LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, trích
dẫn trình bày trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hoàng Trọng Thiết
4
MỤC LỤC
Trang
5
TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
10 10
1.1. 1.2.
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
25
31
2.1.
31
2.2.
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam và ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc Nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
58
78
3.1.
78
3.2.
108
124
4.1.
124
4.2.
Chương 3 THỰC TRẠNG Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh, bảo đảm chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa bàn biên giới Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
4.3.
131 151 168 170
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
171 186
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, ý thức không trực
tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất, nó trang bị cho con người tri thức về
sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, phương hướng,
xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, công cụ, phương tiện để thực hiện
mục đích nhận thức và cải tạo thế giới. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
không tự nhiên có sẵn, cũng không nhất thành bất biến mà có sự vận động,
biến đổi tùy từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng
biên giới Việt Nam - Trung Quốc là một hình thái của ý thức xã hội - chính trị; có
vị trí, vai trò rất quan trọng trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ
sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhất là vai trò hướng dẫn, định hướng, chỉ đạo các
hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Muốn bảo vệ vững chắc biên giới
quốc gia đòi hỏi phải xây dựng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho họ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.
Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm; bảo vệ vững chắc
biên giới quốc gia là yếu tố tiên quyết trong việc tạo lập nền độc lập, tự chủ và
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt,
chuyên trách. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc là cửa ngõ quan trọng của đất
nước, có ý nghĩa chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại
và văn hóa, xã hội. Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc là lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi nhiệm vụ, có vai trò
quan trọng trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng.
Vì vậy, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa cấp thiết trong
bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia nơi đây.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc,
những năm qua, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị biên phòng biên giới Việt Nam -
6
Trung Quốc thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ý thức bảo
vệ biên giới quốc gia cho họ, coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác giáo dục chính trị tại đơn vị. Qua đó, đã nâng cao nhận thức trách nhiệm,
khơi dậy khát vọng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, củng cố niềm tin, ý chí
quyết tâm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ biên giới quốc gia. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt
Nam - Trung Quốc còn những hạn chế như: nhận thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ chưa sâu
sắc, chưa toàn diện; còn biểu hiện sợ khó, ngại khổ, không muốn bám trụ nơi
biên giới; chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ; vi phạm kỷ
luật, pháp luật, v.v.. Những hạn chế đó ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả thực
hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ và nhiệm vụ bảo vệ biên
giới quốc gia của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng lực
lượng Bộ đội Biên phòng không ngừng phát triển, đặt ra yêu cầu ngày càng cao
và toàn diện hơn đối với hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng. Trong khi đó,
tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc diễn biến phức tạp, khó dự báo, tiềm
ẩn nhiều nguy cơ, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Các
hoạt động xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới, xuất nhập cảnh trái phép; hoạt
động tội phạm ma túy, buôn lậu, mua bán người, tội phạm có tổ chức, có vũ
trang, xuyên biên giới gia tăng; vấn đề biên giới, lãnh thổ gắn với vấn đề dân tộc,
tôn giáo trở thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch; cùng với các
thách thức an ninh phi truyền thống đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia ngày càng toàn diện, nặng nề, phức tạp. Việc phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt
Nam - Trung Quốc hiện nay là hết sức cần thiết.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn “Ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc hiện nay” làm đề tài luận án.
7
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc; trên
cơ sở đó, đề xuất giải pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
- Đánh giá thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia và xác định một
số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ
sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn có liên quan đến
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đang tại ngũ ở các đồn
biên phòng biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Về không gian: Luận án nghiên cứu, khảo sát các đồn biên phòng thuộc
Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc là:
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên.
Về thời gian: Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận án được giới hạn từ
năm 2016 (diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng) đến nay.
8
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm triết học Mác - Lênin về ý thức; ý thức xã
hội; biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; về nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của hạ sĩ quan, binh sĩ; về công tác biên
phòng và bảo vệ biên giới quốc gia.
Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và Chiến
lược bảo vệ biên giới quốc gia.
Cơ sở thực tiễn
Dựa vào thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh
sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay; kế thừa chọn
lọc kết quả một số công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án; các tài liệu,
thống kê, nghị quyết, báo cáo tổng kết của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và Bộ
chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc liên quan
đến nội dung nghiên cứu; kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả ở một số
đồn biên phòng biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời
tập trung vào các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên
ngành như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic, hệ thống và cấu trúc, khái
quát hóa và trừu tượng hóa, thống kê, so sánh và điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp mới của luận án
Góp phần làm rõ quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Luận giải những nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Đánh giá thực trạng và chỉ ra một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
9
Đề xuất những giải pháp cơ bản phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ
bản lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để
Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Đảng ủy và Bộ chỉ huy Bộ đội Biên
phòng các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc, cấp ủy và chỉ huy các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đề ra chủ trương, kế hoạch, biện pháp
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình
mới. Đồng thời, đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
khoa học, trong giảng dạy nội dung có liên quan ở các học viện, nhà trường, cơ
quan nghiên cứu trong quân đội, Bộ đội Biên phòng.
7. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (09 tiết), kết luận, danh
mục công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến bảo vệ biên
giới quốc gia và biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc
Tác giả Phạm Hữu Bồng (2003) với công trình nghiên cứu Nghệ
thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới [] đã làm rõ cơ
sở lý luận và thực tiễn về nghệ thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia;
xây dựng khái niệm, xác định nội dung cơ bản của nghệ thuật quản lý, bảo
vệ biên giới quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện nghệ
thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới. Giá trị khoa
học của công trình là góp phần làm rõ quan niệm, mục tiêu, nhiệm vụ, tư
tưởng chỉ đạo, nguyên tắc tổ chức, hình thức, nội dung, biện pháp quản lý,
bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng với vai trò là lực lượng
nòng cốt, chuyên trách trong thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia. Đây là khía cạnh mà nghiên cứu sinh khai thác khi nghiên cứu
các nội dung có liên quan đến đề tài luận án.
Tác giả Hoàng Trọng Lập (2003) với công trình nghiên cứu Xây dựng
cơ sở khoa học phục vụ cho việc xác lập đường biên giới và tăng cường quản
lý nhà nước tuyến biên giới Việt - Trung [] đã làm rõ lịch sử hình thành và
giải quyết vấn đề biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc; khái quát điều
kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội, luật pháp và thực tiễn quốc tế phục
vụ xác lập biên giới đất liền giữa hai nước. Từ đó, xây dựng cơ sở khoa học
cho việc xác lập hệ thống mốc quốc giới và đường biên giới trên đất liền giữa
quốc gia. Tác giả cũng đề cập một số vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như đề
xuất giải pháp cơ bản để tăng cường quản lý nhà nước về biên giới trên biên
giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc. Giá trị công trình giúp nghiên cứu sinh
có cái nhìn đầy đủ hơn về biên giới Việt Nam - Trung Quốc và vấn đề quản
11
lý, bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi nước khi nghiên cứu những nội dung có
liên quan trong đề tài luận án của mình.
Tác giả Trần Hoa (2009) với công trình khoa học Nghiên cứu cơ sở khoa
học cho việc xây dựng chiến lược bảo vệ biên giới Việt Nam giai đoạn đến năm
2020 [] đã trình bày cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn nghiên cứu chiến lược bảo vệ
biên giới quốc gia của Việt Nam, dự báo tình hình, xác định mục tiêu, quan
điểm, nguyên tắc, phương thức, nội dung và đề xuất giải pháp xây dựng chiến
lược biên giới quốc gia của Việt Nam đến năm 2020. Đây là công trình nghiên
cứu giúp nghiên cứu sinh có thể kế thừa phê phán, chọn lọc làm rõ hơn nội hàm
của khái niệm bảo vệ biên giới quốc gia và những nội dung về cơ sở lý luận, cơ
sở thực tiễn có liên quan đến đề tài luận án.
Tác giả Vũ Dương Ninh (2010) với công trình khoa học Biên giới trên
đất liền Việt Nam - Trung Quốc [] đề cập về đường biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản và hệ thống
về quá trình đàm phán giữa hai nước; quá trình hình thành đường biên giới
trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc qua các triều đại; cơ sở pháp lý quốc tế
trong việc phân định và giải quyết các tranh chấp biên giới, các nguyên tắc cơ
bản khi xử lý các trường hợp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề biên giới;
phản ánh chính xác đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam
về việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc nói
riêng và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ nói chung. Từ công trình này
nghiên cứu sinh có thể nghiên cứu đánh giá tình hình liên quan đến biên giới
Việt Nam - Trung Quốc có liên quan đến đề tài luận án của mình.
Tác giả Đỗ Ích Báu (2011) với công trình nghiên cứu Bộ đội Biên
phòng bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới [] đã
trình bày một số vấn đề lý luận về bảo vệ biên giới quốc gia; những nhân tố tác
động đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới; làm rõ nội dung và yêu cầu bảo
vệ biên giới quốc gia. Tuy nhiên, công trình chú trọng bàn nhiều đến vấn đề chủ
quyền, an ninh biên giới quốc gia; về vai trò của các chủ thể đặc biệt là Bộ đội
12
Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Nghiên cứu sinh
có thể kế thừa các nội dung về bảo vệ biên giới quốc gia và vai trò của Bộ đội
Biên phòng ở những nội dung nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Tác giả Nguyễn Quang Thuyên (2015) với công trình khoa học Bộ đội
Biên phòng quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc trong tình hình mới [] đã luận giải, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn Bộ
đội Biên phòng quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc; đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ
biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc
trong tình hình mới. Công trình đã đề cập đến quan điểm của Đảng, Nhà nước ta
về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; đặc điểm tuyến biên giới đất liền Việt
Nam và Trung Quốc; dự báo tình hình tác động đến công tác quản lý, bảo vệ
biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới. Từ
công trình này, nghiên cứu sinh có thể nghiên cứu khai thác những vấn đề liên
quan đến bảo vệ biên giới quốc gia, những vấn đề nổi lên trong công tác quản lý,
bảo vệ biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc để tham khảo, chọn lọc nội
dung liên quan vào đề tài luận án của mình.
Tác giả Đỗ Văn Khương (2016) với công trình khoa học Bộ đội Biên
phòng tỉnh tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc [] đã phân tích, luận giải làm
rõ nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng tỉnh tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
địa phương quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Đồng thời, phân tích, đánh giá
làm rõ các đặc điểm tình hình có liên quan; thực trạng Bộ đội Biên phòng tỉnh
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
địa phương đề ra chủ trương, biện pháp phát huy sức mạnh tổng hợp quản lý,
bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới. Trên cơ sở đó, tác giả nêu ra các yêu cầu,
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
địa phương quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc. Trong các giải pháp đề xuất, tác giả nhấn mạnh giải pháp bồi dưỡng
13
nâng cao nhận thức trách nhiệm, kiến thức về công tác quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia cho cán bộ chủ trì các cấp, các ngành, các lực lượng; giải pháp xây dựng
Bộ đội Biên phòng tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc vững mạnh
toàn diện có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả tham mưu
trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Nội dung này tác giả có thể khai thác khi
nghiên cứu giải pháp nâng cao nhận thức cho các chủ thể trong phát triển ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia liên quan đến đề tài luận án.
Tác giả Bùi Đức Anh (2017) với công trình khoa học Tác động của
quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc đến quốc phòng của Việt Nam [] đã
luận giải cơ sở lý luận, thực trạng về tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam -
Trung Quốc đến quốc phòng của Việt Nam trong đó có hoạt động quản lý,
bảo vệ biên giới quốc gia; chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của quan
hệ này, nguyên nhân, những vấn đề đặt ra và giải pháp để phát huy tác động
tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của nó đến quốc phòng Việt Nam và hoạt
động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam. Giá trị của công trình giúp
nghiên cứu sinh đánh giá rõ hơn về mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung
Quốc trên nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế và tác động của nó đến hoạt
động bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng từ đó tiếp cận, khai
thác, kế thừa chọn lọc những vấn đề có liên quan đến đề tài luận án.
Tác giả Hoàng Xuân Chiến (2020) trong bài viết “Một số giải pháp
góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ biên giới quốc
gia hiện nay” [] đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc ban hành Nghị quyết 33-
NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” của Bộ Chính trị khoá
XII. Đây là chiến lược chuyên ngành quan trọng, cụ thể hóa quan điểm,
đường lối của Đảng về quốc phòng, an ninh, thể hiện tư duy, tầm nhìn
chiến lược về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện tốt yêu cầu này, tác giả đề ra các
giải pháp trong đó nhấn mạnh giải pháp tham mưu xây dựng lực lượng bảo
vệ biên giới đồng bộ, rộng khắp trọng tâm là xây dựng lực lượng Bộ đội
14
Biên phòng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, giỏi
chuyên môn, nghiệp vụ và pháp luật; nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi
cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước đối với quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia,
xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững
mạnh ở địa bàn biên giới. Đây là nội dung nghiên cứu sinh có thể khai thác,
kế thừa, cập nhật những đưa vào các giải pháp liên quan đến chủ thể Bộ đội
Biên phòng trong đề tài luận án của mình.
Tác giả Nguyễn Mạnh Đông (2021) trong bài viết “Giải quyết các vấn
đề biên giới, lãnh thổ của Việt Nam: Kết quả và bài học kinh nghiệm” [] đã
khẳng định: Các vấn đề biên giới lãnh thổ là những vấn đề nhạy cảm, hệ
trọng. Từ các thành tựu trong giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai
nước, tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm như: Nắm vững và vận
dụng có nguyên tắc, linh hoạt, sáng tạo đường lối bảo vệ toàn vẹn chủ quyền
lãnh thổ, biên giới quốc gia và đường lối đối ngoại; thấy được mối quan hệ
giữa giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia và quan hệ
chính trị với các nước có liên quan cũng như bối cảnh khu vực và quốc tế;
thúc đẩy các điểm tương đồng và thu hẹp những điểm khác biệt; vận dụng
nhuần nhuyễn các quy định có liên quan của luật pháp quốc tế, kiên quyết
đấu tranh, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng, phù hợp luật pháp
quốc tế; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn
dân đặc biệt là vai trò của lực lượng Bộ đội Biên phòng. Đây là bài viết đề
cập đến vấn đề biên giới, lãnh thổ và tuyến biên giới Việt Nam và Trung
Quốc, giúp nghiên cứu sinh nhìn nhận thấu đáo, sắc hơn khi nghiên cứu
đánh giá thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp của đề tài luận án.
1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến ý thức và ý
thức của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam
Tác giả Nguyễn Văn Quang (2007) với công trình khoa học Ý thức
dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội
15
nhân dân Việt Nam hiện nay [] đã luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn của ý thức
dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay. Tác giả đã chỉ ra một số mâu thuẫn trong ý thức dân
chủ xã hội chủ nghĩa của đối tượng nghiên cứu đó là: mâu thuẫn giữa yêu cầu
thực hiện với các điều kiện bảo đảm; giữa yêu cầu nâng cao với trình độ nhận
thức hạn chế,... Từ đó chỉ ra một số yêu cầu, giải pháp nâng cao ý thức dân
chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay. Trong giải pháp đề cập, tác giả đặc biệt quan tâm đến giải
pháp nâng cao chất lượng giáo dục về dân chủ xã hội chủ nghĩa, coi đây là
giải pháp hàng đầu. Giá trị của công trình giúp nghiên cứu sinh nghiên cứu rõ
hơn về một loại hình của ý thức và lớp đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội;
đồng thời tham khảo những vấn đề đặt ra, yêu cầu, giải pháp liên quan đến
đối tượng nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án của mình.
Tác giả Lê Minh Vụ và Nguyễn Bá Dương (Đồng Chủ biên, 2011) với
công trình nghiên cứu Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho
người dân Việt Nam định hướng và giải pháp [] đã quan niệm xây dựng ý thức
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho người dân Việt Nam trong thời kỳ mới là
hoạt động có mục đích, có tổ chức của các chủ thể nhằm khơi dậy, “hình thành,
phát triển tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí và tâm thế sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa của mọi người dân Việt Nam” [, tr. 68]. Tác giả nhấn mạnh nội
dung xây dựng đồng bộ, thống nhất các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa cho mỗi người dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Công trình nghiên cứu khái quát về ý
thức bảo vệ Tổ quốc của người dân Việt Nam nói chung chưa nghiên cứu đến
lớp đối tượng cụ thể là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia; do đó nghiên cứu sinh có thể tham khảo, đi sâu nghiên cứu lớp đối
tượng đặc thù này trong đề tài luận án của mình.
Tác giả Dương Quang Hiển (2013) với công trình khoa học Phát triển ý
thức quốc phòng của học viên, sinh viên nước ta hiện nay [] đã đề cập những
vấn đề có tính quy luật trong phát triển ý thức quốc phòng của học sinh, sinh
16
viên nước ta. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác giả đã đề xuất một số giải pháp
phát triển ý thức quốc phòng của học viên, sinh viên nước ta đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Giá trị
của công trình đem đến cho nghiên cứu sinh góc nhìn rõ hơn về một lớp đối tượng
trẻ là học sinh, sinh viên có những nét tương đồng nhất định với đối tượng hạ sĩ
quan, binh sĩ ở chiều cạnh đặc điểm tâm lý, lứa tuổi; từ đó có những giải pháp phù
hợp với những lớp đối tượng này trong quá trình phát triển ý thức của họ.
Tác giả Đào Văn Minh (2016) với công trình khoa học Phát triển ý
thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay [] đã luận giải thực chất và những vấn đề có tính quy luật phát
triển ý thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân
Việt Nam. Theo tác giả: “Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội
phản ánh tồn tại xã hội từ phương diện pháp luật” [, tr. 33] và phát triển ý
thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh “là quá trình làm biến đổi về chất
tổng thể các yếu tố tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí pháp luật của họ theo
hướng đi lên” [, tr. 43]. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng, chỉ ra những nhân
tố tác động và đề xuất giải pháp phát triển ý thức pháp luật của trung đội
trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay như: nâng cao
chất lượng giáo dục pháp luật, phát huy nhân tố chủ quan, xây dựng môi
trường pháp luật,…Nghiên cứu sinh có thể tham khảo, chọn lọc hợp lý
cho việc xây dựng khái niệm trung tâm và đề xuất các giải pháp phù hợp
với đề tài luận án của mình.
Tác giả Hà Sơn Thái (2017) với công trình khoa học Ý thức dân tộc
của thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền biển
đảo hiện nay [] đã phân tích, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn ý
thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta của thanh niên quân
đội, từ đó đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản phát triển ý thức dân tộc của
thanh niên quân đội trong bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Trong đó, tác
giả chú trọng nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của các chủ thể lãnh đạo,
17
quản lý, giáo dục và rèn luyện thanh niên quân đội và nhóm giải pháp về giáo
dục ý thức dân tộc của thanh niên quân đội trong bảo vệ chủ quyền biển đảo
Việt Nam hiện nay. Đây cũng là nội dung mà nghiên cứu sinh có thể tham
khảo khi nghiên cứu những giải pháp liên quan đến đề tài luận án của mình.
Tác giả Phạm Công Thưởng (2018) với công trình khoa học Phát triển
ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [] đã khái quát những vấn đề lý luận và
thực tiễn phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ
quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở khảo cứu, phân tích,
đánh giá tác giả đã làm rõ thực trạng và đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản như:
nhóm giải pháp về lãnh đạo, chỉ huy; nhóm giải pháp về vai trò nhân tố chủ quan
của chủ thể; nhóm giải pháp xây dựng môi trường văn hóa quân sự ở đơn vị cơ
sở Quân đội nhân dân Việt Nam. Công trình đề cập khái quát về ý thức bảo vệ
Tổ quốc của hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nói chung nhưng chưa đề cập đến
những bộ phận đặc thù, lĩnh vực cụ thể của ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa gắn với các quân chủng, binh chủng khác nhau của quân đội, với tính đặc
thù khác nhau, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, đây sẽ là góc độ mà
nghiên cứu sinh tiếp tục đi sâu nghiên cứu trong đề tài luận án của mình.
Tác giả Vũ Thu Trang (2020) với công trình khoa học Phát triển ý thức
bảo vệ Tổ quốc của học viên các trường kỹ thuật quân sự ở Việt Nam hiện nay
[] đã luận giải một số vấn đề lý luận về ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên các
trường kỹ thuật quân sự ở Việt Nam. Theo tác giả, ý thức bảo vệ Tổ quốc được
coi là một phần tiềm lực quan trọng cấu thành tiềm lực quốc phòng của đất
nước; quốc gia nào coi nhẹ ý thức bảo vệ Tổ quốc, thiếu cảnh giác sẽ đứng
trước nguy cơ mất độc lập dân tộc là điều có thể dự báo trước. Từ tiếp cận lý
luận, tác giả đánh giá thực trạng, dự báo tình hình, chỉ ra yêu cầu và đề xuất
giải pháp để phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên các trường kỹ thuật
quân sự ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, nhấn mạnh giải pháp tích cực hóa
nhân tố chủ quan của học viên các trường kỹ thuật quân sự xem đây là giải
18
pháp có tính đột phá, quyết định. Giá trị công trình đem đến cho nghiên cứu
sinh cái nhìn về ý thức bảo vệ Tổ quốc của một lớp đối tượng mới là học viên
các trường kỹ thuật quân sự. Nghiên cứu sinh có thể tham khảo, tiếp cận những
nội dung có liên quan đặc biệt là nhóm giải pháp phát huy nhân tố chủ quan
vào đề tài luận án.
Tác giả Lê Văn Kiều (2021) với công trình khoa học Nâng cao ý thức bảo
vệ chủ quyền biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân hiện
nay [] đã luận giải một số vấn đề lý luận nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân; đánh giá thực
trạng, xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng cao ý thức bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân hiện nay.
Theo tác giả: “Ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo là một loại hình của ý thức
xã hội, được hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của mỗi quốc gia, dân tộc có biển, đảo” [, tr. 40]. Giá trị của
công trình giúp nghiên cứu sinh tham khảo, vận dụng những nội dung liên
quan đến vấn đề bảo vệ chủ quyền, ý thức bảo vệ chủ quyền liên quan đến hạ
sĩ quan, binh sĩ ở một khía cạnh nhất định để kế thừa chọn lọc những nội
dung có liên quan trong phần lý luận của đề tài luận án.
Tác giả Nguyễn Nam Quỳnh (2022) với công trình khoa học Phát triển
niềm tin khoa học của hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay Luận giải một số vấn đề lý luận về phát triển niềm
tin khoa học của hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân
Việt Nam; khảo sát, đánh giá thực trạng niềm tin của đối tượng này vào sức
mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân Việt Nam; trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp
cơ bản phát triển niềm tin khoa học của hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến
đấu Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Theo tác giả: Niềm tin khoa học của
hạ sĩ quan, binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội là “tổng hòa các yếu tố tri
thức và tình cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ, phản ánh sự tin tưởng có cơ sở khoa học
vào sức mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân Việt Nam” [, tr. 51], niềm tin đó trở
19
thành động lực tinh thần to lớn thúc đẩy họ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ
được giao. Giá trị của công trình giúp nghiên cứu sinh tham khảo, kế thừa, bổ
sung những vấn đề liên quan đến niềm tin khoa học - một trong những thành tố
cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc mà đề tài luận án nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Chí Cường (2020) trong bài viết “Ý thức quốc phòng
với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - mâu thuẫn và phương pháp
giải quyết” [] đã trình bày khái quát về ý thức quốc phòng và vai trò của nó đối
với sự ổn định và phát triển xã hội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Theo tác
giả, ý thức quốc phòng có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển
xã hội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là: nâng cao sự giác ngộ về nghĩa vụ
và trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tránh bị động, bất
ngờ. Tác giả cũng chỉ ra một số mâu thuẫn nảy sinh cần nghiên cứu và giải
quyết. Giá trị của bài viết giúp nghiên cứu sinh tham khảo, khai thác trong việc
xác định các vấn đề đặt ra trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho
lớp đối tượng được đề cập trong đề tài luận án của mình.
1.1.3. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng
Tác giả Nguyễn Hồng Nam (1997) với công trình khoa học Giáo dục
chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng - thực
trạng và giải pháp [] đã làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng giáo dục
chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng, từ đó
đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên
phòng. Theo tác giả, đối tượng của công tác chính trị tư tưởng, văn hóa “là ý
thức, là đời sống tinh thần văn hóa của xã hội và của mỗi con người cụ thể” [,
tr. 8]. Biểu hiện tập trung ở “thế giới quan, nhân sinh quan tri thức, niềm tin,
tình cảm, nhu cầu, ý chí và cả trong tính cách” [, tr. 8]. Công tác giáo dục
20
chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng có tác
dụng to lớn trong việc tạo ra môi trường thuận lợi để phát triển tư tưởng, tâm
lý tích cực; hạn chế, khắc phục tư tưởng tiêu cực của chiến sĩ đồn biên phòng.
Đây là nội dung nghiên cứu sinh có thể kế thừa chọn lọc vào nghiên cứu nhân
tố quy định và giải pháp về môi trường liên quan đến đối tượng của đề tài
luận án.
Tác giả Lê Xuân Giang (2007) với công trình khoa học Xây dựng đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng trong giai đoạn cách
mạng hiện nay [] đã luận giải vị trí, vai trò đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
của Bộ đội Biên phòng; chỉ ra những mạnh, yếu, nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm của việc xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Bộ đội
Biên phòng những năm qua; trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp
cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng
trong thời kỳ mới trong đó tác giả đặc biệt chú trọng nhóm giải pháp tích cực
đào tạo, bồi dưỡng, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số của Bộ đội Biên phòng. Đây cũng là giải pháp có những
khía cạnh có liên quan đến đề tài luận án của nghiên cứu sinh, bởi lẽ hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc với đặc điểm chủ yếu
là con em đồng bào dân tộc thiểu số ở địa bàn biên giới nhập ngũ vào Bộ đội
Biên phòng. Công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng, sử dụng cũng là yêu cầu,
giải pháp quan trọng trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của họ góp phần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tác giả Nguyễn Đình Hùng (2007) với công trình khoa học Phát huy
nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới quốc gia hiện nay [] đã luận giải những vấn đề lý luận và
thực tiễn về nhân tố con người, phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ
đội Biên phòng trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng tác giả vạch ra một số định hướng và giải pháp cơ bản phát huy
nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới quốc gia hiện nay. Trong đó, tác giả chú trọng giải pháp
21
nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện và thực hiện tốt công tác chính sách
đối với đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng. Đây cũng là những giải pháp thiết
thực mà nghiên cứu sinh có thể tiếp cận tham khảo khi nghiên cứu về những
giải pháp liên quan đến đề tài luận án.
Tác giả Nguyễn Thái Sinh (2010) với công trình khoa học Phát triển
văn hóa chính trị người sĩ quan biên phòng trong tình hình mới [] đã tiếp
cận người sĩ quan biên phòng là chủ thể hoạt động chính trị trong bảo vệ
biên giới quốc gia để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về văn hóa
chính trị người sĩ quan biên phòng trên ba khía cạnh đó là: hoạt động, giá trị,
nhân cách để làm nổi bật hệ giá trị văn hóa chính trị trong các hoạt động bảo
vệ biên giới quốc gia, phẩm chất văn hóa chính trị người sĩ quan biên phòng
và năng lực hoạt động chính trị của họ. Trong công trình, tác giả đề xuất ba
nhóm giải pháp cơ bản để phát triển văn hóa chính trị người sĩ quan biên
phòng hiện nay trong đó nhấn mạnh giải pháp tăng cường tự giáo dục, rèn
luyện, phát huy tính sáng tạo, bền vững văn hóa, đấu tranh với tiêu cực,
phản văn hóa do tác động của toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập quốc tế đối với
người sĩ quan biên phòng. Công trình giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn sâu
sắc hơn về người sĩ quan biên phòng dưới chiều cạnh văn hóa chính trị từ đó
chọn lọc những nội dung hợp lý vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
đề tài luận án của mình, đặc biệt trong nghiên cứu các giải pháp để phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia trong mối tương quan với văn hóa chính trị.
Tác giả Phạm Thị Thanh Huế (2016) với công trình khoa học Nâng
cao chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên
các trường trong Bộ đội Biên phòng [] đã luận giải một số vấn đề lý luận,
chỉ ra các yếu tố tác động, đánh giá thực trạng chất lượng giáo dục ý thức
bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ đội Biên
phòng. Từ đó, xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ
đội Biên phòng hiện nay. Tác giả quan niệm, chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ
chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ đội Biên phòng là “tổng
22
hòa những phẩm chất, năng lực của thanh niên được hình thành, phát triển trong
quá trình giáo dục, đào tạo tại các nhà trường trong Bộ đội Biên phòng” [, tr.
18]. Từ công trình này nghiên cứu sinh có thể kế thừa những yếu tố hợp lý trong
việc nghiên cứu nhân tố quy định và giải pháp về công tác giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng.
Tác giả Vũ Quốc Nam (2017) với công trình Phát triển giá trị nhân
cách “Bộ đội Cụ Hồ” của sĩ quan các đồn biên phòng hiện nay [] đã luận
giải những vấn đề lý luận và thực trạng phát triển giá trị nhân cách Bộ đội cụ
Hồ của sĩ quan các đồn biên phòng. Tác giả đã làm rõ thực chất và những
nhân tố cơ bản quy định phát triển giá trị nhân cách Bộ đội cụ Hồ của sĩ quan
các đồn biên phòng, đánh giá thực trạng, dự báo tình hình và yêu cầu phát
triển giá trị nhân cách Bộ đội cụ Hồ của sĩ quan các đồn biên phòng. Trên cơ
sở đó, tác giả đề xuất bốn nhóm giải pháp cơ bản như: đổi mới và nâng cao
chất lượng giáo dục; xây dựng môi trường; tích cực hóa hoạt động tự giáo
dục, tự rèn luyện, hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của sĩ quan các đồn biên phòng. Giá trị của công trình giúp cho
nghiên cứu sinh có thể tham khảo những nội dung liên quan đến đồn biên
phòng và những giải pháp để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
Bộ đội Biên phòng nói chung và hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng.
Tác giả Trần Trung Hải (2017) với công trình khoa học Phát huy
truyền thống “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là
anh em ruột thịt” trong thanh niên Bộ đội Biên phòng hiện nay [] làm chủ
nhiệm đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn phát huy truyền thống
“Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột
thịt” của thanh niên Bộ đội Biên phòng. Trong công trình, tác giả đề xuất
những giải pháp cơ bản như: nâng cao nhận thức trách nhiệm; tăng cường
công tác lãnh đạo, chỉ đạo; vận dụng linh hoạt các nội dung, phương pháp phát
huy truyền thống; phát huy tính tích cực, tự giác của thanh niên Bộ đội Biên
phòng. Công trình nghiên cứu việc phát huy một trong những truyền thống đặc
sắc của Bộ đội Biên phòng nên có ý nghĩa thiết thực góp phần phát triển ý thức
23
cho thanh niên Bộ đội Biên phòng nói chung hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
nói riêng. Công trình giúp nghiên cứu sinh khai thác, tiếp cận những vấn đề có
liên quan đến giải pháp xây dựng môi trường văn hóa, công tác giáo dục truyền
thống cho hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng vào đề tài luận án.
Tác giả Trần Nhật Nam (2018) với công trình khoa học Ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới phía bắc Việt
Nam hiện nay [] đề cập đến việc giáo dục nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới. Để phát triển ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới,
tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản như: nâng cao nhận thức, trách nhiệm
và năng lực của các cấp, các ngành, các lực lượng ở khu vực biên giới; làm tốt
công tác tuyên truyền, giác ngộ nhân dân ở khu vực biên giới; đổi mới hình
thức, phương pháp giáo dục; phát huy tốt vai trò nòng cốt của người có uy tín
trong các dân tộc; gắn giáo dục ý thức bảo vệ biên giới quốc gia với tổ chức
các hoạt động thực tiễn của nhân dân các dân tộc ở khu vực biên giới. Công
trình có giá trị tham khảo với nghiên cứu sinh khi nghiên cứu đến vấn đề ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia cho lớp đối tượng mà đề tài luận án đề cập.
Tác giả Nguyễn Thái Sinh (2020) với công trình khoa học Bộ đội Biên
phòng tham gia giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho
nhân dân ở khu vực biên giới [] đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng
Bộ đội Biên phòng tham gia giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc
gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên giới. Theo tác giả, giáo dục ý thức
bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên
giới là “tổng thể các hoạt động chủ động, có kế hoạch với nội dung, hình
thức, phương pháp phù hợp của các chủ thể tác động vào mọi người dân” [, tr.
14] nhằm hình thành, nâng cao nhận thức, tình cảm, niềm tin và ý chí quyết
tâm của họ. Trên cơ sở đó, tác giả dự báo tình hình, chỉ ra những yêu cầu và
giải pháp nâng cao hiệu quả Bộ đội Biên phòng tham gia giáo dục ý thức bảo
vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên giới.
Công trình này có giá trị giúp nghiên cứu sinh tham khảo kế thừa hợp lý các
24
nội dung liên quan đến đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục
trong phần giải pháp của đề tài luận án.
Tác giả Nguyễn Xuân Thanh (2021) với công trình khoa học Bộ đội Biên
phòng bảo vệ an ninh chính trị khu vực biên giới phía bắc Việt Nam hiện nay []
đã trình bày những vấn đề lý luận và thực trạng, chỉ ra yêu cầu và đề xuất giải
pháp cơ bản để Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc làm tốt công tác
bảo vệ an ninh chính trị trong tình hình mới. Trong các nhân tố quy định, tác giả
chỉ ra nhân tố ý thức, phẩm chất, năng lực của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên
phòng là cơ sở, điều kiện tiền đề căn cốt để họ thực hiện tốt nhiệm vụ nhất là ở
địa bàn biên giới khó khăn, phức tạp. Do đó, một trong các biện pháp chủ yếu
tác giả đề xuất là nâng cao nhận thức, đẩy mạnh giáo dục ý thức, phẩm chất,
năng lực cho cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị Biên phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới. Nghiên cứu sinh có
thể kế thừa chọn lọc để bổ sung phát triển làm rõ hơn khi nghiên cứu về các giải
pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Tác giả Lê Đức Thái (2021) trong bài viết “Bộ đội Biên phòng phát
huy vai trò nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia” [] đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng Bộ đội Biên
phòng quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, từ đó đề xuất
những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh
biên giới quốc gia trong tình hình hiện nay. Trong các giải pháp đề xuất tác
giả chú trọng giải pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể đối
với sự nghiệp quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, xây
dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh về mọi mặt trước hết là vững mạnh về
chính trị, tư tưởng. Đây cũng là nội dung có liên quan đến đề tài luận án,
nghiên cứu sinh có thể tham khảo, chọn lọc trong quá trình nghiên cứu của
mình đối với những vấn đề về xây dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, có bản lĩnh, lập trường vững vàng, thái độ, trách nhiệm và
ý chí quyết tâm cao trong bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.
25
1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn
đề luận án tập trung nghiên cứu
1.2.1. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan đối với đề tài luận án
Các công trình khoa học tiêu biểu ở trên được tiếp cận, nghiên cứu ở
một số góc độ khác nhau có liên quan ở mức độ nhất định đến đề tài luận án
trên một số nội dung sau:
Một là, bàn về bảo vệ biên giới quốc gia và biên giới đất liền Việt Nam
- Trung Quốc, các công trình đã đề cập rất phong phú, đa dạng dưới nhiều góc
độ, cách tiếp cận khác nhau về vị trí, tầm quan trọng của biên giới quốc gia,
vai trò quan trọng chiến lược của biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Cơ bản
các công trình đều khẳng định biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm
phạm được quy định trong luật pháp quốc gia và pháp luật quốc tế; biên giới
Việt Nam - Trung Quốc có vai trò chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính
trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước và là tuyến biên giới khá
phức tạp, nhạy cảm. Một số công trình làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm
chỉ đạo, nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia []; lịch sử hình
thành và giải quyết vấn đề biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, cơ sở
pháp lý của việc xác lập biên giới đất liền giữa hai nước []; yêu cầu và giải
pháp thực hiện chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia []; những bài học kinh
nghiệm rút ra trong giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ []. Có công trình đề
cập các đặc điểm của tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, dự báo
các yếu tố tình hình tác động và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả
quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia []. Đây là những thông tin, tư liệu quý giá
để nghiên cứu sinh tham khảo, vận dụng, kế thừa, bổ sung và phát triển trong
đề tài luận án.
Hai là, bàn về ý thức nói chung và ý thức của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân
đội nhân dân Việt Nam nói riêng các công trình đã luận giải làm rõ một số
vấn đề cơ bản lý luận của vấn đề nghiên cứu đề cập trong mỗi công trình. Có
công trình nghiên cứu về ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
có công trình nghiên cứu về ý thức quốc phòng, ý thức dân chủ xã hội chủ
nghĩa, ý thức pháp luật, ý thức dân tộc, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo,…
26
cho các đối tượng khác nhau trong đó có đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ. Nhìn
chung, các công trình đã khảo cứu đều tập trung làm rõ quan niệm, cấu trúc
của loại hình ý thức mà công trình của tác giả nghiên cứu. Mỗi công trình tiếp
cận và phân chia các yếu tố trong cấu trúc của loại hình ý thức ở các cấp độ,
chiều cạnh khác nhau tùy thuộc mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của công
trình. Có công trình chỉ ra cấu trúc của ý thức gồm: nhận thức, thái độ, hành
vi []; song đa số các công trình đã khảo cứu đều tiếp cận ý thức trên lĩnh vực
tác giả nghiên cứu là một hình thái của ý thức xã hội với các yếu tố hợp thành
của nó gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí. Từ cách tiếp cận nghiên cứu để
hình thành khái niệm đến cách thức xác định, phân chia các yếu tố của hình
thái ý thức mà công trình khoa học nghiên cứu là cơ sở quan trọng để nghiên
cứu sinh kế thừa nghiên cứu đề tài luận án.
Một số công trình nghiên cứu đề cập đến yếu tố của tồn tại xã hội, các
điều kiện tự nhiên, lịch sử - xã hội, âm mưu, phương thức, thủ đoạn chống phá
của các thế lực thù địch,... tác động đến ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
[]; nhận thức, thái độ, trách nhiệm, hành động của họ trong thực hiện nhiệm vụ
[]. Một số công trình đánh giá vai trò và thực trạng loại hình ý thức mà công
trình nghiên cứu thông qua cấu trúc của nó và những nhân tố quy định; từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao, phát huy, phát triển loại hình ý thức đó cho các đối
tượng khác nhau đặc biệt là hạ sĩ quan, binh sĩ. Đây là kết quả quan trọng làm
cơ sở để tác giả kế thừa chọn lọc để tiếp cận, luận giải những vấn đề lý luận và
thực tiễn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Ba là, bàn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia và vai trò của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Kết quả khảo cứu các công trình tiêu biểu có liên quan đều khẳng định hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, thường
xuyên, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bảo vệ biên giới quốc gia ở các
đồn biên phòng. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đồn biên
phòng; họ tham gia, phối hợp với các lực lượng và nhân dân khu vực biên
giới nêu cao trách nhiệm, khắc phục khó khăn, gian khổ, hy sinh để bảo vệ
27
từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
Một số công trình bàn về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của nhân dân các
dân tộc []; về giáo dục ý thức bảo vệ biên giới quốc gia, lợi ích quốc gia dân
tộc của nhân dân khu vực biên giới [] đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng
cao nhận thức, tình cảm, trách nhiệm, niềm tin, ý chí, hành động bảo vệ biên
giới quốc gia của các chủ thể mà công trình nghiên cứu đề cập đặc biệt là của
Bộ đội Biên phòng như: Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo; đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, giáo dục
truyền thống yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng; tham gia và tham
mưu phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn biên giới, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng và nhân dân ở địa bàn
biên giới,... Một số công trình khác đã tổng quan dù không trực tiếp nghiên
cứu về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia nhưng trong các giải pháp đề ra đều
đề cập đến vấn đề nhân tố con người, đến chủ thể là Bộ đội Biên phòng
thông qua công tác giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của chủ
thể Bộ đội Biên phòng qua đó góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị bảo
vệ vững chắc biên giới quốc gia. Đây là những nội dung thiết thực, có giá trị
để nghiên cứu sinh tham khảo, kế thừa chọn lọc xác định những giải pháp cơ
bản liên quan đến đề tài luận án của mình.
Tổng quan nghiên cứu các công trình khoa học cho thấy các công trình
đã đề cập dưới một số góc độ, chiều cạnh khác nhau, phạm vi khác nhau liên
quan đến đề tài luận án cả về lý luận và thực tiễn. Đây là tài liệu quý báu giúp
nghiên cứu sinh tham khảo, kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý về nội
dung, phương pháp tiếp cận, giải quyết vấn đề khoa học, bổ sung và phát triển
trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Một là, về mặt lý luận, luận án cần luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản
lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Để nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học về ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
28
Quốc, trước hết cần xây dựng hệ thống các khái niệm công cụ như: biên giới
quốc gia, biên giới quốc gia Việt Nam, biên giới Việt Nam - Trung Quốc, bảo vệ
biên giới quốc gia Việt Nam, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam,… Trên
cơ sở đó, xây dựng khái niệm trung tâm là “Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc”. Đồng
thời, khái quát, phân tích chỉ ra những nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam
- Trung Quốc. Đây là nội dung rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài
luận án, bởi lẽ chỉ có làm rõ bản chất của vấn đề nghiên cứu và chỉ ra được
những nhân tố quy định của đối tượng nghiên cứu mới đánh giá đúng thực trạng,
vấn đề đặt ra và đề xuất các giải pháp cơ bản một cách sát thực, phù hợp, khả
thi nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Hơn nữa, qua tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu có liên
quan đến đề tài luận án chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách độc lập, cơ bản, hệ thống, chuyên sâu cả lý luận và thực tiễn về ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của một lớp đối tượng cụ thể mang tính đặc
thù là hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới đất liền Việt Nam
- Trung Quốc. Đây có thể xem là khoảng trống để nghiên cứu sinh tiếp tục
nghiên cứu làm đề tài luận án.
Hai là, về mặt thực trạng, luận án cần tiến hành khảo sát, đánh giá
thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc và chỉ ra một số vấn đề đặt ra
từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới, đòi hỏi đề tài
không chỉ dừng lại ở việc luận giải làm rõ những vấn đề lý luận mà còn phải làm
rõ cơ sở thực tiễn bằng việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng của vấn đề
thông qua việc nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu các
29
tài liệu, các báo cáo sơ kết, tổng kết của các đơn vị Bộ đội Biên phòng trực tiếp
là Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh và các đồn biên phòng ở biên giới Việt
Nam - Trung Quốc; điều tra, khảo sát thực tế ở một số đồn biên phòng của Bộ
chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan về thực trạng ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam
- Trung Quốc. Đồng thời, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề
đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Ba là, về mặt giải pháp, luận án cần đề xuất các giải pháp cơ bản phát
triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra; từ phân tích, làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu đặc biệt là cấu trúc, các nhân tố quy
định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra để đề xuất
các giải pháp cơ bản, đồng bộ, toàn diện, có tính khả thi nhằm phát triển một
cách đầy đủ, đồng bộ các thành tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Mặt khác, tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài
luận án cho thấy chưa có công trình nào đề xuất các giải pháp phát triển ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên
giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay dưới góc độ triết học. Do đó, đây được
xem là một trong những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu.
30
Kết luận chương 1
Liên quan đến đề tài luận án, đã có một số công trình khoa học của
các nhà khoa học tiếp cận, nghiên cứu, luận giải từ các góc độ khác nhau
và làm rõ những vấn đề như: ý thức quốc phòng, ý thức dân tộc, ý thức bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo; vấn đề
biên giới quốc gia, bảo vệ biên giới quốc gia, vai trò của Bộ đội Biên
phòng, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng, v.v.. Với
nhiều cách tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu của các tác giả,
tập thể tác giả về những vấn đề nêu trên đã góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận, thực tiễn và giải pháp liên quan đến đối tượng nghiên cứu
mà công trình khoa học của các tác giả xác định.
Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã tổng quan có
giá trị nhất định đối với đề tài luận án; giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn toàn
diện, qua đó kế thừa chọn lọc những giá trị khoa học mà các công trình trước
đó đã đạt được nhằm cung cấp thông tin, tài liệu quý giá phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài luận án. Tuy nhiên, tổng quan cũng cho thấy, còn nhiều vấn
đề liên quan đến đề tài luận án cả về lý luận và thực tiễn chưa được các nhà
khoa học đề cập, hoặc đã đề cập nhưng chưa thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc.
Từ kết quả tổng quan, đề tài luận án xác định nhiệm vụ cần tập trung
giải quyết đó là: xây dựng khái niệm trung tâm, luận giải vấn đề nghiên
cứu; chỉ ra những nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc; khảo sát, đánh giá thực trạng; một số vấn đề đặt ra; đề xuất giải pháp
cơ bản để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay. Kết quả
tổng quan cũng khẳng định đề tài luận án là công trình khoa học độc lập,
không trùng lặp với các công trình đã công bố và có những đóng góp mới
cả về lý luận và thực tiễn.
31
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI
QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG
BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
2.1. Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam và ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên
giới Việt Nam - Trung Quốc
2.1.1. Quan niệm bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam
Biên giới quốc gia
Trong lịch sử xã hội loài người, biên giới quốc gia là phạm trù mang
tính lịch sử, chính trị, pháp lý, luôn gắn bó mật thiết với hai yếu tố lãnh thổ
quốc gia và chủ quyền quốc gia. Việc xác lập biên giới quốc gia nhằm phân
định rõ giới hạn vùng đất, vùng nước, lòng đất và vùng trời thuộc chủ quyền
toàn vẹn, đầy đủ, riêng biệt của quốc gia gắn liền với những lợi ích về chính
trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Đường biên giới
chính là nơi phân định, là giới hạn ngăn cách lãnh thổ của quốc gia này với
quốc gia khác. Trong phạm vi không gian lãnh thổ đó, quốc gia là chủ thể
được áp dụng và thực thi một hệ thống các quy tắc pháp lý của nhà nước đó.
Biên giới quốc gia hình thành và phát triển gắn với sự phát triển của xã hội
loài người, từ biên giới vùng miền, phát triển đến biên giới đường (phân chia lãnh
thổ trên mặt đất, mặt nước), biên giới mặt phẳng và đến thời kỳ hiện đại biên giới
mở rộng lên trên không trung và sâu xuống lòng đất.
Bàn về vấn đề biên giới quốc gia, có nhiều quan niệm khác nhau: Đa
số các học giả tư sản đều không thừa nhận biên giới quốc gia là sản phẩm
của vấn đề dân tộc, giai cấp; họ cũng không thừa nhận chủ quyền quốc gia
đối với lãnh thổ, biên giới quốc gia hoặc nếu có chỉ thừa nhận đối với các
quốc gia “văn minh” còn quốc gia “nhược tiểu” chỉ là thuộc địa, phụ thuộc.
Đây là sự ngụy biện nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, bóc lột, là
lý do ngụy tạo để các giai cấp bóc lột, chủ nghĩa thực dân, phát xít tạo cớ
can thiệp, xâm lược các quốc gia khác.
32
Trên lập trường duy vật triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định:
Biên giới quốc gia là một phạm trù lịch sử, gắn liền với sự tồn tại của xã hội
có giai cấp và nhà nước. Biên giới quốc gia ra đời, phát triển, gắn liền với sự tồn
tại của giai cấp, nhà nước. Theo V.I.Lênin: “Chúng ta khẳng định là cần phải có
nhà nước; mà có nhà nước thì phải có biên giới” [, tr. 534] và “Khi mà cách
mạng xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành hiện thực, chứ không phải là một phương
pháp thì khẩu hiệu: “hãy xóa bỏ các đường biên giới” mới là một khẩu hiệu
đúng” [, tr. 536]. Vì vậy, cần nhận thức rằng, khi xã hội còn phân chia giai cấp,
nhà nước thì còn biên giới quốc gia; còn bất đồng quan điểm về chủ quyền lãnh
thổ biên giới quốc gia, do đó còn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột hoặc chiến
tranh. Trong điều kiện hiện nay, các quốc gia phải luôn có ý thức bảo vệ lãnh
thổ, biên giới quốc gia của mình. Việc tổ chức, quản lý, bảo vệ biên giới quốc
gia là nhiệm vụ chiến lược quan trọng cả trước mắt và lâu dài.
Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Điều này có
nghĩa rằng không quốc gia nào được vượt biên giới để xâm phạm chủ quyền
của quốc gia khác. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong thực tế thì những biên giới đó sẽ
được quy định một cách dân chủ, nghĩa là thể theo ý chí và “tình cảm” của
dân cư” [, tr. 26] và “thôn tính là vi phạm quyền tự quyết dân tộc, là kiến lập
biên giới quốc gia trái với ý muốn của dân cư” [, tr. 32]. Như vậy, một mặt
các quốc gia có quyền định đoạt, sử dụng quản lý, bảo vệ lãnh thổ của mình,
quản lý dân cư trong lãnh thổ; mặt khác, nghiêm cấm các quốc gia tiến hành
bất cứ các hành động nào xâm phạm đến lãnh thổ của các nước.
Biên giới quốc gia là vấn đề nhạy cảm trong các quan hệ quốc tế. Trong
lịch sử nhân loại, không ít trường hợp do những tranh chấp về biên giới, lãnh
thổ hoặc giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ không thoả đáng đã dẫn
đến nhiều cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở những quy mô khác nhau. Do
đó, quyền bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia là một nguyên tắc cơ bản
của pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế. Mỗi nước đều có quy chế pháp lý
về biên giới quốc gia nhằm bảo vệ biên giới quốc gia trên cơ sở luật pháp
quốc gia và điều ước quốc tế, phù hợp với lợi ích của mỗi nước. Biên giới
33
quốc gia phải là đường biên giới cụ thể được vạch rõ trên mặt đất, mặt nước,
được đánh dấu trên thực địa bằng hệ thống mốc quốc giới và các dấu hiệu
khác, được vẽ trên bản đồ và ghi nhận trong các hiệp định, nghị định thư, điều
ước quốc tế về biên giới. Có vậy biên giới quốc gia giữa các nước mới đảm
bảo ổn định lâu dài, tránh được tranh chấp hoặc chiến tranh biên giới, đảm
bảo sự phát triển bền vững của các quốc gia trên thế giới.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Biên giới là chỗ hết phần đất của một nước và
giáp với nước khác” [, tr. 78]; hoặc “Biên giới quốc gia là ranh giới phân định
lãnh thổ quốc gia này với lãnh thổ quốc gia khác hoặc với các vùng mà quốc gia
có quyền chủ quyền trên biển” [, tr. 174].
Như vậy, biên giới quốc gia là ranh giới phân định giới hạn lãnh thổ
của quốc gia này (bao gồm vùng đất, lòng đất, vùng nước, vùng biển, vùng
trời) với quốc gia khác nhằm xác lập chủ quyền lãnh thổ, phạm vi bảo vệ của
quốc gia mình và ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh xung đột, tranh chấp biên
giới, lãnh thổ giữa các quốc gia với nhau.
Biên giới quốc gia Việt Nam
Quá trình hình thành biên giới quốc gia Việt Nam cũng bắt nguồn từ quy
luật tồn tại và phát triển của dân tộc, đó là dựng nước phải đi đôi với giữ nước.
Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta cho thấy dân tộc Việt Nam luôn phải
đương đầu với mưu đồ xâm lược của ngoại bang từ nhiều phía song dân tộc
Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển với sức sống mãnh liệt trên một lãnh thổ có
chủ quyền thống nhất từ Bắc đến Nam. Thực tế đó là kết quả của một quá trình
lịch sử mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước; của quá trình đấu tranh bền bỉ
hàng chục thế kỷ của ông cha ta để bảo vệ biên cương, bờ cõi.
Cùng với lịch sử giữ nước, sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia đã thể
hiện một cách mạnh mẽ ý chí bảo toàn nền độc lập với đất đai, sông núi biển trời
của Tổ quốc. Đó là nền tảng tư tưởng quan trọng, là cội nguồn tinh thần để các
thế hệ ông cha ta liên tục đánh bại mọi mưu đồ xâm lược, thôn tính, nô dịch của
ngoại bang. Đó cũng là tiền đề vật chất, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta bảo
vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ từng thước núi, tấc đất, tấc sông của Tổ quốc.
34
Nhân dân là cội nguồn sức mạnh quốc phòng của đất nước nhưng nhà nước
cũng có vai trò rất quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của công cuộc ấy.
Nhà nước là đại diện cho chủ quyền quốc gia, là người tập hợp sức mạnh nhân dân,
tổ chức và tạo mọi hoạt động bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, biên giới quốc gia. Mỗi triều đại, mỗi giai đoạn lịch sử, kế sách biên phòng có
những nét riêng biệt khác nhau song đều chung mục đích củng cố, giữ vững chủ
quyền, biên giới, bờ cõi đất nước. Thực tiễn lịch sử bảo vệ biên giới của dân tộc đã
minh chứng: Chỉ khi nào kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần độc lập, ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia với sức mạnh tổng hợp của thế nước, sức dân và sức mạnh của Nhà
nước thống nhất luôn chăm lo đến lợi ích chung của dân tộc thì khi đó sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia mới bảo đảm vững chắc.
Biên giới quốc gia Việt Nam là ranh giới phân định lãnh thổ quốc gia
Việt Nam (bao gồm vùng đất, lòng đất, vùng nước, vùng biển, vùng trời thuộc
chủ quyền của Việt Nam) với lãnh thổ của các quốc gia khác qua đó xác lập
và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia phù hợp với luật pháp quốc
gia và pháp luật quốc tế.
Luật Biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2003 tại Điều 1 quy định:
Biên giới quốc gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường
và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất
liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam [, tr. 1].
Biên giới quốc gia bao gồm: biên giới quốc gia trên đất liền, biên giới
quốc gia trên biển, biên giới quốc gia trong lòng đất và biên giới quốc gia trên
không. Biên giới quốc gia trên đất liền là đường biên giới được xác định trên đất
liền, trên đảo, trên sông, hồ, kênh, biển nội địa,… được hoạch định và đánh dấu
trên thực địa bằng hệ thống mốc quốc giới và được xác lập trên cơ sở thỏa thuận
giữa các quốc gia có liên quan trên cơ sở lịch sử hình thành.
35
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc Nước ta có biên giới trên đất liền dài khoảng 5032,025 km tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia với nhiều cửa khẩu đường bộ, đường sắt, là cửa ngõ mở ra trong quan hệ quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài; có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế cả trước mắt và lâu dài nhưng cũng là địa bàn phức tạp và nhạy cảm.
Biên giới quốc gia Việt Nam trên đất liền gồm có biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc là một bộ phận của biên giới quốc gia Việt Nam, là ranh giới phân định giới hạn lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc qua đó xác lập chủ quyền lãnh thổ và phạm vi bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của mỗi nước phù hợp với luật pháp của từng quốc gia, các hiệp định, nghị định thư đã ký kết giữa hai nước cũng như các điều ước quốc tế mà hai nước tham gia.
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc là bao gồm cả biên giới đất liền và biên giới biển giữa hai nước. Tuy nhiên, biên giới Việt Nam - Trung Quốc mà phạm vi đề tài luận án nghiên cứu là biên giới đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc.
Biên giới quốc gia Việt Nam nói chung và biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng là bộ phận hợp thành quan trọng, không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là yếu tố cơ bản bảo đảm cho sự ổn định của đất nước, sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột có thể xảy ra; xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước. Vì vậy, bảo vệ biên giới quốc gia là tất yếu khách quan, cấp bách thường trực của mọi quốc gia dân tộc trong đó có Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sẽ không thể thành công nếu biên giới quốc gia không được xây dựng và bảo vệ tốt. Để hiểu rõ hơn về biên giới quốc gia cần tìm hiểu, làm rõ thêm các khái niệm về chủ quyền quốc gia, lãnh thổ quốc gia và chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Chủ quyền được hiểu là “Quyền làm chủ của một nước trong quan hệ đối nội và đối ngoại” [, tr. 226]. Khái niệm chủ quyền gắn liền với các quốc gia dân tộc. Đó là thuộc tính chính trị pháp lý chủ yếu của một quốc gia, thể hiện quyền lực tối cao của Nhà nước trên cả phương diện quốc gia và quốc tế.
36
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Đó là
quyền làm chủ của quốc gia trên tất cả mọi phương diện kinh tế, chính trị, quốc
phòng, an ninh, ngoại giao, văn hóa, xã hội… Theo đó, chủ quyền quốc gia bao
gồm nhiều mặt: chủ quyền về lãnh thổ, chủ quyền về kinh tế, chủ quyền về
chính trị, chủ quyền về văn hóa, chủ quyền về ngoại giao, chủ quyền trên không
gian mạng, v.v.. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, sự bùng nổ của internet và mạng xã hội, chủ quyền
quốc gia không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn vượt ra
ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia thông qua chủ quyền quốc gia trên không gian
mạng. Đó là quyền tối cao, tuyệt đối, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia đối với
các vùng thông tin do Nhà nước quản lý, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp
bằng chính sách, pháp luật và năng lực công nghệ phù hợp với luật pháp quốc
tế.
Lãnh thổ quốc gia là một phạm vi không gian, bao gồm vùng đất, vùng
nước, vùng trời và lòng đất phía dưới, giới hạn bởi biên giới quốc gia, thuộc
chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối của một quốc gia. Cùng với nhà nước
và dân cư, lãnh thổ quốc gia là một bộ phận hợp thành quốc gia. Do đó, chủ
quyền lãnh thổ quốc gia là một bộ phận quan trọng của chủ quyền quốc gia, đó
là quyền tối cao và tuyệt đối của nhà nước đối với lãnh thổ, nhà nước là chủ thể
chủ sở hữu quản lý và bảo vệ lãnh thổ, là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Mỗi một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với lãnh thổ của mình.
Quyền lực đó gọi là quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.
Biên giới quốc gia luôn gắn bó mật thiết với lãnh thổ quốc gia và chủ
quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi lẽ, lãnh thổ quốc gia là một trong những bộ phận
cấu thành không thể thiếu được của bất kỳ quốc gia nào. Lãnh thổ quốc gia là
điều kiện vật chất, là môi trường sống, sinh tồn và phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc. Nó gắn liền với những lợi ích về chính trị, kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, lãnh thổ quốc gia không phải
là vô cùng, vô tận mà nó xác định trên thực tế đối với mỗi quốc gia thông qua
biên giới quốc gia. Vì thế, biên giới quốc gia giới hạn phạm vi lãnh thổ và
37
giới hạn hiệu lực chủ quyền quốc gia của mỗi nhà nước.
Bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam
Trong mọi thời đại, bảo vệ biên giới quốc gia luôn được các nước xác định
là công việc trọng đại của quốc gia dân tộc. Bảo vệ biên giới quốc gia là tất yếu,
thường xuyên, là sứ mệnh thiêng liêng luôn gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử
quốc gia dân tộc. Công tác này luôn chịu sự tác động sâu sắc của điều kiện tự
nhiên và hoàn cảnh lịch sử. Đặc biệt công tác bảo vệ biên giới quốc gia chịu sự tác
động rất lớn bởi sự hình thành biên giới quốc gia.
Mặc dù quan điểm về bảo vệ biên giới quốc gia của từng nước có thể
có sự khác nhau về nhận thức, cách thức tổ chức bảo vệ; nhưng nhìn chung
mọi quốc gia trên thế giới luôn đề cao vai trò, tầm quan trọng của công tác
bảo vệ biên giới quốc gia và được đặt lên vị trí hàng đầu trong chiến lược xây
dựng quốc phòng, an ninh của đất nước.
Đối với nước ta, lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của
dân tộc đã xây dựng, bảo vệ biên giới quốc gia trên các tuyến biên giới. Các
triều đại phong kiến Việt Nam đều quan tâm đến vấn đề bảo vệ bờ cõi, chủ
quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Tiêu biểu như thời nhà Lê, vua Lê Thánh
Tông (1442-1497) rất quan tâm đến vấn đề này và thường răn dạy quần thần:
"Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ?... Nếu ngươi
dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc, thì tội
phải tru di” [, tr. 487].
Theo từ điển Tiếng Việt: “Bảo vệ là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ
cho luôn luôn được nguyên vẹn” [, tr. 49]. Thực chất “bảo vệ” là việc tiến
hành các biện pháp, các hoạt động để chống lại mọi sự xâm phạm nhằm giữ
cho được nguyên vẹn và bảo đảm an toàn mục tiêu xác định.
Từ những luận giải trên có thể quan niệm: Bảo vệ biên giới quốc gia
Việt Nam là tổng thể cách thức, biện pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam sử dụng để chống lại mọi hoạt động xâm phạm lãnh thổ,
biên giới quốc gia nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
38
lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Mục tiêu bảo vệ biên giới quốc gia: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia; chống lại các hành vi
xâm phạm đến chủ quyền và lợi ích quốc gia; xây dựng biên giới quốc gia hòa
bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác, bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc
gia; góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc
phòng, an ninh, đối ngoại ở địa bàn biên giới và cả nước.
Chủ thể bảo vệ biên giới quốc gia: toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, toàn
bộ hệ thống chính trị và cả nước nhất là nhân dân và các lực lượng đứng chân ở
địa bàn biên giới; dựa vào dân, lấy dân làm gốc, “mỗi người dân biên giới là một
cột mốc sống” [, tr. 4]; lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; Bộ đội Biên
phòng là lực lượng chuyên trách, lực lượng chiến đấu đầu tiên, bám trụ đến cùng
để bảo vệ và giữ vững biên giới quốc gia. Trong các chủ thể đó, Bộ đội Biên
phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia. Bộ
đội Biên phòng có chức năng tham mưu, đề xuất các chính sách, pháp luật về
biên phòng; thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và
chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa
bàn biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Nội dung bảo vệ biên giới quốc gia: Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân,
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ đường biên giới, hệ thống mốc quốc giới, vật
đánh dấu đường biên giới; bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội ở địa
bàn biên giới; bảo vệ tài nguyên, môi trường, lợi ích quốc gia dân tộc và phòng
thủ bảo vệ biên giới; duy trì thực thi pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia;
kiểm tra, kiểm soát xuất, nhập cảnh tại các cửa khẩu; đường mòn, lối mở biên
giới; đấu tranh phòng, chống tội phạm; ứng phó với các thách thức an ninh phi
truyền thống ở địa bàn biên giới, v.v..
Phương thức bảo vệ biên giới quốc gia: sử dụng tổng hợp các lực
lượng, các phương tiện, hình thức, biện pháp nghiệp vụ để đấu tranh, ngăn
39
chặn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch và
các loại tội phạm dưới mọi hình thức.
Hình thức bảo vệ biên giới quốc gia: sử dụng tổng hợp các hình thức bảo
vệ biên giới quốc gia theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm các hình
thức: bảo vệ biên giới thường xuyên, bảo vệ biên giới tăng cường và bảo vệ biên
giới trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm, tình
trạng chiến tranh. Mỗi hình thức bảo vệ biên giới gắn với các trường hợp cụ thể,
tùy tình hình biên giới giữa hai nước có chung đường biên giới để xác định cho
phù hợp.
Biện pháp bảo vệ biên giới quốc gia: sử dụng tổng hợp các biện pháp
theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm: biện pháp vận động quần
chúng, biện pháp pháp luật, biện pháp ngoại giao, biện pháp kinh tế, biện
pháp khoa học - kỹ thuật, biện pháp nghiệp vụ và biện pháp vũ trang.
2.1.2. Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam
Ý thức: Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học được mọi
nhà triết học quan tâm nghiên cứu, song tùy theo cách lý giải khác nhau mà có
những quan niệm khác nhau. Các nhà triết học duy vật biện chứng trên cơ sở nắm
vững lý thuyết phản ánh đã luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Theo
đó, ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình
thành, tồn tại và phát triển luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội phong phú.
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Ý thức có kết cấu phức tạp, gồm nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với
nhau. Dưới góc độ triết học, ý thức được xem xét theo nhiều chiều cạnh khác
nhau tùy cách tiếp cận. Tiếp cận theo các yếu tố cấu thành, ý thức gồm các
yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí; trong đó tri thức là toàn bộ những
hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức và phản ánh thế
giới khách quan của con người. Tất cả các yếu tố cấu thành ý thức có mối
quan hệ biện chứng với nhau, song tri thức là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng
40
nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, là chất liệu để con người phát triển tư
duy sáng tạo; đồng thời, là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết
định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
Ý thức của con người là một hiện tượng lịch sử, nảy sinh, tồn tại và
phát triển gắn liền với quá trình phát triển của lịch sử - xã hội, phản ánh tồn
tại xã hội trong từng giai đoạn của lịch sử xã hội biểu hiện dưới dạng ý thức
cá nhân và ý thức xã hội.
Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn
tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Nó được biểu
hiện dưới nhiều hình thái ý thức xã hội như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý
thức đạo đức,… Giữa chúng luôn tác động qua lại lẫn nhau phản ánh quy luật nội tại
trong quá trình phát triển của ý thức xã hội. Trong đó ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
là một loại hình đặc thù của ý thức xã hội - chính trị.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia chính được hình thành, phát triển gắn liền
với hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của từng quốc gia dân tộc trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định; đồng thời, là hình thức đặc trưng của hình thái ý
thức chính trị, là nhân tố chính trị - tinh thần phản ánh nội dung, yêu cầu bảo vệ
biên giới quốc gia trên cả hai phương diện lịch sử - tự nhiên và chính trị - xã hội
và đặc biệt phong phú về hình thức thể hiện (ở các chủ thể khác nhau).
Từ những lập luận trên có thể quan niệm: Ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia Việt Nam là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí
của các cộng đồng người Việt Nam tạo thành sức mạnh chính trị - tinh thần,
thể hiện bằng hành động thực tiễn của họ trong quá trình bảo vệ biên giới
quốc gia ở từng giai đoạn nhất định.
Bản chất của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam chính là sự phản
ánh hiện thực khách quan những hoạt động cụ thể về bảo vệ biên giới quốc gia
của các chủ thể trong quá trình bảo vệ biên giới quốc gia của họ trong lịch sử và
giữ vai trò định hướng, chỉ đạo cho các hoạt động đó nhằm đạt được mục tiêu
yêu cầu đề ra. Tuy nhiên sự phản ánh đó luôn bị chi phối bởi lăng kính chủ quan
của chủ thể (các cộng đồng người) ở mỗi quốc gia dân tộc (nhất là về mặt lợi
41
ích). Vì vậy ý thức bảo vệ biên giới quốc gia liên quan và được giải quyết không chỉ
bằng luật pháp quốc gia mà còn phải bằng luật pháp quốc tế, thông qua các hiệp
ước, hiệp định, nghị định thư ký kết giữa các nước có chung đường biên giới thỏa
thuận, thống nhất. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia tồn tại một cách hiện thực
thông qua các hoạt động nhận thức và thực tiễn của các chủ thể về bảo vệ biên
giới quốc gia. Vì thế, nó vừa là kết quả phản ánh hoạt động thực tiễn bảo vệ biên
giới quốc gia cụ thể của mỗi cộng đồng người hay cá nhân trong cộng đồng
người, vừa chỉ đạo hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của họ trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Cấu trúc của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam (gọi tắt là ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia) rất phong phú đa dạng, song dưới góc độ tiếp cận triết
học về ý thức theo các yếu tố cấu thành như đã trình bày ở trên, ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia bao gồm các yếu tố: Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia;
tình cảm và niềm tin của chủ thể về bảo vệ biên giới quốc gia; ý chí bảo vệ biên
giới quốc gia. Trong đó tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia giữ vai trò cốt lõi
của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Các yếu tố trong cấu trúc ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia đều hướng tới mục tiêu phòng, chống mọi hoạt động xâm
phạm đến biên giới quốc gia nhằm giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, biên
giới quốc gia; lợi ích quốc gia - dân tộc, tài nguyên, môi trường sinh thái, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn biên giới thuộc lãnh thổ quốc gia
mình.
Dưới góc độ vai trò, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có vai trò định
hướng, chỉ đạo thống nhất cho các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của
các chủ thể trong thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu yêu cầu đề ra. Bởi vậy ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia là cơ sở đầu tiên, nền tảng để các chủ thể
chuyển hóa thành hành động bảo vệ biên giới quốc gia phù hợp với lợi ích
của họ; đồng thời, bảo đảm sự phong phú, đa dạng của ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của các chủ thể khác nhau trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia là toàn bộ những hiểu biết của
chủ thể về những nội dung có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia như:
đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng về biên giới quốc gia và bảo vệ
42
biên giới quốc gia; hệ thống pháp luật của Nhà nước cũng như các quy định
của luật pháp quốc tế về biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia; các
hiệp định, quy chế, nghị định thư được ký kết với các nước có chung đường
biên giới; vai trò và trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp bảo vệ biên
giới quốc gia; âm mưu, thủ đoạn, hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, an
ninh biên giới quốc gia của các thế lực thù địch.
Tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia, được thể hiện ở tình yêu đối với
quê hương, đất nước, gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa, cách mạng của
dân tộc; tình yêu thương, gắn bó với mảnh đất biên cương của Tổ quốc; sự đồng
thuận, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau giữa các dân tộc; tình cảm gắn bó giữa
nhân dân với hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang; thái độ đối với các thế
lực, hành động xâm phạm biên giới quốc gia; thái độ đối với hành động của
công dân, của các tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Niềm tin đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia chính là sự hội tụ
và chuyển hóa của các yếu tố nhận thức, tình cảm, thái độ và ý chí quyết tâm
đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia, được thể hiện ở sự tin tưởng vào
sức mạnh của đất nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tin tưởng vào thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước; tin vào vai trò và năng lực lãnh đạo, quản
lý, tổ chức xây dựng và bảo vệ biên giới quốc gia của hệ thống chính trị cơ sở ở
địa bàn biên giới; tin vào khả năng, trình độ và sức mạnh chiến đấu của các lực
lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Ý chí bảo vệ biên giới quốc gia, được thể hiện ở bản lĩnh kiên cường, không
chịu khuất phục trước kẻ địch; lòng quyết tâm, tinh thần quả cảm, chịu đựng khó
khăn, gian khổ, hy sinh bảo vệ biên giới quốc gia; ý chí vươn lên trong cuộc sống;
sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ hệ thống chính trị ở
cơ sở; thường xuyên nâng cao cảnh giác, tinh thần, trách nhiệm tham gia đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản
động.
Các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia quan hệ chặt chẽ,
tác động thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, cùng thể hiện trong thực tiễn thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Đó là quá trình thống nhất hữu cơ
43
giữa các thành tố đó tạo nên ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của chủ thể biểu
hiện ở thái độ trách nhiệm chính trị của chủ thể và cao hơn cả là hành động
của họ trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia.
Các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia quan hệ chặt chẽ,
tác động thúc đẩy nhau cùng phát triển, cùng thể hiện trong thực tiễn thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Nếu như tri thức về bảo vệ biên giới
quốc gia là yếu tố đầu tiên chi phối đến tình cảm, niềm tin của chủ thể đối với
bảo vệ biên giới quốc gia và ý chí quyết tâm là yếu tố dẫn dắt hành động bảo
vệ biên giới quốc gia, thì tình cảm, niềm tin lại định hình ý chí của họ đồng
thời trực tiếp củng cố thêm sự hiểu biết ấy, tạo động lực và sức mạnh hiện
thực của ý chí quyết tâm. Ý chí quyết tâm, đến lượt nó, vừa là sự biểu hiện
tập trung của nhận thức, tình cảm, niềm tin lại vừa củng cố nhận thức, tình
cảm, niềm tin của con người. Chính mối quan hệ biện chứng đó đòi hỏi khi
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của các đối tượng, phải chú ý toàn
diện các yếu tố cấu thành, không xem nhẹ một yếu tố nào.
Toàn bộ những nội dung nêu trên phản ánh cấu trúc của ý thức bảo vệ chủ
quyền biên giới quốc gia Việt Nam và biểu hiện cụ thể ở hành động trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của các chủ thể. Tuy không thuộc nội
hàm của ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia Việt Nam, những hành
động trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của chủ thể là thước
đo quan trọng để đánh giá ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Nó là kết
quả của quá trình chuyển hóa giữa tri thức với tình cảm, niềm tin, ý chí của
chủ thể trong quá trình bảo vệ biên giới quốc gia. Để đánh giá được ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi đối tượng không chỉ thông qua nhận thức,
tình cảm, niềm tin và ý chí của họ mà còn phải thông qua hành động cụ thể
của họ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Xét dưới cấp độ phản ánh, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam
biểu hiện ở các cấp độ khác nhau. Cấp độ thông thường của ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia là tâm lý, tình cảm còn gọi là ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia thông thường được biểu hiện ở tình yêu quê hương, đất nước, gắn bó với
mảnh đất biên cương của Tổ quốc của mỗi chủ thể, được phản ánh và thể
44
hiện trong cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của họ. Cấp độ tư tưởng,
lý luận của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia là hệ tư tưởng, lý luận, được thể
hiện ở hệ thống đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia.
Ở cấp độ tâm lý, tình cảm, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia tạo cơ sở
cho sự phát triển tư tưởng, lý luận về bảo vệ biên giới quốc gia, tạo động lực
tinh thần thôi thúc những hành động bảo vệ biên giới quốc gia, thì ở cấp độ
tư tưởng, lý luận nó lại làm cho ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi
người phù hợp với ý thức của quốc gia dân tộc, của giai cấp, phù hợp với
yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Đồng thời, chỉ đạo, định
hướng cho những hành động bảo vệ biên giới quốc gia của con người, dân
tộc, giai cấp. Vì vậy, trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia phải
chú ý cả hai cấp độ tư tưởng, lý luận và tâm lý, tình cảm của nó.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia là một hình thái biểu hiện của ý thức xã
hội nên nó có mối quan hệ biện chứng với các hình thái ý thức xã hội khác nhất là
ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức. Trong quan hệ với ý thức chính
trị, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia là một hình thức biểu hiện của ý thức chính trị
nên mối quan hệ của nó với ý thức chính trị là mối quan hệ phụ thuộc, bao hàm. Ý
thức chính trị bao hàm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia và ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia phụ thuộc ý thức chính trị. Tri thức, tình cảm, niềm tin đối với giai cấp,
đảng phái lãnh đạo, sự quản lý, điều hành của Nhà nước thống trị xã hội; mục tiêu
lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của quân đội đều định hướng, chỉ đạo sự
hình thành phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của mỗi chủ thể, giai cấp,
tầng lớp nhất định. Ngược lại, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia vừa là biểu hiện,
vừa là điều kiện để củng cố, phát triển ý thức chính trị của họ.
Trong quan hệ với ý thức pháp luật, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có
mối quan hệ chặt chẽ với ý thức pháp luật: Ý thức pháp luật của mỗi chủ thể nhất
định là ý thức chấp hành pháp luật nhà nước, kỷ luật, quy định của địa phương, cơ
quan, đơn vị của họ. Hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia liên quan rất nhiều đến
pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế đó là hệ thống pháp luật quốc gia về quản
lý, bảo vệ biên giới (các luật, nghị định, thông tư,…); các hiệp định, hiệp nghị, nghị
45
định thư về biên giới mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia với các nước có chung
biên giới, v.v.. Do đó, pháp luật, kỷ luật không chỉ là công cụ quản lý, thực thi
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia mà còn tạo môi trường thuận lợi để củng cố,
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia; là một hình thức biểu hiện của ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia. Ngược lại, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia lại tạo ra khả
năng tiếp nhận, củng cố, phát triển ý thức pháp luật của họ ngày càng vững chắc.
Trong quan hệ với ý thức đạo đức, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có mối
quan hệ chặt chẽ với ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức có chức năng điều chỉnh hành
vi, mối quan hệ và kích thích tính tự giác, tự nguyện của mỗi chủ thể trong xây
dựng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Nhờ chức năng điều chỉnh
hành vi của ý thức đạo đức mà các mối quan hệ của họ được điều chỉnh tự giác, tự
nguyện theo các nguyên tắc, chuẩn mực nhất định thông qua sức mạnh của dư luận,
lương tâm, thói quen, tập quán. Ở khía cạnh nào đó, ý thức đạo đức cũng là một
hình thức biểu hiện của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Ngược lại, ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia lại là động lực quan trọng thúc đẩy mỗi chủ thể tích cực tìm hiểu,
học tập, bảo tồn, phát huy các giá trị, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc, quê
hương, đất nước và đơn vị; từ đó củng cố, phát triển ý thức đạo đức của họ.
2.1.3. Quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
Đặc điểm tình hình biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc
Biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là một phần của biên giới quốc
gia Việt Nam - Trung Quốc được xác lập về pháp lý bằng các hiệp ước, hiệp định,
nghị định thư đã ký kết giữa Chính phủ hai nước; được hoạch định, đánh dấu
trên thực địa bằng hệ thống mốc quốc giới và dấu hiệu đường biên giới trên
cơ sở thỏa thuận chung giữa hai nước và quy định của luật pháp quốc tế.
Biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1449,566 km,
tiếp giáp 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng
Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc
Choang tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc lần đầu tiên được pháp lý hóa bằng
hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895. Tuy nhiên, việc hoạch định
46
biên giới giữa Pháp và nhà Thanh được xúc tiến hơn 100 năm trước với
phương tiện và điều kiện lúc đó hạn chế nên lời văn và bản đồ không được
đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Ngay sau khi chấm dứt chiến tranh, Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chú trọng ngay vào công tác
hoạch định lại đường biên giới. Sau nhiều năm kiên trì đàm phán, hai nước
Việt Nam - Trung Quốc đã ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền vào ngày
30/12/1999. Hai bên đã tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa và hoàn
thành phân giới cắm mốc vào ngày 31/12/2008. Hai bên đã tiến hành đàm
phán và ký kết ba văn kiện pháp lý (Nghị định thư phân giới cắm mốc biên
giới đất liền, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền, Hiệp định
về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam -
Trung Quốc) vào ngày 18/11/1999. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại
giữa hai nước. Ba văn kiện pháp lý trên cùng với Hiệp ước biên giới trên đất
liền Việt Nam - Trung Quốc năm 1999 là bộ hồ sơ hoàn chỉnh nhất về biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Từ đó, biên giới trên đất liền giữa
hai nước đã được xác định rõ ràng, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác quản lý đường biên, mốc giới giữa hai nước.
Về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: Hai nước đều mong muốn mở rộng
quan hệ quốc tế, tạo môi trường hòa bình và ổn định. Năm 1991, Việt Nam và
Trung Quốc đã bình thường hóa và cùng bắt tay phát triển quan hệ láng giềng.
Tháng 2/1999 đã thống nhất thiết lập quan hệ theo tinh thần 16 chữ "Láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và
“Bốn tốt” (Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) xác định đây là
phương châm phát triển quan hệ của hai nước trong thế kỷ XXI. Hai nước cũng
rất quan tâm và coi trọng giải quyết những vấn đề về chủ quyền, hợp tác trên biên
giới; luôn gắn việc giải quyết các vấn đề về chủ quyền, lãnh thổ trong các hội
đàm, các tuyên bố chung cấp cao. Đồng thời, nhất quán những vấn đề có tính
nguyên tắc chiến lược trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, trong đó có
nguyên tắc giải quyết các vấn đề về biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên
47
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của
nhau; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia phải gắn liền với phát triển vùng biên giới
vững mạnh và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác, phát triển.
Về tổng thể, tình hình biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc cơ bản
ổn định, đường biên giới và hệ thống mốc quốc giới được giữ vững, an ninh, trật tự
an toàn xã hội địa bàn biên giới được đảm bảo tạo môi trường thuận lợi cho phát
triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, giao lưu hợp tác quốc tế,…Tuy nhiên,
trên thực tế, ngay sau khi hoàn thành công tác phân giới cắm mốc, Trung Quốc vẫn
tiếp tục có các hoạt động vi phạm, như: xâm nhập tuần tra, kiểm soát, xâm canh,
xâm cư ở các khu vực mà dân ta đang quản lý; xây dựng kè sông, kè suối, hàng rào
biên giới, lắp camera giám sát dọc biên giới, xây dựng đường tuần tra biên giới
không chấp hành đúng thỏa thuận cấp cao giữa hai nước, gây nhiều khó khăn cho
ta. Việc giải quyết các vấn đề chủ quyền lãnh thổ và quản lý, bảo vệ biên giới đất
liền Việt Nam - Trung Quốc dù thông qua đàm phán, thương lượng trên nguyên tắc
công bằng, hữu nghị nhưng vẫn luôn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp.
Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc có một số đặc điểm
khác với các tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia
đó là: Về truyền thống, các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc từng là căn
cứ cách mạng và căn cứ kháng chiến nên nhân dân các dân tộc nơi đây sớm
được giác ngộ và có truyền thống cách mạng sâu sắc. Về lịch sử, đây là tuyến
biên giới sớm được hoạch định và quản lý chính quy, nhưng lại là nơi thiếu ổn
định nhất, tranh chấp diễn ra phức tạp và quyết liệt nhất, có giai đoạn trở thành
biên giới đối địch. Hơn nữa, đây là tuyến biên giới nước ta tiếp giáp với Trung
Quốc - là một quốc gia diện tích rộng, dân số đông, có tiềm lực kinh tế, quân
sự, khoa học công nghệ lớn mạnh nhưng lại là quốc gia có tham vọng về chủ
quyền lãnh thổ. Vì thế, ở tuyến biên giới này chúng ta luôn phải đối phó với
nhiều khó khăn, phức tạp, khó dự báo nhất là chiến lược "biên giới mềm", “sức
mạnh mềm” mà phía Trung Quốc đang thực hiện. Về địa lý, biên giới Việt Nam -
Trung Quốc có địa hình đa dạng và phức tạp, phần lớn là đồi, núi hiểm trở, giao
48
thông khó khăn, hay xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất vào mùa mưa, ảnh hưởng
đến đời sống, sản xuất, tài sản, tính mạng của nhân dân và việc thực hiện nhiệm
vụ của Bộ đội Biên phòng. Về khí hậu, biên giới Việt Nam - Trung Quốc có khí
hậu rất khắc nghiệt, chia thành hai mùa: mùa mưa (tháng 4 đến tháng 9) hay có
mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất, đá; mùa khô (tháng 10 đến tháng 3 năm sau) hay có
rét đậm, rét hại có nơi nhiệt độ xuống thấp dưới 00C như Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Y
Tý (Lào Cai), Xín Mần, Đồng Văn (Hà Giang), xuất hiện băng tuyết, ảnh hưởng
đến sức khỏe của con người và cây trồng, vật nuôi cũng như các hoạt động bảo vệ
biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng. Địa hình, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt,
khó khăn đó tác động lớn đến sức khỏe, tinh thần ý thức của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình.
Tính phức tạp, đặc thù của biên giới Việt Nam - Trung Quốc ở trên tác
động đến nhận thức, tư tưởng, tâm lý của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia nhất là tâm lý ngại khó, sợ
khổ nơi biên giới khắc nghiệt và tâm lý lo sợ khi tình hình biên giới hai nước
căng thẳng nếu không có biện pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
Đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc (sau đây gọi tắt là
đồn biên phòng) là đơn vị cơ sở của Bộ đội Biên phòng đóng quân ở địa bàn
biên giới Việt Nam - Trung Quốc do Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh
biên giới Việt Nam - Trung Quốc trực tiếp quản lý, có vai trò nòng cốt,
chuyên trách, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia
trên phạm vi được phân công đảm nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ quy định.
Đồn biên phòng là đơn vị cơ sở trong hệ thống tổ chức theo ba cấp của Bộ
đội Biên phòng (Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng
tỉnh và Đồn biên phòng). Các đồn biên phòng được phân công đảm nhiệm quản
lý, bảo vệ các đoạn biên giới với phạm vi tương đối lớn (chiều dài khoảng từ 20 -
30 km đường biên, chiều rộng là các xã biên giới) có khu vực có cả đường biên
49
giới trên bộ và đường biên giới trên sông, suối. Trong khi đó, quân số biên chế của
đồn biên phòng hạn chế, hoạt động theo các tổ, đội công tác với đặc điểm phân
tán nhỏ lẻ, địa bàn quản lý rộng, giao thông khó khăn, phức tạp, khí hậu khắc
nghiệt ảnh hưởng lớn đến hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của đơn vị.
Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia,
hoạt động của Bộ đội Biên phòng nói chung, đồn biên phòng nói riêng bao
hàm cả tính chất quốc phòng, an ninh và đối ngoại trên phạm vi được phân
công. Trong khi đó, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc diễn biến
ngày càng phức tạp, khó dự báo, đặt ra yêu cầu cao đối với hoạt động của các
đồn biên phòng nơi đây.
Các hoạt động của đồn biên phòng diễn ra ở biên giới, địa bàn biên giới
liên quan nhiều đến các lực lượng, cơ quan, đơn vị khác ở nơi đây. Do đó,
đồn biên phòng có mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể địa phương các cấp khu vực trong tham gia xây dựng, củng cố hệ
thống chính trị cơ sở, xây dựng thế trận biên phòng toàn dân, nền biên phòng
toàn dân vững mạnh ở biên giới.
Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
(sau đây gọi tắt là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng) là một bộ phận của hạ sĩ
quan, binh sĩ Bộ đội Biên phòng được biên chế ở các đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của pháp luật
hiện hành. Hạ sĩ quan là quân nhân có quân hàm hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ đã trải
qua huấn luyện tiểu đội trưởng, huấn luyện chuyên môn kỹ thuật; binh sĩ là quân
nhân có quân hàm binh nhất, binh nhì vừa trải qua huấn luyện chiến sĩ mới ở các
tiểu đoàn, trung tâm huấn luyện được điều động, biên chế về các đồn biên phòng
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định.
Vai trò của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nói chung; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng nói riêng luôn rất quan trọng trong mọi hoạt động của đơn vị nhất là
trong hoạt động chiến đấu, bảo vệ biên giới; vai trò đó đặc biệt được nhân lên bởi
50
nhân tố chính trị tinh thần của người lính. Đề cập đến vai trò nhân tố tinh thần của
hạ sĩ quan, binh sĩ trên chiến trường, V.I.Lênin từng khẳng định:
Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần
của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến
tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh
phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và
làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy [, tr. 147].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đề cập đến vai trò của hạ sĩ quan, binh sĩ cũng
khẳng định:
Các chú dù là đại đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, hay tiểu đoàn trưởng,
cũng chỉ là những người đặt kế hoạch và điều khiển đánh trận. Lúc ra
trận, việc đặt mìn, phá lô cốt đều do tay anh em đội viên làm. Nếu anh
em tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ thuật khá, thân thể khỏe mạnh thì
nhất định thắng [, tr. 219].
Do đó, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có vai trò rất quan trọng trong
mọi hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của đồn biên phòng.
Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là một bộ phận của hạ sĩ quan, binh
sĩ Bộ đội Biên phòng (một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam) nên
họ có đầy đủ đặc điểm, bản chất, truyền thống của người quân nhân cách
mạng với những điểm chung như: đều là quân nhân tại ngũ, tuổi đời trẻ (từ 18
đến 27 tuổi); có cùng khung cấp bậc quân hàm; có phẩm chất chính trị, đạo
đức, sức khỏe, học vấn đáp ứng yêu cầu quy định; đa dạng về thành phần xuất
thân; có tinh thần đoàn kết, ý thức kỷ luật, năng động, sôi nổi, nhiệt tình, có
hoài bão, khát vọng, lý tưởng cống hiến và trưởng thành; là lực lượng trực
tiếp thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị. Tuy nhiên, tuổi đời còn trẻ nên kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm công tác còn ít và ảnh hưởng của đặc điểm tâm lý
lứa tuổi nhanh nhạy với cái mới nhưng cũng dễ chán nản, bỏ cuộc, dao động,
hoài nghi trước những khó khăn, thử thách khi gặp phải.
51
Tuy nhiên, do đặc thù chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng và
đặc điểm biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc nên hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng còn có những điểm riêng:
Một là, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chủ yếu là con em đồng bào các
dân tộc thiểu số cư trú ở địa bàn biên giới nên thông thạo địa hình; am hiểu ngôn
ngữ, tâm lý, tập quán của đồng bào, thích ứng tốt với điều kiện khắc nghiệt nơi
biên giới nhưng tính cách nhút nhát, thiếu tự tin trong các hoạt động tập thể.
Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây xuất thân là con em đồng
bào các dân tộc đang cư trú, lao động sản xuất ở địa bàn biên giới. Từ nhỏ họ đã
gắn bó với địa hình, thời tiết khí hậu của núi rừng biên giới khó khăn, khắc nghiệt
nên thông thạo địa hình rừng núi dễ thích nghi với điều kiện hoàn cảnh khắc
nghiệt nơi biên giới khi thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặc biệt
là hoạt động tuần tra, mật phục, truy quét tội phạm đòi hỏi sức chịu đựng cao, tâm
lý và bản lĩnh vững vàng. Là con em đồng bào các dân tộc nơi biên giới nên họ
am hiểu tập quán, ngôn ngữ của đồng bào mình, điều này tạo thuận lợi cho việc
thực hiện các nhiệm vụ công tác nhất là công tác nắm tình hình địa bàn, nhân dân,
công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ biên giới quốc gia.
Tuy nhiên, phần lớn là con em đồng bào dân tộc thiểu số, ít cọ xát, tham gia
các hoạt động tập thể đông người nên tồn tại tâm lý tự ti, thiếu tự tin trong một số
hoạt động công tác nhất là những hoạt động tập thể. Bên cạnh đó, hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng là những người trẻ tuổi, thích tìm tòi, sáng tạo, thích tự do, mạo
hiểm, nhạy bén với cái mới; ở họ đã có sự phát triển về mặt thể chất, nhưng đang
trong quá trình hoàn thiện về đạo đức, nhân cách nên cũng dễ bị lôi kéo, ảnh hưởng
bởi những tác động tiêu cực từ bên ngoài nhất là những tác động tiêu cực của mặt trái
kinh tế thị trường, những cám dỗ, mua chuộc, lôi kéo tiếp tay cho các hoạt động phi
pháp; sự so sánh giữa môi trường quân sự khắc nghiệt với môi trường xã hội ngoài
đơn vị cũng tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của họ.
52
Hai là, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là lực lượng thường xuyên, trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
theo hướng đặc thù yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tùy tính chất từng
địa bàn và phạm vi quản lý các đoạn biên giới khác nhau mà biên chế quân số
khác nhau. Theo đó, tỉ lệ hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng cũng khác
nhau. Do đặc thù hoạt động của Bộ đội Biên phòng đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải
có thời gian sinh sống, công tác tương đối dài ở địa bàn biên giới để nắm tình
hình mọi mặt từ tình hình nhân dân, địa bàn, đối tượng, cũng như thực hiện quản
lý nhà nước về biên giới quốc gia nên hiện nay các đồn biên phòng tăng tỉ lệ
quân nhân chuyên nghiệp giảm tỉ lệ hạ sĩ quan, binh sĩ. Vì thế tỉ lệ hạ sĩ quan,
binh sĩ ở các đồn biên phòng hiện nay chỉ chiếm khoảng 10% đến 12% quân số
biên chế của các đồn biên phòng nhưng là lực lượng thường xuyên, trực tiếp
thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày của đơn vị. Hạ sĩ quan, binh sĩ được biên chế
về các đội (vũ trang, vận động quần chúng, kiểm soát hành chính, trinh sát,
phòng chống ma túy và tội phạm, tham mưu hành chính, hậu cần bảo đảm,…) và
các tổ, chốt công tác địa bàn, các trạm kiểm soát tại các cửa khẩu, lối mở biên
giới. Thanh niên khi nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng được tuyển chọn kỹ lưỡng
về phẩm chất chính trị, đạo đức, sức khỏe, học vấn, ưu tiên chọn lựa thanh niên
là con em đồng bào dân tộc sinh sống ở địa bàn biên giới. Khi nhập ngũ vào Bộ
đội Biên phòng họ được huấn luyện 3 tháng tân binh tại các trung tâm huấn
luyện sau đó được biên chế về các đồn biên phòng. Tại các đồn biên phòng họ
tiếp tục được huấn luyện, đào tạo về chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên
phòng sát với địa bàn, đối tượng để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia theo chức trách, nhiệm vụ của mình.
Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo hướng đặc thù yêu cầu nhiệm vụ bảo
vệ biên giới quốc gia; có khả năng thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh khó
khăn, khắc nghiệt của địa bàn biên giới. Bên cạnh những kiến thức, kỹ năng cơ
53
bản, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được huấn luyện các kiến thức, kỹ
năng chuyên sâu về nghiệp vụ công tác biên phòng (công tác tuần tra, kiểm
soát, xử lý vi phạm hành chính; công tác trinh sát, đối ngoại, vận động quần
chúng,…); kỹ chiến thuật biên phòng; quy trình xử lý các vụ việc nảy sinh ở
biên giới; các kiến thức pháp luật về bảo vệ biên giới; được giáo dục về truyền
thống lịch sử của dân tộc, quân đội, Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị,
địa phương biên giới; về đối tác, đối tượng đấu tranh ở địa bàn biên giới; tình
hình trong nước, quốc tế, khu vực có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia
thông qua công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng.
Ba là, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có phong cách, lối sống đặc
trưng của văn hóa biên cương biên giới phía Bắc: giản dị, mộc mạc, chất phác,
chân thành, cần cù, chịu khó, lạc quan yêu đời, sẵn sàng bám trụ nơi biên giới,
sẵn sàng đối mặt với khó khăn, thách thức, hiểm nguy ở biên giới.
Sinh ra và lớn lên gắn bó với bản làng, núi rừng biên cương hùng vĩ, bao
la, gần gũi với thiên nhiên, phần lớn là con em đồng bào các dân tộc nơi đây
nên văn hóa biên cương, biên giới thấm đượm trong họ. Mỗi ngọn núi, dòng
sông, khu rừng, mảnh rẫy đều vô cùng thiêng liêng, gần gũi gắn liền với đời
sống vật chất, văn hóa, tinh thần của họ. Vận mệnh của mỗi con người và các
tộc người nơi đây luôn gắn liền với sự vững chắc của biên giới quốc gia. Nơi
núi rừng biên giới muôn vàn khó khăn, khắc nghiệt nhưng vượt lên tất cả là
tinh thần vượt khó, dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách bởi tình yêu
với biên giới, bởi biên giới chính là quê hương của họ. Đức tính giản dị, mộc
mạc, chân thành, cần cù, chịu khó, hòa đồng với mọi người, gần gũi với thiên
nhiên, lạc quan yêu đời trở thành lối sống, thành nét đặc trưng của văn hóa
biên cương biên giới của những con người nơi đây trong đó có hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng. Đặc trưng đó cùng với sức trẻ, hoài bão, khát vọng,
lòng nhiệt tình đã giúp cho họ không nề hà, suy tính thiệt hơn, không quản
ngại khó khăn gian khổ, bám địa bàn, bám dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao.
Từ đặc điểm biên giới Việt Nam - Trung Quốc; đồn biên phòng biên
54
giới Việt Nam - Trung Quốc; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc và trên cơ sở quan niệm ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia có thể đi đến quan niệm:
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất hữu cơ giữa tri
thức, tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo thành sức
mạnh chính trị - tinh thần để họ hoàn thành tốt vai trò nòng cốt, chuyên
trách, trực tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
biểu hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:
Một là, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất
hữu cơ giữa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Về tri thức: Đây là yếu tố cơ bản, cốt lõi trong các yếu tố cấu thành ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc. Với vai trò nòng cốt, chuyên trách của Bộ đội Biên
phòng trong bảo vệ biên giới quốc gia, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là
lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở
các đồn biên phòng, họ được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo hướng đặc thù
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Đặc biệt họ được giáo dục, huấn luyện, rèn
luyện tri thức toàn diện về chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ công tác biên
phòng theo hướng tăng cường kỹ năng thực hành, làm chủ vũ khí, trang bị,
phương tiện, thuần thục kỹ chiến thuật biên phòng, sát với tình huống chiến đấu,
sát với địa bàn, đối tượng đấu tranh. Vì thế ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ
sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có những nét riêng so với các chủ thể khác.
Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng biểu hiện toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, pháp luật,
nghiệp vụ có liên quan đến biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia như:
vị trí, vai trò, ý nghĩa thiêng liêng bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia,
55
của độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia, lợi
ích quốc gia dân tộc; chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về bảo vệ biên giới quốc gia; tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có liên
quan, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong bảo vệ chủ quyền biên
giới hiện nay; nhận diện đối tác, đối tượng ở địa bàn biên giới hiện nay. Trong
đó, nổi trội là những tri thức pháp luật, nghiệp vụ về quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia. Tri thức pháp luật Việt Nam có liên quan đến bảo vệ biên giới được
trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng như: Luật Biên giới quốc gia,
Luật An ninh quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam; Bộ luật Hình sự, Bộ luật
Tố tụng hình sự; Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Tố tụng dân sự, Luật Phòng, chống ma túy, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật
Cư trú, các nghị định, thông tư, hướng dẫn thi hành. Hệ thống tri thức về luật
pháp quốc tế có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia như: Nghị định thư
phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Hiệp định về
quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Hiệp định về
cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc, Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới Việt Nam - Lào - Trung
Quốc .v.v.. Các tri thức về nghiệp vụ công tác biên phòng như: Tổ chức tuần
tra bảo vệ biên giới, quy trình kiểm soát xuất nhập cảnh đối với người và
phương tiện qua lại của khẩu, biên giới; chiến thuật truy lùng, phục kích, đón
lõng đối tượng; kỹ thuật và chiến thuật điều tra hình sự; âm mưu, phương thức,
thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội ở địa bàn biên giới; các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lãnh
thổ biên giới quốc gia; kỹ năng, nghiệp vụ công tác đối ngoại ở đồn biên phòng
.v.v..
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
xây dựng trên nền tảng tri thức đề cao tính cụ thể, trực tiếp hơn là tính lý luận,
trừu tượng bởi đặc điểm của đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi
đây chi phối; hệ thống tri thức về biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc
gia phù hợp với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm đối tượng hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng. Do đó, bộ phận tri thức kinh nghiệm trong giáo
56
dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ được chú
trọng với các tri thức kinh nghiệm trong sinh tồn nơi rừng núi khắc nghiệt;
trong chiến đấu, đấu tranh phòng, chống tội phạm; trong ứng phó, xử lý các
tình huống nảy sinh trên biên giới để bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
Về tình cảm: Đó là thái độ nhất quán, rõ ràng với một tình yêu biên
giới, biên cương; là những rung động của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
nơi đây trong các quan hệ, được biểu hiện cụ thể ở tình cảm của họ đối với sự
nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Bởi lẽ, đối với họ biên giới là quê hương
dựa trên hệ thống tri thức kinh nghiệm mang tính tập thể của những quân
nhân có cùng khát vọng, lý tưởng bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, có
cùng môi trường học tập, công tác, chiến đấu nơi núi rừng biên giới hiểm
nguy. Với tính cách là một trạng thái cảm xúc của chủ thể thông qua việc
nhận thức rõ vai trò nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia;
tình yêu đối với biên cương, biên giới; vinh dự và trách nhiệm trước Đảng, Tổ
quốc và nhân dân để ra sức bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia, bảo vệ sự
bình yên nơi bản, làng biên giới và sự trường tồn của đất nước, dân tộc.
Về niềm tin: Là sự hòa quyện giữa tri thức và tình cảm về bảo vệ biên
giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây. Đó là thái độ lạc
quan tin tưởng của họ về sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia dựa trên nhận
thức sâu sắc về vai trò nòng cốt, chuyên trách của Bộ đội Biên phòng, về vai
trò thường xuyên, trực tiếp của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực
thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng nơi đây. Đó
còn là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ biên giới quốc
gia dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, với khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh
phúc của văn hóa, con người Việt Nam; niềm tin vào sức mạnh quốc gia, sức
mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của quân đội, Bộ đội Biên phòng
khi xảy ra chiến tranh, xung đột; niềm tin vào phẩm chất, năng lực, bản lĩnh
của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng sẵn sàng dấn thân đón nhận khó khăn
thử thách nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong bất kỳ hoàn
cảnh nào với phương châm “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào
57
các dân tộc là anh em ruột thịt” thực hiện “Ba bám, bốn cùng” để bảo vệ
vững chắc biên giới quốc gia.
Về ý chí: Đó là sự hòa quyện giữa hệ thống tri thức đặc thù về biên giới
quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia với thái độ trách nhiệm chính trị của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây, là sự chuyển hóa giữa tri thức, tình cảm,
niềm tin thành ý chí quyết tâm, bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu vững vàng
của họ được biểu hiện bằng hành động cụ thể trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ biên giới quốc gia sẵn sàng đối mặt, vượt qua mọi khó khăn thử thách,
gian khổ, thậm chí hy sinh nơi biên giới, trong thực hiện nhiệm vụ nhất là
những nhiệm vụ đặc biệt đòi hỏi ý chí, bản lĩnh cao, sự gan dạ, mưu trí dũng
cảm. Đó là sự tự ý thức được mục đích, mục tiêu bảo vệ biên giới quốc gia của
mình, tự đấu tranh với bản thân mình và ngoại cảnh để chiến đấu, chiến thắng
mọi gian khổ, hy sinh, mọi kẻ thù, hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ
được giao. Đó còn là ý chí, bản lĩnh mang tính tập thể của những quân nhân
cùng chung nhiệm vụ chính trị, cùng chung điều kiện hoàn cảnh công tác,
chiến đấu; thể hiện ở tinh thần vượt khó để sinh tồn, để hoàn thành nhiệm vụ
khó khăn, gian khổ, hy sinh nơi rừng thiêng, nước độc; là bản lĩnh vững vàng,
không hoang mang, lo sợ trước những tình huống ngặt nghèo trong chiến đấu,
trong đấu tranh với các loại tội phạm nhất là tội phạm ma túy, buôn lậu có vũ
trang, mua bán người. Trong những hoàn cảnh một mất một còn đó không có
chỗ cho sự toan tính, vụ lợi, thiệt hơn.
Hai là, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần thể hiện bằng trách nhiệm, hành
động thực tế để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Sự hòa quyện thống nhất hữu cơ của các yếu tố tri thức, tình cảm,
niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng nơi đây hợp thành trạng thái chính trị - tinh thần của họ, thôi
thúc họ nhận và hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ được giao nhất là
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Chính trạng thái tinh
thần - chính trị đó quy định hành động, quy định kết quả thực hiện chức
trách nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây. Hành động
58
bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cũng chính
là kết quả của quá trình chuyển hóa biện chứng giữa tri thức với tình cảm,
niềm tin biểu hiện ở ý chí quyết tâm, thái độ trách nhiệm chính trị và hành
động cụ thể của từng hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực hiện chức trách, nhiệm
vụ của mình với mục tiêu bảo vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc
trong mọi tình huống.
Những khía cạnh ở trên khẳng định tính ưu trội của ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đòi hỏi cần được
củng cố, phát triển. Tuy nhiên do đặc điểm tâm lý, lứa tuổi của họ chi phối;
bên cạnh đó là sự đa dạng, phức tạp của điều kiện hoàn cảnh khó khăn khắc
nghiệt nơi biên giới, cùng những tác động của ngoại cảnh, của mặt trái kinh
tế thị trường dẫn đến những diễn biến bất ngờ, khó lường trong thực tế đòi
hỏi chúng ta phải dự báo và có biện pháp khắc phục, kịp thời, đúng đắn.
2.2. Nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
2.2.1. Chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn
luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên
giới Việt Nam - Trung Quốc
Cũng như các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chịu sự quy định bởi nhiều nhân tố trong quá trình phát triển của nó. Trong đó, chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ (sau đây gọi chung là giáo dục, huấn luyện, rèn luyện) của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là nhân tố nền tảng hàng đầu quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là tổng hợp các giá trị của các yếu tố, bộ phận hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện thông qua sự tác động có mục đích của các chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng gắn với sự nỗ lực chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Đó là quá trình tổ
59
chức, điều khiển, định hướng của các chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhằm định hình, xây dựng các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Đây là nhân tố nền tảng, quan trọng quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Điều này xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đối với việc hình thành ý thức con người, ý thức quân nhân cũng như với việc xây dựng phẩm chất và năng lực của người quân nhân cách mạng. Theo đó, sự phát triển của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó giáo dục, huấn luyện, rèn luyện giữ vai trò hết sức quan trọng. C. Mác chỉ rõ: “Dù sao thì những người công nhân tiên tiến nhất cũng hoàn toàn nhận thức được rằng tương lai của giai cấp họ, và do đó, của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [, tr. 262]. V.I. Lênin cũng khẳng định: “Giáo dục, huấn luyện và đào tạo những con người phát triển về mọi mặt, được rèn luyện về mọi mặt và biết làm mọi việc” [, tr. 41]. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Huấn luyện là một việc rất cần,… Những việc rất dễ dàng còn phải học. Huống chi công việc cách mạng, công việc kháng chiến, không có huấn luyện, thì làm sao xuôi?” [, tr. 287 - 288].
Con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể sáng tạo của lịch sử. Nói đến xã hội là nói đến con người, ý thức con người luôn mang bản chất xã hội chừng nào con người còn tồn tại. Trong sự phát triển của bản chất người, thế hệ sau bao giờ cũng kế thừa các tri thức, kinh nghiệm của các thế hệ trước theo một cơ chế đặc biệt. Con người đi vào hoạt động thực tiễn với tính cách là một chủ thể sáng tạo nhưng không phải chỉ dựa vào bản năng, kinh nghiệm của cá nhân mà dựa vào những tri thức, kinh nghiệm của các thế hệ trước đã tổng kết, khái quát thành tri thức khoa học truyền lại cho các thế hệ sau thông qua con đường giáo dục, huấn luyện, rèn luyện để từ đó nâng cao nhận thức, trình độ của cá nhân, cộng đồng trong hoạt động thực tiễn.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chịu sự quy định của cả chất lượng giáo dục và chất lượng huấn luyện, rèn luyện.
60
Trong đó, chất lượng giáo dục sẽ bồi đắp lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng và những phẩm chất nhân cách cần thiết cho họ, giúp họ sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Những phẩm chất này không có sẵn mà phải qua giáo dục mới có được. Theo Hồ Chí Minh: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên” [, tr. 413]. Giáo dục làm phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của mỗi người, để mỗi người vừa có đức, vừa có tài. Thông qua hoạt động giáo dục giúp họ hình thành các phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Cùng với chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; chất lượng huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ cho hạ sĩ quan, binh sĩ cũng là một trong những nội dung công tác trọng tâm ở các đồn biên phòng. Chất lượng huấn luyện, rèn luyện trực tiếp trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cho hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực hiện các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia. Đây là một bộ phận tri thức quan trọng trong hệ thống các tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia góp phần hình thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Huấn luyện được xem là một phương pháp để hướng dẫn, giúp đỡ người khác phát triển, học hỏi những kiến thức, kỹ năng mới, từ đó có thể đối mặt, làm chủ và xử trí tốt mọi tình huống nảy sinh trong thực tiễn, đạt được mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Trong những điều kiện có chiến sự khẩn trương, với kỷ luật nghiêm ngặt và không ngừng huấn luyện quân sự có thể sẽ đem lại những kết quả rất tốt đẹp” [, tr. 230]. Theo Hồ Chí Minh: “Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng,… Phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa” [, tr. 359]. Rèn luyện là luyện tập kiên trì để có được trình độ vững vàng, thông thạo trên một mặt, lĩnh vực hay hoạt động nào đó (rèn luyện tư duy; rèn luyện thân thể; rèn luyện tính cách; rèn luyện đạo đức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, rèn luyện phương pháp, tác phong, …). Về bản chất, rèn luyện là sự nỗ lực, cố gắng của con người một cách thường xuyên, liên tục trong thực hiện một hoạt động nào đó, kết quả đạt được bắt nguồn từ nhiều yếu tố trước hết và chủ yếu từ sức mạnh bên trong của chủ thể rèn luyện. Rèn luyện chủ yếu là sự tự thân vận động của đối tượng giáo dục,
61
huấn luyện nhằm tiếp nhận, thẩm thấu, bổ sung làm phong phú thêm các tri thức đã được tiếp nhận trước đó, đồng thời chuyển hóa những tri thức, giá trị, kỹ năng đó một cách vững chắc, thuần thục thành hành động trong thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Trong mối quan hệ này, giáo dục giữ vai trò nền tảng; huấn luyện, rèn luyện giữ vai trò quan trọng quy định việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, hai mặt này có sự thống nhất biện chứng chặt chẽ với nhau.
Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện có vị trí, vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của mỗi cá nhân và cộng đồng “con người muốn cải tạo và hoạt động có hiệu quả thì phải được giáo dục’’[, tr. 60]. Giáo dục, huấn luyện, rèn luyện luôn là nhân tố cơ bản nền tảng hàng đầu quy định quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không có sẵn mà được hình thành, củng cố, phát triển thông qua con đường giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mới có được. Thông qua giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sẽ trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ hệ thống tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia một cách toàn diện, sâu sắc nhất; trên cơ sở đó, bồi đắp tình cảm, củng cố niềm tin, hình thành thái độ trách nhiệm, xây dựng ý chí quyết tâm của họ trong bảo vệ biên giới quốc gia định hình ý thức bảo vệ biên giới quốc gia trong họ. Từ ý thức về bảo vệ biên giới quốc gia sẽ định hướng hành động bảo vệ biên giới quốc gia của họ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ tại các đồn biên phòng. Chính vì vậy, chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đảm bảo cho các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của của họ hình thành có hệ thống, đúng đắn và toàn diện.
Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được thể hiện ở mục tiêu, yêu cầu, chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Mục tiêu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là nhằm xây dựng lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân của hạ sĩ quan, binh sĩ từ đó sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, chấp nhận khó khăn gian khổ, hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ
62
quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc; đó còn là mục tiêu nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện của hạ sĩ quan, binh sĩ từ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực nhận thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực hành đến năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia trong các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Mục tiêu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sẽ quy định yêu cầu, chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Mục tiêu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cụ thể, khoa học là cơ sở định hướng, quy định quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia gắn với chuyên môn nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện là cơ sở tiền đề hình thành hệ thống tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh và hành vi của hạ sĩ quan, binh sĩ. Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện phải bám sát mục tiêu, yêu cầu và được xây dựng khoa học, toàn diện, chuyên sâu, bố trí phù hợp, lôgic nhất là các chương trình, nội dung giáo dục chính trị, truyền thống, pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh và hành vi của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong bảo vệ biên giới quốc gia. Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng cần được bổ sung, cập nhật thường xuyên phù hợp với tình hình thực tiễn sẽ đem lại hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cao và ngược lại chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện chậm cập nhật, đổi mới sẽ lạc hậu, cản trở quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và do đó cản trở quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tác động rất lớn đến hiệu quả chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng như quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Sử dụng hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện linh hoạt, phù hợp với khả năng, điều kiện, đặc điểm của từng đồn biên phòng và đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ sẽ nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho họ. C.Mác chỉ rõ: “Không những kết quả của việc nghiên cứu, mà tất cả con
63
đường dẫn tới việc nghiên cứu, cũng phải là chân lý” [, tr. 18]. Do đó, cần lựa chọn hình thức linh hoạt, phương pháp phù hợp với đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ và điều kiện, đặc điểm của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc để xác định. Sử dụng kết hợp nhiều hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú tạo sự cuốn hút, hấp dẫn và hiệu quả đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện các chương trình, nội dung, kế hoạch đã xác định ở đơn vị qua đó nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện làm cho tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí bản lĩnh của hạ sĩ quan, binh sĩ được củng cố, vững chắc hơn, tác dụng thúc đẩy phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn thể hiện thông qua chất lượng, cơ cấu, số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng. Đây là những người trực tiếp quản lý, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ về mọi mặt ở các đồn biên phòng; họ có vai trò quan trọng trong truyền đạt tri thức, kinh nghiệm, tác phong, lối sống, định hướng nhận thức, thái độ trách nhiệm, khơi dậy ý chí quyết tâm và định hướng hành động bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Vai trò, tác động của họ đến hạ sĩ quan, binh sĩ không chỉ ở nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mà còn ở cả hình thức, phương pháp và tính mô phạm của họ trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ. Theo C.Mác: “Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục” [, tr. 10]; Hồ Chí Minh cũng khẳng định “Một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [, tr. 284]. Vì vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng phải có phẩm chất, năng lực toàn diện, có chất lượng cao, số lượng, cơ cấu phù hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng.
Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện trực tiếp trang bị, hướng dẫn cách thức tiến hành các hành động cụ thể trong bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đảm bảo đúng mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra. Chất lượng giáo dục, huấn luyện,
64
rèn luyện giúp cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng xác định đúng mục tiêu, phương hướng tự giáo dục để chuyển hóa những yêu cầu khách quan của xã hội, của thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia thành nhu cầu nội tại của bản thân, từ đó giúp họ tích cực, chủ động, tự giác trong tự giáo dục để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Có thể khẳng định, khi chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đạt hiệu quả cao sẽ tác động tích cực đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ và ngược lại. Do vậy, chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là một trong những nhân tố quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ hiện nay.
2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, trong mối quan hệ đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội;
đồng thời cũng chỉ ra rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử, nhưng
đồng thời con người cũng là chủ thể của hoàn cảnh lịch sử đó. C.Mác đã khẳng
định: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con
người đến mức ấy” [, tr. 55]; đồng thời cũng khẳng định: “Những cá nhân nhất
định và tồn tại trong những mối quan hệ nhất định, mới có thể sản xuất ra đời
sống vật chất của mình và mọi thứ liên quan với đời sống ấy” [, tr. 103].
Từ luận điểm của C. Mác cho thấy không thể có con người tách rời xã
hội, giai cấp và các điều kiện sống của mình, ý thức của con người luôn mang
bản chất xã hội chừng nào con người còn tồn tại. Ý thức con người không phải
tự nhiên có sẵn, mà được hình thành, phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố
trong đó có môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Thiếu môi trường tự
nhiên, con người không thể tồn tại được với tính cách một sinh vật; thiếu môi
trường xã hội con người không thể trở thành người. Do đó, con người tồn tại,
phát triển bao giờ cũng gắn với một môi trường nhất định. Theo Hồ Chí Minh:
“Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng
65
phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng
riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội” [, tr. 600].
Môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội cần thiết tác
động, chi phối quá trình sống và hoạt động của con người; mọi hoạt động
của con người bao giờ cũng gắn với, diễn ra và phụ thuộc vào một môi
trường nhất định. Con người sống trong những môi trường khác nhau sẽ
quy định sự hình thành, phát triển mọi mặt của họ theo những chiều hướng
khác nhau. Nói về vấn đề này C. Mác chỉ rõ: “Không phải ý thức của con
người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ” [, tr. 15].
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
chịu sự chi phối của cả môi trường rộng (điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế,
xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu, bảo
vệ Tổ quốc của quân đội, Bộ đội Biên phòng,...) và môi trường hẹp (môi
trường văn hóa quân sự nơi hạ sĩ quan, binh sĩ công tác, thực hiện chức trách
nhiệm vụ được giao). Sự tác động giữa các môi trường này ở nhiều cấp độ
khác nhau, gián tiếp hay trực tiếp đều chi phối đến sự phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của họ nhất là điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội
và môi trường văn hóa đồn biên phòng.
Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội quy định ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc. Với địa hình phức tạp, khó khăn; khí hậu, thời tiết khắc nghiệt của
địa bàn biên giới hằng ngày, hằng giờ tác động đến hạ sĩ quan, binh sĩ trong mọi
hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt, thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhất là
trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia. Những khó khăn, phức tạp đó
trực tiếp tác động đến tâm tư, tình cảm, niềm tin, ý chí của hạ sĩ quan, binh sĩ nơi
đây; qua đó, tác động và quy định đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ
trong quá trình công tác ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Điều kiện kinh tế - xã hội đất nước nói chung, địa bàn biên giới nói riêng
quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng nơi đây. Không có ý thức bảo vệ biên giới quốc gia chung cho mọi người,
66
mọi quân nhân, ở mọi điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Điều kiện kinh tế -
xã hội không chỉ quy định khả năng, điều kiện vật chất cần thiết để đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới, xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới rộng khắp
mà còn quy định sự vận động, phát triển của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 35 năm qua khẳng định
sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, nhân dân ta là
đúng đắn, hợp quy luật, phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển của
lịch sử. Kinh tế phát triển, chính trị ổn định, văn hóa, xã hội không ngừng
được nâng lên, quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường, đối ngoại
được mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện. Cùng với sự phát triển của
đất nước, điều kiện kinh tế - xã hội của địa bàn biên giới cũng đổi thay, phát
triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ nơi biên
giới về mọi mặt được nâng cao. Đây là tiền đề vật chất quan trọng để xây
dựng, phát triển sức mạnh tinh thần cho nhân dân và quân đội trong đó có
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Lợi ích cá nhân của hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng ngày càng được đảm bảo trong sự kết hợp hài hòa với lợi
ích quốc gia dân tộc, tạo động lực thúc đẩy ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây phát triển.
Bên cạnh đó, những hạn chế, yếu kém về kinh tế - xã hội của đất nước
còn tồn tại như: Kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường phát triển chưa bền
vững; nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh; nguy cơ gây mất ổn định xã hội
vẫn tiềm ẩn; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí; mặt trái của kinh tế thị
trường, sự phân hóa giàu nghèo; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
ngày càng phức tạp; cùng với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mọi lĩnh vực nhằm “phi
chính trị hóa quân đội”, làm giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, gieo
rắc tư tưởng hoài nghi, tâm lý lo sợ, hoang mang về chiến tranh sử dụng vũ
khí công nghệ cao .v.v.. Những hạn chế này tác động trực tiếp đến nhận thức,
67
tư tưởng, tình cảm, niềm tin và hành động bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo ra
những lực cản, tác động tiêu cực đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, địa bàn biên giới nói
riêng là cơ sở, điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức bảo đảm, thực hiện tốt
các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên
giới Việt Nam - Trung Quốc. Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ
được xây dựng, bảo đảm thực hiện trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước, địa phương và đơn vị. Chế độ, chính sách thể hiện sự quan tâm, tôn
vinh, ghi nhận của Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội đối với lớp thanh
niên đang thực hiện nghĩa vụ cao cả đối với Tổ quốc; là nhân tố, động lực
mạnh mẽ để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Chế độ, chính sách phù
hợp hay không phù hợp, tổ chức thực hiện chặt chẽ hay không chặt chẽ đều
ảnh hưởng rất lớn đến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Cùng với sự quy định của điều kiện kinh tế xã hội, môi trường văn hóa
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là một bộ phận của môi
trường xã hội, là nhân tố trực tiếp quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ nơi đây. Môi trường văn hóa đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc là tổng hòa các giá trị văn hóa, quan hệ văn hóa, hoạt
động văn hóa gắn với hệ thống thiết chế văn hóa tương ứng, vận động và phát
triển theo những quy luật nhất định phù hợp với những điều kiện đặc thù của
đồn biên phòng ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Môi trường văn hóa ở
các đồn biên phòng chính là nền tảng để định hướng giá trị văn hóa và chuẩn
giá trị nhân cách người quân nhân cách mạng ở các đồn biên phòng.
Môi trường văn hóa đồn biên phòng vừa mang những nét chung của văn
hóa quân sự vừa chứa đựng những nét đặc thù của văn hóa biên cương biên
giới phía Bắc như: Nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia quy định tính chất văn
hóa đồn biên phòng; điều kiện, hoàn cảnh khắc nghiệt, gian khổ của biên giới
đặt ra yêu cầu cao về ý thức, bản lĩnh, trách nhiệm quân nhân; giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện đáp ứng yêu cầu cao của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia
68
trong tình hình mới. Văn hóa đồn biên phòng mang đậm sắc thái của văn hóa
bảo vệ biên giới quốc gia chứa đựng các thành tố như: Hệ giá trị văn hóa, quan
hệ văn hóa, cảnh quan văn hóa, hoạt động văn hóa, thiết chế văn hóa.
Mỗi đồn biên phòng với tính cách là một tổ chức quân sự, một đơn vị
cơ sở, một môi trường văn hóa có tính đặc thù chi phối quá trình hình thành,
phát triển nhân cách cũng như ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng. Do đó, môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt
đẹp, lành mạnh, thuận lợi sẽ tạo động lực, thúc đẩy quá trình hình thành, phát
triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ; và ngược lại,
nếu môi trường văn hóa đồn biên phòng không thuận lợi, chứa đựng những
yếu tố phản văn hóa, phản giáo dục sẽ kìm hãm, cản trở quá trình hình thành,
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
chỉ có thể được hình thành, phát triển tích cực, với chất lượng cao khi nó được
thực hiện trong môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh; ở đó hạ
sĩ quan, binh sĩ được giáo dục, huấn luyện, rèn luyện trong môi trường nhân ái,
đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, bình đẳng, dân chủ và kỷ luật,
kỷ cương. Mọi hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt của hạ sĩ quan, binh sĩ đều
hướng đến mục tiêu hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
họ. Sự tác động của môi trường văn hóa ở các đồn biên phòng biên giới Việt
Nam - Trung Quốc đến phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ được
biểu hiện và thực hiện thông qua các mối quan hệ xã hội, quan hệ quân sự
thường nhật của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng. Đây cũng chính là yếu
tố quan trọng mà nhờ đó ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng được hình thành và phát triển theo thời gian.
Các mối quan hệ của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc rất đa dạng, phong phú như: quan hệ với lãnh đạo,
chỉ huy; quan hệ với đồng chí, đồng đội; quan hệ với các tổ chức trong đơn
vị; quan hệ với thân nhân, bạn bè; quan hệ với địa phương, nhân dân khu
vực đóng quân,... Các mối quan hệ đó xuất hiện hàng ngày trong mọi hoạt
69
động của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc hòa quyện với nhau tạo nên một môi trường văn hóa đặc thù ở
các đồn biên phòng nơi đây. Môi trường đó tất yếu tác động đến quá trình
hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ; cùng với sự
tiếp nhận các giá trị từ môi trường văn hóa ở các đồn biên phòng là sự tác
động tích cực trở lại của chủ thể hạ sĩ quan, binh sĩ đối với môi trường văn
hóa ở các đồn biên phòng trong tính độc lập tương đối của mối quan hệ
biện chứng đó. Điều này làm cho môi trường văn hóa ở các đồn biên phòng
ngày càng phát triển đa dạng, phong phú hơn.
Hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của các đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc tương đối đa dạng, phong phú không chỉ bó hẹp
trong phạm vi đơn vị mà trải rộng trên địa bàn biên giới đảm nhiệm. Đó có
thể là các tổ, chốt, trạm kiểm soát tại các cửa khẩu, đường mòn, lối mở trên
biên giới; tại vị trí các mốc quốc giới, dấu hiệu đường biên giới; tại tổ, đội
công tác địa bàn xã, bản biên giới; cũng có khi hoạt động ở các địa bàn ngoại
biên (địa bàn biên giới nước đối diện) trong thực hiện các chuyên án đấu
tranh với tội phạm,... Đặc điểm này làm cho các quan hệ và hoạt động văn
hóa của đồn biên phòng thêm phong phú, đa dạng.
Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ
biên giới quốc gia có chức năng, nhiệm vụ “Thực hiện quản lý nhà nước về
quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy
trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu” [, tr. 9]. Việc
thực hiện nhiệm vụ trên không gian địa bàn biên giới trải dài, rộng lớn với
nhiều khó khăn, hiểm nguy, thách thức đòi hỏi ý chí quyết tâm cao của cán
bộ, chiến sĩ nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ; đó vừa là trách nhiệm đồng thời cũng
là vinh dự, tự hào của những người lính nơi tuyến đầu Tổ quốc. Bảo vệ vững
chắc biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
bàn biên giới, xây dựng biên giới ổn định, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát
triển, không để xảy ra tranh chấp, xung đột tạo dựng môi trường hòa bình, ổn
định, tạo thuận lợi cho các lực lượng ở địa bàn biên giới yên tâm công tác,
nhân dân địa bàn biên giới yên tâm gắn bó với bản làng biên giới; vừa phát
70
triển kinh tế, xã hội vừa bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia. Chính chức
năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng quy định mọi hoạt động của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của họ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Môi trường văn hóa đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
quy định đến việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực,
thúc đẩy hay cản trở tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng đồn biên phòng,
từng địa bàn mà hạ sĩ quan, binh sĩ công tác, học tập, sinh hoạt.
Thực tiễn ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc cho
thấy đơn vị nào có môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực, mọi hoạt động
đều hướng tới thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia sẽ trở thành nhân
tố thúc đẩy hạ sĩ quan, binh sĩ trong đơn vị tích cực, hăng say học tập, rèn
luyện phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Môi trường văn hóa đồn
biên phòng tốt đẹp, lành mạnh sẽ đem đến những giá trị tích cực trong quá
trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ. Những giá trị truyền thống cao đẹp của Bộ đội Biên phòng như:
truyền thống “Đoàn kết cảnh giác; liêm, chính, kiệm, cần; hoàn thành nhiệm
vụ; dũng cảm trước địch; vì nước quên thân; trung thành với Đảng; tận tụy
với dân” [, tr. 155 - 156] được phát huy, tỏa sáng, là niềm vinh dự, tự hào
được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng tiếp nối, phát huy góp phần hình thành các thế hệ có ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia sâu sắc. Ngược lại, môi trường văn hóa đồn biên
phòng không hướng tới nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia hay thiếu vắng
những giá trị tích cực, lành mạnh sẽ kìm hãm, cản trở quá trình phát triển ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Vì vậy,
điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa đồn biên phòng là nhân tố cơ
bản, quan trọng quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng.
2.2.3. Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng
biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong tự ý thức về bảo vệ biên giới quốc gia
71
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
cũng như các phẩm chất khác của họ không phải tự nhiên có được, mà là kết
quả của quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của các chủ thể tác động
cùng với quá trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của bản thân hạ sĩ quan,
binh sĩ. Trong mối quan hệ đó, chủ thể tác động giữ vai trò quan trọng, hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng giữ vai trò trực tiếp quyết định đến ý thức bảo
vệ biên giới quốc gia của họ. Tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện được
xem là một nguyên tắc rất quan trọng trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, nó được biểu hiện ở tinh thần tự giác,
tự nguyện, khát khao vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, bồi đắp tình cảm,
xây dựng niềm tin, xác định thái độ trách nhiệm và ý chí quyết tâm cao trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. V.I. Lênin chỉ rõ: “Không tự
mình chịu bỏ ra một công phu nào đó thì không thể tìm ra chân lý trong bất cứ
một vấn đề hệ trọng nào cả; và hễ ai sợ tốn công sức thì không sao tìm ra chân
lý được” [, tr. 82]; đồng thời nhấn mạnh: “Không có sự xúc cảm của con
người thì xưa nay không có và không thể có sự tìm tòi chân lý” [, tr. 131].
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng, lý luận có nhiều
quan điểm sâu sắc về vấn đề giáo dục, rèn luyện và tự giáo dục, rèn luyện mà
còn là một tấm gương sáng về tự giáo dục, rèn luyện. Người chỉ rõ: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố” [, tr. 612]. Ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng sẽ khó hình thành, phát triển, nếu
các yếu tố cấu thành nhân tố chủ quan của họ không được phát huy trong quá
trình tiếp nhận, chuyển hóa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí thành thái độ
trách nhiệm, bản lĩnh và hành động bảo vệ biên giới quốc gia.
Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng thực hiện nhiệm vụ trong điều
kiện đặc thù gắn với đặc điểm hoạt động phân tán, nhỏ lẻ của các đồn biên
phòng và tính chất khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của địa bàn biên giới. Thực
tiễn bảo vệ biên giới quốc gia phong phú, đa dạng, phức tạp với nhiều tình
huống bất ngờ, nhạy cảm, khó dự báo. Quá trình hình thành, phát triển ý thức
72
bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là quá
trình giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan.
Đề cập đến nhân tố chủ quan chính là đề cập đến những chủ thể, con
người cụ thể. Theo đó, nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là tổng thể những yếu tố phẩm chất,
năng lực, thể chất, tinh thần, động cơ, thái độ, trình độ, phương pháp, tác phong
công tác; sự tích cực, chủ động, tự giác; sự cố gắng, nỗ lực của chủ thể được chủ
thể huy động vào quá trình cải biến khách thể nhằm đạt mục đích đặt ra.
Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc tiếp nhận, chuyển hóa những quá trình tác
động từ bên ngoài thành quá trình tự thân của họ, đó là quá trình tự giáo
dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện một cách chủ động, tích cực của bản thân
hạ sĩ quan, binh sĩ. Đây không chỉ là quá trình chủ động chiếm lĩnh những
giá trị chung mà còn là quá trình tổng hợp, phân tích, kế thừa chọn lọc,
chuyển hóa những tri thức khoa học lĩnh hội được thành mục tiêu, lý tưởng,
hoài bão, khát vọng; thành tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh của họ trong
suốt quá trình học tập, công tác, sinh hoạt và trong mọi hoạt động bảo vệ
biên giới quốc gia. Quá trình đó đều chịu sự quy định rất lớn của nhân tố
chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
trước hết chịu sự quy định bởi trình độ tri thức toàn diện của họ về bảo vệ
biên giới quốc gia. Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng đặc biệt là tri thức chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ
công tác biên phòng là cơ sở hình thành tình cảm, niềm tin, ý chí, thái độ
trách nhiệm, bản lĩnh và hành động của họ trong bảo vệ biên giới quốc gia.
Hệ thống tri thức đó càng đầy đủ, sâu rộng thì ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng càng được định hình rõ nét và phát
triển vững chắc. Ngược lại, nếu hệ thống tri thức này thiếu hoặc yếu sẽ cản
trở sự hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
73
Tình cảm, niềm tin, ý chí của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng quy
định kết quả chuyển hóa chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mang
tính khách quan từ các chủ thể tác động thành nhu cầu tự thân mang tính chủ
quan của hạ sĩ quan, binh sĩ. Tình cảm sâu sắc, chân chính bằng tình yêu đối
với Tổ quốc, với bản làng biên giới; niềm tin vững chắc vào sự nghiệp bảo vệ
biên giới quốc gia; niềm vinh dự và trách nhiệm cao cả, thiêng liêng của cá
nhân trước chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là những yếu tố quan trọng
cấu thành nhân tố chính trị tinh thần giúp họ xác định thái độ trách nhiệm
chính trị, xây dựng bản lĩnh và ý chí quyết tâm cao sẵn sàng vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, gian khổ thậm chí hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ
quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tình cảm, niềm tin của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng càng sâu sắc thì ý chí, bản lĩnh và hành động sẵn sàng
vượt mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh của họ càng cao; và ngược lại, tình cảm,
niềm tin bị phai nhạt, giảm sút thì ý chí quyết tâm, bản lĩnh và hành động
vượt khó của họ cũng bị giảm sút, khó đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra ngày
càng cao trong thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia.
Phẩm chất chính trị xã hội của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cũng
là một trong những nhân tố chính trị tinh thần to lớn quy định ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của họ. Hệ thống phẩm chất xã hội của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng gồm: Phẩm chất chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối
sống, phẩm chất kỷ luật,... được biểu hiện ở lòng trung thành tuyệt đối với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân; sự kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; chấp hành nghiêm mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách và luật pháp của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, quy định của đơn vị,
địa phương địa bàn công tác; vinh dự và trách nhiệm quân nhân; thái độ trách
nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; tinh thần đoàn kết, thương
yêu đồng chí, đồng đội; tình yêu đối với biên giới, biên cương, gắn bó với bản
làng biên giới; lối sống văn hóa chuẩn mực, lành mạnh; tinh thần trung thực,
thẳng thắn, vượt qua những cám dỗ vật chất tầm thường nơi biên giới, cửa
74
khẩu; tinh thần đoàn kết cảnh giác, liêm, chính, kiệm, cần, khắc phục khó
khăn, hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Những phẩm chất chính trị xã hội đó của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng là nhân tố chính trị tinh thần quan trọng để họ tiếp nhận, chuyển hóa,
hiện thực hóa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, bản lĩnh thành hành động cụ
thể trong các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của mình. Thực tiễn bảo vệ
biên giới quốc gia biên giới Việt Nam - Trung Quốc đòi hỏi hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng phải có các phẩm chất chính trị xã hội cần thiết ở trên làm
cơ sở để họ tiếp nhận sự tác động của các chủ thể giáo dục, rèn luyện qua đó
hình thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Phẩm chất chính trị xã hội
cũng là động lực tinh thần để hạ sĩ quan, binh sĩ cố gắng, nỗ lực, chủ động
tiếp nhận, chiếm lĩnh các tri thức, các giá trị một cách tự thân biến quá trình
giáo dục, rèn luyện thành quá trình tự giáo dục, rèn luyện để hình thành ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của bản thân mình đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
được giao. Ngược lại, nếu hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không có các
phẩm chất chính trị xã hội đủ tốt sẽ khó có thể vượt qua những khó khăn, thử
thách, gian khổ, khó có thể bám trụ ở địa bàn biên giới, dễ sa ngã trước các
cám dỗ, chùn bước trước khó khăn, không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Năng lực toàn diện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng quy định
kết quả hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Năng lực của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng gồm có: năng lực nhận
thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn.
Năng lực nhận thức là khả năng hiểu biết, nắm bắt, chiếm lĩnh các tri thức
khoa học nhất là tri thức khoa học biên phòng, thể hiện trình độ nhận thức
của họ. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ là khả năng nắm vững và thành
thạo kỹ thuật, chiến thuật biên phòng, các biện pháp nghiệp vụ công tác
biên phòng từ đó có thể tham mưu, đề xuất, vận dụng linh hoạt trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Năng lực hoạt động thực tiễn là
khả năng trực tiếp tổ chức triển khai, thực hiện các hoạt động, các nhiệm
75
vụ cụ thể trong bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng một cách có
hiệu quả. Sự tổng hòa của các loại hình năng lực đó tạo nên năng lực toàn
diện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng quy định, chi phối quá trình
hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ
sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào mức
độ chuyển hóa từ yêu cầu khách quan thành nỗ lực chủ quan của họ. Tự giáo
dục, rèn luyện làm chủ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng và nỗ lực phấn đấu vươn
lên với thái độ trách nhiệm cao, bản lĩnh vững vàng, ý chí quyết tâm cao là
nội lực bên trong thôi thúc quá trình hình thành ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của họ; đồng thời cũng là nhân tố khẳng định sự cống hiến và trưởng
thành của hạ sĩ quan, binh sĩ trong thời gian tại ngũ. Tự giáo dục, rèn luyện là
con đường, cách thức cơ bản để hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng bổ sung,
hoàn thiện về tri thức cũng như các phẩm chất, năng lực cần thiết khác trong quá
trình hoàn thiện nhân cách người quân nhân cách mạng. Sinh thời chủ tịch Hồ
Chí Minh từng căn dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời
phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ
rồi, biết hết rồi” [, tr. 377]. Quá trình tự giáo dục, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh
sĩ là một quá trình tiếp nhận, chuyển hóa và giải quyết các mâu thuẫn giữa các
mặt, các yếu tố trong nhân cách quân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng trước các yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra.
Sự hình thành, phát triển các phẩm chất, năng lực trong nhân tố chủ
quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ
giữa những tác động khách quan từ quá trình giáo dục, rèn luyện của các chủ
thể tác động với sự cố gắng, nỗ lực chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ thông qua
quá trình tự giáo dục, rèn luyện. Quá trình này luôn mang đậm dấu ấn cá nhân
của hạ sĩ quan, binh sĩ. Trong quá trình tự giáo dục, rèn luyện hạ sĩ quan, binh
sĩ vừa là chủ thể giáo dục, rèn luyện nhưng đồng thời vừa là đối tượng của
quá trình ấy. Vai trò của tự giáo dục, rèn luyện trong quá trình hình thành,
76
phát triển các phẩm chất, năng lực chủ quan của họ là rất quan trọng. Thực tế
cho thấy, dù kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức có hay
đến mấy và các chủ thể tác động có cố gắng bao nhiêu chăng nữa thì mục tiêu
giáo dục, rèn luyện cũng không thể đạt được nếu bản thân đối tượng giáo dục,
rèn luyện không tự giác, chủ động, tích cực lĩnh hội, rèn luyện.
Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không hình
thành tự phát mà được hình thành tự giác qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hằng ngày, trong học tập, công tác, lao động, huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu, trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Hoạt
động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng đóng vai trò
đặc biệt quan trọng, nó có những ưu thế mà trong quá trình huấn luyện
không có được đó là tính đa dạng, phong phú, là tính bất ngờ, sự căng
thẳng và diễn biến mau lẹ của các tình huống đấu tranh nảy sinh trên biên
giới; sự khó khăn, khắc nghiệt của địa hình, khí hậu biên giới. Chính thực
tiễn hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia mà hạ sĩ quan, binh sĩ được hòa
mình vào đó sẽ cho họ những trải nghiệm thực tế vô cùng bổ ích, từ đó có
thêm kinh nghiệm, rèn luyện bản lĩnh chiến đấu, ý chí quyết tâm, tinh thần
dũng cảm dám đối mặt, đương đầu với khó khăn, thử thách, hy sinh để bảo
vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
Bên cạnh các nhân tố cơ bản quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc trình bày ở trên; ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh
sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc còn chịu sự tác
động của nhiều nhân tố khác như: chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan,
binh sĩ và thân nhân của họ; vũ khí, trang bị, phương tiện; cơ sở vật chất
bảo đảm; đời sống vật chất, tinh thần của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng; tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc; đối tượng đấu tranh của
Bộ đội Biên phòng; âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù
địch và các loại tội phạm ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc; yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam - Trung Quốc đặt ra,… Tuy
77
nhiên, đây chỉ được xem là những nhân tố tác động, chi phối đến việc hình
thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Những nhân tố cơ bản trên có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với
nhau, trực tiếp tác động, quy định quá trình hình thành, phát triển ý thức bảo
vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Mặc dù vậy, ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chỉ có
thể hình thành, phát triển đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra khi bản thân hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng biết phát huy vai trò nhân tố chủ quan, nỗ lực
vượt qua khó khăn, gian khổ, thử thách, hiểu rõ vị trí, vai trò, vinh dự và trách
nhiệm chính trị cao cả của bản thân đối với sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ
quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
78
Kết luận chương 2
Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Bảo vệ biên giới
quốc gia là công việc trọng đại của mọi quốc gia dân tộc trong đó Việt Nam
không phải là ngoại lệ. Bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam là sứ mệnh thiêng
liêng, cao cả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và
mỗi người dân Việt Nam. Bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam là tổng thể
cách thức, biện pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sử
dụng để chống lại mọi hoạt động xâm phạm lãnh thổ, biên giới quốc gia nhằm
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới
quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc là lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia, có vai trò rất quan trọng ở các đồn biên phòng. Để hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ đặc biệt là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia cần
phải xây dựng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ ngang tầm với yêu cầu,
nhiệm vụ đặt ra trong tình hình hiện nay.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức,
tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ ở
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo thành sức mạnh
chính trị - tinh thần để họ hoàn thành tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách, trực
tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chịu sự quy định bởi chất lượng giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; điều kiện
kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa đồn biên phòng và vai trò nhân tố chủ
quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Các nhân tố cơ bản trên có vai
trò nhất định và có mối quan hệ biện chứng với nhau, quy định quá trình hình
thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
79
Chương 3
THỰC TRẠNG Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA
HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI
VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay
3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân
* Ưu điểm
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ
đội Biên phòng; Đảng uỷ, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh; cấp uỷ, chỉ
huy các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc thường xuyên đề cao
trách nhiệm, tích cực, chủ động trong xây dựng các nội dung, hình thức, biện
pháp nâng cao ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Theo đó,
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên
giới Việt Nam - Trung Quốc ngày càng được nâng cao đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia được biểu hiện ở các nội dung sau:
Một là, về tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tương đối toàn diện, đúng đắn.
Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phần lớn là con em đồng bào các
dân tộc sinh sống ở các tỉnh, huyện biên giới nên các hoạt động giáo dục về
bảo vệ biên giới quốc gia được quan tâm, chú trọng ở các trường học và các
tổ chức đoàn thể địa phương; 87,6% tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên
[Phụ lục 3]. Trước khi nhập ngũ họ đều có những tri thức bước đầu về bảo vệ
biên giới quốc gia thông qua một số hoạt động giáo dục ở gia đình, nhà
trường và đoàn thể địa phương nơi sinh sống. Những tri thức này mới chỉ là
những hiểu biết ban đầu nhưng có vai trò quan trọng, là cơ sở để họ có được
nhận thức sâu sắc hơn về bảo vệ biên giới quốc gia sau khi nhập ngũ và về
các đồn biên phòng công tác. Thông qua các chương trình giáo dục, huấn luyện,
80
rèn luyện và hoạt động thực tiễn ở các đồn biên phòng các tri thức về bảo vệ
biên giới quốc gia của họ được trang bị toàn diện, đầy đủ, hoàn thiện hơn.
Với đặc điểm về độ tuổi còn trẻ nên hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
khá năng động, nhạy bén với tri thức mới. Đa số đều có nhận thức tốt về vị
trí, vai trò quan trọng của biên giới quốc gia và nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia; khẳng định biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, có
vai trò quan trọng chiến lược về mọi mặt của đất nước. Sự hiểu biết của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được thể hiện ở sự nắm vững các nội dung
cơ bản trong các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia; chính sách đối ngoại của
Đảng, Nhà nước ta với các nước có chung đường biên giới, hệ thống pháp
luật quốc gia và luật pháp quốc tế có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia.
Họ cũng hiểu rằng, mất biên giới là mất Tổ quốc, là lãnh thổ bị xâm phạm; do
đó, bảo vệ biên giới quốc gia là tất yếu, là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng. Kết
quả điều tra xã hội học cho thấy 77,2% hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
khẳng định biên giới quốc gia là rất quan trọng, 81,2% khẳng định bảo vệ
biên giới quốc gia hiện nay là rất cần thiết [Phụ lục 3].
Từ nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biên giới quốc gia,
biên giới quốc gia cũng như tính tất yếu phải bảo vệ biên giới quốc gia thông
qua các hoạt động giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục truyền
thống tại đơn vị, tri thức của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về bảo vệ
biên giới quốc gia được đầy đủ, toàn diện hơn. Qua điều tra, khảo sát 82,4%
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đều nhận thức đúng về các nội dung bảo vệ
biên giới quốc gia [Phụ lục 3].
Các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã tích cực chủ
động tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng nâng cao nhận thức về quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước về bảo vệ biên giới quốc gia
cũng như các hiệp định, nghị định thư về biên giới và quy chế biên giới. Đặc
biệt tuyên truyền “Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia” cũng như các nội
81
dung có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia trình bày trong các Văn kiện
Đại hội Đảng các cấp.
Kết quả giáo dục chính trị tại đơn vị của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hằng năm đạt 100% chương trình, nội
dung; quân số đạt 98,5% trở lên; kết quả kiểm tra 100% đạt yêu cầu, tính trung
bình có 84,77 % trở lên khá, giỏi, tỉ lệ giỏi đạt 21,63% trở lên [Phụ lục 5]. Báo
cáo Sơ kết 5 năm thực hiện đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị
trong giai đoạn mới” của Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Lào Cai đánh giá:
Các đồn biên phòng đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức
triển khai thực hiện nghiêm các kế hoạch, hướng dẫn công tác giáo dục chính
trị, đảm bảo chương trình, nội dung,… Cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị
kiên định vững vàng, nhận thức đúng đắn tình hình nhiệm vụ công tác biên
phòng, âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch và các loại đối tượng, xác định
tốt trách nhiệm, động cơ phấn đấu đúng đắn, vượt qua khó khăn, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ [, tr. 5]. Đánh giá về nội dung này Bộ chỉ huy Bộ đội Biên
phòng Cao Bằng chỉ rõ: Những năm qua, các đồn biên phòng của Bộ đội Biên
phòng Cao Bằng đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc kế hoạch giáo dục
chính trị hàng năm của các cấp, tỉ lệ khá giỏi đạt từ 80% trở lên; nhận thức,
trách nhiệm chính trị của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên; qua đó đã góp phần
củng cố tư tưởng, niềm tin, ý chí của cán bộ, chiến sĩ, giúp họ nhận và hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao [, tr. 6].
Trong công tác huấn luyện chiến đấu, các đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc đã quán triệt, triển khai thực hiện tốt các Nghị quyết,
Chỉ thị, Mệnh lệnh huấn luyện hằng năm của các cấp như: Nghị quyết 454-
NQ/ĐU của Đảng ủy Bộ đội Biên phòng về nâng cao chất lượng huấn luyện
giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo; Mệnh lệnh huấn luyện của Tư
lệnh Bộ đội Biên phòng. Thực hiện huấn luyện theo đúng chương trình, nội
dung, thời gian, quân số bảo đảm toàn diện cả về chính trị, quân sự, pháp luật,
nghiệp vụ, hậu cần, kỹ thuật trọng tâm là huấn luyện pháp luật, nghiệp vụ, kỹ
thuật, chiến thuật biên phòng sát với yêu cầu, nhiệm vụ, tổ chức biên chế của các
đơn vị và nghệ thuật tác chiến của Bộ đội Biên phòng. Tổ chức điều hành huấn
82
luyện chặt chẽ, đảm bảo nội dung, thời gian, tiến độ huấn luyện; điều chỉnh kế
hoạch huấn luyện phù hợp với từng địa bàn, đơn vị và từng cấp độ dịch nhất là
từ khi xuất hiện dịch Covid - 19 để huấn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đang làm
nhiệm vụ phòng, chống dịch tại các tổ, chốt công tác; huấn luyện bù, huấn luyện
vét cho hạ sĩ quan, binh sĩ tăng cường tham gia phòng, chống dịch sau khi hoàn
thành nhiệm vụ; gắn huấn luyện với thực hiện mục tiêu kép, bảo vệ vững chắc
biên giới quốc gia và tham gia phòng, chống dịch hiệu quả.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được các đồn biên phòng quan
tâm thông qua việc thực hiện hiệu quả “Đề án tăng cường phổ biến, giáo dục
pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo” trong đó có hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng. Hiểu biết pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ
sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng lên. Các văn bản quy phạm pháp luật
về bảo vệ biên giới quốc gia liên quan trực tiếp đến biên giới Việt Nam - Trung
Quốc được hạ sĩ quan, binh sĩ nắm và nhận thức cơ bản như: Luật Biên giới
quốc gia 2003; Luật Biên phòng Việt Nam 2020; Nghị định 34/2014/NĐ-CP
ngày 29/4/2014 về quy chế khu vực biên giới đất liền; Nghị định 96/2020 ngày
24/8/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ
biên giới quốc gia,… Các hiệp định, nghị định thư được ký kết giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Kết quả giáo dục pháp luật từ 2016 - 2022 cho thấy trung bình
chung 100% đạt yêu cầu, trong đó 87,42% trở lên khá, giỏi [Phụ lục 7].
Công tác huấn luyện nghiệp vụ cũng được các đồn biên phòng nơi đây
chú trọng nhằm trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ các kiến thức, kỹ năng về nghiệp
vụ công tác biên phòng như: nghiệp vụ quản lý, bảo vệ biên giới; tuần tra bảo vệ
hệ thống mốc quốc giới, dấu hiệu nhận biết đường biên giới; nghiệp vụ công tác
đối ngoại biên phòng; nghiệp vụ quản lý, kiểm soát người, phương tiện qua lại
biên giới; quy trình xử lý các vụ việc; quyền hạn, thủ tục bắt, khám xét, khởi tố,
điều tra của Bộ đội Biên phòng theo luật định; kỹ, chiến thuật điều tra hình
sự,v.v.. Kết quả huấn luyện nghiệp vụ từ 2016 - 2022 cho thấy trung bình chung
có 100% đạt yêu cầu, trong đó 87,58% trở lên khá, giỏi [Phụ lục 8].
Nhận thức của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về âm mưu, phương
thức, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các loại tội
83
phạm ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc được nâng lên. Đa số hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng có những hiểu biết cơ bản về đối tác, đối tượng, đối
tượng đấu tranh của Bộ đội Biên phòng phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh
cụ thể nhất là trong quan hệ với nước láng giềng từ đó có đối sách giải quyết
các xung đột, bất đồng đúng đường lối quan điểm của Đảng, Nhà nước ta phù
hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Thông qua hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tri thức của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và toàn
diện hơn; ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng được nâng cao giúp hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ. Chỉ tính riêng năm 2021, hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng trong đó có hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt
Nam - Trung Quốc đã tham gia đấu tranh thành công 119 chuyên án; chủ trì,
phối hợp bắt giữ 10.305 vụ/35.485 đối tượng. Trong đó, tội phạm ma túy 830
vụ/1.192 đối tượng, thu giữ 1.316 kg ma túy các loại; tội phạm buôn lậu và
gian lận thương mại 1.535 vụ/786 đối tượng; tội phạm mua bán người 21 vụ/
20 đối tượng, giải cứu 33 nạn nhân; xuất, nhập cảnh trái phép 4.968
vụ/24.986 người; mua bán, tàng trữ trái phép vũ khí, vật liệu nổ 27 vụ/36 đối
tượng, thu 28 súng các loại, 72.381 viên đạn, 318 kg thuốc nổ, 6.256 kíp nổ,
450 m dây cháy chậm, 02 quả mìn tự tạo, v.v.. [, tr. 2].
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ Bộ đội Biên phòng
nhiệm kỳ 2015 - 2020 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ
XV khẳng định: 5 năm qua các đơn vị biên phòng trong đó có các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã xử lý, giải quyết hiệu quả các vụ
việc về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phối hợp với các lực lượng thực
hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm,…xác lập
nhiều chuyên án, kế hoạch nghiệp vụ đấu tranh có hiệu quả với các đường dây
tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại nhất là tội phạm ma túy [, tr. 9].
Có thể khẳng định, thông qua nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền,
giáo dục, huấn luyện, rèn luyện các nội dung liên quan đến bảo vệ biên giới
quốc gia, tri thức của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không ngừng tăng lên
84
theo hướng đầy đủ, hoàn thiện, hệ thống hơn thể hiện qua kết quả kiểm tra nhận
thức trên các mặt chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Đây là cơ sở quan trọng để bồi đắp tình cảm, củng cố niềm tin, ý chí quyết tâm
của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng làm chuyển hóa thành ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia của họ trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Hai là, về tình cảm bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Tình cảm hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia, với biên cương Tổ
quốc và địa bàn biên giới khá sâu sắc.
Tình cảm sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng được thể hiện trước hết ở tình yêu quê hương,
đất nước, tình yêu đối với bản làng và nhân dân nơi biên giới. Hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng đa số là con em đồng bào các dân tộc cư trú ở địa bàn
biên giới, sinh ra và lớn lên gắn bó với bản làng, núi rừng biên giới vì vậy đối
với họ biên giới chính là quê hương, là nơi gắn kết gia đình, dòng họ, với
truyền thống văn hóa của đồng bào các dân tộc, văn hóa biên cương, tình yêu
biên cương đã thấm đượm trong họ ngay từ nhỏ. Biên giới là nơi lưu giữ, ghi
dấu biết bao mồ hôi, máu xương của các thế hệ ông cha đã chiến đấu anh
dũng để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Tình cảm đó không chỉ
do công tác tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện, bồi dưỡng của các cấp ủy
đảng, người chỉ huy trong toàn đơn vị, mà còn là kết quả tất yếu của quá trình
tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng với tư cách
là chủ thể dựa trên nền tảng tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia. Chỉ có trên
cơ sở hiểu biết đầy đủ, sâu sắc, thấy được ý nghĩa cao cả thiêng liêng, tầm
quan trọng của công việc mình đảm nhiệm hạ sĩ quan, binh sĩ mới có tình cảm
yêu mến công việc, coi đó không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm vinh dự,
tự hào của bản thân từ đó sẵn sàng vượt mọi khó khăn, gian khổ nhận và hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Kết quả điều tra xã hội cho thấy, có
83,6% hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng khi được hỏi thể hiện rất yêu mến,
rất gắn bó với quê hương, biên giới [Phụ lục 3].
85
Tình cảm đó được thể hiện ở chính những việc làm cụ thể hằng ngày
của họ, bằng việc hòa mình với thực tiễn khó khăn nơi biên giới, bám dân,
bám địa bàn, bám đối tượng, nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao. Tình cảm đó còn được thể hiện bằng những phong trào hành động cách
mạng của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng như: “Tuổi trẻ Bộ đội Biên
phòng tiếp bước cha anh, xứng danh Bộ đội cụ Hồ”, “Thanh niên xung kích
bảo vệ đường biên”,... Nhiều cuộc vận động như: “Quần chúng tham gia xây
dựng và bảo vệ biên giới’, “Xuân Biên phòng, ấm lòng dân bản”,... Nhiều mô
hình hay, cách làm sáng được hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng thực hiện
như: “Ánh sáng vùng biên”, “Nâng bước em tới trường”, “Con nuôi đồn biên
phòng”, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ
cho đồng bào các dân tộc ở địa bàn biên giới .v.v.. [Phụ lục 10]. Hình ảnh
người “thầy giáo quân hàm xanh”, “thầy thuốc quân hàm xanh”, “chiến sĩ văn
hóa quân hàm xanh” trở thành hình ảnh đẹp đẽ, thân thương trong lòng người
dân biên giới, tô thắm thêm phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.
Tình cảm sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được thể hiện ở lòng tự hào về truyền thống
cách mạng của Đảng, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và các
dân tộc nơi đây. Nhiều cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng và nhân dân các
dân tộc ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã kề vai, sát cánh, anh dũng
chiến đấu hy sinh để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ biên
giới quốc gia nhất là trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 và
giai đoạn sau đó từ 1979 - 1989. Truyền thống đó tiếp tục được các thế hệ cán
bộ, chiến sĩ trong đó có hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng gìn giữ và phát huy
trong giai đoạn hiện nay, xác định đó là niềm vinh dự, tự hào, là tình cảm và
trách nhiệm vẻ vang của mình đối với Tổ quốc; từ đó nêu cao ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia, không quản ngại gian lao, vất vả, sẵn sàng hy sinh, bảo vệ
vững chắc biên cương Tổ quốc. Qua điều tra xã hội học cho thấy, có 80,4%
hạ sĩ quan, binh sĩ được hỏi đều rất vinh dự, tự hào với truyền thống cách
mạng vẻ vang của Đảng, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và
các dân tộc ở địa bàn biên giới [Phụ lục 3].
86
Ba là, về niềm tin bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia sâu sắc và vững chắc.
Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tin tưởng vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới đất nước, vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều
hành của Nhà nước. Thực tiễn cách mạng Việt Nam nhất là thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, thắng lợi của chiến
tranh biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam và thành tựu của công cuộc đổi
mới đất nước minh chứng cho niềm tin đó là đúng đắn và có cơ sở khoa học.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước đạt được qua hơn 35
năm đổi mới khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng
cao của nước ta. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt của địa bàn
biên giới Việt Nam - Trung Quốc càng củng cố niềm tin vững chắc cho hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây vào vai trò của hệ thống chính trị các
cấp, vào chế độ, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hầu hết
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đều thể hiện ở thái độ vui mừng, phấn khởi
trước những phát triển, đổi thay, diện mạo mới của đất nước và địa bàn biên
giới; có thái độ chính trị đúng đắn, có quyết tâm cao và tự giác, nghiêm chỉnh
chấp hành đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, tích cực tham gia vào các chương trình, kế hoạch của địa phương, xây
dựng địa bàn biên giới giàu mạnh.
Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn thể hiện ở sự tin
tưởng vào sức mạnh chiến đấu của Quân đội, Bộ đội Biên phòng, sức mạnh,
khả năng chiến đấu của các lực lượng trên địa bàn biên giới, khi xảy ra xung đột,
chiến tranh biên giới. Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng biên giới
Việt Nam - Trung Quốc năng nổ, nhiệt tình, xung kích, sáng tạo, không chỉ có
hiểu biết, có tình cảm sâu sắc với biên cương Tổ quốc, với sự nghiệp bảo vệ biên
giới quốc gia mà còn có niềm tin vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới quốc gia. Kết quả điều tra xã hội học
87
cho thấy có 91,4% hạ sĩ quan, binh sĩ có niềm tin vững chắc từ mức tin tưởng trở
lên (trong đó 80,8% rất tin tưởng và 10,6% tin tưởng) vào sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý điều hành của Nhà nước, vào thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước,
sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng
khi xảy ra chiến tranh, xung đột biên giới [Phụ lục 3].
Bốn là, về ý chí bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc có ý chí quyết tâm cao, kiên cường bám trụ nơi biên giới, sẵn sàng bảo
vệ vững chắc biên giới quốc gia, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ, toàn diện; với tình cảm, niềm tin sâu sắc
đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia; sự hòa quyện của tri thức, tình
cảm, niềm tin của họ tạo nên ý chí, động lực mạnh mẽ thôi thúc họ quyết tâm
trong hành động, trong mọi hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia. Do vậy, mỗi
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đều xác định rõ trách nhiệm và vinh dự của
mình đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng biên giới hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đồng thời cũng xác định rõ những khó
khăn trước mắt và lâu dài, yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc
gia và điều kiện, khả năng có hạn của đơn vị từ đó xây dựng ý chí quyết tâm
cao trong từng nhiệm vụ công tác.
Có nhận thức đúng, đầy đủ, hệ thống và có tình cảm, niềm tin sâu sắc
nhưng không có ý chí quyết tâm cao thì mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ nói riêng, toàn
đơn vị nói chung cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhận thức
đúng vai trò ý nghĩa của việc rèn luyện nâng cao ý chí quyết tâm của hạ sĩ
quan, binh sĩ; cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng nơi đây đã có nhiều chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, đưa hoạt động này trở thành
nhiệm vụ thường xuyên trong quá trình huấn luyện sẵn sàng chiến đấu cũng
như thử thách, giao nhiệm vụ trong thực tiễn công tác trên các địa bàn biên
giới, vừa để huấn luyện, rèn luyện, kiểm tra ý chí vượt khó, lòng quyết tâm
của từng hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực tiễn công tác từ đó có cơ sở đánh giá
sát đúng chất lượng, hiệu quả công tác của họ.
88
Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ biên giới quốc gia,
tính chất hoạt động của Bộ đội Biên phòng bao hàm cả tính chất quân sự, an
ninh và đối ngoại. Bên cạnh đó, hoạt động của các đồn biên phòng chủ yếu
phân tán nhỏ, lẻ theo các tổ, đội công tác. Hơn nữa, địa bàn hoạt động trải
rộng, có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, đi lại khó khăn, dân trí thấp,
đời sống vật chất và tinh thần nhân dân còn nhiều thiếu thốn, là nơi các thế
lực thù địch và các loại tội phạm thường lợi dụng để chống phá. Đây còn là
địa bàn chiến lược về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối
ngoại, là tiền tiêu, “phên giậu”, “cửa ngõ” phía Bắc của đất nước với nhiều
cửa khẩu đường bộ, đường sắt thông thương với Trung Quốc như: Móng Cái
(Quảng Ninh), Hữu Nghị, Đồng Đăng (Lạng Sơn), Tà Lùng (Cao Bằng),
Thanh Thủy (Hà Giang), Kim Thành (Lào Cai),… Đối tượng đấu tranh của
Bộ đội Biên phòng đa dạng, phức tạp, nguy hiểm, tinh vi, xảo quyệt nhất là
tội phạm ma túy, buôn lậu có vũ trang, mua bán người, tình báo, gián điệp,…
Không chỉ trong thời chiến mà cả trong thời bình, mồ hôi, xương máu của cán
bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng vẫn đổ xuống trên các dải biên cương của Tổ
quốc. Đặc điểm đó đòi hỏi ý chí cao của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng với quyết tâm cao, bản lĩnh tốt, năng lực chuyên môn giỏi mới có thể
đảm đương, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, tinh thần quyết tâm vượt mọi khó
khăn gian khổ, hy sinh của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
nhất là trong các nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Kết quả điều tra xã hội học
cho thấy 71,2% hạ sĩ quan, binh sĩ được hỏi cho rằng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc rất khó
khăn vất vả, nhưng sẽ khắc phục và chắc chắn sẽ vượt qua; 74,8% rất quyết tâm,
luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao [Phụ lục 3].
Năm là, về kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của hạ
sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Kết quả thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia theo chức trách,
nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có nhiều chuyển biến tích cực.
89
Sự chuyển biến ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng luôn gắn liền với sự chuyển biến trong tinh thần thái độ
trách nhiệm chính trị và kết quả thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao của
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Điều này được thể hiện ở chỗ đa số hạ sĩ
quan, binh sĩ luôn có tinh thần thái độ trách nhiệm cao với từng công việc,
nhiệm vụ được giao, làm đến nơi đến chốn, không bao giờ bỏ cuộc dù khó
khăn đến đâu; biểu hiện ở tất cả các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia mà
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tham gia như: hoạt động huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu; hoạt động tuần tra đường biên, cột mốc; kiểm soát xuất nhập
cảnh; đấu tranh phòng, chống tội phạm; hoạt động trinh sát địa bàn; công tác
vận động quần chúng; hoạt động tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, khắc phục thảm
họa thiên tai, dịch bệnh, công tác thiện nguyện,… Các hoạt động này đều
được hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây đón nhận, thực hiện với
thái độ tích cực, trách nhiệm và hiệu quả cao. Nhiều điển hình tiên tiến là hạ
sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng xuất hiện cả trong học tập, huấn luyện
sẵn sàng chiến đấu; trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhất là trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Từ năm 2016 đến năm 2022, các đồn biên phòng thuộc Bộ đội Biên phòng 7 tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc đã phát hiện, xử lý 716 vụ vi phạm quy chế biên giới, 13.977 vụ/80.368 đối tượng xuất nhập cảnh trái phép qua biên giới và cư trú trái phép ở địa bàn biên giới. Phát hiện, xử lý 4884 vụ/7.422 đối tượng buôn lậu; 825 vụ/1.140 đối tượng tội phạm ma túy; 608 vụ/854 đối tượng vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ; 165 vụ/274 đối tượng mua bán, vận chuyển tiền giả; 286 vụ/507 đối tượng tội phạm mua bán người qua biên giới. Đấu tranh ngăn chặn và xử lý giải quyết 377 vụ lấn chiếm biên giới; 710 vụ/2.257 đối tượng di cư tự do; 279 vụ/817 đối tượng truyền đạo trái pháp luật; 9.663 vụ/17.562 đối tượng vi phạm hành chính. Tổ chức tuần tra biên giới 29.839 lần/222.400 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia; phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới quốc gia của Trung Quốc tổ chức tuần tra song phương 306 lần/9.334 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia. Làm thủ tục xuất nhập cảnh cho 41.424.102 lượt người/9.253.819 lượt phương tiện của hai bên
90
qua lại biên giới. Chủ trì, phối hợp thành lập 704 tổ, chốt kiểm soát Covid - 19 với 10.065 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia. Điện đàm, trao đổi thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trao đổi đột xuất trên biên giới với lực lượng bảo vệ biên giới của Trung Quốc với 29.833 lượt. Tổ chức phát quang đường thông tầm nhìn biên giới tổng cộng 3464 km; tuyên truyền vận động nhân dân 24.912 buổi/1.119.399 lượt người tham gia; tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân địa bàn biên giới với 14.450 buổi/436.247 lượt người tham gia; lao động giúp đỡ dân 56.091 ngày công; vận động 28.406 lượt trẻ em đến trường; nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mua và trao tặng 10.729 con bò giống giúp hộ nghèo biên giới; khám, chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho 93.836 lượt người dân địa bàn biên giới, v.v.. [ Phụ lục 18].
Chỉ tính riêng năm 2022, các đồn biên phòng thuộc Bộ đội biên phòng tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức tuần tra biên giới 775 lần/6.284 lượt người; tuần tra song phương Việt Nam - Trung Quốc 02 lần/106 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia; phát quang 70 km đường thông tầm nhìn biên giới; phát hiện xử lý 18 vụ vi phạm quy chế biên giới; xử lý 427 vụ/698 đối tượng, trong đó tội phạm ma túy 17 vụ/26 đối tượng; xuất nhập cảnh trái phép 34 vụ/ 152 đối tượng; vận chuyển, mua bán vật liệu nổ 21 vụ/ 41 đối tượng; buôn lậu 162 vụ/ 197 đối tượng; các loại tội phạm hình sự khác 193 vụ/282 đối tượng. Làm thủ tục xuất, nhập cảnh cho 867.224 lượt người/701.764 lượt phương tiện; trao trả cho phía Trung Quốc 1.071 người Trung Quốc và tiếp nhận từ phía Trung Quốc 3.495 người Việt Nam xuất, nhập cảnh trái phép. Duy trì 173 tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19 với 830 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia,... [, tr. 12-20]. Nhiều cán bộ, chiến sĩ dầm mình trong mưa lũ, băng tuyết, ăn, ngủ ở các chốt, các lán trại trong rừng, núi, ven sông, suối để tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh Covid - 19. Nếu không có tình cảm, niềm tin và ý chí sẽ không thể hoàn thành được nhiệm vụ.
Những kết quả tích cực nói trên là minh chứng sinh động cho sự chuyển
hóa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong ý thức của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc thành sức mạnh tinh thần chính trị
thể hiện bằng hành động bảo vệ biên giới quốc gia, bằng kết quả thực hiện chức
trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây.
91
* Nguyên nhân của ưu điểm:
Một là, công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được cấp ủy, chỉ huy các cấp nhất là cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng quan tâm, chú trọng.
Công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng trực tiếp là cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng đã triển khai quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, kế hoạch, hướng dẫn của trên về công tác giáo dục chính trị, phổ biến giáo dục pháp luật, huấn luyện quân sự, nghiệp vụ đến mọi cán bộ chiến sĩ thuộc quyền. Thường xuyên bám sát, nắm chắc đối tượng giáo dục, mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ chuyên sâu, huấn luyện ứng dụng theo nhiệm vụ, sát với tình hình, đối tượng tác chiến, tình huống chiến đấu, địa bàn, tổ chức biên chế, vũ khí trang bị của các đồn biên phòng. Kết hợp công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện với xây dựng chính quy, quản lý bộ đội, xây dựng đồn biên phòng vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Bên cạnh đó, công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ cũng được cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm, chú trọng cả về số lượng, chất lượng tuyển chọn đảm bảo toàn diện về chính trị, đạo đức, sức khỏe, học vấn. Ngoài tiêu chuẩn phẩm chất, năng lực còn có các yếu tố phẩm chất cần thiết của cương vị công tác, đặc biệt ưu tiên con em đồng bào các dân tộc ở địa bàn biên giới bởi sự am hiểu, tương đồng về văn hóa, tập quán, về địa hình, thời tiết, khí hậu nơi đây. Do vậy, chất lượng tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng được nâng lên theo từng năm góp phần làm cho công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được thuận lợi và hiệu quả.
Hai là, công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng không ngừng được đổi mới cả về hình thức và phương pháp.
Cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng đã triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên về công tác
92
giáo dục chính trị, phổ biến giáo dục pháp luật, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu từ khâu chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện đến kiểm tra, đánh giá kết quả đảm bảo chương trình, nội dung, thời gian quy định hằng năm. Đa dạng hóa nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện; kết hợp giáo dục chính trị với giáo dục truyền thống và giáo dục pháp luật đặc biệt pháp luật liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia và Bộ đội Biên phòng. Điều chỉnh lịch, kế hoạch giáo dục, huấn luyện, rèn luyện phù hợp với đặc thù hoạt động phân tán, nhỏ lẻ theo các tổ, đội, chốt công tác địa bàn của đồn biên phòng và theo từng cấp độ dịch từ khi xảy ra dịch bệnh Covid - 19. Thao trường, bãi tập, mô hình, học cụ được sửa sang nâng cấp, các sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, công nghệ thông tin được ứng dụng vào huấn luyện nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện.
Các hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được các
đồn biên phòng tiến hành linh hoạt theo hướng “mở”, có định hướng lồng
ghép các hình thức, phương pháp cho phù hợp với nội dung, đối tượng giáo
dục, học theo cụm đơn vị, theo tính chất, nhiệm vụ. Bên cạnh các hình thức,
phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo phương pháp truyền thống
các đồn biên phòng đã lồng ghép các hình thức, phương pháp mới với nhiều
mô hình hay cách làm sáng tạo như thông qua sinh hoạt, tọa đàm, diễn đàn,
thông qua truyền thanh nội bộ, sân khấu hóa, các cuộc thi viết, thi tìm hiểu
trực tuyến, mô hình sinh hoạt “Tổ ba người”, “Mỗi tuần một câu hỏi, một đáp
án”, “Tủ sách đồn biên phòng”,… Coi trọng huấn luyện ứng dụng, đồng bộ,
chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện chính trị, quân sự với huấn
luyện nghiệp vụ, pháp luật; giữa huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật biên phòng
với huấn luyện điều lệnh, huấn luyện võ thuật, thể lực; giữa huấn luyện cơ
bản thường xuyên theo kế hoạch với huấn luyện đột xuất theo nhiệm vụ. Kết
hợp công tác rèn luyện bộ đội với công tác huấn luyện, xây dựng chính quy,
quản lý kỷ luật và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghiệp vụ biên phòng. Rèn luyện
không chỉ qua công tác huấn luyện mà còn thông qua hoạt động thực tiễn thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Qua đó giúp hạ sĩ quan, binh sĩ vận
dụng thành thục trong thực tế công tác, kết hợp tốt giữa lý thuyết và thực
hành, giữa thao trường với thực tiễn biên giới, đồng thời tăng cường bản lĩnh,
93
ý chí, sự tự tin trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Thực hiện
tốt phương châm “bám sát thực tiễn cơ sở, hướng về cơ sở, đa dạng hóa các
hình thức, phương pháp giáo dục, tăng tính thuyết phục” [, tr. 2] nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, điều kiện kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa ở các đồn biên
phòng được đẩy mạnh phát triển; sự giúp đỡ, ủng hộ của đồng bào các dân tộc
ở địa bàn biên giới đối với Bộ đội Biên phòng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội đất nước, kinh tế - xã hội ở
các địa bàn biên giới cũng có sự chuyển biến tích cực về mọi mặt, đời sống
nhân dân và cán bộ chiến sĩ được nâng lên; các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước từng bước đi vào cuộc sống. Chính sách xóa đói giảm nghèo,
chương trình xây dựng nông thôn mới, chủ trương chuyển đổi cây trồng vật
nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình, triển khai cán bộ biên phòng tăng
cường ở các xã biên giới để bám dân, bám bản, tuyên truyền vận động nhân
dân, tham mưu và tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa phương địa bàn
biên giới đã đem lại những hiệu quả thiết thực, những đổi thay, diện mạo
mới trên địa bàn biên giới. Thông qua công tác tuyên truyền vận động quần
chúng nhân dân và trực tiếp tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội
mối quan hệ giữa Bộ đội Biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng và đồng bào các
dân tộc ở địa bàn biên giới ngày càng gắn bó chặt chẽ. Quần chúng nhân
dân đã cung cấp cho Bộ đội Biên phòng nhiều nguồn tin có giá trị phục vụ
công tác quản lý, bảo vệ biên giới; đấu tranh phòng, chống tội phạm; tham
gia cùng Bộ đội Biên phòng phát quang đường thông tầm nhìn biên giới;
tuần tra, bảo vệ đường biên, mốc quốc giới, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở địa bàn biên giới, trở thành những “cột mốc sống” nơi biên
giới. Chính sự ủng hộ, giúp đỡ của đồng bào các dân tộc ở khu vực biên giới
đã giúp cho Bộ đội Biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
nói riêng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần bảo vệ vững chắc chủ
quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
94
Song song với nhiệm vụ tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội
ở địa bàn biên giới, các đồn biên phòng đã chú trọng xây dựng môi trường
văn hóa đồn biên phòng tích cực, lành mạnh với nhiều chủ trương, giải pháp
thiết thực. Các tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng ở đồn
biên phòng được củng cố, kiện toàn, hoạt động nề nếp, hiệu quả; các chế độ
quy định được duy trì thường xuyên, nghiêm túc; quy chế dân chủ ở cơ sở
được phát huy. Các quan hệ văn hóa được coi trọng, quan hệ cấp trên và cấp
dưới hài hòa, đúng mực; quan hệ đồng chí, đồng đội gắn bó, yêu thương tạo sự
đoàn kết, thống nhất và bầu không khí dân chủ, thân tình, cởi mở trong toàn
đơn vị. Hệ thống các thiết chế văn hóa được bổ sung, nâng cấp đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của hạ sĩ quan, binh sĩ. Cảnh quan, môi trường đồn biên
phòng được xây dựng, chỉnh trang theo hướng xanh - sạch - đẹp. Kết hợp giữa
xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp với hoạt động tăng gia sản
xuất, cải thiện đời sống bộ đội. Công tác vệ sinh phòng dịch, chăm sóc sức
khỏe bộ đội được quan tâm, đảm bảo tỉ lệ quân số khỏe ở mức cao, đáp ứng
yêu cầu huấn luyện, công tác và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Bốn là, chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
được bảo đảm tạo chuyển biến tích cực trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của họ.
Bên cạnh đó, chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ nói chung
và hạ sĩ quan, binh sĩ trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm
được thực hiện đúng đủ, kịp thời như: cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ tại
các tổ, chốt công tác; lực lượng tuần tra, kiểm soát dọc biên giới; lực lượng
trinh sát xã hội hóa, trinh sát nội biên, ngoại biên; lực lượng đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy và các tội phạm nguy hiểm khác; đội ngũ cán bộ làm
công tác vận động quần chúng thực hiện “bốn cùng” với nhân dân ở các địa
bàn biên giới,… Trong đó, tập trung vào các chính sách như: phụ cấp công
tác, nhà ở, khám, chữa bệnh, học tập, điều kiện sinh hoạt, công tác, bảo hiểm
y tế, việc làm, học tập cho hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ. Do đó, nhu
cầu và lợi ích chính đáng của họ được quan tâm, giải quyết tạo động lực thôi
95
thúc họ hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, củng cố tình cảm, niềm tin
của họ đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia.
Sự quan tâm về chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ không chỉ
về vật chất mà còn về tinh thần bằng nhiều hình thức biểu dương, khen
thưởng, động viên kịp thời các tập thể, cá nhân có những thành tích tiêu biểu
trong thực hiện nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất. Qua đó, tạo động lực
mạnh mẽ thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng yên tâm tư tưởng, bám
trụ nơi biên giới, hăng say công tác, học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính trị được giao.
Năm là, vai trò tích cực, chủ động, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được nâng cao.
Đây là nguyên nhân chủ quan, trực tiếp của những ưu điểm trong ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện
nay. Những năm qua, các đơn vị biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc có điều kiện lựa chọn đầu vào tốt hơn do chất lượng tuyển chọn nhập
ngũ được nâng cao. Ngoài tiêu chuẩn phẩm chất, năng lực còn có các yếu
tố phẩm chất cần thiết của cương vị công tác nên hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng phần lớn xác định rõ vai trò, trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo
vệ biên giới quốc gia; từ đó không ngừng học tập, huấn luyện, rèn luyện để
nâng cao tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia; bồi đắp tình cảm, niềm tin,
xác định thái độ trách nhiệm đúng đắn, xây dựng ý chí quyết tâm cao, khắc
phục mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy nơi biên giới để hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ.
Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây xác định, thái độ,
trách nhiệm trong tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện. Mỗi hạ sĩ quan,
binh sĩ đều chủ động, tự giác sắp xếp thời gian, công việc hợp lý để vừa tham
gia học tập, huấn luyện theo chương trình của đơn vị vừa tự học, tự huấn
luyện, tự rèn luyện tại đơn vị và trong thực tiễn thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao. Kết hợp hài hòa giữa giáo dục, huấn luyện, rèn luyện với tự
giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Sự tích
cực, tự giác học tập, huấn luyện, rèn luyện tìm tòi, nghiên cứu hoàn thiện tri
96
thức về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ, tạo ra những yếu tố
cần thiết để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm trình bày ở trên, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc còn bộc lộ một số hạn chế, thể hiện trên một số nội dung sau:
Một là, về tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Tri thức về biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc còn giản đơn, chưa đầy đủ. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiểu biết chưa đầy đủ, chính xác về biên giới quốc gia, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, về bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới; về hệ thống pháp luật bảo vệ biên giới quốc gia; về nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân; về đối tượng đấu tranh của Bộ đội Biên phòng; về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các loại tội phạm ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Có hạ sĩ quan, binh sĩ còn quan niệm bảo vệ biên giới quốc gia chỉ thuần túy là bảo vệ đường biên, cột mốc, bảo vệ lãnh thổ về mặt tự nhiên mà chưa thấy hết được các nội dung rộng lớn hơn, bao trùm hơn trong nội hàm khái niệm bảo vệ biên giới quốc gia. Sự tách rời giữa bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, đường biên, cột mốc, dấu hiệu đường biên giới với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây là dấu hiệu đáng lo ngại trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ hiện nay. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy có 29,6% hạ sĩ quan, binh sĩ không nêu được đầy đủ, chính xác các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia mà chỉ nêu được một yếu tố trong số các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia [Phụ lục 3].
97
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia khá phong phú, ngày càng hoàn thiện, đây là điều kiện thuận lợi để các lực lượng, các tổ chức, cá nhân có hành lang pháp lý quan trọng trong thực thi nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Tuy nhiên, hiểu biết pháp luật về bảo vệ biên giới quốc gia; về nội dung cách thức tổ chức, kỹ năng hành động trong một số tình huống cơ bản của hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia; về quy trình xử lý vụ việc xảy ra ở địa bàn biên giới; về các trạng thái và tình huống bảo vệ biên giới còn đơn giản, chung chung, sơ sài. Hiểu biết về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm chưa toàn diện, thiếu nhạy bén. Hiểu biết về pháp luật quốc tế, các cơ chế, quy trình trong giải quyết các sự kiện biên giới xảy ra liên quan đến các nước có chung đường biên giới cũng chưa được đầy đủ, thiếu chắc chắn. Vì vậy, quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia còn bộc lộ những hạn chế nhất định như: công tác nắm tình hình, phát hiện vụ việc còn chậm, dự kiến và cách xử trí các tình huống chưa sát thực tế; khi phát hiện vụ việc còn lúng túng, bị động trong xử trí tình huống nên hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn các hành vi, hoạt động xâm phạm biên giới quốc gia chưa cao, còn bộc lộ những sơ hở, thiếu sót nhất định.
Đánh giá về vấn đề này, Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh
Quảng Ninh lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ rõ: Công tác nắm, tổng hợp,
phân tích, đánh giá, dự báo tình hình có lúc chưa chủ động, thiếu chiều sâu; quản
lý, bảo vệ biên giới, cửa khẩu, kiểm soát xuất nhập cảnh có lúc, có nơi chưa chặt
chẽ; xử lý một số tình huống vụ việc còn lúng túng, cảnh giác chưa cao; đấu tranh
phòng, chống tội phạm, đấu tranh chuyên án chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; hiệu quả
đấu tranh chống buôn lậu chưa tương xứng với tình hình thực tế [, tr. 13]. Báo cáo
tổng kết công tác biên phòng năm 2021 của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu
cũng chỉ rõ: “Nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của địch, hiểu về nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biên giới của một số cán bộ, chiến sĩ chưa sâu, chưa đầy đủ,…Công tác
nắm tình hình chưa kịp thời, thiếu chủ động còn chạy theo sự vụ, công tác xử lý
vụ việc hiệu quả chưa cao, nhất là ở cơ sở” [, tr. 10].
98
Hai là, về tình cảm bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh
sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam
- Trung Quốc tình cảm yêu mến đối với biên giới quốc gia và nhân dân ở địa
bàn biên giới chưa sâu đậm. Bên cạnh những ưu điểm về tình cảm của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia
đã được phân tích, đánh giá vẫn còn một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng phai nhạt tình cảm đối với biên giới Tổ quốc, đối với địa bàn và cư dân
biên giới thể hiện ở tinh thần sợ khó, ngại khổ, không muốn gắn bó bám trụ
nơi biên giới, xa lánh đồng bào, thiếu gắn bó với nhân dân trong các hoạt
động ở địa bàn biên giới. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy vẫn còn 6,4%
(trong đó 4,4% trả lời không quan trọng, 2% khó trả lời) hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chưa thấy được vai trò của
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới
quốc gia [Phụ lục 3]; 2,8% hạ sĩ quan, binh sĩ cảm thấy bình thường, 2,4%
không yêu mến, không gắn bó, không có cảm tình với vùng biên giới và đồng
bào các dân tộc nơi đây [Phụ lục 3].
Theo họ, việc họ nhập ngũ không phải tự giác, tự nguyện, không xuất
phát từ mục tiêu, lý tưởng cách mạng hay tình yêu với biên giới, biên cương
mà do quy định bắt buộc của pháp luật chiếm 16,8%; do sự mong muốn của
gia đình, người thân ông, bà, cha, mẹ chiếm 18,8%, các lý do khác chiếm
2,8% [Phụ lục 3] như: sự rủ rê của bạn bè, thậm chí do sự thần tượng hóa một
nhân vật phim ảnh nổi tiếng nào đó; có hạ sĩ quan, binh sĩ nhập ngũ vào Bộ
đội Biên phòng để được công tác ở những địa bàn có các chính sách ưu đãi
với phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút cao từ đó có tiền để xây dựng nhà cửa, làm
ăn, trang trải cuộc sống sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương.
Thái độ, động cơ, mục đích đó phản ánh mức độ tình cảm của họ trong ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia còn hời hợt, chưa sâu đậm. Từ động cơ, mục đích nhập
ngũ như vậy dẫn đến tinh thần, thái độ, trách nhiệm còn thấp, tư tưởng thiếu yên
tâm, chán ghét cuộc sống ở địa bàn biên giới, lười biếng trong học tập, công tác,
sinh hoạt, thực hiện nhiệm vụ của bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ này; thoái thác
99
nhiệm vụ, thiếu tinh thần cầu tiến, vượt khó; có hạ sĩ quan, binh sĩ suy thoái về
tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống buông lỏng kỷ luật, vi phạm các quy định
của đơn vị, điều lệnh quân đội thậm chí sa ngã vào vòng xoáy vật chất tầm
thường tiếp tay cho tội phạm dẫn đến vi phạm pháp luật.
Đánh giá vấn đề này, báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào
thanh niên Bộ đội Biên phòng Quảng Ninh giai đoạn 2017 - 2022 chỉ rõ:
“Còn có cán bộ, đoàn viên thanh niên chưa tích cực tu dưỡng, rèn luyện; bản
lĩnh yếu, bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực ngoài xã hội dẫn đến chất lượng
hoạt động thấp, thậm chí còn có cán bộ, đoàn viên, thanh niên vi phạm kỷ luật
phải xử lý” [, tr. 9].
Ba là, về niềm tin bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh
sĩ các đồn biên phòng nơi đây chưa thật vững chắc. Đa số hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng có niềm tin khoa học vững chắc vào sự nghiệp bảo vệ biên giới
quốc gia, vào sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên
phòng. Tuy nhiên, sẽ là phiến diện nếu chỉ đánh giá xuôi chiều như vậy, bởi lẽ
vẫn còn một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phai nhạt, suy giảm
niềm tin đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Biểu hiện ở sự giảm sút
niềm tin vào tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị các cấp nhất là ở cơ
sở; sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin vào
thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, cũng như mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Theo họ, chủ nghĩa xã hội chỉ là lý thuyết khó có thể trở thành hiện
thực, mục tiêu chủ nghĩa xã hội là xa vời; sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa khó thành công; sức mạnh chiến đấu
của Quân đội, Bộ đội Biên phòng còn yếu nhất là vũ khí, trang bị ít, lạc hậu
nên khó giành thắng lợi khi xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh biên giới; họ
tuyệt đối hóa yếu tố vũ khí, trang bị, phương tiện mà xem nhẹ hoặc không coi
trọng vai trò của nhân tố con người từ đó đánh mất niềm tin của chính mình.
100
Hiện nay tình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó dự báo; xung
đột vũ trang, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao xảy ra ở một số khu
vực trên thế giới để lại những hậu quả rất thảm khốc; biên giới luôn là địa bàn
trọng yếu, chiến lược về quốc phòng, an ninh, là cửa ngõ dễ bị các lực lượng
nước ngoài xâm phạm. Biên giới phía Bắc là biên giới tiếp giáp với Trung
Quốc - một quốc gia có tiềm lực nhiều mặt đặc biệt là tiềm lực quân sự lớn
mạnh hơn ta. Đứng trước vấn đề này một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ có biểu
hiện băn khoăn, dao động, hoài nghi, nhụt chí, lo lắng, sợ hãi mỗi khi tình
hình biên giới căng thẳng, tư tưởng “thất bại chủ nghĩa” luôn thường trực
trong suy nghĩ của họ. Kết quả khảo sát điều tra thực tế ở các đồn biên phòng
biên giới Việt Nam - Trung Quốc cho thấy, còn 3,6% hạ sĩ quan, binh sĩ khó
trả lời, 1,8% ít tin tưởng và 3,2% hạ sĩ quan, binh sĩ không tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; cũng như sức mạnh
chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng khi xảy
ra chiến tranh, xung đột biên giới [Phụ lục 3].
Bốn là, về ý chí bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Một bộ phận của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng nơi đây chưa thể
hiện rõ ý chí quyết tâm trong bảo vệ biên giới quốc gia, hiệu quả thực hiện chức
trách, nhiệm vụ thấp. Từ việc thiếu tình yêu sâu đậm với biên giới và niềm tin
đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng đã làm cho ý chí bảo vệ biên giới quốc gia của họ bị giảm sút.
Đứng trước những điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ khó khăn, trước những tình
huống phức tạp, hiểm nguy họ tỏ ra chùn bước, thiếu bản lĩnh, thiếu dũng khí,
thiếu nhiệt huyết và quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ, hiểm nguy không
dám đối mặt với thực tiễn công việc, nhiệm vụ; không yên tâm công tác; tư
tưởng sợ khó, ngại khổ trong học tập, huấn luyện, rèn luyện, thực hiện nhiệm vụ;
tâm lý tự ti, sợ sệt trước thử thách, hiểm nguy luôn thường trực trong họ.
Đặc biệt, sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường càng làm cho
những tâm lý, tư tưởng đó trong họ có điều kiện sinh sôi, nảy nở; biểu hiện ở
thái độ bàng quan, vô cảm trước vận mệnh của đất nước và cuộc sống của nhân
101
dân; suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống chạy theo lợi ích cá nhân,
lối sống thực dụng, đề cao các giá trị vật chất tầm thường, buông lỏng kỷ luật,
dẫn đến vi phạm đạo đức, kỷ luật, pháp luật và gây mất đoàn kết đơn vị, làm suy
yếu đơn vị; thậm chí một số ít còn thoái thác, né tránh nhiệm vụ được giao. Biểu
hiện ở việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm quy định, kỷ luật
của đơn vị, mệnh lệnh của người chỉ huy; so đo, tính toán thiệt hơn, so sánh giữa
cống hiến và hưởng thụ, quyền lợi và trách nhiệm, thái độ bất cần; lười học tập,
kém rèn luyện, làm việc cầm chừng, qua loa, đại khái, hiệu quả thấp; lảng tránh
chỉ huy và đồng chí, đồng đội; đào ngũ, vắng mặt tại đơn vị trái phép; vi phạm
kỷ luật, pháp luật. Đây là những biểu hiện giảm sút ý chí quyết tâm, thái độ trách
nhiệm không cao dẫn đến hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhất là trong
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của bộ phận này còn thấp thậm chí không
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
Khảo sát thực tế cho thấy có 20% hạ sĩ quan, binh sĩ cho rằng thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt
Nam - Trung Quốc rất khó khăn vất vả, khó vượt qua, 6,4% hạ sĩ quan, binh
sĩ cho rằng rất khó khăn vất vả, không thể vượt qua; 2,4% khó trả lời; 18% trả
lời có quyết tâm nhưng không sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được
giao, 4,4% không quyết tâm, do dự, thoái thác nhiệm vụ, 2,8% khó trả lời
[Phụ lục 3]. Vẫn có trường hợp quân nhân đào ngũ, vắng mặt trái phép; chỉ
tính riêng năm 2019 xảy ra 05 vụ/05 quân nhân đào ngũ, 02 vụ/02 quân nhân
vắng mặt tại đơn vị trái phép [, tr. 1]. Từ năm 2016 đến năm 2022 vẫn còn
15,23% hạ sĩ quan, binh sĩ có kết quả giáo dục chính trị ở mức đạt yêu cầu
[Phụ lục 5]; 7,32% hạ sĩ quan, binh sĩ có kết quả rèn luyện kỷ luật trung bình
và 1,81% có kết quả yếu [Phụ lục 9].
Đánh giá công tác huấn luyện, chấp hành kỷ luật và xây dựng chính
quy của các đơn vị trong đó có các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc, trong báo cáo tổng kết công tác biên phòng năm 2022 của Bộ Tư
lệnh Bộ đội Biên phòng đánh giá: Công tác huấn luyện, chấp hành kỷ luật và
xây dựng chính quy tuy có chuyển biến nhưng chưa vững chắc. Công tác
quản lý tư tưởng, kỷ luật và an toàn giao thông còn hạn chế; tình hình vi
102
phạm kỷ luật, pháp luật vẫn xảy ra. Nhận thức, trách nhiệm, ý thức chấp hành
kỷ luật, pháp luật, tự rèn luyện của của một số cán bộ, chiến sĩ chưa tốt; có
đơn vị chưa quyết liệt khắc phục khâu yếu, mặt yếu còn để xảy ra một số vụ
vi phạm kỷ luật, pháp luật, tai nạn giao thông nghiêm trọng gây dư luận
không tốt, ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh của Bộ đội Biên phòng [, tr.
13].
* Nguyên nhân của hạn chế:
Một là, tác động tiêu cực của tình hình thế giới, khu vực, mặt trái của
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, mặt trái kinh tế thị trường; sự chống phá của
các thế lực thù địch, các loại tội phạm ở địa bàn biên giới.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực biến đổi nhanh, phức tạp; các
quốc gia vừa hợp tác, vừa đấu tranh đan xen lẫn nhau; hòa bình, an ninh và
trật tự thế giới có nhiều biến đổi. Mặt trái của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
làm cho sự cạnh tranh, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng;
các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đe dọa nghiêm trọng
đến hòa bình, ổn định, phát triển của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam.
Tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia giữa các nước ngày càng
phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra chiến tranh, xung đột nhất là chiến tranh sử
dụng vũ khí công nghệ cao với độ thông minh, chính xác, nhanh, mạnh và sức
hủy diệt khủng khiếp. Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc luôn tiềm
ẩn nhiều nguy cơ bất ổn, khó dự báo. Điều này tác động không nhỏ đến nhận
thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm, niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng nhất là tâm lý lo sợ, tư tưởng thất bại, niềm tin và ý chí giảm sút trong
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Kinh tế thị trường đem lại những tích cực trong công cuộc đổi mới đất
nước và sự đổi thay ở địa bàn biên giới nhưng mặt trái của nó cũng đưa đến
những tác động tiêu cực, nổi bật là sự phân hóa giàu nghèo, chủ nghĩa cá nhân,
chạy theo vật chất, đồng tiền, thói vô cảm, vô trách nhiệm, chà đạp lên danh dự,
nhân phẩm, làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp. Những mặt
trái đó, hằng ngày len lỏi tác động vào hạ sĩ quan, binh sĩ làm cho một bộ phận
hạ sĩ quan, binh sĩ giảm sút ý chí, nhạt phai lý tưởng, niềm tin vào những giá trị
103
cao đẹp, bất chấp tất cả, chạy theo lối sống thực dụng, sao nhãng công việc,
thoái thác nhiệm vụ từ đó dẫn đến vi phạm kỷ luật, pháp luật.
Bên cạnh đó, sự chống phá của các thế lực thù địch thông qua “Diễn
biến hòa bình” ngày càng tinh vi, thâm độc; chúng lợi dụng các nền tảng
công nghệ để xuyên tạc, chống phá; tập trung tác động vào tâm lý, tinh thần
bộ đội nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - những người có tuổi đời
còn trẻ, ít kinh nghiệm, vốn sống, thiếu bản lĩnh làm cho họ có nhận thức
lệch lạc, mất lòng tin, thờ ơ, bàng quan về chính trị, mất cảnh giác dẫn đến
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Hơn nữa, địa bàn hoạt động của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam
- Trung Quốc rất rộng trải dài ở các xã biên giới thuộc phạm vi đồn biên
phòng phụ trách, có địa hình hiểm trở, đi lại rất khó khăn, khí hậu khắc nghiệt
nhất là vào mùa đông; thiên tai thường xảy ra; kinh tế kém phát triển, dân trí
thấp, còn nhiều tập quán lạc hậu,… Các nhiệm vụ do đồn biên phòng thực
hiện vừa mang tính chất quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở biên giới; hoạt
động phân tán, nhỏ lẻ theo tổ, đội, chốt công tác. Đối tượng đấu tranh đa
dạng, phức tạp, âm mưu, phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và đặc biệt
nguy hiểm như tội phạm ma túy, tội phạm buôn lậu, cướp có vũ trang, mua
bán người,… Nhiều cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đã bị thương, bị hy
sinh trong cuộc chiến với các loại tội phạm vì sự bình yên nơi biên giới.
Những đặc điểm đó tác động không nhỏ đến tình cảm, niềm tin, ý chí, bản
lĩnh của hạ sĩ quan, binh sĩ làm cho một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ giảm sút ý
chí chiến đấu, sợ hãi, chùn bước, lảng tránh, thoái thác nhiệm vụ.
Nhận định về tình thế giới, khu vực và trong nước, Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XV nhiệm kỳ 2020 - 2025 nêu
rõ: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ
xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ có thể gay gắt hơn,… Các thế lực
phản động, thù địch, cơ hội chính trị chống phá ngày càng quyết liệt, công
khai, trực diện hơn. Hoạt động của các loại tội phạm ở biên giới tiếp tục diễn
biến phức tạp [, tr. 23].
104
Hai là, một số cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng chưa nhận thức đúng về
vai trò, tầm quan trọng của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng đối với chất lượng, hiệu quả thực hiện chức trách,
nhiệm vụ chính trị của họ.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
có vai trò rất quan trọng quy định đến thái độ, trách nhiệm, hành vi hoạt động
bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Tuy nhiên, trên thực tế ở một số đồn biên
phòng, cấp ủy, người chỉ huy đơn vị chưa thật sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
còn có tư tưởng xem nhẹ nên chưa chú trọng đến các nội dung biện pháp lãnh
đạo phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đặc biệt
là công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
cho họ; nhận thức, trách nhiệm của từng cá nhân lãnh đạo, chỉ huy chưa đầy
đủ, thống nhất; sự gắn kết giữa lãnh đạo với chỉ huy, giữa cấp trên với cấp
dưới, giữa cá nhân với tổ chức và giữa các tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy,
tổ chức quần chúng trong đơn vị về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ còn lỏng lẻo, thiếu
thống nhất. Chưa có nghị quyết lãnh đạo chuyên đề, kế hoạch giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện chuyên biệt về vấn đề này mà thường lồng ghép với nội dung
lãnh đạo chung, kế hoạch giáo dục, huấn luyện, rèn luyện chung của đơn vị.
Do đó, chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chỉ huy đồn
biên phòng nơi đây về vấn đề này còn thấp, chưa ngang tầm.
Đánh giá về nhận thức trách nhiệm của các cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng nói chung trong đó có cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XV nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ rõ: Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị còn hạn chế, thiếu biện pháp quyết liệt, đồng bộ để triển khai tổ chức thực hiện,… Một bộ phận cán bộ, đảng viên trong đó có cán bộ chỉ huy chưa gương mẫu, thực hiện chức trách, nhiệm vụ không đầy đủ, thiếu sáng tạo,… phối hợp hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên [, tr. 21].
105
Ba là, chất lượng công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ ở một số đồn biên phòng chưa cao, chậm đổi mới về nhiều mặt; công tác quản lý tư tưởng, quản lý bộ đội, quản lý kỷ luật của đơn vị có mặt còn lỏng lẻo.
Do nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng của cấp ủy, chỉ huy một số đồn biên phòng chưa đầy đủ, đúng đắn nên chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ còn thấp, hình thức phương pháp chậm đổi mới, có nội dung chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống, đạo đức,
giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ của một số đồn biên phòng chưa
toàn diện; có nội dung chậm cập nhật; hình thức, phương pháp giáo dục chưa
đa dạng, phong phú, chậm đổi mới, còn khô cứng, đơn điệu; việc kết hợp giữa
giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng với trang bị kiến thức toàn diện về
bảo vệ biên giới quốc gia cho họ chưa thật sự hiệu quả; giữa nâng cao nhận
thức chính trị với định hướng tư tưởng cho họ chưa thật gắn kết. Văn kiện Đại
hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XV nhiệm kỳ 2020 - 2025
đánh giá: “Công tác giáo dục, chính trị tư tưởng có đơn vị chưa toàn diện;
nắm, quản lý tư tưởng, quan hệ xã hội của cán bộ, chiến sĩ chưa chắc, còn
biểu hiện chủ quan, bệnh thành tích, giấu giếm khuyết điểm” [, tr. 20].
Công tác huấn luyện quân sự, nghiệp vụ cho hạ sĩ quan, binh sĩ của một
số đồn biên phòng chậm đổi mới cả về nội dung, hình thức, phương pháp.
Nghị quyết chuyên đề về công tác huấn luyện còn chung chung, dàn trải; kế
hoạch huấn luyện các nội dung chính trị, quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên
phòng có nội dung chưa cụ thể, chưa sát với thực tế, chưa theo kịp với những
quy định mới; chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện chưa đồng
đều, chưa đáp ứng yêu cầu huấn luyện. Việc kết hợp giữa trang bị kiến thức bảo
vệ biên giới quốc gia toàn diện cho hạ sĩ quan, binh sĩ với truyền thụ kinh
nghiệm công tác, chiến đấu và rèn luyện bản lĩnh, tác phong công tác, năng lực
thực hành, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
biên giới quốc gia còn hạn chế, bất cập. Hoạt động phân tán nhỏ lẻ theo các tổ,
106
đội, chốt công tác trên biên giới ảnh hưởng đến việc đảm bảo quân số, nội dung
và thời gian huấn luyện của đồn biên phòng. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
huấn luyện chiến đấu năm 2021 của Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên đánh giá:
“Một số đơn vị tổ chức quán triệt, triển khai nhiệm vụ huấn luyện chưa kĩ, chưa
sâu; công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ chưa chủ động, năng lực huấn luyện
thực hành của đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu” [, tr. 6].
Trong công tác rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, cấp ủy,
chỉ huy một số đồn biên phòng chưa thật sự chú trọng, chưa có những biện
pháp lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để nâng cao chất lượng rèn luyện, xây dựng
chính quy, chấp hành kỷ luật, xây dựng đồn biên phòng vững mạnh toàn diện
“Mẫu mực, tiêu biểu”. Một số đơn vị quản lý kỷ luật chưa chặt chẽ, có lúc, có
nơi còn lỏng lẻo; quản lý quân số, duy trì các chế độ công tác trong ngày,
trong tuần chưa chặt chẽ, thiếu các biện pháp quản lý, rèn luyện linh hoạt, tạo
những sân chơi lành mạnh, bổ ích, lôi cuốn hạ sĩ quan, binh sĩ tích cực, tự
giác trong rèn luyện bản thân. Công tác rèn luyện chưa gắn kết chặt chẽ với
công tác giáo dục, huấn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Báo cáo của Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang tổng kết tình hình vi
phạm kỷ luật năm 2020 đánh giá: Việc quán triệt và triển khai thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết, quy định của cấp trên có đơn vị chưa thường xuyên, chưa
sâu,... Công tác tổ chức thực hiện thiếu quyết liệt; chỉ đạo kiểm tra của cán bộ
các cấp thiếu sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ,…Công tác quản lý kỷ luật, đảm bảo an
toàn của chỉ huy các cấp ở một số đơn vị còn bộc lộ hạn chế: Nắm không chắc
chất lượng đội ngũ cán bộ, buông lỏng quản lý, kiểm tra đối với đơn vị; mâu
thuẫn xảy ra nhưng không phát hiện được; công tác thống kê, báo cáo có
những vụ việc chưa kịp thời, không đầy đủ thông tin [, tr. 1].
Bốn là, môi trường văn hóa ở một số đồn biên phòng biên giới Việt
Nam - Trung Quốc chưa được quan tâm xây dựng, đầu tư đúng mức; đời sống
vật chất, tinh thần bộ đội nhất là các tổ, đội công tác địa bàn xa đơn vị, xa sự
chỉ huy chỉ đạo còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Hoạt động xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh ở một số
đồn biên phòng có lúc chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức. Các mối
107
quan hệ trong đơn vị có lúc, có nơi chưa đúng chuẩn mực, quy định; các thiết
chế văn hóa chưa được quan tâm đầu tư, khai thác hiệu quả, còn thiếu về số
lượng, xuống cấp về chất lượng. Văn hóa giao tiếp, ứng xử có đơn vị, có quân
nhân còn lệch chuẩn nhất là trong chào hỏi, ứng xử hàng ngày. Việc phát huy
vai trò của các thiết chế văn hóa, các mối quan hệ trong đơn vị đối với định
hướng tư tưởng, nhận thức, điều chỉnh hành vi của hạ sĩ quan, binh sĩ hiệu
quả chưa cao. Những biểu hiện, hành vi lệch chuẩn vẫn còn xảy ra trong một
số đơn vị ở một số hạ sĩ quan, binh sĩ; tinh thần đấu tranh với những biểu
hiện, hành vi sai trái, phản văn hóa, phản giá trị của một bộ phận hạ sĩ quan,
binh sĩ còn yếu. Việc định hướng giáo dục cán bộ, chiến sĩ trong khai thác, xử
lý, chọn lọc thông tin của một số đồn biên phòng chưa tốt còn để những phản
giá trị, phản văn hóa len lỏi vào trong đời sống quân nhân thông qua các
đường khác nhau nhất là internet, mạng xã hội.
Bên cạnh đó, đời sống vật chất, tinh thần hạ sĩ quan, binh sĩ nhất là hạ sĩ
quan, binh sĩ tham gia thực hiện nhiệm vụ ở các tổ, chốt công tác biên giới, xa
sự chỉ huy, chỉ đạo khó khăn, thiếu thốn mọi mặt. Việc tổ chức thực hiện một
số chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ của một số đồn biên phòng
thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời cá biệt có đơn vị còn có biểu hiện vi phạm tiêu
chuẩn chế độ của hạ sĩ quan, binh sĩ. Sự quan tâm động viên, giải quyết đáp
ứng những nhu cầu chính đáng về vật chất, tinh thần của hạ sĩ quan, binh sĩ có
lúc, có nơi chưa thỏa đáng. Vấn đề dân chủ hóa các mặt chính trị, quân sự,
kinh tế, đời sống, đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hạ
sĩ quan, binh sĩ chưa được minh bạch, công khai, dân chủ; hiện tượng chuyên
quyền, độc đoán, quân phiệt, bưng bít thông tin, bớt xén tiêu chuẩn, chế độ
đối với hạ sĩ quan, binh sĩ còn xảy ra ở một số ít đơn vị. Những điều này tác
động tiêu cực đến tư tưởng, nhận thức, tình cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ làm
cho họ giảm sút động lực phấn đấu, giảm sút niềm tin đối với cán bộ, chỉ huy
các cấp và công tác chính sách của quân đội từ đó biểu hiện thái độ, trách
nhiệm và hành vi tiêu cực trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Năm là, một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa tích cực,
chủ động, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện.
108
Từ đặc điểm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hầu hết tuổi đời
còn trẻ, nhận thức, kinh nghiệm, vốn sống chưa nhiều, chưa có bản lĩnh
trong đối mặt với những khó khăn, hiểm nguy nơi biên giới; thích khám
phá nhưng cũng dễ bị dao động, ngả nghiêng, vấp ngã trước những cám dỗ,
tiêu cực, khó khăn. Địa bàn biên giới Việt Nam - Trung Quốc là địa bàn rất
khắc nghiệt, phức tạp về mọi mặt; tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên
giới quốc gia đòi hỏi người chiến sĩ biên phòng phải có thể lực tốt, bền bỉ,
dẻo dai, mưu trí, dũng cảm, gan dạ, cùng bản lĩnh kiên cường mới có thể
vượt qua những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy thậm chí đe dọa đến tính
mạng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Thực tế
đó đã tạo nên sức ép không nhỏ đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ, một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ nảy sinh tư tưởng tự ti,
lo sợ, không dám đối mặt với hoàn cảnh; sợ khó, ngại khổ, không muốn
bám trụ nơi biên giới, thoái thác nhiệm vụ được giao.
Thực tiễn ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc cho
thấy nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng nơi đây chưa đúng đắn, còn xem nhẹ. Biểu hiện ở một bộ phận hạ sĩ
quan, binh sĩ thiếu ý chí vươn lên, ngại học tập, huấn luyện, lười suy nghĩ,
lười tu dưỡng rèn luyện; có thái độ chây ì, thụ động, dễ buông xuôi trước
những khó khăn, sa ngã trước những cám dỗ tầm thường; đề cao chủ nghĩa cá
nhân, lối sống thực dụng, buông lỏng kỷ luật; bảo thủ, không chịu tiếp thu,
sửa chữa những sai phạm, khuyết điểm của bản thân. Điều đó tác động tiêu
cực đến kết quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cũng như hiệu quả phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Đây là nguyên nhân chủ quan, trực
tiếp dẫn đến những hạn chế trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng những năm qua.
Đánh giá về vấn đề này, Báo cáo của Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng
tổng kết tình hình vi phạm kỷ luật năm 2021 chỉ rõ: Một số quân nhân thiếu
rèn luyện bản thân, có tư tưởng ăn chơi, hưởng thụ, bị lôi kéo tham gia các
hoạt động không lành mạnh ngoài xã hội, không làm chủ được bản thân trước
109
những cám dỗ về vật chất. Nhiều quân nhân nhận thức đơn giản, thiếu hiểu
biết về pháp luật, ý thức chấp hành kỷ luật, pháp luật yếu [, tr. 2].
Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc để thấy được hai mặt của một vấn đề từ đó phát huy ưu điểm, khắc phục
hạn chế khuyết điểm của nó; phát hiện một số vấn đề đặt ra từ thực trạng làm
cơ sở để đề xuất các giải pháp phù hợp trong phát triển ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.
3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc hiện nay
3.2.1. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình
mới ngày càng cao với những khó khăn, bất cập trong phát triển ý thức bảo
vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng
Đây được xem là hai xu hướng trái ngược, hai mặt đối lập nhau trong
quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng giữa một mặt là mục tiêu, yêu cầu cao của quá trình phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia với một mặt là những khó khăn, bất cập của
quá trình phát triển này ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc. Hai mặt đối lập này diễn ra trong suốt quá trình phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp, nhạy cảm, khó lường.
Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn song cũng đang đứng trước nhiều
trở ngại, khó khăn thách thức. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng
công nghiệp lần thứ Tư phát triển mạnh mẽ đem đến cả thời cơ và thách thức
với mọi quốc gia dân tộc. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh (nhất là đại
dịch Covid - 19) và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác đe dọa nghiêm
trọng đến sự ổn định, phát triển bền vững của thế giới, khu vực và nước ta.
Các quốc gia chuyển từ biên giới ngăn cách sang biên giới hợp tác; giải quyết
110
bất đồng, mâu thuẫn, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình
theo luật pháp quốc tế là xu hướng chủ đạo. Tuy nhiên, tranh chấp chủ quyền,
lãnh thổ còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang,
chiến tranh cục bộ. Các nước lớn tiếp tục điều chỉnh chiến lược, cạnh tranh
quyết liệt; tận dụng ưu thế kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ, sử dụng
"sức mạnh mềm", "biên giới mềm", không gian vũ trụ, không gian mạng nhất
là mạng xã hội để đẩy mạnh can dự, gây sức ép về chính trị, kinh tế, quân sự,
ngoại giao, xâm phạm biên giới địa lý của các quốc gia khác, thậm chí mưu
toan "vẽ lại" đường biên giới. Chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa dân
tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế, làn sóng di dân khi
có tình huống khủng hoảng ở các nước láng giềng,... Đặc biệt xung đột quân sự
giữa Nga và Ucraina đang diễn ra rất phức tạp liên quan đến các vấn đề chủ
quyền, lãnh thổ, dân tộc, văn hóa và địa chính trị, là sự toan tính chiến lược của
các cường quốc và khu vực về các vấn đề an ninh, quân sự và kinh tế,… Bên
cạnh đó, khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á
tiềm ẩn nhiều bất ổn, tranh chấp, cạnh tranh gay gắt giữa các nước nhất là tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển đảo. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ:
Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới [, tr. 105]. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ biên giới quốc gia nói riêng, đó là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” [, tr. 157]; và “Xây dựng và củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” [, tr. 158].
Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia nói chung và biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng đòi hỏi tất yếu phải củng cố, tăng cường sức mạnh bảo vệ biên giới quốc gia trong đó
111
đặt ra yêu cầu cao đối với ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay. Điều này xuất phát từ vị trí, vai trò, đặc điểm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; họ là lực lượng quan trọng, thường xuyên, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; mặt khác, tính chất, chức năng, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc có những đặc thù riêng so với các tuyến biên giới đất liền khác, đòi hỏi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phải có ý thức cao để thích ứng với tính chất đặc thù đó và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới đặt ra.
Cùng với chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại trong đó Bộ đội Biên phòng được xác
định là một Quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng, là lực lượng nòng cốt, chuyên
trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ
biên giới quốc gia trong tình hình mới đòi hỏi Bộ đội Biên phòng phải được xây
dựng vững mạnh về mọi mặt cả về nguồn lực con người, lực lượng; cả về vũ khí,
trang bị, phương tiện, hệ thống công trình phòng thủ, bảo vệ biên giới quốc gia,
hệ thống trang thiết bị vật chất đảm bảo cho hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Chiến
lược “Bảo vệ biên giới quốc gia” của Đảng chỉ rõ: Xây dựng hệ thống công trình
phòng thủ, bảo vệ biên giới quốc gia đồng bộ, thống nhất. Xây dựng lực lượng
bảo vệ biên giới toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang
nhân dân làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là một quân chủng thuộc Bộ Quốc
phòng, lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, một số thành phần tiến thẳng hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý,
bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới [, tr. 3 - 4].
Trong mối quan hệ biện chứng giữa nguồn lực con người với các yếu tố
vật chất đảm bảo khác thì xây dựng nguồn lực con người luôn được xác định
là nhân tố cơ bản hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao sức mạnh
chiến đấu của Quân đội nói chung, Bộ đội Biên phòng nói riêng. Bởi lẽ, vũ
112
khí, trang bị, phương tiện, hệ thống công trình phòng thủ có hiện đại, kiên cố
đến đâu nhưng con người không có phẩm chất, năng lực đủ tốt sẽ không thể
làm chủ và phát huy có hiệu quả vũ khí, phương tiện hiện đại được trang bị,
đầu tư; và do đó khó có thể đảm đương, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao. Một trong những yêu cầu đặt ra để xây dựng và phát huy nguồn lực con
người ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đó là phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của mọi quân nhân nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng. Chỉ có phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của lực
lượng thường xuyên, trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia mới đảm
bảo cho các đồn biên phòng đảm đương các nhiệm vụ đa dạng, phức tạp, đòi hỏi
sức khỏe, dẻo dai, sự nhiệt huyết, năng động, sáng tạo, dám dấn thân nơi gian khó,
thử thách của hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Để thực hiện yêu cầu đó, những năm qua, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh các hoạt
động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
nơi đây bằng những kế hoạch, chương trình, nội dung, hình thức, phương
pháp khác nhau nhằm nâng cao nhận thức, bồi đắp tình cảm, củng cố niềm
tin, xây dựng ý chí quyết tâm và bản lĩnh chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Các
hoạt động giáo dục chính trị, giáo dục truyền thống, giáo dục pháp luật được
duy trì thường xuyên qua đó nâng cao nhận thức cho hạ sĩ quan, binh sĩ về
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về
bảo vệ biên giới quốc gia; các hiệp ước, hiệp định, nghị định thư về biên giới
với các nước láng giềng; cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập có liên quan đến bảo vệ biên giới quốc gia; về chiến lược bảo
vệ biên giới quốc gia; về đối tác, đối tượng nói chung và đối tượng đấu tranh
của Bộ đội Biên phòng nói riêng; âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế
lực thù địch và các loại tội phạm; truyền thống dân tộc, Quân đội, Bộ đội Biên
phòng, đơn vị và địa phương nơi đóng quân.
Từ đó, khơi dậy trong họ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, trách nhiệm
chính trị cao cả trong bảo vệ chủ quyền biên giới thiêng liêng của đất nước của
113
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; xây dựng cho họ bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, củng cố
niềm tin, ý chí quyết tâm cao, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Điều
này cho thấy, nâng cao tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng trở thành một đòi hỏi tất yếu, quan trọng trong phát triển ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ góp phần xây dựng và phát huy nguồn lực
con người ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Mục tiêu, yêu cầu về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng ngày càng cao song quá trình phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay gặp không
ít những khó khăn, hạn chế, bất cập trên nhiều mặt.
Khó khăn trước hết là sự thống nhất về nhận thức, trách nhiệm và việc
phát huy vai trò của một số chủ thể trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn hạn chế. Sự thống nhất
trong nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về vai trò của ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có ý nghĩa rất quan trọng
tạo ra sự đồng thuận, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
các hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện nhằm phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ. Trên thực tế, vẫn còn có cấp ủy, chỉ
huy, cán bộ quản lý ở đồn biên phòng nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, tầm
quan trọng của vấn đề này đối với chất lượng, hiệu quả hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ và nhiệm vụ chính trị của đồn biên
phòng. Vẫn còn quan điểm cho rằng, không cần phải phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ mà chỉ cần huấn luyện cho họ kỹ
năng, kỹ xảo, cầm tay, chỉ việc cụ thể để họ làm theo, làm thuần thục là đủ.
Vì vậy, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện, rèn luyện kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo, năng lực thực hành chuyên môn với giáo dục các phẩm chất
cách mạng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Có đơn vị
coi việc xây dựng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chính trị mà chưa
thấy được trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng, đội ngũ cán bộ các cấp với
114
tính cách là chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của một số chủ thể nhất là của
một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và hạ sĩ quan, binh sĩ ở đồn biên
phòng còn những hạn chế nhất định. Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở đồn
biên phòng tuy được đào tạo cơ bản qua các trường trong và ngoài Bộ đội
Biên phòng, song do cả yếu tố khách quan và chủ quan nghiên cứu, nắm bắt
cập nhật kiến thức mọi mặt đặc biệt là kiến thức về bảo vệ biên giới quốc gia
còn hạn chế; có cán bộ, sĩ quan còn lười suy nghĩ, ngại học tập nên nắm chưa
chắc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về biên
giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia; kiến thức pháp luật quốc tế có liên
quan, kiến thức nghiệp vụ công tác biên phòng ảnh hưởng nhận thức trách
nhiệm của họ, cũng như chất lượng hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng.
Mặc dù là lực lượng quan trọng, thường xuyên, trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng song hạ sĩ quan,
binh sĩ là lực lượng trẻ, kiến thức, kinh nghiệm chưa nhiều, hầu hết là con em
đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở địa bàn biên giới nên khả năng nhận thức,
tiếp thu tri thức về biên giới quốc gia có những hạn chế nhất định. Bên cạnh
đó, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được biên chế ở tất cả các tổ, đội, chốt
công tác hoạt động nhỏ lẻ, phân tán theo nhiệm vụ nên việc tổ chức huấn
luyện tập trung cho họ gặp nhiều khó khăn, thường xuyên bị gián đoạn và
phải tổ chức thành nhiều đợt ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện. Trình độ tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của họ chưa thật đầy
đủ, sâu sắc đã tác động tiêu cực, kìm hãm quá trình phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Các đồn biên phòng đóng quân ở địa bàn biên giới nên điều kiện đi lại,
cơ sở vật chất, nơi ăn, ở, học tập, sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ nói chung, hạ
sĩ quan, binh sĩ nói riêng còn nhiều thiếu thốn, khó khăn. Vũ khí, trang bị,
công cụ hỗ trợ phục vụ cho huấn luyện và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên
giới quốc gia còn thiếu về chủng loại và số lượng, bị xuống cấp và lạc hậu; hệ
115
thống công trình phòng thủ bảo vệ biên giới còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu đặt
ra. Trong khi đó, lực lượng bảo vệ biên giới của nước đối diện được trang bị
hiện đại với số lượng lớn, chủng loại đa dạng, hệ thống công trình hàng rào,
camera giám sát và các công trình phòng thủ bảo vệ biên giới khác của họ
được xây mới, nâng cấp; bên cạnh đó, sự chống phá ngày càng tinh vi, thâm
độc của các thế lực thù địch làm cho tư tưởng một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ
bị dao động. Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc tiềm ẩn diễn biến
phức tạp, khó lường; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại và cản
trở các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia; một số chế độ chính sách đối với
hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ còn bộc lộ những bất cập,… Những
khó khăn trên ảnh hưởng đến quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
Có thể thấy rằng, vấn đề đặt ra giữa yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia trong tình hình mới ngày càng cao với những khó khăn, bất cập về
nhiều mặt của quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay
là đòi hỏi khách quan cần nhận thức và giải quyết thấu đáo từ đó có những
giải pháp phù hợp nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay.
3.2.2. Chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện đặt ra yêu cầu cao nhưng khả năng nhận thức hạn chế và thời
gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ
Đây cũng là hai mặt không đồng thuận trong quá trình phát triển ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng giữa
một bên là yêu cầu cao về chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục,
huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhằm đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới trong quá trình phát triển với một bên là
khả năng nhận thức hạn chế và thời gian tại ngũ có hạn của họ ở các đồn
biên phòng hiện nay. Theo đó, hiệu quả, chất lượng phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phụ thuộc vào việc
116
nhận thức và giải quyết vấn đề này. Bởi lẽ, chương trình, nội dung, phương
pháp quyết định đến chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng; thông qua giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở
các đồn biên phòng hạ sĩ quan, binh sĩ được lĩnh hội, bổ sung, tích lũy, nâng
cao tri thức toàn diện nhất là tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia từ đó củng
cố tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của mình. Mỗi nấc
thang, mỗi giai đoạn phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng luôn đặt ra những yêu cầu tương xứng đối với
quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ.
Quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng luôn gắn với sự vận động, biến đổi của thực tiễn hoạt
động bảo vệ biên giới quốc gia, cũng như yêu cầu về trình độ, phẩm chất,
năng lực của hạ sĩ quan, binh sĩ ở từng đơn vị trong mỗi giai đoạn nhất định.
Theo đó, công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng biên
giới Việt Nam - Trung Quốc cũng phải bám sát sự vận động, biến đổi của
tình hình thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở khu vực này cũng
như yêu cầu về phẩm chất, năng lực của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc và thực tiễn hoạt động
bảo vệ biên giới quốc gia ở nơi đây đặt ra yêu cầu cao cho công tác giáo dục,
huấn luyện, rèn luyện trong đó chương trình, nội dung, hình thức, phương
pháp giáo dục rèn luyện đòi hỏi phải được chuẩn hóa, sát với thực tiễn, sát
với đối tượng, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia cũng như điều kiện cụ thể
của từng đồn biên phòng. Nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng khá toàn diện trên nhiều mặt cả về chính trị,
quân sự, pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ biên phòng.
Về chính trị, hạ sĩ quan, binh sĩ được tổ chức thực hiện theo kế hoạch
giáo dục chính trị tại đơn vị với các nội dung giáo dục về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng các cấp
có liên quan đến công tác bảo vệ biên giới quốc gia; về đối tác, đối tượng; về
117
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược bảo vệ biên giới
quốc gia; cùng các nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện về phẩm chất,
đạo đức, lối sống, phương pháp tác phong công tác, sinh hoạt, học tập nhằm
phát triển các phẩm chất cần thiết cho họ.
Về pháp luật, trên cơ sở kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật hằng năm
tập trung trang bị cho hạ sĩ quan, binh sĩ các nội dung pháp luật liên quan đến
biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia như: các hiệp ước, hiệp định,
nghị định thư về biên giới, cửa khẩu đã ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc; hệ
thống pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, đặc biệt
là Luật Biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam và các nghị định, thông
tư hướng dẫn thi hành; Nghị định về quy chế khu vực biên giới đất liền; Nghị
định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia, Nghị định quy định về công tác đối ngoại biên phòng, v.v..
Về quân sự, nghiệp vụ, tập trung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật bảo
vệ biên giới ở địa hình rừng núi cho hạ sĩ quan, binh sĩ; tổ chức chỉ huy quản
lý, bảo vệ biên giới; quy trình, cách thức xử lý các tình huống nảy sinh ở biên
giới như: xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới, xê dịch cột mốc, vật đánh
dấu, dấu hiệu đường biên giới; qua lại biên giới trái pháp luật; tội phạm buôn
lậu, ma túy, buôn bán người, tiền giả, vũ khí, vật liệu nổ, v.v.. Bên cạnh đó,
hạ sĩ quan, binh sĩ còn được huấn luyện nghiệp vụ công tác đối ngoại biên
phòng bởi lẽ nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia liên quan đến nước đối diện
có chung đường biên giới; các hoạt động nảy sinh trên biên giới giữa hai nước
đều phải được giải quyết thông qua con đường ngoại giao và thực địa theo
thỏa thuận giữa hai nước được quy định trong các hiệp định, nghị định thư về
quản lý biên giới, cửa khẩu đã được ký kết với các hình thức đàm phán, hội
đàm, thư phản kháng, tuần tra song phương cả định kỳ và đột xuất khi có tình
huống xảy ra trên biên giới,…Tất cả các nội dung này đều phải được giáo
dục, huấn luyện kỹ lưỡng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng là hết sức toàn diện và yêu cầu cao đối với họ. Nội
118
dung đó cũng đòi hỏi phương pháp, hình thức giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
phải đa dạng, phong phú, linh hoạt phù hợp với đặc điểm đối tượng hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng cũng như đặc điểm hoạt động phân tán nhỏ, lẻ
theo tổ, đội công tác ở các đồn biên phòng. Yêu cầu cao là vậy, song thực tế
hiện nay ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hình thức,
phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện chưa thực sự đa dạng, phong
phú mới chỉ tập trung ở hình thức, phương pháp truyền thống thuyết trình,
giảng giải một cách đơn điệu chưa có sự lồng ghép với các hình thức, phương
pháp hiện đại khác tạo sự hấp dẫn, cuốn hút hạ sĩ quan, binh sĩ qua đó nâng
cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho họ.
Tính chất, chức năng, nhiệm vụ hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia
của các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đặt ra yêu cầu cao
về chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn
luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong quá trình phát triển ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia của họ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới. Với đặc điểm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hầu hết là con em đồng
bào các dân tộc đang sinh sống, cư trú, lao động ở địa bàn biên giới. Ngay từ
nhỏ đã gắn bó với địa hình, thời tiết, khí hậu của núi rừng biên giới khó khăn,
khắc nghiệt nên thông thạo địa hình rừng núi, dễ thích nghi với điều kiện
hoàn cảnh khắc nghiệt ở biên giới; họ cũng am hiểu tập quán, ngôn ngữ của
đồng bào các dân tộc nên thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ công tác
nắm tình hình địa bàn, đối tượng và công tác vận động quần chúng.
Tuy nhiên, do phần lớn là con em đồng bào dân tộc thiểu số nên khả năng
nhận thức của họ còn những hạn chế nhất định; việc ít cọ xát, tham gia các hoạt
động tập thể đông người nên tồn tại tâm lý tự ti, thiếu tự tin trong các hoạt động
tập thể. Hơn nữa, hoạt động của các tổ, đội công tác của đồn biên phòng phân
tán nhỏ, lẻ theo yêu cầu nhiệm vụ nhất là khi xảy ra đại dịch Covid - 19 số lượng
người qua lại biên giới trái pháp luật gia tăng. Đặc điểm này cũng khiến cho
công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
119
gặp không ít khó khăn, dễ bị gián đoạn thành nhiều đợt đòi hỏi phải có sự điều
chỉnh về chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp cho phù hợp.
Bên cạnh đó, thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng cũng là một khó khăn, bất cập. Theo quy định hiện nay, thời gian thực
hiện nghĩa vụ quân sự của hạ sĩ quan, binh sĩ các các đồn biên phòng là 24
tháng trong đó khoảng 3 tháng huấn luyện chiến sĩ mới (tân binh) tại các tiểu
đoàn, trung tâm huấn luyện trước khi được điều động, biên chế về các đồn
biên phòng. Do đó, thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự tại các đồn biên
phòng của hạ sĩ quan, binh sĩ chỉ còn chưa đầy 2 năm (khoảng 21 tháng). Đây
là một thách thức không nhỏ, một mâu thuẫn giữa quá trình phát triển đòi hỏi
thời gian đủ lớn với yêu cầu cao về chương trình, nội dung, hình thức, phương
pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
với thời gian tại ngũ hạn hẹp của họ.
Là một loại hình của ý thức xã hội, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được cấu thành bởi các thành tố trong cấu
trúc của nó. Để phát triển các thành tố đó, đòi hỏi một quá trình lâu dài gắn
với thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia cùng các điều kiện khác của đời sống
xã hội. Đây là quá trình có mục tiêu, kế hoạch, phải được tiến hành liên tục,
thường xuyên và lâu dài với chương trình, nội dung, phương pháp nhất định,
đòi hỏi sự tham gia của nhiều chủ thể phát triển nhằm phát huy vai trò của
mỗi chủ thể trong quá trình đó. Vì thế, giới hạn thời gian tại ngũ của hạ sĩ
quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng là một trở ngại đối với quá trình phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đòi hỏi thời gian dài và yêu cầu cao về nhiều
mặt. Một thực tế nữa cũng xuất phát từ giới hạn thời gian tại ngũ của hạ sĩ
quan, binh sĩ đó là khi quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ
quan, binh sĩ đạt đến một trình độ nhất định, tiệm cận với yêu cầu, nhiệm vụ
bảo vệ biên giới quốc gia thì cũng là thời điểm hạ sĩ quan, binh sĩ gần hết thời
gian thực hiện nghĩa vụ quân sự ở đồn biên phòng để trở về địa phương; số
chiến sĩ mới bổ sung thay thế lại bắt đầu một quy trình giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện từ ban đầu. Vấn đề này đòi hỏi các chủ thể nhất là chủ thể lãnh đạo,
120
chỉ huy, quản lý phải phát huy tối đa vai trò của các tổ chức, lực lượng với
các hình thức, phương pháp, cách thức linh hoạt, phù hợp nhất để quá trình
giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng khắc
phục được những hạn chế, bất cập ở trên mà vẫn đảm bảo có được một kết
quả tương xứng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
3.2.3. Yêu cầu phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các
đồn biên phòng đặt ra ngày càng cao với tính thụ động, ngại giáo dục,
huấn luyện, rèn luyện của họ
Đây cũng là hai xu hướng trái ngược nhau diễn ra trong suốt quá trình
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng. Chúng phản ánh hai mặt không đồng nhất nhau giữa một mặt là yêu
cầu cao của việc phát huy vai trò nhân tố chủ quan nhất là tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng với một mặt là tính thụ
động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ trong quá trình phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Nhận thức và giải quyết tốt vấn đề này sẽ
tạo động lực thúc đẩy quá trình tự thân phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng là quá trình tác động biện chứng, thống nhất, hợp quy luật giữa điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ. Trong mối quan
hệ biện chứng đó, nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có
vai trò trực tiếp quyết định đến kết quả phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của họ. Vì thế đặt ra yêu cầu cao trong quá trình này là phải tích cực hóa
nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Đây được xem là yêu
cầu quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng, hiệu quả của quá trình này.
Những hạn chế trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng một mặt do đặc điểm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng phần lớn là con em đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa bàn biên giới
nên khả năng nhận thức có những hạn chế; mặt khác còn do tính năng động,
tích cực trong nhân tố chủ quan của họ chưa được phát huy, lan tỏa. Một bộ
121
phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có biểu hiện thụ động, lười học tập,
ngại rèn luyện trong quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Do vậy, quá
trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng hiện nay tồn tại vấn đề đặt ra giữa yêu cầu cao về phát huy nhân
tố chủ quan với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ.
Khi phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng trở thành nhu cầu tự thân thì tính năng động chủ quan của họ sẽ
được phát huy, nhân lên. Tuy nhiên, thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia
ở các đồn biên phòng đặt ra yêu cầu cao về chương trình, nội dung, hình thức,
phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ; họ phải tiếp
nhận một lượng tri thức lớn theo yêu cầu của chương trình, nội dung, trong khi
khả năng nhận thức bị giới hạn. Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực của mặt trái
kinh tế thị trường hằng ngày len lỏi vào đời sống quân nhân trong đó có hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng. Thêm vào đó, sự chống phá mạnh mẽ của các thế
lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ngày càng thâm độc qua nhiều kênh
khác nhau nhất là thông qua internet, mạng xã hội đã làm cho họ có những nhận
thức lệch lạc. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ chưa nhận thức được hoặc nhận
thức chưa đầy đủ, đúng đắn về vai trò, nội dung và ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Từ đó, dẫn đến các biểu hiện thụ
động, ỷ lại, lười học tập, lười suy nghĩ, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện.
Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng đòi hỏi họ phải có một trình độ tri thức toàn diện sâu sắc nhất là
tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia; làm cơ sở, nền tảng để bồi đắp tình cảm,
củng cố niềm tin; xây dựng ý chí, bản lĩnh, cùng những phẩm chất và năng lực
cần thiết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, trên thực tế trình độ tri thức bảo
vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nơi đây chưa
thật sự sâu rộng, nắm chưa chắc, chưa vững. Sự thiếu cố gắng nỗ lực trong giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện, học tập, công tác, sinh hoạt của họ cùng tác động tiêu
cực của mặt trái kinh tế thị trường, của lối sống thực dụng cá nhân dẫn đến tư
tưởng ép buộc, miễn cưỡng, cầm chừng trong quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn
luyện. Điều này trở thành lực cản đối với quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên
122
giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng hiện nay.
Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng không chỉ đòi hỏi ở họ có tri thức toàn diện, nhận thức đúng đắn,
mà còn phải tình cảm sâu sắc, niềm tin vững chắc, có thái độ, trách nhiệm
cao, động cơ, mục đích tích cực, ý chí nỗ lực quyết tâm cao trong thực hiện
các khâu, các bước phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia. Vấn đề này đặt
ra yêu cầu đòi hỏi mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phải phát huy cao
độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự giác trong quá trình giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện và tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Chủ động, tích cực
trong việc tiếp nhận sự tác động của các chủ thể nhất là chủ thể lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý đồng thời tổ chức tốt quá trình tự giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện, tu dưỡng những phẩm chất, năng lực cần thiết cho bản thân; biến
quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện thành tự giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện của chính mình. Chỉ có nhận thức quá trình phát triển này như là
quá trình tự thân vận động, tự thân phát triển trở thành nhu cầu nội tại bên
trong của hạ sĩ quan, binh sĩ thì các nhân tố chủ quan của họ mới được khơi
dậy, phát huy, lan tỏa, tích cực. Ngược lại, phát huy nhân tố chủ quan của
hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình phát triển sẽ mang lại giá trị, hiệu quả
thiết thực đối với quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ ở các
đồn biên phòng hiện nay.
Những tác động của hoạt động giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ
sĩ quan, binh sĩ của các chủ thể lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và các tổ chức, lực
lượng khác chỉ thật sự phát huy tác dụng, hiệu quả khi tính tích cực, tự giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ được phát huy. Quá trình
này cũng vừa là sự bổ sung, phát triển những phẩm chất cần thiết cho họ theo
yêu cầu của thực tiễn hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia; vừa là kết quả, là
sản phẩm của quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và tự giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện của chính hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng đòi hỏi họ phải có thái độ trách nhiệm chính trị cao, ý chí quyết
123
tâm cao, bản lĩnh vững vàng; trên cơ sở đó, chuyển hóa thành hành động bảo
vệ biên giới quốc gia, sẵn sàng vượt mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp
nhận thử thách, hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới thiêng liêng
của Tổ quốc. Mức độ, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là tiêu chí, thước đo đánh giá
kết quả phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Tuy nhiên, thực tế
hiện nay vẫn tồn tại khoảng cách nhất định giữa tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí, thái độ trách nhiệm với hành động bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ
phận hạ sĩ quan, binh sĩ. Một số hạ sĩ quan, binh sĩ thiếu tu dưỡng, rèn luyện
còn có những biểu hiện, hành vi sai trái, vì lợi ích vật chất trước mắt, tiếp
tay cho các đối tượng tội phạm vi phạm pháp luật, kỷ luật. Việc chấp hành
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy,
mệnh lệnh của chỉ huy các cấp, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân
đội, Bộ đội Biên phòng, quy định của đơn vị, địa phương của một bộ phận
hạ sĩ quan, binh sĩ còn mang tính gượng ép, đối phó chưa mang tính tự giác,
chưa trở thành nhận thức, thói quen, hành vi bền vững, thành nhu cầu tự
thân thôi thúc họ trong quá trình học tập, công tác, sinh hoạt, trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao.
Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng hiện nay không chỉ là sự chuyển biến về tri thức, tình cảm, niềm
tin, ý chí, thái độ trách nhiệm, bản lĩnh của cá nhân mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng mà còn là sự chuyển biến trong tình cảm, thái độ, trách
nhiệm của họ đối với đồng chí, đồng đội trong việc giúp đỡ đồng chí, đồng
đội chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, Bộ đội Biên phòng, quy định
của đơn vị, địa phương nơi công tác. Đó còn là tinh thần đấu tranh tự phê
bình và phê bình trong học tập công tác, sinh hoạt của họ; là thái độ đấu
tranh trước các quan điểm, tư tưởng, biểu hiện hành vi sai trái của đồng chí,
đồng đội; không bao che, giấu giếm khuyết điểm; giúp đồng chí, đồng đội
thấy được cái sai cần phải đấu tranh loại bỏ, cái đúng cần phải bảo vệ từ đó
124
tích cực hóa nhân tố chủ quan của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của bản thân và của đồng chí,
đồng đội một cách hiệu quả nhất.
Có thể thấy rằng, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nhận thức và giải
quyết trong đó có vấn đề đặt ra giữa yêu cầu cao về phát huy nhân tố chủ
quan với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo động lực mạnh mẽ
thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của họ hiện nay.
125
Kết luận chương 3
Trong những năm qua, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc có những
ưu điểm nổi bật là: Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của của hạ sĩ quan,
binh sĩ được nâng cao và ngày càng hoàn thiện; tình cảm đối với sự nghiệp
bảo vệ biên giới quốc gia, với biên cương Tổ quốc và địa bàn biên giới ngày
càng sâu sắc; niềm tin đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia được
củng cố vững chắc hơn; hạ sĩ quan, binh sĩ có ý chí quyết tâm ngày càng
cao. Sự hòa quyện biện chứng giữa tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí về
bảo vệ biên giới quốc gia tạo thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ,
trở thành sức mạnh chính trị tinh thần to lớn, thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ
kiên cường bám trụ nơi biên giới, sẵn sàng vượt qua khó khăn, gian khổ,
nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới, ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam
- Trung Quốc vẫn còn những hạn chế nhất định. Những ưu điểm và hạn chế
của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc do cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan đưa đến, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Thực trạng trên rút ra một số vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay như: giữa yêu cầu, nhiệm
vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng cao với những khó khăn, bất cập
trong quá trình phát triển; chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục,
huấn luyện, rèn luyện đặt ra yêu cầu cao với trình độ nhận thức hạn chế và
thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ; yêu cầu phát huy nhân tố chủ
quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng đặt ra ngày càng cao với
tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ. Giải quyết tốt
các vấn đề này sẽ tạo động lực mạnh mẽ thôi thúc họ trong phát triển ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia đúng hướng, hiệu quả góp phần quan trọng bảo vệ
vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
126
Chương 4
GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN Ý THỨC BẢO VỆ BIÊN GIỚI
QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG
BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY
4.1. Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện,
rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
4.1.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể đối với công
tác giáo dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp
vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện
quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là nhóm giải pháp cơ
bản, nền tảng, quan trọng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ
sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay. Trong đó, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các chủ thể đối với công tác này là giải pháp quan trọng hàng đầu.
Thực chất của giải pháp này là phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện nhằm tạo sự thống nhất, đồng thuận cao và sức mạnh
tổng hợp để nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện xây dựng phẩm
chất, đạo đức cách mạng và trang bị kiến thức, kỹ năng, năng lực toàn diện về
bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Chủ thể công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện gồm nhiều tổ chức,
cá nhân, cơ quan, đơn vị tham gia vào công tác giáo dục, huấn luyện, rèn
luyện từ tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, cơ quan
chức năng các cấp, đến người lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ quản lý, cán bộ
trực tiếp làm công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện, cán bộ làm công tác
bảo đảm và chủ thể là bản thân hạ sĩ quan, binh sĩ những người vừa là đối
tượng vừa là chủ thể của quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng.
Để công tác giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân
sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đạt chất lượng, hiệu quả
cao đòi hỏi cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của từng chủ thể.
127
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với các cấp ủy, tổ chức
đảng các cấp trong Bộ đội Biên phòng.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo
đối với công tác giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự,
nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng
các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy đồn biên phòng cần chú trọng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chủ động xây dựng nghị quyết lãnh
đạo chuyên đề về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia; xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là khâu đột
phá trong công tác lãnh đạo của đơn vị. Tăng cường giáo dục, quán triệt nghiêm
túc các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy cấp trên; hướng dẫn của cơ quan
chính trị các cấp trong Bộ đội Biên phòng liên quan đến giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Trên cơ sở đó xây dựng nghị quyết
lãnh đạo của cấp mình cho phù hợp, tập trung vào các khâu yếu, mặt yếu để đề
ra các chủ trương, biện pháp cụ thể, sát hợp với thực tế đơn vị và đối tượng giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phân công, phân nhiệm
cụ thể đối với từng cấp ủy viên. Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán
bộ, đảng viên nhất là vai trò của người đứng đầu, người chủ trì về chính trị, chủ
trì về quân sự, các đảng ủy viên, chi ủy viên ở đồn biên phòng.
Hai là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tổ chức chỉ huy các
cấp trong Bộ đội Biên phòng.
Tổ chức chỉ huy các cấp nhất là Ban chỉ huy đồn biên phòng cần nâng
cao năng lực tổ chức quản lý, chỉ huy điều hành công tác giáo dục chính trị,
pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng. Muốn vậy, phải không ngừng nâng cao nhận thức, trách
nhiệm bằng việc chủ động, tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi
mặt nhất là trình độ chuyên môn nghiệp vụ; trình độ quản lý bộ đội. Chủ động
quán triệt và cụ thể hóa nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng cấp
mình bằng kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sát
với thực tiễn đơn vị, địa bàn và tổ chức thực hiện chặt chẽ, hiệu quả. Giải
quyết tốt các mối quan hệ trong đơn vị nhất là quan hệ phối hợp công tác giữa
128
người chỉ huy với chính ủy, chính trị viên. Kết hợp chặt chẽ công tác giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện với các mặt công tác khác của đồn biên phòng một
cách đồng bộ, hiệu quả. Quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cần phát
huy tốt quy chế dân chủ, kịp thời nắm bắt tư tưởng, tình cảm, những khó khăn
vướng mắc từ đó có những giải pháp tháo gỡ. Làm tốt công tác kiểm tra, đánh
giá kết quả, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm; kịp thời biểu dương, động viên,
khen thưởng các tập thể, cá nhân đạt thành tích cao trong giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia.
Ba là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với cơ quan chuyên môn
các cấp trong Bộ đội Biên phòng.
Các cơ quan chuyên môn nhất là cơ quan chính trị, cơ quan tham mưu
cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm phát huy vai trò chức năng tham mưu
trên lĩnh vực chuyên môn của mình để tham mưu cho cấp ủy, người chỉ huy
cấp mình hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới tổ chức thực hiện nghị quyết chuyên
đề, kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh về công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
của cấp trên theo từng nội dung công tác chuyên môn đảm bảo nghiêm túc,
chặt chẽ. Các cơ quan chuyên môn cần làm tốt công tác phối hợp, hiệp đồng
chặt chẽ trong tất cả các khâu, các bước khắc phục tình trạng chồng chéo lẫn
nhau trong hướng dẫn, chỉ đạo, triển khai kế hoạch giữa các cơ quan chức
năng hoặc tình trạng buông lỏng theo dõi, quản lý, kiểm tra, đánh giá đối với
công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của cấp dưới.
Bốn là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với tổ chức quần chúng
(Đoàn cơ sở, Chi đoàn) và Hội đồng quân nhân ở đồn biên phòng.
Cần phát huy vai trò, chức trách nhiệm vụ của từng tổ chức để nâng cao
chất lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự,
nghiệp vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Ban chấp hành chi đoàn,
cán bộ đoàn cần phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên thanh niên
là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong các nhiệm vụ chính trị của đơn vị
trong đó có nhiệm vụ giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Có nội dung, hình thức,
phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho họ phù hợp với đặc điểm tâm
lý tuổi trẻ và chức trách, nhiệm vụ. Phát huy vai trò của Hội đồng quân nhân ở
129
các đồn biên phòng trong phát huy dân chủ ở cơ sở trên các lĩnh vực chính trị,
quân sự, chuyên môn nghiệp vụ, kinh tế và đời sống trong đó có dân chủ trong
công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Qua đó, xây dựng bầu không khí dân
chủ thắm tình đồng chí, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong đơn vị góp
phần nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của đơn vị.
Năm là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng.
Đây vừa là đối tượng nhưng cũng vừa là chủ thể của quá trình giáo dục,
huấn luyện, rèn luyện của chính mình. Hơn ai hết, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng cần nêu cao ý thức trách nhiệm, xác định động cơ, mục đích giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện đúng đắn từ đó ra sức học tập, huấn luyện, rèn luyện thực hiện tốt
kế hoạch, chương trình, nội dung, thời gian giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo
quy định của đơn vị, biến quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện thành quá trình
tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của chính mình đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Do đó, cần thường xuyên tuyên truyền giáo dục cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng thấy được ý nghĩa sự cần thiết, ý nghĩa thiêng liêng, cao cả của nhiệm vụ bảo
vệ biên giới quốc gia; tầm quan trọng của việc phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng đối với kết quả thực hiện, chức
trách nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng nhất là trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị; thấy được tính chất khó khăn phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ
biên giới quốc gia vai trò quan trọng của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong
thực hiện nhiệm vụ này từ đó nêu cao trách nhiệm cá nhân trong mọi hoạt động,
công tác, nhận và hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ được giao.
4.1.2. Đổi mới chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo
dục chính trị, pháp luật và huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
Đây là giải pháp quan trọng trong nhóm giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ của hạ
sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện
nay. Bởi lẽ chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, huấn
130
luyện, rèn luyện trực tiếp quy định vấn đề giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cái gì,
như thế nào và bằng cách thức ra sao cho chủ thể là hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng. Vì vậy, thực hiện tốt giải pháp này cần làm tốt một số nội dung sau:
Một là, thường xuyên cập nhật chương trình, nội dung giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Đây là một nội dung biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Tuy nhiên,
đổi mới chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện không có nghĩa
là thay đổi toàn bộ chương trình, nội dung giáo dục theo quy định của trên mà là
thường xuyên bổ sung, cập nhật những nội dung mới mang tính thời sự bắt kịp
diễn biến, tình hình thế giới, khu vực, thực tiễn đất nước, quân đội, Bộ đội Biên
phòng; tình hình trên các tuyến biên giới nhất là biên giới Việt Nam - Trung
Quốc; yêu cầu, đặc điểm nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia; đặc điểm nhiệm vụ
và địa bàn quản lý, bảo vệ của từng đồn biên phòng; bám sát đời sống công tác,
học tập, sinh hoạt, huấn luyện, chiến đấu của bộ đội nhất là công tác giáo dục,
huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Trên cơ sở chương trình, nội dung giáo dục chính trị, pháp luật do Cơ
quan Chính trị xác định và chương trình, nội dung huấn luyện chiến đấu hằng
năm do Cơ quan Tham mưu xác định thống nhất thực hiện bắt buộc chiếm
80% quỹ thời gian, 20% quỹ thời gian còn lại các đơn vị tự xác định các
chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho phù hợp với thực
tế, tình hình, nhiệm vụ của từng đơn vị và địa bàn quản lý; từng đối tượng
giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tại đơn vị. Thực hiện giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện toàn diện cả về phẩm chất và năng lực toàn diện nhất là năng lực
chuyên môn nghiệp vụ biên phòng cho hạ sĩ quan, binh sĩ theo phương châm
“Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, đồng bộ, chuyên sâu, ứng dụng theo nhiệm
vụ, sát với thực tiễn công tác chiến đấu ở các đồn biên phòng; xử lý nghiêm
các vụ việc vi phạm kỷ luật, gắn với trách nhiệm của người chỉ huy các cấp.
Kết hợp chặt chẽ giữa công tác giáo dục, công tác huấn luyện với công tác rèn
luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ một cách đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả.
131
Hai là, đổi mới, đa dạng hóa hình thức, phương pháp giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Thực hiện phong phú, đa dạng, linh hoạt các hình thức, phương pháp giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng một cách
thiết thực, hiệu quả phù hợp với từng nội dung, đối tượng, điều kiện đơn vị, địa
bàn và sát với thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng hiện nay.
Theo đó, các chủ thể giáo dục, huấn luyện, rèn luyện kết hợp đa dạng,
linh hoạt các hình thức, phương pháp. Kết hợp giữa hình thức, phương pháp
truyền thống với hiện đại; giữa hội trường và thao trường; giữa tại đơn vị và
trên biên giới; giữa trực tiếp và gián tiếp; giữa cơ bản, thường xuyên và đột
xuất theo nhiệm vụ; giữa chung và riêng; giữa giáo dục, huấn luyện, rèn
luyện và tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ. Đa dạng
hóa hình thức tổ chức lớp học cho phù hợp với tổ chức, biên chế và đặc
điểm nhiệm vụ của đồn biên phòng nhất là hạ sĩ quan, binh sĩ công tác ở các
tổ, đội, chốt công tác trên biên giới.
Coi trọng khai thác phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa ở đồn
biên phòng đặc biệt là phòng Hồ Chí Minh, phòng đọc sách, tủ sách đồn biên
phòng, các trang thiết bị huấn luyện hiện có, các thiết bị mô phỏng, sa bàn,
mô hình, học cụ; ứng dụng kỹ thuật công nghệ đặc biệt công nghệ thông tin
vào đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
để tăng cường tính trực quan, sinh động, dễ tiếp thu, lĩnh hội cho người học.
Kết hợp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tại đơn vị với giáo dục thông qua nêu
gương của cán bộ, chỉ huy các cấp, các điển hình tiên tiến và giáo dục lồng
ghép qua các hoạt động tham quan di tích lịch sử truyền thống, giao lưu kết
nghĩa, biểu diễn văn nghệ, các hoạt động về nguồn; các hội thi, hội thao, hội
diễn, các cuộc thi tìm hiểu trực tuyến trên các nền tảng công nghệ để tạo sự
lôi cuốn, hấp dẫn đối với hạ sĩ quan, binh sĩ, khơi dậy tinh thần tự giác học
tập, rèn luyện và chấp hành kỷ luật của họ từ đó nâng cao chất lượng giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Một hình thức, phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện rất quan
trọng không thể thiếu là tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực tiễn
132
bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Thông qua việc giao nhiệm
vụ, đưa họ tham gia trực tiếp vào các hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia ở các
đội, tổ, chốt công tác để cọ xát, tôi luyện củng cố kiến thức đã được trang bị
trước đó đồng thời rèn luyện bản lĩnh, ý chí quyết tâm, sức chịu đựng gian khổ,
tinh thần vượt khó trong mọi điều kiện hoàn cảnh của thực tiễn biên giới.
Ba là, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện ở các đồn biên phòng.
Để đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, pháp luật; huấn
luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ đòi hỏi phải củng cố, kiện toàn đội ngũ
cán bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động này thông qua việc nâng cao số
lượng, chất lượng, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho họ. Kiện toàn về số
lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ này không chỉ góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện mà còn nâng cao chất lượng,
hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đồn biên phòng.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy, chỉ huy
Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh và đồn biên phòng cần coi trọng công tác tạo nguồn
cán bộ, lựa chọn những cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt, có khả năng đáp ứng
tốt yêu cầu nhiệm vụ đưa về các đồn biên phòng để vừa tạo nguồn quy hoạch
cán bộ, kiện toàn tổ chức, biên chế, vừa có đội ngũ cán bộ đủ số lượng, chất
lượng phục vụ công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ở đồn biên phòng. Có kế
hoạch tập huấn, bồi dưỡng cán bộ trực tiếp làm công tác giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện ở đồn biên phòng để cập nhật các nội dung mới, thống nhất về tổ chức,
phương pháp giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ngay từ đầu năm.
Kết hợp công tác tập huấn, bồi dưỡng tại chức ở đơn vị với cử cán bộ đi
học các lớp bổ túc, đào tạo và đào tạo lại để bổ sung nguồn cán bộ và nâng cao
chất lượng cán bộ làm nhiệm vụ giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Đảm bảo tính
ổn định tương đối của đội ngũ này ở các đồn biên phòng có tính đến tính kế
thừa, chuyển giao hợp lý, linh hoạt; đồng thời kiên quyết điều chuyển, thay thế
đối với cán bộ phẩm chất kém, trình độ năng lực và sức khỏe yếu, vi phạm kỷ
luật, pháp luật, uy tín thấp để bổ sung kịp thời đảm bảo số lượng và chất lượng
đội ngũ cán bộ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đề ra.
133
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng.
Đây là một trong những nội dung biện pháp quan trọng trong nâng cao
chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng hiện nay.
Trên cơ sở chương trình, nội dung kế hoạch giáo dục, huấn luyện, rèn
luyện hằng năm của từng cấp; cấp ủy, chỉ huy cấp trên tổ chức kiểm tra,
giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện của cấp dưới trên các khâu, các
bước, cả về nội dung, thời gian, quân số, chất lượng giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện. Kết hợp nhiều hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát như:
giữa thường xuyên, định kỳ và đột xuất; kiểm tra chung theo tập thể và riêng
theo từng cá nhân; cấp trên kiểm tra cấp dưới; kiểm tra chéo giữa các đơn vị
ngang cấp với nhau,... Từ đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm để
kịp thời chấn chỉnh, khắc phục, sửa chữa, bổ sung nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục, huấn luyện, rèn luyện hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đi vào
thực chất, sát thực tế công tác, chiến đấu ở biên giới.
Bên cạnh đó, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng cần làm tốt công tác sơ
kết, tổng kết công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo từng giai đoạn
huấn luyện, năm huấn luyện để đánh giá những ưu điểm đạt được, những
khuyết điểm còn tồn tại, nguyên nhân khách quan, chủ quan, bài học kinh
nghiệm rút ra. Trên cơ sở đó, phát huy những điểm mạnh; chỉ ra những khâu
yếu, mặt yếu cần khắc phục và đề ra phương hướng, biện pháp nâng cao chất
lượng công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của đơn vị vào giai đoạn
huấn luyện, năm huấn luyện tiếp theo.
4.2. Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành
mạnh, bảo đảm chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và tham gia
phát triển kinh tế - xã hội địa bàn biên giới
4.2.1. Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh
Đây là giải pháp quan trọng, trực tiếp tác động thường xuyên đến việc
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng hiện nay. Thực chất giải pháp này là phát huy các giá trị văn hóa tạo
134
lập môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh ở đồn biên phòng nhằm lan tỏa các
giá trị văn hóa tích cực và tạo động lực thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ và
trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Với phương châm “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các
dân tộc là anh em ruột thịt”. Đồn biên phòng là nơi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng hằng ngày, hằng giờ thường xuyên gắn bó sinh hoạt, học tập, công
tác, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,…Môi trường văn hóa đồn biên phòng
biên giới Việt Nam - Trung Quốc là môi trường văn hóa vừa mang những nét
chung của văn hóa quân sự vừa chứa đựng những nét đặc thù của văn hóa
biên cương, biên giới phía Bắc. Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng
tốt đẹp, lành mạnh sẽ tạo dựng những điều kiện thuận lợi cho ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ phát triển giúp họ nhận và hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ chính trị được giao.
Để xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh
cần thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau:
Một là, kế thừa, xây dựng, phát triển và lan tỏa các hệ giá trị văn hóa
truyền thống, xây dựng hệ giá trị văn hóa đồn biên phòng.
Hệ thống giá trị văn hóa truyền thống luôn gắn liền với sự hình thành,
phát triển các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng. Sự tác động của hệ thống các giá trị văn hóa
truyền thống được thực hiện thông qua các quan hệ văn hóa và hoạt động văn
hóa của con người. Ngược lại, quan hệ và hoạt động của con người chỉ trở
thành quan hệ văn hóa, hoạt động văn hóa khi nó mang trong mình những giá
trị văn hóa nhất định. Vì vậy, kế thừa, xây dựng, phát triển, lan tỏa hệ giá trị
truyền thống chuyển hóa đưa chúng trở thành những hệ giá trị văn hóa đồn
biên phòng có ý nghĩa quan trọng xây dựng môi trường văn hóa đồn biên
phòng tốt đẹp, lành mạnh góp phần phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
Phát huy các hệ giá trị văn hóa truyền thống ở đồn biên phòng chính là
hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, hệ giá trị văn hóa truyền thống Quân
135
đội, hệ giá trị văn hóa truyền thống Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị,
truyền thống quê hương địa bàn biên giới.
Hệ giá trị truyền thống văn hóa dân tộc tiêu biểu cần giáo dục cho hạ
sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng như: truyền thống yêu nước, đấu tranh anh
dũng, kiên cường, bất khuất; ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc; truyền
thống đoàn kết, ý thức cộng đồng; truyền thống nhân nghĩa, khoan dung,
trọng nghĩa tình; truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; sự
tinh tế trong ứng xử; trung thực, khiêm tốn, giản dị trong lối sống, v.v.. Đây là
những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc được hun đúc, kết tinh
qua lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc cần được kế thừa, phát huy trong toàn
đơn vị cho phù hợp với đặc điểm hoạt động của Bộ đội Biên phòng và nhiệm vụ
bảo vệ biên giới quốc gia. Những giá trị tốt đẹp đó không chỉ được phát huy, lan
tỏa trong mọi hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt, huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu trong thời bình hiện nay mà ngay cả khi xảy ra chiến tranh,
xung đột biên giới. Giáo dục cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng những giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc cần gắn với giáo dục lịch sử truyền thống vẻ
vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng Việt Nam, đối với quân đội và Bộ đội Biên phòng thông qua những hoạt
động kỷ niệm các sự kiện lịch sử, những ngày lễ lớn hằng năm. Đặc biệt, chú
trọng giáo dục truyền thống bảo vệ biên giới quốc gia của ông cha ta trong lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc trước đây và cả trong giai đoạn hiện nay.
Hệ giá trị văn hóa truyền thống Quân đội, truyền thống Bộ đội Biên
phòng Việt Nam anh hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ biên giới quốc gia. Những giá trị truyền thống tiêu biểu của quân đội ta
đó là: Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Phát
huy những giá trị phẩm chất cách mạng cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ bằng
những hành động và việc làm thiết thực hằng ngày của hạ sĩ quan, binh sĩ
trong học tập, công tác, huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ chính trị để những
giá trị truyền thống cao đẹp đó được phát huy, lan tỏa không ngừng.
136
Giá trị truyền thống cao đẹp của Bộ đội Biên phòng đó là: “Đoàn kết cảnh giác; liêm, chính, kiệm, cần; hoàn thành nhiệm vụ; dũng cảm trước địch; vì nước quên thân; trung thành với Đảng; tận tụy với dân” [, tr. 155 - 156 ], gắn bó với nhân dân và địa bàn biên giới, coi đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt. Tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, gian khổ, hiểm nguy sẵn chiến đấu, hy sinh để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân trong đấu tranh với các hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, các loại tội phạm nguy hiểm và trong phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn ở địa bàn biên giới.
Giáo dục giá trị truyền thống Bộ đội Biên phòng phải gắn với các tấm gương tập thể, cá nhân anh hùng tiêu biểu của Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc qua các thời kỳ trong kháng chiến chống Mỹ, trong chiến tranh biên giới cũng như trong thời kỳ đổi mới với tinh thần “Chỉ biết còn Đảng là còn mình” tiêu biểu như: Tập thể Đồn Biên phòng Pò Hèn, Quảng Đức, Hoành Mô (Quảng Ninh); Đồn Biên phòng Hữu Nghị, Pò Mã (Lạng Sơn); Đồn Biên phòng Đàm Thủy, Tà Lùng (Cao Bằng); Đồn Biên phòng Lũng Cú, Bạch Đích, Săm Pun (Hà Giang); Đồn Biên phòng Lào Cai, Pha Long, Tả Gia khâu (Lào Cai), Đồn Biên phòng Sì Lở Lầu, Ma Lù Thàng (Lai Châu), Đồn Biên phòng Mường Mươn (Điện Biên); các cá nhân anh hùng liệt sĩ Trần Văn Thọ, Trần Văn Nhỏ, Nguyễn Đình Thử, Lê Đình Chinh, Lộc Viễn Tài, Nông Văn Giáp, Lương Minh Năm, v.v.. mãi ngời sáng phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, của người chiến sĩ biên phòng trên tuyến đầu Tổ quốc.
Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong bảo vệ biên giới quốc gia nhằm xây dựng các giá trị văn hóa, môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh cần chú trọng xây dựng cả các giá trị văn hóa vật thể như: xây dựng phòng truyền thống, đài tưởng niệm, tượng đài các anh hùng liệt sĩ tiêu biểu; sưu tầm, trưng bày, giới thiệu các tài liệu, tư liệu, di vật lịch sử gắn liền với tên tuổi của các tập thể, cá nhân anh hùng,… và các giá trị văn hóa phi vật thể đó là lý tưởng chiến đấu cao đẹp, tinh thần chiến đấu mưu trí, anh dũng, gan dạ; tinh thần bền bỉ vượt mọi khó khăn, gian khổ; bản lĩnh ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất; lối sống giản dị; tinh thần lạc
137
quan, niềm tin chiến thắng trước mọi kẻ thù, mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao,… Gắn kết những giá trị văn hóa truyền thống của quân đội, của Bộ đội Biên phòng với những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, truyền thống của địa phương địa bàn biên giới để những giá trị văn hóa đó được nâng tầm giá trị mang bản sắc của văn hóa biên cương. Những phẩm chất sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong hệ giá trị văn hóa đó sẽ làm cho mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng thêm yêu mến, thêm tự hào, thấy được vinh dự và trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ, phát huy trong sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.
Xây dựng hệ giá trị văn hóa đồn biên phòng thông qua việc cụ thể hóa
chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng; chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng dựa trên cơ sở hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc,
Quân đội, Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị và địa phương địa bàn biên
giới.
Đồn biên phòng là đơn vị cơ sở của Bộ đội Biên phòng được Nhà nước
giao quyền thực thi pháp luật trên biên giới, là lực lượng trực tiếp thực hiện
các hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên phạm vi địa bàn được
phân công đảm nhiệm; thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh,
đối ngoại; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự,
an toàn xã hội ở địa bàn biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật,…
Chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng quy định giá trị văn hóa của đồn
biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng.
Theo đó việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng;
chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là những giá trị cơ bản,
tham gia vào thang giá trị hình thành hệ giá trị văn hóa đồn biên phòng. Hệ giá trị
văn hóa đó là: Lý tưởng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia;
lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, quân đội, Bộ đội Biên
phòng; bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu cao; lòng dũng cảm, kiên quyết, mưu
trí, táo bạo không chần chừ do dự trước khó khăn, thử thách thậm chí phải hy sinh
cả tính mạng; ý thức tổ chức kỷ luật cao; tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái;
có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, năng lực chuyên môn nghiệp vụ
138
giỏi; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Muốn vậy, các chủ thể xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng nhất
là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng cần phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của toàn đơn vị; chủ
động, linh hoạt, sáng tạo trong tiếp cận, vận dụng các hệ giá trị văn hóa truyền
thống nhất là các giá trị văn hóa cốt lõi vào các nhiệm vụ, hoạt động cụ thể của
đơn vị; xây dựng các mô hình, các hệ giá trị văn hóa của đồn biên phòng từ đó
định hướng cho các hoạt động hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng, xây dựng môi
trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh góp phần phát triển ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
Hai là, củng cố, phát triển các mối quan hệ lành mạnh, tốt đẹp trong
đơn vị và mối quan hệ giữa đồn biên phòng với địa phương địa bàn biên giới.
Xây dựng hệ thống các quan hệ văn hóa theo chuẩn mực hệ giá trị văn
hóa đồn biên phòng là một trong những nội dung cơ bản, cốt lõi của việc xây
dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh. Ở đồn biên
phòng tồn tại nhiều mối quan hệ xã hội phong phú, đa dạng biểu hiện ở quan
hệ “dọc” giữa lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng lãnh đạo, chỉ huy; quan hệ giữa
cấp trên với cấp dưới; quan hệ cán bộ quản lý và hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc
quyền; quan hệ giữa cá nhân và tổ chức trong đơn vị; quan hệ giữa quân nhân
và tập thể quân nhân, v.v. Cùng các quan hệ “ngang” giữa các tổ chức với
nhau; giữa các tập thể quân nhân với nhau; quan hệ phối hợp công tác giữa
lãnh đạo, chỉ huy đồng cấp; quan hệ đồng chí, đồng đội giữa quân nhân với
nhau trong đơn vị; quan hệ giữa đồn biên phòng với cấp ủy, chính quyền, ban,
ngành, đoàn thể và nhân dân địa phương địa bàn biên giới. Việc giải quyết
các mối quan hệ đó trong sinh hoạt, học tập, huấn luyện, công tác, chiến đấu ở
các đồn biên phòng đã và đang làm cho các giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của quân đội, Bộ đội Biên phòng được gìn giữ, phát huy.
Muốn xây dựng, củng cố, phát triển các mối quan hệ văn hóa tốt đẹp ở
đồn biên phòng phải củng cố, phát triển các mối quan hệ xã hội nói trên đặc
biệt là mối quan lãnh đạo, chỉ huy và phục tùng; giữa cấp trên và cấp dưới;
giữa cá nhân và tập thể; giữa cán bộ, sĩ quan và hạ sĩ quan, binh sĩ ; giữa hạ
139
sĩ quan, binh sĩ với nhau đòi hỏi phải phát huy vai trò của các chủ thể trước
hết là vai trò của cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, sĩ quan đồn biên phòng phải tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng nề nếp chính quy,
quản lý, rèn luyện kỷ luật; duy trì nghiêm điều lệnh, kỷ luật, chế độ quy định
của quân đội, Bộ đội Biên phòng; giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong
đơn vị trên cơ sở điều lệnh quản lý bộ đội và trên tình thương yêu đồng chí,
đồng đội. Đấu tranh chống mọi biểu hiện, hành vi sai trái, lệch chuẩn, vi
phạm pháp luật, kỷ luật nhất là các biểu hiện, hành vi suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống, quan liêu, gia trưởng, quân phiệt, độc đoán
chuyên quyền, mất dân chủ trong đơn vị ảnh hưởng xấu đến bản chất, truyền
thống tốt đẹp của quân đội, Bộ đội Biên phòng và của đơn vị.
Chú trọng xây dựng các tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần
chúng và Hội đồng quân nhân ở đồn biên phòng trong sạch, vững mạnh; phát
huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức với tính cách là chủ thể tích
cực, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, xây dựng bầu không
khí và mối quan hệ dân chủ trong toàn đơn vị; tạo môi trường thuận lợi, quan hệ
đoàn kết, khơi dậy sức sáng tạo của mọi quân nhân và đơn vị thuộc quyền.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, chỉ huy quản lý trực
tiếp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong mọi hoạt động của họ.
Đây là những cán bộ, sĩ quan thường xuyên hằng ngày, hằng giờ gắn bó, sâu
sát đối với hạ sĩ quan, binh sĩ trong sinh hoạt, học tập, huấn luyện, công tác, thực
hiện nhiệm vụ được giao. Hơn ai hết, cán bộ, chỉ huy quản lý trực tiếp hạ sĩ
quan, binh sĩ phải là những người thấu hiểu phẩm chất, trình độ năng lực, suy
nghĩ, tâm tư, tình cảm, thói quen, đặc điểm tâm lý của hạ sĩ quan, binh sĩ thuộc
quyền. Với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cán bộ, chỉ huy quản lý
trực tiếp hạ sĩ quan, binh sĩ cần xây dựng mối quan hệ gần gũi, cởi mở đối với
họ; khơi dậy tiềm năng sáng tạo trong họ, tạo những điều kiện thuận lợi nhất có
thể để họ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao và tự khẳng định mình.
Quan tâm xây dựng, củng cố mối quan hệ giữa đồn biên phòng với
cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương; giữa cán bộ, chiến sĩ đồn biên
phòng với nhân dân địa phương địa bàn biên giới. Là một thành phần của
140
Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ đội Biên phòng cũng từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, hy sinh. Với truyền thống tốt đẹp “đi dân nhớ, ở dân
thương”, “quân với dân như cá với nước”, “quân với dân một ý chí”, cán bộ,
chiến sĩ Bộ đội Biên phòng luôn xác định đồng bào các dân tộc là anh em
ruột thịt, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng địa phương. Sự nghiệp
bảo vệ biên giới quốc gia chỉ có thể hoàn thành khi phát huy được sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của quân dân địa bàn biên giới, xây dựng
biên giới lòng dân, nền biên phòng toàn dân và thế trận biên phòng toàn dân
vững mạnh. Do đó, củng cố mối quan hệ giữa tập thể đồn biên phòng và cán
bộ, chiến sĩ đồn biên phòng với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân địa
phương địa bàn biên giới là yêu cầu cần thiết trong xây dựng, củng cố hệ
thống các quan hệ văn hóa ở đồn biên phòng hiện nay.
Ba là, xây dựng cảnh quan văn hóa đồn biên phòng xanh, sạch, đẹp,
tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia
gắn với xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn biên giới.
Đây là một trong những nội dung quan trọng trong xây dựng môi
trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh góp phần phát triển ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
Để thực hiện tốt vấn đề này, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng cần quán
triệt sâu sắc, triển khai thực hiện tốt các quy định của trên về xây dựng chính quy
nhất là các tiêu chí, tiêu chuẩn xây dựng đồn biên phòng chính quy, mẫu mực,
tiêu biểu trong đó có nội dung về xây dựng cảnh quan đồn biên phòng.
Theo đó, để cảnh quan đồn biên phòng đảm bảo các tiêu chí đẹp, sạch
và xanh cần chú trọng quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống doanh trại, đồn,
trạm thống nhất, khoa học theo quy chuẩn vừa đảm bảo khang trang, đẹp đẽ vừa
đảm bảo tính cơ động, linh hoạt chiến đấu khi có tình huống xảy ra; thiết kế, xây
dựng hệ thống biển, bảng, khẩu hiệu, hình ảnh cổ động khoa học phù hợp, cân
đối hài hòa, đẹp vừa đảm bảo quy định và có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục cao.
Nội dung, khẩu hiệu, hình ảnh tuyên truyền hướng vào các tôn vinh các giá trị
văn hóa truyền thống trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia. Thường xuyên
vệ sinh môi trường doanh trại đồn biên phòng sạch sẽ, kết hợp với tăng gia sản
141
xuất trồng rau, trồng cây ăn quả, hệ thống cây xanh, cây cảnh tạo môi trường
xanh, sạch, đẹp. Cảnh quan văn hóa đồn biên phòng xanh, sạch, đẹp không chỉ
biểu hiện ở nét đẹp của doanh trại, hệ thống bảng, biển, khẩu hiệu, pa-nô, áp
phích hình ảnh tuyên truyền mà nét đẹp đó còn được biểu hiện ở hình ảnh, lễ tiết
tác phong, ứng xử văn hóa hằng ngày của các quân nhân trong đơn vị.
Cùng với xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành
mạnh; các chủ thể ở đồn biên phòng nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng
phải quan tâm đẩy mạnh các hoạt động tham gia xây dựng môi trường văn
hóa ở địa bàn biên giới trong sạch, lành mạnh. Theo đó, cần phát huy vai trò
tham mưu, phối hợp của bộ đội biên phòng trực tiếp là các đồn biên phòng
trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa bàn biên giới nhất là trong
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Tích cực tham
gia xây dựng cảnh quan văn hóa, phát huy vai trò của các thiết chế văn hóa ở
địa bàn biên giới xanh, sạch, đẹp, an toàn, hiệu quả gắn với tôn vinh các giá
trị truyền thống cao đẹp địa phương, những nét đẹp của văn hóa các dân tộc ở
địa bàn biên giới. Phát huy vai trò đội ngũ cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng,
đội ngũ cán bộ biên phòng làm công tác vận động quần chúng, cán bộ biên
phòng tăng cường ở các xã biên giới trong tham gia xây dựng môi trường văn
hóa trong sạch, lành mạnh ở địa bàn biên giới.
Bốn là, tổ chức các hoạt động văn hóa và phát huy vai trò của các
thiết chế văn hóa ở đồn biên phòng.
Các hoạt động văn hóa ở đồn biên phòng khi được tổ chức chặt chẽ, thiết
thực sẽ góp phần định hướng giá trị văn hóa đồn biên phòng một cách đúng đắn,
có ý nghĩa khơi dậy những cảm xúc, tình cảm tốt đẹp, lành mạnh trong mỗi hạ sĩ
quan, binh sĩ; củng cố lòng tự hào vinh dự và trách nhiệm của họ đối với văn hóa
truyền thống bảo vệ biên giới quốc gia; sẽ là biện pháp hiệu quả trong giáo dục
chính trị tư tưởng, bồi đắp tình cảm, củng cố niềm tin, xây dựng thái độ trách
nhiệm, bản lĩnh và ý chí quyết tâm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng qua đó
thúc đẩy sự phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Để đẩy mạnh các hoạt động văn hóa ở đồn biên phòng cần tăng cường
giáo dục nâng cao nhận thức của các chủ thể ở đồn biên phòng về vị trí, vai
142
trò của các hoạt động văn hóa ở đồn biên phòng, xem đây vừa là hoạt động
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng,
vừa là biện pháp thiết thực để xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng
tốt đẹp, lành mạnh. Theo đó, cần đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn
hóa ở đồn biên phòng tạo sân chơi lành mạnh cuốn hút hạ sĩ quan, binh sĩ
như: tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; các
hoạt động kết nghĩa, hoạt động về nguồn, hoạt động thiện nguyện; tham
quan các địa danh lịch sử truyền thống ở địa bàn biên giới; xem biểu diễn
nghệ thuật; giao lưu với các văn nghệ sĩ để tìm hiểu, thưởng thức và trải
nghiệm các loại hình nghệ thuật khác nhau như: ca múa nhạc, văn học, sân
khấu, điện ảnh, kiến trúc, điêu khắc, hội họa,… nâng cao ý thức thẩm mỹ
cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; phối hợp với các tổ chức quần chúng
ở địa phương thành lập và duy trì các câu lạc bộ văn hóa văn nghệ dân gian
như: thơ, ca, hò, vè, dân ca, dân vũ, khiêu vũ thể thao,… tạo sức hấp dẫn, lôi
cuốn hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tham gia và làm phong phú đời sống
tinh thần bộ đội, đem lại giá trị giáo dục sâu sắc.
Xây dựng, hoàn thiện các thiết chế văn hóa đồn biên phòng ngày càng
đầy đủ, đồng bộ, đa dạng, hiện đại; khai thác và phát huy vai trò, hiệu quả
hoạt động của các thiết chế văn hóa theo hướng thỏa mãn ngày càng tốt hơn
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của bộ đội, định hướng cho việc tiếp nhận và
sáng tạo các giá trị văn hóa truyền thống nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay. Đại hội XIII
của Đảng khẳng định: “Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các
nguồn lực văn hóa,…Đổi mới, hoàn thiện các thiết chế văn hóa từ Trung
ương đến cơ sở, bảo đảm hiệu quả” [, tr. 146].
Để xây dựng, hoàn thiện, khai thác và phát huy hiệu của các thiết chế
văn hóa đồn biên phòng trước hết cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các
thiết chế lãnh đạo, chỉ huy trong công tác xây dựng môi trường văn hóa đồn
biên phòng tốt đẹp, lành mạnh. Theo đó, các chủ thể xây dựng đặc biệt là
cấp ủy, chỉ huy Bộ đội Biên phòng các cấp từ cấp Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên
phòng đến cấp đồn biên phòng phải nắm vững các quan điểm, chính sách
143
của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương
9 (Khóa XI) và Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam. Đặc biệt quán triệt và thực hiện tốt Quyết định số 3672/QĐ-BQP ngày
24/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về quy hoạch hệ thống thiết chế
văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025, định
hướng đến năm 2030 và Quy chế tổ chức hoạt động của các thiết chế văn
hóa trong Quân đội do Tổng cục Chính trị ban hành.
Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần
chúng, vai trò của người chỉ huy các cấp với tính cách là thiết chế văn hóa
trong việc cụ thể hóa quan điểm, chính sách của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị
của cấp trên và cấp mình về văn hóa thành các quy chế, quy ước, quy định
trong đơn vị phù hợp góp phần xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành
mạnh ở đồn biên phòng. Phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo, chỉ huy
đơn vị; vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên trong mọi
hoạt động nhằm lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp trong toàn đơn vị tác
động tích cực đến hạ sĩ quan, binh sĩ trong xây dựng môi trường văn hóa đồn
biên phòng và trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Tăng cường đầu tư, nâng cấp, quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả các
thiết chế cơ sở vật chất văn hóa ở đồn biên phòng như: phòng Hồ Chí Minh,
phòng đọc sách, báo, tủ sách đồn biên phòng, hệ thống bảng tin, khẩu hiệu,
truyền thanh nội bộ, âm ly, loa đài, truyền hình, bản tin nội bộ, trang tin điện
tử trên các nền tảng công nghệ internet, mạng xã hội và các thiết chế văn hóa
khác nhằm đa dạng hóa các kênh tuyên truyền, giáo dục; nâng cao số lượng,
chất lượng các tin, bài, các ấn phẩm nội bộ, nhân rộng các điển hình tiên
tiến, người tốt, việc tốt, việc tử tế để lan tỏa các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp; đồng thời đấu tranh, ngăn chặn những văn hóa phẩm độc hại, phản
giá trị, phản văn hóa len lỏi vào đơn vị; định hướng cho hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng trong việc tiếp cận, khai thác, chọn lọc, xử lý thông tin nhất
144
là thông tin trên internet và mạng xã hội.
Đầu tư nâng cấp phòng Hồ Chí Minh, phòng đọc sách, báo, tủ sách đồn
biên phòng bằng ứng dụng các công nghệ hiện đại để tăng tính trực quan sinh
động, tính tương tác, tính hấp dẫn đối với người đọc, người tham quan, tìm
hiểu giúp họ có thể cảm nhận sinh động hơn, sâu sắc hơn về các nhân vật,
hiện vật, các sự kiện lịch sử tạo những tác động tích cực trong quá trình tìm hiểu
các giá trị văn hóa truyền thống; từ đó tác động tích cực vào quá trình phát triển ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Năm là, gắn xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp,
lành mạnh với đấu tranh chống các biểu hiện, hành vi phản văn hóa.
Một trong những nội dung, biện pháp xây dựng môi trường văn hóa
đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh đó là quán triệt và thực hiện tốt quan điểm
“xây” đi đôi với “chống”. Theo đó, song song với việc xây dựng môi trường
văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh cần có các hình thức, biện pháp
hữu hiệu để phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện, hành vi
phản giá trị, phản văn hóa cả trong đơn vị và trên địa bàn biên giới.
Hiện nay, các thế lực thù địch sử dụng nhiều hình thức khác nhau để
tuyên truyền, bôi nhọ, bóp méo, xuyên tạc về các quan điểm, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, xuyên tạc thành quả cách mạng, nói xấu chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, bôi nhọ lãnh tụ; đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập”; đòi “phi chính trị hóa quân đội”; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cổ
vũ cho các phản giá trị, phản văn hóa, các giá trị văn hóa tư sản,… Chúng cố
tình đưa các tài liệu, tờ rơi, ấn phẩm xấu độc len lỏi vào địa bàn biên giới; khai
thác ưu thế kỹ thuật, công nghệ để tuyên truyền như: tuyên truyền qua hệ thống
loa công suất lớn; qua tín hiệu truyền hình, điện thoại di động trên các nền tảng
mạng xã hội như: Facebook, Youtube, Zalo, Blog,… để tác động vào mọi tầng
lớp xã hội trong đó có hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Bên cạnh đó, chức năng, nhiệm vụ của đồn biên phòng nói riêng liên
quan đến các hoạt động quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Các hoạt động kiểm tra, kiểm soát người, phương tiện, hàng hóa qua lại biên
giới; đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, buôn lậu và gian lận thương
145
mại liên quan đến tiền, hàng, các vật chất giá trị khác. Trước tác động của mặt
trái kinh tế thị trường, các thế lực thù địch cũng triệt để khai thác, lợi dụng,
mua chuộc cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng để phục vụ cho các mưu đồ
thâm độc của chúng. Nếu cán bộ, chiến sĩ thiếu bản lĩnh chính trị vững vàng,
suy thoái đạo đức, lối sống sẽ rất dễ bị sa ngã, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Do
đó, kiên quyết phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của các thế lực thù địch, làm trong sạch, lành mạnh môi trường văn
hóa ở đồn biên phòng và địa bàn biên giới, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền
thống trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ đòi hỏi phải tiến
hành thường xuyên, liên tục ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Để đấu tranh có hiệu quả các biểu hiện, hành vi phản giá trị, phản văn hóa
trong đơn vị và trên địa bàn biên giới đòi hỏi phải nâng cao nhận thức trách
nhiệm của các chủ thể nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng; các tổ chức trong
đơn vị; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị
tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ về đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước về xây dựng và phát huy sức mạnh văn hóa con người
Việt Nam, về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở địa
bàn dân cư”; tuyên truyền vạch trần âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế
lực thù địch trên mặt trận tư tưởng - văn hóa; phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống, xây dựng quan hệ văn hóa, hoạt động văn hóa lành mạnh. Kiên quyết
ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện, hành vi quan hệ phản văn hóa, phản tiến bộ, bè
phái, cục bộ, mất đoàn kết, mất dân chủ; các hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật,
vi phạm phẩm chất truyền thống cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.
Phát huy trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
vai trò tiền phong, gương mẫu tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng
viên. Phát huy dân chủ cơ sở ở đồn biên phòng tạo bầu không khí cởi mở,
thắm tình đồng đội. Kết hợp với sức mạnh đoàn kết, sức mạnh của truyền
thống và dư luận xã hội để điều chỉnh nhận thức và hành vi của hạ sĩ quan,
binh sĩ trong các quan hệ văn hóa. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ
kết, tổng kết và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong công tác xây dựng
146
môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh và đấu tranh chống các phản giá trị,
phản văn hóa trong đơn vị và địa bàn biên giới.
4.2.2. Hoàn thiện, bảo đảm chế độ, chính sách phù hợp đối với hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng và tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa bàn biên
giới
Đây là một trong những giải pháp rất quan trọng trong hệ thống các
giải pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng hiện nay. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo tiền đề vật chất
cần thiết và tạo động lực thôi thúc hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng phát
huy tính tích cực, chủ động, tự giác trong mọi hoạt động công tác, sẵn sàng
dấn thân vào những nơi gian khổ, nhận những nhiệm vụ khó khăn phức tạp,
thậm chí hy sinh tính mạng của mình để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ biên
giới quốc gia.
Cơ sở lý luận của giải pháp này xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về vấn
đề con người, vấn đề lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và
lợi ích xã hội,… tạo hệ động lực trong nhận thức và hành động của mỗi cá nhân.
Theo Ph.Ăngghen: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo
đức, thì do đó, cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với
lợi ích của toàn thể loài người” [, tr. 199-200]. Theo Hồ Chí Minh: “Quân đội
mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm” [, tr.
483], đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho
sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được
quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy. Người chỉ rõ:
“Tách rời chính sách và nhiệm vụ ra một đường, và đường lối quần chúng ra
một đường cũng là sai lầm. Tinh thần trách nhiệm là gắn liền chính sách và
đường lối quần chúng, để làm tròn nhiệm vụ” [, tr. 249].
Do đó, trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của
hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
hiện nay đòi hỏi phải có chế độ, chính sách phù hợp và được thực hiện đúng
sẽ tác động tích cực tới nhận thức, thái độ, tình cảm, niềm tin, ý chí của hạ sĩ
147
quan, binh sĩ trở thành động lực thôi thúc họ nỗ lực phấn đấu vươn lên hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ được giao; là chất keo kết dính họ gắn bó với
đơn vị, với bản làng biên giới.
Hiện nay, các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ
được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015, Nghị định 27/2016/
NĐ-CP ngày 06/4/2016 của Chính phủ và Thông tư 95/2016/TT-BQP ngày
28/6/2016 của Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện nghị định này. Theo đó
chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ bao gồm: Chế độ phụ cấp quân
hàm, tiêu chuẩn định mức quân lương, quân trang, điện, nước, doanh cụ và
một số vật chất khác bảo đảm cho sinh hoạt, thực hiện nhiệm vụ; chế độ
khen thưởng; chế độ nghỉ phép; chế độ tuyển sinh cộng điểm ưu tiên; chế
độ trợ cấp xuất ngũ một lần, trợ cấp tạo việc làm, phụ cấp tiền tàu xe, đi
đường,v.v.. Đối với thân nhân hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ được hưởng các
chế độ như: chế độ trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp ốm đau, nằm viện;
được hưởng chế độ bảo hiểm y tế; con đẻ, con nuôi hợp pháp của hạ sĩ quan,
binh sĩ tại ngũ được miễn, giảm học phí theo quy định, v.v.. [].
Đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng ngoài được hưởng chế độ tiền
lương, phụ cấp và các chính sách khác trong Quân đội còn được hưởng phụ cấp
khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp trách nhiệm bảo vệ biên giới trong thời gian
trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới được quy định trong Luật Biên phòng
Việt Nam 2020 và Nghị định 106/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều Luật Biên phòng Việt Nam: Cán bộ, chiến sĩ Bộ
đội Biên phòng ngoài được hưởng chế độ tiền lương, phụ cấp và các chính sách
khác trong Quân đội còn được hưởng phụ cấp trách nhiệm bảo vệ biên giới trong
thời gian trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới [, tr. 3].
Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ đã được Đảng, Nhà nước, quân đội, Bộ đội Biên phòng và các đồn biên phòng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế công tác này vẫn tồn tại những hạn chế, đời sống của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng nói chung hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng
148
còn nhiều khó khăn, vất vả, thiếu thốn nhất là cán bộ, chiến sĩ công tác ở các tổ, đội, chốt công tác trên biên giới. Do đó, để tạo động lực mạnh mẽ hơn nữa đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia cấp ủy, chỉ huy các cấp cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt hơn các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ. Theo đó, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng trước hết là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng về vị trí, ý nghĩa quan trọng của công tác chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ.
Nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia là hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp; là hoạt động đặc thù đòi hỏi sự hao tổn cả về thể chất lẫn tinh thần đặc biệt là trong những tình huống phức tạp, hiểm nguy thậm chí phải hy sinh cả tính mạng của mình vì lợi ích chung của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân. Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là những người thường xuyên, trực tiếp được điều động tham gia thực hiện những nhiệm vụ đó.
Công tác chính sách là một nội dung quan trọng trong các hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội. Các chế độ, chính sách quy định đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ trong thời gian tại ngũ cũng như khi xuất ngũ trở về địa phương có ý nghĩa rất quan trọng. Đây không chỉ là sự ghi nhận, tôn vinh của Đảng, Nhà nước, quân đội, Bộ đội Biên phòng đối với họ mà còn là sự quan tâm, động viên, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần, sự hài hòa giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ tạo động lực to lớn để họ yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị, địa bàn biên giới, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Để thực hiện tốt nội dung này đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong quán triệt và thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ. Trước hết, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng phải nghiên cứu, nắm vững quy định của cấp trên về tiêu chuẩn chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng. Trên cơ sở đó, xây dựng các quy chế, quy định về chế độ, chính sách trong đơn vị cho phù hợp. Phát huy dân chủ ở cơ sở, thông tin kịp
149
thời, đầy đủ các quy định về chế độ, chính sách có liên quan đến quân nhân và gia đình họ từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm về quyền lợi và nghĩa vụ của quân nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Hai là, tổ chức thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách theo quy định; kết hợp hài hòa lợi ích vật chất và tinh thần, lợi ích trước mắt và lâu dài trong thực hiện chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Bên cạnh các tiêu chuẩn, chế độ, chính sách dành cho hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nói chung; hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn được hưởng một số ưu đãi đặc thù do tính chất đặc thù của địa bàn biên giới và đặc thù của nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia quy định. Việc thực hiện các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng là một biện pháp nhằm ưu đãi lao động đặc thù, thiết lập công bằng xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho họ tạo động lực thôi thúc động cơ, ý chí quyết tâm của họ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Trong tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cần quan tâm chăm lo đảm bảo cả về lợi ích vật chất và tinh thần, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và tập thể, lợi ích chung và riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Các tiêu chuẩn chế độ, chính sách cần thực hiện nghiêm túc, triệt để, kịp thời, công khai, minh bạch không để xảy ra hiện tượng chậm chễ, bớt xén, thiếu hụt, lãng phí trong tổ chức thực hiện nhất là các tiêu chuẩn chế độ về quân lương, quân trang, phụ cấp quân hàm, phụ cấp khu vực, tiền tàu xe, phụ cấp đi đường, trợ cấp khó khăn,… Nắm bắt tư tưởng, quan tâm động viên, chia sẻ, giúp đỡ những quân nhân và thân nhân của họ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Khen thưởng, động viên, khích lệ, tôn vinh kịp thời, thỏa đáng các tập thể, cá nhân có thành tích cao trong thực hiện nhiệm vụ được giao nhất là trong những nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm. Thường xuyên làm tốt công tác có kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các chế độ, chính sách trong đơn vị. Kết hợp việc thực hiện các chế độ, chính sách với tổ chức các hoạt động tăng gia sản xuất cải thiện đời sống bộ đội.
150
Ba là, phát huy vai trò cơ quan chính sách, cán bộ làm công tác chính sách các cấp trong Bộ đội Biên phòng và vai trò của đồn trưởng, chính trị viên đồn biên phòng.
Cơ quan chính sách và cán bộ làm công tác chính sách các cấp trong
Bộ đội Biên phòng cần quán triệt, nắm vững các chế độ, chính sách của Đảng,
Nhà nước, Quân đội có liên quan đến bản thân và thân nhân của hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng; chủ động tham mưu kịp thời cho cấp ủy, chỉ huy xác định các
chủ trương, biện pháp, kế hoạch thực hiện ở cấp mình và hướng dẫn cấp dưới tổ
chức thực hiện đúng, đủ, kịp thời không để xảy ra sai sót, vi phạm. Thường
xuyên cập nhật các chủ trương, chính sách mới để thông tin kịp thời và hướng
dẫn thực hiện, duy trì nghiêm chế độ báo cáo thỉnh thị, kịp thời chấn chỉnh, khắc
phục các hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện chế độ, chính sách của các
đơn vị trực thuộc. Có hình thức biểu dương khen thưởng, động viên các tập thể,
cá nhân làm tốt công tác chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ. Quan tâm tổ chức
tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác chính sách cho đội ngũ cán
bộ làm công tác chính sách đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; xác định rõ chức trách,
nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, cá nhân từng cấp trong tổ chức thực hiện các
chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Phát huy vai trò của đồn trưởng, chính trị viên đồn biên phòng trong tổ
chức thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng. Muốn vậy, phải phân công, phân nhiệm rõ ràng; thực hiện tốt mối
quan hệ phối hợp công tác trong tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách đối
với hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ đảm bảo thống nhất, nhịp nhàng,
thông suốt. Lãnh đạo, chỉ đạo Hội đồng quân nhân thực hiện và phát huy dân
chủ trên các mặt để các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ được
triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.
Bốn là, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương phát huy
sức mạnh của các tổ chức, các lực lượng trong thực hiện chính sách đối với
hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng cần phối hợp chặt chẽ
với cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp; phát huy vai trò của các tổ chức,
151
doanh nghiệp, các lực lượng ở địa bàn biên giới trong thực hiện chế độ, chính
sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và thân nhân của họ cả trong thời gian tại ngũ
và khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương; quan tâm cả về vật chất
và tinh thần; ưu tiên trong tuyển sinh, tuyển dụng, khám chữa bệnh, trợ cấp học
nghề, xây dựng nhà ở, tạo việc làm, hỗ trợ vay vốn, mở rộng sản xuất, kinh
doanh đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho hạ sĩ quan, binh sĩ và thân
nhân của họ; tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các công dân đã hoàn thành
xuất sắc nghĩa vụ quân sự trở về địa phương,... Động viên thăm hỏi thân
nhân, gia đình hạ sĩ quan, binh sĩ khi gặp khó khăn, hoạn nạn, ốm đau, từ
trần hoặc các ngày lễ, tết trong năm. Làm tốt vấn đề này sẽ là nguồn động
viên, khích lệ rất lớn đối với hạ sĩ quan, binh sĩ; là niềm vinh dự, tự hào của
người công dân khi hoàn thành nghĩa vụ đối với Tổ quốc; là hình thức tuyên
truyền, giáo dục hiệu quả để các công dân khác trong độ tuổi nhập ngũ tiếp
tục đăng ký, tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng tham gia bảo vệ
vững chắc biên giới quốc gia.
Năm là, bổ sung một số chế độ, chính sách đãi ngộ đối với hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ phù hợp với điều kiện của địa
phương, đơn vị.
Hiện nay, các chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
mặc dù đã được luật hóa tại các điều, khoản trong các văn bản luật, nghị
định, thông tư, hướng dẫn của các cấp. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động,
biến đổi không ngừng, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, của địa bàn
biên giới cũng có nhiều đổi thay; do đó, có những chế độ, chính sách đối với
hạ sĩ quan, binh sĩ chưa theo kịp tình hình, trở nên lạc hậu cần được bổ sung,
hoàn thiện cho phù hợp.
Trước hết, các cơ quan chính sách, cán bộ làm công tác chính sách các
cấp trong Bộ đội Biên phòng, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng trong quá trình
tổ chức triển khai thực hiện các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng cần kịp thời phát hiện các khó khăn, bất cập nảy sinh; rà soát
các văn bản, hướng dẫn thực hiện có những nội dung lạc hậu, không còn phù
hợp với thực tế đơn vị, địa bàn, đối tượng để tổng hợp, kiến nghị, đề xuất lên
152
cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung, ban hành cho phù hợp hơn. Các chế
độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng và thân nhân của họ
phải được thể chế hóa thành pháp luật thông qua hệ thống các văn bản quy
phạm phạm luật, có điều, khoản có tính pháp lý cao và phải được thực hiện
thống nhất, tránh tùy tiện, duy ý chí của từng địa phương, đơn vị.
Thực hiện dân chủ hóa trên mọi lĩnh vực hoạt động của đồn biên phòng
cả về quân sự, chuyên môn, chính trị và kinh tế đời sống một cách đầy đủ, toàn
diện bảo đảm cho hạ sĩ quan, binh sĩ có điều kiện kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các tiêu chuẩn chế độ, chính sách của cấp ủy, chỉ huy đơn vị. Phát huy dân
chủ ở cơ sở, tăng cường các hoạt động sinh hoạt dân chủ, đối thoại, chất vấn, bảo
đảm cho hạ sĩ quan, binh sĩ thực sự được biết, được bàn, được làm, được kiểm
tra và được thụ hưởng. Phát huy vai trò, trách nhiệm, sức mạnh tổng hợp của các
tổ chức, cá nhân, các lực lượng cả trong đơn vị, địa phương địa bàn biên giới và
địa phương có quân nhân nhập ngũ trong quán triệt, tổ chức thực hiện các chế
độ, chính sách theo quy định của Nhà nước, Quân đội và bổ sung các chế độ,
chính sách phù hợp với kiều kiện, khả năng của từng địa phương, đơn vị.
Sáu là, tích cực tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội địa bàn
biên giới.
Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt
đẹp, lành mạnh, bảo đảm các chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc với đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, củng cố quốc phòng, an
ninh và đối ngoại ở địa bàn biên giới có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng vật
chất tinh thần cho sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia nói chung, việc hình
thành, phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nói riêng. Đây chính là vận dụng
đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức vào giải quyết mối
quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; phát
huy sức mạnh tổng hợp của các chủ thể trong bảo vệ biên giới quốc gia; tạo nền
tảng vật chất cần thiết và tạo ra hệ động lực cơ bản nhằm thúc đẩy tính tích cực
xã hội, thúc đẩy sự nỗ lực chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng
153
biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong bảo vệ biên giới quốc gia
Thực hiện tốt yêu cầu này, đòi hỏi các chủ thể thuộc Bộ đội Biên phòng
đặc biệt là hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc phải luôn đề cao trách nhiệm, làm tốt công tác vận động quần chúng,
tích cực tham mưu, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở vững mạnh, củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở địa
bàn biên giới; giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề bức xúc nảy sinh
trong đời sống nhân dân; quan tâm chăm lo đến lợi ích và giải quyết tốt những
quyền lợi chính đáng của nhân dân. Kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức, biện
pháp tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân bằng những việc làm thiết
thực, cụ thể của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng; kết hợp giữa trang bị
kiến thức, nâng cao nhận thức với các chương trình hành động, phong trào
thực tiễn để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa bàn biên giới.
4.3. Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
4.3.1. Phát huy tính tích cực, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia hiện nay
Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với quá trình
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn
biên phòng hiện nay. Bởi lẽ, mọi hoạt động của con người đều chịu sự
quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong mối
quan hệ đó nhân tố chủ quan bên trong chủ thể giữ vai trò trực tiếp, đặc
biệt quan trọng. Mọi giải pháp khác chỉ có hiệu quả khi khơi dậy, phát
huy được vai trò nhân tố chủ quan của chủ thể đặc biệt là tính tích cực, tự
giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Phát huy tính năng động chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ trong việc tích
cực tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ là
quá trình chuyển hóa các điều kiện, yêu cầu, khả năng khách quan thành nhu cầu
tự thân phát triển của chính họ; biến quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
thành quá trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. Làm tốt vấn đề này sẽ khơi
154
dậy, huy động tất cả những gì tích cực nhất thuộc về chủ thể hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
Tính năng động chủ quan của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
trong việc tích cực tự tu dưỡng, rèn luyện phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia là cơ sở nâng cao sức mạnh nội lực khơi dậy tính chủ động, sự nỗ
lực cố gắng vươn lên của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình này, là nền
tảng nâng cao năng lực nhận thức, góp phần phát triển phẩm chất và năng
lực của họ, là động lực bên trong để họ nắm vững tri thức, bồi dưỡng tình
cảm, niềm tin, rèn luyện thái độ trách nhiệm, xây dựng ý chí quyết tâm, nâng
cao năng lực hoạt động thực tiễn, hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị
chức trách được giao.
Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
là một loại hình của ý thức xã hội thuộc hình thái ý thức chính trị với tính
cách là một phẩm chất chính trị của con người, không tự hình thành và phát
triển mà là kết quả của sự tác động tổng hợp nhiều yếu tố. Đó là quá trình
chuyển hóa biện chứng từ tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia trở thành tình
cảm, niềm tin, ý chí và biểu hiện ra ở thái độ trách nhiệm, bản lĩnh chính trị
và hành vi hoạt động thực tiễn của họ cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ
biên giới quốc gia, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cho lý tưởng
cách mạng của Đảng, của dân tộc. Vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia chỉ phát huy được hiệu quả thực sự khi mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ tiếp nhận
nó một cách tự giác, chủ động, tích cực biến nó trở thành động lực bên trong,
thôi thúc họ nỗ lực phấn đấu, vươn lên, vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm
vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này cần thực hiện tốt một số nội
dung biện pháp cụ thể sau:
Một là, nâng cao chất lượng tuyển chọn nhập ngũ ở các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay
Tuyển chọn nhập ngũ là khâu đầu tiên, là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm hằng năm của các đồn biên phòng nhằm chuẩn bị nguồn lực con
155
người cần thiết cho quá trình giáo dục, huấn luyện, rèn luyện và phát triển ý
thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện
nay. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để phát huy tính tích cực,
tự giác trong ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng. Để nâng cao chất lượng tuyển chọn nhập ngũ ở các đồn biên
phòng cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong công
tác tuyển chọn công dân nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng.
Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng gồm
nhiều tổ chức, lực lượng cùng tham gia như: cấp ủy, chỉ huy các cấp, cơ quan
chức năng, các tổ chức quần chúng của Bộ đội Biên phòng trực tiếp là ở các đồn
biên phòng; cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể các cấp ở địa phương địa
bàn biên giới trực tiếp là cấp xã, phường, thị trấn ở địa bàn biên giới; các gia
đình có công dân trong độ tuổi nhập ngũ và bản thân họ. Trong đó, cấp ủy đảng
các cấp, cơ quan tham mưu, cơ quan chính trị, chính ủy, chính trị viên, người chỉ
huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là ở cấp đồn biên phòng và các cán bộ
quản lý trực tiếp được giao nhiệm vụ thâm nhập tuyển quân có vai trò định
hướng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tuyển chọn nhập ngũ.
Có kế hoạch chủ động làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi
cấp, ngành, mọi người dân nhất là thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ theo luật
định hiểu rõ tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
biên giới quốc gia, quyền và nghĩa vụ, vinh dự và trách nhiệm của công dân.
Các chủ thể cần nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của thanh niên đối với
sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay. Từ đó, hăng hái tham gia làm
tốt các khâu, các bước của quy trình tuyển chọn nhập ngũ; công dân trong độ
tuổi nhập ngũ tích cực, tự giác tham gia nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng;
giáo dục truyền thống và giáo dục pháp luật về nghĩa vụ của công dân đối với
Tổ quốc và sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia.
Công tác giáo dục chính trị, nắm tình hình tư tưởng của công dân trong
độ tuổi nhập ngũ ở địa bàn biên giới có ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua
156
công tác này cấp ủy, chỉ huy, cán bộ trực tiếp làm công tác tuyển quân nắm
được tình hình tư tưởng, mức độ nhận thức chính trị của họ qua đó có những
biện pháp phù hợp để giải thích, động viên, giải quyết kịp thời những vướng
mắc để công dân và gia đình họ hiểu rõ, tự giác, tự nguyện tham gia tuyển
chọn nhập ngũ. Chú trọng tuyên truyền về vị trí, vai trò, ý nghĩa cao cả,
thiêng liêng của nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, vai trò quan trọng của
thanh niên đối với nhiệm vụ này để họ hiểu rằng chỉ có bảo vệ vững chắc độc
lập, biên giới quốc gia mới tạo dựng được môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước, phát triển địa bàn biên giới giàu mạnh.
Kết hợp công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần với công tác giáo dục truyền thống của dân tộc, quân đội, Bộ đội Biên phòng, truyền thống đơn vị, địa phương địa bàn biên giới và của các thế hệ ông cha trong sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia. Từ đó, bồi đắp tình cảm, tình yêu đối với địa bàn biên giới; củng cố niềm vinh dự, tự hào, tự tôn dân tộc, sẵn sàng tiếp bước truyền thống của ông cha bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân địa bàn biên giới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhất là Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015 và các nghị định, thông tư, hướng dẫn thi hành để nhân dân, các gia đình có công dân trong độ tuổi nhập ngũ và bản thân công dân nắm vững các quy định của pháp luật, để họ hiểu rằng tham gia nghĩa vụ quân sự là bắt buộc đối với mọi nam công dân trong độ tuổi luật định; vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của họ; tham gia nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia cũng chính là bảo vệ chính mình, bảo vệ người thân, gia đình, dòng họ, làng xóm, quê hương, đất nước, dân tộc, giai cấp,… Đó là vinh dự và trách nhiệm cao cả của mỗi thanh niên, mỗi công dân đối với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân.
Hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục cần đa dạng, phong phú, linh hoạt; kết hợp giữa hình thức, phương pháp truyền thống với hiện đại; giữa trực tiếp gặp gỡ tại gia đình hoặc tập trung tại các nơi sinh hoạt cộng đồng của địa phương và gián tiếp thông qua các tờ rơi, hệ thống loa truyền thanh, báo, đài, truyền hình của địa phương; qua các hoạt động giao lưu văn
157
hóa, biểu diễn văn nghệ ở địa bàn biên giới; qua các hội thi, hội thao, hội diễn, qua các mạng xã hội Zalo, Facebook, báo điện tử và các nền tảng khác để tuyên truyền, giáo dục cho họ. Từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của họ, tích cực, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự vào Bộ đội Biên phòng đảm bảo cả về số lượng và chất lượng tuyển chọn, đáp ứng chỉ tiêu,yêu cầu tuyển chọn nhập ngũ hằng năm theo kế hoạch.
Thứ ba, thực hiện chặt chẽ, chu đáo, đầy đủ, công khai, dân chủ quy trình tuyển chọn công dân nhập ngũ đúng quy định; làm tốt công tác phối hợp hiệp đồng giữa đồn biên phòng với cấp ủy, chính quyền và các lực lượng có liên quan ở địa bàn biên giới.
Trên cơ sở công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ và kế hoạch, chỉ tiêu tuyển chọn công dân nhập ngũ hằng năm; cấp ủy chỉ huy các cấp xây dựng kế hoạch tuyển chọn công dân nhập ngũ của cấp mình, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện. Quy trình tuyển chọn tiến hành chu đáo, chặt chẽ ở tất cả các khâu, các bước từ khâu thâm nhập địa bàn, gặp gỡ địa phương, gia đình và công dân để nắm được các yếu tố nhân thân của công dân về lý lịch chính trị, đạo đức, học vấn và sức khỏe của họ đến khâu sơ tuyển, khám tuyển, giao nhận quân. Đặc biệt khâu sơ tuyển, khám tuyển công dân nhập ngũ được thực hiện công khai, dân chủ, đúng quy định theo phương châm “ba gặp, bốn biết” và “ba bình cử, bốn công khai” trong quá trình tuyển chọn.
Các đồn biên phòng cần phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể địa phương các cấp nhất là cấp xã, thôn, bản để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và thâm nhập tuyển chọn. Phối hợp chặt chẽ với Ban chỉ huy quân sự cấp huyện và cấp xã ở địa bàn biên giới để triển khai đồng bộ nhịp nhàng các bước tiếp theo của quy trình tuyển chọn công dân nhập ngũ; trên cơ sở chỉ tiêu, số lượng quân nhân đủ điều kiện khám sức khỏe và trúng tuyển nghĩa vụ quân sự nói chung để tuyển lựa những công dân có kết quả sơ, khám tuyển nổi trội trên một số mặt phù hợp với hoạt động công tác bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng như: sức khỏe tốt, lý lịch trong sạch rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, trình
158
độ học vấn tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên, là con em đồng bào đang sinh sống, học tập, công tác ở địa bàn biên giới,… Phối hợp chặt chẽ với địa phương và cơ quan quân sự các cấp trong công tác giao nhận quân đảm bảo chỉ tiêu số lượng đề ra, có chất lượng toàn diện tốt, thực hiện chặt chẽ, đầy đủ các thủ tục giao nhận đúng quy định, không để xảy ra sai sót trong quá trình giao nhận quân.
Thứ tư, tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt các chế độ chính sách đối
với hạ sĩ quan, binh sĩ trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự cũng như
sau khi xuất ngũ nhằm thu hút thanh niên nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng.
Để thu hút công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự chủ động,
tích cực, tự giác đăng ký sơ tuyển, khám tuyển nghĩa vụ quân sự vào Bộ đội
Biên phòng cần đẩy mạnh tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt công tác
chính sách đối với quân nhân và hậu phương quân nhân cả trước, trong và sau
khi quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương.
Bên cạnh các chế độ, chính sách đãi ngộ theo quy định của Nhà nước,
quân đội, các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần tham mưu, phối hợp với cấp ủy,
chính quyền địa phương các cấp ở địa bàn biên giới phát huy các nguồn lực tại
chỗ có thêm những chính sách ưu đãi, thu hút khác để thu hút công dân địa bàn
biên giới nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng, chẳng hạn như: tạo việc làm cho bộ
đội xuất ngũ, ưu tiên quân nhân Bộ đội Biên phòng hoàn thành nghĩa vụ quân sự
về tham gia vào các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương các cấp
nhất là cấp cơ sở địa bàn biên giới; ưu tiên tuyển dụng vào các công ty, doanh
nghiệp ở địa bàn biên giới; ưu tiên hỗ trợ về đất ở, nhà ở; hỗ trợ vốn sản xuất, kỹ
thuật, công nghệ trồng trọt, chăn nuôi; tạo sinh kế, khởi nghiệp giúp đỡ họ sản
xuất làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương địa bàn biên giới.
Làm tốt vấn đề này không chỉ giải quyết tốt bài toán cho bộ đội xuất ngũ,
tạo động lực tích cực thu hút các công dân khác trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ
quân sự hăng hái tham gia nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng mà còn tạo nguồn lực
hùng hậu cho lực lượng dự bị động viên ở địa bàn biên giới cả trước mắt và lâu
dài, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia và xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh địa bàn biên giới vững mạnh.
159
Hai là, phát huy tính tích cực tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện.
Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng vừa là đối tượng giáo dục của
các chủ thể là các tổ chức, các lực lượng, các cá nhân lãnh đạo, chỉ huy, quản
lý, đội ngũ giáo viên kiêm nhiệm theo chương trình, nội dung, kế hoạch hằng
năm theo từng giai đoạn huấn luyện; vừa là chủ thể của chính mình trong quá
trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện theo mục tiêu, yêu cầu giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện đề ra. Quá trình công tác ở các đồn biên phòng, họ vừa thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao vừa tham gia giáo dục, huấn luyện chính
trị, pháp luật, quân sự, nghiệp vụ theo chương trình, kế hoạch giáo dục, huấn
luyện hằng năm của đồn biên phòng. Bên cạnh thời gian giáo dục, huấn luyện
theo kế hoạch, chương trình quy định thời gian còn lại dành cho tự giáo dục,
tự huấn luyện, rèn luyện. Thời gian tự giáo dục, tự huấn luyện, rèn luyện
không chỉ bó hẹp ở thời gian tự ôn, tự luyện trong mỗi chủ đề, bài học mà còn
mở rộng ra cả các khung thời gian giáo dục, huấn luyện ngoại khóa.
Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức
bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng cần nâng cao
chất lượng tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ.
Muốn vậy, mỗi hạ sĩ quan, binh sĩ cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò quan
trọng của hoạt động tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện đối với chất
lượng, hiệu quả của quá trình này. Chủ động chọn lựa nội dung, hình thức,
phương pháp tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện phù hợp với trình độ,
khả năng của bản thân để đem lại hiệu quả cao nhất. Chủ động, tận dụng học
ở mọi lúc, mọi nơi; không chỉ học ở giáo viên huấn luyện, mà còn học ở đồng
chí, đồng đội; không chỉ học ở giáo trình, tài liệu giáo dục, huấn luyện mà còn
thông qua các phương tiện truyền thông,... để học tập, cập nhật bổ sung những
kiến thức, kỹ năng còn thiếu hụt cho mình. Tự giáo dục, huấn luyện để hoàn
thiện các phẩm chất nhân cách cần thiết trước hết là phẩm chất nhân cách Bộ
đội Cụ Hồ, nhân cách người chiến sĩ biên phòng ưu tú và nâng cao trình độ tri
thức về mọi mặt nhất là kiến thức, kỹ năng về bảo vệ biên giới quốc gia đáp
ứng với chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ.
160
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm biến nó thành nhu cầu, thói quen hằng
ngày của hạ sĩ quan, binh sĩ; đồng thời gắn với việc xây dựng động cơ, mục
đích học tập, huấn luyện, rèn luyện đúng đắn và lý tưởng chiến đấu cao đẹp
cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tạo động lực thúc đẩy, định hướng thái
độ, hành vi của họ đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp bảo
vệ biên giới quốc gia hiện nay.
Các tổ chức và cá nhân với tư cách là các chủ thể giáo dục, huấn luyện,
rèn luyện ở các đồn biên phòng là người trực tiếp tổ chức và điều khiển hoạt
động tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng, tạo điều kiện và bồi dưỡng phương pháp tự giáo dục, tự huấn luyện, tự
rèn luyện cho họ. Đồng thời, uốn nắn những lệch lạc và kiểm tra, đánh giá kết
quả tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của họ thông qua công tác kiểm tra, giám
sát, đánh giá, nhận xét, rút kinh nghiệm hàng ngày và theo định kỳ. Làm tốt công
tác biểu dương, khen thưởng, động viên, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong
phong trào tự giáo dục, tự huấn luyện, tự quản lý, tự rèn luyện trong toàn đơn vị.
Ngoài ra, lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ quản lý, giáo viên kiêm nhiệm, cán
bộ, đảng viên, sĩ quan đồn biên phòng còn là những tấm gương mẫu mực,
sinh động cho quân nhân về những nhân cách tự giáo dục, tự huấn luyện, tự
rèn luyện nghiêm túc và khoa học. Tuy nhiên, vai trò của giáo dục chỉ là tiền
đề, định hướng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự giáo
dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chứ
không thể thay thế cho hoạt động của chính bản thân họ. Vì vậy, việc biến
quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, huấn luyện thành tự huấn
luyện, rèn luyện thành tự rèn luyện luôn là phương châm chỉ đạo quan trọng
trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Ba là, coi trọng bồi dưỡng phát huy ưu thế tình cảm, niềm tin, ý chí của
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của họ.
Tính tích cực, chủ động, tự giác trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
của hạ sĩ quan, binh sĩ được đẩy mạnh sẽ huy động các yếu tố bên trong họ
161
vận hành làm chuyển hóa các điều kiện, khả năng khách quan trong quá trình
giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tại đồn biên phòng. Do đó, cần làm cho họ
nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng của biên giới quốc gia, niềm vinh
dự, tự hào, quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân đối với nhiệm vụ
bảo vệ biên giới quốc gia. Trên cơ sở đó, thôi thúc họ không ngừng tự giác,
tích cực trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện tiếp thu, lĩnh hội tri thức về bảo
vệ biên giới quốc gia, bồi đắp tình cảm, niềm tin, ý chí của họ về nhiệm vụ
bảo vệ biên giới quốc gia. Có tình cảm đối với nhiệm vụ bảo vệ biên giới
quốc gia, tình cảm với địa bàn và nhân dân biên giới, xác định đồn là nhà, biên
giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt; hạ sĩ quan, binh sĩ sẽ
không thể thờ ơ hay vô cảm trước các hành vi, hoạt động xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ, biên giới quốc gia, trước âm mưu và sự chống phá của các thế lực thù
địch, sự hoành hành của các loại tội phạm ở địa bàn biên giới, từ đó xây dựng
thái độ trách nhiệm, ý chí quyết tâm, đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả
các hành vi, hoạt động xâm phạm đó bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
Khi hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có tình cảm, niềm tin, ý chí sẽ kích
thích tiếp thu, lĩnh hội tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia và ngược lại có tri thức
về bảo vệ biên giới quốc gia toàn diện và sâu sắc sẽ bồi đắp tình cảm, củng cố
niềm tin, nâng cao ý chí quyết tâm cho họ giúp họ hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao một cách chủ động, tích cực, tự giác. Chính vì vậy, quá trình phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ cần coi
trọng bồi dưỡng phát huy ưu thế của tình cảm, niềm tin, ý chí của họ cùng với tính
tích cực, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng sẽ góp phần phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.
Bốn là, gắn hoạt động tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện với hoạt động
thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng.
Đây là con đường, biện pháp quan trọng để phát triển ý thức bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay.
162
Thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia luôn vận động, biến đổi không
ngừng. Tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc diễn biến phức tạp, khó
lường. Hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, xây dựng tường rào biên
giới, xây bờ kè nắn chỉnh dòng chảy sông, suối biên giới của nước đối diện;
hoạt động xâm canh, xâm cư; xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; hoạt động móc
nối, thu thập tin tức, tình báo của phía đối diện có chiều hướng gia tăng. Công
tác đấu tranh chống các loại tội phạm ở địa bàn biên giới cũng nảy sinh nhiều
vấn đề mới phức tạp cả về quy mô, tính chất, mức độ nguy hiểm và thủ đoạn
tinh vi của nó làm cho nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia càng thêm khó
khăn, phức tạp hơn.
Cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức giáo dục cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nắm được âm mưu
phương thức và thủ đoạn hoạt động của địch và các loại đối tượng; chủ
trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa bàn
biên giới; chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; nhiệm vụ của Bộ đội
Biên phòng và đối sách đấu tranh với từng loại đối tượng xâm phạm biên giới
quốc gia. Nắm chắc tình hình mọi mặt để xây dựng quyết tâm bảo vệ biên
giới sát đúng với thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của đơn vị và kế hoạch của cấp trên để
tổ chức huấn luyện, diễn tập sát thực tiễn địa bàn, đơn vị và đối tượng đấu
tranh nhằm tăng tính thực tiễn và rèn luyện tâm lý, thể lực cho hạ sĩ quan,
binh sĩ đáp ứng những điều kiện chiến đấu khó khăn, phức tạp. Chương trình,
nội dung huấn luyện, diễn tập phải dựa trên những cơ sở khoa học và thực tế,
bảo đảm từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp một cách hợp lý để tăng
dần độ khó, mức độ căng thẳng để rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ.
Vận dụng tổng hợp, linh hoạt các biện pháp công tác biên phòng ở
đồn biên phòng (vận động quần chúng, vũ trang, trinh sát, kiểm soát hành
chính, đối ngoại biên phòng và công trình kỹ thuật); mỗi biện pháp là một
mũi chiến đấu, có đối tượng, lực lượng, phương thức đấu tranh và quy luật
riêng, luôn gắn với yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể. Các biện pháp công tác
luôn hỗ trợ và là tiền đề của nhau, đều thống nhất ở mục đích hoạt động
163
bảo vệ biên giới quốc gia. Tùy tình hình mỗi lúc, mỗi nơi mà cấp ủy, chỉ
huy đơn vị triển khai từng biện pháp riêng lẻ hoặc nhiều biện pháp cùng
một lúc. Nhưng nhìn tổng thể các biện pháp công tác trên phải được triển
khai đồng bộ, toàn diện trong từng đơn vị.
Trên cơ sở các biện pháp công tác, yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng địa
bàn, đơn vị, phẩm chất và năng lực của từng hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng tổ chức giao nhiệm vụ cho hạ sĩ quan, binh sĩ
thuộc quyền để họ có cơ hội cọ xát với thực tiễn từ đó rèn luyện ý chí, bản lĩnh
chiến đấu, rút ra những bài học kinh nghiệm, điều chỉnh nhận thức và hành động
của mình, nâng cao kỹ năng tự giáo dục, tự huấn luyện, tự rèn luyện của bản
thân từ đó góp phần phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng ngày càng đi vào thực chất và hiệu quả hơn.
4.3.2. Tăng cường khả năng tự chuyển hóa ý thức thành hành vi hoạt
động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa then chốt đối với quá trình
phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên
phòng hiện nay. Bởi lẽ, mặc dù ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng có vai trò quan trọng đối với nhiệm vụ bảo vệ
biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng nhưng sẽ là vô nghĩa, vô giá trị nếu
như ý thức đó chỉ tồn tại trong tinh thần, tư tưởng của họ mà không được
bộc lộ, biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động cách mạng, bằng hành vi hoạt
động bảo vệ biên giới quốc gia của chính họ.
Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng
nặng nề, phức tạp, khó dự báo đòi hỏi ngày càng cao đối với cán bộ, chiến sĩ
Bộ đội Biên phòng nói chung, hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nói riêng về
năng lực hoạt động thực tiễn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Đây được coi là yếu tố cơ bản, chủ yếu làm chuyển hóa ý thức thành hành vi
hoạt động thực tiễn bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Tăng cường khả năng tự chuyển hóa ý thức thành hành vi hoạt động
bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng thực chất là
tăng cường các yếu tố về bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu, ý chí quyết
164
tâm; trình độ tổ chức, năng lực thực hành và khả năng vận dụng tri thức
quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên phòng vào thực tiễn chiến đấu, công tác ở
địa bàn biên giới của họ.
Một là, xây dựng bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu, ý chí quyết
tâm cao cho hạ sĩ quan, binh sĩ.
Xây dựng bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm cao là
nội dung biện pháp cơ bản có vai trò định hướng, chỉ đạo các biện pháp khác
trong nâng cao năng lực thực tiễn thực hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng góp phần làm chuyển hóa ý thức thành hành vi
hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của họ.
Bản lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chính là toàn
bộ nhận thức, tình cảm và hành vi chính trị đã phát triển đạt tới trình độ tự
giác, tạo nên năng lực làm chủ về chính trị của họ. Thể hiện ở sự vững vàng
kiên định về chính trị của họ trước những biến động của tình hình thế giới,
khu vực, trong nước; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của đảng, của hệ
thống chính trị trước hết là sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đơn vị, sự
vững mạnh của hệ thống chính trị cơ sở địa bàn biên giới; không hoang mang,
dao động trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình.
Nâng cao bản lĩnh chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ chính là làm cho họ
luôn kiên định, vững vàng trước mọi âm mưu, phương thức, thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch, vững tin vào lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, vượt mọi
khó khăn, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Do đó, phải tăng
cường các hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức chính trị cho họ; đa dạng
hóa các hình thức, phương pháp giáo dục chính trị; kết hợp chặt chẽ giữa giáo
dục và tự giáo dục để phát huy tính tích cực, sáng tạo của họ để nâng cao
nhận thức chính trị. Từ nhận thức chính trị đó, hình thành cho họ thái độ
chính trị đúng đắn, sự tin tưởng, sự trung thành đối với Đảng, Nhà nước, quân
đội và Bộ đội Biên phòng; đồng thời thường xuyên quan tâm tới các vấn đề
chính trị cả quốc tế và trong nước, không thờ ơ, bàng quan; có chính kiến, lập
trường quan điểm chính trị rõ ràng trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta. Nhận thức
165
chính trị, thái độ chính trị đúng đắn sẽ thúc đẩy hành vi chính trị của họ trong
thực tiễn từ lời nói, cử chỉ, hành động có liên quan đến những vấn đề chính
trị, lập trường, giai cấp trong học tập, sinh hoạt, công tác, thực hiện nhiệm vụ
của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Vấn đề này đòi hỏi phải phát huy vai trò của các chủ thể giáo dục nhất là
cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng, đội ngũ cán bộ, đảng viên đồn biên phòng trong
việc định hướng chính trị, hỗ trợ hoạt động tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện bản
lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ cùng với sự nỗ lực, chủ động, tự giác của họ
tạo sự thống nhất giữa nhận thức, thái độ, hành vi chính trị để khẳng định tính chủ
thể chính của hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Quản lý chặt chẽ, đánh giá đúng hoạt động tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện bản
lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ không chỉ giúp định hướng chính trị đúng đắn
mà còn kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện, hành vi chính trị sai
trái, lệch chuẩn, bảo đảm tính đúng đắn của quá trình tự giáo dục, huấn luyện, rèn
luyện bản lĩnh chính trị của hạ sĩ quan, binh sĩ ở các đồn biên phòng hiện nay.
Xây dựng tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm là một nội dung quan
trọng của những con người hoạt động ở lĩnh vực quân sự, trong chiến đấu. Tinh
thần chiến đấu, ý chí quyết tâm liên quan trực tiếp đến thành, bại của trận đánh,
trong đối mặt với các đối tượng đấu tranh nguy hiểm, phức tạp và đặc biệt hơn
trong chiến tranh hiện đại, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao; trong đấu
tranh với các loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm ở địa bàn biên giới như tội phạm
ma túy, buôn lậu, mua bán người,… Điều này càng đòi hỏi bản lĩnh, tinh thần
chiến đấu, ý chí quyết tâm rất cao mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì thế xây
dựng tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng
là yêu cầu tất yếu trong nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn cho họ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia đặt ra.
Để xây dựng tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm cao cho hạ sĩ quan,
binh sĩ lãnh đạo, chỉ huy đồn biên phòng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
chặt chẽ công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện cho hạ sĩ quan, binh sĩ đơn
vị trong đó tăng cường các nội dung, thời gian huấn luyện thực hành và thục
luyện hợp lý; coi trọng huấn luyện ứng dụng theo nhiệm vụ, sát với thực tế
166
chiến đấu, sát với tình hình, đối tượng tác chiến, địa bàn biên giới và tổ chức,
biên chế, vũ khí trang bị của đồn biên phòng. Tăng cường các các hoạt động
diễn tập chuyển trạng thái bảo vệ biên giới từ thấp lên cao; các phương án chiến
đấu bảo vệ đồn, trạm; giả định các tình huống chính trị, tình huống đấu tranh xảy
ra ở địa bàn biên giới, các sự kiện xâm phạm biên giới; truy quét, đánh bắt tội
phạm để hạ sĩ quan, binh sĩ có điều kiện tham gia luyện tập, rèn luyện sát với
thực tế chiến đấu trên biên giới. Quá trình huấn luyện, rèn luyện là quá trình học
tập nghiêm túc, căng thẳng, gian khổ, tác động toàn diện đến tâm lý, tư tưởng,
tình cảm và sức chịu đựng của hạ sĩ quan, binh sĩ để xây dựng cho họ có bản
lĩnh, tâm lý vững vàng và tinh thần chiến đấu cao sẵn sàng “vượt nắng, thắng
mưa” say sưa luyện tập, phấn đấu giành kết quả cao nhất.
Kết hợp với phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, xây dựng môi trường văn
hóa đồn biên phòng để hạ sĩ quan, binh sĩ bộc lộ vai trò chủ thể trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao. Khi hạ sĩ quan, binh sĩ có động cơ, trách nhiệm
và quyết tâm cao trong giáo dục, huấn luyện, rèn luyện sẽ làm cho họ có khả năng
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ nhất là các nhiệm
vụ chiến đấu. Ngoài ra, cần quản lý, khai thác hiệu quả các vũ khí trang bị hiện có
đồng thời đề nghị bổ sung, nâng cấp các vũ khí, trang bị, phương tiện hiện đại và
đào tạo sử dụng chúng vừa đem lại hiệu quả huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ cao
nhất vừa củng cố niềm tin chiến đấu cho hạ sĩ quan, binh sĩ giải quyết tốt mối
quan hệ con người và vũ khí trong sức mạnh chiến đấu của đơn vị.
Hai là, nâng cao trình độ năng lực vận dụng tri thức quân sự, pháp
luật, nghiệp vụ biên phòng vào thực tiễn chiến đấu, công tác ở địa bàn biên
giới của hạ sĩ quan, binh sĩ.
Đây là nội dung biện pháp quan trọng trong nâng cao năng lực thực
hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng góp phần làm
chuyển hóa ý thức thành hành vi hoạt động bảo vệ biên giới quốc gia của họ. Tri
thức quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên phòng nhất là các tri thức kỹ thuật, chiến
thuật, nghiệp vụ biên phòng và khả năng vận dụng các tri thức này vào thực tiễn là
một trong những yếu tố cấu thành năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ bảo vệ
biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
167
Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có động cơ, thái độ, trách nhiệm, có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt nhưng thiếu tri thức quân sự, pháp luật,
nghiệp vụ biên phòng nhất là các tri thức kỹ thuật, chiến thuật, nghiệp vụ biên
phòng và khả năng vận dụng các tri thức này vào thực tiễn công tác ở địa bàn
biên giới sẽ không thể hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Vì vậy,
bên cạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị,
tinh thần chiến đấu, ý chí quyết tâm phải coi trọng trang bị tri thức toàn diện
về quân sự, pháp luật, nghiệp vụ biên phòng và khả năng vận dụng các tri
thức đó vào thực tiễn công tác cho hạ sĩ quan, binh sĩ.
Lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhất là cấp ủy, huy
đồn biên phòng cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này, trên cơ sở đó lãnh đạo,
chỉ đạo các tổ chức, các lực lượng, cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền ở đồn biên
phòng tổ chức thực hiện. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các đồn biên phòng bên
cạnh việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện để trang bị kiến thức toàn diện về quân sự, pháp
luật, nghiệp vụ biên phòng cho hạ sĩ quan, binh sĩ phải hướng dẫn họ cách
thức, biện pháp luyện tập, rèn luyện thành kỹ năng, kỹ xảo; hướng dẫn cách
thức, biện pháp chuyển hóa kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo ấy thành hành động
thực tiễn một cách linh hoạt, sáng tạo vào từng nhiệm vụ, từng tình huống
chiến đấu, từng hình thức chiến thuật của Bộ đội Biên phòng thông qua kiến
thức, kinh nghiệm huấn luyện, kinh nghiệm công tác, chiến đấu của chính đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ quản lý, cán bộ, sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp ở các tổ, đội công tác của đồn biên phòng.
Nâng cao năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ của hạ sĩ quan, binh
sĩ đồn biên phòng, tích cực hóa nhân tố chủ quan của họ trong vấn đề này
không chỉ tăng cường huấn luyện, rèn luyện trang bị tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
cho họ mà còn phải kết hợp rèn luyện nâng cao thể lực, sức khỏe của họ, tăng
tính bền bỉ, dẻo dai, khả năng thích ứng, chịu đựng được điều kiện khắc
nghiệt, khó khăn, gian khổ của địa hình, khí hậu thời tiết nơi biên giới, của
môi trường hoạt động công tác chiến đấu đầy thử thách, nguy hiểm, hy sinh
168
của Bộ đội Biên phòng. Để có được đội ngũ hạ sĩ quan, binh sĩ có nền tảng sức
khỏe, thể lực tốt đảm đương nhiệm vụ cấp ủy, chỉ huy các đơn vị phải lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện tốt ngay từ khâu tuyển chọn nhập ngũ, bên cạnh điều kiện về
chính trị, đạo đức, văn hóa, học vấn còn phải có sức khỏe tốt thông qua sơ, khám
tuyển ban đầu. Trên nền tảng đó, tăng cường các hoạt động thể dục, thể thao,
luyện tập võ thuật biên phòng, hội thi, hội thao quân sự và các hình thức huấn
luyện, rèn luyện thể lực khác để nâng cao sức khỏe cho họ. Kết hợp rèn luyện
thể lực với công tác chăm sóc sức khỏe y tế, công tác hậu cần cải thiện chất
lượng đời sống và sức khỏe cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Cấp ủy, chỉ huy cấp đồn biên phòng và chỉ huy cấp đội trực thuộc đồn
tăng cường giúp đỡ hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong tự giáo dục, huấn
luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ biên giới quốc gia; chú trọng phát huy tính tích
cực, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ bằng việc tin tưởng và giao nhiệm vụ cho
họ để họ có môi trường điều kiện thuận lợi được cọ xát, rèn luyện trong thực
tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia. Bởi lẽ, thực tiễn chiến đấu
đa dạng, phong phú, phức tạp với nhiều tình huống, điều kiện khác nhau,
muôn hình muôn vẻ; môi trường huấn luyện chiến đấu dù có sát thực tế đến
đâu cũng không thể như giống như môi trường thực tế chiến đấu, không có sự
trải nghiệm nào quý giá hơn trải nghiệm thực tiễn chiến đấu của chính hạ sĩ
quan, binh sĩ đồn biên phòng. Do vậy, cần đưa hạ sĩ quan, binh sĩ Bộ đội Biên
phòng vào thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, các hoạt động bảo vệ biên giới quốc
gia ở đồn biên phòng như: tuần tra biên giới, kiểm soát xuất nhập cảnh; tham
gia xử lý các tình huống, vụ việc nảy sinh trên biên giới; tham gia giữ gìn an
ninh trật tự ở địa bàn biên giới; tham gia truy quét, đánh bắt tội phạm, đấu
tranh chuyên án, xử lý vi phạm hành chính ở địa bàn biên giới,… Thông qua
thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, hạ sĩ quan, binh sĩ
được bổ sung kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm cần thiết đồng thời
nâng cao trình độ khả năng vận dụng, chuyển hóa kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
được huấn luyện, rèn luyện trước đó vào thực tiễn công tác, chiến đấu một
cách linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả nhất.
169
Kết luận chương 4
Phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay là yêu cầu khách
quan của sự nghiệp xây dựng, quản lý, bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia
trong tình hình mới. Quá trình này đòi hỏi phải xây dựng được hệ thống các
giải pháp phù hợp, hiệu quả, có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình thực
tiễn và đặc điểm hạ sĩ quan, binh sĩ.
Để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay, đòi hỏi các chủ
thể cần thực hiện tốt một số nhóm giải pháp cơ bản đó là: Nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị, pháp luật; huấn luyện, rèn luyện quân sự, nghiệp vụ
của hạ sĩ quan, binh sĩ; xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp,
lành mạnh, bảo đảm chế độ, chính sách phù hợp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ và
tham gia phát triển kinh tế - xã hội; phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan,
binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ hiện nay.
Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò khác nhau song có mối quan hệ biện
chứng, thống nhất trong một chỉnh thể, nhằm phát triển ý thức bảo vệ biên
giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng theo mục đích, yêu cầu
đề ra. Trong đó, giải pháp thứ nhất là giải pháp hàng đầu có ý nghĩa nền tảng;
giải pháp thứ hai là giải pháp cơ bản, quan trọng và giải pháp thứ ba là giải
pháp có ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam -
Trung Quốc hiện nay. Do đó, không được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hoá giải
pháp nào, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp nhằm đem lại hiệu quả
thiết thực trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.
170
KẾT LUẬN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án cho thấy,
việc tiếp cận một cách có hệ thống dưới góc độ triết học để làm rõ những vấn
đề lý luận về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc và khảo sát, đánh giá thực trạng
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ, từ đó rút ra vấn đề đặt ra từ thực
trạng; đề xuất giải pháp phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay
là một vấn đề mới, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố;
đồng thời, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung
Quốc có vai trò quan trọng, là lực lượng thường xuyên, trực tiếp thực thi
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng nơi đây. Để hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ trong bảo vệ biên giới quốc gia đòi hỏi cần có
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của họ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt
ra. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức,
tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ ở
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc tạo thành sức mạnh
chính trị - tinh thần để họ hoàn thành tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách, trực
tiếp thực thi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia.
3. Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên
phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chịu sự quy định bởi chất lượng giáo
dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng; điều kiện
kinh tế - xã hội, môi trường văn hóa đồn biên phòng và vai trò nhân tố chủ
quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng. Đây là những nhân tố cơ bản,
thường xuyên, trực tiếp quy định ý thức biên giới quốc gia của họ.
4. Trong những năm qua, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc có mặt
171
tích cực là: Tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của
họ không ngừng nâng cao; tình yêu biên cương, gắn bó với địa bàn biên giới;
tin tưởng vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp; vào sức mạnh,
khả năng thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia; vượt qua khó
khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên,
vẫn còn một số hạn chế nhất định. Những ưu điểm và hạn chế đó do cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ
yếu. Từ thực trạng trên đặt ra một số vấn đề cần phải giải quyết để phát triển
ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng
biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
5. Trên cơ sở nhận thức đúng một số vấn đề lý luận, thực tiễn, luận án đề
xuất các giải pháp cơ bản phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay
một cách thống nhất, chặt chẽ. Các giải pháp có mối quan hệ biện chứng,
thống nhất, mỗi giải pháp có vai trò nhất định đòi hỏi quá trình thực hiện, các
chủ thể cần tiến hành đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo phù hợp nhằm mang lại
hiệu quả thiết thực phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình mới.
172
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hoàng Trọng Thiết (2021), “Tư duy của Đảng về bảo vệ chủ quyền biên giới
quốc gia từ sớm, từ xa và yêu cầu đặt ra đối với Bộ đội Biên phòng hiện
nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 5 (189), tr. 102 - 104.
2. Hoàng Trọng Thiết (2021), “Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới
quốc gia cho thanh niên ở khu vực biên giới”, Tạp chí Lý luận chính trị,
số Chuyên đề quý IV/2021, tr. 78 - 83.
3. Hoàng Trọng Thiết (2022), “Một số nhân tố quy định ý thức bảo vệ chủ
quyền biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng khu vực
biên giới đất liền nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền
thông, Chuyên đề số 1/2022, tr. 89 - 91.
4. Hoàng Trọng Thiết (2022), “Phát huy sức mạnh nhân tố tinh thần trong bảo
vệ chủ quyền biên giới quốc gia trước tác động của toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 26/6/2022.
5. Hoàng Trọng Thiết (2022), “Nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới
quốc gia của Bộ đội Biên phòng trước các thách thức an ninh phi truyền
thống hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, Chuyên đề số
2/2022, tr. 51 - 54.
173
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Đức Anh (2018), Tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc
đến Quốc phòng của Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2013), Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Nguyễn Xuân Bách (2017), Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng cơ sở
chính trị - xã hội khu vực biên giới Tây Bắc Việt Nam hiện nay, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
4. Đỗ Ích Báu (2011), Bộ đội Biên phòng bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới
quốc gia trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương (2018), Nghị quyết của Bộ Chính
trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, số 33-NQ/TW, ngày
28/9/2018, Hà Nội.
6. Bộ Công an (2021), Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
7. Bộ Ngoại giao (2010), Cơ sở khoa học, pháp lý, lịch sử của công tác bảo
vệ, quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc sau phân
giới cắm mốc, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
8. Bộ Ngoại giao (2011), Thống nhất quản lý, bảo vệ hệ thống mốc quốc giới
Việt - Trung sau phân giới cắm mốc, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
9. Bộ Quốc phòng (2016), Thông tư quy định phong, thăng, giáng cấp bậc quân
hàm; bổ nhiệm chức vụ, giáng chức, cách chức; chức vụ tương đương và
cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân
đội nhân dân Việt Nam, số 07/TT-BQP, ngày 26/01/2017, Hà Nội.
10. Bộ Quốc phòng (2016), Thông tư hướng dẫn thực hiện một số Điều của
Nghị định số 27/2016/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chính
phủ quy định một số chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ
phục vụ tại ngũ, xuất ngũ và thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ,
số 95/TT-BQP, ngày 28/6/2016, Hà Nội.
174
11. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư quy định việc thực hiện xuất ngũ đối với
hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân, số
279/TT-BQP, ngày 31/10/2017, Hà Nội.
12. Bộ Quốc phòng (2018), Thông tư quy định tuyển chọn và gọi công dân
nhập ngũ, số 148/TT-BQP, ngày 04/10/2018, Hà Nội.
13. Bộ Quốc phòng (2018), Thông tư quy định về tổ chức và hoạt động của
Hội đồng quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, số 165/TT-
BQP, ngày 01/12/2018, Hà Nội.
14. Bộ Quốc phòng (2019), Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
15. Bộ Tham mưu, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2015), Báo cáo Kết quả
chỉ đạo thực hiện triển khai 03 văn kiện biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
16. Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng (2015), Báo cáo tổng kết 5 năm công
tác quản lý, bảo vệ biên giới tuyến đất liền Việt Nam - Trung Quốc,
Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
17. Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo tình hình vi phạm kỷ
luật, pháp luật, mất an toàn trong Bộ đội Biên phòng năm 2021, Lưu
hành nội bộ, Hà Nội.
18. Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
19. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
huấn luyện chiến đấu năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
20. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (1997), Nghệ thuật bảo vệ biên giới của
Bộ đội Biên phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
21. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2019), Tổng kết 60 năm công tác quản lý bảo vệ
chủ quyền an ninh biên giới (1959-2019), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
22. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2004), Từ điển Biên phòng, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
175
23. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2006), Nghiên cứu xây dựng nền Biên
phòng toàn dân trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
24. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2019), Tổng kết 60 năm công tác vận
động quần chúng bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia của
Bộ đội Biên phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
25. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2012), Chỉ thị về việc tổ chức phong trào kết
nghĩa giữa các cụm dân cư hai bên biên giới, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
26. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng - Viện Chiến lược Quốc phòng (2014), Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Bộ đội Biên phòng ổn định, hội nhập và phát
triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
27. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2016), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ
thị 124-CT/QUTW ngày 31/3/2011 của Quân ủy Trung ương về tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai
đoạn mới (2011 - 2016), Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
28. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2016), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng
năm 2016, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
29. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2017), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng
năm 2017, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
30. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2018), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng
năm 2018, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
31. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2019), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng
năm 2019, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
32. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2020), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng
năm 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
33. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng
năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
34. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2021), Kế hoạch về việc tăng cường công
tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ; chấn chỉnh,
khắc phục tình trạng vi phạm kỷ luật, pháp luật và đảm bảo an toàn
trong Bộ đội Biên phòng, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
176
35. Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng
năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
36. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2021), Báo cáo tổng kết công tác giáo dục chính trị năm 2018, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng. 37. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2021), Báo cáo tổng kết công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2020, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng.
38. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2022), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu năm 2022, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng. 39. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2022), Báo cáo tổng kết
công tác Biên phòng năm 2022, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng.
40. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên (2021), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu năm 2021, Lưu hành nội bộ, Điện Biên. 41. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên (2021), Báo cáo tổng kết
công tác Biên phòng năm 2021, Lưu hành nội bộ, Điện Biên.
42. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2020), Báo cáo tổng kết
công tác Biên phòng năm 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Giang.
43. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2020), Báo cáo tình hình vi phạm kỷ luật, pháp luật, mất an toàn trong Bộ đội Biên phòng năm 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
44. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Hà Giang. 45. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2021), Báo cáo tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị năm 2021, Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn.
46. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2022), Báo cáo tổng kết
công tác Biên phòng năm 2022, Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn.
47. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn
177
giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn. 48. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2017), Báo cáo tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị năm 2017, Lưu hành nội bộ, Lai Châu. 49. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2021), Báo cáo tổng kết công
tác Biên phòng năm 2021, Lưu hành nội bộ, Lai Châu.
50. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Lai Châu. 51. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai (2018), Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới (2013 - 2018), Lưu hành nội bộ, Lào Cai.
52. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai (2021), Báo cáo tổng kết công
tác Biên phòng năm 2021, Lưu hành nội bộ, Lào Cai.
53. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2022), Báo cáo tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị năm 2022, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh. 54. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2022), Báo cáo tổng kết công tác Biên phòng năm 2022, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh. 55. Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2022), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2017 - 2022; phương hướng nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh niên giai đoạn 2022 - 2027, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh.
56. Phạm Hữu Bồng (2003), Nghệ thuật quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia
trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
57. Vũ Xuân Cảnh (2018), Phát triển ý thức chính trị của sinh viên các trường đại học kỹ thuật quân sự trong hội nhập quốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
58. Nguyễn Tuấn Châu (1992), Ông cha ta bảo vệ biên giới, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
178
59. Hoàng Xuân Chiến (2019), “Bộ đội Biên phòng quán triệt, thực hiện Nghị
quyết 33 của Bộ Chính trị (Khóa XII) về Chiến lược bảo vệ biên giới
quốc gia”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 8, tr. 17 - 19.
60. Hoàng Xuân Chiến (2020), “Một số giải pháp góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 945 (7-2020), tr. 73 - 79.
61. Chính phủ (2004), Nghị định Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Biên giới quốc gia, số 140/2004/NĐ-CP, ngày 25/6/2004, Hà Nội. 62. Chính phủ (2014), Nghị định về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 34/2014/NĐ-CP, ngày 29/4/2014, Hà Nội.
63. Chính phủ (2014), Nghị định quy định về Quản lý cửa khẩu biên giới đất
liền, số 112/2014/NĐ-CP, ngày 21/11/2014, Hà Nội.
64. Chính phủ (2015), Chỉ thị về Tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới, số 01/CT-TTg, ngày 09/01/2015, Hà Nội.
65. Chính phủ (2016), Nghị định quy định một số chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ, xuất ngũ và thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ, số 27/2016/NĐ-CP, ngày 06/4/2016, Hà Nội.
66. Chính phủ (2021), Nghị định quy định chi tiết một số điều Luật Biên phòng Việt Nam, số 106/2021/NĐ-CP, ngày 06/12/2021, Hà Nội. 67. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2000), Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới, ngày 25/12/2000, Bắc Kinh.
68. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2009), Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ngày 18/11/2009, Bắc Kinh.
69. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2009), Hiệp định về Cửa khẩu và Quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ngày 18/11/2009, Bắc Kinh.
179
70. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa (2009), Nghị định thư phân giới, cắm mốc biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ngày 18/11/2009, Bắc Kinh.
71. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo tổng kết hoạt động công tác
công tác Đảng, công tác chính trị năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
72. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2019), Báo cáo kết quả công tác giáo
dục chính trị năm 2019, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
73. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo kết quả công tác giáo
dục chính trị năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
74. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2021), Báo cáo kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2021, Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 75. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo kết quả công tác giáo
dục chính trị năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
76. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo kết quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2022, Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 77. Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng (2022), Báo cáo của Cục Chính trị Bộ đội Biên phòng tại Đại hội đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Bộ đội Biên phòng lần thứ XIV (2022 - 2027), Lưu hành nội bộ, Hà Nội. 78. Nguyễn Chí Cường (2020), “Ý thức quốc phòng với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - mâu thuẫn và phương pháp giải quyết”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1 (179), tr. 98 - 100.
79. Nguyễn Bá Dương (2019), Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 80. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
81. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
82. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng nhiệm kỳ 2020 - 2025, Lưu hành nội bộ, Cao Bằng.
180
83. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên (2020), Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên nhiệm kỳ 2020 - 2025,
Lưu hành nội bộ, Điện Biên.
84. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang (2020), Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang nhiệm kỳ 2020 -
2025, Lưu hành nội bộ, Hà Giang.
85. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn (2020), Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn nhiệm kỳ 2020 - 2025,
Lưu hành nội bộ, Lạng Sơn.
86. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu (2020), Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu nhiệm kỳ 2020 - 2025,
Lưu hành nội bộ, Lai Châu.
87. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai (2020), Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2020 - 2025,
Lưu hành nội bộ, Lào Cai.
88. Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh (2020), Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh nhiệm kỳ 2020
- 2025, Lưu hành nội bộ, Quảng Ninh.
89. Nguyễn Mạnh Đông (2021), “Giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ của
Việt Nam: Kết quả và bài học kinh nghiệm”, Tạp chí Cộng sản điện
tử, ngày 14/03/2020.
90. Phan Văn Giang (2016), “Tư duy mới của Đảng về tăng cường sức mạnh quốc
phòng bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới”, Tạp chí Lý luận
Chính trị, số 7, tr. 3 - 7.
91. Lê Xuân Giang (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
của Bộ đội Biên phòng trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
92. Vũ Hồng Hà (2017), Phát triển ý thức đạo đức cách mạng của sĩ quan trẻ
ngành hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
181
93. Trần Trung Hải (2017), “Phát huy truyền thống “Đồn là nhà, biên giới là
quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt” trong thanh niên
Bộ đội Biên phòng hiện nay”, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.
94. Lương Thanh Hân (2016), Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
95. Vũ Văn Hiền (2019), “Góp phần hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 8, tr. 13 - 16.
96. Dương Quang Hiển (2013), Phát triển ý thức quốc phòng của học viên,
sinh viên nước ta hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
97. Trần Hoa (2009), Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia Việt Nam đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.
98. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005),
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
99. Tăng Huệ (2007), Một số vấn đề cơ bản về công tác biên phòng Việt Nam,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
100. Phạm Thị Thanh Huế (2016), Nâng cao chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền, biển đảo cho thanh niên các trường trong Bộ đội Biên phòng, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.
101. Nguyễn Đình Hùng (2007), Phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ Bộ đội Biên phòng trong bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
102. Nguyễn Mạnh Hùng (2019), “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 10, tr. 21 - 23.
103. Nguyễn Mạnh Hưởng (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ nước từ khi
nước chưa nguy, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
104. Đỗ Văn Khương (2016), Bộ đội Biên phòng tỉnh tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
182
105. Lê Văn Kiều (2021), Nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của hạ
sĩ quan, binh sĩ ở Quân chủng Hải quân hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Hà Nội.
106. Hoàng Trọng Lập (2003), Xây dựng cơ sở khoa học phục vụ cho việc xác lập đường biên giới và tăng cường quản lý nhà nước tuyến biên giới Việt-Trung, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, Hà Nội. 107. V.I.Lênin (1913), “Những vấn đề tranh luận: Đảng công khai và những người mác - xít”, V.I.Lênin toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 79 - 110.
108. V.I.Lênin (1913), “Điểm sách: N.A Ru-ba-kin trong rừng sách”, V.I.Lênin toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 130 - 133. 109. V.I.Lênin (1916), “Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết”, V.I.Lênin toàn tập, tập 30, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 21 - 75.
110. V.I.Lênin (1917), “Diễn văn về vấn đề dân tộc tại Hội nghị VII toàn Nga”, V.I.Lênin toàn tập, tập 31, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 534 - 536.
111. V.I.Lênin (1920), “Diễn văn tại Hội nghị mở rộng của công nhân và binh sĩ Hồng quân Khu Rô-gô-giơ-xcơ - Xi-mô-nốp-xki ngày 13 tháng Năm 1920”, V.I.Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 146 - 148.
112. V.I.Lênin (1920), “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 1 - 129. 113. Ngô Xuân Lịch (2019), Xây dựng Quân đội, củng cố Quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
114. Hà Đức Long (2021), “Sức sống Học thuyết của V.I Lênin về bảo vệ Tổ
quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4, tr. 57 - 61.
115. Cao Thượng Lương (1999), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
biên phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
116. Cao Thượng Lương (2015), Biên cương xanh và bộ đội Quân hàm xanh,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
183
117. C.Mác và Ph.Ăngghen (1842), “Nhận xét bản chỉ thị mới nhất về chế độ
kiểm duyệt của Phổ”, C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr. 11 - 45.
118. C.Mác và Ph.Ăngghen (1844), “Gia đình thần thánh hay là phê phán sự
phê phán có tính phê phán chống Bru-nô Bau-ơ và đồng bọn”, C.Mác
và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
1995, tr. 9 - 316.
119. C.Mác và Ph.Ăngghen (1845), “Luận cương về Phoi-ơ-bắc”, C.Mác và
Ph.Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
1995, tr. 9 - 12.
120. C.Mác và Ph.Ăngghen (1845- 1846), “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
1995, tr. 15 - 793.
121. C.Mác và Ph.Ăngghen (1849), “Phong trào đòi hiến pháp đế chế ở Đức”,
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 1993, tr. 151 - 276.
122. C.Mác và Ph.Ăngghen (1858-1859), “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị”, C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 1993, tr. 9 - 225.
123. C.Mác và Ph.Ăngghen (1866), “Những chỉ thị cho các đại biểu của Hội
đồng trung ương lâm thời về một số vấn đề”, C.Mác và Ph.Ăngghen
toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1994, tr. 257 -
270.
124. Vũ Đăng Mạnh (2010), Cơ sở khoa học, pháp lý, lịch sử của công tác
bảo vệ, quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc sau
phân giới, cắm mốc, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
125. Hồ Chí Minh (1924), “Thư gửi đồng chí Pê-tơ-rốp, tổng thư ký Ban
phương Đông”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 284 - 285.
184
126. Hồ Chí Minh (1943), “Nhật ký trong tù”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 303 - 453.
127. Hồ Chí Minh (1947), “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập
5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 269 - 346.
128. Hồ Chí Minh (1950), “Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 355 - 363.
129. Hồ Chí Minh (1951), “Bài nói chuyện tại Trường Chính trị Trung cấp Quân đội ”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 215 - 222.
130. Hồ Chí Minh (1951), “Tinh thần trách nhiệm”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 248 - 250. 131. Hồ Chí Minh (1952), “Bài nói tại Hội nghị cán bộ chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 481 - 485.
132. Hồ Chí Minh (1956), “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 1, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 376 - 380.
133. Hồ Chí Minh (1958), “Đạo đức cách mạng”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 600 - 612.
134. Hồ Chí Minh (1959), “Bài nói tại buổi lễ thành lập công an nhân dân vũ trang”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 153 - 156.
135. Đào Văn Minh (2017), Phát triển ý thức pháp luật của trung đội trưởng bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
136. Nguyễn Hồng Nam (1997), “Giáo dục chính trị tư tưởng, lối sống văn hóa đối với chiến sĩ ở đồn biên phòng - thực trạng và giải pháp”, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.
185
137. Trần Nhật Nam (2014), “Tăng cường xây dựng biên giới đất liền Việt
Nam - Trung Quốc hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển”,
Tạp chí Đối ngoại, Số 4 (54), tr 27 - 30.
138. Trần Nhật Nam (2018), Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của nhân dân các
dân tộc ở khu vực biên giới phía bắc Việt Nam hiện nay, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
139. Vũ Quốc Nam (2017), Phát triển giá trị nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của sĩ
quan các đồn biên phòng hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
140. Vũ Dương Ninh (2010), Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
141. Trần Hữu Phúc (2011), Bảo vệ biên giới quốc gia của Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
142. Lê Văn Quang (2001), Phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã
hội và trong quân đội thời kỳ mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
143. Nguyễn Văn Quang (2007), Ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ
quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
144. Nguyễn Văn Quang (2015), Một số vấn đề về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa từ xa trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
145. Quân ủy Trung ương (2022), Nghị quyết về đổi mới công tác giáo dục và
đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình
mới, số 1657 - NQ/QUTW, ngày 20/12/ 2022, Hà Nội.
146. Quân ủy Trung ương (2022), Nghị quyết về nâng cao chất lượng huấn
luyện giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo, số 1659 -
NQ/QUTW, ngày 20/12/ 2022, Hà Nội.
147. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Biên
giới quốc gia, số 06/2003/QH11, ngày 17/6/2003, Hà Nội.
148. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật nghĩa vụ quân
sự, số 78/2015/QH13, ngày 19/6/2015, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
186
149. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật Biên
phòng Việt Nam, số 66/2020/QH14, ngày 11/11/2020, Hà Nội.
150. Nguyễn Nam Quỳnh (2022), Phát triển niềm tin khoa học của hạ sĩ quan,
binh sĩ vào sức mạnh chiến đấu Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
151. Nguyễn Thái Sinh (2010), Phát triển văn hóa chính trị người sĩ quan
biên phòng trong tình hình mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
152. Nguyễn Thái Sinh (2020), Bộ đội Biên phòng tham gia giáo dục ý thức bảo
vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc cho nhân dân ở khu vực biên
giới, Đề tài khoa học cấp Tổng cục, Hà Nội.
153. Lê Đức Thái (2021), “Bộ đội Biên phòng phát huy vai trò nòng cốt, chuyên
trách quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia”,
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3, tr. 11 - 13.
154. Lê Đức Thái (2022), “Quan điểm của Đảng, Nhà nước về biên phòng và sự
vận dụng trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới
quốc gia hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3, tr. 21 - 23.
155. Hà Sơn Thái (2017), Ý thức dân tộc của thanh niên Quân đội nhân dân
Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Hà Nội.
156. Nguyễn Xuân Thanh (2021), Bộ đội Biên phòng bảo vệ an ninh chính trị
khu vực biên giới phía bắc Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Hà Nội.
157. Phạm Minh Thụ (2014), “Giáo dục ý thức quốc phòng dưới thời Lý,
Trần, Lê”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5, tr. 118 - 120.
158. Nguyễn Quang Thuyên (2016), Bộ đội Biên phòng quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong tình hình
mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
159. Phạm Công Thưởng (2019), Phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
187
160. Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên, 1997), Quá trình dạy - tự học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
161. Vũ Thu Trang (2020), Phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc của học viên các
trường kỹ thuật quân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà
Nội.
162. Phạm Đình Triệu (Chủ biên, 2022), Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ vận động
quần chúng Bộ đội Biên phòng tham gia phòng, chống di, dịch cư tự do ở
các tỉnh biên giới phía Bắc hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
163. Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (2014), Từ điển Bách khoa Quân
sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
164. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
165. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2019), Lý luận và thực tiễn xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
166. Viện Nghiên cứu Trung Quốc (2013), Sự trỗi dậy về sức mạnh mềm của
Trung Quốc và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
167. Viện khoa học xã hội Việt Nam (1993), Đại Việt sử ký toàn thư , Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
168. Viện ngôn ngữ học (2018), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
169. Lê Huy Vịnh (2021), “Tư duy mới của Đảng về tăng cường quốc phòng, an
ninh bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4, tr. 3 - 8.
170. Lê Minh Vụ và Nguyễn Bá Dương (Đồng Chủ biên, 2011), Xây dựng ý thức
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho người dân Việt Nam định hướng và
giải pháp, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
188
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC (Dùng cho Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng)
Để phục vụ nghiên cứu đề tài: “Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay”. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về một số vấn đề dưới đây.
(Nhất trí với phương án nào đồng chí đánh dấu (X) vào ô vuông bên phải. Đồng chí
không phải ghi tên vào phiếu điều tra. Rất mong sự cộng tác của đồng chí.)
1. Theo đồng chí, biên giới quốc gia có quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hay không?
(Chọn 01 phương án)
- Rất quan trọng - Quan trọng - Ít quan trọng - Bình thường - Không quan trọng 2. Theo đồng chí, Bộ đội Biên phòng có vai trò như thế nào trong sự nghiệp bảo
vệ biên giới quốc gia? (Chọn 01 phương án)
- Là lực lượng duy nhất bảo vệ biên giới quốc gia - Là lực lượng tham gia phối hợp - Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách - Khó trả lời 3. Theo đồng chí, hiện nay có cần thiết phải bảo vệ biên giới quốc gia không?
(Chọn 01 phương án)
- Rất cần thiết - Cần thiết - Ít cần thiết - Không cần thiết - Khó trả lời 4. Theo đồng chí, bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay là bảo vệ những gì? (Chọn 01 phương án)
- Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia - Bảo vệ tính uy nghiêm, biểu tượng quốc gia ở biên giới, cửa khẩu, đường biên giới, hệ thống mốc quốc giới, vật đánh dấu đường biên giới - Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa lợi ích quốc gia, tài nguyên, môi trường sinh thái - Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phòng thủ vững chắc khu vực biên giới - Bao gồm tất cả các nội dung trên
189
5. Theo đồng chí, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia có vai trò như thế nào đối với hạ
sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình?
(Chọn 01 phương án)
- Rất quan trọng - Quan trọng - Ít quan trọng - Không quan trọng - Khó trả lời 6. Theo đồng chí, hiện nay có cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới
quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hay không? (Chọn 01 phương án)
- Rất cần thiết - Cần thiết - Ít cần thiết - Không cần thiết - Khó trả lời 7. Theo đồng chí, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia bao gồm những yếu tố nào?
(Chọn 01 phương án)
- Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia - Tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia - Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia - Ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia - Là sự thống nhất hữu cơ của tất cả các yếu tố trên 8. Mức độ hiểu biết của đồng chí về đường lối, quan điểm bảo vệ biên giới
quốc gia của Đảng ta đặc biệt là Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia?
- Biết và nắm chắc nội dung - Biết nhưng không nắm chắc nội dung - Không biết - Khó trả lời 9. Mức độ hiểu biết pháp luật về biên giới quốc gia của đồng chí nhất là Luật Biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam, 03 văn kiện pháp lý ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc? (Chọn 01 phương án) - Biết và nắm chắc nội dung - Biết nhưng không nắm chắc nội dung - Không biết - Khó trả lời 10. Đồng chí hiểu biết và cảm nhận như thế nào về lịch sử, truyền thống của dân tộc, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và đơn vị trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia? (Chọn 01 phương án) - Rất hiểu và rất vinh dự, tự hào - Hiểu và vinh dự, tự hào - Không hiểu và cảm thấy bình thường - Khó trả lời
190
11. Đồng chí cho biết tình cảm của mình đối với địa bàn, nhân dân ở địa bàn
biên giới và nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia? (Chọn 01 phương án)
- Rất yêu mến, rất gắn bó - Yêu mến, gắn bó - Bình thường - Không yêu mến, không gắn bó - Khó trả lời 12. Đồng chí có tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng khi xảy ra chiến tranh, xung đột biên giới? (Chọn 01 phương án)
- Tin tưởng tuyệt đối - Tin tưởng - Ít tin tưởng - Không tin tưởng - Khó trả lời 13. Đồng chí đánh giá thế nào về âm mưu, thủ đoạn và hành vi xâm phạm biên
giới quốc gia hiện nay của các đối tượng? (Chọn 01 phương án)
- Rất thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; phải cảnh giác cao - Thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm nhưng chưa cần phải cảnh giác cao - Không thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; không cần phải cảnh giác - Khó trả lời 14. Đồng chí cho biết mức độ ý chí quyết tâm của đồng chí trong việc sẵn sàng nhận và
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao để bảo vệ biên giới quốc gia hay không?
(Chọn 01 phương án)
- Rất quyết tâm, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ - Có quyết tâm nhưng không sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ - Không quyết tâm, do dự, thoái thác nhiệm vụ - Khó trả lời 15. Theo đồng chí, cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng, cơ quan chức năng và tổ chức quần chúng ở đồn có quan tâm đến phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia cho hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không? (Chọn 01 phương án)
- Rất quan tâm - Quan tâm nhưng không thường xuyên - Ít quan tâm - Không quan tâm - Khó trả lời 16. Đồng chí cho biết lý do mình nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng ?
(Chọn 01 phương án) - Tự nguyện, yêu thích lực lượng Bộ đội Biên phòng và nét đẹp của thiên nhiên, văn hóa, con người địa bàn biên giới - Do người thân, gia đình mong muốn
191
- Do quy định bắt buộc của pháp luật - Lý do khác 17. Theo đồng chí mức độ khó khăn, vất vả trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc như thế nào? (Chọn 01 phương án)
- Rất khó khăn, vất vả nhưng sẽ khắc phục và chắc chắn vượt qua - Rất khó khăn, vất vả, khó vượt qua - Rất khó khăn, vất vả, không thể vượt qua - Khó trả lời 18. Đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân:
- Tiểu học - Trung học cơ sở - Trung học phổ thông - Trung cấp - Cao đẳng, Đại học
- Binh nhất, Binh nhì - Hạ sĩ, Trung sĩ, Thượng sĩ - Đảng viên - Đoàn viên - Sinh ra, lớn lên ở địa bàn biên giới - Sinh ra, lớn lên ở trung du, đồng bằng - Sinh ra, lớn lên ở thành phố, thị xã
Xin chân thành cảm ơn đồng chí!
192
Phụ lục 2
PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
(Dùng cho Cán bộ sĩ quan cơ quan Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh; Cán bộ sĩ quan
chỉ huy đồn biên phòng; Cán bộ sĩ quan cấp đội ở đồn biên phòng)
Để phục vụ nghiên cứu đề tài: “Ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay”. Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về một số vấn đề dưới đây.
(Nhất trí với phương án nào đồng chí đánh dấu (X) vào ô vuông bên phải. Đồng chí
không phải ghi tên vào phiếu điều tra. Rất mong sự cộng tác của đồng chí.)
1. Theo đồng chí, có cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đối
với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hay không? (Chọn 01 phương án)
- Rất cần thiết - Cần thiết - Ít cần thiết - Không cần thiết - Khó trả lời 2. Đồng chí cho biết ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chịu sự quy định của những nhân tố nào? (Tùy chọn phương án)
- Chất lượng tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng - Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ - Môi trường công tác văn hóa đồn biên phòng - Chế độ chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Nhân tố khác 3. Đồng chí cho biết những ưu điểm về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ
sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay là gì?
(Tùy chọn phương án)
- Tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng không ngừng được bổ sung, ngày càng hoàn thiện - Tình cảm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia và địa bàn biên giới ngày càng sâu sắc - Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia được củng cố vững chắc hơn - Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có ý chí quyết tâm cao, kiên cường bám trụ nơi biên giới sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ - Kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ có nhiều chuyển biến tích cực 4. Theo đồng chí, nguyên nhân chủ yếu của những ưu điểm trên là gì? (Tùy chọn phương án)
- Sự quan tâm của cấp ủy, chỉ huy các cấp nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn - Công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được đổi mới về hình thức, phương pháp
193
- Môi trường văn hóa đồn biên phòng được đẩy mạnh xây dựng ngày càng lành mạnh hơn - Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được điều chỉnh, bổ sung phù hợp hơn - Vai trò tích cực, chủ động, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng cao 5. Theo đồng chí, những hạn chế trong ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay là gì? (Tùy chọn phương án)
- Nhận thức về bảo vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng còn đơn giản, chưa đầy đủ. - Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tình cảm yêu mến đối với biên giới quốc gia chưa sâu đậm. - Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa vững chắc. - Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ biên giới quốc gia, hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ thấp 6. Đồng chí cho biết những nguyên nhân chủ yếu của những khuyết điểm trên
là gì? (Tùy chọn phương án)
- Tác động tiêu cực của tình hình thế giới, khu vực, mặt trái của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm ở địa bàn biên giới - Một số cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng nhận thức chưa đúng về vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ - Chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của một số đồn biên phòng chưa cao; công tác quản lý, kỷ luật có mặt lỏng lẻo - Một số đồn biên phòng chưa quan tâm xây dựng môi trường văn hóa, đời sống bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn - Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa tích cực, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện. 7. Đồng chí cho biết sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với công tác phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng hiện nay như thế nào? (Chọn 01 phương án)
- Rất quan tâm - Quan tâm nhưng không thường xuyên - Ít quan tâm - Không quan tâm - Khó trả lời
194
8. Đồng chí đánh giá ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay ở mức độ nào? (Chọn 01 phương án)
- Tốt - Khá - Trung bình - Yếu - Khó trả lời 9. Theo đồng chí, ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn
biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay đang đặt ra những vấn đề gì?
(Tùy chọn phương án) - Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng cao với những khó khăn,
bất cập trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
- Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện yêu cầu cao với khả năng nhận thức hạn chế và thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ - Yêu cầu phát huy nhân tố chủ quan ngày càng cao với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ - Vấn đề khác 10. Theo đồng chí, để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay cần phát triển những yếu tố nào? (Chọn 01 phương án)
- Phát triển tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Phát triển tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Phát triển niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Phát triển ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của họ - Cần phát triển tất cả các yếu tố trên 11. Theo đồng chí, để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay cần thực hiện các giải pháp nào sau đây? (Tùy chọn phương án)
- Nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ - Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh và bảo đảm chế độ chính sách phù hợp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ - Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Giải pháp khác 12. Đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân:
- Cán bộ sĩ quan cơ quan Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh - Cán bộ chỉ huy đồn biên phòng - Cán bộ sĩ quan, nhân viên cấp đội
- Cấp úy - Cấp tá - Trung cấp - Cao đẳng, Đại học - Sau đại học
Xin chân thành cảm ơn đồng chí!
195
Phụ lục 3
TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ ĐỒN BIÊN PHÒNG
- Đơn vị điều tra: Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
- Đối tượng điều tra: Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng - Số lượng điều tra: Tổng 500 phiếu - Thời gian điều tra: Tháng 6,9 năm 2022
1. Đánh giá tầm quan trọng của biên giới quốc gia và bảo vệ biên giới quốc gia
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kết quả
Phương án trả lời
Rất quan trọng Quan trọng Ít quan trọng Bình thường Không quan trọng
Tần suất 386 73 9 10 22
Tỉ lệ % 77,20 14,60 1,80 2,00 4,40
2. Đánh giá vai trò của Bộ đội Biên phòng trong sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia.
Kết quả
Phương án trả lời
Là lực lượng duy nhất bảo vệ biên giới quốc gia Là lực lượng tham gia phối hợp Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách Khó trả lời
Tần suất 50 42 394 14
Tỉ lệ % 10,00 8,40 78,80 2,80
3. Đánh giá sự cần thiết phải bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay.
Kết quả
Phương án trả lời
Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Khó trả lời
Tần suất 406 71 7 4 8
Tỉ lệ % 81,20 14,20 1,40 0,80 1,60
196
4. Đánh giá hiểu biết về nội dung bảo vệ biên giới quốc gia.
Kết quả
Phương án trả lời
Tỉ lệ %
Tần suất
38
7,60
14
2,80
34
6,80
8
1,60
Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia Bảo vệ tính uy nghiêm, biểu tượng quốc gia ở biên giới, cửa khẩu, đường biên giới, hệ thống mốc quốc giới, vật đánh dấu đường biên giới Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa lợi ích quốc gia, tài nguyên, môi trường sinh thái Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phòng thủ vững chắc địa bàn biên giới Bao gồm tất cả các nội dung trên
406
82,40
5. Đánh giá vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đối với hạ sĩ quan,
binh sĩ đồn biên phòng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Kết quả
Phương án trả lời
Rất quan trọng Quan trọng Ít quan trọng Không quan trọng Khó trả lời
Tần suất 382 75 11 22 10
Tỉ lệ % 76,40 15,00 2,20 4,40 2,00
6. Đánh giá sự cần thiết cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc
gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Kết quả
Phương án trả lời
Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Khó trả lời
Tỉ lệ % 75,60 12,80 2,00 3,60 5,20
Tần suất 378 64 10 18 26
7. Đánh giá sự hiểu biết về các yếu tố cấu thành ý thức bảo vệ biên giới quốc gia.
Kết quả
Phương án trả lời
Tỉ lệ % 9,60 8,40 6,00 5,60 70,40
Tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia Tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia Ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia Là sự thống nhất hữu cơ của tất cả các yếu tố trên
Tần suất 48 42 30 28 352
8. Đánh giá mức độ hiểu biết đường lối, quan điểm của Đảng ta về bảo vệ biên
giới quốc gia đặc biệt là Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia.
197
Kết quả
Phương án trả lời
Biết và nắm chắc nội dung Biết nhưng không nắm chắc nội dung Không biết Khó trả lời
Tần suất 362 90 34 14
Tỉ lệ % 72,40 18,00 6,80 2,80
9. Đánh giá mức độ hiểu biết pháp luật về biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng nhất là Luật Biên giới quốc gia, Luật Biên phòng Việt Nam, 03 văn kiện pháp lý ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc
Kết quả
Phương án trả lời
Biết và nắm chắc nội dung Biết nhưng không nắm chắc nội dung Không biết Khó trả lời
Tần suất 374 84 24 18
Tỉ lệ % 74,80 16,80 4,80 3,60
10. Đánh giá mức độ hiểu biết và tự hào của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về lịch sử, truyền thống của dân tộc, Quân đội, Bộ đội Biên phòng, của địa phương và đơn vị trong đấu tranh bảo vệ biên giới quốc gia.
Kết quả
Phương án trả lời
Rất hiểu và rất vinh dự, tự hào Hiểu và vinh dự, tự hào Không hiểu và cảm thấy bình thường Khó trả lời
Tần suất 402 62 16 20
Tỉ lệ % 80,40 10,80 6,40 2,40
11. Đánh giá tình cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ đối với địa bàn, nhân dân ở địa
bàn biên giới và nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.
Kết quả
Phương án trả lời
Rất yêu mến, rất gắn bó Yêu mến, gắn bó Bình thường Không yêu mến, không gắn bó Khó trả lời
Tần suất 418 42 14 12 14
Tỉ lệ % 83,60 8,40 2,80 2,40 2,80
12. Đánh giá niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, sức mạnh chiến đấu và khả năng chiến thắng của Quân đội, Bộ đội Biên phòng khi xảy ra chiến tranh, xung đột biên giới của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Phương án trả lời
Kết quả
198
Tin tưởng tuyệt đối Tin tưởng Ít tin tưởng Không tin tưởng Khó trả lời
Tần suất 404 53 9 16 18
Tỉ lệ % 80,80 10,60 1,80 3,20 3,60
13. Đánh giá của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng về âm mưu, thủ đoạn và
hành vi xâm phạm biên giới quốc gia hiện nay của các đối tượng
Kết quả
Phương án trả lời
Tần suất 390
Tỉ lệ % 78,00
66
13,20
38
7,60
Rất thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; phải cảnh giác cao Thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm nhưng chưa cần phải cảnh giác cao Không thâm độc, tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm; không cần phải cảnh giác Khó trả lời
6
1,20
14. Đánh giá mức độ ý chí quyết tâm trong việc sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao để bảo vệ biên giới quốc gia.
Kết quả
Phương án trả lời
Tỉ lệ %
Tần suất
374
74,80
90
18,00
Rất quyết tâm, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ Có quyết tâm nhưng không sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ Không quyết tâm, do dự, thoái thác nhiệm vụ Khó trả lời
22 14
4,40 2,80
15. Đánh giá về sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với công tác phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Kết quả
Phương án trả lời
Rất quan tâm Quan tâm nhưng không thường xuyên Ít quan tâm Không quan tâm Khó trả lời
Tỉ lệ % 81,60 9,60 2,60 3,20 3,00
Tần suất 408 48 13 16 15
16. Đánh giá về lý do hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng lựa chọn nhập ngũ
vào Bộ đội Biên phòng.
Kết quả
Phương án trả lời
Tự nguyện, yêu thích lực lượng Bộ đội Biên phòng và nét
Tần suất 308
Tỉ lệ % 61,60
199
đẹp của thiên nhiên, văn hóa, con người địa bàn biên giới Do người thân, gia đình mong muốn Do quy định bắt buộc của pháp luật Lý do khác
94 84 14
18,80 16,80 2,80
17. Đánh giá mức độ khó khăn, vất vả trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ở các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng.
Kết quả
Phương án trả lời
Tỉ lệ %
Tần suất
356
71,20
Rất khó khăn, vất vả nhưng sẽ khắc phục và chắc chắn vượt qua Rất khó khăn, vất vả, khó vượt qua Rất khó khăn, vất vả, không thể vượt qua Khó trả lời
100 32 12
20,00 6,40 2,40
18. Thông tin cá nhân
Kết quả
Phương án trả lời
Tỉ lệ % 65,20 34,80 0,80 99,20 0,00 12,40 87,60 0,80 0,00 83,60 11,20 5,20
Binh nhì, Binh nhất Hạ sĩ, Trung sĩ, Thượng sĩ Đảng viên Đoàn viên Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp Cao đẳng, Đại học Sinh ra, lớn lên ở địa bàn biên giới Sinh ra, lớn lên ở trung du, đồng bằng Sinh ra, lớn lên ở thành phố, thị xã
Tần suất 326 174 4 496 0 62 438 4 0 418 56 26
200
Phụ lục 4
TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI CÁN BỘ, SĨ QUAN
- Đơn vị điều tra: Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
- Đối tượng và số lượng điều tra: Tổng 375 phiếu (1): Cán bộ sĩ quan cơ quan Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh (125 phiếu); (2): Cán bộ sĩ quan chỉ huy đồn biên phòng (125 phiếu); (3): Cán bộ sĩ quan cấp đội ở đồn biên phòng (125 phiếu); - Thời gian điều tra: Tháng 6,9 năm 2022
1. Đánh giá sự cần thiết phải phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia đối với
hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Rất cần thiết Cần thiết Ít cần thiết Không cần thiết Khó trả lời
87,20 6,13 3,20 1,87 1,60
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 91,20 4,80 2,40 0,80 0,80
(3) 85,60 5,60 4,00 3,20 1,60
(1) 84,80 8,00 3,20 1,60 2,40
2. Đánh giá về những nhân tố quy định ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)
(3)
(1)
81,07
83,20
82,40
77,60
82,93
84,00
86,40
78,40
80,27
80,80
84,80
75,20
81,60
85,60
88,00
71,20
86,13
87,20
88,80
82,40
Chất lượng tuyển chọn nhập ngũ vào Bộ đội Biên phòng Chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn luyện ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia Môi trường văn hóa đồn biên phòng Chế độ chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Nhân tố khác
1,87
1,60
3,20
0,80
201
3. Đánh giá những ưu điểm về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)
(3)
(1)
88,00
85,60
91,20
87,20
84,00
82,40
88,00
81,60
83,47
83,20
86,40
80,80
88,27
87,20
92,80
84,80
88,80
90,40
89,60
86,40
Tri thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng cao, ngày càng hoàn thiện. Tình cảm hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia và địa bàn biên giới ngày càng sâu sắc. Niềm tin của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới quốc gia được củng cố vững chắc hơn. Hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng có ý chí quyết tâm cao, kiên cường bám trụ nơi biên giới sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ. Kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ có nhiều chuyển biến tích cực
4. Đánh giá nguyên nhân chủ yếu của những ưu điểm.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
(3)
(1)
98,93
100,00
96,80
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 100,0 0
96,00
96,80
98,40
92,80
95,73
95,20
97,60
94,40
90,40
88,80
92,00
90,40
92,53
91,20
99,20
87,20
Sự quan tâm của cấp ủy, chỉ huy các cấp nhất là cấp ủy, chỉ huy đồn. Công tác giáo dục, huấn luyện, rèn luyện được đổi mới về hình thức, phương pháp. Môi trường văn hóa đồn biên phòng được đẩy mạnh xây dựng ngày càng lành mạnh hơn. Chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được điều chỉnh, bổ sung phù hợp hơn Vai trò tích cực, chủ động, tự giác của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng được nâng cao.
202
5. Đánh giá những khuyết điểm về ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)
(3)
(1)
79,73
75,20
89,60
74,40
78,67
76,00
84,80
75,20
77,60
73,60
81,60
77,60
92,80
92,80
98,40
87,20
Nhận thức bảo vệ biên giới quốc gia của một số hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa toàn diện. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng tình cảm yêu mến đối với biên giới quốc gia chưa sâu đậm Niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa vững chắc. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ biên giới quốc gia, hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ thấp.
6. Đánh giá nguyên nhân chủ yếu của những khuyết điểm.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)
(3)
(1)
83,47
73,60
89,60
87,20
85,60
89,60
76,80
90,40
88,80
87,20
91,20
88,00
82,67
76,80
78,40
92,80
97,60
95,20
97,60
100,0 0
Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp tác động tiêu cực của mặt trái của toàn cầu hóa, của kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch; tính chất nhiệm vụ và địa bàn biên giới khó khăn, khắc nghiệt. Một số cấp ủy, chỉ huy đồn biên phòng nhận thức chưa đúng về vai trò của ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ. Chất lượng, hiệu quả giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của một số đồn biên phòng chưa cao, công tác quản lý, kỷ luật có mặt lỏng lẻo. Một số đồn biên phòng chưa quan tâm xây dựng môi trường văn hóa, đời sống bộ đội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Một bộ phận hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng chưa tích cực, tự giác trong tự giáo dục, huấn luyện, rèn luyện
203
7. Đánh giá về sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với công tác phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Rất quan tâm Quan tâm nhưng không thường xuyên Ít quan tâm Không quan tâm Khó trả lời
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 80,80 10,40 7,20 0,80 0,80
(3) 58,40 24,00 9,60 4,80 3,20
(1) 72,80 16,00 8,80 1,60 0,80
70,67 16,8 8,53 2,40 1,60
8. Đánh giá về trình độ ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ
các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tốt Khá Trung bình Yếu Khó trả lời
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2) 73,60 32,00 6,40 0,00 0,00
(3) 66,40 28,80 2,40 0,80 1,60
(1) 64,80 27,20 7,20 0,00 0,80
68,27 29,33 5,53 0,27 0,80
9. Đánh giá những vấn đề đặt ra trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia
của hạ sĩ quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)
(3)
(1)
93,60
92,00
98,40
90,40
93,60
93,60
96,80
90,40
97,07
97,60
99,20
94,40
Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia ngày càng cao với những khó khăn, bất cập trong phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan, binh sĩ. Chương trình, nội dung giáo dục, huấn luyện, rèn luyện yêu cầu ngày càng cao với khả năng nhận thức hạn chế và thời gian tại ngũ có hạn của hạ sĩ quan, binh sĩ. Yêu cầu cao phát huy nhân tố chủ quan với tính thụ động, ngại giáo dục, huấn luyện, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ. Vấn đề đặt ra khác
3,47
1,60
4,80
4,00
10. Đánh giá về các yếu tố để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ quan,
binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
204
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)
(3)
(1)
2,13
0,80
0,80
4,80
2,40
2,40
1,60
3,20
1,60
1,60
0,80
2,40
0,80
0,80
0,80
0,80
Phát triển tri thức về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Phát triển tình cảm về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Phát triển niềm tin về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Phát triển ý chí về bảo vệ biên giới quốc gia của họ Cần phát triển tất cả các yếu tố trên
90,67
94,40
96,00
81,60
11. Đánh giá về các giải pháp để phát triển ý thức bảo vệ biên giới quốc gia của hạ sĩ
quan, binh sĩ các đồn biên phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Phương án trả lời
Tỉ lệ trung bình %
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng % (2)
(3)
(1)
96,80
96,80
99,20
94,40
94,40
95,20
96,00
92,00
98,13
96,80
99,20
94,40
Nâng cao chất lượng giáo dục, huấn luyện, rèn của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Xây dựng môi trường văn hóa đồn biên phòng tốt đẹp, lành mạnh và bảo đảm chế độ chính sách phù hợp đối với hạ sĩ quan, binh sĩ Phát huy nhân tố chủ quan của hạ sĩ quan, binh sĩ đồn biên phòng Giải pháp khác
2,40
95,20
96,00
92,00
12. Thông tin cá nhân
Tỉ lệ đánh giá theo từng đối tượng %
Phương án trả lời
Cấp úy Cấp tá Trung cấp Cao đẳng, Đại học Sau đại học
(1) 48,00 52,00 0,00 94,40 5,60
(2) 9,60 90,40 0,00 96,80 3,20
(3) 92,80 7,20 11,20 87,20 1,60
205
Phụ lục 5
THỐNG KÊ KẾT QUẢ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022
Kết quả (%)
Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%) đạt
2016 20,50 64,20 15,30 0,00
2017 20,70 62,20 17,10 0,00
2018 21,80 61,60 16,60 0,00
2019 21,40 63,10 15,50 0,00
2020 21,10 62,50 16,40 0,00
2021 22,30 65,10 12,69 0,00
2022 23,60 63,30 13,10 0,00
21,63 63,14 15,23 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 84,70% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 82,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 83,40% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,50% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 83,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,40% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 86,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,77 khá, giỏi
(Nguồn: Phòng Chính trị, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)
206
Phụ lục 6
THỐNG KÊ KẾT QUẢ HUẤN LUYỆN QUÂN SỰ CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022
Kết quả (%)
Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%)
đạt
2016 31,70 49,50 18,80 0,00
2017 31,10 51,20 17,70 0,00
2018 32,60 51,40 16,00 0,00
2019 33,20 51,90 14,90 0,00
2020 32,50 50,10 16,40 0,00
2021 35,60 52,30 12,60 0,00
2022 34,30 52,80 12,90 0,00
33,00 51,31 15,69 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 81,20% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 82,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,00% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 85,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 82,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 84,31 khá, giỏi
(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)
207
Phụ lục 7
THỐNG KÊ KẾT QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022
Kết quả (%)
Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%)
đạt
2016 37,80 47,10 15,10 0,00
2017 37,70 49,60 12,70 0,00
2018 35,10 52,50 12,40 0,00
2019 36,20 51,70 12,10 0,00
2020 35,20 51,10 13,70 0,00
2021 38,30 50,40 11,30 0,00
2022 38,10 51,20 10,70 0,00
36,91 50,51 12,57 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 84,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 86,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 88,70% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 89,30% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,42 khá, giỏi
(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)
208
Phụ lục 8
THỐNG KÊ KẾT QUẢ HUẤN LUYỆN NGHIỆP VỤ CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022
Kết quả (%)
Năm Giỏi Khá Đạt Không Tổng hợp theo năm (%)
đạt
2016 34,60 48,50 16,90 0,00
2017 35,70 49,30 15,00 0,00
2018 36,10 51,60 12,30 0,00
2019 37,40 51,20 11,40 0,00
2020 36,60 53,50 9,90 0,00
2021 37,20 52,40 10,40 0,00
2022 37,10 51,80 11,10 0,00
36,39 51,19 12,43 0,00 Trung bình cộng 100% đạt yêu cầu 83,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 85,00% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,70% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 88,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 90,10% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 89,60% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 88,90% khá, giỏi 100% đạt yêu cầu 87,58 khá, giỏi
(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)
209
Phụ lục 9
THỐNG KÊ KẾT QUẢ RÈN LUYỆN KỶ LUẬT CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ NĂM 2016 ĐẾN NĂM 2022
Kết quả (%)
Năm
Tốt Khá Trung bình Yếu
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
Trung bình cộng
(Nguồn: Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)
210
Phụ lục 10
MỘT SỐ PHONG TRÀO HOẠT ĐỘNG VỀ BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ CÁC ĐỒN BIÊN PHÒNG BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
1. Phong trào "Tuổi trẻ Bộ đội Biên phòng tiếp bước cha anh, xứng
danh Bộ đội Cụ Hồ".
2. Phong trào “Bộ đội Biên phòng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”.
3. Phong trào “Bộ đội Biên phòng phát huy truyền thống, giữ vững kỷ
cương, sống có tình thương, đề cao trách nhiệm”
4. Phong trào “Thanh niên xung kích bảo vệ đường biên”, 5. Phong trào “Bộ đội Biên phòng cùng toàn quân chung sức, đồng
lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch Covid - 19”,
6. Phong trào thi đua “Thanh niên Bộ đội Biên phòng xung kích chung
tay, đánh bay Covid - 19”
7. Phong trào “Tuổi trẻ Bộ đội Biên phòng chung sức xây dựng nông
thôn mới”.
8. Phong trào “Tuổi trẻ với mùa xuân nơi biên giới”.
9. Phong trào “Quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ biên giới’ 10. Phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc và
an ninh trật tự xóm, bản khu vực biên giới”
11. Phong trào "Kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới" 12. Phong trào “Thanh niên Bộ đội Biên phòng với văn hóa giao thông” 13. Phong trào “Thanh niên Bộ đội Biên phòng không hút thuốc lá,
không vi phạm pháp luật, kỷ luật”
14. Các cuộc vận động: “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”; “Hành trình
khám phá miền biên giới thiêng liêng hùng vĩ”; “Ngày thanh niên vì biên
cương Tổ quốc”, “Ngày hội tuổi trẻ với biên giới, hải đảo”; “Tháng 3 biên giới”; "Bò giống giúp người nghèo biên giới"; “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới”; “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”; “Xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học cho con em các dân tộc”.
211
15. Các mô hình tiêu biểu: “Thầy giáo quân hàm xanh”; “Thầy thuốc
quân hàm xanh”; “Chiến sĩ văn hóa quân hàm xanh”; “Giúp dân trồng lúa
nước”, “Ánh sáng vùng biên”, “Áo ấm mùa đông biên giới”, “Hũ gạo tình
thương” “Heo đất tiết kiệm”, “Tay kéo biên phòng”; “Nâng bước em tới
trường”, “Tiết học vùng biên”; “Tiếng loa biên phòng”; “Con nuôi đồn biên
phòng”; “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”; “Mỗi tuần một
địa chỉ”, “Mỗi tuần một câu hỏi, một đáp án”, “Mỗi tuần một điều luật”;
“Vượt nắng, thắng mưa, say sưa luyện tập”; “Gian hàng 0 đồng”, “Chuyến xe
nghĩa tình”, “San sẻ yêu thương - chung tay vượt qua đại dịch”; “Đoạn đường
biên, cột mốc thanh niên tự quản”, “Tổ tuần tra thanh niên bảo vệ biên giới”.
16. Chương trình hoạt động: “Xuân Biên phòng, ấm lòng dân bản”;
giao lưu quốc phòng “Biên cương thắm tình hữu nghị”; “Đồn - Trạm hữu
nghị, xây dựng biên giới bình yên”.
17. Sinh hoạt chính trị: “Đảng với thanh niên - Thanh niên với Đảng”;
“Tuổi trẻ Bộ đội Biên phòng sắt son niềm tin với Đảng”; “Tuổi trẻ Bộ đội
Biên phòng tự hào tiến bước dưới cờ Đảng”.
18. Các cuộc thi: “Biên giới, hải đảo trong trái tim tôi”, “Tự hào một
dải biên cương”, “Biên cương Tổ quốc tôi”.
(Nguồn: Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tháng 9/2022)
212
Phụ lục 11
THỐNG KÊ ĐỊA BÀN BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Số thôn, bản
Tổng số dân
Số khẩu
TT
Thành phần dân tộc
Số hộ
Tỉnh biên giới
Số đồn biên phòng
Tổng số
Giáp biên
Tổng số
Số huyện, thị, thành phố giáp biên
Số xã, phường, thị trấn giáp biên
Dân tộc thiểu số
1
2
3
4
5
6
7
Quảng Ninh Lạng Sơn Cao Bằng Hà Giang Lào Cai Lai Châu Điện Biên
Cộng
(Nguồn: Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tháng 9/2022)
Phụ lục 12
THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA
213
CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LAI CHÂU
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM
TT
NỘI DUNG
Đơn vị tính
TỔNG CỘNG
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
1
Vụ
Vi phạm quy chế biên giới
2 Xuất nhập cảnh, cư
Vụ/đối tượng
trú trái phép
3 Buôn lậu
Vụ/đối tượng
4 Ma túy
Vụ/đối tượng
5 Mua bán vật liệu nổ Vụ/đối tượng
6 Mua bán,
vận
Vụ/đối tượng
chuyển tiền giả 7 Mua bán người
Vụ/đối tượng
8
Tội phạm khác
Vụ/đối tượng
9
Vụ/đối tượng
Truyền đạo trái pháp luật
10 Di cư tự do
Hộ/khẩu
11 Xử lý vi phạm hành
Vụ/đối tượng
chính
12 Tổ chức tuần tra biên
giới
13 Tổ chức tuần tra
Lần/lượt người Lần/lượt
214
song phương
14 Làm thủ tục xuất
nhập cảnh
người Lượt người/ lượt ph.tiện
Lần
15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới
Km
16 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới
Chốt/lượt người
17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19 18 Tuyên truyền vận
động nhân dân
Buổi/lượt người
Buổi/lượt người
19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
20 Lao động giúp dân
Ngày công
Triệu đồng
21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 22 Vận động trẻ em đến
Học sinh
trường
23 Nhận đỡ đầu, nhận
Cháu
215
nuôi các cháu đặc biệt khó khăn
Con
24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới
Lượt người
25 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu từ 2016 - 2022)
216
Phụ lục 13
THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LÀO CAI
TT NỘI DUNG
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM
Đơn vị tính
TỔNG CỘNG
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
1 Vi phạm quy chế biên
Vụ
giới
2 Xuất nhập cảnh, cư trú
trái phép
Vụ/đối tượng
3 Buôn lậu
Vụ/đối tượng
4 Ma túy
Vụ/đối tượng
5 Mua bán vật liệu nổ
Vụ/đối tượng
6 Mua bán, vận chuyển
tiền giả
Vụ/đối tượng
7 Mua bán người
Vụ/đối tượng
217
8
Truyền đạo trái pháp luật
Vụ/đối tượng
9 Xử lý vi phạm hành chính
Vụ/đối tượng
10 Tổ chức tuần tra biên giới
Lần/lượt người
11 Tổ chức tuần tra song
phương
Lần/lượt người
Lần
12 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới
13 Làm thủ tục xuất nhập cảnh
Lượt người/lượt phương tiện
km
14 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới
Chốt/lượt người
15 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid-19
16 Tuyên truyền vận động
nhân dân
Buổi/lượt người
218
17 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
Buổi/lượt người
18 Lao động giúp dân
Ngày công
Triệu đồng
19 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…)
20 Vận động trẻ em đến
Học sinh
trường
Cháu
21 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn
Con
22 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới
Lượt người
23 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai từ 2016 - 2022)
219
Phụ lục 14
THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH HÀ GIANG
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM
TT
NỘI DUNG
Đơn vị tính
TỔNG CỘNG
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
1 Vi phạm quy chế
Vụ
biên giới
2 Xuất nhập cảnh, cư
Vụ/đối tượng
trú trái phép
3 Buôn lậu
Vụ/đối tượng
4 Ma túy
Vụ/đối tượng
5 Mua bán vật liệu nổ
Vụ/đối tượng
Vụ/đối tượng
6 Mua bán, vận chuyển tiền giả
7 Mua bán người
Vụ/đối tượng
8
Lấn chiếm biên giới
Vụ
9
Vụ/đối tượng
Truyền đạo trái pháp luật
220
10 Di cư tự do
Vụ/đối tượng
11 Xử lý vi phạm hành
Vụ/đối tượng
chính
12 Tổ chức tuần tra biên
giới
Lần/lượt người
13 Tổ chức tuần tra
song phương
Lần/lượt người
14 Làm thủ tục xuất
nhập cảnh
Lượt người/ lượt phương tiện
Lần
15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới
Km
16 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới
Chốt/lượt người
17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19
18 Tuyên truyền vận động nhân dân
Buổi/lượt người
221
Buổi/lượt người
19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
20 Lao động giúp dân
Ngày công
Triệu đồng
21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…)
22 Vận động trẻ em đến
Học sinh
trường
Cháu
23 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn
Con
24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới
Lượt người
25 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang từ 2016 - 2022)
222
Phụ lục 15
THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH CAO BẰNG
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM
TT
NỘI DUNG
Đơn vị tính
TỔNG CỘNG
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
1 Vi phạm quy chế
Vụ
biên giới
2 Xuất nhập cảnh, cư
Vụ/đối tượng
trú trái phép
3 Buôn lậu
Vụ/đối tượng
4 Ma túy
Vụ/đối tượng
5 Mua bán vật liệu nổ
Vụ/đối tượng
6 Mua bán,
vận
Vụ/đối tượng
chuyển tiền giả
7 Mua bán người
Vụ/đối tượng
8
Lấn chiếm biên giới
Vụ
9
Vụ/đối tượng
Truyền đạo trái pháp luật
223
10 Di cư tự do
Vụ/đối tượng
11 Xử lý vi phạm hành
Vụ/đối tượng
chính
12 Tổ chức tuần tra biên
giới
Lần/lượt người
13 Tổ chức tuần tra
song phương
Lần/lượt người
14 Làm thủ tục xuất
nhập cảnh
Lượt người/ lượt phương tiện
Lần
15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới
Km
16 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới
Chốt/lượt người
17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19
18 Tuyên truyền vận động nhân dân
Buổi/lượt người
224
Buổi/lượt người
19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
20 Lao động giúp dân
Ngày công
Triệu đồng
21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…)
22 Vận động trẻ em đến
Học sinh
trường
Cháu
23 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn
Con
24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới
Lượt người
25 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng từ 2016 - 2022)
225
Phụ lục 16
THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LẠNG SƠN
TT
NỘI DUNG
Đơn vị tính
2016
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM 2019
2020
2018
2021
2017
2022
TỔNG CỘNG
1 Vi phạm quy chế biên giới 2 Xuất nhập cảnh, cư trú
trái phép 3 Buôn lậu
4 Ma túy
5 Mua bán vật liệu nổ
6 Mua bán, vận chuyển
tiền giả
7 Mua bán người
8
Truyền đạo trái pháp luật
9 Xử lý vi phạm hành
chính
10 Tổ chức tuần tra biên
giới
11 Tổ chức tuần tra song
Vụ Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Lần/lượt người Lần/lượt
226
phương
người
Lần
12 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới
13 Làm thủ tục xuất nhập
cảnh
Lượt người/lượt phương tiện
km
14 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới 15 Tổ, chốt tuần tra, kiểm chống phòng,
Chốt/lượt người
soát Covid-19
16 Tuyên truyền vận động
nhân dân
Buổi/lượt người Buổi/lượt người Ngày công
Triệu đồng
17 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật 18 Lao động giúp dân 19 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 20 Vận động trẻ em đến
Học sinh
trường
21 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi
Cháu
các cháu đặc biệt khó khăn
227
Con
22 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới
23 Khám, chữa bệnh, cấp
Lượt người
thuốc miễn phí cho nhân dân
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn từ 2016 - 2022)
228
Phụ lục 17
THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH QUẢNG NINH
TT
NỘI DUNG
Đơn vị tính
2022
2016
2017
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC THEO CÁC NĂM 2019
2018
2020
2021
TỔNG CỘNG
1 Vi phạm quy chế
Vụ
biên giới
2 Xuất nhập cảnh, cư
Vụ/đối tượng
trú trái phép
3 Buôn lậu 4 Ma túy 5 Mua bán vật liệu
Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng
nổ
6 Mua bán,
vận
Vụ/đối tượng
Vụ/đối tượng
chuyển tiền giả 7 Mua bán người 8
Vụ/đối tượng
Truyền đạo trái pháp luật
9 Xử lý vi phạm
Vụ/đối tượng
hành chính
10 Tổ chức tuần tra
biên giới
11 Tổ chức tuần tra song phương
Lần/lượt người Lần/lượt người
12 Làm thủ tục xuất Lượt người/
229
nhập cảnh
lượt phương tiện
Lần
Km
13 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới 14 Phát quang đường thông tầm nhìn biên giới
Chốt/lượt người
Buổi/lượt người
Buổi/lượt người
15 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát phòng, chống Covid - 19 16 Tuyên truyền vận động nhân dân 17 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
Ngày công
Triệu đồng
18 Lao động giúp dân 19 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 20 Vận động trẻ em
Học sinh
đến trường
Cháu
21 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc
230
Con
Lượt người
biệt khó khăn 22 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới 23 Khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo Tổng kết công tác Biên phòng; Công tác Đảng, công tác chính trị; Công tác Đoàn và phong trào thanh niên; Công tác vận động quần chúng của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh từ 2016 - 2022)
231
Phụ lục 18
THỐNG KÊ MỘT SỐ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ BIÊN GIỚI QUỐC GIA CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG CÁC TỈNH BIÊN GIỚI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC TỪ 2016 ĐẾN 2022
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
TT
NỘI DUNG
Đơn vị tính
TỔNG CỘNG
Quảng Ninh
Lạng Sơn
Cao Bằng
Hà Giang
Lào Cai
Lai Châu
Điện Biên
Vụ
1 Vi phạm quy chế biên giới
2 Xuất nhập
Vụ/đối tượng
cảnh, cư trú trái phép 3 Buôn lậu
4 Ma túy
5 Mua bán vật liệu nổ
6 Mua bán, vận chuyển tiền giả 7 Mua bán người
Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng
8
Vụ
Lấn chiếm biên giới
232
9 Di cư tự do
10 Truyền đạo trái pháp luật 11 Xử lý vi phạm hành chính 12 Tổ chức tuần
tra biên giới
Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Vụ/đối tượng Lần/lượt người
Lần/lượt người
13 Tổ chức tuần tra song phương 14 Làm thủ tục
xuất nhập cảnh
Lượt người/ lượt phương tiện
Lần
15 Thư phản kháng, hội đàm, gặp gỡ trên biên giới
16 Phát quang
Km
đường thông tầm nhìn biên giới
17 Tổ, chốt tuần tra, kiểm soát
Chốt/lượt người
233
phòng, chống Covid-19 18 Tuyên truyền
Buổi/lượt người
vận động nhân dân
Buổi/lượt người
20
Ngày công
19 Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật Lao động giúp dân
Triệu đồng
21 Quyên góp ủng hộ các quỹ (người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nâng bước em tới trường…) 22 Vận động trẻ
Học sinh
em đến trường
Cháu
23 Nhận đỡ đầu, nhận nuôi các cháu đặc biệt khó khăn
234
Con
24 Mua và trao tặng bò giống giúp hộ nghèo biên giới
25 Khám,
Lượt người
chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân
(Nguồn Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên tháng 9/2022)