LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên

cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, trích

dẫn trình bày trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hoàng Trọng Thiết

4

MỤC LỤC

Trang

5

TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

10 10

1.1. 1.2.

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu

25

31

2.1.

31

2.2.

Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam và ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc Nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

58

78

3.1.

78

3.2.

108

124

4.1.

124

4.2.

Chương 3 THỰC TRẠNG Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh, bảo đảm chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa bàn biên giới Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

4.3.

131 151 168 170

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

171 186

5

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài luận án

Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, ý thức không trực

tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất, nó trang bị cho con người tri thức về

sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, phương hướng,

xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, công cụ, phương tiện để thực hiện

mục đích nhận thức và cải tạo thế giới. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

không tự nhiên có sẵn, cũng không nhất thành bất biến mà có sự vận động,

biến đổi tùy từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng

biên giới Việt Nam - Trung Quốc là một hình thái của ý thức xã hội - chính trị; có

vị trí, vai trò rất quan trọng trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ

sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhất là vai trò hướng dẫn, định hướng, chỉ đạo các

hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Muốn bảo vệ vững chắc biên giới

quốc gia đòi hỏi phải xây dựng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho họ

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm; bảo vệ vững chắc

biên giới quốc gia là yếu tố tiên quyết trong việc tạo lập nền độc lập, tự chủ và

môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; là trách nhiệm của toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt,

chuyên trách. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc là cửa ngõ quan trọng của đất

nước, có ý nghĩa chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại

và văn hóa, xã hội. Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc là lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi nhiệm vụ, có vai trò

quan trọng trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng.

Vì vậy, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa cấp thiết trong

bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia nơi đây.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc,

những năm qua, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị biên phòng biên giới Việt Nam -

6

Trung Quốc thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ý thức bảo

vệ biên giới quốc gia cho họ, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong công

tác giáo dục chính trị tại đơn vị. Qua đó, đã nâng cao nhận thức trách nhiệm,

khơi dậy khát vọng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, củng cố niềm tin, ý chí

quyết tâm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo

vệ biên giới quốc gia. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt

Nam - Trung Quốc còn những hạn chế như: nhận thức, tình cảm, niềm tin, ý

chí về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ chưa sâu

sắc, chưa toàn diện; còn biểu hiện sợ khó, ngại khổ, không muốn bám trụ nơi

biên giới; chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ; vi phạm kỷ

luật, pháp luật, v.v.. Những hạn chế đó ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả thực

hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ và nhiệm vụ bảo vệ biên

giới quốc gia của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng lực

lượng Bộ đội Biên phòng không ngừng phát triển, đặt ra yêu cầu ngày càng cao

và toàn diện hơn đối với hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng. Trong khi đó,

tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc diễn biến phức tạp, khó dự báo, tiềm

ẩn nhiều nguy cơ, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Các

hoạt động xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới, xuất nhập cảnh trái phép; hoạt

động tội phạm ma túy, buôn lậu, mua bán người, tội phạm có tổ chức, có vũ

trang, xuyên biên giới gia tăng; vấn đề biên giới, lãnh thổ gắn với vấn đề dân tộc,

tôn giáo trở thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch; cùng với các

thách thức an ninh phi truyền thống đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới

quốc gia ngày càng toàn diện, nặng nề, phức tạp. Việc phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt

Nam - Trung Quốc hiện nay là hết sức cần thiết.

Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn “Ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc hiện nay” làm đề tài luận án.

7

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc; trên

cơ sở đó, đề xuất giải pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.

- Làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

- Đánh giá thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia và xác định một

số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

- Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ

sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn có liên quan đến

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đang tại ngũ ở các đồn

biên phòng biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.

Về không gian: Luận án nghiên cứu, khảo sát các đồn biên phòng thuộc

Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc là:

Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên.

Về thời gian: Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận án được giới hạn từ

năm 2016 (diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng) đến nay.

8

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên quan điểm triết học Mác - Lênin về ý thức; ý thức xã

hội; biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; về nhà nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của hạ sĩ quan, binh sĩ; về công tác biên

phòng và bảo vệ biên giới quốc gia.

Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và Chiến

lược bảo vệ biên giới quốc gia.

Cơ sở thực tiễn

Dựa vào thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh

sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay; kế thừa chọn

lọc kết quả một số công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án; các tài liệu,

thống kê, nghị quyết, báo cáo tổng kết của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và Bộ

chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc liên quan

đến nội dung nghiên cứu; kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả ở một số

đồn biên phòng biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.

Phương pháp nghiên cứu

Dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời

tập trung vào các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên

ngành như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic, hệ thống và cấu trúc, khái

quát hóa và trừu tượng hóa, thống kê, so sánh và điều tra xã hội học.

5. Những đóng góp mới của luận án

Góp phần làm rõ quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Luận giải những nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Đánh giá thực trạng và chỉ ra một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

9

Đề xuất những giải pháp cơ bản phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ

bản lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để

Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Đảng ủy và Bộ chỉ huy Bộ đội Biên

phòng các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc, cấp ủy và chỉ huy các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đề ra chủ trương, kế hoạch, biện pháp

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình

mới. Đồng thời, đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu

khoa học, trong giảng dạy nội dung có liên quan ở các học viện, nhà trường, cơ

quan nghiên cứu trong quân đội, Bộ đội Biên phòng.

7. Kết cấu của luận án

Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (09 tiết), kết luận, danh

mục công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án,

danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

10

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án

1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến bảo vệ biên

giới quốc gia và biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc

Tác giả Phạm Hữu Bồng (2003) với công trình nghiên cứu Nghệ

thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới [] đã làm rõ cơ

sở lý luận và thực tiễn về nghệ thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia;

xây dựng khái niệm, xác định nội dung cơ bản của nghệ thuật quản lý, bảo

vệ biên giới quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện nghệ

thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới. Giá trị khoa

học của công trình là góp phần làm rõ quan niệm, mục tiêu, nhiệm vụ, tư

tưởng chỉ đạo, nguyên tắc tổ chức, hình thức, nội dung, biện pháp quản lý,

bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng với vai trò là lực lượng

nòng cốt, chuyên trách trong thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới

quốc gia. Đây là khía cạnh mà nghiên cứu sinh khai thác khi nghiên cứu

các nội dung có liên quan đến đề tài luận án.

Tác giả Hoàng Trọng Lập (2003) với công trình nghiên cứu Xây dựng

cơ sở khoa học phục vụ cho việc xác lập đường biên giới và tăng cường quản

lý nhà nước tuyến biên giới Việt - Trung [] đã làm rõ lịch sử hình thành và

giải quyết vấn đề biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc; khái quát điều

kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội, luật pháp và thực tiễn quốc tế phục

vụ xác lập biên giới đất liền giữa hai nước. Từ đó, xây dựng cơ sở khoa học

cho việc xác lập hệ thống mốc quốc giới và đường biên giới trên đất liền giữa

quốc gia. Tác giả cũng đề cập một số vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như đề

xuất giải pháp cơ bản để tăng cường quản lý nhà nước về biên giới trên biên

giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc. Giá trị công trình giúp nghiên cứu sinh

có cái nhìn đầy đủ hơn về biên giới Việt Nam - Trung Quốc và vấn đề quản

11

lý, bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi nước khi nghiên cứu những nội dung có

liên quan trong đề tài luận án của mình.

Tác giả Trần Hoa (2009) với công trình khoa học Nghiên cứu cơ sở khoa

học cho việc xây dựng chiến lược bảo vệ biên giới Việt Nam giai đoạn đến năm

2020 [] đã trình bày cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn nghiên cứu chiến lược bảo vệ

biên giới quốc gia của Việt Nam, dự báo tình hình, xác định mục tiêu, quan

điểm, nguyên tắc, phương thức, nội dung và đề xuất giải pháp xây dựng chiến

lược biên giới quốc gia của Việt Nam đến năm 2020. Đây là công trình nghiên

cứu giúp nghiên cứu sinh có thể kế thừa phê phán, chọn lọc làm rõ hơn nội hàm

của khái niệm bảo vệ biên giới quốc gia và những nội dung về cơ sở lý luận, cơ

sở thực tiễn có liên quan đến đề tài luận án.

Tác giả Vũ Dương Ninh (2010) với công trình khoa học Biên giới trên

đất liền Việt Nam - Trung Quốc [] đề cập về đường biên giới trên đất liền Việt

Nam - Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản và hệ thống

về quá trình đàm phán giữa hai nước; quá trình hình thành đường biên giới

trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc qua các triều đại; cơ sở pháp lý quốc tế

trong việc phân định và giải quyết các tranh chấp biên giới, các nguyên tắc cơ

bản khi xử lý các trường hợp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề biên giới;

phản ánh chính xác đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam

về việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc nói

riêng và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ nói chung. Từ công trình này

nghiên cứu sinh có thể nghiên cứu đánh giá tình hình liên quan đến biên giới

Việt Nam - Trung Quốc có liên quan đến đề tài luận án của mình.

Tác giả Đỗ Ích Báu (2011) với công trình nghiên cứu Bộ đội Biên

phòng bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới [] đã

trình bày một số vấn đề lý luận về bảo vệ biên giới quốc gia; những nhân tố tác

động đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới; làm rõ nội dung và yêu cầu bảo

vệ biên giới quốc gia. Tuy nhiên, công trình chú trọng bàn nhiều đến vấn đề chủ

quyền, an ninh biên giới quốc gia; về vai trò của các chủ thể đặc biệt là Bộ đội

12

Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Nghiên cứu sinh

có thể kế thừa các nội dung về bảo vệ biên giới quốc gia và vai trò của Bộ đội

Biên phòng ở những nội dung nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.

Tác giả Nguyễn Quang Thuyên (2015) với công trình khoa học Bộ đội

Biên phòng quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung

Quốc trong tình hình mới [] đã luận giải, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn Bộ

đội Biên phòng quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung

Quốc; đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ

biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc

trong tình hình mới. Công trình đã đề cập đến quan điểm của Đảng, Nhà nước ta

về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; đặc điểm tuyến biên giới đất liền Việt

Nam và Trung Quốc; dự báo tình hình tác động đến công tác quản lý, bảo vệ

biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới. Từ

công trình này, nghiên cứu sinh có thể nghiên cứu khai thác những vấn đề liên

quan đến bảo vệ biên giới quốc gia, những vấn đề nổi lên trong công tác quản lý,

bảo vệ biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc để tham khảo, chọn lọc nội

dung liên quan vào đề tài luận án của mình.

Tác giả Đỗ Văn Khương (2016) với công trình khoa học Bộ đội Biên

phòng tỉnh tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương quản lý, bảo vệ biên

giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc [] đã phân tích, luận giải làm

rõ nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng tỉnh tham mưu cho cấp ủy, chính quyền

địa phương quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Đồng thời, phân tích, đánh giá

làm rõ các đặc điểm tình hình có liên quan; thực trạng Bộ đội Biên phòng tỉnh

biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền

địa phương đề ra chủ trương, biện pháp phát huy sức mạnh tổng hợp quản lý,

bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới. Trên cơ sở đó, tác giả nêu ra các yêu cầu,

giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tham mưu cho cấp ủy, chính quyền

địa phương quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung

Quốc. Trong các giải pháp đề xuất, tác giả nhấn mạnh giải pháp bồi dưỡng

13

nâng cao nhận thức trách nhiệm, kiến thức về công tác quản lý, bảo vệ biên giới

quốc gia cho cán bộ chủ trì các cấp, các ngành, các lực lượng; giải pháp xây dựng

Bộ đội Biên phòng tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc vững mạnh

toàn diện có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả tham mưu

trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Nội dung này tác giả có thể khai thác khi

nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức cho các chủ thể trong phát triển ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia liên quan đến đề tài luận án.

Tác giả Bùi Đức Anh (2017) với công trình khoa học Tác động của

quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc đến quốc phòng của Việt Nam [] đã

luận giải cơ sở lý luận, thực trạng về tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam -

Trung Quốc đến quốc phòng của Việt Nam trong đó có hoạt động quản lý,

bảo vệ biên giới quốc gia; chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của quan

hệ này, nguyên nhân, những vấn đề đặt ra và giải pháp để phát huy tác động

tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của nó đến quốc phòng Việt Nam và hoạt

động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam. Giá trị của công trình giúp

nghiên cứu sinh đánh giá rõ hơn về mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung

Quốc trên nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế và tác động của nó đến hoạt

động bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng từ đó tiếp cận, khai

thác, kế thừa chọn lọc những vấn đề có liên quan đến đề tài luận án.

Tác giả Hoàng Xuân Chiến (2020) trong bài viết “Một số giải pháp

góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ biên giới quốc

gia hiện nay” [] đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc ban hành Nghị quyết 33-

NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” của Bộ Chính trị khoá

XII. Đây là chiến lược chuyên ngành quan trọng, cụ thể hóa quan điểm,

đường lối của Đảng về quốc phòng, an ninh, thể hiện tư duy, tầm nhìn

chiến lược về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện tốt yêu cầu này, tác giả đề ra các

giải pháp trong đó nhấn mạnh giải pháp tham mưu xây dựng lực lượng bảo

vệ biên giới đồng bộ, rộng khắp trọng tâm là xây dựng lực lượng Bộ đội

14

Biên phòng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, giỏi

chuyên môn, nghiệp vụ và pháp luật; nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi

cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước đối với quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia,

xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững

mạnh ở địa bàn biên giới. Đây là nội dung nghiên cứu sinh có thể khai thác,

kế thừa, cập nhật những đưa vào các giải pháp liên quan đến chủ thể Bộ đội

Biên phòng trong đề tài luận án của mình.

Tác giả Nguyễn Mạnh Đông (2021) trong bài viết “Giải quyết các vấn

đề biên giới, lãnh thổ của Việt Nam: Kết quả và bài học kinh nghiệm” [] đã

khẳng định: Các vấn đề biên giới lãnh thổ là những vấn đề nhạy cảm, hệ

trọng. Từ các thành tựu trong giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai

nước, tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm như: Nắm vững và vận

dụng có nguyên tắc, linh hoạt, sáng tạo đường lối bảo vệ toàn vẹn chủ quyền

lãnh thổ, biên giới quốc gia và đường lối đối ngoại; thấy được mối quan hệ

giữa giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia và quan hệ

chính trị với các nước có liên quan cũng như bối cảnh khu vực và quốc tế;

thúc đẩy các điểm tương đồng và thu hẹp những điểm khác biệt; vận dụng

nhuần nhuyễn các quy định có liên quan của luật pháp quốc tế, kiên quyết

đấu tranh, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng, phù hợp luật pháp

quốc tế; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn

dân đặc biệt là vai trò của lực lượng Bộ đội Biên phòng. Đây là bài viết đề

cập đến vấn đề biên giới, lãnh thổ và tuyến biên giới Việt Nam và Trung

Quốc, giúp nghiên cứu sinh nhìn nhận thấu đáo, sắc hơn khi nghiên cứu

đánh giá thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp của đề tài luận án.

1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến ý thức và ý

thức của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam

Tác giả Nguyễn Văn Quang (2007) với công trình khoa học Ý thức

dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội

15

nhân dân Việt Nam hiện nay [] đã luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn của ý thức

dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân

dân Việt Nam hiện nay. Tác giả đã chỉ ra một số mâu thuẫn trong ý thức dân

chủ xã hội chủ nghĩa của đối tượng nghiên cứu đó là: mâu thuẫn giữa yêu cầu

thực hiện với các điều kiện bảo đảm; giữa yêu cầu nâng cao với trình độ nhận

thức hạn chế,... Từ đó chỉ ra một số yêu cầu, giải pháp nâng cao ý thức dân

chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay. Trong giải pháp đề cập, tác giả đặc biệt quan tâm đến giải

pháp nâng cao chất lượng giáo dục về dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi đây là

giải pháp hàng đầu. Giá trị của công trình giúp nghiên cứu sinh nghiên cứu rõ

hơn về một loại hình của ý thức và lớp đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội;

đồng thời tham khảo những vấn đề đặt ra, yêu cầu, giải pháp liên quan đến

đối tượng nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án của mình.

Tác giả Lê Minh Vụ và Nguyễn Bá Dương (Đồng Chủ biên, 2011) với

công trình nghiên cứu Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho

người dân Việt Nam định hướng và giải pháp [] đã quan niệm xây dựng ý thức

bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho người dân Việt Nam trong thời kỳ mới là

hoạt động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể nhằm khơi dậy, “hình thành,

phát triển tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí và tâm thế sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc

xã hội chủ nghĩa của mọi người dân Việt Nam” [, tr. 68]. Tác giả nhấn mạnh nội

dung xây dựng đồng bộ, thống nhất các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ Tổ quốc

xã hội chủ nghĩa cho mỗi người dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Công trình nghiên cứu khái quát về ý

thức bảo vệ Tổ quốc của người dân Việt Nam nói chung chưa nghiên cứu đến

lớp đối tượng cụ thể là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia; do đó nghiên cứu sinh có thể tham khảo, đi sâu nghiên cứu lớp đối

tượng đặc thù này trong đề tài luận án của mình.

Tác giả Dương Quang Hiển (2013) với công trình khoa học Phát triển ý

thức quốc phòng của học viên, sinh viên nước ta hiện nay [] đã đề cập những

vấn đề có tính quy luật trong phát triển ý thức quốc phòng của học sinh, sinh

16

viên nước ta. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác giả đã đề xuất một số giải pháp

phát triển ý thức quốc phòng của học viên, sinh viên nước ta đáp ứng yêu cầu sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Giá trị

của công trình đem đến cho nghiên cứu sinh góc nhìn rõ hơn về một lớp đối tượng

trẻ là học sinh, sinh viên có những nét tương đồng nhất định với đối tượng hạ sĩ

quan, binh sĩ ở chiều cạnh đặc điểm tâm lý, lứa tuổi; từ đó có những giải pháp phù

hợp với những lớp đối tượng này trong quá trình phát triển ý thức của họ.

Tác giả Đào Văn Minh (2016) với công trình khoa học Phát triển ý

thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay [] đã luận giải thực chất và những vấn đề có tính quy luật phát

triển ý thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân

Việt Nam. Theo tác giả: “Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội

phản ánh tồn tại xã hội từ phương diện pháp luật” [, tr. 33] và phát triển ý

thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh “là quá trình làm biến đổi về chất

tổng thể các yếu tố tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí pháp luật của họ theo

hướng đi lên” [, tr. 43]. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng, chỉ ra những nhân

tố tác động và đề xuất giải pháp phát triển ý thức pháp luật của trung đội

trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay như: nâng cao

chất lượng giáo dục pháp luật, phát huy nhân tố chủ quan, xây dựng môi

trường pháp luật,…Nghiên cứu sinh có thể tham khảo, chọn lọc hợp lý

cho việc xây dựng khái niệm trung tâm và đề xuất các giải pháp phù hợp

với đề tài luận án của mình.

Tác giả Hà Sơn Thái (2017) với công trình khoa học Ý thức dân tộc

của thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền biển

đảo hiện nay [] đã phân tích, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn ý

thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta của thanh niên quân

đội, từ đó đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản phát triển ý thức dân tộc của

thanh niên quân đội trong bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Trong đó, tác

giả chú trọng nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của các chủ thể lãnh đạo,

17

quản lý, giáo dục và rèn luyện thanh niên quân đội và nhóm giải pháp về giáo

dục ý thức dân tộc của thanh niên quân đội trong bảo vệ chủ quyền biển đảo

Việt Nam hiện nay. Đây cũng là nội dung mà nghiên cứu sinh có thể tham

khảo khi nghiên cứu những giải pháp liên quan đến đề tài luận án của mình.

Tác giả Phạm Công Thưởng (2018) với công trình khoa học Phát triển

ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ

Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [] đã khái quát những vấn đề lý luận và

thực tiễn phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ

quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở khảo cứu, phân tích,

đánh giá tác giả đã làm rõ thực trạng và đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản như:

nhóm giải pháp về lãnh đạo, chỉ huy; nhóm giải pháp về vai trò nhân tố chủ quan

của chủ thể; nhóm giải pháp xây dựng môi trường văn hóa quân sự ở đơn vị cơ

sở Quân đội nhân dân Việt Nam. Công trình đề cập khái quát về ý thức bảo vệ

Tổ quốc của hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nói chung nhưng chưa đề cập đến

những bộ phận đặc thù, lĩnh vực cụ thể của ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa gắn với các quân chủng, binh chủng khác nhau của quân đội, với tính đặc

thù khác nhau, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, đây sẽ là góc độ mà

nghiên cứu sinh tiếp tục đi sâu nghiên cứu trong đề tài luận án của mình.

Tác giả Vũ Thu Trang (2020) với công trình khoa học Phát triển ý thức

bảo vệ Tổ quốc của học viên các trường kỹ thuật quân sự ở Việt Nam hiện nay

[] đã luận giải một số vấn đề lý luận về ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên các

trường kỹ thuật quân sự ở Việt Nam. Theo tác giả, ý thức bảo vệ Tổ quốc được

coi là một phần tiềm lực quan trọng cấu thành tiềm lực quốc phòng của đất

nước; quốc gia nào coi nhẹ ý thức bảo vệ Tổ quốc, thiếu cảnh giác sẽ đứng

trước nguy cơ mất độc lập dân tộc là điều có thể dự báo trước. Từ tiếp cận lý

luận, tác giả đánh giá thực trạng, dự báo tình hình, chỉ ra yêu cầu và đề xuất

giải pháp để phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên các trường kỹ thuật

quân sự ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, nhấn mạnh giải pháp tích cực hóa

nhân tố chủ quan của học viên các trường kỹ thuật quân sự xem đây là giải

18

pháp có tính đột phá, quyết định. Giá trị công trình đem đến cho nghiên cứu

sinh cái nhìn về ý thức bảo vệ Tổ quốc của một lớp đối tượng mới là học viên

các trường kỹ thuật quân sự. Nghiên cứu sinh có thể tham khảo, tiếp cận những

nội dung có liên quan đặc biệt là nhóm giải pháp phát huy nhân tố chủ quan

vào đề tài luận án.

Tác giả Lê Văn Kiều (2021) với công trình khoa học Nâng cao ý thức bảo

vệ chủ quyền biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân hiện

nay [] đã luận giải một số vấn đề lý luận nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền

biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân; đánh giá thực

trạng, xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng cao ý thức bảo vệ chủ

quyền biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân hiện nay.

Theo tác giả: “Ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo là một loại hình của ý thức

xã hội, được hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn bảo vệ chủ

quyền biển, đảo của mỗi quốc gia, dân tộc có biển, đảo” [, tr. 40]. Giá trị của

công trình giúp nghiên cứu sinh tham khảo, vận dụng những nội dung liên

quan đến vấn đề bảo vệ chủ quyền, ý thức bảo vệ chủ quyền liên quan đến hạ

sĩ quan, binh sĩ ở một khía cạnh nhất định để kế thừa chọn lọc những nội

dung có liên quan trong phần lý luận của đề tài luận án.

Tác giả Nguyễn Nam Quỳnh (2022) với công trình khoa học Phát triển

niềm tin khoa học của hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội

nhân dân Việt Nam hiện nay Luận giải một số vấn đề lý luận về phát triển niềm

tin khoa học của hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân

Việt Nam; khảo sát, đánh giá thực trạng niềm tin của đối tượng này vào sức

mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân Việt Nam; trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp

cơ bản phát triển niềm tin khoa học của hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến

đấu Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Theo tác giả: Niềm tin khoa học của

hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội là “tổng hòa các yếu tố tri

thức và tình cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ, phản ánh sự tin tưởng có cơ sở khoa học

vào sức mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân Việt Nam” [, tr. 51], niềm tin đó trở

19

thành động lực tinh thần to lớn thúc đẩy họ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ

được giao. Giá trị của công trình giúp nghiên cứu sinh tham khảo, kế thừa, bổ

sung những vấn đề liên quan đến niềm tin khoa học - một trong những thành tố

cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc mà đề tài luận án nghiên cứu.

Tác giả Nguyễn Chí Cường (2020) trong bài viết “Ý thức quốc phòng

với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - mâu thuẫn và phương pháp

giải quyết” [] đã trình bày khái quát về ý thức quốc phòng và vai trò của nó đối

với sự ổn định và phát triển xã hội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Theo tác

giả, ý thức quốc phòng có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển

xã hội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là: nâng cao sự giác ngộ về nghĩa vụ

và trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc

xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tránh bị động, bất

ngờ. Tác giả cũng chỉ ra một số mâu thuẫn nảy sinh cần nghiên cứu và giải

quyết. Giá trị của bài viết giúp nghiên cứu sinh tham khảo, khai thác trong việc

xác định các vấn đề đặt ra trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho

lớp đối tượng được đề cập trong đề tài luận án của mình.

1.1.3. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng

Tác giả Nguyễn Hồng Nam (1997) với công trình khoa học Giáo dục

chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng - thực

trạng và giải pháp [] đã làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng giáo dục

chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng, từ đó

đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng công tác

giáo dục chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên

phòng. Theo tác giả, đối tượng của công tác chính trị tư tưởng, văn hóa “là ý

thức, là đời sống tinh thần văn hóa của xã hội và của mỗi con người cụ thể” [,

tr. 8]. Biểu hiện tập trung ở “thế giới quan, nhân sinh quan tri thức, niềm tin,

tình cảm, nhu cầu, ý chí và cả trong tính cách” [, tr. 8]. Công tác giáo dục

20

chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng có tác

dụng to lớn trong việc tạo ra môi trường thuận lợi để phát triển tư tưởng, tâm

lý tích cực; hạn chế, khắc phục tư tưởng tiêu cực của chiến sĩ đồn biên phòng.

Đây là nội dung nghiên cứu sinh có thể kế thừa chọn lọc vào nghiên cứu nhân

tố quy định và giải pháp về môi trường liên quan đến đối tượng của đề tài

luận án.

Tác giả Lê Xuân Giang (2007) với công trình khoa học Xây dựng đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng trong giai đoạn cách

mạng hiện nay [] đã luận giải vị trí, vai trò đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

của Bộ đội Biên phòng; chỉ ra những mạnh, yếu, nguyên nhân và bài học kinh

nghiệm của việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Bộ đội

Biên phòng những năm qua; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp

cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng

trong thời kỳ mới trong đó tác giả đặc biệt chú trọng nhóm giải pháp tích cực

đào tạo, bồi dưỡng, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng. Đây cũng là giải pháp có những

khía cạnh có liên quan đến đề tài luận án của nghiên cứu sinh, bởi lẽ hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc với đặc điểm chủ yếu

là con em đồng bào dân tộc thiểu số ở địa bàn biên giới nhập ngũ vào Bộ đội

Biên phòng. Công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng, sử dụng cũng là yêu cầu,

giải pháp quan trọng trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của họ góp phần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tác giả Nguyễn Đình Hùng (2007) với công trình khoa học Phát huy

nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền

an ninh biên giới quốc gia hiện nay [] đã luận giải những vấn đề lý luận và

thực tiễn về nhân tố con người, phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ

đội Biên phòng trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Trên cơ sở đánh giá

thực trạng tác giả vạch ra một số định hướng và giải pháp cơ bản phát huy

nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền

an ninh biên giới quốc gia hiện nay. Trong đó, tác giả chú trọng giải pháp

21

nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện và thực hiện tốt công tác chính sách

đối với đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng. Đây cũng là những giải pháp thiết

thực mà nghiên cứu sinh có thể tiếp cận tham khảo khi nghiên cứu về những

giải pháp liên quan đến đề tài luận án.

Tác giả Nguyễn Thái Sinh (2010) với công trình khoa học Phát triển

văn hóa chính trị người sĩ quan biên phòng trong tình hình mới [] đã tiếp

cận người sĩ quan biên phòng là chủ thể hoạt động chính trị trong bảo vệ

biên giới quốc gia để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về văn hóa

chính trị người sĩ quan biên phòng trên ba khía cạnh đó là: hoạt động, giá trị,

nhân cách để làm nổi bật hệ giá trị văn hóa chính trị trong các hoạt động bảo

vệ biên giới quốc gia, phẩm chất văn hóa chính trị người sĩ quan biên phòng

và năng lực hoạt động chính trị của họ. Trong công trình, tác giả đề xuất ba

nhóm giải pháp cơ bản để phát triển văn hóa chính trị người sĩ quan biên

phòng hiện nay trong đó nhấn mạnh giải pháp tăng cường tự giáo dục, rèn

luyện, phát huy tính sáng tạo, bền vững văn hóa, đấu tranh với tiêu cực,

phản văn hóa do tác động của toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập quốc tế đối với

người sĩ quan biên phòng. Công trình giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn sâu

sắc hơn về người sĩ quan biên phòng dưới chiều cạnh văn hóa chính trị từ đó

chọn lọc những nội dung hợp lý vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến

đề tài luận án của mình, đặc biệt trong nghiên cứu các giải pháp để phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia trong mối tương quan với văn hóa chính trị.

Tác giả Phạm Thị Thanh Huế (2016) với công trình khoa học Nâng

cao chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên

các trường trong Bộ đội Biên phòng [] đã luận giải một số vấn đề lý luận,

chỉ ra các yếu tố tác động, đánh giá thực trạng chất lượng giáo dục ý thức

bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ đội Biên

phòng. Từ đó, xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng

giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ

đội Biên phòng hiện nay. Tác giả quan niệm, chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ

chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ đội Biên phòng là “tổng

22

hòa những phẩm chất, năng lực của thanh niên được hình thành, phát triển trong

quá trình giáo dục, đào tạo tại các nhà trường trong Bộ đội Biên phòng” [, tr.

18]. Từ công trình này nghiên cứu sinh có thể kế thừa những yếu tố hợp lý trong

việc nghiên cứu nhân tố quy định và giải pháp về công tác giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng.

Tác giả Vũ Quốc Nam (2017) với công trình Phát triển giá trị nhân

cách “Bộ đội Cụ Hồ” của sĩ quan các đồn biên phòng hiện nay [] đã luận

giải những vấn đề lý luận và thực trạng phát triển giá trị nhân cách Bộ đội cụ

Hồ của sĩ quan các đồn biên phòng. Tác giả đã làm rõ thực chất và những

nhân tố cơ bản quy định phát triển giá trị nhân cách Bộ đội cụ Hồ của sĩ quan

các đồn biên phòng, đánh giá thực trạng, dự báo tình hình và yêu cầu phát

triển giá trị nhân cách Bộ đội cụ Hồ của sĩ quan các đồn biên phòng. Trên cơ

sở đó, tác giả đề xuất bốn nhóm giải pháp cơ bản như: đổi mới và nâng cao

chất lượng giáo dục; xây dựng môi trường; tích cực hóa hoạt động tự giáo

dục, tự rèn luyện, hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao đời sống vật chất

tinh thần của sĩ quan các đồn biên phòng. Giá trị của công trình giúp cho

nghiên cứu sinh có thể tham khảo những nội dung liên quan đến đồn biên

phòng và những giải pháp để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

Bộ đội Biên phòng nói chung và hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng.

Tác giả Trần Trung Hải (2017) với công trình khoa học Phát huy

truyền thống “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là

anh em ruột thịt” trong thanh niên Bộ đội Biên phòng hiện nay [] làm chủ

nhiệm đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn phát huy truyền thống

“Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột

thịt” của thanh niên Bộ đội Biên phòng. Trong công trình, tác giả đề xuất

những giải pháp cơ bản như: nâng cao nhận thức trách nhiệm; tăng cường

công tác lãnh đạo, chỉ đạo; vận dụng linh hoạt các nội dung, phương pháp phát

huy truyền thống; phát huy tính tích cực, tự giác của thanh niên Bộ đội Biên

phòng. Công trình nghiên cứu việc phát huy một trong những truyền thống đặc

sắc của Bộ đội Biên phòng nên có ý nghĩa thiết thực góp phần phát triển ý thức

23

cho thanh niên Bộ đội Biên phòng nói chung hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

nói riêng. Công trình giúp nghiên cứu sinh khai thác, tiếp cận những vấn đề có

liên quan đến giải pháp xây dựng môi trường văn hóa, công tác giáo dục truyền

thống cho hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng vào đề tài luận án.

Tác giả Trần Nhật Nam (2018) với công trình khoa học Ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới phía bắc Việt

Nam hiện nay [] đề cập đến việc giáo dục nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới. Để phát triển ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới,

tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản như: nâng cao nhận thức, trách nhiệm

và năng lực của các cấp, các ngành, các lực lượng ở khu vực biên giới; làm tốt

công tác tuyên truyền, giác ngộ nhân dân ở khu vực biên giới; đổi mới hình

thức, phương pháp giáo dục; phát huy tốt vai trò nòng cốt của người có uy tín

trong các dân tộc; gắn giáo dục ý thức bảo vệ biên giới quốc gia với tổ chức

các hoạt động thực tiễn của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới. Công

trình có giá trị tham khảo với nghiên cứu sinh khi nghiên cứu đến vấn đề ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia cho lớp đối tượng mà đề tài luận án đề cập.

Tác giả Nguyễn Thái Sinh (2020) với công trình khoa học Bộ đội Biên

phòng tham gia giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho

nhân dân ở khu vực biên giới [] đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng

Bộ đội Biên phòng tham gia giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc

gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên giới. Theo tác giả, giáo dục ý thức

bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên

giới là “tổng thể các hoạt động chủ động, có kế hoạch với nội dung, hình

thức, phương pháp phù hợp của các chủ thể tác động vào mọi người dân” [, tr.

14] nhằm hình thành, nâng cao nhận thức, tình cảm, niềm tin và ý chí quyết

tâm của họ. Trên cơ sở đó, tác giả dự báo tình hình, chỉ ra những yêu cầu và

giải pháp nâng cao hiệu quả Bộ đội Biên phòng tham gia giáo dục ý thức bảo

vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên giới.

Công trình này có giá trị giúp nghiên cứu sinh tham khảo kế thừa hợp lý các

24

nội dung liên quan đến đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục

trong phần giải pháp của đề tài luận án.

Tác giả Nguyễn Xuân Thanh (2021) với công trình khoa học Bộ đội Biên

phòng bảo vệ an ninh chính trị khu vực biên giới phía bắc Việt Nam hiện nay []

đã trình bày những vấn đề lý luận và thực trạng, chỉ ra yêu cầu và đề xuất giải

pháp cơ bản để Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc làm tốt công tác

bảo vệ an ninh chính trị trong tình hình mới. Trong các nhân tố quy định, tác giả

chỉ ra nhân tố ý thức, phẩm chất, năng lực của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên

phòng là cơ sở, điều kiện tiền đề căn cốt để họ thực hiện tốt nhiệm vụ nhất là ở

địa bàn biên giới khó khăn, phức tạp. Do đó, một trong các biện pháp chủ yếu

tác giả đề xuất là nâng cao nhận thức, đẩy mạnh giáo dục ý thức, phẩm chất,

năng lực cho cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị Biên phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới. Nghiên cứu sinh có

thể kế thừa chọn lọc để bổ sung phát triển làm rõ hơn khi nghiên cứu về các giải

pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Tác giả Lê Đức Thái (2021) trong bài viết “Bộ đội Biên phòng phát

huy vai trò nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên

giới quốc gia” [] đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng Bộ đội Biên

phòng quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, từ đó đề xuất

những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh

biên giới quốc gia trong tình hình hiện nay. Trong các giải pháp đề xuất tác

giả chú trọng giải pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể đối

với sự nghiệp quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, xây

dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh về mọi mặt trước hết là vững mạnh về

chính trị, tư tưởng. Đây cũng là nội dung có liên quan đến đề tài luận án,

nghiên cứu sinh có thể tham khảo, chọn lọc trong quá trình nghiên cứu của

mình đối với những vấn đề về xây dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh về

chính trị, tư tưởng, có bản lĩnh, lập trường vững vàng, thái độ, trách nhiệm và

ý chí quyết tâm cao trong bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.

25

1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn

đề luận án tập trung nghiên cứu

1.2.1. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan đối với đề tài luận án

Các công trình khoa học tiêu biểu ở trên được tiếp cận, nghiên cứu ở

một số góc độ khác nhau có liên quan ở mức độ nhất định đến đề tài luận án

trên một số nội dung sau:

Một là, bàn về bảo vệ biên giới quốc gia và biên giới đất liền Việt Nam

- Trung Quốc, các công trình đã đề cập rất phong phú, đa dạng dưới nhiều góc

độ, cách tiếp cận khác nhau về vị trí, tầm quan trọng của biên giới quốc gia,

vai trò quan trọng chiến lược của biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Cơ bản

các công trình đều khẳng định biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm

phạm được quy định trong luật pháp quốc gia và pháp luật quốc tế; biên giới

Việt Nam - Trung Quốc có vai trò chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính

trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước và là tuyến biên giới khá

phức tạp, nhạy cảm. Một số công trình làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm

chỉ đạo, nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia []; lịch sử hình

thành và giải quyết vấn đề biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, cơ sở

pháp lý của việc xác lập biên giới đất liền giữa hai nước []; yêu cầu và giải

pháp thực hiện chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia []; những bài học kinh

nghiệm rút ra trong giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ []. Có công trình đề

cập các đặc điểm của tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, dự báo

các yếu tố tình hình tác động và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả

quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia []. Đây là những thông tin, tư liệu quý giá

để nghiên cứu sinh tham khảo, vận dụng, kế thừa, bổ sung và phát triển trong

đề tài luận án.

Hai là, bàn về ý thức nói chung và ý thức của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân

đội nhân dân Việt Nam nói riêng các công trình đã luận giải làm rõ một số

vấn đề cơ bản lý luận của vấn đề nghiên cứu đề cập trong mỗi công trình. Có

công trình nghiên cứu về ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,

có công trình nghiên cứu về ý thức quốc phòng, ý thức dân chủ xã hội chủ

nghĩa, ý thức pháp luật, ý thức dân tộc, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo,…

26

cho các đối tượng khác nhau trong đó có đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ. Nhìn

chung, các công trình đã khảo cứu đều tập trung làm rõ quan niệm, cấu trúc

của loại hình ý thức mà công trình của tác giả nghiên cứu. Mỗi công trình tiếp

cận và phân chia các yếu tố trong cấu trúc của loại hình ý thức ở các cấp độ,

chiều cạnh khác nhau tùy thuộc mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của công

trình. Có công trình chỉ ra cấu trúc của ý thức gồm: nhận thức, thái độ, hành

vi []; song đa số các công trình đã khảo cứu đều tiếp cận ý thức trên lĩnh vực

tác giả nghiên cứu là một hình thái của ý thức xã hội với các yếu tố hợp thành

của nó gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí. Từ cách tiếp cận nghiên cứu để

hình thành khái niệm đến cách thức xác định, phân chia các yếu tố của hình

thái ý thức mà công trình khoa học nghiên cứu là cơ sở quan trọng để nghiên

cứu sinh kế thừa nghiên cứu đề tài luận án.

Một số công trình nghiên cứu đề cập đến yếu tố của tồn tại xã hội, các

điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội, âm mưu, phương thức, thủ đoạn chống phá

của các thế lực thù địch,... tác động đến ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

[]; nhận thức, thái độ, trách nhiệm, hành động của họ trong thực hiện nhiệm vụ

[]. Một số công trình đánh giá vai trò và thực trạng loại hình ý thức mà công

trình nghiên cứu thông qua cấu trúc của nó và những nhân tố quy định; từ đó đề

xuất các giải pháp nâng cao, phát huy, phát triển loại hình ý thức đó cho các đối

tượng khác nhau đặc biệt là hạ sĩ quan, binh sĩ. Đây là kết quả quan trọng làm

cơ sở để tác giả kế thừa chọn lọc để tiếp cận, luận giải những vấn đề lý luận và

thực tiễn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Ba là, bàn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia và vai trò của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Kết quả khảo cứu các công trình tiêu biểu có liên quan đều khẳng định hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, thường

xuyên, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bảo vệ biên giới quốc gia ở các

đồn biên phòng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đồn biên

phòng; họ tham gia, phối hợp với các lực lượng và nhân dân khu vực biên

giới nêu cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn, gian khổ, hy sinh để bảo vệ

27

từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.

Một số công trình bàn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của nhân dân các

dân tộc []; về giáo dục ý thức bảo vệ biên giới quốc gia, lợi ích quốc gia dân

tộc của nhân dân khu vực biên giới [] đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng

cao nhận thức, tình cảm, trách nhiệm, niềm tin, ý chí, hành động bảo vệ biên

giới quốc gia của các chủ thể mà công trình nghiên cứu đề cập đặc biệt là của

Bộ đội Biên phòng như: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo; đẩy mạnh

hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, giáo dục

truyền thống yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng; tham gia và tham

mưu phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn biên giới, chăm lo đời sống vật

chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng và nhân dân ở địa bàn

biên giới,... Một số công trình khác đã tổng quan dù không trực tiếp nghiên

cứu về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia nhưng trong các giải pháp đề ra đều

đề cập đến vấn đề nhân tố con người, đến chủ thể là Bộ đội Biên phòng

thông qua công tác giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của chủ

thể Bộ đội Biên phòng qua đó góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị bảo

vệ vững chắc biên giới quốc gia. Đây là những nội dung thiết thực, có giá trị

để nghiên cứu sinh tham khảo, kế thừa chọn lọc xác định những giải pháp cơ

bản liên quan đến đề tài luận án của mình.

Tổng quan nghiên cứu các công trình khoa học cho thấy các công trình

đã đề cập dưới một số góc độ, chiều cạnh khác nhau, phạm vi khác nhau liên

quan đến đề tài luận án cả về lý luận và thực tiễn. Đây là tài liệu quý báu giúp

nghiên cứu sinh tham khảo, kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý về nội

dung, phương pháp tiếp cận, giải quyết vấn đề khoa học, bổ sung và phát triển

trong quá trình thực hiện đề tài luận án.

1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu

Một là, về mặt lý luận, luận án cần luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản

lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Để nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học về ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

28

Quốc, trước hết cần xây dựng hệ thống các khái niệm công cụ như: biên giới

quốc gia, biên giới quốc gia Việt Nam, biên giới Việt Nam - Trung Quốc, bảo vệ

biên giới quốc gia Việt Nam, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam,… Trên

cơ sở đó, xây dựng khái niệm trung tâm là “Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc”. Đồng

thời, khái quát, phân tích chỉ ra những nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam

- Trung Quốc. Đây là nội dung rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài

luận án, bởi lẽ chỉ có làm rõ bản chất của vấn đề nghiên cứu và chỉ ra được

những nhân tố quy định của đối tượng nghiên cứu mới đánh giá đúng thực trạng,

vấn đề đặt ra và đề xuất các giải pháp cơ bản một cách sát thực, phù hợp, khả

thi nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Hơn nữa, qua tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu có liên

quan đến đề tài luận án chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một

cách độc lập, cơ bản, hệ thống, chuyên sâu cả lý luận và thực tiễn về ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của một lớp đối tượng cụ thể mang tính đặc

thù là hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới đất liền Việt Nam

- Trung Quốc. Đây có thể xem là khoảng trống để nghiên cứu sinh tiếp tục

nghiên cứu làm đề tài luận án.

Hai là, về mặt thực trạng, luận án cần tiến hành khảo sát, đánh giá

thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc và chỉ ra một số vấn đề đặt ra

từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới, đòi hỏi đề tài

không chỉ dừng lại ở việc luận giải làm rõ những vấn đề lý luận mà còn phải làm

rõ cơ sở thực tiễn bằng việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng của vấn đề

thông qua việc nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu các

29

tài liệu, các báo cáo sơ kết, tổng kết của các đơn vị Bộ đội Biên phòng trực tiếp

là Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh và các đồn biên phòng ở biên giới Việt

Nam - Trung Quốc; điều tra, khảo sát thực tế ở một số đồn biên phòng của Bộ

chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.

Từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan về thực trạng ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam

- Trung Quốc. Đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề

đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Ba là, về mặt giải pháp, luận án cần đề xuất các giải pháp cơ bản phát

triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra; từ phân tích, làm rõ cơ sở lý

luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu đặc biệt là cấu trúc, các nhân tố quy

định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra để đề xuất

các giải pháp cơ bản, đồng bộ, toàn diện, có tính khả thi nhằm phát triển một

cách đầy đủ, đồng bộ các thành tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Mặt khác, tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài

luận án cho thấy chưa có công trình nào đề xuất các giải pháp phát triển ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên

giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay dưới góc độ triết học. Do đó, đây được

xem là một trong những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu.

30

Kết luận chương 1

Liên quan đến đề tài luận án, đã có một số công trình khoa học của

các nhà khoa học tiếp cận, nghiên cứu, luận giải từ các góc độ khác nhau

và làm rõ những vấn đề như: ý thức quốc phòng, ý thức dân tộc, ý thức bảo

vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo; vấn đề

biên giới quốc gia, bảo vệ biên giới quốc gia, vai trò của Bộ đội Biên

phòng, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng, v.v.. Với

nhiều cách tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu của các tác giả,

tập thể tác giả về những vấn đề nêu trên đã góp phần làm sáng tỏ những

vấn đề lý luận, thực tiễn và giải pháp liên quan đến đối tượng nghiên cứu

mà công trình khoa học của các tác giả xác định.

Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã tổng quan có

giá trị nhất định đối với đề tài luận án; giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn toàn

diện, qua đó kế thừa chọn lọc những giá trị khoa học mà các công trình trước

đó đã đạt được nhằm cung cấp thông tin, tài liệu quý giá phục vụ cho việc

nghiên cứu đề tài luận án. Tuy nhiên, tổng quan cũng cho thấy, còn nhiều vấn

đề liên quan đến đề tài luận án cả về lý luận và thực tiễn chưa được các nhà

khoa học đề cập, hoặc đã đề cập nhưng chưa thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc.

Từ kết quả tổng quan, đề tài luận án xác định nhiệm vụ cần tập trung

giải quyết đó là: xây dựng khái niệm trung tâm, luận giải vấn đề nghiên

cứu; chỉ ra những nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc; khảo sát, đánh giá thực trạng; một số vấn đề đặt ra; đề xuất giải pháp

cơ bản để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay. Kết quả

tổng quan cũng khẳng định đề tài luận án là công trình khoa học độc lập,

không trùng lặp với các công trình đã công bố và có những đóng góp mới

cả về lý luận và thực tiễn.

31

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI

QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG

BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC

2.1. Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam và ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên

giới Việt Nam - Trung Quốc

2.1.1. Quan niệm bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam

Biên giới quốc gia

Trong lịch sử xã hội loài người, biên giới quốc gia là phạm trù mang

tính lịch sử, chính trị, pháp lý, luôn gắn bó mật thiết với hai yếu tố lãnh thổ

quốc gia và chủ quyền quốc gia. Việc xác lập biên giới quốc gia nhằm phân

định rõ giới hạn vùng đất, vùng nước, lòng đất và vùng trời thuộc chủ quyền

toàn vẹn, đầy đủ, riêng biệt của quốc gia gắn liền với những lợi ích về chính

trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Đường biên giới

chính là nơi phân định, là giới hạn ngăn cách lãnh thổ của quốc gia này với

quốc gia khác. Trong phạm vi không gian lãnh thổ đó, quốc gia là chủ thể

được áp dụng và thực thi một hệ thống các quy tắc pháp lý của nhà nước đó.

Biên giới quốc gia hình thành và phát triển gắn với sự phát triển của xã hội

loài người, từ biên giới vùng miền, phát triển đến biên giới đường (phân chia lãnh

thổ trên mặt đất, mặt nước), biên giới mặt phẳng và đến thời kỳ hiện đại biên giới

mở rộng lên trên không trung và sâu xuống lòng đất.

Bàn về vấn đề biên giới quốc gia, có nhiều quan niệm khác nhau: Đa

số các học giả tư sản đều không thừa nhận biên giới quốc gia là sản phẩm

của vấn đề dân tộc, giai cấp; họ cũng không thừa nhận chủ quyền quốc gia

đối với lãnh thổ, biên giới quốc gia hoặc nếu có chỉ thừa nhận đối với các

quốc gia “văn minh” còn quốc gia “nhược tiểu” chỉ là thuộc địa, phụ thuộc.

Đây là sự ngụy biện nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, bóc lột, là

lý do ngụy tạo để các giai cấp bóc lột, chủ nghĩa thực dân, phát xít tạo cớ

can thiệp, xâm lược các quốc gia khác.

32

Trên lập trường duy vật triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định:

Biên giới quốc gia là một phạm trù lịch sử, gắn liền với sự tồn tại của xã hội

có giai cấp và nhà nước. Biên giới quốc gia ra đời, phát triển, gắn liền với sự tồn

tại của giai cấp, nhà nước. Theo V.I.Lênin: “Chúng ta khẳng định là cần phải có

nhà nước; mà có nhà nước thì phải có biên giới” [, tr. 534] và “Khi mà cách

mạng xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành hiện thực, chứ không phải là một phương

pháp thì khẩu hiệu: “hãy xóa bỏ các đường biên giới” mới là một khẩu hiệu

đúng” [, tr. 536]. Vì vậy, cần nhận thức rằng, khi xã hội còn phân chia giai cấp,

nhà nước thì còn biên giới quốc gia; còn bất đồng quan điểm về chủ quyền lãnh

thổ biên giới quốc gia, do đó còn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột hoặc chiến

tranh. Trong điều kiện hiện nay, các quốc gia phải luôn có ý thức bảo vệ lãnh

thổ, biên giới quốc gia của mình. Việc tổ chức, quản lý, bảo vệ biên giới quốc

gia là nhiệm vụ chiến lược quan trọng cả trước mắt và lâu dài.

Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Điều này có

nghĩa rằng không quốc gia nào được vượt biên giới để xâm phạm chủ quyền

của quốc gia khác. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong thực tế thì những biên giới đó sẽ

được quy định một cách dân chủ, nghĩa là thể theo ý chí và “tình cảm” của

dân cư” [, tr. 26] và “thôn tính là vi phạm quyền tự quyết dân tộc, là kiến lập

biên giới quốc gia trái với ý muốn của dân cư” [, tr. 32]. Như vậy, một mặt

các quốc gia có quyền định đoạt, sử dụng quản lý, bảo vệ lãnh thổ của mình,

quản lý dân cư trong lãnh thổ; mặt khác, nghiêm cấm các quốc gia tiến hành

bất cứ các hành động nào xâm phạm đến lãnh thổ của các nước.

Biên giới quốc gia là vấn đề nhạy cảm trong các quan hệ quốc tế. Trong

lịch sử nhân loại, không ít trường hợp do những tranh chấp về biên giới, lãnh

thổ hoặc giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ không thoả đáng đã dẫn

đến nhiều cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở những quy mô khác nhau. Do

đó, quyền bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia là một nguyên tắc cơ bản

của pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế. Mỗi nước đều có quy chế pháp lý

về biên giới quốc gia nhằm bảo vệ biên giới quốc gia trên cơ sở luật pháp

quốc gia và điều ước quốc tế, phù hợp với lợi ích của mỗi nước. Biên giới

33

quốc gia phải là đường biên giới cụ thể được vạch rõ trên mặt đất, mặt nước,

được đánh dấu trên thực địa bằng hệ thống mốc quốc giới và các dấu hiệu

khác, được vẽ trên bản đồ và ghi nhận trong các hiệp định, nghị định thư, điều

ước quốc tế về biên giới. Có vậy biên giới quốc gia giữa các nước mới đảm

bảo ổn định lâu dài, tránh được tranh chấp hoặc chiến tranh biên giới, đảm

bảo sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Biên giới là chỗ hết phần đất của một nước và

giáp với nước khác” [, tr. 78]; hoặc “Biên giới quốc gia là ranh giới phân định

lãnh thổ quốc gia này với lãnh thổ quốc gia khác hoặc với các vùng mà quốc gia

có quyền chủ quyền trên biển” [, tr. 174].

Như vậy, biên giới quốc gia là ranh giới phân định giới hạn lãnh thổ

của quốc gia này (bao gồm vùng đất, lòng đất, vùng nước, vùng biển, vùng

trời) với quốc gia khác nhằm xác lập chủ quyền lãnh thổ, phạm vi bảo vệ của

quốc gia mình và ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh xung đột, tranh chấp biên

giới, lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau.

Biên giới quốc gia Việt Nam

Quá trình hình thành biên giới quốc gia Việt Nam cũng bắt nguồn từ quy

luật tồn tại và phát triển của dân tộc, đó là dựng nước phải đi đôi với giữ nước.

Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta cho thấy dân tộc Việt Nam luôn phải

đương đầu với mưu đồ xâm lược của ngoại bang từ nhiều phía song dân tộc

Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển với sức sống mãnh liệt trên một lãnh thổ có

chủ quyền thống nhất từ Bắc đến Nam. Thực tế đó là kết quả của một quá trình

lịch sử mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước; của quá trình đấu tranh bền bỉ

hàng chục thế kỷ của ông cha ta để bảo vệ biên cương, bờ cõi.

Cùng với lịch sử giữ nước, sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia đã thể

hiện một cách mạnh mẽ ý chí bảo toàn nền độc lập với đất đai, sông núi biển trời

của Tổ quốc. Đó là nền tảng tư tưởng quan trọng, là cội nguồn tinh thần để các

thế hệ ông cha ta liên tục đánh bại mọi mưu đồ xâm lược, thôn tính, nô dịch của

ngoại bang. Đó cũng là tiền đề vật chất, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta bảo

vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ từng thước núi, tấc đất, tấc sông của Tổ quốc.

34

Nhân dân là cội nguồn sức mạnh quốc phòng của đất nước nhưng nhà nước

cũng có vai trò rất quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của công cuộc ấy.

Nhà nước là đại diện cho chủ quyền quốc gia, là người tập hợp sức mạnh nhân dân,

tổ chức và tạo mọi hoạt động bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh

thổ, biên giới quốc gia. Mỗi triều đại, mỗi giai đoạn lịch sử, kế sách biên phòng có

những nét riêng biệt khác nhau song đều chung mục đích củng cố, giữ vững chủ

quyền, biên giới, bờ cõi đất nước. Thực tiễn lịch sử bảo vệ biên giới của dân tộc đã

minh chứng: Chỉ khi nào kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần độc lập, ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia với sức mạnh tổng hợp của thế nước, sức dân và sức mạnh của Nhà

nước thống nhất luôn chăm lo đến lợi ích chung của dân tộc thì khi đó sự nghiệp

bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia mới bảo đảm vững chắc.

Biên giới quốc gia Việt Nam là ranh giới phân định lãnh thổ quốc gia

Việt Nam (bao gồm vùng đất, lòng đất, vùng nước, vùng biển, vùng trời thuộc

chủ quyền của Việt Nam) với lãnh thổ của các quốc gia khác qua đó xác lập

và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia phù hợp với luật pháp quốc

gia và pháp luật quốc tế.

Luật Biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2003 tại Điều 1 quy định:

Biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường

và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất

liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo

Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam [, tr. 1].

Biên giới quốc gia bao gồm: biên giới quốc gia trên đất liền, biên giới

quốc gia trên biển, biên giới quốc gia trong lòng đất và biên giới quốc gia trên

không. Biên giới quốc gia trên đất liền là đường biên giới được xác định trên đất

liền, trên đảo, trên sông, hồ, kênh, biển nội địa,… được hoạch định và đánh dấu

trên thực địa bằng hệ thống mốc quốc giới và được xác lập trên cơ sở thỏa thuận

giữa các quốc gia có liên quan trên cơ sở lịch sử hình thành.

35

Biên giới Việt Nam - Trung Quốc Nước ta có biên giới trên đất liền dài khoảng 5032,025 km tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia với nhiều cửa khẩu đường bộ, đường sắt, là cửa ngõ mở ra trong quan hệ quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài; có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế cả trước mắt và lâu dài nhưng cũng là địa bàn phức tạp và nhạy cảm.

Biên giới quốc gia Việt Nam trên đất liền gồm có biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc là một bộ phận của biên giới quốc gia Việt Nam, là ranh giới phân định giới hạn lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc qua đó xác lập chủ quyền lãnh thổ và phạm vi bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của mỗi nước phù hợp với luật pháp của từng quốc gia, các hiệp định, nghị định thư đã ký kết giữa hai nước cũng như các điều ước quốc tế mà hai nước tham gia.

Biên giới Việt Nam - Trung Quốc là bao gồm cả biên giới đất liền và biên giới biển giữa hai nước. Tuy nhiên, biên giới Việt Nam - Trung Quốc mà phạm vi đề tài luận án nghiên cứu là biên giới đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc.

Biên giới quốc gia Việt Nam nói chung và biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng là bộ phận hợp thành quan trọng, không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là yếu tố cơ bản bảo đảm cho sự ổn định của đất nước, sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột có thể xảy ra; xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước. Vì vậy, bảo vệ biên giới quốc gia là tất yếu khách quan, cấp bách thường trực của mọi quốc gia dân tộc trong đó có Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sẽ không thể thành công nếu biên giới quốc gia không được xây dựng và bảo vệ tốt. Để hiểu rõ hơn về biên giới quốc gia cần tìm hiểu, làm rõ thêm các khái niệm về chủ quyền quốc gia, lãnh thổ quốc gia và chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Chủ quyền được hiểu là “Quyền làm chủ của một nước trong quan hệ đối nội và đối ngoại” [, tr. 226]. Khái niệm chủ quyền gắn liền với các quốc gia dân tộc. Đó là thuộc tính chính trị pháp lý chủ yếu của một quốc gia, thể hiện quyền lực tối cao của Nhà nước trên cả phương diện quốc gia và quốc tế.

36

Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ

quốc gia mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Đó là

quyền làm chủ của quốc gia trên tất cả mọi phương diện kinh tế, chính trị, quốc

phòng, an ninh, ngoại giao, văn hóa, xã hội… Theo đó, chủ quyền quốc gia bao

gồm nhiều mặt: chủ quyền về lãnh thổ, chủ quyền về kinh tế, chủ quyền về

chính trị, chủ quyền về văn hóa, chủ quyền về ngoại giao, chủ quyền trên không

gian mạng, v.v.. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng

công nghiệp lần thứ tư, sự bùng nổ của internet và mạng xã hội, chủ quyền

quốc gia không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn vượt ra

ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia thông qua chủ quyền quốc gia trên không gian

mạng. Đó là quyền tối cao, tuyệt đối, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia đối với

các vùng thông tin do Nhà nước quản lý, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp

bằng chính sách, pháp luật và năng lực công nghệ phù hợp với luật pháp quốc

tế.

Lãnh thổ quốc gia là một phạm vi không gian, bao gồm vùng đất, vùng

nước, vùng trời và lòng đất phía dưới, giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc

chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối của một quốc gia. Cùng với nhà nước

và dân cư, lãnh thổ quốc gia là một bộ phận hợp thành quốc gia. Do đó, chủ

quyền lãnh thổ quốc gia là một bộ phận quan trọng của chủ quyền quốc gia, đó

là quyền tối cao và tuyệt đối của nhà nước đối với lãnh thổ, nhà nước là chủ thể

chủ sở hữu quản lý và bảo vệ lãnh thổ, là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

Mỗi một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với lãnh thổ của mình.

Quyền lực đó gọi là quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.

Biên giới quốc gia luôn gắn bó mật thiết với lãnh thổ quốc gia và chủ

quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi lẽ, lãnh thổ quốc gia là một trong những bộ phận

cấu thành không thể thiếu được của bất kỳ quốc gia nào. Lãnh thổ quốc gia là

điều kiện vật chất, là môi trường sống, sinh tồn và phát triển của mỗi quốc

gia, dân tộc. Nó gắn liền với những lợi ích về chính trị, kinh tế - xã hội, an

ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, lãnh thổ quốc gia không phải

là vô cùng, vô tận mà nó xác định trên thực tế đối với mỗi quốc gia thông qua

biên giới quốc gia. Vì thế, biên giới quốc gia giới hạn phạm vi lãnh thổ và

37

giới hạn hiệu lực chủ quyền quốc gia của mỗi nhà nước.

Bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam

Trong mọi thời đại, bảo vệ biên giới quốc gia luôn được các nước xác định

là công việc trọng đại của quốc gia dân tộc. Bảo vệ biên giới quốc gia là tất yếu,

thường xuyên, là sứ mệnh thiêng liêng luôn gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử

quốc gia dân tộc. Công tác này luôn chịu sự tác động sâu sắc của điều kiện tự

nhiên và hoàn cảnh lịch sử. Đặc biệt công tác bảo vệ biên giới quốc gia chịu sự tác

động rất lớn bởi sự hình thành biên giới quốc gia.

Mặc dù quan điểm về bảo vệ biên giới quốc gia của từng nước có thể

có sự khác nhau về nhận thức, cách thức tổ chức bảo vệ; nhưng nhìn chung

mọi quốc gia trên thế giới luôn đề cao vai trò, tầm quan trọng của công tác

bảo vệ biên giới quốc gia và được đặt lên vị trí hàng đầu trong chiến lược xây

dựng quốc phòng, an ninh của đất nước.

Đối với nước ta, lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của

dân tộc đã xây dựng, bảo vệ biên giới quốc gia trên các tuyến biên giới. Các

triều đại phong kiến Việt Nam đều quan tâm đến vấn đề bảo vệ bờ cõi, chủ

quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Tiêu biểu như thời nhà Lê, vua Lê Thánh

Tông (1442-1497) rất quan tâm đến vấn đề này và thường răn dạy quần thần:

"Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ?... Nếu ngươi

dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc, thì tội

phải tru di” [, tr. 487].

Theo từ điển Tiếng Việt: “Bảo vệ là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ

cho luôn luôn được nguyên vẹn” [, tr. 49]. Thực chất “bảo vệ” là việc tiến

hành các biện pháp, các hoạt động để chống lại mọi sự xâm phạm nhằm giữ

cho được nguyên vẹn và bảo đảm an toàn mục tiêu xác định.

Từ những luận giải trên có thể quan niệm: Bảo vệ biên giới quốc gia

Việt Nam là tổng thể cách thức, biện pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam sử dụng để chống lại mọi hoạt động xâm phạm lãnh thổ,

biên giới quốc gia nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

38

lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Mục tiêu bảo vệ biên giới quốc gia: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia; chống lại các hành vi

xâm phạm đến chủ quyền và lợi ích quốc gia; xây dựng biên giới quốc gia hòa

bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác, bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc

gia; góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc

phòng, an ninh, đối ngoại ở địa bàn biên giới và cả nước.

Chủ thể bảo vệ biên giới quốc gia: toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, toàn

bộ hệ thống chính trị và cả nước nhất là nhân dân và các lực lượng đứng chân ở

địa bàn biên giới; dựa vào dân, lấy dân làm gốc, “mỗi người dân biên giới là một

cột mốc sống” [, tr. 4]; lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; Bộ đội Biên

phòng là lực lượng chuyên trách, lực lượng chiến đấu đầu tiên, bám trụ đến cùng

để bảo vệ và giữ vững biên giới quốc gia. Trong các chủ thể đó, Bộ đội Biên

phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia. Bộ

đội Biên phòng có chức năng tham mưu, đề xuất các chính sách, pháp luật về

biên phòng; thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và

chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa

bàn biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.

Nội dung bảo vệ biên giới quốc gia: Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân,

chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ đường biên giới, hệ thống mốc quốc giới, vật

đánh dấu đường biên giới; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội ở địa

bàn biên giới; bảo vệ tài nguyên, môi trường, lợi ích quốc gia dân tộc và phòng

thủ bảo vệ biên giới; duy trì thực thi pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia;

kiểm tra, kiểm soát xuất, nhập cảnh tại các cửa khẩu; đường mòn, lối mở biên

giới; đấu tranh phòng, chống tội phạm; ứng phó với các thách thức an ninh phi

truyền thống ở địa bàn biên giới, v.v..

Phương thức bảo vệ biên giới quốc gia: sử dụng tổng hợp các lực

lượng, các phương tiện, hình thức, biện pháp nghiệp vụ để đấu tranh, ngăn

39

chặn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch và

các loại tội phạm dưới mọi hình thức.

Hình thức bảo vệ biên giới quốc gia: sử dụng tổng hợp các hình thức bảo

vệ biên giới quốc gia theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm các hình

thức: bảo vệ biên giới thường xuyên, bảo vệ biên giới tăng cường và bảo vệ biên

giới trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm, tình

trạng chiến tranh. Mỗi hình thức bảo vệ biên giới gắn với các trường hợp cụ thể,

tùy tình hình biên giới giữa hai nước có chung đường biên giới để xác định cho

phù hợp.

Biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia: sử dụng tổng hợp các biện pháp

theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm: biện pháp vận động quần

chúng, biện pháp pháp luật, biện pháp ngoại giao, biện pháp kinh tế, biện

pháp khoa học - kỹ thuật, biện pháp nghiệp vụ và biện pháp vũ trang.

2.1.2. Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam

Ý thức: Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học được mọi

nhà triết học quan tâm nghiên cứu, song tùy theo cách lý giải khác nhau mà có

những quan niệm khác nhau. Các nhà triết học duy vật biện chứng trên cơ sở nắm

vững lý thuyết phản ánh đã luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Theo

đó, ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực

khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình

thành, tồn tại và phát triển luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội phong phú.

Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình

phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.

Ý thức có kết cấu phức tạp, gồm nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với

nhau. Dưới góc độ triết học, ý thức được xem xét theo nhiều chiều cạnh khác

nhau tùy cách tiếp cận. Tiếp cận theo các yếu tố cấu thành, ý thức gồm các

yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí; trong đó tri thức là toàn bộ những

hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức và phản ánh thế

giới khách quan của con người. Tất cả các yếu tố cấu thành ý thức có mối

quan hệ biện chứng với nhau, song tri thức là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng

40

nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, là chất liệu để con người phát triển tư

duy sáng tạo; đồng thời, là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết

định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.

Ý thức của con người là một hiện tượng lịch sử, nảy sinh, tồn tại và

phát triển gắn liền với quá trình phát triển của lịch sử - xã hội, phản ánh tồn

tại xã hội trong từng giai đoạn của lịch sử xã hội biểu hiện dưới dạng ý thức

cá nhân và ý thức xã hội.

Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn

tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Nó được biểu

hiện dưới nhiều hình thái ý thức xã hội như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý

thức đạo đức,… Giữa chúng luôn tác động qua lại lẫn nhau phản ánh quy luật nội tại

trong quá trình phát triển của ý thức xã hội. Trong đó ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

là một loại hình đặc thù của ý thức xã hội - chính trị.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia chính được hình thành, phát triển gắn liền

với hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của từng quốc gia dân tộc trong

từng giai đoạn lịch sử nhất định; đồng thời, là hình thức đặc trưng của hình thái ý

thức chính trị, là nhân tố chính trị - tinh thần phản ánh nội dung, yêu cầu bảo vệ

biên giới quốc gia trên cả hai phương diện lịch sử - tự nhiên và chính trị - xã hội

và đặc biệt phong phú về hình thức thể hiện (ở các chủ thể khác nhau).

Từ những lập luận trên có thể quan niệm: Ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia Việt Nam là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí

của các cộng đồng người Việt Nam tạo thành sức mạnh chính trị - tinh thần,

thể hiện bằng hành động thực tiễn của họ trong quá trình bảo vệ biên giới

quốc gia ở từng giai đoạn nhất định.

Bản chất của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam chính là sự phản

ánh hiện thực khách quan những hoạt động cụ thể về bảo vệ biên giới quốc gia

của các chủ thể trong quá trình bảo vệ biên giới quốc gia của họ trong lịch sử và

giữ vai trò định hướng, chỉ đạo cho các hoạt động đó nhằm đạt được mục tiêu

yêu cầu đề ra. Tuy nhiên sự phản ánh đó luôn bị chi phối bởi lăng kính chủ quan

của chủ thể (các cộng đồng người) ở mỗi quốc gia dân tộc (nhất là về mặt lợi

41

ích). Vì vậy ý thức bảo vệ biên giới quốc gia liên quan và được giải quyết không chỉ

bằng luật pháp quốc gia mà còn phải bằng luật pháp quốc tế, thông qua các hiệp

ước, hiệp định, nghị định thư ký kết giữa các nước có chung đường biên giới thỏa

thuận, thống nhất. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia tồn tại một cách hiện thực

thông qua các hoạt động nhận thức và thực tiễn của các chủ thể về bảo vệ biên

giới quốc gia. Vì thế, nó vừa là kết quả phản ánh hoạt động thực tiễn bảo vệ biên

giới quốc gia cụ thể của mỗi cộng đồng người hay cá nhân trong cộng đồng

người, vừa chỉ đạo hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của họ trong

từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Cấu trúc của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam (gọi tắt là ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia) rất phong phú đa dạng, song dưới góc độ tiếp cận triết

học về ý thức theo các yếu tố cấu thành như đã trình bày ở trên, ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia bao gồm các yếu tố: Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia;

tình cảm và niềm tin của chủ thể về bảo vệ biên giới quốc gia; ý chí bảo vệ biên

giới quốc gia. Trong đó tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia giữ vai trò cốt lõi

của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Các yếu tố trong cấu trúc ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia đều hướng tới mục tiêu phòng, chống mọi hoạt động xâm

phạm đến biên giới quốc gia nhằm giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, biên

giới quốc gia; lợi ích quốc gia - dân tộc, tài nguyên, môi trường sinh thái, an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn biên giới thuộc lãnh thổ quốc gia

mình.

Dưới góc độ vai trò, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có vai trò định

hướng, chỉ đạo thống nhất cho các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của

các chủ thể trong thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu yêu cầu đề ra. Bởi vậy ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia là cơ sở đầu tiên, nền tảng để các chủ thể

chuyển hóa thành hành động bảo vệ biên giới quốc gia phù hợp với lợi ích

của họ; đồng thời, bảo đảm sự phong phú, đa dạng của ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của các chủ thể khác nhau trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia là toàn bộ những hiểu biết của

chủ thể về những nội dung có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia như:

đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng về biên giới quốc gia và bảo vệ

42

biên giới quốc gia; hệ thống pháp luật của Nhà nước cũng như các quy định

của luật pháp quốc tế về biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia; các

hiệp định, quy chế, nghị định thư được ký kết với các nước có chung đường

biên giới; vai trò và trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp bảo vệ biên

giới quốc gia; âm mưu, thủ đoạn, hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, an

ninh biên giới quốc gia của các thế lực thù địch.

Tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia, được thể hiện ở tình yêu đối với

quê hương, đất nước, gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa, cách mạng của

dân tộc; tình yêu thương, gắn bó với mảnh đất biên cương của Tổ quốc; sự đồng

thuận, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc; tình cảm gắn bó giữa

nhân dân với hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang; thái độ đối với các thế

lực, hành động xâm phạm biên giới quốc gia; thái độ đối với hành động của

công dân, của các tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Niềm tin đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia chính là sự hội tụ

và chuyển hóa của các yếu tố nhận thức, tình cảm, thái độ và ý chí quyết tâm

đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia, được thể hiện ở sự tin tưởng vào

sức mạnh của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tin tưởng vào thắng

lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước; tin vào vai trò và năng lực lãnh đạo, quản

lý, tổ chức xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia của hệ thống chính trị cơ sở ở

địa bàn biên giới; tin vào khả năng, trình độ và sức mạnh chiến đấu của các lực

lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Ý chí bảo vệ biên giới quốc gia, được thể hiện ở bản lĩnh kiên cường, không

chịu khuất phục trước kẻ địch; lòng quyết tâm, tinh thần quả cảm, chịu đựng khó

khăn, gian khổ, hy sinh bảo vệ biên giới quốc gia; ý chí vươn lên trong cuộc sống;

sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ hệ thống chính trị ở

cơ sở; thường xuyên nâng cao cảnh giác, tinh thần, trách nhiệm tham gia đấu

tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản

động.

Các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia quan hệ chặt chẽ,

tác động thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, cùng thể hiện trong thực tiễn thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Đó là quá trình thống nhất hữu cơ

43

giữa các thành tố đó tạo nên ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của chủ thể biểu

hiện ở thái độ trách nhiệm chính trị của chủ thể và cao hơn cả là hành động

của họ trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia.

Các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia quan hệ chặt chẽ,

tác động thúc đẩy nhau cùng phát triển, cùng thể hiện trong thực tiễn thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Nếu như tri thức về bảo vệ biên giới

quốc gia là yếu tố đầu tiên chi phối đến tình cảm, niềm tin của chủ thể đối với

bảo vệ biên giới quốc gia và ý chí quyết tâm là yếu tố dẫn dắt hành động bảo

vệ biên giới quốc gia, thì tình cảm, niềm tin lại định hình ý chí của họ đồng

thời trực tiếp củng cố thêm sự hiểu biết ấy, tạo động lực và sức mạnh hiện

thực của ý chí quyết tâm. Ý chí quyết tâm, đến lượt nó, vừa là sự biểu hiện

tập trung của nhận thức, tình cảm, niềm tin lại vừa củng cố nhận thức, tình

cảm, niềm tin của con người. Chính mối quan hệ biện chứng đó đòi hỏi khi

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của các đối tượng, phải chú ý toàn

diện các yếu tố cấu thành, không xem nhẹ một yếu tố nào.

Toàn bộ những nội dung nêu trên phản ánh cấu trúc của ý thức bảo vệ chủ

quyền biên giới quốc gia Việt Nam và biểu hiện cụ thể ở hành động trong thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của các chủ thể. Tuy không thuộc nội

hàm của ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia Việt Nam, những hành

động trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của chủ thể là thước

đo quan trọng để đánh giá ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Nó là kết

quả của quá trình chuyển hóa giữa tri thức với tình cảm, niềm tin, ý chí của

chủ thể trong quá trình bảo vệ biên giới quốc gia. Để đánh giá được ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi đối tượng không chỉ thông qua nhận thức,

tình cảm, niềm tin và ý chí của họ mà còn phải thông qua hành động cụ thể

của họ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Xét dưới cấp độ phản ánh, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam

biểu hiện ở các cấp độ khác nhau. Cấp độ thông thường của ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia là tâm lý, tình cảm còn gọi là ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia thông thường được biểu hiện ở tình yêu quê hương, đất nước, gắn bó với

mảnh đất biên cương của Tổ quốc của mỗi chủ thể, được phản ánh và thể

44

hiện trong cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của họ. Cấp độ tư tưởng,

lý luận của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia là hệ tư tưởng, lý luận, được thể

hiện ở hệ thống đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của

Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia.

Ở cấp độ tâm lý, tình cảm, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia tạo cơ sở

cho sự phát triển tư tưởng, lý luận về bảo vệ biên giới quốc gia, tạo động lực

tinh thần thôi thúc những hành động bảo vệ biên giới quốc gia, thì ở cấp độ

tư tưởng, lý luận nó lại làm cho ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi

người phù hợp với ý thức của quốc gia dân tộc, của giai cấp, phù hợp với

yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Đồng thời, chỉ đạo, định

hướng cho những hành động bảo vệ biên giới quốc gia của con người, dân

tộc, giai cấp. Vì vậy, trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia phải

chú ý cả hai cấp độ tư tưởng, lý luận và tâm lý, tình cảm của nó.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia là một hình thái biểu hiện của ý thức xã

hội nên nó có mối quan hệ biện chứng với các hình thái ý thức xã hội khác nhất là

ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức. Trong quan hệ với ý thức chính

trị, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia là một hình thức biểu hiện của ý thức chính trị

nên mối quan hệ của nó với ý thức chính trị là mối quan hệ phụ thuộc, bao hàm. Ý

thức chính trị bao hàm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia và ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia phụ thuộc ý thức chính trị. Tri thức, tình cảm, niềm tin đối với giai cấp,

đảng phái lãnh đạo, sự quản lý, điều hành của Nhà nước thống trị xã hội; mục tiêu

lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của quân đội đều định hướng, chỉ đạo sự

hình thành phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi chủ thể, giai cấp,

tầng lớp nhất định. Ngược lại, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia vừa là biểu hiện,

vừa là điều kiện để củng cố, phát triển ý thức chính trị của họ.

Trong quan hệ với ý thức pháp luật, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có

mối quan hệ chặt chẽ với ý thức pháp luật: Ý thức pháp luật của mỗi chủ thể nhất

định là ý thức chấp hành pháp luật nhà nước, kỷ luật, quy định của địa phương, cơ

quan, đơn vị của họ. Hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia liên quan rất nhiều đến

pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế đó là hệ thống pháp luật quốc gia về quản

lý, bảo vệ biên giới (các luật, nghị định, thông tư,…); các hiệp định, hiệp nghị, nghị

45

định thư về biên giới mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia với các nước có chung

biên giới, v.v.. Do đó, pháp luật, kỷ luật không chỉ là công cụ quản lý, thực thi

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia mà còn tạo môi trường thuận lợi để củng cố,

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia; là một hình thức biểu hiện của ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia. Ngược lại, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia lại tạo ra khả

năng tiếp nhận, củng cố, phát triển ý thức pháp luật của họ ngày càng vững chắc.

Trong quan hệ với ý thức đạo đức, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có mối

quan hệ chặt chẽ với ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức có chức năng điều chỉnh hành

vi, mối quan hệ và kích thích tính tự giác, tự nguyện của mỗi chủ thể trong xây

dựng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Nhờ chức năng điều chỉnh

hành vi của ý thức đạo đức mà các mối quan hệ của họ được điều chỉnh tự giác, tự

nguyện theo các nguyên tắc, chuẩn mực nhất định thông qua sức mạnh của dư luận,

lương tâm, thói quen, tập quán. Ở khía cạnh nào đó, ý thức đạo đức cũng là một

hình thức biểu hiện của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Ngược lại, ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia lại là động lực quan trọng thúc đẩy mỗi chủ thể tích cực tìm hiểu,

học tập, bảo tồn, phát huy các giá trị, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, quê

hương, đất nước và đơn vị; từ đó củng cố, phát triển ý thức đạo đức của họ.

2.1.3. Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Đặc điểm tình hình biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc

Biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là một phần của biên giới quốc

gia Việt Nam - Trung Quốc được xác lập về pháp lý bằng các hiệp ước, hiệp định,

nghị định thư đã ký kết giữa Chính phủ hai nước; được hoạch định, đánh dấu

trên thực địa bằng hệ thống mốc quốc giới và dấu hiệu đường biên giới trên

cơ sở thỏa thuận chung giữa hai nước và quy định của luật pháp quốc tế.

Biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1449,566 km,

tiếp giáp 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng

Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc

Choang tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc lần đầu tiên được pháp lý hóa bằng

hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895. Tuy nhiên, việc hoạch định

46

biên giới giữa Pháp và nhà Thanh được xúc tiến hơn 100 năm trước với

phương tiện và điều kiện lúc đó hạn chế nên lời văn và bản đồ không được

đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Ngay sau khi chấm dứt chiến tranh, Chính phủ

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chú trọng ngay vào công tác

hoạch định lại đường biên giới. Sau nhiều năm kiên trì đàm phán, hai nước

Việt Nam - Trung Quốc đã ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền vào ngày

30/12/1999. Hai bên đã tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa và hoàn

thành phân giới cắm mốc vào ngày 31/12/2008. Hai bên đã tiến hành đàm

phán và ký kết ba văn kiện pháp lý (Nghị định thư phân giới cắm mốc biên

giới đất liền, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền, Hiệp định

về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam -

Trung Quốc) vào ngày 18/11/1999. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại

giữa hai nước. Ba văn kiện pháp lý trên cùng với Hiệp ước biên giới trên đất

liền Việt Nam - Trung Quốc năm 1999 là bộ hồ sơ hoàn chỉnh nhất về biên

giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Từ đó, biên giới trên đất liền giữa

hai nước đã được xác định rõ ràng, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho

công tác quản lý đường biên, mốc giới giữa hai nước.

Về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: Hai nước đều mong muốn mở rộng

quan hệ quốc tế, tạo môi trường hòa bình và ổn định. Năm 1991, Việt Nam và

Trung Quốc đã bình thường hóa và cùng bắt tay phát triển quan hệ láng giềng.

Tháng 2/1999 đã thống nhất thiết lập quan hệ theo tinh thần 16 chữ "Láng

giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và

“Bốn tốt” (Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) xác định đây là

phương châm phát triển quan hệ của hai nước trong thế kỷ XXI. Hai nước cũng

rất quan tâm và coi trọng giải quyết những vấn đề về chủ quyền, hợp tác trên biên

giới; luôn gắn việc giải quyết các vấn đề về chủ quyền, lãnh thổ trong các hội

đàm, các tuyên bố chung cấp cao. Đồng thời, nhất quán những vấn đề có tính

nguyên tắc chiến lược trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, trong đó có

nguyên tắc giải quyết các vấn đề về biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên

47

cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của

nhau; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia phải gắn liền với phát triển vùng biên giới

vững mạnh và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác, phát triển.

Về tổng thể, tình hình biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc cơ bản

ổn định, đường biên giới và hệ thống mốc quốc giới được giữ vững, an ninh, trật tự

an toàn xã hội địa bàn biên giới được đảm bảo tạo môi trường thuận lợi cho phát

triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, giao lưu hợp tác quốc tế,…Tuy nhiên,

trên thực tế, ngay sau khi hoàn thành công tác phân giới cắm mốc, Trung Quốc vẫn

tiếp tục có các hoạt động vi phạm, như: xâm nhập tuần tra, kiểm soát, xâm canh,

xâm cư ở các khu vực mà dân ta đang quản lý; xây dựng kè sông, kè suối, hàng rào

biên giới, lắp camera giám sát dọc biên giới, xây dựng đường tuần tra biên giới

không chấp hành đúng thỏa thuận cấp cao giữa hai nước, gây nhiều khó khăn cho

ta. Việc giải quyết các vấn đề chủ quyền lãnh thổ và quản lý, bảo vệ biên giới đất

liền Việt Nam - Trung Quốc dù thông qua đàm phán, thương lượng trên nguyên tắc

công bằng, hữu nghị nhưng vẫn luôn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp.

Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc có một số đặc điểm

khác với các tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia

đó là: Về truyền thống, các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc từng là căn

cứ cách mạng và căn cứ kháng chiến nên nhân dân các dân tộc nơi đây sớm

được giác ngộ và có truyền thống cách mạng sâu sắc. Về lịch sử, đây là tuyến

biên giới sớm được hoạch định và quản lý chính quy, nhưng lại là nơi thiếu ổn

định nhất, tranh chấp diễn ra phức tạp và quyết liệt nhất, có giai đoạn trở thành

biên giới đối địch. Hơn nữa, đây là tuyến biên giới nước ta tiếp giáp với Trung

Quốc - là một quốc gia diện tích rộng, dân số đông, có tiềm lực kinh tế, quân

sự, khoa học công nghệ lớn mạnh nhưng lại là quốc gia có tham vọng về chủ

quyền lãnh thổ. Vì thế, ở tuyến biên giới này chúng ta luôn phải đối phó với

nhiều khó khăn, phức tạp, khó dự báo nhất là chiến lược "biên giới mềm", “sức

mạnh mềm” mà phía Trung Quốc đang thực hiện. Về địa lý, biên giới Việt Nam -

Trung Quốc có địa hình đa dạng và phức tạp, phần lớn là đồi, núi hiểm trở, giao

48

thông khó khăn, hay xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất vào mùa mưa, ảnh hưởng

đến đời sống, sản xuất, tài sản, tính mạng của nhân dân và việc thực hiện nhiệm

vụ của Bộ đội Biên phòng. Về khí hậu, biên giới Việt Nam - Trung Quốc có khí

hậu rất khắc nghiệt, chia thành hai mùa: mùa mưa (tháng 4 đến tháng 9) hay có

mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất, đá; mùa khô (tháng 10 đến tháng 3 năm sau) hay có

rét đậm, rét hại có nơi nhiệt độ xuống thấp dưới 00C như Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Y

Tý (Lào Cai), Xín Mần, Đồng Văn (Hà Giang), xuất hiện băng tuyết, ảnh hưởng

đến sức khỏe của con người và cây trồng, vật nuôi cũng như các hoạt động bảo vệ

biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng. Địa hình, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt,

khó khăn đó tác động lớn đến sức khỏe, tinh thần ý thức của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình.

Tính phức tạp, đặc thù của biên giới Việt Nam - Trung Quốc ở trên tác

động đến nhận thức, tư tưởng, tâm lý của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia nhất là tâm lý ngại khó, sợ

khổ nơi biên giới khắc nghiệt và tâm lý lo sợ khi tình hình biên giới hai nước

căng thẳng nếu không có biện pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp sẽ ảnh

hưởng rất lớn đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc (sau đây gọi tắt là

đồn biên phòng) là đơn vị cơ sở của Bộ đội Biên phòng đóng quân ở địa bàn

biên giới Việt Nam - Trung Quốc do Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh

biên giới Việt Nam - Trung Quốc trực tiếp quản lý, có vai trò nòng cốt,

chuyên trách, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia

trên phạm vi được phân công đảm nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ quy định.

Đồn biên phòng là đơn vị cơ sở trong hệ thống tổ chức theo ba cấp của Bộ

đội Biên phòng (Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng

tỉnh và Đồn biên phòng). Các đồn biên phòng được phân công đảm nhiệm quản

lý, bảo vệ các đoạn biên giới với phạm vi tương đối lớn (chiều dài khoảng từ 20 -

30 km đường biên, chiều rộng là các xã biên giới) có khu vực có cả đường biên

49

giới trên bộ và đường biên giới trên sông, suối. Trong khi đó, quân số biên chế của

đồn biên phòng hạn chế, hoạt động theo các tổ, đội công tác với đặc điểm phân

tán nhỏ lẻ, địa bàn quản lý rộng, giao thông khó khăn, phức tạp, khí hậu khắc

nghiệt ảnh hưởng lớn đến hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của đơn vị.

Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia,

hoạt động của Bộ đội Biên phòng nói chung, đồn biên phòng nói riêng bao

hàm cả tính chất quốc phòng, an ninh và đối ngoại trên phạm vi được phân

công. Trong khi đó, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc diễn biến

ngày càng phức tạp, khó dự báo, đặt ra yêu cầu cao đối với hoạt động của các

đồn biên phòng nơi đây.

Các hoạt động của đồn biên phòng diễn ra ở biên giới, địa bàn biên giới

liên quan nhiều đến các lực lượng, cơ quan, đơn vị khác ở nơi đây. Do đó,

đồn biên phòng có mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền,

đoàn thể địa phương các cấp khu vực trong tham gia xây dựng, củng cố hệ

thống chính trị cơ sở, xây dựng thế trận biên phòng toàn dân, nền biên phòng

toàn dân vững mạnh ở biên giới.

Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

(sau đây gọi tắt là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng) là một bộ phận của hạ sĩ

quan, binh sĩ Bộ đội Biên phòng được biên chế ở các đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của pháp luật

hiện hành. Hạ sĩ quan là quân nhân có quân hàm hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ đã trải

qua huấn luyện tiểu đội trưởng, huấn luyện chuyên môn kỹ thuật; binh sĩ là quân

nhân có quân hàm binh nhất, binh nhì vừa trải qua huấn luyện chiến sĩ mới ở các

tiểu đoàn, trung tâm huấn luyện được điều động, biên chế về các đồn biên phòng

tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định.

Vai trò của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nói chung; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng nói riêng luôn rất quan trọng trong mọi hoạt động của đơn vị nhất là

trong hoạt động chiến đấu, bảo vệ biên giới; vai trò đó đặc biệt được nhân lên bởi

50

nhân tố chính trị tinh thần của người lính. Đề cập đến vai trò nhân tố tinh thần của

hạ sĩ quan, binh sĩ trên chiến trường, V.I.Lênin từng khẳng định:

Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần

của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến

tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh

phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và

làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy [, tr. 147].

Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đề cập đến vai trò của hạ sĩ quan, binh sĩ cũng

khẳng định:

Các chú dù là đại đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, hay tiểu đoàn trưởng,

cũng chỉ là những người đặt kế hoạch và điều khiển đánh trận. Lúc ra

trận, việc đặt mìn, phá lô cốt đều do tay anh em đội viên làm. Nếu anh

em tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ thuật khá, thân thể khỏe mạnh thì

nhất định thắng [, tr. 219].

Do đó, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có vai trò rất quan trọng trong

mọi hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của đồn biên phòng.

Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là một bộ phận của hạ sĩ quan, binh

sĩ Bộ đội Biên phòng (một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam) nên

họ có đầy đủ đặc điểm, bản chất, truyền thống của người quân nhân cách

mạng với những điểm chung như: đều là quân nhân tại ngũ, tuổi đời trẻ (từ 18

đến 27 tuổi); có cùng khung cấp bậc quân hàm; có phẩm chất chính trị, đạo

đức, sức khỏe, học vấn đáp ứng yêu cầu quy định; đa dạng về thành phần xuất

thân; có tinh thần đoàn kết, ý thức kỷ luật, năng động, sôi nổi, nhiệt tình, có

hoài bão, khát vọng, lý tưởng cống hiến và trưởng thành; là lực lượng trực

tiếp thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị. Tuy nhiên, tuổi đời còn trẻ nên kinh

nghiệm sống, kinh nghiệm công tác còn ít và ảnh hưởng của đặc điểm tâm lý

lứa tuổi nhanh nhạy với cái mới nhưng cũng dễ chán nản, bỏ cuộc, dao động,

hoài nghi trước những khó khăn, thử thách khi gặp phải.

51

Tuy nhiên, do đặc thù chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng và

đặc điểm biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc nên hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng còn có những điểm riêng:

Một là, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chủ yếu là con em đồng bào các

dân tộc thiểu số cư trú ở địa bàn biên giới nên thông thạo địa hình; am hiểu ngôn

ngữ, tâm lý, tập quán của đồng bào, thích ứng tốt với điều kiện khắc nghiệt nơi

biên giới nhưng tính cách nhút nhát, thiếu tự tin trong các hoạt động tập thể.

Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây xuất thân là con em đồng

bào các dân tộc đang cư trú, lao động sản xuất ở địa bàn biên giới. Từ nhỏ họ đã

gắn bó với địa hình, thời tiết khí hậu của núi rừng biên giới khó khăn, khắc nghiệt

nên thông thạo địa hình rừng núi dễ thích nghi với điều kiện hoàn cảnh khắc

nghiệt nơi biên giới khi thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặc biệt

là hoạt động tuần tra, mật phục, truy quét tội phạm đòi hỏi sức chịu đựng cao, tâm

lý và bản lĩnh vững vàng. Là con em đồng bào các dân tộc nơi biên giới nên họ

am hiểu tập quán, ngôn ngữ của đồng bào mình, điều này tạo thuận lợi cho việc

thực hiện các nhiệm vụ công tác nhất là công tác nắm tình hình địa bàn, nhân dân,

công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.

Tuy nhiên, phần lớn là con em đồng bào dân tộc thiểu số, ít cọ xát, tham gia

các hoạt động tập thể đông người nên tồn tại tâm lý tự ti, thiếu tự tin trong một số

hoạt động công tác nhất là những hoạt động tập thể. Bên cạnh đó, hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng là những người trẻ tuổi, thích tìm tòi, sáng tạo, thích tự do, mạo

hiểm, nhạy bén với cái mới; ở họ đã có sự phát triển về mặt thể chất, nhưng đang

trong quá trình hoàn thiện về đạo đức, nhân cách nên cũng dễ bị lôi kéo, ảnh hưởng

bởi những tác động tiêu cực từ bên ngoài nhất là những tác động tiêu cực của mặt trái

kinh tế thị trường, những cám dỗ, mua chuộc, lôi kéo tiếp tay cho các hoạt động phi

pháp; sự so sánh giữa môi trường quân sự khắc nghiệt với môi trường xã hội ngoài

đơn vị cũng tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của họ.

52

Hai là, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là lực lượng thường xuyên, trực tiếp

thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

theo hướng đặc thù yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tùy tính chất từng

địa bàn và phạm vi quản lý các đoạn biên giới khác nhau mà biên chế quân số

khác nhau. Theo đó, tỉ lệ hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng cũng khác

nhau. Do đặc thù hoạt động của Bộ đội Biên phòng đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải

có thời gian sinh sống, công tác tương đối dài ở địa bàn biên giới để nắm tình

hình mọi mặt từ tình hình nhân dân, địa bàn, đối tượng, cũng như thực hiện quản

lý nhà nước về biên giới quốc gia nên hiện nay các đồn biên phòng tăng tỉ lệ

quân nhân chuyên nghiệp giảm tỉ lệ hạ sĩ quan, binh sĩ. Vì thế tỉ lệ hạ sĩ quan,

binh sĩ ở các đồn biên phòng hiện nay chỉ chiếm khoảng 10% đến 12% quân số

biên chế của các đồn biên phòng nhưng là lực lượng thường xuyên, trực tiếp

thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày của đơn vị. Hạ sĩ quan, binh sĩ được biên chế

về các đội (vũ trang, vận động quần chúng, kiểm soát hành chính, trinh sát,

phòng chống ma túy và tội phạm, tham mưu hành chính, hậu cần bảo đảm,…) và

các tổ, chốt công tác địa bàn, các trạm kiểm soát tại các cửa khẩu, lối mở biên

giới. Thanh niên khi nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng được tuyển chọn kỹ lưỡng

về phẩm chất chính trị, đạo đức, sức khỏe, học vấn, ưu tiên chọn lựa thanh niên

là con em đồng bào dân tộc sinh sống ở địa bàn biên giới. Khi nhập ngũ vào Bộ

đội Biên phòng họ được huấn luyện 3 tháng tân binh tại các trung tâm huấn

luyện sau đó được biên chế về các đồn biên phòng. Tại các đồn biên phòng họ

tiếp tục được huấn luyện, đào tạo về chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên

phòng sát với địa bàn, đối tượng để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới

quốc gia theo chức trách, nhiệm vụ của mình.

Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo hướng đặc thù yêu cầu nhiệm vụ bảo

vệ biên giới quốc gia; có khả năng thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh khó

khăn, khắc nghiệt của địa bàn biên giới. Bên cạnh những kiến thức, kỹ năng cơ

53

bản, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được huấn luyện các kiến thức, kỹ

năng chuyên sâu về nghiệp vụ công tác biên phòng (công tác tuần tra, kiểm

soát, xử lý vi phạm hành chính; công tác trinh sát, đối ngoại, vận động quần

chúng,…); kỹ chiến thuật biên phòng; quy trình xử lý các vụ việc nảy sinh ở

biên giới; các kiến thức pháp luật về bảo vệ biên giới; được giáo dục về truyền

thống lịch sử của dân tộc, quân đội, Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị,

địa phương biên giới; về đối tác, đối tượng đấu tranh ở địa bàn biên giới; tình

hình trong nước, quốc tế, khu vực có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia

thông qua công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng.

Ba là, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có phong cách, lối sống đặc

trưng của văn hóa biên cương biên giới phía Bắc: giản dị, mộc mạc, chất phác,

chân thành, cần cù, chịu khó, lạc quan yêu đời, sẵn sàng bám trụ nơi biên giới,

sẵn sàng đối mặt với khó khăn, thách thức, hiểm nguy ở biên giới.

Sinh ra và lớn lên gắn bó với bản làng, núi rừng biên cương hùng vĩ, bao

la, gần gũi với thiên nhiên, phần lớn là con em đồng bào các dân tộc nơi đây

nên văn hóa biên cương, biên giới thấm đượm trong họ. Mỗi ngọn núi, dòng

sông, khu rừng, mảnh rẫy đều vô cùng thiêng liêng, gần gũi gắn liền với đời

sống vật chất, văn hóa, tinh thần của họ. Vận mệnh của mỗi con người và các

tộc người nơi đây luôn gắn liền với sự vững chắc của biên giới quốc gia. Nơi

núi rừng biên giới muôn vàn khó khăn, khắc nghiệt nhưng vượt lên tất cả là

tinh thần vượt khó, dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách bởi tình yêu

với biên giới, bởi biên giới chính là quê hương của họ. Đức tính giản dị, mộc

mạc, chân thành, cần cù, chịu khó, hòa đồng với mọi người, gần gũi với thiên

nhiên, lạc quan yêu đời trở thành lối sống, thành nét đặc trưng của văn hóa

biên cương biên giới của những con người nơi đây trong đó có hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng. Đặc trưng đó cùng với sức trẻ, hoài bão, khát vọng,

lòng nhiệt tình đã giúp cho họ không nề hà, suy tính thiệt hơn, không quản

ngại khó khăn gian khổ, bám địa bàn, bám dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành

mọi nhiệm vụ được giao.

Từ đặc điểm biên giới Việt Nam - Trung Quốc; đồn biên phòng biên

54

giới Việt Nam - Trung Quốc; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc và trên cơ sở quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia có thể đi đến quan niệm:

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất hữu cơ giữa tri

thức, tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo thành sức

mạnh chính trị - tinh thần để họ hoàn thành tốt vai trò nòng cốt, chuyên

trách, trực tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

biểu hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:

Một là, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất

hữu cơ giữa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Về tri thức: Đây là yếu tố cơ bản, cốt lõi trong các yếu tố cấu thành ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc. Với vai trò nòng cốt, chuyên trách của Bộ đội Biên

phòng trong bảo vệ biên giới quốc gia, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là

lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở

các đồn biên phòng, họ được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo hướng đặc thù

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Đặc biệt họ được giáo dục, huấn luyện, rèn

luyện tri thức toàn diện về chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ công tác biên

phòng theo hướng tăng cường kỹ năng thực hành, làm chủ vũ khí, trang bị,

phương tiện, thuần thục kỹ chiến thuật biên phòng, sát với tình huống chiến đấu,

sát với địa bàn, đối tượng đấu tranh. Vì thế ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ

sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có những nét riêng so với các chủ thể khác.

Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng biểu hiện toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, pháp luật,

nghiệp vụ có liên quan đến biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia như:

vị trí, vai trò, ý nghĩa thiêng liêng bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia,

55

của độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia, lợi

ích quốc gia dân tộc; chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

về bảo vệ biên giới quốc gia; tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có liên

quan, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong bảo vệ chủ quyền biên

giới hiện nay; nhận diện đối tác, đối tượng ở địa bàn biên giới hiện nay. Trong

đó, nổi trội là những tri thức pháp luật, nghiệp vụ về quản lý, bảo vệ biên giới

quốc gia. Tri thức pháp luật Việt Nam có liên quan đến bảo vệ biên giới được

trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng như: Luật Biên giới quốc gia,

Luật An ninh quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam; Bộ luật Hình sự, Bộ luật

Tố tụng hình sự; Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật

Tố tụng dân sự, Luật Phòng, chống ma túy, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật

Cư trú, các nghị định, thông tư, hướng dẫn thi hành. Hệ thống tri thức về luật

pháp quốc tế có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia như: Nghị định thư

phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Hiệp định về

quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Hiệp định về

cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung

Quốc, Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới Việt Nam - Lào - Trung

Quốc .v.v.. Các tri thức về nghiệp vụ công tác biên phòng như: Tổ chức tuần

tra bảo vệ biên giới, quy trình kiểm soát xuất nhập cảnh đối với người và

phương tiện qua lại của khẩu, biên giới; chiến thuật truy lùng, phục kích, đón

lõng đối tượng; kỹ thuật và chiến thuật điều tra hình sự; âm mưu, phương thức,

thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự

an toàn xã hội ở địa bàn biên giới; các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lãnh

thổ biên giới quốc gia; kỹ năng, nghiệp vụ công tác đối ngoại ở đồn biên phòng

.v.v..

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

xây dựng trên nền tảng tri thức đề cao tính cụ thể, trực tiếp hơn là tính lý luận,

trừu tượng bởi đặc điểm của đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi

đây chi phối; hệ thống tri thức về biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc

gia phù hợp với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm đối tượng hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng. Do đó, bộ phận tri thức kinh nghiệm trong giáo

56

dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ được chú

trọng với các tri thức kinh nghiệm trong sinh tồn nơi rừng núi khắc nghiệt;

trong chiến đấu, đấu tranh phòng, chống tội phạm; trong ứng phó, xử lý các

tình huống nảy sinh trên biên giới để bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.

Về tình cảm: Đó là thái độ nhất quán, rõ ràng với một tình yêu biên

giới, biên cương; là những rung động của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

nơi đây trong các quan hệ, được biểu hiện cụ thể ở tình cảm của họ đối với sự

nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Bởi lẽ, đối với họ biên giới là quê hương

dựa trên hệ thống tri thức kinh nghiệm mang tính tập thể của những quân

nhân có cùng khát vọng, lý tưởng bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, có

cùng môi trường học tập, công tác, chiến đấu nơi núi rừng biên giới hiểm

nguy. Với tính cách là một trạng thái cảm xúc của chủ thể thông qua việc

nhận thức rõ vai trò nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia;

tình yêu đối với biên cương, biên giới; vinh dự và trách nhiệm trước Đảng, Tổ

quốc và nhân dân để ra sức bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia, bảo vệ sự

bình yên nơi bản, làng biên giới và sự trường tồn của đất nước, dân tộc.

Về niềm tin: Là sự hòa quyện giữa tri thức và tình cảm về bảo vệ biên

giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây. Đó là thái độ lạc

quan tin tưởng của họ về sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia dựa trên nhận

thức sâu sắc về vai trò nòng cốt, chuyên trách của Bộ đội Biên phòng, về vai

trò thường xuyên, trực tiếp của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực

thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng nơi đây. Đó

còn là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ biên giới quốc

gia dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, phát huy sức mạnh đại

đoàn kết toàn dân tộc, với khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh

phúc của văn hóa, con người Việt Nam; niềm tin vào sức mạnh quốc gia, sức

mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của quân đội, Bộ đội Biên phòng

khi xảy ra chiến tranh, xung đột; niềm tin vào phẩm chất, năng lực, bản lĩnh

của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng sẵn sàng dấn thân đón nhận khó khăn

thử thách nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong bất kỳ hoàn

cảnh nào với phương châm “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào

57

các dân tộc là anh em ruột thịt” thực hiện “Ba bám, bốn cùng” để bảo vệ

vững chắc biên giới quốc gia.

Về ý chí: Đó là sự hòa quyện giữa hệ thống tri thức đặc thù về biên giới

quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia với thái độ trách nhiệm chính trị của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây, là sự chuyển hóa giữa tri thức, tình cảm,

niềm tin thành ý chí quyết tâm, bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu vững vàng

của họ được biểu hiện bằng hành động cụ thể trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ

bảo vệ biên giới quốc gia sẵn sàng đối mặt, vượt qua mọi khó khăn thử thách,

gian khổ, thậm chí hy sinh nơi biên giới, trong thực hiện nhiệm vụ nhất là

những nhiệm vụ đặc biệt đòi hỏi ý chí, bản lĩnh cao, sự gan dạ, mưu trí dũng

cảm. Đó là sự tự ý thức được mục đích, mục tiêu bảo vệ biên giới quốc gia của

mình, tự đấu tranh với bản thân mình và ngoại cảnh để chiến đấu, chiến thắng

mọi gian khổ, hy sinh, mọi kẻ thù, hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ

được giao. Đó còn là ý chí, bản lĩnh mang tính tập thể của những quân nhân

cùng chung nhiệm vụ chính trị, cùng chung điều kiện hoàn cảnh công tác,

chiến đấu; thể hiện ở tinh thần vượt khó để sinh tồn, để hoàn thành nhiệm vụ

khó khăn, gian khổ, hy sinh nơi rừng thiêng, nước độc; là bản lĩnh vững vàng,

không hoang mang, lo sợ trước những tình huống ngặt nghèo trong chiến đấu,

trong đấu tranh với các loại tội phạm nhất là tội phạm ma túy, buôn lậu có vũ

trang, mua bán người. Trong những hoàn cảnh một mất một còn đó không có

chỗ cho sự toan tính, vụ lợi, thiệt hơn.

Hai là, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần thể hiện bằng trách nhiệm, hành

động thực tế để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Sự hòa quyện thống nhất hữu cơ của các yếu tố tri thức, tình cảm,

niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng nơi đây hợp thành trạng thái chính trị - tinh thần của họ, thôi

thúc họ nhận và hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ được giao nhất là

trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Chính trạng thái tinh

thần - chính trị đó quy định hành động, quy định kết quả thực hiện chức

trách nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây. Hành động

58

bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cũng chính

là kết quả của quá trình chuyển hóa biện chứng giữa tri thức với tình cảm,

niềm tin biểu hiện ở ý chí quyết tâm, thái độ trách nhiệm chính trị và hành

động cụ thể của từng hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực hiện chức trách, nhiệm

vụ của mình với mục tiêu bảo vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc

trong mọi tình huống.

Những khía cạnh ở trên khẳng định tính ưu trội của ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đòi hỏi cần được

củng cố, phát triển. Tuy nhiên do đặc điểm tâm lý, lứa tuổi của họ chi phối;

bên cạnh đó là sự đa dạng, phức tạp của điều kiện hoàn cảnh khó khăn khắc

nghiệt nơi biên giới, cùng những tác động của ngoại cảnh, của mặt trái kinh

tế thị trường dẫn đến những diễn biến bất ngờ, khó lường trong thực tế đòi

hỏi chúng ta phải dự báo và có biện pháp khắc phục, kịp thời, đúng đắn.

2.2. Nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

2.2.1. Chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn

luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên

giới Việt Nam - Trung Quốc

Cũng như các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chịu sự quy định bởi nhiều nhân tố trong quá trình phát triển của nó. Trong đó, chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ (sau đây gọi chung là giáo dục, huấn luyện, rèn luyện) của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là nhân tố nền tảng hàng đầu quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là tổng hợp các giá trị của các yếu tố, bộ phận hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện thông qua sự tác động có mục đích của các chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng gắn với sự nỗ lực chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Đó là quá trình tổ

59

chức, điều khiển, định hướng của các chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhằm định hình, xây dựng các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Đây là nhân tố nền tảng, quan trọng quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Điều này xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đối với việc hình thành ý thức con người, ý thức quân nhân cũng như với việc xây dựng phẩm chất và năng lực của người quân nhân cách mạng. Theo đó, sự phát triển của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó giáo dục, huấn luyện, rèn luyện giữ vai trò hết sức quan trọng. C. Mác chỉ rõ: “Dù sao thì những người công nhân tiên tiến nhất cũng hoàn toàn nhận thức được rằng tương lai của giai cấp họ, và do đó, của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [, tr. 262]. V.I. Lênin cũng khẳng định: “Giáo dục, huấn luyện và đào tạo những con người phát triển về mọi mặt, được rèn luyện về mọi mặt và biết làm mọi việc” [, tr. 41]. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Huấn luyện là một việc rất cần,… Những việc rất dễ dàng còn phải học. Huống chi công việc cách mạng, công việc kháng chiến, không có huấn luyện, thì làm sao xuôi?” [, tr. 287 - 288].

Con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể sáng tạo của lịch sử. Nói đến xã hội là nói đến con người, ý thức con người luôn mang bản chất xã hội chừng nào con người còn tồn tại. Trong sự phát triển của bản chất người, thế hệ sau bao giờ cũng kế thừa các tri thức, kinh nghiệm của các thế hệ trước theo một cơ chế đặc biệt. Con người đi vào hoạt động thực tiễn với tính cách là một chủ thể sáng tạo nhưng không phải chỉ dựa vào bản năng, kinh nghiệm của cá nhân mà dựa vào những tri thức, kinh nghiệm của các thế hệ trước đã tổng kết, khái quát thành tri thức khoa học truyền lại cho các thế hệ sau thông qua con đường giáo dục, huấn luyện, rèn luyện để từ đó nâng cao nhận thức, trình độ của cá nhân, cộng đồng trong hoạt động thực tiễn.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chịu sự quy định của cả chất lượng giáo dục và chất lượng huấn luyện, rèn luyện.

60

Trong đó, chất lượng giáo dục sẽ bồi đắp lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng và những phẩm chất nhân cách cần thiết cho họ, giúp họ sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Những phẩm chất này không có sẵn mà phải qua giáo dục mới có được. Theo Hồ Chí Minh: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên” [, tr. 413]. Giáo dục làm phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của mỗi người, để mỗi người vừa có đức, vừa có tài. Thông qua hoạt động giáo dục giúp họ hình thành các phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Cùng với chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; chất lượng huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ cho hạ sĩ quan, binh sĩ cũng là một trong những nội dung công tác trọng tâm ở các đồn biên phòng. Chất lượng huấn luyện, rèn luyện trực tiếp trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cho hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực hiện các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia. Đây là một bộ phận tri thức quan trọng trong hệ thống các tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia góp phần hình thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Huấn luyện được xem là một phương pháp để hướng dẫn, giúp đỡ người khác phát triển, học hỏi những kiến thức, kỹ năng mới, từ đó có thể đối mặt, làm chủ và xử trí tốt mọi tình huống nảy sinh trong thực tiễn, đạt được mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Trong những điều kiện có chiến sự khẩn trương, với kỷ luật nghiêm ngặt và không ngừng huấn luyện quân sự có thể sẽ đem lại những kết quả rất tốt đẹp” [, tr. 230]. Theo Hồ Chí Minh: “Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng,… Phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa” [, tr. 359]. Rèn luyện là luyện tập kiên trì để có được trình độ vững vàng, thông thạo trên một mặt, lĩnh vực hay hoạt động nào đó (rèn luyện tư duy; rèn luyện thân thể; rèn luyện tính cách; rèn luyện đạo đức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, rèn luyện phương pháp, tác phong, …). Về bản chất, rèn luyện là sự nỗ lực, cố gắng của con người một cách thường xuyên, liên tục trong thực hiện một hoạt động nào đó, kết quả đạt được bắt nguồn từ nhiều yếu tố trước hết và chủ yếu từ sức mạnh bên trong của chủ thể rèn luyện. Rèn luyện chủ yếu là sự tự thân vận động của đối tượng giáo dục,

61

huấn luyện nhằm tiếp nhận, thẩm thấu, bổ sung làm phong phú thêm các tri thức đã được tiếp nhận trước đó, đồng thời chuyển hóa những tri thức, giá trị, kỹ năng đó một cách vững chắc, thuần thục thành hành động trong thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Trong mối quan hệ này, giáo dục giữ vai trò nền tảng; huấn luyện, rèn luyện giữ vai trò quan trọng quy định việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, hai mặt này có sự thống nhất biện chứng chặt chẽ với nhau.

Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện có vị trí, vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của mỗi cá nhân và cộng đồng “con người muốn cải tạo và hoạt động có hiệu quả thì phải được giáo dục’’[, tr. 60]. Giáo dục, huấn luyện, rèn luyện luôn là nhân tố cơ bản nền tảng hàng đầu quy định quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không có sẵn mà được hình thành, củng cố, phát triển thông qua con đường giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mới có được. Thông qua giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sẽ trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ hệ thống tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia một cách toàn diện, sâu sắc nhất; trên cơ sở đó, bồi đắp tình cảm, củng cố niềm tin, hình thành thái độ trách nhiệm, xây dựng ý chí quyết tâm của họ trong bảo vệ biên giới quốc gia định hình ý thức bảo vệ biên giới quốc gia trong họ. Từ ý thức về bảo vệ biên giới quốc gia sẽ định hướng hành động bảo vệ biên giới quốc gia của họ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ tại các đồn biên phòng. Chính vì vậy, chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đảm bảo cho các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của của họ hình thành có hệ thống, đúng đắn và toàn diện.

Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được thể hiện ở mục tiêu, yêu cầu, chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Mục tiêu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là nhằm xây dựng lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân của hạ sĩ quan, binh sĩ từ đó sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, chấp nhận khó khăn gian khổ, hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ

62

quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc; đó còn là mục tiêu nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện của hạ sĩ quan, binh sĩ từ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực nhận thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực hành đến năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia trong các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.

Mục tiêu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sẽ quy định yêu cầu, chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Mục tiêu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cụ thể, khoa học là cơ sở định hướng, quy định quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia gắn với chuyên môn nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện là cơ sở tiền đề hình thành hệ thống tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh và hành vi của hạ sĩ quan, binh sĩ. Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện phải bám sát mục tiêu, yêu cầu và được xây dựng khoa học, toàn diện, chuyên sâu, bố trí phù hợp, lôgic nhất là các chương trình, nội dung giáo dục chính trị, truyền thống, pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh và hành vi của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong bảo vệ biên giới quốc gia. Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng cần được bổ sung, cập nhật thường xuyên phù hợp với tình hình thực tiễn sẽ đem lại hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cao và ngược lại chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện chậm cập nhật, đổi mới sẽ lạc hậu, cản trở quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và do đó cản trở quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tác động rất lớn đến hiệu quả chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng như quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Sử dụng hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện linh hoạt, phù hợp với khả năng, điều kiện, đặc điểm của từng đồn biên phòng và đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ sẽ nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho họ. C.Mác chỉ rõ: “Không những kết quả của việc nghiên cứu, mà tất cả con

63

đường dẫn tới việc nghiên cứu, cũng phải là chân lý” [, tr. 18]. Do đó, cần lựa chọn hình thức linh hoạt, phương pháp phù hợp với đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ và điều kiện, đặc điểm của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc để xác định. Sử dụng kết hợp nhiều hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú tạo sự cuốn hút, hấp dẫn và hiệu quả đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện các chương trình, nội dung, kế hoạch đã xác định ở đơn vị qua đó nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện làm cho tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí bản lĩnh của hạ sĩ quan, binh sĩ được củng cố, vững chắc hơn, tác dụng thúc đẩy phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn thể hiện thông qua chất lượng, cơ cấu, số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng. Đây là những người trực tiếp quản lý, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ về mọi mặt ở các đồn biên phòng; họ có vai trò quan trọng trong truyền đạt tri thức, kinh nghiệm, tác phong, lối sống, định hướng nhận thức, thái độ trách nhiệm, khơi dậy ý chí quyết tâm và định hướng hành động bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Vai trò, tác động của họ đến hạ sĩ quan, binh sĩ không chỉ ở nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mà còn ở cả hình thức, phương pháp và tính mô phạm của họ trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ. Theo C.Mác: “Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục” [, tr. 10]; Hồ Chí Minh cũng khẳng định “Một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [, tr. 284]. Vì vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng phải có phẩm chất, năng lực toàn diện, có chất lượng cao, số lượng, cơ cấu phù hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng.

Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện trực tiếp trang bị, hướng dẫn cách thức tiến hành các hành động cụ thể trong bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đảm bảo đúng mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra. Chất lượng giáo dục, huấn luyện,

64

rèn luyện giúp cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng xác định đúng mục tiêu, phương hướng tự giáo dục để chuyển hóa những yêu cầu khách quan của xã hội, của thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia thành nhu cầu nội tại của bản thân, từ đó giúp họ tích cực, chủ động, tự giác trong tự giáo dục để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Có thể khẳng định, khi chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đạt hiệu quả cao sẽ tác động tích cực đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ và ngược lại. Do vậy, chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là một trong những nhân tố quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ hiện nay.

2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội

và ý thức xã hội, trong mối quan hệ đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội;

đồng thời cũng chỉ ra rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử, nhưng

đồng thời con người cũng là chủ thể của hoàn cảnh lịch sử đó. C.Mác đã khẳng

định: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con

người đến mức ấy” [, tr. 55]; đồng thời cũng khẳng định: “Những cá nhân nhất

định và tồn tại trong những mối quan hệ nhất định, mới có thể sản xuất ra đời

sống vật chất của mình và mọi thứ liên quan với đời sống ấy” [, tr. 103].

Từ luận điểm của C. Mác cho thấy không thể có con người tách rời xã

hội, giai cấp và các điều kiện sống của mình, ý thức của con người luôn mang

bản chất xã hội chừng nào con người còn tồn tại. Ý thức con người không phải

tự nhiên có sẵn, mà được hình thành, phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố

trong đó có môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Thiếu môi trường tự

nhiên, con người không thể tồn tại được với tính cách một sinh vật; thiếu môi

trường xã hội con người không thể trở thành người. Do đó, con người tồn tại,

phát triển bao giờ cũng gắn với một môi trường nhất định. Theo Hồ Chí Minh:

“Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng

65

phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng

riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội” [, tr. 600].

Môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội cần thiết tác

động, chi phối quá trình sống và hoạt động của con người; mọi hoạt động

của con người bao giờ cũng gắn với, diễn ra và phụ thuộc vào một môi

trường nhất định. Con người sống trong những môi trường khác nhau sẽ

quy định sự hình thành, phát triển mọi mặt của họ theo những chiều hướng

khác nhau. Nói về vấn đề này C. Mác chỉ rõ: “Không phải ý thức của con

người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý

thức của họ” [, tr. 15].

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

chịu sự chi phối của cả môi trường rộng (điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế,

xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu, bảo

vệ Tổ quốc của quân đội, Bộ đội Biên phòng,...) và môi trường hẹp (môi

trường văn hóa quân sự nơi hạ sĩ quan, binh sĩ công tác, thực hiện chức trách

nhiệm vụ được giao). Sự tác động giữa các môi trường này ở nhiều cấp độ

khác nhau, gián tiếp hay trực tiếp đều chi phối đến sự phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của họ nhất là điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội

và môi trường văn hóa đồn biên phòng.

Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội quy định ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc. Với địa hình phức tạp, khó khăn; khí hậu, thời tiết khắc nghiệt của

địa bàn biên giới hằng ngày, hằng giờ tác động đến hạ sĩ quan, binh sĩ trong mọi

hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt, thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhất là

trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia. Những khó khăn, phức tạp đó

trực tiếp tác động đến tâm tư, tình cảm, niềm tin, ý chí của hạ sĩ quan, binh sĩ nơi

đây; qua đó, tác động và quy định đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ

trong quá trình công tác ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Điều kiện kinh tế - xã hội đất nước nói chung, địa bàn biên giới nói riêng

quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng nơi đây. Không có ý thức bảo vệ biên giới quốc gia chung cho mọi người,

66

mọi quân nhân, ở mọi điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Điều kiện kinh tế -

xã hội không chỉ quy định khả năng, điều kiện vật chất cần thiết để đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới, xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới rộng khắp

mà còn quy định sự vận động, phát triển của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 35 năm qua khẳng định

sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, nhân dân ta là

đúng đắn, hợp quy luật, phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển của

lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị ổn định, văn hóa, xã hội không ngừng

được nâng lên, quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường, đối ngoại

được mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện. Cùng với sự phát triển của

đất nước, điều kiện kinh tế - xã hội của địa bàn biên giới cũng đổi thay, phát

triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ nơi biên

giới về mọi mặt được nâng cao. Đây là tiền đề vật chất quan trọng để xây

dựng, phát triển sức mạnh tinh thần cho nhân dân và quân đội trong đó có

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Lợi ích cá nhân của hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng ngày càng được đảm bảo trong sự kết hợp hài hòa với lợi

ích quốc gia dân tộc, tạo động lực thúc đẩy ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây phát triển.

Bên cạnh đó, những hạn chế, yếu kém về kinh tế - xã hội của đất nước

còn tồn tại như: Kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường phát triển chưa bền

vững; nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh; nguy cơ gây mất ổn định xã hội

vẫn tiềm ẩn; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; mặt trái của kinh tế thị

trường, sự phân hóa giàu nghèo; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,

lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

ngày càng phức tạp; cùng với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực

thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mọi lĩnh vực nhằm “phi

chính trị hóa quân đội”, làm giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, gieo

rắc tư tưởng hoài nghi, tâm lý lo sợ, hoang mang về chiến tranh sử dụng vũ

khí công nghệ cao .v.v.. Những hạn chế này tác động trực tiếp đến nhận thức,

67

tư tưởng, tình cảm, niềm tin và hành động bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo ra

những lực cản, tác động tiêu cực đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, địa bàn biên giới nói

riêng là cơ sở, điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức bảo đảm, thực hiện tốt

các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên

giới Việt Nam - Trung Quốc. Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ

được xây dựng, bảo đảm thực hiện trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội của

đất nước, địa phương và đơn vị. Chế độ, chính sách thể hiện sự quan tâm, tôn

vinh, ghi nhận của Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội đối với lớp thanh

niên đang thực hiện nghĩa vụ cao cả đối với Tổ quốc; là nhân tố, động lực

mạnh mẽ để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Chế độ, chính sách phù

hợp hay không phù hợp, tổ chức thực hiện chặt chẽ hay không chặt chẽ đều

ảnh hưởng rất lớn đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ.

Cùng với sự quy định của điều kiện kinh tế xã hội, môi trường văn hóa

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là một bộ phận của môi

trường xã hội, là nhân tố trực tiếp quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ nơi đây. Môi trường văn hóa đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc là tổng hòa các giá trị văn hóa, quan hệ văn hóa, hoạt

động văn hóa gắn với hệ thống thiết chế văn hóa tương ứng, vận động và phát

triển theo những quy luật nhất định phù hợp với những điều kiện đặc thù của

đồn biên phòng ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Môi trường văn hóa ở

các đồn biên phòng chính là nền tảng để định hướng giá trị văn hóa và chuẩn

giá trị nhân cách người quân nhân cách mạng ở các đồn biên phòng.

Môi trường văn hóa đồn biên phòng vừa mang những nét chung của văn

hóa quân sự vừa chứa đựng những nét đặc thù của văn hóa biên cương biên

giới phía Bắc như: Nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia quy định tính chất văn

hóa đồn biên phòng; điều kiện, hoàn cảnh khắc nghiệt, gian khổ của biên giới

đặt ra yêu cầu cao về ý thức, bản lĩnh, trách nhiệm quân nhân; giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện đáp ứng yêu cầu cao của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia

68

trong tình hình mới. Văn hóa đồn biên phòng mang đậm sắc thái của văn hóa

bảo vệ biên giới quốc gia chứa đựng các thành tố như: Hệ giá trị văn hóa, quan

hệ văn hóa, cảnh quan văn hóa, hoạt động văn hóa, thiết chế văn hóa.

Mỗi đồn biên phòng với tính cách là một tổ chức quân sự, một đơn vị

cơ sở, một môi trường văn hóa có tính đặc thù chi phối quá trình hình thành,

phát triển nhân cách cũng như ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng. Do đó, môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt

đẹp, lành mạnh, thuận lợi sẽ tạo động lực, thúc đẩy quá trình hình thành, phát

triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ; và ngược lại,

nếu môi trường văn hóa đồn biên phòng không thuận lợi, chứa đựng những

yếu tố phản văn hóa, phản giáo dục sẽ kìm hãm, cản trở quá trình hình thành,

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

chỉ có thể được hình thành, phát triển tích cực, với chất lượng cao khi nó được

thực hiện trong môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh; ở đó hạ

sĩ quan, binh sĩ được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện trong môi trường nhân ái,

đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, bình đẳng, dân chủ và kỷ luật,

kỷ cương. Mọi hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt của hạ sĩ quan, binh sĩ đều

hướng đến mục tiêu hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

họ. Sự tác động của môi trường văn hóa ở các đồn biên phòng biên giới Việt

Nam - Trung Quốc đến phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ được

biểu hiện và thực hiện thông qua các mối quan hệ xã hội, quan hệ quân sự

thường nhật của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng. Đây cũng chính là yếu

tố quan trọng mà nhờ đó ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng được hình thành và phát triển theo thời gian.

Các mối quan hệ của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc rất đa dạng, phong phú như: quan hệ với lãnh đạo,

chỉ huy; quan hệ với đồng chí, đồng đội; quan hệ với các tổ chức trong đơn

vị; quan hệ với thân nhân, bạn bè; quan hệ với địa phương, nhân dân khu

vực đóng quân,... Các mối quan hệ đó xuất hiện hàng ngày trong mọi hoạt

69

động của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc hòa quyện với nhau tạo nên một môi trường văn hóa đặc thù ở

các đồn biên phòng nơi đây. Môi trường đó tất yếu tác động đến quá trình

hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ; cùng với sự

tiếp nhận các giá trị từ môi trường văn hóa ở các đồn biên phòng là sự tác

động tích cực trở lại của chủ thể hạ sĩ quan, binh sĩ đối với môi trường văn

hóa ở các đồn biên phòng trong tính độc lập tương đối của mối quan hệ

biện chứng đó. Điều này làm cho môi trường văn hóa ở các đồn biên phòng

ngày càng phát triển đa dạng, phong phú hơn.

Hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của các đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc tương đối đa dạng, phong phú không chỉ bó hẹp

trong phạm vi đơn vị mà trải rộng trên địa bàn biên giới đảm nhiệm. Đó có

thể là các tổ, chốt, trạm kiểm soát tại các cửa khẩu, đường mòn, lối mở trên

biên giới; tại vị trí các mốc quốc giới, dấu hiệu đường biên giới; tại tổ, đội

công tác địa bàn xã, bản biên giới; cũng có khi hoạt động ở các địa bàn ngoại

biên (địa bàn biên giới nước đối diện) trong thực hiện các chuyên án đấu

tranh với tội phạm,... Đặc điểm này làm cho các quan hệ và hoạt động văn

hóa của đồn biên phòng thêm phong phú, đa dạng.

Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ

biên giới quốc gia có chức năng, nhiệm vụ “Thực hiện quản lý nhà nước về

quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy

trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu” [, tr. 9]. Việc

thực hiện nhiệm vụ trên không gian địa bàn biên giới trải dài, rộng lớn với

nhiều khó khăn, hiểm nguy, thách thức đòi hỏi ý chí quyết tâm cao của cán

bộ, chiến sĩ nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ; đó vừa là trách nhiệm đồng thời cũng

là vinh dự, tự hào của những người lính nơi tuyến đầu Tổ quốc. Bảo vệ vững

chắc biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa

bàn biên giới, xây dựng biên giới ổn định, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát

triển, không để xảy ra tranh chấp, xung đột tạo dựng môi trường hòa bình, ổn

định, tạo thuận lợi cho các lực lượng ở địa bàn biên giới yên tâm công tác,

nhân dân địa bàn biên giới yên tâm gắn bó với bản làng biên giới; vừa phát

70

triển kinh tế, xã hội vừa bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia. Chính chức

năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng quy định mọi hoạt động của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của họ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Môi trường văn hóa đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

quy định đến việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực,

thúc đẩy hay cản trở tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng đồn biên phòng,

từng địa bàn mà hạ sĩ quan, binh sĩ công tác, học tập, sinh hoạt.

Thực tiễn ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc cho

thấy đơn vị nào có môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực, mọi hoạt động

đều hướng tới thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia sẽ trở thành nhân

tố thúc đẩy hạ sĩ quan, binh sĩ trong đơn vị tích cực, hăng say học tập, rèn

luyện phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Môi trường văn hóa đồn

biên phòng tốt đẹp, lành mạnh sẽ đem đến những giá trị tích cực trong quá

trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ. Những giá trị truyền thống cao đẹp của Bộ đội Biên phòng như:

truyền thống “Đoàn kết cảnh giác; liêm, chính, kiệm, cần; hoàn thành nhiệm

vụ; dũng cảm trước địch; vì nước quên thân; trung thành với Đảng; tận tụy

với dân” [, tr. 155 - 156] được phát huy, tỏa sáng, là niềm vinh dự, tự hào

được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng tiếp nối, phát huy góp phần hình thành các thế hệ có ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia sâu sắc. Ngược lại, môi trường văn hóa đồn biên

phòng không hướng tới nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia hay thiếu vắng

những giá trị tích cực, lành mạnh sẽ kìm hãm, cản trở quá trình phát triển ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Vì vậy,

điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa đồn biên phòng là nhân tố cơ

bản, quan trọng quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng.

2.2.3. Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng

biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong tự ý thức về bảo vệ biên giới quốc gia

71

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

cũng như các phẩm chất khác của họ không phải tự nhiên có được, mà là kết

quả của quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của các chủ thể tác động

cùng với quá trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của bản thân hạ sĩ quan,

binh sĩ. Trong mối quan hệ đó, chủ thể tác động giữ vai trò quan trọng, hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng giữ vai trò trực tiếp quyết định đến ý thức bảo

vệ biên giới quốc gia của họ. Tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện được

xem là một nguyên tắc rất quan trọng trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, nó được biểu hiện ở tinh thần tự giác,

tự nguyện, khát khao vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, bồi đắp tình cảm,

xây dựng niềm tin, xác định thái độ trách nhiệm và ý chí quyết tâm cao trong

thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. V.I. Lênin chỉ rõ: “Không tự

mình chịu bỏ ra một công phu nào đó thì không thể tìm ra chân lý trong bất cứ

một vấn đề hệ trọng nào cả; và hễ ai sợ tốn công sức thì không sao tìm ra chân

lý được” [, tr. 82]; đồng thời nhấn mạnh: “Không có sự xúc cảm của con

người thì xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý” [, tr. 131].

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng, lý luận có nhiều

quan điểm sâu sắc về vấn đề giáo dục, rèn luyện và tự giáo dục, rèn luyện mà

còn là một tấm gương sáng về tự giáo dục, rèn luyện. Người chỉ rõ: “Đạo đức

cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ

hàng ngày mà phát triển và củng cố” [, tr. 612]. Ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng sẽ khó hình thành, phát triển, nếu

các yếu tố cấu thành nhân tố chủ quan của họ không được phát huy trong quá

trình tiếp nhận, chuyển hóa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí thành thái độ

trách nhiệm, bản lĩnh và hành động bảo vệ biên giới quốc gia.

Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng thực hiện nhiệm vụ trong điều

kiện đặc thù gắn với đặc điểm hoạt động phân tán, nhỏ lẻ của các đồn biên

phòng và tính chất khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của địa bàn biên giới. Thực

tiễn bảo vệ biên giới quốc gia phong phú, đa dạng, phức tạp với nhiều tình

huống bất ngờ, nhạy cảm, khó dự báo. Quá trình hình thành, phát triển ý thức

72

bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là quá

trình giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan.

Đề cập đến nhân tố chủ quan chính là đề cập đến những chủ thể, con

người cụ thể. Theo đó, nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là tổng thể những yếu tố phẩm chất,

năng lực, thể chất, tinh thần, động cơ, thái độ, trình độ, phương pháp, tác phong

công tác; sự tích cực, chủ động, tự giác; sự cố gắng, nỗ lực của chủ thể được chủ

thể huy động vào quá trình cải biến khách thể nhằm đạt mục đích đặt ra.

Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc tiếp nhận, chuyển hóa những quá trình tác

động từ bên ngoài thành quá trình tự thân của họ, đó là quá trình tự giáo

dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện một cách chủ động, tích cực của bản thân

hạ sĩ quan, binh sĩ. Đây không chỉ là quá trình chủ động chiếm lĩnh những

giá trị chung mà còn là quá trình tổng hợp, phân tích, kế thừa chọn lọc,

chuyển hóa những tri thức khoa học lĩnh hội được thành mục tiêu, lý tưởng,

hoài bão, khát vọng; thành tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh của họ trong

suốt quá trình học tập, công tác, sinh hoạt và trong mọi hoạt động bảo vệ

biên giới quốc gia. Quá trình đó đều chịu sự quy định rất lớn của nhân tố

chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

trước hết chịu sự quy định bởi trình độ tri thức toàn diện của họ về bảo vệ

biên giới quốc gia. Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng đặc biệt là tri thức chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ

công tác biên phòng là cơ sở hình thành tình cảm, niềm tin, ý chí, thái độ

trách nhiệm, bản lĩnh và hành động của họ trong bảo vệ biên giới quốc gia.

Hệ thống tri thức đó càng đầy đủ, sâu rộng thì ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng càng được định hình rõ nét và phát

triển vững chắc. Ngược lại, nếu hệ thống tri thức này thiếu hoặc yếu sẽ cản

trở sự hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

73

Tình cảm, niềm tin, ý chí của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng quy

định kết quả chuyển hóa chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mang

tính khách quan từ các chủ thể tác động thành nhu cầu tự thân mang tính chủ

quan của hạ sĩ quan, binh sĩ. Tình cảm sâu sắc, chân chính bằng tình yêu đối

với Tổ quốc, với bản làng biên giới; niềm tin vững chắc vào sự nghiệp bảo vệ

biên giới quốc gia; niềm vinh dự và trách nhiệm cao cả, thiêng liêng của cá

nhân trước chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là những yếu tố quan trọng

cấu thành nhân tố chính trị tinh thần giúp họ xác định thái độ trách nhiệm

chính trị, xây dựng bản lĩnh và ý chí quyết tâm cao sẵn sàng vượt qua mọi

khó khăn, thử thách, gian khổ thậm chí hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ

quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tình cảm, niềm tin của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng càng sâu sắc thì ý chí, bản lĩnh và hành động sẵn sàng

vượt mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh của họ càng cao; và ngược lại, tình cảm,

niềm tin bị phai nhạt, giảm sút thì ý chí quyết tâm, bản lĩnh và hành động

vượt khó của họ cũng bị giảm sút, khó đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra ngày

càng cao trong thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia.

Phẩm chất chính trị xã hội của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cũng

là một trong những nhân tố chính trị tinh thần to lớn quy định ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của họ. Hệ thống phẩm chất xã hội của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng gồm: Phẩm chất chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối

sống, phẩm chất kỷ luật,... được biểu hiện ở lòng trung thành tuyệt đối với

Đảng, Tổ quốc và nhân dân; sự kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội; chấp hành nghiêm mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách và luật pháp của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, quy định của đơn vị,

địa phương địa bàn công tác; vinh dự và trách nhiệm quân nhân; thái độ trách

nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; tinh thần đoàn kết, thương

yêu đồng chí, đồng đội; tình yêu đối với biên giới, biên cương, gắn bó với bản

làng biên giới; lối sống văn hóa chuẩn mực, lành mạnh; tinh thần trung thực,

thẳng thắn, vượt qua những cám dỗ vật chất tầm thường nơi biên giới, cửa

74

khẩu; tinh thần đoàn kết cảnh giác, liêm, chính, kiệm, cần, khắc phục khó

khăn, hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Những phẩm chất chính trị xã hội đó của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng là nhân tố chính trị tinh thần quan trọng để họ tiếp nhận, chuyển hóa,

hiện thực hóa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh thành hành động cụ

thể trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của mình. Thực tiễn bảo vệ

biên giới quốc gia biên giới Việt Nam - Trung Quốc đòi hỏi hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng phải có các phẩm chất chính trị xã hội cần thiết ở trên làm

cơ sở để họ tiếp nhận sự tác động của các chủ thể giáo dục, rèn luyện qua đó

hình thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Phẩm chất chính trị xã hội

cũng là động lực tinh thần để hạ sĩ quan, binh sĩ cố gắng, nỗ lực, chủ động

tiếp nhận, chiếm lĩnh các tri thức, các giá trị một cách tự thân biến quá trình

giáo dục, rèn luyện thành quá trình tự giáo dục, rèn luyện để hình thành ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của bản thân mình đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

được giao. Ngược lại, nếu hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không có các

phẩm chất chính trị xã hội đủ tốt sẽ khó có thể vượt qua những khó khăn, thử

thách, gian khổ, khó có thể bám trụ ở địa bàn biên giới, dễ sa ngã trước các

cám dỗ, chùn bước trước khó khăn, không thể hoàn thành nhiệm vụ.

Năng lực toàn diện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng quy định

kết quả hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Năng lực của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng gồm có: năng lực nhận

thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn.

Năng lực nhận thức là khả năng hiểu biết, nắm bắt, chiếm lĩnh các tri thức

khoa học nhất là tri thức khoa học biên phòng, thể hiện trình độ nhận thức

của họ. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ là khả năng nắm vững và thành

thạo kỹ thuật, chiến thuật biên phòng, các biện pháp nghiệp vụ công tác

biên phòng từ đó có thể tham mưu, đề xuất, vận dụng linh hoạt trong thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Năng lực hoạt động thực tiễn là

khả năng trực tiếp tổ chức triển khai, thực hiện các hoạt động, các nhiệm

75

vụ cụ thể trong bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng một cách có

hiệu quả. Sự tổng hòa của các loại hình năng lực đó tạo nên năng lực toàn

diện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng quy định, chi phối quá trình

hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ

sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào mức

độ chuyển hóa từ yêu cầu khách quan thành nỗ lực chủ quan của họ. Tự giáo

dục, rèn luyện làm chủ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và nỗ lực phấn đấu vươn

lên với thái độ trách nhiệm cao, bản lĩnh vững vàng, ý chí quyết tâm cao là

nội lực bên trong thôi thúc quá trình hình thành ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của họ; đồng thời cũng là nhân tố khẳng định sự cống hiến và trưởng

thành của hạ sĩ quan, binh sĩ trong thời gian tại ngũ. Tự giáo dục, rèn luyện là

con đường, cách thức cơ bản để hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng bổ sung,

hoàn thiện về tri thức cũng như các phẩm chất, năng lực cần thiết khác trong quá

trình hoàn thiện nhân cách người quân nhân cách mạng. Sinh thời chủ tịch Hồ

Chí Minh từng căn dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời

phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ

rồi, biết hết rồi” [, tr. 377]. Quá trình tự giáo dục, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh

sĩ là một quá trình tiếp nhận, chuyển hóa và giải quyết các mâu thuẫn giữa các

mặt, các yếu tố trong nhân cách quân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng trước các yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra.

Sự hình thành, phát triển các phẩm chất, năng lực trong nhân tố chủ

quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ

giữa những tác động khách quan từ quá trình giáo dục, rèn luyện của các chủ

thể tác động với sự cố gắng, nỗ lực chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ thông qua

quá trình tự giáo dục, rèn luyện. Quá trình này luôn mang đậm dấu ấn cá nhân

của hạ sĩ quan, binh sĩ. Trong quá trình tự giáo dục, rèn luyện hạ sĩ quan, binh

sĩ vừa là chủ thể giáo dục, rèn luyện nhưng đồng thời vừa là đối tượng của

quá trình ấy. Vai trò của tự giáo dục, rèn luyện trong quá trình hình thành,

76

phát triển các phẩm chất, năng lực chủ quan của họ là rất quan trọng. Thực tế

cho thấy, dù kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức có hay

đến mấy và các chủ thể tác động có cố gắng bao nhiêu chăng nữa thì mục tiêu

giáo dục, rèn luyện cũng không thể đạt được nếu bản thân đối tượng giáo dục,

rèn luyện không tự giác, chủ động, tích cực lĩnh hội, rèn luyện.

Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không hình

thành tự phát mà được hình thành tự giác qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ

hằng ngày, trong học tập, công tác, lao động, huấn luyện, sẵn sàng chiến

đấu và chiến đấu, trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Hoạt

động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng đóng vai trò

đặc biệt quan trọng, nó có những ưu thế mà trong quá trình huấn luyện

không có được đó là tính đa dạng, phong phú, là tính bất ngờ, sự căng

thẳng và diễn biến mau lẹ của các tình huống đấu tranh nảy sinh trên biên

giới; sự khó khăn, khắc nghiệt của địa hình, khí hậu biên giới. Chính thực

tiễn hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia mà hạ sĩ quan, binh sĩ được hòa

mình vào đó sẽ cho họ những trải nghiệm thực tế vô cùng bổ ích, từ đó có

thêm kinh nghiệm, rèn luyện bản lĩnh chiến đấu, ý chí quyết tâm, tinh thần

dũng cảm dám đối mặt, đương đầu với khó khăn, thử thách, hy sinh để bảo

vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.

Bên cạnh các nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc trình bày ở trên; ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh

sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc còn chịu sự tác

động của nhiều nhân tố khác như: chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan,

binh sĩ và thân nhân của họ; vũ khí, trang bị, phương tiện; cơ sở vật chất

bảo đảm; đời sống vật chất, tinh thần của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng; tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc; đối tượng đấu tranh của

Bộ đội Biên phòng; âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù

địch và các loại tội phạm ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc; yêu cầu,

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam - Trung Quốc đặt ra,… Tuy

77

nhiên, đây chỉ được xem là những nhân tố tác động, chi phối đến việc hình

thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Những nhân tố cơ bản trên có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với

nhau, trực tiếp tác động, quy định quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo

vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Mặc dù vậy, ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chỉ có

thể hình thành, phát triển đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra khi bản thân hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng biết phát huy vai trò nhân tố chủ quan, nỗ lực

vượt qua khó khăn, gian khổ, thử thách, hiểu rõ vị trí, vai trò, vinh dự và trách

nhiệm chính trị cao cả của bản thân đối với sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ

quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.

78

Kết luận chương 2

Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Bảo vệ biên giới

quốc gia là công việc trọng đại của mọi quốc gia dân tộc trong đó Việt Nam

không phải là ngoại lệ. Bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam là sứ mệnh thiêng

liêng, cao cả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và

mỗi người dân Việt Nam. Bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam là tổng thể

cách thức, biện pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sử

dụng để chống lại mọi hoạt động xâm phạm lãnh thổ, biên giới quốc gia nhằm

giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới

quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc là lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới

quốc gia, có vai trò rất quan trọng ở các đồn biên phòng. Để hoàn thành chức

trách, nhiệm vụ đặc biệt là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia cần

phải xây dựng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ ngang tầm với yêu cầu,

nhiệm vụ đặt ra trong tình hình hiện nay.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức,

tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ ở

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo thành sức mạnh

chính trị - tinh thần để họ hoàn thành tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách, trực

tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chịu sự quy định bởi chất lượng giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; điều kiện

kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa đồn biên phòng và vai trò nhân tố chủ

quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Các nhân tố cơ bản trên có vai

trò nhất định và có mối quan hệ biện chứng với nhau, quy định quá trình hình

thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

79

Chương 3

THỰC TRẠNG Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA

HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI

VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay

3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân

* Ưu điểm

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ

đội Biên phòng; Đảng uỷ, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh; cấp uỷ, chỉ

huy các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc thường xuyên đề cao

trách nhiệm, tích cực, chủ động trong xây dựng các nội dung, hình thức, biện

pháp nâng cao ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Theo đó,

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên

giới Việt Nam - Trung Quốc ngày càng được nâng cao đáp ứng với yêu cầu

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia được biểu hiện ở các nội dung sau:

Một là, về tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tương đối toàn diện, đúng đắn.

Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phần lớn là con em đồng bào các

dân tộc sinh sống ở các tỉnh, huyện biên giới nên các hoạt động giáo dục về

bảo vệ biên giới quốc gia được quan tâm, chú trọng ở các trường học và các

tổ chức đoàn thể địa phương; 87,6% tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên

[Phụ lục 3]. Trước khi nhập ngũ họ đều có những tri thức bước đầu về bảo vệ

biên giới quốc gia thông qua một số hoạt động giáo dục ở gia đình, nhà

trường và đoàn thể địa phương nơi sinh sống. Những tri thức này mới chỉ là

những hiểu biết ban đầu nhưng có vai trò quan trọng, là cơ sở để họ có được

nhận thức sâu sắc hơn về bảo vệ biên giới quốc gia sau khi nhập ngũ và về

các đồn biên phòng công tác. Thông qua các chương trình giáo dục, huấn luyện,

80

rèn luyện và hoạt động thực tiễn ở các đồn biên phòng các tri thức về bảo vệ

biên giới quốc gia của họ được trang bị toàn diện, đầy đủ, hoàn thiện hơn.

Với đặc điểm về độ tuổi còn trẻ nên hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

khá năng động, nhạy bén với tri thức mới. Đa số đều có nhận thức tốt về vị

trí, vai trò quan trọng của biên giới quốc gia và nhiệm vụ bảo vệ biên giới

quốc gia; khẳng định biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, có

vai trò quan trọng chiến lược về mọi mặt của đất nước. Sự hiểu biết của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được thể hiện ở sự nắm vững các nội dung

cơ bản trong các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về

biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia; chính sách đối ngoại của

Đảng, Nhà nước ta với các nước có chung đường biên giới, hệ thống pháp

luật quốc gia và luật pháp quốc tế có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia.

Họ cũng hiểu rằng, mất biên giới là mất Tổ quốc, là lãnh thổ bị xâm phạm; do

đó, bảo vệ biên giới quốc gia là tất yếu, là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng. Kết

quả điều tra xã hội học cho thấy 77,2% hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

khẳng định biên giới quốc gia là rất quan trọng, 81,2% khẳng định bảo vệ

biên giới quốc gia hiện nay là rất cần thiết [Phụ lục 3].

Từ nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biên giới quốc gia,

biên giới quốc gia cũng như tính tất yếu phải bảo vệ biên giới quốc gia thông

qua các hoạt động giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục truyền

thống tại đơn vị, tri thức của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về bảo vệ

biên giới quốc gia được đầy đủ, toàn diện hơn. Qua điều tra, khảo sát 82,4%

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đều nhận thức đúng về các nội dung bảo vệ

biên giới quốc gia [Phụ lục 3].

Các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã tích cực chủ

động tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng nâng cao nhận thức về quan điểm, chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia

cũng như các hiệp định, nghị định thư về biên giới và quy chế biên giới. Đặc

biệt tuyên truyền “Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia” cũng như các nội

81

dung có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia trình bày trong các Văn kiện

Đại hội Đảng các cấp.

Kết quả giáo dục chính trị tại đơn vị của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hằng năm đạt 100% chương trình, nội

dung; quân số đạt 98,5% trở lên; kết quả kiểm tra 100% đạt yêu cầu, tính trung

bình có 84,77 % trở lên khá, giỏi, tỉ lệ giỏi đạt 21,63% trở lên [Phụ lục 5]. Báo

cáo Sơ kết 5 năm thực hiện đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị

trong giai đoạn mới” của Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Lào Cai đánh giá:

Các đồn biên phòng đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức

triển khai thực hiện nghiêm các kế hoạch, hướng dẫn công tác giáo dục chính

trị, đảm bảo chương trình, nội dung,… Cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị

kiên định vững vàng, nhận thức đúng đắn tình hình nhiệm vụ công tác biên

phòng, âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch và các loại đối tượng, xác định

tốt trách nhiệm, động cơ phấn đấu đúng đắn, vượt qua khó khăn, hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ [, tr. 5]. Đánh giá về nội dung này Bộ chỉ huy Bộ đội Biên

phòng Cao Bằng chỉ rõ: Những năm qua, các đồn biên phòng của Bộ đội Biên

phòng Cao Bằng đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc kế hoạch giáo dục

chính trị hàng năm của các cấp, tỉ lệ khá giỏi đạt từ 80% trở lên; nhận thức,

trách nhiệm chính trị của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên; qua đó đã góp phần

củng cố tư tưởng, niềm tin, ý chí của cán bộ, chiến sĩ, giúp họ nhận và hoàn

thành tốt mọi nhiệm vụ được giao [, tr. 6].

Trong công tác huấn luyện chiến đấu, các đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc đã quán triệt, triển khai thực hiện tốt các Nghị quyết,

Chỉ thị, Mệnh lệnh huấn luyện hằng năm của các cấp như: Nghị quyết 454-

NQ/ĐU của Đảng ủy Bộ đội Biên phòng về nâng cao chất lượng huấn luyện

giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo; Mệnh lệnh huấn luyện của Tư

lệnh Bộ đội Biên phòng. Thực hiện huấn luyện theo đúng chương trình, nội

dung, thời gian, quân số bảo đảm toàn diện cả về chính trị, quân sự, pháp luật,

nghiệp vụ, hậu cần, kỹ thuật trọng tâm là huấn luyện pháp luật, nghiệp vụ, kỹ

thuật, chiến thuật biên phòng sát với yêu cầu, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của các

đơn vị và nghệ thuật tác chiến của Bộ đội Biên phòng. Tổ chức điều hành huấn

82

luyện chặt chẽ, đảm bảo nội dung, thời gian, tiến độ huấn luyện; điều chỉnh kế

hoạch huấn luyện phù hợp với từng địa bàn, đơn vị và từng cấp độ dịch nhất là

từ khi xuất hiện dịch Covid - 19 để huấn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đang làm

nhiệm vụ phòng, chống dịch tại các tổ, chốt công tác; huấn luyện bù, huấn luyện

vét cho hạ sĩ quan, binh sĩ tăng cường tham gia phòng, chống dịch sau khi hoàn

thành nhiệm vụ; gắn huấn luyện với thực hiện mục tiêu kép, bảo vệ vững chắc

biên giới quốc gia và tham gia phòng, chống dịch hiệu quả.

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được các đồn biên phòng quan

tâm thông qua việc thực hiện hiệu quả “Đề án tăng cường phổ biến, giáo dục

pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo” trong đó có hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng. Hiểu biết pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ

sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng lên. Các văn bản quy phạm pháp luật

về bảo vệ biên giới quốc gia liên quan trực tiếp đến biên giới Việt Nam - Trung

Quốc được hạ sĩ quan, binh sĩ nắm và nhận thức cơ bản như: Luật Biên giới

quốc gia 2003; Luật Biên phòng Việt Nam 2020; Nghị định 34/2014/NĐ-CP

ngày 29/4/2014 về quy chế khu vực biên giới đất liền; Nghị định 96/2020 ngày

24/8/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ

biên giới quốc gia,… Các hiệp định, nghị định thư được ký kết giữa Việt Nam

và Trung Quốc. Kết quả giáo dục pháp luật từ 2016 - 2022 cho thấy trung bình

chung 100% đạt yêu cầu, trong đó 87,42% trở lên khá, giỏi [Phụ lục 7].

Công tác huấn luyện nghiệp vụ cũng được các đồn biên phòng nơi đây

chú trọng nhằm trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ các kiến thức, kỹ năng về nghiệp

vụ công tác biên phòng như: nghiệp vụ quản lý, bảo vệ biên giới; tuần tra bảo vệ

hệ thống mốc quốc giới, dấu hiệu nhận biết đường biên giới; nghiệp vụ công tác

đối ngoại biên phòng; nghiệp vụ quản lý, kiểm soát người, phương tiện qua lại

biên giới; quy trình xử lý các vụ việc; quyền hạn, thủ tục bắt, khám xét, khởi tố,

điều tra của Bộ đội Biên phòng theo luật định; kỹ, chiến thuật điều tra hình

sự,v.v.. Kết quả huấn luyện nghiệp vụ từ 2016 - 2022 cho thấy trung bình chung

có 100% đạt yêu cầu, trong đó 87,58% trở lên khá, giỏi [Phụ lục 8].

Nhận thức của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về âm mưu, phương

thức, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các loại tội

83

phạm ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc được nâng lên. Đa số hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng có những hiểu biết cơ bản về đối tác, đối tượng, đối

tượng đấu tranh của Bộ đội Biên phòng phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh

cụ thể nhất là trong quan hệ với nước láng giềng từ đó có đối sách giải quyết

các xung đột, bất đồng đúng đường lối quan điểm của Đảng, Nhà nước ta phù

hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.

Thông qua hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tri thức của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và toàn

diện hơn; ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng được nâng cao giúp hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hoàn thành tốt

chức trách, nhiệm vụ. Chỉ tính riêng năm 2021, hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng trong đó có hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt

Nam - Trung Quốc đã tham gia đấu tranh thành công 119 chuyên án; chủ trì,

phối hợp bắt giữ 10.305 vụ/35.485 đối tượng. Trong đó, tội phạm ma túy 830

vụ/1.192 đối tượng, thu giữ 1.316 kg ma túy các loại; tội phạm buôn lậu và

gian lận thương mại 1.535 vụ/786 đối tượng; tội phạm mua bán người 21 vụ/

20 đối tượng, giải cứu 33 nạn nhân; xuất, nhập cảnh trái phép 4.968

vụ/24.986 người; mua bán, tàng trữ trái phép vũ khí, vật liệu nổ 27 vụ/36 đối

tượng, thu 28 súng các loại, 72.381 viên đạn, 318 kg thuốc nổ, 6.256 kíp nổ,

450 m dây cháy chậm, 02 quả mìn tự tạo, v.v.. [, tr. 2].

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ Bộ đội Biên phòng

nhiệm kỳ 2015 - 2020 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ

XV khẳng định: 5 năm qua các đơn vị biên phòng trong đó có các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã xử lý, giải quyết hiệu quả các vụ

việc về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phối hợp với các lực lượng thực

hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm,…xác lập

nhiều chuyên án, kế hoạch nghiệp vụ đấu tranh có hiệu quả với các đường dây

tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại nhất là tội phạm ma túy [, tr. 9].

Có thể khẳng định, thông qua nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền,

giáo dục, huấn luyện, rèn luyện các nội dung liên quan đến bảo vệ biên giới

quốc gia, tri thức của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không ngừng tăng lên

84

theo hướng đầy đủ, hoàn thiện, hệ thống hơn thể hiện qua kết quả kiểm tra nhận

thức trên các mặt chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ.

Đây là cơ sở quan trọng để bồi đắp tình cảm, củng cố niềm tin, ý chí quyết tâm

của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng làm chuyển hóa thành ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia của họ trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Hai là, về tình cảm bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Tình cảm hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia, với biên cương Tổ

quốc và địa bàn biên giới khá sâu sắc.

Tình cảm sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng được thể hiện trước hết ở tình yêu quê hương,

đất nước, tình yêu đối với bản làng và nhân dân nơi biên giới. Hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng đa số là con em đồng bào các dân tộc cư trú ở địa bàn

biên giới, sinh ra và lớn lên gắn bó với bản làng, núi rừng biên giới vì vậy đối

với họ biên giới chính là quê hương, là nơi gắn kết gia đình, dòng họ, với

truyền thống văn hóa của đồng bào các dân tộc, văn hóa biên cương, tình yêu

biên cương đã thấm đượm trong họ ngay từ nhỏ. Biên giới là nơi lưu giữ, ghi

dấu biết bao mồ hôi, máu xương của các thế hệ ông cha đã chiến đấu anh

dũng để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Tình cảm đó không chỉ

do công tác tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện, bồi dưỡng của các cấp ủy

đảng, người chỉ huy trong toàn đơn vị, mà còn là kết quả tất yếu của quá trình

tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng với tư cách

là chủ thể dựa trên nền tảng tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia. Chỉ có trên

cơ sở hiểu biết đầy đủ, sâu sắc, thấy được ý nghĩa cao cả thiêng liêng, tầm

quan trọng của công việc mình đảm nhiệm hạ sĩ quan, binh sĩ mới có tình cảm

yêu mến công việc, coi đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm vinh dự,

tự hào của bản thân từ đó sẵn sàng vượt mọi khó khăn, gian khổ nhận và hoàn

thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Kết quả điều tra xã hội cho thấy, có

83,6% hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng khi được hỏi thể hiện rất yêu mến,

rất gắn bó với quê hương, biên giới [Phụ lục 3].

85

Tình cảm đó được thể hiện ở chính những việc làm cụ thể hằng ngày

của họ, bằng việc hòa mình với thực tiễn khó khăn nơi biên giới, bám dân,

bám địa bàn, bám đối tượng, nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được

giao. Tình cảm đó còn được thể hiện bằng những phong trào hành động cách

mạng của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng như: “Tuổi trẻ Bộ đội Biên

phòng tiếp bước cha anh, xứng danh Bộ đội cụ Hồ”, “Thanh niên xung kích

bảo vệ đường biên”,... Nhiều cuộc vận động như: “Quần chúng tham gia xây

dựng và bảo vệ biên giới’, “Xuân Biên phòng, ấm lòng dân bản”,... Nhiều mô

hình hay, cách làm sáng được hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng thực hiện

như: “Ánh sáng vùng biên”, “Nâng bước em tới trường”, “Con nuôi đồn biên

phòng”, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ

cho đồng bào các dân tộc ở địa bàn biên giới .v.v.. [Phụ lục 10]. Hình ảnh

người “thầy giáo quân hàm xanh”, “thầy thuốc quân hàm xanh”, “chiến sĩ văn

hóa quân hàm xanh” trở thành hình ảnh đẹp đẽ, thân thương trong lòng người

dân biên giới, tô thắm thêm phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.

Tình cảm sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được thể hiện ở lòng tự hào về truyền thống

cách mạng của Đảng, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và các

dân tộc nơi đây. Nhiều cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng và nhân dân các

dân tộc ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã kề vai, sát cánh, anh dũng

chiến đấu hy sinh để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ biên

giới quốc gia nhất là trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 và

giai đoạn sau đó từ 1979 - 1989. Truyền thống đó tiếp tục được các thế hệ cán

bộ, chiến sĩ trong đó có hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng gìn giữ và phát huy

trong giai đoạn hiện nay, xác định đó là niềm vinh dự, tự hào, là tình cảm và

trách nhiệm vẻ vang của mình đối với Tổ quốc; từ đó nêu cao ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia, không quản ngại gian lao, vất vả, sẵn sàng hy sinh, bảo vệ

vững chắc biên cương Tổ quốc. Qua điều tra xã hội học cho thấy, có 80,4%

hạ sĩ quan, binh sĩ được hỏi đều rất vinh dự, tự hào với truyền thống cách

mạng vẻ vang của Đảng, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và

các dân tộc ở địa bàn biên giới [Phụ lục 3].

86

Ba là, về niềm tin bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia sâu sắc và vững chắc.

Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tin tưởng vào thắng lợi của sự

nghiệp đổi mới đất nước, vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều

hành của Nhà nước. Thực tiễn cách mạng Việt Nam nhất là thắng lợi của cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, thắng lợi của chiến

tranh biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam và thành tựu của công cuộc đổi

mới đất nước minh chứng cho niềm tin đó là đúng đắn và có cơ sở khoa học.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước đạt được qua hơn 35

năm đổi mới khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng

cao của nước ta. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt của địa bàn

biên giới Việt Nam - Trung Quốc càng củng cố niềm tin vững chắc cho hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây vào vai trò của hệ thống chính trị các

cấp, vào chế độ, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hầu hết

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đều thể hiện ở thái độ vui mừng, phấn khởi

trước những phát triển, đổi thay, diện mạo mới của đất nước và địa bàn biên

giới; có thái độ chính trị đúng đắn, có quyết tâm cao và tự giác, nghiêm chỉnh

chấp hành đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà

nước, tích cực tham gia vào các chương trình, kế hoạch của địa phương, xây

dựng địa bàn biên giới giàu mạnh.

Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn thể hiện ở sự tin

tưởng vào sức mạnh chiến đấu của Quân đội, Bộ đội Biên phòng, sức mạnh,

khả năng chiến đấu của các lực lượng trên địa bàn biên giới, khi xảy ra xung đột,

chiến tranh biên giới. Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới

Việt Nam - Trung Quốc năng nổ, nhiệt tình, xung kích, sáng tạo, không chỉ có

hiểu biết, có tình cảm sâu sắc với biên cương Tổ quốc, với sự nghiệp bảo vệ biên

giới quốc gia mà còn có niềm tin vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới quốc gia. Kết quả điều tra xã hội học

87

cho thấy có 91,4% hạ sĩ quan, binh sĩ có niềm tin vững chắc từ mức tin tưởng trở

lên (trong đó 80,8% rất tin tưởng và 10,6% tin tưởng) vào sự lãnh đạo của Đảng,

sự quản lý điều hành của Nhà nước, vào thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước,

sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng

khi xảy ra chiến tranh, xung đột biên giới [Phụ lục 3].

Bốn là, về ý chí bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc có ý chí quyết tâm cao, kiên cường bám trụ nơi biên giới, sẵn sàng bảo

vệ vững chắc biên giới quốc gia, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Trên cơ sở nhận thức đầy đủ, toàn diện; với tình cảm, niềm tin sâu sắc

đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia; sự hòa quyện của tri thức, tình

cảm, niềm tin của họ tạo nên ý chí, động lực mạnh mẽ thôi thúc họ quyết tâm

trong hành động, trong mọi hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia. Do vậy, mỗi

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đều xác định rõ trách nhiệm và vinh dự của

mình đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng biên giới hòa

bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đồng thời cũng xác định rõ những khó

khăn trước mắt và lâu dài, yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc

gia và điều kiện, khả năng có hạn của đơn vị từ đó xây dựng ý chí quyết tâm

cao trong từng nhiệm vụ công tác.

Có nhận thức đúng, đầy đủ, hệ thống và có tình cảm, niềm tin sâu sắc

nhưng không có ý chí quyết tâm cao thì mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ nói riêng, toàn

đơn vị nói chung cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhận thức

đúng vai trò ý nghĩa của việc rèn luyện nâng cao ý chí quyết tâm của hạ sĩ

quan, binh sĩ; cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng nơi đây đã có nhiều chủ

trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, đưa hoạt động này trở thành

nhiệm vụ thường xuyên trong quá trình huấn luyện sẵn sàng chiến đấu cũng

như thử thách, giao nhiệm vụ trong thực tiễn công tác trên các địa bàn biên

giới, vừa để huấn luyện, rèn luyện, kiểm tra ý chí vượt khó, lòng quyết tâm

của từng hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực tiễn công tác từ đó có cơ sở đánh giá

sát đúng chất lượng, hiệu quả công tác của họ.

88

Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia,

tính chất hoạt động của Bộ đội Biên phòng bao hàm cả tính chất quân sự, an

ninh và đối ngoại. Bên cạnh đó, hoạt động của các đồn biên phòng chủ yếu

phân tán nhỏ, lẻ theo các tổ, đội công tác. Hơn nữa, địa bàn hoạt động trải

rộng, có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, đi lại khó khăn, dân trí thấp,

đời sống vật chất và tinh thần nhân dân còn nhiều thiếu thốn, là nơi các thế

lực thù địch và các loại tội phạm thường lợi dụng để chống phá. Đây còn là

địa bàn chiến lược về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối

ngoại, là tiền tiêu, “phên giậu”, “cửa ngõ” phía Bắc của đất nước với nhiều

cửa khẩu đường bộ, đường sắt thông thương với Trung Quốc như: Móng Cái

(Quảng Ninh), Hữu Nghị, Đồng Đăng (Lạng Sơn), Tà Lùng (Cao Bằng),

Thanh Thủy (Hà Giang), Kim Thành (Lào Cai),… Đối tượng đấu tranh của

Bộ đội Biên phòng đa dạng, phức tạp, nguy hiểm, tinh vi, xảo quyệt nhất là

tội phạm ma túy, buôn lậu có vũ trang, mua bán người, tình báo, gián điệp,…

Không chỉ trong thời chiến mà cả trong thời bình, mồ hôi, xương máu của cán

bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng vẫn đổ xuống trên các dải biên cương của Tổ

quốc. Đặc điểm đó đòi hỏi ý chí cao của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng với quyết tâm cao, bản lĩnh tốt, năng lực chuyên môn giỏi mới có thể

đảm đương, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, tinh thần quyết tâm vượt mọi khó

khăn gian khổ, hy sinh của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện chức

trách, nhiệm vụ được giao ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

nhất là trong các nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Kết quả điều tra xã hội học

cho thấy 71,2% hạ sĩ quan, binh sĩ được hỏi cho rằng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ

biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc rất khó

khăn vất vả, nhưng sẽ khắc phục và chắc chắn sẽ vượt qua; 74,8% rất quyết tâm,

luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao [Phụ lục 3].

Năm là, về kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của hạ

sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Kết quả thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia theo chức trách,

nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có nhiều chuyển biến tích cực.

89

Sự chuyển biến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng luôn gắn liền với sự chuyển biến trong tinh thần thái độ

trách nhiệm chính trị và kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao của

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Điều này được thể hiện ở chỗ đa số hạ sĩ

quan, binh sĩ luôn có tinh thần thái độ trách nhiệm cao với từng công việc,

nhiệm vụ được giao, làm đến nơi đến chốn, không bao giờ bỏ cuộc dù khó

khăn đến đâu; biểu hiện ở tất cả các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia mà

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tham gia như: hoạt động huấn luyện, sẵn

sàng chiến đấu; hoạt động tuần tra đường biên, cột mốc; kiểm soát xuất nhập

cảnh; đấu tranh phòng, chống tội phạm; hoạt động trinh sát địa bàn; công tác

vận động quần chúng; hoạt động tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, khắc phục thảm

họa thiên tai, dịch bệnh, công tác thiện nguyện,… Các hoạt động này đều

được hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây đón nhận, thực hiện với

thái độ tích cực, trách nhiệm và hiệu quả cao. Nhiều điển hình tiên tiến là hạ

sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng xuất hiện cả trong học tập, huấn luyện

sẵn sàng chiến đấu; trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhất là trong thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Từ năm 2016 đến năm 2022, các đồn biên phòng thuộc Bộ đội Biên phòng 7 tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc đã phát hiện, xử lý 716 vụ vi phạm quy chế biên giới, 13.977 vụ/80.368 đối tượng xuất nhập cảnh trái phép qua biên giới và cư trú trái phép ở địa bàn biên giới. Phát hiện, xử lý 4884 vụ/7.422 đối tượng buôn lậu; 825 vụ/1.140 đối tượng tội phạm ma túy; 608 vụ/854 đối tượng vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ; 165 vụ/274 đối tượng mua bán, vận chuyển tiền giả; 286 vụ/507 đối tượng tội phạm mua bán người qua biên giới. Đấu tranh ngăn chặn và xử lý giải quyết 377 vụ lấn chiếm biên giới; 710 vụ/2.257 đối tượng di cư tự do; 279 vụ/817 đối tượng truyền đạo trái pháp luật; 9.663 vụ/17.562 đối tượng vi phạm hành chính. Tổ chức tuần tra biên giới 29.839 lần/222.400 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia; phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới quốc gia của Trung Quốc tổ chức tuần tra song phương 306 lần/9.334 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia. Làm thủ tục xuất nhập cảnh cho 41.424.102 lượt người/9.253.819 lượt phương tiện của hai bên

90

qua lại biên giới. Chủ trì, phối hợp thành lập 704 tổ, chốt kiểm soát Covid - 19 với 10.065 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia. Điện đàm, trao đổi thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trao đổi đột xuất trên biên giới với lực lượng bảo vệ biên giới của Trung Quốc với 29.833 lượt. Tổ chức phát quang đường thông tầm nhìn biên giới tổng cộng 3464 km; tuyên truyền vận động nhân dân 24.912 buổi/1.119.399 lượt người tham gia; tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân địa bàn biên giới với 14.450 buổi/436.247 lượt người tham gia; lao động giúp đỡ dân 56.091 ngày công; vận động 28.406 lượt trẻ em đến trường; nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mua và trao tặng 10.729 con bò giống giúp hộ nghèo biên giới; khám, chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho 93.836 lượt người dân địa bàn biên giới, v.v.. [ Phụ lục 18].

Chỉ tính riêng năm 2022, các đồn biên phòng thuộc Bộ đội biên phòng tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức tuần tra biên giới 775 lần/6.284 lượt người; tuần tra song phương Việt Nam - Trung Quốc 02 lần/106 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia; phát quang 70 km đường thông tầm nhìn biên giới; phát hiện xử lý 18 vụ vi phạm quy chế biên giới; xử lý 427 vụ/698 đối tượng, trong đó tội phạm ma túy 17 vụ/26 đối tượng; xuất nhập cảnh trái phép 34 vụ/ 152 đối tượng; vận chuyển, mua bán vật liệu nổ 21 vụ/ 41 đối tượng; buôn lậu 162 vụ/ 197 đối tượng; các loại tội phạm hình sự khác 193 vụ/282 đối tượng. Làm thủ tục xuất, nhập cảnh cho 867.224 lượt người/701.764 lượt phương tiện; trao trả cho phía Trung Quốc 1.071 người Trung Quốc và tiếp nhận từ phía Trung Quốc 3.495 người Việt Nam xuất, nhập cảnh trái phép. Duy trì 173 tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19 với 830 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia,... [, tr. 12-20]. Nhiều cán bộ, chiến sĩ dầm mình trong mưa lũ, băng tuyết, ăn, ngủ ở các chốt, các lán trại trong rừng, núi, ven sông, suối để tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh Covid - 19. Nếu không có tình cảm, niềm tin và ý chí sẽ không thể hoàn thành được nhiệm vụ.

Những kết quả tích cực nói trên là minh chứng sinh động cho sự chuyển

hóa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong ý thức của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc thành sức mạnh tinh thần chính trị

thể hiện bằng hành động bảo vệ biên giới quốc gia, bằng kết quả thực hiện chức

trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây.

91

* Nguyên nhân của ưu điểm:

Một là, công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được cấp ủy, chỉ huy các cấp nhất là cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng quan tâm, chú trọng.

Công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng đã triển khai quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, kế hoạch, hướng dẫn của trên về công tác giáo dục chính trị, phổ biến giáo dục pháp luật, huấn luyện quân sự, nghiệp vụ đến mọi cán bộ chiến sĩ thuộc quyền. Thường xuyên bám sát, nắm chắc đối tượng giáo dục, mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ chuyên sâu, huấn luyện ứng dụng theo nhiệm vụ, sát với tình hình, đối tượng tác chiến, tình huống chiến đấu, địa bàn, tổ chức biên chế, vũ khí trang bị của các đồn biên phòng. Kết hợp công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện với xây dựng chính quy, quản lý bộ đội, xây dựng đồn biên phòng vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Bên cạnh đó, công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ cũng được cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm, chú trọng cả về số lượng, chất lượng tuyển chọn đảm bảo toàn diện về chính trị, đạo đức, sức khỏe, học vấn. Ngoài tiêu chuẩn phẩm chất, năng lực còn có các yếu tố phẩm chất cần thiết của cương vị công tác, đặc biệt ưu tiên con em đồng bào các dân tộc ở địa bàn biên giới bởi sự am hiểu, tương đồng về văn hóa, tập quán, về địa hình, thời tiết, khí hậu nơi đây. Do vậy, chất lượng tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng được nâng lên theo từng năm góp phần làm cho công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được thuận lợi và hiệu quả.

Hai là, công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng không ngừng được đổi mới cả về hình thức và phương pháp.

Cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng đã triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên về công tác

92

giáo dục chính trị, phổ biến giáo dục pháp luật, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu từ khâu chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện đến kiểm tra, đánh giá kết quả đảm bảo chương trình, nội dung, thời gian quy định hằng năm. Đa dạng hóa nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện; kết hợp giáo dục chính trị với giáo dục truyền thống và giáo dục pháp luật đặc biệt pháp luật liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia và Bộ đội Biên phòng. Điều chỉnh lịch, kế hoạch giáo dục, huấn luyện, rèn luyện phù hợp với đặc thù hoạt động phân tán, nhỏ lẻ theo các tổ, đội, chốt công tác địa bàn của đồn biên phòng và theo từng cấp độ dịch từ khi xảy ra dịch bệnh Covid - 19. Thao trường, bãi tập, mô hình, học cụ được sửa sang nâng cấp, các sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, công nghệ thông tin được ứng dụng vào huấn luyện nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện.

Các hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được các

đồn biên phòng tiến hành linh hoạt theo hướng “mở”, có định hướng lồng

ghép các hình thức, phương pháp cho phù hợp với nội dung, đối tượng giáo

dục, học theo cụm đơn vị, theo tính chất, nhiệm vụ. Bên cạnh các hình thức,

phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo phương pháp truyền thống

các đồn biên phòng đã lồng ghép các hình thức, phương pháp mới với nhiều

mô hình hay cách làm sáng tạo như thông qua sinh hoạt, tọa đàm, diễn đàn,

thông qua truyền thanh nội bộ, sân khấu hóa, các cuộc thi viết, thi tìm hiểu

trực tuyến, mô hình sinh hoạt “Tổ ba người”, “Mỗi tuần một câu hỏi, một đáp

án”, “Tủ sách đồn biên phòng”,… Coi trọng huấn luyện ứng dụng, đồng bộ,

chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện chính trị, quân sự với huấn

luyện nghiệp vụ, pháp luật; giữa huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật biên phòng

với huấn luyện điều lệnh, huấn luyện võ thuật, thể lực; giữa huấn luyện cơ

bản thường xuyên theo kế hoạch với huấn luyện đột xuất theo nhiệm vụ. Kết

hợp công tác rèn luyện bộ đội với công tác huấn luyện, xây dựng chính quy,

quản lý kỷ luật và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghiệp vụ biên phòng. Rèn luyện

không chỉ qua công tác huấn luyện mà còn thông qua hoạt động thực tiễn thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Qua đó giúp hạ sĩ quan, binh sĩ vận

dụng thành thục trong thực tế công tác, kết hợp tốt giữa lý thuyết và thực

hành, giữa thao trường với thực tiễn biên giới, đồng thời tăng cường bản lĩnh,

93

ý chí, sự tự tin trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Thực hiện

tốt phương châm “bám sát thực tiễn cơ sở, hướng về cơ sở, đa dạng hóa các

hình thức, phương pháp giáo dục, tăng tính thuyết phục” [, tr. 2] nhằm nâng

cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Ba là, điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa ở các đồn biên

phòng được đẩy mạnh phát triển; sự giúp đỡ, ủng hộ của đồng bào các dân tộc

ở địa bàn biên giới đối với Bộ đội Biên phòng.

Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, kinh tế - xã hội ở

các địa bàn biên giới cũng có sự chuyển biến tích cực về mọi mặt, đời sống

nhân dân và cán bộ chiến sĩ được nâng lên; các chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước từng bước đi vào cuộc sống. Chính sách xóa đói giảm nghèo,

chương trình xây dựng nông thôn mới, chủ trương chuyển đổi cây trồng vật

nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình, triển khai cán bộ biên phòng tăng

cường ở các xã biên giới để bám dân, bám bản, tuyên truyền vận động nhân

dân, tham mưu và tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa phương địa bàn

biên giới đã đem lại những hiệu quả thiết thực, những đổi thay, diện mạo

mới trên địa bàn biên giới. Thông qua công tác tuyên truyền vận động quần

chúng nhân dân và trực tiếp tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội

mối quan hệ giữa Bộ đội Biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng và đồng bào các

dân tộc ở địa bàn biên giới ngày càng gắn bó chặt chẽ. Quần chúng nhân

dân đã cung cấp cho Bộ đội Biên phòng nhiều nguồn tin có giá trị phục vụ

công tác quản lý, bảo vệ biên giới; đấu tranh phòng, chống tội phạm; tham

gia cùng Bộ đội Biên phòng phát quang đường thông tầm nhìn biên giới;

tuần tra, bảo vệ đường biên, mốc quốc giới, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội ở địa bàn biên giới, trở thành những “cột mốc sống” nơi biên

giới. Chính sự ủng hộ, giúp đỡ của đồng bào các dân tộc ở khu vực biên giới

đã giúp cho Bộ đội Biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

nói riêng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần bảo vệ vững chắc chủ

quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.

94

Song song với nhiệm vụ tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội

ở địa bàn biên giới, các đồn biên phòng đã chú trọng xây dựng môi trường

văn hóa đồn biên phòng tích cực, lành mạnh với nhiều chủ trương, giải pháp

thiết thực. Các tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng ở đồn

biên phòng được củng cố, kiện toàn, hoạt động nề nếp, hiệu quả; các chế độ

quy định được duy trì thường xuyên, nghiêm túc; quy chế dân chủ ở cơ sở

được phát huy. Các quan hệ văn hóa được coi trọng, quan hệ cấp trên và cấp

dưới hài hòa, đúng mực; quan hệ đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương tạo sự

đoàn kết, thống nhất và bầu không khí dân chủ, thân tình, cởi mở trong toàn

đơn vị. Hệ thống các thiết chế văn hóa được bổ sung, nâng cấp đáp ứng ngày

càng tốt hơn nhu cầu của hạ sĩ quan, binh sĩ. Cảnh quan, môi trường đồn biên

phòng được xây dựng, chỉnh trang theo hướng xanh - sạch - đẹp. Kết hợp giữa

xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp với hoạt động tăng gia sản

xuất, cải thiện đời sống bộ đội. Công tác vệ sinh phòng dịch, chăm sóc sức

khỏe bộ đội được quan tâm, đảm bảo tỉ lệ quân số khỏe ở mức cao, đáp ứng

yêu cầu huấn luyện, công tác và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Bốn là, chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

được bảo đảm tạo chuyển biến tích cực trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của họ.

Bên cạnh đó, chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ nói chung

và hạ sĩ quan, binh sĩ trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm

được thực hiện đúng đủ, kịp thời như: cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ tại

các tổ, chốt công tác; lực lượng tuần tra, kiểm soát dọc biên giới; lực lượng

trinh sát xã hội hóa, trinh sát nội biên, ngoại biên; lực lượng đấu tranh phòng,

chống tội phạm ma túy và các tội phạm nguy hiểm khác; đội ngũ cán bộ làm

công tác vận động quần chúng thực hiện “bốn cùng” với nhân dân ở các địa

bàn biên giới,… Trong đó, tập trung vào các chính sách như: phụ cấp công

tác, nhà ở, khám, chữa bệnh, học tập, điều kiện sinh hoạt, công tác, bảo hiểm

y tế, việc làm, học tập cho hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ. Do đó, nhu

cầu và lợi ích chính đáng của họ được quan tâm, giải quyết tạo động lực thôi

95

thúc họ hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, củng cố tình cảm, niềm tin

của họ đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia.

Sự quan tâm về chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ không chỉ

về vật chất mà còn về tinh thần bằng nhiều hình thức biểu dương, khen

thưởng, động viên kịp thời các tập thể, cá nhân có những thành tích tiêu biểu

trong thực hiện nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất. Qua đó, tạo động lực

mạnh mẽ thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng yên tâm tư tưởng, bám

trụ nơi biên giới, hăng say công tác, học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm

vụ chính trị được giao.

Năm là, vai trò tích cực, chủ động, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được nâng cao.

Đây là nguyên nhân chủ quan, trực tiếp của những ưu điểm trong ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện

nay. Những năm qua, các đơn vị biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc có điều kiện lựa chọn đầu vào tốt hơn do chất lượng tuyển chọn nhập

ngũ được nâng cao. Ngoài tiêu chuẩn phẩm chất, năng lực còn có các yếu

tố phẩm chất cần thiết của cương vị công tác nên hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng phần lớn xác định rõ vai trò, trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo

vệ biên giới quốc gia; từ đó không ngừng học tập, huấn luyện, rèn luyện để

nâng cao tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia; bồi đắp tình cảm, niềm tin,

xác định thái độ trách nhiệm đúng đắn, xây dựng ý chí quyết tâm cao, khắc

phục mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy nơi biên giới để hoàn thành xuất

sắc mọi nhiệm vụ.

Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây xác định, thái độ,

trách nhiệm trong tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện. Mỗi hạ sĩ quan,

binh sĩ đều chủ động, tự giác sắp xếp thời gian, công việc hợp lý để vừa tham

gia học tập, huấn luyện theo chương trình của đơn vị vừa tự học, tự huấn

luyện, tự rèn luyện tại đơn vị và trong thực tiễn thực hiện chức trách, nhiệm

vụ được giao. Kết hợp hài hòa giữa giáo dục, huấn luyện, rèn luyện với tự

giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Sự tích

cực, tự giác học tập, huấn luyện, rèn luyện tìm tòi, nghiên cứu hoàn thiện tri

96

thức về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ, tạo ra những yếu tố

cần thiết để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm trình bày ở trên, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc còn bộc lộ một số hạn chế, thể hiện trên một số nội dung sau:

Một là, về tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Tri thức về biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc còn giản đơn, chưa đầy đủ. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiểu biết chưa đầy đủ, chính xác về biên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, về bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới; về hệ thống pháp luật bảo vệ biên giới quốc gia; về nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân; về đối tượng đấu tranh của Bộ đội Biên phòng; về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các loại tội phạm ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Có hạ sĩ quan, binh sĩ còn quan niệm bảo vệ biên giới quốc gia chỉ thuần túy là bảo vệ đường biên, cột mốc, bảo vệ lãnh thổ về mặt tự nhiên mà chưa thấy hết được các nội dung rộng lớn hơn, bao trùm hơn trong nội hàm khái niệm bảo vệ biên giới quốc gia. Sự tách rời giữa bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, đường biên, cột mốc, dấu hiệu đường biên giới với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây là dấu hiệu đáng lo ngại trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ hiện nay. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy có 29,6% hạ sĩ quan, binh sĩ không nêu được đầy đủ, chính xác các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia mà chỉ nêu được một yếu tố trong số các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia [Phụ lục 3].

97

Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia khá phong phú, ngày càng hoàn thiện, đây là điều kiện thuận lợi để các lực lượng, các tổ chức, cá nhân có hành lang pháp lý quan trọng trong thực thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Tuy nhiên, hiểu biết pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia; về nội dung cách thức tổ chức, kỹ năng hành động trong một số tình huống cơ bản của hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia; về quy trình xử lý vụ việc xảy ra ở địa bàn biên giới; về các trạng thái và tình huống bảo vệ biên giới còn đơn giản, chung chung, sơ sài. Hiểu biết về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm chưa toàn diện, thiếu nhạy bén. Hiểu biết về pháp luật quốc tế, các cơ chế, quy trình trong giải quyết các sự kiện biên giới xảy ra liên quan đến các nước có chung đường biên giới cũng chưa được đầy đủ, thiếu chắc chắn. Vì vậy, quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia còn bộc lộ những hạn chế nhất định như: công tác nắm tình hình, phát hiện vụ việc còn chậm, dự kiến và cách xử trí các tình huống chưa sát thực tế; khi phát hiện vụ việc còn lúng túng, bị động trong xử trí tình huống nên hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn các hành vi, hoạt động xâm phạm biên giới quốc gia chưa cao, còn bộc lộ những sơ hở, thiếu sót nhất định.

Đánh giá về vấn đề này, Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh

Quảng Ninh lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ rõ: Công tác nắm, tổng hợp,

phân tích, đánh giá, dự báo tình hình có lúc chưa chủ động, thiếu chiều sâu; quản

lý, bảo vệ biên giới, cửa khẩu, kiểm soát xuất nhập cảnh có lúc, có nơi chưa chặt

chẽ; xử lý một số tình huống vụ việc còn lúng túng, cảnh giác chưa cao; đấu tranh

phòng, chống tội phạm, đấu tranh chuyên án chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; hiệu quả

đấu tranh chống buôn lậu chưa tương xứng với tình hình thực tế [, tr. 13]. Báo cáo

tổng kết công tác biên phòng năm 2021 của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu

cũng chỉ rõ: “Nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của địch, hiểu về nhiệm vụ bảo vệ

chủ quyền biên giới của một số cán bộ, chiến sĩ chưa sâu, chưa đầy đủ,…Công tác

nắm tình hình chưa kịp thời, thiếu chủ động còn chạy theo sự vụ, công tác xử lý

vụ việc hiệu quả chưa cao, nhất là ở cơ sở” [, tr. 10].

98

Hai là, về tình cảm bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh

sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam

- Trung Quốc tình cảm yêu mến đối với biên giới quốc gia và nhân dân ở địa

bàn biên giới chưa sâu đậm. Bên cạnh những ưu điểm về tình cảm của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia

đã được phân tích, đánh giá vẫn còn một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng phai nhạt tình cảm đối với biên giới Tổ quốc, đối với địa bàn và cư dân

biên giới thể hiện ở tinh thần sợ khó, ngại khổ, không muốn gắn bó bám trụ

nơi biên giới, xa lánh đồng bào, thiếu gắn bó với nhân dân trong các hoạt

động ở địa bàn biên giới. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy vẫn còn 6,4%

(trong đó 4,4% trả lời không quan trọng, 2% khó trả lời) hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chưa thấy được vai trò của

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới

quốc gia [Phụ lục 3]; 2,8% hạ sĩ quan, binh sĩ cảm thấy bình thường, 2,4%

không yêu mến, không gắn bó, không có cảm tình với vùng biên giới và đồng

bào các dân tộc nơi đây [Phụ lục 3].

Theo họ, việc họ nhập ngũ không phải tự giác, tự nguyện, không xuất

phát từ mục tiêu, lý tưởng cách mạng hay tình yêu với biên giới, biên cương

mà do quy định bắt buộc của pháp luật chiếm 16,8%; do sự mong muốn của

gia đình, người thân ông, bà, cha, mẹ chiếm 18,8%, các lý do khác chiếm

2,8% [Phụ lục 3] như: sự rủ rê của bạn bè, thậm chí do sự thần tượng hóa một

nhân vật phim ảnh nổi tiếng nào đó; có hạ sĩ quan, binh sĩ nhập ngũ vào Bộ

đội Biên phòng để được công tác ở những địa bàn có các chính sách ưu đãi

với phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút cao từ đó có tiền để xây dựng nhà cửa, làm

ăn, trang trải cuộc sống sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương.

Thái độ, động cơ, mục đích đó phản ánh mức độ tình cảm của họ trong ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia còn hời hợt, chưa sâu đậm. Từ động cơ, mục đích nhập

ngũ như vậy dẫn đến tinh thần, thái độ, trách nhiệm còn thấp, tư tưởng thiếu yên

tâm, chán ghét cuộc sống ở địa bàn biên giới, lười biếng trong học tập, công tác,

sinh hoạt, thực hiện nhiệm vụ của bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ này; thoái thác

99

nhiệm vụ, thiếu tinh thần cầu tiến, vượt khó; có hạ sĩ quan, binh sĩ suy thoái về

tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống buông lỏng kỷ luật, vi phạm các quy định

của đơn vị, điều lệnh quân đội thậm chí sa ngã vào vòng xoáy vật chất tầm

thường tiếp tay cho tội phạm dẫn đến vi phạm pháp luật.

Đánh giá vấn đề này, báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào

thanh niên Bộ đội Biên phòng Quảng Ninh giai đoạn 2017 - 2022 chỉ rõ:

“Còn có cán bộ, đoàn viên thanh niên chưa tích cực tu dưỡng, rèn luyện; bản

lĩnh yếu, bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực ngoài xã hội dẫn đến chất lượng

hoạt động thấp, thậm chí còn có cán bộ, đoàn viên, thanh niên vi phạm kỷ luật

phải xử lý” [, tr. 9].

Ba là, về niềm tin bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh

sĩ các đồn biên phòng nơi đây chưa thật vững chắc. Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng có niềm tin khoa học vững chắc vào sự nghiệp bảo vệ biên giới

quốc gia, vào sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên

phòng. Tuy nhiên, sẽ là phiến diện nếu chỉ đánh giá xuôi chiều như vậy, bởi lẽ

vẫn còn một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phai nhạt, suy giảm

niềm tin đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Biểu hiện ở sự giảm sút

niềm tin vào tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị các cấp nhất là ở cơ

sở; sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin vào

thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc, cũng như mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở

nước ta. Theo họ, chủ nghĩa xã hội chỉ là lý thuyết khó có thể trở thành hiện

thực, mục tiêu chủ nghĩa xã hội là xa vời; sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa khó thành công; sức mạnh chiến đấu

của Quân đội, Bộ đội Biên phòng còn yếu nhất là vũ khí, trang bị ít, lạc hậu

nên khó giành thắng lợi khi xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh biên giới; họ

tuyệt đối hóa yếu tố vũ khí, trang bị, phương tiện mà xem nhẹ hoặc không coi

trọng vai trò của nhân tố con người từ đó đánh mất niềm tin của chính mình.

100

Hiện nay tình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; xung

đột vũ trang, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao xảy ra ở một số khu

vực trên thế giới để lại những hậu quả rất thảm khốc; biên giới luôn là địa bàn

trọng yếu, chiến lược về quốc phòng, an ninh, là cửa ngõ dễ bị các lực lượng

nước ngoài xâm phạm. Biên giới phía Bắc là biên giới tiếp giáp với Trung

Quốc - một quốc gia có tiềm lực nhiều mặt đặc biệt là tiềm lực quân sự lớn

mạnh hơn ta. Đứng trước vấn đề này một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ có biểu

hiện băn khoăn, dao động, hoài nghi, nhụt chí, lo lắng, sợ hãi mỗi khi tình

hình biên giới căng thẳng, tư tưởng “thất bại chủ nghĩa” luôn thường trực

trong suy nghĩ của họ. Kết quả khảo sát điều tra thực tế ở các đồn biên phòng

biên giới Việt Nam - Trung Quốc cho thấy, còn 3,6% hạ sĩ quan, binh sĩ khó

trả lời, 1,8% ít tin tưởng và 3,2% hạ sĩ quan, binh sĩ không tin tưởng vào sự

lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; cũng như sức mạnh

chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng khi xảy

ra chiến tranh, xung đột biên giới [Phụ lục 3].

Bốn là, về ý chí bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Một bộ phận của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây chưa thể

hiện rõ ý chí quyết tâm trong bảo vệ biên giới quốc gia, hiệu quả thực hiện chức

trách, nhiệm vụ thấp. Từ việc thiếu tình yêu sâu đậm với biên giới và niềm tin

đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng đã làm cho ý chí bảo vệ biên giới quốc gia của họ bị giảm sút.

Đứng trước những điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ khó khăn, trước những tình

huống phức tạp, hiểm nguy họ tỏ ra chùn bước, thiếu bản lĩnh, thiếu dũng khí,

thiếu nhiệt huyết và quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ, hiểm nguy không

dám đối mặt với thực tiễn công việc, nhiệm vụ; không yên tâm công tác; tư

tưởng sợ khó, ngại khổ trong học tập, huấn luyện, rèn luyện, thực hiện nhiệm vụ;

tâm lý tự ti, sợ sệt trước thử thách, hiểm nguy luôn thường trực trong họ.

Đặc biệt, sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường càng làm cho

những tâm lý, tư tưởng đó trong họ có điều kiện sinh sôi, nảy nở; biểu hiện ở

thái độ bàng quan, vô cảm trước vận mệnh của đất nước và cuộc sống của nhân

101

dân; suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống chạy theo lợi ích cá nhân,

lối sống thực dụng, đề cao các giá trị vật chất tầm thường, buông lỏng kỷ luật,

dẫn đến vi phạm đạo đức, kỷ luật, pháp luật và gây mất đoàn kết đơn vị, làm suy

yếu đơn vị; thậm chí một số ít còn thoái thác, né tránh nhiệm vụ được giao. Biểu

hiện ở việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm quy định, kỷ luật

của đơn vị, mệnh lệnh của người chỉ huy; so đo, tính toán thiệt hơn, so sánh giữa

cống hiến và hưởng thụ, quyền lợi và trách nhiệm, thái độ bất cần; lười học tập,

kém rèn luyện, làm việc cầm chừng, qua loa, đại khái, hiệu quả thấp; lảng tránh

chỉ huy và đồng chí, đồng đội; đào ngũ, vắng mặt tại đơn vị trái phép; vi phạm

kỷ luật, pháp luật. Đây là những biểu hiện giảm sút ý chí quyết tâm, thái độ trách

nhiệm không cao dẫn đến hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhất là trong

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của bộ phận này còn thấp thậm chí không

hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.

Khảo sát thực tế cho thấy có 20% hạ sĩ quan, binh sĩ cho rằng thực

hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt

Nam - Trung Quốc rất khó khăn vất vả, khó vượt qua, 6,4% hạ sĩ quan, binh

sĩ cho rằng rất khó khăn vất vả, không thể vượt qua; 2,4% khó trả lời; 18% trả

lời có quyết tâm nhưng không sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được

giao, 4,4% không quyết tâm, do dự, thoái thác nhiệm vụ, 2,8% khó trả lời

[Phụ lục 3]. Vẫn có trường hợp quân nhân đào ngũ, vắng mặt trái phép; chỉ

tính riêng năm 2019 xảy ra 05 vụ/05 quân nhân đào ngũ, 02 vụ/02 quân nhân

vắng mặt tại đơn vị trái phép [, tr. 1]. Từ năm 2016 đến năm 2022 vẫn còn

15,23% hạ sĩ quan, binh sĩ có kết quả giáo dục chính trị ở mức đạt yêu cầu

[Phụ lục 5]; 7,32% hạ sĩ quan, binh sĩ có kết quả rèn luyện kỷ luật trung bình

và 1,81% có kết quả yếu [Phụ lục 9].

Đánh giá công tác huấn luyện, chấp hành kỷ luật và xây dựng chính

quy của các đơn vị trong đó có các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc, trong báo cáo tổng kết công tác biên phòng năm 2022 của Bộ Tư

lệnh Bộ đội Biên phòng đánh giá: Công tác huấn luyện, chấp hành kỷ luật và

xây dựng chính quy tuy có chuyển biến nhưng chưa vững chắc. Công tác

quản lý tư tưởng, kỷ luật và an toàn giao thông còn hạn chế; tình hình vi

102

phạm kỷ luật, pháp luật vẫn xảy ra. Nhận thức, trách nhiệm, ý thức chấp hành

kỷ luật, pháp luật, tự rèn luyện của của một số cán bộ, chiến sĩ chưa tốt; có

đơn vị chưa quyết liệt khắc phục khâu yếu, mặt yếu còn để xảy ra một số vụ

vi phạm kỷ luật, pháp luật, tai nạn giao thông nghiêm trọng gây dư luận

không tốt, ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh của Bộ đội Biên phòng [, tr.

13].

* Nguyên nhân của hạn chế:

Một là, tác động tiêu cực của tình hình thế giới, khu vực, mặt trái của

toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, mặt trái kinh tế thị trường; sự chống phá của

các thế lực thù địch, các loại tội phạm ở địa bàn biên giới.

Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực biến đổi nhanh, phức tạp; các

quốc gia vừa hợp tác, vừa đấu tranh đan xen lẫn nhau; hòa bình, an ninh và

trật tự thế giới có nhiều biến đổi. Mặt trái của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế

làm cho sự cạnh tranh, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng;

các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đe dọa nghiêm trọng

đến hòa bình, ổn định, phát triển của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam.

Tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia giữa các nước ngày càng

phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra chiến tranh, xung đột nhất là chiến tranh sử

dụng vũ khí công nghệ cao với độ thông minh, chính xác, nhanh, mạnh và sức

hủy diệt khủng khiếp. Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc luôn tiềm

ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, khó dự báo. Điều này tác động không nhỏ đến nhận

thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm, niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng nhất là tâm lý lo sợ, tư tưởng thất bại, niềm tin và ý chí giảm sút trong

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Kinh tế thị trường đem lại những tích cực trong công cuộc đổi mới đất

nước và sự đổi thay ở địa bàn biên giới nhưng mặt trái của nó cũng đưa đến

những tác động tiêu cực, nổi bật là sự phân hóa giàu nghèo, chủ nghĩa cá nhân,

chạy theo vật chất, đồng tiền, thói vô cảm, vô trách nhiệm, chà đạp lên danh dự,

nhân phẩm, làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp. Những mặt

trái đó, hằng ngày len lỏi tác động vào hạ sĩ quan, binh sĩ làm cho một bộ phận

hạ sĩ quan, binh sĩ giảm sút ý chí, nhạt phai lý tưởng, niềm tin vào những giá trị

103

cao đẹp, bất chấp tất cả, chạy theo lối sống thực dụng, sao nhãng công việc,

thoái thác nhiệm vụ từ đó dẫn đến vi phạm kỷ luật, pháp luật.

Bên cạnh đó, sự chống phá của các thế lực thù địch thông qua “Diễn

biến hòa bình” ngày càng tinh vi, thâm độc; chúng lợi dụng các nền tảng

công nghệ để xuyên tạc, chống phá; tập trung tác động vào tâm lý, tinh thần

bộ đội nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - những người có tuổi đời

còn trẻ, ít kinh nghiệm, vốn sống, thiếu bản lĩnh làm cho họ có nhận thức

lệch lạc, mất lòng tin, thờ ơ, bàng quan về chính trị, mất cảnh giác dẫn đến

“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Hơn nữa, địa bàn hoạt động của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam

- Trung Quốc rất rộng trải dài ở các xã biên giới thuộc phạm vi đồn biên

phòng phụ trách, có địa hình hiểm trở, đi lại rất khó khăn, khí hậu khắc nghiệt

nhất là vào mùa đông; thiên tai thường xảy ra; kinh tế kém phát triển, dân trí

thấp, còn nhiều tập quán lạc hậu,… Các nhiệm vụ do đồn biên phòng thực

hiện vừa mang tính chất quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở biên giới; hoạt

động phân tán, nhỏ lẻ theo tổ, đội, chốt công tác. Đối tượng đấu tranh đa

dạng, phức tạp, âm mưu, phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và đặc biệt

nguy hiểm như tội phạm ma túy, tội phạm buôn lậu, cướp có vũ trang, mua

bán người,… Nhiều cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đã bị thương, bị hy

sinh trong cuộc chiến với các loại tội phạm vì sự bình yên nơi biên giới.

Những đặc điểm đó tác động không nhỏ đến tình cảm, niềm tin, ý chí, bản

lĩnh của hạ sĩ quan, binh sĩ làm cho một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ giảm sút ý

chí chiến đấu, sợ hãi, chùn bước, lảng tránh, thoái thác nhiệm vụ.

Nhận định về tình thế giới, khu vực và trong nước, Văn kiện Đại hội

đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XV nhiệm kỳ 2020 - 2025 nêu

rõ: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ

xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ có thể gay gắt hơn,… Các thế lực

phản động, thù địch, cơ hội chính trị chống phá ngày càng quyết liệt, công

khai, trực diện hơn. Hoạt động của các loại tội phạm ở biên giới tiếp tục diễn

biến phức tạp [, tr. 23].

104

Hai là, một số cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng chưa nhận thức đúng về

vai trò, tầm quan trọng của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng đối với chất lượng, hiệu quả thực hiện chức trách,

nhiệm vụ chính trị của họ.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

có vai trò rất quan trọng quy định đến thái độ, trách nhiệm, hành vi hoạt động

bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Tuy nhiên, trên thực tế ở một số đồn biên

phòng, cấp ủy, người chỉ huy đơn vị chưa thật sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,

còn có tư tưởng xem nhẹ nên chưa chú trọng đến các nội dung biện pháp lãnh

đạo phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đặc biệt

là công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

cho họ; nhận thức, trách nhiệm của từng cá nhân lãnh đạo, chỉ huy chưa đầy

đủ, thống nhất; sự gắn kết giữa lãnh đạo với chỉ huy, giữa cấp trên với cấp

dưới, giữa cá nhân với tổ chức và giữa các tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy,

tổ chức quần chúng trong đơn vị về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ còn lỏng lẻo, thiếu

thống nhất. Chưa có nghị quyết lãnh đạo chuyên đề, kế hoạch giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện chuyên biệt về vấn đề này mà thường lồng ghép với nội dung

lãnh đạo chung, kế hoạch giáo dục, huấn luyện, rèn luyện chung của đơn vị.

Do đó, chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chỉ huy đồn

biên phòng nơi đây về vấn đề này còn thấp, chưa ngang tầm.

Đánh giá về nhận thức trách nhiệm của các cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng nói chung trong đó có cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XV nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ rõ: Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị còn hạn chế, thiếu biện pháp quyết liệt, đồng bộ để triển khai tổ chức thực hiện,… Một bộ phận cán bộ, đảng viên trong đó có cán bộ chỉ huy chưa gương mẫu, thực hiện chức trách, nhiệm vụ không đầy đủ, thiếu sáng tạo,… phối hợp hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên [, tr. 21].

105

Ba là, chất lượng công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ ở một số đồn biên phòng chưa cao, chậm đổi mới về nhiều mặt; công tác quản lý tư tưởng, quản lý bộ đội, quản lý kỷ luật của đơn vị có mặt còn lỏng lẻo.

Do nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng của cấp ủy, chỉ huy một số đồn biên phòng chưa đầy đủ, đúng đắn nên chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ còn thấp, hình thức phương pháp chậm đổi mới, có nội dung chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống, đạo đức,

giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ của một số đồn biên phòng chưa

toàn diện; có nội dung chậm cập nhật; hình thức, phương pháp giáo dục chưa

đa dạng, phong phú, chậm đổi mới, còn khô cứng, đơn điệu; việc kết hợp giữa

giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng với trang bị kiến thức toàn diện về

bảo vệ biên giới quốc gia cho họ chưa thật sự hiệu quả; giữa nâng cao nhận

thức chính trị với định hướng tư tưởng cho họ chưa thật gắn kết. Văn kiện Đại

hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XV nhiệm kỳ 2020 - 2025

đánh giá: “Công tác giáo dục, chính trị tư tưởng có đơn vị chưa toàn diện;

nắm, quản lý tư tưởng, quan hệ xã hội của cán bộ, chiến sĩ chưa chắc, còn

biểu hiện chủ quan, bệnh thành tích, giấu giếm khuyết điểm” [, tr. 20].

Công tác huấn luyện quân sự, nghiệp vụ cho hạ sĩ quan, binh sĩ của một

số đồn biên phòng chậm đổi mới cả về nội dung, hình thức, phương pháp.

Nghị quyết chuyên đề về công tác huấn luyện còn chung chung, dàn trải; kế

hoạch huấn luyện các nội dung chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên

phòng có nội dung chưa cụ thể, chưa sát với thực tế, chưa theo kịp với những

quy định mới; chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện chưa đồng

đều, chưa đáp ứng yêu cầu huấn luyện. Việc kết hợp giữa trang bị kiến thức bảo

vệ biên giới quốc gia toàn diện cho hạ sĩ quan, binh sĩ với truyền thụ kinh

nghiệm công tác, chiến đấu và rèn luyện bản lĩnh, tác phong công tác, năng lực

thực hành, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ

biên giới quốc gia còn hạn chế, bất cập. Hoạt động phân tán nhỏ lẻ theo các tổ,

106

đội, chốt công tác trên biên giới ảnh hưởng đến việc đảm bảo quân số, nội dung

và thời gian huấn luyện của đồn biên phòng. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

huấn luyện chiến đấu năm 2021 của Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên đánh giá:

“Một số đơn vị tổ chức quán triệt, triển khai nhiệm vụ huấn luyện chưa kĩ, chưa

sâu; công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ chưa chủ động, năng lực huấn luyện

thực hành của đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu” [, tr. 6].

Trong công tác rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, cấp ủy,

chỉ huy một số đồn biên phòng chưa thật sự chú trọng, chưa có những biện

pháp lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để nâng cao chất lượng rèn luyện, xây dựng

chính quy, chấp hành kỷ luật, xây dựng đồn biên phòng vững mạnh toàn diện

“Mẫu mực, tiêu biểu”. Một số đơn vị quản lý kỷ luật chưa chặt chẽ, có lúc, có

nơi còn lỏng lẻo; quản lý quân số, duy trì các chế độ công tác trong ngày,

trong tuần chưa chặt chẽ, thiếu các biện pháp quản lý, rèn luyện linh hoạt, tạo

những sân chơi lành mạnh, bổ ích, lôi cuốn hạ sĩ quan, binh sĩ tích cực, tự

giác trong rèn luyện bản thân. Công tác rèn luyện chưa gắn kết chặt chẽ với

công tác giáo dục, huấn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ.

Báo cáo của Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang tổng kết tình hình vi

phạm kỷ luật năm 2020 đánh giá: Việc quán triệt và triển khai thực hiện các

chỉ thị, nghị quyết, quy định của cấp trên có đơn vị chưa thường xuyên, chưa

sâu,... Công tác tổ chức thực hiện thiếu quyết liệt; chỉ đạo kiểm tra của cán bộ

các cấp thiếu sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ,…Công tác quản lý kỷ luật, đảm bảo an

toàn của chỉ huy các cấp ở một số đơn vị còn bộc lộ hạn chế: Nắm không chắc

chất lượng đội ngũ cán bộ, buông lỏng quản lý, kiểm tra đối với đơn vị; mâu

thuẫn xảy ra nhưng không phát hiện được; công tác thống kê, báo cáo có

những vụ việc chưa kịp thời, không đầy đủ thông tin [, tr. 1].

Bốn là, môi trường văn hóa ở một số đồn biên phòng biên giới Việt

Nam - Trung Quốc chưa được quan tâm xây dựng, đầu tư đúng mức; đời sống

vật chất, tinh thần bộ đội nhất là các tổ, đội công tác địa bàn xa đơn vị, xa sự

chỉ huy chỉ đạo còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Hoạt động xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh ở một số

đồn biên phòng có lúc chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. Các mối

107

quan hệ trong đơn vị có lúc, có nơi chưa đúng chuẩn mực, quy định; các thiết

chế văn hóa chưa được quan tâm đầu tư, khai thác hiệu quả, còn thiếu về số

lượng, xuống cấp về chất lượng. Văn hóa giao tiếp, ứng xử có đơn vị, có quân

nhân còn lệch chuẩn nhất là trong chào hỏi, ứng xử hàng ngày. Việc phát huy

vai trò của các thiết chế văn hóa, các mối quan hệ trong đơn vị đối với định

hướng tư tưởng, nhận thức, điều chỉnh hành vi của hạ sĩ quan, binh sĩ hiệu

quả chưa cao. Những biểu hiện, hành vi lệch chuẩn vẫn còn xảy ra trong một

số đơn vị ở một số hạ sĩ quan, binh sĩ; tinh thần đấu tranh với những biểu

hiện, hành vi sai trái, phản văn hóa, phản giá trị của một bộ phận hạ sĩ quan,

binh sĩ còn yếu. Việc định hướng giáo dục cán bộ, chiến sĩ trong khai thác, xử

lý, chọn lọc thông tin của một số đồn biên phòng chưa tốt còn để những phản

giá trị, phản văn hóa len lỏi vào trong đời sống quân nhân thông qua các

đường khác nhau nhất là internet, mạng xã hội.

Bên cạnh đó, đời sống vật chất, tinh thần hạ sĩ quan, binh sĩ nhất là hạ sĩ

quan, binh sĩ tham gia thực hiện nhiệm vụ ở các tổ, chốt công tác biên giới, xa

sự chỉ huy, chỉ đạo khó khăn, thiếu thốn mọi mặt. Việc tổ chức thực hiện một

số chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ của một số đồn biên phòng

thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời cá biệt có đơn vị còn có biểu hiện vi phạm tiêu

chuẩn chế độ của hạ sĩ quan, binh sĩ. Sự quan tâm động viên, giải quyết đáp

ứng những nhu cầu chính đáng về vật chất, tinh thần của hạ sĩ quan, binh sĩ có

lúc, có nơi chưa thỏa đáng. Vấn đề dân chủ hóa các mặt chính trị, quân sự,

kinh tế, đời sống, đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hạ

sĩ quan, binh sĩ chưa được minh bạch, công khai, dân chủ; hiện tượng chuyên

quyền, độc đoán, quân phiệt, bưng bít thông tin, bớt xén tiêu chuẩn, chế độ

đối với hạ sĩ quan, binh sĩ còn xảy ra ở một số ít đơn vị. Những điều này tác

động tiêu cực đến tư tưởng, nhận thức, tình cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ làm

cho họ giảm sút động lực phấn đấu, giảm sút niềm tin đối với cán bộ, chỉ huy

các cấp và công tác chính sách của quân đội từ đó biểu hiện thái độ, trách

nhiệm và hành vi tiêu cực trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Năm là, một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa tích cực,

chủ động, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện.

108

Từ đặc điểm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hầu hết tuổi đời

còn trẻ, nhận thức, kinh nghiệm, vốn sống chưa nhiều, chưa có bản lĩnh

trong đối mặt với những khó khăn, hiểm nguy nơi biên giới; thích khám

phá nhưng cũng dễ bị dao động, ngả nghiêng, vấp ngã trước những cám dỗ,

tiêu cực, khó khăn. Địa bàn biên giới Việt Nam - Trung Quốc là địa bàn rất

khắc nghiệt, phức tạp về mọi mặt; tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên

giới quốc gia đòi hỏi người chiến sĩ biên phòng phải có thể lực tốt, bền bỉ,

dẻo dai, mưu trí, dũng cảm, gan dạ, cùng bản lĩnh kiên cường mới có thể

vượt qua những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy thậm chí đe dọa đến tính

mạng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Thực tế

đó đã tạo nên sức ép không nhỏ đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ, một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ nảy sinh tư tưởng tự ti,

lo sợ, không dám đối mặt với hoàn cảnh; sợ khó, ngại khổ, không muốn

bám trụ nơi biên giới, thoái thác nhiệm vụ được giao.

Thực tiễn ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc cho

thấy nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng nơi đây chưa đúng đắn, còn xem nhẹ. Biểu hiện ở một bộ phận hạ sĩ

quan, binh sĩ thiếu ý chí vươn lên, ngại học tập, huấn luyện, lười suy nghĩ,

lười tu dưỡng rèn luyện; có thái độ chây ì, thụ động, dễ buông xuôi trước

những khó khăn, sa ngã trước những cám dỗ tầm thường; đề cao chủ nghĩa cá

nhân, lối sống thực dụng, buông lỏng kỷ luật; bảo thủ, không chịu tiếp thu,

sửa chữa những sai phạm, khuyết điểm của bản thân. Điều đó tác động tiêu

cực đến kết quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng như hiệu quả phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Đây là nguyên nhân chủ quan, trực

tiếp dẫn đến những hạn chế trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng những năm qua.

Đánh giá về vấn đề này, Báo cáo của Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng

tổng kết tình hình vi phạm kỷ luật năm 2021 chỉ rõ: Một số quân nhân thiếu

rèn luyện bản thân, có tư tưởng ăn chơi, hưởng thụ, bị lôi kéo tham gia các

hoạt động không lành mạnh ngoài xã hội, không làm chủ được bản thân trước

109

những cám dỗ về vật chất. Nhiều quân nhân nhận thức đơn giản, thiếu hiểu

biết về pháp luật, ý thức chấp hành kỷ luật, pháp luật yếu [, tr. 2].

Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc để thấy được hai mặt của một vấn đề từ đó phát huy ưu điểm, khắc phục

hạn chế khuyết điểm của nó; phát hiện một số vấn đề đặt ra từ thực trạng làm

cơ sở để đề xuất các giải pháp phù hợp trong phát triển ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.

3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc hiện nay

3.2.1. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình

mới ngày càng cao với những khó khăn, bất cập trong phát triển ý thức bảo

vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng

Đây được xem là hai xu hướng trái ngược, hai mặt đối lập nhau trong

quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng giữa một mặt là mục tiêu, yêu cầu cao của quá trình phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia với một mặt là những khó khăn, bất cập của

quá trình phát triển này ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc. Hai mặt đối lập này diễn ra trong suốt quá trình phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp, nhạy cảm, khó lường.

Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn song cũng đang đứng trước nhiều

trở ngại, khó khăn thách thức. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng

công nghiệp lần thứ Tư phát triển mạnh mẽ đem đến cả thời cơ và thách thức

với mọi quốc gia dân tộc. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh (nhất là đại

dịch Covid - 19) và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác đe dọa nghiêm

trọng đến sự ổn định, phát triển bền vững của thế giới, khu vực và nước ta.

Các quốc gia chuyển từ biên giới ngăn cách sang biên giới hợp tác; giải quyết

110

bất đồng, mâu thuẫn, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình

theo luật pháp quốc tế là xu hướng chủ đạo. Tuy nhiên, tranh chấp chủ quyền,

lãnh thổ còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang,

chiến tranh cục bộ. Các nước lớn tiếp tục điều chỉnh chiến lược, cạnh tranh

quyết liệt; tận dụng ưu thế kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ, sử dụng

"sức mạnh mềm", "biên giới mềm", không gian vũ trụ, không gian mạng nhất

là mạng xã hội để đẩy mạnh can dự, gây sức ép về chính trị, kinh tế, quân sự,

ngoại giao, xâm phạm biên giới địa lý của các quốc gia khác, thậm chí mưu

toan "vẽ lại" đường biên giới. Chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa dân

tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế, làn sóng di dân khi

có tình huống khủng hoảng ở các nước láng giềng,... Đặc biệt xung đột quân sự

giữa Nga và Ucraina đang diễn ra rất phức tạp liên quan đến các vấn đề chủ

quyền, lãnh thổ, dân tộc, văn hóa và địa chính trị, là sự toan tính chiến lược của

các cường quốc và khu vực về các vấn đề an ninh, quân sự và kinh tế,… Bên

cạnh đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á

tiềm ẩn nhiều bất ổn, tranh chấp, cạnh tranh gay gắt giữa các nước nhất là tranh

chấp chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển đảo. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ:

Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới [, tr. 105]. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ biên giới quốc gia nói riêng, đó là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” [, tr. 157]; và “Xây dựng và củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” [, tr. 158].

Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia nói chung và biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng đòi hỏi tất yếu phải củng cố, tăng cường sức mạnh bảo vệ biên giới quốc gia trong đó

111

đặt ra yêu cầu cao đối với ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay. Điều này xuất phát từ vị trí, vai trò, đặc điểm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; họ là lực lượng quan trọng, thường xuyên, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; mặt khác, tính chất, chức năng, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc có những đặc thù riêng so với các tuyến biên giới đất liền khác, đòi hỏi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phải có ý thức cao để thích ứng với tính chất đặc thù đó và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới đặt ra.

Cùng với chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách

mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại một số quân chủng, binh

chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại trong đó Bộ đội Biên phòng được xác

định là một Quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng, là lực lượng nòng cốt, chuyên

trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ

biên giới quốc gia trong tình hình mới đòi hỏi Bộ đội Biên phòng phải được xây

dựng vững mạnh về mọi mặt cả về nguồn lực con người, lực lượng; cả về vũ khí,

trang bị, phương tiện, hệ thống công trình phòng thủ, bảo vệ biên giới quốc gia,

hệ thống trang thiết bị vật chất đảm bảo cho hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới

quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Chiến

lược “Bảo vệ biên giới quốc gia” của Đảng chỉ rõ: Xây dựng hệ thống công trình

phòng thủ, bảo vệ biên giới quốc gia đồng bộ, thống nhất. Xây dựng lực lượng

bảo vệ biên giới toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang

nhân dân làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là một quân chủng thuộc Bộ Quốc

phòng, lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện

đại, một số thành phần tiến thẳng hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý,

bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới [, tr. 3 - 4].

Trong mối quan hệ biện chứng giữa nguồn lực con người với các yếu tố

vật chất đảm bảo khác thì xây dựng nguồn lực con người luôn được xác định

là nhân tố cơ bản hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao sức mạnh

chiến đấu của Quân đội nói chung, Bộ đội Biên phòng nói riêng. Bởi lẽ, vũ

112

khí, trang bị, phương tiện, hệ thống công trình phòng thủ có hiện đại, kiên cố

đến đâu nhưng con người không có phẩm chất, năng lực đủ tốt sẽ không thể

làm chủ và phát huy có hiệu quả vũ khí, phương tiện hiện đại được trang bị,

đầu tư; và do đó khó có thể đảm đương, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được

giao. Một trong những yêu cầu đặt ra để xây dựng và phát huy nguồn lực con

người ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đó là phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của mọi quân nhân nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng. Chỉ có phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của lực

lượng thường xuyên, trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia mới đảm

bảo cho các đồn biên phòng đảm đương các nhiệm vụ đa dạng, phức tạp, đòi hỏi

sức khỏe, dẻo dai, sự nhiệt huyết, năng động, sáng tạo, dám dấn thân nơi gian khó,

thử thách của hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ.

Để thực hiện yêu cầu đó, những năm qua, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh các hoạt

động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

nơi đây bằng những kế hoạch, chương trình, nội dung, hình thức, phương

pháp khác nhau nhằm nâng cao nhận thức, bồi đắp tình cảm, củng cố niềm

tin, xây dựng ý chí quyết tâm và bản lĩnh chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Các

hoạt động giáo dục chính trị, giáo dục truyền thống, giáo dục pháp luật được

duy trì thường xuyên qua đó nâng cao nhận thức cho hạ sĩ quan, binh sĩ về

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về

bảo vệ biên giới quốc gia; các hiệp ước, hiệp định, nghị định thư về biên giới

với các nước láng giềng; cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết

hoặc gia nhập có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia; về chiến lược bảo

vệ biên giới quốc gia; về đối tác, đối tượng nói chung và đối tượng đấu tranh

của Bộ đội Biên phòng nói riêng; âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế

lực thù địch và các loại tội phạm; truyền thống dân tộc, Quân đội, Bộ đội Biên

phòng, đơn vị và địa phương nơi đóng quân.

Từ đó, khơi dậy trong họ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, trách nhiệm

chính trị cao cả trong bảo vệ chủ quyền biên giới thiêng liêng của đất nước của

113

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; xây dựng cho họ bản lĩnh chính trị vững

vàng, phẩm chất trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, củng cố

niềm tin, ý chí quyết tâm cao, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Điều

này cho thấy, nâng cao tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng trở thành một đòi hỏi tất yếu, quan trọng trong phát triển ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ góp phần xây dựng và phát huy nguồn lực

con người ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Mục tiêu, yêu cầu về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng ngày càng cao song quá trình phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay gặp không

ít những khó khăn, hạn chế, bất cập trên nhiều mặt.

Khó khăn trước hết là sự thống nhất về nhận thức, trách nhiệm và việc

phát huy vai trò của một số chủ thể trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn hạn chế. Sự thống nhất

trong nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về vai trò của ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có ý nghĩa rất quan trọng

tạo ra sự đồng thuận, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện

các hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện nhằm phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ. Trên thực tế, vẫn còn có cấp ủy, chỉ

huy, cán bộ quản lý ở đồn biên phòng nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, tầm

quan trọng của vấn đề này đối với chất lượng, hiệu quả hoàn thành chức

trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ và nhiệm vụ chính trị của đồn biên

phòng. Vẫn còn quan điểm cho rằng, không cần phải phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ mà chỉ cần huấn luyện cho họ kỹ

năng, kỹ xảo, cầm tay, chỉ việc cụ thể để họ làm theo, làm thuần thục là đủ.

Vì vậy, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện, rèn luyện kiến thức, kỹ

năng, kỹ xảo, năng lực thực hành chuyên môn với giáo dục các phẩm chất

cách mạng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Có đơn vị

coi việc xây dựng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chính trị mà chưa

thấy được trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, đội ngũ cán bộ các cấp với

114

tính cách là chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của một số chủ thể nhất là của

một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và hạ sĩ quan, binh sĩ ở đồn biên

phòng còn những hạn chế nhất định. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở đồn

biên phòng tuy được đào tạo cơ bản qua các trường trong và ngoài Bộ đội

Biên phòng, song do cả yếu tố khách quan và chủ quan nghiên cứu, nắm bắt

cập nhật kiến thức mọi mặt đặc biệt là kiến thức về bảo vệ biên giới quốc gia

còn hạn chế; có cán bộ, sĩ quan còn lười suy nghĩ, ngại học tập nên nắm chưa

chắc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về biên

giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia; kiến thức pháp luật quốc tế có liên

quan, kiến thức nghiệp vụ công tác biên phòng ảnh hưởng nhận thức trách

nhiệm của họ, cũng như chất lượng hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng.

Mặc dù là lực lượng quan trọng, thường xuyên, trực tiếp thực hiện

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng song hạ sĩ quan,

binh sĩ là lực lượng trẻ, kiến thức, kinh nghiệm chưa nhiều, hầu hết là con em

đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở địa bàn biên giới nên khả năng nhận thức,

tiếp thu tri thức về biên giới quốc gia có những hạn chế nhất định. Bên cạnh

đó, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được biên chế ở tất cả các tổ, đội, chốt

công tác hoạt động nhỏ lẻ, phân tán theo nhiệm vụ nên việc tổ chức huấn

luyện tập trung cho họ gặp nhiều khó khăn, thường xuyên bị gián đoạn và

phải tổ chức thành nhiều đợt ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện. Trình độ tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của họ chưa thật đầy

đủ, sâu sắc đã tác động tiêu cực, kìm hãm quá trình phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Các đồn biên phòng đóng quân ở địa bàn biên giới nên điều kiện đi lại,

cơ sở vật chất, nơi ăn, ở, học tập, sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ nói chung, hạ

sĩ quan, binh sĩ nói riêng còn nhiều thiếu thốn, khó khăn. Vũ khí, trang bị,

công cụ hỗ trợ phục vụ cho huấn luyện và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên

giới quốc gia còn thiếu về chủng loại và số lượng, bị xuống cấp và lạc hậu; hệ

115

thống công trình phòng thủ bảo vệ biên giới còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu đặt

ra. Trong khi đó, lực lượng bảo vệ biên giới của nước đối diện được trang bị

hiện đại với số lượng lớn, chủng loại đa dạng, hệ thống công trình hàng rào,

camera giám sát và các công trình phòng thủ bảo vệ biên giới khác của họ

được xây mới, nâng cấp; bên cạnh đó, sự chống phá ngày càng tinh vi, thâm

độc của các thế lực thù địch làm cho tư tưởng một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ

bị dao động. Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc tiềm ẩn diễn biến

phức tạp, khó lường; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại và cản

trở các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia; một số chế độ chính sách đối với

hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ còn bộc lộ những bất cập,… Những

khó khăn trên ảnh hưởng đến quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

Có thể thấy rằng, vấn đề đặt ra giữa yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới

quốc gia trong tình hình mới ngày càng cao với những khó khăn, bất cập về

nhiều mặt của quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay

là đòi hỏi khách quan cần nhận thức và giải quyết thấu đáo từ đó có những

giải pháp phù hợp nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ

đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay.

3.2.2. Chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện đặt ra yêu cầu cao nhưng khả năng nhận thức hạn chế và thời

gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ

Đây cũng là hai mặt không đồng thuận trong quá trình phát triển ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng giữa

một bên là yêu cầu cao về chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục,

huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhằm đáp ứng

yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới trong quá trình phát triển với một bên là

khả năng nhận thức hạn chế và thời gian tại ngũ có hạn của họ ở các đồn

biên phòng hiện nay. Theo đó, hiệu quả, chất lượng phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phụ thuộc vào việc

116

nhận thức và giải quyết vấn đề này. Bởi lẽ, chương trình, nội dung, phương

pháp quyết định đến chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng; thông qua giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở

các đồn biên phòng hạ sĩ quan, binh sĩ được lĩnh hội, bổ sung, tích lũy, nâng

cao tri thức toàn diện nhất là tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia từ đó củng

cố tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của mình. Mỗi nấc

thang, mỗi giai đoạn phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng luôn đặt ra những yêu cầu tương xứng đối với

quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ.

Quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng luôn gắn với sự vận động, biến đổi của thực tiễn hoạt

động bảo vệ biên giới quốc gia, cũng như yêu cầu về trình độ, phẩm chất,

năng lực của hạ sĩ quan, binh sĩ ở từng đơn vị trong mỗi giai đoạn nhất định.

Theo đó, công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng biên

giới Việt Nam - Trung Quốc cũng phải bám sát sự vận động, biến đổi của

tình hình thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở khu vực này cũng

như yêu cầu về phẩm chất, năng lực của hạ sĩ quan, binh sĩ.

Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc và thực tiễn hoạt động

bảo vệ biên giới quốc gia ở nơi đây đặt ra yêu cầu cao cho công tác giáo dục,

huấn luyện, rèn luyện trong đó chương trình, nội dung, hình thức, phương

pháp giáo dục rèn luyện đòi hỏi phải được chuẩn hóa, sát với thực tiễn, sát

với đối tượng, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia cũng như điều kiện cụ thể

của từng đồn biên phòng. Nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng khá toàn diện trên nhiều mặt cả về chính trị,

quân sự, pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ biên phòng.

Về chính trị, hạ sĩ quan, binh sĩ được tổ chức thực hiện theo kế hoạch

giáo dục chính trị tại đơn vị với các nội dung giáo dục về chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách

và pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng các cấp

có liên quan đến công tác bảo vệ biên giới quốc gia; về đối tác, đối tượng; về

117

Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược bảo vệ biên giới

quốc gia; cùng các nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện về phẩm chất,

đạo đức, lối sống, phương pháp tác phong công tác, sinh hoạt, học tập nhằm

phát triển các phẩm chất cần thiết cho họ.

Về pháp luật, trên cơ sở kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật hằng năm

tập trung trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ các nội dung pháp luật liên quan đến

biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia như: các hiệp ước, hiệp định,

nghị định thư về biên giới, cửa khẩu đã ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc; hệ

thống pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, đặc biệt

là Luật Biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam và các nghị định, thông

tư hướng dẫn thi hành; Nghị định về quy chế khu vực biên giới đất liền; Nghị

định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên

giới quốc gia, Nghị định quy định về công tác đối ngoại biên phòng, v.v..

Về quân sự, nghiệp vụ, tập trung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật bảo

vệ biên giới ở địa hình rừng núi cho hạ sĩ quan, binh sĩ; tổ chức chỉ huy quản

lý, bảo vệ biên giới; quy trình, cách thức xử lý các tình huống nảy sinh ở biên

giới như: xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới, xê dịch cột mốc, vật đánh

dấu, dấu hiệu đường biên giới; qua lại biên giới trái pháp luật; tội phạm buôn

lậu, ma túy, buôn bán người, tiền giả, vũ khí, vật liệu nổ, v.v.. Bên cạnh đó,

hạ sĩ quan, binh sĩ còn được huấn luyện nghiệp vụ công tác đối ngoại biên

phòng bởi lẽ nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia liên quan đến nước đối diện

có chung đường biên giới; các hoạt động nảy sinh trên biên giới giữa hai nước

đều phải được giải quyết thông qua con đường ngoại giao và thực địa theo

thỏa thuận giữa hai nước được quy định trong các hiệp định, nghị định thư về

quản lý biên giới, cửa khẩu đã được ký kết với các hình thức đàm phán, hội

đàm, thư phản kháng, tuần tra song phương cả định kỳ và đột xuất khi có tình

huống xảy ra trên biên giới,…Tất cả các nội dung này đều phải được giáo

dục, huấn luyện kỹ lưỡng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng là hết sức toàn diện và yêu cầu cao đối với họ. Nội

118

dung đó cũng đòi hỏi phương pháp, hình thức giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

phải đa dạng, phong phú, linh hoạt phù hợp với đặc điểm đối tượng hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng cũng như đặc điểm hoạt động phân tán nhỏ, lẻ

theo tổ, đội công tác ở các đồn biên phòng. Yêu cầu cao là vậy, song thực tế

hiện nay ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hình thức,

phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện chưa thực sự đa dạng, phong

phú mới chỉ tập trung ở hình thức, phương pháp truyền thống thuyết trình,

giảng giải một cách đơn điệu chưa có sự lồng ghép với các hình thức, phương

pháp hiện đại khác tạo sự hấp dẫn, cuốn hút hạ sĩ quan, binh sĩ qua đó nâng

cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho họ.

Tính chất, chức năng, nhiệm vụ hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia

của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đặt ra yêu cầu cao

về chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn

luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong quá trình phát triển ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia của họ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình

mới. Với đặc điểm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hầu hết là con em đồng

bào các dân tộc đang sinh sống, cư trú, lao động ở địa bàn biên giới. Ngay từ

nhỏ đã gắn bó với địa hình, thời tiết, khí hậu của núi rừng biên giới khó khăn,

khắc nghiệt nên thông thạo địa hình rừng núi, dễ thích nghi với điều kiện

hoàn cảnh khắc nghiệt ở biên giới; họ cũng am hiểu tập quán, ngôn ngữ của

đồng bào các dân tộc nên thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ công tác

nắm tình hình địa bàn, đối tượng và công tác vận động quần chúng.

Tuy nhiên, do phần lớn là con em đồng bào dân tộc thiểu số nên khả năng

nhận thức của họ còn những hạn chế nhất định; việc ít cọ xát, tham gia các hoạt

động tập thể đông người nên tồn tại tâm lý tự ti, thiếu tự tin trong các hoạt động

tập thể. Hơn nữa, hoạt động của các tổ, đội công tác của đồn biên phòng phân

tán nhỏ, lẻ theo yêu cầu nhiệm vụ nhất là khi xảy ra đại dịch Covid - 19 số lượng

người qua lại biên giới trái pháp luật gia tăng. Đặc điểm này cũng khiến cho

công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

119

gặp không ít khó khăn, dễ bị gián đoạn thành nhiều đợt đòi hỏi phải có sự điều

chỉnh về chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp cho phù hợp.

Bên cạnh đó, thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng cũng là một khó khăn, bất cập. Theo quy định hiện nay, thời gian thực

hiện nghĩa vụ quân sự của hạ sĩ quan, binh sĩ các các đồn biên phòng là 24

tháng trong đó khoảng 3 tháng huấn luyện chiến sĩ mới (tân binh) tại các tiểu

đoàn, trung tâm huấn luyện trước khi được điều động, biên chế về các đồn

biên phòng. Do đó, thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự tại các đồn biên

phòng của hạ sĩ quan, binh sĩ chỉ còn chưa đầy 2 năm (khoảng 21 tháng). Đây

là một thách thức không nhỏ, một mâu thuẫn giữa quá trình phát triển đòi hỏi

thời gian đủ lớn với yêu cầu cao về chương trình, nội dung, hình thức, phương

pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

với thời gian tại ngũ hạn hẹp của họ.

Là một loại hình của ý thức xã hội, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được cấu thành bởi các thành tố trong cấu

trúc của nó. Để phát triển các thành tố đó, đòi hỏi một quá trình lâu dài gắn

với thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia cùng các điều kiện khác của đời sống

xã hội. Đây là quá trình có mục tiêu, kế hoạch, phải được tiến hành liên tục,

thường xuyên và lâu dài với chương trình, nội dung, phương pháp nhất định,

đòi hỏi sự tham gia của nhiều chủ thể phát triển nhằm phát huy vai trò của

mỗi chủ thể trong quá trình đó. Vì thế, giới hạn thời gian tại ngũ của hạ sĩ

quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng là một trở ngại đối với quá trình phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đòi hỏi thời gian dài và yêu cầu cao về nhiều

mặt. Một thực tế nữa cũng xuất phát từ giới hạn thời gian tại ngũ của hạ sĩ

quan, binh sĩ đó là khi quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ

quan, binh sĩ đạt đến một trình độ nhất định, tiệm cận với yêu cầu, nhiệm vụ

bảo vệ biên giới quốc gia thì cũng là thời điểm hạ sĩ quan, binh sĩ gần hết thời

gian thực hiện nghĩa vụ quân sự ở đồn biên phòng để trở về địa phương; số

chiến sĩ mới bổ sung thay thế lại bắt đầu một quy trình giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện từ ban đầu. Vấn đề này đòi hỏi các chủ thể nhất là chủ thể lãnh đạo,

120

chỉ huy, quản lý phải phát huy tối đa vai trò của các tổ chức, lực lượng với

các hình thức, phương pháp, cách thức linh hoạt, phù hợp nhất để quá trình

giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng khắc

phục được những hạn chế, bất cập ở trên mà vẫn đảm bảo có được một kết

quả tương xứng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

3.2.3. Yêu cầu phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các

đồn biên phòng đặt ra ngày càng cao với tính thụ động, ngại giáo dục,

huấn luyện, rèn luyện của họ

Đây cũng là hai xu hướng trái ngược nhau diễn ra trong suốt quá trình

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng. Chúng phản ánh hai mặt không đồng nhất nhau giữa một mặt là yêu

cầu cao của việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan nhất là tính tích cực, chủ

động, sáng tạo của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng với một mặt là tính thụ

động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ trong quá trình phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Nhận thức và giải quyết tốt vấn đề này sẽ

tạo động lực thúc đẩy quá trình tự thân phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng là quá trình tác động biện chứng, thống nhất, hợp quy luật giữa điều

kiện khách quan và nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ. Trong mối quan

hệ biện chứng đó, nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có

vai trò trực tiếp quyết định đến kết quả phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của họ. Vì thế đặt ra yêu cầu cao trong quá trình này là phải tích cực hóa

nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Đây được xem là yêu

cầu quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng, hiệu quả của quá trình này.

Những hạn chế trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng một mặt do đặc điểm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng phần lớn là con em đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa bàn biên giới

nên khả năng nhận thức có những hạn chế; mặt khác còn do tính năng động,

tích cực trong nhân tố chủ quan của họ chưa được phát huy, lan tỏa. Một bộ

121

phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có biểu hiện thụ động, lười học tập,

ngại rèn luyện trong quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Do vậy, quá

trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng hiện nay tồn tại vấn đề đặt ra giữa yêu cầu cao về phát huy nhân

tố chủ quan với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ.

Khi phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng trở thành nhu cầu tự thân thì tính năng động chủ quan của họ sẽ

được phát huy, nhân lên. Tuy nhiên, thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia

ở các đồn biên phòng đặt ra yêu cầu cao về chương trình, nội dung, hình thức,

phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ; họ phải tiếp

nhận một lượng tri thức lớn theo yêu cầu của chương trình, nội dung, trong khi

khả năng nhận thức bị giới hạn. Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực của mặt trái

kinh tế thị trường hằng ngày len lỏi vào đời sống quân nhân trong đó có hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng. Thêm vào đó, sự chống phá mạnh mẽ của các thế

lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ngày càng thâm độc qua nhiều kênh

khác nhau nhất là thông qua internet, mạng xã hội đã làm cho họ có những nhận

thức lệch lạc. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ chưa nhận thức được hoặc nhận

thức chưa đầy đủ, đúng đắn về vai trò, nội dung và ý nghĩa, tầm quan trọng của

việc phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Từ đó, dẫn đến các biểu hiện thụ

động, ỷ lại, lười học tập, lười suy nghĩ, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện.

Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng đòi hỏi họ phải có một trình độ tri thức toàn diện sâu sắc nhất là

tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia; làm cơ sở, nền tảng để bồi đắp tình cảm,

củng cố niềm tin; xây dựng ý chí, bản lĩnh, cùng những phẩm chất và năng lực

cần thiết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, trên thực tế trình độ tri thức bảo

vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây chưa

thật sự sâu rộng, nắm chưa chắc, chưa vững. Sự thiếu cố gắng nỗ lực trong giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện, học tập, công tác, sinh hoạt của họ cùng tác động tiêu

cực của mặt trái kinh tế thị trường, của lối sống thực dụng cá nhân dẫn đến tư

tưởng ép buộc, miễn cưỡng, cầm chừng trong quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn

luyện. Điều này trở thành lực cản đối với quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên

122

giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng hiện nay.

Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng không chỉ đòi hỏi ở họ có tri thức toàn diện, nhận thức đúng đắn,

mà còn phải tình cảm sâu sắc, niềm tin vững chắc, có thái độ, trách nhiệm

cao, động cơ, mục đích tích cực, ý chí nỗ lực quyết tâm cao trong thực hiện

các khâu, các bước phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Vấn đề này đặt

ra yêu cầu đòi hỏi mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phải phát huy cao

độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác trong quá trình giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện và tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Chủ động, tích cực

trong việc tiếp nhận sự tác động của các chủ thể nhất là chủ thể lãnh đạo,

chỉ huy, quản lý đồng thời tổ chức tốt quá trình tự giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện, tu dưỡng những phẩm chất, năng lực cần thiết cho bản thân; biến

quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện thành tự giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện của chính mình. Chỉ có nhận thức quá trình phát triển này như là

quá trình tự thân vận động, tự thân phát triển trở thành nhu cầu nội tại bên

trong của hạ sĩ quan, binh sĩ thì các nhân tố chủ quan của họ mới được khơi

dậy, phát huy, lan tỏa, tích cực. Ngược lại, phát huy nhân tố chủ quan của

hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình phát triển sẽ mang lại giá trị, hiệu quả

thiết thực đối với quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ ở các

đồn biên phòng hiện nay.

Những tác động của hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ

sĩ quan, binh sĩ của các chủ thể lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và các tổ chức, lực

lượng khác chỉ thật sự phát huy tác dụng, hiệu quả khi tính tích cực, tự giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ được phát huy. Quá trình

này cũng vừa là sự bổ sung, phát triển những phẩm chất cần thiết cho họ theo

yêu cầu của thực tiễn hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia; vừa là kết quả, là

sản phẩm của quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và tự giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện của chính hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng đòi hỏi họ phải có thái độ trách nhiệm chính trị cao, ý chí quyết

123

tâm cao, bản lĩnh vững vàng; trên cơ sở đó, chuyển hóa thành hành động bảo

vệ biên giới quốc gia, sẵn sàng vượt mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp

nhận thử thách, hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới thiêng liêng

của Tổ quốc. Mức độ, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là tiêu chí, thước đo đánh giá

kết quả phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Tuy nhiên, thực tế

hiện nay vẫn tồn tại khoảng cách nhất định giữa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý

chí, thái độ trách nhiệm với hành động bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ

phận hạ sĩ quan, binh sĩ. Một số hạ sĩ quan, binh sĩ thiếu tu dưỡng, rèn luyện

còn có những biểu hiện, hành vi sai trái, vì lợi ích vật chất trước mắt, tiếp

tay cho các đối tượng tội phạm vi phạm pháp luật, kỷ luật. Việc chấp hành

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy,

mệnh lệnh của chỉ huy các cấp, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân

đội, Bộ đội Biên phòng, quy định của đơn vị, địa phương của một bộ phận

hạ sĩ quan, binh sĩ còn mang tính gượng ép, đối phó chưa mang tính tự giác,

chưa trở thành nhận thức, thói quen, hành vi bền vững, thành nhu cầu tự

thân thôi thúc họ trong quá trình học tập, công tác, sinh hoạt, trong thực hiện

chức trách, nhiệm vụ được giao.

Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng hiện nay không chỉ là sự chuyển biến về tri thức, tình cảm, niềm

tin, ý chí, thái độ trách nhiệm, bản lĩnh của cá nhân mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng mà còn là sự chuyển biến trong tình cảm, thái độ, trách

nhiệm của họ đối với đồng chí, đồng đội trong việc giúp đỡ đồng chí, đồng

đội chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, Bộ đội Biên phòng, quy định

của đơn vị, địa phương nơi công tác. Đó còn là tinh thần đấu tranh tự phê

bình và phê bình trong học tập công tác, sinh hoạt của họ; là thái độ đấu

tranh trước các quan điểm, tư tưởng, biểu hiện hành vi sai trái của đồng chí,

đồng đội; không bao che, giấu giếm khuyết điểm; giúp đồng chí, đồng đội

thấy được cái sai cần phải đấu tranh loại bỏ, cái đúng cần phải bảo vệ từ đó

124

tích cực hóa nhân tố chủ quan của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của bản thân và của đồng chí,

đồng đội một cách hiệu quả nhất.

Có thể thấy rằng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nhận thức và giải

quyết trong đó có vấn đề đặt ra giữa yêu cầu cao về phát huy nhân tố chủ

quan với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo động lực mạnh mẽ

thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của họ hiện nay.

125

Kết luận chương 3

Trong những năm qua, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc có những

ưu điểm nổi bật là: Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan,

binh sĩ được nâng cao và ngày càng hoàn thiện; tình cảm đối với sự nghiệp

bảo vệ biên giới quốc gia, với biên cương Tổ quốc và địa bàn biên giới ngày

càng sâu sắc; niềm tin đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia được

củng cố vững chắc hơn; hạ sĩ quan, binh sĩ có ý chí quyết tâm ngày càng

cao. Sự hòa quyện biện chứng giữa tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí về

bảo vệ biên giới quốc gia tạo thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ,

trở thành sức mạnh chính trị tinh thần to lớn, thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ

kiên cường bám trụ nơi biên giới, sẵn sàng vượt qua khó khăn, gian khổ,

nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới, ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam

- Trung Quốc vẫn còn những hạn chế nhất định. Những ưu điểm và hạn chế

của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc do cả nguyên nhân khách quan và

nguyên nhân chủ quan đưa đến, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Thực trạng trên rút ra một số vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay như: giữa yêu cầu, nhiệm

vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng cao với những khó khăn, bất cập

trong quá trình phát triển; chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục,

huấn luyện, rèn luyện đặt ra yêu cầu cao với trình độ nhận thức hạn chế và

thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ; yêu cầu phát huy nhân tố chủ

quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng đặt ra ngày càng cao với

tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ. Giải quyết tốt

các vấn đề này sẽ tạo động lực mạnh mẽ thôi thúc họ trong phát triển ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia đúng hướng, hiệu quả góp phần quan trọng bảo vệ

vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.

126

Chương 4

GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI

QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG

BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY

4.1. Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện,

rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

4.1.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể đối với công

tác giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp

vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện

quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là nhóm giải pháp cơ

bản, nền tảng, quan trọng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ

sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay. Trong đó, nâng cao nhận thức, trách

nhiệm của các chủ thể đối với công tác này là giải pháp quan trọng hàng đầu.

Thực chất của giải pháp này là phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện nhằm tạo sự thống nhất, đồng thuận cao và sức mạnh

tổng hợp để nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện xây dựng phẩm

chất, đạo đức cách mạng và trang bị kiến thức, kỹ năng, năng lực toàn diện về

bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Chủ thể công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện gồm nhiều tổ chức,

cá nhân, cơ quan, đơn vị tham gia vào công tác giáo dục, huấn luyện, rèn

luyện từ tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, cơ quan

chức năng các cấp, đến người lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ quản lý, cán bộ

trực tiếp làm công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện, cán bộ làm công tác

bảo đảm và chủ thể là bản thân hạ sĩ quan, binh sĩ những người vừa là đối

tượng vừa là chủ thể của quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng.

Để công tác giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân

sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đạt chất lượng, hiệu quả

cao đòi hỏi cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của từng chủ thể.

127

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với các cấp ủy, tổ chức

đảng các cấp trong Bộ đội Biên phòng.

Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo

đối với công tác giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự,

nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng

các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy đồn biên phòng cần chú trọng

nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chủ động xây dựng nghị quyết lãnh

đạo chuyên đề về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia; xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là khâu đột

phá trong công tác lãnh đạo của đơn vị. Tăng cường giáo dục, quán triệt nghiêm

túc các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy cấp trên; hướng dẫn của cơ quan

chính trị các cấp trong Bộ đội Biên phòng liên quan đến giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Trên cơ sở đó xây dựng nghị quyết

lãnh đạo của cấp mình cho phù hợp, tập trung vào các khâu yếu, mặt yếu để đề

ra các chủ trương, biện pháp cụ thể, sát hợp với thực tế đơn vị và đối tượng giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phân công, phân nhiệm

cụ thể đối với từng cấp ủy viên. Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán

bộ, đảng viên nhất là vai trò của người đứng đầu, người chủ trì về chính trị, chủ

trì về quân sự, các đảng ủy viên, chi ủy viên ở đồn biên phòng.

Hai là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tổ chức chỉ huy các

cấp trong Bộ đội Biên phòng.

Tổ chức chỉ huy các cấp nhất là Ban chỉ huy đồn biên phòng cần nâng

cao năng lực tổ chức quản lý, chỉ huy điều hành công tác giáo dục chính trị,

pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng. Muốn vậy, phải không ngừng nâng cao nhận thức, trách

nhiệm bằng việc chủ động, tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi

mặt nhất là trình độ chuyên môn nghiệp vụ; trình độ quản lý bộ đội. Chủ động

quán triệt và cụ thể hóa nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng cấp

mình bằng kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sát

với thực tiễn đơn vị, địa bàn và tổ chức thực hiện chặt chẽ, hiệu quả. Giải

quyết tốt các mối quan hệ trong đơn vị nhất là quan hệ phối hợp công tác giữa

128

người chỉ huy với chính ủy, chính trị viên. Kết hợp chặt chẽ công tác giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện với các mặt công tác khác của đồn biên phòng một

cách đồng bộ, hiệu quả. Quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cần phát

huy tốt quy chế dân chủ, kịp thời nắm bắt tư tưởng, tình cảm, những khó khăn

vướng mắc từ đó có những giải pháp tháo gỡ. Làm tốt công tác kiểm tra, đánh

giá kết quả, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm; kịp thời biểu dương, động viên,

khen thưởng các tập thể, cá nhân đạt thành tích cao trong giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia.

Ba là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với cơ quan chuyên môn

các cấp trong Bộ đội Biên phòng.

Các cơ quan chuyên môn nhất là cơ quan chính trị, cơ quan tham mưu

cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm phát huy vai trò chức năng tham mưu

trên lĩnh vực chuyên môn của mình để tham mưu cho cấp ủy, người chỉ huy

cấp mình hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới tổ chức thực hiện nghị quyết chuyên

đề, kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

của cấp trên theo từng nội dung công tác chuyên môn đảm bảo nghiêm túc,

chặt chẽ. Các cơ quan chuyên môn cần làm tốt công tác phối hợp, hiệp đồng

chặt chẽ trong tất cả các khâu, các bước khắc phục tình trạng chồng chéo lẫn

nhau trong hướng dẫn, chỉ đạo, triển khai kế hoạch giữa các cơ quan chức

năng hoặc tình trạng buông lỏng theo dõi, quản lý, kiểm tra, đánh giá đối với

công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của cấp dưới.

Bốn là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tổ chức quần chúng

(Đoàn cơ sở, Chi đoàn) và Hội đồng quân nhân ở đồn biên phòng.

Cần phát huy vai trò, chức trách nhiệm vụ của từng tổ chức để nâng cao

chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự,

nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Ban chấp hành chi đoàn,

cán bộ đoàn cần phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên thanh niên

là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong các nhiệm vụ chính trị của đơn vị

trong đó có nhiệm vụ giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Có nội dung, hình thức,

phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho họ phù hợp với đặc điểm tâm

lý tuổi trẻ và chức trách, nhiệm vụ. Phát huy vai trò của Hội đồng quân nhân ở

129

các đồn biên phòng trong phát huy dân chủ ở cơ sở trên các lĩnh vực chính trị,

quân sự, chuyên môn nghiệp vụ, kinh tế và đời sống trong đó có dân chủ trong

công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Qua đó, xây dựng bầu không khí dân

chủ thắm tình đồng chí, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong đơn vị góp

phần nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của đơn vị.

Năm là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng.

Đây vừa là đối tượng nhưng cũng vừa là chủ thể của quá trình giáo dục,

huấn luyện, rèn luyện của chính mình. Hơn ai hết, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng cần nêu cao ý thức trách nhiệm, xác định động cơ, mục đích giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện đúng đắn từ đó ra sức học tập, huấn luyện, rèn luyện thực hiện tốt

kế hoạch, chương trình, nội dung, thời gian giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo

quy định của đơn vị, biến quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện thành quá trình

tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của chính mình đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Do đó, cần thường xuyên tuyên truyền giáo dục cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng thấy được ý nghĩa sự cần thiết, ý nghĩa thiêng liêng, cao cả của nhiệm vụ bảo

vệ biên giới quốc gia; tầm quan trọng của việc phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng đối với kết quả thực hiện, chức

trách nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng nhất là trong thực hiện

nhiệm vụ chính trị; thấy được tính chất khó khăn phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ

biên giới quốc gia vai trò quan trọng của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong

thực hiện nhiệm vụ này từ đó nêu cao trách nhiệm cá nhân trong mọi hoạt động,

công tác, nhận và hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ được giao.

4.1.2. Đổi mới chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo

dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

Đây là giải pháp quan trọng trong nhóm giải pháp nâng cao chất lượng

giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ

sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện

nay. Bởi lẽ chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, huấn

130

luyện, rèn luyện trực tiếp quy định vấn đề giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cái gì,

như thế nào và bằng cách thức ra sao cho chủ thể là hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng. Vì vậy, thực hiện tốt giải pháp này cần làm tốt một số nội dung sau:

Một là, thường xuyên cập nhật chương trình, nội dung giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Đây là một nội dung biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Tuy nhiên,

đổi mới chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện không có nghĩa

là thay đổi toàn bộ chương trình, nội dung giáo dục theo quy định của trên mà là

thường xuyên bổ sung, cập nhật những nội dung mới mang tính thời sự bắt kịp

diễn biến, tình hình thế giới, khu vực, thực tiễn đất nước, quân đội, Bộ đội Biên

phòng; tình hình trên các tuyến biên giới nhất là biên giới Việt Nam - Trung

Quốc; yêu cầu, đặc điểm nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; đặc điểm nhiệm vụ

và địa bàn quản lý, bảo vệ của từng đồn biên phòng; bám sát đời sống công tác,

học tập, sinh hoạt, huấn luyện, chiến đấu của bộ đội nhất là công tác giáo dục,

huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Trên cơ sở chương trình, nội dung giáo dục chính trị, pháp luật do Cơ

quan Chính trị xác định và chương trình, nội dung huấn luyện chiến đấu hằng

năm do Cơ quan Tham mưu xác định thống nhất thực hiện bắt buộc chiếm

80% quỹ thời gian, 20% quỹ thời gian còn lại các đơn vị tự xác định các

chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho phù hợp với thực

tế, tình hình, nhiệm vụ của từng đơn vị và địa bàn quản lý; từng đối tượng

giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tại đơn vị. Thực hiện giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện toàn diện cả về phẩm chất và năng lực toàn diện nhất là năng lực

chuyên môn nghiệp vụ biên phòng cho hạ sĩ quan, binh sĩ theo phương châm

“Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, đồng bộ, chuyên sâu, ứng dụng theo nhiệm

vụ, sát với thực tiễn công tác chiến đấu ở các đồn biên phòng; xử lý nghiêm

các vụ việc vi phạm kỷ luật, gắn với trách nhiệm của người chỉ huy các cấp.

Kết hợp chặt chẽ giữa công tác giáo dục, công tác huấn luyện với công tác rèn

luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ một cách đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả.

131

Hai là, đổi mới, đa dạng hóa hình thức, phương pháp giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Thực hiện phong phú, đa dạng, linh hoạt các hình thức, phương pháp giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng một cách

thiết thực, hiệu quả phù hợp với từng nội dung, đối tượng, điều kiện đơn vị, địa

bàn và sát với thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng hiện nay.

Theo đó, các chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện kết hợp đa dạng,

linh hoạt các hình thức, phương pháp. Kết hợp giữa hình thức, phương pháp

truyền thống với hiện đại; giữa hội trường và thao trường; giữa tại đơn vị và

trên biên giới; giữa trực tiếp và gián tiếp; giữa cơ bản, thường xuyên và đột

xuất theo nhiệm vụ; giữa chung và riêng; giữa giáo dục, huấn luyện, rèn

luyện và tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ. Đa dạng

hóa hình thức tổ chức lớp học cho phù hợp với tổ chức, biên chế và đặc

điểm nhiệm vụ của đồn biên phòng nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ công tác ở các

tổ, đội, chốt công tác trên biên giới.

Coi trọng khai thác phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa ở đồn

biên phòng đặc biệt là phòng Hồ Chí Minh, phòng đọc sách, tủ sách đồn biên

phòng, các trang thiết bị huấn luyện hiện có, các thiết bị mô phỏng, sa bàn,

mô hình, học cụ; ứng dụng kỹ thuật công nghệ đặc biệt công nghệ thông tin

vào đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

để tăng cường tính trực quan, sinh động, dễ tiếp thu, lĩnh hội cho người học.

Kết hợp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tại đơn vị với giáo dục thông qua nêu

gương của cán bộ, chỉ huy các cấp, các điển hình tiên tiến và giáo dục lồng

ghép qua các hoạt động tham quan di tích lịch sử truyền thống, giao lưu kết

nghĩa, biểu diễn văn nghệ, các hoạt động về nguồn; các hội thi, hội thao, hội

diễn, các cuộc thi tìm hiểu trực tuyến trên các nền tảng công nghệ để tạo sự

lôi cuốn, hấp dẫn đối với hạ sĩ quan, binh sĩ, khơi dậy tinh thần tự giác học

tập, rèn luyện và chấp hành kỷ luật của họ từ đó nâng cao chất lượng giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Một hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện rất quan

trọng không thể thiếu là tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực tiễn

132

bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Thông qua việc giao nhiệm

vụ, đưa họ tham gia trực tiếp vào các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia ở các

đội, tổ, chốt công tác để cọ xát, tôi luyện củng cố kiến thức đã được trang bị

trước đó đồng thời rèn luyện bản lĩnh, ý chí quyết tâm, sức chịu đựng gian khổ,

tinh thần vượt khó trong mọi điều kiện hoàn cảnh của thực tiễn biên giới.

Ba là, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng.

Để đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, pháp luật; huấn

luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ đòi hỏi phải củng cố, kiện toàn đội ngũ

cán bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động này thông qua việc nâng cao số

lượng, chất lượng, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho họ. Kiện toàn về số

lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ này không chỉ góp phần nâng cao chất

lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mà còn nâng cao chất lượng,

hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đồn biên phòng.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy, chỉ huy

Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh và đồn biên phòng cần coi trọng công tác tạo nguồn

cán bộ, lựa chọn những cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt, có khả năng đáp ứng

tốt yêu cầu nhiệm vụ đưa về các đồn biên phòng để vừa tạo nguồn quy hoạch

cán bộ, kiện toàn tổ chức, biên chế, vừa có đội ngũ cán bộ đủ số lượng, chất

lượng phục vụ công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở đồn biên phòng. Có kế

hoạch tập huấn, bồi dưỡng cán bộ trực tiếp làm công tác giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện ở đồn biên phòng để cập nhật các nội dung mới, thống nhất về tổ chức,

phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ngay từ đầu năm.

Kết hợp công tác tập huấn, bồi dưỡng tại chức ở đơn vị với cử cán bộ đi

học các lớp bổ túc, đào tạo và đào tạo lại để bổ sung nguồn cán bộ và nâng cao

chất lượng cán bộ làm nhiệm vụ giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Đảm bảo tính

ổn định tương đối của đội ngũ này ở các đồn biên phòng có tính đến tính kế

thừa, chuyển giao hợp lý, linh hoạt; đồng thời kiên quyết điều chuyển, thay thế

đối với cán bộ phẩm chất kém, trình độ năng lực và sức khỏe yếu, vi phạm kỷ

luật, pháp luật, uy tín thấp để bổ sung kịp thời đảm bảo số lượng và chất lượng

đội ngũ cán bộ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đề ra.

133

Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng.

Đây là một trong những nội dung biện pháp quan trọng trong nâng cao

chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng hiện nay.

Trên cơ sở chương trình, nội dung kế hoạch giáo dục, huấn luyện, rèn

luyện hằng năm của từng cấp; cấp ủy, chỉ huy cấp trên tổ chức kiểm tra,

giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện của cấp dưới trên các khâu, các

bước, cả về nội dung, thời gian, quân số, chất lượng giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện. Kết hợp nhiều hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát như:

giữa thường xuyên, định kỳ và đột xuất; kiểm tra chung theo tập thể và riêng

theo từng cá nhân; cấp trên kiểm tra cấp dưới; kiểm tra chéo giữa các đơn vị

ngang cấp với nhau,... Từ đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm để

kịp thời chấn chỉnh, khắc phục, sửa chữa, bổ sung nhằm nâng cao chất lượng

giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đi vào

thực chất, sát thực tế công tác, chiến đấu ở biên giới.

Bên cạnh đó, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng cần làm tốt công tác sơ

kết, tổng kết công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo từng giai đoạn

huấn luyện, năm huấn luyện để đánh giá những ưu điểm đạt được, những

khuyết điểm còn tồn tại, nguyên nhân khách quan, chủ quan, bài học kinh

nghiệm rút ra. Trên cơ sở đó, phát huy những điểm mạnh; chỉ ra những khâu

yếu, mặt yếu cần khắc phục và đề ra phương hướng, biện pháp nâng cao chất

lượng công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của đơn vị vào giai đoạn

huấn luyện, năm huấn luyện tiếp theo.

4.2. Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành

mạnh, bảo đảm chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và tham gia

phát triển kinh tế - xã hội địa bàn biên giới

4.2.1. Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh

Đây là giải pháp quan trọng, trực tiếp tác động thường xuyên đến việc

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng hiện nay. Thực chất giải pháp này là phát huy các giá trị văn hóa tạo

134

lập môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh ở đồn biên phòng nhằm lan tỏa các

giá trị văn hóa tích cực và tạo động lực thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ và

trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

Với phương châm “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các

dân tộc là anh em ruột thịt”. Đồn biên phòng là nơi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng hằng ngày, hằng giờ thường xuyên gắn bó sinh hoạt, học tập, công

tác, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,…Môi trường văn hóa đồn biên phòng

biên giới Việt Nam - Trung Quốc là môi trường văn hóa vừa mang những nét

chung của văn hóa quân sự vừa chứa đựng những nét đặc thù của văn hóa

biên cương, biên giới phía Bắc. Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng

tốt đẹp, lành mạnh sẽ tạo dựng những điều kiện thuận lợi cho ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ phát triển giúp họ nhận và hoàn

thành tốt mọi nhiệm vụ chính trị được giao.

Để xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh

cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau:

Một là, kế thừa, xây dựng, phát triển và lan tỏa các hệ giá trị văn hóa

truyền thống, xây dựng hệ giá trị văn hóa đồn biên phòng.

Hệ thống giá trị văn hóa truyền thống luôn gắn liền với sự hình thành,

phát triển các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng. Sự tác động của hệ thống các giá trị văn hóa

truyền thống được thực hiện thông qua các quan hệ văn hóa và hoạt động văn

hóa của con người. Ngược lại, quan hệ và hoạt động của con người chỉ trở

thành quan hệ văn hóa, hoạt động văn hóa khi nó mang trong mình những giá

trị văn hóa nhất định. Vì vậy, kế thừa, xây dựng, phát triển, lan tỏa hệ giá trị

truyền thống chuyển hóa đưa chúng trở thành những hệ giá trị văn hóa đồn

biên phòng có ý nghĩa quan trọng xây dựng môi trường văn hóa đồn biên

phòng tốt đẹp, lành mạnh góp phần phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

Phát huy các hệ giá trị văn hóa truyền thống ở đồn biên phòng chính là

hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, hệ giá trị văn hóa truyền thống Quân

135

đội, hệ giá trị văn hóa truyền thống Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị,

truyền thống quê hương địa bàn biên giới.

Hệ giá trị truyền thống văn hóa dân tộc tiêu biểu cần giáo dục cho hạ

sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng như: truyền thống yêu nước, đấu tranh anh

dũng, kiên cường, bất khuất; ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc; truyền

thống đoàn kết, ý thức cộng đồng; truyền thống nhân nghĩa, khoan dung,

trọng nghĩa tình; truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; sự

tinh tế trong ứng xử; trung thực, khiêm tốn, giản dị trong lối sống, v.v.. Đây là

những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc được hun đúc, kết tinh

qua lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc cần được kế thừa, phát huy trong toàn

đơn vị cho phù hợp với đặc điểm hoạt động của Bộ đội Biên phòng và nhiệm vụ

bảo vệ biên giới quốc gia. Những giá trị tốt đẹp đó không chỉ được phát huy, lan

tỏa trong mọi hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt, huấn luyện, sẵn sàng chiến

đấu và chiến đấu trong thời bình hiện nay mà ngay cả khi xảy ra chiến tranh,

xung đột biên giới. Giáo dục cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng những giá

trị văn hóa truyền thống dân tộc cần gắn với giáo dục lịch sử truyền thống vẻ

vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách

mạng Việt Nam, đối với quân đội và Bộ đội Biên phòng thông qua những hoạt

động kỷ niệm các sự kiện lịch sử, những ngày lễ lớn hằng năm. Đặc biệt, chú

trọng giáo dục truyền thống bảo vệ biên giới quốc gia của ông cha ta trong lịch

sử dựng nước và giữ nước của dân tộc trước đây và cả trong giai đoạn hiện nay.

Hệ giá trị văn hóa truyền thống Quân đội, truyền thống Bộ đội Biên

phòng Việt Nam anh hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo

vệ biên giới quốc gia. Những giá trị truyền thống tiêu biểu của quân đội ta

đó là: Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy

sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng

hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Phát

huy những giá trị phẩm chất cách mạng cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ bằng

những hành động và việc làm thiết thực hằng ngày của hạ sĩ quan, binh sĩ

trong học tập, công tác, huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ chính trị để những

giá trị truyền thống cao đẹp đó được phát huy, lan tỏa không ngừng.

136

Giá trị truyền thống cao đẹp của Bộ đội Biên phòng đó là: “Đoàn kết cảnh giác; liêm, chính, kiệm, cần; hoàn thành nhiệm vụ; dũng cảm trước địch; vì nước quên thân; trung thành với Đảng; tận tụy với dân” [, tr. 155 - 156 ], gắn bó với nhân dân và địa bàn biên giới, coi đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt. Tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, gian khổ, hiểm nguy sẵn chiến đấu, hy sinh để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân trong đấu tranh với các hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, các loại tội phạm nguy hiểm và trong phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn ở địa bàn biên giới.

Giáo dục giá trị truyền thống Bộ đội Biên phòng phải gắn với các tấm gương tập thể, cá nhân anh hùng tiêu biểu của Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc qua các thời kỳ trong kháng chiến chống Mỹ, trong chiến tranh biên giới cũng như trong thời kỳ đổi mới với tinh thần “Chỉ biết còn Đảng là còn mình” tiêu biểu như: Tập thể Đồn Biên phòng Pò Hèn, Quảng Đức, Hoành Mô (Quảng Ninh); Đồn Biên phòng Hữu Nghị, Pò Mã (Lạng Sơn); Đồn Biên phòng Đàm Thủy, Tà Lùng (Cao Bằng); Đồn Biên phòng Lũng Cú, Bạch Đích, Săm Pun (Hà Giang); Đồn Biên phòng Lào Cai, Pha Long, Tả Gia khâu (Lào Cai), Đồn Biên phòng Sì Lở Lầu, Ma Lù Thàng (Lai Châu), Đồn Biên phòng Mường Mươn (Điện Biên); các cá nhân anh hùng liệt sĩ Trần Văn Thọ, Trần Văn Nhỏ, Nguyễn Đình Thử, Lê Đình Chinh, Lộc Viễn Tài, Nông Văn Giáp, Lương Minh Năm, v.v.. mãi ngời sáng phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, của người chiến sĩ biên phòng trên tuyến đầu Tổ quốc.

Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong bảo vệ biên giới quốc gia nhằm xây dựng các giá trị văn hóa, môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh cần chú trọng xây dựng cả các giá trị văn hóa vật thể như: xây dựng phòng truyền thống, đài tưởng niệm, tượng đài các anh hùng liệt sĩ tiêu biểu; sưu tầm, trưng bày, giới thiệu các tài liệu, tư liệu, di vật lịch sử gắn liền với tên tuổi của các tập thể, cá nhân anh hùng,… và các giá trị văn hóa phi vật thể đó là lý tưởng chiến đấu cao đẹp, tinh thần chiến đấu mưu trí, anh dũng, gan dạ; tinh thần bền bỉ vượt mọi khó khăn, gian khổ; bản lĩnh ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất; lối sống giản dị; tinh thần lạc

137

quan, niềm tin chiến thắng trước mọi kẻ thù, mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao,… Gắn kết những giá trị văn hóa truyền thống của quân đội, của Bộ đội Biên phòng với những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, truyền thống của địa phương địa bàn biên giới để những giá trị văn hóa đó được nâng tầm giá trị mang bản sắc của văn hóa biên cương. Những phẩm chất sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong hệ giá trị văn hóa đó sẽ làm cho mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng thêm yêu mến, thêm tự hào, thấy được vinh dự và trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ, phát huy trong sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.

Xây dựng hệ giá trị văn hóa đồn biên phòng thông qua việc cụ thể hóa

chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng; chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng dựa trên cơ sở hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc,

Quân đội, Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị và địa phương địa bàn biên

giới.

Đồn biên phòng là đơn vị cơ sở của Bộ đội Biên phòng được Nhà nước

giao quyền thực thi pháp luật trên biên giới, là lực lượng trực tiếp thực hiện

các hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên phạm vi địa bàn được

phân công đảm nhiệm; thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh,

đối ngoại; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự,

an toàn xã hội ở địa bàn biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật,…

Chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng quy định giá trị văn hóa của đồn

biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng.

Theo đó việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng;

chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là những giá trị cơ bản,

tham gia vào thang giá trị hình thành hệ giá trị văn hóa đồn biên phòng. Hệ giá trị

văn hóa đó là: Lý tưởng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia;

lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, quân đội, Bộ đội Biên

phòng; bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu cao; lòng dũng cảm, kiên quyết, mưu

trí, táo bạo không chần chừ do dự trước khó khăn, thử thách thậm chí phải hy sinh

cả tính mạng; ý thức tổ chức kỷ luật cao; tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái;

có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, năng lực chuyên môn nghiệp vụ

138

giỏi; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Muốn vậy, các chủ thể xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng nhất

là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng cần phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương,

dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của toàn đơn vị; chủ

động, linh hoạt, sáng tạo trong tiếp cận, vận dụng các hệ giá trị văn hóa truyền

thống nhất là các giá trị văn hóa cốt lõi vào các nhiệm vụ, hoạt động cụ thể của

đơn vị; xây dựng các mô hình, các hệ giá trị văn hóa của đồn biên phòng từ đó

định hướng cho các hoạt động hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, xây dựng môi

trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh góp phần phát triển ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

Hai là, củng cố, phát triển các mối quan hệ lành mạnh, tốt đẹp trong

đơn vị và mối quan hệ giữa đồn biên phòng với địa phương địa bàn biên giới.

Xây dựng hệ thống các quan hệ văn hóa theo chuẩn mực hệ giá trị văn

hóa đồn biên phòng là một trong những nội dung cơ bản, cốt lõi của việc xây

dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh. Ở đồn biên

phòng tồn tại nhiều mối quan hệ xã hội phong phú, đa dạng biểu hiện ở quan

hệ “dọc” giữa lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng lãnh đạo, chỉ huy; quan hệ giữa

cấp trên với cấp dưới; quan hệ cán bộ quản lý và hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc

quyền; quan hệ giữa cá nhân và tổ chức trong đơn vị; quan hệ giữa quân nhân

và tập thể quân nhân, v.v. Cùng các quan hệ “ngang” giữa các tổ chức với

nhau; giữa các tập thể quân nhân với nhau; quan hệ phối hợp công tác giữa

lãnh đạo, chỉ huy đồng cấp; quan hệ đồng chí, đồng đội giữa quân nhân với

nhau trong đơn vị; quan hệ giữa đồn biên phòng với cấp ủy, chính quyền, ban,

ngành, đoàn thể và nhân dân địa phương địa bàn biên giới. Việc giải quyết

các mối quan hệ đó trong sinh hoạt, học tập, huấn luyện, công tác, chiến đấu ở

các đồn biên phòng đã và đang làm cho các giá trị văn hóa truyền thống tốt

đẹp của quân đội, Bộ đội Biên phòng được gìn giữ, phát huy.

Muốn xây dựng, củng cố, phát triển các mối quan hệ văn hóa tốt đẹp ở

đồn biên phòng phải củng cố, phát triển các mối quan hệ xã hội nói trên đặc

biệt là mối quan lãnh đạo, chỉ huy và phục tùng; giữa cấp trên và cấp dưới;

giữa cá nhân và tập thể; giữa cán bộ, sĩ quan và hạ sĩ quan, binh sĩ ; giữa hạ

139

sĩ quan, binh sĩ với nhau đòi hỏi phải phát huy vai trò của các chủ thể trước

hết là vai trò của cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, sĩ quan đồn biên phòng phải tăng

cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng nề nếp chính quy,

quản lý, rèn luyện kỷ luật; duy trì nghiêm điều lệnh, kỷ luật, chế độ quy định

của quân đội, Bộ đội Biên phòng; giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong

đơn vị trên cơ sở điều lệnh quản lý bộ đội và trên tình thương yêu đồng chí,

đồng đội. Đấu tranh chống mọi biểu hiện, hành vi sai trái, lệch chuẩn, vi

phạm pháp luật, kỷ luật nhất là các biểu hiện, hành vi suy thoái về chính trị,

tư tưởng, đạo đức, lối sống, quan liêu, gia trưởng, quân phiệt, độc đoán

chuyên quyền, mất dân chủ trong đơn vị ảnh hưởng xấu đến bản chất, truyền

thống tốt đẹp của quân đội, Bộ đội Biên phòng và của đơn vị.

Chú trọng xây dựng các tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần

chúng và Hội đồng quân nhân ở đồn biên phòng trong sạch, vững mạnh; phát

huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức với tính cách là chủ thể tích

cực, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, xây dựng bầu không

khí và mối quan hệ dân chủ trong toàn đơn vị; tạo môi trường thuận lợi, quan hệ

đoàn kết, khơi dậy sức sáng tạo của mọi quân nhân và đơn vị thuộc quyền.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, chỉ huy quản lý trực

tiếp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong mọi hoạt động của họ.

Đây là những cán bộ, sĩ quan thường xuyên hằng ngày, hằng giờ gắn bó, sâu

sát đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong sinh hoạt, học tập, huấn luyện, công tác, thực

hiện nhiệm vụ được giao. Hơn ai hết, cán bộ, chỉ huy quản lý trực tiếp hạ sĩ

quan, binh sĩ phải là những người thấu hiểu phẩm chất, trình độ năng lực, suy

nghĩ, tâm tư, tình cảm, thói quen, đặc điểm tâm lý của hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc

quyền. Với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cán bộ, chỉ huy quản lý

trực tiếp hạ sĩ quan, binh sĩ cần xây dựng mối quan hệ gần gũi, cởi mở đối với

họ; khơi dậy tiềm năng sáng tạo trong họ, tạo những điều kiện thuận lợi nhất có

thể để họ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao và tự khẳng định mình.

Quan tâm xây dựng, củng cố mối quan hệ giữa đồn biên phòng với

cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương; giữa cán bộ, chiến sĩ đồn biên

phòng với nhân dân địa phương địa bàn biên giới. Là một thành phần của

140

Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ đội Biên phòng cũng từ nhân dân mà ra, vì

nhân dân mà chiến đấu, hy sinh. Với truyền thống tốt đẹp “đi dân nhớ, ở dân

thương”, “quân với dân như cá với nước”, “quân với dân một ý chí”, cán bộ,

chiến sĩ Bộ đội Biên phòng luôn xác định đồng bào các dân tộc là anh em

ruột thịt, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng địa phương. Sự nghiệp

bảo vệ biên giới quốc gia chỉ có thể hoàn thành khi phát huy được sức mạnh

tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của quân dân địa bàn biên giới, xây dựng

biên giới lòng dân, nền biên phòng toàn dân và thế trận biên phòng toàn dân

vững mạnh. Do đó, củng cố mối quan hệ giữa tập thể đồn biên phòng và cán

bộ, chiến sĩ đồn biên phòng với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân địa

phương địa bàn biên giới là yêu cầu cần thiết trong xây dựng, củng cố hệ

thống các quan hệ văn hóa ở đồn biên phòng hiện nay.

Ba là, xây dựng cảnh quan văn hóa đồn biên phòng xanh, sạch, đẹp,

tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia

gắn với xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn biên giới.

Đây là một trong những nội dung quan trọng trong xây dựng môi

trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh góp phần phát triển ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

Để thực hiện tốt vấn đề này, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng cần quán

triệt sâu sắc, triển khai thực hiện tốt các quy định của trên về xây dựng chính quy

nhất là các tiêu chí, tiêu chuẩn xây dựng đồn biên phòng chính quy, mẫu mực,

tiêu biểu trong đó có nội dung về xây dựng cảnh quan đồn biên phòng.

Theo đó, để cảnh quan đồn biên phòng đảm bảo các tiêu chí đẹp, sạch

và xanh cần chú trọng quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống doanh trại, đồn,

trạm thống nhất, khoa học theo quy chuẩn vừa đảm bảo khang trang, đẹp đẽ vừa

đảm bảo tính cơ động, linh hoạt chiến đấu khi có tình huống xảy ra; thiết kế, xây

dựng hệ thống biển, bảng, khẩu hiệu, hình ảnh cổ động khoa học phù hợp, cân

đối hài hòa, đẹp vừa đảm bảo quy định và có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục cao.

Nội dung, khẩu hiệu, hình ảnh tuyên truyền hướng vào các tôn vinh các giá trị

văn hóa truyền thống trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia. Thường xuyên

vệ sinh môi trường doanh trại đồn biên phòng sạch sẽ, kết hợp với tăng gia sản

141

xuất trồng rau, trồng cây ăn quả, hệ thống cây xanh, cây cảnh tạo môi trường

xanh, sạch, đẹp. Cảnh quan văn hóa đồn biên phòng xanh, sạch, đẹp không chỉ

biểu hiện ở nét đẹp của doanh trại, hệ thống bảng, biển, khẩu hiệu, pa-nô, áp

phích hình ảnh tuyên truyền mà nét đẹp đó còn được biểu hiện ở hình ảnh, lễ tiết

tác phong, ứng xử văn hóa hằng ngày của các quân nhân trong đơn vị.

Cùng với xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành

mạnh; các chủ thể ở đồn biên phòng nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng

phải quan tâm đẩy mạnh các hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn

hóa ở địa bàn biên giới trong sạch, lành mạnh. Theo đó, cần phát huy vai trò

tham mưu, phối hợp của bộ đội biên phòng trực tiếp là các đồn biên phòng

trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa bàn biên giới nhất là trong

phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Tích cực tham

gia xây dựng cảnh quan văn hóa, phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa ở

địa bàn biên giới xanh, sạch, đẹp, an toàn, hiệu quả gắn với tôn vinh các giá

trị truyền thống cao đẹp địa phương, những nét đẹp của văn hóa các dân tộc ở

địa bàn biên giới. Phát huy vai trò đội ngũ cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng,

đội ngũ cán bộ biên phòng làm công tác vận động quần chúng, cán bộ biên

phòng tăng cường ở các xã biên giới trong tham gia xây dựng môi trường văn

hóa trong sạch, lành mạnh ở địa bàn biên giới.

Bốn là, tổ chức các hoạt động văn hóa và phát huy vai trò của các

thiết chế văn hóa ở đồn biên phòng.

Các hoạt động văn hóa ở đồn biên phòng khi được tổ chức chặt chẽ, thiết

thực sẽ góp phần định hướng giá trị văn hóa đồn biên phòng một cách đúng đắn,

có ý nghĩa khơi dậy những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp, lành mạnh trong mỗi hạ sĩ

quan, binh sĩ; củng cố lòng tự hào vinh dự và trách nhiệm của họ đối với văn hóa

truyền thống bảo vệ biên giới quốc gia; sẽ là biện pháp hiệu quả trong giáo dục

chính trị tư tưởng, bồi đắp tình cảm, củng cố niềm tin, xây dựng thái độ trách

nhiệm, bản lĩnh và ý chí quyết tâm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng qua đó

thúc đẩy sự phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Để đẩy mạnh các hoạt động văn hóa ở đồn biên phòng cần tăng cường

giáo dục nâng cao nhận thức của các chủ thể ở đồn biên phòng về vị trí, vai

142

trò của các hoạt động văn hóa ở đồn biên phòng, xem đây vừa là hoạt động

đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng,

vừa là biện pháp thiết thực để xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng

tốt đẹp, lành mạnh. Theo đó, cần đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn

hóa ở đồn biên phòng tạo sân chơi lành mạnh cuốn hút hạ sĩ quan, binh sĩ

như: tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; các

hoạt động kết nghĩa, hoạt động về nguồn, hoạt động thiện nguyện; tham

quan các địa danh lịch sử truyền thống ở địa bàn biên giới; xem biểu diễn

nghệ thuật; giao lưu với các văn nghệ sĩ để tìm hiểu, thưởng thức và trải

nghiệm các loại hình nghệ thuật khác nhau như: ca múa nhạc, văn học, sân

khấu, điện ảnh, kiến trúc, điêu khắc, hội họa,… nâng cao ý thức thẩm mỹ

cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; phối hợp với các tổ chức quần chúng

ở địa phương thành lập và duy trì các câu lạc bộ văn hóa văn nghệ dân gian

như: thơ, ca, hò, vè, dân ca, dân vũ, khiêu vũ thể thao,… tạo sức hấp dẫn, lôi

cuốn hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tham gia và làm phong phú đời sống

tinh thần bộ đội, đem lại giá trị giáo dục sâu sắc.

Xây dựng, hoàn thiện các thiết chế văn hóa đồn biên phòng ngày càng

đầy đủ, đồng bộ, đa dạng, hiện đại; khai thác và phát huy vai trò, hiệu quả

hoạt động của các thiết chế văn hóa theo hướng thỏa mãn ngày càng tốt hơn

nhu cầu hưởng thụ văn hóa của bộ đội, định hướng cho việc tiếp nhận và

sáng tạo các giá trị văn hóa truyền thống nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay. Đại hội XIII

của Đảng khẳng định: “Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các

nguồn lực văn hóa,…Đổi mới, hoàn thiện các thiết chế văn hóa từ Trung

ương đến cơ sở, bảo đảm hiệu quả” [, tr. 146].

Để xây dựng, hoàn thiện, khai thác và phát huy hiệu của các thiết chế

văn hóa đồn biên phòng trước hết cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các

thiết chế lãnh đạo, chỉ huy trong công tác xây dựng môi trường văn hóa đồn

biên phòng tốt đẹp, lành mạnh. Theo đó, các chủ thể xây dựng đặc biệt là

cấp ủy, chỉ huy Bộ đội Biên phòng các cấp từ cấp Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên

phòng đến cấp đồn biên phòng phải nắm vững các quan điểm, chính sách

143

của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng

yêu cầu phát triển bền vững đất nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương

9 (Khóa XI) và Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của

Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt

Nam. Đặc biệt quán triệt và thực hiện tốt Quyết định số 3672/QĐ-BQP ngày

24/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về quy hoạch hệ thống thiết chế

văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025, định

hướng đến năm 2030 và Quy chế tổ chức hoạt động của các thiết chế văn

hóa trong Quân đội do Tổng cục Chính trị ban hành.

Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần

chúng, vai trò của người chỉ huy các cấp với tính cách là thiết chế văn hóa

trong việc cụ thể hóa quan điểm, chính sách của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị

của cấp trên và cấp mình về văn hóa thành các quy chế, quy ước, quy định

trong đơn vị phù hợp góp phần xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành

mạnh ở đồn biên phòng. Phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo, chỉ huy

đơn vị; vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên trong mọi

hoạt động nhằm lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp trong toàn đơn vị tác

động tích cực đến hạ sĩ quan, binh sĩ trong xây dựng môi trường văn hóa đồn

biên phòng và trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Tăng cường đầu tư, nâng cấp, quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả các

thiết chế cơ sở vật chất văn hóa ở đồn biên phòng như: phòng Hồ Chí Minh,

phòng đọc sách, báo, tủ sách đồn biên phòng, hệ thống bảng tin, khẩu hiệu,

truyền thanh nội bộ, âm ly, loa đài, truyền hình, bản tin nội bộ, trang tin điện

tử trên các nền tảng công nghệ internet, mạng xã hội và các thiết chế văn hóa

khác nhằm đa dạng hóa các kênh tuyên truyền, giáo dục; nâng cao số lượng,

chất lượng các tin, bài, các ấn phẩm nội bộ, nhân rộng các điển hình tiên

tiến, người tốt, việc tốt, việc tử tế để lan tỏa các giá trị văn hóa truyền thống

tốt đẹp; đồng thời đấu tranh, ngăn chặn những văn hóa phẩm độc hại, phản

giá trị, phản văn hóa len lỏi vào đơn vị; định hướng cho hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng trong việc tiếp cận, khai thác, chọn lọc, xử lý thông tin nhất

144

là thông tin trên internet và mạng xã hội.

Đầu tư nâng cấp phòng Hồ Chí Minh, phòng đọc sách, báo, tủ sách đồn

biên phòng bằng ứng dụng các công nghệ hiện đại để tăng tính trực quan sinh

động, tính tương tác, tính hấp dẫn đối với người đọc, người tham quan, tìm

hiểu giúp họ có thể cảm nhận sinh động hơn, sâu sắc hơn về các nhân vật,

hiện vật, các sự kiện lịch sử tạo những tác động tích cực trong quá trình tìm hiểu

các giá trị văn hóa truyền thống; từ đó tác động tích cực vào quá trình phát triển ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Năm là, gắn xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp,

lành mạnh với đấu tranh chống các biểu hiện, hành vi phản văn hóa.

Một trong những nội dung, biện pháp xây dựng môi trường văn hóa

đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh đó là quán triệt và thực hiện tốt quan điểm

“xây” đi đôi với “chống”. Theo đó, song song với việc xây dựng môi trường

văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh cần có các hình thức, biện pháp

hữu hiệu để phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện, hành vi

phản giá trị, phản văn hóa cả trong đơn vị và trên địa bàn biên giới.

Hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng nhiều hình thức khác nhau để

tuyên truyền, bôi nhọ, bóp méo, xuyên tạc về các quan điểm, chính sách của

Đảng và Nhà nước ta, xuyên tạc thành quả cách mạng, nói xấu chế độ xã hội chủ

nghĩa ở nước ta, bôi nhọ lãnh tụ; đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối

lập”; đòi “phi chính trị hóa quân đội”; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cổ

vũ cho các phản giá trị, phản văn hóa, các giá trị văn hóa tư sản,… Chúng cố

tình đưa các tài liệu, tờ rơi, ấn phẩm xấu độc len lỏi vào địa bàn biên giới; khai

thác ưu thế kỹ thuật, công nghệ để tuyên truyền như: tuyên truyền qua hệ thống

loa công suất lớn; qua tín hiệu truyền hình, điện thoại di động trên các nền tảng

mạng xã hội như: Facebook, Youtube, Zalo, Blog,… để tác động vào mọi tầng

lớp xã hội trong đó có hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Bên cạnh đó, chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng nói riêng liên

quan đến các hoạt động quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Các hoạt động kiểm tra, kiểm soát người, phương tiện, hàng hóa qua lại biên

giới; đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, buôn lậu và gian lận thương

145

mại liên quan đến tiền, hàng, các vật chất giá trị khác. Trước tác động của mặt

trái kinh tế thị trường, các thế lực thù địch cũng triệt để khai thác, lợi dụng,

mua chuộc cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng để phục vụ cho các mưu đồ

thâm độc của chúng. Nếu cán bộ, chiến sĩ thiếu bản lĩnh chính trị vững vàng,

suy thoái đạo đức, lối sống sẽ rất dễ bị sa ngã, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Do

đó, kiên quyết phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các âm mưu, thủ đoạn

thâm độc của các thế lực thù địch, làm trong sạch, lành mạnh môi trường văn

hóa ở đồn biên phòng và địa bàn biên giới, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền

thống trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ đòi hỏi phải tiến

hành thường xuyên, liên tục ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Để đấu tranh có hiệu quả các biểu hiện, hành vi phản giá trị, phản văn hóa

trong đơn vị và trên địa bàn biên giới đòi hỏi phải nâng cao nhận thức trách

nhiệm của các chủ thể nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng; các tổ chức trong

đơn vị; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị

tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ về đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,

pháp luật của nhà nước về xây dựng và phát huy sức mạnh văn hóa con người

Việt Nam, về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở địa

bàn dân cư”; tuyên truyền vạch trần âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế

lực thù địch trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống, xây dựng quan hệ văn hóa, hoạt động văn hóa lành mạnh. Kiên quyết

ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện, hành vi quan hệ phản văn hóa, phản tiến bộ, bè

phái, cục bộ, mất đoàn kết, mất dân chủ; các hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật,

vi phạm phẩm chất truyền thống cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.

Phát huy trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cơ quan, đơn vị;

vai trò tiền phong, gương mẫu tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng

viên. Phát huy dân chủ cơ sở ở đồn biên phòng tạo bầu không khí cởi mở,

thắm tình đồng đội. Kết hợp với sức mạnh đoàn kết, sức mạnh của truyền

thống và dư luận xã hội để điều chỉnh nhận thức và hành vi của hạ sĩ quan,

binh sĩ trong các quan hệ văn hóa. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ

kết, tổng kết và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong công tác xây dựng

146

môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh và đấu tranh chống các phản giá trị,

phản văn hóa trong đơn vị và địa bàn biên giới.

4.2.2. Hoàn thiện, bảo đảm chế độ, chính sách phù hợp đối với hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng và tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa bàn biên

giới

Đây là một trong những giải pháp rất quan trọng trong hệ thống các

giải pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng hiện nay. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo tiền đề vật chất

cần thiết và tạo động lực thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phát

huy tính tích cực, chủ động, tự giác trong mọi hoạt động công tác, sẵn sàng

dấn thân vào những nơi gian khổ, nhận những nhiệm vụ khó khăn phức tạp,

thậm chí hy sinh tính mạng của mình để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ biên

giới quốc gia.

Cơ sở lý luận của giải pháp này xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về vấn

đề con người, vấn đề lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và

lợi ích xã hội,… tạo hệ động lực trong nhận thức và hành động của mỗi cá nhân.

Theo Ph.Ăngghen: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo

đức, thì do đó, cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với

lợi ích của toàn thể loài người” [, tr. 199-200]. Theo Hồ Chí Minh: “Quân đội

mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm” [, tr.

483], đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho

sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được

quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy. Người chỉ rõ:

“Tách rời chính sách và nhiệm vụ ra một đường, và đường lối quần chúng ra

một đường cũng là sai lầm. Tinh thần trách nhiệm là gắn liền chính sách và

đường lối quần chúng, để làm tròn nhiệm vụ” [, tr. 249].

Do đó, trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của

hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc

hiện nay đòi hỏi phải có chế độ, chính sách phù hợp và được thực hiện đúng

sẽ tác động tích cực tới nhận thức, thái độ, tình cảm, niềm tin, ý chí của hạ sĩ

147

quan, binh sĩ trở thành động lực thôi thúc họ nỗ lực phấn đấu vươn lên hoàn

thành chức trách, nhiệm vụ được giao; là chất keo kết dính họ gắn bó với

đơn vị, với bản làng biên giới.

Hiện nay, các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ

được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015, Nghị định 27/2016/

NĐ-CP ngày 06/4/2016 của Chính phủ và Thông tư 95/2016/TT-BQP ngày

28/6/2016 của Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện nghị định này. Theo đó

chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ bao gồm: Chế độ phụ cấp quân

hàm, tiêu chuẩn định mức quân lương, quân trang, điện, nước, doanh cụ và

một số vật chất khác bảo đảm cho sinh hoạt, thực hiện nhiệm vụ; chế độ

khen thưởng; chế độ nghỉ phép; chế độ tuyển sinh cộng điểm ưu tiên; chế

độ trợ cấp xuất ngũ một lần, trợ cấp tạo việc làm, phụ cấp tiền tàu xe, đi

đường,v.v.. Đối với thân nhân hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ được hưởng các

chế độ như: chế độ trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp ốm đau, nằm viện;

được hưởng chế độ bảo hiểm y tế; con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan,

binh sĩ tại ngũ được miễn, giảm học phí theo quy định, v.v.. [].

Đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng ngoài được hưởng chế độ tiền

lương, phụ cấp và các chính sách khác trong Quân đội còn được hưởng phụ cấp

khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp trách nhiệm bảo vệ biên giới trong thời gian

trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới được quy định trong Luật Biên phòng

Việt Nam 2020 và Nghị định 106/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021 của Chính phủ

quy định chi tiết một số điều Luật Biên phòng Việt Nam: Cán bộ, chiến sĩ Bộ

đội Biên phòng ngoài được hưởng chế độ tiền lương, phụ cấp và các chính sách

khác trong Quân đội còn được hưởng phụ cấp trách nhiệm bảo vệ biên giới trong

thời gian trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới [, tr. 3].

Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ đã được Đảng, Nhà nước, quân đội, Bộ đội Biên phòng và các đồn biên phòng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế công tác này vẫn tồn tại những hạn chế, đời sống của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng nói chung hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng

148

còn nhiều khó khăn, vất vả, thiếu thốn nhất là cán bộ, chiến sĩ công tác ở các tổ, đội, chốt công tác trên biên giới. Do đó, để tạo động lực mạnh mẽ hơn nữa đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia cấp ủy, chỉ huy các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt hơn các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ. Theo đó, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng trước hết là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng về vị trí, ý nghĩa quan trọng của công tác chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ.

Nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia là hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp; là hoạt động đặc thù đòi hỏi sự hao tổn cả về thể chất lẫn tinh thần đặc biệt là trong những tình huống phức tạp, hiểm nguy thậm chí phải hy sinh cả tính mạng của mình vì lợi ích chung của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân. Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là những người thường xuyên, trực tiếp được điều động tham gia thực hiện những nhiệm vụ đó.

Công tác chính sách là một nội dung quan trọng trong các hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội. Các chế độ, chính sách quy định đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ trong thời gian tại ngũ cũng như khi xuất ngũ trở về địa phương có ý nghĩa rất quan trọng. Đây không chỉ là sự ghi nhận, tôn vinh của Đảng, Nhà nước, quân đội, Bộ đội Biên phòng đối với họ mà còn là sự quan tâm, động viên, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần, sự hài hòa giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ tạo động lực to lớn để họ yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị, địa bàn biên giới, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Để thực hiện tốt nội dung này đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong quán triệt và thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ. Trước hết, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng phải nghiên cứu, nắm vững quy định của cấp trên về tiêu chuẩn chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng. Trên cơ sở đó, xây dựng các quy chế, quy định về chế độ, chính sách trong đơn vị cho phù hợp. Phát huy dân chủ ở cơ sở, thông tin kịp

149

thời, đầy đủ các quy định về chế độ, chính sách có liên quan đến quân nhân và gia đình họ từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm về quyền lợi và nghĩa vụ của quân nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Hai là, tổ chức thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách theo quy định; kết hợp hài hòa lợi ích vật chất và tinh thần, lợi ích trước mắt và lâu dài trong thực hiện chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Bên cạnh các tiêu chuẩn, chế độ, chính sách dành cho hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nói chung; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được hưởng một số ưu đãi đặc thù do tính chất đặc thù của địa bàn biên giới và đặc thù của nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia quy định. Việc thực hiện các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là một biện pháp nhằm ưu đãi lao động đặc thù, thiết lập công bằng xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho họ tạo động lực thôi thúc động cơ, ý chí quyết tâm của họ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.

Trong tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cần quan tâm chăm lo đảm bảo cả về lợi ích vật chất và tinh thần, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và tập thể, lợi ích chung và riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Các tiêu chuẩn chế độ, chính sách cần thực hiện nghiêm túc, triệt để, kịp thời, công khai, minh bạch không để xảy ra hiện tượng chậm chễ, bớt xén, thiếu hụt, lãng phí trong tổ chức thực hiện nhất là các tiêu chuẩn chế độ về quân lương, quân trang, phụ cấp quân hàm, phụ cấp khu vực, tiền tàu xe, phụ cấp đi đường, trợ cấp khó khăn,… Nắm bắt tư tưởng, quan tâm động viên, chia sẻ, giúp đỡ những quân nhân và thân nhân của họ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Khen thưởng, động viên, khích lệ, tôn vinh kịp thời, thỏa đáng các tập thể, cá nhân có thành tích cao trong thực hiện nhiệm vụ được giao nhất là trong những nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm. Thường xuyên làm tốt công tác có kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các chế độ, chính sách trong đơn vị. Kết hợp việc thực hiện các chế độ, chính sách với tổ chức các hoạt động tăng gia sản xuất cải thiện đời sống bộ đội.

150

Ba là, phát huy vai trò cơ quan chính sách, cán bộ làm công tác chính sách các cấp trong Bộ đội Biên phòng và vai trò của đồn trưởng, chính trị viên đồn biên phòng.

Cơ quan chính sách và cán bộ làm công tác chính sách các cấp trong

Bộ đội Biên phòng cần quán triệt, nắm vững các chế độ, chính sách của Đảng,

Nhà nước, Quân đội có liên quan đến bản thân và thân nhân của hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng; chủ động tham mưu kịp thời cho cấp ủy, chỉ huy xác định các

chủ trương, biện pháp, kế hoạch thực hiện ở cấp mình và hướng dẫn cấp dưới tổ

chức thực hiện đúng, đủ, kịp thời không để xảy ra sai sót, vi phạm. Thường

xuyên cập nhật các chủ trương, chính sách mới để thông tin kịp thời và hướng

dẫn thực hiện, duy trì nghiêm chế độ báo cáo thỉnh thị, kịp thời chấn chỉnh, khắc

phục các hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện chế độ, chính sách của các

đơn vị trực thuộc. Có hình thức biểu dương khen thưởng, động viên các tập thể,

cá nhân làm tốt công tác chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ. Quan tâm tổ chức

tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác chính sách cho đội ngũ cán

bộ làm công tác chính sách đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; xác định rõ chức trách,

nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, cá nhân từng cấp trong tổ chức thực hiện các

chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Phát huy vai trò của đồn trưởng, chính trị viên đồn biên phòng trong tổ

chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng. Muốn vậy, phải phân công, phân nhiệm rõ ràng; thực hiện tốt mối

quan hệ phối hợp công tác trong tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối

với hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ đảm bảo thống nhất, nhịp nhàng,

thông suốt. Lãnh đạo, chỉ đạo Hội đồng quân nhân thực hiện và phát huy dân

chủ trên các mặt để các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ được

triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.

Bốn là, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương phát huy

sức mạnh của các tổ chức, các lực lượng trong thực hiện chính sách đối với

hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng cần phối hợp chặt chẽ

với cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp; phát huy vai trò của các tổ chức,

151

doanh nghiệp, các lực lượng ở địa bàn biên giới trong thực hiện chế độ, chính

sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ cả trong thời gian tại ngũ

và khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương; quan tâm cả về vật chất

và tinh thần; ưu tiên trong tuyển sinh, tuyển dụng, khám chữa bệnh, trợ cấp học

nghề, xây dựng nhà ở, tạo việc làm, hỗ trợ vay vốn, mở rộng sản xuất, kinh

doanh đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho hạ sĩ quan, binh sĩ và thân

nhân của họ; tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các công dân đã hoàn thành

xuất sắc nghĩa vụ quân sự trở về địa phương,... Động viên thăm hỏi thân

nhân, gia đình hạ sĩ quan, binh sĩ khi gặp khó khăn, hoạn nạn, ốm đau, từ

trần hoặc các ngày lễ, tết trong năm. Làm tốt vấn đề này sẽ là nguồn động

viên, khích lệ rất lớn đối với hạ sĩ quan, binh sĩ; là niềm vinh dự, tự hào của

người công dân khi hoàn thành nghĩa vụ đối với Tổ quốc; là hình thức tuyên

truyền, giáo dục hiệu quả để các công dân khác trong độ tuổi nhập ngũ tiếp

tục đăng ký, tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng tham gia bảo vệ

vững chắc biên giới quốc gia.

Năm là, bổ sung một số chế độ, chính sách đãi ngộ đối với hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ phù hợp với điều kiện của địa

phương, đơn vị.

Hiện nay, các chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

mặc dù đã được luật hóa tại các điều, khoản trong các văn bản luật, nghị

định, thông tư, hướng dẫn của các cấp. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động,

biến đổi không ngừng, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, của địa bàn

biên giới cũng có nhiều đổi thay; do đó, có những chế độ, chính sách đối với

hạ sĩ quan, binh sĩ chưa theo kịp tình hình, trở nên lạc hậu cần được bổ sung,

hoàn thiện cho phù hợp.

Trước hết, các cơ quan chính sách, cán bộ làm công tác chính sách các

cấp trong Bộ đội Biên phòng, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng trong quá trình

tổ chức triển khai thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng cần kịp thời phát hiện các khó khăn, bất cập nảy sinh; rà soát

các văn bản, hướng dẫn thực hiện có những nội dung lạc hậu, không còn phù

hợp với thực tế đơn vị, địa bàn, đối tượng để tổng hợp, kiến nghị, đề xuất lên

152

cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung, ban hành cho phù hợp hơn. Các chế

độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ

phải được thể chế hóa thành pháp luật thông qua hệ thống các văn bản quy

phạm phạm luật, có điều, khoản có tính pháp lý cao và phải được thực hiện

thống nhất, tránh tùy tiện, duy ý chí của từng địa phương, đơn vị.

Thực hiện dân chủ hóa trên mọi lĩnh vực hoạt động của đồn biên phòng

cả về quân sự, chuyên môn, chính trị và kinh tế đời sống một cách đầy đủ, toàn

diện bảo đảm cho hạ sĩ quan, binh sĩ có điều kiện kiểm tra, giám sát việc thực

hiện các tiêu chuẩn chế độ, chính sách của cấp ủy, chỉ huy đơn vị. Phát huy dân

chủ ở cơ sở, tăng cường các hoạt động sinh hoạt dân chủ, đối thoại, chất vấn, bảo

đảm cho hạ sĩ quan, binh sĩ thực sự được biết, được bàn, được làm, được kiểm

tra và được thụ hưởng. Phát huy vai trò, trách nhiệm, sức mạnh tổng hợp của các

tổ chức, cá nhân, các lực lượng cả trong đơn vị, địa phương địa bàn biên giới và

địa phương có quân nhân nhập ngũ trong quán triệt, tổ chức thực hiện các chế

độ, chính sách theo quy định của Nhà nước, Quân đội và bổ sung các chế độ,

chính sách phù hợp với kiều kiện, khả năng của từng địa phương, đơn vị.

Sáu là, tích cực tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa bàn

biên giới.

Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt

đẹp, lành mạnh, bảo đảm các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc với đẩy mạnh phát triển

kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, củng cố quốc phòng, an

ninh và đối ngoại ở địa bàn biên giới có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng vật

chất tinh thần cho sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia nói chung, việc hình

thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng. Đây chính là vận dụng

đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức vào giải quyết mối

quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; phát

huy sức mạnh tổng hợp của các chủ thể trong bảo vệ biên giới quốc gia; tạo nền

tảng vật chất cần thiết và tạo ra hệ động lực cơ bản nhằm thúc đẩy tính tích cực

xã hội, thúc đẩy sự nỗ lực chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng

153

biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong bảo vệ biên giới quốc gia

Thực hiện tốt yêu cầu này, đòi hỏi các chủ thể thuộc Bộ đội Biên phòng

đặc biệt là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc phải luôn đề cao trách nhiệm, làm tốt công tác vận động quần chúng,

tích cực tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống

chính trị cơ sở vững mạnh, củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở địa

bàn biên giới; giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề bức xúc nảy sinh

trong đời sống nhân dân; quan tâm chăm lo đến lợi ích và giải quyết tốt những

quyền lợi chính đáng của nhân dân. Kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức, biện

pháp tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân bằng những việc làm thiết

thực, cụ thể của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng; kết hợp giữa trang bị

kiến thức, nâng cao nhận thức với các chương trình hành động, phong trào

thực tiễn để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa bàn biên giới.

4.3. Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

4.3.1. Phát huy tính tích cực, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia hiện nay

Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với quá trình

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn

biên phòng hiện nay. Bởi lẽ, mọi hoạt động của con người đều chịu sự

quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong mối

quan hệ đó nhân tố chủ quan bên trong chủ thể giữ vai trò trực tiếp, đặc

biệt quan trọng. Mọi giải pháp khác chỉ có hiệu quả khi khơi dậy, phát

huy được vai trò nhân tố chủ quan của chủ thể đặc biệt là tính tích cực, tự

giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Phát huy tính năng động chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ trong việc tích

cực tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ là

quá trình chuyển hóa các điều kiện, yêu cầu, khả năng khách quan thành nhu cầu

tự thân phát triển của chính họ; biến quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

thành quá trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Làm tốt vấn đề này sẽ khơi

154

dậy, huy động tất cả những gì tích cực nhất thuộc về chủ thể hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ đáp ứng

yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.

Tính năng động chủ quan của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

trong việc tích cực tự tu dưỡng, rèn luyện phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia là cơ sở nâng cao sức mạnh nội lực khơi dậy tính chủ động, sự nỗ

lực cố gắng vươn lên của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình này, là nền

tảng nâng cao năng lực nhận thức, góp phần phát triển phẩm chất và năng

lực của họ, là động lực bên trong để họ nắm vững tri thức, bồi dưỡng tình

cảm, niềm tin, rèn luyện thái độ trách nhiệm, xây dựng ý chí quyết tâm, nâng

cao năng lực hoạt động thực tiễn, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị

chức trách được giao.

Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

là một loại hình của ý thức xã hội thuộc hình thái ý thức chính trị với tính

cách là một phẩm chất chính trị của con người, không tự hình thành và phát

triển mà là kết quả của sự tác động tổng hợp nhiều yếu tố. Đó là quá trình

chuyển hóa biện chứng từ tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia trở thành tình

cảm, niềm tin, ý chí và biểu hiện ra ở thái độ trách nhiệm, bản lĩnh chính trị

và hành vi hoạt động thực tiễn của họ cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ

biên giới quốc gia, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cho lý tưởng

cách mạng của Đảng, của dân tộc. Vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia chỉ phát huy được hiệu quả thực sự khi mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ tiếp nhận

nó một cách tự giác, chủ động, tích cực biến nó trở thành động lực bên trong,

thôi thúc họ nỗ lực phấn đấu, vươn lên, vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm

vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này cần thực hiện tốt một số nội

dung biện pháp cụ thể sau:

Một là, nâng cao chất lượng tuyển chọn nhập ngũ ở các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay

Tuyển chọn nhập ngũ là khâu đầu tiên, là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm hằng năm của các đồn biên phòng nhằm chuẩn bị nguồn lực con

155

người cần thiết cho quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và phát triển ý

thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện

nay. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để phát huy tính tích cực,

tự giác trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng. Để nâng cao chất lượng tuyển chọn nhập ngũ ở các đồn biên

phòng cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong công

tác tuyển chọn công dân nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng.

Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng gồm

nhiều tổ chức, lực lượng cùng tham gia như: cấp ủy, chỉ huy các cấp, cơ quan

chức năng, các tổ chức quần chúng của Bộ đội Biên phòng trực tiếp là ở các đồn

biên phòng; cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể các cấp ở địa phương địa

bàn biên giới trực tiếp là cấp xã, phường, thị trấn ở địa bàn biên giới; các gia

đình có công dân trong độ tuổi nhập ngũ và bản thân họ. Trong đó, cấp ủy đảng

các cấp, cơ quan tham mưu, cơ quan chính trị, chính ủy, chính trị viên, người chỉ

huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là ở cấp đồn biên phòng và các cán bộ

quản lý trực tiếp được giao nhiệm vụ thâm nhập tuyển quân có vai trò định

hướng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tuyển chọn nhập ngũ.

Có kế hoạch chủ động làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi

cấp, ngành, mọi người dân nhất là thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ theo luật

định hiểu rõ tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ

biên giới quốc gia, quyền và nghĩa vụ, vinh dự và trách nhiệm của công dân.

Các chủ thể cần nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của thanh niên đối với

sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay. Từ đó, hăng hái tham gia làm

tốt các khâu, các bước của quy trình tuyển chọn nhập ngũ; công dân trong độ

tuổi nhập ngũ tích cực, tự giác tham gia nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng;

giáo dục truyền thống và giáo dục pháp luật về nghĩa vụ của công dân đối với

Tổ quốc và sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia.

Công tác giáo dục chính trị, nắm tình hình tư tưởng của công dân trong

độ tuổi nhập ngũ ở địa bàn biên giới có ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua

156

công tác này cấp ủy, chỉ huy, cán bộ trực tiếp làm công tác tuyển quân nắm

được tình hình tư tưởng, mức độ nhận thức chính trị của họ qua đó có những

biện pháp phù hợp để giải thích, động viên, giải quyết kịp thời những vướng

mắc để công dân và gia đình họ hiểu rõ, tự giác, tự nguyện tham gia tuyển

chọn nhập ngũ. Chú trọng tuyên truyền về vị trí, vai trò, ý nghĩa cao cả,

thiêng liêng của nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, vai trò quan trọng của

thanh niên đối với nhiệm vụ này để họ hiểu rằng chỉ có bảo vệ vững chắc độc

lập, biên giới quốc gia mới tạo dựng được môi trường hòa bình, ổn định để

phát triển đất nước, phát triển địa bàn biên giới giàu mạnh.

Kết hợp công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần với công tác giáo dục truyền thống của dân tộc, quân đội, Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị, địa phương địa bàn biên giới và của các thế hệ ông cha trong sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Từ đó, bồi đắp tình cảm, tình yêu đối với địa bàn biên giới; củng cố niềm vinh dự, tự hào, tự tôn dân tộc, sẵn sàng tiếp bước truyền thống của ông cha bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân địa bàn biên giới.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhất là Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015 và các nghị định, thông tư, hướng dẫn thi hành để nhân dân, các gia đình có công dân trong độ tuổi nhập ngũ và bản thân công dân nắm vững các quy định của pháp luật, để họ hiểu rằng tham gia nghĩa vụ quân sự là bắt buộc đối với mọi nam công dân trong độ tuổi luật định; vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của họ; tham gia nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia cũng chính là bảo vệ chính mình, bảo vệ người thân, gia đình, dòng họ, làng xóm, quê hương, đất nước, dân tộc, giai cấp,… Đó là vinh dự và trách nhiệm cao cả của mỗi thanh niên, mỗi công dân đối với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân.

Hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục cần đa dạng, phong phú, linh hoạt; kết hợp giữa hình thức, phương pháp truyền thống với hiện đại; giữa trực tiếp gặp gỡ tại gia đình hoặc tập trung tại các nơi sinh hoạt cộng đồng của địa phương và gián tiếp thông qua các tờ rơi, hệ thống loa truyền thanh, báo, đài, truyền hình của địa phương; qua các hoạt động giao lưu văn

157

hóa, biểu diễn văn nghệ ở địa bàn biên giới; qua các hội thi, hội thao, hội diễn, qua các mạng xã hội Zalo, Facebook, báo điện tử và các nền tảng khác để tuyên truyền, giáo dục cho họ. Từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của họ, tích cực, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự vào Bộ đội Biên phòng đảm bảo cả về số lượng và chất lượng tuyển chọn, đáp ứng chỉ tiêu,yêu cầu tuyển chọn nhập ngũ hằng năm theo kế hoạch.

Thứ ba, thực hiện chặt chẽ, chu đáo, đầy đủ, công khai, dân chủ quy trình tuyển chọn công dân nhập ngũ đúng quy định; làm tốt công tác phối hợp hiệp đồng giữa đồn biên phòng với cấp ủy, chính quyền và các lực lượng có liên quan ở địa bàn biên giới.

Trên cơ sở công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ và kế hoạch, chỉ tiêu tuyển chọn công dân nhập ngũ hằng năm; cấp ủy chỉ huy các cấp xây dựng kế hoạch tuyển chọn công dân nhập ngũ của cấp mình, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện. Quy trình tuyển chọn tiến hành chu đáo, chặt chẽ ở tất cả các khâu, các bước từ khâu thâm nhập địa bàn, gặp gỡ địa phương, gia đình và công dân để nắm được các yếu tố nhân thân của công dân về lý lịch chính trị, đạo đức, học vấn và sức khỏe của họ đến khâu sơ tuyển, khám tuyển, giao nhận quân. Đặc biệt khâu sơ tuyển, khám tuyển công dân nhập ngũ được thực hiện công khai, dân chủ, đúng quy định theo phương châm “ba gặp, bốn biết” và “ba bình cử, bốn công khai” trong quá trình tuyển chọn.

Các đồn biên phòng cần phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể địa phương các cấp nhất là cấp xã, thôn, bản để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và thâm nhập tuyển chọn. Phối hợp chặt chẽ với Ban chỉ huy quân sự cấp huyện và cấp xã ở địa bàn biên giới để triển khai đồng bộ nhịp nhàng các bước tiếp theo của quy trình tuyển chọn công dân nhập ngũ; trên cơ sở chỉ tiêu, số lượng quân nhân đủ điều kiện khám sức khỏe và trúng tuyển nghĩa vụ quân sự nói chung để tuyển lựa những công dân có kết quả sơ, khám tuyển nổi trội trên một số mặt phù hợp với hoạt động công tác bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng như: sức khỏe tốt, lý lịch trong sạch rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, trình

158

độ học vấn tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên, là con em đồng bào đang sinh sống, học tập, công tác ở địa bàn biên giới,… Phối hợp chặt chẽ với địa phương và cơ quan quân sự các cấp trong công tác giao nhận quân đảm bảo chỉ tiêu số lượng đề ra, có chất lượng toàn diện tốt, thực hiện chặt chẽ, đầy đủ các thủ tục giao nhận đúng quy định, không để xảy ra sai sót trong quá trình giao nhận quân.

Thứ tư, tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt các chế độ chính sách đối

với hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự cũng như

sau khi xuất ngũ nhằm thu hút thanh niên nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng.

Để thu hút công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự chủ động,

tích cực, tự giác đăng ký sơ tuyển, khám tuyển nghĩa vụ quân sự vào Bộ đội

Biên phòng cần đẩy mạnh tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt công tác

chính sách đối với quân nhân và hậu phương quân nhân cả trước, trong và sau

khi quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương.

Bên cạnh các chế độ, chính sách đãi ngộ theo quy định của Nhà nước,

quân đội, các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần tham mưu, phối hợp với cấp ủy,

chính quyền địa phương các cấp ở địa bàn biên giới phát huy các nguồn lực tại

chỗ có thêm những chính sách ưu đãi, thu hút khác để thu hút công dân địa bàn

biên giới nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng, chẳng hạn như: tạo việc làm cho bộ

đội xuất ngũ, ưu tiên quân nhân Bộ đội Biên phòng hoàn thành nghĩa vụ quân sự

về tham gia vào các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương các cấp

nhất là cấp cơ sở địa bàn biên giới; ưu tiên tuyển dụng vào các công ty, doanh

nghiệp ở địa bàn biên giới; ưu tiên hỗ trợ về đất ở, nhà ở; hỗ trợ vốn sản xuất, kỹ

thuật, công nghệ trồng trọt, chăn nuôi; tạo sinh kế, khởi nghiệp giúp đỡ họ sản

xuất làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương địa bàn biên giới.

Làm tốt vấn đề này không chỉ giải quyết tốt bài toán cho bộ đội xuất ngũ,

tạo động lực tích cực thu hút các công dân khác trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ

quân sự hăng hái tham gia nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng mà còn tạo nguồn lực

hùng hậu cho lực lượng dự bị động viên ở địa bàn biên giới cả trước mắt và lâu

dài, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia và xây dựng, phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh địa bàn biên giới vững mạnh.

159

Hai là, phát huy tính tích cực tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện.

Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng vừa là đối tượng giáo dục của

các chủ thể là các tổ chức, các lực lượng, các cá nhân lãnh đạo, chỉ huy, quản

lý, đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm theo chương trình, nội dung, kế hoạch hằng

năm theo từng giai đoạn huấn luyện; vừa là chủ thể của chính mình trong quá

trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo mục tiêu, yêu cầu giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện đề ra. Quá trình công tác ở các đồn biên phòng, họ vừa thực

hiện chức trách, nhiệm vụ được giao vừa tham gia giáo dục, huấn luyện chính

trị, pháp luật, quân sự, nghiệp vụ theo chương trình, kế hoạch giáo dục, huấn

luyện hằng năm của đồn biên phòng. Bên cạnh thời gian giáo dục, huấn luyện

theo kế hoạch, chương trình quy định thời gian còn lại dành cho tự giáo dục,

tự huấn luyện, rèn luyện. Thời gian tự giáo dục, tự huấn luyện, rèn luyện

không chỉ bó hẹp ở thời gian tự ôn, tự luyện trong mỗi chủ đề, bài học mà còn

mở rộng ra cả các khung thời gian giáo dục, huấn luyện ngoại khóa.

Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức

bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cần nâng cao

chất lượng tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ.

Muốn vậy, mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò quan

trọng của hoạt động tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện đối với chất

lượng, hiệu quả của quá trình này. Chủ động chọn lựa nội dung, hình thức,

phương pháp tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện phù hợp với trình độ,

khả năng của bản thân để đem lại hiệu quả cao nhất. Chủ động, tận dụng học

ở mọi lúc, mọi nơi; không chỉ học ở giáo viên huấn luyện, mà còn học ở đồng

chí, đồng đội; không chỉ học ở giáo trình, tài liệu giáo dục, huấn luyện mà còn

thông qua các phương tiện truyền thông,... để học tập, cập nhật bổ sung những

kiến thức, kỹ năng còn thiếu hụt cho mình. Tự giáo dục, huấn luyện để hoàn

thiện các phẩm chất nhân cách cần thiết trước hết là phẩm chất nhân cách Bộ

đội Cụ Hồ, nhân cách người chiến sĩ biên phòng ưu tú và nâng cao trình độ tri

thức về mọi mặt nhất là kiến thức, kỹ năng về bảo vệ biên giới quốc gia đáp

ứng với chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ.

160

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm biến nó thành nhu cầu, thói quen hằng

ngày của hạ sĩ quan, binh sĩ; đồng thời gắn với việc xây dựng động cơ, mục

đích học tập, huấn luyện, rèn luyện đúng đắn và lý tưởng chiến đấu cao đẹp

cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tạo động lực thúc đẩy, định hướng thái

độ, hành vi của họ đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp bảo

vệ biên giới quốc gia hiện nay.

Các tổ chức và cá nhân với tư cách là các chủ thể giáo dục, huấn luyện,

rèn luyện ở các đồn biên phòng là người trực tiếp tổ chức và điều khiển hoạt

động tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng, tạo điều kiện và bồi dưỡng phương pháp tự giáo dục, tự huấn luyện, tự

rèn luyện cho họ. Đồng thời, uốn nắn những lệch lạc và kiểm tra, đánh giá kết

quả tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ thông qua công tác kiểm tra, giám

sát, đánh giá, nhận xét, rút kinh nghiệm hàng ngày và theo định kỳ. Làm tốt công

tác biểu dương, khen thưởng, động viên, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong

phong trào tự giáo dục, tự huấn luyện, tự quản lý, tự rèn luyện trong toàn đơn vị.

Ngoài ra, lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ quản lý, giáo viên kiêm nhiệm, cán

bộ, đảng viên, sĩ quan đồn biên phòng còn là những tấm gương mẫu mực,

sinh động cho quân nhân về những nhân cách tự giáo dục, tự huấn luyện, tự

rèn luyện nghiêm túc và khoa học. Tuy nhiên, vai trò của giáo dục chỉ là tiền

đề, định hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự giáo

dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chứ

không thể thay thế cho hoạt động của chính bản thân họ. Vì vậy, việc biến

quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, huấn luyện thành tự huấn

luyện, rèn luyện thành tự rèn luyện luôn là phương châm chỉ đạo quan trọng

trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Ba là, coi trọng bồi dưỡng phát huy ưu thế tình cảm, niềm tin, ý chí của

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của họ.

Tính tích cực, chủ động, tự giác trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

của hạ sĩ quan, binh sĩ được đẩy mạnh sẽ huy động các yếu tố bên trong họ

161

vận hành làm chuyển hóa các điều kiện, khả năng khách quan trong quá trình

giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tại đồn biên phòng. Do đó, cần làm cho họ

nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng của biên giới quốc gia, niềm vinh

dự, tự hào, quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân đối với nhiệm vụ

bảo vệ biên giới quốc gia. Trên cơ sở đó, thôi thúc họ không ngừng tự giác,

tích cực trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tiếp thu, lĩnh hội tri thức về bảo

vệ biên giới quốc gia, bồi đắp tình cảm, niềm tin, ý chí của họ về nhiệm vụ

bảo vệ biên giới quốc gia. Có tình cảm đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới

quốc gia, tình cảm với địa bàn và nhân dân biên giới, xác định đồn là nhà, biên

giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt; hạ sĩ quan, binh sĩ sẽ

không thể thờ ơ hay vô cảm trước các hành vi, hoạt động xâm phạm chủ quyền

lãnh thổ, biên giới quốc gia, trước âm mưu và sự chống phá của các thế lực thù

địch, sự hoành hành của các loại tội phạm ở địa bàn biên giới, từ đó xây dựng

thái độ trách nhiệm, ý chí quyết tâm, đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả

các hành vi, hoạt động xâm phạm đó bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.

Khi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có tình cảm, niềm tin, ý chí sẽ kích

thích tiếp thu, lĩnh hội tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia và ngược lại có tri thức

về bảo vệ biên giới quốc gia toàn diện và sâu sắc sẽ bồi đắp tình cảm, củng cố

niềm tin, nâng cao ý chí quyết tâm cho họ giúp họ hoàn thành mọi nhiệm vụ được

giao một cách chủ động, tích cực, tự giác. Chính vì vậy, quá trình phát huy tính

tích cực, chủ động, sáng tạo trong nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ cần coi

trọng bồi dưỡng phát huy ưu thế của tình cảm, niềm tin, ý chí của họ cùng với tính

tích cực, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng sẽ góp phần phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ đáp

ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Bốn là, gắn hoạt động tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện với hoạt động

thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng.

Đây là con đường, biện pháp quan trọng để phát triển ý thức bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.

162

Thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia luôn vận động, biến đổi không

ngừng. Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc diễn biến phức tạp, khó

lường. Hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, xây dựng tường rào biên

giới, xây bờ kè nắn chỉnh dòng chảy sông, suối biên giới của nước đối diện;

hoạt động xâm canh, xâm cư; xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; hoạt động móc

nối, thu thập tin tức, tình báo của phía đối diện có chiều hướng gia tăng. Công

tác đấu tranh chống các loại tội phạm ở địa bàn biên giới cũng nảy sinh nhiều

vấn đề mới phức tạp cả về quy mô, tính chất, mức độ nguy hiểm và thủ đoạn

tinh vi của nó làm cho nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia càng thêm khó

khăn, phức tạp hơn.

Cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ

chức giáo dục cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nắm được âm mưu

phương thức và thủ đoạn hoạt động của địch và các loại đối tượng; chủ

trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa bàn

biên giới; chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; nhiệm vụ của Bộ đội

Biên phòng và đối sách đấu tranh với từng loại đối tượng xâm phạm biên giới

quốc gia. Nắm chắc tình hình mọi mặt để xây dựng quyết tâm bảo vệ biên

giới sát đúng với thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của đơn vị và kế hoạch của cấp trên để

tổ chức huấn luyện, diễn tập sát thực tiễn địa bàn, đơn vị và đối tượng đấu

tranh nhằm tăng tính thực tiễn và rèn luyện tâm lý, thể lực cho hạ sĩ quan,

binh sĩ đáp ứng những điều kiện chiến đấu khó khăn, phức tạp. Chương trình,

nội dung huấn luyện, diễn tập phải dựa trên những cơ sở khoa học và thực tế,

bảo đảm từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp một cách hợp lý để tăng

dần độ khó, mức độ căng thẳng để rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ.

Vận dụng tổng hợp, linh hoạt các biện pháp công tác biên phòng ở

đồn biên phòng (vận động quần chúng, vũ trang, trinh sát, kiểm soát hành

chính, đối ngoại biên phòng và công trình kỹ thuật); mỗi biện pháp là một

mũi chiến đấu, có đối tượng, lực lượng, phương thức đấu tranh và quy luật

riêng, luôn gắn với yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể. Các biện pháp công tác

luôn hỗ trợ và là tiền đề của nhau, đều thống nhất ở mục đích hoạt động

163

bảo vệ biên giới quốc gia. Tùy tình hình mỗi lúc, mỗi nơi mà cấp ủy, chỉ

huy đơn vị triển khai từng biện pháp riêng lẻ hoặc nhiều biện pháp cùng

một lúc. Nhưng nhìn tổng thể các biện pháp công tác trên phải được triển

khai đồng bộ, toàn diện trong từng đơn vị.

Trên cơ sở các biện pháp công tác, yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng địa

bàn, đơn vị, phẩm chất và năng lực của từng hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng tổ chức giao nhiệm vụ cho hạ sĩ quan, binh sĩ

thuộc quyền để họ có cơ hội cọ xát với thực tiễn từ đó rèn luyện ý chí, bản lĩnh

chiến đấu, rút ra những bài học kinh nghiệm, điều chỉnh nhận thức và hành động

của mình, nâng cao kỹ năng tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện của bản

thân từ đó góp phần phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng ngày càng đi vào thực chất và hiệu quả hơn.

4.3.2. Tăng cường khả năng tự chuyển hóa ý thức thành hành vi hoạt

động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa then chốt đối với quá trình

phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên

phòng hiện nay. Bởi lẽ, mặc dù ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng có vai trò quan trọng đối với nhiệm vụ bảo vệ

biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng nhưng sẽ là vô nghĩa, vô giá trị nếu

như ý thức đó chỉ tồn tại trong tinh thần, tư tưởng của họ mà không được

bộc lộ, biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động cách mạng, bằng hành vi hoạt

động bảo vệ biên giới quốc gia của chính họ.

Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng

nặng nề, phức tạp, khó dự báo đòi hỏi ngày càng cao đối với cán bộ, chiến sĩ

Bộ đội Biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng về

năng lực hoạt động thực tiễn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Đây được coi là yếu tố cơ bản, chủ yếu làm chuyển hóa ý thức thành hành vi

hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ.

Tăng cường khả năng tự chuyển hóa ý thức thành hành vi hoạt động

bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng thực chất là

tăng cường các yếu tố về bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu, ý chí quyết

164

tâm; trình độ tổ chức, năng lực thực hành và khả năng vận dụng tri thức

quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên phòng vào thực tiễn chiến đấu, công tác ở

địa bàn biên giới của họ.

Một là, xây dựng bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu, ý chí quyết

tâm cao cho hạ sĩ quan, binh sĩ.

Xây dựng bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm cao là

nội dung biện pháp cơ bản có vai trò định hướng, chỉ đạo các biện pháp khác

trong nâng cao năng lực thực tiễn thực hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng góp phần làm chuyển hóa ý thức thành hành vi

hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của họ.

Bản lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là toàn

bộ nhận thức, tình cảm và hành vi chính trị đã phát triển đạt tới trình độ tự

giác, tạo nên năng lực làm chủ về chính trị của họ. Thể hiện ở sự vững vàng

kiên định về chính trị của họ trước những biến động của tình hình thế giới,

khu vực, trong nước; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của đảng, của hệ

thống chính trị trước hết là sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đơn vị, sự

vững mạnh của hệ thống chính trị cơ sở địa bàn biên giới; không hoang mang,

dao động trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình.

Nâng cao bản lĩnh chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ chính là làm cho họ

luôn kiên định, vững vàng trước mọi âm mưu, phương thức, thủ đoạn chống

phá của các thế lực thù địch, vững tin vào lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, vượt mọi

khó khăn, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Do đó, phải tăng

cường các hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức chính trị cho họ; đa dạng

hóa các hình thức, phương pháp giáo dục chính trị; kết hợp chặt chẽ giữa giáo

dục và tự giáo dục để phát huy tính tích cực, sáng tạo của họ để nâng cao

nhận thức chính trị. Từ nhận thức chính trị đó, hình thành cho họ thái độ

chính trị đúng đắn, sự tin tưởng, sự trung thành đối với Đảng, Nhà nước, quân

đội và Bộ đội Biên phòng; đồng thời thường xuyên quan tâm tới các vấn đề

chính trị cả quốc tế và trong nước, không thờ ơ, bàng quan; có chính kiến, lập

trường quan điểm chính trị rõ ràng trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta. Nhận thức

165

chính trị, thái độ chính trị đúng đắn sẽ thúc đẩy hành vi chính trị của họ trong

thực tiễn từ lời nói, cử chỉ, hành động có liên quan đến những vấn đề chính

trị, lập trường, giai cấp trong học tập, sinh hoạt, công tác, thực hiện nhiệm vụ

của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Vấn đề này đòi hỏi phải phát huy vai trò của các chủ thể giáo dục nhất là

cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng, đội ngũ cán bộ, đảng viên đồn biên phòng trong

việc định hướng chính trị, hỗ trợ hoạt động tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện bản

lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ cùng với sự nỗ lực, chủ động, tự giác của họ

tạo sự thống nhất giữa nhận thức, thái độ, hành vi chính trị để khẳng định tính chủ

thể chính của hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Quản lý chặt chẽ, đánh giá đúng hoạt động tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện bản

lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ không chỉ giúp định hướng chính trị đúng đắn

mà còn kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện, hành vi chính trị sai

trái, lệch chuẩn, bảo đảm tính đúng đắn của quá trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn

luyện bản lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng hiện nay.

Xây dựng tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm là một nội dung quan

trọng của những con người hoạt động ở lĩnh vực quân sự, trong chiến đấu. Tinh

thần chiến đấu, ý chí quyết tâm liên quan trực tiếp đến thành, bại của trận đánh,

trong đối mặt với các đối tượng đấu tranh nguy hiểm, phức tạp và đặc biệt hơn

trong chiến tranh hiện đại, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao; trong đấu

tranh với các loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm ở địa bàn biên giới như tội phạm

ma túy, buôn lậu, mua bán người,… Điều này càng đòi hỏi bản lĩnh, tinh thần

chiến đấu, ý chí quyết tâm rất cao mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì thế xây

dựng tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng

là yêu cầu tất yếu trong nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn cho họ đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra.

Để xây dựng tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm cao cho hạ sĩ quan,

binh sĩ lãnh đạo, chỉ huy đồn biên phòng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo

chặt chẽ công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đơn

vị trong đó tăng cường các nội dung, thời gian huấn luyện thực hành và thục

luyện hợp lý; coi trọng huấn luyện ứng dụng theo nhiệm vụ, sát với thực tế

166

chiến đấu, sát với tình hình, đối tượng tác chiến, địa bàn biên giới và tổ chức,

biên chế, vũ khí trang bị của đồn biên phòng. Tăng cường các các hoạt động

diễn tập chuyển trạng thái bảo vệ biên giới từ thấp lên cao; các phương án chiến

đấu bảo vệ đồn, trạm; giả định các tình huống chính trị, tình huống đấu tranh xảy

ra ở địa bàn biên giới, các sự kiện xâm phạm biên giới; truy quét, đánh bắt tội

phạm để hạ sĩ quan, binh sĩ có điều kiện tham gia luyện tập, rèn luyện sát với

thực tế chiến đấu trên biên giới. Quá trình huấn luyện, rèn luyện là quá trình học

tập nghiêm túc, căng thẳng, gian khổ, tác động toàn diện đến tâm lý, tư tưởng,

tình cảm và sức chịu đựng của hạ sĩ quan, binh sĩ để xây dựng cho họ có bản

lĩnh, tâm lý vững vàng và tinh thần chiến đấu cao sẵn sàng “vượt nắng, thắng

mưa” say sưa luyện tập, phấn đấu giành kết quả cao nhất.

Kết hợp với phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, xây dựng môi trường văn

hóa đồn biên phòng để hạ sĩ quan, binh sĩ bộc lộ vai trò chủ thể trong thực hiện

chức trách, nhiệm vụ được giao. Khi hạ sĩ quan, binh sĩ có động cơ, trách nhiệm

và quyết tâm cao trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sẽ làm cho họ có khả năng

vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ nhất là các nhiệm

vụ chiến đấu. Ngoài ra, cần quản lý, khai thác hiệu quả các vũ khí trang bị hiện có

đồng thời đề nghị bổ sung, nâng cấp các vũ khí, trang bị, phương tiện hiện đại và

đào tạo sử dụng chúng vừa đem lại hiệu quả huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ cao

nhất vừa củng cố niềm tin chiến đấu cho hạ sĩ quan, binh sĩ giải quyết tốt mối

quan hệ con người và vũ khí trong sức mạnh chiến đấu của đơn vị.

Hai là, nâng cao trình độ năng lực vận dụng tri thức quân sự, pháp

luật, nghiệp vụ biên phòng vào thực tiễn chiến đấu, công tác ở địa bàn biên

giới của hạ sĩ quan, binh sĩ.

Đây là nội dung biện pháp quan trọng trong nâng cao năng lực thực

hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng góp phần làm

chuyển hóa ý thức thành hành vi hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Tri

thức quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên phòng nhất là các tri thức kỹ thuật, chiến

thuật, nghiệp vụ biên phòng và khả năng vận dụng các tri thức này vào thực tiễn là

một trong những yếu tố cấu thành năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ bảo vệ

biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

167

Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có động cơ, thái độ, trách nhiệm, có

phẩm chất chính trị, đạo đức tốt nhưng thiếu tri thức quân sự, pháp luật,

nghiệp vụ biên phòng nhất là các tri thức kỹ thuật, chiến thuật, nghiệp vụ biên

phòng và khả năng vận dụng các tri thức này vào thực tiễn công tác ở địa bàn

biên giới sẽ không thể hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Vì vậy,

bên cạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị,

tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm phải coi trọng trang bị tri thức toàn diện

về quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên phòng và khả năng vận dụng các tri

thức đó vào thực tiễn công tác cho hạ sĩ quan, binh sĩ.

Lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy, huy

đồn biên phòng cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này, trên cơ sở đó lãnh đạo,

chỉ đạo các tổ chức, các lực lượng, cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền ở đồn biên

phòng tổ chức thực hiện. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng bên

cạnh việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện để trang bị kiến thức toàn diện về quân sự, pháp

luật, nghiệp vụ biên phòng cho hạ sĩ quan, binh sĩ phải hướng dẫn họ cách

thức, biện pháp luyện tập, rèn luyện thành kỹ năng, kỹ xảo; hướng dẫn cách

thức, biện pháp chuyển hóa kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo ấy thành hành động

thực tiễn một cách linh hoạt, sáng tạo vào từng nhiệm vụ, từng tình huống

chiến đấu, từng hình thức chiến thuật của Bộ đội Biên phòng thông qua kiến

thức, kinh nghiệm huấn luyện, kinh nghiệm công tác, chiến đấu của chính đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ quản lý, cán bộ, sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp ở các tổ, đội công tác của đồn biên phòng.

Nâng cao năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh

sĩ đồn biên phòng, tích cực hóa nhân tố chủ quan của họ trong vấn đề này

không chỉ tăng cường huấn luyện, rèn luyện trang bị tri thức, kỹ năng, kỹ xảo

cho họ mà còn phải kết hợp rèn luyện nâng cao thể lực, sức khỏe của họ, tăng

tính bền bỉ, dẻo dai, khả năng thích ứng, chịu đựng được điều kiện khắc

nghiệt, khó khăn, gian khổ của địa hình, khí hậu thời tiết nơi biên giới, của

môi trường hoạt động công tác chiến đấu đầy thử thách, nguy hiểm, hy sinh

168

của Bộ đội Biên phòng. Để có được đội ngũ hạ sĩ quan, binh sĩ có nền tảng sức

khỏe, thể lực tốt đảm đương nhiệm vụ cấp ủy, chỉ huy các đơn vị phải lãnh đạo,

chỉ đạo thực hiện tốt ngay từ khâu tuyển chọn nhập ngũ, bên cạnh điều kiện về

chính trị, đạo đức, văn hóa, học vấn còn phải có sức khỏe tốt thông qua sơ, khám

tuyển ban đầu. Trên nền tảng đó, tăng cường các hoạt động thể dục, thể thao,

luyện tập võ thuật biên phòng, hội thi, hội thao quân sự và các hình thức huấn

luyện, rèn luyện thể lực khác để nâng cao sức khỏe cho họ. Kết hợp rèn luyện

thể lực với công tác chăm sóc sức khỏe y tế, công tác hậu cần cải thiện chất

lượng đời sống và sức khỏe cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Cấp ủy, chỉ huy cấp đồn biên phòng và chỉ huy cấp đội trực thuộc đồn

tăng cường giúp đỡ hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong tự giáo dục, huấn

luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia; chú trọng phát huy tính tích

cực, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ bằng việc tin tưởng và giao nhiệm vụ cho

họ để họ có môi trường điều kiện thuận lợi được cọ xát, rèn luyện trong thực

tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Bởi lẽ, thực tiễn chiến đấu

đa dạng, phong phú, phức tạp với nhiều tình huống, điều kiện khác nhau,

muôn hình muôn vẻ; môi trường huấn luyện chiến đấu dù có sát thực tế đến

đâu cũng không thể như giống như môi trường thực tế chiến đấu, không có sự

trải nghiệm nào quý giá hơn trải nghiệm thực tiễn chiến đấu của chính hạ sĩ

quan, binh sĩ đồn biên phòng. Do vậy, cần đưa hạ sĩ quan, binh sĩ Bộ đội Biên

phòng vào thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, các hoạt động bảo vệ biên giới quốc

gia ở đồn biên phòng như: tuần tra biên giới, kiểm soát xuất nhập cảnh; tham

gia xử lý các tình huống, vụ việc nảy sinh trên biên giới; tham gia giữ gìn an

ninh trật tự ở địa bàn biên giới; tham gia truy quét, đánh bắt tội phạm, đấu

tranh chuyên án, xử lý vi phạm hành chính ở địa bàn biên giới,… Thông qua

thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, hạ sĩ quan, binh sĩ

được bổ sung kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm cần thiết đồng thời

nâng cao trình độ khả năng vận dụng, chuyển hóa kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo

được huấn luyện, rèn luyện trước đó vào thực tiễn công tác, chiến đấu một

cách linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả nhất.

169

Kết luận chương 4

Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay là yêu cầu khách

quan của sự nghiệp xây dựng, quản lý, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia

trong tình hình mới. Quá trình này đòi hỏi phải xây dựng được hệ thống các

giải pháp phù hợp, hiệu quả, có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình thực

tiễn và đặc điểm hạ sĩ quan, binh sĩ.

Để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay, đòi hỏi các chủ

thể cần thực hiện tốt một số nhóm giải pháp cơ bản đó là: Nâng cao chất

lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ

của hạ sĩ quan, binh sĩ; xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp,

lành mạnh, bảo đảm chế độ, chính sách phù hợp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và

tham gia phát triển kinh tế - xã hội; phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan,

binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ hiện nay.

Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò khác nhau song có mối quan hệ biện

chứng, thống nhất trong một chỉnh thể, nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên

giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng theo mục đích, yêu cầu

đề ra. Trong đó, giải pháp thứ nhất là giải pháp hàng đầu có ý nghĩa nền tảng;

giải pháp thứ hai là giải pháp cơ bản, quan trọng và giải pháp thứ ba là giải

pháp có ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -

Trung Quốc hiện nay. Do đó, không được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hoá giải

pháp nào, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp nhằm đem lại hiệu quả

thiết thực trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

170

KẾT LUẬN

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án cho thấy,

việc tiếp cận một cách có hệ thống dưới góc độ triết học để làm rõ những vấn

đề lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc và khảo sát, đánh giá thực trạng

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ, từ đó rút ra vấn đề đặt ra từ thực

trạng; đề xuất giải pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay

là một vấn đề mới, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố;

đồng thời, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.

2. Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung

Quốc có vai trò quan trọng, là lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng nơi đây. Để hoàn

thành tốt chức trách, nhiệm vụ trong bảo vệ biên giới quốc gia đòi hỏi cần có

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt

ra. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức,

tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ ở

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo thành sức mạnh

chính trị - tinh thần để họ hoàn thành tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách, trực

tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.

3. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên

phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chịu sự quy định bởi chất lượng giáo

dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; điều kiện

kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa đồn biên phòng và vai trò nhân tố chủ

quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Đây là những nhân tố cơ bản,

thường xuyên, trực tiếp quy định ý thức biên giới quốc gia của họ.

4. Trong những năm qua, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc có mặt

171

tích cực là: Tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của

họ không ngừng nâng cao; tình yêu biên cương, gắn bó với địa bàn biên giới;

tin tưởng vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp; vào sức mạnh,

khả năng thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia; vượt qua khó

khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên,

vẫn còn một số hạn chế nhất định. Những ưu điểm và hạn chế đó do cả

nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ

yếu. Từ thực trạng trên đặt ra một số vấn đề cần phải giải quyết để phát triển

ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng

biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

5. Trên cơ sở nhận thức đúng một số vấn đề lý luận, thực tiễn, luận án đề

xuất các giải pháp cơ bản phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay

một cách thống nhất, chặt chẽ. Các giải pháp có mối quan hệ biện chứng,

thống nhất, mỗi giải pháp có vai trò nhất định đòi hỏi quá trình thực hiện, các

chủ thể cần tiến hành đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo phù hợp nhằm mang lại

hiệu quả thiết thực phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.

172

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Hoàng Trọng Thiết (2021), “Tư duy của Đảng về bảo vệ chủ quyền biên giới

quốc gia từ sớm, từ xa và yêu cầu đặt ra đối với Bộ đội Biên phòng hiện

nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 5 (189), tr. 102 - 104.

2. Hoàng Trọng Thiết (2021), “Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới

quốc gia cho thanh niên ở khu vực biên giới”, Tạp chí Lý luận chính trị,

số Chuyên đề quý IV/2021, tr. 78 - 83.

3. Hoàng Trọng Thiết (2022), “Một số nhân tố quy định ý thức bảo vệ chủ

quyền biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng khu vực

biên giới đất liền nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền

thông, Chuyên đề số 1/2022, tr. 89 - 91.

4. Hoàng Trọng Thiết (2022), “Phát huy sức mạnh nhân tố tinh thần trong bảo

vệ chủ quyền biên giới quốc gia trước tác động của toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 26/6/2022.

5. Hoàng Trọng Thiết (2022), “Nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới

quốc gia của Bộ đội Biên phòng trước các thách thức an ninh phi truyền

thống hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, Chuyên đề số

2/2022, tr. 51 - 54.

173

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Đức Anh (2018), Tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc

đến Quốc phòng của Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2013), Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị

lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nxb Chính trị

quốc gia Sự thật, Hà Nội.

3. Nguyễn Xuân Bách (2017), Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng cơ sở

chính trị - xã hội khu vực biên giới Tây Bắc Việt Nam hiện nay, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

4. Đỗ Ích Báu (2011), Bộ đội Biên phòng bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới

quốc gia trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương (2018), Nghị quyết của Bộ Chính

trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, số 33-NQ/TW, ngày

28/9/2018, Hà Nội.

6. Bộ Công an (2021), Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng,

Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

7. Bộ Ngoại giao (2010), Cơ sở khoa học, pháp lý, lịch sử của công tác bảo

vệ, quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc sau phân

giới cắm mốc, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

8. Bộ Ngoại giao (2011), Thống nhất quản lý, bảo vệ hệ thống mốc quốc giới

Việt - Trung sau phân giới cắm mốc, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

9. Bộ Quốc phòng (2016), Thông tư quy định phong, thăng, giáng cấp bậc quân

hàm; bổ nhiệm chức vụ, giáng chức, cách chức; chức vụ tương đương và

cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân

đội nhân dân Việt Nam, số 07/TT-BQP, ngày 26/01/2017, Hà Nội.

10. Bộ Quốc phòng (2016), Thông tư hướng dẫn thực hiện một số Điều của

Nghị định số 27/2016/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chính

phủ quy định một số chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ

phục vụ tại ngũ, xuất ngũ và thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ,

số 95/TT-BQP, ngày 28/6/2016, Hà Nội.

174

11. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư quy định việc thực hiện xuất ngũ đối với

hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân, số

279/TT-BQP, ngày 31/10/2017, Hà Nội.

12. Bộ Quốc phòng (2018), Thông tư quy định tuyển chọn và gọi công dân

nhập ngũ, số 148/TT-BQP, ngày 04/10/2018, Hà Nội.

13. Bộ Quốc phòng (2018), Thông tư quy định về tổ chức và hoạt động của

Hội đồng quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, số 165/TT-

BQP, ngày 01/12/2018, Hà Nội.

14. Bộ Quốc phòng (2019), Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

15. Bộ Tham mưu, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2015), Báo cáo Kết quả

chỉ đạo thực hiện triển khai 03 văn kiện biên giới trên đất liền Việt

Nam - Trung Quốc, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

16. Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng (2015), Báo cáo tổng kết 5 năm công

tác quản lý, bảo vệ biên giới tuyến đất liền Việt Nam - Trung Quốc,

Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

17. Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo tình hình vi phạm kỷ

luật, pháp luật, mất an toàn trong Bộ đội Biên phòng năm 2021, Lưu

hành nội bộ, Hà Nội.

18. Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo kết quả thực hiện

nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

19. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

huấn luyện chiến đấu năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

20. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (1997), Nghệ thuật bảo vệ biên giới của

Bộ đội Biên phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

21. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2019), Tổng kết 60 năm công tác quản lý bảo vệ

chủ quyền an ninh biên giới (1959-2019), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

22. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2004), Từ điển Biên phòng, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

175

23. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2006), Nghiên cứu xây dựng nền Biên

phòng toàn dân trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

24. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2019), Tổng kết 60 năm công tác vận

động quần chúng bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia của

Bộ đội Biên phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

25. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2012), Chỉ thị về việc tổ chức phong trào kết

nghĩa giữa các cụm dân cư hai bên biên giới, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

26. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng - Viện Chiến lược Quốc phòng (2014), Kỷ

yếu Hội thảo khoa học Bộ đội Biên phòng ổn định, hội nhập và phát

triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới

quốc gia trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

27. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2016), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ

thị 124-CT/QUTW ngày 31/3/2011 của Quân ủy Trung ương về tăng

cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai

đoạn mới (2011 - 2016), Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

28. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2016), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng

năm 2016, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

29. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2017), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng

năm 2017, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

30. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2018), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng

năm 2018, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

31. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2019), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng

năm 2019, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

32. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2020), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng

năm 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

33. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng

năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

34. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2021), Kế hoạch về việc tăng cường công

tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ; chấn chỉnh,

khắc phục tình trạng vi phạm kỷ luật, pháp luật và đảm bảo an toàn

trong Bộ đội Biên phòng, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

176

35. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng

năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

36. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2021), Báo cáo tổng kết công tác giáo dục chính trị năm 2018, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng. 37. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2021), Báo cáo tổng kết công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2020, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng.

38. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2022), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu năm 2022, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng. 39. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2022), Báo cáo tổng kết

công tác Biên phòng năm 2022, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng.

40. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên (2021), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu năm 2021, Lưu hành nội bộ, Điện Biên. 41. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên (2021), Báo cáo tổng kết

công tác Biên phòng năm 2021, Lưu hành nội bộ, Điện Biên.

42. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2020), Báo cáo tổng kết

công tác Biên phòng năm 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Giang.

43. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2020), Báo cáo tình hình vi phạm kỷ luật, pháp luật, mất an toàn trong Bộ đội Biên phòng năm 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

44. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Hà Giang. 45. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2021), Báo cáo tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị năm 2021, Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn.

46. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2022), Báo cáo tổng kết

công tác Biên phòng năm 2022, Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn.

47. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn

177

giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn. 48. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2017), Báo cáo tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị năm 2017, Lưu hành nội bộ, Lai Châu. 49. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2021), Báo cáo tổng kết công

tác Biên phòng năm 2021, Lưu hành nội bộ, Lai Châu.

50. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Lai Châu. 51. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai (2018), Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới (2013 - 2018), Lưu hành nội bộ, Lào Cai.

52. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai (2021), Báo cáo tổng kết công

tác Biên phòng năm 2021, Lưu hành nội bộ, Lào Cai.

53. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2022), Báo cáo tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị năm 2022, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh. 54. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2022), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng năm 2022, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh. 55. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh.

56. Phạm Hữu Bồng (2003), Nghệ thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia

trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

57. Vũ Xuân Cảnh (2018), Phát triển ý thức chính trị của sinh viên các trường đại học kỹ thuật quân sự trong hội nhập quốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

58. Nguyễn Tuấn Châu (1992), Ông cha ta bảo vệ biên giới, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

178

59. Hoàng Xuân Chiến (2019), “Bộ đội Biên phòng quán triệt, thực hiện Nghị

quyết 33 của Bộ Chính trị (Khóa XII) về Chiến lược bảo vệ biên giới

quốc gia”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 8, tr. 17 - 19.

60. Hoàng Xuân Chiến (2020), “Một số giải pháp góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 945 (7-2020), tr. 73 - 79.

61. Chính phủ (2004), Nghị định Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Biên giới quốc gia, số 140/2004/NĐ-CP, ngày 25/6/2004, Hà Nội. 62. Chính phủ (2014), Nghị định về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 34/2014/NĐ-CP, ngày 29/4/2014, Hà Nội.

63. Chính phủ (2014), Nghị định quy định về Quản lý cửa khẩu biên giới đất

liền, số 112/2014/NĐ-CP, ngày 21/11/2014, Hà Nội.

64. Chính phủ (2015), Chỉ thị về Tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới, số 01/CT-TTg, ngày 09/01/2015, Hà Nội.

65. Chính phủ (2016), Nghị định quy định một số chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ, xuất ngũ và thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ, số 27/2016/NĐ-CP, ngày 06/4/2016, Hà Nội.

66. Chính phủ (2021), Nghị định quy định chi tiết một số điều Luật Biên phòng Việt Nam, số 106/2021/NĐ-CP, ngày 06/12/2021, Hà Nội. 67. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2000), Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới, ngày 25/12/2000, Bắc Kinh.

68. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2009), Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ngày 18/11/2009, Bắc Kinh.

69. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2009), Hiệp định về Cửa khẩu và Quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ngày 18/11/2009, Bắc Kinh.

179

70. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng

hòa nhân dân Trung Hoa (2009), Nghị định thư phân giới, cắm mốc biên

giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ngày 18/11/2009, Bắc Kinh.

71. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo tổng kết hoạt động công tác

công tác Đảng, công tác chính trị năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

72. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2019), Báo cáo kết quả công tác giáo

dục chính trị năm 2019, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

73. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo kết quả công tác giáo

dục chính trị năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

74. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 75. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo kết quả công tác giáo

dục chính trị năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

76. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 77. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo của Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng tại Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Bộ đội Biên phòng lần thứ XIV (2022 - 2027), Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 78. Nguyễn Chí Cường (2020), “Ý thức quốc phòng với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - mâu thuẫn và phương pháp giải quyết”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1 (179), tr. 98 - 100.

79. Nguyễn Bá Dương (2019), Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 80. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

81. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ

lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

82. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng nhiệm kỳ 2020 - 2025, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng.

180

83. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên (2020), Nghị quyết Đại hội đại

biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên nhiệm kỳ 2020 - 2025,

Lưu hành nội bộ, Điện Biên.

84. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2020), Nghị quyết Đại hội đại

biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang nhiệm kỳ 2020 -

2025, Lưu hành nội bộ, Hà Giang.

85. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2020), Nghị quyết Đại hội đại

biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn nhiệm kỳ 2020 - 2025,

Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn.

86. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2020), Nghị quyết Đại hội đại

biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu nhiệm kỳ 2020 - 2025,

Lưu hành nội bộ, Lai Châu.

87. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai (2020), Nghị quyết Đại hội đại

biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2020 - 2025,

Lưu hành nội bộ, Lào Cai.

88. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2020), Nghị quyết Đại hội

đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh nhiệm kỳ 2020

- 2025, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh.

89. Nguyễn Mạnh Đông (2021), “Giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ của

Việt Nam: Kết quả và bài học kinh nghiệm”, Tạp chí Cộng sản điện

tử, ngày 14/03/2020.

90. Phan Văn Giang (2016), “Tư duy mới của Đảng về tăng cường sức mạnh quốc

phòng bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới”, Tạp chí Lý luận

Chính trị, số 7, tr. 3 - 7.

91. Lê Xuân Giang (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

của Bộ đội Biên phòng trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

92. Vũ Hồng Hà (2017), Phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ

ngành hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

181

93. Trần Trung Hải (2017), “Phát huy truyền thống “Đồn là nhà, biên giới là

quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt” trong thanh niên

Bộ đội Biên phòng hiện nay”, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.

94. Lương Thanh Hân (2016), Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.

95. Vũ Văn Hiền (2019), “Góp phần hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 8, tr. 13 - 16.

96. Dương Quang Hiển (2013), Phát triển ý thức quốc phòng của học viên,

sinh viên nước ta hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

97. Trần Hoa (2009), Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.

98. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005),

Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

99. Tăng Huệ (2007), Một số vấn đề cơ bản về công tác biên phòng Việt Nam,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

100. Phạm Thị Thanh Huế (2016), Nâng cao chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ đội Biên phòng, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.

101. Nguyễn Đình Hùng (2007), Phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

102. Nguyễn Mạnh Hùng (2019), “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 10, tr. 21 - 23.

103. Nguyễn Mạnh Hưởng (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ nước từ khi

nước chưa nguy, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

104. Đỗ Văn Khương (2016), Bộ đội Biên phòng tỉnh tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

182

105. Lê Văn Kiều (2021), Nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của hạ

sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết

học, Hà Nội.

106. Hoàng Trọng Lập (2003), Xây dựng cơ sở khoa học phục vụ cho việc xác lập đường biên giới và tăng cường quản lý nhà nước tuyến biên giới Việt-Trung, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, Hà Nội. 107. V.I.Lênin (1913), “Những vấn đề tranh luận: Đảng công khai và những người mác - xít”, V.I.Lênin toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 79 - 110.

108. V.I.Lênin (1913), “Điểm sách: N.A Ru-ba-kin trong rừng sách”, V.I.Lênin toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 130 - 133. 109. V.I.Lênin (1916), “Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết”, V.I.Lênin toàn tập, tập 30, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 21 - 75.

110. V.I.Lênin (1917), “Diễn văn về vấn đề dân tộc tại Hội nghị VII toàn Nga”, V.I.Lênin toàn tập, tập 31, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 534 - 536.

111. V.I.Lênin (1920), “Diễn văn tại Hội nghị mở rộng của công nhân và binh sĩ Hồng quân Khu Rô-gô-giơ-xcơ - Xi-mô-nốp-xki ngày 13 tháng Năm 1920”, V.I.Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 146 - 148.

112. V.I.Lênin (1920), “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 1 - 129. 113. Ngô Xuân Lịch (2019), Xây dựng Quân đội, củng cố Quốc phòng, bảo

vệ Tổ quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

114. Hà Đức Long (2021), “Sức sống Học thuyết của V.I Lênin về bảo vệ Tổ

quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4, tr. 57 - 61.

115. Cao Thượng Lương (1999), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác

biên phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

116. Cao Thượng Lương (2015), Biên cương xanh và bộ đội Quân hàm xanh,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

183

117. C.Mác và Ph.Ăngghen (1842), “Nhận xét bản chỉ thị mới nhất về chế độ

kiểm duyệt của Phổ”, C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr. 11 - 45.

118. C.Mác và Ph.Ăngghen (1844), “Gia đình thần thánh hay là phê phán sự

phê phán có tính phê phán chống Bru-nô Bau-ơ và đồng bọn”, C.Mác

và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,

1995, tr. 9 - 316.

119. C.Mác và Ph.Ăngghen (1845), “Luận cương về Phoi-ơ-bắc”, C.Mác và

Ph.Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,

1995, tr. 9 - 12.

120. C.Mác và Ph.Ăngghen (1845- 1846), “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và

Ph.Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,

1995, tr. 15 - 793.

121. C.Mác và Ph.Ăngghen (1849), “Phong trào đòi hiến pháp đế chế ở Đức”,

C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,

Hà Nội, 1993, tr. 151 - 276.

122. C.Mác và Ph.Ăngghen (1858-1859), “Góp phần phê phán khoa kinh tế

chính trị”, C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc

gia Sự thật, Hà Nội, 1993, tr. 9 - 225.

123. C.Mác và Ph.Ăngghen (1866), “Những chỉ thị cho các đại biểu của Hội

đồng trung ương lâm thời về một số vấn đề”, C.Mác và Ph.Ăngghen

toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1994, tr. 257 -

270.

124. Vũ Đăng Mạnh (2010), Cơ sở khoa học, pháp lý, lịch sử của công tác

bảo vệ, quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc sau

phân giới, cắm mốc, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

125. Hồ Chí Minh (1924), “Thư gửi đồng chí Pê-tơ-rốp, tổng thư ký Ban

phương Đông”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia

Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 284 - 285.

184

126. Hồ Chí Minh (1943), “Nhật ký trong tù”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3,

Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 303 - 453.

127. Hồ Chí Minh (1947), “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập

5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 269 - 346.

128. Hồ Chí Minh (1950), “Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 355 - 363.

129. Hồ Chí Minh (1951), “Bài nói chuyện tại Trường Chính trị Trung cấp Quân đội ”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 215 - 222.

130. Hồ Chí Minh (1951), “Tinh thần trách nhiệm”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 248 - 250. 131. Hồ Chí Minh (1952), “Bài nói tại Hội nghị cán bộ chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 481 - 485.

132. Hồ Chí Minh (1956), “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 1, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 376 - 380.

133. Hồ Chí Minh (1958), “Đạo đức cách mạng”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11,

Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 600 - 612.

134. Hồ Chí Minh (1959), “Bài nói tại buổi lễ thành lập công an nhân dân vũ trang”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 153 - 156.

135. Đào Văn Minh (2017), Phát triển ý thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

136. Nguyễn Hồng Nam (1997), “Giáo dục chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng - thực trạng và giải pháp”, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.

185

137. Trần Nhật Nam (2014), “Tăng cường xây dựng biên giới đất liền Việt

Nam - Trung Quốc hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển”,

Tạp chí Đối ngoại, Số 4 (54), tr 27 - 30.

138. Trần Nhật Nam (2018), Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của nhân dân các

dân tộc ở khu vực biên giới phía bắc Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

139. Vũ Quốc Nam (2017), Phát triển giá trị nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của sĩ

quan các đồn biên phòng hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

140. Vũ Dương Ninh (2010), Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

141. Trần Hữu Phúc (2011), Bảo vệ biên giới quốc gia của Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

142. Lê Văn Quang (2001), Phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã

hội và trong quân đội thời kỳ mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

143. Nguyễn Văn Quang (2007), Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ

quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

144. Nguyễn Văn Quang (2015), Một số vấn đề về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã

hội chủ nghĩa từ xa trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

145. Quân ủy Trung ương (2022), Nghị quyết về đổi mới công tác giáo dục và

đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình

mới, số 1657 - NQ/QUTW, ngày 20/12/ 2022, Hà Nội.

146. Quân ủy Trung ương (2022), Nghị quyết về nâng cao chất lượng huấn

luyện giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo, số 1659 -

NQ/QUTW, ngày 20/12/ 2022, Hà Nội.

147. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Biên

giới quốc gia, số 06/2003/QH11, ngày 17/6/2003, Hà Nội.

148. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật nghĩa vụ quân

sự, số 78/2015/QH13, ngày 19/6/2015, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

186

149. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật Biên

phòng Việt Nam, số 66/2020/QH14, ngày 11/11/2020, Hà Nội.

150. Nguyễn Nam Quỳnh (2022), Phát triển niềm tin khoa học của hạ sĩ quan,

binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,

Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

151. Nguyễn Thái Sinh (2010), Phát triển văn hóa chính trị người sĩ quan

biên phòng trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

152. Nguyễn Thái Sinh (2020), Bộ đội Biên phòng tham gia giáo dục ý thức bảo

vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên

giới, Đề tài khoa học cấp Tổng cục, Hà Nội.

153. Lê Đức Thái (2021), “Bộ đội Biên phòng phát huy vai trò nòng cốt, chuyên

trách quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia”,

Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3, tr. 11 - 13.

154. Lê Đức Thái (2022), “Quan điểm của Đảng, Nhà nước về biên phòng và sự

vận dụng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới

quốc gia hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3, tr. 21 - 23.

155. Hà Sơn Thái (2017), Ý thức dân tộc của thanh niên Quân đội nhân dân

Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay, Luận án Tiến sĩ

Triết học, Hà Nội.

156. Nguyễn Xuân Thanh (2021), Bộ đội Biên phòng bảo vệ an ninh chính trị

khu vực biên giới phía bắc Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết

học, Hà Nội.

157. Phạm Minh Thụ (2014), “Giáo dục ý thức quốc phòng dưới thời Lý,

Trần, Lê”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5, tr. 118 - 120.

158. Nguyễn Quang Thuyên (2016), Bộ đội Biên phòng quản lý, bảo vệ biên

giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong tình hình

mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

159. Phạm Công Thưởng (2019), Phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam

hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

187

160. Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên, 1997), Quá trình dạy - tự học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

161. Vũ Thu Trang (2020), Phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên các

trường kỹ thuật quân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà

Nội.

162. Phạm Đình Triệu (Chủ biên, 2022), Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ vận động

quần chúng Bộ đội Biên phòng tham gia phòng, chống di, dịch cư tự do ở

các tỉnh biên giới phía Bắc hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

163. Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (2014), Từ điển Bách khoa Quân

sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

164. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

165. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2019), Lý luận và thực tiễn xây

dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

166. Viện Nghiên cứu Trung Quốc (2013), Sự trỗi dậy về sức mạnh mềm của

Trung Quốc và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

167. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1993), Đại Việt sử ký toàn thư , Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

168. Viện ngôn ngữ học (2018), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

169. Lê Huy Vịnh (2021), “Tư duy mới của Đảng về tăng cường quốc phòng, an

ninh bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4, tr. 3 - 8.

170. Lê Minh Vụ và Nguyễn Bá Dương (Đồng Chủ biên, 2011), Xây dựng ý thức

bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho người dân Việt Nam định hướng và

giải pháp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

188

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC (Dùng cho Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng)

Để phục vụ nghiên cứu đề tài: “Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay”. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về một số vấn đề dưới đây.

(Nhất trí với phương án nào đồng chí đánh dấu (X) vào ô vuông bên phải. Đồng chí

không phải ghi tên vào phiếu điều tra. Rất mong sự cộng tác của đồng chí.)

1. Theo đồng chí, biên giới quốc gia có quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hay không?

(Chọn 01 phương án)

- Rất quan trọng - Quan trọng - Ít quan trọng - Bình thường - Không quan trọng 2. Theo đồng chí, Bộ đội Biên phòng có vai trò như thế nào trong sự nghiệp bảo

vệ biên giới quốc gia? (Chọn 01 phương án)

- Là lực lượng duy nhất bảo vệ biên giới quốc gia - Là lực lượng tham gia phối hợp - Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách - Khó trả lời 3. Theo đồng chí, hiện nay có cần thiết phải bảo vệ biên giới quốc gia không?

(Chọn 01 phương án)

- Rất cần thiết - Cần thiết - Ít cần thiết - Không cần thiết - Khó trả lời 4. Theo đồng chí, bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay là bảo vệ những gì? (Chọn 01 phương án)

- Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia - Bảo vệ tính uy nghiêm, biểu tượng quốc gia ở biên giới, cửa khẩu, đường biên giới, hệ thống mốc quốc giới, vật đánh dấu đường biên giới - Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa lợi ích quốc gia, tài nguyên, môi trường sinh thái - Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phòng thủ vững chắc khu vực biên giới - Bao gồm tất cả các nội dung trên

189

5. Theo đồng chí, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có vai trò như thế nào đối với hạ

sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình?

(Chọn 01 phương án)

- Rất quan trọng - Quan trọng - Ít quan trọng - Không quan trọng - Khó trả lời 6. Theo đồng chí, hiện nay có cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới

quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hay không? (Chọn 01 phương án)

- Rất cần thiết - Cần thiết - Ít cần thiết - Không cần thiết - Khó trả lời 7. Theo đồng chí, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia bao gồm những yếu tố nào?

(Chọn 01 phương án)

- Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia - Tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia - Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia - Ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia - Là sự thống nhất hữu cơ của tất cả các yếu tố trên 8. Mức độ hiểu biết của đồng chí về đường lối, quan điểm bảo vệ biên giới

quốc gia của Đảng ta đặc biệt là Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia?

- Biết và nắm chắc nội dung - Biết nhưng không nắm chắc nội dung - Không biết - Khó trả lời 9. Mức độ hiểu biết pháp luật về biên giới quốc gia của đồng chí nhất là Luật Biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam, 03 văn kiện pháp lý ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc? (Chọn 01 phương án) - Biết và nắm chắc nội dung - Biết nhưng không nắm chắc nội dung - Không biết - Khó trả lời 10. Đồng chí hiểu biết và cảm nhận như thế nào về lịch sử, truyền thống của dân tộc, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và đơn vị trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia? (Chọn 01 phương án) - Rất hiểu và rất vinh dự, tự hào - Hiểu và vinh dự, tự hào - Không hiểu và cảm thấy bình thường - Khó trả lời

190

11. Đồng chí cho biết tình cảm của mình đối với địa bàn, nhân dân ở địa bàn

biên giới và nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia? (Chọn 01 phương án)

- Rất yêu mến, rất gắn bó - Yêu mến, gắn bó - Bình thường - Không yêu mến, không gắn bó - Khó trả lời 12. Đồng chí có tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng khi xảy ra chiến tranh, xung đột biên giới? (Chọn 01 phương án)

- Tin tưởng tuyệt đối - Tin tưởng - Ít tin tưởng - Không tin tưởng - Khó trả lời 13. Đồng chí đánh giá thế nào về âm mưu, thủ đoạn và hành vi xâm phạm biên

giới quốc gia hiện nay của các đối tượng? (Chọn 01 phương án)

- Rất thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; phải cảnh giác cao - Thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm nhưng chưa cần phải cảnh giác cao - Không thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; không cần phải cảnh giác - Khó trả lời 14. Đồng chí cho biết mức độ ý chí quyết tâm của đồng chí trong việc sẵn sàng nhận và

hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao để bảo vệ biên giới quốc gia hay không?

(Chọn 01 phương án)

- Rất quyết tâm, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ - Có quyết tâm nhưng không sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ - Không quyết tâm, do dự, thoái thác nhiệm vụ - Khó trả lời 15. Theo đồng chí, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng, cơ quan chức năng và tổ chức quần chúng ở đồn có quan tâm đến phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không? (Chọn 01 phương án)

- Rất quan tâm - Quan tâm nhưng không thường xuyên - Ít quan tâm - Không quan tâm - Khó trả lời 16. Đồng chí cho biết lý do mình nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng ?

(Chọn 01 phương án) - Tự nguyện, yêu thích lực lượng Bộ đội Biên phòng và nét đẹp của thiên nhiên, văn hóa, con người địa bàn biên giới - Do người thân, gia đình mong muốn

191

- Do quy định bắt buộc của pháp luật - Lý do khác 17. Theo đồng chí mức độ khó khăn, vất vả trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc như thế nào? (Chọn 01 phương án)

- Rất khó khăn, vất vả nhưng sẽ khắc phục và chắc chắn vượt qua - Rất khó khăn, vất vả, khó vượt qua - Rất khó khăn, vất vả, không thể vượt qua - Khó trả lời 18. Đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân:

- Tiểu học - Trung học cơ sở - Trung học phổ thông - Trung cấp - Cao đẳng, Đại học

- Binh nhất, Binh nhì - Hạ sĩ, Trung sĩ, Thượng sĩ - Đảng viên - Đoàn viên - Sinh ra, lớn lên ở địa bàn biên giới - Sinh ra, lớn lên ở trung du, đồng bằng - Sinh ra, lớn lên ở thành phố, thị xã

Xin chân thành cảm ơn đồng chí!

192

Phụ lục 2

PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

(Dùng cho Cán bộ sĩ quan cơ quan Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh; Cán bộ sĩ quan

chỉ huy đồn biên phòng; Cán bộ sĩ quan cấp đội ở đồn biên phòng)

Để phục vụ nghiên cứu đề tài: “Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay”. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về một số vấn đề dưới đây.

(Nhất trí với phương án nào đồng chí đánh dấu (X) vào ô vuông bên phải. Đồng chí

không phải ghi tên vào phiếu điều tra. Rất mong sự cộng tác của đồng chí.)

1. Theo đồng chí, có cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đối

với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hay không? (Chọn 01 phương án)

- Rất cần thiết - Cần thiết - Ít cần thiết - Không cần thiết - Khó trả lời 2. Đồng chí cho biết ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chịu sự quy định của những nhân tố nào? (Tùy chọn phương án)

- Chất lượng tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng - Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ - Môi trường công tác văn hóa đồn biên phòng - Chế độ chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Nhân tố khác 3. Đồng chí cho biết những ưu điểm về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ

sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay là gì?

(Tùy chọn phương án)

- Tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không ngừng được bổ sung, ngày càng hoàn thiện - Tình cảm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia và địa bàn biên giới ngày càng sâu sắc - Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia được củng cố vững chắc hơn - Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có ý chí quyết tâm cao, kiên cường bám trụ nơi biên giới sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ - Kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ có nhiều chuyển biến tích cực 4. Theo đồng chí, nguyên nhân chủ yếu của những ưu điểm trên là gì? (Tùy chọn phương án)

- Sự quan tâm của cấp ủy, chỉ huy các cấp nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn - Công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được đổi mới về hình thức, phương pháp

193

- Môi trường văn hóa đồn biên phòng được đẩy mạnh xây dựng ngày càng lành mạnh hơn - Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được điều chỉnh, bổ sung phù hợp hơn - Vai trò tích cực, chủ động, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng cao 5. Theo đồng chí, những hạn chế trong ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay là gì? (Tùy chọn phương án)

- Nhận thức về bảo vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn đơn giản, chưa đầy đủ. - Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tình cảm yêu mến đối với biên giới quốc gia chưa sâu đậm. - Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa vững chắc. - Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ biên giới quốc gia, hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ thấp 6. Đồng chí cho biết những nguyên nhân chủ yếu của những khuyết điểm trên

là gì? (Tùy chọn phương án)

- Tác động tiêu cực của tình hình thế giới, khu vực, mặt trái của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm ở địa bàn biên giới - Một số cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng nhận thức chưa đúng về vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ - Chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của một số đồn biên phòng chưa cao; công tác quản lý, kỷ luật có mặt lỏng lẻo - Một số đồn biên phòng chưa quan tâm xây dựng môi trường văn hóa, đời sống bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn - Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa tích cực, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. 7. Đồng chí cho biết sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với công tác phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay như thế nào? (Chọn 01 phương án)

- Rất quan tâm - Quan tâm nhưng không thường xuyên - Ít quan tâm - Không quan tâm - Khó trả lời

194

8. Đồng chí đánh giá ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay ở mức độ nào? (Chọn 01 phương án)

- Tốt - Khá - Trung bình - Yếu - Khó trả lời 9. Theo đồng chí, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn

biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đang đặt ra những vấn đề gì?

(Tùy chọn phương án) - Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng cao với những khó khăn,

bất cập trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

- Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện yêu cầu cao với khả năng nhận thức hạn chế và thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ - Yêu cầu phát huy nhân tố chủ quan ngày càng cao với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ - Vấn đề khác 10. Theo đồng chí, để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay cần phát triển những yếu tố nào? (Chọn 01 phương án)

- Phát triển tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Phát triển tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Phát triển niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Phát triển ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Cần phát triển tất cả các yếu tố trên 11. Theo đồng chí, để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay cần thực hiện các giải pháp nào sau đây? (Tùy chọn phương án)

- Nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ - Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh và bảo đảm chế độ chính sách phù hợp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ - Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Giải pháp khác 12. Đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân:

- Cán bộ sĩ quan cơ quan Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh - Cán bộ chỉ huy đồn biên phòng - Cán bộ sĩ quan, nhân viên cấp đội

- Cấp úy - Cấp tá - Trung cấp - Cao đẳng, Đại học - Sau đại học

Xin chân thành cảm ơn đồng chí!

195

Phụ lục 3

TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ ĐỒN BIÊN PHÒNG

- Đơn vị điều tra: Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao

Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.

- Đối tượng điều tra: Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Số lượng điều tra: Tổng 500 phiếu - Thời gian điều tra: Tháng 6,9 năm 2022

1. Đánh giá tầm quan trọng của biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia

đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Kết quả

Phương án trả lời

Rất quan trọng Quan trọng Ít quan trọng Bình thường Không quan trọng

Tần suất 386 73 9 10 22

Tỉ lệ % 77,20 14,60 1,80 2,00 4,40

2. Đánh giá vai trò của Bộ đội Biên phòng trong sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia.

Kết quả

Phương án trả lời

Là lực lượng duy nhất bảo vệ biên giới quốc gia Là lực lượng tham gia phối hợp Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách Khó trả lời

Tần suất 50 42 394 14

Tỉ lệ % 10,00 8,40 78,80 2,80

3. Đánh giá sự cần thiết phải bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.

Kết quả

Phương án trả lời

Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Khó trả lời

Tần suất 406 71 7 4 8

Tỉ lệ % 81,20 14,20 1,40 0,80 1,60

196

4. Đánh giá hiểu biết về nội dung bảo vệ biên giới quốc gia.

Kết quả

Phương án trả lời

Tỉ lệ %

Tần suất

38

7,60

14

2,80

34

6,80

8

1,60

Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia Bảo vệ tính uy nghiêm, biểu tượng quốc gia ở biên giới, cửa khẩu, đường biên giới, hệ thống mốc quốc giới, vật đánh dấu đường biên giới Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa lợi ích quốc gia, tài nguyên, môi trường sinh thái Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phòng thủ vững chắc địa bàn biên giới Bao gồm tất cả các nội dung trên

406

82,40

5. Đánh giá vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đối với hạ sĩ quan,

binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Kết quả

Phương án trả lời

Rất quan trọng Quan trọng Ít quan trọng Không quan trọng Khó trả lời

Tần suất 382 75 11 22 10

Tỉ lệ % 76,40 15,00 2,20 4,40 2,00

6. Đánh giá sự cần thiết cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc

gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Kết quả

Phương án trả lời

Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Khó trả lời

Tỉ lệ % 75,60 12,80 2,00 3,60 5,20

Tần suất 378 64 10 18 26

7. Đánh giá sự hiểu biết về các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia.

Kết quả

Phương án trả lời

Tỉ lệ % 9,60 8,40 6,00 5,60 70,40

Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia Tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia Ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia Là sự thống nhất hữu cơ của tất cả các yếu tố trên

Tần suất 48 42 30 28 352

8. Đánh giá mức độ hiểu biết đường lối, quan điểm của Đảng ta về bảo vệ biên

giới quốc gia đặc biệt là Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia.

197

Kết quả

Phương án trả lời

Biết và nắm chắc nội dung Biết nhưng không nắm chắc nội dung Không biết Khó trả lời

Tần suất 362 90 34 14

Tỉ lệ % 72,40 18,00 6,80 2,80

9. Đánh giá mức độ hiểu biết pháp luật về biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhất là Luật Biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam, 03 văn kiện pháp lý ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc

Kết quả

Phương án trả lời

Biết và nắm chắc nội dung Biết nhưng không nắm chắc nội dung Không biết Khó trả lời

Tần suất 374 84 24 18

Tỉ lệ % 74,80 16,80 4,80 3,60

10. Đánh giá mức độ hiểu biết và tự hào của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về lịch sử, truyền thống của dân tộc, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và đơn vị trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia.

Kết quả

Phương án trả lời

Rất hiểu và rất vinh dự, tự hào Hiểu và vinh dự, tự hào Không hiểu và cảm thấy bình thường Khó trả lời

Tần suất 402 62 16 20

Tỉ lệ % 80,40 10,80 6,40 2,40

11. Đánh giá tình cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ đối với địa bàn, nhân dân ở địa

bàn biên giới và nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Kết quả

Phương án trả lời

Rất yêu mến, rất gắn bó Yêu mến, gắn bó Bình thường Không yêu mến, không gắn bó Khó trả lời

Tần suất 418 42 14 12 14

Tỉ lệ % 83,60 8,40 2,80 2,40 2,80

12. Đánh giá niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng khi xảy ra chiến tranh, xung đột biên giới của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Phương án trả lời

Kết quả

198

Tin tưởng tuyệt đối Tin tưởng Ít tin tưởng Không tin tưởng Khó trả lời

Tần suất 404 53 9 16 18

Tỉ lệ % 80,80 10,60 1,80 3,20 3,60

13. Đánh giá của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về âm mưu, thủ đoạn và

hành vi xâm phạm biên giới quốc gia hiện nay của các đối tượng

Kết quả

Phương án trả lời

Tần suất 390

Tỉ lệ % 78,00

66

13,20

38

7,60

Rất thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; phải cảnh giác cao Thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm nhưng chưa cần phải cảnh giác cao Không thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; không cần phải cảnh giác Khó trả lời

6

1,20

14. Đánh giá mức độ ý chí quyết tâm trong việc sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi

nhiệm vụ được giao để bảo vệ biên giới quốc gia.

Kết quả

Phương án trả lời

Tỉ lệ %

Tần suất

374

74,80

90

18,00

Rất quyết tâm, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ Có quyết tâm nhưng không sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ Không quyết tâm, do dự, thoái thác nhiệm vụ Khó trả lời

22 14

4,40 2,80

15. Đánh giá về sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với công tác phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Kết quả

Phương án trả lời

Rất quan tâm Quan tâm nhưng không thường xuyên Ít quan tâm Không quan tâm Khó trả lời

Tỉ lệ % 81,60 9,60 2,60 3,20 3,00

Tần suất 408 48 13 16 15

16. Đánh giá về lý do hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng lựa chọn nhập ngũ

vào Bộ đội Biên phòng.

Kết quả

Phương án trả lời

Tự nguyện, yêu thích lực lượng Bộ đội Biên phòng và nét

Tần suất 308

Tỉ lệ % 61,60

199

đẹp của thiên nhiên, văn hóa, con người địa bàn biên giới Do người thân, gia đình mong muốn Do quy định bắt buộc của pháp luật Lý do khác

94 84 14

18,80 16,80 2,80

17. Đánh giá mức độ khó khăn, vất vả trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng.

Kết quả

Phương án trả lời

Tỉ lệ %

Tần suất

356

71,20

Rất khó khăn, vất vả nhưng sẽ khắc phục và chắc chắn vượt qua Rất khó khăn, vất vả, khó vượt qua Rất khó khăn, vất vả, không thể vượt qua Khó trả lời

100 32 12

20,00 6,40 2,40

18. Thông tin cá nhân

Kết quả

Phương án trả lời

Tỉ lệ % 65,20 34,80 0,80 99,20 0,00 12,40 87,60 0,80 0,00 83,60 11,20 5,20

Binh nhì, Binh nhất Hạ sĩ, Trung sĩ, Thượng sĩ Đảng viên Đoàn viên Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp Cao đẳng, Đại học Sinh ra, lớn lên ở địa bàn biên giới Sinh ra, lớn lên ở trung du, đồng bằng Sinh ra, lớn lên ở thành phố, thị xã

Tần suất 326 174 4 496 0 62 438 4 0 418 56 26

200

Phụ lục 4

TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI CÁN BỘ, SĨ QUAN

- Đơn vị điều tra: Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao

Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.

- Đối tượng và số lượng điều tra: Tổng 375 phiếu (1): Cán bộ sĩ quan cơ quan Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh (125 phiếu); (2): Cán bộ sĩ quan chỉ huy đồn biên phòng (125 phiếu); (3): Cán bộ sĩ quan cấp đội ở đồn biên phòng (125 phiếu); - Thời gian điều tra: Tháng 6,9 năm 2022

1. Đánh giá sự cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đối với

hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Khó trả lời

87,20 6,13 3,20 1,87 1,60

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 91,20 4,80 2,40 0,80 0,80

(3) 85,60 5,60 4,00 3,20 1,60

(1) 84,80 8,00 3,20 1,60 2,40

2. Đánh giá về những nhân tố quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)

(3)

(1)

81,07

83,20

82,40

77,60

82,93

84,00

86,40

78,40

80,27

80,80

84,80

75,20

81,60

85,60

88,00

71,20

86,13

87,20

88,80

82,40

Chất lượng tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia Môi trường văn hóa đồn biên phòng Chế độ chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Nhân tố khác

1,87

1,60

3,20

0,80

201

3. Đánh giá những ưu điểm về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)

(3)

(1)

88,00

85,60

91,20

87,20

84,00

82,40

88,00

81,60

83,47

83,20

86,40

80,80

88,27

87,20

92,80

84,80

88,80

90,40

89,60

86,40

Tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng cao, ngày càng hoàn thiện. Tình cảm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia và địa bàn biên giới ngày càng sâu sắc. Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia được củng cố vững chắc hơn. Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có ý chí quyết tâm cao, kiên cường bám trụ nơi biên giới sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ. Kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ có nhiều chuyển biến tích cực

4. Đánh giá nguyên nhân chủ yếu của những ưu điểm.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

(3)

(1)

98,93

100,00

96,80

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 100,0 0

96,00

96,80

98,40

92,80

95,73

95,20

97,60

94,40

90,40

88,80

92,00

90,40

92,53

91,20

99,20

87,20

Sự quan tâm của cấp ủy, chỉ huy các cấp nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn. Công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được đổi mới về hình thức, phương pháp. Môi trường văn hóa đồn biên phòng được đẩy mạnh xây dựng ngày càng lành mạnh hơn. Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được điều chỉnh, bổ sung phù hợp hơn Vai trò tích cực, chủ động, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng cao.

202

5. Đánh giá những khuyết điểm về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)

(3)

(1)

79,73

75,20

89,60

74,40

78,67

76,00

84,80

75,20

77,60

73,60

81,60

77,60

92,80

92,80

98,40

87,20

Nhận thức bảo vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa toàn diện. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tình cảm yêu mến đối với biên giới quốc gia chưa sâu đậm Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa vững chắc. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ biên giới quốc gia, hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ thấp.

6. Đánh giá nguyên nhân chủ yếu của những khuyết điểm.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)

(3)

(1)

83,47

73,60

89,60

87,20

85,60

89,60

76,80

90,40

88,80

87,20

91,20

88,00

82,67

76,80

78,40

92,80

97,60

95,20

97,60

100,0 0

Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp tác động tiêu cực của mặt trái của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch; tính chất nhiệm vụ và địa bàn biên giới khó khăn, khắc nghiệt. Một số cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng nhận thức chưa đúng về vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ. Chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của một số đồn biên phòng chưa cao, công tác quản lý, kỷ luật có mặt lỏng lẻo. Một số đồn biên phòng chưa quan tâm xây dựng môi trường văn hóa, đời sống bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa tích cực, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện

203

7. Đánh giá về sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với công tác phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Rất quan tâm Quan tâm nhưng không thường xuyên Ít quan tâm Không quan tâm Khó trả lời

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 80,80 10,40 7,20 0,80 0,80

(3) 58,40 24,00 9,60 4,80 3,20

(1) 72,80 16,00 8,80 1,60 0,80

70,67 16,8 8,53 2,40 1,60

8. Đánh giá về trình độ ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ

các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tốt Khá Trung bình Yếu Khó trả lời

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 73,60 32,00 6,40 0,00 0,00

(3) 66,40 28,80 2,40 0,80 1,60

(1) 64,80 27,20 7,20 0,00 0,80

68,27 29,33 5,53 0,27 0,80

9. Đánh giá những vấn đề đặt ra trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia

của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)

(3)

(1)

93,60

92,00

98,40

90,40

93,60

93,60

96,80

90,40

97,07

97,60

99,20

94,40

Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng cao với những khó khăn, bất cập trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ. Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện yêu cầu ngày càng cao với khả năng nhận thức hạn chế và thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ. Yêu cầu cao phát huy nhân tố chủ quan với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ. Vấn đề đặt ra khác

3,47

1,60

4,80

4,00

10. Đánh giá về các yếu tố để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,

binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

204

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)

(3)

(1)

2,13

0,80

0,80

4,80

2,40

2,40

1,60

3,20

1,60

1,60

0,80

2,40

0,80

0,80

0,80

0,80

Phát triển tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Phát triển tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Phát triển niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Phát triển ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Cần phát triển tất cả các yếu tố trên

90,67

94,40

96,00

81,60

11. Đánh giá về các giải pháp để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ

quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.

Phương án trả lời

Tỉ lệ trung bình %

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)

(3)

(1)

96,80

96,80

99,20

94,40

94,40

95,20

96,00

92,00

98,13

96,80

99,20

94,40

Nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh và bảo đảm chế độ chính sách phù hợp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Giải pháp khác

2,40

95,20

96,00

92,00

12. Thông tin cá nhân

Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng %

Phương án trả lời

Cấp úy Cấp tá Trung cấp Cao đẳng, Đại học Sau đại học

(1) 48,00 52,00 0,00 94,40 5,60

(2) 9,60 90,40 0,00 96,80 3,20

(3) 92,80 7,20 11,20 87,20 1,60

205

Phụ lục 5

THỐNG KÊ KẾT QUẢ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022

Kết quả (%)

Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%) đạt

2016 20,50 64,20 15,30 0,00

2017 20,70 62,20 17,10 0,00

2018 21,80 61,60 16,60 0,00

2019 21,40 63,10 15,50 0,00

2020 21,10 62,50 16,40 0,00

2021 22,30 65,10 12,69 0,00

2022 23,60 63,30 13,10 0,00

21,63 63,14 15,23 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 84,70% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 82,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 83,40% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,50% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 83,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,40% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 86,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,77 khá, giỏi

(Nguồn: Phòng Chính trị, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)

206

Phụ lục 6

THỐNG KÊ KẾT QUẢ HUẤN LUYỆN QUÂN SỰ CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022

Kết quả (%)

Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%)

đạt

2016 31,70 49,50 18,80 0,00

2017 31,10 51,20 17,70 0,00

2018 32,60 51,40 16,00 0,00

2019 33,20 51,90 14,90 0,00

2020 32,50 50,10 16,40 0,00

2021 35,60 52,30 12,60 0,00

2022 34,30 52,80 12,90 0,00

33,00 51,31 15,69 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 81,20% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 82,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,00% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 85,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 82,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,31 khá, giỏi

(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)

207

Phụ lục 7

THỐNG KÊ KẾT QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022

Kết quả (%)

Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%)

đạt

2016 37,80 47,10 15,10 0,00

2017 37,70 49,60 12,70 0,00

2018 35,10 52,50 12,40 0,00

2019 36,20 51,70 12,10 0,00

2020 35,20 51,10 13,70 0,00

2021 38,30 50,40 11,30 0,00

2022 38,10 51,20 10,70 0,00

36,91 50,51 12,57 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 84,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 86,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 88,70% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 89,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,42 khá, giỏi

(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)

208

Phụ lục 8

THỐNG KÊ KẾT QUẢ HUẤN LUYỆN NGHIỆP VỤ CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022

Kết quả (%)

Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%)

đạt

2016 34,60 48,50 16,90 0,00

2017 35,70 49,30 15,00 0,00

2018 36,10 51,60 12,30 0,00

2019 37,40 51,20 11,40 0,00

2020 36,60 53,50 9,90 0,00

2021 37,20 52,40 10,40 0,00

2022 37,10 51,80 11,10 0,00

36,39 51,19 12,43 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 83,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 85,00% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,70% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 88,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 90,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 89,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 88,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,58 khá, giỏi

(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)

209

Phụ lục 9

THỐNG KÊ KẾT QUẢ RÈN LUYỆN KỶ LUẬT CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022

Kết quả (%)

Năm

Tốt Khá Trung bình Yếu

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

Trung bình cộng

(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)

210

Phụ lục 10

MỘT SỐ PHONG TRÀO HOẠT ĐỘNG VỀ BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC

1. Phong trào "Tuổi trẻ Bộ đội Biên phòng tiếp bước cha anh, xứng

danh Bộ đội Cụ Hồ".

2. Phong trào “Bộ đội Biên phòng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh”.

3. Phong trào “Bộ đội Biên phòng phát huy truyền thống, giữ vững kỷ

cương, sống có tình thương, đề cao trách nhiệm”

4. Phong trào “Thanh niên xung kích bảo vệ đường biên”, 5. Phong trào “Bộ đội Biên phòng cùng toàn quân chung sức, đồng

lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch Covid - 19”,

6. Phong trào thi đua “Thanh niên Bộ đội Biên phòng xung kích chung

tay, đánh bay Covid - 19”

7. Phong trào “Tuổi trẻ Bộ đội Biên phòng chung sức xây dựng nông

thôn mới”.

8. Phong trào “Tuổi trẻ với mùa xuân nơi biên giới”.

9. Phong trào “Quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ biên giới’ 10. Phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc và

an ninh trật tự xóm, bản khu vực biên giới”

11. Phong trào "Kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới" 12. Phong trào “Thanh niên Bộ đội Biên phòng với văn hóa giao thông” 13. Phong trào “Thanh niên Bộ đội Biên phòng không hút thuốc lá,

không vi phạm pháp luật, kỷ luật”

14. Các cuộc vận động: “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”; “Hành trình

khám phá miền biên giới thiêng liêng hùng vĩ”; “Ngày thanh niên vì biên

cương Tổ quốc”, “Ngày hội tuổi trẻ với biên giới, hải đảo”; “Tháng 3 biên giới”; "Bò giống giúp người nghèo biên giới"; “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới”; “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”; “Xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học cho con em các dân tộc”.

211

15. Các mô hình tiêu biểu: “Thầy giáo quân hàm xanh”; “Thầy thuốc

quân hàm xanh”; “Chiến sĩ văn hóa quân hàm xanh”; “Giúp dân trồng lúa

nước”, “Ánh sáng vùng biên”, “Áo ấm mùa đông biên giới”, “Hũ gạo tình

thương” “Heo đất tiết kiệm”, “Tay kéo biên phòng”; “Nâng bước em tới

trường”, “Tiết học vùng biên”; “Tiếng loa biên phòng”; “Con nuôi đồn biên

phòng”; “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”; “Mỗi tuần một

địa chỉ”, “Mỗi tuần một câu hỏi, một đáp án”, “Mỗi tuần một điều luật”;

“Vượt nắng, thắng mưa, say sưa luyện tập”; “Gian hàng 0 đồng”, “Chuyến xe

nghĩa tình”, “San sẻ yêu thương - chung tay vượt qua đại dịch”; “Đoạn đường

biên, cột mốc thanh niên tự quản”, “Tổ tuần tra thanh niên bảo vệ biên giới”.

16. Chương trình hoạt động: “Xuân Biên phòng, ấm lòng dân bản”;

giao lưu quốc phòng “Biên cương thắm tình hữu nghị”; “Đồn - Trạm hữu

nghị, xây dựng biên giới bình yên”.

17. Sinh hoạt chính trị: “Đảng với thanh niên - Thanh niên với Đảng”;

“Tuổi trẻ Bộ đội Biên phòng sắt son niềm tin với Đảng”; “Tuổi trẻ Bộ đội

Biên phòng tự hào tiến bước dưới cờ Đảng”.

18. Các cuộc thi: “Biên giới, hải đảo trong trái tim tôi”, “Tự hào một

dải biên cương”, “Biên cương Tổ quốc tôi”.

(Nguồn: Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tháng 9/2022)

212

Phụ lục 11

THỐNG KÊ ĐỊA BÀN BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC

Số thôn, bản

Tổng số dân

Số khẩu

TT

Thành phần dân tộc

Số hộ

Tỉnh biên giới

Số đồn biên phòng

Tổng số

Giáp biên

Tổng số

Số huyện, thị, thành phố giáp biên

Số xã, phường, thị trấn giáp biên

Dân tộc thiểu số

1

2

3

4

5

6

7

Quảng Ninh Lạng Sơn Cao Bằng Hà Giang Lào Cai Lai Châu Điện Biên

Cộng

(Nguồn: Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tháng 9/2022)

Phụ lục 12

THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA

213

CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LAI CHÂU

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM

TT

NỘI DUNG

Đơn vị tính

TỔNG CỘNG

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

1

Vụ

Vi phạm quy chế biên giới

2 Xuất nhập cảnh, cư

Vụ/đối tượng

trú trái phép

3 Buôn lậu

Vụ/đối tượng

4 Ma túy

Vụ/đối tượng

5 Mua bán vật liệu nổ Vụ/đối tượng

6 Mua bán,

vận

Vụ/đối tượng

chuyển tiền giả 7 Mua bán người

Vụ/đối tượng

8

Tội phạm khác

Vụ/đối tượng

9

Vụ/đối tượng

Truyền đạo trái pháp luật

10 Di cư tự do

Hộ/khẩu

11 Xử lý vi phạm hành

Vụ/đối tượng

chính

12 Tổ chức tuần tra biên

giới

13 Tổ chức tuần tra

Lần/lượt người Lần/lượt

214

song phương

14 Làm thủ tục xuất

nhập cảnh

người Lượt người/ lượt ph.tiện

Lần

15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới

Km

16 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới

Chốt/lượt người

17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19 18 Tuyên truyền vận

động nhân dân

Buổi/lượt người

Buổi/lượt người

19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật

20 Lao động giúp dân

Ngày công

Triệu đồng

21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 22 Vận động trẻ em đến

Học sinh

trường

23 Nhận đỡ đầu, nhận

Cháu

215

nuôi các cháu đặc biệt khó khăn

Con

24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới

Lượt người

25 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu từ 2016 - 2022)

216

Phụ lục 13

THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LÀO CAI

TT NỘI DUNG

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM

Đơn vị tính

TỔNG CỘNG

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

1 Vi phạm quy chế biên

Vụ

giới

2 Xuất nhập cảnh, cư trú

trái phép

Vụ/đối tượng

3 Buôn lậu

Vụ/đối tượng

4 Ma túy

Vụ/đối tượng

5 Mua bán vật liệu nổ

Vụ/đối tượng

6 Mua bán, vận chuyển

tiền giả

Vụ/đối tượng

7 Mua bán người

Vụ/đối tượng

217

8

Truyền đạo trái pháp luật

Vụ/đối tượng

9 Xử lý vi phạm hành chính

Vụ/đối tượng

10 Tổ chức tuần tra biên giới

Lần/lượt người

11 Tổ chức tuần tra song

phương

Lần/lượt người

Lần

12 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới

13 Làm thủ tục xuất nhập cảnh

Lượt người/lượt phương tiện

km

14 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới

Chốt/lượt người

15 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid-19

16 Tuyên truyền vận động

nhân dân

Buổi/lượt người

218

17 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật

Buổi/lượt người

18 Lao động giúp dân

Ngày công

Triệu đồng

19 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…)

20 Vận động trẻ em đến

Học sinh

trường

Cháu

21 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn

Con

22 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới

Lượt người

23 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai từ 2016 - 2022)

219

Phụ lục 14

THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH HÀ GIANG

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM

TT

NỘI DUNG

Đơn vị tính

TỔNG CỘNG

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

1 Vi phạm quy chế

Vụ

biên giới

2 Xuất nhập cảnh, cư

Vụ/đối tượng

trú trái phép

3 Buôn lậu

Vụ/đối tượng

4 Ma túy

Vụ/đối tượng

5 Mua bán vật liệu nổ

Vụ/đối tượng

Vụ/đối tượng

6 Mua bán, vận chuyển tiền giả

7 Mua bán người

Vụ/đối tượng

8

Lấn chiếm biên giới

Vụ

9

Vụ/đối tượng

Truyền đạo trái pháp luật

220

10 Di cư tự do

Vụ/đối tượng

11 Xử lý vi phạm hành

Vụ/đối tượng

chính

12 Tổ chức tuần tra biên

giới

Lần/lượt người

13 Tổ chức tuần tra

song phương

Lần/lượt người

14 Làm thủ tục xuất

nhập cảnh

Lượt người/ lượt phương tiện

Lần

15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới

Km

16 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới

Chốt/lượt người

17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19

18 Tuyên truyền vận động nhân dân

Buổi/lượt người

221

Buổi/lượt người

19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật

20 Lao động giúp dân

Ngày công

Triệu đồng

21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…)

22 Vận động trẻ em đến

Học sinh

trường

Cháu

23 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn

Con

24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới

Lượt người

25 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang từ 2016 - 2022)

222

Phụ lục 15

THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH CAO BẰNG

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM

TT

NỘI DUNG

Đơn vị tính

TỔNG CỘNG

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

1 Vi phạm quy chế

Vụ

biên giới

2 Xuất nhập cảnh, cư

Vụ/đối tượng

trú trái phép

3 Buôn lậu

Vụ/đối tượng

4 Ma túy

Vụ/đối tượng

5 Mua bán vật liệu nổ

Vụ/đối tượng

6 Mua bán,

vận

Vụ/đối tượng

chuyển tiền giả

7 Mua bán người

Vụ/đối tượng

8

Lấn chiếm biên giới

Vụ

9

Vụ/đối tượng

Truyền đạo trái pháp luật

223

10 Di cư tự do

Vụ/đối tượng

11 Xử lý vi phạm hành

Vụ/đối tượng

chính

12 Tổ chức tuần tra biên

giới

Lần/lượt người

13 Tổ chức tuần tra

song phương

Lần/lượt người

14 Làm thủ tục xuất

nhập cảnh

Lượt người/ lượt phương tiện

Lần

15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới

Km

16 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới

Chốt/lượt người

17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19

18 Tuyên truyền vận động nhân dân

Buổi/lượt người

224

Buổi/lượt người

19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật

20 Lao động giúp dân

Ngày công

Triệu đồng

21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…)

22 Vận động trẻ em đến

Học sinh

trường

Cháu

23 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn

Con

24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới

Lượt người

25 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng từ 2016 - 2022)

225

Phụ lục 16

THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LẠNG SƠN

TT

NỘI DUNG

Đơn vị tính

2016

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM 2019

2020

2018

2021

2017

2022

TỔNG CỘNG

1 Vi phạm quy chế biên giới 2 Xuất nhập cảnh, cư trú

trái phép 3 Buôn lậu

4 Ma túy

5 Mua bán vật liệu nổ

6 Mua bán, vận chuyển

tiền giả

7 Mua bán người

8

Truyền đạo trái pháp luật

9 Xử lý vi phạm hành

chính

10 Tổ chức tuần tra biên

giới

11 Tổ chức tuần tra song

Vụ Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Lần/lượt người Lần/lượt

226

phương

người

Lần

12 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới

13 Làm thủ tục xuất nhập

cảnh

Lượt người/lượt phương tiện

km

14 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới 15 Tổ, chốt tuần tra, kiểm chống phòng,

Chốt/lượt người

soát Covid-19

16 Tuyên truyền vận động

nhân dân

Buổi/lượt người Buổi/lượt người Ngày công

Triệu đồng

17 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật 18 Lao động giúp dân 19 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 20 Vận động trẻ em đến

Học sinh

trường

21 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi

Cháu

các cháu đặc biệt khó khăn

227

Con

22 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới

23 Khám, chữa bệnh, cấp

Lượt người

thuốc miễn phí cho nhân dân

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn từ 2016 - 2022)

228

Phụ lục 17

THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH QUẢNG NINH

TT

NỘI DUNG

Đơn vị tính

2022

2016

2017

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM 2019

2018

2020

2021

TỔNG CỘNG

1 Vi phạm quy chế

Vụ

biên giới

2 Xuất nhập cảnh, cư

Vụ/đối tượng

trú trái phép

3 Buôn lậu 4 Ma túy 5 Mua bán vật liệu

Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng

nổ

6 Mua bán,

vận

Vụ/đối tượng

Vụ/đối tượng

chuyển tiền giả 7 Mua bán người 8

Vụ/đối tượng

Truyền đạo trái pháp luật

9 Xử lý vi phạm

Vụ/đối tượng

hành chính

10 Tổ chức tuần tra

biên giới

11 Tổ chức tuần tra song phương

Lần/lượt người Lần/lượt người

12 Làm thủ tục xuất Lượt người/

229

nhập cảnh

lượt phương tiện

Lần

Km

13 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới 14 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới

Chốt/lượt người

Buổi/lượt người

Buổi/lượt người

15 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19 16 Tuyên truyền vận động nhân dân 17 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật

Ngày công

Triệu đồng

18 Lao động giúp dân 19 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 20 Vận động trẻ em

Học sinh

đến trường

Cháu

21 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc

230

Con

Lượt người

biệt khó khăn 22 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới 23 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân

(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh từ 2016 - 2022)

231

Phụ lục 18

THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG CÁC TỈNH BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ 2016 ĐẾN 2022

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

TT

NỘI DUNG

Đơn vị tính

TỔNG CỘNG

Quảng Ninh

Lạng Sơn

Cao Bằng

Hà Giang

Lào Cai

Lai Châu

Điện Biên

Vụ

1 Vi phạm quy chế biên giới

2 Xuất nhập

Vụ/đối tượng

cảnh, cư trú trái phép 3 Buôn lậu

4 Ma túy

5 Mua bán vật liệu nổ

6 Mua bán, vận chuyển tiền giả 7 Mua bán người

Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng

8

Vụ

Lấn chiếm biên giới

232

9 Di cư tự do

10 Truyền đạo trái pháp luật 11 Xử lý vi phạm hành chính 12 Tổ chức tuần

tra biên giới

Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Lần/lượt người

Lần/lượt người

13 Tổ chức tuần tra song phương 14 Làm thủ tục

xuất nhập cảnh

Lượt người/ lượt phương tiện

Lần

15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới

16 Phát quang

Km

đường thông tầm nhìn biên giới

17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát

Chốt/lượt người

233

phòng, chống Covid-19 18 Tuyên truyền

Buổi/lượt người

vận động nhân dân

Buổi/lượt người

20

Ngày công

19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật Lao động giúp dân

Triệu đồng

21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 22 Vận động trẻ

Học sinh

em đến trường

Cháu

23 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn

234

Con

24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới

25 Khám,

Lượt người

chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân

(Nguồn Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)