BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
DƯƠNG THU THỦY
Chuyên ngành:
QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX Văn học Việt Nam 62 22 34 01
Mã số:
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS TRẦN HỮU TÁ Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
DƯƠNG THU THỦY
QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: : Mã số
Văn học Việt Nam 62 22 34 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS TRẦN HỮU TÁ Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả Luận án
Dương Thu Thủy
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa .................................................................................................
Lời cam đoan .................................................................................................
Mục lục ...................................................................................................... 01
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 03
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 03
2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 04
3. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 04
4. Giới hạn của đề tài.................................................................................. 12
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 16
6. Đóng góp của luận án ............................................................................. 16
7. Cấu trúc luận án ..................................................................................... 17
NỘI DUNG
Chương 1 - Những tiền đề cơ bản của quá trình hiện đại hóa hoạt động
nghiên cứu văn học Việt Nam .............................................. 18
1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội ...................................................................... 18
1.2. Tiền đề văn hóa - văn học ................................................................. 25
1.3. Tiền đề vật chất - kỹ thuật ................................................................. 48
Chương 2 - Những chặng đường phát triển của hoạt động nghiên cứu
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ................................. 54
2.1. Giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ XX ...................................................... 55
2.1.1. Ảnh hưởng của quan niệm cổ điển trong hoạt động nghiên cứu
văn học ..................................................................................... 55
2.1.2. Bước khởi đầu của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học ..................................................................................... 58
2.2. Giai đoạn 1930 - 1945 - Những chuyển biến trong quá trình hiện đại
hóa hoạt động nghiên cứu văn học ................................................... 71
1
2.2.1. Nghiên cứu văn học sử - Thành tựu và hạn chế ........................... 72
2.2.1.1. Những công trình riêng về từng thời kỳ, từng lĩnh vực văn học
......................................................................................................... 72
2.2.1.2. Những công trình khái quát cả quá trình văn học ............... 103
2.2.2. Nghiên cứu văn học nước ngoài - Thành tựu và hạn chế............ 129
2.2.3. Nghiên cứu lý luận văn học - Thành tựu và hạn chế .................. 134
Chương 3 - Những đổi mới về phương pháp nghiên cứu ..................... 145
3.1. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu ............................................. 146
3.1.1. Phương pháp so sánh .............................................................. 146
3.1.2. Phương pháp trực giác ............................................................ 156
3.1.3. Phương pháp xã hội học .......................................................... 161
3.1.4. Phương pháp tiểu sử ................................................................ 166
3.1.5. Phương pháp xã hội học mác - xít ........................................... 173
3.2. Ngọn nguồn của những đổi mới ...................................................... 183
3.2.1. Những yếu tố nội sinh ............................................................. 184
3.2.2. Những yếu tố ngoại nhập ........................................................ 190
KẾT LUẬN ............................................................................................. 200
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 204
DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI................... 220
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngành nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại đã phát triển qua một thế
kỷ với nhiều thành tựu to lớn. Các thành tựu về nghiên cứu văn học sử Việt
Nam đã được nhắc tới trong các bộ lịch sử văn học cũng như trong các cuốn
sách chuyên khảo của cá nhân hoặc tập thể tác giả kể từ đầu thế kỷ XX đến
nay. Trong các cuốn sách đó, chúng ta thấy các tác giả đã cố gắng đánh giá và
tổng kết các thành tựu của văn học nước nhà cả về mặt sáng tác lẫn nghiên
cứu. Những thành tựu về nghiên cứu như các quan điểm nghệ thuật, các lý
thuyết và các phương pháp nghiên cứu, đã được tổng kết xen lẫn với các
thành tựu về sáng tác trong cùng giai đoạn, cùng một thời kỳ văn học. Những
bộ sách lịch sử văn học như Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957) của
nhóm Lê Quý Đôn, Văn học Việt Nam (1900 - 1945) (1999) do Phan Cự Đệ
chủ biên, Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (1976), Văn học Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 (1981), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Những vấn đề
lịch sử và lý luận) (2004),... của các tập thể tác giả, và một số cuốn sách khác
như bộ sách Lược khảo văn học (1963, 1968) của Nguyễn Văn Trung, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) của Phạm Thế Ngũ, bộ sách Bảng
lược đồ văn học Việt Nam (1967) của Thanh Lãng, Văn học sử thời kháng
Pháp 1858 - 1945 (1972) của Lê Văn Siêu, ... đều có đề cập ít nhiều đến
thành tựu của hoạt động nghiên cứu văn học bên cạnh các thành tựu của sáng
tác văn học đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, việc tổng kết riêng về lĩnh vực nghiên cứu văn học, đặc biệt
là giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Những
cuốn sách tổng kết riêng về lĩnh vực nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung
và đối với giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX nói riêng hầu như rất hiếm. Không
thoả mãn với những thành tựu của lĩnh vực nghiên cứu văn học phần lớn mới
3
chỉ được nhắc đến bên cạnh những thành tựu về sáng tác trong các cuốn lịch
sử văn học, chúng tôi cho rằng chỉ có việc nghiên cứu chuyên biệt để tổng kết
riêng các thành tựu nghiên cứu văn học thì mới đánh giá được thỏa đáng hoạt
động của lĩnh vực này. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Quá trình hiện
đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX” để
thực hiện luận án nhằm đáp ứng phần nào mối quan tâm về quá trình hiện đại
hóa và sự đóng góp của hoạt động nghiên cứu văn học trong quá trình hiện
đại hóa nền văn học dân tộc nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, chúng tôi nhằm hướng đến những mục
đích sau:
- Đánh giá một cách khách quan, khoa học những thành tựu và hạn
chế của quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam trong
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
- Nêu lên những đóng góp của hoạt động nghiên cứu văn học trong
thành tựu chung của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm về quá trình hiện đại hoá văn học
nhằm vận dụng vào công cuộc hiện đại hoá văn học hiện nay.
3. Lịch sử vấn đề
Ngành nghiên cứu văn học Việt Nam thời trung đại chủ yếu thiên về xu
hướng sưu tầm, bình điểm. Xu hướng này mang tính chất của tiếp nhận cảm
tính nhiều hơn là tư duy khoa học. Chính vì vậy, mặc dù xu hướng này có ưu
điểm là cung cấp cho ta những kiến thức đánh giá độc đáo về mặt thẩm mỹ và
nghệ thuật, nhưng nó chưa phác họa được một bức tranh văn học có hệ thống
với những lý giải khoa học và biện chứng về quá trình phát triển của văn học.
4
Phải đến đầu thế kỷ XX, khi văn hoá Việt Nam có điều kiện được tiếp xúc với
văn hoá phương Tây, các nhà nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam nhận
thấy rằng: đổi mới phương pháp nghiên cứu văn học là một nhu cầu không thể
thiếu được trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Họ bắt đầu tìm
hiểu các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học của phương
Tây để vận dụng vào Việt Nam. Kết quả là chưa bao giờ nền văn học Việt
Nam chuyển biến và phát triển mạnh mẽ như ở giai đoạn này. Riêng hoạt
động nghiên cứu văn học trong nửa đầu thế kỷ XX đã để lại một di sản khá
phong phú và đa dạng. Từ những bài nghiên cứu còn mang đậm dư âm của
quan niệm cổ điển trong buổi đầu tiếp thu học thuật nước ngoài, đến những
tác phẩm vận dụng phương pháp khoa học vào việc nghiên cứu các tác gia,
tác phẩm, các giai đoạn văn học thời kỳ văn học…, các nhà nghiên cứu đã
đóng góp không nhỏ vào quá trình hiện đại hóa văn học đương thời và đặt nền
móng quan trọng cho hoạt động nghiên cứu văn học của giai đoạn sau này.
Tuy nhiên, cho đến nay, bên cạnh những thành tựu về sáng tác, lý luận, phê
bình đang được giới nghiên cứu quan tâm, có thể nói, chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về những thành tựu và hạn chế
của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX.
Từ trước năm 1945, lĩnh vực nghiên cứu, phê bình cũng đã được nhiều
nhà nghiên cứu đề cập đến. Các vấn đề như quan điểm, phương pháp, thể loại,
tác giả, tác phẩm đã được các tác giả Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Thạch Lam,
Kiều Thanh Quế, Diệu Anh Đinh Gia Trinh, Nguyễn Văn Tố… đem ra bàn
bạc. Toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này đều được các nhà
nghiên cứu gọi chung là: phê bình văn học. Và như thế là xuất hiện một kiểu
“phê bình của phê bình”. Trong Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan,
chúng ta thấy tác giả đã có ý xếp riêng những nhà văn viết phê bình và nghiên
5
cứu vào cùng một phần để đánh giá và phê bình các tác giả đó.
Từ sau năm 1945 đến 1975, các bộ lịch sử văn học đều dành sự quan
tâm khảo sát giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Bên cạnh phần nói về hoạt động
sáng tác, các công trình đều có đề cập ít nhiều đến hoạt động nghiên cứu văn
học. Tuy vậy, các công trình phần lớn đều xem hoạt động nghiên cứu văn học
giai đoạn này như là một hình thức của phê bình văn học. Có thể kể những
công trình tiêu biểu có đề cập đến hoạt động phê bình, nghiên cứu văn học
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX như: Lược thảo văn học Việt Nam (tập 3, 1957,
Nhóm Lê Quý Đôn soạn); Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Nxb Phong trào
Văn hóa, Sài Gòn, 1967) và Phê bình văn học thế hệ 1932 - 1945 (Nxb Phong
trào Văn hóa, Sài gòn, 2 tập, 1972 - 1975) của Thanh Lãng; Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên 1862 - 1945 (Nxb Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965)
của Phạm Thế Ngũ, Lược khảo văn học: Nghiên cứu và phê bình văn học (tập
3, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, 1968) của Nguyễn Văn Trung.
Trong những công trình nêu trên, công trình Phê bình văn học thế hệ
1932-1945 của Thanh Lãng có tầm bao quát rộng hơn cả. Trong tác phẩm này
và một phần của Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng đã phác họa
tổng quát bức tranh nghiên cứu - phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX như: Đặc điểm của giai đoạn, Lý thuyết về phê bình, Sự phân hóa của lực
lượng cầm bút, Mười vụ án văn học, Sáu khuynh hướng phê bình; Giới thiệu
và nhận định về 17 nhà phê bình... Các công trình của Thanh Lãng có một đặc
điểm chung là mang tính khảo cứu, mô tả và liệt kê sự kiện; cho nên chưa thể
hiện rõ quá trình và những quy luật phát triển của ngành nghiên cứu văn học
Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Đã thế, ở tập I của bộ sách Phê
bình văn học thế hệ 1932, tác giả lại dành cả chương II để phát biểu chung về
phê bình văn học và giới thiệu một số trường phái phê bình của thế giới. Sau
đó, sang tập II, ông lại giới thiệu các trường phái của thế giới đã dẫn ở tập I.
6
Vì vậy, ấn tượng tản mạn của bộ sách lại càng thể hiện rõ rệt. Nhưng cái đáng
quý của các công trình này là đã cung cấp một khối lượng tư liệu giá trị rất
cần thiết cho các thế hệ nghiên cứu sau này.
Tập 3 của bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1862 - 1945) của
Phạm Thế Ngũ là công trình biên khảo được viết một cách nghiêm túc về tình
hình văn học trong khoảng thời gian từ 1862 đến 1945. Trong công trình này,
Phạm Thế Ngũ chủ yếu đề cập đến thành tựu về sáng tác văn học. Tuy vậy,
ông cũng có dành một số trang để giới thiệu hoạt động biên khảo và phê bình
giai đoạn từ 1907 đến 1932, cũng như để đánh giá cao hoạt động phê bình giai
đoạn 1940 - 1945.
Trong Lược khảo văn học (tập 3) sau khi đề cập qua về sự ra đời của
phê bình văn học, Nguyễn Văn Trung đã mô hình hóa các dạng hoạt động của
phê bình và các loại tác gia phê bình. Theo tác giả, giai đoạn này có năm quan
niệm phê bình: Phê bình ấn tượng chủ quan giáo điều (Đào Duy Anh, Thiếu
Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính), Phê bình giáo khoa (Trần
Thanh Mại, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế, Dương Quảng Hàm…), Phê bình
luân lý (Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng,
Hải Triều, Mộng Sơn, Thái Phỉ, Lê Thanh…), Phê bình phân tâm học
(Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu), Phê bình xã hội (Hải Triều, Nguyễn Bách
Khoa)...
Ngoài những công trình vừa nêu, rải rác trong cuốn sách Văn học sử thời
kháng Pháp 1858 - 1945 (Nxb Trí Đăng, Sài Gòn, 1972), Lê Văn Siêu có đề
cập đến vấn đề biên khảo và phê bình, cũng như có giới thiệu qua các nhà phê
bình, nghiên cứu văn học như Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Phan Văn Hùm,
Hồ Hữu Tường, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh, Trương Tửu.
Sau 1975, các công trình nghiên cứu về hoạt động phê bình, nghiên cứu
văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX ngày càng được quan tâm. Bên cạnh các
7
bộ Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1930 (Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1981) và Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 do Huỳnh Lý,
Nguyễn Trác, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Hoàng Dung biên
soạn chỉ dành một số trang viết khiêm tốn về hoạt động phê bình, nghiên cứu
văn học so với hoạt động sáng tác, thì gần đây, chúng ta thấy có nhiều bài
viết, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến
thành tựu nghiên cứu và phê bình của một số nhà nghiên cứu - phê bình đã
sống qua cả hai thời kỳ. Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Mến: Những đóng
góp về mặt lý luận phê bình của Hoài Thanh trước Cách mạng tháng Tám
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2001); luận án tiến
sĩ của Trần Hạnh Mai: Sự nghiệp phê bình văn học của Hoài Thanh (Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, 2000, Nxb Giáo dục, 2003); luận văn thạc
sĩ của Dương Thu Thuỷ: Đóng góp về phê bình và nghiên cứu lịch sử văn học
của Trần Thanh Mại (Trường Đại học Sư phạm Huế, Huế, 2004); luận văn
thạc sĩ của Hồ Vi Thường: Khuynh hướng phê bình mác - xít ở Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX (1900 - 1945) (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh, 2005)… Nghiên cứu về lý luận, phê bình những thập niên đầu thế kỷ
XX phải kể đến cuốn sách Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX
của Trần Mạnh Tiến (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001). Có một công trình được
tác giả cho là “công trình chuyên biệt đầu tiên tập trung nghiên cứu một cách
toàn diện, toàn bộ hoạt động phê bình văn học thời trước Cách mạng” mang
tên: Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm
1945) của Trần Thị Việt Trung (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2002). Công trình Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 -
1945) của Nguyễn Thị Thanh Xuân (Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh) cũng ra đời vào năm 2004.
Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm
8
1945) của Trần Thị Việt Trung là cuốn sách nghiên cứu về phê bình văn học
giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945. Trong công trình này, tác giả đã
nêu lên những tiền đề về lịch sử xã hội và văn hoá của phê bình văn học Việt
Nam từ đầu thế kỷ đến năm 1945, trong đó có đề cập đến vai trò của hoạt
động báo chí, đội ngũ những nhà văn tham gia hoạt động phê bình văn học....
Tác giả giới thiệu diện mạo và đặc điểm của phê bình văn học Việt Nam giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, dựng lên một số chân dung nhà phê bình chủ yếu ở
giai đoạn 1930 - 1945 như Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều.
Vì vậy, theo chúng tôi, cuốn sách Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (Giai
đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945) của Trần Thị Việt Trung chủ yếu đánh giá
về hoạt động phê bình văn học như mục đích của tác giả đặt ra chứ chưa thể
hiện rõ toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn học.
Trong công trình Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX,
Trần Mạnh Tiến đã khái quát một cách toàn diện và có hệ thống về tình hình,
đặc điểm và thành tựu lý luận phê bình văn học 30 năm đầu thế kỷ. Tác giả đã
nêu lên một số đặc trưng của văn học, các mối quan hệ cơ bản của văn học,
tác dụng của văn học; quan niệm về tác phẩm văn học và đề cập đến hai thể
loại chính là thơ và tiểu thuyết; về phê bình văn học, Trần Mạnh Tiến nêu ra
hai khuynh hướng trong phê bình văn học đầu thế kỷ là phê bình truyền thống
và phê bình mới, giới thiệu các quan điểm cũng như những đánh giá về cuộc
tranh luận Truyện Kiều giữa những năm 20 của thế kỷ XX. Tóm lại, cuốn
sách trên chỉ đề cập về lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cũng nghiên cứu về phê bình văn học, Nguyễn Thị Thanh Xuân trong
công trình Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 - 1945) đã
khái quát sự hình thành và phát triển của phê bình văn học Việt Nam giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời giới thiệu 12 tác giả phê bình tiêu biểu ở
giai đoạn này là: Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Trần Thanh Mại,
9
Trương Chính, Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Trương Tửu -
Nguyễn Bách Khoa, Đặng Thai Mai, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế. Theo tác
giả, phê bình văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một nền phê bình văn
học “đã có cơ sở lý luận tuy chưa hoàn chỉnh”, phê bình văn học giai đoạn
này đã phát triển một cách nhanh chóng về nhiều mặt, trong đó rõ nhất là
ngôn ngữ phê bình. Và cuốn sách cũng tập trung đề cập đến mảng phê bình
của ngành nghiên cứu văn học.
Gần đây, trong cuốn Phương pháp luận nghiên cứu văn học (Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 2004), Nguyễn Văn Dân cũng đã đánh giá sự đóng góp
về mặt phương pháp nghiên cứu của một số tác giả thời trước Cách mạng như
Trần Thanh Mại, Hoài Thanh và Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, đồng thời
chỉ ra những hạn chế về quan điểm phương pháp luận của họ. Nhưng đây vốn
là một cuốn sách bàn về Phương pháp luận nên tác giả chỉ chủ yếu nêu lên
những đóng góp cũng như những hạn chế về phương pháp nghiên cứu của các
tác giả Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám để minh họa cho vấn đề
“phương pháp luận nghiên cứu văn học” chứ chưa phải là cuốn sách chuyên
sâu về hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này.
Cuốn sách Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lý luận và lịch
sử (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004) do Phan Cự Đệ chủ biên chủ yếu đề cập đến
lý luận, phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nghiên cứu lý luận, phê bình
thời kỳ nửa đầu thế kỷ, Trần Đình Sử phân chia làm hai giai đoạn: Lý luận,
phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1932; Lý luận, phê bình văn học
1932- 1945. Ở giai đoạn đầu, sau khi nêu diện mạo chung của đời sống lý
luận, phê bình văn học ba mươi năm đầu thế kỷ; cuộc tranh luận văn học đầu
tiên mở đầu thế kỷ: Tranh luận Truyện Kiều; tác giả đã giới thiệu những nhà
nghiên cứu, phê bình văn học đầu tiên gồm: Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Võ
Liêm Sơn. Sang giai đoạn từ 1932 đến 1945, Trần Đình Sử cho rằng đặc điểm
10
chủ yếu của giai đoạn này là giai đoạn hình thành tư tưởng mới; phủ nhận tư
tưởng cũ, nổ ra nhiều cuộc tranh luận quan trọng, và đây cũng là giai đoạn
hình thành lý luận văn học như là một “thể loại mới” xưa nay chưa từng có và
đồng thời xuất hiện những nhà lý luận, phê bình văn học chuyên nghiệp. Trần
Đình Sử chia ra sáu thể loại phê bình chủ yếu ở giai đoạn này gồm: thể bút
chiến, thể phê bình tác giả, thể danh nhân truyện ký, thể phê bình khoa học
hay nghiên cứu chuyên đề, thể loại bình chú, bình văn, thể loại văn học sử.
Ông phân chia thế hệ các nhà lý luận, phê bình văn học giai đoạn 1932 - 1945
theo bốn khuynh hướng: các nhà phê bình có xu hướng tổng kết (Thiếu Sơn,
Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan); các nhà phê bình mác-xít (Hải Triều, Đặng Thai
Mai); các nhà phê bình, nghiên cứu văn học theo phương pháp khoa học
(Trần Thanh Mại, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa); các nhà văn học sử và
biên khảo (Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi, Ngô Tất Tố, Lê Thanh,
Kiều Thanh Quế). Trong mỗi tác giả, Trần Đình Sử có giới thiệu những tác
phẩm tiêu biểu, kèm theo vài lời nhận định hết sức ngắn gọn.
Chuyên luận Lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
1945 (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005) do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên
đã giới thiệu 27 bài viết về hoạt động lý luận, phê bình nửa đầu thế kỷ của các
tác giả: Nguyễn Ngọc Thiện, Hà Công Tài, Cao Kim Lan, Trịnh Bá Đĩnh, Tôn
Thảo Miên, Nguyễn Đăng Điệp, Đinh Thị Minh Hằng. Cuốn sách ngoài phần
mở đầu (Khái quát: Động lực lớn của lý luận - phê bình văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX) và phần kết luận (Sự phát triển tiếp nối của lý luận, phê
bình văn học nửa đầu thế kỷ XX đến nay) có ba chương. Chương một và
chương hai, nghiên cứu về sự phát triển của lý luận và phê bình văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chương ba giới thiệu mười tác gia lý luận, phê bình
văn học tiêu biểu gồm: Phan Khôi, Thiếu Sơn, Hải Triều, Hoài Thanh, Trần
Thanh Mại, Trương Chính, Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, Lê Thanh, Vũ
11
Ngọc Phan, Đặng Thai Mai. Tóm lại, nội dung chính của cuốn sách là nghiên
cứu về lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945.
Ngoài các cuốn sách nói trên, ta còn có thể tìm gặp những ý kiến nhận
xét, đánh giá về từng tác gia, hay từng tác phẩm phê bình, nghiên cứu văn học
giai đoạn này trên nhiều sách, bài báo, tạp chí của các nhà nghiên cứu, nhà
văn có uy tín. Tuy nhiên, hầu như chưa có một cuốn sách nào tập trung khảo
sát và tổng kết về quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học ở giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Đây vẫn còn là một lĩnh vực cần phải bổ khuyết, và
đề tài Quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX của chúng tôi sẽ cố gắng đóng góp cho công việc tổng
kết này.
4. Giới hạn của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là các công
trình nghiên cứu văn học ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đã có độ lùi thời gian
nhất định của các nhà nghiên cứu văn học chuyên nghiệp hoặc không chuyên.
Trong đó, luận án tập trung chủ yếu vào sự hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX qua những thành tựu chủ yếu, qua các
phương pháp nghiên cứu và nguyên nhân dẫn đến những thành tựu đó. Những
vấn đề khác không phải là đối tượng nghiên cứu của luận án. Với yêu cầu
nhằm vào sự hiện đại hoá, chúng tôi sẽ tập trung vào những công trình nghiên
cứu tiêu biểu, có đóng góp về mặt đổi mới trong quan điểm lý thuyết và
phương pháp thực hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: phạm vi của đề tài, chúng tôi xác định chỉ tập
trung nghiên cứu những yếu tố nổi trội đã góp phần làm nên quá trình hiện đại
hóa trong hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX (từ
năm 1900 đến năm 1945); không có tham vọng nghiên cứu toàn bộ các tác giả
và tác phẩm xuất hiện ở giai đoạn này mà chỉ giới hạn ở phạm vi những tác
12
phẩm tiêu biểu nhất của những tác giả có những đóng góp cụ thể trong hoạt
động nghiên cứu văn học giai đoạn này.
4.3. Giới thuyết một số khái niệm
4.3.1. Khái niệm nghiên cứu văn học
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Nghiên cứu văn học còn gọi là khoa
văn học hoặc khoa học về văn học, là khoa học nghiên cứu các quy luật và
hiện tượng trong sự tồn tại và phát triển của văn học. Từ điển văn học (Bộ
mới - xuất bản năm 2004) định nghĩa: Nghiên cứu văn học là một chuyên
ngành khoa học xã hội và nhân văn mà đối tượng nghiên cứu là nghệ thuật
ngôn từ (văn học).
Nghiên cứu văn học, theo truyền thống, bao gồm ba bộ môn chính: Lý
luận văn học, Lịch sử văn học, Phê bình văn học. Trong đó, Lý luận văn học
nghiên cứu những quy luật chung của cấu trúc và sự phát triển văn học; Lịch
sử văn học (còn gọi là văn học sử) lấy đối tượng nghiên cứu là văn học quá
khứ, khảo sát nó như một quá trình, hoặc khảo sát một trong số các thời đoạn
của quá trình đó; Phê bình văn học chú ý đến trạng thái hiện tại của văn học
đương thời, nó cũng chú ý lý giải văn học quá khứ từ quan điểm những vấn
đề xã hội và nghệ thuật hiện thời. Ở trình độ phát triển cao và tính chuyên
môn sâu, nghiên cứu văn học là tên gọi chung cho nhiều bộ môn nghiên cứu
cụ thể, tương đối độc lập, tiếp cận cùng một đối tượng nghiên cứu là văn học
từ những góc độ khác nhau.
Căn cứ vào những nội hàm khái niệm vừa nêu, chúng ta thấy rằng phê
bình văn học và nghiên cứu văn học là hai bộ phận có mối quan hệ gần gũi
nhưng là hai bộ phận khác nhau. Phê bình văn học có tính chất khen chê
những tác phẩm mang tính thời sự, kịp thời; trong khi nghiên cứu văn học
nhìn một cách toàn diện, thấy được bản chất bên trong và ngoài của đối tượng
thường là đã ổn định. Từ phê bình văn học chuyển sang nghiên cứu văn học
13
chỉ là một bước đơn giản. Chẳng hạn: Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam,
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, nghiên cứu về những nhà văn, nhà thơ
đương thời vừa có chất phê bình nhưng giá trị nghiên cứu vẫn rõ nét vì chất
khái quát của người viết. Nghiên cứu văn học và phê bình văn học đều phải
lấy lý luận làm nền. Sự phát triển mạnh mẽ của nghiên cứu nằm chung trong
hệ thống nghiên cứu, lý luận, phê bình chứng tỏ nền văn học dân tộc đã phát
triển tới mức toàn diện.
Trên cơ sở tích hợp và tiếp biến những khái niệm nghiên cứu văn học
trong các công trình đã nêu trên, chúng tôi quan niệm: hoạt động nghiên cứu
văn học là quá trình xem xét, tìm hiểu, đánh giá một cách hệ thống, toàn diện
các tác gia, tác phẩm, hiện tượng văn học quá khứ hoặc đương thời đã có độ
lùi thời gian nhất định (kể cả văn học trong nước và nước ngoài).
4.3.2. Khái niệm “Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn
học”
Đến đầu thế kỷ XX, hiện đại hóa văn học đã trở thành một yêu cầu tất
yếu của lịch sử văn học Việt Nam. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa, giáo dục … lúc này đã hội đủ các yếu tố nội sinh và ngoại nhập, tạo nên
các nhân tố thúc đẩy văn học phát triển theo hướng hiện đại hóa.
Nói đến văn học hiện đại là nói đến văn học phát triển trong môi trường
kinh tế tư bản chủ nghĩa, có sự hình thành giai cấp tư sản, giai cấp vô sản ….
Như vậy, khái niệm hiện đại hóa xuất hiện và được sử dụng khi con người
bước sang thời kỳ chủ nghĩa tư bản và ở mỗi lĩnh vực nó mang một nội hàm
khái niệm khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà: Hiện đại hóa trong
chừng mực nhất định, nó đồng nghĩa với khái niệm phương Tây hóa, là quá
trình thu nhận những ảnh hưởng của văn học phương Tây để có những đặc
điểm của văn học phương Tây [192, tr.40].
Khái niệm hiện đại hóa văn học ở đây được sử dụng theo nghĩa phân
14
biệt với khái niệm văn học trung đại. Đó là quá trình chuyển từ loại hình văn
học cũ sang loại hình văn học mới hiện đại hơn, nghĩa là, khi mà nền văn học
phong kiến không còn thích ứng nữa thì yêu cầu của xã hội là phải đổi mới để
thực hiện chức năng phản ánh hiện thực một cách đầy đủ và hiệu quả hơn.
Văn học hiện đại hóa là văn học đã thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học
trung đại để xác định một hệ thống thi pháp mới, thi pháp văn học hiện đại
nhằm đáp ứng yêu cầu phản ánh xã hội mới và đáp ứng thị hiếu mới của công
chúng thời điểm ấy.
Như vậy, hiện đại hóa là quá trình tất yếu của một nền văn học. “Nó
xuất phát từ nhu cầu sáng tạo nội tại của văn học, từ tác động của hoàn cảnh
xã hội, từ đòi hỏi của công chúng và từ kết quả của sự giao lưu văn hóa giữa
các quốc gia, các dân tộc” [192, tr.40].
Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
1945 tất nhiên không phải một sớm một chiều mà nó là cả một quá trình diễn
ra liên tục không ngừng. Ở giai đoạn ba mươi năm đầu thế kỷ (từ 1900 đến
1930) là bước chuẩn bị cho sự chuyển mình của văn học, trong đó mười năm
cuối của giai đoạn này, công cuộc hiện đại hóa văn học đã đạt được một số
thành tựu đáng ghi nhận. Giai đoạn từ 1930 đến 1945, quá trình hiện đại hóa
nền văn học được đẩy lên một bước mới với nhiều cuộc cách tân văn học sâu
sắc và toàn diện, đặc biệt là sự ra đời các thể loại văn học mới. Đến đây, sự
đổi mới đã thể hiện một cách toàn diện, triệt để. Nền văn học Việt Nam lúc
này, nhìn tổng thể, đã mang tính hiện đại từ nội dung đến hình thức, không
còn lạc điệu trong văn học của thế giới hiện đại.
Đặt vào bối cảnh chung của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
giai đoạn này, theo chúng tôi: hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học là
sự thay đổi về tư duy của các nhà nghiên cứu để từ đó có sự đổi mới trong
cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu nhằm
15
đánh giá đối tượng một cách khách quan, khoa học và toàn diện. Đó là một
quá trình diễn ra liên tục, không ngừng, khiến văn học nói chung và hoạt động
nghiên cứu văn học nói riêng dần dần mang những đặc điểm và tính chất
riêng của văn học đương thời so với văn học thời trung đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Đây là đề tài nghiên cứu một giai đoạn trong lịch sử nghiên cứu văn học
Việt Nam, nhằm tổng kết và đánh giá những thành tựu và hạn chế của công
cuộc hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học, do vậy, phương pháp chủ
yếu được sử dụng trong luận án này là phương pháp nghiên cứu văn học sử.
Sử dụng phương pháp này đòi hỏi người thực hiện phải đặt đối tượng nghiên
cứu trong mối quan hệ với môi trường văn hóa, xã hội, lịch sử giai đoạn nửa
đầu thế kỷ XX, đồng thời phải xem xét và khảo sát chúng trong sự vận động
chung của văn học Việt Nam trong thời điểm nghiên cứu.
5.2. Ngoài phương pháp chủ yếu nói trên, chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp khác như sau:
- Phương pháp hệ thống loại hình được dùng để hệ thống hóa và phân
loại các công trình nghiên cứu, từ đó xác định vị trí và ý nghĩa của các công
trình nghiên cứu. Qua đó, có thể phân ra các xu hướng, trường phái để đánh
giá những đóng góp của chúng về mặt lý thuyết và phương pháp.
- Phương pháp lịch sử loại hình: phương pháp này cho phép chúng tôi
nghiên cứu so sánh các đối tượng cùng loại trong lịch đại và đồng đại để thấy
được tính hiện đại của chúng.
Đồng thời phối hợp nhiều thao tác như: phân tích, tổng hợp, phân loại…
6. Đóng góp của luận án: hoàn thành đề tài, chúng tôi dự kiến sẽ có những
đóng góp như sau:
16
6.1. Trình bày một bức tranh tổng thể về hoạt động nghiên cứu văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX, với những điểm nhấn về tiến trình hiện đại hoá hoạt
động này.
6.2. Đánh giá thành tựu và hạn chế của công tác nghiên cứu văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX; rút ra được những kinh nghiệm cần thiết về phương
pháp đổi mới nghiên cứu văn học; đóng góp và gợi ý cho việc soạn thảo lịch
sử văn học Việt Nam hiện đại.
6.3. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo giảng dạy về lĩnh
vực nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận cũng như Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận án gồm ba chương:
Chương 1- Những tiền đề cơ bản của quá trình hiện đại hóa hoạt
động nghiên cứu văn học Việt Nam
Chương 2- Những chặng đường phát triển của hoạt động nghiên
cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chương 3- Những đổi mới về phương pháp nghiên cứu
17
NỘI DUNG
Chương 1 - NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM
1.1. Những tiền đề lịch sử - xã hội
1.1.1. Quá trình xâm lăng của thực dân Pháp và những chuyển biến về
thể chế chính trị
1.1.1.1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên ở Đà Nẵng, báo
hiệu cuộc xâm lược chính thức nước ta. Tính từ khi đồn Kỳ Hòa thất thủ
(1861), Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông (1862) rồi chiếm cả sáu tỉnh Nam Kỳ
(1867), cho đến hòa ước Patenôtre (1884) thì Việt Nam hoàn toàn mất hết độc
lập chủ quyền. Từ đó đã dẫn đến nhiều chuyển biến cực kỳ quan trọng trong
xã hội: nước Việt Nam phong kiến nông nghiệp trở thành nước thuộc địa nửa
phong kiến với hai tầng áp bức: thực dân Pháp và vua quan, địa chủ phong
kiến. Chính biến cố trọng đại này đã làm biến đổi sâu xa mọi phương diện,
trong đó có văn học nghệ thuật, của đất nước ta.
Ngay sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Nam Kỳ đã
không ngừng đứng lên chống Pháp, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của
Trương Định, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Nguyễn
Trung Trực… Trong hoàn cảnh bấy giờ, tuyệt đại đa số nhân dân không hợp
tác với chính quyền địch. Có nhiều nơi, người dân tự tay đốt nhà cửa, vườn
tược. Những người không có điều kiện đi theo nghĩa quân thì họ cũng “tị địa”
ra khỏi “đất quỷ” (vùng đất bị Pháp chiếm - Dương Thu Thủy).
Tuy nhiên, các phong trào kháng Pháp lần lượt đi vào bế tắc, thất bại.
Năm 1896, với sự tuẫn tiết của Phan Đình Phùng, phong trào chống Pháp
dưới lá cờ Cần Vương rầm rộ suốt mấy mươi năm nổ ra ở hầu hết các tỉnh đã
chấm dứt. Như vậy đến lúc này, về căn bản, thực dân Pháp đã hoàn thành
công cuộc “bình định” Việt Nam về mặt quân sự, và trên cơ sở đó, họ đã có
18
thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương
nói chung.
Chính sách khai thác thuộc địa về kinh tế được thực hiện một cách triệt
để như độc chiếm thị trường, mua rẻ nông phẩm; độc quyền ngoại thương và
các ngành kinh doanh quan trọng (khai mỏ, giao thông, làm muối, nấu rượu,
thuốc phiện,…). Độc quyền ngân hàng đầu tư vào các ngành có lợi cho việc
vơ vét tài nguyên, hàng hóa để xuất khẩu.
Với mục đích biến Việt Nam trở thành một bộ phận của “Pháp quốc hải
ngoại”, thực dân Pháp đã đầu tư với tốc độ nhanh, qui mô lớn vào các ngành
kinh tế ở Việt Nam. Theo thống kê: chỉ trong vòng 6 năm (1924 - 1929), số
vốn đầu tư vào Đông Dương, chủ yếu là vào Việt Nam, lên khoảng 4 tỷ
phrăng (Lịch sử 12 - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2008). Trong đó, vốn đầu tư
vào nông nghiệp, chủ yếu là cho đồn điền cao su. Diện tích trồng cao su được
mở rộng, nhiều đồn điền cao su xuất hiện như: đồn điền cao su Cam Tiêm,
đồn điền cao su Phú Riềng... Pháp còn mở rộng một số ngành công nghiệp
như: dệt, muối, xay sát… Các nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy cưa Bến
Thủy … lần lượt ra đời. Nhà máy dệt Nam Định được xây dựng từ những
năm cuối thế kỷ XIX nay được mở rộng, nâng cấp để trở thành một trung tâm
dệt nổi tiếng trên toàn quốc với một tổ hợp nhà máy khép kín từ khâu đầu đến
khâu cuối. Tư bản Pháp rất coi trọng đến việc khai thác mỏ, trước hết là than.
Công ty than Hòn Gai thành lập năm 1888, một năm sau tổng sản lượng than
ở Đông Dương đã lên tới 260.000 tấn. Từ năm 1890 đến 1904 các công trình
khai thác than càng được đẩy mạnh. Ngoài than, các cơ sở khai thác thiếc ở
Tĩnh Túc (Cao Bằng), bạc ở Ngân Sơn (Bắc Cạn), vàng ở Bồng Miêu (Quảng
Nam)… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai
thác. Giao thông vận tải, đã được thực dân Pháp đầu tư xây dựng ngay từ
đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và kỹ thuật. Ngoài các tuyến đường sắt ở
19
miền Nam, thực dân Pháp tiếp tục xây dựng các tuyến đường sắt như Vinh -
Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm. Đường bộ cũng tiếp tục được xây dựng. Nếu
như đường sắt, đường bộ có vị trí quan trọng trong kinh tế đối nội, thì đường
thủy đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đối ngoại. Vì thế, cùng với các hải
cảng đã xây dựng trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất như cảng Sài
Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, thực dân Pháp tiếp tục cho xây dựng các hải cảng
mới như Hòn Gai, Bến Thủy... Mạng lưới vận tải đường sông vùng châu thổ
sông Hồng và sông Cửu Long cũng được khai thác triệt để.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn lợi dụng quyền thống trị về chính trị để
duy trì bộ máy quan liêu, cường hào và những luật lệ của chế độ phong kiến
để ra sức chiếm đoạt ruộng đất, tăng cường bóc lột sưu thuế, sưu dịch, làm
phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt để thực hiện
công cuộc khai thác tại thuộc địa và xuất khẩu lao động sang Pháp. Kết quả
của các chính sách ấy là nền kinh tế cổ xưa bị phân giải, lưu thông hàng hóa
phát triển, nước ta bị kéo vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Thực dân Pháp biến
Việt Nam từ một nước đang theo chế độ “quân chủ” thành một nước theo chế
độ “thực dân nửa phong kiến”.
1.1.1.2. Sau khi đặt xong bộ máy chính quyền ở Việt Nam, thực dân
Pháp bắt đầu thực hiện âm mưu và chính sách Pháp hóa đối với dân tộc ta.
Với chính sách chia để trị, thực dân Pháp chia Việt Nam ra làm ba kỳ riêng
biệt (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Mỗi kỳ có một chính sách luật lệ riêng,
trong đó Nam Kỳ trở thành xứ thuộc Pháp với những nét riêng về chính trị,
kinh tế, xã hội rộng, thoáng hơn so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Pháp tăng cường
tuyển mộ lính và khai thác kinh tế thuộc địa, lập nhiều đồn điền ở Nam Bộ,
xây dựng cảng Sài Gòn, mở đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, xây cầu trên
sông Vàm Cỏ, lập nhiều công xưởng như đóng tàu, nhà máy xay lúa ở Sài
Gòn, Chợ Lớn…. Những cơ sở kinh tế ban đầu này khiến nền kinh tế Nam Kỳ
20
phát triển mạnh mẽ, tạo độ chênh lớn giữa ba miền Bắc - Trung - Nam.
Cùng với những chính sách về kinh tế, thực dân Pháp còn tiến hành
nhiều chủ trương và biện pháp chính trị vừa mang tính chất cải lương vừa thể
hiện sự giả dối bịp bợm, nhằm mục đích củng cố quyền vị thống trị của
chúng. Chẳng hạn: thành lập các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Các
phòng thương mại và canh nông của những thành phố lớn được mở rộng cho
người Việt tham gia. Năm 1928, thực dân Pháp lập ra Đại hội đồng Kinh
tế Tài chính Đông Dương với tư cách là cơ quan tư vấn về vấn đề kinh tế, tài
chính trong Liên bang Đông Dương. Ở khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến
hành "cải lương hương chính” nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào công
việc nội bộ của làng xã, loại bỏ dần tính chất tự trị của nó. Mặc dù, trên
nguyên tắc, công cuộc “cải lương hương chính” vẫn chấp nhận cơ chế quản lý
làng xã cổ truyền, nhưng trong một chừng mực nào đó thực dân Pháp đã đạt
được mục tiêu can thiệp trực tiếp vào công việc làng xã bằng cách kiểm soát
nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã. Song song đó, chúng đẩy mạnh chính
sách văn hóa ngu dân và tư tưởng nô dịch đối với quần chúng nhân dân.
Chúng mở nhiều nhà tù hơn trường học, chúng bắt học sinh từ 18 tuổi trở lên
ở các trường tư thục phải đóng thuế thân để hạn chế việc học tập của con em
tầng lớp nghèo. Chính quyền thực dân cấm nhân dân ta đọc và lưu hành
những tác phẩm có nội dung, tư tưởng tiến bộ. Trước thế chiến thứ II, do
phong trào đấu tranh của quần chúng, chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp
có lúc được nới lỏng, nhưng từ khi đại chiến thế giới lần thứ II sắp bùng nổ,
lệnh kiểm duyệt của chúng trở nên gắt gao hơn. Mặt khác, chúng cho du nhập
những sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy của phương Tây vào Việt Nam.
Chúng lại không ngừng rêu rao quan điểm: thực dân Pháp sang Việt Nam với
sứ mệnh đem ngọn đuốc văn minh của nước mẹ Đại Pháp sang truyền bá cho
nhân dân Việt Nam. Và để đạt được mục đích, chúng chủ trương mị dân như:
21
chính sách “Pháp - Việt đề huề”; phát động các phong trào “Âu hoá”, “Vui vẻ
trẻ trung” ở khắp các thành thị để mê hoặc và ru ngủ lớp thanh niên mới lớn.
Song song với các chủ trương mị dân này, thực dân Pháp còn xây dựng và
thiết lập hệ thống giáo dục, trong đó, tiếng Pháp đã lấn át tiếng mẹ đẻ. Mục
đích của chương trình này là nhằm đào tạo ra những con người phục vụ cho
chính quyền thực dân. Tuy nhiên, trong các trường Pháp - Việt, học sinh, sinh
viên Việt Nam cũng có điều kiện tiếp thu được một phần nền văn hóa tiến bộ
của phương Tây.
Có thể thấy rằng, với công cuộc khai thác về kinh tế, việc áp đặt về
chính trị, thực hiện chính sách ngu dân cực kỳ thâm độc; chế độ thực dân nửa
phong kiến hình thành khiến đời sống nhân dân ta, đặc biệt là nông dân lâm
vào cơ cực. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, đối với tình hình trì trệ lâu
đời của xã hội phong kiến Việt Nam, quá trình khai thác thuộc địa, việc thiết
lập hệ thống chính trị mới của thực dân Pháp ở nước ta về khách quan đã
mang đến những biến đổi lớn lao làm cho mọi hoạt động của xã hội Việt Nam
đều thay đổi trong đó có văn học nghệ thuật nói chung và nghiên cứu văn học
nói riêng.
1.1.2. Những biến động lớn của xã hội
Như đã trình bày, chính quá trình khai thác thuộc địa ngày một mở rộng
cùng với việc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở một số đô thị
lớn như Hải Phòng, Vinh, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn… đã làm cho sự
phân hóa giai cấp diễn ra vô cùng sâu sắc và nhanh chóng làm xuất hiện nhiều
giai cấp và tầng lớp mới trong xã hội. Trước hết là sự xuất hiện của giai cấp
tư sản. Đây là những người tham gia hoạt động kinh tế ở các lĩnh vực thương
mại, sản xuất có qui mô lớn, nhỏ khác nhau tùy theo sự thành đạt. Do điều
kiện kinh doanh, giai cấp tư sản Việt Nam tự phân thành hai bộ phận: tư sản
22
mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản là những nhà đại lý cho tư bản
nước ngoài, những tư sản hùn vốn kinh doanh với tư sản Pháp hoặc có quan
hệ buôn bán với nước ngoài. Tư sản dân tộc có mặt trong hầu hết các lĩnh vực
kinh tế. Lực lượng này đáng lẽ ra phải đóng vai trò “ông chủ” mới của xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng thực tế vừa mới ra đời đã bị tư bản Pháp chèn
ép, kìm hãm nên thế lực kinh tế yếu. Vì thế, để tồn tại và phát triển, bộ phận
này thường liên kết với nhau trong kinh doanh và do đó nhìn chung họ có tinh
thần dân tộc.
Tiếp đến là sự hình thành giai cấp công nhân. Đây chính là con đẻ của
giai cấp nông dân nhưng đã bị tước đoạt hết ruộng đất, bị bần cùng hóa, phải
từ giã ruộng vườn kéo nhau ra thành thị để bán sức lao động trong các nhà
máy, xí nghiệp, công xưởng... Dù bị bóc lột nặng nề nhưng về cơ bản, họ có
thu nhập ổn định nên có nhu cầu hưởng thụ văn hóa. Đó cũng là lý do để hoạt
động văn học đổi mới và phát triển.
Cuối cùng là sự xuất hiện của giai cấp tiểu tư sản. Chính quá trình khai
thác thuộc địa, sự xuất hiện hệ thống thành thị kiểu phương Tây và nền giáo
dục mới ra đời đã làm cho lực lượng này ngày càng trở nên đông đảo. Trong
khi đó, ở nông thôn giai cấp địa chủ không những không bị thu hẹp mà trái lại
được phát triển đủ mạnh để có thể trở thành nền tảng xã hội của chế độ thuộc
địa. Và sau lũy tre xanh vẫn là một vòng tròn khép kín, tù đọng đè nặng, làm
cho đời sống của người nông dân sống nơi “bùn lầy nước đọng” ngày càng bị
bần cùng hóa.
Trong các giai cấp và tầng lớp mới xuất hiện này, có thể thấy, tầng lớp
trí thức tiểu tư sản giữ một vai trò quan trọng trong lĩnh vực văn hóa nói
chung và văn học nói riêng. Tầng lớp này, tuy có hoàn cảnh xuất thân không
giống nhau: trí thức (học sinh, sinh viên), tiểu thương (những người buôn bán
nhỏ), thợ thủ công, nhưng về cơ bản, họ sống ở các đô thị, có nếp sống tương
23
đối ổn định và đầy đủ trong một xã hội đang nhanh chóng thay đổi. Họ có
điều kiện để học hành, để tiếp xúc với những thông tin về chính trị, văn hóa,
xã hội. Chính tầng lớp này và cuộc sống đô thị đã làm nảy sinh những nhu
cầu mới về hưởng thụ văn hóa khác với nhu cầu của con người dưới chế độ
phong kiến. Họ cần cập nhật thông tin, vì thế báo chí ra đời; cần cập nhật tác
phẩm vì thế xuất bản phát triển. Văn học nghệ thuật trở thành hàng hóa, vì
vậy xuất hiện ngành kinh doanh hàng hóa văn học bao gồm những người kinh
doanh và viết văn. Đời sống văn học hình thành nên một đội ngũ tác gia mới -
những nhà văn chuyên nghiệp, sống bằng nghề và với nghề. Chính họ là
những người quyết định sự phát triển của nền văn học mới. Từ đây: người ta
quan niệm việc cầm bút viết văn như một chuyên môn của một số trí thức
nhằm hướng đạo xã hội, phụng sự nghệ thuật, trong xã hội xuất hiện tầng lớp
nhà văn chuyên nghiệp, sống bằng nghề viết văn, thậm chí “Vợ dại con thơ,
sự sinh hoạt trông nhờ một ngọn bút” (Giấc mộng con).
Nhìn chung, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Paul
Doumer và lần thứ hai của Albert Sarraut (trước và sau đại chiến thế giới lần
thứ nhất 1914 - 1918) là nhân tố chính làm chuyển biến sâu sắc cơ cấu xã hội
Việt Nam. Lúc bấy giờ, nền kinh tế phong kiến bị phân giải, người nông dân
bị bần cùng hoá. Do quá trình khai thác thuộc địa ngày càng được đẩy mạnh
nên từ Nam chí Bắc, những trung tâm kinh tế, văn hoá của xã hội thực dân
nửa phong kiến đã mọc lên. Sự ra đời của thành thị đã làm xuất hiện nhiều
tầng lớp xã hội mới như: tư sản, tiểu tư sản (viên chức, học sinh, dân nghèo
thành thị…), công nhân như đã nói ở trên. Cùng với sự phát triển của các đô
thị, số thị dân cũng tăng nhanh. Trong quá trình sinh tồn, thị dân đã tạo ra một
lối sống riêng, tập quán riêng, vừa kế thừa những giá trị truyền thống, nhưng
đồng thời cũng có những nét khác với lối sống của nông dân. Hệ thống thành
thị phát triển, thị dân ngày càng đông đúc là những tiền đề, những điều kiện
24
để tiếp nhận văn hóa phương Tây và thúc đẩy nền văn học nhanh chóng hiện
đại hóa trong đó có hoạt động nghiên cứu văn học.
1.2. Tiền đề văn hóa - văn học
1.2.1. Công cụ biểu đạt mới
Đầu thế kỷ XX, cùng với những biến đổi về lịch sử - xã hội, đời sống
văn hoá cũng có những nét mới đáng kể. Yếu tố đầu tiên quan trọng, tác động
tích cực đến sự phát triển của văn học nói chung và hoạt động nghiên cứu văn
học nói riêng giai đoạn này là sự phổ biến chữ quốc ngữ.
Như đã biết, chữ quốc ngữ là thứ chữ được các giáo sĩ phương Tây cùng
các trí thức Việt Nam xây dựng từ thế kỷ XVII để ghi âm tiếng Việt với mục
đích là truyền đạo Thiên Chúa. Từ khi nước ta thành thuộc địa, chính quyền
thực dân đã bỏ ra nhiều tiền của, công sức và cả biện pháp hành chính, kinh tế
cưỡng bức nhân dân ta học chữ quốc ngữ. Trong nghị định ngày 6 - 4 - 1878,
thực dân Pháp đã đặt ra yêu cầu: “Kể từ ngày 1 - 1 - 1882 không một tuyển
dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào được cho phép trong ngạch
phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai trong tình trạng không viết được chữ quốc
ngữ” [79,tr.33]. Đồng thời, để khuyến khích việc học chữ quốc ngữ, thực dân
Pháp cũng đã dùng những chính sách đãi ngộ như: miễn thuế thân, miễn tạp
dịch và thưởng hậu hĩnh đối với công chức, nhân viên, các quan tòa, sĩ quan...
phụ trách việc chỉ huy binh lính và dân chúng mọi địa hạt nếu họ tích cực học
chữ quốc ngữ [79,tr.34]. Mặt khác, thực dân Pháp cũng đã “Không ngần ngại
phát những trợ cấp lúc ban đầu từ 50 đến 100 quan cho những làng nào viết
được các công văn bằng chữ quốc ngữ” (Thông tư ngày 28 - 10 - 1874).
Ngoài ra, trong các trường Pháp - Việt, cùng với việc học tiếng Pháp là chính,
thực dân Pháp còn bắt buộc học chữ quốc ngữ và chữ Hán. Và trong kỳ thi
Hương (1906), cũng có qui định một phần thi luận chữ Việt (quốc ngữ). Mục
đích của người Pháp ở đây là muốn đem chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán và
25
chữ Nôm, cách ly nhân dân Việt Nam khỏi truyền thống văn hoá dân tộc,
cũng như khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, và trước mắt chặt đứt ảnh hưởng
của giới sĩ phu đối với nhân dân... để dễ dàng thống trị nước ta.
Đối với nhân dân ta, trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX, ngày càng có
nhiều người hơn theo học chữ quốc ngữ, thế nhưng nhìn chung, thứ văn tự
này vẫn ít được tín nhiệm, bởi nó bị xem là thứ chữ của “quân cướp nước”
nên không dễ dàng thay thế được chữ Hán - Nôm. Dù vậy, cùng với sự phát
triển của đô thị và sự xuất hiện của nhiều tầng lớp xã hội mới, chữ quốc ngữ
từng bước được công chúng làm quen và thực sự được thừa nhận vào thập
niên đầu của thế kỷ XX. Riêng đối với các sĩ phu Việt Nam, lúc đầu, họ xem
chữ quốc ngữ là sản phẩm và công cụ cai trị của quân xâm lăng nên không
tiếp nhận. Đến đầu thế kỷ XX, các nhà Nho yêu nước và duy tân nhận rõ ưu
thế dễ đọc, dễ viết của chữ quốc ngữ nên đã chuyển từ thái độ phản ứng sang
nhiệt tình cổ động, hô hào học và dùng chữ quốc ngữ
“Trước hết phải học ngay quốc ngữ
Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác nhau;
Chữ ta, ta phải thuộc làu,
Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài,
Sẵn cơ sở để khai tâm trí...
(Thơ Đông Kinh nghĩa thục)
hay “Một đằng thì mất mấy năm trời để đi học một thứ chữ khác hẳn tiếng
mình mà vẫn không có công hiệu, một đằng thì chỉ mất không tới sáu tháng là
học ngay được văn tự của tiếng mình. Vậy thì không thể không theo chữ nước
ta” (Văn minh tân học sách - 1904). Sự truyền bá chữ quốc ngữ qua các
phong trào Minh Tân (ở Nam Bộ), phong trào Đông Kinh nghĩa thục (ở Bắc
Bộ) vào những năm 1907 - 1908 đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng
khiến thứ chữ này dần dần được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong sự tiếp thu
26
của nhiều tầng lớp nhân dân. Ngay nhà Nho yêu nước Nguyễn Đình Chiểu là
người kiên quyết không hợp tác với Pháp nhưng lại có ý thức tiếp nhận chữ
quốc ngữ khi đồng ý cho con gái là Nguyễn Thị Khuê (Sương Nguyệt Anh,
sau này là chủ bút tờ Nữ giới chung - tờ báo nữ giới đầu tiên tại Việt Nam,
cũng là tờ báo có chủ trương truyền bá chữ quốc ngữ) học chữ quốc ngữ. Các
phong trào duy tân này là động lực của bước đầu hiện đại hóa văn học Việt
Nam, không những trên hình thức mà cả trong chiều sâu tư tưởng của văn
chương.
Chữ quốc ngữ cũng ảnh hưởng tích cực và phần nào mang tính quyết
định đến sự ra đời và phát triển của nền văn xuôi nước ta. Với sự phát triển
nhanh chóng, chữ quốc ngữ đã khiến câu văn xuôi tiếng Việt có nhiều đổi
mới, đồng thời việc sáng tác văn chương bằng quốc ngữ cũng giúp cho chữ
quốc ngữ ngày càng diễn đạt tinh tế hơn cuộc sống, tâm tư tình cảm của con
người. Góp công đầu trong việc đổi mới này phải kể đến các học giả như
Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Trọng Quản...
ở miền Nam, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy
Tốn... ở miền Bắc. Trong số này, người có công đầu tiên là Trương Vĩnh Ký
(1837-1898) - nhà bác học biết nhiều thứ tiếng nhưng vẫn dành tâm huyết cho
việc phiên âm các văn bản văn chương cổ điển và biên soạn văn học dân gian
bằng chữ quốc ngữ như Truyện Kiều (1875), Đại Nam quốc sử diễn ca
(1887), Lục súc tranh công (1889), Phan Trần truyện (1889), Lục Vân Tiên
truyện (1889)...
Có thể thấy rằng, sau hàng nghìn năm bị lệ thuộc phong kiến phương
Bắc và tiếp biến nền giáo dục khoa cử Trung Hoa, người Việt Nam đã mượn
chữ Hán làm công cụ diễn đạt nhận thức cũng như tâm tư tình cảm của mình
qua các trang viết (sáng tác, nghiên cứu, thi cử...). Tuy nhiên, chữ Hán chỉ
được tiếp nhận bởi những tầng lớp quan lại trong hệ thống triều đình phong
27
kiến Việt Nam, đại đa số người bình dân Việt Nam không thể tiếp cận được
văn bản chữ Hán. Đến khi ý thức độc lập dân tộc thực sự được khôi phục thì
chữ Nôm ra đời, nhưng chữ Nôm lại dựa trên cơ sở của chữ Hán, và vì vậy,
dù rất có ý thức độc lập tự chủ, chữ Nôm vẫn là một loại chữ khó học. Chính
vì thế, chữ quốc ngữ La-tinh đã thực sự trở thành một thứ chữ viết dễ học và
dễ đọc. Nó đã phát triển nhanh chóng và thật sự thuyết phục trước nhu cầu
biết đọc và biết viết của người Việt. Thông qua các nhà văn Tây học, chữ
quốc ngữ đã thật sự trở thành công cụ diễn đạt hữu hiệu nhằm phản ánh cuộc
sống và tâm tư, tình cảm con người Việt Nam, được sử dụng phổ biến và đưa
văn học đến gần với người đọc. Chính vì thế, nó trở thành một công cụ, một
phương tiện quyết định để chuyển tải văn hóa, văn học phương Tây thâm
nhập vào đời sống văn học Việt Nam, giúp văn học dân tộc từng bước tiệm
cận với dòng chảy chung của văn chương thế giới. Có thể khẳng định, chữ
quốc ngữ La-tinh là một trong những nhân tố quyết định góp phần vào quá
trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam nói chung và quá trình hiện đại hóa
hoạt động nghiên cứu văn học nói riêng.
1.2.2. Nền giáo dục mới
Năm 938, với chiến công hiển hách của Ngô Quyền trên sông Bạch
Đằng, dân tộc Việt Nam khôi phục nền độc lập, thống nhất quốc gia, xây
dựng nhà nước phong kiến. Nền giáo dục phong kiến được hình thành và phát
triển. Trải qua 10 thế kỷ, nội dung, cách tổ chức việc dạy và học, thi hành chế
độ khoa cử của nền giáo dục phong kiến qua các triều đại cơ bản là giống
nhau. Chẳng hạn: nội dung dạy và học từ lớp ở thôn xã đến các trường ở lộ,
phủ, kinh đô đều lấy Tứ thư, Ngũ kinh làm sách giáo khoa; các triều đại Lý,
Trần, Lê, Nguyễn tổ chức các khoa thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình) về cơ
bản là giống nhau… Trải qua nghìn năm lịch sử, nền giáo dục phong kiến
Việt Nam đã đào tạo nên nhiều nhà bác học, nhà văn, nhà viết sử, nhà giáo,
28
thầy thuốc … có danh tiếng cùng những thế hệ trí thức giữ vai trò quan trọng
trong việc xây dựng, vun đắp nền văn hiến Việt Nam. Một nền giáo dục
phong kiến coi trọng luân lý, lễ nghĩa, góp phần cơ bản xây dựng nền tảng
đạo đức xã hội. Tuy nhiên, ý thức tồn cổ của Nho giáo đã cản trở những tư
tưởng cải cách, kìm hãm sự phát triển của xã hội; phương pháp học khuôn
sáo, giáo điều,... là những hạn chế của nền giáo dục phong kiến Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Ngay khi nắm
chính quyền ở Việt Nam, bên cạnh những hoạt động về chính trị và kinh tế,
thực dân Pháp cũng chú ý đến việc truyền bá văn hóa Pháp, hạn chế ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa trong đời sống người dân Việt Nam. Vì vậy,
một trong những việc đầu tiên của người Pháp lúc này là phải thay thế nền
giáo dục phong kiến bằng một hệ thống giáo dục mới nhằm phục vụ cho
guồng máy cai trị. Cho nên, khi vừa chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp lập
tức khai tử nền giáo dục Nho học. Kỳ thi Hương bị xóa bỏ ở Nam Kỳ sớm
nhất (1864). Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn. Kỳ
thi Hương cuối cùng ở Bắc Kỳ là năm Ất Mão (1915), và ở Huế năm Mậu
Ngọ (1918). Chế độ giáo dục và khoa cử Nho học thực sự cáo chung với khoa
thi Hội cuối cùng vào năm Kỷ Mùi (1919) ở Huế.
Từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan hành chánh được
thay thế bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Trên tinh thần ấy, trước tiên thực
dân Pháp dựng lên những cơ sở văn hóa để truyền bá chữ Pháp và thiết lập
các trường đào tạo thông ngôn. Đây là những bước đầu trong việc thiết lập
một nền giáo dục của Pháp.
Khi xây dựng nền giáo dục mới nhằm thay thế dần lối học khoa cử của
Nho gia, thực dân Pháp đã hướng giáo dục vào mục đích đào tạo lớp người
thừa hành chính sách xâm lược của mình ở Việt Nam và cả Đông Dương, tiếp
đến là truyền bá tư tưởng Pháp, và cuối cùng là nhằm vào mục đích mị dân.
29
Để đạt được mục đích này, hệ thống giáo dục của thực dân Pháp đã được
người Pháp ở Việt Nam điều chỉnh cho phù hợp với thực tế ở đất nước thuộc
địa. Hệ thống giáo dục này được gọi là giáo dục Pháp - Việt. Trong nền giáo
dục Pháp - Việt, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính được dùng để trao đổi trong
lớp học. Chỉ ở ba lớp đầu cấp tiểu học là được dùng tiếng Việt, còn các lớp,
bậc học sau đó, tiếng Việt chỉ còn được học như một phụ ngữ.
Hệ thống giáo dục Pháp - Việt được chia làm hai phần: giáo dục phổ
thông và giáo dục cao đẳng chuyên nghiệp (đại học). Chương trình giáo dục
phổ thông Pháp - Việt có ba bậc với 13 năm. Bậc Tiểu học 6 năm. Học hết
chương trình tiểu học, học sinh được thi bằng Tiểu học yếu lược hay Sơ đẳng
tiểu học. Bậc trung học phổ thông 4 năm, học xong được thi bằng Cao đẳng
tiểu học (còn gọi là bằng Thành chung). Bậc Trung học chuyên khoa gồm 3
năm, học xong 2 năm đầu được thi lấy bằng Tú tài phần thứ nhất. Có bằng Tú
tài thứ nhất rồi, học xong năm thứ ba được thi lấy bằng Tú tài toàn phần.
Sau khi có bằng Tú tài toàn phần, người học sẽ được thi tuyển vào các
trường cao đẳng chuyên nghiệp (đại học) Pháp - Việt. Nhưng, như đã trình
bày, mục đích của thực dân Pháp mở các trường Pháp - Việt là nhằm đào tạo
một số công chức cho bộ máy cai trị của chúng, vì vậy, hệ thống các trường
được thành lập không nhiều và số lượng tuyển sinh hằng năm rất hạn chế.
Một số trường cao đẳng được thành lập lúc bấy giờ có thể kể như: Cao đẳng
Sư phạm, Cao đẳng Canh Nông, Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Cao đẳng
Y khoa Đông Dương (sau đổi thành Đại học Y khoa), Cao đẳng Luật (sau đó
cũng đổi thành Đại học Luật). Và đây chính là những nơi đào tạo ra đội ngũ
trí thức cấp cao, đưa nền học vấn Việt Nam lúc bấy giờ phát triển. Trong các
trường Pháp - Việt, họ đã được tiếp xúc trực tiếp với những tri thức văn hóa
khoa học hiện đại của phương Tây, đặc biệt là của Pháp. Hơn thế nữa, họ đã
chịu ảnh hưởng khá sâu sắc những tư tưởng mới về văn học, triết học và xã
30
hội của phương Tây hiện đại. Số lượng sinh viên, học sinh có bằng tú tài, tốt
nghiệp cao đẳng, đại học ở các trường Pháp - Việt ngày càng đông. Phần lớn
trí thức Tây học đều hướng vào những nghề tương đối tự do như làm thầy
giáo, làm báo, hoạt động khoa học kỹ thuật,…. Trong số này, một số người đã
đi vào con đường sáng tác văn chương và nghiên cứu văn học, trở thành một
đội ngũ tác gia tân học thay thế dần đội ngũ tác gia cựu học, chẳng hạn: Lê
Thước, Đặng Thai Mai, Hoàng Ngọc Phách, Dương Quảng Hàm (tốt nghiệp
cao đẳng sư phạm), Phạm Huy Thông (tốt nghiệp đại học ở Paris), Phạm
Quỳnh (tốt nghiệp Trường Thông ngôn), Huy Cận (tốt nghiệp Cao đẳng Canh
nông), Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan,…(đều qua bậc tú tài) và tự
nâng cao trình độ bằng con đường tự học.
Trong quá trình học tập ở các trường Pháp - Việt, những trí thức Tây học
đã được tiếp thu một khối lượng kiến thức cơ bản về lịch sử, văn hóa, văn học
của các nước phương Tây, nhất là của Pháp, trong đó có cả các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học. Vì thế trên phương diện lý thuyết họ là những người
chịu ảnh hưởng rõ những lý thuyết nghiên cứu của phương Tây. Chẳng hạn:
rất dễ nhận thấy sự ảnh hưởng của phương pháp trực giác, phương pháp tiểu
sử, phương pháp xã hội học, phương pháp xã hội học mác-xít…trong những
công trình của các nhà nghiên cứu giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX như: Thiếu
Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại, Hải Triều, Đặng Thai
Mai… Đặc biệt do việc sử dụng cuốn Lịch sử văn học Pháp (1894) của
Gustave Lanson (1857 - 1934) làm sách giáo khoa về văn học Pháp trong các
trường trung học Pháp - Việt đã khiến cho phương pháp lịch sử và so sánh mà
Lanson áp dụng vào công việc nghiên cứu văn học, đã có một ảnh hưởng nổi
bật ở Việt Nam. Có thể nói, sự tiếp thu một cách nhanh nhạy có chọn lọc và
vận dụng khá thành công những phương pháp nghiên cứu hiện đại của
Phương Tây (từ phương pháp trực giác cho đến phương pháp xã hội học mác-
31
xít) là một trong những điều kiện quan trọng dẫn đến quá trình hiện đại hóa
hoạt động nghiên cứu văn học trong giai đoạn này.
Tất nhiên, ai cũng nhận thức được rằng: việc đưa hệ thống giáo dục
phương Tây vào Việt Nam là nhằm mục đích áp đặt nền giáo dục của chủ
nghĩa thực dân trong âm mưu đồng hóa người Việt; song, khi mọi việc đã lùi
về quá khứ, với cách nhìn nhận khách quan khoa học, có thể nói: chính nền
giáo dục ấy đã góp phần chuyển tải những tri thức khoa học mọi mặt của
phương Tây vào Việt Nam, đẩy lùi lối giáo dục nặng nề lý thuyết theo khuôn
mẫu của nền giáo dục khuôn phép, khoa cử, quan phương thiếu sáng tạo dưới
sự thống trị của những trang sách thánh hiền. Người Việt có câu “trong họa có
phúc”, có lẽ ở bình diện nhìn nhận này, phải công bằng mà nói rằng: nền giáo
dục mới từ phương Tây áp đặt vào nước ta như một công cụ đồng hóa, trên
thực tế đã trở thành một luồng gió mới giúp cho nền giáo dục dân tộc có điều
kiện biến đổi và tiếp thu cả hệ thống lý thuyết và kiến thức khoa học cụ thể,
để nhận thức và áp dụng những tri thức mới mẻ vào cuộc sống. Riêng trong
lĩnh vực văn học, nó đã góp phần vào việc biến đổi tư duy nghiên cứu văn học
của thế hệ những trí thức trẻ.
1.2.3. Nền văn học mới
Trước thế kỷ XX, văn học Việt Nam vẫn thuộc phạm trù văn học trung
đại, chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Quốc cả về tư tưởng, loại thể,
chữ viết. Lúc bấy giờ, văn học chính thống do nhà Nho viết, sinh hoạt văn
chương chỉ thu hẹp trong giới trí thức Nho sĩ. Tác phẩm văn học cũng chưa
được phổ biến rộng rãi mà chủ yếu là sáng tác cho cá nhân, bạn bè. Viết văn
chưa phải là một nghề, tác phẩm văn chương chủ yếu là món ăn tinh thần cao
cấp của tầng lớp trí thức quý tộc. Văn chương mang tính quy phạm với niêm
luật chặt chẽ, đề tài, nhân vật, cốt truyện... đều nằm trong hệ thống ước lệ.
Sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có những biến động đáng kể,
32
nhiều đô thị mọc lên, nhiều tầng lớp xã hội mới xuất hiện. Những tầng lớp
mới này có nhu cầu văn hoá thẩm mỹ mới, đòi hỏi một thứ văn chương mới.
Cùng với những biến động xã hội, hoạt động văn hoá có những yếu tố mới
như: sự xuất hiện của chữ quốc ngữ, báo chí, in ấn, dịch thuật. Đây chính là
những điều kiện cơ bản thúc đẩy nền văn học mới ra đời và phát triển để
nhanh chóng hiện đại hóa.
1.2.3.1. Khi văn học Việt Nam đi vào quỹ đạo cận hiện đại, văn xuôi phát
triển trước hết và phát triển khá nhanh. Cuối thế kỷ XIX, một số tác phẩm văn
xuôi đơn giản xuất hiện như: Chuyện đời xưa (1866), Chuyện khôi hài, Kiếp
phong trần (1882), Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi (1876) của Trương Vĩnh
Ký; Chuyện giải buồn (1866) của Huỳnh Tịnh Của. Nhưng cái mốc đánh dấu
sự hình thành văn xuôi hiện đại Việt Nam có thể tính từ khi Nguyễn Trọng
Quản cho xuất bản Truyện thầy Lazarô Phiền năm 1887. Đây là cuốn truyện
quốc ngữ đầu tiên của văn học Việt Nam đã có những cách tân, tuy nhiên tính
tiên phong của Nguyễn Trọng Quản đã không được tiếp nối, bởi “Truyện thầy
Lazarô Phiền chỉ là một con chim lạc từ phương Tây đáp xuống một vùng đất
còn vắng bóng đồng loại. Bởi lẽ đó, nó nổi lên như một ốc đảo chơi vơi vào
nửa sau thế kỷ XIX, không riêng gì Nam Kì mà ở cả Việt Nam” [44,tr.303].
Sau Nguyễn Trọng Quản, mãi đến những năm 20, với sự xuất hiện của
Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn (ở miền Bắc), truyện ngắn quốc ngữ hiện đại
mới thực sự được khẳng định. Đọc tác phẩm của hai ông, ta thấy hiện lên cái
thực tại đen tối, xấu xa của xã hội đương thời. Mặc dù, truyện của hai ông chỉ
mới là “những truyện thoát ly hẳn được cái khuôn sáo của truyện Tàu, chưa
thể coi là những đoản thiên tiểu thuyết tả chân được” [139,tr.120], nhưng hai
ông đã có công khai phá, đặt nền móng cho truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
Tiếp đây về sau, truyện ngắn Việt Nam phát triển càng phong phú về nội
dung, đa dạng về phong cách và bút pháp. Những tác phẩm của Nguyễn Công
33
Hoan, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Tô Hoài, Nam Cao... đã làm
nên những đỉnh cao về truyện ngắn.
1.2.3.2. Thể loại tiểu thuyết ở nước ta xuất hiện muộn. Mãi đến đầu thế kỷ
XIX với sự xuất hiện Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, nước ta
mới có tác phẩm quy mô, tầm cỡ xứng đáng gọi là tiểu thuyết. Tuy nhiên, xét
về nhiều mặt, nó vẫn thuộc phạm trù tiểu thuyết phương Đông. Sang đầu thế
kỷ XX, cùng với sự biến đổi của xã hội, đời sống văn hoá của con người ngày
càng cao, yếu tố đời tư ngày càng được chú ý. Người ta muốn đọc những tác
phẩm mô tả cuộc sống thực tại với mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc
đời để soi chiếu vào mình, để tìm cho mình cách ứng xử, cách sống. Đó chính
là điều kiện cho tiểu thuyết ra đời và phát triển.
Tiểu thuyết buổi đầu xuất hiện trước tiên ở Nam Bộ với các tác giả và
tác phẩm tiêu biểu như: Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Anh hàm oan - 1910),
Trương Duy Toản (Phan Yên ngoại sử - 1910)… Tuy nhiên, đây chỉ là những
thử nghiệm bước đầu, dung lượng tác phẩm còn ngắn, chất lượng nghệ thuật
chưa cao. Đến Nguyễn Chánh Sắt (Nghĩa hiệp kỳ duyên - 1919), Phú Đức
(Châu về Hiệp Phố - 1926), đặc biệt là Hồ Biểu Chánh với một loạt tác phẩm:
Ai làm được (viết 1912 - xuất bản 1922), Chúa Tàu Kim Quy (viết năm 1913 -
xuất bản 1922), Cay đắng mùi đời (1922)…, thì tiểu thuyết quốc ngữ đã có
bước vận động và có những cách tân rõ rệt: ngày càng đa dạng về thể tài,
khuynh hướng, nghệ thuật diễn đạt, giọng điệu; ngôn ngữ phong phú và gần
gũi hơn với độc giả. Trong số này, Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia tiêu biểu
của Nam Bộ đầu thế kỷ XX được độc giả quan tâm, bởi tác phẩm của ông đã
đáp ứng được yêu cầu tâm lý của người đọc Nam Bộ lúc này: trọng nghĩa,
thương người, thủy chung, thẳng thắn… Đóng góp đáng chú ý của Hồ Biểu
Chánh trong tiểu thuyết buổi đầu là đưa vào tác phẩm những cảnh trí, con
người và lối sống của mọi tầng lớp nhân dân Nam Bộ. Tuy nhiên, Hồ Biểu
34
Chánh vẫn chưa thoát khỏi bố cục chương hồi, nội dung dù phản ánh khía
cạnh nào của cuộc sống, bàn về vấn đề gì của xã hội cũng không ngoài vấn đề
đạo lý: khuyên lành tránh dữ, tích ác phùng ác, tích thiện phùng thiện; cho
nên cách kết truyện bao giờ cũng có hậu. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh mang đậm tính bình dân, giàu thực tế nhưng chưa đạt tính chuẩn
mực của ngôn ngữ văn chương. Tóm lại, tiểu thuyết Nam Bộ dù xuất hiện
sớm, nhưng chưa có những đột phá đáng kể, nên ảnh hưởng chủ yếu chỉ tỏa
lan ở Nam Kỳ.
Ở miền Bắc, tiểu thuyết ra đời muộn hơn nhưng dần vươn lên vị trí dẫn
đầu. Trong số các tác phẩm xuất hiện lúc bấy giờ như: Giấc mộng con - 1917,
Giấc mộng lớn - 1929 (Tản Đà); Cành lê điểm tuyết - 1921, Cuộc tang thương
- 1923 (Đặng Trần Phất); Kim Anh lệ sử - 1925 (Trọng Khiêm); Quả dưa đỏ -
1925 (Nguyễn Trọng Thuật); Tố Tâm - 1925 (Hoàng Ngọc Phách)… thì Tố
Tâm của Hoàng Ngọc Phách được chú ý đặc biệt bởi nó đã gây một tiếng
vang lớn “như một trái bom nổ giữa khung trời tình cảm”, vừa xuất hiện đã
tạo ra một làn sóng dư luận khắp cả nước “Từ Bắc đến Nam không ai không
biết đến Tố Tâm”. Với Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách được xem là cây bút tiên
phong mở đường cho trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam buổi đầu thế
kỷ. Tố Tâm được coi là cuốn tiểu thuyết báo hiệu bước phát triển mới của loại
hình văn xuôi tự sự. Từ đây về sau, tiểu thuyết Việt Nam càng phát triển
nhanh với những phong cách hiện đại của các nhà tiểu thuyết trong nhóm Tự
lực văn đoàn cũng như các cây bút tiểu thuyết thuộc trào lưu hiện thực:
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng….
1.2.3.3. Nghiên cứu quá trình hiện đại hóa văn xuôi quốc ngữ không thể
không đề cập đến sự hình thành và phát triển của thể loại phóng sự. Như đã
trình bày, xã hội Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một xã hội đầy
biến động. Để kịp thời ghi nhận và phản ánh trung thực, nhanh chóng những
35
vấn đề cấp thiết của cuộc sống, một thể loại văn mới ra đời và phát triển
mạnh: thể phóng sự. Đây là một thể văn báo chí, có tính tư liệu, nhằm điều tra
sự thật, ghi lại những điều mắt thấy, tai nghe và bình luận; sau đó được các
nhà văn sử dụng như một thể loại văn học. Vũ Ngọc Phan xem phóng sự là
“đứa con đầu lòng của nghề báo chí”, bởi phần lớn các phóng sự đến được với
bạn đọc đều qua con đường báo chí. Tuy nhiên, nếu phóng sự chỉ thuần túy ở
dạng báo chí thì tuổi thọ của nó thường không cao. Những thiên phóng sự lớn
vượt qua được sự sàng lọc của thời gian còn nhờ vào một yếu tố quan trọng là
chất văn học. Đấy là những thiên phóng sự không chỉ có chức năng thông tin,
phát hiện mà còn đậm sắc thái trữ tình. Người đọc không chỉ thấy sự kiện mà
còn thấy vấn đề; không chỉ thấy những phiến đoạn khác nhau của đời sống mà
còn đến được thế giới nội tâm, hiểu được hoàn cảnh của nhân vật…
Nội dung phóng sự giai đoạn này tập trung vào hai mảng đề tài chính:
phóng sự về đời sống sinh hoạt ở đô thị: Tôi kéo xe, Đêm sông Hương (Tam
Lang), Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Lục xì… (Vũ Trọng Phụng); Thanh
niên trụy lạc, Chợ phiên đi tới đâu (Nguyễn Đình Lạp), Hà Nội lầm than,
Làm tiền (Trọng Lang)…; phóng sự về đời sống sinh hoạt ở nông thôn: Làm
dân, Xôi thịt (Trọng Lang); Việc làng, Dao cầu thuyền tán, Tập án cái đình
(Ngô Tất Tố); Một huyện ăn tết (Vũ Trọng Phụng); Bùn lầy nước đọng
(Hoàng Đạo)…. Ngoài ra, còn có các phóng sự về đời sống cực khổ, tàn nhẫn
của nhà tù thực dân, các phóng sự về văn hóa, xã hội, phong tục của Việt
Nam…. Một số tác phẩm về mảng đề tài này như: Ngục Kontum của Lê Văn
Hiến; Đảo Côn Lôn của Nguyễn Đức Chính; Khám lớn Sài Gòn của Phan
Văn Hùm; Một cuộc hành hương ở Hà Tiên của Huỳnh Văn Chính…. Dù viết
về mảng đề tài nào, phóng sự cũng đều tập trung miêu tả thực trạng đen tối
của xã hội đương thời một cách khách quan, chân thực. Và không chỉ là mô
tả, trong khi điều tra sự việc, các tác giả phóng sự đã chỉ ra được nguyên
36
nhân, cũng như đề xuất một số biện pháp nhằm giải quyết sự việc. Ngoài
những đóng góp về mặt nội dung xã hội, phóng sự cũng có những đặc sắc về
mặt nghệ thuật có thể kể như: nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ
thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ…. Với những giá trị nội dung và nghệ
thuật của một thể loại văn học mới - “sinh sau đẻ muộn” (từ năm 1930),
phóng sự đã khẳng định được mình khi có những đóng góp không nhỏ vào
bức tranh chung của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX trong
quá trình hiện đại hoá. Những cây bút phóng sự đáng chú ý là: Vũ Trọng
Phụng, Tam Lang, Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Nguyễn Đình Lạp…. Trong số
này, Vũ Trọng Phụng được coi là “ông vua phóng sự Bắc Kì”.
Cùng với phóng sự, tùy bút, bút ký giai đoạn này cũng phát triển, tuy
nhiên số lượng tác phẩm cũng như tác giả không nhiều. Viết về thể loại tùy
bút xuất sắc nhất phải kể đến Nguyễn Tuân. Ngoài ra, có thể kể một số tác giả
tuy không thật chuyên nhưng cũng để lại một số tác phẩm thành công như:
Thạch Lam (Hà Nội băm sáu phố phường), Xuân Diệu (Trường Ca)…
1.2.3.4. Thơ ca là một thể loại truyền thống đã khẳng định vị trí trong văn
học trung đại Việt Nam, tuy vậy, trong tiến trình hiện đại hóa của văn học
Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, nó cũng đòi hỏi phải có những cách
tân mạnh mẽ, đòi hỏi thay đổi cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật để phù
hợp với thị hiếu thẩm mỹ đương thời. Ai cũng biết, thi ca trung đại quan niệm
thơ là để nói chí, để di dưỡng tinh thần, giữ gìn phong hoá, khuyên điều thiện,
răn điều ác, thơ là công cụ giáo dục con người... thì đến giai đoạn này, các
nhà thơ yêu cầu và khẳng định cái tôi cá nhân với tất cả sự phong phú và phức
tạp của nó trong tác phẩm. Nếu thơ ca trung đại nặng về điển phạm thì thơ ca
hiện đại chú trọng đến việc diễn đạt tinh tế tâm hồn, cảnh vật và con người
với những cảm nhận riêng độc đáo, giàu cảm xúc, giọng điệu. Các nhà thơ đã
cố gắng ghi lại những đường nét, màu sắc, những vui buồn của cuộc đời, của
37
cá nhân vào trong tác phẩm với tất cả sự phong phú, đa dạng của cuộc sống,
con người đương thời.
Ngôn ngữ thơ cũng đổi mới không ngừng, từ Hán Việt ít đi, từ thuần
Việt tăng lên. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ của đời sống phong phú, sinh động.
Nếu thơ cũ tình cảm được thể hiện theo khuôn phép, thì “Thơ Mới” tình cảm
được thể hiện say sưa, nồng nhiệt hơn, cho nên, các nhà “Thơ Mới” phải
không ngừng học tập, tiếp thu, cải biến, thay đổi cấu trúc của câu thơ, sử dụng
từ ngữ sáng tạo và gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày mới có thể thể hiện
đúng những tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình. Thể thơ cũng có những
cách tân, từ những hình thức cổ điển như lục bát, song thất lục bát, Đường
luật…; sau đó, các nhà “Thơ Mới” học tập thơ Pháp sáng tạo ra những bài thơ
tự do, thơ văn xuôi với vận luật, câu thơ, dòng thơ… đổi mới đáng kể. “Thơ
Mới” khác thơ cũ ở chỗ không hạn định về số câu trong một bài thơ và số chữ
trong một câu thơ; một bài thơ có thể có những câu dài ngắn khác nhau xếp
đặt không theo một thứ tự nào, các câu trong bài thơ có thể đặt liên tiếp nhau
từ đầu đến cuối hay phân phối ra thành những khổ thơ khác nhau; cách hiệp
vần trong “Thơ Mới” cũng khác thơ cũ ở chỗ: thường hiệp vần ở cuối câu. Về
âm thanh, nếu thơ cũ quy định vị trí các tiếng bằng trắc trong câu, thì trong
câu “Thơ Mới”, thi gia được tự do phân phối các tiếng bằng trắc cho phù hợp
với tình ý trong câu thơ.... Tóm lại, so với văn xuôi, việc hiện đại hoá thơ
muộn hơn nhưng khi xuất hiện đã đạt được những thành tựu rực rỡ, đặc biệt là
phong trào “Thơ Mới”. Mỗi bước phát triển của “Thơ Mới” đều để lại những
tên tuổi lớn, từ những nhà thơ trong buổi giao thời như Tản Đà, Trần Tuấn
Khải… đến những đỉnh cao chói lọi như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Nguyễn Bính.... “Thơ Mới” thực sự đã giải phóng “cái Tôi cá
nhân” khỏi bút pháp ước lệ khắt khe và có tính chất phi ngã của hệ thống thi
pháp cổ. Các nhà “Thơ Mới” với quan niệm thẩm mỹ mới đã khám phá ra thế
38
giới muôn màu của đời sống, cũng như thế giới phong phú, tinh vi của nội
tâm con người nên đã tạo ra những tác phẩm xuất sắc.
Nhắc đến hoạt động sáng tác thi ca đầu thế kỷ XX không thể không nhắc
đến dòng thơ ca yêu nước và cách mạng. Thơ ca yêu nước, mà tiêu biểu là
những sáng tác mang đậm dấu ấn tuyên truyền chính trị của Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh dù vẫn sáng tác theo thể thơ Đường luật của thơ ca trung
đại, tuy nhiên, nội dung thể hiện thì đã có những bước chuyển đổi rõ nét. Hơi
thở của cuộc sống hiện đại đã phả vào thơ và trở thành linh hồn nghệ thuật
trong những sáng tác của hai nhà chí sĩ này. Nó hoàn toàn khác với lối thơ thù
tạc, ngâm vịnh về cảnh sắc thiên nhiên, về ân sủng của các đấng quân vương
của những “kẻ sĩ” phong kiến. Còn dòng thơ ca cách mạng, mà tiêu biểu là Tố
Hữu, Sóng Hồng, Trần Huy Liệu, Xuân Thủy… về hình thức đã vận động
theo hướng đổi mới, cách tân, song đã có sự chuyển biến về nội dung phản
ánh, góp phần cùng Thơ Mới thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Như vậy, cùng với Thơ Mới, thơ ca yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ
XX đã thực sự góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình hiện đại hóa văn học
Việt Nam. Và với những đổi mới đáng kể về nội dung lẫn hình thức nghệ
thuật, thơ ca Việt Nam chính thức bước sang kỷ nguyên hiện đại và được dịp
phát huy thế mạnh chưa từng có trong diễn đạt muôn mặt của cuộc sống cùng
tâm tư, tình cảm đa dạng, phức tạp của con người.
1.2.3.5. Sự ra đời của kịch nói, một loại hình nghệ thuật hoàn toàn mới du
nhập từ phương Tây đã cho thấy quá trình hiện đại hoá ngày càng được mở
rộng, đẩy tới của văn học Việt Nam. Cái mốc đánh dấu sự ra đời của kịch nói
là vở Chén thuốc độc (1921) của Vũ Đình Long. Tiếp sau đó, hàng loạt những
vở kịch được sáng tác và trình diễn: Tòa án lương tâm (1923), Đàn bà mới
(1944) của Vũ Đình Long; Uyên ương (1927), Hoàng Mộng Điệp (1928), Hai
39
tối tân hôn (1929), Nghệ sĩ hồn (1932), Kinh Kha (1934), Kim tiền (1938),
Ông ký Cóp (1938) của Vi Huyền Đắc; Bạn và vợ (1927) của Nguyễn Hữu
Kim; Chàng ngốc (1930), Ông Tây An Nam (1931) của Nam Xương; Ghen
(1937), Những bức thư tình (1937), Mơ hoa (1941), Ngã ba (1943) của Đoàn
Phú Tứ; Vũ Như Tô (1943), Cột đồng Mã Viện (1944) của Nguyễn Huy
Tưởng… Quá trình vận động của kịch nói diễn ra ở nhiều cấp độ: chủ đề tư
tưởng, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ….
Trước hết, về đối tượng thể hiện. Nếu như tuồng, chèo chỉ có hai loại
nhân vật: trung và nịnh, chính và lệch - là những “con người chức năng trong
xã hội luân thường”, thì nhân vật kịch nói đa dạng hơn, phong phú hơn: từ
một thầy thông, thầy ký, cậu bồi, đến một “Cô đầu Yến” hay cả những “Ông
Tây An Nam”. Trong tuồng, chèo, tâm trạng nhân vật được khắc họa thông
qua hành động, sự việc với những thủ pháp nghệ thuật mang tính ước lệ cao,
thì tâm trạng của nhân vật kịch nói mang tính đời thường và gần gũi với cuộc
sống hơn, được thể hiện trong sự thống nhất giữa hành động kịch và diễn biến
tâm lý sâu sắc trong quan hệ với cuộc sống.
Về nghệ thuật thể hiện; ngôn ngữ kịch nói là ngôn ngữ văn xuôi (nói)
khác với ngôn ngữ thơ (ca) của tuồng, chèo. Nhờ sử dụng ngôn ngữ văn xuôi
nên sức tả, sức tái hiện cuộc sống của kịch nói phong phú, đa dạng hơn. Về
chủ đề tư tưởng; nếu như Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm của Vũ Đình
Long, Bạn và vợ của Nguyễn Hữu Kim, Ông Tây An Nam của Nam Xương là
những vở kịch mở đầu chưa thoát khỏi cái luân lý cổ truyền Á Đông; các nhà
văn nói thay nhân vật hơi nhiều, yếu tố ngẫu nhiên bị lạm dụng nên xung đột
kịch bị gượng ép, thì sang Kim tiền, Ông ký Cóp của Vi Huyền Đắc, nghệ
thuật kịch đã đạt mức trình độ cao, các nhân vật đã có những nét riêng, tự
nhiên, tâm lý sâu sắc. Đến Ngã ba, Những bức thư tình, kịch hầu như không
có ngoại cảnh, tình tiết nữa mà nhường sân khấu cho cái Tôi độc chiếm. Nhân
40
vật kịch là những con người đang Âu hoá, mang tư tưởng tự do, phóng
khoáng nhưng rất Việt Nam. Các vở kịch Ngã ba, Những bức thư tình đầy
chất thơ mộng, đầy ý tưởng lãng mạn, cộng với một nghệ thuật xuất sắc đã
đưa kịch nói vươn đến nghệ thuật hiện đại của thế kỷ XX và nhanh chóng hòa
nhập vào quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam trong giai đoạn này.
1.2.3.6. Nghiên cứu văn học cũng như phê bình văn học ra đời sau hoạt
động sáng tác văn học. Hay nói khác đi, có sáng tác văn học mới có hoạt động
phê bình, nghiên cứu văn học. Trong lịch sử văn học, sáng tác văn học, phê
bình văn học đều ra đời từ rất xa xưa nhưng chưa thành lĩnh vực hoạt động
chuyên biệt. Mãi đến khi văn chương trở thành một thứ “hàng hoá”, nghề viết
văn trở thành một nghề kiếm sống, đặc biệt là khi nhu cầu hưởng thụ thẩm mỹ
của độc giả trở thành thường xuyên và cấp thiết hơn thì lúc bấy giờ phê bình
văn học và văn học trở thành những lĩnh vực hoạt động xã hội đặc thù.
Như ta biết, cũng như hoạt động sáng tác, phê bình văn học gắn liền với
hoạt động báo chí. Tuy nhiên, ở giai đoạn từ năm 1900 đến năm 1913 dù báo
chí có xuất hiện nhưng nhìn chung hoạt động phê bình văn học vẫn trong tình
trạng thưa thớt, vắng vẻ. Một phần là do chủ trương của các báo, mặt khác, ta
thấy xã hội Việt Nam lúc này người đọc báo còn rất ít lại cũng chưa quen với
những bài viết phê bình mà chủ yếu là thưởng thức các sáng tác văn học ngày
càng sinh động và phong phú hơn.
Sang những năm từ 1913 đến 1930, hàng loạt hiện tượng văn học xuất
hiện như: các tạp chí thiên về nghiên cứu, biên khảo ra đời thay thế cho mục
nghiên cứu, biên khảo ở các tờ báo hàng ngày; sự xuất hiện của văn xuôi; sự
thưởng thức văn chương của độc giả cũng linh hoạt, đa dạng hơn; việc tiếp
xúc với văn học phương Tây đã đi bằng con đường trực tiếp chứ không gián
tiếp như trước kia... đã giúp cho đời sống văn học càng phong phú hơn.
Phê bình văn học, ở giai đoạn này có xuất hiện, tuy nhiên chỉ lác đác vài
41
bài, chủ yếu là những lời giới thiệu sách, những bài giảng cổ văn, kim văn,
những bài khảo cứu có kèm những lời lạm bình của một số học giả có tiếng
lúc bấy giờ như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Dương Bá Trạc, Trần
Trọng Kim, Tản Đà trên các tờ Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, Hữu
Thanh, Phụ nữ tân văn, Nam Phong tạp chí... Đây là giai đoạn hình thành của
phê bình văn học hiện đại ở Việt Nam. Trần Thị Việt Trung khảo sát tờ Nam
Phong tạp chí đã kết luận: “Với 210 số báo trong suốt 17 năm tồn tại của
mình, “Nam Phong tạp chí” đã là một bằng chứng tiêu biểu cho việc phê bình
đang dần trở thành một hoạt động xã hội đặc thù, một bộ môn không thể thiếu
được trong nền văn học hiện đại của nước ta hồi những năm 20 - 30 của thế
kỷ” [199,tr.45]. Hơn nữa, các bài phê bình trên các báo lúc bấy giờ đều viết
theo lối cổ, do các nhà Hán học phụ trách, cho nên từ ngôn ngữ, giọng điệu,
đến tư tưởng thẩm mỹ của người bình, ta thấy rất rõ vẫn còn đậm nét của lối
phê bình xưa cũ. Đó là những đoạn văn phê bình có tiêu đề: “Lời bàn của
người dịch”, “Lạm bàn”... sau mỗi bài thơ hoặc bài văn dịch của họ. Bên cạnh
đó, trên báo chí cũng xuất hiện ngày càng nhiều hơn những bài phê bình theo
lối mới của một số các học giả theo phái Tây học. Đó là các bài “Giới thiệu
sách mới”, giới thiệu “Văn mới và bình luận”, những bài bàn về học thuật,
bàn về các vấn đề văn học.... Tuy nhiên, với số lượng bài phê bình còn rất hạn
chế, cộng với phần lớn các bài phê bình chưa đủ sức tách ra khỏi lối “văn
nghị luận nói” nói chung, nên khó có thể chỉ ra đội ngũ các nhà phê bình thực
sự, phê bình chuyên nghiệp.
Từ sau những năm 1930, phê bình văn học theo nghĩa hiện đại thực sự
khẳng định sự có mặt của mình trong đời sống văn học dân tộc bằng những
hoạt động sôi nổi, với sự xuất hiện hàng loạt cây bút phê bình chuyên nghiệp
với những cuốn sách phê bình và rất nhiều bài phê bình đăng trên các báo và
tạp chí lúc bấy giờ. Điều đáng lưu ý nhất, đó là lực lượng phê bình ngày càng
42
được bổ sung với các cây bút phê bình trẻ và có trình độ. Vì vậy, không chỉ số
lượng các bài phê bình tăng gấp bội trên các báo và tạp chí, mà chất lượng các
bài phê bình cũng được nâng cao. Điều này thể hiện qua việc nhiều tờ báo
đương thời có hẳn một chuyên mục đọc sách, phê bình văn học... chuyên đăng
tải các bài phê bình văn học. Chẳng hạn như trên các tờ: Phụ nữ tân văn, Tiểu
thuyết thứ bảy, Trung Bắc chủ nhật, Phong hóa, Ngày nay, Tao đàn, Tràng
an, Hà Nội báo...
Với tư cách là sự “tự ý thức” của văn học thời kì hiện đại, phê bình trong
giai đoạn này cũng phát triển với một tốc độ khá mau lẹ. Ngoài chức năng
đánh giá, thẩm bình các giá trị văn chương, phê bình còn đóng vai trò phát
ngôn tư tưởng cho các trào lưu, các khuynh hướng văn học khác nhau, đồng
thời là người tổ chức, định hướng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển các trào
lưu, các khuynh hướng văn học thời đó. Có thể nói, từ 1930 trở đi, phê bình
văn học đã dần khu biệt thành một bộ môn độc lập không còn tình trạng đồng
nhất với thể văn nghị luận nói chung, hay công việc của một nhà văn học sử,
một người làm hợp tuyển, hay một người viết hồi ký văn học như giai đoạn
trước đó. Phê bình đã trở thành một hiện tượng xã hội đặc thù, ngày càng trở
nên quen thuộc hơn đối với đời sống văn học nước nhà. Các hình thức hoạt
động của phê bình ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Trên báo chí
xuất hiện một cách liên tục các bài phê bình với nhiều giọng điệu, nhiều dạng
vẻ, nhiều cách thức khác nhau. Với một không khí tương đối dân chủ, các nhà
phê bình với những trường phái khác nhau đua nhau lên tiếng thông qua việc
phê bình các tác phẩm văn học đương thời nhằm phát biểu, tuyên truyền
những quan điểm nghệ thuật, quan điểm văn chương và cả những quan điểm
chính trị. Vì vậy, trong đời sống văn hoá đương thời, đã xảy ra khá nhiều cuộc
tranh luận về văn học nghệ thuật nói chung, giữa các nhà phê bình thuộc các
trường phái khác nhau. Chẳng hạn, cuộc tranh luận giữa hai phái: “nghệ thuật
43
vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” (1935-1939) giữa Thiếu Sơn,
Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều... với Hải Triều, Hải Khách, Lâm Mộng Quang...;
cuộc tranh luận về vấn đề: “Dâm hay không dâm” trong văn chương Vũ
Trọng Phụng, giữa tác giả với Thái Phỉ và Nhất Chi Mai (1936). Hoặc cuộc
tranh luận về thơ Hàn Mặc Tử giữa Trần Thanh Mại với Quách Tấn (1942)....
Chuyển sang những năm 1940 - 1945, phê bình vẫn tiếp tục phát triển và
vươn tới “độ chín” của nó. Tuy nhiên, sau khi đã trải qua những năm tháng
hoạt động sôi nổi, ồ ạt của thời kì “Mặt trận Dân chủ” thì hoạt động phê bình
đã chủ động chuyển sang một phương thức hoạt động khác, thầm lặng hơn
nhưng cũng sâu lắng và chắc chắn hơn do chế độ kiểm duyệt của chính quyền
ngày càng trở nên khe khắt. Biểu hiện cụ thể là, nếu như trước kia các nhà phê
bình thường viết bài in trên báo thì nay đã im lặng hoặc chuyển sang viết các
công trình tổng kết, đánh giá giai đoạn văn học vừa qua. Qua khảo sát, chúng
ta thấy có cả một phong trào viết về những công trình như vậy, chẳng hạn:
Theo dòng (1941) của Thạch Lam; Ba mươi năm văn học (1941) của Mộc
Khuê; Cuốn sổ Văn học (1944) của Lê Thanh...
Như vậy, sau gần nửa thế kỷ khẳng định sự có mặt, cùng với hoạt động
sáng tác, hoạt động phê bình ngày càng sôi nổi (phê bình những tác phẩm, tác
giả, hiện tượng văn học cụ thể) và đã tác động tích cực đến giới nghiên cứu
văn học, góp phần rất quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình hiện đại hoá
văn học Việt Nam ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX trong đó có hoạt động
nghiên cứu văn học.
Có thể nói, dưới tác động của bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội, văn
hóa…của nửa đầu thế kỷ XX, đời sống trầm lắng của xã hội Việt Nam nông
nghiệp và phong kiến đã có nhiều biến động đáng kể. Cùng với những đổi
thay về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục; nền văn học mới trong quá trình
tiếp xúc, giao lưu với văn học phương Tây đã nhanh chóng thay đổi và từng
44
bước hội nhập để sau đó, tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự chuyển biến và
cách tân so với văn học quá khứ. Đó là sự xuất hiện hàng loạt các trào lưu
sáng tác, khuynh hướng sáng tác kéo theo sự ra đời của nhiều thể loại văn học
mới: Thơ Mới, tiểu thuyết, phóng sự, … được sáng tác bởi một đội ngũ nhà
văn trí thức Tây học với cái tôi bản lĩnh tạo nên sự đa giọng điệu, đa phong
cách trong sự nghiệp sáng tác khác xa với sự đơn điệu khuôn mẫu, quan
phương của văn chương trung đại… Như vậy, bên cạnh những cách tân táo
bạo trong hoạt động sáng tác thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn; sự xuất hiện của
kịch - một thể loại hoàn toàn du nhập từ phương Tây; hoạt động lý luận, phê
bình văn học ra đời và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận… đã thúc đẩy
văn học Việt Nam nhanh chóng hiện đại hoá để hòa nhập vào văn học thế giới
trong đó có hoạt động nghiên cứu văn học.
1.2.4. Hoạt động dịch thuật
Cùng với việc thưởng thức văn phẩm trong nước, để giúp độc giả kịp
nắm bắt được những quan niệm, tư tưởng học thuật cũng như những danh tác
của văn học nước ngoài, dịch thuật phát triển mạnh mẽ. Lịch sử dịch thuật ở
nước ta bắt đầu dưới triều đại Hồ Quý Ly với bộ Tứ Thư được dịch từ chữ
Hán ra chữ Nôm, hoặc sau này như trường hợp dịch Chinh phụ ngâm cũng từ
chữ Hán ra chữ Nôm.... Nhưng dịch thuật chính thức trở thành hoạt động
chuyên môn là vào thời điểm sau khi chữ quốc ngữ xuất hiện. Dịch thuật ra
đời có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình hiện đại hoá văn học.
Trước hết, thông qua các văn bản dịch thuật, các dịch giả cũng như độc giả
được tiếp cận những kiến thức mới về văn học cổ kim Đông Tây, những trào
lưu văn học, triết học thế giới hiện đại. Việc tiếp thu kiến thức ấy giúp các
nhà văn thay đổi cách cảm, cách nghĩ; học tập được các thể loại mới, các
phương pháp nghiên cứu mới...; độc giả văn học được tiếp xúc và làm quen
với những sáng tác của văn học nước ngoài, từ đó thay đổi dần thị hiếu thẩm
45
mỹ để tiếp nhận những tác phẩm văn chương thuộc nhiều thể loại văn học
khác nhau mà trước đó trong đời sống văn học chưa từng có.
Kể từ khi bản dịch Pháp văn ra quốc ngữ sớm nhất là Truyện Phan Sa
dịch ra quốc ngữ (1884) của Trương Minh Ký ra đời, chỉ trong một khoảng
thời gian ngắn không đầy 20 năm, dường như một phần khá lớn tinh hoa văn
học Pháp - chứ chưa phải của phương Tây - thuộc đủ mọi thể loại được
chuyển sang quốc ngữ. Về kịch có thể kể : Trưởng giả học làm sang, Giả đạo
đức, Người bệnh tưởng, Người biển lận của Molière, Tuồng Lôi Xích, Tuồng
Hòa Lạc của Corneille... Về tiểu thuyết: Telemac phiêu lưu ký (Fenelon),
Truyện ba người ngự lâm pháo thủ (A. Dumas), Những kẻ khốn nạn
(V.Hugo), Truyện Miếng da lừa (H.de Balzac),... Về truyện ngắn: dịch nhiều
truyện của G. de Maupassant, P. Loti, A. France,... Về thơ: dịch thơ của A.
Musset, Lamartine, La Fontaine, V.Hugo, Baudelaire... Đặc biệt, trường hợp
Phạm Quỳnh với các bài: Thơ là gì?, Nghệ thuật viết tiểu thuyết, Nghệ thuật
viết kịch là những bài viết đầu tiên giới thiệu những khái niệm sơ đẳng về
những thể loại nòng cốt của văn học hiện đại. Và “những bài viết này, trên
một phương diện nhất định, có thể coi là một hình thức dịch thuật đặc thù bởi
lẽ trong những bài này, mô thức chung mà ông Phạm sử dụng là tổng thuật
những ý kiến liên quan đến vấn đề cần bàn có và phổ biến trong văn học
Pháp, sau đó kết hợp với những nhận xét, kiến giải, phán đoán riêng mình để
rút ra bài học cho văn học Việt Nam” [79,tr.215].
Việc dịch thuật từ chữ Hán sang chữ Nôm các trước tác nổi tiếng của
Trung Hoa tuy chưa nhiều nhưng đã có ở nước ta từ lâu, nhưng có thể nói
rằng, chỉ với sự xuất hiện của chữ quốc ngữ, thì hoạt động dịch thuật mới phát
triển rầm rộ. Lúc này, các giá trị của văn học Trung Hoa về thơ, cùng với tiểu
thuyết từ Tam quốc chí, Đông Chu liệt quốc, Chinh Đông, Chinh Tây, cho đến
Nhạc Phi, Mạnh Lệ Quân... đã được độc giả đương thời đón nhận qua các bản
46
dịch của Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Chánh
Sắt,...
Những bài dịch thuật liên tục được in trên các báo, được xuất bản thành
sách và phổ biến rộng rãi. Đi đầu trong việc dịch thuật, giới thiệu văn học
phương Tây mà chủ yếu văn học Pháp là hai tờ Đông Dương tạp chí (1913),
Nam Phong tạp chí (1917) và tủ sách Âu Tây tư tưởng (1928).
Có thể nói, sự phát triển mạnh mẽ của dịch thuật những năm đầu thế kỷ
XX đã giúp người đọc làm quen với những thể loại văn học của nước ngoài
như: kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ (thơ trữ tình, thơ ngụ ngôn),... đã tạo
nên những tiền đề, cả về kinh nghiệm sáng tác lẫn tâm lý tiếp nhận cho sự
hình thành các thể loại văn chương mới của văn học nước nhà. Dịch thuật ra
đời vừa tạo điều kiện cho báo chí và xuất bản phát triển, vừa góp phần làm
phong phú thêm từ ngữ tiếng Việt. Văn học dịch cũng có đóng góp to lớn
trong việc chuẩn bị chất liệu ngôn từ cho sự ra đời của văn học mới. Dịch
thuật xuất hiện và phát triển là một trong những nhân tố quan trọng có tác
động lớn đến quá trình hiện đại hoá văn học nói chung và hoạt động nghiên
cứu văn học Việt Nam nói riêng trong giai đoạn này.
Tóm lại, trong bối cảnh văn hoá, văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
như vừa trình bày, quá trình giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và phương Tây
dù không thật thuận lợi nhưng cũng đã phát triển ở cả bề rộng lẫn bề sâu. Hầu
hết các văn nghệ sĩ đều thông thạo tiếng Pháp, họ đủ điều kiện tiếp thu một
cách trực tiếp qua “kênh” ngôn ngữ chính thức toàn bộ các tư tưởng văn hoá,
văn học phương Tây với một hệ thống giáo dục mới, với phương tiện chữ viết
mới (chữ quốc ngữ) thể hiện trên những tác phẩm báo chí và dịch thuật. Công
việc giao lưu đó đến lúc này đã đạt tới độ chín muồi để có thể đưa đến những
hệ quả quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong
lĩnh vực văn học, thúc đẩy văn học Việt Nam bước sang một trang mới. Đó
47
chính là những nguyên nhân khiến nghiên cứu văn học với tư cách là một
hoạt động chuyên môn từng bước định hình, phát triển và nhanh chóng hiện
đại hóa để hòa nhập vào quỹ đạo chung của quá trình hiện đại hóa nền văn
học Việt Nam giai đoạn này.
1.3. Tiền đề vật chất - kỹ thuật
1.3.1. Báo chí
Một thành tố quan trọng góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy quá
trình hiện đại hoá văn học (trong đó có hoạt động nghiên cứu văn học) đó là
sự ra đời của báo chí. Báo chí xuất hiện là một trong những tín hiệu của xã
hội hiện đại, bởi đây là nơi có thể công khai trao đổi, bàn luận, thông tin
những vấn đề về chính trị, văn hoá, xã hội trong và ngoài nước. Ở Việt Nam,
trước khi thực dân Pháp xâm lược, nước ta chưa có một tờ báo nào. Nhưng
sau khi Nam Kỳ trở thành thuộc địa của chính quyền thực dân, người Pháp đã
xuất bản tờ báo đầu tiên Công báo của cuộc viễn chinh ở Nam Kỳ (1861)
bằng chữ Hán và chữ Pháp để đăng các nghị định, quyết định, thông báo của
quân đội Pháp về hoạt động của họ và những mệnh lệnh ban hành cho người
bản xứ. Nhưng cái mốc đánh dấu sự ra đời của báo chí quốc ngữ tại Việt Nam
là sự xuất hiện của tờ Gia Định báo năm 1865 ở Sài Gòn. Theo Dương Quảng
Hàm (Việt Nam văn học sử yếu) thì từ ngày xuất hiện, báo chí nước ta trải qua
ba thời kỳ biến hoá để trở thành một nền báo chí thực sự phát triển trước
1945.
Ở thời kỳ đầu, có các tờ báo: Gia Định báo (1865), Đại Nam đồng văn
nhật báo (1892). Sang đầu thế kỷ XX, một số tờ báo khác tiếp tục xuất hiện
như: Nông cổ mín đàm (1901), Nhật báo tỉnh (1905) viết bằng chữ quốc ngữ,
Đại Việt tân báo (1905), Đăng cổ tùng báo (1907) viết bằng chữ quốc ngữ và
chữ Nho. Báo chí thời kỳ này ngoài một ít tin tức về chuyên ngành như kinh
tế, thương nghiệp, công nghiệp thì mục đích chính là thông tin trong xứ và
48
ban bố các mệnh lệnh của Chính phủ. Thời kỳ tiếp theo, báo chí xuất bản
nhiều hơn, bên cạnh các tờ nhật báo như: Trung Bắc tân văn (1915), Thực
nghiệp dân báo (1920), Tiếng Dân (1927)... còn có thêm các tờ tạp chí như:
Đông Dương tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí (1917), Hữu Thanh tạp chí
(1921), An Nam tạp chí (1926), Phụ nữ tân văn (1929), Phụ nữ thời đàm
(1930), Văn học tạp chí (1932), Phong hoá tuần báo (1932), Khoa học phổ
thông (1934), Ngày nay (1935).... Ở thời kỳ này, báo chí dù là nhật báo hay
tạp chí đều thiên về mặt văn chương. Trên các báo có những mục như: văn
uyển, dịch Hán văn, dịch Pháp văn, dịch tiểu thuyết Tàu và Pháp, thậm chí có
những tờ còn xuất hiện cả một phụ trương về văn chương. Đến thời kỳ cuối,
kể từ khi chính phủ đương thời bãi bỏ lệnh kiểm duyệt báo chí viết bằng quốc
ngữ (1935) thì báo chí xuất hiện ngày càng nhiều và đã có những đổi mới
đáng kể: tin tức ngắn gọn, kịp thời, nội dung không chỉ là thông báo tin tức và
chuyên khảo về nghệ thuật mà còn tuyên truyền về chính trị, xã hội.
Khảo sát hoạt động báo chí, ta thấy, tuy báo chí xuất hiện ở miền Nam
sớm hơn ở miền Bắc, nhưng miền Bắc báo chí phát triển nhanh hơn và
chuyển dần từ báo chí hỗn tạp sang báo chí có tính chuyên ngành, tạo điều
kiện cho sự phát triển chuyên sâu các lĩnh vực văn hoá, khoa học. Chẳng hạn:
năm 1919 có Học báo, 1923 có Vệ nông báo, 1928 có Tạp chí Kịch trường,
1929 có Nông công thương báo, 1931 có Pháp viện tạp chí... Riêng về văn
học, Nam Phong tạp chí là nơi đăng tải nhiều bài chuyên khảo về văn học
đáng quan tâm như: Khảo về diễn kịch, Khảo về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh;
Lược khảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết của Trúc
Hà... đã cung cấp một lượng kiến thức quan trọng cho lý luận và phê bình văn
học.
Báo chí xuất hiện cũng góp vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát
triển chữ quốc ngữ. Nó là nơi các tác giả văn nghệ buổi đầu làm quen với
49
cách viết hiện đại, tư duy hiện đại. Báo chí là nơi các nhà văn, nhà thơ, nhà
báo rèn luyện câu văn, trau dồi ngòi bút của mình qua những bài viết, bài dịch
thuật. Báo chí cũng là địa điểm để thể nghiệm những thể loại văn học mới
như: thơ, văn, tiểu thuyết, kịch, nghiên cứu văn học.... Đối với độc giả, báo
chí là món ăn tinh thần không thể thiếu cho nhiều tầng lớp nhân dân. Báo chí
là phương tiện để giúp độc giả thay đổi thị hiếu thẩm mỹ, làm quen với kiểu
văn chương mới.
Như vậy, báo chí mặc dù là một hình thức văn hoá ngoại nhập, chịu sự
chi phối của chính phủ đương thời, với mục đích là tuyên truyền chính sách
«pháp trị» của chủ nghĩa thực dân và nhà nước phong kiến lệ thuộc, nhưng
bằng sức mạnh nội lực của nền tảng văn hóa dân tộc, bằng ý thức tự tôn dân
tộc, trí thức nước ta đã biết tận dụng nó để giao lưu và bảo tồn những giá trị
văn hoá, văn học nước nhà cũng như để đổi mới và xây dựng một nền văn học
mới. Chính vì lẽ đó, chức năng tuyên truyền, phổ biến thông tin của hoạt động
báo chí đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của xã hội,
sự phát triển của đời sống văn học trong quá trình hội nhập và phát triển ở
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
1.3.2. Nghề in và xuất bản
Do nhu cầu tiếp nhận văn hoá, văn học của công chúng ngày càng nhiều,
báo chí ngày càng phát triển. Để đáp ứng kịp thời cho việc xuất bản báo chí,
ngành in và xuất bản ra đời và nhanh chóng được hiện đại hoá. Ở nước ta
trước đây đã từng có khắc gỗ, in gỗ. Khi thực dân Pháp sang xâm chiếm nước
ta, họ đã mang luôn máy in sang để làm công cụ phục vụ hoạt động tuyên
truyền. Năm 1862, nhà in đầu tiên tại Việt Nam ra đời ở Sài Gòn. Ở Hà Nội,
năm 1907 cũng đã xuất hiện nhà in. Càng về sau ở các tỉnh, thành phố lớn đều
có nhà in và nhà xuất bản (của nhà nước và tư nhân) làm luôn cả công việc
phát hành sách báo. Nếu như trước kia, văn chương là món ăn tinh thần cao
50
cấp của tầng lớp trí thức quý tộc, thì ngày nay nó đã trở thành “món ăn bình
dân phổ biến” của rất nhiều đối tượng trong xã hội. Vì vậy, số lượng người
đọc sách báo ngày càng đông, và để đáp ứng kịp thời nhu cầu của họ, nhiều
nhà in, nhà xuất bản hằng năm đã in ấn hàng trăm văn phẩm đủ mọi thể loại
để tung ra thị trường. Mặt khác, khi sách báo phát hành được công chúng tìm
đọc thì viết văn thực sự trở thành một nghề kiếm sống trong xã hội, vì vậy,
đòi hỏi nhà văn phải đầu tư nhiều hơn cho tác phẩm để thu hút độc giả. Lúc
này, trên văn đàn, đội ngũ nhà văn ngày càng hùng hậu, đã cho ra đời nhiều
tác phẩm phong phú, đa dạng về cả hình thức lẫn nội dung, cả về số lượng tác
phẩm lẫn chất lượng nghệ thuật.
* * * Quá trình hiện đại hóa văn học nói chung và hoạt động nghiên cứu văn
học Việt Nam nói riêng là một quá trình hình thành trên nền tảng của những
tiền đề quan trọng về lịch sử - xã hội; về văn hóa - văn học và về sự phát triển
của đời sống vật chất, khoa học, kỹ thuật… Không có những biến động lớn về
lịch sử - xã hội thì xã hội Việt Nam vẫn mãi tù đọng trong bầu không khí u
trầm, cầu an, ngại đổi mới của xã hội phong kiến nông nghiệp. Con người
Việt Nam vẫn quẩn quanh trong làng xã, quen với những phương thức tự cấp,
tự túc, vẫn chịu sự chi phối nặng nề bởi “cái Ta cộng đồng” của cư dân nông
nghiệp và “cái Ta quân tử” của thể chế phong kiến. Không có những tiền đề
về văn hóa, văn học, dịch thuật, giáo dục thì văn học Việt Nam nói chung và
hoạt động nghiên cứu văn học nói riêng vẫn mãi luẩn quẩn trong từ trường
ảnh hưởng của lối sáng tác và nghiên cứu của nền văn học trung đại với sự chi
phối nặng nề của văn học Trung Hoa. Đó là một nền văn học mang tính uyên
51
bác, quan phương, sùng cổ và cách điệu hóa cao cùng với tính phi ngã của nó.
Và nếu không có tiền đề về sự phát triển về mặt vật chất kỹ thuật để nhanh
chóng in ấn, phát hành, phổ biến tác phẩm văn học đến công chúng thì hoạt
động sáng tác văn học cũng chỉ đáp ứng những phút giây thù tạc vịnh cảnh,
vịnh tình. Nghề văn cũng chỉ mang tính chất nghiệp dư và hoạt động nghiên
cứu văn học Việt Nam cũng quẩn quanh trong lối bình phẩm văn chương tri
kỷ, tri âm, cảm tính và thiếu khách quan. Vì vậy, hiện đại hóa hoạt động
nghiên cứu văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX là một quá trình mang tính tất
yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu hội nhập với thế giới.
Cũng cần nói thêm rằng: Sau cuộc hội nhập lần thứ nhất kéo dài hàng
ngàn năm với phương Đông - chủ yếu với Trung Hoa, chính cuộc hội nhập
văn hóa lần thứ hai với phương Tây đã tạo nên những biến động to lớn về văn
hóa, xã hội. Ở đây, cần nhìn nhận rõ vai trò của các chính sách của thực dân
Pháp nhằm làm thay đổi xã hội Việt Nam để khẳng định vai trò «tiên tiến»
của họ so với chế độ phong kiến trước đây. Mục đích của người Pháp là muốn
biến Việt Nam thành một bộ phận của Pháp quốc hải ngoại để mở rộng cương
vực, biến người Việt thành những công dân Pháp hạng hai da vàng (cũng như
người Pháp da đen ở Châu Phi), vì vậy, họ đã tiến hành một số biện pháp: cải
cách về giáo dục, đầu tư về kinh tế... Tuy nhiên, họ chỉ thực thi đổi mới trong
«sự dè dặt của mưu đồ» nhằm thể hiện ý thức «khai hóa», hạn chế phong trào
đấu tranh của nhân dân ta, nên thực ra, tỉ lệ người Việt được đi học, biết chữ
không nhiều, trí thức cao cấp càng ít hơn. Nhưng giờ đây nhìn nhận một cách
khách quan có thể nói: những gì mà giới trí thức Tây học tiếp nhận được cùng
với những yếu tố nội sinh của nền tảng văn hóa dân tộc, nhân dân ta nói
chung và đội ngũ trí thức nói riêng đã làm biến đổi nền văn học dân tộc, đưa
văn học Việt Nam bước sang một trang mới và nhanh chóng hiện đại hóa.
Trong quá trình ấy không chỉ hoạt động sáng tác phát triển mà lý luận, phê
52
bình, nghiên cứu văn học cũng vậy. Vì thế cần xác định lại mục tiêu mà luận
án này quan tâm là: Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt
Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
53
Chương 2 - NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Nghiên cứu văn học ra đời một cách tự nhiên theo yêu cầu của đời sống
văn học. Ở thời cổ đại, người ta đã bàn đến các chức năng giáo dục, nhận
thức, thẩm mỹ của văn học, từ thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, nhà triết học
Hi Lạp Arixtôt đã bàn nhiều đến những vấn đề văn học nghệ thuật. Đến thế
kỷ XVII, tác phẩm Nghệ thuật thơ ca của N.Boileau (Pháp) được coi là tập
đại thành các tri thức lí luận về văn học, thi pháp học Châu Âu theo tinh thần
quy phạm… Cùng với sự phát triển của văn học, nhu cầu tìm kiếm cái hay,
cái đẹp của tác phẩm văn học ngày càng nhiều và vì thế, nhiều công trình
nghiên cứu, phê bình văn học lần lượt xuất hiện. Tuy nhiên, nghiên cứu văn
học được xem như là một khoa học thì chỉ bắt đầu từ nửa đầu thế kỷ XIX (ở
châu Âu), ở Việt Nam mãi đầu thế kỷ XX mới có các công trình văn học sử.
Nói như vậy để chúng ta thấy rằng, nghiên cứu văn học với tư cách là một
hoạt động chuyên môn ở nước ta chỉ mới hình thành vào đầu thế kỷ XX, cho
nên, trong những thập niên đầu, nghiên cứu văn học còn chịu nhiều ảnh
hưởng của phương pháp nghiên cứu thời trung đại. Mãi đến những năm 30 về
sau, trong quá trình giao lưu, hội nhập với văn hóa, văn học phương Tây và
trước yêu cầu đổi mới nền văn học, các trí thức nước ta mới có điều kiện tiếp
cận và học hỏi các phương pháp nghiên cứu mới của văn học phương Tây để
áp dụng vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Vì vậy, khi tìm hiểu Quá
trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu
thế kỷ XX, chúng tôi cũng xuất phát từ những những công trình nghiên cứu
còn mang đậm dấu ấn của phương pháp nghiên cứu văn học trung đại xuất
hiện những năm đầu thế kỷ dần đến những công trình tiếp thu phương pháp
khoa học phương Tây, mà đặc biệt là giai đoạn 1930-1945 để thấy rằng: hiện
54
đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một
quá trình diễn ra mang tính tất yếu trước đòi hỏi của nhu cầu mới trong đời
sống tinh thần của con người.
2.1. Giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ XX
2.1.1. Ảnh hưởng của quan niệm cổ điển trong hoạt động nghiên cứu
văn học
Hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn này mở đầu bằng
việc xuất hiện rất nhiều các tác phẩm biên khảo. Nhận xét về tình hình nghiên
cứu văn học ở những thập niên này, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên (1965) cho rằng: đây là giai đoạn “phồn thịnh về biên
khảo”, với đủ các loại như: biên khảo về triết học, sử học, văn học. Trong
biên khảo văn học, các nhà biên khảo đặc biệt hướng vào văn học cổ Việt
Nam, nhất là văn chương Nôm; từ sao lục, dịch thuật - phiên âm, hiệu đính,
chú giải, phê bình; sưu tập và khảo luận tổng quát về thể cách, nghệ thuật,
lịch sử… Một số công trình khảo cứu, sưu tập có giá trị có thể kể như Việt
Hán văn khảo (1918) của Phan Kế Bính, Văn chương thi phú An Nam (1923)
của Hà Ngọc Cẩn, Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa (1925) của Lê Thành Ý, Sự
nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928) của Lê
Thước, Văn đàn bảo giám (1928) của Trần Trung Viên…. Tìm hiểu các công
trình biên khảo, nghiên cứu tác phẩm văn chương trong giai đoạn này, ta thấy,
đa số các công trình còn mang tính khái quát, sơ lược; cách nhận định, đánh
giá đều không vượt khỏi khuôn khổ ngữ văn học cổ điển; các tác giả còn chịu
nhiều ảnh hưởng của quan niệm văn chương thời trung đại ở chỗ thiên về
đánh giá, phẩm bình nhiều hơn là phân tích, giải thích các hiện tượng văn
học; nhà biên khảo chỉ cần biết tới văn bản với những thần cú, nhãn tự; mà
chưa lưu tâm đúng mức đến những quan hệ xã hội phức tạp đã sản sinh ra tác
phẩm. Chẳng hạn trong Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính, khi nghiên cứu
55
tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trấn Quốc Tuấn, ông nhận xét: “Xem bài Hịch
của Hưng Đạo Vương truyền cho các tướng, nhời nhẽ rất kích thiết, bao nhiêu
lòng khảng khái trung nghĩa bày tỏ ra cả trên một mảnh giấy làm cho lòng
người cảm động mà giữ vững được giang sơn nhà Trần”; hoặc qua Hịch
tướng sĩ “… thấy được sức mạnh của văn chương tiền bối”. Nhận xét bài thơ
Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, ông cho: “Câu ấy nhời vắn tắt
mà ý nhị thì nhiều, có kém gì thơ Đường”. Tìm hiểu về Truyện Kiều, Phan Kế
Bính đặc biệt chú ý đến sáng tạo nghệ thuật và cách sử dụng từ ngữ của
Nguyễn Du. Ông khẳng định: “Văn lục bát hay nhất không có truyện gì hay
bằng Kim - Vân - Kiều (…). Xem toàn quyển truyện, không có một tiếng nào
là tiếng đục, không một câu nào là câu non. Giọng văn nhẹ nhàng, ý tứ lưu
loát, tá dụng những điển tích cũng tài, mà nhất là những chỗ tả cảnh, tả tình,
tình cảnh nào như vẽ ra tình cảnh ấy” [131,tr.170]. Ông khen Nguyễn Du: “Tả
đến người nào hợp với khẩu khí và tính tình của người ấy mới lại khéo tay
(…). Nói rút lại thì trong toàn thiên, chữ nào cũng êm, chữ nào cũng thoát,
đoạn nào cũng dồi dào ý tứ, tả đến tinh thần, nhời thì nhẹ nhàng mà ý tứ thì
bát ngát, càng đọc càng thấy hay, càng nghe càng thấy thú, không khi nào
chán được, thiệt là văn chương tuyệt phẩm của nước Nam ta” [131,tr.172].
Công trình Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công
Trứ (1928) bàn về cuộc đời và sáng tác của nhà thơ này dù chưa đủ căn cứ để
xác định là một cuốn sách nghiên cứu, phê bình văn học, nhưng ông Lê
Thước được giới nghiên cứu văn học trước đây, như Thanh Lãng chẳng
hạn, coi là “người đầu tiên đi hẳn vào địa hạt phê bình. Tuy chưa đạt
được kết quả rực rỡ, ông cũng đã có công là phá kinh cức” [76,tr.403].
Qua tìm hiểu Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công
Trứ, ta thấy mặc dù công trình có số trang tương đối lớn (168 trang) so với
các tác phẩm cùng thời, nhưng phương pháp nghiên cứu của Lê Thước vẫn
56
còn mang nặng tính giáo điều khi đã dựa vào một số tiêu chuẩn cổ điển về
nghệ thuật để thẩm định tác giả này. Chẳng hạn, nhận xét về văn tài của
Nguyễn Công Trứ, ông cho rằng: “Văn Nôm ông Nguyễn Công Trứ có vẻ đặc
sắc lắm, nhất là văn vần (như ca trù). Ông chỉ dùng những tiếng người ta
thường đọc, thường nghe, nói ra tức là thành văn không nắn nót, chạm gọt
như các thi sĩ khác. Lời văn vừa nhẹ nhàng, vừa chất phác: trông vào không
thấy gì là cao kỳ, mà đọc lên ý thật dồi dào; lời không chải chuốt mà hay, văn
không trau dồi mà lịch: thật là cơ trữ nhất gia” [131,tr.161]; hay khi bàn về
chí hướng của Nguyễn Công Trứ, tác giả viết:
Ta đọc đến lời văn cụ, tự nhiên sinh lòng hăng hái, muốn đi, muốn
chạy, muốn đem thân gánh vác việc đời, để giúp đời cho khỏi những
nỗi bi ai khốn khổ. Ấy cũng bởi cụ đối với đời có cái quan niệm như
thế, cho nên cụ thổ lộ ra một áng văn chương có khí lực hùng mạnh,
dầu ai oán mà không làm cho bi sầu, dầu mỉa mai mà không làm cho
đau đớn. Đương cái thời đại cạnh tranh này, kẻ thời bôn xu quá, đến
nỗi quên mất liêm sỉ, kẻ thời nhu nhược quá, đến nỗi sanh ra chán đời,
quốc dân ta nếu muốn chấn khởi cái tinh thần, bồi thực cái khí tiết cho
ngày một mạnh mẽ lên thời cái lối văn chương hùng tráng này há lại
không nên sùng bái lắm ru [131,tr.162].
Qua đoạn trích trên, dễ nhận ra rằng: phương pháp nghiên cứu của Lê
Thước vẫn còn in đậm dấu ấn lối phẩm bình của văn chương trung đại, nhất là
quan điểm “văn dĩ tải đạo”, đem giá trị văn chương của đối tượng nghiên cứu
đồng nhất với những bài học đạo đức nêu gương cho mọi người. Tác giả tán
dương tinh thần lạc quan, chí khí mạnh mẽ của Nguyễn Công Trứ trong hoàn
cảnh ngặt nghèo và xem đó là bài học cổ vũ, động viên, bồi dưỡng nhiệt tình
sống và hành động của người dân Việt Nam trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Dù
vậy, cái đáng ghi nhận của Lê Thước là công trình của ông đã có hướng mới
57
trong nghiên cứu văn học ở giai đoạn này khi lấy cuộc đời của tác giả để tìm
hiểu và phân tích văn nghiệp.
Điểm qua một vài ý kiến đánh giá trong các công trình khảo cứu vừa
nêu, chúng ta thấy các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến những tác giả và
tác phẩm tiêu biểu cho truyền thống dân tộc như đấu tranh chống giặc ngoại
xâm giành độc lập, đề cao đạo đức của dân tộc… Bên cạnh đó, họ cũng chú ý
nhiều đến việc nghiên cứu phong cách sáng tạo của nhà văn, nghệ thuật viết
văn, những giá trị thẩm mỹ của văn chương… Chính những yếu tố mới này
đã đem lại cho độc giả những cảm xúc và nhận thức thẩm mỹ nhất định. Qua
các công trình nghiên cứu những giá trị văn học cổ, họ đã làm sống lại di sản
quá khứ của dân tộc dưới hình thức chữ quốc ngữ, làm cho đông đảo người
đọc lần đầu được tiếp xúc với những tác phẩm văn học cổ mà trước đây do
được sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm, họ chưa có điều kiện đọc và tiếp
nhận. Đó chính là đóng góp nổi bật của các nhà biên khảo đối với hoạt động
nghiên cứu văn học ở những thập niên đầu của thế kỷ XX. Tuy nhiên, với một
nền quốc văn ngày càng phát triển, lối nghiên cứu truyền thống như trên
không thể đáp ứng nhu cầu tiếp nhận của độc giả đương thời, vì vậy các nhà
nghiên cứu đã không ngừng tiếp thu, vận dụng các phương pháp nghiên cứu
mới của nước ngoài vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam góp phần đẩy
nhanh tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học, trong đó, Truyện
Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm được tập trung tìm hiểu nhiều nhất.
2.1.2. Bước khởi đầu của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học
Phạm Quỳnh là người đầu tiên khởi xướng cho việc áp dụng phương
pháp mới của phương Tây vào nghiên cứu tác phẩm Truyện Kiều. Trong bài
viết của mình đăng trên Nam Phong năm 1919, ông cho rằng: “… không thể
lấy cái tỉ lệ thường của văn chữ Nôm mà xét được. Phải dùng phép phê bình
58
khảo cứu của văn học Thái Tây mới mong phát biểu được cái đặc sắc, bày rõ
được cái giá trị của một nền tuyệt tác trong quốc văn Việt Nam ta”
[59,tr.277]. Và ở bài “Khảo về Truyện Kiều”, Phạm Quỳnh vừa vận dụng lý
thuyết, vừa thực hành khảo sát tác phẩm Truyện Kiều theo một trình tự từ khái
quát đến cụ thể. Mở đầu là lời giới thiệu chung về tác phẩm Truyện Kiều, sau
đó đi vào “Cội rễ Truyện Kiều”, “Lịch sử tác giả”, “Văn chương Truyện
Kiều”, “Tâm lý cô Kiều”. Ở từng nội dung, Phạm Quỳnh đã làm việc một
cách rất nghiêm túc và công phu. Phần “Cội rễ truyện Kiều”, sau khi tìm dịch
cuốn tiểu thuyết Vương Thuý Kiều - nguyên tác của Dư Hoài trong Ngu Sơ
tân chí để đối chiếu với tác phẩm Truyện Kiều, Phạm Quỳnh khẳng định tác
phẩm Truyện Kiều có nguồn gốc từ tiểu thuyết Trung Hoa. Ông viết: “Gần
đây ký gia có đọc một tập thuyết bộ đề là Ngu Sơ tân chí, thấy trong có truyện
Vương Thuý Kiều của Dư Hoài, tự Đạm Tâm, kể tường về lịch sử nàng Kiều,
mà việc thời thuộc về niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, ngờ rằng có lẽ về thời đại
ấy có người kỹ nữ tên là Vương Thuý Kiều thật, mà cái thân thế đáng thương
của nàng đã cảm người đương thời hay người đời sau, khiến người đó mà đặt
thành truyện” [59,tr.294]. Đến phần “Lịch sử tác giả”, sau khi tìm dịch lại
phần “giới thiệu về con người và sự nghiệp của Nguyễn Du” trong Đại Nam
liệt truyện để tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật và thế giới quan Nguyễn Du, Phạm
Quỳnh nhận định: “Xem đó thời biết cụ có tính trầm uất, làm quan thường
không được đắc chí và trong sự kinh lịch có nhiều nỗi bất bình: “Trải qua bao
cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Bởi lòng đau đớn nên
cầm bút viết thường thổ lộ ra những giọng thiết tha ai oán, đầy khắp mọi
quyển Truyện Kiều. Có những câu trong vắt như hạt lụy rơi, não nùng như
tiếng quyên gọi, khiến người đọc đến phải ngậm ngùi mà gạt lệ, đủ biết tác
giả cũng là một khách đoạn trường và cùng Kiều nhi cũng là người một
thuyền một hội vậy” [59,tr.304]. Sang các mục “Văn chương Truyện Kiều” và
59
“Tâm lý cô Kiều”, với sự cảm nhận sâu sắc và bằng một giọng văn đầy cảm
xúc, Phạm Quỳnh đã có những nhận xét khá tinh tế như sau: “Xét trong
Truyện Kiều..., lời văn rất luyện mà ý tứ rất sâu, lời văn luyện cho đến nỗi
tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa và trong một câu không thể nào
dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà
ra; ý tứ sâu cho đến nỗi càng đọc càng cảm, càng nghĩ càng thấm, lời lời trầm
trọng như mang nặng một gánh tình thiết tha, như kêu oan nỗi sầu khổ, cảm
động” [59,tr.306]. Và sau khi đi phân tích, chứng minh về sự đa dạng, đặc sắc
trong văn chương Truyện Kiều, Phạm Quỳnh kết luận: “…Truyện Kiều thật là
đủ các lối văn chương, mà lối nào cũng tới cực điểm, mỗi lối một vẻ, mà lối
nào cũng là “mười phân vẹn mười” vậy (…). Truyện Kiều thời rõ ra một áng
văn chương lão luyện, tưởng có thể sánh với những hạng kiệt tác trong văn
chương khác mà không thẹn vậy” [59,tr.315]. Tiếp sau đó, ông đã đem nhân
vật trong tiểu thuyết của “Thái Tây” so sánh với nhân vật Kiều trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du để thấy được tài năng của Nguyễn Du trong việc sáng
tạo nhân vật. Ông viết: “… cho nên Thái Tây cho những văn sĩ có tài là
những tay sáng tạo ra nhân vật, các nhân vật ấy có khi sinh tồn mãi mãi trong
ký ức của người đời, không bao giờ mai một được nữa. Cụ Tiên Điền ta đặt ra
truyện Thuý Kiều thật cũng đáng là một tay sáng tạo tuyệt luân” [59,tr.306].
Tiếp đến, các đặc điểm nội tâm của nhân vật Kiều trong Truyện Kiều được
Phạm Quỳnh nêu ra và minh chứng cụ thể: “Phong tình mà tiết nghĩa, cả cái
tâm lý cô Kiều là gồm trong bốn chữ ấy”, “Kiều là một kẻ sầu nhân”, “Kiều là
người hay nghĩ hay buồn, lại là người khôn ngoan biết điều quá”, “Kiều là
người đa tình nhưng không đắm đuối vì tình, biết lấy nghĩa mà chế tình, thế là
trúng với lý tưởng của đạo Nho. Lại là người khôn ngoan, “biết đường khinh
trọng, biết lời phải chăng”, đáng lẽ ở đời phải êm thấm trót lọt lắm là phải, thế
mà chỉ gặp những sự hoạn nạn, khổ sở không biết ở đâu mà ra, bèn tin rằng
60
bởi cái số phận đã định như thế, cái tình duyên đã khiến như vậy, không sao
mà cưỡng được, đành đem mình làm hy sinh cho vận mệnh, thế là khuynh
hướng về Phật. Tính cách là tính cách Nho mà tinh thần là tinh thần Phật, đó
cũng lại là một đặc sắc trong tâm lý cô Kiều” [51,tr.317-318]. Sau khi phân
tích và chứng minh những nét nổi bật trong việc miêu tả nội tâm Kiều, Phạm
Quỳnh đã khẳng định một lần nữa tài năng của Nguyễn Du trong miêu tả tâm
lý nhân vật Thuý Kiều, ông nhận xét: “Tiên Điền tiên sinh tả tâm lý cô Kiều
như trên kia một cách rất tinh tường, rất hiển hiện, đủ biết Ngài đã thuộc nhân
tình thế thái lắm và đã hiểu rõ cả cơ quan trong tâm giới người ta” [51,tr.318].
Cũng chọn đối tượng Truyện Kiều để nghiên cứu, Vũ Đình Long,
Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Triệu Luật … đã có những bài viết đáng lưu
tâm. Tìm hiểu Truyện Kiều, Vũ Đình Long viết ba bài: “Nhân vật Truyện
Kiều”, “Triết lý và luân lý Truyện Kiều” và “Văn chương Truyện Kiều” đăng
liên tiếp trong gần 10 số báo Nam Phong. Qua khảo sát các bài viết của Vũ
Đình Long, ta thấy tác giả cũng có những điểm tương đồng với Phạm Quỳnh
trong phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu của Vũ
Đình Long so với Phạm Quỳnh đã có một bước tiến đáng kể, ở chỗ ông đã
bám sát vào nội dung, hình thức tác phẩm, các chi tiết để phân tích, luận bàn
cũng như cách diễn đạt sinh động và linh hoạt hơn. Trong bài “Nhân vật
Truyện Kiều”, cũng như Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long nhận định: “Truyện
Kim Vân Kiều là một thiên tiểu thuyết kiệt tác của Nguyễn Du tiên sinh”,
nhưng ông còn cho rằng cái hay của Truyện Kiều không chỉ là ở lời văn mà
còn ở tài sáng tạo nhân vật. Vũ Đình Long khẳng định:
Cái hay của Truyện Kiều tuy là ở văn chương cũng nhiều thực, nhưng
lời văn đẹp, câu thơ giòn chẳng qua mới là bộ áo khoác bên ngoài, nếu
Truyện Kiều hay chỉ ở cái đấy thôi thì cái giá trị có đâu được lớn lao
như thế, cái ảnh hưởng sâu xa như thế? Truyện Kiều sở dĩ được cùng
61
với non sông thọ trường là vì tác giả có cái tài sáng tạo ra nhân vật,
nghĩa là nhân vật của Truyện Kiều sinh hoạt hệt như thực, ngôn ngữ,
cử chỉ của người nào trong Truyện Kiều cũng hợp với cái tâm lý của
người ấy... [88,tr.133].
Đến bài, “Triết lý và luân lý Truyện Kiều”, Vũ Đình Long đã cực lực tán
dương triết lý và luân lý Truyện Kiều, ông viết: “… Cái triết lý Truyện Kiều
là một cái gương sáng sủa vô cùng, lưu truyền đến thiên cổ cho người đời soi
chung”; “cái triết lý Truyện Kiều cao bao nhiêu, thì luân lý Truyện Kiều cao
bấy nhiêu (…) Cái luân lý cao quí vô cùng ấy, thực là lời châu ngọc hàng
hàng gấm thêu, ta nên thắp hương cảm tạ cụ mà kính lĩnh đem ra thực hành”
[131,tr.553]. Đặc biệt, “Văn chương Truyện Kiều” là phần được Vũ Đình
Long quan tâm nhiều nhất. Ông chia bài này ra làm chín đoạn để nghiên cứu
và ở mỗi đoạn, Vũ Đình Long đã có những nhận xét rất đáng lưu tâm.
Trong “Xét về toàn thể văn chương”, nhà nghiên cứu đã khẳng định về
phương pháp xây dựng cốt truyện của Nguyễn Du: “Cái đặc sắc của Truyện
Kiều là có những chủ não, bao nhiêu việc đều quay về cái chủ não ấy cả”,
“Cái bí thuật của cụ Nguyễn Du là bao nhiêu nguyên tố của sự hành động,
bao nhiêu cảnh ngộ, bao nhiêu việc vặt, bao nhiêu tính tình… đều liên tiếp,
ràng buộc nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, một cách rất tự nhiên, mà đến cái hứng
vị câu chuyện thời dự bị sẵn, giữ gìn khéo, có khi bỏ lửng lơ, có khi cho đột
ngột, chủ đích làm cho cái hứng vị ấy từ đầu chí cuối truyện cứ tuần tự mà
tăng tiến vậy” [131,tr 503]. Nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn
Du, Vũ Đình Long cho rằng tác giả Truyện Kiều rất khéo léo và tài tình trong
cách sử dụng từ ngữ. Ở các mục bàn về “văn tự sự”, “văn vấn đáp”, “văn tả
người”, “văn tả tình”, “văn tả cảnh”, sau khi đi phân tích chi tiết bằng một lối
văn mới mẻ, Vũ Đình Long đã có những nhận xét chí lý như sau: “Văn tự sự
trong Truyện Kiều bao giờ cũng rõ ràng, hoạt bát nhanh nhẹn, lời ý đủ, nghe
62
qua hiểu ngay”; “Văn vấn đáp trong Truyện Kiều thích hợp với tình ý câu
chuyện và thể tài lời thơ”, “Văn tả hình dung của cụ Nguyễn Du tài tình là vì
cùng một nét bút mà cụ tả được cả nàng Kiều hữu hình và nàng Kiều vô hình,
khiến cho độc giả đọc qua một lượt là có thể biết được rõ tài là thế, sắc là thế,
tính tình là thế”; “Văn tả tình trong Truyện Kiều thực là tuyệt bút”; “Cụ
Nguyễn Du thực là một nhà văn tả thực đại tài, những áng văn tả cảnh của cụ
ví như những bức tranh tuyệt bút của nhà danh họa. Những bức cảnh của cụ
có đặc sắc là cảnh nào cũng gọn gàng, ít nét, chứa chan tình tứ, độc giả tưởng
tượng hình dung ngay ra được” [131,tr.506].
Cùng thời điểm với loạt bài nghiên cứu về Truyện Kiều của Vũ Đình
Long, Nguyễn Tường Tam viết “Mấy lời bình luận về văn chương Truyện
Kiều” đăng trên Nam Phong số 79. Qua khảo cứu, ta thấy bài viết của Nguyễn
Tường Tam không có gì mới hơn Phạm Quỳnh và Vũ Đình Long. Nhà nghiên
cứu cũng khẳng định cái đặc tài của cụ Nguyễn Du về đường văn chương,
khẳng định cái hay của văn Kiều...; có mới hơn chăng là ở cách diễn đạt và
việc khẳng định Truyện Kiều là một tác phẩm “mẫu mực và toàn diện”,
“Truyện Kiều thực là một tấm gương luân lý thiên cổ, một cái thú giải buồn
cho người thích ngâm thơ, một cái thú gợi buồn cho người buồn, một bức
tranh vẽ cuộc đời cho người biết nhân tình thế thái, một quyển bói cho người
hay tin, một tập văn rất bổ ích cho người làm văn” [131,tr.486].
Nếu như năm 1919 trong “Khảo về Truyện Kiều”, Phạm Quỳnh khá
thành công trong việc áp dụng phương pháp nghiên cứu mới vào việc tìm hiểu
Truyện Kiều đã giúp cho người đọc hiểu sâu thêm về một danh tác của văn
học cổ Việt Nam, thì đến 1924, nhân ngày lễ kỷ niệm cụ Nguyễn Du, Phạm
Quỳnh với bài “Kỷ niệm cụ Tiên Điền” đã không có phát hiện gì mới hơn, mà
thậm chí có nhiều chỗ còn mang tính tán dương một chiều, thiếu cơ sở khoa
học. Mở đầu bài viết, Phạm Quỳnh khẳng định giá trị Truyện Kiều là tài sản
63
tinh thần của toàn dân vì vậy được toàn dân yêu mến, ham thích: “Hiện nay
suốt quốc văn ta, trên từ hạng thượng lưu, dưới đến kẻ lam lũ làm ăn, bất cứ
già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà ai ai cũng biết Truyện Kiều, ai ai cũng kể
Truyện Kiều, ai ai cũng ngâm Truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều
hưởng cái công nghiệp của cụ Tiên Điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ cụ
và nghĩ đến cái ơn của cụ tác thành cho tiếng nước nhà” [148,tr.3]. Theo
Phạm Quỳnh, Truyện Kiều không chỉ là cuốn sách được mọi người yêu mến
mà nó còn có giá trị bởi nó liên hệ rất mật thiết đến vận mệnh quốc gia: “Văn
chương mình chỉ độc có một quyển vừa là kinh vừa là truyện, vừa là thánh
thơ phúc âm của cả một dân tộc, ví lại khuyết mất thì dân tộc ấy đến thế nào”
[148,tr.3]. Không những thế, Truyện Kiều còn được xem như là nơi hội tụ tất
cả tinh hoa của đất nước: “Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện
Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc tuý; Truyện Kiều
là quốc tuý của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là
quốc hồn của ta” [148,tr.2]. Thậm chí, Phạm Quỳnh còn cho rằng: “Truyện
Kiều là cái “văn tự” của giống nòi Việt Nam ta đã “trước bạ” với non sông đất
nước này” [148,tr.2]. Không chỉ khẳng định giá trị Truyện Kiều trong nước,
Phạm Quỳnh còn so sánh Truyện Kiều với văn học Trung Hoa, Pháp và khẳng
định nó cũng không thua kém, ông viết: “Văn chương Tàu thật là mênh mông
bát ngát, như bể rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển
sánh được với Truyện Kiều… ngay trong văn chương nước Pháp, tưởng cũng
không có sách nào giống hẳn như Truyện Kiều, vì Truyện Kiều có một cái
đặc sắc mà những nền kiệt tác trong văn chương Pháp không có” [148,tr.3].
Rõ ràng, qua những lời tán dương của Phạm Quỳnh trong bài “Kỉ niệm cụ
Tiên Điền”, ta thấy, do quá đề cao tác phẩm Truyện Kiều, những nhận định
của Phạm Quỳnh nhiều lúc cực đoan, không hợp lôgic trong việc nghiên cứu
tác phẩm (chúng tôi không bàn đến mục đích ngoài văn chương của tác giả).
64
Đó chính là nguyên nhân dẫn đến một loạt các bài viết về Truyện Kiều của hai
nhà chí sĩ Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng.
Ngày 01 - 09 - 1924, trên Hữu Thanh tạp chí, Ngô Đức Kế có bài “Luận
về chánh học cùng tà thuyết Quốc văn, Kim Vân Kiều, Nguyễn Du” với
những quan điểm tiếp cận hoàn toàn đối lập với bài “Kỉ niệm cụ Tiên Điền”
của Phạm Quỳnh. Nội dung bài viết của Ngô Đức Kế gồm hai phần: phần
một, luận về mối tương quan đạo đức, hay của tà thuyết đối với vận mệnh một
dân tộc; phần hai, đánh giá về Kiều (chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu ở phần hai).
Nếu như Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam trong các bài
nghiên cứu của mình không ngừng tán dương Kiều cả về nội dung, hình thức,
tài năng tuyệt đỉnh của Nguyễn Du khi sáng tạo tác phẩm Truyện Kiều; trong
số đó, Phạm Quỳnh là người đã cực lực ca tụng Truyện Kiều đến mức cực
đoan, ông quả quyết hai lần “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước
ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ” [148, tr.2], thì Ngô
Đức Kế nhìn nhận Kiều hoàn toàn ngược lại. Đầu tiên, nhà chí sĩ không thừa
nhận Truyện Kiều là một tác phẩm văn học có giá trị cao. Ông lên án Truyện
Kiều đã làm phương hại đến phong hoá đạo đức của ta: “… một đôi thiếu niên
nam nữ, đêm thanh người vắng, trèo tường trổ ngõ, ước hội chuyện trò với
nhau, đối với phong hoá đạo đức là việc bất chính, mở đầu quyển sách như
thế, dù sau có tô vẽ hiếu nghĩa gì đi nữa cũng không đủ làm gương tốt cho
đời” [80,tr.452], nên người đọc Kiều bị xem là “kẻ đàng điếm”. Theo tác giả
bài viết, học Kiều chỉ là “học cái lối thơ phú ca ngâm” nhưng mà “đem tiểu
thuyết mà làm vào thơ, là người vô học”, cho nên không có ích lợi gì cho đất
nước, bởi vì “Truyện Thanh Tâm Tài Nhân là tiểu thuyết hèn mạt bên Tàu,
mà nay nước Việt Nam tôn phụng làm chính kinh sử, thiệt là rước lấy một cái
đại sỉ nhục” [80,tr.454]. Dù phủ nhận Truyện Kiều nhưng Ngô Đức Kế đã có
những nhận định về giá trị văn học dân tộc đáng lưu tâm: “Ông Nguyễn Du
65
dịch Kiều từ đời Gia Long, thế thì từ Gia Long về trước, chưa có Truyện Kiều
thì nước ta không có quốc hoa, không có quốc tuý, thế thì cái văn trị vũ công
mấy triều Đinh, Lý, Trần, Lê, sáng chói rực rỡ đó, đều là ở đâu đem đến cho
bọn “học thuê viết mướn” ấy mà thôi ...” [80,tr.454].
Tháng 9 - 1930 trên báo Tiếng Dân có bài “Chánh học cùng tà thuyết có
phải vấn đề quan hệ chung không?” của Huỳnh Thúc Kháng. Nội dung bài
viết được chia làm ba phần; mở đầu là sự tuyên bố tại sao ông viết bài này;
tiếp theo tác giả đã phê phán Phạm Quỳnh đã có lời lẽ vu cáo đối với “nhà chí
sĩ mới qua đời”; chúng tôi quan tâm đến phần cuối - phần bàn về Truyện
Kiều.
Đồng quan điểm với Ngô Đức Kế khi đánh giá về Truyện Kiều, Huỳnh
Thúc Kháng nhận định:
Truyện Kiều chẳng qua là một lối văn chương mua vui mà thôi, chứ
không phải là thứ sách học,… Ở xã hội ta từ có kẻ tán dương Truyện
Kiều, truyền bá học Kiều đến nay, đã biết bao lớp thanh niên say mê
bóng sắc, chìm nổi bể tình, vứt cả nền nếp gia đình, trật tự xã hội mà
theo mối ham mê của mình. Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những
tuồng thường phong bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều gieo vào
trong cõi tư tưởng không phải là ít [131,tr.76].
Tóm lại, âm hưởng bao trùm các bài viết của Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc
Kháng là việc phủ nhận giá trị tác phẩm Truyện Kiều cũng như người sáng tạo
ra tác phẩm ấy. Tuy nhiên, chúng ta cần phải có cái nhìn toàn diện hơn về
những đánh giá của hai ông đối với Truyện Kiều. Lần đầu tiên trên diễn đàn
văn học Việt Nam diễn ra cuộc tranh luận giữa hai trường phái đối với một
tác phẩm văn học quá khứ mà trong tình riêng của từng người thì ai cũng vô
vàn yêu mến. Đã là tranh luận thì phải có chính kiến và bảo vệ cái chính kiến
ấy đến cùng, chính vì lẽ đó mà chúng ta không quá ngạc nhiên khi hai nhà
66
nghiên cứu vừa là hai chí sĩ yêu nước này đã có những lời lẽ quá đáng khi phê
phán Truyện Kiều. Để làm gì? Thực chất là để chống lại những quan điểm quá
đáng của Phạm Quỳnh trong việc đề cao Truyện Kiều với mục tiêu không
trong sáng. Đây có lẽ là một cuộc tranh luận về quan điểm chính trị hơn là
văn học, mà Truyện Kiều là cái cớ, là “nạn nhân” của cuộc tranh luận ấy.
Sau khi tìm hiểu các bài nghiên cứu về Truyện Kiều của Phạm Quỳnh,
Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng,
chúng tôi nhận thấy các tác giả dù cùng một đối tượng nghiên cứu là Truyện
Kiều, nhưng đã đứng trên những quan điểm khác nhau để tiếp cận tác phẩm
nên đã có những nhận định khác nhau.
Có thể nói rằng: trong buổi đầu làm quen với việc áp dụng các phương
pháp nghiên cứu của văn học phương Tây (chủ yếu là văn học Pháp) vào việc
tìm hiểu văn học Việt Nam, các nhà nghiên cứu không tránh khỏi ảnh hưởng
của những thao tác nghiên cứu của văn học trung đại vào việc tìm hiểu tác
giả, tác phẩm; tuy nhiên, bước đầu cũng đã hé lộ những thao tác nghiên cứu
mới đem lại luồng sinh khí mới trong hoạt động nghiên cứu văn học nước
nhà.
Phạm Quỳnh là người vừa chủ trương về giới thuyết vừa thực hành được
chủ trương của mình khi đưa vào bài nghiên cứu bốn phạm trù mới để nghiên
cứu tác phẩm Truyện Kiều nói riêng và văn học Việt Nam nói chung, đó là:
tìm hiểu về cội rễ tác phẩm, lịch sử tác giả, văn chương tác phẩm, tâm lý nhân
vật. Ở từng phần, ông đã làm việc một cách nghiêm túc từ tìm hiểu nguồn gốc
tác phẩm, tìm hiểu tác giả để tìm căn cứ cắt nghĩa tác phẩm. Về mặt văn
chương, ông cũng đã chú ý tới ý, lời, sự khéo léo, điêu luyện trong cách sử
dụng từ ngữ của Nguyễn Du. Không phải là người đầu tiên tìm hiểu tác phẩm
Truyện Kiều, nhưng chính ông là người phát hiện ra yếu tố tả thực trong văn
chương Truyện Kiều. Bài viết của Phạm Quỳnh đã bộc lộ năng lực cảm thụ
67
văn học khá tinh tế và trình bày những thao tác nghiên cứu mới trong bước
đầu áp dụng phương pháp nghiên cứu của phương Tây vào nghiên cứu văn
học nước nhà. Tuy nhiên, ở nhiều chỗ, Phạm Quỳnh cũng chưa thoát ly được
lối nghiên cứu cổ điển khi đi vào lý giải cái hay, cái đẹp của văn chương. Dẫu
phương pháp ông đưa ra là mới, nhưng trong quá trình áp dụng phương pháp,
cách đánh giá văn phẩm của ông vẫn còn mang nặng tính tán dương một
chiều, hạ những lời khen chê nhiều khi quá to tát để khẳng định giá trị của tác
phẩm; điều đó, vô hình trung, có khi phản tác dụng. Phạm Quỳnh cũng chưa
vượt khỏi quan niệm của văn học trung đại khi xem nhân vật Thuý Kiều là
tấm gương luân lý để mọi người noi gương. Vũ Đình Long, Nguyễn Tường
Tam cũng tương tự như Phạm Quỳnh, dù lối nghiên cứu đã có hệ thống, có
những nhận định khá sâu sắc, văn phong có mới hơn lối nghiên cứu trung đại,
nhưng vẫn là tán dương một chiều, và vẫn còn nặng quan điểm của văn học
truyền thống khi xem văn chương là bài học luân lý để răn đời.
Trường hợp Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng trong các bài viết về
Truyện Kiều đã đứng trên lập trường của những chí sĩ yêu nước cùng với gốc
quan điểm Nho gia để đánh giá tác phẩm. Quan niệm Nho gia, xem văn
chương là biểu hiện của Đạo, văn chương được dùng để truyền đạt đạo lý
thánh hiền, đem gương sáng đạo đức để giáo hoá. Truyện Kiều của Nguyễn
Du là tác phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa, điều này không phù hợp với quan
niệm luân lý của nhà Nho vốn phản đối tự do luyến ái của nam nữ thanh niên,
đi ngược với giáo lý “nam nữ thụ thụ bất thân”. Hơn thế nữa, từ lâu, đạo Nho
vốn rất đề cao quan niệm “trinh tiết”, trong khi nàng Kiều mười lăm năm lưu
lạc “ba chìm bảy nổi” hết rơi vào nhà chứa này lại đến nhà chứa khác, thì
không thể đem ra để nêu gương luân lý. Lại thêm, hoàn cảnh nước ta lúc bấy
giờ (chế độ thực dân nửa phong kiến) đang diễn ra những cảnh suy đồi, phá
vỡ nền nếp gia đình, kỷ cương xã hội, luân thường đạo lý đảo lộn, cho nên,
68
Truyện Kiều bị Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng coi là hại đến phong hóa
đạo đức… cũng là điều dễ hiểu trong hoàn cảnh hiện giờ. Đúng như Thiếu
Sơn trong Phê bình và cảo luận từng nhận xét về Huỳnh Thúc Kháng:
“Truyện Kiều kia nếu bị coi là một cuốn dâm thư và những người yêu Kiều về
cái giá trị văn chương và mỹ thuật của nó mà bị kết án vào tội mê dân hoặc
chúng, ta cũng chẳng nên phiền trách nhà chí sĩ không công bằng… khách đa
tình thì thiên lệch về tình. Nhà chí sĩ thì thiên lệch về nước” [153,tr.54].
Qua các công trình nghiên cứu văn học vừa trình bày, đặc biệt là các bài
nghiên cứu về Truyện Kiều của Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường
Tam, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng; chúng tôi nhận ra rằng, nghiên cứu
văn học trong những bước khởi đầu của quá trình hiện đại hoá đã học tập
được phương pháp nghiên cứu của văn học nước ngoài để áp dụng vào nghiên
cứu văn học nước nhà. Tuy nhiên, trong buổi khởi đầu này, những dư âm của
quan niệm cổ điển vẫn còn hiện diện trên trang viết của các nhà nghiên cứu
đương thời như quan điểm tán dương thời trung đại, quan niệm “văn dĩ tải
đạo”… Dù vậy, những bài nghiên cứu của các tác giả vừa nêu vẫn có giá trị
không chỉ đối với lịch sử văn học (cuộc nghiên cứu tranh luận về tác phẩm
văn học đầu tiên), mà còn là những gợi ý để tiếp tục nghiên cứu tác phẩm
Truyện Kiều sau này. Điều đó cho ta một lần nữa xác nhận vai trò tiên phong
của các tác giả trong buổi đầu nghiên cứu tác phẩm Truyện Kiều nói riêng và
hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung trong giai đoạn nửa đầu
thế kỷ XX.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn
1900 đến 1930 đã đánh một dấu mốc quan trọng trong quá trình hiện đại hóa
hoạt động nghiên cứu văn học nước nhà. So với nghiên cứu văn học thời
trung đại thì giai đoạn này đã có một bước tiến dài khi các nhà nghiên cứu đã
có những góc nhìn khoa học và hiện đại hơn; song, như là một quán tính văn
69
hóa, dư âm của lối nghiên cứu, thẩm bình thời trung đại vẫn đeo đẳng theo
bước tiến của các công trình, thậm chí đôi lúc trong những nhận định, đánh
giá, các nhà nghiên cứu vẫn có khuynh hướng nghiêng về lối nhận định khá
quan phương của lối nghiên cứu thời trung đại. Trong các công trình ở giai
đoạn này, có thể nói, các tác phẩm của Phan Kế Bính và Lê Thước còn chịu
ảnh hưởng của lối nghiên cứu cổ điển nhiều hơn. Trong đó, Lê Thước trong
Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928) đôi
lúc muốn thể hiện rõ phương pháp nghiên cứu tiểu sử học văn học (lấy cuộc
đời tác giả phân tích, lý giải cho văn nghiệp) nhưng vẫn chưa thoát khỏi
những nhận định vẫn còn mang tính tán dương của lối phẩm bình cũ.
Trong bước khởi đầu của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học, các tác giả Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long… đã rất có ý thức vượt
thoát khỏi từ trường của lối nghiên cứu văn học trung đại với một chủ trương,
quan điểm khá rõ ràng trong việc vận dụng phương pháp nghiên cứu văn học
hiện đại của phương Tây. Tuy nhiên, nếu Phạm Quỳnh thành công ở tác phẩm
đầu trong “Khảo về Truyện Kiều” (1919), thì lại tỏ ra không đủ “năng lượng
hiện đại” để tỏa sáng ở công trình sau trong “Kỷ niệm cụ Tiên Điền” (1924),
thậm chí còn bị lạc đường với những nhận định cực đoan, thiếu cơ sở khoa
học mà hàm chứa trong đó một mục đích chính trị phi văn học. Cũng chính vì
vậy mà các bài viết của Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng đã phản bác khá
mạnh mẽ những nhược điểm của Phạm Quỳnh. Tuy nhiên, cũng vì phản bác
trên quan điểm dân tộc, chống sự nô dịch văn hóa của thực dân Pháp của các
nhà chí sĩ yêu nước mà các bài viết của Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng
cũng lại rơi vào nhược điểm đánh giá tác phẩm văn học theo quan điểm chính
trị, nên đã có những lời lẽ quá đáng khi phê phán Truyện Kiều. Nhưng dù sao,
tất cả những ưu nhược điểm của các nhà nghiên cứu trên, rõ ràng đã tạo cho
đời sống văn học Việt Nam vốn phẳng lặng xưa nay một tinh thần nghiên cứu
70
mới. Ở một góc nhìn tích cực, thì đây chính là biểu hiện sinh động trong bước
khởi đầu của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam,
từng bước đưa hoạt động nghiên cứu văn học thoát dần ra khỏi lối phẩm bình
văn chương kiểu tán dương “trà dư tửu hậu” của lối nghiên cứu cổ điển của
các nhà Nho trung đại. Có được những thành quả bước đầu như đã nêu, chứng
tỏ những nhà nghiên cứu giai đoạn này đã có ý thức rất rõ trong việc thúc đẩy
sự chuyển biến của hoạt động nghiên cứu văn học nước nhà; đặt những tảng
đá đầu tiên để xây dựng nền móng cho một phương pháp nghiên cứu văn học
mới, tạo cơ sở để hoạt động này chuyển biến mạnh mẽ ở giai đoạn sau, thúc
đẩy quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc tiến nhanh và vững chắc.
2.2. Giai đoạn 1930 - 1945 - Những chuyển biến trong quá trình hiện đại
hóa hoạt động nghiên cứu văn học
Phải đến những năm 1930 trở đi, quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam mới được đẩy lên một bước mới, một bước nhảy vọt về cả chất và
lượng. Cùng với hoạt động sáng tác, nghiên cứu văn học xuất hiện và trở
thành một hoạt động chuyên môn. Hoài Thanh trong đoạn mở đầu của tiểu
luận “Một thời đại trong thi ca” đã viết: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến
thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ (…). Trước mắt
chúng ta bỗng bày ra những cảnh lạ lùng chưa bao giờ từng thấy. Lúc đầu, ai
nấy đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao. Nhưng rồi chúng ta quen dần”
[167,tr.11-12]. Ý kiến của Hoài Thanh đã được các nhà nghiên cứu đồng tình.
Rõ ràng không chỉ là “những cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy” khi Thơ
Mới, tiểu thuyết, phóng sự, kịch xuất hiện, mà việc tiếp thu các quan niệm
nghệ thuật, các phương pháp nghiên cứu nước ngoài, cùng với việc nghiên
cứu văn học trở thành một hoạt động có tính chất chuyên ngành cũng là
việc “chưa từng thấy”.
Trong giai đoạn này, hoạt động nghiên cứu văn học theo nghĩa hiện đại
71
đã thực sự khẳng định sự có mặt của mình trong đời sống văn học nước nhà
bằng sự xuất hiện hàng loạt các công trình nghiên cứu từ tác giả, tác phẩm
đến việc tổng kết cả một giai đoạn, thời kỳ văn học; nghiên cứu từ văn học
dân gian đến văn học hiện đại; nghiên cứu văn học trong nước lẫn nghiên cứu
văn học nước ngoài của những nhà nghiên cứu văn học đương thời.
2.2.1. Nghiên cứu văn học sử - Thành tựu và hạn chế
Nghiên cứu văn học sử là một chuyên ngành quan trọng trong toàn bộ
hoạt động nghiên cứu văn học. Có thể nói, thành tựu lớn để làm nên quá trình
hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế
kỷ XX có sự đóng góp rất lớn của các công trình nghiên cứu văn học sử.
Để có điều kiện khảo sát, nghiên cứu sâu về thành tựu của từng loại
công trình nghiên cứu văn học sử trong giai đoạn này, chúng tôi xin được đề
cập trên hai bình diện: Một là những công trình riêng về từng thời kỳ, từng
lĩnh vực văn học; hai là những công trình khái quát cả lịch sử văn học dân tộc.
2.2.1.1. Những công trình riêng về từng thời kỳ, từng lĩnh vực văn học
2.2.1.1.1. Nghiên cứu văn học dân gian
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, tục ngữ, ca dao là một
trong những thể loại có số lượng nhiều và nội dung vô cùng phong phú. Tuy
nhiên, tìm hiểu về loại hình này, đến thời điểm bấy giờ, có thể khẳng định
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về nội dung,
nghệ thuật của ca dao, tục ngữ, ngoại trừ công trình Tục ngữ phong dao
(1928) của Nguyễn Văn Ngọc, Những câu hát xanh (1937) của Lan Khai,
Những bông hoa dại (1941) của Trương Chính và bài viết “Sức sống của dân
Việt Nam trong ca dao và cổ tích” (1944) của Nguyễn Đình Thi.
Những câu hát xanh của Lâm Tuyền Khách (bút danh của Lan Khai)
giới thiệu thơ ca dân gian của đồng bào Tày và xem đó là món quà nơi “rừng
xanh nước đỏ” mà nhiều thế kỷ qua vẫn còn chìm khuất trong kho tàng văn
72
học dân tộc. Tác giả Những bông hoa dại (1941) nghiên cứu về văn học dân
gian với quan niệm cho rằng, muốn đánh giá đúng giá trị của thơ ca truyền
khẩu phải tìm hiểu đủ ba yếu tố: giá trị tưởng tượng, giá trị tình cảm và giá trị
âm nhạc của nó. Bài viết “Sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ
tích” của Nguyễn Đình Thi tập trung phân tích tinh thần và tinh hoa văn hóa
dân tộc Việt Nam thông qua ca dao và truyện cổ tích. Đây là bài nói chuyện
trước ngày hội sinh viên năm 1944, nó đã khơi dậy tinh thần dân tộc mạnh mẽ
và ý thức về sức mạnh của nền văn hóa dân tộc sau khi Đề cương văn hóa
Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1943). Trong công trình Tục
ngữ phong dao, theo như tác giả viết trong lời tựa, do sợ “cái kho vàng chung
của nhân loại” mỗi ngày một lưu lạc đi nên “Chúng tôi (Nguyễn Văn Ngọc -
DTT) chỉ vụ thu thập cho được nhiều câu” chứ “không dám kén chọn, lựa lọc,
san thi gì”. Vì vậy, Kinh Thi Việt Nam (1940) của Nguyễn Bách Khoa ra đời
có thể được xem là công trình đầu tiên nghiên cứu văn học dân gian có
phương pháp nhất từ trước tới nay.
Nội dung công trình, ngoài Thay lời tựa, trước khi Vào đề và Kết luận,
cuốn sách có ba phần: 1- Phần Kinh Thi Trung Hoa bàn về: Vì lẽ gì Khổng
Tử san Kinh Thi, Kinh Thi một tài liệu xã hội học. 2- Phần Kinh Thi Việt
Nam giới thiệu các mục: dân chúng Việt Nam và Nho giáo, xã hội Việt Nam
xây dựng trên nền kinh tế nông nghiệp, gia tộc phụ hệ, chống nam quyền, đời
sống tình cảm, đời sống bản năng, thực trạng xã hội quyết định ý thức con
người. 3- Phần cuối giới thiệu lai lịch phong dao: Một giả thiết về lai lịch các
phong dao, những thể cách phô diễn của người Việt Nam.
Trong Kinh Thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa xuất phát từ quan niệm
của Paul Lafargue trong công trình Bàn về ca dao, dân ca về hôn lễ và lễ tục
(1886): ca dao, dân ca phản chiếu đúng đắn tâm lý người sáng tác ra nó để tìm
hiểu ca dao Việt Nam. Phần “Trước khi Vào đề”, tác giả Kinh Thi Việt Nam
73
khẳng định cách nghiên cứu của mình sẽ trải qua hai bước: thứ nhất, tìm hiểu
những cội rễ tâm lý và xã hội của nền thơ bình dân Việt Nam; thứ hai, từ đó,
tìm hiểu, san định và chú thích Kinh Thi Việt Nam. Khi nghiên cứu sự phản
chiếu tâm lý của người bình dân Việt Nam trong ca dao, Nguyễn Bách Khoa
đã thấy được tinh thần chống Nho giáo trong Kinh Thi Việt Nam là điểm khác
biệt với việc thể hiện tinh thần Nho giáo trong Kinh Thi Trung Hoa do Khổng
Tử san định. Nhà nghiên cứu cũng thấy được: nội dung của ca dao thường
phản ánh đời sống nông nghiệp, tinh thần gia tộc phụ hệ, địa vị thấp kém của
người phụ nữ, tinh thần chống nam quyền, đời sống tình cảm của người bình
dân, nhu cầu bản năng và kết luận thực trạng xã hội quyết định ý thức con
người. Căn cứ vào những nội dung của ca dao, cũng như khảo sát sự biến hóa
vần điệu của nó, Nguyễn Bách Khoa đưa ra ba giả thiết về lai lịch phong dao
đáng chú ý:
- Tất cả những bài phong dao nào chưa phải là lục bát, vần điệu còn rộng
rãi, tự do thì đều xuất hiện vào khoảng đầu lịch sử của dân tộc;
- Những bài nào tuy vần điệu còn hỗn độn mà hình tượng thô thiển, có
xu hướng tiến đến thể lục bát thì đều xu hướng trong thời kỳ Bắc thuộc là thời
kỳ kết tinh của ý thức dân tộc;
- Những bài nào theo thể lục bát thì đều xu hướng trong thời kỳ độc lập
dân tộc. Ông cũng nêu ra ba thể cách đặc biệt để phô diễn tình ý trong ca dao
Việt Nam là: thể tương phản; thể trào phúng; thể trữ tình, ta thán. Nguyễn
Bách Khoa còn cho rằng trong ca dao, người Việt thường hay mượn cảnh vật,
sự việc để diễn tả tình cảm, chứ “không bao giờ phô diễn một cách trực tiếp”.
Tóm lại, với một chủ trương rõ ràng về phương pháp, một thái độ khoa
học nghiêm túc, Kinh Thi Việt Nam ra đời đã khẳng định sự nỗ lực ở buổi đầu
của Nguyễn Bách Khoa trong việc áp dụng phương pháp khoa học phương
Tây vào việc nghiên cứu văn chương truyền miệng. Đây có thể coi là công
74
trình đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, giải thích văn học
bằng nội dung xã hội. Tuy nhiên, do tiếp thu một cách máy móc thuyết phân
tâm học của Freud với quan niệm “…dâm dục là cơ sở tâm lý con người. Nó
ra lệnh cho các ý muốn khác” [202,tr.478], Nguyễn Bách Khoa đã đưa ra một
kết luận thiếu cơ sở khoa học: tính hiếu dâm là đặc tính của người Việt Nam
mà không thấy rằng mảng văn học dân gian thông tục vốn là sự phản chiếu
của tín ngưỡng phồn thực vốn là một tín ngưỡng lâu đời của cư dân nông
nghiệp lúa nước với khát vọng sinh sôi nẩy nở của hoa màu và con người qua
biểu hiện chuyên thờ sinh thực khí và hành vi giao phối trong đời sống và
sinh hoạt tâm linh, văn hóa.
2.2.1.1.2. Nghiên cứu văn học trung đại
Cùng với việc nghiên cứu văn học dân gian, các nhà nghiên cứu trong
giai đoạn này cũng tập trung vào việc nghiên cứu các hiện tượng văn học viết
tiêu biểu của thời trung đại từ nghiên cứu tác giả đến tác phẩm văn học. Các
công trình Trông giòng sông Vị (1935) của Trần Thanh Mại; Hồ Xuân Hương
- tác phẩm, thân thế và văn tài (1936) của Nguyễn Văn Hanh; Nguyễn Du và
Truyện Kiều (1942), Văn chương Truyện Kiều (1945), Tâm lý và tư tưởng
Nguyễn Công Trứ (1945) của Nguyễn Bách Khoa; Khảo luận về Kim Vân
Kiều (1943) của Đào Duy Anh lần lượt ra đời.
* Thẩm định và đánh giá các tác gia văn học trung đại
Trần Thanh Mại là một trong những nhà nghiên cứu văn học gây được
ấn tượng cho độc giả đương thời ngay từ tác phẩm đầu tay Trông giòng sông
Vị (1935). Đây là công trình nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của
Trần Tế Xương. Cuốn sách được chia làm 14 chương, lần lượt đề cập đến
hoàn cảnh lịch sử, xã hội của thời đại Tú Xương, các mối bang giao, hoàn
cảnh gia đình, cuộc đời Tú Xương, văn nghiệp Tú Xương… Bằng giọng văn
mang chất kể chuyện, Trần Thanh Mại đã dựng lại bức tranh thời Tú Xương
75
đang sống, cũng như đã khắc họa được chân dung Tú Xương từ những bài thơ
mà tác giả cho là của thi sĩ. Chính điều này đã giúp cho độc giả đương thời
hiểu rõ thêm hiện thực thời đại Tú Xương. Ông có nhiều nhận định sắc sảo,
tinh tế về “năng lực huyền bí” có sức thu hút người đọc của thơ Tú Xương.
Về phương diện này, khi đọc qua các chương “Văn chương ông Tú Xương”,
Tú Xương “Một nhà trào phúng”, ta có thể thấy Trần Thanh Mại là người am
hiểu khá sâu sắc nghệ thuật thơ cổ, đặc biệt là thể thơ Đường luật. Trần Thanh
Mại là người đầu tiên phát hiện và đề cao “trí mẫn tuệ” cùng tài trào phúng
của Tú Xương qua các bài thơ chế giễu việc thi cử, chế giễu những điều
chướng tai gai mắt trong xã hội và đặc biệt là qua các bài thơ tự trào độc đáo
của Tú Xương. Nhà nghiên cứu đánh giá cao lối thơ trào phúng của Tú
Xương, ông cho rằng: Tú Xương đã đạt đến đỉnh cao của thơ trào phúng Việt
Nam. Bằng phương pháp so sánh, ông đưa ra nhiều nhận xét rất thú vị về sự
tài tình, độc đáo của Tú Xương trong dòng thơ này, khi viết: “Thơ Tú Xương
nhẹ nhàng, lưu loát, ngân lên có một nhạc điệu êm ái du dương. Thơ Tú
Xương không có vẻ đài các như thơ Thanh Quan, vẻ hùng tráng như thơ
Nguyễn Công Trứ, không gò gẫm như Lê Thánh Tôn, hay yêu quái như của
Hồ Xuân Hương. Nhưng cái mà Tú Xương có, mà ít ai có, là cái bình dị, cái
tự nhiên” [106,tr.38]; hoặc “Đối với Trần Tế Xương, cũng như Nguyễn
Khuyến, tư tưởng ở trong óc ra thế nào thì được dùng ngay thế ấy, lanh lẹ,
tươi tắn, không trau chuốt, không gọt đẽo, không dụng công. Hơi văn đã đi ra
như một luồng nước chảy xuôi dòng, êm, khoẻ, mau” [106,tr.49]. Hay là:
“Ông Tú Xương dùng chữ cũng như anh phường xiếc tung hứng những quả
bóng của mình: Chớ thấy câu kinh mà mặc kệ / Ai ngờ chữ sắc hóa ra không.
Luôn trong một hơi, thảnh thơi, tự nhiên nhưng vô tình mà nói ông đã khéo
dùng những chữ kinh, kệ, sắc, không của nhà Phật để chọi với nhau!”
[106,tr.51]. Một thiên tài như thế nhưng tiếc thay lại không được chú trọng,
76
nguyên nhân theo Trần Thanh Mại: “... một phần đã bị người ta không hiểu,
nên không truyền tụng được, còn một phần lại bị bỏ qua không để ý, vì họ
không yêu chuộng trào phúng khôi hài!” [106,tr.56]. Đó là những giá trị
khẳng định đầu tiên khá chính xác về tài thơ của Trần Tế Xương.
Bên cạnh những giá trị đạt được, Trông giòng sông Vị còn có đôi chỗ
hạn chế như: coi Tú Xương là “nhà duy vật triết học”; “thơ Vị Xuyên là một
lối thơ cẩu thả”, nhưng có lẽ chỉ là những hạn chế nhất định do hoàn cảnh lịch
sử qui định, chứ thực ra, đây là công trình nghiên cứu tương đối khách quan
và công bằng những giá trị vốn có trong di sản thơ ca Tú Xương.
Sau này, Trần Thanh Mại viết hai quyển tiểu luận: Đấu tranh chống hai
quan niệm sai lầm về Tú Xương (1957) và Tú Xương con người và nhà thơ
(1961, viết chung với Trần Tuấn Lộ) để sửa chữa lại những khiếm khuyết, sai
lầm ở công trình trước. Trần Thanh Mại nêu ra hai nguyên nhân của sự sai
lầm: thứ nhất là “xuất phát từ quan điểm thực dân phong kiến bù nhìn thường
ghét và sợ những người như Tú Xương”, thứ hai là “nhiều người chưa hiểu
con người thật của Tú Xương, chưa có dịp đi sâu nghiên cứu đời sống của nhà
thơ, rồi vô tình để cho một vài cảm tưởng đầu tiên đối với một số thơ văn ông
đưa đến những nhận định không chính xác” [108,tr.36-37].
Về nghệ thuật trào phúng của Tú Xương, trước đó, trong Trông giòng
sông Vị, Trần Thanh Mại đã chỉ ra được Tú Xương là nhà thơ trào phúng,
cũng như khả năng cảm nhận thơ của ông thật tinh tế… thì đến đây, ông lại
càng tinh tế hơn khi có những nhận định thật sâu, mở rộng ra nhiều phương
diện. Trần Thanh Mại nhận xét:
Tú Xương, hơn bất kì những người nào trước mình, đã biết phản ánh
thực tế xã hội thời ông bằng những tư liệu lấy ngay trong thực tế xã
hội đó. Để phản ánh cái hiện thực khách quan của cái xã hội lố lăng
rác rưởi ấy, nói cách khác nhà thơ đã biết nói lên cái hiện thực đó một
77
cách trực diện, thẳng thắn, sinh động, chớ không phải nói úp mở,
quanh co, không phải muốn nói một vật này, việc này, ở nơi này, mà
lại phải mượn một vật khác, việc khác, ở nơi khác, có khi ở những
thời khác nhau để nói, nói tóm lại là không phải nói qua những công
thức chung chung, những điển tích muôn thuở [108,tr.129].
Là công trình nghiên cứu sớm nhất về Trần Tế Xương khi nhà thơ này
qua đời chưa đầy 30 năm (một khoảng thời gian có lẽ chưa thật đủ độ lùi để
có những nhận định thỏa đáng về một tác gia văn học), Trông giòng sông Vị
của Trần Thanh Mại dù còn một vài hạn chế; tuy nhiên, đặt quyển sách vào
hoàn cảnh nó ra đời thì rõ ràng đóng góp của Trần Thanh Mại không nhỏ cho
hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX,
bởi ông là người đầu tiên sử dụng phương pháp tiểu sử vào việc nghiên cứu
văn học Việt Nam.
Sau 1945, Trần Thanh Mại bộc lộ: “Nhờ được học tập thêm và học tập
đúng đường lối khoa học, tôi bắt đầu thấy, và càng ngày càng rõ hơn, những
cái sai, đúng lúc trước của mình” [109,tr.3] nên ông đã tự điều chỉnh lại
những sai lầm trước kia của ông trong Đấu tranh chống hai quan niệm sai
lầm về Tú Xương (1957) và Tú Xương con người và nhà thơ (1961). Và theo
nhà thơ Nam Trân thì Trần Thanh Mại vẫn còn chưa yên tâm với một số vấn
đề trong ba quyển sách ông đã viết về Tú Xương. Điều này cho ta thấy: về
một đề tài, Trần Thanh Mại không ngại trở lại nhiều lần để tìm hiểu thấu đáo,
chính xác hơn. Đó cũng là hướng nghiên cứu của Trần Thanh Mại, hướng
“thâm canh” sâu. Với hướng nghiên cứu này, Trần Thanh Mại đã có những
đóng góp đáng kể cho công tác nghiên cứu văn học của nước nhà.
Sau Trông giòng sông Vị (1935) với việc nghiên cứu cuộc đời và thơ văn
Trần Tế Xương của Trần Thanh Mại, thì Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ
trong Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942) và Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công
78
Trứ (1945) là hai tác gia văn học trung đại đã được Nguyễn Bách Khoa
nghiên cứu ở giai đoạn này.
Tiếp tục quan niệm văn học phản chiếu xã hội, con người trong Kinh
Thi Việt Nam, ở công trình Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nguyễn Bách Khoa
đã dành 42 trang ở bài khái luận để trình bày phương pháp nghiên cứu của
mình. Không đồng tình với quan niệm lấy ý thức để giải thích ý thức thông
thường (như xem Truyện Kiều là ký thác tâm sự của Nguyễn Du do cảm xúc
về thân thế nàng Kiều mà sáng tác); Nguyễn Bách Khoa cho rằng: nghiên cứu
tác phẩm văn học cần tìm hiểu cá tính nhà văn, vì cá tính là “thể cách riêng
của một cá nhân. Nhờ có cá tính mà mỗi người chúng ta cảm xúc, suy nghĩ và
hành động một cách khác, không ai giống ai” chứ không phải chỉ tìm hiểu
“tâm sự nhà văn trong tác phẩm văn chương”. Theo Nguyễn Bách Khoa, tâm
sự chỉ là phần hữu thức, “phần nổi của tảng băng”, trong khi cá tính con
người lại chủ yếu thuộc “cõi tiềm thức” ở phần chìm, chiếm chín phần mười
của tảng băng; cá tính là một kiến trúc gồm nhiều yếu tố hòa hợp nhau rồi kết
tinh lại, trong đó nổi trội là ba yếu tố: sinh lý di truyền (huyết thống), địa lý tự
nhiên (quê quán, khí hậu, thổ ngơi, vị trí địa dư…) và quan trọng là điều kiện
xã hội (bối cảnh xã hội, vị trí đẳng cấp); từ đó ông kết luận: “Nghiên cứu một
văn phẩm mà không tìm đến cá tính nhà văn và hình ảnh của xã hội đương
thời với nhà văn phản chiếu trong văn phẩm ấy, tức là không hiểu gì về nghệ
thuật phê bình hết” [202,tr.200].
Xuất phát từ quan niệm trên, trong Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nguyễn
Bách Khoa đã nghiên cứu kỹ Nguyễn Du ở các khía cạnh huyết thống, thân
thế, thời đại, cá tính (chương I-IV) và xã hội Truyện Kiều. Sau đó, ông phân
tích tâm lý các nhân vật Kim Trọng, Từ Hải, Thúy Kiều (chương V-VIII). Hai
chương IX và X là phần triết lý Truyện Kiều và Tâm lý Truyện Kiều.
Nguyễn Bách Khoa đã lý giải cá tính Nguyễn Du và văn chương Truyện
79
Kiều dưới ảnh hưởng của lý thuyết chủng tộc - địa lý của Taine và thuyết
phân tâm học của Freud. Theo nhà nghiên cứu, cá tính Nguyễn Du là sự kết
hợp của huyết thống dòng họ Nguyễn với huyết thống họ Trần; giữa địa
phương tính Nghệ Tĩnh với địa phương tính Bắc Ninh. Sự kết hợp này là kết
tinh của “lòng ham sống say sưa, cái khí tiết hiên ngang không chịu khuất
phục giống nòi” của vùng đất Nghệ Tĩnh chuyên sinh ra “anh hùng” với “đất
của ái tình”, “của tinh thần mẫu hệ”, “những tính bồng bột… chiều theo cái
đà phát triển của muôn loài” Bắc Ninh - một tỉnh “giàu có, thích văn chương
và phong tình diễm lệ vào bậc nhất ở Bắc Kỳ”. Xuất phát từ thuyết phân tâm
học của Freud, Nguyễn Bách Khoa còn cho rằng, do Nguyễn Du thuộc đẳng
cấp thượng lưu trí thức nhưng lại sống trong một thời đại loạn lạc nên “Tâm
hồn bị khủng hoảng đến rối loạn”. Đó chính là nguyên nhân của “căn tạng
cảm xúc quá độ” và “cái khiếu ảo giác” là hai điều kiện chủ yếu kết tinh nên
tác phẩm Truyện Kiều.
Từ những nhận định trên, Nguyễn Bách Khoa “mổ xẻ” tác phẩm Truyện
Kiều. Nhà nghiên cứu xem xét các nhân vật chính (Kim Trọng, Từ Hải, Thúy
Kiều) và cho rằng mỗi nhân vật này trong Truyện Kiều là phản chiếu một khía
cạnh tâm lý của Nguyễn Du. Ở Kim Trọng là đa cảm, đa tình và quả quyết.
Từ Hải là giấc mộng của Nguyễn Du muốn đạt thành, là ước mơ “làm một vị
anh hùng trong tưởng tượng”. Và sau cùng, Thúy Kiều, nhân vật chủ chốt là
sự “tố cáo” mâu thuẫn chủ yếu trong tâm tính Nguyễn Du bởi “cốt cách một
người đa tình đa cảm, hành động thì thuận theo bản năng và trái tim mà suy
nghĩ và lý luận thì lại phải nấp sau bản ngã Nho của tộc họ và đẳng cấp ông”
[202,tr.310]. Nguyễn Bách Khoa khẳng định: Thúy Kiều mới là con người
tổng hợp của Nguyễn Du với “bản ngã trí thức hòa lẫn với bản ngã tiềm thức”
lập thành một cá tính phức tạp mà Kiều là phản ảnh trung thành nhất.
Nghiên cứu về tác giả Truyện Kiều ở thời điểm trước đó, các nhà nghiên
80
cứu thường chỉ chú ý tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du và tài nghệ của thi
nhân. Nguyễn Bách Khoa có lẽ là nhà nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu Truyện
Kiều và tác giả của nó dựa trên phương diện: bối cảnh xã hội thời đại và nhân
vật. Các tác phẩm của Nguyễn Bách Khoa, trong đó có Nguyễn Du và Truyện
Kiều được xem là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc áp dụng
thuyết xã hội học và phân tâm học vào việc nghiên cứu tác phẩm văn chương.
Tất nhiên cái khởi đầu bao giờ cũng dễ rơi vào đơn giản, cực đoan bởi những
kết luận vội vã, lối nói áp đặt, sự vận dụng lý thuyết khoa học có khi còn máy
móc không tính đến đặc thù của nghệ thuật ngôn từ; nên việc tác phẩm bị phê
phán là không lạ. Tuy nhiên, nếu đặt tác phẩm vào thời điểm ra đời với vai trò
tiên phong mở đầu của nó, ta mới thấy được bước đột phá của tác giả khi ứng
dụng phương pháp nghiên cứu hiện đại vào việc nghiên cứu tác gia văn học.
Đến Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945), Nguyễn Bách Khoa
vẫn tiếp tục áp dụng phương pháp xã hội học để giải thích tâm lý và tư tưởng
của nhà văn. Trong Lời tựa công trình này, nhà nghiên cứu đã tuyên bố các
nguyên tắc nghiên cứu như sau: 1. Đời sống tinh thần của con người là đời
sống sinh lý và xã hội; 2. Bản chất (cả sinh lý lẫn tâm lý) của con người luôn
biến đổi theo sự biến đổi của hoàn cảnh; 3. Con người sau khi bị xã hội quyết
định có thể ảnh hưởng trở lại đến xã hội nhưng sức ảnh hưởng cũng vẫn bị
những điều kiện xã hội quyết định [202,tr.578]. Như vậy, dù là thiên tài, cá
nhân cũng vẫn là sản phẩm của xã hội, cho nên, muốn hiểu một cá nhân, nhất
là một thiên tài, cần phải:
1. Khảo xét kỹ hoàn cảnh xã hội trong đó cá nhân đó sinh trưởng và
hoạt động. (Nên nhớ rằng mỗi xã hội, ở một giai đoạn tiến hóa, lại bị
chi phối bởi những phép tắc riêng và bày ra một sắc thái riêng); 2.
Khảo xét kỹ nguyện vọng, tâm lý, tư tưởng, xu hướng cùng vai trò lịch
sử của đẳng cấp cá nhân ấy; 3. Khảo xét xem những ảnh hưởng xung
81
đột đẳng cấp đã tác động đến cá nhân ra sao và đã chịu sức phản động
của cá nhân ấy đến chừng nào. Tóm lại, phải nghiên cứu tất cả cái hệ
thống xã hội trong đó cá nhân kia đứng ở phạm vi đẳng cấp mình, đã
bị hoàn cảnh qui định và đã chiến đấu để phản động lại hoàn cảnh ấy
[202,tr.579].
Theo nguyên tắc vừa nêu, ta thấy tinh thần chung của Nguyễn Bách
Khoa trong Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ là nhìn các hiện tượng theo
quan điểm xã hội học và đấu tranh đẳng cấp. Nhà nghiên cứu đã căn cứ vào
hoàn cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và đẳng cấp sĩ
phiệt Nho giáo (mà Nguyễn Công Trứ là một phần tử) làm cơ sở để giải thích
hầu như mọi vấn đề của “hiện tượng Nguyễn Công Trứ”, từ thái độ với cái
nghèo, sự hành lạc, cái ngông, chí nam nhi… Đặc biệt, quy luật “phản tác
động” lại hoàn cảnh của con người là yếu tố tâm lý mà Nguyễn Bách Khoa
hết sức quan tâm và vận dụng làm sáng tỏ nhiều nét tâm lý của Nguyễn Công
Trứ là quy luật được vận dụng có sức thuyết phục nhất. Dẫn chứng bài Hàn
Nho phong vị phú, nhà nghiên cứu cho rằng để hiểu hết cái “phong vị” của bài
phú, người đọc phải thấy ở đây có một “tinh thần chống phú hộ” chứ không
chỉ là sự “thi vị hóa cuộc sống thiếu thốn” hoặc giễu cái nghèo vốn quen
thuộc với các nhà Nho. Sự “chua chát, căm hận buồn thảm” ở Hàn Nho phong
vị phú thể hiện thái độ của đẳng cấp Nho sĩ đang thất thế trước đẳng cấp phú
hộ đương thời; và ông còn khẳng định: phong vị ấy còn được thể hiện “đúng
hơn”, “sâu xa hơn”, “não nuột hơn” trong bài phú Tài tử đa cùng của Cao Bá
Quát.
Nhìn chung, việc thẩm định và đánh giá các tác gia văn học trung đại
qua các công trình của Trần Thanh Mại và Nguyễn Bách Khoa trong giai
đoạn này, phần nào đã cho thấy quan điểm đánh giá các tác gia văn học quá
khứ đã được hai nhà nghiên cứu nhìn nhận trên nhiều góc độ khác nhau bằng
82
việc vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu mới. Chính điều này đã khiến
các tác gia quá khứ được nghiên cứu, soi xét, đánh giá một cách toàn diện
hơn, giúp người đọc hiểu biết một cách thấu đáo hơn con người tác giả để trên
cơ sở đó nhìn nhận đa chiều hơn về tác phẩm của họ. Nếu Trông dòng sông Vị
của Trần Thanh Mại chỉ chú trọng đến phương pháp tiểu sử học thì đến các
tác phẩm của Nguyễn Bách Khoa việc vận dụng các phương pháp mới của
phương Tây đa dạng hơn, đặc biệt là phương pháp phân tâm học bước đầu đã
được sử dụng một cách táo bạo để thẩm định cuộc đời những tác giả vốn là
nhà Nho phong kiến. Điều này chứng tỏ sự vận động của tiến trình đổi mới
hoạt động nghiên cứu văn học là khá rõ nét.
* Thẩm định và đánh giá tác phẩm văn học trung đại
Bên cạnh việc nghiên cứu tác giả Nguyễn Du để tìm mối quan hệ với tác
phẩm Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu đương thời cũng đã nghiên cứu trực
tiếp tác phẩm ấy để tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của nó.
Bàn về Truyện Kiều, năm 1943, Đào Duy Anh xuất bản Khảo luận về
Kim Vân Kiều. Công trình gồm có tám chương, lần lượt đề cập đến: Thân thế
Nguyễn Du, Nghiên cứu lai lịch Kiều, So sánh Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân với Đoạn trường tân thanh, So sánh nhân vật Kiều
(Vương Thúy Kiều, Kim Vân Kiều truyện, Đoạn trường tân thanh), Phân tích
giá trị văn chương Truyện Kiều, Nghiên cứu triết lý Truyện Kiều, Khẳng định
sách Đoạn trường tân thanh trong tư tưởng và văn chương Việt Nam.
Trong lời tựa tác phẩm, Đào Duy Anh tự nhận là không chuyên nghiên
cứu văn học. Tác giả nói một cách khiêm nhường rằng: đó chỉ là tập bài “ghi
chép những điều sở đắc” để “tặng cho các học sinh trường Thuận Hóa và rộng
hơn, cho các học sinh đang muốn tìm cái hứng thú để nghiên cứu quốc văn”.
Nhưng theo Thanh Lãng thì: đây là bộ sách nghiên cứu về Kiều đầy đủ hơn cả
về mọi phương diện, bởi “Trước đấy, Nguyễn Bách Khoa đã viết Nguyễn Du
83
và Truyện Kiều nhưng chỉ nhận định về Nguyễn Du dưới con mắt của một
nhà phân tâm học duy vật. Đằng này Đào Duy Anh đã đứng trên cương vị của
một nhà phê bình giáo điều cổ điển để nghiên cứu… Kiều” [77,tr.420]. Tìm
hiểu Khảo luận về Kim Vân Kiều, ta thấy đây là công trình có giá trị thực sự
trong lịch sử văn học bởi những giá trị nó đạt được.
Trước hết, “Bàn về thân thế Nguyễn Du”, Đào Duy Anh lần lượt khảo
luận về tác giả, thân thế, quê quán, dòng họ - điều mà trước đây giới nghiên
cứu ít quan tâm để giải thích tác phẩm. Thứ hai, “Khảo về lai lịch Truyện
Kiều”, tác giả đem so sánh Đoạn trường tân thanh với Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân và kết luận: mọi tình tiết chính của Kim Vân Kiều
truyện đều được Nguyễn Du giữ hầu như y nguyên, nhưng khi so sánh về
nhân vật, tác giả thấy nhân vật Kiều của Nguyễn Du đã khác: Ngu sơ tân chí
tả Kiều là một gái giang hồ, tầm thường; Thanh Tâm Tài Nhân tả Kiều là con
người tiết nghĩa; còn Nguyễn Du đã lý tưởng hóa nàng Kiều và vẽ nàng như
một con người hoàn thiện lý tưởng. Các chương còn lại bàn về văn chương
Truyện Kiều. Theo Thanh Lãng nhận xét: “Cái giá trị của thiên khảo cứu này
nằm ở bốn chương đầu, còn bốn chương sau này Đào Duy Anh chỉ làm công
việc tổng hợp lại các việc Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam, Trần Trọng
Kim, Phạm Quỳnh đã làm đi làm lại nhiều lần trên Nam Phong từ mười lăm
đến hai mươi năm trước” [77,tr.422]. Tuy nhiên, khi tìm hiểu, ta phải công
nhận rằng: lối nghiên cứu tỉ mỉ tư liệu, nhận định, phán đoán trên cơ sở những
bằng chứng cứ liệu đã được định giá là xác thực, sự khảo sát phân tích khách
quan làm cho hoạt động nghiên cứu luôn có một tinh thần khoa học thực
chứng nghiêm túc… đó là những giá trị cần ghi nhận ở nhà nghiên cứu Đào
Duy Anh trong công trình Khảo luận về Kim Vân Kiều, chứ không chỉ đơn
thuần là “tổng hợp lại” như Thanh Lãng nhận định.
Tiếp tục tìm hiểu tác phẩm Truyện Kiều ở phương diện hình thức và nội
84
dung, Nguyễn Bách Khoa viết Văn chương Truyện Kiều (1945). Ở công trình
này, Nguyễn Bách Khoa càng thể hiện rõ tư duy nghiên cứu mang tính khoa
học khi đã tập trung xác lập các định nghĩa, giải thích các khái niệm, tìm mối
liên hệ lôgic giữa các khái niệm rồi lập thành một hệ thống các khái niệm
nhằm nhận thức đối tuợng.
Ngoài Lời tựa và Kết luận, tác phẩm gồm có hai phần: phần đầu, tác giả
điểm lại các bài viết, các công trình bàn về Truyện Kiều từ đầu thế kỷ đến thời
điểm bấy giờ; phần hai:“Văn chương Truyện Kiều” là phần chủ yếu của công
trình; trong đó, vấn đề “thiên tài” nghệ sĩ và “chất thơ” của nghệ thuật
(Truyện Kiều) là hai hiện tượng văn học được Nguyễn Bách Khoa tập trung
làm rõ.
Về vấn đề “thiên tài”, Nguyễn Bách Khoa đã vận dụng triệt để tư duy
khái niệm và tư duy lôgic để tìm hiểu hiện tượng này. Theo Nguyễn Bách
Khoa, “thiên tài” là vấn đề thuộc về tư duy, “linh hồn”, cá tính con người vận
dụng đều bắt nguồn từ tổ chức cơ thể sinh lý của con người. Căn cứ vào năm
công chuẩn của các nhà khoa học dùng nghiên cứu cá tính con người, Nguyễn
Bách Khoa cho rằng: “Cá tính một người tuy gốc ở yếu tố sinh lý mà bản
chất, dạng thái và xu thế phát triển lại do xã hội chỉ định. Vì thế, cá tính có
đặc sắc đến đâu vẫn chứa một thành phần xã hội rất rõ, một tổ chức chung với
đẳng cấp của nó” [202,tr.374]. Ông kết luận: “Hãy cho ta biết nghệ sĩ có một
cơ thể cấu tạo như thế nào, ở một xã hội nào, trong giai đoạn lịch sử nào, ta sẽ
có thể tiên đoán được tất cả cái hệ thống ý thức (tư tưởng, tình cảm, tâm lý)
của nghệ sĩ và cả cái vận mạng nghệ thuật của hắn nữa. Thiên tài có phải là
một hiện tượng phi thường gì đâu. Nó được thai nghén, được cấu tạo, được
phát triển, được thành tựu và rồi cũng tàn héo tiêu vong như bất kỳ một vật
nào trong thế giới vật chất và xã hội” [202,tr.375].
Tiếp đến, Nguyễn Bách Khoa đi vào tìm hiểu vấn đề “chất thơ” và “cái
85
đẹp”. Nếu theo Hoài Thanh đây là những vấn đề không thể đem các khí cụ ra
để “mổ xẻ”, phân tích được, thì ngược lại, Nguyễn Bách Khoa khẳng định
“Cái đẹp hay cái chất thơ của Truyện Kiều, ta cũng chỉ có thể thưởng thức
được bằng phương pháp khoa học, bằng khí cụ khoa học” [202,tr.376]. Và
trước khi đi vào phân tích “chất thơ” và “cái đẹp” của Truyện Kiều, Nguyễn
Bách Khoa đã “lập giới thuyết minh bạch” cho hai khái niệm này. Theo ông:
“Luận một vấn đề mà không lập giới thuyết minh bạch cho những khái niệm
cơ bản quan hệ mật thiết với vấn đề ấy thì lời bàn sẽ phải hồ đồ, viễn vông,
không bổ ích gì cho sự học vấn cả” [202,tr.379]. Nhà nghiên cứu còn cho
rằng: “Không định nghĩa những danh từ dùng đến đó là thông tật của hầu hết
các bình giả xứ ta. Khuyết điểm đủ tỏ rằng ta chưa tập được hết thói quen
khoa học, chưa có một tinh thần phương pháp chu đáo trong khi nghiên cứu,
suy luận và phô diễn” [202,tr.379].
Nguyễn Bách Khoa cũng đã mạnh dạn phân chia ranh giới cho chất thơ
và tinh thần khoa học. Ông đã có lý khi cho rằng: “Khoa học là khám phá, là
điều khiển, là chứng nghiệm. Chất thơ là ảo tưởng, là sương mù, là siêu lý”
[202,tr.382]; nhưng do quá tin vào phép biện chứng lôgic, Nguyễn Bách Khoa
đã nhận định sai lầm khi cho rằng: “Óc khoa học là khí cụ tiến hóa của một
đẳng cấp đang đi tới, trẻ và mạnh, óc thơ là khí giới tự vệ của một đẳng cấp
đang tàn tạ, cằn cỏi và ốm yếu” [202,tr.382]. Mặc dù vậy, Nguyễn Bách Khoa
cũng có những trang phân tích thật tinh tế, nhạy cảm về “chất thơ” trong tác
phẩm Truyện Kiều khi viết về “buổi chiều và đêm trăng”. Theo nhà nghiên
cứu: “Buổi chiều và đêm trăng đó là hai bề dọc và ngang của thế giới Truyện
Kiều. Ta đã gặp hai bề ấy khi đặt chân vào ngưỡng cửa nó. Suốt đoạn trường
các bạn vẫn đụng phải hai bề ngang dọc ấy” [202,tr.402].
Có thể nói, cùng với các công trình nghiên cứu trong các lĩnh vực văn
học khác, các công trình nghiên cứu của các tác giả tiêu biểu trong lĩnh vực
86
văn học dân gian, văn học trung đại Việt Nam từ 1930 đến 1945 đã cho chúng
ta có cái nhìn toàn diện hơn về toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn học giai
đoạn này. Quan trọng hơn, là qua đó, chúng ta nhận ra sự chuyển biến mạnh
mẽ của toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn học nói chung và nghiên cứu văn
học dân gian, văn học trung đại Việt Nam từ 1930 đến 1945 nói riêng trong
tiến trình hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX.
Trong nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam, nếu tác phẩm Tục ngữ
phong dao của Nguyễn Văn Ngọc chỉ được xem như một công trình sưu tầm
thì Kinh Thi Việt Nam của Nguyễn Bách Khoa đã ghi một cột mốc lớn trong
bước chuyển biến mạnh mẽ của hoạt động nghiên cứu về mảng văn học này
với việc áp dụng phương pháp nghiên cứu xã hội học văn học, đặc biệt táo
bạo là dùng lý thuyết phân tâm học Freud để giải mã yếu tố dâm tục trong văn
học dân gian Việt Nam dù còn ít nhiều mang tính áp đặt. Tuy nhiên, so với
các thành tựu nghiên cứu khác, chẳng hạn như trong nghiên cứu văn học
trung đại thì nghiên cứu văn học dân gian giai đoạn này chưa có những thành
tựu nổi bật mà chỉ mới mang tính khởi đầu để gợi mở cho các công trình
nghiên cứu về sau.
Ở mảng nghiên cứu văn học trung đại, lần đầu tiên, Trần Thanh Mại đã
áp dụng phương pháp tiểu sử học để nghiên cứu về tác giả Tú Xương qua
Trông giòng sông Vị. Trong khi đó, về một tác phẩm và một tác gia lớn của
văn học trung đại Việt Nam là Truyện Kiều và Nguyễn Du cũng đã được hai
nhà nghiên cứu tên tuổi là Đào Duy Anh và Nguyễn Bách Khoa nghiên cứu
một cách khá toàn diện. Nếu công trình của Đào Duy Anh là lối nghiên cứu
thực chứng nghiêm túc, hết sức coi trọng giá trị tư liệu để giải thích văn học
nhưng vẫn còn ít nhiều nghiêng về cảm xúc, tâm sự của kiểu nghiên cứu trung
đại thì ở các công trình của Nguyễn Bách Khoa, ông đã táo bạo kết hợp vận
dụng đa dạng phương pháp nghiên cứu mới, các lý thuyết mới của phương
87
Tây vào để giải mã tác giả và tác phẩm văn học. Nếu cách quan niệm nghiên
cứu theo cảm xúc, tâm sự chỉ là phần bề nổi, phần hữu thức chủ quan của con
người thì việc nghiên cứu tác phẩm đặt trong mối quan hệ với cá tính tác giả
là phần bề chìm, phần vô (tiềm) thức quan trọng của “tảng băng”. Dựa vào
bối cảnh thời đại, cùng việc dùng các phương pháp chủng tộc - địa lý học của
Taine, phân tâm học của Freud và xã hội học (ở công trình Tâm lý và tư tưởng
Nguyễn Công Trứ) thật sự là những đóng góp có giá trị của Nguyễn Bách
Khoa. Dù còn nhiều áp đặt (như một tất nhiên của việc vận dụng phương pháp
mới), các công trình nghiên cứu của Nguyễn Bách Khoa vẫn để lại những giá
trị ban đầu khá quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học nước nhà. So với giai đoạn trước đó, hoạt động nghiên cứu văn học
dân gian và văn học trung đại Việt Nam giai đoạn này đã thoát ra khỏi từ
trường của các quan niệm nghiên cứu trung đại. Các phương pháp nghiên cứu
mới của phương Tây đã được các tác giả sử dụng tương đối hiệu quả và có lập
luận khoa học chặt chẽ hơn nhiều so với cách cảm thụ cảm tính, tán dương,
còn mang tính nghiệp dư của lối nghiên cứu thời trung đại.
2.2.1.1.3. Nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam
* Nghiên cứu các hiện tượng văn học hiện đại
Năm 1933, Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn ra đời. Đây là công
trình quy mô đầu tiên nghiên cứu về văn học hiện đại Việt Nam có phương
pháp nhất từ trước tới thời điểm này. Sách ngoài lời tựa gồm ba phần: phê
bình về thân thế nhà văn; phê bình về tác phẩm và phần cảo luận. Phê bình và
cảo luận, tựa đề tập sách đã thể hiện mục đích của người viết và Thiếu Sơn
cũng trình bày rõ quan niệm phê bình: nhà phê bình chính là “kẻ đọc dùm cho
người khác, chỉ cho người khác cái nghĩa lý của câu chuyện, dụng ý của tác
giả, nghệ thuật và văn thể”. Phần phê bình tác giả: Thiếu Sơn phê bình các tác
giả nổi tiếng thời kỳ này như: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,
88
Hồ Biểu Chánh, Tương Phố, Huỳnh Thúc Kháng… và phát hiện nhiều nét
mới trong nội dung và nghệ thuật của họ, điều này đã được khẳng định. Phần
phê bình sách, Thiếu Sơn cũng đã bộc lộ những tư tưởng tiến bộ và phương
pháp khoa học khi có những nhận xét khá chính xác về ba tác phẩm: Tố Tâm
(Hoàng Ngọc Phách), Người vợ hiền (Nguyễn Thời Xuyên), Quả dưa đỏ
(Nguyễn Trọng Thuật). Tuy nhiên, với phạm vi đề tài đã xác định, chúng tôi
chỉ tập trung tìm hiểu phần “cảo luận” trong Phê bình và cảo luận với các bài
nghiên cứu về vấn đề quốc học, vấn đề tiểu thuyết và mối quan hệ giữa báo
giới và văn quốc ngữ.
“Nói chuyện quốc học” có thể xem là bài tranh luận về vấn đề quốc học
ở nước ta trong thời điểm bấy giờ. Bàn về điều này, Thiếu Sơn khẳng định
chắc chắn: nước ta có nền quốc học! Bởi theo ông, quốc học là gì? Nếu chẳng
phải là “cái học thuật riêng của một nước, nó đặc biệt cho nước ấy, có ảnh
hưởng trực tiếp đến văn học và gián tiếp đến xã hội (…) gồm những cái
phong trào tư tưởng triết học của một nước, nó có thể chịu ảnh hưởng của triết
học nước ngoài mà vẫn phải có phần khác biệt hẳn ra vậy” [153,tr.124]. Ông
còn có ý nhấn mạnh vai trò quan trọng của vấn đề vừa nêu, khi cho rằng:
“Càng bàn đến quốc học ta càng thấy rõ cái giá trị của quốc văn, mà càng
nghĩ đến quốc học ta càng thấy nó có quan hệ với sự tồn vong của tổ quốc”
[153,tr.129]. Tiếp đến, trong “Báo giới và văn học quốc ngữ”, Thiếu Sơn đã
phác họa những nét hết sức tổng quát về báo chí và đời sống văn học đăng
trên báo chí từ năm 1932 trở về đầu thế kỷ để khẳng định vai trò của báo chí
và sự thắng thế của chữ quốc ngữ trong đời sống và văn học, ông viết: “Như
vậy là chữ quốc ngữ của ta bây giờ, chỉ mới trong vòng hai mươi năm mà đã
mau có được cái địa vị vẻ vang vô cùng. Nó không còn là thứ chữ riêng cho
mấy bác văn sĩ thất học, mấy ông đồ Nho lỗi thời, mà nó được các ông Tây
học đứng đắn sủng ái và cần dùng tới nó vậy” [153,tr.156]. Thiếu Sơn khẳng
89
định, báo chí Việt Nam được thực hiện bởi những nhà báo tâm huyết đã xây
dựng nên nền văn học. Tuy nhiên, để tiếp tục nâng cao sự hoàn thiện của văn
chương quốc ngữ “mới thành lập nên còn nghèo nàn túng thiếu” thì nhiệm vụ
của nhà văn là phải làm cho nó phong phú thêm; vì vậy, Thiếu Sơn đề ra hai
phương pháp rất đáng lưu tâm: “Một là sưu tập cái tiếng thường dùng ở dân
gian; Hai là nhập tịch vào văn quốc ngữ những danh từ của văn Tàu, văn
Nhật” [153,tr.162].
Trong bài “Nói chuyện tiểu thuyết”, Thiếu Sơn nêu ra nhiều nguyên
nhân như là những tiền đề xã hội cho sự hình thành và phát triển của thể loại
văn học này. Vốn là một nhà nghiên cứu trẻ có tư tưởng mới và trình độ lý
luận, Thiếu Sơn đã có những nhận xét có tính khái quát cao khi bàn về chủ
nghĩa tả thực trong văn học, ông viết: “Gần đây, khắp văn học thế giới đâu
đâu cũng có cái phong trào tả thực. Mà cái phong trào này là nguyên lai từ cái
trí thức của nhân loại nó đã tiến hóa theo khoa học tới một trình độ khá cao”
[153,tr.135]. Thiếu Sơn chỉ ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển
của tiểu thuyết nước nhà, đó là: thị hiếu của người đọc đã thay đổi; trình độ trí
thức của dân tộc được phát triển tới trình độ khá cao; ảnh hưởng của “phong
trào tả thực thế giới” mà đặc biệt là của Pháp… là những lý do có cơ sở khoa
học và tương đối chắc chắn. Sau khi tìm hiểu phần “cảo luận” của Thiếu Sơn
trong Phê bình và cảo luận, chúng tôi nhận thấy rằng Thiếu Sơn là nhà nghiên
cứu không chỉ quan tâm đến các hiện tượng văn học đương thời, mà ông còn
quan tâm sâu sắc đến các cơ sở xã hội, cơ sở văn hóa của văn học thời kỳ ấy.
Những bài “cảo luận” mang ý nghĩa lý luận khá chắc chắn vừa nêu đã khẳng
định vai trò tiên phong mở đường của nhà nghiên cứu Thiếu Sơn trong việc
nghiên cứu văn học hiện đại nói riêng và tiến trình hiện đại hóa văn học dân
tộc nói chung.
Năm 1942, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh (cùng với Hoài Chân) ra
90
đời, là công trình đầu tiên nghiên cứu, đánh giá nhìn nhận lại một hiện tượng
thơ ca trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại sau khi phong trào
này xuất hiện 10 năm. Sách ngoài phần mở đầu “Cung chiêu anh hồn Tản Đà”
và “Nhỏ to…” ở cuối, gồm hai phần chính: “Một thời đại trong thơ ca” và
nghiên cứu 45 nhà Thơ Mới.
Chọn đối tượng nghiên cứu là Thơ Mới, đương thời Thi nhân Việt Nam
(1942) ra đời đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Với những bước thăng trầm
suốt hơn nửa thế kỷ qua, Thi nhân Việt Nam càng chứng tỏ giá trị đặc biệt của
mình. Đây là công trình đầu tiên viết về Thơ Mới - một hiện tượng văn học
nhạy cảm, một cách công phu, tài hoa và có sức thuyết phục nhất.
Tiểu luận “Một thời đại trong thơ ca” là một bài nghiên cứu rất công
phu, một tổng kết rất súc tích về sự hình thành và phát triển của một phong
trào thơ phù hợp với tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc từ trung đại sang
hiện đại, trong bước ngoặt của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Tác giả Thi nhân Việt Nam đã tỏ ra là một người am
hiểu sâu sắc sự ra đời tất yếu của Thơ Mới, cũng như sự cách tân lớn lao của
nó trong việc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam một cách toàn diện trong những
năm tháng này. Chọn mốc thời gian 1932 - 1941, Hoài Thanh đã tìm ra những
sự kiện thơ ca để nhận diện một phong trào thơ. Bài thơ Tình già của Phan
Khôi in trên báo Phụ nữ tân văn được Hoài Thanh chọn là cột mốc khởi đầu
phong trào Thơ Mới. Còn khi “Chế Lan Viên đề tựa Mùa cổ điển, một tập thơ
cũ”, tác giả Thi nhân Việt Nam cho rằng: cuộc đấu tranh Thơ Mới, thơ cũ đã
kết thúc, khép lại một cuộc tranh chấp và mở ra một chặng đường mới của
tiến trình thơ ca Việt Nam. Cách nhận ra một chặng đường phát triển của thơ
ca ở đây thật hợp lý, bởi tác giả đã căn cứ vào các hiện tượng Thơ Mới để nói
về sự hình thành và phát triển của chính nó.
Tổng kết phong trào Thơ Mới, Hoài Thanh đã nghiên cứu trước hết ở
91
nguyên nhân ra đời của nó. Theo nhà nghiên cứu, sự giao lưu với văn hóa
phương Tây dẫn đến những thay đổi về kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị là
những nguyên nhân phát sinh của Thơ Mới, ông viết: “Nhưng, nhất đán, một
cơn gió mạnh bỗng từ xa thổi đến. Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo,
lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt
Nam từ mấy mươi thế kỷ” [167,tr.11]. Lý giải sự ra đời của phong trào Thơ
Mới bằng những biến đổi trong đời sống xã hội, tư tưởng, tâm lý…, Hoài
Thanh đã diễn giải một cách hình ảnh: “Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi
giày Tây, mặc áo Tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe
đạp… Những đồ dùng kiểu mới ấy chính đã dẫn đường cho tư tưởng mới”
[167,tr.12]. Tác giả Thi nhân Việt Nam còn cho rằng, cái mầm của Thơ Mới
mọc lên từ nền kinh tế hàng hoá mà người lái buôn phương Tây thứ nhất đặt
chân lên xứ ta đã bắt đầu gieo, từ hồi Trịnh Nguyễn phân tranh. Theo Hoài
Thanh, từ đó xã hội, con người Việt Nam mới bắt đầu ý thức về thời gian. Từ
đó, năm sáu mươi năm mà như năm sáu mươi thế kỷ, xã hội Việt Nam đi từ
sự Âu hoá về “cơ cấu vật chất”, đến “tập quán sinh hoạt”, đến “sự vận động
của tư tưởng” và cuối cùng là “nhịp rung cảm”, ông khẳng định: “Phương Tây
bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui
ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu, ghét, giận hờn nhất nhất như ngày
trước.
Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát
vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u
uất, cái khát vọng được thành thực” [167,tr.13-14]. Hoài Thanh cũng cho rằng
sự gặp gỡ của hai yếu tố ngoại nhập (ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và
phương Tây, đặc biệt là của Pháp) và nội sinh (nhu cầu vận động tự thân của
văn học dân tộc) là nguyên nhân tạo nên sự bùng nổ mạnh mẽ của “một cuộc
cách mạng trong thơ ca” làm thay đổi triệt để diện mạo và khuôn hình cũ.
92
Ông khẳng định: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ
có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy cùng
một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy
Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo
rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [167,tr.29].
Xuất phát từ khuynh hướng tư tưởng, Hoài Thanh đã nhận ra sự khác
nhau giữa thơ cũ và Thơ Mới, chỉ ra Cái tôi cá nhân chính là cái dùng để
phân biệt cái cũ của thơ cũ với cái mới của Thơ Mới. Ông viết: “Cá tính con
người bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu, bỗng được giải phóng. Sự giải phóng
có thể bị tai hại ở chỗ khác, ở đây nó chỉ làm giàu thêm cho thi ca”
[167,tr.30]. Hoài Thanh còn cho rằng chính sự thức tỉnh “cái tôi cá nhân”
trong Thơ Mới đã làm nên một chặng đường mới của thơ ca Việt Nam. Ông
viết:
Ngày thứ nhất - ai biết đích ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn
Việt Nam, nó thực sự bỡ ngỡ.., bởi nó mang theo một quan niệm chưa
từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân. Xã hội Việt Nam từ xưa
không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình.
Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong
quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc kỳ tài xuất
đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ. Và
thảng hoặc trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với
người khác. Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào
dám dùng chữ tôi, để nói với mình (…). Bởi vậy cho nên khi chữ tôi
với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao
nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu [167,tr.50-51].
Khẳng định vai trò của “cái tôi cá nhân” trong việc hình thành “một thời
93
đại thi ca”, Hoài Thanh đã nhận ra những dáng vẻ sinh động của cái Tôi trong
Thơ Mới, nhưng ông không hề có ý định thi vị hoá hoặc thổi phồng cái chữ
Tôi đó. Nhà nghiên cứu đã thấy được những giới hạn của nó, ông đã viết một
cách rất thành thực nhưng cũng rất văn chương, sinh động và hình ảnh về bản
chất cùng các dạng vẻ của chữ Tôi trong phong trào Thơ Mới: “Đời chúng ta
nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu
càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng
Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say
cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng
rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”
[167,tr.52]. Cái tâm thế chênh vênh, khắc khoải, cô đơn của con người thuở
ấy đã đi vào Thơ Mới, không thể hiểu một cách đơn giản là sự bế tắc hay suy
đồi trụy lạc của cá nhân và của thơ ca. Về phương diện con người, đó là một
trạng thái có khả năng dẫn đến bi kịch nhưng bi kịch ở đây không đồng nghĩa
với sự tiêu cực, tha hóa, mà về phương diện văn chương, đó là một phản ứng
với hoàn cảnh đương thời, đó là những điềm dự báo, đó là những dấu hiệu
thức tỉnh về một tình trạng xã hội cần phải thay đổi. Vì vậy, việc khẳng định
sự ra đời của Thơ Mới, sự thắng thế của “cái tôi cá nhân” chính là “kết quả
không thể không có được của một cuộc biến thiên vĩ đại, bắt đầu từ hồi nước
ta sáp nhập với đế quốc Pháp” [167,tr.14] của Hoài Thanh là hoàn toàn có lý,
có cơ sở và tương đối chắc chắn.
Cùng với việc nhận ra “tinh thần Thơ Mới”, Hoài Thanh khẳng định
công lao của trào lưu lãng mạn trong thơ ca đối với việc thay đổi “hình dáng”
câu thơ. Ông đã đứng hẳn về Thơ Mới để nhìn nhận, ca ngợi và khẳng định
những sự cách tân về nghệ thuật của Thơ Mới. Nhà nghiên cứu nhận định:
“Phong trào Thơ Mới trước hết là cuộc thí nghiệm táo bạo để định lại giá trị
những khuôn phép xưa”. Tác giả quan tâm đến cả “thi tứ” và “thi thể”, cả
94
“tinh thần Thơ Mới” và “hình dáng câu thơ” để chỉ ra những cách tân quan
trọng của Thơ Mới. Chẳng hạn: Hoài Thanh đã đem đối lập việc thể hiện thi
tứ tình yêu trong thơ cũ và Thơ Mới để qua đó nêu lên sự khác biệt cơ bản
giữa chúng trong lĩnh vực này. Tác giả cũng đã chỉ ra sự cách tân đầy ý nghĩa
của thơ ca Việt Nam hiện đại, khi nó đã mở tung ra các niêm luật chặt chẽ,
khắc nghiệt của các thể thơ cũ, phá đi những tính ước lệ đầy tính chất khuôn
sáo của thơ cũ để tiếp xúc một cách trực tiếp với thiên nhiên, cảnh vật, với
con người - mà không cần thông qua một hệ thống ước lệ có tính khuôn phép
nào hết, để miêu tả một cách tỉ mĩ, kỹ lưỡng các vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh vật,
con người…. Hoài Thanh cũng đặc biệt chú ý đến việc phát hiện ra những câu
thơ, những hình ảnh thơ, những cấu trúc thơ… mới mẻ, sáng tạo, cùng với
những cách tân nghệ thuật táo bạo theo hướng hiện đại của các nhà Thơ Mới.
Và ông coi đó là những đóng góp quan trọng bậc nhất của họ đối với sự
nghiệp đổi mới thi ca Việt Nam.
Căn cứ vào quan điểm đồng đại và lịch đại, Hoài Thanh miêu tả sự hình
thành các khuynh hướng và phong cách của Thơ Mới. Tác giả Thi nhân Việt
Nam chia Thơ Mới làm ba dòng: dòng thơ ảnh hưởng Pháp; dòng thơ ảnh
hưởng thơ Đường và dòng thơ Việt. Tuy vậy, ông cũng cho rằng không phải
các dòng ấy hoàn toàn tách biệt nhau mà ngược lại chúng có sự giao hoán với
nhau. Và khi phân tích sự ảnh hưởng của các dòng thơ, Hoài Thanh cũng đã
sắp xếp, xác định vị trí của từng nhà thơ trong các dòng ấy một cách khách
quan và khá chính xác.
Tuyển chọn bốn mươi lăm tác giả và tác phẩm của họ trong một giai
đoạn để tìm hiểu, nghiên cứu là một việc không phải dễ dàng, nhưng tác giả
Thi nhân Việt Nam đã làm được và tương đối chính xác. Bốn mươi lăm gương
mặt xuất hiện trong Thi nhân Việt Nam không phải gương mặt nào cũng sáng
giá, bài thơ được chọn nào cũng hay là lẽ đương nhiên. Nhưng nhìn chung,
95
bằng lời văn nhẹ nhàng, tinh tế và chính xác, Hoài Thanh đã giới thiệu trong
Thi nhân Việt Nam những cây bút xuất sắc của thời đại, chứng tỏ tác giả là
người am hiểu sâu sắc sự ra đời tất yếu của Thơ Mới, cũng như sự cách tân
lớn lao của nó trong việc hiện đại hóa thơ ca một cách toàn diện trong những
năm từ 1932 đến 1941.
Tóm lại, với tư cách là một công trình nghiên cứu phong trào Thơ Mới,
Thi nhân Việt Nam đã thể hiện một cách xuất sắc vai trò người tiên phong mở
đường. Là “người đại diện ý thức” của phong trào Thơ Mới, Hoài Thanh đã
rất thành công trong việc đưa ra định nghĩa chính xác về Thơ Mới, ông đã
theo dõi quá trình phát triển, đã tiên đoán tiền đồ bế tắc và chỉ ra lối thoát của
nó. Đồng thời, ông cũng là người thẩm định đánh giá chất lượng sáng tác của
các tác giả trong phong trào Thơ Mới ngay cùng thời với nó khá chính xác.
Đó là những giá trị góp phần khẳng định thành tựu tiêu biểu của Thi nhân Việt
Nam trong hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này.
Nhìn chung, trong nghiên cứu văn học hiện đại, Phê bình và cảo luận
của Thiếu Sơn và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh đã để lại một dấu ấn
khó phai mờ trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, đặc biệt, đây lại là
những công trình mang tính chất mở đầu cho việc nghiên cứu văn học hiện
đại một cách có hệ thống. Nét mới ở các công trình này chính là ở chỗ, các
nhà nghiên cứu đã vận dụng một cách sáng tạo các phương pháp nghiên cứu
của phương Tây nhưng từ trong sâu thẳm vẫn chan hòa một tâm hồn Việt
nhạy cảm với cái nhìn khá xác thực đối với từng tác giả, tác phẩm, góp phần
thay đổi diện mạo hoạt động nghiên cứu văn học nước nhà.
* Nghiên cứu tác gia văn học hiện đại
Nếu như năm 1935, Trần Thanh Mại viết Trông giòng sông Vị, một
trong những cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của một
tác gia văn học trung đại là Trần Tế Xương, thì năm 1941, khi Hàn Mặc Tử
96
mất đi chưa đầy một năm, ông lại cho ra đời tác phẩm Hàn Mặc Tử. Đây là
công trình nghiên cứu sớm nhất, công phu nhất và phát hiện được nhiều đặc
điểm nhất về thi sĩ họ Hàn. Cuốn sách, ngoài lời tựa nói về lý do viết sách và
phương pháp nghiên cứu, Trần Thanh Mại chia sách làm hai mươi mốt đoạn
đề cập đến những vấn đề như: hoàn cảnh địa lý và gia đình, đời học tập, làm
báo, những tác phẩm đầu tay, cuộc sống đau thương bệnh hoạn, những mối
tình của thi sĩ, nghệ thuật thơ của thi sĩ, những ngày cuối cùng của một kiếp
người…. Như vậy, trong Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã trình bày cho
người đọc một cách rõ ràng, khoa học tiểu sử của Hàn Mặc Tử, làm cho độc
giả hiểu được cuộc đời và thơ văn của thi sĩ này tương đối đầy đủ khi nhà thơ
vừa qua đời một năm.
Trần Thanh Mại sau khi khảo sát các tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử đã
chỉ ra ba yếu tố chi phối cuộc đời nhà thơ, đó là: bệnh tật, đàn bà và tôn giáo.
Nhà nghiên cứu trình bày khá kỹ nguyên nhân mắc bệnh của Hàn Mặc Tử,
quá trình chữa chạy và những trạng thái bệnh lý của nhà thơ, cũng như chỉ ra
cho chúng ta thấy những mối quan hệ nhân quả giữa bệnh tật và thơ ca. Ông
cho rằng thi hứng trong thơ Hàn Mặc Tử bắt nguồn từ nỗi đau của bệnh tật, từ
tâm trạng đắng cay, chua xót của những cuộc tình tan vỡ. Trần Thanh Mại
cũng phát hiện biểu tượng trăng, hồn, máu; trong đó trăng và hồn là “hai cái
luận đề yêu dấu” nổi bật lên trong tập Đau thương của Hàn Mặc Tử.
Theo nhà nghiên cứu, dường như giữa trăng và căn bệnh của thi sĩ có
mối liên hệ mật thiết, sự đau đớn hay thuyên giảm của căn bệnh lên xuống
theo sự lên xuống của con trăng. Các bài thơ Một đêm trăng, Say trăng, Trăng
vàng trăng ngọc… đều là sự bùng phát dữ dội của chứng bệnh “nan y” được
thể hiện bằng thơ. Sự cảm nhận đớn đau về cái chết khiến Hàn Mặc Tử có rất
nhiều bài thơ mang tựa đề hồn: Trút linh hồn, Với hồn, Biển hồn ai, Hãy nhập
hồn em, Hồn lìa khỏi cổ, Hồn là ai?…. Hồn mà Hàn Mặc Tử thường mộng
97
thấy là hồn lìa khỏi xác để đi chơi một mình, để đánh nhau với chàng và để
rồi cả hai đều phải chết. Theo Trần Thanh Mại, nỗi ám ảnh về cái chết, về
bệnh tật không lúc nào nguôi ngoai trong suy nghĩ của nhà thơ, vì vậy, ý thơ,
lời thơ của Hàn Mặc Tử luôn chứa đựng tâm trạng điên loạn, đau đớn cả về
thể xác lẫn tinh thần. Tác giả công trình Hàn Mặc Tử cũng phát hiện ra bên
cạnh nỗi đau của một thân xác bệnh tật và một tâm hồn rớm máu, vẫn có một
Hàn Mặc Tử “tỉnh táo, mạch máu luôn chảy êm ả dịu dàng”, đó là lúc phần
thơ tự nhiên, không bị ảnh hưởng của bệnh xuất hiện. Trần Thanh Mại cho
rằng những bài thơ này “rất khoẻ khoắn đơn sơ. Âm nhạc reo lên một cách
thong thả nhẹ nhàng, uyển chuyển như một tiếng ngân kéo dài mãi không
ngừng”. Và ông khẳng định: “Những bài thơ nho nhỏ như bài Đà Lạt trăng
mờ, Huyền ảo, Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Siêu thoát… đủ để biểu hiện
tài bao quát của Hàn Mặc Tử và có thể kể trong những bài thơ hay nhất của
nền thơ Việt Nam, của nền thơ hoàn cầu” [123,tr.73]. Đó là những nhận định
khá chính xác của Trần Thanh Mại về tập thơ Đau thương - một trong những
tập thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử.
Tìm hiểu những sáng tác liên quan đến những người đàn bà đã đi qua
cuộc đời Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại cho rằng, đó là nguyên nhân trực tiếp
của việc sáng tạo ra những bài thơ tình tuyệt tác của thi nhân. Chẳng hạn:
Hoàng Cúc mối tình đầu là nguồn cảm hứng để thi sĩ sáng tác những: Tình
quê, Âm thầm..., và đặc biệt là Đây thôn Vĩ Dạ. Ông cũng chỉ ra “Một nỗi thất
vọng lớn của Hàn Mặc Tử nữa là nỗi chàng bị phụ tình” [123,tr.90]. Đó là
muốn nói về mối tình Hàn Mặc Tử với Mộng Cầm, và cho đây chính là nguồn
cảm hứng để sáng tác những bài thơ tình “Muôn năm sầu thảm” như Lang
thang, Say chết đêm nay, Phan Thiết! Phan Thiết!... Theo Trần Thanh Mại,
mối tình với Mộng Cầm là một “mối tình lớn” đối với Hàn, bởi hai người yêu
nhau rất tha thiết. Chính vì vậy, khi tình dang dở, Hàn Mặc Tử rất đau buồn.
98
Trần Thanh Mại nhận xét: Chàng không quên được hình ảnh của người yêu,
nhưng sự đau khổ về cuộc tình duyên ấy lại là một nguồn cảm hứng để thi sĩ
kéo ra nhiều điệu nhạc trầm hùng. Ấy là những tiếng kêu não ruột nhất, những
giọng gào thét đoạn trường nhất mà người bị tình phụ đã thốt lên: “Trời hỡi!
Nhờ ai cho khỏi đói?/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn?/ Làm sao giết được
người trong mộng?/ Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?”(Lang thang - Xuân
Như Ý) [123,tr.93]
Một người đàn bà khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của
Hàn Mặc Tử là Mai Đình nữ sĩ. Theo Trần Thanh Mại, Mai Đình yêu thơ Hàn
Mặc Tử qua tập Gái quê rồi đến với thi sĩ trong đời thực, đã yêu chàng hết
lòng, dù lúc đó, Hàn Mặc Tử đã mắc bệnh. Những bài thơ như: Lưu luyến,
Đánh lừa, Thao thức... ra đời xuất phát từ cảm hứng của bài thơ: Biết Anh,
bức thư mà Mai Đình gửi cho thi nhân. Đó là những mối tình đích thực của
Hàn Mặc Tử đã ảnh hưởng đến thơ văn chàng. Ngoài ra, Trần Thanh Mại còn
dẫn ra cho ta thấy nhiều mối tình khác như với Lê Thị Ngọc Sương: “Ta đề
chữ Ngọc trên tàu chuối, Sương ở cung Thiềm rỏ chẳng thôi”. Hay với cháu
Trần Thanh Địch: cô bé Thương Thương 12 tuổi là nguồn cảm hứng của Cẩm
Châu Duyên.
Bệnh tật, đàn bà là hai ám ảnh khôn nguôi đến thơ Hàn Mặc Tử. Điều
này đã rõ, bởi trong Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã có từng đoạn riêng để
nói đến khía cạnh này. Tuy nhiên, sẽ thiếu nếu chúng ta không nhắc đến tôn
giáo. Tôn giáo chính là nguồn ảnh hưởng cuối cùng đến thơ Hàn Mặc Tử. Tuy
không để tôn giáo thành một mục riêng nhưng rõ ràng trong Hàn Mặc Tử,
Trần Thanh Mại đã đề cập nhiều về sự tác động của tôn giáo đến thơ Hàn
Mặc Tử. Chẳng hạn, Trần Thanh Mại dẫn ra bài Xuân đầu tiên và cho rằng:
“Những tinh thần cao siêu thanh khiết ấy phần nhiều là ảnh hưởng ở nguồn tư
tưởng vô cùng nơi đạo Thiên Chúa. Hàn Mặc Tử bảo Bích Khê rằng: “Sáng
99
tạo là điều kiện cần thiết, tối yếu của thơ, mà muốn tìm nguồn cảm xúc mới
lạ, không chi bằng đọc sách về tôn giáo cho nhiều. Như thế thơ văn mới trở
nên trọng vọng, cao quí, có một ý nghĩa thần bí” [123,tr.121]. Nhà nghiên cứu
lại đưa ra dẫn chứng về ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo đối với thơ Hàn trong
lời kêu gọi đến phép tắc mầu nhiệm của Đức Chúa Trời ở bài tựa Xuân như ý:
“Lạy chúa trời đi! Hãy ban cho tôi hằng hà sa số là ơn lành, ơn cả. Thơ tôi sẽ
rất no, rất ớn, rất nư, trọng vọng như tài hoa, cao sang như nhân đức, chói
chang vô vàn phước lộc” [123,tr.121]; hoặc “trong cơn bệnh hoạn của chàng,
mỗi lần chàng chết đi sống lại là chàng đều cảm thấy bà thánh nữ đồng trinh
Maria đến cứu chàng cả” [123,tr.121]. Và đấy là nguồn thi hứng để Hàn Mặc
Tử sáng tác Thánh nữ đồng trinh Maria.
Nhận xét về ảnh hưởng của tôn giáo đối với thơ Hàn Mặc Tử, Trần
Thanh Mại cho rằng: tư tưởng và lời thơ cao siêu, thanh khiết của thi sĩ họ
Hàn bắt nguồn từ nỗi đau, từ ảnh hưởng nguồn tư tưởng của đạo Thiên Chúa.
Trần Thanh Mại cũng chỉ ra cội nguồn tạo nên giá trị và những dấu ấn đặc
biệt trong thơ Hàn Mặc Tử chính là sự giao hòa của ngôn ngữ Á - Âu, của hai
nguồn văn hoá Phật giáo và Thiên Chúa giáo, của những đau đớn tột cùng của
thể xác và những bí ẩn diệu kỳ của tâm linh…. Đó chính là tất cả các yếu tố
được nương náu, ẩn chứa vào những vần thơ đầy âm thanh và nhạc điệu của
Hàn Mặc Tử.
Bệnh tật, đàn bà và tôn giáo, theo Trần Thanh Mại, đó cũng chính là ba
nguồn ảnh hưởng đã tạo nên một “cảm thụ lực” đặc biệt ở nhà thơ Hàn Mặc
Tử. Phải thừa nhận rằng, những nhận xét của Trần Thanh Mại về nghệ thuật
thơ Hàn Mặc Tử thật khá tinh tường, ông đã thấy được “Hàn Mặc Tử là một
nhà thơ duy nhất sống bằng sự chiến đấu giữa tình cảm của chàng và cảnh
tượng của tạo vật” [123,tr.144]. Ở Hàn Mặc Tử, “ta thấy cảm thụ lực khi nào
phát triển cũng đến tột bực”. Và nhờ ở nguồn cảm thụ lực phát triển đến cực
100
điểm như thế nên “Hàn Mặc Tử là nhà thơ Việt Nam đầu tiên biết nghe ngóng
những lời âm thầm của tạo vật”; thi sĩ “có một thính giác đặc biệt để nghe
được hơi thở của một cành lá, cả va chạm của hai luồng ánh sáng” tức là “Hàn
Mặc Tử đã phóng thoát cái bản năng của loài người, cởi lột được bao nhiêu
cốt cách của loài người để mà ăn nhập vào với vũ trụ, để biến thành một hiện
tượng của vũ trụ” [123,tr.153]. Chính vì cho rằng Hàn Mặc Tử được phú giữ
một nghệ thuật hết sức tài tình ấy, nên Trần Thanh Mại kết luận: “Văn thơ của
Hàn Mặc Tử có thể ví như lời Tô Đông Pha đã tự ví văn mình, một nguồn
nước chảy thao thao, quanh co uốn khúc, có khi lách nhẹ qua các áng hoa
luống cỏ, nhưng đến khi cần cũng đục xẻ nổi cả những tảng núi sườn non,
đánh đổ tất cả những gì cản trở” [123,tr.156].
Cũng chính “nguồn cảm thụ lực” đặc biệt đã mang lại cho thơ Hàn Mặc
Tử một thứ âm nhạc đặc biệt. Trần Thanh Mại khẳng định: “Hàn Mặc Tử là
nhà thi sĩ Việt Nam có cái nghệ thuật âm nhạc tài tình nhất. Trong suốt sự
nghiệp thi ca, kể cũng đã là vĩ đại đối với cuộc đời ngắn ngủi của chàng,
không có bài nào, đến cả không có câu nào làm ra mà không dóng theo âm
điệu” [123,tr.158]. Và “Riêng về một phương diện nhạc của thơ, ảnh hưởng
của Hàn Mặc Tử trong làng thơ Việt Nam hiện cũng đã to tát, rõ ràng lắm”.
Nhận xét về phương diện này, Trần Thanh Mại cho rằng: “Hàn Mặc Tử là
một nhà thơ biệt lập hẳn ra một cõi, một cõi nguy nga đồ sộ, ngát hơi hương
và vang tiếng nhạc, từ trên ấy, người cho chiếu xuống cái nước non thanh tú
là làng thơ Việt Nam những luồng ánh sáng đầy phép lạ, có cái tài lực biến
hóa được những vật đã chạm đến [123,tr.164].
Tóm lại, qua Hàn Mặc Tử, cũng như qua Trông giòng sông Vị ta thấy
Trần Thanh Mại đã áp dụng khá thành công phương pháp nghiên cứu tiểu sử
học khi đã dùng những tư liệu về cuộc đời để cắt nghĩa sự nghiệp thơ văn Hàn
Mặc Tử. Những nhận định của Trần Thanh Mại về nội dung cũng như nghệ
101
thuật của thơ ca Hàn Mặc Tử khá sâu sắc và tinh tế. Tuy có đôi chỗ, có lẽ do
quá thông cảm và “xót thương” cho số phận bất hạnh của Hàn Mặc Tử, nên
đôi lúc Trần Thanh Mại có những lời “tán tụng” quá đáng, khiến cho độc giả
ngờ vực thi tài Hàn Mặc Tử. Nhưng rõ ràng, những khả năng dự đoán tương
lai về sức sống của thơ văn Hàn Mặc Tử ở Trần Thanh Mại là chính xác: “Rồi
đây, khi văn thơ Hàn Mặc Tử đã được in ra, đã được truyền bá một cách phổ
thông thì làng thơ Việt Nam sẽ có thay đổi lớn nữa, sẽ bước vào một con
đường mới, để chiếm thêm nhiều lãnh thổ tốt đẹp...” [123,tr.165]. Hay “Hàn
Mặc Tử là người đầu tiên trong thế kỷ XX mở một cuộc cải cách lớn vào văn
chương Việt Nam và thành công một cách vinh quang rực rỡ” [123,tr.165]. Ở
những dòng cuối quyển Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại viết: “Tôi vẫn biết
trước trong một ngày không lâu, người ta sẽ giành nhau cái vinh dự xây dựng
cho thi sĩ Hàn Mặc Tử những chiếc thánh giá vĩ đại, đến cả những lăng tẩm
nguy nga nữa” [123,tr.186]. Những lời tiên đoán này, ta thấy càng ngày càng
đúng đối với trường hợp Hàn Mặc Tử.
Cũng cần nói thêm rằng, ngoài Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại, các
công trình Thi sĩ Tản Đà (1939), Tú Mỡ (1942) của Lê Thanh cũng đã góp
phần quan trọng trong công tác nghiên cứu cuộc đời và thơ văn của các tác
gia văn học hiện đại trong những năm nửa đầu thế kỷ XX.
Nhìn chung, so với nghiên cứu văn học dân gian và văn học trung đại thì
nghiên cứu văn học hiện đại gặp trở ngại trong việc đánh giá các hiện tượng
văn học, bởi nó chưa đủ độ lùi thời gian nhất định. Tuy nhiên, bằng phương
pháp khoa học kết hợp với sự nhạy bén trong cảm nhận văn học, các công
trình nghiên cứu về văn học hiện đại ra đời ở giai đoạn này đã khẳng định
được vị trí của mình khi có những đánh giá tương đối chính xác về các hiện
tượng văn hóa, văn học đương thời. Những giá trị đạt được trong các công
trình vừa trình bày cũng chứng tỏ sự phát triển và từng bước trưởng thành của
102
hoạt động nghiên cứu văn học trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Nếu Thiếu Sơn với Phê bình và cảo luận mạnh
ở cái nhìn khái quát, tổng hợp những đặc điểm lịch sử, văn hóa, xã hội để làm
nền tảng cho phần cảo luận thì Hoài Thanh ở Thi nhân Việt Nam lại xuất sắc
trong việc lẫy ra phong cách của từng tác giả trong cái nhìn tổng thể của cả
một phong trào Thơ Mới, vừa rất chung lại cũng vừa rất riêng, tạo nên sự
thành công cả về diện (một phong trào thơ) và điểm (phong cách từng tác
giả). Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại lại tập trung đào sâu vào một phương
pháp cụ thể để mổ xẻ sự nghiệp thơ ca của một tác gia cụ thể, đó là phương
pháp tiểu sử học - một dấu nhấn đậm ý nghĩa trong tiến trình tiếp thu các
phương pháp của phương Tây trong nghiên cứu, tìm hiểu văn học nước nhà.
Chính những thành công này đã góp phần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ
trong hoạt động nghiên cứu văn học nửa đầu thế kỷ XX.
2.2.1.2. Những công trình khái quát cả quá trình văn học
2.2.1.2.1. Ngô Tất Tố là một trong những nhà nghiên cứu văn học sử đã
giúp độc giả đương thời có được tài liệu khá phong phú để thưởng thức văn
học cổ Việt Nam từ thời đại Lý, Trần đến cuối thế kỷ XIX qua các tác phẩm:
Việt Nam văn học (1942) (gồm hai tập Văn học đời Lý, Văn học đời Trần) và
Thi văn bình chú (1941)
Hai cuốn Văn học đời Lý, Văn học đời Trần là công trình nghiên cứu,
giới thiệu về các tác giả và tác phẩm tiêu biểu của văn học đời Lý (hai mươi
ba tác giả với ba mươi tác phẩm) và văn học đời Trần (bảy tác giả với bốn
mươi sáu tác phẩm và bốn tác phẩm vô danh). Trong Văn học đời Lý, Ngô Tất
Tố chưa đề xuất một tiêu chí cụ thể nào để phân loại tác giả hay tác phẩm. Ở
mỗi nhà văn được nói đến, Ngô Tất Tố chỉ giới thiệu một vài nét về tiểu sử rồi
trích dịch tác phẩm, chứ không bàn luận gì. Ông chỉ viết một bài bàn chung ở
phần đầu và kết luận ở phần cuối tác phẩm với ghi nhận một ít sự kiện liên
103
quan về lịch sử và tư tưởng. Đến Văn học đời Trần, Ngô Tất Tố có tiến bộ
hơn khi ở mỗi nhà văn được giới thiệu, ông có đưa ra nhận xét dù ngắn gọn.
Trong “Lời bàn chung” ở đầu sách, ông đã viết một bảng tổng hợp về văn học
đời Trần với nhận định: văn học đời Trần trội hơn văn học đời Lý. Ngô Tất
Tố cũng đã chia các tác phẩm đời Trần ra làm sáu loại: chính trị, lý thuyết, sử
truyện, thơ văn, giáo dục, võ bị.
Thi văn bình chú xuất bản năm 1941 bao gồm hai tập, mục đích chính
của sách là giải thích và đính chính. Quyển I, Ngô Tất Tố giới thiệu 12 nhà
thơ gồm: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn, Ngô Chi Lan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê
Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Vũ Huy Lượng, Phan Huy Ích, Ngọc Hân công
chúa, Dương Xuân Hầu, Tạ Đình Hầu, Phạm Đan Phượng và một vài bài thơ
khuyết danh. Quyển II, tác giả giới thiệu 14 nhà thơ: Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Bà Huyện Thanh Quan, Lý Văn Phức, Cao Bá Quát, Phan Thanh
Giản, Cao Bá Nhạ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Dương
Lâm, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Trần Tế Xương.
Về phương pháp nghiên cứu, theo như trình bày của tác giả trong “Lời
của biên giả” gồm các bước: giới thiệu tiểu sử, tham khảo so sánh, chú thích,
giải thích, phê bình. Đáng chú ý nhất là ở phương diện chú thích, tác giả đã
thể hiện sự nghiên cứu rất kỹ, dịch rất sát nghĩa nhưng cũng rất tài hoa, nhất
là những bài về dịch văn xuôi ra văn vần.
Nhìn chung, Việt Nam văn học và Thi văn bình chú - hai công trình
nghiên cứu, tuyển chọn, giới thiệu văn học từ thời Lý, Trần đến cuối thế kỷ
XIX của tác giả Ngô Tất Tố; xét về cách viết chưa có gì đặc sắc, tác giả làm
văn học theo lối tuyển văn và dịch văn, cả về giới thiệu nhà văn và bình chú
cũng giản lược, về quan điểm phân kì cũng là việc chia văn học đơn giản theo
triều đại: văn học đời Lý, văn học đời Trần; nhưng có lẽ đóng góp quan trọng
của Ngô Tất Tố ở hai công trình này là đã đi vào sưu tầm, tìm hiểu và giới
104
thiệu cho độc giả đương thời những tác phẩm và tác giả nổi bật của giai đoạn
văn học tiêu biểu trong văn học trung đại, giúp cho người đọc có được tài liệu
để thưởng thức văn học, một việc làm mà cho tới thời điểm đó là còn rất ít, đủ
để cho chúng ta ghi nhận đóng góp to lớn của nhà nghiên cứu Ngô Tất Tố
trong buổi đầu nghiên cứu văn học sử nước nhà.
Cùng thời gian này, Việt Nam cổ văn học sử (1942) của Nguyễn Đổng
Chi cũng xuất hiện. Theo lời tác giả tuyên bố trong “Lệ sách” thì bộ sách Việt
Nam cổ văn học sử gồm có 3 quyển, chỉ giới hạn từ thượng cổ đến cuối nhà
Hồ: Quyển một biên sử văn học cho từng thời đại; Quyển hai biên tiểu sử, dật
sử và văn chương của các văn, thi sĩ, danh sĩ, những người có công với văn
học ở khoảng đời ấy; Quyển ba có bốn mục: một mục chép các sách vở trước
tác ở đời ấy, một mục những thơ văn vô danh, một mục những thơ văn hoài
nghi, một mục chú thích những điển tích khó cùng địa danh xưa [15,tr.10].
Tuy nhiên, cho đến hết năm 1945, chúng ta mới được tiếp xúc với quyển một
của Việt Nam cổ văn học sử. Ngoài bài tựa và lệ sách in ở đầu và bài tóm tắt,
lời bạt in ở cuối sách, Việt Nam cổ văn học sử gồm có 11 chương lần lượt bàn
về: Gốc gác người Việt Nam, Cội rễ tiếng Nam, Chữ viết thời thượng cổ, Tư
tưởng học thuật nước Tàu buổi quá khứ, Triết lý tôn giáo Ấn Độ buổi quá
khứ, Từ đời cổ đến Sĩ Nhiếp, Từ Sĩ Nhiếp đến Ngô Quyền (187 - 939), Đời
Ngô, Đinh, Lê (939 - 1009), Đời Lý (1010 - 1225), Đời Trần (1225 - 1380),
Đời Hồ (1380 - 1407). Với quan niệm, văn học Việt Nam là một dòng chảy
liên tục từ quá khứ, qua hiện tại, tới tương lai, Nguyễn Đổng Chi chia văn học
Việt Nam từ thế kỷ XV trở về trước làm hai thời kỳ. Thời kỳ đầu từ đời phát
đoan đến đầu thế kỷ X - nghiên cứu về những vấn đề văn học tổng quát, xác
định những hoàn cảnh xã hội, tư tưởng mà nền văn học Việt Nam phải va
chạm trong buổi đầu dựng nước. Theo Nguyễn Đổng Chi, đây là thời kỳ đặt
nền móng cho văn học Việt Nam, nên thành tựu của văn học không có gì
105
đáng kể, ngoại trừ “thỉnh thoảng có ít nhiều tay văn học xuất sắc với những
tác phẩm của mình”. Nguyễn Đổng Chi chỉ ra ba cái mốc đánh dấu bước hình
thành nền văn học thành văn gắn liền với tên tuổi ba nhân vật tiêu biểu: Lý
Tiến đời Hán, Sĩ Nhiếp đời Tam Quốc, Khương Công Phụ đời Đường. Đồng
thời, để cho độc giả thấy “văn chương người Nam buổi Hán học khởi thủy”,
nhà nghiên cứu trích một đoạn trong bài sớ của Lý Tiến gửi vua Hán, hay
công bố bài phú “Mây trắng rọi biển xanh” để người đọc thưởng thức lối văn
“lời lẽ tao nhã mà thoát sáo” của Khương Công Phụ đời Đường. Nguyễn
Đổng Chi cũng khẳng định: nhờ có Lý Tiến, người Việt bấy giờ được ngang
hàng với người Trung Châu trên trường hoạt động văn hóa xã hội, Sĩ Nhiếp
thì “đã đem lại cho văn học được khá nhiều dấn vốn”, Khương Công Phụ thì
mở ra trào lưu du học cho người Việt. Ngoài ba tác giả kể trên, Nguyễn Đổng
Chi đã liệt kê một số tác giả mặc dù không nhiều nhưng cũng khá tiêu biểu
cho lực lượng sáng tác lúc bấy giờ như: Lý Cầm, Trương Trọng, Bốc Long,
Pháp Hiền, Pháp Đăng, Huệ Nghiêm, Cảm Thành, Phùng Trí Đái, Khương
Công Phụ…, đồng thời ông cũng công bố một số tư liệu về thơ từ của danh
nhân Trung Hoa như Đạo Hy, Dương Cự Nguyên, Trương Tịch…tặng đáp
người Việt, hoặc lời Đường Cao Tổ khen thơ Phùng Trí Đái… để cho độc giả
thấy được dù số lượng sáng tác trong thời gian này không nhiều nhưng chất
lượng tác phẩm văn học của người Nam thuở ấy rất đáng ghi nhận.
Thời kỳ thứ hai từ đời tự chủ cho đến đầu thế kỷ thứ XV, gồm các đời
Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ. Nguyễn Đổng Chi cho rằng văn học thời
kỳ này có lúc đã đạt được những thành tựu cao, nhất là văn học ở đời Trần và
Hồ. Nhận xét về sự phát triển của văn học thời kỳ này, ông ví von rằng: “Đời
Ngô, Đinh, Lê là lúc đắp nền, đời Lý, Trần đã dựng thành một nếp nhà tuy
chưa khéo đẹp lắm mà cũng tiện nghi, thích hợp. Đến đời Hồ là lúc đã dành
dụm được ít nhiều của, mua sắm vật liệu, sắp sửa xây thêm một ngôi nhà khác
106
đồ sộ hơn” [15,tr.283].
Đi vào tìm hiểu từng thời kỳ, Nguyễn Đổng Chi đã có những phát hiện
rất đáng ghi nhận. Nói đến giai đoạn văn học thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, nhà
nghiên cứu nhấn mạnh một thể loại mà ông gọi là “sấm ký” và cho rằng đây
là thể loại xuất hiện vào lúc nghề phong thủy, bói toán, sấm vĩ đang được ưa
chuộng. Tác giả đánh giá cao văn học thời Trần, ông khẳng định đây là một
thời đại văn chương “rực rỡ”, “có nhiều trang giá trị” nhờ “được tín ngưỡng
tự do, đã không có cái học khoa cử bó buộc lại được triều đình đãi ngộ sĩ phu
rất rộng” [15,tr.157]. Nguyễn Đổng Chi cũng giới thiệu và đưa ra những nhận
xét xác đáng về một số nhân vật tiếng tăm đương thời như Trần Thái Tông,
Tuệ Trung Thượng Sĩ, Chu Văn An. Đặc biệt, ông còn mạnh dạn đề cao
những cải cách về xã hội và văn học của Hồ Quý Ly. Nói như Thanh Lãng:
“Nguyễn Đổng Chi là người đầu tiên muốn lấy triều đại nhà Hồ như một
chặng đường cực thịnh của nền cổ văn học Việt Nam” thì hình như chưa hợp
lý lắm, nhưng rõ ràng, Nguyễn Đổng Chi đã thấy được và trân trọng “cuộc
cách mạng” trong văn học của Hồ Quý Ly khi đã gợi cho người Việt ý thức
được tầm quan trọng của việc phải sử dụng văn tự của riêng mình.
Đồng thời với việc đề cao văn học đời Trần, Hồ, Nguyễn Đổng Chi
cũng mạnh dạn xem xét một cách toàn diện cả những khuynh hướng văn học
đối lập. Chẳng hạn, ông viết mục: Văn chương phái ở ngoại quốc (đời Trần);
Văn chương phái phục Trần (đời Hồ) và có cái nhìn thấu tình đạt lý về các tác
giả này. Do quan điểm văn, sử, triết bất phân, cho nên bên cạnh việc nghiên
cứu thành tựu văn học các thời đại - sự hình thành các dòng văn, thể loại, các
tác gia và tác phẩm, Nguyễn Đổng Chi còn quan tâm đến lịch sử, con người,
đất nước, tiếng Việt và chữ Việt, phong tục tập quán và tín ngưỡng trong
nước, sự ảnh hưởng của các nguồn văn hóa ngoại lai như: văn hóa phật giáo
Ấn Độ, văn hóa tam giáo Trung Hoa… Tóm lại, Việt Nam cổ văn học sử của
107
Nguyễn Đổng Chi, dù là một trong những tác phẩm nghiên cứu lịch sử văn
học đầu tiên, nhưng nhà nghiên cứu đã cố gắng trong việc phác họa một bức
tranh văn học khá hoàn chỉnh từ thời thượng cổ đến thời nhà Hồ không chỉ
cho độc giả đương thời thưởng thức mà hôm nay đọc lại ta thấy vẫn còn giá
trị.
Cùng thời điểm với Việt Nam cổ văn học sử ra đời, Vũ Ngọc Phan cũng
lần lượt cho xuất bản toàn tập bộ Nhà văn hiện đại (1942), gồm năm quyển tại
nhà xuất bản Tân Dân.
Toàn bộ công trình gồm hơn một ngàn bốn trăm trang in, viết về bảy
mươi chín nhà văn có tác phẩm ra đời trong khoảng ba mươi năm kể từ 1940
trở về trước. Hai quyển đầu, giới thiệu các nhà văn lớp trước. Quyển I, viết về
“Những người đi tiên phong” là những nhà văn hồi mới có chữ quốc ngữ như
Trương Vĩnh Ký - nhà bác học với con đường riêng; kế đến Nguyễn Văn
Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục thuộc nhóm Đông Dương tạp chí;
Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn
Trọng Thuật, Đông Hồ, Tương Phố thuộc nhóm Nam Phong tạp chí. Quyển
II, viết về “Các nhà văn độc lập” cũng thuộc lớp đầu, nhưng không ở trong
hai nhóm Đông Dương và Nam Phong. Vũ Ngọc Phan chia các cây bút này
gồm ba loại: các nhà biên khảo gồm có: Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Dư,
Phan Khôi, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Tố, Đào
Duy Anh; các tiểu thuyết gia như: Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh; các
thi gia bao gồm: Nguyễn Khắc Hiếu, Đoàn Như Khuê, Dương Bá Trạc, Trần
Tuấn Khải. Ba quyển cuối, nghiên cứu “những nhà văn lớp sau”. Trong quyển
III, tác giả đề cập đến những nhà văn viết bút ký như: Nguyễn Tuân, Phùng
Tất Đắc, viết truyện ký và lịch sử ký sự gồm có: Phan Trần Chúc, Đào Trinh
Nhất, Trần Thanh Mại, Nguyễn Triệu Luật, Ngô Văn Triện, các nhà viết
phóng sự gồm: Vũ Đình Chí (tức Tam Lang), Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,
108
Ngô Tất Tố, các nhà viết phê bình và biên khảo như: Thiếu Sơn, Trương
Chính, Hoài Thanh, các nhà viết kịch gồm: Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc,
Đoàn Phú Tứ, các nhà thơ: Nguyễn Giang, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Vũ
Hoàng Chương, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ, Bùi Huy
Cường. Quyển IV (tập thượng và tập hạ), giới thiệu các tiểu thuyết gia “tiêu
biểu cho phong trào tiểu thuyết đang biến hóa và đang lan rộng ở nước ta”,
Vũ Ngọc Phan chia làm mười nhóm, theo các thể loại như sau: tiểu thuyết
phong tục: Khái Hưng, Trần Tiêu, Mạnh Phú Tư, Bùi Hiển, Thiết Can, tiểu
thuyết luận đề: Nhất Linh, Hoàng Đạo, tiểu thuyết luân lý: Lê Văn Trương,
tiểu thuyết truyền kỳ: Lan Khai, Đái Đức Tuấn, tiểu thuyết phóng sự: Chu
Thiên, tiểu thuyết hoạt kê: Đồ Phồn (tức Bùi Huy Phồn), tiểu thuyết tả chân:
Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp, Tô Hoài, tiểu thuyết xã hội:
Trương Tửu, Nguyên Hồng, tiểu thuyết tình cảm: Thạch Lam, Đỗ Đức Thu,
Nhượng Tống, Thanh Tịnh, Thụy An, Nguyễn Xuân Huy, Ngọc Giao,
Nguyễn Vỹ, tiểu thuyết trinh thám: Phạm Cao Củng.
Như vậy, cùng chọn đối tượng nghiên cứu là văn học Việt Nam hiện đại,
nhưng Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan không phải chỉ thuần túy là
nghiên cứu một tác gia như Hàn Mặc Tử hoặc một phong trào thơ như Thi
nhân Việt Nam mà đối tượng nghiên cứu trong Nhà văn hiện đại nhiều hơn;
bởi không chỉ là thi gia, tiểu thuyết gia, mà còn các nhà biên khảo, trước
thuật, dịch thuật, các tay bình bút chủ chốt của các tạp chí lớn có tác phẩm
xuất bản trong vòng 30 năm, từ 1940 trở về trước.
Khi Nhà văn hiện đại ra đời, đã được dư luận đánh giá rất cao, chẳng
hạn: Dân báo, số ra ngày 5 - 10 - 1942 nhận xét: Nhà văn hiện đại là một
công trình khảo cứu sự nghiệp văn chương của các nhà văn hiện thời rất công
phu, “lời văn sáng suốt mà ý kiến phần nhiều lại rất xác đáng, thật bổ ích cho
những ai muốn nghiên cứu về văn chương nước nhà hiện nay”, hoặc Tin mới,
109
số ra ngày 9 - 10 - 1942 cũng cho rằng: “Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan
là một cuốn sách phê bình có phương pháp, có hành văn, lại sáng suốt, giản
dị. Cứ xem đó người ta cũng hiểu được cái lịch trình tiến hoá của nền văn học
xứ này trong mấy chục năm gần đây”.
Tìm hiểu Nhà văn hiện đại, chúng tôi nhận thấy rằng đây thực sự là một
công trình khoa học có giá trị không chỉ về chất lượng sản phẩm đạt được mà
còn là kết quả của một quá trình làm việc công phu, nghiêm túc của một nhà
khoa học tâm huyết. Giá trị trước hết ở Nhà văn hiện đại là đã cung cấp một
khối lượng tư liệu chính xác và khá đầy đủ về thân thế và số lượng tác phẩm
của tất cả 79 nhà văn trong gần nửa thế kỷ. Ông đã trích dẫn rất đầy đủ
nguyên văn của các tác giả để làm chứng cho nhận định của mình. Vũ Ngọc
Phan cũng chú ý đến năm, tháng xuất bản của tác phẩm. Nếu một tác phẩm
được tái bản nhiều lần, ông chọn bản in sau cùng để chỉ ra những gì đã được
tác giả sửa chữa.
Viết Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã có chủ trương về phương pháp
và mục đích của công trình một cách rõ ràng. Ngay từ những trang đầu tiên,
ông xác định mục đích công trình của mình là: Nhận cho rõ trào lưu, tình hình
xã hội và những xu hướng về tinh thần, về vật chất, về chính trị, về tôn giáo,
mà tác phẩm chỉ là những tấm gương phản chiếu; xét sự tiến hoá về đường
nghệ thuật và tư tưởng của các nhà văn hiện đại qua những tác phẩm của họ,
để xem trong số họ, những người nào là những người giữ chức vụ hướng đạo
hay quan sát và những người nào chỉ là người theo trào lưu; so sánh trình độ
văn học của ta với trình độ văn học những nước mà chúng ta đã hiểu biết về
văn hoá và so sánh những nhà văn hiện đại của ta với những nhà văn thuở xưa
của ta để ước định con đường tiến bộ tạm thời và tương lai; cắt nghĩa sự thành
công của mỗi nhà văn đối với từng loại độc giả [132,tr.30]. Về phương pháp,
Vũ Ngọc Phan nêu rõ phương pháp của mình, cũng như những cơ sở lý thuyết
110
mà ông lấy làm điểm tựa. Ông tán thành lý thuyết phê bình của Brunetière
nhưng không đồng ý tính “độc đoán, thiên vị” của tác giả này trong việc ứng
dụng thực tiễn nghiên cứu văn học. Vì thế, Vũ Ngọc Phan chủ trương dùng
“phương pháp tổng hợp” để ứng dụng phù hợp với “hoàn cảnh văn học” và
“trình độ tri thức của dân tộc”. Ông tuyên bố: “Tôi đã theo phương pháp khoa
học và căn cứ vào những bằng chứng xác thực để phê bình, sự khen chê
không bao giờ vu vơ cả!” [132,1176].
Dựa vào tiến trình vận động và phát triển của lịch sử, Vũ Ngọc Phan đã
sắp xếp, phân loại các tác giả khá uyển chuyển. Trước hết là các “nhà văn lớp
đầu”, “hồi mới có chữ quốc ngữ”, đó là các nhà văn trong nhóm Đông Dương
tạp chí và Nam Phong tạp chí, các nhà biên khảo và dịch thuật, các tiểu thuyết
gia, các thi gia; đến các “nhà văn lớp sau” gồm các nhà viết bút ký, các nhà
viết lịch sử ký sự và truyện ký, các nhà viết phóng sự, các nhà phê bình và
biên khảo, các kịch sĩ, các tiểu thuyết gia. Vũ Ngọc Phan đã mạnh dạn giới
thuyết khái niệm “Nhà văn hiện đại” khuôn trong những tác giả và tác phẩm
có giá trị. Vì vậy, ông chủ trương lựa chọn, giới thiệu và nghiên cứu các nhà
văn có “những văn phẩm… được người đương thời chú ý” và “có ảnh hưởng
đến người đời”. Nói cách khác, ông chỉ nghiên cứu những nhà văn có sự đổi
mới về tư tưởng, nghệ thuật, phù hợp với nhu cầu văn hóa của người đương
thời, chứ không lựa chọn, giới thiệu các nhà văn dù đã có “văn chương bán
phố phường” nhưng không có dấu hiệu đổi mới. Những nhà văn được ông
đánh giá cao, trước hết phải là những người có công với “nền quốc văn”, có
công trong việc thúc đẩy “sự tiến hóa của nền văn học dân tộc” theo xu hướng
hiện đại.
Giới thiệu 79 nhà văn về mọi thể loại, không phải nhà văn nào cũng đem
đến cho Vũ Ngọc Phan một cảm hứng để nghiên cứu như nhau. Nhưng bằng
phương pháp khách quan, khoa học, cộng với một thái độ nghiên cứu nghiêm
111
túc, công tâm, trân trọng tài năng, đề cao thành tựu, Vũ Ngọc Phan luôn có
nhận xét đánh giá, khen chê đúng mức chứ không hề quá lời với đối tượng
nghiên cứu. Những ưu điểm hay nhược điểm của các tác giả, tác phẩm đều
được ông chỉ ra một cách rất bình tĩnh, nhã nhặn, vừa hóm hỉnh vừa thâm
thúy. Chẳng hạn: Viết về một người hay trích dẫn sách nọ, sách kia, Vũ Ngọc
Phan nhận xét: “Nói một câu cho hợp lẽ, việc gì phải viện nhiều thầy như thế.
Sau nữa, đã biết viết tất phải biết đọc, cần gì phô cái đọc của mình”. Đôi khi
ông có cách nêu ưu điểm của người viết mà lại để cho người viết và độc giả
thấy được nhược điểm của tác giả. Đó là trường hợp nói về Lê Văn Trương,
ông trích câu kết thúc cuốn tiểu thuyết Tôi là mẹ: “Nàng nâng con se sẽ ru:
Sương buồn ôm kín non sông…” và hạ một dòng: “Đó là cái giọng Lê Văn
Trương thường không có” [132,tr.869].
Căn cứ phân loại theo khuynh hướng đặc trưng thể loại của tác phẩm và
khám phá riêng trong phong cách từng nhà văn, Vũ Ngọc Phan đã có những
phán đoán thật tinh tường trong việc phác họa chân dung của các tác giả qua
khảo sát kỹ lưỡng hàng trăm tác phẩm thuộc các thể loại mà họ để lại. Chẳng
hạn: Vũ Ngọc Phan rất chính xác trong việc xếp Ngô Tất Tố vào những nhà
văn lớp sau. Ông cũng tương đối thành công trong việc nắm bắt phong cách
riêng và xác định vị trí của từng nhà văn. Ông khen Phan Kế Bính văn xuất
sắc, sáng suốt, lời đanh, câu chắc, thận trọng, kỹ càng, am hiểu nghề văn. Ông
xác định, truyện ngắn của Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn có tính tả thực
nhưng chưa thoát ly khỏi khuôn sáo của văn chương Tàu, vẫn ở dạng truyện
ngắn luân lý, chưa có ngôn ngữ nhân vật. Ca ngợi Trương Vĩnh Ký là “một
nhà bác học có óc tổ chức và có phương pháp, chứ không phải là một nhà văn
như những nhà văn khác” [132,tr.27]. Ông ghi nhận những đóng góp có tính
chất thời sự của những tác gia không để lại nhiều tác phẩm quan trọng nhưng
có một vị trí đáng kể trong sinh hoạt văn học thời bấy giờ ở cương vị làm báo
112
như: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Ông khẳng định “cái công to lớn” của
Phạm Quỳnh cũng như của Nguyễn Văn Vĩnh chính là cái công “khai thác”
lúc đầu cho nền quốc văn ngày nay. Ông còn cho rằng, “Trong lịch sử văn
học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong (…)
cũng như Phạm Quỳnh là hồn của tạp chí Nam Phong” [132,tr.110]. Với Phan
Khôi, Vũ Ngọc Phan nêu được cái sắc sảo trong một phong cách tư duy thiên
về phê phán, thường hay lật ngược vấn đề, sở trường về bút chiến và cái
duyên trong một khả năng bình thơ hàm súc, táo bạo. Nhà nghiên cứu cũng
chỉ ra sự không thành công của Phan Khôi trong lĩnh vực sáng tác, khi cho
Tình già là bài thơ được chú ý không phải vì âm điệu mà vì ý mới; Trở vỏ lửa
ra là một tiểu thuyết phỏng theo Tây cộng với những cái tật của truyện cổ
Tàu, ở chỗ tác giả thường xen vào giảng giải, tranh phần xét đoán của người
đọc, thậm chí lộ rõ “cái cuống quít của tác giả khi gặp một việc không trôi”.
Vũ Ngọc Phan đánh giá cao tiểu thuyết của Khái Hưng, bởi “Khái Hưng là
một nhà văn được nam nữ thanh niên ưa chuộng, được họ coi là người hiểu
biết tâm hồn họ hơn cả”. Vũ Ngọc Phan cho rằng : “Xuân Diệu là người đem
đến cho thi ca Việt Nam nhiều cái mới nhất. Thơ Xuân Diệu là cả một bầu
xuân, là bình chứa muôn hương của tuổi trẻ, nhất là sự vận dụng hết ngũ
quan” [132,tr.786]. Ông còn cho rằng: “Bây giờ người ta đã hiểu thơ Xuân
Diệu. Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm nồng nàn nhất trong tất cả các
nhà Thơ Mới. Cả ý lẫn lời đều thiết tha, làm cho người thanh niên ngây ngất
(…). Những lời say sưa như thế, nếu thi sĩ không rất nồng nàn với cuộc sống
thì không tài nào diễn ra được” [132,tr.717-718]. Nhận xét về Nguyễn Công
Hoan, nhà nghiên cứu đã nhận ra tính nhân đạo ẩn kín ở truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan, cùng những nhược điểm riêng về phong cách và hạn chế
trong bút pháp của nhà văn này, Vũ Ngọc Phan viết:
Sự xung đột giữa kẻ giàu và người nghèo là cái cốt của hầu hết
113
truyện ngắn, truyện dài của Nguyễn Công Hoan. Khi hạng nghèo
đụng chạm đến hạng giàu bao giờ người ta cũng thấy ông ngả về
hạng nghèo, nhưng khi tả riêng hạng nghèo, ông cũng tả bằng ngọn
bút hoạt kê như khi tả hạng giàu mà nhiều khi cay độc (…). Ông tả
đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít khi ông tả những ý nghĩ của họ.
Nhất là những điều u uẩn của họ thì không bao giờ ông đả động đến.
Bao giờ ông cũng đặt họ vào những khuôn khổ riêng, đó là khuôn lễ
giáo hay khuôn phong tục mà họ đã “ra trò” với bộ mặt phường
tuồng của họ [132,tr.1078].
Ông còn có nhận định thật sâu sắc về tài năng của Nguyễn Công Hoan: “Ông
viết rất đều tay, và đọc ông, không bao giờ ta phải phàn nàn rằng ông chỉ
quanh quẩn trong mấy đầu đề như nhiều nhà văn khác (…). Tôi tin rằng trong
phạm vi tả chân và trào lộng, cây bút của Nguyễn Công Hoan mới có thể
vững vàng, còn ngoài phạm vi ấy, tôi e rằng nó sẽ lung lay” [132,tr.1079].
Đặc biệt, đối với Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan đã tỏ ra tinh tường trong việc
đánh giá văn chương của nhà văn tài hoa này. Ông khẳng định, Nguyễn Tuân:
“đứng hẳn về một phái riêng, cả lối văn lẫn tư tưởng (…) được chú ý đến lối
hành văn đặc biệt của ông và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng
những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa
bãi lôi thôi như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho ta thấy một
trạng thái của tâm hồn [132,tr.469-470]. Vũ Ngọc Phan cũng là người đầu
tiên chỉ ra nét phong cách đặc biệt của Nguyễn Tuân, đó là “tính hào hoa và
giọng khinh bạc”, ông viết:
Sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn một
cách hoàn toàn Việt Nam, Nguyễn Tuân là nhà văn theo thuyết hoài
nghi, ông có khuynh hướng về chủ nghĩa vật chất và gần như muốn
tin ở cái ma lực của bản năng, ông lại ưa thích những cái cố hữu, nên
114
tuy là người muốn xê dịch, tuy nhận mình là kẻ giang hồ nhưng sự
thật thì chỉ khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê
hương đất nước, ông mới viết tinh vi và sâu sắc. Ông là một nhà văn
đặc Việt Nam, có tính hào hoa và giọng khinh bạc đệ nhất trong văn
giới hiện đại [132,tr.490].
Ông cho rằng, tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, là
một văn phẩm gần tới sự toàn thiện toàn mỹ, quả là một văn phẩm quý, và
“cái quý giá ấy sẽ còn tăng lên nữa với thời gian, như một thứ đồ cổ vậy”. Vì
vậy, theo Vũ Ngọc Phan: “Một ngày không xa, khi văn chương Việt Nam
được ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn
Tuân sẽ có địa vị xứng đáng hơn nữa” [132,tr.439]. Những nhận định và phát
hiện của Vũ Ngọc Phan về Nguyễn Tuân chứng tỏ sự chuẩn xác trong nghiên
cứu, đúng như nhiều người nhận xét: Phần nghiên cứu về Nguyễn Tuân là
một trong những phần nghiên cứu xuất sắc nhất trong công trình Nhà văn hiện
đại của Vũ Ngọc Phan.
Trong quá trình nghiên cứu các tác giả, tác phẩm văn học, Vũ Ngọc
Phan luôn đặt tác giả, tác phẩm đó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có thể định
giá một cách chính xác, công bằng để không rơi vào tình trạng “thiên vị” hay
“a dua” theo dư luận. Trường hợp đánh giá Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là
một ví dụ. Không đồng ý với quan niệm “hết chê nó không hợp thời về
truyện, lại không hợp thời về văn”, Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Cố nhiên nó
không phải một “truyện của thời nay”, tuy nó mới ra đời cách đây hai mươi
năm. Hai mươi năm giá ở một nước tới một trình độ tiến hóa đầy đủ thì chỉ là
một thời gian không đáng kể, nhưng ở vào nước Việt Nam ta, sự tiến hóa
đang rất mau, rất bồng bột từ khi tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, hai
mươi năm có thể coi là một thế hệ” [132,tr.325]. Vì vậy, ông có nhận xét
công bằng và xác đáng về tác phẩm này: “Tố Tâm là một quyển truyện viết
115
rất văn hóa, kết cấu cũng khá và đã ra đời trong một thời mà tiểu thuyết sáng
tác còn thấp kém, quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai. Bởi thế, cho nên Tố
Tâm là quyển tiểu thuyết đầu tiên được mọi người chú ý đặc biệt”
[132,tr.329]. Nhận xét về nhà tiểu thuyết tiêu biểu của Nam Bộ - Hồ Biểu
Chánh, Vũ Ngọc Phan khẳng định sự tiến bộ về nghệ thuật tả chân trong tiểu
thuyết của ông. Nhà nghiên cứu còn cho rằng, các nhà văn “đi tiên phong” ở
nước ta, từ Nguyễn Bá Học trở lại, đến Hồ Biểu Chánh, “tiểu thuyết nước ta
mới bắt đầu đến bước vững vàng, để dần dần đi tới ngày nay là lúc đã có thể
chia ra nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [132,tr.342].
Tác giả công trình Nhà văn hiện đại cũng tỏ rõ sự am hiểu sâu sắc đặc
trưng các thể loại văn xuôi mà đặc biệt là đối với tiểu thuyết. Ông đã giới
thiệu về 27/ 79 nhà văn là tiểu thuyết gia và đã có những nhận định tương đối
hợp lý về đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trên các phương diện: cách tiếp
cận cuộc sống và tái tạo cuộc sống theo cái nhìn nghệ thuật và bút pháp tự sự
của những bản lĩnh nghệ thuật khác nhau; những tiếng nói nghệ thuật và
giọng điệu đa dạng; năng lực hư cấu, khám phá, tác động vào cuộc sống hiện
tại và người đương thời; kỹ thuật bố cục và miêu tả không gian, thời gian
trong sự gắn bó chặt chẽ với tính cách… Ông cũng nhận ra một cách sâu sắc
cái mà tiểu thuyết thu hút mạnh mẽ người đọc là ở chỗ: sống động, bề bộn,
phức tạp, nhiều nghịch lý và bất ngờ như cuộc sống đang diễn tiến, nó lôi
cuốn người ta cùng can dự vào nhân tình thế thái hiện thời, đồng thời khơi gợi
sự tự nhận biết để hoàn thiện bản thân trong sự liên tưởng và ám ảnh từ những
câu chuyện được đọc qua. Ông kết luận: “Đọc tiểu thuyết, người ta thấy có cái
thú vị nồng nàn là được sống sâu rộng hơn, thấm thía hơn, vì ở đời không một
ai được sống trọn vẹn, không một ai được sống với tất cả giác quan rung
động, với tất cả mọi hành vi cùng tư tưởng bồng bột và thâm trầm. Chính tiểu
thuyết là một loại văn có thể bổ khuyết cho ta về những cái thiếu sót ấy”
116
[132,tr.749-750]. Với sự am hiểu khá sâu sắc như thế nên Vũ Ngọc Phan đã
có những nhận định chính xác về các tiểu thuyết gia. Trường hợp viết về
Thạch Lam, Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Tô Hoài… là những ví dụ cụ thể.
Bên cạnh những thành công, Nhà văn hiện đại cũng bộc lộ những hạn
chế nhất định. Chẳng hạn, sự lúng túng trong việc sắp xếp tác giả theo thể loại
và trong thể loại, phân chia theo loại đề tài, ở hai tập sau, sự nhầm lẫn trong
việc nhìn nhận, đánh giá và “dự báo” tài năng nghệ thuật của một số nhà văn.
Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận, so với những thành tựu đạt được thì một
vài nhược điểm nhất định như vừa nêu là không đáng kể. Nhà văn hiện đại
vẫn xứng đáng là một công trình nghiên cứu có quy mô lớn “dựng lên bức
tranh toàn cảnh về các tác gia và tác phẩm” trong vòng 30 năm như những
“kỳ đài sừng sững”, là một thành quả đáng tự hào không chỉ về giá trị học
thuật mà còn là một pho tư liệu hết sức bổ ích cho các nhà nghiên cứu sau
này. Điều này một lần nữa khẳng định, Nhà văn hiện đại thực sự là một cột
mốc đáng nhớ trong lịch sử phát triển của hoạt động nghiên cứu văn học giai
đoạn trước 1945. Cùng với Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan xứng đáng là nhà
nghiên cứu xuất sắc của thời đại khi đã có những đóng góp quan trọng trong
quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học ở giai đoạn này.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu từng giai đoạn văn học của Ngô
Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan tuy còn bộc lộ nhiều hạn chế, tuy
nhiên, có thể nói đây là những công trình khá đồ sộ mang tính tổng lược cao
của từng giai đoạn lịch sử văn học nước nhà, tập hợp được nhiều tác giả và
tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam qua từng chặng đường phát triển.
Điều này chứng tỏ kiến văn rộng lớn của ba tác giả, đồng thời cũng thể hiện
công phu và tâm huyết của những nhà nghiên cứu đối với gia tài văn học dân
tộc. Cái cách mà Ngô Tất Tố phân chia ra làm 6 loại ở Văn học đời Trần
(chính trị, lý thuyết, sử truyện, thơ văn, giáo dục, võ bị) là một việc làm tỉ mỉ,
117
công phu và có óc khái quát. Rồi lối nghiên cứu có hệ thống qua 5 bước (giới
thiệu thơ, tham khảo so sánh, chú thích, giải thích, phê bình) trong Thi văn
bình chú, bước đầu đã khẳng định một tư duy nghiên cứu khoa học và tập
trung. Trên mặt bằng những thành tựu đó, Việt Nam cổ văn học sử của
Nguyễn Đổng Chi và Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là những công
trình tiếp bước đáng ghi nhận trong buổi đầu của hoạt động nghiên cứu văn
học thể hiện qua từng giai đoạn văn học cụ thể. Cách sắp xếp, hệ thống của
Nguyễn Đổng Chi và Vũ Ngọc Phan so với các tác phẩm của Ngô Tất Tố đã
cho thấy rõ hơn diện mạo của văn học Việt Nam qua từng giai đoạn văn học.
2.2.1.2.2. Nếu như Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi là cuốn
lịch sử văn học đầu tiên nghiên cứu liên tục lịch sử văn học Việt Nam từ thời
cổ đại đến triều nhà Hồ; Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan một trong
những cuốn lịch sử văn học đầu tiên nghiên cứu văn học hiện đại trong
khoảng bốn mươi năm (từ năm 1940 trở về trước) ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XX thì Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm lại là cuốn lịch sử
văn học đầu tiên bao quát toàn bộ lịch sử văn học Việt Nam từ văn học dân
gian đến hiện đại và còn mở rộng xem xét ảnh hưởng của sự giao lưu văn hoá
Trung Hoa, Pháp, sự du nhập truyền bá Phật giáo, Đạo giáo đối với quá trình
phát triển của văn học Việt Nam.
Việt Nam văn học sử yếu, vốn là một cuốn sách giáo khoa văn học sử
được soạn theo chương trình trung học Pháp Việt (tiền thân của nó là sách
Quốc văn trích diễm) nhưng nó đã vượt ra ngoài tính chất một cuốn sách giáo
khoa bình thường trước đó và thực sự xứng đáng là một bộ sách lịch sử văn
học. Toàn bộ công trình gồm 3 phần được chia theo chương trình của ba năm
học ở bậc trung học:
- Phần thứ nhất, dành cho năm thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề văn
học tổng quát, ngoài chương dẫn đầu giới thiệu qua về kết cấu của chương
118
trình học, có mười chín chương quy vào sáu thiên: Thiên thứ nhất nghiên cứu
văn chương bình dân gồm các thể: tục ngữ, ca dao, thành ngữ, câu đố; Thiên
thứ hai nghiên cứu ảnh hưởng của nước Tàu bao gồm: giới thiệu phương pháp
và các sách giáo khoa để học chữ Nho, nêu công dụng của văn học Tàu xét
qua các bộ sách Tứ Thư và Kinh Thi, du học Việt Nam qua Tàu, sự truyền bá
Phật giáo và Đạo giáo; Thiên thứ ba: nghiên cứu các chế độ về việc học, việc
thi bao gồm: cách tổ chức việc học thời xưa, lịch sử khoa cử ở Việt Nam thời
xưa, giới thiệu các lối văn cử nghiệp viết bằng chữ Nho như: kinh nghĩa, văn
sách, chiếu, biểu…, vua Lê Thánh Tôn và Hội Tao Đàn; Thiên thứ tư nghiên
cứu các thể văn: trong đó hai chương XI, XII giới thiệu chữ Nôm, Hàn
Thuyên và các nhà mô phỏng ông. Chương XIII, XIV giới thiệu các thể văn
của Tàu và của ta gồm: phép đối và phú (trong văn Tàu), phú và văn tế (trong
văn Việt Nam). Chương XV, XVI giới thiệu các thể văn Việt Nam gồm:
truyện, ngâm, hát nói, ca Huế và hát bội. Chương XVII nghiên cứu tính cách
chính của các tác phẩm về văn chương: các điển cố; Thiên thứ năm nghiên
cứu ảnh hưởng của nước Pháp: các giáo sĩ. Cố Alexandre de Rhodes. Việc
sáng tác chữ quốc ngữ; Thiên thứ sáu nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ văn tự:
giới thiệu những sự khác nhau về thổ âm trong tiếng Việt.
- Phần thứ hai, dành cho năm thứ hai, khảo xét các thời đại văn học Việt
Nam từ đầu đến cuối thế kỷ XIX, trước khi có phong trào quốc văn mới,
ngoài chương dẫn đầu còn có hai mươi chương quy vào năm thiên: Thiên thứ
nhất nghiên cứu ảnh hưởng của văn chương Tàu gồm ba chương: tính cách
phổ thông của văn Tàu và văn chương Việt Nam (chương I), các văn sĩ và thi
sĩ Tàu đã có ảnh hưởng lớn nhất đến văn chương Việt Nam gồm: Khuất
Nguyên, Đào Tiềm, Lý Bạch, Hàn Dũ, Tô Đông Pha (chương II và III); Thiên
thứ hai: Thời kỳ Lý, Trần (từ thế kỷ XI đến XIV), nghiên cứu các nhà viết thơ
văn chữ Nho trong hai triều Lý, Trần (chương IV); Thiên thứ ba nghiên cứu
119
thời kỳ Lê, Mạc (thế kỷ XV và XVI) gồm: các nhà viết thơ văn chữ Nho trong
triều Hậu Lê (phụ nhà Mạc), sự nghiệp của Nguyễn Trãi qua các tác phẩm
viết bằng chữ Hán và Việt văn (Gia huấn ca) (chương V - VI), các bộ Nam sử
đầu tiên - bộ Đại Việt sử ký (chương VII), chương VIII giới thiệu các tác
phẩm đầu tiên bằng tiếng Việt: thơ đời Hồng Đức và thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
(tức Trạng Trình); Thiên thứ tư nghiên cứu văn học thời kỳ Nam Bắc phân
tranh (thế kỷ thứ XVII và XVIII) (từ chương IX đến chương XII) gồm: Hán
văn đời Lê trung hưng, Việt văn đời Lê trung hưng, văn thời Lê Mạc, Nguyễn
sơ (giới thiệu những sách đặc biệt của văn học thời ấy: sách Tang thương
ngẫu lục và Vũ trung tùy bút), việc người Âu châu đến nước Nam gồm: các
nhà buôn và giáo sĩ, ảnh hưởng của giám mục Bá Đa Lộc, sự bành trướng của
chữ quốc ngữ, sự phát đạt của nghề in; Thiên thứ năm nghiên cứu thời kỳ cận
kim (Triều Nguyễn - thế kỷ XIX) bao gồm: giới thiệu các vua triều Nguyễn,
chính sách, học quy, các đời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức (chương XIII),
mưu đồ canh tân của Nguyễn Trường Tộ và chương trình cải cách của ông
(chương XIV), giới thiệu văn chương triều Nguyễn (chia làm ba thời kỳ: buổi
Nguyễn sơ, trước khi nước Pháp lập cuộc bảo hộ, sau khi nước Pháp lập cuộc
bảo hộ (chương XIV)), giới thiệu các bộ sử ký, địa lý (Việt sử cương mục,
Đại Nam nhất thống chí) và Lịch sử bản triều (Thực lục và Liệt truyện)
(chương XVI), giới thiệu bộ Lịch triều hiến chương - bộ Bách khoa toàn thư
về Việt Nam thời cổ (chương XII); Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du
(chương XVIII), các truyện Nôm khác: Lục Vân Tiên, Bích Câu kỳ ngộ, Nhị
độ mai, Phan Trần (chương XIX), các nhà viết văn Nôm thế kỷ XIX (chương
XX).
- Phần thứ ba, dành cho năm thứ ba, nghiên cứu văn học Việt Nam về
thế kỷ XX, từ khi chịu ảnh hưởng của phương Tây. Nội dung ngoài “Mấy lời
dẫn đầu” có bảy chương chia làm 3 phần: Xét về các ảnh hưởng đã gây nên
120
nền quốc văn mới của ta (ảnh hưởng của nền văn mới nước Tàu (Lương Khải
Siêu) và của Pháp) và vấn đề những danh từ mới (tiếng Tàu, tiếng Nhật) đã
sáp nhập vào tiếng ta (chương I, II); xét về việc thành lập nền quốc văn mới
và những phái, những người đã có công trong việc thành lập nền quốc văn ấy
như: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh và phái Nam Phong (chương III và IV);
xét về sự biến hóa về hình thức tư tưởng, nghệ thuật trong các thể văn mới
(kịch, phê bình văn xuôi, văn dịch, văn viết báo), tác giả có dừng lại phân tích
một số tác gia và nhóm Tự lực văn đoàn (chương V, VI, VII).
Ngoài nội dung của ba năm học vừa kể, phần sau cùng của cuốn sách
còn có mục tổng kết và biểu liệt kê tác giả, tác phẩm. Tất cả những nội dung
trên được Dương Quảng Hàm trình bày theo một bố cục rõ ràng, chặt chẽ. Đối
với những vấn đề lớn, Dương Quảng Hàm tỏ rõ cái nhìn khái quát và sự am
hiểu sâu sắc về tình hình văn học Việt Nam từ thuở phát nguyên cho đến hiện
tại. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các ảnh hưởng bên ngoài và
các tác động mạnh mẽ của vấn đề giáo dục, vấn đề ngôn ngữ đối với văn học
Việt Nam. Đối với những vấn đề nhỏ, Dương Quảng Hàm thường đi vào
nghiên cứu các yếu tố nhỏ nhất như từ ngữ, việc cắt nghĩa các phép tắc của
thể loại. Điều này thể hiện việc coi trọng yếu tố ngôn từ và vấn đề thi pháp
trong công tác nghiên cứu của tác giả.
Dương Quảng Hàm luôn tuân thủ một cách nghiêm ngặt những qui định
trong phương pháp nghiên cứu mà mình đặt ra. Đó là “lấy sự thực làm trọng”,
“lấy sự minh bạch làm trọng”, hết sức tránh những kết luận áp đặt, hồ đồ,
phiến diện. Ông chủ trương “Không khi nào dám lấy ý riêng mà giải quyết
một nghi vấn theo cách võ đoán, cũng không hấp tấp theo liều những ý kiến
thông thường nhiều khi sai lầm hoặc thiên lệch”. Vì vậy, những dữ kiện được
Dương Quảng Hàm đề cập trong Việt Nam văn học sử yếu đều có tính chính
xác khá cao. Các nhận định và cắt nghĩa của Dương Quảng Hàm thường ngắn
121
gọn, đầy đủ, đúng mực. Việc chọn lựa và giới thiệu tác giả, tác phẩm, trào lưu
văn học tương đối tiêu biểu, thể hiện sự phán đoán tinh tế và nhạy cảm về văn
học ở Dương Quảng Hàm.
Trong các công trình nghiên cứu văn học sử xuất hiện ở nửa đầu thế kỷ
XX như Việt Nam văn học, Việt Nam cổ văn học sử, Nhà văn hiện đại…, thì
Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm là cuốn sách đầu tiên bao
quát toàn bộ tiến trình lịch sử văn học nước ta (tính thời điểm sách ra đời).
Điều này cho phép ta khẳng định đây là một tác phẩm có dung lượng lớn,
nhưng có lẽ, điều khiến cho Việt Nam văn học sử yếu khẳng định được vị trí
của mình không chỉ là có “dung lượng lớn” mà còn là tính khoa học trong
phương pháp nghiên cứu cũng như sự nghiêm túc của tác giả Dương Quảng
Hàm.
Phần lớn các bài viết gần đây đều tập trung khẳng định giá trị lớn lao
của bộ sách trong việc xây nền đắp móng cho ngành văn học sử nước ta. Nhà
nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá trong bài viết nhân kỷ niệm 95 năm ngày
sinh của Dương Quảng Hàm, đã đưa ra những nhận xét thỏa đáng:
Tuy bị gò bó như tên sách và lời nói đầu đã quy định - đây là sách
giáo khoa văn học cho học sinh bậc trung học, nhưng Việt Nam văn
học sử yếu thực sự có giá trị của một công trình văn học sử. Người
viết đã chú ý đúng mức cả hai bộ phận văn chương bình dân và văn
chương viết. Ở bộ phận chủ yếu thứ hai này, cụ chú ý cả văn chương
viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, đồng thời trân trọng không kém văn
chương viết bằng quốc ngữ (…). Cụ giới thiệu nền văn xuôi mới, nền
thơ mới, các văn gia, thi sĩ hiện đại, các thể loại văn học mới (…). Cụ
trân trọng bất cứ thành tựu nào của bất cứ ai dù thuộc thế hệ nào, kể cả
thế hệ hậu sinh.
122
Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc cũng đánh giá rất cao Việt Nam văn
học sử yếu của Dương Quảng Hàm khi cho rằng: Cấu trúc tác phẩm này rất
lôgic và sáng sủa. Việc xử lý tư liệu rất khoa học, bố cục chặt chẽ, lập luận
vững chắc. Lời văn trong sáng, khúc chiết và giản dị, khác hẳn lối văn biền
ngẫu dài dòng của các thế hệ Nho gia trước đó [121,tr.134].
Tìm hiểu Việt Nam văn học sử yếu, chúng tôi nhận thấy rằng, vấn đề
trước tiên góp phần khẳng định giá trị của công trình, đó là thái độ khiêm tốn,
thận trọng, nghiêm túc của học giả Dương Quảng Hàm trong công tác nghiên
cứu khoa học. Điều này được ông bộc bạch ngay trong Lời mở đầu:
Nay chúng tôi lấy tài sơ học thiển soạn ra quyển Việt Nam văn học sử
yếu này, cũng tự biết là làm một việc quá bạo và chắc rằng tác phẩm
của chúng tôi còn nhiều điều thiếu thốn, phải đợi công cuộc khảo cứu
tra tầm của các học giả sau này mà bổ khuyết dần. Dù sao chăng nữa,
trong việc biên tập, chúng tôi đã hết sức cẩn thận. Khi xét về một vấn
đề nào, trước hết sưu tập các tài liệu tản mạn ở các sách báo, rồi khảo
sát, suy nghĩ: điều gì xác thực chắc chắn mới chép, điều gì còn hồ
nghi thì để huyền, điều gì có nhiều thuyết tương đương thì giải bày rõ
ràng để sau này có thể nghiên cứu thêm mà quyết định. Tóm lại,
chúng tôi lấy sự thực làm trọng, không khi nào dám lấy ý riêng mà
giải quyết một nghi vấn theo cách võ đoán, cũng không hấp tấp theo
liều những ý kiến thông thường nhiều khi sai lầm hoặc thiên lệch.
Bởi thế, mỗi việc quan trọng kể ra, mỗi cái chứng cớ dẫn ra, thường
có chua rõ xuất xứ. Cuối mỗi chương, đều có kể rõ các tác phẩm để
kê cứu và các bản in, bản dịch để độc giả có thể theo đấy mà kiểm
điểm những điều đã chép ở trên [46,tr.12].
Và Dương Quảng Hàm đã thực hiện đúng như lời mình nói trong Việt Nam
văn học sử yếu, từ việc giải thích một thuật ngữ, giới thiệu một vấn đề, một
123
tác giả hay một tác phẩm, nhà nghiên cứu đều rất thận trọng trong việc sưu
tầm tra cứu tư liệu gốc, các dị bản khác nhau. Mỗi vấn đề, sự việc được kể ra,
tác giả đều ghi rõ xuất xứ tham khảo để người đọc dễ tìm kiếm. Với mỗi tác
gia (trừ người còn sống) được giới thiệu, tác giả đều có dẫn một tiểu truyện
cẩn thận, chu đáo gồm: họ tên, ngày tháng, năm sinh, năm mất, nơi sinh, quê
quán, trình độ văn hóa, tác phẩm…). Sau mỗi chương, mục, ông còn giới
thiệu các bài đọc thêm, các tác phẩm để kê cứu… Theo Lê Thị Đức Hạnh
trong bài viết “Phần văn học Việt Nam hiện đại trong Việt Nam văn học sử
yếu”, thống kê có tới 36 loại báo, 467 tác gia, 561 tác phẩm, ngoài ra còn có
Biểu liệt kê các tác gia và các tác phẩm theo thứ tự thời gian (từ 1067 đến
1940 gần 900 năm) bao gồm cả văn, sử, triết, chính trị… Điều này một lần
nữa khẳng định: dù là một trong những quyển văn học sử đầu tiên nhưng Việt
Nam văn học sử yếu là địa chỉ rất đáng tin cậy cho nhiều thế hệ nghiên cứu và
giảng dạy từ khi ra đời cho đến nay.
Giá trị được quan tâm tiếp theo là phương pháp tiếp cận khoa học trong
sự nhận diện quá trình phát triển của văn học dân tộc ở Dương Quảng Hàm.
Tác giả Việt Nam văn học sử yếu chia văn học Việt Nam thành hai bộ phận
lớn là văn chương bình dân và văn học viết. Đây là cách phân chia văn học
lần đầu tiên đã được tác giả Việt Nam văn học sử yếu áp dụng và đã được các
nhà nghiên cứu sau này đồng tình. Về quan điểm viết văn học sử, thời điểm
Việt Nam văn học sử yếu ra đời, dù quy luật văn - sử - triết bất phân đã
nhường chỗ cho quy luật phân lập văn - sử, văn - triết nhưng cơ bản Dương
Quảng Hàm vẫn viết theo quan điểm cũ. Tuy vậy, nếu xét toàn bộ tác phẩm,
ta thấy không phải ông luôn viết theo quan điểm bất phân, mà chỉ có thời kỳ
cận đại trở về trước ông mới nhìn theo quan điểm ấy.
Và cho dù xuất phát từ quan niệm văn - sử - triết bất phân, nhưng ở
nhiều chỗ Dương Quảng Hàm đã có cách tiếp cận văn học khá hiện đại khi
124
không tự bó mình trong giới hạn khép kín của văn chương mà đã mở rộng
phạm vi sang các lĩnh vực khác như lịch sử, văn hoá, tư tưởng, tôn giáo, chế
độ xã hội, ảnh hưởng văn hoá, văn học Trung Quốc, ảnh hưởng văn hoá, văn
học phương Tây.… để nhìn nhận, đánh giá văn học rõ hơn. Đây là một lối
nghiên cứu mới, mà trong những thập kỉ gần đây, chúng ta mới nói nhiều đến
phương pháp này - phương pháp nghiên cứu liên ngành trong khoa học. Điều
này cho thấy sự nhạy bén trong cách nhìn nhận vấn đề của học giả Dương
Quảng Hàm trong công trình giáo khoa văn học sử đầu tiên, những vấn đề mà
ông đề xuất là những gợi ý rất bổ ích cho ngành nghiên cứu văn học hôm nay.
Vấn đề thi pháp văn học là vấn đề mà văn học ngày nay mới đặc biệt
quan tâm cũng đã được Dương Quảng Hàm rất coi trọng và dành nhiều trang
để khảo sát về thi pháp Tàu, thi pháp những thể loại phổ biến trong nền văn
học cổ của ta như: phú, văn tế, truyện, ngâm, hát nói, ca Huế, hát bội… Nhận
xét về vấn đề này, ông chỉ rõ: tuy chịu ảnh hưởng nghiêm nhặt của thi pháp
văn chương cổ điển Trung Hoa, của các văn liệu rút ra từ tinh hoa của văn
chương ấy, song các nhà văn Việt Nam, với tài năng và bản lĩnh nghệ thuật
của mình, vẫn có khả năng dân tộc hóa các thể loại vốn có nguồn gốc từ nước
ngoài vào (như thơ Đường luật chữ Hán và chữ Nôm). Mặt khác, các nhà văn
ta còn sáng tạo ra những thể văn riêng của ta như lục bát, song thất lục bát,
truyện thơ Nôm, Thơ Mới, tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ.
Riêng phần nghiên cứu văn học hiện đại trong Việt Nam văn học sử yếu,
Dương Quảng Hàm đã cho thấy bản lĩnh vững vàng và thể hiện sự nhạy bén
của tác giả trong việc tiếp cận văn học từ cách chọn vấn đề, chọn tác gia, tác
phẩm, đánh giá, sắp xếp, phân loại đến cách trình bày… Chẳng hạn: trong
việc chọn tác gia và tác phẩm, Dương Quảng Hàm đã chứng tỏ cặp mắt rất
tinh đời khi ông chọn Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu là những người đại
diện cho các nhà Thơ Mới; về văn xuôi, bên cạnh sự chú ý đặc biệt đến Khái
125
Hưng, Nhất Linh là những Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng... Có lẽ do số lượng trang sách có hạn, nên Dương Quảng Hàm không
đề cập đầy đủ tác giả này hay tác giả kia, nhưng rõ ràng không thiếu những
người tiêu biểu. Nhà nghiên cứu cũng đã tuyển chọn, giới thiệu những tác
phẩm không chỉ tiêu biểu lúc bấy giờ, mà cho đến hôm nay vẫn được đánh giá
cao như: Mấy vần thơ (Thế Lữ), Thơ Thơ (Xuân Diệu), Kép Tư Bền (Nguyễn
Công Hoan), Giông tố (Vũ Trọng Phụng), Lầm than (Lan Khai), Bỉ vỏ
(Nguyên Hồng), Đoạn tuyệt, Lạnh lùng (Nhất Linh), Hồn bướm mơ tiên, Nửa
chừng xuân (Khái Hưng).
Không chỉ có nhiều quan điểm rất khoa học trong phương pháp nghiên
cứu văn học như đã trình bày, tác giả Việt Nam văn học sử yếu còn bộc lộ
những tư tưởng rất tiến bộ khi nhận xét về sự xuất hiện chữ quốc ngữ, chính
sách ngoại giao, học quy giáo dục; chẳng hạn: về mặt ngoại giao, khi bàn
chính sách ngoại giao của triều Nguyễn, Dương Quảng Hàm mạnh dạn chỉ ra
những khiếm khuyết, ông viết: “Về mặt ngoại giao thì theo chính sách bế môn
tỏa cảng, nghĩa là đóng cửa không cho người ngoại quốc vào và không giao
thiệp với nước ngoài”. Đặt vấn đề: Tại sao các nhà cầm quyền nước ta lại theo
chính sách ấy, Dương Quảng Hàm cho rằng có hai cớ chính là do lòng tự cao
và lòng nghi kỵ của triều Nguyễn lúc ấy [46,tr.330-331]. Lưu ý những chính
sách ngoại giao sai lầm của triều Nguyễn như vừa nêu, nhà nghiên cứu đã chỉ
ra nguyên nhân như sau:
Sở dĩ… có những ý tưởng sai lầm về việc ngoại giao, chính vì kiến
văn hẹp hòi, tri thức khiếm khuyết, chỉ biết đọc sách Tàu, hiểu việc
nước Tàu, còn ngoài ra, tình thế thiên hạ, lịch sử, địa dư, văn minh
các nước khác trên hoàn cầu đều không rõ cả, chỉ chuyên học về văn
chương, luân lý, mài miệt về lối văn cử nghiệp mà không hề nghiên
cứu đến các khoa học thực dụng, nên không biết rằng cơ khí, binh bị,
126
kỹ nghệ, thương mại có mật thiết quan hệ đến sự giàu mạnh sinh tồn
của một dân tộc, một nước trong thế kỷ thứ mười chín. Mà cái cớ
khiến cho kiến văn hẹp hòi, học thức khiếm khuyết thế, là chính vì
phép học, phép thi ở nước ta không hề thay đổi [46,tr.331].
Và ông kết luận: “Vì việc học, việc thi ở nước ta không thay đổi cho hợp thời,
nên dân trí không mở mang mà các bậc sĩ phu trong nước không hiểu thời
thế” [46,tr.332]. Rõ ràng những ý kiến về nguyên nhân sai lầm trong phương
pháp ngoại giao của triều Nguyễn, những nhận thức về mặt học quy giáo dục
ở nước ta trước năm 1945 mà Dương Quảng Hàm nêu ra không chỉ đúng
trong hoàn cảnh lúc này mà thực tiễn bao năm qua đã chứng minh là đúng.
Hay ngay cả hôm nay, khi vấn đề cải cách giáo dục luôn được quan tâm hàng
đầu thì những ý kiến mà tác giả Việt Nam văn học sử yếu đề xuất đáng để
chúng ta suy ngẫm.
Nhìn chung, trong nền học thuật còn non trẻ của Việt Nam giai đoạn nửa
đầu thế kỷ XX, công trình Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm
đã góp một trong những viên gạch đầu tiên vào tòa nhà lịch sử nghiên cứu
văn học. Là người đặt bước khai phá ban đầu, nhưng với phương pháp làm
việc nghiêm túc, khoa học, lại biết tiếp thu vận dụng phương pháp của
phương Tây, Việt Nam văn học sử yếu đã đạt được giá trị về nhiều phương
diện, cả học thuật và tư tưởng, cả tư liệu lẫn phương pháp nghiên cứu. Trong
sự phát triển của khoa văn học sử Việt Nam hôm nay, chúng ta chưa hoàn
toàn bằng lòng với bộ sách của Dương Quảng Hàm bởi có nhiều điều cần
được xem xét lại là hiển nhiên. Tuy nhiên, phải đặt tác phẩm vào thời điểm
mà nó ra đời trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn: nước ta nằm dưới ách
thống trị của thực dân Pháp, tư liệu thiếu thốn, hoạt động nghiên cứu văn học
mới hình thành, và với công sức của chỉ một người, chúng ta mới thấy hết
chân giá trị, sự đóng góp to lớn của Việt Nam văn học sử yếu vào quá trình
127
hiện đại hoá văn học dân tộc; cũng như thấu hiểu và cảm phục tâm huyết của
Dương Quảng Hàm - một con người hết lòng vì sự nghiệp văn hoá, giáo dục
của đất nước. Điều này một lần nữa khẳng định sự thành công của tác phẩm
Việt Nam văn học sử yếu và công lao của người mở đường - học giả Dương
Quảng Hàm.
Ngoài các công trình vừa trình bày, chúng ta còn phải kể đến các tác
phẩm: Ba mươi năm văn học (1941), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (1943)
của Kiều Thanh Quế (Mộc Khuê). Ba mươi năm văn học được chia làm chín
mục, lần lượt nói về: báo chí, thơ ca, tiểu thuyết, phóng sự, kịch bản, lịch sử -
địa chí, khảo cứu - nghị luận, phê bình, dịch thuật. Trong từng mục, Kiều
Thanh Quế đi định nghĩa từng thể loại rồi trình bày quá trình phát sinh, phát
triển và các cây bút tiêu biểu của từng thể loại. Cuộc tiến hóa văn học Việt
Nam là công trình khảo sát văn học từ thế kỷ XIX trở về trước. Ngoài phần
“Phát đoan” mở đầu và kết luận, sách chia làm sáu thiên lần lượt bàn về: văn
học chữ Hán, văn học chữ Nôm, văn học chữ quốc ngữ, tại sao văn học quốc
ngữ chậm tiến bộ, văn học Đông Tây và tinh thần học thuật Việt Nam, đặc
tính của Hoa văn và Pháp văn. Cách phân chia để khảo sát của Kiều Thanh
Quế ở đây có điểm tương đồng với cách phân chia của Nguyễn Đổng Chi
trong Việt Nam cổ văn học sử và Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học
sử yếu, nhưng có lẽ, sự thành công của tác phẩm chính là sự mạch lạc, cụ thể
trong việc phác họa bước đường diễn tiến của văn học.
Có thể nói, từ Việt Nam văn học, Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố; Việt
Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi; Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc
Phan đến Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm..., hoạt động
nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam đã có những bước tiến triển đáng ghi
nhận. Từ chỗ chỉ sưu tầm, tập hợp tư liệu với những chú giải ngắn gọn, những
khảo sát bộ phận đã tiến dần đến cái nhìn hệ thống toàn bộ nền văn học Việt
128
Nam theo một quan điểm rõ ràng, sử dụng nhiều phương pháp khoa học trong
nghiên cứu. Những công trình nghiên cứu của các tác giả mà chúng tôi vừa
trình bày đã góp phần vào việc khẳng định sự có mặt cũng như từng bước
trưởng thành của bộ môn nghiên cứu lịch sử văn học trong quá trình hiện đại
hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
2.2.2. Nghiên cứu văn học nước ngoài - Thành tựu và hạn chế
Một nỗ lực góp phần quan trọng trong quá trình hiện đại hóa hoạt động
nghiên cứu văn học giai đoạn này của các nhà nghiên cứu đương thời là việc
tìm hiểu, nghiên cứu các tác giả, tác phẩm của văn học phương Tây, văn học
Trung Quốc.
Trong giai đoạn từ 1900 đến 1930, vấn đề nghiên cứu văn học nước
ngoài chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát về tác giả hoặc tác phẩm; chẳng
hạn: Phạm Quỳnh với một loạt bài giới thiệu văn học Pháp như: “Thơ ta với
thơ Tây”, “Thơ Baudelaire”, “Một nhà văn tả thực: Guy de Maupassant”,
“Bàn về hý kịch Molière”…; sau này Hải Triều giới thiệu các khuynh hướng
cách mạng tiến bộ trên thế giới như Maxime Gorki, Romain Rolland và Henri
Barbusse; nhưng đó chỉ là những bài viết ngắn gọn về một số tác giả tiêu biểu
và những nét cơ bản của một số vấn đề văn học nước ngoài.
Nguyễn Phi Hoanh, vốn là một nhà họa sĩ nhưng với lòng say mê văn
học, ông đã tích cực nghiên cứu và cho ra đời tác phẩm Tolstoi. Theo như lời
đề tựa của Nguyễn Duy Can: “Thấy Tolstoi có ảnh hưởng đến thanh niên ở xứ
ta, ông muốn nghiên cứu về Tolstoi để chỉ ra chỗ hại trong tư tưởng của
Tolstoi”. Cuốn sách 76 trang, gồm 4 chương, nội dung chủ yếu kể về cuộc đời
và những nét tư tưởng của Tolstoi. Trong đó, Nguyễn Phi Hoanh đặc biệt chú
ý và phân tích những nét tư tưởng, nhất là những cái lầm “nho nhỏ” của kẻ
“chỉ đường dẫn lối” (Tolstoi - DTT), bởi nếu không, biết đâu những tư tưởng
ấy “thành mấy cái trở ngại to trong bước tiến hóa của xã hội” [62,tr.1].
129
Với vốn hiểu biết sâu sắc về văn hóa và văn học Trung Quốc, có thể nói
đương thời Đặng Thai Mai đã rất thành công trong việc nghiên cứu văn học
Trung Quốc. Hai công trình nổi bật nhất của Đặng Thai Mai nghiên cứu về
văn học Trung Quốc trong giai đoạn này phải kể đến là Lỗ Tấn (1881 - 1936)
(1944) và Văn học Trung Quốc hiện đại, tạp văn (1945).
Cuốn sách Lỗ Tấn (1881 - 1936) của Đặng Thai Mai gồm có bốn
chương, lần lượt giới thiệu về Thân thế; Nhân cách Lỗ Tấn; Địa vị Lỗ Tấn
trong văn học Trung Quốc và giới thiệu tác phẩm A.Q. chính truyện.
Là một học giả nghiên cứu khá sâu về các quan điểm lý luận, Đặng Thai
Mai cho rằng: “Nghệ thuật tư tưởng một nhà văn cũng như kết cấu, khuynh
hướng ảnh hưởng tất cả các tư trào, phải nhận xét theo bối cảnh lịch sử mới
có thể giải thích xác đáng” [105,tr.320]. Vì vậy, khi xét về thân thế Lỗ Tấn,
Đặng Thai Mai sau khi giới thiệu hoàn cảnh gia đình, xã hội thời Lỗ Tấn, đã
khẳng định chính hoàn cảnh ấy đã góp phần nuôi dưỡng trái tim nhân đạo của
Lỗ Tấn, làm cho tác phẩm của ông chứa chan tình yêu thương đối với những
con người cùng khổ bị lường gạt, dày vò dưới những thế lực của xã hội lúc
bấy giờ. Theo Đặng Thai Mai:
Nếu buồng tim nghệ sĩ không thiết tha đập nhịp thiện cảm và đồng
tình với “những kẻ khốn nạn”, nếu tâm hồn nghệ sĩ không hấp thụ
được những giọng thở dài, những hơi rền rĩ và lời than vãn của đại
chúng, thì quyết không thể mô tả được bấy nhiêu tâm tình u uất, bấy
nhiêu nét mặt đầm đìa những mồ hôi, nước mắt và máu tươi của kẻ
đã bị hắt hủi bị hy sinh trong một vùng sinh hoạt quá vô tình, bấy
nhiêu nhân vật đã đội lấy cái tên tiên định như là A-Q, là Khổng Ất
Kỷ… [105,tr.325].
Khi bàn về nhân cách một con người, Đặng Thai Mai cho rằng, bên
cạnh việc “tìm tòi tâm lý trên những nét đặc biệt của dung nhan”, đối với trí
130
thức là nhà văn thì phải quan tâm đến “tài nghệ tư tưởng…, xét về cấu tạo, về
ảnh hưởng và về thực chất, ngoài những đặc sắc của cá tính, của chủng tộc,
còn bao hàm những tính cách điển hình và phổ biến nữa” [105,tr.344]. Trên
cơ sở vừa nêu, khi tìm hiểu về nhân cách Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai đã căn cứ
vào bức chân dung của nhà văn để nhận định ông là một nhà văn giàu kinh
nghiệm, tình cảm nhưng điềm đạm, thâm trầm, cho dù giận dữ, bực tức, đau
đớn bao nhiêu vẫn không át được tấm lòng bác ái và thái độ khách quan của
lý tính. Và sau khi tìm hiểu về văn chương Lỗ Tấn, nhà nghiên cứu nhận xét:
văn của Lỗ Tấn không có những câu rền rĩ, khóc than, không có những dấu
chấm than dài dằng dặc; nhưng ẩn bên trong cái dáng vẻ lạnh lùng, thản nhiên
ấy là cả một biển mênh mông tình cảm. Vì vậy, Đặng Thai Mai đã không
đồng ý với ý kiến cho rằng: triết lý Lỗ Tấn là triết lý duy hận, trong tâm hồn
Lỗ Tấn chỉ thấy giận, thấy ghét, mà không thấy yêu; ông khẳng định: “Lỗ
không hề ghét người, không hề ghét riêng một người nào! Lỗ chỉ ghét cái
“ác”. Mà đối với sự ác ta không được phép dung túng!” [105,tr.352].
Bàn về “Địa vị Lỗ Tấn trong văn học Trung Quốc”, Đặng Thai Mai tìm
hiểu về nghệ thuật của Lỗ Tấn, tinh thần tư duy của nhà văn để khẳng định vị
trí của ông. Khi nghiên cứu về nghệ thuật của Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai lưu ý
không nên “lấy mấy áng văn dịch làm căn bản” bởi:
Bấy nhiêu đặc sắc là độc quyền của nguyên văn bằng Bạch Thoại. Có
đọc theo giọng thì mới có thể thưởng thức được những hứng thú ấy
(…) văn chương của Lỗ trong Cuồng nhân nhật ký, A.Q chính truyện,
Thương Thệ v.v… quả đã gây nên một lối văn tả chân rất mạnh mẽ,
hoặc những đoạn văn trữ tình rất ý nhị nữa. Nhiều thiên “tạp cảm” của
Lỗ đã có những cú điệu thâm trầm hoặc bóng bẩy, hùng hồn hay lâm
ly, sâu xa và dồi dào, chả kém gì lối văn văn ngôn. Xét theo đại thể thì
câu văn của Lỗ bao giờ cũng chú ý về sự phô diễn ý tưởng cho thấu
131
đáo, chặt chẽ và phân minh sáng sủa. Cũng có lúc ta đọc thấy những
câu văn dài dằng dặc, nhưng đem mà phân tách cho đến nơi, đến chốn,
thì thấy rằng văn của Lỗ vẫn sáng sủa, mạch lạc, không có gì là nghĩa
“lỡm lờ” cả. Nếu như thỉnh thoảng ta gặp một câu nói góc gách, mộc
mạc hay líu lăng, là Lỗ đã muốn chép lấy những lời phác thực, chứa
chan sinh khí của đời sống dân Trung Quốc [105,tr.363-364].
Đặng Thai Mai còn cho rằng, do “Tư duy của Lỗ vẫn căn bản ở những
sự trạng cụ thể trên nền sinh hoạt hằng ngày” nên “Văn chương Lỗ Tấn chú
trọng về biểu hiện sự thực; sự thực trong tâm giới, trong vật giới, trong xã hội.
Tiểu thuyết của Lỗ là những bức họa tả chân, cốt phô bày hiện tượng của
nước nhà để cho độc giả tự tìm lấy con đường chân lý. Trong những bài tạp
văn cũng vậy: lý luận của Lỗ Tấn vẫn căn cứ ở lối biện chứng xác đáng,
không hề có những lối “cao đàm khoát luận” [105,tr.365]. Theo Đặng Thai
Mai, những giá trị đạt được của Lỗ trong văn học là rất quan trọng, vì vậy ông
cho rằng Lỗ không chỉ có địa vị trong văn học Trung Hoa, mà “nghệ thuật và
tư tưởng của Lỗ cũng là đại biểu cho tư trào thế giới trong thế kỷ thứ XX”.
Giới thiệu A.Q. chính truyện - cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Lỗ Tấn ra
đời năm 1921, Đặng Thai Mai bằng ngòi bút tinh tế nhưng hóm hỉnh với vài
nét phác họa đã giúp cho người đọc nắm bắt được nội dung cũng như xã hội
Trung Quốc đương thời. Chẳng hạn, giới thiệu về nhân vật A.Q, ông viết:
Thân tài va ốm yếu, gầy gò, vì rằng những ngày no say ấm áp trong
đời va rất là ít ỏi cũng vì vậy nên bao nhiêu ý nghĩ của va, chỉ có thể
liệng đi liệng lại trên hình ảnh những miếng ăn miếng uống… Tình
cảm của AQ là một mối tâm duy rất là ấu trĩ, rất thô sơ, là một thứ
“tình cảm loài cây” và cái nhân cách của va lắm lúc cũng còn chưa
kiềm chế hoàn toàn được cái mà các nhà tư tưởng cao quí vẫn gọi là
thú tính! Lúc ngọn gió may thổi, là da thịt va nhớ đến cái áo còn “gởi”
132
lại nơi cối giã gạo nhà họ Triệu. Khi con tỳ con vị cắn rứt là va mơ
màng đến đĩa bánh, khẩu măng mà va ao ước cho có tiền mà mua.
Dáng điệu một mụ vú, một cô tiểu non, ám ảnh tâm hồn va, là vì trong
xã hội làng Mùi, ái tình là một quả phúc mà những bọn như A.Q
không nên dòm dỏ đến [105,tr.372-373].
Nhà nghiên cứu cũng chỉ ra “Lời văn phổ thông, bút pháp tả chân, ấy là hai
đặc sắc của văn nghệ của Lỗ Tấn”. Ông còn khẳng định, cuốn tiểu thuyết A.Q
chính truyện đã “mở được một kỷ nguyên mới trên nền văn học bạch thoại”.
Tóm lại, dù công trình Lỗ Tấn (1944) chưa đi vào trình bày cặn kẻ mọi vấn đề
về Lỗ Tấn và tác phẩm của ông, nhưng rõ ràng trong điều kiện chung về tư
liệu thiếu thốn trong những năm trước 1945 thì tác phẩm này đã vượt hẳn
những công trình nghiên cứu về văn học Trung Quốc đương thời. Điều này
cho phép ta khẳng định, Lỗ Tấn là một công trình nghiên cứu rất thành công
của Đặng Thai Mai về văn học Trung Quốc ở giai đoạn này.
Sau Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai viết Văn học Trung Quốc hiện đại - tạp
văn (1945), để giới thiệu với bạn đọc đương thời vốn đã quen với nền văn học
cổ Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, một bộ mặt Trung Hoa khởi sắc, mới mẻ,
giàu “tính cách tranh đấu”, “thông cảm nhiệt liệt, chân thật đối với đại
chúng”, “khác với văn chính thống, văn hàn lâm, văn đại luận”. Công trình ra
đời là một nỗ lực không nhỏ của Đặng Thai Mai đối với việc nghiên cứu văn
học hiện đại Trung Quốc, bởi trước đó trong Lỗ Tấn, ông đã từng “lấy làm
tiếc” vì “nhiều lẽ riêng” nên không thể giới thiệu thêm một ít tạp văn của Lỗ.
Trong “Lời nói đầu” của công trình vừa nêu, Đặng Thai Mai giới thiệu
khái quát về nội dung và đề tài của tạp văn. Theo ông, nội dung của tạp văn là
chú ý về tình hình sinh hoạt hiện thời của dân chúng nên nó nhắm đến hai
mục đích là “đánh vào tình trạng hủ bại của xã hội cũ và kiến thiết xã hội
mới”. Đề tài của tạp văn là đề tài thực tế nhưng không vì vậy mà các tác giả
133
không chú ý về tư tưởng, nghệ thuật; ngược lại họ luôn chú trọng về việc
“quan sát cho thấu đáo, lĩnh hội, mô tả cho có phương pháp”; mục đích của
tạp văn là lợi ích chung của xã hội, nên văn phong của tạp văn là thứ văn “phê
bình đúng đắn, có ý nghĩa xã hội và không ác cảm riêng gì với một người
nào”.
Có thể nói, trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, việc nghiên cứu giới
thiệu tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài một cách chuyên sâu như Đặng
Thai Mai là còn rất hiếm. Điều quan trọng hơn, thông qua sự nghiệp văn
chương của Lỗ Tấn cũng như giới thiệu tạp văn của văn học Trung Quốc,
Đặng Thai Mai nhằm khẳng định giá trị mẫu mực về tinh thần nhân đạo, tính
chiến đấu cũng như giá trị nghệ thuật của các tác phẩm, thể loại thuộc khuynh
hướng hiện thực. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoàn cảnh xã hội
lúc này, đã cho thấy sự đóng góp to lớn của Đặng Thai Mai không chỉ trong
hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Tóm lại, nếu những bài viết của Phạm Quỳnh về Baudelaire, Guy de
Maupassant, Molière…; Hải Triều về Maxime Gorki, Romain Rolland và
Henri Barbusse chỉ là những bài viết ngắn gọn mang tính chất giới thiệu thì
đến Nguyễn Phi Hoanh với công trình Tolstoi, nghiên cứu văn học nước ngoài
đã có một bước tiến đáng kể, đặc biệt là Đặng Thai Mai với hai công trình về
Lỗ Tấn và Văn học Trung Quốc hiện đại - tạp văn đã thật sự tạo nên một
thành tựu đáng kể trong nghiên cứu văn học ngước ngoài. Chính bước tiến
của những thành tựu này đã góp phần không nhỏ vào quá trình hiện đại hóa
hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam.
2.2.3. Nghiên cứu lý luận văn học - Thành tựu và hạn chế
Văn học là một trong những hoạt động sáng tạo của con người. Con
người tìm đến văn học như tìm đến chỗ dựa tinh thần, như một nỗi khát khao
để thỏa mãn nhu cầu vươn tới chân - thiện - mỹ. Do đó, vấn đề đặt ra là cần
134
phải có một hệ thống lý luận chính xác, chặt chẽ về văn học để giúp nhà văn
có hướng tác nghiệp không sai lệch cũng như người đọc có cách tiếp cận văn
học đúng đắn.
Trước thế kỷ XX, các ý kiến bàn về văn chương nghệ thuật của các văn
nhân, học giả thời phong kiến (sau này được tập hợp trong công trình Từ
trong di sản) vẫn còn mang tính tự phát. Những thập kỷ đầu của thế kỷ XX,
Việt Hán Văn Khảo (1918) ra đời là cuốn sách đầu tiên trình bày ngắn gọn,
súc tích quan niệm văn chương truyền thống và một số thể loại thông dụng
của nó. Tuy vậy, đối với hoàn cảnh xã hội đương thời, những quan niệm về
văn chương mà Phan Kế Bính đề ra là chưa phù hợp, chẳng hạn, quan niệm
xem văn chương là nghề chơi phong nhã, chưa phân biệt văn chương với học
thuật, với trước tác chư tử… Bàn về vấn đề văn học, các nhà nghiên cứu như
Nguyễn Bá Học, Phan Bội Châu, Tản Đà, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng
cho đến Phạm Quỳnh cũng chưa thoát khỏi quan niệm văn chương cổ điển.
Chẳng hạn: Nguyễn Bá Học chủ trương văn chương phải “biết chép sự thực”,
đạt được cái hay về tình cảm, hay về lý. Ông phân biệt hai loại văn chương:
“văn chương hữu dụng” gồm tiểu thuyết, ký sự, luận thuyết, diễn thuyết; còn
thơ, phú, ca dao… chỉ dùng để ngâm nga, không suy ra sự thực chẳng những
vô ích mà còn “không đáng một đồng tiền kẽm”; Phạm Quỳnh thì chỉ coi
trọng sách giáo khoa truyền bá sự học. Thơ, văn, tiểu thuyết tuy cũng có
quyển có giá trị bổ ích cho quốc văn, nhưng đó chỉ là loại “văn chương chơi”.
Tản Đà cũng thích xem văn chương là thú chơi: “Văn chương vẫn chỉ cứ là
văn chương, nhất là có ích cho xã hội thời càng hay, dẫu không có ích cho ai
thời cũng như thanh kiếm, cung đàn, gởi tâm sự tới một vài tri kỷ. Còn như ai
muốn có sự nghiệp, thời nên làm riêng cái sự nghiệp vĩ đại khác, không nên
cầu sự nghiệp ở văn chương” (Sự nghiệp văn chương, Tản Đà). Võ Liêm Sơn
có lẽ là người sớm đưa ra khái niệm văn học mang tính hiện đại khi xem văn
135
học vừa có cá tính, có tư tưởng, vừa mang mỹ cảm, vừa mang tính xã hội.
Ông nhận rõ thực trạng của văn học cổ điển và đề cao văn học mới “mới
không chỉ ở hình thức mà cốt mới ở tư tưởng, mới không chỉ mới riêng với
người mình, mà phải mới theo với thế giới” (Văn học với xã hội). Tuy nhiên,
đây chỉ là một vài tư tưởng mới được giới thiệu chứ chưa thành xu thế.
Trong các quan niệm bàn về văn chương học thuật lúc bấy giờ cũng cần
bàn đến “Khảo về tiểu thuyết” đăng trên Nam Phong năm 1921 của Phạm
Quỳnh. Bài viết dài 40 trang, bàn về những vấn đề liên quan đến thể loại tiểu
thuyết như: lý giải thuật ngữ tiếu thuyết, kết cấu tiểu thuyết, phô diễn, phân
loại tiểu thuyết. Ở từng vấn đề, Phạm Quỳnh đi vào lý giải, phân tích một
cách cụ thể nhằm giúp người đọc có thể sớm bước vào địa hạt sáng tác hoặc
tiếp nhận văn học. Đó chính là những đóng góp xây dựng buổi đầu cho việc
hình thành và phát triển văn xuôi tự sự hiện đại ở Việt Nam trong 30 năm đầu
thế kỷ XX.
Sau năm 1930, các vấn đề quan niệm văn học tiếp tục được bàn bạc, trao
đổi. Đặc biệt, cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị
nhân sinh” những năm 1935 - 1939, đã đánh dấu sự hình thành các quan niệm
mới về văn học. Trong cuộc tranh luận này, lần đầu tiên các khía cạnh của đặc
tính nghệ thuật như: chức năng thẩm mỹ, tài năng, tự do sáng tác, hình thức
nghệ thuật của phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, và các khía cạnh của mối quan
hệ giữa văn học với đời sống như: xã hội, lịch sử, tiến hóa, lập trường giai
cấp, nội dung, đề tài của phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đã được thảo luận
một cách khá thấu đáo. Cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ
thuật vị nhân sinh” đã khép lại năm 1939, cùng với việc đề ra những quan
niệm văn học tuy mới mẻ, có sức thuyết phục nhưng vẫn còn sơ lược. Vì vậy,
Văn học khái luận (1944) của Đặng Thai Mai ra đời có thể xem là công trình
nghiên cứu và bổ sung một cách tương đối toàn diện về những vấn đề văn học
136
qua cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh”
trong thời gian qua.
Văn học khái luận, tập lý luận văn học nhưng thực chất cũng là công
trình nghiên cứu văn học, bởi tác giả đã nhìn nhận, đánh giá lại một cách đầy
đủ và bao quát nhất những nội dung trọng yếu của lý luận văn học theo quan
điểm mác-xít mà phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đã tranh luận trước đây. Sách
gồm 8 chương, lần lượt bàn đến các vấn đề: khái niệm văn học (định nghĩa
hai chữ văn học); nguyên tắc văn nghệ (nguyên tắc sáng tác và nghiên cứu),
tổng kết cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 - 1939 và lý giải mối quan hệ giữa
văn học và đời sống, quy luật vận động và phát triển của văn học, nghệ thuật;
phương pháp hiện thực chủ nghĩa; mối quan hệ giữa nhà văn với xã hội; vấn
đề nội dung và hình thức, điển hình và cá tính; vấn đề tự do và mối quan hệ
giữa tính dân tộc và tính quốc tế trong văn nghệ. Tất cả những nội dung vừa
nêu được Đặng Thai Mai trình bày một cách chặt chẽ, thuyết phục bằng vốn
tri thức phong phú và đặc biệt là với tâm huyết của một trí thức sớm hướng về
cách mạng và gắn bó với cách mạng.
So với thành tựu của Hải Triều trong bước đầu vận dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng để lý giải những vấn đề văn học, Đặng Thai Mai đã
có sự tiến bộ rõ rệt về trình độ học thuật và lý luận. Nhà nghiên cứu đã trình
bày các nguyên lý văn học theo quan điểm mác-xít một cách có hệ thống.
Bắt đầu từ định nghĩa hai chữ văn học, theo nghĩa rộng, gồm cả văn học,
triết học, khoa học; đến vấn đề nguyên tắc sáng tác, ông cho rằng “Một nền
văn nghệ sung sức, mỹ lệ bao giờ cũng phát triển trên một cơ sở lý luận vững
chãi”, vì vậy, ông phê phán chủ trương sáng tác “ỷ thị vào trực cảm”, cho đó
là một thái độ kiêu căng, điên rồ và nguy hiểm; không đồng tình với thái độ
thoát ly của phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, ông khẳng định: “Văn học chỉ là
lối biểu hiện các hình thái ý thức xã hội, là biểu hiện của giai tầng. Ý thức
137
được tính cách biến thiên của xã hội là một nguyên lý sáng tác của văn nghệ”.
Từ đó, ông kết luận: “Trong giai đoạn ngày nay, phương pháp sáng tác cần
phải đem nghệ thuật xã hội hiện thực chủ nghĩa mà đánh đổ văn học duy tâm
và nghệ thuật lãng mạn, và một mặt nữa phải đánh đổ những tư tưởng đã nhận
xét xã hội một cách quá đơn giản theo quan điểm cơ giới” [105,tr.144]; ông
đã bàn đến vấn đề nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, vấn đề tự do
trong văn nghệ, tính dân tộc và tính quốc tế… Sau cùng, ông khẳng định,
nhiệm vụ của nhà văn là hành động, nhà văn phải nhận rõ vị trí cá nhân trong
đoàn thể và địa vị quốc gia trong thế giới.
Có thể nói, bằng một lối văn giàu cá tính và nhiệt huyết, cộng với sự am
hiểu cả hai nền văn hóa Đông Tây, Đặng Thai Mai trong Văn học khái luận
đã có sự nhận diện và gợi mở hướng đi cho nền văn học đương đại khá hợp
lý. Dù có một vài hạn chế nhất định như: chưa thấy rõ đặc trưng của nghệ
thuật; đồng nhất văn học với biểu hiện giai cấp xã hội… nhưng những vấn đề
lý luận văn học mà Đặng Thai Mai đề ra trong Văn học khái luận là có sức
thuyết phục, bởi nó ít rơi vào quá khích hoặc bất cập, cực này hoặc cực kia
như đã diễn ra một thời. Dù xuất hiện muộn nhưng Đặng Thai Mai với Văn
học khái luận đã góp phần làm phong phú hoạt động nghiên cứu văn học
trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Ngoài các công trình vừa trình bày còn phải kể đến các tác phẩm:
Chương dân thi thoại (1936) của Phan Khôi; Việt Nam thi ca luận (1942),
Văn học và xã hội (1944), Nghệ thuật thơ ca (1945) của Lương Đức Thiệp;
Viết và sống (1944) của Nguyễn Xuân Huy; Tìm nghĩa văn học của Nguyễn
Hưng Phấn… Đây là những tác phẩm đã góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên
cứu lý luận văn học giai đoạn này ngày càng phát triển và nhanh chóng hiện
đại hóa.
Nhìn chung, trong hoạt động nghiên cứu lý luận văn học giai đoạn này,
138
nếu các tác giả: Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học, Phan Bội Châu, Tản Đà, Ngô
Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng…vẫn còn chịu sự ràng buột khó vượt thoát của
các quan niệm văn chương cổ điển (vì dù sao các ông cũng vẫn là những trí
thức Nho học trước những biến chuyển của xã hội hiện đại) thì cuộc tranh
luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” với sự xuất hiện
của Hải Triều đã thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học dân tộc với
những quan niệm mới về văn học trên quan điểm của chủ nghĩa Mác. Nhưng
dẫu sao, những bài bút chiến của Hải Triều cũng chỉ mang tính chất đột phá
ban đầu, quan điểm mác-xít về văn học chỉ mới được đề cập từng mảng đơn
lẻ… và như là một quy luật của sự phát triển tất yếu, công trình Văn học khái
luận của Đặng Thai Mai ra đời đã đánh dấu sự xuất hiện một quan điểm văn
học hiện đại mang tính hệ thống cao. Mặc dù đường biên giữa quan điểm giai
cấp và quan điểm con người trong văn học chưa được tác giả phân định một
cách rạch ròi, nhưng với những luận điểm khá thuyết phục kết hợp cùng với
tâm huyết của một nhà nghiên cứu có uy tín và có tâm vì sự phát triển của nền
lý luận văn học nước nhà, Văn học khái luận vẫn là một công trình đáng ghi
nhận tạo sự chuyển biến tích cực trong tiến trình hiện đại hóa hoạt động
nghiên cứu văn học giai đoạn này.
Nhìn một cách khái quát, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước chống
ngoại xâm đều lần lượt thất bại; thực dân Pháp áp đặt ách thống trị lên đất
nước Việt Nam. Hán học bị phế bỏ, quốc văn mới ở buổi đầu gây dựng, các sĩ
phu, học giả nước nhà (cả cựu học, Tây học) không ai là không cảm thấy đau
đớn, thua thiệt, hẫng hụt. Trong điều kiện đó, tìm lại các giá trị tinh thần quá
khứ qua các tấm gương oanh liệt, các tác phẩm sáng giá là tìm chỗ dựa tinh
thần cho trí thức Việt Nam. Chính vì vậy, hoạt động nghiên cứu văn học dù
chỉ mới thực sự xuất hiện ở giai đoạn này nhưng đã nhanh chóng phát triển và
139
đạt được những giá trị đáng tự hào, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy
quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
Trong những thập niên đầu, dù hoạt động nghiên cứu văn học chưa có
thành tựu gì nổi bật, bởi hầu hết các công trình ở thời gian này phần nhiều còn
sơ lược; cách nhận định, đánh giá vẫn còn mang dư âm của quan niệm văn
học cổ điển. Tuy vậy, cũng phải thừa nhận sự đóng góp của các nhà nghiên
cứu trong việc giới thiệu đến đông đảo độc giả di sản văn học của dân tộc
dưới hình thức chữ quốc ngữ. Từ đó hình thành ý thức độc lập đối với văn
học dân tộc về thể loại, ngôn ngữ; về tác giả, về văn bản; về từ ngữ, điển cố,
giảng giải…
Trong các tác phẩm văn học trung đại, Truyện Kiều của Nguyễn Du là
đối tượng được tập trung tìm hiểu nhiều nhất ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Các nhà nghiên cứu, bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã xoay ngòi bút
của mình vào mọi khía cạnh của tác phẩm, từ nội dung đến nghệ thuật. Trong
đó, nổi bật nhất là các công trình của Phạm Quỳnh, Vũ Đình Long, Nguyễn
Tường Tam, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa…
Ở giai đoạn từ 1900 đến 1930, phong trào tìm hiểu Truyện Kiều được
mở rộng mà vai trò tiên phong của Phạm Quỳnh và các đồng sự của ông trong
cuộc phát động này là một thành quả đáng được ghi nhận. Lần đầu tiên, tác
phẩm Truyện Kiều được các nhà nghiên cứu vừa chủ trương, vừa vận dụng
phương pháp nghiên cứu mới học tập của phương Tây để thực hành khảo sát
một cách toàn diện từ cội rễ tác phẩm, lịch sử tác giả, văn chương tác phẩm,
tâm lý nhân vật…. Tuy nhiều chỗ trong nhận định còn in dấu ấn của lối
nghiên cứu trung đại nhưng những giá trị đạt được ở những công trình này là
một tiến bộ đáng kể với ý nghĩa tiên phong, mở đầu của quá trình hiện đại hóa
hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Sang giai đoạn từ năm 1930 đến 1945, với thành tựu của các công trình
140
Khảo luận về Kim Vân Kiều của Đào Duy Anh, Nguyễn Du và Truyện Kiều,
Văn chương Truyện Kiều của Nguyễn Bách Khoa, ta có thể khẳng định các
giá trị mà các nhà nghiên cứu đạt được trong việc vận dụng các phương pháp
tiên tiến của nước ngoài vào việc khảo sát Truyện Kiều là không thể phủ
nhận. Tuy có đôi lúc, do vận dụng chưa thật thành thục các phương pháp dẫn
đến những nhận định chưa hợp lý, nhưng có lẽ đây cũng là một yếu tố tất
nhiên trong hoàn cảnh mở đầu của sự tiếp nhận này. Đồng thời, cũng phải
nhìn nhận rằng, so với những lời đề từ, đề vịnh, những lời tựa, lời bạt trong
các bài nghiên cứu Truyện Kiều trước đây thì việc khảo luận về tác giả, thân
thế, quê quán, dòng họ…, khảo về lai lịch Truyện Kiều và đem so sánh Đoạn
Trường Tân Thanh với Kim Vân Kiều truyện của Đào Duy Anh; hay nghiên
cứu huyết thống, sự di truyền các yếu tố sinh lý, tâm lý; nghiên cứu thời đại,
xét thân thế Nguyễn Du, xét cá tính Nguyễn Du… để tìm hiểu Nguyễn Du và
Truyện Kiều của Nguyễn Bách Khoa là những phương pháp lần đầu tiên được
áp dụng và đạt được những giá trị nhất định đã được nhiều thế hệ ghi nhận và
tồn tại cho đến hôm nay.
Trong nghiên cứu tác giả, tác phẩm; Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa
với Kinh thi Việt Nam và Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ cũng đã góp
những giá trị nhất định vào sự thành công ban đầu trong việc nghiên cứu các
hiện tượng văn học vừa nêu. Thời điểm Kinh thi Việt Nam (1940) ra đời,
ngoài công trình sưu tập Tục ngữ phong dao (1928) của Nguyễn Văn Ngọc thì
chưa có một công trình tầm cỡ nào bàn về ca dao, dân ca nước nhà. Nguyễn
Bách Khoa là người đầu tiên vận dụng phương pháp khoa học phương Tây
vào việc cắt nghĩa nền văn chương truyền miệng. Một số giá trị nội dung của
ca dao như: phản ánh đời sống nông nghiệp, tinh thần gia tộc phụ hệ, địa vị
thấp kém của người phụ nữ, tinh thần chống nam quyền, đời sống tình cảm
của người bình dân, nhu cầu bản năng, và kết luận thực trạng xã hội quyết
141
định ý thức con người… là những nhận định tương đối toàn diện đầu tiên về
văn học dân gian. Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ dù không phải là
công trình đầu tiên nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn
Công Trứ (trước đó Lê Thước đã xuất bản công trình Sự nghiệp và thi văn
của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ (1928)), nhưng cũng chính
Nguyễn Bách Khoa là người đầu tiên áp dụng phương pháp nghiên cứu mới
của phương Tây (phương pháp xã hội học) vào việc nghiên cứu tác giả này.
Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn được xem là tác phẩm đầu tiên nghiên
cứu có phương pháp và quan điểm rõ ràng nhất từ trước đến nay. Trần Thanh
Mại với Trông giòng sông vị và Hàn Mặc Tử cũng là những công trình nghiên
cứu đầu tiên về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Trần Tế Xương và Hàn
Mặc Tử theo phương pháp tiểu sử khách quan. Điều này cho phép chúng ta
khẳng định vai trò tiên phong và những nỗ lực của các nhà nghiên cứu trong
quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XX.
Cùng với việc nghiên cứu tác giả, tác phẩm; hoạt động nghiên cứu văn
học sử ra đời muộn hơn (sau năm 1940), nhưng có thể nói, trong toàn bộ đời
sống văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX thì hoạt động nghiên cứu văn học
sử là khá nổi bật (với việc không chỉ nghiên cứu từng giai đoạn văn học mà
còn nghiên cứu cả nền văn học dân tộc); và cùng với hoạt động sáng tác, nó
đã góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Những
công trình nghiên cứu văn học sử của Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Vũ
Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm cho ta thấy rõ từng bước đi của quá trình hiện
đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học sử nửa đầu thế kỷ XX mà tập trung chủ
Tiếp thu các quan niệm học thuật nước ngoài để đề ra các quan niệm
yếu vào những năm đầu của thập kỷ 40.
văn học mới là một trong những thành công của hoạt động nghiên cứu lý luận
142
văn học. Khác với quan niệm lấy “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” của tác
phẩm văn chương làm mục tiêu và đối tượng mang tính nhất quán (tính phi
ngã) của phẩm bình văn học thời trung đại; cuộc tranh luận “nghệ thuật vị
nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” đã nêu ra một số quan niệm lý luận
văn học mới về bản chất của văn học theo quan điểm thống nhất giữa nội
dung và nghệ thuật. Quan điểm này đã được Đặng Thai Mai nghiên cứu tương
đối toàn diện trong công trình Văn học khái luận (1944).
Góp phần làm phong phú diện mạo của quá trình hiện đại hóa hoạt động
nghiên cứu văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là vai trò của các nhà nghiên
cứu đối với mảng văn học nước ngoài. Những bài giới thiệu về văn học Pháp
của Phạm Quỳnh; giới thiệu các nhà văn cách mạng tiên tiến của thế giới như
Maxime Gorki, Romain Rolland và Henri Barbusse của Hải Triều; nghiên cứu
về Tolstoi của Nguyễn Phi Hoanh tuy còn sơ lược, nhưng đã góp phần chứng
tỏ sự giao lưu với văn học phương Tây giai đoạn này đã bắt đầu sâu rộng.
Công trình Lỗ Tấn (1944) và Văn học Trung Quốc hiện đại, tạp văn (1945)
của Đặng Thai Mai đã đi sâu vào những tác giả, tác phẩm, thể loại tiêu biểu
của văn học Trung Quốc, từ đó giúp người đọc có cái nhìn tương đối cụ thể,
đầy đủ về lịch sử và văn học của nước này.
Tóm lại, sự vận động của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, cho ta thấy được bước đi mang tính
quy luật qua từng chặng đường phát triển. Trong thực tiễn đó là quy luật phủ
định của phủ định. Nghĩa là, cái sau thường phủ định cái trước đó, vì cái sau
thường tiếp biến cái trước và vận dụng các phương pháp, có nhiều nét mới mẻ
hơn (tất nhiên, bất kỳ một quy luật nào cũng phát triển dích dắc chứ hoàn toàn
không thể là đường thẳng), cho nên, thi thoảng vẫn có những công trình xuất
hiện sau vì quá khẳng định cái mới, nên lại phần nào “phủ định sạch trơn” và
143
không đạt được thành công như những công trình trước đó. Đây cũng là một
quy luật thường xảy ra trong quá trình tiến hóa của một sự vật, hiện tượng.
Khi đã “cố tình” khẳng định cho cái mới thì thường hay phủ nhận (có tính cực
đoan để lý giải cho cái mới của mình) những cái trước đó, đặc biệt là trong
lĩnh vực nghiên cứu văn học - lĩnh vực mà nhiều khi yếu tố cảm tính và sự
chủ quan lại khá nặng nề. Chính quy luật này đã thể hiện rõ quá trình hiện đại
hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là đi dần từ
chỗ sơ khai, chưa hoàn thiện đến từng bước hoàn thiện của một quá trình.
144
Chương 3 - NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cũng như quá trình tiếp thu các chủ nghĩa, trào lưu sáng tác phương Tây
trong hoạt động sáng tác văn học, việc tiếp thu các phương pháp nghiên cứu ở
giai đoạn này cũng diễn ra một cách tương tự. Nghĩa là, các nhà nghiên cứu
Việt Nam tiếp thu cùng một lúc nhiều phương pháp khác nhau chứ không
phải tiếp thu đơn lẻ từng phương pháp theo trình tự xuất hiện của nó ở
phương Tây. Nếu ở hoạt động sáng tác, các nhà thơ, nhà văn Việt Nam cùng
một lúc tiếp thu cả chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa siêu
thực, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa biểu hiện... để làm nên tính đa dạng và
phong phú trong tiến trình hiện đại hóa sáng tác văn học đầu thế kỷ XX, khiến
cho chỉ trong vòng 12 năm (1932 - 1945), văn học Việt Nam đã đi trọn con
đường mà văn học Pháp phải trải qua gần 100 năm; thì trong hoạt động
nghiên cứu văn học cũng thế. Việc tiếp thu cùng một lúc nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau đã khiến một số công trình nghiên cứu giai đoạn này
bước đầu đã manh nha lối nghiên cứu liên phương pháp. Chẳng hạn: phương
pháp so sánh, phương pháp trực giác, phương pháp xã hội học… trong Thi
nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân; phương pháp xã hội học,
phương pháp phân tâm học trong các công trình nghiên cứu về Truyện Kiều
và Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ của Nguyễn Bách Khoa… Và cũng cần nói
thêm rằng trong giai đoạn này không phải chỉ có năm phương pháp như chúng
tôi tìm hiểu mà còn nhiều phương pháp khác được các nhà nghiên cứu áp
dụng như: phương pháp phân tâm học, phương pháp phong cách học, phương
pháp thể loại… Tuy nhiên, để dễ dàng nhận ra thành tựu trong việc tiếp thu và
áp dụng từng phương pháp trong nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn đầu
thế kỷ XX, ở đề tài này, chúng tôi xin được tiến hành nghiên cứu thành tựu
trong việc vận dụng từng phương pháp của các tác giả, tác phẩm tiêu biểu góp
145
phần vào quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX.
3.1. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
Trong việc tiếp nhận và vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn học
của phương Tây, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hầu như đã tiếp thu
toàn bộ các phương pháp mà giới nghiên cứu văn học các nước đã từng áp
dụng. Trong phạm vi giới hạn số trang của một luận án, chúng tôi xin được
chọn ra năm phương pháp nổi bật, có được nhiều thành tựu nhất để nghiên
cứu và phân tích.
3.1.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là một phương pháp đã xuất hiện từ lâu trong
nghiên cứu khoa học nói chung và trong nghiên cứu văn học nói riêng. Đây
là một thao tác tư duy quan trọng trong việc nhận thức sự vật, hiện tượng
nhằm phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt để chiếm lĩnh bản chất
sự vật, hiện tượng. Các tác giả thời trung đại như Lê Quý Đôn, Ngô Thì
Nhậm, Phan Huy Ích, Cao Bá Quát... khi khẳng định cái hay, cái độc đáo của
văn học nước mình với Trung Hoa đều có so sánh tác giả văn chương Việt
Nam với tác giả văn chương Trung Quốc.
Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, cùng với ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa, Ấn Độ, Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Chính
trong sự giao lưu này, văn học Việt Nam đã nhanh chóng hiện đại hóa. Vì
vậy, ý thức về việc cần phải có so sánh trong văn học nhằm nhận ra chân lý
nghệ thuật ngày càng rõ nét. Và so sánh thực sự là một trong những phương
pháp rất thành công của hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam trong tiến
trình hiện đại hóa của văn học dân tộc giai đoạn này.
Trong các công trình nghiên cứu về Truyện Kiều, các tác giả như Phạm
Quỳnh, Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm đều có sử dụng phương pháp so
146
sánh. Phạm Quỳnh, trong bài nghiên cứu của mình, ở phần “Cội rễ Truyện
Kiều”, tác giả đã dịch cuốn tiểu thuyết Vương Thuý Kiều - nguyên tác của Dư
Hoài trong Ngu Sơ tân chí để so sánh với tác phẩm Truyện Kiều, từ đó có cơ
sở khẳng định tác phẩm Truyện Kiều có nguồn gốc từ tiểu thuyết Trung Hoa.
Phạm Quỳnh cũng đã đem nhân vật Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
so sánh với nhân vật trong tiểu thuyết của “Thái Tây” để khẳng định tài năng
của Nguyễn Du trong việc sáng tạo nhân vật. Đào Duy Anh trong Khảo luận
về Kim Vân Kiều cũng đã sử dụng phương pháp so sánh để thấy sự giống và
khác nhau vế cốt truyện và nhân vật Kiều trong tác phẩm Đoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du với Ngu Sơ tân chí của Dư Hoài và Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Dương Quảng Hàm khi nghiên cứu về
Truyện Kiều của Nguyễn Du, cũng đối chiếu Truyện Kiều với Kim Vân Kiều
truyện để khẳng định Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân. Và sau khi so sánh, nhà nghiên cứu đã nhận xét rất xác đáng: dù chịu
ảnh hưởng về cốt truyện, nhưng Nguyễn Du không phải là nhà phiên dịch tác
phẩm văn xuôi của Trung Hoa ra thành một truyện văn vần của ta. Tác phẩm
Truyện Kiều là một công trình sáng tạo đặc sắc.
Vận dụng phương pháp so sánh xuyên suốt sự trình bày bộ mặt, diễn
tiến và thành tựu của văn học nước nhà là một trong những thành công về
phương pháp nghiên cứu của học giả Dương Quảng Hàm. Bằng cách này, tác
giả Việt Nam văn học sử yếu đã chỉ ra được những nhân tố và những nguồn
gốc ảnh hưởng bên trong cũng như bên ngoài đã tác động vào sự hình thành
và phát triển của nền văn học nước ta như: văn chương bình dân, ảnh hưởng
của người Tàu, ảnh hưởng của người Pháp, phép học, phép thi, ngôn ngữ, văn
tự; cũng như thấy được những biểu hiện mạnh mẽ của tinh thần độc lập, tự
chủ, tự tôn của người Việt trong sáng tạo văn học bên cạnh sự ảnh hưởng của
nước ngoài. Ở từng vấn đề nêu ra, Dương Quảng Hàm có những so sánh cụ
147
thể. Chẳng hạn:
- So sánh ảnh hưởng trên phương diện nội dung và tư tưởng, Dương
Quảng Hàm viết phần giới thiệu Tính cách phổ thông của văn chương Tàu và
văn chương Việt Nam, trong đó nêu lên những điểm giống nhau về tư tưởng
và lời văn như: chú trọng về luân lý, trọng lý tưởng, không vụ tả thực, tôn
kính cổ nhân, tính cách cao quí, chú trọng điển cố, âm điệu trong văn chương
Việt Nam và Trung Quốc. Tương tự, khi giới thiệu Ảnh hưởng của nền văn
mới nước Tàu (Lương Khải Siêu) và nền Pháp học đối với tư tưởng và ngôn
ngữ người Nam, Dương Quảng Hàm nêu lên cuộc cách mạng văn học của Tàu
và các văn sĩ Tàu có ảnh hưởng đối với sĩ phu nước ta như Khang Hữu Vi,
Lương Khải Siêu; ảnh hưởng của nền Pháp học về đường luân lý xã hội, học
thuật, văn chương, ngôn ngữ, văn tự để thấy bước chuyển mình của văn học
nước ta trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
- So sánh ảnh hưởng trên phương diện thể loại, Dương Quảng Hàm đã
giới thiệu Các thể văn của Tàu và của ta, Thi pháp của Tàu và âm luật của ta,
Phép đối và thể phú trong văn Tàu và văn ta để trình bày những thể loại mà
văn học Việt Nam tiếp nhận từ văn học Trung Quốc cũng như những biến đổi
của các thể loại ấy. Nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra điểm khác biệt cơ bản giữa
văn vần Việt Nam và văn vần của Trung Quốc là ở cách gieo vần. Đồng thời,
ông cũng giới thiệu các thể loại chỉ có ở nước ta như: truyện Nôm, ngâm, hát
nói, ca Huế, hát bội. Dương Quảng Hàm cũng giới thiệu Sự biến hóa các thể
văn: Kịch - Phê bình - Văn xuôi - Văn dịch - Văn viết báo để nói về sự ảnh
hưởng trên phương diện thể loại của văn học Pháp đối với văn học Việt Nam.
Đối với từng thể loại, sau khi nghiên cứu, Dương Quảng Hàm đều có những
nhận xét tuy ngắn gọn nhưng bao quát toàn bộ về sự phát triển của nó. Chẳng
hạn, bàn về thể phê bình, ông cho rằng: “Thể phê bình là một thể ta mới
mượn của Pháp văn. Không phải xưa kia các cụ không hề phê bình, nhưng
148
các lời phán đoán, khen chê của các cụ chỉ xen vào trong một bài văn hoặc
một cuốn sách, chứ chưa hề biệt lập thành một tác phẩm, thành một thể văn
riêng. Mãi gần đây, các văn gia mới phỏng theo thể phê bình của người Pháp
mà viết các tác phẩm thuộc về thể ấy” [46,tr.413]; hoặc “Trong nền quốc văn
mới, văn xuôi là thể văn đã biến hóa và có phần tiến bộ hơn cả, vì thể ấy là
thể văn hay dùng đến nhất và được nhiều nhà trứ tác viết đến” [46,tr.416].
- So sánh ảnh hưởng trên phương diện ngôn ngữ văn tự: cùng với việc
xác định vị trí của chữ Hán với tư cách là văn tự chính thức và thành tựu văn
học viết bằng chữ Nôm ở thời trung đại, Dương Quảng Hàm còn đánh giá cao
vai trò của giáo sĩ Alexandre de Rhodes trong quá trình hình thành chữ quốc
ngữ. So sánh tiếng Việt với tiếng Tàu, tiếng Pháp, Dương Quảng Hàm cho
rằng: tiếng Việt giàu về các từ ngữ cụ tượng nhưng nghèo về các từ ngữ trừu
tượng. Ông cũng đã phân tích khá kỹ về mặt nguồn gốc của những từ ngữ
tiếng Việt mới xuất hiện mượn của Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, và nhận xét
có ba loại như sau: mượn ở chữ Nho, có hai cách lấy chữ cũ dùng theo nghĩa
mới và ghép chữ Nho để dịch tiếng nước ngoài; tiếng nôm na do dân chúng
đặt ra; phiên âm từ tiếng Pháp. Nhà nghiên cứu cũng lưu ý cách dùng sao cho
phù hợp với từng trường hợp cụ thể nhằm đưa tiếng Việt thành một ngôn ngữ
chuẩn mực và khoa học.
Không chỉ bàn về ảnh hưởng nhiều mặt trên phương diện ngôn ngữ, văn
tự, nội dung, tư tưởng tác phẩm…, Dương Quảng Hàm còn so sánh ảnh
hưởng trên phương diện tác giả. Bàn về vấn đề này, ông đã giới thiệu những
văn sĩ và thi sĩ Tàu có ảnh hưởng lớn đến văn chương Việt Nam như: Khuất
Nguyên, Đào Tiềm, Lý Bạch, Hàn Dũ, Tô Đông Pha, Lương Khải Siêu,
Khang Hữu Vi; đồng thời ông cũng giới thiệu các tác giả Việt Nam danh
tiếng thời Trung đại như: Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…và nêu lên những giá trị đích
149
thực trong những tác phẩm xuất sắc được tạo nên bởi những tài năng này.
Tóm lại, so sánh để truy tìm các nguồn ảnh hưởng đối với sự phát triển của
văn học nước nhà là một trong những giá trị độc đáo góp phần khẳng định
thành công của tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu. Trong quá trình so sánh,
nhà nghiên cứu một mặt thừa nhận ảnh hưởng lâu dài và mạnh mẽ của văn
chương Tàu và văn chương Pháp trong việc hình thành và phát triển của văn
học Việt Nam; mặt khác ông cũng thấy được sự tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn học nước ngoài của các nhà văn nước ta trong việc gây dựng nền
văn học dân tộc từ trung đại sang hiện đại với sự nở rộ hài hòa đủ các thể loại:
thơ, văn xuôi, kịch nói, phê bình, nghiên cứu, lý luận văn học. Và điều này đã
được nhà nghiên cứu Thanh Lãng đánh giá chính xác như sau:
Nhưng cái hay nhất và giá trị nhất trong bộ văn học sử đầu tiên là
việc nghiên cứu khá tỉ mỉ và cẩn thận các nguồn ảnh hưởng đã đóng
góp vào việc quy định sự hình thành của văn chương Việt Nam. Ông
(Dương Quảng Hàm - DTT) cũng có công ở chỗ phân tích để ghi
nhận những đặc tính của nền văn chương cũ, điều giúp ích cho người
đọc dễ nhận sự tiến hóa của nền văn chương đó trong khi va chạm
với thế giới phương Tây [77,tr.361-362].
Thi nhân Việt Nam là công trình nổi tiếng viết về phong trào Thơ Mới
của Hoài Thanh - Hoài Chân. Trong công trình này, nhà nghiên cứu đã áp
dụng nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp so sánh. Trước tiên, bằng
phương pháp so sánh, Hoài Thanh đã nhận diện khá chính xác “Một thời đại
trong thơ ca”. Ông đã quan sát cuộc giao tranh giữa Thơ Mới và thơ cũ và
nhận thấy “sự cãi nhau mãn kiếp cũng chưa xong” của những người trong
cuộc, bởi họ có cách so sánh mang tính khập khiểng: lấy Thơ Mới hay chọi
với thơ cũ dở và ngược lại. Vì vậy, nhà nghiên cứu đề nghị xác lập đúng đối
tượng so sánh: bài hay so với bài hay, thời đại sánh cùng thời đại. Từ đó, ông
150
chỉ ra sự khác nhau giữa thời chữ Ta và thời chữ Tôi, cũng là sự khác biệt căn
bản giữa thơ cũ và Thơ Mới bởi: một đằng thơ cũ lấy cái Ta để nhìn đời và
nói chuyện với mọi người, đó là cái Ta cộng đồng (gia đình, đoàn thể), cá thể
bị chìm khuất vào cái mênh mông như biển cả; một đằng Thơ Mới lấy cái Tôi
để nhìn đời và nói chuyện với mọi người - một “chữ Tôi với nghĩa tuyệt đối
của nó”; nhờ vậy cái tôi bản ngã, cái tôi cá nhân được bộc lộ và phát huy cao
độ. Vận dụng phương pháp so sánh, Hoài Thanh đã tiến hành phân loại Thơ
Mới thành ba dòng Đường, Pháp, Việt. Và ở từng dòng thơ, nhà nghiên cứu
đã so sánh rất cụ thể các nhà Thơ Mới đối với các nhà thơ phương Tây, Trung
Quốc để thấy sự ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, đặc biệt là thơ Pháp và
thơ Đường Trung Quốc đối với Thơ Mới.
Cũng như Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu, hay Vũ
Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, trong khi so sánh để thấy sự ảnh hưởng
của văn học nước ngoài đối với văn học trong nước, Hoài Thanh không quên
“hội nhập”, “nội hóa” vốn là quy luật của sự giao lưu và tiếp nhận. Vì vậy,
bên cạnh việc nêu lên sự ảnh hưởng sâu sắc của thơ văn Pháp đối với thơ văn
Việt Nam, nhà nghiên cứu cũng ca ngợi tài năng sáng tạo của các nhà thơ
Việt Nam trên cơ sở tinh thần dân tộc. Những câu ngắn gọn nhưng dứt khoát:
“Hồn thơ Pháp hễ chuyển vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn”; “Thi văn
Pháp không làm mất bản sắc Việt Nam”; “Những sự mô phỏng ngu muội lập
tức bị đào thải” như là sự khẳng định mạnh mẽ Thơ Mới “đi sâu vào hồn nòi
giống” và “tinh thần nòi giống không sao tiêu diệt” được trong Thơ Mới.
Đi vào nghiên cứu từng tác giả Thơ Mới, Hoài Thanh đôi khi cũng sử
dụng phương pháp so sánh để nhận diện chân dung tâm hồn của mỗi nhà thơ.
Chẳng hạn: nhận xét về Bàng Bá Lân, nhà nghiên cứu đem so sánh với Anh
Thơ và Nguyễn Bính:
Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý
151
đến cảnh quê. Anh Thơ không nhà quê một tí nào. Anh Thơ là một
người thành thị đi du ngoạn, nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần
Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Bàng Bá Lân cũng ít sống trong tình
quê nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ (…). Bàng Bá Lân
không có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như
Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh, Bàng Bá Lân
có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá
Lân thường hay lưu luyến cảnh ấy [167,tr.169-170];
hoặc đánh giá tiếng cười trong thơ Nguyễn Nhược Pháp, ông viết: “Đọc thơ
Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng dáng một
người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác
xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương đến Tú
Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao” [167,tr.298]; nhận xét về thơ Hằng Phương,
nhà nghiên cứu đã so sánh: “Thơ Hằng Phương cùng một giọng êm dịu, ngọt
ngào như thơ Vân Đài. Nhưng ít dấu tích thơ Đường và thành thực hơn”
[167,tr.332]. Tóm lại, với năng khiếu văn chương và tư duy chặt chẽ, sắc sảo
của nhà khoa học, Hoài Thanh đã tìm ra những mối liên hệ giữa thơ cũ và
Thơ Mới, những ảnh hưởng của thơ ca nước ngoài đối với Thơ Mới, phát hiện
những điểm tương đồng và khác biệt giữa các nhà Thơ Mới, đã chứng tỏ sự
thành công trong việc sử dụng phương pháp so sánh - một phương pháp
không khó nắm bắt nhưng không dễ thực hiện này ở Hoài Thanh. Chính vì
vậy, nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã cho rằng: Hoài Thanh là tác giả của
“công trình đầu tiên về văn học so sánh” ở Việt Nam.
Cùng thời với Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm và Thi
nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan cũng đã sử dụng
phương pháp so sánh một cách tự giác trong Nhà văn hiện đại. Trong công
trình này, nhà nghiên cứu thường sử dụng phương pháp so sánh vào quá trình
152
phân tích sáng tác của các nhà văn, nhà thơ nhằm nêu bật những nét đặc sắc,
những cái mới mẻ trong phong cách nghệ thuật của các nhà văn ấy. Viết về
Vũ Hoàng Chương, ông luôn đặt bên cạnh Lưu Trọng Lưu để so sánh về âm
điệu thơ, lời thơ, tình cảm được toát ra từ câu thơ giữa hai nhà thơ. Để nhận ra
nét thơ đặc trưng riêng của Vũ Hoàng Chương, Vũ Ngọc Phan viết: “Trái hẳn
với Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương rất chú trọng đến sự gọt dũa lời thơ,
nên thơ ông là thơ của một thanh niên mà nhiều lúc giọng già cóc cách”
[132,tr.687]; hoặc: “Thơ của Lưu Trọng Lư đầy tình và mộng; thơ của Vũ
Hoàng Chương là thứ thơ của một thanh niên già trước tuổi chán ngán sự đời
và chán một cách mát mẻ, lạnh lùng (…). Đã thế, Vũ Hoàng Chương lại
không được thành thật cho lắm, nên giọng thơ ông không bao giờ thiết tha
được bằng giọng thơ Lưu Trọng Lư” [132,tr.690]. Nhận xét về thơ Huy Cận,
Vũ Ngọc Phan so sánh với thơ của Xuân Diệu và Lưu Trọng Lư để thấy rõ
phong cách của từng người: “Huy Cận hơn Lưu Trọng Lư ở sự chọn chữ, lựa
câu, ở sự hiểu biết cái ma lực của mỗi chữ… nhưng lại thua Lưu Trọng Lư và
Xuân Diệu về thành thực” [132,tr.730]; “Thơ Huy Cận thanh cao, trong sáng,
nhưng kém bề thiết tha, thành thật, là những điều cốt yếu trong thơ Xuân
Diệu” [132,tr.731]. Viết về Vũ Bằng, Vũ Ngọc Phan đem so sánh với nhà văn
Nguyễn Công Hoan để nhận chân nét riêng của từng cây bút:
… người ta nhận thấy Vũ Bằng rất gần với Nguyễn Công Hoan: ở cả
hai nhà tiểu thuyết, người ta đều thấy dí dỏm, ngộ nghĩnh và linh
động. Tuy Vũ Bằng giống Nguyễn Công Hoan ở những lời văn dí
dỏm, những cách dàn xếp ngộ nghĩnh, người ta nhận thấy cái đặc biệt
ở Nguyễn Công Hoan là cử chỉ ngôn ngữ của các nhân vật bao giờ
cũng đặc biệt Việt Nam, còn ở Vũ Bằng đôi khi người ta thấy các
nhân vật có những cử chỉ và ngôn ngữ hơi lai một chút. Cái đó, chỉ vì
Vũ Bằng chịu ảnh hưởng tiểu thuyết Âu Tây nhiều quá, đôi khi ông
153
phỏng ngay từng đoạn truyện Tây, coi như những cái sở hữu của mình
[132,tr.1003].
Hoặc khi viết về Lan Khai, Vũ Ngọc Phan đem so sánh với Lê Văn
Trương: “Đọc Lê Văn Trương, từ những tác phẩm đầu tiên, đến những tác
phẩm gần đây nhất, người ta không thấy thay đổi mấy tý. Nhưng đọc Lan
Khai từ trước tới nay người ta thấy ông thay đổi, luôn luôn gắng sức để rồi bỏ
loại nọ sang loại kia… Lan Khai là một lão tướng trong làng tiểu thuyết đang
gắng tìm đường mới” [132,tr.920].
Không chỉ so sánh các nhà văn trong nước với nhau, Vũ Ngọc Phan còn
so sánh các tác giả, tác phẩm Việt Nam với phương Tây để thấy sự giống và
khác nhau, hoặc sự đặc sắc về mặt nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm,
các nhà văn… Chẳng hạn, viết về tài thơ của Thế Lữ, Vũ Ngọc Phan nhận
xét: “Nếu không so sánh văn chương tư tưởng, mà chỉ đứng riêng về phương
diện say mê, có thể nói Anatole France tôn sùng cái Đẹp thế nào, thì Thế Lữ
tôn sùng cái Đẹp thế ấy. Anatole France mơ tưởng đến các nàng Tiên thế nào,
thì Thế Lữ cũng mơ tưởng đến các nàng Tiên thế ấy” [132,tr.697]; hoặc nhận
xét về tài thơ và tiểu thuyết của Thế Lữ, Vũ Ngọc Phan cho rằng:
Về thơ, cũng như về tiểu thuyết rùng rợn, người ta thấy Edgar Poe
đều tỏ ra bày rặt một ý tưởng u sầu, những ý tưởng não nùng, ghê rợn
trong bài Con quạ hay trong bài Mơ trong mộng (Le Corbeau và Un
rêve dans un rêve, do Mallarmé dịch ra chữ Pháp) của nhà thi hào
Mỹ cũng không xa gì những ý tưởng rùng rợn của ông trong tập
Contes extraordinaires (Truyện kỳ dị, do Charle Baudelaire dịch ra
Pháp văn). Còn Thế Lữ, từ chỗ ca tụng tình yêu bát ngát, ca tụng cái
đẹp tuyệt vời mà đi tới chỗ tả những cảnh khủng khiếp thì cũng hơi
lạ. Người ta có thể nói: trong thi ca, Thế Lữ có những tình yêu về lý
tưởng, ông muốn tìm lên Thiên đường để làm bạn với tiên; còn trong
154
tiểu thuyết, Thế Lữ muốn xuống Âm phủ để ở gần với Quỉ. Tâm hồn
ông thật là phức tạp. Điều chắc chắn là ông rất giàu tưởng tượng, nên
về thơ cũng như về tiểu thuyết, ông đã tỏ ra một thi gia và một tiểu
thuyết gia có biệt tài [132,tr.705].
Nhận xét về tài miêu tả trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc
Phan viết: “Tả chân đến thế thì tuyệt khéo. Đặc kiểu Guy de Maupassant”
[132,tr.982]. Nhấn mạnh tính chất mới mẻ, hiện đại của tiểu thuyết Khái
Hưng, ông so sánh: “Khái Hưng là văn sĩ của thanh niên Việt Nam cũng như
Alfred de Musset là thi sĩ của thanh niên Pháp thời xưa” [132,tr.755]…
Ngoài những tác phẩm và tác giả vừa trình bày, ta thấy có nhiều tác giả
trong quá trình nghiên cứu cũng đã sử dụng phương pháp so sánh như:
Nguyễn Đổng Chi trong Việt Nam cổ văn học sử đã sử dụng thao tác so sánh
khi viết về: Tiếng Việt và chữ Việt thời cổ, ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo
Ấn Độ, văn hóa Tam giáo Trung Hoa vào Việt Nam…; hay như Thiếu Sơn
trong Phê bình và cảo luận cũng so sánh ảnh hưởng của những tác phẩm văn
học Pháp đối với tác phẩm văn học Việt Nam; Trần Thanh Mại trong Trông
giòng sông Vị và Hàn Mặc Tử cũng so sánh Trần Tế Xương và Hàn Mặc Tử
với các nhà thơ trong và ngoài nước…
So sánh để chỉ ra những nét đặc sắc hoặc những yếu tố chưa đạt được
giữa các tác giả, tác phẩm, các nền văn học… là mục đích của các nhà nghiên
cứu nói chung khi sử dụng phương pháp này. Bằng một kiến văn rộng rãi
cùng với tư duy khoa học trên nền tảng những lý thuyết của phương pháp
nghiên cứu mới, các nhà nghiên cứu văn học giai đoạn này đã có những đóng
góp quan trọng vào quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học khi
đã sử dụng thành công phương pháp so sánh vào việc nghiên cứu văn học
nước nhà.
155
3.1.2. Phương pháp trực giác
Phương pháp trực giác là phương pháp có nguồn gốc từ thuyết trực giác
của nhà triết học người Pháp Henri Bergson (1859 - 1941). Trong thuyết trực
giác được trình bày trong các công trình Matière et mémoire (1896) và L’
E’volution créatrice (1907), Bergson thường đề cao năng lực biểu đạt của
người nghệ sĩ và cho nó là phi thường và khác biệt với khả năng biểu đạt của
ngôn ngữ thường ngày. Cùng thời với Bergson, nhà triết học người Italia
Benedetto Croce (1866 - 1952) trong công trình Bréviaire d’ esthétique
(1913) cũng đưa ra lý thuyết về nhận thức trực giác trong triết học và đã có
ảnh hưởng không nhỏ đến giới nghệ sĩ. Có thể nói, lý thuyết trực giác của hai
nhà triết học vừa nêu đã tạo sinh khí mới cho sáng tác và nghiên cứu văn học
bởi, nó có khả năng khuyến khích óc nhạy cảm của người nghiên cứu để phát
hiện ra những khía cạnh đặc biệt và tinh tế của đối tượng thẩm mỹ; đồng thời
nó cũng nhắc nhở người áp dụng phải cảnh giác với những suy lý giáo điều và
sơ lược hóa.
Ở Việt Nam, phương pháp trực giác cũng được nhiều người áp dụng.
Nhưng thành công nhất ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, có lẽ là công trình Thi
nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân. Trong công trình vừa nêu, tác
giả đã thể hiện quan điểm nghiên cứu trong phần “Nhỏ to...” ở cuối sách như
sau: “Mỗi bài thơ hay là một cánh cửa mở cho tôi đi vào một tâm hồn (…).
Cho nên gặp thơ hay, tôi triền miên trong đó. Tôi ngâm đi ngâm lại hoài, cố
lấy hồn tôi để hiểu hồn người” [167,tr.366]. Tự xác định cho mình con đường
chọn tâm hồn để thâm nhập là chọn chỗ vi diệu nhất, kỳ bí nhất nhưng cũng
rất thơ. Lý luận văn học Đông Tây có thể khác nhau nhiều điểm, nhưng đã
gặp nhau ở chữ hồn này. Vì vậy, có thể nói, quan điểm nghiên cứu của Hoài
Thanh trong Thi nhân Việt Nam chính là sự giao hòa giữa lối bình văn cổ điển
phương Đông và lối nghiên cứu trực giác phương Tây. Với phương châm “lấy
156
hồn tôi để hiểu hồn người”, quả thực, Hoài Thanh đã hiển lộ một trực giác
nghệ thuật tuyệt vời trong Thi nhân Việt Nam. Nhờ năng khiếu này, nhà
nghiên cứu đã phác họa được chân dung tâm hồn của từng thi sĩ đại diện cho
thời ấy: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần, một hồn thơ
rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa
như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha rạo rực, băn khoăn
như Xuân Diệu” [167,tr.29]. Ông đã nhập hồn mình vào các hồn thơ để dựng
nên những chân dung văn học đặc sắc và tiêu biểu về các nhà Thơ Mới bằng
một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc, hình ảnh, nhịp điệu: “Thế Lữ như vầng
sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam (…). Thế Lữ không bàn
về Thơ Mới, không bênh vực Thơ Mới, không bút chiến, không diễn thuyết,
Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong
khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”; Xuân Diệu là nhà thơ “mới
nhất trong các nhà Thơ Mới”, “Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối
tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức
phương xa ấy. Nhưng rồi chúng ta quen dần, vì người với ta tình đồng hương
vẫn nặng”; Huy Cận “buồn sầu ảo ão” bởi “nhác thấy cái xa thẳm của không
gian và thời gian”; “Điêu tàn (Chế Lan Viên) đã đột ngột xuất hiện giữa làng
thơ Việt Nam như một niềm kinh dị”; Đoàn Phú Tứ “ghi lại bằng thơ những
nét mong manh những cảm giác nhẹ nhàng”; Nguyễn Bính “đánh thức người
nhà quê ẩn náu trong hồn ta”, làm ta cảm nhận được “hồn xưa của đất nước”;
Hàn Mặc Tử “với vườn thơ rộng rung rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn
lạnh”.
Trên cơ sở của phương pháp trực giác, trong Thi nhân Việt Nam, tác giả
cũng đã sử dụng óc chủ quan để cảm nhận và ghi lại những cảm nhận về các
nhà Thơ Mới, điều này, Hoài Thanh và Hoài Chân đã nói rõ:
157
Có lẽ bạn đương chờ tôi phân ngôi thứ trong làng thơ xem ai nhất, ai
nhì... Bạn sẽ thất vọng. Tôi chỉ ghi cảm tưởng xem thơ nên bài viết dài
ngắn không chừng. Bạn cũng đừng so sánh thơ trích nhiều ít. Ai lại
lấy số trang, số dòng mà định giá một nhà thơ? Có lẽ bạn đương chờ
những bài nghiên cứu vô tư và khách quan. Bạn cũng sẽ thất vọng. Vô
tư thì tôi đã vô tư hết sức, nhưng khách quan, không. Tôi vẫn có thể
vờ bộ khách quan và mặc cho những ý riêng của tôi cái lốt y phục của
mọi người. Nhưng việc gì phải khổ thế? Chạy đi đâu cũng không thoát
cái tôi thì tôi cứ là tôi vậy. Hay dở tính trời [167,tr.367].
Vì vậy, tác giả đã để cho lòng mình xúc động cùng với những vần thơ mà
mình nghiên cứu: “Có một lần viết về lịch sử phong trào Thơ Mới, tôi đã định
bặm miệng - y như những nhà học giả tập sự. Nhưng chỉ được vài trang, vui
buồn lại cứ theo ngòi bút hiện trên trang giấy. Tôi dửng dưng sao được?”
[167,tr.367].
Thật vậy, trong suốt cuốn sách, ta thấy cảm xúc của tác giả cứ tuôn trào
khi nghiên cứu thơ của các nhà Thơ Mới. Vì vậy, trong văn phong của Thi
nhân Việt Nam, ta thường bắt gặp những câu cảm thán, những câu có từ biểu
cảm, từ chỉ mức không xác định… bộc lộ thái độ và tâm hồn đồng cảm của
người nghiên cứu trước các tác phẩm của mỗi tác giả Thơ Mới. Chẳng hạn:
“Tôi ưa những vần thơ hiền lành và ít nói yêu đương” của Trần Huyền Trân,
“Tôi cũng thấy thơ Nguyễn Xuân Huy hay lắm”, “Tôi đã được nếm cái thú
thanh khiết ấy”; hoặc nhận xét về Xuân Diệu: trong tình yêu của người có cái
gì rung rinh, lời văn cũng có vẻ chơi vơi, viết văn tựa trẻ con học nói, câu văn
tuồng bỡ ngỡ. Nhà nghiên cứu cũng dường như coi trọng cảm xúc và linh hồn
hơn là quan tâm đến lý trí khi thưởng thức thơ, vì vậy mà rất nhiều lần ông
không nói “đọc thơ” mà gọi là “xem thơ”.
Thế giới Thơ Mới được Hoài Thanh miêu tả trong Thi nhân Việt Nam là
158
một thế giới đầy âm thanh, màu sắc, bởi hàng loạt cách diễn đạt ví von hình
ảnh khá đặc sắc và đắc dụng như: ngọn gió, cánh cửa, vị tướng quân, một góc
trời, nanh vuốt, đám quân tàn, bạn tình - bộ đồ tang phục, bờ - đê, ngôi sao -
hành tinh, vườn thơ - hoa nở, dòng sông - nước - bờ, con thiêu thân - lửa, con
đường tăm tối, cái nhăn mặt Đông Thi - Tây Thi, cơn sóng gió, trời thực trời
mộng, hoa hòe, tấm lụa; người thân yêu - nhà tranh - đêm bình yên, vầng sao
đột hiện - trời thơ, viên tướng - đội quân Việt ngữ, áo đào tiên, luồng gió lạ,
bông hoa mới nở; hồ - nước - lâu đài xương máu - ngọn núi - gió; y phục, con
hổ, đại bàng, trẻ con học nói, người ngoại quốc,…[43, tr.41]. Ta còn thường
bắt gặp những hình ảnh liên tưởng để đánh giá thơ như: “bức tranh đẹp”, “bức
tranh xinh xinh”, “bức tranh xinh tươi”, “câu thơ đẹp”, “những vần thơ hiền
lành”, “những vần thơ dễ thương”… Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhà
nghiên cứu liên tưởng thấy “lúc nào hình như cũng thoảng thấy bóng một
người đương khúc khích cười”; Xem thơ Thanh Tịnh, Hoài Thanh có “cái
cảm giác trội nhất… là thấy một cái gì cứ dàn trải, dàn trải hoài mà lại lỏng.
Có lẽ là một mặt hồ. Cũng chưa đúng. Hồ còn có bờ, và nước - âu cũng phải
gọi là nước cứ chảy tràn lan”; hay đọc thơ Đông Hồ, ông lại hình dung và liên
tưởng đến những “cái êm ái, cái mơn trớn, vuốt ve của ái tình”…
Quan điểm nghiên cứu lấy hồn mình để lắng nghe hồn người khác qua
âm vang, chữ nghĩa của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam còn phát lộ
năng lực thấu cảm của nhà nghiên cứu. Điều này ta thấy, Hoài Thanh đã nói
đến nhiều lần trong công trình của mình. Chẳng hạn, Hoài Thanh cho rằng:
muốn thưởng thức thơ Nam Trân thì “ta phải luyện tâm trí cho bình thản”, vì
vậy ông lưu ý “Hãy xếp thơ Nam Trân lại những lúc lòng ta có chuyện xôn
xao”; hoặc đối với thơ Lưu Trọng Lư, nhà nghiên cứu chân thành thổ lộ:
Trước sự đau thương của người bạn, tôi muốn im lìm kính cẩn. Tôi chỉ
biết, dầu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở
159
về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi
hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều
bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà
chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta
[167,tr.284].
Như vậy, việc áp dụng phương pháp trực giác trong Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh và Hoài Chân đã có được ưu điểm nhất định khi tác giả phát
huy được óc nhạy cảm tinh tế của mình, làm cho những nhận xét và lời văn
của ông thật ấn tượng và luôn có hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng bộc lộ hạn chế
cũng là hạn chế của phương pháp trực giác nói chung, là khi nghiên cứu tác
phẩm, không chấp nhận các lý thuyết và phương pháp khoa học; trong khi “sự
đồng cảm chỉ có thể coi là một điểm xuất phát, cần phải được bổ sung bằng
việc phân tích về mặt kỹ thuật” [Tudor Vianu, “Emotie si creatie artistică”,
Opera, Volum 7, Studii de Minerva, Bucuresti, 1978, tr.284 (Trích theo
Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
học xã hội)]. Do chỉ dựa vào mỗi trực giác để nghiên cứu, nên trong Thi nhân
Việt Nam, Hoài Thanh chỉ chuyên đi nghiên cứu cái hay, cái đẹp, tránh nói
đến cái dở, cái xấu. Vì thế, ông thường chỉ dừng lại ở việc đi tìm những nhãn
tự, thần cú, những cảm giác. Và có lẽ vì thế, nhận xét về phương pháp “phê
bình ấn tượng” (cách gọi của Đỗ Lai Thúy) của Hoài Thanh trong Thi nhân
Việt Nam, Đỗ Lai Thúy đã cho rằng: “Phê bình Hoài Thanh, xét cho cùng, chỉ
là một cuộc tham quan thẩm mỹ đi từ tâm hồn nhà thơ này đến tâm hồn nhà
thơ khác qua những tác phẩm của họ trên cái xa lộ chung là tinh thần thời đại”
[182,tr.6].
Mặt khác, với phương thức coi “Mỗi bài thơ hay là một cánh cửa mở
cho tôi đi vào một tâm hồn” cũng ít nhiều bị hạn chế trong công tác nghiên
cứu của Hoài Thanh, bởi nếu gặp “Những tâm hồn không lối vào, những tâm
160
hồn bưng bít, thì tôi còn biết gì mà nói. Chủ nhân không mở cửa, tôi đành
chịu đứng ngoài” [167,tr.336] (có lẽ nói về các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Nguyễn
Xuân Sanh). Như vậy, vô tình Hoài Thanh cũng đã thừa nhận những giới hạn
của phương pháp trực giác mà mình thực hành.
Tóm lại, dù còn một vài hạn chế nhất định, nhưng với những kết quả đạt
được cho phép ta khẳng định sự thành công của Hoài Thanh trong việc vận
dụng phương pháp trực giác để nghiên cứu Thơ Mới. Đây là sản phẩm của sự
kết hợp giữa tri thức của một nhà khoa học uyên bác biết dung hòa tri thức
khoa học Á - Âu cộng với tư chất thiên bẩm của người nghệ sĩ. Với phương
pháp trực giác, Hoài Thanh đã rất thành công trong cảm nhận và đánh giá các
tác giả thuộc trường phái lãng mạn của Thơ Mới, tuy nhiên cũng chính
phương pháp này mà Hoài Thanh đã khá ngần ngại trong việc đánh giá các
tác giả thuộc các trường phái tượng trưng, siêu thực (tiêu biểu như hiện tượng
Hàn Mặc Tử, Bích Khê). Thành quả áp dụng phương pháp trực giác của Hoài
Thanh dù đã gây nhiều tranh luận, nhưng qua bao thăng trầm của thời gian
vẫn khẳng định giá trị, khiến cho Thi nhân Việt Nam cho đến tận bây giờ vẫn
được sự yêu mến và trân trọng của đông đảo bạn đọc và các nhà nghiên cứu.
3.1.3. Phương pháp xã hội học
Phương pháp xã hội học là một phương pháp xuất phát từ phương Tây,
có cội nguồn từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành
khoa học thì đây vẫn là một bộ môn khá mới mẻ. Nguyễn Văn Dân trong
Phương pháp luận nghiên cứu văn học (2004) cho rằng, người đầu tiên đặt ra
tên gọi của phương pháp này là nhà triết học người Pháp Auguste Comte
(1798 - 1857) qua công trình Cours de philosophie positive (là người sáng lập
ra chủ nghĩa thực chứng, muốn áp dụng các phương pháp điều tra sự vật của
vật lý học để khám phá các quy luật của xã hội con người) vào năm 1836 với
tên ban đầu là “vật lý học xã hội” và sau đó gọi là “xã hội học”. Nhà triết học
161
và phê bình văn học người Pháp là Hippolyte Taine (1828 - 1893) cũng đã
phát triển một phương pháp mang tính nhân học - xã hội học. Ông cho rằng
mọi nhà văn và tác phẩm văn học đều chịu ảnh hưởng của ba yếu tố: chủng
tộc, môi trường xã hội, thời đại lịch sử. Theo ông, đây chính là những yếu tố
có vai trò quyết định đến tính chất và giá trị của tác phẩm văn học. Và để
nghiên cứu các yếu tố đó, nhà nghiên cứu phải áp dụng các thành tựu của
khoa học nhân văn như sinh lý học, tâm lý học, nhân chủng học và xã hội học.
Trong quá trình giao lưu và hội nhập với văn học phương Tây ở giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, lý thuyết của Taine đã được nhiều nhà nghiên cứu
Việt Nam áp dụng. Nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu nước ta thường kết
hợp việc nghiên cứu hoàn cảnh xã hội với việc nghiên cứu thân thế tiểu sử,
con người, sự nghiệp của nhà văn để tìm hiểu tác phẩm. Trường hợp nhà
nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa là một ví dụ.
Trong các công trình Nguyễn Du và Truyện Kiều, Tâm lý và tư tưởng
Nguyễn Công Trứ, Văn chương Truyện Kiều, Nguyễn Bách Khoa đã tiếp thu
nhiều lý thuyết khoa học của phương Tây, như lý thuyết nhân học - xã hội học
của Hippolyte Taine (1828 - 1893), lý thuyết tâm lý của Jean Piaget (1896 -
1980), lý thuyết xã hội học - lịch sử của Gheorghi Valentinovich Plekhanov
(1856 - 1918), lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud (1856 – 1939) để
nghiên cứu. Nhưng ở Nguyễn Bách Khoa, nổi bật vẫn là việc vận dụng
phương pháp xã hội học - lịch sử.
Áp dụng phương pháp này, trong Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942),
Nguyễn Bách Khoa đã nghiên cứu kỹ Nguyễn Du ở các khía cạnh huyết
thống, thân thế, thời đại, cá tính nhà văn và xã hội Truyện Kiều. Sau đó, ông
phân tích tâm lý các nhân vật Kim Trọng, Từ Hải, Thúy Kiều để thấy mỗi
nhân vật phản chiếu một khía cạnh tâm lý Nguyễn Du và triết lý của truyện là
nhân sinh quan của tác giả. Tuy nhiên, do đồng nhất mô hình xã hội học văn
162
học với mô hình tâm lý theo quan niệm của Freud, nên các nhận định của
Nguyễn Bách Khoa trở thành dung tục. Xét đến thân thế Nguyễn Du, lại thấy
một cuộc đời thất bại. Xét đến cá tính Nguyễn Du, tác giả đoán định căn tạng
đa cảm quá độ, luôn lo sợ hãi hùng, sống bằng ảo giác của thi nhân là do
“bệnh thần kinh”, một thứ bệnh “không có sự tổn thương về khí quan” nhưng
“căn tạng suy nhược”, do “bộ giao cảm thần kinh không khỏe khoắn”, “do
căn tạng cảm xúc quá độ”. Cá tính ấy thể hiện trong văn chương thành “sự
rung động thành thực và mãnh liệt, sự tưởng tượng dồi dào”, sự cảm xúc ủy
mỵ và bi thương, sự cảm thông với đồng loại đau khổ và thần linh. Từ đó, ông
kết luận về Nguyễn Du: “Ở Nguyễn Du, ta nhận thấy ý tưởng chỉ huy tư
tưởng nhân quả, tình cảm nền móng là trạng huống đa sầu, con người bản
năng khoái hoạt là bản năng tôn giáo và năng khiếu sáng tác là trí tưởng
tượng ảo giác” [202,tr.203]. Nhận xét về Kiều, ông gọi nàng là “hạng đàn bà
trụy lạc thời đó” và “tâm hồn ấy đã vì ảnh hưởng xấu của một giáo dục sát
nhân mà trở nên ủy mỵ, ươn hèn, thỉnh thoảng lại liều lĩnh cuồng phóng, luôn
luôn sợ hãi và trầm muộn” [202,tr.155]. Vì vậy, Nguyễn Bách Khoa kết luận
về Kiều: “Tóm lại, Kiều là một người ốm yếu thần kinh. Vì ốm yếu nàng đã
có một căn tính dâm đãng, trầm uất, sầu muộn, hoảng hốt, liều lĩnh, sợ hãi.
Căn tính này cộng với cái lý tưởng thấp hèn về sự sống của nàng do giáo dục
gây nên khiến nàng trở thành kẻ hèn nhát, ích kỷ, vụ lợi, vụ hèn, tham giàu
sang, không chung thủy, thiếu đức độ nhân nghĩa” [202,tr.228]. Từ đó, tác giả
kết luận về Truyện Kiều: “Một xã hội ốm, một đẳng cấp ốm, một cá tính ốm:
tất cả Truyện Kiều là ở đó” [202,tr.276]. Ông còn cho rằng: với Truyện Kiều
“Nguyễn Du đánh dấu cá tính mình, thân thế mình, đẳng cấp mình, thời đại
mình”, nhưng “đó là một sinh hoạt cằn cỗi và sáo loạn, một tư tưởng nhát hèn
và ủy mỵ, một tâm lý tùy thời và ích kỷ. Truyện Kiều là kết tinh của ba yếu tố
suy đồi ấy” [202,tr.243]. Rõ ràng ở đây, Nguyễn Bách Khoa đã suy diễn một
163
cách tùy tiện, cực đoan. Ưu điểm của nhà nghiên cứu trong Nguyễn Du và
Truyện Kiều là viết có phương pháp, lập luận chặt chẽ, phân tích nhân vật sâu
sắc, nhưng nhược điểm quan trọng của Nguyễn Bách Khoa là không thấy
được thế giới nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật, giá trị thẩm mỹ là những yếu tố
đã làm cho tác phẩm Truyện Kiều và tác giả của nó trở thành bất hủ. Vì vậy,
đương thời nhiều người đã cực lực phản đối “phương pháp khoa học” của
Nguyễn Bách Khoa trong Nguyễn Du và Truyện Kiều như Đinh Gia Trinh, Lê
Huy Vân... Sau này, Nguyễn Đăng Điệp trong bài nghiên cứu về Nguyễn
Bách Khoa đã có nhận định tương đối thỏa đáng những đóng góp cũng như
hạn chế của tác giả công trình Nguyễn Du và Truyện Kiều như sau: “Có lẽ,
đây là công trình vào loại công phu nhất và cũng thể hiện nhiều cái dở nhất
trong hệ thống nghiên cứu văn học của Trương Tửu. Dở vì ông đã nhìn nhận
văn học một cách cơ giới, cắt nghĩa tài năng của Nguyễn Du một cách vụng
về và “bắt mạch” nhân vật như… một bác sĩ kém tay nghề” [179,tr.390].
Năm 1945, Nguyễn Bách Khoa tuyên bố tiếp tục áp dụng “phương pháp
khoa học” để nghiên cứu Văn chương Truyện Kiều ở phương diện nội dung và
hình thức của tác phẩm. Ngay phần mở đầu, ông mạnh dạn khẳng định quan
điểm nghiên cứu của mình: “Nếu chủ quan tôi phản chiếu đúng khách thể
đang sinh thành thì nó là thuận tiến hóa. Nếu nó phản chiếu cái khách thể
đang cản trở tiến hóa thì nó là phản động. Giá trị chủ quan của một cá nhân bị
lệ thuộc vào sự nó thuận hay phản tiến hóa trong giai đoạn lịch sử của xã hội
đương thời với cá nhân ấy” [202,tr.345-346]. Ở đây, quan điểm mác-xít đã
được Nguyễn Bách Khoa tuyên bố áp dụng. Tuy nhiên, do quan niệm duy vật
máy móc, nhà nghiên cứu cũng chỉ thấy: Truyện Kiều tán dương đẳng cấp sĩ
phu đã hết vai trò tiến hóa, đầy tính chất bi ai, sầu oán, đầu hàng chiến bại, do
đó nó chỉ có giá trị phản tiến hóa. Vì vậy, một lần nữa ông lại kết luận phủ
nhận giá trị nội dung của Truyện Kiều: “Truyện Kiều chỉ là cái kết tinh của
164
những cái suy nhược trong cốt tinh Việt Nam” [202,tr.412]. Đánh giá văn thơ
Truyện Kiều, Nguyễn Bách Khoa cho rằng cái mà từ trước đến nay người ta
vẫn khen nhất ở Truyện Kiều là thể thơ lục bát, thì theo ông nó cũng “chỉ là
sản phẩm của một trạng thái nô lệ của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử
(thời Bắc thuộc). Và ông nhấn mạnh: “Âm điệu lục bát tiến đến chỗ tuyệt diệu
là một âm điệu báo tin sự diệt vong vậy” [202,tr.412]. Sau khi nghiên cứu về
hình thức tác phẩm Truyện Kiều, ông kết luận rằng “Ý thức của nghệ sĩ quy
định hình thức của tác phẩm thật là chặt chịa. Tôi thành thực hiến câu kết luận
này cho sự suy nghĩ của những ai đã tưởng nhầm rằng giá trị một tác phẩm
chỉ là một giá trị kỹ thuật, một giá trị về hình thức” [202,tr.411]. Và cuối
cùng, tác giả Văn chương Truyện Kiều rút ra kết luận phủ nhận giá trị Truyện
Kiều như sau: “Truyện Kiều là một thứ văn chương đã ở vị trí phản tiến hóa
lúc đương thời của Nguyễn Du. Nó chứa chan một chất tàn héo, tiêu ma (chất
thơ). Nó là kết tinh của một chặng đường suy đồi nhất trên tràng kỳ tiến hóa
của cá tính Việt Nam. Cái đẹp của Truyện Kiều ngày nay chỉ những tâm hồn
muốn thụt lùi mới có thể thưởng ngoạn được” [202,tr.416].
Trong cuốn Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945), Nguyễn Bách
Khoa vẫn tiếp tục áp dụng phương pháp xã hội học để giải thích tâm lý và tư
tưởng của nhà văn. Nguyễn Bách Khoa đặc biệt chú ý đến quy luật “phản tác
động” lại hoàn cảnh của con người để làm sáng tỏ nhiều nét tâm lý của
Nguyễn Công Trứ như: thái độ với cái nghèo, sự hành lạc, cái ngông… Theo
tác giả, Nguyễn Công Trứ là “chứng nhân” của thời đại mình, còn tâm lý và
tư tưởng của ông diễn ra trong thi ca - là tài liệu quí để biểu lộ trạng thái
khách quan của thời đại. Đây có thể xem là tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần
lập thuyết của nhà nghiên cứu và tác phẩm cũng đã đạt những giá trị đáng ghi
nhận. Tuy nhiên, do quá tin vào sự đúng đắn trong phương pháp nghiên cứu
của mình, cộng với việc áp dụng thuyết phân tâm học một cánh tùy tiện,
165
Nguyễn Bách Khoa đã có kết luận chưa mấy thuyết phục về Nguyễn Công
Trứ như sau: “Tất cả khí chất của con người Nguyễn Công Trứ là ở những
danh từ ấy (chơi, hành lạc, phong lưu, tài tình, trận cười… - DTT). Mà các
danh từ này, xét cho kỹ, cũng chỉ tóm tắt có một chữ dâm” [202,tr.631].
Có thể nói, Nguyễn Bách Khoa là một nhà nghiên cứu rất có ý thức vận
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học của phương Tây. Trong các công
trình của mình, ông luôn công khai rõ ràng phương pháp nghiên cứu, luôn
nhấn mạnh đến tính khoa học, chặt chẽ trong nghiên cứu. Tuy nhiên, do cá
tính mạnh và quá tự tin nên khi thực hành các phương pháp qua thực tế các
công trình nghiên cứu của mình, ông lại chưa thể hiện được tính khoa học
chặt chẽ do ưa áp đặt, suy diễn chủ quan, vì thế, giá trị khoa học của các kết
luận thường bị hạn chế, dễ bị phản bác.
3.1.4. Phương pháp tiểu sử
Phương pháp tiểu sử là một trong những phương pháp nghiên cứu văn
học, theo đó, tiểu sử và nhân cách nhà văn được tìm hiểu để lý giải tác phẩm.
Đây là phương pháp có phần nào cùng loại với phương pháp xã hội học sáng
tác. Nhưng điểm khác nhau cơ bản ở hai phương pháp này là: phương pháp xã
hội học sáng tác nghiên cứu nhà văn chỉ từ góc độ xã hội và trên bình diện xã
hội, còn phương pháp tiểu sử lại quan tâm đến cả cuộc sống và những mối
quan hệ riêng tư của nhà văn.
Phương pháp tiểu sử ra đời ở nước Pháp vào khoảng giữa thế kỷ XIX,
với người khởi xướng là Sainte-Beuve (1804 - 1869) và Ferdinand Brunetière
(1849 – 1906). Theo chủ trương của phương pháp này, nhà phê bình phải có
thái độ của nhà khoa học. Tức là khi muốn nhận định một sự nghiệp, muốn
cắt nghĩa một tác phẩm, nhà phê bình phải bắt chước nhà khoa học, phải đi
tìm hiểu các sự kiện, các điều kiện đã giúp nhà văn vào việc tạo nên một tác
phẩm, một sự nghiệp. Những điều kiện, dữ kiện đó chính là: hoàn cảnh xã
166
hội, địa lý, thời đại lịch sử, dòng họ, chủng tộc, thân thế, cuộc đời nhà văn...
Ở Việt Nam, trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, có rất nhiều người sử dụng
phương pháp tiểu sử. Trong số này, Trần Thanh Mại là người đầu tiên áp
dụng phương pháp tiểu sử một cách hết sức tự giác.
Áp dụng phương pháp tiểu sử học, ở Trông giòng sông Vị (1935), Trần
Thanh Mại đã có đề cập đến khung cảnh lịch sử, khung cảnh gia đình xã hội,
đến cuộc đời Tú Xương, đến văn nghiệp Tú Xương.... Nhưng đọc kỹ tác
phẩm, ta thấy nhiều lúc tác giả đã dùng tiểu sử của nhà thơ để làm mục đích
chứ không phải là phương tiện để soi sáng tác phẩm. Và đó là cơ sơ để Vũ
Ngọc Phan xếp ông vào nhóm những nhà văn viết truyện ký. Tuy nhiên, vấn
đề phải đặt ra: Vũ Ngọc Phan và Trần Thanh Mại là hai nhà nghiên cứu theo
hai trường phái khác nhau nên không tránh khỏi việc Vũ Ngọc Phan chưa
nhìn nhận đúng phương pháp nghiên cứu của Trần Thanh Mại. Và điều quan
trọng, chúng ta phải đặt công trình Trông giòng sông Vị vào hoàn cảnh lúc
bấy giờ để đánh giá mới thấy rằng, dù có những hạn chế nhất định nhưng
Trông giòng sông Vị đã tiến bộ rất nhiều so với những công trình ra đời trước
nó.
Sáu năm, sau một thời gian suy nghĩ về phương pháp và tự tu nghiệp,
cuốn Hàn Mặc Tử ra đời vào năm 1941, đó là một minh chứng cho sự tiến bộ
rất nhiều trong việc áp dụng phương pháp tiểu sử ở Trần Thanh Mại. Trong
lời tựa cuốn Hàn Mặc Tử, nhà nghiên cứu tuyên bố:
Với những phương pháp mới, xưa nay chưa từng có trong lịch sử văn
học Việt Nam, tôi đã phân tích ra từng cử chỉ, từng tính tình của nhà
thi sĩ, từng giai thoại trong đời người. Những cái ấy mà bề ngoài tưởng
như vô bổ ích và chỉ để kéo dài cho dài dòng, tựu trung đều ăn nhập
với nhau như những vòng của một sợi dây chuyền để mà ảnh hưởng
đến cái đích của người viết cuốn sách muốn đi tới: cắt nghĩa thi phẩm
167
nhà thơ (…). Không rõ thấu hết những cái vặt vãnh thắc mắc trong
đời một nhà thi sĩ thì không sao hiểu hết được thơ của người ấy (…).
Khảo sát về đời thi sĩ Hàn Mặc Tử, tôi phải xét rõ các thời đại chàng
đã sống qua. Tôi phải viếng các xứ chàng đã ở, và sau cùng, tôi phải
hỏi tất cả các người có liên lạc đến đời chàng. Và tôi nhận ra rằng
học giả Tây phương tựu trung cũng không hành động ra ngoài
phương pháp ấy [123,tr.25-26].
Đó là chủ trương về phương pháp nghiên cứu mà Trần Thanh Mại đã đặt ra
trong Hàn Mặc Tử. Với quyết tâm sẽ làm cho bạn đọc thấy rõ được mối quan
hệ giữa tác giả và tác phẩm, thấy rõ cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của nhà
thơ thiên tài Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã không ngại cất công tìm đến
những nơi mà Hàn Mặc Tử đã sống như: Đồng Hới, Huế, Qui Nhơn, nhà
thương Quy Hòa, Phan Thiết...; ông đã nhiều lần gặp trực tiếp mẹ Hàn Mặc
Tử để hỏi chuyện, những vấn đề liên quan đến nhà thơ, hỏi thăm những người
bạn thân của Hàn Mặc Tử về thơ văn và những mối quan hệ bên ngoài của
chàng, cũng như ông đã cố gắng tìm đọc thư từ, thơ văn mà Hàn Mặc Tử đã
gửi cho em trai Trần Thanh Địch và cháu trai Trần Tái Phùng của ông. Điều
này chứng tỏ, Trần Thanh Mại rất có ý thức về phương pháp tiểu sử mà mình
sử dụng, mặc dù ông không gọi đích danh đó là phương pháp tiểu sử.
Trong Hàn Mặc Tử, nhà nghiên cứu đã tập trung phân tích ba yếu tố
bệnh tật, đàn bà và tôn giáo và coi đó là bộ ba chi phối cuộc đời và thơ văn
của thi sĩ. Ở từng yếu tố, ông đi sâu tìm hiểu mối quan hệ, ảnh hưởng giữa
vấn đề mà mình đặt ra với sự nghiệp thơ ca của thi nhân. Chẳng hạn, ông
dành hẳn một mục “Ảnh hưởng của bệnh trong thi văn Hàn Mặc Tử” để bàn
về cuộc đời bệnh tật của nhà thơ. Ông đã viết:
Có nhiều tai nạn bất ngờ nó định đoạt cả chí hướng, công cuộc và sự
nghiệp của một đời người. Nếu một buổi mai tốt trời kia, đi qua một
168
chiếc cầu sông cái, Blaise Pascal không suýt bị ô tô cán lên người, thì
Cơ đốc giáo sẽ mất một người phụng sự đắc lực, và nguồn văn minh
tư tưởng của thế giới sẽ thiệt thòi nhiều lắm. Lord Byron mà không có
cái chân què thì nền thi ca nước Anh sẽ thiếu biết bao là nguồn cảm
hứng thuần túy cao siêu? (…). Ấy là mới nói về ảnh hưởng của những
sự tình cờ nho nhỏ đối với một đời người. Y học Âu Tây còn đề
xướng lên một lý thuyết quan trọng hơn nữa. Theo thuyết lý ấy thì
phần đông trong số vĩ nhân hoàn cầu, sở dĩ làm nên sự nghiệp, vì do
ảnh hưởng của những chứng bệnh của họ (…). Nhưng mà cái tỉ dụ rõ
rệt nhất hẳn là bệnh suyễn kinh niên của nhà văn cận đại Marcel
Proust. Nhờ ở cái bệnh, nó đóng đinh nhà văn suốt đời trên giường,
Proust mới phát kiến ra thuyết “Thời gian”, nó là một trong những tòa
tư tưởng lộng lẫy, cao siêu của nhân loại. Lấy riêng về cái trường hợp
của thi sĩ Hàn Mặc Tử, thì ta phải nhận rằng thuyết ấy là đúng. Hàn
Mặc Tử có mắc phải bệnh hoạn thì văn chương Việt Nam mới mở ra
những cõi trời lạ lùng mới mẻ [123,tr.57].
Trần Thanh Mại đã trình bày khá kỹ nguyên nhân mắc bệnh của Hàn
Mặc Tử, quá trình chữa chạy và những trạng thái bệnh lý của nhà thơ. Ông
cũng đã tìm và chỉ ra cho chúng ta thấy những mối quan hệ nhân quả giữa
bệnh tật và thơ ca. Theo Trần Thanh Mại, nhờ có bệnh tật mà: “Từ nay Hàn
Mặc Tử đã có một nguồn thi cảm mới, một nguồn thi cảm vô tận rút tự trong
nguồn đau khổ vô tận của chàng. Thơ chàng náo lên với cơn máu bệnh. Trí
chàng được nung nấu đến cái nhiệt độ cuối cùng trước khi nổ tan ra hơi khói,
đưa tư tưởng chàng đến những biên thùy xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc”
[123,tr.60]. Trần Thanh Mại cho rằng thơ và bệnh có mối quan hệ rất mật
thiết, khi “Cơn bệnh hăng chừng nào thì mạch thơ mạnh chừng ấy”. Đó chính
là lý do vì sao ta thấy trong tác phẩm Hàn Mặc Tử, có nhiều những từ ngữ
169
mang dấu hiệu của bệnh hủi, Trần Thanh Mại viết: Trong tác phẩm của Hàn,
người ta nhặt nhan nhản những chữ tê dại, sượng sần, rùng rợn, da diết, đê
mê,... Có nhiều câu rõ rệt lắm: Tình đã húp , sao ý vẫn còn sưng
Sao giấy lại tháo mồ hôi ra thế ?
(Bức thư xanh - Xuân Như Ý )
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
(Hồn là ai - Đau Thương)
Trong mối quan hệ giữa bệnh tật và thơ ca, Trần Thanh Mại cho rằng,
trăng có ảnh hưởng đến bệnh phong, mỗi kỳ trăng sáng có thể có những tác
động huyền bí nào đó đến bệnh cùi và lúc đó dường như bệnh nhân đau đớn
hơn. Trần Thanh Mại vẫn biết: “Đây cũng là một vấn đề mà khoa học chưa
nói được đến cái chữ cuối cùng” nhưng “Dẫu sao, riêng đối với thi sĩ Hàn
Mặc Tử, thì ảnh hưởng của trăng đối với bệnh chàng đã là rõ ràng chắc chắn
lắm” [123,tr.67]. Bởi sau khi nghiên cứu tập thơ Đau thương gồm 50 bài, ông
thấy hai phần ba tập thơ là nói đến trăng, còn lại một nửa thì nói về hồn, và
một nửa thì nói về vấn đề khác. Tập thơ Xuân như ý và Thượng thanh khí
cũng hay nói đến trăng và hồn. Cho nên ông khẳng định: “trăng” và “hồn” là
hai cái luận đề yêu dấu của Hàn Mặc Tử, hơn thế là hai ám ảnh ghê gớm mà
thi sĩ không thoát ly được. Biểu tượng trăng, hồn, máu mà trong đó trăng là
chủ yếu, là những nhịp mạnh của thơ Hàn Mặc Tử đã được Trần Thanh Mại
là người đầu tiên đề cập đến. Đó là một đóng góp của Trần Thanh Mại. Dù
sau này, trong Hàn Mặc Tử anh tôi, Nguyễn Bá Tín đã phản bác lại bởi cho
rằng, Hàn Mặc Tử bị ám ảnh bởi vầng trăng kì lạ ở động cát Sa Kì, nơi một
lần thi sĩ sắp chết đuối thì thấy được Đức Mẹ hiển hiện trợ giúp ông, và cũng
từ đó vầng trăng đã trở nên ám ảnh nhà thơ. Đó là lý do vì sao mà trong tác
phẩm của Hàn Mặc Tử có nhiều biểu tượng về trăng. Nguyễn Bá Tín kết luận:
“Tiếc thay, ông Mại đã để mất cái vòng xích của sợi dây chuyền vặt vãnh,
170
như ông đã nói, nên ông không thể hiểu biết hết cội rễ con trăng đã ảnh hưởng
đến văn thơ Hàn Mặc Tử như thế nào” [123,tr.463]. Nhưng chúng ta phải thừa
nhận rằng, tài liệu đưa ra đều có sức thuyết phục, nhưng cách lý giải của mỗi
người khác nhau phải chăng cách cảm nhận của họ khác nhau.
Về yếu tố đàn bà, Trần Thanh Mại cũng đã sử dụng tiểu sử của Hàn
Mặc Tử để chỉ ra những cái tên như Mộng Cầm, Mai Đình nữ sĩ, Thương
Thương và coi họ là những nguồn cảm hứng cho thi ca của Hàn Mặc Tử. Yếu
tố tôn giáo cũng được Trần Thanh Mại chứng minh rằng “Thánh mẫu Maria
là đấng đáng cho chàng ca tụng”.
Nếu như ở Trông giòng sông Vị là một cuộc thử nghiệm chưa thỏa mãn
thì trong Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã nỗ lực và thành công trên lập
trường cắt nghĩa khách quan để nghiên cứu thân thế và sự nghiệp thơ văn Hàn
Mặc Tử. Quả thực, đọc công trình này, chúng ta thấy đây đúng là một cuốn
khảo cứu tiểu sử văn học. Mọi sự kiện thi ca đều được tác giả gắn rất chặt với
các sự kiện tiểu sử của nhà thơ. Tuy nhiên, trong số những nhận xét của Trần
Thanh Mại cũng có ý kiến có phần chủ quan. Chẳng hạn việc ông khẳng định
bệnh tật có ảnh hưởng đến tài năng của Hàn Mặc Tử; ảnh hưởng của “trăng”
đến bệnh tật của thi nhân, mặc dù, ông vẫn công nhận đây là vấn đề “khoa
học chưa nói được cái chữ cuối cùng”. Hoặc như chi tiết mẹ Hàn Mặc Tử vì
uống rượu say do cha chàng làm công chức sở Tây đem rượu lậu bắt được về
nhà mà sinh ra Hàn Mặc Tử thiếu tháng, đã bị Nguyễn Bá Tín (em ruột Hàn
Mặc Tử) cho là “bịa” và đặc biệt là Quách Tấn (bạn nhà thơ) phản đối kịch
liệt. Quách Tấn cho rằng, Trần Thanh Mại viết Hàn Mặc Tử đã có lỗi với Tử:
cuộc đời Tử bị làm sai hẳn sự thật, bôi lọ gia đình Hàn Mặc Tử, nói “xấu”
một người đàn bà để làm hại đến hạnh phúc gia đình của bà ta.
Sự việc trên cho thấy, phương pháp tiểu sử không phải là một phương
pháp đơn giản, vì nó liên quan đến người thật việc thật, trong đó có những chi
171
tiết rất tế nhị mà người ta khó có thể biết được đúng sai khi có những ý kiến
trái ngược. Ngoại trừ một vài ý kiến chủ quan hoặc không tán thành như vừa
nêu, giới nghiên cứu đương thời đều xem đây là cuốn sách thành công của
Trần Thanh Mại trước Cách mạng. Thanh Lãng thì khẳng định “Hàn Mặc Tử
là một nỗ lực đã đi đến thành công” trong việc áp dụng phương pháp tiểu sử ở
Trần Thanh Mại. Nguyễn Bá Tín trong Hàn Mặc Tử anh tôi cũng khẳng định:
nhờ có cuốn Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại mà “thơ anh Trí” được người
đời rộng rãi biết đến. Đó chính là những giá trị đáng ghi nhận của Trần Thanh
Mại trong việc áp dụng phương pháp tiểu sử vào việc nghiên cứu văn học
Việt Nam và đã góp phần làm phong phú bộ mặt của hoạt động nghiên cứu
văn học đương thời trong quá trình hiện đại hóa văn học nước ta giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX.
Tóm lại, với Trông giòng sông Vị và Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã
đi từ bước khởi đầu đến những thành công đáng ghi nhận trong việc sử dụng
phương pháp tiểu sử trong nghiên cứu văn học. Mặc dù, quan điểm chủ quan,
tác giả đã cố gắng áp dụng phương pháp tiểu sử để nghiên cứu Tú Xương,
nhưng trên thực tế, Trông giòng sông Vị, việc áp dụng phương pháp vẫn còn
chung chung với bối cảnh xã hội, không khí thời đại, hoàn cảnh gia đình, tiểu
sử, văn nghiệp Tú Xương. Hơn nữa, do tính mục đích vận dụng phương pháp
quá rõ và đôi chỗ áp dụng chưa nhuần nhuyễn nên phương pháp này chưa
đem lại hiệu quả cao, chưa thực sự trở thành công cụ, phương tiện nghiên cứu
mà mới chỉ dừng lại ở mục đích. Đến Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã nhuần
nhuyễn hơn khi sử dụng phương pháp tiểu sử để đào sâu vào cuộc đời, số
phận tác giả nhằm rút ra phong cách thơ của Hàn Mặc Tử. Phương pháp này
với Hàn Mặc Tử thực sự đã thuyết phục được người đọc về tính hiệu quả của
nó trong cảm nhận những vấn đề chính của thơ Hàn Mặc Tử.
172
3.1.5. Phương pháp xã hội học mác - xít
Nghiên cứu bằng phương pháp xã hội học mác-xít cũng là một nét mới
trong thành tựu chung của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Mầm mống và tiền đề của phương pháp
này bắt nguồn từ những nhà tư tưởng, nhà văn hóa tiến bộ, tiên phong trong
quá trình tiếp thu các luồng tư tưởng mới của phương Tây như: Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc…
Do ảnh hưởng của phong trào yêu nước và cách mạng diễn ra từ đầu thế
kỷ XX, đặc biệt là sự tác động trực tiếp từ sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông
Dương cùng với việc tiếp thu các luồng tư tưởng mới của phương Tây, trong
đó có chủ nghĩa Mác - Lênin, mà hoạt động nghiên cứu văn học có bước phát
triển mới và dần dần khẳng định sự ra đời của phương pháp nghiên cứu xã hội
học theo tinh thần mác-xít. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến các cuộc
tranh luận, bút chiến, nhất là từ 1935 đến 1939 một cách sôi nổi. Ngoài ra, tư
tưởng mác-xít còn được đưa vào Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ XX
qua các bài báo và bài dịch thuật của Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Hải Triều
…, trong đó, có cuốn Duy tâm hay là duy vật (Hương Giang thư quán, Huế,
1935), Văn sĩ và xã hội (Hương Giang thư quán, Huế, 1937), và Chủ nghĩa
mác- xít phổ thông (Thư xã Tư tưởng mới, Huế, 1938) của Hải Triều.
Thành tựu của xu hướng nghiên cứu xã hội học mác-xít là đã tập hợp
được một lực lượng đông đảo những người có cùng quan điểm và chí hướng
như: Hải Triều, Đặng Thai Mai, Phan Văn Hùm, Xích Điểu Trần Minh Tước,
Bùi Công Trừng, Lâm Mộng Quang, Hải Thanh, Hải Khách … mà ở đó, phải
ghi công đầu là Hải Triều và phát triển có định hướng rõ rệt là Đặng Thai
Mai.
Điều đáng lưu ý, trước khi có những thành tựu của xu hướng mác-xít
này, đã xuất hiện một số quan niệm về văn học gắn với xã hội của các nhà văn
173
có tư tưởng tiến bộ đương thời. Võ Liêm Sơn luôn quan tâm đến mối quan hệ
giữa văn chương và xã hội. Ông xem “văn học không lìa được xã hội, văn học
để biểu hiện xã hội, phê bình xã hội, hay là nói: Văn học có xã hội làm nội
dung mới có tinh thần, có sinh mệnh, có giá trị lâu dài, có tư cách vĩ đại” (Văn
học và xã hội). Còn Tản Đà, ngoài những quan niệm khác, trên Đông Pháp
thời báo, số 641 (1927) với bài “Người làm văn”, có viết: “Và cứ chính lý mà
nói, tự mình không thương nước mà viết ra những lời ái quốc, tự mình vô
phẩm hạnh mà viết ra những giọng luân thường, vậy thời để lừa gạt ai. Dẫu có
lừa gạt được ai chăng, ắt cũng có ngày bại lộ” [126,tr.429]. Còn với Phan
Châu Trinh, với ý thức cách tân văn học, trong bài thơ Chí thành thông thánh,
có viết: “Muôn dân nô lệ hàng đàn/ Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say” để
phê phán loại văn chương xa rời hiện thực đời sống đau khổ của nhân dân.
Hay trong Văn minh tân học sách (1904), tác giả (chưa rõ) cũng kêu gọi các
văn nhân phải đổi mới quan niệm và hiểu rõ phép thi để làm việc có ích cho
nhân quần, xã hội.
Cùng quan điểm như trên, Phan Bội Châu cũng luôn khẳng định sức
mạnh vật chất và khả năng mở mang dân chủ, dân quyền của văn chương:
“Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cầm quyền trông gió cũng gai ghê. Một
ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm sáng chói”. Và
trong bài “Quan niệm của tôi đối với văn chương”, Phan Bội Châu cũng nêu
rõ: “Văn chương rất có quan hệ với đường đời, đời mà thịnh thì thường có
văn chương hay, mà có văn chương hay thì đường đời mới thịnh. Nếu trái thế
thì văn chương dở mà đường đời suy, thì văn chương càng dở. Văn chương
ảnh hưởng xa lớn đến như thế, bảo văn chương là một giống không giá trị có
lẽ nào?” [16,tr.232].
Còn xét về công dụng, mục đích của văn học ; Nguyễn Ái Quốc, trong
bài báo “Trả lời ông H” (9-4-1925) có đặt vấn đề về văn chương rất cụ thể:
174
“Một lối hành văn giản dị, chính xác hơn hẳn các lối hành văn rườm rà và hoa
mỹ. Một tác phẩm hành văn hay mà khó hiểu thì chẳng có ích gì. Ví như bảo
đồng bào chúng ta hãy lắng nghe người Pháp hay người Trung Quốc hát dù
cho những nhạc sĩ ấy là những nghệ sĩ tuyệt vời đi nữa thì họ cũng không lôi
cuốn được đồng bào ta”. Vậy ở đây, Nguyễn Ái Quốc đã sớm có quan niệm
về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức và điều quan trọng là nội dung và
hình thức ấy phải phù hợp với quần chúng nhân dân trong từng hoàn cảnh của
cách mạng, của đất nước. Cũng trong thời kỳ này, bên cạnh truyện và ký,
Nguyễn Ái Quốc còn thể hiện tinh thần chống đế quốc, thực dân, thể hiện
quan niệm văn chương trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, trong
tác phẩm Đường Kách mệnh (1927). Người viết: “Văn chương và hy vọng,
sách này chỉ trong hai chữ: Kách mệnh! Kách mệnh! Kách mệnh!”
[118,tr.181]. Vậy, trước sau, trong sáng tác và nghiên cứu văn học, Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đều xem văn học là vũ khí đấu tranh cách mạng trong
mọi thời đại.
Qua đó, ta nhận ra rằng, từ nhà Nho đến nhà cách mạng, họ đều xem
chức năng, tác dụng và sứ mệnh của văn chương là vì dân sinh, dân chủ và
dân quyền trong từng thời đoạn của lịch sử, tức là văn chương có ích, văn
chương có tinh thần cách mạng, là vũ khí tư tưởng sắc bén cho công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, phục vụ cho giai cấp tiên tiến trong xã hội. Nghĩa là,
nhà nghiên cứu, phê bình phải là người chiến sĩ tham gia vào mặt trận đấu
tranh đó. Chính vì quan niệm văn chương như thế nên trong hoạt động nghiên
cứu văn học tất sẽ ra đời một phương pháp nghiên cứu mới: nghiên cứu để
thấy giá trị của tác phẩm văn chương luôn gắn liền với hiện thực của cuộc
sống, hiện thực cách mạng.
Như vậy, phương pháp xã hội học mác-xít đòi hỏi cao tính nguyên tắc
và sự nhất quán về lập trường, quan điểm. Hải Triều là người tiên phong đề
175
cao các tác phẩm tả thực, mà ở đó hoàn cảnh xã hội và con người hiện ra rõ
nhất, từ chung đến riêng, từ mâu thuẫn đến triển vọng như trong các tác phẩm
Lầm than (Lan Khai), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan)….
Thành tựu của khuynh hướng nghiên cứu, phê bình văn học này là các
tác phẩm đã xem sự phát triển của văn học mác-xít là một bộ phận của văn
học cách mạng, tạo thành những mô hình lý luận để liên hệ, vận dụng vào
nghiên cứu, phê bình những tác phẩm, tác giả cụ thể. Dĩ nhiên là mỗi nhà
nghiên cứu có quan niệm riêng của mình, nhưng điểm thống nhất của họ là tất
cả đều chú ý đến mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, để tạo thành “cái
nhìn thế giới”, hệ thống hóa các mối quan hệ giữa con người với con người,
con người với tự nhiên. Tiêu biểu cho xu hướng này, ngoài Hải Triều, còn có
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình tiến bộ khác cùng chiến tuyến như: Đặng Thai
Mai, Phan Văn Hùm, Hải Thanh, Hải Khách ….
Hải Triều - chiến sĩ cách mạng nhiệt huyết nhất trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác và nền văn nghệ cách mạng qua các cuộc tranh luận về Duy tâm
hay duy vật, Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh với Phan
Khôi, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Thiếu Sơn…. Hải Triều
viết: “Một công trình văn nghệ hay mỹ thuật càng diễn đạt được rõ ràng cái
tính cách xã hội thì lại càng có giá trị. Nói một cách khác, nếu một tác phẩm
mà có thể biểu hiện được cái tình cảm tư tưởng phổ biến của số đông người
trong một thời đại (cái số đông người đã biết thưởng thức nghệ thuật) thì các
công trình đó sẽ được hoan nghênh”. “Cái nghệ thuật trong xã hội này chỉ
tương đối và hữu hạn thôi, tác phẩm với giai cấp này, thời đại này, xứ sở này
thì dù cho là có giá trị, mà đối với giai cấp khác, thời đại khác, xứ sở khác thì
chả ra gì” [193,tr.315].
Có thể xem đây là những quan niệm sáng rõ đầu tiên về lý luận văn học
mác-xít mà Hải Triều đề xuất, dù nó có chỗ này, chỗ khác chưa đầy đủ, toàn
176
diện như về sau. Như vậy là từ buổi sơ khai của hoạt động phê bình, nghiên
cứu văn học đầu thế kỷ XX, với các tác phẩm như Văn minh tân học sách của
Đông Kinh nghĩa thục (1904) và hàng loạt các ý kiến từ Võ Liêm Sơn, Tản
Đà, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu... rồi kế đến Hải Triều, Hải Thanh, Hải
Khách … ; khuynh hướng nghiên cứu đã có sự phát triển từ xã hội học cổ
điển đến xã hội học mác-xít, làm nên những thành tựu không thể phủ nhận.
Đến khi Văn học khái luận của Đặng Thai Mai ra đời (1944) và gặt hái được
những thành công mới, ta thấy sự vận động của tư duy lý luận văn học hiện
đại ở Việt Nam luôn là nỗ lực của nhiều người trong việc tiếp nhận cái mới
tiên tiến, cách mạng của phương Tây để đáp ứng nhu cầu giải phóng dân tộc,
canh tân đất nước cùng nhu cầu định hướng và phát triển của văn học.
Giai đoạn từ 1930 đến 1945 đánh dấu bằng các cuộc tranh luận về văn
học trên nhiếu báo và tạp chí đương thời, đặc biệt là cuộc tranh luận Nghệ
thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh (1935 -1939). Cuộc tranh luận
đã thu hút nhiều người tham gia gồm một bên là Hải Triều, Hải Thanh, Hải
Vân, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng, Lâm Mộng Quang đại diện cho phái “vị
nhân sinh” và bên kia là Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng
Kiều, Thiều Quang đại diện cho phái “vị nghệ thuật”.
Hải Triều cho rằng nghệ thuật là sản vật của sự sinh hoạt xã hội, cái
nguyên nhân của nghệ thuật là ở trong xã hội mà cái cứu cánh của nó cũng là
ở trong xã hội. Tức Hải Triều quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh” mới là
nghệ thuật tiến bộ. Ông phê phán quan niệm của Thiếu Sơn và cho đó là thứ
nghệ thuật vị nghệ thuật, không chú ý gì đến đời sống nhân sinh, đó là kiểu
nghệ thuật thuần túy (L’art pur), nghệ thuật thần tiên (L’art Olympien), nghệ
thuật vị nghệ thuật (L’art pour L’art). Với Hải Triều, và với những nhà duy
vật “bao giờ cũng chủ trương nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt
xã hội” (L’art est un produit de la vie sociale). Vậy nên “Ai lấy nghệ thuật
177
làm món chơi riêng, lấy nghệ thuật làm nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm bùa mê
người, đều là vô tâm hay hữu ý đã nối giáo cho những cái lực lượng phản tiến
hóa”.
Qua tranh luận, những vấn đề quan trọng như chức năng phản ánh của
văn học; bản chất, đặc trưng và qui luật của văn học; tính giai cấp, tính dân
tộc trong văn học; mối quan hệ giữa phản ánh và tiếp nhận; trách nhiệm công
dân của người nghệ sĩ và vấn đề tự do trong sáng tác v.v.… được bàn luận
rộng rãi, sôi nổi với nhiều ý kiến trái chiều, giúp ta hiểu rõ hơn những vấn đề
cốt tử của văn học. Quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh” của Hải Triều cơ bản
là đúng và có cơ sở xã hội, tư tưởng nghệ thuật chắc chắn, “song nó cũng phải
được hiểu một cách mềm dẻo chứ không phải chỉ là sự phản ánh một cách thổ
thiển, máy móc”. Chính quan niệm này của Hải Triều đã thực sự tạo ra cú
hích bản chất và là viên gạch đầu tiên để xây dựng nền văn nghệ, trong đó có
phê bình, nghiên cứu theo phạm trù cách mạng, mác- xít. Các bài “Cụ Sào
Nam giải thích chữ văn học như thế là sai lắm”, “Vấn đề dân sinh”, “Sự tiến
hóa của văn học và sự tiến hóa của nhân sinh”, “Ông Phan Khôi là một học
giả duy tâm” … của Hải Triều có tiếng vang lớn lúc bấy giờ. Từ đó, đời sống
văn học Việt Nam thực sự hiện diện phương pháp, tư tưởng mác-xít trong
nghiên cứu văn học.
Hàng loạt bài viết trên Hà Nội báo năm 1936 về Nhà văn bình dân, các
bài viết của Phan Văn Hùm, Hải Thanh, Sơn Trà, Hồ Xanh, Cao Văn Chánh,
Khương Hữu Tài, Hải Triều … đã làm cho không khí học thuật tranh luận trở
nên sôi động.
Cũng nên nhớ rằng, lúc này, đời sống xã hội Việt Nam có những biến
động lớn về chính trị và cách mạng, điều này đã tác động không nhỏ đến sáng
tác và nghiên cứu văn học. Sự ra đời của Đề cương văn hóa Việt Nam của
Đảng năm 1943 là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
178
phương pháp xã hội học mác-xít. Đây là cương lĩnh đầu tiên của Đảng trên
mặt trận văn hóa. Đề cương đã vạch ra đường lối cách mạng văn hóa của
Đảng ngay trong thời kỳ cam go nhất của cách mạng dân tộc. Quán triệt quan
điểm coi văn hóa là một trong ba mặt trận hàng đầu, Đề cương xác định mục
tiêu xây dựng lại nền văn hóa dân tộc, chống lại nguy cơ bị nô dịch bởi văn
hóa phát - xít bằng các hoạt động đấu tranh trên ba phương diện: học thuyết -
tư tưởng, khuynh hướng văn nghệ và ngôn ngữ với phương châm dân tộc, đại
chúng và khoa học. Sang năm 1944, Trường Chinh viết bài Mấy nguyên tắc
lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam mới lúc này tiếp tục làm rõ phương
hướng lãnh đạo của Đảng bằng những chứng cứ thực tế về “ba căn bệnh” văn
hóa của nước ta lúc bấy giờ là phản dân tộc, phản khoa học và phản đại
chúng. Ông cũng nhấn mạnh nhiệm vụ cần kíp của các chiến sĩ văn hóa lúc
này là “đấu tranh trên tất cả các mặt trận văn học, ngôn ngữ, phong tục, tín
ngưỡng... ” và xác định đây là mặt trận “không thể xa lìa được của cuộc vận
động cách mạng dân tộc giải phóng của dân tộc ta lúc này”. Có thể nói, Đề
cương văn hóa Việt Nam đã khẳng định một nguyên lý mác-xít rằng: văn hóa
thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo của
đảng vô sản đối với cách mạng văn hóa. Bài viết Mấy nguyên tắc lớn của
cuộc vận động văn hóa Việt Nam mới lúc này của Trường Chinh đã cho thấy
mối quan tâm sâu sắc của Đảng đối với công tác văn hóa, văn nghệ, làm cho
đời sống nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu mác-xít nói riêng trở nên
sôi động, có chiều sâu và gặt hái được những thành tựu vững chắc.
Như vậy, có thể thấy, các nhà nghiên cứu phái “nghệ thuật vị nhân sinh”
với quan điểm duy vật, lập trường vô sản, cách mạng đã chủ động đấu tranh
và qua đó, đề xuất những quan điểm cơ bản của mình về lý luận văn học mác-
xít. Dù có một số cực đoan khi quá đề cao quan hệ văn học và đời sống, văn
học phục vụ chính trị mà chưa chú ý đúng mức tới đặc trưng thẩm mỹ của văn
179
chương, nhưng dù sao, sự lên tiếng mạnh mẽ của phái “nghệ thuật vị nhân
sinh” là hợp với tình hình, bối cảnh lịch sử xã hội và yêu cầu của văn chương
cũng như những qui luật nội tại riêng của tư duy lý luận và trình độ lý luận và
sáng tác văn học lúc bấy giờ.
Ở đây, cần xác định đóng góp của Đặng Thai Mai - người cùng với Hải
Triều và các đồng nghiệp khác đã xác lập nhận thức mới, quan niệm mới, cho
nghiên cứu văn học, dù trong hoàn cảnh bấy giờ, họ chưa thật sự thấy hết
“linh hồn của phương pháp phê bình mác-xít là nguyên tắc mỹ học và nguyên
tắc lịch sử - những nguyên tắc mà Marx và Engels thường nhắc đến lúc sinh
thời [39,tr.705].
Công trình nổi tiếng và có ảnh hưởng sâu rộng trong giới học thuật của
Đặng Thai Mai là Văn học khái luận (1944), sau các bài viết của ông công bố
trên báo Tri Tân và Thanh Nghị với bút danh Thanh Tuyền. Với Văn học khái
luận, lần đầu tiên những vấn đề về nguyên lý văn học theo quan niệm mác-xít
được xác lập một cách hệ thống. Tính khuynh hướng và khoa học được thể
hiện rõ qua các nội dung: văn học là một hình thái ý thức xã hội. Đặng Thai
Mai là người suy ngẫm và tiếp thu vấn đề một cách biện chứng, khoa học
(điều này khác hơn so với sự nồng nhiệt thái quá của Trương Tửu - Nguyễn
Bách Khoa). Ông phân tích chân xác mối quan hệ giữa chính trị và văn học,
nguyên tắc phân vùng văn học sử và ông khẳng định “một nền văn nghệ sung
túc, mỹ lệ bao giờ cũng phát triển trên một cơ sở lý luận vững chãi”. Ông cho
rằng “Trong giai đoạn ngày nay, phương pháp sáng tác cần phải đem nghệ
thuật xã hội hiện thực chủ nghĩa mà đánh đổ văn học duy tâm và nghệ thuật
lãng mạn, và một mặt nữa phải đánh đổ những tư tưởng đã nhận xét xã hội
một cách quá đơn giản theo quan điểm cơ giới” [105,tr.144]. Vì vậy mà ông
cũng đề cao quan niệm về nhân cách, về lý tưởng, về khả năng tưởng tượng
của nhà văn để khái quát nghệ thuật trên cơ sở hiểu sâu sắc mối quan hệ giữa
180
nội dung và hình thức của tác phẩm, giữa điển hình và cá tính sáng tạo, giữa
tính dân tộc, tính quốc tế và vấn đề tự do sáng tạo trong văn nghệ. Và điều tối
cao hơn cả là nhà văn phải hành động như một nhân cách công dân, nhân cách
nghệ sĩ, nhận rõ mối quan hệ của mình với đoàn thể, cộng đồng. Sự uyển
chuyển và linh động trong quan niệm về văn chương của Đặng Thai Mai đã
làm cho lý luận văn học không rơi vào xơ cứng, giáo điều.
Tinh thần biện chứng trong tư duy lý luận của Đặng Thai Mai đã làm
cho những vấn đề trọng tâm, bản chất của văn học được thể hiện rõ và có tính
mở, vận động chứ không khép kín, bất biến. Đặng Thai Mai và các nhà
nghiên cứu khác cùng với Hải Triều xứng đáng là những nhà nghiên cứu tiêu
biểu theo quan điểm mác-xít không chỉ cho giai đoạn này mà còn mở ra
những bước phát triển mới cho sáng tác và nghiên cứu các giai đoạn về sau.
Có thể nói, từ Hải Triều đến Đặng Thai Mai, phương pháp xã hội học
mác-xít đã mang về những thành tựu mới đáng ghi nhận trong quá trình hiện
đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Tuy
nhiên do quá đề cao yếu tố hiện thực cuộc sống nên các công trình của phái
“nghệ thuật vị nhân sinh” trong đó có cả Hải Triều và Đặng Thai Mai đôi lúc
còn coi nhẹ tính nghệ thuật của tác phẩm văn học. Từ những bước khởi đầu
này, ở nửa sau thế kỷ XX, phương pháp xã hội học mác-xít đã thực sự trở
thành phương pháp chủ công trong hoạt động nghiên cứu văn học nước nhà.
Tóm lại, chính sự xuất hiện nhiều phương pháp nghiên cứu mới đã khiến
cho diện mạo hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã
hoàn toàn khác xa với lối phẩm bình thời trung đại, bởi khi đã sử dụng
phương pháp, nhà nghiên cứu đã nghiên cứu rất kỹ lý thuyết của phương pháp
mà mình vận dụng, đồng thời đưa ra được những luận điểm mang tính hệ
thống để mổ xẻ tác giả, tác phẩm. Tất nhiên, không phải tất cả các phương
pháp được áp dụng trên đây đến giai đoạn này mới có. Phương pháp so sánh
181
hay phương pháp trực giác cũng đã xuất hiện trong nghiên cứu văn học thời
trung đại, nhưng cái vượt hơn của các nhà nghiên cứu nửa đầu thế kỷ XX so
với văn học trung đại chính là đưa ra được những giới thuyết về các phương
pháp để từ đó vận dụng vào trong từng công trình cụ thể một cách có hệ thống
trên những luận điểm khoa học. Sự ra đời của các phương pháp xã hội học, xã
hội học mác-xít, phương pháp tiểu sử qua từng chặng đường phát triển của
các công trình nghiên cứu ở chặng đầu và chặng sau đã phản ánh rất rõ tiến
trình từng bước đi lên của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn
học giai đoạn này. Từ những công trình còn sơ khởi, vụng về trong việc vận
dụng các phương pháp ở những thập niên đầu thế kỷ, các công trình ở chặng
sau (1930-1945) đã được các nhà nghiên cứu vận dụng một cách hoàn thiện
hơn và mang lại hiệu quả đích thực hơn. Ngay trong bản thân từng tác giả, khi
áp dụng một phương pháp hoặc bước tiến của từng phương pháp cũng thể
hiện sự tiến bộ rõ nét giữa công trình sau so với công trình trước (như trường
hợp của Trần Thanh Mại vận dụng phương pháp tiểu sử trong Trông giòng
sông Vị và Hàn Mặc Tử), giữa người sau với người trước (như từ Hải Triều
đến Đặng Thai Mai của phương pháp xã hội học mác-xít)… Và tất nhiên cũng
không loại trừ cả trường hợp phát triển một cách dích dắc, thụt lùi của nhà
nghiên cứu bởi tính chủ quan áp đặt muốn đẩy đến tận cùng một cách phiến
diện trong việc áp dụng một phương pháp (như trường hợp của Nguyễn Bách
Khoa trong vận dụng phương pháp phân tâm học của Freud)…
Dù còn mặt này mặt khác, bên cạnh những thành tựu lớn vẫn không
tránh khỏi những hạn chế trong quá trình vận dụng các phương pháp nghiên
cứu mới, nhưng nhìn chung, sự hiện diện nhiều phương pháp nghiên cứu mới
mẻ thể hiện qua các công trình tiêu biểu của các tác giả tiêu biểu, thực sự đã
góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.
182
Nhìn một cách tổng thể, ta có thể khái quát quá trình hiện đại hóa văn
học nửa đầu thế kỷ XX qua từng bước phát triển như sau: Trước thế kỷ XX,
nghiên cứu văn học Việt Nam hầu như chỉ là những phẩm bình mang tính tri
âm, tri kỷ (ảnh hưởng của lối bình phẩm của văn học Trung Hoa), chứ chưa
thật sự mang tính phương pháp (với tư cách là một phương pháp khoa học
khách quan). Từ đầu thế kỷ XX đến 1930 đã xuất hiện phương pháp nghiên
cứu trực giác cùng với những dấu ấn đầu tiên của tri thức lý luận phương Tây.
Từ 1930 đến 1945 đã xuất hiện hàng loạt phương pháp qua nhiều công trình
tiêu biểu, khiến hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn này đạt
được những thành quả quan trọng chưa từng có trước đó.
3.2. Ngọn nguồn của những đổi mới
Đồng hành cùng với sự phát triển của văn học, hoạt động nghiên cứu
văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX cũng nhanh chóng hiện đại hóa. Tuy
không rầm rộ như hoạt động sáng tác, nhưng hoạt động nghiên cứu văn học
đã để lại những công trình mà cho đến hôm nay đọc lại ta thấy vẫn còn giá trị.
Phong Lê trong bài “Nhà giáo Dương Quảng Hàm và giá trị bộ sách giáo
khoa Việt Nam văn học sử yếu”, đã viết:
Có một điều tôi muốn xem là “nghịch lý” - đặt trong dấu ngoặc kép -
đã diễn ra vào đầu những năm 40 là những năm chuyển sang thời kỳ
tiền khởi nghĩa, với không khí cực kỳ căng thẳng của thời cuộc, lại là
những năm lần lượt các cuốn sách có quy mô bao quát và có chiều
sâu học thuật đã ra đời: Việt Nam văn hóa sử cương (1938) của Đào
Duy Anh, Việt Nam cổ văn học sử (1942) của Nguyễn Đổng Chi, Thi
nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân, Nhà văn hiện
đại (1942 - 1943) của Vũ Ngọc Phan, và Việt Nam văn học sử yếu
(1943) của Dương Quảng Hàm. (…). Những tác phẩm mà sau hơn
nửa thế kỷ nhìn lại, cho đến nay, qua thử thách của thời gian, thấy
183
vẫn còn không ít những điều bổ ích, ít nhất là giá trị một loại sách
công cụ, cung cấp nhiều tư liệu quý, không kể còn những giá trị khác
cho nhận thức, đánh giá [82,tr.26-27].
Ngoài những bộ sách vừa kể, trong giai đoạn này, ta còn bắt gặp hàng loạt
những bài viết, những công trình nghiên cứu văn học đã để lại những dấu ấn
nhất định như chúng tôi đã trình bày. Vì vậy, sau khi tìm hiểu để ghi nhận
những giá trị đạt được của các công trình nghiên cứu trong quá trình hiện đại
hóa hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này, chúng tôi cũng nhận ra ngọn
nguồn dẫn đến những kết quả ấy, đó là: những yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại
nhập.
3.2.1. Những yếu tố nội sinh
Nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ cổ đại đến trung đại và ở cả
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa yêu
nước và nhân đạo là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển
của văn học Việt Nam. Trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, song hành cùng
với lịch sử dân tộc, văn học giai đoạn này đã kế thừa và phát huy triệt để
truyền thống yêu nước quý báu của nhân dân ta. Tuy vậy, ý thức về dân tộc
trong văn học thời này đã có những thay đổi căn bản so với thời trung đại khi
chuyển từ người thần dân sang người quốc dân; quan niệm nước không còn
gắn với vua nữa mà được gắn với dân “Dân là dân nước, nước là nước dân”
(Phan Bội Châu). Trong các sáng tác của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố
Hữu và những nhà thơ cách mạng vô sản khác thì chủ nghĩa yêu nước gắn
liền với lý tưởng xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản.
Trong hoạt động nghiên cứu văn học, dù mục đích chính của người
nghiên cứu không phải là bày tỏ lòng yêu nước nhưng ít nhiều trong tác phẩm
của họ, ta thấy đều có thể hiện nội dung yêu nước và tự hào dân tộc. Kinh Thi
Việt Nam - kho tàng văn học truyền miệng của nhân dân ta đã được Nguyễn
184
Bách Khoa tìm hiểu và khẳng định. Truyện Kiều của Nguyễn Du được nghiên
cứu cả bề rộng lẫn bề sâu. Nghiên cứu các giai đoạn văn học, nghiên cứu từ
văn học dân gian, văn học trung đại đến văn học hiện đại..., ta thấy tinh thần
yêu nước được thể hiện kín đáo trong hầu hết các công trình nghiên cứu văn
học giai đoạn này.
Trong Việt Hán văn khảo (1918), không phải ngẫu nhiên mà Phan Kế
Bính lại ra sức nhiệt thành biểu dương những chiến tích văn chương của cha
ông có nội dung yêu nước. Tên tuổi cùng sự nghiệp của Trần Hưng Đạo, Trần
Quang Khải, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... cùng nhiều danh nhân trong lịch sử
được nhắc đến như những niềm tin và hy vọng để khơi dậy truyền thống văn
hiến ngàn đời của tổ tiên. Đó phải chăng là mục đích của nhà biên khảo?
Tinh thần dân tộc cũng được thể hiện sâu sắc trong những bài “cảo luận”
của Thiếu Sơn khi bàn về “quốc học”, “báo chí”. Việc nhà nghiên cứu khẳng
định chắc chắn: nước ta có nền quốc học, hay khẳng định vai trò của quốc học
đối với đất nước: “Càng bàn đến quốc học ta càng rõ cái giá trị của quốc văn,
mà càng nghĩ đến quốc học ta càng thấy nó có mối quan hệ đến sự tồn vong
của tổ quốc”; dẫn chứng việc báo chí sôi động về sự kiện Phan Bội Châu
(1925-1926), và cho rằng: “Đây chính là dịp cho văn chương chan chứa tư
tưởng quốc gia, tràn đầy chủ nghĩa cách mạng”; trích lại lời hô hào của Phan
Khôi: “Không có văn Nam Kỳ, không có văn Bắc Kỳ, chỉ có văn Việt Nam”
để thể hiện quan điểm: “Bắc Nam cùng chung một lý tưởng thân thiết, cùng
chung một nguyện vọng cao xa. Đó là tư tưởng quốc gia”; và khẳng định: chữ
quốc ngữ thắng chữ Tây, như trước kia chữ Nôm được cha ông ta thay thế
chữ Tàu… phải chăng đó là những lời khẳng định đầy tự hào, thể hiện lòng
yêu nước, tinh thần dân tộc sâu sắc khi bàn về giá trị văn hóa, văn học dân tộc
của nhà nghiên cứu Thiếu Sơn trong tác phẩm Phê bình và cảo luận.
185
Năm 1942, Việt Nam cổ văn học sử ra mắt độc giả, lúc này có rất nhiều
bài phê bình, giới thiệu. Bên cạnh việc đánh giá những giá trị đạt được về mặt
nội dung và phương pháp nghiên cứu, một trong những vấn đề mà các nhà
phê bình quan tâm đó là giá trị tư tưởng của tác phẩm. Trên báo Tin mới, tác
giả Thượng Sĩ cho rằng: Việt Nam cổ văn học sử “là một công việc đáng nên
khuyến khích và một điều đáng mừng cho học giới nước nhà”, vì:
…trong gần năm trăm trang giấy tác giả đã dẫn độc giả đi từ “Gốc
gác người Việt Nam”, “Cội rễ tiếng Nam”… qua mười bốn thế kỷ,
đến sự thành lập một nền văn học quốc gia rất vững vàng, tuy chưa
lấy gì làm chói lọi như ý chúng ta muốn, song cũng đủ để chúng ta
tự hào rằng giống nòi ta cũng có một tâm hồn, và tâm hồn ấy vẫn
luôn luôn được săn sóc, được vun xới, được phát hiện thành văn
chương. Do đó mà ta có lòng tin ở sức sống của đất nước. Do đó mà
ta có lòng tin ở tương lai tốt đẹp của tổ quốc [129,tr.133].
Nguyễn Chung Anh trong bài: “Nguyễn Đổng Chi - Nhà văn, nhà khoa học”
thì khẳng định: “Việc tác giả lần đầu tiên đưa dòng văn học chữ Hán của cha
ông vào văn học sử, hơn nữa lại dám khẳng định tinh thần “quyết đánh” của
Hội nghị Diên Hồng “là nét đặc trưng bản chất nhất, chi phối sự phát triển lâu
dài của văn học Việt Nam. Đánh có nghĩa là tiến bộ và tiến bộ mãi mãi..; lịch
sử tư tưởng, lịch sử văn học Việt Nam trước, nay và sau có thể tóm tắt trong
một chữ ấy vậy”..., trong điều kiện hết sức o ép và nghẹt thở của chế độ thực
dân phát xít lúc ấy, đã làm cho không ít người bỡ ngỡ, lạ lùng” [129,tr.116].
Tác giả bài viết này cũng dẫn chứng lời kể của nhà sử học Văn Tân: “Cuốn
sách của Nguyễn Đổng Chi xuất bản đã chiếm được cảm tình của ông (Văn
Tân - DTT) và các đồng chí vì nó xác định rõ, dân tộc ta vừa có truyền thống
quật cường lại vừa có truyền thống văn hóa tinh thần đáng quý trọng”
186
[129,tr.116], để một lần nữa khẳng định tinh thần dân tộc trong Việt Nam cổ
văn học sử của Nguyễn Đổng Chi.
Một trong những giá trị góp phần vào thành công của Thi nhân Việt Nam
là sự khẳng định tinh hoa của truyền thống thơ ca dân tộc trong quá trình giao
lưu và hội nhập với văn học thế giới. Trong Thi nhân Việt Nam, mặc dù say
sưa ủng hộ những cách tân của Thơ Mới, nhưng Hoài Thanh luôn trân trọng
những tinh hoa của nền thơ ca truyền thống, thể hiện ở việc ông sắp xếp Tản
Đà vào đầu tập sách với tư cách là người kết thúc cho nền thơ cũ, người
chuyển tiếp, mở đường cho nền Thơ Mới với những lời lẽ trân trọng đặc biệt.
Ông chỉ rõ sự cách tân của Thơ Mới không phải là một sự nổi loạn của người
trẻ hôm nay, mà đó chỉ là sự mở rộng, sự phát triển, một sự sáng tạo mới, trên
nền tảng thơ ca truyền thống của dân tộc, và tinh hoa của thơ ca thế giới. Vì
vậy, ông khẳng định: các nhà Thơ Mới Việt Nam, kể cả các nhà thơ mới nhất,
hiện đại nhất như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hàn Mặc Tử… xét
cho cùng vẫn là những nhà thơ Việt Nam thực sự yêu quê hương, yêu cuộc
sống, yêu tiếng Việt và yêu hồn dân tộc.
Trong bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”, cùng với việc phát hiện
cái cô đơn, cái buồn - sầu của Thơ Mới mà Hoài Thanh không tránh gọi nó là
bi kịch, tác giả Thi nhân Việt Nam cũng cho rằng điều an ủi là bi kịch ấy của
cả một thế hệ đã được “gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong
mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương
trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn
những thế hệ qua”. Nói như nhà nghiên cứu Phong Lê: “Nếu hiểu tình yêu
tiếng nói dân tộc cũng là một biểu hiện của tình yêu nước trong hoàn cảnh
mất nước, ta sẽ có thêm sự cảm thông và trân trọng những người làm thơ
trong một phong trào thơ đã đưa tiếng Việt lên tầm một ngôn ngữ vừa có sức
biểu đạt mọi trạng huống linh diệu và phong phú của con người, vừa vượt
187
được cha ông mà cập được bến bờ thời đại” [170,tr.21], thì rõ ràng ta sẽ càng
thêm yêu quí và trân trọng lòng yêu nước thầm kín của tác giả Thi nhân Việt
Nam gửi gấm trong tác phẩm của mình. Và Thi nhân Việt Nam, ngay tựa đề
của tác phẩm, chính là sự khẳng định đầy tự hào của tác giả về chỗ đứng độc
lập của đất nước “Việt Nam”, văn hóa “Việt Nam”.
Còn với Vũ Ngọc Phan, niềm thiết tha và sự đánh giá cao các giá trị văn
hóa và di sản văn hóa, tinh thần của dân tộc đã được ông khẳng định trong
phần kết luận của bộ sách Nhà văn hiện đại: “Sự tiến hóa rất mau chóng và
vững vàng ấy trong khoảng ba mươi năm, làm cho người thức giả vui mừng
và tin cậy ở tương lai. Văn chương tuy không bổ ích trực tiếp cho người đời
như cơm gạo, nhưng nó chính là hồn của một dân tộc biết suy nghĩ, biết nhận
xét và luôn luôn có cái hy vọng chen vai thích cánh với những dân tộc hùng
cường trên thế giới. Một dân tộc không biết trọng văn chương của mình chỉ
có thể là một dân tộc man di hay sắp đến ngày diệt vong” [132,tr.1173]. Hoặc
ông cho rằng văn học Việt Nam hiện đại “đã tiến hóa rất đều và đều là những
văn phẩm có tính chất Việt Nam, có cái xu hướng về dân tộc hóa”. Ngoài ra,
ta còn thấy không ít những nhận xét của Vũ Ngọc Phan luôn là sự khẳng định
những giá trị văn hóa của Việt Nam như: “có tính chất Việt Nam đặc biệt”,
“tính cách đặc Việt Nam”; “nhiều đoạn không hợp với khung cảnh Việt
Nam”, “hành vi lạ lùng quá đối với người Việt Nam”, “không đúng sự thực
cho lắm khi người ta xét rõ tâm tính dân tộc Đông Phương”…
Dương Quảng Hàm, giáo sư giảng dạy ngay ở Trường Bưởi, một trong
những trung tâm giáo dục thời thực dân Pháp, nhưng trong Việt Nam văn học
sử yếu, ông cũng đã kín đáo bày tỏ tấm lòng ái quốc sâu xa của mình. Trong
phần Biên tập đại ý tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu, tác giả viết: “Do hiện
nay không có quyển sách nào chép về lịch sử văn học nước nhà ta, không nói
gì những sách tham khảo tinh tường cho các học giả dùng, ngay đến những
188
sách tóm tắt những điều đại cương cho học sinh dùng cũng không có”; vì vậy
mà “chúng tôi lấy tài sơ học thiển soạn ra quyển Việt Nam văn học sử yếu
này, cũng tự biết là làm một việc quá bạo và chắc rằng tác phẩm của chúng tôi
còn nhiều điều thiếu thốn”. Việc làm của Dương Quảng Hàm không chỉ do
lương tâm, trách nhiệm của người thầy, mà còn do lòng yêu tha thiết văn học,
văn hóa dân tộc, yêu tiếng mẹ đẻ, được soi chiếu từ tinh thần yêu nước, yêu
dân tộc. Và cũng ở phần mở đầu này, tác giả đã láy đi láy lại rất nhiều lần các
cụm từ: “lịch sử nước ta”, “văn học sử nước ta”, “những tác phẩm của ta”,
“văn tịch nước ta”, “sử sách của ta”… Hai tiếng: “nước ta - của ta” như một
lời khẳng định, một lời kêu gọi giản dị, từ tốn vang lên thiết tha từ trái tim của
một nhà giáo chân chính làm thức tỉnh ý thức dân tộc trong trái tim thế hệ trẻ
đương thời.
Bao quát toàn bộ nội dung hoặc đi vào từng phần trong tác phẩm Việt
Nam văn học sử yếu, ta thấy Dương Quảng Hàm đã thể hiện sâu sắc tinh thần
dân tộc trong từng trang viết. Trong không khí văn hóa Pháp thống trị, văn
hóa Trung Quốc vẫn còn được tôn sùng, chương đầu Việt Nam văn học sử yếu
dành cho “văn chương bình dân” đã thể hiện lòng tin vững chắc của tác giả
vào truyền thống dân tộc. Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước
trong thơ văn Lý Trần, hướng về các giá trị đạo lý và văn chương trong các
thế kỷ sau, đều được tác giả gợi mở. Những biểu hiện của tình yêu dân tộc và
yêu tiếng nói dân tộc thể hiện qua các đặc trưng và thành tựu của cả quá trình
văn học Việt Nam đều được tác giả đề cập rất nhiều trong Việt Nam văn học
sử yếu, chẳng hạn: bàn về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, nhìn nhận
về các chặng đường văn hóa của nước nhà… Đặc biệt, trong lời dự báo về
tương lai của một nền quốc văn mới, Dương Quảng Hàm đã một lần nữa
khẳng định lập trường tư tưởng, khẳng định niềm tin vào tương lai văn học
Việt Nam:
189
Dân tộc ta là một dân tộc có sức sinh tồn rất mạnh, trải mấy thế kỷ nội
thuộc nước Tàu mà không hề bị đồng hóa lại nhờ cái văn hóa của
người Tàu để tổ chức thành một xã hội có trật tự, gây dựng nên một
nền văn học tuy không được phong phú, rực rỡ nhưng cũng có chỗ khả
quan, có phần đặc sắc, thì chắc rằng sau này dân tộc ta cũng sẽ biết
tìm lấy trong nền văn học của nước Pháp những điều sở trường để bổ
sung những chỗ thiếu thốn của mình, thứ nhất là biết mượn các
phương pháp khoa học của Tây phương mà nghiên cứu các vấn đề có
liên lạc đến nền văn hóa của nước mình, đến cuộc sinh hoạt của dân
mình, thâu thái lấy cái tinh hoa của nền văn minh nước Pháp mà làm
cái tinh thần của dân tộc được mạnh lên để gây lấy một nền văn học
vừa hợp với cái hoàn cảnh hiện thời, vừa giữ được cốt cách cổ truyền
[46,tr.453].
Và Dương Quảng Hàm xác nhận đó là nhiệm vụ chung của các học giả, văn
gia nước ta ngày nay để xây dựng thành công nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, đọc các tác phẩm nghiên cứu giai đoạn này, ta thấy, dù các tác
giả không trực tiếp bày tỏ quan điểm tư tưởng của mình như phương pháp
nghiên cứu, nhưng ẩn đằng sau những con chữ, đối tượng được nghiên cứu
chính là tâm sự yêu nước, là niềm tự hào về lịch sử 4000 năm văn hiến dân
tộc của các học giả đang sống trong chế độ thực dân kìm kẹp đương thời.
Điều này cho phép ta có thể khẳng định, chính ý thức dân tộc, lòng yêu nước
là nguồn năng lượng tiềm tàng, là một trong những nguyên nhân thành công
của các tác phẩm nghiên cứu văn học trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, một nguyên nhân khác cũng góp phần không nhỏ vào sự
thành công của văn học Việt Nam nói chung và hoạt động nghiên cứu văn học
nói riêng chính là việc tiếp thu có chọn lọc các yếu tố văn học nước ngoài.
190
3.2.2. Những yếu tố ngoại nhập
Trước khi tiếp xúc với văn hoá Pháp, văn hoá Việt Nam chủ yếu chịu
ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, văn hoá Ấn Độ, cùng các tôn giáo và hệ
tư tưởng như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo. Từ cuối thế kỷ XVI, khi các
nhà buôn, các nhà truyền đạo Thiên Chúa phương Tây lui tới nước ta để buôn
bán hàng hoá và truyền đạo, thì Việt Nam bắt đầu làm quen với văn hoá
phương Tây. Tuy nhiên, phải đợi đến đầu thế kỷ XX, khi cơ sở kinh tế, cơ cấu
xã hội Việt Nam thay đổi đã làm nảy sinh những khả năng và nhu cầu tinh
thần mới thì văn hoá phương Tây mới thực sự có ảnh hưởng mạnh đến các
lĩnh vực hoạt động của đời sống tinh thần Việt Nam.
Ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đối với văn học Việt Nam thể hiện
sớm nhất và rõ nét nhất là vào lĩnh vực sáng tác văn học. Trong văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XX, có hai thành tựu văn học quan trọng thể hiện sự ảnh
hưởng sâu sắc của văn học phương Tây, đó là văn xuôi lãng mạn và phong
trào Thơ Mới. Với tuyên bố: “Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn
chương An Nam”, văn xuôi lãng mạn của nhóm Tự lực văn đoàn đã đưa vào
văn học Việt Nam những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa lãng mạn châu Âu
như: thái độ phản phong, ý thức đề cao tự do cá nhân…. Phong trào Thơ Mới
đã làm một cuộc cách mạng thoát ly khỏi những luật lệ khắt khe, tồn tại hàng
ngàn năm của luật thơ Đường, thể hiện trong khuynh hướng tư tưởng chủ đạo
lấy chủ nghĩa cá nhân tư sản, đối lập với lễ giáo phong kiến, làm cơ sở tư
tưởng. Các nhà thơ đại diện cho phong trào Thơ Mới như Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… ít nhiều đều chịu ảnh
hưởng của các nhà thơ phương Tây. Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã
nhận xét: “Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đều chịu rất nặng ảnh hưởng của
Baudelaire và, qua Baudelaire, (chịu) ảnh hưởng của nhà văn Mỹ Edgar Poe,
tác giả tập Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire,
191
Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại từ thơ Đường đến
Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo
Thiên Chúa” [167,tr.32-33 ]. Như vậy, có thể thấy rằng thơ ca phương Tây,
đặc biệt là thơ ca Pháp hiện đại đã ảnh hưởng rất lớn đến phong trào Thơ Mới
nói riêng và sự phát triển của thơ ca Việt Nam nói chung trong giai đoạn nửa
đầu thế kỷ XX.
Đối với lĩnh vực nghiên cứu văn học, trước khi tiếp xúc với văn hoá
phương Tây, nhiều bộ Tuyển tập văn học cũng đã được biên soạn công phu
như: Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên (thế kỷ XV), Tinh tuyển thi tập của
Dương Đức Nhan (thế kỷ XV), Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương (thế
kỷ XV), Toàn Việt thi lục của Lê Quí Đôn (1723 - 1783), Hoàng Việt thi
tuyển của Bùi Huy Ích (1744 - 1818). Qua khảo sát cách tuyển chọn thơ văn,
cách phân loại, sắp xếp các tác phẩm cùng nội dung các lời Tự, bài Bạt…
trong các tuyển tập, chúng ta có thể nhận thấy phần nào quan niệm văn học
của các nhà làm tuyển tập. Đó là, cái hay, cái đẹp của văn chương được cảm
nhận bằng năng khiếu bẩm sinh, bằng thị hiếu cá nhân, nói chung là lối cảm
nhận bằng trực giác cảm tính hơn là dựa trên cơ sở phân tích, vừa chi tiết vừa
toàn diện một tác phẩm, để đi đến những nhận định khái quát có tính lôgíc.
Nói tóm lại, nghiên cứu văn học ở thời điểm này chủ yếu phát triển ở mức
bình phẩm văn học chứ chưa đạt tới trình độ nghiên cứu văn học, chỉ mới làm
các Tuyển tập văn học mà chưa có những thử nghiệm về biên soạn lịch sử văn
học, nhằm khái quát quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Từ sau khi
tiếp xúc với văn hoá Pháp và văn hoá phương Tây, các tư tưởng học thuật tiên
tiến của nước ngoài đã được các nhà nghiên cứu nước ta vận dụng để áp dụng
vào việc nghiên cứu văn học trong nước và cả văn học nước ngoài.
Ở giai đoạn từ 1900 đến 1930, các nhà biên khảo, trước thuật thuộc thế
hệ đầu tiên, có vốn Hán học, lại hấp thụ được văn hóa Pháp từ Phan Kế Bính,
192
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Thước, Trần Trọng
Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Tố, … đã là lực lượng tiên phong tạo ra xu hướng
học thuật mới cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Tất cả các học giả nói
trên đã đem vào nền trước thuật nước nhà cái phương pháp phương Tây vốn
dĩ xa lạ với tư duy Đông phương. Đặc biệt, Phạm Quỳnh chính là người đầu
tiên khởi xướng áp dụng phương pháp mới của phương Tây vào nghiên cứu
tác phẩm Truyện Kiều và đã đạt được những thành tựu nhất định; trong đó nổi
bật nhất chính là việc ông phát hiện ra yếu tố tả thực trong văn chương Truyện
Kiều.
Sang giai đoạn từ năm 1930 đến 1945, đặc biệt là từ 1941 đến 1945,
hàng loạt các phương pháp nghiên cứu của phương Tây, chủ yếu là các trường
phái phê bình văn học Pháp đã được vận dụng vào việc nghiên cứu văn học
Việt Nam như: trường phái phê bình của Sainte Beuve, trường phái thực
chứng, trường phái ấn tượng, …
Các nhà nghiên cứu văn học trong giai đoạn trước năm 1945 đã đọc và
nghiên cứu nhiều sách văn chương Pháp, vì vậy trong hoạt động nghiên cứu
cũng đưa ra nhiều quan niệm nghiên cứu khác nhau. Quan niệm chống
khuynh hướng từ chương, đề cao học vấn thực dụng, phân biệt đối xử với các
thể loại khác nhau của Nguyễn Bá Học. Quan điểm nghệ thuật phải phục vụ
cho luân lý; nhà làm văn có trách nhiệm duy trì cho xã hội, dìu dắt cho quốc
dân của Phạm Quỳnh. Ông viết: “Nghệ thuật phải phục vụ cho luân lý, làm
văn mà không chú trọng đến luân lý, hay phi luân lý thì chẳng những không
có nghĩa lý gì mà còn làm cho dân tộc ta tiêu trầm”. Kế đến là quan niệm văn
chương phải lấy cái đẹp làm mục đích chính của Thiếu Sơn và Hoài Thanh.
Thiếu Sơn biện minh cho quan điểm nghệ thuật thuần túy, vô tư, không vụ
lợi, không đảng phái. Từ đó, ông đề cao loại văn chương sáng tạo hơn là văn
chương khảo cứu. Còn Hoài Thanh thì quan niệm “văn chương là văn
193
chương”, “Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật, tìm cái đẹp trong nghệ
thuật là phê bình”. Quan niệm nghiên cứu xem nghệ thuật là biểu hiện của
nhân sinh, “nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt xã hội”, “nghệ thuật
là một phương pháp để mà xã hội hoá tình cảm”… của Hải Triều.
Trên cơ sở những quan điểm nghệ thuật khác nhau, cùng với ảnh hưởng
của các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình văn học Pháp và Nga, hoạt động
nghiên cứu ở nước ta giai đoạn này đã xuất hiện nhiều khuynh hướng nghiên
cứu khác nhau như các khuynh hướng cổ điển, lãng mạn, thực chứng, trực
cảm, mác - xít, hoặc hỗn hợp nhiều khuynh hướng. Chẳng hạn, phương pháp
so sánh và lịch sử mà Gustave Lanson áp dụng vào công việc nghiên cứu các
tác phẩm văn học, đã có một ảnh hưởng nổi bật ở nước ta. Vũ Ngọc Phan,
Dương Quảng Hàm, Trương Tửu, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế… là những nhà
nghiên cứu đã áp dụng tương đối thành công phương pháp nghiên cứu của
Lanson vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Chẳng hạn, Dương Quảng
Hàm với Quốc văn trích diễm (1933), Việt Nam văn học sử yếu (1943)… đã
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc soạn sách văn học sử ở nước
ta trong tiến trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học. Dựa trên quan
niệm: “Nghiên cứu văn học hiện nay đòi hỏi sự uyên bác một số lượng nào đó
kiến thức chính xác, tích cực đều cần thiết để làm cơ sở và dẫn dắt những
nhận định. Không có gì chính đáng hơn là ứng dụng những phương pháp khoa
học để đạt được sự liên quan các ý kiến…” [125,tr.215], trong Việt Nam văn
học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã giới thiệu một nhà văn bằng cách đặt họ
vào một thời kỳ lịch sử, một giai đoạn văn học của dân tộc, xác định nhà văn
đó trong một trào lưu với những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật.
Ông tìm hiểu đời sống, sự nghiệp của mỗi nhà văn trên cơ sở những tài liệu
chính xác, chắc chắn có thực. Trong quá trình khảo cứu, nếu phát hiện những
tài liệu mới có điều gì cần đính chính, thì với tinh thần khoa học, ông đã cải
194
chính kịp thời. Tinh thần khoa học này cũng đã được áp dụng trong Việt Nam
cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan….
Còn Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1942) thì chịu ảnh hưởng của
phương pháp trực giác. Ở đây, Hoài Thanh không quan tâm việc giới thiệu
thân thế và sự nghiệp nhà văn mà chỉ ghi lại những cảm xúc, những ấn tượng
chủ quan của tác giả khi đọc tác phẩm. Lối nghiên cứu này in đậm dấu ấn chủ
thể của người viết: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường
tình cùng Lưu Trọng Lưu, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta
đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên
cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận” [167,tr.29].
Bên cạnh việc tiếp nhận ảnh hưởng của nghiên cứu văn học Pháp, hoạt
động nghiên cứu văn học nước ta giai đoạn này còn chịu nhiều luồng ảnh
hưởng từ các lý thuyết, phương pháp của văn học Nga - XôViết, Trung Quốc
và nhiều nước khác, đặc biệt là lý luận mỹ học, phê bình văn học của
M.Gorki, lý thuyết xã hội học - lịch sử của G.V. Plekhanov, phương pháp phê
bình văn học của V. Biêlinsky,... Trên cơ sở tiếp thu những lý thuyết, phương
pháp đó, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã vận dụng vào việc nghiên cứu văn
học dân tộc. Ví dụ: Đặng Thai Mai trong Văn học khái luận vừa sử dụng
phương pháp của Lanson, vừa sử dụng phương pháp nghiên cứu mác-xít; hay
như Nguyễn Bách Khoa trong Nguyễn Du và Truyện Kiều đã sử dụng hỗn
hợp nhiều phương pháp như: phương pháp xã hội học, phương pháp phân tâm
học, phương pháp mác-xít…
Trong quá trình học tập các phương pháp nghiên cứu của nước ngoài,
các học giả nước ta đã tiếp nhận một cách có chọn lọc để ứng dụng phù hợp
với thực tế nghiên cứu văn học Việt Nam. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện
đại thừa nhận dựa theo lý thuyết của Brunetière về luật tiến hóa nhưng không
195
máy móc, không theo “cái chủ nghĩa độc đoán và thiên vị”. Ngược lại, ông
chủ trương “phải tùy hoàn cảnh văn học, tùy trình độ tri thức của dân tộc mới
được”. Quá trình tiếp nhận các ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, văn hóa
Pháp vào Việt Nam được Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu
phân tích không phải như một sự sao chép máy móc, mà có chuyển hóa, có
quá trình thích nghi và biến đổi theo tâm hồn Việt và ngôn ngữ Việt. Hoài
Thanh trong Thi nhân Việt Nam, xác nhận sự ảnh hưởng lớn lao của thơ Pháp
đối với các nhà Thơ Mới, tuy nhiên ông cũng khẳng định “Hồn thơ Pháp hễ
chuyển được vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn (…). Thi văn Pháp không
làm mất bản sắc Việt Nam. Những sự mô phỏng ngu muội lập tức bị đào thải”
[167,tr.34]. Đó chính là biểu hiện mạnh mẽ của tinh thần tự chủ, tự tôn của
các nhà hoạt động văn học ở nước ta trong việc tiếp nhận một cách có chọn
lọc các yếu tố nước ngoài trong việc sáng tạo các giá trị văn học, mà chúng ta
có thể tự hào.
Có thể nói, ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đến hoạt động nghiên
cứu văn học ở Việt Nam thể hiện rõ nhất ở sự tiến bộ về tinh thần khoa học và
phương pháp khoa học. Tinh thần ấy là việc coi trọng cơ sở tư liệu, lấy tác giả
làm đơn vị nghiên cứu, chú trọng việc phân tích tác phẩm về cả nội dung lẫn
hình thức, đề cao lý trí, coi trọng sự suy luận có tính lôgíc, chuộng sự sáng
sủa minh bạch, thái độ khen chê có mức độ, nhưng cũng không coi nhẹ khả
năng cảm thụ, sự đồng cảm nghệ thuật của người đọc. Chẳng hạn, việc nghiên
cứu Truyện Kiều là một dẫn chứng tiêu biểu cho việc áp dụng phương pháp
phương Tây vào việc nghiên cứu văn học ở giai đoạn này. Trước thế kỷ XX,
việc nghiên cứu Truyện Kiều chỉ biểu hiện dưới dạng các bài thơ đề từ, đề
vịnh, hoặc những bài tựa …, tuy vẫn có nhiều ý khám phá sâu sắc, nhưng nói
chung chỉ là những nhận định mang tính tổng hợp nặng về ấn tượng, cảm
tính. Từ sau thế kỷ XX, nhất là từ 1930 trở đi, các nhà nghiên cứu đã đi vào
196
từng phương diện cụ thể của Truyện Kiều như: Nguyễn Du đã viết Truyện
Kiều dựa trên cuốn tiểu thuyết nào của Trung Quốc, động cơ sáng tác của
Nguyễn Du phải chăng chỉ là để gửi gắm tâm sự một cựu thần triều Lê phải ra
làm quan cho triều Nguyễn. Các nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu thời đại,
con người, quê quán, huyết thống… để giải thích các mối liên hệ giữa tác giả
- tác phẩm, để khám phá ý nghĩa tác phẩm. Những giá trị đạt được từ các
công trình nghiên cứu của Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Tam, Vũ Đình Long,
Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa… góp phần rất quan trọng trong sự phát
triển của hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này.
*
* *
Tóm lại, việc tiếp thu, vận dụng các phương pháp nghiên cứu tiên tiến
của phương Tây đã có những đóng góp to lớn trong hoạt động nghiên cứu văn
học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX khi tạo được một bước chuyển rõ rệt trong
quá trình hiện đại hóa. Chính sự áp dụng một cách linh hoạt nhiều phương
pháp nghiên cứu trên nền tảng của những lý thuyết khoa học như phương
pháp so sánh, phương pháp trực giác, phương pháp xã hội học, phương pháp
tiểu sử, phương pháp xã hội học mác-xít… đã khiến cho hoạt động nghiên
cứu văn học Việt Nam giai đoạn này mang một diện mạo hoàn toàn khác,
thậm chí là khá lạ lẫm so với lối nghiên cứu văn chương thời trung đại. Nếu ở
thời trung đại, các nhà nghiên cứu chủ yếu dựa vào cái “đạo”, cái “chí” để
thẩm định tác phẩm nghệ thuật trong thời đại văn - sử - triết bất phân; dựa vào
cảm tính chủ quan để phẩm bình, thù tạc; thì đến giai đoạn này với cái nhìn
đối sánh các đối tượng nghiên cứu của phương pháp so sánh (Phạm Quỳnh,
Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm…), cái nhìn
197
nhận trực quan chính xác khoa học của phương pháp trực giác (Hoài Thanh
trong Thi nhân Việt Nam) và cách đặt tác phẩm, tác giả trong bối cảnh xã hội
(Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa…) cùng những tác động mạnh mẽ của nó
đã khiến hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn này được người
đọc tin tưởng hơn về giá trị của từng tác phẩm và vị trí của từng tác gia văn
học. Nếu thời trung đại, dựa vào cái “chí” của kẻ sĩ, cái “ta” của cộng đồng,
hoàn toàn xa lạ với cái “tôi” xuất thân mỗi con người để đánh giá, phẩm bình;
thì ở giai đoạn này, sự ra đời của phương pháp tiểu sử (Trần Thanh Mại trong
Trông giòng sông Vị, Hàn Mặc Tử) đã cho ta thấy giá trị chiều sâu và tinh
thần khoa học của cách đánh giá. Cùng với đó, sự xuất hiện của phương pháp
xã hội học mác-xít (Hải Triều, Đặng Thai Mai…) lại thổi thêm một luồng
sinh khí mới vào hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này. Đây là phương
pháp xã hội học đặt trên một nền tảng triết học duy vật biện chứng hiện đại
theo tinh thần mới, vì thế, dù còn nhiều khiếm khuyết (như đã trình bày),
phương pháp này cũng đã cho thấy được những điều mới mẻ trong hoạt động
nghiên cứu văn học.
Về nguyên nhân kết quả đạt được của quá trình hiện đại hóa hoạt động
nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, ta thấy rõ sự tác động rất
lớn và thậm chí là rất quan trọng của các yếu tố ngoại nhập. Tuy nhiên, phải
khẳng định lại một lần nữa, trong quá trình giao lưu và hội nhập, chính ý thức
dân tộc đã đóng vai trò sàng lọc, chọn lựa để đảm bảo cho việc tiếp nhận một
cách chủ động các phương pháp tiến bộ của văn học Pháp và văn học phương
Tây ứng dụng vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam. Chính sự tiếp thu có
chọn lọc cái bên ngoài trên nền tảng ý thức dân tộc, các tác giả đã cho ra đời
những công trình mà cho đến hôm nay, qua bao biến đổi của thời gian, vẫn
còn giá trị. Bởi vì, suy cho cùng, một dân tộc không có nền tảng văn hóa,
không có nội lực văn hiến, không có truyền thống ‘trọng văn’ lâu đời, thì dù
198
có ngoại nhập bao nhiêu vẫn không thể đủ sức chuyển hóa yếu tố bên ngoài
thành sức mạnh nội sinh để thực hiện thành công quá trình hiện đại hóa nền
văn học dân tộc mình. Sự tiếp thu văn hóa, văn học là một tất yếu khách quan
của loài người nói chung, tuy nhiên, thành hay bại chính là sự tiếp biến các
giá trị văn hóa, văn học ấy. Chính sức mạnh của nội lực đã khiến các nhà
nghiên cứu văn học Việt Nam bình tĩnh tiếp thu, dần dần tiếp biến và chuyển
hóa để quá trình hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
đạt được những thành tựu mà đến nay không ai có thể phủ nhận, cho dù xã
hội hiện nay có hiện đại và hội nhập đến mức nào.
199
KẾT LUẬN
1. Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nghiên cứu văn học
Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX gắn bó mật thiết với bối cảnh văn hóa
- xã hội và sự chuyển mình của đời sống văn học trong hoàn cảnh lịch sử có
nhiều thay đổi. Việc thiết lập bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở nước ta
khách quan đã gây nhiều biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất
hiện chữ quốc ngữ, báo chí, in ấn, dịch thuật, sự ra đời của đội ngũ trí thức
mới có trình độ cao đã tạo điều kiện cho hoạt động nghiên cứu văn học với tư
cách là một ngành chuyên biệt phát triển góp phần mở ra một giai đoạn mới
cho văn học nước nhà.
2. Hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vận
động theo quỹ đạo hiện đại hóa của nền văn học dân tộc và phân ra làm hai
giai đoạn: giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ (từ 1900 đến 1930) và 15 năm sau đó
(từ 1930 đến 1945), nhưng vẫn là một hành trình tiếp nối liên tục. Những
công trình nghiên cứu trong giai đoạn đầu không chỉ thể hiện sự nỗ lực của
những nhà nghiên cứu mở đường trong việc tiên phong áp dụng các phương
pháp mới của phương Tây vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam mà còn góp
phần quan trọng trong việc giới thiệu những tinh hoa văn hóa, văn học của
dân tộc đến với độc giả đương thời bằng sự soi rọi của các phương pháp
nghiên cứu khoa học và hiện đại. Từ sau 1930, hoạt động nghiên cứu văn học
đã phát triển nhanh chóng về chất lượng cũng như số lượng: nghiên cứu văn
học sử bao gồm cả nghiên cứu khái quát chung toàn bộ lịch sử văn học dân
tộc và nghiên cứu từng thời kỳ, từng lĩnh vực; nghiên cứu lý luận văn học;
nghiên cứu văn học nước ngoài với các tác giả tên tuổi như: Đào Duy Anh,
Trần Thanh Mại, Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, Thiếu Sơn, Hoài Thanh,
Đặng Thai Mai, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Dương
Quảng Hàm…; trong đó, nghiên cứu văn học sử Việt Nam là một bè chính
200
trong dàn hợp xướng đa dạng, đa thanh của hoạt động nghiên cứu văn học,
nhằm đẩy mạnh tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu cũng như khẳng
định vị trí của mình trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.
3. Trong quá trình hiện đại hóa để hoạt động nghiên cứu văn học Việt
Nam tiếp cận với văn học thế giới, sự nỗ lực của các nhà nghiên cứu là chính,
nhưng việc tiếp thu các phương pháp nghiên cứu tiên tiến của nước ngoài áp
dụng vào nghiên cứu văn học trong nước cũng rất quan trọng. Hàng loạt các
phương pháp dù lần đầu tiên được áp dụng nhưng đã gặt hái được những
thành công không thể phủ nhận như: Phương pháp so sánh, phương pháp tiểu
sử, phương pháp xã hội học, phương pháp trực giác, phương pháp xã hội học
mác-xít… đã minh chứng điều đó. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng, nhân tố
làm nên sự thành công của hoạt động nghiên cứu văn học trong giai đoạn này
không đơn thuần chỉ là phương pháp nghiên cứu mà còn là sự chọn lựa, tích
hợp, sáng tạo trên cơ sở của thực tiễn văn học Việt Nam. Chính sự trân trọng
và khẳng định truyền thống dân tộc trong văn học đã giúp các nhà nghiên cứu
luôn biết “hòa nhập” nhưng không “hòa tan” trong bước đường hiện đại hóa,
để giữ lại và chọn lấy những tinh hoa cần thiết. Đó cũng chính là một trong
những nguyên nhân góp phần vào sự thành công của hoạt động nghiên cứu
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
4. Nghiên cứu quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học là
góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của ngành khoa học chuyên biệt này
trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Có thể nói, dù xuất hiện muộn
màng và có phần trầm lặng so với sáng tác, nhưng những tác phẩm mở đầu
của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này như:
Trông giòng sông Vị, Hàn Mặc Tử, Thi nhân Việt Nam, Nhà văn hiện đại,
Việt Nam cổ văn học sử, Việt Nam văn học sử yếu, Văn học khái luận… là
những tác phẩm có giá trị lịch sử và cả giá trị thời đại trong tiến trình phát
201
triển của hoạt động nghiên cứu văn học dân tộc, khi hoạt động này cùng với
hoạt động sáng tác đồng hành chung với đời sống dân tộc. Những tên tuổi
Dương Quảng Hàm, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trần Thanh Mại, Nguyễn
Đổng Chi, Đặng Thai Mai… là những tên tuổi được tôn vinh, được nhiều thế
hệ ghi công và khó có thể bị lãng quên trong lịch sử văn học dân tộc.
Trong những tác giả trên, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng
Hàm, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đổng Chi đã được nhiều thế hệ độc giả ghi
nhận xứng đáng. Riêng trường hợp Trần Thanh Mại, cho đến hiện nay, tuổi
tên vẫn còn khuất lấp, chưa được giới nghiên cứu đánh giá một cách đầy đủ,
xứng đáng với vị trí và những đóng góp ban đầu quan trọng của ông trong tiến
trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học nói riêng và lịch sử văn học
nói chung. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi, bên cạnh việc khẳng định
vị trí của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm…; xin được góp
một tiếng nói khẳng định nghiêm túc về giá trị các công trình nghiên cứu của
Trần Thanh Mại, đặc biệt là trong nửa đầu thế kỷ XX nhằm tạo lập một cái
nhìn toàn diện hơn về công lao góp phần mở đường của Trần Thanh Mại
trong tiến trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX.
Trường hợp Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa với hàng loạt các tác
phẩm Kinh Thi Việt Nam (1940), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Văn
chương Truyện Kiều (1945), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945) là
một trong những người đi tiên phong tìm phương pháp nghiên cứu mới cho
hoạt động nghiên cứu văn học dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa văn học
giai đoạn này. Nhưng do nhà nghiên cứu chủ quan và áp đặt trong những
nhận định đưa ra đã vô tình phủ nhận những giá trị không nhỏ trong những
công trình của mình. Thiết nghĩ, cần có các công trình nghiên cứu riêng biệt
về hoạt động nghiên cứu văn học của Trương Tửu để có cái nhìn toàn diện
202
hơn về những ưu điểm và hạn chế trong sự nghiệp văn học của ông.
5. Việc trình bày một cách đầy đủ, toàn diện và cụ thể từng giai đoạn
của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX với những thành tựu và hạn chế của nó, đề tài góp phần quan trọng
làm cho gương mặt lịch sử văn học dân tộc ở thời kỳ này hiện lên một cách rõ
nét hơn. Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể là nguồn tư liệu tham
khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh vực nghiên cứu văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, đây chỉ là công trình của một cá nhân về
một lĩnh vực nghiên cứu quá lớn nên ở đây, chúng tôi chưa có đủ điều kiện để
triển khai mối quan hệ giữa quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn
học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX với các giai đoạn từ 1945 đến 1975, cũng
như từ 1975 đến nay, để làm nổi rõ tính chất tiếp biến không ngừng giữa các
giai đoạn. Tất cả những điều đó, thiết nghĩ hoàn toàn có thể mở hướng cho
những đề tài nghiên cứu tiếp theo để thấy rõ hơn quá trình vận động của toàn
bộ hoạt động nghiên cứu văn học trong nền văn học sử nước nhà.
Tuy vậy qua nghiên cứu, có thể khái quát rằng: Nếu hoạt động nghiên
cứu văn học Việt Nam thời trung đại chưa mang tính phương pháp thì đến ba
thập niên đầu thế kỷ XX đã thấy hé lộ phương pháp trực giác mang đậm dấu
ấn của tri thức lý luận phương Tây, đặc biệt, sự xuất hiện hoàng loạt các
phương pháp nghiên cứu mới giai đoạn 1930-1945 đã đẩy tiến trình hiện đại
hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam tiệm cận với nghiên cứu văn học
thế giới. Từ sau 1945 đến 1985, do phải căng mình trong hai cuộc kháng
chiến và giai đoạn khó khăn của những thập niên hòa bình đầu tiên nên
nghiên cứu văn học Việt Nam chủ yếu là lối phê bình xã hội học theo quan
điểm mác-xít. Từ 1986 đến nay, trong không khí đổi mới và hội nhập, hoạt
động nghiên cứu văn học nước nhà đang tiếp tục đổi mới và từng bước hội
nhập cùng các trào lưu nghiên cứu văn học thế giới./.
203
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Diệu Anh (1942), “Nói chuyện thơ nhân quyển Thi nhân Việt Nam”,
Thanh Nghị, (19).
2. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương (tái
bản năm 1951), Sài Gòn.
3. Đào Duy Anh (1943), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan hải tùng thư,
Huế.
4. Nguyễn Chung Anh (1984), “Nguyễn Đổng Chi - Nhà văn, nhà khoa
học”, Tạp chí Văn học (4), tr 110 - 125.
5. Hoài Anh (2002), “Hải Triều - Kiện tướng trên mặt trận tư tưởng văn hóa
vô sản”, Tạp chí Văn, (3).
6. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, Hà
Nội.
7. Lại Nguyên Ân (1998), Đọc lại người trước, đọc lại người xưa, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
8. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
9. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn) (2002), Lê Thanh - Nghiên cứu
và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ
Đông Tây, Hà Nội.
10. Lê Văn Ba (2000) Giáo sư Dương Quảng Hàm, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội
11. Hoa Bằng (1941), “Những khuynh hướng trong văn học Việt Nam cận
đại”, Tri Tân, (21).
12. Nguyễn Thanh Bình (2007), “Một vài đóng góp của Các Mác đối với sự
204
ra đời và phát triển của xã hội”, http://fpe.hnue.edu.vn.
13. Phan Kế Bính (1918), Việt Hán văn khảo - Nxb Mạc Lâm (tái bản năm
1972).
14. Huy Cận, Hà Minh Đức (chủ biên) (1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Đổng Chi (1942), Việt Nam cổ văn học sử, Nhà xuất bản Trẻ
(tái bản năm 1993), Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Phan Bội Châu toàn tập (tập 4) (1990), Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.
17. Huệ Chi - Phong Lê (1960), “Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930 -
1945 nhân đọc Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý
Đôn”, Nghiên cứu văn học, (5), tr.107.
18. Nguyễn Huệ Chi - Hồng Tân (1963), “Mấy ý kiến nhân đọc Lịch sử văn
học Việt Nam”, Nghiên cứu văn học, (7), tr.81.
19. Nguyễn Huệ Chi (1985), “Vấn đề phân kỳ văn học sử Việt Nam”, Tạp
chí Văn học, (3), tr.59.
20. Nguyễn Huệ Chi (1990), “Đổi mới nhận thức lịch sử trong nghiên cứu
khoa học xã hội nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng”, Tạp chí Văn
học, (6), tr.1.
21. Trương Chính (1960), “Nhân đọc cuốn Trên đường học tập và nghiên
cứu của Đặng Thai Mai”, Nghiên cứu khoa học, (6), tr.25.
22. Trương Chính (1970), “Con đường vào văn học của Đặng Thai Mai”,
Văn nghệ, (359).
23. Trương Chính (1982), “Chúng ta học tập những gì ở cụ Đặng Thai Mai”,
Tạp chí Văn học, (5), tr.51.
24. Trương Chính (1984), “Đặng Thai Mai, một đời chiến sĩ, một đời văn”,
Văn nghệ, (40).
25. Trương Chính (1987), “Hồi kí Đặng Thai Mai”, Tạp chí Văn học, (6),
205
tr.98.
26. Hồng Chương (1982), “Tổng tập văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học,
(6), tr.116.
27. Hồng Chương (sưu tầm giới thiệu) (1987), Hải Triều tác phẩm, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
28. Nguyễn Văn Dân (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam
hiện đại”, Tạp chí Văn học, (2), tr.77.
29. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Hồng Diệu (1999), “Thời Nhân và Hoài Thanh”, Tạp chí Văn học, (7),
tr.76.
31. Đỗ Đức Dục (1981), “Tính khoa học trong nghiên cứu văn học”, Tạp chí
Văn học, (3), tr. 22.
32. Tôn Thất Dụng (2003), “Nhà nghiên cứu phê bình văn học Trần Thanh
Mại”, Nhớ Huế, (16), Nxb Trẻ, tr. 145 -152.
33. Tôn Thất Dụng (2003), “Trần Thanh Mại trên hành trình nhận thức và
sáng tạo văn học”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học văn học Thừa Thiên Huế,
(lần 2), tr.25.
34. Tuyển tập Tản Đà (1986), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
35. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (tập 1), Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
36. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào “Thơ Mới” 1932 - 1945, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
37. Phan Cự Đệ (1996), “Ảnh hưởng của văn học Pháp và văn học Anh vào
văn học Việt Nam từ năm 1930”, Tạp chí Văn học, (10), tr.14.
38. Phan Cự Đệ (1999), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
206
39. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn
đề lịch sử và lý luận, NXb Giáo dục, Hà Nội.
40. Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm và biên soạn) (1999), Tạp
chí Tri Tân 1941 - 1945 - Phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
41. Hà Minh Đức (2004), Tuyển tập Hà Minh Đức (tập 3), Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
42. Vu Gia (2005), Hải Triều - Nghệ thuật vị nhân sinh, Nxb Thanh niên,
thành phố Hồ Chí Minh.
43. Văn Giá (tuyển chọn và biên soạn) (1997), Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan,
Hải Triều, Đặng Thai Mai, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Bằng Giang (1974), Mảnh vụn văn học sử, Nxb Chân Lưu, Sài Gòn.
45. Mạc Hà (1964), “Mấy ý kiến về cuốn Văn học Việt Nam 1930 - 1945”,
Tạp chí Văn học, (6), tr.20.
46. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam Văn học sử yếu, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh (tái bản 1993), thành phố Hồ Chí Minh.
47. Lê Bá Hán (1965), “Đọc Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945”,
Tạp chí Văn học, (1), tr.18.
48. Lê Bá Hán (1972), “Hoài Thanh với phê bình”, Tạp chí Văn học, (3),
tr.137.
49. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
50. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học - Vấn
đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Hạnh (1999), “Thi nhân Việt Nam và phương pháp tiếp cận
văn chương”, Tạp chí Văn học, (7), tr.39.
52. Nguyễn Đình Hảo (2001), Tạp chí Nam Phong trong tiến trình phát triển
nền quốc văn mới đầu thế kỷ XX (1900 - 1939) (luận án tiến sĩ), Trường
207
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
53. Đinh Thị Minh Hằng (2009), “Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu
thế kỷ XX - Tiếp thu, cách tân và sáng tạo”, http://vnqd.com.vn.
54. Hoàng Ngọc Hiến (1979), “Nghiên cứu tìm tòi và sáng tạo”, Tạp chí Văn
học, (1), tr.52.
55. Hoàng Ngọc Hiến (1996), “Tản mạn về nghiên cứu văn học”, Tạp chí
Văn học, (9), tr.58.
56. Đỗ Đức Hiểu (1985), “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử
văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (3), tr.52
57. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội và
Nxb Mũi Cà Mau.
58. Đỗ Đức Hiểu (1993), “Cảm nhận để nhớ Đặng Thai Mai”, Tạp chí Văn
học, (1), tr.73.
59. Phạm Thị Hoàn (1992), Phạm Quỳnh 1892 - 1992, Tuyển tập và di cảo,
Nxb An Tiêm, Pari.
60. Nguyễn Văn Hoàn (1998), “Khoa nghiên cứu văn học Việt Nam từ sau
khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây”, Tạp chí Văn học, (11), tr.19.
61. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam, giai đoạn giao
thời 1900 - 1930, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
62. Nguyễn Phi Hoanh (xuất bản trước năm 1945), Tolstoi, Bản Microfilm,
Thư viện Quốc gia, Hà Nội.
63. Ngô Đức Kế (1924), “Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn, Kim
Vân Kiều, Nguyễn Du”, Hữu Thanh tạp chí, (21).
64. Huỳnh Thúc Kháng (1930), “Chánh học cùng tà thuyết có phải vấn đề
quan hệ chung không?”, Tiếng Dân, ngày 17 tháng 9.
65. Vũ Ngọc Khánh (1992), “Học tập nhà văn Vũ Ngọc Phan”, Tạp chí Văn
học, (6), tr.35.
208
66. Nguyễn Bách Khoa (1942), Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nxb Thế giới
(tái bản năm 1951), Hà Nội.
67. Nguyễn Bách Khoa (1945), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nxb
Thế giới (tái bản 1951), Hà Nội.
68. Nguyễn Bách Khoa (1945), Văn chương truyện Kiều, Nxb Hàn Thuyên,
Hà Nội.
69. Phan Khôi (1932), “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, Phụ nữ
tân văn, (122).
70. Nguyễn Khuê (2000), “Nghĩ về nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn
học Trần Thanh Mại (1911 - 1965)”, Nhớ Huế, (7), Nxb Trẻ, tr. 30 - 35.
71. Lê Tràng Kiều (1936), “Phê bình Kép Tư Bền”, Hà Nội báo, (2).
72. Lê Tràng Kiều (1936), “Cùng các ông Phan Văn Hùm, Hải Thanh, Sơn
Trà, Hồ Xanh, Cao Văn Chánh, Khương Hữu Tài, Hải Triều…”, Hà Nội
báo, (1).
73. Lê Đình Kỵ (1988), Thơ mới Xuân Diệu, Hoài Thanh, Chế Lan Viên,
Nxb Cửu Long.
74. Lê Đình Kỵ (1984), “Từ trong di sản… nghĩ về tư tưởng sáng tác của cha
ông”, Tạp chí Văn học, (1), tr.104.
75. Thạch Lam (1941), Theo dòng, Nxb Đời nay, Hà Nội.
76. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam 1862 - 1945 (quyển
hạ), Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
77. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học Việt Nam thế hệ 1932 (tập 2),
Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
78. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học (1932 - 1945) (3 tập),
Nxb Văn học và Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
79. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt
209
Nam 1900 - 1945, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
80. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Tổng tập văn học Việt Nam (tập 22),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Phong Lê (1992), “Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam”, Tạp chí Văn học,
(3), tr.2.
82. Phong Lê (chủ biên) (1993), Dương Quảng Hàm - Nhà giáo yêu nước
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Phong Lê (1994), “Sự nghiệp Hải Triều - trong độ lùi hơn nửa thế kỷ”,
Tạp chí Văn học, (10), tr.1.
84. Phong Lê (chủ biên) (1995), Nhà văn Vũ Ngọc Phan, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
85. Phong Lê (1998), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
86. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam
hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
87. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, những chân dung tiêu
biểu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
88. Vũ Đình Long (1923 - 1924), “Nhân vật Truyện Kiều”, Nam Phong, (68,
69, 70, 71, 83, 85, 87).
89. Vũ Đình Long (1923), “Triết lý và luân lý Truyện Kiều”, Nam phong,
(71).
90. Vũ Quốc Long (1992), “Đóng góp của Đặng Thai Mai vào lý luận nghệ
thuật thời kì chống Pháp”, Tạp chí Văn học, (6), tr.38.
91. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
92. Nguyễn Lộc (1985), “Vấn đề phân kỳ trong lịch sử văn học dân tộc và
quy luật vận động của văn học dân tộc”, Tạp chí Văn học, (3), tr.25.
210
93. Mai Quốc Liên, Nguyễn Văn Lưu (chủ biên) (2001), Văn học Việt Nam
thế kỷ XX (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
94. Phan Trọng Luận (1971), “Hoài Thanh với chuyện sống và viết của một
người phê bình”, Văn nghệ, (392).
95. Nguyễn Triệu Luật (1924), “Bàn góp về Truyện Kiều”, Nam phong, (81).
96. Lưu Trọng Lư (1934), “Phong trào thơ mới”, Tiểu thuyết thứ bảy, (27).
97. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
98. Phương Lựu (1999), Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương
Tây đương đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Huỳnh Lý (1970), “Mấy ý kiến về văn học Việt Nam từ 1930 đến nay”,
Tạp chí Văn học, (2), tr.126.
100. Huỳnh Lý, Hoàng Dung (1976), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945
(tập5), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
101. Huỳnh Lý, Nguyễn Trác (1981), Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -
1945 (tập 1 và 2), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
102. Trần Hạnh Mai (1998), “Hoài Thanh - Người đi tìm cái đẹp trong nghệ
thuật”, Tạp chí Văn học, (9), tr.74.
103. Trần Hạnh Mai (2003), Sự nghiệp phê bình văn học Hoài Thanh, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
104. Đặng Thai Mai (1944), Văn học khái luận, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội.
105. Toàn tập Đặng Thai Mai (tập 1) (1997), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
106. Trần Thanh Mại (1935), Trông giòng sông Vị, Trần Thanh Địch xuất
bản, Hà Nội.
107. Trần Thanh Mại (1941), Hàn Mặc Tử, Nxb Huế, Huế.
211
108. Trần Thanh Mại (1957), Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú
Xương, Nxb Nghiên cứu cục Xuất bản - Bộ văn hóa, Hà Nội.
109. Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ (1961), Tú Xương con người và nhà thơ,
Nxb Văn học, Hà Nội.
110. Thiếu Mai (1982) “Vài hồi ức về một người thầy”, Văn nghệ, (15).
111. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), “Vài suy nghĩ về Tuyển tập Hoài Thanh”,
Văn nghệ, (11).
112. Nguyễn Đăng Mạnh (1987), “Nhìn lại 40 năm phát triển của phê bình
văn học”, Tạp chí Văn học, (1).
113. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), “Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học, (5), tr.16.
114. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 -
1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
115. Marx K., Engels F., Lénine V.I (1977), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
116. Phạm Thị Mến (2001), Những đóng góp về mặt lý luận phê bình của
Hoài Thanh trước Cách mạng tháng Tám (luận văn thạc sĩ), Trường Đại
học khoa học và Xã hội nhân văn, Hà Nội.
117. Cao Thị Xuân Mỹ (2001), Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ
cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (luận án tiến sĩ), Trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
118. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 1) (1995), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
119. Nguyễn Đăng Na (1996), “Về phương pháp viết văn học sử của giáo sư
Nguyễn Đổng Chi”, Tạp chí Văn học, (3), tr.39.
120. Phan Ngọc (1992), “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt Nam giai
đoạn 1932 - 1935”, Sông Hương, (2).
212
121. Hữu Ngọc (1999), “Phác thảo chân dung Dương Quảng Hàm - Nho sĩ
hiện đại yêu nước”, Tạp chí Văn học, (5), tr.12 - 18.
122. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên 1862 -
1945 (tập 3), Nxb Quốc học tùng thư, Sài Gòn.
123. Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn) (1996), Hàn Mặc Tử hôm qua
và hôm nay, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
124. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa
trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
125. Hoàng Nhân (1998), Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học Việt
Nam hiện đại, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau.
126. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nxb
Xây dựng.
127. Nhiều tác giả (1976), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
128. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới (2004), Nxb Thế giới, HN
129. Nhiều tác giả (1997), Nguyễn Đổng Chi người miệt mài tìm kiếm các giá
trị văn hóa dân tộc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
130. Nhiều tác giả: Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn
Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (2001), Văn học Việt Nam
(1900 - 1945), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
131. Nhiều tác giả (1932), Những áng văn hay, Nxb Nam ký thư quán, Hà
Nội.
132. Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại (2 tập), Nxb Khoa học xã hội
(tái bản năm 1989), Hà Nội.
133. Vũ Ngọc Phan (1965), “Hồi ức về phê bình văn học trước Cách mạng
tháng Tám”, Tạp chí Văn học, (9).
213
134. Vũ Ngọc Phan (1976), Qua những trang văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
135. Vũ Ngọc Phan (1987), Những năm tháng ấy, Nxb Văn học, Hà Nội.
136. Vũ Ngọc Phan - Tác phẩm (2000), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.
137. Ngô Văn Phú (1992), “Thi nhân Việt Nam”, thầy học của tôi”, Văn nghệ,
(15).
138. Khiết Phủ (1943), “Để bàn với ông Vũ Ngọc Phan về một phương pháp
phê bình văn học”, Tri tân, (106).
139. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt
Nam 1930 - 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.
140. Vũ Đức Phúc (1964), “Đặc điểm của tình hình văn học Việt Nam trong
giai đoạn 1930 - 1945”, Tạp chí Văn học, (1), tr.35.
141. Vũ Đức Phúc (1968), “Mấy vấn đề phương pháp nghiên cứu lịch sử văn
học”, Tạp chí Văn học, (11), tr.29.
142. Vũ Đức Phúc (1970), “Nâng cao chất lượng của phương pháp nghiên
cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (1), tr.35.
143. Vũ Đức Phúc (1973), Bàn về phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
144. Nguyễn Phúc (1992), “Những vấn đề về Hoài Thanh và Thi nhân Việt
Nam”, Tạp chí Văn học, (3), tr.5.
145. G.N. Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (tập 1),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
146. Kiều Thanh Quế (1943), Ba mươi năm văn học, Nxb Tân Việt, Hà Nội.
147. Kiều Thanh Quế (1943), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Hoa Tiên tái
bản năm 1969, Sài Gòn.
148. Phạm Quỳnh (1924), “Kỷ niệm cụ Tiên Điền”, Nam phong tạp chí, (86).
149. Vũ Tiến Quỳnh (tuyển chọn) (1999), Phê bình - bình luận văn học: Hoài
214
Thanh, Trương Chính, Như Phong, Trần Thanh Mại, Nhị Ca, Nxb Văn
nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
150. Lê Văn Siêu (1972), Văn học sử thời kháng Pháp 1858 - 1945, Nxb Trí
Đăng, Sài Gòn.
151. Từ Sơn, Phan Hồng Giang (2000), Hoài Thanh với khát vọng chân -
thiện - mỹ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
152. Mộng Bình Sơn, Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình, khảo cứu
văn học Việt Nam 1932 - 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.
153. Thiếu Sơn (2003), Thiếu Sơn toàn tập (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
154. Mộng Sơn (1944), Văn học và triết luận, Nxb Đại học thư xã, Hà Nội.
155. Trần Đình Sử (2003), “Văn học khái luận của Đặng Thai Mai - Công
trình lý luận văn học hiện đại đầu tiên”, Tạp chí Văn học, (2).
156. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
157. Tạp chí Tao đàn 1939 (1998) (Nguyễn Ngọc Thiện - Lữ Huy Nguyên
sưu tầm trọn bộ của Nxb Tân Dân), Nxb Văn học, Hà Nội.
158. Cao Hữu Tạo (1926), “Bàn về Truyện Kiều”, Nam phong, (18).
159. Nguyễn Hương Tâm (1994), “Văn học khái luận - Nhìn từ hôm nay”,
Tạp chí Văn học, (5), tr.10.
160. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm
mới Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
161. Lâm Thành Tấn (2001), Đóng góp về phê bình văn học của Lê Thanh và
Kiều Thanh Quế (luận văn thạc sĩ), Trường Đại học sư phạm Huế.
162. Hoài Thanh (1935), “Cần phải có một thứ văn chương mạnh mẽ hơn”,
Tiểu thuyết thứ bảy, (39).
163. Hoài Thanh (1935), “Ngoại cảnh trong văn chương”, Tràng An, (82).
215
164. Hoài Thanh - Lê Tràng Kiều - Lưu Trọng Lư (1936), Văn chương và
hành động, Nxb Hội nhà văn (tái bản năm 1999), Hà Nội.
165. Hoài Thanh (1939), “Thành thực và tự do trong văn chương”, Tao đàn,
(6).
166. Hoài Thanh (1939), “Thế nào là nội dung và hình thức một tác phẩm văn
chương”, Tao đàn, (6).
167. Hoài Thanh và Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học (tái
bản năm 2000), Hà Nội.
168. Hoài Thanh (1943), “Một vài ý kiến về quyển “Nguyễn Du và Truyện
Kiều” của ông Nguyễn Bách Khoa”, Vì Chúa nguyệt san, (238).
169. Hoài Thanh (1958),“Thực chất tư tưởng của Trương Tửu”,Văn nghệ,(11)
170. Hoài Thanh (2000), Hoài Thanh - Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
171. Lê Thi (chủ biên) (2000), Dương Quảng Hàm - Con người và tác phẩm,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
172. Nguyễn Trọng Thuật (1928), “Nghiên cứu và phán đoán về Truyện
Kiều”, Nam phong.
173. Nguyễn Ngọc Thiện (1993), “Vũ Ngọc Phan trong nghiên cứu văn học
theo đặc trưng thể loại và phong cách”, Tạp chí Văn học, (1), tr.39.
174. Nguyễn Ngọc Thiện (1994), “Ý nghĩa cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 -
1939. Những vấn đề của lý luận văn học hôm qua và hôm nay”, Tạp chí
Văn học, (5).
175. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (1996), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ
thuật 1935 - 1939, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
176. Nguyễn Ngọc Thiện (1996), “Động lực trong thời kỳ mới của lí luận, phê
bình nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (9), tr.19.
216
177. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (1997), Tuyển tập phê bình văn học Việt
Nam (t1 - t5), Nxb Văn học, Hà Nội.
178. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (2004), Hải Triều nhà lý luận tiên phong,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
179. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (2005), Lý luận, phê bình văn học Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX - 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
180. Đỗ Lai Thúy (1994), “Hình dung người Đổi mới văn học”, Tạp chí Văn
học, (6), tr.17.
181. Đỗ Lai Thúy (2003), “Trần Thanh Mại và phê bình tiểu sử học”, Tạp chí
Sông Hương, (9), tr. 62 - 68.
182. Đỗ Lai Thúy (2009), “Hoài Thanh và phương pháp phê bình ấn tượng”,
Tạp chí Sông Hương.www.sachhay.com, tr 1-8.
183. Đỗ Lai Thúy (2009), “Việt Nam tiếp thu văn hóa phương Tây dưới thời
Pháp thuộc”, http://danluan.org.
184. Lộc Phương Thủy (1996), “Bản lĩnh ngòi bút của Hải Triều”, Tạp chí
Văn học, (8), tr.20.
185. Trần Mạnh Tiến (2001), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ
XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
186. Huỳnh Văn Tòng (1973), Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến
1945, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản năm 2000), thành phố Hồ
Chí Minh.
187. Ngô Tất Tố (1941), Thi văn bình chú, Nxb Tân Dân, Hà Nội.
188. Ngô Tất Tố (1942), Việt Nam văn học, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.
189. Nguyễn Văn Tố (1943), “Phê bình Bộ “Thi văn bình chú” của Ngô Tất
Tố”, Tri tân, (89).
190. Nguyễn Văn Tố (1944), “Phê bình cuốn “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn
Công Trứ” của Nguyễn Bách Khoa”, Tri tân, (151).
217
191. Nguyễn Văn Tố (1944), “Phê bình “Việt Nam văn học sử yếu” của
Dương Quảng Hàm”, Tri tân, (177).
192. Lê Ngọc Trà (2000), “Về khái niệm hiện đại hóa trong văn học”, Tạp chí
Văn học, (6), tr 39 - 44.
193. Hải Triều toàn tập (tập 1) (1996), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
194. Nguyễn Văn Trung (1963), Lược khảo văn học (tập 1), Nxb Nam Sơn,
Sài Gòn.
195. Nguyễn Văn Trung (1967), Lược khảo văn học (tập 2), Bộ giáo dục xuất
bản, Hà Nội.
196. Nguyễn Văn Trung (1968), Lược khảo văn học (tập 3), Nxb Nam Sơn,
Sài Gòn.
197. Trần Thị Việt Trung (1992), “Thiếu Sơn và công trình phê bình lý luận
đầu tiên trong văn học Việt Nam hiện đại: “Phê bình và cảo luận -
(1933)”, Tạp chí Văn học, (6), tr 30 - 42.
198. Trần Thị Việt Trung (1994), “Nhà văn hiện đại - Một thành tựu lớn của
phê bình văn học Việt Nam trước năm 1945”, Tạp chí Văn học, (5),
tr.14.
199. Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (Giai
đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
200. Lê Dục Tú (1995), “Vấn đề đánh giá văn học lãng mạn Việt Nam và sự
đổi mới tư duy nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học, (9), tr.39.
201. Trương Tửu (1940), Kinh Thi Việt Nam, Nxb Hoa Tiên (tái bản năm
1974), Sài Gòn.
202. Trương Tửu - Tuyển tập nghiên cứu phê bình (2007), Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội.
203. Xuân Tửu (1961), “Chúng tôi đọc anh Hoài Thanh”, Văn nghệ, (10).
204. Đinh Gia Trinh (1996), Hoài vọng của lý trí, Nxb Văn học, Hà Nội.
218
205. Tibơrơ Klanixoi (1989), “Về khái niệm thời kì văn học”, Tạp chí Văn
học, (1), tr.83.
206. Lê Huy Vân (1942), “Nguyễn Du và Truyện Kiều của Nguyễn Bách
Khoa”, Thanh Nghị, (37).
207. Lê Huy Vân (1944), “Nguyễn Bách Khoa “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn
Công Trứ”, Thanh Nghị, (77).
208. Hồ Sĩ Vịnh (2004), “Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX: Một thời sôi
động”, http://vnca.cand.vn.
209. Lê Trí Viễn - Nguyễn Đình Chú (1976), Lịch sử văn học Việt Nam (tập
4b), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
210. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
211. Viện văn học (1986), Tác giả lý luận, phê bình nghiên cứu văn học Việt
Nam (1945 – 1975), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
212. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1999), “Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam”,
Tạp chí Văn học, (7), tr.49.
213. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2006), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX (1900 - 1945), Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,
thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếng nước ngoài
1. Wilbur S.Scott (1962), Five approaches of literary criticism, Collier
Books, New York.
2. Dowwe Fokkema - Elrud Kunne - Ibsch (1995), Theories of Literature in
the twentieth Century, C. Hurst & Company, London St. Martin’s Press,
New York.
219
DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Dương Thu Thủy (2005), “Trần Thanh Mại sáng tạo trên nền tảng văn
hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (5), Bộ Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Dương Thu Thủy (2006), “Trần Thanh Mại với vấn đề thẩm định và
đánh giá các tác gia văn học Việt Nam” trong Bình luận văn học, Nxb
Văn hóa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh.
3. Dương Thu Thủy (2009), “Về một số công trình văn học sử nửa đầu thế
kỷ XX”, Tạp chí khoa học - Khoa học Xã hội và Nhân văn, (17), Trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
4. Dương Thu Thủy (2009), “Bước khởi đầu hiện đại hóa nghiên cứu văn
học”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (304), Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch, Hà Nội.
5. Dương Thu Thủy (2009), “Những thành tựu trong nghiên cứu văn học
dân gian và văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ 1930 đến 1945”,
Tạp chí khoa học và Giáo dục, 04(12), Trường Đại học Sư phạm - Đại
học Huế.
6. Dương Thu Thủy (2009), “Phương pháp so sánh và phương pháp trực
giác trong nghiên cứu văn học nửa đầu thế kỷ XX” trong Bình luận văn
học, Nxb Văn hóa Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh.
220