BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

LƯƠNG THỊ PHƯƠNG LAN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG

PHÒNG, CHỐNG NHIỄM SÁN LÁ GAN NHỎ CỦA NGƯỜI

DÂN TẠI THỊ TRẤN RẠNG ĐÔNG, HUYỆN NGHĨA HƯNG,

TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2009 - 2012

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI – 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

LƯƠNG THỊ PHƯƠNG LAN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG

PHÒNG, CHỐNG NHIỄM SÁN LÁ GAN NHỎ CỦA NGƯỜI

DÂN TẠI THỊ TRẤN RẠNG ĐÔNG, HUYỆN NGHĨA HƯNG,

TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2009 - 2012

Chuyên ngành: Y tế công cộng

Mã số: 62.72.03.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. Nguyễn Văn Đề

PGS.TS. Trần Hữu Bích

HÀ NỘI – 2016

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số

liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

Tác giả

Lương Thị Phương Lan

ii

LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành bản luận văn Tiến sĩ Y tế công cộng này, tôi đã nhận được rất

nhiều sự giúp đỡ từ các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo và các khoa,

phòng liên quan của Trường Đại học Y tế Công cộng và Đại học Y Hà Nội đã

truyền thụ kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi, chia sẻ kinh nghiệm cho tôi trong suốt

quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới GS. TS. Nguyễn Văn

Đề và PGS.TS. Trần Hữu Bích những người thầy tâm huyết đã tận tình hướng dẫn,

động viên, dành nhiều thời gian trao đổi và định hướng cho tôi trong quá trình thực

hiện luận án.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ủy ban nhân dân thị trấn Rạng Đông,

huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định; Trạm Y tế thị trấn Rạng Đông; Các cán bộ y tế

thị trấn Rạng Đông; Các cộng tác viên y tế thôn bản; và người dân thị trấn Rạng

Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định; Trung tâm y tế dự phòng huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định; Chi Cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Nam Định đã giúp

đỡ và tạo điều kiện cho tôi tiến hành nghiên cứu.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo Bộ Y tế, lãnh đạo Cục An toàn thực

phẩm nơi tôi công tác; các bạn đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá

trình thực hiện luận án.

Cuối cùng, tôi xin dành cả tình yêu thương, lòng thành kính biết ơn bố mẹ,

chồng, con mọi người trong gia đình. Xin cảm ơn bạn bè đã chia sẻ, động viên tôi

trong suốt quá trình học tập.

iii

DANH

MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Clonorchis sinensis C.sinensis

CSHQ Chỉ số hiệu quả

EPG (Eggs per gram): Số trứng trung bình trong 1 gam phân

Opisthorchis viverrini O. viverrini

PCR (Polymerase Chain Reaction): Kỹ thuật nhân ADN đặc hiệu

Tỉ lệ khỏi bệnh TLKB

THPT Trung học phổ thông

THCS Trung học cơ sở

TNCSHCM Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

TTGDSK Truyền thông giáo dục sức khoẻ

SLGN Sán lá gan nhỏ

WHO (World Health Organization): Tổ chức Y tế thế giới

iv

MỤC LỤC

Trang

1 ĐẶT VẤN ĐỀ

4 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

5 Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử bệnh sán lá gan nhỏ 5

1.2. Đặc điểm ký sinh trùng học của sán lá gan nhỏ 5

1.3. Chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh sán lá gan nhỏ 9

1.4. Các nghiên cứu về tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người 11

1.5. Các nghiên cứu về tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở cá nước ngọt 15

1.6. Các nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ 17

1.7. Các nghiên cứu về biện pháp phòng, chống sán lá gan nhỏ 24

1.8. Khung lý thuyết của nghiên cứu 35

38 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tương nghiên cứu 38

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 38

2.3. Thiết kế nghiên cứu 38

2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu 39

2.5. Các biến số và chỉ số nghiên cứu 42

2.6. Các khái niệm, thước đo và tiêu chuẩn đánh giá 48

2.7. Các hoạt động can thiệp nhằm giảm nguy cơ nhiễm sán lá gan nhỏ 50

2.8. Vật liệu và kỹ thuật nghiên cứu 54

2.9. Phương pháp thu thập số liệu 54

2.10. Qui trình thu thập số liệu 55

2.11. Quản lý, phân tích và sử dụng số liệu 57

2.12. Đạo đức trong nghiên cứu 59

60 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Tỉ lệ nhiễm và loài sán lá gan nhỏ ở người và ở cá nước ngọt nuôi tại thị 60

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trước can thiệp

v

3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan 70

nhỏ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

3.3. Hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN ở người dân tại thị 86

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định sau 2 năm can thiệp

97 Chương 4: BÀN LUẬN

4.1. Tỉ lệ nhiễm và loài sán lá gan nhỏ ở người và ở cá nước ngọt nuôi tại thị 97

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

4.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan 108

nhỏ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

4.3. Hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN ở người dân tại thị 114

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định sau 2 năm can thiệp

4.4. Ưu điểm, hạn chế và bài hoc kinh nghiệm của nghiên cứu 131

136 KẾT LUẬN

138 KHUYẾN NGHỊ

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC

GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bộ phiếu phỏng vấn.

Phụ lục 2. Phương pháp đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành.

Phụ lục 3. Phương pháp xét nghiệm Kato– Katz.

Phụ lục 4. Định loại sán lá gan nhỏ ở người và ấu trùng nang.

Phụ lục 5. Vật liệu và kỹ thuật phân loại ấu trùng sán lá trong cá nước ngọt.

Phụ lục 6: Tài liệu truyền thông dùng trong can thiệp cộng đồng.

Phụ lục 7: Biểu đồ grantt về các hoạt động can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức

khoẻ hàng năm.

vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Chiến lược dự phòng và kiểm soát bệnh sán lá gan nhỏ 24

Bảng 1.2. Các nghiên cứu về phác đồ và thuốc điều trị sán lá gan nhỏ 28

Bảng 2.1. Các biến số và chỉ số nghiên cứu 42

Bảng 2.2. Hướng dẫn phân loại cường độ nhiễm sán lá gan nhỏ theo WHO 49

Bảng 3.1. Tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ theo tuổi, giới, nghề nghiệp và học vấn 61

Bảng 3.2. Phân loại cường độ nhiễm sán lá gan nhỏ (n = 63) 62

Bảng 3.3. Kích thước và hình thái nội quan của sán lá gan nhỏ C. sinensis 64

(n=20)

Bảng 3.4. Danh mục mẫu sán lá gan nhỏ trưởng thành thu nhận ở người tại 65

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định sử dụng giám định

phân tử

Bảng 3.5. So sánh nucleotid tại 5 điểm có sự sai khác trong chuỗi gen cox1 67

của Clonorchis spp nghiên cứu với C. sinensis chủng Trung Quốc và Hàn

Quốc

Bảng 3.6. Tỉ lệ người dân có biết về bệnh sán lá gan nhỏ theo giới, học vấn 71

và nghề nghiệp

Bảng 3.7. Tỉ lệ hiểu biết về phòng,chống sán lá gan nhỏ của người dân 73

Bảng 3.8. Thái độ người dân với việc phòng, chống bệnh sán lá gan nhỏ 75

Bảng 3.9. Thực hành ăn gỏi cá và sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn 77

sống và thức ăn chín theo nhóm tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ học vấn

Bảng 3.10. Tỉ lệ sử dụng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, 78

nuôi cá

Bảng 3.11. Thực hành của người dân khi nghi ngờ bị bệnh sán lá gan nhỏ 79

Bảng 3.12. Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống 80

sán lá gan nhỏ với giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp của đối tượng

nghiên cứu

Bảng 3.13. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành phòng, chống sán lá 83

gan nhỏ

vii

Bảng 3.14. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, kiến thức, thái độ phòng, 84

chống sán lá gan nhỏ và tình trạng nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân

Bảng 3.15. Phân tích mối liên quan giữa hành vi nguy cơ nhiễm SLGN với 85

tình trạng nhiễm sán lá gan nhỏ

Bảng 3.16. Kết quả đào tạo nhân lực cho công tác phòng, chống sán lá gan 87

nhỏ

Bảng 3.17. Hoạt động can thiệp thông qua kênh truyền thông trực tiếp tại 88

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

Bảng 3.18. Hoạt động can thiệp thông qua kênh truyền thông gián tiếp 90

tại thị trấn Rạng Đông, tỉnh Nam Định

Bảng 3.19. Hiểu biết của người dân về phòng, chống SLGN trước và sau 91

can thiệp

Bảng 3.20. Thái độ của người dân về phòng, chống SLGN trước và sau can 92

thiệp

Bảng 3.21. Thực hành của người dân về một số biện pháp nhằm phòng, 94

chống sán lá gan nhỏ trước và sau can thiệp

Bảng 3.22. Tỉ lệ sạch trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel 95

Bảng 3.23. Tỉ lệ giảm trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel 95

Bảng 3.24. Tỉ lệ tái nhiễm sán lá gan nhỏ trong 2 năm can thiệp 96

Bảng 3.25. Tỉ lệ mới nhiễm sán lá gan nhỏ sau 24 tháng can thiệp 96

viii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Tỉ lệ nhiễm SLGN của người từ 01 tuổi trở lên (n =400) 60

Biểu đồ 3.2. Tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở các loài cá nước ngọt 62

Biểu đồ 3.3. Tỉ lệ người dân có nghe nói về sán lá gan nhỏ (n =340) 70

Biểu đồ 3.4. Tỉ lệ người dân có biết về bệnh sán lá gan nhỏ theo nhóm tuổi 71

Biểu đồ 3.5. Tỉ lệ người dân biết về tác hại của bệnh SLGN 72

Biểu đồ 3.6. Hiểu biết về sự tái nhiễm của bệnh SLGN 72

Biểu đồ 3.7. Phương tiện truyền thông về SLGN nhỏ đến người dân trước 74

can thiệp

Biểu đồ 3.8. Tỉ lệ người dân có đưa ra lời khuyên người khác không nên ăn 76

gỏi cá, cá nấu chưa chín

Biểu đồ 3.9. Thực hành của người dân trước can thiệp khi nghi ngờ bị bệnh 79

sán lá gan nhỏ theo nhóm tuổi

Biểu đồ 3.10. Thực hành của người dân khi nghi ngờ nhiễm sán lá gan nhỏ 93

trước và sau can thiệp

ix

DANH MỤC HÌNH

7 Hình 1.1. Chu kỳ phát triển của sán lá gan nhỏ

14 Hình 1.2. Các tỉnh, thành phố có người nhiễm sán lá gan nhỏ ở Việt

Nam

37 Hình 1.3. Khung lý thuyết của nghiên cứu

39 Hình 2.1. Thiết kế nghiên cứu

51 Hình 2.2. Mô hình tổ chức của chương trình can thiệp phòng, chống sán

lá gan nhỏ tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

Hình 3.1. C. sinensis trưởng thành thu thập từ bệnh nhân là đối tượng 65

nghiên cứu được điều trị tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng,

tỉnh Nam Định

Hình 3.2. So sánh trình tự 446 nucleotid và 148 acid amin trong đoạn 67

gen cox1 của SLGN trưởng thành Clonorchis spp trên người tại Nam

Định (CsNgND) với Clonorchis sinensis Trung Quốc (CsCN), C.

sinensis Hàn Quốc (CsKor) và đồng thời so sánh với các loài khác như

Fasciola gigantica ở người Việt Nam (FgVN) và Fasciola hepatica ở

Australia (FhAus)

Hình 3.3. Vị trí của C. sinensis Việt Nam trong cây phả hệ (C. sinensis 67

Việt Nam nằm cùng nhóm với C. sinensis Trung Quốc và Hàn Quốc)

Hình 3.4. Ấu trùng nang sán lá gan nhỏ thu thập từ cá nước ngọt nuôi 68

tại ao cá của đối tượng tham gia nghiên cứu can thiệp ở thị trấn Rạng

Đông

Hình 3.5. Giải trình tự gen Cox1 của ấu trùng nang SLGN 69

(metacercaria) trên cá so sánh với chủng chuẩn Việt Nam và quốc tế

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh sán lá gan nhỏ (SLGN) do Clonorchis sinensis (C.sinensis), là một bệnh

ký sinh trùng truyền qua thực phẩm và là một trong những bệnh lây truyền từ động

vật sang người phổ biến nhất. Trên thế giới, ước tính có hơn 200 triệu người có

nguy cơ nhiễm C.sinensis, trên 15 triệu người đã bị nhiễm C.sinensis và 1,5-2 triệu

người có biểu hiện triệu chứng hoặc biến chứng do nhiễm SLGN gây ra [96, 118,

92]. Bệnh SLGN hiện mắc chủ yếu ở các nước Châu Á và các khu vực như Triều

Tiên, Trung Quốc, phía bắc Việt Nam, vùng phía đông nước Nga [110,120,121].

Ngoài ra, người di cư hay khách du lịch đến từ các vùng dịch tễ SLGN sẽ làm tăng

nguy cơ lây truyền bệnh đến các nước khác [120]. Người và động vật bị nhiễm C.

sinensis do ăn phải cá sống hoặc nấu chưa chín có chứa ấu trùng SLGN [96]. Nhiễm

C. sinensiscó mối liên quan chặt chẽ với ung thư biểu mô đường mật trong gan

(Cholangiocarcinoma), xơ gan và các bệnh về gan mật khác[148, 126,129]. Ước

tính có khoảng 5000 trường hợp ung thư biểu mô đường mật trong gan do nhiễm C.

sinensis có thể xẩy ra hàng năm trong thập niên tới tại khu vực Đông Nam Á [118].

C. sinensis được xếp vào nhóm I tác nhân sinh học gây ung thư bởi Cơ quan nghiên

cứu về ung thư quốc tế (IARC) thuộc Tổ chức Y tế thế giới(WHO) [75]. Do vậy,

nhiễm SLGN là một vấn đề y tế cộng cộng nghiêm trọng đáng quan tâm trong các

vùng dịch tễ bệnh SLGN.

Các triệu chứng lâm sàng của người nhiễm SLGN được phát hiện tại cộng

đồng thường không rõ đối với những người có cường độ nhiễm SLGN thấp, chủ

yếu là triệu chứng rối loạn tiêu hoá [35]. Phương pháp xét nghiệm phân tìm trứng

SLGN là đáng tin cậy để chẩn đoán nhiễm SLGN [94]. Tuy nhiên, trứng của C.

Sinensis dễ dàng bị nhầm lẫn với trứng của sán khác như Opisthorchiidae,

Lecithodendriidae hoặc Heterophyidae) [1, 96]. Do vậy, phương pháp xác định loài

bằng sinh học phân tử là cần thiết giúp cho việc sử dụng đúng thuốc điều trị và triển

khai các hoạt động can thiệp phòng, chống SLGN có hiệu quả trong cộng đồng.

Ở Việt Nam, hiện có trên 7 triệu người có nguy cơ cao nhiễm SLGN trong đó

khoảng 1 triệu người nhiễm SLGN [30]. Bệnh SLGN là bệnh lưu hành địa phương

có liên quan đến thói quen ăn gỏi cá và được phân bố ở ít nhất tại 32 tỉnh, thành

2

phốtrong cả nước, trong đó tỉ lệ bệnh SLGN lưu hành cao ở các tỉnh Nam Định,

Ninh Bình, Phú Yên, Bình Định [7, 24, 61].

Truyền thông, giáo dục sức khỏe (TTGDSK) phòng, chống các bệnh xã hội,

bệnh lưu hành địa phươnglà một trong những biện pháp được WHO khuyến cáo và

đã mang lại hiệu quả như chương trình phòng, chống bệnh sốt rét, sốt xuất huyết

Dengue, chương trình phòng,chống bệnh tiêu chảy trẻ em.v.v.

Việc sử dụng thuốc điều trị SLGN bằng praziquantel là bước tiến quan trọng

trong phòng, chống bệnh SLGN ở Việt Nam [4,62]. Các hoạt động phòng, chống

SLGN ở Việt Nam đã triển khai ở một số địa phương bằng điều trị praziquantel cho

những người nhiễm SLGN, biện pháp này, tuy có làm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN

nhưng đến nay nhiễm SLGN vẫn còn là vấn đề sức khỏe của cộng đồng ở những địa

phương có tập quán ăn gỏi cá do nhiều nguyên nhân trong đó có nhận thức và thực

hành phòng, chống SLGN của người dân trong cộng đồng còn thấp [16], nguồn

nhân lực và vật lực cho phòng, chống SLGN nhiều nơi chưa được đầu tư như ở thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Do vậy, làm thế nào để

phòng, chống SLGN có hiệu quả trong khi nguồn nhân lực và vật lực cho triển khai

các hoạt động phòng, chống SLGN chưa có, đây là câu hỏi cần được giải quyết. Để

trả lời cho câu hỏi trên, trong nghiên cứu này chúng tôi đã triển khai mô hình các

hoạt động can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN bằng TTGDSK thông qua việc

lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN vào chương trình an toàn thực phẩm và

lồng ghép vào hoạt động của các tổ chức đoàn thể trên địa bàn nhằm xã hội hoá

công tác phòng, chống SLGN, tăng cường vai trò chính quyền và các tổ chức đoàn

thể trong việc phối hợp cùng với ngành y tế truyền thông nâng cao kiến thức, thái

độ và thực hành phòng, chống SLGN nhằm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN trong cộng

đồng, góp phần giảm tải cho y tế tuyến trên trong việc điều trị các bệnh lý do nhiễm

SLGN gây ra.

Thị trấn Rạng Đông là một thị trấn ven biển thuộc huyện Nghĩa Hưng nằm

trong vùng lưu hành bệnh SLGN của tỉnh Nam Định [46, 47] có điều kiện tự nhiên,

kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc lưu hành bệnh SLGN, người dân địa phương có tập

quán ăn gỏi cá, điều kiện sinh hoạt, canh tác còn lạc hậu và hiện tại chưa có nghiên

3

cứu can thiệp nào về phòng, chống SLGN cho người dân địa phương. Do vậy, chúng

tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng,

chống nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định năm 2009 - 2012”nhằm tìm ra giải pháp can thiệp phòng,

chống SLGN có hiệu quả cho cộng đồng.

4

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Xác định tỉ lệ nhiễm và loài sán lá gan nhỏ ở người và ở cá nước ngọt nuôi

tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

2. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá

gan nhỏ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

3. Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan

nhỏ ở người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định giai

đoạn 2009-2012.

5

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử bệnh sán lá gan nhỏ

Clonorchis sinensis (C.sinensis) được Mc.Conell tìm ra đầu tiên năm 1875,

trên tử thi người Trung Quốc ở Calcutta, Ấn Độ [5]. Năm 1907 và năm 1912, Loss

và Kobayashi dựa vào hình thái học của loài sán này, thống nhất lấy tên là

Clonorchis sinensis. Năm 1910, Kobayashi đã xác định được vật chủ trung gian thứ

hai của C.sinensis là họ cá chép Cyprinidae và năm 1918 Muto xác định được vật

chủ trung gian thứ nhất là ốc nước ngọt, những khám phá này đã làm sáng tỏ vòng

đời của C.sinensis. Năm 1927 Faust và Khaw đã nghiên cứu sinh thái và dịch tễ học

của C.sinensis ở Trung Quốc. Từ đó nhiều nhà khoa học nghiên cứu dịch tễ, bệnh

học, chẩn đoán, điều trị và phân bố càng ngày càng sâu và rộng về SLGN [29, 61].

Tại Việt Nam, C.sinensis ở người được Grall phát hiện và thông báo năm

1887. Theo nghiên cứu của Rim năm 1982, bệnh SLGN lưu hành cao ở vùng đồng

bằng Bắc bộ như các tỉnh, thành phố gồm Hải Phòng, Hà Nội có nơi tỉ lệ nhiễm tới

70% [5, 79].

Theo điều tra của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, từ

năm 1976 đến năm 2012, ít nhất có 32 tỉnh, thành phố có bệnh SLGN lưu hành với

tỉ lệ rất khác nhau, có nơi tỉ lệ nhiễm trên 30% như các tỉnh Nam Định, Hà Tây (nay

là thành phố Hà Nội), Thanh Hoá, Phú Yên, Bình Định và lưu hành trên toàn tỉnh

như ở Hoà Bình [36, 11, 29, 61]. Đặc điểm phân bố SLGN ở Việt Nam có tính khu

vực: các tỉnh miền Bắc nhiễm chủ yếu là C.sinensis, các tỉnh miền trung Tây

Nguyên, Nam bộ nhiễm Opisthorchis viverrini (O. viverrini) [7].

1.2. Đặc điểm ký sinh trùng học của sán lá gan nhỏ

1.2.1. Hình thể sán lá gan nhỏ

Sán lá gan nhỏ C. sinensis có hình lá, thân dẹt, màu đỏ nhạt, phần đầu hình ăng

ten, phần cuối có hình tròn dài 10-20 mm, rộng 2-4 mm với lớp kitin phẳng. Tuy nhiên,

kích thước SLGN thay đổi theo lứa tuổi, theo loài của vật chủ, theo số lượng của ký

sinh trùng trong vật chủ và theo vị trí ký sinh của nó trong những ống mật lớn hay nhỏ.

Ống tiêu hoá chạy dọc hai bên thân và là ống tắc, không nối thông với nhau. SLGN

6

không có hậu môn vì dinh dưỡng của sán chủ yếu là hình thức thẩm thấu các chất dinh

dưỡng qua bề mặt của sán. Vì vậy, trên thân sán có rất nhiều tuyến dinh dưỡng. Sán

trưởng thành sống trong đường dẫn mật của người và những động vật ăn cá [72].

Trứng của SLGN màu vàng sáng, kích thước 27 - 35m x 12-19m. Hình

dạng giống hạt vừng, vỏ có các mảnh bám nhỏ, có nắp ở cực nhỏ, giữa nắp và phần

còn lại của trứng có “vai” rất rõ, có mấu nhọn ở cực lớn [6]. Trứng của SLGN rất

giống nhau giữa các loài và đặc biệt khá giống với trứng sán lá ruột nhỏ họ

Heterophyidae cả về hình dạng và kích thước [29, 115].

1.2.2. Chu kỳ phát triển của sán lá gan nhỏ

Sán lá gan nhỏ trưởng thành ký sinh trong các ống dẫn mật nhỏ trong gan.

Tại đây sán đẻ trứng, trứng theo đường dẫn mật xuống ruột rồi theo phân ra ngoài

cơ thể, chỉ khi ở trong môi trường nước thì phôi bên trong trứng mới phát triển

thành ấu trùng lông (Miracidia) [104, 135]. Trứng có chứa phôi này sẽ được các loài

ốc thích hợp ăn vào khi đó ấu trùng lông mới tiếp tục phát triển các giai đoạn tiếp

theo trong cơ thể ốc [72]. Có hơn 100 loài ốc là vật chủ thích hợp của ấu trùng

SLGN bao gồm những ốc thuộc giống Bythinia, Melania v.v. Khi vào ốc, ấu trùng

lông sẽ sống ở vùng ruột và gan, tuỵ, sau 21-30 ngày chúng sẽ trải qua các giai đoạn

phát triển Sporocyst, Rediae và cuối cùng sẽ trở thành những ấu trùng đuôi

(Cercaria), ấu trùng đuôi thoát ra khỏi ốc và bơi tự do trong nước một thời gian

ngắn, sau đó sẽ chui vào trong cơ, thịt, dưới lớp vảy của các loài cá nước ngọt để

tiếp tục chu trình phát triển của mình [72]. Nếu người ăn phải cá có chứa ấu trùng

nang chưa nấu chín, khi đến tá tràng ấu trùng thoát ra khỏi nang và di chuyển hướng

về đường mật [78], sau 15 giờ ấu trùng sẽ di chuyển tới ống mật và tại đây sau

khoảng 26 ngày sẽ phát triển thành sán trưởng thành có khả năng gây bệnh cho

người [72].

7

Hình 1.1. Chu kỳ phát triển của sán lá gan nhỏ (nguồn CDC)

1.2.3. Xác định thành phần loài sán lá gan nhỏ

1.2.3.1. Xác định loài sán lá gan nhỏ bằng hình thái học

Hình thái học là phương pháp sử dụng rộng rãi trong giám định và phân loại

ký sinh trùng. Hình thái bên ngoài của một ký sinh trùng hay các dạng phát triển

trung gian của chúng được nhận biết nhanh nhất, dễ dàng nhất và thuận tiện nhất để

có thể kết luận sớm về loại ký sinh trùng cần được chẩn đoán hay nghiên cứu. Tuy

nhiên, bằng phương pháp hình thái học rất khó phát hiện các cá thể có quan hệ ruột

thịt, hoặc những cá thể giống nhau về hình thái nhưng biểu hiện tiến triển bệnh,

vòng đời, tính kháng thuốc, di truyền, sinh sản hoàn toàn khác nhau [38]. Phương

pháp hình thái học cũng khó phát hiện được những trường hợp bị nhiễm nhẹ. Hơn

thế nữa, việc lấy phân trở nên khó khăn nếu không được sự bằng lòng của người

cần xét nghiệm [85]. Hiện nay, bằng hình thái học đã xác định ở Việt Nam có 2

loài: C. sinensis có tinh hoàn phân nhánh, phân bố ở các tỉnh đồng bằng bắc bộ và

loài O. viverrini có tinh hoàn phân thùy phân bố ở các tỉnh miền trung (Phú Yên,

Bình Định, Quảng Nam.v.v) [29].

8

1.2.3.2. Xác định loài sán lá gan nhỏ bằng sinh học phân tử

Việc xác định thành phần loài sán lá ở Việt Nam chủ yếu dựa vào đặc điểm

hình thái học nhưng để phân biệt trứng giữa 2 loài SLGN và sán lá ruột nhỏ là khó

do trứng của 2 loài này rất giống nhau và quá trình lây truyền cũng hoàn toàn giống

nhau do ăn phải cá nước ngọt có chứa ấu trùng nang sán, tuy nhiên tác hại và điều

trị bệnh thì khác nhau. Vì những hạn chế trong phân loại bằng hình thái học như

vậy nên việc xác định loài bằng phương pháp sinh học phân tử là cần thiết để xác

định chính xác loài SLGN [63].

Năm 2001, Lê Thanh Hoà, Nguyễn Văn Đề, lần đầu tiên giám định loài

SLGN ở Việt Nam bằng sinh học phân tử chính xác là Clonorchis sinensis

(Eukaryota; Metazoa; Platyhelminthes; Trematoda; Digenea; Opisthorchiida;

Opisthorchiata; Opisthorchioidea; Opisthorchiidae; Clonorchis) [40].

Từ năm 2002, lần lượt các mẫu sán lá gan thu thập trên người đã được xác

định thành phần loài bằng hình thái học và thẩm định bằng sinh học phân tử hệ gen

ty thể. Các mẫu SLGN trên người ở các tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định và

Bắc Giang đã được xác định là Clonorchis sinensis. Các mẫu sán lá gan nhỏ trên

người ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định đã được xác định là Opisthorchis viverrini.

Trong nghiên cứu này, mẫu SLGN trên người Nghệ An (thu thập khi điều trị) và

mẫu SLGN trên người Đồng Nai (thu thập khi phẫu thuật gan-mật) đã được xác

định bằng hình thái học là Clonorchis sinensis. Bằng kỹ thuật sinh học phân tử cho

kết quả, 410 nucleotit và 136 acid amin của đoạn gen cytochrome oxidase 1 (cox1)

của hệ gen ty thể loài sán lá gan nhỏ Clonorchis sp thu thập từ người tại Nghệ An

(CsNA) và Đồng Nai (CsDN) có giải trình tự tương đồng về nucleotid 99,5-99,8%

và tương đồng acid amin 100% so với Clonorchis sinensis trên người ở Nam Định

(CsND) đã được thẩm định trước đây. Như vậy, SLGN trưởng thành trên người tại

Nghệ An và Đồng Nai được thẩm định bằng sinh học phân tử hệ gen ty thể là

Clonorchis sinensis thuộc họ Opisthorchiidae, giống Clonorchis [31].

9

1.3. Chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh sán lá gan nhỏ

1.3.1. Chẩn đoán lâm sàng bệnh sán lá gan nhỏ

Triệu chứng lâm sàng của bệnh SLGN phụ thuộc nhiều vào cường độ nhiễm

và sức đề kháng của vật chủ.Với những trường hợp cường độ nhiễm thấp, các triệu

chứng lâm sàng của người nhiễm SLGN không biểu hiện rõ rệt. Những trường hợp

nhiễm trên 100 sán thì triệu chứng xuất hiện rõ [5, 7]. Trong giai đoạn khởi phát

thường có những rối loạn dạ dày, ruột, chán ăn, ăn không tiêu, buồn nôn, đau âm ỉ

vùng gan, tiêu chảy và táo bón bất thường. Ở giai đoạn này bệnh nhân có thể bị phát

ban, nổi mẩn và bạch cầu ái toan tăng đột ngột, sang thời kỳ toàn phát những triệu

chứng này càng rõ rệt hơn. Về triệu chứng chung, bệnh nhân bị thiếu máu, gầy sút,

phù nề, đôi khi sốt thất thường [5,45].

1.3.2. Chẩn đoán cận lâm sàng bệnh sán lá gan nhỏ

Do triệu chứng lâm sàng thường không đặc hiệu, nên chẩn đoán khẳng định

bệnh SLGN cần phải xét nghiệm phân tìm trứng sán với những kỹ thuật như Kato,

Kato-Katz. Xét nghiệm phân tìm trứng vẫn là chuẩn vàng cho chẩn đoán bệnh sán

lá gan nhỏ [105]. Chẩn đoán SLGN phải dựa vào nhiều yếu tố như: (1) dựa vào

triệu chứng lâm sàng (chỉ có tính chất tham khảo không chính xác vì các triệu

chứng của bệnh không điển hình); (2) dựa vào xét nghiệm ký sinh trùng học để tìm

trứng, ấu trùng, hoặc sán trưởng thành; (3) Các phương pháp chẩn đoán miễn dịch

học thường cho kết quả không chính xác vì thường có đáp ứng miễn dịch chéo giữa

các loại giun sán (4) Hiện nay, kỹ thuật chẩn đoán bằng sinh học phân tử đã và đang

là chẩn đoán chính xác cho việc phát hiện và định loại các loài giun sán[113].

1.3.3. Điều trị sán lá gan nhỏ

1.3.3.1. Nguyên tắc và thuốc điều trị sán lá gan nhỏ

Việc điều trị bệnh SLGN cho cá nhân người bệnh cần phải lựa chọn từng loại

thuốc thích hợp, đạt hiệu quả cao và theo dõi chặt chẽ tác dụng phụ của thuốc. Nếu

điều trị bệnh SLGN cho cộng đồng cần nghiên cứu phác đồ phù hợp, dễ sử dụng, có

thể áp dụng điều trị hàng loạt tại thực địa và phải đạt hiệu quả điều trị cao. Thuốc

lựa chọn để điều trị bệnh SLGN cần đạt những yêu cầu sau: hấp thụ dễ qua đường

uống; không độc đối với vật chủ; tác dụng điều trị đặc hiệu cao với SLGN.

10

Trong điều trị SLGN thuốc điều trị chủ yếu là praziquantel[2]. Hiện nay,

praziquantel được sử dụng để điều trị SLGN với liều 75 mg/kg cân nặng/ngày chia 3

lần, uống cách nhau 4-6 giờ. Hiệu quả điều trị tốt, tác dụng phụ tương đối thấp, có

thể an toàn cho điều trị ngoại trú hay tại cộng đồng [35, 101].

1.3.3.2. Thuốc praziquantel

Praziquantel là thuốc thiết yếu để điều trị SLGN và được sử dụng rộng rãi nhất

hiện nay. Praziquantel có hoạt phổ chống sán rộng, bao gồm các loại sán lá, sán

máng và sán dây. Có tác dụng trên cả ấu trùng và sán trưởng thành [3]. Thuốc xâm

nhập nhanh vào toàn bộ cơ thể sán, làm tăng tính thấm của màng tế bào ở sán dẫn

đến mất Ca++ nội bào, làm co cứng và liệt cơ. Ngoài ra, thuốc còn tạo ra các không

bào trên da sán sau đó vỡ ra phân hủy làm sán bị tiêu diệt [3]. Về Chỉ định và liều

dùng: sán máng, sán lá: 25mg/kg/lần x 3 lần/ngày x 1 ngày, dùng 1-2 ngày; Sán

dây: 5-10mg/kg liều duy nhất. Ấu trùng sán: 50mg/kg/24 giờ chia lần, đợt 15-20

ngày. Thuốc nên uống trong bữa ăn, không được nhai [3]. Tác dụng không mong

muốn thường gặp là khó chịu, nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, mệt mỏi. Các tác

dụng không mong muốn chủ yếu do độc tố của sán tiết ra khi phân hủy là buồn nôn,

nôn, kích thích thần kinh, nhức đầu, động kinh. Để giảm các tác dụng không mong

muốn nên phối hợp với dexamethason hoặc prednisolon [3]. Chống chỉ định cho trẻ

em dưới 4 tuổi, người mang thai, phụ nữ cho con bú [3]. Chế phẩm gồm Biltricid,

Cysticid, viên nén 600mg [3].

1.3.4. Nguyên tắc phòng bệnh sán lá gan nhỏ

Phòng bệnh SLGN là dựa vào chu kỳ sống của chúng mà chọn biện pháp can

thiệp vào mắt xích nào (cắt đứt một hoặc các mắt xích) trong chu kỳ phát triển của

chúng để đạt được hiệu quả cao nhất. Đó là chống phát tán trứng ra môi trường

ngoài bằng quản lý phân; chống vectơ truyền bệnh bằng diệt vật chủ trung gian như

ốc, cá nước ngọt (biện pháp này không thực tế); chống nhiễm bệnh bằng cách

không ăn cá chưa nấu chín (là biện pháp khả thi). Mặt khác, để đảm bảo sức khoẻ

cho người bệnh và góp phần diệt mầm bệnh, cần thiết tiến hành điều trị đặc hiệu

cho bệnh nhân nhiễm SLGN kết hợp với vệ sinh môi trường (quản lý phân và không

cho cá ăn phân người) và điều trị cho động vật mang bệnh [29].

11

1.4. Các nghiên cứu về tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người

1.4.1. Các nghiên cứu về tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người trên thế giới

Clonorchis sinensis phân bố ở Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản,

Việt Nam và phía Đông nước Nga; O. viverrini phân bố ở Đông Nam Châu Á, gặp

trên người Thái Lan, Lào, Malaysia, Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc [117],

[130]. Có khoảng 3 triệu người ở các nước Thái Lan, Lào, Campuchia, miền Nam

Việt Nam nhiễm O. viverrini; trên 19 triệu người ở các nước Trung Quốc, Triều

Tiên, Đài Loan, Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam nhiễm C. sinensis [7].

Nghiên cứu của Chai và cộng sự đã cho kết quả bảng 1.1 báo cáo về tỉ lệ

hiện mắc của SLGN như sau [79].

Ở Nhật Bản, trong giai đoạn năm 1886-1898, tỉ lệ nhiễm SLGN là 30-67%

dọc sông Ton, hồ Kasumigaura, đồng bằng Nobi, Aichi và Gifu, vùng hồ Biwa,

sông Onga và sông Chigugo, năm 1963 có nơi tỉ lệ nhiễm 40-50% (Otsuru) [29]. Ở

Nhật Bản, C. sinensis là khá phổ biến trước đây, nhưng đã được kiểm soát thành

công từ những năm 1960 [79].

Ở Triều Tiên, trường hợp C. sinensis đầu tiên được công bố năm 1915. Năm

1958 tỉ lệ nhiễm 11,7%; năm 1969 tỉ lệ nhiễm 4,7% bằng xét nghiệm phân Kato. Tỉ

lệ nhiễm 11,1-21,1% bằng test trong da. Bằng test trong da với kháng nguyên C.

sinensis học sinh tiểu học dọc sông lớn như sông Han, sông Nakdong, sông Kuno,

sông Yeongsan và sông Mangyong. Rim và cộng sự, năm 1973 nghiên cứu tại sông

Nakdong gần Pusan miền Đông Triều Tiên tỉ lệ nhiễm tới 82,9% ở làng Kimhae

Gun và cường độ nhiễm 10.698 trứng/gam phân trong số 284 trường hợp. Năm

1981, Seo và cộng sự xét nghiệm phân cho 13.373 người, tỉ lệ nhiễm trung bình là

21,5%, cao nhất ở sông Nakdong (40,2%) và thấp nhất ở sông Mangyong (8%) ước

tính có 830.000-890.00 người có nguy cơ trong số 4 triệu người tại vùng lưu hành

bệnh [31]. Một nghiên cứu về tỉ lệ hiện mắc Clonorchiasis ở các vùng dịch phía

Nam của Triều Tiên năm 2006, khảo sát tỉ lệ hiện mắc SLGN trong các cư dân sống

trong các làng dọc theo 4 sông chính là Nakdong-gang, Seomjin-gang, Youngsan-

gang và Guem- gang ở Nam Triều Tiên từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2006, với tổng

số của 24.075 mẫu vật được thu thập ở 23 khu vực và xét nghiệm bằng kỹ thuật

12

lắng cặn formalin-ether. Số lượng người bị nhiễm C. sinensis là 2.661 (11,1%)

[88].Ở Triều Tiên, tỉ lệ người nhiễm SLGN là 4,6% năm 1971, 1,8% năm 1976,

2,6% năm 1981,2,7% năm 1986, 2,2% năm 1992, 1,4% năm 1997 và 2,9% năm

2004. Năm 2008, ước tính có khoảng 1,4 triệu người Triều Tiên nhiễm SLGN.

Người dân sống gần sông Nakdongcho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN cao nhất (40-48%)

[123]. Một khảo sát về tỉ lệ nhiễm C. sinensis ở người dân sống dọc 5 sông chính ở

Triều Tiên, tỉ lệ nhiễm C. sinensis là 8,4%[147].

Ở Trung Quốc, C. sinensis phân bố ở hầu hết các vùng của Trung Quốc, trừ

vùng Tây Bắc. Miền Nam Trung Quốc, đặc biệt ở tỉnh Kwangtung tỉ lệ nhiễm trên

40%, có làng nhiễm 100% [29]. Bệnh SLGN được phân bố trong tổng số 24 tỉnh,

thành phố và vùng tự trị [82]. Tỉnh Quảng Đông (bao gồm Hồng Kông) và khu tự

trị Guangxi Zhuang, các tỉnh Heilongjiang, Jilin và Liaoning là các vùng với tỉ lệ

nhiễm được ghi nhận cao nhất [145]. Trong một khảo sát mang tính quốc gia, tỉ lệ

hiện mắc C. sinensis là 0,4% trong tổng số 1,5 triệu người được xét nghiệm phân

[142]. Dựa trên số liệu này, số lượng người nhiễm ở Trung Quốc là khoảng 6 triệu

[79].

Ở Đài Loan, trường hợp đầu tiên của C. sinensis được Choi phát hiện năm

1915 và được nghiên cứu chi tiết bởi Chow (1960), Kim và Kuntz (1964), Cross

(1969). Có 3 vùng lưu hành bệnh như Meinung, Kaohsing, Hsien ở miền Nam, hồ

Sun-Moon và Miao-Li ở miền Trung. Bằng xét nghiệm phân tại Meinung cho thấy

10-52% nhiễm C. sinensis, tại vùng gần hồ Sun-Moon tỉ lệ nhiễm 39-51% và tại

Miao-Li tỉ lệ nhiễm 57% [29].

Ở Lào, một nghiên cứu năm 2010, xác định được tỉ lệ nhiễm SLGN tại 3

trường học của huyện Champhon, Savannakhett, Lào như sau: tỉ lệ nhiễm chung ở

học sinh phổ thông là 42,8%. Cường độ nhiễm trứng < 500 trứng trung bình trong 1

gam phân (EPG) chiếm 68,83%; từ 500 -1000 trứng/gam phân là 27,71%; trên 1000

trứng/gam phân là 3,46% [50].

Ở Nga, C. sinensis được phân bố chủ yếu ở miền namViễn Đông, đặc biệt là

gần các lưu vực sông Amur, khoảng 3000 người được ước tính bị nhiễm bệnh [79,

118], [120], [134], 79.

13

Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo do mở rộng giới hạn về địa lý và cộng

đồng dân cư cùng với sự xuống cấp của môi trường làm tăng nguy cơ nhiễm SLGN

cho nhiều người ở các tầng lớp xã hội khác nhau [134].

1.4.2. Các nghiên cứu về tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người tại Việt Nam

Nhiễm SLGN đã được ghi nhận ở hầu hết các tỉnh miền Bắc của Việt Nam

với các tỉ lệ nhiễm SLGN khác nhau (0,2-37,5%), tỉ lệ này đặc biệt cao ở khu vực

đồng bằng sông Hồng. Tỉ lệ nhiễm cao nhất(26,0-37,5%) được tìm thấy ở tỉnh Nam

Định, tiếp đến là tỉnh Ninh Bình (23,5-31,0%) [91], [125].

Nghiên cứu của NguyễnVăn Đề điều tra trên 15 tỉnh có tập quán ăn gỏi cá

cho biết có nhiễm với tỉ lệ nhiễm SLGN trên người 0,2-37,3% và loài C. sinensis

gây bệnh SLGN ở miền bắc còn miền Trung được xác định là O. viverrini [25].

Điều tra ngẫu nhiên trên 10 huyện thị của tỉnh Hòa Bình, tỉ lệ nhiễm SLGN

là 5% nhưng phân bố ở 10/10 huyện thị. Đa nhiễm 2 loại ký sinh trùng trở lên

chiếm 60,6% (ở đồng bằng đa nhiễm 80%) [22].

Tỉ lệ nhiễm SLGN tại xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây là 39%

[48]. Tỉ lệ nhiễm SLGN tại hai xã Tân Thành và xã Yên Lộc, huyện Kim Sơn, tỉnh

Ninh Bình là 26,06%, cường độ nhiễm của 301 trường hợp là 472,75%± 3,12%

trứng/gam phân [62]. Tại hai xã Tân Thành và Yên Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh

Ninh Bình tỉ lệ nhiễm SLGN là 26,06% [62]. Tại Nam Định, trên 615 chủ hộ trong

vùng lưu hành bệnh SLGN ở Nam Định được xét nghiệm phân, tỉ lệ nhiễm SLGN

50,6% [30]. Tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định, cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN

24,7% (trong đó tỉ lệ nhiễm SLGN tại xã Nghĩa Hồng 43,2%, Nghĩa Hải 35,8%, Hải

Giang 26,1%, Hải Phong 29,1%, Hải An 21,8%, Giao Phong 6,9%, Giao Lâm 9%),

cường độ nhiễm trung bình 320 trứng/1gam phân [46].

Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2007, điều tra cắt ngang trên 400

công nhân ở 3 công ty chè tỉnh Phú Thọ cho biết tỉ lệ nhiễm SLGN là 22,25%,

cường độ nhiễm trung bình 1032 ± 590 trứng SLGN trong 1 gam phân [42].

Kết quả nghiên cứu nhiễm SLGN tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh,

thành phố Hải Phòng năm 2013 trên 510 đối tượng có tỉ lệ nhiễm SLGN chung tại

cộng đồng là 15,69% [17].

14

Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa năm 2004, cho thấy tỉ lệ

nhiễm SLGN trong đối tượng từ 15 tuổi trở lên tại xã Nga An là 25,3%, cường độ

nhiễm trung bình là 229,5 trứng /1 gam phân, 98,9% nhiễm ở mức độ nhẹ, chỉ có

1,1% nhiễm ở mức độ trung bình, không có đối tượng nào nhiễm ở mức độ nặng

[39]. Tỉ lệ nhiễm SLGN cho đối tượng từ 6 tuổi trở lên tại xã Nga An năm 2014 là

12,0%; cường độ nhiễm trung bình là 320,7 trứng/1 gam phân [66]. Như vậy, sau 10

năm cường độ nhiễm SLGN tại xã Nga An, huyện Nga Sơn không giảm mà còn

tăng (cường độ nhiễm trung bình là 229,5 trứng /1 gam phân năm 2004 so với

cường độ nhiễm trung bình là 320,7 trứng/1 gam phân năm 2014).

Tại Nghệ An, xét nghiệm phân theo phương pháp Kato-Katz cho 1.376

người chủ hộ nuôi cá cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN là 0,06% [30].

Bằng hình thái học Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Văn Đề và cộng sự năm

1997 đã xác định loài O. viverrini tại tỉnh Phú Yên [12]. O. viverrini được tìm thấy

ở ít nhất 8 tỉnh phía nam như Phú Yên, Bình Định, Đăk Lăk, Đà Nẵng, Quảng Nam,

Khánh Hoà với tỉ lệ nhiễm tương ứng là 36,9%, 11,9%, 7,6%, 0,3%, 4,6%, 1,4%

[29]. Tại xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định năm 2007, tỉ lệ nhiễm SLGN chung

của người dân là 10,9 % [68].

Tỉ lệ nhiễm SLGN

Hà Giang Yên Bái Bắc Kạn Phú Thọ

Hình 1.2. Các tỉnh, thành phố có người nhiễm sán lá gan nhỏ ở Việt Nam [Nguyễn Văn Đề [29]]

15

Ở Việt Nam, hiện có trên 7 triệu người có nguy cơ cao nhiễm SLGN trong

đó khoảng 1 triệu người nhiễm SLGN [30]. Bệnh SLGN là bệnh lưu hành địa

phương có liên quan đến thói quen ăn gỏi cá và được phân bố ở ít nhất tại 32 tỉnh,

thành phố trong cả nước, trong đó các tỉnh, thành phố có tỉ lệ nhiễm SLGN dưới

10% bao gồm: Hà Giang, Yên Bái, Bắc Kạn, Thái Bình, Hà Nam, Hoà Bình, Nghệ

An, Lai Châu; Điện Biên, Hải Dương, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai, Thừa Thiên

Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắk Lăk; Khánh Hòa, Đăk Nông, Lâm

Đồng), các tỉnh, thành phố có tỉ lệ nhiễm SLGN từ 10-20% bao gồm: Phú Thọ, Bắc

Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hoá, Bình Định, các tỉnh có tỉ lệ

nhiễm SLGN trên 20% bao gồm: Hà Nội, Nam Định, Quảng Trị, Phú Yên [7, 24,

61].

1.5. Các nghiên cứu về tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở cá nước ngọt

Ở Trung Quốc, có tổng số 102 loài cá và bốn loài tôm được công nhận là vật

chủ trung gian thứ hai của SLGN [109]. Một nghiên cứu trên tổng số 307 cá nước

ngọt của 31 loài đã được thu thập từ 5 vùng hành chính của khu tự trị Guangxi

Zhang. Chúng được kiểm tra bằng phương pháp phân hủy nhân tạo, ấu trùng nang

của C.sinensis được tìm thấy trong một loài cá Chanodichthys dabryi được mua từ

một chợ ở Nanning. Trong cá từ Yangshuo, tổng số 13 ấu trùng nang của C.

sinensis được tìm thấy ở 3 trong số 10 loài cá Hemibarbus maculates từ Yangshuo.

Trong cá từ Binyang-xian, một ấu trùng nang của C.sinensis được tìm thấy trong

loài cá Hemiculter leucisculus [104].

Ở Triều Tiên, 21 loài cá nước ngọt (n=677) được thu thập từ 34 vùng trong

cả nước, cá được xét nghiệm từng con một bằng kỹ thuật thủy phân. Tám loài cá

nước ngọt từ 17 khu vực khác nhau được ghi nhận có dương tính với ấu trùng nang

của C. sinensis. Tỉ lệ dương tính của cá ở các loài là như sau: 48% ở Pseudoras

parva, 60% ở Pungtungiaherzi, 15,7% ở Pseudogobio esocinus, 29% ở

Acheilognathus intermedia, 21% ở Odontobutis interrupta, 33% ở Zacco

temmincki, 3,6% ở Zacco lalatypus và 26,3% ở Hemibarbus labeo. Hai loài cá,

P.parva và P.hezi có thể được coi là chỉ số hay dấu hiệu cho biết sự lây truyền của

C. sinensis trong những vùng nhất định [78, 103].

16

Ở Thái Lan, một nghiên cứu cho thấy sự phân bố ấu trùng nang của SLGN ở

cá như sau: mô cá 66,99%; đầu cá 6,6-22,6 %; da cá 0,1-7,8%; vẩy cá 0,2-3,9% [72,

100].

Ở Việt Nam, điều tra ở vùng đồng bằng bắc bộ, xét nghiệm 10 loài cá nước

ngọt thì có 7 loài nhiễm ấu trùng nang của SLGN (cá mè, cá chép, cá trôi, cá trắm,

cá giếc, cá rô, cá rô phi), cao nhất là cá mè 44,47% [8]. Điều tra 4 loài cá (cá giếc,

cá chuối, cá rô, cá chạch trấu) ở xã An Mỹ, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên chỉ thấy có

cá giếc nhiễm ấu trùng nang của SLGN là 28,57% [9, 12]. Điều tra 10 loại cá nước

ngọt được bán tại các chợ ở thành phố Hà Nội thì có 7 loài bị nhiễm ấu trùng nang

của SLGN là cá rô phi, cá trắm, cá trôi, cá chép, cá giếc, cá chuối, cá trê, với tỉ lệ

nhiễm trung bình là 5,2% trong đó thấp nhất là cá rô phi nhiễm 1,7%, cao nhất là cá

chép nhiễm 21,7%. Tất cả 5 chợ điều tra đều có cá nhiễm ấu trùng nang của SLGN,

trong đó chợ Văn Điển có tới 7 loài cá nhiễm ấu trùng nang của SLGN. Như vậy, ở

Hà Nội cũng có thể bị nhiễm SLGN nếu ăn cá chưa nấu chín hoặc khi sử dụng

chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín dùng ăn ngay có nhiễm ấu

trùng nang của SLGN [27, 28,32]. Xét nghiệm 125 mẫu cá lấy từ 6 loài cá nước

ngọt (cá mè, cá Rô phi, cá trắm, cá trôi, cá chép, cá diếc) mua tại các chợ của bốn xã

vùng ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2014, có 6/6 loài cá được xét

nghiệm dương tính với ấu trùng nang SLGN. Loài ấu trùng nang SLGN được xác

định là loài Clonorchis sinensis bằng hình thái học [59]. Điều tra trên 15 tỉnh có tập

quán ăn gỏi cá, thì có 7/10 loài cá bị nhiễm ấu trùng nang của SLGN ở cá với tỉ lệ

13,3-44,5% [25].Tại xã Nga Tân, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cá mè

Hypophtalmichthic molitrix nhiễm ấu trùng nang SLGN là 88,9%, cá trôi Cirhina

molitorella nhiễm ấu trùng nang SLGN là 58,3% [24]. Tại huyện Nga Sơn, tỉnh

Thanh Hoá xét nghiệm 05 loài cá nước ngọt (cá chép, trắm, mè, trôi, rô phi) chỉ có

loài cá mè có nhiễm SLGN C. sinensis với tỉ lệ nhiễm 4%. Tại một nghiên cứu quan

sát mô tả được tiến hành để xác định tình trạng nhiễm ấu trùng sán lá trên 4 loài cá

thu mua tại một số siêu thị, cửa hàng tại Hà Nội gồm 52 các mẫu cá ngừ, cá hồi, cá

nhệch, cá mực và 92 mẫu của 6 loại cá nước ngọt gồm cá chép, cá diếc, cá rô phi, cá

tép dầu, cá thiểu, cá mương thu mua tại Hồ Thác Bà Yên Bái để xét nghiệm cho

17

thấy, trong 144 mẫu cá được xét nghiệm, có 50% (72/144) mẫu cá nhiễm ấu trùng

SLGN C.sinensis gồm 5/6 loài cá nước ngọt được xét nghiệm là cá chép, cá diếc, cá

tép dầu, cá thiểu, cá mương. Ấu trùng nang SLGN C.sinensis thử nghiệm trong các

nồng độ rượu 40o, 30o, 20o, trong nước chanh nguyên chất, nước chanh 50%, nước

chanh 25% sau 12 giờ đồng hồ đều không bị thoái hoá, chứng tỏ rượu và nước

chanh ở các nồng độ khác nhau không ảnh hưởng đến khá năng sống, không tiêu

diệt được ấu trùng C.sinensis. Kết quả của nghiên cứu đã góp phần đánh giá ô

nhiễm thực phẩm bởi mầm bệnh ký sinh trùng, đặc biệt cảnh báo cho việc sử dụng

các nguồn cá là thực phẩm, tiềm ẩn nguy cơ nhiễm SLGN nếu sử dụng chung dụng

cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín dùng để ăn ngay, đồng thời nghiên cứu

khẳng định quan niệm không đúng khi cho rằng rượu hoặc nước chanh có thể diệt

được ấu trùng SLGN C.sinensis và cần có các hoạt động truyền thông, giáo dục sức

khoẻ nhằm thay đổi nhận thức và thói quen ăn gỏi cá tại các vùng dịch tễ của bệnh

SLGN [18].

1.6. Các nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ

- Tuổi

Ở Triều Tiên, các số liệu có liên quan cho thấy tỉ lệ nhiễm đều cho tỉ lệ

nhiễm thấp ở dưới 20 tuổi nhưng tăng liên tục trong các độ tuổi 20, 30, 40 và 50 và

giảm xuống rõ ràng sau 60 tuổi. Các đỉnh của tỉ lệ mắc thường ở độ tuổi 40 hoặc 50

theo thời gian và địa điểm. Một khảo sát vào năm 1981 cho thấy trong các nhóm

tuổi 0-9; 10-19; 20-29; 30-39; 40-49; 50-59 và 60 trở lên có tỉ lệ mắc tương ứng là

0,6%; 18,9%; 25,5%; 29,9%; 26,6%; 20,1% [95, 122].

Ở Trung Quốc, một khảo sát quốc gia liên quan đến đỉnh của tỉ lệ nhiễm C.

sinensis là ở ba nhóm tuổi là 30-34 tuổi; 45-49 tuổi và 75-79 tuổi [143].

Ở Lào, tỉ lệ nhiễm SLGN O. viverrini tăng dần theo tuổi 7-10 tuổi 11,9%;

11-15 tuổi 39% và 16-20 tuổi 64,49% [50].

Ở Việt Nam, nghiên cứu tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định, cho thấy tỉ lệ

nhiễm tăng dần theo tuổi thấp nhất là nhóm 2-9 tuổi chỉ có 1,6%; nhóm 10-19 tuổi

là 5,2%; nhóm 20-29 tuổi là 23,4%; nhóm 30-39 tuổi là 28,1%; nhóm 40-49 tuổi là

38,0%; nhóm 50-59 tuổi là 37,9%; nhóm trên 60 tuổi là 34,1% [46]. Tại hai xã Tân

18

Thành và Yên Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình tỉ lệ nhiễm SLGN ở người có

nhóm tuổi từ 0-9, 10-19, 20-29, 30-39, 40-49, 50-59 và trên 60 có tỉ lệ nhiễm SLGN

lần lượt là 0,00%; 3,48%; 27,06%; 44,44%; 45,75%; 40,38%; 44,44%, tỉ lệ nhiễm

SLGN thấp nhất ở nhóm tuổi dưới 20 tuổi và cao nhất ở nhóm tuổi trên 60 ở cả nam

và nữ [62, 63]. Một nghiên cứu trên 1155 người dân ở hai xã thuộc miền bắc Việt

Nam, đã được phỏng vấn và xét nghiệm phân cho thấy, tỉ lệ nhiễm SLGN là 26%,

người bị nhiễm ít tuổi nhất là 13 tuổi và cao tuổi nhất bị nhiễm là 75 tuổi, tỉ lệ

nhiễm tăng dần theo tuổi và tỉ lệ nhiễm cao nhất ở nhóm tuổi từ 40-49 tuổi [64]. Tại

phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng, tỉ lệ nhiễm SLGN ở

người có nhóm tuổi từ 0-9, 10-19, 20-29, 30-39, 40-49, 50-59, 60-69 và trên 70 có tỉ

lệ nhiễm SLGN lần lượt là 0,00%; 0,00%; 4,76%; 11,11%; 13,79%; 15,79%;

20,00%, 22,22%, sự nhiễm SLGN theo nhóm tuổi này được tác giả giải thích qua

quan sát và phỏng vấn người dân là do tại phường Hoà Nghĩa, thói quen ăn gỏi cá,

tôm, cua .v.v chưa nấu chín là thói quen chung của người dân, tuy nhiên ở các nhóm

tuổi từ 20 tuổi trở lên là độ tuổi biết ăn gỏi cá, tôm, cua sống vì vậy tỉ lệ nhiễm

SLGN tăng dần ở các nhóm tuổi trên và chưa phát hiện tỉ lệ nhiễm SLGN ở nhóm

tuổi dưới 20 tuổi [17]. Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, tỉ lệ nhiễm

SLGN trong đối tượng từ 15 tuổi trở lên là 25,3%. Tỉ lệ nhiễm tăng dần theo lứa

tuổi, thấp nhất ở lứa tuổi 15-19 là 15,3%, lứa tuổi 20-29 là 20%; lứa tuổi 30-39 là

25,3%; lứa tuổi 40-49 là 39,3%; lứa tuổi 50-59 là 31,3%; lứa tuổi 60 trở lên là

25,5% [39]. Tại xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, tỉ lệ nhiễm SLGN

chung của người dân là 10,9 %. Tỉ lệ nhiễm tăng dần theo nhóm tuổi, thấp nhất ở

nhóm tuổi 10-14 tuổi là 1%, cao nhất ở nhóm tuổi 40-49 tuổi là 24,1% [68].

- Giới tính

Ở Triều Tiên, hầu hết các báo cáo về tỉ lệ nhiễm C.sinensis ở người đều ghi

nhận nam bị nhiễm nhiều hơn nữ. Một khảo sát quốc gia về bệnh SLGN ở khu vực

hai bên sông thấy tỉ lệ hiện mắc trung bình là 21,5%, trong đó 24,0% ở nam giới và

17,4% ở nữ giới năm 1981[95, 122].

19

Một khảo sát về tỉ lệ nhiễm C. sinensis ở người dân sống dọc 5 sông chính ở

Triều Tiên, tỉ lệ nhiễm C. sinensis là 8,4%, trong đó tỉ lệ nhiễm ở nam là 11,2% và

ở nữ là 6,2% [147].

Ở Trung Quốc, không có sự khác nhau đáng kể trong tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam

và nữ dưới 15 tuổi. Tỉ lệ nhiễm nặng hơn ở nam so với nữ trong các nhóm tuổi từ 20

đến 75. Một nghiên cứu gần đây ở vùng dịch tễ của Guangxi cũng chỉ ra kết quả

tương tự về sự phân bố theo tuổi và giới đối với nhiễm SLGN C. sinensis [142, 143,

145].

Ở Lào, một nghiên cứu cho học sinh thuộc huyện Champhon, tỉnh

Savannakhet cho tỉ lệ nhiễm SLGN chung là 42,8% trong đó, nam 58,9% và nữ

26,7% [50].

Ở Việt Nam, tại tỉnh Phú Thọ, nghiên cứu tiến hành trên 400 công nhân của 3

công ty chè cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN nhỏ là 22,25%, trong đó tỉ lệ nhiễm SLGN ở

nữ công nhân là 16,7%, ở nam là 27,4% [42]. Tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương

Kinh, thành phố Hải Phòng, tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam là 17,07% và ở nữ là 14,39%

[17]. Tại xã Nga Tân, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tỉ lệ nhiễm SLGN C.

sinensis là 11%, trong đó nam giới nhiễm SLGN cao hơn nữ giới trên 6 lần [24].

Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, tỉ lệ nhiễm SLGN trong đối tượng

từ 15 tuổi trở lên là 25,3%, tỉ lệ nhiễm ở nam là 34,4% cao gấp 2 lần ở nữ [39]. Tại

xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân

từ 15 tuổi trở lên là 8,7%, trong đó tỉ lệ nhiễm ở nam cao hơn ở nữ (11,2% so với

1,2%) [49]. Tại tỉnh Nam Định và Ninh Bình, Nguyễn Văn Đề và cộng sự cho thấy

tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam cao hơn ở nữ 4 lần [25]. Nghiên cứu tại 3 huyện ven biển

tỉnh Nam Định, cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN 24,7%, trong đó, nam (35,7%) cao hơn

nữ (15,6%) [46]. Tại Đắc Lắc, nghiên cứu tại lưu vực sông Srepok cho thấy nhiễm

SLGN ở nam là 6,6% và nữ là 7,0% [19]. Tại xã Mỹ Quang, Huyện Phù Mỹ, tỉnh

Bình Định, tỉ lệ nhiễm SLGN chung của người dân là 10,9 %. Tỉ lệ nhiễm ở nam là

18,2%, nữ là 3,8% [68].

20

- Nghề nghiệp

Ở Trung Quốc, tỉ lệ nhiễm SLGN cao trong nông dân và tiểu thương (2,41%),

thương gia (0,79%), giáo viên (0,59%) và binh lính (0,50%) [143].

Ở Việt Nam, tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng,

tỉ lệ nhiễm SLGN ở học sinh, sinh viên, giáo viên, người nghỉ hưu, mất sức là 0,0%,

ở công nhân, cán bộ viên chức là 10,8% và ở nông dân là 18,4% [17]. Nghiên cứu

của Đỗ Thái Hòa tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa cho thấy trong số

những người từ 15 tuổi trở lên nhóm đối tượng làm nghề nông có tỉ lệ nhiễm SLGN

cao gấp gần 2 lần so với các nhóm đối tượng có nghề nghiệp khác [39].

- Trình độ học vấn

Ở Việt Nam, một nghiên cứu tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá

cho thấy nhóm có học vấn từ phổ thông trung học trở lên có tỉ lệ nhiễm là 10,8%

trong khi nhóm có học vấn từ phổ thông trung học trở xuống có tỉ lệ nhiễm là 26,9%

[39]. Nghiên cứu tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định, cho thấy tỉ lệ nhiễm cao nhất

ở những người có trình độ đại học là 46,2% [46].

49- Kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ

Bệnh SLGN là một trong những nguyên nhân trong cơ chế tiến triển gây ung

thư biểu mô đường mật trong gan (cholangiocarcinoma), với gần như 100% tử vong ở

người [126], thì qua điều tra mới chỉ có 13% người dân biết về tác hại của nhiễm

SLGN là có thể gây ung thư biểu mô đường mật trong gan [56]. Do vậy, cần tuyền

truyền, giáo dục sức khoẻ về tác hại của SLGN trong đó có nguy cơ gây ung thư

biểu mô đường mật trong gan của SLGN và biện pháp phòng, chống SLGN đến

người dân trong các cộng đồng có tập quán ăn gỏi cá và vùng dịch tễ về bệnh SLGN

như ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

Nghiên cứu ở những người từ 15 tuổi trở lên tại xã Nga An, huyện Nga Sơn,

tỉnh Thanh Hoá cho thấy, về kiến thức, chỉ có 46,5% có kiến thức đạt yêu cầu, trong

đó 55,6% đối tượng biết rằng ăn gỏi cá có thể nhiễm sán, 50,5% biết tác hại của

SLGN, 33,6% có kiến thức phòng bệnh đạt yêu cầu, 9,7% có kiến thức đúng về thời

gian ủ phân. Về thái độ, có 42,5% đạt yêu cầu, trong đó, 36% đối tượng cho rằng

SLGN không có hại cho sức khoẻ, hoặc không biết. Chỉ có 66,4% cho rằng bệnh

21

nhiễm SLGN có thể phòng ngừa được, 39% cho rằng xử lý phân trước khi sử dụng

là cần thiết. Về thực hành, có 30,6% đạt yêu cầu thực hành chung. Tỉ lệ nhà tiêu hợp

vệ sinh trong tổng số hộ điều tra là 29,6%. Trong 241 hộ có sử dụng phân, chỉ có

14,5% xử lý phân hợp vệ sinh [39].

Hiểu biết về bệnh SLGN là yếu tố rất quan trọng nhằm giúp những cá nhân,

tập thể có thái độ đúng và thực hiện các biện pháp phòng, chống, điều trị có hiệu

quả. Do vậy, việc đánh giá kiến thức của các nhóm đối tượng khác nhau sẽ giúp để

đề ra các biện pháp giáo dục, nâng cao nhận thức và phòng, chống hợp lý. Nghiên

cứu đánh giá hiểu biết về các bệnh giun sán của học sinh trung học cơ sở xã Mường

Lạn, tỉnh Sơn La mà chủ yếu là đối với học sinh lớp 9 cho thấy chỉ có 55,78% biết

về bệnh sán lá gan, có 63,9% hiểu sai về đường truyền bệnh giun sán [69]. Nghiên

cứu thực trạng và nhận thức của sinh viên văn bằng hai đại học dược Hà Nội về

bệnh sán lá gan nhỏ cho thấy, có 79,2% sinh viên có biết về bệnh SLGN; 89,4%

sinh viên biết được đường lây bệnh SLGN là đường ăn uống, vẫn còn 5,3% cho

rằng bệnh SLGN lây qua truyền máu không an toàn và không khí; 63,6% sinh viên

sẽ khuyên người khác không nên ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín vẫn còn (31,8%) sinh

viên được hỏi không khuyên gì cả và vẫn còn 29,2% sinh viên được hỏi vẫn ăn gỏi

cá, cá nấu chưa chín[54]. Một nghiên cứu cắt ngang bằng phỏng vấn 82 cán bộ quản

lý tại 4 xã ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, cho thấy tỉ lệ cán bộ quản lý

cho rằng đường lây truyền của bệnh SLGN là ăn thịt cá nhúng tái chiếm tỷ lệ cao

nhất (89,0%). Tỉ lệ cán bộ quản lý cho rằng tác hại của nhiễm SLGN là rối loạn tiêu

hóa chiếm tỷ lệ cao nhất (78,2%) và chỉ có 7,7% biết SLGN có thể gây ung thư biểu

mô đường mật trong gan.Cán bộ quản lý biết nguồn thông tin về bệnh SLGN qua

cán bô y tế xã, phường chiếm tỷ lệ cao nhất (85,4%) [60]. Tỷ lệ cán bộ quản lý và

người dân tại 4 xã ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình có nhu cầu nâng cao

kiến thức về phòng, chống SLGN lần lượt là 98,7% và 91,3%; Thái độ của cán bộ

quản lý và người dân khi nhìn thấy người khác ăn gỏi cá là có đưa ra lời khuyên

người khác không ăn gỏi cá lần lượt là 71,9% và 45,2% [58]. Chỉ có 38,3% người

dân cho rằng khi sử dụng phân tươi của người hoặc gia súc để nuôi cá có thể nhiễm

sán lá gan nhỏ[57] và 57,5% cán bộ quản lý cho rằng khi sử dụng phân tươi của

22

người hoặc gia súc để nuôi cá có thể nhiễm sán lá gan nhỏ [55]. Do vậy, cần phải

tập huấn, đào tạo và tuyên truyền để những cán bộ làm quản lý và người dân có

thêm kiến thức về phòng, chống nhiễm SLGN. Sử dụng phân bắc tươi trong nuôi

trồng thuỷ sản là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng nhiễm

ký sinh trùng trong thuỷ sản nói chung và lây truyền SLGN nói riêng, nghiên cứu ở

tỉnh Nam Định cho thấy, vẫn còn 26,7% cơ sở nuôi trồng thuỷ sản sử dụng phân bắc

tươi và 10,0% cơ sở trồng trọt sử dụng phân bắc tươi chưa ủ để tưới, bón rau xanh,

đây là yếu tố nguy cơ làm lan truyền các mầm bệnh ký sinh trùng trong môi trường

[1].

Tại xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, nghiên cứu cho thấy, về

kiến thức, có 47,7% có kiến thức chung về bệnh SLGN đạt; 62,7% đối tượng biết

đường lây truyền, 49,2% biết được món ăn gây nhiễm bệnh SLGN là gỏi cá giếc;

61,2% có kiến thức đạt về sự nguy hại của SLGN và chỉ có 33,5% có kiến thức

phòng bệnh SLGN đạt. Về thái độ, thái độ chung về bệnh SLGN của đối tượng đạt

là 41,7%. Về sự nguy hại của SLGN có 46,3% đối tượng có thái độ đạt, về khả năng

phòng, chống bệnh SLGN có 54,7% đối tượng có thái độ đạt. Về thực hành, có

34,7% đạt thực hành chung [68].

Qua hai nghiên cứu nói trên cho thấy, tuy khác nhau về địa điểm và thời gian

nghiên cứu nhưng kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng, chống

nhiễm SLGN còn thấp và có mối liên quan giữa giới tính, kiến thức, thái độ, hành vi

ăn gỏi cá, thực hành sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh và thực hành chung của đối tượng

với tình trạng nhiễm SLGN. Nhóm có kiến thức, thái độ, thực hành đạt yêu cầu thì

có tỉ lệ nhiễm SLGN thấp hơn nhóm không đạt yêu cầu [39, 68]. Do vậy, việc đẩy

mạnh công tác thông tin, giáo dục và truyền thông về phòng, chống SLGN là cần

thiết nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành về phòng chống SLGN cho cộng

đồng.

- Ăn gỏi cá, cá sống hoặc chưa nấu chín

Ở Việt Nam, vùng đồng bằng Bắc Bộ có tập quán ăn gỏi cá sống như cá

chép, cá mè, cá trôi dưới dạng những lát mỏng. Một số tỉnh miền trung có phong tục

ăn cá giếc sống dưới hình thức ăn sống cả con cá đang bơi trong chậu, còn gọi là

23

gỏi sinh cầm [9, 12]. Thói quen ăn uống được hình thành dưới các điều kiện kinh tế,

xã hội cụ thể [101]. Điều tra 1.612 người tại 7 xã của 3 huyện Hải Hậu, Nghĩa Hưng

và Giao Thủy, tỉnh Nam Định có tới 54,8% đã từng ăn gỏi cá. Tỉ lệ ăn gỏi cá ở nam

(80,7%) cao hơn nữ (29,8%). Gỏi cá là món ăn khoái khẩu của nhân dân ở vùng

này, có tới 41% người cho là món ăn ngon miệng; có 26,7% là do thói quen và

32,6% là do mát, bổ. Loài cá được ưa thích làm gỏi cá để ăn tại các điểm điều tra là

cá mè (51,0%). Đối với nguồn gốc cá dùng ăn gỏi, kết quả nghiên cứu cho thấy có

71,2% số người được hỏi trả lời lấy cá ở ao nhà làm gỏi để ăn, cá mua ở chợ làm

gỏi để ăn chỉ chiếm 12,8%. Có 4,9% làm gỏi cá từ cá nước biển hoặc cá nước lợ, có

35,1% số người được hỏi cho biết đã từng ăn cá nấu chưa chín (lẩu cá, cá nướng, cá

nhúng, cá hấp, cá rán chưa chín) [46]. Tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh,

thành phố Hải Phòng, tỉ lệ đối tượng được điều tra có thói quen ăn tôm, cua, cá

chưa nấu chín là 62,16% [17]. Tỉ lệ ăn gỏi cá của người dân tại 2 xã Yên Lộc và xã

Tân Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình là 75% [62]; Tỷ lệ cán bộ quản lý và

người dân tại 4 xã ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã từng ăn gỏi cá lần

lượt là 90,2% và 11,4% [58]. Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá năm

2004, tỉ lệ ăn gỏi cá là 68,8% [39], năm 2014 tỉ lệ ăn gỏi cá là 45,5% [66]. Tại xã

Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, tỉ lệ ăn gỏi cá của người dân ở xã Mỹ

Quang là 37,7%, có 62,1% có tần số ăn gỏi cá từ 5 lần trở lên trong năm [68]. Thói

quen ăn gỏi cá làm tăng nguy cơ nhiễm C. sinensis gấp 53 lần; có 3% người được

phỏng vấn không ăn gỏi cá nhưng vẫn nhiễm SLGN điều này có thể do sử dụng

chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn dùng để ăn ngay. Khuyến nghị của

nghiên cứu là sử dụng bộ câu hỏi điều tra đơn giản về thói quen ăn uống có thể

được sử dụng để sàng lọc những người sống trong vùng đang lưu hành bệnh SLGN,

cho phép điều trị quy mô rộng với praziquantel để tránh các tốn kém về thời gian và

kinh phí do phải xét nghiệm phân tìm trứng SLGN, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quá

trình chế biến thức ăn và ăn uống hợp vệ sinh có tầm quan trọng trong việc phòng,

chống bệnh SLGN [64].

- Sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín

24

Năm 2010, một khảo sát của Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc, cho thấy ở 64

tỉnh, thành phố ở Việt Nam có 46% người dân sử dụng chung dụng cụ chế biến thức

ăn sống và thức ăn đã nấu chín, thức ăn dùng ăn ngay [132]. Một điều tra khác tại

Đắc Lắc, có 73 người không ăn gỏi cá nhưng cũng nhiễm SLGN. Như vậy, tuy

không ăn gỏi cá nhưng nếu ăn cá chưa nấu chín kỹ hay dùng chung dụng cụ chế

biến cá sống như dao, thớt v.v. với thức ăn dùng ăn ngay cũng có thể bị nhiễm

SLGN [19].

- Sử dụng phân tươi của người, gia súc để bón ruộng, nuôi cá

Nhiều cộng đồng dân cư ở Việt Nam, hiện vẫn còn tập quán dùng phân

người, phân gia súc để nuôi cá và bón cho cây trồng. Tập quán này càng nguy hiểm

ở những cộng đồng có nhiều người bị bệnh SLGN và ăn gỏi cá. Vì tập quán này đã

chủ động làm phát tán bệnh SLGN. Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh

Hóa, trong tổng số 241 hộ có sử dụng phân chỉ có 14,5% xử lý phân hợp vệ sinh.

Trong đó, số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh chỉ chiếm 29,6% [39]. Nghiên cứu tại 3

huyện ven biển tỉnh Nam Định cho thấy tỉ lệ hộ gia đình có hố xí loại dội nước hợp

vệ sinh chiếm 39,3%, vẫn còn 1,7% hộ gia đình dùng phân người và 9,9% hộ gia

đình sử dụng phân chuồng ủ chưa kỹ để nuôi cá [46].

1.7. Các nghiên cứu về biện pháp phòng, chống sán lá gan nhỏ

Phòng, chống sán lá gan nhỏ thường liên quan đến việc kết hợp hai hoặc

nhiều hơn các biện pháp bao gồm TTGDSK, nâng cao sức khoẻ, điều trị và cải thiện

môi trường [138]. Chiến lược phòng, chống SLGN được Trung tâm phòng, chống

bệnh tật (CDC) của Mỹ, WHO và Uỷ ban kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ quốc

gia của Trung Quốc (NHFPC) đề xuất như sau:.

Bảng1.1. Chiến lược dự phòng và kiểm soát bệnh sán lá gan nhỏ

Tổ chức Nội dung Tài liệu tham

đề xuất khảo

CDC Không ăn cá nước ngọt sống, chưa nấu chín kỹ, http://www.cdc.gov

nấu chín cá (Nhiệt độ khoảng > 63oC), làm lạnh /parasites/clonorchi

(≤ -20oC trong 7 ngày; ≤ -35oC trong 15 giờ) s/faqs.html [80]

25

Nội dung Tổ chức Tài liệu tham

đề xuất khảo

WHO Đề nghị các biện pháp y tế công cộng vệ sinh thú http://www.who.int

y và thực hành an toàn thực phẩm để giảm nguy /mediacentre/factsh

cơ nhiễm SLGN, tăng cường an toàn và hiệu quả eets/fs368/en/[137]

của thuốc điều trị giun sán để kiểm soát sự hoành

hành của bệnh tật.

NHFPC Tăng cường độ bao phủ về các loại thuốc điều trị http://www.nhfpc.g

giun sán chuẩn và nhà tiêu hợp vệ sinh; làm tăng ov.cn/zhuzhan/zcjd

tỉ lệ kiến thức về phòng, chống ký sinh trùng và /201304/cba68ffe5

hành vi bảo vệ sức khỏe, nâng cao trình độ của 44c4902bd48b1cd7

cán bộ y tế tuyến cơ sở. d41e733.shtml

[114]

- Biện pháp điều trị người nhiễm sán lá gan nhỏ

Bệnh SLGN có thể được điều trị hiệu quả với praziquantelnếu được chẩn

đoán sớm và nhận dạng chính xác loài SLGN [84].

Theo khuyến cáo của WHO, điều trị với liều 25 mg/kg ba lầnmỗi ngày

trong hai ngày liên tiếp có thể đạt được tỷ lệ chữa khỏi93,9-100% [100, 139].

Ở Trung Quốc,mộtdự án kiểm soát bệnh SLGN trong vùng lưu hành ở

Trung Quốctrong giai đoạn 2001-2004, các nhóm điều trị chọn lọc bằng thuốc là

các cư dân đã được xét nghiệm có trứng ở trong phân và những người được xét

nghiệm dương tính này được điều trị với liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày với

thuốc praziquantel cách khoảng 5 giờ mỗi liều trong 1 ngày cho tất cả các cư dân

được điều trị trong các nhóm điều trị hàng loạt. Trong các vùng dịch nặng, điều trị

hàng loạt hai lần cho tất cả các cư dân vào năm 2001 và 2003 đã giảm tỉ lệ hiện mắc

từ 69,5% xuống 18,8%, trong khi điều trị hàng loạt hàng năm 4 lần đã giảm tỉ lệ

hiện mắc từ 48,0% trong năm 2001 xuống 8,4% năm 2004. Điều trị hàng năm có

chọn lọc cho các đối tượng dương tính với trứng đã giảm tỉ lệ dương tính với trứng

từ 54,9% trong năm 2001 xuống 15,0% trong năm 2004 và từ 73,2% trong năm

2001 xuống còn 12,3% năm 2004. Điều trị chọn lọc 6 tháng một lần giảm một cách

26

đáng chú ý tỉ lệ hiện mắc từ 59,5% năm 2001 xuống còn 7,5% năm 2004. Tất cả

những đối tượng được điều trị nhắc lại đều đã giảm tỉ lệ trứng/gam phân một cách

đáng chú ý. Điều trị hàng loạt hàng năm và điều trị có chọn lọc 6 tháng một lần đã

làm giảm tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ tái nhiễm, tỉ lệ giảm trứng xuống nhiều hơn so với điều

trị có chọn lọc hàng năm. Trong các vùng dịch vừa phải, tỉ lệ dương tính với trứng

là 24,8% và 29,7% năm 2001 nhưng là 1,9% và 1,3% sau 2 hoặc 3 lần điều trị chọn

lọc. Tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ mắc phải và tỉ lệ tái nhiễm trong một vùng dịch tễ vừa phải

là thấp hơn một cách đáng kể so với những tỉ lệ này của các vùng dịch tễ nặng.

Nghiên cứu cho thấy,điều trị hàng loạt nhắc lại hoặc điều trị chọn lọc với

praziquantel sau 6 đến 12 tháng nhắc lại là có hiệu quả cao cho phòng chống bệnh

SLGN trong các vùng dịch nặng. Trái lại, điều trị chọn lọc 1 hoặc 2 lần cùng với

giáo dục sức khỏe là có hiệu quả ở những vùng dịch vừa phải [87].

Ở Triều Tiên, một chương trình liên quan đến điều trịpraziquantel lặp đi

lặp lại cách nhau 6 tháng đã được thực hiện trong một làng, tỉ lệ nhiễm SLGN đã

giảm từ 22,7%(năm 1994) xuống 6,3% (năm 1998), nhưng chỉ điều trị là không đủ

để đạt được kiểm soát hoàn toàn được bệnh SLGN [84]. Đôi khi, hiệu quả của

praziquantel chữa bệnh SLGN cho người nghèo đã thất bại và không làm giảm tỉ lệ

nhiễm SLGN, mặc dù đã được điều trị lặp đi lặp lại lâu dài [131]. Ở Triều Tiên, tỉ lệ

hiện mắc C. sinensis vẫn cao bởi vì phát hiện ca bệnh trong cộng đồng là khó khăn

và các trường hợp đã được phát hiện thường không được chữa khỏi hoàn toàn do

điều trị thất bại. Nghiên cứu phòng, chống SLGN bằng điều trị thuốc praziquantel

có nhắc lại sau 6 tháng, qua xét nghiệm phân, tỉ lệ dương tính với trứng sán là

22,7%, nhưng đã giảm xuống 19,6% sau 6 tháng, 15,1% sau 12 tháng, 12,2% sau 18

tháng, 6,3% sau 24 tháng, 11,4% sau 30 tháng và 6,3% sau 42 tháng kể từ khi bắt

đầu điều trị bằng praziquantel nhắc lại [93].

Ở Lào, một nghiên cứu tiến hành năm 2006-2010 trên 217 bệnh nhân đến

khám bệnh tại khoa Truyền nhiễm bệnh viện 103 Viêng Chăn, Lào, nhóm 1 theo

phác đồ A (praziquantel 75mg/kg cho 1 ngày chia 3 lần, uống cách nhau 6-8 giờ),

nhóm 2 theo phác đồ B (praziquantel 25mg/kg/1ngày cho 3 ngày liên tục, uống vào

1 thời điểm nhất định trong ngày). Tỉ lệ sạch trứng ở phác đồ A tại các thời điểm:

27

sau 7 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 90,74%; 95,37%; 96,30% và

97,22%, trong khi phác đồ B là: 72,48%; 71,56%; 88,99% và 87,16%. Các bệnh

nhân điều trị với 2 phác đồ gặp các tác dụng không mong muốn như: nóng bừng,

mệt mỏi, buồn nôn, sôi bụng, chóng mặt, đau bụng và đau đầu. Phác đồ A với các tỉ

lệ tương ứng: 54,63%; 30,56%; 28,70%; 27,78%; 21,30%; 12,04% và 8,33%. Phác

đồ B: 55,95%; 44,95%; 24,77%; 26,61%; 25,69%; 9,17% và 5,50%. Hiệu quả điều

trị phác đồ A tại ở 3 trường học huyện Champhon, Savanakhett, Lào: tỉ lệ sạch

trứng sau 7 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 74,46%; 94,81%; 82,25%

và 48,48% Các tác dụng không mong muốn xẩy ra nhẹ và thoáng qua; giảm dần ở

những lần sau uống và mất đi không quá 60 phút sau khi dùng thuốc [50].

Ở Việt Nam, năm 1997, một nghiên cứu được tiến hành ở miền Bắc Việt

Nam chỉ đạt 29% tỷ lệ khỏi bệnh sau khi điều trị bệnh nhân SLGN với praziquantel

25 mg/kg x 1 lần/ngày x 3 ngày; có thể do liều lượng này của praziquantel là không

phù hợp [131]. Ngoài ra, tác dụng phụ thoáng qua bao gồm chóng mặt, nhức

đầu,nôn, buồn ngủ, tiêu chảy, nhức đầu,và dị ứng có thể xảy ra sau khi uống

praziquantel [80,106,120]. Nghiên cứu sử dụng liều praziquantel 25mg/kg chia 3

lần/ngày x 3 ngày có kết quả sạch trứng 80-100% [10]. Điều trị bằng thuốc

praziquantel liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày có hiệu quả cao trong điều trị C. sinensis

tại thực địa với tỉ lệ sạch trứng trên 96% và giảm trứng trên 99% sau can thiệp 6

tháng. Phác đồ trên áp dụng cho cộng đồng là an toàn và ổn định qua nhiều năm, dễ

áp dụng và được cộng đồng chấp nhận [62]. Nghiên cứu về hiệu quả điều trị của

thuốc đặc hiệu cho thấy việc điều trị sán lá gan bằng delagyl 0,5g/ngày x 10 ngày x

2 đợt, sạch trứng 45%; cloxyl 3g/ngày x 5 ngày, sạch trứng 70%; azinox

25mg/kg/ngày x 3 ngày ngày, sạch trứng 51%; medamin 10mg/kg/ngày x 5 ngày,

sạch trứng 19%; mebendazole 10mg/kg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 11,6%;

artemisinin 500mg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 28,6%; Praziquantel 25mg/kg/ngày x

3 ngày, khỏi bệnh 65-91%. Can thiệp một phần bằng điều trị đặc hiệu, làm giảm

đáng kể bệnh sán lá gan. Mỗi năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ

27,4% xuống còn 23,9% sau một năm và còn 11,8% sau hai năm. Cường độ nhiễm

giảm từ 1167 trứng/gam phân xuống còn 671 trứng/g phân sau một năm và còn 431

28

trứng/g phân sau 2 năm. Hai năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ

29,6% xuống còn 19,1% sau hai năm và còn 10,3% sau bốn năm, cường độ nhiễm

thay đổi không đáng kể (448 trứng/gam phân so với 437 trứng/gam phân). Ba năm

điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 36,9% xuống còn 29,2%, cường độ

nhiễm thay đổi đáng kể (303 trứng/gam phân so với 321 trứng/ gam phân) [20].

Theo nghiên cứu của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương các thuốc

thuộc nhóm Benzimidazole được dùng trong điều trị SLGN với kết quả chưa cao,

cụ thể là: medamin 10mg/kg/ngày x 5 ngày, kết quả sạch trứng 19%; mebendazole

10mg/kg/ngày x 5 ngày, kết quả sạch trứng 11,6%; albendazole 400mg/kg/ngày x 3

ngày sau 6 tháng, kết quả sạch trứng 37,5%, tỉ lệ giảm trứng 45,6% [22].

Praziquantel liều 25 mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày có hiệu quả cao trong điều trị

SLGN C. sinensis tại thực địa với tỉ lệ sạch trứng trên 96% và giảm trứng trên 99%

sau can thiệp 6 tháng [62].

Bảng 1.2. Các nghiên cứu về phác đồ và thuốc điều trị sán lá gan nhỏ

Thuốc điều trị Liều dùng Thông tin Hiệu quả Tham

về bệnh điều trị khảo

Dùng đường uống, Đồng Tỉ lệ khỏi [141] Praziquantel

nhiễm bệnh 18,8mg/kg x 2 lần/ngày x 2 giun khác (TLKB): ngày 56,8% (lần

1) và 75%

(lần 2).

Dùng đường uống, Không TLKB: 56% [119]

nhiễm 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 giun khác ngày

Dùng đường uống, Không TLKB: [86]

nhiễm 62,9% 25mg/kg x 3 lần giun khác

29

Thuốc điều trị Liều dùng Thông tin Hiệu quả Tham

về bệnh điều trị khảo

Đồng TLKB: 50% [141] Tribendimidine Dùng đường uống,

nhiễm (lần 1); 400 mg dùng một lần duy nhất giun khác 78,1% (lần

2).

Dùng đường uống, TLKB: 33% [141] Đồng

nhiễm 200 mg x 2 lần x 1 ngày giun khác

Dùng đường uống, Không TLKB: 44% [119]

nhiễm 400 mg dùng một lần duy nhất giun khác

Dùng đường uống, Đồng TLKB: 0% [141] Mebendazole

nhiễm (lần 1); 400 mg dùng một lần duy nhất giun khác 78,1% (lần

2).

- Biện pháp vệ sinh ăn uống

Bệnh SLGN liên quan chủ yếu đến thói quen ăn uống bắt nguồn từ truyền

thống văn hóa, xã hội. Do đó, để phòng bệnh cần có phương pháp mới để truyền

thông cho cộng đồng đối với việc lựa chọn thực phẩm, chuẩn bị thực phẩm và chế

biến thực phẩm. Chẩn đoán và điều trị chỉ là một phần trong việc kiểm soát bệnh

SLGN bởi vì bản thân chẩn đoán và điều trị sẽ chỉ có một ảnh hưởng trong một thời

gian ngắn nếu thiếu một chương trình dự phòng tốt[82].

Ở Thái Lan, một chương trình phòng, chống SLGN trong 10 năm không kể

những cố gắng khác để loại bỏ thói quen ăn gỏi cá ở đông bắc Thái Lan đã được

thực hiện để giảm việc thường xuyên ăn cá sống xuống còn một nửa nhưng việc

thỉnh thoảng người dân vẫn ăn cá sống là vẫn còn không thay đổi được [100]. Đây

là lý do cho nhiễm SLGN tồn tại dai dẳng trong cộng đồng và tỉ lệ tái nhiễm đối với

SLGN vẫn ở mức cao sau điều trị nếu không có các biện pháp truyền thông, giáo

30

dục sức khoẻ phòng, chống SLGN và giám sát hỗ trợ thường xuyên của nhân viên y

tế và những người có trách nhiệm trong cộng đồng.

Ở Việt Nam, nghiên cứu về tình hình tái nhiễm trên bệnh nhân sau iều trị

SLGN và một số yếu tố liên quan tại xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây

năm 2003 cho thấy, tỉ lệ tái nhiễm SLGN trên đối tượng nghiên cứu là khá cao

47,5%; Nguy cơ tái nhiễm SLGN ở nam cao gấp 4 lần so với nữ do tập quán và thói

quen ăn gỏi có chủ yếu là nam. Người dân và chính quyền xã rất mong muốn được

áp dụng các biện pháp phòng chống bệnh phù hợp với điều kiện địa phương đó là

truyền thông, cải tạo ao cá và điều trị cho người bệnh ngay tại địa phương [53].

- Biện pháp vệ sinh môi trường

Ở Thái Lan, một hướng dẫn của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp liên

hợp quốc cho việc áp dụng phương pháp phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới

hạn để quản lý ao cá được thực hiện tập trung vào cung cấp nước, thức ăn cho cá và

điều kiện ao cá để loại trừ sự ô nhiễm của các ao cá với các trứng O. viverrini và sự

lây nhiễm ở ốc. Một báo cáo sơ bộ đã chỉ ra một số thành công với nỗ lực lớn

nhưng một đánh giá đầy đủ về tính bền vững qua một giai đoạn nhiều năm là cần

thiết thì chưa được triển khai [102].

Dời nhà vệ sinh và chuồng nuôi lợn ra xa khu vực ao nuôi cá là cách hữu ích

để cải tạo môi trường [87] nhằm hạn chế sự lây nhiễm SLGN.

Xử lý phân là có hiệu quả đối với phòng, chống không chỉ đối với nhiễm

SLGN C. sinensis mà còn với cả các bệnh nhiễm khuẩn khác. Một trong nhưng lý

do tại sao phần lớn các bệnh ký sinh trùng không còn ở Nhật Bản sau chiến tranh

thế giới lần thứ II được xem là do sự cải thiện của các hệ thống nước thải trong toàn

nước Nhật [146].

- Biện pháp kiểm soát vật chủ trung gian

Sử dụng chiếu xạ đối với cá để kiểm soát sự lây nhiễm của ấu trùng SLGN

được thử nghiệm với loài C. sinensis [107], tuy nhiên, tính khả thi của phương pháp

về mặt kinh tế và sự chấp nhận của người tiêu dùng là khó khăn đối với việc sử

dụng phương pháp dự phòng này [79].

31

Trong khi hiệu quả của việc chiếu xạ đối với cá nước ngọt dường như không

dễ dàng thực hiện được trên quy mô lớn. Gần đây, việc chiếu xạ vào thịt cá bị

nhiễm ấu trùng SLGN bao gồm C. sinensis với tia Co-60 gamma đã được thực hiện

như một phương pháp có hiệu quả cho phòng, chống SLGN. Một liều tối thiểu 0,1

kGy là có hiệu quả chống lại metacercariae của các SLGN khác ví dụ như O.

viverrini, mà không làm thay đổi các đặc điểm hóa lý của thịt cá. Kỹ thuật này cho

thấy những triển vọng cho một phương pháp có hiệu quả để đảm bảo chất lượng cá

nước ngọt [82].

- Biện pháp truyền thông giáo dục sức khoẻ kết hợp với điều trị

Giáo dục sức khỏe bao gồm phát sóng của các chương trình giáo dục trên

truyền hình, chương trình phát thanh và các VCD, panô, áp phích, tranh vẽ tuyên

truyền có nội dung phòng, chống SLGN; Phát các sách mỏng, tờ rơi hướng dẫn

cách chăm sóc sức khoẻ, phổ biến các kiến thức liên quan đến bệnh cho người dân

và trẻ em trong các trường học [97, 128, 138]. Các chương trình giáo dục và nâng

cao sức khoẻ giúp tăng cường hiểu biết về phòng, chống nhiễm SLGN và sự cần

thiết phải tránh ăn cá nước ngọt sống hoặc chưa nấu chín, nên tăng cường tăng

cường điều trị và vệ sinh môi trường. Điều trị hàng loạt cho người dân dùng

praziquantel đã được áp dụng trong nhiều vùng lưu hành dịch SLGN và hứa hẹn

việc kiểm soát thành công bệnh SLGN [87]. Như vậy cho đến nay, điều trị đặc hiệu

kết hợp với TTGDSK là biện pháp hiệu quả hơn và có tính bền vững hơn so với

việc chỉ sử dụng biện pháp điều trị đặc hiệu [87, 138].

Truyền thông, giáo dục sức khỏe là một phương tiện hữu hiệu để thay đổi

thói quen truyền thống trong chuẩn bị và chế biến cá sống. Thói quen ăn uống của

con người trong các vùng dịch là không thể thay đổi trong giai đoạn ngắn. Sự

khuyến khích chuẩn bị thức ăn đúng cách là biện pháp có hiệu quả nhất. Tuy nhiên,

những cán bộ y tế cần sử dụng các kỹ thuật giao tiếp tốt để truyền đạt đến người dân

thông điệp này. Sự tuyên truyền giáo dục, kiên trì và liên tục nhấn mạnh vào tầm

quan trọng của nấu chín cá nước ngọt trước khi ăn được coi là biện pháp có hiệu

quả để phòng, chống bệnh SLGN [8].

32

Ở Việt Nam, nghiên cứu can thiệp bằng giáo dục truyền thông với các buổi

nói chuyện trực tiếp, các bài báo, qua đài phát thanh, truyền hình, họp dân kết hợp

điều trị ca bệnh của Nguyễn Văn Chương cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN tại xã An Mỹ,

huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên sau can thiệp 2 năm giảm từ 36,97% xuống 28,24%,

sau 4 năm còn 27,69% và sau 6 năm (1998) giảm 2,4 lần. Cường độ nhiễm SLGN

sau can thiệp giảm không đáng kể, cụ thể trước can thiệp năm 1992 cường độ nhiễm

303 trứng/gam phân, sau 4 năm (năm 1996) cường độ nhiễm 321 trứng/gam phân

và sau 6 năm (năm 1998) cường độ nhiễm 285 trứng/gam phân. Hiểu biết về

nguyên nhân gây bệnh của đối tượng can thiệp tăng lên sau can thiệp 6 năm (tỉ lệ

biết 2,85% năm 1992 so với 52,75% năm 1998); nhận thức về phòng, chống bệnh

SLGN cũng tăng lên (tỉ lệ nhận thức đúng 1,90% năm 1992 so với 50,45% năm

1998) [10]. Tại xã Hải Hoà, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, nơi có tập quán ăn gỏi

cá, với biện pháp giáo dục truyền thông trong cộng đồng phối hợp điều trị đặc hiệu

(bằng praziquantel 25mg/kg/ngày x 3 ngày) để phòng, chống bệnh, kết quả sau một

năm, tỉ lệ nhiễm giảm 64,9% (từ 37,5% xuống còn 13,1%), cường độ nhiễm giảm

94,7% (từ 970 trứng/gam phân xuống 42 trứng/gam phân) và tỉ lệ ăn gỏi cá giảm

89,1% (từ 80,4% xuống còn 8,8%) [91]. Với biện pháp giáo dục truyền thông trong

cộng đồng phối hợp điều trị đặc hiệu bằng praziquantel 25mg/kg/ngày x 3 ngày để

phòng chống bệnh. Kết quả sau 1 năm, tỉ lệ nhiễm giảm 64,9% (từ 37,5% xuống

13,1%), cường độ nhiễm giảm 94,7% (từ 970 trứng/gam phân xuống 42 trứng/gam

phân) và tỉ lệ ăn gỏi cá giảm 89,1% (từ 80,4% xuống còn 8,8%) [89, 90]. Nghiên

cứu của Ngọ Văn Thanh về thực trạng nhiễm sán lá truyền qua cá trên người, yếu tố

liên quan và hiệu quả một số giải pháp can thiệp tại huyện Nga Sơn, Thanh Hóa,

năm 2013-2014, cho hiệu quả điều trị bằng praziquantel và can thiệp truyền thông

giáo dục sức khỏe cộng đồng như sau: tỷ lệ sạch trứng sau điều trị từ 96,0% đến

96,9%, tỷ lệ giảm trứng là 100%. Tỷ lệ tái nhiễm ở nhóm không can thiệp (17,95%),

cao hơn nhóm can thiệp (1,66%); Còn tỷ lệ nhiễm mới cũng tương tự (1,15% so với

0,3%). Tỷ lệ, cường độ nhiễm sán của nhóm can thiệp giảm hơn nhóm không can

thiệp (tỷ lệ 87,9% so với 50%), cường độ giảm 89,9% so với 58,7%. Tỷ lệ hiểu

đúng về đường lây nhiễm bệnh sán lá của nhóm can thiệp tăng 44,2%, cao hơn

33

nhóm chứng chỉ tăng 4,3%. Tỷ lệ hiểu đúng về tác hại bệnh sán lá ở nhóm can thiệp

tăng 37,0%, cao hơn nhóm chứng chỉ tăng 1,2%. Tỷ lệ hiểu đúng về phòng chống

bệnh sán lá ở nhóm can thiệp tăng 39,6%, cao hơn nhóm chứng chỉ tăng 3,0%. Tỷ lệ

người dân ăn gỏi cá ở nhóm can thiệp giảm 75,8%, nhóm chứng chỉ giảm 3,4%. Tỷ

lệ hộ dân sử dụng phân người để canh tác và nuôi cá ở nhóm can thiệp giảm 11,5%,

giảm hơn nhóm chứng (chỉ giảm 1,5%). Tỷ lệ hộ dân xử lý phân người trước khi sử

dụng ở nhóm can thiệp tăng 23,4%, cao hơn nhóm chứng chỉ tăng 4,8% [66]. Sau 1

năm can thiệp cộng đồng bằng điều trị kết hợp với TTGDSK được tiến hành tại 5 xã

của huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình năm 2013-2014, là một tỉnh đã có chương trình

phòng, chống giun sán trong hơn 5 năm qua cho thấy: tỉ lệ nhiễm SLGN giảm còn

15,5% so với trước can thiệp (27,4%), chỉ số hiệu quả can thiệp đạt 43,3% [44]. Kết

quả nghiên cứu cho thấy hoạt động TTGDSK phòng, chống SLGN ở địa phương

chưa đạt hiệu quả cao trong cộng đồng. Nguyên nhân dẫn tới tỉ lệ nhiễm SLGN cao

là do người dân vẫn còn duy trì thói quen ăn gỏi cá, mặc dù một số điểm thí điểm

của chương trình phòng, chống SLGN, người dân được cấp thuốc liên tục trong 5

năm nhưng do ý thức phòng bệnh không được cải thiện (trước can thiệp người dân

có thói quen ăn gỏi cá là 84,8% và sau can thiệp 71,0%), nên tỉ lệ nhiễm SLGN

trong cộng đồng còn cao. Do vậy, cần có những giải pháp, mô hình, biện pháp can

thiệp cụ thể phù hợp hơn nhằm nâng cao ý thức, thay đổi hành vi không ăn gỏi cá,

cá nấu chưa chín, không dùng phân tươi để bón ruộng và cho cá ăn, nên tăng cường

tập huấn, đào tạo nâng cao năng lực truyền thông cho cán bộ y tế xã để hoạt động

phòng, chống SLGN có hiệu quả cao [44].

- Tổng hợp các biện pháp

Các thử nghiệm đối với điều trị hàng loạt được coi là không thành công do

thất bại trong điều trị hoặc tái nhiễm sau điều trị [95]. Do vậy, việc phối hợp các

biện pháp là cần thiết nhằm phòng, chống SLGN có hiệu quả hơn trong cộng đồng.

Chiến lược phòng, chống SLGN dựa trên sự phối hợp các hoạt động kiểm

soát trong hệ thống chăm sóc sức khoẻ ban đầu, với mục tiêu chính là giảm tỉ lệ

mắc bệnh, tuy nhiên, trong một số quận của Liên xô trước đây do không triển khai

đầy đủ các biện pháp dự phòng. Do vậy, trong các vùng dịch tễ trọng điểm các

34

thành tựu của các dự án kiểm soát thử nghiệm là không duy trì được bền vững và tỉ

lệ hiện mắc SLGN đã quay lại với mức độ ban đầu sau một giai đoạn 5 năm bởi vì

người dân vẫn tiếp tục ăn cá sống, cá muối, cá ướp lạnh hoặc nấu chưa chín kỹ. Sự

di cư của cá bị nhiễm bệnh và sự tiêu thụ cá của người dân địa phương và cả các

vùng lân cận làm cho các biện pháp kiểm soát không đạt hiệu quả [134].

Phòng, chống SLGN thông qua điều trị với thuốc praziquantel, vệ sinh môi

trường và giáo dục sức khỏe nhằm giảm việc ăn cá chưa nấu chín được nhiều

nghiên cứu đề cập. Trong nhiều vùng ở Đông nam Á tỉ lệ hiện mắc SLGN đang

giảm xuống do hiệu quả của biện pháp phòng chống, giá thuốc điều trị SLGN rẻ và

sự giảm trong sử dụng phân tươi để nuôi cá. Hệ thống xử lý rác thải tốt hơn sẽ là

cần thiết để tỉ lệ hiện mắc SLGN giảm hơn nữa [111].

Theo Tổ chức Y tế thế giới một chiến lược phòng, chống toàn diện có thể

được xây dựng hiệu quả dựa trên việc phối hợp các biện pháp phòng, chống. Giáo

dục dựa vào cộng đồng và truyền thông đại chúng là những nền tảng cần thiết cho

các chương trình phòng, chống SLGN. Các kỹ thuật chẩn đoán để nhận ra các cá thể

bị nhiễm SLGN và khảo sát để xác định tỉ lệ nhiễm SLGN trong các vùng dịch tễ.

Việc lựa chọn các cách thức điều trị dựa vào cộng đồng từ điều trị hàng loạt trong

các vùng có tỉ lệ hiện mắc cao đến điều trị chọn lọc đối với các cá nhân bị nhiễm có

thể được thực hiện theo khả năng của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Trong các vùng

dịch tễ, xây dựng và sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh sẽ là một phần của chương trình

phát triển toàn diện [134].

Hiện nay, còn nhiều khó khăn và những khoảng trống còn lại trong nghiên

cứu ngăn chặn sự lây truyền của bệnh SLGN. Thứ nhất, tỷ lệ và cường độ nhiễm

SLGN của người, động vật ăn cá trong quần thể và sự phân bố các vùng lưu hành

tại các quận, thị xã, thônđược biết chưa đầy đủ. Vẫn còn các trường hợp không

được chẩn đoán, chẩn đoán saixẩy ra [118, 140], chưa phát hiện triệt để và kịp thời

điều trị cho người nhiễm SLGN và vật chủ dự trữ mầm bệnh.Thứ hai, mặc dù đã

xác định được chu kỳ phát triển của C.sinensis trong điều kiện phòng thí nghiệm

[108], nhưng do các thói quen trong sinh hoạt, vệ sinh ăn uống, sự thiếu kiến thức

về phòng, chống bệnh SLGN do vậy hiệu quả của các biện pháp ngăn chặn sự lây

35

truyền từ các vật chủ trung gian là chưa hiệu quả. Kiểm soát bằng biện pháp sinh

học là vượt trội hơn so với các biện pháp kiểm soát khác bao gồm cả phương pháp

vật lý hoặc hóa học [99, 120]. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi một dự án lớn dài hạn

liên quan đến các nhà ký sinh trùng và các nhà sinh học cùng làm việc và hợp tác

với nhau để can thiệp vào sự tăng trưởng và sinh sản của ốc nước ngọt sử dụng

công nghệ kiểm soát bằng phương pháp sinh học và phát triển các loại vắc-xin hiệu

quả để ngăn chặn sự lây nhiễm các vật chủ trung gian C.sinensis (đặc biệt là cá

nước ngọt) là chiến lược kiểm soát khả thi.Thứ ba, do thiếu một mạng lưới giám sát

an toàn thực phẩm nhằm giảm mức độ cá nước ngọt phơi nhiễm với ấu trùng SLGN

[83] và hạn chế của các kỹ thuật phát hiện SLGN, một số lượng không nhỏ các loài

cá nước ngọt bị nhiễm SLGN đang lưu thông trên thị trường. Ngoài việc tiêu thụ cá

có nhiễm SLGN, các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm với phương pháp phát hiện

nhanh và chính xác bằng phương pháp sinh học phân tử[76, 116, 119]. Cuối cùng,

là tác hại gây bệnh của C. sinensis và vật chủ, các cơ chế bệnh sinh liên quan đến

nhiễm SLGN vẫn chưa rõ ràng [133, 98] để giúp chẩn đoán và giám sát sự tiến triển

của bệnh, cũng như sử dụng hiệu quả các loại thuốc điều trị. Tóm lại, do việc bị

lãng quen và chưa có các biện pháp can thiệp hệ thống, bệnh SLGN vẫn còn phổ

biến trên toàn thế giới, mặc dù một số chương trình điều trị đặc hiệu và kiểm soát đã

được thực hiện ở một số vùng [125,[81]. Sự phân bố rộng của vật chủ trung gian và

vật chủ dự trữ mầm bệnh, thói quen ăn gỏi cá, cá sống, cá nấu chưa chín của con

người, thiếu sự giám sát an toàn thực phẩm đối với các loài cá nước ngọtvà kỹ thuật

để phát hiện và điều trị chưa phát triển đang góp phần vào sự phổ biến của SLGN

trong cộng đồng, chiến lược phòng, chống và kiểm soát mới và hiệu quả là vấn đề

yêu cầu cấp bách hiện nay. Việc áp dụng các chiến lược kiểm soát bền vững và sáng tạo có thể loại bỏ được bệnh SLGN trong tương lai gần [148].

1.8. Khung lý thuyết của nghiên cứu

Khung lý thuyết của nghiên cứu được xây dựng nhằmmô tả thực trạng hiện

tại của công tác phòng, chống SLGN và những yếu tố liên quan đến việc lây nhiễm

SLGN trong cộng đồng giúp tìm hiểu những nguyên nhân làm hạn chế quá trình can

36

thiệp phòng, chống SLGN, chủ yếu phục vụ cho nghiên cứu mô tả và cũng là cơ sở

để xây dựng các hoạt động can thiệp.

Vấn đề chính là việc thực hành phòng, chống SLGN chưa đúng, còn nhiều

hành vi nguy cơ gây nhiễm SLGN là do kiến thức, nhận thức về phòng, chống

SLGN chưa đúng, thái độ phòng, chống SLGN chưa đúng và do các nguyên nhân

khác như:đặc điểm khác nhau về dân số(trình độ văn hóa, nghề nghiệp, tuối, giới) sẽ

ảnh hưởng đến hành vi nguy cơ lây nhiễm SLGN của người dân, do thiếu thông tin

mà chủ yếu là các thông tin liên quan đến tác hại và giải pháp phòng, chống SLGN,

các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khỏe trong cộng đồng để phòng, chống

SLGN là chưa được triển khai đến người dân, thiếu tư vấn hỗ trợ về y tế như tổ

chức tập huấn, tuyên truyền về tác hại và phòng, chống nhiễm SLGN đến người dân

tại các nhóm nhỏ trong cộng đồng, chưa triển khai các hình thức truyền thông đại

chúng và hình thức, nội dung truyền thông trực tiếp, gián tiếp chưa phù hợp, điều

kiện vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường còn thấp.Về thái độ, người dân chưa ủng

hộ cho công tác phòng, chống SLGN. Ngoài ra, các hành vi nguy cơ nhiễm SLGN

có thể là do các dịch vụ y tế và thuốc chữa bệnh không sẳn có cũng như chưa có sự

quan tâm của chính quyền, ngành y tế, của cơ quan đoàn thể và của nhân dân vào

công tác phòng, chống SLGN làm cho bệnh SLGN vẫn tồn tại dai dẳng trong cộng

đồng ảnh hưởng đến sức khoẻ nhân dân và tốn kém chi phí cho việc khám chữa

bệnh của người nhiễmsán lá gan nhỏ.

37

Chưa có mô hình tổ chức, chỉ đạo phòng, chống SLGN phù hợp với điều kiện địa phương

Thiếu tư vấn, hỗ trợ từ y tế cơ sở

Thiếu thông tin

KHUNG LÝ THUYẾT

Tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp

Chưa thực hiện các biện pháp TTGDSK Hình thức, nội dung truyền thông chưa phù hợp

Thái độ đối với việc phòng, chống SLGN chưa đúng

Sử dụng phân tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá

Kiến thức phòng, chống SLGN chưa đúng

Ảnh hưởng từ tập quán ăn gỏi cá trong cộng đồng

Sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và chín

Không đưa ra lời khuyên khi nhìn thấy người căn gỏi cá, cá sống

Tỉ lệ nhiễm SLGN cao Thực hành phòng, chống SLGN chưa đúng

Cho rằng thông tin về SLGN không cần thiết

Người dân chưa quan tâm đến công tác phòng, chống SLGN

Thái độ?? không ủng hộ cho chính sách phòng, chống SLGN

Các dịch vụ y tế và thuốcđiều trị SLGN không sẵn có

Chính quyền chưa thực sự quan tâm

Chưa có phối hợp liên ngành phòng, chống SLGN

Y tế cơ sở thiếu kiến thức về phòng, chống SLGN

Thái độ phòng, chống SLGN chưa đúng

Hình 1.3. Khung lý thuyết của nghiên cứu

38

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Người dân đang sinh sống có hộ khẩu tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định không phân biệt giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, có

khả năng giao tiếp và tự nguyện tham gia nghiên cứu, người dân từ 1 tuổi trở lên

cho thiết kế thu thập số liệu trước can thiệp và người dân từ 15 tuổi trở lên cho thiết

kế thu thập số liệu sau can thiệp.

- Cá nước ngọt được nuôi tại ao nhà của đối tượng nghiên cứu can thiệp gồm

cá mè, cá chép, cá trắm, cá diếc, cá trôi, cá chuối và cá rô phi.

- Sán lá gan nhỏ trưởng thành thu được từ phân của đối tượng tham gia vào

nghiên cứu xét nghiệm có trứng SLGN trong phân sau khi sử dụng thuốc điều trị

praziquantel và ấu trùng sán lá gan nhỏ ở cá nước ngọt được nuôi tại ao nhà của đối

tượng tham gia nghiên cứu can thiệp.

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.2.1. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh

Nam Định.

2.2.2. Thời gian nghiên cứu

Trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2012, trong đó:

- Từ tháng 10/2009-12/2009: điều tra trước can thiệp, phỏng vấn bằng bộ câu

hỏi và xét nghiệm phân cho đối tượng nghiên cứu.

- Từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2011: triển khai can thiệp TTGDSK phòng,

chống SLGN cho người dân và điều trị đặc hiệu bằng praziquantel cho người xét

nghiệm phân có trứng SLGN.

- Từ tháng 1/2012 đến tháng 6/2012: điều tra sau can thiệp, phỏng vấn bằng

bộ câu hỏi và xét nghiệm phân cho đối tượng nghiên cứu.

39

2.3. Thiết kế nghiên cứu

Đề tài có thiết kế nghiên cứu đánh giá chương trình can thiệp y tế, sử dụng

dạng thiết kế một nhóm so sánh trước – sau là thiết kế thu thập số liệu trước can

thiệp và số liệu sau can thiệp, sau đó so sánh hai số liệu này và đánh giá sự thay đổi

sau một thời gian can thiệp được triển khai.

Can thiệp Số liệu và kết quả sau can thiệp Phiên giải Số liệu và kết quả trước can thiệp

Hình 2.1. Thiết kế nghiên cứu

2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

2.4.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu và cỡ mẫu

2.4.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu

- Người dân hiện đang sống tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh

Nam Định có thời gian sống tại địa bàn ít nhất là 1 năm trước nghiên cứu (cụ thể là

đã sinh sống tại thị trấn Rạng Đông từ tháng 6 năm 2008), khả năng giao tiếp bình

thường, tình nguyện tham gia nghiên cứu, không biệt giới tính, nghề nghiệp. Loại

trừ những người mất năng lực hành vi, rối loạn tâm thần, sa sút trí tuệ (căn cứ vào

danh sách quản lý của trạm Y tế thị trấn Rạng Đông).

- Các loại cá nước ngọt được nuôi trong ao của các gia đình là đối tượng

nghiên cứu can thiệp gồm cá mè, cá chép, cá trắm, cá diếc, cá trôi, cá chuối và cá rô

phi, cá còn sống hoặc vừa mới chết chưa bị khô, ít bị tổn thương do đánh bắt.

- Sán lá gan nhỏ trưởng thành thu được từ phân của đối tượng tham gia vào

nghiên cứu can thiệp sau khi sử dụng thuốc điều trị praziquantel và ấu trùng sán lá

gan nhỏ ở cá nước ngọt được nuôi tại ao nhà của đối tượng tham gia nghiên cứu can

thiệp để phân tích thành phần loài.

2.4.1.2. Cỡ mẫu cho thiết kế thu thập số liệu trước can thiệp

- Cỡ mẫu: sử dụng công thức tính cỡ mẫu một tỉ lệ sử dụng độ chính xác tuyệt

đối [73]:

(1)

Trong đó:

40

n: cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được;

Z (1-/2): hệ số tin cậy, giá trị Z được lấy ở độ tin cậy 95% (Z = 1,96);

: mức ý nghĩa ( =0,05);

p: ước lượng tỉ lệ biến nghiên cứu chính trong quần thể, p trong nghiên cứu

này được ước lượng bằng lệ nhiễm SLGN dự kiến, được ước tính là p = 0,36 (theo

nghiên cứu của Trương Tiến Lập về tỉ lệ nhiễm SLGN ở xã Nghĩa Hải, huyện

Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định [46, 47]);

Z (1-/2) là giá trị Z được lấy ở độ tin cậy 95% (Z = 1,96)

d: sai số chấp nhận được của ước lượng, d = 0,05

Thay vào công thức (1), ta có cỡ mẫu tính toán theo lý thuyết n = 354 người.

Dự phòng 10% từ chối hoặc vắng mặt vào thời điểm điều tra và làm tròn số, cỡ mẫu

cần điều tra là 389 người. Thực tế chúng tôi thực hiện nghiên cứu trước can thiệp

trên 400 người.

2.4.1.3. Cỡ mẫu trong thiết kế thu thập số liệu sau can thiệp

- Cỡ mẫu: sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho so sánh hai tỉ lệ [73]

(2)

Trong đó:

n1: cỡ mẫu tối thiểu cho một nhóm.

P1: ước lượng tỉ lệ nhiễm SLGN trước khi can thiệp (P1 = 0,36).

P2: ước lượng tỉ lệ nhiễm SLGN sau khi can thiệp (P2 = 0,26).

: mức ý nghĩa ( =0,05);

1 -  : lực mẫu, với  = 90% thì Z(1 - ) = 0,84

Z(1 - /2): hệ số tin cậy, với  = 0,05 thì Z(1 - /2) = 1,96;

q1 = 1-p1; q2 = 1-p2 ; P = (P1+P2)/2; Q = 1-P.

Thay vào công thức (2) ở trên ta được số đối tượng cần nghiên cứu này là

335 người, được làm tròn 340 người.

41

2.4.1.4. Cỡ mẫu sử dụng điều tra ấu trùng sán lá gan nhỏ ở cá

Sử dụng phương pháp tính số lượng điều tra của Viện Sốt rét Ký sinh trùng

và Côn trung Trung ương [6, 46] mỗi một loài chọn 50 cá thể. Tổng số mẫu được

chọn 350 mẫu cá nước ngọt nuôi tại ao nhà đối tượng nghiên cứu ở thị trấn Rạng

Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

2.4.2. Chọn mẫu nghiên cứu

- Chọn mẫu cho thiết kế thu thập số liệu trước can thiệp

Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn trong bảng tính Exel của

phần mềm Microsoft Office 2007 với câu lệnh = RAND [73] (là hàm dùng để lấy

các giá trị ngẫu nhiên trong Exel) như sau :

+ Lập danh sách tất cả các đối tượng nghiên cứu của từng khu thuộc thị trấn

Rạng Đông dựa trên danh sách người dân do trạm y tế thị trấn Rạng Đông cung cấp,

cập nhật trên Excel tổng số là 8.000 người;

+ Sử dụng câu lệnh = RAND () * 8.000;

+ Sắp xếp lại thứ tự danh sách khung mẫu theo thứ tự được chọn ngẫu nhiên

trong Excel cho đủ 400 đối tượng.

- Chọn mẫu thiết kế thu thập số liệu sau can thiệp

Chọn mẫu cho thiết kế thu thập số liệu sau can thiệp là những người được

chọn từ trong số 400 người trong thiết kế thu thập số liệu trước can thiệp có tuổi từ

15 tuổi trở lên. Vậy tổng số đối tượng cho thiết kế thu thập số liệu sau can thiệp là

340 người từ 15 tuổi trở lên.

- Chọn mẫu cá nước ngọt

Là cá nước ngọt được nuôi trong ao của các đối tượng có tham gia nghiên cứu

can thiệp tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Sử dụng

phương pháp chọn mẫu của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng- Côn trùng Trung ương

chọn năm ao nuôi cá của đối tượng nghiên cứu tại năm vị trí của địa bàn nghiên cứu

một ao ở giữa địa bàn và bốn ao ở bốn góc địa bàn nghiên cứu.

- Chọn mẫu sán lá gan nhỏ trưởng thành

Sán lá gan nhỏ trưởng thành thu được từ phân của đối tượng tham gia vào

nghiên cứu can thiệp sau khi sử dụng thuốc điều trị praziquantel và ấu trùng sán lá

42

gan nhỏ ở cá nước ngọt được nuôi tại ao nhà của đối tượng tham gia nghiên cứu can

thiệp.

2.5. Các biến số và chỉ số nghiên cứu

Để xác định tỉ lệ nhiễm SLGN ở người và tỉ lệ nhiễm ấu trùng SLGN ở cá

nước ngọt, xác định loài SLGN, mô tả một số yếu tố liên quan đến nhiễm SLGN và

đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng, đề tài nghiên cứu sử dụng một số biến số và

chỉ số nghiên cứu như sau:

Bảng 2.1. Các biến số và chỉ số nghiên cứu

Nhóm Phương pháp Tên biến Định nghĩa biến biến số thu thập

Tính theo năm sinh dương Tuổi lịch Nhóm biến số Đối tượng nghiên cứu là Giới tính đặc điểm nam hay nữ chung của đối Trình độ học vấn cao nhất Phỏng vấn tượng nghiên Trình độ học vấn mà đối tượng có được cứu Nghề nghiệp chính đang Nghề nghiêp làm

Là trường hợp đối tượng

nghiên cứu xét nghiệm Xét nghiệm Người nhiễm SLGN phân bằng phương pháp phân tìm trứng Kato-Katz tìm thấy trứng SLGN SLGN trong phân

Đối tượng nghiên cứu bị Xét nghiệm Nhóm biến số Người tái nhiễm nhiễm SLGN sau khi được phân tìm trứng xác định tỉ lệ điều trị SLGN nhiễm SLGN Phân loại bằng ở người và ở Cá nhiễm ấu trùng Các loài cá nhiễm ấu trùng hình thái, sinh cá nước ngọt SLGN SLGN học phân tử

43

Nhóm Phương pháp Tên biến Định nghĩa biến biến số thu thập

Số dương tính với trứng

SLGN trong xét nghiệm Xét nghiệm

Người nhiễm mới lặp lại đối với các đối phân tìm trứng

tượng đã xét nghiệm âm SLGN

tính lần trước.

Hiểu biết thông tin Đối tượng trả lời có hoặc

về bệnh SLGN không biết về bệnh SLGN

Nguồn thông tin Các kênh cung cấp thông

người dân có được tin về SLGN cho người

về SLGN dân

Hiểu biết đúng Chấm điểm và đánh giá đường lây truyền theo phụ lục 2 SLGN

Hiểu biết đúng về Chấm điểm và đánh giá

phòng, chống SLGN theo phụ lục 2 Nhóm biến số

xác định mối Chấm điểm và đánh giá Thái độ đúng Phỏng vấn liên quan đến theo phụ lục 2

nhiễm SLGN Thái độ cho rằng Đối tượng cho rằng bệnh

SGLN nguy hiểm SLGN nguy hiểm

Đồng tình với biện Đối tượng nghiên cứu

pháp phòng chống đồng tình với chính sách

bệnh phòng chống bệnh SLGN

Chấm điểm và đánh giá Thực hành đạt theo phụ lục 2

Đối tượng nghiên cứu trả

Ăn cá gỏi lời ít nhất một lần ăn gỏi

cá hoặc cá nấu chưa chín

44

Nhóm Phương pháp Tên biến Định nghĩa biến biến số thu thập

Đối tượng nghiên cứu trả Sử dụng dụng cụ lời có dùng dụng cụ chung chung chế biến thức chế biến thức ăn sống và ăn sống và chín thức ăn chín

Đối tượng nghiên cứu trả Dùng phân tươi của

lời có dùng phân tươi của người, gia súc bón

người, gia súc chưa ủ hoặc ruộng, nuôi cá

ủ chưa đủ 6 tháng để bón

ruộng, nuôi cá.

Số lượt cán bộ trạm Tổng số cán bộ trạm y tế

Nhóm chỉ số y tế tham dự các đã tham dự các buổi tập

đánh giá quá buổi tập huấn kiến huấn kiến thức về phòng,

trình thức về phòng, chống SLGN trong 2 năm

chống SLGN can thiệp.

Tổng số cán bộ y tế thôn Số cán bộ y tế thôn đã tham dự các buổi tập tham dự các buổi tập huấn kiến thức về phòng, huấn kiến thức về chống SLGN trong 2 năm phòng, chống SLGN can thiệp.

Số cán bộ lãnh đạo Tổng số cán bộ lãnh đạo

chính quyền, ban chính quyền, ban ngành,

ngành, đoàn thể đoàn thể đã tham dự các Ghi chép tham dự các buổi tập buổi tập huấn kiến thức về

huấn kiến thức về phòng, chống SLGN trong

phòng, chống SLGN 2 năm can thiệp.

Số lượt hội viên Hội Tổng số lượt hội viên Hội Ghi chép Nông dân tham dự nông dân đã tham dự các

45

Nhóm Phương pháp Tên biến Định nghĩa biến biến số thu thập

các buổi nói chuyện buổi nói chuyện có nội

có nội dung phòng, dung phòng, chống SLGN

chống SLGN trong 2 năm can thiệp.

Số lượt hội viên Hội Tổng số lượt hội viên Hội

Phụ nữ tham dự các Phụ nữ đã tham dự các

buổi nói chuyện có buổi nói chuyện có nội Ghi chép

nội dung phòng, dung phòng, chống SLGN

chống SLGN trong 2 năm can thiệp.

Số lượt hội viên Hội Tổng số lượt hội viên Hội

Người cao tuổi tham người cao tuổi đã tham dự

dự các buổi nói các buổi nói chuyện có nội

chuyện có nội dung dung phòng, chống SLGN

phòng, chống SLGN trong 2 năm can thiệp.

Số lượt đoàn viên

Đoàn TNCSHCM Tổng số lượt đoàn viên

(Thanh niên cộng Đoàn TNCSHCM đã tham

sản Hồ Chí Minh) dự các buổi nói chuyện có

tham dự các buổi nội dung phòng, chống

nói chuyện có nội SLGN trong 2 năm can

dung phòng, chống thiệp.

SLGN

Tổng số buổi tuyên truyền Số buổi tuyên truyền đã thực hiện tại các trường cho học sinh và phụ tiểu học, THCS, THPT cho huynh học sinh học sinh và phụ huynh.

Số buổi họp Ban chỉ Tổng số buổi họp Ban chỉ Ghi chép đạo VSATTP có đạo VSATTP có lồng ghép

46

Nhóm Phương pháp Tên biến Định nghĩa biến biến số thu thập

lồng ghép nội dung nội dung phòng, chống

phòng, chống SLGN SLGN đã thực hiện trong 2

năm can thiệp.

Tổng số lượt thăm và tư

Số lượt thăm và tư vấn đã thực hiện tại hộ gia

vấn tại hộ gia đình đình nhằm tuyên truyền về

tuyên truyền về phòng, chống SLGN cho

phòng, chống SLGN đối tượng nghiên cứu trong

2 năm can thiệp.

Số lượng, thời điểm

và thời lượng phát Tổng số lần phát thanh trên

bản tin về phòng, loa truyền thanh của thị

chống SLGN trên hệ trấn vào ba chiến dịch

thống loa truyền trong 02 năm can thiệp.

thanh thị trấn

Số lượng tờ áp phích có

Số lượng tờ áp phích nội dung phòng, chống Ghi chép được treo SLGN được treo tại trạm y

tế, trường học, chợ.

Tổng số sách mỏng đã

được phát cho cán bộ chủ

Số sách mỏng được chốt của chính quyền, trạm

phát y tế, ban ngành và đoàn thể

trên địa bàn thị trấn trong 2

năm can thiệp.

Tổng số tờ rơi có nội dung Số tờ rơi được phát Ghi chép phòng, chống SLGN được

47

Nhóm Phương pháp Tên biến Định nghĩa biến biến số thu thập

phát cho các đối tượng

tham gia nghiên cứu trong

2 năm can thiệp

Tổng số lượng chiến dịch

vệ sinh môi trường phòng, Số chiến dịch vệ chống SLGN được thực Ghi chép sinh môi trường hiện trong thời gian 2 năm

can thiệp.

Số trường hợp xét nghiệm Xét nghiệm

Tỉ lệ nhiễm SLGN dương tính chia cho tổng phân tìm trứng

số trường hợp xét nghiệm. SLGN

Số trứng trung

Tổng số trứng trung bình bình trong 1g

trong 1g phân của tất cả phân; Phân loại

Cường độ nhiễm sán các trường hợp xét nghiệm theo WHO

Nhóm biến số, trung bình dương tính chia cho tổng (nhiễm nhẹ,

chỉ số đánh giá số trường hợp xét nghiệm nhiễm trung

hiệu quả can dương tính. bình và nhiễm

thiệp cộng nặng)

đồng phòng, Tỉ lệ (%), phần trăm của

chống SLGN số người không còn trứng Xét nghiệm sán sau khi tẩy chia cho phân tìm trứng Tỉ lệ sạch trứng tổng số người được tẩy sán SLGN và được xét nghiệm trước

và sau điều trị.

Tỉ lệ (%), tỉ lệ của hiệu số Tỉ lệ giảm trứng của cường độ nhiễm trước Xét nghiệm

48

Nhóm Phương pháp Tên biến Định nghĩa biến biến số thu thập

điều trị và sau điều trị chia phân tìm trứng

cho cường độ nhiễm trước SLGN

điều trị của số người được

tẩy sán và được xét nghiệm

trước và sau điều trị.

Tỉ lệ (%) của số dương Xét nghiệm

tính trứng sán trong xét phân tìm trứng

Tỉ lệ tái nhiễm nghiệm lập lại đối với các SLGN

đối tượng đã nhiễm và tẩy

sạch sán trước đó

Tỉ lệ (%) của số dương

tính trứng sán trong xét Xét nghiệm

Tỉ lệ mới nhiễm nghiệm lập lại đối với các phân tìm trứng

đối tượng đã xét nghiệm SLGN

âm tính lần trước.

2.6. Các khái niệm, thước đo, tiêu chuẩn đánh giá

2.6.1. Các khái niệm

- Dùng phân tươi bón ruộng, nuôi cá: Xác định là có sử dụng phân tươi bón

ruộng, nuôi cá khi hộ gia đình được phỏng vấn trả lời có dùng phân người, gia súc

chưa ủ hoặc ủ chưa đủ 6 tháng để bón ruộng, nuôi cá.

- Đã từng ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín: Là trường hợp đối tượng được phỏng

vấn trả lời đã ít nhất một lần ăn gỏi cá hay cá sống, cá nấu chưa chín.

- Trường hợp nhiễm SLGN: Là trường hợp xét nghiệm phân bằng phương

pháp Kato – Katz tìm thấy trứng SLGN trong phân.

2.6.2. Các thước đo, tiêu chuẩn đánh giá

Tại điểm nghiên cứu hiệu quả của điều trị đối với y tế cộng đồng được đánh

giá bằng sự giảm hay không giảm tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm SLGN sau khi can

thiệp bằng thuốc đặc hiệu.

49

- Tỉ lệ nhiễm SLGN: Tỉ lệ nhiễm SLGN được đánh giá bằng số trường hợp

xét nghiệm dương tính chia cho tổng số trường hợp xét nghiệm.

Số người có xét nghiệm (+) Tỉ lệ nhiễm (%) = x 100 Số người được xét nghiệm

- Cường độ nhiễm sán trung bình đuợc tính bằng tổng số trứng trung bình

trong 1g phân của tất cả các trường hợp xét nghiệm dương tính chia cho tổng số

trường hợp xét nghiệm dương tính.

Tổng số trứng/g tổng số người (+) Cường độ nhiễm =

(trứng/gam phân) Tổng số người xét nghiệm (+)

Cường độ nhiễm được chia làm 3 mức độ theo cách phân loại của WHO[6] [46].

Bảng 2.2. Hướng dẫn phân loại cường độ nhiễm sán lá gan nhỏ theo WHO

Cường độ nhiễm Số trứng /1 gam phân

Nhiễm nhẹ Dưới 1.000

Nhiễm trung bình 1.000 – 10.000

Nhiễm nặng Trên 10.000

Hiệu quả điều trị của thuốc được đánh giá bằng: tỉ lệ sạch trứng sán, tỉ lệ

giảm trứng sán sau điều trị.

+ Tỉ lệ sạch trứng: được đánh giá bằng tỉ lệ (%), phần trăm của số người

không còn trứng sán sau khi tẩy chia cho tổng số người được tẩy sán và được xét

nghiệm trước và sau điều trị.

Số người sạch trứng Tỉ lệ sạch trứng (%) = Số người nhiễm SLGN được điều trị

+ Tỉ lệ giảm trứng: được đánh giá bằng tỉ lệ (%), tỉ lệ của hiệu số của cường

độ nhiễm trước điều trị và sau điều trị chia cho cường độ nhiễm trước điều trị của số

người được tẩy sán và được xét nghiệm trước và sau điều trị.

Số trứng/g trung bình trước điều trị - Số trứng/g trung

bình sau điều trị Tỉ lệ giảm trứng (%) =

Số trứng/g trước điều trị

- Xét nghiệm định kỳ sau điều trị: Sau khi điều trị sau 6 tháng, 12 tháng, 18

tháng và 24 tháng các xét nghiệm phân được lặp lại cho các đối tượng nghiên cứu

50

có nguy cơ nhiễm SLGN bằng sử dụng bộ câu hỏi để phỏng vấn các yếu tố nguy cơ.

Số liệu về số người không còn trứng sán và số trung bình cường độ nhiễm sau điều

trị được xác định. So sánh số liệu thu được với số liệu trước khi điều trị, áp dụng

các công thức tỉ lệ sạch trứng và giảm trứng để đánh giá hiệu quả điều trị của thuốc

theo thời gian.

+ Tỉ lệ tái nhiễm: được đánh giá bằng tỉ lệ (%) của số dương tính trứng sán

trong xét nghiệm lập lại đối với các đối tượng đã nhiễm và tẩy sạch sán trước đó.

+ Tỉ lệ mới nhiễm: dùng để đánh giá các trường hợp mới nhiễm, được đánh

giá bằng tỉ lệ (%) của số dương tính trứng sán trong xét nghiệm lập lại đối với các

đối tượng đã xét nghiệm âm tính lần trước.

+ Chỉ số hiệu quả can thiệp (CSHQ): Đánh giá hiệu quả can thiệp

Chỉ số hiệu quả (%): Để đánh giá hiệu quả của các biện pháp can thiệp đối với

từng chỉ số được kiểm tra trong nghiên cứu qua công thức [39, 46]:

Tỉ lệ % sau – Tỉ lệ % trước CSHQ = x 100 Tỉ lệ % trước

- Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống SLGN của đối tượng:

bằng kết quả trả lời các câu hỏi trong bảng hỏi cấu trúc (Phụ lục 1).Các câu trả lời

liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành được chấm điểm, sau đó phân làm hai

loại đạt và không đạt (Phụ lục 2).

2.7. Các hoạt động can thiệp nhằm giảm nguy cơ nhiễm sán lá gan nhỏ

2.7.1. Xây dựng mô hình lồng ghép phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ dựa

vào cộng đồng ở thị trấn Rạng Đông

Mô hình lồng ghép (hình 2.2) dựa trên các đơn vị, tổ chức có sẵn đó là Ban

Chỉ đạo liên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) của thị trấn Rạng Đông

để chỉ đạo hoạt động phòng, chống SLGN với sự tham gia của các tổ chức liên quan

gồm: Uỷ ban nhân dân thị trấn Rạng Đông giữ vai trò chính trong việc chỉ đạo phối

hợp liên ngành giữa y tế cơ sở với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị -xã

hội, tổ chức xã hội và nhà trường trên địa bàn can thiệp. Nghiên cứu sinh, các

chuyên gia về ký sinh trùng (các thầy hướng dẫn và cán bộ bộ môn Ký sinh trùng

51

của trường Đại học Y Hà Nội, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung

ương), Trạm trưởng Trạm y tế thị trấn Rạng Đông giữ vai trò thường trực điều phối

các hoạt động phòng, chống bệnh SLGN.

UBND thị trấn Rạng Đông

Ban chỉ đạo liên ngành ATVSTP

Trạm Y tế Rạng Đông

Y tế thôn

Các ban ngành, đoàn thể

Trường học (cấp 2,3)

Cán bộ trạm y tế, nghiên cứu sinh, chuyên gia ký sinh trùng

Thành viên các đoàn thể

Giáo viên và học sinh

Cộng tác viên

Đối tượng đích: HỘ GIA ĐÌNH

KẾT QUẢ MONG ĐỢI

 Tăng KAP của người dân trong phòng chống SLGN  Giảm tỉ lệ ăn gỏi cá, cá sống, cá nấu chưa chín  Giảm tỉ lệ nhiễm SLGN trong cộng đồng

Hình 2.2. Mô hình tổ chức của chương trình phòng, chống sán lá gan nhỏ

tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

2.7.2. Các hoạt động can thiệp truyền thông, giáo dục sức khoẻ phòng, chống

sán lá gan nhỏ

2.7.2.1. Hoạt động can thiệp truyền thông, giáo dục sức khỏe phòng,chống sán lá

gan nhỏ thông qua kênh truyền thông gián tiếp

- Phổ biến các kiến thức phòng, chống bệnh SLGN qua hệ thống truyền thanh

của thị trấn theo chiến dịch 3 lần trong năm vào tháng 12, tháng 4 và tháng 9.

- Treo Pano về phòng, chống bệnh SLGN theo nội dung đã được Viện Sốt rét –

Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương thiết kế tại nơi công cộng gồmbản tin của

trường học, chợ, cơ sở y tế.

52

- Phát sách mỏng hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh giun sán do Viện

Sốt rét-Ký sinh trùng- Côn trùng Trung ương biên soạn và tờ rơi có nội dung phòng,

chống SLGN cho các đối tượng nghiên cứu và người đứng đầu Hội Nông dân, Hội

Phụ nữ, Hội Người Cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Đoàn TNCSHCM để tuyên

truyền về phòng, chống nhiễm SLGN.

- Phát sách mỏng và tờ rơi về các biện pháp đảm bảo an toàn thực phẩm trong

chế biến, lựa chọn và tiêu dùng thực phẩm đến đối tượng nghiên cứu và người đứng

đầu Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Đoàn

TNCSHCM để tuyên truyền về các biện pháp vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường,

phòng, chống nhiễm SLGN.

- Số chiến dịch vệ sinh môi trường: 01 đợt/ năm x 12 khu dân cư x 2 năm.

2.7.2.2. Hoạt động can thiệp truyền thông, giáo dục sức khỏe phòng, chống sán

lá gan nhỏ thông qua kênh truyền thông trực tiếp

- Tập huấn cho cán bộ trạm y tế thị trấn: 01buổi/quý x 2 năm.

- Tập huấn cho cán bộ y tế thôn: 01buổi/quý x 2 năm.

- Tập huấn cán bộ, hội viên các đoàn thể tham gia chương trình can thiệp

gồm Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM:

01buổi/ quý x 2 năm.

- Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM của thị

trấn chỉ đạo các chi, tổ Hội có lồng ghép nội dung Phòng chống SLGN vào sinh

hoạt định kỳ: 01buổi/ quý x 2 năm.

- Nói chuyện về phòng, chống SLGN cho học sinh và phụ huynh học sinh

vào các dịp khai giảng và bế giảng năm học tại các trường học trên địa bàn thị

trấn Rạng Đông: 02 buổi/năm x 2 năm.

- Họp Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trấn

có lồng ghép nội dung triển khai và đánh giá kết quả hoạt động can thiệp phòng

chống SLGN: 01 buổi/ quý x 2 năm.

- Thăm hộ gia đình các đối tượng nghiên cứu để truyền thông trực tiếp về

nguyên nhân và giải pháp phòng, chống SLGN: 6 tháng/lần thăm x 2 năm.

53

2.7.2.3. Nội dung truyền thông, giáo dục sức khoẻ phòng, chống sán lá gan nhỏ

-Đặc điểm sinh học của SLGN;

- Nguyên nhân nhiễm SLGN;

- Đặc điểm sống và chu kỳ phát triển của SLGN; vị trí ký sinh của SLGN

trong cơ thể vật chủ; đường xâm nhập SLGN vào vật chủ, đường SLGN ra môi

trường; đặc điểm sinh sản của SLGN;

- Các yếu tố nguy cơ gây nhiễm SLGN, phân bố của SLGN;

- Tác hại của SLGN, bệnh học SLGN; tổn thương cơ thể bệnh học, triệu

chứng lâm sàng, cận lâm sàng;

- Chẩn đoán, điều trị SLGN;

- Các thuốc điều trị SLGN, liều dùng thuốc điều trị SLGN, cách dùng thuốc

điều trị SLGN;

- Các biện pháp phòng, chống SLGN;

- Những việc nên làm nếu nghi ngờ nhiễm SLGN;

- Các kỹ năng truyền thông, giáo dục sức khoẻ phòng, chống SLGN.

2.7.2.4.Tài liệu truyền thông, giáo dục sức khoẻ phòng, chống sán lá gan nhỏ

- Tài liệu truyền thông: Áp phích, sách hướng dẫn chẩn đoán và điểu trị một

số bệnh giun sán ở Việt Nam, tờ rơi do Viện Sốt rét- Ký sinh trùng - Côn trùng

Trung ương biên soạn;10 nguyên tắc chế biến thực phẩm an toàn, Tài liệu kiểm soát

ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm, Cục An toàn thực phẩm biên

soạn và sách mỏng Sán lá gan do Nguyễn Văn Đề chủ biên (Phụ lục 6).

2.7.3. Phát hiện và điều trị người nhiễm sán lá gan nhỏ bằng praziquantel

- Xét nghiệm phân tìm trứng SLGN cho tất cả đối tượng nghiên cứu và cứ 6

tháng 1 lần xét nghiệm lại cho người đã nhiễm SLGN và những người có triệu

chứng lâm sàng bệnh SLGN hoặc vẫn còn thói quen ăn cá sống.Tất cả những người

xét nghiệm phân có trứng SLGN đều được điều trị đặc hiệu bằng praziquantel liều

25mg/kg x 3 lần/ ngày x 1 ngày theo qui định của Bộ Y tế [4] và được theo dõi sau

điều trị bởi cán bộ trạm y tế.

54

- Trạm y tế thị trấn tư vấn miễn phí cho người dân có nhu cầu tìm hiểu về

bệnh SLGN các ngày trong tuần và thứ 3, thứ 5 hàng tuần phát thuốc miễn phí điều

trị sán SLGN cho người dân khi xét nghiệm có trứng SLGN trong phân.

2.8. Vật liệu và kỹ thuật nghiên cứu

- Các dụng cụ, hoá chất xét nghiệm phân tìm trứng theo phương pháp

KATO-KATZ (Phụ lục3) [6].

- Các dụng cụ định loại SLGN ở người, ấu trùng nang SLGN ở cá bằng kỹ

thuật sinh học phân tử(Phụ lục 4).

- Vật liệu và kỹ thuật phân loại ấu trùng sán lá ở cá nước ngọt (Phụ lục 5)[6].

- Thuốc điều trị: praziquantel 600mg biệt dược “Distocide” do hãng

Shinpoong (Triều Tiên) sản xuất. Liều điệu trị:25mg/kg x 3 lần x 1 ngày,mỗi lần

cách nhau 6 giờ đồng hồ.

2.9. Phương pháp thu thập số liệu

2.9.1. Số liệu thu thập qua mẫu phân và xét nghiệm phân

- Mẫu phân của đối tượng nghiên cứu là người dânthị trấn Rạng Đông được

chọn tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu sinh phối hợp với cán bộ y tế cơ sở giải

thích cho đối tượng nghiên cứu về nội dung nghiên cứu và phát túi đựng phân,

hướng dẫn cách lấy, ghi rõ thông tin, người được xét nghiệm tự đưa mẫu phân đến

trạm y tế, một số trường hợp không tự đi lại được thì cán bộ y tế thôn sẽ đến lấy

phân tại nhà, khoảng 10 gam phân/mẫu được thu thập. Phân được xét nghiệm ngay

trong ngày bằng phương pháp xét nghiệm phân tìm trứng SLGN (Kato – Katz) (Phụ

lục 3) [6].

- Mẫu cá được nghiên cứu sinh, kỹ thuật viên của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng

- Côn trùng Trung ương, Kỹ thuật viên của bộ môn Ký sinh trùng - trường đại học

Y Hà Nội, cán bộ Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm và cán bộ trạm y tế lấy từ ao

nuôi cá của các đối tượng nghiên cứu nằm trong mẫu nghiên cứu bằng cách chọn

năm ao nuôi cá của đối tượng nghiên cứu tại năm vị trí của địa bàn nghiên cứu một

ao ở giữa địa bàn và bốn ao ở bốn góc địa bàn nghiên cứu.

55

2.9.2. Số liệu qua phỏng vấn

Sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc để phỏng vấn kiến thức, thái độ, thực hành

nhằm đánh giá hiệu quả trước, sau can thiệp đối với người dân từ 15 tuổi trở lên.

2.9.3. Số liệu xác định loài sán trưởng thành ở người, ấu trùng sánở cá nước

ngọt

Xác định loài sán thu được từ bệnh nhân khi điều trị và ấu trùng sán trên cá

bằng hình thái học và sinh học phân tử (sử dụng chỉ thị di truyền là gen ty thể

Cox1).

- Xác định loài sán dựa vào hình thái: sán thu được từ người nhiễm sán là

đối tượng nghiên cứu được điều trị từ chương trình can thiệp để xác định loài theo

khoá phân loại dựa vào Cẩm nang xét nghiệm, chẩn đoán giun sán của Viện Sốt rét

Ký sinh trùng và Côn trùng trung ương [6]; ấu trùng nang SLGN trên cá nước ngọt

sẽ được xác định loài bằng hình thái học theoCẩm nang xét nghiệm, chẩn đoán giun

sán của Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng trung ương [6].

- Xác định loài SLGN dựa vào kỹ thuật sinh học phân tử (PCR): Quá trình

định loại SLGN tại điểm nghiên cứu bằng phương pháp sinh học phân tử gồm các

bước chính sau: chuẩn bị cặp mồi đặc hiệu; tách ADN tổng số; chạy PCR; dòng hoá

và tinh sạch sản phẩm; giải trình tự và xử lý chuỗi gen do Viện Công nghệ thực hiện

(Phụ lục 4).

2.10. Qui trình thu thập số liệu

2.10.1. Chuẩn bị cho nghiên cứu tại thực địa

- Nghiên cứu sinh đã đến làm việc với Phó Chủ tịch phụ trách văn xã của Uỷ

Ban nhân dân thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định đặt vấn đề và

trình bày về kế hoạch triển khai đề tài nghiên cứu về phòng, chống SLGN trên địa

bàn thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định và đã nhận được sự

đồng ý cho triển khai đề tài nghiên cứu vào tháng 8/2009;

- Nghiên cứu sinh lập khung mẫu và chọn mẫu trước khi thu thập số liệu tại

thực địa trên cơ sở danh sách người dân có hộ khẩu thường trú trên địa bàn thị trấn

Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, có thời gian sinh sống trên 1 năm

kể về trước cho đến thời điểm tháng 9/2009;

56

- Nghiên cứu sinh chuẩn bị công cụ và quy trình thu thập phiếu phỏng vấn

bằng bộ câu hỏi có cấu trúc tháng 10/2009,

- Chuẩn bị in, phô tô phiếu phỏng vấn, danh sách đối tượng trong mẫu

nghiên cứu để phát cho điều tra viên tháng 10/2009;

- Nghiên cứu sinh tập huấn cho điều tra viên, giám sát viên là cán bộ trạm y

tế thị trấn Rạng Đông và 02 cán bộ Chi Cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Nam

Địnhđể tiến hành phỏng vấn bằng bộ câu hỏi có cấu trúc, tháng 11/2009;

- Nghiên cứu sinh cùng với bộ môn Ký sinh trùng của trường Đại học Y Hà

Nội và cán bộ của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương chuẩnbị

hoá chất, trang thiết bị,dụng cụ phục vụ cho việc xét nghiệm phân tìm trứng SLGN

tháng 11/2009;

- Nghiên cứu sinh nhập số liệu, tổng hợp số liệu, phân tích số liệu và viết báo

cáo kết quả nghiên cứu trước can thiệp, xác định tỉ lệ nhiễm SLGN, tỉ lệ nhiễm ấu

trùng SLGN, loài sán lá gan nhỏ trưởng thành ở người và loài ấu trùng nang sán ở

cá nước ngọt, một số yếu tố liên quan từ đó xây dựng chương trình can thiệp cộng

đồng phòng, chống SLGN, tháng 12/2009;

- Nghiên cứu sinh tiến hành các can thiệp cộng đồng theo nội dung và biểu

đồ grantt về các hoạt động can thiệp phòng, chống SLGN theo thời gian 2 năm??

(Phụ lục 7), tháng 1/2010 đến tháng 12/2011;

2.10.2. Các bước tiến hành thu thập số liệu tại thực địa

Trước khi đi đến gặp đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu sinh và điều tra viên

phải cùng người dẫn đường kiểm tra lại các thông tin về đối tượng được cung cấp

trên danh sách mẫu.

Bước 1: Tiến hành tiếp cận với đối tượng nghiên cứu, xác định đối tượng cần

phỏng vấn, tiếp đó điều tra viên phải giới thiệu về mục đích ý nghĩa của nghiên cứu.

Bước 2: Điều tra viên giải thích cho đối tượng được phỏng vấn, lấy phân xét

nghiệm về bảo mật thông tin, những thông tin mà đối tượng cung cấp sẽ được giữ bí

mật và chỉ có nhóm nghiên cứu mới được tiếp cận thông tin này.

57

Bước 3: Điều tra viên xin phép và đọc từng câu hỏi trong bảng hỏi cho đối

tượng nghiên cứu nghe và trả lời, điều tra viên ghi nhận lại thông tin trên phiếu một

cách trung thực.

Bước 4: Kết thúc cuộc phỏng vấn, điều tra viên hỏi lại đối tượng nghiên cứu

có cần bổ sung, sửa đổi thông tin hay không, có thắc mắc gì không, nếu có điều tra

viên phải giải đáp các thắc mắc này trong phạm vi có thể, nếu không trả lời được

hết các câu hỏi của đối tượng đặt ra, điểu tra viênghi nhận lại các câu hỏi và hẹn

giải đáp sau.

Bước 5: Điều tra viên quan sát hố xí và đánh giá theo bảng kiểm.

Bước 6: Điều tra viên cảm ơn đối tượng nghiên cứu và chào ra về.

Điều tra viên tập hợp phiếu đã phỏng vấn trong ngày và chuyển cho giám sát

viên sau mỗi ngày thu thập số liệu tại thực địa.

2.11. Quản lý, phân tích, sử dụng số liệu

Việc quản lý, phân tích, sử dụng số liệu được nghiên cứu sinh thực hiện phối

hợp với chuyên gia của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương thực

hiện gồm một số nội dung như sau:

2.11.1. Nhập số liệu

- Số liệu thu thập được nghiên cứu sinh và chuyên gia của Viện Sốt rét – Ký

sinh trùng – Côn trùng Trung ương rà soát và được hai người độc lập nhập số liệu

hai lần riêng rẽ dựa vào phần mềm Epidata 3.1.

- Thường xuyên ghi chép lại những quy định mã hoá số liệu tránh việc quên

các nguyên tắc đã dùng để mã và trong một bộ số liệu thực hiện thống nhất mã hoá

theo một nguyên tắc.

- Kiểm tra tính nhất quán: những câu trả lời không nhất quán được xác định

và kiểm tra.

2.11.2. Kế hoạch làm sạch số liệu

Nghiên cứu sinh kiểm tra các số xác định đối tượng trùng nhau; kiểm tra các

giá trị bất thường của tất cả các biến; kiểm tra các mã không phù hợp ở tất cả các

biến phân loại; kiểm tra giá trị bị mất cho từng biến; kiểm tra tính nhất quán trong

trả lời các câu hỏi, liệt kê các cá nhân có câu trả lời không nhất quán và xử lý bằng

58

đối chiếu tất cả các lỗi với phiếu gốc để chỉnh sửa nếu đó là lỗi mã hóa hoặc nhập

số liệu. Nếu không có lỗi khi mã hóa cũng như nhập liệu và các đối tượng phỏng

vấn thực sự đưa ra các câu trả lời không nhất quán thì nghiên cứu sinh liên lạc với

đối tượng nghiên cứu để xác định lại thông tin. Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ

gặp 03 trường hợp có câu trả lời không nhất quán nhưng khi đối chiếu với phiếu

gốc, thì lỗi là do quá trình nhập liệu.

2.11.3. Phân tích số liệu

Sử dụng phần mềm EPI-INFO 6.04 để nhập và quản lý số liệu; Sử dụng phần

mềm SPSS 19.0 cho phân tích thống kê mô tả, phân tích hai biến để đánh giá mối

liên quan kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống SLGN; mối liên quan giữa

các yếu tố cá nhân, kiến thức, thái độ, thực hành và nhiễm SLGN. Sử dụng kiểm

định Khi bình phương (2) để so sánh sự khác biệt giữa hai tỷ lệ với mức ý nghĩa

95%, đánh giá độ mạnh của sự kết hợp sử dụng tỉ số chênh (OR). Sử dụng các thuật

toán thống kê y sinh học để so sánh sự khác biệt trước và sau can thiệp. Để lượng

giá hiệu quả trước và sau can thiệp, các chỉ số so sánh chính bao gồm: Tỷ lệ thay

đổi kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống SLGN trước và sau can thiệp,các chỉ

số này được tính theo công thức: Hiệu quả can thiệp = (%) (Trong đó

p1: là tỷ lệ trước can thiệp, p2: là tỷ lệ sau can thiệp) [46, 66].

2.11.4. Xử lý số liệu

Các xét nghiệm phân được nghiên cứu sinh, cán bộ của Bộ môn Ký sinh

trùng củatrường Đại học Y Hà Nội và 03 cán bộ của Viện Sốt rét – ký sinh trùng -

Côn trùng Trung ương thực hiện, các xét nghiệm xác định loài bằng hình thái học

được nghiên cứu sinh và cán bộ của bộ môn Ký sinh trùng của trường Đại học Y Hà

Nội thực hiện và xác định loài SLGN bằng kỹ thuật sinh học phân tử được thực hiện

bởi các kỹ thuật viên có kinh nghiệm của Viện Công nghệ sinh học thực hiện.

2.11.5. Quản lý số liệu và sử dụng kết quả nghiên cứu

Việc quản lý số liệu được tuân theo các nguyên tắc của trường Đại học Y

tế công cộng và do nhóm nghiên cứu (Nghiên cứu sinh và giáo viên hướng dẫn)

chịu trách nhiệm.Kết quả nghiên cứu và báo cáo kết quả nghiên cứu là sản phẩm

59

phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng được chia

sẻ và đăng tải trên các tạp chí phù hợp (tạp chí Phòng chống sốt rét và ký sinh

trùng, Tạp chí y học thực hành, Tạp chí Y học Dự Phòng, Tạp chí thông tin y dược

học) và được trình bày tại Hội nghị Y tế dự phòng năm 2015.Một phần của đề tài

nghiên cứu là đề tài cấp cơ sở của Bộ Y tế đã được thông qua với kết quả đạt loại

khá.Báo cáo kết quả nghiên cứu cũng được thông báo cho địa phương nơi triển khai

nghiên cứu.

2.12. Đạo đức trong nghiên cứu

Nghiên cứu tuân thủ quy định đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đã được

Hội đồng đạo đức của Trường Đại học Y tế công cộng phê duyệt số

023/2010/YTCC-HD3 ngày 24/5/2010. Nghiên cứu tiến hành khi đã được sự đồng ý

của Uỷ ban nhân dân thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Các

đối tượng tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện, đối tượng có quyền từ chối

không tham gia nghiên cứu. Sau khi được làm xét nghiệm và chẩn đoán, đối tượng

được tư vấn các biện pháp phòng, chống SLGN. Tất cả các trường hợp có kết quả xét

nghiệm phân dương tính với giun sán (trừ phụ nữ có thai) đều được cấp thuốc điều trị

miễn phí theo phác đồ của Bộ Y tế. Các thông tin cá nhân được mã hoá, xử lý để phục

vụ cho mục đích nghiên cứu. Trong quá trình triển khai nghiên cứu, khi các đối tượng

có bất kỳ thắc mắc gì cần hỏi liên quan đến chủ đề của nghiên cứu đều đã được nghiên

cứu sinh vàcán bộ trạm y tế trả lời, tư vấn.

60

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Tỉ lệ nhiễm và loài sán lá gan nhỏ ở người và ở cá nước ngọt nuôi tại thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trước can thiệp

3.1.1. Tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người

Để có số liệu về tỉ lệ nhiễm SLGN của người dân tại thị trấn Rạng Đông,

huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, nghiên cứu đã thực hiện một thiết kế thu thập

số liệu trước can thiệp trên đối tượng người dân từ 01 tuổi trở lên trong cộng đồng,

kết quả cho thấy, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người như sau:

Biểu đồ 3.1. Tỉ lệ nhiễm SLGN của người từ 01 tuổi trở lên (n =400)

Biểu đồ 3.1 cho biết, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân tại thị trấn Rạng Đông,

huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định là 15,8%, các trường hợp nhiễm SLGN đều ở

các nhóm tuổi từ 15 tuổi trở lên và không có sự chênh lệch tỉ lệ nhiễm giữa các

nhóm tuổi (p>0,05), với 60 trẻ từ 01 đến 14 tuổi được xét nghiệm chưa phát hiện có

trẻ nào nhiễm SLGN.

Trong số 400 người dân được chọn vào thiết kế thu thập số liệu trước can

thiệp chưa phát hiện thấy người nhiễm SLGN từ 15 tuổi trở xuống, do vậy, chúng

tôi chọn những người từ 15 tuổi trở lên trong số 400 người dân trong thiết kế thu

thập số liệu trước can thiệp là đối tượng của thiết kế thu thập số liệu trước - sau can

thiệp nhằm đánh giá các chỉ số hiệu quả sau 2 năm triển khai can thiệp cộng đồng

61

bằng điều trị thuốc praziquantel cho các trường hợp phát hiện nhiễm SLGN kết hợp

với TTGDSK phòng, chống SLGN.

Bảng 3.1. Tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ theo tuổi, giới, nghề nghiệp và học vấn

(n=340)

Số Số xét p Tỉ lệ

Phân loại nhiễm nghiệm (%) Chỉ số

Chung 18,5 340 63

15 – 19 6,3 32 2

20 – 29 17,0 47 8

30 – 39 23,6 89 21 Nhóm tuổi > 0,05 40 – 49 13,4 82 11

50 – 59 22,4 49 11

≥ 60 24,4 41 10

Nam 30,1 166 50 Giới < 0,001 Nữ 7,5 174 13

Làm ruộng 19,5 313 61 Nghề nghiệp < 0,001 Nghề khác 7,4 27 2

Tiểu học 33,3 54 18 Trình độ THCS 15,6 180 28 < 0,012 học vấn Trên THCS 16,0 106 17

Bảng 3.1 cho biết, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân tại thị trấn Rạng Đông,

huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định là 18,5% ở người từ 15 tuổi trở lên và không có

sự chênh lệch tỉ lệ nhiễm SLGN giữa các nhóm tuổi (p>0,05).

Tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam (30,1%) cao hơn nữ (7,5%); tỉ lệ nhiễm SLGN ở

những người làm ruộng (19,5%) cao hơn tỉ lệ nhiễm SLGN ở người làm nghề khác

(7,4%); tỉ lệ nhiễm SLGN cao ở những người có trình độ học vấn thấp, tỉ lệ nhiễm

cao nhất ở người có trình độ học vấn tiểu học là 33,3%.

62

Bảng 3.2. Phân loại cường độ nhiễm sán lá gan nhỏ (n = 63)

Nhiễm nhẹ Nhiễm trung bình Nhiễm nặng Tổng số

Số Số Số Số Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%) lượng lượng lượng lượng

62 98,4 1 1,6 0 0 63 18,5

Bảng 3.2 cho kết quả trong tổng số 63 đối tượng bị nhiễm SLGN thì hầu hết

có cường độ nhiễm nhẹ (98,4%), chỉ có 1 người nhiễm trung bình (1,6%), không có

trường hợp nào nhiễm nặng.

3.1.2. Tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở các loài cá nước ngọt

Cá là vậc chủ trung gian thứ hai trực tiếp truyền bệnh SLGN sang người, nếu

người ăn gỏi cá, cá sống hoặc nấu chưa chín có chứa ấu trùng SLGN còn sống sẽ có

nguy cơ cao nhiễm SLGN. Kết quả tỉ lệ nhiễm ấu trùng SLGN ở cá nước ngọt nuôi

tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định như sau:

Biểu đồ 3.2. Tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở các loài cá nước ngọt (n=350)

Biểu đồ 3.2 cho kết quả xét nghiệm 350 mẫu của 7 loài cá nuôi tại thị trấn

Rạng Đông, thấy có 6/7 loài cá nước ngọt nuôi có nhiễm ấu trùng SLGN bao gồm:

cá diếc 30,0%; cá mè 14,0%; cá chép 10,0%; cá chuối 10,0%; cá trôi 6,0%; cá rô

phi 4,0%. Trong đó, cá diếc có tỉ lệ nhiễm ấu trùng SLGN chiếm tỉ lệ cao nhất 30%;

cá trắm chưa phát hiện nhiễm ấu trùng SLGN.

63

3.1.3. Xác định loài sán lá gan nhỏ ở người bằng hình thái học và sinh học phân

tử

3.1.3.1.Xác định loài sán trưởng thành ở người bằng hình thái học

Những bệnh nhân nhiễm sán với cường độ cao nhất được lựa chọn để thu hồi

SLGN nhỏ trưởng thành. Những bệnh nhân này được yêu cầu phải ăn nhẹ vào bữa

tối hôm trước khi điều trị tẩy đãi, nên ăn cơm với trứng luộc, không ăn các loại rau.

Khuyến khích các bệnh nhân đi đại tiện trước khi đi ngủ. Giải thích cho bệnh nhân

tại sao phải điều trị, thu hồi mẫu sán. Không ăn sáng trong buổi sáng của ngày điều

trị, có thể uống nước. Trước 8 giờ sáng hướng dẫn bệnh nhân đến trạm y tế để tiến

hành tẩy đãi sán. Mỗi bệnh nhân uống praziquantel và đợi trong khoảng 60 phút.

Sau 60 phút mỗi bệnh nhân uống khoảng 30g MgSO4 hoà tan trong nước, tiếp tục

uống thêm nước (tổng số nước uống của bệnh nhân trong buổi sáng khoảng 2-3 lít).

Đợi cho tới khi bệnh nhân bắt đầu đi ngoài (vẫn tiếp tục uống nước). Bỏ phần phân

rắn cục lần đi ngoài đầu tiên. Thu toàn bộ phân đi trong 3-4 lần liên tiếp. Mỗi bệnh

nhân đi ngoài vào một bô riêng có gắn nhãn ghi tên, tuổi. Nếu bệnh nhân không thể

đi ngoài tiếp trong hơn 30 phút sau khi đã thu được số lượng phân 3-4 lần liên tục

thì có thể cho bệnh nhân về nhà. Tiến hành thu sán trưởng thành bằng cách: loại bỏ

phân rắn cục trong lần đi ngoài đầu tiên, hoà số phân của mỗi bệnh nhân trong 1-3

lít nước trong bô. Lọc phân qua rây có mắt lưới 1x1mm, thu phần phân trên rây,

phần hỗn dịch qua rây hoặc cả trên và dưới rây. Đặt phần cặn trên rây chuyển ra

khay men có đường kính lớn hơn 9 cm để tìm sán, tìm từng phần nhỏ một bằng mắt

thường hoặc dùng kính lúp để tìm. Thu hồi sán để cố định trong 10% formalin ở

nhiệt độ phòng để nhuộm và định loại sán bằng hình thái học và cố định trong cồn

70% để làm sinh học phân tử.

Nghiên cứu đã thu thập được 26 mẫu sán, đãi từ phân của những đối tượng

nghiên cứu, trong đó 20 mẫu sán được dùng cho xác định loài bằng hình thái học và

6 mẫu sán được dùng trong xác định loài bằng sinh học phân tử. Kết quả quan sát

hình thái hoc như sau: sán có mầu đỏ nhạt, đen hoặc tía; cơ thể sán thuôn dẹt và

mảnh dài, phần trước hẹp, sau tù; giác miệng ở đầu thân, giác bụng nằm ở phần ba

trước cơ thể; hầu được kế tiếp bằng thực quản; hai nhánh ruột kéo dài về mút sau cơ

64

thể; hai tinh hoàn phân nhánh hình cành cây, nằm một trước một sau ở phần sau cơ

thể; ống bài tiết thẳng; tuyến noãn hoàng nằm bên ngoài 2 nhánh ruột; buồng trứng

nằm ngay phía trên tinh hoàn; tử cung phát triển, gấp khúc nhiều lần, nằm ở khoảng

giữa buồng trứng và giác bụng, chứa đầy trứng. Kích thước cơ thể nằm trong

khoảng 10 -25 mm x 3-4 mm. Đo kích thước và quan sát hình thái nội quan của 20

mẫu sán cho kết quả như sau:

Bảng 3.3. Kích thước và hình thái nội quan của sán lá gan nhỏC. Sinensis (n=20)

Bộ phận Dài (mm) Rộng (mm)

Cơ thể 11,32 ± 3,65 2,53 ± 0,39

Giác miệng 0,51 ± 0,95 0,46 ± 0,12

Giác bụng 0,51 ± 0,08

Hầu 0,25 ± 0,06 0,24 ± 0,05

Thực quản 0,26 ± 0,12

Tinh hoàn 1,53 ± 0,49 1,92 ± 0,33

Buồng trứng 0,32 ± 0,08 0,58 ± 0,19

Tử cung Từ buồng trứng đến giác bụng

Trứng 0,028 ± 0,002 0,013 ± 0,001

Bảng 3.3 cho kết quả trung bình cộng về kích thước và hình thái nội quan

của 20 mẫu sán thu được từ đãi phân của đối tượng nghiên cứu can thiệp là người

như sau: sán có mầu đỏ nhạt, nâu hoặc tía; cơ thể sán thuôn dẹt và mảnh dài, phần

trước hẹp, sau tù; giác miệng ở đầu thân, giác bụng nằm ở phần ba trước cơ thể; hầu

được kế tiếp bằng thực quản; hai nhánh ruột kéo dài về mút sau cơ thể; hai tinh

hoàn phân nhánh hình cành cây, nằm một trước một sau ở phần sau cơ thể; ống bài

tiết thẳng; tuyến noãn hoàng nằm bên ngoài 2 nhánh ruột; buồng trứng nằm ngay

phía trên tinh hoàn; tử cung phát triển, gấp khúc nhiều lần, nằm ở khoảng giữa

buồng trứng và giác bụng, chứa đầy trứng. Kích thước cơ thể nằm trong khoảng 10

-25 mm x 3-4 mm, căn cứ vào khoá phân loạicủa Viện Sốt rét – Ký sinh – Côn

trùng Trung ương xác định về hình thái học SLGN trưởng thành thu được ở người

dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định là Clonorchis

65

sinensis(Eukaryota; Metazoa; Platyhelminthes; Trematoda; Digenea;

Opisthorchiida; Opisthorchiata; Opisthorchioidea; Opisthorchiidae; Clonorchis).

Hình 3.1. C. sinensis trưởng thành thu thập từ bệnh nhân là đối tượng nghiên cứu

được điều trị tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

Hình 3.1. là ảnh chụp SLGN trưởng thànhthu thập từ phân của bệnh nhân sau

khi uống thuốc praziquantel điều trị SLGN trong chương trình can thiệp của nghiên

cứu được mô tả như sau: có hình lá, thân dẹt, màu đỏ nhạt, dài 11 mm, chiều ngang

3 mm, có hai hấp khẩu (hấp khẩu miệng có đường kính 600 m thông với đường

tiêu hóa; hấp khẩu bụng có đường kính 500 m). Ống tiêu hóa chạy dọc hai bên

thân sán và là ống tắc, không nối thông với nhau. Sán là lưỡng giới gồm tinh hoàn,

buồng trứng, tử cung. Tinh hoàn gồm có hai, chia nhiều nhánh, chiếm gần hết phía

sau thân. Buồng trứng ở khoảng giữa thân, tử cung là một ống ngoằn ngoèo gấp

khúc. Lỗ sinh dục ở gần hấp khẩu bụng. Căn cứ vào khoá phân loại của Viện Sốt rét

– Ký sinh trùng–Côn trùng Trung ương xác định là loài: Clonorchis sinensis.

3.1.3.2.Xác định loài sán ở người bằng sinh học phân tử

Các giải trình tự nucleotid và acid amin chuỗi gen COX1 của mẫu nghiên

cứu được so sánh với các chuỗi mẫu cox1 của Trung Quốc và Triều Tiên.

Bảng 3.4. Danh mục mẫu sán lá gan nhỏ trưởng thành thu nhận ở người tại thị trấn

Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định sử dụng giám định phân tử

Loài Ký hiệu Nguồn gốc Trạng thái mẫu Từ vật chủ

(hình thái) mẫu

Clonorchis spp CsNgND Nam Định Sán trưởng thành Người

66

Bảng 3.4 cho biết trong số 26 mẫu SLGN trưởng thành thu thập được từ

phân của bệnh nhân được điều trị praziquantel từ chương trình can thiệp đã được

xác định bằng hình thái học là loài Clonorchis spp, được tiếp tục phân tích bằng

phương pháp sinh học phân tử để xác định thành phần loài SLGN, kết quả cụ thể

như sau:

Giải trình trình tự chuỗi gen cox1 của mẫu nghiên cứu so sánh với các chuỗi

mẫu:

NUCLEOTID

* 20 * 40 * 60 * 80 * 100

*

AMINO ACID

67

Hình 3.2. So sánh trình tự 446 nucleotid và 148 acid amin trong đoạn gen cox1 của

SLGN trưởng thành Clonorchis spp trên người tại Nam Định (CsNgND) với C.

sinensis Trung Quốc (CsCN), C. sinensis Triều Tiên (CsKor) và đồng thời so sánh

với các loài khác như Fasciola gigantica ở người Việt Nam (FgVN) và Fasciola

hepatica ở Australia (FhAus). Ghi chú: dấu (.): biểu thị trình tự giống nhau của

Clonorchis spp mẫu nghiên cứu với C.sinensis mẫu quốc tế; sai khác về nucleotid

hoặc acid amin được thể hiện bằng các chữ cái ký hiệu của chúng.

Bảng 3.5. So sánh nucleotid tại 5 điểm có sự sai khác trong chuỗi gen cox1 của

Clonorchis spp nghiên cứu với C. sinensis chủng Trung Quốc và Hàn Quốc

Ký hiệu Chủng gốc Các vị trí trong chuỗi gen cox1

trong giải trình tự

Quốc gia Địa phương 22 69 439 441 9

Cs(CN) Trung Quốc Quảng Tây T C C T C

Cs(Kor) Triều Tiên Nam Hàn T C C T C

CsNgND Việt Nam Nam Định T T C A C

Hình 3.3. Vị trí của C. sinensis Việt Nam trong cây phả hệ (C. sinensis Việt Nam

nằm cùng nhóm với C. sinensis Trung Quốc và Triều Tiên)

68

3.1.4. Xác định ấu trùng sán ở cá nước ngọt bằng hình thái và sinh học phân tử

3.1.4.1. Xác định ấu trùng sán ở cá nước ngọt bằng hình thái học

Để xác định loài cho ấu trùng sán ký sinh ở cá nước ngọt nuôi tại thị trấn

Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam định trong nghiên cứu này chúng tôi đã

thu thập được 35 ấu trùng sán trong 6 loài cá nước ngọt nuôi tại ao nhà của các đối

tượng nghiên cứu gồm cá rô phi, cá trôi, cá chép, cá chuối, cá mè và cá diếc. Kết

quả quan sát cho thấy, các ấu trùng sán thu được có hình elíp, kích thước nằm trong

khoảng 0,15-0,17 mm x 0,13 – 0,15 mm. Gần như cân bằng 2 giác bụng và giác

miệng, các hạt nền có màu xám rải đều trên cơ thể. Tuyến bài tiết hình chữ O chiếm

phần lớn phía sau cơ thể. Các đặc điểm hình thái học này phù hợp với phân loại loài

ấu trùng sán là thuộc loài Clonorchis sinensis theo khoá phân loại của Viện Sốt rét –

Ký sinh trùng–Côn trùng Trung ương.

Hình 3.4. Ấu trùng nang sán lá gan nhỏ thu thập từ cá nước ngọt nuôi tại ao cá của

đối tượng tham gia nghiên cứu can thiệp ở thị trấn Rạng Đông, tỉnh Nam Định

Hình 3.4 là ảnh hình thái cấu tạo của ấu trùng nang sán thu được ký sinh trên

các loài cá nước ngọt, kích thước và đặc điểm của các nội quan phù hợp với mô tả

loài Clonorchissinensis theo phân loại bằng hình thái học của của Viện Sốt rét – Ký

sinh trùng – Côn trùng Trung ương.

3.1.4.2. Xác định ấu trùng sán ở cá nước ngọt bằng sinh học phân tử

Giải trình trình tự nucleotit và axit amin của ấu trùng sán lá gan nhỏ trên cá

nước ngọt nuôi tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định được

xác định bằng phương pháp sinh học phân tử cho kết quả như sau:

69

NUCLEOTIT

AMINO ACID

Hình 3.5. Giải trình tự gen Cox1 của ấu trùng nang SLGN (metacercaria) trên cá

so sánh với chủng chuẩn Việt Nam và quốc tế. Ghi chú: CsNgTH và CsNgND là

mẫu C. sinensis Việt Nam ký sinh trên người tại Thanh Hóa và Nam định đã được

xác định; CsRDmeta là mẫu ấu trùng nang SLGN (metacercaria) trên cá nuôi tại

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định; Cs(CN) và Cs(Kor) là

chủng C. sinnensis chuẩn của Trung Quốc và Triều Tiên.

70

Qua hình 3.5 cho thấy, các mẫu ấu trùng nang SLGN trên cá nước ngọt được

thẩm định bằng sinh học phân tử là loài C. sinensis, hệ số tương đồng về nucleotid

là 98,9% và axit amin là 100% so với loài C. sinensis của Trung Quốc và Triều

Tiên; so với C. sinensis trên người tại tỉnh Thanh Hoá và tỉnh Nam Định thì hệ số

tương đồng về nucleotit của mẫu nghiên cứu là 99,3% và tương đồng về axit amin

là 100%. Kết quả phân tích bằng kỹ thuật PCR hệ gen ty thể này xác định mẫu ấu

trùng nang SLGN đã phân tích là Clonorchis sinensis.

3.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan

nhỏ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

3.2.1. Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống nhiễm sán lá

gan nhỏ của người dân trước can thiệp

Để có cơ sở xây dựng chương trình can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN

phù hợp cho người dân địa phương, một số các kết quả về thực trạng kiến thức, thái

độ và thực hành về phòng, chống SLGN được mô tả như sau:

Biểu đồ 3.3. Tỉ lệ người dân có nghe nói về sán lá gan nhỏ (n =340)

Biều đồ 3.3. cho biết, tỉ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có nghe nói về bệnh

SLGN trước can thiệp là 33,5%, trong khi đó vẫn còn 66,5% chưa từng biết đến

bệnh SLGN trước khi tiến hành các can thiệp bằng TTGDSK tại cộng đồng.

71

Bảng 3.6. Tỉ lệ người dân có biết về bệnh SLGN theo giới, học vấn và nghề nghiệp

Phân loại N Biết về bệnh SLGN Tỉ lệ (%) Yếu tố 340 114 33,5

166 Nam 52 31,3 Giới tính 174 Nữ 62 35,6

p>0,05

Trình độ tiểu học 54 2 3,7 Học vấn Trình độ trên tiểu học 286 112 39,2

p<0,05

Làm ruộng 313 95 30,4 Nghề nghiệp Nghề khác 27 19 70,4

P<0,05

Bảng 3.6 là kết quả điều tra ở 340 người dân từ 15 tuổi trở lên trước can thiệp,

cho thấy, chỉ 33,5% người dân có biết về bệnh SLGN, tỉ lệ này không khác nhau về

giới. Nhưng khác nhau về trình độ học vấn và nghề nghiệp, những người có trình

độ học vấn trên tiểu học có biết về bệnh SLGN nhiều hơn những người có trình độ

học vấn tiểu học (39,2% so với 3,7%), người dân làm nghề khác biết về bệnh SLGN

nhiều hơn những người có nghề làm ruộng(70,4 so với 30,4%).

Biểu đồ 3.4. Tỉ lệ người dân có biết về bệnh sán lá gan nhỏ theo nhóm tuổi

72

Biều đồ 3.4 là kết quả điều tra ở 340 người dân từ 15 tuổi trở lên trước can

thiệp, cho thấy, chỉ 33,5% người dân có biết về bệnh SLGN, tỉ lệ này giảm dần theo

nhóm tuổi, những người ở nhóm tuổi từ 15 đến 19 tuổi có tỉ lệ biết về bệnh SLGN

cao nhất (72%) và thấp nhất ở nhóm tuổi trên 60 tuổi (12%).

Biểu đồ 3.5. Tỉ lệ người dân biết về tác hại của bệnh SLGN (n =340)

Biều đồ 3.5. cho biết, tỉ lệ người dân biết về tác hại của bệnh SLGN, người

dân từ 15 tuổi trở lên trước can thiệp có biết đến tác hại tổn thương gan mật cảu

bệnh SLGN chiếm tỉ lệ cao nhất 33,5%, tiếp đến là tác hại toàn thân 26,2% và thấp

nhất nhất là tỉ lệ người dân biết đến tác hại gây rối loạn tiêu hoá 14,7%.

Biểu đồ 3.6. Hiểu biết về sự tái nhiễm của bệnh SLGN (n =340)

Biều đồ 3.6 cho biết, sự hiểu biết của người dân về sự tái nhiễm SLGN, có

30,6% người dân từ 15 tuổi trở lên trước can thiệp biết bệnh SLGN có thể tái

nhiễm và còn 69,4% không biết bệnh SLGN có thể tái nhiễm.

73

Bảng 3.7. Tỉ lệ hiểu biết về phòng,chống sán lá gan nhỏ của người dân

Biết đúng đường lây Biết bệnh SLGN có Số

truyền bệnh SLGN thể phòng, chống Chỉ số Phân loại điều

Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) tra

28,2 Chung 96 107 31,5 340

28,1 15-19 9 21 65,6 32

42,6 20-29 20 20 42,6 47

36,0 30-39 32 28 31,5 89 Nhóm

25,6 40-49 21 21 25,6 82 tuổi

20,4 50-59 10 11 22,4 49

9,8 Trên 60 4 6 14,6 41

p >0,05 p >0,05

24,7 Nam 41 50 30,1 166

31,6 Nữ 55 57 32,8 174 Giới tính

p >0,05 p >0,05

29,1 Làm ruộng 91 90 28,8 313

Nghề 18,5 Nghề khác 5 17 63,0 27

nghiệp p >0,05 p >0,05

0,0 Tiểu học 0 2 3,7 54 Trình độ

22,8 THCS 41 47 26,1 180

học vấn 51,9 Trên THCS 55 58 54,7 106

p<0,05 p<0,05

Bảng 3.7 cho biết có 28,2% người dân từ 15 tuổi trở lên trước can thiệp biết

đúng đường lây truyền bệnh SLGN. Tỉ lệ hiểu biết không khác nhau về nhóm tuổi,

giới tính, nghề nghiệp (p>0,05) nhưng khác nhau về trình độ học vấn, những người

có trình độ học vấn trên THCS biết đúng đường lây truyền bệnh SLGN cao hơn

những người có trình độTHCS và tiểu học (51,9% so với 22,8% và 0,0%), p<0,05.

74

Có 31,5% người dân biết bệnh SLGN có thể phòng, chống trước can thiệp, sự hiểu

biết này không khác nhau theo nhóm tuổi, giới tính, nghề nghiệp nhưng khác nhau

theo trình độ học vấn, những người có trình độ học vấn trên THCS biết bệnh SLGN

có thể phòng, chống cao hơn những người có trình độ học vấnTHCS và tiểu

học(54,7% so với 26,1% và 3,7%), p<0,05.

Biểu đồ 3.7. Phương tiện truyền thông về SLGN nhỏ đến người dân (n =114)

Biểu đồ 3.7 cho biết, trong số 114 người dân được hỏi có nghe nói về bệnh

SLGN chủ yếu là qua cán bộ y tế chiếm tỉ lệ 100%, tiếp đến là thông tin từ trường

học, sách là 78,9%, từ bạn bè, người thân là 68,4% và chỉ có 36,0% người dân có

nghe nói về bệnh SLGN qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo, tivi,

đài phát thanh.

75

Bảng 3.8. Thái độ người dân với việc phòng, chống bệnh sán lá gan nhỏ

Cho rằng bệnh Ủng hộ chính sách Số

SLGN là nguy hiểm phòng, chống SLGN Chỉ số Phân loại điều

tra Số lượng Tỉ lệ% Số lượng Tỉ lệ%

Chung 112 32,9 340 17,9 61

71,9 32 15,6 5 15-19 23

42,6 47 14,9 7 20-29 20

36,0 89 18,0 16 30-39 32 Nhóm tuổi 26,8 82 23,2 19 40-49 22

22,4 49 20,4 10 50-59 11

9,8 41 9,8 4 Trên 60 4

p<0,05 p>0,05

31,3 166 14,5 24 Nam 52 Giới tính Nữ 34,5 174 21,3 37 60

p>0,05 p >0,05

29,7 313 18,5 58 Làm ruộng 93 Nghề

nghiệp 70,4 27 11,1 3 Nghề khác 19

p<0,05 p>0,05

1,9 54 1,9 1 Tiểu học 1

28,3 180 15,6 28 Trình độ THCS 51

học vấn Trên

56,6 32 THCS 60 30,2 106

p<0,05 p<0,05

Bảng 3.8 cho biết đa số người dân ở thị trấn Rạng Đông chưa thực sự quan

tâm đến bệnh sán lá gan nhỏ, khi được hỏi chỉ có 32,9% người dân cho rằng bệnh

SLGN là nguy hiểm và người dân cũng chưa quan tâm đến các chủ trương, chính

sách về phòng,chống bệnh SLGN khi được hỏi chỉ có 17,9% người dân ủng hộ

chính sách phòng, chống SLGN.

76

Người dân có thái độ cho rằng bệnh SLGN là nguy hiểm khác nhau theo

nhóm tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp (p<0,01), tỉ lệ người dân có thái độ cho

rằng bệnh SLGN là nguy hiểm giảm dần theo tuổi những người ở nhóm tuổi 15-19

tuổi có thái độ cho rằng bệnh SLGN là nguy hiểm cao nhất (71,9%) và thấp nhất ở

nhóm tuổi trên 60 tuổi (9,8%); Những người có nghể làm ruộng có thái độ cho rằng

bệnh SLGN là nguy hiểm thấp hơn những người làm nghề khác (29,7% so với

70,4%); tỉ lệ người dân có thái độ cho rằng bệnh SLGN là nguy hiểm tỉ lệ thuận,

tăng dần theo trình độ học vấn, những người có trình độ học vấn trên THCS cho

rằng bệnh SLGN là nguy hiểm cao nhất (56,6%) tiếp đến là trình độ học vấn THCS

(28,3%) và thấp nhất là nhóm đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn tiểu học

(1,9%).

Người dân có thái độ ủng hộ chính sách phòng, chống SLGN khác nhau theo

trình độ học vấn (p<0,05), tương tự như thái độ cho rằng bệnh SLGN là nguy hiểm,

tỉ lệ người dân có thái độ ủng hộ chính sách phòng, chống SLGN tăng dần theo

trình độ học vấn, những người có trình độ học vấn trên THCS có thái độ ủng hộ

chính sách phòng, chống SLGN cao nhất (30,2%) tiếp đến là trình độ học vấn

THCS (15,6%) và thấp nhất là ở nhóm người có trình độ học vấn tiểu học (1,9%).

Biểu đồ 3.8. Tỉ lệ người dân có đưa ra lời khuyên người khác

không nên ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín (n =340)

Biều đồ 3.8 cho biết, thái độ của người dân từ 15 tuổi trở lên trước can thiệp

khi thâý người khác ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín, chỉ có 13,2% người dân được hỏi

có đưa ra lời khuyên người khác không nên ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín, còn 86,8%

77

số người được hỏi không đưa ra lời khuyên khi nhìn thấy người khác ăn gỏi cá, cá

nấu chưa chín.

Bảng 3.9. Thực hành ăn gỏi cá và sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn

sống và thức ăn chín theo nhóm tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ học vấn

Dùng chung dụng Số

Ăn gỏi cá cụ chế biến thức điều Chỉ số Phân loại ăn sống và chín tra

Số lượng Tỉ lệ% Số lượng Tỉ lệ%

Chung 199 144 58,5 42,4 340

65,6 21 50,0 16 32 15-19

53,2 25 44,7 21 47 20-29

68,5 61 44,9 40 89 30-39

53,7 44 41,5 34 82 Nhóm 40-49

tuổi 42,9 21 26,5 13 49 50-59

65,9 27 48,8 20 41 Trên 60

p >0,05 p >0,05

69,9 116 42,8 71 166 Nam

47,7 83 42,0 73 174 Giới tính Nữ

p<0,05 p >0,05

57,8 181 41,9 131 313 Làm ruộng Nghề 66,7 18 48,1 13 27 Nghề khác nghiệp p >0,05 p >0,05

63,0 34 38,9 21 54 Tiểu học

56,1 101 39,4 71 180 THCS Trình độ

học vấn 60,3 64 49,0 52 106 Trên THCS

p >0,05 p> 0,05

Bảng 3.9 cho biết tỉ lệ người dân trước can thiệp có ăn gỏi cá, cá sống hoặc

nấu chưa chín (58,5%) và dùng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn

78

chín (42,4%). Các tỉ lệ trên không khác nhau theo nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình độ

học vấn nhưng khác nhau theo giới tính ở nhóm có ăn gỏi cá, cá sống hoặc nấu chưa

chín ở nam có tỉ lệ ăn gỏi cá cao hơn nữ (69,9% so với 47,7%), p<0,05.

Bảng 3.10. Tỉ lệ sử dụng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá

Dùng phân tươi Số điều bón ruộng, nuôi cá Chỉ số Phân loại p tra Số lượng Tỉ lệ %

Chung 251 340 73,8

23 71,9 32 15-19

32 68,1 47 20-29

55 61,8 89 30-39 >0,05 Nhóm tuổi 67 81,7 82 40-49

42 85,7 49 50-59

32 78,0 41 Trên 60

128 77,1 166 Nam >0,05 Giới tính 123 70,7 174 Nữ

232 74,1 313 Làm ruộng >0,05 Nghề nghiệp 19 70,4 27 Nghề khác

46 85,2 54 Tiểu học Trình độ

137 76,1 180 <0,05 THCS

học vấn 68 64,2 106 Trên THCS

Kết quả bảng 3.10 cho biết, tỉ lệ người dân dùng phân tươi của người hoặc

gia súc để bón ruộng, nuôi cá còn rất cao (73,8%). Những người có trình độ học vấn

trên THCS ít sử dụng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá hơn

những người có trình độ học vấn tiểu học và THCS (64,2% so với 85,2% và

76,1%), p<0,05. Không có sự khác nhau trong việc sử dụng phân tươi của người

hơặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá theo nhóm tuổi, giới tính và nghề nghiệp.

79

Biểu đồ 3.9. Thực hành của người dân trước can thiệp khi nghi ngờ bị

bệnh sán lá gan nhỏ theo nhóm tuổi

Biểu đồ 3.9 cho biết thực hành của người dân trước can thiệp khi nghi ngờ bị

bệnh SLGN, kết quả cho thấy phần lớn người dân khi nghi ngờ bị bệnh SLGN đều

tự mua thuốc để uống trên 50%, dưới 10% đi khám thầy thuốc, còn lại không làm gì

hoặc không biết phải làm gì (p<0,05).

Bảng 3.11. Thực hành của người dân khi nghi ngờ bị bệnh sán lá gan nhỏ

Đi khám Không Tự mua Không Số điều Chỉ số Phân loại thầy biết làm thuốc làm gì tra thuốc gì

Chung 58,2 6,5 25,6 340 9,7

Nam 59,0 7,8 22,9 166 10,3 Giới tính Nữ 57,5 5,2 28,2 174 9,1

Làm ruộng 57,8 7,0 25,6 313 9,6 Nghề

nghiệp Nghề khác 63,0 0,0 25,9 27 11,1

Tiểu học 61,1 1,9 27,8 54 9,2 Trình độ THCS 54,4 6,7 29,4 180 9,5 học vấn Trên THCS 63,2 8,5 17,9 106 10,4

80

Bảng 3.11 cho biết thực hành của người dân khi nghi ngờ bị bệnh SLGN

theo giới tính, nghề nghiệp và trình độ học vấn trước can thiêp, đa phần người dân

không đến khám tại các cơ sở y tế,người dân tự mua thuốc uống nếu nghi ngờ bị

bệnh SLGN (58,2%), chỉ có 6,5% đi khám chuyên khám chuyên khoa,còn lại

25,6%là không có một hành động nào cho sức khỏe của mình khi nghi ngờ nhiễm

SLGN và 9,7% là không biết làm gì. Cách thực hành này không khác nhau giữa

những người có giới tính và nghề nghiệp khác nhau, p>0,05 nhưng khác nhau ở

những người có trình độ học vấn khác nhau,những người có trình độ học vấn trên

THCS đi khám thầy thuốc chuyên khoa cao hơn những người có trình độ học vấn

tiểu học và THCS (8,5% so với 6,7% và 1,9%), p<0,05.

3.2.2. Một số yếu tố liên quan đến phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của

người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trước

can thiệp

Bảng 3.12. Mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống sán lá

gan nhỏ với giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu

OR p Yếu tố Phân loại Không Có (KTC 95%)

Biết đúng đường lây truyền bệnh sán lá gan nhỏ

Nam 52 104 1,0 >0,05 Giới tính (0,4-1,2) Nữ 122 62

Tiểu học 2 52 Trình độ 16,7 <0,05

hoc vấn (3,9-71,1) Trên tiểu học 112 174

Làm ruộng 95 218 Nghề 1,6 <0,05

nghiệp (1,1-5,7) Nghề khác 11 16

Biết bệnh sán lá gan nhỏ có thể phòng, chống

Nam 50 124 1,3 >0,05 Giới tính (0,5-2,0) Nữ 57 109

Tiểu học 2 52 <0,05 Trình độ 15,1

hoc vấn (3,5-62,1) 181 Trên tiểu học 105

81

OR p Yếu tố Phân loại Không Có (KTC 95%)

223 90 <0,05 Làm ruộng 4,2 Nghề

(1,7-9,8) nghiệp 10 17 Nghề khác

Thái độ đúng đối với việc phòng, chống sán lá gan nhỏ

114 60 Nam 0,8 >0,05 Giới tính (0,41-1,6) 114 52 Nữ

53 1 <0,05 Tiểu học 33,6 Trình độ

(2,2-42) hoc vấn 175 111 Trên tiểu học

220 93 <0,05 Làm ruộng 5,6 Nghề

(2,1-8,2) nghiệp 8 19 Nghề khác

Ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá nấu chưa chín

116 58 Nam 2,0 <0,05 Giới tính (1,6-3,9) 83 83 Nữ

20 34 >0,05 Tiểu học 0,8 Trình độ

(0,4-1,4) hoc vấn 121 165 Trên tiểu học

132 181 >0,05 Làm ruộng 1,5 Nghề

(0,63-3,1) nghiệp 9 18 Nghề khác

Dùng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín

103 71 >0,05 Nam 1,1 Giới tính (0,7-1,6) 93 73 Nữ

33 21 >0,05 Tiểu học 1,2 Trình độ

(0,6-2,1) hoc vấn 163 123 Trên tiểu học

182 131 >0,05 Làm ruộng 1,3 Nghề

(0,6=2,8) nghiệp 14 13 Nghề khác

Dùng phân tươi của người hoặc gia súc bón ruộng, nuôi cá

46 128 Nam 1,0 >0,05 Giới tính (0,9-2,3) 43 123 Nữ

82

OR p Yếu tố Phân loại Không Có (KTC 95%)

Tiểu học 8 46 Trình độ 0,4 <0,05

hoc vấn (0,2-1) Trên tiểu học 81 205

Làm ruộng 81 232 Nghề 0,8 >0,05

nghiệp (0,3-2) Nghề khác 8 19

Bảng 3.12 cho biết mối liên quan và độ mạnh của sự kết hợp giữa kiến thức,

thái độ, thực hành về phòng, chống sán lá gan nhỏ của người dân với một số yếu tố

cá nhân giới, trình độ học vấn và nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu.

Kiến thức phòng, chống nhiễm SLGN của đối tượng:

Những người có trình độ học vấn tiểu học có nguy cơ không biết đường lây

truyền bệnh SLGN cao gấp 16,7 lần (OR = 16,7; p < 0,05) so với người có trình

trên độ tiểu học. Những người có nghề làm ruộng có nguy cơ không biết đường lây

truyền bệnh SLGN cao gấp 1,6 lần (OR = 1,6; p < 0,05) so với người làm nghề

khác.

Những người có trình độ học vấn tiểu học có nguy cơ không biết bệnh sán lá

gan có thể phòng, chống cao gấp 15,1 lần (OR = 15,1; p < 0,05) so với người có

trình độ trên tiểu học. Những người có nghề làm ruộng có nguy cơ không biết bệnh

sán lá gan có thể phòng, chống cao gấp 4,2 lần (OR = 4,2; p < 0,05) so với người

làm nghề khác.

Thái độ phòng, chống nhiễm SLGN của đối tượng:

Những người có trình độ học vấn tiểu học có nguy cơ có thái độ không đúng

đối với việc phòng, chống SLGN cao gấp 33,6 lần (OR = 33,6; p < 0,05) so với

người có trình độ trên tiểu học. Những người làm ruộng có nguy cơ có thái độ

không đúng đối với việc phòng, chống SLGN cao gấp 5,6 lần (OR = 5,6; p < 0,05)

so với người làm nghể khác.

Thực hành phòng, chống nhiễm SLGN của đối tượng:

Nam giới có nguy cơ ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá nấu chưa chín cao hơn gấp

2,0 lần (OR = 2,0; p < 0,05) so với nữ giới.

83

Bảng 3.13. Mối liên quan giữa kiến thức với thực hành phòng, chống SLGN

Biết đúng đường lây truyền bệnh Giá

SLGN trị p Yếu tố Phân loại Không Có OR

(KTC95%)

Ăn gỏi cá, cá nấu Có 58 56 1,8 (1,1-2,9) <0,05 chưa chín Không 83 143

Dùng chung dụng Có 66 48

1,0 (0,6-1,6) >0,05 cụ chế biến thức

Không 130 96 ăn sống và chín

Dùng phân tươi Có 41 73 của người hoặc 2,1 (1,2-3,5) <0,05 gia súc để bón Không 48 178 ruộng, nuôi cá

Bảng 3.13 cho thấy, có mối liên quan giữa thực hành với kiến thức phòng,

chống nhiễm bệnh SLGN của người dân:

Những người biết không đúng về đường lây truyền bệnh SLGN có nguy cơ

ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín cao gấp 1,8 lần (OR = 1,8; p < 0,05) những người biết

đúng về đường lây truyền bệnh SLGN.

Những người biết không đúng về đường lây truyền bệnh SLGN có nguy cơ

dùng phân tươi của người hoặc gia súc bón ruộng, nuôi cá cao gấp 2,1 lần (OR =

2,1; p < 0,05) những người biết đúng về đường lây truyền bệnh SLGN.

Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức biết đúng về

đường lây truyền bệnh SLGN với hành vi dùng chung dụng cụ chế biến thức ăn

sống và thức ăn chín (OR=1; p>0,05).

84

Bảng 3.14. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, kiến thức, thái độ phòng, chống

sán lá gan nhỏ và tình trạng nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân

Tình trạng nhiễm SLGN P Yếu tố Phân loại Có Không OR (KTC95%)

116 50 Giới tính Nam 5,3

161 13 Nữ (2,7 – 10,3) < 0,01

36 18 Trình độ Tiểu học 2,7

241 45 Trên tiểu học (1,3 - 5,3) < 0,05 học vấn

252 61 Nghề nghiệp Làm ruộng 3,0 0,12

25 2 Nghề khác (0,7 – 26)

72 54 Biết về bệnh Không < 0,05 3,7

SLGN 105 9 Có (1,7 -9,7)

Biết đúng về 3,2 189 55 Không < 0,05 đường lây (1,5 - 7,0)

truyền SLGN 88 8 Có

182 54 Biết SLGN có Không 3,1 < 0,05

thể tái nhiễm 95 9 Có (1,5 - 6,6)

Biết SLGN 2,9 180 53 Không < 0,05 phòng, chống

97 10 Có (1,4 – 5,9) được

Thái độ đồng ý 4,1 174 54 Không < 0,05 bệnh SLGN là

103 9 Có (1,7 – 7,5) nguy hiểm

Kết quả bảng 3.14 cho biết một số yếu tố liên quan đến nhiễm SLGN ở

người dân thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trước can thiệp

như sau:

85

Giới: Nam giới có nguy cơ nhiễm SLGN cao cao gấp 5,3 lần (OR = 5,3; p <

0,01) so với nữ giới.

Trình độ học vấn: Những người có trình độ học vấn tiểu học có nguy cơ

nhiễm SLGN cao gấp 2,7 lần (OR = 2,7; p < 0,05) so với những người có trình độ

trên tiểu học.

Kiến thức: Những người không biết về bệnh SLGN có nguy cơ nhiễm SLGN

cao gấp 3,7 lần (OR = 3,7; p < 0,05) những người biết về bệnh SLGN. Những người

không biết về đường lây truyền SLGN có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 3,2 lần

(OR = 3,2; p < 0,05) so với những người có biết về đường lây truyền SLGN. Những

người không biết về bệnh SLGN có thể tái nhiễm có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp

3,1 lần (OR = 3,1; p < 0,05) so với những người có biết SLGN có thể tái nhiễm.

Những người không biết SLGN có thể phòng, chống được có nguy cơ nhiễm SLGN

cao gấp 2,9 lần (OR = 2,9; p < 0,05) so với những người có biết SLGN có thể

phòng, chống được.

Thái độ: Những người có thái độ không đồng ý cho rằng SLGN là bệnh nguy

hiểm có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 4,1 lần (OR = 4,1; p < 0,05) so với những

người có thái độ đồng ý cho rằng SLGN là bệnh nguy hiểm.

Bảng 3.15. Phân tích mối liên quan giữa hành vi nguy cơ nhiễm SLGN với tình

trạng nhiễm sán lá gan nhỏ

Yếu tố Tình trạng nhiễm SLGN Giá

trị p Có Không OR

(KTC95%)

Ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín Có 63 136 66,3* <

(8,9-477) 0,01 0 Không 141

Dùng chung dụng cụ chế biến Có 40 104 2,9 <0,01 thức ăn sống và chín (1,6-5,1) 23 Không 173

Dùng phân tươi của người, Có 59 192 6,5 <0,01 gia súc để bón ruộng, nuôi cá (2,3-18,6) Không 4 85

* Sử dụng cộng 1 vào 4 ô của bảng 2x2 để tính OR

86

Kết quả bảng 3.15 cho biết một số yếu tố thực hành phòng, chống SLGN liên

quan đến nhiễm SLGN ở người dân thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh

Nam Định trước can thiệp như sau:

Ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá nấu chưa chín: Những người có ăn gỏi cá, cá

sống hoặc cá nấu chưa chín có khả năng hiễm SLGN cao gấp 66,3 lần (OR = 66,3;

p < 0,01) so với những người không ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá nấu chưa chín.

Dùng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và chín: Những người có dùng

chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và chín có khả năng nhiễm SLGN cao gấp 2,9

lần (OR = 2,9; p < 0,01) so với những người dùng riêng dụng cụ chế biến thức ăn

sống và chín.

Dùng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá: Những người

có dùng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá có khả năng nhiễm

SLGN cao gấp 6,5 lần (OR = 6,5; p < 0,01) so với những người không dùng phân

tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá.

3.3. Hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống sán lá gan nhỏ ở người dân tại

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định sau 2 năm can thiệp

3.3.1. Xây dựng mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống nhiễm

sán lá gan nhỏ dựa vào cộng đồng

3.3.1.1. Xây dựng tổ chức, tập huấn nguồn nhân lực

Mô hình lồng ghép (hình 2.2) dựa trên các đơn vị, tổ chức có sẵn đó là Ban

Chỉ đạo liên ngành An toàn vệ sinh thực phẩm của thị trấn Rạng Đông để chỉ đạo

hoạt động phòng, chống SLGN với sự tham gia của các tổ chức liên quan gồm: Uỷ

ban nhân dân thị trấn Rạng Đông giữ vai trò chính trong việc chỉ đạo phối hợp liên

ngành giữa y tế cơ sở với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị -xã hội, tổ

chức xã hội và nhà trường trên địa bàn can thiệp. Nghiên cứu sinh, các chuyên gia

về ký sinh trùng (các thầy hướng dẫn và cán bộ bộ môn Ký sinh trùng của trường

Đại học Y Hà Nội, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương), Trạm

trưởng Trạm y tế thị trấn Rạng Đông giữ vai trò thường trực điều phối các hoạt

động phòng, chống bệnh SLGN.

87

Trong hơn 2 năm từ 10/2009 đến 6/2012 được sự cho phép của Uỷ ban nhân

dân thị trấn Rạng Đông, sự hợp tác của Trung tâm y tế huyện Nghĩa Hưng, nghiên

cứu sinh cùng nhóm nghiên cứu, các chuyên gia của trường Đại học Y Hà Nội, Chi

Cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Nam Định, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn

trùng Trung ương và Trạm y tế thị trấn Rạng Đông đã xây dựng mô hình lồng ghép

hoạt động phòng, chống nhiễm SLGN dựa vào cộng đồng (hình 2.2).

Các hoạt động phòng, chống bệnh SLGN được thực hiện dưới sự chỉ đạo của

Ban Chỉ đạo liên ngành An toàn vệ sinh thực phẩm của thị trấn Rạng Đông sau 2

năm can thiệp đã thu được những kết quả như sau.

Bảng 3.16. Kết quả đào tạo nhân lực cho công tác phòng, chống sán lá gan nhỏ

Số lượng người Đối tượng được tập huấn tham gia

Cán bộ trạm y tế 8

Y tế thôn 12

Cán bộ lãnh đạo chính quyền, ban ngành, đoàn thể 6

Tổng cộng 26

Bảng 3.16 cho kết quả đào tạo nhân lực nòng cốt cho can thiệp phòng,

chống SLGN được nghiên cứu sinh và các chuyên gia về ký sinh trùng của Đại học

Y Hà Nội thực hiện đã tập huấn cho 26 cán bộ trạm y tế, y tế thôn và cán bộ đứng

đầu các ban, ngành, đoàn thể tại địa phương trước khi triển khai chương trình (sau

đây gọi tắt là cán bộ y tế cơ sở và cộng tác viên), đây là nhóm nòng cốt của chương

trình can thiệp. Trong quá trình triển khai thực hiện can thiệp có 01 cán bộ trạm y tế

đã được tập huấn nhưng vì lý do chuyển công tác đã không tham gia tiếp tục

chương trình và thay đổi mới 03 cán bộ y tế thôn, tuy nhiên 03 cán bộ y tế thôn mới

được thay này đã được bàn giao công việc từ các cán bộ y tế thôn cũ và được tập

huấn để cập nhật các kiến thức để tham gia chương trình. Như vậy, trong quá trình

triển khai can thiệp chỉ còn 25 người là cán bộ trạm y tế và cộng tác viên tham gia

đến khi kết thúc chương trình can thiệp. Nội dung tập huấn cho các cán bộ y tế và

cộng tác viên của chương trình can thiệp chủ yếu tập trung nâng cao hiểu biết về

88

bệnh SLGN, cách phòng, chống bệnh SLGN và các kỹ năng truyền thông, giáo dục

sức khỏe trong phòng, chống SLGN.

3.3.1.2. Các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khỏe phòng, chống sán lá gan

nhỏ đã triển khai sau 2 năm can thiệp

Bảng 3.17. Hoạt động can thiệp thông qua kênh truyền thông trực tiếp

tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

Số

Nội dung Đơn vị tính lượng

Tập huấn kiến thức và kỹ năng truyền thông cho các

thành viên ban chỉ đạo liên ngành ATVSTP thị trấn

Tập huấn cho cán bộ trạm y tế thị trấn: 01 buổi/quý x 2 lượt người 54 năm x 8 người (do 01 cán bộ trạm y tế chuyển công tác).

Tập huấn cho cán bộ y tế thôn: 01 buổi/ quý x 2 năm x 12 lượt người 83 người.

Tập huấn lãnh đạo ban, ngành, đoàn thể tham gia chương lượt người 42 trình can thiệp: 01 buổi/ quý x 2 năm x 6 người.

Lồng ghép chủ đề phòng chống SLGN vào sinh hoạt

của tổ chức đoàn thể trên địa bàn thị trấn Rạng Đông

Hội Nông dân thị trấn có lồng ghép nội dung phòng,

chống SLGN định kỳ: 01 buổi/ quý x 2 năm x 875 hội lượt người 5.769

viên

Hội Phụ nữ thị trấn có lồng ghép nội dung phòng, chống lượt người 10.458 SLGN định kỳ: 01 buổi/quý x 2 năm x 1806 hội viên

Hội Người cao tuổi thị trấn có lồng ghép nội dung phòng,

chống SLGN định kỳ: 01 buổi/ quý x 2 năm x 792 hội lượt người 5.536

viên

Đoàn TNCSHCM có lồng ghép nội dung phòng, chống lượt người 635 SLGN định kỳ: 01 buổi/ quý x 2 năm x 92 đoàn viên.

89

Số

Nội dung Đơn vị tính lượng

Tuyên truyền, phổ biến cho học sinh và phụ huynh học

sinh về nguyên nhân, tác hại và cách phòng, chống

SLGN vào các dịp khai giảng và bế giảng năm học tại 01 Buổi 12

trường tiểu học, 01 trường THCS, 01 trường THPT trên

địa thị trấn: 2 buổi/năm x 03 trường x 2 năm

Họp Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm

của thị trấn có lồng ghép nội dung triển khai và đánh giá Buổi 8 kết quả hoạt động can thiệp phòng chống SLGN: 01

buổi/ quý x 2 năm.

1.360

Thăm và tư vấn tại hộ gia đình về phòng chống bệnh lượt người SLGN

Bảng 3.17 cho kết quả của hoạt động can thiệpTTGDSK phòng,chống SLGN

thông qua kênh truyền thông trực tiếp bằng tập huấn cho cán bộ y tế cơ sở và cộng

tác viên là lãnh đạo các đoàn thể ở địa phương gồm: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ,

Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM gồm 24 buổi; Phổ biến nội dung phòng,

chống SLGNlồng ghép vào các buổi sinh hoạt định kỳ của các chi Hội Nông dân,

Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM trên địa bàn thị trấn tổng số

gồm 32 buổi; Nói chuyện về phòng, chống SLGN cho học sinh và phụ huynh học

sinh vào các dịp khai giảng và bế giảng năm học tại các trường học trên địa bàn thị

trấn tổng số gồm 12 buổi; Họp Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm

của thị trấn có lồng ghép nội dung triển khai và đánh giá kết quả hoạt động can

thiệp phòng chống SLGN tổng số gồm 8 buổi; Thăm và tư vấn cho người dân phát

hiện có nhiễm SLGN và người dân là đối tượng nghiên cứu can thiệp tổng số là

1.360 lượt. Tóm lại, sau 2 năm can thiệp bằng TTGDSK đã có 76 buổi tập huấn,

sinh hoạt có nội dung phòng, chống SLGN và 1.360 lượt thăm hỏi, tư vấn về phòng,

chống SLGN cho đối tượng tham gia chương trình can thiệp.

90

Bảng 3.18. Hoạt động can thiệp thông qua kênh truyền thông gián tiếp

tại thị trấn Rạng Đông, tỉnh Nam Định

Nội dung Đơn vị Số

tính lượng

Số lần phát thanh trên loa truyền thanh của thị trấn: có 03

chiến dịch gồm: (1) chiến dịch thứ nhất trong 01 tháng (từ Lần phát 48 15/4-15/5); (2) Trong dịp tết, lễ hội 01 tháng (1/1 – 1/2); (3) thanh

Trong dịp trung thu 01 (từ 15/8 -15/9): 2 lần/ tuần x 2 năm.

Số tờ áp phích được treo tại trạm y tế (01 tờ), trường học (03 Tờ 10 tờ), chợ (06 chợ).

Quyển 100 Số sách mỏng được phát

Tờ 1.200 Số tờ rơi đã phát

Số chiến dịch vệ sinh môi trường: 01đợt /năm x 11 khu dân Chiến dịch 22

Bảng 3.18 cho kết quả của hoạt động can thiệp TTGDSK phòng, chống

SLGN thông qua kênh truyền thông gián tiếp trong 2 năm bằng: Phổ biến các kiến

thức phòng, chống bệnh SLGN qua hệ thống truyền thanh của thị trấn theo chiến

dịch 3 lần trong năm vào tháng 12, tháng 4 và tháng 9 với tổng số 24 lần phát thanh

trên loa truyền thanh của thị trấn; Treo Pano về phòng, chống bệnh SLGN theo nội

dung đã được Viện Sốt rét – Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương thiết kế tại nơi

công cộng gồm: bảng tin của 03 trường học (01 trường trung học phổ thông, 01

trường trung học cơ sở, 01 trường tiểu học); 06 chợ và trạm y tế thị trấn tổng số

gồm 10 áp phích được treo thường xuyên nếu bị hư hỏng sẽ được dán lại; Phát 100

sách mỏng cho các tổ chức đoàn thể (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao

tuổi, Đoàn TNCSHCM), y tế cơ sở (trạm y tế và y tế thôn), để phát ở trạm y tế cho

người dân nếu quan tâm sẽ được phát gồm: sách mỏng hướng dẫn chẩn đoán và

điều trị các bệnh giun sándo Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương

thiết kế nội dung; các sách mỏng gồm: Sổ tay hướng dẫn phòng, chống ngộ độc

thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm tại tuyến y tế cơ sở; Tài liệu kiểm soát

ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm; Sán lá gan nhỏ do Cục An toàn

91

vệ sinh thực phẩm và chuyên gia ký sinh trùng của Đại học Y Hà Nội thiết kế nội

dung; Phát 1.200 tờ rơi có nội dung phòng, chống sán lá gan nhỏ do Viện Sốt rét –

Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương thiết kế nội dung và tờ rơi 10 nguyên tắc

vàng chế biến thực phẩm an toàn do Cục An toàn thực phẩm thiết kế cho cho các

đối tượng nghiên cứu và người đứng đầu Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người

Cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Đoàn TNCSHCM để tuyên truyền về phòng, chống

nhiễm SLGN và các biện pháp vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường nhằm giảm tỉ lệ

nhiễm SLGN trong cộng đồng. Phát động chiến dịch vệ sinh môi trường tập trung

vào làm sạch nhà vệ sinh và khu vực xung quanh nhà vệ sinh, vệ sinh đường làng,

ngõ xóm nhằm quản lý và xử lý tốt phân của người và động vật tại 11 khu dân cư

trên địa bàn thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trong 02 năm.

3.3.2. Hiệu quả can thiệp truyền thông, giáo dục sức khoẻ phòng, chống nhiễm

sán lá gan nhỏ sau 2 năm can thiệp

Sau 2 năm can thiệp cộng đồng bằng TTGDSK phòng, chống SLGN cho

người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định đã ghi nhận

sự thay đổi về kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về phòng, chống SLGN

một cách rõ rệt theo hướng có lợi cho sức khoẻ của người dân và cộng đồng cụ thể

như sau:

Bảng 3.19. Hiểu biết của người dân về phòng, chống SLGN trước và sau can thiệp

Nội dung kiến thức

Trước can thiệp Số Sau can thiệp Số % % CSHQ (%) lượng lượng

Giá trị p ( Mc Nemar test) Số điều tra 340 337

Biết về bệnh SLGN 114 33,5 328 97,3 190,7 < 0,01

Biết tác hại SLGN 50 14,7 327 97,0 559,9 < 0,01

Biết về đường lây 96 28,2 331 98,2 248,2 < 0,01 truyền SLGN

Biết bệnh SLGN có thể 104 30,6 326 96,7 216,0 < 0,01 tái nhiễm

92

Nội dung kiến thức

Trước can thiệp Số Sau can thiệp Số CSHQ (%) % % lượng lượng Giá trị p ( Mc Nemar test)

Biết bệnh SLGN 107 31,5 335 98,5 212,7 < 0,01 phòng, chống được

Bảng 3.19 cho thấy kiến thức của người dân về phòng, chống SLGN đều

tăng lên so với trước can thiệp và sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

Sau can thiệp hầu hết người dân (trên 96%) đều đã biết về bệnh SLGN, biết tác hại

SLGN, biết lây nhiễm SLGN là qua đường tiêu hoá, biết bệnh SLGN có thể tái

nhiễm, biết bệnh SLGN có thể phòng chống lần lượt tăng 97,3%; 97,0%; 98,2%;

96,7% và 98,5% so với trước can thiệp 33,5%; 14,7%; 28,2%; 30,6% và 31,5% với

chỉ số hiệu quả lần lượt190,7%; 560,5%; 248,2%; 216,0% và 212,7%. Chỉ số hiệu

quả cao nhất là việc tăng hiểu biết về tác hại của SLGN (560,5%).

Bảng 3.20. Thái độ của người dân về phòng, chống SLGN trước và sau can thiệp

Trước can thiệp Sau can thiệp

CSHQ Giá trị p ( Mc Nội dung (%) Số lượng Nemar Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %

test)

Số điều tra (n) 340 337

Thái độ đồng tình đưa ra lời

khuyên không ăn gỏi cá, cá nấu 45 13,2 330 97,9 641,7 < 0,01

chưa chín

Thái độ đồng tình cho rằng 112 32,9 330 97,9 197,6 < 0,01 nhiễm SLGN là nguy hiểm

Ủng hộ việc phòng chống SLGN 61 17,9 331 98,2 450,3 < 0,01

93

Bảng 3.20 trên cho thấy thái độ của người dân về phòng, chống SLGN đều

tăng lên so với trước can thiệp và sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

Sau can thiệp hầu hết người dân (trên 98%) đều có thái độ đồng tình nên đưa ra lời

khuyên không ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín; thái độ đồng tình cho rằng nhiễm SLGN

là nguy hiểm; ủng hộ cho việc phòng, chống SLGN lần lượt tăng 97,9%; 97,9%;

98,2% so với trước can thiệp 13,2%; 32,9%; 17,9% với chỉ số hiệu quả 641,7%;

197,6%; 450,3%. Chỉ số hiệu quả cao nhất là thay đổi thái độ trong việc đồng tình

nên đưa ra lời khuyên không ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín (641,7%).

CSHQ 87% 1289% 88% 100%

Biều đồ 3.10. Thực hành của người dân khi nghi ngờ nhiễm sán lá gan nhỏ

trước và sau can thiệp

Biểu đồ 3.10 trên cho thấy, thực hành của người dân khi nghi ngờ nhiễm

SLGN sau can thiệp đều thay đổi theo hướng có lợi cho sức khoẻ so với trước can

thiệp và sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 (Mc Nemar test). Sau can

thiệp người dân tự đi mua thuốc uống khi nghi ngờ nhiễm bệnh SLGN giảm đi so

với trước can thiệp (58,2% giảm xuống còn 7,4%) với chỉ số hiệu quả 87%. Đồng

94

thời, sau can thiệp người dân đi khám chuyên khoa tăng lên so với trước can thiệp

(6,5% tăng lên 89,6%) với chỉ số hiệu quả 1289%.

Bảng 3.21. Thực hành của người dân về một số biện pháp nhằm phòng, chống sán

lá gan nhỏ trước và sau can thiệp

Trước Sau

can thiệp can thiệp CSHQ Giá trị p ( Mc Nội dung Số Số (%) Nemar % % lượng lượng test)

Số điều tra 340 337

Ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín 199 58,5 0,9 98,5 p < 0,01 3

Dùng chung dụng cụ chế 6 144 42,4 1,8 95,8 p < 0,01 biến thức ăn sống và chín

Dùng phân tươi của người

hoặc gia súc bón ruộng, nuôi 251 73,8 1 0,3 99,6 p < 0,01

Bảng 3.21 cho thấy thực hành của người dân về một số biện pháp nhằm

phòng,chống nhiễm sán lá gan nhỏ trước và sau can thiệp, các thực hành phòng,

chống nhiễm SLGN của người dân sau can thiệp đều theo hướng có lợi cho sức

khoẻ bao gồm: sau can thiệp tỉ lệ người dân ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín đã đã giảm

so với trước can thiệp (58,5% giảm xuống 0,9%), với chỉ số hiệu quả 98,5%. Đồng

thời, việc sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín; dùng phân

tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá cũng giảm lần lượt 1,8%; 0,3% so với

trước can thiệp 42,4%; 73,8% với chỉ số hiệu quả lần lượt 95,8%; 99,6%. Chỉ số

hiệu quả cao nhất là thay đổi hành vi dùng phân tươi của người, gia súc bón ruộng,

nuôi cá (99,6%).

3.3.3. Hiệu quả điều trị praziquantel sau 2 năm can thiệp

Sau hai năm can thiệp bằng TTGDSK kết hợp với điều trị đặc hiệu bằng

praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày nhận thấy đây là phác đồ điều trị

95

praziquantel nêu trên cho hiệu quả cao, dễ sử dụng cho cộng đồng kết quả cụ thể

như sau:

Bảng 3.22. Tỉ lệ sạch trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel

Tổng số người

Kết quả điều trị Có trứng Không còn trứng Tỉ lệ sạch trứng (n=63) SLGN SLGN (%)

Trước điều trị 63 0 -

Sau điều trị 24 tháng 0 63 100,00

Bảng 3.22 cho kết quả, tỉ lệ sạch trứng SLGN sau 24 tháng điều trị thuốc

praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày là 100,0%.

Bảng 3.23. Tỉ lệ giảm trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel

Số trứng trung bình/gam phân

Kết quả điều trị

Tỉ lệ giảm trứng Trước điều trị Sau điều trị (n=63) (%)

Sau 6 tháng 178 43 75,8

Sau 12 tháng 30 0 100,0

Sau 18 tháng 0 0 -

Sau 24 tháng 0 0 -

Bảng 3.23 cho kết quả, số trứng trung bình/gam phân trước điều trị là 178

PEG, sau điều trị 6tháng là 43 trứng trung bình/gam phân, tỉ lệ giảm trứng là 75,8%.

Sau 12thángđiều trị còn 1 trường hợp nhiễm SLGN số trứng trung bình/ gam phân

trước điều trị là 30 trứng trung bình/gam phân, sau điều trị số trứng trung bình/gam

phân là 0 trứng trung bình/gam phân, tỉ lệ giảm trứng là 100,0%. Sau 18 tháng và

24 tháng số trung bình trứng/gam phân sau điều trị duy trì ổn định là 0 trứng trung

bình/gam phân.

96

Bảng 3.24. Tỉ lệ tái nhiễm sán lá gan nhỏ trong 2 năm can thiệp

Tổng số người

Kết quả điều trị Còn trứng Không còn Tỉ lệ tái nhiễm (n=63) SLGN trứng SLGN (%)

Trước điều trị 63 0 -

Sau 6 tháng 2 61 3,2

Sau 12 tháng 1 62 1,6

Sau 18 tháng 0 63 0,0

Sau 24 tháng 0 63 0,0

Tích lũy sau 24 tháng 3 63 4,7

Bảng 3.24 cho kết quả, sau 6 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 2

người; sau 12 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 1 người; sau 18 tháng và

24 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là không phát hiện. Tổng số người tái

nhiễm SLGN tích lũy sau 3 lần xét nghiệm là 3 người. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau

24 tháng là 4,7%, trong đó tỉ lệ tái nhiễm sau 6 tháng là 3,2%; Sau 12 tháng là 1,6%

và sau 18 tháng và 24 tháng là 0,0%. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau 24 tháng là 4,7%.

Bảng 3.25. Tỉ lệ mới nhiễm sán lá gan nhỏ sau 24 tháng can thiệp

Tổng số người

Thời gian xét nghiệm Số người được Số người có Tỉ lệ mới nhiễm lặp lại xét nghiệm trứng SLGN (%)

Trước điều trị 400 63 -

Sau can thiệp 24 tháng 397 0 0,0

Bảng 3.25 cho thấy, sau 24 tháng xét nghiệm lại cho 334 người dân không

phát hiện thấy trứng SLGN trong nghiên cứu trước can thiệp kết quả không phát

hiện thấy trường hợp nào có trứng SLGN trong phân. Do vậy, tỉ lệ mới nhiễm

SLGN là 0,0% sau 24 tháng can thiệp bằng TTGDSK kết hợp với điều trị SLGN

bằng praziquantel cho các đối tượng nhiễm SLGN.

97

Chương 4: BÀN LUẬN

4.1.Tỉ lệ nhiễm và loài sán lá gan nhỏ ở người và ở cá nước ngọt nuôi tại thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

4.1.1. Tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người

Kết quả xét nghiệm phân tìm trứng sán lá gan nhỏ cho 400 người dân từ 1

tuổi trở lên sống tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cho

thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở người là 15,8%. Tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân sống tại

thị trấn Rạng Đông cao hơn so với tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân tại Triều Tiên

trong nghiên cứu khảo sát tỉ lệ hiện mắc SLGN của cư dân sống trong các làng dọc

theo 4 sông chính là Nakdong-gang, Seomjin-gang, Youngsan-gang và Guem- gang

ở phía nam của Triều Tiên năm 2006 (11,1%) [88] và tỉ lệ nhiễm C. sinensis năm

2016 ở người dân sống dọc 5 sông chính ở Triều Tiên có tỉ lệ nhiễm C. sinensis là

8,4% [147] thì nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ nhiễm cao hơn nhưng so với tỉ lệ

nhiễm SLGN (40-48%) năm 2008 ở người dân sống gần sông Nakdong [123] và

điều tra tại tỉnh Kwangtung, Trung Quốc có tỉ lệ nhiễm SLGN là 40% [29] thì tỉ lệ

nhiễm SLGN trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn. Điều này có thể do tập quán

ăn gỏi cá và một số yếu tố liên quan đến nhiễm SLGN ở mỗi vùng lãnh thổ của các

quốc gia có sự khác nhau và hiện nay các thuốc điều trị đặc hiệu đối với SLGN đã

được sản xuất và sử dụng có hiệu quả ở những địa phương có tỉ lệ nhiễm SLGN cao

như ở Triều Tiên, Trung Quốc. Ở Việt Nam, tỉ lệ nhiễm SLGN ở thị trấn Rạng

Đông 15,8% không khác so với kết quả nghiên cứu của Đinh Thị Thanh Mai ở

huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa năm 2011 (16,8%) [24] và kết quả nghiên cứu

nhiễm SLGN tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng năm

2013 trên 510 đối tượng có tỉ lệ nhiễm SLGN chung tại cộng đồng là 15,69% [17],

nhưng cao hơn kết quả điều tra tại 5 huyện thuộc tỉnh Nghệ An năm 2006 (0,06%)

của Nguyễn Văn Đề [30] và của cùng tác giả năm 2001 tại 10 huyện của tỉnh Hòa

Bình là 5% [23]. So với tỉ lệ nhiễm SLGNở người tại xã Khánh Thượng, huyện Ba

Vì, Hà Nội năm 2004 (39%) [53], 03 huyện ven biển tỉnh Nam Định năm 2009 và

huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2005 [46, 48, 62] kết quả của chúng tôi thấp

hơn. Tỉ lệ nhiễm SLGN trong nghiên cứu này tương tự với kết quả nghiên cứu tại

98

huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, có thể do đây là địa phương thuộc đồng bằng ven

biển bắc trung bộ và người dân ở huyện Nga Sơn cũng có tập quán ăn gỏi cá tương

tự như ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, còn tỉ lệ nhiễm SLGN (15,8%) ở thị

trấn Rạng Đông cao hơn ở Nghệ An và Hoà Bình do đây là 2 tỉnh miền núi, không

thuộc vùng đồng bằng bắc bộ là vùng nơi người dân có thói quen ăn gỏi cá từ lâu

đời. Như vậy, tỉ lệ nhiễm SLGN khác nhau ở từng vùng ngoài các yếu tố có liên

quan đến nhiễm SLGN như tập quán ăn uống, tập quán canh tác, vệ sinh môi trường

khác nhau, còn có yếu tố địa hình, đặc điểm dân cư của từng địa phương. Cùng nằm

trên dải ven biển từ huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đến huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh

Bình nhưng tỉ lệ SLGN ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

thấp hơn ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định và huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình có

thể do nguồn gốc dân khác nhau, thị trấn Rạng Đông hình thành từ nông trường

Rạng Đông một quần thể người từ nhiều tỉnh khác nhau có cả bộ đội miền Nam tập

kết và người dân từ các tỉnh khác đến sinh sống và làm công nhân tại nông trường

Rạng Đông những người này có thể đến từ các địa phương nơi người dân không có

thói quen ăn gỏi cá. Thói quen ăn gỏi cá thường gặp ở người dân bản xứ là dân cư

của vùng đồng bằng ven biển Bắc bộ [30, 47]. Tuy nhiên, việc triển khai nghiên cứu

ở người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cho thấy ăn

gỏi cá là một thói quen ăn uống có ảnh hưởng mang tính cộng đồng, có những

người trước đây chưa từng ăn gỏi cá nhưng thấy người khác ăn và được mời thì

cũng sẽ ăn và trở thành thói quen nếu không có các biện pháp TTGDSK phòng,

chống nhiễm SLGN được thực hiện thường xuyên trong cộng động để người dân

biết được tác hại của SLGN từ đó có kế hoạch cho bản thân, gia đình và cộng đồng

trong việc từ bỏ thói quen ăn gỏi cá và thực hiện các biện pháp bảo vệ vật nuôi và

môi trường xung quanh nhằm phòng, chống SLGN.

Trong số 400 người dân sống tại thị trấn Rạng Đông, độ tuổi từ 1-14 tuổi trong

nghiên cứu của chúng tôi chưa phát hiện thấy nhiễm SLGN. Tỉ lệ nhiễm SLGN ở

các nhóm tuổi không khác biệt (p>0,05) tuy vậy, tỉ lệ nhiễm SLGN ở nhóm trên 60

tuổi (24,4%) có cao hơn các nhóm tuổi khác. Kết quả này tương đồng với các

nghiên cứu của các tác giả Trung Quốc trong một khảo sát quốc gia liên quan đến

99

đỉnh của tỉ lệ nhiễm C.sinensis là ở ba nhóm tuổi là 30-34 tuổi; 45-49 tuổi và 75-79

tuổi năm 2004 [143]. Ở Triều Tiên, tỉ lệ nhiễm cũng như cường độ nhiễm là tăng

theo tuổi đến 50 tuổi bởi sự ảnh hưởng tích lũy của sự nhiễm SLGN đặc biệt đối với

những người có thói quen ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín. Tất cả các số liệu có liên

quan cho thấy, tỉ lệ nhiễm thấp ở dưới 20 tuổi nhưng tăng liên tục trong các độ tuổi

20 tuổi, 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi và giảm xuống rõ rệt sau 60 tuổi. Các đỉnh của tỉ lệ

mắc thường ở độ tuổi 40 tuổi hoặc 50 tuổi theo thời gian và địa điểm. Một khảo sát

theo nhóm tuổi cho thấy trong các nhóm tuổi 0-9; 10-19; 20-29; 30-39; 40-49; 50-59

và 60 trở lên có tỉ lệ mắc tương ứng là 0,6%; 18,9%; 25,5%; 29,9%; 26,6%; 20,1%

[95, 122]. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả tương tự với nghiên cứu ở Việt Nam

của Nguyễn Văn Đề, Trương Tiến Lập năm 2009, Đỗ mạnh Cường năm 2013, Đinh

Thị Thanh Mai năm 2014, cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở nhóm tuổi dưới 20 tuổi thấp

hơn các lứa tuổi trên 20 tuổi, còn nhóm tuổi trên 60 tỉ lệ nhiễm cao hơn các nhóm

tuổi khác [17, 46, 51]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương năm 2000, cho thấy tỉ

lệ nhiễm SLGN tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định tập trung chủ yếu ở lứa tuổi từ

30-59 tuổi, nhóm tuổi dưới 15 chưa phát hiện thấy trường hợp nào nhiễm SLGN,

còn tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên cho thấy nhóm tuổi từ 1-14 tuổi cũng chưa phát

hiện thấy nhiễm SLGN [12,17]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với kết

quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương và nghiên cứu Đỗ Mạnh Cường nêu trên

là chưa phát hiện nhiễm SLGN ở người dưới 15 tuổi. Do vậy, trong nghiên cứu can

thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN, chúng tôi triển khai trên đối tượng từ 15 tuổi

trở lên.

Kết quả nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam (30,1%) cao hơn nữ

(7,5%), kết quả này tương tự với các nghiên cứu trên thế giới, ở Triều Tiên, hầu hết

các báo cáo về tỉ lệ nhiễm C. sinensis ở người đều ghi nhận nam bị nhiễm nhiều hơn

nữ. Một khảo sát quốc gia về bệnh SLGN ở khu vực hai bên sông thấy tỉ lệ hiện mắc

trung bình là 21,5%, trong đó 24,0% ở nam giới và 17,4% ở nữ giới năm 1981

[95,122] và kết quả một khảo sát về tỉ lệ nhiễm C. sinensis ở người dân sống dọc 5

sông chính ở Triều Tiên, tỉ lệ nhiễm C. sinensis là 8,4%, trong đó tỉ lệ nhiễm ở nam

là 11,2% và ở nữ là 6,2% năm 2016 [147]. Ở Trung Quốc, không có sự khác nhau

100

đáng kể trong tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam và nữ dưới 15 tuổi. Tỉ lệ nhiễm nặng hơn ở

nam so với nữ trong các nhóm tuổi từ 20 tuổi đến 75 tuổi. Một nghiên cứu gần đây ở

vùng dịch tễ của Guangxi cũng chỉ ra kết quả tương tự về sự phân bố theo tuổi và

giới đối với nhiễm SLGN C. Sinensis [142, 143,145]. Ở Lào, năm 2010, một nghiên

cứu cho học sinh thuộc huyện Champhon, tỉnh Savannakhet cho tỉ lệ nhiễm SLGN

chung là 42,8% trong đó, nam 58,9% và nữ 26,7% [50]. Tương tự các nghiên cứu

trên thế giới về tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam và ở nữ giới, ở Việt Nam, tại tỉnh Phú Thọ,

nghiên cứu tiến hành trên 400 công nhân của 3 công ty chè cho thấy tỉ lệ nhiễm

SLGN nhỏ là 22,25%, trong đó tỉ lệ nhiễm SLGN ở nữ công nhân là 16,7%, ở nam

là 27,4% năm 2008 [42]. Tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải

Phòng, tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam là 17,07% và ở nữ là 14,39% [17]. Tại xã Nga Tân,

huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tỉ lệ nhiễm SLGN C. sinensi là 11% , trong đó

nam giới nhiễm SLGN cao hơn nữ giới trên 6 lần [24]. Tại xã Nga An, huyện Nga

Sơn, tỉnh Thanh Hoá,tỉ lệ nhiễm SLGN trong đối tượng từ 15 tuổi trở lên là 25,3%,

tỉ lệ nhiễm ở nam là 34,4% cao gấp 2 lần ở nữ năm 2004 [39]. Tại xã Hoằng Tiến,

huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân từ 15 tuổi trở lên

là 8,7%, trong đó tỉ lệ nhiễm ở nam cao hơn ở nữ (11,2% so với 1,2%) [49]. Tại tỉnh

Nam Định và Ninh Bình, Nguyễn Văn Đề và cộng sự cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở

nam cao hơn ở nữ 4 lần [25]. Nghiên cứu tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định, năm

2009, cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN 24,7%, trong đó, nam (35,7%) cao hơn nữ

(15,6%) [46]. Tại Đắc Lắc, nghiên cứu tại lưu vực sông Srepok cho thấy nhiễm

SLGN ở nam là 6,6% và nữ là 7,0% [19]. Tại xã Mỹ Quang, Huyện Phù Mỹ, tỉnh

Bình Định, tỉ lệ nhiễm SLGN chung của người dân là 10,9 %. Tỉ lệ nhiễm ở nam là

18,2% nữ là 3,8% [68]. Tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam cao hơn ở nữ có thể do nam giới

thường có thói quen ăn ngoài cùng bạn bè, uống rượu và ăn gỏi cá với quan niệm

cho rằng uống rượu sẽ có tác dụng tiêu diệt hết các mầm bệnh trong thức ăn sống,

chưa được nấu chín. Tuy nhiên, nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng, Viện Sốt rét – Ký

sinh trùng – Côn trùng Trung ương và cộng sự, năm 2016, đánh giá thực trạng

nhiễm ấu trùng sán lá trên cá và ảnh hưởng của nước chanh tươi với rượu etanol tới

khả năng sống sót của ấu trùng metacercaria SLGN C.sinensis đã cho kết quả ấu

101

trùng SLGN C. sinensis thử nghiệm trong các nồng độ rượu 40o, 30o, 20o, trong

nước chanh nguyên chất, nước chanh 50%, nước chanh 25% sau 12 giờ đồng hồ đều

không bị thoái hoá, chứng tỏ rượu và nước chanh ở các nồng độ khác nhau không

ảnh hưởng đến khá năng sống, không tiêu diệt được ấu trùng C. sinensis. Kết quả

của nghiên cứu đã góp phần đánh giá ô nhiễm thực phẩm bởi mầm bệnh ký sinh

trùng, đặc biệt cảnh báo cho việc sử dụng các nguồn cá là thực phẩm, tiềm ẩn nguy

cơ nhiễm SLGN nếu sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín

dùng để ăn ngay, đồng thời nghiên cứu khẳng định quan niệm không đúng khi cho

rằng rượu hoặc nước chanh có thể diệt được ấu trùng SLGN C. sinensis và cần có

các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ nhằm thay đổi nhận thức về vệ sinh

an toàn thực phẩm và thói quen ăn gỏi cá tại các vùng dịch tễ của bệnh SLGN [18].

Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tỉ lệ nhiễm SLGN có sự khác nhau (p

<0,001) giữa những người có nghề nghiệp khác nhau, những người làm ruộng có tỉ

lệ nhiễm SLGN (19,5%) cao hơn những người làm nghề khác (7,4%), kết quả của

chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc, tỉ lệ nhiễm SLGN cao

trong nông dân và tiểu thương (2,41%), thương gia (0,79%), giáo viên (0,59%) và

binh lính (0,50%) [143]. Ở Việt Nam, tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh,

thành phố Hải Phòng, tỉ lệ nhiễm SLGN ở học sinh, sinh viên, giáo viên, người nghỉ

hưu, mất sức là 0,00%, ở công nhân, cán bộ viên chức là 10,81% và ở nông dân là

18,37% [17]. Nghiên cứu của Đỗ Thái Hòa tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh

Thanh Hóa cho thấy trong số những người từ 15 tuổi trở lên nhóm đối tượng làm

nghề nông có tỉ lệ nhiễm SLGN cao gấp gần 2 lần so với các nhóm đối tượng có

nghề nghiệp khác [39], đều có tỉ lệ nhiễm SLGN cao ở những người làm nghề nông

nghiệp. Điềun này cũng phù hợp với kết quả của nghiên cứu này khi chỉ ra rằng có

mối liên quan giữa trình độ học vấn và tình trạng nhiễm SLGN ở người.

Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nhiễm SLGN cao ở những người có trình độ học

vấn thấp, tỉ lệ nhiễm cao nhất ở người có trình độ học vấn tiểu học là 33,3%. Kết

quả nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên cứu xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh

Thanh Hoá cho thấy nhóm có học vấn từ phổ thông trung học trở lên có tỉ lệ nhiễm

102

là 10,8% trong khi nhóm có học vấn từ phổ thông trung học trở xuống có tỉ lệ

nhiễm là 26,9% [39].

Cường độ nhiễm SLGN trung bình ở người dân thị trấn Rạng Đông, huyện

Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trên 63 đối tượng nghiên cứu có nhiễm SLGN là 179,7

trứng SLGN/1 gam phân (EPG), dựa trên phân loại của WHO cường độ nhiễm

SLGN ở thị trấn Rạng Đông chủ yếu là mức độ nhẹ chiếm 98,4% và chỉ có 1,6%

trung bình, không có đối tượng nào nhiễm ở mức độ nặng, kết quả này tương tự kết

quả nghiên cứu của Đinh Thị Thanh Mai tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh

Hoá cho biết cường độ nhiễm trung bình là 229,5 EPG (46-1426; SD=178,897),

98,9% nhiễm SLGN ở mức độ nhẹ, chỉ có 1,1% nhiễm ở mức độ trung bình, không

có đối tượng nào nhiễm ở mức độ nặng [51] và tại xã Nga An, huyện Nga Sơn tỉnh

Thanh Hoá năm 2004, cường độ nhiễm trung bình là 229,5 trứng /1 gam phân và

năm 2014, cường độ nhiễm trung bình là 320,7 trứng/1 gam phân [66]. Như vậy,

sau 10 năm cường độ nhiễm SLGN tại xã Nga An, huyện Nga Sơn không giảm mà

còn tăng. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của

Nguyễn Mạnh Hùng trên công nhân chè ở tỉnh Phú Thọ năm 2007, cường độ nhiễm

SLGN trung bình là 1032 ± 590 trứng SLGN /1 gam phân [42] và thấp hơn cường

độ nhiễm trung bình trong nghiên cứu của Đặng Thị Cẩm Thạch trên 110 bệnh nhân

nhiễm SLGN ở tỉnh Ninh Bình có tới 80,9% số bệnh nhân cường độ nhiễm mức

trung bình [62]. Các kết quả nghiên cứu ở trên cho thấy, cường độ nhiễm SLGN là

179,7 trứng trung bình/1g phân trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự kết quả

nghiên cứu tại xã Nga Phú, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa của Đinh Thị Thanh

Mai [51], Nguyễn Văn Chương và Trương Tiến Lập [10, 46]. So với nghiên cứu

của Nguyễn Mạnh Hùng năm 2008 và Đặng Thị Cẩm Thạch năm 2005, cường độ

nhiễm của chúng tôi thấp hơn có thể do ảnh hưởng đặc điểm dân cư của thị trấn

Rạng Đông là những người di cư từ nơi khác đến làm việc và sinh sống những

người này ở các địa phương khác không có tập quán, thói quen ăn gỏi cá như những

người dân bản xứ sinh sống lâu đời ở địa phương nơi có tập quán ăn gỏi cá.

4.1.2. Tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở cá nước ngọt nuôi tại thị trấn Rạng

Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

103

Cá là vật chủ trung gian truyền mầm bệnh SLGN cho người qua đường tiêu

hóa do ăn phải cá có chứa ấu trùng nang SLGN còn sống. Khi người ăn phải ấu

trùng SLGN còn sống trong cá, ấu trùng nang theo đường mật vào gan ký sinh và

gây bệnh cho người bị nhiễm SLGN.

Kết quả xét nghiệm ấu trùng SLGN ở 7 loài cá nước ngọt nuôi tại thị trấn

Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cho thấy có 6/7 loài cá được xét

nghiệm có nhiễm ấu trùng nang SLGN với tỉ lệ từ 4,0% - 30,0%, cụ thể: cá diếc

(30,0%); cá mè (14,0%); cá chép (10,0%); cá chuối (10,0%); cá trôi (6,0%); cá rô

phi (4,0%). Trong đó, cá diếc có tỉ lệ ấu trùng nang SLGN trong cá chiếm tỉ lệ cao

nhất 30% và cá trắm chưa phát hiện thấy nhiễm ấu trùng nang SLGN. Kết quả

nghiên cứu này của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc và

Triều Tiên dưới đây khi tìm thấy ấu trùng SLGN C. sinensis ký sinh ở một số loài

cá chép cụ thể: Ở Trung Quốc, tổng số 307 cá nước ngọt của 31 loài đã được thu

thập từ 5 vùng hành chính của khu tự trị Guangxi Zhang. Chúng được kiểm tra bằng

phương pháp phân hủy nhân tạo, ấu trùng nang của C. sinensis được tìm thấy trong

một loài cá Chanodichthys dabryi được mua từ một chợ ở Nanning. Trong cá từ

Yangshuo, tổng số 13 ấu trùng nang của C. sinensis được tìm thấy ở 3 trong số 10

loài cá Hemibarbus maculates từ Yangshuo. Trong cá từ Binyang-xian, một ấu

trùng nang của C. sinensis được tìm thấy trong loài cá Hemiculter leucisculus [127].

Ở Triều Tiên, 21 loài cá nước ngọt (n=677) được thu thập từ 34 vùng trong cả nước,

cá được xét nghiệm từng con một bằng kỹ thuật thủy phân. Tám loài cá nước ngọt

từ 17 khu vực khác nhau được ghi nhận có dương tính với ấu trùng nang của C.

sinensis. Tỉ lệ dương tính của cá ở các loài là như sau: 48% ở Pseudoras parva,

60% ở Pungtungiaherzi, 15,7% ở Pseudogobio esocinus, 29% ở Acheilognathus

intermedia, 21% ở Odontobutis interrupta, 33% ở Zacco temmincki, 3,6% ở Zacco

lalatypus và 26,3% ở Hemibarbus labeo. Hai loài cá chép, P.parva và P.hezi có thể

được coi là chỉ số hay dấu hiệu cho biết sự lây truyền của C. sinensis trong những

vùng nhất định [78, 103]. Kết quả tỉ lệ nhiễm ấu trùng nang SLGN nuôi tại thị trấn

Rạng Đông trong nghiên cứu này tương tự với các nghiên cứu về tỉ lệ nhễm ấu

trùng SLGN ở Việt Nam như: điều tra ở vùng đồng bằng bắc bộ, xét nghiệm 10 loài

104

cá nước ngọt thì có 7 loài nhiễm ấu trùng nang của SLGN (cá mè, cá chép, cá trôi,

cá trắm, cá giếc, cá rô, cá rô phi), cao nhất là cá mè 44,47% [8]. Xét nghiệm 125

mẫu cá lấy từ 6 loài cá nước ngọt (cá mè, cá Rô phi, cá trắm, cá trôi, cá chép, cá

diếc) mua tại các chợ của bốn xã vùng ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm

2014, có 6/ 6 loài cá được xét nghiệm dương tính với ấu trùng nang SLGN. Loài ấu

trùng nang SLGN được xác định là loài C. sinensis bằng hình thái học [59]. Điều tra

trên 15 tỉnh có tập quán ăn gỏi cá, thì có 7/10 loài cá bị nhiễm ấu trùng nang của

SLGN ở cá với tỉ lệ 13,3 - 44,5% [25]. Năm 2002, tại xã Nga Tân, huyện Nga Sơn,

tỉnh Thanh Hóa, cá mè Hypophtalmichthic molitrix nhiễm ấu trùng nang SLGN là

88,9%, cá trôi Cirhina molitorella nhiễm ấu trùng nang SLGN là 58,3% [24] cao

hơn so với kết quả nghiên cứu sự nhiễm SLGN ở cá mè và cá trôi ở nghiên cứu của

chúng tôi, tuy nhiên cũng tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá sau 12 năm, năm

2014, tỉ lệ nhiễm SLGN ở cá mè là 4,0% [66] tỉ lệ nhiễm SLGN ở cá mè trong

nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, điều này có thể do người

dân đã có có ý thức hơn trong việc quản lý phân và không còn sử dụng phân tươi

của người và gia súc để bón ruộng, nuôi cá. Một nghiên cứu quan sát mô tả được

tiến hành để xác định tình trạng nhiễm ấu trùng sán lá trên 4 loài cá thu mua tại một

số siêu thị, cửa hàng tại Hà Nội gồm 52 các mẫu cá ngừ, cá hồi, cá nhệch, cá mực

và 92 mẫu của 6 loại cá nước ngọt gồm cá chép, cá diếc, cá rô phi, cá tép dầu, cá

thiểu, cá mương thu mua tại Hồ Thác Bà Yên Bái để xét nghiệm cho thấy, trong

144 mẫu cá được xét nghiệm, có 50% (72/144) mẫu cá nhiễm ấu trùng SLGN C.

sinensis gồm 5/6 loài cá nước ngọt được xét nghiệm là cá chép, cá diếc, cá tép dầu,

cá thiểu, cá mương. Điều tra 10 loại cá nước ngọt được bán tại các chợ ở thành phố

Hà Nội thì có 7 loài bị nhiễm ấu trùng nang của SLGN là cá rô phi, cá trắm, cá trôi,

cá chép, cá giếc, cá chuối, cá trê, với tỉ lệ nhiễm trung bình là 5,2% trong đó thấp

nhất là cá rô phi nhiễm 1,7%, cao nhất là cá giếc nhiễm 21,7%. Tất cả các chợ điều

tra (5 chợ) đều có cá nhiễm ấu trùng nang của SLGN, trong đó chợ Văn Điển có tới

7 loài cá nhiễm ấu trùng nang của SLGN. Như vậy, ở Hà Nội cũng có thể bị nhiễm

SLGN nếu ăn cá chưa nấu chín và nhiễm chéo khi sử dụng chung dụng cụ chế biến

105

thức ăn sống và thức ăn chín dùng ăn ngay có nhiễm ấu trùng nang của SLGN [27,

28,32].

Tỉ lệ nhiễm ấu trùng nang SLGN ở cá nước ngọt vẫn cao trong cộng đồng là

do một số địa phương vùng đồng bằng ven biển Bắc bộvẫn còn tồn tại thói quen ăn

gỏi cá và dùng phân tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá.Việc sử dụng phân

tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng nuôi cá ở những địa phương người dân có

thói quen ăn gỏi cá và có nhiễm SLGN làm phát tán mầm bệnh SLGN trong cộng

đồng và là lý do làm cho SLGN vẫn tồn tại dai dẳng trong cộng đồng. Nguồn cá bị

nhiễm ấu trùng nang SLGN này được tiêu thụ ở địa phương và đem đi bán tại các

chợ ở những vùng khác kể cả thành phố nên nguy cơ bị nhiễm SLGN là có thể xẩy

ra với tất cả mọi người nếu không áp dụng các biện pháp dự phòng bằng cách sử

dụng riêng dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín. Do vậy, cần triển khai

can thiệp bằng TTGDSK nhằm hướng dẫn người dân trong cộng đồng không sử

dụng phân tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá vì làm như vậy sẽ phát tán

mầm bệnh SLGN ra môi trường và vệ sinh ăn uống bằng ăn chín, uống sôi không ăn

gỏi cá, cá sống hoặc nấu chưa chín, sử dụng riêng dụng cụ chế biến thức ăn sống và

thức ăn chín.

4.1.3. Loài sán lá gan nhỏ ký sinh ở người dân thị trấn Rạng Đông

Kết quả nghiên cứu này, đã thu thập được 26 mẫu sán, sán thu thập được đãi

từ phân của những đối tượng nghiên cứu có cường độ nhiễm SLGN cao, trong đó

20 mẫu sán được dùng cho xác định loài bằng hình thái học. Kết quả đo kích thước

và quan sát hình thái nội quan của 20 mẫu sán cho kết quả, sán có mầu đỏ nhạt, nâu

hoặc tía; cơ thể sán thuôn dẹt và mảnh dài, phần trước hẹp, sau tù; giác miệng ở đầu

thân, giác bụng nằm ở phần ba trước cơ thể; hầu được kế tiếp bằng thực quản; hai

nhánh ruột kéo dài về mút sau cơ thể; hai tinh hoàn phân nhánh hình cành cây, nằm

một trước một sau ở phần sau cơ thể; ống bài tiết thẳng; tuyến noãn hoàng nằm bên

ngoài 2 nhánh ruột; buồng trứng nằm ngay phía trên tinh hoàn; tử cung phát triển,

gấp khúc nhiều lần, nằm ở khoảng giữa buồng trứng và giác bụng, chứa đầy trứng.

Kích thước cơ thể nằm trong khoảng 10 -25 mm x 3-4 mm, căn cứ vào khoá phân

loại của Viện Sốt rét – Ký sinh – Côn trùng Trung ương xác định về hình thái học

106

SLGN trưởng thành thu được ở người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định là Clonorchis sinensis (Eukaryota; Metazoa; Platyhelminthes;

Trematoda; Digenea; Opisthorchiida; Opisthorchiata; Opisthorchioidea;

Opisthorchiidae; Clonorchis). Kết quả phân loại sán trưởng thành ở người bằng

hình thái học này tương tự nghiên cứu của Trương Tiến Lập trên loài SLGN ở tỉnh

Nam Định và Đặng Thị Cẩm Thạch ở tỉnh Ninh Bình là loài C. sinensis [46, 62]. Ở

Việt Nam, nhiều thập kỷ trước đây đã có thông báo về hình thái tồn tại C. sinensis

và O. felineus, nhiều nghiên cứu đã khẳng định bằng hình thái học ở miền bắc tồn

tại C. sinensis và miền nam tồn tại loài O. viverrini (tạm thời quy ước từ vĩ tuyến 17

trở ra là miền Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở vào là miền Nam) [29,33]. Bằng hình thái học

Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Văn Đề và cộng sự năm 1997 đã xác định loài O.

viverrini tại tỉnh Phú Yên [12]. O. viverrini được tìm thấy ở ít nhất 8 tỉnh phía nam

như Phú Yên, Bình Định, Đăk Lăk, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà với tỉ lệ

nhiễm tương ứng là 36,9%, 11,9%, 7,6%, 0,3%, 4,6%, 1,4% [29]. Các mẫu SLGN

đã được thu thập từ bệnh nhân thông qua điều trị đặc hiệu và đãi phân khi điều trị từ

các tỉnh miền Bắc như Ninh Bình, Thanh Hoá, Nam Định, Bắc Giang, Hoà Bình,

Hà Tây, Hà Nam, Quảng Ninh, Nghệ An, Đồng Nai (người từ tỉnh Nam Định di cư

vào) đã được xác định là C. sinensis. Các mẫu SLGN trưởng thành thu thập được

trên người Việt Nam ở các tỉnh: Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam, Thừa Thiên-

Huế, Đắc Lắc được xác định là O. viverrini [34]. Tuy nhiên, hiện nay có một vấn đề

đặt ra ở đây là có sự giao lưu và biến động dân cư của hai miền bắc và nam, bệnh

nhân có thể mang mầm bệnh từ miền bắc vào miền nam và ngược lại. Trong khi vật

chủ trung gian truyền bệnh SLGN sẵn có ở cả hai miền và đến một lúc nào đó hai

loài SLGN ở nước ta sẽ phân bố xen kẽ nhau, pha lẫn với nhau. Điều tra ngẫu nhiên

trên 10 huyện thị của tỉnh Hòa Bình, tỉ lệ nhiễm SLGN là 5% nhưng phân bố ở

10/10 huyện thị. Đa nhiễm 2 loại ký sinh trùng trở lên chiếm 60,6% (ở đồng bằng

đa nhiễm 80%) [22]. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu xác định loài SLGN ở người

tại các vùng khác nhau nhằm giúp cho việc chẩn đoán và điều trị có hiệu quả

SLGN.

107

Việc xác định thành phần loài sán lá ở người tại Việt Nam chủ yếu dựa vào

đặc điểm hình thái học nhưng để xác định chính xác loài SLGN hiện đang có ở thị

trấn Rạng Đông và xác định có hay không sự lai tạp ngoại loài, nghiên cứu của

chúng tôi tiếp tục xác định thành phần loài SLGN bằng sinh học phân tử và kết quả

thu được các giải trình tự nucleotid và acid amin của mẫu nghiên cứu được so sánh

với các chuỗi mẫu cox1 của Trung Quốc và Triều Tiên. So sánh trình tự 446

nucleotid và 148 acid amin trong đoạn gen cox1 của SLGN trưởng thành

Clonorchis spp trên người tại Nam Định (CsNgND) với C. sinensis Trung Quốc

(CsCN), C.sinensisTriều Tiên (CsKor) và đồng thời so sánh với các loài khác như

Fasciola gigantica ở người Việt Nam (FgVN) và Fasciola hepatica ở Australia

(FhAus). Trình tự nucleotid và acid amin C. sinensis của Trung Quốc và Triều Tiên

hoàn toàn giống nhau (mức độ tương đồng 100%). Trình tự nucleotid của 2 chủng

C. sinensis thu thập từ người ở Nam Định có sai khác với C. sinensis Trung Quốc

và Triều Tiên ở vị trí thứ 69 và 441 (mức độ tương đồng 99,6%). Như vậy, sán lá

gan trưởng thành thu thập từ người tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh

Nam Định là C. sinensis thuộc họ Opisthorchiidae. Trong khi đó, các loài sán lá gan

lớn (F. gigantica ở Việt Nam và F. hepatica ở Australia) so với chủng C. sinensis

của Trung Quốc và Triều Tiên có mức độ sai khác là 23,1-23,3% về nucleotid và

19% về acid amin, đó là sai khác ngoại loài. Vị trí của C. sinensis Việt Nam trong

cây phả hệ (C. sinensis Việt Nam nằm cùng nhóm với C. sinensis Trung Quốc và

Triều Tiên). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với đặc điểm phân bố

SLGN ở Việt Nam có tính khu vực: các tỉnh miền Bắc nhiễm chủ yếu là C. sinensis,

các tỉnh miền trung Tây Nguyên, Nam bộ nhiễm Opisthorchis viverrini [7].

4.1.4. Loài sán lá gan nhỏ ký sinh ở cá nước ngọt nuôi tại thị trấn Rạng Đông

Trong nghiên cứu này, 35 ấu trùng sán trong 6 loài cá nước ngọt nuôi tại ao

nhà của các đối tượng nghiên cứu gồm cá rô phi, cá trôi, cá chép, cá chuối, cá mè và

cá diếc. Kết quả quan sát cho thấy, các ấu trùng sán thu được có hình elíp, kích

thước nằm trong khoảng 0,15-0,17 mm x 0,13 – 0,15 mm. Gần như cân bằng 2 giác

bụng và giác miệng, các hạt nền có màu xám rải đều trên cơ thể. Tuyến bài tiết hình

chữ O chiếm phần lớn phía sau cơ thể. Các đặc điểm hình thái học này phù hợp với

108

phân loại loài ấu trùng sán là thuộc loài Clonorchis sinensis theo khoá phân loại của

Viện Sốt rét – Ký sinh trùng–Côn trùng Trung ương [6].

Bên cạnh việc sử dụng hình thái học để phân loại ấu trùng nang SLGN trong

nghiên cứu này chúng tôi còn sử dụng kỹ thuật sinh phân tử để thẩm định ấu trùng

nang SLGN trên cá. Giải trình tự gen Cox1 của ấu trùng nang SLGN trên cá so sánh

với chủng chuẩn Việt Nam và quốc tế. Kết quả các mẫu ấu trùng nang SLGN trên

cá tại thị trấn Rạng Đông được thẩm định bằng sinh học phân tử (kỹ thuật PCR với

hệ gen ty thể) là loài C. sinensis, hệ số tương đồng về nucleotid là 98,9% và axit

amin là 100% so với loài C. sinensis của Trung Quốc và Triều Tiên và so với C.

sinensis trên người tại Thanh Hoá và Nam Định thì hệ số tương đồng về nucleotit

của mẫu nghiên cứu là 99,3% và tương đồng về axit amin là 100%. Kết quả giải

trình trình tự nucleotit và axit amin của ấu trùng nang SLGN trên cá xác định loài

ấu trùng SLGN là C. sinensis. Như vậy, trong nghiên cứu nàyđã xác định loài ấu

trùng SLGN ở cá nước ngọt là C. sinensis.

4.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan

nhỏ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

4.2.1 Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan

nhỏ của người dân trước can thiệp

Kết quả nghiên cứu này cho thấy:

Về kiến thức, thái độ phòng, chống bệnh sán lá gan nhỏ của người dân:

Nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ người dân biết về bệnh SLGN còn thấp chỉ có

33,5% số người được phỏng vấn từ 15 tuổi trở lên có biết về bệnh SLGN, tỉ lệ này

không khác nhau về giới nhưng khác nhau về trình độ học vấn và nghề nghiệp,

những người có trình độ học vấn trên tiểu học có biết về bệnh SLGN nhiều hơn

những người có trình độ học vấn tiểu học (39,2% so với 3,7%), người dân làm nghề

khác biết về bệnh SLGN nhiều hơn những người có nghề làm ruộng (70,4 so với

30,4%), tỉ lệ người dân biết về bệnh SLGN giảm dần theo nhóm tuổi, những người

ở nhóm tuổi từ 15 đến 19 tuổi có tỉ lệ biết về bệnh SLGN cao nhất (72%) và thấp

nhất ở nhóm tuổi trên 60 tuổi (12%). Kết quả tỉ lệ biết về bệnh SLGN ở nghiên cứu

109

này thấp hợn so với kết quả nghiên cứu tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh

Hóa nơi có 46,5% những người từ 15 tuổi trở lên có biết về bệnh SLGN [39] và

thấp hơn so với nghiên cứu tại xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, cho

kết quả 47,7% có kiến thức về bệnh SLGN [68], tỉ lệ biết về bệnh SLGN ở học sinh

lớp 9, ở xã Mường Lạn, tỉnh Sơn La là 55,8% [69] và nghiên cứu thực trạng và

nhận thức của sinh viên văn bằng hai đại học dược Hà Nội về bệnh sán lá gan nhỏ

cho thấy, có 79,2% sinh viên có biết về bệnh SLGN [54]. Như vậy, có thể nói rằng

tỉ lệ biết về bệnh SLGN tỉ lệ thuận với trình độ học vấn những người có trình độ học

vấn cao có tỉ lệ hiểu biết về bệnh SLGN cao hơn, đặc biệt hiện nay các chương trình

giáo dục cho học sinh THCS, sinh viên (sinh viên các trường đại học Dược có môn

học Ký sinh trùng học) đều có nội dung phòng, chống giun, sán cho học sinh, sinh

viên. Do vậy, học sinh và sinh viên có tỉ lệ biết về bệnh SLGN nhiều hơn những

người có trình độ tiểu học hoặc không biết chữ. Điều này phù hợp với kết quả của

các nghiên cứu khác khi tỉ lệ hiểu biết về bệnh SLGN tăng theo trình độ học vấn.

Trong nghiên cứu này cho thấy, chỉ có 28,2% người dân từ 15 tuổi trở lên

trước can thiệp biết đúng đường lây truyền bệnh SLGN. Tỉ lệ hiểu biết không khác

nhau về nhóm tuổi, giới tính, nghề nghiệp (p>0,05) nhưng khác nhau về trình độ

học vấn, những người có trình độ học vấn trên THCS biết đúng đường lây truyền

bệnh SLGN cao hơn những người có trình độ THCS và tiểu học (45,7% so với

22,8% và 0,0%), p<0,05. Tỉ lệ người dân có hiểu biết đúng về đường lây truyền

bệnh SLGN (28,2%) trong nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu thực trạng và

nhận thức của sinh viên văn bằng hai đại học Dược Hà Nội về bệnh SLGN trong đó

có 89,4% sinh viên có hiểu biết đúng về đường lây truyền của bệnh SLGN (lây

truyền qua đường tiêu hoá, do ăn phải cá có chứa ấu trùng SLGN còn sống) [54],

nghiên cứu cắt ngang bằng phỏng vấn 82 cán bộ quản lý tại 4 xã ven biển huyện

Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, cho thấy tỉ lệ cán bộ quản lý cho rằng đường lây truyền

của bệnh SLGN là ăn thịt cá nhúng tái chiếm tỷ lệ cao nhất (89,0%)[60] và nghiên

cứu tại xã Mỹ Quang, Huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, có 62,7% đối tượng biết

đúng đường lây truyềnbệnh SLGN [68].

110

Trong nghiên cứu này, chỉ có 31,5% người dân biết bệnh SLGN có thể phòng,

chống trước can thiệp, sự hiểu biết này không khác nhau theo nhóm tuổi, giới tính,

nghề nghiệp nhưng khác nhau theo trình độ học vấn, những người có trình độ học

vấn trên THCS biết bệnh SLGN có thể phòng, chống cao hơn những người có trình

độ học vấn THCS và tiểu học (54,7% so với 26,1% và 3,7%), p<0,05.Kết quả tỉ lệ

người dân biết bệnh SLGN có thể phòng chống (31,5%) trong nghiên cứu này thấp

hơn so với nghiên cứu ở những người từ 15 tuổi trở lên tại xã Nga An, huyện Nga

Sơn, tỉnh Thanh Hoá có 66,4% người dân cho rằng bệnh nhiễm SLGN có thể phòng

ngừa được [39] và tại xã Mỹ Quang, Huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định có 54,7% đối

tượng nghiên biết bệnh SLGN có thể phòng, chống [68].

Tỉ lệ người dân có hiểu biết đúng về đường lây truyền bệnh SLGN (28,2%)

và biết bệnh SLGN có thể phòng chống (31,5%) trong nghiên cứu này thấp hơn so

với nghiên cứu so với các nghiên cứu như đã nêu ở trên là do người dân có thái độ

chưa đúng đối với việc phòng, chống SLGN, đa số người dân ở thị trấn Rạng Đông

chưa thực sự quan tâm đến bệnh sán lá gan nhỏ, khi được hỏi chỉ có 32,9% người

dân cho rằng bệnh SLGN là nguy hiểm và người dân cũng chưa quan tâm đến các

chủ trương, chính sách về phòng, chống bệnh SLGN khi được hỏi chỉ có 17,9%

người dân ủng hộ chính sách phòng, chống SLGN. Nguồn thông tin tuyên truyền về

bệnh SLGN ở địa phương còn hạn chế trong nghiên cứu này cho thấy người dân

biết về bệnh SLGN và cách phòng, chống chủ yếu qua cán bộ y tế, ở trường học,

sách; bạn bè, người thân và báo, ti vi, đài.

Về thực hành phòng, chống bệnh sán lá gan nhỏ:

Trong nghiên cứu này, tỉ lệ người dân trước can thiệp có ăn gỏi cá, cá sống

hoặc nấu chưa chín (58,5%) và dùng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức

ăn chín (42,4%). Các tỉ lệ trên không khác nhau theo nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình

độ học vấn trừ tỉ lệ ăn gỏi cá, cá sống hoặc nấu chưa chín có sự khác nhau theo giới

tính nam có tỉ lệ ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá nấu chưa chín cao hơn nữ (69,9% so với

47,7%), p<0,05.

Kết quả tỉ lệ người dân trước can thiệp có ăn gỏi cá, cá sống hoặc nấu chưa

chín (58,5%) cao hơn so với kết quả điều tra 1.612 người tại 7 xã của 3 huyện Hải

111

Hậu, Nghĩa Hưng và Giao Thủy, tỉnh Nam Định có tới 54,8% đã từng ăn gỏi cá. Tỉ

lệ ăn gỏi cá ở nam (80,7%) cao hơn nữ (29,8%)[46] và tại xã Mỹ Quang, Huyện

Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, tỉ lệ ăn gỏi cá của người dân ở xã Mỹ Quang là 37,7% [68]

nhưng thấp hơn so với kết quả nghiên cứu tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương

Kinh, thành phố Hải Phòng, tỉ lệ đối tượng được điều tra có thói quen ăn tôm, cua,

cá chưa nấu chín là 62,16% [17]. Tỉ lệ ăn gỏi cá của người dân tại 2 xã Yên Lộc và

Tân Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình là 75% [62]; Tỷ lệ cán bộ quản lý và

người dân tại 4 xã ven biển huyện Tiền Hải đã từng ăn gỏi cá lần lượt là 90,2%

[58]. Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá năm 2004, tỉ lệ ăn gỏi cá là

68,8% [39], năm 2014 tỉ lệ ăn gỏi cá là 45,5% [66], như vậy sau 10 năm tỉ lệ ăn gỏi

cá SLGN có giảm nhưng không đáng kể. Tỉ lệ ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín cao là do

người dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ có tập quán ăn gỏi cá sống như cá chép, cá mè,

cá trôi dưới dạng những lát mỏng và thường tụ tập để ăn món gỏi cá này vào mùa

hè với quan niệm là món ăn ngon, bổ dưỡng và mát (“nắng gỏi, mưa cày” là quan

niệm về thời điểm ăn gỏi cá trong năm của người dân).

Trong nghiên cứu này, tỉ lệ người dân trước can thiệp có dùng chung dụng cụ

chế biến thức ăn sống và thức ăn chín (42,4%), tỉ lệ này của nghiên cứu tương tự kết

quả nghiên cứu năm 2010, một khảo sát của Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc, cho thấy

ở 64 tỉnh, thành phố ở Việt Nam có 46% người dân sử dụng chung dụng cụ chế biến

thức ăn sống và thức ăn đã nấu chín, thức ăn dùng ăn ngay [132]. Tỉ lệ dùng chung

dụng cụ thế biến thức ăn sống và thức ăn chín cao trong cộng đồng như kết quả của

nghiên cứu này và nghiên cứu của Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc báo động về tình

hình lây nhiễm SLGN trong cộng đồng trong thời gian tới nếu không áp dụng các

biện pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm thay đổi hành vi này của người dân.

Trong nghiên cứu này, tỉ lệ người dân dùng phân tươi của người hoặc gia súc

để bón ruộng, nuôi cá (73,8%) cao hơn so với nghiên cứu tại 3 huyện ven biển tỉnh

Nam Định cho thấy, vẫn còn 1,7% hộ gia đình dùng phân người và 9,9% hộ gia đình

sử dụng phân chuồng ủ chưa kỹ để nuôi cá [46] và nghiên cứu ở tỉnh Nam Định cho

thấy, vẫn còn 26,7% cơ sở nuôi trồng thuỷ sản sử dụng phân bắc tươi và 10,0% cơ

sở trồng trọt sử dụng phân bắc tươi chưa ủ để tưới, bón rau xanh, đây là yếu tố nguy

112

cơ làm lan truyền các mầm bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh SLGN nói riêng ra

môi trường [1].

4.2.2. Một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trước can thiệp

Kiến thức là một điều kiện cần thiết và hết sức quan trọng, đối tượng không

thể thay đổi hành vi nếu họ không có đủ kiến thức để hiểu được hành vi của họ có

ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và lợi ích có được nếu thay đổi hành vi. Bảng 3.13 của

nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành phòng,

chống nhiễm bệnh SLGN của người dân, những người biết không đạt về đường lây

truyền bệnh SLGN có nguy cơ ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín cao gấp 1,8 lần (OR =

1,8; p < 0,05) so với những người biết đạt về đường lây truyền bệnh SLGN và

những người biết không đạt về đường lây truyền bệnh SLGN có nguy cơ dùng phân

tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá cao gấp 2,1 lần (OR = 2,1; p <

0,05) so với những người biết đạt về đường lây truyền bệnh SLGN.Tiếp tục phân

tích các mối liên quan giữa giới tính, trình độ học vấn, kiến thức, thái độ, thực hành

phòng, chống sán lá gan nhỏ và tình trạng nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân ở

bảng 3.14 và bảng 3.15 của nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan giữa tình

trạng nhiễm SLGN với:

Giới tính: nam giới có nguy cơ nhiễm SLGN cao cao gấp 5,3 lần (OR = 5,3;

p < 0,01) so với nữ giới. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu tại xã Nga

Tân, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tỉ lệ nhiễm SLGN C.sinensis là 11%

(94/856), trong đó nam giới nhiễm SLGN cao hơn nữ giới trên 6 lần [24]; Tại xã

Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá năm 2005, tỉ lệ nhiễm SLGN trong đối

tượng từ 15 tuổi trở lên là 25,3%, tỉ lệ nhiễm ở nam cao hơn gấp 2 lần ở nữ [39];

Tại các tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Văn Đề và cộng sự cho thấy tỉ lệ

nhiễm SLGN ở nam cao hơn ở nữ 4 lần [25]; Nghiên cứu của Trương Tiến Lập tỉ lệ

nhiễm SLGN ở nam giới cao gấp 3 lần nữ giới [47]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn

Chương cho thấy nguyên nhân tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam giới cao hơn ở nữ giới là

do nam giới có thói quen ăn gỏi cá diếc sống và uống rượu nhiều hơn nữ giới [16].

113

Kiến thức phòng, chống SLGN: những người không biết về bệnh SLGN có

nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 3,7 lần (OR = 3,7; p < 0,05) những người biết về

bệnh SLGN. Những người không biết về đường lây truyền SLGN có nguy cơ nhiễm

SLGN cao gấp 3,2 lần (OR = 3,2; p < 0,05) so với những người không biết về

đường lây truyền SLGN. Những người không biết về SLGN có thể tái nhiễm có

nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 3,1 lần (OR = 3,1; p < 0,05) so với những người biết

về SLGN có thể tái nhiễm. Những người không biết về SLGN phòng, chống được

có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 2,9 lần (OR = 2,9; p < 0,05) so với những người

biết SLGN phòng chống được. Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi tương tự kết

quả nghiên cứu của Đỗ Thái Hòa năm 2005, tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh

Thanh Hóa có mối liên quan giữa kiến thức phòng, chống SLGN và tình trạng

nhiễm SLGN với p< 0,001, nguy cơ nhiễm SLGN ở những người có kiến thức

không đạt cao gấp 8,5 lần những người có kiến thức đạt yêu cầu [39]. Nghiên cứu

của Đinh Thị Thanh Mai cũng cho thấy, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người có kiến thức về

phòng chống SLGN chiếm 5,6%, nhóm không có kiến thức về phòng, chống SLGN

có tỉ lệ nhiễm SLGN là 24,2%, có mối liên quan giữa kiến thức phòng, chống

SLGN đến nhiễm SLGN với OR = 5,4 [51].Mối liên quan giữa kiến thức phòng,

chống SLGN đạt và tỉ lệ nhiễm SLGN còn được giải thích bằng chính nghiên cứu

này khi chỉ ra có mối liên quan giữa trình độ học vấn và tỉ lệ nhiễm SLGN, những

người có trình độ học vấn tiểu học có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 2,7 lần (OR =

2,7; p < 0,05) so với những người có trình độ trên tiểu học.

Thái độ phòng, chống SLGN: những người có thái độ không đồng ý cho rằng

SLGN là bệnh nguy hiểm có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 4,1 lần (OR = 4,1; p

<0,05) so với những người có thái độ đồng ý cho rằng SLGN là bệnh nguy hiểm.

Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi tương tự kết quả nghiên cứu của Đỗ Thái

Hòa năm 2005, tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa có mối liên quan

giữa thái độ phòng, chống SLGN và tình trạng nhiễm SLGN với p< 0,001, nguy cơ

nhiễm SLGN ở những người có thái độ phòng, chống SLGN không đúng cao gấp

12,6 lần những người có thái độ phòng, chống SLGN đúng [39].

114

Thực hành phòng, chống SLGN: những người có ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá

nấu chưa chín có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 66,3 lần (OR = 66,3; p < 0,01) so

với những người không ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá nấu chưa chín. Kết quả nghiên

cứu của chúng tôi tương tự kết quả nghiên cứu của Đỗ Thái Hòa năm 2005, tại xã

Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa có mối liên quan giữa ăn gỏi cá, cá sống

và tình trạng nhiễm SLGN với p< 0,001 [39] và nghiên cứu của Trương Tiến Lập,

tại một số xã ven biển thuộc tỉnh Nam Định, giữa ăn gỏi cá và nhiễm SLGN có mối

quan hệ chặt chẽ, người ăn gỏi cá có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 7,8 lần người

không có thói quen ăn gỏi cá (OR = 7,8; p < 0,001) [46].Những người có dùng phân

tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp

6,5 lần (OR = 6,5; p < 0,01) so với những người không dùng phân tươi của người

hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá. Những người có dùng chung dụng cụ chế biến

thức ăn sống và chín có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 2,9 lần (OR = 2,9; p < 0,01)

so với những người dùng riêng dụng cụ chế biến thức ăn sống và chín. Tương tự

nghiên cứu của chúng tôi nghiên cứu của Đỗ Thái Hòa năm 2005, tại xã Nga An,

huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa cho thấy có mối liên quan giữa thực hành chung

đạt và tỉ lệ nhiễm SLGN với p < 0,001 [39]. Để phòng, chống nhiễm SLGN người

dân ngoài việc không ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín còn cần phải thực hiện các biện

pháp dự phòng khác như không sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và

thức ăn chín vì nguy cơ các mầm bệnh trong đó có mầm bệnh SLGN từ thức ăn

sống chưa nấu chín vẫn còn sống, tồn tại trên dụng cụ chế biến nếu việc vệ sinh các

dụng cụ này không đảm bảo, khi tiếp tục dùng để chế biến thức ăn chín dùng để ăn

ngay có nguy cơ lây nhiễm các mầm bệnh trên dụng cụ chế biến thức ăn sống chưa

được vệ sinh đảm bảosang người. Một điều tra khác tại Đắc Lắc, có 73 người không

ăn gỏi cá nhưng cũng nhiễm SLGN. Như vậy, tuy không ăn gỏi cá nhưng nếu ăn cá

chưa nấu chín kỹ hay dùng chung dụng cụ chế biến cá sống như dao, thớt v.v. với

thức ăn dùng ăn ngay cũng có thể bị nhiễm SLGN [19].

4.3. Hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống sán lá gan nhỏ ở người dân tại

thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định sau 2 năm can thiệp

115

4.3.1. Hiệu quả can thiệp truyền thông, giáo dục sức khoẻ phòng, chống nhiễm

sán lá gan nhỏ sau 2 năm can thiệp

Nghiên cứu này cho thấy, kiến thức của người dân về phòng, chống SLGN

đều tăng lên so với trước can thiệp và sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p <

0,01. Sau can thiệp hầu hết người dân (trên 96%) đều đã biết về bệnh SLGN, biết

tác hại SLGN, biết lây nhiễm SLGN là qua đường tiêu hoá, biết bệnh SLGN có thể

tái nhiễm, biết bệnh SLGN có thể phòng chống lần lượt tăng 97,3%; 97,0%; 98,2%;

96,7% và 98,5% so với trước can thiệp 33,5%; 14,7%; 28,2%; 30,6% và 31,5% với

chỉ số hiệu quả lần lượt 190,7%; 560,5%; 248,2%; 216,0% và 212,7%. Chỉ số hiệu

quả cao nhất là việc tăng hiểu biết về tác hại của SLGN (560,5%). So với nghiên

cứu của Lê Thị Tuyết, cho thấy sau 1 năm can thiệp bằng truyền thông, giáo dục

sức khỏe, tỉ lệ người dân xã can thiệp hiểu biết đúng về tác hại của bệnh tăng lên rõ

so với trước can thiệp và so với xã chứng (91,5% so với 58,9% và 62,6%, CSHQ

tăng 35,6%, sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,01 [74] và so với nghiên cứu của

Nguyễn Văn Chương [16], sau can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khỏe

phòng chống SLGN sau 1 năm, nhận thức của người dân không biết về tác hại của

bệnh SLGN giảm đi so với trước can thiệp là 71,6% (từ 25% tăng lên 88%) thì kết

quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn. Điều này có thể do nghiên cứu của chúng tôi

tiến hành can thiệp trong thời gian dài hơn (2 năm), hình thức can thiệp trong

nghiên cứu cũng phong phú hơn do đó đã gây ảnh hưởng tốt đến người nghe và

thực hiện theo những hành vi có lợi cho sức khoẻ cộng đồng và môi trường. Và điều

này cũng chứng tỏ việc lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN và nội dung hoạt

động của Ban chỉ đạo VSATTP của thị trấn, cũng như lồng ghép vào nội dung sinh

hoạt của các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn dưới sự chỉ đạo tích cực của chính

quyền địa phương và người dân đã huy động được cả hệ thống chính trị tham gia

tạo thành một phong trào tích cực đẩy lùi tập quán canh tác, ăn uống, chế biến thức

ăn không hợp vệ sinh.

Trong nghiên cứu này, tỉ lệ người dân cho rằng bệnh SLGN có thể phòng,

chống được trước can thiệp là 31,5%, tỉ lệ người dân cho rằng bệnh SLGN có thể

phòng, chống được sau can thiệp là 98,5%. Tỉ lệ người dân cho rằng bệnh SLGN có

116

thể phòng chống được trước và sau can thiệp khác nhau có ý nghĩa thống kê với p <

0,001. Chỉ số hiệu quả can thiệp đạt 212,7%. So với nghiên cứu của Lê Thị Tuyết,

cho thấy sau 1 năm can thiệp bằng truyền thông, giáo dục sức khỏe, tỉ lệ người dân

xã can thiệp hiểu biết đúng về biện pháp phòng bệnh SLGN tăng so với trước can

thiệp và so với xã chứng (90,1% so với 46,0% và 52,1%, CSHQ tăng 48,9% [74] và

so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương sau can thiệp bằng truyền thông giáo

dục sức khỏe phòng chống SLGN sau 1 năm, nhận thức của người dân biết về biện

pháp phòng bệnh tăng so với trước can thiệp là 42,1% (từ 55% tăng lên 95%) [16]

thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn.Điều này chứng tỏ các hoạt động

TTGDSK đã có hiệu quả khi tuyên truyền về các biện pháp phòng, chống SLGN

cho người dân.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thay đổi thái độ của người dân về phòng,

chống SLGN đều tăng lên theo hướng có lợi cho sức khỏe so với trước can thiệp và

sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Sau can thiệp hầu hết người dân

(trên 98%) đều có thái độ đồng tình nên đưa ra lời khuyên không ăn gỏi cá, cá nấu

chưa chín; thái độ đồng tình cho rằng nhiễm SLGN là nguy hiểm và ủng hộ cho

việc phòng, chống SLGN lần lượt tăng 97,9%; 97,9%; 98,2% so với trước can thiệp

13,2%; 32,9%; 17,9% với chỉ số hiệu quả 641,7%; 197,6%; 450,3%. Việc thái

độcủa người dân trong nghiên cứu của chúng tôi được thay đổi theo hướng có lợi

cho sức khỏe và phòng, chống SLGN sau 02 năm can thiệp sovới trước can thiệp là

cơ sở và động cơ cho việc thay đổi các hành vi có lợi cho người dân trong việc

phòng, chống SLGN.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy,thực hành của người dân về một

số biện pháp nhằm phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ trước và sau can thiệp, các

thực hành phòng, chống nhiễm SLGN của người dân sau can thiệp đều theo hướng

có lợi cho sức khoẻ bao gồm: sau can thiệp tỉ lệ người dân ăn gỏi cá, cá nấu chưa

chín đã đã giảm so với trước can thiệp (58,5% giảm xuống 0,9%), với chỉ số hiệu

quả 98,5%. Đồng thời, việc sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức

ăn chín; dùng phân tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá cũng giảm lần lượt

1,8%; 0,3% so với trước can thiệp 42,4%; 73,8% với chỉ số hiệu quảlần lượt 95,8%;

117

99,6%. Chỉ số hiệu quả cao nhất là thay đổi hành vi dùng phân tươi của người, gia

súc bón ruộng, nuôi cá (99,6%). So sánh với kết quả nghiên cứu của Lê Thị Tuyết,

sau 1 năm can thiệp bằng truyền thông, giáo dục sức khỏe, tỉ lệ người dân xã được

can thiệp có thói quen ăn gỏi cá giảm so với trước can thiệp và so với xã chứng

(17,9% so với 70,5% và 23,4%, CSHQ giảm 74,6%, sự khác biệt có ý nghĩa với p <

0,01 [74]; Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đề, sau khi truyền thông phòng, chống

SLGN một năm kết hợp với điều trị, tỉ lệ người dân ăn gỏi cá giảm đi so với trước

can thiệp 89,1% (từ 80,4% xuống còn 8,8%) [29]; So với nghiên cứu của Nguyễn

Văn Chương, giảm đi so với trước can thệp là 89,3% (từ 93% còn 10%) [15], thì kết

quả nghiên cứu của chúng tôi có chỉ số hiệu quả can thiệp cao hơn (98,5%). Đối với

thực hành dùng phân tươi của người hoặc gia súc bón ruộng nuôi cá thì kết quả

nghiên cứu của chúng tôi tương tự nghiên cứu của Lê Thị Tuyết, trong nghiên cứu

của Lê Thị Tuyết xã được can thiệp, tỉ lệ người dân có thói quen dùng phân người

chưa ủ cho cá ăn giảm so với trước can thiệp và xã chứng (0,3% so với 1,8% và

1,6%), chỉ số hiệu quả giảm được 83,3%, sự khác biệt có ý nghĩa p < 0,01, tỉ lệ

người dân dùng phân tươi của người, gia súc nuôi cá sau can thiệp trong nghiên cứu

của Lê Thị Tuyết là tương tự với kết quả nghiên cứu của chúng tôi (0,3%) [74].Điều

này có thể do nghiên cứu can thiệp của chúng tôi tiến hành can thiệp trong thời gian

dài hơn và việc triển khai các hoạt động can thiệp bằng điều trị đặc hiệu bằng thuốc

praziquantel cho những người nhiễm SLGN ở cộng đồng kết hợp với lồng ghép

hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ vào các buổi sinh hoạt chi, tổ hội của các

đoàn thể, các hoạt động truyền thông gián tiếp và trực tiếp đã được thực hiện dưới

sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo liên ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm của thị trấn

Rạng Đông như đã triển khai trong nghiên cứu này của chúng tôi là có hiệu quả.

So sánh kết quả nghiên cứu của chúng tôi với các nghiên cứu khác ở trên cho

thấy thông qua chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe kết hợp với điều trị

bằng thuốc praziquantel đã tăng cường thêm kiến thức, thay đổi thái độ và hành vi

theo chiều hướng tích cực, có lợi cho sức khoẻ người dân.

4.3.2. Hiệu quả điều trị praziquantel sau 2 năm can thiệp

118

Thuốc điều trị có vai trò chính trong kiểm soát sự hoành hành của bệnh và

phòng chống sự lây truyền qua việc giảm tỉ lệ hiện mắc của SLGN và cường độ

nhiễm nếu được sử dụng đúng cách [82].

Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau hai năm can thiệp bằng TTGDSK kết hợp

với điều trị đặc hiệu bằng praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày nhận thấy

đây là phác đồ điều trị praziquantel nêu trên cho hiệu quả cao, dễ sử dụng cho cộng

đồng kết quả cụ thể như sau:tỉ lệ sạch trứng SLGN sau 24 tháng điều trị thuốc

praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày là 100,0%; Số trứng trung bình/gam

phân trước điều trị là 178 PEG, sau điều trị 6 tháng là 43 trứng trung bình/gam

phân, tỉ lệ giảm trứng là 75,8%. Sau 12 thángđiều trị còn 1 trường hợp nhiễm SLGN

số trứng trung bình/ gam phân trước điều trị là 30trứng trung bình/gam phân, sau

điều trị số trứng trung bình/gam phân là 0 trứng trung bình/gam phân, tỉ lệ giảm

trứng là 100,0%. Sau 18 tháng và 24 tháng số trung bình trứng/gam phân sau điều

trị duy trì ổn định là 0 số trứng trung bình/gam phân.Kết quả nghiên cứu trên cho

thấy, phác đồ điều trị của thuốc paraziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày, mỗi

lần cách nhau 4-6 giờlà có hiệu quả, phù hợp và dễ áp dụng trong cộng đồng. Các

kết quả nghiên cứu về hiệu quả điều trị trên thế giới và ở Việt Nam cũng phù hợp

với nghiên cứu này của chúng tôi. Ở Trung Quốc, một dự án kiểm soát bệnh SLGN

thí điểm đã được thực hiện để đánh giá hiệu quả của các chiến lược sử dụng thuốc

điều trị khác nhau lên tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ mắc phải và tỉ lệ tái nhiễm ở tỉnh

Heilongjiang. Bảy nhóm can thiệp (14.139 người dân địa phương, khoảng 2000

người trong mỗi nhóm) trong các vùng dịch nặng và dịch vừa phải là đối tượng để

điều trị praziquantel nhiều lần từ 2001 đến 2004. Các nhóm điều trị chọn lọc bằng

thuốc là các cư dân đã được xét nghiệm có trứng ở trong phân và những người được

xét nghiệm dương tính này được điều trị với 3 liều 25mg/kg của praziquantel cách

khoảng 5 giờ mỗi liều trong 1 ngày cho tất cả các các cư dân được điều trị trong các

nhóm điều trị hàng loạt. Trong các vùng dịch nặng, điều trị hàng loạt hai lần cho tất

cả các cư dân vào năm 2001 và 2003 đã giảm tỉ lệ hiện mắc từ 69,5% xuống 18,8%,

trong khi điều trị hàng loạt hàng năm 4 lần đã giảm tỉ lệ hiện mắc từ 48,0% trong

năm 2001 xuống 8,4% năm 2004. Điều trị hàng năm có chọn lọc cho các đối tượng

119

dương tính với trứng đã giảm tỉ lệ dương tính với trứng từ 54,9% trong năm 2001

xuống 15,0% trong năm 2004. Điều trị chọn lọc 6 tháng một lần giảm một cách

đáng chú ý tỉ lệ hiện mắc từ 59,5% năm 2001 xuống còn 7,5% năm 2004. Tất cả

những đối tượng được điều trị nhắc lại đều đã giảm tỉ lệ trứng SLGN /1 gam phân

một cách đáng chú ý. Điều trị hàng loạt hàng năm và điều trị có chọn lọc 6 tháng

một lần đã làm giảm tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ tái nhiễm, tỉ lệ giảm trứng xuống nhiều hơn

so với điều trị có chọn lọc hàng năm. Trong các vùng dịch vừa phải, tỉ lệ dương tính

với trứng là 24,8% và 29,7% trong năm 2001, đã giảm xuống còn 1,9% và 1,3% sau

2 hoặc 3 lần điều trị chọn lọc. Tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ mắc phải, tỉ lệ tái nhiễm trong

một vùng dịch tễ vừa phải là thấp hơn một cách đáng kể so với những tỉ lệ này của

các vùng dịch tễ nặng. Nghiên cứu cho thấy,điều trị hàng loạt nhắc lại hoặc điều trị

chọn lọc với praziquantel sau 6 đến 12 tháng nhắc lại là có hiệu quả cao cho phòng

chống bệnh SLGN trong các vùng dịch nặng. Trái lại, điều trị chọn lọc 1 hoặc 2 lần

cùng với giáo dục sức khỏe là có hiệu quả ở những vùng dịch vừa phải [87]. Kết

quả nghiên cứu này định hướng và phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi.Ở Triều

Tiên, tỉ lệ hiện mắc C. sinensis vẫn cao bởi vì phát hiện ca bệnh trong cộng đồng là

khó khăn và các trường hợp đã được phát hiện thường không được chữa khỏi hoàn

toàn do điều trị thất bại. Qua xét nghiệm phân, tỉ lệ dương tính với trứng sán trong

làng là 22,7%, nhưng đã giảm xuống 19,6% sau 6 tháng, 15,1% sau 12 tháng,

12,2% sau 18 tháng, 6,3% sau 24 tháng, 11,4% sau 30 tháng và 6,3% sau 42 tháng

kể từ khi bắt đầu điều trị bằng praziquantel nhắc lại. Kết quả của nghiên cứu này

cũng chỉ ra rằng phòng, chống SLGN trong một làng có dịch bệnh bằng điều trị

praziquantel lặp lại sau 42 tháng là hiệu quả chưa cao [93].Ở Lào, một nghiên cứu

tiến hành năm 2006-2010 trên 217 bệnh nhân đến khám bệnh tại khoa Truyền

nhiễm bệnh viện 103 Viêng Chăn, chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 theo phác đồ A

(praziquantel 75mg/kg cho 1 ngày chia 3 lần, uống cách nhau 6-8 giờ). Nhóm 2

theo phác đồ B (praziquantel 25mg/kg/1ngày cho 3 ngày liên tục, uống vào 1 thời

điểm nhất định trong ngày). Tỉ lệ sạch trứng ở phác đồ A tại các thời điểm: sau 7

ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 90,74%; 95,37%; 96,30% và 97,22%,

trong khi phác đồ B là: 72,48%; 71,56%; 88,99% và 87,16%. Hiệu quả điều trị phác

120

đồ A tại cộng đồng (ở 3 trường học huyện Champhon, Savanakhett, Lào): tỉ lệ sạch

trứng sau 7 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 74,46%; 94,81%; 82,25%

và 48,48% [50].Ở Việt Nam, thuốc praziquantel đã được nhiều tác giả sử dụng điều

trị bệnh SLGN ở liều lượng khác nhau. Nghiên cứu của Trịnh Thị Bích Hạnh, điều

trị cho 20 bệnh nhân nhiễm SLGN bằng praziquantel liều 50mg/kg/ngày uống liên

tục 2 ngày liền kết quả 100% sạch trứng sau 6 tháng theo dõi, không có tác dụng

không mong muốn của thuốc [38]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương, điều trị

bệnh nhân nhiễm SLGN O. viverrini vùng ven biển miền trung Việt Nam bằng

praziquantel liều 25mg/kg/ngày điều trị 3 ngày liên tục và theo dõi trong 2 năm tỉ lệ

sạch trứng 80% [10]. Nghiên cứu của Đặng Thị Cẩm Thạch, sử dụng phác

đồpraziquantel liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày có hiệu quả cao trong điều trị C.

sinensis tại thực địa với tỉ lệ sạch trứng trên 96% và giảm trứng trên 99% sau can

thiệp 6 tháng [62]. Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng, tỉ lệ sạch trứng SLGN

trong phân sau tẩy bằng praziquantel với phác đồ 20mg/kg/lần x 3 lần x 1 ngày, mỗi

lần uống thuốc cách nhau 4 đến 6 giờ, uống sau bữa ăn là 97,7% [42]. Nghiên cứu

của Nguyễn Văn Đề, về hiệu quả điều trị của thuốc đặc hiệu praziquantel cho thấy

việc điều trị sán lá gan bằng delagyl 0,5g/ngày x 10 ngày x 2 đợt, sạch trứng 45%;

cloxyl 3g/ngày x 5 ngày, sạch trứng 70%; azinox 25mg/kg/ngày x 3 ngày ngày,

sạch trứng 51%; medamin 10mg/kg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 19%; mebendazole

10mg/kg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 11,6%; artemisinin 500mg/ngày x 5 ngày, sạch

trứng 28,6%; praziquantel 25mg/kg/ngày x 3 ngày, khỏi bệnh 65-91%. Can thiệp

một phần bằng điều trị đặc hiệu, làm giảm đáng kể bệnh sán lá gan. Mỗi năm điều

trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 27,4% xuống còn 23,9% sau một năm và

còn 11,8% sau hai năm. Cường độ nhiễm giảm từ 1167 trứng/gam phân xuống còn

671 trứng/g phân sau một năm và còn 431 trứng/g phân sau 2 năm. Hai năm điều trị

một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 29,6% xuống còn 19,1% sau hai năm và còn

10,3% sau bốn năm, cường độ nhiễm thay đổi không đáng kể (448 trứng/gam phân

so với 437 trứng/gam phân). Ba năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ

36,9% xuống còn 29,2%, cường độ nhiễm thay đổi đáng kể (303 trứng/gam phân so

với 321 trứng/ gam phân) [20]. Nghiên cứu trên 56 bệnh nhân nhiễm SLGN C.

121

sinensis, được điều trị bằng albendazole 400 mg/ngày x 3 ngày. Kết quả xét nghiệm

phân sau 6 tháng, tỉ lệ sạch trứng 37,5%, tỉ lệ giảm trứng 45,6% [26]. Nghiên cứu

của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng và Côn trùng trung ương các thuốc thuộc nhóm

Benzimidazole được dùng trong điều trị SLGN với kết quả như sau: medamin

10mg/kg/ngày x 5 ngày, kết quả sạch trứng 19%, mebendazole 10mg/kg/ngày x 5

ngày, kết quả sạch trứng 11,6%, albendazole 400mg/kg/ngày x 3 ngày sau 6 tháng,

kết quả sạch trứng 37,5%, tỉ lệ giảm trứng 45,6% [21].

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi và các kết quả nghiên cứu trên đây cho

thấy việc điều trị bằng thuốc praziquantel liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày, có

hiệu quả cao, dễ uống, liệu trình điều trị 1 ngày duy nhất, uống đơn thuần 1 loại

thuốc, tác dụng không mong muốn chỉ thoáng qua, không phải xử lý, do đó áp dụng

tại cộng đồng thuận tiện hơn nhiều so với các loại thuốc điều trị SLGN khác. Phác

đồ trên áp dụng cho cộng đồng là an toàn và ổn định qua nhiều năm, dễ áp dụng và

được cộng đồng chấp nhận.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ tái nhiễm sán lá gan nhỏ trong 2 năm can

thiệp như sau: sau 6 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 2 người; sau 12

tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 1 người; sau 18 tháng và 24 tháng xét

nghiệm lại số người tái nhiễm là không phát hiện. Tổng số người tái nhiễm SLGN

tích lũy sau 3 lần xét nghiệm là 3 người. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau 24 tháng là

4,7%, trong đó tỉ lệ tái nhiễm sau 6 tháng là 3,2%; Sau 12 tháng là 1,6% và sau 18

tháng và 24 tháng là 0,0%. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau 24 tháng là 4,7%.

Bệnh SLGN có đặc điểm là miễn dịch yếu, không bảo vệ được cơ thể vật chủ

nên sau khi ra khỏi cơ thể vật chủ, khỏi bệnh vẫn có thể bị nhiễm lại. Ở điều kiện

khí hậu nhiệt đới, tập quán vệ sinh, tập quán ăn uống, quản lý phân v.v. như ở nước

ta hiện nay tạo điều kiện cho việc tái nhiễm xẩy ra dễ dàng hơn. Do đó, đã điều trị

hết ký sinh trùng vẫn cần phải phòng, chống tái nhiễm, vệ sinh ăn uống và chống ô

nhiễm môi trường bởi mầm bệnh ký sinh trùng nói chung và mầm bệnh SLGN nói

riêng. Vì đối với mầm bệnh SLGN sau khi đã bị thải ra khỏi cơ thể người do tác

dụng của thuốc điều trị SLGN, thì trứng SLGN theo phân ra ngoài môi trường có

thể tiếp tục tham gia vào chu kỳ phát triển của SLGN. Ở Lào, nghiên cứu của

122

Mahavong năm 2010, cũng cho thấy tuổi càng cao tái nhiễm càng cao, sau điều trị

tỉ lệ tái nhiễm tăng nhanh, lý do là vì chưa áp dụng biện pháp can thiệp bền vững và

đặc biệt là tập quán, thói quen ăn uống của đối tượng nghiên cứu còn phụ thuộc

nhiều vào gia đình [50]. Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Ở

Việt Nam, nghiên cứu về tình hình tái nhiễm trên bệnh nhân sau điều trị SLGN và

một số yếu tố liên quan tại xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay là Hà

Nội) năm 2003 cho thấy: tỉ lệ tái nhiễm SLGN trên đối tượng nghiên cứu là khá cao

47,5%; Nguy cơ tái nhiễm SLGN ở nam cao gấp 4 lần so với nữ do tập quán và thói

quen ăn gỏi có chủ yếu là nam. Người dân và chính quyền xã rất mong muốn được

áp dụng các biện pháp phòng, chống bệnh SLGN phù hợp với điều kiện địa phương

đó là truyền thông, cải tạo ao cá và điều trị cho người bệnh ngay tại địa phương

[53]. Nghiên cứu tình trạng tái nhiễm trên bệnh nhân sau điều trị SLGN, các yếu tố

liên quan và một số giải pháp can thiệp tại xã Đội Bình, huyện Ứng Hoà, Hà Nội,

năm 2009 cho thấy: trong số 141 người điều tra, tỉ lệ tái nhiễm SLGN trên những

bệnh nhân sau 8 đến 36 tháng điều trị SLGN của đối tượng nghiên cứu là 47,5%.

Trong đó, có 29,8% nam giới bị tái nhiễm ở mức độ nặng. Nguyên nhân chính gây

tái nhiễm SLGN là do tập quán ăn gỏi cá tại địa phương [37]. Qua 2 nghiên cứu trên

cho thấy theo thời gian từ năm 2003 đến năm 2009, tỉ lệ tái nhiễm SLGN trên người

dân của huyện Ba Vì và huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội đều là 47,5%. Kết quả

của các nghiên cứu ở trên cho thấy, tỉ lệ tái nhiễm SLGN cao hơn kết quả nghiên

cứu của chúng tôi. Tỉ lệ tái nhiễm ở hai nghiên cứu trên ở Hà Nội, không giảm theo

thời gian mặc dù các đối tượng nhiễm SLGN đã được điều trị, điều này cho thấy để

phòng, chống SLGN cho người dân và cộng đồng, phòng, chống tái nhiễm SLGN

ngoài việc điều trị đặc hiệu cho người dân thì cần phải duy trì thường xuyên, liên

tục các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ nhằm nâng cao nhận thức của

người dân. Việc sử dụng biện pháp điều trị SLGN là chưa đủ để phòng, chống tái

nhiễm và kiểm soát triệt để đối với sự nhiễm SLGN trong cộng đồng. Để kiểm soát

tốt sự nhiễm SLGN và giảm tỉ lệ nhiễm SLGN và tỉ lệ tái nhiễm cần áp dụng phối

hợp giữa điều trị bằng thuốc điều trị SLGN praziquantel kết hợp với TTGDSK cho

người dân trong cộng đồng có sự tham gia của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể để

123

tạo ra một phong trào phòng, chống SLGN có như vậy mới thay đổi được hành vi

nguy cơ lây nhiễm SLGN đã có từ lâu ở một số địa phương là ăn gỏi cá, cá sống,

thói quen sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín, thói quen

sử dụng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá đã có từ lâu trong

cộng đồng.

Các kết quả nghiên cứu thu được về hiệu quả can thiệp bằng truyền thông,

giáo dục sức khỏe kết hợp với điều trị đặc hiệu praziquantel ở thị trấn Rạng Đông,

huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định này sau hai năm cho thấybiện pháp kết hợp giữa

điều trị đặc hiệu bằng praziquantel và TTGDSK phòng, chống SLGN là có hiệu quả

và có thể áp dụng cho các địa phương nơi người dân có thói quen ăn gỏi cá, có tỉ lệ

nhiễm và cường độ nhiễm SLGN tương tự như ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định.

4.3.3. Sự phù hợp, khả năng duy trì và tính bền vững của mô hình can thiệp

lồng ghép hoạt động phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ dựa vào cộng đồng ở

thị trấn Rạng Đông

Bệnh SLGN là bệnh lưu hành địa phương có liên quan đến thói quen ăn gỏi cá

và được phân bố ở ít nhất tại 32 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tỉ lệ bệnh

SLGN lưu hành cao ở các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Phú Yên, Bình Định [7, 24,

61]. Các hoạt động phòng, chống SLGN ở Việt Nam đã triển khai ở một số địa

phương bằng điều trị praziquantel cho những người nhiễm SLGN, biện pháp này,

tuy có làm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN nhưng đến nay nhiễm SLGN vẫn còn là vấn đề

sức khỏe của cộng đồng ở những địa phương có tập quán ăn gỏi cá do nhiều nguyên

nhân trong đó có nhận thức và thực hành phòng, chống SLGN của người dân trong

cộng đồng còn thấp [16], nguồn nhân lực và vật lực cho phòng, chống SLGN nhiều

nơi chưa được đầu tư như ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam

Định. Do vậy, để phòng, chống SLGN có hiệu quả trong khi nguồn nhân lực và vật

lực cho triển khai các hoạt động phòng, chống SLGN chưa cótrong nghiên cứu này

chúng tôi đã triển khai mô hình các hoạt động can thiệp cộng đồng phòng, chống

SLGN bằng TTGDSK thông qua việc lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN vào

chương trình an toàn thực phẩm và lồng ghép vào hoạt động của các tổ chức đoàn

124

thể trên địa bàn nhằm xã hội hoá công tác phòng, chống SLGN, tăng cường vai trò

chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể tại địa phương trong việc phối hợp cùng

với ngành y tế truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống

SLGN nhằm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN trong cộng đồng, góp phần giảm tải cho y tế

tuyến trên trong việc điều trị các bệnh lý do nhiễm SLGN gây ra.

Mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống SLGN dựa trên các đơn

vị, tổ chức có sẵn đó là Ban Chỉ đạo liên ngành An toàn vệ sinh thực phẩm của thị

trấn Rạng Đông để chỉ đạo hoạt động phòng, chống SLGN với sự tham gia của các

tổ chức liên quan gồm: Uỷ ban nhân dân thị trấn Rạng Đông giữ vai trò chính trong

việc chỉ đạo phối hợp liên ngành giữa y tế cơ sở với các ban, ngành, đoàn thể, tổ

chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội và nhà trường trên địa bàn can thiệp. Nghiên

cứu sinh, các chuyên gia về ký sinh trùng (các thầy hướng dẫn và cán bộ bộ môn

Ký sinh trùng của trường Đại học Y Hà Nội, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn

trùng Trung ương), Trạm trưởng Trạm y tế thị trấn Rạng Đông giữ vai trò thường

trực điều phối các hoạt động phòng, chống bệnh SLGN. Các hoạt động TTGDSK

phòng, chống SLGNchủ yếu của chương trình bao gồm:

Truyền thông gián tiếp: Phổ biến các kiến thức phòng, chống bệnh SLGN qua

hệ thống truyền thanh của thị trấn theo chiến dịch 3 lần trong năm vào tháng 12,

tháng 4 và tháng 9. Treo Pano về phòng, chống bệnh SLGN theo nội dung đã được

Viện Sốt rét – Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương thiết kế tại nơi công cộng gồm

bản tin của trường học, chợ, cơ sở y tế. Phát sách mỏng hướng dẫn chẩn đoán và

điều trị các bệnh giun sán do Viện Sốt rét-Ký sinh trùng- Côn trùng Trung ương

biên soạn và tờ rơi có nội dung phòng, chống SLGN cho các đối tượng nghiên cứu

và người đứng đầu Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao tuổi, Hội Cựu chiến

binh, Đoàn TNCSHCM để tuyên truyền về phòng, chống nhiễm SLGN.Phát sách

mỏng và tờ rơi về các biện pháp đảm bảo an toàn thực phẩm trong chế biến, lựa

chọn và tiêu dùng thực phẩm đến đối tượng nghiên cứu và người đứng đầu Hội

Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Đoàn TNCSHCM

để tuyên truyền về các biện pháp vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường, phòng, chống

125

nhiễm SLGN. Phát động chiến dịch vệ sinh môi trường: 01 đợt/ năm x 12 khu dân

cư x 2 năm.

Truyền thông trực tiếp: tập huấn cho cán bộ trạm y tế thị trấn: 01buổi/quý x 2

năm; Tập huấn cho cán bộ y tế thôn: 01buổi/quý x 2 năm; Tập huấn cho cán bộ y tế

thôn: 01buổi/quý x 2 năm; Tập huấn cán bộ, hội viên các đoàn thể tham gia chương

trình can thiệp gồm Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn

TNCSHCM: 01buổi/ quý x 2 năm; Tập huấn cán bộ, hội viên các đoàn thể tham gia

chương trình can thiệp gồm Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn

TNCSHCM: 01buổi/ quý x 2 năm; Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi,

Đoàn TNCSHCM của thị trấn chỉ đạo các chi, tổ Hội có lồng ghép nội dung Phòng

chống SLGN vào sinh hoạt định kỳ: 01buổi/ quý x 2 năm; Nói chuyện về phòng,

chống SLGN cho học sinh và phụ huynh học sinh vào các dịp khai giảng và bế

giảng năm học tại các trường học trên địa bàn thị trấnRạng Đông: 02 buổi/năm x 2

năm; Họp Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trấn có lồng

ghép nội dung triển khai và đánh giá kết quả hoạt động can thiệp phòng chống

SLGN: 01 buổi/ quý x 2 năm; Thăm hộ gia đình các đối tượng nghiên cứu để truyền

thông trực tiếp về nguyên nhân và giải pháp phòng, chống SLGN: 6 tháng/lần thăm

x 2 năm. Nội dung truyền thông tập trung chủ yếu vào nguyên nhân, tác hại, đường

lây truyền, chẩn đoán, điều trị, thuốc điều trị và các biện pháp phòng, chống SLGN.

Tài liệu truyền thông gồm: áp phích, sách hướng dẫn chẩn đoán và điểu trị một số

bệnh giun sán ở Việt Nam, tờ rơi do Viện Sốt rét- Ký sinh trùng - Côn trùng Trung

ương biên soạn; 10 nguyên tắc chế biến thực phẩm an toàn, Tài liệu kiểm soát ngộ

độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm, Cục An toàn thực phẩm biên soạn và

sách mỏng Sán lá gan do Nguyễn Văn Đề chủ biên. Chương trình can thiệp đã tổ

chức xét nghiệm phân tìm trứng SLGN cho tất cả đối tượng nghiên cứu và cứ 6

tháng 1 lần xét nghiệm lại cho người đã nhiễm SLGN và những người có triệu

chứng lâm sàng bệnh SLGN hoặc vẫn còn thói quen ăn cá sống. Tất cả những người

xét nghiệm phân có trứng SLGN đều được điều trị đặc hiệu bằng praziquantel liều

25mg/kg x 3 lần/ ngày x 1 ngày theo qui định của Bộ Y tế [4] và được theo dõi sau

điều trị bởi cán bộ trạm y tế. Trạm y tế thị trấn tư vấn miễn phí cho người dân có

126

nhu cầu tìm hiểu về bệnh SLGN các ngày trong tuần và thứ 3, thứ 5 hàng tuần phát

thuốc miễn phí điều trị sán SLGN cho người dân khi xét nghiệm có trứng SLGN

trong phân.

Mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ

dựa vào cộng đồng ở thị trấn Rạng Đông là phù hợp, có khả năng duy trì và có tính

bền vững cao.

- Tính phù hợp của mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống

SLGN dựa vào cộng đồng

Nghiên cứu này cho thấy những người có hiểu biết về bệnh SLGN; đường ra

của SLGN từ cơ thể vật chủ ra môi trường ngoài; sự tái nhiễm của SLGN; SLGN có

thể phòng, chống; món ăn có nguy cơ gây nhiễm SLGN đều có tỉ lệ nhiễm SLGN

thấp hơn so với những người không có những hiểu biết về các nội dung trên. Kết

quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, tỉ lệ hiểu biết của người dân về bệnh SLGN và

cách phòng, chống SLGN là còn thấp. Do vậy, việc tăng cường truyền thông, giáo

dục sức khỏe phòng, chống SLGN là cần thiết. Trong nghiên cứu này, chương trình

can thiệp đã thiết kế theo các bước thay đổi hành vi của con người, giai đoạn đầu

tiên tìm hiểu xem đối tượng nghiên cứu đã biết gì và làm gì để phòng, chống

SLGN, trên cơ sở đó cung cấp thêm thông tin mà đối tượng chưa biết về tác hại và

lợi ích của phòng, chống SLGN qua các phương tiện thông tin đại chúng (loa phát

thanh địa phương tuyên truyền về bệnh SLGN,tờ rơi, áp phích có nội dung về

phòng, chống SLGN dán ở những nơi công cộng nhằm cung cấp thông tin về bệnh

SLGN, tác hại và biện pháp phòng, chống, tiếp đó là khuyến khích người dân, cộng

đồng và chính quyền địa phương vận dụng, sáng tạo để đa dạng hóa các loại hình

truyền thông như phát động các cuộc thi tìm hiểu về bệnh SLGN cho học sinh tiểu

học, THCS và THPT trên địa bàn, thi sáng tác thơ, bài hát có nội dung phòng,

chống SLGN tại các đơn vị, đoàn thể trên địa bàn .v.v. nhằm chuyển tải đến người

dân các thông tin chính xác, cập nhật, sáng tạo trong cách thức chuyển tải nội dung

TTGDSK phòng, chống SLGN phù hợp với tình hình địa phương giúp người dân

nhận ra hành vi có hại, nhận thức đúng về lợi ích của việc thay đổi thái độ, thực

hành phòng, chống SLGN theo hướng có lợi cho sức khỏe và môi trường sống. Bởi

127

vì, thái độ, niềm tin, giá trị và nhận thức của cá nhân cung cấp cơ sở và động cơ cho

hành vi định sẵn. Đối tượng sẽ không thay đổi hành vi khi không tin tưởng vào

hành vi mới, không đủ tự tin để thay đổi và không ủng hộ cho việc thay đổi hành vi

theo hướng có lợi cho sức khoẻ và môi trường sống.Thay đổi hành vi là một quá

trình thông qua nhiều bước từ việc nhận ra hành vi có hại đến việc quan tâm đến

hành vi có lợi rồi đặt ra mục đích để thay đổi hành vi, chấp nhận và làm thử các

hành vi có lợi và rồi duy trì hành vi, quá trình trên khi thì thay đổi nhanh, khi thì

thay đổi chậm. Do đó, để thay đổi hành vi đòi hỏi phải có thời gian. Trong quá trình

lập kế hoạch chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe thay đổi hành vi phòng,

chống SLGN nghiên cứu sinh đã thiết kế các can thiệp nhằm nâng cao sức khỏe

cộng bằng truyền thông, giáo dục sức khoẻ, xét nghiệm phân và điều trị miễn phí

cho những người xét nghiệm phân có trứng SLGN và giun, sán khác (giun đũa, giun

tóc, giun móc, giun mỏ, sán lá ruột nhỏ) đều được tư vấn và phát thuốc miễn phí,

các cán bộ trạm y tế thị trấn Rạng Đông được tập huấn để có kiến thức và kỹ năng

tư vấn, hướng dẫn người dân trong việc dự phòng và điều trị SLGN. Các cán bộ y tế

sẵn sàng tư vấn miễn phí cho mọi người dân của thị trấn Rạng Đông nếu có nhu cầu

vào các ngày làm việc tại trạm y tế, trạm y tế có bố trí hai ngày thứ ba và thứ năm

để phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân phát hiện có nhiễm SLGN, người dân cũng

được cung cấp kiến thức thông qua sinh hoạt tại các tổ chức đoàn thể chính trị - xã

hội, tổ chức xã hội như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn

TNCSHCM, trường học được tuyên truyền về vệ sinh ăn uống; phòng, chống

SLGN trong các dịp đầu năm học và tổng kết học kỳ, tuyên truyền kiến thức về

phòng, chống SLGN qua loa truyền thanh của địa phương, cán bộ y tế thăm hộ gia

đình tư vấn về các biện pháp phòng, chống SLGN, cán bộ y tế và các cán bộ các

đoàn thể sáng tạo, chủ động trong các hình thức thông tin, giáo dục, truyền thông

phòng, chống SLGN. Các tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội trên địa bàn

ngoài việc lồng ghép các nội dung phòng, chống SLGN trong các buổi sinh hoạt

chi, tổ Hội định kỳ, còn phát động phong trào hội viên sáng tác thơ, ca, hò, vè có

nội dung tuyên truyền về phòng, chống SLGN đến các hội viên và người dân trong

cộng đồng.v.v. nhằm giúp tạo ra sự phong phú trong nội dung sinh hoạt và hoạt

128

động truyền thông, khích thích người dân tham gia tìm hiểu về SLGN để sáng tác

các tác phẩm và trình bày tại các buổi sinh hoạt chi, tổ hội của các tổ chức đoàn thể

từ đó giúp thay đổi hành vi phòng, chống SLGN theo hướng có lợi cho sức khỏe

của người dân và phù hợp với từng bước của quá trình thay đổi hành vi, cũng như

giúp duy trì, củng cố tính bền vững của các hành vi có lợi trong cộng đồng như

không ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín kỹ; không nuôi gia súc thả rông; không cho chó,

mèo ăn cá sống; không sử dụng phân tươi để sản xuất, chăn nuôi; sử dụng nhà tiêu

hợp vệ sinh; không phóng ếu, đại tiện bừa bãi xuống ao hồ, sông suối; không sử

dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín dùng ăn ngay v.v. Ngoài

ra, đội ngũ tuyên truyên viên là cán bộ trạm y tế và y tế thôn, cùng nghiên cứu sinh

cũng tham gia các hoạt động tư vấn, giám sát, phát động các phong trào vệ sinh môi

trường và có các bài thuyết trình trước học sinh, phụ huynh học sinh để trao đổi về

vấn đề vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường thúc đẩy việc tạo môi trường văn hóa,

xã hội lành mạnh, xóa bỏ những phong tục, tập quán truyền thống lạc hậu trong ăn

uống và vệ sinh môi trường cản trở quá trình thay đổi hành vi.

Chương trình can thiệp được thiết kế nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của

chính quyền địa phương, ngành y tế và đặc biệt là vai trò, trách nhiệm của các tổ

chức đoàn thể tham gia vào công tác phòng, chống SLGN nhằm giúp ngành y tế và

chính quyền địa phương kiểm soát tốt hơn việc phòng, chống SLGN trong cộng

đồng. Niềm tin của người dân đối với cán bộ đoàn thể đã tăng lên chứng tỏ hiệu quả

của chương trình can thiệp đã tăng cường thêm kiến thức, nhận thức của cán bộ các

đoàn thể khi tham gia các hoạt động tập huấn từ chương trình can thiệp và kỹ năng

truyền thông tư vấn của cán bộ lãnh đạo đoàn thể cũng đã được nâng lên so với

trước can thiệp đã tạo lòng tin cho người dân trong cộng đồng vào chính quyền và

các đoàn thể ở địa phương, các tổ chức đoàn thể ở địa phương chính là cánh tay nối

dài của y tế cơ sở trong khi nguồn nhân lực và vật lực đầu tư cho y tế còn chưa đáp

ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân thì việc xã hội hoá y tế

và sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội vào sự nghiệp

chăm sóc nhân dân sẽ giúp ngành y tế giảm tải được áp lực về việc thiếu nhân lực,

vật lực cho y tế tuyến cơ sở, từ đó tăng cường thêm trách nhiệm của chính quyền và

129

đoàn thể trong việc chăm sóc sức khoẻ người dân ở tuyến cơ sở giảm tải cho chi phí

đi khám chữa bệnh do phải chuyển lên tuyến trên của người bệnh. Các đoàn thể, tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội tham gia vào chương trình phòng, chống

SLGN đã tăng tính xã hội hóa cho các hoạt động phòng, chống SLGN và phát huy

được sự tham gia của cả hệ thống chính trị ở địa phương vào công tác chăm sóc sức

khoẻ cho người dân nói chung và phòng, chống SLGN nói riêng.Trong khi nguồn

kinh phí cho hoạt động phòng, chống SLGN ở thị trấn Rạng Đông là không có thì

sự tham gia tích cực của chính quyền, các ban, ngành và đặc biệt là các đoàn thể ở

địa phương là vô cùng quan trọng vì công tác phòng, chống SLGN đòi hỏi sự tham

gia liên ngành.

Ngoài ra, mô hình can thiệp được thiết kế theo hướng lồng ghép này đã giảm

được thủ tục hành chính, giảm chi phí cho duy trì hoạt động của Ban chỉ đạo phòng,

chống SLGNvà tiết kiệm thời gian, kinh phí và tăng thêm sự phong phú cho các

buổi sinh hoạt định kỳ của các Hội đoàn thểtrên địa bàn do việc lồng ghép tuyên

truyền, tập huấn nội dung phòng, chống SLGN vào các buổi sinh hoạt định kỳ của

các tổ chức đoàn thể trên địa bànthay cho việc tổ chức riêng các buổi tập huấn chỉ

có nội dung phòng, chống SLGN như trong nghiên cứu của Trương Tiến Lập [46].

- Khả năng duy trì mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống

nhiễm sán lá gan nhỏ dựa vào cộng đồng

Mô hình can thiệp trong nghiên cứu này của chúng tôi đã được xây dựng phù

hợp Quyết định số 255/2006/ QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2006 của chính phủ

về việc phê duyệt chiến lược quốc gia y tế dự phòng Việt Nam đến năm 2010 và

định hướng đến năm 2020 trong đó mục 3, định hướng đến năm 2020 nêu “Tiếp tục

triển khai các hoạt động nhằm khống chế, loại trừ tiến tới thanh toán các bệnh

truyền nhiễm gây dịch lưu hành như các bệnh lây truyền theo đường tiêu hoá (tả, lỵ,

thương hàn, giun, sán...)” và Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 04 tháng 01 năm

2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm

giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 trong đó điểm b, mục 3, các giải pháp chủ

yếu thực hiện Chiến lược có nội dung “Nâng cao năng lực phòng chống ngộ độc

thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm” đây là cơ sở tốt cho tính bền vững

130

của chương trình. Các bên liên quan gồm các đối tượng tham gia triển khai và đối

tượng hưởng lợi trực tiếp đều nhận định rằng chương trình phòng chống SLGN tại

thị trấn Rạng Đông là phù hợp với sinh hoạt, tập quán sống của người dân trong thị

trấnvà chương trình cũng đã mang lại lợi ích thiết thựccho người dân. Chương trình

can thiệp cũng nhận được sự ủng hộ của các bên liên quan là chính quyền địa

phương, trạm y tế thị trấn, các tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội và của người

dân cho rằng nên tiếp tục duy trì và nhân rộng mô hình vì các hoạt động này đã góp

phần vào chăm sóc sức khỏe cho người dân, dễ thực hiện và tạo được lòng tin của

người dân.

- Tính bền vững của mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống

SLGN dựa vào cộng đồng

Việc lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN vào nội dung hoạt động của

Ban chỉ đạo An toàn vệ sinhh thực phẩm thị trấn Rạng Đông và lồng ghép nội dung

phòng, chống SLGN vào các buổi sinh hoạt định kỳ của các tổ chức đoàn thể trên

địa bàn như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM giúp

tăng cường vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo chính quyền địa phương trong việc chỉ

đạo công tác phòng, chống SLGN, nhất là vai trò Ủy ban nhân dân cấp xã, phường

thị trấn và y tế cơ sở cũng như các tổ chức chính trị , xã hội trên địa bàn tham gia

tích cực vào công tác phòng, chống SLGN, việc lồng ghép vào các buổi sinh hoạt

định kỳ của các tổ chức đoàn thể sẽ giảm được kinh phí do cho chuẩn bị các buổi

tập huấn riêng cho chủ đề phòng, chống SLGN như nghiên cứu của Trương Tiến

Lập [46], đồng thời việc lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN vào sinh hoạt

định kỳ của cácHội đoàn thể trên địa bàn sẽ làm phong phú hơn nội dung sinh hoạt

của các tổ chức Hội đoàn thể ngoài việc không tốn kinh phí tổ chứcmà thời lượng

cho tuyên truyền cũng phù hợp không gây nhàm chán cho người nghe, đồng thời

huy động được sự tham gia tích cực từ phía cộng đồng cho công tác phòng, chống

SLGN vì các buổi sinh hoạt chi, tổ Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn TNCSHCM

và Hội người cao tuổi, được các hội viên tham gia tích cực do các hội viên tham gia

sinh hoạt chi hội ngoài được nghe các thông tin liên quan đến phòng, chống SLGN,

hội viên cònđược gắn với nhiều quyền lợi khác của hội viênkhi tham gia sinh hoạt ở

131

các Hội đoàn thể như được vay vốn, được hướng dẫn sản xuất, chăn nuôi.v.v. nên

thu hút được Hội viên đến sinh hoạtmột cách tự nguyện và các tổ chức Hội cũng có

quy chế sinh hoạt định kỳ hàng tháng rõ ràng do vậy nếu lồng ghép sẽ đảm bảo

được tính bền vững của hoạt động TTGDSK phòng, chống SLGN và cung cấp cho

người dân những kiến thức mới, cập nhật nhất cho công tác phòng, chống

SLGN.Cách thức triển khai này khác với nghiên cứu của Trương Tiến Lập trước

đây là tổ chức các buổi tập huấn riêng về chủ đề phòng, chống SLGN cho người

dân [46] mà không có sự kết hợp lồng ghép như nghiên cứu này, trong khi nguồn

nhân lực, vật lực cho y tế cơ sở còn hạn chế thì việc lồng ghép là hiệu quả và có

tính bền vững cao, việc triển khai theo mô hình này đã giúp huy động được cả hệ

thống chính trị cùng tham gia, ủng hộ cho các hoạt động phòng, chống SLGN một

cách có tổ chức, có kế hoạch theo chỉ đạo củaBan chỉ đạo liên ngành về an toàn vệ

sinh thực phẩm thị trấn Rạng Đông hàng năm.

4.4. Ưu điểm, hạn chế và bài hoc kinh nghiệmcủa nghiên cứu

4.4.1. Ưu điểm của nghiên cứu

Thiết kế một nhóm đánh giá trước – sau, là phù hợp với nghiên cứu đánh giá

hiệu quả chương trình truyền thông triển khai trên địa bàn nhỏ ở một thị trấn nhằm

nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống SLGN cho một vấn đề như

chủ đề phòng, chống SLGN. Vì hiện nay bệnh SLGN vẫn là một trong số các bệnh

bị lãng quên, ít được quan tâm, chú trọng, theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới,

do vậy ít bị ảnh hưởng ngoại lai trong quá trình triển khai các các can thiệp do đối

tượng của chương trình có thể tiếp xúc, phơi nhiễm với những điều kiện ngoại lai

khácvà đưa lại những tác động không mong muốn, không kiểm soát được lên kết

quả mong đợi của chương trình can thiệp. Với thiết kế này có thể đo lường chiều

hướng (tăng hoặc giảm) về kiến thức, thái độ và hành vi của đối tượng trước và sau

khi chương trình can thiệp triển khai. Các thay đổi này được quy cho hiệu quả của

chương trình can thiệp.

Trong nghiên cứu này, số liệu định lượng đã được tiến hành trước can thiệp

qua xét nghiệm phân tìm trứng SLGN và phỏng vấn cá nhân bằng phiếu phỏng vấn

có cấu trúc để xác định tỉ lệ nhiễm, cường độ nhiễm SLGN và một số yếu tố liên

132

quan với tình trạng nhiễm SLGN ở người và xác định tỉ lệ nhiễm ấu trùng SLGN ở

cá, sau đó tiến hành triển khai chương trình can thiệp bằng xét nghiệm phân cho các

đối tượng tham gia nghiên cứu, điều trị cho những đối tượng xét nghiêm phân có

phát hiện trứng SLGN trong cộng đồng kết hợp với truyền thông, giáo dục phòng,

chống SLGN. Dựa trên kết quả nghiên cứu trước can thiệp, chúng tôi chọn giải

pháp can thiệp bằng kết hợp giữa điều trị đặc hiệu với praziquantel 25mg/kg x 3

lần/ngày x 1 ngày cho đối tượng xét nghiệm phân có trứng SLGN kết hợp với lồng

ghép các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khỏe trong phòng, chống SLGN vào

chương trình đảm bảo an toàn thực phẩm của thị trấn và vào các buổi sinh hoạt của

các tổ chức đoàn thể xã hội và tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn do nghiên cứu

sinh, các chuyên gia của trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Y tế công cộng, Chi

Cục an toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Nam Định, Trung tâm Y tế dự phòng huyện

Nghĩa Hưng và lãnh đạo Uỷ Ban Nhân dân và lãnh đạo trạm y tế thị trấn Rạng

Đông lập kế hoạch, xây dựng nội dung, tần suất, thời gian triển khai các hoạt động

can thiệp bằng truyền thông, giáo dục sức khoẻ và điều trị, theo dõi sau điều trị các

trường hợp người dân có nhiễm SLGN.

Hình thức truyền thông bằng thăm hộ gia đình và tư vấn về phòng chống

SLGN cho người dân tại hộ gia đình của cán bộ y tế thôn được người dân ủng hộ và

xem là hình thức truyền thông trực tiếp phù hợp với điều kiện ở thị trấn Rạng Đông.

Chương trình phòng, chống SLGN đã nhận được nhiều sự ủng hộ của chính quyền

địa phương, các bên liên quan là trạm y tế, các tổ chức đoàn thể và cộng đồng. Đây

là chương trình can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN đầu tiên được triển khai

tại thị trấn Rạng Đông có các hoạt động cụ thể xuống đến đối tượng đích là người

dân. Chương trình đề cao việc xã hội hóa công tác phòng, chống SLGN nhờ việc

huy động người dân, cộng đồng cùng sự tham gia của các ban, ngành, đoàn thể trên

địa bàn vào chương trình can thiệp. Chương trình can thiệp không thành lập Ban

Chỉ đạo riêng mà sử dụng Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm của

thị trấn Rạng Đông để chỉ đạo các hoạt động phòng, chống SLGN ở cộng đồng đã

giảm được các thủ tục hành chính cho việc thành lập mới Ban Chỉ đạo cho hoạt

động phòng, chống SLGN so với các kết quả của các nghiên cứu trước đây và việc

133

làm này cũng giúp duy trì tính bền vững cho chương trình. Tất cả các đối tượng

tham gia chương trình can thiệp đều được xét nghiệm phân, phát thuốc điều trị cho

những trường hợp xét nghiệm phân có trứng SLGN, theo dõi kết quả điều trị định

kỳ 6 tháng/ lần và tư vấn miễn phí. So với kết qủa nghiên cứu của Đặng Thị Cẩm

Thạch chỉ triển khai điều trị mà không có truyền thông, giáo dục phòng, chống

SLGN thì tỉ lệ sạch trứng SLGN và giảm trứng SLGN đều giảm sau 12 tháng can

thiệp so với 1 tháng,3 tháng và 6 tháng trước đó, tỉ lệ tái nhiễm SLGN (10,2%) cũng

cao hơn nghiên cứu của chúng tôi (tỉ lệ tái nhiễm là 0,0%). Kết quả của nghiên cứu

cho thấy sau hai năm can thiệp bằng điều trị đặc hiệu kết hợp với truyền thông, giáo

dục sức khỏe phòng, chống SLGN kiến thức, thái độ, thực hành của người dân thị

trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng đã thay đổi theo hướng tích cực nhằm góp

phần bảo vệ môi trường và nâng cao sức khỏe cộng đồng.

4.4.2. Một số hạn chế của nghiên cứu

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, chương trình còn gặp những hạn chế như

chưa thực hiện được giải pháp về nuôi cá sạch.Ngoài ra, nghiên cứu cũng chưa đánh

giá được mức độ thiệt hại của nhiễm SLGN đối với những chi phí xã hội do bệnh

SLGN gây ra cũng chưa được lượng hoá.

Thiết kế nghiên cứu là thiết kế một nhóm đánh giá trước sau, bên cạnh ưu

điểm dễ thực hiện, đỡ tốn kém hơn nhưng có thể gặp ảnh hưởng đến tính giá trị của

kết quả đánh giá như: thứ nhất là tác động ngoại lai do không kiểm soát được các

ảnh hưởng khác ngoài can thiệp làm thay đổi các chỉ số đánh giá kết quả chương

trình (vì không có nhóm chứng nên không so sánh được số liệu giữa nhóm can thiệp

và nhóm chứng). Tuy nhiên, qua tổng hợp các số liệu từ kế hoạch, báo cáo, sổ sách

ghi chép, qua trao đổi với Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn Rạng Đông phụ

trách văn xã, Trạm trưởng trạm y tế thị trấn Rạng Đông và theo dõi trong thời gian

triển khai can thiệp của nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy các chương trình đều

được thực hiện theo kế hoạch như các năm trước đây và không có thêm, bớt chương

trình, dự án, đề tài nghiên cứu nào có thể ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả của

chương trình can thiệp của nghiên cứu này.Thứ hai là tác động của thử nghiệm đó là

sự thay đổi về kiến thức và hành vi sức khoẻ đơn giản là do các đối tượng nghiên

134

cứu đã được đã thử nghiệm bộ câu hỏi nghiên cứu khi tham gia trả lời các câu hỏi

trong bộ câu hỏi trước can thiệp và sau can thiệp lại sử dung lại bộ câu hỏi lúc đầu

để đánh giá, người trả lời phỏng vấn có thể biết cách trả lời và trả lời tốt hơn trước.

Vấn đề bộ câu hỏi được sử dụng trước và sau can thiệp này không ảnh hưởng đến

kết quả nghiên cứu do các nội dung trong bộ câu hỏi trùng hợp với nội dung được

TTGDSK trong chương trình can thiệp của nghiên cứu. Thứ ba là ảnh hưởng củasự

trưởng thành, những thay đổi về thời gian, cũng như sự phát triển của con người có

thể tác động đến kết quả của chương trình can thiệp.Tác động của sự trưởng thành

không ảnh hưởng đến nghiên cứu này do đối tượng nghiên cứu can thiệp của nghiên

cứu là những người dân từ 15 tuổi trở lên và nội dung can thiệp là truyền thông,

giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao kiến thức, thái độ,thực hành của người dân về

phòng, chống SLGN. Thứ tư, hành vi đo lường qua bộ câu hỏi do người dân tự khai

báo và vì muốn làm hài lòng người hỏi nên người ta có thể trả lời theo hướng về các

hành vi tốt. Bên cạnh những hạn chế nêu trên trong quá trình triển khai can thiệp

cũng gặp một số khó khăn do một số người dân địa phương có nghề đi biển nên ít

khi có mặt ở nhà vì vậy cán bộ truyền thông phải sắp xếp thời gian hợp lý khi tới

thăm hộ gia đình để tư vấn cho người dân về các biện pháp phòng, chống SLGN.

Bộ câu hỏi thiếu biến số về tiền sử điều trị/ tẩy giun trong vòng 6 tháng vừa qua cho

đối tượng không phát hiện trứng SLGN trong phân đây là hạn chế của nghiên cứu.

4.4.3. Bài học kinh nghiệm từ nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện chương trình chúng tôi cũng rút ra được những bài

học có giá trị nhằm giúp thay đổi hành vi phòng chống SLGN có hiệu quả hơn như:

(1) Cần quan tâm đến lợi ích cá nhân của đối tượng; (2) Trao đổi càng cụ thể càng

tốt với đối tượng về những lợi ích sẽ đạt được và những mối nguy hại sẽ giảm đi khi

thực hiện hành vi mới có lợi cho sức khỏe, các hành vi liên quan đến phòng chống

SLGN như không ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín kỹ; không nuôi gia súc thả rông;

không cho chó, mèo ăn cá sống; không sử dụng phân tươi để sản xuất, chăn nuôi; sử

dụng nhà tiêu hợp vệ sinh; không phóng ếu, đại tiện bừa bãi xuống ao hồ, sông suối;

không sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín dùng ăn ngay

v.v.; (3) Hướng dẫn người dân thực hành những hành vi có lợi, dễ thực hiện hoặc

135

phù hợp với đối tượng trước, sau đó mới hướng dẫn các hành vi có lợi khác khó

thực hiện hơn; (4) Chỉ rõ cho đối tượng nghiên cứu biết rằng hành vi có lợi như

không ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín kỹ; không nuôi gia súc thả rông; không cho chó,

mèo ăn cá sống; không sử dụng phân tươi để sản xuất, chăn nuôi; sử dụng nhà tiêu

hợp vệ sinh; không phóng ếu, đại tiện bừa bãi xuống ao hồ, sông suối; không sử

dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín dùng ăn ngay; v.v. là

những hành vi được cộng đồng và xã hội chấp nhận, ủng hộ; nhiều người đã thực

hiện thành công; (5) Đưa ra những hướng dẫn và lời khuyên cụ thể về cách thực

hành hành vi có lợi nêu trên và cách thức vượt qua khi gặp trở ngại; (6) Cần đặc

biệt quan tâm đến những người không ủng hộ sự thay đổi hành vi, tập trung vào

việc thuyết phục những người này để làm gương cho người khác; (7) Dùng những

“tấm gương” cụ thể để chỉ cho mọi người thấy cách thức thực hành hành vi có lợi

cũng như những hiệu quả, lợi ích có được do việc thực hành hành vi có lợi mang

lại.

Những bài học kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu này có thể áp dụng cho các

địa phương có tập quán ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín và có tỉ lệ nhiễm SLGN tương

tự như ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

136

KẾT LUẬN

Từ kết quả đề tài nghiên cứu can thiệp cộng đồng phòng, chống sán lá gan

nhỏ cho người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định,

chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau:

1. Tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người

- Tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân từ 01 tuổi trở lên là 15,8%, chưa phát hiện

thấy người nhiễm SLGN từ 14 tuổi trở xuống, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân từ 15

tuổi trở lên là 18,5%.

- Loài SLGN ký sinh ở người tại thị trấn Rạng Đông là Clonorchis sinensis.

- Có 6/7 loài cá nước ngọt nhiễm ấu trùng SLGN gồm cá diếc 30,0%; cá mè

14,0%; cá chép 10,0%; cá chuối 10,0%; cá trôi 6,0%; cá rô phi 4,0%.

2.Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan

nhỏ và một số yếu tố liên quan đến nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân

- Kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của

người dân trước can thiệp còn thấp

+ Có 28,2% người dân có kiến thức đúng về đường lây truyền bệnh, 32,9% cho

rằng bệnh SLGN nguy hiểm, kiến thức phụ thuộc vào trình độ học vấn (OR=16,7)

+ Có 58,5% đã từng ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín; 42,4% dùng chung dụng cụ

chế biến thức ăn sống và thức ăn chín và 73,8% có sử dụng phân tươi của người

hoặc gia súc bón ruộng, nuôi cá.

- Nguy cơ nhiễm sán lá gan nhỏ ở Rạng Đông liên quan đến giới tính, học

vấn, nghề nghiệp, kiến thức và thực hành phòng chống bệnh sán lá gan nhỏ

Nam giới có nguy cơ nhiễm SLGN cao cao gấp 5,3 lần (OR = 5,3; p < 0,01)

so với nữ giới. Những người có trình độ học vấn thấp có nguy cơ nhiễm SLGN cao

gấp 2,7 lần (OR = 2,7; p < 0,05) so với những người có trình độ học vấn cao.

Những người không hiểu về đường lây truyền SLGN có nguy cơ nhiễm

SLGN cao gấp 3,2 lần (OR = 3,2; p < 0,05) so với những người có hiểu đúng về

đường lây truyền SLGN. Những người cho rằng SLGN là bệnh không nguy hiểm

nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 4,1 lần (OR = 4,1; p < 0,01) cho rằng SLGN là bệnh

nguy hiểm.

137

Những người có ăn gỏi cá, cá sống hoặc cá nấu chưa chín có nguy cơ nhiễm

SLGN cao gấp 66,3 lần (OR = 66,3; p < 0,01) so với những người không ăn gỏi cá,

cá sống hoặc cá nấu chưa chín.

Những người có dùng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi

cá có nguy cơ nhiễm SLGN cao gấp 6,5 lần (OR = 6,5; p < 0,01) so với những

người không dùng.

3. Hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống sán lá gan nhỏ ở người dân sau

2 năm can thiệp

Tỉ lệ người dân biết về đường lây truyền bệnh SLGN tăng (28,2% so với

98,2%). CSHQ là 248,2%; Tỉ lệ người dân cho rằng bệnh SLGN có thể phòng

chống tăng (31,5% so với 98,5%). CSHQ là 212,7%.

Tỉ lệ người dân đồng tình cho rằng nhiễm SLGN là nguy hiểm tăng (32,9% so

với 97,9%). CSHQ là 197,6%; Tỉ lệ người dân có ủng hộ việc phòng chống SLGN

tăng (17,9% so với 98,2%). CSHQ là 450,3%.

Tỉ lệ người dân có ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín giảm (58,5% so với 0,9%).

CSHQ là 98,5%; Tỉ lệ người dân có sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống

và thức ăn chín dùng ăn ngay giảm (42,4% so với 1,8%). CSHQ là 95,8%; Tỉ lệ

người dân có dùng phân tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá giảm (73,8% so

với 0,3%). CSHQ là 99,6%.

Tỉ lệ sạch trứng SLGN sau 24 tháng can thiệp là 100,0%; Tỉ lệ giảm trứng sau 6

tháng, 12 tháng lần lượt là 75,8%; 100,0%; Tỉ lệ tái nhiễm sau 6 tháng là 3,2%; Sau

12 tháng là 1,6% và sau 24 tháng là 0,0%. Tỉ lệ nhiễm mới sau 24 tháng là 0,0%.

138

KHUYẾN NGHỊ

1. Chính quyền địa phương cần quan tâm và chỉ đạo trạm y tế và các ban,

ngành, đoàn thể trên địa bàn tiếp tục duy trì các hoạt động phòng, chống SLGN.

2. Ban chỉ đạo liên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trấn hằng năm,

cần xây dựng nội dung phòng, chống SLGN vào kế hoạch triển khai công tác đảm

bảo an toàn thực phẩm của địa phương.

3. Trạm y tế là đơn vị đầu mối tham mưu với Uỷ ban nhân dân thị trấn tăng

cường phối hợp liên ngành và xã hội hóa công tác phòng, chống SLGN, hằng năm

xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN

vào các buổi sinh hoạt định kỳ của trạm y tế và các ban, ngành, đoàn thể tại địa

phương

4. Các Hội đoàn thể (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao tuổi, Đoàn

TNCSHCM) tiếp tục lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN vào các buổi sinh

hoạt định kỳ của các tổ chức đoàn thể trên địa bàn.

5. Cần tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm kiểm soát được sự

nhiễm SLGN ở các loài cá nước ngọt.

139

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Lương Thị Phương Lan, Nguyễn Văn Đề (2012), “Sử dụng phương pháp

hình thái học và sinh học phân tử xác định loài ký sinh trùng truyền qua thực

phẩm tại Nam Định”, Tạp chí Y học Thực hành, Số 842, tr. 268-272.

2. Lương Thị Phương Lan, Nguyễn Văn Đề (2012), “Tình trạng nhiễm SLGN

và hiệu quả điều trị bằng praziquantel liều 75mg/kg/24 giờ tại một điểm

thuộc đồng bằng bắc bộ”, Tạp chí Y học Thực hành, Số 842, tr. 275-278.

3. Lương Thị Phương Lan, Nguyễn Văn Đề, Nguyễn Đình Dũng (2015),

“Xác định ô nhiễm mầm bệnh SLGN truyền bệnh cho người trên một số loài

cá nuôi tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” (2014),

Tạp chí Y học Dự phòng, tập XXV, Số 5 (165), 2015, trang 446-450 (Đã

trình bày tại Hội Nghị Y học dự phòng năm 2015).

140

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Nguyễn Văn Ba và Cs (2011), “Một số đặc điểm về an toàn vệ sinh thực

phẩm theo nguồn thực phẩm tại các cơ sở trồng trọt và chăn nuôi tại Nam

Định ”, Tạp chí phòng chống Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Số 5/2011,

Tr. 54-61.

2 Bộ Y tế (2007), Ký Sinh trùng, NXB Y học, Hà Nội.

3 Bộ Y tế (2007), Dược lý học, tập 2, NXB Y học, Hà Nội.

4 Bộ Y tế (2009), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh giun sán ở

Việt Nam, Hà Nội, Tr24-28.

5 Bộ Y tế (2009), Ký sinh trùng,Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr

60-63.

6 Bộ Y tế (2013), Cẩm nang xét nghiệm chẩn đoán giun sán, NXB Y học,

Hà Nội.

7 Bộ Y tế (2015), Dịch tễ học ký Sinh trùng y học, Nhà xuất bản Y học, Hà

Nội, tr 424-427.

8 Lê Văn Châu, Kiều Tùng Lâm (1997), “Xác định vật chủ dự trữ mầm

bệnh và vật chủ trung gian sán lá gan”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa

học 1991 – 1996 Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, NXB Y học, Hà Nội.

9 Nguyễn Văn Chương, Bùi Văn Tuấn (1998), “Biến động của tỉ lệ

nhiễm SLGN tại một số xã ven biển miền Trung Việt Nam”, Hội thảo

Quốc gia phòng chống các bệnh giun sán 1998 – 2000 và đến 2005, Bộ Y

tế - Dự án phòng chống các bệnh giun sán, tr 51 – 56.

10 Nguyễn Văn Chương (2000), Nghiên cứu môt số đặc điểm của ổ bệnh SLGN mới

được phát hiện ở ven biển miền trung Việt Nam, Luận án tiến sỹ y học, Đại học y Hà

Nội.

11 Nguyễn Văn Chương, Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Khá, Triệu Thị

Ninh, Nguyễn Hữu Giáo (2000), “Nghiên cứu sự phân bố bệnh giun sán ở

10 tỉnh ven biển miền Trung – Việt Nam”,Kỷ yếu công trình nghiên cứu

khoa học 1996 – 2000. Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, NXB Y học, tr

141

601 – 607.

12 Nguyễn Văn Chương, Bùi Văn Tuấn và ctv (2001), “Nghiên cứu loài

SLGN O. Viverrini ở ven biển miền Trung Việt Nam”,Kỷ yếu công trình

nghiên cứu khoa học 1996 – 2000. Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương,

NXB Y học, tr 628 – 635.

13 Nguyễn Văn Chương, Nguyễn Văn Khá và ctv (2003), “Nghiên cứu thực

trạng nhiễm SLGN và đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp ở 3

xã của huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định”, Hội nghị khoa học ngành Y tế -

Bình Định.

14 Nguyễn Văn Chương và CTV (2004), “Nghiên cứu thực trạng SLGN ở

một số tỉnh miền trung Việt Nam và bước đầu thử nghiệm một số giải pháp

can thiệp”, Tạp chí Y học thực hành. Báo cáo NCKH chuyên đề Ký sinh

trùng toàn quốc lần thứ 31. Quy Nhơn, Số 477/2004, Tr. 49-56

15 Nguyễn Văn Chương, Triệu Nguyên Trung, Nguyễn Văn Khá, Bùi Văn

Tuấn, Nguyễn Hữu Giáo và ctv (2006), “Nghiên cứu thực trạng nhiễm

SLGN ở một số tỉnh miền trung Việt Nam, bước đầu thử nghiệm một số

giải pháp can thiệp”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học – Báo cáo tại

Hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành sốt rét – ký sinh trùng-côn

trùng – giai đoạn 2001-2005, tập 2 Ký sinh trùng và côn trùng y học, NXB

Y học, tr 68-79.

16 Nguyễn Văn Chương, Bùi Văn Tuấn, Triệu Nguyên Trung, Nguyễn

Văn Khá và CTV (2009), “Tình hình nhiễm SLGN O. Viverrini sau thời

gian can thiệp tại 2 tỉnh Phú Yên và Bình Định”,Tạp chí phòng chống Sốt

rét và các bệnh ký sinh trùng, Số 1/2009, Tr. 78 – 83

17 Đỗ Mạnh Cường (2013), “Thực trạng nhiễm SLGN tại phường Hòa

Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng”,Tạp chí phòng chống Sốt

rét và các bệnh ký sinh trùng, Số 6/2013, Tr. 23-28

18 Đỗ Trung Dũng, Trần Thanh Dương, Hoàng Quang Vinh, Nguyễn Thị

Hợp, Nguyễn Ngọc Hà (2016), “Đánh giá tình trạng nhiễm ấu trùng sán lá

142

trên cá và ảnh hưởng của nước chanh tươi và rượu etanol tới khả năng sống

của ấu trùng metacercaria sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis”,Tạp chí

phòng chống Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Số 4 (93)/2016, Tr. 32-40.

19 Nguyễn Văn Đề, Đặng Tuấn Đạt, Lê Văn Châu, Hà Viết Viên, Nguyễn

Thị Tỵ, Trần Văn Lang và cs (1996), “Thông báo về bệnh SLGN ở Tây

Nguyên”, Thông tin phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 4-

1996, tr 55-56.

20 Nguyễn Văn Đề và Cs (1998), “Nghiên cứu bệnh sán lá và sán dây”,

Thôngtin phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, (Số 2/1998),

tr 29-33.

21 Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Châu, Đặng Thanh Sơn và ctv (2001), “Đánh

giá tác dụng điều trị SLGN (C. Sinensis) của Albendazole ”, Tạp chí phòng

chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, Số 3/2001.Tr 94 – 97.

22 Nguyễn Văn Đề, Hoàng Thị Kim, Nguyễn Duy Toàn, Anne Kongs,

Katrien Depraetere, Trần Quốc Túy, Nguyễn Quang Thiều, Lê Đình

Công, Đinh Vân Kiều và ctv (2001), “Tình hình nhiễm ký sinh trùng

đường ruột và sán truyền qua thức ăn tại tỉnh Hòa Bình”, Kỷ yếu công trình

nghiên cứu khoa học 1996-2000, Bộ Y tế, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng- Côn

trùng trung ương, NXB Y học, Hà Nội, tr 615-621.

23 Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Châu, Đặng Thanh Sơn và ctv (2002), “Nghiên

cứu biện pháp phòng chống bệnh SLGN (Clonorchiasis) tại một điểm trong

vùng lưu hành”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh

trùng, Số 6/2002, tr 83 – 86.

24 Nguyễn Văn Đề, Đặng Thanh Sơn, Nguyễn Thị Hợp, Tạ Văn Thông,

Đinh Thị Mai (2002), “Thực trạng ổ bệnh sán lá gan bé C. Sinensis tại một

xã ven biển tỉnh Thanh Hoá”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các

bệnh Ký sinh trùng, Số 4, Tr. 69-74.

25 Nguyễn Văn Đề, Kiều Tùng Lâm, Lê Văn Châu, Đặng Thanh Sơn, Hà

Viết Viên, Lê Đình Công và Công tác viên (2003), “Tình hình nhiễm sán

143

lá gan nhỏ và kết quả phòng chống ở Việt Nam”, Tạp chí phòng chống

bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, Số3, tr 70-74.

26 Nguyễn Văn Đề (2004), “Nghiên cứu đánh giá ô nhiễm ấu trùng SLGN

trên cá nước ngọt tại chợ Hà Nội”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, (Số 4), tr.

61-66.

27 Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Châu và CTV (2004), “Điều tra ô nhiễm ấu

trùng SLGN và ấu trùng giun Gnathostoma trên cá nước ngọt tại chợ Hà

Nội”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (Số

6/2004), tr 86 – 91.

28 Nguyễn Văn Đề, Lê Thanh Hoà (2004), “Giám định Metacercaria loài

sán lá gan bé C. Sinensis ký sinh trên cá nước ngọt ở Hà Nội và Nam Định

bằng phương pháp sinh học phân tử hệ gen ty thể”, Tạp chí Y học Thực

hành, (số 477/2004), tr 57 – 61.

29 Nguyễn Văn Đề, Lê Khánh Thuận (2004), Sán lá gan, Nhà xuất bản Y

học, Hà Nội.

30 Nguyễn Văn Đề, Lê Khánh Thuận, Nguyễn Thị Hợp (2006), “Nghiên

cứu sán lá truyền qua cá trên người tại Nghệ An, An Giang và Nam Định,

năm 2004-2005”, Tạp chí Phòng chống sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng,

(Số 6 /2006), tr 63-71.

31 Nguyễn Văn Đề,Lê Thanh Hòa, Lê Thị Xuân (2005), “Sán lá gan bé C.

Sinensis ký sinh trên người được phát hiện tại Nghệ An và Đồng Nai”Tạp

Chí Y học thực hành. Số 11 (530), Tr. 13-16.

32 Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Châu, Đặng Thanh Sơn, Lê Thị Chuyền,

Nguyễn Thị Hợp, Nguyễn Thị Hiền, Hà Viết Viên, Đỗ Trung Dũng, Lê

Thanh Hòa, Nguyễn Văn Phúc (2006), “Nghiên cứu nhiễm mầm bệnh

giun sán truyền sang người trên thịt lợn, trâu bò và cá nước ngọt tại Hà

Nội”, Công trình nghiên cứu khoa học, báo cáo tại Hội Nghị khoa học toàn

quốc chuyên ngành sốt rét – ký sinh trùng – côn trùng giai đoạn 2001-

2005, tập II Ký sinh trùng và côn trùng y học, NXB Y học, tr 13-21.

144

33 Nguyễn Văn Đề, Lê Khánh Thuận và ctv (2006), “Điều tra sán lá truyền

qua cá ký sinh trên người tại một số tỉnh ở Việt Nam”, Tạp chí Y học thực

hành, (Số 3(537)/2006), tr. 87-90.

34 Nguyễn Văn Đề, Lê Thanh Hòa (2006), “Xác dịnh thành phần SLGN ký

sinh trên người tại 10 tỉnh ở Việt Nam bằng phương pháp sinh học phân tử

hệ gen ty thể”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, (Số 5/2006), p17-21.

35 Nguyễn Văn Đề (2007), “Dịch tễ, chẩn đoán, điều trị và phòng chống sán

lá gan ở Việt Nam”, Tạp chí Thầy thuốc Việt Nam – Đặc san của Tổng hội

Y học Việt Nam, (số 5 (1/2007)), tr 8 – 11.

36 Nguyễn Văn Đề, Phạm Văn Thân (2012),Ký sinh trùng Y học,Giáo trình

Đào tạo bác sĩ đa khoa, Bộ môn ký sinh trùng, Đại học Y Hà Nội, NXB Y

học, Hà Nội, tr 199-201.

37 Mai Trung Hà (2009), Tình trạng tái nhiễm trên bệnh nhân sau điều trị SLGN, các

yếu tố liên quan và một số giải pháp can thiệp tại xã Đội Bình, huyện Ứng Hoà, Hà

Nội, năm 2009. Luận văn chuyên khoa I, Trường đại học Y tế Công cộng.

38 Trịnh Thị Bích Hạnh (1989), Một số đặc điểm về lâm sàng, soi ổ bụng và mô bệnh

học của bệnh SLGN C. sinensis ở người VN, Luận án phó tiến sỹ y học, Đại học y

Hà Nội.

39 Đỗ Thái Hoà (2005), Thực trạng nhiễm SLGN ở người trên 14 tuổi và một số yếu

tố liên quan tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá năm 2005, Luận văn

thạc sĩ y tế công cộng, Đại học Y tế Công cộng Hà Nội.

40 Lê Thanh Hoà, Nguyễn Văn Đề, Nguyễn Bích Nga, Đặng Thanh Sơn,

Lê Đình Công (2002), “Giám định loài sán lá gan bé Clonorchis sinensis

ở Việt Nam bằng sinh học phân tử hệ gen ty thể”, Tạp chí phòng chống sốt

rét và các bệnh ký sinh trùng, (Số 4/2002), Tr.60-68.

41 Học viên Quân Y (2005), Ký sinh trùng và côn trùng y học, NXB Quân

đội nhân dân, Hà Nội, tr 353-360, tr 417-425.

42 Nguyễn Mạnh Hùng, Cao Bá Lợi (2008),“Thực trạng nhiễm SLGN ở công

nhân các công ty chè tỉnh Phú Thọ năm 2007 và hiệu quả biện pháp can

145

thiệp điều trị đặc hiệu”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký

sinh trùng, (Số 1/2008), tr 70-75.

43 Nguyễn Thu Hương, Trần Thanh Dương, Nguyễn Mạnh Hùng và CS

(2014), “Hiệu quả can thiệp phòng, chống giun sán cộng đồng tai 4 tỉnh

Nghệ An, Thanh Hoá, Hoà Bình và Bắc Giang (2013-2014)”,Tạp chí

phòng chống Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Số 4 /2015, Tr. 3-14.

44 Nguyễn Thu Hương, Lê Ngọc Tuyến, Nguyễn Thị Liên Hương và CS

(2015), “Thực trạng nhiễm sán lá gan nhỏ và một số yếu tố liên quan tại

các xã huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình (2013-2014)”,Tạp chí phòng chống

Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Số 2 (91) /2016, Tr.10-17.

45 Lương Thị Phương Lan (2008), “Nhiễm ký sinh trùng qua đường thực

phẩm và biện pháp phòng, chống”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các

bệnh Ký sinh trùng, (Số 4/2008), tr 84-91.

46 Trương Tiến Lập (2009), Thực trạng nhiễm SLGN và đánh giá hiệu quả một số

giải pháp can thiệp tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định, Luận án tiến sỹ y học, Đại

học Y Thái Bình.

47 Trương Tiến Lập, Đặng Thị Minh, Lê Lợi, Nguyễn Văn Đề (2009),

“Thực trạng nhiễm SLGN tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định”,Tạp chí

phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (Số 4/2009), Tr. 55-61

48 Cao Bá Lợi, Tạ Thị Tĩnh (2007), Thực trạng nhiễm giun đường ruột và

SLGN tại xã Khánh Thượng – Ba Vì – Hà Tây 2007, Tạp chí phòng chống

bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (Số 6/2007).

49 Lê Ngọc Lương, Vũ Nhật Tân, Đỗ Thanh Tùng và CS (2014), “Thực

trạng nhiễm sán lá gan nhỏ ở người và một số yếu tố liên quan tại xã Hoằng

Tiến, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, năm 2013”,Tạp chí phòng chống

Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Số 4 /2014, Tr. 30-36.

50 Mahavong C (2010), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đánh

giá hiệu quả các phác đồ điều trị bệnh nhân SLGN tại bệnh viện và tại

cộng đồng Lào, Luận án tiến sỹ y học, Đại học y Hà Nội.

146

51 Đinh Thị Thanh Mai, Vũ Đức Long, Lê Bá Khánh (2014), “Thực trạng

và một số yếu tố liên quan đến nhiễm SLGN ở người dân 3 xã huyện Nga

Sơn, tỉnh Thanh Hóa năm 2011”,Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các

bệnh Ký sinh trùng, (Số 1/2014), Tr.49 – 53

52 Đặng Thị Minh, Lê Lợi, Trương Tiến Lập, Phạm Văn Trọng, Nguyễn

Văn Đề (2011), “Đánh giá một số yếu tố nguy cơ lây nhiễm SLGN tại 3

huyện ven biển tỉnh Nam Định”, Công trình khoa học, Báo cáo tại Hội

nghị ký sinh trùng lần thứ 38, Tập II Ký Sinh trùng – Côn trùng Y học, Tr.

146-150.

53 Trần Thơ Nhị (2004), Tình hình tái nhiễm trên bệnh nhân sau điều trị

SLGN và một số yếu tố liên quan tại xã Khánh Thượng – Ba Vì – Hà Tây.

Luận văn tốt nghiệp cử nhânY tế công cộng 2000-2004, Đại học Y Hà Nội.

54 Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Đình Dũng (2014), “Thực trạng và nhận thức

của sinh viên văn bằng hai đại học Dược Hà Nội về bệnh sán lá gan nhỏ

năm 2014”, Tạp chí Y học thực hành, (số 4/2016), tr 41-46.

55 Nguyễn Thanh Phong (2014), “Nhận thức của cán bộ quản lý về ấu trùng sán lá truyền qua thức ăn gây bệnh cho người tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2014”, Tạp chí Y học thực hành, (số 4/2016), tr 51-56.

56 Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Đình Dũng (2014), “Kiến thức về bệnh sán lá

gan nhỏ của người dân tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2014”, Tạp

chí Y học thực hành (1008), (số 5/2016), tr 10-13.

57 Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Đình Dũng (2014), “Khảo sát nhận thức của

người dân về ấu trùng sán lá truyền qua cá gây bệnh cho người tại huyện

Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, năm 2014”, Tạp chí Y học thực hành (1008), (số

5/2016), tr 40-43.

58 Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Đình Dũng (2014), “Thực trạng ăn gỏi cá và

nhu cầu về kiến thức phòng bệnh sán lá gan nhỏ của cán bộ quản lý và

người dân tại 4 xã vùng ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm

2014”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (số 3

(92)/2016), tr 78- 82.

147

59 Nguyễn Thanh Phong, Lương Thị Phương Lan (2014), “Xác định ấu trùng

sán lá gan nhỏ ở các loài cá nước ngọt tại chợ của 4 xã vùng ven biển

huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2014”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt

rét và các bệnh Ký sinh trùng, (số 3 (92)/2016), tr 83-88.

60 Nguyễn Thanh Phong (2014), “Kiến thức của cán bộ quản lý về bệnh sán lá

gan nhỏ tại 4 xã vùng ven biển huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2014”,

Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (số 3

(92)/2016), tr 88-93.

61 Đặng Thị Cẩm Thạch, Phạm Văn Thân, Nguyễn Thị Hà và ctv (2005), “Tình

hình nhiễm và sự phân bố của C. sinensis trên thế giới và Việt Nam”, Tạp chí phòng

chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (số 1/2005), tr 69 - 77.

62 Đặng Thị Cẩm Thạch (2005), Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, ảnh hưởng của bệnh

sán lá gan nhỏ đến một số chỉ số sinh học chức năng gan và tác dụng điều trị bằng

praziquantel, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học y Hà Nội.

63 Đặng Thị Cẩm Thạch, Đỗ Trung Dũng và CS (2007), “Tình hình nhiễm

sán lá trên người tại 2 xã Nghĩa Phú và Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh

Nam Định, 2007”, Tạp chí phòng chống Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng,

Số 1/2008, Tr. 47-53.

64 Đặng Thị Cẩm Thạch, Aya Yajima, Nguyễn Viết Không, Antonio

Montresor (2009), “tỉ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, các yếu tố nguy cơ

nhiễm bệnh sán lá gan nhỏ (Clonorchiasis) và khả năng sử dụng bản điều

tra KAP để xác định các đối tượng nguy cơ tại miền bắc Việt Nam”, Tạp

chí phòng chống Sốt rét và các bệnh ký sinh trùng,Số 5/2009, Tr. 87-94.

65 Đặng Thị Thanh, Nguyễn Thị Bích Nga, Đỗ Trung Dũng, Trần Thanh

Dương và Lê Thanh Hoà (2014), “Xác định loài và phân tích phả hệ của

sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis và Opisthorchis viverrini ở Việt Nam

trên cơ sở gen 28S ribosome”, Tạp chí phòng chống Sốt rét và các bệnh ký

sinh trùng, Số 3/2014, Tr. 89-96.

66 Ngọ Văn Thanh (2016), Thực trạng nhiễm sán lá truyền qua cá trên

148

người, yếu tố liên quan và hiệu quả một số giải pháp can thiệp tại huyện

Nga Sơn, Thanh Hoá, năm 2013-2014 , Luận án tiến sỹ Y học, Đại học y Hà

Nội.

67 Lê Khánh Thuận, Đặng Thị Cẩm Thạch (2006), “Công tác phòng chống

giun sán giai đoạn 2000 – 2005, phương hướng thực hiện dự án phòng

chống giun sán quốc gia đến năm 2010”, Công trình nghiên cứu khoa học,

báo cáo tại Hội Nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành sốt rét – ký sinh

trùng – côn trùng giai đoạn 2001-2005, tập II Ký sinh trùng và côn trùng y

học Tr.7-12. NXB Y học.

68 Trịnh Hồ Tình (2007), Nghiên cứu tỉ lệ nhiễm SLGN và yếu tố nguy cơ tại xã Mỹ

Quang, Huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định năm 2007, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành

Ký sinh trùng – Côn trùng, Đại học Y Hà Nội.

69 Trần Viết Tiến, Đỗ Ngọc Ánh (2013), “Đánh giá sự hiểu biết về các bệnh giun

sán của học sinh trung học cơ sở xã Mường Lạn, tỉnh Sơn La”, Tạp chí

phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (số 1/2013), tr 41-46.

70 Trạm Y tế thị trấn Rạng Đông (2010), Báo cáo công tác năm 2010.

71 Trần Quang Trung, Lương Thị Phương Lan (2014), “Kiến thức, thực

hành về phòng chống SLGN của người dân tại một số xã thuộc vùng ven

biển 2 tỉnh Thái Bình và Nam Định năm 2013,Tạp chí phòng chống bệnh

Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (Số 2/2014), Tr 8-14.

72 Trường Đại học Y Hà Nội (2001), Ký sinh trùng Y học,NXB Y học, Hà

Nội.

73 Trường Đại học Y tế Công cộng (2011), Dịch tễ học, NXB Y học, Hà

Nội, tr 175-176.

74 Lê Thị Tuyết, PGS.TS. Trần Quốc Kham, Ths. Vũ Thị Bình Phương

(2009), “Hiệu quả của truyền thông giáo dục sức khỏe cho người dân về

bệnh SLGN tại xã Xuân Tiến, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định năm

2008”, Tạp chí phòng chống bệnh Sốt rét và các bệnh Ký sinh trùng, (Số

4/2009), Tr. 47-54.

149

75 Bouvard V, Baan R, Straif K, Grosse Y, Secretan B, El Ghissassi F, et

al (2009),Areview of human carcinogens–Part B: biological agents. Lancet

Oncol.2009;10(4):321 –2.

76 Cai XQ, Xu MJ, Wang YH, et al(2010), Sensitive and rapid detection of

Clonorchis sinensis infection in fish by loop-mediated isothermal

amplification (LAMP). Parasitol Res. 2010;106(6):1379–83.

77 Cai XQ, Yu HQ, Bai JS, Tang JD, Hu XC, Chen DH, et al (2012),

Development of a TaqMan based real-time PCR assay for detection of

Clonorchis sinensis DNA in human stool samples and fishes. Parasitol Int.

2012;61(1):183–6.

78 Chai JY, LeeSH (2002), “Food-borne intestinal trematode infection in the

Republic of Korea”, Parasitology International, (51) p129-154.

79 Chai JY, Murrell KD, Lymbery AJ (2005), “Fish – borne parasitic

zoonoses: Status and issues”, International Journal for Parasitology,

Volume 35,p1233-1254.

80 Centers for Disease Control and Prevention (2014), Parasites –

Clonorchis. 2014.http://www.cdc.gov/parasites/clonorchis/faqs.html.

Accessed 15 Mar 2016.

81 Chen DY, Wang JJ, Zang W, Qian MB, Xu QL (2011), Cost-

effectiveness analysis of integrated control strategy of parasitic diseases in

demonstration plots. Zhongguo Xue Xi Chong Bing Fang Zhi Za Zhi.

2011;23(5):501 –5 (in Chinese).

82 Chen MG, LuY, Hua X, Mott KE (1994), “Progress in assessment of

morbidity due to C. sinensis infection: a review of recent literature”, Trop

Dis Bull 1994; 91: R7-R65.

83 Chen Y, Wen T, Lai DH, Wen YZ, Wu ZD, Yang TB, et al (2013),

Development and evaluation of loop-mediated isothermal amplification

(LAMP)forrapiddetection of Clonorchis sinensis from its first intermediate

hosts, freshwatersnails. Parasitology. 2013;140(11):1377–83.

150

84 Choi BI, Han JK, Hong ST, Lee KH (2004), Clonorchiasis and

cholangiocarcinoma:etiologic relationship and imaging diagnosis. Clin

Microbiol Rev.2004;17(3):540–52.

85 Choi D, Hong ST (2007), “Imaging diagnosis of clonorchiasis”, Korean J

Parasitol, 45 (2), p 77-85.

86 Choi D, Jeon YH, Lee GC, Choi MH, Hong ST (2009), Changes in

sonographicfindings after treatment of patients with clonorchiasis in a

heavyendemic area. Korean J Parasitol. 2009;47(1):19–23.

87 Choi MH, Park SK, Li Z, Ji Z, Yu G, Feng Z, Xi L, Cho SY, Rim HJ,

Lee SH, Hong ST (2010), “Effect of control strategies on prevalence,

incidence and reinfection of clonorchiasis in endemic areas of China”, PloS

Negl Trop Dis 2010, 4: e601.

88 Cho SH, Lee KY, Lee BC, Cho PY, Cheun HL, Hong ST, Sohn WM,

Kim TS (2008), “Prevalence of clonorchiasis in Southern Endemic Areas

of Korea in 2006”, Korean Journal of Parasitology 2008, Vol.46, No.3,

133-137.

89 DeNV, Murrell KD, Cong LD, Cam PD, Chau LV, Toan ND,

Dalsgaard A (2003), “The Food-borne Trematodes zoonoses of Vietnam”,

Southeast asian Journal of Tropical Medicine and Public Health, Volume

34, 12-34.

90 DeNV (2004), “Fish-borne Trematodes in Vietnam”, Southeast asian

Journal of Tropical Medicine and Public Health, Volume 35 (Supplement

1, 2004), 299-301.

91 Doanh PN, Nawa Y (2016), Clonorchis sinensis and Opisthorchis spp. in

Vietnam:current status and prospects. Trans R Soc Trop Med Hyg.

2016;110(1):13–20.

92 Fürst T, Keiser J, Utzinger J(2012), Global burden of human food-

bornetrematodiasis: a systematic review and meta-analysis. Lancet

InfectDis.2012;12(3):210–21.

151

93 Hong ST, Yoon K, Lee M, Seo M, Choi MH, Yun CK, Lee SH, Sim JS,

Choi BI (1998), “Control of clonorchiasis by repeated praziquantel

treatment and low diagnostic efficacy of sonography”, Korean Journal of

Parasitology 1998, Vol.36, No4, 249-254.

94 Hong ST, Choi MH, Kim CH, Chung BS, Ji Z(2003), The Kato-Katz

method is reliable for diagnosis of Clonorchis sinensis infection. Diagn

Microbiol Infect Dis. 2003;47(1):345–7.

95 Hong ST, Hong SJ (2004), “Clonorchissinensis and Clonorchiasis in

Korean”, Asian Parasitology; Volume 1. Food-Borne Helminthiasis in

Asia. Chiba, Japan, 2004, P 35-57.

96 Hong ST, Fang YY (2012), Clonorchis sinensis and clonorchiasis, an

update. Parasitol Int. 2012;61(1):17–24.

97 Huang X, Li Z, Fang Y, Ruan C, Zhang X, Liu D, et al (2011), Effect of

comprehensive control in demonstration plot of clonorchiasis in Yangshan

County,2006–2009. Zhongguo Xue Xi Chong Bing Fang Zhi Za Zhi.

2011;23(5):569–70. 574.

98 Huang Y, Chen W, Wang X, Liu H, Chen Y, Guo L, et al (2013) The

carcinogenicliver fluke, Clonorchis sinensis: new assembly,

reannotationandanalysisofthe genome and characterization of tissue

transcriptomes.PLoSOne.2013;8(1), e54732.

99 Hung NM, Duc NV, Stauffer Jr JR, Madsen H (2013), Use of black

carp(Mylopharyngodon piceus) in biological control of intermediate host

snailsof fish-borne zoonotic trematodes in nursery ponds in the Red

RiverDelta,Vietnam. Parasit Vectors. 2013;6:142.

100 Jongsuksuntigul P, Imsomboon T (1997), The impact of a decade long

opisthorchiasis control program in northeastern Thailand. Southeast Asian

J.Trop.Med.Pub.Hlth, 28, p 551-557.

101 Ju JW, Joo HN, Lee MR, Cho SH, Cheun HI, Kim JY, et al (2009),

Identification of a serodiagnostic antigen, legumain, by

152

immunoproteomicanalysisofexcretory-secretory products of Clonorchis

sinensisadultworms.Proteomics. 2009;9(11):3066–78.

102 Khamboonraung C, Keawvichit R, Wongworapat K, Suwanrangsi S,

Hongpromyart M, Sukawat K, Tonguthai K, Santos LD (1997),

“Application ò hazard analysis critical control point infection in cultured

carp (Puntius gonionotus)”, Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health

28 (Supply.1), 65-72.

103 Kim EM, Kim JL, Choi SY, Kim JW, Kim S, Choi MH, Bae YM, Lee

SH, Hong ST (2008), “Infection Status of Freshwater Fish with

Metacercariae of C. sinensis in Korea”, Korean Journal of Parasitology

2008, Vol.46, No.4, 247-251.

104 Kurathong S, Brockelman, et al (1984), “Consistency of feal egg out in

patients with O.viverrini”, Tropical Diseases Bulletin. Vol 1, (No.10).

105 Lai DH, Hong XK, Su BX, Liang C, Hide G, Zhang X, et al (2016),

Current statusofClonorchis sinensis and clonorchiasis in China. Trans R

Soc Trop MedHyg.2016;110(1):21 –7.

106 Lee JM, Lim HS, Hong ST (2011), Hypersensitive reaction to

praziquantel inaclonorchiasis patient. Korean J Parasitol. 2011;49(3):273–

5.

107 Lee SH, Park YH, Sohn WM, Hong ST, Chai JY (1989), “The effects of

gamma irradiation on the survival and development of C. sinensis

metacercariae”. Korean J. Parasitol. 27, 187-195..

108 Liang C, Hu XC, Lv ZY, Wu ZD, Yu XB, Xu J, et al (2009),

Experimental establishment of life cycle of Clonorchis sinensis. Zhongguo

Ji Sheng Chong Xue Yu Ji Sheng Chong Bing Za Zhi. 2009;27(2):148–50

(in Chinese).

109 Liu YS, Wu ZX. Clonorchiasis. In: Chen XB, Wu GL, Sun X, Xu SE,

editors (2002), Modern parasitology. China: People’s Military Medical

Publisher;2002. p. 571 –89 (in Chinese).

153

110 Lun ZR, Gasser RB, Lai DH, Li AX, Zhu XQ, Yu XB, et al (2005)

Clonorchiasis: a key foodborne zoonosis in China. Lancet Infect Dis.

2005;5(1):31 –41.

111 Macpherson CNL (2005), “Human behaviour and the epidemiology of

parasitic zoonoses”, International Journal for Parasitology, Volume

35,p1319-1331.

112 Miyazaki I (1991), “Helminthic zoonoses”, International Medical

Foundation of Japan, Tokyo, p 17- 147.

113 Muller B, Schmidt J, and Mehlhorn H (2007), "Sensitive and species-

specific detection of Clonorchis sinensis by PCR in infected snails and

fishes", Parasitol Res, 100(4), p 911-4.

114 National Health and Family Planning Commission of the People’s

Republic of China (2006), The prevention and control plan of national key

parasitic diseases in 2006–2015 year. 2006.

http://www.nhfpc.gov.cn/zhuzhan/zcjd/201304/cba68ffe544c4902bd48b1c

d7d41e733.shtml. Accessed 15 Mar 2016.

115 Olsen A, Thuan LK, Dalsgaard A, Murrell KD, Johansen MV, DeNV

(2006), “Cross-sectional Parasitological survey for Helminth infections

among Fish farmers in Nghe An province, Vietnam (FIBOZOPA) project”,

Acta Tropica 100 (2006): 199-204.

116 Parvathi A, Sanath Kumar H, Kenchanna Prakasha B, Lu J, Xu X, Hu

W, et al (2007), Clonorchis sinensis: development and evaluation of a

nestedpolymerasechain reaction (PCR) assay. Exp Parasitol.

2007;115(3):291 –5.

117 Petney TN, Andrews RH, Saijuntha W, Wenz-Muck A, Sithithaworn

P (2013), The zoonotic, fish-borne liver fluker Clonorchis sinensis,

Opisthorchis felineus and Opisthorchis viverrini, Int J Parasitol 43 (12-13):

P 1031-1046.

154

118 Qian MB, Chen YD, Yan F(2013), Time to tackle clonorchiasis in China.

Infect Dis Poverty. 2013;2(1):4.

119 Qian MB, Yap P, Yang YC, Liang H, Jiang ZH, Li W, et al(2013),

Efficacy and safety of tribendimidine against Clonorchis sinensis. Clin

Infect Dis. 2013;56(7):e76–82.

120 Qian MB, Utzinger J, Keiser J, Zhou XN(2016), Clonorchiasis.

Lancet.2016;387(10020):800–10.

121 Rim HJ. Clonorchiasis (2005), an update. J Helminthol. 2005;79(3):269–

81.

122 Seo BS, Lee SH, Cho SY, Chai JY, Hong ST, Han IS, Shon JS, Cho

BH, Ahn SR, Lee SK, Chung SC, Kang KS, Shim HS, Hwang IS

(1981), “An epidemiologic study on clonorchiasis and metagonimiasis in

riverside areas in Korea”, Korean Journal of Parasitology, 19, p137-150.

123 Shin EH, Guk SM, Kim HJ, Lee SH, Chai JY (2008), Trends in parasitic

diseases in the Republic of Korea. Trends Parasitol. 2008;24(3):143–50.

124 Sithithaworn P, Pipitgool V, Srisawangwong T, Elkins DB, Hasell-

Elkins MR. (1997), “Seasonal variation of O. viverrini infection in

cyprinoid fish in north-east Thailand: Implications for parasite control and

food safety”, Bull. WHO 1997; 75: 125-131.

125 Sithithaworn P, Andrews RH, Nguyen VD, Wongsaroj T, Sinuon M,

Odermatt P,et al (2012), The current status of opisthorchiasis and

clonorchiasis in the Mekong Basin. Parasitol Int. 2012;61(1):10–6.

126 Sithithaworn P, Yongvanit P, Duenngai K, Kiatsopit N, Pairojkul C

(2014), Roles of liver fluke infection as risk factor for cholangiocarcinoma.

J Hepatobiliary Pancreat Sci 21 (5): 301-8.

127 Sohn WM, Eom KS, Min DY, Rim HJ, Hoang EH, Yang Y, Li X

(2009), “Fishborne Trematode Metacercariae in Freshwater Fish from

Guangxi Zhuang Autonomous Region, China”, Korean Journal of

Parasitology 2009, Vol.47, No.3, 249-257.

155

128 Sohn WM (2009), Fish-borne zoonotic trematode metacercariae in the

Republic ofKorea. Korean J Parasitol. 2009;47(Suppl):S103–13.

129 Sripa B, Kaewkes S,Sithithaworn P , Mairiang E, Laha T, Smout

M,Pairojkul C, Vajaraphongsa Bhudhisawasdi V, Tesana

S, Thinkamrop B, Bethony JM, Loukas A, and Brindley PJ(2007), “

Liver fluke induces cholangiocarcinoma”, PLOS Med 4(7): e20. Rreview.

130 Sripa B, Bethony JM, Sithithaworn P, Kaewkes S, Mairiang E, Loukas

A, Mulvenna J, Laha T, Hotez PJ, Brindley PJ (2011), Opisthorchiasis

and Opisthorchis – associated cholangiocarcinoma in Thailand and Laos.

Acta Trop 120 Suppl 1: S158-68.

131 Tinga N, De N, Vien HV, Chau L, Toan ND, Kager PA, et al (1999),

Little effect of praziquantel or artemisinin on clonorchiasis in Northern

Vietnam.Apilotstudy. Trop Med Int Health. 1999;4(12):814–8.

132 Unicef (2010),General nutrition survey 2009-2010, Medical publishing

house. P 91-102.

133 Wang X, Chen W, Huang Y, Sun J, Men J, Liu H, et al(2011), The draft

genome of the carcinogenic human liver fluke Clonorchis sinensis.

GenomeBiol.2011;12(10):R107.

134 WHO (1995), Control of foodborne trematode infections, Report of a

WHO Study Group, World Health Organation, WHO Teachnical Report

Series, No. 849.

135 WHO (1998), SEAR/WPR Biregio meeting on prevention and control

ofselected parasite diseases, Report of a WHO Study Group. World Health

Organation, WHO Teachnical Report Series.

136 WHO (2004), “Report of Joint WHO/FAO Workshop on food-borne

trematode infections in Asia, Ha Noi, Vietnam, 26-28 November, 2002”,

World Health Organization, WPRO, pp.1-58.

137 World Health Organization. Foodborne

trematodiases(2015),http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs368/en/

156

. Accessed 15 Mar 2016.

138 Wu W, Qian X, Huang Y, Hong Q(2012), A review of the control of

clonorchiasis sinensis and Taenia solium taeniasis/cysticercosis in China.

Parasitol Res.2012;111(5):1879–84.

139 Xu FN(1986), Comparative study on different dosage-schedules of

praziquantelintreating 376 cases of clonorchiasis. Anhui Med J.

1986;1:33–5 (in Chinese).

140 Xu J, Xu JF, Li SZ, Zhang LJ, Wang Q, Zhu HH, et al (2015),

Integrated controlprogrammes for schistosomiasis and other helminth

infections in P.R.China. Acta Trop. 2015;141(Pt B):332–41.

141 Xu LL, Jiang B, Duan JH, Zhuang SF, Liu YC, Zhu SQ, et al (2016)

Efficacy andsafety of praziquantel, tribendimidine and mebendazole in

patients withco-infection of Clonorchis sinensis and other helminths. PLoS

Negl TropDis.2014;8(8),e3046. Tang et al. Infectious Diseases of Poverty

5:71 Page 10 of 12.

142 Xu LQ, Jiang Z, Yu SH, Xu S, Huang D, Yang S, Zhao G, Gan Y,

Kang Q, Yu D (1995), “Nationwide survey of the distribution of human

parasites in China infection with parasite species in human population”,

Chinese J. Parasitic Dis;13: 1-7.

143 Xu LQ, Yu SH, Chen YD (2004), “Clonorchiasissinensis in China”, Asian

Parasitology; Volume 1. Food-Borne Helminthiasis in Asia. Chiba, Japan,

2004, P 1-26

144 Yong TS, Im K, and Chung PR (1991), "Analysis of Clonorchis sinensis

antigens and diagnosis of clonorchiasis using monoclonal

antibodies",Kisaengchunghak Chapchi, 29(3), p 293-310.

145 Yu SH, Mansanori K, Li XM, Xu LQ, Lan CG, Lin R (2003),

“Epidemiological investigation on C. sinensis in human population in an

area of south China”, Jpn.J. Infect. Dis.56: 168-171.

146 Yoshida Y (2004), “Clonorchissinensis and Clonorchiasis in Japan”, Asian

157

Parasitology; Volume 1. Food-Borne Helminthiasis in Asia. Chiba, Japan,

2004, P 27-35.

147 Young-II Jeong, Hee-Eun Shin, Sang-Eun Lee, Hyeng-II Cheun, Jung-

Won Ju, Jung-Yeon Kim, Mi Yeoun Park, Shin-Hyeong Cho (2016),

“Prevalence of Clonorchis sinensis infection among Residents along 5

Major Rivers in the Republic of Korea”. Korean J. Parasitol. Vol.54,

No.2: 215-219.

148 Ze-Li Tang, Yan Huang and Xin-Bing Yu (2016), “Current status and

perspectives of Clonorchis sinensis and clonorchiasis: epidemiology,

pathogenesis, omics, prevention and control”, Infectious Diseases of

Poverty, 2016: 5: 71.

158

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: BỘ PHIẾU PHỎNG VẤN.

Phụ lục2. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH.

Phụ lục 3. PHƯƠNG PHÁP XÉT NGHIỆM KATO – KATZ.

Phụ lục 4. ĐỊNH LOẠI SÁN LÁ GAN NHỎ Ở NGƯỜI VÀ ẤU TRÙNG NANG

(METACERCARIA) THU THẬP ĐƯỢC Ở CÁ BẰNG KỸ THUẬT SINH HỌC

PHÂN TỬ (PCR).

Phụ lục 5.VẬT LIỆU VÀ KỸ THUẬT PHÂN LOẠI ẤU TRÙNG SÁN LÁ

TRONG CÁ NƯỚC NGỌT.

Phụ lục 6. TÀI LIỆU TRUYỀN THÔNG DÙNG TRONG CAN THIỆP CỘNG

ĐỒNG.

Phụ lục 7. BIỂU ĐỒ GRANTT VỀ CÁC HOẠT ĐÔNG CAN THIỆP BẰNG

TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC SỨC KHOẺ HÀNG NĂM.

159

Phụ lục 1: BỘ PHIẾU PHỎNG VẤN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

138 Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội

ĐT: (04) 2662299

GIẤY ĐỒNG Ý THAM GIA TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

Nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm

sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam

Định năm 2009-2012”.

Giới thiệu về nghiên cứu:

Đây là đề tài nghiên cứu của Ths. Lương Thị Phương Lan, hiện là nghiên

cứu sinh khóa 5 của Trường Đại học Y tế Công cộng (ĐHYTCC) phối hợp với trạm

y tế thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định thực hiện nhằm thu

thập ý kiến của người dân về các vấn đề liên quan đến phòng, chống nhiễm sán lá

gan nhỏ cho cộng đồng. Sự tham gia của bác/ anh/chị /cháu vào nghiên cứu này sẽ

góp phần quan trọng trong việc xây dựng các chương trình phòng, chống SLGN

phù hợp với tình hình thực tế của thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam

Định, giúp cải thiện sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Ngoài bác/anh/chị/ cháu ra, có hơn 400 người khác tại thị trấn Rạng Đông,

huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cũng tham gia vào nghiên cứu này. Cuộc phỏng

vấn sẽ kéo dài khoảng 30 phút.

Sự tham gia là tự nguyện:

Việc tham gia vào nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện. Trong khi phỏng

vấn, nếu bác/anh/chị/cháu thấy có những câu hỏi khó trả lời hoặc không muốn trả

lời thì đề nghị bác/anh/chị/cháu không trả lời chứ không nên trả lời một cách thiếu

chính xác. Việc bác/anh/chị/cháu trả lời đúng là vô cùng quan trọng đối với nghiên

cứu. Vì vậy, chúng tôi mong rằng bác/anh/chị/cháu sẽ hợp tác và giúp chúng tôi có

được những thông tin chính xác nhất.

160

Để đảm bảo tính riêng tư, toàn bộ thông tin bác/anh/chị/cháu cung cấp sẽ

được chúng tôi tổng hợp cùng với thông tin thu được từ các đối tượng nghiên cứu

khácvà không gắn với tên người trả lời, nên sẽ không ai khác biết được

bác/anh/chị/cháu đã trả lời cụ thể những gì.

Địa chỉ liên hệ khi cần thiết:

Nếu bạn muốn biết thêm thông tin hoặc có câu hỏi gì liên quan đến nghiên

cứu, bạn có thể hỏi tôi bây giờ hoặc trao đổi qua số điện thoại 0913305774.

Bạn đồng ý tham gia trả lời cho nghiên này của chúng tôi chứ?

[ ] Đồng ý [ ] Từ chối

Nam Định,, ngày / /20....

161

BỘ CÂU HỎI PHỎNG VẤN

Chào Bác/anh/chị/cháu chúng tôi là nghiên cứu sinh của trường Đại học Y

tế công cộng; cán bộ của Chi Cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Nam Định, cán

bộ của Trạm Y tế thị trấn Rạng Đông đang thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá

hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng chống sán lá gan nhỏ tại thị trấn Rạng Đông,

huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Xin Bác/anh/chị/cháu vui lòng trả lời các câu

hỏi, các câu trả lời của Bác/anh/chị/cháu sẽ được giữ kín và chỉ phục vụ cho mục

đích nghiên cứu.

Hướng dẫn trả lời bộ câu hỏi

Người phỏng vấn sẽ khoanh tròn vào các số ứng với phần trả lời trong mỗi câu

hỏi.Nếu người trả lời muốn thay đổi ý kiến thì người phỏng vấn gạch chéo để bỏ

câu trả lời cũ và khoanh tròn vào các số tương ứng với câu trả lời muốn thay đổi.

Số phiếu: (Người trả lời không cần ghi): ID:...... …..Ngày phát phiếu: / /

Tt Câu hỏi Trả lời

1. Thông tin chung

Tuổi (theo năm dương lịch) …………………….. TT1

TT2 Giới tính? 1. Nam

2. Nữ

TT3 Dân tộc ? 1. Kinh

2. Khác (ghi rõ)…………

TT4 Nghề nghiệp ? 1. Làm ruộng

2. Cán bộ, công chức

3. Học sinh

4. Còn nhỏ

5. Khác (ghi rõ):.................

162

TT5 Trình độ học vấn? 0. Còn nhỏ chưa đi học

1. Cấp I/tiểu học

2. Cấp II/ THCS

3. Cấp III/ PTTH

5. Trung cấp/Học nghề trở lên

6. Mù chữ

99. Không trả lời

2. Kiến thức phòng chống sán lá gan nhỏ

KT6 Bác/Anh/chị/cháu đã bao giờ nghe nói về 1.Có

bệnh sán lá gan nhỏ chưa? 2. Không (chuyển câu 16)

KT7 Theo bác/ anh/ chị / cháu bệnh sán lá gan 1.Rối loạn tiêu hóa

nhỏ có thể gây nên những tác hại như thế 2. Gây tổn thương gan, mật nào cho sức khỏe? 3. Toàn thân

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) 4. Khác (ghi rõ):………

0. Không biết

99. Không trả lời

KT8 Theo bác/ anh/ chị / cháu con người có 1. Di truyền

thể bị nhiễm sán lá gan nhỏ qua con 2. Hô hấp đường nào?

3. Tiêu hoá (Có thể chọn nhiều câu trả lời)

4. Khác (ghi rõ)..................

0. Không biết

99. Không trả lời

163

KT9 Theo bác/ anh/ chị / cháu trứng sán lá gan 1. Qua phân

nhỏ từ cơ thể vật chủ ra môi trường 2. Qua da

xung quanh bằng con đường nào ? 3. Qua máu

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) 4. Khác (ghi rõ)..................

0. Không biết

99. Không trả lời

KT10 Theo bác/anh/ chị/cháu bệnh sán lá gan 1. Có

nhỏ có thể bị tái nhiễm không ? 2. Không

0. Không biết

99. Không trả lời

KT11 Theo bác/anh/ chị/cháu nhiễm sán lá gan 1. Có

có thể phòng, chống được không? 2. Không

0. Không biết

99. Không trả lời

KT12 Theo bác/anh/chị/cháu làm thế nào để 1.Vệ sinh môi trường (quản lý

phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ cho phân);

mình và người khác? 2.Vệ sinh ăn uống (ăn cá nấu chín,

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) không ăn gỏi cá);

3. Bảo vệ vật nuôi (chó, mèo);

4.Giảm mầm bệnh (phát hiện và

điều trị triệt để cho người mắc

bệnh);

5. Khác (ghi rõ):.................

0. Không biết

99. Không trả lời

164

KT13 Bác/Anh/chị/cháu biết các thông tin về 1. Báo chí, tivi, đài

phòng, chống sán lá gan nhỏ từ đâu? 2. Sách vở, trường học

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) 3. Cán bộ, nhân viên y tế

4. Bạn bè, người thân

5. Tờ rơi do cán bộ phát

6. Pano, apphich, tranh treo tường

nơi công cộng

7. Sổ tay phòng, chống SLGN

8. Loa truyền thanh của địa

phương

9. Được tập huấn

10. Khác (ghi rõ):………

0. Không nhớ

99. Không trả lời

KT14 Bác/anh/chị/cháu có biết sán lá gan nhiễm 1. Gỏi cá, món ăn có cá sống

vào cơ thể người qua món ăn nào không? 2. Thịt và các sản phẩm từ thịt

3. Món khác (Ghi rõ):.........

0. Không biết

99. Không trả lời

KT15 Theo Bác/anh/chị/cháu phòng, chống 1. Tất cả mọi người

sán lá gan là trách nhiệm của ai ? 2. Chính quyền

3. Ngành y tế (Có thể chọn nhiều câu trả lời) 4. Ban ngành, đoàn thể

5. Khác (ghi rõ)..................

0. Không biết

99. Không trả lời

3. Thái độ phòng chống sán lá gan nhỏ

165

TĐ16 Bác/anh/chị/cháu đã bao giờ nhìn thấy 1. Có

người ăn gỏi cá, cá nấu không chín chưa? 2. Không (Chuyển câu 18)

TĐ17 Khi nhìn thấy người khác ăn gỏi cá, cá 1.Khuyên không nên ăn gỏi cá, cá

nấu chưa chín Bác/anh/chị/cháu thường nấu chưa chín

khuyên như thế nào? 2. Không khuyên gì cả

99. Không trả lời

TĐ18 Khi nghi ngờ rằng mình bị nhiễm sán lá 1.Người thân trong gia đình

gan nhỏ và cần được tư vấn 2. Bạn bè bác/anh/chị/cháu thường tin tưởng, làm 3. Thầy cô giáo theo lời khuyên của ai? 4. Cán bộ y tế/bác sỹ

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) 5. Tuyên truyền viên của các đoàn

thể tại địa phương

6. Lãnh đạo chính quyền địa

phương

7. Người khác (Ghi rõ):…

8. Không biết hỏi ai

99. Không trả lời

TĐ19 Nhiễm sán lá gan nhỏ là bệnh nguy hiểm, 1. Hoàn toàn đồng ý

bác/anh/chị/cháu có đồng tình hay không? 2. Đồng ý

3. Không đồng ý

4. Hoàn toàn không đồng ý

0. Không biết

99. Không trả lời

TĐ20 Bác/anh/chị/cháu có ủng hộ cho chính 1.Có

sách phòng chống sán lá gan nhỏ không ? 2. Không

99. Không trả lời

166

4.Thực hành phòng chống sán lá gan nhỏ

TH21 Bác/ anh/chị/cháu đã từng ăn gỏi cá, 1.Có

cá nấu không chín chưa? 2. Không ( chuyển câu 23)

TH22 Lý do ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín? 1.Thói quen

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) 2. Ngon hợp khẩu vị

3. Mát, bổ, tốt cho sức khỏe

4. Vì cho rằng sán không sống được

trong món gỏi cá, cá nấu chưa chín

5. Cho rằng rất khó bị nhiễm sán

6. Khác (Ghi rõ):…………

99. Không trả lời

TH23 Nếu bác/anh/chị/cháu nghi ngờ mình 1. Tự mua thuốc uống

bị nhiễm sán lá gan nhỏ thì anh/chị sẽ 2. Đi khám bệnh chuyên khoa làm gì ?(Có thể chọn nhiều câu trả 3. Không làm gì cả lời)

4. Khác (ghi rõ):..................

0.Không biết

99. Không trả lời

167

TH24 Theo anh/chị nếu đã bị nhiễm sán lá 1. Không uống thuốc vì nghĩ bệnh sẽ

gan nhỏ thì phải điều trị như thế nào ? tự khỏi

2. Uống thuốc theo chỉ định bác sỹ

3. Nhờ thầy cúng bái để khỏi bệnh

4. Khác (Ghi rõ):………

0. Không biết

99. Không trả lời

TH25 Bác/ anh/chị/ cháu có sử dụng chung 1. Có

dụng cụ chế biến cá sống với thức ăn 2. Không chín, dùng ăn ngay không ?

TH26 Bác/ anh/chị/ cháu có thường cho 1. Có

chó, mèo, lợn ăn cá sống hoặc nấu 2. Không chưa chín hay không ?

TH27 Bác/ anh/chị/ cháucó nuôi lợn thả 1. Có

rông không? 2. Không

TH28 Bác/ anh/chị/ cháu có dùng phân tươi 1. Có

của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá 2. Không không?

TH29 Bác/ anh/chị/ cháu sử dụng hố xí 1. Có

không?

TH30 Loại hố xí đang sử dụng ? 2. Không 1. Nhà tiêu khô chìm

2. Nhà tiêu khô nổi

3. Nhà tiêu tự hoại

4. Nhà tiêu thấm dội nước

TH31 Đánh giá của điều tra viên về hố xí hộ 1. Hợp vệ sinh

gia đình? (Theo bảng kiểm) 2. Không hợp vệ sinh

168

CÂU HỎI ĐỐI VỚI CÁC BỆNH NHÂN CÓ NHIỄM SÁN LÁ GAN NHỎ

Số phiếu: (Người trả lời không cần ghi): ID:...... …..Ngày phát phiếu: / /

Tt Câu hỏi Trả lời

BN1 Anh/chị/ cháu có cảm thấy các triệu 1. Sốt

chứng ? (Có thể chọn nhiều câu trả 2. Đầy bụng lời) 3. Rối loạn tiêu hóa

4. Đau hạ sườn phải

5. Rát thượng vị

6. Khó tiêu

7. Vàng da

8. Phân bạc mầu

9. Cổ chướng

10. Khác (Ghi rõ):………………

BN2 Anh/chị/cháu đã bao giờ uống thuốc 1. Có

điều trị sán lá gan nhỏ chưa? 2. Không ( dừng phỏng vấn)

BN3 Đó là loại thuốc gì ? 1. Praziquantel

2. Tên thuốc (ghi rõ)……………

3. Không nhớ/không biết

BN4 Anh/chị/ cháu cảm thấy như thế nào 1. Mệt

sau khi uống thuốc điều trị sán lá 2. Đau đầu gan nhỏ? 3. Chóng mặt

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) 4. Đau bụng

5. Sốt nhẹ

6. Triệu chứng khác (ghi rõ).........

169

BN5 Anh/chị/cháu có thuốc điều trị sán lá 1. Tự mua

gan nhỏ để uống từ nguồn nào ? 2. Được cán bộ y tế phát miễn phí

(Có thể chọn nhiều câu trả lời) 3. Khác (Ghi rõ):………

Cảm ơn Anh/chị đã trả lời các câu hỏi của chúng tôi./.

Phần IV. Kết quả xét nghiệm phân của đối tượng.

XN1 Trứng sán lá gan nhỏ trong phân: 1. Dương tính

2. Âm tính

XN2 Số trứng trung bình trong 1 gam phân:

..............Trứng / 1 gam phân

XN3

XN4

XN5

XN6

XN7

170

Phụ lục 2. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC

HÀNH PHÒNG, CHỐNG NHIỄM SÁN LÁ GAN NHỎ

Nhóm biến Câu hỏi Phương pháp đánh giá Đạt

Tình huống 1-3 KT7 Không đạt Các tình huống trả lời khác.

KT8, Tình huống 3 Hiểu biết đúng về đường truyền và bệnh Các tình huống trả lời khác.

KT9, KT10, KT14 Tình huống 1 Các tình huống khác

KT11 Tình huống 1 Tình huống 0, 2

Hiểu biết đúng về phòng chống

KT12, KT15 TD17 TD18

Thái độ đúng TD19

Thực hành đạt TD20 TH21 TH25 TH28 Tình huống 1-4 Tình huống 1 Tình huống 4-5 Trả lời tình huống 1-2 Tình huống 1 Tình huống 2 Tình huống 2 Tình huống 2

TH23, TH24 Tình huống 2 Tình huống khác Tình huống khác Tình huống khác Các tình huống trả lời khác. Tình huống 2 Tình huống 1 Tình huống 1 Tình huống 1 Các tình huống trả lời khác.

171

Phụ lục 3: PHƯƠNG PHÁP XÉT NGHIỆM KATO - KATZ

- Bộ xét nghiệm Kato - Katz gồm:

+ Lưới lọc phân bằng kim loại mềm hoặc chất dẻo.

+ Khuôn nhựa hoặc bìa cát tông kích thước 30x40x1,47mm ở giữa có lỗ tròn

đường kính 6mm để đong phân. Lương phân tương đương 41,6mg.

+ Dung dịch xanh malachit 3%.

+ Giấy cellophane với kích thước 26x28mm được ngâm trong dung dịch sau ít

nhất 24 giờ trước khi sử dụng:

. Nước cất 100ml

. Glycerin 100ml

. Dung dịch xanh malachit 3% 1ml

+ Que nhựa để gạt phân.

- Kỹ thuật tiến hành:

+ Mẫu phân được đặt trên giấy thấm, dùng lưới lọc đặt lên trên mẫu phân.

Dùng que ấn lên lưới lọc để phân lọt lên trên lưới.

+ Lấy phân ở mặt lưới lọc cho vào lỗ tròn của khuôn nhựa đã đặt sẵn lên lam

kính. Khi phân đầy phẳng miệng lỗ ta nhấc khuôn nhựa lên để lại số phân đong được trên lam kính.

- Phủ mảnh giấy cellophane (đã ngâm sẵn) lên trên mặt phân.

+ Dùng nút cao su ấn nhẹ lên mặt giấy cellophane cho phân dàn mỏng và đều

tận các mép của mảnh giấy cellophane.

+ Để tiêu bản ở nhiệt độ phòng từ 15 đến 30 phút sau đó đem soi kính hiển

vi.

+ Đếm toàn bộ số trứng giun có trong mẫu phân trên tiêu bản. Sau đó lấy số

trứng giun đếm được nhân với 24 sẽ được tổng số trứng giun có trong một gam

phân.

172

Phụ lục 4: ĐỊNH LOẠI SÁN LÁ GAN NHỎ Ở NGƯỜI VÀ ẤU TRÙNG

NANG (METACERCARIA) THU THẬP ĐƯỢC Ở CÁ BẰNG KỸ THUẬT

SINH HỌC PHÂN TỬ (PCR).

(1) ĐỊNH LOẠI SÁN LÁ GAN NHỎ Ở NGƯỜI

1. Đối tượng: Các mẫu SLGN được thu thập trên bệnh nhân nhiễm sán qua điều trị

bằng praziquantel trong chương trình can thiệp tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định.

2. Phương pháp sinh học phân tử (PCR) định loài SLGN ở người

- Tách chiết ADN tổng số:

ADN tổng số được tách chiết bằng bộ hoá chất Genomic-Tip Kit hoặc

ADNeasy (QIAGEN Inc.) theo qui trình của nhà sản xuất. Mô tả rút gọn như sau:

mẫu vật bảo quản trong cồn 70% được lấy ra và cho cồn bay hơi hết trong ly tâm

chân không, sau đó rửa nhiều lần trong PBS. Mẫu vật được nghiền kỹ và xử lý với

các dung môi của Kit, rồi hấp phụ lên màng và ly chiết ADN theo qui trình tách

chiết. Hàm lượng ADN sử dụng là khoảng 100-150 nanogram cho mỗi phản ứng

PCR có dung lượng 50 microlit.

- Chọn mồi cho phản ứng PCR

Gen cox1 (cytochrome oxidase 1) là gen ty thể được chọn làm đích nghiên

cứu. Cặp mồi (primer) dùng trong nhân bản ADN đích bằng phản ứng PCR được

chọn trên cơ sở các trình tự bảo tồn của gen này có trong Ngân hàng Gen hoặc trên

các tài liệu đã xuất bản.

- Quy trình phản ứng PCR

ADN đích đã được nhân bản bằng PCR tiêu chuẩn với bộ hoá chất PCR

Master Mix Kit (Promega). Chu trình nhiệt của PCR trên máy Perkin-Elmer

(Perkin-Elmer Inc., Mỹ) gồm các bước như sau: 940C/5 phút trong 1 chu kỳ; tiếp

theo là 35 chu kỳ ở 940C/1 phút, 500C/1 phút và 720C/1 phút; chu kỳ cuối kéo dài

10 phút ở 720C. Sản phẩm PCR được tinh chế bằng bộ hoá chất QIAquick PCR

Purification Kit (QIAGEN Inc.) và được dòng hoá vào vector có tên gọi là pCR2.1

hoặc pCR 2.1 (TOPO) của bộ hoá chất TA-cloning Kit (Invitrogen Inc.). Vector

pCR2.1 tiếp nhận sản phẩm PCR được chuyển nạp vào dòng tế bào IVNF’ và

173

chọn lọc khuẩn lạc theo phương pháp kháng sinh và chỉ thị màu (SAMBROOK VÀ

RUSSELL, 2001). ADN của plasmid có chứa PCR được tách chiết với bộ hoá chất

QIAprep Spin Plasmid Extraction Kit (QIAGEN Inc.).

Trình tự nucleotid của ADN trong plasmid chứa sản phẩm PCR tái tổ hợp

được giải trình trên máy tự động ABI 3100 (ABI 3100 automated sequencer) của

hãng Perkin-Elmer (Mỹ). Chuỗi nucleotid được xử lý bằng chương trình SeqEd1.3;

sau đó so sánh sử dụng chương trình AsemblyLIGN 1.9 và MacVector 6.5.3

(Oxford Molecular Inc.). Thành phần acid amin được thu nhận bằng cách sử dụng

bộ mã của hệ gen ty thể của sán dẹt trong ngân hàng gen thông qua chương trình

GENDOC 2.5. Trong phân tích phả hệ, tất cả các chuỗi của các chủng chọn lọc

trong đó có các chủng của Việt Nam được sắp xếp theo chương trình GENDOC 2.5,

sau đó được đưa vào phân tích phả hệ bằng chương trình MEGA 2.1 về thành phần

nucleotid và acid amin, sử dụng hệ số tiến hoá thấp ME (minimum evolution index)

(Kuma và cs, 2001).

- Phương pháp xử lý nucleotid/ chuỗi acid amin và ứng dụng sinh-tin học

xử lý kết quả

Giải trình nucleotid sau khi dòng hoá, từ ADN của plasmid tái tổ hợp, được

thực hiện bằng máy giải trình tự động (ABI 3100 automated sequencer), xử lý bằng

các phần mềm được cung cấp là SeqEd 1.0.3; AssemblyLIGN 1.0.9c nhằm thu nhận

chuỗi chung, sau đó xử lý bằng hệ chương trình MacVector 6.5.3 (Oxford

Molecular Group). Giám định chuỗi ADN (gen chẩn đoán) bằng truy nhập Ngân

hàng Gen bằng chương trình BLAST (http://www.ncbi.nlm.nih.gov/BLAST)

(ALTSCHUL VÀ CS, 1997). Sự đồng nhất giữa 2 hay nhiều chuỗi) được thu nhận qua

so sánh đa chuỗi (multiple alignment) bằng chương trình ClustalW bố trí sẵn trong

hệ chương trình MacVector 6.5.3 (Oxford Molecular Group). Tra cứu so sánh sử

dụng các phần mềm có trong các Trung tâm sinh-tin học quốc tế (NCBI = National

Centre for Biotechnology Information/USA có ở (http://ww.ncbi.nlm.nih.gov) hoặc

sử dụng một số chương trình đặc hiệu có ở ExPASy (http://expasy.ch). Sự sai khác

về nucleotid và acid amin dưới 5% là biến đổi nội loài (Interspecific differences) và

5% trở lên là biến đổi ngoại loài (Intraspecific differences)

174

(2) ĐỊNH LOÀI ẤU TRÙNG NANG (METACERCARIA) THU THẬP ĐƯỢC

Ở CÁ

1. Đối tượng: Mẫu ký sinh trùng sử dụng định loại sinh học phân tử là các ấu trùng

nang (metacercaria) thu thập được ở cá nuôi tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa

Hưng, tỉnh Nam Định.

2. Phương pháp sinh học phân tử (PCR): định loại ấu trùng nang (metacercaria)

thu thập được ở cá.

Tách chiết ADN tổng số

ADN tổng số được tách chiết bằng bộ hoá chất Genomic-Tip Kit (QIAGEN

Inc.) theo qui trình của nhà sản xuất. Mô tả rút gọn như sau: mẫu vật bảo quản trong

cồn 70% được lấy ra và cho cồn bay hơi hết trong ly tâm chân không, sau đó rửa

nhiều lần trong PBS. Mẫu vật được nghiền kỹ và xử lý với các dung môi của Kit,

rồi hấp phụ lên màng và ly chiết ADN theo qui trình tách chiết. Hàm lượng ADN sử

dụng cho mỗi phản ứng PCR (50 microlit) là khoảng 150 nanogam

Thiết kế và tổng hợp mồi PCR

Gen cox1 (cytochrome oxidase 1) là gen ty thể được chọn làm đích nghiên

cứu. Cặp mồi (primer) dùng trong nhân bản ADN đích bằng phản ứng PCR

(polymerase chain reaction), được thiết kế trên cơ sở các trình tự bảo tồn của gen

cox1 có trong Ngân hàng Gen, bao gồm mồi xuôi: JB3F:

5'TTTTTTGGGCATCCTGAGGTTTAT3', và mồi ngược: JB4.5R:

5'TAAAGAAAGAACATAATGAAAATG3', Các trình tự tương ứng với đoạn

ADN nghiên cứu từ một số quần thể thuộc họ Opisthorchiidae và giống

Paragonimus đã được công bố [4] và đăng ký tại Ngân hàng Gen

(http://www.ncbi.nlm.nih.gov)được sử dụng để so sánh đối chiếu chạy PCR, giải

trình tự và chọn chuỗi so sánh ADN đích đã được nhân bản bằng PCR tiêu chuẩn

với bộ hoá chất PCR Master Mix Kit (Promega). Chu trình nhiệt của PCR trên máy

Perkin-Elmer (Perkin-Elmer Inc., Mỹ) gồm các bước như sau: 940C - 5 phút trong 1

chu kỳ; tiếp theo là 35 chu kỳ ở 940C - 1 phút, 500C - 1 phút và 720C - 1 phút; chu

kỳ cuối kéo dài 10 phút ở 720C. Sản phẩm PCR được tinh chế bằng bộ hoá chất

QIAquick PCR Purification Kit (QIAGEN Inc.) và được dòng hoá vào vector

175

pCR2.1 của bộ hoá chất TA-cloning Kit (Invitrogen Inc.). Vector pCR2.1 tiếp nhận

sản phẩm PCR được chuyển nạp vào dòng tế bào IVN F’ và chọn lọc khuẩn lạc

theo phương pháp kháng sinh và chỉ thị màu (SAMBROOK và RUSSELL, 2001). ADN

của plasmid có chứa PCR được tách chiết với bộ hoá chất QIAprep Spin Plasmid

Extraction Kit (QIAGEN Inc.). Chuỗi ADN được giải trình tự trên máy giải trình tự

động ABI 377 PRISM (Perkin- Elmer) và thực hiện với số lượng nhiều plasmid tái

tổ hợp nhằm thu được kết quả chính xác. Sắp xếp, đối chiếu trình tự tương ứng của

đoạn gen bằng hệ chương trình máy tính AsemblyLIGN 1.9 và MacVector 6.5.3

(Oxford Molecular Inc.). Trình tự axit amin được dịch mã theo bảng mã di truyền

mt-DNA số 21 của sán dẹt (platyhelminth mtDNA genetic code) giới thiệu trong

Ngân hàng Gen.

Các chuỗi cox1 của Clonorchis sp của Việt Nam sẽ được so sánh với các loài

của Trung Quốc và Triều Tiên.

176

Phụ lục 5. VẬT LIỆU VÀ KỸ THUẬT PHÂN LOẠI ẤU TRÙNG SÁN LÁ

TRONG CÁ NGỌT

1. Quan sát ấu trùng sán (metacercaria)

- Để phân loại được metacercaria dựa vào đặc điểm hình thái thu riêng

những ấu trùng có hình dạng tương tự vào trong các đĩa petri nhỏ.

- Chuyển metacercaria sang lam kính, nhỏ một giọt glycerine + lactic acid

(1:1), đậy lam men và quan sát hình thái chi tiết dưới kính hiển vi có độ phóng đại

lớn (10x40 trở lên).

- Phân loại metacercaria dựa vào những đặc điểm hình dạng và kích thước.

Những dấu hiệu phân loại quan trọng là:

+ Dạng ấu trùng và không phải là ấu trùng;

+ Các giác bám, kích thước giác và kích cỡ ấu trùng;

+ Hình dạng và kiểu tuyến bài tiết;

+ Cơ quan sinh sản.

2. Phá nang metacercaria

- Ép cơ học: Đôi khi ép rất nhẹ nang metacercaria dưới lam men với nước

hoặc nước muối sinh lý có thể làm vỡ được ngan của metacercaria. Một kỹ thuật

khác mà có thể làm là làm vỡ nang với đầu kim nhỏ thao tác dưới kính hiển vi.

- Tiêu nang bằng dung dịch dạ dày: Phương pháp của Li và ctv (2004):

+ Chuẩn bị dung dịch dạ dày như sau:

Trong dung dịch nước muối đệm phosphate ở pH 8,0 thêm:

Trypsin 10 milligrams/100ml;

Muối mật 10 milligrams/100ml;

Để dung dịch dạ dày ở nhiệt độ phòng trong 30 phút, hút metacercaria cho

vào dịch này đặt trong tủ ấm 5% CO2 37oC. Metacercaria sẽ phá nang và thoát ra

trong vòng 10 đến 90 phút.

3. Quy trình cố định và nhuộm

Cố định Metacercaria:

177

a) Để nghiên cứu hình thái học nên được cố định trong formalin 5% nóng (hơ

formalin cho tới khi gần sôi rồi bỏ ra ngoài, dùng pipet hút metacercaria cùng

với ít nước hoặc nước muối sinh lý (càng ít càng tốt) cho trực tiếp vào formalin

trong khi dung dịch này vẫn còn rất nóng. Nếu có thể nên thao tác trong buồng

hút hoặc phòng có thông gió hoạc bên ngoài (Formalin 5%: 5 phần

formaldehyde và 95 phần nước).

b) Để nghiên cứu phân tử DNA, cố định trong dung dịch cồn 70oC.

Cố định sán trưởng thành và metacercaria đã thoát khỏi nang

- Làm phẳng nhẹ dưới lamen trước khi cho vào dung dịch cố định formaline

nóng 5%. Sau khi đặt trùng lên lam kính, đậy lamen và rút nước vừa phải bên dưới

lamen bằng cách đặt miếng giấy hoặc giấy thấm vào mép lamen, nước sẽ tự động

rút ra ngấm qua giấy. Không ép quá mạnh. Dùng pipet lấy formalin nóng 5% rồi

nhỏ vào một bên mép của lamen bên dưới có trùng, formalin sẽ nhanh chóng chảy

dưới lamen và cố định trùng. Cẩn thận nhấc lamen lên và rửa trùng bằng pipet trong

dung dịch cố định formalin.

178

Phụ lục 6. TÀI LIỆU TRUYỀN THÔNG DÙNG TRONG CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG

179

180

181

182

183

184

Phụ lục 7. Biểu đồ Grantt về các hoạt đông can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức khoẻ hàng năm