ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
VAI TRÒ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: TRƯỜNG HỢP CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG VAI TRÒ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: TRƯỜNG HỢP CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ Mã số: Đào tạo thí điểm
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Đặng Ngọc Dinh
2. PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi, tác giả luận án này, xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính
tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đặng Ngọc Dinh và PGS.TS Nguyễn
Tuấn Anh. Các kết quả nghiên cứu trong luận án là do chính bản thân tác giả thực
hiện, được phân tích một cách khách quan, trung thực. Các số liệu và tư liệu thứ cấp
được trích dẫn từ những nguồn chính thống theo chuẩn mực khoa học.
Hà Nội, tháng 3 năm 2019
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Hương Giang
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Đặng Ngọc
Dinh và PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh, hai người Thầy đã hướng dẫn tận tình và chu
đáo cũng như đóng góp những ý kiến bổ ích để tác giả hoàn thành luận án tiến sĩ
của mình.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô thuộc Khoa Khoa học Quản
lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm bổ ích cho tác giả trong quá trình học
tập tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận án cũng không thể hoàn thành nếu thiếu sự giúp đỡ nhiệt tình của các
trưởng nhóm, đại diện các nhóm nghiên cứu mạnh - Đại học Quốc gia Hà Nội, một
số bạn bè, đồng nghiệp đã giúp cung cấp nhiều tài liệu tham khảo có giá trị cho việc
triển khai luận án.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận án không tránh khỏi những
thiếu sót. Tác giả xin trân trọng mọi ý kiến góp ý, bổ sung của Quý thầy, cô, bạn bè
và đồng nghiệp cho luận án của mình.
Hà Nội, tháng 3 năm 2019
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Hương Giang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KH&CN Khoa học và Công nghệ
Nghiên cứu và Triển khai R&D
Nghiên cứu sinh NCS
TS Tiến sỹ
ThS Thạc sỹ
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
DANH MỤC HÌNH ......................................................................................... 6
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ 6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ................................................................................... 7
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 8
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 8
2. Tính mới của luận án ................................................................................ 12
3. Ý nghĩa của nghiên cứu ............................................................................ 12
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ....................................... 13
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 14
6. Mẫu khảo sát ............................................................................................. 14
7. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................... 15
8. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................... 15
9. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 16
10. Khung phân tích ...................................................................................... 22
11. Kết cấu của luận án ................................................................................. 23
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................... 24
1.1. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến
chủ đề luận án ................................................................................................ 24
1.1.1. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến vốn xã
hội ................................................................................................................................. 24
1.1.2. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến nhóm
nghiên cứu và nhóm nghiên cứu mạnh ................................................................... 28
1
1.1.3. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến vai trò
của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN ................................................................. 32
1.2. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến
chủ đề luận án ................................................................................................ 35
1.2.1. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến vốn xã
hội ................................................................................................................................. 35
1.2.2. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến nhóm
nghiên cứu và nhóm nghiên cứu mạnh ................................................................... 45
1.2.3. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến vai trò
của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN ................................................................. 48
1.3. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố ..................................... 49
1.3.1. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố về vốn xã hội ....................... 49
1.3.2. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố về nhóm nghiên cứu và
nhóm nghiên cứu mạnh ............................................................................................. 51
1.3.3. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố về vai trò của vốn xã hội
trong hoạt động KH&CN ........................................................................................... 52
1.4. Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 53
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA
VỐN XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ55
2.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 55
2.1.1. Khái niệm vốn xã hội ....................................................................................... 55
2.1.2. Khái niệm hoạt động KH&CN ....................................................................... 56
2.1.3. Khái niệm nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh .............................. 60
2.1.4. Khái niệm vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN ................. 62
2.1.5. Khái niệm Trung tâm xuất sắc ....................................................................... 63
2.1.6. Khái niệm trường phái khoa học ................................................................... 64
2.1.7. Khái niệm chân dung xã hội ........................................................................... 65
2
2.2. Các thành tố trong vốn xã hội ................................................................ 65
2.2.1. Mạng lưới xã hội .................................................................................. 65
2.2.2. Sự tin cậy .............................................................................................. 66
2.2.3. Sự tương tác, có đi - có lại................................................................. 67
2.3. Mối quan hệ giữa vốn xã hội (social capital) và tài sản vô hình
(intangible assets) .......................................................................................... 67
2.4. Các yếu tố có ảnh hưởng đến vốn xã hội .............................................. 72
2.5. Lý thuyết về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN ............................. 73
2.6. Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 76
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH VÀ VỐN
XÃ HỘI CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TẠI ĐẠI HỌC QUỐC
GIA HÀ NỘI .................................................................................................. 78
3.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 78
3.2. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội 79
3.2.1. Các tiêu chí cơ bản và nguồn nhân lực hình thành nhóm nghiên cứu mạnh
tại Đại học Quốc gia Hà Nội ...................................................................................... 79
3.2.2. Đặc điểm về quy mô, cơ cấu tổ chức của các nhóm nghiên cứu mạnh tại
Đại học Quốc gia Hà Nội ........................................................................................... 85
3.2.3. Đặc điểm về các hoạt động khoa học và công nghệ của các nhóm nghiên
cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội ................................................................... 91
3.3. Đặc điểm vốn xã hội của nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc
gia Hà Nội ..................................................................................................... 106
3.3.1. Một số nét chính về chân dung xã hội của các thành viên nhóm nghiên
cứu mạnh .................................................................................................................... 106
3.3.2. Mạng lưới xã hội của nhóm nghiên cứu mạnh .......................................... 110
3.3.3. Sự tin cậy .......................................................................................................... 115
3.3.4. Sự tương tác, có đi - có lại trong các nhóm nghiên cứu mạnh.................. 119
3
3.4. Tiểu kết chương 3 ................................................................................. 122
CHƯƠNG 4. VAI TRÒ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU
MẠNH TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI .......................................... 124
4.1. Dẫn nhập ............................................................................................... 124
4.2. Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động xây dựng và thực hiện các
nhiệm vụ R&D ............................................................................................. 126
4.2.1. Vốn xã hội trong hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D . 127
4.2.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội với các hoạt động xây dựng
và thực hiện các nhiệm vụ R&D .............................................................................. 132
4.3. Vai trò của vốn xã hội trong công bố khoa học ................................. 137
4.3.1. Vốn xã hội trong công bố khoa học .............................................................. 137
4.3.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong công bố khoa học .... 144
4.4. Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động đào tạo ................................ 147
4.4.1. Vốn xã hội trong hoạt động đào tạo .............................................................. 147
4.4.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động đào tạo .... 151
4.5. Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động chuyển giao tri thức, thương
mại hóa công nghệ ....................................................................................... 153
4.5.1. Vốn xã hội trong hoạt động chuyển giao tri thức, thương mại hóa công
nghệ ............................................................................................................................. 153
4.5.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động chuyển giao
tri thức, thương mại hóa công nghệ ........................................................................ 157
4.6. Môi trường, thể chế KH&CN - Những yếu tố tác động đến vốn xã hội
trong KH&CN ............................................................................................. 159
4.6.1. Các cải cách trong chính sách KH&CN ...................................................... 160
4.6.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển KH&CN của Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 ............................................................................................................................. 162
4
4.6.3. Một số vấn đề bất cập và còn tranh cãi trong chính sách và hoạt động
KH&CN ...................................................................................................................... 164
4.7. Đề xuất một số giải pháp làm giàu vốn xã hội và thúc đẩy các tác
động tích cực của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các nhóm
nghiên cứu mạnh ......................................................................................... 166
4.7.1. Giải pháp làm giàu vốn xã hội ....................................................................... 168
4.7.2. Giải pháp thúc đẩy các tác động tích cực của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN ...................................................................................................................... 173
4.8. Tiểu kết chương 4 ................................................................................. 177
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 179
1. Kết luận .................................................................................................... 179
2. Khuyến nghị ............................................................................................. 181
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................... 183
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 184
PHỤ LỤC
5
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Hoạt động KH&CN theo khái niệm của UNESCO. ................................. 58
Hình 2.2. Hoạt động R&D theo khái niệm của UNESCO. ....................................... 59
Bảng 3.1. Một số kết quả KH&CN tiêu biểu của Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn 5 năm trở lại đây .................................................................. 93
Bảng 3.2. Một số kết quả về công bố khoa học của các nhóm nghiên cứu
mạnh. ............................................................................................................... 99
DANH MỤC BẢNG
6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Số lượng các nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội của
các trường, đơn vị trực thuộc. ................................................................................... 86
Biểu đồ 3.2. So sánh số lượng nhóm nghiên cứu mạnh của các cơ sở đào tạo trong
cả nước. ..................................................................................................................... 87
Biểu đồ 3.3. Biểu đồ phân bố lĩnh vực khoa học. ..................................................... 88
Biểu đồ 3.4. Học hàm, học vị của các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh. ............. 89
Biểu đồ 3.5. Cơ cấu tổ chức của các nhóm nghiên cứu mạnh. ................................. 90
Biểu đồ 3.6. Cơ cấu độ tuổi của các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh. ............... 91
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ các đề tài, dự án từ cấp Đại học quốc gia Hà Nội trở lên của các
NNCM. ...................................................................................................................... 97
Biểu đồ 3.8. Mức độ gia tăng số lượng công bố ISI/Scopus của các nhóm nghiên
cứu mạnh - Trường Đại học Khoa học tự nhiên. .................................................... 101
Biểu đồ 3.9. Kết quả đào tạo sau đại học của các nhóm nghiên cứu mạnh 4 năm sau
khi được công nhận so với toàn trường. .................................................................. 103
Biểu đồ 3.10. Các nhân tố trong mạng lưới nghiên cứu của Nhóm nghiên cứu mạnh... 108
Biểu đồ 4.1. Vốn xã hội sử dụng trong các hoạt động KH&CN của các NNCM. . 124
Biểu đồ 4.2. Các ngành, lĩnh vực khoa học của Việt Nam có nhiều công bố quốc tế. ....... 139
Biểu đồ 4.3. Mức độ thực hiện các hoạt động xây dựng nhóm của các Nhóm nghiên
cứu mạnh. ................................................................................................................ 148
Biểu đồ 4.4. Ý kiến về các nguồn kinh phí hoạt động của các nhóm nghiên cứu mạnh. ...... 149
Biểu đồ 4.5. Vai trò của vốn xã hội ở các cấp độ. .................................................. 158
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thuật ngữ vốn xã hội (social capital) được đề cập lần đầu tiên trên thế giới vào
năm 1916 trong bài báo “The Rural School and Rural Life”, đăng trên Tạp chí West
Virginia School Journal, của tác giả Lyda Judson Hanifan (1879-1932) [90]. Trong
bài viết này, Hanifan quan niệm vốn xã hội là “những thực thể như là thiện ý (good
will), tình cảm và quan hệ xã hội (social intercourse) giữa các cá nhân và gia đình
tạo nên một đơn vị xã hội..., có tác dụng lên hầu hết hoạt động trong cuộc sống hàng
ngày của con người” . Mỗi cá nhân sẽ trở nên bất lực trước mỗi vấn đề xã hội, nếu
chỉ tồn tại cho riêng mình. Nếu cá nhân tiếp xúc với những cá nhân khác trong xã
hội, sẽ có sự tích tụ vốn xã hội, có thể đáp ứng ngay nhu cầu xã hội của chính mình
và có thể mang một tiềm năng xã hội đủ để cải thiện đáng kể điều kiện sống trong
toàn cộng đồng. Cộng đồng xã hội như một thực thể sẽ được lợi từ sự hợp tác của
tất cả các phần tử trong xã hội (mỗi cá nhân), trong khi mỗi cá nhân sẽ tìm thấy
trong các tổ chức xã hội mà mình tham gia những ưu điểm của sự giúp đỡ, sự thông
cảm và mối quan hệ xã hội của mình.
Sau Lyda Judson Hanifan, đã có rất nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu về
vốn xã hội và vai trò của nó trong sự phát triển kinh tế, chính trị, tài chính, giáo dục,
phát triển cộng đồng và xã hội… Tựu trung lại, các tác giả đều thống nhất cho rằng,
vốn xã hội là một loại tài sản vô hình mà mỗi cá nhân nhận được từ mạng lưới các
mối quan hệ xã hội; đó là những quy tắc, chuẩn mực hợp tác giữa các cá nhân với
nhau. Vốn xã hội có thể được tích lũy, sử dụng và chuyển thành các dạng vốn khác.
Vốn xã hội làm nên sức mạnh cho sự phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực [73, 77, 81,
82, 88, 90-92, 105, 109, 113].
Phan Đình Diệu (2006) [9], khi nghiên cứu về làm giàu vốn xã hội đã cho rằng
có những lý do sau đây có thể giải thích ý nghĩa quan trọng của vốn xã hội đối với
sự phát triển kinh tế và xã hội:
- Thứ nhất, vốn xã hội cho phép người dân giải quyết các bài toán tập thể một
cách dễ dàng hơn. Con người thường cảm thấy mình mạnh và khỏe hơn khi có sự
hợp tác với những người mà mình chia sẻ;
8
- Thứ hai, vốn xã hội có tác dụng bôi dầu cho các bánh xe tiến lên của cộng
đồng vận hành một cách trơn tru hơn. Ở đâu mà con người tin cậy và tín nhiệm
nhau, và những tương tác thân thiện được lặp đi lặp lại, thì công việc kinh doanh
hàng ngày và các giao dịch xã hội cũng được thuận tiện hơn;
- Thứ ba, vốn xã hội giúp con người mở rộng tầm hiểu biết về nhiều con
đường có thể có liên kết với số phận của mình, do đó có khả năng giúp cải thiện
cuộc sống của mình. Một con người có nhiều mối quan hệ tích cực và tin cậy với
nhiều người khác sẽ dễ phát triển và gìn giữ những ấn tượng tốt đẹp về phần còn lại
của xã hội, dễ trở thành ôn hòa hơn, ít thô bạo hơn, dễ thông cảm hơn với những bất
hạnh của người khác. Thiếu những cơ hội đó, con người dễ bị tổn thương hơn trước
những tác động xấu. Các mạng lưới liên kết tạo nên nguồn vốn xã hội có tác dụng
truyền đưa các dòng thông tin hữu ích giúp con người nhanh chóng hơn trong việc
đạt đến các mục tiêu cuộc sống của mình.
Mạng lưới liên kết tạo nên vốn xã hội trong một quốc gia bao gồm tất cả các tổ
chức, các nhóm, hội liên kết các thành viên cá nhân trong những mối liên hệ hết sức
đa dạng trong xã hội, từ các câu lạc bộ thể thao, các nhóm bạn văn thơ, các hội đoàn
nghệ thuật, các tổ chức nghề nghiệp,... cho đến các tổ chức tôn giáo, chính trị, văn
hóa, các thành phần này luôn biến đổi theo thời gian và ở những địa bàn, địa lý khác
nhau. Tuy nhiên, không phải mối liên kết nào trong các tổ chức cũng mang lại giá
trị tích cực cho vốn xã hội ngang nhau, có những mối liên kết đóng góp giá trị lớn
cho vốn xã hội, nhưng cũng có những mối liên kết mang đến giá trị bé, thậm chí giá
trị âm, ví dụ như mối liên kết của các tổ chức tội phạm, mafia... Nói chung, xã hội
càng phát triển thì càng có môi trường cho vốn xã hội tăng trưởng, nhưng đó cũng
không hẳn là qui luật. Chẳng hạn, công nghệ thông tin và truyền thông cùng với
Internet càng phát triển, con người càng có điều kiện thu hẹp mọi hoạt động giao
dịch, giải trí,... của mình bên chiếc máy vi tính cá nhân, thì càng có nguy cơ giảm
bớt các liên kết xã hội, và do đó góp phần làm cho vốn xã hội suy giảm.
Theo Vũ Cao Đàm (2013) [19], vốn xã hội là mạng lưới liên kết giữa con
người với con người; khi con người kết tinh và hội tụ được những giá trị tinh thần
9
trong một mạng lưới xã hội xác định, một truyền thống văn hóa cụ thể nào đó, thì
trong cộng đồng sẽ hình thành một thứ nguồn lực vô hình (intangible resource),
nguồn lực đó sẽ là sức mạnh cho sự phát triển xã hội nói chung, trong đó có
KH&CN.
Do vốn xã hội được nhìn nhận với tư cách là một thứ tài sản mà mỗi cá nhân
có thể có được (Bourdie) hay như một thứ tài sản chung của một cộng đồng hay một
xã hội nào đó (Coleman và Putnam), và nó bao gồm các yếu tố có liên hệ mật thiết
với nhau như: khả năng làm việc, cộng tác với nhau trong một mạng lưới xã hội, sự
tin tưởng lẫn nhau, sự tác động qua lại trong các mối quan hệ xã hội... Do đó, vốn
xã hội là một loại vốn tiềm tàng và đầy tiềm năng trong một tổ chức, cộng đồng,
một nhóm xã hội nào đó, dù là những nhóm nhỏ. Như vậy, nhóm nghiên cứu khoa
học cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng và tác động của vốn xã hội.
Ở Việt Nam, sự phát triển đất nước nói chung, KH&CN nói riêng, đang đứng
trước những triển vọng và thách thức của một giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi
chúng ta phải biết huy động và phát huy mọi nguồn lực hiện hữu cũng như tiềm
tàng của đất nước [53]. Bên cạnh các nguồn vốn vật chất, vốn tài chính, thì việc
khai thác và sử dụng vốn con người và vốn xã hội là rất quan trọng, đặc biệt khi hai
loại vốn này có mối quan hệ tương tác, chặt chẽ với nhau. Theo Phan Đình Diệu
(2006), mặc dù có nhiều tiềm năng, nhưng vốn xã hội ở Việt Nam còn chưa được
quan tâm đến nhiều, chưa được khai thác, phát huy để có thể sử dụng nguồn vốn
này góp phần tích cực vào sự phát triển chung của nền kinh tế và xã hội nước ta [9].
Với vai trò quan trọng và tiềm năng của vốn xã hội đối với sự phát triển của
đất nước, trong đó có sự phát triển của KH&CN, việc nghiên cứu về vai trò của vốn
xã hội trong các hoạt động KH&CN là rất cần thiết và hoàn toàn mới ở Việt Nam.
Theo Vũ Cao Đàm, trong hoạt động KH&CN, vốn xã hội là mạng liên kết bền vững
giữa các nhà nghiên cứu, sự tin cậy trong hoạt động KH&CN, các chuẩn mực đạo
đức của cộng đồng KH&CN, các thang giá trị của KH&CN, các quan hệ hợp tác
trong hoạt động KH&CN. Vốn xã hội trong KH&CN được xem xét trên ba cấp độ:
cấp độ vi mô (micro-level, cá nhân); cấp độ trung mô (meso-level, các nhóm xã
10
hội); cấp độ vĩ mô (macro-level, quốc gia và quốc tế). Sự tương tác giữa các cá
nhân với các nhóm xã hội (trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia) sẽ làm cho vốn
xã hội “giàu lên” hoặc “nghèo đi”, phát triển hoặc suy thoái [19].
Theo Margaret Heffernan, yếu tố quan trọng để một tổ chức hoạt động hiệu
quả là vốn xã hội. Vốn xã hội là sự tin tưởng, là kiến thức, sự có đi - có lại, là các
tiêu chuẩn được chia sẻ để tạo ra chất lượng cuộc sống và làm cho một nhóm nổi
bật lên; trong một nhóm có thể có nhiều cá nhân xuất sắc, nhưng điều đó không
quan trọng bằng sự kết nối của các thành viên trong nhóm, sự chia sẻ ý tưởng, sự
quan tâm, sự đóng góp ý kiến và ý tưởng từ những người khác, sự cảnh báo sớm về
những rủi ro tiềm ẩn [92].
Theo Uri Alon, việc xây dựng vốn xã hội làm cho các nhóm nghiên cứu hoạt
động hiệu quả hơn, sáng tạo hơn vì mức độ tin cậy cao tạo ra một môi trường an
toàn và trung thực. Trong nhóm nghiên cứu hoạt động hiệu quả, các thành viên sẽ
thúc đẩy sự chia sẻ kiến thức và chuyên môn; họ không để cho nhau bị rơi vào tình
thế bị mắc kẹt hoặc bối rối, mà cố gắng ngăn chặn các vấn đề trước khi chúng nảy
sinh và không để cho các đồng nghiệp bị cô lập hoặc bị tách rời khỏi nhóm. Các
nhóm có thời gian làm việc cùng nhau càng lâu, vốn xã hội càng được tích lũy, càng
mang lại nhiều lợi ích cho nhóm [109].
Việc nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN, từ đó
đưa ra khuyến nghị cho việc phát triển vốn xã hội, phát huy những tác động tích
cực, hạn chế những tác động tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN,
cũng như đưa ra các giải pháp cho việc tạo dựng môi trường nghiên cứu khoa học
và làm việc hiệu quả cho các nhà KH&CN là một nghiên cứu rất cần thiết và có ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
Trong khuôn khổ của luận án này, NCS tập trung nghiên cứu vai trò của vốn
xã hội trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc
gia Hà Nội - đơn vị đầu tiên ở Việt Nam xây dựng và phát triển các nhóm nghiên
cứu mạnh - như một nghiên cứu khảo sát định tính về vốn xã hội, từ đó đề xuất các
giải pháp làm tăng vốn xã hội trong hoạt động KH&CN ở Việt Nam.
11
2. Tính mới của luận án
Hiện nay, việc nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong các lĩnh vực tài chính -
kinh doanh, kinh tế, nông nghiệp, nông thôn, hay trong một loại hình tổ chức nào đó
đã không còn xa lạ, tuy nhiên việc đánh giá vai trò của vốn xã hội trong một hoạt
động như hoạt động KH&CN của một loại hình tổ chức “mềm” đặc biệt như nhóm
nghiên cứu/nhóm nghiên cứu mạnh là một vấn đề hoàn toàn mới.
Có thể nói, luận án “Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN: Trường
hợp các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội” là một nghiên cứu
đầu tiên về chủ đề này, nhằm đóng góp những lý luận và thực tiễn cần thiết cho việc
nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh. Cụ thể, luận
án đã: Nhận dạng được các đặc điểm của các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học
Quốc gia Hà Nội; Làm rõ thực tế sử dụng vốn xã hội và vai trò của nó trong hoạt
động KH&CN của nhóm nghiên cứu mạnh; Đánh giá tác động tích cực và tiêu cực
của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh; Đề xuất
giải pháp làm giàu vốn xã hội và phát huy những tác động tích cực, hạn chế những
biểu hiện tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên
cứu mạnh.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Về mặt lý luận
Nghiên cứu góp phần giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội trong KH&CN đồng
thời làm rõ vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN, nghiên cứu trường hợp
các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Cụ thể, về mặt lý luận,
luận án hệ thống các khái niệm làm cơ sở lý thuyết cho việc thực hiện đề tài: về vốn
xã hội, hoạt động KH&CN, nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh, vai trò của
vốn xã hội trong hoạt động KH&CN, trung tâm xuất sắc, trường phái khoa học,
chân dung xã hội. Bên cạnh việc đưa ra một hệ lý thuyết đầy đủ và chặt chẽ, logic
về nội dung, luận án đã phân tích lý thuyết về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN.
Đây là những cơ sở khoa học quan trọng cho việc nghiên cứu thực tiễn của luận án.
12
3.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án đã mô tả đặc điểm của các nhóm nghiên cứu
mạnh và phác họa bức tranh về việc sử dụng vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
theo từng yếu tố đầu ra (hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D; công
bố khoa học; đào tạo; thương mại hóa công nghệ) của các nhóm nghiên cứu mạnh
tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ đó, đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của vốn
xã hội đến từng yếu tố này. Dựa trên cơ sở phân tích thực tiễn, luận án đã đề xuất
một số giải pháp làm giàu vốn xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đây là một vấn đề mới, chưa từng được nghiên cứu ở Việt Nam. Do vậy,
những luận cứ khoa học và thực tiễn của nghiên cứu này có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu tiếp theo về vốn xã hội trong các hoạt động
KH&CN ở Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển KH&CN nói chung, các hoạt
động KH&CN nói riêng.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu: Làm rõ được vai trò của vốn xã hội (thể
hiện qua tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội) trong hoạt động KH&CN:
Trường hợp các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các nhiệm vụ cụ thể của nghiên cứu:
- Nhận dạng đặc điểm của nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà
Nội
- Làm rõ thực tế sử dụng vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của nhóm
nghiên cứu mạnh
- Đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh
- Đề xuất giải pháp làm giàu vốn xã hội và phát huy những tác động tích cực,
hạn chế những biểu hiện tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các
nhóm nghiên cứu mạnh.
13
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: luận án nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội trong các
hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phạm vi không gian: 27 nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà
Nội.
- Phạm vi thời gian: 2014-2017.
6. Mẫu khảo sát
Để làm rõ được vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN, tác giả đã
lựa chọn mẫu khảo sát là 27 nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội
vì những lí do sau:
Thứ nhất: Đại học Quốc gia Hà Nội là một đơn vị hàng đầu về nghiên cứu
KH&CN của Việt Nam, là một trung tâm đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực,
chất lượng cao. Do vậy, các hoạt động KH&CN của Đại học Quốc gia Hà Nội có thể
mang tính đại diện cao trong cả nước.
Thứ hai: Đại học Quốc gia Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong cả nước xây dựng
và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh. Trong Chiến lược phát triển đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Đại học Quốc gia Hà Nội đã xác định nhiệm vụ
“xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, các trung tâm xuất sắc (COE)
và các mạng lưới liên hoàn”. Việc xây dựng và phát triển của nhóm nghiên cứu
mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội có tính bài bản, có sự nghiên cứu, học hỏi từ
các nước tiên tiến trên thế giới.
Thứ ba: Với các hoạt động KH&CN đa dạng, phong phú trong các lĩnh vực
khoa học tự nhiên, công nghệ và kỹ thuật, cũng như khoa học xã hội và nhân văn,
việc nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội sẽ là một trường hợp điển hình, từ đó
14
có thể khái quát chung về vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN nói
chung ở Việt Nam.
Xuất phát từ ba lí do nên trên, tác giả cho rằng việc chọn các nhóm nghiên cứu
mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội làm mẫu khảo sát là hợp lý và kết quả nghiên cứu
hoàn toàn có thể mang tính đại diện.
7. Câu hỏi nghiên cứu
7.1. Câu hỏi nghiên cứu chủ đạo
Vốn xã hội có vai trò như thế nào trong hoạt động KH&CN của các nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội?
7.2. Câu hỏi nghiên cứu cụ thể
Câu hỏi 1: Các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội có đặc
điểm gì?
Câu hỏi 2: Thực tế sử dụng vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các
nhóm nghiên cứu mạnh như thế nào?
Câu hỏi 3: Vốn xã hội có tác động như thế nào trong các hoạt động KH&CN
của các nhóm nghiên cứu mạnh?
Câu hỏi 4: Làm thế nào để làm giàu vốn xã hội và phát huy những tác động
tích cực, hạn chế những biểu hiện tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
của các nhóm nghiên cứu mạnh?
8. Giả thuyết nghiên cứu
8.1. Giả thuyết nghiên cứu chủ đạo
Vốn xã hội có vai trò tác nhân quan trọng thúc đẩy hoạt động KH&CN của các
nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội, được thể hiện và sử dụng
trong mọi hoạt động KH&CN.
8.2. Giả thuyết nghiên cứu cụ thể
Giả thuyết 1: Các nhóm nghiên cứu mạnh đều là những tập thể các nhà khoa
học có cùng hướng nghiên cứu chuyên môn, có đủ khả năng triển khai các nghiên
cứu đỉnh cao và là hạt nhân để xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, trường
phái khoa học. Mỗi nhóm nghiên cứu mạnh là một think tank, trong đó trưởng
15
nhóm nghiên cứu mạnh có vai trò chủ đạo trong thiết lập, tập hợp được mạng lưới
các cộng sự và học trò có khả năng phát triển, xây dựng trường phái khoa học của
mình với những vấn đề khoa học độc đáo.
Giả thuyết 2: Các nhóm nghiên cứu mạnh đều sử dụng tốt vốn xã hội trong
các hoạt động KH&CN của mình: xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D, công
bố khoa học, đào tạo, chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ.
Giả thuyết 3: Vốn xã hội có các tác động tích cực và tiêu cực đến các hoạt
động KH&CN. Việc sử dụng vốn xã hội giúp các nhóm nghiên cứu mạnh xây dựng
và thiết lập được những mối quan hệ hợp tác (trong và ngoài nước) mạnh, thúc đẩy
đào tạo nhân lực KH&CN trình độ cao và nâng cao chất lượng nghiên cứu, công bố
quốc tế. Tuy nhiên, còn có một số tác động tiêu cực trong việc sử dụng vốn xã hội
của các nhóm nghiên cứu mạnh.
Giả thuyết 4: Với những giải pháp làm giàu vốn xã hội ở cấp vĩ mô, trung mô
và vi mô, cải thiện môi trường nghiên cứu khoa học và làm việc của các nhà
KH&CN, sẽ phát huy những tác động tích cực và hạn chế những biểu hiện tiêu cực
của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh.
9. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
9.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
- Tiếp cận quản lý: Nhận diện được đặc điểm của các nhóm nghiên cứu mạnh
của Đại học Quốc gia Hà Nội và các hoạt động KH&CN của các nhóm này, nghiên
cứu về vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN dưới góc nhìn của chuyên
ngành quản lý KH&CN.
- Tiếp cận hệ thống: Đây là một hướng tiếp cận quan trọng để xem xét cơ cấu
hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh. Tiếp cận này cũng giúp cho
việc nhìn nhận một cách đúng đắn mối quan hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Tiếp cận liên ngành: Đây là cách tiếp cận dựa trên sự phối hợp các quan
điểm lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: khoa
16
học quản lý, khoa học chính sách, xã hội học, trên cơ sở quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KH&CN.
- Tiếp cận nội quan và ngoại quan: Dựa trên các nhận xét đánh giá chủ quan
và khách quan để đưa ra nhận định về vai trò của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội, từ đó đề
xuất những giải pháp làm giàu vốn xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng, sự
phát triển KH&CN của đất nước nói chung.
9.2. Phương pháp nghiên cứu
9.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng cơ
sở lý luận cũng như thực tiễn cho luận án, gồm các phương pháp cụ thể sau:
* Phương pháp thu thập và phân loại tài liệu: Căn cứ vào câu hỏi nghiên
cứu và xuất phát từ giả thuyết nghiên cứu của luận án, tác giả tiến hành thu thập
các tài liệu cần thiết để chứng minh giả thuyết nghiên cứu, được chia làm hai
nhóm tài liệu sau:
Nhóm tài liệu sơ cấp, gồm: Các văn bản, hướng dẫn có liên quan, gồm: Thông
tư 37/2014/TT-BKHCN của Bộ KH&CN; Chiến lược phát triển đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020 của Đại học Quốc gia Hà Nội; Hướng dẫn số 1409/HD-
KH&CN của Đại học Quốc gia Hà Nội; các báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội; các thông tin
có được từ việc lấy ý kiến bằng bảng hỏi, các thông tin thu thập từ phỏng vấn trực
tiếp.
Nhóm tài liệu thứ cấp, gồm: đề tài nghiên cứu khoa học các cấp; luận án tiến
sĩ, các bài báo khoa học đã công bố ở trong nước và nước ngoài, Từ điển, sách tham
khảo; sách chuyên khảo… trong các lĩnh vực có liên quan đến luận án.
* Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: Từ những tài liệu có được bằng
phương pháp thu thập và phân loại tài liệu, tác giả tiến hành phân tích và tổng hợp
các loại tài liệu đó. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu được sử dụng chủ
17
yếu cho phần tổng quan và cơ sở lý luận của luận án. Các tài liệu được tập trung
phân tích gắn với chủ đề vốn xã hội và vốn xã hội trong hoạt động KH&CN, bao
gồm các công trình nghiên cứu, bài báo khoa học, sách chuyên khảo, luận án của
các học giả trong nước và nước ngoài. Trên thực tế, các nghiên cứu của các tác giả
Việt Nam về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN hầu như chưa có, chỉ có một số
công tình nghiên cứu về vốn xã hội trong các hoạt động dân sự, phát triển nguồn
nhân lực, phát triển kinh tế và một số nghiên cứu về lý thuyết vốn xã hội.
Việc thu thập các thông tin, tài liệu và lấy số liệu thực tế liên quan đến việc
tìm hiểu hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia Hà
Nội; việc sử dụng vốn xã hội và vai trò của nó trong các hoạt động KH&CN của các
nhóm nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội.
9.2.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
Phương pháp trưng cầu ý kiến giúp thu thập những số liệu định tính và định
lượng quan trọng cho luận án, tác giả đã trưng cầu ý kiến như sau.
Về đối tượng khảo sát: Mục đích là tìm hiểu về thực trạng sử dụng vốn xã hội
và vai trò của nó trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại
học Quốc gia Hà Nội nên đối tượng khảo sát của luận án là 27 nhóm nghiên cứu
mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội.
Về phương pháp chọn mẫu: luận án sử dụng phương pháp chọn mẫu gồm tất
cả các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội. Do vậy, luận
án đã trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi đối với 27 trưởng nhóm nghiên cứu mạnh cấp
Đại học Quốc gia Hà Nội, ở các lĩnh vực khoa học tự nhiên, công nghệ, kỹ thuật,
khoa học xã hội và nhân văn.
Về nội dung phiếu trưng cầu ý kiến: Các câu hỏi được xây dựng bao gồm: 1)
Mạng lưới nghiên cứu của nhóm nghiên cứu mạnh gồm những nhân tố nào? 2) Trong
hoạt động của nhóm nghiên cứu mạnh, sự tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên trong
Nhóm có được coi là yếu tố quan trọng dẫn đến hiệu quả hoạt động của Nhóm
không? 3) Quan hệ tương tác, có đi - có lại trong hoạt động KH&CN của nhóm
nghiên cứu mạnh được thể hiện như thế nào? 4) Vốn xã hội được sử dụng trong các
18
hoạt động nào của Nhóm? 5) Các hoạt động xây dựng Nhóm (team building
activities), sinh hoạt tập thể có được thực hiện thường xuyên không? 6) Kinh phí hoạt
động của Nhóm có từ những nguồn nào? 7) Các yếu tố nào mang lại sự thành công
của nhóm nghiên cứu mạnh? 8) Vốn xã hội có vai trò như thế nào trong các hoạt
động KH&CN của nhóm nghiên cứu mạnh? 9) Vốn xã hội ở cấp độ nào có vai trò
quan trọng đối với các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh? 10) Đâu
là yếu tố quan trọng nhất dẫn tới sự thành công trong các hoạt động của nhóm nghiên
cứu mạnh?
Tác giả đã tiến hành điều tra trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi với 27 trưởng
nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mỗi trưởng nhóm nghiên
cứu mạnh phát 1 phiếu hỏi. Để đảm bảo tính khuyết danh của các đối tượng được
lấy ý kiến, trên phiếu hỏi không yêu cầu ghi các thông tin cá nhân. Trong quá trình
xử lý và phân tích thông tin trong luận án, tên của người được hỏi được đảm bảo
bí mật, do vậy tên các nhân vật được nhắc tới trong nội dung luận án không phải
là tên thật.
Hình thức tiến hành: Gặp gỡ các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh, phát bảng
hỏi cá nhân, hướng dẫn cách trả lời và thu lại bảng hỏi khi đã trả lời xong. Tác giả
thu về được 22 phiếu hợp lệ (có 5 trường hợp không trả lời).
Đặc điểm của đối tượng khảo sát được thể hiện cụ thể dưới đây.
- Giới tính: Cụ thể có 27 đối tượng khảo sát thì chỉ có 3 nữ (chiếm 11,11%);
đối tượng là nam giới có 24 người (chiếm 88,89%). Sự chênh lệch về giới tính thể
hiện rất rõ trong các đối tượng là trưởng nhóm nghiên cứu mạnh cũng như trong các
thành viên của các nhóm nghiên cứu mạnh, đa số các nhà khoa học trong các nhóm
nghiên cứu mạnh là nam giới, chỉ có rất ít nữ giới.
- Về độ tuổi: Các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều là các nhà khoa học đầu
ngành, có nhiều kinh nghiệm, hầu hết thuộc thế hệ 3X, 4X, 5X và 6X - chiếm
78,6%, trong đó một nửa là thế hệ 5X), chỉ có 21,4% thuộc thế hệ 7X và 8X.
Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh cao tuổi nhất sinh năm 1938. Điều này, cho thấy
19
trong thời gian tới, rất cần đội ngũ các nhà khoa học kế cận có thể kế tục sự nghiệp
nghiên cứu và lãnh đạo các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Về học hàm, học vị: Hầu hết các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều được
đào tạo bài bản từ các nước tiên tiến trên thế giới - 78,6%, chỉ có 21,4% số trưởng
nhóm nghiên cứu mạnh được đào tạo trong nước. Tất cả các trưởng nhóm nghiên
cứu mạnh đều có học vị TS, số trưởng nhóm nghiên cứu mạnh có học hàm GS
chiếm 53,6%, số trưởng nhóm nghiên cứu mạnh có học hàm PGS chiếm 39,3%.
- Số năm công tác: Đối tượng khảo sát có số năm công tác chiếm đa số là trên
10 năm, với 89,3%. Số đối tượng khảo sát có số năm công tác dưới 10 năm chỉ
chiếm 10,7%.
9.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Đây là phương pháp được sử dụng nhằm mục đích thu thập những thông tin
chi tiết, sâu sắc, những phát hiện mới về các khía cạnh khác nhau của vấn đề nghiên
cứu. Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện để thu thập những thông tin định
tính nhằm bổ sung, giải thích cho các thông tin định lượng. Đồng thời, phương pháp
này còn giúp cung cấp những thông tin mới mà số liệu định lượng không thu được.
Trong khuôn khổ luận án, tác giả đã trực tiếp tiến hành 10 cuộc phỏng vấn sâu
đối với các đối tượng là trưởng nhóm nghiên cứu mạnh, thành viên nhóm nghiên
cứu mạnh, cán bộ quản lý KH&CN. Nội dung các cuộc phỏng vấn sâu là tìm hiểu
về các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh; việc sử dụng, duy trì và
phát triển vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN; các tác động của vốn xã hội đến
các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh.
Các đối tượng được phỏng vấn sâu cũng được đảm bảo tính khuyết danh, do
vậy tên các nhân vật được phỏng vấn sâu sử dụng trong luận án không phải là tên
thật.
9.2.4. Phương pháp thống kê
Tác giả đã tiến hành thống kê số liệu từ các báo cáo tổng kết hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội được chọn
làm mẫu khảo sát nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án. Việc tiến
20
hành thống kê con số định lượng của hoạt động KH&CN là cần thiết, giúp luận án
có căn cứ thực tiễn để so sánh, đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN với việc sử
dụng vốn xã hội trong các hoạt động này.
Bên cạnh đó, luận án cũng đưa vào phân tích, đánh giá, so sánh với các hệ
thống tài liệu khác về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, về địa bàn
nghiên cứu, các văn bản pháp quy liên quan đến chủ đề nghiên cứu, nhằm có được
cái nhìn khách quan và toàn cảnh.
9.2.5. Phương pháp tham vấn chuyên gia
Phương pháp tham vấn chuyên gia: Việc sử dụng ý kiến chuyên gia có kinh
nghiệm và am tường về vốn xã hội và các nhóm nghiên cứu mạnh là một phương
pháp nghiên cứu rất cần thiết, đặc biệt với một vấn đề nghiên cứu mới ở Việt Nam.
9.2.6. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được sử dụng như một phương pháp bổ trợ cho các
phương pháp khác, đặc biệt trong việc phát hiện vấn đề nghiên cứu. Đối tượng quan
sát là các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội với các hoạt động
KH&CN, cụ thể là các trưởng nhóm và thành viên của nhóm nghiên cứu mạnh, việc
sử dụng vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các đối tượng này.
9.2.7. Phương pháp hội thảo khoa học
Tác giả tham dự một số hội thảo khoa học về các hoạt động của các nhóm
nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội để lắng nghe các ý kiến liên quan, phát
hiện vấn đề và lấy ý kiến của một số nhà khoa học có kinh nghiệm tại các hội thảo
này cho các nội dung nghiên cứu của luận án. Bao gồm các hội thảo, hội nghị sau:
Hội nghị khoa học năm 2018 - Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc
gia Hà Nội; Hội thảo khoa học quốc gia “Phát triển nhóm nghiên cứu trong các
trường đại học: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm trong nước và quốc tế, thực trạng phát
triển các nhóm nghiên cứu ở các trường đại học Việt Nam hiện nay” - Trường Đại
học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội; Hội nghị tổng kết “Xây dựng và phát
triển nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học Quốc gia Hà Nội”; Hội thảo “Chiến lược
21
KH&CN phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh” - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh.
10. Khung phân tích
Môi trường
Xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D
Mạng lưới nghiên cứu
Tác động tích cực
Công bố Khoa học
Vốn xã hội
Lòng tin, sự tin cậy
Tác động
Hoạt động KH&CN
Đào tạo
tiêu cực
Thể chế
Sự tương tác, sự có đi - có lại
Chuyển giao TT, TMH CN
Khung phân tích: Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN.
Chú thích: TT: tri thức; TMHCN: thương mại hóa công nghệ.
Các nội dung của luận án được thể hiện theo Khung phân tích nêu trên, cụ thể là
phân tích vai trò của vốn xã hội, bao gồm các yếu tố: Mạng lưới nghiên cứu; Lòng
tin, sự tin cậy; Sự tương tác, có đi - có lại, trong các hoạt động KH&CN: Xây dựng
và thực hiện các nhiệm vụ R&D; Công bố khoa học; Đào tạo; Chuyển giao tri thức,
thương mại hóa công nghệ. Các yếu tố của vốn xã hội cũng có mối liên hệ qua lại,
phụ thuộc lẫn nhau, cái này làm nảy sinh và hỗ trợ cái kia phát triển. Vốn xã hội là
một bộ phận của hệ thống xã hội đặc thù nên nó cũng sẽ phản ánh đặc trưng của bối
cảnh văn hóa, kinh tế - xã hội, chính trị, lịch sử của mỗi hệ thống xã hội. Đây cũng
chính là các yếu tố có ảnh hưởng đến vốn xã hội. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của
luận án này, việc xem xét và đánh giá vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động
22
KH&CN chỉ xét đến các tác động có thể xảy ra của các điều kiện về môi trường
nghiên cứu, hoạt động khoa học và thể chế liên quan đến chính sách phát triển
KH&CN của Việt Nam hiện nay.
11. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận án được cấu trúc thành
bốn chương, bao gồm:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
- Chương 2: Cơ sở lý luận trong nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong hoạt
động KH&CN.
- Chương 3: Đặc điểm của nhóm nghiên cứu mạnh và vốn xã hội của nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Chương 4: Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
23
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến chủ đề
luận án
1.1.1. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến
vốn xã hội
Trong xã hội, bên cạnh sự tồn tại của các loại vốn vật chất (physical capital)
như vốn tiền tệ, đất đai, con người… thì còn có những loại vốn vô hình (intangible)
khác như: vốn văn hóa, vốn xã hội (social capital). Trong đó, vốn xã hội là một khái
niệm đã được thừa nhận từ lâu.
Theo Lyda Judson Hanifan (1916), vốn xã hội là những thực thể hữu hình nhất
trong cuộc sống hàng ngày của con người như là thiện ý (namely good will), tình
cảm và giao tiếp xã hội (social intercourse) giữa các cá nhân và gia đình tạo nên
một đơn vị xã hội... [90]. Mỗi cá nhân sẽ trở nên bất lực trước mỗi vấn đề xã hội,
nếu chỉ tồn tại cho riêng mình. Nếu cá nhân tiếp xúc với những cá nhân khác trong
xã hội, sẽ có sự tích tụ vốn xã hội, có thể đáp ứng ngay nhu cầu xã hội của chính
mình và có thể mang một tiềm năng xã hội đủ để cải thiện đáng kể điều kiện sống
trong toàn cộng đồng. Cộng đồng xã hội như một thực thể sẽ được lợi từ sự hợp tác
của tất cả các phần tử trong xã hội (mỗi cá nhân), trong khi mỗi cá nhân sẽ tìm thấy
trong các tổ chức xã hội mà mình tham gia những ưu điểm của sự giúp đỡ, sự thông
cảm và mối quan hệ xã hội của mình [66].
Bourdieu Pierre cho rằng vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã
hội, chẳng hạn, vốn xã hội kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững, quan
niệm vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết,
trong đó các thành viên tương tác qua lại với nhau [62-64].
Liên quan đến vốn xã hội, Bourdieu Pierre còn bàn đến khái niệm vốn văn hóa
trong quá trình nghiên cứu về xã hội học giáo dục [64]. Bourdieu đã trình bày có hệ
thống về hai khái niệm vốn văn hóa và vốn xã hội. Trong đó, ông xem vốn văn hóa
là hệ thống các thành tố văn hóa có thể luân chuyển và tạo ra những giá trị trao đổi
24
trong quá trình phát triển, là một hình thức “tư bản văn hóa”. Theo đó, vốn văn
hóa tồn tại dưới ba hình thức chủ yếu là:
- Trạng thái thể hiện (Embodied state), là các yếu tố văn hóa được thể hiện qua
chủ thể của nó, tức là con người, là những yếu tố tồn tại hiện hữu và lâu dài trong
tâm trí và cơ thể của con người chủ thể văn hóa. Nói cách khác thì vốn văn hóa ở
trạng thái thể hiện chính là tiềm lực văn hóa của con người và năng lực vận dụng
các yếu tố văn hóa để tạo ra giá trị trong quá trình phát triển. Vốn văn hóa ở tráng
thái biểu hiện là hệ thống yếu tố văn hóa biểu hiện qua yếu tố con người.
- Trạng thái khách quan (Objectified state), là hệ thống các yếu tố văn hóa ở
dạng tồn tại hiện hữu khách quan ngoài con người, là những hình thức vật chất của
vốn văn hóa như sách vở, công cụ, nhà cửa, trang thiết bị, máy móc… hay cả những
sản phẩm trí tuệ, tinh thần như các dấu tích (trace), việc thực hành các lý thuyết
(realization of theories) hay phê bình các lý thuyết (critiques of theories)… cũng là
vốn văn hóa ở trạng thái khách quan. Vốn văn hóa ở trạng thái khách quan có thể là
sản phẩm của cá nhân hay cộng đồng được hiện hữu và có thể sử dụng để trao đổi,
luân chuyển nhằm tạo ra giá trị.
- Trạng thái thể chế (Institutionalized state), là những yếu tố văn hóa tổ chức
thành các khuôn mẫu, định hình cho sự tồn tại và hoạt động của các yếu tố văn hóa
dựa trên những khuôn mẫu đó. Trong ba trạng thái này, Bourdieu nhấn mạnh vai trò
của vốn văn hóa ở trạng thái thể hiện, tuy nhiên, ông cũng xác định rõ: “hầu hết các
thuộc tính của vốn văn hóa có thể được rút ra từ thực tế, ở trạng thái cơ bản của nó,
nó được liên kết với chủ thể văn hóa và phỏng đoán hiện thân" [64]. Mở rộng ra,
vốn văn hóa ở trạng thái thể chế là hệ thống các nguyên tắc, thể chế quy định tổ
chức và hoạt động của các yếu tố văn hóa khác. Đó cũng là những giá trị chuẩn mực
được xã hội, cộng đồng chấp nhận và tuân thủ.
Fukuyama F. khi đề cập đến vốn xã hội và phát triển đã lưu ý vốn xã hội là
một khái niệm đặc biệt trên khía cạnh tương tác như thế nào với các yếu tố khác
trong phát triển xã hội trên phạm vi toàn cầu và nó sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế
và giảm nghèo trong tương lai như thế nào [76]. Trong thập kỷ qua, hầu hết các
25
nghiên cứu về vốn xã hội và mối quan hệ của nó với sự phát triển kinh tế đều mang
tính khái niệm và chưa có định nghĩa cụ thể. Fukuyama F. cũng bàn về việc xem xét
lại vấn đề phát triển đã diễn ra trong những năm cuối của thập niên 90, bao gồm sự
đánh giá mới về tầm quan trọng của việc kết hợp các yếu tố văn hoá vào tăng
trưởng kinh tế và các mô hình phát triển. Vả lại, vốn xã hội chỉ đơn giản là một
phương tiện để hiểu rõ vai trò của các giá trị và chuẩn mực trong đời sống kinh tế.
Vào những năm 1990 bắt đầu bằng cái gọi là “sự đồng thuận Washington”
(Washington consensus) như là cách tiếp cận chi phối đối với các nền kinh tế đang
phát triển và chuyển đổi. Áp dụng chủ yếu bởi các định chế tài chính quốc tế, sự
đồng thuận Washington đã sản sinh ra một loạt các chính sách kinh tế nhằm tác
động đến các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi từ tay nhà nước. Việc này
đã được áp dụng với các mức độ thành công khác nhau đối với các nước ở Đông Âu
và Liên Xô cũ, Mỹ La tinh, Châu Á và các nơi khác ở các nước đang phát triển.
Trong nhiều trường hợp, các chính sách này đã thất bại trong việc tạo ra tăng trưởng
kinh tế bền vững, thúc đẩy phản ứng ngược lại với những gì được gọi là “Chủ nghĩa
tự do phi chính thống” (Unorthodox Liberalism). Việc thất bại của sự đồng thuận
Washington là một trong những thiếu sót, chứ không phải là chính sách. Việc tư
nhân hoá các tài sản quốc gia kém hiệu quả, giảm rào cản thương mại và đầu tư,
loại bỏ trợ cấp làm biến dạng thị trường. Sự đồng thuận Washington không phải là
nó đã được định hướng sai, mà bản chất là nó đã thể hiện một cách phiến diện,
không đầy đủ, đó là không tính đến vốn xã hội. Sự đồng thuận Washington đã được
thực hiện như là một kế hoạch cho sự phát triển ở nhiều nước thiếu các điều kiện
tiền tệ chính trị, thể chế và văn hoá phù hợp để làm cho tự do hóa có hiệu quả. Ví
dụ, loại bỏ kiểm soát vốn có thể dẫn đến tình trạng bất ổn định về tài chính nghiêm
trọng nếu được thực hiện, như trường hợp của Thái Lan và Hàn Quốc, ở những
nước không có quy định đầy đủ về các định chế ngân hàng. Tương tự, tư hữu hóa
tài sản nhà nước có thể ủy thác toàn bộ quá trình cải cách nếu các cơ quan nhà nước
thực hiện và tham nhũng [76].
26
Grootaert C. cho rằng vốn xã hội đã giúp làm giảm đi khả năng rơi vào tình
trạng đói nghèo của các hộ gia đình, vốn xã hội mang lại lợi ích dài lâu đối với các
hộ gia đình, mà cụ thể ở đây là việc tiếp cận dịch vụ tín dụng để tạo ra thu nhập ổn
định. Sự khác biệt về kết quả kinh tế, mức độ của cá nhân hoặc hộ gia đình hoặc ở
cấp độ của nhà nước, không thể giải thích hoàn toàn bằng sự khác biệt về đầu vào
"truyền thống" như lao động, đất đai và các loại vốn vật chất khác. Vai trò quan
trọng ngày càng tăng "vốn xã hội" trong việc ảnh hưởng đến phúc lợi của hộ gia
đình và mức độ phát triển của cộng đồng và quốc gia. Việc công nhận rằng vốn xã
hội là đầu vào của một hộ gia đình hoặc một quốc gia có ý nghĩa quan trọng đối với
chính sách phát triển và thiết kế dự án. Nó cho thấy nguồn nhân lực và thiết lập một
cơ sở vật chất cơ sở hạ tầng cần được bổ sung bởi sự phát triển thể chế để gặt hái lợi
ích đầy đủ của những khoản đầu tư này. Thúc đẩy tương tác xã hội giữa người
nghèo ở nông thôn có thể cần bổ sung cho việc cung cấp giống và phân bón. Mặc
dù có nhiều định nghĩa và diễn giải về khái niệm xã hội vốn, có sự đồng thuận ngày
càng tăng rằng “vốn xã hội là khả năng của các tác nhân lợi ích an toàn bởi cam kết
của thành viên trong mạng xã hội hoặc các cấu trúc xã hội khác” [79].
Trong nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội trong phát triển tài chính, Guiso
L., Sapienza P., & Zingales L. đã chỉ ra tác dụng của vốn xã hội đối với phát triển
tài chính ở một nước phát triển là Italia [80]. Các tác giả cho biết trong những vùng
có mức vốn xã hội cao, hộ gia đình thường tiếp cận với tín dụng chính thức nhiều
hơn là tín dụng phi chính thức. Nhóm các tác giả này cũng nhận thấy mối liên hệ
giữa vốn xã hội với địa phương cá nhân được sinh ra. Cụ thể là mức độ vốn xã hội
có được ở những nơi mà các nhân được sinh ra có ảnh hưởng đến sự phát triển tài
chính.
Vốn xã hội cũng có những tác động tiêu cực. Theo Portes vốn xã hội chứa
đựng trong nó ít nhất là bốn hậu quả tiêu cực. Thứ nhất, đó là sự loại trừ những
người ngoài. Vốn xã hội thường mang lại các cố kết bên trong nhóm. Tuy nhiên,
những cố kết như thế lại tạo ra khó khăn cho việc mở rộng nhóm, đồng thời ngăn
cản sự tham gia của những người bên ngoài. Thứ hai là đòi hỏi thái quá đối với
27
thành viên. Điều này có thể tốt nếu xét theo khía cạnh tổ chức của nhóm. Nhưng
mặt tiêu cực là ở chỗ nó hạn chế sáng kiến của các thành viên. Thứ ba là hạn chế tự
do cá nhân. Thứ tư là việc hạ thấp chuẩn mực của sự cách biệt trong nhóm. Vì vốn
xã hội có xu hướng tạo ra cố kết, giữ các cá nhân ở những vị thế ngang bằng nhau
nên trong nhiều tình huống sự thành công của một cá nhân làm xói mòn liên kết
nhóm. Nhiều khi, vốn xã hội giữ các cá nhân ở những vị thế ngang bằng nhau nên
đã làm triệt tiêu tham vọng và sự sáng tạo của họ [100].
Có thể nói rằng, nhìn lại các nghiên cứu đi trước về vốn xã hội trên thế giới
chúng ta thấy các tác giả đã phân tích khá sâu sắc bản chất hai mặt của vốn xã hội.
Vốn xã hội không chỉ có tác dụng tích cực mà còn gây ra những hệ quả tiêu cực trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội từ kinh tế, giáo dục, đến xã hội công dân
[2].
1.1.2. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến
nhóm nghiên cứu và nhóm nghiên cứu mạnh
Các nhóm nghiên cứu (Scientific Working Group) được thành lập từ đầu
những năm 1990, khi Phòng thí nghiệm khoa học pháp y của Mỹ và quốc tế đã tập
hợp các nhà khoa học làm việc trong các nhóm nghiên cứu để cải thiện các nguyên
tắc thực hành và cùng xây dựng các tiêu chuẩn thống nhất [114]. Mỗi nhóm nghiên
cứu bao gồm các nhà khoa học làm việc trong các lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt, họ
vừa làm việc độc lập, vừa liên kết với nhau trên cơ sở là phần tử của một hệ thống
pháp y của Hoa Kỳ (The Organization of Scientific Area Committees for Forensic
Science - OSAC. OSAC được quản lý bởi Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia
Hoa Kỳ NIST). Mỗi nhóm nghiên cứu đều có website riêng với các nguồn tài
nguyên phong phú, các chương trình/dự án nghiên cứu được thực hiện, các kết quả
nghiên cứu và các thành tựu mà nhóm đạt được.
Có thể kể tới những nhóm nghiên cứu đầu tiên như: Scientific Working Group
on Materials Analysis (1996), Scientific Working Group for Fire and Explosive
Scenes (1998), Scientific Working Group for Forensic Document Examination
(1999), Scientific Working Group on Bloodstain Pattern Analysis (2002), Scientific
28
Working Group on Dogs and Orthogonal Detection Guidelines (2004), Scientific
Working Group on Gun Shot Residue (2007), Facial Identification Scientific
Working Group (thành lập năm 2009), Scientific Working Group for Geological
Materials (2011)… [114].
Nghiên cứu về tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển cũng như sự
cần thiết phải làm việc nhóm trong một nhóm nghiên cứu, các tác giả Beaver D và
Rosen R. (1979) đã khẳng định: Các nhóm nghiên cứu giúp gia tăng các hoạt động
nghiên cứu liên ngành, giảm chi phí nghiên cứu khi các nhà khoa học hợp tác
nghiên cứu với nhau, đồng thời góp phần hình thành mạng lưới khoa học rộng rãi,
chia sẻ kiến thức, chuyển giao công nghệ một cách nhanh chóng [60].
Theo nghiên cứu của Andrews F.M trên 10.000 nhà khoa học trong 1200 đơn
vị của 6 nước, các tiêu chí và hiệu quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu được
đánh giá thông qua các tham số chủ yếu như: số bài báo được công bố; số trích dẫn
các công trình công bố, số sách xuất bản, số sáng chế, sản phẩm, phần mềm sáng
tạo ra... Trong đó, số lượng bài báo và số trích dẫn được cho là những tiêu chí quan
trọng nhất đánh giá hiệu quả hoạt động của các nhóm nghiên cứu. Bên cạnh đó, các
tiêu chí khác cũng được quan tâm như: danh tiếng của nhóm, khả năng tài chính,
khả năng ứng dụng các thành tựu nghiên cứu trong thực tiễn... [59].
Nghiên cứu về các rào cản trong việc hình thành và phát triển nhóm nghiên
cứu trong các trường đại học, tác giả Main (2007) đã đưa ra những yếu tố tác động
đến nhóm nghiên cứu bao gồm: thái độ tích cực, việc tuyển chọn thành viên của
nhóm nghiên cứu, kinh nghiệm nghiên cứu của các thành viên nhóm nghiên cứu,
hoạt động đào tạo, hoạt động tự đánh giá và đánh giá trong nhóm, các kỹ năng thiết
lập mối quan hệ, quản trị xung đột. Main cũng nhấn mạnh, việc các thành viên trong
nhóm nghiên cứu nắm được các quy tắc hoạt động của nhóm, hiểu rõ mục tiêu, vai
trò của nhóm, cách giao tiếp và nghi thức khi họp nhóm là rất quan trọng đối với
nhóm nghiên cứu. Một yếu tố quan trọng không kém đối với sự phát triển và các
hoạt động của nhóm nghiên cứu, đó là sự ổn định của các thành viên trong nhóm
nghiên cứu [91].
29
Bland C.J. và Rufin M.T. cho rằng, có 12 yếu tố quan trọng có tác động trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu, bao gồm: 1) Mục tiêu rõ ràng; 2)
Tập trung cho nghiên cứu; 3) Sự tác động của các bộ phận hành chính; 4) Văn hóa
của tổ chức; 5) Môi trường tích cực của nhóm nghiên cứu; 6) Sự trao đổi thường
xuyên, tích cực với nhau trong nhóm nghiên cứu; 7) Cách thức tổ chức nghiên cứu;
8) Quy mô, độ tuổi và tính đa dạng của nhóm nghiên cứu; 9) Nguồn nhân lực; 10)
Quy mô, độ tuổi, tính đa dạng của nhóm nghiên cứu; 11) Sự lãnh đạo xuất sắc; 12)
Khả năng tuyển chọn được các thành viên xuất sắc trong nhóm nghiên cứu [61].
Trong cuốn sách “Constracts in scientific Style: Research Groups in the
Chemical and Biochemocal Researchs”, tác giả Joseph S. Fruton đã đề cập đến khái
niệm nhóm nghiên cứu như sau: nhóm nghiên cứu là một tập thể nghiên cứu định
hướng trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định tại một đơn vị đào tạo, đơn vị
nghiên cứu, được dẫn dắt bởi một nhà khoa học có uy tín khoa học đủ để có thể tiến
hành một chương trình nghiên cứu độc lập. Thông qua tương tác với lãnh đạo
chuyên môn của nhóm (trưởng nhóm) và với các thành viên khác, các thành viên
trong nhóm có cơ hội học hỏi các kỹ thuật thực nghiệm, nắm bắt kiến thức lý thuyết
và tham gia tích cực vào chương trình nghiên cứu của nhóm để tạo ra những thành
tựu khoa học mới, những ý tưởng mới, những sản phẩm KH&CN mới [87].
Còn trong cuốn “Handbook: Work Group Learning”, tác giả Valerie I. Sessa
đã đề cập đến khái niệm nhóm nghiên cứu mạnh. Trong đó, tác giả cho rằng, nhóm
nghiên cứu mạnh được hiểu theo nghĩa rộng là tập hợp các nhà khoa học hay các
trung tâm, phòng thí nghiệm liên kết với nhau trên một hay một số lĩnh vực nhằm
nghiên cứu và phát triển những hoạt động KH&CN ở trình độ cao trong những lĩnh
vực khoa học khác nhau. Các nhóm nghiên cứu sẽ đóng vai trò trung gian trong hệ
thống tổ chức trung tâm, viện, trường. Các nhóm sẽ liên kết các cá nhân lại với
nhau trong khoảng thời gian cố định và liên kết với nhau dưới dạng hệ thống hoàn
chỉnh. Nói cách khác, các nhóm nghiên cứu đóng vai trò là tổ chức nhỏ tập hợp các
cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và các trung tâm,
30
viện, trường là nơi tổ chức tập hợp các nhóm nghiên cứu lại theo hướng tương hỗ
hoặc song song với nhau [110].
Trong bài báo “Moderating focus groups: A practical guide for group
facilitation”, tác giả Thomas L.Greenbaun đề cập đến khái niệm nhóm nghiên cứu
mạnh như sau: nhóm nghiên cứu mạnh là một tập thể những người làm công tác
nghiên cứu có chuyên môn cao, do một nhà khoa học có uy tín (có có trình độ, năng
lực chuyên môn phù hợp) đứng đầu, tổ chức và điều phối hoạt động. Nhóm có hoạt
động hợp tác tích cực, năng động và hiệu quả. nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng các
phương tiện và phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm giải quyết một cách tập
trung, hoàn chỉnh một hay một số vấn đề hoặc chương trình, đề tài/dự án quan
trọng có qui mô đủ lớn trong một thời gian đủ dài theo định hướng nghiên cứu xác
định. Những kết quả nghiên cứu của nhóm là quan trọng, đột phá và nhất quán
trong các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản,, nghiên cứu ứng dụng và phát triển thực
nghiệm nhằm tạo ra những phát triển KH&CN [107].
Còn theo David L. Morgan - Porland State University, trong Focus Groups as
Qualitative Research - Second Edition - Sage Publications Inc thì cho rằng “nhóm
nghiên cứu mạnh là một nhóm nghiên cứu được hoạt động trên cơ sở kết hợp tự
nguyện những cá thể có năng lực nghiên cứu tốt. Thay vì các mối quan hệ trên cơ
sở uy tín là những quan hệ tương tác giữa các thành viên trong nhóm với sự điều
hành của người chủ trì đề tài. Dấu hiệu phân biệt của nhóm nghiên cứu mạnh là sự
trao đổi thảo luận để phát triển công tác nghiên cứu, điều này có thể ít được sử
dụng trong các nhóm nghiên cứu thông thường” [70].
Nghiên cứu nổi bật nhất về các nhân tố quan trọng trong việc xây dựng nhóm
nghiên cứu mạnh ở các trường đại học phải kể tới mô hình 7S của Mackinsey. Mô
hình 7S do Tom Peters và Robert Waterman, nhân viên của tổ chức tư vấn
McKinsey & Co phát triển từ những năm 70 của thế kỷ XX trên cơ sở nghiên cứu
các công ty hàng đầu tại Mỹ như: IBM, HP, Kodak, 3M, Procter & Gamble và v.v.
Năm 1982, hai nhà tư vấn đã xuất bản cuốn sách với tựa đề “In Search of Excellent”
trong đó nêu ra 7 nhân tố nội tại trong một tổ chức cần phải được tích hợp, dung
31
hòa để tổ chức đó hoạt động thành công [10, 106]. Đó là 3 nhân tố cứng: chiến lược,
cấu trúc, hệ thống và 4 nhân tố mềm (đội ngũ, kỹ năng, phong cách, giá trị chia sẻ).
Những nhân tố cứng thường dễ nhận ra và có thể được bộ phận quản lý gây ảnh
hưởng trực tiếp như: chiến lược, sơ đồ tổ chức và hệ thống báo cáo, hệ thống thông
tin và quy trình chính thống. Nhân tố mềm thường không dễ mô tả, vô hình, chúng
thay đổi và phát triển thường xuyên trong mỗi tổ chức - thông thường nó có tính
chất cảm xúc, bản năng, rất khó nắm bắt hay đo lường và không thể hiện thành văn
bản. Tuy vậy, những yếu tố mềm ít chịu tác động bên ngoài vì chúng phụ thuộc bởi
con người. Đây là những yếu tố ẩn nhưng gây ảnh hưởng không nhỏ tới nhóm yếu
tố cứng.
1.1.3. Các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài có liên quan đến
vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
Trên thế giới, các nghiên cứu về vốn xã hội có liên quan đến KH&CN không
nhiều, có thể kể đến một số nghiên cứu nổi bật như: “Vốn xã hội trong sự phát triển
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên KH&CN” của các tác giả Jukka
Partanen, Kristian Möller, Mika Westerlund, Risto Rajala, Arto Rajala [88] hay
“Vốn xã hội có ảnh hưởng thế nào tới hiệu quả công việc trong những công ty tốt?”
của Don Cohen và Laurence Prusak [71). Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy,
có nhiều bằng chứng về vai trò tích cực của vốn xã hội tới hiệu quả công việc tập
thể cũng như trong việc tiếp cận các nguồn lực và thiết lập, duy trì các mối quan hệ
kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, hiện còn rất ít thông tin về
cách thức mà một tổ chức sử dụng và phát triển vốn xã hội theo thời gian. Tập trung
vào khoảng trống này, nghiên cứu đã tìm hiểu về vai trò của vốn xã hội và các khía
cạnh cấu trúc, quan hệ và nhận thức của vốn xã hội trong sự phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên KH&CN. Trên cơ sở các nghiên cứu về vốn xã
hội, mạng lưới doanh nhân và tăng trưởng doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tác giả đã
xây dựng một khung khái niệm để mô tả sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thông qua bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn bao gồm các nhiệm vụ quản lý khác
nhau: đánh giá đổi mới, phát triển, thương mại hóa và tăng trưởng nhanh. Kết quả
32
nghiên cứu nhiều trường hợp theo chiều dọc của nghiên cứu cho thấy: (i) các loại
mạng lưới và mối quan hệ khác nhau rất quan trọng trong các giai đoạn chuyển tiếp
giữa các giai đoạn tăng trưởng của doanh nghiệp; (ii) vai trò của vốn xã hội và các
khía cạnh khác nhau của vốn xã hội trong việc phát triển, duy trì và sử dụng các mối
quan hệ đối tác và các mối quan hệ mạng lưới. Những phát hiện này cung cấp một
số ý nghĩa quan trọng cho công tác quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên
KH&CN.
Tương tự, các tác giả Cees J. Gelderman, JanjaapSemeijn, Patrique P.
Mertschuweit trong nghiên cứu “Tác động của vốn xã hội và sự không ổn định về
công nghệ đối với việc thực hiện chiến lược: Quan điểm của nhà cung cấp” [67] đã
cho rằng: Vốn xã hội là một tài sản quý giá cho các công ty bắt nguồn từ việc tiếp
cận các nguồn lực có sẵn thông qua các mối quan hệ giữa người mua và nhà cung
cấp. Nhiều nghiên cứu đã điều tra các tiền đề và tác động của các khía cạnh nhận
thức, quan hệ và cấu trúc của vốn xã hội trong một số biện pháp đo lường hiệu suất.
Nghiên cứu của các tác giả đã xem xét tác động của sự không ổn định về công nghệ
đối với mối quan hệ giữa các chiều cạnh của vốn xã hội và hiệu suất chiến lược của
các nhà cung cấp. Phân tích cho thấy các tác động tích cực, đáng kể của vốn xã hội
nhận thức, nhưng không thể xác nhận ảnh hưởng của các khía cạnh quan hệ và cấu
trúc. Phát hiện này cho thấy sự không ổn định về công nghệ có thể kích thích các
nhà cung cấp phát triển sản phẩm mới và thâm nhập thị trường mới.
Trong nghiên cứu về “Động lực của vốn xã hội trong các mạng lưới hợp tác
khoa học” [93], tác giả Mark R. Costa đã sử dụng phương pháp học máy để xác
định các mô hình trong quỹ đạo nghề nghiệp của các nhà khoa học trong một cộng
đồng nghiên cứu. Tác giả phát hiện ra rằng, các tương tác hợp tác thành công sẽ làm
tăng vốn xã hội của các nhà khoa học, có thêm các cơ hội hợp tác trong tương lai.
Những cơ hội hợp tác như vậy được coi là rất cần thiết cho sự phát triển liên tục của
các nhà khoa học cả về kỹ thuật và nguồn nhân lực. Việc tìm hiểu cách thức của các
mô hình hợp tác có thể dẫn đến các cơ hội hợp tác trong tương lai là mối quan tâm
chính sách quan trọng, đặc biệt đối với các lĩnh vực nghiên cứu được coi là lợi ích
33
quốc gia. Các kết quả của nghiên cứu này có ý nghĩa cả về lý thuyết và thực tiễn
trong lĩnh vực chính sách khoa học. Thông qua nghiên cứu, có thể hiểu được ai có
khả năng hoặc bao nhiêu người có khả năng thực hiện một số vai trò nhất định trong
việc tạo lập một cộng đồng cùng nhau hoặc việc tạo điều kiện hợp tác có vai trò
quan trọng đối với năng lực nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực cụ thể.
Nghiên cứu về “Vốn xã hội của tổ chức và cá nhân trong hiệu suất làm việc
của các nhà khoa học: Một nghiên cứu mạng lưới nhiều tầng lớp trong cộng đồng
các nhà nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực ung thư của Pháp (1996-1998)” [72], các
tác giả Emmanuel Lazega, Lise Mounier, Marie-thérèse Jourda, RafaËl Stoferd đã
chứng tỏ rằng, vốn xã hội của tổ chức quan trọng hơn và có hiệu quả hơn so với vốn
xã hội của cá nhân trong việc giải thích các biến thể hiệu suất của các nhà nghiên
cứu ung thư hàng đầu của Pháp. Hiệu suất được đo bằng chỉ số tác động của các tạp
chí mà các nhà nghiên cứu đã công bố kết quả khoa học.
Trong một nghiên cứu mới đây về “Hành vi hợp tác của các nhà khoa học
hàng đầu” [77], các tác giả Giovanni Abramo, Ciriaco Andrea D'Angelo, Flavia Di
Costa đã phân tích hành vi hợp tác của các cộng đồng khoa học hàng đầu của Ý ở
các cấp độ liên quốc gia, nội địa và nội bộ, so sánh các hành vi này với các đồng
nghiệp có hiệu quả làm việc kém hơn. Nghiên cứu được thực hiện trên 12.000 giáo
sư. Mục đích của nghiên cứu là cải thiện sự hiểu biết về mối quan hệ nhân quả giữa
hợp tác nghiên cứu và hiệu suất làm việc. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự gia
tăng mạnh mẽ về xu hướng hợp tác ở cấp độ nội địa. Tuy nhiên sự gia tăng này ở
nhóm các nhà khoa học hàng đầu lại ít hơn ở nhóm các nhà khoa học có hiệu suất
làm việc kém hơn. Ngược lại, sự gia tăng trong hành vi hợp tác quốc tế ở nhóm các
nhà khoa học hàng đầu là lớn hơn so với nhóm các nhà khoa học có hiệu suất làm
việc thấp hơn. Nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng, sự gia tăng năng suất của
những nhà khoa học có vị thế hàng đầu là do chỉ số ảnh hưởng của các ấn phẩm
khoa học lớn hơn do có sự hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác như [78, 81, 82, 86, 89, 94, 98,
102, 105] cũng chỉ nghiên cứu về những khía cạnh nhỏ của vốn xã hội và các lý
34
thuyết nói chung về xã hội học liên quan đến sự phát triển kinh tế, xã hội và khoa
học, chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
của các trường đại học.
1.2. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến chủ đề
luận án
1.2.1. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến
vốn xã hội
Theo Nguyễn Tuấn Anh, có thể chia các nghiên cứu về vốn xã hội trong nước
thành hai nhóm [1, 2]. Nhóm thứ nhất quan tâm đến việc tổng kết, giới thiệu lý
thuyết về vốn xã hội. Nhóm thứ hai tập trung vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong
các nghiên cứu thực tiễn.
Về hướng nghiên cứu thứ nhất, nổi bật nhất là Trần Hữu Dũng, với bài viết
“Vốn xã hội và kinh tế” [11]. Qua bài viết này Trần Hữu Dũng đã lược duyệt và
đánh giá một số quan niệm khác nhau về vốn xã hội. Tác giả đề cập đến các quan
điểm lý thuyết của Pierre Bourdieu, James Coleman, Robert Putnam, Francis
Fukuyama, Hernando de Soto. Ông cho rằng cần phải làm rõ hơn đặc điểm của vốn
xã hội trong mối quan hệ với các loại vốn khác. Trong một bài viết khác với tên gọi:
“Vốn xã hội và phát triển kinh tế” [12] tác giả này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa vốn
xã hội và phát triển kinh tế, vốn xã hội và chính sách kinh tế. Bằng cách điểm lại
các luận điểm đã có, Trần Hữu Dũng nhấn mạnh rằng vốn xã hội giúp tiết kiệm phí
giao dịch, nâng cao mức đầu tư. Ông cũng cho biết vốn xã hội có ảnh hưởng quan
trọng đến chất lượng và tốc độ tích lũy vốn con người.
Tiếp đến là Trần Hữu Quang với bài viết “Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội”
[44]. Trong bài viết này Trần Hữu Quang bàn về quan điểm vốn xã hội của nhiều
tác giả nước ngoài như Bourdieu, Putnam, Fukuyama, qua đó nhấn mạnh rằng “vốn
xã hội là một hiện thực đặc trưng của những mối dây liên kết giữa con người với
nhau trong một cộng đồng hay một xã hội”. Theo quan điểm của Trần Hữu Quang
thì cần bàn về vốn xã hội trong mối quan hệ với chuẩn mực, sự cố kết, và hợp tác.
Ông lưu ý đến việc phân tích vốn xã hội trong bối cảnh văn hóa-xã hội và các định
35
chế xã hội. Bàn về vốn xã hội còn có thêm các tác giả khác như Lê Ngọc Hùng,
Hoàng Bá Thịnh. Lê Ngọc Hùng [34] giới thiệu khái quát lí thuyết về vốn xã hội từ
tiếp cận kinh tế để bàn sâu về vốn xã hội và mạng lưới xã hội ở Việt Nam. Hoàng
Bá Thịnh tập trung phân tích quan niệm về vốn xã hội, mạng lưới xã hội và nhấn
mạnh đến chức năng của vốn xã hội. Đồng thời, tác giả này cũng bàn sâu về những
phí tổn để duy trì vốn xã hội và mạng lưới xã hội [51].
Về hướng nghiên cứu thứ hai, tức là hướng nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã
hội. Với hướng nghiên cứu này Stephen. J Appold và Nguyễn Quý Thanh đã chỉ ra
vai trò của vốn xã hội trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội. Các tác giả cho biết
vốn xã hội có vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp vay vốn để khởi nghiệp
[58]. Nghiên cứu “Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số
nghiên cứu ở Việt Nam” của Lê Ngọc Hùng [34] bàn về các quan niệm khác nhau
về vốn xã hội. Tác giả đề cập đến mô hình tổng hợp về vốn xã hội, vốn con người
và mạng lưới xã hội. Trên cơ sở đó, ông bàn thêm về kết quả của một số nghiên cứu
cụ thể trên các phương diện: mạng lưới xã hội của người lao động, mạng thông tin
của doanh nghiệp, mạng di cư, vai trò của các loại vốn trong xóa đói, giảm nghèo.
Cũng về hướng nghiên cứu thực nghiệm, Fleur Thomése và Nguyễn Tuấn Anh
đã vận dụng quan điểm vốn xã hội để nghiên cứu hiện tượng dồn điền đổi thửa
trong sản xuất nông nghiệp ở một làng Bắc Trung Bộ qua nghiên cứu “Quan hệ họ
hàng với việc dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở
một làng Bắc Trung Bộ (Thomése & Nguyễn Tuấn Anh, 2007) [52]. Các tác giả này
đã chứng minh rằng chính nhờ vào nguồn vốn xã hội nên các hộ nông dân có thể
tiến hành dồn thửa, đổi ruộng một cách phi chính thức mà không cần dựa trên giấy
tờ hay quan hệ mang tính chính thức và pháp lý. Đấy là một trong những yếu tố
quan trọng giúp quá trình sản xuất nông nghiệp được linh hoạt, hiệu quả hơn. Gần
đây, Nguyễn Tuấn Anh (2010) [98] có thêm kết quả nghiên cứu về vai trò của vốn
xã hội trong khu vực nông thôn Bắc Trung Bộ. Với nghiên cứu này tác giả đã làm
rõ sự biến đổi vai trò của vốn xã hội trong quan hệ họ hàng. Chẳng hạn người nông
dân đã sử dụng vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng để theo đuổi các lợi ích kinh
36
tế liên quan đến sản xuất nông nghiệp, nghề thủ công, và hoạt động tín dụng. Ngoài
ra, người viết cũng làm rõ vai trò của vốn xã hội trong quan hệ họ hàng đối với việc
tạo ra nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ trẻ em đến trường, tức là góp phần tạo ra vốn
con người [98].
Trong bài “Vốn xã hội và kinh tế”, Trần Hữu Dũng [11] đã trình bày sơ về ý
niệm “vốn xã hội”, khái niệm này xuất phát từ nhiều hướng (xã hội, kinh tế, chính
trị, giáo dục) song đại để là với nhận xét rằng (1) sự tin cẩn giữa những người cùng
một “cộng đồng” (không nhất thiết bao trùm toàn thể quốc gia), (2) sự họ tuân theo
thói lề, phong tục của cộng đồng ấy (không cần pháp luật cưỡng chế, hoặc vì hấp
lực của quyền lợi vật chất), và (3) nói chung là “mạng lưới” xã hội (có thể là những
hiệp hội, liên hệ gia tộc, vv), những “thứ đó” có ảnh hưởng thường là tốt đối với xã
hội nói rộng, thậm chí có những lợi ích kinh tế rõ rệt. Từ những nhận xét “chung
chung” (và khó phủ nhận) này, nhiều học giả đã gọi nguồn lực ấy là một thứ “vốn” -
“vốn xã hội”. Trước khi khai triển thêm về khái niệm này, cần nhận xét ngay rằng
không ít bàn tán về nó là xung quanh câu hỏi thật sự căn bản: tại sao gọi nguồn lực
này là “vốn”? Người biện hộ cho bản chất “vốn” của nguồn lực này đưa ra ba lí do
chính. Thứ nhất, nó giống những loại vốn (đã được công nhận) khác ở chỗ có thể
tích lũy từ các loại nguồn lực khác với mong mỏi sẽ có thêm thu hoạch (dù không
chắc) trong tương lai. Thứ hai, vốn xã hội có thể được sử dụng trong nhiều việc
khác nhau. Thứ ba, vốn xã hội có thể được chuyển thành những loại nguồn lực
khác, vốn khác. Cũng như những loại vốn khác ở chỗ có nhiều khác nhau song vẫn
là “vốn”, vốn xã hội (theo những người đề xuất ý niệm này) có vài dị biệt với những
loại vốn khác. Chẳng hạn, khác vốn tài chính (nhưng giống vốn vật thể và vốn con
người), vốn xã hội cần được nuôi dưỡng, bảo trì, để tiếp tục có ích. Nhưng cũng
không thể tiên đoán suất chiết cựu của vốn xã hội. Về đặc tính này, vốn xã hội
giống với vốn con người, nhưng khác với vốn vật thể. Căn bản hơn, không giống
mọi loại vốn khác, vốn xã hội là sản phẩm của tập thể, không chỉ của một cá nhân.
Nó tuỳ vào “lòng tốt” của kẻ khác, sự “có đi - có lại” của nhiều người, và lợi ích của
nó cũng là của chung. Dùng thuật ngữ kinh tế, có thể nói vốn xã hội là một loại
37
hàng hoá công. Không một ai có thể độc quyền “sở hữu” mạng lưới xã hội, ngăn
chặn lợi ích đến người khác. Song, ngược lại, chỉ một vài cá nhân thôi cũng đủ làm
đổ vỡ vốn xã hội mà tập thể đã dày công xây dựng [12].
Một số nghiên cứu cụ thể:
Phan Đình Diệu (2006) [9], khi nghiên cứu về làm giàu vốn xã hội đã cho rằng
có những lý do sau đây có thể giải thích ý nghĩa quan trọng của vốn xã hội đối với
sự phát triển kinh tế và xã hội:
- Thứ nhất, vốn xã hội cho phép người dân giải quyết các bài toán tập thể một
cách dễ dàng hơn. Con người thường cảm thấy mình mạnh và khỏe hơn khi có sự
hợp tác với những người mà mình chia sẻ;
- Thứ hai, vốn xã hội có tác dụng bôi dầu cho các bánh xe tiến lên của cộng
đồng vận hành một cách trơn tru hơn. Ở đâu mà con người tin cậy và tín nhiệm
nhau, và những tương tác thân thiện được lặp đi lặp lại, thì công việc kinh doanh
hàng ngày và các giao dịch xã hội cũng được thuận tiện hơn;
- Thứ ba, vốn xã hội giúp con người mở rộng tầm hiểu biết về nhiều con
đường có thể có liên kết với số phận của mình, do đó có khả năng giúp cải thiện
cuộc sống của mình. Một con người có nhiều mối quan hệ tích cực và tin cậy với
nhiều người khác sẽ dễ phát triển và gìn giữ những ấn tượng tốt đẹp về phần còn lại
của xã hội, dễ trở thành ôn hòa hơn, ít thô bạo hơn, dễ thông cảm hơn với những bất
hạnh của người khác. Thiếu những cơ hội đó, con người dễ bị tổn thương hơn trước
những tác động xấu. Tóm lại, các mạng lưới liên kết tạo nên nguồn vốn xã hội có
tác dụng truyền đưa các dòng thông tin hữu ích giúp con người nhanh chóng hơn
trong việc đạt đến các mục tiêu cuộc sống của mình.
Mạng lưới liên kết tạo nên vốn xã hội trong một quốc gia bao gồm tất cả các tổ
chức, các nhóm, hội liên kết các thành viên cá nhân trong những mối liên hệ hết sức
đa dạng trong xã hội, từ các câu lạc bộ thể thao, các nhóm bạn văn thơ, các hội đoàn
nghệ thuật, các tổ chức nghề nghiệp,... cho đến các tổ chức tôn giáo, chính trị, văn
hóa, các thành phần này luôn biến đổi theo thời gian và ở những địa bàn địa lý khác
nhau. Theo cách hiểu đó, một đại lượng chung như là tổng số tính theo các nhóm,
38
hội, trong mỗi nhóm, hội có tính đến số lượng các thành viên, một hệ số liên kết đặc
trưng cho “chất lượng liên kết” và một “bán kính tín nhiệm” đặc trưng cho độ rộng
hẹp của từng nhóm, hội, hy vọng góp phần vào việc đo lường định lượng các vốn xã
hội, nhưng rồi ý đồ nghiên cứu định lượng này về vốn xã hội cũng chưa tiến xa
được bao nhiêu. Vì vậy cho đến nay ta đành tạm gác lại ý đồ đó và bằng lòng với
một số các khảo sát định tính về vốn xã hội mà thôi. Ta nhận thấy rằng không phải
mối liên kết nào trong các tổ chức cũng mang lại giá trị tích cực cho vốn xã hội
ngang nhau, có những mối liên kết đóng góp giá trị lớn cho vốn xã hội, nhưng cũng
có những mối liên kết mang đến giá trị bé, thậm chí giá trị âm, như mối liên kết của
các tổ chức tội phạm, mafia chẳng hạn. Nói chung, xã hội càng phát triển thì càng
có môi trường cho vốn xã hội tăng trưởng, nhưng đó cũng không hẳn là qui luật.
Chẳng hạn, công nghệ thông tin và truyền thông cùng với Internet càng phát triển,
con người càng có điều kiện thu hẹp mọi hoạt động giao dịch, giải trí,... của mình
bên chiếc máy vi tính cá nhân, thì càng có nguy cơ giảm bớt các liên kết xã hội, và
do đó góp phần làm cho vốn xã hội suy giảm.
Trong các mối liên kết trong xã hội, có những liên kết dọc và những liên kết
ngang, liên kết dọc thường nẩy sinh trong các quan hệ từ trên xuống dưới, đặc biệt
là các quan hệ thứ bậc trong trật tự tổ chức hành chính, các quan hệ giữa nhà nước
và công dân.
Liên kết ngang thường là liên kết tự nguyện và bình đẳng giữa những cá nhân
không có quan hệ tùy thuộc, trên dưới, không bị ràng buộc bởi một thứ thể chế nào
cả. Xét theo quan điểm vốn xã hội, thì loại liên kết dọc ít có đóng góp mới, ít tạo
thêm giá trị mới cho các hoạt động kinh tế và xã hội, và do đó phần đóng góp vào
vốn xã hội không lớn.
Loại liên kết thứ hai - liên kết ngang - vốn rất phong phú, đa dạng, đi vào
nhiều ngõ ngách tinh tế và bất ngờ của cuộc sống con người và xã hội, cho nên rất
có nhiều khả năng đóng góp những ý tưởng, những lý giải phi hình thức, phi chính
thống cho việc tìm kiếm những giải pháp thiết thực, có hiệu quả cho những bài toán
phức tạp của cuộc sống muôn mặt muôn vẻ khó lường trước được. Loại liên kết
39
ngang này chủ yếu là các liên kết trong các tổ chức của xã hội dân sự, một mảng
rộng lớn và quan trọng của tổ chức đời sống xã hội, độc lập với và bổ khuyết cho
Nhà nước pháp quyền trong một chế độ xã hội dân chủ. Như vậy, nguồn vốn xã hội
chỉ có thể được phát triển, phong phú thêm và tăng trưởng nhanh trong điều kiện xã
hội dân sự được phát triển, và điều đó lại dẫn đến điều kiện nền dân chủ xã hội được
phát huy đầy đủ tác dụng của nó.
Nền kinh tế nói riêng, và đất nước ta nói chung, đang đứng trước những triển
vọng và thách thức của một giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi chúng ta phải biết huy
động và phát huy mọi nguồn lực đã hiện hữu cũng như đang tiềm tàng của đất nước.
Về nguồn vốn vật chất, hay vốn tài chính, nhiều ít bao nhiêu, cần và có thể huy
động từ đâu, thì chắc ta đã có nhiều kinh nghiệm để khai thác và quản lý; có thể ở
đây điều ta cần là phải có các giải pháp phân phối và sử dụng có hiệu quả hơn, tránh
được các mất mát do các tệ nạn tham nhũng lãng phí gây nên đang là một vấn đề
nhức nhối của xã hội. Từ mấy năm nay ta đã nhìn thấy các nhược điểm trong nguồn
vốn con người của ta, đã và đang cố tìm nhiều giải pháp để phát triển và nâng cao
cả số lượng và chất lượng của nguồn vốn đó. Các giải pháp cải cách giáo dục và đào
tạo nói chung, nâng cao chất lượng giáo dục đại học nói riêng, hiện đang được bàn
thảo ráo riết, và ta hy vọng là sẽ sớm được thực hiện để góp phần cải thiện nguồn
vốn con người của nước ta, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại. Cùng với vốn
con người là vốn xã hội. Có thể đây là một nguồn vốn mà lâu nay ta chưa quan tâm
đến nhiều, có nhiều tiềm năng nhưng chưa được khai thác, phát huy, và phải chăng
đã đến lúc ta cần “đánh thức” nó dậy để nó cùng góp phần tích cực vào sự phát triển
chung của nền kinh tế và xã hội nước ta [9].
Về “Vốn xã hội từ một số cách tiếp cận nghiên cứu trên thế giới” có nghiên
cứu của Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Bùi Thị Phương đăng trên Tạp chí Khoa học xã
hội Việt Nam, số 4 (77) [55]. Bài viết này đã phân tích:
- Vốn xã hội từ góc độ tiếp cận lối sống nông thôn và thành thị. Trong tác
phẩm “Trung tâm cộng đồng học tập nông thôn” (The rural school community
center), Lyda Judson Hanifan (1879 - 1932) bàn đến vấn đề quan hệ xã hội trong
40
các trường học ở vùng nông thôn Bắc Mỹ. Ông cho rằng, “vốn xã hội ở đây không
phải là tài sản đất đai, tài sản cá nhân hay tiền mặt mà là những giá trị hiện thực
trong đời sống có tác động lên hầu hết cuộc sống hằng ngày của con người như sự
thiện ý, tình đoàn kết, sự đồng cảm, trao đổi xã hội trong một nhóm người hoặc gia
đình - những đơn vị xã hội chính của cộng đồng nông thôn”. Theo ông, các cá nhân
sẽ không có ích nếu chỉ quan tâm đến bản thân mình, do vậy họ cần phải quan tâm
đến lợi ích của người xung quanh. Một cá nhân có tích lũy cho mình vốn xã hội khi
gia nhập các tương tác với hàng xóm, bạn bè. Loại vốn này ngay lập tức có thể đáp
ứng nhu cầu xã hội của chính họ. Đóng góp chính của Hanifan về vốn xã hội là đã
phân biệt nó với các loại vốn kinh tế. Từ một chiều cạnh khác, Jane Jacobs (1916 -
2006) đã áp dụng ý niệm về vốn xã hội vào nghiên cứu trong môi trường sống đặc
thù của xã hội thành thị. Jacobs cho rằng, thành phố như là một môi trường sống tự
nhiên của con người và các cá nhân tập trung với nhau ở một mức độ nhất định nào
đó đủ để tiến hành các hoạt động phát triển thương mại, văn hóa, cộng đồng. Học
giả này nhấn mạnh sự cần thiết của sự bảo vệ xã hội hay cơ chế hỗ trợ xã hội mà bà
gọi là “vốn xã hội” của thành phố. Bà cho rằng, vốn xã hội “là một hệ thống phức
tạp các mối quan hệ con người được xây dựng theo thời gian, có chức năng hỗ trợ
lẫn nhau trong thời gian cần thiết, đảm bảo sự an toàn của các đường phố, và nuôi
dưỡng một ý thức trách nhiệm công dân.
- Vốn xã hội từ góc độ tiếp cận mạng lưới xã hội. Năm 1995, nhà chính trị học
người Mỹ Robert Putnam xuất bản một bài nghiên cứu ngắn gọn song có nhiều phát
hiện mới và quan trọng về sự giảm sút rõ rệt mức độ tham gia vào các sinh hoạt tập
thể của người Mỹ. Trong tác phẩm “Chơi bowling một mình: sự sụp đổ và sự trỗi dậy
của cộng đồng người Mỹ” (Bowling Alone. The collapse and revival of American
community) Putnam đưa ra những dữ kiện thống kê và cho rằng, dân Mỹ ngày càng
thích các hoạt động riêng lẻ thay vì cùng nhóm; ít tham gia vào các hoạt động công
dân; ít tham gia vào các hoạt động tôn giáo; ít đóng góp cho các tổ chức từ thiện và
dành ít thì giờ giao thiệp xã hội. Ông cũng đưa ra nhiều lý giải liên quan đến “sự
xuống dốc của cộng đồng tính này”. Ông sử dụng cụm từ “vốn xã hội” gắn với những
41
mạng lưới xã hội và những quan hệ có đi - có lại trong xã hội, những quy tắc cho
phép cá nhân, tập thể giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng. Theo Putnam thì
những phương tiện truyền thông hiện đại và công nghệ đã khiến con người trong xã
hội hiện đại không còn “đầu tư” vào “vốn xã hội” thông qua các sinh hoạt cộng đồng,
những sinh hoạt luôn cần thiết cho sự tin tưởng và tương trợ nhau trong xã hội. Từ đó
ông bày tỏ quan ngại về sự suy giảm “vốn xã hội” sẽ làm lung lay các thể chế dân
chủ, khiến cho học đường kém hữu hiệu và thiếu đi nguồn sống cho các hoạt động
cộng đồng. Putnam cũng gắn những ý niệm về vốn xã hội của mình với vấn đề “đạo
đức công dân”, theo đó, đạo đức công dân sẽ trở nên mạnh mẽ nhất khi được gắn vào
một mạng lưới của các mối quan hệ liên chủ thể. Giới nghiên cứu cho rằng cách tiếp
cận về vốn xã hội của Putnam cũng chịu ảnh hưởng nhóm lý thuyết về vai trò.
- Vốn xã hội từ góc độ tiếp cận nguồn lực. Nhà xã hội học và triết học người
Pháp P Bourdieu được xem là đại diện tiêu biểu nhất trong quan niệm coi vốn xã
hội là một dạng nguồn lực. Bourdieu (1986) phân biệt ba loại vốn: kinh tế, văn hóa
và xã hội. Ý tưởng cơ bản của Bourdieu liên quan tới cái mà ông gọi là “habitus”,
có thể được hiểu như một sự hòa quyện giữa các nguồn lực và chính nó là yếu tố
quyết định khả năng thành đạt của từng cá nhân. Vốn xã hội theo lập luận của
Bourdieu là toàn bộ nguồn lực (thực tế hoặc tiềm ẩn) xuất phát từ mạng lưới quen
biết trực tiếp hay gián tiếp. Trong đa số trường hợp mạng lưới này đã có từ lâu và
đã được thể chế hóa phần nào. Những cá nhân, gia đình hay tập thể nào có càng
nhiều các quan hệ móc nối thì nắm giữ càng nhiều ưu thế. Ông viết: “Vốn xã hội là
một thuộc tính của mỗi cá nhân trong bối cảnh xã hội. Bất cứ ai cũng có thể thu
thập một sốn vốn xã hội nếu người đó nỗ lực và chú tâm làm việc ấy, và hơn nữa
bất cứ ai cũng có thể dùng vốn xã hội để đem lại những lợi ích kinh tế thông
thường. Song khả năng thực hiện điều ấy tùy thuộc vào những trách nhiệm xã hội
(Social Obligation), móc nối (connection) và mạng lưới xã hội của người ấy”.
Bourdieu còn nổi tiếng với việc kịch liệt chỉ trích thuyết “vốn con người”. Theo
ông, khi phân tích mối liên hệ giữa trình độ học vấn và mức độ đầu tư học hành,
những người theo thuyết vốn con người đã không thấy rằng chính khả năng hoặc tài
42
cán là sản phẩm của một sự đầu tư thời giờ và vốn xã hội. Lấy chênh lệch về thành
công học vấn làm ví dụ, Bourdieu cho rằng theo lối giải thích thông thường người
này thành công hơn người kia chỉ vì thông minh hơn, siêng năng đèn sách hơn, nói
cách khác là do tài năng bẩm sinh và vốn con người. Bourdieu khẳng định, khi đánh
giá sự thành công như thế các nhà kinh tế đã phạm một sai lầm là chỉ dùng đồng
tiền làm thước đo lợi ích và phí tổn. Dưới cách nhìn của Bourdieu, những nhà kinh
tế học như Becker đã không thấy rằng mỗi người có cơ may thu nhập khác nhau,
trong những thị trường khác nhau, tùy thuộc vào mức độ và thành phần của tất cả
những gì họ sở hữu, trong đó liên hệ xã hội là phần chính và không thể giải thích sự
chênh lệch trong mức độ đầu tư “vốn con người” nếu không xét đến những yếu tố
này.
- Vốn xã hội từ góc độ tiếp cận vốn con người. Năm 1988, nhà xã hội học
người Mỹ James Coleman có bài viết thu hút nhiều sự chú ý về vốn xã hội. Ngay
tựa bài đã cho thấy sự đối nghịch với Bourdieu (thời điểm đó Coleman chưa biết về
Bourdieu). Coleman chấp nhận vốn con người là quan trọng và coi vốn xã hội luôn
luôn có ích vì nó đóng góp vào sự hình thành của vốn con người. Coleman phân
biệt ba loại vốn: vốn vật thể là kết quả của những biến đổi vật thể tạo thành công cụ
sản xuất, vốn con người là kết quả những biến đổi trong con người cấu thành tài
nghệ và khảnăng thao tác, và vốn xã hội. Theo ông, "vốn xã hội" có ba đặc tính:
Thứ nhất, nó tùy thuộc vào mức độ tin cậy nhau của con người trong xã hội, nói
cách khác, nó tùy thuộc vào nghĩa vụ mà mỗi người tự ý thức, và kỳ vọng của người
này ở người khác. Thứ hai, nó có giá trị gói ghém các liên hệ xã hội, các liên hệ này
mang đặc tính của kênh truyền thông. Chẳng hạn, qua tiếp xúc với hàng xóm, bạn
bè, mỗi người có thể thu thập nhiều thông tin hữu ích cho cuộc sống, thay thế phần
nào những thông tin trong sách báo, truyền thanh, truyền hình. Thứ ba, vốn xã hội
càng lớn khi xã hội càng có nhiều quy tắc, nhất là những quy tắc có kèm trừng phạt.
Ðặc biệt, Coleman phân biệt vốn xã hội trong gia đình và vốn xã hội trong cộng
đồng. Trong mỗi gia đình, con cái có thể lĩnh hội vốn tài chính, vốn con người, và
vốn xã hội trong gia đình. Vốn tài chính là do của cải và thu nhập gia đình. Vốn con
43
người là phản ảnh trình độ văn hoá của cha mẹ, cho con cái một không khí tri thức
kích thích óc tò mò, ham hiểu biết. Vốn xã hội (trong gia đình) thì khác, nó tùy
thuộc vào mức quan tâm, thời giờ mà cha mẹ dành cho con cái trong những sinh
hoạt trí tuệ. Một gia đình dù giàu có (vốn tài chính sung túc), cha mẹ có học vấn cao
(vốn con người nhiều), nhưng nếu thờ ơ với con cái (vì quá bận mưu sinh chẳng
hạn) thì sẽ nghèo vốn xã hội trong gia đình. Nói tóm lại, vốn xã hội trong gia đình
tùy thuộc vào sự có mặt của phụ huynh, và sự quan tâm của họ đến con cái. Bằng
những phân tích về giáo dục, Coleman cho thấy vốn xã hội trong cộng đồng cũng
ảnh hưởng quan trọng với sự phát triển của cá nhân. Vốn này ẩn chứa trong liên lạc
xã hội giữa các phụ huynh, giữa phụ huynh và các thể chế cộng đồng. Ví dụ, nếu
cha mẹ học sinh không biết nhau, hoặc nếu gia đình các em thường thay đổi chỗ ở,
thì họ sẽ khó giúp nhau theo dõi sự học hành, sinh hoạt của con em, và vốn xã hội
vì thế sẽ yếu đi. Coleman còn so sánh vốn xã hội và hai loại vốn kia (vật thể và con
người). Ông cho rằng, cả ba giống nhau ở chỗ (a) đều cần thiết cho sản xuất, (b)
không phải luôn luôn dễ thuyên chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, mà
có thể chỉ chuyên biệt ở một hoạt động nhất định, (c) mỗi loại có thể hữu ích cho
hoạt động này, có hại cho hoạt động khác. Song, vốn xã hội cũng có nhiều dị biệt so
với hai loại vốn kia. Một là, nó hình thành qua những thay đổi trong liên hệ giữa
người và người. Hai là, vốn vật thể thì có thể hoàn toàn hữu hình bởi nó nằm trong
những hình thức vật thể trước mắt; vốn con người thì khó thấy hơn, vì nó ẩn chứa
trong kỹ năng và tri thức của cá nhân; vốn xã hội thì khó thấy nhất, bởi nó tiềm tàng
trong liên hệ giữa con người.
Ngoài các cách tiếp cận vừa nêu có thể tìm thấy một số cách tiếp cận khác về
vốn xã hội, được tóm tắt như sau: Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau và dựa
trên các kết quả nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực về vốn xã hội, song các tác giả đều
gặp nhau ở những điểm sau đây: (1) vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan
hệ xã hội; (2) vốn xã hội là nguồn lực cần thiết cho các loại hoạt động nhất là lao
động sản xuất; (3) vốn xã hội được tạo ra thông qua việc đầu tư vào thiết lập, duy
trì, củng cố, phát triển các quan hệ xã hội, hoặc mạng lưới xã hội, và các cá nhân có
44
thể sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm hoặc tăng cường những lợi ích nhất định; (4)
bao gồm sự tin cậy và quan hệ qua lại [26, 55].
1.2.2. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến
nhóm nghiên cứu và nhóm nghiên cứu mạnh
Trong các bài báo về nhóm nghiên cứu, tác giả Trương Quang Học [27-32] đã
đề cập đến vai trò đặc biệt quan trọng của nhóm nghiên cứu trong việc nâng cao
chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, đồng thời nhấn mạnh 6 yếu tố quan
trọng của một nhóm nghiên cứu, đó là: a) Có người đứng đầu, có trình độ khoa học,
năng lực tổ chức và nhiệt huyết trong khoa học. Tác giả cho rằng đây là yếu tố quan
trọng nhất; b) Có định hướng khoa học đúng, phù hợp với xu hướng quốc tế và
phục vụ thiết thực cho sự phát triển của Việt Nam; c) Có điều kiện nghiên cứu phù
hợp gồm trang thiết bị (và điều kiện để vận hành) và nguồn thông tin, tư liệu đầy
đủ, cập nhật; d) Tập hợp được đội ngũ cán bộ có nhiệt huyết và hoài bão khoa học,
nhất là các cán bộ khoa học trẻ, các thực tập sinh sau tiến sĩ và nhất là NCS, học
viên cao học, sinh viên làm khóa luận; Xây dựng và phát huy năng lực của tập thể,
tạo sự đoàn kết, nhất trí cao trong mọi hoạt động; e) Kiên trì theo đuổi hướng
chuyên môn đã lựa chọn, quyết tâm vượt qua các khó khăn về điều kiện làm việc,
thậm chí sức ép về mặt xã hội để đạt được mục tiêu khoa học của mình. Các kết quả
khoa học được tích lũy, phát triển và được công bố rộng rãi trên các tạp chí trong
nước và quốc tế; f) Có quan hệ hợp tác tốt (hợp tác trong nội bộ, với các cơ quan
ngoài và đặc biệt là hợp tác quốc tế). Đây cũng là quan điểm của GS.TSKH
Nguyễn Đình Đức, được nêu trong bài viết “Phát triển nhóm nghiên cứu trong
trường đại học - Xu thế tất yếu” [21]. Theo tác giả, để hình thanh và phát triển
nhóm nghiên cứu cần 6 yếu tố sau:
Một là, muốn xây dựng được những nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại
học, trước hết phải bắt đầu từ tâm huyết của những nhà khoa học có năng lực và
trình độ, có uy tín, giữ vai trò trưởng nhóm. Trưởng nhóm phải tập hợp được đội ngũ,
xác định được hướng đi và hướng phát triển cho nhóm. Trưởng nhóm chính là con
chim đầu đàn dẫn dắt cả nhóm đi theo. Như vậy, hoạt động của nhóm có thành công
45
hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào người trưởng nhóm. Trưởng nhóm nghiên cứu
thường là nhà khoa học tài năng, có năng lực nghiên cứu, có tư duy sáng tạo, nhạy
bén trong khoa học và lại càng thuận lợi khi có uy tín cao cả ở trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, trưởng nhóm phải là người tâm huyết và có năng lực tổ chức, biết hy
sinh, có khả năng ngoại ngữ và tổ chức làm việc của nhóm một cách phù hợp và khoa
học.
Hai là, lãnh đạo trường đại học phải có tầm nhìn và chính sách thỏa đáng đầu
tư cho nhóm nghiên cứu. Nếu có nhà khoa học đầu ngành mà không có đầu tư sẽ
không thể có nhóm nghiên cứu mạnh. Mặt khác, không phải bỗng chốc có nhà khoa
học đầu ngành, mà các nhà khoa học phải được quy hoạch, được đào tạo và bồi
dưỡng, phải có thời gian để trưởng thành, phải kịp thời phát hiện những nhân tố
mới, những nhà khoa học trẻ và nhóm nghiên cứu tiềm năng để quan tâm bồi dưỡng
và đầu tư.
Ba là, phải tập hợp được những cán bộ có năng lực nghiên cứu tốt trong nhóm
nghiên cứu, thu hút được NCS. Ở đây, xin đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan
trọng của các NCS trong việc phát triển các nhóm nghiên cứu. Nếu có sự hỗ trợ
kinh phí, nhiều nhóm nghiên cứu của Đại học Quốc gia Hà Nội hoàn toàn có thể
tiếp nhận các nhà khoa học, các NCS và thực tập sinh người nước ngoài đến làm
việc, khi đó hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên cứu còn tốt hơn nữa.
Bốn là, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu mạnh là sự đầu tư trúng, đúng và
hiệu quả trong các trường đại học. Trong bối cảnh cần đẩy nhanh các công bố quốc
tế cũng như tăng nhanh các sáng chế, sản phẩm KH&CN trong trường đại học, thì
việc quan tâm đầu tư bổ sung nhân lực, cơ sở vật chất, các trang thiết bị hiện đại và
điều kiện làm việc cho các nhóm nghiên cứu mạnh là nhân tố có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng để thúc đẩy sự thành công của hoạt động KH&CN cũng như nâng cao
chất lượng đào tạo của nhà trường.
Năm là, phải có thiết lập và xây dựng được những mối quan hệ hợp tác mạnh
(trong và ngoài nước). Vì chỉ có phát huy tốt các quan hệ hợp tác với các nhà khoa
học có uy tín trong và ngoài nước, các nhóm nghiên cứu mới có thể phát huy được
46
thế mạnh của các nghiên cứu liên ngành, mau chóng hội nhập và tiếp cận trình độ,
chuẩn mực quốc tế.
Sáu là, phải xác định và hình thành được hướng nghiên cứu hiện đại, có tầm
ảnh hưởng trong khoa học sẽ là tiềm năng phát triển tốt cho nhóm nghiên cứu. Kinh
nghiệm cho thấy, chọn hướng đi đúng để tập hợp và xây dựng nhóm nghiên cứu có
vai trò quan trọng để phát triển một nhóm nghiên cứu mạnh. Bên cạnh đó, nhóm
nghiên cứu mạnh phải có định hướng nghiên cứu riêng độc đáo, xuất phát từ những
tư tưởng và hệ tiên đề mới, cách tiếp cận mới, đặc sắc của riêng mình. Có như vậy,
nhóm nghiên cứu mới khẳng định được trong cộng động khoa học và phát triển bền
vững.
Trong bài báo “Xây dựng nhóm nghiên cứu: Kinh nghiệm quốc tế” (2015)
[32], Trương Quang Học đã đề cập đến khái niệm nhóm nghiên cứu mạnh/xuất sắc,
đó là nhóm có các thành viên xuất sắc, điều kiện làm việc đầy đủ và những kết quả
nghiên cứu có ý nghĩa khoa học/phục vụ thực tiễn lớn, được quốc tế thừa nhận hay
nhóm nghiên cứu đặc biệt là những nhóm được thành lập tạm thời, gồm các chuyên
gia khác nhau để giải quyết một vấn đề, một nhiệm vụ đặc biệt/đột xuất cấp thiết
trong một thời gian ngắn, đồng thời tác giả cũng giới thiệu cơ chế phát triển và tổ
hợp của các nhóm nghiên cứu theo cấu trúc “Cây tre trăm đốt”, một trong những cơ
chế mà theo tác giả sẽ đem lại hiệu quả bền vững cho nhóm nghiên cứu ở các
trường đại học.
Trong bài báo “nhóm nghiên cứu mạnh vừa là phương thức vừa là mục tiêu để
phát triển đại học nghiên cứu” (2014) [23], tác giả Nguyễn Hữu Đức đã đề cập đến
tầm quan trọng của nhóm nghiên cứu đối với việc nâng cao chất lượng các hoạt động
đào tạo và nghiên cứu khoa học và là giải pháp đem lại các kết quả khoa hoa học đỉnh
cao và sản phẩm công nghệ đột phá với bằng sở hữu trí tuệ, các giải thưởng KH&CN
cấp quốc gia, các bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí khoa học danh tiếng, các công
trình chuyên khảo có uy tín và các giải pháp đầu tư chính sách cho các cơ quan
hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.
47
Trong bài báo “Năng lực nghiên cứu là yếu tố quan trọng” [57], tác giả Phạm
Hùng Việt đã đúc rút một số kinh nghiệm, xuất phát từ thực tiễn xây dựng và phát
triển nhóm nghiên cứu của mình, tác giả cho rằng việc tiếp cận các quỹ đầu tư của
nước ngoài là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển nhóm nghiên cứu.
Kinh nghiệm của tác giả cho thấy, để tiếp cận các quỹ tài trợ quốc tế, nhóm nghiên
cứu của ông đã thông qua các mối quan hệ liên kết, hợp tác với các tổ chức, viện
nghiên cứu, nhóm nghiên cứu quốc tế. Chính việc thông qua những đối tác nghiên
cứu có uy tín, nhóm nghiên cứu của tác giả đã nhanh chóng tiếp cận được với các
quỹ tài trợ nước ngoài, đặc biệt là quỹ thuộc các quốc gia sở tại của các đối tác đó.
Nhờ vậy, nhóm nghiên cứu của tác giả đã có được những nguồn kinh phí lớn, có
khả năng đảm bảo việc thực hiện các dự án nghiên cứu mang tính chất thực nghiệm
dài hơi.
Đồng thời, theo tác giả, để duy trì được mối quan hệ hợp tác lâu dài với các
đối tác quốc tế cũng như các quỹ tài trợ quốc tế, nhóm của GS phải chứng tỏ được
năng lực nghiên cứu của mình cũng như minh bạch hóa quá trình sử dụng kinh phí
đầu tư cho dự án [57, 58].
1.2.3. Các công trình khoa học đã công bố ở trong nước có liên quan đến
vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
Tuy ở trong nước chưa có nghiên cứu nào về vốn xã hội trong lĩnh vực
KH&CN, nhưng từ năm 2007, tác giả Nguyễn Quang Tuấn [54] đã lưu ý đến triển
vọng của vốn xã hội cho phát triển KH&CN ở Việt Nam, cụ thể là trong việc đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp. Theo tác giả, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
lợi thế so sánh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào lượng tài nguyên mà
doanh nghiệp đó sở hữu, mà còn phụ thuộc vào các mạng lưới và mối quan hệ tay
đôi mà doanh nghiệp có được. Nói cách khác, một phần lợi thế so sánh là do vốn xã
hội mà doanh nghiệp đó sở hữu. Mạng lưới doanh nghiệp - khách hàng cũng như
chất lượng của mối quan hệ doanh nghiệp - khách hàng chính là vốn xã hội của
doanh nghiệp. Kiến thức nhận được từ mối quan hệ doanh nghiệp - khách hàng có
vai trò trọng yếu trong việc phát triển công nghệ tạo ra sự khác biệt đối với các đối
48
thủ cạnh tranh. Việc tiếp nhận và khai thác kiến thức là những quá trình mang nặng
tính xã hội, vì vậy vốn xã hội có thể đóng vai trò trọng yếu trong thành công của các
doanh nghiệp. Vốn xã hội thúc đẩy việc tiếp nhận và khai thác kiến thức bằng cách
tác động lên các điều kiện cần thiết để tạo ra các giá trị trao đổi và kết hợp các tài
sản trí tuệ. Vốn xã hội có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới công nghệ
của các doanh nghiệp.
Còn tác giả Vũ Cao Đàm [19] thì cho rằng, vốn xã hội trong KH&CN chính là
mạng liên kết bền vững giữa các nhà nghiên cứu, sự tin cậy trong hoạt động
KH&CN, các chuẩn mực đạo đức của cộng đồng KH&CN, các thang giá trị của
KH&CN trong xã hội, các quan hệ hợp tác trong hoạt động KH&CN.
Các kết quả nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Thị Kim
Hoa, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Thị Như Trang, Trịnh Văn Tùng, Nguyễn Thị Thu
Hà, Hoàng Thu Hương, Nguyễn Thị Tuyết Nga, Mai Linh [38] thông qua đề tài
nghiên cứu: “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (đề tài KX.03.09/11-15, Chương
trình Khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ) đã
cung cấp thêm những quan điểm lý thuyết về vốn xã hội trong nghiên cứu nguồn
nhân lực cũng như thực trạng của việc tạo dựng, duy trì vốn xã hội của đội ngũ nhân
lực trẻ trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước.
Trong bài viết: “Vốn xã hội trong KH&CN và những yếu tố cấu thành” [24],
tác giả Nguyễn Thị Hương Giang đã sơ bộ đề cập tới những yếu tố cơ bản làm nên
vốn xã hội trong KH&CN nói chung, đó chính là mạng lưới quan hệ xã hội, chuẩn
mực, niềm tin, sự tương tác trong KH&CN.
1.3. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố
1.3.1. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố về vốn xã hội
Các công trình khoa học ở nước ngoài đã công bố về vốn xã hội (social capital)
đã khái quát được định nghĩa về vốn xã hội, trong đó khẳng định nó là một loại vốn vô
hình (intangible) và cũng là một loại tài sản vô hình (intangible asset) có tác dụng lên
hầu hết hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của con người, như là thiện ý (good will),
49
tình cảm và giao tiếp xã hội (social intercourse) giữa các cá nhân và gia đình tạo nên
một đơn vị xã hội... Có một số điểm tương đồng giữa các tác giả nước ngoài khi bàn về
vốn xã hội, đó là: 1) Đều đề cập đến mạng lưới xã hội; 2) Nguồn lực là thuật ngữ được
nhiều tác giả sử dụng khi định nghĩa vốn xã hội; 3) Vốn xã hội được tạo ra thông qua
sự đầu từ vào các quan hệ xã hội/mạng lưới xã hội, các cá nhân có thể tìm kiếm lợi ích
nhờ vào vốn xã hội; 4) Lòng tin và quan hệ có đi - có lại là hai thành tố được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến khi bàn về vốn xã hội. Như vậy, các tác giả đều cho rằng, vốn
xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội, lòng tin và quan hệ có đi - có lại
[2].
Bên cạnh những điểm tương đồng nêu trên, còn có những quan niệm khác nhau
khi bàn về vốn xã hội. Nếu Bourdieu (1986) coi vốn xã hội là nguồn lực liên kết với
các mạng lưới xã hội thì Coleman (1988) lại quan niệm vốn xã hội như là các khía cạnh
của cấu trúc xã hội tạo thuận lợi cho hành động của các cá nhân. Putnam (2000) thì
khẳng định vốn xã hội bao gồm các mạng lưới xã hội, các chuẩn mực của quan hệ trao
đổi qua lại và sự tin tưởng lẫn nhau. Trong khi Lin (2001) định nghĩa vốn xã hội là
nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội thì Fukuyama (2001) lại coi vốn xã hội là các
chuẩn mực không chính thức, còn Portes (1998) lại coi vốn xã hội là khả năng của cá
nhân tìm kiếm lợi ích thông qua tư cách thành viên trong các mạng lưới xã hội/cấu trúc
xã hội…
Về những tác động của vốn xã hội, các tác giả cho rằng, không chỉ có những
tác động tích cực, mà còn có cả những tác động tiêu cực trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Portes (1998) cho rằng vốn xã hội chứa trong nó ít nhất là
4 tác động tiêu cực: 1) Sự loại trừ những người ngoài; 2) Sự đòi hỏi thái quá đối với
thành viên, hạn chế sáng kiến của các thành viên; 3) Hạn chế tự do cá nhân; 4) Hạ
thấp chuẩn mực của sự cách biệt trong nhóm, cố kết, giữ các cá nhân ở những vị thế
ngang bằng nhau, làm triệt tiêu tham vọng và sự sáng tạo của họ. Fukuyama (2002)
cũng chỉ ra tính hai mặt của vốn xã hội, Putnam còn cho rằng vốn xã hội có thể tạo
ra bè phái, chủ nghĩa vị chủng và tham nhũng (trích lại từ Smith và Kulynych,
2002) [2].
50
Các nghiên cứu về vốn xã hội ở trong nước được chia thành hai nhóm. Nhóm
thứ nhất quan tâm đến việc tổng kết, giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội. Nhóm thứ
hai tập trung vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các nghiên cứu thực tiễn. Về mặt
lý luận, các nghiên cứu lý luận về vốn xã hội ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn,
mới chỉ giới thiệu được một số quan điểm lý thuyết và khuynh hướng nghiên cứu
chính của các tác giả nước ngoài mà chưa khái quát được lý luận từ thực tiễn của
việc tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn xã hội ở Việt Nam từ trước đến nay. Về các
nghiên cứu thực nghiệm, mới chỉ có một số nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội
trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội, trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn… Có
thể thấy, các tác giả trong nước chưa chú ý đến việc phê bình các quan điểm của các
học giả nước ngoài để phát triển nhận thức về vốn xã hội cũng như chỉ ra những
điểm chưa phù hợp để vận dụng nghiên cứu thực tiễn Việt Nam. Bên cạnh đó, các
tác giả trong nước chưa xây dựng được những quan điểm lý thuyết mới, khái quát
hóa từ thực tiễn của việc tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn xã hội ở Việt Nam trong
quá khứ cũng như trong hiện tại. Đây là những điểm yếu trong các nghiên cứu lý
thuyết về vốn xã hội của Việt Nam cần được khắc phục bằng những nghiên cứu mới
về vốn xã hội.
1.3.2. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố về nhóm nghiên cứu và
nhóm nghiên cứu mạnh
Về các nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước đã công bố về nhóm nghiên
cứu và nhóm nghiên cứu mạnh đã đề cập đến các khái niệm nhóm nghiên cứu và
nhóm nghiên cứu mạnh, một số nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về mô hình tổ chức, hoạt
động của các nhóm nghiên cứu, cũng như những yếu tố tạo nên sự thành công cho
các nhóm nghiên cứu.
Các tác giả đều khẳng định nhóm nghiên cứu có vai trò đặc biệt quan trọng,
quyết định đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục
đại học, và là hình thức tổ chức nghiên cứu phổ biến ở các trường đại học trên thế
giới.
51
Các tác giả cũng chỉ ra những yếu tố quan trọng, không thể thiếu của một
nhóm nghiên cứu nói chung và nhóm nghiên cứu mạnh nói riêng. Đồng thời đã nêu
lên các mô hình tổ chức của nhóm nghiên cứu, trong đó có nhóm nghiên cứu mạnh.
Một số nghiên cứu trong nước đã đi vào gợi mở một số giải pháp chính sách liên
quan đến hợp tác nghiên cứu với các tổ chức nước ngoài, đổi mới cơ chế tài trợ và
đầu tư có trọng điểm cho nhóm nghiên cứu, góp phần xây dựng và phát triển nhóm
nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, các nội dung nghiên cứu đã được các tác giả công bố mới dừng lại
ở những khía cạnh nghiên cứu về mô hình, chính sách phát triển nhóm nghiên cứu
và nhóm nghiên cứu mạnh, chưa có nhiều nghiên cứu về các mối quan hệ hợp tác,
sự tương trợ giữa các thành viên trong nhóm nghiên cứu, trong đó có nhóm nghiên
cứu mạnh. Đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
của các nhóm nghiên cứu, trong đó có nhóm nghiên cứu mạnh. Đây là nguồn lực vô
hình nhưng rất có giá trị trong việc thúc đẩy hiệu quả hoạt động của nhóm nghiên
cứu, đặc biệt là nhóm nghiên cứu mạnh. Do vậy, rất cần có những nghiên cứu về
các mối quan hệ giữa các cá nhân trong nhóm nghiên cứu, việc sử dụng các mối
quan hệ đó như thế nào trong các hoạt động của nhóm nghiên cứu, sự cộng tác trong
mạng lưới nghiên cứu của các thành viên nhóm nghiên cứu... Đây chính là những
nội dung còn bỏ ngỏ mà luận án cần nghiên cứu.
1.3.3. Nhận xét các công trình khoa học đã công bố về vai trò của vốn xã
hội trong hoạt động KH&CN
Thông qua việc điểm lại những công trình của một số tác giả nước ngoài
nghiên cứu về những chủ đề liên quan gần với vai trò của vốn xã hội trong hoạt
động KH&CN, có thể thấy, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào vai trò của
vốn xã hội trong phát triển doanh nghiệp dựa trên KH&CN, vốn xã hội trong đổi
mới sáng tạo và sự hợp tác khoa học trong mạng lưới các nhà nghiên cứu. NCS
chưa tìm thấy nghiên cứu nào mô tả về các yếu tố và các biểu hiện của vốn xã hội
trong hoạt động KH&CN, cũng như chưa phân tích đầy đủ về vai trò của vốn xã hội
trong các hoạt động KH&CN. Mới có một số nghiên cứu về mạng lưới quan hệ
52
cộng tác của các nhà khoa học, mà chưa phân tích và quan tâm đến các yếu tố quan
trọng khác của vốn xã hội như lòng tin, sự tương tác, có đi - có lại. Đây là những
yếu tố quan trọng khi phân tích mối quan hệ giữa các cá nhân trong các nhóm,
mạng lưới xã hội.
1.4. Tiểu kết chương 1
Với việc nghiên cứu tổng quan về các công trình khoa học đã công bố về vốn
xã hội, nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh, vai trò của vốn xã hội trong hoạt
động KH&CN cho thấy: Vốn xã hội được khẳng định là một loại vốn vô hình, có
tác dụng lên hầu hết các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của con người, gắn
liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội, lòng tin, sự có đi - có lại. Việc tổng kết,
giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội và vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các nghiên
cứu thực tiễn mới chỉ tập trung ở các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục,
nông nghiệp, nông thôn mà chưa có nghiên cứu nào về vai trò của vốn xã hội trong
hoạt động KH&CN.
Trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu, trong đó có nhóm nghiên
cứu mạnh, có rất nhiều yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công và tính hiệu quả của
nhóm, các nghiên cứu đã có mới chỉ dừng ở các khía cạnh về mô hình, chính sách
phát triển nhóm nghiên cứu và nhóm nghiên cứu mạnh mà chưa có những nghiên
cứu về sự hợp tác, tương trợ, mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm và giữa
các nhóm với nhau. Đây là nguồn lực vô hình nhưng rất quan trọng trong việc thúc
đẩy hiệu quả hoạt động của nhóm.
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội trong phát
triển doanh nghiệp dựa trên KH&CN, đổi mới sáng tạo và nâng cao khả năng cạnh
tranh trong khoa học, thị trường, sự hợp tác khoa học trong mạng lưới các nhà
nghiên cứu. Do vậy, việc nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN vẫn còn là khoảng trống cần nghiên cứu.
Những điểm mà luận án cần tập trung nghiên cứu giải quyết bao gồm:
Về lý thuyết:
53
Từ những hạn chế khi phân tích các công trình khoa học đã công bố cho
thấy, luận án có nhiệm vụ về lý thuyết:
- Nghiên cứu khảo sát định tính vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của
các nhóm nghiên cứu mạnh thông qua nghiên cứu trường hợp các nhóm nghiên cứu
mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Chỉ ra mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa vốn xã hội với các hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh;
Về thực tiễn:
Đồng thời, luận án có nhiệm vụ thực tiễn là:
- Nhận dạng đặc điểm các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà
Nội;
- Làm rõ thực tế sử dụng vốn xã hội và vai trò của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh;
- Đề xuất giải pháp làm giàu vốn xã hội, phát huy những tác động tích cực,
hạn chế những biểu hiện tiêu cực của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN.
54
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA
VỐN XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm vốn xã hội
Khái niệm “vốn xã hội” (social capital) được một nhà nghiên cứu người Mỹ,
Lyda Judson Hanifan (1879-1932), đề cập lần đầu tiên vào năm 1916 trong bài báo
"The Rural School and Rural Life" [90]. Trong bài viết này, Hanifan quan niệm vốn
xã hội là “những thực thể hữu hình (tangible substance), có tác dụng lên hầu hết
hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của con người”. Tuy nhiên, sau đó khái niệm
này đã bị lãng quên và lác đác được một số học giả đề cập trong các thập niên 1950,
1960 và 1970. Khái niệm này chỉ thực sự được nhiều người quan tâm sau các công
trình nghiên cứu của Bourdieu, Coleman, Fukuyama và Putnam (1993, 1995) [63,
64, 68, 74, 103, 104]. Vốn xã hội là một khái niệm gây tranh cãi trong giới học giả,
bởi đây là một khái niệm đa chiều, có biểu hiện khác nhau ở nhiều cấp độ (vĩ mô,
trung mô, vi mô), hình thức và nội dung. Pierre Bourdieu định nghĩa vốn xã hội là
“tập hợp các nguồn lực hiện hữu hoặc tiềm tàng, gắn với việc sở hữu một mạng lưới
bền vững gồm các mối quan hệ quen biết hoặc thừa nhận lẫn nhau ít nhiều được
thiết chế hóa” (Bourdieu, 1986). Còn nhà xã hội học Mỹ James Coleman lại xem
xét vốn xã hội “không phải là một thực thể đơn lẻ, mà là một sự đa dạng gồm các
thực thể khác nhau với hai yếu tố chung: tất cả chúng đều bao gồm một số khía
cạnh nào đó của cấu trúc xã hội, và chúng đơn giản hóa các hành động nhất định
của chủ thể - dù là các cá nhân riêng lẻ hay tập thể - trong lòng cấu trúc xã hội
đó…” (Coleman, 1988). Nhà nghiên cứu Fukuyama (2002) cũng ủng hộ quan điểm
của Coleman nhưng cho rằng cần định nghĩa vốn xã hội rộng hơn, “bao hàm bất cứ
tình huống nào trong đó con người hợp tác với nhau vì mục tiêu chung, dựa trên các
chuẩn mực và giá trị được chia sẻ”. Nhà chính trị học Mỹ Robert Putnam quan niệm
vốn xã hội tương đối gần với quan điểm của Coleman trên khía cạnh các thành tố
chính cấu thành vốn xã hội: “Các đặc trưng của đời sống xã hội - các mạng lưới, các
55
chuẩn mực và lòng tin - là những cái cho phép người ta hành động với nhau một
cách hiệu quả hơn nhằm theo đuổi các mục đích được chia sẻ. Tóm lại, vốn xã hội
chỉ các liên kết xã hội và các chuẩn mực và lòng tin kèm theo” [104]. Putnam cũng
quan tâm tới tính “hành động với nhau” trong sự vận hành của vốn xã hội - cái tạo
ra sự liên kết xã hội. Vốn xã hội giúp cho các cá thể kết nối với nhau, tạo ra ảnh
hưởng sâu sắc tới sự phát triển thông qua chia sẻ các hành động và mục đích chung
[104].
Dù cách tiếp cận nghiên cứu về vốn xã hội có khác nhau, nhưng các tác giả
đều đề cập đến mạng lưới xã hội và cho rằng vốn xã hội được tạo ra thông qua sự
đầu tư vào các quan hệ hoặc mạng lưới xã hội, nhờ vào vốn xã hội mà các cá nhân
có thể tìm kiếm lợi ích. Các tác giả thống nhất cho rằng, vốn xã hội là khái niệm
rộng hơn của các mối quan hệ xã hội, bao gồm cả sự gắn kết xã hội. Các bộ phận
hợp thành vốn xã hội bao gồm: 1) Mạng lưới các liên kết; 2) Lòng tin, sự tương tác
(có đi - có lại); 3) Các chuẩn mực, quy tắc.
Với sự đa dạng của quan niệm về vốn xã hội nên tùy từng bối cảnh, chủ đề,
đối tượng nghiên cứu mà chúng ta nên có quan niệm về vốn xã hội cho phù hợp.
Trong luận án này, trên cơ sở phân tích các quan niệm về vốn xã hội của các tác giả
có uy tín trên thế giới như đã nêu ở trên, và dựa vào quan điểm của Putnam (2000),
NCS cho rằng, vốn xã hội là khái niệm dùng để chỉ mạng lưới xã hội, lòng tin, và
quan hệ có đi, có lại giữa các cá nhân, chủ thể hành động. Các cá nhân, chủ thể
hành động có thể tạo dựng, duy trì, tích lũy và sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi
ích trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Trong hoạt động KH&CN, vốn xã hội chính là mạng lưới các mối quan hệ
nghiên cứu, sự liên kết, kết nối giữa các nhà nghiên cứu, sự tin tưởng nhau, sự
tương tác, có đi - có lại trong hoạt động KH&CN.
2.1.2. Khái niệm hoạt động KH&CN
Khái niệm về khoa học: Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam 2 (2002), “Khoa
học là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, được tích lũy trong quá trình
nhận thức trên cơ sở thực tiễn, được thể hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học
56
thuyết. Nhiệm vụ của khoa học là phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các hiện
tượng, sự vật, quá trình, từ đó mà dự báo về sự vận động, phát triển của chúng, định
hướng cho hoạt động của con người. Khoa học giúp cho con người ngày càng có
khả năng chinh phục tự nhiên và xã hội. Khoa học vừa là một hình thái ý thức xã
hội vừa là một dạng hoạt động, một công cụ nhận thức”. Còn theo Luật KH&CN
2013 [45], khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
Khái niệm công nghệ: Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 (1995), “khái
niệm công nghệ hiện nay thường được dùng với các ý nghĩa như sau: 1) Công nghệ
là môn khoa học ứng dụng, nhằm vận dụng các quy luật tự nhiên và các nguyên lý
khoa học, đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người; 2) Công nghệ là
các phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật chất hóa các tri thức ứng dụng khoa học;
3) Công nghệ là một tập hợp các cách thức, các phương pháp dựa trên cơ sở khoa
học và được sử dụng vào sản xuất trong các ngành sản xuất khác nhau để tạo ra các
sản phẩm vật chất và dịch vụ… Các thành phần cơ bản của công nghệ, theo cách
hiểu hiện nay, bao gồm cả phần cứng và phần mềm, là tổ hợp của 4 thành phần: 1)
Trang thiết bị, bao gồm các thiết bị, máy móc, khí cụ, nhà xưởng…; 2) Kỹ năng và
tay nghề liên quan tới kinh nghiệm nghề nghiệp của từng người hoặc nhóm người;
3) Thông tin liên quan đến bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ liệu, bản thiết kế…;
4) Tổ chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp điều phối, quản lý và tiếp thị…” .
Theo Luật KH&CN 2013 [45], công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết, kỹ thuật
có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực
thành sản phẩm.
Hoạt động KH&CN: Theo Khoản 3, Điều 3 Luật KH&CN năm 2013 [45],
hoạt động KH&CN là hoạt động nghiên cứu khoa học, R&D thực nghiệm, phát
triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ KH&CN, phát huy sáng kiến và hoạt
động sáng tạo khác nhằm phát triển KH&CN.
57
Theo Vũ Cao Đàm [16, 17 ], hoạt động KH&CN gồm: 1) Nghiên cứu và Triển
khai (R&D); 2) Chuyển giao tri thức, bao gồm chuyển giao công nghệ; 3) Phát triển
công nghệ (UNESCO và UNIDO); 4) Dịch vụ KH&CN.
• Theo UNESCO, khái niệm về hoạt động KH&CN bao gồm các thành phần
như Hình 2.1, còn hoạt động R&D được thể hiện như Hình 2.2 [16, 17]:
Hình 2.1. Hoạt động KH&CN theo khái niệm của UNESCO.
58
Hình 2.2. Hoạt động R&D theo khái niệm của UNESCO.
59
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học tùy thuộc vào loại nghiên cứu nào: 1)
Nghiên cứu cơ bản: Khám phá quy luật & tạo ra các lý thuyết; 2) Nghiên cứu ứng
dụng: Vận dụng lý thuyết để mô tả, giải thích, dự báo và đề xuất các giải pháp; 3)
Triển khai (Technological Experimental Development; gọi tắt là Development;
tiếng Nga là Razrabotka) bao gồm các giai đoạn: Chế tác Vật mẫu (làm Prototype);
làm Pilot (tạo công nghệ để sản xuất với Prototype); sản xuất loạt nhỏ (Série 0) để
khẳng định độ tin cậy.
Một số thành tựu của nghiên cứu khoa học có tên gọi riêng: Phát hiện
(Discovery), nhận ra cái vốn có, như: Các quy luật xã hội (Quy luật giá trị thặng
dư); Vật thể / trường (nguyên tố radium; từ trường); Hiện tượng (Trái đất quay
quanh mặt trời). Phát minh (Discovery), nhận ra cái vốn có, như: Các quy luật tự
nhiên (Định luật vạn vật hấp dẫn). Sáng chế (Invention), tạo ra cái chưa từng có:
mới về nguyên lý kỹ thuật và có thể áp dụng được (như máy hơi nước, điện thoại).
Trong nghiên cứu này, hoạt động KH&CN được hiểu là các yếu tố đầu ra của
KH&CN, bao gồm: hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D; công bố
kết quả nghiên cứu (công bố khoa học); đào tạo (đại học và sau đại học); chuyển
giao tri thức, thương mại hóa công nghệ.
2.1.3. Khái niệm nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh
Nhóm nghiên cứu (Scientific Working Group - SWG) là một tập thể nghiên
cứu/hoạt động khoa học được thành lập một cách tự nguyên hay theo ý đồ phát triển
của tổ chức (nhưng không phải là một đơn vị hành chính). Dẫn dắt nhóm nghiên
cứu là người nhiệt tâm, chịu trách nhiệm chính về định hướng nghiên cứu, có năng
lực chuyên môn, có khả năng tổ chức (bao gồm cả khả năng tạo dựng các mối quan
hệ, tìm kiếm nguồn kinh phí hoạt động cho nhóm và được cả nhóm tín nhiệm. Các
thành viên của Nhóm là các cán bộ khoa học có nhiệt huyết và khả năng, các NCS,
sinh viên… cùng theo đuổi một hướng khoa học nhất định. Nhóm có đủ các điều
kiện cơ bản bao gồm nơi làm việc, trang thiết bị, thông tin, tự liệu và kinh phí… để
đảm bảo cho các hoạt động nghiên cứu thành công một cách liên tục và thường là
dài hạn [4, 5, 7, 8, 29-32, 42].
60
Nhóm nghiên cứu mạnh/xuất sắc là nhóm có các thành viên xuất sắc, điều kiện
làm việc đầy đủ và những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khoa học/phục vụ thực tiễn
lớn, được quốc tế thừa nhận [32].
Các nhóm nghiên cứu phát triển theo cơ chế “Cây tre trăm đốt”. Một mặt,
Nhóm tự phát triển năng lực của mình một cách bền vững để trở thành các nhóm
nghiên cứu mạnh, mạnh hơn và có thể thành các trường phái khoa học. Mặt khác,
Nhóm có thể phối hợp với các nhóm khác thành các trung tâm xuất sắc, những
mạnh lưới, những mạnh lưới của các mạng lưới (network of networks), những tổ
hợp khác nhau về quy mô, tính chất để giải quyết các vấn đề muôn vẻ do thực tế xã
hội luôn đặt ra để phát triển. Theo đó, các nhóm nghiên cứu phát triển không ngừng
và ngày càng đáp ứng tốt hơn cho yêu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy, có thể hiểu,
nhóm nghiên cứu là đơn vị cấu trúc cơ sở, là tế bào, quyết định sự thành công của
mỗi đơn vị, mỗi hệ thống nghiên cứu và đào tạo [27-32].
Theo Thông tư 37/2014/TT-BKHCN, nhóm nghiên cứu mạnh là tập thể các
nhà khoa học xây dựng được hướng nghiên cứu chung, dài hạn; có mục tiêu, kế
hoạch nghiên cứu cho từng giai đoạn cụ thể; nội dung nghiên cứu có tính đột phá và
cần nhiều thành viên tham gia thực hiện. Các thành viên chủ chốt của nhóm có kết
quả nghiên cứu nổi bật. Các yêu cầu đối với nhóm nghiên cứu mạnh là: chủ nhiệm
có kết quả công bố trên các tạp chí ISI có uy tín phù hợp trong thời gian năm năm
tính đến thời điểm nộp hồ sơ, có khả năng tập hợp được nhiều nhà khoa học có trình
độ chuyên môn cao tham gia thực hiện đề tài, duy trì được hợp tác nghiên cứu khoa
học thường xuyên với các nhóm nghiên cứu quốc tế cùng ngành, liên ngành; có ít
nhất hai thành viên nghiên cứu chủ chốt của đề tài đáp ứng yêu cầu của chủ nhiệm
đề tài; tổ chức chủ trì đề tài có đủ điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật, năng lực
nghiên cứu và cam kết hỗ trợ trong thời gian thực hiện nghiên cứu. Yêu cầu về thời
gian thực hiện và kết quả nghiên cứu của đề tài gồm: đề tài do nhóm nghiên cứu
mạnh thực hiện, kết quả nghiên cứu phải có ít nhất hai bài báo công bố trên tạp chí
ISI có uy tín và một bài báo công bố trên tạp chí quốc gia có uy tín [6].
61
Trong khuôn khổ của luận án này, nhóm nghiên cứu mạnh được hiểu là các
nhóm nghiên cứu đã được Đại học Quốc gia Hà Nội công nhận là nhóm nghiên cứu
mạnh từ năm 2014 đến nay, đáp ứng được các tiêu chí theo Hướng dẫn số
1409/HD-KH&CN ngày 8/5/2013. Văn bản này quy định: nhóm nghiên cứu mạnh
là tập thể các nhà khoa học được tập hợp theo hướng chuyên môn, hoạt động nghiên
cứu khoa học và đào tạo đạt hiệu quả tốt, có nhiều sản phẩm chất lượng cao, tiếp
cận các tiêu chí của đại học nghiên cứu tiên tiến; có khả năng làm nòng cột hoặc
phối hợp với các nhóm nghiên cứu khác để triển khai các nội dung khoa học của các
chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, thực hiện các
nhiệm vụ phát triển các sản phẩm KH&CN chủ lực của Đại học Quốc gia Hà Nội,
nằm trong danh mục các sản phẩm KH&CN quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
2.1.4. Khái niệm vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
Như phần trên đã phân tích, về mặt khái niệm, vốn xã hội có nhiều cách giải
thích khác nhau, tuy nhiên đa số các tác giả đều thống nhất cho rằng: Thứ nhất, vốn
xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội. Thứ hai, nhiều tác giả dùng
khái niệm nguồn lực để định nghĩa vốn xã hội. Thứ ba, vốn xã hội được tạo ra thông
qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội, hoặc mạng lưới xã hội, các cá nhân có thể
sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích. Thứ tư, sự tin cậy và quan hệ qua lại/sự có
đi - có lại (trust and recipocity) được nhiều tác giả đề cập đến khi bàn về vốn xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm thống nhất như đã nêu trên, các nhà nghiên
cứu về vốn xã hội cũng có những khác biệt trong quan niệm về vốn xã hội, như:
Putnam cho rằng, vốn xã hội gồm các mạng lưới xã hội [104]; Coleman thì cho rằng
đó là các khía cạnh của cấu trúc xã hội; trong khi các tác giả khác lại cho đó là
nguồn lực liên kết với các mạng lưới hay là các chuẩn mực không chính thức. Hiện
nay, khái niệm về vốn xã hội vẫn đang tiếp tục được thảo luận, phát triển với nhiều
định nghĩa, cách giải thích khác nhau [68]. Do vậy, tùy vào tình huống cụ thể mà
nhà nghiên cứu có thể quan niệm, thao tác hóa khái niệm vốn xã hội cho phù hợp
với bối cảnh.
62
Trong nghiên cứu này, tác giả cho rằng vốn xã hội là khái niệm dùng để chỉ
mạng lưới xã hội, lòng tin, quan hệ qua lại/sự có đi - có lại giữa các cá nhân. Kết
hợp với những phân tích về khái niệm của hoạt động KH&CN như trên đã nêu,
trong luận án này, khái niệm vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN được
hiểu là đánh giá tác động tích cực và hệ quả tiêu cực mà vốn xã hội tạo ra trong hoạt
động KH&CN. Bởi việc tạo dựng, sử dụng, và phát triển vốn xã hội là một yếu tố
không thể thiếu trong các hoạt động KH&CN, và trong thực tế, vốn xã hội có các
tác động đối với hiệu quả của các hoạt động này. Nói cách khác, nội hàm khái niệm
vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN bao gồm:
1) Việc tạo dựng, sử dụng, phát triển mạng lưới nghiên cứu, lòng tin, sự có đi -
có lại giữa các nhà KH&CN trong các hoạt động KH&CN.
2) Tác động của vốn xã hội đối với các hoạt động: xây dựng và thực hiện các
nhiệm vụ R&D; công bố kết quả nghiên cứu; đào tạo; chuyển giao tri thức, thương
mại hóa công nghệ.
2.1.5. Khái niệm Trung tâm xuất sắc
Trung tâm xuất sắc là một tổ hợp của các nhóm nghiên cứu xuất sắc: Có thể
hiểu Trung tâm xuất sắc là một bộ phận, một đơn vị nằm trong một tổ chức lớn hơn,
là hiện thân của những năng lực được tổ chức ấy công nhận, là nguồn gốc quan
trọng sáng tạo ra giá trị, và hy vọng rằng những năng lực ấy sẽ được phổ biến rộng
hơn cho những đơn vị khác của tổ chức [32]. Trong nghiên cứu khoa học, Trung
tâm xuất sắc được hiểu là một cơ sở thực sự xuất sắc, đóng vai trò dẫn dắt trong lĩnh
vực mà nó hoạt động, không chỉ theo nghĩa là tạo ra các sản phẩm xuất sắc, mà còn
tạo ra những chuẩn mực xuất sắc cho các cơ sở khác noi theo. Điều này có nghĩa, sự
xuất sắc phải được đánh giá trong lĩnh vực nó hoạt động, chứ không phải trong
phạm vi địa lý mà nó thuộc về. Nói ngắn gọn, Trung tâm xuất sắc phải đứng ở tuyến
đầu trong lĩnh vực mà nó hoạt động, xét ở tầm quốc tế. Trong KH&CN, do bản chất
không biên giới của tri thức, nên Trung tâm xuất sắc là nơi sản xuất ra các công
trình khoa học, công nghệ ở tầm dẫn dắt thế giới (world-leading class). Điều này có
nghĩa, chất lượng các công trình nghiên cứu của nó phải được cộng đồng khoa học
63
quốc tế thừa nhận. Gần đây, khái niệm Trung tâm xuất sắc đã vượt ra khỏi khu vực
nghiên cứu khoa học và bắt đầu được sử dụng cho khu vực kinh doanh và dịch vụ
với ý nghĩa là những đơn vị thử nghiệm các sáng kiến đổi mới nhằm cải thiện năng
suất, chất lượng, tăng cường sự linh hoạt, giảm chi phí và hiệu quả sử dụng nguồn
lực. Về mặt cấu trúc, các Trung tâm xuất sắc là tổ hợp của các nhóm nghiên cứu
mạnh/xuất sắc với các thành viên xuất sắc [13, 32].
Một Trung tâm xuất sắc có thể là một tổ chức KH&CN hoạt động tại một địa
điểm nhất định dựa vào một đơn vị KH&CN hoặc đơn vị đào tạo đại học có tư cách
pháp nhân, nhưng cũng có thể là một mạng lưới mà mỗi bộ phận thành viên dựa vào
một đơn vị KH&CN hoặc đơn vị đào tạo có tư cách pháp nhân. Chính Trung tâm
xuất sắc cũng có thể (nhưng không nhất thiết) là một đơn vị KH&CN có tư cách
pháp nhân (ví dụ là một trường đại học hoặc viện nghiên cứu) [39, 49].
Việc xây dựng, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhà khoa học đầu
ngành, nhà khoa học trẻ tài năng là một trong những nội dung quan trọng trong đầu
tư phát triển tiềm lực KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học đã được quy định
tại Nghị định số 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014.
2.1.6. Khái niệm trường phái khoa học
Khoa học luôn đưa ra những phát hiện mới về quy luật phát triển của tự nhiên,
xã hội và của chính con người. Các hiện tượng mới đó có thể được giải thích bằng
nhiều cách khác nhau với cùng một sự vật, hiện tượng. Thường thì các cách giải
thích sau có tác dụng bổ khuyết cho các phát hiện trước, đôi khi phủ định các phát
hiện trước. Các khuynh hướng khác nhau đó được gọi là trường phái khoa học. Như
vậy, có thể xem trường phái khoa học là một hướng tiếp cận nghiên cứu theo một
góc nhìn xác định và bởi một hệ phương pháp luận xác định. Trường phái khoa học
xuất hiện là do sự phát triển ngày càng sâu rộng của khoa học, do sự xuất hiện các
góc nhìn khác nhau đối với đối tượng nghiên cứu, hoặc do sự vận dụng các cơ sở
phương pháp luận khác nhau để xem xét đối tượng nghiên cứu. Sự hình thành các
trường phái khoa học mới thường có thể dẫn đến những phản ứng tâm lý khác nhau
trong bản thân cộng đồng khoa học và trong xã hội, thậm chí làm nổ ra những cuộc
64
tranh luận hoặc đụng độ quan điểm giữa trường phái khoa học mới với trường phái
khoa học truyền thống, giữa các trường phái khoa học với nhau, giữa một bộ môn
khoa học mới xuất hiện với các bộ môn khoa học khác.
Một số nhóm nghiên cứu mạnh đã đặt mục tiêu phát triển thành các trường
phái nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam chưa có một bộ tiêu chí cụ thể
nào cho việc công nhận một trường phái nghiên cứu.
2.1.7. Khái niệm chân dung xã hội
Trong luận án này, “chân dung xã hội” được hiểu là những thông tin cơ bản về
năm sinh, trình độ học vấn, uy tín xã hội, các công bố, giải thưởng, công trình khoa
học nổi bật trong sự nghiệp của một cá nhân nào đó.
Việc tìm hiểu khái quát về chân dung xã hội của các nhà khoa học là trưởng
nhóm và thành viên của các nhóm nghiên cứu mạnh sẽ đưa ra một bức tranh khái
quát về tiềm năng vốn xã hội của các nhà khoa học tham gia vào các nhóm nghiên
cứu mạnh, bởi những yếu tố về con người, văn hóa, uy tín xã hội… là những yếu tố
căn bản tạo nên nguồn vốn xã hội của mỗi cá nhân. Sự thành công trong KH&CN
của các nhà khoa học thông qua các giải thưởng, công bố khoa học cũng phản ánh
phần nào việc tạo dựng, sử dụng vốn xã hội cũng như có ảnh hưởng chặt chẽ đến
nguồn vốn xã hội (mạng lưới nghiên cứu, uy tín, các mối quan hệ xã hội) của các cá
nhân đó.
2.2. Các thành tố trong vốn xã hội
2.2.1. Mạng lưới xã hội
Mạng lưới xã hội là một trong những thành tố chủ yếu của vốn xã hội.
Bourdieu cho rằng, vốn xã hội kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững.
Coleman thì nói vốn xã hội nằm trong quan hệ xã hội và mạng lưới xã hội. Putnam
coi mạng lưới xã hội là một thành tố của vốn xã hội. Lin cũng cho rằng, vốn xã hội
nằm trong mạng lưới xã hội. Portes thì quan sát vốn xã hội thông qua mạng lưới xã
hội… [38]. Bourdieu [62-64] từng định nghĩa vốn xã hội như một tập hợp các
nguồn lực hiện hữu hoặc tiềm tàng, gắn với việc sở hữu một mạng lưới bền vững
của các mối quan hệ quen biết hoặc thừa nhận lẫn nhau ít nhiều được thể chế hóa.
65
Như vậy, mạng lưới xã hội ở đây là tổng hòa các mối quan hệ xã hội của một cá
nhân.
Theo Hoàng Bá Thịnh [51], thuật ngữ mạng lưới liên quan đến chuỗi các vật
thể, điểm mấu chốt và một bản đồ mô tả về mối quan hệ giữa các vật thể. Theo cách
thức của mạng lưới xã hội thì các vật thể liên quan đến con người hoặc những nhóm
người. Như vậy, có thể định nghĩa một cách đơn giản, mạng lưới xã hội là tập hợp
các quan hệ xã hội giữa các chủ thể. Các chủ thể có thể là cá nhân, nhóm, tổ chức,
cơ quan, quốc gia.
Trong KH&CN, mạng lưới xã hội chính là tập hợp các quan hệ kết nối trong
mạng lưới nghiên cứu của các nhà KH&CN, giữa các cá nhân nhà khoa học, giữa cá
nhân nhà khoa học với các nhóm nghiên cứu khác, giữa các nhóm nghiên cứu khác
nhau, trong một đơn vị, cơ quan nghiên cứu, trong nước hoặc quốc tế.
2.2.2. Sự tin cậy
Trong một xã hội hay trong các nhóm nhỏ, sự tin tưởng lẫn nhau giữa các cá
nhân, giữa cá nhân và tổ chức, giữa các tổ chức với nhau có vai trò rất quan trọng
hình thành nên nguồn vốn xã hội. Theo Putnam [103], lòng tin trong cộng đồng
càng cao thì khả năng cộng tác trong cộng đồng càng lớn; ngược lại, sự cộng tác đó
trong cộng đồng lại sinh ra lòng tin. Trong thực tế, có hai loại tin tưởng, một là tin
vào những người mà mình biết rõ, hai là tin vào những người tuy chưa biết rõ
nhưng họ ở trong một vị trí, tổ chức đáng tin cậy. Việc xây dựng niềm tin dù là giữa
các cá nhân hay tổ chức thường mất nhiều thời gian và công sức, nhưng lại rất dễ
mất đi niềm tin dù chỉ là những hành động nhỏ thể hiện sự không đáng tin cậy.
Coleman khẳng định trách nhiệm, sự mong đợi và lòng tin là các hình thức của
vốn xã hội. Chính trách nhiệm và mong đợi lẫn nhau đã tạo nên sự tin cẩn giữa các
cá nhân [1].
Cũng như các hoạt động khác, hoạt động KH&CN sẽ có hiệu quả cao nếu có
sự tin tưởng lẫn nhau giữa các cá nhân, tổ chức KH&CN, môi trường, thể chế cho
phát triển KH&CN. Sự tin cậy trong cộng đồng KH&CN sẽ giúp cho sự cộng tác
trong khoa học có hiệu quả hơn, làm giàu vốn xã hội trong KH&CN.
66
2.2.3. Sự tương tác, có đi - có lại
Theo Coleman, Putnam [68, 103], sự có đi - có lại khi diễn ra sẽ giúp làm gia
tăng niềm tin. Có thể tương tác nhận ngay tức khắc, tức là hai bên cùng trao đổi hai
thứ có giá trị ngang nhau; hoặc có thể tương tác, nhận sau này sau một thời gian nào
đó.
Nan Lin [97] cho rằng, để sản sinh ra lợi ích, các cá nhân tiến hành tương tác
lẫn nhau trong các mạng lưới quan hệ xã hội của họ. Portes khẳng định sự trao đổi
qua lại và lòng tin là nguồn gốc của vốn xã hội [1].
Quan hệ trao đổi, có đi - có lại cũng chính là một chuẩn mực của vốn xã hội,
nó phản ánh khả năng của các cá nhân trong việc tìm kiếm lợi ích thông qua tư cách
thành viên của các mạng lưới, cấu trúc xã hội [1].
Trong các hoạt động KH&CN, sự tương tác, có đi - có lại chính là mối quan
hệ tương hỗ, cộng tác giữa các nhà khoa học, giữa các tổ chức, nhóm nghiên cứu,
cùng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ, thông qua đó tìm kiếm các lợi ích về khoa
học, kinh tế, quyền lực cho cá nhân và tổ chức KH&CN. Đây cũng là một nguyên
tắc căn bản tạo ra và góp phần duy trì sự cân bằng, phát triển và ổn định trong các
trao đổi xã hội, trong đó có KH&CN. Mọi mối quan hệ xã hội muốn phát triển và
bền vững thì cần có sự hỗ trợ, tương tác qua lại lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi.
2.3. Mối quan hệ giữa vốn xã hội (social capital) và tài sản vô hình (intangible
assets)
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam 4 (2005), tài sản là một thuật ngữ kế toán
kinh doanh chỉ tất cả những gì có giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của một cá nhân, một
đơn vị hoặc của Nhà nước, có thể được dùng để trả nợ, sản xuất ra hàng hóa hay tạo
ra lợi nhuận bằng cách nào đó. Tài sản vô hình là những tài sản hỗ trợ cho các nhà
kinh doanh, nhưng vì không có hình thái vật chất nào cả, nên không thể dễ dàng
chuyển hóa thành tiền mặt (ví dụ, sự tín nhiệm của khách hàng, các chứng chỉ về
phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả, nhãn hiệu thương mại…).
Còn theo Từ điển Bách khoa toàn thư điện tử mở wikipedia, tài sản vô hình là
những quyền tài sản (nghĩa hẹp) thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định và thường
67
chỉ gắn với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao. Tuy nhiên một số
quyền tài sản có thể chuyển giao hoặc ủy quyền cho chủ thể khác như thương hiệu
hàng hóa. Tài sản vô hình là những thứ không thể dùng giác quan để thấy được và
không thể dùng đại lượng để tính. Nhưng trong quá trình chuyển giao có thể quy ra
tiền. Tùy từng thời điểm nhất định mà quyền tài sản có giá như thế nào. Việc gây
thiệt hại về tài sản vô hình của chủ thể sẽ phải bồi thường nhưng rất khó để xác định
giá trị của nó. Ngoài những quy định trong luật thì việc xác định giá trị của tài sản
vô hình là không thể1.
Theo tiếp cận quản lý, có thể xem xét tài sản vô hình từ góc độ nguồn lực vô
hình. Nếu như “Nguồn lực là tổng thể các nguồn nhân tố sẵn có của tổ chức, do tổ
chức sở hữu hay kiểm soát”2 thì bên cạnh những nguồn lực hữu hình (nhà xưởng,
nguyên vật liệu và trang thiết bị) còn có những nguồn lực vô hình như văn hóa tổ
chức, danh tiếng, uy tín3…
Theo tác giả Lê Thu Hương [35], tài sản vô hình của một tổ chức nào đó chính
là các nguồn lực vô hình, được chia thành 7 nhóm sau: (1) Tri thức, (2) Kỹ năng, (3)
Hệ thống, quy trình, (4) Uy tín, thương hiệu, (5) Văn hoá, (6) Lãnh đạo và truyền
thông, (7) Các mối quan hệ.
Trong đó, nguồn lực tri thức (1) trong tổ chức là những hiểu biết và kỹ năng
của cá nhân hay tập thể để giúp tổ chức đó làm việc có hiệu quả hơn. Nguồn lực kỹ
năng (2), bao gồm kỹ năng cứng và kỹ năng mềm của các thành viên trong tổ chức
có vai trò quan trọng, tạo nên năng lực, hiệu quả và sự thành công của tổ chức đó.
Nguồn lực hệ thống, quy trình (3) của tổ chức cũng là những nguồn lực vô hình
mang lại giá trị cho tổ chức, bởi một quy trình tốt, một hệ thống hiệu quả là những
giá trị quan trọng mà các tổ chức luôn hướng tới. Nguồn lực uy tín và thương hiệu
(4) có giá trị rất lớn trong một tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp. Việc sở hữu
1Từ điển Bách khoa toàn thư điện tử wikipedia, http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0i_s%E1%BA%A3n. 2Amit and Schoemaker (1993), “Strategic assets and organizational rent”, Strategic management Journal, 14(33), p.35. 3A. Carmeli (2004), “Assessing core intangible resources”, European Management Journal, 22(1), pp.110- 122.
một thương hiệu mạnh, giữ chữ tín sẽ thu hút được nhiều khách hàng trung thành và
68
thu được nhiều lợi nhuận, giúp doanh nghiệp vững tâm hoạch định và quản lý sự
phát triển kinh doanh. Trong một tổ chức, văn hóa tổ chức (5) được hiểu là tập hợp
hệ thống các quan niệm chung của các thành viên trong tổ chức đó, được các thành
viên hiểu ngầm với nhau và chỉ thích hợp cho tổ chức riêng của họ. Văn hóa tổ chức
có vai trò quan trọng tạo nên sự phát triển đột phá và bền vững cho tổ chức nhờ phát
huy được nguồn lực nội sinh và tìm kiếm, dung nạp được các nguồn lực ngoại sinh.
Nguồn lực lãnh đạo và truyền thông (6) có vai trò rất quan trọng trong một tổ chức.
Người lãnh đạo thực hiện tốt vai trò định hướng, thúc đẩy và điều phối, hỗ trợ các
nhân viên, cũng như việc tổ chức đó làm tốt công tác truyền thông sẽ mang lại
những giá trị to lớn cho tổ chức.
Cuối cùng, nguồn lực mối quan hệ (7) trong một tổ chức chính là một loại tài
sản vô hình có liên quan đến vốn xã hội. Về mặt học thuật, các mối quan hệ có nội
hàm tương đương với vốn xã hội. Vốn xã hội là những sự ràng buộc lẫn nhau do
người ta đặt ra hay tuân thủ khi giao dịch hay khi chung sức làm một việc gì đó, nó
còn được gọi là những ràng buộc xã hội hay các hành vi mẫu mực hoặc quy tắc xã
hội và chúng là những yếu tố quan trọng cho sự bền vững của cuộc sống. Trên thực
tế, việc tận dụng các mối quan hệ sẵn có, mở rộng các quan hệ tiềm năng, là một
cách thức làm ăn dựa trên truyền thống vốn có của người dân Việt Nam. Nguồn lực
này có vai trò vô cùng quan trọng đối với không chỉ các cá nhân mà với các tổ chức.
Với những khái niệm về vốn xã hội đã nêu trong luận án, thì không chỉ nguồn
lực mối quan hệ có liên quan chặt chẽ với vốn xã hội mà các nguồn lực vô hình khác
như: tri thức, kỹ năng, uy tín, văn hoá, lãnh đạo và truyền thông đều là những yếu tố
tạo nên vốn xã hội và có liên quan chặt chẽ với nhau, cái này tạo ra và tương hỗ cái
kia. Theo nhà xã hội học người Pháp Piere Bourdieru (1986), “vốn xã hội là một tập
hợp các nguồn lực hiện hữu hoặc tiềm tàng, gắn với việc sở hữu một mạng lưới bền
vững gồm các mối quan hệ quen biết hoặc thừa nhận lẫn nhau ít nhiều được thiết chế
hóa”. Porter (1998) cũng cho rằng, “mạng lưới quan hệ xã hội không phải tự nhiên có
sẵn, mà phải được xây dựng dựa trên chiến lược đầu tư hướng đến việc xây dựng thể
chế hóa quan hệ nhóm, làm cho chúng trở thành nguồn lực sản sinh lợi ích”. Như
69
vậy, lượng vốn xã hội của mỗi chủ thể phụ thuộc vào “quy mô mạng lưới quan hệ xã
hội” mà chủ thể đó có thể huy động hiệu quả. Điều đó cũng có nghĩa là việc hình
thành và phát triển mạng lưới quan hệ xã hội chính là góp phần hình thành và phát
triển vốn xã hội của các chủ thể. Trong đó, lòng tin của các chủ thể là yếu tố giúp các
cá nhân kết nối với nhau và giúp tổ chức, xã hội đoàn kết. Lòng tin gắn bó chặt chẽ
với mạng lưới quan hệ xã hội của chủ thể, thúc đẩy sự tham gia xã hội, làm giàu vốn
xã hội của chủ thể [48].
Bên cạnh nguồn lực về các mối quan hệ, thì các nguồn lực vô hình khác như tri
thức/kiến thức, kỹ năng, uy tín, văn hoá, lãnh đạo và truyền thông là những yếu tố
quan trọng cốt lõi xây dựng nên lòng tin cho chủ thể và lòng tin của cộng đồng đối
với chủ thể, cũng như góp phần xây dựng mạng lưới quan hệ xã hội cho chủ thể.
Theo Coleman (1994), một số hình thái của vốn xã hội có thể kể đến như: 1) Lòng
tin, sự kỳ vọng, trách nhiệm thể hiện trong quan hệ xã hội và nhờ chúng mà hành
động được thực hiện; 2) Thông tin được phát triển và thu - phát trong quan hệ giữa
người này với người khác mà nhờ đó hành động được thực hiện; 3) Những chuẩn
mực có hiệu lực mà nhờ nó hành động được thực hiện; 4) Quyền lực hay uy tín cũng
được xem là một hình thái của vốn xã hội, vì khi giao quyền kiểm soát hành động cho
một người nào đó, điều này cũng có nghĩa là đã tạo ra vốn xã hội cho người đó. Như
vậy, liên hệ từ các nguồn lực vô hình đã kể trên, có thể thấy hầu hết các nguồn lực vô
hình đều chính là các hình thái của vốn xã hội.
Đặc biệt, kiến thức và kỹ năng chính là những yếu tố hàm chứa trong năng lực
của chủ thể con người, tạo ra những giá trị của con người - Đó chính là vốn con
người (human capital). Những kiến thức, kỹ năng này được hình thành qua quá trình
học tập, tích lũy kinh nghiệm trong hoạt động sống và lao động sản xuất. Chúng trở
thành vốn khi được sử dụng để đầu tư mang lại lợi ích nào đó cho chủ thể; loại vốn
này có thể được làm giàu nếu khai thác đúng cách hoặc bị hao tổn nếu không được sử
dụng. Với các thành tố quan trọng là kiến thức và kỹ năng, nên thiết chế giáo dục
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên vốn con người. Bên cạnh đó, việc hình
thành và gia tăng vốn con người còn phụ thuộc vào những yếu tố như: tố chất/ưu thế
70
di truyền của mỗi cá nhân; quá trình giáo dục; quá trình học hỏi thông qua gia đình,
bạn bè, công việc, truyền thông đại chúng.
Vốn xã hội và vốn con người có ảnh hưởng qua lại, tương tác lẫn nhau. Điều
này đã được Coleman (1988) khẳng định khi xem xét mối quan hệ qua lại giữa vốn
xã hội và vốn con người. Ông cho rằng, vốn xã hội trong gia đình và cộng đồng có
thể tạo ra vốn con người. Theo Coleman, có 3 loại vốn khác nhau tồn tài bên trong
gia đình có thể ảnh hưởng tới thành tích học tập của những người con, đó là: vốn tài
chính, vốn con người và vốn xã hội. Trong đó, vốn tài chính thể hiện ở tài sản, thu
nhập của cha mẹ; vốn con người là tiềm năng của cha mẹ nhằm tạo ra môi trường
giúp đỡ con cái học tập; còn vốn xã hội trong gia đình và cộng đồng đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo ra vốn con người cho thế hệ kế cận. Halpern cũng cho rằng,
mối quan hệ chặt chẽ giữa cha mẹ và con cái có vai trò dẫn dắt trẻ em đến những kỳ
vọng và thành công cao hơn về giáo dục. Vốn xã hội của cha mẹ (mạng lưới quan hệ
xã hội, uy tín xã hội của cha mẹ) có ảnh hưởng tích cực đến quá trình học tập của con
cái. Các yếu tố khác như trường học, cộng đồng nơi cá nhân sống, quan hệ chặt chẽ
giữa các giáo viên, cha mẹ với nhà trường, giữa các phụ huynh cũng giúp cho kết quả
học của trẻ được tốt hơn [48]. Fukuyama (1995) [74] cũng cho rằng vốn con người
và vốn xã hội ảnh hưởng lẫn nhau. Vốn con người có thể làm tăng vốn xã hội. Thí
dụ, người có học sẽ ý thức hơn tầm quan trọng của việc săn sóc con cái, và con cái
sẽ cố gắng học hành, trau dồi vốn con người của mình để đáp lại cha mẹ (Francis
Fukuyama, 1995) [74]. Một số tác giả của Việt Nam cũng đề cập một cách gián tiếp
về mối liên hệ giữa vốn xã hội và vốn con người. Theo Đặng Thanh Trúc (1995),
trình độ học vấn của bố mẹ, sự quan tâm của bố mẹ trong việc dạy con có ảnh hưởng
tích cực đến kết quả học tập của con cái. Lê Bạch Dương và cộng sự (2005) cho rằng
mức vốn xã hội thấp như yếu tố quyết định tình trạng nghèo và tính dễ tổn thương
của hộ gia đình nông thôn gồm các vấn đề tài sản, đất đai và các yếu tố của vốn con
người (năng lực con người trong giáo dục, nghề nghiệp, sức khỏe [48]. Coleman
(1994) đã đưa ra cấu trúc mạng lưới ba người dưới dạng một tam giác đều, trong đó
71
các đỉnh của tam giác chính là vốn con người, còn các cạnh của tam giác đó chính là
vốn xã hội, biểu thị cho mối quan hệ giữa các cá nhân.
2.4. Các yếu tố có ảnh hưởng đến vốn xã hội
Vốn xã hội là một bộ phận của hệ thống xã hội đặc thù nên nó luôn gắn liền với
mạng lưới quan hệ xã hội, lòng tin, sự tham gia xã hội và các chuẩn mực, giá trị đi
kèm theo chúng. Do vậy, vốn xã hội cũng phản ánh đặc trưng của bối cảnh văn hóa -
lịch sử, sự đa dạng, rộng lớn và phức tạp về mặt xã hội của từng hệ thống xã hội. Bối
cảnh kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội chắc chắn sẽ tạo nên các quy luật xã hội cơ
bản, có tác động đến sự hình thành, biến đổi và phát triển của vốn xã hội một cách
khác nhau giữa các quốc gia, mỗi nơi sẽ có những đặc thù riêng biệt. Nói cách khác,
bối cảnh kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia sẽ có ảnh hưởng quan
trọng đến nguồn vốn xã hội của quốc gia đó. Cụ thể hơn, môi trường và thể chế nói
chung của một đất nước cũng như trong một lĩnh vực nào đó sẽ có tác động không
nhỏ đến vốn xã hội của quốc gia đó hoặc lĩnh vực đó.
Bên cạnh đó, với mỗi kết cấu nền tảng xã hội riêng, con người ở đó sẽ có những
đặc trưng riêng về tâm lý, tính cách, phong tục, tập quán, cách suy nghĩ, lối sống, với
những điểm khác biệt những nơi khác. Có thể đó là những ưu điểm hay nhược điểm
về sự sáng tạo, tinh thần kỷ luật, ý thức gắn kết cộng đồng, tinh thần học hỏi, cầu thị,
sự khiêm tốn... Ngoài ra, tình trạng phát triển của xã hội dân sự, tức là những tổ chức
tự nguyện của người dân trong sinh hoạt cộng đồng, có tiếng nói và vai trò độc lập
với thể chế và thị trường, cũng phản ánh thực trạng vốn xã hội ở quốc gia đó. Xã hội
dân sự phát triển tức là có nhiều người dân tập hợp trong những tổ chức tự nguyện
hoạt động ngoài khuôn khổ chính quyền và hoạt động phi lợi nhuận, với mục đích từ
thiện, giúp đỡ cộng đồng, hợp tác hỗ trợ nhau trong nghề nghiệp. Qua những tổ chức
này, ý thức trách nhiệm công dân với cộng đồng được nâng lên, tăng cường sự gắn
kết cộng đồng, phục vụ lợi ích cộng đồng ở những việc mà thị trường và nhà nước
không thể hoặc khó làm được tốt. Một xã hội dân sự phát triển lành mạnh sẽ góp
phần nâng cao nguồn vốn xã hội của đất nước.
72
2.5. Lý thuyết về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN
Qua nghiên cứu các lý thuyết về vốn xã hội ở Việt Nam và trên thế giới, có thể
thấy các nghiên cứu về vốn xã hội tập trung vào những hướng sau: i) Vốn xã hội
trong lĩnh vực kinh tế; ii) Vốn xã hội trong lĩnh vực chính trị và quản lý; iii) Vốn xã
hội trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục. Như vậy, chưa có nhiều nghiên cứu về vốn
xã hội trong hoạt động KH&CN. Trên thế giới mới chỉ có một số nghiên cứu về các
khía cạnh riêng lẻ của vốn xã hội, đặc biệt là về mạng lưới xã hội, quan hệ cộng tác
giữa các tổ chức, cá nhân nhà khoa học trong công bố khoa học, phát triển công
nghệ mới.
Với vai trò quan trọng của vốn xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,
việc nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN là rất cần thiết,
nhằm tìm hiểu được những tác động của vốn xã hội trong từng đặc điểm của hoạt
động KH&CN, bao gồm: các hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D,
công bố khoa học, đào tạo, chuyển giao tri thức - thương mại hóa công nghệ. Các
hoạt động KH&CN có những đặc trưng riêng, khác với những hoạt động khác, và
bởi vậy vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN cũng có những đặc điểm riêng.
Nghiên cứu về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN cũng chính là bàn đến vai
trò của các thành tố trong vốn xã hội có tác động (tích cực và tiêu cực) đến các hoạt
động của KH&CN, đó là các thành tố: mạng lưới xã hội; sự tin cậy; sự tương tác, có
đi - có lại. Đây là những điểm mà các nghiên cứu trước chưa bàn đến, là khoảng
trống giữa sự vận động của thực tiễn và nhận thức lý luận cần được lấp đầy trong
khuôn khổ chủ đề vốn xã hội.
Một trong những vấn đề đặt ra trong lý thuyết về vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN là xây dựng được những quan điểm lý thuyết mới, khái quát hóa từ thực
tiễn của việc tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn xã hội trong hoạt động KH&CN ở
Việt Nam, không chỉ định hướng cho các nghiên cứu thực nghiệm mà còn giúp cho
các nhà quản lý và hoạch định chính sách KH&CN phát huy những mặt tích cực,
hạn chế những biểu hiện tiêu cực của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN.
73
Trong các nghiên cứu về vốn xã hội đã có trước đây, các tác giả đều nhấn
mạnh đến đặc tính quan trọng của vốn xã hội là muốn tạo dựng và sử dụng vốn xã
hội phục vụ mục đích của mình, các cá nhân và chủ thể hành động phải đầu tư để
tạo dựng và phát triển vốn xã hội [64, 69, 70, 79]. Do vậy, nghiên cứu về vốn xã hội
trong hoạt động KH&CN bao gồm cả việc nghiên cứu về việc tạo dựng và sử dụng
vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN.
Các nghiên cứu về vốn xã hội cũng cho thấy quan điểm lý thuyết về sự chuyển
đổi giữa các loại vốn, đặc biệt là chuyển đổi từ vốn con người (tri thức, kỹ năng,
kinh nghiệm nghề nghiệp…) sang vốn xã hội và ngược lại, từ vốn xã hội chuyển đổi
sang vốn con người [68, 69]. Đây chính là những tác động tích cực của vốn xã hội.
Các quan điểm lý thuyết này là những lập luận quan trọng giúp khám phá vai
trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN. Các nghiên cứu về vốn xã hội
trong khoa học và trong các tổ chức/tập thể làm việc nhóm cũng cho thấy tầm quan
trọng của vốn xã hội. Vốn xã hội không chỉ là những chất kết dính các “viên gạch”
trong một cấu trúc, mà nó còn làm cho cấu trúc đó mạnh mẽ, vững chãi hơn. Trong
bối cảnh hiện nay, vốn xã hội rất quan trọng bởi nó thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau,
sự kết nối trong mạng lưới và xây dựng niềm tin giữa con người với nhau. Tại nơi
làm việc, sự kết nối xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc làm cho các cá
nhân và nhóm làm việc trở nên nổi trội, kiên cường hơn. Mức vốn xã hội cao tạo ra
lòng tin giữa các cá nhân trong mạng lưới, làm cho các xung đột trở nên an toàn,
mạnh mẽ và cởi mở. Sự xung đột sáng tạo nếu được thực hiện tốt sẽ tạo ra vốn xã
hội, từ đó làm cho các xung đột trở nên an toàn và mang tính xây dựng. Quá trình
xây dựng vốn xã hội phải xuất phát từ sự tích lũy các hành động nhỏ.
Nếu không có mức vốn xã hội cao, nhóm làm việc sẽ không có được những
cuộc tranh luận, trao đổi sôi nổi nhằm giải quyết những vấn đề khó khăn. Sự sáng
tạo đòi hỏi một môi trường an toàn, nhưng không có vốn xã hội thì sẽ có không có
những ý tưởng mới, những ý tưởng không thể đoán trước, những câu hỏi kiểm tra,
phản biện… Ngay cả những người tài năng nhất cũng cần có vốn xã hội. Vốn xã hội
không phải là sự đồng thuận. Điều đó không có nghĩa là đồng nghiệp trong nhóm
74
phải trở thành những người bạn tốt nhất hoặc phải luôn luôn cổ vũ nhau. Trong các
nhóm nghiên cứu có mức vốn xã hội cao, sự không đồng ý không phải là một điều
nguy hiểm, mà nó được coi là dấu hiệu cho thấy sự quan tâm; các thành viên trong
nhóm có tư duy tốt nhất có thể không nhất trí với ý kiến của bạn nhưng luôn biết
cách tham khảo chúng. Họ biết rằng mọi ý tưởng đều có thể khởi đầu một cách
không hoàn thiện, không đầy đủ hoặc thậm chí hết sức tệ. Trong các tổ chức có mức
độ vốn xã hội cao, sự xung đột, tranh luận và thảo luận là các phương tiện làm cho
các ý tưởng trở nên hoàn thiện hơn.
Việc xây dựng vốn xã hội làm cho các nhóm nghiên cứu hoạt động hiệu quả
hơn, sáng tạo hơn vì mức độ tin cậy cao tạo ra một môi trường an toàn và trung
thực. Trong nhóm nghiên cứu hoạt động hiệu quả, các thành viên sẽ thúc đẩy sự
chia sẻ kiến thức và chuyên môn; họ không để cho nhau bị rơi vào tình thế bị mắc
kẹt hoặc bối rối, mà cố gắng ngăn chặn các vấn đề trước khi chúng nảy sinh và
không để cho các đồng nghiệp bị cô lập hoặc bị tách rời khỏi nhóm. Các nhóm có
thời gian làm việc cùng nhau càng lâu, vốn xã hội càng được tích lũy, càng mang lại
nhiều lợi ích cho nhóm.
Theo Vũ Cao Đàm (2013) [19], vốn xã hội chính là mạng lưới liên kết giữa
con người, nhưng không phải là con người trong tập hợp những con người với tư
cách là một nguồn lực hữu hình (tangible resource), càng không phải là con người
hữu hình tách biệt nhau trong xã hội, mà là con người được kết tinh và hội tụ những
giá trị tinh thần trong một mạng lưới xã hội xác định, một truyền thống văn hóa cụ
thể nào đó, những con người hòa trong cộng đồng hình thành một thứ nguồn lực vô
hình (intangible resource) làm nên sức mạnh cho sự phát triển xã hội, trong đó có
sự phát triển KH&CN.
Trong hoạt động KH&CN, những nguồn lực vô hình này có thể kể tên được.
Đó là mạng liên kết bền vững giữa các nhà nghiên cứu, sự tin cậy trong hoạt động
KH&CN, các chuẩn mực đạo đức của cộng đồng KH&CN, các thang giá trị của
KH&CN trong xã hội, các quan hệ hợp tác trong hoạt động KH&CN. Đây cũng
chính là các đặc điểm của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN.
75
Vốn xã hội trong KH&CN được xem xét trên ba cấp độ:
- Cấp độ vi mô (micro-level, cá nhân);
- Cấp độ trung mô (meso-level, các nhóm xã hội);
- Cấp độ vĩ mô (macro-level, quốc gia và quốc tế).
Sự tương tác giữa các cấp độ, cụ thể là giữa các cá nhân với các nhóm xã hội,
với quốc gia và quốc tế sẽ làm cho vốn xã hội “giàu lên” hoặc “nghèo đi”, và hệ quả
tất yếu là sẽ làm cho nguồn vốn xã hội phát triển, suy thoái hoặc cạn kiệt.
Xã hội càng kém phát triển, bộ máy quản lý càng độc đoán quan liêu, bất bình
đẳng xã hội càng lớn, tham nhũng càng nghiêm trọng, vai trò lũng đoạn của các
nhóm lợi ích trong xã hội càng lớn lên, thì các yếu tố cấu thành nguồn vốn xã hội,
như “lòng tin”, “quan hệ hợp tác”, các “chuẩn mực” càng bị xói mòn và bị triệt phá
đến suy kiệt.
Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau và dựa trên các kết quả nghiên cứu
trong nhiều lĩnh vực về vốn xã hội, song các lý thuyết về vốn xã hội đều gặp nhau ở
những điểm sau đây:
(1) Vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội;
(2) Vốn xã hội là nguồn lực cần thiết cho các loại hoạt động nhất là lao động
sản xuất;
(3) Vốn xã hội được tạo ra thông qua việc đầu tư vào thiết lập, duy trì, củng
cố, phát triển các quan hệ xã hội, hoặc mạng lưới xã hội, và các cá nhân có thể sử
dụng vốn xã hội để tìm kiếm hoặc tăng cường những lợi ích nhất định;
(4) Bao gồm sự tin cậy và quan hệ qua lại [55].
2.6. Tiểu kết chương 2
Thông qua việc phân tích các khái niệm cơ bản về vốn xã hội, hoạt động
KH&CN, nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh và các khái niệm liên quan,
cũng như vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN, có thể thấy đây là cơ
sở lý thuyết quan trọng cho việc nghiên cứu về các đặc điểm của nhóm nghiên cứu
mạnh, vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh và
vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN. Việc nghiên cứu về các thành
76
tố cơ bản của vốn xã hội như: mạng lưới xã hội, sự tin cậy, sự tương tác/có đi, có lại
đã chỉ rõ các khía cạnh cần nghiên cứu để đánh giá về vai trò của vốn xã hội trong
các hoạt động KH&CN.
Đặc biệt, cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa vốn xã hội (social capital) và tài
sản vô hình (intangible assets) đã góp phần nâng cao tư tưởng khoa học cho việc
nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội. Với bản chất là một nguồn vốn, một loại tài
sản vô hình, vốn xã hội cũng với các nguồn lực vô hình khác như: tri thức, kỹ năng,
uy tín, văn hoá, lãnh đạo và truyền thông, các mối quan hệ đã tạo nên một giá trị
không nhỏ trong hiệu quả công việc của bất cứ một tổ chức nào, trong đó có những
nhóm nhỏ như nhóm nghiên cứu mạnh. Hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên
cứu mạnh cũng không nằm ngoài đối tượng chịu tác động của vốn xã hội, đặc biệt
là yếu tố các mối quan hệ, uy tín, lãnh đạo, tri thức. Bởi trong hoạt động KH&CN,
nhất là nghiên cứu khoa học, không thể tiến hành các nghiên cứu khoa học lớn mà
không có sự hợp tác, kết nối, hỗ trợ từ các cá nhân, thành viên trong và ngoài nhóm
nghiên cứu. Trong tổ chức của nhóm nghiên cứu, vốn xã hội không chỉ có tính chất
liên kết các thành viên trong nhóm, mà còn làm cho nhóm trở nên mạnh mẽ, phát
triển lớn mạnh hơn. Trong mạng lưới nghiên cứu nói riêng, vốn xã hội càng trở nên
quan trọng bởi nó thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau, sự hợp tác, kết nối trong mạng
lưới nghiên cứu, cũng như sự tin tưởng lẫn nhau trong cộng đồng KH&CN.
Qua nghiên cứu cho thấy, vốn xã hội trong hoạt động KH&CN được xem xét
trên các cấp độ khác nhau, bao gồm: cấp độ vi mô (micro-level, cá nhân); cấp độ
trung mô (meso-level, các nhóm xã hội); cấp độ vĩ mô (macro-level, quốc gia và quốc
tế). Việc nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các
nhóm nghiên cứu mạnh cũng cần được xem xét, nghiên cứu dựa trên ba cấp độ nêu
trên.
77
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH VÀ VỐN XÃ
HỘI CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
3.1. Dẫn nhập
Trong những thập niên đầu của năm 2000, một số đề tài luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Quản lý KH&CN và Chính sách KH&CN - Đại học Quốc gia Hà Nội
của các tác giả như: Phạm Thị Bích Hà, Nguyễn Thị Mùi, Lê Yên Dung, ... cũng đã
nghiên cứu về mô hình đại học nghiên cứu, trong đó đã đề cập đến cụm từ “nhóm
nghiên cứu”. Tương tự, trên một số tạp chí khoa học trong nước đã xuất hiện nhiều
bài viết lược dịch hoặc dưới dạng cảm nhận về các trường đại học nghiên cứu tiên
tiến trên thế giới, trong đó có nhắc đến nhóm nghiên cứu trong các trường đại học
nói chung và trường đại học nghiên cứu nói riêng như một phần tử không thể thiếu
trong hệ thống [22, 23, 25].
Trên thế giới, các nhóm nghiên cứu ở các nước có nền giáo dục hiện đại phát
triển từ những năm đầu thế kỷ XX. Còn ở Việt Nam, theo Nguyễn Văn Đạo, “các
nhóm nghiên cứu của ta phát triển mạnh vào những năm 60” [20].
Trong Tạp chí Hoạt động khoa học số 4/2003, trong bài viết “Giải pháp về tổ
chức nhằm kết hợp đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các trường đại học”, tác
giả Trịnh Ngọc Thạch – Đại học Quốc gia Hà Nội đã nêu ra giải pháp Hệ thống tổ
chức “mềm” về nghiên cứu khoa học trong đó có đề cập đến nhóm nghiên cứu hay
nhóm chuyên môn (Scientific Working Group - SWG) [47].
Để hoạt động KH&CN thực sự đóng vai trò nòng cốt cho sự phát triển của Đại
học Quốc gia Hà Nội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và góp phần đưa Đại
học Quốc gia Hà Nội trở thành đại học định hướng nghiên cứu trong nhóm 100 đại
học hàng đầu châu Á vào năm 2020, Đại học Quốc gia Hà Nội đã xác định 4 quan
điểm phát triển hoạt động KH&CN, đó là: (1) Phát triển KH&CN theo tiếp cận sản
phẩm đầu ra, gắn với thực tiễn, phù hợp với Chiến lược phát triển Đại học Quốc gia
Hà Nội, Chiến lược phát triển KH&CN quốc gia; (2) Khoa học cơ bản là nền tảng
và động lực để phát triền khoa học ứng dụng, khoa học liên ngành; nâng cao vị thế
78
trong nước và quốc tế của Đại học Quốc gia Hà Nội; (3) Nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo; (4) Hội nhập quốc tế là
mục tiêu và phương thức để tiếp cận KH&CN tiên tiến của thế giới và thu hút các
nguồn lực cho các hoạt động KH&CN của Đại học Quốc gia Hà Nội [15].
Trong đó, việc xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh và các
Phòng thí nghiệm trọng điểm là phương thức để Đại học Quốc gia Hà Nội xác định
các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm kết hợp với tập trung ưu tiên đầu tư tăng cường
tiềm lực KH&CN để một số nhóm nghiên cứu có đủ khả năng làm đầu mối triển
khai các nghiên cứu đỉnh cao, hướng tới các sản phẩm hoàn chỉnh và hình thành các
nhóm nghiên cứu mạnh, Trung tâm nghiên cứu xuất sắc. Đồng thời, các nhóm
nghiên cứu mạnh cũng là giải pháp phát huy sáng tạo và khát vọng khoa học của
các nhà khoa học, giảng viên và sinh viên, tăng khả năng thu hút các nguồn lực, tạo
động lực gia tăng các giá trị KH&CN, nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy sự
phát triển của Đại học Quốc gia Hà Nội và các đơn vị theo định hướng nghiên cứu.
Trong chương này sẽ làm rõ các đặc điểm của nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại
học Quốc gia Hà Nội (các tiêu chí cơ bản của nhóm nghiên cứu mạnh, quy mô, cơ
cấu tổ chức của các nhóm nghiên cứu mạnh, các hoạt động KH&CN của các nhóm
nghiên cứu mạnh) và đặc điểm vốn xã hội của các nhóm nghiên cứu này (chân dung
xã hội của các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh, mạng lưới xã hội, sự tin tưởng
giữa các thành viên, sự tương tác, có đi - có lại trong các nhóm nghiên cứu mạnh).
3.2. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội
3.2.1. Các tiêu chí cơ bản và nguồn nhân lực hình thành nhóm nghiên cứu
mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội
Trong một đại học nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nói chung, nhóm nghiên cứu
mạnh nói riêng là các đơn vị cấu trúc và chức năng của hệ thống, là yếu tố quyết
định cho sự thành công của các hoạt động KH&CN cũng như đào tạo SĐH của đại
học đó. Xác định được vai trò cốt lõi của các nhóm nghiên cứu mạnh trong hoạt
động khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong cả
nước xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh. Trong Chiến lược phát
79
triển đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Đại học Quốc gia Hà Nội đã xác
định nhiệm vụ xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, các trung tâm
xuất sắc (COE) và các mạng lưới liên hoàn để có được các kết quả khoa học đỉnh
cao và sản phẩm công nghệ đột phá gắn với bằng sở hữu trí tuệ, các giải thưởng
KH&CN quốc gia và quốc tế, các bài báo quốc tế đăng tải trên các tạp chí danh
tiếng, các công trình chuyên khảo có uy tín và các giải pháp tư vấn chính sách cho
các cơ quan hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước [15].
Tại Hội nghị tổng kết hoạt động KH&CN 2006-2010 và phương hướng phát
triển KH&CN 2011-2015, Đại học Quốc gia Hà Nội chủ trương tiếp tục thực hiện
giải pháp ưu tiên: Phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu quốc tế
và tập thể khoa học tinh nhuệ để có được các kết quả khoa học đỉnh cao và sản
phẩm công nghệ đột phá gắn với bằng sở hữu trí tuệ, các giải thưởng KH&CN cấp
quốc gia, quốc tế, các bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí khoa học danh tiếng, các
công trình chuyên khảo có uy tín và các giải pháp tư vấn chính sách cho các cơ
quan hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tác giả Trương Quang Học là một trong những người đầu tiên của Đại học Quốc gia
Hà Nội đã có những nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm quốc tế (Hà Lan, Đức, Hoa Kỳ...)
về mô hình và tổ chức hoạt động của nhóm nghiên cứu [30-32]. Theo đó, các nhóm nghiên
cứu tuy rất đa dạng về nhiều mặt, nhưng có thể nêu ra các tiêu chí cơ bản như sau:
1. Người đứng đầu có uy tín và trình độ khoa học, có đạo đức và khả năng tổ
chức các họat động, giao tiếp và tập hợp. Đây là yếu tố quan trọng nhất, quyết định
hướng phát triển, phong cách, văn hóa và sự thành công của Nhóm.
2. Có định hướng khoa học đúng: phù hợp với xu hướng quốc tế và hướng tới
giải quyết các vấn đề thực tế trước mắt cũng như lâu dài.
3. Có một tập thể khoa học thống nhất, đồng tâm, hiệp lực gồm các thế hệ kế
tục nhau (các cán bộ khoa hoc kế cận, các thực tập sinh sau tiến sĩ, NCS, học viên
cao học, sinh viên làm luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp) có hoài bão khoa
học, lòng yêu nghề, say mê nghiên cứu vì khoa học và vì cộng đồng; kết hợp nghiên
cứu khoa học và đào tạo/ tự đào tạo để phát triển liên tục.
80
4. Có điều kiện nghiên cứu phù hợp gồm trang thiết bị, thông tin, tư liệu.
5. Có nguồn kinh phí đảm bảo để duy trì các hoạt động của nhóm từ các
nguồn khác nhau: tài trợ của nhà nước và các tổ chức trong nước và quốc tế, từ các
loại đề tài mà Nhóm có được thông qua các cơ chế tuyển chọn.
6. Kiên trì theo đuổi hướng chuyên môn đã lựa chọn, quyết tâm vượt qua các
khó khăn về điều kiện làm việc, thậm chí sức ép về mặt xã hội để đạt được mục tiêu
khoa học của mình. Các kết quả khoa học được tích lũy và công bố rộng rãi trên các
tạp chí trong nước và quốc tế.
7. Có quan hệ hợp tác và hợp tác quốc tế tốt để có được: (i) Nguồn thông tin,
tư liệu đầy đủ và cập nhật, (ii) Phương pháp luận và phương pháp hiện đại; (iii)
Điều kiện để nâng cao năng lực và trao đổi kết quả, kinh nghiệm nghiên cứu. Điều
này đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam.
8. Có một môi trường phát triển phù hợp (với thể chế chính sách và cơ chế
quản lý cho phép, lý tưởng là minh bạch và hiệu quả).
Các tiêu chí cơ bản nêu trên của nhóm nghiên cứu cũng được thể hiện, phát
triển và chi tiết hóa trong Hướng dẫn số 1409/HD-KH&CN ngày 8/5/2013 của Đại
học Quốc gia Hà Nội về việc xây dựng và phát triển các Chương trình nghiên cứu
trọng điểm và nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học Quốc gia Hà Nội nhằm thúc đẩy
các hoạt động theo định hướng đại học nghiên cứu [14].
Trong văn bản này đã nêu rõ mục tiêu chiến lược của Đại học Quốc gia Hà
Nội, đó là: 1) Xây dựng và phát triển các Chương trình nghiên cứu trọng điểm và
nhóm nghiên cứu mạnh là phương thức mà Đại học Quốc gia Hà Nội và các đơn vị
xác định các nhiệm vụ khoa học trọng điểm kết hợp với tập trung ưu tiên đầu tư
tăng cường tiềm lực KH&CN để một số nhóm nghiên cứu có đủ khả năng làm đầu
mối triển khai các nghiên cứu đỉnh cao, hướng tới các sản phẩm hoàn chỉnh, từng
bước hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc. 2) Phát huy sáng tạo và khát
vọng khoa học của cán bộ và sinh viên, tăng khả năng thu hút các nguồn lực; tạo
động lực gia tăng các giá trị KH&CN, nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường các
81
yếu tố cạnh tranh cả trên phương diện quốc gia và quốc tế; thúc đẩy sự phát triển
của Đại học Quốc gia Hà Nội và các đơn vị theo định hướng nghiên cứu.
Văn bản này cũng định nghĩa: nhóm nghiên cứu mạnh là tập thể các nhà khoa
học được tập hợp theo hướng chuyên môn, hoạt động nghiên cứu khoa học và đào
tạo đạt hiệu quả tốt, có nhiều sản phẩm chất lượng cao, tiếp cận các tiêu chí của đại
học nghiên cứu tiên tiến; có khả năng làm nòng cột hoặc phối hợp với các nhóm
nghiên cứu khác để triển khai các nội dung khoa học của Chương trình.
Các nhóm nghiên cứu mạnh sẽ làm nòng cốt để thực hiện các chương trình
nghiên cứu trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, thực hiện các nhiệm vụ phát
triển các sản phẩm KH&CN chủ lực của Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là các
sản phẩm nằm trong danh mục các sản phẩm KH&CN quốc gia đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.
Theo Hướng dẫn 1409, nhóm nghiên cứu là một hình thức tổ chức mở; hoạt
động có tính ổn định tương đối nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững của quá trình đầu
tư và phát triển. Nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành dựa trên các nguồn nhân
lực sau đây:
- Các cán bộ khoa học của một phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm
nghiên cứu và sự tham gia của các cán bộ khoa học ở các đơn vị khác (trong và
ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội) có cùng chuyên môn;
- Cán bộ khoa học có cùng một hướng nghiên cứu từ các đơn vị khác nhau
được tập hợp do một nhà khoa học có uy tín đứng đầu để phát triển một hướng
nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu liên ngành. Khuyến khích nhóm nghiên cứu có
sự tham gia của các nhà khoa học quốc tế xuất sắc (có công bố quốc tế hoặc ấn
phẩm khoa học cùng hướng nghiên cứu) theo hình thức cộng tác viên hoặc hình
thức hợp tác phù hợp khác.
- Nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQG: có khả năng tích hợp, kết nối nhiều đề
tài thành Chương trình nghiên cứu lớn, hướng đến sản phẩm KH&CN tiêu biểu
quốc gia, quốc tế; tạo được các yếu tố cạnh tranh; có thể đầu tư hướng tới hình
thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc.
82
- Các tiêu chí cụ thể của Lãnh đạo nhóm nghiên cứu mạnh bao gồm:
Lãnh đạo nhóm nghiên cứu mạnh là cán bộ khoa học cơ hữu của Đại học
Quốc gia Hà Nội hoặc nhà khoa học khác ở trong và ngoài nước, có học vị tiến sĩ
trở lên, có uy tín khoa học, có khả năng quản lý và tập hợp các nhà khoa học. Trong
5 năm gần đây có các thành tích sau trên lĩnh vực trùng với định hướng nghiên cứu
chính của nhóm:
+ Chủ trì đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội trở lên;
+ Là tác giả hoặc chủ biên của ít nhất 01 sách chuyên khảo hoặc tác giả, đồng
tác giả của ít nhất 05 công bố ISI hoặc tác giả của ít nhất 01 phát minh, sáng chế;
hoặc có các sản phẩm KH&CN được giải thưởng, có ứng dụng thực tiễn có tác
động xã hội lớn, có giá trị lý luận, làm cơ sở tư vấn cho hoạch định chính sách quốc
gia hoặc tích hợp một số thành tích đã nêu;
+ Đã từng là báo cáo viên được mời (invited speaker) tại các hội nghị, hội thảo
quốc gia, quốc tế;
+ Đã và đang hướng dẫn NCS (NCS);
+ Sử dụng thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ phổ biến (Anh, Nga, Pháp, Trung
Quốc), trong đó giao tiếp được bằng tiếng Anh;
+ Có tầm nhìn, kế hoạch chiến lược dài hạn, có khả năng đánh giá tầm ảnh hưởng
và xu hướng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu, có quan điểm phát triển bền vững;
+ Có mục tiêu và chiến lược nghiên cứu rõ ràng, phù hợp với các hướng
nghiên cứu trọng tâm, mũi nhọn của quốc gia và Đại học Quốc gia Hà Nội;
+ Có khả năng đề xuất các nghiên cứu tích hợp, kết nối thành những chương
trình nghiên cứu lớn, hướng đến sản phẩm tầm cỡ quốc gia, quốc tế;
+ Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho hoạt động của
nhóm.
- Các tiêu chí của thành viên nhóm nghiên cứu mạnh gồm:
+ Là các nhà khoa học trong nước (và quốc tế) có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trở
lên; đã có các sản phẩm KH&CN tiêu biểu trong hướg nghiên cứu;
+ Đã và đang hướng dẫn học viên cao học và NCS;
83
+ Đã thực hiện và hoàn thành các chương trình nghiên cứu đúng kế hoạch.
Các tiêu chí nêu trên được xây dựng dựa vào phương thức tính điểm cho các
sản phẩm khoa học của Hội đồng Chức danh giáo sư Nhà nước và chủ trương
khuyến khích phát triển các sản phẩm hoàn chỉnh, công bố quốc tế, phát minh, sáng
chế, theo mức điểm cho từng loại sản phẩm. Trong đó, mức điểm tối thiểu của
thông tin về trưởng nhóm nghiên cứu mạnh là 15 điểm; mức điểm tối thiểu của
thông tin về thành viên nhóm nghiên cứu mạnh là 25 điểm (Phụ lục 3, Hướng dẫn
số 1409/HD-KHCN ngày 8/5/2013 của Đại học Quốc gia Hà Nội).
Bên cạnh các tiêu chí về trưởng nhóm và thành viên nhóm nghiên cứu mạnh,
còn có các điều kiện khác về cơ sở vật chất, hợp tác nghiên cứu, phát triển bền
vững.
- Về cơ sở vật chất và trang thiết bị: đã có cơ sở vật chất và các trang thiết bị
cơ bản để triển khai hướng nghiên cứu.
- Hợp tác nghiên cứu:
+ Hợp tác quốc tế có các hoạt động và sản phẩm KH&CN chung với đối tác;
+ Các nhà khoa học có khả năng tiếp cận và tham gia hợp tác với doanh
nghiệp, địa phương.
- Phát triển bền vững:
+ Hàng năm gia tăng các số lượng các sản phẩm KH&CN ít nhất 15%;
+ Sau 5 năm đầu tư và hoạt động, đạt các tiêu chí của trường đại học nghiên
cứu thuộc nhóm 500 của thế giới như quy định tại Hướng dẫn số 1206/HD-Đại học
Quốc gia Hà Nội ngày 23/4/2013.
Đại học Quốc gia Hà Nội là một đại học đa ngành, đa lĩnh vực, do vậy để tạo
thuận lợi cho việc xác định các nhóm sản phẩm đặc thù, tăng cường hiệu quả của
công tác quản lý, đầu tư và việc đánh giá kết quả, các nhóm nghiên cứu mạnh được
- Nhóm lĩnh vực Khoa học xã hội và kinh tế mũi nhọn (bao gồm khoa học xã
phân loại theo các lĩnh vực sau:
- Nhóm lĩnh vực Khoa học tự nhiên và у dược.
hội - nhân văn, kinh tế, luật, giáo dục, ngôn ngữ và nghiên cứu quốc tế).
84
- Nhóm lĩnh vực Công nghệ và kỹ thuật.
- Nhóm lĩnh vực Khoa học liên ngành.
Đây cũng chính là những điểm khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu mạnh tại
Đại học Quốc gia Hà Nội với các nhóm nghiên cứu mạnh ở các cơ sở nghiên cứu,
đào tạo khác.
3.2.2. Đặc điểm về quy mô, cơ cấu tổ chức của các nhóm nghiên cứu mạnh
tại Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngay sau khi Hướng dẫn 1409 ra đời, năm 2014, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
có 16 nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội ra đời. Trong đó, có 9
nhóm nghiên cứu mạnh thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, công nghệ và kỹ thuật
(chiếm tỷ lệ 56,25%), 7 nhóm nghiên cứu mạnh thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn (chiếm tỷ lệ 43,75%). Điều này cho thấy, số lượng các nhóm nghiên cứu
mạnh trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ít hơn đáng kể so với số lượng
các nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, công nghệ và kỹ
thuật. Đặc biệt, tỷ lệ trưởng nhóm nghiên cứu mạnh là nữ giới rất ít, chỉ có 2 nhóm
nghiên cứu mạnh có trưởng nhóm là nữ (chiếm tỷ lệ 12,5%), còn lại hầu hết trưởng
nhóm nghiên cứu mạnh đều là nam giới (87,5%). Các thành viên nhóm nghiên cứu
mạnh là nữ giới cũng chỉ chiếm 31,8%, còn lại là các thành viên nam giới (68,2%).
Điều này có thể lý giải do đặc thù các lĩnh vực khoa học tự nhiên, công nghệ và kỹ
thuật chiếm ưu thế và có tỷ lệ các nhà khoa học là nam giới cao. Do vậy, số lượng
các nhà khoa học nữ trong các lĩnh vực này luôn ít hơn so với nam. Tương tự, trong
các nhóm nghiên cứu mạnh, số các nhà khoa học nữ cũng chiếm tỷ lệ ít hơn so với
nam giới.
Đến ngày 13/8/2015, Đại học Quốc gia Hà Nội đã công nhận thêm 5 nhóm
nghiên cứu mạnh, nâng tổng số nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà
Nội lên 21 nhóm (Quyết định số 2921/QĐ-Đại học Quốc gia Hà Nội). Trong đó, có
10 nhóm nghiên cứu mạnh thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, kỹ thuật
(chiếm tỷ lệ 47,62), 11 nhóm nghiên cứu mạnh thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và
Nhân văn (52,38%). Lúc này, số lượng các nhóm nghiên cứu mạnh ở các lĩnh vực
85
khoa học tự nhiên và công nghệ, kỹ thuật gần như tương đương với số lượng các
nhóm nghiên cứu mạnh ở lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Tính đến thời điểm cuối năm 2017, Đại học Quốc gia Hà Nội đã công nhận
thêm 6 nhóm nghiên cứu mạnh, nâng tổng số nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học
Khoa Luật (3 nhóm), 11.11%
ViệnVNH&KHPT (1 nhóm), 3.70%
ĐHKHTN (10 nhóm), 37.04%
ĐHKT (4 nhóm), 14.82%
ĐHKHXH&NV (5 nhóm), 18.52%
ĐHGD (1 nhóm), 3.70%
ĐHCN (3 nhóm), 11.11%
Quốc gia Hà Nội lên 27 nhóm nghiên cứu mạnh với tỷ lệ như trong Biểu đồ 3.1.
Biểu đồ 3.1. Số lượng các nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội của các trường, đơn vị trực thuộc. VNH&KHPT: Việt Nam học và Khoa học phát triển; ĐHKT: Đại học Kinh tế; ĐHGD: Đại học Giáo dục; ĐHCN: Đại học Công nghệ; ĐHKHTN: Đại học Khoa học tự
So với các cơ sở đào tạo khác trong cả nước, Đại học Quốc gia Hà Nội thuộc
top có nhiều nhóm nghiên cứu, tuy nhiên vẫn ít hơn các trường đại học như: Trường
86
Đại học Bách khoa Hà Nội (127 nhóm), Đại học Tây Nguyên (42 nhóm), Đại học
Đà Nẵng (36 nhóm)… (Biểu đồ 3.2).
m ó h N
ĐHBKHN: Đại học Bách khoa Hà Nội; ĐHTN: Đại học Tây Nguyên; ĐHĐN: Đại học Đà Nẵng; ĐHHY: Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên; ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội; ĐHQGTPHCM: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
140
120
100
80
127
60
40
20
42
36
30
27
24
0
ĐHBKHN
ĐHTN
ĐHĐN
ĐHHY
ĐHQGHN
ĐHQGTPHCM
Biểu đồ 3.2. So sánh số lượng nhóm nghiên cứu mạnh của các cơ sở đào tạo trong cả nước. Nguồn: Theo số liệu của [24].
Trong số 27 nhóm nghiên cứu mạnh, Đại học Kinh tế có 4 nhóm (14,8%);
Trường Đại học Khoa học tự nhiên có 10 nhóm (37,0%), Đại học Công nghệ có 3
nhóm (11,1%), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có 5 nhóm (18,5%),
Trường Đại học Giáo dục có 1 nhóm (3,7%), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
có 3 nhóm (11,1%), Viện Việt Nam học và khoa học phát triển có 1 nhóm (3,7%).
87
Mỗi nhóm có số lượng các thành viên (bao gồm cả trưởng nhóm) dao động trong
khoảng từ 3 đến 39 người.
Có thể thấy, các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội được
phân bố tương đối đều trong 2 lĩnh vực sau: 1) Lĩnh vực Khoa học tự nhiên và công
nghệ, kỹ thuật (13 nhóm, chiếm 48,1%); 2) Lĩnh vực Khoa học Xã hội và Nhân văn
(14 nhóm, chiếm 51,9%). (Xem Biểu đồ 3.3.).
KHTN,CNKT; 48.10%
KHXH&NV; 51.90%
KHXH&NV
KHTN,CNKT
Biểu đồ 3.3. Biểu đồ phân bố lĩnh vực khoa học. KHXH&NV: Khoa học xã hội và nhân văn; KHTN, CNKT: Khoa học tự nhiên, công nghệ, kỹ thuật. Nguồn: NCS tự tổng hợp, thống kê.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của NCS (do NCS tự tìm hiểu, thống kê, do
vậy có thể số liệu chưa hoàn toàn chính xác, chỉ có giá trị tham khảo), tính đến cuối
năm 2017, số thành viên tham gia 27 nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia
Hà Nội là 408 người (bao gồm cả trưởng nhóm nghiên cứu mạnh). Trong đó, có 3
nhóm nghiên cứu mạnh có trưởng nhóm là nữ giới, chiếm tỷ lệ 11,11%, còn lại các
trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều là nam giới (88,89%).
Trong tổng số 408 thành viên nhóm nghiên cứu mạnh (bao gồm cả trưởng
nhóm nghiên cứu mạnh), có khoảng 9,31% các nhà khoa học có học hàm GS;
15,93% có học hàm PGS; 31,86% có học vị TS. Như vậy, số lượng các thành viên
88
có trình độ từ TS trở lên chiếm 57,1% so với tổng số thành viên nhóm nghiên cứu
mạnh. Số lượng các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh là NCS, ThS, học viên cao
học, cử nhân, sinh viên chiếm 42,9% (trong đó, số lượng NCS chiếm ưu thế, với
36,6%, điều này cho thấy sự tham gia đông đảo và nòng cốt của NCS trong việc
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể ở các nhóm nghiên cứu mạnh) (Biểu đồ
GS
GS, 9.31%
PGS
TS
PGS, 15.93%
Khác, 42.90%
Khác
TS, 31.86%
3.4).
Biểu đồ 3.4. Học hàm, học vị của các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh. GS: Giáo sư; PGS: Phó Giáo sư; TS: Tiến sĩ; Khác: Thạc sĩ; Học viên cao học, Cử nhân, Sinh viên. Nguồn: NCS tự tổng hợp, thống kê.
Thực tế cho thấy, các nhóm nghiên cứu mạnh đều có cơ cấu tổ chức gồm các
- Trưởng nhóm nghiên cứu (thường là 1 người, có nhóm có 2 đồng trưởng
thành phần sau (Biểu đồ 3.5):
- Trưởng các nhánh nghiên cứu, cán bộ chủ chốt (tùy theo các nhánh nghiên cứu);
- Thành viên theo thời kỳ (NCS, ThS, học viên cao học, cử nhân, sinh viên).
nhóm);
89
Trưởng nhóm nghiên cứu (Supervisor)
Trưởng nhánh, Cán bộ chủ chốt (permanent members)
Thành viên theo thời kỳ (rotating members)
Biểu đồ 3.5. Cơ cấu tổ chức của các nhóm nghiên cứu mạnh.
Nguồn: NCS tự tổng hợp, thống kê.
Qua tìm hiểu thực tế cho thấy, các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều là các
nhà khoa học đầu ngành, có nhiều kinh nghiệm, hầu hết thuộc thế hệ 3X, 4X, 5X và
6X (với 22 người, chiếm 78,6%, trong đó một nửa là thế hệ 5X), chỉ có 6 người
(21,4%) thuộc thế hệ 7X và 8X (có 1 nhóm nghiên cứu mạnh có 2 đồng trưởng
nhóm) (Biểu đồ 3.6). Hầu hết các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều được đào tạo
bài bản từ các nước tiên tiến trên thế giới (78,6%) như Pháp, Đức, Nhật Bản, Nga,
Ba Lan... Điều này vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các nhóm nghiên cứu mạnh
tại Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay. Các nhà khoa học có uy tín, được đào tạo bài
bản, đứng đầu một lĩnh vực nghiên cứu với kinh nghiệm dày dạn trong việc định
hướng phát triển cho nhóm nghiên cứu mạnh. Tuy nhiên, trong những năm tới đây,
rất cần phát triển, đào tạo các thế hệ có thể kế tục sự nghiệp của các nhà khoa học
đầu ngành đã ở lứa tuổi 70-80.
90
3X
4X
3X, 4.50%
4X, 9.10%
5X
6X
7X, 8X
6X, 18.20%
7X, 8X, 21.40%
5X, 68.20%
Biểu đồ 3.6. Cơ cấu độ tuổi của các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh. 3X: 1930-1939; 4X: 1940-1949; 5X: 1950-1959; 6X:1960-1969; 7X: 1970-1979; 8X: 1980-1989. Nguồn: NCS tự tổng hợp, thống kê.
3.2.3. Đặc điểm về các hoạt động khoa học và công nghệ của các nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội
Thời gian qua, các nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học Quốc gia Hà Nội đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và kinh tế
mũi nhọn, khoa học tự nhiên và y dược, công nghệ và kỹ thuật và khoa học liên
ngành. Những công bố của các nhà khoa học và các nhóm nghiên cứu đã góp phần
quan trọng vào việc đưa Đại học Quốc gia Hà Nội nâng cao thứ bậc trong các bảng
xếp hạng quốc tế. Theo bản công bố xếp hạng năm 2014 của tổ chức QS, Vương
quốc Anh, Đại học Quốc gia Hà Nội đã vươn lên vị trí 161-170 của Châu Á và giữ
vị trí số 1 của Việt Nam [101]. Với vị trí này, Đại học Quốc gia Hà Nội cách xa vị
trí xếp hạng của 2 đại học khác của Việt Nam xuất hiện trong Bảng xếp hạng này là
91
ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh ở vị trí 191-200 và Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội vị trí 251-300. QS xếp hạng thường niên về thứ hạng các trường đại học trên
thế giới chủ yếu dựa theo theo 5 tiêu chí: Ý kiến đánh giá của các học giả; Ý kiến
đánh giá của các nhà tuyển dụng; Tỷ lệ giảng viên/sinh viên; Số bài báo quốc tế
trong hệ thống Scopus; Tỷ lệ giảng viên, sinh viên quốc tế đến giảng dạy và học
tập…
Các hoạt động của nhóm nghiên cứu mạnh được đánh giá dựa trên những kết
quả cụ thể như: tạo ra những nghiên cứu có chất lượng được khẳng định bằng số
lượng công trình khoa học, đặc biệt là số bài báo quốc tế ISI, các sáng chế, thể hiện
khả năng ứng dụng thực tiễn, chuyển giao công nghệ cho xã hội…, mang lại uy tín,
thương hiệu cho trường đại học, thu hút được các học viên giỏi của các chương
trình đào tạo sau đại học, các thực tập sinh sau tiến sỹ đến làm việc…
Theo khảo sát của tác giả Đào Minh Quân (Trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) năm 2018 [43] đối với các nhà khoa học
hiện đang làm việc trong các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội
trong 5 năm trở lại đây (Bảng 3.1), trung bình mỗi thành viên của các nhóm nghiên
cứu mạnh tham gia viết 2 cuốn sách chuyên khảo; công bố 4 bài báo khoa học trên
các tạp chí quốc tế trong danh mục ISI, Scopus; 5 bài báo trên các tạp chí quốc tế
khác; 18 bài báo trên các tạp chí khoa học trong nước; có 0,6 sản phẩm KH&CN có
thể chuyển giao và thương mại hóa; có 2,6 lần tham dự các hội nghị, hội thảo quốc
tế với tư cách là báo cáo viên được mời; đã và đang chủ trì 3 đề tài các cấp; đã và
đang tham gia 5 đề tài.
Số liệu nêu trên cho thấy, thành viên của các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại
học Quốc gia Hà Nội trong 5 năm gần đây tham gia các hoạt động KH&CN một
cách khá thường xuyên và sôi nổi. Nổi bật là việc công bố các bài báo khoa học
trong nước và quốc tế. Các bài báo khoa học, nhất là các bài báo được đăng trên các
tạp chí khoa học danh tiếng trên thế giới chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự
thành công của các kết quả nghiên cứu, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, công nghệ và kỹ thuật. Hiện nay, việc công bố khoa học là một trong những
92
tiêu chí quan trọng khi đánh giá các công trình nghiên cứu, xét duyệt chủ trì các
nhiệm vụ KH&CN cũng như khi bổ nhiệm các vị trí chủ chốt trong nghiên cứu khoa
học. Việc tham gia và chủ trì các đề tài/dự án các cấp cũng là một hoạt động thường
xuyên của các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh, không chỉ mang lại thu nhập mà
còn giúp các nhà khoa học hiện thực hóa các ý tưởng khoa học của mình, kết nối
với mạng lưới các nhà khoa học trong và ngoài nước trong các lĩnh vực nghiên cứu
liên quan.
Bảng 3.1. Một số kết quả KH&CN tiêu biểu của Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn 5 năm trở lại đây [43].
Tên sản phẩm/hoạt động KH&CN Số lượng Tỷ lệ % Bình quân/đầu người
40,7 0
16,8 1
Sách chuyên khảo 2 cuốn 23 2-3
11,5 4-5
8 >5
32,7 0
27,4 1-2
Bài báo ISI\Scopus 4 bài 14,2 3-5
14,2 6-10
11,5 >10
38,9 0
23,9 1-3
Bài báo quốc tế khác 5 bài 13,3 4-6
11,5 7-10
12,4 >10
6,2 0
29,2 1-6
Bài báo trong nước 18 bài 23,0 7-12
12,4 13-18
29,2 >18
93
0 87,6 Số sản phẩm hoàn chỉnh có thể chuyển 0,6 sản phẩm giao và thương mại hóa ≥1 12,4
0 51,3 Số lần tham dự hội nghị/hội thảo quốc tế 2,6 lần với tư cách là báo cáo viên được mời ≥1 48,7
0 15,9
1 19,5
Số đề tài các cấp đã và đang chủ trì 3 đề tài 2-3 32,7
4-6 18,6
>6 13,3
0 7,0
1-3 42,5
Số đề tài các cấp đã và đang tham gia 5 4-6 23,9
7-10 12,4
>10 14,2
3.2.3.1. Hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D
Các nhóm nghiên cứu mạnh vừa có nhiệm vụ tập hợp lực lượng nghiên cứu
vừa tạo ra các sản phẩm khoa học và giải quyết các bài toán quan trọng, đặc biệt là
các chương trình nghiên cứu trọng điểm dựa trên các định hướng nghiên cứu ưu tiên
như:
- Nhóm lĩnh vực Khoa học xã hội và Kinh tế: Chương trình nghiên cứu định vị
và phát triển khoa học xã hội và nhân văn gắn với nhóm nghiên cứu của PGS.TS.
Nguyễn Văn Kim, PGS.TS Vũ Cao Đàm và TS. Đào Thanh Trường; Chương trình
nghiên cứu về kinh tế vĩ mô gắn với nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn Đức Thành,
nhóm nghiên cứu về kinh tế quốc tế và hội nhập của PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn.
- Nhóm lĩnh vực Khoa học Tự nhiên và Y dược: Chương trình nghiên cứu và
phát triển năng lượng tái tạo gắn với nhóm nghiên cứu của GS.TSKH Lưu Văn Bôi
(Hóa học), GS.TS. Nguyễn Năng Định (Vật lý)...
94
- Nhóm lĩnh vực Công nghệ và Kỹ thuật: Chương trình nghiên cứu chế tạo linh
kiện micro-nano và mạch tích hợp ứng dụng trong các hệ thống điều khiển, viễn
thông và y tế gắn với nhóm nghiên cứu của GS.TS. Nguyễn Hữu Đức (vật lý)…
- Mỗi nhóm nghiên cứu mạnh có những định hướng nghiên cứu riêng, được
xác định ngay từ đầu thành lập nhóm. Những định hướng nghiên cứu này thường
xuất phát ban đầu từ các trường phái khoa học của các trưởng nhóm, là những con
chim đầu đàn của nhóm. Đa số các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều là những nhà
khoa học được đào tạo bài bản từ các nước tiên tiến trên thế giới như Pháp, Đức,
Nga, Nhật Bản, Úc, Thụy Sỹ… Theo thống kê, có 22/28 trưởng nhóm nghiên cứu
mạnh được đào tạo tại nước ngoài (chiếm 78,6%). Việc xác định và hình thành
được hướng nghiên cứu hiện đại, có tầm ảnh hưởng trong khoa học là yếu tố quan
trọng, là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhóm nghiên cứu mạnh. Chọn được
hướng đi đúng để có thể tập hợp và xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh thì mới có thể
phát triển bền vững. Bên cạnh đó, mỗi nhóm nghiên cứu mạnh phải có định hướng
nghiên cứu riêng, độc đáo, xuất phát từ những tư tưởng và hệ tiên đề mới, cách tiếp
cận mới, đặc sắc của riêng mình.
- Cùng trong lĩnh vực kinh tế, nhưng 4 nhóm của Trường Đại học Kinh tế lại
có những hướng nghiên cứu hoàn toàn khác nhau: Một nhóm nghiên cứu mạnh
nghiên cứu về các lý thuyết và công cụ phân tích kinh tế vĩ mô hiện đại trong điều
kiện Việt Nam; các vấn đề kinh tế vĩ mô hiện đại của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế; cơ chế điều hành chính sách vĩ
mô, giải pháp công cụ và nội dung chính sách điều hành kinh tế kinh tế vĩ mô trong
điều kiện nền kinh tế mở của Việt Nam. Một nhóm nghiên cứu mạnh nghiên cứu về
các vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế: thương mại, đầu tư, tài chính, lao động quốc tế;
Hiệp định thương mại tự do và các liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu; các hàng
rào phi thuế quan đối với thương mại; lợi thế so sánh các ngành hàng xuất khẩu của
Việt Nam; vấn đề hội nhập hướng tới tăng trưởng xanh. Một nhóm nghiên cứu
mạnh khác nghiên cứu về các vấn đề năng suất chất lượng trong các doanh nghiệp
95
Việt Nam. Nhóm nghiên cứu mạnh còn lại nghiên cứu về quản trị công ty trong
ngân hàng.
- Trong lĩnh vực khoa học vật liệu, có nhóm nghiên cứu mạnh nghiên cứu về
khoa học vật liệu tính toán, có nhóm nghiên cứu mạnh nghiên cứu về vật liệu và
linh kiện micronano, có nhóm nghiên cứu mạnh lại nghiên cứu về vật liệu tiên tiến
trong bảo vệ môi trường và phát triển xanh.
- Chỉ tính riêng Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đã có 3 nhóm nghiên
cứu mạnh, nghiên cứu về các mảng khác nhau như: Luật Hiến pháp - Hành chính;
hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp; pháp luật quốc tế phục vụ chiến lược bảo
vệ chủ quyền và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có 5 nhóm nghiên cứu mạnh,
nghiên cứu về các vấn đề: lịch sử và quan hệ thương mại châu Á; công tác xã hội và
an sinh xã hội; ngôn ngữ học ứng dụng và đối chiếu; nghiên cứu chính sách và quản
lý; tôn giáo và pháp quyền.
- Trường Đại học Khoa học Tự nhiên có số lượng nhóm nghiên cứu mạnh
nhiều nhất trong số các trường, đơn vị thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội với
10 nhóm nghiên cứu mạnh trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và y dược. Trong
lĩnh vực khoa học tự nhiên, có nhiều nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành thông
qua các quan hệ hợp tác quốc tế. Có thể kể đến các nhóm nghiên cứu mạnh như:
nhóm nghiên cứu về năng lượng thuộc khoa Hóa học được hình thành trên cơ sở
hợp tác với Nhật Bản về Biodiesel (dự án JICA) và bổ sung đội ngũ cán bộ qua các
chương trình hợp tác với Mỹ, Pháp; nhóm nghiên cứu về Công nghệ Enzym và
Protein (thuộc Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein) có hợp
tác chặt chẽ với các nhà khoa học của Đại học Hoàng gia Holloway London (Vương
quốc Anh), Viện KAIST (Hàn Quốc) trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ; nhóm
nghiên cứu về Khoa học Phân tích trong môi trường, y sinh, thực phẩm và ứng dụng
được xây dựng và phát triển trên cơ sở hợp tác quốc tế với Thụy Sỹ, Nhật Bản, Đan
Mạch, Mỹ; trong khi đó nhóm nghiên cứu Tính toán trong Khoa học vật liệu (khoa
Vật lý) được hình thành và phát triển chính thức trên cơ sở hợp tác quốc tế với
96
nhóm Computional Materials Science của Viện JAIST từ năm 2008 tới nay…
- Trường ĐHCN có 3 nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực công nghệ và kỹ
thuật. Trường Đại học Giáo dục có 1 nhóm nghiên cứu mạnh về Tâm lý học lâm
sàng. Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển có 1 nhóm nghiên cứu mạnh
nghiên cứu khu vực học.
- Trường Đại học Khoa học tự nhiên có số lượng các nhóm nghiên cứu mạnh
chiếm tỷ lệ cao nhất so với các trường, đơn vị khác của Đại học Quốc gia Hà Nội, với
tỷ lệ 37,04%. Chỉ 4 năm sau khi các nhóm nghiên cứu mạnh được công nhận, số
lượng các đề tài, dự án cấp Đại học Quốc gia Hà Nội trở lên trung bình năm của
Trường đã có sự gia tăng đáng kể với tỷ lệ gia tăng là 20%: từ 20 đề tài, dự án/năm
trước khi được công nhận nhóm nghiên cứu mạnh lên 24 đề tài, dự án/năm sau khi
được công nhận nhóm nghiên cứu mạnh (Biểu đồ 3.7). Sự gia tăng này đặt trong bối
cảnh số lượng đề tài của Trường Đại học Khoa học tự nhiên gần như không có sự
thay đổi (trong đó có nguyên nhân quan trọng là do các khó khăn về kinh tế vĩ mô
30
25
20%
20
15
24
m ă n h n ì b g n u r t n á ự d
10
20
5
0
, i à t ề đ g n ợ ư l ố S
Trước khi được công nhận NNCM
Sau khi được công nhận NNCM
trong giai đoạn hiện nay).
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ các đề tài, dự án từ cấp Đại học quốc gia Hà Nội trở lên của các NNCM. Nguồn: NCS tổng hợp dữ liệu từ [4, 5].
97
Tình hình chung trong 27 nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà
Nội cũng cho thấy điều tương tự, số lượng đề tài/dự án của các nhóm nghiên cứu
mạnh đã tăng hơn so với trước khi được công nhận nhóm nghiên cứu mạnh một
cách đáng kể. Không chỉ các đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, nhiều nhóm
nghiên cứu mạnh còn luôn luôn có khoảng 3-4 đề tài NAFOSTED đang thực hiện,
cùng nhiều đề tài nghị định thư, hợp tác song phương, dự án do quốc tế hỗ trợ. Đặc
biệt, có nhóm nghiên cứu mạnh nhận được các dự án do quốc tế hỗ trợ lâu dài và
bền vững trong nhiều năm liên tục và đang tiếp tục thực hiện các dự án quốc tế với
các tổ chức này.
Thực tế nêu trên cho thấy, sự hình thành và công nhận các nhóm nghiên cứu
mạnh đã tạo ra sức hút lớn hơn, năng lực cạnh tranh cao hơn để các nhóm nghiên
cứu mạnh có thể tiếp nhận các khoản đầu tư cho nghiên cứu.
3.2.3.2. Công bố khoa học
Có thể nói, công bố quốc tế là chứng chỉ thể hiện năng lực hoạt động KH&CN
của các nhà khoa học. Các nhóm nghiên cứu mạnh có vai trò quan trọng trong
những thành công về công bố khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Những công
bố khoa học của các nhà khoa học và các nhóm nghiên cứu đã đóng góp vai trò
quan trọng trong việc Đại học Quốc gia Hà Nội được lọt vào danh sách 250 đại học
hàng đầu châu Á trong bảng xếp hạng QS từ năm 2012.
Theo thống kê từ năm 2012 đến nay, khoảng 50% số NCS của các ngành khoa
học tự nhiên, công nghệ của Đại học Quốc gia Hà Nội khi bảo vệ luận án tiến sỹ
đều có bài đăng trên các tạp chí quốc tế. Đáng lưu ý là 80% các công bố quốc tế của
các thầy, cô hướng dẫn là công bố đồng tác giả với các NCS.
Một số kết quả về công bố khoa học của các nhóm nghiên cứu mạnh được thể
hiện ở Bảng 3.2 (thống kê không đầy đủ đến 2014):
98
Bảng 3.2. Một số kết quả về công bố khoa học của các nhóm nghiên cứu mạnh.
Bài báo ISI Sách
chuyên
khảo, tham TT Tên nhóm Lĩnh vực Trước 2009 2009-2014
khảo, giáo trình
QT TN QT TN QT TN
Khoa học 1 Topo đại số 10 10 14 1 2 2 tự nhiên
Sóng trong các môi Khoa học 2 14 8 21 trường đàn hồi tự nhiên
Công nghệ hóa học Khoa học 3 vật liệu và năng 3 2 8 tự nhiên lượng sạch
Phương pháp lý
thuyết trường lượng
tử và áp dụng Khoa học 4 nghiên cứu lý thuyết 27 13 9 27 2 20 tự nhiên các hiện tượng Vật
lý trong môi trường
lượng tử
Khoa học phân tích
trong môi trường Y Khoa học 5 43 5 39 6 6 sinh, thực phẩm và tự nhiên
ứng dụng
Công nghệ Protein Khoa học 6 9 5 12 14 1 và Enzym tự nhiên
7 43 65 16 48 4 Nhóm Khoa Học Vật liệu Tính toán Khoa học tự nhiên
8 10 1 34 Nghiên cứu chính sách và quản lý Xã hội và nhân văn
9 4 38 Ngôn ngữ học ứng dụng và ngôn ngữ Xã hội và nhân văn
99
học đối chiếu
Tâm lý học lâm Xã hội và 10 8 1 2 1 sàng nhân văn
Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư 11 Xã hội và 7 34
pháp nhân văn
Luật Hiến pháp - Xã hội và 12 2 Hành chính nhân văn
Công
13 Vật liệu và linh kiện nghệ và 17 1
Micro - Nano kỹ thuật
Công
14 Vật lý và công nghệ nghệ và 3 7
tổ hợp Nano hữu cơ kỹ thuật
Xã hội và 15 Thương mại châu Á 4 27 nhân văn
Nguồn: Theo số liệu của Đào Minh Quân [43].
QT: quốc tế, TN: trong nước.
Từ năm 2014 trở lại đây, các công bố khoa học của các nhóm nghiên cứu
mạnh ngày càng tăng nhanh. Có những nhóm nghiên cứu mạnh hiện đã có tới gần
100 bài báo ISI, một số nhà khoa học thuộc các nhóm nghiên cứu mạnh đã có các
công bố khoa học trên các tạp chí danh tiếng nhất thế giới như Nature. Có thể kể
đến như GS.TS Phạm Hùng Việt, TS Nguyễn Thế Toàn, Nguyễn Hữu Việt Hưng,
Phan Tuấn Nghĩa… với những công bố được trích dẫn hàng trăm lần.
Chỉ tính riêng các nhóm nghiên cứu mạnh của Trường Đại học Khoa học tự
nhiên, sau khi được công nhận nhóm nghiên cứu mạnh năm 2014 đến nay, tỷ lệ gia
tăng số lượng công bố ISI/Scopus của các nhóm nghiên cứu mạnh này đã tăng hơn
33% so với trước khi được công nhận nhóm nghiên cứu mạnh: Trước khi được công
nhận nhóm nghiên cứu mạnh, tỷ lệ gia tăng công bố là 37,5%, sau khi được công
bố, tỷ lệ này là 50% (Biểu đồ 3.8).
100
60.00%
50.00%
33,33%
40.00%
30.00%
50%
20.00%
37.50%
33%
10.00%
0.00%
Trước khi được công nhận NNCM
Sau khi được công nhận NNCM
Số lượng trung bình năm của 1 nhóm
Biểu đồ 3.8. Mức độ gia tăng số lượng công bố ISI/Scopus của các nhóm nghiên cứu mạnh - Trường Đại học Khoa học tự nhiên.
Nguồn: NCS tổng hợp dữ liệu từ [4, 5].
Với những nhóm nghiên cứu mạnh thực hiện các nghiên cứu cơ bản, sản phẩm
chủ lực của các nhóm này được thể hiện dưới dạng các bài báo khoa học trên các
tạp chí uy tín. Tính trung bình, mỗi nhóm công bố được 4,5 bài báo ISI/Scopus
trong một năm (so với chỉ số này trước khi được công nhận nhóm nghiên cứu mạnh
là 3,4 bài báo/năm). Hiện nay, các nhóm nghiên cứu mạnh đóng góp khoảng 25%
số lượng công bố quốc tế của Trường Đại học Khoa học tự nhiên.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các nhà khoa học là thành viên
của nhóm nghiên cứu mạnh thường xuyên tham gia viết sách, giáo trình trong các
lĩnh vực nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình như: Biển đảo Việt Nam: Lịch sử,
chủ quyền, kinh tế, văn hóa, Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học, Nghiên cứu Khoa học, cơ sở lý luận và thực tiễn, Đánh giá
nghiên cứu khoa học, Khoa học Chính sách, Tâm lý học đại cương, Địa chí Cổ
Loa, 1000 năm Vương triều Lý và Kinh đô Thăng Long, Lịch sử báo chí Việt Nam
1865-1945… Một sản phẩm của nhóm nghiên cứu mạnh không thể không nhắc đến
đó là Báo cáo kinh tế thường niên của Việt Nam do một nhóm nghiên cứu mạnh
101
trong lĩnh vực kinh tế xuất bản từ năm 2010 đến nay đã được các chuyên gia kinh
tế, các nhà hoạch định chính sách quan tâm và đánh giá cao.
3.2.3.3. Hoạt động đào tạo
Bên cạnh các kết quả nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu mạnh đều có kết quả
và chất lượng đào tạo rất tốt. Nhóm nghiên cứu mạnh chính là môi trường ươm tạo
người tài, mảnh đất sinh sôi nảy nở các thủ lĩnh khoa học trong tương lai. Có thể
thấy rằng, ở đâu có nhà khoa học đầu ngành, ở đó có nhóm nghiên cứu mạnh và từ
những nhóm nghiên cứu mạnh sẽ đào tạo ra nhiều nhà khoa học giỏi, tiềm năng để
kế tục và có thể xây dựng, phát triển các nhóm nghiên cứu mới.
Qua nghiên cứu thực tiễn ở 27 nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia
Hà Nội, hoạt động đào tạo của các nhóm này chủ yếu là đào tạo sau đại học (ThS,
TS), tuy cũng có cả đào tạo đại học nhưng rất ít, chỉ có 2 nhóm nghiên cứu mạnh
(chiếm tỷ lệ khoảng 7% so với tổng số nhóm nghiên cứu mạnh) có thành viên là các
sinh viên: nhóm Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập
kinh tế của Việt Nam và nhóm Vật liệu và kết cấu tiên tiến.
Ở hầu hết các nhóm nghiên cứu mạnh, hàng năm đều có các hoạt động đào tạo
sau đại học (đào tạo TS và ThS). Tính trung bình, mỗi nhóm có khoảng 6,5 NCS.
Các nhóm nghiên cứu mạnh hiện đang đào tạo nhiều NCS nhất có thể kể đến là
nhóm Phương pháp lý thuyết trường lượng tử (với 16 NCS) và nhóm Vật liệu và kết
cấu tiên tiến (10 NCS).
Trong khoảng 5 năm qua, các nhóm nghiên cứu mạnh đã đào tạo được hàng
trăm TS (đào tạo trong nước và phối hợp đào tạo quốc tế) và ThS. Có thể nói, NCS
là lực lượng thường xuyên, nòng cốt và rất quan trọng trong thực hiện các hoạt
động nghiên cứu của các nhóm nghiên cứu mạnh. Nhiều trò giỏi sau khi được đào
tạo đã quay trở lại làm việc tại nhóm nghiên cứu mạnh và làm chủ những nhánh
nghiên cứu của nhóm…
Chỉ tính riêng Trường Đại học Khoa học tự nhiên, từ năm 2015 đến nay, các
nhóm nghiên cứu mạnh của Trường đã đào tạo được 37 TS, 124 ThS và đang đào tạo
38 NCS trong tổng số 212 TS, 1860 ThS đã tốt nghiệp và 380 NCS đang theo học của
102
toàn Trường, chiếm tỷ lệ lần lượt là 17,45%, 6,66% và 10% của Trường, thể hiện rõ sự
đóng góp quan trọng của các nhóm nghiên cứu mạnh vào hoạt động đào tạo sau đại học
2000
của Trường (Biểu đồ 3.9).
1860
1800
1600
1400
1200
1000
i ờ ư g n ố S
800
600
380
6,6
17,45
400
10%
212
124
200
37
38
0
Số Tiến sĩ
Số Thạc sĩ
212
1860
Nghiên cứu sinh 380
124
37
Toàn trường Nhóm nghiên cứu mạnh
38 Toàn trường Nhóm nghiên cứu mạnh
Biểu đồ 3.9. Kết quả đào tạo sau đại học của các nhóm nghiên cứu mạnh 4 năm sau khi được công nhận so với toàn trường.
Nguồn: NCS tổng hợp dữ liệu từ [4, 5].
3.2.3.4. Hoạt động chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ
Một trong những vai trò quan trọng của trường đại học là chuyển giao tri thức,
đưa những kết quả nghiên cứu mới về KH&CN của nhà trường phục vụ thiết thực
103
sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, nhóm nghiên
cứu có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc triển khai từ nghiên cứu đến chế thử,
thúc đẩy sự ra đời của các sáng chế và sản phẩm mới trong trường đại học.
Thông qua các hoạt động chuyển giao tri thức và sản phẩm công nghệ, các
nhóm nghiên cứu mạnh vừa có điều kiện thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu chuyên
sâu, vừa từng bước hình thành nền tảng tài chính mạnh góp phần quan trọng cho sự
phát triển của Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung và của nhóm nói riêng. Theo
phương thức tiếp cận này, nhiều nhóm nghiên cứu của Đại học Quốc gia Hà Nội đã
được hình thành và phát triển, ví dụ như nhóm nghiên cứu của GS.TSKH Lưu Văn
Bôi có rất nhiều hợp tác với các doanh nghiệp và địa phương trong các dự án,
nghiên cứu sản xuất biodiesel.
Nhóm nghiên cứu mạnh Công nghệ Enzym và Protein đã có nhiều sản phẩm
KH&CN tiêu biểu trong phát hiện các biomarker, phát triển các loại kit chẩn đoán
và quy trình phân tích hỗ trợ phát hiện sớm các bệnh di truyền và chuyển hóa như
ung thư, miễn dịch ở người như: bộ kit phát hiện đồng thời 3 virus HIV, HBV,
HCV; bộ kit đếm tế bào lympho T CD4/CD8; quy trình sản xuất và chế phẩm
protease HIV-1; các quy trình phát hiện các đột biến gen ty thể; công nghệ sản xuất
thực phẩm chức năng Probiotic dạng bào tử vi khuẩn Bacillus tinh khiết (đã chuyển
giao cho Công ty ANABIO R&D)…
Nhóm nghiên cứu mạnh Khoa học phân tích trong môi trường, y sinh, thực
phẩm và ứng dụng đã nghiên cứu phát triển các thiết bị, quy trình phân tích các đối
tượng trong thực phẩm, môi trường và chuyển giao công nghệ, thiết bị cho các đơn
vị liên quan như: Xác định đồng thời một số thông số quan trọng trong các mẫu môi
trường nước và các sản phẩm chọn lọc của một số quá trình sinh hóa trên cơ sở phát
triển hệ thiết bị điện di mao quản đa kênh loại xách xác định một số chỉ tiêu chất
lượng của thực phẩm chức năng; xác định dư lượng các hợp chất ô nhiễm hữu cơ
bền vững mới loại perflo trong môi trường các sản phẩm bao bì, giấy gói thực
phẩm, xác định hàm lượng PAHs trong bụi khí; xác định dư lượng dược phẩm trong
nước thải từ bệnh viện và một số nhà máy sản xuất dược phẩm; nghiên cứu, thiết
104
kế, chế tạo hệ thiết bị quan trắc môi trường trực tuyến đa kênh theo nguyên lý kỹ
thuật phân tích dòng chảy FIA nhằm xác định một số kim loại độc hại trong nước
mặt…
Đối với các nhóm nghiên cứu mạnh thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn, do đặc thù các hoạt động KH&CN trong lĩnh vực nghiên cứu, nên các sản
phẩm KH&CN chủ yếu là tri thức, được xuất bản dưới dạng các ấn phẩm khoa học,
giáo trình, luận cứ khoa học… Có thể kể đến như: một số nhóm nghiên cứu mạnh
gắn với địa phương như các nhóm nghiên cứu về khu vực học và khoa học phát
triển của GS.TS Nguyễn Quang Ngọc - Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển.
Để có thể triển khai các nghiên cứu khu vực học phục vụ thực tiễn phát triển và phát
triển bền vững đất nước, nhóm nghiên cứu Khu vực học đã tích cực chủ động tiếp
cận hệ thống lý thuyết về khu vực học ở trong nước và trên thế giới, các lý thuyết về
phân vùng, phân vùng văn hóa, hệ thống phương pháp luận, phương pháp nghiên
cứu khu vực học, các khuynh hướng, trường phái nghiên cứu khu vực học trong
nước, trong khu vực và trên thế giới. Từ đó, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, tọa
đàm, nghiên cứu cơ bản về lý thuyết và các trường phái nghiên cứu khu vực học;
triển khai các nghiên cứu phát triển bền vững khu vực biên giới, hải đảo; xây dựng
chiến lược phát triển nông nghiệp cho vùng châu thổ sông Hồng nói riêng, chiến
lược phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung.
Nhóm nghiên cứu Chính sách và Quản lý hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực
nghiên cứu chính sách KH&CN đã tổ chức hàng chục khóa tập huấn ngắn hạn về
Kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách, Kỹ năng thẩm định và đánh giá chính
sách cho các nhà hoạch định chính sách của trung ương và địa phương; tổ chức tập
huấn các kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên năm cuối ngành quản lý và chính sách;
tổ chức hàng chục cuộc hội thảo và tọa đảm quốc tế về các chủ đề liên quan đến
lĩnh vực chính sách; đồng thời xuất bản các bản tin về chính sách và các giáo trình
Khoa học chính sách, Lý thuyết ra quyết định…. Đó chính là sự chuyển giao tri
thức của nhóm nghiên cứu mạnh ra cộng đồng và phục vụ xã hội một cách thiết
thực.
105
Nhiều nhóm nghiên cứu mạnh tuy mới được hình thành, trưởng nhóm và các
thành viên trong nhóm còn trẻ nhưng đã có thành tích đáng kể. Ví dụ như nhóm
nghiên cứu mạnh Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập
kinh tế của Việt Nam, trưởng nhóm là TS Nguyễn Đức Thành (Đại học Kinh tế) -
thuộc thế hệ cuối 7X. Từ năm 2010 đến nay, nhóm nghiên cứu này đã nghiên cứu
và xuất bản báo cáo kinh tế thường niên của Việt Nam, được các chuyên gia kinh tế,
các nhà hoạch định chính sách quan tâm và đánh giá cao.
Ngoài ra, các nhà khoa học là trưởng nhóm nghiên cứu mạnh hoặc các thành
viên của nhóm nghiên cứu mạnh cũng thường xuyên được mời báo cáo và tham gia
trong các Hội nghị khoa học quốc tế, Trường hè, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế
như: “Award of Excellence” (Đại học Tổng hợp Quốc gia Yokohama, Nhật Bản),
“Emerging Economies Young Researcher Award” (Hội Quản trị Sản xuất và Tác
nghiệp - Production and Operation Management Society-POMS), Hoa Kỳ.
3.3. Đặc điểm vốn xã hội của nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà
Nội
3.3.1. Một số nét chính về chân dung xã hội của các thành viên nhóm
nghiên cứu mạnh
3.3.1.1. Chân dung xã hội các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh
Chân dung xã hội trong luận án này được hiểu là những đặc điểm cơ bản về
trình độ chuyên môn, học hàm học vị, thành tích nghiên cứu khoa học, uy tín khoa
học, hướng nghiên cứu của nhà khoa học.
Việc xem xét về chân dung xã hội các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh có
vai trò rất quan trọng trong nội dung nghiên cứu của luận án. Chân dung xã hội
phản ánh vốn con người và các nguồn lực/tài sản vô hình của các cá nhân - các
nguồn lực có liên quan chặt chẽ với vốn xã hội. Cá nhân nào có vốn con người và
nguồn lực vô hình khác cao (trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tri thức, kỹ năng, uy
tín, các mối quan hệ, văn hóa…) thường sẽ có ưu thế hơn trong việc sử dụng, sở
hữu và phát huy nguồn vốn xã hội cao.
106
Thực tế, các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội đều
phải đáp ứng các tiêu chí của Đại học Quốc gia Hà Nội như trong Hướng dẫn số
1409/HD-KH&CN ngày 8/5/2013: phải là cán bộ khoa học cơ hữu của Đại học
Quốc gia Hà Nội, có học vị tiến sĩ trở lên, có uy tín khoa học, có khả năng quản lý
và tập hợp các nhà khoa học. Trong 5 năm gần đây có các thành tích trên lĩnh vực
nghiên cứu chính của nhóm:
- Chủ trì đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội trở lên;
- Là tác giả hoặc chủ biên của ít nhất 01 sách chuyên khảo hoặc tác giả, đồng
tác giả của ít nhất 05 công bố ISI hoặc tác giả của ít nhất 01 phát minh, sáng chế;
hoặc có các sản phẩm KH&CN được giải thưởng, có ứng dụng thực tiễn có tác
động xã hội lớn, có giá trị lý luận, làm cơ sở tư vấn cho hoạch định chính sách quốc
gia hoặc tích hợp một số thành tích đã nêu;
- Đã từng là báo cáo viên được mời (invited speaker) tại các hội nghị, hội thảo
quốc gia, quốc tế;
- Đã và đang hướng dẫn NCS;
- Sử dụng thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ phổ biến (Anh, Nga, Pháp, Trung
Quốc), trong đó giao tiếp được bằng tiếng Anh;
- Có tầm nhìn, kế hoạch chiến lược dài hạn, có khả năng đánh giá tầm ảnh
hưởng và xu hướng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu, có quan điểm phát triển bền
vững;
- Có mục tiêu và chiến lược nghiên cứu rõ ràng, phù hợp với các hướng
nghiên cứu trọng tâm, mũi nhọn của quốc gia và Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Có khả năng đề xuất các nghiên cứu tích hợp, kết nối thành những chương
trình nghiên cứu lớn, hướng đến sản phẩm tầm cỡ quốc gia, quốc tế;
- Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho hoạt động của
nhóm.
Qua nghiên cứu về chân dung xã hội của các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh
cho thấy, tất cả các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều là những người có uy tín
khoa học cao, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, có kinh nghiệm trong nghiên
107
cứu và quản lý KH&CN. Có thể nói, đa số các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đều
là “lão làng” trong giới KH&CN, với tuổi đời, tuổi nghề lâu năm. Các trưởng nhóm
nghiên cứu mạnh có độ tuổi từ 50 trở lên chiếm gần 80% so với tổng số, trong đó
một nửa là 60 tuổi trở lên. Chỉ có khoảng 20% trưởng nhóm nghiên cứu mạnh trong
độ tuổi 40. Hầu hết các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh là nam giới, nữ giới chỉ
chiếm tỷ lệ 11,11%. Điều này cũng cho thấy một thực tế là, nam giới thường đạt
được các thành tích khoa học và vị trí lãnh đạo, chủ chốt trong khoa học cao hơn
nhiều so với nữ và chiếm tỷ lệ áp đảo.
Không chỉ là những người có thành tích khoa học cao trong các hướng nghiên
cứu độc đáo, các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh còn là những người được đào tạo
bài bản từ các nước phát triển và có nền tảng khoa học lâu đời như: Đức, Nhật Bản,
Pháp, Nga…, có cơ hội học tập và nghiên cứu tại những cơ sở đào tạo, nghiên cứu
lớn trên thế giới. Do vậy, có thể áp dụng những phong cách làm việc chuyên
nghiệp, hiệu quả từ các nước tiên tiến, đặc biệt là có mối quan hệ hợp tác quốc tế
sẵn có ngay từ giai đoạn đang được đào tạo, nghiên cứu.
Các dẫn chứng, thông tin chi tiết về năm sinh, quá trình đào tạo, chức vụ, trình
độ chuyên môn, kinh nghiệm, các giải thưởng, công bố trong khoa học cũng như
những thành tích khoa học tiêu biểu của 27 trưởng nhóm nghiên cứu mạnh được thể
hiện trong phần Phụ lục của luận án này.
Thực tế cho thấy, với thâm niên khoa học cao, dẫn đầu một hướng nghiên cứu
và tập hợp được đội ngũ các thành viên cùng hướng nghiên cứu, các trưởng nhóm
nghiên cứu mạnh là những người có đầy đủ các nguồn lực vô hình rất giá trị như tri
thức, kỹ năng, uy tín, các mối quan hệ, văn hóa… và do vậy có cơ sở để tạo dựng và
phát triển nguồn vốn xã hội trong KH&CN.
3.3.1.2. Các thành viên khác của nhóm nghiên cứu mạnh
Các thành viên của 27 nhóm nghiên cứu mạnh (tổng số khoảng gần 400
người) bao gồm các thành phần sau:
- Các thành viên chủ chốt là các nhà khoa học trong nước (và quốc tế) có trình
độ tiến sĩ, thạc sĩ trở lên; đã có các sản phẩm KH&CN tiêu biểu trong hướng nghiên
108
cứu; đã và đang hướng dẫn học viên cao học và NCS; đã thực hiện và hoàn thành
các chương trình nghiên cứu đúng kế hoạch (theo các tiêu chí đã quy định của Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Các thành viên thường xuyên của nhóm nghiên cứu mạnh là các NCS, học
viên cao học, sinh viên. Đây là những người thường xuyên có mặt tại nhóm nghiên
cứu mạnh và tham gia trực tiếp các công đoạn nghiên cứu, thí nghiệm, đặc biệt là
các NCS. Tuy nhiên, những người này thường chỉ tham gia nhóm nghiên cứu mạnh
trong 1 thời hạn nhất định 3-5 năm, sau khi bảo vệ luận án TS hoặc luận văn ThS
hay tốt nghiệp đại học sẽ ra trường, làm việc ở đơn vị khác, có một số ít trường hợp
ở lại nhóm nghiên cứu mạnh. Tuy nhiên, những người giỏi thường được mời chào
làm việc ở những môi trường hiện đại hơn, có mức lương cao hơn, đặc biệt là
những cơ sở nghiên cứu tiên tiến của các nước phát triển, hiếm người chọn ở lại
nhóm nghiên cứu mạnh để tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu.
- Các cộng tác viên thuộc các lĩnh vực liên quan: đây là các cán bộ, doanh
nghiệp, các nhà khoa học ở các đơn vị trong và ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc
biệt là các nhà khoa học quốc tế và các tổ chức nước ngoài.
Qua nghiên cứu thực tế về các thành viên của các nhóm nghiên cứu mạnh Đại
học Quốc gia Hà Nội, có thể thấy rất nhiều thành viên đã từng được đào tạo từ các
nước tiên tiến trên thế giới trong các lĩnh vực khoa học độc đáo, nhiều người có học
hàm, học vị cao trong khoa học (một nửa số thành viên của nhóm nghiên cứu mạnh
có trình độ từ TS trở lên). Đây cũng là những điều kiện thuận lợi cho việc tạo dựng
các mối quan hệ trong nghiên cứu, đào tạo, quan hệ quốc tế, công bố khoa học. Sự
tham gia đông đảo của đội ngũ các NCS cũng là một thuận lợi trong hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh, bởi đây chính là lực lượng chủ yếu trong
việc trực tiếp thực hiện các nghiên cứu khoa học, thu thập số liệu nghiên cứu, viết
các bài báo khoa học…
Một số nhóm nghiên cứu mạnh còn thu hút được sự tham gia của các nhà khoa
học nước ngoài, từ các nước Pháp, Nhật Bản… (như nhóm nghiên cứu mạnh Công
nghệ hóa học vật liệu và năng lượng sạch, nhóm nghiên cứu mạnh Tâm lý học lâm
109
sàng, nhóm nghiên cứu mạnh Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện
hội nhập kinh tế của Việt Nam, nhóm nghiên cứu mạnh Nghiên cứu về hệ thống
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp). Đây là những nhân tố có khả năng kết nối các
mối quan hệ hợp tác quốc tế trong nghiên cứu với các tổ chức, cá nhân nước ngoài,
tạo sự đa dạng trong văn hóa, phong cách và góp phần hội nhập quốc tế trong
KH&CN.
Đặc biệt, do yếu tố liên ngành, một số thành viên tham gia đồng thời các nhóm
nghiên cứu mạnh khác nhau. Đây cũng là những nhân tố tiềm năng trong việc kết
nối các quan hệ cộng tác nghiên cứu, giúp đa dạng hóa các nghiên cứu khoa học,
đáp ứng tính liên ngành, đa ngành trong nghiên cứu khoa học.
3.3.2. Mạng lưới xã hội của nhóm nghiên cứu mạnh
Mạng lưới xã hội hay nói cách khác là các nguồn vốn, nguồn lực xã hội, là
chiều cạnh có tính cấu trúc của vốn xã hội. Theo một số nhà nghiên cứu như Pierre
Bourdieu, Woolcock, Naraydan cho rằng, mạng lưới xã hội - gia đình, bạn bè và các
tổ chức khác - là một tài sản quan trọng mà mỗi cá nhân có thể sử dụng trong những
hoàn cảnh khó khăn, để hưởng thụ những lợi ích mà nó mang lại, và/hoặc đầu tư sinh
lời.
Với những đặc điểm riêng có như đã phân tích trong phần đặc điểm của nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội, có thể thấy, mỗi nhóm nghiên cứu
mạnh có những mạng lưới xã hội, mạng lưới nghiên cứu riêng của mình, được hình
thành và phát triển từ các mối quan hệ xã hội của các thành viên nhóm nghiên cứu
mạnh trong quá trình làm việc. Các nhóm nghiên cứu mạnh bản chất là đã tập hợp
được những cá thể là những nhà nghiên cứu xuất sắc, chuyên sâu trong một lĩnh vực
chuyên ngành nào đó, họ có ý tưởng, có nhiệt huyết và kinh nghiệm trong nghiên
cứu. Việc họ tập hợp, liên kết với nhau trong một nhóm nghiên cứu mạnh thành một
mạng lưới nghiên cứu vừa giúp họ phát huy tối đa được nội lực cá nhân vừa giúp họ
đảm bảo được mục tiêu nghiên cứu chung. Đây vừa là một thách thức lớn, nhưng
cũng là một yếu tố căn bản duy trì được sự phát triển của từng nhóm nghiên cứu.
110
Tác giả Nguyễn Đình Đức (2014) cũng cho rằng, nhóm nghiên cứu là môi
trường khoa học thuận lợi nhất để các nhà khoa học trao đổi học thuật, tập hợp lực
lượng và cùng nhau tiếp cận, giải quyết các vấn đề mới của khoa học, thường thông
qua các hoạt động của nhóm như hội thảo khoa học, hướng dẫn NCS. Nhóm nghiên
cứu có thể thu hút các nhà khoa học có chuyên môn gần để phát triển môi trường
học thuật chuyên sâu, hoặc thu hút các nhà khoa học của nhiều ngành khác nhau để
tập trung trí tuệ và sức lực giải quyết một vấn đề khoa học có tính liên ngành [21].
Quy mô mạng lưới xã hội của nhóm nghiên cứu mạnh chính là số lượng đầu
nút các quan hệ xã hội mà các cá nhân, ở đây là thành viên các nhóm nghiên cứu
mạnh, đang có trong mạng lưới nghiên cứu của mình và với các đối tác. Nó bao
gồm quy mô của mạng lõi (trưởng nhóm, trưởng các nhánh nghiên cứu, cán bộ chủ
chốt) và quy mô của mạng mở rộng (các thành viên theo thời kỳ như NCS, ThS, học
viên cao học, cử nhân, sinh viên, cộng tác viên, đối tác…). Điều này cũng được thể
hiện trong các đặc điểm về quy mô, cơ cấu tổ chức của các nhóm nghiên cứu mạnh
tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Sự đa dạng trong thành phần tham gia mạng lưới xã hội của các nhóm nghiên
cứu mạnh cũng được khẳng định ở kết quả Phiếu xin ý kiến 27 trưởng nhóm nghiên
cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Các trưởng nhóm cho biết, mạng lưới
nghiên cứu của nhóm mình gồm các nguồn nhân lực sau đây: 1) Các nhà khoa học
trong nước; 2) Các nhà khoa học quốc tế; 3) Nghiên cứu sinh; 4) Học viên cao học,
sinh viên; 5) Doanh nghiệp; 6) Địa phương; 7) Các tổ chức nước ngoài; 8) Các nguồn
nhân lực khác. Trong đó, 100% ý kiến các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh cho biết
nhóm mình có các nhà khoa học trong nước tham gia mạng lưới nghiên cứu của
nhóm; 90,91% số ý kiến cho biết có các nhà khoa học quốc tế và các NCS tham gia
mạng lưới nghiên cứu của nhóm; 72,73% số ý kiến cho biết có các học viên cao học,
sinh viên tham gia nhóm; 54,55% số ý kiến cho biết có các tổ chức nước ngoài tham
gia nhóm; 50% số ý kiến cho biết có các doanh nghiệp tham gia nhóm; 36,36% số ý
kiến cho biết có địa phương tham gia nhóm; 18,18% số ý kiến cho biết các nguồn
nhân lực khác với các nguồn nêu trên tham gia nhóm (Biểu đồ 3.10).
111
100.00%
90.00%
80.00%
70.00%
60.00%
100.00%
50.00%
90.91%
90.91%
40.00%
72.73%
30.00%
54.55%
50.00%
20.00%
36.36%
18.18%
10.00%
0.00%
Khác
Địa phương
Nghiên cứu sinh
Các tổ chức nước ngoài
Doanh nghiệp
Các nhà khoa học trong nước
Các nhà khoa học quốc tế
Học viên cao học, sinh viên
Biểu đồ 3.10. Các nhân tố trong mạng lưới nghiên cứu của Nhóm nghiên
cứu mạnh (tỷ lệ %).
Nguồn: NCS tổng hợp từ các dữ liệu khảo sát ý kiến trong luận án.
Như vậy có thể thấy, tham gia mạng lưới nghiên cứu của các nhóm nghiên cứu
mạnh có các thành phần rất đa dạng: bên cạnh các nhà khoa học trong nước, còn có
các tổ chức và cá nhân nước ngoài; không chỉ các nhà khoa học mà còn có học viên
cao học, sinh viên tham gia nhóm nghiên cứu mạnh; địa phương và doanh nghiệp
cũng có đại diện tham gia một số nhóm nghiên cứu mạnh.
Tuy đa dạng về thành phần tham gia, nhưng các nguồn lực này lại có điểm
chung là cùng hướng nghiên cứu và có cùng sự quan tâm trong các hoạt động
KH&CN. Do vậy, các mối quan hệ từ mạng lưới các cá nhân và tổ chức này sẽ trực
tiếp hoặc gián tiếp kết nối các nguồn lực vô hình giữa các thành viên trong nhóm
112
cũng như với các tổ chức bên ngoài, mang lại những lợi ích chung cho nhóm nghiên
cứu mạnh.
Các kết quả phỏng vấn sâu cá nhân từ các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại
học Quốc gia Hà Nội được tổng hợp sau đây sẽ bổ sung minh chứng cho thực tế này.
Nhóm của tôi có 23 thành viên (kể cả trưởng nhóm), nhưng trong đó
chỉ có 9 thành viên chủ chốt, mà 5 trong số đó là trưởng các phòng
chuyên môn - họ là những người thủ lĩnh đứng đầu các nhánh nghiên cứu
nhỏ trong nhóm. Dưới họ là các cán bộ có chuyên môn sâu phù hợp với
nhóm nghiên cứu và một số cộng tác viên trong và ngoài nước. Việc tập
hợp, điều phối các phòng chuyên môn cần một nhà khoa học có chuyên
môn sâu, đủ uy tín, tâm huyết và kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý, điều
hành nhóm nghiên cứu mạnh. Trưởng nhóm phải đáp ứng được các tiêu
chí này để tập hợp và lãnh đạo nhóm. Với một tổ chức tinh gọn, nhưng
mạng lưới nghiên cứu rộng mở, nhóm của chúng tôi đã chủ trì 4 đề tài cấp
nhà nước, 4 đề tài Nafosted, 1 đề tài hợp tác quốc tế, 10 đề tài các cấp.
Chúng tôi cũng đã làm chủ nhiều công nghệ protein-enzym hiện đại và tạo
ra một số sản phẩm có tính ứng dụng cao… (Trưởng nhóm P.T.N.).
Người trưởng nhóm phải là người tâm huyết, nhiệt tình, có trách
nhiệm, kinh nghiệm, có tầm nhìn, xây dựng được mối liên kết bền vững,
nuôi dưỡng hoài bão và tạo động lực nghiên cứu cho các bạn trẻ; thu hút
và tận dụng được quan hệ hợp tác, ủng hộ của các đối tác trong nước và
quốc tế. Sau 9 năm gây dựng, từ chỗ chỉ có 1 thầy và 1-2 sinh viên, đến
nay, nhóm nghiên cứu mạnh của chúng tôi đã có khoảng 40 thành viên
trong và ngoài nước, thành lập được phòng thí nghiệm mới, khoa mới,
đào tạo từ bậc kỹ sư đến ThS, TS, mở 3 chuyên ngành/ngành mới, 5 NCS
đã bảo vệ thành công luận án TS và đang đào tạo 10 NCS khác. Nhóm
tôi cũng đã và đang thực hiện 4 đề tài Nafosted, 1 đề tài hợp tác quốc tế
với UK, 3 đề tài nhóm A Đại học Quốc gia Hà Nội, 2 giải thưởng
113
Nguyễn Văn Đạo toàn quốc; công bố được 120 bài báo ISI… (Trưởng
nhóm N.Đ).
Nhóm nghiên cứu mạnh của chúng tôi có 37 thành viên, ngoài những
thành viên là các chuyên gia đầu ngành trong nước về các lĩnh vực kinh
tế, nhóm tôi còn có sự tham gia của Viện Nghiên cứu phát triển Pháp, Đại
học California - Hoa Kỳ, chuyên gia kinh tế của UNDP, chuyên gia kinh
tế chương trình DIAL-IRD… Đó chính là mạng lưới các viện nghiên cứu
và think-tanks về lĩnh vực kinh tế trong nước, khu vực và thế giới. Có thể
nói, nhóm của chúng tôi đã quy tụ được đội ngũ các nhà nghiên cứu, các
chuyên gia kinh tế được đào tạo bài bản ở nước ngoài, hoặc từ các
chương trình đào tạo sau đại học uy tín ở trong nước. 100% thành viên
của nhóm có khả năng sử dụng thành thạo các ngoại ngữ (Anh, Trung,
Nhật…) trong nghiên cứu và giao tiếp. Chúng tôi cũng cố gắng mở rộng
mạng lưới hợp tác quốc tế với các nhà nghiên cứu kinh tế học vĩ mô trong
khu vực và trên thế giới, mạng lưới các viện, trường đại học tại các nước
phát triển như Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản, các nước ASEAN, Trung
Quốc… Trong thành phần nhóm nghiên cứu của chúng tôi, có nhiều
chuyên gia đã và đang giữ các chức vụ quan trọng trong các cơ quan
hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Đây là những chuyên gia hàng đầu
về lĩnh vực này, có thể nắm bắt một cách sát sao mỗi thay đổi dù là nhỏ
nhất của chính sách kinh tế nước nhà… (Trưởng nhóm N.T).
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phỏng vấn sâu cá nhân).
Như vậy có thể khẳng định, các thành phần tham gia các nhóm nghiên cứu
mạnh là rất đa dạng, không chỉ là các nhà khoa học trong cùng một đơn vị nghiên
cứu, mà còn kết nối được các nhà khoa học từ nhiều đơn vị nghiên cứu trong và
ngoài nước. Các cá nhân trong nhóm cùng bổ trợ cho nhau và cùng chung một
hướng nghiên cứu, mang lại lợi ích tối đa cho nhóm. Các trưởng nhóm nghiên cứu
mạnh đều ý thức được điều này nên họ đã tìm kiếm, lựa chọn và tập hợp được lực
114
lượng nghiên cứu ở những tổ chức KH&CN trong và ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội,
cũng như trong và ngoài nước, có liên quan đến các hướng nghiên cứu của nhóm.
Trên bình diện hệ thống, tính liên kết nhóm của từng phân tử nhóm nghiên
cứu tạo nên tính liên kết hệ thống giữa các nhóm nghiên cứu với nhau. Sự đa dạng
về lĩnh vực nghiên cứu và các cách tiếp cận khác nhau sẽ giúp cho các nhóm nghiên
cứu có thể phối hợp thực hiện các nghiên cứu đánh giá, dự báo tổng hợp mà không
bị trùng lặp hay chồng chéo giữa các nhiệm vụ nghiên cứu.
Mạng lưới xã hội của các thành viên trong nhóm nghiên cứu mạnh chính là
các nguồn lực gắn với mạng lưới quan hệ xã hội và các cơ cấu xã hội, tổ chức xã
hội mà họ tham gia. Thông qua các mối quan hệ xã hội, các nguồn lực được huy
động, giúp các nhà khoa học là thành viên các nhóm nghiên cứu mạnh thực hiện
được các nhiệm vụ nghiên cứu và các công việc liên quan của nhóm nghiên cứu. Đó
có thể là các mối quan hệ giữa các cá nhân hoặc là mối quan hệ giữa cá nhân nhóm
nghiên cứu mạnh với một hay nhiều nhóm nghiên cứu khác, hoặc đó là mối quan hệ
giữa các nhóm, mạng lưới nghiên cứu trong và ngoài nước. Các mối quan hệ này
được đặt trong một môi trường, thể chế chính sách về KH&CN. Do vậy, về cấp độ
vốn xã hội tiếp cận ở đây sẽ bao gồm cả cấp độ vi mô, trung mô và vĩ mô.
3.3.3. Sự tin cậy
Sự tin cậy ở đây là mức độ tin tưởng lẫn nhau, mức độ tin tưởng những người
khác, mức độ ủng hộ và được ủng hộ, sự tự tin tham gia trong các hoạt động của các
nhóm nghiên cứu mạnh, các tổ chức nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau, sự nhận
thức về những giá trị chung của nhóm nghiên cứu.
Trong một tập thể, lòng tin là một yếu tố quan trọng để tạo nên sự hợp tác hiệu
quả trong công việc. Tương tự, trong các nhóm nghiên cứu mạnh, các thành viên
của nhóm phải có sự tin tưởng nhau, đặc biệt là tin tưởng vào sự lãnh đạo, dẫn dắt
(leader) của trưởng nhóm nghiên cứu, thừa nhận các quy tắc, chuẩn mực chung của
nhóm thì mới có thể duy trì các hoạt động của nhóm nghiên cứu. Không những thế,
sự tin tưởng lẫn nhau cũng cần phải được nuôi dưỡng trong nhóm nghiên cứu, vì
đôi khi chỉ cần một hành động nhỏ cũng có thể làm tổn thương lòng tin, xóa sạch
115
những sự tin cậy tốt đẹp vốn có trước đó, và rất khó để có thể gây dựng lại lòng tin
sau khi đã có những hành động làm ảnh hưởng đến lòng tin của người khác. Các cơ
chế phối hợp trong công việc chỉ được thực hiện có hiệu quả dựa trên sự cam kết của
mỗi cá nhân trong nhóm nghiên cứu, dựa trên niềm tin của các cá nhân trong nhóm.
Mỗi cá nhân trong nhóm sẽ vượt qua được những hoàn cảnh khó khăn với hiệu quả
cao nhất, ít tốn kém nhất nếu như có được nguồn lực từ niềm tin. Đó cũng chính là uy
tín xã hội của mỗi cá nhân. Trong nhóm nghiên cứu mạnh, uy tín xã hội của các thành
viên nhóm nghiên cứu chính là uy tín khoa học đã được cộng đồng nghiên cứu công
nhận, các cá nhân đó đã đạt được một vị trí nhất định trong khoa học, có học hàm,
học vị, và được những người khác tin tưởng trong lĩnh vực chuyên môn.
Theo kết quả ý kiến của 27 trưởng nhóm nghiên cứu mạnh, 100% số trưởng
nhóm cho rằng, trong hoạt động của nhóm, sự tin cậy giữa các thành viên trong nhóm
là yếu tố rất quan trọng (81/81%) và quan trọng (18,19%) dẫn đến hoạt động hiệu quả
của nhóm. Các kết quả phỏng vấn sâu cá nhân sau đây góp phần định tính về những
biểu hiện của sự tin cậy giữa các thành viên của nhóm nghiên cứu mạnh cũng như
lòng tin với cơ quan chủ quản và các đối tác ngoài nhóm nghiên cứu mạnh, đồng thời
làm rõ thêm đặc điểm này của vốn xã hội trong các nhóm nghiên cứu mạnh:
Tôi có may mắn được tham gia vào một nhóm nghiên cứu mạnh
được xây dựng, dẫn dắt bởi một trưởng nhóm có tài và có tâm. Quan
điểm của ông là: Phải lấy phẩm chất nghiên cứu làm trọng tâm, giữ
được sự say mê nghiên cứu; Trung thực, luôn xác định rõ mục tiêu và
trách nhiệm nghề nghiệp; Có tình cảm dân tộc sâu sắc, tư duy năng động
và quan điểm quốc tế trong nghiên cứu. Không chỉ coi trọng hiệu quả
công việc, ông còn luôn chú ý, quan tâm, nhắc nhở các thành viên trong
nhóm phải biết giữ gìn và phát triển các giá trị tình cảm cốt lõi, đó là:
Tình cảm thày - trò; tình đồng nghiệp; tình cảm “gia đình” gắn bó, mật
thiết, sẻ chia giữa các thành viên trong nhóm. Có thành viên trong nhóm
gặp khó khăn về kinh tế khi đang làm nhà, ông biết được và chủ động đề
nghị cho vay một khoản tiền lớn để thành viên đó yên tâm công tác và
116
hoàn thành việc riêng… Đó là một trong rất nhiều những việc làm của
ông mà tôi thấy nể phục và quý trọng ông, càng thêm tin tưởng ở người
trưởng nhóm của mình. Dưới sự dẫn dắt của ông, các thành viên trong
nhóm của chúng tôi vừa có ý thức vươn lên về chuyên môn, không ngừng
cập nhật thông tin mới trong nghiên cứu vừa có sự đồng lòng, đồng sức,
đoàn kết, tin tưởng lẫn nhau, cùng xây dựng một không khí làm việc ấm
áp như trong một gia đình. Thông thường, từ năm thứ hai đại học, lãnh
đạo nhóm đã lựa chọn một số sinh viên xuất sắc, có năng lực nghiên cứu
để giao nhiệm vụ, thử thách nghiên cứu. Qua đó, xác định được được
vấn đề nghiên cứu và phạm vi chuyên môn mà sinh viên đó có thể gắn bó
lâu dài sau này. Nhóm nghiên cứu của chúng tôi luôn có sự mở rộng,
nhưng chủ yếu vẫn là các sinh viên tốt nghiệp từ Bộ môn và Khoa (Đ.Q -
Thành viên một nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực khoa học xã hội
và nhân văn).
Sự tin tưởng, đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm nghiên cứu
có ý nghĩa vô cùng quan trọng với sự tồn tại, phát triển của nhóm. Muốn
vậy, trưởng nhóm và các thành viên trong nhóm cần có trình độ chuyên
môn sâu, nắm vững lý luận và phương pháp nghiên cứu, có năng lực tư
duy, biết phát hiện và phân tích vấn đề. Nhà khoa học cần phải tích cực,
chủ động tiếp cận các thông tin khoa học thì mới có điều kiện chuẩn bị
những đề xuất nghiên cứu tốt. Bên cạnh đó, các thành viên trong nhóm
cần có cái “tình”, tình ở đây là tình yêu nghề nghiệp, tình cảm đồng
nghiệp, tình cảm gắn bó trong nhóm nghiên cứu. Phải có hứng thú, say
mê công việc nghiên cứu thì mới đạt kết quả tốt. Nhóm nghiên cứu chỉ
mạnh khi cả nhóm có sự đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Do đó, việc bồi
dưỡng, củng cố quan hệ hợp tác trong nhóm dựa trên các tiêu chí như
công bằng, đảm bảo lợi ích và cơ hội cho các thành viên trong nhóm
luôn được coi trọng. Trưởng nhóm cần xử lý tốt các mối quan hệ giữa
các đối tác và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành viên, đảm bảo
117
công việc đúng tiến độ. Không chỉ trưởng nhóm, mà các thành viên trong
nhóm nghiên cứu mạnh cũng cần phải có tinh thần trách nhiệm cao
trong công việc, tạo sự tín nhiệm cao để có sự tin tưởng với các đối tác.
Không được làm đối phó và phải có tính cộng đồng. Các vấn đề nghiên
cứu hiện nay thường mang tính liên ngành, đa ngành, đòi hỏi tri thức đa
ngành, đa lĩnh vực. Do vậy, nhóm nghiên cứu mạnh cần tập hợp được
các cán bộ nghiên cứu thuộc các ngành có liên quan (GS N.Đ - Trưởng
nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực công nghệ vật liệu).
Trong một nhóm nghiên cứu mạnh, việc kết nối và phối hợp giữa
các thành viên thực hiện các công việc chung của nhóm cần phải khoa
học, có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, quy định rõ ai làm công đoạn gì.
Điều này đòi hỏi có sự tin tưởng vào trình độ và năng lực chuyên môn
của các thành viên trong nhóm, ai mạnh về lĩnh vực nào thì giao cho làm
lĩnh vực ấy. Cái này là điểm khác biệt với các nhóm nghiên cứu thông
thường, khi trưởng nhóm đảm trách đa phần công việc của Nhóm, với sự
trợ giúp của một số NCS, học viên cao học. Điều quan trọng nữa là giải
quyết tốt vấn đề quyền lợi của những thành viên tham gia nhóm nghiên
cứu mạnh. Đây là vấn đề tế nhị nhưng quan trọng, đòi hỏi sự hài hòa. Ví
dụ, trong việc tính điểm khi xét duyệt tiêu chuẩn GS, PGS và một số
quyền lợi khác, nếu chỉ tính điểm cho trưởng nhóm nghiên cứu thì sẽ rất
thiệt thòi cho các thành viên chủ chốt khác cũng có những kết quả
nghiên cứu tốt và cũng từng làm chủ nhiệm đề tài. Một điều nữa là,
trưởng nhóm nghiên cứu mạnh phải chịu áp lực rất lớn với việc phải có
sản phẩm đầu ra có chất lượng cao hơn hẳn so với nhóm nghiên cứu
trước đây. Đó cũng là yêu cầu của hội đồng khoa học và cũng là danh
dự, uy tín của người trưởng nhóm nghiên cứu mạnh trước cộng đồng
khoa học. Nếu làm tốt được những điều này, nhóm nghiên cứu mạnh và
người trưởng nhóm sẽ có được sự tin cậy trong nghiên cứu khoa học,
được giao thực hiện các nhiệm vụ KH&CN lớn và có cơ hội hợp tác với
các đối tác có uy tín trong và ngoài nước (GS N.C - lĩnh vực khoa học kỹ thuật).
118
Tuy rằng hiện nay không có sự hỗ trợ nhiều về mặt vật chất cho các
nhóm nghiên cứu mạnh, nhưng các nhóm nghiên cứu mạnh thực sự thì
vẫn đang phát triển và đi lên. Có được điều đó là do các nhóm nghiên
cứu mạnh đã có được sự công nhận một cách công khai từ Đại học Quốc
gia Hà Nội rằng chúng tôi là những nhóm nghiên cứu mạnh, mạnh hơn
các nhóm nghiên cứu khác. Đó chính là yếu tố tinh thần rất quan trọng
đối với những nhà khoa học. Được ghi nhận, được coi trọng, đó đã là
một nguồn lực vô giá với chúng tôi, giúp chúng tôi vượt qua mọi khó
khăn để đạt tới những thành công trong nghiên cứu. Chúng tôi thấy vui
và được tiếp thêm sức mạnh vì sự tin tưởng của Đại học Quốc gia Hà
Nội đối với các nhóm nghiên cứu mạnh (GS N.Q. - Trưởng nhóm nghiên
cứu mạnh trong lĩnh vực vật lý).
(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phỏng vấn sâu cá nhân)
Như vậy, có thể khẳng định, trong nhóm nghiên cứu mạnh, sự tin cậy, tin
tưởng là một yếu tố không thể thiếu được cả trong các hoạt động KH&CN của
nhóm cũng như sự tồn tại, phát triển của nhóm. Nó bao gồm: sự tin cậy của các cá
nhân là thành viên trong nhóm với nhau, sự tin cậy giữa các thành viên và trưởng
nhóm, sự tin cậy, uy tín của nhóm nghiên cứu mạnh đối với cơ quan quản lý
KH&CN, cộng đồng KH&CN trong và ngoài nước. Sự tin cậy này được dựa trên cơ
sở các quy tắc, chuẩn mực chung của nhóm nghiên cứu, cả nhóm có cùng mối quan
tâm chung trong lĩnh vực nghiên cứu, cùng thực hiện các hành động mang lại lợi ích
chung cho nhóm, vì mục tiêu chung của cả nhóm.
3.3.4. Sự tương tác, có đi - có lại trong các nhóm nghiên cứu mạnh
Sự có đi - có lại (reciprocity) là một trong những nguyên tắc tâm lý và bản
năng tự nhiên nhất của con người. Nguyên tắc “có đi - có lại” được nói đến trong
các nghiên cứu về tâm lý quan hệ như là một nhu cầu và khuynh hướng của con
người muốn hồi đáp một khi nhận được điều gì đó. Mọi người cảm thấy đó là một
nghĩa vụ cần phải làm. Đây là một nguyên tắc căn bản trong tâm lý về các mối quan
hệ của con người. Điều này diễn ra vì lúc ta nhận được từ người khác một thứ gì đó,
119
trong đầu ta diễn ra sự mất cân bằng và điều này thúc đẩy bạn làm điều gì đó để lấy
lại cân bằng: trả lại người nhận cái gì đó.
Trong một tổ chức, tập thể, các cá nhân bao giờ cũng có các hoạt động tương
tác, hỗ trợ lẫn nhau, có đi - có lại để mang lại những lợi ích thiết thân cho cá nhân
và tập thể. Trong nhóm nghiên cứu mạnh cũng tương tự như vậy, mỗi cá nhân
không những biết cách làm việc độc lập, mà cần phải biết cách làm việc nhóm một
cách hiệu quả, có sự tương tác lẫn nhau để có hiệu quả tối ưu. Sự tương tác, có đi -
có lại không chỉ là các hoạt động diễn ra giữa các cá nhân trong một nhóm nghiên
cứu mạnh, mà có thể diễn ra giữa các nhóm nghiên cứu mạnh, hoặc giữa các cá
nhân của nhóm nghiên cứu mạnh này với các mạng lưới, tổ chức khác. Các ý kiến
trong các cuộc phỏng vấn sâu cá nhân và ý kiến chuyên gia sau đây sẽ làm rõ thêm
đặc tính này:
Trong hoạt động nghiên cứu, cũng như các hoạt động xã hội khác,
việc có các trao đổi xã hội, có đi - có lại trong hoạt động chuyên môn và
nhân lực là đương nhiên. Ví dụ, khi nhóm nghiên cứu của chúng tôi cần
thêm nhân lực nghiên cứu hoặc thực hiện các hoạt động điền dã trong
một thời gian ngắn, có thể kêu gọi nhân lực từ các nhóm nghiên cứu
khác trong lĩnh vực nghiên cứu gần hoặc trong cùng trường, khoa cùng
tham gia, hỗ trợ. Ngược lại, khi các nhóm nghiên cứu khác cần thực hiện
các thí nghiệm mà thiếu trang thiết bị nghiên cứu, thì chúng tôi cũng sẵn
sàng hỗ trợ, chia sẻ các trang thiết bị, thí nghiệm. Nhóm chúng tôi
thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi học thuật, có mời các
nhà khoa học từ các nhóm nghiên cứu khác có liên quan đến chia sẻ
thông tin, góp thêm ý tưởng cho vấn đề nghiên cứu. Ngược lại, các nhóm
nghiên cứu khác cũng thường xuyên mời chúng tôi đến dự và trao đổi tại
các buổi hội thảo, seminar của họ. Trong đào tạo cũng có sự trao đổi
như vậy… (N.T.K - Trưởng 1 nhóm nghiên cứu mạnh).
Chúng tôi thường xuyên có sự trao đổi, hỗ trợ lẫn nhau giữa các
thành viên trong nhóm về các vấn đề chuyên môn, học thuật, viết các bài
120
báo khoa học. Việc trao đổi với các cộng tác viên bên ngoài nhóm
nghiên cứu mạnh cũng rất quan trọng, đó là sự hỗ trợ nguồn lực từ bên
ngoài trong việc hình thành các vấn đề nghiên cứu, xây dựng và thực
hiện các nhiệm vụ R&D, cũng như giai đoạn chuyển giao kết quả nghiên
cứu sau này... (Ý kiến của một chuyên gia thuộc Đại học Kinh tế - Đại
học Quốc gia Hà Nội tại Hội thảo khoa học quốc gia Phát triển Nhóm
nghiên cứu trong các trường đại học: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm trong
nước và quốc tế, thực trạng phát triển các nhóm nghiên cứu ở các
trường đại học Việt Nam hiện nay - 5/1/2019).
Tương tác về mặt khoa học giữa các nhà khoa học trong và ngoài
nhóm nghiên cứu mạnh, giữa các nhóm nghiên cứu mạnh, trong và ngoài
nước là rất quan trọng. Đã là con người là phải có sự tương tác, tôi làm
cho anh cái này, anh giúp tôi cái kia. Tuy nhiên hiện nay, các mối quan
hệ tương tác trong KH&CN có nhiều bất cập, nhiều luật bất thành văn,
đây đó còn có hiện tượng feedback khi nhận các đề tài nghiên cứu.
Nhưng đây là vấn đề tế nhị, nhạy cảm, không có bằng chứng và rất khó
nói. Vẫn còn hiện tượng “tương tác vây cánh”, thích ai thì mời người đó,
không cần quan tâm đến chuyên môn thuộc lĩnh vực nào… Do vậy, theo
tôi, người leader (trưởng nhóm nghiên cứu mạnh) có vai trò rất quan
trọng: nếu liêm khiết, có tâm và tầm sẽ hạn chế hoặc không để xảy ra
những vấn đề tiêu cực, không mong muốn. Về các mối quan hệ quốc tế,
hiện nay cơ chế ngày càng khó khăn hơn trong việc đi nước ngoài cũng
ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động hợp tác quốc tế của các nhà khoa
học, làm giảm các tương tác từ quốc tế. Một điều rất quan trọng nữa là,
cần phải có chế độ đãi ngộ xứng đáng cho các nhà khoa học. Nhà
trường cần khuyến khích nghiên cứu khoa học thông qua việc đầu tư và
tạo điều kiện, bởi “cơm áo không đùa với khách thơ” (B.D.N. - Trưởng
nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực khoa học xã hội).
121
(Nguồn: Tổng hợp từ các kết quả phỏng vấn sâu cá nhân và ý kiến
chuyên gia tại Hội thảo).
Có thể nói, sự tương tác, có đi - có lại là một thành tố quan trọng của vốn xã
hội, mang lại lợi ích cho các cá nhân và tập thể. Theo Coleman (1988) [68], bản
chất sinh lợi của vốn xã hội đến từ bản chất duy lý của hành động xã hội, dù hành
động đó được giải thích từ góc độ xã hội học (hành động xã hội được quy định và
định hướng bởi các bối cảnh xã hội), hay từ góc độ kinh tế (con người là những chủ
thể duy lý và hướng tới việc theo đuổi lợi ích cho bản thân). Trong nhóm nghiên
cứu mạnh, các thành viên trong nhóm sẽ theo đuổi các lợi ích cho tập thể nhóm,
trong đó có cả lợi ích của mỗi cá nhân trong nhóm. Đó là các lợi ích về thành tựu
nghiên cứu, danh tiếng, uy tín, sự công nhận, phát triển sự nghiệp khoa học, tài
chính/vốn, sự hoàn thiện bản thân của mỗi cá nhân, nhu cầu học hỏi…
3.4. Tiểu kết chương 3
Chương thứ ba của luận án đã mô tả rõ đặc điểm của nhóm nghiên cứu mạnh
và đặc điểm của vốn xã hội trong các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia Hà
Nội. 27 nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập dựa
trên các tiêu chí đã được quy định cụ thể trong Hướng dẫn số 1409/HD-KH&CN về
Xây dựng và phát triển các Chương trình nghiên cứu trọng điểm và nhóm nghiên
cứu mạnh. Đó là những tập thể nghiên cứu/hoạt động khoa học mở, dưới sự dẫn dắt
của trưởng nhóm nghiên cứu mạnh. Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh là những nhà
khoa học đầu ngành, có uy tín, kinh nghiệm, có nhiều công bố quốc tế. Các thành
viên của nhóm nghiên cứu mạnh cùng theo đuổi một hướng khoa học nhất định và
có đủ các điều kiện cơ bản để đảm bảo cho các hoạt động nghiên cứu thành công
một cách liên tục và dài hạn. Với gần 400 thành viên, 28 trưởng nhóm/đồng trưởng
nhóm, các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội được phân bố khá
đều trong lĩnh vực Khoa học tự nhiên và công nghệ, kỹ thuật và lĩnh vực Khoa học
xã hội và nhân văn.
Nhóm nghiên cứu mạnh là nơi tập hợp của những nhà khoa học, nhà nghiên cứu có
trình độ cao, cùng chí hướng nghiên cứu về một lĩnh vực nào đó, khác với các nhóm xã hội
122
khác, do vậy các thành tố cấu tạo nên vốn xã hội của các nhóm nghiên cứu mạnh cũng có
những đặc điểm riêng biệt. Những phác họa về chân dung xã hội của các trưởng nhóm
nghiên cứu mạnh và các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh đã phản ánh các nguồn lực vô
hình của các cá nhân này, đó chính là các nguồn lực có liên quan chặt chẽ với vốn xã hội
như: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tri thức, kỹ năng, uy tín, các mối quan hệ, văn hóa…
Như vậy, các cá nhân của nhóm nghiên cứu mạnh thường sẽ có ưu thế hơn trong việc sử
dụng, sở hữu và phát huy nguồn vốn xã hội trong hoạt động KH&CN.
Các bằng chứng thực tế về sự hiện hữu của các yếu tố: Mạng lưới xã hội
(mạng lưới nghiên cứu); Sự tin cậy; Sự tương tác, có đi - có lại của các nhóm
nghiên cứu mạnh đã chứng minh vốn xã hội là yếu tố không thể thiếu trong các hoạt
động KH&CN cũng như sự tồn tại, phát triển của nhóm nghiên cứu mạnh. Các đặc
điểm về vốn xã hội của nhóm nghiên cứu mạnh đã phản ánh thực trạng vốn xã hội
của các nhóm này. Một là, thành phần tham gia các nhóm nghiên cứu mạnh là rất đa
dạng, không chỉ là các nhà khoa học trong cùng một đơn vị nghiên cứu, mà còn kết
nối được các nhà khoa học từ nhiều đơn vị nghiên cứu trong và ngoài nước. Các cá
nhân trong nhóm cùng bổ trợ cho nhau và cùng chung một hướng nghiên cứu, mang
lại lợi ích tối đa cho nhóm nghiên cứu mạnh. Hai là, niềm tin là một yếu tố quan
trọng để tạo nên sự hợp tác có hiệu quả trong công việc. Không chỉ là sự tin tưởng
lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm, tin tưởng vào sự lãnh đạo, dẫn dắt của
trưởng nhóm, sự thừa nhận các quy tắc, chuẩn mực chung của nhóm, mà còn là sự
tin cậy về uy tín khoa học trong cộng đồng KH&CN trong nước và quốc tế, cũng
như đối với nhà quản lý…, thì mới có thể duy trì các hoạt động của nhóm nghiên
cứu. Ba là, sự tương tác, có đi - có lại là một hoạt động quan trọng của nhóm nghiên
cứu mạnh, từ trao đổi học thuật, chia sẻ thông tin, xây dựng mạng lưới nghiên cứu,
đến thực hiện các nhiệm vụ R&D, công bố khoa học, chuyển giao tri thức, thương
mại hóa công nghệ. Đó là sự tương tác mang lại lợi ích cho các cá nhân và tập thể
nhóm nghiên cứu. Các đặc điểm này đồng thời cũng phản ánh rõ các khía cạnh của
vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại
học Quốc gia Hà Nội.
123
CHƯƠNG 4. VAI TRÒ CỦA VỐN XÃ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA CÁC NHÓM NGHIÊN CỨU MẠNH
TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
4.1. Dẫn nhập
Trong thời đại ngày nay, khi tính chất liên ngành, xuyên ngành được quán triệt
không chỉ trong hoạt động KH&CN, mà còn trong tất cả các hoạt động của xã hội
đều phải làm việc trong sự hợp tác, theo các nhóm làm việc. Làm việc theo nhóm
(Teamwork/Tearm working), xây dựng nhóm làm việc (Tearm building), Văn hóa
làm việc nhóm (Team working culture) trở thành xu hướng phát triển trong nhiều
lĩnh vực của hoạt động xã hội. Triết lý làm việc theo nhóm là hiệu ứng số đông (chứ
không phải là số đông), là hiệu quả của sự kế thừa và lũy tiến. Nếu nhóm người hợp
tác để làm việc cùng nhau thì hiệu quả chung sẽ tăng lên rất nhiều so với làm việc
theo mục tiêu của từng cá nhân và sẽ được lũy tiến theo thời gian. Vì khi đó, thế
mạnh của từng người sẽ được phát huy tối đa theo sự cộng hưởng lẫn nhau, còn
điểm yếu thì lại được bù đắp [37, 111, 112]. Trong điều kiện năng lực nghiên cứu
và phát triển của Việt Nam còn thấp, tính liên kết và cạnh tranh khoa học chưa cao,
kinh phí nghiên cứu khoa học còn ít ỏi và dàn trải, mô hình nghiên cứu khoa học
theo nhóm sẽ có tác dụng khuyến khích tạo ra các sản phẩm KH&CN hiệu quả, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tạo ra những bước đột phá trong một số lĩnh
vực cần tập trung phát triển.
Có thể điểm qua những minh chứng về tầm quan trọng của vốn xã hội trong
một nhóm/tập thể/tổ chức làm việc, nghiên cứu như sau: Margaret Heffernan, một
nhà quản lý tư tưởng (management thinker) người Anh, cũng là tác giả của một
cuốn sách mới TED Book (Technology, Entertainment and Design) đã chỉ ra yếu tố
quan trọng để một tổ chức hoạt động hiệu quả, đó chính là vốn xã hội [92]. Theo tác
giả, vốn xã hội quan trọng hơn cả. Đó là sự tin tưởng, là kiến thức, sự có đi - có lại
và các tiêu chuẩn được chia sẻ để tạo ra chất lượng cuộc sống và làm cho một nhóm
nổi bật lên. Trong bất kỳ công ty nào, bạn có thể có nhiều cá nhân xuất sắc - nhưng
124
điều khiến họ chia sẻ ý tưởng và sự quan tâm, đóng góp vào những suy nghĩ của
người khác và cảnh báo nhóm sớm về những rủi ro tiềm ẩn chính là sự kết nối của
các thành viên trong nhóm. Vốn xã hội nằm ở trung tâm của nền văn hóa duy nhất:
đó là những gì họ phụ thuộc vào - và là những gì họ sáng tạo ra.
Trong một nghiên cứu về trí thông minh tập thể, GS Thomas Malone - người
sáng lập của của Trung tâm Trí tuệ tập thể MIT và các cộng sự [108] đã chứng minh
cách thức đặc biệt hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề sáng tạo. Mục tiêu của họ là
xác định các tính năng nổi bật đã làm cho nhóm này tốt hơn nhóm khác. Cái mà họ
đã tìm ra là các cá nhân thông minh (được đo bằng chỉ số IQ) không tạo nên sự khác
biệt lớn. Trong một tập thể/nhóm, có được mặt bằng trí tuệ cao hoặc có một vài
“siêu sao” cũng không phải là điều quan trọng, mà chính là các yếu tố sau: 1) Các
thành viên trong nhóm/tập thể đã dành cho nhau một khoảng thời gian tương đương
nhau để nói chuyện, giao tiếp với nhau. 2) Trong nhóm, mọi người đều có quyền
đóng góp ý kiến và không có ý kiến nào bị coi là thừa cả. 3) Có sự nhạy cảm xã hội:
những cá nhân này có sự điều chỉnh, đồng cảm, thấu hiểu nhau một cách tinh tế khi
có những thay đổi về tâm trạng và thái độ. Điểm nổi bật của nghiên cứu này chính
là tầm quan trọng của sự kết nối xã hội.
Nhà khoa học Uri Alon, tác giả bài báo năm 2010 “How to Build a Motivated
Research Group” [109] cho rằng, các nhà khoa học gần giống với các doanh nhân
theo nghĩa là họ đạt được thành công thông qua giải quyết các vấn đề khó khăn
trong cuộc đua với thời gian. Tuy nhiên, việc dành thời gian để xây dựng các mối
liên hệ xã hội cũng rất quan trọng, nó góp phần tạo dựng nên các động lực làm việc
cho các cá nhân trong mạng lưới, điều đó sẽ đền bù vào những thiệt hại về thời gian
làm việc. Các nhà khoa học sẽ dựa vào các mối liên hệ xã hội khi họ giải quyết các
khó khăn và thách thức, điều này cũng thường đi kèm với sự xuất hiện những thành
tựu đột phá trong khoa học. Theo Alon, vốn xã hội chính là yếu tố quan trọng hình
thành nên tính khả thi của những đột phá trong khoa học.
Sự đầu tư vào các kết nối giữa các thành viên trong nhóm sẽ làm tăng năng
suất, hiệu quả làm việc và làm giảm thiểu rủi ro. Theo Ủy ban An toàn Quốc gia
125
Mỹ, 73% các sự cố thường xảy ra trong ngày đầu tiên làm việc nhóm, 44% các tai
nạn, sự cố xảy ra trong chuyến bay đầu tiên của 1 nhóm làm việc cùng nhau. Ngược
lại, những đội/nhóm đã bay cùng nhau nhiều năm thường có hoạt động hiệu quả
hơn những đội/nhóm khác [109].
Với những nhóm, tập thể nhỏ như các nhóm nghiên cứu, việc xây dựng vốn xã
hội làm cho các nhóm nghiên cứu trở nên hiệu quả hơn và sáng tạo hơn vì mức độ
tin cậy cao tạo ra một môi trường an toàn và trung thực. Trong nhóm nghiên cứu
hoạt động hiệu quả, các thành viên sẽ thúc đẩy sự chia sẻ kiến thức và chuyên môn;
họ không để cho nhau bị rơi vào tình thế bị mắc kẹt hoặc bối rối, mà cố gắng ngăn
chặn các vấn đề trước khi chúng nảy sinh và không để cho các đồng nghiệp bị cô
lập hoặc bị tách rời. Các nhóm có thời gian làm việc cùng nhau càng lâu, vốn xã hội
càng được tích lũy, càng mang lại nhiều lợi ích cho nhóm. Niềm tin, sự hữu ích, quá
trình thực hành và lòng can đảm trở thành những năng lượng tái tạo đơn giản tạo
nên sức mạnh làm việc của nhóm.
Với vai trò quan trọng của vốn xã hội trong nhóm/tập thể làm việc, nghiên cứu
như đã nêu trên, chương này đi sâu nghiên cứu việc sử dụng, khai thác các nguồn
vốn xã hội và những tác động tích cực, tiêu cực của vốn xã hội trong các hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
4.2. Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm
vụ R&D
Vốn xã hội trong các hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D
được thể hiện rất rõ ràng và cụ thể, từ hoạt động xây dựng ý tưởng nghiên cứu, tấn
công não (brainstorming) cho đến các hoạt động liên quan đến quá trình thực hiện
các nhiệm vụ R&D, mà cụ thể là các đề tài/dự án các cấp do các nhóm nghiên cứu
mạnh thực hiện. Biểu đồ 4.1. thể hiện tỷ lệ % các ý kiến của các trưởng nhóm
nghiên cứu mạnh về việc sử dụng vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của
nhóm. Theo đó, phần lớn số ý kiến cho rằng vốn xã hội được sử dụng nhiều nhất
trong các hoạt động: Xây dựng ý tưởng khoa học, brainstorming; và thực hiện các
126
nhiệm vụ R&D (lần lượt là 54,54% và 50%). Điều này cho thấy sự đánh giá cao vai
60.00%
50.00%
40.00%
30.00%
54.54%
50%
40.90%
20.00%
36.36% 36.36%
31.81% 31.81%
22.72%
10.00%
0.00%
trò của vốn xã hội trong hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D.
Biểu đồ 4.1. Vốn xã hội sử dụng trong các hoạt động KH&CN của các NNCM.
(Nguồn: NCS thống kê từ kết quả các Phiếu xin ý kiến
của 27 trưởng nhóm nghiên cứu mạnh).
4.2.1. Vốn xã hội trong hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D
Để tìm hiểu cụ thể về việc xây dựng, khai thác và duy trì các nguồn vốn xã hội
và vai trò của vốn xã hội trong hoạt động R&D, sau đây luận án sẽ phân tích sâu
127
một trường hợp cụ thể (nhóm nghiên cứu mạnh A) trong lĩnh vực khoa học xã hội
và nhân văn. Với trường hợp sẽ được trình bày dưới đây, có thể thấy những bước
tiến triển của một chương trình nghiên cứu trong quá trình phát triển, trở thành một
tổ chức KH&CN có nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong
những bước tiến triển đó, vai trò của vốn xã hội, cụ thể là mạng lưới xã hội, lòng
tin, quan hệ có đi có lại giữa các cá nhân là nền tảng quan trọng trong sự phát triển
của tổ chức KH&CN nói chung, hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ
R&D nói riêng.
Vốn xã hội trong quá trình gây dựng nhóm từ những ngày đầu thành lập
Chương trình nghiên cứu A. đã được Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (một
trong ba trường đại học hình thành nên Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 1993,
gồm: Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
I và Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội) thành lập như một tổ chức
KH&CN có tư cách pháp nhân để tiến hành các hoạt động khoa học dựa trên
nguyên tắc tự chủ theo tinh thần của Nghị định 35/HĐBT của Chính phủ năm 1992.
Sau khi được thành lập, lúc đầu đơn vị A. chỉ có hai nửa người, tức là hai người
kiêm nhiệm. Đó là PGS Nguyễn Văn, khi đó còn là viện trưởng Viện Quản lý
KH&CN thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, và một người nữa, là phó
chủ nhiệm khoa Xã hội học - Tâm lý học thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ hai
người kiêm nhiệm lúc đầu, bằng các mối quan hệ trong mạng lưới nghiên cứu và uy
tín cá nhân, được sự tin tưởng của học trò và cộng sự, PGS Nguyễn Văn bắt đầu gây
dựng được nhóm cộng sự cùng thực hiện Chương trình nghiên cứu A. Khi Đại học
Quốc gia Hà Nội được thành lập, PGS Nguyễn Văn chuyển hẳn về Đại học Quốc
gia Hà Nội, với sự tin tưởng của cấp trên, ông được bổ nhiệm làm chủ nhiệm Bộ
môn Khoa học Quản lý thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, là một
trường thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Và do đó, Chương trình nghiên
cứu do PGS Nguyễn Văn làm chủ nhiệm cũng nằm trong Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn.
128
Vốn xã hội trong việc thực hiện các nhiệm vụ, mở ra lĩnh vực nghiên cứu mới
Ngay từ khi tồn tại dưới dạng một chương trình nghiên cứu, PGS Nguyễn Văn
và các cộng sự đã thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo phù hợp với
chức năng nghiên cứu và đào tạo của chương trình. Nhờ mối quan hệ xã hội và
mạng lưới nghiên cứu từ khi còn công tác tại Bộ Khoa học, Công nghệ và Mội
trường, năm 2001, đơn vị của PGS Nguyễn Văn, với tư cách là một đơn vị thuộc
Khoa Xã hội học (đã tách bộ phận Tâm lý học thành một khoa riêng) đã phối hợp
với Cục Môi trường của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức thành
công một hội thảo khoa học quốc gia về “Xã hội học môi trường”, trong đó lần đầu
tiên ở Việt Nam bàn đến những vấn đề về tranh chấp môi trường và xung đột môi
trường giữa các địa phương và các quốc gia. Hội thảo cũng đã đề cập tới một chủ đề
rất mới mẻ, đó là an ninh môi trường, mở đầu cho một hội thảo quốc gia quan trọng
về “An ninh môi trường” vào năm 2004 do đơn vị của PGS Nguyễn Văn phối hợp
với Bộ Công an tổ chức, với sự tham dự của nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh
vực có liên quan và các vụ, viện và tổng cục thuộc Bộ Công an.
Sau các hội thảo này, Chương trình đã đề cập việc đưa nội dung nghiên cứu và
giảng dạy về xã hội học môi trường vào chương trình đào tạo đại học và sau đại
học. Bằng uy tín và những kết quả nghiên cứu thuyết phục đã được ghi nhận,
Chương trình đã được phép xuất bản một cuốn sách đầu tiên về chủ đề Xã hội học
môi trường tại Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, và môn học Xã hội học Môi
trường đã được đưa vào giảng dạy cho các lớp cao học tại Khoa Xã hội học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện Xã hội học thuộc Viện Khoa học Xã
hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) và Viện Thủy lợi thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tận dụng nguồn vốn xã hội theo các tiếp cận: vi mô, trung mô và vĩ mô
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo do chương trình đặt ra, PGS
Nguyễn Văn và các cộng sự đã ý thức được việc tận dụng các nguồn vốn xã hội với
ý nghĩa đầy đủ của khái niệm này. Theo PGS Nguyễn Văn, có ba hướng tiếp cận
vốn xã hội được tận dụng khai thác, đó là: tiếp cận vi mô, vĩ mô và trung mô.
129
Tiếp cận vi mô (micro), là xem xét mối quan hệ giữa các cá thể con người với
nhau và với các thực thể vật lý và phi vật lý; là vị thế xã hội của đương sự, bao gồm
trong đó cả uy tín, địa vị, thương hiệu.
Tiếp cận vĩ mô (macro), là môi trường xã hội, tạo điều kiện để diễn ra các
quan hệ giữa con người với các thực thể vật lý và phi vật lý nêu ở trên. Nó bao gồm
các thiết chế xã hội, môi trường chính sách, môi trường pháp lý, môi trường tâm
lý,… tạo điều kiện thúc đẩy hoặc kìm hãm các quan hệ xã hội.
Tiếp cận trung mô (meso), còn gọi là tiếp cận cấu trúc (structural), là các hình
thức liên kết trong xã hội, bao gồm cả các liên kết giữa cộng đồng thực và ảo trong
cái gọi là “Physical Cyber-system”, một đặc trưng rất điển hình của xã hội đương
đại trong Cách mạng Công nghiệp 4.0.
PGS Nguyễn Văn cho biết, trong quá trình phát triển nhóm nghiên cứu mạnh
của mình, ông và các cộng sự đã thực hiện các cách thức huy động các nguồn vốn
xã hội rất đa dạng và phong phú, tận dụng mọi cơ hội để có thể tìm ra phương thức
huy động tối đa các nguồn vốn xã hội khả dĩ để phục vụ mục đích của nhóm nghiên
cứu. Ông đã nêu một số ví dụ điển hình như sau:
Chúng tôi luôn tập hợp một nhóm chuyên gia gần gũi để làm công
việc tấn công não, như kiểu các think-tank, trong đó bàn thảo tình hình
kinh tế, xã hội, KH&CN, từ đó đề xuất các ý tưởng nghiên cứu. Từ đây,
hiện thực hóa các ý tưởng nghiên cứu thành các nhiệm vụ nghiên cứu,
hoặc chủ đề các tọa đàm, bàn tròn, sêmina hoặc hội thảo, không loại trừ
khả năng tìm kiếm các dự án hợp tác quốc tế.
(Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả phỏng vấn sâu cá nhân).
Duy trì, nuôi dưỡng vốn xã hội để sử dụng khi cần thiết
Trong trường hợp xuất hiện nhu cầu hợp tác quốc tế, nhóm của ông thường
xuyên có liên hệ với các nhà nghiên cứu nước ngoài. Ông cho biết, trong thời gian
làm viện trưởng một viện thuộc Bộ, ông có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nhà nghiên
cứu nước ngoài. Đây là cơ hội tốt tìm kiếm sự hợp tác với họ, trong đó đặc biệt là
việc hợp tác thực hiện các dự án phối hợp: “Cái vốn liếng này luôn được tôi duy trì
130
để khai thác trong tình huống cần thiết, nhất là sau này, khi tôi về làm việc tại Đại
học Quốc gia Hà Nội”.
Ông cũng chia sẻ một kinh nghiệm rất đáng ghi nhận, sau này khi đã không
còn làm việc tại Bộ KH&CN (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũ), ông vẫn
duy trì các mối quan hệ với các đồng nghiệp nước ngoài. Với sự tin tưởng vào tiềm
năng và sự năng động của thế hệ trẻ, ông đã bàn giao các mối quan hệ của mình cho
các đồng nghiệp mới vào nghề, tìm cách phối hợp với các đồng nghiệp nước ngoài
để tìm kiếm các dự án với tài trợ của các quỹ nước ngoài, tạo điều kiện để các đồng
nghiệp trưởng thành, trên cơ sở đó duy trì quan hệ với các quỹ nước ngoài, kéo dài
hàng chục năm. Chính nhờ đó, mà đơn vị có cơ hội được trưởng thành, phát triển
các hướng nghiên cứu với sự tài trợ của nhiều nguồn tài trợ trong nước và ngoài
nước.
Chia sẻ về bí quyết của việc phát triển bền vững các nguồn vốn xã hội hữu hạn
luôn đứng trước khả năng cạn kiệt trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo, PGS
Nguyễn Văn bật mí với sự trích dẫn ý kiến của nhà xã hội học khoa học Mỹ gốc
Đức Zuckerman về hiệu ứng Mathiew: “Làm khoa học như đi buôn, khi còn hàn vi
thì chắt chiu từng xu, nhưng đến lúc nào đó, khi đã đủ lực và trường vốn, thì tiền
vào như nước. Vấn đề là cần biết duy trì quan hệ với các đồng nghiệp, trong nước
và nước ngoài” [82, 115].
Câu chuyện của nhóm nghiên cứu mạnh A cho thấy, việc sử dụng, duy trì và
phát triển các nguồn vốn xã hội là rất quan trọng, đòi hỏi phải liên tục tích lũy và sử
dụng khi cần thiết. Càng tích lũy được lâu thì càng có nhiều vốn xã hội. Từ chỗ chỉ
có “hai nửa người” (hai người kiêm nhiệm), trưởng nhóm nghiên cứu mạnh A đã
tập hợp được các cộng sự và học trò thân thiết có cùng chí hướng, quyết tâm và đã
thực hiện thành công việc thành lập một đơn vị tự chủ, có tư cách pháp nhân để tiến
hành các hoạt động KH&CN. Đặc biệt, trong việc xây dựng chương trình nghiên
của của nhóm nghiên cứu mạnh A, việc sử dụng các mối quan hệ hợp tác quốc tế và
lòng tin vào các cán bộ trẻ đã giúp nhóm ông có được nguồn tài trợ kinh phí lâu dài
cho các nhiệm vụ R&D cũng như các hoạt động KH&CN khác.
131
4.2.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội với các hoạt động xây
dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D
4.2.2.1. Tác động tích cực
Qua tìm hiểu và nghiên cứu về nhóm nghiên cứu mạnh A, NCS ghi nhận một
tình huống về khai thác các nguồn vốn xã hội, ở đây trong ba hướng tiếp cận vi mô,
vĩ mô và trung mô, thì hướng tiếp cận vi mô mang tính quyết định, nó sẽ là động
lực quan trọng để tạo điều kiện cho tiếp cận vĩ mô và trung mô phát huy tác dụng.
Từ nguồn vốn xã hội (chủ yếu là mạng lưới xã hội, mối quan hệ trong mạng lưới
nghiên cứu, cũng như lòng tin, sự tác động qua lại trong các mối quan hệ) của
trưởng nhóm và các thành viên chủ chốt, đã mở ra nhiều hoạt động xây dựng và
thực hiện các nhiệm vụ R&D, giúp nhóm nghiên cứu mạnh A tồn tại và phát triển.
Theo những tài liệu NCS thu thập và phân tích được về nhóm nghiên cứu
mạnh này cho thấy, vốn xã hội của Nhóm được sử dụng nổi trội và hiệu quả nhất là
trong các hoạt động hợp tác quốc tế. Năm 2002, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn và Quỹ R. (CHLB Đức) đã chính thức ký thỏa thuận hợp tác và triển
khai dự án nghiên cứu đầu tiên về chính sách, Trường cũng là đối tác đầu tiên của
Quỹ R tại Việt Nam. Lúc đó, Chương trình nghiên cứu Xã hội học về môi trường và
phát triển do PGS Nguyễn Văn làm chủ nhiệm được giao trực tiếp triển khai hoạt
động hợp tác này. Dự án nghiên cứu chung đầu tiên giữa hai bên là về lĩnh vực
chính sách. Các chuyên gia Đức và Việt Nam đặt mục tiêu ban đầu là làm các dự án
giúp nâng cao năng lực phân tích chính sách trong cộng đồng, trước hết là trong các
cơ quan lập pháp và các cơ quan hành pháp của Việt Nam. Đây là một lĩnh vực
khoa học không mới trên thế giới song còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Thực tiễn cũng
cho thấy những người làm chính sách ở các cơ quan trung ương và địa phương ở
Việt Nam đa phần đều là “tay ngang”, không được đào tạo bài bản về lĩnh vực này.
Đây là một khoảng trống khá lớn trong công tác làm chính sách mà các chuyên gia
Đức và Việt Nam đã nhìn ra.
Sự gặp nhau giữa các chuyên gia Đức và chuyên gia của Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, cũng như sự tin tưởng lẫn nhau giữa các bên đã đem
132
đến những hoạt động chung thú vị và hữu ích cho cả hai bên. Quỹ R. đã tạo điều
kiện để trong những năm đầu các đoàn chuyên gia và lãnh đạo của Việt Nam được
đến nước Đức học tập, nghiên cứu kinh nghiệm về kỹ năng phân tích chính sách,
nhất là của đảng cách tả của CHLB Đức. Những cuộc đối thoại chính sách, tọa đàm
và hội thảo về chính sách được tổ chức xoay quanh các chủ đề về: các giá trị của
chủ nghĩa xã hội dân chủ, tương tác giữa chính sách và văn hóa, lý luận Cánh Tả
trong đời sống xã hội hiện đại đến những vấn đề rất cụ thể trong chính sách khoa
học và giáo dục trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy tập trung sang nền
kinh tế thị trường...
Có thể nói, chính sự nhiệt tâm của các bạn Đức và sự tâm huyết của các nhà
khoa học Việt Nam đã giúp hình thành nên những tài liệu, sách tham khảo, giáo
trình và hệ thống lý thuyết về khoa học chính sách tại Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn. Hoạt động đào tạo trong lĩnh vực khoa học chính sách và quản lý
cũng được phát triển mạnh. Sau 15 năm, từ kết quả của một chương trình nghiên
cứu đã hình thành nên một trung tâm nghiên cứu và phân tích chính sách, sau này
trở thành Viện A - một đơn vị nghiên cứu tiên phong và có uy tín của Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn ở Việt Nam.
Một số kết quả tiêu biểu của nhóm nghiên cứu mạnh này có thể kể đến như:
Viện A đã được Văn phòng Quốc hội đặt hàng mở các lớp tập huấn chính sách cho
các chuyên viên thuộc Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Chủ
tịch nước, Văn phòng Trung ương Đảng, đồng thời cung cấp tài liệu về kỹ năng phân
tích chính sách cho các đại biểu Quốc hội khóa 13 và 14. Đây là một trong những
thành tích nổi bật nhất trực tiếp đóng góp vào thực tiễn hoạt động hoạch định chính
sách tại Việt Nam. Viện A cũng góp phần xây dựng nội dung các chương trình đào
tạo sau đại học dài hạn về Chính sách trong chuyên ngành Quản lý KH&CN bậc ThS
và TS, bậc ThS chuyên ngành Chính sách Công. Đây đều là những chương trình đào
tạo tiên phong tại Việt Nam do Viện A tham gia xây dựng và tham gia triển khai đào
tạo.
133
Về nghiên cứu, Viện A góp phần quan trọng hình thành nên một trường phái
nghiên cứu về khoa học chính sách tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
trên nền tảng hệ thống giáo trình, tài liệu nghiên cứu về khoa học chính sách và các
lĩnh vực chính sách cụ thể như chính sách khoa học và giáo dục; chính sách KH&CN
và đổi mới, sáng tạo; chính sách phát triển vùng; lý thuyết quyết định phục vụ công
tác nghiên cứu, đào tạo...
Một dấu ấn nữa cần được nhắc đến là Viện A đã hình thành nên một nhóm
nghiên cứu được Đại học Quốc gia Hà Nội công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh
cấp Đại học Quốc gia Hà Nội. Gần đây nhất, Viện đã đề xuất và được Đại học Quốc
gia Hà Nội đồng ý đề nghị phát triển thành trung tâm nghiên cứu trọng điểm cấp
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Sự ra đời của Viện A với sự kết hợp giữa phân hệ đào tạo và phân hệ nghiên
cứu, là một mô hình Think tank điển hình trong lĩnh vực chính sách và quản lý.
Slogan của Viện là “Ý tưởng - Nhận thức - Đổi mới” với mong muốn đi từ ý tưởng
mới về nghiên cứu chính sách để dẫn tới sự thay đổi về tư duy, nhận thức trong lĩnh
vực chính sách, cuối cùng nhằm thúc đẩy những thay đổi tích cực trong thực tiễn
hoạt động chính sách tại Việt Nam.
Có được những kết quả nổi bật nêu trên là do bắt nguồn từ hoạt động hợp tác
giữa một trường đại học Việt Nam với một quỹ quốc tế như Quỹ R. kéo dài hơn 15
năm nay. Đây là một mối quan hệ hợp tác bền vững, dài lâu và hiếm có. Thông
thường, vòng đời của một hoạt động hợp tác như vậy thường chỉ từ 3-5 năm. Nhưng
với trường hợp này, hoạt động hợp tác bắt đầu từ một hướng nghiên cứu cụ thể
trong khoa học chính sách, giờ đã ngày càng mở rộng ra thêm nhiều hướng nghiên
cứu mới và đi vào chiều sâu. Viện A, mà cụ thể là nhóm nghiên cứu mạnh trong
lĩnh vực nghiên cứu chính sách đang có nhiều ý tưởng nghiên cứu mới và các dự án
hợp tác chung cùng Quỹ R. trong hiện tại và tương lai. Đây là một quan hệ hợp tác
đặc biệt, lâu dài, truyền thống và thực sự rất hiệu quả, đem lại nhiều giá trị cho cả
hai bên.
134
Qua nghiên cứu trường hợp nhóm nghiên cứu mạnh A, có thể thấy rõ việc sử
dụng, duy trì nguồn vốn xã hội (thông qua mạng lưới quan hệ từ cơ quan cũ, đồng
nghiệp, bạn bè quốc tế, trong đó bao hàm cả sự tin tưởng và tác động qua lại giữa
các mối quan hệ) có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nhóm nghiên cứu
mạnh A và các hoạt động nghiên cứu khoa học của nhóm. Lợi ích thấy rõ nhất là từ
mạng lưới các mối quan hệ, uy tín, sự tin tưởng vào thế hệ trẻ của trưởng nhóm
nghiên cứu mạnh đã mang về các nguồn tài trợ quốc tế một cách lâu dài - nguồn
kinh phí quan trọng đảm bảo cho các hoạt động nghiên cứu của nhóm, đồng thời mở
ra nhiều hướng nghiên cứu mới trong khoa học chính sách. Đó cũng chính là các tác
động tích cực của vốn xã hội đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Tương tự với các nhóm nghiên cứu mạnh khác của Đại học Quốc gia Hà Nội,
với tính chất mở, các nhóm nghiên cứu mạnh có một đặc điểm chung là, các thành
phần tham gia nhóm nghiên cứu rất đa dạng, gồm: các nhà khoa học trong nước,
quốc tế, NCS, học viên cao học, sinh viên, đại diện các tổ chức nước ngoài, doanh
nghiệp, đại diện địa phương... Mỗi cá nhân trong nhóm nghiên cứu mạnh lại có
những mối quan hệ xã hội, mạng lưới kết nối riêng của mình. Do vậy, mạng lưới
nghiên cứu và các mối quan hệ kết nối của các mạng lưới này sẽ rất rộng mở chứ
không chỉ co cụm giữa các thành viên trong nhóm. Kết quả khảo sát 27 nhóm
nghiên cứu mạnh cũng cho thấy điều này: Đối với câu hỏi, mạng lưới nghiên cứu
của nhóm nghiên cứu mạnh hiện gồm những nhân tố nào, có 100% phiếu trả lời là
các nhà khoa học trong nước; tiếp đến là các nhà khoa học quốc tế (90,91% số
phiếu) và NCS (90,91%); học viên cao học, sinh viên (72,73%); các tổ chức nước
ngoài (54,55%); doanh nghiệp (50%); địa phương (36,36%); khác (18,18%) (Biểu
đồ 3.10). Với sự đa dạng và tính chất mở của các cá nhân tham gia nhóm nghiên
cứu mạnh, nguồn vốn xã hội của các nhóm nghiên cứu mạnh là rất lớn (bao gồm cả
các mối quan hệ nghiên cứu, những nguồn lực vô hình và vốn con người của các cá
nhân trong các nhóm nghiên cứu mạnh), được sử dụng trong các hoạt động xây
dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D, từ việc xây dựng ý tưởng, brain storming,
tìm kiếm kinh phí nghiên cứu. Việc thực hiện các nhiệm vụ R&D mang ý nghĩa
135
sống còn với các nhóm nghiên cứu mạnh, vì đó vừa là mục tiêu chính của nhóm
nghiên cứu để có thể cho ra đời những sản phẩm nghiên cứu khoa học có chất lượng
tốt, khẳng định vị thế của nhóm, vừa là nguồn thu nhập chính của các nhóm nghiên
cứu mạnh. Các nhóm nghiên cứu mạnh sẽ không thể tồn tại được nếu không thực
hiện các nhiệm vụ R&D.
4.2.2.2. Tác động tiêu cực
Theo các tác giả nghiên cứu về vốn xã hội, không phải vốn xã hội lúc nào
cũng tạo ra các sản phẩm có ích cho xã hội. Porter và Landolt (1996) [100] đã xác
định ba khía cạnh tiêu cực của vốn xã hội. Thứ nhất, vốn xã hội hỗ trợ các thành
viên trong nhóm thường làm cho nhóm đó loại trừ những người “ngoại đạo”. Sự
gắn kết xã hội chặt chẽ thường làm cho những người mới khó cạnh tranh, bất kể
những người mới đó có kỹ năng và kiến thức tốt. Thứ hai, vốn xã hội có thể hạn chế
sự tự do của các cá nhân và các sáng kiến trong nhóm. Cuối cùng, vốn xã hội có thể
làm giảm các áp lực trong đấu tranh với những thói quen ích kỷ.
Trong quá trình thực hiện khảo sát ý kiến của các trưởng nhóm nghiên cứu
mạnh, phỏng vấn sâu và lấy ý kiến chuyên gia về việc sử dụng vốn xã hội và vai trò
của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN, cụ thể là trong hoạt động xây dựng và
thực hiện các nhiệm vụ R&D, NCS ghi nhận một số ý kiến cho rằng, hiện nay, có
hiện tượng bất cập trong mối quan hệ tương tác KH&CN, tồn tại nhiều luật bất
thành văn. Một số ý kiến tổng hợp sau đây sẽ góp phần định tính về hiện tượng này.
“Còn có hiện tượng feedback khi nhận các đề tài nghiên cứu.
Nhưng đây là vấn đề tế nhị, nhạy cảm, không có bằng chứng và rất khó
nói. Vẫn còn hiện tượng ‘tương tác vây cánh’, thích ai thì mời người đó,
không cần quan tâm đến chuyên môn thuộc lĩnh vực nào…” (B.D.N -
Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực khoa học xã hội).
“Việc có những mối quan hệ xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nhận và thực hiện các đề tài R&D của một số cá nhân nhà khoa học là
chuyện hoàn toàn bình thường. Nhưng không thể nói là do hay rủ nhau
đi nhậu mà cho nhau các đề tài nghiên cứu được. Anh phải có năng lực
136
thực sự mới có thể đảm nhiệm được đề tài nghiên cứu. Kết quả nghiên
cứu và thành tích trong nghiên cứu khoa học mới là điều quan trọng” (Ý
kiến của chuyên gia T.V.V - Trưởng phòng quản lý thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội khi được hỏi về việc có hay không biểu hiện tiêu cực trong
việc sử dụng vốn xã hội để xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D).
(Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả phỏng vấn sâu cá nhân và lấy ý
kiến chuyên gia).
Các dẫn chứng nêu trên cho thấy, trong sự tương tác có đi có lại của các mối
quan hệ trong mạng lưới KH&CN có thể xảy ra những tác động tiêu cực như “lại
quả”, “feedback” trong việc giao – nhận các nhiệm vụ R&D, vây cánh trong quan
hệ nghiên cứu. Trong khuôn khổ của luận án này, chưa đủ cơ sở để kết luận về các
tác động tiêu cực của vốn xã hội đến các hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm
vụ R&D như ba khía cạnh của Porter và Landolt [100], cũng như các hiện tượng
tương tác vây cánh, feedback nếu có. Vì vậy, đây cũng là một nội dung khoa học cần
có những nghiên cứu trong tương lai để làm sáng tỏ vấn đề này, giúp cho nền
KH&CN nước nhà ngày càng phát triển.
4.3. Vai trò của vốn xã hội trong công bố khoa học
4.3.1. Vốn xã hội trong công bố khoa học
Để hội nhập quốc tế về KH&CN thì các sản phẩm của nghiên cứu khoa học,
trong đó có các công bố khoa học - được thể hiện qua các bài báo khoa học, sách/giáo
trình - cần phải tuân thủ và được đánh giá theo những chuẩn mực nhất định và được
công nhận trên tầm quốc tế. Số lượng và chất lượng các bài báo trên các tạp chí
KH&CN có uy tín quốc tế là một trong các chỉ số quan trọng đánh giá trình độ phát
triển KH&CN của mỗi nước và là con đường tất yếu để các nhà khoa học Việt Nam
vươn lên hội nhập với khoa học thế giới. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết đối với các
nhà nghiên cứu, bất kể là ở lĩnh vực khoa học nào. Trong xu thế hội nhập quốc tế về
KH&CN, chất lượng các công bố khoa học bắt buộc phải tiếp cận các chuẩn mực
quốc tế, về hàm lượng, nội dung khoa học và cả về hình thức trình bày kết quả nghiên
cứu.
137
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, việc công bố các kết quả nghiên cứu trên
các tạp chí KH&CN có chất lượng chuyên môn đã được quốc tế thừa nhận (ví dụ,
được Viện Thông tin khoa học ISI - Institute of Scientific Information - đánh giá và
xếp hạng) đang dần trở thành một tiêu chí đánh giá thành tích nghiên cứu khoa học
của các cá nhân và tập thể khoa học. Bên cạnh những cơ hội mới của hội nhập quốc
tế như: Việt Nam ngày càng trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn của thế giới,
được giới khoa học quan tâm ngày càng nhiều; việc truy cập thông tin thuận lợi, kết
nối khu vực và quốc tế dễ dàng; ngày càng có nhiều nhà khoa học Việt Nam học tập
và làm việc tại nước ngoài..., các nhà khoa học của Việt Nam cũng phải đối mặt với
những khó khăn đang cản trở sự hội nhập quốc tế như: rào cản về ngôn ngữ, thiếu
thông tin khoa học chuyên sâu, sự khác nhau về phương pháp luận nghiên cứu khoa
học, rào cản về nhận thức.
Do đặc thù của từng lĩnh vực khoa học nên số lượng công bố khoa học của các
lĩnh vực khoa học cũng có sự khác nhau đáng kể. Dẫn đầu số lượng công bố quốc tế
hiện nay là các lĩnh vực: Kỹ thuật, Vật lý, Hóa học, Khoa học vật liệu, Toán, Môi
trường sinh thái, Khoa học công nghệ khác, Khoa học máy tính, Kinh tế kinh
doanh, Dược học, Sức khỏe nghề nghiệp môi trường công cộng, Thực vật học,
Nông nghiệp, Bệnh truyền nhiễm, Nhiên liệu, năng lượng… [33] (Biểu đồ 4.2).
138
1200
1013
1000
715
800
611 585
520
453
600
444
401
400
ế t c ố u q ố b g n ô c g n ợ ư
221
136
l
219173
112
159 148
ố S
162
200
136133131 119
109102 98
95
0
…
…
ử t
t ậ v
c ọ h
c ọ h
c ọ h
c ọ h
i á h t
c á h k
c ớ ư n
n á o T
h n a o d
ý l t ậ V
m ễ i h n
g n ô h t
g n ợ ư l
c ọ h ơ C
t ậ v
n â h p
á o H
t ấ h c a ị Đ
t ậ u h t ỹ K
h n i s i
h n i s
c ợ ư D
V
g n a u Q
n ễ i V
g n ứ à v c ọ h
h n i k
i ô m p ệ i h g n
g n ă n
u ệ i l t ậ v c ọ h
p ệ i h g n g n ô N
n ê y u g n
h n í t y á m c ọ h
c ự h T
n ề y u r t
ế t
c ọ h h n i
u ệ i l
ề h g n
S
i à T
a o h K
a o h K
h n ệ B
h n i K
ệ h g n g n ô c c ọ h
g n ờ ư r t i ô M
n ê i h N
m ẩ h p c ự h t ệ h g n g n ô c c ọ h
a o h K
ẻ o h k c ứ S
h n i s ệ h g n g n ô C
a o h K
Biểu đồ 4.2. Các ngành, lĩnh vực khoa học của Việt Nam có nhiều công bố quốc tế.
Nguồn: NCS tự tổng hợp, phân tích số liệu từ tài liệu số [33].
Như vậy, có thể thấy, nhìn chung lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn không
phải là lĩnh vực có nhiều công bố khoa học so với các lĩnh vực kỹ thuật, tự nhiên.
Tuy nhiên, lĩnh vực kinh tế kinh doanh lại có số lượng công bố tương đương với
lĩnh vực dược học và cao hơn một số lĩnh vực về y học, nông nghiệp… Bên cạnh
đó, số lượng công bố khoa học của lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn nói chung
cũng có sự tăng trưởng trong những năm gần đây. Nếu như năm 2010, toàn Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn mới có 13 công bố quốc tế thì đến năm 2015,
toàn trường đã có 50 công bố quốc tế và năm 2017, con số này là 55. Trong đó, số
bài trên các tạp chí ISI và Scopus giai đoạn 2012-2016 của toàn trường là 26 bài.
139
Số lượng công bố trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn còn chưa cao có
thể giải thích là do tính đặc thù của các lĩnh vực này, tính phổ quát không cao như
với các lĩnh vực khoa học tự nhiên, công nghệ và kỹ thuật. Bên cạnh đó, một số
chuyên gia còn cho rằng nguyên nhân sâu xa dẫn tới tình trạng này là do nhận thức,
chất lượng đào tạo, năng lực ngoại ngữ… “Trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta
không đòi hỏi các nhà khoa học phải công bố quốc tế, lại có xu hướng coi thường
các xuất bản quốc tế về khoa học xã hội do một nhận thức phi lý rằng chỉ những
người có chung ý thức hệ và nhãn quan chính trị với phương Tây mới có công bố
quốc tế…” [40].
Đánh giá về tầm quan trọng của việc công bố quốc tế, chuyên gia Trần T.
(Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, “hiện nay, xu hướng
liên ngành và đa ngành ngày càng phát triển mạnh đã mở ra nhiều cơ hội cho các
nhà khoa học thuộc khối ngành khoa học xã hội và nhân văn. Các công bố quốc tế
trên các tạp chí uy tín không chỉ giúp nâng cao vị thế và uy tín cho cá nhân nhà
khoa học mà còn giúp nâng hạng ranking cho khoa và trường đại học của mình, có
thêm cơ hội để thu hút các nguồn tài trợ cho nghiên cứu”.
Dưới đây, NCS xin đưa ra một trường hợp điển hình về việc vận dụng vốn xã
hội trong công bố khoa học của nhóm nghiên cứu mạnh B thuộc lĩnh vực khoa học
tự nhiên, công nghệ và kỹ thuật, qua đó cho thấy vai trò quan trọng của các mối
quan hệ hợp tác quốc tế, việc mở rộng mạng lưới nghiên cứu quốc tế sẽ góp phần
nâng cao vị thế, uy tín của nhóm nghiên cứu mạnh, từ đó gia tăng các công bố khoa
học.
Hợp tác quốc tế trong công bố khoa học
Qua nghiên cứu thực tế của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia
Hà Nội, đặc biệt là nhóm nghiên cứu mạnh B cho thấy, việc vận dụng vốn xã hội
trong công bố khoa học được thể hiện trong các hoạt động tìm kiếm ý tưởng cho các
công trình khoa học, tích cực tham gia các hội thảo khoa học quốc tế, từ đó xây
dựng mối quan hệ chuyên môn với các học giả quốc tế (xây dựng mạng lưới nghiên
cứu), hợp tác cùng nhau trong những dự án nghiên cứu chung, có những công bố
140
quốc tế chung (tin tưởng lẫn nhau về chuyên môn, tác động qua lại, tương hỗ lẫn
nhau trong những dự án nghiên cứu, công bố quốc tế)... Bên cạnh đó, việc tự trau
dồi, nâng cao năng lực tiếng Anh học thuật cũng là một điều kiện quan trọng để có
các công bố quốc tế (nâng cao vốn con người, từ đó chuyển sang vốn xã hội).
Theo GS Phạm V. (Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh B), “các nhà khoa học
của Việt Nam nên tận dụng các mối quan hệ hợp tác quốc tế trong việc cùng thực
hiện các nghiên cứu cũng như công bố khoa học. Hợp tác quốc tế sẽ thúc đẩy và
phát huy nội lực của các nhóm nghiên cứu trong nước tốt hơn. Hiện nay, năng lực
KH&CN Việt Nam còn yếu so với đa số các quốc gia phát triển, cho nên, nếu có cơ
hội hợp tác, qua đó có thể học hỏi, nâng cao năng lực nghiên cứu và hội nhập quốc
tế là điều nên làm và khuyến khích”. Nhóm nghiên cứu mạnh của GS Phạm V. đã
phát huy rất tốt quan hệ quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu và công bố khoa
học. Với mỗi nhánh nghiên cứu trong nhóm nghiên cứu mạnh của ông đều có các
đối tác nước ngoài. Theo GS Phạm V., công bố quốc tế là ‘chứng chỉ cho năng lực
hoạt động KH&CN, là căn cứ xét duyệt đề án, đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu và cũng
chính là một phương thức để tìm vấn đề nghiên cứu’. Thông qua hợp tác quốc tế
trong công bố khoa học, có thể học hỏi về ý tưởng khoa học cũng như cách tiếp cận
vấn đề khoa học. GS Phạm V. cho biết, nhóm của ông đã học hỏi các ý tưởng khoa
học và cách tiếp cận vấn đề từ các nước như: Chi Lê, Ấn Độ, Bawngladesh…
Nâng cao uy tín, vị thế, danh tiếng của nhóm nghiên cứu mạnh qua công bố
quốc tế
Chính từ một số công bố quốc tế của nhóm nghiên cứu mạnh B mà nhiều nhà
khoa học quốc tế đã quan tâm, chú ý và liên hệ với nhóm nghiên cứu mạnh B để
cùng phối hợp thực hiện các nghiên cứu khoa học mới. Trên cơ sở những kết quả
nghiên cứu đầu tiên về ô nhiễm asen trong nước ngầm thuộc dự án hợp tác với Viện
KH&CN nước của Thụy Sỹ, nhóm đã công bố một số bài báo trên Tạp chí
Environmental Science & Technology năm 2001, 2005; một bài báo trên PNAS
(Proceedings of the National Academy of Sciences) năm 2011. Nhờ tiếng vang của
những công bố quốc tế này, các nhà khoa học thuộc Trường Đại học kỹ thuật Đan
141
Mạch (DTU) đã tìm đến nhóm nghiên cứu mạnh B và đề nghị xây dựng một hợp tác
quốc tế mới với mục tiêu nghiên cứu về cơ chế phát sinh ô nhiễm asen ở tầng nước
nông Holocen. Như vậy, từ năm 2004-2012, song song với hợp tác với Thụy Sỹ về
vấn đề asen, nhóm nghiên cứu mạnh B còn có dự án với đối tác Đan Mạch, với sự
tài trợ của DANIDA theo hai pha, có tổng kinh phí cho cả hai phía khoảng 3 triệu
USD. Các nghiên cứu của dự án đã khẳng định cơ chế khử trong điều kiện hiếm khí
và giàu hữu cơ đã giải phóng asen từ trầm tích vào nước ngầm tại các khu vực khảo
sát, đồng thời cũng chỉ ra khả năng di chuyển của ô nhiễm asen từ tầng nông xuống
tầng sâu và khả năng ảnh hưởng do nguyên nhân khai thác nước ngầm quá mức.
Với kết quả này, nhóm nghiên cứu mạnh B đã có bài báo đăng trên Tạp chí Nature
Geoscience - một tạp chí danh tiếng nhất thế giới, và sau đó là hàng chục bài báo
ISI trong các lĩnh vực liên quan.
Tăng cường năng lực hợp tác nghiên cứu thông qua các công bố quốc tế
Cũng từ các mối quan hệ trong giới khoa học liên quan tới vấn đề asen ngày
càng mở rộng, và tiếp tục bắc cầu cho những dự án hợp tác đa phương khác, như: đề
tài hợp tác với các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Tổng hợp Columbia (Hoa
Kỳ) và Viện Nghiên cứu liên bang về KH&CN nước EAWAG (Thụy Sỹ), nghiên
cứu chuyên sâu về cơ chế ô nhiễm và các yếu tố có thể làm tăng, giảm sự ô nhiễm
asen trong nước ngầm. Kết quả nghiên cứu này đã được công bố trên Tạp chí
Nature năm 2013 với bài báo: Retardation of arsenic transport through a Pleistocene
aquifer (Cơ chế làm chậm sự di chuyển của asen qua tầng chứa nước sâu
Pleistocene). Bài báo này đã gây nên một tiếng vang và xung động lớn trong giới
khoa học liên ngành liên quan đến lĩnh vực địa hóa môi trường và địa chất thủy văn
trên thế giới. Nhờ đó, nhóm nghiên cứu mạnh B đã nhận được nhiều lời mời và
thách thức về chuyên môn nhằm giải quyết tận gốc cơ chế phát sinh ô nhiễm và khả
năng xâm nhập asen từ tầng nước nông xuống tầng sâu, đe dọa sự an toàn của các
giếng khai thác nước ngầm trên toàn thế giới. Nhóm nghiên cứu mạnh B đã tiếp tục
thực hiện 2 đề tài hợp tác mới với nhóm nghiên cứu của một GS của Đại học
Columbia cho giai đoạn 2014-2016 do Quỹ nghiên cứu Hoa Kỳ (NSF) tài trợ và
142
một hợp tác mới với nhóm nghiên cứu của một GS ở Viện Khảo sát địa chất,
Copenhagen với sự tài trợ của Cộng đồng châu Âu (EU) giai đoạn 2014-2018 với
tổng kinh phí lên tới 1,6 triệu Euro để tìm hiểu vai trò vi sinh, mùn hữu cơ trong sự
giải phóng asen từ trầm tích. Không chỉ có các nghiên cứu về cơ chế ô nhiễm asen,
nhóm nghiên cứu mạnh B còn hợp tác với Trường Đại học Ehime (Nhật Bản) và
Viện Y học lao động (Bộ Y tế của Việt Nam) thực hiện các nghiên cứu xác định
tính đa hình di truyền của cá thể người Việt Nam đối với sự phơi nhiễm asen, đánh
giá khả năng chống chịu ô nhiễm phụ thuộc vào tập quán dinh dưỡng và cơ địa trên
cơ sở phân tích các mẫu sinh học của người.
Qua trường hợp vận dụng vốn xã hội trong công bố khoa học của nhóm
nghiên cứu mạnh B, có thể thấy rõ ràng rằng, việc khai thác các hợp tác quốc tế là
cách đi hiệu quả trong xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh. Tuy nhiên,
việc cùng một lúc triển khai nhiều mối quan hệ với các nhóm nghiên cứu quốc tế
cũng đòi hỏi sự điều phối hợp tác một cách khéo léo, tế nhị, sao cho các nghiên cứu
không được cạnh tranh nhau về mặt công bố khoa học mà lại hỗ trợ nhau hiệu quả
nhờ tương tác qua lại (tác động tương hỗ, có đi có lại). Theo GS Phạm V., “trong
trường hợp này, trưởng nhóm nghiên cứu mạnh phải là người đại diện giỏi, chủ
động sắp đặt các nội dung nghiên cứu và ý tưởng, bố trí chọn các vấn đề nghiên
cứu và đối tác quốc tế có chuyên môn phù hợp, chọn đối tác nào đầu tư vào khu vực
nào, giải quyết vấn đề gì sao cho phù hợp. Không chỉ có vậy, ở giai đoạn xử lý kết
quả nghiên cứu và viết các bài báo khoa học công bố trên các tạp chí ISI cho các đề
tài hợp tác quốc tế này cũng cần uyển chuyển, nhịp nhàng, tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh, đồng thời có thể tăng cường việc xây dựng mạng lưới (networking)
quốc tế”.
(Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả phỏng vấn sâu cá nhân, và lấy ý kiến chuyên gia).
Dẫn chứng của nhóm nghiên cứu mạnh B đã cho thấy việc sử dụng các mạng
lưới nghiên cứu, quan hệ cộng tác quốc tế trong công bố khoa học, đặc biệt là công
bố quốc tế là rất quan trọng, góp phần làm gia tăng số lượng và chất lượng công bố.
Ở chiều ngược lại, càng có công bố quốc tế nhiều trên các tạp chí khoa học đẳng
143
cấp quốc tế thì nhóm nghiên cứu mạnh càng củng cố và khẳng định được danh
tiếng, uy tín của nhóm, nhờ đó sẽ ngày càng mở rộng được mạng lưới nghiên cứu
trong và ngoài nước, cũng như củng cố lòng tin của cộng đồng khoa học và xã hội
dành cho nhóm nghiên cứu mạnh. Những tương tác qua lại trong việc hợp tác
nghiên cứu cũng giúp cho các công bố khoa học không cạnh tranh, “dẫm chân”
nhau, mà hỗ trợ nhau, dẫn đến những công bố có hàm lượng khoa học cao, được
đăng tải trên các tạp chí uy tín quốc tế..
4.3.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong công bố khoa học
4.3.2.1. Tác động tích cực
Thông qua việc phân tích vai trò và việc sử dụng vốn xã hội trong công bố
khoa học, có thể thấy rõ tác động tích cực của nguồn vốn này đối với hoạt động
công bố khoa học, đặc biệt là công bố quốc tế. Việc phát huy tốt các mối quan hệ xã
hội, quan hệ hợp tác quốc tế trong mạng lưới nghiên cứu, cũng như việc tích cực
tham gia các hội thảo, hội nghị khoa học quốc tế đã giúp các nhà khoa học gặp gỡ,
trao đổi, tìm kiếm thông tin, ý tưởng mới cho đề tài, công bố khoa học. Các hoạt
động phối hợp nghiên cứu với các đối tác quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng thúc
đẩy số lượng và chất lượng các công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu mạnh
trong nước. Theo số liệu công bố trên Web of Science, số lượng bài báo có tác giả
là người Việt Nam là sản phẩm của các nhiệm vụ KH&CN được tài trợ từ ngân sách
nhà nước ít hơn số bài báo có tác giả người Việt Nam công bố từ các nhiệm vụ hợp
tác quốc tế. Các tạp chí đăng tải những bài báo thuộc nhóm có tác giả người Việt
Nam công bố kết quả nghiên cứu từ các nhiệm vụ hợp tác quốc tế có chất lượng tốt
hơn các công bố của các nhiệm vụ KH&CN được tài trợ từ ngân sách nhà nước. Có
thể nói, các quan hệ hợp tác nghiên cứu đã thúc đẩy nội lực của các nhóm nghiên
cứu mạnh thông qua số lượng và chất lượng các công bố quốc tế từ các nhiệm vụ
hợp tác chung.
Qua ví dụ của nhóm nghiên cứu mạnh B cho thấy, việc hợp tác với các nhóm
nghiên cứu quốc tế là một yếu tố quan trọng giúp nhóm nghiên cứu mạnh B không
chỉ tăng cường kinh phí cho nghiên cứu và trang thiết bị, mà còn nâng cao uy tín
144
quốc tế của nhóm. Khi đã có uy tín quốc tế thì các mối quan hệ quốc tế sẽ ngày
càng được mở rộng. Như vậy, hợp tác quốc tế là điểm khởi đầu đồng thời là cầu nối
cho chất lượng nghiên cứu và uy tín của nhóm nghiên cứu mạnh ngày càng phát
triển. Trên cơ sở một đề tài hợp tác quốc tế có hiệu quả, các công bố quốc tế lần
lượt ra đời. Cũng chính nhờ các công bố này và các giao lưu quốc tế thông qua
seminar, cử cán bộ đi báo cáo kết quả tại các hội nghị quốc tế, nhóm nghiên cứu
mạnh càng có khả năng thu hút được các đối tác mới từ các quốc gia khác, tiếp tục
một chu trình: Nghiên cứu - Công bố - Nghiên cứu...
Tương tự với các nhóm nghiên cứu mạnh khác, bằng nội lực của mình kết hợp
với sự năng động, tương tác hiệu quả với các đối tác trong và ngoài nước, nhiều
nhóm nghiên cứu mạnh đã công bố được hàng chục, hàng trăm bài báo quốc tế trên
các tạp chí có IF cao, có các báo cáo mời tại các hội nghị quốc tế.
Có thể thấy, các chiều cạnh của vốn xã hội bao gồm: Mạng lưới nghiên cứu,
Lòng tin, Sự tương tác/Có đi - có lại đều thể hiện vai trò quan trọng thúc đẩy các
công bố khoa học của các nhóm nghiên cứu mạnh. Thông qua mạng lưới nghiên
cứu trong và ngoài nước, đặc biệt là việc đẩy mạnh các hợp tác quốc tế với các tổ
chức và cá nhân trong KH&CN, sự trao đổi, tương tác, có đi - có lại trong các hoạt
động nghiên cứu và công bố mà số lượng công bố khoa học quốc tế ngày càng có sự
tăng trưởng. Có nhiều quan hệ hợp tác quốc tế trong công bố các kết quả nghiên cứu
cũng chứng tỏ mức độ tin cậy, uy tín khoa học của các nhóm nghiên cứu mạnh cao.
4.3.2.2. Tác động tiêu cực
Thực trạng của việc công bố quốc tế hiện nay cho thấy, bên cạnh những tạp
chí khoa học quốc tế có uy tín, danh tiếng từ lâu, thì việc xuất hiện các tạp chí khoa
học “dỏm” làm thương mại, dịch vụ (không qua bình duyệt khoa học, chỉ cần nộp
phí đăng bài cao, Hội đồng biên tập chỉ là hình thức...) đang có xu hướng tăng lên.
Do vậy, bắt đầu xuất hiện các dịch vụ đăng bài ở các tạp chí quốc tế (thậm chí có
trong danh mục của Scopus) với chi phí đăng bài cao, mà không quan tâm đến chất
lượng của bài báo. Thông qua các mối quan hệ quen biết, các tác giả có thể gửi bài
145
đăng ở các tạp chí này mà không lo bị từ chối đăng hoặc bị phản biện chặt chẽ như
các tạp chí uy tín khác.
“Nhu cầu đăng báo và kênh đăng trên các tạp chí quốc tế (thực ra
là tạp chí ở nước ngoài mà không được trích dẫn trong cơ sở dữ liệu
khoa học nào cả) là có thật. Chưa tính tiền thuê viết báo, cần khoảng 25
triệu cho công tác phản biện và chấp nhận đăng; 8 triệu đồng cho công
tác dịch chuyên ngành là bạn có bài báo được đăng trên một tạp chí của
nước ngoài về khoa học xã hội và nhân văn có tiêu đề rất ‘quốc tế’... Một
kênh khác chỉ cần khoảng 40 triệu đồng là có bài đăng ở một tạp chí
nước ngoài...” (N.T.K - một giảng viên của một trường đại học ở miền
Nam cho biết).
“Để chạy theo thành tích trong công bố khoa học, một số trường
đại học đã thực hiện những tiểu xảo như: thuê các chuyên gia bên ngoài
viết các bài báo khoa học, công bố ở những tạp chí khoa học quốc tế
danh tiếng và trả rất nhiều tiền cho các chuyên gia này. Với điều kiện,
các chuyên gia đó phải đứng tên đơn vị công tác ở trường đại học đó,
trong khi thực tế các chuyên gia này không giảng dạy và làm việc cho
trường...” (B.L.G - giảng viên một trường đại học cho biết).
“Một trong những cách thức ngầm làm tăng số lượng trích dẫn
khoa học trong các công bố là người phản biện khi nhận được các bài
báo được yêu cầu phản biện có thể ‘gợi ý’ cho tác giả trích dẫn các công
bố khoa học của người phản biện hoặc một số tác giả khác... (P.V.P -
trưởng một nhóm nghiên cứu cho biết).
(Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả lấy ý kiến chuyên gia).
Như vậy, có thể thấy đâu đó vẫn có những hiện tượng tiêu cực, không lành
mạnh trong việc dùng các mối quan hệ quen biết, dùng tiền để “mua công bố” hay
“công bố trên các tạp chí khoa học dỏm”... để đạt được các chỉ tiêu trong công bố,
trong khi việc xét duyệt các tiêu chí về công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế
của Việt Nam hiện đang còn nhiều tranh cãi.
146
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án này, chưa có đủ cơ sở để có thể kết
luận và chứng minh những tác động tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động công
bố khoa học của nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Những tác
động tiêu cực nêu trên chỉ là các hiện tượng đang ngày càng phổ biến trong giới
nghiên cứu khoa học hiện nay.
4.4. Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động đào tạo
4.4.1. Vốn xã hội trong hoạt động đào tạo
Đối với các nhóm nghiên cứu mạnh, hoạt động đào tạo là một hoạt động
không thể thiếu để truyền tải các tri thức mới trong KH&CN cũng như đào tạo đội
ngũ nghiên cứu cho Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cùng với các hoạt động nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu của Đại học Quốc
gia Hà Nội đã có đóng góp tích cực cho công tác đào tạo sau đại học của Đại học
Quốc gia Hà Nội, góp phần vào những thành tựu chung trong đào tạo. Theo thống
kê từ năm 2012 đến nay, khoảng 50% số NCS của các ngành khoa học tự nhiên,
công nghệ và kỹ thuật của Đại học Quốc gia Hà Nội khi bảo vệ luận án tiến sỹ đều
có bài đăng trên các tạp chí quốc tế. 80% các công bố quốc tế của các thầy, cô
hướng dẫn là công bố đồng tác giả với các NCS [21].
Có thể thấy rằng, ở đâu có nhà khoa học đầu ngành, ở đó có nhóm nghiên cứu
mạnh và từ những nhóm nghiên cứu mạnh sẽ đào tạo ra nhiều nhà khoa học giỏi,
tiềm năng để kế tục và có thể xây dựng, phát triển các nhóm nghiên cứu mới.
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên có số lượng các nhóm nghiên cứu mạnh
lớn nhất so với toàn Đại học Quốc gia Hà Nội (10/27 nhóm). Các kết quả đào tạo
của các nhóm nghiên cứu mạnh thuộc Trường trong thời gian qua rất ấn tượng.
“Trong thời gian từ năm 2015 đến nay, các nhóm nghiên cứu mạnh
của Trường đã đào tạo được 37 TS, 124 ThS và đang đào tạo 38 NCS
trong tổng số 212 TS, 1860 ThS đã tốt nghiệp và 380 NCS đang theo học
của toàn Trường, chiếm tỷ lệ lần lượt là 17,45%, 6,66% và 10% của
Trường, thể hiện sự đóng góp quan trọng của các nhóm nghiên cứu
147
mạnh vào hoạt động đào tạo sau đại học của Nhà trường” (Ý kiến
chuyên gia tại Hội thảo, [4]).
Mô hình nhóm nghiên cứu mạnh chính là phương thức tốt nhất nâng cao chất
lượng nghiên cứu và đào tạo, thu hút các nhà khoa học trẻ tài năng. Trường hợp
nhóm nghiên cứu mạnh của GS N.Đ cho thấy rõ điều này.
“Chúng tôi bắt đầu gây dựng nhóm nghiên cứu từ năm 2010 với 2
sinh viên xuất sắc tham gia nghiên cứu khoa học, đến năm 2011 có 5-7
sinh viên. Nhưng đến năm 2012 chúng tôi đã xây dựng được chương
trình đào tạo TS cơ học kỹ thuật và bắt đầu tuyển sinh khóa 1 ngành này
vào năm 2013. Sau khi thành lập phòng thí nghiệm vào năm 2015, chúng
tôi đào tạo chuyên ngành cho sinh viên hệ cử nhân theo chuyên ngành
này (15 sinh viên/năm) và tiếp tục đào tạo NCS. Năm 2015 cũng bắt đầu
ký kết hợp tác với Đại học M. (Úc), mở đầu cho việc đẩy mạnh các hợp
tác quốc tế trong đào tạo với Hàn Quốc, UK, Nhật Bản vào các năm sau
đó. Đến nay, chúng tôi đã đào tạo đầy đủ các bậc từ kỹ sư, ThS, TS, mở 3
chuyên ngành mới. Có thể khẳng định, thông qua nhóm nghiên cứu mạnh
đã nâng cao được chất lượng đào tạo đại học và sau đại học. Tất cả các
em trong nhóm nghiên cứu mạnh đều tốt nghiệp loại giỏi trở lên, sinh
viên, NCS đều có bài công bố quốc tế ISI, đặc biệt được rèn luyện trong
môi trường quốc tế nên nâng cao năng lực thuyết trình và năng lực
ngoại ngữ. Mỗi năm nhóm tôi nhận được 10 application làm thực tập,
post-doc tại Nhóm” (Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh N.Đ).
(Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả phỏng vấn sâu cá nhân).
Một số ví dụ sau sẽ góp phần minh chứng cho vai trò quan trọng của vốn xã
hội trong hoạt động đào tạo:
Năm 2009, khi Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn được Ban bí
thư giao nhiệm vụ đào tạo cao học với sự phối hợp với một trường đại học nước
ngoài và cấp bằng của đại học nước ngoài theo Đề án 165, PGS Nguyễn Văn
(Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh A) đã viết thư cho các đồng nghiệp ở một trường
148
đại học của Đan Mạch, sau nửa tháng, các đồng nghiệp ở đây cho biết, nhà trường ở
Đan Mạch không đủ điều kiện đáp ứng nên không nhận. PGS Nguyễn Văn tiếp tục
viết thư cho một trường đại học thứ hai ở Thụy Điển, sau nửa tháng, đồng nghiệp ở
đây đã đồng ý nhận, và công việc đã được thực hiện thành công sau hơn hai năm,
với số thạc sỹ tốt nghiệp là trên 30 người. Chương trình này đã được Ban Bí thư
đánh giá là một trong các chương trình tốt nhất trong các chương trình đã thực hiện
theo Đề án 165.
Qua ví dụ trên cho thấy, việc giữ gìn liên lạc thường xuyên với các mối quan
hệ đồng nghiệp ở trong và ngoài nước là rất quan trọng đối với nhà khoa học, có thể
giúp họ giải quyết các khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ nào đó mà cá nhân không
thể làm nổi nếu không có mạng lưới quan hệ quốc tế tốt. Đặc biệt, mối quan hệ giữa
cá nhân nhà khoa học với các đồng nghiệp có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ, hợp
tác không chỉ trong các nhiệm vụ nghiên cứu mà còn trong các hoạt động đào tạo.
Nhóm nghiên cứu mạnh B của GS Phạm V. rất chú trọng đến hoạt động đào
tạo sau đại học để nâng cao năng lực nghiên cứu. Thông qua các quan hệ hợp tác
nghiên cứu và đối tác quốc tế, Nhóm hiện đã gửi 8 NCS đi thực hiện nghiên cứu và
học tập tại Viện Khoa học công nghệ tiên tiến Nhật Bản (JAIST). Không chỉ thực
hiện trao đổi đào tạo với Nhật Bản, nhóm nghiên cứu mạnh B cũng đã ký kết hợp
tác đào tạo về khoa học môi trường với Hàn Quốc, đồng thời luôn cập nhật những
kết quả nghiên cứu mới trong các bài giảng sau đại học.
Chỉ tính riêng nhóm nghiên cứu mạnh C của GS Nguyễn Q (Trưởng nhóm
nghiên cứu mạnh C) đã đảm nhận việc đào tạo 1/3 số lượng NCS của Khoa Lý. Với
truyền thống có nhiều nhà khoa học hàng đầu, làm chủ những nghiên cứu đỉnh cao
trong lĩnh vực vật lý lý thuyết, Nhóm thường xuyên đào tạo từ 18-19 NCS, các NCS
này cũng tham gia trực tiếp vào các hoạt động nghiên cứu của Nhóm. Với đặc thù là
nghiên cứu lý thuyết, nhóm nghiên cứu mạnh C luôn yêu cầu các NCS phải có ít
nhất 2 bài báo đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế mới được bảo vệ luận án TS.
Do vậy, nhóm đều đặn có khoảng 10 bài báo ISI, Scopus/năm và số bài báo từ năm
2014 đến nay liên tục gia tăng qua các năm. Hầu hết, các công bố quốc tế của nhóm
149
đều do nội lực. Với những quy định khắt khe trong đào tạo NCS, nhóm nghiên cứu
mạnh C đã trở thành một trong những nhóm dẫn đầu về số lượng công bố trong toàn
Đại học Quốc gia Hà Nội. Đồng thời, với danh tiếng và truyền thống của mình,
nhóm nghiên cứu mạnh C đã đào tạo được nhiều thế hệ học trò từ khắp mọi nơi,
trong và ngoài nước, trong đó có nhiều học trò có chức vụ, học hàm học vị cao, là
lãnh đạo, viện trưởng viện nghiên cứu.
“Các mối quan hệ hợp tác trong nghiên cứu khoa học của nhóm
chúng tôi đều có ‘gốc gác’ từ các sinh viên đại học, NCS cũ của Khoa
kết nối, giới thiệu, cái nọ nó nảy sinh ra cái kia. Rồi từ đó thông qua bạn
bè khắp thế giới giới thiệu và biết đến chúng tôi. Ví dụ điển hình nhất
trong công bố quốc tế bằng nội lực là một học trò của tôi, PGS N.T.T.
Đây cũng là một trong vài người Việt Nam có bài đăng trên tạp chí
Nature danh tiếng và là một người có tên tuổi ở Mỹ. Là một học trò của
Khoa, PGS N.T.T sau đó sang Mỹ làm việc 10 năm tại Viện Gi. dựa trên
sự giới thiệu và mối quan hệ của các thày trong Khoa. Hiện nay, PGS
N.T.T. đã trở về nước và làm giám đốc một phòng thí nghiệm trọng điểm
của Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiên cứu áp dụng những thành tựu vật
lý trong y sinh” (GS Nguyễn Q. - Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh C).
(Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả phỏng vấn sâu cá nhân).
Theo một kết quả nghiên cứu mới đây tại các nhóm nghiên cứu của Việt Nam,
trên 94% số NCS cho rằng khi tham gia nhóm nghiên cứu, họ được học tập, trau dồi
phương pháp, kỹ năng nghiên cứu để có chất lượng luận án, có cơ hội tiếp xúc và
học hỏi từ những nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước. Hơn 90% giảng viên
khi được hỏi đồng ý với ý kiến cho rằng họ nhận được sự hỗ trợ từ các nhóm nghiên
cứu cho các hoạt động chuyên môn của bản thân, được tham gia các đề tài, dự án
của nhóm, tiếp cận các hướng nghiên cứu mới cũng như có cơ hội tham gia vào các
hoạt động hợp tác trong nước và quốc tế... [25].
Thông qua các mối quan hệ cộng tác, hợp tác quốc tế của các thày trong nhóm
nghiên cứu mạnh, nhiều NCS đã có điều kiện apply học bổng học tập, nghiên cứu
150
tại những trường đại học tốt trên thế giới, trở thành những nhà khoa học trẻ có nhiều
tiềm năng, lợi thế trong nghiên cứu. Tuy nhiên, cũng không hiếm trường hợp khi
các TS trẻ học xong chọn lựa làm việc tại những cơ sở nghiên cứu tiên tiến của
nước ngoài mà không muốn trở về làm việc tại các nhóm nghiên cứu mạnh. “Nhiều
trường hợp chúng tôi không thể giữ chân nhân tài ở lại nhóm dù rất muốn. Với mức
lương từ 3 đến 5 triệu đồng/tháng, chúng tôi không thể giữ được các bạn trẻ làm
việc cho nhóm trong khi có những lời mời các bạn ấy làm việc tại những cơ sở
nghiên cứu tiên tiến của Nhật Bản, của Hoa Kỳ với mức lương vài ngàn đến vài
chục ngàn đô một tháng...” (Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh N.Đ).
Những dẫn chứng nêu trên đã cho thấy thực tế của việc sử dụng vốn xã hội,
mà cụ thể ở đây là các mối quan hệ trong mạng lưới nghiên cứu của các nhóm
nghiên cứu mạnh, đã góp phần không nhỏ vào việc đào tạo đại học, sau đại học, đào
tạo trong và ngoài nước các nhà khoa học trẻ cho Đại học Quốc gia Hà Nội. Bằng
uy tín và mối quan hệ nghiên cứu của mình, các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh đã
gửi nhiều NSC đi học tập tại các nước có nền KH&CN tiên tiến, được tiếp xúc với
các tiến bộ KH&CN mới nhất trên thế giới, phương pháp nghiên cứu, làm việc
chuyên nghiệp, để từ đó quay trở về phục vụ, áp dụng những kiến thức đã học tại
các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngược lại, trải qua một
quá trình đào tạo, các nhóm nghiên cứu mạnh đã nâng cao năng lực nghiên cứu và
vị thế của mình, được nhiều tổ chức trong và ngoài nước tin tưởng gửi học viên đến
đào tạo..., góp phần làm gia tăng danh tiếng và vốn xã hội của nhóm nghiên cứu
mạnh.
4.4.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động đào tạo
4.4.2.1. Tác động tích cực
Việc sử dụng vốn xã hội, mà cụ thể là các quan hệ hợp tác với các đối tác quốc
tế đã giúp các nhóm nghiên cứu mạnh thực hiện công tác đào tạo với chất lượng tốt
nhất. Nhờ được đào tạo ở các nước có trình độ KH&CN tiên tiến, nguồn nhân lực
được đào tạo ở trình độ cao, các cán bộ trẻ sau khi trưởng thành qua các dự án hoặc
qua việc học tập dài hạn tại nước ngoài trở về có thể trở thành thành viên chủ chốt
151
của nhóm nghiên cứu mạnh hoặc phục vụ tại các cơ sở nghiên cứu mạnh của Việt
Nam ở những vị trí quan trọng. Có thể kể đến ví dụ điển hình như PGS N.T.T –
từng là một học trò của một nhóm nghiên cứu, sau khi được trưởng nhóm cử đi đào
tạo và làm việc ở Mỹ đã trở về Việt Nam, đảm nhiệm chức vụ giám đốc một phòng
thí nghiệm trọng điểm của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Không chỉ nhờ các mối quan hệ hợp tác quốc tế, mà các mối quan hệ trong
mạng lưới xã hội của các nhà nghiên cứu trong nước cũng tạo điều kiện cho việc
trao đổi đào tạo nhân lực giữa các nhóm nghiên cứu mạnh (các nhóm nghiên cứu
mạnh hiện nay đều tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực đại học và sau đại
học cho lĩnh vực nghiên cứu liên quan). Sự tin tưởng về uy tín khoa học của nhóm
nghiên cứu mạnh nói chung, của trưởng nhóm nghiên cứu mạnh nói riêng trong
cộng đồng KH&CN cũng là một sự khẳng định về chất lượng đào tạo, là địa chỉ đào
tạo tin cậy nguồn nhân lực KH&CN có chất lượng cao trong các lĩnh vực khoa học
chuyên ngành. Các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội đang sở
hữu những nhà khoa học tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Đó chính là tài sản, vốn liếng,
năng lực của Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung, của các nhóm nghiên cứu mạnh
tại Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “chim khôn chọn
cây, trò khôn chọn thầy”, bởi vậy mà các nhóm nghiên cứu mạnh là nơi tập hợp
được đội ngũ thày giỏi, trò giỏi cùng nhau nghiên cứu, giảng dạy, tạo ra các sản
phẩm KH&CN tốt nhất cho xã hội. Nhóm nghiên cứu mạnh là hạt nhân cho việc
phát triển thành các Trung tâm nghiên cứu xuất sắc (Center of Excellence), các
trường phái khoa học được thế giới công nhận. Do vậy, đó cũng là nơi thu hút, đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và gắn kết với các đối tác lớn trong và ngoài
nước.
Nhờ các quan hệ hợp tác trong mạng lưới nghiên cứu trong và ngoài nước,
việc thực hiện trao đổi đào tạo giữa các nhóm nghiên cứu mạnh với các cơ sở
nghiên cứu khác đã được thực hiện thường xuyên, giúp nâng cao uy tín, chất lượng
đào tạo của nhóm nghiên cứu mạnh. Khi đã có uy tín về chất lượng nghiên cứu và
đào tạo thì sẽ càng thu hút được các đối tác mới tin tưởng cộng tác nghiên cứu, mở
152
rộng các lĩnh vực hoạt động nghiên cứu và nâng tầm ảnh hưởng, danh tiếng của
nhóm nghiên cứu mạnh.
Việc trao đổi đào tạo giữa nhóm nghiên cứu mạnh với các cơ sở nghiên cứu
khác trong và ngoài nước cũng chính là một hoạt động tương tác, có đi - có lại, giúp
duy trì và phát triển nguồn vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các nhóm
nghiên cứu mạnh.
4.4.2.2. Tác động tiêu cực
Cũng giống như các khía cạnh tiêu cực của vốn xã hội như đã phân tích ở trên,
một số tác động tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động đào tạo có thể xảy ra như:
bản chất cố kết của các mối quan hệ trong mạng lưới nghiên cứu có thể dẫn đến
việc loại trừ những đối tượng mới, gia tăng sự bảo thủ, trì trệ của nhóm.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án, chưa có bằng chứng để có thể kết
luận về những tác động tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động đào tạo như các
khía cạnh nêu trên. Có thể là do các nguồn vốn xã hội của các nhóm nghiên cứu
mạnh hầu hết là bridging social capital (vốn xã hội bắc cầu, vươn ra bên ngoài) chứ
không phải là vốn xã hội co cụm vào trong (bonding social capital) nên nhóm
nghiên cứu mạnh có tính chất mở, hướng ngoại trong các hoạt động nghiên cứu và
đào tạo. Luận án này mới chỉ ghi nhận một số tác động tiêu cực trong việc chảy chất
xám của nhóm nghiên cứu mạnh, khó giữ chân các nhân tài ở lại làm việc lâu dài
với nhóm nghiên cứu mạnh.
4.5. Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động chuyển giao tri thức, thương mại
hóa công nghệ
4.5.1. Vốn xã hội trong hoạt động chuyển giao tri thức, thương mại hóa công
nghệ
Các hoạt động chuyển giao tri thức của các nhóm nghiên cứu mạnh chính là
việc truyền tải những kiến thức, hiểu biết kinh nghiệm, kết quả nghiên cứu dưới
dạng các xuất bản phẩm, giáo trình, sách và thông qua các buổi sinh hoạt học thuật,
hội thảo khoa học. Tri thức có hai dạng: tri thức hiện (explicit knowledge) và tri
thức ngầm (tacit knowledge) [3]. Tri thức hiện: có thể diễn đạt bằng ngôn ngữ hình
153
thức, dễ trao đổi giữa các cá nhân; có thể biểu diễn bằng các công thức khoa học,
các thủ tục tường minh, hoặc nhiều cách khác. Tri thức hiện bao gồm thông tin, cơ
sở dữ liệu, sách báo, văn bản, tài liệu đã được hệ thống bằng nhiều phương tiện.
Còn tri thức ngầm có được và ẩn chứa trong kinh nghiệm của từng cá nhân, mang
tính chủ quan, bao gồm những hiểu biết riêng thấu đáo, trực giác, linh cảm, kỹ
năng, ngón nghề (craft), bí quyết (know-how)… khó trao đổi hoặc chia sẻ với người
khác. Tri thức ngầm chỉ có thể học được từ người khác nhờ quan hệ gần gũi trong
một khoảng thời gian nào đó.
Thông qua việc thực hiện các chương trình nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu
mạnh trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần cung cấp nhiều
luận cứ, cơ sở khoa học quan trọng cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của đất
nước, trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền cả trên đất liền, biển và hải đảo của Tổ
quốc. Có thể nêu lên những dẫn chứng điển hình như: nhóm nghiên cứu mạnh trong
lĩnh vực kinh tế đã và đang được Nhà nước tin tưởng, đánh giá cao những đóng góp
quan trọng trong việc tư vấn chính sách kinh tế, tư vấn vào quá trình ban hành, thực
thi và đánh giá hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô tại Việt Nam. Nhóm này
được tin tưởng thực hiện các nghiên cứu dự báo, báo cáo thường niên kinh tế Việt
Nam, trở thành think-tank của Chính phủ. Đặc biệt, chuỗi Báo cáo thường niên
Kinh tế Việt Nam đã tạo được uy tín khoa học cũng như có đóng góp thiết thực cho
sự phát triển của Việt Nam. Như vậy, thông qua việc chuyển giao tri thức, nhóm
nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực kinh tế đã nâng cao được vốn xã hội của mình, cụ
thể là nâng cao uy tín khoa học, năng lực nghiên cứu, sự tin tưởng của Nhà nước,
của cộng đồng, mở rộng mạng lưới nghiên cứu, mạng lưới xã hội.
Theo kết quả khảo sát đối với 27 nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc
gia Hà Nội, có 50% số nhóm nghiên cứu mạnh thường xuyên tổ chức các buổi sinh
hoạt học thuật, trao đổi, thảo luận giữa các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh,
40,9% thỉnh thoảng có tổ chức seminar, thảo luận... Như vậy, hoạt động trao đổi,
thảo luận cũng chính là một hình thức chuyển giao tri thức giữa các thành viên
154
nhóm nghiên cứu mạnh được coi là một hoạt động quan trọng của các nhóm nghiên
cứu mạnh (Biểu đồ 4.3).
Không 4.55%
Hiếm khi 4.55%
Thường xuyên 50%
Thỉnh thoảng 40.90%
Biểu đồ 4.3. Mức độ thực hiện các hoạt động xây dựng nhóm
Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả khảo sát các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh.
của các Nhóm nghiên cứu mạnh.
Đối với các nhóm nghiên cứu mạnh thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, công
nghệ và kỹ thuật, đặc biệt trong các lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, có nhiều nghiên
cứu thực nghiệm (như lĩnh vực hóa học và sinh học) thì hoạt động chuyển giao công
nghệ là một hoạt động không thể thiếu, khẳng định tính hiệu quả và khả thi của các
kết quả nghiên cứu ứng dụng. Đối tác chuyển giao công nghệ của các nhóm nghiên
cứu mạnh này là các doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu, địa phương, cơ quan nhà
nước... Kết quả lấy ý kiến của các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh cho thấy, bên
cạnh các nguồn kinh phí từ việc thực hiện các đề tài, dự án của Đại học Quốc gia
Hà Nội, hợp tác quốc tế, Nafosted, thì việc thực hiện các đề tài/dự án chuyển giao
công nghệ phối hợp với các bộ/ngành, doanh nghiệp, địa phương cũng mang lại
nguồn kinh phí hoạt động đáng kể cho nhóm nghiên cứu mạnh (Biểu đồ 4.4).
155
100.00%
90.00%
80.00%
70.00%
60.00%
50.00%
90.91%
90.91%
81.82%
40.00%
63.64%
63.64%
30.00%
20.00%
10.00%
0.00%
Khác
Hợp tác quốc tế
Đề tài Nafosted
Đại học Quốc gia Hà Nội
Đề tài/dự án phối hợp với các bộ, ngành, doanh nghiệp, địa phương
Biểu đồ 4.4. Ý kiến về các nguồn kinh phí hoạt động của các nhóm nghiên cứu mạnh.
Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả khảo sát ý kiến các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh.
156
Để kết quả nghiên cứu đi vào cuộc sống, các nhà khoa học không chỉ biết
nghiên cứu, thực nghiệm, làm chủ công nghệ, mà còn cần có sự kết nối, hợp tác tốt
với các địa chỉ ứng dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp, địa phương. Khi các nhà
khoa học đã tạo được sự tin tưởng đối với các doanh nghiệp, địa phương thì mới có
thể nhận được các đơn đặt hàng triển khai các nhiệm vụ KH&CN hoặc hợp tác
nghiên cứu cùng với doanh nghiệp. Các nhà khoa học cũng cần nắm bắt được nhu
cầu, xu hướng của công nghệ để cho ra đời những sản phẩm hữu ích, phục vụ thiết
thực cho cuộc sống. Điều này rất cần sự năng động, nhạy bén của các nhà khoa học
trong việc nắm bắt thông tin, nhu cầu thực tiễn.
4.5.2. Tác động tích cực và tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động chuyển
giao tri thức, thương mại hóa công nghệ
4.5.2.1. Tác động tích cực
Thực tế cho thấy, nhóm nghiên cứu mạnh nào có sự năng động, có mối quan
hệ tốt với các địa phương, doanh nghiệp, và có năng lực công nghệ tốt thì sẽ chuyển
giao được nhiều sản phẩm công nghệ cho địa phương và doanh nghiệp. Bởi khi có
mối quan hệ tốt với các địa phương, doanh nghiệp, các nhóm nghiên cứu mạnh sẽ
khai thác được các nguồn lực từ mạng quan hệ xã hội này như: nguồn lực thông tin
(biết địa phương, doanh nghiệp cần gì, thiếu công nghệ gì?); nguồn lực kinh tế (địa
phương, doanh nghiệp có thể cấp kinh phí nghiên cứu cho các nhiệm vụ đặt hàng cụ
thể); niềm tin, uy tín xã hội... Ngược lại, chính từ các hoạt động chuyển giao công
nghệ sẽ tạo ra các nguồn kinh phí đáng kể để tái đầu tư cho nghiên cứu, thực
nghiệm. Như vậy, có thể thấy rõ ràng rằng, ở đây vốn xã hội trong hoạt động
chuyển giao, thương mại hóa công nghệ đã được chuyển hóa thành các dạng vốn
khác, cụ thể là vốn tài chính. Ví dụ từ nhóm nghiên cứu mạnh B của GS Phạm V.
cho thấy rõ điều này. Các nguồn lực tài chính quan trọng của nhóm được phân chia
thành các nguồn nghiên cứu rõ ràng và có địa chỉ, mục tiêu rõ ràng: Các nghiên cứu
cơ bản từ Nafosted, Đại học Quốc gia Hà Nội, từ hợp tác quốc tế; các nghiên cứu cơ
bản định hướng ứng dụng từ hợp tác quốc tế, Bộ KH&CN; các nghiên cứu triển
khai từ Bộ Công thương, Bộ KH&CN, Đại học Quốc gia Hà Nội; các nghiên cứu
157
ứng dụng và chuyển giao công nghệ từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các sản phẩm có
tính ứng dụng cao như: phát triển các cảm biến hóa học, cảm biến sinh học, các
thiết bị điện di mao quản ứng dụng trong quan trắc môi trường; kiểm soát an toàn
thực phẩm, chất lượng dược phẩm, chẩn đoán lâm sàng được chuyển giao cho các
trạm quan trắc môi trường, các trường đại học có liên quan... Nhờ phát huy được
vốn xã hội trong việc tìm kiếm các đề tài hợp tác quốc tế, đề tài phối hợp với các
bộ/ngành, địa phương, đề tài của Đại học Quốc gia Hà Nội, Nafosted… và thông
qua thương mại hóa công nghệ, mỗi năm, nhóm nghiên cứu mạnh B có ít nhất 4 tỷ
chi cho hoạt động của 20-25 thành viên, dùng để trả lương, mua hóa chất, dụng cụ,
chi phí hoạt động, bảo trì thiết bị, máy móc.
Với vai trò là một nhóm nghiên cứu về chính sách, nhóm nghiên cứu mạnh A
đã tổ chức hàng chục khóa tập huấn ngắn hạn cho các nhà hoạch định chính sách
của trung ương và địa phương về các kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách,
đánh giá chính sách...; tổ chức tập huấn các kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên năm
cuối; xuất bản nhiều bản tin, ấn phẩm về chính sách... Từ việc thúc đẩy tính đa dạng
trong các hoạt động hợp tác với các đơn vị trong và ngoài nước, trung ương và địa
phương, mục tiêu của nhóm nghiên cứu mạnh A là gây dựng uy tín của nhóm trở
thành một bộ máy tư vấn chính sách chủ lực cho các nhà hoạch định chính sách
phục vụ quản lý và phát triển văn hóa, xã hội.
Bằng sự năng động và uy tín khoa học của mình, nhóm nghiên cứu mạnh
trong lĩnh vực vật liệu và năng lượng sạch đã có nhiều mối quan hệ hợp tác với các
doanh nghiệp và cơ sở ứng dụng các sản phẩm nghiên cứu của nhóm, qua đó đã ký
kết nhiều hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp tác thử nghiệm sản xuất và ứng
dụng biodiesel với Ban quản lý Vịnh Hạ Long, Sở Giao thông vận tải Quảng Ninh,
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam… Chính từ các hợp đồng chuyển giao công nghệ
này đã mang lại nguồn kinh phí đáng kể cho các hoạt động nghiên cứu của nhóm.
Thông qua quá trình hợp tác lâu dài, chất lượng công nghệ tốt, nhóm đã được các
khách hàng, đối tác tin tưởng, giới thiệu cho nhiều cơ sở khác biết đến các sản phẩm
158
công nghệ và có thêm nhiều hợp đồng chuyển giao công nghệ sản xuất, ứng dụng
biodiesel trong phạm vi cả nước.
Với năng lực nghiên cứu nổi trội trong lĩnh vực enzym và protein, nhóm
nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực này đã nghiên cứu thành công và chuyển giao
thành công vào các cơ sở y tế trong cả nước, các phòng thí nghiệm y – sinh các sản
phẩm tiêu biểu như: quy trình sản xuất và chế phẩm DNA polymerase chịu nhiệt;
quy trình và bộ kit phát hiện đồng thời ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum
và Plasmodium vivax; quy trình đánh giá tiền lâm sàng các chất có hoạt tính chống
ung thư; một số chế phẩm tăng cường miễn dịch như Immunobran, Bio-gaba… Như
vậy, các sản phẩm nghiên cứu của nhóm nghiên cứu mạnh vừa có địa chỉ ứng dụng
thực tiễn, vừa mang lại nguồn kinh phí đáng kể cho nhóm nghiên cứu mạnh tiếp tục
đầu tư, nghiên cứu các sản phẩm mới hữu ích cho cuộc sống với chất lượng ngày
càng cao. Qua đó, uy tín và danh tiếng của nhóm nghiên cứu mạnh cũng được củng
cố, nâng cao, khẳng định vị trí của nhóm trong lĩnh vực nghiên cứu đặc thù.
4.5.2.2 Tác động tiêu cực
Theo lý thuyết, bên cạnh những tác động tích cực, vốn xã hội có thể có những
tác động tiêu cực trong hoạt động chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ
như: Chỉ chuyển giao tri thức, các bí quyết công nghệ cho những người quen biết,
trong mạng lưới quan hệ xã hội nào đó, mà loại bỏ những đối tác ở ngoài mạng
lưới; hoặc có thể có sự phân chia lợi ích kinh tế một cách không minh bạch khi
chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ cho một số đối tác nhất định, chứ
không chuyển giao đúng đối tượng cần. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án
này, không có đủ cơ sở dữ liệu để có kết luận cuối cùng về những tác động tiêu cực
trong các hoạt động chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ của các nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
4.6. Môi trường, thể chế KH&CN - Những yếu tố tác động đến vốn xã hội
trong KH&CN
Như đã phân tích trong mục 2.4. (Các yếu tố có ảnh hưởng đến vốn xã hội), vì
vốn xã hội là một bộ phận của hệ thống xã hội đặc thù nên nó cũng phản ánh đặc
159
trưng của bối cảnh xã hội, môi trường và thể chế của đất nước nói chung cũng như
trong lĩnh vực KH&CN. Bởi vậy, môi trường, thể chế KH&CN là những yếu tố
quan trọng có tác động đến vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN. Trong luận án
này, các yếu tố về môi trường, thể chế KH&CN được hiểu chung là các chính sách
về KH&CN. Nó có thể thúc đẩy vốn xã hội phát triển hoặc có thể làm cản trở đến
sự phát triển của vốn xã hội trong KH&CN. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này
không đi sâu nghiên cứu về chính sách KH&CN mà chỉ phác thảo những nét chính
của chính sách KH&CN hiện nay và những tác động có thể xảy ra đối với vốn xã
hội trong hoạt động KH&CN.
4.6.1. Các cải cách trong chính sách KH&CN
Theo tác giả Vũ Cao Đàm [18], các mốc son trong tiến trình phát triển và cải
cách về chính sách KH&CN có thể phân chia thành các giai đoạn sau:
Mốc son thứ nhất: Phi tập trung hóa hệ thống KH&CN, nổi bật với Quyết định
175/CP của Chính phủ, bắt đầu xóa bỏ hệ thống quản lý nghiên cứu theo mô hình
chỉ huy tập trung, khởi đầu cho các quan hệ giữa các viện nghiên cứu với nhau và
với các địa chỉ áp dụng, KH&CN bắt đầu gắn với thị trường. Có sự xuất hiện những
nhóm nghiên cứu vượt khỏi khuôn khổ của các tổ chức hành chính, vượt khỏi các
viện nghiên cứu vốn bị xem là đồng nhất với các tổ chức hành chính. Điều này
chứng tỏ vốn xã hội trong KH&CN, cụ thể là mạng lưới xã hội/mạng lưới nghiên
cứu bắt đầu mạnh lên so với giai đoạn trước.
Mốc son thứ hai: Phi hành chính hóa hoạt động KH&CN, với Quyết định
134/HĐBT ngày 31/8/1987, cho phép mọi hình thức liên kết giữa các nhà nghiên
cứu trong khuôn khổ một ‘tập thể tự nguyện’, xóa bỏ quan niệm hành chính hóa
khoa học, cho phép các đối tác được định giá sản phẩm khoa học theo một số
phương thức thích hợp, kể cả việc chấp nhận với nhau ‘một giá thỏa thuận’ vượt
khỏi khuôn khổ của phương thức định giá theo các ràng buộc hành chính. Nhà nước
cho phép các viện sản xuất đơn chiếc hoặc loạt nhỏ các sản phẩm do kết quả nghiên
cứu tạo ra, xã hội có nhu cầu, nhưng chưa có điều kiện bàn giao vào các ngành sản
xuất công nghiệp. Điều này chứng tỏ Nhà nước bắt đầu có sự tin tưởng cao đối với
160
giới KH&CN, giao nhiều quyền tự chủ hơn cho các nhà khoa học. Đồng nghĩa với
vốn xã hội trong KH&CN phát triển hơn giai đoạn trước.
Mốc son thứ ba: Phi nhà nước hóa hoạt động KH&CN, với Pháp lệnh Chuyển
giao công nghệ công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, được Hội đồng Nhà nước
công bố ngày 10/12/1988. Theo đó, tất cả các pháp nhân và thể nhân (tự nhiên
nhân) đều được phép ký kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ với các đối tác
nước ngoài. Pháp lệnh này chấm dứt quan niệm cực đoan Nhà nước độc quyền hoạt
động khoa học; Nhà nước đào tạo cán bộ khoa học, vậy thì cán bộ khoa học chỉ
được phép làm việc cho Nhà nước... Điều này cho thấy các tổ chức dân sự trong
KH&CN bắt đầu được quan tâm, chứng tỏ vốn xã hội trong KH&CN ngày càng
cao.
Mốc son thứ tư: Xã hội hóa triệt để hoạt động KH&CN, với Nghị định
35/HĐBT theo hướng dân chủ hóa khoa học. Từ quan niệm Nhà nước là cơ quan
cấp trên cho phép tiến hành các hoạt động KH&CN sang tinh thần công nhận mọi
cá nhân, tổ chức xã hội có quyền tiến hành các hoạt động KH&CN, có quyền được
hưởng những thành quả lao động do chính họ tạo ra, chứ không chờ đợi các chế độ
đãi ngộ theo quan niệm truyền thống. Dân chủ hóa khoa học cũng chứng tỏ sự tin
tưởng của Nhà nước và xã hội vào các nhà KH&CN ngày càng cao.
Mốc son thứ năm: Mở ra mã ngành đào tạo sau đại học về chính sách
KH&CN. Viện Quản lý Khoa học (sau này là Viện Chiến lược và Chính sách
KH&CN, nay là Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo) là cơ quan
đầu tiên đề xuất và mở ngành đào tạo sau đại học về chính sách KH&CN từ năm
1991 ở nước ta. Điều này chứng tỏ nhận thức về sự cần thiết của việc đào tạo nhân
lực cho KH&CN đã được nâng lên một tầm cao mới, đồng nghĩa với sự gia tăng uy
tín, vị thế, lòng tin xã hội và mạng lưới xã hội trong KH&CN.
Đó là các mốc son quan trọng trong chặng đường cải cách các chính sách về
KH&CN kể từ giai đoạn đầu tiên thành lập ngành KH&CN. Đến nay, quá trình cải
cách chính sách về KH&CN vẫn còn đang tiếp tục, tiếp tục hoàn thiện các triết lý về
phi tập trung hóa hệ thống KH&CN, phi hành chính hóa hoạt động KH&CN, phi
161
nhà nước hóa hoạt động KH&CN, xã hội hóa triệt để hoạt động KH&CN. Với
những cải cách về chính sách KH&CN như đã nêu trên, nguồn vốn xã hội trong
KH&CN sẽ ngày càng phát triển và được làm giàu thêm.
4.6.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển KH&CN của Việt Nam giai đoạn
2011-2020
Theo Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ,
phê duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020, hiện thực hóa các
chủ trương của Đảng về phát triển KH&CN, quan điểm phát triển KH&CN là: 1)
Phát triển KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực
then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. KH&CN phải đóng vai trò chủ
đạo để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; 2) Tập trung thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ
chủ yếu: tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động KH&CN; tăng cường tiềm lực KH&CN quốc gia; đẩy mạnh nghiên
cứu, ứng dụng, gắn nhiệm vụ phát triển KH&CN với nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội ở các cấp, các ngành; 3) Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các
nhiệm vụ KH&CN quốc gia, các sản phẩm quốc gia. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy
động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho đầu tư phát triển
KH&CN; 4) Phát triển thị trường KH&CN gắn với thực thi pháp luật về sở hữu trí
tuệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu ứng dụng và phát triển công
nghệ, khuyến khích sáng tạo KH&CN; 5) Hội nhập quốc tế về KH&CN là mục tiêu
đồng thời là giải pháp quan trọng để góp phần đưa KH&CN Việt Nam sớm đạt trình
độ quốc tế. Hội nhập quốc tế về KH&CN phải được thực hiện tích cực, chủ động,
sáng tạo, bảo đảm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi.
Mục tiêu phát triển KH&CN là phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; đưa KH&CN thực sự trở
thành động lực then chốt, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Đến năm 2020, KH&CN Việt Nam có một số lĩnh vực đạt
162
trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực ASEAN và thế giới. Theo đó, các mục tiêu
cụ thể bao gồm: 1) Đến năm 2020, KH&CN góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh
tế và tái cấu trúc nền kinh tế, giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng
công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP. Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 10 -
15%/năm giai đoạn 2011 - 2015 và trên 20%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Giá trị
giao dịch của thị trường KH&CN tăng trung bình 15 - 17%/năm; 2) Số lượng công
bố quốc tế từ các đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước tăng trung bình 15 -
20%/năm. Số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011 - 2015 tăng gấp 1,5 lần
so với giai đoạn 2006 - 2010, giai đoạn 2016 - 2020 tăng 2 lần so với giai đoạn
2011 - 2015, trong đó đặc biệt tăng nhanh số lượng sáng chế được tạo ra từ các
chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước; 3) Phấn đấu tăng tổng đầu tư xã
hội cho KH&CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo
đảm mức đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KH&CN không dưới 2% tổng chi ngân
sách nhà nước hàng năm; 4) Đến năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ đạt 9 - 10 người trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn
quốc tế 5.000 kỹ sư đủ năng lực tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất
công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước; 5) Đến
năm 2020, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 11 - 12 người
trên một vạn dân; đào tạo và sát hạch theo chuẩn quốc tế 10.000 kỹ sư đủ năng lực
tham gia quản lý, điều hành dây chuyền sản xuất công nghệ cao trong các ngành,
lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước; 6) Đến năm 2015, hình thành 30 tổ chức
nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải
quyết những vấn đề trọng yếu quốc gia đặt ra đối với KH&CN; 3.000 doanh nghiệp
KH&CN; 30 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao;
7) Đến năm 2020, hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình
độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu quốc gia đặt
ra đối với KH&CN; 5.000 doanh nghiệp KH&CN; 60 cơ sở ươm tạo công nghệ cao,
ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao [46].
163
Đây là những điều kiện môi trường, thể chế thuận lợi cho sự phát triển
KH&CN, bao gồm cả việc phát triển các nguồn vốn xã hội cho KH&CN (mạng lưới
xã hội trong cộng đồng KH&CN, niềm tin, sự tương tác trong hoạt động KH&CN).
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vẫn đang tồn tại những vấn đề còn nhiều tranh cãi
và bất cập như: Cơ chế xin - cho; định biên cho cơ quan khoa học và giáo dục;
thương mại hóa kết quả R&D; lương cho ngành khoa học và giáo dục; đào tạo, sử
dụng, sắp xếp, thu hút nhân tài; hành chính hóa khoa học; cách đánh giá nghiên cứu
khoa học…
4.6.3. Một số vấn đề bất cập và còn tranh cãi trong chính sách và hoạt động
KH&CN
Trong khuôn khổ của luận án này chỉ xin điểm một số vấn đề bất cập và còn
nhiều tranh cãi trong chính sách và hoạt động KH&CN.
Cơ chế xin - cho: Có nhiều ý kiến cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước về
KH&CN cần phát triển hình thức đấu thầu, tuyển chọn trong hoạt động KH&CN,
công bố nhiệm vụ nghiên cứu một cách công khai để tất cả những người quan tâm
có thể nộp đơn dự đấu thầu, tuyển chọn nhiệm vụ nghiên cứu. Đúng là cơ chế này
khắc phục được nhiều mặt tiêu cực của quá trình xin - cho, tạo ra cơ hội công bằng
cho mọi người phát triển năng lực của mình, khắc phục hiện tượng giao đề tài tùy
tiện thuộc tình cảm và quan hệ cá nhân giữa người làm quản lý và các nhà nghiên
cứu. Tuy nhiên, theo tác giả Vũ Cao Đàm, cần có sự cân nhắc thận trọng trong việc
xóa bỏ cơ chế xin - cho, việc áp dụng những biện pháp xóa bỏ cơ chế này chỉ nên
giới hạn trong phạm vi những nghiên cứu phát triển công nghệ (technology
development) gắn liền với nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Còn toàn bộ hoạt động R&D, nhất là trong nghiên cứu phát triển các lý thuyết khoa
học, nếu là Nhà nước cấp ngân sách, thì không nên đặt vấn đề xóa bỏ cơ chế xin -
cho. Đây cũng là cách làm của các nước phát triển trên thế giới, các công trình
nghiên cứu khoa học là do nhà nghiên cứu tự đề xuất, từ ý tưởng, nội dung, kinh phí
và nộp đơn xin tiền ở một cơ quan tài trợ nào đó đóng vai trò như các Mạnh
Thường Quân [18].
164
Định biên cho cơ quan khoa học và giáo dục: Theo Vũ Cao Đàm, đây là một
trong những ‘nghịch lý’ của khoa học vì các lý do sau: Nghiên cứu khoa học là một
loại hình lao động không thể định mức, không có cơ sở nào để tính toán nhân công,
do yêu cầu khách quan của việc thường xuyên thay đổi phương hướng nghiên cứu;
việc xác định biên chế trong trường đại học rất khó vì vừa phải xét đến nhiệm vụ
nghiên cứu, vừa phải xét nhiệm vụ giảng dạy… [18].
Thương mại hóa kết quả R&D: Không phải mọi thành tựu của nghiên cứu
khoa học đều có thể mang thuộc tính của sản phẩm hàng hóa để có thể thương mại
hóa. Ví dụ, kết quả của các nghiên cứu cơ bản thuần túy; nghiên cứu cơ bản định
hướng; nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực KHXH&NV, phương pháp chẩn đoán
và chữa bệnh cho người trong y học là không thể thương mại hóa hoặc chưa thể áp
dụng trong thực tiễn. Còn sản phẩm của giai đoạn triển khai (Experimental
development) là các prototype, có thể đăng ký để cấp patent thì có thể xem là một
sản phẩm có giá trị thương mại nhất định thông qua các hợp đồng mua bán patent
hoặc licence. Những kết quả nghiên cứu là công nghệ thì có thể là một sản phẩm
hàng hóa… [18].
Cách đánh giá nghiên cứu khoa học: Việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa
học dựa trên chỉ số IF (Impact Factor) trong công bố khoa học đang gây ra khá
nhiều tranh cãi. Bản chất của việc đánh giá này là dựa trên chỉ số IF - số đo phản
ánh số lượng trích dẫn trung bình theo năm của các bài báo khoa học được xuất bản
trên một tạp chí khoa học nào đó. Tuy nhiên, cách đánh giá này đang nhận được
nhiều phản đối từ các nhà khoa học trên khắp thế giới, mà đỉnh điểm là Tuyên bố
San Francisco Declaration of Research Assessment về cách đánh giá nghiên cứu
khoa học (Tuyên bố DORA) của Hiệp hội Sinh học tế bào Hoa Kỳ năm 2013. Đến
nay, Tuyên bố này càng ngày càng nhận được sự hưởng ứng từ đông đảo các nhà
khoa học trên thế giới từ tất cả các lĩnh vực khoa học. Theo đó, DORA tập trung
vào 3 điểm khuyến nghị: 1) Sự cần thiết phải loại bỏ việc sử dụng hệ thống đánh giá
tạp chí trong việc cấp kịn phí, bổ nhiệm cũng như các xem xét thăng chức, đề bạt;
2) Sự cần thiết phải đánh giá nghiên cứu dựa trên chất lượng của chính nó, hơn là
165
dựa trên cơ sở của tạp chí mà nghiên cứu được xuất bản trên đó; 3) Sự cần thiết tận
dụng các cơ hội đến từ các ấn phẩm khoa học trực tuyến. Tác giả Ngô Đức Thế
cũng cho rằng việc đánh giá nhà khoa học đơn thuần dựa trên IF là không chính
xác, mà phải phán xét trên chính công trình khoa học đó [50].
Điểm qua một số bất cập, vấn đề còn nhiều tranh cãi trong chính sách và hoạt
động KH&CN như nêu trên để thấy có sự tác động không nhỏ đến lòng tin trong
cộng đồng KH&CN, các mối quan hệ xã hội trong mạng lưới KH&CN nhiều khi
còn dựa trên sự hành chính hóa khoa học, đánh giá cấp đề tài (cấp càng cao càng
chứng tỏ giá trị khoa học lớn, càng được cấp nhiều tiền…), mặt trái của cơ chế xin -
cho (cảm tính, nhiều khi không quan tâm đến năng lực nghiên cứu thật sự mà chỉ
dựa trên mối quan hệ quen biết, cùng êkip, vấn đề chia sẻ quyền lợi, có đi - có
lại…).
4.7. Đề xuất một số giải pháp làm giàu vốn xã hội và thúc đẩy các tác động tích
cực của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu
mạnh
Thông qua các phần đã phân tích của Chương 4, có thể thấy vai trò quan trọng
của mạng lưới nghiên cứu, các quan hệ cộng tác, quan hệ tương tác, có đi - có lại,
lòng tin xã hội, sự tin tưởng trong việc thúc đẩy các hoạt động KH&CN một cách
hiệu quả. Do vậy, các giải pháp làm giàu vốn xã hội trong KH&CN cũng chính là
các giải pháp nhằm xây dựng mạng lưới nghiên cứu, lòng tin xã hội, các mối quan
hệ tương tác qua lại trong hoạt động KH&CN.
Đánh giá vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN, đa số ý kiến
được hỏi cho rằng vai trò của vốn xã hội ở cấp độ vĩ mô là quan trọng nhất, tiếp đó
là đến vốn xã hội cấp độ vi mô và trung mô (Biểu đồ 4.5). Điều này cho thấy, phần
lớn các ý kiến đánh giá cao vai trò của vốn xã hội ở cấp Chính phủ, quốc gia, quốc
tế đối với các hoạt động KH&CN. Nói cách khác, những mối quan hệ cộng tác,
mạng lưới xã hội, lòng tin xã hội ở cấp vĩ mô, quốc gia, quốc tế có vai trò rất quan
trọng. Tiếp đến là vốn xã hội ở cấp vi mô, tức là mạng lưới xã hội, mối quan hệ
tương tác, sự tin tưởng giữa các cá nhân trong các hoạt động KH&CN cũng được
166
đánh giá cao. Theo các ý kiến đánh giá trong nghiên cứu này, vốn xã hội ở cấp độ
trung mô (mạng lưới xã hội, sự tương tác, lòng tin trong mối quan hệ giữa các nhóm
nghiên cứu) tuy cũng có vai trò quan trọng trong các hoạt động KH&CN nhưng
không được đánh giá cao bằng vốn xã hội ở cấp vĩ mô và vi mô. Điều này có thể lý
giải là do sự kết nối, phối hợp giữa các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc
gia Hà Nội với nhau cũng như giữa các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia
Hà Nội với các nhóm xã hội khác còn ít, chưa có hoạt động nào nổi trội. Trong thực
tế, có nhiều cá nhân là thành viên của hai hay nhiều nhóm nghiên cứu mạnh của Đại
học Quốc gia Hà Nội, tức là các nhà khoa học có thể có nhiều vai trò trong các
nhóm nghiên cứu mạnh. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu mang tính liên
ngành, tích hợp có thể kết nối các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà
80.00%
70.00%
60.00%
50.00%
Nội cùng thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu.
72.73%
40.00%
30.00%
45.45%
36.36%
20.00%
10.00%
0.00%
Cấp độ vĩ mô
Cấp độ vi mô
Cấp độ trung mô
Biểu đồ 4.5. Vai trò của vốn xã hội ở các cấp độ. Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả khảo sát các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh.
Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của luận án cũng ghi nhận một số yếu tố và
biểu hiện tiêu cực của vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN như trong việc xây
dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D, trong công bố khoa học, chảy chất xám trong
167
đào tạo. Những tác động tiêu cực này của vốn xã hội cũng như một số bất cập trong
môi trường, thể chế (chính sách KH&CN) chính là những rào cản cho sự phát triển
của KH&CN cũng như cho chính bản thân nguồn vốn xã hội trong các hoạt động
KH&CN. Dựa trên những luận điểm đã phân tích về vai trò và tác động tích cực của
vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN, luận án đề xuất những giải pháp làm giàu
vốn xã hội, thúc đẩy những tác động tích cực và hạn chế những biểu hiện tiêu cực
của vốn xã hội trong các hoạt động này.
4.7.1. Giải pháp làm giàu vốn xã hội
4.7.1.1. Làm giàu vốn xã hội ở cấp vĩ mô và vi mô
Hiện nay, vốn xã hội ở cấp vĩ mô và vi mô đang được các nhóm nghiên cứu
mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội coi trọng nhất, đồng thời cũng được sử dụng có
hiệu quả trong các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học
Quốc gia Hà Nội. Để có thể tiếp tục phát triển các nguồn vốn xã hội này, ở cấp vĩ
mô cần có những chính sách thúc đẩy phát triển hợp tác quốc tế cho các nhà khoa
học của các nhóm nghiên cứu mạnh, tạo điều kiện cho việc hợp tác quốc tế trong
nghiên cứu khoa học (hiện nay, các quy định về hợp tác quốc tế ngày càng thắt chặt,
gây một số trở ngại cho các nhà khoa học, kinh phí đoàn ra quá ít hoặc không tương
xứng…). Kết quả nghiên cứu của luận án đã chỉ rõ vai trò của hợp tác quốc tế là rất
quan trọng trong tất cả các hoạt động KH&CN, từ xây dựng và thực hiện các nhiệm
vụ R&D, đến công bố, đào tạo, chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ. Do
vậy cần có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các quan hệ
hợp tác quốc tế trong khoa học.
Một số rào cản về chính sách KH&CN như việc áp dụng cơ chế xin - cho như
thế nào cho hợp lý cũng cần được nghiên cứu thêm; xóa bỏ việc định biên trong các
cơ quan khoa học - giáo dục; đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học dựa trên chính
bản thân kết quả khoa học đó và thông qua đội ngũ chuyên gia tinh túy nhất trong
lĩnh vực khoa học đó chứ không phải qua chỉ số IF trong công bố khoa học; quan
niệm về thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học thế nào cho chính xác...
168
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho việc thành lập các diễn đàn,
mạng lưới kết nối giữa cộng đồng nghiên cứu trong và ngoài nước. Hiện nay, Việt
Nam đã có Mạng lưới đổi mới sáng tạo (được bấm nút khởi động từ 19/8/2018)
nhằm huy động nguồn chất xám từ chuyên gia Việt đang làm việc tại các quốc gia
có nền công nghệ phát triển để hỗ trợ Việt Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp
4.0. Hiện đã có hơn 100 nhà khoa học, chuyên gia công nghệ tiêu biểu là người Việt
đang học tập và làm việc ở nước ngoài cùng hàng trăm nhà khoa học, chuyên gia
công nghệ, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu trong nước tham gia. Xây dựng Mạng
lưới đổi mới sáng tạo chính là tạo lập được một hệ sinh thái đồng sáng tạo để kết
nối nguồn lực trí tuệ của các nhà khoa học trong nước và nước ngoài . Tuy nhiên, để
mạng lưới hoạt động hiệu quả, các nhà khoa học cần hiến kế trong việc huy động
nguồn lực tri thức, tận dụng được công nghệ tiên tiến, cách tiếp cận thị trường cũng
như nguồn đầu tư mạo hiểm trên thế giới. Nếu làm được điều này sẽ là phép nhân
trí thức trong nước, Chính phủ và trí thức ngoài nước. Chính phủ là cầu nối, tạo ra
chính sách hiệu quả, còn doanh nghiệp sẵn sàng tiếp nhận công nghệ và phối hợp
với các nhà khoa học.
Ngày 2/10/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Trung
tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (Vietnam National Innovation Center - NIC), có trụ
sở tại Hà Nội, cơ sở hoạt động tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc. Trung tâm này sẽ
kết nối các nhu cầu đổi mới sáng tạo của các tập đoàn, công ty trong nước với mạng
lưới hơn 12.000 nhà khoa học, nhà phát minh toàn cầu, tạo điều kiện cho các nhà
khoa học, các kỹ sư Việt Nam tham gia mạng lưới này, cũng như đào tạo đội ngũ
cán bộ làm quản lý công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp cận với những phương thức
thúc đẩy đổi mới sáng tạo mới của thế giới. Trong xu hướng toàn cầu hóa, tự do
thương mại và sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ số và kết nối đang tác động
mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, vai trò của khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy tăng
năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia của
Việt Nam.
169
Với vai trò là một trung tâm quốc gia, NIC sẽ kết nối, hỗ trợ và hợp tác với
các cơ sở hỗ trợ đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ hiện tại, tạo thành hệ
thống đổi mới sáng tạo trên khắp cả nước, góp phần nâng cao năng suất lao động và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đây cũng là cơ hội để các nhà KH&CN của
Việt Nam nói chung, các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội nói
riêng tham gia vào mạng lưới này và đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Ở cấp vi mô, các nhà khoa học là thành viên của các nhóm nghiên cứu mạnh
Đại học Quốc gia Hà Nội cần tăng cường sự trao đổi thông tin, gặp gỡ nhau thông
qua các buổi sinh hoạt chuyên môn định kỳ, các cuộc hội thảo khoa học có liên
quan. Ở các Hội thảo, tiếp xúc cá nhân là cơ hội lớn nhất cho các nhà khoa học,
nhất là các nhà khoa học trẻ tìm ra các đề tài khoa học thỏa mãn tính thời sự. Những
bài diễn giảng, trao đổi bên lề, các nhà khoa học sẽ cởi mở hơn nhiều và sẵn sàng
chia sẻ việc họ đang làm và những khúc mắc trong quá trình nghiên cứu. Đây chính
là cơ hội để các nhà khoa học trẻ được tham gia vào những công trình nghiên cứu
lớn, đẩy mạnh các hình thức cộng tác trong khoa học…
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh các hoạt động xây dựng Nhóm (team building
activities) để tăng cường sự gắn kết, tình cảm giữa các thành viên trong nhóm
nghiên cứu mạnh. Thực tế khảo sát cho thấy, vẫn còn tới 9,1% số nhóm nghiên cứu
mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội hiếm khi hoặc không bao giờ có các hoạt động xây
dựng nhóm và sinh hoạt học thuật.
4.7.1.2. Phát triển vốn xã hội ở cấp trung mô
Hiện nay, việc kết nối và hợp tác giữa các nhóm nghiên cứu nói chung, nhóm
nghiên cứu mạnh nói riêng trong Đại học Quốc gia Hà Nội hầu như chưa có, trong
khi nhu cầu về giải quyết các bài toán khoa học liên ngành, đa ngành đòi hỏi sự
phối hợp, tiếp cận nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực, góc độ khác nhau. Do vậy, rất cần
có cơ chế phối hợp nghiên cứu giữa các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc
gia Hà Nội với nhau và với các nhóm nghiên cứu, mạng lưới xã hội khác trong và
ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội bằng nhiều hình thức.
170
Thực tế hiện nay ở Đại học Quốc gia Hà Nội chưa có mạng lưới xã hội nào kết
nối các nhà khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung, thành viên của các
nhóm nghiên cứu mạnh nói riêng. Theo tìm hiểu của NCS, trước đây, từ 7/2/2013
Đại học Quốc gia Hà Nội đã thành lập được Câu lạc bộ nhà khoa học Đại học Quốc
gia Hà Nội (VNU Scientist Links - VSL) với hơn 500 thành viên, tập hợp, kết nối
các nhà khoa học trẻ trong và ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội, tạo thành một
“young talent pool” cung cấp nguồn lực đa dạng, giàu tư duy đổi mới và nhiệt
huyết, sẵn sàng tham gia các nhiệm vụ trọng điểm, mang tính liên ngành của Đại
học Quốc gia Hà Nội. Đây là một tổ chức tự nguyện phi lợi nhuận thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội, không có tư cách pháp nhân, không có con dấu riêng. Với cách
thức hoạt động mềm dẻo, linh hoạt, thông qua các chương trình Café định kì hàng
tháng với những chủ đề hữu ích, VSL đã tạo nên sức hút, thu hút sự tham gia tự
nguyện của các nhà khoa học trẻ ở Đại học Quốc gia Hà Nội. Các hoạt động của
VSL nhằm hỗ trợ các thành viên phát triển theo lộ trình cá nhân, đạt các yêu cầu về
học hàm, học vị, nâng cao năng lực về giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hợp tác
quốc tế góp phần xây dựng và phát triển thương hiệu Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đồng thời, VSL tạo sự gắn kết các nhà khoa học để từ đó hình thành các nhóm
nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu liên ngành có khả năng triển khai được các đề
tài nghiên cứu khoa học lớn trong và ngoài nước. VSL cũng hỗ trợ các nhà khoa
học trẻ đẩy mạnh công bố khoa học quốc tế (20-30 triệu đồng/bài báo khoa học
được công bố trên Tạp chí ISI/Scopus cho tác giả chính/tác giả liên hệ; 10-15 triệu
đồng/bài báo khoa học được công bố trên Tạp chí ISI/Scopus cho tác giả phụ).
VSL mong muốn thu hút được các nhà khoa học giỏi trong và ngoài nước cùng
cộng tác với Đại học Quốc gia Hà Nội trong nghiên cứu khoa học, góp phần đưa
Việt Nam nhanh chóng hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ; nâng cao năng lực
lãnh đạo và hiểu biết về văn hóa, định hướng phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội
cho các nhà khoa học trẻ, từ đó nhận diện và quy hoạch các “hạt giống đỏ” cho các
nhiệm vụ trọng điểm trong tương lai tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Tuy nhiên, từ
171
năm 2018 đến nay, do khó khăn về nguồn tài chính nên VSL đã tạm dừng hoạt
động.
Với sự cần thiết của việc kết nối, hình thành mạng lưới xã hội của các nhóm
nghiên cứu mạnh cũng như giữa các nhà khoa học của trong Đại học Quốc gia Hà
Nội, rất cần duy trì hoạt động của Câu lạc bộ Nhà khoa học Đại học Quốc gia Hà
Nội VNU Scientist Links - VSL nhằm các mục tiêu:
- Kết nối các nhà khoa học trong Đại học Quốc gia Hà Nội để cung cấp nguồn
nhân lực giàu tư duy đổi mới, nhiệt huyết, sáng tạo, tiên phong, sẵn sàng thực hiện
các nhiệm vụ quan trọng, chiến lược của Đại học Quốc gia Hà Nội và của các đơn
vị thành viên, đơn vị trực thuộc.
- Hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các nhà khoa học giao lưu, tiếp xúc với các
đối tác trong và ngoài nước; kết nối tri thức, thiết lập môi trường học thuật để phát
huy tối đa năng lực cá nhân, nâng cao trình độ, trao đổi kinh nghiệm học thuật,
giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Các hoạt động của VSL bao gồm: tổ chức các hoạt động nhằm kết nối, giao
lưu, hợp tác, chia sẻ học thuật giữa các hội viên với các chuyên gia, nhà khoa học
có uy tín, nhóm nghiên cứu, tổ chức KH&CN trong và ngoài nước; thúc đẩy và hỗ
trợ các hội viên nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, tăng cường công bố,
chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học; triển khai các nhiệm vụ theo đặt hàng
của Đại học Quốc gia Hà Nội, các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc và các đối
tác khác; phát hiện các nhóm nghiên cứu trẻ có tiềm năng từ các trường đại học,
viện nghiên cứu để hỗ trợ ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN,
thương mại hóa và chuyển giao kết quả nghiên cứu; tìm kiếm các đối tác, nguồn tài
trợ trong nước và quốc tế để hỗ trợ các hoạt động của Câu lạc bộ và hội viên.
Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi ý tưởng, nhiệm vụ nghiên
cứu giữa các nhóm nghiên cứu mạnh với Lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội, các
nhóm nghiên cứu mạnh cần có báo cáo định kỳ về các hoạt động và kế hoạch hành
động của nhóm mình và công khai trên các website của Nhóm. Hiện chỉ có duy nhất
1 nhóm nghiên cứu mạnh có website và liên tục cập nhất các thông tin về kết quả
172
nghiên cứu của Nhóm. Dựa vào các tiêu chí liên quan đến hiệu quả hoạt động và
các sản phẩm KH&CN, hàng năm có xếp hạng và đánh giá đối với các nhóm nghiên
cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội. Hiện nay, Đại học Quốc gia Hà Nội còn
chưa có hoặc ít có những hoạt động này. Mới chỉ có một số cuộc hội thảo về thực
trạng phát triển nhóm nghiên cứu trong các trường đại học của Việt Nam hiện nay
do Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức; hội thảo về việc xây dựng các nhóm nghiên
cứu mạnh của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Công nghệ;
chưa có hội thảo nào liên quan đến các nhóm nghiên cứu mạnh của Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn.
4.7.2. Giải pháp thúc đẩy các tác động tích cực của vốn xã hội trong hoạt
động KH&CN
4.7.2.1. Đầu tư tài chính thỏa đáng
Qua nghiên cứu thực tế các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà
Nội và qua các ý kiến chuyên gia tại các hội thảo khoa học có liên quan đến nhóm
nghiên cứu mạnh cho thấy, hầu hết các nhà khoa học của các nhóm nghiên cứu
mạnh đều mong muốn có các chính sách tài chính hỗ trợ, đầu tư cho các nhóm
nghiên cứu mạnh một cách thỏa đáng, tạo động lực cho các cá nhân và nhóm nghiên
cứu mạnh, tạo lập môi trường làm việc chuyên nghiệp, có sự ghi nhận, đánh giá
thường xuyên đối với các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội. Theo ý
kiến một số chuyên gia, các nhóm nghiên cứu mạnh nên được thực hiện “khoán
10”, và được tự chủ về tài chính trong các hoạt động KH&CN, cơ quan quản lý chỉ
cần quan tâm đến hiệu quả, sản phẩm đầu ra của nhóm [25, 41].
Hiện nay, sự hỗ trợ về tài chính đối với nhóm nghiên cứu mạnh giữa các
trường còn khác nhau: Trường Đại học Công nghệ hỗ trợ 50 triệu đồng/nhóm
nghiên cứu mạnh; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên khoảng 20-30 triệu
đồng/nhóm nghiên cứu mạnh; Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn không
có hỗ trợ tài chính cho nhóm nghiên cứu mạnh; Đại học Quốc gia Hà Nội chưa có
sự hỗ trợ cụ thể nào cho các nhóm nghiên cứu mạnh…
Tuy sự hỗ trợ về tài chính hàng năm của các trường còn rất khiêm tốn, nhưng
173
điều này vẫn chứng minh sự công nhận về mặt danh tiếng đối với nhóm nghiên cứu
mạnh của các trường. Bởi vậy điều này là rất cần thiết, có ý nghĩa về mặt tinh thần
đối với các nhóm nghiên cứu mạnh.
Bên cạnh đó, việc thực hiện đúng quy định về giảm số giờ giảng của các thành
viên nhóm nghiên cứu mạnh cũng rất cần thiết, nhằm tạo điều kiện về thời gian
nghiên cứu cho các thành viên nhóm nghiên cứu mạnh. Trong thực tế, quy định này
còn chưa được thực hiện, làm ảnh hưởng ít nhiều đến thời gian nghiên cứu của các
thành viên nhóm nghiên cứu mạnh.
Việc ghi nhận và đánh giá thường xuyên đối với các nhóm nghiên cứu mạnh
cũng là một yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển đi lên của các nhóm nghiên
cứu mạnh, đòi hỏi có các tiêu chí rõ ràng, có báo cáo định kỳ hàng năm đối với Đại
học Quốc gia Hà Nội. Hiện nay, các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia
Hà Nội không phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, các tiêu chí đánh giá hiệu quả
cũng chưa rõ ràng. Từ khi thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh đến nay, số lượng
các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội ngày càng tăng, chưa có
nhóm nào bị loại hoặc hạ cấp.
Về chính sách phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà
Nội, hiện nay, quan điểm của Đại học Quốc gia Hà Nội vẫn là: “Xây dựng và phát
triển các nhóm nghiên cứu mạnh vừa là phương thức, vừa là mục tiêu mà Đại học
Quốc gia Hà Nội và các đơn vị tiếp tục tập trung ưu tiên đầu tư nhằm tăng cường
tiềm lực khoa học - công nghệ cho một số nhóm nghiên cứu để có đủ khả năng triển
khai các nghiên cứu đỉnh cao và xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc; tạo
động lực gia tăng các giá trị KH&CN, các yếu tố cạnh tranh cả trên phương diện
quốc gia và quốc tế; thúc đẩy sự phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội và các đơn vị
theo định hướng đại học nghiên cứu”. Thực tế, việc phát triển các nhóm nghiên cứu
mạnh chỉ là phương thức chứ không phải là mục tiêu nâng cao năng lực nghiên cứu
của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong chính sách phát triển các nhóm nghiên cứu
mạnh cũng phải có sự định hướng rõ ràng các mô hình phát triển của nhóm nghiên
cứu mạnh: trở thành trung tâm xuất sắc hay phòng thí nghiệm trọng điểm hay
174
trường phái khoa học (hiện chưa có quy định nào về trường phái khoa học, cần làm
rõ các tiêu chí của nó là gì).
4.7.2.2. Truyền thông xã hội
Các nhà khoa học ngày nay không chỉ cần biết làm khoa học mà còn cần có kỹ
năng truyền thông, giới thiệu các sản phẩm khoa học của mình thông qua các công cụ
truyền thông xã hội phổ biến như các trang mạng xã hội, blog… Đặc biệt, những
trang mạng kết nối mạng lưới xã hội chuyên biệt về khoa học như ResearchGate,
Academia, Google Scholar, LinkedIn… là những công cụ rất tốt hỗ trợ cho giới học
thuật. Tham gia các mạng lưới liên kết này, các nhà nghiên cứu có thể đăng tải các
bài nghiên cứu của mình, xây dựng mạng lưới giữa các nhà nghiên cứu, đưa ra các
thảo luận và tương tác trực tiếp. Ngoài ra, các nền tảng này có chức năng phân tích và
giúp người dùng theo dõi chỉ số ảnh hưởng các bài nghiên cứu của họ. Như vậy, các
nhà khoa học có thể tận dụng thế mạnh của nó để phục vụ cho công việc của mình.
Tuy mạng xã hội không thể thay thế các phương thức truyền thống như: tham
gia hội thảo khoa học, viết bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học quốc tế…,
nhưng chúng lại có thể giúp chuyển tải các thông tin về công trình nghiên cứu một
cách nhanh chóng và rộng rãi hơn. Người dùng cũng cần xác định rõ mục đích của
mình khi sử dụng mạng xã hội để tiến hành một cách hiệu quả nhất.
Theo báo cáo “Mạng xã hội: Cẩm nang cho các nhà nghiên cứu” [36], có 5 lợi
ích khi sử dụng mạng xã hội vào nghiên cứu khoa học: 1) Hợp tác hiệu quả hơn; 2)
Chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm thuận lợi hơn; 3) Kêu gọi chuyên môn trong quá
trình nghiên cứu; 4) Nhận phản hồi từng bước thay vì đợi đến khi có rủi ro cao; 5)
Giới thiệu công trình nghiên cứu nhanh hơn các phương thức xuất bản học thuật
truyền thống.
Thêm vào đó, việc sử dụng mạng xã hội có tác dụng như một công cụ
marketing cho đầu ra của các nghiên cứu, giúp tăng chỉ số Altmetrics (sự quan tâm
và các thảo luận xung quanh kết quả nghiên cứu) trên mạng xã hội, các báo/tạp chí
và các trang web mở.
175
Mạng xã hội có thể được phân thành các nhóm: blog, blog vi mô, các trang lưu
dấu và trích dẫn cộng đồng, các mạng lưới dành cho giới học thuật và xuất bản.
Blog là những trang web có nội dung được một nhóm nhỏ hoặc một người
thường xuyên cập nhập. Các bài viết thường ngắn (từ 50-500 từ), các tin, câu
chuyện nhỏ hay bình luận ý kiến cá nhân ở dạng không chính thống. Blogs tốt cho
mục đích xuất bản các nghiên cứu, làm mọi người biết hồ sơ cá nhân của bạn nhiều
hơn, và tăng mức độ ảnh hưởng và mở rộng các mạng lưới nghiên cứu của bạn. Hai
nền tảng phổ biến nhất là WordPress và Blogger, đều có các bản miễn phí.
Blog vi mô là một giải pháp khác cho blog, thân thiện hơn. Nếu như các bài
viết trên blog có thể dài đến 500 từ thì các tin trên blog vi mô thường ngắn hơn -
luôn ít hơn 50 chữ. Blog vi mô có nhiều tính năng hơn so với blog như khả năng
đăng tải hình ảnh, video, vì vậy, các nhà nghiên cứu có thể sử dụng công cụ này
một cách linh hoạt. Là một trong các nền tảng của blog vi mô, Twitter được dùng
phổ biến để chia sẻ các thông tin và tin tức, các đường kết nối thường sẽ dẫn đến
các bài viết khác dài và đầy đủ thông tin hơn. Twitter hữu ích trong việc xây dựng
mạng lưới nghiên cứu và công bố các nghiên cứu đến nhóm độc giả rộng rãi hơn.
Các nhà nghiên cứu có thể công bố một bài báo trên tạp chí, hay một bài viết trong
blog hay một điều thú vị do một diễn giả trình bày trong một hội thảo thông qua
mạng xã hội này.
Một công cụ xã hội hữu ích của Tập đoàn xuất bản quốc tế Elsevier là
Mendeley [95] giúp đánh dấu, trích dẫn và quản lý tài liệu tham khảo, cho phép tìm
kiếm, tải lên và tổ chức các bài viết, số liệu từ nhiều cơ sở dữ liệu, tạo danh mục tài
liệu tham khảo cho các bài viết. Bên cạnh đó, Mendeley cũng có chức năng liên kết
mạng lưới xã hội, giúp người dùng tạo hồ sơ nghiên cứu cá nhân, theo dõi và kết
nối với các nhà nghiên cứu khác để tìm kiếm và xác định các xu hướng nghiên cứu
cũng như chia sẻ danh mục trích dẫn.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng cần lưu ý một số vấn đề khi lựa chọn và
sử dụng mạng xã hội. Điều quan trọng nhất là cần lựa chọn một nền tảng mạng xã
hội phù hợp với mục đích sử dụng. Quản lý khối lượng công việc và thời gian sử
176
dụng mạng xã hội hợp lý sẽ làm tăng năng suất và chất lượng công trình nghiên
cứu. Để dùng mạng xã hội như một phần quan trọng của mạng lưới nghiên cứu một
cách có hiệu quả, cần có sự tương tác trong việc chia sẻ và phản hồi thông tin giữa
các nhà khoa học. Tuy nhiên, các nhà khoa học cần tuân thủ các nguyên tắc về bản
quyền khi sử dụng và chia sẻ các thông tin nghiên cứu.
4.8. Tiểu kết chương 4
Qua tìm hiểu, quan sát thực tiễn kết hợp với việc phỏng vấn, khảo sát, lấy ý
kiến chuyên gia về việc sử dụng vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của nhóm
nghiên cứu mạnh, có thể thấy vốn xã hội được thể hiện và sử dụng trong mọi hoạt
động KH&CN: xây dựng và thực hiện nhiệm vụ R&D; đào tạo; công bố khoa học;
chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ. Trong đó, yếu tố hợp tác quốc tế là
điểm nhấn xuyên suốt trong các khía cạnh của nguồn vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN.
Qua nghiên cứu các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội cho
thấy, vốn xã hội được sử dụng nhiều nhất trong việc xây dựng các ý tưởng khoa
học, brain storming; thực hiện nhiệm vụ khoa học; tiếp đó là công bố khoa học; đào
tạo, hợp tác quốc tế; xây dựng mạng lưới nghiên cứu; tìm kiếm kinh phí nghiên cứu,
các tài trợ nghiên cứu; cuối cùng là chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ.
Theo đánh giá của các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh, vốn xã hội có vai trò quan
trọng đối với các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh, đặc biệt là
vốn xã hội ở cấp độ vĩ mô (macro-level, quốc gia và quốc tế). Điều này cũng được
chứng minh qua việc các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội đều
có quan hệ hợp tác quốc tế với các đối tác nước ngoài, nhất là trong việc thực hiện
các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài/dự án, trong đào tạo, công bố khoa học. Vốn xã hội
ở cấp độ vi mô (micro-level, cá nhân) cũng được đánh giá cao trong hoạt động
KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó vai trò dẫn dắt của người trưởng
nhóm được đánh giá quan trọng số một. Vốn xã hội ở cấp độ trung mô (meso-level,
các nhóm xã hội) trong các hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh
được đánh giá quan trọng với tỷ lệ thấp nhất.
177
Tóm lại, vốn xã hội đóng vai trò tác nhân quan trọng thúc đẩy hiệu quả hoạt
động của nhóm nghiên cứu mạnh. Đó là những tác động tích cực đến các hoạt động
KH&CN, thể hiện qua sự dẫn dắt của trưởng nhóm, mạng lưới nghiên cứu hiệu quả,
quan hệ tương tác nhiều chiều, hợp tác quốc tế mạnh, sự tin tưởng lẫn nhau giữa các
thành viên nhóm nghiên cứu mạnh cũng như trong cộng đồng KH&CN. Để có thể
sử dụng hiệu quả và làm giàu vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các
nhóm nghiên cứu mạnh cần có những chính sách phát triển vốn xã hội ở các cấp
(cấp vĩ mô, trung mô và vi mô), khắc phục những bất cập trong chính sách KH&CN
và thúc đẩy những tác động tích cực của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN. Đó
chính là việc đẩy mạnh sự kết nối, mạng lưới nghiên cứu giữa các nhóm nghiên cứu
mạnh Đại học Quốc gia Hà Nội với nhau, giữa các nhóm nghiên cứu mạnh Đại học
Quốc gia Hà Nội với các mạng lưới xã hội khác trong và ngoài nước; đẩy mạnh các
hình thức cộng tác trong các hoạt động KH&CN; chính sách tài chính hỗ trợ cho các
hoạt động nghiên cứu, công bố; tạo lập môi trường làm việc, nghiên cứu thuận tiện,
chuyên nghiệp; tạo động lực cho các cá nhân và nhóm nghiên cứu mạnh làm việc.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng cần tận dụng lợi thế của các công cụ truyền
thông xã hội phổ biến trong giới nghiên cứu để kết nối nhiều hơn với mạng lưới
nghiên cứu trong và ngoài nước, đồng thời cập nhật, chia sẻ thông tin, kết quả nghiên
cứu của mình một cách nhanh nhất và hiệu quả.
178
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN: Trường hợp
các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội là một chủ đề nghiên cứu
mới ở Việt Nam, chưa từng có nghiên cứu nào thực hiện trước đó. Luận án có
những đóng góp thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu về vốn
xã hội trong KH&CN, đồng thời làm rõ vai trò của vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN, nghiên cứu trường hợp các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Về mặt lý luận, luận án đã đưa ra một hệ thống đầy đủ các khái niệm làm cơ
sở lý thuyết cho việc thực hiện đề tài, phân tích lý thuyết về vốn xã hội trong hoạt
động KH&CN, các thành tố trong vốn xã hội, mối quan hệ giữa vốn xã hội và tài
sản vô hình. Đây là những cơ sở khoa học quan trọng cho việc nghiên cứu thực
tiễn của luận án.
Kết quả nghiên cứu thực tiễn của luận án đã mô tả đặc điểm của các nhóm
nghiên cứu mạnh và phác họa bức tranh về việc sử dụng vốn xã hội trong hoạt động
KH&CN theo từng yếu tố đầu ra (hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ
R&D; công bố khoa học; đào tạo; thương mại hóa công nghệ) của các nhóm nghiên
cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ đó, đánh giá tác động tích cực và tiêu
cực của vốn xã hội đến từng yếu tố này. Dựa trên cơ sở phân tích thực tiễn, luận án
đã đề xuất một số giải pháp làm giàu vốn xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Với việc vận dụng các luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn về vốn xã hội
trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà
Nội (bằng các phiếu khảo sát ý kiến, phỏng vấn sâu, phương pháp chuyên gia, hội
thảo, quan sát…), luận án đã trả lời được câu hỏi nghiên cứu và chứng minh được
giả thuyết nghiên cứu đưa ra. Đó là: Vốn xã hội có vai trò tác nhân quan trọng thúc
đẩy hiệu quả hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc
gia Hà Nội.
179
Nghiên cứu cho thấy, các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà
Nội đều là những tập thể các nhà khoa học có cùng hướng nghiên cứu chuyên môn,
có đủ khả năng triển khai các nghiên cứu đỉnh cao và là hạt nhân để xây dựng các
trung tâm nghiên cứu xuất sắc, trường phái khoa học. Mỗi nhóm nghiên cứu mạnh
là một think tank, trong đó trưởng nhóm nghiên cứu mạnh có vai trò chủ đạo trong
thiết lập, tập hợp được mạng lưới các cộng sự và học trò có khả năng phát triển, xây
dựng trường phái khoa học của mình với những vấn đề khoa học độc đáo.
Vốn xã hội được thể hiện và sử dụng trong các hoạt động KH&CN từ xây
dựng và thực hiện các nhiệm vụ R&D (xây dựng các định hướng nghiên cứu, ý
tưởng nghiên cứu; thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài/dự án); đến các hoạt
động đào tạo, công bố khoa học trong và ngoài nước; chuyển giao tri thức, thương
mại hóa công nghệ. Tại các nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội,
xu hướng sử dụng vốn xã hội trong hoạt động xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ
R&D chiếm ưu thế hơn so với các hoạt động KH&CN khác.
Việc sử dụng vốn xã hội giúp các nhóm nghiên cứu mạnh xây dựng và thiết
lập được những mối quan hệ hợp tác mạnh, đặc biệt là quan hệ quốc tế, thúc đẩy
đào tạo nhân lực KH&CN trình độ cao và nâng cao chất lượng nghiên cứu, công bố
quốc tế. Các nhóm nghiên cứu mạnh sử dụng tốt vốn xã hội trong hợp tác quốc tế sẽ
có lợi thế trong việc thực hiện các đề tài nghiên cứu hợp tác quốc tế, được tài trợ
nghiên cứu lâu dài (có trường hợp hàng chục năm), tăng cường cơ sở vật chất, trang
thiết bị nghiên cứu, trao đổi đào tạo, gia tăng công bố quốc tế. Việc thực hiện tốt
các hoạt động KH&CN lại có tác dụng trở lại, thúc đẩy sự phát triển vốn xã hội của
các nhóm nghiên cứu mạnh. Đánh giá về vai trò của vốn xã hội trong các hoạt động
KH&CN, các nhóm nghiên cứu mạnh cho rằng, vốn xã hội ở cấp độ vĩ mô có vai
trò quan trọng nhất, tiếp đến là vốn xã hội ở cấp độ vi mô và trung mô.
Bên cạnh đó, luận án cũng ghi nhận một số tác động tiêu cực trong việc sử
dụng vốn xã hội của các nhóm nghiên cứu mạnh, cũng như một số rào cản, vấn đề
bất cập từ chính sách KH&CN. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án chưa có đủ
180
cơ sở dữ liệu để có thể kết luận cuối cùng về các tác động tiêu cực của vốn xã hội
trong hoạt động KH&CN.
Hiện nay, việc hỗ trợ cho các nhóm nghiên cứu mạnh mới chỉ dựa trên nội lực
của từng trường, chưa có hỗ trợ cụ thể từ Đại học Quốc gia Hà Nội, do vậy nguồn
lực cho hoạt động KH&CN chủ yếu dựa vào sự năng động của mỗi nhóm, cũng có
nghĩa là dựa vào vốn xã hội của từng nhóm nghiên cứu mạnh. Nhóm nào năng
động, sử dụng được nhiều vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN thì sẽ xin được
nhiều tài trợ, đấu thầu được nhiều đề tài/dự án nghiên cứu, liên kết với các tổ chức
quốc tế, doanh nghiệp, địa phương để thực hiện các nhiệm vụ R&D.
Trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn về các hoạt động KH&CN của các nhóm
nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội và việc sử dụng vốn xã hội trong các
hoạt động KH&CN, luận án đã đề xuất một số giải pháp thiết thực làm giàu vốn xã
hội ở cấp vĩ mô (tạo điều kiện cho việc hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học;
xóa bỏ những rào cản về chính sách KH&CN; thành lập các mạng lưới kết nối
nghiên cứu trong và ngoài nước), cấp trung mô (sự hợp tác giữa các nhóm nghiên
cứu trong giải quyết các bài toán khoa học liên ngành; cơ chế phối hợp nghiên cứu
giữa các nhóm nghiên cứu mạnh) và cấp vi mô (sự trao đổi thông tin qua sinh hoạt
chuyên môn, hội thảo khoa học; các hoạt động xây dựng và kết nối các cá nhân
trong nhóm nghiên cứu), cải thiện môi trường nghiên cứu khoa học và làm việc của
các nhà KH&CN. Từ đó phát huy những tác động tích cực và hạn chế những biểu
hiện tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu
mạnh.
2. Khuyến nghị
Trong khuôn khổ của luận án, vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các
nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học Quốc gia Hà Nội chỉ được xem xét một cách
định tính ở các khía cạnh: mạng lưới nghiên cứu, quan hệ cộng tác nghiên cứu, sự
tin tưởng giữa các thành viên trong nhóm nghiên cứu mạnh và trong cộng đồng
KH&CN, sự tương tác, có đi - có lại giữa các cá nhân, mà chưa đi sâu phân tích các
yếu tố về môi trường, thiết chế khoa học (chính sách KH&CN), các chuẩn mực
181
khoa học, quy tắc trong hoạt động KH&CN của Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó,
luận án cũng ghi nhận một số ý kiến về tác động tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt
động KH&CN, tuy nhiên chưa có đủ cơ sở dữ liệu để đưa ra kết luận cuối cùng về
vấn đề này. Đây là những vấn đề lớn cần được tiếp tục nghiên cứu, như quan niệm
về cơ chế xin - cho, cách đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học, quan niệm về cấp
đề tài, một số biểu hiện tiêu cực trong hoạt động KH&CN…
Luận án chỉ mới bước đầu nghiên cứu, gợi mở về vai trò của vốn xã hội trong
hoạt động KH&CN, phạm vi và khuôn khổ nghiên cứu mới chỉ bó hẹp trong các
nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Quốc gia Hà Nội. Do vậy, rất cần có thêm các
nghiên cứu thực hiện ở những quy mô lớn hơn, trong phạm vi toàn quốc, với không
gian, thời gian lớn hơn, và cần có những nghiên cứu định lượng, đo lường vốn xã
hội trong các hoạt động KH&CN không chỉ là các yếu tố đầu ra của KH&CN, liên
quan đến các vấn đề giáo dục, đào tạo, quan niệm, nhận thức… Từ đó có những
khuyến nghị nhằm làm giàu vốn xã hội và sử dụng vốn xã hội một cách hiệu quả,
hạn chế những tác động tiêu cực của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN, góp phần
thúc đẩy sự phát triển của KH&CN nói riêng, kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung.
Bên cạnh đó, cũng cần có những nghiên cứu lý luận về vai trò của vốn xã hội
và tìm kiếm những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý KH&CN, đổi mới quản lý
KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học.
182
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyen Huong Giang (2012), “Social capital in science-technology and its
components”, Journal Science and Technology Policy and Management 1(3), pp.
58-62.
2. Nguyễn Thị Hương Giang (2019), “Vai trò của vốn xã hội trong hoạt động
khoa học và công nghệ của các nhóm nghiên cứu”, Tạp chí Chính sách và Quản lý
Khoa học và Công nghệ 8 (1), tr. 32-42.
3. Nguyễn Thị Hương Giang (2019), “Vốn xã hội trong hoạt động nghiên cứu
khoa học ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (3), tr.75-81.
183
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Tuấn Anh (2011), “Vốn xã hội và mấy vấn đề đặt ra trong nghiên cứu
vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Xã hội học Tập 3 (115), tr. 9-17.
2. Nguyễn Tuấn Anh (2011), “Vốn xã hội và vai trò của nó trong việc thích ứng và
phát triển kinh tế ở nông thôn Bắc Trung Bộ trong thời kỳ đổi mới”, Hội thảo quốc
tế Đóng góp của Khoa học Xã hội và Nhân văn trong phát triển kinh tế - xã hội,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Hồ Tú Bảo (2010), Giới thiệu về quản lý tri thức, ITBC4, JAIST.
4. Trần Quốc Bình (2018), “Kết quả xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh
ở Trường Đại học Khoa học tự nhiên giai đoạn 2014-2018”, Báo cáo tham luận tại
Hội nghị Khoa học năm 2018, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
5. Trần Quốc Bình (2019), “Thực trạng xây dựng và phát triển các nhóm nghiên
cứu mạnh ở Trường Đại học Khoa học tự nhiên giai đoạn 2014-2018”, Phát triển
nhóm nghiên cứu trong các trường đại học: cơ sở lý luận, kinh nghiệm trong nước
và quốc tế, thực trạng phát triển các nhóm nghiên cứu ở các trường đại học Việt
Nam hiện nay, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BKHCN quy định
quản lý đề tài nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia tài trợ, ban
hành ngày 12/12/2014.
7. Nguyễn Đức Chiến (2017), “Những vấn đề cốt lõi của nhóm nghiên cứu mạnh”,
Tạp chí Tia sáng bản online ngày 30/8/2017, Nguồn: http://tiasang.com.vn/-doi-
moi-sang-tao/Nhung-van-de-cot-loi-cua-nhom-nghien-cuu-manh--10885.
8. Đỗ Ngọc Diệp (2015), “Nhóm nghiên cứu mạnh vừa là phương thức vừa là mục
tiêu để phát triển đại học nghiên cứu”, Nguồn: http://www.vusta.vn/vi/news/Trao-
doi-Thao-luan/Nhom-nghien-cuu-manh-vua-la-phuong-thuc-vua-la-muc-tieu-de-
phat-trien-DH-nghien-cuu-59069.html, ngày 27/11/2015.
184
9. Phan Đình Diệu (2006), “Phát huy dân chủ để làm giàu nguồn Vốn xã hội”, Tạp
chí Tia sáng bản online, Nguồn: http://tiasang.com.vn/-dien-dan/phat-huy-dan-chu-
de-lam-giau-nguon-von-xa-hoi-1786, ngày 5/7/2006.
10. Tran Dinh, 2011, Mô hình 7S (Mackinsey & Co), Nguồn
http://www.15phut.vn/giai-quyet-van-de/18-mo-hinh-7s-c%E1%BB%A7a-
mckinsey/, truy cập ngày 14/4/2014.
11. Trần Hữu Dũng (2003), “Vốn xã hội và kinh tế”, Thời Đại (8), tr. 82-102.
12. Trần Hữu Dũng (2006), “Vốn xã hội và phát triển kinh tế”, Vốn xã hội và phát
triển, Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Giáp Văn Dương (2013), “Một số suy nghĩ về Trung tâm xuất sắc”, Nguồn:
Blog Giáp Văn, http://www.giapvan.info/2013/05/mot-so-suy-nghi-ve-trung-tam-
xuat-sac.html, ngày 23.05.2013.
14. Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Hướng dẫn số 1409/HD-KHCN về Xây dựng
và phát triển các chương trình nghiên cứu trọng điểm và nhóm nghiên cứu mạnh ở
Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Chiến lược phát triển Đại học Quốc gia Hà
Nội đến năm 2020, tầm nhìn 2030, ban hành theo Quyết định số: 4488/QĐ-Đại học
Quốc gia Hà Nội ngày 28/11/2014 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
17. Vũ Cao Đàm (2007), Đánh giá nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
18. Vũ Cao Đàm (2009), Nghịch lý của khoa học và giáo dục trong xã hội đương
đại Việt Nam Tập 4, Nhà xuất bản Thế giới.
19. Vũ Cao Đàm (2013), “Vốn xã hội cho phát triển KH&CN Việt Nam”, Tạp chí
Tia sáng bản online, Nguồn: http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/von-xa-hoi-
cho-phat-trien-khcn-viet-nam-6149, ngày 19/2/2013.
20. Nguyễn Văn Đạo (2002), “Vai trò của khoa học cơ bản trong tình hình hiện
nay”, Tạp chí Hoạt động Khoa học (519), tr. 6-9.
185
21. Nguyễn Đình Đức (2014), “Phát triển nhóm nghiên cứu trong trường đại học -
Xu thế tất yếu”, Bản tin online, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguồn:
https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C1657/N16259/Phat-trien-nhom-nghien-cuu-trong-
truong-dai-hoc-%E2%80%93-Xu-the-tat-yeu.htm.
22. Nguyễn Đình Đức (2018), “Nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa
học thông qua mô hình nhóm nghiên cứu và bài học kinh nghiệm của nhóm nghiên
cứu vật liệu và kết cấu tiên tiến”, Báo cáo tham luận tại Hội nghị Khoa học năm
2018, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 31-60.
23. Nguyễn Hữu Đức (2014), “Nhóm nghiên cứu mạnh vừa là phương thức vừa là
mục tiêu để phát triển đại học nghiên cứu”, Tạp chí Khoa học bản online ngày
18/5/2014, Nguồn: https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C151/N16301/Nhom-nghien-cuu-
manh-vua-la-phuong-thuc-vua-la-muc-tieu-de-phat-trien-dH-nghien-cuu.htm.
24. Nguyễn Thị Hương Giang (2012), “Vốn xã hội trong KH&CN và những yếu tố
cấu thành”, Tạp chí Chính sách và Quản lý Khoa học và Công nghệ Tập 1 (3),
tr.58-62.
25. Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Đình Đức (2019), “Thực trạng xây dựng và phát
triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay”, Phát
triển nhóm nghiên cứu trong các trường đại học: cơ sở lý luận, kinh nghiệm trong
nước và quốc tế, thực trạng phát triển các nhóm nghiên cứu ở các trường đại học
Việt Nam hiện nay, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Bùi Minh Hảo (2016), “Khái niệm vốn văn hóa của Pierre Bourdieu”, Tạp chí
Văn hóa Nghệ An (319), tr. 25-27.
27. Trương Quang Học (2004), “Mô hình đại học nghiên cứu ở một số nước trên thế
giới”, Nghiên cứu khoa học - công nghệ và đào tạo định hướng xây dựng đại học
nghiên cứu tiên tiến, Hà Nội.
28. Trương Quang Học (2005), “Quỹ khoa học quốc gia Hoa Kỳ”, Tạp chí Hoạt
động khoa học (554), tr. 48-49.
186
29. Trương Quang Học (2005), “Suy nghĩ về xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội
theo mô hình một đại học nghiên cứu hiện đại”, Chính sách Nghiên cứu và đào tạo
trong quá trình chuyển đổi ở Việt Nam, Hà Nội.
30. Trương Quang Học (2008), “Nhóm nghiên cứu - Yếu tố quyết định chất lượng
nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học”, Tạp chí Hoạt động khoa học (593), tr.
21-24.
31. Trương Quang Học (2014), “Nhóm nghiên cứu khoa học - yếu tố quyết định tới
chất lượng của hoạt động khoa học - công nghệ và đào tạo sau đại học”, Cổng thông
tin đào tạo đại học của Phòng đào tạo, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, Nguồn: http://dt.ussh.edu.vn/noi-dung-khac/nhom-nghien-cuu-khoa-hoc-yeu-
to-quyet-dinh-toi-chat-luong-cua-hoat-dong-khoa-hoc-cong-nghe-va-dao-tao-sau-
dai-hoc.
32. Trương Quang Học (2015), “Xây dựng Nhóm nghiên cứu: Kinh nghiệm quốc
tế”, Nguồn: http://iasvn.org/tin-tuc/Xay-dung-nhom-nghien-cuu-Kinh-nghiem-
quoc-te-5198.html, truy cập ngày 09/05/2018.
33. Nghiêm Huê (2019), “25 lĩnh vực có nhiều công bố quốc tế nhất của Việt
Nam”, Báo Tiền Phong online, Nguồn: https://www.tienphong.vn/giao-duc/25-linh-
vuc-co-nhieu-cong-bo-quoc-te-nhat-cua-viet-nam-1367359.tpo, ngày 15/1/2019.
34. Lê Ngọc Hùng (2008), “Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua
một số nghiên cứu ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Con người Tập 37 (3), tr. 45-
54.
35. Lê Thu Hương (2018), “Tài sản vô hình”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt
Nam (2), tr. 8-11.
36. Khoa Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội (2018), “Ứng dụng truyền thông xã hội
trong nghiên cứu, trao đổi học thuật và công bố quốc tế”, Nguồn:
http://khoaquocte.vn/ung-dung-truyen-thong-xa-hoi-trong-nghien-cuu-trao-doi-hoc-
thuat-va-cong-bo-quoc-te-d-6328, ngày 15/5/2018.
37. Lawrence Holpp (2008), Quản lý nhóm (Managing teams), NXB Lao động - Xã
hội, Hà Nội.
187
38. Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Thị Kim Hoa, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Thị Như
Trang, Trịnh Văn Tùng, Nguyễn Thị Thu Hà, Hoàng Thu Hương, Nguyễn Thị
Tuyết Nga, Mai Linh (2015), “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân
lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Báo cáo tổng
hợp đề tài KX.03.09/11-15, Chương trình Khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà
nước, Bộ Khoa học và Công nghệ.
39. Phạm Thị Ly (2014), “Mô hình Trung tâm xuất sắc trong thực tế Việt Nam”,
Phát triển Khoa học Công nghệ trong trường đại học, Trường Đại học Giáo dục,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Phạm Quang Minh, Nguyễn Văn Chính (2019), “Giải pháp thúc đẩy công bố
quốc tế trong khoa học xã hội và nhân văn?”, Tạp chí Tia sáng (4), tr. 8-12.
41. Phan Thanh Sơn Nam (2018), “Một số đề xuất xây dựng nhóm nghiên cứu
mạnh”, Hội thảo Chiến lược KH&CN phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, Đại
học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
42. Phan Kim Ngọc (2009), “Vài chia sẻ về xây dựng nhóm nghiên cứu khoa học”,
Tạp chí Hoạt động Khoa học (606), tr. 22-24.
43. Đào Minh Quân (2019), “Chính sách phát triển nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại
học Quốc gia Hà Nội: Thực trạng và giải pháp”, Phát triển nhóm nghiên cứu trong
các trường đại học: cơ sở lý luận, kinh nghiệm trong nước và quốc tế, thực trạng
phát triển các nhóm nghiên cứu ở các trường đại học Việt Nam hiện nay, Trường
Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
44. Trần Hữu Quang (2006), “Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội”, Tạp chí Khoa học
xã hội Tập 7 (95), tr. 74-81.
45. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Luật Khoa học và Công nghệ, Luật
số 29/2013/QH13, ban hành ngày 18/6/2013.
46. Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ, phê
duyệt Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020.
188
47. Trịnh Ngọc Thạch (2003), “Giải pháp về tổ chức nhằm kết hợp đào tạo và
nghiên cứu khoa học trong các trường đại học”, Tạp chí Hoạt động Khoa học (527),
tr. 58-59.
48. Nguyễn Quý Thanh chủ biên (2016), Vốn xã hội và phát triển, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. Phan Bách Thắng, Hoàng Dũng (2018), “Khoa học và công nghệ nâng tầm hội
nhập: Vai trò của trung tâm xuất sắc”, Chiến lược Khoa học và Công nghệ phát
triển các nhóm nghiên cứu mạnh, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Ngô Đức Thế (2013), “Tuyên bố DORA có làm thay đổi cách đánh giá khoa
học”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Tập 12 (655), tr. 31-34.
51. Hoàng Bá Thịnh (2009), “Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn”, Tạp
chí Xã hội học (1), tr. 42-51.
52. Thomése F., Nguyễn Tuấn Anh (2007), “Quan hệ họ hàng với việc dồn điền đổi
thửa và sử dụng ruộng đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở một làng Bắc Trung Bộ”, Tạp
chí Nghiên cứu gia đình và giới Tập 4 (17), tr. 3-16.
53. Thủ tướng Chính phủ (2003), Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến
năm 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12
năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ.
54. Nguyễn Quang Tuấn (2007), “Vốn xã hội cho phát triển KH&CN: Triển vọng
cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Chính sách Khoa học và Công nghệ (14), tr.
41-49.
55. Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Bùi Thị Phương (2014), “Vốn xã hội từ một số cách
tiếp cận nghiên cứu trên thế giới”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam Tập 4 (77), tr.
63-72.
56. Phạm Hùng Việt (2014), “Xây dựng nhóm nghiên cứu: Kinh nghiệm quốc tế và
thực tế Việt Nam”, Xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học Quốc
gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội.
189
57. Phạm Hùng Việt (2015), “Năng lực nghiên cứu là yếu tố quan trọng”, Tạp chí
Tia sáng bản online, Nguồn: http://tiasang.com.vn/-quan-ly-khoa-hoc/nang-luc-
nghien-cuu-la-yeu-to-quan-trong-8761, ngày 16/6/2015.
Tiếng Anh
58. Appold J. Stephen, Nguyen Quy Thanh (2004), “The Prevalence and Costs of
Social Capital among Small Businesses in Vietnam”, Annual meeting of the
American Sociological Association, American Sociological Association, San
Francisco.
59. Andrews F.M (1979), “The international study: its data sources and
measurement procedures”, Scientific Productivity, The Effectiveness of Research
Groups in Six Countries, Cambridge, pp.17-52.
60. Beaver D, Rosen R (1979), “Studies in Scientists Collaboration: Part III -
Professionalization and the Natural History of Modern Scientific Co-authorship”,
Scientometrics Vol. 1 (3), pp. 231-245.
61. Bland C.J., Rufin M.T. (1992), “Characteristics of a Productive Research
Environment”, Literature Review Vol. 67 (6), pp. 385-389.
62. Bourdieu and Wacquant (1992), The practice of Reflexive Sociology, The Paris
Workshop, France.
63. Bourdieu Pierre (1972), Outline of a Theory of Practice, University Press,
Cambridge, Library of Congress Cataloguing in Publication Data.
64. Bourdieu Pierre (1986), “The forms of capital”, Handbook of Theory and
Research for the Sociology of Education, Greenwood Publisher, New York, pp.
241-258.
65. Bowles S. and Gintis S. (2002), “Social Capital and Community Governance”,
The Economic Journal Vol. 112, pp. 419-436.
190
66. Boxman, Paul M.De Graai and Hendrik D. Flap (1991), “The impact of social
and human capital on the income attainment of Dutch managers”, Social Networks
Vol. 13, pp. 51-57.
67. Cees J. Gelderman, JanjaapSemeijn, Patrique P. Mertschuweit (2016), “The
impact of social capital and technological uncertainty on strategic performance: The
supplier perspective”, Journal of Purchasing and Supply Management Vol 22 (3),
pp. 225-234.
68. Coleman James (1988), “Social Capital in the Creation of Human Capital”,
American Journal of Sociology Vol. 94, pp.95-120.
69. Coleman James (1994), Foundations of Social theory, Harvard University
Press.
70. David L. Morgan (1996), Focus Groups as Qualitative Research, Second
Edition, Sage Publications Inc, California, USA.
71. Don Cohen, Laurence Prusak (2001), In Good Company: How Social Capital
Makes Organizations Work, Hardcover.
72. Emmanuel Lazega, Lise Mounier, Marie-thérèse Jourda, RafaËl Stoferd (2006),
“Organizational vs. personal social capital in scientists’ performance: A multi-level
network study of elite French cancer researchers 1996-1998)”, Scientometrics Vol.
67 (1), pp. 27-44.
73. Ferragina E. (2010), “Social Capital and Equality: Tocqueville's legacy”, The
Tocqueville Review Vol. XXXI, pp. 73-98.
74. Francis Fukuyama (1995), Trust: The social virtues and the creation on
prosperity, Penguin Putnam, First Edition.
75. Francis Fukuyama (1999), “Social Capital and Civil Society”, IMF Conference
on Second Generation Reforms, USA.
76. Fukuyama Francis (2002), “Social Capital and Development: The Coming
Agenda”, SAIS Review (1), pp. 23-38.
77. Giovanni Abramo & Ciriaco Andrea D’Angelo & Flavia Di Costa (2019), “The
collaboration behavior of top scientists”, Scientometrics Vol. 118 (1), pp. 215-232.
191
78. Glenn C. Loury (2000), “Social Exclusion and Ethnic Groups: The Challenge to
Economics”, The Internaltional Bank For Reconstruction and Development, pp.
225-252.
79. Grootaert Christiaan (1999), Social capital, household welfare and poverty in
Indonesia, The World Bank Social Development Department, Washington.
80. Guiso Luigi, Sapienza Paola, Zingales Luigi (2004), “The Role of Social
Capital in Financial Development”, The American Economic Review (3), pp. 526-
556.
81. Hanifan L.J. (1916), “The rural school community center”, Annals of the
American Academy of Political and Social Science Vol. 67, pp. 130-138.
82. Harriet Zuckerman (1980), Handbook of Sociology,
Columbia University, New York.
83. James Coleman (1990), Foundations of Social Theory, Cambridge
(Massachusetts), Harvard University Press.
84. Janine Nahapite, Sumantra Ghoshal (1998), “Social capital, intellectual capital,
and the organizational advantege”, The Academy of Management Review Vol. 23
(2), pp. 242-266.
85. John Brehn, Wendy Rahn (1997), “Indidual - Level Evidence for the Causes
and Consequences of Social Capital”, American Journal of Political Science Vol.
41 (3), pp. 999-1023.
86. John Dewey (1899), The School and Society: Being Three Lectures, Amazon
Publication no. AAT 3294196 ISBN: 9780549383109.
87. Joseph S. Fruton (1990), Constracts in scientific Style: Research Groups in the
Chemical and Biochemocal Researchs”, American Philosofical Society,
Philadelphia Publisher, Pennsylvania, USA.
88. Jukka Partanen, Kristian Möller, Mika Westerlund, Risto Rajala, Arto Rajala
(2008), “Social capital in the growth of science-and-technology-based SMEs”,
Industrial Marketing Management Vol. 37 (5), pp. 513-522.
192
89. Lewenstein B. (2003), Models of public communication of science and
technology, Public Understanding of Science, Departments of Communication and
of Science & Technology Studies, Cornell University.
90. Lyda Judson Hanifan (1916), “The Rural School and Rural Life”, West Virginia
School Journal (4), pp.204-207.
91. Main K. (2007), “Effective teaching teams: Facilitators and barriers”,
Australian Teacher Education Association, Griffith University.
92. Margaret Heffernan (2015), “The secret ingredient that makes some teams
better than others”, https://ideas.ted.com/the-secret-ingredient-that-makes-some-
teams-better-than-others/.
93. Mark R. Costa (2015), “The dynamics of social capital in scientific
collaboration networks”, Proceedings of the American Society for Information
Science and Technology banner, https://doi.org/10.1002/meet.2014.14505101137.
94. McCallie E., Bell L., Lohwater T., Falk J.H., Lehr J.L., Lewenstein B.V.,
Needham C., and Wiehe B. (2009), “Many Experts, Many Audiences: Public
Engagement with Science and Informal Science Education”, A CAISE Inquiry
Group Report, pp. 1-83, Washington, D.C.: Center for Advancement of Informal
Science Education.
95. Mendeley (2018), https://www.mendeley.com/?interaction_required=true.
96. Michael Woolcock (1998), Social Capital and economic development:
Towward a theorical synthesis and policy framework, Kluwer Acadamic Publishers,
Netherlands.
97. Nan Lin (2001), Social Capital: A Theory of Social Structure and Action,
Cambridge University Press, Cambridge.
98. Nguyen Tuan Anh (2010), Kinship as Social Capital: Economic, Social and
Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in a Northern Vienamese
Village, Doctoral Dissertation University Amsterdam, The Netherlands.
193
99. Nobaha N. (2014), “Investigation of Research Barriers and Challenges in
University from the Perspective of Faculty Members of Kermanshah City”,
International Journal of Social Sciences Vol. 4 (4), pp. 15-21.
100. Portes A., Landolt P. (1996), “The downside of social capital”, The American
Prospect, online, http://www.socialcapitalgateway.org/content/paper/portes-landolt-
p-1996-downside-social-capital-american-prospect-may-1-1996.
101. QS World University Rankings Asia (2018), https :// www.topuniversities.
com/university-rankings/asian-university-rankings/2018.
102. Rafaël Stofer, Marie-Thérèse Jourda, Lise Mounier, Emmanuel Lazega
(2006), “Organizational vs. personal social capital in scientists’ performance: A
multi-level network study of elite French cancer researchers (1996-1998)”,
Scientometrics Vol. 67 (1) , pp. 27-44.
103. Robert Putnam (1993), Making Democracy Work, Princeton University Press,
USA, 247pp.
104. Robert Putnam (1995), “Bowling alone : America‘s declining social capital”,
Journal of Democracy Vol. 6 (1), pp. 65-78.
105. Salisbury Robert (1969), “An Exchange Theory of Interest Groups”, Midwest
Journal of Political Science Vol. 13 (1), pp. 1-32.
106. Strategic Managements Inside (2018), https://
www.strategicmanagementinsight .com/tools/mckinsey-7s-model-framework.html.
107. Thomas L. Greenbaun (2000), Moderating focus groups: A practical guide for
group facilitation, SAGE Publications, Inc., California.
108. Thomas Malone, Victor Amelkin, Omid Askarisichani, Young Ji Kim,
Ambuj K. Singh (2018), "Dynamics of Collective Performance in Collaboration
Networks", PLoS ONE Vol. 13 (10), p.e0204547.
109. Uri Alon (2010), “How to build a motivated research group”, Molecular Cell
Vol. 37 (2), pp. 151-152.
110. Valerie I. Sessa, Manuel London, Taylor & Francis Group (2008), Handbook:
Work Group Learning, Routledge, London, England.
194
111. Van der Auweraert, A. (2005), “The science communication escalator”,
Advancing Science and Society Interactions, pp. 237-241, Spain.
112. Wayne E. Baker (1990), “Maker Networks and Corporate Behavior”, The
American Journal of Sociology Vol. 96 (3), pp. 589-625.
113. Wikipedia (2018), http://en.wikipedia.org/wiki/L._J._Hanifan.
114. Wikipedia (2018), https://en.wikipedia.org/wiki/Scientific _Working _Group.
115. Zuckerman (1980), Handbook of Sociology, New York.
195
PHỤ LỤC
1. 16 Nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội được công nhận đầu
tiên (năm 2014):
Tên STT Trưởng nhóm/thành viên Đơn vị nhóm
Topo GS. TSKH. Nguyễn Hữu Việt Hưng Trường Đại học
1 đại số Khoa học Tự Các thành viên: PGS. TS. Lê Minh Hà; TS. Trần Ngọc Nam; TS. Võ Thị Như Quỳnh; ThS. Ngô nhiên Anh Tuấn; CN. Lưu Xuân Trường.
Phương Trưởng nhóm: GS.TS. Nguyễn Quang Báu
pháp lý thuyết Các thành viên: GS.TSKH. Nguyễn Xuân Hãn; PGS.TS. Nguyễn Đình Dũng; PGS.TS. Lê Văn
trường Trực; GS.TSKH. Nguyễn Văn Hùng; TS.
lượng Nguyễn Thu Giang; TS. Cao Thị Vi Ba; TS.
tử Nguyễn Thế Toàn; CN. Nguyễn Chí Thành;
NCS. Phan Huy Thiện; ThS.NCS.Nguyễn Đình Trường Đại học Nam; ThS.NCS. Đỗ Tuấn Long; ThS.NCS. Khoa học Tự 2
Nguyễn Thị Thanh Nhàn; ThS.NCS. Bùi Đức Hưng; ThS.NCS. Bùi Đình Hợi; ThS.NCS. nhiên Hoàng Văn Ngọc; ThS.NCS. Nguyễn Thu
Hương; ThS.NCS. Nguyễn Văn Nghĩa; ThS.
NCS. Đào Thu Hằng; ThS. NCS. Nguyễn Viết
Đức; ThS. NCS. Tống Sĩ Tiến; ThS.
NCS.Nguyễn Thị Trang; NCS. Nguyễn Bảo
Trung, NCS. Nguyễn Công Toản, ThS. NCS. Nguyễn Từ Niệm.
Khoa Trưởng nhóm: GS.TS. Bạch Thành Công
3 học vật liệu tính toán
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Các thành viên: TS. Bạch Hương Giang; ThS. Nguyễn Thùy Trang; PGS.TS. Hoàng Nam Nhật; TS. Nguyễn Tiến Cường; ThS. NCS. Phạm Hương Thảo; ThS.N CS. Nguyễn Từ Niệm; ThS. Trần Văn Nam.
4
Sóng trong môi Trưởng nhóm: PGS.TS. Phạm Chí Vĩnh Các thành viên: TS. Trần Thanh Tuấn; TS. Nguyễn Thị Khánh Linh; TS. Đỗ Xuân Tùng; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
196
trường NCS. Nguyễn Thị Nam; NCS. Trịnh Thị Thanh
đàn hồi Huệ; NCS. Phạm Thị Hà Giang; NCS. Lê Thị Huệ; HVCH. Nguyễn Thị Kiều; HVCH. Vũ
Ngọc Ánh; HVCH. Trương Thị Thùy Dung; HVCH. Nguyễn Thanh Nhàn; HVCH. Doãn Thu
Hương; HVCH. Trần Ngọc Trung; HVCH.
Lương Thế Thắng; HVCH. Bùi Duy Vương;
HVCH. Nguyễn Thị Thu.
Trưởng nhóm: GS.TS. Phạm Hùng Việt Khoa
Các thành viên: TS. Phạm Thị Kim Trang; TS. học
Dương Hồng Anh; TS. Đỗ Phúc Quân; ThS. Vi phân
Thị Mai Lan; HVCH. Vũ Thị Duyên; HVCH. tích
Bùi Văn Minh; ThS. Đào Mạnh Phú; NCS. trong
Nguyễn Thị Hoa Mai; TS. Nguyễn Minh Tuệ; môi
trường, NCS. Lê Hữu Tuyến; ThS. Nguyễn Thúy Ngọc; Trường Đại học y-sinh, CN. Nguyễn Thị Lý; CN. Phan Đình Quang; Khoa học Tự 5 thực HVCH. Nguyễn Thị Thu Hương; HVCH. Phạm nhiên phẩm và Thị Chung; HVCH. Phùng Thị Vĩ; HVCH. Trần
ứng Thị Mai; CN. Phạm Thị Hậu; CN. Ngô Thị
dụng Chiên; PGS.TS. Trần Đại Lâm; NCS. Nguyễn
Hải Bình; TS. Mai Thanh Đức; ThS. Phạm Thị
Thanh Thủy; ThS. Nguyễn Duy Chiến; ThS.
Nguyễn Bích Ngọc; ThS. Nguyễn Văn Tăng; HVCH. Nguyễn Thanh Đàm; CN. Nguyễn Văn
Quân.
Trưởng nhóm: GS.TSKH. Lưu Văn Bôi Các thành viên: PGS.TS. Phạm Ngọc Lân; PGS.TS. Lê Thanh Sơn; PGS.TS. Nguyễn Cẩm Công nghệ hóa học
6
vật liệu và năng lượng sạch Hà; TS. Nguyễn Tiến Thảo; TS. Nguyễn Thị Sơn; TS. Đào Thị Nhung; TS. Phan Thị Tuyết Mai; ThS. Nguyễn Công Tuấn; ThS. Đồng Thế Nguyên; Nhật Bản: (GS.TS. Yasuaki Maeda; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
GS.TS. Norimichi Takenaka; GS.TS. Ioshiaki
Kitaya; TS. Shutumo Hashimi); Pháp: (GS.TS. Andre Marggailan; GS.TS. Carriere Pascal).
7 Công Trưởng nhóm: GS.TS. Phan Tuấn Nghĩa Trường Đại học
197
nghệ Các thành viên: PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Anh; Khoa học Tự
GS.TS. Đỗ Ngọc Liên; PGS.TS. Nguyễn Văn Mùi; PGS.TS. Bùi Phương Thuận; PGS.TS. nhiên Enzym và
Protein
Trịnh Hồng Thái; PGS.TS. Võ Thị Thương Lan; PGS.TS. Đinh Đoàn Long; PGS.TS. Nguyễn
Quang Huy; PGS.TS. Bùi Thị Việt Hà; PGS.TS.
Nguyễn Thị Hồng Vân; TS. Trịnh Tất Cường;
TS. Phạm Bảo Yên; TS. Hoàng Thị Mỹ Nhung; TS. Nguyễn Thị Hồng Loan; TS. Phạm Thị
Lương Hằng; TS. Đỗ Minh Hà; TS. Tô Thanh
Thúy; TS. Nguyễn Đình Thắng; TS. Đinh Nho
Thái; TS. Đỗ Thị Phúc; ThS. Tạ Bích Thuận;
ThS. Trần Thị Thùy Anh.
Nghiên Trưởng nhóm: PGS.TS. Nguyễn Văn Kim
cứu lịch Các thành viên: PGS.TS. Hoàng Anh Tuấn;
sử và TS.Nguyễn Mạnh Dũng; TS. Phạm Văn Thủy; Trường Đại học ThS. NCS. Bùi Hữu Tiến; ThS. Nguyễn Nhật 8 Khoa học Xã hội quan hệ thương Linh; ThS.Vũ Thị Xuyến; TS. Dương Văn Huy; và Nhân văn mại NCS. Đỗ Trường Giang; NCS. Nguyễn Tiến
châu Á Dũng; ThS. NCS.Lê Thị Khánh Ly; ThS. Lê Thế
Lâm
Trưởng nhóm: PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Hoa Công
Các thành viên: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà; Trường Đại học tác xã
9 PGS.TS. Trịnh Văn Tùng; PGS.TS. Nguyễn Hồi Khoa học Xã hội hội và
An sinh Loan; PGS.TS. Nguyễn Tuấn Anh; PGS.TS. và Nhân văn
xã hội Hoàng Thu Hương
Trưởng nhóm: GS.TS. Nguyễn Năng Định Các thành viên: TS. Nguyễn Phương Hoài Nam; Vật lý và công
10 TS. Lê Thị Hiên; TS. Bùi Nguyên Quốc Trình; TS. Đặng Đình Long; NCS. Đỗ Ngọc Chung; ThS. NCS. Trần Thị Thao; PGS. TS. Trần Quang Trường Đại học Công nghệ nghệ tổ hợp nano
hữu cơ
Trung; PGS. TS. Phạm Duy Long; TS. Lê Hà Chi; PGS. TS. Vũ Xuân Nghĩa, NCS. Đặng Hải
Ninh; NCS. Nguyễn Văn Thuận.
11 Vật liệu và linh Trưởng nhóm: GS. TS. Nguyễn Hữu Đức Các thành viên: PGS. TS. Đỗ Thị Hương Giang; Trường Đại học Công nghệ
198
kiện TS. Trần Mậu Danh; ThS. Bùi Đình Tú; ThS.
micro- nano Nguyễn Thị Ngọc; NCS. Phạm Anh Đức; NCS. Lê Khắc Quynh; NCS. Nguyễn Xuân Toàn; NCS.
Vũ Nguyên Thức.
Tâm lý học Lâm Trưởng nhóm: PGS.TS. Đặng Hoàng Minh Các thành viên:TS. Trần Thành Nam; TS. Trần Trường Đại học Văn Công; TS. Đỗ Ngọc Khanh; ThS. NCS. 12 sàng Giáo dục
Nguyễn Cao Minh; BS. Lâm Tứ Trung; PGS.TS. Bahr Weiss; TS. Amie Pollack; TS. Victoria
Ngô.
Lý Trưởng nhóm: TS. Nguyễn Đức Thành
thuyết và chính Các thành viên: ThS. Phạm Sỹ An; TS. Phạm Thế Anh; PGS.TS. Từ Thúy Anh; NCS. Phạm
sách Văn Đại; ThS. Hoàng Xuân Diễm; TS.Laure
kinh tế Pasquier Doumer; TS. Lê Hồng Giang; TS. Phạm
vĩ mô Văn Hà; TS. Nguyễn Thị Thu Hằng; TS. Quách
trong Mạnh Hào; TS. Nguyễn Thị Minh Huệ; TS.
điều Nguyễn Quốc Hùng; TS. Edmund Malensky; TS.
kiện hội Nguyễn Thị Minh; TS. Đinh Tuấn Minh; TS. Trường Đại học 13 nhập Xavier Oudin; TS.Francois Roubaud; TS. Lê Kinh tế kinh tế Kim Sa; PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn; ThS. Phạm
của Việt Minh Thái; ThS. Nguyễn Mai Thanh; TS. Tô
Nam Trung Thành; TS. Phạm Sỹ Thành; TS. Tô Minh
Thu; TS. Đặng Ngọc Tú; TS. Trần Thị Thanh Tú;
Vũ Hoàng Đạt; Vũ Phạm Hải Đăng; ThS.NCS.
Phạm Bảo Khánh; CN. Nguyễn Thị Thu Quỳnh; CN. Ngô Quốc Thái; CN. Vũ Minh Long; TS. Nguyễn Hữu Chí; TS. Nguyễn Bình Dương; TS.
Jago Penrose.
Nghiên cứu Khu Trưởng nhóm: GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc Các thành viên: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt
14 vực học Thanh;TS. Phạm Văn Lợi; ThS.NCS.Nguyễn Thị Phương Anh;ThS.NCS. Vũ Đường Luân; Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển
ThS.NCS. Đặng Ngọc Hà; ThS.NCS. Nguyễn Thị Huệ
15 Nghiên Trưởng nhóm: GS.TS Nguyễn Đăng Dung Khoa Luật - Đại
199
cứu về Các thành viên: GS.TS Phạm Hồng Thái; học Quốc gia Hà
Nội
Luật Hiến GS.TSKH Đào Trí Úc; GS.TS Hoàng Thị Kim Quế; PGS.TS Bùi Xuân Đức; PGS.TS Chu Hồng
pháp - Hành Thanh; PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh; TS Trần Nho Thìn;TS Vũ Công Giao; TS Đặng Minh
chính Tuấn; TS Nguyễn Minh Tuấn; TS Võ Trí Hảo;
TS Bùi Ngọc Sơn; NCS Lã Khánh Tùng; NCS
Bùi Tiến Đạt.
Nghiên Trưởng nhóm: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
cứu về Các thành viên: GS.TSKH Lê Văn Cảm; PGS.TS
hệ thống Trịnh Quốc Toản; TS Trịnh Tiến Việt; NCS Trần Khoa Luật - Đại Thu Hạnh; TS Nguyễn Khắc Hải; NCS Nguyễn học Quốc gia Hà 16 Thị Lan; TS Chu Thị Trang Vân; PGS.TS Trần pháp luật Nội Văn Độ; Philip W. Haris trong
lĩnh vực
tư pháp
200
2. 5 nhóm nghiên cứu mạnh được công nhận năm 2015
STT Tên nhóm Trưởng nhóm Đơn vị
1 Vật liệu tiên tiến trong bảo PGS.TS. Nguyễn Văn Trường Đại học
vệ môi trường và Phát triển Nội Khoa học Tự nhiên
xanh
2 GS.TS. Đinh Văn Đức
Ngôn ngữ học ứng dụng và Ngôn ngữ học đối chiếu Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn
3 Nghiên cứu Chính sách và
Quản lý Đồng Trưởng nhóm: PGS.TS. Vũ Cao Đàm và Trường Đại học Khoa học Xã hội và
TS. Đào Thanh Trường Nhân văn
Hội nhập kinh tế quốc tế PGS.TS Nguyễn Hồng Trường Đại học 4
Sơn Kinh tế
Nghiên cứu về năng suất TS. Phan Chí Anh Trường Đại học 5
Kinh tế chất lượng trong các doanh
nghiệp Việt Nam
3. 6 nhóm nghiên cứu mạnh được công nhận năm 2017
STT Tên nhóm Trưởng Đơn vị
nhóm/thành viên
Tôn giáo và Pháp GS.TS Đỗ Quang Trường ĐH Khoa học Xã 1
quyền Hưng hội và Nhân văn
Mô hình hóa Khí hậu GS.TS Phan Văn Trường ĐH KHTN 2
Khu vực và Biến đổi Tân
khí hậu
3
GS.TS. Nguyễn Bá Diến Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Pháp luật quốc tế phục vụ chiến lược bảo vệ chủ quyền và Hội nhập
quốc tế của Việt Nam
ĐH Công nghệ 4
GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức
Vật liệu và kết cấu tiên Advanced tiến/ materials and structures (AMS)
Hóa học phức chất và PGS.TS. Nguyễn Trường Đại học Khoa học 5
Hóa sinh vô cơ Hùng Huy Tự nhiên
Nghiên cứu về quản trị PGS.TS. Trần Thị Trường Đại học Kinh tế 6
201
công ty trong ngân Thanh Tú
hàng
4. Nhân lực 27 nhóm nghiên cứu mạnh
TT
ThS CN NCS
SV Tổng
Tên nhóm
Trưởng nhóm
PGS. TS
TS/ TSKH
HV CH
GS.TS/ GS.TS KH
Năm được công nhận
2014 GS.TSK
1.
1
1
2
1
2
7
Topo đại số
H Nguyễn Hữu Việt Hưng
2014
2.
2
3
4
6
15
PGS.TS PGS.TS Phạm Chí Vĩnh
Sóng trong các môi trường đàn hồi
2014
3.
6
3
6
2
1
2
20
GS.TSK H Lưu Văn Bôi
Công nghệ hóa học vật liệu và năng lượng sạch
2014
4.
3
2
3
1
16
25
GS.TS Nguyễn Quang Báu
Phương pháp lý thuyết trường lượng tử
2014
5.
1
2
9
4
3
5
7
31
GS.TS Phạm Hùng
Khoa học phân tích trong môi trường
Việt
Y sinh, thực phẩm và ứng dụng
202
TT
ThS CN NCS
SV Tổng
Tên nhóm
Trưởng nhóm
PGS. TS
TS/ TSKH
HV CH
GS.TS/ GS.TS KH
Năm được công nhận
2014
6.
1
6
11
4
2
24
GS.TS Phan Tuấn Nghĩa
Công nghệ Protein và Enzym
2014
7.
1
7
8
3
1
3
23
GS.TS Bạch Thành Công
Nhóm Khoa Học Vật liệu Tính toán
2014
8.
2
5
3
1
11
Tâm lý học lâm sàng
PGS.TS Đặng Hoàng Minh
2014
9.
3
4
8
2
17
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp
2014
10.
1
1
3
3
4
12
GS.TS Nguyễn Văn Kim
Nghiên cứu lịch sử và thương mại châu á
2014
11.
6
6
PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa
Công tác xã hội và an sinh xã hội
2014
12.
1
3
5
2
2
13
GS.TS Nguyễn Năng Định
Vật lý và công nghệ tổ hợp nano hữu cơ
203
TT
ThS CN NCS
SV Tổng
Tên nhóm
Trưởng nhóm
PGS. TS
TS/ TSKH
HV CH
GS.TS/ GS.TS KH
Năm được công nhận
2014
13.
1
2
1
2
4
10
GS.TS Nguyễn Hữu Đức
Vật liệu và linh kiện Micro- nano
2014
14.
2
23
4
3
2
3
37
TS Nguyễn Đức Thành
Lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập kinh tế
của Việt Nam
2014
15.
4
3
6
2
15
GS.TS Nguyễn Đăng Dung
Nghiên cứu về Luật Hiến pháp - Hành chính
16.
1
1
1
4
7
Nghiên cứu khu vực học
2014 GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
2015
17.
1
5
5
3
2
4
20
PGS.TS Vũ Cao Đàm, Đào
Nghiên cứu chính sách và quản lý
Thanh Trường
2015
18.
3
2
1
6
GS.TS Đinh Văn Đức
Ngôn ngữ học ứng dụng và
204
TT
ThS CN NCS
SV Tổng
Tên nhóm
Trưởng nhóm
PGS. TS
TS/ TSKH
HV CH
GS.TS/ GS.TS KH
Năm được công nhận
ngôn ngữ học đối chiếu
2015
19.
7
PGS.TS Nguyễn Văn Nội
Vật liệu tiên tiến trong bảo vệ môi trường và phát triển xanh
20.
10
3
4
3
2015 PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn
Hội nhập kinh tế quốc tế
2015
21.
4
1
4
1
2
12
TS. Phan Chí Anh
Nghiên cứu về năng suất chất lượng trong các doanh nghiệp việt nam
2016
22.
1
3
GS.TS Phan Văn Tân
Mô hình hóa khí hậu khu vực và biến đổi
khí hậu
2016 GS.TS
23.
2
16
4
6
4
Đỗ Quang Hưng
Tôn giáo và pháp quyền
24.
Pháp
2017 GS.TS
1
7
205
TT
ThS CN NCS
SV Tổng
Tên nhóm
Trưởng nhóm
PGS. TS
TS/ TSKH
HV CH
GS.TS/ GS.TS KH
Năm được công nhận
Nguyễn Bá Diến
luật quốc tế phục vụ chiến lược và bảo vệ chủ quyền và Hội nhập quốc tế của Việt Nam
2017 GS.TSK
25.
H Nguyễn
1
11
2
10
3
12
39
Vật liệu và kết cấu tiên tiến
Đình Đức
2017
26.
1
4
PGS.TS Nguyễn Hùng Huy
Hóa học phức chất và hóa sinh vô cơ
2017
27.
1
2
5
3
11
PGS.TS Trần Thị Thanh Tú
Nghiên cứu về quản trị công ty trong ngân hàng
Tổng số
408
206
5. Hướng dẫn số 1409/HD-KHCN của Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 8/5/2013 Xây
dựng và phát triển các Chương trình nghiên cứu trọng điểm và Nhóm nghiên cứu mạnh ở
Đại học Quốc gia Hà Nội.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Số: 1409 /HD-KHCN
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 08 tháng 5 năm 2013
HƯỚNG DẪN Xây dựng và phát triển các Chương trình nghiên cứu trọng điểm và Nhóm nghiên cứu mạnh ở Đại học Quốc gia Hà Nội Triển khai kế hoạch về xây dựng và phát triển các Chương trình nghiên cứu trọng điểm và Nhóm nghiên cứu mạnh, nhằm thúc đẩy các hoạt động theo định hướng đại học nghiên cứu, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) hướng dẫn các đơn vị thực hiện như sau.
1. Mục tiêu 1.1. Xây dựng và phát triển các Chương trình nghiên cứu trọng điểm và Nhóm nghiên cứu mạnh là phương thức mà ĐHQGHN và các đơn vị xác định các nhiệm vụ khoa học trọng điểm kết hợp với tập trung ưu tiên đầu tư tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ (KH&CN) để một số nhóm nghiên cứu có đủ khả năng làm đầu mối triển khai các nghiên cứu đỉnh cao, hướng tới các sản phẩm hoàn chỉnh, từng bước hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc.
1.2. Phát huy sáng tạo và khát vọng khoa học của cán bộ và sinh viên, tăng khả năng thu hút các nguồn lực; tạo động lực gia tăng các giá trị KH&CN, nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường các yếu tố cạnh tranh cả trên phương diện quốc gia và quốc tế; thúc đẩy sự phát triển của ĐHQGHN và các đơn vị theo định hướng nghiên cứu.
2. Chương trình nghiên cứu trọng điểm (sau đây gọi tắt là Chương trình) Ngoài hệ thống các đề tài nghiên cứu cấp ĐHQG và cấp cơ sở, ĐHQGHN chủ trương tổ chức Chương trình nghiên cứu trọng điểm (bao gồm một số đề tài nghiên cứu khoa học riêng biệt, nhưng có tính hệ thống và tập trung) hướng tới các sản phẩm KH&CN hoàn chỉnh, có tính khoa học cao, giá trị thực tiễn lớn, góp phần giải quyết một số bài toán phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.1. Phương thức tổ chức Chương trình Các chương trình nghiên cứu được tổ chức thành hai cấp: Chương trình nghiên cứu cấp
ĐHQG và Chương trình nghiên cứu cấp cơ sở của các đơn vị thành viên và trực thuộc.
207
Chương trình nghiên cứu cấp ĐHQG do Giám đốc ĐHQGHN phê duyệt nội dung nghiên
cứu, chỉ đạo xây dựng kế hoạch đầu tư điều kiện nghiên cứu và hỗ trợ kinh phí nghiên cứu.
Chương trình nghiên cứu cấp cơ sở do Thủ trưởng các đơn vị phê duyệt nội dung nghiên cứu, chỉ đạo xây dựng kế hoạch đầu tư điều kiện nghiên cứu và hỗ trợ kinh phí nghiên cứu từ các nguồn kinh phí do đơn vị huy động.
2.2. Tiêu chí xác định Chương trình a) Mục tiêu, nội dung và sản phẩm nghiên cứu phù hợp với các định hướng ưu tiên của Nhà nước, của ĐHQGHN và của đơn vị hoặc đón được xu thế phát triển của KH&CN thế giới. Ưu tiên các chương trình nghiên cứu liên ngành, liên lĩnh vực.
b) Các tiêu chí đánh giá về sản phẩm khoa học, công nghệ, sở hữu trí tuệ, đào tạo và phát
triển bền vững của chương trình rõ ràng, có tính hội nhập cao.
c) Đã có hoặc có khả năng thu hút cán bộ đầu ngành và tập hợp đội ngũ các nhà khoa học thành các nhóm nghiên cứu mạnh theo hướng nghiên cứu của Chương trình như quy định tại Mục 3.2 của Hướng dẫn này.
d) Có khả năng huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế. 2.3. Ban chủ nhiệm Chương trình Ban chủ nhiệm Chương trình gồm có Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm, Thư ký chương trình và
một số uỷ viên.
Ban chủ nhiệm Chương trình có nhiệm vụ: a) Xác định và trình Giám đốc ĐHQGHN (hoặc Thủ trưởng đơn vị) phương hướng, nội dung, sản phẩm và kế hoạch nghiên cứu hàng năm, trung hạn của Chương trình và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;
b) Đầu mối phối hợp với Ban KHCN tổ chức xét duyệt thuyết minh các đề tài nghiên cứu
thuộc Chương trình theo nội dung và kinh phí đã được Giám đốc ĐHQGHN phê duyệt;
c) Phối hợp với Ban KHCN tổng hợp kế hoạch và nhu cầu kinh phí hàng năm của Chương trình để các Ban có liên quan của ĐHQGHN xem xét, bố trí vào kế hoạch và dự toán ngân sách Nhà nước chung về KH&CN hoặc tích hợp vào các đề tài, dự án liên quan khác;
e) Phối hợp với các Ban KHCN và các Ban liên quan kiểm tra, giám sát việc thực hiện và sử dụng ngân sách Nhà nước cấp cho các đề tài Chương trình; theo dõi, tổng hợp việc huy động và sử dụng các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước của các đề tài;
f) Thực hiện những nhiệm vụ khác do Giám đốc ĐHQGHN giao. 3. Nhóm nghiên cứu mạnh Nhóm nghiên cứu mạnh là tập thể các nhà khoa học được tập hợp theo hướng chuyên môn, hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo đạt hiệu quả tốt, có nhiều sản phẩm chất lượng cao, tiếp cận các tiêu chí của đại học nghiên cứu tiên tiến; có khả năng làm nòng cột hoặc phối hợp với các nhóm nghiên cứu khác để triển khai các nội dung khoa học của Chương trình.
3.1. Phương thức xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh a) Nhóm nghiên cứu là một hình thức tổ chức mở; hoạt động có tính ổn định tương đối nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững của quá trình đầu tư và phát triển. Nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành dựa trên các nguồn nhân lực sau đây:
- Các cán bộ khoa học của một phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu và sự tham gia của các cán bộ khoa học ở các đơn vị khác (trong và ngoài ĐHQGHN) có cùng chuyên môn;
- Cán bộ khoa học có cùng một hướng nghiên cứu từ các đơn vị khác nhau được tập hợp do một nhà khoa học có uy tín đứng đầu để phát triển một hướng nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu liên ngành.
Khuyến khích nhóm nghiên cứu có sự tham gia của các nhà khoa học quốc tế xuất sắc (có công bố quốc tế hoặc ấn phẩm khoa học cùng hướng nghiên cứu) theo hình thức cộng tác viên hoặc hình thức hợp tác phù hợp khác.
b) Tùy theo kết quả đã đạt được, mức độ tập hợp và tầm ảnh hưởng, nhóm nghiên cứu
mạnh được phân thành 2 cấp: cấp ĐHQG và cấp đơn vị (thành viên và trực thuộc). Cụ thể:
208
- Nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQG: có khả năng tích hợp, kết nối nhiều đề tài thành Chương trình nghiên cứu lớn, hướng đến sản phẩm KH&CN tiêu biểu quốc gia, quốc tế; tạo được các yếu tố cạnh tranh; có thể đầu tư hướng tới hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc.
- Nhóm nghiên cứu mạnh cấp đơn vị: có khả năng gia tăng số lượng và chất lượng các sản phẩm KH&CN, gia tăng trọng số nghiên cứu và thúc đẩy sự phát triển đơn vị theo định hướng nghiên cứu.
3.2. Các tiêu chí của nhóm nghiên cứu mạnh a) Lãnh đạo nhóm nghiên cứu Lãnh đạo nhóm là cán bộ khoa học cơ hữu của ĐHQGHN hoặc nhà khoa học khác ở trong và ngoài nước, có học vị tiến sĩ trở lên, có uy tín khoa học, có khả năng quản lý và tập hợp các nhà khoa học. Trong 5 năm gần đây có các thành tích sau trên lĩnh vực trùng với định hướng nghiên cứu chính của nhóm:
- Chủ trì đề tài cấp ĐHQGHN trở lên; - Là tác giả hoặc chủ biên của ít nhất 01 sách chuyên khảo hoặc tác giả, đồng tác giả của ít nhất 05 công bố ISI hoặc tác giả của ít nhất 01 phát minh, sáng chế; hoặc có các sản phẩm KH&CN được giải thưởng, có ứng dụng thực tiễn có tác động xã hội lớn, có giá trị lý luận, làm cơ sở tư vấn cho hoạch định chính sách quốc gia hoặc tích hợp một số thành tích đã nêu;
- Đã từng là báo cáo viên được mời (invited speaker) tại các hội nghị, hội thảo quốc gia,
quốc tế;
- Đã và đang hướng dẫn nghiên cứu sinh (NCS); - Sử dụng thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ phổ biến (Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc), trong
đó giao tiếp được bằng tiếng Anh;
- Có tầm nhìn, kế hoạch chiến lược dài hạn, có khả năng đánh giá tầm ảnh hưởng và xu
hướng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu, có quan điểm phát triển bền vững;
- Có mục tiêu và chiến lược nghiên cứu rõ ràng, phù hợp với các hướng nghiên cứu trọng
tâm, mũi nhọn của quốc gia và ĐHQGHN;
- Có khả năng đề xuất các nghiên cứu tích hợp, kết nối thành những chương trình nghiên
cứu lớn, hướng đến sản phẩm tầm cỡ quốc gia, quốc tế;
- Có khả năng huy động các nguồn lực đảm bảo điều kiện cho hoạt động của
nhóm.
b) Thành viên nhóm nghiên cứu Thành viên của nhóm nghiên cứu đảm bảo yêu cầu: - Là các nhà khoa học trong nước (và quốc tế) có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ trở lên; đã có các
sản phẩm KH&CN tiêu biểu trong hướng nghiên cứu;
- Đã và đang hướng dẫn học viên cao học và NCS; - Đã thực hiện và hoàn thành các chương trình nghiên cứu đúng kế hoạch. c) Điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị - Đã có cơ sở vật chất và các trang thiết bị cơ bản để triển khai hướng nghiên cứu. d) Hợp tác nghiên cứu - Hợp tác quốc tế có các hoạt động và sản phẩm KH&CN chung với đối tác; - Các nhà khoa học có khả năng tiếp cận và tham gia hợp tác với doanh nghiệp, địa
phương.
e) Phát triển bền vững - Hàng năm gia tăng các số lượng các sản phẩm KH&CN ít nhất 15%; - Sau 5 năm đầu tư và hoạt động, đạt các tiêu chí của trường đại học nghiên cứu thuộc
nhóm 500 của thế giới như quy định tại Hướng dẫn số 1206/HD-ĐHQGHN ngày 23/4/2013.
3.3. Chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển nhóm nghiên cứu mạnh của ĐHQGHN Chính sách đầu tư, hỗ trợ đối với nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN: a) Giảng viên tham gia nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN chỉ thực hiện định mức giảng dạy không quá 150 giờ tín chỉ quy chuẩn/năm để ưu tiên dành thời gian cho nghiên cứu khoa học. Sau 5 năm giảng dạy được nghỉ giảng dạy 01 học kỳ để tập trung toàn bộ thời gian cho
209
nhiệm vụ nghiên cứu ở trong hoặc ngoài nước.
b) Được cung cấp quyền truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI,
Sciendirect...
c) Được đầu tư trang thiết bị, điều kiện nghiên cứu thông qua các dự án đầu tư phát triển, dự án tăng cường năng lực nghiên cứu của ĐHQGHN hoặc của đơn vị; Được ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung của ĐHQGHN; Đối với một số trang thiết bị rất cần thiết cho các nghiên cứu của nhóm mà các đơn vị khác đang có và tần suất sử dụng ít, có thể được điều chuyển tạm thời cho nhóm quản lý và sử dụng.
d) Được đầu tư kinh phí nghiên cứu theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ khoa học công nghệ (top-down) hoặc ưu tiên xét duyệt các đề tài do nhóm đề xuất trong khuôn khổ các chương trình nghiên cứu tương ứng.
e) Được ưu tiên nhận hướng dẫn NCS (kể cả NCS nước ngoài) và học viên cao học làm luận án, luận văn theo hình thức đào tạo tập trung. NCS của nhóm nghiên cứu mạnh được hỗ trợ chỗ ở trong các ký túc xá của ĐHQGHN, tham gia thực hiện một số nội dung của các đề tài nghiên cứu của nhóm và hưởng thù lao trong khuôn khổ kinh phí khoán chi của đề tài; ưu tiên tham gia đề án 911 và các chương trình học bổng khác.
f) Đối với các nhóm nghiên cứu hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu... được ưu tiên bổ sung nhân lực nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu, đào tạo.
g) Được hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các nhà khoa học xuất sắc ở trong và ngoài nước đến làm việc trực tiếp hoặc trực tuyến. Các công trình nghiên cứu do hợp tác chung được công bố quốc tế nhưng chưa có bất cứ tài trợ nào ở trong nước sẽ được ĐHQGHN hỗ trợ. Được hỗ trợ tham gia các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế có xuất bản công trình trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus. Hình thức hỗ trợ sẽ được quy định trong văn bản riêng.
Các nhóm nghiên cứu mạnh cấp đơn vị được hưởng các chính sách hỗ trợ như nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN, trừ các nội dung ở các mục c, d và f có ưu tiên ở mức độ thấp hơn.
4. Tổ chức thực hiện
210
TT Công việc
Sản phẩm
Chủ trì/ Phối
Thời gian
hợp
kết thúc 25/05/2013
Các đơn vị/ Ban
4.1 Các đơn vị lựa chọn, phổ biến cho các nhà khoa học, nhóm nghiên cứu của
- Quyết định phê duyệt Danh mục
KHCN
đơn vị xây dựng Đề cương đề xuất
các
Chương
Chương trình nghiên cứu và phát triển
trình nghiên cứu
nhóm nghiên cứu mạnh theo Danh
và
các nhóm
nghiên
cứu
mạnh cấp đơn vị
của Thủ trưởng
mục các Chương trình dự kiến của ĐHQGHN nêu ở Phụ lục 1 và theo mẫu ở Phụ lục 2. Ngoài các Chương trình nêu ở Phụ lục 1, các đơn vị có
đơn vị.
thể đề xuất bổ sung các chương trình
nghiên cứu cấp ĐHQGHN khác và
- Danh mục (kèm theo Đề cương)
chương trình nghiên cứu cấp đơn vị.
đề
xuất
các
Chương
trình
Ban KHCN/ Viện
cứu
4.2 Đánh giá Đề cương đề xuất các Chương trình và nhóm nghiên cứu
ĐBCLGD
chương
trình
mạnh (theo tiêu chí và quy trình đánh giá, lựa chọn trong Phụ lục 3), đề xuất Ban chủ nhiệm các Chương trình.
10/6/2013
nghiên cứu và các nhóm nghiên 30/5/2013 Kết quả đánh giá định cấp lượng của các đề xuất ĐHQGHN (mỗi nhóm trường đại học nghiên cứu và danh sách 2-3 nhóm, các các thành viên ban chủ đơn vị khác 1 nhiệm các chương trình. nhóm). Quyết định phê duyệt
Ban KHCN & Hội
4.3 Họp Hội đồng thông qua các Chương trình và nhóm nghiên cứu mạnh đợt
Danh mục các Chương
đồng xét duyệt.
năm 2013, trình Giám đốc quyết định
trình nghiên cứu và
Danh sách các nhóm nghiên cứu mạnh
cấp ĐHQGHN được đầu tư năm 2014.
Nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN được đầu tư và hỗ trợ
kinh phí năm 2014 của
Giám đốc ĐHQGHN.
211
TT Công việc
Sản phẩm
Chủ trì/
Thời gian
Phối hợp
Ban TCCB
kết thúc 30/6/2013
Các giải pháp cụ thể tác
sử dụng và thu hút cán
4.4 Triển khai các nội dung 3.3.a, 3.3.f và nội dung thu hút cán bộ khoa học xuất
bộ năng lực cao, tài năng
sắc trong mục 3.3.g.
vào các nhóm nghiên
cứu đã được phê duyệt
Ban KHCN
30/6/2013
Tên
chương
trình/đề
tài/kinh phí dự kiến/sản
4.5 Xây dựng kế hoạch giao các chương trình/đề tài nghiên cứu cho các nhóm
phẩm dự kiến
nghiên cứu đã được phê duyệt (nội
dung 3.3.d)
30/5/2013
Dự án đầu tư; Hướng
Ban KHCN Ban
dẫn công bố quốc tế và
4.6 Triển khai thực hiện nội dung mục 3.3.c và xây dựng hướng dẫn triển
KHTC
tham dự hội nghị, hội
khai các nội dung nêu trong mục 3.3.g
thảo nước ngoài
thông qua việc thực hiện tài trợ cho
các ý tưởng và các kết quả nghiên cứu
đột xuất, chất lượng cao thông qua
Quỹ phát triển KH&CN ĐHQGHN.
4.7 Triển khai nội dung 3.3.e
Các đơn vị/ Ban
30/10/2013 Số lượng NCS và học viên cao học được phân
ĐT
bổ về các nhóm và các
nguồn lực kèm theo.
10/5/2013
Số lượng các tài khoản
- TT TT Thư
miễn phí đã cung cấp
4.8 Cung cấp các tài khoản truy cập vào các cơ sở dữ liệu trực tuyến cho các
viện
theo hướng dẫn của TT
nhóm nghiên cứu (Nội dung 3.3.b)
TT Thư viện cho các nhà
- Các nhóm nghiên cứu
khoa
học
thuộc
mạnh
các
ĐHQGHN. Số lượng các chỗ ở trong
cấp Trung tâm Hỗ trợ
Theo kế
KTX dành cho NCS của
4.9 Hỗ trợ chỗ ở cho các NCS của các nhóm nghiên cứu (Nội dung 3.3.e)
sinh viên
hoạch tuyển
các nhóm
sinh SĐH
B
212
TT Công việc
Sản phẩm
Chủ trì/
Thời gian kết
Phối hợp
thúc
Ban ĐT Các đơn vị
Thủ trưởng các đơn vị, Trưởng các Ban chức năng, Viện ĐBCLGD chịu trách nhiệm tổ chức triển
khai Hướng dẫn này. Ban Thanh tra là đầu mối phối hợp với Ban KHCN tố chức kiểm tra, giám sát việc
thực hiện, định kỳ báo cáo Giám đốc./.
Nơi nhận:
KT. GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC (đã ký)
- Giám đốc (để báo cáo); - Các Phó Giám đốc (để chỉ đạo); - Các Ban chức năng; - Các đơn vị thành viên, trực thuộc; - Lưu VT, Ban KHCN, T50
Nguyễn Hữu Đức
213
Phụ lục 1
Danh mục các Chương trình nghiên cứu cấp ĐHQGHN
giai đoạn 2014-2015
(Dự kiến)
A. Nhóm lĩnh vực Khoa học xã hội và Kinh tế
1. Chương trình nghiên cứu định vị và phát triển khoa học xã hội và nhân văn
2. Chương trình nghiên cứu văn hóa, đạo đức và lối sống
3. Chương trình nghiên cứu về kinh tế vĩ mô
4. Chương trình nghiên cứu những vấn đề cơ bản phát triển giáo dục Việt Nam.
B. Nhóm lĩnh vực Khoa học Tự nhiên và Y dược
5. Chương trình nghiên cứu y sinh học phân tử, dược học và sản phẩm y dược
6. Chương trình chế tạo vật liệu nano, polyme và composite và ứng dụng
7. Chương trình nghiên cứu và phát triển công nghệ, thiết bị năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo (năng lượng sinh học, năng lượng mặt trời, địa nhiệt).
C. Nhóm lĩnh vực Công nghệ và Kỹ thuật
8. Chương trình nghiên cứu an toàn mạng và thông tin
9. Chương trình nghiên cứu chế tạo linh kiện micro-nano và mạch tích hợp ứng dụng
trong các hệ thống điều khiển, viễn thông và y tế
D. Nhóm lĩnh vực liên ngành
10. Chương trình nghiên cứu tai biến thiên nhiên và lượng giá tổn thất tài nguyên liên quan
đến biến đổi khí hậu.
11. Chương
trình nghiên cứu khoa học
tính
toán
tin-sinh-dược và dự báo.
Các đơn vị, các nhà khoa học có thể bổ sung đề xuất và đăng kỷ thực hiện các Chương trình nghiên cứu cấp ĐHQGHN ngoài danh mục này.
214
Phụ lục 2 Đề cương đề xuất Chương trình nghiên cứu trọng điểm và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh
Phần A. Thông tin chung về Chương trình
1. Tên Chương trình nghiên cứu 2. Tên, học vị và chức danh khoa học của cán bộ đề xuất 3. Mục tiêu của Chương trình 4. Nội dung nghiên cứu 5. Dự kiến sản phẩm của Chương trình 6. Các chỉ tiêu đánh giá Chương trình (không thấp hơn các chương trình nghiên cứu
cấp Nhà nước và quỹ Nafosted).
- Chỉ tiêu về trình độ khoa học - Chỉ tiêu về trình độ công nghệ - Chỉ tiêu về sở hữu trí tuệ - Chỉ tiêu về đào tạo - Chỉ tiêu về phát triển bền vững khi kết thúc chương trình (nếu có).
Phần B. Thông tin về nhóm (hoặc các nhóm) nghiên cứu thực hiện Chương trình
1. Tên nhóm nghiên cứu 2. Tên, học vị và chức danh khoa học của trưởng nhóm nghiên cứu 3. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 4. Thành tích khoa học của trưởng nhóm (liệt kê theo các nội dung nêu ở mục 3.2.a của hướng dẫn). 5. Danh sách, chức danh khoa học, học vị và thành tích khoa học của thành viên
của nhóm nghiên cứu (liệt kê các sản phẩm khoa học).
6. Danh mục các đề tài cấp ĐHQGHN trở lên đã thực hiện. 7. Danh sách NCS và tên đề tài luận án đã bảo vệ hoặc đang thực hiện. 8. Danh mục các đối tác đã có công bố khoa học chung.
Phần C. Các định hướng nghiên cứu và nhu cầu đầu tư - Tình hình cơ sở vật chất, trang thiết bị đã được có - Chương trình nghiên cứu giai đoạn 2014-2015 và 2016-2020; dự kiến kết quả, số lượng và sự gia tăng các loại sản phẩm KH&CN đạt được trong từng năm và từng giai đoạn.
- Danh mục trang thiết bị cần đầu tư năm giai đoạn 2014-2015.
(Lưu ý, chỉ liệt kê thành tích hoạt động KH&CN của nhóm giai đoạn 2008-2013).
Phụ lục 3
Đánh giá đề xuất Chương trình và Nhóm nghiên cứu
A. Định mức điểm cho các nội dung và sản phẩm KH&CN
TT Tên nội dung và loại sản phẩm KH&CN
Mức điểm/sản phẩm
Mục tiêu của Chương trình Nội dung nghiên cứu Sản phẩm của chương trình (giai đoạn 2014-2015)
1 2 3
10 25 Theo định mức tương ứng của các sản phẩm KH&CN từ mục 5 đến 20.
4
Các chỉ tiêu đánh giá Chương trình:
- Chỉ tiêu về trình độ khoa học
5
- Chỉ tiêu về trình độ công nghệ
5
- Chỉ tiêu về sở hữu trí tuệ
5
- Chỉ tiêu về đào tạo
5
- Chỉ tiêu về phát triển bền vững
5
5
Sách chuyên khảo tiếng Việt
3
6
Sách chuyên khảo tiếng Anh
5
7
Bài báo ISI và Scopus
2
8
Bài báo trong nước; báo cáo hội nghị quốc gia, quốc tế
0,5
9
Sản phẩm KHCN hoàn chỉnh có thể chuyển giao
10
10
Phát minh, sáng chế
3
11 Giải pháp hữu ích
2
12
Tài liệu mật không công bố
5
13 NCS đã bảo vệ
1
0,3 2/đối tác 2 5 5
14 NCS đang thực hiện luận án 15 Đối tác quốc tế có công bố chung 16 Giải thưởng từ cấp ĐHQG trở lên Tầm nhìn và chiến lược tốt 17 Chương trình sát với các nhiệm vụ trọng điểm của ĐHQGHN 18 và quốc gia Tổng kinh phí huy động được cho các nghiên cứu
19
1/500 triệu
20 Báo cáo viên mời
1
Các tiêu chí được xây dựng dựa vào phương thức tính điểm cho các sản phẩm khoa học của Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước và chủ trương khuyến khích phát triển các sản phẩm hoàn chỉnh, công bố quốc tế, phát minh sáng chế, theo mức điểm cho từng loại sản phẩm.
B. Đánh giá cho các tiêu chí và mức điểm tối thiểu:
TT Tên nội dung và tiêu chí
Mức điểm tối thiểu
Thông tin chung về Chương trình
80
1
Thông tin về trưởng nhóm
15
2
Thông tin về thành viên nhóm nghiên cứu
25
3
Hợp tác nghiên cứu
4
4
6. Một số thông tin cơ bản về các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học
Quốc gia Hà Nội
6.1. Nhóm Topo đại số - Trưởng nhóm: Nguyễn Hữu Việt Hưng
Nhà giáo Nhân dân, GS.TSKH Nguyễn Hữu Việt Hưng sinh năm 1954, hiện là
chủ nhiệm Bộ môn Đại số - Hình học - Topo, Khoa Toán - Cơ - Tin, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lĩnh vực nghiên cứu: Lý thuyết Bất biến Modular (Đại số), Lý thuyết Đồng luân
(Hình học - Tôpô).
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp ĐH tháng 01/1976, chuyên ngành Hình học - Tôpô,
ĐHTH Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam. Bảo vệ luận án TS tháng 10/1983, Hình học - Tôpô, ĐHTH Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam, bảo vệ luận án TSKH tháng 01/1996, Hình học - Tôpô, ĐHQG Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam.
Các môn giảng dạy: Đại số tuyến tính, Đại số đại cương, Giải tích, Giải tích trên đa
tạp, Tôpô đại cương, Tôpô đại số, Lý thuyết nhóm, Biểu diễn nhóm hữu hạn, Đại số
đồng điều, Lý thuyết lớp đặc trưng, Dãy phổ, Toán tử đối đồng điều.
• Thành viên Ban Chương trình (Scientific Committee) của Hội nghị quốc tế
Hoạt động khoa học:
"Invariant Theory and its Interactions" Kỉ niệm 100 năm E. Noether làm việc tại
• Trưởng ban Tổ chức và Trưởng ban Chương trình của Trường hè và Hội nghị
Gottingen, Gottingen University, March 2002.
quốc tế "International School and Conference in Algebraic Topology", Hanoi August
• Trưởng ban Tổ chức Hội nghị Quốc tế "The 3rd East Asia Conference on
2004.
Algebraic Topology (EACAT3)", Hanoi December 2009. Đại diện duy nhất của Việt
Nam trong Hội nghị Tôpô Đại số Đông Á, hai năm họp 1 lần luân phiên tại các nước
• Đồng Trưởng ban chương trình các Hội nghị Đại số - Hình học - Tôpô toàn quốc
thành viên.
2000 (Quy Nhơn), 2005 (Tp Hồ Chí Minh), 2016 (Đắc Lắc). Đồng trưởng Tiểu ban Đại
• Thành viên Ban Biên tập Tạp chí Vietnam Journal of Mathematics (từ 1993). • Uỷ viên Hội đồng Khoa học Viện nghiên cứu Cao cấp về Toán (VIASM), từ
số - Hình học - Tôpô, Đại hội Toán học toàn quốc 2008 (Quy Nhơn), 2013 (Nha Trang)...
• Uỷ viên Hội đồng học hàm Giáo sư ngành Toán, từ 2014.
2011 tới nay.
• Uỷ viên Hội đồng NAFOSTED ngành Toán, từ 2009 đến nay. • Ủy viên Hội đồng Khoa học Liên ngành Toán-Cơ, ĐHQG Hà Nội (từ 1998). Uỷ
• Phó Chủ tịch Quan hệ Quốc tế Hội Toán học Việt Nam (2008-2013, 2013-2018).
• Hội viên Hội Toán học Mỹ (từ 1990). Người điểm bài cho Mathematical
viện Hội đồng Khoa học trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội.
Reviews (từ 1990).
Khen thưởng: 1. Giải thưởng Nghiên cứu Khoa học lần thứ nhất (Giải thưởng duy nhất về Toán),
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
2. Bằng khen của Thủ Tướng Chính phủ, 2004. 3. Giải thưởng ĐHQG Hà Nội về KH&CN lần thứ nhất (Giải thưởng duy nhất về
Toán), Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.
4. Huân chương Lao động Hạng 3, 2008. 5. Giải thưởng Tạ Quang Bửu, 2014 (giải duy nhất về toán trong 2 giải thưởng
TQB đầu tiên).
6. Danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, 2014. 6.2. Nhóm Phương pháp lý thuyết trường lượng tử - Trưởng nhóm: Nguyễn Quang
Báu
Nhà giáo ưu tú, GS.TS Nguyễn Quang Báu sinh năm 1954, hiện đang là giảng viên
của Bộ môn Vật lý Lý thuyết - Khoa Vật lý - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại
học Quốc gia Hà Nội
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1978 tại Nga, tốt nghiệp TS năm 1982
tại Nga.
Hướng nghiên cứu: Nghiên cứu Vật lý lý thuyết các hệ bán dẫn thấp chiều (siêu
mạng, hố lượng tử, dây lượng tử, điểm lượng tử).
Các môn học giảng dạy: 1. Điện Động lực học (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
2. Vật lý thống kê (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
3. Xác suất thống kê (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
4. Lý thuyết bán dẫn (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
5. Vật lý thống kê lượng tử (3 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
6. Nhập môn lý thuyết trường lượng tử (3 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên
6.3. Nhóm Khoa học vật liệu tính toán - Trưởng nhóm Bạch Thành Công Nhà giáo nhân dân, GS.TS Bạch Thành Công sinh năm 1952, hiện là Trưởng
Phòng thí Nghiệm Tính toán trong khoa học vật liệu - Khoa Vật lý.
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1975 tại ĐHTH Kisinhev, Mondova
(Liên Xô cũ); tốt nghiệp tiến sĩ năm 1987 tại Đại học Tổng hợp Hà nội, Việt Nam.
Các môn học giảng dạy: 1. Mechanics (4 tín chỉ) cho bậc Cử nhân (chương trình cử nhân Vật lý quốc tế, Tài
năng) tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
2. Cơ học (4 tín chỉ) cho bậc Cử nhân (chương trình cử nhân Vật lý chính qui) tại
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
3. Cơ học lý thuyết (4 tín chỉ) cho bậc Cử nhân (chương trình cử nhân Vật lý chính
qui) tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
4. Theoretical mechanics (4 tín chỉ) cho bậc Cử nhân (chương trình cử nhân Vật lý
quốc tế, Tài năng) tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
5. Cơ- nhiệt (4 tín chỉ) cho bậc Cử nhân (chương trình cử nhân khoa học tài năng
Toán học, Sinh học ) tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
6. Vật lý chất rắn (4 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
7. Bài tập Vật lý nâng cao (3 tín chỉ) cho đội tuyển học sinh giỏi phổ thông chuyên
lý
8. Vật lý chất rắn nâng cao (3 tín chỉ) cho cao học, NCS chuyên ngành Vật lý chất
rắn tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
9. Lý thuyết chất rắn (3 tín chỉ) cho cao học, NCS chuyên ngành Vật lý chất rắn tại
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Sách, giáo trình: 1. Vật lý đại cương, Nguyễn Viết Kính, Bạch Thành Công, Phan Văn Thích, Nhà
xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội , 1996 (Tái bản lần thứ 5), 310 trang
2. Giáo trình Cơ học, Bạch Thành Công, nhà xuất bản giáo dục, 2009 (tái bản lần
2), 175 trang
3. Bài tập Vật lý đại cương, Nguyễn Văn Hướng, Nguyễn Quang Báu, Bạch Thành
Công, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2004, 276 trang
Hướng nghiên cứu khoa học: Lý thuyết Từ học các hệ thấp chiều + Vật liệu từ (
perovskite từ sắt từ, sắt điện)
Giải thưởng: Giải thưởng KH&CN Quốc gia trong lĩnh vực Khoa học tự nhiên “Một số thành tựu tiêu biểu trong nghiên cứu vật liệu tù tính: Ferit, peroskite, vật liệu từ
vô định hình và vật liệu từ có cấu trúc nano” cho Tập thể tác giả GSTSKH Nguyễn
Châu, PGSTS Bạch Thành Công, PGSTS Đặng Lê Minh, năm 2005.
6.4. Nhóm Sống trong môi trường đàn hồi - Trưởng nhóm Phạm Chí Vĩnh
GS.TS Phạm Chí Vĩnh sinh năm 1956, hiện là Chủ nhiệm Bộ môn Cơ học, Khoa
Toán cơ tin.
Lĩnh vực nghiên cứu: Truyền sóng trong môi trường phân lớp, Sóng mặt Rayleigh,
Phương pháp thuần nhất hoá, Sự tương tác của các vết nứt dưới tác dụng của yếu tố nhiệt
• Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1981, chuyên ngành Toán Cơ, ĐH
độ.
Tổng hợp Hà Nội. Bảo vệ luận án TS năm 1986, chuyên ngành Cơ học vật rắn biến
dạng, ĐH Tổng hợp Hà Nội, Việt Nam
Các môn giảng dạy: Toán cao cấp, Phương trình vi phân, Phép tính biến phân, Lý
thuyết đàn hồi, Truyền sóng đàn dẻo.
6.5. Nhóm Khoa học phân tích trong môi trường, y - sinh, thực phẩm và ứng dụng -
Trưởng nhóm Phạm Hùng Việt
GS.TS Phạm Hùng Việt sinh năm 1953, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
Công nghệ môi trường và Phát triển bền vững.
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1975 tại Đức; tốt nghiệp thạc sỹ năm
1981 tại Thụy Sĩ; tốt nghiệp TS năm 1987 tại Thụy Sĩ.
Các môn học giảng dạy: 1. Hóa học môi trường (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
2. Hóa học môi trường 2 (2 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
3. Các phương pháp sắc ký (2 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
4. Hóa kỹ thuật cơ sở (4 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
5. Kỹ thuật tiến hành phản ứng hóa học (2 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Hướng nghiên cứu: Phát triển và ứng dụng các phương pháp phân tích công cụ
trong phân tích hữu cơ, đặc biệt là cho các chất ô nhiễm hữu cơ bền vững (POPs) và chất
gây rối loạn nội tiết tố (EDCs). Nghiên cứu đánh giá sự ô nhiễm đất, trầm tích và nước cấp bởi kim loại nặng, đặc biệt là asen . Nghiên cứu về kĩ thuật phân tích dòng chảy, phát
triển thiết bị điện di mao quản sử dụng cảm biến điện hóa phục vụ cho mục tiêu quan
trắc môi trường và kiểm soát an toàn thực phẩm.
6.6. Nhóm công nghệ hóa học vật liệu và năng lượng sạch - Trưởng nhóm Lưu
Văn Bôi
NGND, GS.TSKH Lưu Văn Bôi sinh năm 1952, hiện là Giám đốc Trung tâm -
Phòng thí nghiệm - Khoa Hóa học - Trường ĐHTN - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1975 tại Đại học Tổng hợp Quốc gia
Kishinhop, Liên Xô cũ. Tốt nghiệp TS năm 1991 tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Kiev
Ukraina; tốt nghiệp TS khoa học năm 1999 tại Viện Hóa hữu cơ Zelinskiy, Viện Hàn
lâm Khoa học CHLB Nga. Chuyên ngành đào tạo: Hóa học hữu cơ; Hóa học cao phân
tử.
Nghiên cứu sau TS:
+ Viện Hóa hữu cơ Zelinskiy, Viện Hàn lâm Khoa học CHLB Nga (1994-1999)
+ Đại học Toulon-Var, CH Pháp (6/2008);
+ Đại học OPU, Nhật Bản (3/2012, 4/2013, 5/2014, 3/2015).
Ông được phòng hàm Giáo sư năm 2013.
Ông công tác tại Khoa Hóa học từ năm 1975, là Chủ nhiệm Khoa Hóa học, Trường
Đại học KHTN giai đoạn 2002-2012.
Các hoạt động khác:
+ Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học (2004-2012) + Ủy viên thường vụ Hội Hóa học Việt Nam
+ Giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm phát triển năng lượng sinh học
Các hướng nghiên cứu chính: - Phát triển phương pháp mới tổng hợp các chất hưu cơ chứa đồng thời oxy, nitơ và
lưu huỳnh đa ứng dụng.
- Phát triển công nghệ chế tạo polyme làm phụ gia giảm nhiệt độ đông đặc cho dầu
thô và diesel sinh học.
- Phát triển công nghệ mới sản xuất diesel sinh học, chất hóa dẻo, chất ổn nhiệt cho
cao su và polime thân thiện hơn với môi trường.
Khen thưởng:
- Giải thưởng “Sản phẩm KH&CN tiêu biểu”, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013
- Giải thưởng “Sáng tạo Khoa học Công nghệ”, Bộ KH&CN năm 2014 - NGUT: Năm 2008, NGND: năm 2014
- Huân chương Lao động hạng 3: Năm 2007
- Huân chương Lao động hạng 2: Năm 2014
6.7. Nhóm Công nghệ Enzym và Protein - Trưởng nhóm Phan Tuấn Nghĩa
NGUT, GS.TS Phan Tuấn Nghĩa sinh năm 1959, hiện là Phó hiệu trưởng, Giám
đốc Trung tâm - Phòng thí nghiệm trọng điểm Enzym Protein, Khoa Sinh học
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1981 tại Việt Nam; tốt nghiệp TS năm
1988 tại Việt Nam.
Các môn học giảng dạy:
1. Hóa sinh học (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
2. Kỹ thuật di truyền (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
3. Hóa sinh học thực nghiệm (3 tín chỉ) cho bậc Tiến sĩ tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
4. Scientific Reseearch (2 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
5. Hóa sinh học acid nucleic (3 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
6. Các kỹ thuật cơ bản trong công nghệ sinh học (2 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư
tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
7. Sinh học phân tử tế bào (3 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
8. Công nghệ sinh học phân tử (2 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
9. Điều hòa biểu hiện gen (2 tín chỉ) cho bậc Tiến sĩ tại Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
10. Điều hòa biểu hiện gen (2 tín chỉ) cho bậc Tiến sĩ tại Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên
Sách, giáo trình: 1. Phan Tuấn Nghĩa và Nguyễn Thị Hồng Loan, Chuyên khảo HIV và Protease của
HIV, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
Hướng nghiên cứu:
- Nghiên cứu phát hiện một số đột biên gen gây bênh ở người - Nghiên cứu sản xuất một số enzyme (DNA polymerase, protease) bằng công nghệ DNA tái tổ hợp -
Nghiên cứu sản xuất vaccine dùng phòng bệnh do virus đốm trắng ở tôm
6.8. Nhóm Vật liệu tiên tiến trong bảo vệ môi trường và Phát triển xanh - Trưởng
nhóm Nguyễn Văn Nội
NGƯT, GS.TS Nguyễn Văn Nội sinh năm 1959, hiện là Hiệu trưởng Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên.
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1980 tại Việt Nam; tốt nghiệp TS năm
1989 tại Nga.
Các môn học giảng dạy:
1. Kỹ thuật tiến hành phản ứng (2 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên
2. Hóa học Môi trường (2 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên
3. Kỹ thuật môi trường (2 tín chỉ) cho bậc Thạc sĩ tại Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên.
6.9. Nhóm nghiên cứu lịch sử và quan hệ thương mại châu Á - Trưởng nhóm
Nguyễn Văn Kim
GS.TS Nguyễn Văn Kim sinh năm 1962, hiện đang là: Ủy viên Hội đồng khoa học
Khoa Lịch sử, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường ĐH KHXH & NV;
Chủ tịch Hội đồng Khoa học Xã hội và Hành vi (Đại học Quốc gia Hà Nội); Ủy viên
Ban biên tập Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (Viện Hàn lâm KHXH VN); Trưởng Ban biên tập Chuyên san Nghiên cứu Chính sách và Quản lý (Đại học Quốc gia Hà Nội);
Ủy viên Thường vụ, Phó Tổng Thư ký kiêm Trưởng ban Hợp tác quốc tế (Hội Khoa học
Lịch sử VN); Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia.
- Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 1985 ngành Lịch sử, chuyên ban Lịch
sử Thế giới, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ 7/1992-3/1993: Thực tập sinh tại ĐH Kanazawa, Nhật Bản. Từ 6/1995-6/1996 và 12/2000-3/2001: Học giả tại Đại học Quốc gia Tokyo. Từ 9/2008-8/2009: Thỉnh giảng tại Đại học Inha, Hàn Quốc.
• Hướng nghiên cứu: Lịch sử Thế giới thời kỳ cổ trung đại và Lịch sử Văn minh thế giới; Lịch sử kinh tế - xã hội và Quan hệ quốc tế của Nhật Bản thời cận thế; Quan hệ
bang giao, thương mại khu vực Đông Á thế kỷ XVI-XVIII.
6.10. Nhóm công tác xã hội và an sinh xã hội - Trưởng nhóm Nguyễn Thị Kim
Hoa
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa sinh năm 1963, tại Hà Nội, hiện là Chủ nhiệm
Khoa Xã hội - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, kiêm Phó giám đốc Trung
tâm Đào tạo kỹ năng và tri thức Công tác xã hội, thuộc Liên hiệp hội Khoa học Kỹ thuật
Việt Nam. Cử nhân tiếng Nga Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Cử nhân Xã
hội học Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội (Nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn). Bảo vệ TS xã hội học năm 2000 tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
• Xã hội học dân số, Dân số học đại cương, Chất lượng dân số, Dân số và phát triển
• Công tác xã hội với người cao tuổi, Công tác xã hội với BĐG, PCBLGĐ
• Quản trị Công tác xã hội, Quản trị Công tác xã hội: Chính sách và hoạch định
• Các hướng nghiên cứu chính
• Dân số, gia đình, trẻ em
• Công tác xã hội
• An sinh xã hội
• Môi trường
Các môn học đang giảng dạy:
Một số sách đã xuất bản:
- Giáo trình trung cấp nghề CTXH: Bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia
đình(Chủ biên), NXB Lao động -Xã hội, Hà Nội, 2013
- Giáo trình Cao đẳng nghề: CTXH trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình
(Giáo trình biên soạn với sự hỗ trợ của Đề án 32) (Chủ biên), NXB Lao động -Xã hội, Hà Nội, 2013
- Công tác xã hội với người khuyết tật (Chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội, 2014
- Giáo trình Công tác xã hội đại cương (Đồng Chủ biên), NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2012
- An sinh xã hội và công tác xã hội (Đồng Chủ biên), NXB Hồng Đức, 2015
- Vốn xã hôi trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đồng Chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2016
- Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ từ những hướng tiếp cận khác
nhau (Đồng Chủ biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2016.
6.11. Nhóm ngôn ngữ học ứng dụng và ngôn ngữ học đối chiếu - Trưởng nhóm
Đinh Văn Đức
GS.TS, Nhà giáo ưu tú Đinh Văn Đức sinh năm 1944 tại Hà Nội. Ông là một
chuyên gia chuyên ngành Ngôn ngữ học trong các lĩnh vực Việt ngữ học, Lí luận Ngôn
ngữ học và Ngôn ngữ học ứng dụng tại ĐH Tổng hợp Hà Nội trước đây và ĐH Quốc gia Hà Nội hiện nay. Ông đã tham gia đào tạo nhiều thế hệ sinh viên chuyên ngành, học viên cao học và NCS Ngôn ngữ học, Việt ngữ học và dạy tiếng. Ông cũng là người có nhiều
đóng góp cho việc phát triển đào tạo, xây dựng đội ngũ giảng viên Ngôn ngữ học ở
ĐHTH Hà Nội và Trường Đại học KHXH & NV hiện nay.
Ông bảo vệ luận án TS năm 1978 tại ĐHTH Maxcơva, được phong hàm PGS năm
1991, hàm GS.TS năm 1996. Từ tháng 10/1965, ông là giảng viên tại Bộ môn Ngôn ngữ
học, Khoa Ngữ văn, Trường ĐHTH Hà Nội. Từ 1965-1968 dạy Dẫn luận Ngữ pháp học
và Dẫn luận Ngữ âm học tại ĐHTH Hà Nội và ĐHSP Việt Bắc. Từ 1967-1974 dạy Ngữ
pháp tiếng Việt (Từ pháp học, Từ loại) tại ĐHTH Hà Nội. Từ 1979 dạy Ngữ pháp tiếng
Việt và Ngôn ngữ học Đại cương tại ĐHTH Hà Nội. Năm 1980 là Phó Chủ nhiệm Bộ
môn Ngôn ngữ học. Từ 1985-1995: dạy Ngữ pháp tiếng Việt và Ngôn ngữ học đại
cương tại Khoa Ngữ văn, dạy tiếng Việt cho người nước ngoài tại Khoa tiếng Việt
Trường ĐHTH Hà Nội; Chủ nhiệm Khoa tiếng Việt Trường ĐHTH Hà Nội. Năm 1992:
thỉnh giảng tại ĐHTH Paris 7 (Pháp). Từ 1993-1994: nghiên cứu viên tại AUPELF -
UREF Paris. Năm 1995: thỉnh giảng tại Trường ĐHTH Laval (Québec, Canađa) và
Trường Đại học Wincosin - Madison (Hoa Kì). Từ 1996 đến nay (2004): Giảng dạy Ngôn ngữ học đại cương, Ngôn ngữ học ứng dụng và Ngữ pháp tiếng Việt. Chủ nhiệm
Bộ môn Ngôn ngữ học và Việt ngữ học (1995-1996) Khoa Ngữ văn Trường ĐHTH Hà
Nội. Từ 1996-2004: Chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ học Trường Đại học KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội; Chủ nhiệm Bộ môn Ngôn ngữ học đại cương và ứng dụng. Năm 1998: Thỉnh giảng tại Trường ĐHTH Oregon, Hoa Kỳ. Năm 2005: Thỉnh giảng tại Trường đại học Hankuk, Seoul, Hàn Quốc.
Trong lĩnh vực nghiên cứu, ông quan tâm và đã có nhiều bài viết về lí luận ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, ngữ pháp lịch sử tiếng Việt, dạy tiếng Việt như một ngoại
ngữ,… các nghiên cứu về sự phát triển tiếng Việt trong thế kỉ XX.
6.12. Nhóm nghiên cứu chính sách và quản lý - Đồng Trưởng nhóm Vũ Cao Đàm
và Đào Thanh Trường
* PGS.TS Vũ Cao Đàm sinh năm 1938, quê quán Thái Bình. Ông tốt nghiệp đại
học ngành Khai thác mỏ tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1961.
Năm 1974, ông nhận bằng tiến sĩ chuyên ngành Khai thác hầm lò tại Trường Đại học
Mỏ Moskva, Liên Xô. Tiếp đó, ông được công nhận chức danh Phó Giáo sư năm 1997.
Các hướng nghiên cứu chính của ông bao gồm: Khoa học Chính sách, bao gồm Chính sách công và Chính sách KH&CN; Khoa học quản lí, bao gồm Quản lí công và Quản lí KH&CN; Khoa học luận (Theory of Science and Technology/Science and
Technology Studies); Một số hướng nghiên cứu Xã hội học chuyên biệt, như Xã hội học
• Thời gian công tác tại trường: 1995 đến nay.
KH&CN, Xã hội học Tri thức, Xã hội học Môi trường, Xã hội rủi ro.
+ Đơn vị công tác:
Bộ môn Khoa học Quản lý, Trường Đại học Đại cương, Đại học Quốc gia Hà Nội
(1995-1996).
Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội (1997-2008).
Viện Chính sách và Quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội (2008-2011).
+ Chức vụ quản lý:
Viện trưởng sáng lập Viện Quản lý KH&CN, nay là Viện Chiến lược và Chính
sách KH&CN, Bộ KH&CN (1978-1992).
Chủ nhiệm Bộ môn Khoa học Quản lý, Trường Đại học Đại cương, Đại học Quốc
gia Hà Nội (1995-1996).
Chủ nhiệm Bộ môn Quản lý KH&CN, Khoa Khoa học Quản lý (1997-2008).
Giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu và Phân tích Chính sách, nay là Viện Chính sách
và Quản lý (2008-2011).
Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Chính sách và Quản lý (từ 2011 đến
• Các hướng nghiên cứu chính: Khoa học Chính sách, bao gồm Chính sách công và Chính sách KH&CN; Khoa học quản lý, bao gồm Quản lý công và Quản lý KH&CN;
nay).
Khoa học luận (Theory of Science and Technology/Science and Technology Studies); Một số hướng nghiên cứu Xã hội học chuyên biệt, như Xã hội học KH&CN, Xã hội học
Tri thức, Xã hội học Môi trường, Xã hội rủi ro.
Đến nay, PGS Vũ Cao Đàm đã thực hiện trên 200 bài báo, 17 đầu sách, 12 chuyên
khảo và bài giảng; chủ trì thực hiện 9 chương trình/đề tài khoa học các cấp (trong đó có 5 chương trình/đề tài cấp Nhà nước), 9 công trình công bố bằng tiếng Anh, là giám
đốc/điều phối viên của 12 dự án hợp tác kinh tế, KH&CN với nước ngoài, chủ trì 5 dự án
biên soạn văn bản chiến lược, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN.
Thầy đã làm cố vấn về chiến lược và chính sách KH&CN của Chính phủ Ethiopia
(1984) và Chính phủ Lào (1986).
* PGS.TS Đào Thanh Trường sinh năm 1980, hiện là Trưởng Khoa Khoa học
Quản lý kiêm Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Quản lý.
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp đại học năm 2001, Cử nhân ngành Xã hội học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tốt nghiệp
thạc sỹ ngành xã hội học năm 2004, bảo vệ luận án TS ngành xã hội học năm 2010,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Được phong
hàm PGS năm 2016.
Hướng nghiên cứu chính: Nghiên cứu chính sách và quản lý (phân tích và đánh giá
chính sách, tiêu chí đánh giá chính sách, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội);
Chính sách và quản lý KH&CN (Di động xã hội của nhân lực KH&CN; Chính sách khởi
nghiệp sáng tạo; Hệ thống khoa học, công nghệ và đổi mới; Ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN; Quản lý tổ chức KH&CN; Đánh giá năng lực công nghệ và đổi mới của tổ
chức KH&CN).
Các Giải thưởng, học bổng: 1. Năm 2005: Học bổng của Trường Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc dành cho
thực tập sinh khoa học.
2. Năm 2004: Học bổng của Chương trình hợp tác giữa JFPPT Vietnam Program Unit, Đại học Quốc gia Hà Nội và chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (Fulbright
Economics Teaching Program (FETP).
3. Năm 2014: Chứng nhận thành viên của mạng lưới nghiên cứu về khả năng sử dụng và chuyển giao tri thức, tài sản tổ chức trong việc phát triển và thực hiện đổi mới KH&CN để phát triển toàn diện do Tổ chức Mạng lưới các trường Đại học và Hội đồng về đổi mới vì sự phát triển hòa nhập trong khu vực Đông Nam Á trao tặng năm 2014, 5/11/2014 tại Jakarta, Indonesia.
4. Năm 2016: Học bổng của tổ chức JICA Nhật Bản cho các giảng viên về chính
sách Công tại Nhật Bản.
5. Năm 2018: Học bổng của tổ chức DAAD về nâng cao năng lực quản lý dành
cho trưởng khoa tại các trường đại học Khu vực Đông Nam Á.
6.13. Nhóm vật lý và công nghệ tổ hợp nano hữu cơ - Trưởng nhóm Nguyễn Năng
Định
GS.TS. Nguyễn Năng Định sinh năm 1950, hiện là Chủ tịch Hội đồng Khoa học
Đào tạo Khoa VLKT &CNNN, Giảng viên Bộ môn Vật liệu và linh kiện Bán dẫn Nano
Quá trình đào tạo: Cử nhân ngành Vật lý tại Trường Đại học Tổng hợp
Azerbaidzan, Liên Xô cũ, 1974. Bảo vệ luận án TS Vật lý tại Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô cũ, Maxcơva, 1981.
• Vật lí và công nghệ màng mỏng các chất dẫn điện mới
• Vật lí và công nghệ màng mỏng nano ứng dụng trong quang điện tử; OLED,
Hướng nghiên cứu chính:
• Công nghệ chiếu sáng rắn bằng LED
• Công nghệ OLED tích hợp mạch vi lưu cho Lab-on-chip (LOC) ứng dụng trong
OSC, sensor, Pin-ion
vi phân tích quang y sinh
GS.TS.NGƯT Nguyễn Năng Định là giảng viên cao cấp khoa Vật lý kỹ thuật và
Công nghệ nano (VLKT&CNNN), trưởng nhóm nghiên cứu đã có nhiều năm kinh
nghiệm hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học (nghiên cứu khoa học). Ngay từ
năm 1982, tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Năng Định đã tập hợp
các nghiên cứu viên để hình thành một nhóm nghiên cứu ở Viện Khoa học Vật liệu
(KHVL). Đến năm 2003, khi được về trường Đại học Công nghệ-Đại học Quốc gia Hà
Nội công tác, GS đã xác định xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh về KH&CN nano.
6.14. Nhóm vật liệu và linh kiện micronano - Trưởng nhóm Nguyễn Hữu Đức GS.TS, NGND Nguyễn Hữu Đức sinh năm 1958, hiện là Phó giám đốc Đại học
Quốc gia Hà Nội. Ông là giảng viên kiêm nhiệm Bộ môn Vật liệu và Linh kiện Từ tính
Nano.
Quá trình đào tạo: Cử nhân ngành Vật lý, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1980; bảo vệ luận án TS Vật lý tại Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1988. Diplome d'Habilitation, Đại học Tổng hợp Grenobe (CH Pháp), 1997
Hướng nghiên cứu chính: • Vật liệu và linh kiện từ tính cấu trúc nano, Điện tử học spin
• Vật liệu tổ hợp sắt từ/sắt điện (multiferroics) • MERAM, cảm biến sinh học,…
• Huân chương cành cọ Hàn Lâm CH Pháp năm 2014
• Giải thưởng Khoa học - Công nghệ năm 2007 của Trường Đại học Công nghệ. • Giải thưởng Dương Chấn Ninh của Hội Vật lý Châu Á - Thái Bình Dương năm
Giải thưởng/Danh hiệu
• Giải thưởng công trình khoa học tiêu biểu năm 2004
• Giải thưởng Nhà nước về KH&CN năm 2017 (công trình tập thể)
• Huy chương vàng Hội chợ KH-KT năm 1987 (Công trình của tập thể PTN Vật lý
2004.
Nhiệt độ thấp do GS Thân Đức Hiền chủ trì).
GS.TS. Nguyễn Hữu Đức có nhiều đóng góp trong việc xác lập các định hướng
phát triển hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ của nhà trường; phát triển các hoạt
động nghiên cứu liên ngành trong đó có sự ra đời của phòng thí nghiệm trọng điểm các
hệ tích hợp thông minh, phòng thí nghiệm công nghệ micrô-nanô; thúc đẩy nghiên cứu
các sản phẩm khoa học, công nghệ mũi nhọn, khẳng định thương hiệu, vị thế của Trường
ĐHCN và Đại học Quốc gia Hà Nội như sản phẩm phần mềm chấm thi trắc nghiệm
Mr.Test đạt giải nhất Nhân tài Đất Việt năm 2006, Sản phẩm Vi mạch mã hóa tín hiệu
Video VENGME H.264/AVC đạt giải nhì nhân tài Đất Việt 2015, … GS cùng với nhóm
nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ micro & nano đã thực hiện
nhiều đề tài nghiên cứu về công nghệ micro-nanô góp phần đưa lĩnh vực này ngang tầm
quốc tế.
6.15. Nhóm tâm lý học lâm sàng - Trưởng nhóm Đặng Hoàng Minh
PGS.TS Đặng Hoàng Minh sinh năm 1979, tốt nghiệp đại học năm 2001 tại
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên ngành
Tâm lý học. Tốt nghiệp thạc sỹ tại ĐH Toulouse II, Pháp năm 2002, chuyên ngành Tâm lý học xã hội phát triển. Bảo vệ luận án TS năm 2006 tại Đại học Toulouse II-Le Mirail,
Pháp, chuyên ngành: Tâm lý học xã hội phát triển. Từ 2008-2009, Thực tập sau TS tại
ĐH Vanderbilt, Hoa Kỳ. Anh được phong hàm PGS năm 2012. Từ năm 2009 đến nay là Giám đốc Trung tâm Thông tin hướng nghiệp và Nghiên cứu Ứng dụng Tâm lý, Trường ĐH Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Một số sách, công trình khoa học tiêu biểu: - Giáo dục, Tâm lý và Sức khỏe tâm thần trẻ em Việt Nam: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn liên ngành, 2007
- Tâm lý học đại cương, 2009 - Health Education in Context: An International Perspective of the Development,
2012.
6.16. Nhóm lý thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô trong điều kiện hội nhập kinh tế
của Việt Nam - Trưởng nhóm Nguyễn Đức Thành
TS Nguyễn Đức Thành sinh năm 1977, hiện là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh
• Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, chuyên ngành:
tế và chính sách, Trường Đại học Kinh tế -Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tài chính ngân hàng, năm 1999: Đại học; tốt nghiệp Chương trình Thạc sĩ Kinh tế Phát
triển Việt Nam - Hà Lan, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân; Chuyên ngành: Kinh tế phát triển, năm 2002; bảo vệ luận án TS năm 2008 tại Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Nhật Bản, chuyên ngành: Kinh tế phát triển
• Từ 9/2014 đến nay: Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách,
Quá trình công tác:
• Từ 2008 đến 9/2014: Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách,
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
• Năm 2008 đến nay: Giảng viên, Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
• Năm 2007 đến nay: Giảng viên, Trung tâm Kinh tế Phát triển và Chính sách công
-Đại học Quốc gia Hà Nội;
• Năm 2007-2008: Nghiên cứu viên cao cấp, Nhóm tư vấn chính sách, Bộ Tài
- Đại học Kinh tế Quốc dân;
• Năm 2007: Trưởng ban Nghiên cứu và Hợp tác Quốc tế, Trung tâm kinh tế phát
chính;
• Năm 2004-2006: Điều phối viên nghiên cứu, Diễn đàn phát triển Việt Nam
triển và chính sách công - Đại học Kinh tế Quốc dân;
• Năm 2005: Thực tập sinh, Vụ Nam Á, Ngân hàng Thế giới (WB);
• Năm 2004: Trợ giảng Chương trình Tiến sĩ, National Graduate Institute for
(VDF);
• Năm 2003: Trợ giảng cao học, Chương trình đào tạo Thạc sĩ Kinh tế phát triển
Policy Studies (GRIPS), Nhật Bản;
• Năm 2002-2003: Giảng viên, Đại học Kinh tế Quốc dân. Hướng nghiên cứu chính:
Việt Nam - Hà Lan;
• Các vấn đề kinh tế vĩ mô cuả Việt Nam: Cấu trúc kinh tế và thay đổi cấu trúc kinh tế Việt Nam, Những rủi ro kinh tế vĩ mô của Việt Nam, Chẩn đoán tăng trưởng kinh
• Các vấn đề của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Đánh giá tác
tế.
động của hội nhập kinh tế quốc tế lên nền kinh tế Việt Nam, sử dụng mô hình cân bằng tổng thể khả toán (CGE), Kinh tế học về dịch chuyển lao động quốc tế.
• Gương mặt trẻ tiêu biểu Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.
• Giải thưởng Bảo Sơn vì sự nghiệp phát triển bền vững cho Chuỗi công trình Báo
Giải thưởng về khoa học công nghệ:
• Giải thưởng Sách Hay 2013 cho cuốn sách “Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt
cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2009 - 2012, 2013.
• Học bổng Trao đổi Học giả Eisenhower, Hoa Kỳ, 2015.
• Học bổng Trao đổi Học giả Draper Hills Summer, Hoa Kỳ, 2016.
Nam 2012: Đối diện thách thức tái cơ cấu Kinh tế”, 2013.
6.17. Nhóm hội nhập kinh tế quốc tế - Trưởng nhóm Nguyễn Hồng Sơn
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn sinh năm 1964, hiện là Hiệu trưởng Trường Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội; Giảng viên chính Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc
tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp Đại học - Kinh tế, Đại học Tổng hợp Quốc gia Mát-
xơ-cơ-va mang tên Lô-mô-nô-xốp, Liên bang Nga, chuyên ngành Kinh tế học, Kinh tế
chính trị, năm 1989. Bảo vệ luận án TS - Kinh tế Chính trị, Đại học Tổng hợp Quốc gia
Mát-xơ-cơ-va mang tên Lô-mô-nô-xốp, Liên bang Nga, chuyên ngành Kinh tế học, Kinh
tế chính trị, năm 1993. Thực tập sinh cao cấp, Viện Kinh tế Thế giới, Viện Hàn lâm
Khoa học Nga, Liên bang Nga, chuyên ngành Kinh tế học, Kinh tế quốc tế, năm 1995.
Quá trình công tác: Từ năm 1989 - Tháng 8/2007: Nghiên cứu viên; Trưởng
phòng; Thư ký Hội đồng Khoa học, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Từ tháng 8/2007 đến háng 01/2011: Phó Hiệu trưởng,
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ tháng 01/2011 đến nay: Hiệu
• Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2016-2021. • Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính và tiền tệ Quốc gia. • Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học ngành Kinh tế học nhiệm kỳ 2016-2018 của Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia Nafosted thuộc Hội đồng khoa học nghiên cứu cơ bản thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn nhiệm kỳ 2016-2018.
trưởng, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
• Chủ nhiệm Chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội mã số QGCT.14.01 “Nghiên cứu định vị và phát triển khoa học xã hội và nhân văn Việt
Nam” (Quyết định số 435/QĐ-Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 26/02/2016).
6.18. Nhóm nghiên cứu về năng suất chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam
- Trưởng nhóm Phan Chí Anh
TS Phan Chí Anh sinh năm 1970, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quản
trị Kinh doanh (CBAS); Giảng viên Viện Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế -
Đại học Quốc gia Hà Nội
• Từ tháng 10/1988 đến tháng 5/1993: Hệ đại học chính quy dài hạn, Khoa Tự
Quá trình đào tạo:
• Từ tháng 4/1996 đến tháng 12/1998: Chương trình Thạc sĩ về Kỹ thuật hệ thống
động hóa xí nghiệp công nghiệp, Đại học Bách khoa Hà Nội.
công nghiệp, Khoa Công nghệ tiên tiến, Học viện Công nghệ Châu Á (AIT), Bangkok,
• Từ tháng 4/2004 đến tháng 3/2008: Nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành Quản trị tác
Thái Lan (học bổng Chính phủ Bỉ và CHLB Đức).
nghiệp, Khoa Quản trị Kinh doanh, Đại học Quốc gia Yokohama, Yokohama, Nhật bản
• Từ tháng 10/2008 đến 10/2010: Nghiên cứu viên sau tiến sĩ (Post-doctoral
(học bổng Chính phủ Nhật bản).
Fellow) Ngành Quản trị tác nghiệp, Khoa Quản trị Kinh doanh, Đại học Quốc gia
Yokohama, Yokohama, Nhật bản, được tài trợ bởi Tổ chức Xúc tiến Khoa học Nhật bản
(JSPS).
• Từ 2011 đến nay: Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quản trị Kinh doanh, Trường
Quá trình công tác:
• Từ tháng 1/2011 đến nay: Giảng viên Khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại
Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
• Từ tháng 2/2012 đến 9/2014: Phó Chủ nhiệm Khoa Quản trị Kinh doanh, Trường
học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
• 10/2008 - 10/2010: Nghiên cứu viên chuyên ngành Quản trị tác nghiệp, Khoa
Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
• 10/2005 - 3/2008: Trợ lý nghiên cứu, chuyên ngành: Quản trị tác nghiệp, Khoa
Quản trị Kinh doanh, Đại học Quốc gia Yokohama, Nhật Bản.
• 1/1999 - 3/2004: Trưởng phòng Nghiên cứu Tư vấn và Đào tạo, Trung tâm Năng
Quản trị Kinh doanh, Đại học Quốc gia Yokohama, Nhật Bản
suất Việt nam, Tổng cục TC-ĐL-CL, Bộ KH-CN.
• 4/1997 - 3/1998: Kỹ sư thiết kế, Công ty Liên doanh Thang máy OTIS • 10/1993 - 2/1996: Phụ trách Sản xuất, Quản đốc Phân xưởng lắp ráp thiết bị tổng
đài, Công ty Liên doanh thiết bị viễn thông Alcatel Việt Nam.
• Production and Operation Management Society (POMS), Hoa kỳ từ 2006 • Decision Sciences Institute (DSI), Hoa kỳ từ 2005
• Japan Operation Management and Strategy Association (JOMSA), Nhật bản từ
Là thành viên của các tổ chức/ hiệp hội khoa học:
2009.
• Quản trị chất lượng: TQM, 6 Sigma, ISO 9000, Kaizen, 5S • Quản lý sản xuất: JIT, Hệ thống sản xuất Toyota, Sản xuất Tinh gọn (Lean
Hướng nghiên cứu và giảng dạy chính:
• Sản xuất bền vững (Sustainable Production)
• Cải tiến năng suất, Áp dụng mô hình theo quản lý phong cách Nhật bản,
• Quản lý chuỗi cung ứng (Supply chain management).
Production),
Giải thưởng về khoa học công nghệ:
1. “Award of Excellence”, Đại học Tổng hợp Quốc gia Yokohama, Nhật Bản,
3/2008.
2. “Emerging Economies Young Researcher Award”, Hội Quản trị Sản xuất và
Tác nghiệp (Production and Operation Management Society-POMS), Hoa kỳ, 5/2008.
6.19. Nhóm nghiên cứu về Luật Hiến pháp - Hành chính - Trưởng nhóm Nguyễn
Đăng Dung
GS.TS Nguyễn Đăng Dung sinh năm 1952, hiện là Trưởng Bộ môn Luật Hiến
pháp - Hành chính.
Quá trình đào tạo: Ông tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật học năm 1981 tại
Liên Xô, bảo vệ luận án TS chuyên ngành luật học năm 1990 tại Liên Xô. Được phong hàm GS năm 2009.
Một số công trình tiêu biểu:
- Chính trị học (chủ biên), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010 - Lịch sử các học thuyết chính trị học (chủ biên), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2010
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền (chủ biên), Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008
6.20. Nhóm nghiên cứu về hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp - Trưởng
nhóm Nguyễn Ngọc Chí
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí sinh năm 1957, hiện là Giám đốc Trung tâm nghiên
cứu và hỗ trợ pháp lý (LERES).
Quá trình đào tạo: Ông tốt nghiệp Trường Đại học Luật năm 1980; bảo vệ luận án TS năm 2001 tại Viện Nhà nước và Pháp luật Việt Nam. Hiện là thành viên của Hội Luật
gia Việt Nam, thành viên Đoàn Luật sư Việt Nam.
Các kỹ năng nghề nghiệp: Quản lý giáo dục, quản lý dự án.
Các hướng nghiên cứu chính:
- Tổ chức và thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu về vị trí, chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan tư pháp trong Bộ máy nhà nước, như: Quyền độc lập về tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Tòa án; Viện kiểm sát; Cơ quan Điều
tra; Các cơ quan bổ trợ tư pháp; Mối quan hệ giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp và
quyền hành pháp; Mối quan hệ giữa cơ quan tư pháp với các cơ quan nhà nước khác…
- Tổ chức và thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực về Luật hình sự,
như: Vai trò của luật hình sự đối với đời sống kinh tế - xã hội trong quá trình xây dựng
và phát triển đất nước; Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới; Hội nhập quốc tế và vai
trò của luật hình sự; Tôn trọng và bảo đảm quyền con người bằng pháp luật hình sự;
Hình sự hóa, phi hình sự hóa, tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; Vấn đề tội phạm trong
Luật hình sự; Vấn đề hình phạt trong luật hình sự; Các biện pháp tư pháp trong luật hình
sự; Người chưa thành niên phạm tội; Tội phạm quốc tế và tội phạm xuyên quốc gia...
- Tổ chức và thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu các lĩnh vực về Luật tố tụng
hình sự, như: Vai trò của luật tố tụng hình sự trong đời sống xã hội và trong hệ thống tư
pháp; chính sách tố tụng hình sự trong thời kỳ đổi mới; Mục đích, nhiệm vụ của tố tụng
hình sự; Các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự; Quyền con người trong tố tụng
hình sự; Chủ thể tố tụng hình sự; Thủ tục giải quyết vụ án; Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự; Các thiết chế tư pháp quốc tế…
- Tổ chức và thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu về Tội phạm học, như: tình hình
tội phạm trong thời kỳ đổi mới; Các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm; Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia; Đấu tranh phòng chống tham nhũng; Nhân thân người phạm tội; Nạn nhân học…
- Tổ chức và thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực về Thi hành án, như: Vai trò của thi hành án trong đời sông xã hội; Tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong quá trình thi hành án; Nâng cao hiệu quả thi hành án; Thủ tục thi hành án;
Hợp tác quốc tế trong thi hành án; Vấn đề công nhận các bản án nước ngoài ở Việt Nam trong thời ký hội nhập quốc tế.
- Cung cấp nguồn nhân lực, tài liệu, tham gia đào tạo đại học và sau đại học các
môn học chuyên ngành về tư pháp hình sự; luật quốc tế.
- Thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý và tư vấn pháp luật cho
các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước.
- Hợp tác nghiên cứu, giảng dạy với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu có uy tín trong
khu vực và trên thế giới; Triển khai các hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học về mô
hình tư pháp trên Thế giới, Về đấu tranh phòng ngừa tội phạm quốc tế và tội phạm xuyên
quốc gia.
6.21. Nhóm nghiên cứu Khu vực học - Trưởng nhóm Nguyễn Quang Ngọc GS.TS, NGND Nguyễn Quang Ngọc sinh năm 1952, nguyên Viện trưởng Viện
Việt Nam học và Khoa học Phát triển, là nhà sử học có gần 40 năm nghiên cứu và giảng
dạy về lịch sử Việt Nam (cổ trung đại), về lịch sử văn hóa Việt Nam và Việt Nam học…
Ông cũng là người đi đầu trong nghiên cứu về lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở
Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 2014 ông đã có công sưu tầm, nghiên cứu và đưa bộ Atlas
thế giới của Philippe Vandermaelen về Việt Nam, góp phần chứng minh một cách đầy
thuyết phục về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Hiện nay, GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc đang đảm nhận các chức vụ như
Giám đốc Trung tâm Hà Nội học và phát triển Thủ đô, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam (2010-đến nay), Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội (2004-2014), Phó Chủ nhiệm
Chương trình Lịch sử Việt Nam do Ban Bí thư chỉ đạo thực hiện và là chủ nhiệm của
nhiều đề tài khoa học khác…
Ông chủ trì đề tài Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường
Sa trong chương trình nghiên cứu Biển Đông - Hải Đảo. Ông đã được giao chủ biên, chủ
nhiệm những bộ sách giáo trình, giáo khoa, các đề tài lớn, cấp Nhà nước về tổng kết lịch sử Việt Nam.
Đặc biệt, ông đã có các mối quan hệ quốc tế với giới hàn lâm Đông Âu, Đông Á và
Phương Tây. Có thể kể đến: Trung tâm Việt Nam học thuộc Đại học Công nghệ Texas, Đại học Hawaii, Đại học George Washington (Hoa Kỳ); Đại học Tokyo, Đại học Hiroshima, Đại học Kyoto, Đại học Osaka, Đại học Nagoya, Đại học Showa, Đại học Waseda (Nhật Bản), Đại học Quốc gia Úc; Đại học Passau, Đại học Humboldt, Đại học Göttingen (Đức), Đại học Leiden (Hà Lan); Đại học Quốc gia Seoul, Đại học Inha, Viện Hàn Quốc học (Hàn Quốc); Đại học Paris VII, Viện Viễn Đông bác cổ (Pháp); Đại học
Quốc gia Moskva, Đại học Quốc gia Saint Peterburg (Liên bang Nga); Đại học Quốc gia Lào; Đại học Göteborg (Thụy Điển)…
6.22. Nhóm tôn giáo và pháp quyền - Trưởng nhóm Đỗ Quang Hưng
GS.TS Đỗ Quang Hưng sinh năm 1946, hiện đang công tác tại Khoa Khoa học
chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, khoa Lịch sử năm 1968; bảo vệ luận án TS
lịch sử năm 1986 tại Viện Phương Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Ông được
phong hàm GS.TS năm 2001.
Hướng nghiên cứu chính: Tôn giáo và chính trị, Tôn giáo và pháp luật, Lịch sử
Việt Nam cận hiện đại.
Một số công trình khoa học tiêu biểu: 1. Công giáo trong mắt tôi, Nxb Tôn giáo, 2012. 2. Chính sách Tôn giáo và Nhà nước Pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2014.
3. Giá trị văn hoá Việt Nam - Truyền thống và biến đổi (Viết chung). 4. Nhà nước - Tôn giáo - Luật pháp, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2014. 5. Quan hệ Nhà nước - Giáo hội và Chính sách tôn giáo, Nxb Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2015.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo và đại đoàn kết trong cách mạng
Việt Nam (chủ biên), Nxb Quân đội Nhân dân, 2003.
7. Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945 (chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001.
6.23. Nhóm mô hình hóa khí hậu khu vực và biến đổi khí hậu - Trưởng nhóm Phan
Văn Tân
GS.TS Phan Văn Tân sinh năm 1955, hiện là GVCC, Bộ môn Khí tượng và Biến
đổi khí hậu, Khoa Khí tượng Thuỷ văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Quá trình đào tạo: Ông tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyên ngành
Khí tượng khí hậu năm 1981; bảo vệ luận án TS chuyên ngành Khí tượng khí hậu năm 1994.
Từ năm 1982-1995: Cán bộ giảng dạy Bộ môn Khí tượng, Khoa Địa lý Địa chất, Đại học Tổng hợp HN. Từ 1996-2000: Phó Chủ nhiệm Bộ môn Khí tượng, Khoa KTTV&HDH, trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội. Từ 2000-1/2015: Chủ nhiệm Bộ môn Khí tượng, Khoa KTTV&HDH, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội.
Từ 2015-nay: GVCC, Bộ môn Khí tượng và Biến đổi khí hậu, Khoa KTTV&HDH, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội
Các môn giảng dạy đại học: Khí hậu học và Khí hậu Việt Nam, Khí hậu thống kê,
Lý thuyết quá trình ngẫu nhiên và ứng dụng trong khí tượng thủy văn, Thống kê trong
khí tượng, Lý thuyết xác suất thống kê toán học, Ngôn ngữ lập trình Fortran.
Các môn giảng dạy sau đại học: Cơ sở khoa học của Biến đổi khí hậu, Khí hậu và
tài nguyên khí hậu Việt Nam, Khí hậu và biến đổi khí hậu, Tin học ứng dụng trong khí
tượng, Phương pháp toán trong địa lý.
Các lĩnh vực nghiên cứu: 1. Mô hình hóa khí hậu khu vực 2. Dao động và biến đổi khí hậu 3. Dự báo hạn mùa 4. Tương tác bề mặt đất - khí quyển 5. Ban đầu hóa xoáy và dự báo bão 6. Ban đầu hóa độ ẩm đất trong các mô hình số 6.24. Nhóm pháp luật quốc tế phục vụ chiến lược bảo vệ chủ quyền và hội nhập
quốc tế của Việt Nam - Trưởng nhóm Nguyễn Bá Diến
GS.TS Nguyễn Bá Diến sinh năm 1956, hiện là Trưởng Bộ môn Luật quốc tế,
Giám đốc Trung tâm Luật biển và Hàng hải quốc tế. Ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp
Ba Lan năm 1979, bảo vệ luận án TS năm 1995 tại Đại học Tổng hợp Ba Lan, ngành:
Luật, chuyên ngành Luật Quốc tế. Phong hàm GS năm 2002.
Quá trình công tác: Từ 1979 - 1998, là giảng viên Luật Quốc tế tại Đại học Luật Hà
Nội. Từ 12/1999 đến nay, giảng dạy tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.
Từ 05/2003 đến nay là Giám đốc Trung tâm Luật biển và Hàng hải Quốc tế - Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ tháng 3/2004-9/2009, ông tham gia hoạt động của dự án
PIP về quản lý biển và đại dương. Đây là Dự án phát triển quốc tế được tài trợ bởi Chính Phủ Canada.
6.25. Nhóm vật liệu và kết cấu tiên tiến - Trưởng nhóm Nguyễn Đình Đức
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức sinh năm 1963 tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ), nay thuộc Hà Nội. Trưởng ban Khoa học Công nghệ của Đại học Quốc gia Hà Nội (2005-2008), Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ (11.2008-9.2012) và từ 10.2012 đến nay là Trưởng ban Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ông học Khoa Toán - Cơ Trường Đại học Tổng hợp Hà, làm luận án tiến sĩ Toán - Lý với đề tài “Các tiêu chuẩn bền của composite cốt sợi đồng phương” ở Đại học Tổng
hợp quốc gia Matxcơva (Lômônôxốp). Nơi đây chính là môi trường để ông tiếp xúc và
học hỏi từ các nhà khoa học Xô Viết lỗi lạc và trưởng thành. Sau đó tiếp tục bảo vệ thành
công xuất sắc luận án tiến sỹ khoa học ở Viện Hàn lâm Khoa học Nga khi 34 tuổi. Kết quả nghiên cứu về composite siêu bền có cấu trúc không gian của ông đã được cấp bằng
sáng chế năm 1999.
Trong thời gian học tập và công tác tại LB Nga, ông được tín nhiệm bầu làm Phó
Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tại LB Nga (1999-2001),
thành viên nước ngoài của Viện Hàn Lâm Khoa học Tự nhiên Nga (1999) và Viện Hàn Lâm Phát minh và Sáng chế Quốc tế (1999), Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa V (1999-2004). Ông cũng là một trong những Phó Chủ tịch đầu
tiên của Hội trí thức KH&CN trẻ Việt Nam (2004-2010). Ông tham gia phản biện cho
hơn 50 tạp chí quốc tế ISI, trong đó có nhiều tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực Cơ học và
vật liệu mới. Đến nay, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã công bố trên 200 công trình khoa
học ở trong và ngoài nước, xuất bản 4 đầu sách chuyên khảo và giáo trình về lĩnh vực
chuyên ngành giảng dạy, nghiên cứu. Ông cũng đã thành công trong việc áp dụng những
tính toán nghiên cứu lý thuyết của mình để đề xuất sử dụng các hạt nano titan oxit như là
thành phần gia cường làm tăng khả năng chống thấm, chống giòn, chống nứt cho vật
composite polymer. Công thức phi tuyến xác định các mô đun đàn hồi cho composite hạt
nano của ông đã được cộng đồng khoa học biết đến gắn với tên “Vanin - Nguyen Dinh
Duc” (GS. G.A Vanin là nhà khoa học lỗi lạc của Nga - Trưởng PTN Vật liệu composite
của Viện hàn lâm Khoa học Nga).
Ông được mời tham gia Hội đồng quốc tế của các tạp chí quốc tế, được mời là giáo
sư nghiên cứu, thỉnh giảng tại các trường đại học danh tiếng của nước ngoài như Đại học
Tổng hợp Quốc gia Matxcơva mang tên Lômônôxốp (MGU), Viện nghiên cứu chế tạo máy (Viện Hàn lâm Khoa học Nga), Viện khoa học công nghệ tiên tiến của Nhật Bản
(JAIST), Đại học Birminhham (University of Birmingham), Vương Quốc Anh, Đại học
Tổng hợp Sejong University của Hàn Quốc…
6.26. Nhóm hóa học phức chất và hóa sinh vô cơ - Trưởng nhóm Nguyễn Hùng
Huy
PGS.TS Nguyễn Hùng Huy sinh năm 1978, hiện là Phó trưởng bộ môn Hóa hữu cơ, giảng viên Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Tốt nghiệp đại học và thạc sỹ tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên; bảo vệ luận án TS năm 2009 tại
Trường Đại học Tự do Berlin, chuyên ngành Hóa vô cơ; được phong hàm PGS năm 2013.
Các môn học giảng dạy: Hóa Đại cương (3 tín chỉ) cho bậc Cử nhân, kỹ sư tại
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Hướng nghiên cứu: - Phức chất kim loại với các phối tử thioure vòng càng có hoạt tính sinh học.
- Phức chất đa nhân và phức chất polime.
- Phức chất kim loại dễ thăng hoa ứng dụng trong tổng hợp vật liệu màng mỏng.
PGS.TS Nguyễn Hùng Huy có khoảng 30 bài báo đăng trên các tạp chí ISI/Scopus,
75 bài báo trong nước; đã và đang chủ trì 3 đề tài của Nafosted.
6.27. Nhóm nghiên cứu về quản trị công ty trong ngân hàng - Trưởng nhóm Trần
Thị Thanh Tú
PGS.TS Trần Thị Thanh Tú sinh năm 1976, hiện là Chủ nhiệm Khoa Tài chính -
Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
Quá trình đào tạo: Tốt nghiệp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, khoa Ngân hàng
- Tài chính năm 1998; tốt nghiệp Thạc sĩ Kế toán Quốc tế, Đại học Tổng hợp Swinburne,
Úc năm 2006; bảo vệ luận án TS tài chính tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm
2007; được phong hàm PGS năm 2014.
Quá trình công tác: Từ tháng 9 đến tháng 12/1998: Chuyên viên phân tích tài
chính, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Từ tháng 12/1998-11/2003: Nghiên
cứu viên, giảng viên Trung tâm Tài chính vi mô, Đại học Kinh tế Quốc dân. Từ tháng
12/2003-12/2006: Phó Giám đốc Trung tâm Tài chính vi mô, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Từ tháng 5/2005-3/2011: Trưởng nhóm nghiên cứu Tài chính Ngân hàng, Diễn đàn phát
triển Việt Nam, Dự án hợp tác nghiên cứu giữa Viện chính sách quốc gia Nhật bản (
GRIPS) và Đại học Kinh tế Quốc dân. Từ 12/1998 đến 12/2008: Giảng viên, Khoa Tài
chính Ngân hàng, Đại học Kinh tế Quốc dân. Từ tháng 12/2008-9/2011: Phó trưởng bộ môn Tài chính doanh nghiệp, Giảng viên, Khoa Tài chính Ngân hàng, Đại học Kinh tế
Quốc dân. Từ tháng 10/2011 đến 2/2015: Phó chủ nhiệm Khoa Tài chính - Ngân hàng,
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ tháng 2/2015 đến nay: Chủ nhiệm Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Phiếu khảo sát ý kiến các trưởng nhóm nghiên cứu mạnh
PHIẾU XIN Ý KIẾN
Kính gửi: Đại diện Nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội
Khảo sát này nhằm phục vụ cho việc thực hiện luận án “Vai trò của vốn xã hội
trong hoạt động KH&CN: Trường hợp các nhóm nghiên cứu mạnh tại Đại học
Quốc gia Hà Nội” của NCS Nguyễn Thị Hương Giang - Khoa Khoa học quản lý -
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Với mục đích đánh giá vai trò của vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của
các nhóm nghiên cứu mạnh, rất mong các chuyên gia vui lòng giúp tôi hoàn thành
phiếu hỏi này.
Tôi xin cam kết rằng các thông tin thu được qua phiếu hỏi này chỉ dùng vào
mục đích nghiên cứu của luận án, không sử dụng cho các mục đích khác.
Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các chuyên gia.
x
x x
Khái niệm về vốn xã hội trong hoạt động KH&CN: Trong hoạt động
KH&CN, vốn xã hội là những nguồn lực vô hình, bao gồm: 1) Mạng liên kết bền
vững giữa các nhà nghiên cứu; 2) Sự tin cậy trong hoạt động KH&CN; 3) Quan
hệ tương tác, có đi - có lại trong hoạt động KH&CN.
Vốn xã hội trong KH&CN được xem xét trên 3 cấp độ:
- Cấp độ vi mô (micro-level, cá nhân);
- Cấp độ trung mô (meso-level, các nhóm xã hội);
- Cấp độ vĩ mô (macro-level, quốc gia và quốc tế).
Q1: Xin cho biết mạng lưới nghiên cứu của Nhóm nghiên cứu mạnh gồm
những nhân tố nào sau đây (đánh dấu V vào □ ) :
1. Các nhà khoa học trong nước □ Doanh nghiệp □ 5.
2. Các nhà khoa học quốc tế □ Địa phương □ 6.
3. Nghiên cứu sinh □ Các tổ chức nước ngoài □ 7.
4. Học viên cao học, sinh viên □ Khác □ 8.
Q2: Xin cho biết, trong hoạt động của Nhóm nghiên cứu, sự tin cậy lẫn
nhau giữa các thành viên trong Nhóm có được coi là yếu tố quan trọng dẫn đến
hoạt động hiệu quả của Nhóm không? (đánh dấu V vào □ ) :
Rất quan trọng □ Quan trọng v 1. Có □
2. Không □
Q3: Xin cho biết, quan hệ tương tác, có đi - có lại trong hoạt động
KH&CN của Nhóm nghiên cứu được thể hiện như thế nào?
-…
-…
-…
Q4: Xin cho biết, vốn xã hội được sử dụng trong các hoạt động nào của
Nhóm? Đánh số từ 1 đến 8 vào □ để thể hiện các mức độ ưu tiên từ nhiều nhất
(số 1) đến ít nhất (số 8):
Xây dựng ý tưởng khoa học, tấn công não □ 1.
Thực hiện nhiệm vụ khoa học □ 2.
Đào tạo □ 3.
Chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ □ 4.
Công bố khoa học □ 5.
Xây dựng mạng lưới nghiên cứu □ 6.
Hợp tác quốc tế □ 7.
Kinh phí nghiên cứu, các tài trợ nghiên cứu □ 8.
Q5: Xin cho biết, các hoạt động xây dựng nhóm (team building activities),
sinh hoạt tập thể có được thực hiện thường xuyên không (Ví dụ: tham quan,
du lịch, sinh hoạt học thuật và các hoạt động xã hội khác) ? (đánh dấu V vào □)
1.
Thường xuyên □
2.
Thỉnh thoảng □
3.
Hiếm khi □
4.
Không □
Q6: Xin cho biết, kinh phí hoạt động của Nhóm có từ những nguồn nào
sau đây, đánh số từ 1 đến 5 vào □ để thể hiện các mức độ từ nhiều nhất (số 1)
đến ít nhất (số 5):
1.
Đại học Quốc gia Hà Nội □
2.
Hợp tác quốc tế □
3.
Đề tài Nafosted □
4.
Đề tài, dự án phối hợp với các bộ/ngành, doanh nghiệp, địa phương □
5.
Khác □
Q7. Xin Ông đánh giá vai trò của các yếu tố sau trong việc mang lại sự
thành công của Nhóm nghiên cứu? Đánh số từ 1 đến 5 vào □ để thể hiện các
mức độ ưu tiên từ nhiều nhất (số 1) đến ít nhất (số 5):
1. Vai trò của trưởng Nhóm □
2. Hợp tác quốc tế mạnh □
3. Mạng lưới nghiên cứu hoạt động hiệu quả □
4. Sự tin tưởng giữa các thành viên □
5. Quan hệ tương tác, có đi - có lại trong các hoạt động KH&CN □
Q8. Xin cho biết, vốn xã hội có vai trò như thế nào trong các hoạt động
KH&CN của Nhóm nghiên cứu mạnh?
-…
Q9. Xin cho biết, vốn xã hội ở cấp độ nào có vai trò quan trọng đối với
hoạt động KH&CN của các nhóm nghiên cứu mạnh? Đánh dấu V vào □
Cấp độ vi mô (micro-level, cá nhân) □ 1.
Cấp độ trung mô (meso-level, các nhóm xã hội) □ 2.
Cấp độ vĩ mô (macro-level, quốc gia và quốc tế) □ 3.
Q10. Xin cho biết, đâu là yếu tố quan trọng nhất dẫn tới sự thành công
trong các hoạt động của Nhóm nghiên cứu mạnh?
-…