VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM ----------------------------------- LÊ HỒNG MINH NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN ĐỒNG VỊ CỦA MỘT SỐ NGUYÊN TỐ CÓ ỨNG DỤNG TRONG ĐỊA CHẤT BẰNG ICP-MS
Chuyên ngành: HOÁ PHÂN TÍCH Mã số: 62 44 29 01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ HOÁ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. HUỲNH VĂN TRUNG
TS. NGUYỄN XUÂN CHIẾN
HÀ NỘI – 2012
LỜI CÁM ƠN
Luận án này được hoàn thành tại Trung tâm Phân tích – Viện Công nghệ xạ
hiếm – Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thày PGS. TS. Huỳnh Văn Trung và
thày TS. Nguyễn Xuân Chiến đã tận tình hướng dẫn, gióp ý và động viên tôi trong
suốt thời gian làm luận án.
Tôi xin được chân thành cảm ơn các cấp lãnh đạo Viện Năng lượng nguyên tử
Việt Nam, Viện Công nghệ xạ hiếm, Trung tâm Phân tích, Trung tâm đào tạo Hạt
nhân đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè và đồng nghiệp tại Trung tâm Phân tích
nói riêng và Viện Công nghệ xạ hiếm nói chung đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp
đỡ tôi hoàn thành luận án này.
LÊ HỒNG MINH
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
án là trung thực, chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào và sử dụng để bảo vệ một học
vị nào. Luận án đã sử dụng một số thông tin từ nhiều
nguồn số liệu khác nhau, các thông tin đều được
trích dẫn rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
LÊ HỒNG MINH
iii
MỤC LỤC
Trang
iv MỤC LỤC
viii DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
xi DANH MỤC CÁC BẢNG
xiv DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
1 MỞ ĐẦU
5 Chương 1: TỔNG QUAN
6 1.1. Phân rã phóng xạ và ứng dụng trong xác định tuổi địa chất
6 1.1.1. Sự phân rã của các đồng vị phóng xạ
8 1.1.2. Định luật thống kê về phân rã phóng xạ
9 1.1.3. Các phương pháp tuổi đồng vị ứng dụng trong địa chất
1.1.3.1. Phương pháp Urani/Thori-Chì (U/Th-Pb) và phương pháp
10 Chì (Pb) thường
14 1.1.3.2. Phương pháp Rubidi-Stronti (Rb-Sr)
17 1.1.3.3. Phương pháp Tỷ số đồng vị Hafni (Hf)
18 1.2. Các phương pháp phân tích đồng vị
19 1.2.1. Các phương pháp phân tích hạt nhân
20 1.2.1.1. Phương pháp đo phổ alpha
20 1.2.1.2. Phương pháp đo phổ beta
21 1.2.1.3. Phương pháp đo phổ gamma
22 1.2.1.4. Phương pháp kích hoạt hạt nhân
23 1.2.2. Các phương pháp phân tích phổ khối
23 1.2.2.1. Nguyên tắc của phương pháp phân tích phổ khối
24 1.2.2.2. Một số phương pháp phân tích phổ khối thông dụng nhất
26 1.2.2.3. Phương pháp phân tích phổ khối plasma cảm ứng (ICP-MS)
1.3. Các phương pháp xử lý mẫu, phân huỷ mẫu và tách các nguyên tố
iv
cần quan tâm khỏi nền mẫu 35
1.3.1. Lấy mẫu, xử lý mẫu và các phương pháp phân hủy mẫu 35
1.3.2. Tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền mẫu và các nguyên
tố ảnh hưởng 38
1.3.2.1 Tách U, Th, Pb 40
1.3.2.2 Tách Rb, Sr 41
1.3.2.3. Tách Hf 43
1.4. Tình hình nghiên cứu phân tích thành phần đồng vị các nguyên tố có
ứng dụng trong địa chất trên thế giới và ở Việt Nam 44
46 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu 46
2.2. Nội dung nghiên cứu 46
2.3. Phương pháp nghiên cứu 46
2.3.1. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo khi xác định
các đồng vị 46
2.3.1.1. Khảo sát sự phụ thuộc cường độ tín hiệu của phép đo vào
các tham số hoạt động plasma 46
2.3.1.2. Lựa chọn axit dùng làm môi trường dung dịch mẫu đo và
khảo sát nồng độ axit tối ưu 49
2.3.1.3. Giới hạn phát hiện, giới hạn định lượng các đồng vị 49
50 2.3.1.4. Khoảng tuyến tính của phép đo các đồng vị
51 2.3.2. Nghiên cứu phân huỷ mẫu
2.3.3. Nghiên cứu tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền mẫu và
52 các nguyên tố ảnh hưởng
2.3.4. Thiết lập phương pháp phân tích và ứng dụng phân tích mẫu
54 thực tế
54 2.3.4.1.Đánh giá độ chính xác của phương pháp phân tích
55 2.3.4.2. Đánh giá hiệu suất thu hồi
55 2.4. Thiết bị, dụng cụ, vật liệu và hoá chất
55 2.4.1. Thiết bị
56 2.4.2. Dụng cụ, vật liệu và hoá chất
v
2.4.2.1. Dụng cụ 56
2.4.2.2. Vật liệu và hoá chất 56
58 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo khi xác
định đồng vị các nguyên tố 58
3.1.1. Khảo sát và lựa chọn các tham số tối ưu của máy đo 58
3.1.1.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của RFP 58
3.1.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của CGFR 61
62 3.1.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của SDe
65 3.1.1.4. Lựa chọn các tham số tối ưu cho chế độ làm việc của plasma
72 3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ axit của dung dịch mẫu
74 3.1.3. Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng các đồng vị
75 3.1.4. Khoảng tuyến tính của phép đo các đồng vị
78 3.1.5. Đánh giá độ chính xác của phép đo xác định các đồng vị
3.2. Kết quả nghiên cứu điều kiện phân huỷ các mẫu khoáng vật là đối
tượng xác định tuổi địa chất 79
3.2.1. Chế tạo dụng cụ phân huỷ mẫu (bom teflon) 80
3.2.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ hỗn hợp axit 81
3.2.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ 82
3.3. Kết quả nghiên cứu tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền mẫu
và các nguyên tố ảnh hưởng bằng sắc ký trao đổi ion 83
3.3.1. Tách các nguyên tố U, Th, Pb 83
3.3.1.1. Khảo sát ảnh hưởng của nền mẫu đến việc xác định các đồng
vị U, Th, Pb bằng phương pháp ICP-MS 83
87
93
3.3.1.2. Tách U, Th và Pb trong môi trường axit HCl và HNO3 3.3.1.3. Tách U, Th và Pb trong môi trường axit HBr và HNO3 3.3.2. Tách các nguyên tố Rb và Sr 102
3.3.2.1. Khảo sát ảnh hưởng của nền mẫu đến việc xác định các
đồng vị Rb, Sr bằng phương pháp ICP-MS 102
3.3.2.2. Tách Rb, Sr trong môi trường axit HCl 107
113
3.3.2.3. Tách Rb, Sr trong môi trường axit HNO3 3.3.3. Tách nguyên tố Hf 119
vi
3.3.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của nền mẫu đến việc xác định các
đồng vị Hf bằng phương pháp ICP-MS 119
3.3.3.2. Tách Hf với nhựa trao đổi anion 120
3.3.3.3. Tách Hf với nhựa trao đổi cation 126
3.4. Thiết lập phương pháp phân tích và ứng dụng phân tích mẫu thực tế 133
3.4.1. Phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon 133
3.4.1.1. Tóm tắt quy trình phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb
trong đơn khoáng zircon 133
3.4.1.2. Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị
U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon 134
3.4.1.3. Xác định thành phần đồng vị U, Th, Pb trong mẫu đơn
khoáng zircon Thừa Thiên Huế 136
3.4.2. Phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong mẫu địa chất 137
3.4.2.1. Tóm tắt quy trình phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong
mẫu địa chất 137
3.4.2.2. Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr 138
3.4.2.3. Phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong một số mẫu
139
khoáng vật 3.4.3. Xác định tỷ số đồng vị 176Hf/177Hf trong đơn khoáng zircon 140
3.4.3.1. Tóm tắt quy trình phân tích thành phần đồng vị Hf
trong đơn khoáng zircon 140
141
3.4.3.2. Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị Hf 3.4.3.3. Xác định thành phần đồng vị 176Hf/177Hf trong đơn
khoáng zircon Thừa Thiên Huế 143
144 KẾT LUẬN
145 KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
146 QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
148 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Độ chệch B Bias
Lưu lượng khí mang mẫu CGFR Carier Gas Flow Rate
Kích hoạt nơtron hóa học CNAA
Chemical Neutron Activativation Analysis
Số đếm trong một giây CPS Count per second
Mẫu chuẩn có chứng chỉ CRM Certified Reference Material
Axit Di(2-etylhecxyl) photphoric D2ENPA
Di(2-Ethylhexyl) Phosphoric Acid
Axit trans 1,2-diamino DCTA
Trans 1,2-Diamino Cyclohexane Tetra-Acetic acid cyclohecxan tetraaxetic
Bắt diện tử EC Electron capture
EDTA Ethylenediaminetetraacetic acid Axit Etilendiamin tetraaxetic
Bộ nhân điện tử EM Electron Multiplier
Kích hoạt nơtron nhanh FNAA
Fast Neutron Activativation Analysis
Sắc ký khí GC Gas Chromatography
Quang phổ phát xạ nguyên tử ICP-AES
Inductively Coupled Plasma Atomic Emission Spectrometry plasma cảm ứng
Phổ khối plasma cảm ứng ICP-MS
Inductively Coupled Plasma Mass Spectrometry
viii
Phổ khối tứ cực plasma cảm ứng ICP-QMS
Inductively Coupled Plasma- Quadrupole Mass Spectrometry
KPH Không phát hiện
LA-ICP-MS Lazer Ablation Inductively Phổ khối plasma cảm ứng laze
Coupled Plasma Mass
Spectrometry
LC Liquid Chromatography Sắc ký lỏng
Phổ khối ion hoá laze LIMS Lazer Ionization Mass Spectrometry
LOD Limit of Determination Giới hạn phát hiện
LOL Limit of Linearity Giới hạn tuyến tính
LOQ Limit of Quantitation Giới hạn định lượng
LREE Light Rare Earth Element Nguyên tố đất hiếm nhẹ
LSC Liquid Scintilation counter Đếm nhấp nháy lỏng
m/z Mass/charge Khối lượng/điện tích
MC-ICP-MS Multi Collector ICP-MS Phổ khối plasma cảm ứng, thu nhiều lần
NAA Neutron Activativation Analysis Kích hoạt nơtron
PAA Photon Activativation Analysis Kích hoạt photon
PFE Polyfluoroethylene
PGNAA Kích hoạt nơtron gamma tức thời Prompt Gamma Neutron Activativation Analysis
ppb part per billion nồng độ phần tỷ (ng/L)
ppm part per million nồng độ phần triệu (mg/L)
PR Peripum Rate Tốc độ bơm nhu động
R Recovery Hiệu suất thu hồi
r Correlation coefficient Hệ số tương quan
ix
RFP Radio Frequency Power Công suất cao tần
RIMS Phổ khối ion hoá cộng hưởng Resonance Ionization Mass Spectrometry
RSD Relative Standard Deviation Độ lệch chuẩn tương đối
SD Standard Deviation Độ lệch chuẩn
SDe Sample Depth Độ sâu mẫu
SHRIMP Đầu dò ion phân giải cao Sensitive High Resolution Ion MicroProbe
Phổ khối ion thứ cấp SIMS Secondary Ion Mass Spectrometry
SNMS Phổ khối trung hoà thứ cấp
Secondary Neutral Mass Spectrometry
SRM Standard Reference Material Mẫu chuẩn
SSMS Phổ khối nguồn tia lửa điện Spark Source Mass Spectrometry
TBP Tributyl Phosphate Tributyl Photphat
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TIMS Phổ khối ion hoá nhiệt Thermal Ionization Mass Spectrometry
TNAA Kích hoạt nơtron nhiệt Thermal Neutron Activativation Analysis
TOF Time of Flight Thời gian bay
Decay Constant of 232Th Hằng số phân rã của 232Th λ2
Decay Constant of 235U Hằng số phân rã của 235U λ5
Decay Constant of 238U Hằng số phân rã của 238U λ8
x
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT TÊN BẢNG Trang
1 Bảng 1.1. Độ chính xác của các phương pháp phân tích phổ khối 25
2 Bảng 2.1. Các tham số hoạt động plasma được thay đổi 49
3 Bảng 3.1. Các tham số chính của máy để thiết lập đường chuẩn các 74
đồng vị
4 Bảng 3.2. Nồng độ các đồng vị U, Th, Pb để thiết lập đường chuẩn (ppb) 75
5 Bảng 3.3. Nồng độ các đồng vị Rb, Sr để thiết lập đường chuẩn (ppb) 76
6 Bảng 3.4. Nồng độ các đồng vị Hf để thiết lập đường chuẩn (ppb) 76
7 Bảng 3.5. Phương trình đường chuẩn xác định các đồng vị 77
8 Bảng 3.6. Xác định các đồng vị U, Th, Pb trong dung dịch chuẩn 77
kiểm tra
9 Bảng 3.7. Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng các đồng vị 78
10 Bảng 3.8. Thành phần hỗn hợp axit dùng để phân hủy đơn khoáng 81
zircon
11 Bảng 3.9. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật 84
zircon
85 12 Bảng 3.10. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu với
các nguyên tố U, Th, Pb trong một mẫu khoáng vật zircon (số lần lớn
hơn)
85 13 Bảng 3.11. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu với
các đồng vị cần quan tâm trong cùng mẫu khoáng vật zircon (số lần
lớn hơn)
xi
14 Bảng 3.12. Giới hạn ảnh hưởng của các nguyên tố nền mẫu đến việc 86
xác định các đồng vị U, Th, Pb bằng ICP-MS
15 Bảng 3.13. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi 87
nạp cột và dung dịch rửa cột
16 Bảng 3.14. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi 91
nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HCl 3,0M
(dung dịch A)
93 17 Bảng 3.15. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi
nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HNO3 7,0M
(dung dịch B)
18 Bảng 3.16. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi 97
nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HBr 0,5M
(dung dịch C)
98 19 Bảng 3.17. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi
nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HNO3 7,0M
(dung dịch D)
20 Bảng 3.18. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật biotite 102
21 Bảng 3.19. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật 103
muscovite
22 Bảng 3.20. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật 104
feldspar
23 Bảng 3.21. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu 104
với các nguyên tố Rb, Sr trong một số khoáng vật (số lần lớn hơn)
24 Bảng 3.22. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu 105
với các đồng vị cần quan tâm trong một số khoáng vật (số lần lớn hơn)
25 Bảng 3.23. Giới hạn ảnh hưởng của các nguyên tố nền mẫu đến việc 106
xác định các đồng vị Rb, Sr bằng ICP-MS
xii
26 Bảng 3.24. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi 110
nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HCl 1,0M
27 Bảng 3.25. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi 116
nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HNO3 0,7M
28 Bảng 3.26. Tương quan hàm lượng Zr với các đồng vị Hf trong mẫu 120
zircon (số lần lớn hơn)
29 Bảng 3.27. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi 124
nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HCl 3,0M
30 Bảng 3.28. Kết quả phân tích mẫu Plesovice Zircon 134
31 Bảng 3.29. Kết quả phân tích mẫu thêm các đồng vị U, Th, Pb 135
32 Bảng 3.30. Kết qủa phân tích mẫu zircon Thừa Thiên Huế 136
33 Bảng 3.31. Tuổi khoáng vật Plesovice Zircon và Zircon Thừa Thiên Huế 137
34 Bảng 3.32. Kết quả phân tích mẫu chuẩn SRM 987 138
35 Bảng 3.33. Kết quả phân tích mẫu thêm các đồng vị Rb, Sr 139
36 Bảng 3.34. Kết quả phân tích một số mẫu khoáng vật 140
37 Bảng 3.35. Kết quả phân tích thành phần đồng vị Hf trong mẫu 142
Plesovice Zircon - Tách Hf bằng nhựa trao đổi anion
38 Bảng 3.36. Kết quả phân tích thành phần đồng vị Hf trong mẫu 142
Plesovice Zircon - Tách Hf bằng nhựa trao đổi cation
39 Bảng 3.37. Kết quả phân tích mẫu thêm các đồng vị Hf 143
40 Bảng 3.38. Kết quả phân tích thành phần đồng vị Hf trong mẫu 143
zircon Thừa Thiên Huế
xiii
xiv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
TT TÊN HÌNH VẼ Trang
1 Hình 1.1. Sơ đồ khối của máy phổ khối 24
2 Hình 1.2. Nguyên lý cấu tạo của máy ICP-MS 27
3 Hình 1.3. Hình ảnh minh họa một số loại khoáng vật 36
4 Hình 3.1. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP 58
(CGFR=1,0 L/ph)
5 Hình 3.2. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP 59
(CGFR=1,1 L/ph)
6 Hình 3.3. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP 60
(CGFR=1,2 L/ph)
7 Hình 3.4. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP 60
(CGFR=1,3 L/ph)
8 Hình 3.5. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR 61
(SDe = 4,0 mm)
9 Hình 3.6. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR 62
(SDe = 6,0 mm)
10 Hình 3.7 Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo CGFR 62
(SDe = 8,0 mm)
11 Hình 3.8. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe 63
(CGFR = 1,0 L/ph)
12 Hình 3.9. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe 63
(CGFR = 1,1 L/ph)
13 Hình 3.10. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe 64
(CGFR = 1,2 L/ph)
14 Hình 3.11. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe 64
(CGFR = 1,3 L/ph)
xv
15 Hình 3.12. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP 66
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
16 Hình 3.13. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR 67
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
17 Hình 3.14. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe 67
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
18 Hình 3.15. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào PR 68
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
19 Hình 3.16. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào RFP 69
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
20 Hình 3.17. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào RFP 69
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
21 Hình 3.18. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào CGFR 70
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
22 Hình 3.19. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào CGFR 70
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
23 Hình 3.20. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào SDe 71
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
24 Hình 3.21. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào SDe 71
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
25 Hình 3.22. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào PR 68
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
26 Hình 3.23. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào PR 68
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
73 27 Hình 3.24. Sự phụ thuộc của độ nhạy phép đo vào nồng độ axit của
dung dịch mẫu
80 28 Hình 3.25. Bình phân huỷ mẫu làm từ teflon và bao thép (bom Teflon)
xvi
82 29 Hình 3.26. Hàm lượng U trong mẫu phụ thuộc tỷ lệ hỗn hợp axit và
thời gian
30 Hình 3.27. Hàm lượng U trong mẫu phụ thuộc nhiệt độ và thời gian 83
31 Hình 3.28. Đường cong rửa giải Pb với HCl 88
32 Hình 3.29. Đường cong rửa giải U với HCl và nước 89
33 Hình 3.30. Đường cong rửa giải Th với HCl 90
34 Hình 3.31. Đường cong rửa giải U, Zn, Cd với nước 92
35 Hình 3.32. Đường cong rửa giải Pb với HCl 94
36 Hình 3.33. Đường cong rửa giải Pb với 3 dung môi khác nhau 95
37 Hình 3.34. Đường cong rửa giải U và Th 96
38 Hình 3.35. Đường cong rửa giải Pb và Se với HCl 6,0M 97
39 Hình 3.36. Sơ đồ tách U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon 99
(môi trường dung dịch mẫu ban đầu là HCl 3,0M)
40 Hình 3.37. Sơ đồ tách U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon 100
(môi trường dung dịch mẫu ban đầu là HNO3 7,0M)
101 41 Hình 3.38. Sơ đồ tách U, Th, Pb
(môi trường dung dịch mẫu ban đầu là HBr 0,5M)
107 42 Hình 3.39. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 1,5M
108 43 Hình 3.40. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,0M
108 44 Hình 3.41. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,5M
109 45 Hình 3.42. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 3,0M
111 46 Hình 3.43. Đường cong rửa giải các nguyên tố với HCl 2,5M
112 47 Hình 3.44. Đường cong rửa giải Mg và Rb với HCl 1,5M
112 48 Hình 3.45. Đường cong rửa giải Ca và Sr với HCl 3,0M
113 49 Hình 3.46. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 1,5M
xvii
114 50 Hình 3.47. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,0M
114 51 Hình 3.48. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,5M
115 52 Hình 3.49. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 3,0M
116 53 Hình 3.50. Đường cong rửa giải các nguyên tố với HCl 2,0M
117 54 Hình 3.51. Đường cong rửa giải Mg và Rb với HCl 1,5M
118 55 Hình 3.52. Đường cong rửa giải Ca và Sr với HCl 3,0M
119 56 Hình 3.53. Sơ đồ tách sắc ký Rb, Sr bằng nhựa trao đổi cation
Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh
121 57 Hình 3.54. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 1,3M
121 58 Hình 3.55. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,65M
122 59 Hình 3.56. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,5M
123 60 Hình 3.57. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,3M
61 Hình 3.58. Đường cong rửa giải Lu và Yb với HCl 9,0M 125
126 62 Hình 3.59. Sơ đồ tách sắc ký Hf bằng nhựa trao đổi anion
Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh trong môi trường HCl và H2SO4
127 63 Hình 3.60. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 1,0M
127 64 Hình 3.61. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,7M
128 65 Hình 3.62. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,5M
129 66 Hình 3.63. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,4M
131 67 Hình 3.64. Đường cong rửa giải Lu và Yb với HCl 6,0M
132 68 Hình 3.65. Sơ đồ tách sắc ký Hf bằng nhựa trao đổi cation
Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh trong môi trường H2SO4
xviii
MỞ ĐẦU
Sự khám phá ra hiện tượng phóng xạ mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
phát triển của nhân loại. Các đồng vị phóng xạ tự nhiên được ứng dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực đời sống con người cũng như trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu
khoa học. Thành phần đồng vị của một số nguyên tố không phải là cố định, chúng
có thể thay đổi do các quá trình hạt nhân, sinh học, hoá học, địa hoá học hay vật lý
học nên việc phân tích thành phần các đồng vị cần thiết cho nhiều lĩnh vực nghiên
cứu và ứng dụng khác nhau, trong đó có nghiên cứu xác định tuổi của đá, khoáng
vật và lịch sử các quá trình biến đổi địa chất. Nghiên cứu xác định tuổi địa chất
thường sử dụng thành phần đồng vị của các nguyên tố urani, thori, chì (phương
pháp U/Th-Pb, phương pháp chì thường), rubidi, stronti (phương pháp Rb- Sr),…Ngoài ra các tỷ số đồng vị 87Sr/86Sr, 176Hf/177Hf cũng là các tham số rất quan
trọng, phục vụ cho nghiên cứu trong các lĩnh vực địa chất, địa hoá,...
Trong những năm qua, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu xây
dựng phương pháp phân tích thành phần đồng vị các nguyên tố có ứng dụng trong
xác định tuổi địa chất, sử dụng các loại thiết bị phân tích phổ khối khác nhau. Ở
Việt Nam, cho đến nay mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu loại này, tập
trung vào nghiên cứu xác định các đồng vị U, Pb, Rb, Sr trong một số khoáng vật và
đá, sử dụng thiết bị phân tích phổ khối ion hóa nhiệt. Nhu cầu phân tích thành phần
đồng vị một số nguyên tố để có dữ liệu tính tuổi các mẫu địa chất ở nước ta rất lớn,
song hiện nay các nhà nghiên cứu địa chất hầu như đều phải gửi mẫu đi phân tích ở
nước ngoài với chi phí cao.
Phương pháp phân tích phổ khối plasma cảm ứng (ICP-MS) - một phương
pháp phân tích đồng thời đa nguyên tố được sử dụng ngày càng nhiều để xác định
hàm lượng cũng như tỷ số của các đồng vị vì nó có tính chọn lọc và độ nhạy cao
trong khoảng hàm lượng siêu vết. Máy phổ khối tứ cực plasma cảm ứng (Q-ICP-
MS) cho phép phân tích nhanh và trực tiếp các đồng vị trong dung dịch hoặc trong
mẫu rắn sau khi mẫu được phân huỷ, chuyển vào dung dịch.
Hiện nay, một số phòng thí nghiệm phân tích ở Việt Nam đã được trang bị loại
máy phân tích ICP-MS. Trung tâm Phân tích, Viện Công nghệ xạ hiếm, Viện Năng
1
lượng nguyên tử Việt Nam đã được trang bị và đưa vào sử dụng máy ICP-MS
Agilent 7500a. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong lĩnh vực phân tích liên quan đến
phương pháp ICP-MS tại Viện Công nghệ xạ hiếm nói riêng hay các phòng thí
nghiệm khác ở Việt Nam nói chung mới đề cập đến việc xác định hàm lượng vết và
siêu vết các nguyên tố trong các đối tượng mẫu địa chất, sinh học, môi trường mà
chưa có một công trình nghiên cứu nào về xác định thành phần đồng vị các nguyên
tố bằng ICP-MS.
Mục tiêu của luận án là thiết lập được các phương pháp phân tích thành phần
đồng vị của các nguyên tố urani, thori, chì, rubidi, stronti, hafni trong mẫu địa chất
bằng ICP-MS, bước đầu áp dụng chúng vào phân tích một số mẫu khoáng vật thực tế.
Nội dung của luận án bao gồm khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo
ICP-MS và tìm các điều kiện tối ưu để phân tích thành phần đồng vị các nguyên tố
U, Th, Pb, Rb, Sr và Hf đạt độ nhạy cao và độ chọn lọc thích hợp; nghiên cứu phân
huỷ mẫu; nghiên cứu tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền mẫu và các nguyên
tố ảnh hưởng bằng sắc ký trao đổi ion; thiết lập các phương pháp phân tích, ứng
dụng phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb, Rb, Sr và Hf trong một số mẫu
khoáng vật.
Bố cục của luận án
Luận án gồm có các phần chính như sau:
- Mở đầu
- Chương 1: Tổng quan
- Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
- Kết luận
- Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án; Danh mục tài
liệu tham khảo và cuối cùng là phần Phụ lục.
Phần Tổng quan trình bày sự phân rã phóng xạ và nguyên tắc chung của phương
pháp phóng xạ xác định tuổi địa chất, các phương pháp phân tích đồng vị, tách các
nguyên tố cần xác định khỏi các nguyên tố nền, tình hình nghiên cứu liên quan đến
2
luận án ở Việt Nam và trên thế giới. Phần Đối tượng và phương pháp nghiên cứu nêu
đối tượng nghiên cứu, nguyên liệu nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu, các thiết
bị và hoá chất sử dụng. Phần Kết quả nghiên cứu và thảo luận trình bày kết quả khảo
sát các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo ICP-MS khi xác định thành phần đồng vị
của một số nguyên tố, kết quả nghiên cứu phân huỷ các mẫu khoáng vật là đối tượng
xác định tuổi địa chất, kết quả nghiên cứu tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền
mẫu và các nguyên tố ảnh hưởng khác bằng sắc ký trao đổi ion, cuối cùng là thiết lập
phương pháp phân tích và ứng dụng phân tích mẫu thực tế. Phần Kết luận nêu các kết
quả chính đạt được của luận án.
Đóng góp mới của luận án trong lĩnh vực phân tích thành phần đồng vị một
số nguyên tố bằng ICP-MS:
+ Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo ICP-MS khi xác định thành
phần đồng vị của một số nguyên tố, là các nghiên cứu đầu tiên có hệ thống ở nước ta.
+ Chế tạo được bộ dụng cụ phân huỷ mẫu chịu axit, chịu được nhiệt độ và áp
suất cao. Nghiên cứu phân huỷ đơn khoáng zircon, tìm được tỷ lệ hỗn hợp axit,
nhiệt độ, thời gian phân huỷ mẫu thích hợp.
+ Nghiên cứu ứng dụng sắc ký trao đổi ion để tách các nguyên tố U, Th, Pb,
Rb, Sr và Hf khỏi các nguyên tố nền và các nguyên tố ảnh hưởng đến việc xác định
các đồng vị của chúng bằng phương pháp ICP-MS:
- Tách đồng thời hệ ba nguyên tố U, Th, Pb với cùng một loại nhựa trao đổi
anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh, trên cùng một cột sắc ký. Từ các kết quả
nghiên cứu đã đề xuất ba sơ đồ tách U, Th, Pb.
- Tách Rb, Sr bằng nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh.
Lần đầu tiên nghiên cứu và đề xuất dùng các dung dịch axit HCl có nồng độ khác
nhau để giải hấp từng nguyên tố.
- Tách Hf bằng cả hai loại nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400
mesh và nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh. Việc sử dụng
dung dịch H2SO4 có nồng độ khác nhau để rửa và rửa giải riêng biệt Zr và Hf chưa
3
từng được công bố trong công trình nào. Đã nghiên cứu tách Hf khỏi Lu và Yb
trong môi trường axit H2SO4.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Ý nghĩa khoa học của luận án: Lần đầu tiên ở Việt Nam, phương pháp phân
tích thành phần đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf trong mẫu địa chất
bằng ICP-MS sau khi tách loại các chất ảnh hưởng đi kèm trong nền mẫu bằng sắc
ký trao đổi ion được nghiên cứu một cách hệ thống. Các điều kiện hoạt động của
máy ICP-MS cũng như các ảnh hưởng hóa học đến tín hiệu đo khi xác định thành
phần đồng vị một số nguyên tố đã được nghiên cứu tối ưu hoá. Đã tìm được các
điều kiện thích hợp để phân huỷ đơn khoáng zircon, loại khoáng vật khó phân huỷ
bằng phương pháp axit. Kết quả nghiên cứu tách các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr,
Hf khỏi nền mẫu và các nguyên tố ảnh hưởng đến việc xác định các đồng vị của
chúng bằng hai loại nhựa trao đổi anion và cation là những đóng góp mới trong
nghiên cứu ứng dụng phương pháp tách bằng sắc ký trao đổi ion.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án: Các quy trình phân tích được đề xuất có khả
năng ứng dụng to lớn trong phân tích phục vụ nghiên cứu địa chất, địa hoá. Các kết
quả nghiên cứu của luận án này có thể ứng dụng được trong nhiều lĩnh vực khác
như phân tích môi trường, nhiên vật liệu hạt nhân,…
4
Chương 1
TỔNG QUAN
Ngành nghiên cứu Khoa học Trái đất và Vũ trụ luôn quan tâm tìm hiểu lịch sử
hình thành và tiến hoá của hành tinh trái đất trong mối quan hệ thời gian chặt chẽ
với hệ mặt trời [4]. Nghiên cứu tuổi địa chất là chuyên ngành có nhiệm vụ xác định
tuổi của đá, khoáng vật và các hoá thạch để có một kết luận chính xác về lịch sử địa
chất của trái đất [48]. Các kết quả nghiên cứu về tuổi địa chất phục vụ nhiều mục
tiêu khác nhau trong đó có vấn đề điều tra khoáng sản, nghiên cứu các di sản địa
chất, góp phần nâng cao giá trị văn hoá du lịch,...[9]. Xác định chính xác điều kiện
và thời gian thành tạo của các phân vị địa chất khác nhau bằng các phương pháp
tiên tiến và có độ tin cậy cao luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu khoa học địa chất [16, 44].
Trước thế kỷ 20, việc xác định niên đại địa chất chủ yếu là phương pháp xác
định tuổi tương đối. Nó dựa trên cơ sở liên hệ, so sánh và sắp xếp theo trình tự phát
triển của thế giới hữu cơ có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp còn để lại di tích trong
lớp đá trầm tích ở khắp nơi trên trái đất. Bảng địa niên biểu chỉ cho khái niệm tương
đối về thời gian thành tạo các đá [16].
Xác định tuổi tuyệt đối là xác định số năm cụ thể từ khi đá, khoáng vật được
thành tạo cho tới nay. Trước khi máy phổ khối đầu tiên ra đời, việc xác định tuổi
tuyệt đối trong địa chất học chủ yếu dùng phương pháp phân tích hoá học các loại
đá hoặc khoáng vật (còn gọi là phương pháp phân tích hoá tổng). Từ hàm lượng
tuyệt đối của một số nguyên tố liên quan tính ra tuổi trung bình - tuổi hoá học của
mẫu. Việc phát minh ra phương pháp phân tích phổ khối giúp phát hiện ra hơn 200
đồng vị của các nguyên tố hoá học. Phương pháp ứng dụng một số thành phần đồng
vị để xác định tuổi tuyệt đối trong địa chất học, còn gọi là phương pháp tuổi đồng vị
đã dần thay thế phương pháp phân tích hoá tổng [16, 44, 48, 88].
Phương pháp tuổi đồng vị dựa trên nguyên tắc của sự phân rã phóng xạ. Tất cả
các nguyên tố phóng xạ đều phân rã. Các nguyên tố gốc (hay nguyên tố mẹ) phát ra
các bức xạ và các hạt và hình thành các nguyên tố con bền vững. Trong quá trình
phân rã, các đồng vị phân chia thành các sản phẩm con theo một chu kỳ bán rã đặc
5
trưng. Bằng cách xác định các đồng vị mẹ và con trong mẫu, khi biết chu kỳ bán rã
của đồng vị mẹ có thể tính được tuổi của mẫu [44, 48].
Hiện tượng phóng xạ được khám phá vào năm 1896 bởi nhà vật lý người Pháp
Henri Becquerel. Ông phát hiện ra rằng các hợp chất của urani có khả năng tự phát ra
những tia không nhìn thấy được, có thể xuyên qua những vật mà tia sáng thường
không đi qua được gọi là các tia phóng xạ. Năm 1903, Rutherford và Soddi đã công
bố các quan niệm rõ ràng về bản chất của hiện tượng phóng xạ, đó là quá trình các
nguyên tử của một nguyên tố phóng xạ tự biến đổi thành các nguyên tử của nguyên tố
khác kèm theo sự phát ra các tia phóng xạ [6]. Năm 1905, Rutherford và Bertram
Boltwood dựa trên nguyên tắc của sự phân rã phóng xạ đã tính toán tuổi của các đá
và khoáng vật. Rutherford đã xác định tuổi của các khoáng vật uraninite bằng cách đo
lượng heli đã được tích luỹ và lượng urani còn lại trong khoáng vật. Năm 1907,
Bertram Boltwood tính tuổi của mẫu uraninite dựa vào kết quả đo tỷ số U/Pb. Tất cả
các nghiên cứu này được thực hiện trước khi người ta biết đến các đồng vị và trước
khi tốc độ phân rã được biết một cách chính xác. Năm 1911, Holmes đã nghiên cứu
áp dụng các phép đo urani và chì trên khoáng vật để xác định niên đại địa chất và
phương pháp xác định tuổi tuyệt đối (tuổi đồng vị) chính thức ra đời từ đó [44].
Việc sử dụng phương pháp xác định thành phần đồng vị của các nguyên tố để
tính tuổi địa chất đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong quá trình
nghiên cứu lịch sử phát triển vũ trụ nói chung cũng như trái đất nói riêng, nghiên
cứu động học các quá trình diễn ra trong lòng quả đất, phục vụ nghiên cứu sinh
khoáng và tìm kiếm mỏ [48].
1.1. Phân rã phóng xạ và ứng dụng trong xác định tuổi địa chất
1.1.1. Sự phân rã của các đồng vị phóng xạ
Phân rã phóng xạ là hiện tượng các đồng vị phóng xạ phát ra các hạt để biến
thành các đồng vị khác (phân rã anpha, beta) hoặc chuyển về trạng thái có năng
lượng thấp hơn (phân rã gamma) [6].
Trong phân rã anpha (α), hạt nhân phát ra một hạt α, cũng chính là hạt nhân
heli, hạt nhân mẹ sẽ mất hai proton và hai nơtron, nguyên tử số hay điện tích Z của
6
nó giảm đi hai đơn vị và số khối giảm đi bốn đơn vị. Lúc đó hạt nhân mẹ (P) và hạt
nhân con (D) sẽ tương ứng với các nguyên tố hoá học khác nhau.
Trong quá trình phân rã beta (β), điện tích Z của hạt nhân thay đổi nhưng số
nucleon không thay đổi. Trong các trường hợp hạt nhân phát ra một electron (phân rã β-), một pozitron (phân rã β+), hay nhận một electron ở lớp trong vỏ nguyên tử (bắt
electron), đều xảy ra quá trình một proton biến thành một nơtron hay ngược lại.
Trong mỗi quá trình này đều có một hạt phụ - nơtrino (ν) xuất hiện trong số các sản
phẩm của sự phân rã. Nơtrino có điện tích bằng không, khối lượng nghỉ bằng không,
spin bằng 1/2, có vận tốc bằng vận tốc ánh sáng trong chân không (cũng như vận tốc
của tất cả các hạt không có khối lượng nghỉ khác). Các hạt phản nơtrino được phát ra trong quá trình phân rã β-, còn các hạt nơtrino được phát ra trong quá trình phân rã β+.
Trong quá trình phân rã gamma (γ), một hạt nhân ở trạng thái kích thích sẽ
chuyển về trạng thái năng lượng thấp hơn, đồng thời phát ra một photon. Dòng
photon này được gọi là tia γ, có năng lượng gián đoạn. Khác với các photon phát ra
trong các chuyển dời năng lượng khác của nguyên tử, khi năng lượng của chúng chỉ
khoảng một vài eV, năng lượng của các photon trong phân rã γ có thể từ hàng chục
KeV đến vài MeV. Trong quá trình phân rã γ, điện tích và số nguyên tử của hạt nhân
không thay đổi vì các photon γ không có điện tích và có khối lượng nghỉ bằng không.
Quá trình bắt electron (bắt K) xảy ra khi một electron ở lớp trong của vỏ
nguyên tử (thường là lớp K) bị hạt nhân bắt, không phát xạ các hạt mang điện. Chỉ
có một nơtrino được phát ra, tiếp đó các photon tia X được phát ra khi các electron
ở lớp ngoài của vỏ nguyên tử chuyển về các mức năng lượng bị trống. Trong quá
trình bắt electron, một proton biến thành một nơtron. Các tia X phát ra là thuộc hạt
nhân con chứ không phải thuộc hạt nhân mẹ.
Quá trình nội chuyển (internal conversion) xảy ra khi hạt nhân ở trạng thái kích thích, thường do phân rã β của hạt nhân mẹ. Hạt nhân thường chuyển về trạng
thái bền bằng cách phát ra photon γ. Tuy nhiên, ở một số trạng thái kích thích nào
đó, sự phát ra tia γ bị cấm và thay thế vào đó là quá trình nội chuyển. Ở đây, năng
lượng kích thích Eex của hạt nhân được chuyển trực tiếp cho một trong những
7
electron của nguyên tử. Electron này có năng lượng Ee- = Eex - Eb , trong đó Eb là
năng lượng liên kết của nó trong lớp vỏ electron ban đầu.
Quá trình phát electron Auger xảy ra khi nguyên tử ở trạng thái kích thích
(như trường hợp bắt electron) có một chỗ trống ở lớp electron phía trong. Chỗ trống
này thường được lấp đầy bởi các electron từ lớp bên ngoài kèm theo việc phát ra
photon tia X đặc trưng. Năng lượng kích thích của nguyên tử được truyền trực tiếp
cho một trong những electron ở lớp ngoài làm cho nó bật ra khỏi nguyên tử.
Electron này được gọi là electron Auger có năng lượng bằng hiệu số giữa năng
lượng kích thích ban đầu của nguyên tử và năng lượng liên kết của electron trong
lớp vỏ trước khi nó thoát ra.
Phân hạch tự phát là quá trình một hạt nhân nặng (như 235U, 238U) tự vỡ thành
hai hạt nhân có khối lượng khác nhau kèm theo sự phát ra các nơtron.
1.1.2. Định luật thống kê về phân rã phóng xạ
Giả sử một đồng vị phóng xạ ban đầu có N0 hạt nhân mẹ không bền, phân rã
D hạt nhân con bền. Số lượng hạt nhân mẹ tự phân rã trong một đơn vị thời
thành N*
gian tỷ lệ với số lượng hạt nhân mẹ N còn lại [6].
- dN/dt = λN (1.1.1)
Ở đây - dN/dt là hoạt độ phóng xạ hay tốc độ phân rã (số phân rã trong một
đơn vị thời gian), dấu (-) thể hiện N giảm dần theo thời gian, N là số hạt nhân mẹ
còn lại tại thời điểm t. λ là hằng số phân rã phóng xạ (phụ thuộc vào quá trình phân
rã nhất định và bản chất của hạt nhân mẹ, không phụ thuộc vào nhiệt độ và áp suất).
Cũng có thể viết: ln (N/No) = - λt hay N = Noe-λt (1.1.2)
Phương trình trên không cho giá trị xác định mà là phương trình có tính chất
thống kê, cho biết số hạt nhân mẹ N hy vọng còn tồn tại ở thời điểm t.
D được tạo thành do quá trình phân rã phóng xạ:
Số hạt nhân con N*
D = No – N = N(e λt - 1)
N* (1.1.3)
8
Trong thực tế, các mẫu địa chất tại thời điểm ban đầu (t = 0) thường có một số
nhất định các hạt nhân con NDo nhưng đó không phải là sản phẩm của quá trình
phân rã phóng xạ của các hạt nhân mẹ.
D = NDo + N(e λt - 1) (1.1.4)
ND = NDo + N*
Biểu thức trên được gọi là phương trình tính tuổi địa chất, là cơ sở của địa
niên đại hạt nhân.
Hằng số phân rã của một đồng vị phóng xạ được xác định qua chu kỳ bán rã của
nó (T1/2 - khoảng thời gian cần thiết để số hạt nhân mẹ giảm đi một nửa, N = No/2).
2ln λ
693,0 λ
(1.1.5) = T1/2 =
1.1.3. Các phương pháp tuổi đồng vị ứng dụng trong địa chất
Các đồng vị phóng xạ có khả năng tự phân rã, trong quá trình đó các tia phóng
xạ tác dụng lên môi trường vật chất xung quanh. Có thể chia các phương pháp tuổi
đồng vị xác định niên đại địa chất thành hai nhóm [44, 85] như sau:
Nhóm phương pháp thứ nhất tính thời gian dựa vào các hiện tượng là kết quả
của tác dụng của các tia phóng xạ. Tia phóng xạ có tác dụng hoá học là tia α, có thể
xuyên qua vật thể rắn. Nếu quan sát một số khoáng vật như mica, zircon dưới kính
hiển vi, có thể thấy các vòng tròn phát sáng yếu (các quầng sáng hay vòng sáng).
Nghiên cứu tác dụng của tia α lên các khoáng vật này, có thể biết được sự phụ
thuộc của cường độ phát sáng của các quầng sáng vào thời gian chiếu tia. Các
phương pháp tính tuổi dựa trên đặc tính này phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên
ngoài nên độ chính xác không cao và thực tế cũng ít được sử dụng.
Nhóm phương pháp thứ hai tính thời gian dựa vào bản thân quá trình phân rã.
Các đồng vị gốc (hay đồng vị mẹ) phát ra các bức xạ và các hạt và hình thành các
đồng vị con bền vững. Trong quá trình phân rã, các đồng vị phân chia thành các sản
phẩm con theo một chu kỳ bán rã đặc trưng. Bằng cách đo các đồng vị mẹ và con
trong mẫu, khi biết chu kỳ bán rã của đồng vị mẹ có thể xác định được tuổi của
mẫu. Các điều kiện tiên quyết khi chọn mẫu phân tích bằng phương pháp này là:
đồng vị con không có mặt hoặc có không đáng kể trong đá hay khoáng vật vào thời
9
điểm mà đá hay khoáng vật đó được hình thành; hệ đồng vị luôn tồn tại ở trạng thái
kín kể từ khi đá hoặc khoáng vật được kết tinh đến thời điểm lấy mẫu phân tích;
thành phần đồng vị mẹ không được thay đổi do quá trình phân dị hoặc các quá trình
biến đổi về sau gây ra; hằng số phân rã (λ) của đồng vị mẹ phải được biết chính xác;
việc xác định hàm lượng của đồng vị mẹ và con phải đảm bảo độ chính xác cao.
Việc lựa chọn mẫu vật thích hợp để tính tuổi cũng còn phụ thuộc vào chính tuổi của
chúng và phương pháp tính tuổi nào được áp dụng. Với các đồng vị có thời gian
sống rất dài, mẫu để tính tuổi phải có tuổi đủ già để mẫu có thể chứa đủ lượng đồng
vị con được sinh ra. Ngược lại, với các đồng vị có thời gian sống ngắn, mẫu phải có
tuổi đủ trẻ để có thể còn đủ lượng đồng vị mẹ tồn tại trong mẫu.
Những chuỗi phân rã chứa các đồng vị của các nguyên tố có mặt trong các khoáng silicat thông thường như: 87Rb → 87Sr, 147Sm → 143Nd, U/Th → Pb, 187Re → 187Os, 176Lu → 176Hf , 40K→ 40Ar có ứng dụng nhiều nhất trong việc xác định niên đại địa chất [48]. Ngoài ra, các tỷ số đồng vị 87Sr/86Sr hay 176Hf/177Hf cũng là
những dữ liệu quan trọng phục vụ cho các nghiên cứu về nguồn gốc trong lĩnh vực
địa chất. Ở đây, chúng tôi chỉ trình bày cơ sở nguyên lý của một số phương pháp
xác định tuổi, nguồn gốc thường được sử dụng và cũng là nội dung nghiên cứu của
đề tài luận án này là phương pháp Urani/Thori-Chì, phương pháp Rubiđi-Stronti,
phương pháp Tỷ số đồng vị Hafni.
1.1.3.1. Phương pháp Urani/Thori-Chì (U/Th-Pb) và phương pháp Chì (Pb) thường
Tính phóng xạ của U và Th được ứng dụng để tính tuổi của các khoáng vật
chứa các nguyên tố này và đã có một số hướng nghiên cứu khác nhau. Đó là các
phương pháp phân tích hoá học Pb-U, Th; phương pháp Alpha-Pb; phương pháp U-
He và hai phương pháp hiện nay vẫn được ứng dụng, đó là phương pháp đồng vị
U/Th-Pb và phương pháp Pb thường. Sau này, một số phương pháp khác còn được
bổ sung thêm. Ba phương pháp đầu nay đã không còn được dùng vì chúng dựa trên
các giả thuyết không đáng tin cậy. Chẳng hạn, phương pháp phân tích hoá học Pb-
U, Th dựa trên giả thuyết tất cả Pb có trong khoáng vật chứa U là có tính phóng xạ,
hàm lượng của chúng tăng dần theo thời gian [48].
10
Phương pháp đồng vị U/Th-Pb được dùng để xác định tuổi các mẫu có niên
đại ở trong khoảng từ một triệu năm tuổi đến kỷ Precambrian [96]. Phương pháp
này được ứng dụng trong một số lĩnh vực như: xác định tuổi của đá núi lửa; tuổi
biến chất; nguồn gốc của trầm tích dưới tác động của gió (nghiên cứu khí hậu cổ);
nguồn gốc của đá trầm tích hay sau trầm tích (nghiên cứu kiến tạo địa chất); tuổi
các mỏ quặng; tuổi các trầm tích, khoáng hoá và cổ sinh. Ngoài ra nó còn được ứng
dụng trong lĩnh vực thời nhiệt. Nói chung, phương pháp này có nhiều ứng dụng
trong lĩnh vực nghiên cứu địa chất [44, 48].
Trong tự nhiên tồn tại bốn họ phóng xạ: urani (238U), actiniurani (235U), thori (232Th) và neptuni (237Np) cùng phân rã alpha tạo thành các đồng vị bền tương ứng 206Pb, 207Pb, 208Pb và 209Bi [6].
235U → 207Pb + 7α T1/2 = 0,704.109 năm
238U → 206Pb + 8α T1/2 = 4,468.109 năm
232Th → 208Pb + 6α T1/2 = 14,01.109 năm
237Np → 209Bi + 8α T1/2 = 2,14.106 năm
235U → 207Pb, 232Th → 208Pb.
Phương pháp U/Th-Pb dựa trên cơ sở các phản ứng phân rã sau: 238U → 206Pb,
Hàm lượng các đồng vị của Pb sinh ra do phân rã phóng xạ có thể tính được
206
238
Pb
teU λ ( 8
)1
=
−
(1.1.6)
207
235
Pb
teU λ ( 5
)1
=
−
(1.1.7)
208
232
Pb
teTh λ ( 2
)1
=
−
theo định luật phân rã phóng xạ:
(1.1.8)
Ở đây t là thời gian tồn tại của mẫu từ khi đá hoặc khoáng vật kết tinh; λ8, λ5,
λ2 là hằng số phân rã của 238U, 235U, 232Th.
206
t
1
ln
+
=
Có thể suy ra các công thức tính tuổi sau:
206
/
238
238
Pb U
1 λ 8
⎞ ⎟⎟ ⎠
⎛ ⎜⎜ ⎝
(1.1.9)
11
207
t
ln
1
=
+
207
/
235
235
Pb U
1 λ 5
⎞ ⎟⎟ ⎠
⎛ ⎜⎜ ⎝
208
t
ln
1
=
+
(1.1.10)
208
/
232
232
Pb Th
1 λ 2
⎞ ⎟⎟ ⎠
⎛ ⎜⎜ ⎝
(1.1.11)
t
207
λ 5
=
Chia hai vế tương ứng của biểu thức (1.3.2) cho (1.3.1) ta có:
206
t
λ 8
1 88,137
Pb Pb
− −
(1.1.12)
( e ( e
) 1 )1
Cặp đồng vị U-Pb có thể cho ba kết quả tính tuổi dựa trên các tỷ số 206Pb/238U, 207Pb/235U và 207Pb/206Pb, trong đó có hai giá trị tuổi độc lập với nhau. Cặp đồng vị Th-Pb cho kết quả tuổi dựa trên tỷ số 208Pb/232Th.
Từ các biểu thức (1.1.9), (1.1.10), (1.1.11) cho thấy, để tính tuổi của mẫu cần xác định các tỷ số đồng vị 206Pb/238U, 207Pb/235U và 208Pb/232Th trong mẫu. Phương
pháp tính tuổi của mẫu dựa trên việc xác định ba tỷ số đồng vị nói trên được gọi là
phương pháp U/Th-Pb. Biểu thức (1.1.12) cho thấy, để tính tuổi của mẫu có thể chỉ cần xác định tỷ số đồng vị 207Pb/206Pb. Phương pháp tính tuổi của mẫu dựa trên việc xác định tỷ số đồng vị 207Pb/206Pb được gọi là phương pháp Pb thường [48]. Tỷ số 207Pb/206Pb cũng như hàm lượng các đồng vị 206Pb, 207Pb, 208Pb, 235U, 238U, 232Th
đều có thể xác định trực tiếp bằng ICP-MS.
Có thể xếp U và Th vào nhóm đất hiếm thuộc dãy actinid [6]. Cả U và Th đều
có hoá trị +4 nhưng trong điều kiện oxy hoá trên bề mặt trái đất, U có hoá trị +6. U+4 có bán kính ion 0,89 Å trong khi U+6 có bán kính ion 0,73 Å. Th+4 có bán kính
ion 0,94 Å. Tuy bán kính ion của chúng lớn nhưng lại có hoá trị cao so với các
nguyên tố tạo đá nên cả U và Th đều là những nguyên tố không tương thích. Trong
các điều kiện địa chất nói chung, Th là nguyên tố tương đối ỳ còn U linh động hơn. Các hợp chất của U+4 không tan trong nước, nhưng trong điều kiện oxy hoá chuyển thành U+6 nằm ở dạng UO2 +2 lại rất dễ tan trong nước và trở nên rất linh động. U,
Th có thể tham gia tạo nên khoáng vật trong đá trầm tích như uranite và thorite
nhưng hiếm gặp. Trong các đá macma và đá biến chất, U và Th không tham gia
hình thành các khoáng vật tạo đá chính mà chỉ phân tán trong các khoáng vật phụ
12
như zircon (ZrSiO4), baddeleyite (ZrO2), monazite [(La,Ce,Th)P04], apatite
[Ca10(PO4)6(OH, F,Cl, Br)2], titanite (CaTiSiO5),…[44].
Pb là nguyên tố dễ bay hơi nên nồng độ của chúng trên bề mặt trái đất thấp
hơn trong các thiên thạch. Pb tập trung trong nhân trái đất nhiều hơn trên bề mặt trái
đất. Nó cũng là nguyên tố ưa lưu huỳnh. Pb có thể tồn tại ở hai dạng hoá trị: Pb+2 và
Pb+4. Pb+2 có bán kính ion 1,19Å. Galen là khoáng vật của Pb trong vỏ trái đất.
Chỉ có một vài loại khoáng vật thích hợp cho việc xác định tuổi tuyệt đối bằng
phương pháp U/Th-Pb. Khoáng vật đó phải ngăn giữ được đồng vị Pb phóng xạ và
phải tương đối phổ biến. Một số loại khoáng vật thoả mãn tốt các điều kiện trên là
zircon, baddeleyite, titanite hay monazite,...[48].
Monazite thường được tìm thấy trong trong các loại đá dạng granite và đá sau
trầm tích cấp độ cao, chứa hàm lượng U, Th lớn và hàm lượng Pb ban đầu thấp nên
thích hợp cho xác định tuổi bằng phương pháp U/Th-Pb. Với đá núi lửa, monazite
có thể thay thế cho zircon. Monazite cũng rất thích hợp cho việc tính tuổi các loại
đá biến chất [19].
Titanite (sphene) thường có trong đá núi lửa axit hay đá núi lửa trung tính, chứa
hàm lượng U và Th thấp hơn so với zircon và hàm lượng Pb thường có thể cao. Nó
thường được dùng để xác định tuổi đá dạng granite, đôi khi cả đá núi lửa bazơ.
Apatite là khoáng vật thông thường khá phổ biến nhưng thường là hệ hở, đặc
biệt trong quá trình biến đổi ở nhiệt độ thấp hơn.
Ngoài ra còn một số loại khoáng vật khác như xenotime, allanite, uraninite và
thorite cũng có thể dùng để tính tuổi bằng phương pháp U/Th-Pb. Phương pháp xác
định tuổi U/Th-Pb trong đá tổng được dùng như phần bổ xung, tham khảo cho
phương pháp Pb thường trong đá tổng [85].
Zircon thường hay được dùng nhất cho phương pháp tuổi đồng vị U/Th-Pb [56].
80,0
89,0
94,0
Trong khoáng zircon, nguyên tử Zr có thể bị thay thế bởi các nguyên tử U và Th.
r 4 =+Zr
r 4 =+U
r 4 =+Th
Å , Å , Å
13
19,1
r 2 =+Pb
Lúc mới hình thành, zircon loại bỏ Pb vì Å. Trong quá trình phân rã
phóng xạ, Pb bị giữ lại trong zircon không bị thoát ra ngoài trừ các trường hợp đặc
biệt. Zircon khá bền vững về mặt cơ học và hoá học với các tác động phong hoá.
Phương pháp Zircon U-Pb là một trong những phương pháp tuổi đồng vị ra
đời sớm nhất và có ứng dụng nhiều nhất. Phương pháp Zircon U-Pb đã chứng tỏ là
phương pháp tin cậy để thu được các thông tin có độ chính xác cao về tuổi địa chất
trên nhiều loại đá khác nhau [112]. Zircon là loại khoáng vật phân bố rộng rãi, với
hàm lượng U trong khoảng từ vài trăm đến vài ngàn ppm [49]. Ngược lại, hàm
lượng U rất nghèo trong các khoáng vật chính tạo đá, chỉ vài ppm hoặc ít hơn. Ở
zircon có ba điểm ưu việt, thứ nhất là hàm lượng Pb thông thường (Pb không phóng
xạ) có thể bỏ qua do lượng rất ít của nó trong cấu trúc tinh thể suốt quá trình tinh
thể hoá. Như vậy, sai số do hàm lượng Pb thông thường khi tính tuổi bằng phương
pháp U-Pb là rất nhỏ. Thứ hai, tinh thể zircon không bị tái kết tinh hay chịu tác
động của các bức xạ, sẽ giữ được U và Pb phóng xạ trong cấu trúc tinh thể của nó vì
tốc độ khuyếch tán rất nhỏ của chúng trong zircon. Cách tính tuổi zircon U-Pb ít
chịu ảnh hưởng bởi các sự kiện địa chất sau khi kết tinh. Cuối cùng, hệ U-Pb có hai hạt nhân không bền là 238U (99,27 %) và 235U (0,72 %), phân rã ra một loạt các sản phẩm trung gian và cuối cùng là các đồng vị con bền 206Pb và 207Pb tương ứng. Hai
cách tính tuổi U-Pb cho phép nội kiểm mức độ kín của hệ với U và Pb [31, 56].
Với đá macma hay đá biến chất, nên chọn các khoáng vật phụ, đặc biệt là
ziron làm đối tượng phân tích tuổi đồng vị [16].
1.1.3.2. Phương pháp Rubidi-Stronti (Rb-Sr)
Phương pháp tuổi đồng vị Rb-Sr thường được ứng dụng để tính tuổi của đá núi lửa và cả đá trầm tích [31, 48, 56]. Tỷ số đồng vị 87Sr/86Sr được coi là tham số tin
cậy cho việc xác định nguồn gốc [17, 39, 57, 58]. Ngành nghiên cứu địa tầng học sử
dụng kết quả đo thành phần đồng vị của Sr trong các hoá thạch biển và dựa vào sự
thay đổi thành phần đồng vị của Sr trong nước biển theo thời gian để tính toán tuổi
của hoá thạch cũng như giải thích mối quan hệ giữa các lớp đá trầm tích tạo nên vỏ
trái đất [35, 40]. Phương pháp này cũng được dùng để xác định tuổi của các quá
trình địa chất như đôlômit hoá [21, 22, 38].
14
Rb
−+→ βSr
Trong tự nhiên, Rb có hai đồng vị là 85Rb (72,15%) và 87Rb (27,85%), trong đó 87Rb là đồng vị phóng xạ và biến đổi về 87Sr do phân rã β. Sr tồn tại dưới 4 dạng đồng vị: 88Sr (82,58 %); 87Sr (7,04 %); 86Sr (9,86 %); 84Sr (0,56 %) [44].
87 37
87 38
T1/2 = 48,8.109 năm
Theo định luật phân rã phóng xạ, phương trình xác định tuổi địa chất bằng
87Sr = 87Rb(eλt-1) (1.1.13)
phương pháp Rb-Sr như sau:
87
ln
+ 1
Từ đó có phương trình tính tuổi:
87
Sr Rb
1 λ
⎞ ⎟⎟ ⎠
⎛ ⎜⎜ ⎝
t = (1.1.14)
Phương trình trên không tính đến Sr ban đầu. Trừ một vài trường hợp đặc biệt
còn nói chung, Sr có mặt trong hầu hết các loại đá và khoáng vật. Giả thiết rằng tại
thời điểm ban đầu (t0), tất cả các khoáng vật của đá có thành phần đồng vị Sr như
87Sr = 87Sr0 + 87Rb(eλt-1) (1.1.15)
nhau. Khi đó phương trình (1.1.13) được viết đầy đủ như sau:
Chia hai vế của biểu thức (1.1.15) cho 86Sr (đồng vị bền không sinh ra do
87
87
87
te λ
(
)1
−
=
phóng xạ, 86Sr0 = 86Sr), ta có:
86
86
86
Sr Sr
Sr Sr
Rb Sr
⎛ ⎜⎜ ⎝
⎞ +⎟⎟ ⎠
0
(1.1.16)
2
3
e t λ
...
1 +=
t λ
+
+
+
Có thể khai triển hàm eλt dưới dạng chuỗi như sau:
t ( ) λ !2
t ( ) λ !3
(1.1.17)
2
3
1
...
+
t λ
>>
+
+
Do hằng số phân rã của 87Rb rất nhỏ (1,42.10-11năm-1) nên:
( t ) λ !2
t ( ) λ !3
(1.1.18)
Như vậy, biểu thức (1.1.16) có thể được viết dưới dạng:
15
87
87
87
≈
86
86
Sr Sr
Sr Sr
Rb t λ86 Sr
⎛ ⎜⎜ ⎝
⎞ +⎟⎟ ⎠
0
(1.1.19)
87
87
86
86
Sr Sr
Sr Sr
⎛ ⎜⎜ ⎝
⎞ ⎟⎟ ⎠
0
t
≈
Cuối cùng có phương trình tính tuổi như sau:
⎞ −⎟⎟ ⎠ 87
1 λ
86
⎛ ⎜⎜ ⎝ Rb Sr
⎛ ⎜⎜ ⎝
⎞ ⎟⎟ ⎠
⎡ ⎢ ⎢ ⎢ ⎢ ⎢ ⎣
⎤ ⎥ ⎥ ⎥ ⎥ ⎥ ⎦
(1.1.20)
Để tính tuổi đá và khoáng vật cần xác định các tỷ số 87Sr/86Sr, 87Rb/86Sr. Tỷ số đồng vị 87Sr/86Sr được xác định trực tiếp bằng ICP-MS. Tỷ số 87Rb/86Sr có được từ hai kết quả định lượng 87Rb và 86Sr riêng biệt. Chúng cũng được xác định trực tiếp
bằng ICP-MS.
Rb và Sr là những nguyên tố vết của trái đất, hàm lượng của chúng ở cấp g/tấn
(ppm). Rb là một kim loại kiềm, có hoá trị +1. Như những nguyên tố kiềm khác, nó
rất dễ hoà tan trong nước hay trong chất lưu chứa nước. Rb có bán kính ion khá lớn
(1,48 Å) nên nó là nguyên tố không tương thích, không đi vào thành phần các
khoáng vật tạo đá. Rb có khả năng được lưu giữ lại đến thời điểm cuối của quá trình
tạo đá macma trong vỏ trái đất hay trong manti bị làm nghèo. Tuy nhiên, do bán
kính ion của Rb tương đương với bán kính ion của K (1,33 Å), do đó Rb có thể thay
thế K trong tất cả các khoáng vật chứa K như biotite
[K(Fe,Mg)3(AlSi3O10)(OH,F)2], muscovite [KAl2(AlSi3O10)(OH,F)2], K-feldspar
(KAlSi3O8) và một số khoáng vật sét [39].
Trong tự nhiên, Sr thuộc nhóm kim loại kiềm thổ, có hoá trị +2, có bán kính
ion bằng 1,13 Å và thường thay thế đồng hình cho Ca có bán kính ion 0,99 Å trong
quá trình tạo đá của vỏ trái đất (trong đá macma và đá biến chất cao). Sr có mặt
trong nhiều loại khoáng vật như plagioclase (albite - NaAlSi3O8, anorthite -
CaAl2Si2O8), apatite [Ca5(PO4)3(OH,F,Cl)], aragonite (CaCO3) [56].
Tổng hàm lượng các đồng vị Sr trong đá hoặc khoáng vật bị biến đổi theo thời gian do hàm lượng 87Sr luôn được tăng trưởng do sự phân rã tự nhiên của 87Rb. Trong
quá trình kết tinh macma, Sr có xu thế tập trung vào khoáng vật plagioclase còn Rb
16
lại được làm giàu trong các khoáng vật muscovite, biotite và K-feldspar. Do vậy đối
với tổ hợp đá phân dị (differentiation) thì tỷ số Rb/Sr tăng cùng với sự tăng của hệ số
phân dị. Thông thường, các đá thuộc pha phân dị muộn có tỷ số Rb/Sr = 10 [9].
Khi phương pháp tuổi đồng vị Rb-Sr mới ra đời, nó thường được áp dụng để
xác định tuổi của loại khoáng vật giàu Rb như lepidolite, với mặc định tỷ số 87Sr/86Sr ban đầu bằng 0,712. Tuổi của mẫu tính theo cách này được gọi là tuổi mô
hình (model ages) do tỷ số ban đầu không phải được xác định trực tiếp mà được
chấp nhận một giá trị cho trước. Cách tính tuổi này không phù hợp khi áp dụng với
các khoáng vật có tỷ số Rb/Sr thấp hơn như muscovite, biotite, K-felspar,…
Phương pháp dựng đường đẳng thời khắc phục được các nhược điểm của phương pháp tuổi mô hình khi nó thiết lập mối tương quan giữa giá trị 87Rb/86Sr (trục hoành) và 87Sr/86Sr (trục tung) được một đường thẳng gọi là đường đẳng thời.
Xây dựng đồ thị giữa tỷ số 87Rb/86Sr với tỷ số 87Sr/86Sr của một số khoáng vật
khác nhau từ cùng một macma sẽ thu được đường đẳng thời. Đường đẳng thời này cắt trục tung tại điểm có giá trị bằng tỷ số (87Sr/86Sr)0.
Tuổi các loại đá được tính bằng phương pháp dựng đường đẳng thời. Có thể
tính tuổi các khoáng vật chứa Rb như mica (muscovite, biotite, flogopite,
lepidolite), K-felspar (orthoclase, microline) và một số khoáng vật sét theo phương
pháp này [50, 85]. Các loại khoáng vật trên thường không chứa nhiều Sr tại thời
điểm chúng được hình thành.
1.1.3.3. Phương pháp Tỷ số đồng vị Hafni (Hf)
Từ đầu những năm 1980, tỷ số đồng vị của Hf (176Hf/177Hf) trong các mẫu địa
chất được coi như một tham số quan trọng để nghiên cứu, đánh giá sự hình thành
đá, có ứng dụng quan trọng trong các lĩnh vực nghiên cứu địa hoá học, địa thời học,
hoá học vũ trụ [44, 102]. Trong quá trình hình thành đá, đồng vị 176Hf tăng lên do
nó là sản phẩm phân rã của một đồng vị của lutexi (176Lu - phân rã β với chu kỳ bán
rã 3,57.1010 năm). Tỷ số 176Hf/177Hf được dùng như chất đánh dấu tự nhiên của các
quá trình xáo trộn giữa các nguồn khác nhau. Đầu những năm 1990, cùng với sự
phát triển mạnh của các phương pháp phân tích phổ khối ( trong đó có ICP-MS), số
17
các công trình nghiên cứu liên quan đến tỷ số đồng vị của Hf tăng mạnh. Cuối
những năm 1990, với sự cải tiến nhiều quy trình tách hoá học, các loại mẫu được sử
dụng để đo tỷ số đồng vị của Hf được mở rộng nhiều [68].
Hf thuộc nhóm IVa trong bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hoá học,
176
177
178
179
cùng với zirconi (Zr) và titan (Ti). Hf có số thứ tự 72, khối lượng nguyên tử 178 và
180
180
178
177
Hf, Hf, Hf, Hf và có một trạng thái hoá trị (+4). Hf có 5 đồng vị tự nhiên (
Hf), trong đó Hf chiếm 35,44%, tiếp theo là Hf và Hf chiếm tương ứng
27,30% và 18,60%. Các tính chất hoá học của Zr và Hf rất giống nhau, cả ở trạng
thái kim loại cũng như hợp chất của chúng vì bán kính nguyên tử cũng như bán kính
ion của chúng rất gần nhau (bán kính nguyên tử: Zr = 1,45Å, Hf = 1,44Å; bán kính
ion: Zr4+ = 0,74Å, Hf4+ = 0,75Å). Hf thay thế Zr trong mạng tinh thể. Tất cả các
khoáng vật có Zr đều có Hf và hầu như không thấy khoáng vật chỉ có riêng Hf. Hàm
lượng Hf trong các khoáng vật hiếm khi vượt quá hàm lượng của Zr, ngoại trừ một
vài dạng nào đó của khoáng thortveitite [(Sc,Y)2Si2O7]. Zircon [(Zr,Hf)SiO4] và baddeleyite [(Zr,Hf)02] là nguồn chứa Hf quan trọng nhất và hàm lượng Hf thường chiếm tới 2%. Hf thường tồn tại ở dạng ion Hf4+ trong các oxit hay silicat [11, 44].
Nói chung, các đá núi lửa và đá biến chất chứa hàm lượng Hf rất nhỏ. Các đá siêu
mafic thường chứa hàm lượng Hf nhỏ hơn 1 ppm. Các đá mafic thường chứa hàm
lượng Hf tới 2 ppm. Kimberlite, carbonatite và dung nham giàu kim loại kiềm
thường chứa hơn 8 ppm. Các loại đá granite có xu hướng chứa hàm lượng Hf cao
nhất. Trong hầu hết các loại đá vỏ trái đất, zircon là khoáng vật chính chứa Hf.
Nhiều công trình nghiên cứu gần đây, ngoài việc dùng zircon để nghiên cứu tuổi
đồng vị U-Pb còn nghiên cứu thành phần đồng vị của Hf để hiểu rõ hơn các quá
trình biến đổi, phát triển vỏ lục địa [85].
1.2. Các phương pháp phân tích đồng vị
Để phân tích các đồng vị có thể sử dụng các phương pháp phân tích hạt nhân
hay các phương pháp phân tích phổ khối.
18
1.2.1. Các phương pháp phân tích hạt nhân
Các phương pháp phân tích hạt nhân xác định các đồng vị phóng xạ dựa trên
đặc tính phóng xạ của chúng. Với các đồng vị bền, không có tính phóng xạ thì
chúng được kích hoạt lên thành các đồng vị phóng xạ (phương pháp kích hoạt hạt
nhân). Trong các phương pháp này, người ta đo tốc độ phân rã của đồng vị cần quan
tâm (số phân rã trong một đơn vị thời gian - A), tính toán thống kê số nguyên tử của
AN
=
/ = λ
đồng vị (N) dựa vào chu kỳ bán huỷ của nó (T1/2):
A 2/1/2ln T
(1.2.1)
Các đồng vị phóng xạ không bền, chúng chuyển về trạng thái bền bằng
cách phân rã phóng xạ với tốc độ phân rã đặc trưng. Như phần trên (1.1.1) đã
trình bày các đồng vị phóng xạ phân rã theo một số dạng khác nhau: phân rã α,
phân rã β, bắt K, nội chuyển, phân rã γ, tự phân hạch [2, 6]. Các đồng vị phát ra
α được phân tích bằng đo phổ α. Các đồng vị phân rã β phát ra electron (β-) và positron (β+), đồng thời cũng phát ra nơtrino và phản nơtrino. Bức xạ β có phân
bố năng lượng liên tục, từ 0 đến năng lượng phân rã cực đại. Các đồng vị phát ra β- được xác định bằng máy đếm β như ống đếm Geige-Muller (GM) hay đếm nhấp nháy lỏng (LSC). Các đồng vị phát ra β+ có thể xác định được bằng đo phổ γ vì phân rã β+ kèm theo việc phát ra hai photon huỷ có năng lượng 511 keV. Bắt K (EC) có thể coi như quá trình ngược với phân rã β+ nhưng phổ electron tách
biệt rõ vì electron bị bắt có năng lượng xác định. EC luôn kèm theo việc phát ra
tia X và (hoặc) electron Auger. Các đồng vị phóng xạ có phân rã EC được xác
định bằng cách đo tia X đặc trưng của chúng bằng phổ kế tia X hay đo các
electron Auger bằng đếm nhấp nháy lỏng. Các hạt nhân được hình thành do các
đồng vị phân rã α hay β có thể chuyển về trạng thái bền bằng cách phát ra tia γ
đặc trưng. Các đồng vị phóng xạ phát ra tia γ được xác định bằng đo phổ γ. Một
đồng vị phóng xạ có thể có nhiều hơn một quá trình phân rã, khi đó nó có thể
được phân tích bằng một số phương pháp phân tích hạt nhân khác nhau. Chẳng hạn, đồng vị 129I phát ra tia β nhưng đồng thời cũng phát ra tia γ có năng lượng
39,6 keV, nó có thể được xác định bằng đếm β hay đo phổ γ.
19
1.2.1.1. Phương pháp đo phổ alpha
Có thể sử dụng một số loại detector khác nhau để xác định các đồng vị phát ra
α như buồng ion hoá lưới Frisch, ống đếm tỷ lệ, detector nhấp nháy lỏng và plastic,
detector bán dẫn. Buồng ion hoá có hiệu suất đếm cao nhưng độ phân giải năng
lượng thấp. Buồng ion hoá lưới Frisch chỉ dùng để đo tổng hoạt độ α. Ống đếm tỷ
lệ cũng như đếm nhấp nháy lỏng có ưu điểm là đồng vị phát α có thể đặt bên trong
ống đếm nên đạt được hiệu suất đếm 4π. Tuy nhiên, độ phân giải năng lượng của
chúng đều thấp. Detector bán dẫn thường được dùng để xác định các đồng vị phát
tia α trong mẫu môi trường hay mẫu thải, nhất là khi cần thông tin về phổ. Hai loại
detector cản bề mặt (surface barrier) và detector bán dẫn silicon cấy ion (ion-
implanted) hay được dùng trong hệ phổ kế alpha vì chúng có hiệu suất đếm khá tốt
và độ phân giải năng lượng cao. Mặc dù detector bán dẫn có độ phân giải cao nhưng
sự khác biệt rất nhỏ về năng lượng hạt α từ các đồng vị phát α khác nhau gây khó khăn trong việc tách các đỉnh phổ. Đó là trường hợp của hai đồng vị 241Am và 238Pu hay trường hợp của 237Np, 233U, 234U và 230Th. Do vậy, cần thiết phải tách hoá học
các đồng vị khỏi nền mẫu phức tạp. Thêm vào đó, khả năng tự hấp thụ của hạt α
trong mẫu không chỉ làm giảm hiệu suất đếm mà còn làm giảm độ phân giải phổ α.
Vì thế, trong phép đo phổ α cần phải chuẩn bị mẫu rất mỏng. Điều này thực hiện
được bằng cách điện phân trên đĩa thép. Cũng có thể chuẩn bị mẫu bằng cách bay
hơi, cộng kết, kết tủa tĩnh điện,...nhưng độ phân giải phổ α phụ thuộc rất nhiều vào
độ dày của mẫu. Phương pháp đo phổ α có giới hạn phát hiện rất nhỏ. Đối với
những đồng vị phóng xạ có chu kỳ bán huỷ nhỏ hơn một triệu năm, phương pháp đo
phổ α có giới hạn phát hiện nhỏ hơn 1 ppt.
Phương pháp đo phổ α có nhược điểm là thời gian phân tích kéo dài do phải
tách hoá học cũng như thời gian đếm rất lâu (từ 1 đến 30 ngày). Tuy nhiên, giá
thành thiết bị và chi phí vận hành tương đối thấp.
1.2.1.2. Phương pháp đo phổ beta
Các đồng vị phóng xạ phát ra bức xạ β hay electron được xác định bằng
detector ion hoá như buồng ion hoá, detector GM hay LSC. Ống đếm GM thường
20
được dùng để xác định các đồng vị phát ra eletron năng lượng cao. LSC có ưu điểm
là xác định được các đồng vị phát ra eletron năng lượng thấp. LSC được dùng để
xác định các đồng vị phát ra tia β có năng lượng từ thấp đến cao. Do phổ β - phổ
năng lượng của các electron phát ra trong phân rã β là phổ liên tục nên không thể
định danh được từng đồng vị riêng biệt đơn thuần bằng cách đo phổ β. Như vậy, để
xác định một đồng vị cần phải tách nó ra khỏi các đồng vị khác trước khi đo phổ
beta. Sự hấp thụ của electron trong vật chất không lớn như hạt α song để giảm khả
năng tự hấp thụ của electron trong mẫu cũng như tăng hiệu suất đếm, việc chuẩn bị
mẫu cho ống đếm GM cũng cần tiến hành như chuẩn bị mẫu để đo phổ alpha. LSC được dùng để xác định các đồng vị phát eletron năng lượng thấp như 3H, 14C, 129I, and 241Pu. LSC còn được dùng để xác định các đồng vị phân rã bằng cách phát ra các electron chuyển đổi với tỷ lệ cao hay bằng cách bắt electron như 41Ca và 55Fe.
Tuy nhiên, LSC có nhược điểm là giới hạn phát hiện của nó cao hơn so với ống đếm
GM, hiệu ứng quench ở LSC đòi hỏi phải hiệu chỉnh để có kết quả đo chính xác.
1.2.1.3. Phương pháp đo phổ gamma
Nhiều đồng vị phóng xạ phân rã α và β đồng thời cũng phát ra tia γ nên chúng
cũng được xác định bằng phương pháp đo phổ gamma. Nhiều loại detector có thể sử
dụng trong phép đo phổ gamma như detector nhấp nháy dùng NaI, CsF và ZnS làm
chất nhấp nháy, ống đếm, detector bán dẫn Ge tinh khiết, CdTe và GaAs. Từ những
năm 70 của thế kỷ trước, các loại detector Si(Li) và Ge(Li) được dùng chủ yếu
trong hệ phổ kế gamma vì chúng có độ phân giải cao. Những năm sau đó, detector
Ge siêu tinh khiết (HpGe) được dùng rộng rãi vì có thể giữ ở nhiệt độ phòng, việc
bảo dưỡng đơn giản hơn trước.
Detector NaI(Tl) thích hợp cho phép đo bức xạ γ có năng lượng từ vài trăm
Kev đến 2,0 MeV. Detector Si(Li) và detector Ge loại nhỏ thường được dùng để đo
các tia γ năng lượng thấp và tia X (<100keV) với độ phân giải năng lượng 0,15 keV
ở 5,9 keV trong khi detector Ge loại lớn thường được dùng để đo các tia γ năng
lượng cao (>25keV) và thường có độ phân giải năng lượng hơn 2 keV ở 1332 keV.
Các loại detector HPGe có cấu tạo và kích thước khác nhau, thích hợp cho phép đo
bức xạ gamma có năng lượng từ 60 KeV đến 3,0MeV. Detector nhấp nháy có hiệu
21
suất cao nhất trong các loại detector chất rắn. Các detector bán dẫn thông dụng hiện
nay có hiệu suất tương đối khoảng 10 - 20%. Độ tuyến tính theo năng lượng của
detector bán dẫn tốt hơn so với detector nhấp nháy. Do vậy, sử dụng detector bán
dẫn xác định năng lượng của bức xạ γ trong dải năng lượng rộng sẽ cho kết quả
chính xác hơn.
Do là bức xạ điện từ, tia γ có thể đi xuyên qua vật chất với quãng đường dài
mà không bị hấp thụ đáng kể, nhất là với tia γ năng lượng cao. Mẫu thường
không cần xử lý trước khi đo nên phép phân tích đo phổ γ thường nhanh và
không phức tạp, tránh được sự ảnh hưởng của tạp chất đưa vào khi xử lý mẫu.
Các đồng vị phóng xạ phát ra các tia γ có năng lượng thích hợp thường được xác định bằng đo phổ γ như 60Co, 65Zn, 54Mn, 94Nb, 106Ru, 133Ba, 134Cs, 137Cs, 144Ce, 152Eu, 154Eu và 241Am. Hiệu suất đếm của phép đo phổ gamma thường thấp (<10
%) phụ thuộc vào năng lượng tia γ, khoảng cách từ mẫu đến detector, kích thước
tinh thể Ge hay Si. Tốc độ đếm phông của phép đo phổ γ thường cao, phụ thuộc
vào mức độ che chắn detector và hoạt độ của mẫu. Giới hạn phát hiện của phép
đo phổ γ (>50 mBq) cao hơn vài bậc so với đếm β và đo phổ α. Do phép đo phổ
α có giới hạn phát hiện rất thấp nên lượng vết các đồng vị phát ra tia α thường
chỉ được xác định bằng đo phổ α trừ trường hợp 241Am có thể xác định bằng đo
phổ γ khi hàm lượng của nó không quá thấp.
1.2.1.4. Phương pháp kích hoạt hạt nhân
Nguyên lý của phương pháp phân tích kích hoạt hạt nhân là biến các đồng vị
bền thành những đồng vị phóng xạ thông qua các phản ứng hạt nhân. Trên cơ sở đo
năng lượng của các tia bức xạ và chu kỳ bán rã của các đồng vị phóng xạ nói trên có
thể nhận diện được các nguyên tố đã tham gia phản ứng. Hàm lượng của chúng
được xác định dựa vào cường độ của các tia bức xạ.
Phân tích kích hoạt có thể thực hiện với tất cả các loại phản ứng hạt nhân
tạo thành đồng vị phóng xạ. Trong thực tế chủ yếu sử dụng các phản ứng hạt
nhân gây bởi nơtron và photon, một số ít trường hợp cũng sử dụng các phản ứng
hạt nhân xảy ra với các hạt mang điện. Chính vì vậy, trong một số trường hợp
phương pháp phân tích kích hoạt còn được gọi theo tên của bức xạ kích hoạt như
22
phân tích kích hoạt nơtron (NAA), phân tích kích hoạt photon (PAA),...Ban đầu
NAA sử dụng nơtron nhiệt nên được gọi là phân tích kích hoạt nơtron nhiệt
(TNAA) để phân biệt với các phương pháp khác như: phân tích kích hoạt nơtron
nhanh (FNAA), phân tích kích hoạt nơtron dụng cụ (INAA), phân tích kích hoạt
nơtron hoá học (CNAA). Phân tích kích hoạt nơtron gamma tức thời (PGNAA)
là một trường hợp riêng của phân tích kích hoạt nơtron, việc kích hoạt mẫu và đo
bức xạ phải được thực hiện đồng thời.
Một quy trình phân tích kích hoạt bao gồm các bước chủ yếu sau: ước tính độ
nhạy phân tích kích hoạt, gia công và kích hoạt mẫu, xử lý hoá học mẫu sau khi
kích hoạt (nếu cần), đo hoạt độ phóng xạ, xử lý số liệu. Muốn đo hoạt độ phóng xạ
của các đồng vị cần lựa chọn bức xạ, detector và kỹ thuật đo. Mục đích của sự lựa
chọn là tăng hiệu suất ghi, tăng khả năng chọn lọc bức xạ và tăng tỷ số tín hiệu
(diện tích đỉnh phổ) trên phông.
NAA với việc nhận diện đồng vị và xác định hàm lượng căn cứ vào năng
lượng và cường độ của các tia γ là công cụ hữu ích để phân tích một loạt nguyên tố
vì phần lớn các đồng vị phóng xạ phân rã có phát ra tia γ.
1.2.2. Các phương pháp phân tích phổ khối
1.2.2.1. Nguyên tắc của phương pháp phân tích phổ khối
Các phương pháp phân tích phổ khối xác định các đồng vị (kể cả đồng vị
phóng xạ và đồng vị bền) dựa trên tỷ số khối lượng/điện tích (m/z) của chúng.
Phương pháp phân tích phổ khối ra đời khi Thompson nghiên cứu sự chuyển
động của các ion mang điện tích dương trong trường điện từ vào năm 1910. Vào
năm 1919, Aston đã lần đầu tiên ghi được phổ khối trên giấy ảnh. Gần như cùng lúc
đó, Dempster đã thiết kế máy đo phổ khối đầu tiên với detector điện tử [37, 84].
Phương pháp phân tích phổ khối bao gồm các quá trình: nạp mẫu, hoá hơi và
nguyên tử hoá, ion hoá, tách các ion theo giá trị m/z của chúng và cuối cùng là phát
hiện từng ion có giá trị m/z riêng. Các số liệu thu được giúp định tính cũng như định
lượng các chất cần phân tích trong mẫu [12, 37, 111].
Sơ đồ khối của máy phổ khối được trình bày trên Hình 1.1.
23
Nạp mẫu
Phân tách ion theo số khối
Ion hoá Detector Hoá hơi mẫu và nguyên tử hoá
Bơm hút Xử lý số liệu
Hình 1.1. Sơ đồ khối của máy phổ khối
1.2.2.2. Một số phương pháp phân tích phổ khối thông dụng nhất
Chỉ đến những năm 1940, phân tích phổ khối mới được ứng dụng rộng rãi, đầu
tiên là phân tích hỗn hợp các hydrocacbon với qui mô lớn, sau đó mới được ứng
dụng phân tích các chất vô cơ và xác định thành phần đồng vị các nguyên tố. Tất cả
các thiết bị này dùng từ trường.
Trong nhiều thập kỷ qua, máy phổ khối ion hoá nhiệt (TIMS) được sử dụng
nhiều để đo tỷ số các đồng vị [83, 113, 116]. Nó dựa trên nguyên tắc các ion dương
và âm được tạo ra trên bề mặt của sợi dây kim loại chịu nhiệt (như Ta, Re, W) có
nhiệt độ cao. Chất phân tích dưới dạng muối nitrat hay clorua được cho vào sợi dây
kim loại đó với giọt nhỏ vài microlit. Mục đích của việc phân tích chủ yếu là xác
định chính xác tỷ số các đồng vị của một nguyên tố hay ứng dụng kỹ thuật pha
loãng đồng vị để xác định chính xác hàm lượng các nguyên tố.
TIMS là loại máy chuyên dụng để phân tích các hệ đồng vị phóng xạ dài ngày
dùng trong nghiên cứu địa chất, như các hệ U-Th-Pb, Rb-Sr và Sm-Nd. Hệ thống
thiết bị đầy đủ bao gồm bộ phận nghiền và xử lý khoáng vật, phòng thí nghiệm vi
dò sử dụng vi dò điện tử quét (SEMP), phòng thí nghiệm hoá học sạch, hiện đại.
Máy phổ khối ion thứ cấp (SIMS) dựa trên nguyên tắc phân tích khối lượng
các ion tạo thành (ion thứ cấp) khi có sự tương tác của một dòng ion với bề mặt của
chất rắn (hoặc đôi khi cả chất lỏng) [26]. Dòng ion bắn phá, được gọi là dòng ion sơ
24
cấp, được gia tốc để có năng lượng từ 0,2-40 keV. Vì SIMS là thiết bị phân tích
khối lượng nên nó có thể phân tích tất cả các nguyên tố và thành phần đồng vị của
các nguyên tố có hơn một đồng vị. SIMS có độ nhạy cao, có giới hạn phát hiện cỡ
ppb. Một trong những lĩnh vực ứng dụng quan trọng nhất của SIMS là đo tỷ số đồng
vị phục vụ tính tuổi địa chất.
Máy phổ khối nguồn tia lửa điện (SSMS) là thiết bị được thương mại hoá đầu
tiên để đo phổ khối các chất vô cơ rắn và được giới thiệu vào những năm 1960. Nó
dùng một điện thế có tần số radio tạo xung ngắn qua khoảng trống giữa hai điện cực
dẫn điện. Nhược điểm chính của loại máy này là ghi phổ trên giấy ảnh, nhưng ưu
điếm chính của nó là có giới hạn phát hiện thấp, tới cỡ ppb [14].
Máy phổ khối ion hoá laze (LIMS) có từ đầu những năm 1960, dùng tia
laze công suất cao để làm bay hơi và nguyên tử hoá các vật liệu rắn thay cho
việc dùng tia lửa điện [26].
Máy đầu dò ion phân giải cao (SHRIMP) sử dụng đầu dò ion có độ phân giải
đặc biệt cao, phân tích mẫu rắn kích thước siêu nhỏ [14, 27].
Máy phổ khối plasma cảm ứng (ICP-MS) có thể xác định các đồng vị với độ
nhậy và độ chính xác rất cao [28, 43, 59, 78, 80]. Ngày nay nó đang có xu hướng
dần thay thế cho TIMS là loại máy phân tích đồng vị chủ đạo trong nhiều thập kỷ
qua [25, 36, 50, 60, 73].
Độ chính xác của các phương pháp phân tích phổ khối được so sánh trong
Bảng 1.1 ( khi chúng cùng có bộ thu ion đơn - single collector) [71].
Bảng 1.1. Độ chính xác của các phương pháp phân tích phổ khối
Phương pháp Độ chính xác Phương pháp Độ chính xác
SSMS 3-5 % RIMS 5 %
LIMS 3-5 % TIMS 0,01-1 %
SIMS 0,01-1 % SNMS 0,02-1 %
ICP-MS 0,02-2 % LA-ICP-MS 0,08-1 %
25
So sánh đặc điểm phân tích giữa các phương pháp phân tích hạt nhân và các
phương pháp phân tích phổ khối thấy rằng, các phương pháp phân tích hạt nhân có
độ chính xác cao hơn khi xác định các đồng vị phóng xạ có thời gian sống ngắn, các
phương pháp phân tích phổ khối có độ chính xác cao hơn khi xác định các đồng vị
phóng xạ có thời gian sống dài. Đặc biệt là các phương pháp phân tích phổ khối có
khả năng phân tích cả các đồng vị phóng xạ (thường là các đồng vị phóng xạ có thời
gian sống dài) và các đồng vị bền nên chúng là công cụ hữu hiệu trong nghiên cứu
xác định tuổi tuyệt đối các mẫu địa chất bằng phương pháp tuổi đồng vị. ICP-MS là
một trong những máy phân tích phổ khối thông dụng nhất hiện nay.
1.2.2.4. Phương pháp phân tích phổ khối plasma cảm ứng (ICP-MS)
ICP-MS là một phương pháp phân tích các chất vô cơ dựa trên sự ghi đo phổ theo
tỷ số m/z của nguyên tử các nguyên tố cần phân tích. ICP (Inductively Coupled
Plasma) là ngọn lửa plasma tạo thành bằng dòng điện có tần số cao (cỡ MHz) được
cung cấp bằng một máy phát cao tần (RF). Ngọn lửa plasma có nhiệt độ cao có tác
dụng chuyển các nguyên tố có trong mẫu cần phân tích ra dạng ion. MS (Mass
Spectrometry) là phép ghi phổ theo tỷ số m/z.
ICP-MS được phát triển vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, là sự kết hợp
thành công và hoàn hảo của hai thiết bị phân tích là ICP và MS. Đây là một trong
những phương pháp phân tích hiện đại nhất hiện nay và ngày càng chứng tỏ có nhiều
ưu điểm vượt trội so với các phương pháp phân tích khác trong nghiên cứu xác định
lượng vết các nguyên tố cũng như xác định thành phần đồng vị của chúng [43]. Trên
thị trường hiện nay có nhiều hãng sản xuất máy ICP-MS như Agilent, Perkin Elmer,
Thermo, Bruker, Spectro, Shimadzu,…
Nguyên tắc của phương pháp ICP-MS
Phương pháp phân tích ICP-MS dựa trên nguyên tắc của sự hoá hơi, nguyên tử
hoá, ion hoá của các nguyên tố hoá học khi chúng được đưa vào môi trường plasma,
sau đó các ion này được tách ra khỏi nhau theo tỷ số m/z của chúng bằng thiết bị phân
tách khối rồi được phát hiện, khuyếch đại và đếm bằng thiết bị điện tử kỹ thuật số.
Trong phương pháp phân tích ICP-MS, hàm lượng các nguyên tố hay các
đồng vị được xác định bằng cách đo phổ khối (MS) của các ion được đưa vào
vùng plasma Ar (ICP).
26
Nguyên lý cấu tạo và vận hành máy ICP-MS
Nguyên lý cấu tạo của máy ICP-MS
Máy ICP-MS bao gồm các bộ phận chính như sau: hệ thống bơm dung dịch mẫu
và tạo sol khí , hệ thống tạo plasma, vùng tương tác, hệ thống thấu kính, hệ thống
phân tách khối , detector, hệ thống xử lý số liệu
Nguyên lý cấu tạo của máy ICP-MS được mô tả trong Hình 1.2.
Vùng tương tác
Thấu kính Hệ thống bơm dẫn mẫu
Cuộn dây
ICP Nón Tứ cực Detector
Dung dịch mẫu Torch Bơm chân không Thải
Buồng phun và nebulizer Xử lý số liệu
Hình 1.2. Nguyên lý cấu tạo của máy ICP-MS
Vận hành máy và kỹ thuật đo ICP-MS
Hệ thống bơm dung dịch mẫu (Sample Introduction) và tạo sol khí (Nebulizer)
Sau khi bơm dẫn mẫu vào buồng tạo sol khí bằng bơm nhu động (Peristaltic
Pump), có thể tạo sol khí theo hai nguyên tắc:
- Kiểu mao dẫn áp suất thấp: Đây là kỹ thuật phun sương (Pneumatic
Nebulizer Technique). Có một số kiểu thiết kế như kiểu Babington (Babington
Type), kiểu tập trung (Concentric Type) hay kiểu dòng cắt (Cross-flow). Trong
buồng tạo sol khí, dung dịch mẫu được chuyển thành các hạt bụi rất mịn (có kích
27
thước 1-2µm. Các hạt bụi mẫu này được trộn đều với khí mang (thường là Ar) tạo
sol khí của mẫu và được dẫn vào vùng ngọn lửa ICP (Torch Plasma).
- Kiểu siêu âm: Trong buồng tạo sol khí, dung dịch mẫu được tạo bụi do tác dụng
của năng lượng siêu âm.
Hệ thống tạo plasma
Các bộ phận cơ bản của hệ thống tạo plasma gồm có:
- Máy phát cao tần RF có công suất làm việc biến thiên từ 0,1 đến 2,5KW và
hoạt động ở nhiều tần số khác nhau. Các tần số phổ biến hay dùng là 27,12; 40; 45;
250; 450MHz.
- ICP-Torch gồm hệ thống ba ống thạch anh chịu nhiệt lồng vào nhau và đồng
tâm. Trong cùng là một mao quản có dòng khí Ar để dẫn hỗn hợp sol khí của mẫu
vào vùng plasma. Ống này có đường kính 0,8-2 mm có miệng thót lại (0,4-0,5 mm)
được làm bằng vật liệu trơ và bền nhiệt, chịu axit, chịu dung môi hữu cơ, được nối
thông với buồng tạo sol khí. Vòng ngoài là ống dẫn khí plasma (tạo môi trường
plasma) có đường kính 12-15 mm, được nối với nguồn cấp khí argon để tạo môi
trường plasma nhiệt độ cao. Ống thứ ba là ống dẫn khí phụ trợ (auxiliary gas).
- Hệ vòng cảm ứng (load coil) được quấn quanh miệng đèn (3 vòng). Đó là
ống hợp kim đồng rỗng, có đường kính ngoài 4-5 mm, đường kính trong 3 mm, có nước làm lạnh chạy qua (nhiệt độ thấp hơn 200C) với tốc độ 2,5-3 L/ph.
- Khí mang mẫu, khí tạo môi trường plasma và khí phụ trợ.
Có thể dùng một loại khí Ar hay He hoặc N2. Dùng một loại khí Ar cho cả ba
mục đích (tạo môi trường plasma, mang mẫu và phụ trợ) là tốt nhất vì Ar thường rẻ
hơn so với các loại khí khác. Hơn nữa, Ar có thế ion hoá cao hơn so với nhiều nguyên tố khác (trừ He, F và Ne) nên phản ứng (Ar+ + e- → Ar) xảy ra dễ dàng hơn so với phản ứng (M+ + e- → M). Điều này đảm bảo cho mẫu duy trì ở trạng thái ion hoá (với M+) để máy phổ khối phát hiện được. Dòng khí mang mẫu có lưu lượng 0,5-1,5 L/ph.
Khí tạo môi trường plasma có lưu lượng 10-15 L/ph. Dòng khí phụ trợ có lưu lượng
1-2 L/ph. Tổng cả ba dòng khí có lưu lượng khoảng 11 L/ph đến 20 L/ph.
28
Plasma Ar được hình thành và duy trì tại điểm cuối của đèn thuỷ tinh thạch
anh đặt bên trong cuộn dây đồng được làm lạnh bằng nước. Một điện thế có tần số
radio (RF) được đặt vào cuộn dây tạo ra một trường điện từ ở bên trong cuộn dây.
Sự phóng điện từ cuộn dây bên trong đèn cung cấp điện tử để khởi động plasma. Sự
va chạm tiếp sau đó làm tăng số nguyên tử Ar bị ion hoá và hình thành plasma.
Quá trình hình thành plasma ngay lập tức tự duy trì được và tiếp tục duy trì khi
dòng khí Ar vẫn tiếp tục đi vào đèn. Nhờ dòng khí mang Ar, mẫu được đưa từ hệ
thống bơm mẫu vào vùng plasma và hình thành các ion mang điện tích dương (+1).
Vùng tương tác
Các ion được tách xuất từ môi trường plasma có nhiệt độ cao (cỡ 6000 K hoặc
cao hơn nữa) với áp suất khí quyển (760 Torr) đi vào khối phổ kế hoạt động ở nhiệt độ phòng và độ chân không cao (10-5 Torr). Vùng tương tác có hai nón Ni liên tiếp
nhau có lỗ nhỏ cỡ milimet, qua đó các ion ở trung tâm vùng plasma được thu để phân
tích. Đầu tiên, các ion được tách lọc qua lỗ nhỏ của nón Ni thứ nhất, đi vào vùng giữa
hai nón, duy trì áp suất 1-3 Torr bằng bơm chân không công suất lớn. Ở giai đoạn
này, hầu hết các nguyên tử Ar được loại bỏ nhờ bơm chân không. Dòng ion tiếp tục
được tách xuất qua lỗ nhỏ của nón Ni thứ hai vào vùng phía trước của máy phổ khối duy trì áp suất 10-3-10-4 Torr cũng nhờ bơm chân không công suất lớn. Sự phát triển
của vùng tương tác có tính quyết định trong sự phát triển của thiết bị ICP-MS.
Hệ thống thấu kính
Các lăng kính ion (ion lense) dùng để định hướng cho các đồng vị chuyển vào
hệ thống phân tách khối.
Hệ thống phân tách khối
Tại đây, các đồng vị được tách ra theo tỷ số m/z.
Có thể chế tạo hệ thống phân tách khối theo 4 nguyên lý sau: cung từ, trường tứ
cực, đo thời gian bay, cộng hưởng Cyclotron (Cyclotron Resonance System)
Nguyên lý thứ nhất được ứng dụng cho các máy phổ khối thế hệ đầu tiên. Nó
đơn giản nhưng thường phải dùng nam châm lớn và nặng . Hầu hết các hãng chế tạo
máy phổ khối áp dụng nguyên lý thứ nhất và thứ hai hay kết hợp cả hai nguyên lý
29
trên trong việc chế tạo bộ phân tách khối để có hệ máy MS có 2 hay 3 tầng phân tách,
khi đó máy sẽ có độ phân giải cao. Thông thường, trường tứ cực được đặt ở phía
trước, sau đó ghép nối thêm một hay hai cung từ. Nam châm điện từ không cần lớn
nhưng máy vẫn có độ phân giải cao vì đây chỉ là hệ phân tách bổ sung.
Detector
Các ion với tỷ số m/z đặc trưng được dẫn lần lượt vào hệ thống phát hiện ion.
Các ion có tỷ số m/z cao hơn hoặc thấp hơn có các quỹ đạo khác nhau và mất đi
(được lọc qua).
Hệ thống phát hiện và đếm ion bao gồm detector và thiết bị khuyếch đại điện
tử theo mode đếm xung hay mode tương tự phụ thuộc vào cường độ dòng ion. Kiểu
detector thông dụng nhất trong ICP-MS là detector nhân điện (electromultiplier -
EM). Cường độ tín hiệu được đo đồng thời tại hai điểm khác nhau trong detector. Ở
điểm phía trên, tức ở giai đoạn analog của detector, tín hiệu được đo là dòng sau đó
được chuyển thành số đếm trên giây (cps) tương đương. Giai đoạn này đo các tín
hiệu có cường độ cao. Ở điểm thấp hơn, giai đoạn xung của detector đo các tín hiệu
có cường độ thấp. Để tránh hư hại detector và duy trì tuổi thọ của nó, các tín hiệu có
cường độ quá cao bị ngăn không cho đi vào detector.
Hệ thống xử lý số liệu
ICP-MS được kiểm soát bằng computer. Máy tính kiểm soát các bộ phận phần
cứng cũng như thu thập số liệu, lưu trữ, trình bày và xử lý số liệu.
Phổ ICP-MS
Khi dẫn mẫu phân tích vào ngọn lửa plasma (ICP), vật chất có trong mẫu
trước tiên bị chuyển hoàn toàn thành trạng thái hơi, sau đó các phân tử chất khí
được tạo ra bị phân ly thành các nguyên tử tự do ở trạng thái khí, cuối cùng trong điều kiện nhiệt độ cao của plasma (~ 80000C), phần lớn các nguyên tử trong mẫu
phân tích bị ion hoá thành các ion dương có điện tích +1 và các electron tự do. Thu
và dẫn dòng ion đó vào buồng phân cực để phân tách chúng theo số khối. Nhờ hệ
thống phân tách khối và detector thích hợp, thu được phổ khối của các đồng vị của
các nguyên tố cần phân tích có trong mẫu. Để thu được phổ khối ICP để xác định
30
hàm lượng hay tỷ số các đồng vị trong mẫu phải thực hiện lần lượt các bước sau:
- Chuyển mẫu phân tích về dạng dung dịch;
- Dẫn dung dịch vào hệ thống tạo sol khí (nebulizer);
- Dẫn mẫu dạng sol khí vào ngọn lửa plasma;
- Trong ngọn lửa plasma nhiệt độ cao (80000C) sẽ xảy ra các quá trình hoá
hơi, nguyên tử hoá và ion hoá.
Như vậy, trong plasma sẽ có ion +1 của tất cả các đồng vị của các nguyên tố có trong
mẫu. Mỗi đồng vị có khối lượng m của nguyên tố z sẽ được đặc trưng bằng số khối m/z.
- Thu toàn bộ đám hơi ion, lọc và phân ly chúng thành phổ theo số khối nhờ
thiết bị phân tách khối, phát hiện các ion bằng detector. Những ion có cùng số khối
m/z sẽ tập trung vào một đỉnh phổ. Đo cường độ của các đỉnh phổ sẽ thu được hàm
lượng của các đồng vị.
Đặc điểm phân tích của phương pháp ICP-MS
Các đặc điểm ưu việt của phương pháp ICP-MS
- ICP-MS cho phép phân tích lượng vết các nguyên tố cũng như phân tích
các đồng vị, tỷ số đồng vị các nguyên tố.
- Nguồn ICP là nguồn năng lượng kích thích phổ có năng lượng cao. Nhiệt độ plasma có thể đạt 6.000-10.0000C. Ở nhiệt độ này, sự hoá hơi mẫu, nguyên tử
hoá và ion hoá các nguyên tử có hiệu suất cao. Với nguyên tắc ghi đo phổ theo
số khối, ICP-MS cho phép phân tích hơn 70 nguyên tố từ Li đến U với độ nhạy
rất cao (giới hạn phát hiện thông thường cỡ ppt) so với các kỹ thuật phát xạ sóng
điện từ (như phổ phát xạ dùng đèn khí, hồ quang, tia lửa điện, ICP,...).
- Nguồn ICP là nguồn kích thích phổ rất ổn định nên phép đo ICP-MS có
độ lặp lại cao và sai số nhỏ, đáp ứng nhu cầu phân tích lượng vết các nguyên tố,
các đồng vị trong nhiều đối tượng mẫu.
- Phổ ICP-MS ít vạch hơn phổ ICP-AES nên có độ chọn lọc cao hơn, ảnh
hưởng của thành phần nền mẫu ít hơn và dễ loại trừ.
31
- Phương pháp phân tích ICP-MS có hai cách xác định các nguyên tố hay
đồng vị, đó là xác định chúng liên tiếp hay xác định chúng đồng thời. Các máy
ICP-MS hiện nay thường được dùng như một detector rất tốt cho việc nghiên cứu
và theo dõi sự chiết tách các hỗn hợp bằng các phương pháp GC, LC,...
- Khoảng tuyến tính trong phép đo ICP-MS rộng hơn hẳn các phương pháp
phân tích khác. Chỉ cần dùng một đường chuẩn cho một dải rộng nồng độ chất
phân tích. Điều đó rất quan trọng trong phân tích mẫu thực tế, đặc biệt là các
mẫu địa chất.
- Khả năng phân tích bán định lượng rất mạnh do không cần thiết lập đường
chuẩn mà vẫn cho kết quả tương đối chính xác.
- Ưu thế nổi bật của ICP-MS là tốc độ phân tích nhanh và có giá thành hạ. So
với tất cả các máy phân tích phổ khối khác, việc xử lý, chế hoá mẫu để có dung dịch
phân tích bằng ICP-MS là đơn giản nhất.
- Trong phương pháp ICP-MS, không có một giới hạn nghiêm ngặt về thế
ion hoá của các nguyên tố cần quan tâm. Đây là một ưu điểm rõ rệt của ICP-MS
so với TIMS (TIMS rất khó xác định các đồng vị của nguyên tố có thế ion hoá
khá cao như Hf) [14, 59].
Các đặc điểm hạn chế của phương pháp ICP-MS
- Mẫu thường được chuyển về dạng dung dịch trước khi được phân tích
bằng ICP-MS và một số khí như Ar được thêm vào cùng với mẫu đo nên các
nguyên tố có trong thành phần của nước (H, O, N, C,...) và khí bổ sung không
thể phân tích được bằng phương pháp này.
- Các nguyên tố có thế ion hoá quá cao sẽ có độ nhạy phân tích rất kém (các
nguyên tố có thế ion hoá vượt quá 10 eV như P, S, Cl, Br, Au, Hg, các khí
trơ,...). Các nguyên tố có thế ion hoá từ 7 đến 10 eV như Be, Mg, Ca, các nguyên
tố chuyển tiếp, As, Sc, Mo,... có độ nhạy phân tích ở mức trung bình. Các
nguyên tố có thế ion hoá nhỏ hơn 7 eV (kim loại kiềm, kiềm thổ, đất hiếm, Pb,
U,...) có độ nhạy phân tích cao.
32
- Sự hình thành các ion đa nguyên tử dẫn đến hiện tượng che lấp phổ. Máy
phổ khối thế hệ mới có độ phân giải cao có thể khắc phục nhược điểm này nhưng
không phải khắc phục hết được. Sử dụng buồng va đập để loại các ion phân tử có
thể nâng cao tính năng của thiết bị.
- Sự mất đi không gian chuyển động của các ion tích điện gây nên hiệu ứng
nền hoá học. Các ion nặng có nồng độ cỡ 100 ppm đã làm giảm độ nhạy phép đo và
gây ra sai số phân tích.
- Sự đóng cặn xảy ra trong bộ phận cấp mẫu, trong nón và các bộ phận khác
dẫn đến làm tăng nồng độ các nguyên tố trong mẫu trắng cũng như làm trôi kết quả
đo. Sự đóng cặn cùng với hiệu ứng nền hoá học dẫn đến việc phải pha loãng dung
dịch mẫu hơn so với yêu cầu, song điều đó lại giới hạn khoảng nồng độ các nguyên
tố có thể đo được. Cần hiểu rõ các đặc tính vật lý và hoá học của việc đóng cặn để
có thể hạn chế nó.
- Hệ thống bơm dẫn mẫu vẫn cần được nghiên cứu cải tiến để nâng cao hiệu
suất, ngăn ngừa tạp chất, dễ sử dụng. Hệ thống nebulizer, buồng phun sương được
thiết kế để có thể phân tích một thể tích mẫu ít hơn, tuy nhiên nó cũng khó sử dụng
hơn các hệ thông thường. Có thể thiết kế hệ thống bơm dẫn mẫu với tốc độ cấp mẫu
0,5ml/phút và hiệu suất cung cấp chất phân tích đạt 100%. Vì lượng chất phân tích
đi vào vùng plasma tăng lên nên ảnh hưởng của hiệu ứng nền hoá học có nguy cơ
cao hơn.
- Giá thiết bị và chi phí vận hành còn cao. Giá thiết bị ICP-MS tứ cực khoảng
180.000 USD và hệ MC-ICP-MS khoảng 1.000.000 USD. Cần tiêu tốn Ar khoảng
10-20 L/phút để duy trì ICP.
Tuy thế, với khả năng phân tích đồng thời nhiều nguyên tố, giới hạn phát hiện
thấp, có thể phân tích các đồng vị, ICP-MS vẫn là thiết bị phân tích đạt được yêu
cầu về mặt khoa học cũng như tài chính.
Khả năng phân tích lượng vết các nguyên tố, phân tích thành phần đồng vị của
phương pháp ICP-MS
33
Phương pháp ICP-MS có thể phân tích hầu hết các nguyên tố từ Li đến U, ngoại
trừ một số nguyên tố phi kim như H, He, C, N, O, F, Ne, S, Cl, Ar, Kr, Xe, Rn.
Trong tự nhiên tồn tại 325 đồng vị gồm 274 đồng vị bền và 51 đồng vị phóng
xạ. Ngoài ra còn có hơn 1200 đồng vị phóng xạ nhân tạo được tổng hợp trong
phòng thí nghiệm. Mỗi đồng vị được đặc trưng bởi số nơtron (N) và proton (Z),
hoặc số khối A = N + Z. Các đồng vị bền có tỷ số N/Z tối ưu, với N ≈ Z. Các đồng
vị phóng xạ có N và Z lệch nhau. Các đồng vị phóng xạ có chu kỳ bán rã càng bé
khi N và Z càng lệch nhau nhiều.
Nhờ máy phổ khối có thể xác định chính xác khối lượng các đồng vị.
Trong vỏ trái đất, hàm lượng tự nhiên các đồng vị bền của từng nguyên tố
không thay đổi theo vị trí địa lý và môi trường. Do có cấu trúc vỏ electron như nhau
nên tính chất hoá lý của các đồng vị cùng một nguyên tố nói chung rất giống nhau,
cho dù khối lượng hạt nhân của chúng có khác nhau đôi chút. Các phản ứng hoá học
trong phòng thí nghiệm hoặc trong tự nhiên hầu như không gây ra sự phân ly đồng
vị, khiến cho thành phần đồng vị của một nguyên tố trong trái đất ổn định. Nhờ có
tính ổn định thành phần đồng vị của các nguyên tố nên phương pháp phân tích
nguyên tố theo đồng vị như phương pháp ICP-MS được nghiên cứu phát triển.
Các đồng vị nhẹ (các đồng vị của H, O,…), hoặc các đồng vị tạo thành do sự
phân rã phóng xạ của các đồng vị mẹ (như U và Pb) có thành phần thay đổi. Đối với
các nguyên tố nhẹ, khối lượng đồng vị khác nhau đáng kể dẫn đến sự phân ly đồng
vị trong các quá trình nhạy với khối lượng nguyên tử. Hiện tượng phân ly đồng vị dẫn đến sự biến thiên thành phần đồng vị 2H, 18O, 13C và 34S trong các khoáng vật
và dịch có nguồn gốc thành tạo khác nhau. Máy phổ khối có thể xác định chính xác
những biến thiên đó làm cơ sở cho các luận giải về địa hoá. Nguyên tố Pb có bốn đồng vị bền. Đồng vị 204Pb không liên quan đến phóng xạ tự nhiên, các đồng vị 206Pb, 207Pb, 208Pb là sản phẩm phân rã từ các đồng vị mẹ 238U, 235U, 232Th. Máy
phân tích phổ khối có thể xác định chính xác hàm lượng các đồng vị Pb và các đồng
vị mẹ, làm dữ liệu để xác định tuổi tuyệt đối của mẫu vật (phương pháp tuổi đồng vị
U/Th-Pb). Đây là trường hợp tiêu biểu của ứng dụng sự thay đổi thành phần đồng vị
một số nguyên tố theo thời gian để xác định tuổi địa chất.
34
Phương pháp ICP-MS được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như quá
trình sản xuất nhiên liệu hạt nhân, xác định đồng vị phóng xạ (chiếm tỷ trọng 5%);
bảo vệ môi trường (48%); công nghiệp sản xuất chất bán dẫn (33%); y tế (6%); hoá
chất (4%); ICP-MS cũng được ứng dụng nhiều trong nghiên cứu địa chất bao gồm
địa thời học (xác định tuổi địa chất), địa hoá học,...[53, 76, 77, 82]. Để xác định các
đồng vị, ICP-MS là phương pháp phân tích tốt nhất hiện nay cho kết quả phân tích
có độ chính xác cao, giới hạn phát hiện rất nhỏ [80]. Các phương pháp phân tích
SHRIMS, phổ khối plasma cảm ứng laze (LA-ICP-MS) dùng trong nghiên cứu xác
định tuổi địa chất có một ưu điểm là có thể phân tích trực tiếp mẫu rắn, không cần
giai đoạn phân huỷ mẫu, chuyển mẫu vào dung dịch (tất nhiên cần phải xử lý mẫu
rất thận trọng và tinh tế trước khi đo mẫu) [24, 29, 30, 72, 96, 97]. Tuy nhiên, chúng
cũng có một yếu điểm là cần có những bộ mẫu chuẩn phù hợp và tốt, điều này
không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện được. Dùng phương pháp ICP-MS
thông thường đòi hỏi bước phân huỷ mẫu, chuyển các thành phần mẫu vào dung
dịch nhưng kết quả phân tích thu được có độ tin cậy cao hơn. Kết hợp với các
phương pháp tách và làm giàu các nguyên tố trước khi xác định đồng vị của chúng
có thể nâng cao độ nhạy và độ chính xác của phép phân tích [24, 59].
1.3. Các phương pháp xử lý mẫu, phân huỷ mẫu và tách các nguyên tố cần
quan tâm khỏi nền mẫu
1.3.1. Lấy mẫu, xử lý mẫu và các phương pháp phân hủy mẫu
Đơn khoáng zircon là khoáng vật tốt nhất và thường hay được dùng nhất để
xác định thành phần đồng vị của U, Th, Pb (phương pháp U/Th-Pb) cũng như thành
phần đồng vị của Hf [44, 72, 83, 96, 109, 112].
Các khoáng vật như mica (muscovite, biotite), K-felspar,... thường được dùng
để tính tuổi bằng phương pháp Rb-Sr [44, 92].
Các mẫu đá tổng cũng có thể được sử dụng để phân tích thành phần đồng vị
các nguyên tố. Mẫu đá tổng có chứa các khoáng vật được mang phân tích trực tiếp,
không cần qua giai đoạn tách riêng lấy khoáng vật. Một số công trình nghiên cứu đã
tiến hành phân tích thành phần đồng vị Pb hay Rb, Sr trong đá tổng [48, 92]. Hình
ảnh minh hoạ một số loại khoáng vật được trình bày trong Hình 1.3.
35
Khoáng vật zircon Khoáng vật felspar
Khoáng vật biotite Khoáng vật muscovite
Hình 1.3. Hình ảnh minh họa một số loại khoáng vật
Zircon được tách khỏi đá chủ bằng kỹ thuật nghiền thông thường và các kỹ
thuật tách loại khoáng vật. Lấy 10-15 kg mẫu tươi, không bị phong hoá, lộ thiên hay
có những biến đổi khác lạ có thể nhận thấy bằng mắt thường. Đập nhỏ mẫu trên máy
đập hàm có bọc thép. Mẫu tiếp tục được nghiền trên máy nghiền đĩa Bico tới dạng cát
mịn (khoảng 10-300 µm), rồi chuyển sang bàn đãi Wilfrey để thu hồi các khoáng vật
nặng. Tiếp theo chúng được tách bỏ các khoáng vật có từ tính mạnh qua thiết bị tách
từ đẳng hướng theo chiều thẳng đứng Frantz. Các mẫu đá felsic tiếp tục được tách
bởi dung môi có tỷ trọng lớn (methylene iodide) để phần đá mafic chìm xuống. Thu
lấy phần mafic, chuyển vào máy tách đẳng từ theo chiều ngang. Cuối cùng, tuyển
chọn các đơn khoáng zircon bằng tay khi soi qua kính hiển vi [45, 74, 90].
Felspar hay mica nói chung cũng được tách xuất khỏi đá chủ thông qua các
giai đoạn nghiền, tuyển chọn bằng tay khi soi qua kính hiển vi để loại bỏ những
khoáng vật có khiếm khuyết.
36
Có hai phương pháp chính để phân huỷ mẫu địa chất. Thứ nhất là phương
pháp kiềm chảy, sử dụng các chất chảy như KOH, Na2CO3, KHF2, đặc biệt là
LiBO2 [18, 55, 81]. Thứ hai là phương pháp hoà tan mẫu bằng dung dịch axit (hay
hỗn hợp axit) vô cơ [69, 90].
Phân huỷ mẫu bằng phương pháp kiềm chảy có ưu điểm là không cần dung
đến axit HF độc hại, có thể phân huỷ tất cả các loại khoáng vật tạo đá thông thường,
kể cả loại khó phân huỷ như zircon hay cromit. Tất cả các nguyên tố sẽ được
chuyển vào dung dịch trừ các nguyên tố dễ bay hơi. Mẫu được phân huỷ nhanh,
trong một vài ngày có thể chuẩn bị được số lượng mẫu lớn để phân tích. Tuy nhiên,
phương pháp này cũng có nhược điểm là dung dịch phân tích cần được pha loãng,
ảnh hưởng đến giới hạn phát hiện một số nguyên tố hay đồng vị có hàm lượng thấp
trong mẫu. Nó cũng cần dùng đến lò nung nhiệt độ cao, dễ gây nguy hiểm. Lượng
lớn chất chảy dễ gây nhiễm bẩn mẫu. Mẫu còn có nguy cơ nhiễm bẩn từ chén nung,
tro trong lò hay ở cửa lò nung.
Phân huỷ mẫu bằng phương pháp axit nói chung hay axit HF nói riêng ở áp
suất thấp không cần dùng đến lò nhiệt độ cao, nồng độ của đá hay khoáng vật trong
dung dịch lớn hơn nên một số nguyên tố hay đồng vị có giới hạn phát hiện tốt hơn.
Mức độ nhiễm bẩn mẫu không cao khi phân huỷ mẫu bằng axit. Tuy nhiên, nó có
nhược điểm là phải dùng đến axit HF độc hại.
Khi tiến hành phân huỷ mẫu bằng phương pháp axit, có thể kết hợp với tăng
nhiệt độ, áp suất hay sử dụng năng lượng vi sóng [20]. Tuy nhiên, lò vi sóng không
phù hợp với việc phân huỷ loại mẫu có cấu trúc bền vững như zircon vì thời gian
hoà tan lâu ảnh hưởng đến độ bền của lò.
Các mẫu địa chất thường được hoà tan trong axit flohydric (HF) hay hỗn hợp
axit flohydric và axit nitric (HF + HNO3), hỗn hợp axit flohydric và axit pecloric
(HF + HClO4) hoặc hỗn hợp của cả ba axit nói trên. Một số loại khoáng vật được
hoà tan trong axit sulphuric (H2SO4) [5, 51]. Hầu hết các khoáng vật và đá hoà tan
được trong axit HF đặc ở áp suất thường. Tuy nhiên các khoáng vật có cấu trúc bền
vững như zircon [49] cần phải tiến hành hoà tan trong các bình chứa đặc biệt (các
bom) chịu được nhiệt độ và áp suất cao [99]. Các bình phân huỷ mẫu thường làm
37
bằng vật liệu polyfluoroethylene (PFE) hay Teflon. Phương pháp phân huỷ zircon
bằng bom Teflon đã được mô tả bởi Krogh [74]. Phương pháp mới hơn hiện nay,
dựa trên nguyên tắc của Krogh và được Parrish [90] phát triển thêm, đặt một số
những bình chứa nhỏ (micro capsule) trong một bình lớn hơn. Những bình chứa nhỏ
mở ra để hơi HF bay ra được.
Trở ngại chính liên quan đến việc hoà tan mẫu bằng HF là sự hình thành các
florua khó tan trong các axit vô cơ khác (ví dụ HCl) [64, 115]. Xử lý với axit nitric
(HNO3) sẽ chuyển chúng thành dạng dễ tan. Các kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng
quá trình này có hiệu quả cao khi axit HNO3 thêm vào trước khi HF bay hơi hoàn
toàn [90]. Nếu ở giai đoạn nào đó không thực hiện được việc hoà tan hoàn toàn, cần
gạn lấy phần bã chưa tan để mang phân huỷ lại bằng axit [117].
Về nguyên tắc, sau khi chuyển toàn bộ thành phần mẫu vào dung dịch, có thể
xác định trực tiếp thành phần các đồng vị hay tỷ số đồng vị của một nguyên tố bằng
ICP-MS. Tuy nhiên, các đồng vị cần xác định trong dung dịch mẫu thường có nồng
độ rất thấp, trong khoảng nồng độ vết hay siêu vết trong một nền mẫu phức tạp với
các nguyên tố chính có nồng độ rất cao. Khi đó, việc xác định các đồng vị có nồng
độ thấp rất dễ bị ảnh hưởng, dẫn đến sự sai lệch trong kết quả phân tích [80]. Để
khắc phục hiện tượng trên, cần phải tiến hành tách các nguyên tố cần quan tâm ra
khỏi nền mẫu trước khi xác định chúng bằng ICP-MS.
1.3.2. Tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền mẫu và các nguyên tố ảnh hưởng
Có nhiều phương pháp tách các nguyên tố đã được nghiên cứu và ứng dụng
trong thực tế phân tích như phương pháp kết tủa, phương pháp điện hoá, phương
pháp chiết dung môi, sắc ký chiết hay sắc ký trao đổi ion,…Ngày nay, các kỹ thuật
tách và sắc ký hiện đại được quan tâm và ứng dụng nhiều trong hoá học phân tích
để tách và làm giàu các cấu tử riêng biệt từ các hỗn hợp phức tạp [3].
Sắc ký là quá trình tách dựa trên sự phân bố liên tục của các cấu tử chất phân
tích lên hai pha: một pha thường đứng yên, có khả năng hấp thu chất phân tích gọi
là pha tĩnh, một pha di chuyển qua pha tĩnh gọi là pha động. Do các cấu tử chất
phân tích có ái lực khác nhau với pha tĩnh nên chúng di chuyển với tốc độ khác
nhau và tách ra khỏi nhau. Trong suốt quá trình tách sắc ký, các quá trình hấp thu
38
(chất tan chuyển từ pha động vào pha tĩnh) và giải hấp (quá trình ngược lại) xảy ra
liên tục. Nói cách khác, chất tan phân bố giữa hai pha liên tục khi pha động di
chuyển và hệ thống ở trạng thái cân bằng động [3].
Phương pháp sắc ký trao đổi ion thường được tiến hành trên cột tách sắc ký
bằng PFE, teflon hay thuỷ tinh thạch anh với nhiều loại nhựa trao đổi ion khác nhau.
Trong sắc ký trao đổi ion, ion chất tan trong pha động có thể đổi chỗ với các ion cạnh
tranh có cùng điện tích và kết hợp với các nhóm mang điện tích trái dấu tạo liên kết
hoá học với pha tĩnh. Pha tĩnh là các chất rắn polyme như nhựa hữu cơ không tan
hoặc silic dioxit được cải biến hoá học chứa các nhóm mang điện tích cố định. Có thể
xảy ra quá trình trao đổi cation hay anion và chúng được mô tả như sau:
Trao đổi cation : nR-H+ + Xn+ = (R-)nXn+ + nH+
Trao đổi anion : nR+Cl- + Yn- = (R+)Yn- + nCl-
R là nhựa polyme hay silic dioxit.
Trong quá trình tách sắc ký, các chất tan tạo nên đường cong nồng độ Gauss
đối xứng theo hướng dòng chảy của pha động. Đường cong này dần dần doãng ra
và trở thành bất đối xứng do chất tan liên tục di chuyển qua pha tĩnh. Sự hấp thu và
giải hấp liên tục của chất tan giữa pha động và pha tĩnh hình thành đường cong
nồng độ Gauss. Các phần tử chất tan di chuyển qua pha tĩnh với tổng khoảng cách
khác nhau chút ít làm cho đường cong nồng độ mở rộng một cách đối xứng. Các
phần tử chất tan lan truyền theo sự khuếch tán tới tất cả các hướng. Sự khuếch tán
theo cả hướng dòng chảy pha động và hướng ngược lại góp phần vào sự mở rộng
đối xứng của pic. Sự hấp thu và giải hấp hay sự chuyển khối giữa pha tĩnh và pha
động không phải là một quá trình tức thời, đôi khi chậm về mặt động học. Vì pha
động chuyển động liên tục, không bao giờ thiết lập được sự phân bố cân bằng thực
sự của chất tan. Đường nồng độ trong pha tĩnh chậm hơn một chút so với trong pha
động cũng gây ra sự mở rộng pic. Sự giải hấp chậm cũng có thể làm cho pic trở nên
bất đối xứng hay bị xiên. Chất lượng của phép tách sắc ký được đánh giá dựa trên
độ rộng của từng pic và mức độ tách biệt giữa các pic.
39
1.3.2.1. Tách U, Th, Pb
Tách U, Th, Pb bằng phương pháp chiết hay sắc ký chiết
Có một số dung môi hữu cơ thường được dùng để chiết U [74, 85, 113], trong
đó phổ biến nhất là tributylphotphat (TBP). U trong dung dịch mẫu ở môi trường
HNO3 8,0M được chiết bởi hỗn hợp dung môi TBP và xylen. Sau khi rửa bằng dung
dịch HCl 1,5M để loại Th, giải chiết U bằng nước. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu tách Pb bằng phương pháp chiết dung môi [52].
Trong phương pháp sắc ký chiết [61, 65, 89, 93, 113], U trong dung dịch mẫu
có môi trường HNO3 3,0M - Al(NO3)3 1,0M - Fe-sulphamat - axit ascobic được nạp
lên cột nhựa UTEVA. Rửa cột bằng dung dịch axit HCl 9,0M. Tiếp theo rửa cột
bằng dung dịch hỗn hợp HCl 5,0M - axit oxalic 0,05M và cuối cùng rửa giải U bằng
dung dịch HCl 0,01M. Với cùng phương pháp này, có thể thay thế nhựa UTEVA
bằng sự kết hợp giữa nhựa TEVA và nhựa Sr hay nhựa TRU.
Tách U, Th, Pb bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion
Để tách U và Th bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion, có thể dùng nhựa trao đổi
anion Dowex AG1-X4 hay Dowex AG1-X8 [34, 104, 105]. Dung dịch mẫu ở môi
trường axit HCl 9,0M-12,0M được nạp lên cột. Th đi ra khỏi cột trong điều kiện này.
Giải hấp U bằng dung dịch axit HCl 0,1M. Cũng có thể nạp lên cột dung dịch mẫu
trong môi trường HNO3 8,0M rồi giải hấp U cũng bằng dung dịch axit HCl 0,1M.
Tác giả Yokoyama và các cộng sự đã nghiên cứu phương pháp tách U và Th
từ các loại đá silicat bằng hai loại nhựa sắc ký trao đổi [113]. Trên cột thứ nhất có
nhồi nhựa U/TEVA spec, trừ U và Th, hầu như tất cả các nguyên tố được rửa ra
bằng HNO3 4,0M. Sau đó Th được giải hấp bằng HCl 5,0M và U được tách ra bằng
HNO3 0,1M. Phần lớn lượng Zr vẫn còn có trong phần dung dịch rửa giải Th. Zr
được tiếp tục tách ra trên cột thứ hai nhồi nhựa TEVA spec bằng HNO3 2,0M, sau
đó Th được giải hấp bằng HNO3 0,1M. Cả hai phần rửa giải U và Th thu được thoả
mãn độ sạch khi phân tích chúng bằng kỹ thuật TIMS. Độ thu hồi U và Th đạt được
trên 90%. Theo các tác giả, phương pháp tách này có ưu điểm so với các phương
pháp khác ở hiệu quả tách loại nền mẫu, vấn đề đuôi pic và mức độ tách loại khỏi
40
nhau tốt. Do U và Th được tách tốt, không có các hiệu ứng cản trở bởi nhiều cation
và anion khác, phương pháp này có thể áp dụng để phân tích các mẫu đá núi lửa
cũng như phân tích các mẫu đất, trầm tích biển, cacbonat, photphat, nước biển,
nước ngầm và nước bề mặt.
Tác giả Paquette và Pin [89] đã sử dụng hỗn hợp nhựa gồm 0,5 g nhựa
Eichrom Sr Specific và 1,5 g nhựa Eichrom TRU Specific. Dung dịch mẫu trong
môi trường HCl 2,5M được nạp vào cột nhựa. Dùng dung dịch HCl 6,0M để giải
hấp Pb và dung dịch hỗn hợp HCl 0,25M + HF 0,3M để giải hấp U.
Các tác giả Parrish, Roddick và các cộng sự [91] sử dụng nhựa Dowex AG1-
X8, 200 - 400 mesh trên cột nhựa teflon để tách Pb và U. Cột nhựa được thiết lập
môi trường HCl 3,0M và dung dịch mẫu trong môi trường tương tự được nạp lên
cột. Giải hấp Pb bằng dung dịch HCl 6,0M và giải hấp U bằng nước siêu sạch.
Thêm hỗn hợp silicagen - HNO3 vào các phần dung dịch rửa giải, làm bay hơi đến
khô, tẩm vào thanh Re và xác định các đồng vị bằng TIMS.
Tagami và Uchida [107] sử dụng nhựa TEVA để tách U. Xử lý nhựa bằng
dung dịch axit HNO3 0,1M sau đó cân bằng môi trường nhựa với dung dịch axit
HCl 6,0M. Dung dịch mẫu trong môi trường HCl 6,0M được nạp lên cột nhựa
rồi giải hấp U bằng dung dịch axit HCl 1,0M. Làm sạch nhựa bằng dung dịch
axit HNO3 0,1M.
1.3.2.2. Tách Rb, Sr
Tách Rb, Sr bằng phương pháp kết tủa hay sắc ký chiết
Có thể kết tủa dưới dạng nitrat để tách Sr khỏi Ca hay kết tủa dưới dạng
hydroxit để tách Sr khỏi các actinid và ytri. Kết tủa Sr ở dạng cromat sẽ tách được
Sr khỏi Ba, Ra và Pb. Sr cũng có thể được kết tủa ở dạng cacbonat [69].
Trong phương pháp sắc ký chiết, có thể dùng nhựa Sr hay Crown Ether [62,
92]. Dung dịch mẫu trong môi trường HNO3 3,0M - axit sulphamic 0,1M - axit
ascobic 0,1M - Al(NO3)3 0,3M được nạp lên cột. Rửa cột lần lượt bằng các dung
dịch axit HNO3 8,0M, dung dịch axit HNO3 3,0M và dung dịch hỗn hợp HNO3
3,0M - axit oxalic 0,05M. Cuối cùng giải hấp Sr bằng dung dịch HNO3 0,05M.
41
Tách Rb, Sr bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion
Jitka Mikova và các cộng sự đã nghiên cứu phương pháp tách Sr và các
nguyên tố đất hiếm nhẹ (LREE) qua hai cột tách sắc ký nối tiếp nhau chứa hai loại
nhựa trao đổi là Sr. Spec và TRU. Spec [66]. Nhựa trên hai cột được cân bằng môi
trường với dung dịch axit HNO3 2,0M. Cột nhựa Sr.Spec ở phía trên cột nhựa
TRU.Spec. Dung dịch mẫu được nạp lên cột trên, khi đó Sr được hấp thu ở cột này
còn LREE được hấp thu ở cột dưới. Sau khi rửa cả hai cột bằng dung dịch axit
HNO3 2,0M để loại các nguyên tố nền, tách riêng các cột. Tiếp tục rửa cột nhựa
Sr.Spec lần lượt bằng các dung dịch axit HNO3 2,0M; HNO3 7,0M và HNO3 3,0M.
Giải hấp Sr bằng dung dịch axit HNO3 0,05M.
Christian Pin đã sử dụng nhựa trao đổi PHOTI (hay PHOZIR) để tách Rb, Sr,
Ba và Pb trong các mẫu địa chất [94]. Nhựa New Sr Spec sps EXC được ngâm trong
dung dịch HNO3 0,05M rồi nạp lên cột PFE. Trước khi dùng, rửa nhựa lần lượt bằng
các dung dịch HCl 6,0M và HNO3 0,05M rồi thiết lập môi trường HNO3 2,0M. Nhựa
PHOTI (hay PHOZIR) được ngâm trong dung dịch hỗn hợp NH4NO3 2,0M - HNO3
2,0M rồi nạp lên cột polystyren. Rửa cột bằng dung dịch trên rồi thiết lập môi trường
HNO3 2,0M. Trước khi tiến hành tách, kết nối hai cột với nhau, cột nhựa PHOTI (hay
PHOZIR) thấp hơn cột nhựa New Sr Spec sps EXC. Dung dịch mẫu trong môi
trường HNO3 2,0M được nạp lên cột. Ba, Sr và Pb được hấp thu bởi nhựa Sr Spec sps
EXC còn các nguyên tố khác trong đó có Rb di chuyển sang cột PHOTI (hay
PHOZIR). Rb (và cả Cs) được giữ lại trên cột thứ hai này. Rửa hai cột bằng dung
dịch HNO3 2,0M trước khi tách chúng khỏi nhau. Giải hấp Ba khỏi nhựa Sr Spec
bằng dung dịch HNO3 7,0M sau đó bằng HNO3 2,0M. Giải hấp Sr bằng dung dịch
HNO3 0,05M. Cuối cùng, giải hấp bằng dung dịch HCl 6,0M. Rửa cột PHOTI (hay
PHOZIR) trước tiên bằng dung dịch HNO3 2,0M để loại các nguyên tố nền, sau đó
giải hấp Rb bằng dung dịch hỗn hợp NH4NO3 2,0M - HNO3 2,0M.
Keizi Misawa tách Sr và các nguyên tố đất hiếm bằng nhựa Sr resin [70].
Dung dịch mẫu trong môi trường HNO3 2,0M được nạp lên cột nhựa sau đó giải hấp
Sr bằng dung dịch HNO3 0,05M. Hệ số hấp thu của Sr và Ba tăng lên khi tăng nồng
độ axit HNO3 nhưng khi nồng độ axit vượt quá 3,0M, hệ số hấp thu của Ba giảm
dần khi tiếp tục tăng nồng độ axit.
42
Vorster và các cộng sự ứng dụng khả năng tạo phức với kim loại kiềm thổ của
+. Giải hấp các cation
các axit cacboxylic EDTA và DCTA để tách Sr khỏi Rb [110]. Các nguyên tố Sr, Ca,
Mg, Rb được hấp thu trên nhựa Dowex 50W-X8 ở dạng NH4
hoá trị 2 dưới dạng phức của chúng với EDTA hay DCTA . Do các cation hoá trị 2 có
hằng số tạo phức với EDTA và DCTA khác nhau nên có khả năng tách chúng ở các
điều kiện nhất định. Cả EDTA và DCTA đều không tạo phức với các kim loại kiềm
nên Rb được giữ lại trên cột và sau đó được giải hấp bằng dung dịch axit HNO3.
Một số tác giả như Ciro Teixeira Correia, W. Siebel,... cũng đã dùng loại nhựa
trao đổi cation AG50W-X8 cho mục đích tương tự [38, 100].
1.3.2.3. Tách Hf
Tách Hf bằng phương pháp chiết hay sắc ký chiết
Những khó khăn trong việc tách Hf khỏi Zr đã được biết đến từ lâu. Có thể
tách riêng hai nguyên tố bằng kỹ thuật chiết dung môi, lặp lại nhiều lần hai giai
đoạn chiết và giải chiết [33, 95]. Hiện tại, quá trình chiết dung môi (dùng các tác
nhân chiết như TBP, D2ENPA hay Cyanex) [41, 42, 86] thường hay được áp
dụng để tách Hf khỏi nền Zr. Taghizadeh và các cộng sự đã nghiên cứu khả
năng chiết Hf của D2ENPA và Cyanex 272 [108]. D2ENPA có thể chiết gần như
tất cả Hf và Zr trong môi trường axit HNO3 0,1M. Khi nồng độ axit HNO3 tăng
lên tới 0,7M, khả năng chiết Zr hầu như không thay đổi trong khi khả năng chiết
Hf giảm đi rõ rệt. Cyanex 272 có khả năng chiết tới 80% Zr trong môi trường
axit HNO3 2,0M và hệ số tách hai nguyên tố là 34. Dasilva [41] đã sử dụng
Cyanex 925 trong nghiên cứu tách Hf và Zr, cho thấy tác nhân chiết này có thể
chiết 61% Zr và 4% Hf với hệ số tách là 37. Nayl A. A. [86] và cộng sự nghiên
cứu tách Hf và Zr trong môi trường HNO3 0,5M bằng một số tác nhân chiết
Cyanex là Cyanex 921, Cyanex 923, Cyanex 925 và nhận thấy trong điều kiện
tối ưu có thể chiết Zr tới 90; 87,6 và 91,6% với hệ số tách là 17; 21,4 và 40,7
tương ứng. Các tác giả cũng kết luận việc chiết Zr đạt hiệu quả hơn khi tiến hành
chiết trong môi trường HNO3 2,0M với tác nhân chiết Cyanex 925 0,4M.
43
Tách Hf bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion
Một số công trình nghiên cứu trước đây [46, 47, 103] cho thấy có thể tiến hành
tách Hf khỏi Zr bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion. Hf và Zr cùng được hấp thu
trên nhựa trong môi trường axit H2SO4. Hf được giải hấp ra khỏi cột trong môi
trường axit H2SO4 3,5%, sau đó Zr được giải hấp bằng dung dịch axit H2SO4 10%.
Trong điều kiện này Hf được tách tốt khỏi nền Zr và nhiều nguyên tố khác. Tác giả
Barovich và cộng sự đã tách riêng Hf và Zr trên nhựa trao đổi anion bằng dung dịch
axit H2SO4 0,65M [23].
1.4. Một số công trình nghiên cứu phân tích đồng vị các nguyên tố bằng các kỹ
thuật phân tích khác nhau ở Việt Nam và trên thế giới
Trong nhiều năm qua đã có rất nhiều công trình khoa học trên thế giới tập
trung vào vấn đề xác định thành phần đồng vị một số nguyên tố làm cơ sở dữ liệu
cho các nghiên cứu trong lĩnh vực địa thời học, địa hoá học,… Một số công trình
nghiên cứu xác định các đồng vị cả ba nguyên tố U, Th, Pb [96], xác định các đồng
vị U, Th [61, 93], xác định các đồng vị U, Pb [54, 73, 83] hay chỉ tập trung xác định
thành phần đồng vị của U [65, 114], thành phần đồng vị của Pb [19]. Nhiều tác giả
nghiên cứu xác định các đồng vị Rb, Sr [60] hay xác định thành phần đồng vị của
riêng nguyên tố Sr [17, 21, 35, 50]. Nhiều công trình nghiên cứu thành phần đồng vị
của Hf đã được công bố [33, 41, 101]. Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu xác định đồng vị 14C, xác định các đồng vị K, Ar [48], xác định các đồng vị Sm, Nd
[38, 94, 116]. Các công trình nghiên cứu này chủ yếu sử dụng các loại thiết bị phân
tích phổ khối khác nhau như TIMS [83, 114, 116], SIMS [26], SSMS [14], LIMS
[26], SHRIMP [14, 27], trong đó TIMS được sử dụng nhiều nhất và được coi là
thiết bị phân tích đồng vị chủ đạo. Tuy nhiên, thời gian gần đây số các công trình
nghiên cứu sử dụng thiết bị ICP-MS tăng lên nhanh chóng. ICP-MS có giá thành
không quá cao, có khả năng xác định các đồng vị với độ nhậy và độ chính xác cao
nên có xu hướng dần thay thế thiết bị phân tích TIMS [28, 59, 73, 78].
Tại Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu xác định các đồng vị bằng
phương pháp phân tích hạt nhân đã được công bố [13]. Trên cơ sở các kỹ thuật phân
tích phổ γ phân giải cao trực tiếp sau khi xử lý sơ bộ và đồng nhất hoá mẫu, phân
44
tích phổ γ sau khi tách hoá phóng xạ, đo phổ β phông thấp sau khi tách hoá phóng
xạ, đo phổ α sau khi tách hoá phóng xạ và tạo tiêu bản mẫu, các nhà khoa học đã xác định được các đồng vị phóng xạ 40K, 90Sr, 134Cs, 137Cs, U, Th, 226Ra, 210Pb, 210Po, 239Pu, 240Pu,…trong các đối tượng mẫu môi trường, mẫu sinh học. Đã có một
số công trình nghiên cứu xác định các đồng vị bền của nước bằng máy phổ khối tỷ
số đồng vị (IR-MS) Micromass [75, 87], phục vụ cho việc tìm hiểu cơ chế giải
phóng As từ trầm tích vào nước ngầm tầng Holocene khu vực Hà Nội. Các nhà địa
chất Việt Nam đã gửi nhiều mẫu ra nước ngoài để phân tích đồng vị các nguyên tố
U, Th, Pb, Rb, Sr, Sm, Nd, K, Ar để có dữ liệu phục vụ nghiên cứu về tuổi các
thành tạo địa chất. Số công trình nghiên cứu xác định thành phần đồng vị các
nguyên tố này ở Việt Nam còn rất hiếm hoi. Đã có một số công trình nghiên cứu
phân tích tỷ số đồng vị và xác định hàm lượng các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr bằng
khối phổ kế ion hóa nhiệt (TIMS) Thomson TSN 206 SA [1, 8]. Các tác giả đã
nghiên cứu, đưa vào khai thác sử dụng thiết bị để xác định thành phần đồng vị U,
Pb, Sr. Pb được tách sắc ký với nhựa trao đổi anion Dowex AG1-X4, 200 mesh
trong môi trường HBr 1,0M. Rb và Sr được tách với nhựa trao đổi cation Dowex
AG50-X4, 200 mesh trong môi trường HCl 2,5M. Dung dịch mẫu trong môi trường
HCl 2,5M được nạp lên cột sắc ký và tiếp tục dùng dung dịch trên để rửa giải các
nguyên tố. Rb được giải hấp ra trước, Sr được giải hấp ra sau. Dung dịch rửa giải
các nguyên tố được tẩm vào sợi đốt và xác định các đồng vị bằng khối phổ kế ion
hóa nhiệt. Vấn đề nghiên cứu xác định thành phần đồng vị Hf chưa được thực hiện
ở Việt Nam. Cho tới nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào về phân tích thành
phần đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf bằng phương pháp ICP-MS được
thực hiện ở nước ta.
45
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là các mẫu địa chất bao gồm các
khoáng vật và đá cần xác định tuổi và nguồn gốc. Trong phạm vi của luận án, đối
tượng nghiên cứu gồm có các mẫu đơn khoáng zircon (để nghiên cứu phân tích
thành phần đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb, Hf), khoáng biotite, muscovite,
feldspar (để nghiên cứu phân tích thành phần đồng vị các nguyên tố Rb, Sr).
2.2. Nội dung nghiên cứu
Để xây dựng phương pháp phân tích thành phần đồng vị các nguyên tố cần
tiến hành các nội dung nghiên cứu sau:
- Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo khi xác định thành phần đồng
vị các nguyên tố, bao gồm nghiên cứu tối ưu hóa các tham số hoạt động của máy
ICP-MS, ảnh hưởng của môi trường dung dịch mẫu đo, nồng độ dung dịch mẫu đo
đến phép phân tích.
- Nghiên cứu các điều kiện phân hủy mẫu, chuyển toàn bộ thành phần mẫu
khoáng vật vào dung dịch.
- Tách các nguyên tố có đồng vị cần phân tích ra khỏi các nguyên tố có đồng
vị ảnh hưởng và ra khỏi các nguyên tố nền hoặc tách bớt các nguyên tố nền khỏi
dung dịch mẫu phân tích.
- Từ các kết quả nghiên cứu thu được, thiết lập các phương pháp phân tích,
đánh giá phương pháp và bước đầu ứng dụng chúng để xác định thành phần đồng vị
các nguyên tố trong một số mẫu thực tế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo khi xác định các đồng vị
2.3.1.1. Khảo sát sự phụ thuộc cường độ tín hiệu của phép đo vào các tham số
hoạt động plasma
46
Các nghiên cứu của luận án này được thực hiện với máy phổ khối ICP-MS
Agilent 7500a, đặt tại Phòng thí nghiệm Trung tâm Phân tích, Viện Công nghệ xạ
hiếm, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Các thông số cơ bản của máy được
trình bày trong phần phụ lục (phụ lục 1).
Thế hệ máy ICP-MS Agilent 7500 cho phép đo và định lượng thành phần
đồng vị và tỷ số đồng vị của các nguyên tố. Chức năng này chủ yếu áp dụng
trong lĩnh vực nghiên cứu địa chất và hạt nhân khi phân tích tuổi và nguồn gốc
các mẫu địa chất, phân tích cấp độ làm giàu của urani [15]. Trong phần thiết
lập phương pháp, đặt chế độ đo (setting the acquisition mode) có một số mode
đo khác nhau áp dụng cho các mục đích nghiên cứu khác nhau. Thông thường,
để xác định nồng độ của một nguyên tố, chọn một hay một số đồng vị của
nguyên tố đó và đo ở mode SPECTRUM, khi đó tín hiệu phổ thu được từ 100
lần quét trong khoảng thời gian đo. Để xác định thành phần hay tỷ số đồng vị
của các nguyên tố, chọn đo các đồng vị ở mode ISOTOPE ANALYSIS, khi đó
tín hiệu phổ thu được từ 1000 lần quét trong khoảng thời gian đo. Thêm vào đó,
thời gian dừng ở mỗi số khối trong mode ISOTOPE ANALYSIS (dwell time
per mass) ngắn hơn 10 lần thời gian đó trong mode SPECTRUM [15]. Những
tính năng trên mang lại kết quả là phép đo thành phần đồng vị hay tỷ số đồng vị
của các nguyên tố ở mode ISOTOPE ANALYSIS cho độ chính xác cao hơn,
nó được dùng khi phân tích các đồng vị để xác định tuổi địa chất. Như vậy, khi
thiết lập phương pháp (METHOD) đo, chọn mode ISOTOPE ANALYSIS để xác
định thành phần đồng vị của các nguyên tố.
Máy phổ khối plasma cảm ứng là một thiết bị hiện đại nhưng phức tạp, có tới
gần 30 tham số hoạt động liên quan đến độ nhạy và độ chọn lọc khi phân tích hàm
lượng cũng như thành phần đồng vị các nguyên tố. Các tham số thuộc về hệ thấu kính
ion, hệ tứ cực, detector và các tham số thuộc về chế độ làm việc của plasma được tối
ưu hoá một cách tự động hoặc người phân tích có thể thay đổi cho phù hợp với từng
đối tượng mẫu khác nhau. Thông thường, các tham số hoạt động plasma hay được
điều chỉnh hơn các tham số còn lại. Cần khảo sát sự phụ thuộc cường độ tín hiệu của
phép đo vào các tham số hoạt động plasma của máy đo như công suất cao tần (radio
47
frequency power - RFP), lưu lượng khí mang mẫu (carrier gas flow rate - CGFR), độ
sâu mẫu (sample depth - SDe), tốc độ bơm dẫn mẫu (peripump rate - PR).
RFP là công suất điện có tần số radio cấp cho cuộn cảm bao quanh đèn torch để
tạo ra plasma. Công suất RF càng lớn thì tạo ra plasma có nhiệt độ càng cao và ngược
lại. Về nguyên tắc, trong một khoảng nào đó, công suất RF lớn làm tăng cường độ tín
hiệu của phép đo và làm giảm sự hình thành các ion mảnh oxit và hydroxit. Tuy
nhiên, cường độ tín hiệu của phép đo các đồng vị nhẹ có thể giảm nếu công suất RF
quá cao. Lưu ý rằng sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào công suất RF
đối với các đồng vị khác nhau là khác nhau.
CGFR có ảnh hưởng rất lớn đến cường độ tín hiệu của phép đo ICP-MS.
CGFR lớn tức là lượng mẫu được đưa vào vùng plasma trên một đơn vị thời gian
lớn và ngược lại. Nói chung, ứng với một giá trị RFP nào đó, CGFR tăng trong một
khoảng nào đó sẽ làm tăng cường độ tín hiệu của phép đo nhưng CGFR tăng quá cao
sẽ làm tăng tỷ lệ các ion mảnh oxit và hydroxit.
SDe là khoảng cách giữa đỉnh nón Ni đến điểm bên phải của cuộn cảm tạo
plasma. SDe ảnh hưởng lớn đến cường độ tín hiệu phổ. Về nguyên tắc, trong một
khoảng nào đó, SDe giảm sẽ làm tăng cường độ tín hiệu của phép đo, đồng thời cũng
làm tăng tỷ lệ hình thành các ion mảnh oxit và hydroxit.
Khảo sát sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu của phép đo vào các tham số hoạt
động plasma của máy đo được thực hiện theo phương pháp đơn biến. Khi nghiên
cứu sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu của phép đo vào RFP, các đồng vị trong dung
dịch chuẩn hỗn hợp được xác định khi máy hoạt động với các tham số SDe và CGFR
cố định, còn giá trị RFP được thay đổi. Khi nghiên cứu sự phụ thuộc của cường độ
tín hiệu của phép đo vào CGFR, các đồng vị trong dung dịch chuẩn hỗn hợp được
xác định khi máy đo hoạt động với các tham số SDe và RFP cố định, còn giá trị
CGFR được thay đổi. Khi nghiên cứu sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu của phép
đo vào SDe, các đồng vị trong dung dịch chuẩn hỗn hợp được xác định khi máy đo
hoạt động với các tham số CGFR và RFP cố định, còn giá trị SDe được thay đổi.
Chuẩn bị dung dịch hỗn hợp các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf, nồng độ mỗi
nguyên tố 20 ppb dùng để xác định các đồng vị của chúng bằng ICP-MS.
48
Các đồng vị 238U, 235U, 232Th, 206Pb, 207Pb, 208Pb, 85Rb, 86Sr, 88Sr, 176Hf, 177Hf, 178Hf được chọn để xác định trong quá trình khảo sát các tham số tối ưu của máy đo.
Để khảo sát, tìm tham số hoạt động plasma tối ưu của máy khi xác định các
đồng vị của U, Th, Pb, Rb, Sr và Hf, tiến hành xác định các đồng vị của chúng trong
dung dịch hỗn hợp với điều kiện PR là 0,1 v/s còn các tham số về RF, CGFR, SDe
lần lượt thay đổi như trình bày trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Các tham số hoạt động plasma được thay đổi
RFP (W) 900 1000 1100 1200 1300 1400 1500
CGFR (L/ph) 1,00 1,05 1,10 1,15 1,20 1,25 1,30
SDe (mm) 4 5 6 7 8
Trong quá trình ion hoá mẫu trong ngọn lửa plasma, luôn luôn kèm theo sự hình
thành các ion mảnh oxit và hydroxit làm giảm độ chọn lọc của phép phân tích. Sự
hình thành các ion mảnh oxit và hydroxit phụ thuộc vào RFP, CGFR, SDe và PR.
Về nguyên tắc, cần lựa chọn được các tham số hoạt động plasma tối ưu để phép
đo có độ nhạy cao, đồng thời sự hình thành các ion mảnh oxit và hydroxit thấp nhất,
nhỏ hơn 1% và sự hình thành các ion đa nguyên tử nhỏ hơn 3%.
2.3.1.2. Lựa chọn axit dùng làm môi trường dung dịch mẫu đo và khảo sát nồng
độ axit tối ưu
Dung dịch mẫu đo thường có môi trường axit. Cần lựa chọn loại axit phù hợp
nhất dùng làm môi trường dung dịch mẫu. Khảo sát và lựa chọn nồng độ axit tối ưu
bằng cách xác định các đồng vị trong dung dịch chuẩn hỗn hợp khi máy đo hoạt động
với các tham số plasma tối ưu và nồng độ axit của dung dịch mẫu được thay đổi.
2.3.1.3. Giới hạn phát hiện, giới hạn định lượng các đồng vị
Giới hạn phát hiện là nồng độ của chất phân tích tương ứng với tín hiệu đo
nhỏ nhất mà thiết bị có thể phát hiện (định tính) được.
Giới hạn định lượng là nồng độ của chất phân tích tương ứng với tín hiệu đo
nhỏ nhất mà thiết bị có thể xác định (định lượng) được.
49
Đối với thiết bị ICP-MS, giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của từng
LOQ
=
LOD
=
đồng vị được tính theo công thức [7]:
b.10 S b
b.3 S b
; (2.3.1)
trong đó, LOD là giới hạn phát hiện đồng vị (Limit Of Detection);
LOQ là giới hạn định lượng đồng vị (Limit Of Quantification);
Sb là độ lệch chuẩn tín hiệu của mẫu trắng;
b là hệ số góc của đường chuẩn xác định đồng vị.
n
2
(
x
x
)
−
i
Đo lặp mẫu trắng 10 lần, tính Sb theo công thức sau:
∑
i
1 =
S
=
b
n
1
−
(2.3.2)
trong đó, Xi là tín hiệu mẫu trắng đo được lần thứ i;
x là giá trị trung bình tín hiệu mẫu trắng của n lần đo lặp;
n là số lần đo lặp mẫu trắng.
2.3.1.4. Khoảng tuyến tính của phép đo các đồng vị
Trong phép đo ICP-MS [15], việc định lượng một đồng vị dựa vào phương
trình cơ bản:
Ims = K.Cb (2.3.3)
trong đó, Ims là cường độ tín hiệu (số đếm, CPS) của vạch phổ;
K là hằng số thực nghiệm;
C là nồng độ của đồng vị;
b là hằng số (0 < b ≤ 1).
Trong khoảng nồng độ nào đó b có giá trị bằng 1, mối quan hệ giữa Ims và
C là tuyến tính :
Ims = K.C (2.3.4)
50
Khoảng nồng độ bắt đầu từ giới hạn định lượng (LOQ) đến giới hạn tuyến tính
(Limit Of Linearity - LOL) được gọi là khoảng tuyến tính của phép đo đồng vị cần
phân tích. Khoảng tuyến tính của mỗi đồng vị có tỷ số m/z khác nhau là khác nhau.
Để xác định khoảng tuyến tính của phép đo các đồng vị cần thiết lập đường
CPS) nên
chuẩn xác định đồng vị. Tuy nhiên, trong phương pháp ICP-MS, tín hiệu của phép đo (CPS) có thể thay đổi trong khoảng giá trị rất lớn (từ vài CPS đến 4.109
khoảng tuyến tính của phép đo rất rộng (từ vài ppt đến vài chục hay vài trăm ppm).
Do vậy, đối với phép đo ICP-MS, không cần chú ý nhiều đến giới hạn tuyến tính.
Thiết lập đường chuẩn xác định các đồng vị bằng các dung dịch chuẩn có nồng
độ nằm trong khoảng phù hợp, nồng độ thấp nhất của đồng vị trong dung dịch chuẩn
không nhỏ hơn giới hạn định lượng của đồng vị đó. Phải đảm bảo độ chính xác của
phép đo ở mọi khoảng nồng độ của đường chuẩn. Để khảo sát độ chính xác của phép
đo, sử dụng 3 dung dịch chuẩn kiểm tra có chứa đồng thời các đồng vị có các nồng độ
ở khoảng đầu, giữa và cuối của đường chuẩn. Mỗi phép đo được thực hiện lặp lại 3 lần.
Sử dụng các đường chuẩn được thiết lập để xác định nồng độ các đồng vị trong các
dung dịch chuẩn kiểm tra. Đánh giá độ chính xác của phép đo qua kết quả tính toán độ
chệch và độ lệch chuẩn tương đối của nồng độ các đồng vị vừa xác định.
2.3.2. Nghiên cứu phân huỷ mẫu
Các khoáng vật là đối tượng nghiên cứu xác định tuổi địa chất trong phạm vi
nghiên cứu của luận án, như đã trình bày ở phần trên, là zircon (dùng trong phương
pháp tuổi đồng vị U,Th-Pb, phương pháp đo đồng vị Hf), mica (bao gồm biotite và
muscovite) và K-felspar (dùng trong phương pháp tuổi đồng vị Rb-Sr). Ngoài ra
còn có thể phân tích trực tiếp đá tổng, không cần tiến hành tách khoáng vật (dùng
trong phương pháp chì thường và phương pháp tuổi đồng vị Rb-Sr). Các khoáng vật
dùng để phân tích thành phần đồng vị phải đảm bảo tươi, không bị phong hóa. Sau
các giai đoạn xử lý ban đầu, các khoáng vật được tuyển chọn dưới kính hiển vi để
đảm bảo độ thuần nhất, không có biến dạng đặc biệt.
Khi tiến hành phân tích hàm lượng các nguyên tố hay thành phần đồng vị các
nguyên tố bằng ICP-MS nên hạn chế phân huỷ mẫu bằng phương pháp kiềm chảy
vì các chất chảy làm tăng nền mẫu rất lớn. Ngoài ra, chất chảy trong dung dịch mẫu
51
còn có thể phá huỷ đèn torch của máy. Do vậy, cần ưu tiên tiến hành phân huỷ mẫu
bằng phương pháp axit. Các khoáng vật và đá thường được phân hủy bằng hỗn hợp
của axit HF và các axit khác (thường là HNO3 vì có tính oxy hóa cao) kết hợp với
yếu tố nhiệt độ, áp suất và thời gian. Một số loại khoáng vật có cấu trúc tinh thể bền
vững (như zircon) rất khó bị phân huỷ bằng phương pháp axit. Cần nghiên cứu phân
huỷ chúng trong các dụng cụ chuyên dụng, dưới áp suất và nhiệt độ cao.
Nghiên cứu phân hủy đơn khoáng zircon bằng phương pháp đơn biến với các
tham số là tỷ lệ hỗn hợp axit (HF + HNO3), nhiệt độ và thời gian. Lượng cân đơn
khoáng zircon được lấy như nhau (10 mg) chuyển vào bom Teflon, thêm vào hỗn
hợp axit HF + HNO3 theo tỷ lệ đã ấn định rồi đặt trong tủ sấy. Nhiệt độ tủ sấy được đặt ở các mức 1500C, 1600C, 1800C hay 2000C. Không đặt nhiệt độ tủ sấy cao hơn 2500C vì có thể làm hỏng bom phân hủy mẫu. Sau khoảng thời gian nhất định, lấy
từng bom phân hủy mẫu ra, xử lý dung dịch mẫu rồi xác định U trong dung dịch
mẫu. Nồng độ U trong dung dịch được coi như chỉ thị của khả năng (hay hiệu suất)
phân hủy mẫu.
2.3.3. Nghiên cứu tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền mẫu và các
nguyên tố ảnh hưởng
Cần có đánh giá sơ bộ để biết được những nguyên tố chính (hay nguyên tố nền
mẫu) trong mỗi loại mẫu. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nguyên tố nền mẫu đến
việc xác định các đồng vị cần quan tâm bằng cách so sánh kết quả xác định các
đồng vị trước và sau khi thêm vào các nguyên tố nền mẫu với nồng độ lớn hơn gấp
nhiều lần. Từ các kết quả nghiên cứu này sẽ định hướng việc tách các nguyên tố cần
quan tâm khỏi các nguyên tố nền mẫu.
Rb và Sr là hai nguyên tố có các đồng vị trùng số khối là 87Rb và 87Sr nên
không chỉ cần tách loại chúng khỏi các nguyên tố nền mà còn cần tách chúng ra
khỏi nhau trước khi xác định riêng rẽ các đồng vị này bằng ICP-MS.
Các nguyên tố Hf, Lu, và Yb có các đồng vị trùng số khối với nhau, đó là các đồng vị 176Hf, 176Lu, 176Yb. Như vậy, để xác định chính xác được hàm lượng của đồng vị 176Hf, cũng như tỷ số 176Hf/177Hf bằng ICP-MS, cần thiết phải tách được
nguyên tố Hf ra khỏi các nguyên tố Lu và Yb trước.
52
Phương pháp sắc ký trao đổi ion được lựa chọn để tách các nguyên tố vì đây là
phương pháp tách hiện đại nhưng không quá phức tạp, không phải sử dụng các
dung môi độc hại. Quá trình tách các nguyên tố được thực hiện trên cột thuỷ tinh
thạch anh, sử dụng cả hai loại nhựa trao đổi anion và nhựa trao đổi cation. Cột tách
sắc ký có kích thước 200 x 8 (mm), có khoá teflon ở dưới. Phía trên khoá, bên trong
cột có gắn màng xốp thuỷ tinh để giữ nhựa ổn định trong cột. Trước khi sử dụng,
ngâm rửa cột bằng dung dịch axit HNO3 7,0M và nước siêu sạch. Nhựa trao đổi ion
được sử dụng do Phòng thí nghiệm Bio-Rad (Richmond, California, USA) cung
cấp, gồm nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh và nhựa trao đổi
cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh. Ngâm 5 gam nhựa với dung dịch axit
HCl 6,0M trong thời gian một ngày, tráng rửa bằng nước siêu sạch rồi nạp nhựa lên
cột. Việc ngâm nhựa trong dung dịch axit có tác dụng làm nhựa được trương nở,
loại trừ các bọt khí, giúp cột sắc ký hoạt động tốt. Cuối cùng, cân bằng môi trường
của nhựa bằng cách dội qua cột 20 ml dung dịch axit có nồng độ thích hợp (cùng
loại với dung dịch axit được chọn làm môi trường cho dung dịch nạp cột). Nhựa cần
được ngâm trong dung dịch axit, không được để nhựa bị khô.
Dung dịch nạp cột (dung dịch mẫu) được chuẩn bị trong môi trường axit vô cơ
(HCl, HNO3, HBr hay H2SO4) có nồng độ thích hợp rồi nạp lên cột tách. Các
nguyên tố được hấp thu trên nhựa và giải hấp khỏi cột bằng các dung dịch axit vô
cơ khác nhau (các nguyên tố được giải hấp bằng chính dung dịch axit dùng làm môi
trường dung dịch nạp cột hoặc bằng một loại axit khác hoặc dùng các loại axit khác
nhau để giải hấp chọn lọc các nguyên tố cùng được hấp thu trên cột tách). Dựa trên
sự khác biệt về hằng số bền của các phức tạo thành, các nguyên tố cần quan tâm
được tách khỏi nền mẫu và các nguyên tố ảnh hưởng khác. Sau khi kết thúc quá
trình tách sắc ký trên cột, đánh giá khả năng tách của các nguyên tố cần quan tâm
khỏi các nguyên tố nền bằng cách định lượng các nguyên tố cần tách cũng như tất
cả các nguyên tố giả định có trong nền mẫu bằng máy ICP-MS Agilent 7500a.
Mỗi phân đoạn của dung dịch giải hấp (lấy mỗi phân đoạn 2,5 ml trong trường
hợp nghiên cứu tách U, Th, Pb, Rb, Sr; lấy mỗi phân đoạn 10 ml trong trường hợp
nghiên cứu tách Hf) được cô đến khô. Hoà tan cặn bằng dung dịch axit HNO3 0,3M,
53
định mức tới 25 ml rồi xác định các nguyên tố trong dung dịch thu được bằng ICP-
MS theo các điều kiện tối ưu đã chọn.
2.3.4. Thiết lập phương pháp phân tích và ứng dụng phân tích mẫu thực tế
Từ kết quả nghiên cứu thu được ở trên, xây dựng các phương pháp phân tích
đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf trong mẫu địa chất. Để sử dụng phương
pháp đã nghiên cứu vào phân tích mẫu thực tế cần đánh giá phương pháp dựa vào
các thông số như độ chính xác và độ thu hồi.
2.3.4.1. Đánh giá độ chính xác của phương pháp phân tích
Độ chính xác của phương pháp phân tích bao gồm độ đúng và độ chụm [7].
- Đánh giá độ đúng của phép phân tích qua độ chệch (B) giữa giá trị kết quả
phân tích mẫu SRM và giá trị đã được chứng nhận.
SRM
(%)
100
B
=
×
Độ chệch kết quả phân tích được tính như sau:
XX − X
SRM
(2.3.5)
- Đánh giá độ chụm của phép phân tích qua độ lệch chuẩn tương đối (RSD).
RSD
(%)
100
=
×
Độ lệch chuẩn tương đối của kết quả phân tích được tính như sau:
SD X
(2.3.6)
trong đó, B là độ chệch - Bias (%) ;
RSD là độ lệch chuẩn tương đối (%) ;
X là lượng đồng vị xác định được (giá trị trung bình) ;
SRMX
là lượng đồng vị được chứng nhận (giá trị trung bình) ;
n
2
(
X
X
)
−
i
SD là độ lệch chuẩn, được tính theo công thức sau:
∑
i
1 =
SD
=
N
1
−
(2.3.7)
54
trong đó, Xi là lượng đồng vị xác định được lần thứ i ;
N là số lần thí nghiệm.
2.3.4.2. Đánh giá hiệu suất thu hồi
Thêm một lượng nhất định các đồng vị cần quan tâm vào mẫu cần phân tích,
tiến hành xử lý mẫu qua tất cả các bước theo quy trình phân tích, so sánh kết quả
phân tích hàm lượng các đồng vị trong mẫu sau khi được thêm vào các đồng vị và
kết quả phân tích hàm lượng các đồng vị trong mẫu ban đầu.
C
C
−
total
100
(%)
R
×
=
sample (2.3.8)
C
spike
Hiệu suất thu hồi được tính như sau:
trong đó, R là hiệu suất thu hồi (%) ;
Cspike là lượng đồng vị thêm vào mẫu ;
Csample là lượng đồng vị có trong mẫu ban đầu ;
Ctotal là tổng lượng đồng vị xác định được trong mẫu sau khi thêm.
Mẫu chuẩn Plesovice Zircon [101] có các dữ liệu thành phần đồng vị U, Pb,
Hf. Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb và phương pháp
phân tích thành phần đồng vị Hf qua phân tích mẫu chuẩn Plesovice Zircon.
Mẫu chuẩn đối chứng SRM-987 có dữ liệu thành phần đồng vị Sr (phụ lục 6).
Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr qua phân tích mẫu
chuẩn SRM-987.
Sau khi đã kết luận được độ chính xác của phương pháp phân tích, áp dụng
quy trình phân tích để xác định các đồng vị cần quan tâm trong một số mẫu địa chất
như đơn khoáng zircon, mẫu khoáng vật biotite, muscovite, K-felspar.
2.4. Thiết bị, dụng cụ, vật liệu và hoá chất
2.4.1. Thiết bị
- Máy phổ khối plasma cảm ứng ICP-MS Agilent 7500a (Mỹ);
55
- Cân phân tích Mettler AE 163, độ chính xác 0,01 mg (Thuỵ sỹ);
- Tủ sấy, t0 max = 3000 C (Trung Quốc) ;
- Laminar flow hood (Mỹ);
- Máy lọc nước siêu tinh khiết SG, sản phẩm nước 18,2 MΩ (CHLB Đức).
2.4.2. Dụng cụ, vật liệu và hoá chất
2.4.2.1. Dụng cụ
- Bếp điện có điều chỉnh nhiệt độ (CHLB Đức);
- Bom teflon, dung tích 25 ml;
- Chén teflon, dung tích 50 ml;
- Cột tách sắc ký bằng thuỷ tinh thạch anh, 200 mm x 8 mm;
- Các dụng cụ thuỷ tinh (CHLB Đức).
2.4.2.2. Vật liệu và hoá chất
- Mẫu chuẩn SRM-987 (Cacbonat Stronti - SrCO3) - Viện nghiên cứu chất
chuẩn và công nghệ - NIST (Mỹ);
- Mẫu chuẩn Plesovice Zircon - Trường Tổng hợp Bergen (Nauy);
- Nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200 - 400 mesh (Mỹ);
- Nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200 - 400 mesh (Mỹ);
- Axit HNO3, HF, HCl, HBr, H2SO4, Supra Pure, Merck (CHLB Đức);
- Dung dịch chuẩn U (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Th (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Pb (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Rb (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Sr (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Zr (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Hf (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
56
- Dung dịch chuẩn Ca (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Mg (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Fe (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn Ti (1mg/ml) dùng cho ICP-MS, Inorganic Venture (Mỹ);
- Dung dịch chuẩn hỗn hợp (1 mg/ml) dùng cho ICP-MS gồm có các nguyên
tố : Al, As, Ba, Be, Ca, Cd, Co, Cr, Cs, Cu, Fe, Ga, K, Li, Mg, Mn, Na, Ni, Pb, Rb,
Se, Sr, Ti, V, U, Zn , Th, Sm, Nd, Inorganic Venture (Mỹ);
- Nước cất siêu tinh khiết 18,2 MΩ.
57
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tín hiệu đo khi xác định
đồng vị các nguyên tố
3.1.1. Khảo sát và lựa chọn các tham số tối ưu của máy đo
Khảo sát sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu của phép đo vào các tham số hoạt
động plasma của máy đo khi xác định tất cả các đồng vị được chọn ở trên. Các đồ thị biểu diễn kết quả nghiên cứu với một đồng vị đại diện là 238U.
3.1.1.1. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của RFP
Kết quả khảo sát sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP khi xác
U(238) PR = 0,1 v/s, CGFR = 1,0 L/ph
1.80E+06
1.60E+06
1.40E+06
)
4 mm
1.20E+06
5 mm
S P C
1.00E+06
(
6 mm
8.00E+05
7 mm
6.00E+05
m ế đ ố S
8 mm
4.00E+05
2.00E+05
0.00E+00
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
1600
Công suất RFP (W)
định đồng vị 238U được trình bày ở các hình từ Hình 3.1 đến Hình 3.4.
Hình 3.1. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP (CGFR=1,0 L/ph)
Từ đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP khi
CGFR = 1,0 L/ph (Hình 3.1) cho thấy, trong vùng RFP khảo sát (từ 900 W đến
1500 W), cường độ tín hiệu phổ giảm dần khi RFP tăng. Phổ ICP-MS dựa trên cơ sở ghi đo ion có điện tích +1 (ion M+). Với CGFR = 1,0 L/ph, công suất cao tần từ 900 W trở lên là quá cao, các đồng vị đã được ion hóa không chỉ thành M+ mà còn được ion hóa thành M++,…làm cho số lượng ion M+ giảm đi, dẫn đến cường độ tín
58
hiệu phép đo cũng giảm đi. Cường độ tín hiệu của phép đo đạt giá trị cực đại ở vùng
U(238) PR = 0,1 v/s, CGFR = 1,1 L/ph
3.00E+06
2.50E+06
)
4 mm
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
5 mm 6 mm
7 mm
1.00E+06
m ế đ ố S
8 mm
5.00E+05
0.00E+00
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
1600
Công suất RFP (W)
RFP thấp hơn 900 W.
Hình 3.2. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP (CGFR=1,1 L/ph)
Khi CGFR = 1,1 L/ph (Hình 3.2), cường độ tín hiệu phổ tăng dần khi tăng
RFP, đạt cực đại rồi lại giảm dần khi tiếp tục tăng RFP. Đường biểu diễn cường độ
tín hiệu phổ là một đường cong khá đối xứng qua điểm cực đại. Với CGFR và SDe
cố định, khi RFP ban đầu thấp tức khả năng ion hóa mẫu thấp, dẫn đến số lượng ion M+ thấp nên cường độ tín hiệu cũng thấp. Khi RFP tăng dần, khả năng ion hóa mẫu tăng, số lượng ion M+ cũng tăng làm cho cường độ tín hiệu tăng. RFP tăng đến một
mức nào đó (chính là mức tối ưu) thì phép đo có cường độ tín hiệu cao nhất. RFP
tăng vượt quá mức tối ưu này dẫn đến sự hình thành các dạng ion khác không mong muốn với phép đo phổ ICP-MS. Lúc này thực chất hiệu suất tạo ion M+ đã giảm nên
cường độ tín hiệu phổ giảm đi. Điều này giải thích lý do đường biểu diễn cường độ
tín hiệu phổ phụ thuộc vào RFP là một đường cong có cực đại. Điểm cực đại của
đường cong ứng với giá trị tối ưu của RFP.
Khi CGFR = 1,2 L/ph (Hình 3.3), sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo
vào RFP cũng tương tự như trên. Tuy nhiên, điểm cực đại của các đường cong biểu
diễn sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP chuyển dịch về bên phải
theo chiều tăng của RFP so với trường hợp CGFR = 1,1 L/ph. Nguyên nhân là CGFR
tăng tức lượng mẫu được đưa vào vùng plasma tăng, đòi hỏi RFP phải tăng theo để
59
đảm bảo hiệu suất ion hóa. Cường độ tín hiệu phổ tại điểm cực đại khi CGFR = 1,2
U(238) PR = 0,1 v/s, GFR = 1,2 L/ph
4.50E+06
4.00E+06
3.50E+06
)
4 mm
3.00E+06
S P C
2.50E+06
(
5 mm 6 mm
2.00E+06
1.50E+06
m ế đ ố S
7 mm 8 mm
1.00E+06
5.00E+05
0.00E+00
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
1600
Công suất RFP (W)
L/ph lớn hơn cường độ tín hiệu phổ tại điểm cực đại khi CGFR = 1,1 L/ph với tất cả các giá trị SDe do lượng mẫu đưa vào tăng sẽ có số lượng ion M+ tăng.
U(238) PR = 0,1 v/s, CGFR = 1,3 L/ph
3.00E+06
2.50E+06
)
4 mm
2.00E+06
5 mm
S P C
(
1.50E+06
c
6 mm
1.00E+06
m ế đ ố S
7 mm 8 mm
5.00E+05
0.00E+00
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
1600
Công suất RFP (W)
Hình 3.3. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP (CGFR=1,2 L/ph)
Hình 3.4. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP (CGFR=1,3 L/ph)
Khi CGFR = 1,3 L/ph (Hình 3.4), sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo
vào RFP cũng tuân theo quy luật như trên, cường độ tín hiệu phổ tăng dần khi tăng
RFP và đạt cực đại ở vùng RFP lớn hơn 1500 W. Các đường biểu diễn cường độ tín
hiệu phổ khi CGFR = 1,3 L/ph gần như trái ngược hoàn toàn với chúng trong trường
60
hợp CGFR = 1,0 L/ph. Tại cùng một giá trị RFP, khi CGFR = 1,0 L/ph, cường độ tín
hiệu phổ lớn nhất khi SDe = 4,0 mm thì khi CGFR = 1,3 L/ph, cường độ tín hiệu phổ
lại nhỏ nhất khi SDe = 4,0 mm.
3.1.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của CGFR
Kết quả khảo sát sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu của phép đo vào CGFR
U(238) PR = 0,1 v/s, SDe = 4 mm
4.50E+06
4.00E+06
3.50E+06
)
3.00E+06
900 W
S P C
2.50E+06
(
2.00E+06
1100 W 1300 W
1.50E+06
1500 W
m ế đ ố S
1.00E+06
5.00E+05
0.00E+00
0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
Lưu lượng khí mang CGFR (L/ph)
khi xác định đồng vị 238U được trình bày ở các hình từ Hình 3.5 đến Hình 3.7.
Hình 3.5. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR (SDe = 4,0 mm)
Từ các đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR
cho thấy, với SDe = 4,0 mm (Hình 3.5), trừ trường hợp khi RFP = 900 W, đường
biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR là những đường
cong có cực đại trong khoảng CGFR khảo sát. Với RFP và SDe cố định, CGFR ban đầu thấp tức lượng mẫu đưa vào vùng plasma thấp nên số lượng ion M+ thấp dẫn đến cường độ tín hiệu phổ thấp. Khi CGFR tăng dần, số lượng ion M+ cũng tăng
làm cho cường độ tín hiệu tăng. CGFR tăng đến một mức nào đó (chính là mức tối
ưu) thì phép đo có cường độ tín hiệu cao nhất. Khi CGFR tăng vượt quá mức tối ưu
này dẫn đến hiện tượng mẫu bị pha loãng, đồng thời khả năng hình thành các mảnh oxit và hydroxit tăng lên, số lượng ion M+ giảm đi làm cho cường độ tín hiệu phép
đo giảm.
Sự phụ thuộc cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR cũng tuân theo quy luật
trên với SDe = 6,0 mm (Hình 3.6) và SDe = 8,0 mm (Hình 3.7). Trong trường hợp
61
SDe = 8,0 mm, chỉ còn hai điểm cực đại của hai đường cong ứng với hai công suất
U(238) PR = 0,1 v/s, SDe = 6 mm
3.00E+06
2.50E+06
)
900 W
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
1100 W 1300 W
1.00E+06
1500 W
m ế đ ố S
5.00E+05
0.00E+00
0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
Lưu lượng khí mang CGFR (L/ph)
RFP = 1100 W và 1300 W là còn nằm trong giới hạn khoảng CGFR khảo sát.
U(238) PR = 0,1 v/s, SDe = 8 mm
2.50E+06
2.00E+06
)
900 W
1.50E+06
S P C
(
1.00E+06
1100 W 1300 W 1500 W
m ế đ ố S
5.00E+05
0.00E+00
0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
Lưu lượng khí mang CGFR (L/ph)
Hình 3.6. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR (SDe = 6,0 mm)
Hình 3.7. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR (SDe = 8,0 mm)
3.1.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của SDe
Kết quả khảo sát sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe khi xác
định đồng vị 238U được trình bày ở các hình từ Hình 3.8 đến Hình 3.11.
62
U(238) PR = 0,1 v/s, CGFR = 1,0 L/ph
1.80E+06
1.60E+06
1.40E+06
)
1.20E+06
S P C
1.00E+06
(
8.00E+05
6.00E+05
900 W 1100 W 1300 W 1500 W
m ế đ ố S
4.00E+05
2.00E+05
0.00E+00
3
4
5
6
7
8
9
Độ sâu mẫu SDe (mm)
U(238) PR = 0,1 v/s, CGFR = 1,1 L/ph
3.00E+06
2.50E+06
)
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
1.00E+06
900 W 1100 W 1300 W 1500 W
m ế đ ố S
5.00E+05
0.00E+00
3
4
5
6
7
8
9
Độ sâu mẫu SDe (mm)
Hình 3.8. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe (CGFR = 1,0 L/ph)
Hình 3.9. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe (CGFR = 1,1 L/ph)
Từ các đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe
cho thấy, khi CGFR = 1,0 L/ph (Hình 3.8), cường độ tín hiệu phổ giảm dần khi SDe
tăng lên.
Khi CGFR = 1,1 L/ph (Hình 3.9), đường cong biểu diễn sự phụ thuộc của
cường độ tín hiệu phép đo vào SDe không khác biệt nhiều với trường hợp CGFR =
1,0 L/ph.
63
U(238) PR = 0,1 v/s, CGFR = 1,2 L/ph
4.50E+06
4.00E+06
3.50E+06
)
3.00E+06
S P C
2.50E+06
(
2.00E+06
1.50E+06
900 W 1100 W 1300 W 1500 W
m ế đ ố S
1.00E+06
5.00E+05
0.00E+00
3
4
5
6
7
8
9
Độ sâu mẫu SDe (mm)
Hình 3.10. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe (CGFR = 1,2 L/ph)
Khi CGFR = 1,2 L/ph và RFP = 1300 W (Hình 3.10), đường cong biểu diễn sự
phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe có cực đại tại SDe = 6,0 mm và
U(238) PR = 0,1 v/s, CGFR = 1,3 L/ph
3.00E+06
2.50E+06
)
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
1.00E+06
900 W 1100 W 1300 W 1500 W
m ế đ ố S
5.00E+05
0.00E+00
3
4
5
6
7
8
9
Độ sâu mẫu SDe (mm)
giá trị cường độ tín hiệu phổ tại điểm cực đại này khá cao.
Hình 3.11. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe (CGFR = 1,3 L/ph)
Khi CGFR = 1,3 L/ph và RFP = 1500 W (Hình 3.11), đường cong biểu diễn sự
phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe có cực đại tại SDe = 7,0 mm còn
cường độ tín hiệu ở các RFP khác giảm đi rất nhiều.
64
SDe là tham số quan trọng ảnh hưởng đến cường độ tín hiệu phép đo. Vùng lõi
của ngọn lửa plasma (hình cầu) là vùng có nhiệt độ cao nhất, nơi xảy ra sự ion hóa tạo ion M+. Số lượng ion M+ tạo thành phụ thuộc RFP, CGFR,…Tuy nhiên số lượng ion M+ đi qua được hai côn (sampling coin và skimming coin) vào bộ lọc
khối phụ thuộc vào SDe. Khi điều chỉnh SDe sao cho mặt cắt đi qua tâm hình cầu trong vùng lõi plasma trùng với mặt cắt của sampling coin, toàn bộ ion M+ trong
hình cầu và một số rất ít các ion mảnh oxit và hydroxit đi vào bộ lọc khối và do đó,
cường độ tín hiệu sẽ đạt giá trị cao nhất. Lúc này, giá trị SDe được gọi là tối ưu,
cường độ tín hiệu đạt giá trị cực đại. Khi SDe lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị tối ưu, số lượng ion M+ đi vào bộ lọc khối giảm đi dẫn đến cường độ tín hiệu giảm. Như
vậy, đường cong biểu diễn sự phụ thuộc cường độ tín hiệu phép đo vào SDe nói
chung là những đường cong có cực đại.
3.1.1.4. Lựa chọn các tham số tối ưu cho chế độ làm việc của plasma
Kết quả nghiên cứu biểu diễn trong các hình từ Hình 3.1 đến Hình 3.11 cho
phép ta hình dung được mối tương quan giữa cường độ tín hiệu của phép đo vào các
tham số RFP, CGFR, SDe khi hai trong ba tham số trên được ấn định (cùng với PR
được ấn định từ trước) và một tham số còn lại biến thiên. Để tìm được tập hợp các
tham số tối ưu là một bài toán phức tạp. Khi máy đo được vận hành ở chế độ
autotune, máy đã tự động xử lý để tìm các tham số tối ưu. Tuy nhiên, các tham số
này được tối ưu hoá cho việc đo một khoảng rộng các số khối. Trong quá trình đo ở
một khoảng số khối hẹp, việc điều chỉnh các tham số hoạt động plasma vẫn có ý
nghĩa và cần thiết để tăng thêm cường độ tín hiệu của phép đo.
Trên cơ sở đảm bảo cho phép đo có cường độ tín hiệu cao và tỷ lệ hình
thành các ion mảnh oxit và hydroxit thấp nhất, tập hợp các tham số hoạt động
plasma tối ưu khi xác định các đồng vị U, Th, Pb, Hf bằng máy ICP-MS Agilent
7500a được chọn như sau:
RFP = 1300 W, CGFR = 1,2 L/ph, SDe = 6,0 mm, PR = 0,1 v/s
Các tham số hoạt động plasma tối ưu khi xác định các đồng vị Rb, Sr là:
RFP = 1430 W, CGFR = 1,1 L/ph, SDe = 5,5 mm, PR = 0,1 v/s
65
Các tham số này chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định. Sau khi bảo
dưỡng máy hoặc sau khi tiến hành tune lại, cần điều chỉnh các tham số một
cách thích hợp.
Kết quả biểu diễn trong các hình từ Hình 3.12 đến Hình 3.23 sẽ cho ta thấy
rõ mối tương quan giữa độ cường độ tín hiệu của phép đo hay tỷ lệ hình thành
các ion mảnh oxit và hydroxit với sự biến thiên của một trong các tham số hoạt
động plasma trong khi ba tham số còn lại được ấn định ở các giá trị tối ưu đã
chọn. Các mối tương quan này được thể hiện với các đồng vị của cả ba nguyên
PR = 0,1 v/s, SDe = 6 mm, CGFR = 1,2 L/ph
3.00E+06
2.50E+06
)
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
1.00E+06
m ế đ ố S
U(238) Th(232) Pb(206) Pb(207) Pb(208)
5.00E+05
0.00E+00
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
1600
Công suất RFP (W)
tố U, Th, Pb.
Hình 3.12. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào RFP
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Với các tham số CGFR, SDe, PR cố định ở giá trị tối ưu đã chọn (Hình 3.12), khi RFP thấp dẫn đến khả năng ion hóa mẫu thấp, số lượng ion M+ ít nên cường độ
tín hiệu không cao. Khi RFP đạt tới 1300 W, hiệu suất ion hóa tốt nhất, số lượng ion M+ cao nhất nên cường độ tín hiệu cao nhất. Khi RFP lớn hơn 1300 W, số lượng ion M+ giảm do khả năng hình thành các dạng ion khác có mức oxy hóa cao hơn làm
cho cường độ tín hiệu giảm đi.
Với các tham số RFP, SDe, PR cố định ở giá trị tối ưu đã chọn (Hình 3.13), khi CGFR thấp tức lượng mẫu đi vào vùng plasma thấp, số lượng ion M+ nhỏ nên
66
cường độ tín hiệu thấp. Khi CGFR đạt tới 1,2 L/ph, hiệu suất ion hóa tốt nhất, số lượng ion M+ cao nhất nên cường độ tín hiệu cao nhất. Khi CGFR vượt quá 1,2
PR = 0,1 v/s, RFP = 1300 W, SDe = 6 mm
3.00E+06
2.50E+06
)
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
1.00E+06
m ế đ ố S
U(238) Th(232) Pb(206) Pb(207) Pb(208)
5.00E+05
0.00E+00
0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
Lưu lượng khí mang CGFR (L/ph)
L/ph, mẫu bị pha loãng và khả năng hình thành các mảnh oxit, hydroxit tăng cao làm giảm số lượng ion M+, dẫn đến cường độ tín hiệu giảm đi.
Hình 3.13. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR
PR = 0,1 v/s, RFP = 1300W, CGFR = 1,2 L/ph
3.00E+06
2.50E+06
)
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
1.00E+06
m ế đ ố S
U(238) Th(232) Pb(206) Pb(207) Pb(208)
5.00E+05
0.00E+00
3
4
5
6
7
8
9
Độ sâu mẫu SDe (mm)
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Hình 3.14. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào SDe
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
67
Với các tham số RFP, CGFR, PR cố định ở giá trị tối ưu đã chọn (Hình 3.14),
khi giá trị SDe thấp hơn hoặc cao hơn 6 mm, số lượng ion M+ đi vào bộ lọc khối
giảm nên cường độ tín hiệu thấp. Khi SDe đạt 6 mm, số lượng ion M+ đi vào bộ lọc
RFP = 1300 W, SDe = 6 mm, CGFR = 1,2 L/ph
3.00E+06
2.50E+06
)
2.00E+06
S P C
(
1.50E+06
1.00E+06
m ế đ ố S
U(238) Th(232) Pb(206) Pb(207) Pb(208)
5.00E+05
0.00E+00
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
Tốc độ bơm dẫn mẫu PR (v/s)
khối cao nhất nên cường độ tín hiệu cao nhất.
Hình 3.15. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu phép đo vào PR
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Tương tự như sự phụ thuộc cường độ tín hiệu phép đo vào CGFR, với các tham
số RFP, SDe, CGFR cố định ở giá trị tối ưu đã chọn (Hình 3.15), khi PR thấp tức
lượng mẫu đi vào vùng plasma thấp, số lượng ion M+ nhỏ nên cường độ tín hiệu
thấp. Khi PR đạt tới 0,1 v/s, hiệu suất ion hóa tốt nhất, số lượng ion M+ cao nhất
nên cường độ tín hiệu cao nhất. Khi PR vượt quá 0,1 v/s, mẫu bị pha loãng và khả
năng hình thành các mảnh oxit, hydroxit tăng cao làm giảm số lượng ion M+, dẫn
đến cường độ tín hiệu giảm đi.
Với các tham số CGFR, SDe, PR cố định ở các tham số tối ưu đã chọn (Hình
3.16 và Hình 3.17), khi RFP thấp dẫn đến khả năng ion hóa mẫu thấp, đồng thời khả
năng hình thành các mảnh oxit và hydroxit tăng cao. Khi RFP đạt tới 1300 W, hiệu
suất ion hóa tốt nhất, số lượng ion mảnh oxit và hydroxit giảm đến mức thấp nhất.
68
PR = 0,1 v/s, SDe = 6 mm, CGFR = 1,2 L/ph
160
140
)
%
120
100
80
UO(251)/U(235) UO(254)/U(238) ThO(248)/Th(232)
60
h n à h t h n ì h ệ l ỷ T
40
( t y x o h n ả m c á c
20
0
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
1600
Công suất RFP (W)
Hình 3.16. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào RFP
PR = 0,1 v/s, SDe = 6 mm, CGFR = 1,2 L/ph
0.3
)
0.25
%
0.2
ì
0.15
PbO(222)/Pb(206) PbO(223)/Pb(207) PbO(224)/Pb(208)
0.1
h n à h t h n h ệ l ỷ T
( t y x o h n ả m c á c
0.05
0
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
1600
Công suất RFP (W)
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Hình 3.17. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào RFP
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Với các tham số RFP, SDe, PR cố định ở giá trị tối ưu đã chọn (Hình 3.18 và
Hình 3.19), khi CGFR thấp tức lượng mẫu đi vào vùng plasma thấp nên khả năng
hình thành các mảnh oxit và hydroxit cũng thấp. Khi CGFR vượt quá 1,2 L/ph,
lượng mẫu đi vào vùng plasma nhiều lên, hiệu suất ion hóa giảm đi, đồng thời khả
năng hình thành các mảnh oxit và hydroxit cũng tăng lên.
69
PR = 0,1 v/s, RFP = 1300 W, SDe = 6 mm
140
120
)
%
100
80
60
UO(251)/U(235) UO(254)/U(238) ThO(248)/Th(232)
40
h n à h t h n ì h ệ l ỷ T
( t y x o h n ả m c á c
20
0 0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
Lưu lượng khí mang CGFR (L/ph)
Hình 3.18. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào CGFR
PR = 0,1 v/s, RFP = 1300 W, SDe = 6 mm
0.2
0.18
)
0.16
%
0.14
0.12
0.1
PbO(222)/Pb(206) PbO(223)/Pb(207)
0.08
PbO(224)/Pb(208)
0.06
h n à h t h n ì h ệ l ỷ T
( t y x o h n ả m c á c
0.04
0.02
0 0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
Lưu lượng khí mang CGFR (L/ph)
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Hình 3.19. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào CGFR
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Với các tham số RFP, CGFR, PR cố định ở giá trị tối ưu đã chọn (Hình 3.20 và Hình 3.21), khi SDe đạt giá trị 6 mm, số lượng ion M+ đi vào bộ lọc khối lớn
nhất, đồng thời số ion mảnh oxit và hydroxit đi vào ít nhất. Khi SDe lệch khỏi giá trị 6 mm, số lượng ion M+ đi vào bộ lọc khối giảm đi, đồng thời số ion mảnh oxit và
hydroxit đi vào tăng lên.
70
PR = 0,1 v/s, RFP = 1300 W, CGFR = 1,2 L/ph
60
50
)
%
40
30
UO(251)/U(235) UO(254)/U(238) ThO(248)/Th(232)
20
h n à h t h n ì h ệ l ỷ T
( t y x o h n ả m c á c
10
0
3
4
5
6
7
8
9
Độ sâu mẫu SDe (mm)
Hình 3.20. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào SDe
PR = 0,1 v/s, RFP = 1300 W, CGFR = 1,2 L/ph
0.009
0.008
)
0.007
%
0.006
h n à h
t
0.005
0.004
PbO(222)/Pb(206) PbO(223)/Pb(207) Pb(224)/Pb(208)
0.003
h n ì h ệ l ỷ T
( t y x o h n ả m c á c
0.002
0.001
0
3
4
5
6
7
8
9
Độ sâu mẫu SDe (mm)
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Hình 3.21. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào SDe
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Tương tự như sự hình thành các mảnh oxit, hydrroxit phụ thuộc vào CGFR, khi
PR thấp tức lượng mẫu đi vào vùng plasma thấp, dẫn đến khả năng hình thành các
mảnh oxit và hydroxit cũng thấp. Khi PR vượt quá 0,1v/s, lượng mẫu đi vào vùng plasma nhiều lên, hiệu suất ion hóa giảm đi, số lượng ion M+ giảm đi, đồng thời khả
năng hình thành các mảnh oxit và hydroxit cũng tăng lên.
71
RFP = 1300 W, SDe = 6 mm, CGFR = 1,2 L/ph
25
)
20
%
15
10
UO(251)/U(235) UO(254)/U(238) ThO(248)/Th(232)
h n à h t h n ì h ệ l ỷ T
( t y x o h n ả m c á c
5
0
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
Tốc độ bơm dẫn mẫu PR (v/s)
Hình 3.22. Sự hình thành các mảnh oxit (U, Th) phụ thuộc vào PR
RFP = 1300 W, SDe = 6 mm, CGFR = 1,2 L/ph
0.03
)
0.025
%
0.02
ì
0.015
PbO(222)/Pb(206) PbO(223)/Pb(207) PbO(224)/Pb(208)
0.01
h n à h t h n h ệ l ỷ T
( t y x o h n ả m c á c
0.005
0
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
Tốc độ bơm dẫn mẫu PR (v/s)
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
Hình 3.23. Sự hình thành các mảnh oxit (Pb) phụ thuộc vào PR
khi các tham số còn lại ở giá trị tối ưu
3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ axit của dung dịch mẫu
Trong phương pháp phân tích ICP-MS, có thể dùng môi trường axit HCl hay
axit HNO3 vì hai loại axit này dễ hoá hơi, còn các loại axit H2SO4 và H3PO4 thường
không được dùng vì chúng hoá hơi kém. Các yếu tố của điều kiện môi trường phân
tích như nước, khí mang argon và axit có thể tạo thành các mảnh đa nguyên tử, cản
72
trở việc xác định một số đồng vị khi số khối m/z của chúng trùng nhau. Axit HCl
hay axit HNO3 ít ảnh hưởng đến việc xác định một số đồng vị bằng phương pháp
ICP-MS, trong đó axit HNO3 ít ảnh hưởng nhất, phổ nền của nó cũng đơn giản nhất.
Thêm vào đó, hầu hết các dung dịch chuẩn được pha trong môi trường axit HNO3.
Như vậy HNO3 là môi trường tốt nhất và tác giả luận án đã chọn axit HNO3
làm môi trường của dung dịch mẫu đo trong tất cả các thí nghiệm.
Để nghiên cứu sự phụ thuộc của độ nhạy phép đo vào nồng độ axit của dung
dịch mẫu, các đồng vị trong dung dịch chuẩn hỗn hợp các nguyên tố được xác định
khi máy đo hoạt động với các tham số tối ưu đã chọn, còn môi trường axit HNO3
của dung dịch mẫu đo có nồng độ tăng dần từ 0,025 đến 1,00M. Kết quả thí nghiệm
PR = 0,1 v/s, RFP = 1300 W, SDe = 6 mm, C GFR = 1,2 L/ph
3.50E+06
3.00E+06
)
2.50E+06
S P C
2.00E+06
(
1.50E+06
1.00E+06
m ế đ ố S
U(238) Th(232) Pb(206) Pb(207) Pb(208)
5.00E+05
0.00E+00
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
Nồng độ HNO3 (M)
được biểu diễn ở Hình 3.24.
Hình 3.24. Sự phụ thuộc của cường độ tín hiệu của phép đo
vào nồng độ axit của dung dịch mẫu
Từ kết quả biểu diễn trong Hình 3.24 cho thấy sự ảnh hưởng của nồng độ axit
của dung dịch mẫu đến cường độ tín hiệu của phép đo là không đáng kể trong
khoảng thay đổi tương đối rộng của nồng độ axit HNO3 (từ 0,025M đến 1,0M).
Môi trường axit được chọn cho dung dịch mẫu đo là axit HNO3 0,3M. Nếu
nồng độ axit của dung dịch đo quá cao vừa ảnh hưởng đến độ bền của máy vừa tiêu
73
tốn nhiều hoá chất. Nồng độ axit HNO3 0,3M cũng là nồng độ axit phổ biến dùng để
rửa hệ thống bơm dẫn mẫu.
3.1.3. Kết quả xác định giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng các đồng vị
Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của các đồng vị cần nghiên cứu
bằng máy ICP-MS Agilent 7500a tại phòng thí nghiệm của Trung tâm Phân tích,
Viện Công nghệ xạ hiếm được đưa ra trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng các đồng vị
STT Đồng vị LOD (ppb) LOQ (ppb)
235U
1 0,005 0,015
238U
2 0,02 0,065
232 Th
3 0,02 0,065
206Pb
4 0,01 0,03
207Pb
5 0,02 0,065
208Pb
6 0,03 0,10
85Rb
7 0,07 0,25
87Rb
8 0,03 0,10
86Sr
9 0,003 0,01
87Sr
10 0,003 0,01
88Sr
11 0,007 0,025
176Hf
12 0,005 0,02
177Hf
13 0,01 0,03
178Hf
14 0,02 0,065
Kết quả tính toán cho thấy giới hạn phát hiện, giới hạn định lượng các đồng vị
bằng máy ICP-MS Agilent 7500a tại phòng thí nghiệm của Trung tâm Phân tích,
Viện công nghệ xạ hiếm rất nhỏ (cỡ chục ppt). Như vậy, phương pháp này hoàn
toàn phù hợp để phân tích lượng vết và siêu vết các đồng vị.
74
3.1.4. Kết quả xây dựng đường chuẩn xác định các đồng vị
Trong luận án này, tác giả không khảo sát khoảng tuyến tính (chính xác hơn là
giới hạn tuyến tính) của phép đo xác định các đồng vị mà chỉ xây dựng đường
chuẩn xác định các đồng vị. Dung dịch mẫu có nồng độ các chất phân tích tương
đối cao thường không sử dụng cho phép đo ICP-MS nên ở đây mỗi đồng vị trong
dung dịch thiết lập đường chuẩn có nồng độ cao nhất là 100 ppb.
Các tham số chính của máy ICP-MS Agilent 7500a được chọn để thiết lập
đường chuẩn các đồng vị được trình bày trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2. Các tham số chính của máy để thiết lập đường chuẩn các đồng vị
Xác định các đồng vị Xác định các đồng vị Các tham số chính U, Th, Pb, Hf Rb, Sr
Công suất cao tần (RF Power) 1300 W 1430 W
Độ sâu mẫu (SDe) 6,0 mm 5,5 mm
Lưu lượng khí tạo plasma 15 L/ph 15 L/ph
Lưu lượng khí mang (CGFR) 1,2 L/ph 1,1 L/ph
Lưu lượng khí phụ trợ 0,9 L/ph 0,9 L/ph
Tốc độ bơm làm sạch (Uptake) 0,4 rps 0,4 rps
Thời gian bơm làm sạch (Uptake) 120 s 120 s
Tốc độ bơm ổn định (Stabilize) 0,1 rps 0,1 rps
Thời gian bơm ổn định (Stabilize)
Nhiệt độ buồng phun (S/C)
30 s 20C 180C 30 s 20C 180C Nhiệt độ nước làm mát
2,4 L/ph 2,4 L/ph Lưu lượng nước làm mát
3 điểm 3 điểm Dạng phổ
3 lần 3 lần Số lần đo lặp một điểm
Thời gian đo 1 điểm 0,1 s 0,1 s
Số lần quét khối 10 lần 10 lần
Thế xung cấp 1000 V 1000 V
Thế của các lăng kính 5,75 V 5,75 V
75
Đường chuẩn xác định các đồng vị được thiết lập với 5 điểm. Dung dịch chuẩn
các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf dùng để thiết lập đường chuẩn xác định các đồng
vị được chuẩn bị với các nồng độ như sau: 0,1 ppb; 1,0 ppb; 10 ppb; 50 ppb; 100
ppb, 500 ppb, 1000 ppb. Nồng độ của mỗi đồng vị trong dãy dung dịch thiết lập
đường chuẩn là giá trị tính toán dựa trên thành phần tự nhiên của đồng vị đó.
Nồng độ của mỗi đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb trong dãy dung dịch thiết
lập đường chuẩn được trình bày trong Bảng 3.3. Nồng độ của mỗi đồng vị các
nguyên tố Rb, Sr trong dãy dung dịch thiết lập đường chuẩn được trình bày trong
Bảng 3.4. Nồng độ của mỗi đồng vị Hf trong dãy dung dịch thiết lập đường chuẩn
được trình bày trong Bảng 3.5.
235U
238U
232 Th
206Pb
207Pb
208Pb
Bảng 3.3. Nồng độ các đồng vị U, Th, Pb để thiết lập đường chuẩn (ppb)
STT
0,015 0,099 0,024 0,066 0,148 0,1 1
0,072 0,993 0,241 0,221 0,524 1,0 2
0,72 9,93 2,41 2,21 5,24 10 3
3,60 49,60 12,10 11,10 26,20 50 4
Bảng 3.4. Nồng độ các đồng vị Rb, Sr để thiết lập đường chuẩn (ppb)
7,20 99,27 100 24,10 22,10 52,40 5
85Rb
87Rb
86Sr
87Sr
88Sr
STT
0,253 0,111 0,010 0,014 0,025 1
0,722 0,278 0,099 0,070 0,826 2
7,220 2,780 0,986 0,704 8,260 3
36,10 13,90 4,93 3,52 41,30 4
72,20 27,80 9,86 7,04 82,60 5
76
Bảng 3.5. Nồng độ các đồng vị Hf để thiết lập đường chuẩn (ppb)
176Hf
177Hf
178Hf
STT
1 0,027 0,037 0,068
2 0,053 0,186 0,273
3 0,526 1,860 2,730
4 2,63 9,30 13,60
5 5,26 18,60 27,30
Các đường chuẩn xác định các đồng vị được trình bày trong phụ lục 2. Phương
trình đường chuẩn của các đồng vị được trình bày trong Bảng 3.6.
Bảng 3.6. Phương trình đường chuẩn xác định các đồng vị
STT Đồng vị Phương trình đường chuẩn: Y = bX + a r
235U
1 Y = 4,410.103X + 1,107 0,9997
238U
2 Y = 4,718.103X + 197,6 1,0000
232 Th
3 Y = 1,751.104X + 1686 1,0000
206Pb
4 Y = 4,901.104X + 4825 0,9986
207Pb
5 Y = 3,867.104X + 4015 0,9997
208Pb
6 Y = 4,130.104X + 10720 0,9996
85Rb
7 Y = 2,794.104X + 2350 1,0000
87Rb
8 Y = 2,804.104X + 224,4 1,0000
86Sr
9 Y = 2,719.104X + 1408 0,9999
87Sr
10 Y = 2,777.104X + 2213 0,9999
88Sr
11 Y = 2,822.104X + 10070 0,9998
176Hf
12 Y = 1,862.103X + 28,92 0,9999
177Hf
13 Y = 1,471.103X + 159,9 0,9999
178Hf
14 Y = 1,873.103X + 104,3 0,9998
77
Đường chuẩn của các đồng vị đều có hệ số tương quan tốt, r ≈ 1.
3.1.5. Kết quả đánh giá độ chính xác của phép đo xác định các đồng vị
Kết quả tính toán độ chệch và độ lệch chuẩn tương đối của nồng độ các đồng vị
trong các dung dịch chuẩn kiểm tra được trình bày trong Bảng 3.7.
Từ số liệu trong Bảng 3.7 thấy rằng, với các đồng vị có nồng độ trong khoảng 1
ppb ≤ C ≤ 100 ppb: kết quả xác định các đồng vị theo đường chuẩn có độ chệch thay
đổi từ 0,15% đến 1,45%, độ lệch chuẩn tương đối thay đổi từ 0,25% đến 1,76%; với
các đồng vị có cấp nồng độ cỡ chục ppt: độ chệch thay đổi từ 0,73% đến 6,13%, độ
lệch chuẩn tương đối thay đổi từ 0,97% đến 6,84%.
Bảng 3.7. Độ chệch và độ lệch chuẩn tương đối
của nồng độ các đồng vị (ppb) trong các dung dịch chuẩn kiểm tra
Đồng N.độ B Đồng N.độ RSD B RSD
vị chuẩn vị chuẩn (%) (%) (%) (%)
235U
87Rb
0,072 4,60 4,30 0,271 2,25 2,87
3,60 1,25 1,30 2,713 0,58 0,76
7,20 0,75 0,90 27,13 0,35 0,42
238U
86Sr
0,099 3,10 2,85 0,099 5,25 6,22
9,927 0,55 0,75 0,986 0,73 0,97
99,274 0,15 0,25 9,86 0,47 0,86
232 Th
87Sr
0,100 2,85 3,00 0,070 4,86 5,37
0,40 0,55 1,42 10,000 0,704 1,28
7,04 0,55 0,86 100,000 0,20 0,35
88Sr
0,241 3,25 3,75 0,083 6,13 6,84
206Pb
2,410 1,20 1,55 8,258 0,47 0,73
24,100 0,50 0,45 82,58 0,25 0,65
78
207Pb
176Hf
0,221 3,75 0,053 5,25 3,25 5,78
2,210 0,80 0,526 0,74 1,25 0,85
22,100 0,30 0,55 5,26 0,65 1,15
208Pb
177Hf
0,524 3,50 3,40 0,186 5,32 5,60
5,240 0,95 1,25 1,86 1,45 1,76
52,400 0,27 0,50 18,6 0,36 0,50
85Rb
178Hf
0,722 2,50 2,75 0,273 1,12 1,50
7,217 0,75 0,90 2,728 0,47 0,65
72,17 0,25 0,35 27,28 0,25 0,40
Từ các kết quả khảo sát trên đây thấy rằng, phép đo xác định các đồng vị bằng
ICP-MS Agilent 7500a có độ chính xác cao, đáp ứng yêu cầu phân tích lượng vết và
siêu vết đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf.
3.2. Kết quả nghiên cứu điều kiện phân huỷ các mẫu khoáng vật là đối tượng xác
định tuổi địa chất
Các mẫu đá tổng, khoáng biotite, muscovite và K-felspar là những mẫu địa
chất khá quen thuộc, đã được xử lý và tiến hành phân huỷ phục vụ các mục đích
phân tích khác nhau trong nhiều phòng thí nghiệm [67] nên không cần thiết đặt ra
nhiệm vụ nghiên cứu phân huỷ chúng ở đây. Cụ thể, đá tổng được phân huỷ trong
hỗn hợp axit HF+HNO3 trong chén bạch kim hay chén Teflon trên bếp điện. Cũng
có thể phân huỷ đá tổng với hỗn hợp axit trên trong lò vi sóng với chương trình
nhiệt độ thích hợp. Các khoáng vật biotite, muscovite và K-felspar đều có thể bị
phân huỷ với hỗn hợp axit HF+HNO3 hay HF+HNO3+HCl trên bếp điện sau khi lặp
lại vài lần việc thêm vào các hỗn hợp axit trên. Tác giả luận án đã thử nghiệm phân
hủy các khoáng vật biotite, muscovite và K-felspar theo các điều kiện trên và kết
quả phù hợp với các khảo sát trước đây của các tác giả khác, các mẫu được phân
hủy hoàn toàn. Các mẫu trên cũng được thử nghiệm phân huỷ bằng hỗn hợp axit trong bom Teflon đặt trong tủ sấy ở nhiệt độ từ 1500C - 1800C. Kết quả là các mẫu
đều được phân huỷ nhanh hơn vì trong bình kín có nhiệt độ và áp suất cao hơn.
79
Mẫu khoáng vật zircon được quan tâm nghiên cứu chính vì đây là loại khoáng
vật có cấu trúc tứ diện bền vững, rất khó bị phá vỡ. Khi đưa một lượng nhỏ zircon
(cân 10 mg đơn khoáng zircon trên cân phân tích có độ chính xác 0,01mg) vào chén
bạch kim hay chén teflon, thêm vào axit HF hay hỗn hợp HF+HNO3 rồi đun trên
bếp điện, trải qua nhiều ngày với việc thêm vào nhiều lần hỗn hợp axit vẫn không
thể phân huỷ được chúng. Vấn đề đặt ra là cần phải có thiết bị phân huỷ mẫu phù
hợp có thể chịu được nhiệt độ và áp suất cao để phân huỷ zircon hiệu quả hơn. Một
số phòng thí nghiệm phân tích ở Việt Nam đã sử dụng bom Teflon để phân huỷ các
mẫu địa chất với axit HF. Tuy nhiên, đó là các bom Teflon có dung tích lớn (hàng
trăm ml) dùng để phân huỷ các mẫu thông thường. Một số phòng thí nghiệm phân
tích đồng vị trên thế giới sử dụng bom Teflon của hãng Pico Trace (Cộng hoà Liên
bang Đức). Bộ dụng cụ này có giá thành cao. Việc nghiên cứu tự chế tạo bộ dụng cụ
phân huỷ mẫu bằng vật liệu Teflon được đặt ra nhằm tiết kiệm chi phí nhưng vẫn
đảm bảo đạt được độ chính xác của kết quả nghiên cứu.
3.2.1. Chế tạo dụng cụ phân huỷ mẫu (bom Teflon)
Bom Teflon (Hình 3.25) gồm
có hai phần: bình phân hủy mẫu làm
bằng vật liệu Teflon và bao thép
bảo vệ bên ngoài làm bằng vật liệu
thép không gỉ. Bình phân huỷ mẫu
chế tạo từ Teflon có nắp kín, dung
tích 25 ml. Nắp bình được tạo hình
côn để khi nén xuống sẽ ép chặt vào
thân bình. Thành bình dày 7 mm để Hình 3.25. Bình phân huỷ mẫu chịu được áp suất cao, hạn chế sự làm từ teflon và bao thép (bom teflon) thẩm thấu của chất tan ra ngoài và
sự biến dạng của bình ở nhiệt độ cao. Bao thép không gỉ dùng nắp đậy có ren xoáy.
Đáy và trên nắp của bình Teflon được ngăn cách với bao thép bằng các mặt bích bằng
thép. Phía trên nắp bình thép có ecu nén chặt vào mặt bích phía trên nắp bình Teflon,
đảm bảo giữa nắp và thân của bình Teflon kín khít hoàn toàn.
80
Việc sử dụng bom phân huỷ mẫu tự chế tạo này đơn giản, an toàn, tiết kiệm
chi phí so với việc mua bom Teflon từ nước ngoài. Trong quá trình sử dụng để
nghiên cứu, bom phân huỷ mẫu có độ ổn định và độ bền cao, có thể sử dụng lâu dài
để tiến hành thí nghiệm.
3.2.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ hỗn hợp axit
Lấy lượng cân 10 mg đơn khoáng zircon chuyển vào các bình Teflon. Mẫu
trong bình thứ nhất được thêm vào riêng axit HF đặc. Mẫu trong các bình còn lại
được thêm vào hỗn hợp hai axit HF đặc và HNO3 đặc theo tỷ lệ thể tích được trình
bày trong Bảng 3.8.
Bảng 3.8. Thành phần hỗn hợp axit dùng để phân hủy đơn khoáng zircon
Bình mẫu Hỗn hợp axit Tỷ lệ HF - HNO3
1 5,0 ml HF 5-0
2 4-1 4,0 ml HF + 1ml HNO3
3 2-1 3,0 ml HF + 1,5 ml HNO3
4 1-1 2,5 ml HF + 2,5 ml HNO3
5 1-2 1,5 ml HF + 3,0 ml HNO3
Đưa các bom phân huỷ mẫu vào tủ sấy và đặt nhiệt độ ở mức 1800C. Thay đổi
khoảng thời gian đặt bình thép trong tủ sấy khác nhau: 6h, 12h, 18h, 1 ngày, 2
ngày,…, 7 ngày liên tục. Sau khi lấy bom phân huỷ mẫu ra, để nguội đến nhiệt độ
phòng. Lấy bình teflon ra khỏi bao thép. Chuyển toàn bộ phần dung dịch tan sang
chén Teflon khác. Phần cặn (nếu còn) được rửa sạch và sấy khô, chuyển sang mặt
kính để đánh giá mức độ tan của mẫu theo cảm quan.
Phần dung dịch tan trong chén Teflon được cô trên bếp điện đến khô. Thêm
vào 5 ml axit HNO3 7M, lại tiếp tục cô đến khô. Cuối cùng thêm vào 10 ml HNO3
0,3M, đun sôi nhẹ rồi lấy ra để nguội đến nhiệt độ phòng. Chuyển toàn bộ dung
dịch trên vào bình định mức 25 ml, định mức đến vạch bằng HNO3 0,3M. Xác định
hàm lượng của U, Th, Pb trong dung dịch mẫu bằng ICP-MS thu được kết quả biểu
diễn ở Hình 3.26.
81
800
700
600
m p p -
500
HF
400
HF/HNO3=4/1
U g n ợ ư
l
HF/HNO3=2/1
300
HF/HNO3=1/1
200
m à H
HF/HNO3=1/2
100
0
0
1
2
3
4
5
6
7
Thời gian phân huỷ mẫu (ngày)
Hình 3.26. Hàm lượng U trong mẫu phụ thuộc tỷ lệ hỗn hợp axit và thời gian
(xem số liệu trong Bảng 3.1, Phụ lục 3)
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, hàm lượng U xác định được trong các mẫu
được phân huỷ bằng hỗn hợp hai axit theo tỷ lệ HF/HNO3 = 1/1 và HF/HNO3 = 1/2,
tăng dần từ 0,25 đến 7 ngày nhưng luôn luôn thấp hơn hàm lượng U trong các mẫu
được phân huỷ bằng hỗn hợp hai axit theo các tỷ lệ khác còn lại. Sau 7 ngày, các
mẫu được phân huỷ bằng hỗn hợp hai axit theo tỷ lệ HF/HNO3 = 1/1 và HF/HNO3 =
1/2 vẫn không tan hoàn toàn. Các mẫu được phân huỷ bằng chỉ riêng axit HF và hỗn
hợp hai axit theo tỷ lệ HF/HNO3 = 2/1 tan hoàn toàn sau 6 ngày. Mẫu được phân
huỷ bằng hỗn hợp hai axit theo tỷ lệ HF/HNO3 = 4/1 tan hoàn toàn sau 4 ngày. Có
thể thấy rằng, hỗn hợp hai axit theo tỷ lệ HF/HNO3 = 4/1 có khả năng phân huỷ mẫu
tốt nhất. Axit HF và hỗn hợp hai axit theo các tỷ lệ khác còn lại có khả năng phân
huỷ mẫu kém hơn.
3.2.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ
Để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng phân huỷ mẫu, tiến hành
thí nghiệm phân huỷ 10 mg mẫu đơn khoáng zircon bằng hỗn hợp hai axit theo tỷ lệ
HF/HNO3 = 4/1, ở các nhiệt độ 1600C, 1800C và 2000C. Kết quả xác định hàm
lượng U được biểu diễn ở Hình 3.27.
82
800
700
600
m p p -
500
400
160
U g n ợ ư
l
300
180 200
200
m à H
100
0
0
1
2
3
4
5
6
7
Thời gian phân huỷ mẫu (ngày)
Hình 3.27. Hàm lượng U trong mẫu phụ thuộc nhiệt độ và thời gian
(xem số liệu trong Bảng 3.2, Phụ lục 3)
Kết quả nghiên cứu cho thấy mẫu được phân huỷ tốt nhất ở nhiệt độ 2000C và
kém nhất ở nhiệt độ 1600C. Ở nhiệt độ 2000C, mẫu tan hoàn toàn sau 4 ngày tương
tự như khi mẫu được phân huỷ ở nhiệt độ 1800C. Trong khi đó, ở nhiệt độ 1600C,
sau 7 ngày mẫu vẫn chưa tan hoàn toàn. Có thể thấy rằng, sự khác biệt về khả năng
phân huỷ mẫu ở hai nhiệt độ 1800C và 2000C là không lớn.
Từ các kết quả nghiên cứu thu được, tác giả luận án lựa chọn điều kiện
phân huỷ mẫu đơn khoáng zircon trong bom teflon với hỗn hợp hai axit
HF+HNO3 (4:1) ở nhiệt độ 1800C và thời gian 4 ngày.
3.3. Kết quả nghiên cứu tách các nguyên tố cần quan tâm khỏi nền mẫu và các
nguyên tố ảnh hưởng bằng sắc ký trao đổi ion
3.3.1. Tách các nguyên tố U, Th, Pb
3.3.1.1. Khảo sát ảnh hưởng của nền mẫu đến việc xác định các đồng vị U, Th,
Pb bằng phương pháp ICP-MS
Tiến hành phân tích bán định lượng một mẫu đơn khoáng zircon bằng ICP-MS
cho kết quả như trình bày trong Bảng 3.9.
83
Bảng 3.9. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật zircon
STT Ng.tố STT Ng.tố STT Ng.tố H. lượng (ppm) H. lượng (ppm) H. lượng (ppm)
19,50 Li 1 15 1,14 Co Cd 187,50 29
0,39 Be 2 16 43,50 Ni Sn 1,78 30
637,50 Na 3 17 13,13 Cu Sb 712,50 31
Mg 1412,50 4 18 223,00 Zn Cs 0,06 32
Al 3125,00 5 19 2,31 Ga Ba 11,63 33
1550,00 Si 6 20 5,88 Ge Nd 6,63 34
248,75 K 7 21 6,63 As Sm 5,01 35
Ca 1850,00 8 22 9,00 Se Lu 23,25 36
787,50 Sc 9 23 1,15 Rb 37 Hf 3625,00
10 24 27,00 Sr Pt 25,00 38 5750,00 Ti
15,50 V 11 25 39 Au 6,88 Zr 480500,00
92,50 Cr 12 26 Nb 26,25 40 Pb 24,25
41 13 Mn 26,25 27 Mo 68,75 Th 116,25
42 14 28 Ag 312,50 U 650,00 Fe 1300,00
Từ kết quả trên thấy rằng trong đơn khoáng zircon, các nguyên tố có hàm
lượng lớn nhất là Zr, Ti và Hf. Cụ thể, hàm lượng Zr trong mẫu chiếm tới 48% còn
hàm lượng Ti và Hf tương ứng khoảng 0,6% và 0,3%. Các nguyên tố Al, Fe, Ca,
Mg có hàm lượng khá cao, khoảng 0,15- 0,3%. Cần quan tâm chủ yếu ảnh hưởng
của Zr (là nguyên tố chính hay còn gọi là nguyên tố nền mẫu) đến việc xác định
thành phần đồng vị của các nguyên tố U, Th, Pb. Ngoài ra còn phải quan tâm đến
ảnh hưởng của Ti, Hf, Al, Fe, Mg.
Kết quả so sánh tương đối hàm lượng của một số nguyên tố như Zr, Hf, Fe,
Ti với các nguyên tố U, Th, Pb trong một mẫu khoáng vật zircon được trình bày
trong Bảng 3.10.
84
Bảng 3.10. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu với
các nguyên tố U, Th, Pb trong một mẫu khoáng vật zircon (số lần lớn hơn)
Nguyên tố Zr Fe Ti Hf U
U 740 2 9 6
Th 4.200 10 50 30 6
Pb 19.000 55 230 150 27
Trong tự nhiên, các đồng vị của mỗi nguyên tố có thành phần hàm lượng khác
nhau. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu với các đồng vị U, Th, Pb
được thể hiện trong Bảng 3.11.
Bảng 3.11. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu với các đồng vị
cần quan tâm trong cùng mẫu khoáng vật zircon (số lần lớn hơn)
Đồng vị Zr Fe Ti Hf U
235U
Hàm lượng tự nhiên (%)
238U
0,72 102.800 278 1.250 830 -
232Th
99,27 745 2 9 6 -
206Pb
100 4.200 10 50 30 6
207Pb
24,1 78.800 228 955 620 110
208Pb
22,1 86.000 250 1.040 680 120
52,4 36.250 105 440 290 50
Để khảo sát ảnh hưởng của các nguyên tố chính đến việc xác định các đồng
vị U, Th, Pb, so sánh kết quả xác định các đồng vị trong dung dịch mỗi nguyên
tố có nồng độ 20 ppb trước và sau khi thêm vào Zr, Fe, Ti và Hf có nồng độ gấp
1000; 2000; 5000; 10.000; 20.000; 30.000; 50.000 lần. Các kết quả được đưa ra
trong Bảng 3.12.
85
Bảng 3.12. Giới hạn ảnh hưởng của các nguyên tố nền mẫu
đến việc xác định các đồng vị U, Th, Pb bằng ICP-MS
Nồng độ không ảnh hưởng (số lần lớn hơn)
Đồng vị Zr Hf Fe Ti U Th
235U
20.000 20.000 20.000 20.000 - 50.000
238U
20.000 20.000 20.000 20.000 - 50.000
232Th
20.000 20.000 20.000 20.000 50.000 -
206Pb
20.000 20.000 20.000 20.000 20.000 20.000
207Pb
20.000 20.000 20.000 20.000 20.000 20.000
208Pb
20.000 20.000 20.000 20.000 20.000 20.000
Có thể thấy khi nồng độ các nguyên tố nền mẫu tăng cao gấp nhiều lần, đến
một giới hạn nhất định sẽ ảnh hưởng đến việc xác định các đồng vị U, Th, Pb.
Nguyên nhân là sự trùng lấn phổ của các nguyên tố có hàm lượng lớn. Thêm vào
đó, sự có mặt của lượng lớn các nguyên tố khác làm cho hiệu suất ion hoá các
đồng vị cần phân tích thay đổi dẫn đến kết quả xác định các đồng vị thay đổi.
Nồng độ các nguyên tố Zr, Fe, Ti, Hf lớn hơn nồng độ các đồng vị cần quan tâm
trên 20.000 lần bắt đầu ảnh hưởng. Nồng độ U lớn hơn nồng độ các đồng vị Pb
trên 20.000 lần bắt đầu ảnh hưởng đến việc xác định các đồng vị Pb. Nồng độ U
và Th hơn kém nhau trên 50.000 lần bắt đầu ảnh hưởng đến việc xác định các
đồng vị có nồng độ nhỏ hơn. Từ kết quả khảo sát ảnh hưởng của các nguyên tố
nền mẫu ở Bảng 3.12 và tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền với các
đồng vị cần quan tâm ở Bảng 3.11 cho thấy, đối với mẫu đơn khoáng zircon, các
nguyên tố có hàm lượng khá cao như Fe, Ti, Hf không ảnh hưởng đến việc xác
định các đồng vị U, Th, Pb. Các đồng vị U, Th, Pb không ảnh hưởng lẫn nhau.
Nguyên tố nền mẫu Zr có hàm lượng lớn, có khả năng ảnh hưởng đến việc xác
định các đồng vị U, Th, Pb. Vấn đề đặt ra là cần thiết phải tách loại nguyên tố
nền Zr trước khi xác định các đồng vị U, Th, Pb bằng ICP-MS.
86
3.3.1.2. Tách U, Th và Pb trong môi trường axit HCl và HNO3
Nhựa trao đổi ion dùng trong các thí nghiệm nghiên cứu tách U, Th, Pb là loại
nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh. 5 ml dung dịch hỗn hợp chứa
U, Th và Pb (5 µg mỗi nguyên tố) trong môi trường axit HCl 1,0M được nạp lên cột
sắc ký. Môi trường nhựa trong cột đã được cân bằng với dung dịch axit HCl 1,0M.
Rửa cột bằng 15 ml dung dịch axit HCl 1,0M. Các dung dịch chảy qua cột với tốc
độ 0,6 ml/ph. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột, gộp chung để
định lượng U, Th, Pb.
Các thí nghiệm tương tự cũng được tiến hành với dung dịch hỗn hợp chứa U,
Th và Pb trong môi trường axit HCl 2,0M; HCl 3,0M và các dung dịch rửa cột
HCl 2,0M; HCl 3,0M tương ứng. Môi trường nhựa trong cột cũng được cân bằng
với dung dịch axit HCl có nồng độ tương ứng. Kết quả thu được (Bảng 3.13) cho
thấy Th đi hết ra khỏi cột và Pb được hấp thu tốt trên nhựa ở môi trường axit HCl
với cả ba nồng độ trên. U đi ra lượng lớn trong môi trường axit HCl 1,0M và hấp
thu tốt trên cột trong môi trường axit HCl 3,0M.
Bảng 3.13. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp
dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột
Nguyên tố HCl 1,0M HCl 2,0M HCl 3,0M
U 3,5 µg 1,8 µg KPH
Th 4,9 µg 5,0 µg 4,9 µg
Pb KPH KPH KPH
Kết quả thí nghiệm của tác giả luận án phù hợp với các nghiên cứu trước đây
của Hyde E. K. [63] về sự hấp thu của U, Th trong hệ trao đổi anion - môi trường
axit HCl: U hấp thu kém trên nhựa trong khoảng nồng độ axit HCl thấp (< 3,0M) và
hấp thu tốt trên nhựa khi nồng độ axit HCl lớn hơn (≥ 3,0M). Th hầu như không
được hấp thu trên nhựa trong khoảng rộng của nồng độ axit HCl.
2+ và Pb2+ kết hợp với ion Cl- 2- còn ion Th4+ kết hợp với ion Cl-
Trong môi trường axit HCl, các ion uranyl - UO2
2- và PbCl4
hình thành các ion phức âm UO2Cl4
87
1+, ThCl2
2+, ThCl3+. Th4+ không tạo thành hình thành các ion phức ThCl4, ThCl3 phức âm với ion Cl- nên không hấp thu trên nhựa trao đổi anion trong môi trường
axit HCl với bất kỳ nồng độ nào. Khả năng tạo phức âm của U, Pb phụ thuộc vào nồng độ axit HCl (hằng số bền của phức thay đổi theo nồng độ ion H+ trong dung
dịch) nên bằng việc thay đổi nồng độ dung dịch axit HCl có khả năng giải hấp chọn
lọc các nguyên tố ra khỏi cột sắc ký.
Tiến hành giải hấp các nguyên tố bằng dung dịch axit HCl có nồng độ khác
nhau với tốc độ 0,6 ml/phút.
Kết quả định lượng Pb trong các phân đoạn rửa giải cho thấy Pb được giải hấp
ra khá tốt ở khoảng nồng độ 5,0 - 7,0M của dung dịch rửa giải HCl. Trong điều kiện
đó, U được giữ lại trên cột, không có trong các phân đoạn rửa giải Pb. Các đường
cong rửa giải Pb bằng 25 ml dung dịch axit HCl 5,5M; 6,0M; 6,5M được trình bày
2.5
2
HCl 5,5M
HCl 6,0M
1.5
HCl 6,5M
1
g µ - b P g n ợ ư L
0.5
0
0
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải Pb
trên Hình 3.28.
Hình 3.28. Đường cong rửa giải Pb với HCl
(xem số liệu trong Bảng 4.1, Phụ lục 4)
Đường cong rửa giải Pb bằng dung dịch axit HCl 5,5M và 6,5M có pic tù,
đuôi pic kéo dài, trong khi đường cong rửa giải Pb bằng dung dịch axit HCl 6,0M
có pic nhọn, đối xứng, lượng Pb thu hồi đạt tới 95%. Kết quả giải hấp Pb như trên 2- có giá trị thấp nhất trong môi trường axit chứng tỏ hằng số bền của ion phức PbCl4
88
HCl 6,0M. Tác giả luận án thấy rằng, cần tiến hành giải hấp Pb bằng dung dịch HCl
6,0M để có kết quả tốt nhất.
Sau khi giải hấp Pb, U vẫn được giữ lại trên cột nhựa. U được giải hấp ra khỏi
cột nhựa bằng dung dịch rửa giải HCl ở khoảng nồng độ rất thấp. Nguyên nhân là ở 2- có giá môi trường axit HCl có nồng độ cao, hằng số bền của ion phức âm UO2Cl4
trị lớn và ngược lại, khi nồng độ axit HCl càng thấp, hằng số bền của ion phức âm 2- càng giảm. Kết quả thử nghiệm giải hấp U bằng 25 ml nước hay các dung UO2Cl4
dịch axit HCl có nồng độ 0,5M và 1,0M với tốc độ 0,6 ml/phút cho thấy đường
cong rửa giải U bằng nước tốt nhất, lượng U thu hồi đạt 95% (Hình 3.29).
Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu trong công trình [63], tác giả
Hyde E. K. nhận thấy với nhựa trao đổi anion và môi trường HCl, U hấp thu kém
5
H2O
4
HCl 0,5M HCl 1,0M
3
2
g µ - U g n ợ ư L
1
0
0
2
4
6
8
10
Các phân đoạn rửa giải U
trên nhựa trong khoảng nồng độ axit HCl từ 0 đến 1,0M.
Hình 3.29. Đường cong rửa giải U với HCl và nước
(xem số liệu trong Bảng 4.2, Phụ lục 4)
Như vậy, khi nạp dung dịch mẫu hỗn hợp chứa U, Th, Pb trong môi trường
axit HCl 3,0M lên cột sắc ký rồi giải hấp Pb bằng dung dịch axit HCl 6,0M và giải
hấp U bằng nước có thể tách hoàn toàn ba nguyên tố ra khỏi nhau.
Để nghiên cứu khả năng hấp thu trên nhựa và khả năng giải hấp Th, tiến hành
nạp 5 ml dung dịch Th (5 µg) trong môi trường axit HNO3 7,0M lên cột sắc ký. Môi
89
trường nhựa trong cột đã được cân bằng với dung dịch axit HNO3 7,0M. Rửa cột
bằng 15 ml dung dịch axit HNO3 7,0M. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch
rửa cột, gộp chung để định lượng Th. Kết quả xác định cho thấy không phát hiện
được Th trong dung dịch hỗn hợp trên chứng tỏ Th được hấp thu tốt trên cột, không
đi ra. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của Faris J. P. và
Buchanan R. F. [47] về sự hấp thu của các nguyên tố trong hệ trao đổi anion - môi
trường axit HNO3 (nồng độ axit HNO3 thay đổi từ 0,1M đến 14M, Th hấp thu tốt
nhất trên nhựa trao đổi anion trong môi trường axit có nồng độ khoảng 7,0M).
Tiến hành giải hấp Th bằng 25 ml dung dịch axit HCl có nồng độ 5,5M; 6,0M;
6,5M với tốc độ 0,6 ml/phút. Đường cong rửa giải Th bằng dung dịch axit HCl 5,5M
và 6,5M có pic tù, đuôi pic kéo dài, trong khi đường cong rửa giải Th bằng dung dịch
axit HCl 6,0M có pic nhọn, khá đối xứng (Hình 3.30), lượng Th thu hồi đạt tới 95%.
Như vậy, cần tiến hành giải hấp Th bằng dung dịch HCl 6,0M để có kết quả tốt
4
3
HCl 5,5M HCl 6,0M HCl 6,5M
2
g µ - h T g n ợ ư L
1
0
0
2
4
6
8
10
Các phân đoạn rửa giải Th
nhất. Kết quả trên mở ra khả năng tách Th khỏi nhiều nguyên tố khác.
Hình 3.30. Đường cong rửa giải Th với HCl
(xem số liệu trong Bảng 4.3, Phụ lục 4)
Để nghiên cứu khả năng tách các nguyên tố U, Th, Pb ra khỏi Zr, Hf và các
nguyên tố khác, tiến hành nạp 5 ml dung dịch hỗn hợp nhiều nguyên tố (5 µg mỗi
nguyên tố), có thêm 800 µg Zr và 30 µg Hf trong môi trường axit HCl 3,0M lên cột
90
sắc ký. Môi trường cột đã được cân bằng với dung dịch axit HCl 3,0M. Rửa cột
bằng 15 ml dung dịch axit HCl 3,0M. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch
rửa cột, gộp chung (gọi là dung dịch A) để định lượng các nguyên tố đi ra. Kết quả
thu được (Bảng 3.14) cho thấy Zr và Hf là các nguyên tố có nồng độ lớn trong dung
dịch hỗn hợp được hấp thu kém trên nhựa, đi ra khỏi cột hầu hết.
Th và các nguyên tố khác như Li, Be, Na, Mg, Al, K, Ca, Ti, V, Cr, Mn, Fe,
Co, Ni, Cu, As, Se, Rb, Sr, Cs, Ba được hấp thu kém trên nhựa và đi ra hầu hết khi
nạp mẫu. Một số nguyên tố như Zn, Cd, Nd, Sm được hấp thu trên cột giống như U
và Pb. Kết quả này phù hợp các kết quả nghiên cứu về khả năng tạo phức của các ion kim loại với ion Cl-. Các kim loại kiềm, kiềm thổ và một số kim loại chuyển tiếp không kết hợp với ion Cl- để hình thành các phức âm nên chúng không được hấp
-, NdCl4
thu trên nhựa và đi ra ngay. Các nguyên tố Sm, Nd cũng như nhiều nguyên tố đất hiếm khác có khả năng hình thành các phức âm với ion Cl- (SmCl4 -) nên
chúng được hấp thu tốt trên nhựa trao đổi anion. Như vậy, ngay từ bước đầu tiên
nạp dung dịch hỗn hợp trong môi trường HCl 3,0M lên cột nhựa anion đã có thể
tách ngay được nguyên tố nền Zr cũng như Hf và nhiều nguyên tố khác khỏi hai
nguyên tố U và Pb.
Bảng 3.14. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi nạp cột
và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HCl 3,0M (dung dịch A)
Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng
4,9µg V 4,9µg As 4,8µg Hf 28µg Li
4,7µg Cr 4,8µg Se 4,7µg Nd KPH Be
5,0µg Mn 4,7µg Rb 4,9µg Sm KPH Na
Mg 4,8µg Fe 4,8µg Sr 4,9µg Pb KPH
5,0µg Co 4,9µg Zr 790µg Th 4,9µg Al
5,0µg Ni 4,8µg Cd KPH U KPH K
4,9µg Cu 4,9µg Cs 4,8µg Ca
4,9µg Zn 0,5µg Ba 4,8µg Ti
91
Giải hấp Pb bằng 25 ml dung dịch axit HCl 6,0M với tốc độ 0,6 ml/phút. Khi
đó, các nguyên tố Zn, Cd, Nd, Sm, U vẫn còn được giữ lại trên cột.
Giải hấp U bằng 25 ml nước với tốc độ 0,6 ml/phút. Một số nguyên tố như Zn,
Cd được giải hấp cùng với U (Hình 3.31). Cd bắt đầu được giải hấp khi quá trình
giải hấp U đã kết thúc, Zn được giải hấp một phần và có mặt trong các phân đoạn
rửa giải U cuối cùng nhưng sự có mặt một lượng không đáng kể của hai nguyên tố
này không ảnh hưởng đến việc xác định U bằng phương pháp ICP-MS.
Sau khi giải hấp Pb và U, tách được hai nguyên tố ra khỏi nhau, làm sạch nhựa
trên cột bằng 20 ml axit HCl 9,0M, tráng rửa cột sắc ký bằng 20 ml nước siêu sạch
5
4
U Zn
Cd
3
2
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
1
0
0
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải
rồi tiếp tục tiến hành tách Th khỏi Zr, Hf và các nguyên tố khác.
Hình 3.31. Đường cong rửa giải U, Zn, Cd với nước
(xem số liệu trong Bảng 4.4, Phụ lục 4)
Th được hấp thu tốt trên nhựa trong môi trường HNO3 7,0M mở ra khả năng
tách các nguyên tố khác khỏi Th nếu chúng không được hấp thu trên nhựa trong
môi trường HNO3 7,0M. Dung dịch A trong môi trường HCl 3,0M thu được ở trên
chứa Th cùng với các nguyên tố lượng lớn như Zr, Hf và nhiều nguyên tố khác
được chuyển về môi trường HNO3 7,0M rồi nạp lên cột nhựa. Rửa cột bằng 15 ml
dung dịch axit HNO3 7,0M. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột,
gộp chung (gọi là dung dịch B) để định lượng các nguyên tố đi ra. Kết quả thu được
92
(Bảng 3.15) cho thấy Th được hấp thu trên nhựa, không đi ra còn các nguyên tố Zr,
Hf, Li, Be, Na, Mg, Al, K, Ca, Ti, V, Cr, Mn, Fe, Co, Ni, Cu, As, Se, Rb, Sr, Cs, Ba
không được hấp thu hoặc được hấp thu kém trên nhựa, đi ra hầu hết khỏi cột.
Bảng 3.15. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi nạp cột
và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HNO3 7,0M (dung dịch B)
Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng
Li 4,8µg Ca 4,9µg Co 4,7µg Sr 4,8µg
Be 4,5µg Ti 4,8µg Ni 4,5µg Zr 760µg
Na 4,8µg V 4,5µg Cu 4,8µg Cs 4,6µg
Cr 4,4µg Mg 4,6µg As 4,6µg Ba 4,6µg
Al 4,8µg Mn 4,7µg Se 4,6µg Hf 26µg
K 4,8µg Fe 4,8µg Rb 4,6µg Th KPH
Tiến hành giải hấp Th bằng 25 ml dung dịch axit HCl 6,0M với tốc độ 0,6
ml/phút. Kết quả định lượng trong dung dịch rửa giải thu được 4,8µg Th cho thấy
Th được tách hoàn toàn khỏi các nguyên tố cùng có mặt trong dung dịch hỗn hợp.
Như vậy, có thể tách các nguyên tố U, Th, Pb khỏi nguyên tố nền Zr cũng
như một số nguyên tố có hàm lượng khá lớn trong đơn khoáng zircon khi chuẩn
bị dung dịch mẫu trong môi trường HCl 3,0M để nạp lên cột sắc ký trao đổi
anion. U và Pb được hấp thu trên cột sắc ký trong khi Th, Zr, Hf và nhiều
nguyên tố khác đi ra. Giải hấp Pb trước bằng HCl 6,0M sau đó giải hấp U bằng
nước sẽ thu được dung dịch Pb và dung dịch U riêng biệt để xác định thành phần
đồng vị của hai nguyên tố này. Dung dịch Th cùng nhiều nguyên tố khác đi ra ở
trên được chuyển về môi trường HNO3 7,0M để nạp lên cột sắc ký. Th được hấp
thu trên cột trong khi Zr, Hf và nhiều nguyên tố khác đi ra. Giải hấp Th bằng HCl 6,0M sẽ thu được dung dịch để xác định đồng vị 232Th.
3.3.1.3. Tách U, Th và Pb trong môi trường axit HBr và HNO3
Theo tài liệu “Hướng dẫn về sắc ký trao đổi ion” [32], Pb có thể được hấp thu chọn
lọc trên nhựa trao đổi anion dạng Br– (Br– form). Việc tách U, Th, Pb được tiếp tục thử
93
nghiệm trong môi trường HBr. Nhựa trao đổi ion dùng trong các thí nghiệm nghiên cứu
tách U, Th, Pb là loại nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh. Nạp 5 ml
dung dịch hỗn hợp chứa U, Th và Pb (5 µg mỗi nguyên tố) trong môi trường axit HBr
0,5M lên cột sắc ký. Môi trường cột đã được cân bằng với dung dịch axit HBr 0,5M. Rửa
cột bằng 15 ml dung dịch axit HBr 0,5M. Các dung dịch chảy qua cột với tốc độ 0,6
ml/ph. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột, gộp chung để định lượng các
nguyên tố đi ra. Pb không được tìm thấy trong dung dịch này trong khi lượng U và Th
tìm được tương ứng là 4,8 và 4,7 µg. Điều đó chứng tỏ trong môi trường HBr 0,5M, Pb
kết hợp với ion Br- tạo thành phức âm nên Pb được hấp thu tốt trên nhựa trao đổi anion
còn U và Th không hình thành các phức âm với ion Br- nên không được hấp thu trên
nhựa, đi hết ra khỏi cột khi nạp mẫu.
Tiến hành giải hấp Pb bằng các dung dịch axit HCl 5,5M; HCl 6,0M; HCl
6,5M; HNO3 7,0M và nước. Tất cả các dung dịch trên đều có thể giải hấp được Pb
2.5
2
HCl 5,5M HCl 6,0M
1.5
HCl 6,5M
1
g µ - b P g n ợ ư L
0.5
0
0
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải Pb
ra khỏi cột tách (Hình 3.32 và Hình 3.33).
Hình 3.32. Đường cong rửa giải Pb với HCl
(xem số liệu trong Bảng 4.5, Phụ lục 4)
Có thể thấy rằng, ở các môi trường axit HCl 5,5M; HCl 6,0M; HCl 6,5M; HNO3 7,0M và nước, độ bền phức âm của Pb với ion Br- đã giảm đi nhanh chóng. Pb được giải phóng khỏi phức âm và ion Pb2+ dễ dàng bị rửa ra khỏi cột.
94
2.5
HCl 6,0M
2
HNO3 7,0M
H2O
1.5
1
g µ - b P g n ợ ư L
0.5
0
0
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải Pb
Hình 3.33. Đường cong rửa giải Pb với 3 dung môi khác nhau
(xem số liệu trong Bảng 4.6, Phụ lục 4)
Đường cong rửa giải Pb bằng các dung dịch HCl 5,5M; HCl 6,5M và nước có
pic tù, đuôi pic kéo dài trong khi đường cong rửa giải Pb bằng các dung dịch axit
HCl 6,0M và HNO3 7,0M có pic nhọn và khá đối xứng. Như vậy, Pb được giải hấp
tốt bằng các dung dịch axit HCl 6,0M và HNO3 7,0M. Trong cả hai trường hợp,
hiệu suất thu hồi đều đạt hơn 95%. Kết quả này phù hợp nghiên cứu của Gen
Shimoda [54] khi tác giả tiến hành giải hấp Pb bằng dung dịch HNO3 và nước. Để
nghiên cứu khả năng hấp thu và khả năng giải hấp U, Th, Pb trong môi trường axit
HNO3 (riêng Th đã được nghiên cứu ở phần trên), nạp 5 ml dung dịch hỗn hợp chứa
U, Th và Pb (5 µg mỗi nguyên tố) trong môi trường axit HNO3 7,0M lên cột sắc ký.
Môi trường cột đã được cân bằng với dung dịch axit HNO3 7,0M. Rửa cột bằng 15
ml dung dịch axit HNO3 7,0M. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột,
gộp chung để định lượng các nguyên tố đi ra. U và Th không được tìm thấy trong
dung dịch này trong khi lượng Pb xác định được là 4,8 µg chứng tỏ trong điều kiện
trên, U và Th được hấp thu tốt trên nhựa còn Pb được hấp thu kém trên nhựa, đi hết
ra khỏi cột.
Tiến hành giải hấp U và Th bằng 25 ml dung dịch axit HBr 0,5M hoặc dung
dịch axit HNO3 0,3M với tốc độ 0,6 ml/phút. Cả hai dung dịch axit trên đều có khả
năng giải hấp U và Th. Đường cong rửa giải của Th (Hình 3.34) có píc tù, đuôi píc
95
kéo dài trong khi đường cong rửa giải U tốt hơn nhiều. Hiệu suất giải hấp U đạt
92% còn hiệu suất giải hấp Th chỉ đạt 75%.
Thay vì dung dịch axit HBr hay HNO3, tác giả luận án dùng dung dịch axit
HCl 6,0M để giải hấp các nguyên tố đã hấp thu trên cột và khi đó Th được giải hấp
ra khỏi cột (đường cong rửa giải Th đã được mô tả trong Hình 3.30) trong khi U vẫn
được giữ lại trên cột nhựa. Tiếp tục dùng dung dịch axit HBr 0,5M hoặc dung dịch
axit HNO3 0,3M để giải hấp U, lúc này U được giải hấp hoàn toàn ra khỏi cột. Như
4
U-HBr 0,5M
3
U-HNO3 0,3M Th-HBr 0,5M
2
Th-HNO3 0,3M
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Các phân đoạn rửa giải
vậy, U và Th đã được tách hoàn toàn ra khỏi nhau bằng hai loại dung dịch rửa giải.
Hình 3.34. Đường cong rửa giải U và Th
(xem số liệu trong Bảng 4.7, Phụ lục 4)
Để nghiên cứu khả năng tách các nguyên tố U, Th, Pb ra khỏi các nguyên tố
khác, tiến hành nạp 5 ml dung dịch hỗn hợp nhiều nguyên tố (5 µg mỗi nguyên tố)
trong môi trường axit HBr 0,5M lên cột sắc ký. Môi trường cột đã được cân bằng
với dung dịch axit HBr 0,5M. Rửa cột bằng 15 ml dung dịch axit HBr 0,5M. Thu
dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột, gộp chung (gọi là dung dịch C) để
định lượng các nguyên tố đi ra. Kết quả thu được (Bảng 3.16) cho thấy Pb, Cd, Zn,
Se được hấp thu tốt trên nhựa trong khi U, Th và nhiều nguyên tố khác được hấp
thu kém và đi ra khỏi cột khi nạp mẫu.
96
Bảng 3.16. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi nạp cột
và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HBr 0,5M (dung dịch C)
Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng
Li 4,8µg V 4,9µg Ga 4,7µg Ba 4,8µg
Be 4,8µg Cr 4,7µg As 4,8µg Hf 4,9µg
5,0µg Mn 4,8µg Na Se KPH Nd 4,8µg
Mg 4,9µg Fe 4,7µg Rb 4,9µg Sm 4,9µg
Al 4,9µg Co 4,9µg Sr 4,9µg Pb KPH
K 4,9µg Ni 4,8µg Zr 4,8µg Th 4,8µg
Ca 4,9µg Cu 4,8µg Cd KPH U 4,8µg
Ti 4,8µg Zn KPH Cs 4,8 µg
Tiến hành giải hấp Pb bằng 25 ml dung dịch axit HCl 6,0M với tốc độ 0,6 ml/phút.
3
2.5
Pb Se
2
1.5
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
0
0
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải
Se được giải hấp cùng với Pb trong khi Zn và Cd vẫn được giữ lại trên cột (Hình 3.35).
Hình 3.35. Đường cong rửa giải Pb và Se với HCl 6,0M
(xem số liệu trong Bảng 4.8, Phụ lục 4)
Se được giải hấp ra trước Pb. Đường cong rửa giải Pb và Se chồng lên nhau
một phần cho thấy Pb và Se không tách khỏi nhau hoàn toàn mà có một lượng Se
nhất định trong các phân đoạn rửa giải Pb. Tuy nhiên, trong các mẫu đá, hàm lượng
97
Se thường rất nhỏ, không ảnh hưởng đến việc xác định Pb bằng phương pháp ICP-
MS. Sau khi giải hấp Pb, làm sạch cột bằng 20 ml axit HCl 9,0M, tráng rửa cột sắc
ký bằng 20 ml nước siêu sạch rồi cân bằng lại môi trường cột bằng 20 ml dung dịch
axit HNO3 7,0M để tách U, Th.
Dung dịch C được chuyển về môi trường HNO3 7,0M rồi nạp lên cột sắc ký. Rửa cột bằng 15 ml dung dịch axit HNO3 7,0M. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột, gộp chung (gọi là dung dịch D) để định lượng các nguyên tố đi
ra. Kết quả thu được (Bảng 3.17) cho thấy U và Th được hấp thu tốt trên nhựa trong
khi các nguyên tố khác được hấp thu kém hoặc không được hấp thu, đi hết ra khỏi
cột trong môi trường HNO3 7,0M.
Bảng 3.17. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi nạp cột
và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HNO3 7,0M (dung dịch D )
Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng
Li 4,8µg Ti 4,8µg Cu 4,8µg Cs 4,7µg
Be 4,8µg V 4,9µg Ga 4,7µg Ba 4,8µg
Na 5,0µg Cr 4,7µg As 4,8µg Hf 4,7µg
Mg 4,9µg Mn 4,8µg Se 0,1µg Nd 4,8µg
Al 4,9µg Fe 4,7µg Rb 4,9µg Sm 4,7µg
K 4,9µg Co 4,9µg Sr 4,9µg Th KPH
Ca 4,9µg Ni 4,8µg Zr 4,7µg U KPH
Giải hấp Th trước bằng 15 ml dung dịch axit HCl 6,0M sau đó giải hấp U
bằng 15 ml dung dịch axit HBr 0,5M hoặc HNO3 0,3M cùng với tốc độ 0,6 ml/phút như đã mô tả ở phần trên.
Như vậy, có thể tách các nguyên tố U, Th, Pb khỏi các nguyên tố nền trong
mẫu địa chất khi chuẩn bị dung dịch mẫu trong môi trường HBr 0,5M để nạp lên
cột nhựa trao đổi anion. Pb được hấp thu trên cột sắc ký trong khi U, Th và
nhiều nguyên tố khác đi ra. Giải hấp Pb bằng HCl 6,0M sẽ thu được dung dịch
Pb để xác định thành phần đồng vị của nguyên tố này. Dung dịch U, Th cùng
nhiều nguyên tố khác ở trên được chuyển về môi trường HNO3 7,0M để nạp lên
98
cột tách. U, Th được hấp thu trên cột trong khi nhiều nguyên tố khác đi ra. Giải
hấp Th trước bằng HCl 6,0M sau đó giải hấp U bằng HBr 0,5M hay HNO3 0,3M sẽ thu được dung dịch Th và dung dịch U riêng biệt để xác định thành phần
đồng vị của chúng.
Từ các kết quả nghiên cứu trên đây, tác giả luận án đề xuất tiến hành tách các
nguyên tố U, Th, Pb ra khỏi các nguyên tố nền và tách ra khỏi nhau trong môi
trường các axit HCl và HNO3 trên nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh theo các sơ đồ trong Hình 3.36 và Hình 3.37. Hai sơ đồ tách này phù hợp để
U, Th, Pb trong nền Zr và các nguyên tố khác
Nhựa trao đổi anion trong môi trường HCl 3,0M
U, Pb được hấp thu trên nhựa
Th, Zr, Hf và nhiều nguyên tố không hấp thu
HCl 6,0M
HNO3 7,0M
Th, Zr, Hf,… trong môi trường HNO3 7,0M
Nhựa trao đổi anion trong môi trường HNO3 7,0M
U, Cd, Zn, Sm, Nd ở lại trên cột
Pb được giải hấp (xác định các đồng vị Pb)
H2O
Th được hấp thu trên nhựa
Zr, Hf và nhiều ng. tố khác không hấp thu
HCl 6,0M
Sm, Nd ở lại trên cột
U, Cd, Zn được giải hấp (xác định các đồng vị U)
Th được giải hấp (xác định đồng vị Th)
Làm sạch cột nhựa bằng HCl 9,0M và
tách và xác định các đồng vị U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon.
Hình 3.36. Sơ đồ tách U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon
(môi trường dung dịch mẫu ban đầu là HCl 3,0M)
99
Theo sơ đồ tách trong Hình 3.36, dung dịch mẫu trong môi trường axit HCl
3,0M được nạp lên cột sắc ký, hai nguyên tố Zr và Hf hầu như không hấp thu trên
nhựa và đi ra hết. Việc loại bỏ Zr và Hf khá dễ dàng. Trong trường hợp không cần phân tích tỷ số đồng vị 208Pb/232Th, chỉ quan tâm phân tích các đồng vị của U và Pb
(trong phương pháp tuổi đồng vị U/Pb) thì bỏ dung dịch chứa Th ngay từ đầu (dung
dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột trong môi trường HCl 3,0M).
Nhựa trao đổi anion trong môi trường HNO3 7,0M
U, Th được hấp thu trên nhựa
Pb, Zr, Hf và nhiều nguyên tố không hấp thu
HCl 6,0M
HCl 3,0M
Pb, Zr, Hf,… trong môi trường HCl 3,0M
Nhựa trao đổi anion trong môi trường HCl 3,0M
U ở lại trên cột
Th được giải hấp (xác định đồng vị Th)
HBr 0,5M hoặc HNO3 0,3M
Pb được hấp thu trên nhựa
Zr, Hf và nhiều ng. tố khác không hấp thu
HCl 6,0M
U được giải hấp (xác định các đồng vị U)
Làm sạch cột nhựa bằng HCl 9,0M và nước
Pb được giải hấp (xác định các đồng vị Pb)
U, Th, Pb trong nền Zr và các nguyên tố khác
Hình 3.37. Sơ đồ tách U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon
(môi trường dung dịch mẫu ban đầu là HNO3 7,0M)
Tách U, Th, Pb theo sơ đồ trong Hình 3.37 là một phương án lựa chọn thay thế
cho sơ đồ trong Hình 3.36 với sự thuận lợi trong việc xử lý môi trường dung dịch mẫu
100
sau khi phân huỷ mẫu bằng hỗn hợp axit HF + HNO3, chỉ cần đuổi hết axit HF và hoà
U, Th, Pb trong nền các nguyên tố khác
Nhựa trao đổi anion trong môi trường HBr 0,5M
Pb được hấp thu trên nhựa
U, Th và nhiều nguyên tố không hấp thu
HCl 6,0M
HNO3 7,0M
U, Th và các ng.tố trong môi trường HNO3 7,0M
Pb được giải hấp (xác định các đồng vị Pb)
Nhựa trao đổi anion trong môi trường HNO3 7,0M
Làm sạch cột nhựa bằng dd HCl 9,0M và nước
U, Th được hấp thu trên nhựa
Các nguyên tố khác không hấp thu
HCl 6,0M
U được giữ lại trên cột
Th được giải hấp (xác định đồng vị Th)
Dung dịch HBr 0,5M hoặc dd HNO3 0,3M
U được giải hấp (xác định các đồng vị U)
Làm sạch cột nhựa bằng HCl 9,0M và nước
tan lại mẫu bằng dung dịch axit HNO3 7,0M rồi nạp dung dịch mẫu lên cột sắc ký.
Hình 3.38. Sơ đồ tách U, Th, Pb
(môi trường dung dịch mẫu ban đầu là HBr 0,5M)
101
Có thể tiến hành tách các nguyên tố U, Th, Pb ra khỏi các nguyên tố nền trong
môi trường các axit HBr và HNO3 trên nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-
400 mesh theo sơ đồ trong Hình 3.38.
Sơ đồ tách trong Hình 3.38 có thể áp dụng tốt để tách U, Th, Pb trong đá tổng
hay các loại khoáng vật khác khi nguyên tố nền mẫu là Fe, Ti, ... Với môi trường
axit HBr 0,5M, phần lớn các nguyên tố nền mẫu không hấp thu trên nhựa và đi ra
hết. Việc loại bỏ các nguyên tố nền khá dễ dàng do Pb hấp thu chọn lọc trong môi
trường này. Trong trường hợp không cần phân tích các đồng vị của U và Th, chỉ
quan tâm phân tích các đồng vị của Pb (trong phương pháp Pb thường), có thể bỏ
dung dịch chứa U và Th ngay từ đầu (dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa
cột trong môi trường HBr 0,5M).
Việc tách đồng thời hệ ba nguyên tố U, Th, Pb với cùng một loại nhựa trao
đổi ion, trên cùng một cột sắc ký chưa từng được công bố trong công trình
nghiên cứu nào trước đây. Các quy trình tách thực hiện theo các sơ đồ này không
phức tạp, dễ thực hiện, dễ áp dụng trong thực tế và có thể áp dụng để phân tích
thành phần đồng vị U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon cũng như trong một số
khoáng vật khác và đá tổng.
3.3.2. Tách các nguyên tố Rb và Sr
3.3.2.1. Khảo sát ảnh hưởng của nền mẫu đến việc xác định các đồng vị Rb, Sr
bằng phương pháp ICP-MS
Kết quả phân tích bán định lượng một số mẫu khoáng vật mica (biotite, muscovite),
felspar bằng ICP-MS được trình bày trong các bảng từ Bảng 3.18 đến Bảng 3.20.
Bảng 3.18. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật biotite
STT Ng.tố STT Ng.tố STT Ng.tố Hàm lượng (ppm) Hàm lượng (ppm) Hàm lượng (ppm)
1 Li 105,93 13 Ni 59,32 25 Ba 23,31
2 Be 13,14 14 Cu 59,32 26 La 10,17
3 Na 13983,05 15 Zn 254,24 27 Ce 32,63
102
Ga 16 46,61 28 Nd 27,12 4 Mg 59322,03
5 K 6779,66 As 17 2,16 29 Sm 10,59
6 Se 18 5,93 30 Gd 12,29 Ca 93220,34
7 19 31 Lu 0,59 28813,56 Rb 100,59 Ti
8 V 466,10 20 32 Hf 0,51 Sr 411,02
9 Cr 84,75 Zr 21 93,22 33 Pb 3,01
22 10 Mn 8898,31 Nb 233,05 34 Th 0,26
23 Mo 1,44 11 35 U 0,81 Fe 111864,41
Co 55,08 24 Cd 0,42 12
Bảng 3.19. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật muscovite
STT Ng.tố STT Ng.tố STT Ng.tố Hàm lượng (ppm) Hàm lượng (ppm) Hàm lượng (ppm)
Li 1019,42 12 Ni 20,39 1 23 Cs 6,07
Be 21,12 13 Cu 24,27 2 24 Ba 48,54
Na 5097,09 14 Zn 412,62 3 25 La 0,13
15 Ga 46,12 26 Ce 0,56 4 Mg 13106,80
16 As 0,83 5 27 Nd 0,17 Ca 11504,85
17 Se 0,92 6 28 Sm 0,07 Ti 19417,48
V 6,07 18 7 29 Lu 0,03 Rb 143,20
Cr 29,13 19 8 30 Hf 0,11 Sr 26,55
20 Zr 26,70 Mn 1796,12 9 31 Pb 87,38
21 Nb 174,76 10 32 Th 0,09 Fe 74757,28
Co 19,66 22 Mo 0,66 11 33 U 1,55
103
Bảng 3.20. Kết quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật feldspar
STT Ng.tố STT Ng.tố STT Ng.tố Hàm lượng (ppm) Hàm lượng (ppm) Hàm lượng (ppm)
7,75 Li 1 12 Cu 14,75 23 Cs 0,70
4,75 Be 2 13 Zn 22,75 24 Ba 27,50
Mg 127,50 3 14 Ga 21,25 25 La 0,16
4 15 As 0,58 26 Ce 0,73 Ca 4000,00
5 16 Se 1,13 27 Nd 0,28 925,00 Ti
2,15 V 6 17 28 Sm 0,08 Rb 187,50
5,25 Cr 7 18 29 Lu 0,01 Sr 92,50
Mn 65,00 8 19 Zr 70,00 30 Hf 0,23
9 20 Nb 7,50 31 Pb 12,25 1400,00 Fe
Co 10 0,43 21 Mo 0,55 32 Th 0,22
Ni 11 2,75 22 Cd 0,33 33 U 0,70
Từ kết quả trên thấy rằng trong khoáng biotite, các nguyên tố Ca, Mg, Fe có
hàm lượng lớn nhất, lần lượt khoảng 9%, 6% và 11%. Ti có hàm lượng khoảng 3%.
Với khoáng muscovite, nguyên tố Fe có hàm lượng khoảng 7%, trong khi Mg, Ca,
Ti có hàm lượng khoảng 1-2%. Với khoáng feldspar, các nguyên tố Ca, Fe có hàm
lượng khoảng 0,15-0,4% trong khi Ti có hàm lượng khoảng 0,1% và Mg có hàm
lượng tương đương các nguyên tố Rb và Sr. So sánh tương đối hàm lượng của các
nguyên tố trong các khoáng vật trên được trình bày trong Bảng 3.21.
Bảng 3.21. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu
với các nguyên tố Rb, Sr trong một số khoáng vật (số lần lớn hơn)
Khoáng vật Nguyên tố Mg Ca Fe Ti
Rb 850 1100 260 530 Biotite
Sr 230 270 70 150
104
Rb 80 90 520 150 Muscovite
Sr 400 500 2800 700
Rb 20 1 8 5 Felspar
Sr 45 1 15 10
Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu với các đồng vị cần quan
tâm thể hiện trong Bảng 3.22.
Bảng 3.22. Tương quan hàm lượng của các nguyên tố nền mẫu
với các đồng vị cần quan tâm trong một số khoáng vật (số lần lớn hơn)
Khoáng vật Đồng vị Ca Mg Fe Ti
Hàm lượng tự nhiên (%)
85Rb
72,15 1.180 750 1.500 360 Biotite
87Rb
27,85 3.050 1.900 4.000 950
86Sr
2.330 1.500 2.750 700 9,87
87Sr
88Sr
3.285 2.150 3.850 1.000 7,04
85Rb
85 82,53 280 180 325
87Rb
200 72,15 110 125 720 Muscovite
86Sr
540 27,85 290 320 1.900
87Sr
9,87 4.050 5.100 28.400 7.100
88Sr
7,04 5.700 7.150 40.000 10.000
85Rb
82,53 480 3.400 850 600
87Rb
7 72,15 30 1,5 11 Felspar
86Sr
18 27,85 70 4 30
87Sr
100 9,87 450 10 150
88Sr
150 7,04 650 13 215
12 82,53 480 1,5 18
105
Như vậy, với các mẫu khoáng vật dùng để xác định thành phần đồng vị các
nguyên tố Rb và Sr bằng phương pháp ICP-MS, cần quan tâm chủ yếu đến ảnh
hưởng của Ca, Mg, Fe, Ti (là các nguyên tố chính hay còn gọi là nền mẫu).
Để khảo sát ảnh hưởng của các nguyên tố chính đến việc xác định các đồng vị
của các nguyên tố Rb và Sr, so sánh kết quả xác định các đồng vị của từng nguyên
tố Rb và Sr trong dung dịch nguyên tố đó có nồng độ 20 ppb trước và sau khi thêm
vào các nguyên tố Ca, Mg, Fe, Ti có nồng độ gấp 1000; 2000; 5000; 10.000;
20.000; 30.000; 50.000 lần. Kết quả được đưa ra trong Bảng 3.23.
Bảng 3.23. Giới hạn ảnh hưởng của các nguyên tố nền mẫu
đến việc xác định các đồng vị Rb, Sr bằng ICP-MS
Nồng độ không ảnh hưởng (số lần lớn hơn) Đồng vị
Ca Mg Fe Ti
85Rb
20.000 20.000 20.000 20.000
87Rb
20.000 20.000 20.000 20.000
86Sr
20.000 20.000 20.000 20.000
87Sr
20.000 20.000 20.000 20.000
88Sr
20.000 20.000 20.000 20.000
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi nồng độ các nguyên tố nền mẫu tăng cao gấp
nhiều lần, nồng độ các đồng vị của Rb, Sr xác định được có xu hướng giảm dần. Cụ
thể, khi nồng độ của các nguyên tố Ca, Mg, Fe, Ti lớn hơn nồng độ của các đồng vị
cần quan tâm trên 20.000 lần bắt đầu ảnh hưởng đến việc xác định các đồng vị này.
Từ kết quả khảo sát ảnh hưởng của các nguyên tố nền mẫu ở Bảng 3.23 và tương
quan hàm lượng của các nguyên tố nền với các đồng vị cần quan tâm ở Bảng 3.22
thấy rằng các nguyên tố có hàm lượng khá cao như Ca, Mg không ảnh hưởng đến
việc xác định các đồng vị của Rb và Sr. Các nguyên tố nền mẫu Fe, Ti có hàm
lượng lớn, có khả năng ảnh hưởng đến việc xác định các đồng vị nào đó của Rb và
Sr. Như vậy, khi nghiên cứu tách Rb và Sr, vấn đề quan trọng nhất là tìm ra điều
kiện tách riêng biệt hai nguyên tố này ra khỏi nhau vì chúng có các đồng vị trùng khối là 87Rb và 87Sr. Ngoài ra cần tách loại được hoàn toàn hoặc một phần các
nguyên tố Fe và Ti cũng giúp nâng cao độ chính xác của phép phân tích.
106
3.3.2.2. Tách Rb, Sr trong môi trường axit HCl
Nhựa trao đổi ion dùng trong các thí nghiệm nghiên cứu tách Rb, Sr là loại
nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh. 5 ml dung dịch hỗn hợp
Rb và Sr (5 µg mỗi nguyên tố) trong môi trường axit HCl 1,0M được nạp lên cột
sắc ký. Môi trường cột đã được cân bằng với dung dịch axit HCl 1,0M. Rửa cột
bằng 15 ml dung dịch axit HCl 1,0M. Các dung dịch chảy qua cột với tốc độ 0,6
ml/ph. Thu dung dịch hỗn hợp sau khi nạp cột và dung dịch rửa, gộp chung để định
lượng các nguyên tố đi ra.
Rb và Sr không có trong dung dịch này, chứng tỏ cả hai nguyên tố cùng hấp thu tốt trên nhựa. Kết quả này khẳng định Rb và Sr không tạo phức âm với ion Cl-
trong môi trường axit HCl 1,0M. Tiến hành giải hấp hai nguyên tố bằng 50 ml các
dung dịch axit HCl có nồng độ 1,5M; 2,0M; 2,5M; 3,0M với tốc độ 0,6 ml/phút.
3
2.5
2
Rb
Sr
1.5
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
Các phân đoạn rửa giải
Các kết quả được trình bày trong các hình từ Hình 3.39 đến Hình 3.42.
Hình 3.39. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 1,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.9, Phụ lục 4)
Bốn loại dung dịch axit HCl với nồng độ khác nhau ở trên đều có thể giải hấp
Rb ra khỏi cột trong khi dung dịch axit HCl 1,5M không giải hấp được Sr (khi dùng
tới 18 phân đoạn rửa giải). Đường cong rửa giải Rb trong cả bốn trường hợp không
có sự khác biệt lớn, các píc đều nhọn, đối xứng. Có thể thu hồi hết lượng Rb sau 5
phân đoạn rửa giải.
107
Sr được giải hấp tốt bằng dung dịch axit HCl có nồng độ 2,5M trở lên. Cả Rb
và Sr đều được giải hấp ra sớm hơn khi dùng dung dịch HCl có nồng độ lớn hơn.
Với dung dịch HCl 2,5M, đường cong rửa giải hai nguyên tố cách xa nhau, thuận
3
2.5
2
Rb Sr
1.5
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
0
Các phân đoạn rửa giải
lợi để tách riêng biệt hai nguyên tố ra khỏi nhau.
Hình 3.40. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,0M
3
2.5
Rb
Sr
2
1.5
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
Các phân đoạn rửa giải
(xem số liệu trong Bảng 4.10, Phụ lục 4)
Hình 3.41. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.11, Phụ lục 4)
108
Khi dùng dung dịch giải hấp là HCl 3,0M, đường cong rửa giải hai nguyên tố gần
sát nhau, rất khó tách riêng biệt hai nguyên tố. Kết quả trên chứng tỏ rằng trong môi trường HCl có nồng độ 1,5M trở lên, Rb bắt đầu tạo phức âm với ion Cl- nên không được giữ lại trên nhựa trao đổi cation nữa. Sr bắt đầu tạo phức âm với ion Cl- trong môi
trường axit HCl có nồng độ 2,0M. Hằng số bền của phức âm này đủ lớn trong môi
3
2.5
2
Rb Sr
1.5
1
g µ - ô t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
Các phân đoạn rửa giải
trường axit HCl 2,5M để Sr có thể được giải hấp ra khỏi cột nhựa nhanh hơn.
Hình 3.42. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 3,0M
(xem số liệu trong Bảng 4.12, Phụ lục 4)
Như vậy, có thể tiến hành tách liên tiếp Rb và Sr bằng dung dịch HCl 2,5M
(thu hồi Rb từ các phân đoạn 2-7, thu hồi Sr từ các phân đoạn 10 -16). Hiệu suất thu
hồi của cả hai nguyên tố đều đạt 90%, thoả mãn yêu cầu về độ chính xác của phép
phân tích. Tuy nhiên, để thuận lợi hơn trong việc tách riêng biệt hai nguyên tố,
phương án tốt nhất là sau khi nạp dung dịch mẫu lên cột, tiến hành giải hấp Rb
trước bằng dung dịch axit HCl 1,5M, sau đó giải hấp Sr bằng dung dịch axit HCl
3,0M. Trong trường hợp này, hiệu suất thu hồi của Rb đạt 93% và hiệu suất thu hồi
của Sr đạt 95%.
Để nghiên cứu khả năng tách hai nguyên tố ra khỏi các nguyên tố khác,
tiến hành nạp 5 ml dung dịch hỗn hợp các nguyên tố (5 µg mỗi nguyên tố)
trong môi trường axit HCl 1,0M lên cột sắc ký và rửa cột bằng 15 ml dung dịch
109
axit HCl 1,0M. Dung dịch nạp cột và dung dịch rửa cột cùng chảy qua cột với
tốc độ 0,6 ml/phút. Dung dịch sau khi nạp qua cột và dung dịch rửa cột được
góp chung để định lượng các nguyên tố đi ra. Kết quả cho thấy Be, Al, Mg, Ca,
Ti, Fe, Co, Ni, Cu, Zn, Ga, Rb, Sr, Cs, Ba, Nd, Sm, U được hấp thu tốt trên
nhựa. Các nguyên tố Li, Na, K, Cr, As, Se Cd, Pb không được hấp thu, đi hết ra
khỏi cột ngay (Bảng 3.24).
Bảng 3.24. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi nạp cột
và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HCl 1,0M
Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng
Be KPH Mn KPH Ga KPH Cs KPH
Mg KPH Fe KPH As 4,7µg Ba KPH
Ca KPH Co KPH Se 4,8µg Nd KPH
Ti KPH Ni KPH Rb KPH Sm KPH
V KPH Cu KPH Sr KPH Pb 4,8µg
Cr 4,7µg Zn KPH Cd 4,9µg U KPH
Tiến hành giải hấp các nguyên tố đã được hấp thu trên cột bằng 50 ml dung
dịch axit HCl 2,5M với tốc độ 0,6 ml/phút. Các nguyên tố Ti, Fe, Ba, Nd, Sm vẫn ở
lại trên cột, không được giải hấp. Các nguyên tố Be, Mg, Ca, V, Co, Ni, Cu, Zn, Ga,
Rb, Sr, Cs, U cùng được giải hấp tốt, đường cong rửa giải của chúng đều có pic
nhọn và khá đối xứng (Hình 3.43).
Ca và Sr được giải hấp ra muộn hơn so với các nguyên tố khác. Đường cong
rửa giải Ga nằm ở giữa và hoàn toàn cách biệt với đường cong rửa giải của Rb và
Sr. Trong dung dịch giải hấp Rb có lẫn một lượng nhất định các nguyên tố như Mg,
V, Zn, Cu, Zn, Cs, U. Hai nguyên tố Co và Ni hầu như được giải hấp ra đồng thời
với Rb. Tuy nhiên, trong trường hợp hàm lượng Co và Ni trong mẫu không lớn hơn
nhiều lần so với hàm lượng Rb, việc xác định Rb bằng ICP-MS sẽ không chịu ảnh
hưởng bởi Co và Ni.
110
3
2.5
Be Mg Ca
2
V Co
1.5
Ni Cu
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
Zn Ga Rb
0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
Sr Cs
Các phân đoạn rửa giải
U
Hình 3.43. Đường cong rửa giải các nguyên tố với HCl 2,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.13, Phụ lục 4)
Như đã trình bày ở phần trên, các nguyên tố Ca, Mg, Fe, Ti là các nguyên tố
chính thường có hàm lượng lớn trong các mẫu khoáng vật dùng để xác định tuổi địa
chất bằng phương pháp Rb-Sr. Với điều kiện tách như trên, các nguyên tố Ti, Fe
không được giải hấp ra cùng với Rb hoặc Sr, không ảnh hưởng đến việc xác định
thành phần đồng vị của hai nguyên tố này. Trong khi đó hai nguyên tố Mg và Ca
được giải hấp ra cùng với Rb và Sr.
Để kiểm chứng ảnh hưởng của Ca, Mg có nồng độ lớn trong dung dịch mẫu
đến việc tách Rb và Sr, dung dịch hỗn hợp chứa 1µg Sr, 7µg Rb, 700µg Ca, 700µg
Mg trong môi trường axit HCl 1,0M được nạp lên cột sắc ký. Tiến hành giải hấp các
nguyên tố bằng dung dịch axit HCl 1,5M. Rb và Mg được giải hấp ra hoàn toàn sau
14 phân đoạn rửa giải (tương đương với dùng 35 ml dung dịch axit) trong khi Ca và
Sr được giữ lại trên cột. Đường cong rửa giải của Rb và Mg có một phần chồng lên
nhau (Hình 3.44). Như vậy, nếu bỏ đi một số phân đoạn rửa giải ban đầu có thể tách
loại bớt được một phần Mg ra khỏi dung dịch giải hấp Rb.
Tiếp tục giải hấp các nguyên tố bằng dung dịch axit HCl 3,0M. Sr và Ca được
giải hấp hoàn toàn sau 12 phân đoạn (tương đương với dùng 30 ml dung dịch axit).
Ca được giải hấp ra trước, Sr tiếp tục được giải hấp ra sau. Đường cong rửa giải hai
111
nguyên tố cũng có một phần chồng lên nhau (Hình 3.45). Tương tự như trường hợp
Mg và Rb, với việc loại bỏ một số phân đoạn ban đầu có thể tách loại được một phần
300
40
250
30
200
Mg
Rb
150
20
g µ - b R g n ợ ư L
100
g µ - g M g n ợ ư L
10
50
0
0
2
4
6
8
10
12
0
14
Các phân đoạn rửa giải
Ca ra khỏi dung dịch giải hấp Sr.
Hình 3.44. Đường cong rửa giải Mg và Rb với HCl 1,5M
500
0.4
400
0.3
Ca
300
g µ - r
Sr
0.2
200
S g n ợ ư L
g µ - a C g n ợ ư L
0.1
100
0
0
0
12
2
4
6
8
10
Các phân đoạn rửa giải
(xem số liệu trong Bảng 4.14, Phụ lục 4)
Hình 3.45. Đường cong rửa giải Ca và Sr với HCl 3,0M
(xem số liệu trong Bảng 4.15, Phụ lục 4)
Từ các kết quả nghiên cứu ở trên, có thể nhận thấy lượng lớn Mg và Ca có mặt
trong các mẫu không ảnh hưởng đến việc tách riêng biệt Rb và Sr. Rửa giải qua hai
112
giai đoạn có thể giảm bớt nồng độ Mg trong phần dung dịch giải hấp Rb và nồng độ
Ca có trong phần dung dịch giải hấp Sr.
Như vậy, có thể tách riêng biệt hai nguyên tố Rb và Sr khi nạp dung dịch
mẫu trong môi trường HCl 1,0M lên cột sắc ký trao đổi cation Bio-Rad AG50W-
X8, 200-400 mesh, giải hấp Rb bằng HCl 1,5M sau đó giải hấp Sr bằng HCl
3,0M. Rb và Sr được tách hoàn toàn ra khỏi nhau và ra khỏi các nguyên tố nền
như Fe, Ti,...
3.3.2.3. Tách Rb, Sr trong môi trường axit HNO3
Nhựa trao đổi ion dùng trong các thí nghiệm nghiên cứu tách Rb, Sr là loại
nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh. 5 ml dung dịch hỗn hợp
Rb và Sr (5 µg mỗi nguyên tố) trong môi trường axit HNO3 0,7M được nạp lên cột
sắc ký. Môi trường cột đã được cân bằng với dung dịch axit HNO3 0,7M. Rửa cột
bằng 15 ml dung dịch axit HNO3 0,7M. Các dung dịch chảy qua cột với tốc độ 0,6
ml/ph. Thu dung dịch sau khi nạp qua cột và dung dịch rửa cột, gộp chung để định
2
1.5
Rb
Sr
1
0.5
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Các phân đoạn rửa giải
lượng các nguyên tố đi ra.
Hình 3.46. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 1,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.16, Phụ lục 4)
Rb và Sr không có trong dung dịch này, chứng tỏ cả hai nguyên tố cùng được
hấp thu tốt trên nhựa. Tiến hành giải hấp hai nguyên tố bằng 50 ml các dung dịch
113
axit HCl có nồng độ 1,5M; 2,0M; 2,5M; 3,0M với tốc độ 0,6 ml/phút. Các kết quả
được trình bày trong các hình từ Hình 3.46 đến Hình 3.49.
Tất cả các dung dịch trên đều có khả năng giải hấp Rb ra khỏi cột. Hiệu suất
thu hồi Rb đạt 95%. Sr được giữ lại trên cột, không được giải hấp khi dùng tới 62,5
ml dung dịch HCl 1,5M. Sr được giải hấp tốt với các dung dịch HCl 2,0M; HCl
2
1.5
Rb Sr
1
0.5
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
0
Các phân đoạn rửa giải
2,5M; HCl 3,0M. Hiệu suất thu hồi Sr đạt 92%.
Hình 3.47. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,0M
2
1.5
Rb
Sr
1
0.5
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Các phân đoạn rửa giải
(xem số liệu trong Bảng 4.17, Phụ lục 4)
Hình 3.48. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 2,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.18, Phụ lục 4)
114
Đường cong rửa giải hai nguyên tố có xu hướng càng gần nhau hơn khi nồng
độ dung dịch HCl càng tăng. Cụ thể là chúng cách xa nhau khi giải hấp hai nguyên
tố với dung dịch axit HCl 2,0M và tiến về sát nhau khi giải hấp chúng bằng dung
2
1.5
Rb
Sr
1
0.5
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Các phân đoạn rửa giải
dịch axit HCl 3,0M.
Hình 3.49. Đường cong rửa giải Rb và Sr với HCl 3,0M
(xem số liệu trong Bảng 4.19, Phụ lục 4)
Có thể thấy rằng sau khi cả hai nguyên tố được hấp thu trên cột trong môi trường
HNO3 0,7M, nếu tiến hành giải hấp Rb bằng dung dịch axit HCl 1,5M rồi sau đó giải
hấp Sr bằng dung dịch axit HCl 3,0M có thể tách hoàn toàn Rb và Sr ra khỏi nhau.
Để nghiên cứu khả năng tách hai nguyên tố ra khỏi các nguyên tố khác, tiến
hành nạp 5 ml dung dịch hỗn hợp các nguyên tố (5 µg mỗi nguyên tố) trong môi
trường axit HNO3 0,7M lên cột sắc ký. Rửa cột bằng 15 ml dung dịch axit HNO3
0,7M . Dung dịch nạp cột và dung dịch rửa cột cùng chảy qua cột với tốc độ 0,6
ml/phút. Dung dịch sau khi nạp qua cột và dung dịch rửa cột được góp chung để
định lượng các nguyên tố đi ra. Kết quả cho thấy hầu hết các nguyên tố được hấp
thu tốt trên nhựa, không đi ra khỏi cột trừ hai nguyên tố As và Se (Bảng 3.25).
Giải hấp các nguyên tố đã hấp thu trên cột bằng 50 ml dung dịch axit HCl
2,0M với tốc độ 0,6 ml/phút. Rb và Sr cùng nhiều nguyên tố khác được giải hấp ra
khỏi cột. Đường cong rửa giải các nguyên tố được trình bày trong Hình 3.50.
115
Bảng 3.25. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi nạp cột
và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HNO3 0,7M
Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng Ng.tố Lượng
Be 0,2µg Mn 0,3µg Ga 0,2µg Cs 0,2µg
Mg 0,2µg Fe 0,2µg As 4,8µg Ba 0,3µg
Ca 0,3µg Co 0,2µg Se 4,7µg Nd 0,1µg
Ti 0,4µg Ni 0,2µg Rb 0,1µg Sm 0,1µg
V 0,4µg Cu 0,1µg Sr 0,1µg Pb 0,3µg
Be
2.5
Mg
Ca
2
V
Cr
Co
1.5
Ni
Cu
1
Zn
Ga
0.5
Rb
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
Sr
Cd
0
Cs
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Pb
Các phân đoạn rửa giải
U
Cr 0,2µg Zn 0,3µg Cd 0,2µg U 0,2µg
Hình 3.50. Đường cong rửa giải các nguyên tố với HCl 2,0M
(xem số liệu trong Bảng 4.20, Phụ lục 4)
Ba, Mn, Ti, Fe, Sm, Nd vẫn được giữ lại trên cột tách. Phần lớn các nguyên tố
Be, Mg, V, Cu, Zn và một lượng nhất định các nguyên tố Co, Ni, Cs có mặt trong
dung dịch giải hấp Rb.
Mg là nguyên tố thường có nồng độ lớn hơn Rb nhiều lần trong dung dịch
mẫu, còn lại các nguyên tố khác đều có nồng độ tương đương hoặc thấp hơn Rb
116
trong dung dịch. Các nguyên tố này không ảnh hưởng đến việc xác định Rb bằng
phương pháp ICP-MS dù chúng được giải hấp ra đồng thời với Rb. Sr bắt đầu giải
hấp ra khi Ca đã được giải hấp ra một phần lớn và hầu như tất cả các nguyên tố
khác đã được giải hấp hết ra khỏi cột. Đường cong rửa giải của Sr và Ca có một
phần chồng lên nhau, ngoài ra chúng hầu như tách biệt với đường cong rửa giải của
các nguyên tố khác. Như vậy, có thể tách một phần Ca và hầu hết các nguyên tố
khác ra khỏi dung dịch giải hấp Sr.
Để kiểm chứng ảnh hưởng của Ca, Mg có nồng độ lớn trong dung dịch mẫu
đến việc tách Rb và Sr, dung dịch hỗn hợp chứa 1µg Sr, 7µg Rb, 700µg Ca, 700µg
Mg trong môi trường axit HNO3 0,7M được nạp lên cột sắc ký. Tiến hành giải hấp
các nguyên tố bằng dung dịch axit HCl 1,5M. Rb và Mg được giải hấp ra hoàn toàn
sau 12 phân đoạn (tương đương với dùng 30 ml dung dịch axit) trong khi Ca và Sr
được giữ lại trên cột. Đường cong rửa giải Rb và Mg có pic gần trùng nhau tức là
3.5
250
3
200
2.5
Mg
150
2
Rb
1.5
100
g µ - b R g n ợ ư L
g µ - g M g n ợ ư L
1
50
0.5
0
0
0
2
4
6
8
10
12
14
Các phân đoạn rửa giải
chúng hầu như được giải hấp đồng thời (Hình 3.51).
Hình 3.51. Đường cong rửa giải Mg và Rb với HCl 1,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.21, Phụ lục 4)
Tiếp tục giải hấp các nguyên tố bằng dung dịch axit HCl 3,0M. Sr và Ca được
giải hấp hoàn toàn sau 8 phân đoạn (tương đương với dùng 20 ml dung dịch axit).
Ca được giải hấp ra trước, Sr tiếp tục được giải hấp ra sau. Đường cong rửa giải hai
117
nguyên tố có một phần chồng lên nhau (Hình 3.52). Với việc loại bỏ một số phân
400
0.5
Ca
0.4
300
Sr
g µ - r
0.3
200
0.2
S g n ợ ư L
g µ - a C g n ợ ư L
100
0.1
0
0
0
10
2
4
6
8
Các phân đoạn rửa giải
đoạn ban đầu có thể tách loại được một phần Ca khỏi dung dịch giải hấp Sr.
Hình 3.52. Đường cong rửa giải Ca và Sr với HCl 3,0M
(xem số liệu trong Bảng 4.22, Phụ lục 4)
Như vậy, có thể tách riêng biệt hai nguyên tố Rb và Sr khi nạp dung dịch
mẫu trong môi trường HNO3 0,7M lên cột tách trao đổi cation Bio-Rad AG50W-
X8, 200-400 mesh, giải hấp Rb bằng HCl 1,5M sau đó giải hấp Sr bằng HCl
3,0M. Rb và Sr được tách hoàn toàn ra khỏi nhau và ra khỏi các nguyên tố nền
như Fe, Ti,...
Các điều kiện tách Rb và Sr trên nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8,
200-400 mesh không khác biệt nhau nhiều khi môi trường dung dịch mẫu nạp cột
được thiết lập với HCl 1,0M hay HNO3 0,7M.
Sơ đồ tách hai nguyên tố Rb, Sr ra khỏi nhau và ra khỏi các nguyên tố nền trong
môi trường các axit HCl hay HNO3 trên nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8,
200-400 mesh được trình bày trong Hình 3.53.
Việc tách Rb, Sr với nhựa trao đổi cation, dùng axit HCl làm dung dịch rửa
giải đã được một số tác giả công bố [8]. Tuy nhiên, các tác giả thường dùng dung
dịch axit HCl có cùng nồng độ để giải hấp liên tục Rb và Sr. Tác giả luận án là
người đầu tiên nghiên cứu và đề xuất dùng các dung dịch axit HCl có nồng độ
khác nhau để giải hấp riêng từng nguyên tố. Việc giải hấp riêng từng nguyên tố
118
như vậy đảm bảo cho việc tách chúng ra khỏi nhau vừa triệt để vừa dễ thực hiện,
Rb, Sr trong nền Ca, Mg và các nguyên tố khác
Nhựa trao đổi cation trong môi trường HCl 1,0M hay HNO3 0,7M
Rb, Sr, Ca, Mg,… được hấp thu trên nhựa
Nhiều nguyên tố không hấp thu
HCl 1,5M
Sr, Ca ở lại trên cột
Rb, Mg được giải hấp (xác định các đồng vị Rb)
HCl 3,0M
Sr, Ca được giải hấp (xác định các đồng vị Sr)
Làm sạch cột nhựa bằng HCl 9,0M và nước
dễ áp dụng trong thực tế phân tích.
Hình 3.53. Sơ đồ tách sắc ký Rb, Sr bằng nhựa trao đổi
cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh
3.3.3. Tách nguyên tố Hf
3.3.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của nền mẫu đến việc xác định các đồng vị Hf
bằng phương pháp ICP-MS
Như đã giới thiệu ở trên, Hf thường hay đi kèm với Zr trong các khoáng vật và
trong tự nhiên Hf tồn tại nhiều nhất trong zircon. Zircon là khoáng vật chủ yếu được
dùng để phân tích thành phần đồng vị của Hf phục vụ các nghiên cứu địa chất. Kết
quả phân tích bán định lượng một mẫu khoáng vật ziron (Bảng 3.10) cho thấy hàm
119
lượng Zr gấp khoảng 130 lần hàm lượng Hf, còn hàm lượng các nguyên tố khác
thấp hơn nhiều so với hàm lượng của hai nguyên tố này.
Tương quan hàm lượng của nguyên tố nền mẫu Zr với các đồng vị của Hf
được thể hiện trong Bảng 3.26.
Bảng 3.26. Tương quan hàm lượng Zr Để khảo sát ảnh hưởng của
với các đồng vị của Hf trong mẫu zircon nguyên tố nền Zr đến việc xác định các
(số lần lớn hơn) đồng vị của Hf, so sánh kết quả xác
định các đồng vị Hf trong dung dịch Hf
có nồng độ 20 ppb trước và sau khi Đồng vị Zr Hàm lượng tự nhiên (%)
176Hf
thêm vào Zr có nồng độ gấp nhiều lần. 5,26 2.500
177Hf
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc 18,60 700 xác định Hf bằng phương pháp ICP-MS
178Hf
27,28 480 bắt đầu bị ảnh hưởng khi nồng độ Zr
trong dung dịch lớn hơn nồng độ Hf khoảng 1000 lần. Từ Bảng 3.27 thấy rằng, với
mẫu đơn khoáng zircon, nguyên tố nền Zr có thể ảnh hưởng đến việc xác định các
đồng vị của Hf. Như vậy, cần phải tách Hf khỏi nền Zr hoặc tách Zr khỏi Hf trước khi
xác định thành phần đồng vị của Hf.
Ngoài ra, các nguyên tố Lu và Yb đều có các đồng vị 176Lu, 176Yb có số khối trùng với số khối của đồng vị 176Hf, nên để xác định chính xác tỷ số đồng vị 176Hf/ 177Hf, cần phải tách hoàn toàn hai nguyên tố Lu và Yb ra khỏi Hf trước khi xác định
thành phần đồng vị của Hf bằng phương pháp ICP-MS.
3.3.3.2. Tách Hf với nhựa trao đổi anion
Nhựa trao đổi ion dùng trong các thí nghiệm nghiên cứu tách Hf là loại nhựa trao
đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh. Dung dịch hỗn hợp Hf và Zr được chuẩn
bị trong môi trường axit H2SO4 ngay trước khi nạp dung dịch lên cột sắc ký. 10 ml
dung dịch hỗn hợp Zr và Hf (chứa 5 µg Hf và 500 µg Zr) trong môi trường axit H2SO4
1,3M; 0,65M; 0,5M được nạp lên cột sau đó giải hấp các nguyên tố bằng chính dung
dịch axit đã được dùng làm môi trường cho dung dịch nạp cột. Tốc độ dung dịch chảy
qua cột được duy trì ở tốc độ 0,6 ml/ph. Thu các phân đoạn rửa giải các nguyên tố ngay
120
từ đầu, mỗi phân đoạn 10 ml. Hf và Zr cùng được giải hấp với cả ba loại dung dịch
H2SO4 ở ba nồng độ khác nhau nói trên. Đường cong rửa giải các nguyên tố được trình
300
3.5
3
250
2.5
200
g µ - f
Hf Zr
2
150
1.5
100
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
1
50
0.5
0
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 1,3M
bày trong các hình từ Hình 3.54 đến Hình 3.56.
Hình 3.54. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 1,3M
3
160
Hf
2.5
Zr
120
2
g µ - f
1.5
80
1
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
40
0.5
0
0
14
0
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 0,65M
(xem số liệu trong Bảng 4.23, Phụ lục 4)
Hình 3.55. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,65M
(xem số liệu trong Bảng 4.24, Phụ lục 4)
Trong trường hợp dùng H2SO4 1,3M làm môi trường dung dịch nạp cột cũng
như dung dịch giải hấp các nguyên tố, Hf và Zr đi ra rất sớm, ngay từ phân đoạn rửa
giải đầu tiên. Hf được giải hấp ra sớm hơn Zr. Việc giải hấp Hf kết thúc ở phân
121
đoạn thứ 4 và giải hấp Zr kết thúc ở phân đoạn thứ 5. Đường cong rửa giải hai
nguyên tố chồng lấn lên nhau. Như vậy, trong trường hợp này hai nguyên tố Hf và
Zr hầu như hoàn toàn không được tách ra khỏi nhau.
Với dung dịch axit H2SO4 0,65M, hai nguyên tố được giải hấp ra muộn hơn so
với trường hợp trên, đặc biệt là Zr. Đường cong rửa giải hai nguyên tố chỉ còn chồng
lấn lên nhau một phần. Như vậy, có một lượng Zr nhất định trong dung dịch giải hấp
2.5
250
Hf
2
200
Zr
g µ - f
1.5
150
1
100
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
0.5
50
0
0
0
14
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 0,5M
Hf. Trong trường hợp này hai nguyên tố không được tách khỏi nhau hoàn toàn.
Hình 3.56. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.25, Phụ lục 4)
Khi nồng độ dung dịch H2SO4 giảm xuống đến 0,5M, hai nguyên tố được giải
hấp ra chậm hơn nữa và đường cong rửa giải hai nguyên tố đã tách biệt khỏi nhau.
Zr bắt đầu được giải hấp ra khi việc giải hấp Hf đã hoàn thành. Điều này giúp khẳng
định quy luật: đường cong rửa giải hai nguyên tố cách xa nhau dần khi nồng độ axit
H2SO4 giảm dần. Trong trường hợp này, việc tách hai nguyên tố Hf và Zr coi như đã
đạt được. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng sẽ có khó khăn trong việc nhận biết điểm
kết thúc giải hấp Hf và bắt đầu giải hấp Zr.
Từ các kết quả nghiên cứu trên thấy rằng Hf và Zr đều có khả năng kết hợp với 2- hình thành các phức âm nên chúng được hấp thu trên nhựa trao đổi anion. ion SO4
Hằng số bền của các phức này khác nhau, nhưng đều có xu hướng tăng dần khi giảm
nồng độ axit H2SO4. Tuy nhiên, hằng số bền của ion phức tạo thành giữa Zr và ion
122
2- tăng nhanh hơn dẫn đến Zr được giải hấp ra chậm hơn, đường cong rửa giải Hf
SO4
và Zr càng cách xa nhau khi nồng độ axit H2SO4 càng giảm.
Tiến hành thí nghiệm tương tự như trên khi nạp lên cột dung dịch hỗn hợp Zr
và Hf trong môi trường axit H2SO4 0,3M. Trong trường hợp này chỉ có riêng Hf
1.4
200
1.2
160
Hf
1
Zr
g µ - f
120
0.8
0.6
80
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
0.4
40
0.2
0
0
16
0
2
4
6
8
10
12
14
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 0,3M
được giải hấp ra khỏi cột. Đường cong rửa giải Hf được trình bày trong Hình 3.57.
Hình 3.57. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,3M
(xem số liệu trong Bảng 4.26, Phụ lục 4)
Hf được giải hấp bắt đầu từ phân đoạn thứ 5. Khi tiến hành giải hấp tới phân
đoạn thứ 20, tức là dùng đến 200 ml dung dịch H2SO4 0,3M vẫn chỉ có riêng Hf
được giải hấp trong khi Zr vẫn được giữ lại trên cột. Đỉnh của đường cong rửa giải
Hf không nhọn và đường cong rửa giải cũng không đối xứng. Thể tích dung dịch để
giải hấp hết Hf cần nhiều hơn so với các trường hợp trên. Hiệu suất thu hồi Hf đạt
95%. Như vậy, với dung dịch giải hấp là H2SO4 0,3M, có thể tách hoàn toàn Hf ra
hằng số bền của ion phức giữa Zr và ion SO4
khỏi nền Zr. Từ kết quả thí nghiệm trên thấy rằng, ở nồng độ axit H2SO4 0,3M, 2- đủ lớn đến mức Zr được hấp thu trên 2- cũng tăng lên nhưng chưa đủ nhựa. Hằng số bền của ion phức giữa Hf và ion SO4
mức làm cho Hf được hấp thu lâu trên nhựa. Sự khác nhau về hằng số bền của hai
ion phức này dẫn đến khả năng tách hai nguyên tố Zr và Hf ra khỏi nhau.
Tóm lại, với việc dùng nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh,
chuẩn bị dung dịch mẫu trong môi trường H2SO4 0,3M để nạp lên cột sắc ký và
123
dùng chính dung dịch H2SO4 0,3M làm dung dịch giải hấp sẽ tách được hoàn toàn
lượng nhỏ Hf ra khỏi nền Zr. Sau đó Zr được giải hấp bằng dung dịch H2SO4 1,3M.
Để nghiên cứu khả năng tách Hf ra khỏi các nguyên tố khác, dung dịch hỗn
hợp nhiều nguyên tố (ngoài Hf, Zr có 5µg các nguyên tố Ag, Al, B, Ca, Ba, Bi, Cd,
Co, Cr, Cu, Fe, Ga, K, Li, Mg, Mn, Na, Ni, Pb, Sr, Tl, Zn) trong môi trường axit
H2SO4 0,3M được nạp lên cột sắc ký và tiếp tục dùng dung dịch axit H2SO4 0,3M
để giải hấp các nguyên tố. Kết quả thí nghiệm cho thấy một số nguyên tố kim loại
kiềm có mặt trong dung dịch giải hấp Hf. Nhiều nguyên tố được hấp thu trên cột và
cũng không được giải hấp ra khỏi cột khi tiến hành giải hấp Zr bằng dung dịch axit
H2SO4 1,3M. Chúng được giải hấp bằng các dung dịch HCl và HNO3.
Để nghiên cứu khả năng tách Hf ra khỏi các nguyên tố Lu và Yb, dung dịch
hỗn hợp bốn nguyên tố (ngoài Zr, Hf có 5µg mỗi nguyên tố Lu và Yb) được chuẩn
bị trong môi trường axit H2SO4 0,3M rồi được nạp lên cột tách và tiếp tục dùng
dung dịch axit H2SO4 0,3M để giải hấp các nguyên tố. Kết quả thí nghiệm cho thấy
các nguyên tố Lu và Yb cùng có mặt trong dung dịch giải hấp của Hf. Như vậy,
không thể tách Hf khỏi Lu và Yb bằng nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG50W-X8,
200-400 mesh trong môi trường axit H2SO4 0,3M.
-. Dung dịch hỗn hợp các nguyên tố (5 μg các nguyên tố Hf, Lu,
Việc tách Hf khỏi Lu và Yb được thử nghiệm trong môi trường axit HCl do khả năng Lu, Yb (cũng như các nguyên tố đất hiếm) kết hợp với ion Cl- hình thành
các phức âm MeCl4
Yb và 500 μg Zr) trong môi trường axit HCl 3,0M được nạp lên cột tách. Môi
trường cột đã được cân bằng với dung dịch axit HCl 3,0M. Rửa cột bằng 15 ml
dung dịch axit HCl 3,0M. Thu dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột, gộp
chung để định lượng các nguyên tố. Kết quả được trình bày trong Bảng 3.27.
Bảng 3.27. Lượng các nguyên tố trong hỗn hợp dung dịch sau khi nạp cột
và dung dịch rửa cột trong môi trường axit HCl 3,0M
Nguyên tố Zr Hf Lu Yb
Lượng 495 µg 4,9 µg KPH KPH
124
Từ kết quả trên thấy rằng, Zr và Hf không hấp thu trên nhựa, đi hết ra khỏi cột
trong môi trường axit HCl 3,0M trong khi Lu và Yb được hấp thu trong cột tách,
không đi ra. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu tách U, Th, Pb trên
nhựa trao đổi anion trong mục 3.3.1. Khi trong dung dịch hỗn hợp chuẩn bị ban đầu
có nhiều nguyên tố khác, một số nguyên tố sẽ cùng được hấp thu trên cột cùng với
Lu, Yb.
Tiến hành giải hấp nhựa bằng các dung dịch HCl 6,0M (giải hấp Pb), nước
(giải hấp U, Ga, Cd, Zn). Lu và Yb được giải hấp khỏi cột khi dùng dung dịch axit
3.5
3
2.5
Lu Yb
2
1.5
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Các phân đoạn rửa giải với HCl 9,0M
HCl 9,0M như được trình bày trong Hình 3.58.
Hình 3.58. Đường cong rửa giải Lu và Yb với HCl 9,0M
Như vậy, với việc dùng nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400
mesh, chuẩn bị dung dịch mẫu trong môi trường HCl 3,0M để nạp lên cột sắc ký
sẽ tách được Lu, Yb ra khỏi Zr và Hf. Làm sạch cột nhựa, cân bằng lại môi
trường cột với dung dịch axit H2SO4 0,3M. Chuyển đổi dung dịch chứa Zr và Hf
(đi ra khỏi cột trong môi trường axit HCl 3,0M ở trên) về môi trường H2SO4 0,3M
để nạp lên cột và dùng chính dung dịch H2SO4 0,3M làm dung dịch rửa giải sẽ
tiếp tục tách được hoàn toàn nguyên tố Hf ra khỏi Zr và nhiều nguyên tố khác.
Quy trình tách qua hai bước này giải quyết được vấn đề ảnh hưởng của sự trùng khối của các đồng vị 176Lu và 176Yb cũng như ảnh hưởng của nền Zr đến việc
125
xác định thành phần đồng vị của Hf bằng ICP-MS. Sơ đồ tách Hf trên nhựa trao đổi
Hf trong nền Zr và các nguyên tố khác
Nhựa trao đổi anion trong môi trường HCl 3,0M
Hf, Zr và nhiều ng. tố đi ra khỏi cột
U, Pb, Lu, Yb,… được hấp thu trên cột
Giải hấp cột bằng HCl 6,0M (Pb)
H2SO4 0,3M
Hf, Zr,… trong môi trường H2SO4 0,3M
H2O (U) HCl 9,0M (Lu, Yb)
U, Pb, Lu, Yb,… được rửa ra khỏi cột
Nhựa trao đổi anion trong môi trường H2SO4 0,3M
Zr ở lại trên cột
Hf đi ra (xác định các đồng vị Hf)
H2SO4 1,3M
Zr được giải hấp
Làm sạch cột nhựa bằng HCl, HNO3 và nước
anion Bio-Rad AG1-X8 được trình bày trong Hình 3.59.
Hình 3.59. Sơ đồ tách sắc ký Hf bằng nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh trong môi trường HCl và H2SO4
3.3.3.3. Tách Hf với nhựa trao đổi cation
Nhựa trao đổi ion dùng trong các thí nghiệm nghiên cứu tách Hf là loại nhựa trao
đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh. Dung dịch hỗn hợp Hf và Zr được
chuẩn bị trong môi trường axit H2SO4 ngay trước khi nạp dung dịch lên cột. 10 ml
126
dung dịch hỗn hợp Zr và Hf (chứa 5 µg Hf và 500 µg Zr) trong môi trường axit H2SO4
1,0M; 0,7M; 0,5M được nạp lên cột sau đó giải hấp các nguyên tố bằng chính dung
dịch axit đã được dùng làm môi trường cho dung dịch nạp cột. Thu các phân đoạn rửa
giải các nguyên tố ngay từ đầu. Hf và Zr cùng được giải hấp với cả ba loại dung dịch
H2SO4 ở ba nồng độ khác nhau nói trên. Đường cong rửa giải các nguyên tố được trình
3.5
500
3
400
2.5
g µ - f
Hf Zr
300
2
1.5
200
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
1
100
0.5
0
0
0
2
4
6
8
10
12
14
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 1,0M
bày trong các hình từ Hình 3.60 đến Hình 3.62.
Hình 3.60. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 1,0M
300
2.5
2
Hf
200
Zr
g µ - f
1.5
1
100
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
0.5
0
0
0
2
4
6
8
10
12
14
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 0,7M
(xem số liệu trong Bảng 4.27, Phụ lục 4)
Hình 3.61. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,7M
(xem số liệu trong Bảng 4.28, Phụ lục 4)
127
Trong trường hợp dùng H2SO4 1,0M làm môi trường dung dịch nạp cột cũng
như dung dịch giải hấp các nguyên tố, Hf và Zr đi ra khỏi cột rất sớm, ngay từ phân
đoạn rửa giải đầu tiên. Zr được giải hấp ra sớm hơn Hf. Việc giải hấp Hf và Zr gần
như cùng kết thúc ở phân đoạn thứ 3. Đường cong rửa giải hai nguyên tố chồng lấn
lên nhau. Như vậy, trong trường hợp này hai nguyên tố Hf và Zr hầu như hoàn toàn
không được tách ra khỏi nhau.
Với dung dịch axit H2SO4 0,7M, hai nguyên tố được giải hấp ra muộn hơn
so với trường hợp trên, đặc biệt là Hf. Đường cong rửa giải hai nguyên tố chỉ
còn chồng lấn lên nhau một phần nhỏ. Có một lượng Zr nhất định trong những
phân đoạn rửa giải Hf đầu tiên. Trong trường hợp này hai nguyên tố không
400
2.5
Hf
2
300
Zr
g µ - f
1.5
200
1
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
100
0.5
0
0
0
14
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 0,5M
được tách khỏi nhau hoàn toàn.
Hình 3.62. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,5M
(xem số liệu trong Bảng 4.29, Phụ lục 4)
Khi nồng độ dung dịch H2SO4 giảm xuống đến 0,5M, hai nguyên tố được giải
hấp ra chậm hơn nữa và đường cong rửa giải hai nguyên tố đã tách biệt khỏi nhau.
Hf bắt đầu được giải hấp khi việc giải hấp Zr đã kết thúc. Điều này giúp khẳng định
quy luật: đường cong rửa giải hai nguyên tố cách xa nhau dần khi nồng độ axit
2-
H2SO4 giảm dần.
Các kết quả thí nghiệm trên chứng tỏ Zr và Hf có thể kết hợp với ion SO4
hình thành các phức có khả năng hấp thu trên nhựa trao đổi cation. Hằng số bền của
128
các ion phức này tăng lên khi nồng độ axit H2SO4 giảm, hằng số bền ion phức của
Hf có tốc độ tăng nhanh hơn. Đây là lý do khi nồng độ axit H2SO4 giảm, đường
cong rửa giải của hai nguyên tố có xu hướng cách xa nhau.
Với dung dịch H2SO4 nồng độ 0,5M, việc tách hai nguyên tố Hf và Zr coi như
đã đạt được. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng sẽ có khó khăn trong việc nhận biết
điểm kết thúc giải hấp Zr và bắt đầu giải hấp Hf.
Tiến hành thí nghiệm tương tự như trên khi nạp dung dịch hỗn hợp Zr và Hf
trong môi trường axit H2SO4 0,4M lên cột sắc ký. Trong trường hợp này chỉ có
riêng Zr được giải hấp, còn Hf vẫn được giữ lại trên cột. Đường cong rửa giải Zr
400
2.5
2
300
Hf Zr
g µ - f
1.5
200
1
H g n ợ ư L
g µ - r Z g n ợ ư L
100
0.5
0
0
0
14
2
4
6
8
10
12
Các phân đoạn rửa giải với H2SO4 0,4M
được trình bày trong Hình 3.63.
Hình 3.63. Đường cong rửa giải Hf và Zr với H2SO4 0,4M
(xem số liệu trong Bảng 4.30, Phụ lục 4)
Zr được giải hấp bắt đầu từ phân đoạn thứ nhất và kết thúc ở phân đoạn thứ năm.
Khi tiến hành giải hấp tới phân đoạn thứ 20, tức là dùng đến 200 ml dung dịch H2SO4
0,4M vẫn chỉ có riêng Zr được giải hấp trong khi Hf vẫn được giữ lại trên cột.
Sau đó, tiến hành giải hấp Hf bằng dung dịch H2SO4 1,0M. Hf được giải hấp
hoàn toàn ra khỏi cột với 30 ml dung dịch H2SO4 1,0M. Hiệu suất thu hồi Hf đạt
95%. Trong trường hợp này, Hf đã được tách hoàn toàn ra khỏi nền Zr.
129
SO4
Kết quả thí nhiệm cho thấy, ở nồng độ axit H2SO4 0,4M, phức của Hf với ion 2- có hằng số bền đủ lớn đến mức Hf được hấp thu trên nhựa. Phức của Zr với 2- có hằng số bền tăng lên nhưng chưa đủ mức làm cho Zr hấp thu lâu trên ion SO4
nhựa. Sự khác nhau về hằng số bền của hai phức này dẫn đến khả năng tách hai
nguyên tố Zr và Hf ra khỏi nhau.
Như vậy, với việc dùng nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400
mesh, chuẩn bị dung dịch mẫu trong môi trường H2SO4 0,4M để nạp lên cột sắc ký
và dùng chính dung dịch H2SO4 0,4M làm dung dịch giải hấp sẽ giải hấp được Zr
trước. Sau đó dùng dung dịch H2SO4 1,0M để giải hấp Hf sẽ tách được hoàn toàn
lượng nhỏ Hf ra khỏi nền Zr.
Để nghiên cứu khả năng tách Hf ra khỏi các nguyên tố khác, dung dịch hỗn
hợp nhiều nguyên tố (ngoài Hf, Zr có 5 μg mỗi nguyên tố Ag, Al, B, Ca, Ba, Bi,
Cd, Co, Cr, Cu, Fe, Ga, K, Li, Mg, Mn, Na, Ni, Pb, Sr, Tl, Zn) trong môi trường
axit H2SO4 0,4M được nạp lên cột tách và tiếp tục dùng dung dịch axit H2SO4
0,4M để giải hấp các nguyên tố. Kết quả thí nghiệm cho thấy một số nguyên tố
kim loại kiềm có mặt trong dung dịch giải hấp Zr. Một số nguyên tố được hấp
thu trên cột và cũng không được giải hấp ra khỏi cột khi tiến hành giải hấp Hf
bằng dung dịch axit H2SO4 1,0M. Chúng được giải hấp bằng các dung dịch giải
hấp khác như HCl hay HNO3 có nồng độ thích hợp.
Để nghiên cứu khả năng tách Hf ra khỏi các nguyên tố Lu và Yb, dung dịch
hỗn hợp bốn nguyên tố (5 μg các nguyên tố Hf, Lu, Yb và 500 μg Zr) được chuẩn
bị trong môi trường axit H2SO4 0,4M rồi được nạp lên cột tách và tiếp tục dùng
dung dịch axit H2SO4 0,4M để giải hấp các nguyên tố.
Kết quả định lượng cho thấy các nguyên tố Lu và Yb không có mặt trong các
dung dịch giải hấp của Zr cũng như dung dịch giải hấp của Hf. Sau khi Hf được giải
hấp ra khỏi cột, tiến hành giải hấp Lu và Yb bằng dung dịch axit HCl 6,0M. Đường
cong rửa giải của Lu và Yb được trình bày trong Hình 3.64.
130
3.5
3
2.5
Yb
2
Lu
1.5
1
g µ - ố t n ê y u g n c á c g n ợ ư L
0.5
0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Các phân đoạn rửa giải
2-
Hình 3.64. Đường cong rửa giải Lu và Yb với HCl 6,0M
Kết quả thí nghiệm trên cho thấy, Lu và Yb có khả năng kết hợp với ion SO4
2-
hình thành các phức được hấp thu trên nhựa trao đổi cation. Hằng số bền của các
phức này lớn hơn hằng số bền của các phức tạo thành giữa Zr và Hf với ion SO4
nhiều nên trong điều kiện giải hấp Zr và Hf, hai nguyên tố Lu và Yb vẫn được giữ
lại trên cột nhựa.
Như vậy, với việc dùng nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400
mesh, chuẩn bị dung dịch mẫu trong môi trường H2SO4 0,4M để nạp lên cột sắc
ký và dùng chính dung dịch H2SO4 0,4M làm dung dịch giải hấp sẽ tách được
hoàn toàn nguyên tố Hf ra khỏi các nguyên tố Zr, Lu, Yb và nhiều nguyên tố khác. Vấn đề ảnh hưởng của sự trùng khối của các đồng vị 176Lu và 176Yb đến việc xác định đồng vị 176Hf đã được giải quyết. Sơ đồ tách Hf trên nhựa trao đổi cation
Bio-Rad AG50W-X8 được trình bày trong Hình 3.65.
Qua kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi thấy hành vi của Hf và Zr trong quá
trình tách chúng trên hai loại nhựa trao đổi anion và cation là hoàn toàn trái ngược
nhau. Điều này cũng dễ hiểu và hoàn toàn phù hợp với quy luật hình thành phức của 2- và sự kết hợp giữa ion phức của chúng với gốc trao hai nguyên tố với anion SO4
đổi gắn trên nhựa trao đổi ion.
Quy trình tách Hf trên nhựa cationit thuận tiện và nhanh hơn so với quy trình
tách Hf trên nhựa anionit vì khi tách Hf trên nhựa cationit chỉ cần chuẩn bị dung
131
dịch mẫu trong một môi trường axit H2SO4 0,4M, sau đó thay đổi nồng độ dung
dịch axit để giải hấp (H2SO4 0,4M, H2SO4 1,0M) sẽ tách được Hf ra khỏi Zr và cả
hai nguyên tố Lu, Yb. Khi tách Hf trên nhựa anionit phải thay đổi môi trường của
dung dịch mẫu cũng như cân bằng môi trường cột hai lần (chuẩn bị dung dịch mẫu
trong môi trường HCl 3,0M để tách Zr và Hf khỏi Lu, Yb; sau đó chuyển đổi dung
Hf trong nền Zr và các nguyên tố khác
Nhựa trao đổi cation trong môi trường H2SO4 0,4M
Hf, Lu, Yb,... được hấp thu trên cột
Zr và một số ng. tố đi ra khỏi cột
H2SO4 1,0M
Hf được rửa giải (xác định các đồng vị Hf)
Lu, Yb ở lại trên cột
HCl 6,0M
Lu, Yb được giải hấp
Làm sạch cột nhựa bằng HCl, HNO3 và nước
dịch chứa Zr, Hf về môi trường H2SO4 0,3M để tiếp tục tách Hf khỏi Zr).
Hình 3.65. Sơ đồ tách sắc ký Hf bằng nhựa trao đổi cation
Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh trong môi trường H2SO4
Quy trình tách Hf bằng nhựa trao đổi anion hay nhựa trao đổi cation đều dễ
thực hiện, dễ áp dụng trong thực tế phân tích.
132
Việc sử dụng dung dịch H2SO4 có nồng độ khác nhau để giải hấp riêng biệt Zr
và Hf chưa từng được công bố trong công trình nào. Tác giả luận án cũng là người
đầu tiên nghiên cứu tách Hf khỏi Lu, Yb trong môi trường axit H2SO4.
3.4. Thiết lập phương pháp phân tích và ứng dụng phân tích mẫu thực tế
3.4.1. Phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon
3.4.1.1. Tóm tắt quy trình phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb trong đơn
khoáng zircon
Từ các kết quả nghiên cứu đã trình bày ở các phần trên, có thể tóm tắt quy
trình phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon bằng phương
pháp ICP-MS như sau:
Lấy lượng cân chính xác các đơn khoáng zircon (khoảng 10 mg) bằng cân
phân tích có độ chính xác 0,01 mg cho vào bom teflon. Thêm vào bom teflon 10 ml
hỗn hợp axit đặc HF và HNO3 theo tỷ lệ 4:1. Đặt bom teflon vào tủ sấy, giữ ở nhiệt độ 1800C. Sau 4 ngày lấy bom phân huỷ mẫu ra, để nguội. Chuyển dung dịch mẫu
từ bom teflon sang chén teflon khác. Cô dung dịch mẫu trong chén teflon trên bếp
điện đến khô để đuổi hết axit HF, thêm vào 5 ml axit HCl đặc rồi lại cô dung dịch
đến khô. Cuối cùng hoà tan mẫu bằng dung dịch axit HCl 3,0M và định mức trong
bình 25 ml.
Chuẩn bị cột sắc ký trao đổi ion với 5 g nhựa trao đổi anion Bio-Rad AG1-X8,
200-400 mesh. Làm sạch cột và cân bằng môi trường cột bằng 15 ml dung dịch axit
HCl 3,0M.
Nạp 25 ml dung dịch mẫu trên lên cột sắc ký trao đổi ion. Rửa cột bằng 20 ml
dung dịch axit HCl 3,0M. U và Pb được hấp thu trên cột trong khi Th và nhiều
nguyên tố khác đi ra. Dung dịch sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột được góp
chung để tách và xác định Th. Tiến hành giải hấp Pb bằng 25 ml dung dịch HCl
6,0M (thu được dung dịch để xác định thành phần đồng vị Pb), sau đó giải hấp U
bằng 25 ml nước (thu được dung dịch để xác định thành phần đồng vị U). Làm sạch
cột bằng 20 ml dung dịch axit HCl 9,0M và 20 ml nước siêu sạch. Cân bằng lại môi
trường cột bằng 15 ml dung dịch axit HNO3 7,0M để chuẩn bị tách Th.
133
Dung dịch chứa Th nói trên được chuyển về môi trường HNO3 7,0M rồi được
nạp lên cột. Rửa cột bằng 20 ml dung dịch HNO3 7,0M. Có thể bỏ đi các dung dịch
sau khi nạp cột và dung dịch rửa cột. Tiến hành giải hấp Th bằng 25 ml HCl 6,0M
(thu được dung dịch để xác định đồng vị Th).
Các dung dịch giải hấp Pb, U, Th được chuyển về môi trường HNO3 0,3M để
xác định thành phần đồng vị của chúng bằng ICP-MS.
3.4.1.2. Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb trong
đơn khoáng zircon
Đánh giá độ chính xác của phương pháp
Độ chính xác của phương pháp phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb được
đánh giá thông qua phân tích mẫu chuẩn Plesovice Zircon.
Lấy lượng cân khoảng 0,01g mẫu đơn khoáng Plesovice Zircon (lượng cân lấy
thực tế là 0,01345 g) để phân tích hàm lượng tổng của các nguyên tố U, Th, Pb cũng
như thành phần đồng vị của chúng (theo quy trình ở mục 3.4.1.1). Kết quả phân tích
mẫu đơn khoáng Plesovice Zircon được trình bày trong Bảng 3.28.
Bảng 3.28. Kết quả phân tích mẫu Plesovice Zircon (ppm)
Chỉ tiêu B Giá trị Giá trị RSD STT tham khảo tìm được (%) phân tích (%)
1 755 (465 -1106) 743 ± 3 U tổng 0,3
2 78 (44-183) 85 ± 2 Th 1,5
3 39 (21 - 55) 44 ± 2 2,5
4 5,7 ± 0,2 3,0
5 737 ± 3 0,3
6 41 ± 1 1,9
7 2,3 ± 0,1 2,5
Pb tổng 235U 238U 206Pb 207Pb 208Pb 8 1,3 ± 0,1 4,2
134
9 0,10 (0,08 - 0,17) 0,11
10 0,0076
11 0,0532 + 3,63 0,0562
12 0,0291 + 4,93 0,0317
13 0,3942 + 1,35 0,4035
14 0,0536 + 2,35 0,0554
15 Th/U 235U/Utổng 207Pb/206Pb 208Pb/206Pb 207Pb/235U 206Pb/238U 208Pb/232Th 0,0156
Từ kết quả phân tích trong Bảng 3.28 thấy rằng, các tỷ số đồng vị có độ chệch từ
+ 1,35% đến + 4,93%, kết quả phân tích hàm lượng tổng U, Th, Pb và các tỷ số đồng vị
có độ lệch chuẩn tương đối từ 0,3% đến 4,2%.
Đánh giá hiệu suất thu hồi
Để đánh giá hiệu suất thu hồi, so sánh kết quả phân tích hàm lượng tổng của
các nguyên tố U, Th, Pb cũng như thành phần đồng vị của chúng trong mẫu đơn
khoáng zircon (lượng cân khoảng 0,01g) trước và sau khi thêm vào lượng chính xác
các đồng vị U, Th, Pb (theo quy trình ở mục 3.4.1.1). Kết quả phân tích được trình
bày trong Bảng 3.29.
Bảng 3.29. Kết quả phân tích mẫu thêm các đồng vị U, Th, Pb (µg)
Chỉ tiêu Mẫu Zircon Mẫu Zircon Hiệu suất Lượng thêm STT phân tích trước khi thêm sau khi thêm (%)
6,500 10,000 16,350 98,5 1 U tổng
0,522 0,500 1,008 97,2 2 Th
0,360 0,500 0,842 96,4 3
0,049 0,072 0,126 106,9 4
6,450 9,927 16,302 99,2 5
0,332 0,121 0,451 98,3 6
0,018 0,111 0,123 94,6 7
Pb tổng 235U 238U 206Pb 207Pb 208Pb 8 0,010 0,262 0,263 96,6
Hiệu suất thu hồi các đồng vị U, Th, Pb sau cả quá trình thí nghiệm thấp nhất
là 94,6 % (đối với đồng vị 207Pb).
135
Qua đánh giá ở trên cho thấy độ chính xác của phương pháp phân tích cũng
như hiệu suất thu hồi của quy trình phân tích đáp ứng yêu cầu phân tích thành phần
đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb trong đơn khoáng zircon.
3.4.1.3. Xác định thành phần đồng vị U, Th, Pb trong mẫu đơn khoáng zircon
Thừa Thiên Huế
Lấy lượng cân khoảng 0,01g mẫu đơn khoáng zircon Thừa Thiên Huế để phân tích
hàm lượng tổng của các nguyên tố U, Th, Pb cũng như thành phần đồng vị của chúng
(theo quy trình ở mục 3.4.1.1). Kết quả phân tích mẫu được trình bày trong Bảng 3.30.
Bảng 3.30. Kết quả phân tích mẫu zircon Thừa Thiên Huế
Chỉ tiêu Chỉ tiêu Giá trị Giá trị STT STT tìm được tìm được (ppm) phân tích phân tích
Th/U U tổng 9 0,0803 1 650 ± 4
235U/U tổng
Th 10 0,0075 2 52 ± 2
207Pb/206Pb
Pb tổng 11 0,0540 3 36 ± 1
235U
208Pb/206Pb
12 0,0300 4 4,9 ± 0,2
238U
207Pb/235U
13 0,3673 5 645 ± 3
206Pb
206Pb/238U
14 0,0516 6 33 ± 2
207Pb
208Pb/232Th
15 0,0191 7 1,8 ± 0,1
208Pb
8 1,0 ± 0,1
Từ kết quả phân tích thu được trong Bảng 3.30 thấy rằng, hàm lượng U, Th,
Pb cũng như thành phần đồng vị của các nguyên tố này trong mẫu đơn khoáng
zircon Thừa Thiên Huế và mẫu Plesovice Ziron không quá khác biệt.
Dựa trên kết quả các tỷ số đồng vị xác định được trong Bảng 3.28 và Bảng 3.30,
áp dụng các công thức tính tuổi (1.1.9), (1.1.10), (1.1.11) ở mục 1.1.3.1, tính toán tuổi
của mẫu Plesovice Zircon và mẫu đơn khoáng zircon Thừa Thiên Huế, thu được kết
quả trong Bảng 3.31.
136
Bảng 3.31. Tuổi khoáng vật Plesovice Zircon và Zircon Thừa Thiên Huế
Plesovice Plesovice B Zircon Tuổi
Zircon Zircon khoáng vật T.T.Huế (%)
(tham khảo) (tính được)
337.523.023 344.276.461 + 2,01 317.736.193
Tính theo tỷ số 207Pb/235U năm năm năm
336.562.156 347.566.222 + 3,27 324.314.458
Tính theo tỷ số 206Pb/238U năm năm năm
312.875.524 382.411.693
Tính theo tỷ số 208Pb/232Th năm năm
Có thể thấy rằng, tuổi của mẫu Plesovice Zircon tính theo các giá trị tỷ số
đồng vị tìm được theo phương pháp đã nghiên cứu so với tuổi của mẫu tính theo giá
trị tham khảo có độ sai lệch không lớn.
3.4.2. Phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong mẫu địa chất
3.4.2.1. Tóm tắt quy trình phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong mẫu
địa chất
Tóm tắt quy trình phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong các khoáng vật
thích hợp bằng phương pháp ICP-MS như sau:
Lấy lượng cân chính xác các khoáng vật (khoảng 0,2 đến 0,5g) bằng cân
phân tích có độ chính xác 0,01 mg cho vào bom teflon. Thêm vào bom teflon
10 ml hỗn hợp axit đặc HF, HNO3 và HCl theo tỷ lệ thích hợp tuỳ theo từng loại khoáng vật. Đặt bom phân huỷ mẫu trong tủ sấy, giữ ở nhiệt độ 1800C. Sau
thời gian nhất định (khoảng 2-3 giờ) lấy bom teflon ra, để nguội. Chuyển dung
dịch mẫu từ bom teflon sang chén teflon khác. Cô dung dịch mẫu trong chén
teflon trên bếp điện đến khô để đuổi hết axit HF (nếu cần dùng HF). Thêm vào
5 ml axit HCl đặc rồi lại cô dung dịch đến khô. Cuối cùng hoà tan mẫu bằng
dung dịch axit HCl 1,0M trong bình định mức 25 ml.
137
Chuẩn bị cột sắc ký trao đổi ion với 5 g nhựa trao đổi cation Bio-Rad
AG50W-X8, 200-400 mesh. Làm sạch cột và cân bằng môi trường cột bằng 15 ml
dung dịch axit HCl 1,0M.
Nạp 25 ml dung dịch mẫu trong môi trường HCl 1,0M ở trên lên cột sắc ký
trao đổi ion. Rửa cột bằng 20 ml dung dịch axit HCl 1,0M. Rb, Sr và một số nguyên
tố được hấp thu trên cột. Tiến hành giải hấp Rb bằng 25 ml HCl 1,5M (thu được
dung dịch để xác định thành phần đồng vị Rb) sau đó giải hấp Sr bằng 25 ml HCl
3,0M (thu được dung dịch để xác định thành phần đồng vị Sr).
Các dung dịch giải hấp Rb, Sr được chuyển về môi trường HNO3 0,3M để xác
định thành phần đồng vị của chúng bằng ICP-MS.
3.4.2.2. Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị Rb - Sr
Đánh giá độ chính xác của phương pháp
Độ chính xác của phương pháp phân tích thành phần đồng vị Sr được đánh giá
thông qua phân tích mẫu chuẩn SRM 987.
Lấy lượng cân 0,01 g mẫu chuẩn chuyển vào cốc thuỷ tinh 50 ml. Thêm vào
10 ml axit HNO3 1,0M rồi đun nóng nhẹ trên bếp điện. Sau khi mẫu được phân huỷ
hết, cô cạn rồi hoà tan lại mẫu bằng dung dịch axit HNO3 0,3M, định mức trong
bình 100 ml. Dung dịch trên được pha loãng tiếp 100 lần.
Lấy 5 ml dung dịch mẫu để xác định thành phần đồng vị Sr. Kết quả phân tích
mẫu chuẩn được trình bày trong Bảng 3.32.
Bảng 3.32. Kết quả phân tích mẫu chuẩn SRM 987
Giá trị chứng chỉ Giá trị tìm được B RSD Chỉ tiêu
(%) (%) (%) (%) phân tích
82,5845 ± 0,0066 82,5116 ± 0,0900 - 0,09 0,10
88Sr 87Sr 86Sr
7,0015 ± 0,0026 7,0242 ± 0,0780 + 0,32 1,10
9,8566 ± 0,0034 9,8064 ± 0,0840 - 0,50 0,86
138
88Sr/86Sr 87Sr/86Sr
8,37861 ± 0,00320 8,41406 ± 0,00920 + 0,42
0,71034 ± 0,00026 0,71629 ± 0,00286 + 0,84
Từ kết quả phân tích trong Bảng 3.32 thấy rằng, hàm lượng các đồng vị Sr tìm
được và giá trị chứng chỉ có độ chệch từ - 0,5% đến + 0,32%, độ lệch chuẩn tương đối
của kết quả phân tích cao nhất là 1,1%.
Đánh giá hiệu suất thu hồi
Để đánh giá hiệu suất thu hồi, so sánh kết quả phân tích hàm lượng tổng của
các nguyên tố Rb, Sr cũng như thành phần đồng vị của chúng trong mẫu khoáng vật
biotite (lượng cân khoảng 0,2 g) trước và sau khi thêm vào lượng chính xác các
đồng vị Rb, Sr (theo quy trình ở 3.4.2.1). Kết quả phân tích được trình bày trong
Bảng 3.33.
Bảng 3.33. Kết quả phân tích mẫu thêm các đồng vị Rb, Sr (µg)
Chỉ tiêu Mẫu Biotite Mẫu Biotite Hiệu suất Lượng thêm STT phân tích trước khi thêm sau khi thêm (%)
65,00 50,00 113,85 97,7 1 Rb tổng
55,60 50,00 104,76 98,3 2
18,58 13,60 31,65 96,1 3
46,00 41,30 86,84 98,9 4
4,00 3,52 7,65 103,7 5
Sr tổng 87Rb 88Sr 87Sr 86Sr 5,50 4,93 10,32 97,8 6
Hiệu suất thu hồi hàm lượng tổng và các đồng vị Rb, Sr sau cả quá trình thí
nghiệm thấp nhất là 96,1 % (đối với đồng vị 87Rb).
Qua đánh giá ở trên cho thấy độ chính xác của phương pháp phân tích cũng
như hiệu suất thu hồi của quy trình phân tích đáp ứng yêu cầu phân tích thành phần
đồng vị các nguyên tố Rb, Sr trong mẫu địa chất.
3.4.2.3. Phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong một số mẫu khoáng vật
Áp dụng quy trình phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr (theo 3.4.2.1) để phân
tích một số loại khoáng vật như Biotite ở vùng Sovitt - Na uy, mẫu khoáng
139
Muscovite ở vùng Thanh Thuỷ - Phú Thọ, mẫu Felspar ở vùng Easo - Eaka - Đắc
Lắc thu được kết quả trong Bảng 3.34.
Bảng 3.34. Kết quả phân tích một số mẫu khoáng vật (ppm)
Chỉ tiêu Biotite Muscovite K-felspar
Sovitt, Na uy Thanh Thuỷ - Easo - Eaka - phân tích
Phú Thọ Đắc Lắc
Rb tổng 325 ± 5 177 ± 1 256 ± 7
278 ± 6 107 ± 2 824 ± 18
92,9 ± 1,2 50,6 ± 0,2 57,7 ± 0,3
230 ± 5 88,5 ± 0,4 668 ± 15
20,0 ± 0,1 7,8 ± 0,1 72,9 ± 0,5
Sr tổng 87Rb 88Sr 87Sr 86Sr 27,4 ± 0,1 10,5 ± 0,1 81,2 ± 0,9
3,39002 ± 0,00425 4,80296 ± 0,00522 0,71064 ± 0,00312
8,39912 ± 0,00968 8,38863 ± 0,00796 8,22338 ± 0,00855
87Rb/86Sr 88Sr/86Sr 87Sr/86Sr
0,73078 ± 0,00198 0,73934 ± 0,00285 0,89797 ± 0,00234
Kết quả phân tích trong Bảng 3.34 cho thấy, hàm lượng các nguyên tố Rb và
Sr cũng như thành phần đồng vị của chúng trong một số mẫu khoáng vật nằm trong
khoảng giá trị thường có.
3.4.3. Xác định tỷ số đồng vị 176Hf/177Hf trong đơn khoáng zircon
3.4.3.1. Tóm tắt quy trình phân tích thành phần đồng vị Hf trong đơn khoáng
zircon
Lấy lượng cân chính xác các đơn khoáng zircon (khoảng 10 mg) bằng cân
phân tích có độ chính xác 0,01 mg cho vào bom teflon. Thêm vào bom tefon 10 ml
hỗn hợp axit đặc HF và HNO3 theo tỷ lệ 4:1. Đặt bom phân huỷ mẫu trong tủ sấy, giữ nhiệt độ ở 1800C. Sau 4 ngày lấy bom phân huỷ mẫu ra, để nguội. Chuyển dung
dịch mẫu từ bom teflon sang chén teflon khác. Cô dung dịch mẫu trong chén teflon
trên bếp điện đến khô để đuổi hết axit HF. Thêm vào 5 ml axit H2SO4 2,0M rồi lại
cô dung dịch đến khô. Cuối cùng hoà tan mẫu bằng dung dịch axit H2SO4 0,3M hay
140
0,4M trong bình định mức 50 ml tuỳ thuộc tiến hành tách nguyên tố Hf khỏi nền
mẫu bằng nhựa trao đổi anion hay nhựa trao đổi cation.
Trong trường hợp dùng nhựa trao đổi anion, chuẩn bị cột sắc ký trao đổi ion
với 5 g nhựa anionit Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh. Làm sạch và cân bằng môi
trường cột bằng 15 ml dung dịch axit H2SO4 0,3M.
Lấy 5 ml dung dịch mẫu trên (trong môi trường axit H2SO4 0,3M) để nạp lên
cột sắc ký trao đổi ion. Dùng 200 ml dung dịch axit H2SO4 0,3M để giải hấp Hf ra
khỏi cột tách. Dung dịch Hf sau đó được chuyển về môi trường HNO3 0,3M để xác
định thành phần đồng vị của Hf bằng ICP-MS. Giải hấp Zr ra khỏi cột bằng 100 ml
H2SO4 1,3M. Làm sạch cột bằng các dung dịch axit HCl và HNO3 để thực hiện các
phép phân tích tiếp theo.
Trong trường hợp dùng nhựa trao đổi cation, chuẩn bị cột sắc ký trao đổi ion
với 5 g nhựa trao đổi cation Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh. Làm sạch cột và
cân bằng môi trường cột bằng 15 ml dung dịch axit H2SO4 0,4M.
Lấy 5 ml dung dịch mẫu trên (trong môi trường axit H2SO4 0,4M) để nạp lên
cột sắc ký trao đổi ion. Dùng 100 ml dung dịch axit H2SO4 0,4M để giải hấp Zr ra
khỏi cột tách. Tiếp theo, dùng 200 ml dung dịch axit H2SO4 1,0M để giải hấp Hf.
Dung dịch Hf sau đó được chuyển về môi trường HNO3 0,3M để xác định thành
phần đồng vị của Hf bằng ICP-MS. Làm sạch cột bằng các dung dịch axit HCl và
HNO3 để thực hiện các phép phân tích tiếp theo.
3.4.3.2. Đánh giá phương pháp phân tích thành phần đồng vị Hf
Đánh giá độ chính xác của phương pháp
Độ chính xác của phương pháp phân tích thành phần đồng vị Hf được đánh giá
thông qua xác định thành phần đồng vị Hf trong mẫu chuẩn Plesovice Zircon.
Lấy lượng cân khoảng 0,01g mẫu đơn khoáng Plesovice Zircon (lượng cân lấy
thực tế là 0,01345 g) để phân tích hàm lượng tổng cũng như thành phần đồng vị Hf
(theo quy trình ở 3.4.3.1). Kết quả phân tích mẫu Plesovice Zircon được trình bày
trong Bảng 3.35 và Bảng 3.36.
141
Bảng 3.35. Kết quả phân tích thành phần đồng vị Hf (ppm)
trong mẫu Plesovice Zircon - tách Hf bằng nhựa trao đổi anion
Giá trị tìm được B Chỉ tiêu RSD Giá trị tham khảo (%) (nhựa trao đổi anion) (%) phân tích
11167(8980 – 14431) 10021 ± 30 0,3
527 ± 13 1,5
1856 ± 15 0,8
176Hf/177Hf 0,282482 ± 0,000013 0,283944 ± 0,000561
Hf tổng 176Hf 177Hf 178Hf 2733 ± 15 0,6
+ 0,5 0,2
Bảng 3.36. Kết quả phân tích thành phần đồng vị Hf (ppm)
trong mẫu Plesovice Zircon - tách Hf bằng nhựa trao đổi cation
Giá trị tìm được B Chỉ tiêu RSD Giá trị tham khảo (nhựa trao đổi cation) (%) (%) phân tích
11167(8980 – 14431) 10013 ± 50 0,5
526 ± 12 1,3
1856 ± 13 0,7
Hf tổng 176Hf 177Hf 178Hf 2731 ± 18 0,7
176Hf/177Hf 0,282482 ± 0,000013
0,2 0,283405 ± 0,000587 + 0,4
Từ kết quả phân tích thu được trong Bảng 3.35 và Bảng 3.36 cho thấy, kết quả phân tích tỷ số đồng vị 176Hf/177Hf và giá trị kết quả tham khảo có độ chệch từ + 0,4%
đến + 0,5%, độ lệch chuẩn tương đối của tỷ số hai đồng vị trên là 0,2%, kết quả phân tích
hàm lượng Hf tổng và các đồng vị Hf có độ lệch chuẩn tương đối từ 0,3% đến 1,5%.
Đánh giá hiệu suất thu hồi
Để đánh giá hiệu suất thu hồi, so sánh kết quả phân tích hàm lượng tổng của
nguyên tố Hf cũng như thành phần đồng vị của Hf trong mẫu đơn khoáng zircon
(lượng cân khoảng 0,01g) trước và sau khi thêm vào lượng chính xác các đồng vị
Hf (theo quy trình ở 3.4.3.1). Kết quả phân tích được trình bày trong Bảng 3.37.
142
Bảng 3.37. Kết quả phân tích mẫu thêm các đồng vị Hf (µg)
Chỉ tiêu Mẫu Zircon Mẫu Zircon Hiệu suất Lượng thêm STT phân tích trước khi thêm sau khi thêm (%)
5680 5000 10595 98,3 1
298 263 554 97,3 2
1050 930 1958 97,6 3
Hf tổng 176Hf 177Hf 178Hf 1549 1365 2892 98,4 4
Hiệu suất thu hồi các đồng vị Hf sau cả quá trình thí nghiệm thấp nhất là
97,3% (đối với đồng vị176Hf).
Qua đánh giá ở trên cho thấy độ chính xác của phương pháp phân tích cũng
như hiệu suất thu hồi của quy trình phân tích đáp ứng yêu cầu phân tích thành phần
đồng vị Hf trong mẫu đơn khoáng zircon.
3.4.3.3. Xác định thành phần đồng vị Hf trong đơn khoáng zircon Thừa Thiên Huế
Áp dụng quy trình phân tích thành phần đồng vị Hf để xác định thành phần
đồng vị Hf trong mẫu zircon Thừa Thiên Huế thu được kết quả trong Bảng 3.38.
Bảng 3.38. Kết quả phân tích thành phần đồng vị Hf
trong mẫu zircon Thừa Thiên Huế (ppm)
Giá trị tìm được Giá trị tìm được Chỉ tiêu (nhựa trao đổi anion) (nhựa trao đổi cation)
5680 ± 15 5710 ± 15
298 ± 7 300 ± 9
1050 ± 10 1055 ± 11
176Hf/177Hf
Hf tổng 176Hf 177Hf 178Hf 1549 ± 12 1557 ± 18
0,283810 ± 0,000815 0,284360 ± 0,000932
Kết quả phân tích thu được trong Bảng 3.38 cho thấy, giá trị hàm lượng Hf
cũng như thành phần đồng vị của Hf trong mẫu đơn khoáng zircon Thừa Thiên Huế
khác biệt so với mẫu Plesovice Zircon.
143
KẾT LUẬN
Luận án đã đạt được mục tiêu đề ra, thực hiện đầy đủ các nội dung nghiên cứu
và thiết lập được các phương pháp phân tích đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr,
Hf trong các mẫu địa chất bằng ICP-MS. Các kết quả chính thu được như sau:
1. Đã khảo sát và lựa chọn được các điều kiện hoạt động tối ưu của máy đo
khi xác định thành phần đồng vị các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf bằng máy phổ
khối ICP-MS Agilent 7500a, đảm bảo cho phép đo có độ nhậy cao, đồng thời tỷ lệ
hình thành các mảnh oxit ≤ 1,0% và các mảnh ion đa nguyên tử ≤ 3,0%. Dung dịch
axit HNO3 0,3M được lựa chọn làm môi trường dung dịch mẫu đo. Đường chuẩn
xác định các đồng vị được thiết lập với hệ số tương quan cao (r ≈ 1). Giới hạn phát
hiện và giới hạn định lượng các đồng vị đã được tính toán. Phép đo xác định các
đồng vị bằng máy ICP-MS có độ chính xác cao.
2. Đơn khoáng zircon được phân huỷ tốt nhất trong bom teflon với hỗn hợp
axit HF+HNO3 (4:1), ở nhiệt độ 1800C và trong khoảng thời gian 4 ngày.
3. Đã nghiên cứu tách hiệu quả các nguyên tố U, Th, Pb, Rb, Sr, Hf khỏi các
nguyên tố nền mẫu và các nguyên tố ảnh hưởng bằng sắc ký trao đổi ion:
- Tách U, Th, Pb bằng nhựa anionit Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh, môi
trường dung dịch mẫu là các axit HCl, HNO3 hay HBr. U và Pb được hấp thu trên
nhựa trong môi trường axit HCl 3,0M. U và Th được hấp thu trong môi trường axit
HNO3 7,0M. Pb được hấp thu trên nhựa trong môi trường axit HBr 0,5M. Các
nguyên tố nền Zr và Hf đều không được hấp thu trên nhựa trong các môi trường này
nên có thể tách U, Th, Pb khỏi Zr và Hf. Các nguyên tố U, Th, Pb được tách ra khỏi
một số nguyên tố khác và tách ra khỏi nhau bằng các dung dịch rửa giải thích hợp.
- Tách Rb, Sr bằng nhựa cationit Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh. Rb, Sr
và nhiều nguyên tố được hấp thu trên nhựa trong môi trường HCl 1,0M hay HNO3
0,7M. Giải hấp Rb bằng dung dịch HCl 1,5M sau đó giải hấp Sr bằng dung dịch
HCl 3,0M. Rb và Sr được tách hoàn toàn ra khỏi nhau và ra khỏi một số nguyên tố
nền trong đó có Fe và Ti. Ca và Mg không ảnh hưởng đến quá trình tách Rb và Sr.
144
- Tách Hf bằng cả hai loại nhựa anionit Bio-Rad AG1-X8, 200-400 mesh và
nhựa cationit Bio-Rad AG50W-X8, 200-400 mesh, môi trường hấp thu là các axit
HCl và H2SO4. Với nhựa trao đổi anion, Hf được tách khỏi Lu và Yb do hai nguyên
tố này hấp thu trên nhựa trong môi trường HCl 3,0M trong khi Hf và Zr không hấp
thu trên nhựa. Hf được tách khỏi nguyên tố nền Zr trong môi trường H2SO4 0,3M.
Với nhựa trao đổi cation, Hf được tách khỏi Lu, Yb và cả nguyên tố nền Zr trong
môi trường H2SO4 0,4M.
4. Đã thiết lập các phương pháp phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb, Rb,
Sr, Hf trong mẫu địa chất bằng ICP-MS và bước đầu ứng dụng để phân tích một số
mẫu thực tế:
- Xây dựng quy trình phân tích thành phần đồng vị U, Th, Pb trong đơn
khoáng zircon, quy trình phân tích thành phần đồng vị Rb, Sr trong một số loại
khoáng vật (mica, felspar), quy trình phân tích thành phần đồng vị Hf trong trong
đơn khoáng zircon. Kết quả đánh giá cho thấy các quy trình phân tích có độ chính
xác cao, có hiệu suất thu hồi tốt, đáp ứng yêu cầu phân tích thành phần đồng vị các
nguyên tố trong mẫu địa chất.
- Tiến hành phân tích thành phần đồng vị của U, Th, Pb, Hf trong đơn khoáng
zircon tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam và sơ bộ tính toán tuổi của khoáng vật
dựa trên kết quả thành phần đồng vị của U, Th, Pb. Tiến hành phân tích thành phần
đồng vị của Rb và Sr trong một số mẫu khoáng vật biotite, muscovite, K-felspar của
Na Uy và của Việt Nam.
KHUYẾN NGHỊ
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đạt được của luận án, tác giả luận án xin
khuyến nghị có những nghiên cứu tiếp theo về xác định thành phần đồng vị của các
nguyên tố Sm, Nd trong mẫu địa chất bằng ICP-MS. Kết quả phân tích thành phần
đồng vị hai nguyên tố này là cơ sở dữ liệu của phương pháp tuổi đồng vị Sm-Nd,
thường được ứng dụng trong nghiên cứu xác định tuổi các thành tạo địa chất hay
xác định nguồn gốc.
145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
[1]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2008), “Nghiên cứu
phân huỷ đơn khoáng zircon để xác định hàm lượng và thành phần đồng vị các
nguyên tố bằng ICP-MS”, Tạp chí Phân tích Hoá, Lý và Sinh học, T.13, số 4, Tr.
38 - 41.
[2]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2009), “Nghiên cứu
tách Rb, Sr bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion để xác định hàm lượng và
thành phần đồng vị của chúng bằng ICP-MS”, Tạp chí Phân tích Hoá, Lý và
Sinh học, T.14, số 2, Tr. 18 - 21.
[3]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2009), “Nghiên cứu
tách urani, thori, chì bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion để xác định hàm
lượng và thành phần đồng vị của chúng bằng ICP-MS”, Tạp chí Phân tích
Hoá, Lý và Sinh học, T.14, số 3, Tr. 67 - 71.
[4]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2009), “Study on
separation of samarium and neodymium by ion-exchange chromatography for
determination of their content and isotopic composition using ICP-MS”, Tạp
chí Phân tích Hoá, Lý và Sinh học, T.14, số 4, Tr. 99-103.
[5]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2009), “Study on
separation of uranium by ion-exchange chromatography following
determination of its content and isotopic composition using ICP-MS”, Nuclear
Science and Technology, Vietnam Atomic Energy Society, Vol. 1, pp. 31-40.
[6]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2009), “Study on
separation of U, Th, Pb by ion-exchange chromatography in HBr and HNO3
media for determination of their content and isotopic composition using ICP-
MS” (AE-OP-22), Proceedings of the 13th Asian Chemical Congress,
September 13-16, Shanghai, China, p. 48.
146
[7]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2010), “Study on
determination of uranium, thorium, lead isotopic composition in single
zircon”, Tạp chí Phân tích Hoá, Lý và Sinh học, T. 15, số 4, Tr. 302-306.
[8]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2010), “Separation
and determination of hafnium in zirconium matrix by anion-exchange
chromatography and ICP-MS”, Tạp chí Hoá học, T. 48, số 4C, Tr. 542-547.
[9]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2010), “Study on
separation of rubidium and strontium by ion-exchange chromatography in
HNO3 and HCl media for determination of their content and isotopic
composition using ICP-MS”, Tạp chí Hoá học, T. 48, số 5, Tr. 586-590.
[10]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh, Đỗ Thị Ánh Tuyết
(2011), “Cation-exchange chromatography separation and determination of
hafnium in zirconium matrix by ICP-MS”, Tạp chí Phân tích Hoá, Lý và Sinh
học, T.16. số 1, Tr. 78-82.
[11]. Huỳnh Văn Trung, Nguyễn Xuân Chiến, Lê Hồng Minh (2011),
“Determination of hafnium in zirconium dioxide using inductively coupled
plasma mass spectrometry (ICP-MS)”, Proceeding, Hội nghị Khoa học và kỹ
thuật Hạt nhân lần thứ 9, Phan Rang- Tháp Chàm, Ninh Thuận, 18-19 tháng
8, Tr. 35.
147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
[1]. Ngô Quốc Bưu (1982), Phân tích định lượng U, Th, Pb trong các mẫu địa
chất và ứng dụng một số kết quả thu được để xác định tuổi tuyệt đối các
khoáng vật ở Việt Nam, Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học, Viện Hoá học, Viện
Khoa học Việt Nam.
[2]. Nguyễn Văn Đỗ (2004), Các phương pháp phân tích hạt nhân, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3]. Trần Tứ Hiếu (2004), Hoá học Phân tích, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[4]. Vũ Khúc, Tống Duy Thanh (2005), Các phân vị địa tầng Việt Nam, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[5]. Phạm Luận (2004), Cơ sở của các kỹ thuật xử lý mẫu phân tích, Giáo trình
chuyên đề giảng dạy chương trình cao học, Bộ môn Hoá Phân tích, Khoa Hoá
học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[6]. Đỗ Quý Sơn, Huỳnh Văn Trung (2006), Cơ sở Hoá học phóng xạ, Nhà xuất
bản Khoa học và Kỹ thuật.
[7]. TCVN 6910 (1-6) (2001 & 2002), Độ chính xác (độ đúng và độ chụm) của
phương pháp đo và kết quả đo.
[8]. Nguyễn Văn Thành (2001), Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp hạt nhân
U-Th-Pb và Rb-Sr để xác định các mẫu địa chất ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ
Vật lý, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
[9]. Phan Trường Thị (2004), Thạch học các đá magma, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[10]. Hồ Sĩ Thoảng, Huỳnh Văn Trung (2010), Danh pháp và thuật ngữ hoá học
Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
148
[11]. Đặng Trung Thuận (2002), Địa hóa học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội.
[12]. Nguyễn Đình Triệu (2001), Các phương pháp phân tích vật lý và hoá lý, Nhà
xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
[13]. Nguyễn Ngọc Tuấn (2008), “Ứng dụng các kỹ thuật phân tích hạt nhân tại
Viện Nghiên cứu hạt nhân”, Thông tin Khoa học và Công nghệ Hạt nhân, số
15, trang 6-8.
TIẾNG ANH
[14]. Adams F., Gijbels R., and Van Grieken R. eds. (1998), Inorganic Mass
Spectrometry, John Wiley & Sons, Inc., New York.
[15]. Agilent 7500 ICP-MS, ChemStation (G1834B), Operator’s Manual (2001).
[16]. Alex N. Halliday (1997), “Radioactivity, the discovery of time and the earliest
history of the Earth”, Contemporary Physics, Vol. 38, No 2, pp. 103-114.
[17]. Alexander Bentley R. (2006), “Strontium Isotopes from the Earth to the
Archaeological Skeleton: A Review”, Journal of Archaeological Method and
Theory, Vol. 13, No. 3., pp. 135-187.
[18]. Amer Ashraf M. (2006), “Kinetics of alkaline pressure leaching of
mechanically modified zircon concentrate”, Physicochemical Problems of
Mineral Processing, Vol. 40, pp. 61-68.
[19]. Aronne C. C., Godoy J. M., and Godoy M. L. D. P. (2003), “Study of the
application of inductively coupled plasma quadrupole mass spectrometry for
the determination of monazite ages by lead isotope ratios”, IV South American
Symposium on Isotope Geology, Salvador, Brazil, August 17-24.
[20]. Ayranci Bahattin (1989), “A rapid decomposition method for analyzing
zirconia”, Mineral Res. Expl. Bull., Vol. 109, pp. 75-79.
[21]. Bain D. C. and Bacon J. R. (1994), “Strontium isotopes as indicators of
mineral weathering in catchments”, Catena, Vol. 22, pp. 201-214.
149
[22]. Banner J. L. (1995), “Application of the trace element and isotope
geochemistry of strontium to studies of carbonate diagenesis”, Sedimentology,
Vol. 42, pp. 805-824.
[23]. Barovich K. M. et al. (1995), “A chemical method for hafnium separation
from high-Ti whole-rock and zircon samples”, Chemical Geology (Isotope
Geoscience Section), Vol. 121, pp. 303-308.
[24]. Becker J. S. (2002), “State-of-the-art and progress in precise and accurate
isotope ratio measurements by ICP-MS and LA-ICP-MS”, J. Anal. Atom.
Spectrom., Vol. 17, pp. 1172-1185.
[25]. Becker J. S. (2003), “Mass spectrometry of long-lived radionuclides”,
Spectrochemica Acta, Part B, Vol. 58, pp. 1757–1784.
[26]. Becker J. S. (2005), “Recent developments in isotope analysis by
advanced mass spectrometric techniques”, J. Anal. Atom. Spectrom., Vol.
20, pp. 1173-1184.
[27]. Becker J. S. (2007), Inorganic Mass Spectrometry: Principles and
Applications, John Wiley & Sons, Ltd.
[28]. Becker J. S. (2002), ICP-MS: determination of long-lived radionuclides,
Central Department of Analytical Chemistry, Research Centre Julich, D-
52425 Julich, Germany.
[29]. Becker J. S. (2003), Progress on isotope analysis of stable isotopes and
radionuclides by ICP-MS and LA-ICP-MS, Central Division of Analytical
Chemistry, Research Centre Jülich, D-52425 Jülich, Germany.
[30]. Becker Johanna Sabine, Pickhardt Carola and Dietze Hans-Joachim
(2000), Laser ablation inductively coupled plasma mass spectrometry for
the trace, ultratrace and isotope analysis of long-lived radionuclides in
solid samples, Central Department of Analytical Chemistry, Research
Centre Jülich, D-52425 Jülich, Germany.
[31]. Bent Hansen (1996), Lectures on Isotope Geochemistry, Goettingen University,
Germany.
150
[32]. Bio-Rad (1987), Guide to ion exchange, Catalog Number 140 – 9997,
Richmond, CA, Bio-Rad Laboratories.
[33]. Brieuc Le Fèvre and Christian Pin (2001), “An Extraction Chromatography
Method for Hf Separation Prior to Isotopic Analysis Using Multiple Collection
ICP-Mass Spectrometry”, Anal. Chem., Vol. 73 (11), pp. 2453-2460.
[34]. Charles K. M. and Charles L. S. (1961), “Cation Exchange Elution of
Metallic Chlorides by Hydrochloric Acid”, Analytical Chemistry, Vol. 33, No
3, pp. 1185-1188.
[35]. Chaudhuri S. (1978), “Strontium isotopic composition of several oil field brines
from Kansas and Colorado”, Geochim. Cosmochim. Acta, Vol. 42, pp. 329-331.
[36]. Christian Pin, Sylviane Joannon, Chantal Bosq, Brieuc Le Fe`vre and Pierre-
Jean Gauthier (2003), “Precise determination of Rb, Sr, Ba, and Pb in
geological materials by isotope dilution and ICP-quadrupole mass
spectrometry following selective separation of the analytes”, Journal of
analytical atomic spectrometry, Vol. 18, pp. 135-141.
[37]. Christopher M. Barshick, Douglas C. Duckworth, David H. Smith (2000), Inorganic
Mass Spectrometry, Fundamentals and Applications, Marcel Dekker, Inc.
[38]. Ciro Texeira Correia et al. (1997), “Rb-Sr and Sm-Nd geochronology of
the Cana Brava layered mafic-ultramafic intruction, Brazil, and
consideration regarding its tectonic evolution”, Revista Brasileira de
Geociências, Vol. 27, pp. 163-168.
[39]. Clauer N. (1979), “Relationship between the isotopic composition of
strontium in newly formed continental clay minerals and their source
material”, Chem. Geol., Vol. 31, pp. 325-334.
[40]. Dasch E. J. (1969), “Strontium isotopes in weathering profiles, deep-sea
sediments, and sedimentary rocks”, Geochim. Cosmochim. Acta, Vol. 33, pp.
1521-1552.
[41]. Dasilva A., El-ammouri E., Distin P.A. (2000), “Hafnium/zirconium
separation using Cyanex 925”, Can. Metall. Q., Vol. 39, pp. 37-42.
151
[42]. Deorkar N. V. and Khopkar S. M. (1991), “Liquid-liquid extraction of
zirconium from hafnium and other elements with dicyclohexyl-l8-crown-6”,
Analytica Chimiea Acta, Vol. 245, pp. 21-33.
[43]. Diane Beauchemin (2006), “Inductively Coupled Plasma Mass Spectrometry”,
Anal. Chem., Vol. 78, pp. 4111-4136.
[44]. Dickin A. P. (1997), Radiogenic Isotope Geology, Cambridge University
Press, Cambridge, 452 p.
[45]. Dobson K. J., Olive V., Persano C., Stuart F. M. (2005), “A new procedure for
the routine zircon (U-Th)/He age Measurement”, Geophysical Research
Abstracts, Vol. 7.
[46]. Dutra P. B. et al. (2005), “Adsorption of some elements from hydrochloric
acid by anion exchange”, European Polymer Journal, Vol. 41, pp. 1943-1946.
[47]. Faris J. P. and Buchanan R. F. (1962), “Anion Exchange Characteristics
of Elements in Nitric Acid Medium”, Analytical Chemistry, Vol. 36, No
6, pp. 1157-1158.
[48]. Faure G. (1986), Principle of isotope geology, 2nd edition, John Wiley & Son,
New York, 589 pp.
[49]. Finch R. J., Hanchar J. M. (2003), “Structure and chemistry of zircon and
zircon-group minerals”, Mineralogy & Geochemistry, Vol. 53, pp. 1-25.
[50]. Frank Vanhaecke, Gunther De Wannemacker, Luc Moens and Jan Hertogen
(1999), “The determination of strontium isotope ratios by means of
quadrupole-based ICP-mass spectrometry: a geochronological case study”, J.
Anal. At. Spectrom., Vol. 14, pp. 1691-1696.
[51]. Franklin Smyth W. (1996), Analytical Chemistry of Complex Matrices,
University of Ulster.
[52]. Gale N. H. (1996), “A new method for extracting and purifying lead from
difficult matrices for isotopic analysis”, Anal. Chim. Acta, Vol. 332, pp. 15-22.
[53]. Geary W. (1986), Radiochemical Methods, John Wiley & Sons, Inc., New York.
152
[54]. Gen Shimoda (2004), “Quantitative Determination of Lead and Uranium from
Geological Samples”, J. Mass Spectrom. Soc. Jpn., Vol. 52 (4), pp. 213-218.
[55]. Geraldes M. C., Silva D., Valeriano C. M. and Nogueira J. R. (2003),
“Continous diffusion Pb loss in igneous zircon : A BSE, ID-TIMS and Raman
study on a Mesoproterozoic granite from SW Amazonian Craton”, IV South
American Symposium on Isotope Geology, Salvador, Brazil, August 17-24.
[56]. Geyh M. A. and Schleicher H. (1990), Absolute age determination, Springer-
Verlag, Berlin, 503 p.
[57]. Gosz J. R., Brookins D. G. and Moore D. I. (1983), “Using Strontium isotope
ratios to estimate inputs to ecosystems”, Bioscience, Vol. 33, pp. 23-30.
[58]. Graustein W. C. and Armstrong R. L. (1983), “The use of 87Sr/86Sr ratios to
measure atmospheric transport into forested watersheds”, Science, Vol. 219,
pp. 289-292.
[59]. Hall G. E. M. (1991), Inductively coupled plasma mass spectrometry in
geoanalysis, Geological Survey of Canada, 601 Booth St., Ottawa, Ont.,
Canada, K1A OE8.
[60]. Hefne J., Aldayel O., Amr M. A., Alharbi O. (2008), “Rb-Sr and U-Pb age
dating of granite rocks by inductively coupled plasma mass spectrometry”,
International Journal of Physical Sciences, Vol. 3(1), pp. 028-037.
[61]. Helen E. Carter, Peter Warwick, John Cobb and Geoff Longworth (1999),
Determination of uranium and thorium in geological materials using extraction
chromatography, Analyst, Vol. 124, pp. 271–274
[62]. Horwitz E. P., Dietz M. L. and Fisher D. E. (1991), “Separation and
preconcentration of strontium from biological, environmental and nuclear
waste samples by extraction chromatography using a crown ether”, Anal.
Chem., Vol. 63, pp. 522-525.
[63]. Hyde E. K. (1960), The radiochemistry of thorium, Lawrence Radiation
Laboratory,University of California, Berkeley, California, USA.
153
[64]. Jain J. C., Neal C. R. and Hanchar J. M. (2001), “Identification and removal
of fluoride interferences in determination of rare-earth elements in zircon by
ICP-MS”, Geostandards Newsletter, Vol. 25, pp. 229-237.
[65]. Jian Zheng, and Masatoshi Yamada (2004), Determination of U isotope ratios
in sediments using ICP-QMS after sample cleanup with anion-exchange and
extraction chromatography, Nakaminato Laboratory for Marine
Radioecology, National Institute of Radiological Sciences, 3609 Isozaki-cho,
Hitachinaka, Ibaraki, 311-1202, Japan.
[66]. Jitka Míková, Petra Denková (2007), “Modified chromatographic separation
scheme for Sr and Nd isotope analysis in geological silicate samples”, Journal
of Geosciences, Vol. 52, pp. 221- 226.
[67]. John C. Ayers and E. Bruce Watson (1991), “Solubility of Apatite, Monazite,
Zircon, and Rutile in Supercritical Aqueous Fluids with Implications for
Subduction Zone Geochemistry”, Philosophical Transactions: Physical
Sciences and Engineering, Vol. 335, No 1638, The Behaviour and Influence of
Fluids in Subduction Zones, pp. 365-375.
[68]. Jörg Rickli, Martin Frank, Alex N. Halliday (2009), “The hafnium-
neodymium isotopic composition of Atlantic seawater”, Earth and Planetary
Science Letters, Vol. 280, pp. 118-127.
[69]. Kealey D. & Haines P. J. (2002), Analytical Chemistry, University of Surrey,
Guildford, UK & Oakland Analytical Services, Farnham, UK.
[70]. Keiji Misawa, Fumie Yamazaki, Nami Ihira and Noboru Nakamura (2000),
“Separation of rare earth elements and strontium from chondritic Meteorites
by miniaturized extraction chromatography for elemental and isotopic
analyses”, Geochemical Journal, Vol. 34, pp. 11-21.
[71]. Knoll G. F., Radiation Detection and Measurement, 2nd ed. (1986), John
Wiley & Sons, Inc., New York.
[72]. Kosler J. (1999), “Use of the Laser Ablation ICP-MS Technique for U-Pb
Zircon Dating”, Geolines, Vol. 8, pp. 39-40.
154
[73]. Košler J., Fonneland H., Sylvester P., Tubrett M., and Pedersen R. B. (2002),
“U-Pb dating of detrital zircons for sediment provenance studies - a
comparison of laser ablation ICP-MS and SIMS techniques”, Chemical
Geology, Vol. 182, pp. 605-618.
[74]. Krogh T. E. (1973), “A low contamination method for hydrothermal
decomposition of zircon and extraction of U and Pb for isotopic age
determinations”, Geochim. Cosmochim. Acta, Vol. 37, pp. 485-494.
[75]. Larsen Flemming, Dang Duc Nhan,…(2008), “Controlling geological and
hydrogeological processes in an arsenic contaminated aquifer on the Red
River flood plain, Vietnam”, Applied Geochemistry, Vol. 23, pp.3099-3115.
[76]. Li Huaikun and Niu Yaoling (2003), “Multi-collector ICP-MS Analysis of Pb
Isotope Ratios in Rocks: Data, Procedure and Caution”, Acta Geologica
Sinica, Vol.77, No 1, pp. 44-58.
[77]. Lieser K. H. (2001), Nuclear and Radiochemistry-Fundamentals and
Applications, WILEY-VCH, Weinheim.
[78]. Longerich H. P., Jenner G. A., Fryer B. J. and Jackson S. E. (1990),
“Inductively coupled plasma-mass spectrometric analysis of geological
samples: A critical evaluation based on case studies”, Chemical Geology, Vol.
83, pp. 105-118.
[79]. Louw J. D. de V. (2003), Review of U and Th analysis - standards and
methods , Johannesburg, South African Institute of Mining and Metallurgy.
[80]. Marabini M. A., Passariello B. and Barbaro M. (1991), Inductively coupled
plasma-mass spectrometry: Capabilities and applications, Istituto per il
Trattamento dei Minerali, CNR, Via Bolognola 7, 00138, Rome, Italy.
[81]. Marcelyn Cremer and Julius Schlocker (1976), “Mineralogical Notes -
Lithium borate decomposition of rocks, minerals and ores”, American
Mineralogist, Vol. 61, pp. 318-321.
[82]. Masaaki Magara et al. (2002), “Isotope Ratio Measurement of Uranium in
Safeguards Environmental Samples by Inductively Coupled Plasma Mass
155
Spectrometry (ICP-MS)”, Journal of Nuclear Science and Technology, Vol.
39, No 4, pp. 308-311.
[83]. Mattinson J. M. (2005), “Zircon U-Pb chemical abrasion (CA-TIMS) method:
Combined annealing and multi-step partial dissolution analysis for improved
precision and accuracy of zircon ages”, Chemical Geology, Vol. 220, pp. 47-66.
[84]. McLafferty F. W. and Turecek F. (1993), Interpretation of Mass Spectra, 4th
edition, University Science, Mill Valley, California, USA.
[85]. Mebus A. Geyh, Helmut Schleicher (1990), Absolute Age Determination -
Physical and Chemical Dating Methods and Their Application, Springer.
[86]. Nayl A. A., El-Nadi Y. A., Daoud J. A. (2009), “Extraction and Separation of Zr(IV) and Hf(IV) from Nitrate Medium by Some CYANEX Extractants”,
Separation science and technology, Vol. 44, pp. 2956-2970.
[87]. Norrman Jenny, Dang Duc Nhan,…(2008), “Arsenic mobilization in a new
well field for drinking water production along the Red River, Nam Du, Ha
Noi”, Applied Geochemistry, Vol. 23, pp.3127-3142.
[88]. Oberthur T. et al. (2002), “Precise U-Pb mineral ages, Rb-Sr and Sm-Nd
systematics for the Great Dyke, Zimbabwe - constraints on late Archean
events in the Zimbabwe craton and Limpopo belt”, Precambrian Research,
Vol. 113, pp. 293-305.
[89]. Paqette J. L. and Pin C. (2001), “A new miniaturized extraction
chromatography method for precise U-Pb zircon geochronology”, Chem.
Geol., Vol.176, pp. 311- 319.
[90]. Parrish R. R. (1987), “An improved micro-capsule for zircon dissolution in U-
Pb geochronology”, Chem. Geol. (Isot. Geosci. Section), Vol. 66, pp. 99-102.
[91]. Parrish R. R., Roddick J. C., Loveridge W. D. and Sullian R. W. (1987),
“Uranium-lead analytical techniques at the geochronology laboratory,
Geological Survey of Canada, Radiogenic age and isotopic studies, Report 1”,
Geological Survey of Canada Paper, Vol. 87, No 2, pp. 3-7.
156
[92]. Pin C. and Bassin C. (1992), “Evaluation of a strontium specific extraction
chromatographic method for isotopic analysis in geological materials”, Anal.
Chim. Acta, Vol. 269, pp. 249-255.
[93]. Pin C. and Santos Zalduegui J. F. (1997), “Sequential Separation of light-rare-
earth elements, thorium and uranium by miniaturized extraction
chromatography: Application to isotopic analyses of silicate rocks”, Anal.
Chim. Acta, Vol. 339, pp. 79-89.
[94]. Pin C., Briot D., Bassin C. and Poitrasson F. (1994), “Concomitant separation
of strontium and samarium-neodymium for isotopic analysis in silicate
samples, based on specific extraction chromatography”, Anal. Chim. Acta,
Vol. 298, pp. 209-217.
[95]. Poriel L., Favre-Réguillon, A., Pellet-Rostaing S., Lemaire M. (2006),
“Zirconium and hafnium separation, part 1. Liquid/liquid extraction in
hydrochloric acid aqueous solution with aliquat 336”, Sep. Sci. Technol., Vol.
41, 1927-1940.
[96]. Richard A. Cox, Derrek H. C. Wintol and Jan Kosler (2003), “Lazer-Ablation
U-Th-Pb in situ dating of zircon and allanite: an example from the October
Harbour granite, Central Coastal Labrador, Canada”, The Canadian
Mineralogist, Vol. 41, pp. 273-291.
[97]. Richard E. Russo, Xianglei Mao, Haichen Liu, Jhanis Gonzalez, and Samuel
S. Mao (2001), Laser Ablation in Analytical Chemistry - A Review, Lawrence
Berkeley National Laboratory, Berkeley, CA 94720, USA.
[98]. Robert S. Krymsky, Moacir J. B. Macambira, Jean-Michel Lafon and Gerson
S. Estumano (2007), “Uranium-lead dating method at the Pará-Iso isotope
geology laboratory, UFPA, Belém - Brazil”, Annals of the Brazilian Academy
of Sciences, Vol. 79, pp. 115-128.
[99]. Shigeaki Ono, Kenichi Funakoshi, Yoichi Nakajima, Yoshinori Tange, Tomoo
Katsura (2003), Phase transition of zircon at high P-T conditions, Okayama
University Digital Information Repository, Okayama University, Japan.
157
[100]. Siebel W., Reitter E., Wenzel T., Blaha U. (2005), “Sr isotope systematics of
K-feldspars in plutonic rocks revealed by the Rb-Sr microdrilling technique”,
Chemical Geology, Vol. 222, pp. 183-199.
[101]. Slama J. et.al. (2008), “A new natural reference material for U-Pb and Hf
isotopic microanalysis”, Chemical Geology, Vol. 249, pp. 1-35.
[102]. Stevenson R. K. and Patchett P. J. (1990), “Implications for the evolution of
continental crust from Hf isotope systematics of Archean detrital zircons”,
Geochim. Cosmochim. Acta, Vol. 54, pp. 1683-1698.
[103]. Strelow F. W. E. (1960), “An Ion Exchange Selectivity Scale of Cations
Based on Equilibrium Distribution Coefficients”, Analytical Chemistry, Vol.
32, No 9, pp. 1185-1188.
[104]. Strelow F. W. E. and Bothma C. J. C. (1967), “Anion exchange and a
selectivity scale for elements in sulfuric acid media with a strongly basic
resin”, Analytical Chemistry, Vol. 39, pp. 595-599.
[105]. Strelow F. W. E., Rethemeyer R. and Botma C. J. C. (1965), “Ion Exchange
Selectivity Scales for Cations in Nitric Acid and Sulfuric Acid Media with a
Sulfonated Polystyrene Resin”, Analytical Chemistry, Vol. 37, No 1, pp. 106-111.
[106]. Susan E. Howe, Christine M. Davidson and Martin McCartney (2002),
“Determination of uranium concentration and isotopic composition by means
of ICP-MS in sequential extracts of sediment from the vicinity of a uranium
enrichment plant”, J. Anal. At. Spectrom., Vol. 17, pp. 497-501.
[107]. Tagami K. and Uchida S., (2004), “Use of TEVA resin for the determination
of U isotopes in water samples by Q-ICP-MS”, Applied Radiation and
Isotopes, Vol. 61, pp. 255-259.
[108]. Taghizadeh M., Ghasemzadeh R., Ashrafizadeh S.N., Saberyan K., Ghanadi
Maragheh M. (2008), “Determination of optimum process conditions for the
extraction and separation of zirconium and hafnium by solvent extraction”,
Hydrometallurgy, Vol. 90, pp. 115-120.
158
[109]. Tilton G. R. and Aldrich C. T. (1955), The reliability of zircons as age
indicators: Transaction - American Geophysical Union, Vol. 36/3, p. 531.
[110]. Vorster C., van der Walt T. N., Coetzee P. P. (2008), “Ion exchange
separation of strontium and rubidium on Dowex 50W-X8, using the
complexation properties of EDTA and DCTA”, Anal. Bioanal. Chem., Vol.
392, pp. 287-296.
[111]. Watson J. T. (1985), Introduction to Mass Spectrometry, 3rd ed., Lippincott-
Raven, New York.
[112]. Williams I. S. (1992), Some observations on the use of zircon U-Pb
geochronology in the study of granitic rocks: Transactions - Royal Society of
Edinburgh: Earth Sciences, Vol. 83, pp. 447-458.
[113]. Yokoyama et al. (1999), “Separation of Thorium and Uranium from Silicate
Rock Samples Using Two Commercial Extraction Chromatographic Resins”,
Anal. Chem., Vol. 71, pp. 135-141.
[114]. Yokoyama et al. (2001), “Uranium Isotope Ananlysis by TIMS”, Chem.
Geol., Vol. 181, pp. 1-12.
[115]. Yokoyama T., Makishima A. and Nakamura E. (1999), “Evaluation of the
incompatible trace elements with fluoride during silicate rock dissolution by
acid digestion”, Chem. Geol., Vol. 157, pp. 175-187.
[116]. Yue-heng Yang, Hong-fu Zhang, Zhu-yin Chu, Lie-wen Xie, Fu-yuan Wu
(2010), “Combined chemical separation of Lu, Hf, Rb, Sr, Sm and Nd from a
single rock digest and precise and accurate isotope determinations of Lu-Hf,
Rb-Sr and Sm-Nd isotope systems using Multi-Collector ICP-MS and TIMS”,
International Journal of Mass Spectrometry, Vol. 290, pp. 120-126.
[117]. Zongshou Yu, Philip Robinson, Peter McGoldrick (2007), “An Evaluation of
Methods for the Chemical Decomposition of Geological Materials for Trace
Element Determination using ICP-MS”, Geostandards and Geoanalytical
Research, Vol. 25, pp. 199-217.
159