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh THTP.
Cụ thể, thông qua việc giải quyết những nhiệm vụ chung của xã hội, nhóm những
biện pháp phòng ngừa xã hội (như biện pháp kinh tế - xã hội; biện pháp chính trị, tư
tưởng, văn hóa; biện pháp giáo dục, đào tạo; biện pháp tổ chức, quản lý; biện pháp
pháp luật...) giúp loại trừ những hiện tượng xã hội tiêu cực và khắc phục những tồn
tại, thiếu sót, nhược điểm của các quá trình xã hội, từ đó, gián tiếp thủ tiêu nguyên
nhân và điều kiện của THTP.
Bên cạnh đó, nhóm các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt (phòng ngừa nghiệp
vụ) trực tiếp tác động vào nguyên nhân và điều kiện phạm tội, gắn với chức năng,
nhiệm vụ của từng chủ thể trong hoạt động phòng ngừa THTP như các ngành CAND,
VKSND, TAND...
4.2. Thực tiễn triển khai phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp tại Việt Nam
Trong giai đoạn 2011 - 2020, việc triển khai một số giải pháp phòng ngừa THTP
nói chung, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng có thể khái
111
quát như sau:
4.2.1. Thực tiễn triển khai phòng ngừa xã hội:
4.2.1.1. Giải pháp kinh tế - xã hội
Trong 10 năm qua, nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp
phù hợp, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn tượng, được
thế giới đánh giá cao; sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều lần. Giai đoạn
2011 - 2020, mặc dù bị ảnh hưởng do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, khủng hoảng nợ công, nhưng nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng bình
quân là 6,29%/năm. Chẳng hạn, năm 2016 GDP đạt 6,21%; năm 2017 đạt 6,81%;
năm 2018 đạt 7,08%. Đáng chú ý, GDP cả năm 2018 đạt mức tăng trưởng cao nhất kể
từ năm 2009 trở lại đây. Việt Nam đang tiến nhanh tới mốc 1.000 tỷ USD. Quy mô
nền kinh tế ước đạt 5,55 triệu tỷ đồng, tương đương 240,5 tỷ USD [148]. Năm 2020
được xem là một năm của những khó khăn và thách thức lớn đối với kinh tế thế giới
nói chung, trong đó có Việt Nam. Kinh tế thế giới được dự báo suy thoái nghiêm
trọng nhất trong lịch sử, tăng trưởng của các nền kinh tế lớn đều giảm sâu do ảnh
hưởng tiêu cực của dịch Covid-19. Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng
trưởng với tốc độ tăng GDP ước tính đạt 2,91% [157].
Tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh - những đô thị đặc biệt ở nước ta, đồng thời là
địa bàn tập trung chủ yếu của hoạt động lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, các
biện pháp phát triển kinh tế xã hội trong 10 năm qua đã thu được nhiều kết quả quan
trọng. Tại Hà Nội, tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) giai đoạn 2011 -
2020 đạt bình quân 7,41% mỗi năm. Quy mô GRDP gấp 1,9 lần trước khi mở rộng
(sát nhập tỉnh Hà Tây cũ), thu nhập bình quân đầu người tăng 2,3 lần lên hơn 3.900
USD. Tốc độ tăng trưởng bình quân của Hà Nội cao gấp 1,3 lần tốc độ chung cả
nước; quy mô GRDP tăng gấp gần 2 lần sau 10 năm. Đến cuối năm 2017, Hà Nội đã
đóng góp 19% nguồn thu ngân sách cả nước, 16,5% GDP cả nước [141]. Còn tại TP
Hồ Chí Minh, tính đến năm 2018, GRDP của thành phố này đạt 8,3%, tỷ trọng quy
mô kinh tế của thành phố hiện đã chiếm 23,97% so với quy mô kinh tế cả nước [153].
Hướng đến mục tiêu mỗi năm kinh tế TP Hồ Chí Minh đạt được mức đóng góp trên
22% GDP và 28% tổng thu ngân sách cho cả nước; tăng trưởng kinh tế bình quân
10,7%/ năm, gấp 1,6 lần bình quân của cả nước; năng suất lao động của thành phố đạt
112
gấp 2,7 lần năng suất lao động bình quân của cả nước [153].
Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà
nước ta. Từ những thành tựu phát triển kinh tế, cả nước triển khai nhiều nhóm giải
pháp bảo đảm an sinh xã hội, để xoá đói giảm nghèo, đảm bảo đời sống của nhân
dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính
trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm TTATXH.
Trong 10 năm qua, mặc dù nguồn lực của đất nước còn hạn hẹp, nhưng Đảng và
Nhà nước ta vẫn đặt nhiệm vụ phát triển dân sinh trong mối tương quan hài hòa và
gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế, giữa đầu tư phát triển kinh tế với đầu tư bảo
đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội. Nhiều chính sách về an sinh xã hội được ban
hành. Các chương trình xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam ở tầm quốc gia đã thu
được những kết quả tốt, được dư luận quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, nhất là xóa
đói, giảm nghèo cho nông dân ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đầu tư
của Nhà nước cho an sinh xã hội ngày càng tăng. Việt Nam đã đạt và vượt thời gian
hoàn thành nhiều mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Việc giảm
nghèo được thực hiện đồng thời ở các cấp: cá nhân, hộ gia đình, xã và huyện để hỗ
trợ người nghèo phát triển sản xuất; tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ
giúp pháp lý, nhà ở và nước sinh hoạt; tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết
yếu cho các xã đặc biệt khó khăn. Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo đạt
hiệu quả cao, được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, nhất là giảm nghèo cho nông
dân ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số [139].
4.2.1.2. Giải pháp giáo dục, đào tạo, tuyên truyền
Trong 10 năm qua, Nhà nước và toàn xã hội đã sử dụng nhiều giải pháp về giáo
dục, đào tạo, tuyên truyền để tác động vào đời sống xã hội, nhằm mục tiêu nâng cao
dân trí, sự hiểu biết, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và các nội quy, quy tắc của
cuộc sống trong nhân dân; giáo dục lòng yêu nước; giáo dục pháp luật cho công dân,
hình thành nên những phẩm chất tâm lý tích cực, nhằm tạo ra sức “đề kháng” trước
những tiêu cực từ môi trường sống. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật để đẩy mạnh công tác phòng ngừa xã hội ngay từ gia đình, cộng đồng
và cơ sở. Giúp người dân nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm chấp hành
113
pháp luật, tích cực và tự giác tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thực hiện Thông tư liên tịch số 34/2009/TTLTBGDĐT - BCA ngày
20/11/2009 giữa Bộ Giáo dục đào tạo và Bộ Công an về “Hướng dẫn phối hợp thực
hiện công tác đảm bảo ANTT tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân”, ngành Công an đã phối hợp với các nhà trường trong công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật cho người học, cán bộ, nhà giáo. Các bộ môn “Giáo dục
công dân” môn “Pháp luật đại cương” đã được vào giảng dạy ở hệ thống trường học
từ cấp phổ thông đến đại học, cao đẳng và trung cấp. Thông qua đó, giáo dục cho học
sinh về đạo đức, lối sống, bồi dưỡng kỹ năng sống, kỹ năng phòng ngừa bạo lực, tệ
nạn xã hội, biết cách bảo vệ mình trước nguy cơ tội phạm.
Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC,
việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật về KDĐC, phổ biến phương thức thủ đoạn
phạm tội trong lĩnh vực này cho doanh nghiệp, người tham gia KDĐC và toàn xã hội
đã được chú trọng, nhất là sau mỗi vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực này được phát
hiện, xử lý. Nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này trong
việc nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, người tham gia BHĐC, cộng đồng xã
hội cũng như các cán bộ làm công tác quản lý, cơ quan chủ quản (Cục CT&BVNTD -
Bộ Công thương) đã xuất bản một số tài liệu, ấn phẩm phục vụ công tác tuyên truyền
pháp luật liên quan đến hoạt động BHĐC, tờ rơi hướng dẫn về pháp luật BHĐC, sách
hỏi và đáp về KDĐC; phối hợp với các sở Công thương các địa phương thông qua
nhiều hình thức như văn bản, điện thoại, email để theo dõi cập nhật diễn biến thực tế,
hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật về BHĐC thống nhất trên toàn quốc.
Ngoài ra, Cục CT&BVNTD còn phối hợp với các sở Công thương địa phương tổ
chức nhiều buổi tập huấn trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt động
BHĐC. Trên các phương tiện thông tin đại chúng như các kênh báo chí, số tin bài
đăng tải về diễn biến vụ án, những cảnh báo của cơ quan chức năng, của các chuyên
gia khá phong phú và kịp thời. Thông qua đó, nhận thức của cộng đồng xã hội về
PTKDĐC và biến tướng của nó đã được nâng lên rõ rệt. Người dân đã rút kinh
nghiệm, hình thành ý thức cảnh giác tương đối cao trước những thủ đoạn chiêu trò
114
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực này [25].
4.2.1.3. Giải pháp tổ chức - quản lý
Phương thức KDĐC du nhập vào Việt Nam từ năm 1998, tuy nhiên trước năm
2016 việc quản lý hoạt động trong lĩnh vực này còn hạn chế. Sau khi xảy ra những vụ
án lừa đảo trong KDĐC đặc biệt nghiêm trọng, Chính phủ và Bộ Công thương đã có
những chỉ đạo theo hướng xiết chặt quản lý hoạt động KDĐC, quyết tâm lập lại trật
tự trong hoạt động BHĐC nhằm khắc phục những thiếu sót, sơ hở, bất cập, chồng
chéo trong tổ chức - quản lý, để khắc phục một số nguyên nhân, điều kiện của tình
hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này [25].
Từ đầu năm 2016, Bộ Công thương đã ban hành Chỉ thị số 02/CT - BCT ngày
09/3/2016 về tăng cường kiểm tra, giám sát xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động
BHĐC; phối hợp với UBND cấp tỉnh chỉ đạo các sở Công thương, lực lượng QLTT
tăng cường công tác quản lý hoạt động BHĐC tại các địa phương; trực tiếp thành lập
nhiều đoàn kiểm tra liên ngành, phối hợp với Bộ Công an và các lực lượng chức năng
kiểm tra hoạt động của nhiều doanh nghiệp BHĐC [25]. Ngày 31/10/2016, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chỉ thị 30/CT-TTg về việc tăng cường QLNN đối với hoạt động
BHĐC, giao cho Bộ Công an chỉ đạo các lực lượng nghiệp vụ, Công an các cấp tăng
cường công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, điều tra làm rõ các tổ chức, cá nhân
KDĐC hoặc lợi dụng PTKDĐC nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, như
lừa đảo CĐTS, trốn thuế, huy động tài chính trái phép, kinh doanh trái phép [37].
Ngày 12/3/2018 Chính phủ ban hành Nghị định số 40/2018/NĐ-CP về quản lý hoạt
động KDTPTĐC, thay thế cho Nghị định 42/2014/NĐ-CP, đã giúp khắc phục được
những bất cập trong hoạt động QLNN đối với lĩnh vực này bằng việc xiết chặt quản
lý hoạt động của doanh nghiệp tham gia BHĐC. Chẳng hạn, doanh nghiệp muốn hoạt
động tại địa phương phải nộp hồ sơ đăng ký và phải được sở Công thương nơi đó
đồng ý xác nhận đăng ký hoạt động. Cơ quan quản lý tại địa phương có quyền thu hồi
xác nhận đăng ký hoạt động tại đó, nếu doanh nghiệp có các hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý hoạt động BHĐC theo quy định. Trường hợp không có trụ sở, chi
nhánh, văn phòng đại diện tại địa phương, doanh nghiệp BHĐC có trách nhiệm uỷ
quyền cho một cá nhân cư trú tại đó làm người đại diện để thay mặt doanh nghiệp
làm việc với các cơ quan QLNN. Trường hợp hội nghị, hội thảo, đào tạo về BHĐC
115
có sự tham dự của từ 30 người trở lên, hoặc có sự tham dự của từ 10 người tham gia
BHĐC trở lên, doanh nghiệp BHĐC có trách nhiệm thông báo tới sở Công thương
trước khi thực hiện [40]. Với việc triển khai quyết liệt các giải pháp, đến nay việc
kiểm soát hoạt động BHĐC đã chặt chẽ hơn, nhiều doanh nghiệp đã bị xử phạt với số
tiền rất lớn, số lượng doanh nghiệp BHĐC đã giảm mạnh, hạn chế đáng kể hoạt động
BHĐC bất chính [24].
4.2.1.4. Giải pháp về pháp luật:
Luật Cạnh tranh năm 2004; Nghị định 110/2005/NĐ-CP; Nghị định số
120/2005/NĐ-CP; Thông tư 19/2005/TT-BTM…mặc dù đã tạo ra một hành lang
pháp lý điều chỉnh lĩnh vực KDĐC, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, kẽ hở, bị lợi
dụng để trục lợi. Sau nhiều vụ án lừa đảo CĐTS xảy ra trong lĩnh vực KDĐC với
quy mô lớn, Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 về quản lý hoạt động
BHĐC được Chính phủ ban hành để thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP; tiếp
đến là Thông tư 24/2014/TT- BCT ngày 30/7/2014 của Bộ Công thương quy định
chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Trong Nghị định số
42/2014/NĐ-CP, hành vi KDĐC theo “mô hình kim tự tháp” đã bị nghiêm cấm. Tuy
nhiên sau một thời gian đi vào cuộc sống, các văn bản này đã bộc lộ nhiều điểm
chưa hợp lý, vẫn tạo kẽ hở để KDĐC bất chính khai thác, lợi dụng để trục lợi.
Trước những diễn biến phức tạp trong lĩnh vực KDĐC, ngày 12/3/2018 Chính phủ
đã ban hành Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định về quản lý hoạt động KDĐC, thay
thế cho Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Đặc biệt, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã “tội phạm hóa” hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC (tại Điều 290)
và hành vi vi phạm quy định về KDTPTĐC (Điều 217a), tạo cơ sở pháp lý quan
trọng để xử lý nghiêm những sai phạm trong lĩnh vực này, góp phần răn đe, phòng
ngừa sớm sai phạm trong hoạt động KDĐC [78].
Có thể nói, hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực KDĐC ngày càng hoàn
thiện, phù hợp với thông lệ quốc tế, phục vụ cho công tác QLNN lĩnh vực KDĐC,
giúp sàng lọc những công ty KDĐC yếu kém, kinh doanh mang tính chất lừa đảo
gây thiệt hại cho người dân. Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý
KDĐC, công tác kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực này cũng được đẩy mạnh.
Cục CT&BVNTD và sở Công thương, lực lượng QLTT các địa phương đã tăng
116
cường kiểm tra, phát hiện và xử lý nhiều vi phạm trong hoạt động BHĐC.
4.2.2. Thực tiễn triển khai phòng ngừa chuyên biệt
Phòng ngừa chuyên biệt (còn gọi là phòng ngừa nghiệp vụ) đối với tình hình tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của
từng chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tội phạm như CAND, VKSND, TAND.
Trong 10 năm qua, lực lượng CAND mà trực tiếp là các đơn vị trực tiếp nghiệp
vụ như Cảnh sát kinh tế; Cảnh sát hình sự; An ninh mạng và phòng, chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao đã triển khai phòng ngừa tình hình tội này với kết quả có thể
khái quát như sau:
Một là, khi nhận được yêu cầu từ phía cơ quan chủ quản (ngành Công thương),
lực lượng Cảnh sát kinh tế đã cử lực lượng tham gia các đoàn kiểm tra liên ngành về
hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC, làm rõ các sai phạm đề xuất xử phạt hành
chính hoặc chuyển xử lý hình sự. Theo số liệu thống kê giai đoạn 2011 - 2020 về
công tác phối hợp của C03 - Bộ Công an, đơn vị này đã phối hợp với Cục
CT&BVNTD tiến hành 56 cuộc kiểm tra liên ngành đối với các doanh nghiệp BHĐC
trong cả nước. Trong đó, kết quả kiểm tra đã chuyển xử lý hình sự 5 vụ; còn lại
chuyển ngành chủ quản ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính [16]. Tổng số tiền
phạt của đoàn kiểm tra liên ngành trong 3 năm gần đây như sau: năm 2018 phạt 32
doanh nghiệp số tiền 2,5.000.000.000 đồng; năm 2019 phạt 08 doanh nghiệp số tiền
1,000.000.000 tỷ đồng; năm 2020 xử phạt VPHC 02 doanh nghiệp với số tiền
130,000.000 đồng [24].
Hai là, khi có đơn thư tố giác của người dân hoặc thông tin báo chí phản ánh,
lực lượng CAND đã chủ động tiến hành xác lập các chuyên án trinh sát để tổ chức
đấu tranh làm rõ sai phạm của các doanh nghiệp BHĐC bị tố cáo lừa đảo. Giai đoạn
2011 - 2020, Cục CSĐTTP về trật tự xã hội (C02) đã xác lập 02 chuyên án trinh sát
[15]; Cục CSĐTTP về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu (C03) đã xác lập 04 chuyên án
[16]; Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (C50) xác lập 03
chuyên án [17]; Công an TP Hà Nội xác lập 03 chuyên án; Công an tỉnh Phú Thọ xác
lập 01 chuyên án; Công an TP Hồ Chí Minh xác lập 03 chuyên án. Kết quả đấu tranh
chuyên án, đã khám phá được 16 vụ, chuyển xử lý hình sự [101]. Điển hình như
chuyên án điều tra vụ MB24, do Phòng PC02 - Công an TP Hà Nội xác lập năm 2011;
117
chuyên án điều tra vụ Liên Kết Việt, do Cục C03 xác lập năm 2015…
Ba là, đã tổ chức xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành khởi tố điều tra 21 vụ
án tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC xảy ra trong cả nước trong giai
đoạn 2011 - 2020 (trong đó có 16 vụ do chủ động làm rõ tội phạm qua công tác đấu
tranh chuyên án; 5 vụ còn lại do công tác phối hợp kiểm tra liên ngành), chuyển truy
tố, xét xử đảm bảo các yêu cầu về chính trị, nghiệp vụ và pháp luật [28; 101].
Bốn là, quá trình điều tra vụ án lừa đảo trong KDĐC, các đơn vị CAND đã cung
cấp thông tin cho báo chí, ra thông báo về phương thức thủ đoạn phạm tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC, cảnh báo và tư vấn cho người dân biện pháp phòng ngừa.
Trong giai đoạn 2011 – 2020, bên cạnh những việc đã làm được, việc triển khai
các giải pháp phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ đối với tình hình tội lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có một số tồn tại hạn chế như sau:
Đối với công tác phòng ngừa xã hội, những hạn chế trong công tác quản lý nhà
nước về KDĐC, trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức
cho người dân đã được phân tích tại Chương 3 (xem mục 3.2.3; 3.2.5).
Đối với công tác phòng ngừa nghiệp vụ, có những tồn tại, hạn chế như:
Công tác giải quyết đơn thư tố giác của công dân về các doanh nghiệp BHĐC
có dấu hiệu lừa đảo còn chậm, không triệt để. Tình trạng người dân gửi đơn tố cáo
nhưng không có hồi âm khá phổ biến (qua điều tra xã hội học);
Công tác nắm tình hình chưa đạt yêu cầu, còn để xảy ra nhiều vụ lừa đảo ở các
địa phương trong cả nước, gây hậu quả thiệt hại vô cùng nặng nề nhưng không kịp
thời phát hiện, ngăn chặn.
Công tác phát động phong trào quần chúng bảo vệ ANTQ chưa đạt yêu cầu nên
không sớm phát hiện được hành vi lừa đảo trong KDĐC ở cơ sở, nhất là tại địa bàn
nông thôn, vùng sâu vùng xa;
Công tác phối hợp với ngành chủ quản trong việc tiến hành các cuộc kiểm tra
hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC có dấu hiệu sai phạm còn thiếu chủ động, chỉ
vào cuộc khi có đề xuất của ngành chức năng;
Số lượng chuyên án trinh sát xác lập ít, chưa thực sự chủ động, tích cực trong
việc nắm tình hình hoạt động của loại tội này. Thường chỉ triển khai khi sự việc đã
xảy ra với hậu quả thiệt hại nghiêm trọng, dư luận hoặc báo chí đã phản ánh, phanh
118
phui. Việc chủ động phát hiện còn yếu, khiến độ ẩn của loại tội này còn rất cao;
Hoạt động mở rộng điều tra các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
chưa triệt để. Trong vụ án xảy ra tại Công ty MB24 vào năm 2012, ngoài Hà Nội còn
11 tỉnh, thành phố tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với người phạm tội số
cầm đầu các chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty này. Tuy nhiên, đã có 7/11
tỉnh phải tạm đình chỉ điều tra, hoặc đình chỉ điều tra vì không chứng minh được tội
phạm, hoặc chuyển tội danh sang các tội nhẹ hơn như trốn thuế, kinh doanh trái phép,
không phản ánh đúng bản chất của hành vi lừa đảo trong KDĐC.
Ngoài lực lượng CAND thì VKSND và TAND cũng có nhiệm vụ phòng ngừa
tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, thông qua hoạt động chuyên môn
đó là công tác truy tố và xét xử các vụ án lừa đảo trong KDĐC. Tuy nhiên, có thể
thấy trong 10 năm qua, cơ quan VKSND và TAND ngoài việc thực hiện các chức
năng của mình, cũng chưa đưa ra các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ đối với tình
hình tội này.
4.3. Dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh
doanh đa cấp tại Việt Nam
4.3.1. Khái niệm dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh
vực kinh doanh đa cấp
Dự báo THTP là sự phán đoán về thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của
THTP có thể xảy ra trong tương lai, về các nguyên nhân và điều kiện, về các khả năng
phòng, chống nó trong từng giai đoạn nhất định và việc đánh giá về chất và lượng của
những thay đổi trong THTP, các nguyên nhân và điều kiện của nó [114, tr.171]. Mục
đích của dự báo THTP là xác định những số liệu chung nhất biểu thị diễn biến của
THTP trong tương lai, trên cơ sở đó phát hiện những diễn biến và quy luật ảnh hưởng
tiêu cực tới THTP để đề xuất giải pháp hay phương án làm thay đổi chúng theo hướng
có lợi cho hoạt động đấu tranh phòng và chống THTP [114, tr.172].
Dự báo tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có vai trò rất quan
trọng trong hoạt động phòng ngừa. Bởi vì hoạt động này cung cấp thông tin về mọi
mặt của THTP trong tương lai, xác định những khả năng diễn biến của THTP cùng
những yếu tố ảnh hưởng đến THTP... để phục vụ cho việc xây dựng các giải pháp
119
phòng ngừa tích cực và chủ động tấn công loại tội này, hạn chế được những hậu quả
thiệt hại xảy ra. NCS lựa chọn thời gian dự báo tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC tại Việt Nam, trong phạm vi 05 năm tiếp theo (từ 2020 đến năm 2025).
Với nhận thức trên, có thể định nghĩa: “Dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp là việc đưa ra những phán đoán khoa học về
mức độ, cơ cấu, diễn biến và tính chất, các nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội này, tạo cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp phòng ngừa tối ưu, phù hợp với
thực tế, để giải quyết tốt tình hình tội phạm trong những năm tiếp theo”.
4.3.2. Cơ sở dự báo
4.3.2.1. Cơ sở lý luận
Việc dự báo tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam
trong những năm tiếp dựa trên cơ sở phương pháp luận là Triết học Mác- Lê nin. Đó
là đặt hiện tượng THTP trong tổng thể các mối quan hệ xã hội; nghiên cứu sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa hiện tượng THTP và các hiện tượng xã hội khác; xem xét THTP
trong biến động lịch sử, tìm ra quy luật, xu thế diễn biến của THTP trên cơ sở làm rõ
mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của THTP. Công tác dự
báo tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC còn dựa trên lý luận và phương
pháp luận chung cho hoạt động dự báo xã hội, sử dụng kết quả dự báo xã hội về các
hiện tượng xã hội có liên quan, bởi vì THTP là hệ quả của sự tác động tương hỗ của
các hiện tượng xã hội. Với tư cách là bộ môn khoa học về phòng ngừa THTP, lý luận
của Tội phạm học về THTP và phòng ngừa THTP, cùng phương pháp luận về dự báo
THTP của ngành khoa học này, là cơ sở lý luận cho công tác dự báo THTP nói chung,
tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng.
4.3.2.2. Cơ sở thực tiễn
Dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng công
nghiệp 4.0, đất nước ta sẽ đứng trước nhiều cơ hội, cùng những khó khăn, thách thức
lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp.
Về kinh tế - xã hội, nguy cơ bị tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới, rơi vào bẫy thu nhập trung bình vẫn tồn tại. Cuộc cách mạng Công nghiệp
4.0 với đặc điểm là tự động hóa thay thế lao động phổ thông trong nền kinh tế, robot thay
120
thế con người trong nhiều lĩnh vực…làm thị trường lao động có thể bị phá vỡ, khi đó
tình trạng thất nghiệp sẽ gia tăng. Tình trạng thiếu công ăn việc làm, đời sống khó khăn,
thu nhập bấp bênh sẽ kéo theo nhiều vấn đề xã hội phức tạp, trong đó có tội phạm.
Bên cạnh đó, sự gia tăng dân số cơ học, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, chênh
lệch giàu nghèo kéo theo sự bất mãn trong xã hội diễn ra gay gắt, những bất cập về an
sinh xã hội chậm được khắc phục; sự xuống cấp băng hoại đạo đức xã hội…là những
yếu tố tiêu cực tác động trực tiếp lên quá trình hình thành nhân cách con người, tạo ra
những phẩm chất tâm lý cá nhân tiêu cực như lối sống thực dụng, vô cảm, ích kỷ,
chạy theo đồng tiền, tâm lý chụp giật, muốn làm giàu bằng mọi giá.
Trong lĩnh vực TTATXH, toàn cầu hóa cùng với sự bùng nổ của khoa học công
nghệ trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm gia tăng một số loại tội phạm
phi truyền thống, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia. Trong khi đó, công
tác QLNN về vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước…Cuộc đấu tranh bảo vệ ANQG, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội sẽ phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức mới.
Thực tế tại các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Canada…lừa đảo CĐTS
trong KDĐC theo “hình tháp ảo” điện tử đã xuất hiện từ lâu, gây ra nhiều thiệt hại
đáng kể cho ngành kinh doanh theo mạng nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Việt
Nam đương nhiên không phải là ngoại lệ.
Hiện nay, với nhận thức ngày càng cao của cộng đồng xã hội về phương thức
KDĐC, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về quản lý lĩnh vực này, đặc biệt là
BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) với việc “tội phạm hóa” các hành vi vi
phạm quy định về KDĐC, đã tạo cơ sở pháp lý để phát hiện sớm và xử lý hoạt động
BHĐC bất chính.
Do đó, lừa đảo trong KDĐC theo kiểu “truyền thống” sẽ không còn lộng hành
như trước, nhưng sẽ “biến thể” sang các dạng thức khác, với tính chất ngày càng tinh
vi, nguy hiểm. Trong thời gian tới, loại tội này sẽ khai thác triệt để sức mạnh của
công nghệ cao, xây dựng MLĐC chủ yếu trên mạng Internet.
4.3.3. Nội dung dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực
kinh doanh đa cấp trong thời gian tới
Trong các Chương 2 và 3, "bức tranh tổng thể" về tình hình tội lừa đảo CĐTS
121
trong lĩnh vực KDĐC giai đoạn 2011 - 2020, cũng như nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội này đã được mô tả khá chi tiết với những số liệu, thông tin cập nhật đến
thời điểm nghiên cứu, tạo cơ sở cho việc đưa ra những đánh giá, nhận định, dự báo
THTP trong những năm tiếp theo để xây dựng kế hoạch và lựa chọn các giải pháp
phòng ngừa sát hợp thực tiễn và có tính khả thi cao. Tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC thời gian tới sẽ có các đặc điểm tội phạm học như sau:
4.3.3.1. Dự báo về mức độ và diễn biến của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Thời gian tới hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC sẽ tiếp tục gia tăng,
diễn biến phức tạp trên không gian mạng. Việc sử dụng “mô hình tháp ảo” để lừa đảo
trong mua bán sản phẩm cụ thể như trước đây dường như đã “lỗi thời”. Thay vào đó,
thủ đoạn phạm tội này sẽ núp dưới các“vỏ bọc” như thu hút đầu tư tài chính, bất
động sản, sàn giao dịch ngoại hối, tiền ảo, thương mại điện tử, kinh doanh dịch vụ
…để xây dựng mạng lưới nhằm huy động tài chính trái phép và chiếm đoạt. Các ổ
nhóm tội phạm sẽ lợi dụng đặc tính lan tỏa của thông tin trên không gian mạng, để
đưa ra những lời quảng cáo, chào mời hấp dẫn về lãi suất, hoa hồng, hiệu quả đầu
tư…nhằm đánh vào lòng tham của nhà đầu tư. Môi trường mạng tạo ra cho bọn tội
phạm khả năng xóa dấu vết, tính “ẩn danh” rất cao, nhà đầu tư thậm chí không biết
doanh nghiệp đang kêu gọi thu hút vốn ở đâu, kinh doanh cái gì…Chính vì dễ dàng
lừa đảo lại khó bị phát hiện, nên thời gian tới lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
qua mạng sẽ thay thế cho kiểu truyền thống từng nhiều năm hoành hành tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, sẽ có nhiều băng nhóm tội phạm trong nước cấu kết với người nước
ngoài thực hiện tội phạm trên lãnh thổ Việt Nam. Xu hướng các công ty KDĐC huy
động đầu tư tài chính sẽ không còn đặt trong lãnh thổ Việt Nam, mà sẽ là hình thức
công ty “mẹ” ở nước ngoài, lập văn phòng đại diện ở Việt Nam để thực hiện tội phạm.
Để xây dựng mạng lưới, các công ty này sẽ đưa ra các mô hình kinh doanh, những
sản phẩm “ảo”, thông qua mạng lưới cộng tác viên người Việt làm nhiệm vụ lôi kéo
người tham gia để huy động tài chính. Mặt khác, môi trường mạng không bị giới hạn
bởi biên giới quốc gia, do đó tội phạm quốc tế hoàn toàn có thể tiến hành các vụ lừa
đảo CĐTS theo phương thức đa cấp thông qua mạng Internet từ bên ngoài lãnh thổ
122
nước ta.
4.3.3.2. Dự báo về cơ cấu, tính chất của tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
(i) Về cơ cấu của tình hình tội phạm: xét theo đặc điểm nhân thân của người
phạm tội: tỷ trọng nam giới phạm tội vẫn chiếm đa số trong cơ cấu của tình hình tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Độ tuổi người phạm tội có xu hướng trẻ hóa.
Tính quốc tế của loại tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC ngày càng trở nên sâu
sắc, bằng việc số vụ án do người nước ngoài thực hiện sẽ gia tăng. Về trình độ học
vấn, năng lực cá nhân của người phạm tội này ngày càng cao (đạt trình độ đại học trở
lên rất phổ biến).
(ii) Về phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm: tội phạm sẽ hoạt động
ngày càng đa dạng và tinh vi, xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp. Nhiều thủ đoạn
lừa đảo mới tiếp thu từ tội phạm các nước được “du nhập” vào Việt Nam. Các đối
tượng phạm tội luôn hoạt động có tổ chức. Chúng có thể không đăng ký KDĐC để
không chịu sự điều chỉnh của pháp luật về lĩnh vực này, hoặc thành lập các pháp nhân
nhưng hoạt động trái ngành nghề được phép kinh doanh.
(iii) Về công cụ, phương tiện hoạt động của tội phạm: trong thời gian tới loại tội
này chủ yếu thông qua mạng Internet, mạng viễn thông.
(iv) Về địa bàn hoạt động phạm tội: loại tội này chủ yếu diễn ra trên không gian
mạng, nhưng vì sự phổ cập của Internet, mạng viễn thông trong phạm vi toàn quốc,
nên tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC sẽ hiện diện ở mọi nơi có nền tảng công
nghệ này. Tuy nhiên, các đô thị lớn vẫn là địa bàn hoạt động chủ yếu của loại tội này,
vì các nhà đầu tư bỏ tiền kinh doanh sản phẩm số, đầu tư dự án…thường là cư dân đô
thị, có khả năng tài chính và am hiểu nhất định về công nghệ, quan tâm đến các xu
thế kinh doanh thương mại mới trên thế giới. Hoạt động BHĐC bất chính thông qua
sản phẩm hàng hóa cụ thể tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu sẽ được hạn
chế, do tác dụng răn đe của các chế tài xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm quy
định về KDĐC.
(v) Về mức độ hậu quả, thiệt hại: vì loại tội này chủ yếu diễn ra trên không gian
mạng, nên có quy mô rất lớn, với mạng lưới có thể lên tới vài vạn người tham gia.
Hậu quả thiệt hại về tài sản trong các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC luôn
123
tỷ lệ thuận với số người tham gia, mạng lưới càng lớn thì thiệt hại càng cao.
(vi) Về nạn nhân của tội phạm: Nạn nhân của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC trong thời gian tới vẫn là cá nhân. Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 sẽ
tạo ra nhiều cơ hội nghề nghiệp, việc làm, đồng thời cũng làm gia tăng số người thất
nghiệp, hoặc công việc không ổn định, do năng lực trình độ không đáp ứng được yêu
cầu của thị trường lao động trong kỷ nguyên mới đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật
cao…dẫn đến đời sống khó khăn, thu nhập bấp bênh, cùng với tâm lý muốn làm giàu
nhanh, làm ăn chụp giật, miễn là có lợi trước mắt…dễ làm cho nhiều người bị các
băng nhóm lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC khai thác, lợi dụng để gây án.
(vii) Về những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm: những hiện tượng tiêu
cực từ môi trường sống vẫn tiếp tục tác động, hình thành nên những đặc điểm tâm lý
cá nhân tiêu cực, sự biến dạng về nhân cách con người, làm phát sinh THTP nói
chung, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng trong những năm
tiếp theo. Bên cạnh đó, sẽ xuất hiện những yếu tố, hiện tượng tiêu cực mới tác động
đến các quá trình xã hội, khiến THTP sẽ có những diễn biến phức tạp mới.
(viii) Về khả năng phòng chống tội phạm của các chủ thể: Trong thời gian tới,
hoạt động phòng ngừa THTP sẽ tiếp tục được đẩy mạnh thông qua việc triển khai
đồng bộ hệ thống các giải pháp khắc phục những hạn chế trong nền kinh tế, văn hóa,
xã hội, tăng cường hoạt động tuyên truyền pháp luật, với sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị, phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự điều hành của chính
quyền, cùng vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể quần chúng. Do đó,
hoạt động phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC sẽ được
nâng cao hiệu quả thông qua các biện pháp phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp
vụ. Về phòng ngừa xã hội, sẽ tập trung vào việc xiết chặt quản lý hoạt động KDĐC;
kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên trách về quản lý và phòng
chống tội phạm trong lĩnh vực này; tăng cường rà soát, đánh giá ảnh hưởng của chính
sách, pháp luật trong lĩnh vực KDĐC; đánh giá thực trạng tình hình hoạt động KDĐC
và những biến tướng, vi phạm pháp luật, để xây dựng các giải pháp khắc phục hạn
chế những sơ hở, thiếu sót, bất cập; xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý quản lý
tiền điện tử, tiền ảo..., không để tội phạm lợi dụng các lỗ hổng pháp lý thực hiện hành
vi lừa đảo; đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về phương thức,
124
thủ đoạn lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, gắn với hoạt động của các cơ quan
truyền thông, báo chí, hoạt động tuyên truyền pháp luật của cơ quan chức năng, để
người dân có thể nhận biết và chủ động phòng tránh. Về phòng ngừa nghiệp vụ, hoạt
động điều tra cơ bản, triển khai các biện pháp nghiệp vụ để nắm tình hình địa bàn và
trên không gian mạng, để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi lừa đảo theo
mô hình đa cấp sẽ được tăng cường. Hiệu quả công tác điều tra tội phạm trong lĩnh
vực này sẽ được nâng cao từ kinh nghiệm thực tiễn, bài học rút ra trong xử lý tội
phạm thời gian qua.
4.4. Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
4.4.1. Các giải pháp phòng ngừa xã hội
4.4.1.1. Nhóm giải pháp khắc phục những hạn chế trong môi trường kinh tế -
xã hội
Nhóm giải pháp khắc phục những hạn chế trong môi trường kinh tế - xã hội là
những giải pháp cơ bản, lâu dài, được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục
nhằm khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh của THTP nói chung, tình hình tội
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC.
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2 cho thấy, loại tội này chủ yếu phát sinh tại các
đô thị lớn, tập trung nhất tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Do đó để phòng ngừa tình
hình tội này trong những năm tiếp theo, cùng với việc quyết liệt thực hiện các chiến
lược, chương trình, kế hoạch và giải pháp về phát triển kinh tế để duy trì ổn định kinh
tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, liên tục và kéo dài, nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống nhân dân... chính quyền các đô thị như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh cần
tập trung triển khai các giải pháp về kinh tế - xã hội như:
Một là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giải quyết tốt vấn đề lao động - việc làm:
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp,
ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao. Chú trọng phát triển các nhóm
ngành điện tử, công nghệ thông tin; hóa dược, công nghệ sinh học, công nghiệp sạch,
tiết kiệm năng lượng, cơ khí, chế biến lương thực thực phẩm; thời trang, dệt may, da
giày, chuyển dần từ hoạt động gia công lắp ráp sang hoạt động sản xuất.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh đảm bảo sự
125
bình đẳng, minh bạch, an toàn và thân thiện; tăng cường kêu gọi đầu tư trong nước, mời
gọi các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh với những điều kiện ưu
đãi thông qua các chương trình của Chính phủ cũng như của địa phương; xây dựng hành
lang pháp lý thông thoáng tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp đầu tư kinh doanh thuận
lợi, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh...
Đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa và phát triển mạnh các khu kinh tế vệ tinh, các
khu công nghiệp và các làng nghề, tăng cường mối quan hệ giữa sản xuất công
nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt khai thác mối liên kết kinh tế giữa các
thành phố lớn với các khu vực phụ cận; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm tạo ra thêm nhiều việc
làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực về lao động ra các thành phố làm việc. Nghiên
cứu phát triển các dự án đô thị vệ tinh thông minh với cơ sở hạ tầng đồng bộ, có đầy
đủ các dịch vụ và tiện ích, hình thành nên các khu nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá
rẻ góp phần kéo giãn dân tại các vùng trung tâm, giảm áp lực cho công tác quản lý
nhà nước về ANTT, giáo dục, y tế. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông,
thương mại hiện đại, đồng bộ, hợp lý, bao gồm hệ thống kho bãi, chợ, siêu thị, trung
tâm thương mại. Chú trọng đầu tư xây dựng, phát triển các khu, cụm công nghiệp với
đa dạng ngành nghề nhằm giải quyết việc làm cho một lượng lớn người lao động
nhập cư và nông dân thiếu ruộng đất trong quá trình đô thị hoá. Quy hoạch có tính
bền vững, lâu dài để xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao ở các huyện
nông thôn, vùng xa, những vùng đất không sản xuất được nông nghiệp, lâm nghiệp,
để sử dụng hết công suất đất, như các huyện thuộc tỉnh Hà Tây (cũ) đối với TP Hà
Nội, các huyện Nhà Bè, Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn...đối với TP Hồ Chí Minh.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp nhằm xóa đói
giảm nghèo, tăng thu nhập để nâng cao đời sống vật chất cho người dân, thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo, kéo giảm sự chênh lệch về phát triển kinh tế và đời sống của
người dân giữa các địa bàn, thực hiện tốt an sinh xã hội, chính quyền các đô thị này
cần tiếp tục tạo cơ chế, chính sách phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình, thông qua hệ
thống các giải pháp đồng bộ, như thực hiện chính sách ưu đãi cho vay vốn, hỗ trợ
người dân đẩy mạnh sản xuất hàng hóa nông nghiệp chất lượng cao nhằm phục vụ
nhu cầu tiêu dùng tại chỗ và xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu cung ứng nguyên liệu công
126
nghiệp chế biến; khuyến khích các doanh nghiệp tại các vùng nông thôn sử dụng các
nguyên liệu của địa phương làm sản phẩm thế mạnh để phát triển sản xuất, kinh
doanh; chuyển giao công nghệ cho các hộ gia đình và cơ sở sản xuất nhỏ để nâng cao
chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm cho
lao động tại chỗ; nhân rộng mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp - công nghiệp -
dịch vụ...
Cùng với đó, cần nâng cao chất lượng công tác đào tạo; tập trung đào tạo mới,
đào tạo lại, dạy nghề cho người lao động, đảm bảo cung cấp đầy đủ nguồn nhân lực
có trình độ, tay nghề cao đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thị trường lao động. Hoạt
động đào tạo, dạy nghề phải gắn với nhu cầu của thị trường sức lao động trên cơ sở
tuân thủ quy luật quan hệ cung - cầu. Do đó, trong những năm tiếp theo cần có chính
sách khuyến khích mở rộng liên kết, hợp tác đào tạo, dạy nghề giữa các đơn vị sử
dụng lao động với các cơ sở đào tạo; mở các trường dạy nghề trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất để doanh nghiệp tự đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho
công nhân qua đó nâng cao chất lượng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động;
tập trung đào tạo, dạy nghề trong các ngành mang tính bền vững, khuyến khích các
doanh nghiệp tăng cường hợp tác đào tạo công nhân trong lĩnh vực công - nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao có sự ưu đãi của Nhà nước. Đồng thời sớm hoàn
thiện thể chế để quản lý tốt thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp để kích
thích thị trường lao động phát triển. Khuôn khổ luật pháp, thể chế, chính sách về lao
động cần sớm được kiện toàn theo hướng tiếp cận với chuẩn mực chung của quốc tế
về lao động, việc làm và thị trường lao động. Cần hoàn thiện hệ thống thông tin thị
trường lao động, phát triển đồng bộ hệ thống giao dịch trên thị trường. Tổ chức
thường xuyên, định kỳ các sàn giao dịch việc làm để có thể kết nối hoạt động giao
dịch trên phạm vi toàn quốc. Chính quyền các cấp cần phối hợp với doanh nghiệp
triển khai các phiên giao dịch việc làm đến tận các xã, phường, thị trấn, giúp người
dân có điều kiện tiếp cận trực tiếp các doanh nghiệp tuyển dụng; làm tốt công tác
đánh giá tình hình, dự báo nhu cầu của thị trường theo các ngành nghề, trình độ; xây
dựng cơ chế bình đẳng giữa chủ sử dụng lao động và người lao động; ưu tiên phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với điều kiện kinh tế của từng quận,
huyện để giải quyết việc làm tại chỗ. Để phát triển thị trường xuất khẩu lao động, Sở
127
Lao động Thương binh và xã hội cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, lựa chọn thị trường
nước ngoài phù hợp và giàu tiềm năng để giới thiệu, tư vấn cho thanh thiếu niên thất
nghiệp, các hộ nghèo, cận nghèo tham gia vào các chương trình tuyển dụng, đi lao
động ở nước ngoài.
Đối với thanh niên đến độ tuổi lao động ở khu vực ngoại thành, người nhập cư
tại các đô thị lớn, để kéo giảm tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm của thông qua đó
góp phần giảm các hộ nghèo, hộ cận nghèo do thiếu tư liệu sản xuất, trình độ tay
nghề...chính quyền các đô thị cần có những biện pháp cụ thể hỗ trợ việc làm, ổn định
cuộc sống người dân thông qua thực hiện các chính sách ưu đãi về đất đai, nhà ở, vay
vốn tín dụng, dạy nghề, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, kích thích phát triển
kinh tế hộ gia đình; hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, người nhập cư có
điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, giúp đỡ họ có điều kiện tiếp cận với công việc
đòi hỏi có tay nghề và kỹ thuật chuyên môn cao; chú trọng phát triển một số ngành
nghề công nghiệp góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp; chuyển giao khoa học kỹ
thuật, hỗ trợ giống vật nuôi cây trồng năng suất cao đến người dân lao động; đầu tư
phát triển các làng nghề truyền thống tại các địa phương, mở rộng quy mô sản xuất
theo hướng thương phẩm hoá các sản phẩm truyền thống; kết hợp sản xuất trong làng
nghề với du lịch sinh thái, để gia tăng thêm thu nhập, từng bước cải thiện đời sống
nhân dân; tổ chức dạy nghề thủ công như nghề may, nghề thêu, nghề sửa chữa cơ
khí…, nhằm thu hút nguồn nhân lực, ổn định việc làm lâu dài...
Hai là, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội: Hệ thống an sinh xã hội là một
công cụ quan trọng để góp phần ngăn ngừa và hạn chế những tiêu cực nảy sinh trong
nền kinh tế thị trường. Khi đói nghèo bị đẩy lùi thì nhu cầu về tiền bạc và tài sản sẽ
không còn ưu tiên hàng đầu, điều này sẽ góp phần quan trọng trong việc triệt tiêu ý
định phạm tội xâm phạm sở hữu.
Trong thời gian tới, chính quyền cùng các ngành chức năng cần tiếp tục thực
hiện có hiệu quả “ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững” phù hợp
với tình hình thực tế của từng địa phương, trên tinh thần "Cả nước chung tay vì người
nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau", nhằm thu hẹp dần sự phân hóa giàu nghèo
giữa các địa bàn và giữa các tầng lớp nhân dân. Chính quyền cần phát huy tối đa
chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm từ nguồn vốn ưu đãi của Quỹ quốc gia
128
việc làm, Quỹ hỗ trợ người nghèo, Quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm tại địa phương; tiếp
tục đẩy mạnh xã hội hóa chính sách an sinh xã hội như mở rộng các cơ sở xã hội nuôi
dưỡng, giáo dục trẻ em cơ nhỡ, mồ côi, người tàn tật, neo đơn, phát triển bảo hiểm thất
nghiệp để trợ giúp người dân ổn định cuộc sống khi chưa tìm được việc làm; đối với
những người thất nghiệp, vô gia cư, tù tha, sau cai nghiện...có nguy cơ “nhàn cư vi bất
thiện”, cần tăng cường công tác dạy nghề, hướng nghiệp, tạo công ăn việc làm, giúp họ
chí thú làm ăn để ổn định cuộc sống.
4.4.1.2. Nhóm giải pháp khắc phục những hạn chế trong giáo dục, môi trường
văn hóa và vận động quần chúng.
Kết quả nghiên cứu Chương 3 cho thấy tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh
vực KDĐC có nguyên nhân tâm lý xã hội từ lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền,
tôn thờ giá trị vật chất, tâm lý hám lợi, làm ăn chụp giật với mong muốn làm giàu
nhanh bằng mọi giá. Cùng với đó là thái độ sống ích kỷ, vô cảm, thói quen hưởng thụ,
lười nhác, khinh nhờn pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội...
Do đó, thông qua việc thực hiện các giải pháp về giáo dục và văn hóa, vận động
quần chúng để hình thành ở con người những phẩm chất tâm lý cá nhân tích cực, từ
nhu cầu, hứng thú, định hướng giá trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật. Thông qua
các giải pháp này, hình thành nên những thói quen, hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn
mực xã hội, ý thức tôn trọng và tự giác chấp hành pháp luật, cùng các quy tắc xử sự
của cộng đồng xã hội; ngăn chặn, hạn chế, loại bỏ những phẩm tâm lý cá nhân tiêu
cực, những thói quen, hành vi lệch chuẩn. Trong thời gian tới, các chủ thể ban hành
và thực hiện giải pháp phòng ngừa bao gồm cấp uỷ đảng, chính quyền, tổ chức đoàn
thể, các ngành chức năng như văn hoá, giáo dục đào tạo, thông tin truyền thông… cần
chú trọng thực hiện các giải pháp như sau:
Một là, khắc phục những hạn chế trong môi trường giáo dục: Kết luận số 51-
KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã yêu cầu: “Đẩy mạnh công tác giáo dục lý tưởng
cách mạng, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, kiến thức pháp luật và ý
thức công dân trong hệ thống giáo dục quốc dân” [6]. Thực hiện chủ trương này, thời
129
gian tới các chủ thể nêu trên cần đẩy mạnh triển khai đồng bộ các giải pháp về tuyên
truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân, hướng đến mục tiêu xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi
cá nhân; thường xuyên trau dồi lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống tốt đẹp, giáo
dục tình yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tích cực, lành mạnh, trách
nhiệm và làm việc hiệu quả trong học sinh, sinh viên.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã xác định: “Giáo dục là một hoạt
động mang tính xã hội cao. Muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục toàn diện học
sinh, cần phải coi trọng cả giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã
hội” [2]. Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp,
chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030
đã xác định mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự
là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội [35]. Việc giáo dục nhân cách
con người, phải được tiến hành ngay từ mỗi gia đình. Cần duy trì và phát huy những
giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Các bậc cha mẹ cần thấy rõ trách
nhiệm của mình trong việc quản lý, dạy bảo con cái, phải luôn gương mẫu trong lời
nói, việc làm, đồng thời phải có phương pháp giáo dục đúng đắn, phải định hướng và
giám sát mọi hoạt động của con cái.
Môi trường nhà trường có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát
triển nhân cách của học sinh. Do đó, bên cạnh việc trang bị kiến thức văn hóa, phải
đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống cho học sinh,
để hình thành ở người học lối sống tích cực, có lòng nhân ái, đức tính trung thực, biết
trân trọng các giá trị truyền thống, hành xử theo chuẩn mực, có ý thức thượng tôn
pháp luật, có thái độ và hành động đúng đắn trong việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của công dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, phân biệt hành vi nào được
phép thực hiện, hành vi nào bị pháp luật cấm, có khả năng nhìn nhận vấn đề, lựa chọn
cách giải quyết tình huống theo hướng tích cực, biết cách bảo vệ tài sản, bảo vệ bản
thân, biết xa lánh tội phạm và tệ nạn xã hội, tham gia tích cực trong hoạt động phòng
130
chống tội phạm.
Trên thực tế, kỹ năng xử lý các tình huống phức tạp của đời sống, trong đó có
tội phạm… là rất cần thiết đối với giới trẻ trong bối cảnh THTP diễn biến phức tạp
như hiện nay. Ví dụ, để phòng ngừa hành vi lừa đảo trong KDĐC, cần định hướng giá
trị, lối sống cho học sinh, giúp họ có thái độ ứng xử đúng đắn với đồng tiền, hướng
dẫn cách thức kiếm sống hợp pháp, cảnh báo những cách kiếm tiền bất hợp pháp bị
nghiêm cấm, những cái bẫy thường gặp trong cuộc sống liên quan đến tài sản, cách
nhận biết những thủ đoạn lừa gạt, cách xử lý khi gặp phải...
Để xây dựng được môi trường học đường an toàn, đấu tranh chống lại những
cái xấu, cái độc hại từ tệ nạn xã hội và tội phạm xâm nhập, giữa nhà trường và Công
an các địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong bảo đảm ANTT trong và ngoài nhà
trường. Ngành giáo dục cần đẩy mạnh phối hợp với các cơ quan, tổ chức, phối hợp
với Đoàn thanh niên… xây dựng và tổ chức mô hình đội, nhóm, câu lạc bộ, tổ chức
sinh hoạt thể thao, văn hóa, các sân chơi... phù hợp với từng lứa tuổi, giúp học sinh
hoàn thiện nhân cách, có cách suy nghĩ, thái độ và hành vi tích cực. Ngoài ra, nhà
trường và gia đình cần tăng cường sự phối hợp chặt trong việc quản lý giáo dục học
sinh, kịp thời phát hiện, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc.
Hai là, giải pháp khắc phục những hạn chế trong môi trường văn hóa: Để khắc
phục những nguyên nhân gia tăng của tệ nạn xã hội và tội phạm từ yếu tố tiêu cực
trong lĩnh vực văn hóa, cần xác định việc xây dựng đời sống văn hóa là việc làm của
toàn dân, là nhiệm vụ toàn diện và lâu dài, phải huy động được sức mạnh tổng hợp
trong triển khai thực hiện. Về giải pháp cần tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh ở cả cấp độ quốc gia, địa phương, cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư và mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội; tôn vinh, đề cao những phẩm chất tốt đẹp, cao thượng,
nhân văn; đấu tranh phê phán, chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực, trái đạo
lý… góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống.
Trên cơ sở các nhiệm vụ đó, chính quyền các đô thị cần căn cứ vào tình hình cụ
thể để xác định nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp, như đổi mới công tác quản lý và
phương thức hoạt động của các đoàn thể, các tổ chức quần chúng, xã hội, nghề
nghiệp; phát triển mạnh hệ thống thông tin đại chúng, mở rộng cơ hội và tăng cường
năng lực cho người dân tiếp cận thông tin, thụ hưởng các dịch vụ văn hoá, vui chơi
131
giải trí, có cuộc sống tỉnh thần lành mạnh; tổ chức các phong trào văn hóa, văn nghệ,
thể thao, vui chơi, giải trí nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người dân; tăng
cường xây dựng các thiết chế văn hóa xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống nhà văn hóa, trung tâm văn hóa ở các quận, huyện, phường, xã, thị trấn...nhằm
tạo ra nhiều sân chơi lành mạnh, bổ ích, thiết thực cho người dân.
Ba là, giải pháp tăng cường công tác vận động quần chúng: Nơi sinh sống của
mỗi người là tiểu môi trường xã hội, có tác động rất lớn đến việc hình thành nhân
cách, các phẩm chất tâm lý cá nhân con người. Một cộng đồng an toàn, không có tiêu
cực, tội phạm, tệ nạn xã hội, người dân sống hòa thuận, đoàn kết, tương thân, tương
ái, tự giác chấp hành pháp luật, hương ước, lệ làng… là những yếu tố xã hội thuận lợi
đối với quá trình định hình nhân cách tiến bộ, tích cực trong mỗi con người.
Trong thời gian tới, để xây dựng cộng đồng an toàn, cấp uỷ, chính quyền cùng
các ngành chức năng, đặc biệt là lực lượng CAND cần đổi mới phương pháp tổ chức
hoạt động phong trào quần chúng bảo vệ ANTQ, thực hiện có hiệu quả các chương
trình và mục tiêu quốc gia về phòng chống tội phạm. Công tác vận động quần chúng
phải bám sát yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ ANTT trong thời kỳ mới, xác định các nội
dung, biện pháp, quy trình, hình thức quan hệ phối hợp một cách phù hợp nhất, có
trọng tâm và hiệu quả thực sự. Trên cơ sở đó tập trung khảo sát, nghiên cứu, phân tích
đánh giá rõ thực trạng, đặc điểm tình hình và những vấn đề mới nảy sinh, nguyên
nhân, điều kiện của THTP tại địa phương; phát huy sức mạnh toàn dân và của cả hệ
thống chính trị tham gia công tác đảm bảo ANTT, chú trọng xây dựng và củng cố
phong trào ở các địa bàn trọng điểm; tích cực vận động quần chúng hăng hái tham gia
vào các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; “Toàn dân
đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, gắn với chương trình mục tiêu
“3 giảm: giảm tội phạm, mại dâm và ma túy” và công tác phòng, chống các loại tệ
nạn xã hội, nhằm hạn chế các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP nói
chung, tội phạm tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng. Thông
qua phong trào, cần tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp, cao thượng, nhân văn; đấu
tranh phê phán, chống các hành vi, quan điểm sai trái, tiêu cực… Thực hiện các
nhiệm vụ vận động quần chúng phòng chống tội phạm, đảm bảo ANTT với phương
châm lấy con người làm trung tâm, dân chủ hoá đời sống; cần đổi mới thường xuyên
132
nội dung, phương thức vận động theo hướng thiết thực, hiệu quả, bám sát thực tiễn,
có trọng tâm, trọng điểm. Phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện của các tổ chức xã
hội, cộng đồng dân cư; xác định rõ và thể chế hoá trách nhiệm của các chủ thể và mọi
công dân trong đảm bảo ANTT.
Tăng cường sự tham gia và vai trò của Hội BHĐC - tổ chức đại diện cho các
doanh nghiệp KDĐC tại Việt Nam. Bởi vì đây chính là những nơi tư vấn, cảnh báo,
giải quyết khiếu nại, giúp người dân (bao gồm cả người tiêu thụ, phân phối sản phẩm,
dịch vụ, nhà đầu tư) bảo vệ quyền lợi của họ về mặt dân sự, trước khi các vụ việc bị
xử lý hình sự. Hiện nay vai trò của hiệp hội này rất mờ nhạt, nên người dân chỉ biết
dựa vào cơ quan Công an khi sự việc lừa đảo đã vỡ lỡ.
4.4.1.3. Giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp.
THTP không chỉ bị tác động và phụ thuộc bởi điều kiện kinh tế... mà còn phụ
thuộc vào phương pháp QLNN, xã hội và hiệu quả chỉ đạo của cuộc đấu tranh chống
tội phạm. Kết quả nghiên cứu Chương 3 cho thấy những hạn chế trong công tác QLNN
trong lĩnh vực KDĐC giai đoạn 2011 - 2020 là một trong những nguyên nhân quan
trọng làm phát sinh tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Do đó, trong
thời gian tới để phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội này, các chủ thể như Chính phủ,
các ngành chức năng và chính quyền địa phương… cần thực hiện các giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác QLNN đối với lĩnh vực này như:
(i) Bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý hoạt động
KDĐC; thường xuyên rà soát, đánh giá, phát hiện những chồng chéo, bất cập trong
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động KDĐC để tổng hợp và đề
xuất sửa đổi, bổ sung, đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
hàng năm;
(ii) Tăng cường công tác phối hợp, trao đổi thông tin trong việc quản lý hoạt động
KDĐC. Các Bộ, ngành, các cơ quan QLNN tại các địa phương cần tăng cường phối hợp,
trao đổi thông tin với nhau trong công tác QLNN đối với hoạt động KDĐC, để theo dõi
kịp thời nắm bắt, giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động này;
(iii) Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về hoạt động KDĐC
cho các doanh nghiệp, người tham gia hoạt động KDĐC; đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính trong hoạt
133
động KDĐC, nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong công tác QLNN trong lĩnh
vực này; hướng dẫn, đôn đốc doanh nghiệp hoạt động KDĐC tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật; đẩy mạnh việc tuyên truyền đến người dân về các dấu hiệu vi
phạm, thủ đoạn lừa đảo của một số doanh nghiệp KDĐC, người tham gia KDĐC để
người dân tránh bị dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào các hoạt động KDĐC bất chính, lợi
dụng mô hình kinh doanh này để lừa đảo, trục lợi.
(iv) Nâng cao năng lực QLNN đối với hoạt động KDĐC thông qua việc thường
xuyên tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, pháp luật, kỹ
năng, trình độ cho cán bộ thực hiện công tác QLNN ở các địa phương; xây dựng, phổ
biến các tài liệu tập huấn về công tác QLNN đối với hoạt động KDĐC.
(v) Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm trong hoạt động KDĐC giữa các ngành hữu quan… trên thị trường và không
gian mạng, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực này; thường xuyên kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật
về KDĐC của các doanh nghiệp, người tham gia KDĐC;
(vi) Thường xuyên tiến hành “hậu kiểm” (kiểm tra, giám sát) hoạt động của các
doanh nghiệp KDĐC có vốn đầu tư nước ngoài, các chi nhánh, văn phòng đại diện
nước ngoài tại Việt Nam. Cần có quy định chi tiết việc kiểm tra, giám sát và trách
nhiệm phối hợp, quy trình phối hợp hành động giữa các bộ, ngành liên quan, như Bộ
Công an, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư, UBND cấp tỉnh trong việc quản lý,
giám sát hoạt động của các chủ thể này; cần phát huy vai trò của lực lượng CAND cơ
sở và chính quyền địa phương, ngành Công thương, cơ quan thuế…trong hoạt động
“hậu kiểm” tại nơi các công ty, văn phòng đại diện hoặc chi nhánh doanh nghiệp
nước ngoài đăng ký địa chỉ trụ sở, hoặc có hoạt động kinh doanh. Việc tôn trọng
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, “rải thảm” kêu gọi đầu tư nước ngoài, nhưng
không có nghĩa là buông lỏng việc kiểm tra, giám sát. Bên cạnh đó, các đơn vị Công
an cần phối hợp với các cơ quan hữu quan như tài chính, ngân hàng, cơ quan lãnh sự
nước ngoài… để xác minh thông tin về tư cách pháp nhân, năng lực tài chính của
doanh nghiệp KDĐC có trụ sở tại nước ngoài, nhưng hoạt động tại Việt Nam, hoặc
trên không gian mạng Internet đang thu hút nhiều người Việt Nam tham gia, để phòng
ngừa việc mạo danh, giả mạo về pháp nhân. Nếu phát hiện những dấu hiệu nghi vấn,
134
bất thường, cần cảnh báo xã hội rộng rãi để ngăn chặn việc người dân bị lừa qua hoạt
động huy động tài chính lãi suất cao. Mặt khác, lực lượng Công an cần tăng cường
phối hợp với ngành thông tin và truyền thông trong hoạt động quản lý mạng Internet,
để kịp thời phát hiện thông tin tội phạm liên quan đến hoạt động huy động tài chính,
kinh doanh dịch vụ, sản phẩm số theo phương thức đa cấp và có đối sách giải quyết.
Để ngăn chặn hành vi lừa đảo bằng thủ đoạn KDĐC tiền ảo, trong khi chưa có
khung pháp lý điều chỉnh vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước cùng các bộ, ngành và
chính quyền các địa phương cần triển khai những biện pháp dưới đây:
Một là, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương, Ngân hàng Nhà
nước và các bộ, ngành liên quan tăng cường điều tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý
kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật liên quan tới hoạt động huy động tài chính
theo PTKDĐC, lừa đảo trên mạng Internet thông qua tiền ảo, mạo danh đầu tư, kinh
doanh tiền ảo để CĐTS, lợi dụng hệ thống ngân hàng, hệ thống thanh toán để mua
bán, trao đổi, sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán trái pháp luật. Trong đó, các
đơn vị nghiệp vụ Bộ Công an và Công an các đơn vị địa phương cần tăng cường công
tác nắm tình hình trên không gian mạng và các cộng đồng dân cư, để kịp thời phát
hiện các hoạt động huy động vốn trái phép dưới danh nghĩa kinh doanh tiền ảo, kịp
thời phát hiện, kiểm tra các hoạt động tổ chức hội thảo có đông người tham gia, để
xác minh làm rõ, ngăn chặn những hoạt động lừa đảo CĐTS;
Hai là, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng, tổ
chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không được thực hiện các giao dịch liên
quan đến tiền ảo trái pháp luật. Cần siết chặt kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên
quan tới tiền ảo; rà soát các tổ chức, cá nhân có giao dịch mua bán, trao đổi tiền ảo,
yêu cầu các tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không
được cung ứng các dịch vụ thanh toán, thực hiện giao dịch thẻ, cấp tín dụng qua thẻ,
hỗ trợ xử lý, thanh toán, chuyển tiền, bù trừ và quyết toán. Đồng thời, cần tăng cường
rà soát, báo cáo kịp thời các giao dịch đáng ngờ có liên quan tới tiền ảo;
Ba là, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân để phân biệt
tiền ảo, tiền điện tử, đồng thời tăng cường cảnh báo về những rủi ro, nguy cơ và hệ
135
lụy của việc tham gia mua bán, giao dịch, đầu tư, kinh doanh tiền ảo bất hợp pháp, sử
dụng tiền ảo cho hoạt động tội phạm (rửa tiền, tài trợ khủng bố, chuyển tiền bất hợp
pháp, trốn thuế, lừa đảo…);
4.4.1.4. Giải pháp khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về quản lý
lĩnh vực kinh doanh đa cấp và xử lý tội phạm.
Từ việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC tại Chương 3, nhằm khắc phục những hạn chế của hệ thống
pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này, các chủ thể như Chính phủ, bộ, ngành chức năng
cần nghiên cứu, triển khai những giải pháp như sau:
(i) Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi các quy định tại Nghị định số 40/2018/NĐ-CP
theo hướng xác định rõ các hoạt động huy động vốn, kinh doanh ngoại tệ, tiền ảo, cho
vay… theo phương thức đa cấp là hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp và
bị pháp luật cấm. Có thể định nghĩa KDTPTĐC là hoạt động sử dụng mạng lưới
người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh, trong đó, người tham gia được hưởng
hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của mình và của
những người khác trong mạng lưới.
Với sự điều chỉnh này, các hoạt động huy động vốn, nhận uỷ thác đầu tư đều
thuộc nội hàm của khái niệm kinh doanh. Do vậy, các hoạt động này khi được thực
hiện theo phương thức đa cấp đã mặc nhiên chịu sự điều chỉnh của pháp luật về quản
lý hoạt động KDTPTĐC và bị cấm theo quy định của pháp luật.
Pháp luật hiện hành chỉ coi hàng hóa là đối tượng của hoạt động KDĐC, mà bỏ
quên đối tượng phi vật chất đó là dịch vụ, cùng các hoạt động thu hút vốn dưới hình
thức đầu tư dự án, đầu tư bất động sản, giao dịch ngoại hối, tiền ảo, bán cổ phần,
nhượng quyền kinh doanh theo phương thức đa cấp. Lỗ hổng pháp lý này đã khiến
cho việc lợi dụng mô hình đa cấp để hoạt động biến tướng từ nhiều năm qua diễn
biến phức tạp. Nhiều vụ án lừa đảo CĐTS bằng cách lợi dụng phương thức đa cấp
theo mô hình Ponzi hoặc Pyramid (hình tháp ảo) đã xảy ra, thể hiện qua các hành vi
lôi kéo người tham gia với hứa hẹn trả lãi cao cho khoản đầu tư, hoặc kêu gọi đầu tư
vào các dự án ma như trường hợp Công ty Alibaba để hưởng lãi cao. Với sự điều
chỉnh của quy phạm định nghĩa nêu trên, các cơ quan chức năng có đủ cơ sở để xử lý
136
những hành vi này theo quy định pháp luật về quản lý hoạt động KDTPTĐC.
(ii) Cần nghiên cứu, sửa đổi quy định tại Nghị định số 141/2018 theo hướng bổ
sung quy định xử phạt vi phạm đối với hành vi KDTPTĐC bị cấm, bao gồm hành vi
huy động vốn, nhận ủy thác đầu tư, kinh doanh dịch vụ tài chính, tiền tệ, tiền ảo theo
phương thức đa cấp. Cụ thể, cần bổ sung thêm cụm từ “thực hiện các hoạt động kinh
doanh theo phương thức đa cấp bị cấm theo quy định pháp luật” vào nội dung khoản
2, Điều 36 “hành vi bán hàng đa cấp bất chính” của Nghị định số 71/2014 ngày
21/7/ 2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực cạnh tranh (sửa đổi bởi Nghị định số 141/2018/NĐ-CP).
(iii) Cần nghiên cứu, sửa đổi khoản 1, Điều 217a BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
2017), thành: “Người nào tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp bị
cấm theo quy định pháp luật, hoặc tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức
đa cấp mà không có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, hoặc
không đúng với nội dung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp thuộc
một trong các trường sau đây…”. Việc sửa đổi như trên sẽ bảo đảm tính chặt chẽ, vì
hoạt động KDTPTĐC bị cấm thì không thuộc diện được cấp giấy chứng nhận đăng
ký hoạt động bán hàng đa cấp.
(iv) Cần xác định rõ cơ quan QLNN có thẩm quyền xử lý các hoạt động
KDTPTĐC bị cấm, bao gồm các hoạt động huy động vốn, nhận uỷ thác đầu tư, cho
vay, kinh doanh tiền tệ.
Theo mô hình tổ chức hiện tại, Cục CT&BVNTD trực thuộc Bộ Công thương
nên bị giới hạn bởi chức năng, quyền hạn chung của Bộ này. Thực hiện Luật cạnh
tranh 2018, Ủy ban cạnh tranh quốc gia sẽ được thành lập, là cơ quan trực thuộc Bộ
Công thương có chức năng quản lý nước về hoạt động KDĐC. Thực hiện phương
châm một lĩnh vực chỉ do một cơ quan quản lý, khi xây dựng quy định về chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban cạnh tranh quốc gia và các đơn vị
trực thuộc, đề nghị xác định rõ đây là cơ quan có chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ
tiến hành thanh tra kiểm tra và XLVPHC đối với hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động KDĐC trong tất cả các lĩnh vực.
(iv) Quy định tăng vốn điều lệ thực tế đi liền với việc kiểm tra tài chính doanh
nghiệp đăng ký KDĐC, để tránh trường hợp vốn điều lệ ảo; tăng mức ký quỹ lên cao
137
hơn để hạn chế các công ty KDĐC lừa đảo tham gia vào thị trường này. Với quy định
về vốn điều lệ và mức ký quỹ của doanh nghiệp KDĐC quá thấp (10 tỉ đồng) như
hiện nay, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty lợi dụng PTKDĐC để thực hiện
hành vi lừa đảo CĐTS;
(v) Tăng cường giải thích, hướng dẫn thực hiện BLHS 2015 về xử lý tình hình
tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC: loại tội này hiện đang diễn biến rất phức tạp,
với nhiều thủ đoạn mới tinh vi, nhưng chưa có văn bản hướng dẫn xử lý, dẫn đến
cách hiểu thiếu thống nhất trong xử lý tội phạm. Chẳng hạn, xác định hành vi gian dối
trong tội này như thế nào; căn cứ nào để phân biệt giữa hành vi gian dối đó với với
hành vi lừa dối (được quy định tại Điều 127, BLDS năm 2015); xác định thế nào là
CĐTS trong tội này; thời điểm CĐTS trong một số tình huống phạm tội cụ thể. Vì
vậy, trong thời gian tới cần có những văn bản dưới luật, hoặc thông tư liên ngành giải
thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự trong xử lý hành vi lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC. Trong đó, rất cần phải có những hướng dẫn cụ thể về xác định vai
trò của người tham gia trong MLĐC (đây là vướng mắc rất lớn trong xử lý loại tội
này); xác định thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo CĐTS trong
KDĐC; phân định rõ hơn hành vi lừa đảo trong tội này với những tranh chấp kinh tế,
dân sự khác…
(vi) Mở rộng phạm vi truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại thực hiện
hành vi lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC: BLHS 2015 không quy định về TNHS
của pháp nhân thương mại khi phạm tội lừa đảo CĐTS tại Điều 174 và Điều 290.
NCS cho rằng đây là một thiếu sót. Thời gian tới cần thiết phải sửa đổi theo hướng
mở rộng phạm vi chịu TNHS đối với pháp nhân thương mại, khi thực hiện hành vi
lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Bởi vì theo dự báo, trong những năm tới sẽ
xuất hiện thêm nhiều tổ chức, pháp nhân nước ngoài, cấu kết với cá nhân hoặc pháp
nhân trong nước, sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi lừa đảo này.
(vii) Hoàn thiện khung pháp lý về quản lý tài sản “ảo”, tiền “ảo”, tiền điện tử:
thời gian tới cần cụ thể hóa các chế định về quyền tài sản trong BLDS năm 2015
trong lĩnh vực tài sản “ảo”, xác định mối quan hệ giữa tiền điện tử, tiền “ảo” với tài
sản thực, tiền thực; vai trò của và tác động của chúng tới pháp luật. Nghiên cứu, tiếp
thu, kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về điều chỉnh lĩnh vực này để xây dựng,
138
hoàn thiện khung pháp lý liên quan, theo nguyên tắc đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất,
minh bạch, ổn định và có thể dự báo trước của hệ thống pháp luật, phù hợp thông lệ
quốc tế. Về định hướng xây dựng khung pháp lý về tiền ảo trong thời gian tới, để bảo
đảm việc sản xuất và lưu thông, đầu tư tiền ảo không gây nguy hại đến chính sách
tiền tệ quốc gia và việc điều hành nền kinh tế, NCS đề xuất quan điểm tiếp cận như:
không coi tiền ảo là một loại tiền, không công nhận chức năng là phương tiện thanh
toán của tiền ảo; có thể coi tiền ảo là một tài sản đặc biệt tồn tại dưới dạng vô hình
(tài sản kỹ thuật số), được phép lưu thông tiền ảo có điều kiện, theo những quy chế
đặc thù; tiền ảo có thể là đối tượng của các giao dịch mua bán, trao đổi, tặng cho,
thừa kế hoặc có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; tiến tới thu thuế đối với các
hoạt động liên quan đến tiền ảo; cho phép và kiểm soát các hoạt động phát hành cho
công chúng (ICO) đối với tiền ảo; cho phép thành lập và kiểm soát các sàn giao dịch
tiền ảo; trước khi hoàn thiện những khung pháp lý chính thức, nên tiếp cận và đưa ra
các quy định quản lý "mềm", như quy định về chống rửa tiền, trốn thuế hay nhận diện
khách hàng...;
(viii) Hướng dẫn, chuẩn hóa quy trình thu thập, bảo quản, phục hồi và chuyển
hóa dữ liệu điện tử thành chứng cứ chứng minh tội phạm sử dụng công nghệ cao. Dự
báo trong thời gian tới, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC có sử dụng
công nghệ cao (như dùng phương tiện điện tử, mạng Internet, mạng viễn thông...) sẽ
ngày càng phức tạp. Mặc dù Điều 87 - BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận định dữ liệu
điện tử là nguồn chứng cứ, nhưng cho đến nay chưa có bất kỳ hướng dẫn pháp lý nào
về quy trình thu thập và chuyển hóa dữ liệu điện tử thành chứng cứ chứng minh tội
phạm. Do đó, rất cần phải có thông tư liên tịch giữa các bộ, ngành…để chuẩn hóa
quy trình này;
(ix) Xây dựng, ban hành các văn bản quy định cụ thể về trách nhiệm, cơ chế và
quy trình phối hợp, phối hợp giữa các chủ thể, tăng cường hợp tác quốc tế trong
phòng, chống tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Thời gian qua công tác phối
hợp, trao đổi thông tin…giữa các chủ thể trong hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm quy
định về KDĐC còn hạn chế, chưa chủ động, thường xuyên. Ngay trong mỗi cơ quan,
việc phối hợp giữa các bộ phận, đơn vị liên quan cũng chưa thực sự chặt chẽ. Nguyên
nhân chính là vì chưa có những quy định của pháp luật về vấn đề này. Do đó, thời
139
gian tới cần thiết phải ban hành các văn bản pháp lý phân định rõ trách nhiệm của
từng ngành, từng cơ quan, đơn vị và quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong hoạt
động kiểm tra, giám sát và điều tra, xử lý các hành vi vi phạm và tội phạm trong lĩnh
vực KDĐC, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm và vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực này.
4.4.1.5. Giải pháp phòng ngừa tội phạm từ phía nạn nhân
Kết quả nghiên cứu Chương 3 cho thấy một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến sự gia tăng của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC đến
từ chính nạn nhân của tội phạm. Chính sự mơ hồ trong nhận thức về KDĐC, lòng
tham, tâm lý hám lợi, tư tưởng chụp giật, muốn giàu nhanh, thiếu hiểu biết về pháp
luật… đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm khai thác, lợi dụng. Do đó, để chủ động
phòng ngừa tình hình tội này cần bắt đầu từ chính người dân - những nạn nhân tiềm
năng của tội phạm.
Truyền thông thay đổi hành vi là việc thông qua tuyên truyền để trang bị kiến
thức pháp luật và cảnh báo tội phạm, giúp người dân có kiến thức để nhận biết và chủ
động phòng ngừa tội phạm xảy ra với mình, tránh được những sơ hở, hay những việc
làm chứa đựng những nguy cơ, rủi ro, hoặc tự đẩy mình vào tình huống nguy hiểm, bị
tội phạm lợi dụng. Đây chính là việc phòng ngừa chủ động từ khía cạnh nạn nhân.
Thực tế cho thấy khi người dân được trang bị đầy đủ kiến thức, nắm vững các quy
định của pháp luật về KDĐC, hiểu rõ phương thức thủ đoạn phạm tội, thì tự họ sẽ
biết cách xa lánh, không tin vào những chiêu trò dụ dỗ của tội phạm, biết tiết chế lòng
tham, tính hám lợi, biết bảo vệ tài sản, chủ động phòng tránh không để bị lôi kéo,
thuyết phục bởi những “món hời” tưởng tượng dẫn đến hậu quả bị “sập bẫy” tội
phạm. Mặt khác, khi người dân đã nâng cao nhận thức về trách nhiệm công dân, họ
sẽ tự giác và kịp thời cung cấp thông tin tội phạm cho cơ quan chức năng, góp phần
cùng cộng đồng bảo vệ ANTT. Trường hợp là nạn nhân của tội phạm, người dân biết
trình báo với cơ quan chức năng về tội phạm đã xảy ra để được bảo vệ quyền lợi, qua
đó giảm độ ẩn của tình hình loại tội này. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền pháp luật còn
có tác dụng răn đe, cảnh báo những người đang thực hiện tội phạm, có ý định phạm
tội... biết những hậu quả pháp lý có thể phải gánh chịu, để từ bỏ hoặc chấm dứt hành
vi phạm tội. Các biện pháp truyền thông thay đổi hành vi còn tạo ra dư luận xã hội
140
lên án tội phạm một cách mạnh mẽ. Trước áp lực rất lớn từ sự tẩy chay, lên án của
cộng đồng đối với những cá nhân có gây thiệt hại cho xã hội, mà nhiều người từ bỏ
hoặc chấm dứt tội phạm. Qua đó tạo ra môi trường sống an toàn, lành mạnh, ngăn
ngừa ý định phạm tội nảy sinh.
năng địa phương, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng… cần nghiên cứu,
Trong thời gian tới, các chủ thể như chính quyền các cấp, ban ngành chức
triển khai việc truyền thông dưới nhiều hình thức, để từng bước làm thay đổi nhận
thức, suy nghĩ, tâm lý của người dân. Định hướng người dân hướng đến việc làm ăn
chân chính; nâng cao tinh thần cảnh giác, biết phản biện đối với các hình thức kêu
gọi đầu tư, giao dịch mua bán, góp vốn… được quảng cáo mang lại siêu lợi nhuận;
tỉnh táo trước mọi cám dỗ, không hám lợi, ham làm giàu một cách nhanh chóng…
để không sập bẫy tội phạm. Bên cạnh đó, cần hướng dẫn người dân các kỹ năng
thiết yếu, như trước khi tham gia vào MLĐC phải kiểm tra kĩ thông tin về doanh
nghiệp mà mình định tham gia, như có được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động BHĐC hay không, có tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện hoặc bị cơ quan có
thẩm quyền xử lý trong quá trình BHĐC trước đó hay chưa. Đặc biệt, người dân cần
biết những thông tin về loại sản phẩm, hàng hóa không được phép kinh doanh.
Chẳng hạn, mọi loại hình kinh doanh dịch vụ, sản phẩm số, hoặc các hình thức hợp
tác đầu tư, huy động tài chính... đều không được phép KDĐC, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Người dân cũng nên yêu cầu doanh nghiệp cung cấp tài liệu,
chứng từ chứng minh nguồn gốc, chỉ tiêu chất lượng của hàng hóa. Sở Công thương
cấp tỉnh, Cục CT&BVNTD… cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân có thể
dễ dàng tìm hiểu thông tin về hoạt động của các doanh nghiệp KDĐC, cũng như
việc xử lý vi phạm của cơ quan chức năng. Hai đối tượng chính mà công tác truyền
thông thay đổi hành vi cần chú trọng. Đó là người dân tại những vùng nông thôn mà
nạn lừa đảo trong KDĐC từng hoành hành và sinh viên các trường chuyên nghiệp ở
các đô thị, bởi họ là mục tiêu mà các nhóm lừa đảo trong KDĐC thường hướng đến
để rủ rê, lôi kéo. Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần mở rộng
đến cả người nước ngoài làm việc, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mục đích để
họ hiểu và tôn trọng pháp luật Việt Nam, có những hành xử phù hợp với chuẩn mực
141
pháp luật, truyền thống đạo đức của dân tộc ta.
Để hoạt động truyền thông thay đổi hành vi có hiệu quả, cần không ngừng đổi
mới nội dung và hình thức cho phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh, để tạo
nên sự phong phú, đa dạng, dễ hiểu, dễ làm theo. Các chủ thể cần xây dựng, phát
triển đội ngũ tuyên truyền viên đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Các cơ quan
báo chí, truyền thông có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác này. Khi xuất
hiện thông tin hoạt động lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, các cơ quan báo chí
cần làm tốt vai trò cảnh báo xã hội, kịp thời tiến hành điều tra xác minh theo nghiệp
vụ báo chí và đăng tải tin bài. Với sự phổ cập của Internet, viễn thông, thiết bị số…
những thông tin tội phạm sẽ nhanh chóng đến với cộng đồng giúp người dân cảnh
giác, đồng thời “đánh động” các cơ quan chức năng, để tiến hành giải quyết vấn đề
dư luận quan tâm. Thực tế cho thấy trong 10 năm qua, đã có nhiều vụ án lừa đảo
CĐTS trong lĩnh vực KDĐC được phát hiện do “công” của báo chí. Thời gian tới,
ngành Công an, Công thương cần chủ động cung cấp thông tin cho báo chí, giúp
cộng đồng biết được phương thức, thủ đoạn phạm tội để nâng cao ý thức cảnh giác
và cung cấp thêm thông tin cho cơ quan chức năng để mở rộng điều tra vụ án.
Ngoài ra, Hiệp hội BHĐC Việt Nam là một công cụ hiệu quả để thực hiện công tác
tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật cho các hội viên, người tham gia vào
MLĐC và cộng đồng xã hội.
Việc đẩy mạnh công tác truyền thông thay đổi hành vi tại các cộng đồng dân
cư, cần phải linh hoạt và đa dạng về phương pháp, gắn với đặc thù tình hình cư dân,
địa bàn. Chẳng hạn tại vùng nông thôn, miền núi, vùng cao, hải đảo xa xôi, nơi có
trình độ dân trí chưa cao, với bản tính thật thà, dễ tin người… nên họ thường bị đối
tượng mồi nhử, dụ dỗ tham gia vào các MLĐC bất chính. Vì vậy, việc truyền thông
có thể thông qua hệ thống loa truyền thanh thôn bản, qua băng rôn, áp phích, tờ rơi,
các buổi sinh hoạt cộng đồng, đoàn thể. Hoạt động tuyên truyền tại cơ sở có thể
lồng ghép nhiều nội dung, như phổ biến pháp luật kết hợp với thông báo tình hình
ANTT trên địa bàn, thông báo về tình hình, thủ đoạn hoạt động của các loại tội
phạm...Nếu tại địa phương có hoạt động lôi kéo nhiều người tham gia KDĐC, thì
lực lượng Công an cơ sở cần cảnh báo họ về các thủ đoạn lừa đảo trong KDĐC đã
xảy ra, để người dân nhận diện, biết đề cao cảnh giác, tiết chế lòng tham, tính hám
lợi, muốn làm giàu nhanh chóng, tham mua hàng giá rẻ…đồng thời chủ động tố
142
giác tội phạm với cơ quan chức năng biết để xử lý.
4.4.2. Các giải pháp phòng ngừa nghiệp vụ
4.4.2.1. Giải pháp phòng ngừa tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp của cơ quan chức năng
Một là, đối với lực lượng CAND: Với vai trò là chủ thể nòng cốt trong hoạt
động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC nói riêng, các đơn vị nghiệp vụ Bộ Công an và Công an các
đơn vị, địa phương cần thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp phòng ngừa như sau:
Đẩy mạnh Phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, tích cực vận động quần chúng
nhân dân tự giác tham gia bảo vệ ANTT tại cơ sở, chủ động hỗ trợ cơ quan chức năng
trong phòng chống tội phạm. Lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội,
Cảnh sát khu vực, Công an xã cần tăng cường công tác nắm tình hình tại cơ sở, vận
động quần chúng cung cấp thông tin về tình hình hoạt động KDĐC trên địa bàn, kịp
thời phát hiện những hiện tượng bất thường, như việc người dân rủ rê nhau tham gia
đóng tiền mua các gói đầu tư, tiền ảo, gian hàng ảo, hoặc các hoạt động bất thường
của các doanh nghiệp BHĐC trên địa bàn…. để thông tin cho lực lượng chức năng xử
lý. Đồng thời, vận động nạn nhân trong các vụ án lừa đảo CĐTS theo phương thức đa
cấp tố giác tội phạm, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết
vụ án.
Lực lượng Cảnh sát kinh tế cần đẩy mạnh công tác nắm tình hình, điều tra cơ
bản về hoạt động nghi vấn núp bóng KDĐC để thực hiện hành vi lừa đảo trên địa bàn.
Căn cứ kết quả điều tra cơ bản, phối hợp với Cảnh sát khu vực, Công an phụ trách xã
về ANTT… tiến hành sàng lọc những đối tượng có điều kiện, khả năng phạm tội lừa
đảo trong KDĐC để tính toán áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ chủ động
nắm tình hình. Cần dựa vào các thiết chế an ninh tại cơ sở, như các ban tự quản, bảo
vệ dân phố, câu lạc bộ phòng chống tội phạm… để nắm bắt thông tin về hoạt động
KDĐC bất chính. Khi phát hiện các hoạt động tổ chức sự kiện thu hút nhiều người
dân tham gia, có dấu hiệu nghi vấn, cần tổ chức trinh sát xác minh ngay, sử dụng các
biện pháp nghiệp vụ thu thập tài liệu; hoặc phối hợp với ngành liên quan tiến hành
kiểm tra, giám sát ngay việc thực hiện các quy định về KDĐC để kịp thời phát hiện
sai phạm. Làm tốt công tác tiếp nhận và giải quyết tin báo tố giác về tội phạm lừa đảo
núp danh nghĩa KDĐC, tạo điều kiện thuận lợi để người dân trình báo tội phạm. Sau
143
khi tiếp nhận nguồn tin, cần tổ chức lực lượng, phối hợp với các đơn vị liên quan tiến
hành xác minh triệt để, kịp thời ngăn chặn tội phạm, tránh tình trạng để hậu quả lớn
xảy ra, hoặc đối tượng bỏ trốn, dư luận bức xúc mới triển khai xác minh.
Lực lượng An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao cần đẩy
mạnh việc nắm tình hình trên không gian mạng để phát hiện thông tin về các hoạt
động huy động tài chính đa cấp, kinh doanh dịch vụ đa cấp, bán các sản phẩm số (tiền
ảo, máy đào tiền ảo, gian hàng ảo, các gói đầu tư ảo…). Khi phát hiện thông tin, cần
chủ động xác lập các chuyên án trinh sát, huy động tối đa lực lượng, phương tiện,
biện pháp để tổ chức đấu tranh làm rõ, bóc gỡ triệt phá các đường dây, ổ nhóm hoạt
động lừa đảo, kịp thời cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí để cảnh báo, khuyến
cáo người dân.
Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra theo TTHS các vụ án lừa đảo trong
KDĐC sẽ góp phần phòng ngừa loại tội này. Khi hành vi phạm tội được kịp thời phát
hiện và xử lý nhanh chóng, không chỉ giúp chặn đứng tội phạm gây hậu quả thiệt hại,
mà còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với những người khác đang có dự mưu
phạm tội. Thông qua xét xử công khai, với sự vào cuộc của báo chí truyền thông, sẽ
góp phần tuyên truyền pháp luật, giúp người nhận diện tội phạm và có ý thức cảnh
giác, chủ động phòng tránh tội phạm.
Để hoạt động điều tra theo TTHS các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC đảm bảo yêu cầu truy tố xét xử, cơ quan điều tra và điều tra viên cần phải làm
tốt ngay từ khâu tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, đến việc triển khai đồng
bộ các biện pháp điều tra theo TTHS với phương châm khách quan, toàn diện và triệt
để. Quá trình điều tra, cần tập trung đấu tranh khai thác, làm rõ phương thức, thủ
đoạn phạm tội, hậu quả thiệt hại của tội phạm; làm rõ những nguyên nhân, điều kiện
của THTP, những sơ hở, thiếu sót trong công tác QLNN, những lỗ hổng của pháp
luật…bị tội phạm lợi dụng; kiến nghị với các cơ quan hữu quan có biện pháp khắc
phục, sửa chữa những bất cập trong quản lý; kiện toàn tổ chức bộ máy và hoạt động
nhằm phòng ngừa tội phạm, loại trừ nguyên nhân, điều kiện của THTP trong chính
nội bộ cơ quan, tổ chức của mình.
Thực tế cho thấy các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC thường rất
phức tạp, do MLĐC có quy mô rất rộng lớn, liên quan đến rất nhiều người, từ nhân
vật chủ chốt ở các tầng, nhánh, đến hàng vạn thành viên ở nhiều địa phương khác
144
nhau. Mặt khác, thủ đoạn hoạt động của đối tượng rất tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng
những kẽ hở của pháp luật, nhiều vấn đề chưa có luật điều chỉnh...Do đó, hoạt động
điều tra phải huy động lực lượng lớn cán bộ tham gia, đòi hỏi óc tổ chức điều tra rất
khoa học mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Bên cạnh đó, việc thu thập và đánh
giá chứng cứ, làm rõ vai trò của từng người trong đồng phạm rất phức tạp, thường
xảy ra tình trạng có nhiều quan điểm trái ngược nhau giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng. Vì vậy, Cơ quan điều tra và Điều tra viên cần phải thường xuyên trao đổi với
VKSND, Kiểm sát viên về các vấn đề trong vụ án, để hoạt động điều tra có trọng tâm,
trọng điểm, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Với những vụ án phức tạp,
cần thiết phải thực hiện cơ chế họp 3 ngành nội chính (Công an, VKSND, TAND) để
cùng bàn bạc, đánh giá chứng cứ, nhất là đánh giá về vai trò đồng phạm của những
người đứng đầu các tuyến, chi nhánh… trong MLĐC. Ngoài ra, cần tranh thủ ý kiến
các nhà quản lý, chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, công nghệ cao… để
phân tích vụ án, tìm ra bản chất thủ đoạn gian dối và CĐTS của tội phạm. Chủ động
phối hợp với các ban, ngành chức năng như Cục CT&BVNTD, sở Công thương, sở
Tài chính, QLTT, cơ quan thuế tại các địa phương trong hoạt động thanh tra, kiểm tra
các doanh nghiệp KDĐC khi có dấu hiệu sai phạm. Để hoàn thành được nhiệm vụ
này, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ CAND cần phải nâng cao trách nhiệm công vụ và đạo
đức nghề nghiệp, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức
nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công tác. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa
tội phạm, cũng như hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, đầu tư trang thiết bị, phương tiện
cho các cơ quan phụ trách công tác này, tăng cường hơn nữa các nguồn lực cho hoạt
động phòng ngừa tội phạm.
Hai là, đối với VKSND các cấp: Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp các vụ án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, ngành Kiểm sát
cần cử những Kiểm sát viên có năng lực, trình độ, kinh nghiệm để tiến hành kiểm sát
loại án này. Cần bám sát hoạt động điều tra, cùng Điều tra viên bàn bạc, đánh giá
chứng cứ, xác định phương hướng điều tra… để đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, đảm
bảo chất lượng hoạt động điều tra; tiến hành truy tố đúng thời hạn, tránh tình trạng
kéo dài vụ án. Mặt khác, vai trò của ngành Kiểm sát trong hoạt động phòng ngừa
THTP thể hiện ở quyền năng kiến nghị. Khi kiểm sát án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
145
KDĐC, Kiểm sát viên cần đi sâu nghiên cứu, nắm chắc các tình tiết có liên quan đến
vụ án, đặc biệt là cần tổng hợp, phân tích làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh
THTP, làm cơ sở cho việc ban hành kiến nghị. Khi ban hành kiến nghị cần nêu cụ thể
vi phạm, thiếu sót, sơ hở trong công tác quản lý và các căn cứ xác định. Trên cơ sở đó,
kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan các biện pháp nhằm chấn chỉnh, khắc phục
có hiệu quả các vi phạm, thiếu sót, sơ hở, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn,
phòng ngừa loại tội này. Việc ban hành kiến nghị phải được thực hiện kịp thời và theo
dõi chặt chẽ kết quả thực hiện kiến nghị.
Ba là, đối với TAND các cấp: Trong hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung,
tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC nói riêng, vai trò của Toà án rất lớn.
Khi thực hiện chức năng xét xử, thông qua hoạt động thẩm vấn, tranh tụng công khai
để xác định sự thật của vụ án, TAND làm rõ được phương thức thủ đoạn phạm tội,
các đặc điểm nhân thân, đặc điểm tâm lý của người phạm tội, nhất là xác định rõ
nguyên nhân và điều kiện của THTP. Đây là cơ sở để Tòa án phối hợp với các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, ban ngành, đoàn thể… xây dựng hệ thống các giải
pháp phòng ngừa đối với THTP. Mặt khác, kết quả xét xử công khai các vụ án lừa
đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, thông qua báo chí đến được với cộng đồng xã hội,
giúp các cơ quan, tổ chức hữu quan và người dân nâng cao ý thức cảnh giác phòng
ngừa tội phạm, rút ra những bài học kinh nghiệm, phát hiện lỗ hổng trong quản lý hay
cơ chế chính sách để có giải pháp khắc phục. Đồng thời, hình phạt còn có tác dụng
răn đe, phòng ngừa chung.
Để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử án lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC, trong thời gian tới ngành Tòa án cần triển khai các giải pháp nhằm tăng
cường trình độ, năng lực nghiệp vụ xét xử cho Thẩm phán; bố trí một số Thẩm phán
chuyên làm công tác xét xử loại án này; tăng cường công tác sơ kết, tổng kết kinh
nghiệm xét xử; tổ chức các buổi tọa đàm, hội nghị giữa TAND các cấp, các địa
phương để chia sẻ những kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp khắc phục khó khăn,
vướng mắc trong hoạt động xét xử loại án này. Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra,
giám đốc việc xét xử của TAND cấp trên với TAND cấp dưới, để kịp thời hạn chế,
khắc phục những sai sót, không để xảy ra tình trạng xét xử oan sai, sót lọt tội phạm,
hạn chế phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, điều tra lại nhiều lần, dẫn đến thời
gian giải quyết vụ án kéo dài, tốn kém tiền bạc, công sức của Nhà nước, mà mục đích
146
giáo dục, phòng ngừa không đạt được.
4.4.2.2. Giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống tội phạm
Với xu hướng quốc tế hóa của tội phạm nói chung, tội lừa đảo CĐTS trong
lĩnh vực KDĐC nói riêng, trong thời gian tới Chính phủ, Bộ Công an và các bộ,
ngành liên quan cần phải củng cố, mở rộng phát triển quan hệ hợp tác với cơ quan
chức năng tại các nước và các tổ chức quốc tế trong hoạt động đấu tranh phòng
chống tội phạm xuyên biên giới, xuyên quốc gia, nhất là tội phạm có tổ chức.
Trước mắt, các chủ thể này cần tăng cường phối hợp với các đối tác nước
ngoài trong nghiên cứu, đàm phán, ký công ước, điều ước, thỏa thuận quốc tế song
phương và đa phương, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác phòng,
chống tội giữa các nước, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Tăng
cường hoạt động trao đổi đoàn công tác, trao đổi thông tin tội phạm, tích cực thực
hiện các yêu cầu về ủy thác điều tra, dẫn độ tội phạm theo các thỏa thuận, hiệp định
tương trợ tư pháp giữa các nước, đa dạng hóa các kênh thông tin, trực tiếp hoặc thông
qua khuân khổ Interpol, Aseanpol mở rộng hệ thống sĩ quan liên lạc ở nước ngoài phục
vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm…. Tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của các nước,
các tổ chức quốc tế về khoa học - kỹ thuật, triển khai thực hiện các dự án được tài trợ;
trao đổi, học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, khoa
học công nghệ cho cán bộ phục vụ công tác phòng, chống tội phạm.
Trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC, các đơn vị giải quyết án của Bộ Công an như A05, C02, C03… cần mở
rộng điều tra các vụ án có yếu tố nước ngoài. Khi phát hiện các thông tin về tổ chức
tội phạm xuyên quốc gia, hoặc cần triển khai xác minh tài liệu vụ án, truy nã, bắt
giữ, dẫn độ tội phạm, cần thông qua các kênh liên lạc thuộc cơ quan lãnh sự, hoặc
các tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế, khu vực, tuỳ viên an ninh tại các đại sứ
quán… để trao đổi các thông tin tội phạm có liên quan, phối hợp với đồng nghiệp
nước ngoài giải quyết các công việc bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời tích
cực thực hiện các uỷ thác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự, dẫn độ, để tăng
147
cường quan hệ phối hợp với lực lượng phòng chống tội phạm các nước.
Tiểu kết Chương 4
Đất nước bước vào kỷ nguyên công nghệ, thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0,
trong thời gian tới tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC vẫn tiếp tục
diễn biến phức tạp với thủ đoạn phạm tội mới rất tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng những
tiến bộ, thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt động phạm tội, dự báo sẽ tiếp tục xảy
ra những vụ án lừa đảo CĐTS bằng việc lợi dụng phương thức KDĐC trên không
gian mạng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, việc đề ra các giải pháp
phòng ngừa tình hình tội này là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Từ kết quả nghiên cứu tại Chương 3 về nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội này, trong Chương 4 NCS đã đề xuất hệ thống các giải pháp mang tính tổng
thể, khả thi để khắc phục, hạn chế những yếu tố tiêu cực trong sự tương tác với các
đặc điểm cá nhân người phạm tội, tạo nên nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC. Các giải pháp đã xác định đường lối,
phương pháp giải quyết, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong môi trường kinh tế
- xã hội, văn hóa, giáo dục, trong hệ thống pháp luật quản lý lĩnh vực KDĐC, trong
hoạt động phòng ngừa chuyên biệt của cơ quan chức năng. Trong đó, NCS xác định
giải pháp căn cơ để tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội này
chính là việc thông qua tuyên truyền phổ biến pháp luật, thông qua truyền thông
thay đổi hành vi để nâng cao nhận thức của cộng đồng xã hội về hành vi lợi dụng
phương thức KDĐC để lừa đảo CĐTS. Đó là phương châm phòng ngừa chủ động,
triệt tiêu nguyên nhân và điều kiện phát sinh THTP từ việc nâng cao tinh thần cảnh
148
giác người dân – những nạn nhân tiềm năng của tội phạm.
KẾT LUẬN
1. Tội phạm tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC là vấn đề mới,
chưa từng được nghiên cứu tại Việt Nam dưới góc độ Tội phạm học và Khoa học
luật hình sự. Những nghiên cứu đã công bố trước đây về lĩnh vực KDĐC, chủ yếu
dưới góc độ kinh tế học, hoặc Khoa học luật Hành chính.
Trong 10 năm qua (giai đoạn 2011 - 2020), tình hình tội này diễn biến rất phức
tạp, đã gây ra hậu quả thiệt hại vô cùng nặng nề trong đời sống xã hội, với hàng
triệu người dân bị chiếm đoạt hàng nghìn tỷ đồng, lớn hơn hậu quả của bất kỳ loại
tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nào từng xảy ra tại Việt Nam.
Không chỉ gây ra các thiệt hại về kinh tế, tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC còn là tác nhân gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp khác, góp phần làm suy
thoái nền tảng đạo đức xã hội, khi mà mạng lưới lừa đảo được tổ chức công khai,
phát triển theo cấp số nhân, gây ra rất nhiều hệ lụy trong đời sống dân sinh, làm
méo mó luật pháp, cản trở việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, ảnh hưởng
đến uy tín, sự phát triển của ngành KDĐC hợp pháp. Bên cạnh đó, THTP còn tác
động tiêu cực đến tình hình TTATXH, làm phát sinh nhiều loại tội phạm và hành vi
vi phạm pháp luật khác.
Bước vào thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, tình hình tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC đang có những biến thể mới rất phức tạp, lợi dụng thành tựu
khoa học công nghệ vào hoạt động phạm tội. Thực tiễn đời sống đặt ra yêu cầu cấp
thiết phải có những giải pháp tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn
tình hình tội này. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu tình hình, nguyên nhân điều kiện
của THTP để xây dựng hệ thống các giải pháp khả thi để phòng ngừa, ngăn chặn có
hiệu quả loại tội này, là đáp ứng các yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn.
2. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, NCS đã phân tích, làm
rõ khái niệm, đặc điểm, các thông số của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; phân tích thực trạng, động thái, cơ cấu
và tính chất cùng với độ ẩn của nó.
3. Bám sát kết quả nghiên cứu về THTP, NCS đã phân tích làm rõ các yếu tố
tiêu cực là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
149
KDĐC đã xảy ra tại Việt Nam (giai đoạn 2011 - 2020). Bao gồm nguyên nhân và
điều kiện từ hạn chế trong môi trường kinh tế - xã hội; hạn chế của hoạt động
QLNN trong lĩnh vực KDĐC; hạn chế trong hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực
này; hạn chế trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức
cho người dân; hạn chế từ phía nạn nhân; từ các đặc điểm tâm lý tiêu cực của người
phạm tội…
4. Trên cơ sở những nguyên nhân và điều kiện được nhận diện trong quá trình
nghiên cứu đề tài, dự báo nhận định về diễn biến trong những năm tiếp theo của tình
hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC tại Việt Nam, NCS đã kiến nghị các
giải pháp mang tính đồng bộ và khả thi để tăng cường phòng ngừa tình hình tội này.
Đó là nhóm các giải pháp khắc phục những hạn chế từ môi trường kinh tế - xã hội,
văn hóa - giáo dục, QLNN, hoàn thiện pháp luật, giải pháp phòng ngừa tội phạm từ
khía cạnh nạn nhân thông qua truyền thông thay đổi hành vi, giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của cơ quan chức năng...
Những giải pháp được trình bày trong luận án được xây dựng trên cơ sở bám
sát thực tiễn tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, kết quả phòng
chống loại tội này, do đó không chỉ có ý nghĩa hoàn thiện lý luận, mà còn có tác
dụng tham khảo, vận dụng trong thực tiễn phòng ngừa tình hình tội này tại nước ta
150
trong thời gian tới./.
DANH MỤC CÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
Tên c ng tr nh. bài báo khoa học TT Số/ Năm c ng bố Tên tạp chí khoa học
1 Một số phương thức, thủ đoạn phạm tội Số: 09/2018 Công an nhân dân
trong kinh doanh đa cấp thông qua mô Tr. 29-31 hình “Kim tự tháp”
2 Đặc điểm hình sự của tội phạm lừa đảo Số: 93 (240) Cảnh sát
chiếm đoạt tài sản trong kinh doanh 7/2018 Tr. 64-66 theo phương thức đa cấp
3 Đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo trong Số: 01/2019 Kiểm sát
kinh doanh đa cấp Tr. 27-33
4 Phòng ngừa lừa đảo chiếm đoạt tài sản Đăng ngày: Kiểm sát online
trong kinh doanh đa cấp: Cần bắt đầu 21/07/2020 từ chính người dân
Đăng ngày: 5 Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về Kiểm sát online
14/08/2020 tiền ảo: Giải pháp phòng ngừa tội phạm
lừa đảo theo phương thức đa cấp trong
151
thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ TÀI LIỆU TRONG NƯỚC
1. Trần Thị Bảo Ánh (2006), Bán hàng đa cấp theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam,
Tạp chí Luật học số 05/2006, Hà Nội;
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, (2011), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, Hà Nội;
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011), Chỉ thị số 09/CT-TW ngày
01/12/2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn
dân bảo vệ An ninh Tổ quốc trong tình hình mới, Hà Nội;
4. Ban Bí Thư Trung ương Đảng (2016), Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016
của Ban Bí thư về việc “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của
Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội;
5. Ban Bí Thư Trung ương Đảng (2016), Kết luận số 44-KL/TW ngày 22/01/2019
của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW của
Ban Bí thư khoá XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới, Hà Nội;
6. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2019), Kết luận số 51-KL/TW ngày 30/5/2019 về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, Hà Nội;
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội;
8. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;
9. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005, về chiến lược
152
cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
10. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị 48/CT- TW ngày 22/10/2010, về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới,
Hà Nội;
11. Bộ Chính trị (2015), Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo ANTT trong tình hình
mới”, Hà Nội;
12. Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa CAND Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội;
13. Bộ Công an (2013), Chỉ thị số 02/CT-BCA-C41 và các Thông tư số 18, 19, 20,
21, 22/2013/ TT-BCA-C41 ngày 01/4/2013 của Bộ Công an quy định công tác
nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Hà Nội;
14. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn (2013), Thông tư liên tịch số 06/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT ngày
2/8/2013 hướng dẫn thi hành bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Hà Nội;
15. Bộ Công an, Cục Cảnh sát hình sự (C02), Báo cáo tổng kết công tác năm
(giai đoạn 2011 - 2020), Hà Nội;
16. Bộ Công an, Cục CSĐTTP về tham nhũng, kinh tế và buôn lậu (C03), Báo
cáo tổng kết công tác năm (giai đoạn 2011 - 2020), Hà Nội;
17. Bộ Công an, Cục CSPCTP sử dụng công nghệ cao (C50), Báo cáo tổng kết
công tác năm (giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội;
18. Bộ Công thương, Thông tư 24/2014/TT- BCT ngày 30/7/2014 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của
Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, Hà Nội;
19. Bộ Thương mại, Thông tư số 19/2005/TT-BTM, ngày 08/11/2005 về hướng
dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP, Hà Nội;
20. Bộ Công thương, Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng (2012), Hội thảo
Tổng quan về thực trạng và triển vọng hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt
Nam, Hà Nội;
21. Bộ Công thương, Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng (2013), Nghiên
cứu bán hàng đa cấp 2013. Hệ thống pháp luật quản lý hoạt động bán hàng
đa cấp tại một số quốc gia - Kinh nghiệm cho Việt Nam, Chương trình hỗ
153
trợ kỹ thuật hậu gia nhập WTO;
22. Bộ Công thương, Cục Quản lý cạnh tranh (2005), Hỏi đáp về bán hàng đa
cấp theo Luật cạnh tranh Canada, NXB Thế giới, Hà Nội;
23. Bộ Công Thương, Cục Quản lý cạnh tranh (2015), Tài liệu tập huấn nghiệp
vụ quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, Hà Nội;
24. Bộ Công Thương, Cục Quản lý cạnh tranh (2018), Xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kinh doanh theo phương thức đa cấp, Hà Nội;
25. Bộ Công Thương, Cục Quản lý cạnh tranh (2018), Báo cáo kết quả công tác
quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, Hà Nội;
26. Trương Văn Bảo (2012), Pháp luật về bán hàng đa cấp bất chính ở Việt Nam
hiện nay - Thực trạng và nhu cầu hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Học viện
KHXH, Hà Nội;
27. Lê Bí Bo (2016), Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHĐC ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
28. Công an TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An, Bắc Giang, Phú Thọ, Cần
Thơ, Bắc Ninh, Tây Ninh, Đắk Lắk (giai đoạn 2011 - 2020), Báo cáo tổng
kết công tác năm;
29. Tạ Thùy Châu (2017), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện
KHXH, Hà Nội;
30. Chính phủ (2005), Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 về quản
lý hoạt động bán hàng đa cấp;
31. Chính phủ (2005), Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
32. Chính phủ (2011), Quyết định số 282/QĐ-TTg ngày 24/2/2011 về ban hành
Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 48/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới, Hà Nội;
33. Chính phủ (2012), Quyết định số 1217/2012/QĐ-TTg ngày 06/9/2012 về
việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai
đoạn 2012 -2015, Hà Nội;
154
34. Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2030, ban hành kèm theo Quyết định số 629/QĐ-TTg ngày
29/5/2012, Hà Nội;
35. Chính phủ (2014), Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 về quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp, Hà Nội;
36. Chính phủ (2016), Chỉ thị 30/CT-TTg ngày 31/10/2016 về việc tăng cường
quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp, Hà Nội;
37. Chính phủ (2016), Quyết định số 623/2016/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 về phê
duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định
hướng đến năm 2030;
38. Chính phủ (2017), Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, kèm theo
Quyết định số 199/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ;
39. Chính phủ (2018), Nghị định số 40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 về quản lý
hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, Hà Nội;
40. Chính phủ (2018), Nghị định số 141/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử lý vi phạm pháp
luật trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, Hà Nội;
41. Lê Đăng Doanh (2008), Đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
42. Tô Thái Hà (2015), Điều kiện kinh doanh bán hàng đa cấp theo pháp luật Việt
Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
43. Phạm Hồng Hải (2002), Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, NXB CAND, Hà Nội;
44. Nguyễn Văn Hậu và Diệp Khắc Cường (2012), Tìm hiểu về bán hàng đa cấp,
NXB Tư pháp, Hà Nội;
45. Học viện CSND (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Hà Nội;
46. Học viện CSND (2005), Giáo trình Chiến thuật điều tra hình sự, Hà Nội;
47. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Phòng ngừa tội phạm trong Tội phạm học, Tạp
chí Luật học, số 6/2007, Hà Nội;
48. Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB CAND, Hà Nội;
49. Nguyễn Ngọc Hòa (2009), Các khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm
155
trong tội phạm học, Tạp chí Luật học số 7/2009, Hà Nội;
50. Nguyễn Thị Phương Hoa (2010), Đánh giá hiệu quả phòng ngừa tội phạm -
Một số vấn đề về lý luận, Tạp chí Khoa học pháp lý, (1), tr. 19-24, Hà Nội;
51. Trần Thị Phương Hiền (2007), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội;
52. Lê Thị Hương (2014), Bán hàng đa cấp bất chính theo pháp luật cạnh tranh Việt
Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
53. Bùi Thị Lan Hương (2018), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn miền
Đông Nam bộ: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ,
Học viện KHXH, Hà Nội;
54. Đào Trung Hiếu (2018), Đặc điểm hình sự của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trong kinh doanh theo phương thức đa cấp, Tạp chí Cảnh sát số: 93
(240) tháng 7/2018, Hà Nội;
55. Đào Trung Hiếu (2018), Một số phương thức, thủ đoạn phạm tội trong kinh
doanh đa cấp thông qua mô hình “Kim tự tháp”, tạp chí Công an nhân dân số:
09/2018, Hà Nội;
56. Đào Trung Hiếu (2018), Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về tiền ảo:
Giải pháp phòng ngừa tội phạm lừa đảo theo phương thức đa cấp trong thời
kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Kiểm sát online, đăng ngày
14/08/2020, Hà Nội;
57. Đào Trung Hiếu (2019), Đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo trong kinh doanh đa
cấp, Tạp chí Kiểm sát số: 01/2019, Hà Nội;
58. Đào Trung Hiếu (2020), Phòng ngừa lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong kinh
doanh đa cấp: Cần bắt đầu từ chính người dân, Tạp chí Kiểm sát online, đăng
ngày 21/07/2020, Hà Nội;
59. Nguyễn Phùng Hồng (2001), Phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới.
NXB CAND, Hà Nội;
60. Nguyễn Trung Kiên (2011), Nâng cao hiệu quả chuyên án đấu tranh chống
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Công an thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn
156
thạc sĩ, Đại học CSND, TP Hồ Chí Minh;
61. Nguyễn Tuấn Khanh (2014), Hoạt động của lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Bình Dương trong điều tra vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, luận văn thạc sĩ, Đại học CSND, TP Hồ Chí Minh;
62. Nguyễn Tiến Lực (2003), Tội phạm lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm, trốn thuế
trong các công ty TNHH - Thực trạng và giải pháp phòng ngừa đấu tranh
của lực lượng Cảnh sát kinh tế, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội;
63. Phạm Văn Lợi chủ biên (2007), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin. NXB Tư pháp, Hà Nội;
64. Dương Tuyết Miên (2005), Nạn nhân của tội phạm dưới góc độ tội phạm
học, Tạp chí Tòa án nhân dân (20), Hà Nội.
65. Dương Tuyết Miên (2010), Bàn về tội phạm rõ, tội phạm ẩn trong Tội phạm
học, Tạp chí Luật học số 3/2010;
66. Trần Thị Thu Nga (2015), Phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
có yếu tố nước ngoài theo chức năng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về kinh tế và chức vụ trên địa bàn Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội;
67. Nguyễn Giang Nam (2005), Điều tra tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông
qua hoàn thuế giá trị gia tăng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của lực
lựợng Cảnh sát nhân dân và một số giải pháp nâng cao hiệu quả, Luận văn
thạc sĩ; Đại học CSND, TP Hồ Chí Minh;
68. Hồ Trọng Ngũ (2005), Phòng ngừa tội phạm ở cộng đồng dân cư, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, Số 6/2005, tr. 54-60, Hà Nội;
69. Trần Đại Quang chỉ đạo biên soạn (2013), Tội phạm học Việt Nam tập 1,2,3
NXB CAND, Hà Nội;
70. Đỗ Ngọc Quang (2001), Giáo trình tội phạm học, ĐH Tổng hợp, Hà Nội;
71. Đinh Văn Quế (2003), “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội
phạm cụ thể (tập II)”, NXB TP. Hồ Chí Minh;
72. Quốc hội (2004), Luật Cạnh tranh, Hà Nội;
73. Quốc hội (2010), Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, Hà Nội;
74. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội;
75. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp 2014, Hà Nội;
157
76. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự , Hà Nội;
77. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội;
78. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2017, Hà Nội;
79. Quốc hội (2020), Luật doanh nghiệp, Hà Nội;
80. Sở Tư pháp TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Tây Ninh, Nghệ An,
Cần Thơ, Bắc Giang, Phú Thọ, Đắk Lắk, Báo cáo tổng kết công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật các năm (giai đoạn 2011 - 2020);
81. Hà Ngọc Sơn (2006), Pháp luật về kinh doanh đa cấp, Luận văn thạc sỹ, Đại
học Luật TP Hồ Chí Minh;
82. Tổng hợp số liệu điều tra xã hội học, lấy ý kiến chuyên gia, Hà Nội;
83. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (Đồng tác giả) (2006), Từ điển pháp luật
hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội.
84. Trần Hữu Tráng (2009), Tọa đàm về một số thuật ngữ tội phạm học, Tạp chí
Luật học số 7/2009, Hà Nội;
85. Trần Hữu Tráng (2010), Tác động của kinh tế thị trường đến tình hình tội phạm
và phòng ngừa tội phạm ở nước ta, Tạp chí Luật học số 1/2010, Hà Nội;
86. Trần Hữu Tráng (2010), Bàn về nguyên nhân của tội phạm, Tạp chí Luật học
số 11/2010, Hà Nội;
87. Trần Hữu Tráng (2011), Nạn nhân của tội phạm, NXB Giáo dục, Hà Nội;
88. Trần Hữu Tráng, (2012), Bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm, Tạp chí
Luật học số 3/2012, Hà Nội;
89. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội
90. Phạm Văn Tỉnh (2008), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở
nước ta hiện nay - mô hình lý luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 6),
tr.10 - 17, Hà Nội;
91. Phạm Văn Tỉnh (2009), Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 6), tr. 1- 10, Hà Nội;
92. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt
Nam, NXB CAND, Hà Nội;
93. Phạm Văn Tỉnh (2007), Khái niệm tình hình tội phạm dưới góc độ tội phạm
158
học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 12); trang 73- 79, Hà Nội;
94. Phạm Văn Tỉnh (2014), Nội dung chiến lược phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam
hiện nay, nhận thức lí luận, Tạp chí Nhân lực khoa học số 3/ 2014, Hà Nội;
95. Lê Thế Tiệm chủ nhiệm, Tội phạm ở Việt Nam thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp, Đề tài khoa học KX.04.14, NXB CAND, Hà Nội;
96. Lê Quang Thành (2016), Đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản do người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện
KHXH, Hà Nội;
97. Ngô Toàn Thắng (2012), “Phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
98. Phạm Văn Trung (2017), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam
bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ, Học
viện KHXH, Hà Nội;
99. Bùi Trung Thướng (2011), Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam
thực trạng và giải pháp, Tạp chí Thương mại, số17/2015, Hà Nội;
100. Vũ Trọng Thưởng (2011), Bàn về việc giải quyết những vụ lừa đảo trên thẻ
của người nước ngoài, Tạp chí Kiểm sát, VKSNDTC, số 02/2011, tr. 58-62,
Hà Nội;
101. Thống kê số liệu công tác đấu tranh chuyên án (giai đoạn 2011- 2020);
102. Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ,
Nghệ An, Cần Thơ, Tây Ninh, Đắk Lắk, TP Hồ Chí Minh, bản án HSST;
103. Tòa án nhân dân Tối cao, Thống kê công tác xét xử hình sự các năm (giai
đoạn 2011 - 2020);
104. Đào Trí Úc chủ biên (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự
Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội;
105. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (2012), Chỉ thị số 04/CTVKSTC ngày
17/5/2012 về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Hà Nội;
106. Viện KSND Tối cao, Thống kê tội phạm các năm (giai đoạn 2009-2018);
107. Viện Nhà nước và Pháp luật (1996), Những vấn đề cơ bản về Tội phạm học,
159
Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Việt Nam, Hà Nội;
108. Viện Thông tin KHXH thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam (1982), Những vấn đề
lý luận về Luật Hình sự, Tố tụng hình sự và Tội phạm học, Sưu tầm chuyên đề,
Hà Nội;
109. Viện Nhà nước và pháp luật (1985), Những vấn đề lý luận và thực tiễn và
đấu tranh chống tội phạm, Hà Nội;
110. Viện Ngôn ngữ học (2007), Từ điển tiếng việt, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội;
111. Viện Khoa học Công an, Bộ Nội vụ (1985), Tình hình tái phạm tội giai đoạn
1980 - 1985, Hà Nội;
112. Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, NXB CAND, Hà Nội;
113. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Xã hội học pháp lý, NXB KHXH, Hà Nội
114. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Tội phạm học, Trường Đại học Huế,
NXB CAND, Hà Nội;
115. Đoàn Công Viên (2018), “Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn TP Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng
ngừa”, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
116. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
117. Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội
phạm học, Tạp chí Khoa học - ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.185-199, Hà Nội;
118. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
NXB CAND, Hà Nội;
119. Nguyễn Xuân Yêm (2005), Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam thời
kỳ đổi mới, NXB CAND, Hà Nội;
120. Nguyễn Xuân Yêm và Nguyễn Minh Đức (2011), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa, NXB CAND,
Hà Nội;
II/ TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI
121. Aneta C.D. Andros, (2010), “Recognition and Reporting of Insurance Fraud
in Comparison to Property Crimes” (Nhận dạng và trình báo tội lừa đảo bảo
160
hiểm so với các tội về tài sản), Central Connecticut State University, USA.
122. Brandon C.Welsh và David P.Farrington, (2012), The Oxford Handbook of
Crime Prevention (dịch: Sổ tay phòng ngừa tội phạm của đại học Oxford),
NXB Đại học Oxford;
123. Can Ueda (1989), “Crime and Criminology in Japan” (Tội phạm và tội phạm
học ở Nhật Bản), NXB Tiến bộ Moscow, Nga;
124. Các Mác và Ăng ghen toàn tập (1995), tập 1, 2, NXB Chính trị quốc gia,
tr.174, 619, 826, Hà Nội;
125. Catherine H.Conly và J.Thomas McEwen (1999), “Computer Crime” NIJ
Report, Jannuary/February;
126. Don Failla (2003), Kinh doanh theo mạng- từ A đến Z, NXB Thế giới, Hà Nội;
127. Dan Farrell (2005), Multilevel Marketing - Good or Bad, Đại học Tổng hợp
Liverpool;
128. Mus Ekrem (2010), Examining Violent and Property Crimes in the Provinces
of Turkey for the Years of 2000 and 2007, (Dịch: Phân tích tội phạm có sự
dụng bạo lực và xâm phạm tài sản ở một số tỉnh của Thổ Nhĩ Kỳ từ 2000 đến
2007, Virginia Commonwealth University;
129. Hennessy Hayes và Tim Prenzler (2014), An introduction to Crime and
Criminology (dịch: Giới thiệu về tội phạm và tội phạm học), NXB Pearson
Australia;
130. Macilwee, Mick (2011), The Liverpool underworld: Crime in the city, 1750-
1900, (dịch: Thế giới ngầm ở Liverpool: Tội phạm trong thành phố giai đoạn
1750 – 1900), NXB Liverpool University Press;
131. Joe Lee Anderson(1985), Property offenders in interior Alaska: Their perception
on the etiology of property crime, (dịch: Người phạm tội xâm phạm sở hữu ở
bang Alaska: Lý giải nguyên nhân phát sinh tội phạm này), NXB Microfilm
International University, USA;
132. Lawrence A.Sherman, (1998), Preventing Crime: What Works, What
Doesn’t, What’s Promising, (dịch: Phòng ngừa tội phạm: Các chương trình
hiệu quả, chương trình không hiệu quả và chương trình tiềm năng), ĐH
Tổng hợp Maryland Hoa Kỳ;
133. Melinikova E.B (1974), Why did they commit crimes? The state of juvenile
161
deliquency in capitalist countries, (dịch: Vì sao họ phạm tội? Tình trạng
thanh, thiếu niên phạm tội ở các nước tư bản chủ nghĩa, Maxcova,
Molodajai, (bản dịch của Viện thông tin KHXH, năm 1982);
134. Mikovskij G.M chủ biên (1977), Justification of crime prevention” (dịch: Cơ sở
lý luận của việc phòng ngừa tội phạm), Moskva, Jurid, Literature, tr 196-207;
135. Nykodym.N (2012), Cyber crime and business: How not to caught by the
online phisherman” (dịch: Tội phạm mạng và kinh doanh: làm thế nào để
không bị mắc bẫy những kẻ câu thông tin trên mạng), Đại học Kahle-
Piasecki, Hoa Kỳ;
136. PaulLafargue, Crime situation in France from 1840 to 1886 - Dynamics and
causes (Dịch: Tình hình tội phạm ở Pháp từ năm 1840 đến năm 1886 - Động
thái và các nguyên nhân), bản dịch của Viện Thông tin Khoa học xã hội - Hà
Nội, 1983;
137. Richard Poe, (2003), An introduction to Crime and Criminology Multilevel
Marketing - Good or Bad (dịch: Kỷ nguyên mới trong ngành kinh doanh theo
mạng), NXB Thế giới, Hà Nội;
138. Sanders, Bill (2005), Youth crime and youth culture in the inner city, (Dịch:
Tội phạm thanh, thiếu niên và văn hóa giới trẻ trong khu vực nội thành),
NXB Routledge, New York, USA;
III/ TÀI LIỆU THAM KHẢO TỪ INTERNET
139. https://www.hoinhap.org.vn/phan-tich-binh-luan/12137-tang-truong-kinh-te-
viet-nam-sau-10-nam-gia-nhap-wto.html
140. http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Xa-hoi/816791/viet-nam-dung-thu-22-the-
gioi-ve-so-nguoi-su-dung-mang-xa-hoi;
141. https://vnexpress.net/cuoc-chuyen-minh-10-nam-cua-kinh-te-ha-noi-
3785810.html
142. http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-giam-
that-nghiep-o-viet-nam-hien-nay-25874.htm;
143. http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/thuc-trang-luc-luong-lao-dong-
viet-nam-va-mot-so-van-de-dat-ra-302133.html;
144. https://thoibaokinhdoanh.vn/tien-te/tang-cuong-kiem-soat-cac-giao-dich-
hoat-dong-lien-quan-toi-tien-ao-1046636.html;
145. https://moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/chi-thi-cua-bo-truong-bo-cong-
162
thuong-ve-viec-tang-cuong-cong-tac-kiem-tra-giam-sat-xu-ly-vi-pham-
phap-luat-trong-hoat-%C4%91ong-ban-hang-%C4%91a-cap-106775-
16.html;
146. https://vietnamfinance.vn/vu-lua-dao-15000-ty-bang-tien-ao-ifan-bo-cong-
an-chinh-thuc-dieu-tra-20180504224207387.htm;
147. http://tapchikhxh.vass.gov.vn/day-manh-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-bao-
dam-tien-bo-va-cong-bang-xa-hoi-o-nuoc-ta-hien-nay-n50093.html;
148. http://tapchiqptd.vn/vi/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/phat-trien-
van-hoa-viet-nam-theo-tinh-than-dai-hoi-xii-cua-dang/9784.html;
149. https://vnexpress.net/kinh-doanh/lao-dong-viet-nam-chi-dat-diem-4-tren-
10-3203937.html;
150. https://vnexpress.net/kinh-doanh/gdp-binh-quan-dau-nguoi-viet-nam-bang-
malaysia-20-nam-truoc-3875999.html;
151. https://voh.com.vn/cong-nghe/toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-nhung-
bien-tuong-kho-luong-309899.html;
152. https://www.vietnamplus.vn/bao-ve-nguoi-tieu-dung-tu-siet-chat-quan-ly-
ban-hang-da-cap/232399.vnp.
153. https://vpub.hochiminhcity.gov.vn/portal/KenhTin/Gioi-thieu-ve-thanh-
pho.aspx
154. http://baochinhphu.vn/Tin-khac/Do-thi-hoa-va-cac-van-de-phat-
sinh/78372.vgp
155. https://nhandan.com.vn/tin-chung1/giam-ngheo-ben-vung-theo-chuan-cua-
thanh-pho-359929/
156. https://www.dammio.com/2018/10/08/cac-so-lieu-thong-ke-internet-viet-
nam-nam-2018
157. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/kinh-te-viet-
nam-2020-mot-nam-tang-truong-day-ban-linh/
158. http://www.tongdieutradanso.vn/cong-bo-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-
2019.html
159. https://tailieuchung.com/vn/tlID861419_tieu-luan-anh-huong-cua-dan-so-
163
den-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-va-van-de-do-thi-hoa.html
PHỤ LỤC 1
CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Thống kê số vụ án và người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp, giai đoạn 2011 – 2020
Số vụ 2 1 2 1 3 2 2 2 3 3 21
Số người phạm tội 6 3 5 4 7 6 7 6 7 8 59
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng
Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, VKSND Tối cao
Bảng 1.2. So sánh tương quan số vụ án và người phạm tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC, trong tổng số vụ án và người phạm tội tại các Điều 139 (BLHS 1999) và Điều 174 (BLHS 2015)
Tỷ lệ %
Điều luật
Sô vụ án + NPT lừa đảo CĐTS nói chung
Sô vụ án + NPT lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC Số NPT (2) Số vụ (1) 47 19
Số vụ (3) 22.385
Số NPT (4) 28.054
(1)/(3) (2)/(4) 0,08% 0,16%
2
12
1583
1849
0,18% 0,64%
Xét xử theo Điều 139 BLHS 2009 Xét xử theo Điều 174 BLHS 2015
Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, VKSND Tối cao
164
Bảng 1.3. So sánh tương quan số vụ án và người phạm tội
trong lĩnh vực KDĐC trong tổng số vụ án và người phạm tội đã xét xử
theo các Điều 226b (BLHS 1999) và Điều 290 (BLHS 2015)
Tỷ lệ %
Điều luật
Sô vụ án + NPT trong lĩnh vực KDĐC
Sô vụ án + NPT theo Điều 226b (BLHS 1999) và Điều 290 (BLHS 2015)
Số vụ (1) 17
Số NPT (2) 35
Số vụ (3) 239
Số NPT (4) 303
(1)/(3) (2)/(4) 7,11% 11,55%
6
14
85
167
7,05% 8,38%
Xét xử theo Điều 226b BLHS 2009 Xét xử theo Điều 290 BLHS 2015
Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, VKSND Tối cao
Bảng 1.4. Thống kê các địa phương xảy ra tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC
Số TT
Địa phương
Số vụ
Số NPT
Dân số
Diện tích (km2)
1
6
17
3.358,9
7.328.400
Hà Nội
2
1
3
822,8
1.178.600
Bắc Ninh
3
1
3
3.895,5
1.657.600
Bắc Giang
4
1
3
Phú Thọ
3.534,4
1.381.700
5
1
2
Nghệ An
16.481,7
3.105.500
6
1
5
13.030,5
1.874.500
Đắk Lắk
7
7
21
TP HCM
2.061,4
8.297.500
8
2
4
Cần Thơ
1.439,2
1.257.900
9
1
1
Tây Ninh
4.041,4
1.118.800
Nguồn: 21 bản án hình sự sơ thẩm về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
165
Bảng 1.5. Thống kê địa bàn xảy ra tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
Địa bàn
Số vụ
Số người phạm tội
19
90,47%
52
88,13%
Đ thị
2
9,52%
7
11,86%
Nông thôn/miền núi
Nguồn: Tổng hợp từ 21 vụ án
Bảng 1.6. Diễn biến tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo phương pháp định gốc
Số vụ
Số người phạm tội
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng
2 1 2 1 3 2 2 2 3 3 21
100% 50% 100% 50% 150% 100% 100% 100% 150% 150%
6 3 5 4 7 6 7 6 7 8 59
100% 50% 83,33% 66,66% 116,66% 100% 116,66% 100% 116,66% 133,33% Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, VKSND Tối cao
166
Bảng 1.7. Diễn biến tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo phương pháp liên hoàn
Số vụ
Số người phạm tội
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng
2 1 2 1 3 2 2 2 3 3 21
100% 50% (- 50%) 100% 50% (- 50%) 150% (+50%) 100% 100% 100% 150% (+50%) 150% (+50%)
6 3 5 4 7 6 7 6 7 8 59
100% 50% (- 50%) 83,33% (-16,67%) 66,66% (- 33,34%) 116,66% (+16,66%) 100% 116,66% (+16,66%) 100% 116,66% (+16,66%) 133,33% (+33,33%) Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, VKSND Tối cao
Bảng 1.8. Thống kê tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo chế tài hình sự
Số NPT Án treo Từ 1 - 3 năm tù Từ trên 3 - 7
Từ trên 7 - 15 năm tù
Trên 15 năm tù, tù chung thân
năm tù
59 100%
0 0%
3 5,08%
36 61,01%
11 18.64%
9 15,25%
Nguồn: Vụ Tổng hợp - TAND Tối cao; Cục Thống kê tội phạm và CNTT - VKSND Tối cao
Bảng 1.9. Cơ cấu tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo hình thức phạm tội
Kh ng đồng phạm 1 4,76%
Số vụ 21 100%
167
Đồng phạm 20 95,23% Nguồn: 21 bản án hình sự sơ thẩm về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
Bảng 1.10. Cơ cấu tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo hình thức đồng phạm
Số vụ
Doanh nghiệp có đăng ký hoạt động
Doanh nghiệp/nhóm không
KDĐC
đăng ký hoạt động KDĐC
8
12
20
40%
60%
100%
Nguồn: 21 bản án hình sự sơ thẩm về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
Bảng 1.11. Cơ cấu tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo lĩnh vực hoạt động
Lĩnh vực
Số vụ
Tỷ lệ
Kinh doanh sản phẩm thông tin số, đầu tư tiền ảo
5
23,33 %
Kinh doanh dịch vụ đa cấp
3
14,28%
Huy động vốn đầu tư dự án
5
23,33 %
Uỷ thác đầu tư, nhượng quyền kinh doanh
2
9,52%
Bán sản phẩm hàng hoá hữu hình
6
28,57 %
Nguồn: 21 bản án hình sự sơ thẩm về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
Bảng 1.12. Cơ cấu tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo động cơ, mục đích phạm tội
Tỷ lệ
Động cơ, mục đích phạm tội
Số NPT
59
100 %
Động cơ vụ lợi, mục đích chiếm đoạt tài sản của
người khác để thỏa mãn nhu cầu vật chất
0
0%
Động cơ, mục đích khác
168
Nguồn: 21 bản án hình sự sơ thẩm về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
Bảng 1.13. Cơ cấu tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội
Giới tính
Độ tuổi
Tiền án, tiền sự
Tr nh độ học vấn
Dân tộc
Quốc tịch
Nơi cư trú
Địa bàn cư trú Tình trạng hôn nhân
Địa vị xã hội
Nghề nghiệp
Nam Nữ Dưới 18 Từ 18 đến 30 Từ 31 đến 45 Trên 45 Có tiền án, tiền sự Không tiền án, tiền sự Mù chữ Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Đại học, cao đẳng Không xác định Kinh Khác Việt Nam Nước ngoài Thường trú tại nơi gây án Tạm trú tại nơi gây án Đô thị Nông thôn Chưa kết hôn Đã kết hôn Đã ly hôn Quan chức, lãnh đạo Cán bộ, công chức Kinh doanh tự do Không nghề nghiệp Nghề nghiệp không ổn định Có nghề nghiệp Từng tham gia KDĐC trước đó
33 26 0 10 37 12 5 54 0 0 1 17 38 3 57 2 57 3 21 38 43 16 5 47 7 0 5 54 29 25 5 47
63,09% 36,91% 0% 16,94% 45,76% 20,33% 8,47% 91,52% 0 0 1,69% 28,81% 64,40% 5,08% 96,61% 3,38% 96,61% 5,08% 35,59%, 64,40% 72,88% 27,11% 8,47% 79,66 6,77% 0 8,47% 91,52% 49,15% 42,37% 8,47% 79,66%
169
Nguồn: Tổng hợp từ 21 vụ án
Bảng 1.14. Diễn biến tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực KDĐC
theo phương pháp định gốc
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Số vụ 2 4 3 14 18 18 19 41 10 8
Tỷ lệ % 100% 200% (+100%) 130% (+30%) 700% (+600%) 900% (+800%) 900% (+800%) 950% (+850%) 2050% (+1950%) 500% (+400%) 400% (+300%) Nguồn: Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng – Bộ Công thương
170
PHỤ LỤC 2: BIỂU ĐỒ
171
172
173
174
175
176
177
PHỤ LỤC 3: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
MẪU SỐ 01
Bảng khảo sát ý kiến về tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Kính gửi: Ông/ Bà……………………….
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ Luật học: “Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp: tình hình, nguyên nhân và giải
pháp phòng ngừa”, tác giả luận án kính đề nghị Ông/Bà giúp đỡ, vui lòng trả lời các
câu hỏi trong bảng khảo sát ý kiến dưới đây.
Chúng tôi cam kết bảo mật tuyệt đối những thông tin do Ông/Bà cung cấp và chỉ
sử dụng vào việc nghiên cứu đề tài khoa học nói trên.
Bảng khảo sát bao gồm 20 câu hỏi, cho trước các phương án trả lời khác nhau,
cuối mỗi câu trả lời có hình ô vuông ( ). Ông/Bà cho ý kiến bằng cách lựa chọn các
câu trả lời bản thân thấy phù hợp. Đồng ý với phương án nào, đề nghị Ông/Bà đánh
dấu (x) vào ô vuông ( ) tương ứng.
Ngoài ra tại một số mục có phần dành cho Ông/Bà nêu các câu trả lời khác ngoài
các phương án đã cho trước.
Chân thành cảm tạ sự giúp đỡ của Ông/Bà!
BẢNG HỎI
Họ tên:…………………………………………
Địa chỉ:………………………………………...
Câu 1: Giới tính:
a, Nam: b, Nữ: c, Giới tính khác:
Câu 2: Khu vực sinh sống
a, Đô thị: b, Nông thôn: c, Miền núi:
d, Hải đảo: e, Nơi khác:
Câu 3. Ông/bà đã bao giờ nghiên cứu về KDĐC chưa?
178
a, Đã từng: b, Chưa từng:
Câu 4. Mức độ hiểu biết của Ông/bà về phương thức KDĐC?
a, Hiểu rõ:
b, Hiểu chưa rõ:
c, Không hiểu:
d, Ý kiến khác:
Câu 5. Mức độ hiểu biết của Ông/bà về hiện tượng KDĐC bất chính?
a, Hiểu rõ:
b, Hiểu chưa rõ:
c, Không hiểu:
d, Ý kiến khác:
Câu 6. Vì sao người dân tham gia vào hoạt động KDĐC bất chính?
a, Không phân biệt được thế nào là KDĐC chân chính và KDĐC bất chính:
b, Không biết đó là doanh nghiệp lợi dụng phương thức KDĐC để lừa đảo:
c, Tin vào lời quảng cáo, giới thiệu của nhân viên công ty KDĐC:
d, Tin tưởng việc tham gia KDĐC mang đến cơ hội đổi đời, giàu có:
e, Tin rằng doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng:
f, Thủ đoạn lừa đảo trong KDĐC quá tinh vi, không biết là mình bị lừa:
g, Do hám lợi, muốn có thật nhiều tiền và làm giàu thật nhanh chóng:
h, Do thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết nên dễ bị dụ dỗ, kích động, ưa thích chạy theo
cái mới, trào lưu thời thượng:
i, Muốn khẳng định, chứng minh bản thân, nâng cao vị thế xã hội của mình:
k, Hội chứng đám đông, thấy những người sống xung quanh đều tham gia KDĐC:
l, Ảnh hưởng từ các khóa học dạy làm giàu:
m, Vì nhẹ dạ cả tin, nể nang người giới thiệu mà tham gia:
n, Do đời sống khó khăn, thất nghiệp, do công việc hiện tại thu nhập thấp hoặc không
ổn định, muốn có thêm công việc đầu tư để tăng thu nhập:
o, Khó tìm kiếm cơ hội đầu tư để tăng thu nhập:
p, Muốn đỡ đần gia đình, tự trang trải các chi phí cho cuộc sống, học tập (với sinh viên
các trường):
q, Vì vụ lợi, biết rằng KDĐC bất chính là lừa đảo nhưng vẫn tham gia, để có cơ hội
chiếm đoạt được tiền của người khác, thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình:
179
r, Lý do khác:
Câu 7. Ông/Bà ước tính như nào về số người bị lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực
KDĐC?
a, Rất nhiều: b, Nhiều: c, Bình thường:
d, Ít: f, Không có:
Câu 8. Theo Ông/Bà, hậu quả, thiệt hại của nạn nhân là gì?
a, Bị mất tiền:
b, Thiệt hại về công việc:
c, Mất uy tín, lòng tin:
d, Bị xiết nợ:
e, Người thân bị liên lụy:
f, Gia đình mâu thuẫn, túng quẫn:
g, Hậu quả khác:
Câu 9. Ông/Bà đã từng tham gia KDĐC hay chưa?
a, Đã từng: b, Chưa từng:
Câu 10. Ông/Bà có bị mất tiền khi tham gia KDĐC hay không?
a, Có: b, Không:
Câu 11. Tình huống Ông/Bà bị lừa đảo mất tiền khi tham gia KDĐC là gì?
a, Bị doanh nghiệp yêu cầu mua lượng hàng hóa lớn, không tiêu thụ được:
b, Phải đóng một khoản tiền mua mã số kinh doanh khi tham gia KDĐC:
c, Phải đóng tiền đặt cọc khi tham gia KDĐC:
d, Doanh nghiệp không nhận lại hàng hóa không bán được, không trả lại số tiền đã mua
sản phẩm:
e, Tham gia vào các dự án đầu tư của doanh nghiệp:
f, Tham gia kinh doanh dịch vụ, nhượng quyền kinh doanh, mua bán cổ phần nội bộ:
g, Tham gia kinh doanh gian hàng ảo, tiền ảo, máy đào tiền ảo, vàng tài khoản, sàn
giao dịch ngoại hối:
h, Các tình huống khác:
Câu 12. Khi bị lừa đảo, Ông/Bà có trình báo, tố giác sự việc với cơ quan chức năng
hay không?
a, Có: b, Không:
Câu 13. Nếu không trình báo, tố giác là vì:
180
a, Không biết phải trình báo như thế nào, ở đâu:
b, Không biết quyền lợi của mình được pháp luật bảo vệ:
c, Tài sản bị mất có giá trị không lớn:
d, Ngại tiếp xúc vì lo phiền hà về thủ tục, mất thời gian, ảnh hưởng công việc:
e, Không tin vào khả năng thu hồi được tiền đã nộp cho doanh nghiệp:
f, Xấu hổ vì sợ người khác biết sẽ cho là vì tham lam nên phải chịu hậu quả:
g, Bản thân cũng đã dụ dỗ, lôi kéo người khác tham gia:
h, Dấu diếm người thân khi tham gia KDĐC, nên không dám kể thật hoặc báo án khi bị
mất tiền:
i, Sợ bị doanh nghiệp, người tuyến trên trả thù:
k, Sợ lãnh đạo bị bắt, sẽ không đòi lại được tiền đã đầu tư:
l, Muốn doanh nghiệp tồn tại để tiếp tục lôi kéo người khác tham gia nhằm mục đích
kiếm tiền thù lao, hoa hồng:
m, Ngại làm ảnh hưởng đến người thân đã giới thiệu mình tham gia KDĐC:
Câu 14. Ông/Bà nhận định thế nào về số vụ án và người phạm tội lừa đảo CĐTS
trong lĩnh vực KDĐC chưa bị xử lý hiện nay?
a, Rất nhiều: b, Nhiều: c, Bình thường: d, Ít: e, Rất ít:
Câu 15. Tội phạm chưa bị xử lý là vì:
a, Cơ quan thẩm quyền không có thông tin về chúng:
b, Khả năng che dấu hành vi lừa đảo rất tinh vi:
c, Dù phát hiện ra cũng không xử lý được do tội phạm quá tinh vi, phức tạp:
d, Do năng lực điều tra còn hạn chế nên không phát hiện ra tội phạm:
e, Do cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm công vụ:
f, Có tiêu cực trong điều tra, xử lý tội phạm:
g, Do những người lừa đảo trong KDĐC bỏ trốn, không biết ở đâu để xử lý:
h, Lý do khác:
Câu 16. Ông/Bà có được tuyên truyền pháp luật về KDĐC và cảnh báo trước về thủ
đoạn lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC không?
a, Có:
b, Không:
Câu 17. Nếu có, ông/bà được tuyên truyền và nhận cảnh báo từ chủ thể nào?
a, Chính quyền:
181
b, Gia đình, người thân:
c, Bạn bè:
d, Các tổ chức (đoàn thể xã hội, nhà trường, khu dân cư):
e, Tự tìm hiểu trên phương tiện báo chí, truyền thông đại chúng:
Câu 18. Việc tuyên truyền pháp luật, cảnh báo thủ đoạn lừa đảo đa cấp cho người
dân có cần thiết không?
a, Rất cần thiết:
b, Cần thiết:
c, Bình thường:
d, Không cần thiết:
182
Chân thành cảm ơn Ông/bà!
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC 02
Khảo sát, lấy ý kiến điều tra viên, trinh sát viên về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lĩnh vực kinh doanh đa cấp
Kính gửi: Đồng chí……………………….
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ luật học: “Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp: tình hình, nguyên nhân và giải
pháp phòng ngừa” chúng tôi kính đề nghị Đồng chí giúp đỡ, vui lòng trả lời các câu
hỏi trong bảng khảo sát ý kiến dưới đây. Chúng tôi cam kết bảo mật tuyệt đối những
thông tin do Đồng chí cung cấp và chỉ sử dụng vào việc nghiên cứu đề tài khoa học nói
trên.
Bảng khảo sát bao gồm….câu hỏi, cho trước các phương án trả lời khác nhau,
cuối mỗi câu trả lời có hình ô vuông ( ). Đồng chí cho ý kiến bằng cách lựa chọn các
câu trả lời bản thân thấy phù hợp. Đồng ý với phương án nào, đề nghị Đồng chí đánh
dấu (x) vào ô vuông ( ) tương ứng.
Ngoài ra tại một số mục có phần dành cho Đồng chí nêu các câu trả lời khác
ngoài các phương án đã cho trước.
Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Đồng chí!
BẢNG HỎI
Họ tên:……………………………..
Cấp bậc:……………………………Chức vụ:………………………………………...
Đơn vị công tác:………………………………………………………………………….
Câu 1: Đề nghị Đồng chí vui lòng cho biết chức danh tư pháp và/hoặc hành chính
a, Lãnh đạo CQĐT:
b, Lãnh đạo các phòng nghiệp vụ, Công an cấp huyện:
c, Chỉ huy Đội nghiệp vụ (CSĐTTP về kinh tế; hình sự, công nghệ cao):
của mình hiện nay?
e, Cán bộ điều tra:
f, Trinh sát viên:
d, Điều tra viên:
Câu 2: Tại địa phương nơi Đồng chí đang công tác, có xảy ra hoạt động lừa đảo
trong KDĐC hay không?
183
a, Có: b, Không:
Câu 3: Đồng chí đã tham gia công tác phòng ngừa, điều tra, xử lý vụ án lừa đảo lừa
đảo trong KDĐC hay chưa?
a, Chỉ đạo hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ:
b, Tham gia hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ:
c, Thụ lý chính vụ án:
d, Trợ lý điều tra, giúp việc điều tra viên thụ lý vụ án:
e, Tham gia xác minh đơn, điều tra ban đầu vụ án:
f, Chưa tham gia phòng ngừa/điều tra vụ án:
Câu 4: Phương thức, thủ đoạn lừa đảo trong KDĐC tại địa phương nơi Đồng chí
công tác như thế nào?
a, Dùng lợi ích làm mồi nhử, đánh vào lòng tham, tính hám lợi của người dân:
b, Huy động vốn dưới hình thức góp vốn, đầu tư tài chính:
c, Quảng cáo sai sự thật về doanh nghiệp và hoạt động KDĐC để tạo lòng tin:
d, Quảng cáo gian dối về lợi ích khi tham gia vào mạng lưới KDĐC; quảng cáo quá
mức về công dụng của sản phẩm, hàng hóa:
e, Lấy tiền của người tham gia sau trả cho người tham gia trước trong mạng lưới:
f, Kinh doanh sản phẩm, hàng hóa chỉ là cái cớ che đậy việc huy động tài chính:
g, Kinh doanh sản phẩm ảo (tiền ảo, vàng tài khoản, máy đào tiền ảo, dịch vụ, sản
phẩm có nội dung thông tin số không có giá trị và giá trị sử dụng):
h, Yêu cầu người tham gia phải mua lượng hàng hóa lớn với giá cao hơn giá sản phẩm
cùng loại trên thị trường:
i Yêu cầu người tham gia phải đóng một khoản tiền mua mã số kinh doanh, phải đóng
tiền đặt cọc khi tham gia KDĐC:
k, Không nhận lại hàng hóa, không trả lại người tham gia số tiền đã mua sản phẩm:
l, Ôm tiền của nhà đầu tư bỏ trốn:
Câu 5: Hoạt động lừa đảo trong KDĐC tại địa phương nơi Đồng chí công tác
thường được phát hiện và tổ chức điều tra thông qua các kênh thông tin nào?
a, Phản ánh của báo chí, dư luận quần chúng, thông tin trên mạng xã hội:
b, Kết quả phối hợp với cơ quan QLNN thanh tra, kiểm tra đột xuất, hoặc theo chuyên đề:
c, Thông qua sinh hoạt MLBM, quản lý địa bàn, lĩnh vực, trinh sát xác minh:
d, Từ đơn thư tố giác, tin báo tội phạm của người dân, nạn nhân:
184
e, Từ chỉ đạo, mệnh lệnh cấp trên, chỉ đạo của chính quyền các cấp:
f, Tài liệu từ các cơ quan QLNN về KDĐC chuyển đến:
Câu 6: Đồng chí hiểu thế nào là một vụ án lừa đảo trong KDĐC?
a, Là vụ án được khởi tố hình sự:
b, Mỗi một vụ án được khởi tố là tổ hợp của hàng nghìn vụ án “con”, căn cứ theo số
lượng nạn nhân. Mỗi vụ lừa đảo có nạn nhân bị thiệt hại tài sản là một vụ phạm tội đã
hoàn thành:
Câu 7: Đồng chí đánh giá hiệu quả công tác điều tra xử lý hành vi lừa đảo trong
KDĐC thời gian qua như thế nào?
a, Khá: b, Bình thường: c, Yếu kém:
Câu 8: Theo Đồng chí, hoạt động điều tra các vụ án lừa đảo trong KDĐC thường
gặp những khó khăn gì ?
a, Quy mô vụ án quá lớn về số nạn nhân, người liên quan, hậu quả thiệt hại:
b, Phương thức, thủ đoạn phạm tội phức tạp, tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng lỗ hổng của hệ
thống pháp luật để gây án, khó phát hiện:
c, Khó phân biệt giữa KDĐC chân chính và các thủ đoạn biến tướng, khó phân định
giữa hành vi giao dịch dân sự và hành vi lừa đảo núp bóng KDĐC:
d, Nhận thức về các biến tướng phương thức KDĐC của CBCS còn mơ hồ, trình độ chưa
đáp ứng yêu cầu công tác:
e, Nạn nhân không trình báo kịp thời, không hợp tác điều tra:
f, Pháp luật về KDĐC còn bất cập, thiếu chặt chẽ:
g, Tình trạng có nhiều quan điểm trái ngược nhau về việc đánh giá chứng cứ, đánh giá
vai trò đồng phạm của người tham gia trong MLĐC:
h, Không đủ khả năng (lực lượng, phương tiện, biện pháp) để xác minh triệt để, làm rõ
hàng nghìn nạn nhân và các đối tượng có liên quan trong vụ án:
i, Việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư tố giác tội phạm của nạn nhân của tội phạm lừa
đảo trong KDĐC chưa triệt để, quyết liệt:
k, Chủ trương “khoanh, cắt, gọt” tài liệu, chỉ xử lý đối tượng cầm đầu doanh nghiệp,
chủ mưu hoạt động lừa đảo trong KDĐC:
Câu 9: Đồng chí nhận định số vụ phạm tội lừa đảo trong KDĐC chưa được phát
hiện chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm so với tổng số vụ đã xảy ra trên thực tế?
a, 1% - 10%: b, 11% - 20%: c, 21% - 30%: d, 31% - 40%:
185
e, 41% - 50%: f, 51% - 60%: g, 61% - 70%: h, 71% - 80%:
i, 81% - 90%: k, 91% - 100%:
Câu 10: Đồng chí đánh giá chất lượng công tác xác minh tin báo, tố giác hành vi
lừa đảo trong KDĐC tại địa phương nơi đang công tác như thế nào?
a, Khá: b, Bình thường: c, Yếu kém:
Câu 11: Việc cung cấp thông tin về hoạt động lừa đảo trong KDĐC tại địa phương
của Công an cơ sở, của cơ quan, tổ chức và công dân như thế nào?
a, Kịp thời:
b, Không kịp thời:
c, Phục vụ tốt cho điều tra vụ án:
d, Gây khó khăn cho việc kịp thời phát hiện tội phạm để tổ chức điều tra:
Câu 12: Đồng chí nhận xét gì về những sơ hở của nạn nhân trong các vụ án lừa đảo
trong KDĐC ?
a, Thiếu hiểu biết về phương thức KDĐC và các biến tướng của nó:
b, Chủ quan, mất cảnh giác, nhẹ dạ, cả tin:
c, Hám lợi, mong muốn làm giầu nhanh chóng:
d, Chạy theo trào lưu thời thượng:
Câu 13: Theo quan điểm của Đồng chí, người tham gia MLĐC bất chính có vai trò
đồng phạm giúp sức cho các đối tượng chủ mưu, cầm đầu hay không?
a, Phụ thuộc vào vị trí, chức vụ của họ trong MLĐC:
b, Những người tham gia đồng thời đứng đầu các nhánh, các cấp có thể là đồng phạm
với vai trò giúp sức:
c, Chỉ cần biết rõ bản chất lừa đảo hoạt động của doanh nghiệp, tích cực dụ dỗ người
khác tham gia vào mạng lưới và đã nhận được thù lao, tiền thưởng, hoa hồng từ việc
phát triển MLĐC, thì là đồng phạm với vai trò giúp sức:
Câu 14: Theo Đồng chí cần làm gì để nâng cao hiệu quả công tác điều tra loại tội
này?
a, Tăng cường công tác nắm tình hình, quản lý lĩnh vực, địa bàn, đối tượng, xây dựng
MLBM để kịp thời phát hiện hoạt động có dấu hiệu lừa đảo trong KDĐC:
b, Tăng cường tuyên truyền pháp luật về KDĐC, phổ biến thủ đoạn phạm tội lừa đảo
trong KDĐC, hướng dẫn cách thức tố giác, trình báo tội phạm cho người dân:
c, Quan tâm chỉ đạo công tác nắm tình hình, tổ chức trinh sát xác minh, xác lập chuyên
186
án trinh sát khi có thông tin tội phạm:
d, Nâng cao chất lượng tiếp nhận và xử lý tin báo về tội phạm:
e, Chú trọng nâng cao chất lượng thực hiện các biện pháp điều tra theo TTHS:
g, Chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ cho
đội ngũ Điều tra viên, cán bộ điều tra:
h, Phân công Điều tra viên giàu kinh nghiệm điều tra thụ lý chính vụ án:
i, Tăng cường phối hợp với các cơ quan QLNN, cơ quan chuyên môn trong việc thẩm
định tài liệu, đánh giá chứng cứ vụ án để áp dụng pháp luật cho chính xác:
Câu 15: Theo Đồng chí, địa bàn trọng điểm của loại tội này ở đâu?
a, Đô thị lớn, thành phố, thị xã:
b, Nông thôn:
c, Miền núi, vùng sâu, vùng xa:
e, Nơi khác:
Câu 16: Tại địa phương nơi Đồng chí công tác, chất lượng hoạt động phòng ngừa
tình hình loại tội này như thế nào?
a, Triển khai thường xuyên, theo diện rộng hoạt động phòng ngừa tình hình tội này:
b, Thỉnh thoảng triển khai hoạt động phòng ngừa tình hình tội này:
c, Không triển khai hoạt động phòng ngừa tình hình tội này:
Câu 17: Hoạt động phòng ngừa tình hình loại tội này tại địa phương nơi Đồng chí
công tác gặp những khó khăn nào?
a, Chưa có sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của lãnh đạo:
b, Lực lượng trinh sát vừa thiếu, vừa hạn chế về trình độ pháp luật, nghiệp vụ:
c, Sự phối hợp giữa các ban, ngành chức năng thiếu chặt chẽ:
Câu 18: Hoạt động phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC
của ngành Công an nên tập trung vào các nội dung nào?
a, Thực hiện tốt chức năng tham mưu xây dựng kế hoạch phòng ngừa tình hình tội này:
b, Lồng ghép với các kế hoạch khác ở địa phương:
c, Vận động quần chúng:
c, Tuyên truyền, phổ biến thủ đoạn hoạt động phạm tội:
d, Tăng cường các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ:
e, Tăng cường quan hệ phối hợp với các ngành chức năng:
187
g, Tất cả các lựa chọn trên:
Câu 19: Theo Đồng chí, cần làm gì để tăng cường phòng ngừa tình hình tội này?
a, Khắc phục những hạn chế, tiêu cực trong môi trường kinh tế - xã hội:
b, Giải quyết tốt vấn đề việc làm, tăng thu nhập cho người lao động:
c, Khắc phục những hạn chế, bất cập, tiêu cực trong môi trường văn hóa:
c, Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ:
d, Tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực KDĐC:
e, Hoàn thiện pháp luật về quản lý lĩnh vực KDĐC và xử lý tội phạm:
f, Tăng cường truyền thông phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nạn nhân:
g, Tăng cường năng lực phòng ngừa và điều tra xử lý tội phạm lừa đảo trong KDĐC
của cơ quan chức năng:
h, Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống tội phạm lừa đảo trong KDĐC:
i, Tất cả các lựa chọn trên:
Câu 20: Theo Đồng chí, ngành Công an cần làm gì để tăng cường hiệu quả công tác
phòng ngừa tình hình tội lừa đảo CĐTS trong lĩnh vực KDĐC?
a, Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu, nâng cao năng lực, trình độ của Điều tra
viên, cán bộ điều tra, trinh sát viên:
b, Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội này:
c, Bổ sung đủ lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật, hậu cần:
d, Tăng cường các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (điều tra cơ bản, quản lý địa bàn,
lĩnh vực, đối tượng; sưu tra; xác minh hiềm nghi; đấu tranh chuyên án; xây dựng, sử
dụng MLBM…):
e, Xây dựng kế hoạch tổng thể phòng ngừa tình hình tội này:
e, Tăng cường quan hệ phối hợp với các ngành chức năng, cơ quan QLNN về KDĐC
trong việc thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề và đột xuất hoạt động KDĐC:
188
Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Đồng chí!
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC 03
Khảo sát ý kiến phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam thuộc Bộ Công an
Kính gửi: Anh/ chị……………………….
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ Luật học: “Tội lừa đảo trong kinh doanh theo phương thức đa cấp: tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, tác giả luận án đề nghị anh/chị giúp đỡ, vui lòng trả lời các câu hỏi trong bảng khảo sát ý kiến dưới đây. Chúng tôi cam kết bảo mật tuyệt đối những thông tin do anh/chị cung cấp và chỉ sử dụng vào việc nghiên cứu đề tài khoa học nói trên.
Bảng khảo sát bao gồm 20 câu hỏi, cho trước các phương án trả lời khác nhau, cuối mỗi câu trả lời có hình ô vuông ( ). Anh/chị cho ý kiến bằng cách lựa chọn các câu trả lời bản thân thấy phù hợp. Đồng ý với phương án nào, đề nghị anh/chị đánh dấu (x) vào ô vuông ( ) tương ứng. Ngoài ra tại một số mục có phần dành cho anh/chị nêu các câu trả lời khác ngoài các phương án đã cho trước.
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của anh/chị !
Họ tên:………………………….…………………………………………………..…
Nơi chấp hành án:…………………………………………………………..………...
Câu 1: Giới tính:
a, Nam: b, Nữ:
Câu 2: Năm sinh………………….
Câu 3: Trình độ học vấn
a, Tiểu học (cấp I):
b, THCS (Cấp II):
c, PTTH (Cấp III):
d, Trung cấp/Cao đẳng:
e, Đại học:
f, Sau đại học:
Câu 4: Tình trạng hôn nhân
a, Chưa lập gia đình: b, Đã có gia đình:
c, Ly hôn: d, Khác (ly thân; sống chung như vợ chồng):
189
Câu 5: Nơi cư trú/tạm trú khi phạm tội
a, Đô thị: b, Nông thôn: c, Miền núi: d, Hải đảo: e, Nơi khác:
Câu 6. Nghề nghiệp trước khi phạm tội
a, Sản xuất nông nghiệp: b, Buôn bán, dịch vụ: c, Công nhân:
d, Sản xuất tiểu thủ công: e, Lao động tự do: f, Thất nghiệp:
g, Học sinh/sinh viên: h, Cán bộ, viên chức nhà nước:
i, Nghề khác:
Câu 7. Thu nhập cá nhân trước khi phạm tội
a, Dưới 5.000.000 đồng/tháng:
b, Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/tháng:
c, Trên 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng/tháng:
d, Trên 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng/tháng:
e, Trên 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng/tháng:
f, Trên 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng/tháng:
g, Trên 30.000.000 đồng trở lên:
Câu 8. Thời gian chấp hành hình phạt
a, 3 tháng đến 5 năm:
b, Trên 5 năm đến 10 năm:
c, Trên 10 năm đến 15 năm:
d, Trên 15 năm đến 20 năm:
e, Tù chung thân:
Câu 9. Động cơ phạm tội
a, Vụ lợi: b, Khác:
Câu 10. Mục đích phạm tội
a, Để chiếm đoạt được tài sản của người tham gia:
b, Để được nhận hoa hồng, tiền thưởng, thù lao:
c, Khác:
Câu 11. Phương thức, thủ đoạn phạm tội là gì
190
a, Dùng lợi ích làm mồi nhử, đánh vào lòng tham, tính hám lợi của người dân:
b, Huy động vốn dưới hình thức góp vốn, đầu tư tài chính:
c, Quảng cáo sai sự thật về doanh nghiệp và hoạt động KDĐC để tạo lòng tin:
d, Quảng cáo gian dối về lợi ích khi tham gia vào mạng lưới KDĐC; quảng cáo quá mức về công dụng của sản phẩm, hàng hóa:
e, Lấy tiền của người tham gia sau trả cho người tham gia trước trong mạng lưới:
f, Kinh doanh sản phẩm, hàng hóa chỉ là cái cớ che đậy việc huy động tài chính:
g, Kinh doanh sản phẩm ảo (tiền ảo, vàng tài khoản, máy đào tiền ảo, dịch vụ, sản phẩm có nội dung thông tin số không có giá trị và giá trị sử dụng):
h, Yêu cầu người tham gia phải mua lượng hàng hóa lớn với giá cao hơn giá sản phẩm cùng loại trên thị trường:
i, Yêu cầu người tham gia phải đóng một khoản tiền mua mã số kinh doanh, phải đóng tiền đặt cọc khi tham gia KDĐC:
k, Không nhận lại hàng hóa, không trả lại số tiền đã mua sản phẩm:
l, Ôm tiền của nhà đầu tư bỏ trốn:
Câu 12. Vai trò cá nhân trong quá trình thực hiện tội phạm
a, Thành lập doanh nghiệp, điều hành hoạt động lừa đảo:
b, Tham gia tích cực, giúp sức cho đối tượng cầm đầu:
Câu 13.Vì sao người dân tham gia vào hoạt động KDĐC lừa đảo?
a, Nhận thức mơ hồ về phương thức KDĐC; không phân biệt được thế nào là KDĐC chân chính và kinh doanh bất chính:
b, Do hám lợi, muốn có thật nhiều tiền và làm giàu thật nhanh:
c, Không biết doanh nghiệp núp bóng KDĐC để lừa đảo:
d, Tin vào lời quảng cáo, giới thiệu của doanh nghiệp, người tuyến trên:
e, Tin rằng doanh nghiệp làm ăn đúng pháp luật:
f, Hành vi lừa đảo quá tinh vi; người dân không biết là mình bị lừa:
g, Do bị dụ dỗ, kích động, do ưa thích chạy theo cái mới, trào lưu thời thượng:
h, Muốn khẳng định, chứng minh bản thân, nâng cao vị thế xã hội của mình:
i, Thấy những người sống xung quanh đều tham gia KDĐC:
k, Ảnh hưởng của sách vở, các chương trình khóa học dạy làm giàu:
191
l, Vì nhẹ dạ cả tin, nể nang người giới thiệu mà tham gia:
m, Do đời sống khó khăn, thất nghiệp, do công việc hiện tại thu nhập thấp hoặc không ổn định, muốn có thêm công việc đầu tư để tăng thu nhập:
n, Khó tìm kiếm cơ hội đầu tư:
o, Muốn tự trang trải các chi phí cho cuộc sống, học tập (với sinh viên):
p, Vì vụ lợi, biết rằng KDĐC bất chính là lừa đảo nhưng vẫn tham gia, để có cơ hội chiếm đoạt được tiền của người khác, thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình:
q, Lý do khác:
Câu 14. Nhận định về số người bị lừa đảo trong KDĐC
a, Rất nhiều: b, Nhiều: c, Bình thường:
d, Không nhiều e, Ít: f, Không có:
Câu 15. Nhận định về tình hình tội lừa đảo trong KDĐC chưa bị xử lý hiện nay?
Rất nhiều: Nhiều: Bình thường: Ít: Rất ít:
Câu 16. Tội phạm chưa bị xử lý là vì:
a, Cơ quan thẩm quyền không có thông tin:
b, Tội phạm quá tinh vi, phức tạp, khả năng che dấu tinh vi:
c, Do năng lực điều tra còn hạn chế:
d, Do cơ quan QLNN thiếu trách nhiệm, cán bộ nhận hối lộ và làm ngơ:
e, Có tiêu cực trong điều tra, xử lý tội phạm:
f, Do những người lừa đảo trong KDĐC bỏ trốn, không biết ở đâu để xử lý:
g, Lý do khác:
192
Chân thành cảm ơn anh/chị!