ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ KIỀU HƢƠNG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
TỪ GÓC NHÌN CÁC PHẠM TRÙ THẨM MỸ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ KIỀU HƢƠNG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
TỪ GÓC NHÌN CÁC PHẠM TRÙ THẨM MỸ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 62.22.01.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Chủ tịch Hội đồng
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS. Phạm Thành Hƣng
PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập do chính tôi
nghiên cứu và thực hiện. Các số liệu và kết quả trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Kiều Hƣơng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, chia sẻ và giúp đỡ của Nhà trường, các khoa, phòng ban, các thầy cô
giáo, các nhà khoa học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn (Đại học
Quốc gia Hà Nội) và một số cơ quan khác như Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Viện Văn học, Thư viện Quốc gia Việt Nam…Bên cạnh đó, tôi cũng nhận được
nhiều sự giúp đỡ của cơ quan, đồng nghiệp, gia đình, bạn b và đặc biệt là sự hướng
dẫn tận tình của PGS.TS Đoàn Đức Phương. Nhờ đó, tôi đã hoàn thành công trình
nghiên cứu này một cách thuận lợi nhất.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới tất cả quý thầy cô, gia
đình và bạn b , đồng nghiệp đã luôn tin tưởng, động viên và tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngà 01 tháng ...... năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Kiều Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6
5. Đóng góp của luận án .............................................................................................. 8
6. Cấu trúc luận án ...................................................................................................... 9
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................... 10
1.1. Giới thuyết về các phạm trù thẩm mỹ ................................................................ 10
1.1.1. Khái niệm thẩm mỹ và phạm trù thẩm mỹ ...................................................... 10
1.1.2. Các phạm trù thẩm mỹ cơ bản ........................................................................ 11
1.2. Nguyễn Huy Thiệp và hành trình sáng tạo nghệ thuật ....................................... 31
1.2.1. Nhà văn Ngu ễn Huy Thiệp ............................................................................ 31
1.2.2. Hành trình sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Ngu ễn Huy Thiệp ................ 34
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .................... 35
1.3.1. Một số hướng nghiên cứu, tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ............. 35
1.3.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ các phạm trù
thẩm mỹ ..................................................................................................................... 39
Chương 2. CÁI ĐẸP VÀ CÁI CAO CẢ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
HUY THIỆP .............................................................................................................. 45
2.1. Cái Đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ................................................. 45
2.1.1. Quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Huy Thiệp ............................................... 45
2.1.2. Biểu hiện của cái Đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ........................ 48
2.1.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Đẹp trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .............................................................................. 58
2.2. Cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ............................................. 61
2.2.1. Quan niệm về cái Cao cả của nhà văn Ngu ễn Huy Thiệp ............................ 61
2.2.2. Biểu hiện của cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ................... 64
2.2.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Cao cả trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp ..................................................................................................... 77
1
Chương 3. CÁI BI VÀ CÁI HÀI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP83
3.1. Cái Bi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .................................................... 83
3.1.1. Quan niệm về cái Bi của nhà văn Ngu ễn Huy Thiệp .................................... 83
3.1.2. Biểu hiện của cái Bi trong tru ện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ........................... 86
3.1.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Bi trong tru ện ngắn
Ngu ễn Hu Thiệp ..................................................................................................... 96
3.2. Cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ................................................ 100
3.2.1. Quan niệm về cái Hài của nhà văn Ngu ễn Hu Thiệp ................................ 100
3.2.2. Biểu hiện của cái Hài trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp ....................... 102
3.2.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Hài trong tru ện ngắn
Ngu ễn Hu Thiệp ................................................................................................... 118
Chương 4. CÁI NGHỊCH LÝ VÀ CÁI THÔ KỆCH TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN HUY THIỆP ........................................................................................... 124
4.1. Cái Nghịch lý trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ...................................... 124
4.1.1. Quan niệm về cái Nghịch lý của nhà văn Ngu ễn Huy Thiệp ...................... 124
4.1.2. Biểu hiện của cái Nghịch lý trong tru ện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ............. 127
4.1.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Nghịch lý trong tru ện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp ................................................................................................................ 140
4.2. Cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ....................................... 143
4.2.1. Quan niệm về cái Thô kệch của Nguyễn Huy Thiệp ..................................... 143
4.2.2. Biểu hiện của cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp .............. 146
4.2.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp ................................................................................................................ 152
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................ 160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 161
PHỤ LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bản chất của nghệ thuật là một sự trải nghiệm đầy vất vả và gian nan để
khám phá, kiếm tìm cái Đẹp. Người nghệ sĩ từ khi ấp ủ ý tưởng sáng tạo đến lúc thể
hiện ý tưởng đó thành một tác phẩm hoàn chỉnh là cả quá trình lao động “khổ hạnh”
mà “cao quý” như con trai đang chắt chiu làm ngọc giữa lòng biển khơi (Nguyễn
Tuân)… Vậy nhưng, thử thách lớn lao nhất để khẳng định và ghi nhận quá trình lao
động nghệ thuật chân chính của tác giả lại nằm trong chính những giá trị thẩm mỹ
mà tác phẩm có thể mang đến cho công chúng qua quá trình tiếp nhận. Thực tế cho
ta thấy không phải lúc nào những khám phá, nỗ lực của người cầm bút cũng tạo ra
tiếng nói đồng thuận, được người đọc ghi nhận. Điều đó chứng tỏ, tiếp nhận thẩm
mỹ chính là một hành trình “thẩm định” nghệ thuật khắc nghiệt mà bất kỳ sáng tác
chân chính nào cũng phải kinh qua.
1.2. Văn học cũng là một loại hình nghệ thuật đặc biệt - nghệ thuật ngôn từ.
Mỗi sáng tác khi ra đời sẽ phải tìm cho mình một con đường riêng để tồn tại và đến
được với trái tim bạn đọc. Cơ sở của sự tồn tại ấy là những gặp gỡ, đồng điệu về
tình cảm, cảm xúc và đặc biệt là quan niệm, thị hiếu xoay quanh các phạm trù thẩm
mỹ như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái Hài... giữa độc giả và tác giả thông qua cầu
nối là tác phẩm. Do đó, tìm hiểu biểu hiện của các phạm trù thẩm mỹ trong những
sáng tác văn học là một hướng tiếp cận thú vị, phản ánh rõ nét sự kết tinh những giá
trị nghệ thuật của bản thân tác phẩm, đồng thời mang tới cho người nghiên cứu một
cái nhìn toàn diện, khách quan hơn về quá trình sáng tạo của nhà văn cũng như hành
trình tiếp nhận nghệ thuật của bạn đọc.
1.3. Thực tế, đời sống thẩm mỹ của văn chương được tạo nên từ nhiều yếu tố
trong đó có sự xuất hiện của những “hiện tượng văn học”, mỗi hiện tượng là một
vấn đề văn học mà ngay sau khi phát sinh đã tập trung sự chú ý của đông đảo giới
nghiên cứu, phê bình, bạn đọc... đồng thời, nó gây ra những cuộc tranh luận, bút
chiến sôi nổi với nhiều cách nhìn khác biệt, thậm chí mâu thuẫn, trái ngược nhau.
Hiện tượng ấy có thể là sự xuất hiện của một trào lưu văn học, một tác phẩm tầm cỡ
3
hoặc một tác giả có phong cách mới lạ, tạo được sự quan tâm đặc biệt với công
chúng đương thời. Từ đó, để nhìn nhận, khảo sát các phạm trù trong sáng tác một
cách thuyết phục ta không thể bỏ qua sự hiện diện và vai trò thẩm mỹ của các hiện
tượng văn học mang tính thời sự này.
1.4. Trong giai đoạn văn học sau Đổi mới (năm 1986) của nền Văn học Việt
Nam, ta nhận thấy trên văn đàn đã xuất hiện hàng loạt những “hiện tượng văn học” độc
đáo, mới lạ trong đó phải kể đến cây bút tài hoa Nguyễn Huy Thiệp. Các sáng tác (đặc
biệt là các truyện ngắn) của ông đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo độc giả và tạo
nên cả một cuộc tranh luận văn nghệ sôi nổi, quyết liệt, giữa các thế hệ, tầng lớp độc giả
một thời... Nhưng vượt lên trên tất cả những dư luận trái chiều, nhà văn đã không ngừng
tìm tòi, sáng tạo để khẳng định tài năng nghệ thuật của mình cho nền văn nghệ nước nhà.
Tuy nhiên, thực tế ấy cũng đặt ra yêu cầu người nghiên cứu cần xem xét, nhìn nhận
truyện ngắn của hiện tượng văn học này một cách khách quan, hệ thống và kĩ lưỡng hơn
từ góc độ các phạm trù thẩm mỹ bởi giá trị thẩm mỹ là điểm khởi đầu và cũng là đích
đến của mọi quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Như vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp từ
góc nhìn các phạm trù thẩm mỹ” làm hướng khảo sát và nghiên cứu cho luận án
tiến sĩ của mình dựa vào những lí do nêu trên.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các phạm trù phạm trù thẩm mỹ cơ bản
được thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi lý thuyết: Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ tập trung giới
thuyết một số thành tựu lý luận hiện đại có tính hệ thống (được giới nghiên cứu trong
và ngoài nước công nhận) xoay quanh bốn phạm trù thẩm mỹ cơ bản là cái Đẹp, cái
Cao cả, cái Bi, cái Hài để làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Về phạm vi sáng tác: toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã công bố
(xem chi tiết tại Phụ lục 1) là khu vực tác phẩm được chúng tôi trực tiếp khảo sát.
Tập hợp những tác phẩm này sẽ lần lượt được chúng tôi khảo sát, phân tích và đánh
4
giá từ góc nhìn của bốn phạm trù cơ bản của mỹ học là cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi,
cái Hài và hai phạm trù có tính chất “phái sinh” nhưng lại hiện hữu trong vai trò
như một hình thái thẩm mỹ đặc biệt của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cái cái
Nghịch lý và cái Thô kệch. Mặt khác, để tránh sự trùng lặp, dàn trải và tạo được tính
mạch lạc cho vấn đề nghiên cứu, trong quá trình khảo sát, chúng tôi sẽ sắp xếp (một
cách tương đối) sáu phạm trù độc lập nêu trên thành ba cặp có tính chất tương cận
hoặc tương phản về bản chất thẩm mỹ gồm: cái Đẹp và cái Cao cả, cái Bi và cái
Hài, cái Nghịch lý và cái Thô kệch. Ở từng cặp, người viết sẽ giải quyết vấn đề theo
hướng xem xét từ quan niệm thẩm mỹ của chủ thể (tác giả) đến biểu hiện thực tiễn
(tác phẩm) để đánh giá bản chất và hiệu quả thẩm mỹ của các phạm trù nêu trên
trong tương quan giữa tác phẩm với tác giả và bạn đọc.
Ngoài ra, chúng tôi còn quan tâm đến nguồn tư liệu có chứa các quan niệm
nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp như các bài trả lời phỏng vấn trước báo chí, ngôn
luận hoặc các bài tạp văn, tiểu luận phê bình của tác giả được ông tuyển chọn trong
cuốn tạp văn - tiểu luận - phê bình Giăng lưới bắt chim... và những bài viết tranh
luận văn nghệ tiêu biểu về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp được nhà nghiên cứu
Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và tuyển chọn trong tuyển tập Đi tìm Ngu ễn Huy
Thiệp. Đây là hai cơ sở tư liệu quan trọng giúp người nghiên khảo sát được quan
niệm về các phạm trù thẩm mỹ của nhà văn cũng như sự tiếp nhận của người đọc
đối với các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn vận dụng thành tựu lý thuyết
mỹ học hiện đại vào tiếp cận hiện tượng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp để làm rõ
biểu hiện, bản chất và hiệu ứng của các phạm trù thẩm mỹ trong các phẩm. Từ đó,
ta có cơ sở nhìn nhận đúng mực về giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, tài năng nghệ
thuật của nhà văn và vai trò thẩm mỹ của người đọc trước một vấn đề, một tác phẩm
hay một hiện tượng văn học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
5
Thứ nhất, khảo sát cơ sở lý thuyết (về mỹ học và lý luận văn học) và cơ sở
thực tiễn (về tác giả, tác phẩm, lịch sử nghiên cứu) có liên quan đến đề tài làm
tiền đề cho việc nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp.
Thứ hai, tập trung khảo sát và phân tích quan niệm thẩm mỹ của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp về các phạm trù thẩm mỹ như: cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái
Hài, cái Nghịch lý và cái Thô kệch.
Thứ ba, tập trung khảo sát các phương diện biểu hiện của những phạm trù
thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Thứ tư, phân tích và chỉ ra bản chất thẩm mỹ của từng phạm trù được biểu
hiện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Thứ năm, đánh giá hiệu ứng thẩm mỹ của các phạm trù được thể hiện trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dưới sự tiếp nhận của bạn đọc và công chúng.
Cuối cùng, xác lập cơ sở và những nhận thức thẩm mỹ về hiện tượng truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đây là đề tài có tính chất liên ngành do vậy luận án cần vận dụng, phối hợp
nhiều phương pháp trong đó phải kể đến các phương pháp quan trọng như:
Phương pháp loại hình: Phương pháp này cho phép người nghiên cứu phân
loại các hiện tượng văn học cùng nhóm theo những tiêu chí nhất định. Ở đề tài này,
chúng tôi sẽ khu biệt các sáng tác truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thành các loại
hình như truyện về đề tài nông thôn, truyện về đề tài thế sự, truyện danh nhân lịch
sử hay truyện mang màu sắc cổ tích, huyền thoại... để thuận tiện cho quá trình khảo
sát, đánh giá các phương diện thẩm mỹ của từng nhóm tác phẩm.
Phương pháp tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu các truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp từ các phạm trù thẩm mỹ điều này đồng nghĩa với việc người thực hiện vừa
khảo sát các biểu hiện độc đáo, riêng biệt của từng phạm trù nhưng đồng thời cũng
phải xem xét các phạm trù ấy trong tương quan với các phạm trù khác để thấy được
tính hệ thống và sự chuyển hóa, tương tác biện chứng giữa chúng, xem xét sự tương
quan giữa các phạm trù (mang tư cách là các khách thể) với quan niệm thẩm mỹ của
6
các chủ thể (tác giả, người đọc) trong một chu trình nghệ thuật chỉnh thể. Thêm vào
đó, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng văn học tiêu biểu cho văn học
thời kỳ Đổi mới (sau 1986), lẽ tất yếu, những kiến giải về các phạm trù thẩm mỹ
trong những sáng tác này cần được đặt trong sự so sánh, đối chiếu với các tác giả,
tác phẩm hay các hiện tượng văn học tiêu biểu khác trong dòng chảy của nền văn
học Việt Nam nói chung và nền văn học Việt Nam đương đại nói riêng. Do đó,
phương pháp hệ thống giúp cho người nghiên cứu có những đánh giá cần thiết,
đúng mực về những giá trị thẩm mỹ cả mặt tích cực lẫn hạn chế, cả bước tiến lẫn
điểm tới hạn trong hành trình sáng tạo truyện ngắn của nhà văn khi xuất phát từ
điểm nhìn là các phạm trù thẩm mỹ.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Cơ sở lý luận của đề tài bắt nguồn từ
các lý thuyết của mỹ học - một ngành khoa học độc lập mà đối tượng nghiên cứu và
sự ứng dụng của nó bao trùm lên hầu khắp các lĩnh vực của đời sống, con người và
nghệ thuật. Vì thế, khi vận dụng cơ sở lý luận này vào nghiên cứu các phạm trù
trong một hiện tượng văn học cụ thể nghĩa là ta không chỉ nghiên cứu chúng như
một hình thái ý thức thẩm mỹ đặc biệt của chủ thể ở một loại hình nghệ thuật cụ thể
mà còn phải quan tâm đến yếu tố tâm lý, bản chất xã hội, dấu ấn văn hóa... là những
môi trường thẩm mỹ tác động, chi phối trực tiếp đến quá trình thể hiện của các
phạm trù trong sáng tác. Chính vì thế, phương pháp nghiên cứu liên ngành đặc biệt
có ý nghĩa khi nó giúp chúng ta chỉ ra và cắt nghĩa được một cách thuyết phục bản
chất thẩm mỹ cũng như hiệu quả của việc lựa chọn, phản ánh các phạm trù ấy trong
tác phẩm của nhà văn.
Phương pháp tiếp cận thi pháp học: tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
từ góc nhìn các phạm trù thẩm mỹ ngoài việc chỉ ra biểu hiện đặc trưng của từng
phạm trù trong các sáng tác, người nghiên cứu còn phải làm sáng tỏ được quy luật
hình thành và hiệu quả nghệ thuật mà những phạm trù ấy tạo ra cho đời sống văn
học, cho nhà văn, tác phẩm và bạn đọc. Vậy nên phương pháp tiếp cận thi pháp học
sẽ giúp xác lập được các phương tiện, biện pháp nghệ thuật mà nhà văn sử dụng để
thể hiện các phạm trù một cách thành công và giá trị nhất.
7
Phương pháp tiếp cận văn hóa học: để giải mã bản chất và hiệu ứng thẩm
mỹ của các phạm trù được thể hiện trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cần
một cái nhìn đa chiều từ nhiều góc độ trong đó có văn hóa. Do vậy, phương pháp
này đặc biệt có ý nghĩa giúp người nghiên cứu nắm bắt được các tác động, dấu ấn
của trường văn hóa lên đời sống thẩm mỹ của mỗi tác phẩm, lên quan niệm thẩm
mỹ và quá trình sáng tạo của nhà văn cũng như tác động tâm thức, mỹ cảm trong
quá trình tiếp nhận nghệ thuật của độc giả xoay quanh các hiện tượng thẩm mỹ.
Bên cạnh đó là các nguyên tắc phương pháp luận của một số lý thuyết như:
Các nguyên tắc phương pháp luận của lý thuyết Mỹ học: mỹ học đại cương,
mỹ học Hegel, mỹ học Marx - Lenin…
Các nguyên tắc phương pháp luận của lý thuyết Mỹ học tiếp nhận.
Các nguyên tắc phương pháp luận của các lý thuyết phê bình mới như phê
bình nữ quyền, phê bình sinh thái,…
Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các các thao tác phân tích, đối chiếu, so
sánh, thống kê, tổng hợp để từng bước giải quyết triệt để và hiệu quả nhất các
nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận án
Về mặt lý thuyết: Luận án là công trình khoa học chuyên biệt đầu tiên nghiên
cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn các phạm trù thẩm mỹ một cách
chủ đích và có hệ thống.
Về mặt thực tiễn:
Thứ nhất, bên cạnh các hướng nghiên cứu khác như tự sự học, trần thuật học, thi
pháp học, văn hóa học…luận án góp phần bổ sung thêm một hướng tiếp cận văn học mới có
tính chất đa diện, tích cực và khả thi, đó là hướng tiếp cận thẩm mỹ các tác phẩm văn học.
Đây là nỗ lực trả cho những sáng tác trở về đúng bản chất nghệ thuật của mình là “đối tượng
thẩm mỹ” trung tâm của cả hoạt động sáng tác và tiếp nhận văn học. Từ đó, việc nghiên cứu
tác phẩm sẽ xuất phát từ quá trình khảo sát trực tiếp biểu hiện của các phạm trù thẩm mỹ (cái
Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái Hài...) trong tác phẩm, từ đó đánh giá bản chất, hiệu ứng mà các
phạm trù này đã mang lại trong tương quan với bản thân sáng tác, với nhà văn và người đọc.
8
Thứ hai, về mặt nhận thức luận: Từ sau công cuộc đổi mới năm 1986, đời sống văn
nghệ đặc biệt ở lĩnh vực sáng tác, lý luận và phê bình văn học nước nhà đã có nhiều bước
tiến đáng kể về cả mặt lý thuyết lẫn thực tiễn. Quan niệm thẩm mỹ của nhà văn, độc giả và
người nghiên cứu cũng có phần cởi mở hơn. Tuy nhiên, những xung đột về mỹ cảm giữa
các thời đại, giữa tư duy truyền thống với hiện đại, giữa sự thử nghiệm táo bạo của nhà văn
với tầm đón nhận của người đọc… vẫn luôn hiện hữu và tạo ra nhiều cuộc tranh luận văn
học nảy lửa trong đó có cuộc tranh luận về truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Do
vậy, chúng tôi hy vọng luận án này sẽ mang đến cách nhìn thấu đáo hơn về các phương diện
thẩm mỹ trong hành trình sáng tạo truyện ngắn của nhà văn.
Như vậy, với giá trị khoa học và thực tiễn trên luận án góp phần mở rộng và bổ sung
tư liệu cho việc giảng dạy, nghiên cứu và tìm hiểu kiến thức ở một số nội dung cụ thể như:
các tác giả, các hiện tượng văn học tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam hiện đại, sự vận
động của thể loại truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay, vấn đề thực tiễn về mối quan hệ
thẩm mỹ giữa các thành tố nhà văn - tác phẩm - người đọc từ một hiện tượng văn học tiêu
biểu, tiếp cận tác phẩm văn học từ các phạm trù thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh,
sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa, bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho giáo viên Ngữ văn ở
trường phổ thông, vấn đề về vận dụng lý thuyết mỹ học trong nghiên cứu, phê bình và giảng
dạy văn học…
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cái Đẹp và cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Chương 3: Cái Bi và cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Chương 4: Cái Nghịch lý và cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thuyết về các phạm trù thẩm mỹ
1.1.1. Khái niệm thẩm mỹ và phạm trù thẩm mỹ
Trước khi đi hệ thống hóa cơ sở lý thuyết của luận án chúng ta không thể
không quan tâm đến nội hàm các khái niệm có tính chất tiền đề là Thẩm mỹ và
Phạm trù thẩm mỹ. Nói cách khác, câu hỏi nghiên cứu đầu tiên chúng ta phải trả lời
là thẩm mỹ và phạm trù thẩm mỹ là gì?
Xem xét khái niệm từ góc độ ngữ nghĩa phổ thông, Từ điển tiếng Việt do
Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học
biên soạn và phát hành năm 1992 có định nghĩa:
Thẩm mỹ chỉ sự cảm thụ và hiểu biết về cái Đẹp. Ví dụ: Khiếu thẩm mỹ. Giá
trị thẩm mỹ. Chức năng thẩm mỹ của văn học [109, 906].
Phạm trù: Nghĩa gốc của từ phạm trù được từ điển chỉ ra từ hai góc độ khái
quát và cụ thể: 1. Là khái niệm khoa học phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ
chung, cơ bản nhất của các hiện tượng. Ví dụ: Vật chất, vận động, không gian,
v.v… là những phạm trù của triết học. 2. Là khái niệm khoa học biểu thị loại sự vật,
hiện tượng hay những đặc trưng chung nhất của chúng. Ví dụ: Các phạm trù ngữ
pháp [109, 754]. Theo đó, ta có thể hiểu Phạm trù thẩm mỹ là khái niệm chỉ sự
nhận thức khái quát của con người về những thuộc tính, sự tồn tại và mối quan hệ
phổ biến của cái Đẹp. Tuy nhiên, cách định nghĩa này vô hình chung đã làm thu hẹp
nội hàm khái niệm và chưa thật đủ sức khái quát cho ý nghĩa và vai trò là khái niệm
công cụ của lý thuyết mỹ học.
Về bản chất, hai thuật ngữ này đều là những thuật ngữ có nguồn gốc triết
học, sau đó được sử dụng một cách phổ biến trong hệ thống lý luận của mỹ học khi
nó tách ra thành một ngành khoa học độc lập. Chính vì thế, để định nghĩa, ngoài
ngữ nghĩa từ vựng ta còn phải dựa vào ý nghĩa khởi sinh triết học của chúng. Trong
cuốn Từ điển triết học do Cung Kim Tiến biên soạn có định nghĩa:
10
Phạm trù trong triết học là những khái niệm cơ bản phản ánh những đặc
tính, những mặt, những quan hệ bản chất nhất và chung nhất của các hiện tượng
của hiện thực và nhận thức [163, 861].
Thẩm mỹ (cái thẩm mỹ) là sự biểu hiện cảm tính - đối tượng của các mặt
quan hệ xã hội khách quan góp phần hoặc không góp phần vào sự phát triển hài
hòa của cá thể, hoạt động sáng tạo tự do của cá thể nhằm xâ dựng cái đẹp, nhằm
hiện thực cái cao thượng và cái anh hùng, nhằm đấu tranh chống lại cái xấu và cái
thấp hèn [...] bao gồm cả mặt chủ quan - sự khoái cảm của con người về sự biểu
hiện tự do những năng lực và sức mạnh xâ dựng của mình về vẻ đẹp những sản
phẩm của hoạt động sáng tạo của con người trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội
và đời sống cá nhân [...] Biểu hiện đầ đủ nhất và tổng quát nhất của cái thẩm mỹ
là nghệ thuật [163, 165].
Từ những gợi dẫn trên, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát nhất:
1. Thẩm mỹ là thuật ngữ dùng để chỉ sự cảm thụ và hiểu biết về cái thẩm mỹ
(cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái Hài...) mà trung tâm của nó là cái Đẹp.
2. Phạm trù thẩm mỹ là thuật ngữ chỉ sự nhận thức khái quát của con người về
những thuộc tính, sự tồn tại và mối quan hệ phổ biến của các hiện tượng thẩm mỹ (cái thẩm
mỹ) trong các lĩnh vực tự nhiên, đời sống xã hội, con người và nghệ thuật.
Có thể nói, kết quả của mọi thao tác duy danh định nghĩa khái niệm đều chỉ
có tính chất tương đối và việc đưa ra ý niệm về hai thuật ngữ thẩm mỹ và phạm trù
thẩm mỹ cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của mình,
việc nỗ lực xác lập nội hàm cơ bản của hai thuật ngữ công cụ trên là điều khả dĩ và
cần thiết cho những khái quát lý thuyết phía sau.
1.1.2. Các phạm trù thẩm mỹ cơ bản
1.1.2.1. Cái Đẹp
Cái Đẹp (Tiếng Anh: Beauty) là phạm trù ra đời sớm nhất, phạm trù giữ vai
trò trung tâm trong đời sống thẩm mỹ và mỹ học. Lịch sử của cái Đẹp gắn liền với
lịch sử của loài người. Từ cổ xưa đến nay người ta không ngừng tìm hiểu và lý giải
11
về cái Đẹp, song để đi đến một quan niệm thống nhất tương đối về nó thì không
mấy dễ dàng.
Trước khi mỹ học Marx-Lenin ra đời, trong lịch sử tư tưởng mỹ học đã tồn tại ba
khuynh hướng chính về cái Đẹp: Khuynh hướng duy tâm khách quan (tiêu biểu là Platon,
Hegel..) cho rằng cái Đẹp không có trong hiện thực mà chỉ có trong ý niệm của con người, cái
Đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái Đẹp trong tự nhiên..., Khuynh hướng duy tâm chủ quan (người
đại diện tiêu biểu là Kant) cho rằng cái Đẹp tồn tại trong ý thức của chủ thể, trong cảm xúc chủ
quan cá nhân. Khuynh hướng duy vật trước Marx (tiêu biểu là các nhà mỹ học dân chủ Nga như
Chernyshevsky) đã tìm thấy cơ sở của cái Đẹp trong hiện thực cuộc sống, cái Đẹp đa dạng và
phong phú như chính cuộc sống của mỗi con người... [26, 72-75]. Điểm qua ba khuynh hướng
này đều nỗ lực lý giải sự tồn tại của cái Đẹp nhưng lại thu hẹp nội hàm khái niệm, đồng nhất bản
chất của cái Đẹp với một phương diện biểu hiện thẩm mỹ cụ thể của phạm trù.
Kế thừa hạt nhân lý luận của các quan điểm mỹ học truyền thống và khắc
phục những hạn chế của nó, mỹ học Marx-Lenin đã lý giải: “Bản chất của cái Đẹp
là sự thống nhất biện chứng giữa hai nhân tố khách quan và chủ quan” [26, 76].
Yếu tố khách quan biểu hiện ở sự hài hoà của các sự vật hiện tượng, là sự thống
nhất hữu cơ giữa các yếu tố, giữa cái bộ phận và cái toàn thể, giữa hình thức bên
ngoài với phẩm chất bên trong. Yếu tố chủ quan biểu hiện ở chỗ cái Đẹp mang tính
lịch sử, tính xã hội, tính giai cấp, tính dân tộc, tính thời đại...và cả yếu tố cá nhân.
Về bản chất thẩm mỹ, cái Đẹp tạo nên từ sự hài hòa, thống nhất giữa quan
niệm của chủ thể thẩm mỹ với thuộc tính, phẩm chất của khách thể thẩm mỹ. Một
hiện tượng được coi là đẹp trước hết bản thân sự vật hiện tượng đó phải có những
phẩm chất nhất định và những phẩm chất đó phù hợp với quan niệm về chuẩn mực
của cái Đẹp của con người. Những điều này đã ít nhiều được nhắc tới trong quan
niệm của những học giả thời kỳ cổ đại. Trong phần VII - tác phẩm Nghệ thuật thi
ca, nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristote (384-322 CN) đã khẳng định thuộc tính hài
hòa khách quan ở kích thước và trật tự là phẩm chất tất yếu để những sự vật hiện
tượng được xem là đẹp: “Cái Đẹp là ở trong kích thước và trật tự, do đó, một vật quá bé
không thể trở thành đẹp, vì thoắt nhìn đã qua, không kịp thu nhận, một vật quá lớn cũng
không thể trở thành đẹp, vì một lúc không thể bao quát vật đó ngay được” [2, 41].
12
Hay trong chương “Nguyên đạo” của cuốn Văn tâm điêu long khi bàn về nguồn gốc
của văn chương, Lưu Hiệp cũng đề xuất khái niệm “văn” được hiểu như phẩm chất
hài hòa, đẹp tự nhiên của sự vật, con người và văn chương nghệ thuật:
Con người có hoạt động tinh thần (tâm) thì lời nói xuất hiện, lời nói xuất
hiện thì cái văn mới sáng lên... Bên cạnh [con người], bất kỳ vật gì, trong động vật
[cũng như] thực vật cũng đều có văn cả. Con rồng, con phượng lấ [vả , lông, màu
sắc]... mà báo điềm lành. Con hổ, con beo nhờ có [bộ da] vằn vện mà có vẻ u
nghi. Màu sắc tươi đẹp của mâ , của ráng còn vượt qua cái tài khéo léo của người
họa sĩ... Những điều [nói trên] đâu phải là những trang sức bên ngoài do con người
đưa đến. Chúng đều là cái khách quan (tự nhiên) mà thôi [58, 16].
Như vậy, thuộc tính hài hòa hàm chứa tính toàn vẹn, hợp lý, cân đối và tương
xứng của mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc nội dung, bản chất với các yếu tố thuộc cấu
trúc bề ngoài của đối tượng thẩm mỹ, của mối quan hệ giữa đối tượng này với chủ thể
thẩm mỹ.
Hoàn thiện thẩm mỹ là một nội dung cơ bản của cái Đẹp, trong đó có mức độ
đạt tới cao nhất, hoàn hảo nhất, tròn vẹn nhất, đầy đủ nhất của đối tượng thẩm mỹ,
của chủ thể thẩm mỹ và mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng thẩm mỹ
[54, 65]. Trong cái Đẹp, các thuộc tính thẩm mỹ tích cực của đối tượng thẩm mỹ đạt
tới mức tối ưu, đáp ứng được chuẩn mực về cái Đẹp mà lý tưởng thẩm mỹ đã đề ra,
đồng thời chính các thuộc tính hoàn hảo này đã gợi ra ở chủ thể thẩm mỹ những cao
trào tình cảm đầy tươi vui, hào hứng, thích thú mang tính nhân văn, đó là lúc ta có
cái Đẹp lý tưởng hay cái Đẹp hoàn mỹ. Mối quan hệ giữa hài hòa thẩm mỹ và hoàn
thiện thẩm mỹ là mối quan hệ biện chứng: hài hòa thẩm mỹ là tiền đề, điều kiện của
hoàn thiện thẩm mỹ, ngược lại, nhờ hoàn thiện thẩm mỹ, hài hòa thẩm mỹ mới thật
sự đầy đủ và có tính tích cực.
Không dừng ở đó, về bản chất, cái Đẹp còn là cái mang lại những cảm xúc
tích cực cho con người. Nhờ cái Đẹp, con người nhận ra mặt thẩm mỹ tích cực của
thế giới xung quanh và của chính bản thân con người vì cái Đẹp bao giờ cũng trực
tiếp đem lại cho con người tình cảm tích cực, kích thích con người vươn tới những
giá trị tốt đẹp của cái Chân, Thiện, Mỹ. Nói cách khác, cái Đẹp trở thành động lực
13
và cũng là mục đích của sự phát triển con người về phương diện thẩm mỹ. Đó cũng
là cơ sở giúp ta lý giải vì sao, cái Đẹp luôn là phạm trù trung tâm của đời sống mỹ
học, của đời sống con người và đời sống nghệ thuật.
Qua những phân tích trên, ta có thể định nghĩa: cái Đẹp là phạm trù trung tâm của
mỹ học, dùng để chỉ một phẩm chất thẩm mỹ của sự vật khi nó phù hợp với quan niệm của
con người về sự hoàn thiện và tính lý tưởng, có khả năng gợi lên ở con người một thái độ
thẩm mỹ tích cực do sự tác động qua lại giữa đối tượng và chủ thể.
Xem xét các lĩnh vực biểu hiện của cái Đẹp, ta có thể thấy cái Đẹp biểu hiện
rất phong phú, đa dạng trong cả tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong con người và
đặc biệt là trong nghệ thuật. Về cái Đẹp trong tự nhiên, đó là cái Đẹp mang tính
khách quan do những phẩm chất tích cực của sự vật hiện tượng mang lại cảm giác
dễ chịu, khoan khoái cho con người khi bắt gặp như sắc vàng của cánh đồng lúa
chín, vẻ đẹp của cảnh sắc mùa xuân, ánh sáng của đêm trăng rằm… Cái Đẹp của tự
nhiên tuy tồn tại khách quan nhưng có tác dụng đặc biệt đến quá trình lao động sáng
tạo của con người. Nó gợi mở sự liên tưởng, sức sáng tạo và phát triển của con
người và nó càng đẹp hơn khi được soi chiếu trong mối quan hệ với con người. Vẻ
đẹp của các thắng cảnh sẽ thêm phần hấp dẫn khi nó được gắn với những câu
chuyện kể dân gian. Vẻ đẹp của cánh đồng, đêm trăng, đất, nước... sẽ trở nên thi vị
hơn khi nó được miêu tả trong các tác phẩm nghệ thuật của người nghệ sĩ, bằng cảm
quan riêng của người nghệ sĩ. Do đó, khi xét cái Đẹp trong tự nhiên, ta không dừng
ở những phương diện cấu trúc, hình dáng, màu sắc, phẩm chất… mà còn xét nó
trong mối tương quan với đời sống, tư tưởng và tình cảm của con người.
Về cái Đẹp trong xã hội, đó là kết quả của hoạt động thực tiễn của con người thể hiện
ở tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội từ lao động sản xuất, đấu tranh xã hội đến vui chơi, giải
trí, thể thao, hội h ... Cái Đẹp trong xã hội cũng rất phong phú, nó phối hợp được cả vẻ đẹp
màu sắc, hình dáng... bên ngoài lẫn vẻ đẹp bên trong bắt nguồn từ quan niệm chính trị, đạo
đức, truyền thống, phong tục. Tuy nhiên, khác với vẻ đẹp vốn có của tự nhiên, cái Đẹp trong
xã hội về bản chất là cái Đẹp được tạo ra từ bàn tay, khối óc và sức sáng tạo của con người
nên nó mang tính chủ quan và có liên quan mật thiết đến các quan niệm có tính lý tưởng của
con người về cái Đẹp trong tương quan với lý tưởng chính trị, đạo đức, tôn giáo...
14
của từng thời đại. Cơ sở đánh giá cái Đẹp trong tự nhiên liên quan tới tính quy luật
và tính hợp lý của các hiện tượng tự nhiên trong quan hệ thẩm mỹ với con người
còn cơ sở “đầu tiên” để đánh giá cái Đẹp trong xã hội là ý nghĩa của nó với hoạt
động và đời sống con người. Cái Đẹp thực tiễn sản xuất là sự hài hòa và hoàn
thiện trong hoạt động thẩm mỹ của chủ thể sản xuất và phẩm chất đó được vật
chất hóa (hiện thực hóa) trong sản phẩm sản xuất có giá trị thẩm mỹ tích cực đối
với xã hội. Do đó, tiêu chí để xác định các sự vật hiện tượng trong xã hội là đẹp
thường dựa trên sự phù hợp giữa cái Đẹp với cái có ích, cái tiến bộ, cái đạo đức,
cái thiện...
Về cái Đẹp trong nghệ thuật, đó là cái Đẹp bắt nguồn từ cuộc sống nhưng đã
được tái tạo qua bàn tay của người nghệ sĩ. Do vậy, nó là cái Đẹp chủ quan, mang
đậm cá tính sáng tạo của chủ thể. Cái Đẹp trong nghệ thuật thể hiện tập trung nhất
quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Trong bất kỳ hoạt động nào, con
người cũng đều “sáng tạo theo quy luật cái Đẹp” (Karl Marx), nhưng không ở đâu
việc sáng tạo ra cái Đẹp lại chiếm vị trí quan trọng như trong nghệ thuật. Điều này
cũng được khẳng định rất rõ trong các luận điểm bàn về cái Đẹp ở cuốn Mỹ học của
Hegel. Trong quan điểm của mình, ông thừa nhận sự tồn tại của những vẻ đẹp
khách quan, tự nhiên nhưng chỉ đề cao cái Đẹp trong nghệ thuật: “Nghệ thuật không
những không phải là một ngoại hiện trần truồng mà ta phải thừa nhận rằng các tác
phẩm của nó một thực tại cao hơn và chân thực hơn so với tồn tại khách quan hàng
ngày” [54, 66]. Cái Đẹp trong tự nhiên hay trong đời sống tồn tại phong phú, đa dạng
nhưng tản mát và dễ bị chìm lấp vào các sự vật hiện tượng bình thường thì cái Đẹp trong
nghệ thuật lại mang tính điển hình, không lặp lại. Do đó, nó tách được bản thân đối tượng
được phản ánh ra khỏi những yếu tố thực dụng để tạo ra những cảm xúc, rung động sâu sắc
cho người thưởng thức. Xã hội loài người đã có những bước tiến rất xa về thời đại và thành
tựu văn minh so với quá khứ nhưng chúng ta vẫn không thể phủ nhận vẻ đẹp bất tử toát ra từ
những tuyệt tác điêu khắc của Michaelangelo (1475-1564), những bức tranh nổi tiếng của
danh họa tài ba Picasso (1881-1973) hay từ các tác phẩm nổi tiếng của những ngành nghệ
thuật khác. Nói cách khác, nhờ có tính điển hình mà cái Đẹp trong nghệ thuật có thể sống
mãi với thời gian.
15
Không dừng ở đó, cái Đẹp trong nghệ thuật mang tính biểu cảm. Điều này
bắt nguồn từ chính bản chất của nghệ thuật là những hoạt động nhằm tạo ra những
giá trị, những khoái cảm về mặt tinh thần cho chủ thể - con người. Điều này đã
được Aristote đề xuất khi lý giải nguồn gốc của nghệ thuật từ khái niệm “mô
phỏng” (mimesis):
Nói chung, dường như có hai ngu ên nhân... hai ngu ên nhân tự nhiên đã
làm nả sinh ra nghệ thuật thơ ca. Thứ nhất, sự mô phỏng vốn sẵn có ở con người
từ thuở nhỏ... thứ hai là: những sản phẩm của sự mô phỏng mang lại thích thú cho
con người [2, 24].
Cái Đẹp trong nghệ thuật là sự mô phỏng cái Đẹp đời sống nhưng qua lăng
kính chủ quan của người sáng tạo. Bởi thế, mỗi vẻ đẹp được thể hiện trong các
tác phẩm đều gắn liền với một tình cảm, cảm xúc, thái độ của chủ thể để rồi các
tác phẩm ấy khi đến với người thưởng thức một lần nữa lại truyền thêm xúc cảm
thẩm mỹ cho con người trong quá trình tiếp nhận nghệ thuật. Đọc những câu thơ
miêu tả về vẻ đẹp thanh bình của dòng sông quê trong thơ Tế Hanh ta thấy chất
chứa ở đó tình yêu và nỗi nhớ quê hương, nhớ những kí ức hồn nhiên của tuổi
thơ da diết:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng
(Nhớ con sông quê hương - Tế Hanh).
Ngắm nhìn vẻ đẹp thơ mộng, kiều diễm mê hoặc lòng người của dòng sông
Hương trong tác phẩm bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc
Tường người đọc cũng cảm nhận được thật rõ tình yêu và niềm tự hào sâu sắc mà
tác giả dành riêng cho dòng Hương giang, cho đất và Người xứ Huế. Như vậy, ngay
cả khi người nghệ sĩ phản ánh những vẻ đẹp mang tính khách quan của thiên nhiên,
của con người hay cuộc sống, họ cũng đã lồng vào trong đó thái độ, cảm xúc và
nhận thức chủ quan của mình. Do đó, cái Đẹp trong nghệ thuật đích thực không bao
giờ chấp nhận sự minh họa, sao chép giản đơn những vẻ đẹp của đời sống mà luôn
16
mang tính tư tưởng, là một sự khám phá và thể nghiệm quan điểm về cái Đẹp của
riêng người nghệ sĩ. Khảo sát vấn đề này trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ta
càng có cơ sở đích đáng để khẳng định kết luận đó.
Ngoài ra, cái Đẹp trong nghệ thuật còn là cái Đẹp mang tính chỉnh thể. Nếu
cái Đẹp trong tự nhiên hay trong những phạm vi nhất định của đời sống chấp nhận
những vẻ đẹp thuần túy (hoặc thuộc phương diện khách quan bề ngoài, hoặc thuộc
phương diện chủ quan bên trong) thì nghệ thuật lại luôn đòi hỏi và hướng tới sự thể
hiện một vẻ đẹp có tính hoàn thiện, hoàn mỹ cả về nội dung lẫn hình thức. Điều này
giúp ta lý giải tại sao với một tác phẩm điêu khắc hay hội họa, ta không chỉ xem xét
nó ở góc độ vật chất (làm bằng chất liệu gì, đường nét, hình khối màu sắc ra sao)
mà còn quan tâm tới cách thức thể hiện, những nội dung, giá trị tinh thần mà tác
phẩm ấy mang lại. Tương tự như vậy, trong văn học, chỉnh thể trở thành một thuộc
tính tất yếu làm nên vẻ đẹp cho mỗi hình tượng, mỗi tác phẩm. Đó là sự hài hóa,
thống nhất cao độ giữa yếu tố nội dung và hình thức, giữa các yếu tố bộ phận và
chỉnh thể khiến chỉ một chi tiết nhỏ bị thay đổi đã có thể phá vỡ toàn bộ cấu trúc
nghệ thuật độc đáo của hình tượng, của thế giới nghệ thuật trong sáng tác ấy. Đơn
giản như vẻ đẹp của một câu ca dao:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
(Ca dao)
Câu thơ lục bát gợi tả khung cảnh thanh bình đêm trăng tát nước để mượn cớ
mở lời tỏ lòng chàng trai với cô gái thật ý nhị, duyên tình: ánh trăng đẹp thế, sao em
nỡ múc nước làm tan bóng trăng vàng? Nhưng những vẻ đẹp duyên tình gợi mở ấy
cùng nhịp điệu, âm, vần của toàn bộ bài ca dao sẽ bị phá vỡ nếu ta thay từ “vàng”
(trong cụm ánh trăng vàng) bằng từ”tròn” (thành ánh trăng tròn) dù hai từ có vị trí
tương đương đều là tính từ dùng để miêu tả trạng thái của ánh trăng. Có thể nói,
trong nghệ thuật, mọi chất liệu được đưa vào trong tác phẩm đều là một lựa chọn có
tính mục đích và tính tự giác cao độ nhằm tập trung biểu hiện nội dung tư tưởng của
sáng tác ấy. Vì vậy, cái Đẹp trong nghệ thuật cũng là cái Đẹp có tính tư tưởng, nó
17
luôn hướng tới sự hoàn thiện hoàn mỹ trên mọi phương diện cả nội dung lẫn hình
thức, cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần.
Tóm lại, việc hướng tới cái Đẹp, kiến tạo và thể hiện cái Đẹp là một trong
những tiêu chí chủ yếu mà người nghệ sĩ hướng tới ngay từ đầu. Nghệ thuật không
phải duy nhất quan tâm, khám phá và sáng tạo ra cái Đẹp nhưng đây lại là là “mảnh
đất” màu mỡ khám phá và thể hiện về cái Đẹp tập trung, phong phú, giàu tính thẩm
mỹ và thuyết phục nhất.
1.1.2.2. Cái Cao cả
Cái Cao cả (Tiếng Anh: Sublime) cũng là một phạm trù cơ bản của mỹ học.
So với phạm trù cái Đẹp, nó ra đời muộn hơn: lần đầu tiên được đề cập tới trong
công trình Bàn về cái Cao cả của Pxepdo Longin (213 - 273) trong lĩnh vực tu từ
học. Theo đó, thuật ngữ Sublime có thể được hiểu với các nghĩa đồng đẳng như: cái
Cao cả, cái trác tuyệt, cái anh hùng, cái cao thượng, cái hùng tráng... Tuy nhiên, cái
Cao cả chỉ thực sự trở thành một phạm trù thẩm mỹ độc lập khi nó được khảo sát và
nghiên cứu toàn diện qua các công trình nghiên cứu của các nhà lý luận của chủ
nghĩa cổ điển (thế kỉ XVII), các nhà lý luận thời kỳ Khai Sáng (thế kỉ XVIII) và các
nhà mỹ học cổ điển Đức (thế kỉ XIX) [26, 90].
Về bản chất thẩm mỹ, cái Cao cả cũng được xác lập dựa trên mối quan hệ
mật thiết, thống nhất giữa các đặc tính của khách thể thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ.
Trước hết, về phía khách thể hay đối tượng thẩm mỹ của cái Cao cả là các sự vật,
hiện tượng bộc lộ cái Đẹp mang tính phi thường về nhiều mặt thuộc khối lượng
hoặc chất lượng và nhiều khi là cả khối lượng lẫn chất lượng. Chernyshevsky từng
khẳng định:
Cái Cao cả là cái to lớn hơn tất cả những cái mà ta so sánh với nó... Một vật cao
cả là vật có qu mô vượt hẳn những vật mà ta đem so sánh với nó, hiện tượng cao cả là
hiện tượng mạnh hơn những hiện tượng khác mà ta đem ra so sánh với nó [26, 92].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn cũng chỉ
nhấn mạnh bản chất phi thường, có sức mạnh bí ẩn của cái Cao cả:
18
Phạm trù mỹ học xác định giá trị thẩm mỹ của những đối tượng và hiện
tượng có ý nghĩa xã hội tích cực, nhưng do sức mạnh và qu mô kỳ vĩ của mình nên
chưa thể được xã hội và các cá nhân hiểu hoàn toàn nga tức khắc, chúng vẫn hàm
chứa trong mình những sức lực tiềm tàng [4, 27].
Hay trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả lại nhận định hai
thuộc tính quan trọng của cái Cao cả là “tính vĩ đại” và “tính ưu việt” được hiểu
như “một sức mạnh tiềm tàng lớn” [44, 39].
Như vậy, sự phi thường, tính “trội” đặc biệt, hiếm có của đối tượng thẩm mỹ trong
cái Cao cả có thể khái quát thành ba loại: Thứ nhất là sự phi thường của quy mô, phạm vi,
kích thước bề ngoài của đối tượng vượt hơn hẳn chuẩn mực quen thuộc mà tri giác cảm tính
của con người thường xác định như sự uy nghi, hùng vĩ của núi non, vẻ mênh mông của
biển cả, vực sâu hun hút hay những thảo nguyên rộng lớn bao la... Thứ hai là sự phi thường
bên trong thể hiện ở sức mạnh, tinh thần của đối tượng thẩm mỹ. Sự phi thường này không
nhận thức được trực tiếp dễ dàng bằng cảm tính thuần túy, mà đòi hỏi chủ thể thẩm mỹ phải
có nhận thức tích cực, sâu sắc, đúng đắn như khí phách của những người anh hùng, trí tuệ
của các bậc vĩ nhân... Họ là những con người bằng sức mạnh của tinh thần, của ý chí dám
thực hiện những hành động cao đẹp, phi thường, sẵn sàng vượt qua mọi trở lực để đạt được
mục đích cao cả đặt ra. Thứ ba là sự phi thường ở những sự vật, hiện tượng vừa to lớn, đồ sộ
về tầm vóc, số lượng lại vừa chứa đựng những sức mạnh phi thường như: bão tố, núi lửa,
sóng thần,... các cuộc khởi nghĩa, các phong trào cách mạng... Còn về phía chủ thể, đứng
trước những sự vật, hiện tượng có tính chất cao cả, thường gợi lên ở con người những cảm
xúc choáng ngợp, ngưỡng vọng, sùng bái, đôi khi có phần chới với, bối rối và lo sợ. Sắc thái
cảm xúc tuỳ thuộc vào mức độ biểu hiện của cái Cao cả nhưng về bản chất nó là những cảm
xúc thẩm mỹ tích cực, nó khơi dậy niềm tin và khát vọng chinh phục, chiếm lĩnh đối tượng
cho chủ thể.
Tóm lại, cái Cao cả là một phạm trù cơ bản của mỹ học, phản ánh giá trị
thẩm mỹ tích cực của các sự vật, hiện tượng có khối lượng và chất lượng phi
thường, đem lại cho con người những xúc cảm mãnh liệt sâu sắc, khơi gợi ý chí,
khát vọng vượt qua khó khăn, thử thách để vươn tới những đỉnh cao.
19
Về các lĩnh vực biểu hiện của cái Cao cả, nó cũng tồn tại trong cả tự nhiên,
trong đời sống, con người và trong nghệ thuật. Trong tự nhiên, cái Cao cả gắn liền
với những hiện tượng thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, mạnh mẽ là những sự vật hiện
tượng chứa đựng sự phi thường trong kích cỡ, chứa sức mạnh tiềm ẩn mà con người
chưa thể khám phá hết được. Còn trong đời sống xã hội nó biểu hiện ở sức mạnh
phi thường về ý chí, tinh thần, khả năng sáng tạo của con người trong lĩnh vực
chinh phục tự nhiên, lao động sản xuất và đấu tranh xã hội. Đó là các công trình
sáng tạo vĩ đại của con người (Vạn lý trường thành, Kim tự tháp), Là các hiện tượng
thẩm mỹ mang tính xã hội, đem lại những xúc động lớn lao, mãnh liệt (như thắng
lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại thắng mùa
xuân năm 1975... ), Là tầm vóc ảnh hưởng của những nhân vật vĩ nhân trong lịch sử
hoặc cũng có thể biểu hiện ở những con người bình thường nhưng có hành vi, ứng
xử, đạo đức phi thường trong xã hội.
Trong nghệ thuật, đặc biệt là trong nghệ thuật ngôn từ, cái Cao cả là sự phản ánh
những vẻ đẹp phi thường của cuộc sống. Đó có thể là vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của cảnh
thác núi Lư trong bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư) - Lý Bạch:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử ên,
Dao khan bộc bố quải tiền xu ên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa:
Mặt trời chiếu xuống núi Hương Lô sinh màu khói tía,
Từ xa nhìn thác nước treo như con sông trước mặt.
Bay thẳng xuống từ ba nghìn thước,
Ngỡ là dải Ngân Hà rơi từ chín tầng mây.
Đó có thể là sự hy sinh cao cả bán mình chuộc cha của nàng Kiều trong lúc gia biến
để rồi tới ngày đoàn viên, Kim Trọng đã trân trọng thốt lên:
Như nàng lấ hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấ va ?
(Tru ện Kiều - Nguyễn Du)
20
Hay đó có thể là sự cao cả toát ra từ truyền thống anh dũng, quật khởi của tập thể
dân làng Xô Man trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành... Có thể
nói, cái Cao cả trong nghệ thuật là một hình thức sáng tạo, trong đó tác phẩm nghệ
thuật đạt tới sự chân, thiện, mỹ về mọi mặt và nghệ sĩ đã thể hiện một phẩm chất, tài
năng lớn lao có ý nghĩa xã hội - thẩm mỹ đặc biệt tích cực về mặt nhân cách, nhân
văn. Về bản chất, cái Cao cả trong nghệ thuật được biểu hiện trực tiếp qua những
hình tượng nghệ thuật sinh động và hoành tráng nên nó có khả năng tạo những hiệu
ứng cảm xúc mạnh mẽ, mãnh liệt lên người tiếp nhận.
Tóm lại, cái Cao cả là một phạm trù cơ bản của mỹ học mà bản chất của nó có
nhiều điểm tương đồng, gắn bó với phạm trù cái Đẹp. Những sự vật, hiện tượng mang
trong mình phẩm chất cao cả trước hết nó phải là những phẩm chất tích cực, hiện thân
cho cái Đẹp nhưng lại vượt xa cái Đẹp về phẩm chất, quy mô, mức độ, cảm xúc... Từ đó,
sự hiện hữu của cái Cao cả, đặc biệt là cái Cao cả trong nghệ thuật vừa cuốn hút, choáng
ngợp vừa kích thích, giáo dục con người đem lại niềm tin và sức mạnh cho con người
luôn vươn lên, sống ý nghĩa hơn, cao thượng và đẹp đẽ hơn.
1.1.2.3. Cái Bi
Cái Bi (Tiếng Anh: Tragedy) cũng là một phạm trù cơ bản của mỹ học, tồn
tại bên cạnh cái Đẹp, cái Cao cả và cái Hài. Cái Bi được thể hiện tập trung và điển
hình nhất trong bi kịch - một loại hình nghệ thuật kịch có nguồn gốc từ những nghi
lễ tôn giáo thời Hy Lạp cổ đại.
Bàn về phạm trù cơ bản này, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học các tác
giả có xác lập nội hàm của cái Bi:
Phạm trù mỹ học phản ánh một hiện tượng có tính qu luật của thực tế đời sống xã
hội thường diễn ra trong cuộc đấu tranh không ngang sức giữa cái thiện với cái ác, cái
mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái phản động... trong điều kiện những cái sau còn mạnh
hơn những cái trước. Đó là sự trả giá tự nguyện cho những chiến thắng và sự bất tử về
tinh thần bằng nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện [44, 37].
Định nghĩa đó cho thấy sự xuất hiện của cái Bi gắn liền với cuộc đấu tranh,
xung đột không khoan nhượng giữa hai mặt có tính chất đối lập về giá trị thẩm mỹ
(một bên tích cực, một bên tiêu cực). Do đó, muốn hiểu đúng bản chất thẩm mỹ của
21
phạm trù này, chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ giữa các phương diện như
xung đột của cái Bi, tính cách của cái Bi và cảm xúc của cái Bi.
Cái Bi trước hết gắn liền với các xung đột căng thẳng, quyết liệt, không thể
điều hòa được và xung đột này chỉ có thể kết thúc bằng cái chết của một bên là đại
diện cho lực lượng chính nghĩa, mang trong mình phẩm chất của cái Đẹp. Điều này
có nghĩa rằng không phải xung đột nào hay cái chết nào trong đời sống xã hội của
con người cũng được xem là sự biểu hiện của cái Bi. Sự xung đột về lợi ích, quan
điểm sống hay quan hệ thuần túy... giữa người với người trong xã hội, tập thể khó
có thể tạo nên cái Bi. Những con người chết vì bệnh tật, tuổi già hay hành động tự
tìm đến cái chết như một sự giải thoát khỏi những bế tắc trong cuộc sống cũng
không thể xem là cội nguồn tạo ra cái Bi. Bởi những hiện tượng ấy nó chỉ xuất phát
từ những tình huống thông thường của đời sống mà bản chất của nó hầu như không
chứa đựng những ý nghĩa thẩm mỹ tích cực cho con người. Trong khi đó, xung đột
của cái Bi (xung đột bi kịch) thường xuất phát từ lý tưởng cao đẹp, khát vọng chính
đáng của con người xung đột với khả năng thực tế, hoàn cảnh cụ thể không thể thực
hiện lý tưởng, khát vọng đó dẫn tới kết cục bi thảm là sự tiêu vong của lực lượng
chính nghĩa, tích cực. Tình yêu mãnh liệt của Romeo và Juliet (trong vở kịch cùng
tên của nhà soạn kịch tài hoa William Shakespeare) là một minh chứng tiêu biểu.
Mối tình ấy là hiện thân cho lý tưởng, khát vọng cao đẹp về một tình yêu trong
sáng, tự do của đôi lứa nhưng nó lại bị phủ nhận không thương tiếc trước định kiến
và mối thâm thù truyền kiếp giữa hai dòng họ Montague và Capulet. Kết quả là mối
thâm thù giữa hai dòng họ đã vô tình đẩy chàng trai và cô gái tới những cái chết
tang thương như một lựa chọn quyết liệt tận cùng để họ bảo vệ mối chung tình của
mình trong tình yêu. Có thể thấy, xung đột của cái Bi biểu hiện rất phong phú và đa
dạng. Đó có thể là bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cách mạng khi nó chưa hội tự đủ
sức mạnh để chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu, phản động (bi kịch của những người
nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu). Đó có thể là
bi kịch của cái cũ trong sự xung đột với cái mới mà bản thân nó vẫn còn những ý
nghĩa nhất định (bi kịch bị lãng quên của hình ảnh ông đồ trong bài thơ cùng tên của
Vũ Đình Liên). Hay đó có thể là bi kịch của sự nhầm lẫn, hạn chế về mặt nhận thức
22
lịch sử khi nhân vật bi kịch phải đối diện với đối tượng mà chưa nhận thức được
đầy đủ về nó và kết quả là họ phải trả giá cho hạn chế ấy bằng sự tiêu vong, thất bại
hay cái chết (sự thất bại của phong trào yêu nước đầu thế kỉ do Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh khởi xướng). Những bi kịch ấy có thể khởi phát từ những xung
đột mang tính lịch sử muôn thuở (xung đột giữa thiện - ác, cao cả - thấp h n, tiến bộ
- lạc hậu...) hay xung đột mang tính đời tư (xung đột lý tưởng cá nhân) nhưng bản
chất đều là những xung đột có ý nghĩa xã hội rộng lớn, phổ quát, thể hiện cuộc đấu
tranh không khoan nhượng giữa những con người, lực lượng chính nghĩa chống lại
những con người, thế lực phi nghĩa dù họ đang trong tình thế bất lợi hơn.
Về tính cách của cái Bi, Aristote từng khái quát, nhân vật trung tâm của cái
Bi phải là những con người hiện thân cho cái Đẹp lý tưởng “tốt hơn - so với những
người trong thực tế” [2, 19]. Ở họ hội tụ những đức tính, phẩm chất tốt đẹp, những
khát vọng chân chính, cao cả... đại diện cho chính nghĩa. Trong cuộc đấu tranh với
các lực lượng, thế lực xã hội hoặc tự nhiên và ngay cả với chính bản thân con
người, họ muốn bằng chính ý chí và hành động của mình thực hiện lý tưởng tiến bộ,
nhân văn mà không ngại đương đầu với mọi khó khăn, thử thách. Vì thế, họ luôn
sẵn sàng hy sinh, chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ, thậm chí phải “trả giá” cho sự dấn
thân bằng cái chết nhưng những con người ấy cũng toát lên một thái độ sống tích
cực, vượt lên trên mọi hoàn cảnh, kiên quyết đấu tranh đến cùng để chống lại cái
xấu, cái tiêu cực, bảo vệ lý tưởng, chính nghĩa và cái Đẹp. Để đi tới tận cùng của sự
thật về lời sấm truyền “giết cha, lấy mẹ”, chàng Oedipus (trong vở bi kịch Oedipus
làm vua của Sophocle) với tính tình cương trực đã sẵn sàng từ bỏ ngai vàng, chọc
mù đôi mắt, trở thành kẻ hành khất lang thang để trả giá cho mặc cảm tội lỗi mà
mình đã vô tình gây ra. Prometheus (trong vở bi kịch Prometheus bị xiềng của
Eschyle) cũng vậy, đây là vị thần hiện thân cho tinh thần tự do dân chủ và nhân đạo.
Vị thần ấy mang lý tưởng phụng sự nhân loại, không chịu khuất phục trước cường
quyền, bạo lực dù phải chịu đựng những cực hình tàn khốc nhất từ Zenus - kẻ nắm
quyền lực trong tay... Tất cả những điều đó cho thấy rõ ràng nhân vật của cái Bi
luôn hiện lên với tính cách mạnh mẽ, quyết liệt, cùng một ý chí, nghị lực phi thường
ngay cả khi họ phải đối diện với cái chết.
23
Về cảm xúc của cái Bi, nó nảy sinh từ cái chết, sự thất bại hay những tổn
thất, đau đớn mà nhân vật tiến bộ phải gánh chịu trong cuộc đấu tranh bảo vệ lý
tưởng chân chính. Do đó, đối diện với cái Bi, chủ thể thường nảy sinh cảm xúc đầu
tiên là sự đau đớn, thương xót cho các nhân vật bi kịch. Với những phẩm chất, khát
vọng cao quý của mình, họ xứng đáng nhận được sự tôn vinh và những điều tốt đẹp
hơn là sự trả giá và cái chết. Nhưng không dừng ở đó, cái chết hay sự mất mát của
cái Bi lại khác xa cái chết hay sự mất mát thuần túy trong đời sống bởi nó hướng
con người tới những tình cảm, thái độ và hành động tích cực hơn, tốt đẹp hơn. Sau
cái chết của chàng Romeo và nàng Juliet là khát vọng mãnh liệt về tình yêu và sức
hóa giải diệu kỳ của tình yêu. Tất cả những đau đớn cực hình về thể xác mà
Promethues phải gánh chịu đều không làm phai mờ ý chí đấu tranh vì sự tự do, dân
chủ và nhân ái cho con người. Điều này chứng tỏ rằng, đằng sau nỗi buồn, sự xót
xa, tiếc nuối mà cái Bi mang lại còn là sự đồng cảm, xác lập một niềm tin mãnh liệt
vào những giá trị chân chính của cuộc sống và khơi dậy khát vọng vươn tới những
giá trị tốt đẹp cho con người. Như vậy, với phạm trù cái Bi, giá trị thẩm mỹ tích cực
mà nó mang đến chính là sự hòa hợp của nhiều yếu tố tình cảm tưởng chừng như
đầy mâu thuẫn nhau: vừa thương xót, đồng cảm, quý trọng, vừa sợ hãi, khinh miệt,
căm ghét (đối với cái xấu, cái thấp h n của lực lượng đối lập) và cả niềm tin trước
sức mạnh bất khuất của con người. Cái Bi có ý nghĩa “thanh lọc” (tâm hồn), làm
cho chủ thể thẩm mỹ tự ý thức để hướng tới sự phát triển con người theo các chuẩn
mực xã hội - thẩm mỹ tiên tiến, nhân văn. Sự thanh lọc ấy xuất phát từ giá trị nhận
thức sâu sắc mà phạm trù này mang lại.
Tóm lại, cái Bi là một phạm trù cơ bản của mỹ học gắn liền với những xung
đột có ý nghĩa xã hội giữa cái Đẹp với cái xấu, cái tích cực với cái tiêu cực mà kết
quả là sự thất bại, tiêu vong của nhân vật tích cực - những người đã đấu tranh đến
cùng vì lý tưởng đẹp đẽ, vì khát vọng chân chính của con người. Qua đó, cái Bi gợi
nên những cảm xúc thẩm mỹ tích cực, khẳng định niềm tin của con người đối với
những giá trị chân chính của cuộc sống.
Về các lĩnh vực biểu hiện, cái Bi không có trong lĩnh vực tự nhiên mà chỉ tồn
tại, nảy sinh trong đời sống xã hội và trong nghệ thuật. Một hiện tượng xã hội mang
24
bản chất của cái Bi cần phải thỏa mãn hai điều kiện cơ bản sau: Thứ nhất, hiện
tượng đó phải gắn bó hữu cơ với cuộc sống của con người, có ý nghĩa phổ quát đối
với sự phát triển của con người và xã hội. Sự tổn thất của nó tất yếu có ảnh hưởng
sâu rộng đến đời sống của con người. Thứ hai, đó phải là một hiện tượng thẩm mỹ
nằm trong quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, phải chứa trong mình
phẩm chất của cái Đẹp hoặc là cái Cao cả. Cái Bi gắn liền với nỗi thống khổ, cái
chết nhưng không phải nỗi thống khổ nào, cái chết nào cũng là sự hiện thân của cái
Bi. Cái Bi trong cuộc sống thường gắn liền với quá trình chinh phục tự nhiên và đấu
tranh xã hội của con người. Về bản chất, con người là một thực thể xã hội có tư duy,
do đó chúng ta đã, đang và sẽ không ngừng khám phá, chinh phục và cải tạo tự
nhiên để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Tuy nhiên, bản thân con người
cũng là một phần của tự nhiên nên việc thực hiện khát vọng chinh phục và cải tạo tự
nhiên ấy đã từng gây ra rất nhiều bi kịch cho con người khi ta chưa nhận thức được
đầy đủ, chưa lường hết được sức mạnh bí ẩn của tự nhiên. Tự nhiên đã gây ra rất
nhiều thảm kịch tang thương cho nhân loại từ những thiên tai do sức mạnh khủng
khiếp của các hiện tượng động đất, núi lửa, bão lũ, sóng thần... gây ra. Nhưng
những thảm kịch đó không làm con người mất đi ý chí, trái lại rất nhiều nhà khoa
học vẫn miệt mài nghiên cứu những hiện tượng thiên tai ấy để xã hội có thêm
những bước tiến mới trong hành trình khám phá và chinh phục tự nhiên. Trong các
cuộc đấu tranh xã hội, cái Bi xuất hiện khi có các cuộc đấu tranh giữa các lực
lượng, giai cấp đối kháng mà sự thất bại, tiêu vong lại rơi về phía những lực lượng
tiến bộ, cách mạng. Cái chết của những người anh hùng xả thân để bảo vệ quê
hương đất nước trong lịch sử dân tộc ta là biểu hiện tiêu biểu cho cái Bi trong đời
sống. Sự ra đi anh dũng của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, của người anh hùng Tô Vĩnh
Diện, Lê Anh Xuân... hay biết bao những liệt sĩ vô danh đã ngã xuống giữa biển
khơi trong công cuộc giữ gìn bờ cõi luôn khơi dậy niềm tiếc thương, lòng tự hào và
quyết tâm giữ vững chủ quyền cho toàn dân tộc.
Cái Bi trong nghệ thuật phản ánh cái Bi của cuộc sống nhưng qua lăng kính
chủ quan của người nghệ sĩ. Do đó, cái Bi trong nghệ thuật biểu hiện một cách tập
trung, điển hình hơn và được thể hiện trong nhiều loại hình nghệ thuật: sân khấu,
25
điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ..., đặc biệt là trong thể loại bi kịch. Bi kịch là bài ca đau
thương về sự tổn thất không bù đắp được nhưng đồng thời là hình tượng biểu cảm
về sự bất tử của cái Đẹp, cái Cao cả. Tuy nhiên, khác với cái Bi của đời sống, cái Bi
trong nghệ thuật không mang ý nghĩa cá nhân. Một hiện tượng mang tính bi kịch
khi nó là một hình tượng trọn vẹn, là đại diện cho một tầng lớp người, trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nói cách khác, cái Bi trong nghệ thuật mang tính lịch
sử cụ thể (ở mỗi thời đại, cái Bi luôn đặt ra những vấn đề xã hội cần nhận thức và
giải quyết), những xung đột của nó được thể hiện trong nghệ thuật cũng mang một ý
nghĩa nhận thức và giáo dục sâu sắc. Bi kịch giả hợp hồn một đằng xác một nẻo của
Trương Ba (trong vở kịch Hồn Trương Ba - da hàng thịt) của Lưu Quang Vũ không
đơn thuần là câu chuyện kỳ dị dở khóc dở cười của nhân vật mà qua đó đặt ra vấn
đề về khao khát quyền sống toàn vẹn, chính thể chính đáng, hài hòa giữa tâm hồn và
thể xác của con người. Trương Ba sẵn sàng đón nhận cái chết thực sự để được trở
về với con người bản thể, đúng nghĩa của mình. Quyết định đó chứng thực một triết
lý: sự sống là đáng quý nhưng được sống đúng với bản chất thật sự của mình còn
quan trọng và đáng quý hơn nhiều. Cái chết đau đớn của Chí Ph o ở phần cuối
truyện ngắn cùng tên của Nam Cao cũng là điển hình cho cái Bi của một bộ phận
không nhỏ người nông dân trước Cách mạng tháng Tám vốn có bản chất lương
thiện nhưng bị bần cùng dẫn đến tha hóa. Chỉ có cái chết mới hóa giải được bi kịch
bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện cho họ. Như vậy, những cái chết hay sự
mất mát được thể hiện ở đây đều mang tính tư tưởng rõ nét khi nó khơi gợi cho con
người những trăn trở, suy ngẫm mang tính triết lý về cuộc đời, những rung cảm
mang tính xã hội sâu sắc.
Tóm lại, cái Bi có mặt trong đời sống con người và nghệ thuật kể từ khi con
người bắt đầu ý thức về một cuộc sống hạnh phúc chân chính và tốt đẹp. Bản chất
của cái Bi gắn liền với nỗi buồn từ sự tiêu vong, thất bại (tạm thời) của cái Đẹp, cái
chính nghĩa, tiến bộ trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống lại cái xấu,
cái phi nghĩa, phản động. Vượt qua nỗi đau đớn, đồng cảm, xót xa, cái Bi mang đến
cho con người một khát vọng, niềm tin mạnh mẽ vào sự bất tử của những giá trị tốt
26
đẹp trong cuộc sống. Cũng vì thế mà cảm xúc của cái Bi so với cái Đẹp, cái Cao cả
hay cài hài luôn được đẩy tới mức cao trào, sâu sắc và quyết liệt.
1.1.2.4. Cái Hài
Cái Hài (Tiếng Anh: Comedy) ra đời từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng mỹ
học và tồn tại như một phạm trù thẩm mỹ cơ bản, song hành cùng cái Đẹp, cái Cao
cả và cái Bi. Cái Hài cũng được các nhà mỹ học cổ điển xem xét từ rất nhiều khía
cạnh và bình diện khác nhau.
Từ thời cổ đại, Aristote trong những công trình lý luận kinh điển của mình đã
dành cho cái Hài một ví trị nhất định khi bàn luận về thể loại hài kịch - một hình
thức nghệ thuật thể hiện tập trung bản chất cái Hài. Ông chỉ ra, bản chất cái Hài là
một bộ phận của cái xấu: “hài kịch là sự tái hiện những người xấu, tuy nhiên không
có nghĩa là hoàn toàn độc ác xấu xa, mà chỉ có nghĩa là cái đáng cười là một bộ
phận của cái xấu”. Vì vậy, cái Hài chỉ đáng cười, gây cười chứ không làm tổn hại
đến ai: “cái đáng cười là một sự sai lầm và xấu xí nào đó không gây thống khổ và
không nguy hại cho ai cả” [2, 30]. Với quan niệm này, ông đã chỉ ra được một đặc
điểm quan trọng trong bản chất của cái Hài là cái xấu nhưng mới chỉ dừng lại ở sự
nhấn mạnh tính chất giải trí, mua vui của cái Hài mà chưa thấy được ý nghĩa phê
phán và khả năng phủ định, đẩy lùi cái xấu của phạm trù thẩm mỹ này.
Đến các nhà mỹ học cổ điển Đức, tiêu biểu là hai nhà mỹ học Kant và Hegel,
họ đặc biệt chú ý đến yếu tố mâu thuẫn trong cái Hài cũng như tác động to lớn của
cái Hài về mặt xã hội. Kant cho rằng cái Hài là sự mâu thuẫn giữa cái thấp h n và
cái Cao cả. Hegel lại nhìn thấy cơ sở của cái Hài là sự mâu thuẫn giữa tính bất lực
bên trong và vẻ bề ngoài tỏ ra thực chất, là kết quả của sự tương phản giữa bản chất
và hiện tượng. Điểm hạn chế chung của các nhà mỹ học thời kỳ này là không xem
cái Hài là một biện pháp giải quyết các mâu thuẫn mà chỉ là giải pháp tình thế nhằm
dung hòa mâu thuẫn mà thôi.
Ở các nhà mỹ học dân chủ Nga, tiêu biểu là Chernyshevsky, họ đã ý thức
một cách sâu sắc về ý nghĩa xã hội và khuynh hướng phê phán của nó. Đồng thời,
họ cũng xác định, cái Hài chỉ xuất hiện ở con người và cuộc sống xã hội loài người
mà thôi. Vì các nhà mỹ học dân chủ Nga đã quá đề cao ý nghĩa xã hội của phạm trù
27
này nên họ đã vô tình bỏ qua ý nghĩa thẩm mỹ và một lĩnh vực biểu hiện vô cùng
quan trọng của cái Hài là nghệ thuật.
Trên cơ sở kế thừa hạt nhân lý luận của quá khứ, mỹ học Marx - Lenin đã
mang tới một quan niệm sâu sắc và toàn diện hơn về cái Hài. Theo đó, cái Hài là
một phạm trù mỹ học cơ bản, được phản ánh dưới hình thức giễu cợt những hiện
tượng, những mặt tiêu cực trong con người và các lĩnh vực của đời sống xã hội,
giễu cợt những cái xấu nhưng giả danh cái Đẹp. Tiếng cười xuất hiện trong cái Hài
có ý nghĩa phủ định cái xấu, khẳng định sự chiến thắng của cái Đẹp với cái xấu. Từ
cách định nghĩa nà , bản chất thẩm mỹ của phạm trù được biểu hiện trực tiếp qua
quan hệ mật thiết của ba yếu tố là tiếng cười, đối tượng gâ cười và chủ thể cười
của cái Hài.
Thứ nhất là tiến g cười trong cái Hài, nó chính là dấu hiệu xác nhận mối
quan hệ giữa khách thể thẩm mỹ (cái Hài) với chủ thể thẩm mỹ (con người). Nếu
cái Hài là một thuộc tính khách quan của các sự vật hiện tượng có khả năng gây ra
tiếng cười thì tiếng cười lại là phản ứng chủ quan của con người khi bắt gặp hiện
tượng khách quan đó. Nói cách khác, tiếng cười là kết quả của cái Hài khi con
người tiếp xúc với nó. Tuy nhiên, trong đời sống, con người có thể cất lên tiếng
cười từ rất nhiều lý do, hoàn cảnh khác nhau. Khi tâm trạng vui vẻ, được gặp gỡ bạn
b người thân, ta thường cất lên những tiếng cười sảng khoái. Một em bé sơ sinh lúc
được đưa cho một món đồ chơi bắt mắt cũng có thể phát ra những tiếng cười thích
thú. Hay thậm chí có người lâm vào bước đường cùng quẫn cũng có thể phát ra
những tiếng cười ra nước mắt... Những sắc thái biểu hiện của tiếng cười trong đời
sống vô cùng phong phú và đa dạng nhưng những ví dụ nêu trên đều không phải
tiếng cười trong cái Hài mà chỉ là tiếng cười tâm lý, tiếng cười sinh lý, bệnh lý
thông thường mà thôi. Tiếng cười trong cái Hài chỉ xuất hiện khi có sự va đập giữa
cái Đẹp với cái xấu, cái Cao cả với cái thấp h n, tầm thường. Đó là tiếng cười có ý
nghĩa xã hội, gắn liền với sự chiến thắng của cái Đẹp, cái tích cực, cao cả. Như vậy,
tiếng cười trong cái Hài là tiếng cười đặc biệt, có mục đích và nhằm vào những đối
tượng cụ thể, vì thế nói tới tiếng cười là ta phải đặc biệt quan tâm tới bản chất của
đối tượng gây cười cũng như chủ thể cười của nó.
28
Thứ hai, về đối tượng của tiếng cười, nguồn gốc và bản chất của cái Hài là
cái xấu, cái không hài hòa, phù hợp với quy luật của cuộc sống. Do vậy, cái cười
thường tập trung hướng tới những thói hư tật xấu, những thiếu sót, chưa hoàn thiện,
những mặt trái, tiêu cực trong con người và cuộc sống. Một lão nhà giàu nhưng keo
kiệt, tham lam, một anh học trò lười dốt nhưng hay khoe khoang nói chữ, một cô
gái kém cả về ngoại hình lẫn tính cách lại ảo tưởng nghĩ mình là hoàn hảo, đẹp
xinh... Những cái xấu, cái đáng cười tồn tại phổ biến trong những sự vật, hiện tượng
đã cũ, đã trở nên lạc hậu lỗi thời và cũng có ngay trong những cái mới, cái tiến bộ
khi nó vẫn mang trong mình những thiếu sót, chưa hoàn thiện. Có thể thấy, tất cả
những sự vật hiện tượng biểu hiện không phù hợp với quy luật cuộc sống, lệch khỏi
những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ mà xã hội thừa nhận đều có thể trở thành đối
tượng để gây cười. Đó là những hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực, chứa đựng những
mâu thuẫn có khả năng gây cười (mâu thuẫn giữa cái Đẹp với xấu, giữa cao cả với
thấp h n, giữa tiến bộ với lạc hậu...), tồn tại một cách khách quan trong con người
và đời sống.
Thứ ba, về phía chủ thể cười, bản thân hiện tượng khách quan không thể tạo
ra tiếng cười nếu không có chủ thể cười. Nhưng tiếng cười của chủ thể cũng không
xuất hiện nếu ta không nhận thức được những mâu thuẫn hài hước, những điểm bất
hợp lý chứa trong đối tượng. Do đó, ta chỉ có được cái Hài khi chủ thể nhận ra được
mặt đối lập, nhận ra được cái đáng cười của đối tượng, đánh giá và phê phán nó
bằng cảm xúc thẩm mỹ dưới hình thức vui cười. Giá trị thẩm mỹ của cái Hài nằm ở
chỗ những nhận thức của chủ thể ở đây bao giờ cũng có tính phủ định, phê phán
những cái xấu, cái hạn chế, tiêu cực. Sự chế giễu, cái cười, tiếng cười không ngoài
tinh thần nào khác là con người “từ biệt một cách vui vẻ” các hiện tượng xã hội đã
mất hết lý do tồn tại cả trong hiện thực lẫn trong nhận thức của con người. Cái đáng
cười đã vi phạm vào trật tự hợp lý, hài hòa và hoàn thiện của cuộc sống, đồng thời
tiếng cười, cái cười là biểu hiện (một cách gián tiếp) tinh thần khẳng định cái hợp
lý, cái mới, cái tích cực. Vì vậy, cái Hài vừa tạo cho chủ thể một trạng thái tinh thần
vui vẻ, sảng khoái, vừa có ý nghĩa xã hội và giá trị nhận thức sâu sắc đối với con
người và cuộc sống của con người.
29
Về các lĩnh vực biểu hiện, cũng giống như cái Bi, cái Hài chỉ tồn tại trong
đời sống và trong nghệ thuật. Ở lĩnh vực đời sống, cái Hài mang tính lịch sử - xã hội
vì nó gắn liền với tiếng cười đả kích, châm biếm các hiện tượng chống lại lợi ích
kinh tế - xã hội, chống lại các lực lượng tiến bộ đang giữ vai trò tích cực trong sự
phát triển xã hội. Cái Hài mang tính đời thường lại gắn với các hiện tượng thiếu văn
hóa, dân trí thấp, vi phạm tính hài hòa, hoàn thiện của đời sống xã hội. Tiếng cười ở
đây là tiếng cười chế nhạo, chế giễu. Tiếng cười ở đây là tiếng cười vui vẻ, hài
hước, có tác dụng giúp con người nhận ra những nhược điểm, hạn chế trong hành
vi, nhận thức, hoạt động... để tự điều chỉnh bản thân cho hoàn thiện và tích cực hơn.
Cái Hài trong nghệ thuật là phản ánh của cái Hài trong đời sống nhưng nó
miêu tả theo quy luật thẩm mỹ tập trung hơn, chọn lọc hơn và có ý thức nhân văn
sâu sắc hơn. Tiếng cười trong nghệ thuật không phải là những tiếng cười có tính
sinh học bình thường. Phương tiện gây cười biểu hiện tập trung ở nghệ thuật, trong
đó nghệ thuật trào phúng chiếm một vị trí quan trọng, nghệ thuật phản ánh cái Hài
trong cuộc sống thông qua hình thức chủ quan, định hình văn hóa nó trong các loại
hình như: sân khấu, tranh, tượng, thơ, nhạc, điện ảnh, và đặc biệt trong văn học.
Trong thực tế, không phải cái xấu nào cũng trở thành đối tượng gây cười của nghệ
thuật. Chỉ có cái xấu giả danh cái Đẹp, cái xấu chưa biết mình là xấu mới có ý nghĩa
thẩm mỹ sâu sắc và thường được khai thác triệt để trong nghệ thuật.
Cái Hài trong nghệ thuật luôn luôn tạo ra tiếng cười nhân danh cái mới, cái
Đẹp, cái tiến bộ và nó có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc. Qua cái Hài, chúng ta thấy được
xã hội mà nó tồn tại. Trong nghệ thuật, cái Hài có nhiều loại khác nhau. Sự đa dạng
này phụ thuộc vào tính chất nhiều màu vẻ của đối tượng gây cười. Nhìn chung có
mấy loại sau: hài hước - cái cười xuất phát từ những mâu thuẫn bề ngoài và mang
tính chất nhẹ nhàng, thoải mái, châm biếm, mỉa mai - tiếng cười bắt đầu mang màu
sắc phê phán nhưng mức độ còn nhẹ nhàng, không mang tính chất thù địch dành
cho những hiện tượng buồn cười, thậm chí mù quáng nhưng có thể sửa chữa được,
đả kích - loại hài này thể hiện khuynh hướng xã hội mạnh mẽ nhất, đó là sự phê
phán mang tính chất phủ định, trong trường hợp này, có thể không cười hoặc cười
rất nghiêm chỉnh.
30
Tóm lại, cái Hài có vị trí xã hội rất quan trọng, bởi vì tiếng cười gắn với nó,
xuất phát từ nhận thức và đánh giá đối tượng, sẽ mang lại niềm vui, sự sảng khoái
và do đó, cũng là sức khỏe cho con người. Tiếng cười thể hiện sự thông minh, sức
mạnh và phẩm chất của con người. Hơn nữa, tiếng cười còn là một vũ khí phê phán
các thói hư, tật xấu và đấu tranh chống các thế lực phản động, phản nhân văn, đề
cao tính dân chủ hóa trong xã hội.
Từ những khái quát trên có thể thấy, đời sống mỹ học được hợp thành từ mối
quan hệ giữa khách thể thẩm mỹ với chủ thể thẩm mỹ. Trong đó, phẩm chất của
khách thể được xem xét khai thác ở các phạm trù khác nhau mà cái Đẹp, cái Cao cả,
cái Bi và cái Hài là bốn phạm trù cơ bản, được xem xét và khảo sát nhiều nhất, toàn
diện nhất trong các công trình của những nghiên cứu nổi tiếng trong lịch sử. Nhìn
sâu vào bản chất, ta có thể khẳng định, cái Đẹp là phạm trù trung tâm, có tác động
và mối liên hệ khăng khít với toàn bộ các phạm trù còn lại. Quan niệm về cái Đẹp
chưa bao giờ có hồi kết nhưng cái Đẹp luôn là giá trị trung tâm mà cuộc sống, con
người cũng như đời sống nghệ thuật chân chính luôn tìm tòi và hướng tới.
1.2. Nguyễn Huy Thiệp và hành trình sáng tạo nghệ thuật
1.2.1. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp (29/4/1950) sinh ra tại Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ, nhà
văn từng theo gia đình sống ở nhiều nơi của vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nên
hình ảnh về những miền quê ngh o khó, lam lũ cứ trở đi trở lại trong trang văn ông như
một nỗi nhớ, niềm thương: “Tôi sinh ra ở làng quê, lớn lên ở làng quê” [141, 166]. Ấp
ủ bao ước mơ, hoài bão, cậu sinh viên khoa Sử của trường Đại học Sư phạm Hà Nội
ngày nào đã trở thành một người thầy giáo gắn bó bao năm tháng với ngôi trường nhỏ
của miền rẻo cao Tây Bắc xa xôi... Đến năm 1980, Nguyễn Huy Thiệp chuyển về công
tác ở Bộ Giáo dục, sau đó làm việc tại Công ty Trắc địa Bản đồ Hà Nội. Phác họa đôi
nét cuộc đời, ta thấy cuộc đời nhà văn thật giản dị.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Huy Thiệp có thể xem là một nhà văn mà con
đường văn nghiệp gắn liền với công cuộc Đổi mới toàn diện văn học nghệ thuật nước
nhà. Từ những sáng tác đầu tiên đến những trang viết sau cùng khi người nghệ sĩ ấy
tuyên bố “gác bút” đều được hưởng khá trọn vẹn bầu không khí cởi mở, dân chủ từ
31
địa hạt sáng tác, phê bình đến hoạt động thưởng thức của công chúng, bạn đọc. Đó là
may mắn và cũng là thách thức riêng có đối với hành trình sáng tạo nghệ thuật của
hiện tượng văn học này. Nếu căn cứ vào sự xuất hiện trước công chúng, sự nghiệp
văn chương của tác giả này chính thức bắt đầu khi ông được báo Văn nghệ đăng tải
hai truyện ngắn Cô Mị và Vết trượt trong năm 1986 (Xem thêm Phụ lục 1). Năm
1987, sau khi công bố liên tục trên mặt báo các tác phẩm Không có vua, Những
chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát (Ngẫu vật thiêng, Sạ, Chiếc tù và bị bỏ
quên, Tiệc xòe vui nhất), Huyền thoại phố phường và Tướng về hưu..., cái tên
Nguyễn Huy Thiệp đã được cộng đồng bạn đọc chú ý như một hiện tượng văn học
mới trên văn đàn dân tộc. Kể từ đó, nhà văn đã thực sự dấn thân và dành trọn tâm
huyết của mình cho văn chương nghệ thuật với một sự nghiệp viết lách kéo dài gần
30 năm, nếm trải kinh qua đủ bước thăng trầm trước những thách thức của nghệ
thuật, thời đại và công chúng. Ông đã thử sức sáng tạo bằng các thử nghiệm nghệ
thuật không ngừng nghỉ, tự khẳng định mình trên nhiều lĩnh vực văn học như truyện
ngắn, tiểu thuyết, kịch, tiểu luận - phê bình...
Với thể loại truyện ngắn, ông đã viết và công bố khoảng 58 truyện ngắn trong vòng
12 năm (xem chi tiết tại Phụ lục 1, và tài liệu [174]) với nhiều sáng tác tiêu biểu là tâm
điểm của cả một cuộc tranh luận kéo dài mang tên Đi tìm Ngu ễn Huy Thiệp. Tất cả những
điều này sẽ được chúng tôi đề cập cụ thể hơn ở nội dung sau.
Ở thể loại kịch, tuy tiếng vang và tầm ảnh hưởng của nó không rầm rộ như thể loại
truyện ngắn nhưng bạn đọc cũng không mấy xa lạ với các tác phẩm như: Quỷ ở với người
(1989), Còn lại tình êu (1990), Suối nhỏ dịu êm (1999), Mổ nhà văn (2004), Nhà Ô-sin
(2008)..., trong đó có những vở đã công diễn và thu hút được khá nhiều sự quan tâm của
công luận như vở Nhà Ô-sin, Đến bờ bên kia... Trong cuộc đời văn nghiệp của mình,
Nguyễn Huy Thiệp đã viết và công bố được 13 vở kịch.
Tiểu thuyết cũng là một sân chơi mà Nguyễn Huy Thiệp không ngần ngại
bước ngang vào khi ông đang đạt phong độ và những thành tựu rực rỡ nhất ở thể
loại truyện ngắn. Sau những tuyên bố đầy lạc quan về Thời của tiểu thuyết [140,
121-134], nhà văn đã hiện thực hóa những kỳ vọng về dòng tiểu thuyết ba xu, mua
vui bằng sự ra đời liên tiếp của 4 tiểu thuyết trong vòng 3 năm (2005 đến 2008)
32
gồm: Tuổi hai mươi êu dấu, Võ lâm ngoại sử , Tiểu long nữ và Gạ tình lấ điểm.
Nhưng trái với mong đợi của tác giả, công chúng và bạn đọc đã không tìm được
nhiều hứng thú với những sáng tác này của tác giả. Trong một số bài phỏng vấn
(khoảng năm 2017), Nguyễn Huy Thiệp có nhắc tới dự định “sẽ lại viết tiểu thuyết”
với một sáng tác mang tên Bên rìa nước nhưng tới nay, bản thảo của tiểu thuyết ấy
vẫn chưa được hoàn thiện và công bố.
Ngoài ra, phê bình văn học cũng là một lĩnh vực mà Nguyễn Huy Thiệp dành
nhiều công sức trong sự nghiệp cầm bút. Khi văn đàn bắt đầu nóng lên vì những đợt
sóng tranh luận xoay quanh hiện tượng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng là lúc
nhà văn công bố các tiểu luận phê bình đầu tay của mình. Năm 1989, tác giả đã viết
hai tiểu luận đầu tiên Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn và Khoảng
trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn như những suy nghiệm riêng của người
trong cuộc về nghề văn và người viết văn. Liên tục những năm sau đó, Nguyễn Huy
Thiệp công bố khá đều những bài tạp văn, tiểu luận, phê bình song hành với sự
nghiệp sáng tạo tác phẩm. Bằng chứng là từ năm 1989 đến 2006, Nguyễn Huy
Thiệp đã đăng hơn 30 bài tạp văn, tiểu luận, phê bình rải rác trên các báo, tạp chí và
mạng Internet. Với một nhãn quan sắc sảo, phong phú và đầy cá tính, những sáng
tác này nhanh chóng được tập hợp, biên soạn, phát hành trong cuốn Giăng lưới bắt
chim (Nxb Hội Nhà văn) và được tái bản nhiều lần. Đây cũng là công trình mà Hội
Nhà văn Hà Nội lựa chọn để trao giải thưởng về thể loại sách phê bình, tiểu luận
trong năm 2006.
Có thể thấy, so với nhiều cây bút cùng thời, Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn có
sự vượt trội cả về khối lượng cũng như chất lượng tác phẩm. Tên tuổi và các sáng
tác của ông được khẳng định trên văn đàn dân tộc với sự thu hút và sức lan tỏa lớn
với độc giả ở trong và ngoài nước. Những sáng tác của ông không chỉ được tái bản
nhiều lần bởi các nhà xuất bản danh tiếng mà còn được quảng bá, dịch và xuất bản
ở nhiều quốc gia khác như: Pháp, Anh, Italy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Đức,
Hàn Quốc, Nhật Bản và Indonesia. Năm 2007, Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn vinh
dự nhận Huân chương Văn học Nghệ thuật do chính phủ Pháp trao tặng. Năm 2008,
ông tiếp tục sang Italya để nhận giải thưởng văn học Permio Nonimo - Giải thưởng
33
vinh danh những nhà văn ký cựu, tài năng trên thế giới. Trên hành trình đến với sự
nghiệp sáng tạo văn học, những trang văn Nguyễn Huy Thiệp không phải lúc nào
cũng nhận được sự phản hồi tích cực thuận chiều cho những thử nghiệm táo bạo của
ông, nhưng sức cuốn hút của các sáng tác cùng một thái độ lao động nghiêm túc,
chuyên nghiệp và tận tâm của tác giả là điều mà công chúng không thể phủ nhận khi
nói tới hiện tượng nghệ thuật cá tính và độc đáo này.
1.2.2. Hành trình sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Nhìn vào sự nghiệp sáng tác đáng nể của nhà văn nêu trên chúng ta có thể
khẳng định truyện ngắn chính là lĩnh vực sở trường, là mảnh đất ghi dấu nhiều trải
nghiệm và thành công nhất cho trang văn Nguyễn Huy Thiệp.
Theo tư liệu mà nhà văn từng chia sẻ, ông đã dành rất nhiều tâm huyết cho
các truyện ngắn của mình bằng một sự tích lũy, chuẩn bị khá kĩ. Những sáng tác
truyện ngắn đầu tay được ông hoàn thành từ những năm 1970, “âm thầm” xuất hiện
trên văn đàn năm1986, bùng nổ từ 1987 đến 1990, rồi nới dài cảm hứng sáng tác tới
năm 2008. Kết quả là ngoài hai truyện Cô Mị và Vết trượt là những truyện ngắn đầu
tay đăng báo năm 1986, hơn 50 sáng tác còn lại của ông đều đã được tập hợp, tuyển
chọn và phát hành bằng nhiều thứ tiếng bởi nhiều nhà xuất bản tên tuổi trong và
ngoài nước. Xác lập một cách tương đối sắc thái thẩm mỹ của các hình tượng trung
tâm trong tác phẩm, ta có thể phân chia truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thành ba
loại gồm:
Truyện mang màu sắc cổ tích, huyền thoại: Chảy đi sông ơi, Con gái
Thuỷ Thần, Những ngọn gió Hua Tát v.v...
Truyện thế sự (kể về con người và cuộc sống đương đại): Tướng về hưu,
Cún, Không có vua, Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Hu ền thoại
phố phường, Tâm hồn mẹ, Sang sông, Thổ cẩm, Quan âm chỉ lộ, Như sương khói
ba , Café Hàng Hành v.v...
Truyện về đề tài lịch sử, danh nhân: Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chút
thoáng Xuân Hương, Ngu ễn Thị Lộ, Những bài học tiếng Việt, Hạc vừa bay vừa
kêu thảng thốt, Cánh buồm nâu thuở ấy, v.v...
34
Khi nói về thể loại truyện ngắn, tác giả có lần đã trần tình về những thách
thức mà thể loại này mang lại cho người viết:
Truyện ngắn là một thể loại “tháp ngà” rất khó để thành danh [...] số lượng
truyện ngắn in báo hàng ngà dễ có đến con số hàng trăm nhưng “đứng được”
thậm chí cả một năm trời có một truyện được dư luận văn học quan tâm là cùng
[140, 216].
Điều này càng giúp ta chứng thực một điều: người sáng tác truyện ngắn đều
tay và người có các tác phẩm tạo được làn sóng dư luận cao trào như Nguyễn Huy
Thiệp không nhiều. Phần lớn các truyện ngắn của ông sau khi đăng tải đều được bạn
đọc đón nhận rất nhiệt thành, sôi nổi. Bởi ở đó, công chúng nhận ra trong cây bút
này có sự cuốn hút “hai lần lạ: nội dung lạ, nghệ thuật lạ” [105, 6]. Song trong thực
tế, con đường tiếp nhận truyện ngắn của nhà văn này lại mang đầy những trắc trở,
gian nan với nhiều quan điểm, phản ứng trái chiều từ phía công chúng và các nhà
nghiên cứu. Cũng chính vì thế mà Nguyễn Huy Thiệp và những sáng tác của ông
luôn là hiện tượng thẩm mỹ thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu không ngừng
nghỉ kể từ buổi đầu xuất hiện tới nay.
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
1.3.1. Một số hướng nghiên cứu, tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Trên văn đàn dân tộc, hiếm có cây bút nào có được đời sống tiếp nhận nghệ thuật
sôi động, nhiều chiều ngay từ những buổi ban đầu như hiện tượng truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp. Từ đó, tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nói chung cũng
mở ra phong phú và phức tạp như chính những sắc thái thẩm mỹ mà các sáng tác này
mang lại cho công chúng đương đại.
Theo khảo sát hơn 30 năm qua về phía công chúng, bạn đọc, đã có hơn 300
bài viết được đăng tải trên các tạp chí, các báo, các ấn phẩm chuyên khảo trong và
ngoài nước tập trung bàn luận, khảo sát về các truyện ngắn của hiện tượng văn học
này. Điều này đủ cho thấy sức hút của các sáng tác Nguyễn Huy Thiệp đối với
người đọc nói chung và với giới nghiên cứu nói riêng về hành trình sáng tạo nghệ
thuật đặc biệt của người nghệ sĩ đi đầu trong nỗ lực đổi mới nền văn học nghệ thuật
nước nhà. Khảo sát trực tiếp tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
từ góc nhìn của công chúng, bạn đọc, chúng tôi đặc biệt ấn tượng với hai công trình
35
chuyên khảo lớn là cuốn Ngu ễn Hu Thiệp - Tác phẩm và dư luận và cuốn Đi tìm
Ngu ễn Hu Thiệp. Hai công trình này là sự tập hợp, tuyển chọn và giới thiệu 56 bài
viết tiêu biểu về Nguyễn Huy Thiệp trong vòng mười lăm năm nhằm “phục dựng”
không khí tranh luận văn nghệ sôi nổi xoay quanh các truyện ngắn của ông (Xem
chi tiết tại Phụ lục 2).
Nhìn vào tiến trình tiếp nhận nghệ thuật khúc xạ qua các bài viết kể trên, có
thể thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp được tập trung khảo sát ở ba cấp độ chính:
Thứ nhất là cấp độ tác phẩm: đây là những bài viết trực tiếp đi vào tìm hiểu thế giới
nghệ thuật của các truyện ngắn mà tác giả mới công bố. Tiêu biểu cho cấp độ này là
các bài viết: Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp “triết học lịch sử” ha là “văn xuôi
nghệ thuật” (Trương Hồng Quang, Nguyễn Mai Xuân), “Tướng về hưu” một tác
phẩm có tính nghệ thuật (Trần Đạo), “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy
Thiệp như hình mẫu các tru ền thuyết văn học (T.N. Philimonova), Đọc “Chút
thoáng Xuân Hương” (Đào Duy Hiệp) v.v... Thứ hai là cấp độ thể loại: bao gồm các
bài viết khái quát về các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ các đặc trưng thể loại.
Các bài viết: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Trần Duy Thanh), Có một nghệ thuật
Ba-rốc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ha không? (Thái Hòa), Đọc
truyện Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Thanh Sơn) hay Thơ trong văn Ngu ễn Huy
Thiệp (T.N. Philimonova), Tư du tiểu thuyết và folklore hiện đại (Hoàng Ngọc
Hiến) v.v... là những minh chứng. Thứ ba là cấp độ lý luận tổng quan: gồm các ý
kiến tranh luận xoay quanh các vấn đề về nhà văn - tác phẩm và bạn đọc từ thực
tiễn sáng tác và tiếp nhận của hiện tượng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp như: Đọc
văn phải khác với đọc sử (Lại Nguyên Ân), Về một cách hiểu truyện ngắn “Vàng
lửa” (Thùy Sương), Viết như thế, cũng là một cách bắn súng lục vào quá khứ
(Nguyễn Thúy Ái), “Một câ bút có tài, nhưng...” (Hồng Diệu), Về những cách đọc
văn Ngu ễn Huy Thiệp (Nguyễn Văn Lưu), Sử - Văn, Văn - Sử và thái độ người phê
bình (Đỗ Trung Lai), Về một lối cảm thụ và phê bình “bắt vít” (Nguyễn Thanh Sơn
- Trịnh Bá Đĩnh), Cái Tâm và cái Tài của người viết (Mai Ngữ), Chữ nghĩa với tâm
hồn... (Trung Phương) v.v...
36
Ở thời gian đầu (từ năm 1987 đến năm 1990), khi truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp mới đăng đàn, công chúng chủ yếu tập trung vào khảo sát và cảm thụ trực tiếp
thế giới nghệ thuật và giá trị của các tác phẩm. Đây cũng là cội nguồn của các quan
điểm làm nảy sinh muôn vàn ý kiến, cách khám phá đa diện về đối tượng. Đặc biệt,
trong một loạt tác phẩm hư cấu về đề tài lịch sử danh nhân như: Kiếm sắc, Phẩm tiết,
Vàng lửa, Nguyễn Thị Lộ v.v... Nguyễn Huy Thiệp đã tập trung ngòi bút vào phác
hoạ bức chân dung “giải thiêng” của hàng loạt những danh nhân văn hoá, nhân vật
lịch sử lớn của dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, vua Gia Long, Nguyễn Huệ (tiếp
cận thần tượng bằng những thứ đời thường, tầm thường, bỏ qua sự bao bọc của
những giá trị, phẩm chất cao quý đã được thừa nhận). Lối hư cấu này đã trở thành
một “cú hích” lớn vào tâm thức độc giả đương thời, từ đó các luồng ý kiến có điều
kiện đối thoại, tranh biện quyết liệt với xoay quanh sự đánh giá, lý giải những thử
nghiệm nghệ thuật trong tác phẩm. Có những tác giả lên án gay gắt, nhưng cũng
không ít người lên tiếng bênh vực, đồng tình. Ban đầu, diện mạo của sự phản hồi chỉ
dừng ở việc bạn đọc tiếp nhận tác phẩm và bày tỏ quan điểm của mình với ý đồ sáng
tạo của người viết, nhưng càng về sau, không khí phê bình, tranh luận càng nóng
bỏng hơn khi diễn ra sự “đọ bút”, “đối thoại” giữa những độc giả với nhau. Qua các
bài của Đỗ Trung Lai, Vương Anh Tuấn, T.N. Philimonova, Trương Hồng Quang,
Nguyễn Xuân Mai, Trung Phương v.v... (xem chi tiết tại Phụ lục 2), các luận điểm từ
nội hàm tác phẩm đã lan rộng ra thành cuộc tranh luận giữa văn học và sử học, đặt ra
vấn đề ngưỡng sáng tạo của nhà văn, trách nhiệm của người nghệ sĩ và nhà phê bình
với văn chương nghệ thuật, vấn đề đánh giá tài năng và nhân cách tác giả v.v... Bước
sang giai đoạn sau (từ năm 1991 trở đi), độc giả đã dần quen với tên tuổi và cá tính
của nhà văn nên có được sự điềm tĩnh tập trung đánh giá lại con người của chủ thể
sáng tạo, do đó thay vì tiếp xúc “cận cảnh”, công chúng lại chú tâm nhiều hơn vào
việc khám phá, nhìn nhận chân dung tinh thần qua các năng lực thẩm mỹ và cá tính
sáng tạo của nhà văn. Có thể nói, việc ứng dụng lý thuyết thi pháp học, văn hóa học
hay các lý thuyết phê bình văn học mới để tiếp cận tác phẩm trở thành xu hướng chủ
đạo của hầu hết các bài viết nêu trên bởi ưu điểm dễ nhận biết và có cơ sở thực chứng
để người đọc có thể đưa các nhận định, diễn giải thuyết phục về đối tượng khảo sát.
37
Các bài viết phản hồi, tranh luận xuất phát từ nhiều điểm nhìn và cơ sở khác nhau, có
người trân trọng, ngợi ca, có người bất bình, bài bác... nhưng đều góp phần làm sáng
tỏ những đóng góp, giá trị đích thực của các tác phẩm, bàn luận để có sự nhìn nhận
đúng nghĩa hơn về hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn hay xác lập những tiêu
chí cần thiết cho quá trình tiếp nhận của bạn đọc...
Về phía người nghiên cứu văn học, khi truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã trải
qua khá nhiều bước thăng trầm của làn sóng dư luận cũng là lúc bạn đọc có đủ độ
“lắng” để hướng vào những công trình khảo sát chuyên sâu về đối tượng. Theo khảo
sát, chúng tôi thống kê được trên 100 khóa luận tốt nghiệp, hơn 70 Luận văn Thạc sĩ,
5 luận án tiến sĩ (xem chi tiết tại Phụ lục 3) và rất nhiều những đề tài nghiên cứu
khoa học của sinh viên, học viên các trường đại học lớn trong cả nước lựa chọn làm
đối tượng nghiên cứu. Ở những công trình này, thi pháp học tiếp tục trở thành hướng
nghiên cứu tiên phong với nhiều công trình tiêu biểu: Lời văn nghệ thuật Ngu ễn Hu
Thiệp (Nguyễn Văn Đông, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012), Liên
văn bản trong sáng tác Ngu ễn Hu Thiệp (Nguyễn Văn Thuấn, Luận án Tiến sĩ, Học
viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, 2013), Tru ện ngắn Việt
Nam từ 1986 đến na : nhìn từ góc độ thể loại (Lê Thị Hương Thủy, Luận án Tiến sĩ,
Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, 2013), Những đổi mới
trong nghệ thuật tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp (Châu Hồng Thủy, Luận văn Thạc
sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999), Nhân vật trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp
(Nguyễn Thị Thu, Luận văn Thạc sĩ , Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004), Thi pháp
nghệ thuật tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp (Nguyễn Thị Phú Quý, Luận văn Thạc sĩ ,
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 2012)... Với cách tiếp cận này, người nghiên cứu
khảo sát được khá sâu và kĩ nhiều biểu hiện khác nhau ở thi pháp tác giả, thi pháp tác
phẩm, thi pháp thể loại trên các bình diện chính như nhân vật, kết cấu hay lời văn...
tuy nhiên, mối quan hệ thẩm mỹ giữa chủ thể và khách thể phản ánh trong quá trình
người nghệ sĩ hiện thực hóa mỹ cảm thành các phạm trù thẩm mỹ qua mỗi sáng tác
lại gần như bỏ ngỏ.
Nếu xem truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một con đường và người nghiên
cứu là những lữ khách thì con đường ấy đã dày đặc những dấu chân đi. Từng truyện
38
ngắn đều được độc giả yêu văn chương cắt nghĩa, lật tìm, liên hệ, nhìn nhận một
cách thấu đáo từ nhiều cảm quan, góc độ... nhưng điều đó không làm vơi giảm đi
sức hút của hiện tượng văn học này. “Tất cả các con đường đi vào văn chương
Nguyễn Huy Thiệp đều quyến rũ kể cả sự quyến rũ khó chịu hay thù hận” - Nguyễn
Quang Thiều [147], có lẽ vì thế mà những nghiên cứu về các sáng tác của ông vẫn
chưa bao giờ có hồi kết.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ các phạm trù thẩm mỹ
Nếu tiếp cận từ góc độ thi pháp, góc độ văn hóa hay từ các lý thuyết phê bình
mới luôn là lựa chọn được nhiều người nghiên cứu vận dụng khi khảo sát truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp thì nghiên cứu về các phạm trù thẩm mỹ lại là một hướng
đi đầy tiềm năng và cũng đầy thử thách.
Trong dòng chảy đa chiều của những tranh luận nêu trên của công chúng,
người đầu tiên có công phát hiện và đưa ra những nhận định thẩm mỹ có tính định
hướng với công chúng đương thời về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp phải kể đến
nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến. Trong bài viết Tôi không chúc bạn thuận buồm
xuôi gió (9/1987), ông không sa đà vào diễn giải, phẩm bình các chi tiết hay đi vào
nhìn nhận một sáng tác cụ thể mà đưa ra các luận điểm để tập trung làm sáng tỏ
nhận định “Văn của Nguyễn Huy Thiệp có chiều sâu”, điều ấy sở dĩ đáng trân quý
bởi nó xuất hiện trong trang viết của một tác giả trẻ, “Một nhà văn trẻ lên đường”
[105, 19, 20]. Mở đầu bài viết, người viết xác lập “cái Đẹp”, “sự thật” và “nhân
bản” là ba quy luật cơ bản, vĩnh cửu của văn học nghệ thuật. Đây là cơ sở cần thiết
để người viết soi chiếu vào sáng tác Nguyễn Huy Thiệp và không ngần ngại khẳng
định những đóng góp tích cực mà hiện tượng văn học này đã mang tới cho công
chúng đương đại. Trong những ghi nhận đó, Hoàng Ngọc Hiến đặc biệt đánh giá
cao giá trị hiện thực và giá trị nhân bản toát ra từ những trang truyện của nhà văn.
Ông lập luận:
Có một thời văn học của ta nặng về ca ngợi, biểu dương những phẩm chất
tốt đẹp, những con người thuộc về khối cộng đồng... những nét xấu và dở nếu có
chăng chỉ là ngẫu nhiên và nhất thời [105, 12].
Nguyễn Huy Thiệp thuộc thế hệ nhà văn đổi mới, không quen với cái nhìn
“sử thi”, bởi thế, ông dám nhìn thẳng vào hiện thực, không ngần ngại nêu lên những
39
mặt bê tha, nhếch nhác thậm chí rùng rợn, khủng khiếp của đời sống và dùng chính
những sự thật “đau lòng” ấy để cùng cảnh tỉnh, cùng thẳng thắn nhìn nhận và cùng
trăn trở về vấn đề con người trong trang viết. Để làm được điều này, theo tác giả,
ngòi bút trào phúng (vừa tàn nhẫn, vừa xót xa) và một vẻ đẹp “thiên tính nữ” đầy
tính nhân bản là những điểm tựa vững chắc mà Nguyễn Huy Thiệp đã triệt để khai
thác để tạo nên sức hút và chiều sâu cho các truyện ngắn của mình. Như vậy, qua
cái nhìn cởi mở về hành trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ thời kỳ Đổi
mới, Hoàng Ngọc Hiến đã ít nhiều gợi dẫn về sự hiện hữu của phạm trù cái Hài (khi
phân tích bút pháp trào phúng) và cái Đẹp (khi diễn giải về nguyên tắc tính nữ)
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Có nghệ thuật Ba-rốc trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp ha không? (Tạp
chí Văn học, số 2, ngày 3/4/1989) của Thái Hòa cũng là một bài viết đáng chú ý với
nhiều gợi mở về hướng tiếp cận tác phẩm từ các phạm trù thẩm mỹ. Qua khảo sát
12 truyện ngắn tiêu biểu (kể từ truyện Tâm hồn mẹ đến truyện Phẩm tiết), tác giả đã
đưa ra 4 luận điểm lớn, khái quát được một cách sắc sảo thế giới nghệ thuật nổi bật
của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: 1/Có một bề mặt rậm rạp và một bề sâu thẳm
trong các truyện, 2/ Sự vận động và chuyển hóa của các chi tiết trong một chỉnh thể
và trong tổng thể, 3/ Những nghịch lý về thiện - ác, chân - giả, và đẹp - xấu, 4/ Thế
giới là một kịch trường, ai sắm vai nào sẽ được hưởng công vai đó [105, 94-107].
Các luận điểm 1, 2 và 4 thuần túy là những nhận định, phát hiện về các khía cạnh
của nội dung hay hình thức tác phẩm đặt trong tính chỉnh thể và tổng thể của đối
tượng, còn ở luận điểm 3, Thái Hòa đã trực tiếp đề cập tới một biểu hiện thẩm mỹ
quan trọng là “tính nghịch lý” của các phạm trù cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cơ sở này giúp người đọc lý giải tại sao trong sáng
tác của nhà văn, khi đi tìm cái “chân” độc giả sẽ bắt gặp sự giả giối, ghê sợ, tìm
điều thiện sẽ gặp cái ác, tìm cái Đẹp sẽ gặp cái xấu... Tất cả những lập luận đó của
tác giả bài viết cho phép khẳng định một thực tế: với truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, muốn tri nhận giá trị thẩm mỹ, độc giả cần vượt qua sự choáng ngợp của
những cái thô nhám, xấu xí, dữ dội bề ngoài mới thấy được “vẻ mỹ lệ của cái kỳ dị
hay cái kỳ dị mỹ lệ” [105, 93]. Đây là một chỉ dẫn vô cùng quan trọng cho người
nghiên cứu khi tiếp cận hiện tượng văn học này từ các phạm trù thẩm mỹ, đặc biệt
là phạm trù về cái Thô kệch.
40
Cũng như Hoàng Ngọc Hiến và Thái Hòa, Nguyễn Thanh Sơn là một trong
những tác giả gợi dẫn được những nhận định có tính định hướng về các phạm trù
thẩm mỹ khi công khai bàn luận về hiện tượng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
trước công chúng và bạn đọc yêu văn nghệ. Ngay mở đầu bài viết Đọc tru ện ngắn
Ngu ễn Hu Thiệp (Hà Nội, ngày 27/6/1995), tác giả đã khảo sát khá kĩ tính chất
triết lý, suy tư là cơ sở tạo nên chiều sâu nội dung tư tưởng cho trang văn Nguyễn
Huy Thiệp. Trong mạch lập luận ấy, người viết không ngần ngại ghi nhận vẻ đẹp
tiềm ẩn của đối tượng:
Đối với riêng tôi, tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp cũng giống như viên ngọc
Biện Hòa, những viên ngọc với lớp đá vỏ xù xì, thô ráp... nó đẹp nhất vì người ta
biết trong lớp đá đó tiềm ẩn một viên ngọc [105, 118].
Để chứng minh cho tính xác đáng của nhận định này, tác giả đã tập trung chỉ
ra hai bi kịch lớn mà theo người viết là cội nguồn nảy nở những day dứt, suy tư
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đó là sự cô đơn và trì trệ. Có thể nói, bàn về
tính triết lý, Nguyễn Thanh Sơn đã đưa đến những suy tư về các bi kịch của con
người cá nhân và bi kịch tập thể là những gợi dẫn hết sức quan trọng khi ta muốn
khảo sát những biểu hiện của phạm trù cái Bi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Như vậy, điểm lại những bài viết tiêu biểu kể trên cho thấy, công chúng, bạn đọc
trong quá trình tiếp nhận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thực tế đã rất quan tâm
xem xét đời sống thẩm mỹ của tác phẩm, nhưng đa phần chỉ dừng ở những lập luận,
hay những phát hiện về một vài khía cạnh biểu hiện của các phạm trù đơn lẻ mà
người viết quan tâm khảo sát. Bởi thế, những công trình đó có tính chất định hướng,
tiền đề còn chưa đạt được tính hệ thống và chỉnh thể cho những yêu cầu mà hành
trình tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ các phạm trù thẩm mỹ đặt ra.
Khác với sự gợi dẫn của các bài viết tranh luận, phê bình nêu trên, ở một số
công trình xuất hiện gần đây, các tác giả đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến đời
sống thẩm mỹ của hiện tượng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp bằng cách chọn một
vài phạm trù tiêu biểu trong đó để khảo sát, tìm các biểu hiện và bước đầu đánh giá
giá trị thẩm mỹ của nó một cách trọng tâm, chi tiết. Kết quả là, cái Hài trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhanh chóng trở thành đối tượng trung tâm được nhiều
41
người nghiên cứu đặt ra và khái quát. Luận văn Thạc sĩ Tiếng cười trong sáng tác
Ngu ễn Hu Thiệp (Trần Thị Thanh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005), Luận
văn Thạc sĩ Từ cảm quan trào lộng đến ngôn ngữ nghệ thuật trong tru ện ngắn
Ngu ễn Hu Thiệp (Nguyễn Thị Huệ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007),
Luận văn Thạc sĩ Yếu tố giễu nhại trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp (Bùi Ngọc
Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, 2011), bài viết Màu sắc triết lý và giọng
điệu giễu nhại trong lời thoại nhân vật của Ngu ễn Hu Thiệp (Nguyễn Văn Đông,
2016) [34] hay bài viết Những cung bậc tiếng cười trong một số tru ện ngắn của
Ngu ễn Hu Thiệp (Nguyễn Thị Hồng, Tạp chí khoa học, Đại học Đồng Nai, 2018)
[66] v.v... là những dẫn chứng tiêu biểu. Điểm gặp gỡ chung của những công trình
này là đều dùng góc nhìn của một phạm trù thẩm mỹ (cái Hài) để đánh giá, nhìn
nhận về sự tài hoa, cá tính và trí tuệ của một cây bút sở trường về truyện ngắn,
nhưng lại chọn mức độ biểu hiện khác nhau ở phạm trù thẩm mỹ đó để tìm hiểu.
Trong công trình nghiên cứu Tiếng cười trong sáng tác Ngu ễn Hu Thiệp của Trần
Thị Thanh (Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội, Hà Nội), tác giả đặc biệt quan tâm tới nội dung và ý nghĩa của những
tiếng cười mang tính nhận thức, triết lý trong các truyện ngắn Tướng về hưu, Không
có vua, Hu ền thoại phố phường, Muối của rừng... [42]. Luận văn của Nguyễn Thị
Huệ Từ cảm quan trào lộng đến ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp (Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2007) thì khai thác khá kĩ mối liên hệ giữa cảm hứng về cái Hài đến
những cách tân về mặt hình thức ngôn ngữ của tác phẩm [68]. Hay bài viết của
Nguyễn Thị Hồng - “Những cung bậc tiếng cười trong một số truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp” (Tạp chí Khoa học, Đại học Đồng Nai (08), tr. 78-89, 2018) lại tập trung khái
quát ba cung bậc tiếng cười nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là tiếng
cười khôi hài mang cảm hứng khẳng định, tiếng cười trào phúng mang ý nghĩa phủ
định và tiếng cười bi cảm mang cảm hứng hoài nghi [66]... Tất cả những cố gắng đó
của các tác giả phần nào giúp ta thấy được rõ nét hơn các phương diện về nội dung,
cảm hứng cũng như ý nghĩa của cái Hài được phản ánh thể hiện trong tác phẩm.
42
Bên cạnh cái Hài, cái Thô kệch cũng là một phạm trù ít nhiều được giới
nghiên cứu quan tâm trong những năm gần đây khi khảo sát về các truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả Châu Minh Hùng trong bài viết Tiếng nói của cái tục
trong văn Ngu ễn Huy Thiệp (http://chumonglong.wordpress.com.vn, ngày đăng tải
02/04/2012) là người đã nghiêm túc đặt ra vấn đề về ý nghĩa thẩm mỹ của cái tục (cái
thô, cái chưa thanh) trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Ông lý luận rằng: “Không
còn nghi ngờ gì nữa, Cái Tục là một phạm trù văn hoá thẩm mỹ trong lịch sử tinh
thần của nhân loại”, từ đó tác giả xác lập mục đích nghiên cứu là “giải quyết vấn đề
Cái Tục trên tinh thần khoa học nghiêm túc qua văn bản nghệ thuật của Nguyễn Huy
Thiệp”. Trong khuôn khổ của bài viết, Châu Minh Hùng đã phân tích tính phổ quát
của bộ “tứ linh” theo tín ngưỡng phồn thực nguyên thủy (Chim, Dái, Bướm, Vú)
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp như một dẫn chứng tiêu biểu cho cái tục, đồng
thời phân tích ý nghĩa thẩm mỹ của nó trong đó một cách thuyết phục: “Khi Cái Tục
tràn vào văn chương nghệ thuật với hình thức chính danh, có người bảo Cái Đẹp đã
chết. Tôi nghĩ, Cái Đẹp không chết. Chỉ có cái chết đến với Cái Đẹp giả tạo. Cái Đẹp
đích thực nằm ở những giá trị nhân bản đích thực. [...]. Trong lúc thế giới xuất hiện
quá nhiều cái giả: hàng giả, tiền giả, bằng cấp giả… và cả những nhân cách giả, thì,
có khi Cái Tục là Thật nhất” [71].
Điểm qua hành trình tiếp cận thẩm mỹ trên có thể thấy, tiếp cận tác phẩm từ
góc nhìn các phạm trù thẩm mỹ là một hướng đi mới mẻ, đòi hỏi người thực hiện
khảo sát một cách hệ thống từ các biểu hiện đến bản chất thẩm mỹ, nhìn nhận từ
mối quan hệ biện chứng giữa các phạm trù thẩm mỹ (cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái
Hài...) đến sự chi phối của những quan niệm, mỹ cảm của chủ thể. Vì vậy, những
công trình nêu trên mới chỉ dừng ở sự gợi mở hay khai thác một vài khía cạnh thẩm
mỹ (hoặc từ phía khách thể hoặc từ phía chủ thể) của truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, mà chưa có sự nghiên cứu chỉnh thể từ chính sự hiện diện của các phạm trù
thẩm mỹ trong tác phẩm. Đây cũng chính là khoảng trống thôi thúc chúng tôi đề
xuất hướng tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn các phạm trù thẩm
mỹ như một con đường riêng để cùng góp thêm vào hành trình bạn đọc đi tìm một
người nghệ sĩ tài hoa và bản lĩnh trong nền văn học hiện đại nước nhà.
43
Tiểu kết chƣơng 1
Những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên cho ta thấy, đời sống văn học nghệ thuật nói
chung và hiện tượng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nói riêng đều phát triển và vận động
theo những quy luật thẩm mỹ. Do vậy, vận dụng lý thuyết mỹ học, đặc biệt là những khái
quát về các phạm trù thẩm mỹ là một hướng nghiên cứu thú vị, có tính khả thi nhưng không
hề dễ dàng tiếp cận. Bởi bản thân cơ sở lý luận lẫn thực tiễn đời sống tiếp nhận hiện tượng
văn học này là cả một hành trình dài quy tụ ở đó rất nhiều những luồng quan điểm, ý kiến
trái chiều... mà cho đến nay giới chuyên môn vẫn chưa ngừng các tranh luận. Tuy nhiên, trả
cho văn học về đúng bản chất thẩm mỹ và nghệ thuật của mình là nỗ lực cần thiết và là điểm
tựa giúp chúng tôi tự tin và sẵn sàng tháo gỡ mọi khó khăn, trở ngại để lựa chọn hướng
nghiên cứu các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn các phạm trù thẩm mỹ, chứ
không dừng ở những cách đọc, cách khảo sát hay tiếp cận đã có. Với mục tiêu ấy, chúng tôi
mong muốn qua việc thực hiện đề tài này sẽ mang về những khái quát đúng mực và toàn
diện về quan niệm thẩm mỹ, biểu hiện và bản chất thẩm mỹ độc đáo của các phạm trù thẩm
mỹ được hiện thực hóa qua từng sáng tác của nhà văn. Từ đó, kiến tạo một cơ sở hợp lý để
nhìn nhận, đánh giá về năng lực cũng như cá tính sáng tạo của nhà văn.
44
Chƣơng 2
CÁI ĐẸP VÀ CÁI CAO CẢ
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
2.1. Cái Đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
2.1.1. Quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Huy Thiệp
Thực tế, lịch sử tư tưởng mỹ học đã tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về
cái Đẹp từ phía trường phái duy tâm khách quan (Platon, Hegel), duy tâm chủ quan
(Kant), duy vật (Aristote, Chernyshevsky) hay duy vật biện chứng (Marx, Lenin)...
điều này cho thấy tính phức tạp và không mấy dễ dàng để đồng nhất về mặt nội hàm
của bản thân khái niệm. Nguyễn Huy Thiệp không kỳ vọng đi tìm một định nghĩa
toàn vẹn cho cái Đẹp (với tư cách là một phạm trù trung tâm của mỹ học) nhưng
ông lại tập trung bày tỏ rất rõ quan niệm thẩm mỹ của mình về nó bằng lập trường
của một người nghệ sĩ đương đại.
Trong bài viết Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn, Nguyễn
Huy Thiệp đã ý thức rất sâu sắc về vai trò của cái Đẹp trong văn học. Ông ví nó như
những “hòn than ủ đỏ”, có sức sưởi ấm, sức lan tỏa, thậm chí thiêu đốt đến bùng
cháy trong tác phẩm, nên các sáng tác nghệ thuật ngôn từ không thể xem nhẹ giá trị
thẩm mỹ (trong đó có giá trị mà phạm trù cái Đẹp mang lại). Đầu tiên, Nguyễn Huy
Thiệp đã dẫn ra những quan niệm tiền đề kinh điển về cái Đẹp để từ đó đưa ra
những lập luận, phản biện theo quan điểm của riêng mình. Với tuyên bố “Cái Đẹp
sẽ cứu thế giới” của Dostoyevsky, Nguyễn Huy Thiệp cho rằng đó là cách nói dỗi
để bày tỏ kỳ vọng ở “cái Đẹp chính trị, cái Đẹp của một thể chế chính trị cụ thể”
nhất thiết không phải sự ảo tưởng viển vông với cái Đẹp mơ hồ, hay như quan niệm
của Diderot: "Cái thật, cái tốt và cái Đẹp khắng khít với nhau”, nhà văn cũng phản
biện lại: “hình như cái tốt liên quan đến cái Hài hòa tức là liên quan đến tự nhiên”...
Từ đó, ông khẳng định, ở thời của Dostoyevsky “tạo hóa vô tâm, cũng như cơ chế
chính trị đương thời cũng vô tâm nốt” nên chúng không thể đồng nhất với văn
chương nghệ thuật mà bản thân nhà văn phải là một lực lượng thứ ba, dùng sức
mạnh của cái Đẹp trong tác phẩm để kéo sức mạnh của hai lực lượng này xích lại
gần nhau [140, 27-28].
45
Ở địa hạt của văn chương, trong rất nhiều thuộc tính thẩm mỹ để làm nên
phạm trù cái Đẹp, ông đặc biệt quan tâm tới tính “chính xác” của văn học. Điều này
không hề mới nhưng nó khá nhạy cảm và tồn tại dưới nhiều biến thể trong thực tiễn
sáng tác và trong dòng chảy của lịch sử văn học nước nhà. Suốt chặng đường dài
gần mười thế kỉ của nền văn học trung đại, tính chính xác của văn chương nghệ
thuật được mặc định khuôn gọn trong những quy tắc niêm luật của thể loại, một hệ
thống dày đặc điển phạm và bút pháp mang đậm tính ước lệ tượng trưng. Văn
chương trở thành nơi “tải đạo”, “giáo huấn” và tỏ bày khí tiết của các nhà Nho, nhà
sư, nhà vua... (là lớp người thuộc thượng tầng kiến trúc của hình thái kinh tế xã hội
đương thời). Đến giai đoạn giao thời (nửa cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX), đời sống
văn nghệ bắt đầu phát ra những tín hiệu rõ rệt về niềm khao khát hiện đại hóa nền
văn học dân tộc, giải phóng cái tôi nội cảm của người nghệ sĩ. Phong trào Thơ mới
(1932-1945), hay phong trào sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn diễn ra sôi nổi như
một hệ quả tất yếu của văn học trong cuộc giao thoa văn hóa Đông - Tây, lúc này,
tính chính xác của văn chương lại được xem là sự chính xác (thành thực) trong việc
bộc lộ cảm xúc, cách nhìn nhận, đánh giá chủ quan của các chủ thể thẩm mỹ trước
thực tại. Bước vào giai đoạn khó khăn và gian khổ nhất của lịch sử dân tộc, văn học
nhanh chóng chuyển mình nhập cuộc trở thành một “mặt trận” tinh thần để ngợi ca
cách mạng, cổ vũ tinh thần chiến đấu. Theo đó, tính chính xác của văn học được
ngầm định là sự đồng thuận với nhiệm vụ cách mạng, với tư tưởng đấu tranh của
Đảng Cộng sản hay tuân thủ tuyệt đối lý tưởng chính trị (tính Đảng) mà lịch sử dân
tộc đã xác lập, giao phó cho văn học... Tất cả những thuộc tính đó, trong những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã phát huy được không ít vai trò thẩm mỹ của mình với
việc kiến tạo và phát hiện ra những sắc diện khác nhau của cái Đẹp trong đời sống
cộng đồng, tập thể qua lăng kính văn học nhưng nó cũng vô tình áp đặt biến văn học
trở thành công cụ phát ngôn cho mục đích và những tư tưởng chính trị - xã hội khá
cụ thể chứ không chấp nhận thuần túy vì cái Đẹp hay nhân danh cái Đẹp. Nguyễn
Huy Thiệp hoàn toàn có cơ sở khi nêu ra chủ kiến của mình. Ông là nhà văn của
thời bình và đặc biệt là lớp nghệ sĩ được hưởng trọn luồng không khí cởi mở sục sôi
của thời kỳ đổi mới văn nghệ (sau 1986), do đó, tác giả đòi hỏi “tính chính xác” ở
đây là: “Chính xác ở ngôn từ thể hiện. Chính xác ở bản thân sự kiện. Thậm chí
46
chính xác ở thể loại. Chính xác ở chức năng văn học”. Như vậy, vấn đề nhà văn đặt
ra tính xác ở đây không phải theo nghĩa của khoa học tự nhiên mà là cách nói ẩn dụ
nhằm xác lập một nguyên tắc khách quan, một lối tư duy tiếp cận hiện thực bằng cái
nhìn đa chiều không nhân danh lập trường giai cấp hay chính trị như nguyên tắc khách
quan của trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa hay hiện thực XHCN của nền văn học
trước đó. Với Nguyễn Huy Thiệp và những trang viết của ông, tính chính xác của
văn học phải là một thái độ tỉnh táo đối diện và dám thừa nhận mọi góc cạnh của
đời sống trong sáng tác. Đảm bảo được nguyên tắc đó, tính chính xác hoàn toàn có
thể xem là “một điều kiện thiết yếu của cái Đẹp”. Văn học chỉ có cái Đẹp khi được
trở về phụng sự quy luật của cái Đẹp, trở về đúng với bản chất thẩm mỹ, bản chất
nghệ thuật của mình [140, 35]. Từ đây, nhà văn cũng chỉ ra rất rõ “lối” văn chương
mà người nghệ sĩ sẽ lựa chọn để có cái Đẹp chính là “phải bất chấp hết. Ngập trong
bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa”[141, 256], còn nhà văn sẽ không phải
người “tải đạo” nêu gương cho xã hội hay “chiến sĩ” trên mặt trận văn hóa tư tưởng
mà đơn thuần là một người nghệ sĩ giản dị, nhạy cảm nhưng luôn “đứng ở ranh giới
giữa hai làn đạn (thiện, ác) để làm một việc là biểu hiện Sự Thật mà thôi”[140, 41].
Tất cả những điều này có tính phản biện rất quyết liệt với những quan niệm văn
chương truyền thống như một sự khẳng định tinh thần “đổi mới văn nghệ” và khao
khát tự do trong sáng tác mà bản thân tác giả cũng như các văn nghệ sĩ đương thời
theo đuổi trong hành trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
Trong một bài viết khác, Trò chu ện với hoa thủ tiên và những nhầm lẫn
của nhà văn, Nguyễn Huy Thiệp cũng đặc biệt quan tâm dành một tiểu mục để bàn
luận về “vẻ Đẹp của văn học”. Trước câu hỏi thế nào là một tác phẩm văn học Đẹp,
nhà văn khẳng định “Cái Đẹp - sự hoàn hảo trong một tác phẩm văn học rất khó xác
định... văn vô đệ nhất”, vậy nên tham vọng đưa ra tỷ lệ vàng định lượng chính xác
cái Đẹp ở đây là điều không tưởng. Tuy nhiên, người viết lại tự tin xác lập một cách
định tính rằng: “Cái Đẹp trong những tác phẩm văn học giá trị... Yếu tố mới lạ của
ngôn ngữ được đưa vào tác phẩm hiện đại theo tôi phải là yếu tố số một cho việc
định giá một tác phẩm văn học giá trị” bởi việc tìm ra một câu văn phù hợp là thứ
“lao động nhà văn chết người, nhọc nhằn và gian khó” [140, 251]. Trong một bài
đối thoại với công chúng khác, điểm này cũng được nhà văn nhấn mạnh bằng sự ráo
47
riết của nội tâm người nghệ sĩ truyền vào từng con chữ: “Sức truyền cảm ở các nhà văn
lương thiện chính là sự ráo riết ở ý nghĩa từng con chữ ấy. Đây chính là cái Đẹp” [140, 19].
Như vậy, trong một phạm vi hẹp và có tính đặc thù là văn chương, Nguyễn Huy Thiệp đã
bày tỏ rất rõ quan niệm thẩm mỹ của mình với hai luận điểm nổi bật: Cái Đẹp là cái chính
xác và cái Đẹp là cái mới lạ của ngôn từ trong tác phẩm.
Có thể nói, tính xác đáng cũng như hạn chế của các quan niệm trên tạm thời
chúng ta chưa bàn tới nhưng đưa ra công chúng những tuyên ngôn này đồng nghĩa
với việc nhà văn đã tự xác lập cho mình một ý thức, một tình cảm và một lý tưởng
thẩm mỹ riêng. Đó là quyết tâm đi trên con đường xuyên qua mọi định kiến, quan
niệm truyền thống, thậm chí chính thống, quyết tâm gỡ bỏ mọi rào cản, quyền kiểm
soát của các thể chế chính trị, luân lý xã hội hay tâm lý đám đông để kiếm tìm cái
Đẹp vì văn học và văn học vì cái Đẹp. Con đường ấy thật giản dị nhưng chắc chắn
gập ghềnh, đầy chông gai và sự trả giá, đớn đau.
2.1.2. Biểu hiện của cái Đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Các sáng tác truyện ngắn chính là sản phẩm tinh thần mà Nguyễn Huy Thiệp
dùng để hiện thực hóa và củng cố niềm tin của mình về tính xác đáng của những
quan niệm thẩm mỹ. Từ những quan sát của cá nhân, chúng tôi nhận thấy các lĩnh
vực biểu hiện của cái Đẹp trong các sáng tác này khá phong phú và mang rất đậm
cá tính nghệ sĩ của nhà văn.
2.1.2.1. Vẻ đẹp của tự nhiên
Để chứng minh cho các quan niệm thẩm mỹ đã nêu, Nguyễn Huy Thiệp đã
tập trung tất cả tinh lực để kiếm tìm và mô tả một cách chân thực nhất, sống động
nhất những hiện tượng thẩm mỹ của thế giới khách quan mà trước hết là ở lĩnh vực
của tự nhiên. Đọc truyện Chả đi sông ơi, độc giả sẽ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp bình dị
của một miền quê ngh o ven sông. Hình ảnh bến Cốc được miêu tả tỉ mỉ ngay mở
đầu tác phẩm đã cuốn người đọc vào một vẻ đẹp tĩnh lặng đến nao lòng: “Con sông
bến nước mơ màng và buồn cô liêu, nửa như chờ đợi, nửa như dỗi hờn. Mùa hoa, trên
ngọn cây gạo màu đỏ xao xuyến lạ lùng. Nước lững lờ trôi, giữa tim dòng sông rạch
một mũi sóng dập dồn, ở đầu mũi sóng có một điểm đen tựa như mũi giáo” [141, 5].
Vẫn con sông ấy, vẫn thủy trình ấy nhưng ở mỗi một thời khắc, nó lại được phác
48
họa bằng một vẻ mỹ miều thơ mộng rất riêng: khi thì huyền ảo, mờ nhòe “một dải
sương mù buông tỏa trên sông, không thể phân biệt ranh giới bến với bờ, giữa đường
mặt sông với nền trời nữa” [141, 6], lúc lại khoáng đạt, tỏa rạng “Ở phía doi cát bên
sông, vầng trăng lưỡi liềm tỏa ánh sáng xanh mờ ảo. Gió thổi mơn man... Mặt sông như
rộng hẳn ra, chẳng có bến bờ gì cả. Phía đằng cây gạo, những tia sáng hồng của buổi ban
mai bắt đầu le lói” [141, 9]... Bến Cốc, con sông, ánh trăng, làn sương, luồng cá, tiếng
chim... tất cả những thanh âm, màu sắc của bầu trời, mặt đất trong bức tranh sông quê ấy
đều hiện lên một cách bình thản, giản dị nhưng đẹp lạ lùng!
Ngược lên miền rẻo cao, thiên nhiên cũng là miền thẩm mỹ đặc biệt ấn tượng
trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn Muối của rừng là một minh chứng
tiêu biểu, đọc tác phẩm lên, ta thấy sự sinh sôi nảy nở âm thầm trong lòng rừng già
được hiện lên sống động qua từng chi tiết: “Rừng xanh ngắt và ẩm ướt [...] Khoảng
thời gian này mà đi trong rừng, châm dẫm lên lớp lá ải mục, hít thở không khí trong
lọc” [141, 59]. Đất trời vào xuân còn tạo cho vùng rẻo cao một bức tranh vừa “trang
trọng” vừa “tình cảm”, đó là thời khắc rừng xanh kết muối, bung nở loài hoa tử
huyền hiếm quý, loài hoa báo hiệu điềm lành: “Loài hoa tử huyền cứ ba chục năm
mới nở một lần [...] Hoa này màu trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta vẫn gọi
hoa này là muối của rừng. Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nước thanh bình,
mùa màng phong túc” [141, 67]. Sự ban sơ thanh tịnh của không khí và cảnh vật nơi
thung lũng mù sương Hua Tát cũng là một vẻ đẹp tự nhiên đầy ấn tượng khi
Nguyễn Huy Thiệp viết về đề tài miền núi. Ngay mở đầu thiên truyện Những ngọn
gió Hua Tát, nhà văn đã mê hoặc lòng người bằng một vẻ đẹp cổ tích bao trùm lên
cảnh sắc mà chắc chắn rằng nếu ai có dịp đặt chân tới nơi này đều không thể nào
quên: “Xung quanh hồ, khi thu đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt [...] Ở đây
quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng bạc [...] thứ không khí huyền
thoại” [141, 196]. Sắc vàng của cúc dại luôn là điểm nhấn để xua đi vẻ hoang vắng,
buồn tẻ của núi rừng: “Mùa thu, hoa cúc lại nở vàng. Bướm trắng bay phấp phới
từng đàn dọc hai bên đường. Mùi hoa cúc dại ngai ngái vương vấn tưởng như vừa
quen vừa lạ” (truyện Những người muôn năm cũ) [141, 466]. Ánh trăng giữa núi
rừng cũng trở nên rực rỡ hơn, huyền ảo hơn: “... ánh trăng rực rỡ huyền ảo đẹp lạ
49
lùng [...] Trăng rất sáng, ánh trăng hắt qua khung cửa tựa như dát vàng trên tấm
chăn dệt thổ cẩm (truyện Thổ cẩm) [141, 449]. Trước đó, nhiều cây bút văn xuôi
khác đã từng rất thành công khi miêu vẻ đẹp của thiên nhiên miền rẻo cao Tây Bắc.
Với con mắt tài hoa, uyên bác, nhà văn Nguyễn Tuân qua các trang tùy bút từng
khắc họa một cách ấn tượng hình ảnh Đà giang vừa hung bạo vừa trữ tình, đẹp như
một kỳ quan của tạo hóa. Nhà văn Tô Hoài cũng không kém phần tinh tế khi mang
về cho độc giả những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc chở đầy sắc màu văn hóa
phong tục của đồng bào dân tộc miền núi... Rõ ràng, Nguyễn Huy Thiệp đã bước
trên con đường đã có nhiều dấu chân của người đi trước, nhưng ông không nhân
danh người nghệ sĩ “nhập cuộc” đang mang những trang viết về miền rẻo cao để
phục vụ sự nghiệp chính trị cách mạng mà tìm về những trải nghiệm riêng của một
thực thể người khi được chiêm ngưỡng những vẻ đẹp kỳ thú của tạo hóa ban tặng
cho cảnh sắc nơi đây. Đó là hành trình kiếm tìm những không gian nguyên thủy,
những sắc điệu bình dị, chân thật nhất của cỏ cây, hoa lá, của đại ngàn sâu thẳm...
Những không gian ấy hoang dã, có phần u tịch, tách biệt với cuộc sống hiện đại,
nhưng lại đẹp bí ẩn và cuốn hút một cách lạ kỳ.
Xuôi về đồng bằng, sự bình dị của thiên nhiên nơi thôn dã cũng được nhà
văn thu chắt vào trong những khuôn hình thật đẹp. Đọc truyện Những bài học nông
thôn, độc giả khó có thể quên cảnh trời chiều ngả bóng trên cánh đồng sau vụ gặt
đầy màu sắc và góc cạnh: “Cánh đồng đã gặt hết, còn trơ gốc rạ. Phía chân trời, mây
cuồn cuộn rực hồng một màu lửa. Mặt ruộng nứt nẻ. Cả cánh đồng hực lên một mùi
hương đất nồng nàn” [141, 122]. Tới truyện Chăn trâu cắt cỏ, ta lại bắt gặp một bức
hoạ nên thơ của cánh đồng lúa sắp lên đòng dậy hương ngào ngạt: “Lúa sắp lên
đòng nên có mùi thơm ngào ngạt. Trời nắng, thứ nắng đầu mùa hạ, không khô mà
dịu” [141, 364]. Cơn giông đầu hạ được ghi lại như một sự gột rửa của tạo hóa để
trả về vẻ thanh sạch cho vạn vật, không gian: “Mưa ngớt dần [...] Bọn ếch cũng biến
đâu mất. Thỉnh thoảng chỉ thấy một con nhái bén phóng v o theo rạch nước [...]
Không khí rất sạch. Sau mưa, quang cảnh hiện lên vừa đỏm dáng, vừa tinh khiết”
(truyện Thương nhớ đồng quê) [141, 176]. Bầu trời cũng là một hình ảnh đẹp được
trở đi trở lại nhiều lần trong những trang văn Nguyễn Huy Thiệp với sắc màu rực rỡ
50
của ngày mới: “mặt trời lên cao rực rỡ, ánh năng chan hòa khắp cánh đồng” [141,
136]... Có thể thấy, những cánh đồng nứt nẻ, những cơn mưa dữ dội hay sắc trời
vần vũ chuyển mình trong cơn giông..., tất cả đều là những sự vật, hiện tượng quá
đỗi quen thuộc với thiên nhiên của những miền quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhà
văn đã thật tỉ mỉ đi góp nhặt tất cả những sự vật bình thường đến tầm thường ấy để
cài vào giữa những thiên chuyện cuộc đời và tạo ra một vẻ đẹp của Mẹ tự nhiên bao
quanh con người chân thực đến nao lòng.
Thiên nhiên trong từng trang viết của nhà văn hiện hữu bằng những phẩm
chất tự thân như một tấm gương, bình yên, thanh sạch và công bằng để con người tự
soi chiếu và ngộ ra quy luật khách quan của sự sống. Trước thiên nhiên, mọi sự tô
vẽ ca tụng hay vụ lợi của con người đều không có giá trị. Tính tự thân làm cho thiên
nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hiện lên với vẻ đẹp thuần khiết nhất,
trong lành nhất khiến ta “cảm động đến tận đáy lòng” (truyện Mưa Nhã Nam).
2.1.2.2. Vẻ đẹp của con người
Vẻ đẹp của con người là bình diện nổi bật thứ hai mà các truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp quan tâm thể hiện. Tác giả thường dùng cụm từ những CON
VẬT NGƯỜI để nói về sự suy đồi, xuống cấp, vô tâm với đồng loại của con người
trong xã hội đương đại. Vậy nhưng, trong tận cùng của nỗi thất vọng, xót xa, nhà
văn vẫn nhìn thấy sự hiện diện của cái Đẹp khi ông chọn cách thấu cảm, chiêm
nghiệm về nhân sinh từ nhiều góc độ.
Phái đẹp thuộc về những người phụ nữ - luận điểm đó mặc nhiên được thừa
nhận trong đời sống xã hội của loài người. Với Nguyễn Huy Thiệp, ông luôn trân
trọng đề cao thuộc tính ấy, vậy nên “thiên tính nữ” trở thành một vẻ đẹp nổi bật của
con người trong các sáng tác của nhà văn [105, 16]. Nhìn vào phần nhiều các truyện
ngắn, hầu như tác phẩm nào của Nguyễn Huy Thiệp cũng tô đậm hình ảnh đẹp về
một người phụ nữ. Đó là hình ảnh Mị trong truyện ngắn cùng tên, chị Thắm, cô lái
đò thầm lặng trong truyện Chả đi sông ơi, là Mẹ Cả, người con gái huyền thoại
trong truyện Con gái Thủ Thần, bé Quy trong truyện Những người thợ xẻ, bé Thu
trong truyện Tâm hồn mẹ, nàng Pùa, nàng Bua, nàng E, nàng Muôn, nàng Sinh
trong truyện Những ngọn gió Hua Tát, nàng Ngô Thị Vinh Hoa trong truyện Phẩm
51
tiết, Nguyễn Thị Lộ trong truyện ngắn cùng tên, Hồ Xuân Hương trong truyện Chút
thoáng Xuân Hương, bé Nhi trong truyện Cánh buồm nâu thuở ấ , hai cô giáo Thu,
Kiểm trong truyện Quan Âm chỉ lộ, hay hình ảnh bé San trong truyện Như sương
khói ba v.v... Những người phụ nữ ấy có hoàn cảnh xuất thân, lứa tuổi, cuộc đời và
số phận khác nhau, nhưng đều có chung một đặc tính ngoại diện là một hình hài
duyên dáng, xinh đẹp thiên phú. Chị Thắm có đôi mắt to đen dịu dàng, Mẹ Cả mỗi
lần hiển linh đều hóa thân thành những cô bé, cô gái, thiếu phụ có ngoại hình đẹp,
bé Quy có làn da trắng hồng, bé Thu có đôi tai hồng và đôi mắt đen nháy, người con
gái quý tộc như Ngô Thị Vinh Hoa cũng có một hình thể viên mãn ai nhìn cũng
đem lòng si mê. Những người phụ nữ trong các câu chuyện kể về thung lũng Hua
Tát như nàng Pùa, nàng Bua, nàng E, nàng Muôn...cũng đều có sắc đẹp trời phú:
nàng Pùa tuy bị liệt nhưng “sắc đẹp của nàng các mường không ai bì kịp, da trắng
như trứng gà bóc, tóc mượt và dài, môi như son đỏ” [141, 197], nàng Bua là một
thiếu phụ duyên dáng “Người nàng cao lớn, đôi hông to khỏe, thân hình lẳn chắc,
bộ ngực nở nang mềm mại” [141, 202], nàng Hà Thị E, con gái trưởng bản xinh đẹp
hiếm có “Lưng E như lưng kiến vàng, mắt long lanh như sao Khun Lú - Nàng Ủa,
tiếng nói của nàng dịu dàng” [141, 205], nàng Muôn có “đôi bắp chân trần trắng
nõn nà” [141, 213] v.v... Nhìn vào những trường đoạn miêu tả ấy, ta thấy vẻ đẹp
hình thể của những người phụ nữ hiện lên trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp gắn
liền với những thuộc tính, phẩm chất hết sức tự nhiên, khách quan của giới tính, nó
đáng được trân trọng chứ không đầy tội lỗi, nhục cảm như những thành kiến mà xã
hội hay văn chương ở ta một thời từng quy kết, lên án, thậm chí tránh né. Quan
điểm này không mới nhưng không phải người viết nào cũng dám công khai phản
biện với các định kiến để bênh vực sự trong sáng, vô tội của sắc đẹp nữ giới như
Nguyễn Huy Thiệp.
Không dừng ở đó, cái Đẹp của thiên tính nữ còn được nhà văn đặc biệt nhấn
mạnh ở các giá trị tinh thần tích cực là niềm tin và sức mạnh bí ẩn mà những người
em, người chị, người mẹ bình dị mang đến cho cuộc đời này. Họ là hiện thân cho vẻ
đẹp của tinh thần hướng thiện bằng tấm lòng đầy ắp sự yêu thương, nhân hậu và bao
dung - những thuộc tính đã trở thành nguyên tắc sống, bản năng sống của những
52
người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cô Thắm cả đời làm công việc
giản dị lái đò đưa khách và cứu người đuối nước trên sông. Cô sẵn sàng thấu hiểu
và cảm thông cho sự vô tâm, ấu trĩ, cái “ác” của những người đánh cá đêm trên
sông (thấy chết không cứu): “Đừng trách họ thế... - Có ai yêu thương họ đâu... Họ
đói mà ngu muội lắm...” (truyện Chả đi sông ơi) [141, 11]. Người con gái Thủy
Thần cũng thường hiển linh để giúp người gặp nạn. Bé Thu mới bảy tuổi đã có sự
chi chút, ân cần dịu ngọt, một sự hy sinh (thậm chí cả mạng sống) vô điều kiện với
cậu bạn bất hạnh - điều mà đứa bé mồ côi như Đăng không thể tìm thấy ở những người thân.
Hay nàng Bua sống giữa sự cô lập định kiến khắc nghiệt của đồng loại mà vẫn hào phóng
với tất cả mọi người... Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ được ghi nhận, ca ngợi không ít
trong văn học dân tộc nhưng nó thường dựa trên các tiêu chuẩn của đạo đức do một bộ phận,
một tầng lớp thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội quy định (trong khi các chuẩn mực này gần
như đồng thuận và bảo hộ cho trật tự của thiết chế chính trị xã hội đương thời). Nói cách
khác, nó không phải vẻ đẹp mang tính “tự thân” mà có tính quy ước, ước lệ để phù hợp với
khuôn khổ, trật tự luân lý xã hội. Nguyễn Huy Thiệp không đi tìm những vẻ đẹp khuôn mẫu
như thế mà dành sự trân trọng, niềm tin vào phẩm chất lương thiện, tin vào sức sống, khả
năng thuần phục, hóa giải kỳ diệu có từ trong bản năng của giới nữ, những con người hiện
thân cho lòng tốt một cách trong sáng, vô tư. Với những biểu hiện này một lần nữa quan
niệm Cái Đẹp là cái chính xác lại được các sáng tác của nhà văn soi tỏ.
Bên cạnh vẻ đẹp của tính nữ, hướng về bức tranh đời sống, truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp còn thể hiện rõ vẻ đẹp toát ra từ trong sự chất phác, thành thật,
hướng thiện của tâm hồn con người. Người đọc có lẽ khó có thể quên hình ảnh của
chàng Chương (truyện Con gái Thủ Thần), một chàng trai quê mùa thô vụng
nhưng lại có một tâm hồn mơ mộng, trong sáng đến ngây thơ. Chàng tôn thờ vẻ đẹp
siêu thực của bóng hình Mẹ Cả - người con gái Thủy Thần trong những câu chuyện
nửa thực nửa hư để rồi cả cuộc đời chàng cứ hoang hoải mượn màu son phấn để ra
đi. Những giọt nước mắt nghẹn ngào của bà mẹ già không giữ được chân chàng ở
lại, bao rung động đầu đời, tình cảm luyến ái lẫn sức hấp dẫn của xác thịt, tiền tài
cũng chẳng thể khiến chàng thôi ý định tìm đường “ra biển”, tìm sự giác ngộ về “lẽ
tồn tại” cho cá nhân và cả bầy người... Có thể thấy, bề ngoài chàng Chương hiện lên
53
như một người ngây ngô, mơ mộng, thậm chí lạc loài giữa cuộc đời thực đầy vất vả,
lo toan, nhưng trong sâu thẳm chàng lại là một thực thể tự do, chất phác và đầy tinh
thần hướng thượng. Chàng luôn khao khát cái Đẹp tuyệt đích và sẵn sàng phá bỏ
những lằn ranh của một cuộc sống “u buồn và bề bộn việc” để đi tìm khao khát của
trái tim mình.
Đến với truyện Chả đi sông ơi, Những người thợ xẻ, Thương nhớ đồng quê hay
Những bài học nông thôn... ta chợt nhận ra những tri thức đẹp về cuộc đời lại khởi phát và
được lưu giữ bởi những con người thật bình dị. Ta tìm thấy sự bao dung, hướng thiện bằng
một niềm tin tuyệt đối ở chị Thắm - một cô gái làm công việc ngày ngày đưa đò trên sông
(truyện Chả đi sông ơi), thấy một lẽ sống ân tình, thủy chung của đôi vợ chồng chị Thục
với những người xung quanh (truyện Những người thợ xẻ)... Trong truyện Những bài học
nông thôn, hình ảnh những người nông dân lam lũ như bà nội Lâm, bố mẹ Lâm hay chị
Hiên... đều là những kho tri thức sống hết sức quý giá bởi mỗi lời họ thốt ra bề ngoài nôm
na, thông tục và có phần khắc nghiệt, nhưng là tiếng nói chứa đựng những bài học vừa dân
chủ, vừa minh triết về cuộc đời. Độc giả cũng khó có thể quên vẻ đẹp toát ra từ nếp sống
giản dị, rộng lòng mến khách của con người trong bản nhỏ Hua Tát: “Nếu khách là người
công minh, chính trực, chủ nhà sẽ mời khách nghe một câu chuyện cổ. Có thể những chuyện
cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ con người nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở
trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tính người” (truyện Những ngọn
gió Hua Tát) [141, 197]. Đó chính là những vẻ đẹp trong sáng và thanh cao hiện hữu trong
sâu thẳm những con người giản dị nhất, đời thường nhất.
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, ta có thể thấy con người và
cuộc sống hiện lên với đầy cái ác, cái xấu cùng sự bất lực, bất tín và vô minh...
nhưng nếu đi tới tận cùng những bức tranh u ám, ngột ngạt ấy, ta vẫn thấy sáng lên
niềm tin, sự hy vọng từ chính ân tình dù là bé nhỏ mà con người đã dành cho nhau.
Những kỷ niệm tuổi thơ của cậu bé (nhân vật tôi trong truyện Chả đi sông ơi) trở
nên kỳ diệu hơn, ấm áp hơn khi cậu nhận được sự chăm sóc tận tâm “làm phúc” cứu
người của chị Thắm - một người lái đò xa lạ. Sự chân thành, nghĩa cử của vợ chồng
chị Thục đối với những người xung quanh luôn xuất phát từ bản tính lương thiện,
không toan tính, đó là sức mạnh để họ vượt qua mọi cái xấu, cái ác giữa chốn rừng
54
thiêng nước độc: “Nghĩa tình lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với tạo hóa, trung thực đến
đáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng làm người” [141, 118]. Sự cứu
giúp, lòng tốt không đến từ thánh thần Phật giới mà nằm ngay trong sự quan tâm
thành thực của người dành cho người với cái nhìn thấu cảm, nhân văn. Nhân vật
nhà văn (truyện Quan Âm chỉ lộ) đã trở thành phật sống với một gia đình người
Mông xa lạ khi anh biết thương cảm cho hoàn cảnh của họ, tự gửi biếu gạo thịt để
họ thực sự có một cái tết bình thường như bao gia đình khác [139]. Tên cướp
(truyện Sang sông) trên chuyến đò đặc biệt tưởng chừng là con người bạo ngược,
bất chấp mọi luân lý nhưng trong phút nguy cấp của đồng loại, y lại là người tỉnh
táo và hành động có tình người nhất (sẵn sàng đập bể cái bình quý để cứu đứa trẻ vô
tội) [136]...
Có thể nói, vẻ đẹp của con người trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường
không đồng nhất với vai trò hay địa vị xã hội mà họ đang giữ, bởi nó được tác giả ghi nhận
qua bản chất của từng suy nghĩ, hành động mang tính người dù là nhỏ nhất. Cái Đẹp chủ yếu
được nhà văn khai thác chủ yếu ở phẩm chất nội tại của những con người ở nông thôn, ở
miền núi hay những con người lao động, tầm thường, vô danh... phần đông họ sống trong
hoàn cảnh ngh o nàn, khốn khó và gần như bị cô lập hoàn toàn với những tiến bộ văn minh
của xã hội đương thời, nhưng họ lại bảo lưu được khá nguyên vẹn sự chất phác, lương thiện
trong cách cảm, cách nghĩ, cách đối xử với đồng loại. Cái Đẹp trong họ là một phẩm chất tự
nhiên, chẳng mượn danh những thứ cao siêu như lương tâm, đạo đức, mỹ học hay tôn giáo
mà đơn giản chỉ là tạo lập được một nếp sống “bình ổn để sống tự nhiên hài hòa”, học cách
tôn trọng, dung hợp với tự nhiên và sống thành thực với bản năng tình cảm của mình mà thôi
(truyện Những bài học nông thôn) [141, 129].
2.1.2.3. Vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật
Đến với lĩnh vực văn chương nghệ thuật, Nguyễn Huy Thiệp cũng dùng rất nhiều
tâm huyết để kiếm tìm và thể hiện cái Đẹp đúng nghĩa của văn học. Hình ảnh người nghệ sĩ
luôn vật lộn với những khốn khó cơ cực của cuộc đời và văn nghiệp cứ trở đi trở lại trong
từng câu chuyện như một nỗi ám ảnh, mặc cảm về thân phận nhà văn.
Đến với truyện ngắn Vàng lửa, qua điểm nhìn của nhân vật người Pháp - tên
Phăng - ta bắt gặp hình ảnh một thi hào Nguyễn Du thật bé nhỏ: “mặt nhàu nát vì
55
đau khổ” [141, 151]. Trong truyện Cún, nhà nghiên cứu văn học X rất điển trai,
nghiêm khắc và tận tâm với công việc nhưng lại đặc biệt nhạy cảm, lảng tránh với
cái gì đau đớn, tủi cực vì những mặc cảm từ câu chuyện anh là con một kẻ ăn mày
dị dạng nơi xóm chợ ngh o. Trong tận cùng của những thua thiệt, khổ đau, bất lực,
Hoạt tìm thấy sự cứu rỗi linh hồn khi đến với con đường văn chương (truyện Chú
Hoạt tôi)... Nguyễn Huy Thiệp nhìn thấy ở những người nghệ sĩ ấy vẻ đẹp của con
người trần thế với những khao khát thành thực đến đáng thương. Nguyễn Du có một
trực giác tuyệt vời để đau với nỗi đau của con người và cảm thông với những số
phận phong trần trong thời đại. Thi sĩ Hồ Xuân Hương dùng thơ văn để nổi loạn
mang tất cả những gì nghiêm chỉnh nhất ra để cười lỡm chỉ với khao khát được thấu
hiểu, yêu thương như một CON NGƯỜI (truyện Chút thoáng Xuân Hương). Người
thi sĩ sau bao năm gió bụi trở về bến sông bất chấp mọi dị nghị khen chê chỉ với
mong muốn thực hiện lời hẹn ước năm xưa với người mình yêu mà đâu hay cô gái
ấy đã tuẫn tiết trên sông ngay sau ngày ly biệt bốn năm về trước (truyện Hạc vừa
ba vừa kêu thảng thốt). Chú Hoạt trở thành kẻ ăn bám, của nợ trong gia đình
nhưng lại là người tìm thấy thứ “đạo” ở văn chương khi dám đối diện với những u
uất bất lực của cuộc đời mình (truyện Chú Hoạt tôi)... Mơ ước giản dị, trong trẻo
nhưng cuộc sống lại tàn nhẫn, vô tâm, Nguyễn Huy Thiệp nhận thức rất rõ thân
phận của nhà văn và sự bạc bẽo trong nghề nghiệp của họ. Bởi thế, trong các truyện
ngắn của ông, cái Đẹp của văn chương hiện hữu ở chính sự thành thực, tự biểu hiện
thế giới tinh thần của người nghệ sĩ - những con người bề ngoài có vẻ nhom nhem,
ngh o h n, vô tích sự nhưng trong thâm tâm lại đa cảm, đầy lòng tự trọng và chưa
bao giờ vô tâm, quay lưng với đồng loại hay cuộc đời.
Cũng trong lĩnh vực văn chương, biểu hiện của cái Đẹp được ghi nhận trong
các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn nằm ở sức mạnh của ngôn từ nghệ thuật.
Chỉ một câu nói “là người” được thốt ra từ người đàn bà trong lúc gần đất xa trời
khiến cho ông Bổng - một kẻ bất cần đời phải òa khóc: “Thế là chị thương em nhất.
Cả làng họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ
khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người” (truyện Tướng về hưu) [141, 22]. Đề Thám
đã dùng thứ ngôn ngữ “giản dị như đất”, “buộc họ soi vào lòng mình” để tạo nên
56
những biến động trong tinh thần khiến cô Xoan nức nở, hồi tâm chuyển ý. Nhân vật
Vũ - một nhà văn, nhà tiểu thuyết danh tiếng nọ cũng chỉ tìm thấy bút lực và sức
mạnh của mình khi khởi phát sự nghiệp bằng tình yêu tiếng Việt: “Chàng thích sự
chính xác của từ ngữ: chính xác về tình cảm, về cấu trúc, tóm lại là nghệ thuật...
Chàng hân hoan vì vẻ đẹp của ngôn từ, của tiếng Việt, của những âm thanh trong
trẻo trong lòng chàng cứ thế ngân lên hoặc là minh triết hoặc là trong trắng” (truyện
Bài học tiếng Việt [141, 427, 432]. Trong thế giới nhân vật mà truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp đề cập, từ dân thường đến các danh nhân văn hóa lịch sử nổi tiếng, từ kẻ
cố cùng liều thân trong xã hội đến tầng lớp trí thức, nghệ sĩ, nhà văn... đứng trước
ngôn ngữ họ đều bình đẳng, đều có thể chửi thề, văng tục và bày tỏ khá mạnh dạn
những khao khát tính dục của mình. Nhà văn tôn trọng và tận dụng tối đa sức khái
quát, biểu hiện của ngôn ngữ văn học, nhưng không quá đề cao sự hoa mỹ, khả
năng phô diễn hay quy phạm mà tìm tòi, sử dụng chính lớp từ ngữ thế tục bình dân
và những ngôn ngữ hình thể làm phương tiện biểu đạt nghệ thuật đắc dụng cho các
thiên truyện của mình. Nỗ lực này là một sự thử nghiệm “làm mới” ngôn từ trong
sáng tác để nó trở nên gần gũi hơn với đời sống, chân thật và mang đúng hơi thở
của đời sống đương đại hơn.
Có thể nói, cái Đẹp biểu hiện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khá sinh
động, nó phản ánh rõ nét cái nhìn chủ quan của nhà văn trước hiện thực. Với lĩnh vực
tự nhiên hay trong đời sống con người, tác giả bảo lưu quan điểm sự trong sạch,
nguyên bản thuận theo tự nhiên của vạn vật ấy là biểu hiện chính xác nhất của cái
Đẹp. Ông tuyệt nhiên không thấy vẻ đẹp ấy ở phố phường, trong con người của môi
trường đô thị hay ở phái mạnh như quan niệm phổ biến của xã hội. Còn trong nghệ
thuật, biểu hiện rõ nét nhất của cái Đẹp chính là ở sự tự phản biện và năng lực ngôn
ngữ của người cầm bút: ngôn ngữ càng chân thật, dám bất chấp càng có giá trị biểu
đạt và thuộc tính thẩm mỹ cao. Những biểu hiện này thực tế chưa thể tạo ra một cái
Đẹp hoàn mỹ như quan niệm của mỹ học hiện đại cho các sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, nhưng nó là một cơ sở quan trọng để ta cắt nghĩa bản chất thẩm mỹ của cái
Đẹp trong hành trình đầy những cuộc thử nghiệm nghệ thuật của nhà văn.
57
2.1.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Đi từ quan niệm thẩm mỹ đến thực tiễn sáng tác, ta có thể thấy Nguyễn Huy
Thiệp đã dồn trút rất nhiều tâm huyết cho những khám phá và thể nghiệm riêng của
mình ở phạm trù cái Đẹp. Điều này giúp người đọc có cơ sở nhất định để xác lập
bản chất thẩm mỹ của cái Đẹp trong các truyện ngắn của nhà văn.
Đầu tiên, chúng ta có thể khẳng định là trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
không có và không hướng tới một cái Đẹp có tính thuần nhất, lý tưởng, đứng cao
hơn hiện thực, mà ở đó nhà văn chỉ đưa ra ý niệm riêng về những thuộc tính thẩm
mỹ của đối tượng mà thôi. Theo đó, khi thể hiện những vẻ đẹp của thiên nhiên, của
cuộc sống, của con người hay nghệ thuật cũng là lúc tác giả đưa người đọc vào giữa
những tình huống nhận thức oái oăm. Sự trong sạch, thanh bình của cảnh sắc thiên
nhiên nơi làng quê, vẻ đẹp thiên tính nữ, sự giản dị, chất phác hay phút khắc khoải,
thăng hoa của nghệ thuật... chỉ là những hiện tượng hiếm hoi chen vào giữa sự
ngh o nàn, mông muội, chen vào giữa cái ác, cái thô kệch, xấu xí, thói ngụy biện,
giả trá của cuộc sống và con người đương đại trong từng trang sách. Thiên nhiên
tươi đẹp nhưng khi nổi giận cũng thật tàn nhẫn! Người phụ nữ là hiện thân cho cái
Đẹp thiên tính vậy mà họ luôn bị xã hội chà đạp, bội phản... Những con người càng
có “tâm” thì sống càng thấy “nhục” (truyện Tướng về hưu). Văn chương càng cố
gắng trân trọng cuộc đời, vì nghệ thuật càng trở nên lạc điệu “vô tích sự” trước gánh
nặng của cuộc sống mưu sinh... Mỗi vẻ đẹp trong trang viết của nhà văn đều được
đặt vào giữa muôn vàn tình huống, nghịch cảnh dở khóc dở cười khiến người đọc ít
thấy ở đó trạng thái ca tụng dễ dãi mà ngấm ngầm một nỗi day dứt, xót xa, cái Đẹp
cứ bị pha tạp, xâm lấn chuyển hóa dần sang cái xấu, cái tha hóa, phi nhân văn...
Cái Đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không chỉ có sự pha tạp, tính không
thuần nhất mà còn là dấu hiệu của sự đổ vỡ niềm tin. Về bản chất, khi đứng trước cái Đẹp,
con người thường có những cảm xúc thẩm mỹ tích cực như niềm vui, sự khoan khoái, dễ
chịu... bởi những thuộc tính thẩm mỹ của nó phù hợp với nguyện vọng, ước mơ, lý tưởng
của con người. Tuy nhiên, với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, tác giả không mô tả cái Đẹp
trong thế tĩnh tại, ổn định của các thuộc tính mà nhìn nó trong sự vận động theo xu thế bị tha
hóa. Vẻ đẹp trong trẻo của thiên nhiên đang dần bị xâm phạm, phá hủy, ngược đãi để phục
58
vụ nhu cầu vật chất của con người (truyện Những người thợ xẻ, Muối của rừng). Người phụ
nữ là hiện thân cho cái Đẹp nhưng muốn tồn tại trong xã hội họ phải “hơi nhom
nhem thì mới sống được” (truyện Chút thoáng Xuân Hương) và khi bị chôn vùi
trong tăm tối thì họ cũng là khởi nguồn của những tội ác vô cùng man rợ (truyện
Tội ác và trừng phạt, Thổ cẩm). Nghệ thuật là nơi kiếm tìm và tôn vinh cái Đẹp,
song khi quá thiên về tô vẽ đắp điếm bởi những tư tưởng cao siêu, ngôn ngữ hoa
mỹ, diễn viên rất đẹp thì nó sẽ trở thành một thứ hiện thực nửa vời, mị dân, huyền
ảo và mung lung (truyện Chút thoáng Xuân Hương) [141, 282]. Không ít lần nhà
văn để nhân vật của mình thốt lên sự hoài nghi, bất tín: “Theo tôi khoa học về cái
Đẹp là hết sức vô hình. Không nên tin vào cái gì đẹp đẽ quá” (truyện Sống dễ lắm)
[141, 439]... vì sự sạch sẽ hoàn mỹ ấy rất không chân xác! Niềm tin về cái Đẹp nơi
hiện thực càng trở nên mong manh khi con người sẵn sàng hoán đổi, chấp nhận một
hệ giá trị mới là đồng tiền: “trên đời này không có cái gì đẹp cả ngoài tiền” (truyện
Thổ cẩm) [141, 449]. Sự thật sau vẻ sung túc trong gia đình vị Tướng về hưu có ai
ngờ lại nhờ cách hạch toán thực dụng của cô con dâu ngày ngày gom những mẩu
thai nhi ở bệnh viện về nuôi chó giống. Hạnh (truyện Hu ền thoại phố phường)
cũng bất chấp tất cả các thủ đoạn bẩn thỉu nhất để chiếm đoạt bằng được tấm vé số
mà y tin là sẽ trúng giải độc đắc để có cơ hội đổi đời. Cái Đẹp khó có thể tồn tại và
nhân rộng trong một xã hội chứa quá nhiều sự sa đọa, loạn về tư tưởng, nhận thức
và cả đức tin. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà Nguyễn Huy Thiệp gần như phủ nhận,
bất tín hoàn toàn với những cái Đẹp hoàn mỹ nhân danh đạo đức, chính trị hay tôn
giáo trong truyền thống và chỉ bênh vực, trân trọng cái Đẹp thuần phác, bản chất,
hợp tự nhiên?
Cuối cùng, như một hệ quả tất yếu khi những thuộc tính thẩm mỹ của sự vật không
tạo dựng được niềm tin cho con người về cuộc sống thì sự hiện diện của cái Đẹp sẽ gắn
liền với nhu cầu giải thiêng thần tượng. Trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp,
mọi giá trị, hình tượng, phẩm chất tích cực, phù hợp với phần đông xã hội đều bị người
viết đạp đổ không thương tiếc. Kẻ có học trở nên “ngu dốt gấp vạn lần so với người bình
dân” (truyện Những bài học nông thôn) [141, 129] vì họ chỉ mê chấp nhân danh đạo đức,
mỹ học, chính trị, chứ không vì chính lẽ tồn tại của con người tự nhiên. Đàn ông luôn tự
59
đắc là phái mạnh kỳ thực yếu đuối, bất lực cả về thể xác lẫn tinh thần trước sức mạnh và vẻ
đẹp của phái nữ (truyện Phẩm tiết, Ngu ễn Thị Lộ, Hồ Xuân Hương, Những ngọn
gió Hua Tát...). Những bậc trượng phu, danh nhân nổi tiếng trong lịch sử đều trở
nên tầm thường, bạc nhược, vua vịt vua gà (truyện Kiếm sắc, Vàng lửa, Ngu ễn Thị
Lộ, Trương Chi...). Giải thiêng thiêng thần tượng được tác giả theo đuổi như một
cách tấn công bất ngờ và quyết liệt vào thói quen nhận thức và những hệ giá trị ổn
cố truyền thống của nền văn nghệ nước nhà.
Như vậy, Cái Đẹp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cái Đẹp mang màu sắc
hiện sinh rõ nét. Xuyên suốt hành trình sáng tạo của chủ thể, tác giả luôn khẳng định và tôn
thờ một quan niệm nhất quán: cái Đẹp là cái thật, bất chấp sự thật ấy có mất lòng tất thẩy
đám đông. Điều này đã mang về cho trang văn Nguyễn Huy Thiệp những giá trị và thử
thách riêng trước công luận mà không phải nhà văn nào cũng có được. Trong bức tranh
tiếp nhận đa chiều, trước chủ trương tôn thờ cái Đẹp bản chất, thái độ thẳng thắn, luôn rạch
ròi về tính pha tạp, phức tạp hay sự chuyển hóa và tha hóa của cái Đẹp trong cuộc đời của
nhà văn... những tư tưởng ấy đa phần nhận được sự đồng tình, ghi nhận tích cực từ phía
người đọc vì nó hoàn toàn phù hợp với bản chất thẩm mỹ và thị hiếu của bạn đọc, luôn
khao khát và hướng về những giá trị tích cực của cái Đẹp. Vậy nên, nhà nghiên cứu Hoàng
Ngọc Hiến đã không ngần ngại bày tỏ sự tâm đắc khi nói về sức cảm hóa và sự thanh lọc
tâm hồn trước vẻ đẹp đến từ “thiên tính nữ” trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp: “Thiên
tính nữ tỏa một ánh sáng dịu dàng, huyền diệu [...] Tâm hồn người đọc không khỏi trĩu
nặng trước bao sự tàn bạo, thô bỉ, cái quái ác h n kém phơi bày ra trong tác phẩm, được
tắm trong ánh sáng này sẽ trở nên nhẹ nhõm thanh cao” [105, 18]. Nhà phê bình văn học
Nguyễn Thanh Sơn cũng vô cùng trân trọng vẻ đẹp bản chất tự nhiên mà nhà văn đã
hướng tới, ông lập luận rằng: “Cuộc sống không cần bất cứ một sự tô vẽ nào, nó đẹp chính
vì nó là cuộc sống, vậy thôi! Điều ấy thật giản dị và đẹp” [105, 122]. Đọc bài viết của ông
Greg Lockhart (giảng viên trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Australia), ta cũng thấy tác
giả này đã bày tỏ rất rõ sự đồng tình và đánh giá rất cao trước những vẻ đẹp mới mẻ mà
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Ông cho rằng chính những suy tư đa diện về cái Đẹp
trong tương quan với nghệ thuật và quyền lực chính trị đã giúp các sáng tác có sức mạnh
của “tính chất nhân bản, dân chủ”, giúp nhà văn có tài năng “ngang tầm với những nhà văn
xuất sắc quốc tế” [105, 115]. Còn ở quan điểm hoài nghi về những vẻ đẹp lý tưởng, hoàn
60
mỹ, khao khát khởi sinh những giá trị mới bằng cách phủ định thần tượng trong quá khứ
của nhà văn lại vô tình làm một bộ phận người đọc lên tiếng chỉ trích, bày tỏ thái độ bất
bình thậm chí bài bác một cách quyết liệt. Để tránh sự trùng lặp, dàn trải, những hiệu ứng
trái chiều này sẽ được người viết đề cập chi tiết hơn trong tương quan với các nội
dung xoay quanh phạm trù về cái Cao cả. Nhìn chung, với phạm trù cái Đẹp, những
tìm tòi thể nghiệm nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp đa phần mang về hiệu ứng
thẩm mỹ tích cực cho công chúng bởi một thái độ thẳng thắn không tô hồng hay bôi
đen hiện thực của người nghệ sĩ.
Tóm lại, cái Đẹp là phạm trù thẩm mỹ bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời
sống từ tự nhiên, đến xã hội, đến nghệ thuật và cả con người. Bản thân người nghệ
sĩ vừa là chủ thể của cái Đẹp nhưng cũng là một khách thể mang trong mình phẩm
chất của cái Đẹp. Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, trải qua chặng đường dài
đi từ quan niệm đến các phương diện biểu hiện và những biện giải về bản chất, ta
nhận thấy cả ý nghĩa tích cực lẫn sự chủ quan cực đoan trong quan niệm của tác giả
khi ông chứng minh phẩm chất của cái Đẹp ở hai thuộc tính là cái chính xác và cái
lạ. Không phải cái gì chính xác cũng đẹp và không phải cái gì lạ cũng là cái Đẹp,
nhưng qua bài viết này, chúng tôi vẫn mong muốn dành một sự trân trọng, yêu quý
cho những nỗ lực và bản lĩnh không ai có thể phủ nhận của tác giả. Ông từng phải
trả giá rất đắt cho những “bất chấp” cực đoan của mình, nhưng không vì thế mà
người viết thôi khao khát, sáng tạo và chan hòa với cuộc đời.
2.2. Cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
2.2.1. Quan niệm về cái Cao cả của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Về bản chất, cái Đẹp và cái Cao cả là hai phạm trù thẩm mỹ có mối quan hệ mật
thiết với nhau, bởi thế, dù muốn hay không bản thân nhà văn cũng như người nghiên
cứu đều khó có thể bỏ qua sự hiện diện của nó trong đời sống thẩm mỹ của các sáng
tác. Vậy Nguyễn Huy Thiệp đã quan niệm như thế nào về phạm trù thẩm mỹ này?
Cũng như phạm trù cái Đẹp, cái Cao cả trước hết được tác giả nhìn nhận
trong tương quan với cái thật. Nếu không có cái thật thì khó có thể có cái Đẹp và cái
Cao cả, dù là trong đời sống, ở con người hay trong văn học - nghệ thuật. Bởi thế,
việc tri nhận cái Đẹp đã chẳng đơn giản, để thấy được vẻ trác tuyệt hoàn mỹ, vượt
61
mọi giới hạn của cái Cao cả lại càng phức tạp và gian nan hơn. Từ đó, muốn tìm
thấy cái Cao cả con người tất yếu phải chấp nhận mọi hiện thực dù nó chua chát,
phũ phàng tới mức nào. Quan niệm văn chương phải “bất chấp”, “dấn thân” hay
“đánh cho hết vốn”... chính là những nguyên tắc tiếp cận mọi góc cạnh của đời sống
để tìm ra cái thực, cái chân chính, cái bản chất, giúp con người không chỉ thấy được
cái Đẹp mà còn tiến gần hơn tới cái Cao cả trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp. Lý giải cho điều này, tác giả khẳng định chỉ khi cái thật, cái chân được
xem trọng thì con người mới được sống chính thể, phát triển hết bản tính thiện năng
của mình mà không cần che đậy, ngụy tạo... đó cũng là lúc tầm vóc hữu hạn, bé nhỏ
của con người được nâng lên thành cái Cao cả, diệu kỳ, tốt đẹp, sánh ngang tầm với
vũ trụ:“Khi bản tính con người phát triển hết, lòng tốt thậm chí có khả năng khiến
con người hòa hợp được với vũ trụ” [140, 26]. Như vậy, cái Cao cả được Nguyễn
Huy Thiệp đề cập ở đây gắn với cảm quan về con người từ góc nhìn mang tính hiện
sinh và nhân bản. Điều này có nghĩa cái Cao cả nằm ngay trong sự sống muôn loài
trong đó có con người nhưng “những giá trị tuyệt đối” của nó chỉ hiện diện khi con
người dám đối diện với bản thân, với tiếng nói bản năng với cuộc đời trần trụi bằng
“lòng dũng cảm”, “đức tính trung thực” và “tình yêu” [140, 34]. Nói cách khác, con
đường đến với cái Cao cả trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp là một hành trình dám
đối diện để trân trọng hiện thực, cuộc đời, một hành trình đầy thách thức không chỉ
với bản thân người cầm bút mà với cả bạn đọc khi tiếp nhận những thử nghiệm đầy
góc cạnh của nhà văn.
Không dừng ở đó, Nguyễn Huy Thiệp đã chỉ ra rằng bản chất cái Cao cả và ý
nghĩa thực sự của nó trong thực tế chưa bao giờ phô lộ một cách dễ dàng, mà
thường khuất lấp, lẫn tạp vào giữa những lằn ranh tốt - xấu, thật - giả, đúng - sai của
cuộc đời. Theo đó, một mặt nhà văn thừa nhận sự tồn tại của cái Cao cả trong hình
tượng các “thánh nhân” - những con người có phẩm chất, tầm vóc phi thường về tư
tưởng, trí tuệ, mặt khác ông cũng khẳng định sự hiện diện của những phẩm chất đó
ở chính những con người bình thường: “Từ thâm tâm tôi vẫn nghĩ có các bậc thánh
nhân. Trong những con người bình thường cũng có những tình cảm thánh nhân”
[140, 52]. Rõ ràng điều mà tác giả hướng tới ở đây không đơn thuần là việc xây
62
dựng một hình tượng hoàn mỹ, vượt mọi chuẩn mực về cái Đẹp cho con người hay
nghệ thuật mà mở ra một lối tư duy đa chiều vừa su tôn vừa hạ bệ về hình tượng
của cái Cao cả. Bề ngoài, quan điểm này có vẻ mâu thuẫn với nhau nhưng đó lại là
một hành trình nhận thức nhất quán để con người có được cái nhìn minh triết, đúng
đắn về các hiện tượng thẩm mỹ. Cái Cao cả chính đáng, bản chất luôn xứng đáng
được trân trọng, tôn vinh còn sự tung hê lý tưởng một cách trống rỗng, phô trương
đều cần được sàng lọc, nhận thức lại thậm chí hạ bệ không thương tiếc.
Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn đặc biệt quan tâm đến sự hiện diện của
cái Cao cả trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật. Nhà văn không ngần ngại khẳng
định: “Tôi giữ đức tin văn học là một sự nghiệp cao cả” [140, 36]. Sự nghiệp cao
cả này được ông cắt nghĩa rất rõ qua bản chất của văn học cũng như quá trình sáng
tạo nghệ thuật của nhà văn. Tính ưu việt của văn chương so nhiều loại hình nghệ
thuật khác được nhà văn xác lập đó là năng lực “thôi thúc” và “đánh thức” tất cả
tiềm năng con người qua các sáng tác. Nhờ đó, nó có thể tạo ra “những con người
cao thượng” và “những tình cảm cao thượng”, tạo ra cái Cao cả cho con người
[140, 50-55]. Nhưng để có được giá trị cao cả ấy, Nguyễn Huy Thiệp cho rằng vai
trò cốt tủy của nhà văn không phải là việc nói ra chân lý (thừa nhận, tôn vinh
những giá trị đúng đắn vốn có) mà là thiên chức “thức tỉnh” nhận thức (đánh thức
khả năng tư duy) để con người tự tìm ra chân lý và những giá trị tuyệt đích cho
chính mình: “Nhiệm vụ của các nhà văn không phải nói ra chân lý mà là thức tỉnh
ý thức hướng về chân lý hoặc chí ít cũng là thức tỉnh tình cảm về phẩm giá con
người trong họ” [140, 31]. Cái Cao cả trong văn chương không nằm ngoài nỗ lực
đổi mới tư duy, nhận thức về tinh thần hướng thượng cho bạn đọc của người cầm
bút, vì thế, sự hiện diện của nó với cái Đẹp chính là những “hòn than ủ đỏ” trong
các tác phẩm.
Tóm lại, cái Cao cả trong quan niệm Nguyễn Huy Thiệp là một phạm trù thẩm
mỹ hiện thân cho những giá trị, tình cảm tuyệt đích, hoàn thiện, hoàn mỹ nhất của con
người của văn chương nghệ thuật và cuộc đời. Tuy nhiên, giá trị của cái Cao cả chỉ thực
sự hiện hữu khi nó mang lại cho con người cách nhận thức chân lý đúng đắn, những tình
cảm thành thực, tự nhiên và một tinh thần hướng thượng thuần khiết. Bởi thế, lòng dũng
63
cảm, đức tính trung thực và tình yêu chính là những phẩm chất cần có để làm nên cái
Cao cả trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp.
2.2.2. Biểu hiện của cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
2.2.2.1. Sự cao cả của tự nhiên
Thiên nhiên luôn có một chỗ đứng không nhỏ trong các sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp. Từ đó, thuộc tính cao cả của thiên nhiên cũng được nhà văn thể hiện
bằng cảm quan nhạy bén, đầy cảm hứng của một người nghệ sĩ. Qua từng trang viết,
hình ảnh mẹ thiên nhiên được tác giả khắc chạm bằng những nét vẽ vừa gần gũi,
vừa chân thực và nổi bật bởi sự vĩ đại, kỳ bí vượt thoát khỏi mọi nhận thức võ đoán
của con người.
Tầm vóc lớn lao của những hình ảnh gần gũi như đất, nước, núi rừng, cỏ cây,
bầu trời hay mặt đất thường xuyên xuất hiện trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp, đồng thời chúng được đẩy tới tận cùng sự liên tưởng và cảm xúc choáng
ngợp để hợp thành thuộc tính vĩ đại là bản chất khách quan của cái Cao cả trong tự
nhiên. Độc giả khó có thể quên vẻ bí ẩn, mang đầy sức mạnh phi thường của hình
ảnh con trâu đen nơi bến Cốc (truyện Chả đi sông ơi):
Toàn thân bóng nhẫ , đôi sừng vút cao, mõm thở phì phì, con trâu phi trên
mặt nước như phi trên cạn. Con trâu phì bọt, nước dãi của nó tựa như trứng cá.
Nếu ai may mắn hớp được bọt ấy sẽ có sức lực phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi
như tôm cá [141, 6].
Con trâu đen bước ra từ câu chuyện truyền thuyết huyễn hoặc nhưng lại gửi
gắm ở đó những liên tưởng, tưởng tượng của con người về sự hiện hữu của những
sức mạnh huyền bí, kỳ diệu đến từ tự nhiên. Người đọc cũng bị cuốn hút bởi vẻ tráng
lệ của đại ngàn cây cỏ nơi rẻo cao trong câu chuyện của Những người thợ xẻ: “Những
dãy núi đá vôi trập trùng cao ngất [...] Bạt ngàn là hoa ban trắng, màu trắng đến khắc
khoải, nao lòng” [141, 99], hay choáng ngợp trước không gian hùng tráng của núi
rừng Tây Bắc: “rừng núi đại ngàn trùng điệp mở ra trước mắt [...] Một bên là vực sâu,
một bên là núi cao. Thỉnh thoảng, một trận mưa địa hình đột ngột trút xuống. Gió
lồng lộng thổi” (truyện Quan Âm chỉ lộ) [139]. Trước những khung cảnh thiên nhiên
trác tuyệt và quá đỗi lớn lao ấy, sự xuất hiện của con người bỗng trở nên bé nhỏ, cô
64
đơn. Cái Cao cả trong thiên nhiên bất giác chuyển mạnh từ trạng thái diễm lệ, cuốn
hút sang vẻ rợn ngợp, bí ẩn đầy đe dọa (truyện Như sương khói ba ):
Vào mùa lũ. Con sông Đà hung dữ khác thường [...] gió mùa đông bắc thổi
về, đấ là lúc bầu trời xám xịt, hơi nước trên mặt sông phả lên ngùn ngụt [...] có
luồng hơi lạnh ở đâu đột nhiên lướt qua sống lưng của ta như một cú liếm ướt át
chết chóc đột ngột của con rắn lục nấp trong hang đá [144].
Như vậy, sự phi thường trong tầm vóc, kích cỡ, sức mạnh của những cảnh
sắc thiên nhiên được đặc tả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là minh chứng
đầu tiên cho sự hiện diện của phạm trù cái Cao cả.
Không dừng ở đó, cái Cao cả còn được Nguyễn Huy Thiệp thể hiện một cách
ấn tượng khi miêu tả những hiện tượng thời tiết đặc biệt của tự nhiên. Cái Cao cả có
trong thứ gió cao thượng đã nâng cánh diều của bố Lâm lên tới độ cao tuyệt đích:
Chiếc diều lên được độ cao tuyệt đích, ở đấ không còn thứ gió quẩn khốn nạn,
hiểm ngu và bất trắc nữa, ở đấ là thứ gió khác, tử tế, cao thượng, độ lượng bao dung
mà bình ổn... Cả bầu trời ngập trong tiếng sáo [141, 123].
Đó là hình ảnh kinh dị trong tích tắc chuyển mình của sắc trời chiều mùa hạ:
Bầu trời bỗng sáng mỡ gà đẹp lạ lùng. Tất cả trời đất, câ cối, đồ vật hiện rõ mồn một
sắc màu huyền ảo rực rỡ. Màu mỡ gà trùm lên tất cả, đến cả những bông hoa dâm bụt có màu
đỏ cũng bạc tía cả đi, thành thứ màu khác, hồng như môi người. Một thế giới khác, cụ thể
khủng khiếp, chi tiết đến kinh dị hiện ra ở trước mắt tôi [...] Ít phút sau, bầu trời sầm lại. Tất cả
trở về như cảnh sắc cũ trước đâ [141, 132].
Còn đây là sự kỳ bí mở ra vô cùng vô tận của vũ trụ không gian giữa những
cơn giông: “Sấm sét nổ vang trời. Chớp lóe sáng. Vũ trụ mở ra vô cùng vô tận. Gió
ào ào, nghe như muôn vàn cánh chim bay đang vỗ trên đầu” [141, 174]. Có thể
thấy, sự kỳ vĩ của thiên nhiên trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp luôn được khắc
họa bằng những liên tưởng vô cùng sống động, ở đó, tự nhiên tồn tại như một lực
lượng độc lập bình ổn và bí ẩn. Mỗi bước chuyển của mẹ thiên nhiên đều là những
khoảnh khắc không ngờ chóng vánh nhưng đầy quyền lực và sức mạnh khiến con
người luôn phải ngưỡng vọng, choáng ngợp thậm chí kinh hoàng khi đối diện với sự
siêu nhiên của tự nhiên.
65
Thiên nhiên khách quan, trung thực và công bằng chính vì thế, sự vĩ đại của
thiên nhiên không chỉ nằm ở những thuộc tính vật chất bề ngoài mà còn nằm trong
sức mạnh tiềm ẩn, diệu kỳ của nó. Đến với tác phẩm Chả đi sông ơi, độc giả như
được đắm chìm vào hình ảnh một dòng sông quê mở ra những miền không gian,
thời gian bất tận:
Chiều xuống, tiếng chuông nhà thờ ở giữa bến Cốc lan trên mặt sông mang
mang vô tận. Con sông tựa như giật mình phút chốc sau đó im lặng trôi, giống như
một người hiểu biết tất cả nhưng đang mải mê su nghĩ, chẳng cần mà cũng chẳng
thèm biết xung quanh chộn rộn những gì [141, 5].
Một thanh âm gieo vào giữa lòng không gian tĩnh lặng vô hình chung đẩy cái
tĩnh lặng, mênh mang của dòng sông trải dài ra vô tận. Con sông quê bình thường
bỗng chốc trở thành một dòng kí ức thao thiết chảy trong tâm hồn nhân vật tôi, trở
thành một dòng mưu sinh đầy cực nhọc cho những con người lao động bình dị như
chị Thắm hay những người đánh cá mòi trên sông... Hình ảnh thiên nhiên ấy xứng
đáng là sự hiện thân cho cái Cao cả bởi nó không bó mình thành một sự vật vô tri,
bị bó vào trong cái hữu hạn của không gian thời gian mà ôm trọn cuộc đời, theo mọi
kiếp con người, thành chứng nhân, chứng tích cho mọi buồn vui dâu bể của cuộc
nhân sinh. Truyền thuyết về con trâu đen đã khoác cho dòng sông ấy thứ sắc màu
huyền thoại, siêu thực khác xa cuộc đời trần trụi nơi bến Cốc nhưng niềm tin, sự
hướng thiện, thanh lọc mà nó mang lại cho tâm hồn nhân vật tôi là hoàn toàn có
thực và đáng trân quý. Tầm vóc và sự kỳ vĩ của thiên nhiên theo đó cũng mở ra vô
tận. Hình ảnh nhân vật tôi được đắm mình trong dòng sông quê thật đẹp và kỳ diệu
bởi nó hiện thân cho cái Cao cả, cho sự thanh tẩy, gột rửa tâm hồn người khỏi mọi
ưu phiền, u ám trước sự vĩ đại của một dòng sông quê: “Hơi nước ở trên mặt sông
bốc lên ngùn ngụt. Lòng tôi trào dâng cảm giác dễ chịu lạ lùng, như vừa tắm xong,
như vừa gột rửa được điều u ám” [141, 11]. Trong truyện ngắn Muối của rừng,
thiên nhiên rừng già thâm u cũng mở ra cả một hành trình thử thách cho con người
trước tạo hóa. Ông Diểu đã hoàn toàn thất bại so với mục đích đi săn ban đầu của
mình nhưng chính tự nhiên với “sự tĩnh lặng bình thản của rừng” đã thức tỉnh, mang
về trong ông vẹn nguyên tiếng nói của lương tri, của sự thấu cảm hòa hợp cao cả
66
giữa muôn loài: “Hóa ra ở đời, trách nhiệm đ lên lưng mỗi sinh vật quả thật nặng
nề” [141, 66]. Truyện Sói trả thù cũng là một minh chứng cho khả năng hóa giải
diệu kỳ của tự nhiên trước cuộc đời. Ông Nhân đã cố tình phá vỡ sự bình ổn của gia
đình sói con (sự bình ổn tự nhiên) khi bắn chết sói mẹ và bắt con sói con đẹp nhất
đàn về nuôi. Sự trả thù của con sói con lên chính đứa con trai duy nhất của ông
thuận theo luật nhân quả nhưng qua đó, nó cũng giúp nhân vật nhận ra rõ nét nhất
sai lầm trong quá khứ của mình để ngộ ra lẽ phải. Hành động ông Nhân vung rìu
chém liên hồi vào sợi xích sắt phóng sinh cho con sói là sự hóa giải ân oán mà con
người giác ngộ được nhờ bài học nhãn tiền nhân - quả của tự nhiên.
Có thể thấy, Nguyễn Huy Thiệp ở đây đã kích hoạt tối đa mọi chiều liên
tưởng để mang về cho thiên nhiên một vẻ đẹp và sức mạnh phi thường vượt ngoài
sức tưởng tượng của con người. Thiên nhiên hiện hữu trong trang văn ông với một
vẻ bình thản, vừa gần gũi, dung dị nhưng cũng vô cùng kỳ bí, ám ảnh và choáng
ngợp với con người. Từ đó, những hình ảnh núi sông, cây cỏ, bầu trời, mặt đất... tất
cả những sự vật ấy đều trở thành một thế giới riêng, con người chợt nhận ra rằng
mình chỉ là một phần bé nhỏ của tự nhiên chứ không thể khuynh loát, chế ngự sức
mạnh bí ẩn, phi thường của tự nhiên.
2.2.2.2. Sự cao cả của con người và cuộc sống
Nếu đến với thiên nhiên trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp ta thấy được
phẩm chất của cao cả ở sự bình ổn, thanh sạch, hùng vĩ và bí ẩn của cảnh sắc sự vật
thì bước vào đời sống xã hội, cái Cao cả lại được nhà văn khai thác và thể hiện ở
những phẩm chất nội tại kỳ diệu của con người và cuộc sống. Những phẩm chất ấy
vốn không mới nhưng luôn được Nguyễn Huy Thiệp nhìn nhận, khám phá bằng
những kiến giải vô cùng độc đáo, cá tính và đầy sức thuyết phục.
Trước hết, cái Cao cả trong đời sống xã hội được Nguyễn Huy Thiệp khai
thác ở sự hiện diện của những con người thánh nhân mà danh tiếng, tên tuổi của họ
đã trở thành những giá trị thẩm mỹ có tầm ảnh hưởng lớn lao được lịch sử ghi nhận.
Vua Quang Trung, Ngô Thị Vinh Hoa, Đại thi hào Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Thị Lộ, Đề Thám, Trương Chi... là những hình tượng tiêu
biểu cho những giá trị trác tuyệt ấy. Nguyễn Du (trong truyện Vàng lửa) hiện lên
67
như một “khối nguyên liệu vô giá, những vật quốc bảo” vì có một “trực giác tuyệt
vời” [141, 151]. Trong truyện Phẩm tiết, vua Quang Trung được nhắc tới qua lời
nhân vật Ngô Khải (bậc đại phú đất Bắc kỳ lúc bấy giờ) với một thái độ ngưỡng
mộ: “Quang Trung là bậc anh tài, hào hùng lắm.” [141, 159]. Đề Thám (trong
truyện Mưa Nhã Nam) là một cá nhân kiệt xuất khác người ở “thần thái”, “tinh thần
tự chủ cao” và “nhãn quan bao quát rộng” [141, 191]. Hồ Xuân Hương (trong
truyện Chút thoáng Xuân Hương) luôn cao cả trong cái nhìn của Tổng Cóc vì bà
“luôn thất bại ở cuộc đời mà vẫn thăng bằng, mà vẫn không có cảm giác thua cuộc”
[141, 274]. Nguyễn Trãi (trong truyện Nguyễn Thị Lộ) cũng được trân trọng ví như
một ngọn đuốc “cháy dẻo dai, kiên cường đến chót đời” [141, 307)... Nếu quan sát
kĩ người đọc sẽ nhận thấy, trong các truyện ngắn của mình, khi viết về các danh
nhân, lịch sử, Nguyễn Huy Thiệp ít nhiều có sự thừa nhận tư chất thánh nhân, sự
cao thượng và tầm vóc phi thường của các hình tượng, tuy nhiên, ông không nhìn
bằng cái nhìn suy tôn, ngợi ca có tính lý tưởng mà thường đặt họ vào trong tình thế
giải thiêng để chiêm nghiệm và cắt nghĩa. Bởi thế, sự hạ bệ, đánh đổ thần tượng về
cái Cao cả (cái lý tưởng theo quan niệm truyền thống) là một xu hướng điển hình và
nổi bật trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là những truyện viết về
các danh nhân. Hình tượng Quang Trung theo đó, một mặt hiện lên trong tầm vóc
hiên ngang của một người anh hùng, xuất thế nhưng mặt khác cũng thật hữu hạn,
đời thường với những phút giây nóng giận, hồ đồ, dễ động lòng trước đấng thiên
hương quốc sắc. Đề Thám trong tâm thức cộng đồng cũng là một bậc trượng phu
yêu nước nhưng trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp ông lại được khắc họa nhìn
nhận nhiều hơn ở những khoảnh khoắc ngoại truyện. Cuộc gặp gỡ bất thường trong
đêm mưa giữa ông với cô cả Xoan là giây phút hiếm hoi để người anh hùng ấy được
là mình, được đối diện với chính mình, bung tỏa những cảm xúc thành thật trần thế
của một kiếp người: “Ông bỗng òa khóc. Ông òa khóc cho mình, cho người, cho tất
cả những hữu hạn của chính mình, của mỗi người [...] Ông khóc như một người nhu
nhược nhất đời, một người suốt đời thỏa hiệp, không bao giờ dám bước qua lằn ranh
bổn phận, nghĩa vụ, cương tỏa” [141, 194]. Ở hình tượng Nguyễn Trãi cũng vậy,
với những hư cấu về mối tình bên người tì thiếp Nguyễn Thị Lộ thì tầm vóc và khí
68
chất anh hùng của bậc khai quốc công thần lẫy lừng triều Lê ấy bỗng trở nên mờ
nhạt hơn rất nhiều so với những rung động trần thế mà cao khiết giữa hai tâm hồn
tri âm tri kỉ: “Ông yêu thương nàng bằng toàn bộ tri thức văn hóa cùng sự tử tế ở
trong lòng” [141, 306]... Tất cả những điều đó cho ta thấy, Nguyễn Huy Thiệp đã
ghi nhận sự hiện diện của cái Cao cả trong tầm vóc phi thường của những con
người thánh nhân trong quá khứ nhưng giữa hai chiều suy tôn và hạ bệ ông đã chọn
cho mình cách giải thiêng thần tượng để đặt ra vấn đề nhận thức lại toàn bộ những
giá trị tuyệt đối trong con người và đời sống.
Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, ta nhận thấy cái Cao cả đã bị hạ bệ, giải
thiêng qua hình tượng người anh hùng hay thánh nhân nhưng lại đặc biệt được trân
trọng suy tôn ở những con người bình thường, vô danh và bé nhỏ. Đó có thể là một
kẻ ăn mày cô đơn xóm chợ (truyện Cún), một cô gái lái đò nơi bến vắng (truyện
Chả đi sông ơi), một đôi vợ chồng công chức ngh o trên nông trường hẻo lánh
(truyện Những người thợ xẻ), và lại có thể là một chàng trai mồ côi ngh o khó
(truyện Trái tim hổ, Tiệc xòe vui nhất), một cô gái thô kệch bẩm sinh (truyện Nàng
Sinh), một thầy giáo bình dị (truyện Những Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng
quê, Sống dễ lắm, Như sương khói ba , Quan Âm chỉ lộ), một tay nhà văn ngh o
(truyện Thiên văn, Chú Hoạt tôi) hay có khi là một tay giang hồ bất hảo (truyện
Truyện tình kể trong đêm mưa, Sang sông)... So với sự hiện hữu của các thánh nhân
họ chỉ là những người bình dân, thuộc về số đông và gần như không có danh tiếng
hay tầm ảnh hưởng gì đáng kể với kiến trúc thượng tầng của xã hội. Bề ngoài của
những con người ấy cũng không có gì nổi bật mà bao trùm hầu hết là ấn tượng về
sự tầm thường, lam lũ, xấu xí, thua thiệt, thậm chí nhếch nhác, lập dị... nhưng xuyên
qua những lớp vỏ thô nhám tầm thường đó ta lại thấy ở họ những giá trị tinh thần
hiện thân cho sự cao cả. Giá trị ấy trước hết khởi nguồn từ khát vọng, từ bản năng
sống mãnh liệt của mỗi con người. Đọc truyện Cún, độc giả chợt nhận ra cái cao
quý nhất của cuộc đời chính là sự sống, được sống như một người bình thường,
được hưởng hạnh phúc trần thế điều ấy thật sự thiêng liêng và đáng trân quý biết
bao. Bởi đâu đó trong cuộc sống này vẫn đầy rẫy những số phận ăn mày tật nguyền
và đáng thương như Cún. Y sống lay lắt bên lề cuộc đời và chưa bao giờ được coi là
69
một con người. Phút giây Cún được tận hưởng cảm giác giao hoan thể xác hay niềm
hạnh phúc trào dâng khi được vọng nghe tiếng đứa con bé bỏng chào đời cho thấy
trong tận cùng của những thân phận con sâu cái kiến như Cún mầm sống và khát
vọng sống vẫn luôn ngầm chảy thiêng liêng và bất diệt: “Cún như người đang bay
trên mây... Cún cảm thấy bao nỗi buồn trĩu nặng của cuộc đời Cún bỗng dưng được
trút hết cả đi, khuây khỏa lạ lùng” [141, 38]. Chính khát vọng sống đã cho Cún sức
mạnh vượt qua những giới hạn tật nguyền quái dị của bản thân để làm được điều kỳ
diệu cao cả mà bao người bình thường không thể làm được (đó là di truyền và tái
sinh ra một mầm sống mới). Giọt máu cô Diệu mang trong người, sau này là cậu
con trai kháu khỉnh rồi nhà phê bình có tâm... chính là minh chứng cho khát vọng
sống diệu kỳ ấy. Truyện Con gái Thủy Thần cũng là một ví dụ tiêu biểu, chàng
Chương có thể là một chàng trai quê mùa, thô vụng và hay mơ mộng trong mắt mọi
người nhưng sự khao khát những giá trị tuyệt đối, khao khát cuộc đời tự do, khao
khát hiểu biết để vượt ra ngoài những giới hạn chật hẹp của bản thân và đời sống
thật đáng trân trọng. Chính niềm khao khát ấy đã cho chàng sức mạnh, niềm tin và
lòng dũng cảm phi thường, chàng dám vứt bỏ sự an phận và những định kiến hẹp
hòi để tự mình theo đuổi đến cùng giấc mơ diệu kỳ về người con gái hiện thân cho
những giá trị hoàn mỹ nhất của cuộc đời - người con gái Thủy Thần mà không hề
hối tiếc: “Con gái thủy thần, nếu tôi tìm được thấy nàng thì tôi sẽ không hối tiếc gì
về cuộc sống. Không hiểu vì sao tôi lại nghĩ rằng nàng ở đấy, ở ngoài xa kia, ở
biển...” [141, 79]. Trong suốt hành trình ra đi của mình, chàng Chương chưa bao
giờ thỏa nguyện tìm thấy người con gái diệu kỳ ấy, nhưng đổi lại mỗi chặng đường
chàng qua, người lữ khách lại ngộ được bao lẽ chân giả đúng sai, bao hạnh phúc và
khổ đau của đời người. Sự thật luôn phũ phàng, biển vốn không có Thủy Thần song
biển lại mênh mông ẩn chứa muôn vàn điều mới mẻ và rộng lớn, vì thế, tìm ra biển
chính là khát vọng cao cả cần có, nên có và đáng có trong mỗi con người nếu họ
muốn lớn lên và nhìn ra lẽ tồn tại đúng nghĩa của mình.
Không dừng ở đó, sự bao dung, bản tính thiện năng cũng là một nguồn sống
diệu kỳ giúp con người vượt qua mọi cái nhem nhuốc, khổ đau của cuộc sống. Đọc
truyện Chả đi sông ơi, ta thấy bao trùm ở đó một cuộc sống tù túng, ngh o nàn và
70
tăm tối. Những người đánh cá mòi trên sông vừa thô lậu, cộc cằn vừa ngu muội khi
tin vào sự tồn tại hiển linh của Hà Bá thủy thần. Nhưng giữa cuộc đời “con người
vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường” ấy, mỗi lời nói, việc làm của người con gái
lái đò tên Thắm lại thật dịu dàng, bao dung và cao cả. Chị sẵn sàng cứu vớt, giúp đỡ
và chăm chút bất cứ ai nhỡ độ gặp nạn trên sông. Chị cũng chẳng bao giờ oán hận
sự độc ác ngu muội của những người đánh cá mà luôn dành cho họ một sự cảm
thông, chân thành: “Đừng trách họ thế [...] Có ai yêu thương họ đâu... Họ đói mà
ngu muội lắm” [141, 11]. Đến với truyện Những người thợ xẻ cũng vậy, giữa chốn
rừng thiêng nước độc ấy, những người như Bường phải lăn lộn với đời, dở đủ chiêu
trò “làm kiệt sức để kiếm miếng ăn” nhưng trong lúc bơ vơ, cơ nhỡ nhất, họ lại
nhận được sự cứu giúp không toan tính của vợ chồng chị Thục, những người thợ xẻ
như được tiếp thêm sức mạnh, nguồn sống từ chính sự cao cả, nghĩa cử trong tình
người. Hành trình trở về tay không của ông Diểu (trong truyện Muối của rừng)
mang đầy màu sắc bi hài kịch nhưng nó lại chứng tỏ sức cảm hóa diệu kỳ của thiện
năng trong tâm hồn con người khi đứng trước thiên nhiên. Loài hoa tử huyền hiếm
quý chỉ bung nở khi nhân gian còn hiện hữu những điều tốt đẹp. Trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, người đọc có thể thấy đầy rẫy những cái xấu xa, đồi bại, nhem
nhuốc và bê tha của con người trong vòng lợi danh, dục vọng, nhưng ngược lại nếu
nhìn vào chiều sâu, ta sẽ nhận ra không ít những giá trị cao quý, tốt đẹp ẩn sâu trong
những con người bé nhỏ, nằm ngay trong những suy nghĩ, việc làm rất nhỏ mà đầy
nghĩa cử của con người. Hành động phóng sinh cho con khỉ đực của ông Diểu
(truyện Muối của rừng), sự kiện anh Triệu trong tích tắc không màng hiểm nguy
nhảy ra chắn ngang con trâu điên cứu mạng thằng Tiến (truyện Những bài học nông
thôn), việc ông giáo Quỳ cưu mang người đàn bà giang hồ bụng mang dạ chửa
không nơi sinh nở mặc lời đàm tiếu (truyện Thương nhớ đồng quê), hành động
chàng Khó ngày đêm đi săn hồ dữ không phải để lấy bùa may mắn cho mình mà
muốn lấy tim hổ làm thuốc chữa lành đôi chân liệt cho Pùa (truyện Trái tim hổ),
hành động cái Thu bất chấp tính mạng băng mình cứu bạn khi đoàn tàu ập đến
(truyện Tâm hồn mẹ), hay sự kiện trong tích tắc, tên cướp đập tan chiếc bình quý để
cứu đứa bé nghịch dại (truyện Sang sông)... tất cả những việc làm ấy rất đời không
71
quá cao xa nhưng lại cho thấy sự hiện hữu của cái Cao cả trong chính cách ứng xử,
trong bản tính lương thiện và hướng thiện, trong lòng tốt và sự yêu thương chân
thành vô điều kiện mà con người dành cho nhau. Đó là những “hạt thiện” nấp kín
trong xó “tối tăm” của lương tri, nó không “sinh lợi” vật chất mà dạy con người biết
“Dẹp mọi âm thanh cuộc sống xô bồ” để “Dừng một chút”, “Lắng nghe” mình và
thấu cảm cho người [141, 127].
Con người và đời sống sở dĩ có thể tạo ra những giá trị tuyệt đối cao cả là bởi
họ không chỉ có khát vọng sống mãnh liệt, lòng tốt và lương tri mà họ còn có những
tình cảm văn hóa và cao thượng. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, cái Cao cả
của con người và đời sống được nhà văn cắt nghĩa bằng hai mối quan hệ tình cảm
đặc biệt thiêng liêng, đó là tình yêu đôi lứa và tình mẫu tử. Đây đều là những tình
cảm đặc biệt, là khởi nguồn sự sống và di dưỡng tâm hồn con người trong cõi nhân
gian. Tính chất cao cả trong những tình cảm này đều được nhà văn lý giải bằng
những nhận thức riêng đầy sức thuyết phục. Ở phương diện thứ nhất là tình yêu đôi
lứa, trong các sáng tác văn học nghệ thuật, ta thấy rất nhiều người nghệ sĩ đã dành
tâm sức để ca tụng và khám phá về các cung bậc cảm xúc và sức ám ảnh mãnh liệt,
diệu kỳ của tình yêu. Thậm chí, như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu còn khái quát nó
như một nhu cầu sống tất yếu của con người:
Làm sao sống được mà không êu
Không nhớ không thương một kẻ nào...
(Bài thơ tuổi nhỏ )
Tuy nhiên, về bản chất, tình yêu là thứ tình cảm khá riêng tư và “nhạy cảm”,
nó gắn liền với những rung động luyến ái giữa cá nhân với cá nhân. Chính vì thế,
trong các sáng tác văn chương, nhà văn thường dừng lại để nhìn nhận, khai thác sự
cao cả của tình yêu chủ yếu ở những biểu hiện và tác động về mặt tinh thần. Truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại gần như đi ngược lại xu thế ấy. Với ông, giá trị trác
tuyệt của tình yêu phải được xem xét từ thái độ “dám thừa nhận” sự hiện diện của
nó ở cả phương diện tinh thần lẫn vật chất. Người yêu người không chỉ ở sự đồng
điệu rung cảm về mặt tâm hồn mà còn có cả những phút giây ham muốn, say đắm
và thăng hoa về mặt thể xác. Thay bằng sự bao biện, lảng tránh, tình dục cần được
72
thừa nhận và trân trọng như những gì nó vốn có trong đời sống. Một người bình
thường khi trưởng thành không thể không có nhu cầu tình dục vì nó gắn liền với
bản năng tâm sinh lý của con người và là cội nguồn để con người duy trì sự sống.
Tình yêu gắn liền với nhu cầu tình dục lành mạnh khi đó, con người tự khắc nảy nở
những tình cảm cao thượng để thêm thấu hiểu, gắn bó và hòa hợp với nhau hơn. Đó
cũng là lý do mà cả cuộc đời Cún khao khát cháy bỏng được làm người vì chỉ phút
giây duy nhất trong đời được gần gũi cô Diệu, phận ăn mày tật nguyền ấy mới được
trải nghiệm cảm giác khoái lạc, hạnh phúc trần thế, mới nhận ra sâu sắc nỗi bất
hạnh của đời mình (truyện Cún). Cũng nhờ khoảnh khoắc được thành thực rung
động, gần gũi và yêu thương giữa người trai anh hùng với một người gái thuyền
quyên trong cơn mưa rừng năm ấy mà cô Xoan ngày nào có sức mạnh diệu kỳ để
vượt qua không biết bao nhiêu những điều cơ cực, nhọc nhằn xảy ra trong cuộc đời
bà (truyện Mưa Nhã Nam). Trong mạch hư cấu và tưởng tượng về ngoại sử của các
danh nhân, Nguyễn Huy Thiệp cũng không quên thể hiện sức mạnh diệu kỳ của tình
yêu khi miêu tả cuộc tình tri âm tri kỉ giữa Nguyễn Trãi với Nguyễn Thị Lộ. Tình
dục và tình yêu được tự nhiên bày tỏ và đẩy lên thành một thứ tình cảm văn hóa và
cao thượng giữa hai tâm hồn khao khát sự thấu hiểu, trao ban:
Hôm Ngu ễn ngỏ lời cầu hôn, trời mưa như trút. Đồn rằng hôm ấ có rồng
ba trên sông Cái. Họ trao thân cho nhau vào một buổi đêm ên tĩnh [...] Ngu ễn
lắng nghe tiếng nàng thở dốc [...] Nguyễn vùi đầu vào bộ ngực mảnh khảnh của
nàng [141, 307].
Chính trong giây phút giao hoan của thể xác ấy, Nguyễn Trãi đã nhận ra
những tình cảm và trách nhiệm lịch sử của mình trước cuộc đời: “Cảm giác bé nhỏ
yếu ớt của nàng, của con người nói chung giữa tự nhiên mênh mông, giữa vũ trụ
mênh mông khiến lòng ông nhói đau. Ông, chính ông chứ không ai khác, ông phải
chứng tỏ một điều gì đấy bởi sự tốt đẹp thật sự trong thế giới này” [141, 307]. Sự
tốt đẹp ấy không gì khác chính là tình yêu bản nguyên, trong sáng và tự nhiên giữa
con người với con người. Yếu tố tính dục xuất hiện khá phổ biến trong các truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp khi nhà văn đề cập tới vẻ đẹp và sức mạnh diệu kỳ của
tình yêu. Chính vì điều này mà không ít người đọc đã cho rằng nhà văn đã và đang
73
sa vào thứ văn chương tự nhiên chủ nghĩa, dung tục. Tuy nhiên, nếu quan sát cách
đặt vấn đề và cắt nghĩa của chủ thể thẩm mỹ từ cảm quan của một con người cá
nhân, cá thể thì việc mạnh dạn bênh vực thái độ thẳng thắn thừa nhận nhu cầu và
tính năng cao cả tình dục trong tình yêu là điều hoàn toàn thỏa đáng để mang tới
cho con người những tư duy và nhận thức đúng nghĩa về bản chất hiện thực, về ý
nghĩa đời sống của mỗi con người. Có lẽ vì thế, trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, tình cảm mà các nhân vật của ông tôn thờ, dấn thân và kiếm tìm nhiều nhất
không gì khác chính là tình yêu. Với Trương Chi (trong truyện ngắn cùng tên), mọi
khúc hát ca ngợi công danh, quyền lực, đạo đức... trong cuộc đời chàng đều vô
nghĩa, chả ra gì (vì nó là tiếng hát cổ súy đám đông), chỉ khi hát về tình yêu chàng
mới được là chính mình, tự do bộc bạch khao khát những giá trị cao cả, trác tuyệt
của cá nhân mình: “Chàng thấy bồng bềnh như đứng trên thuyền. Đến lúc này,
chàng biết chàng phải cất giọng tự hát cho mình, bởi không chàng sẽ mất hết, mất
cả cuộc đời [...] Tình yêu của chàng hướng về tuyệt đối” [141, 314]. Đến với truyện
ngắn Truyện tình kể trong đêm mưa, qua mỗi câu nói của Bạc Kỳ Sinh - một kẻ si
tình, ta thấy ở đó tình yêu chính là nguồn sức mạnh kỳ diệu, là hiện thân cho cái
Cao cả của mỗi con người:
Ông đã bao giờ êu chưa? Tình êu dạ cho ta bước đi của hổ, của báo, cho
ta sức mạnh của mãnh thú. Nó dạy ta sự giảo hoạt của cáo, của rắn độc... Nó khiến
ta nhân đạo hơn hoặc độc ác hơn... Những kẻ hèn hạ không có tình êu [141, 411].
Nói cách khác, tình yêu không chỉ là nguồn cội sự sống mà còn là nơi nảy
sinh, hun đúc những tình cảm cao thượng và tốt đẹp nhất giữa người với người. Lời
vị sư thầy giảng pháp cho cô học trò nọ (truyện Cà phê Hàng Hành) chính là minh
chứng cho khả năng thanh lọc hóa tâm hồn của thứ tình cảm đặc biệt này: “Ranh
giới phân biệt giữa đêm với ngày, giữa bóng tối và ánh sáng không phải ở ly café.
Lòng nhân ái bao dung mới là ranh giới phân biệt giữa đêm với ngày, giữa bóng tối
và ánh sáng [...] Tình yêu giữa người với người chính là ánh sáng” [96]. Có thể nói,
tình yêu hiện thân cho sự cao cả vì nó là thứ tình cảm hiện sinh, trần thế, vừa bí ẩn,
vừa quyến rũ trong cả tâm hồn và thể xác. Đặc biệt hơn, khi đối diện với tình yêu
74
chính là khi con người ý thức được rõ nét và sâu sắc nhất sự tồn tại của chính mình
trong cõi nhân sinh.
Thứ tình cảm đặc biệt thứ hai hiện thân cho sự cao cả của con người trong
đời sống đó chính là tình mẫu tử. Nếu tình yêu là điểm khởi đầu giúp con người
gieo vào cuộc đời những hạt giống mang mầm sống thì tình mẫu tử lại là thứ tình
cảm nồng hậu, ấm áp và bao dung che chở, dung dưỡng cho những hạt giống sự
sống của con người đâm chồi nảy lộc. Nhưng thứ tình cảm thiêng liêng ấy sẽ không
bao giờ tồn tại nếu cuộc đời này thiếu vắng sự hiện diện của những người em gái,
người chị, người mẹ, người bà... những con người bình thường, bé nhỏ nhưng mang
trong mình sự phi thường vượt mọi giới hạn của tình yêu, lòng tốt, sức cảm hóa hay
sự hi sinh... Họ đến với cuộc đời này bằng những phẩm chất tự thân, hồn hậu vô
điều kiện. Chị Thắm (truyện Chả đi sông ơi) cứu giúp mọi người bằng niềm tin
yêu hướng thiện mà chẳng hề có nhu cầu đền đáp. Bà Lâm (truyện Những bài học
nông thôn) truyền dạy cho cháu con những bài học cuộc sống tâm huyết nhất bằng
tất cả những trải nghiệm đắng cay của đời người phụ nữ. Cái Thu (truyện Tâm hồn
mẹ) vốn chỉ là một đứa trẻ ngây thơ nhưng tự trong bản năng nó đã sẵn có một sự
thấu hiểu, ân cần, dịu dàng của một tâm hồn mẹ... Nàng Pùa, nàng Sinh, nàng Muôn
(truyện Những ngọn gió Hua Tát)... là những người phụ nữ đã chịu nhiều thua thiệt,
đau khổ trước cuộc đời nhưng họ vẫn luôn hướng về sự sống bằng một tình cảm bao
dung, không toan tính. Như vậy, tình cảm mẫu tử trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp là hiện thân của cái Cao cả vì nó không dừng ở phạm vi hạn hẹp của thứ tình
cảm yêu thương vô điều kiện của mẹ dành cho con mà được nâng lên thành thiên
tính mẫu, thành giá trị trác tuyệt thuộc về bản năng mà tạo hóa ban cho giới nữ khi
đưa họ đến với cuộc đời. Trong các tác phẩm được khảo sát, hầu như sáng tác nào
của nhà văn cũng xuất hiện hình ảnh một người phụ nữ và phần đông trong số họ
đều mang trong mình vẻ đẹp của sự cao cả. Bà nội, mẹ, chị gái Lâm (truyện Những
bài học nông thôn), Sinh (truyện Không có vua), chị Thục (truyện Những người thợ
xẻ) là những người phụ nữ bình dân nhưng lại mang đến cuộc đời những bài học về
tình người thiêng liêng mà dung dị. Chị Thắm (truyện Chả đi sông ơi), bé Thu
(truyện Tâm hồn mẹ), nàng Bua (truyện Những ngọn gió Hua Tát)... đều là những
75
người con gái mang trong mình một tâm hồn cao thượng vừa nhân hậu vừa trong
sáng, thánh thiện. Nàng Hồ Xuân Hương (truyện Chút thoáng Xuân Hương), hay
nàng Nguyễn Thị Lộ (truyện ngắn cùng tên) là những người phụ nữ rất mực anh
tuệ và minh triết. Người con gái Thủy Thần (truyện ngắn cùng tên), Ngô Thị Vinh
Hoa (truyện Phẩm tiết), nàng Sinh (truyện Những ngọn gió Hua Tát) lại là hình
ảnh những người phụ nữ mang trong mình những sức mạnh bí ẩn, diệu kỳ... Họ
xứng đáng là hiện thân cho cái Cao cả vì họ mang trong mình những phẩm chất tự
nhiên tốt nhất trong khi xã hội và phái mạnh nam quyền lại thường trút lên họ đầy
những thành kiến, đau khổ, bất hạnh... Mặc dù vậy, họ vẫn họ kiên nhẫn tồn tại,
tỏa rạng và đối đãi với cuộc đời bằng tất cả sự bao dung, nồng hậu và yêu thương.
Thứ tình cảm ấy cũng ấm áp, trong sáng vô điều kiện như tình cảm của mẹ dành
cho con vậy. Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy không phải người
phụ nữ nào cũng hiện lên tốt đẹp nhưng phần đông họ đều mang trong mình
những giá trị, những phẩm chất và sức mạnh tự nhiên mà cuộc đời đáng phải
ngưỡng vọng. Sự bao dung, đức hy sinh và tình yêu vô bờ là những đức tính cao
cả luôn ngự trị trong tâm hồn họ, giúp họ vượt qua tất cả những nỗi đau để có thể
bao dung và cảm thông cho mọi lỗi lầm, sự vô tâm và dung tục của cuộc đời. Mỗi
người phụ nữ (dù ở lứa tuổi, hoàn cảnh xuất thân nào) cũng đều xứng đáng là một
người Mẹ vĩ đại của cuộc đời.
Cuộc đời phong phú phức tạp bao nhiêu thì biểu hiện của cái Cao cả trong đó
cũng phong phú, phức tạp bấy nhiêu. Qua các truyện ngắn của mình, Nguyễn Huy
Thiệp đã chứng minh cho ta thấy những giá trị trác tuyệt không phải lúc nào cũng
thuộc về những con người có danh phận thánh nhân mà xã hội suy tôn. Cái Cao cả
còn hiện hữu ngay trong những con người bình dị và tầm thường nhất. Sự an phận,
thúc thủ thường biến cõi nhân sinh trở nên ngột ngạt, khiến con người thêm bé nhỏ,
tầm thường nhưng chính thiện năng, tình yêu và khát vọng sống lại giúp chúng ta
mang đến cho cuộc đời những điều kỳ diệu, phi thường ngoài sức tưởng tượng. Mới
hay chăng những con người thuộc về số đông vô danh ấy lại đã, đang là người âm
thầm giữ lửa, truyền lửa, trao gửi và nâng niu những giá trị tốt đẹp nhất, hoàn mỹ
nhất của cuộc đời.
76
2.2.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp
Về bản chất thẩm mỹ, cái Cao cả là một phạm trù phản ánh thuộc tính hoàn
mỹ, trác tuyệt vượt mọi giới hạn, kích cỡ... Nó hiện diện trong vai trò là một
phương diện của khách thể đời sống. Tuy nhiên, các thuộc tính thẩm mỹ này khi
được phản ánh trong các sáng tác văn học nghệ thuật lại được biểu hiện và nhìn
nhận mang đậm cá tính sáng tạo, tư tưởng chủ quan của người nghệ sĩ. Chính vì
vậy, khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ta nhận thấy nhà văn một mặt có sự
kế thừa thành tựu của mỹ học hiện đại mặt khác đã luôn nỗ lực tìm tòi, thử nghiệm
để mang về cho người đọc những cảm xúc và nhận thức thẩm mỹ mới mẻ xoay
quanh phạm trù cái Cao cả.
Trước hết, cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gắn liền với
những giá trị trác tuyệt tự thân của khách thể. Cái phóng khoáng, cao thượng của
loại gió trên cao giữa cánh đồng thanh bình nơi thôn dã không phát minh máy móc
hiện đại nào thay thế, sánh bì kịp. Vẻ hùng vĩ, nguyên sơ của đại ngàn núi non, cây
cỏ luôn khiến chúng ta phải ngỡ ngàng, cảm động đến bối rối, choáng ngợp. Nhà
văn đã chỉ ra cho người đọc thấy rằng tự nhiên hiện hữu cái Cao cả vì nó là chính
nó, bình ổn, công bằng và thanh sạch. Tầm vóc và sự bí ẩn của nó là một giá trị
nguyên bản, không cần che đậy hay tô vẽ. Chính vì thế, đến với thiên nhiên trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là ta đến với một tình cảm ngưỡng vọng, thành
kính và đặc biệt chân thành của nhà văn dành cho người Mẹ thiên nhiên. Trong bối
cảnh hiện nay, khi mà cuộc sống hiện đại đang khiến con người xa rời dần giới tự
nhiên và để thỏa mãn tính mục đích, loài người còn từng ngày, từng giờ chà đạp, tàn
phá ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng sinh thái tự nhiên... thì tình cảm và
thái độ ngưỡng mộ mà nhà văn thể hiện khi nói về cái Cao cả trong tự nhiên ấy thật
đáng trân trọng. Trong cái nhìn về con người và đời sống cũng vậy, cái Cao cả mà
Nguyễn Huy Thiệp nhìn nhận và thể hiện không nằm ở những thành tựu văn minh
vĩ đại của loài người (trong lao động sản xuất, trong quá trình chinh phục tự nhiên
hay đấu tranh cải tạo xã hội) mà xuất phát từ bản năng hướng thiện, khao khát tình cảm của
mỗi con người. Bởi vậy, ta nhìn thấy sự cao thượng lan tỏa trong mọi con người dù họ bề
77
ngoài thật tầm thường, bé nhỏ. Những khát vọng, tình cảm, việc làm của họ rất đỗi chân
thành, lương thiện và không vụ lợi, bởi vậy nó có sức cảm hóa lớn lao và nhân lên những giá
trị tốt đẹp cho cuộc đời. Bởi thế, Nguyễn Huy Thiệp hoàn toàn có lý khi đưa ra quan niệm về
rằng trong người bình thường luôn có những tình cảm thánh nhân.
Không dừng ở đó, cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn gắn liền với
xu hướng giải thiêng thần tượng trong quá khứ, một xu hướng gây nhiều tranh luận sóng gió
cho bản thân nhà văn và các tác phẩm ông trong quá trình tiếp nhận nghệ thuật. Chủ trương
văn học là một cuộc dấn thân đã cho người nghệ sĩ ấy niềm tin và dũng khí để đối diện và
bóc trần mọi góc cạnh của đời sống. Vì thế, ông không ngần ngại lật lại quá khứ, hư cấu để
đối thoại, chất vấn, hoài nghi lại tính chân xác của chính sử bằng những tin đồn, ngoại sử.
Theo đó, khi đề cập tới phạm trù cái Cao cả, Nguyễn Huy Thiệp đã giải thiêng không
thương tiếc hình tượng trung tâm của nó trong truyền thống: hình ảnh lý tưởng về các danh
nhân, thánh nhân hay người anh hùng của cộng đồng dân tộc đều bị người viết hạ bệ bằng
việc chỉ ra những cái hữu hạn, thậm chí dung tục, đời thường, nhỏ bé ở họ. Thử nghiệm đó
như một cách để tác giả chứng minh tính người, đòi hỏi một cái nhìn đa diện, công bằng và
nhân văn hơn ngoài sự suy tôn lý tưởng đã có về các thần tượng. Điều này thực tế đã gây
nên một cú sốc tinh thần lớn cho nhiều bạn đọc (những người quen với cách cảm thụ văn
học thuận chiều) nhưng đổi lại, văn học nước nhà lại có một tiếng nói phản biện đầy cá tính
(dù không tránh khỏi phần cực đoan) nhằm đặt ra yêu cầu nhận thức đúng về giá trị thực của
cái Cao cả trong văn học và cuộc đời.
Không chỉ vậy, việc giải thiêng còn cho người đọc thấy rằng để suy tôn một giá trị
tuyệt đối thực tế là điều vô cùng nan giải và khó khăn. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, cũng như cái Đẹp ta không thể tìm thấy một hình tượng cái Cao cả thuần khiết, lý
tưởng vì ở đó, các phạm trù này luôn hiện diện trong trạng thái pha tạp, dễ dàng bị trộn lẫn
vào những cái nhem nhuốc, tầm thường thậm chí xấu xa. Mẹ thiên nhiên chính là nơi lưu giữ
những giá trị tuyệt đích bản nguyên và khách quan nhất trong sáng tác của nhà văn nhưng
không vì thế mà giữa thiên nhiên không có những mặt trái, có cái xấu, cái ác, cái tàn nhẫn,
vô tình. Những nạn dịch, thiên tai đã hủy hoại sự sống, gieo rắc bao nỗi kinh hoàng cho con
người trên bản nhỏ Hua Tát trong khi cuộc sống thường nhật nơi đây vốn đã ngặt ngh o,
khốn khó. Người chồng thợ săn có lẽ sẽ không bao giờ có ý nghĩ thú tính lấy xác vợ để làm
78
mồi nhử cho cuộc đi săn cuối đời nếu không bị cái đói của những ngày động rừng hành hạ
đến mụ mị, cùng quẫn (truyện Con thú lớn nhất). Và suy cho cùng, con thú lớn nhất không
phải là những mãnh thú mà chính là phần bản năng thú tính, phần tự nhiên tất yếu có trong
mỗi con người khi nó thoát khói sự chế ngự của nhân tính. Trong truyện Giọt máu, thằng
Phúc chỉ là một đứa trẻ vô tư, vô tội nhưng nó lại là người phải gánh chịu sự trừng phạt đau
đớn và kinh hoàng của tự nhiên cho những lỗi lầm của người cha oan nghiệt: “Thằng Phúc
reo lớn: “Mưa đá!”. Reo xong nó chạy ra sân. Bỗng lòe một cái, rồi một tiếng sét long trời lở
đất vang lên. Khói ở ngoài sân bốc lên một đụn đen ngòm khét lẹt [...] Thằng Phúc nằm
còng queo, người như rút hết nước, đầu nó trọc lốc, khô xém, một mảng sân gạch Bát Tràng
nát vụn” [141, 268, 269].
Thiên nhiên còn có cái vô tình nên chẳng thể trách sao con người càng dễ đổi thay,
sai khác. Trong hoàn cảnh này, con người có thể hiện thân cho cái Cao cả nhưng ở tình
huống khác cũng chính con người ấy lại có đầy những lầm lạc, thấp h n. Cô giáo Kiểm
trong truyện Quan Âm chỉ lộ có thể mang tới một sự hy sinh cao cả vô điều kiện cho các học
trò ngh o người Mông, có thể là “Quan Âm Bồ Tát” cứu rỗi tâm hồn cho Công, nhưng
ngược lại trước xã hội và người đời, họ sẽ không dễ gì tin và ca tụng mối quan hệ tình cảm
phức tạp “già nhân ngãi, non vợ chồng” của cô với Công. Ở truyện Như sương khói ba
cũng vậy, đi trọn câu chuyện, hình ảnh ông Trụ hiện lên thật hiền lành, cao thượng. Ông
thương yêu, có trách nhiệm với con bé San bằng lòng tốt thực tâm, vô điều kiện, vậy nhưng
cũng có những phút giây ông phải đấu tranh để xóa đi những ham muốn trỗi dậy trong bản
năng thú tính của một tên đàn ông xa gia đình và từng trải: “Ông Trụ trong nhà nhìn ra. Ánh
nắng buổi sáng trong suốt làm lộ rõ những đường cong trên thân hình mảnh dẻ của con bé
con đang độ lớn. Ông Trụ nhận thấy hai bắp đùi của con bé con rất khỏe. Ông Trụ đờ cả
người” [144]. Cái độc đáo và tinh tế của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn luôn chỉ
ra được những cảnh huống đặc biệt, những lằn ranh mong manh mà ở đó ranh giới thật - giả,
đúng - sai, cao cả - thấp h n... đều thật nhỏ bé, gang tấc. Khi bản năng trỗi dậy, chỉ cần một
phút yếu lòng, dùng dằng, ông Trụ hoàn toàn có thể cưỡng đoạt thân xác và hủy hoại cả cuộc
đời con bé San vì không thể cầm lòng trước sự gợi cảm và sức hút tự nhiên của sinh lý... và
như vậy từ một con người nhân hậu, đầy trách nhiệm và tình yêu thương, ông hoàn toàn có
thể trở thành một tội đồ ấu dâm, đốn mạt nếu cố chấp không chịu ra đi dù quyết định ấy thật
79
tàn nhẫn và khó khăn. Gợi ra tất cả những ranh giới mong manh ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã
chứng tỏ cho người đọc thấy rằng việc đặt tất cả niềm tin vào một giá trị cao cả tuyệt đối là
một sự mê chấp, mù quáng. Hiện thực bề bộn và biến chuyển không ngừng, cái Cao cả có
thể hiện hữu trong ý niệm, trong đức tin và bản tính lương thiện của con người, nhưng nó
không phải một phạm trù bất biến, tách biệt hoàn toàn với những mặt giá trị đối lập. Chính vì
vậy, để suy tôn và nhận thức được cái Cao cả, bản thân văn học, nhà văn và cả người đọc
đều cần một tư duy phản biện với cái nhìn đa diện, đa chiều mới có thể thấy được những
“hạt vàng” bé nhỏ lấp lánh, đang lần khuất giữa biển cát bụi, bùn nhơ của cuộc đời.
Như đã đề cập, khảo sát về phạm trù cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp ta nhận thấy rất rõ hai xu hướng thẩm mỹ của người cầm bút: một là hết
lòng suy tôn, trân trọng và kiếm tìm những phẩm chất phi thường, cao cả có trong
tự nhiên và trong những con người tầm thường, nhỏ bé, hai là hạ bệ, “giải thiêng”,
mọi thần tượng lý tưởng về cái cao cả trong truyền thống. Ở xu hướng thứ nhất,
hiệu ứng mà nhà văn và các tác phẩm của ông mang lại cho người đọc khá tích cực
và đồng thuận. Vì ở đó, chính nỗ lực tạo dựng hình tượng về cái Cao cả trong đời
thường đã giúp trang văn Nguyễn Huy Thiệp trở nên gần gũi hơn, sống động và
đậm chất “đời” hơn. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng Nguyễn Huy Thiệp đã khước từ cái
nhìn “sử thi” lãng mạn hóa, lý tưởng hóa về hình ảnh người anh hùng để nhìn sâu
vào “nhân tính” thấy được phần cao cả trộn lẫn trong cái nhếch nhác, thấp h n từ
những con người bình thường... đó là một “thái độ nghiêm chỉnh” trước nhân dân
và cuộc sống [105, 13].
Còn ở xu hướng thứ hai, trong một loạt tác phẩm như: Kiếm sắc, Phẩm tiết, Vàng
lửa, Nguyễn Thị Lộ v.v... trước chủ trương phá bỏ thần tượng cái Cao cả của nhà văn, công
chúng đã không còn giữ được sự ôn hòa, đồng thuận mà phân lập thành hai quan điểm đối
lập, tranh biện vô cùng quyết liệt. Vì ở đó, Nguyễn Huy Thiệp đã phác hoạ bức chân dung
của hàng loạt những danh nhân văn hoá, nhân vật lịch sử lớn của dân tộc (như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, vua Gia Long, Nguyễn Huệ...) bằng những chi tiết đời thường và tầm thường
nhất. Lối hư cấu này đã thành một “cú hích” lớn vào tâm thức vốn rất trọng truyền thống của
độc giả đương thời. Cảm giác bị xúc phạm mãnh liệt đã khiến nhiều bạn đọc bày tỏ sự bất
bình. Tạ Ngọc Liễn phẫn nộ lên tiếng cho rằng sự giải thiêng này đã làm cho “diện mạo lịch
80
sử méo mó đi”, là một sự “xúc phạm tới danh dự dân tộc” không thể chấp nhận [105, 177].
Đỗ Văn Khang cũng bày tỏ sự hoài nghi bất phục về “phép nói ngược” của nhà văn vì theo
ông việc dựng một tên cướp nước để nói về lịch sử Việt Nam hay lấy kẻ vô đạo để rao giảng
đạo đức thật là điều khó chấp nhận [105, 194]. Hay độc giả Nguyễn Thúy Ái cũng không
ngần ngại chỉ trích nhà văn rằng sự giải thiêng của ông chính là lối viết “bắn súng lục vào
quá khứ” [105, 203] v.v... Trước những phản ứng mãnh liệt đó, một số nhà nghiên cứu, phê
bình văn học (như Lại Nguyên Ân, Văn Giá, Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn
Văn Lưu v.v... ) đã vào cuộc để tranh luận nhằm bênh vực quyền năng sáng tạo của người
nghệ sĩ, phê phán thái độ kì thị, cứng nhắc trong cách đọc và phê bình văn học kiểu quy
chụp, “bắt vít” của một số người đọc nhưng điều đó không tạo cho quá trình tiếp nhận truyện
ngắn và cái Cao cả trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một hồi kết đồng thuận mà sự
tranh biện, phân lập các các luồng quan điểm càng đối chọi nhau gay gắt thậm chí quyết liệt
hơn. Có thể nói, thông thường, con người đứng trước các hiện tượng cao cả thường nảy sinh
những tình cảm, cảm xúc tích cực như sự ngưỡng mộ hay niềm rung động, nỗi khao khát
khám phá mãnh liệt... Khi đến với công chúng, bạn đọc, ở một góc độ nào đó, cái Cao cả
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự mang tới cho chúng ta những hiệu ứng
thẩm mỹ tích cực như thế. Nhưng chính sự kiên quyết đến cực đoan trong việc thể hiện hai
xu hướng thẩm mỹ đặc biệt là xu hướng phủ nhận, hạ bệ thần tượng trên của nhà văn vô tình
đã tạo ra những “hiệu ứng” và cả những “phản hiệu ứng” từ những hư cấu chưa có sức
thuyết phục với người đọc. Ta chỉ có thể tìm ra một diện mạo mới khi dám phá hủy cấu trúc
những đền đài cung điện đã cư ngụ hàng nghìn năm. Ý thức về sự giải thiêng là điều kiện
cần có để kiến tạo một nền văn học hiện đại trong bối cảnh hội nhập. Nhưng sự giải thiêng
chủ quan, thiếu căn cứ trong việc cắt nghĩa và thể hiện một số hình tượng văn học là những
danh nhân văn hóa, lịch sử của dân tộc của nhà văn thực tế chưa mang về hiệu quả thẩm mỹ
như mong đợi. Để rồi chính con người dốc lòng phụng sự cái Đẹp ấy lại bị những ý niệm về
cái Đẹp giải thiêng của mình “hạ bệ” trước dư luận.
Từ những cách nhìn nhận, thể hiện mang tính quan niệm riêng của Nguyễn Huy
Thiệp về cái Cao cả, ta nhận thấy sự vận động khá rõ trong mỹ cảm của nhà văn cũng như
văn học và thời đại. Con người và văn học có bao giờ thôi khao khát hướng về những giá trị
lý tưởng và tuyệt đích. Giải thiêng thần tượng trung tâm trong quá khứ để kiến tạo và tri
81
nhận những giá trị tuyệt đích có trong thực tại, đó là hành trình mà truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp đã chọn lựa đi qua để mang về những nhận thức mới mẻ cho bạn đọc về sự
hiện diện của cái Cao cả giữa cuộc đời. Những biểu hiện vĩ mô bên ngoài hay
những suy tôn về con người vĩ nhân được nhà văn thay thế bằng các khám phá về
khát vọng sống, về sự cao thượng, kỳ diệu trong tâm hồn, tình cảm và cách ứng xử
của cá nhân mỗi con người giữa cõi nhân sinh. Cái nhìn ấy không xuất phát từ cảm
hứng sử thi và chủ nghĩa anh hùng (như các sáng tác thuộc giai đoạn văn học trước
đó) mà thoát ra từ cái nhìn hiện sinh, nhân bản về con người.
Tiểu kết chƣơng 2
Như vậy, cái Đẹp và cái cái Cao cả là hai phạm trù thẩm mỹ xuất hiện khá phổ biến
và nổi bật trong hầu hết các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Ở đó, sự hiện diện của
những phạm trù này không đơn thuần là những phản ánh minh họa cho các vẻ đẹp hay sự
cao cả trong khách thể đời sống mà nó gắn liền với quan niệm thẩm mỹ riêng của người
nghệ sĩ. Đối với nhà văn, tính giá trị của cái Đẹp và cái Cao cả phải nằm ở tính nguyên bản,
chân xác, chính thể và không vụ lợi của các sự vật hiện tượng. Người đọc sẽ rất khó để chỉ ra
một hình mẫu lý tưởng cho những phạm trù thẩm mỹ này trong trang văn Nguyễn Huy
Thiệp bởi các phẩm chất ấy luôn được tác giả nhìn nhận trong sự vận động, chuyển hóa và
pha tạp lẫn nhau. Độc giả chỉ có thể thấy sự hiện diện của chúng khi đồng hành cùng nhà
văn bước vào những hành trình đi tìm cái Đẹp, cái Cao cả đang nằm lẫn trong những lớp bụi
phủ đầy sự giả dối, nhem nhuốc, tha hóa, xấu xa... của cuộc đời.
82
Chƣơng 3
CÁI BI VÀ CÁI HÀI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
3.1. Cái Bi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
3.1.1. Quan niệm về cái Bi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Cũng như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi hiện diện trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp như một phần tất yếu của đời sống thẩm mỹ trong các tác phẩm. Xoay
quanh cái Bi, Nguyễn Huy Thiệp cũng đưa ra những quan niệm thẩm mỹ riêng của
mình về phạm trù thẩm mỹ này.
Trước hết, đối diện với sự sống, Nguyễn Huy Thiệp nhận thức rất rõ hai bi
kịch lớn của dân tộc mình, đó là sự đói ngh o về vật chất và lạc hậu về tinh thần.
Con người muốn tồn tại trước hết cần được thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu về
vật chất như cái ăn, cái mặc, chốn ở - những nhu cầu thuộc về bản năng tự nhiên mà
chúng ta không thể chối bỏ. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu đó ở một đất nước
nông nghiệp, từng bị hủy diệt đến tận cùng bởi chiến tranh như Việt Nam đó lại là
cả một gánh nặng mưu sinh đầy nhọc nhằn, cơ cực. “Đa số người ta chết lao lực vì
kiếm miếng ăn” là khái quát mà bản thân tác giả khi khái quát nên cũng không giấu
nổi sự chua xót [140, 12]. Càng đi sâu vào các truyện ngắn (Chả đi sông ơi, Tướng
về hưu, Cún, Những người thợ xẻ, Con thú lớn nhất, Huyền thoại phố phường, Giọt
máu...), người đọc sẽ càng nhận thấy rõ hơn những hoán đổi giá trị và sự rẻ rúng
thảm hại của cõi người trước nhu cầu vật dục đơn giản và thường nhật nhất: “Hóa ra
ở đời, trách nhiệm đ lên lưng mỗi sinh vật thật nặng nề” [141, 66]. Trong những
trách nhiệm ấy, gánh nặng áo cơm trở thành một trách nhiệm sống, một nỗi ám ảnh
khiến con người dù là thành thị hay nông thôn, miền xuôi hay miền ngược, đều dần
trở nên khắc nghiệt, cay độc, thực dụng theo một cách riêng. Theo đó, cái Bi với
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp không phải điều gì xa xôi mà trước hết chính là sự đeo
đuổi của cái đói cái ngh o làm đời sống con người thêm phần cực nhọc, đau khổ.
Nhưng không dừng ở đó, nhìn thấu nỗi ám ảnh về vật chất cũng là lúc nhà
văn nhận ra bi kịch đau đớn hơn, day dứt hơn đang ngự trị trong đời sống tinh thần
83
của con người. Trong bài viết Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn,
Nguyễn Huy Thiệp đã thể hiện rất rõ những quan ngại của mình về hiện trạng bi đát
của đời sống tinh thần của cả dân tộc mình:“Chúng ta đang sống trong một môi
trường cay đắng đầy những thành kiến và ràng buộc” [140, 21]. Những ràng buộc
đó đến từ các tư tưởng cũ kĩ, lạc hậu khiến cho hàng triệu số phận người đau khổ:
“Họ mê man trong các công sở và trong các tổ quỷ gia đình, trong các lũy tre xanh
và trong các khu tập thể” [140, 33]. Hay ở bài viết Nhà văn và bốn trùm “mafia”,
Nguyễn Huy Thiệp cũng đưa ra những lập luận sắc bén về bi kịch tù đọng trong đời
sống tinh thần con người: “Chúng ta hãy thử hình dung một con người sinh ra, làm
lụng, ăn uống, sống hoàn toàn mê man trong những phép tắc lề luật [...] rồi chết [...]
như thế sẽ kinh khủng như thế nào” [140, 57]. Những nhận định đó bề ngoài có
phần bi quan, u ám, nhưng nó phản ánh một thực trạng đáng lưu tâm rằng đời sống
tinh thần tốt đẹp và nhân bản của con người đang bị chà đạp, tàn phá một cách
không thương tiếc. Một mặt, đó là tình trạng con người cá nhân luôn bị cương tỏa,
kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, bị kiểm soát hoặc tự kiểm soát bởi những thành
kiến cổ hủ trong xã hội. Mặt khác, đó là tình trạng cá nhân không tự ý thức được giá
trị và tiếng nói của mình mà yên tâm tuyệt đối vào những giá trị sẵn có của tập thể,
đám đông: “Thực tế, đa số người đến chót đời mình vẫn quẩn quanh trong khuôn
khổ “giáo khoa thư” cả về trình độ lẫn định kiến” [140, 16]. Sức ì của nhận thức,
tâm lý vô hình chung biến đời sống, con người trở nên bé nhỏ, vô nghĩa và tầm
thường. Nó là cội nguồn sản sinh ra “những đứa con hoang tinh thần” [141, 341],
sống thỏa mãn trong sự thúc thủ, ảo tưởng, không có xúc cảm thực, không có niềm
tin chân chính và càng không tồn tại những tình yêu đích thực. Như vậy, khi vẽ ra
hiện trạng bức chân dung tinh thần thảm hại và khánh kiệt của dân tộc mình, hơn ai
hết, Nguyễn Huy Thiệp ý thức sâu sắc về sự hiện hữu của cái Bi giữa cuộc đời. Nó
không dừng ở sự đói ngh o đơn thuần về vật chất, mà đau xót hơn còn là sự túng
quẫn, mê muội về tinh thần. Chính vì thế, với nhà văn, bi kịch chính là khi con
người không nhận ra được tình trạng bi đát của cá nhân và đồng loại, không tự tìm
thấy giá trị cốt lõi mà cả tin, tự ru mình trong phép thắng lợi tinh thần hay yên tâm
với thứ chân lý đám đông.
84
Còn trong đời sống nghệ thuật, quan niệm về cái Bi của nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp được thể hiện rõ nét hơn khi ông nói rất nhiều đến những góc khuất
trong nghề văn và sự nghiệp của người cầm bút. Nhà văn xuất phát cũng là một con
người bình thường bằng xương bằng thịt nhưng danh phận nghệ sĩ luôn đẩy họ vào
tình cảnh thật chua xót, oái oăm: “Nhìn chung, thân phận nhà văn như anh hề ...”
[140, 10]. Danh phận nhà văn khoác cho họ nhiều và thật nhiều những “sứ mệnh
lớn lao”, nhưng thể chế chính trị đương thời lại thường đặt ra cho họ rất nhiều
những quy ước, húy kị. Khát vọng nghệ thuật lớn lao nhưng những thành kiến, tư
tưởng vụn vặt hay cuộc sống áo cơm chưa bao giờ buông tha cho những người cầm
bút. Trong khi đó, mọi tìm tòi, thử nghiệm của người nghệ sĩ đều phải trả giá khi soi
vào hệ quy chiếu, thị hiếu thẩm mỹ chung của cộng đồng, xã hội. Chính vì vậy, khi
xem xét thế giới nội tâm của nhà văn, Nguyễn Huy Thiệp đã mạnh dạn chỉ ra thực
tế “đa số nhà văn có lương tri đều ngượng. Các sự kiện đều vụn vặt, chắp vá, nhem
nhuốc” [140, 9]. Nhìn sâu vào trong thế giới ấy là sự hiện hữu của cái Bi xuất phát
từ mặc cảm về sự bất lực của người nghệ sĩ khi dấn thân vào sự nghiệp mà nguyện
vọng và những hoài bão lớn lao của họ không thực hiện được. Nếu cứ ảo tưởng quá
nhiều vào danh tiếng, thiên chức hay sứ mạng, sức mạnh của nghề nghiệp thì hơn ai
hết họ sẽ là người sẽ phải “vỡ mộng” và đứng ra trả giá cho những ảo tưởng của
mình. Vì thế, cái Bi ở đây chính là hành trình thấu cảm hết “nỗi nhục” mà nhà văn
trải qua khi họ dám “đứng ra trả giá cho những đam mê của mình” [140, 44]. Nói
cách khác, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, bức chân dung tinh thần tự họa của
những nhà văn có lương tri chính là vấn đề trung tâm của cái Bi. Nhà văn là người
đầy tự trọng, khát khao, đam mê, nhưng cũng là linh hồn bộn bề những cay đắng,
mặc cảm: “Nhà văn là gì? Chẳng là gì cả. Nó chỉ là một linh hồn nhỏ đầy lỗi lầm và
luôn tìm cách sám hối vượt khỏi những lỗi lầm ấy [...] nó viết không phải vì nó, nó
viết để cả bầy đoàn rút ra từ đấy một lợi ích công cộng, một lợi ích văn hóa” [140,
52]. Nhưng vượt lên trên tất cả những hiểu lầm, những dằn vặt, ở tấn bi kịch tinh
thần ấy ta thấy được một hành trình người nghệ sĩ không mệt mỏi đi kiếm tìm cái
Chân - Thiện - Mỹ.
85
Có thể thấy, Nguyễn Huy Thiệp đã không ngần ngại chỉ ra sự bảo thủ, trì trệ và ảo
tưởng trong nhận thức của mỗi con người trong đời sống hay trong nghệ thuật đều là một
tấn bi kịch tinh thần có sức công phá ghê gớm đối với những giá trị tốt đẹp, với sự tiến
bộ và văn minh của đời sống con người. Chính vì thế, hành trình đến với cái Bi của nhà
văn không đơn thuần là sự xót thương cái Đẹp đang bị tàn phá bởi các thế lực tiêu cực
mà là con đường phản tỉnh, thấu hiểu “bản chất con người” từ những nỗi đau: “chỉ khi
nào chúng ta cảm nhận hết sự nhục nhã và đau đớn trước tình trạng súc vật… chúng ta
mới có cơ may vươn lên thành người” [141, 53].
3.1.2. Biểu hiện của cái Bi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bên cạnh sự khắc khoải về cái Đẹp,
khát vọng tìm chân lý trong sự giải thiêng về cái Cao cả, người đọc còn đặc biệt ấn
tượng với những suy tư, day dứt của nhà văn qua sự hiện diện của cái Bi giữa bộn
bề cảnh huống trong cõi nhân sinh. Đi sâu vào hiện thực bộn bề đó, chính cái nhìn
nhiều mặt về số phận con người cá nhân là điểm tựa để tác giả cắt nghĩa mọi bi kịch
cuộc đời trong từng trang viết.
3.1.2.1. Bi kịch từ sự tha hóa
Tha hóa là thuật ngữ thường dùng để chỉ những người đã hoặc đang đánh
mất dần phẩm chất đạo đức, phần lương thiện và trở nên xấu xa, tồi tệ (Từ điển Việt,
http://tratu.soha.vn). Trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám (1945), tấn bi kịch cuộc đời được phác họa từ những con người tha hóa
là vấn đề không quá xa lạ với độc giả khi đến với các sáng tác của nhiều nhà văn tên
tuổi như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao hay Vũ Trọng Phụng... Tuy
nhiên, đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, sự tha hóa đó lại được tác giả nhìn
nhận, cắt nghĩa như một bi kịch tất yếu của con người.
Bi kịch hiện diện trong cuộc đời của những con người tha hóa. Nó nổi lên
như một hiện thực phổ quát trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp. Tha hóa có ở mọi
lứa tuổi từ giới trẻ (truyện Tướng về hưu, Không có vua, Hu ền thoại phố phường,
Thổ cẩm...), người trưởng thành (truyện Tướng về hưu, Không có vua, Những người
thợ xẻ...) đến những bậc cao niên (truyện Chả đi sông ơi, Tướng về hưu, Không có
vua, Những người thợ xẻ, Con thú lớn nhất, Huyền thoại phố phường, Giọt máu...).
86
Tha hóa có trong mọi thành phần xã hội từ kẻ ăn mày, người vô gia cư, người lao
động đến cả những người nghệ sĩ, trí thức, quan lại, thậm chí danh nhân, vua chúa...
Tha hóa xảy ra trong quá khứ, giữa hiện tại và tiềm ẩn trong cả tương lai. Rõ ràng,
Nguyễn Huy Thiệp không xem xét sự tha hóa trong con người từ cái nhìn cá thể hay
khái quát qua các “điển hình” tiêu biểu cho một tầng lớp, một giai cấp hay một
nhóm người cụ thể nào trong xã hội (như các nhà văn đi trước) mà cắt nghĩa nó như
một bi kịch nhân sinh có tính phổ biến trong hành vi, lối sống, ý thức... của mỗi con
người, ở mọi hoàn cảnh và mọi thời đại. Cái Bi hiện diện qua một thực trạng tha
hóa “không giới hạn” của con người giữa cuộc đời.
“Vì sao con người tha hóa?” Trả lời cho câu hỏi này, Nguyễn Huy Thiệp
không dễ dàng bằng lòng với những lý do bên ngoài, biến con người thành “nạn
nhân” đáng thương bị tha hóa bởi hoàn cảnh (như cái đói ngh o hay sự áp bức bóc
lột của giai cấp thống trị...) mà vạch tìm căn nguyên sâu xa trong tâm tính, hành vi,
lối sống của từng cá thể. Theo đó, sự sa ngã trước hết bắt nguồn từ tâm lý vụ lợi, lối
sống thực dụng, sùng bái vật chất của con người (truyện Tướng về hưu, Cún, Không
có vua, Những người thợ xẻ, Huyền thoại phố phường, Giọt máu...). Đồng tiền lên
ngôi “tiền là vua” khiến mọi quan hệ giữa người với người đều được vật chất hóa,
lợi ích hóa [141, 54]. Cô Thủy - con dâu vị tướng trong truyện Tướng về hưu là một
minh chứng tiêu biểu. Mọi sự vụ lớn nhỏ trong gia đình đều một tay cô lo liệu và
sắp đặt bằng những hạch toán kinh tế rạch ròi, tất cả đều có thể quy ra tiền bạc. Cô
còn nghĩ ra cả cách kiếm tiền nhờ việc mang những rau thai nhi về nuôi chó, nuôi
lợn. Lúc nồi cám chứa đầy những mẩu thai nhi bé xíu trong đó có cả những ngón
tay nhỏ hồng hồng vô tình bị bố chồng cô phát hiện, Thủy vẫn rất bình thản, lạnh
lùng nói với người làm: “Sao không cho vào máy xát?” [141, 20]. Chỉ qua một chi
tiết nhỏ ấy thôi, Nguyễn Huy Thiệp đã chỉ ra thực trạng đáng buồn rằng tha hóa là
kết quả tất yếu khi tâm lý vụ lợi của con người thỏa hiệp với đồng tiền hay những
giá trị vật chất. Thủy cũng là một người vợ, người mẹ, người con dâu bình thường
như bao người phụ nữ khác nhưng trong tâm tính, xu hướng chuộng vật chất đã
khiến cô dần trở nên lạnh lùng, thực dụng và ích kỉ, mọi quan hệ đều có thể quy đổi
87
hạch toán thành tiền. Có thể thấy, ranh giới xuất hiện những chuyển hóa tiêu cực
trong con người là vô cùng mong manh, nhỏ bé...
Một nguyên nhân dẫn tới sự tha hóa khác mà tác giả cũng gợi ra trong các
sáng tác, đó là tình trạng mất tự chủ của con người, con người bị sai khiến bởi dục
vọng bản năng và thú tính. Cơn khát đổi đời, chen chân vào xã hội người giàu ám
ảnh khiến một thanh niên con nhà ngh o “có chí”, “có tài” như Hạnh trở thành con
người đê tiện, sẵn sàng giở mọi kế sách h n hạ nhất để thực hiện giấc mơ thoát
ngh o (truyện Huyền thoại phố phường). Ông Chiểu, cậu Phong đều là những con
người đầy chứa đầy dã tâm, dục vọng. Trong các mối quan hệ, họ có thể dùng bất
cứ thủ đoạn nào để lừa tình, đoạt của, mang về sự vinh hiển bất chính cho bản thân
(truyện Giọt máu). Đó còn là hình ảnh người cha một lần đi đường không kỳm được
thú tính đã cưỡng hiếp con gái ruột của mình (truyện Tội ác và trừng phạt), hình
ảnh người chồng mù quáng, đang tâm mang xác vợ ra làm mồi nhử thú trong giấc
mơ săn được Con thú lớn nhất, hay hình ảnh những bậc quý tộc, vương hầu, vua
chúa thời xưa với đầy lạc thú ti tiện, dâm ô (truyện Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm
tiết...). Dục vọng lên ngôi, con người không còn trạng thái cân bằng, chính thể, mà
mất đi lý trí và sa vào sự thỏa mãn những bản năng đầy thú tính, thấp h n, trở thành
những “con vật người” cũng vì lẽ đó.
Một cắt nghĩa khác cũng không kém phần quan trọng góp phần tạo nên trạng
thái tha hóa không giới hạn của nhân thế trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp, đó là
sự mông muội về tinh thần. Nhà văn từng thẳng thắn bày tỏ quan điểm về thực
trạng thê thảm của dân tộc mình: “Chúng ta cần tỉnh táo nhận ra rằng tình trạng
hiện nay của dân tộc ta là thê thảm. Tôi không muốn nói đến thế giới vật chất mà
muốn nói đến thế giới tinh thần của họ. Những ràng buộc nặng nề của các tư tưởng
lạc hậu, cũ kỹ khiến hàng triệu số phận người đau khổ” [140, 35]. Nguyễn Huy
Thiệp thật sự lo lắng về sự khánh kiệt, lạc hậu trong nhận thức và tinh thần dân tộc.
Đọc các truyện Chả đi sông ơi, Con gái Thủy Thần, Chút thoáng Xuân Hương,
Tội ác và trừng phạt... độc giả sẽ thấy thấm thía hơn căn nguyên của những quan
ngại tưởng chừng như cực đoan, bất thường ấy của tác giả. Qua những chuyện đời
thường, vụn vặt, ông chỉ ra rằng sự vô tâm, vô đạo giữa người với người nhiều khi
88
không bắt nguồn từ phạm trù đạo đức mà xuất phát ở lòng tin mù quáng vào những
tập tục lạc hậu hay sự bế tắc, túng quẫn, vô cảm trong tâm hồn con người... Những
người đánh cá trên sông (truyện Chả đi sông ơi) thường thấy người chết không
cứu vì đơn giản họ tin rằng cứu người đuối nước thì Hà Bá sẽ nổi giận trừng phạt
mình. Qua những tâm sự của chàng Chương - người dám từ bỏ cuộc sống an phận
để dấn thân vào chốn giang hồ phiêu bạt (truyện Con gái Thủy Thần), độc giả chợt
nhận ra cội rễ của sự hủy diệt ghê gớm chính là những tù đọng về tinh thần ám ảnh
bao con người từ thế hệ này sang thế hệ khác: “Không khí u uất, tù đọng của làng
quê làm tôi tê tái chua xót. Mọi người rối rít, cuống cuồng để kiếm miếng ăn.
Những định kiến tập tục thật nặng nề... tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu số
phận con người.” [141, 80]. Tội ác và trừng phạt là câu chuyện mang tính luận đề
mà người đọc hoàn toàn bị thuyết phục khi tác giả khẳng định “tội ác sẽ trở nên
man rợ bởi sự mông muội tinh thần” [141, 340]. Nhan nhản những án mạng kinh
hoàng xảy ra từ những nguyên nhân thật phi lý: họ sát hại lẫn nhau vì một con gà
nhà bên sang phá vườn, vì sẵn con dao sắc mới mài muốn dùng thử, vì tò mò, vì
buồn chán... Sự sống không còn quý giá khi tâm hồn con người trở nên lãnh đạm,
ngh o nàn, vô trách nhiệm: “người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường” [141,
11]. Vô tâm với đồng loại sẽ dẫn tới trạng thái vô cảm trước cái ác khiến “tội ác
trắng trợn và tàn nhẫn được coi như chuyện bình thường” [141, 341], đó cũng là
lúc con người hoàn toàn đánh mất đi phần nhân tính nguyên thủy và cao quý trong
tâm hồn mà họ mặc nhiên không nhận thấy...
Có thể nói, Nguyễn Huy Thiệp đã từ bỏ việc khái quát những hình tượng tha
hóa điển hình, phớt lờ những nguyên nhân khách quan kinh điển để soi tìm câu trả
lời về những nỗi đau của nhân thế xuất phát từ ngóc ngách sâu tối nhất trong tâm
tính của mỗi con người cá thể. Những giá trị tốt đẹp, cao quý của con người là có
thật, nhưng nó không phải thứ giá trị vĩnh cửu nếu con người thôi đấu tranh, thôi tự
vấn. Sự tha hóa dễ dàng xuất hiện, xâm lấn bởi tâm lý thực dụng, chuộng vật chất,
bởi sự trỗi dậy của thú tính, bản năng hay trạng thái khánh kiệt, mông muội về tinh
thần... tất cả đều là những nguyên nhân chủ quan, nằm ngay trong những khoảnh
khắc dễ dãi, mất tự chủ của con người.
89
3.1.2.2. Bi kịch từ sự cô đơn
Điểm nổi bật mà độc giả dễ nhận thấy về sự tồn tại của cõi nhân sinh trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là nó rất ít gắn với niềm vui, niềm hạnh phúc mà
hay đi cùng nỗi buồn và sự trăn trở. Hình ảnh con người hiện lên không chỉ méo
mó, lấm lem bởi những lầm lạc, sa ngã mà còn chìm trong sự cô đơn khắc khoải. Từ
đó, sự lạc loài, cô đơn trở thành bi kịch khó có thể lãng quên khi độc giả tiếp nhận
các truyện ngắn của ông.
Đọc các truyện Chả đi sông ơi, Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng
quê, Tâm hồn mẹ, Tội ác và trừng phạt, Như sương khói bay... ta bắt gặp hình ảnh
những đứa trẻ thật côi cút, tội nghiệp. Tuổi thơ của chúng đa phần bị đánh cắp và
chôn vùi trong cuộc sống tù túng, đói ngh o và thất học. Hình ảnh chàng Chương
(truyện Con gái Thủy thần), nàng Pùa, nàng Bua, Sạ... (truyện Những ngọn gió Hua
Tát), nàng Hồ Xuân Hương (truyện Chút thoáng Xuân Hương) hay Hoạt (truyện
Chú Hoạt tôi)... lại là những minh chứng tiêu biểu cho lớp người đang ở giữa tuổi
thanh xuân nhưng bơ vơ, không tìm thấy bến bờ niềm tin và hạnh phúc. Những con
người lao động cô đơn trong cuộc mưu sinh, chống chọi với cái đói, cái ngh o, cái
mông muội (truyện Chả đi sông ơi, Cún, Những người thợ xẻ, Tội ác và trừng
phạt). Những người nghệ sĩ cũng thật cô đơn trên con đường sáng tạo nghệ thuật
của mình với trăm ngàn bổn phận, thiên chức (truyện Thiên văn, Hạc vừa bay vừa
kêu thảng thốt, Bài học tiếng Việt, Chú Hoạt tôi...). Những chính khách, danh nhân,
vua chúa cũng chỉ tồn tại như những cá thể đơn lập, dị biệt nổi lên giữa những biến
cố của thời đại, còn đứng ở góc độ bản thể, họ hoàn toàn cô đơn, đầy mặc cảm và
bất lực trước lịch sử mà thôi (truyện Tướng về hưu, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết,
Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút thoáng Xuân Hương...). Qua thế giới hình
tượng nhân vật vô cùng phong phú, Nguyễn Huy Thiệp đã khái quát hóa ở đó một
bi kịch tinh thần chung khi nói tới con người là trạng thái cô đơn, cô đơn gần như
tuyệt đối trước đồng loại.
Lý giải cho bi kịch này, giữa vô vàn những lý do khách quan, chủ quan...
Nguyễn Huy Thiệp chọn một lý do giản dị nhưng thấm đời nhất: cuộc sống luôn
chứa đầy sự khác biệt, nghịch dị, sự khác biệt ấy sẽ tạo những khoảng trống giữa
90
người với người, thậm chí cô lập họ thành những thế giới riêng. Chàng Chương với
bản tính quê mùa, thô vụng chẳng thể nhập hòa với các thành viên trong lớp học vì
họ tự tin, sung túc và không quê kệch như chàng (truyện Con gái Thủy Thần). Một
hình hài thiên bẩm xấu xí, đầy những dị tật khiến Cún (trong truyện ngắn cùng tên)
chưa một lần được đồng loại thừa nhận là người. Y sống côi cút “sống như con
giun, con dế, như con ong, cái kiến... con người sống khác” [141, 34]. Nàng Pùa,
người con gái có sắc đẹp không ai bì kịp ở Hua Tát là thế (truyện Trái tim hổ)
nhưng vì đôi chân bại liệt mà nàng bị cô lập một cách đáng thương “suốt năm suốt
tháng nằm một chỗ... Mùa xuân ở Hua Tát đầy ắp tiếng kh n b . Sàn nhà Pùa không
có những tiếng kh n b . Không ai đi lấy cô gái liệt cả hai chân làm vợ” [141, 198].
Nàng Sinh (truyện ngắn cùng tên) người con gái mồ côi cũng bởi có hoàn cảnh xuất
thân khác biệt “Nghe nói ngày xưa mẹ nàng bị ma chài, đẻ nàng trong rừng” mà
nàng bị tước đi mọi cơ hội hòa nhập bình thường với cộng đồng: “Nàng không bao
giờ được ăn miếng ngon, mặc váy áo đẹp. Thân phận cô hươn, nàng sống thui thủi
như con chim cút” [141, 222].
Có thể thấy, cuộc sống phong phú bao nhiêu thì sự khác biệt giữa người với
người cũng phức tạp bấy nhiêu. Nếu chỉ dừng ở những gián cách về hình dạng, tính
cách hay hoàn cảnh xuất thân, đâu đó con người vẫn có thể tìm thấy sự hợp quần,
nhưng những xung đột, khác biệt về nhận thức, tư tưởng và lối sống lại rất khó tìm
được sự đồng thuận, bởi đó là sự xung đột về hệ giá trị. Truyện Tướng về hưu là
một minh chứng tiêu biểu. Ông Thuấn là một vị tướng oai phong lừng lẫy nơi chiến
trường, nhưng lại hoàn toàn thất thủ khi trở về với đời sống thường nhật. Ông hoàn
toàn xa lạ, bị động với những kế sách sinh nhai, “lạc loài” với lối sống sung túc,
phóng khoáng, thực dụng của con cháu và đơn độc khi đối diện với chính mình -
“Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn càng nhục” [141, 26]. Câu
chuyện dở khóc dở cười Không có vua của gia đình ông Kiền cũng là một ví dụ.
Bao rối ren, phức tạp cũng nảy sinh từ sự hợp quần của sáu người đàn ông trong
một gia đình, nhưng mỗi người một tính cách, không ai bảo được ai. Mối xung đột
giữa các thế hệ, giữa lý tưởng với hiện thực, giữa niềm tin với sự thất vọng, đổ vỡ,
loạn giá trị được Nguyễn Huy Thiệp đặc tả trong các thiên truyện viết về mô hình
91
gia đình Việt để chứng thực rằng cô đơn không dừng với những tác nhân xã hội bên
ngoài mà len lỏi, ngấm ngầm từ những rạn nứt giá trị trong tâm hồn, tư tưởng và
quan hệ của mỗi cá nhân ở mỗi tế bào xã hội. Bản thân con người trong nội tộc đã
chứa đầy những bất ổn, vụn gãy thì sự lạc loài trước đồng loại là điều khó tránh.
Những con người ở đây vẫn sống trong vỏ bọc hợp quần của gia đình, dòng tộc, xã
hội... nhưng mỗi cá nhân lại tự xác lập cho mình một hệ giá trị riêng, thậm chí xung
đột, trái chiều nhau. Bởi vậy, cô đơn trở thành tấn bi kịch lớn khi con người ở cạnh
nhau nhưng hờ hững, vô tâm không hiểu nổi nhau.
Không dừng ở đó, Nguyễn Huy Thiệp còn chỉ ra nghịch lý về sự hiện hữu,
tồn tại của mỗi con người, đây mới là nguyên nhân thực thụ tạo nên khối cô đơn
tuyệt đối ở con người trong trang văn tác giả. Về nguyên tắc, con người là một
chính thể toàn vẹn, thống nhất giữa hai mặt tự nhiên (con người tự nhiên) và xã hội
(con người xã hội), sự hài hòa cân bằng ấy chính là cái gốc của sự sống và niềm
hạnh phúc cho nhân loại. Nhìn vào thực tế cuộc sống, Nguyễn Huy Thiệp cũng như
các nhân vật của ông lại chứng nhận một điều phi lý rằng họ là những con người
độc lập nhưng chưa bao giờ được sống thật chính thể, đúng với cảm xúc, trực giác
và bản năng của mình mà luôn bị chi phối, ràng buộc bởi vô vàn những luân lý,
trách nhiệm xã hội. Con người từ bậc đế vương đến phường vô danh tiểu tốt, từ
những vị tướng đến các thi nhân, viên chức, giáo viên, người dân lao động, trộm
cướp, từ trẻ con, tuổi vị thành niên đến người già, từ người sống giữa quê hương
đến đồng bào xa xứ... tất cả đều phải căng mình để làm tròn bổn phận với trách
nhiệm xã hội. Để không “loạn cờ”, vị tướng về hưu đành giấu diếm nỗi “nhục” của
người đàn ông “có tâm” bằng sự thu mình trong im lặng (truyện Tướng về hưu).
Ông Kiền nín nhịn nhu cầu của “thằng đàn ông” với mong muốn giản dị là nuôi đàn
con khôn lớn trưởng thành (truyện Không có vua). Cuộc sống đầy cực nhọc, khốn
nạn, nhưng thầy giáo già vẫn phải hết lời động viên các thực tập sinh “sống dễ lắm”
(truyện ngắn cùng tên)... Gánh nặng trách nhiệm xã hội làm cho các cá nhân bị buộc
gần như quên lấp, né tránh, thậm chí phủ nhận đi phần cảm xúc, nhu cầu tự nhiên,
bản năng trong sáng của mình để thay vào đó là những khuôn thước mỹ miều, ngụy
tạo. Bởi thế, chàng Chương càng ra đi càng thất vọng, chàng không tìm được ai có
92
vẻ đẹp chính thể hoàn mỹ như người con gái Thủy Thần trong mộng, mà chỉ hình
dung ra toàn những gương mặt thân quen đầy dối trá, nhục cảm “chẳng có khuôn
mặt nào đáng là mặt người” - truyện Con gái Thủy thần [141, 72]. Nhà văn trẻ tài
hoa tên Vũ khi lên tiếng bênh vực bản thể - “Người ta đã... đạo đức giả, cố ý lờ đi
cái ấy: con người tự nhiên, kẻ thành thật nhất, trung hậu nhất, ngang bướng và ương
ngạnh” - truyện Bài học tiếng Việt - ngay lập tức bị người xung quanh coi là kẻ biến
thái, cuồng dâm... [141, 428]. Tất cả những thực tế đó chứng minh một điều rằng sự
tồn tại khách quan của con người tự nhiên đang bị chính con người xã hội và những
định kiến cố tình khuynh loát, vì thế, những cá nhân có mong muốn hướng tới sự
toàn vẹn, chính thể tất yếu sẽ trở thành kẻ lạc loài, bản năng và sa ngã.
Ngoài ra, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn hướng người đọc đến những
trăn trở về ranh giới mong manh, hữu hạn, nhỏ bé của đời người. Gánh nặng mưu
sinh, cái đói, cái rét, cái mông muội trở thành những tác nhân làm cho cuộc sống
con người thêm luẩn quẩn, cô đơn và lầm lạc. Trong lời nói nửa đùa nửa thật của
tay Bường ta thấy ở đó sự trải đời rất thật: “Cuộc đời còn cực nhọc lắm con ạ.
Chúng ta phải làm kiệt sức để kiếm miếng ăn” - truyện Những người thợ xẻ [141,
103]. Như một hệ lụy tất yếu, khi cái ngh o, cái đói luôn đeo đẳng, ám ảnh thì “giấc
mơ hạnh phúc” của con người trở nên chật hẹp, chỉ quẩn quanh với miếng cơm,
manh áo. Những mặc cảm, tự ti, sĩ diện, bảo thủ trong căn tính người Việt cũng từ
đó mà sinh sôi, cư ngụ. Nguyễn Huy Thiệp đã rất nhiều lần đề cập tới những tình
cảnh âm tính ấy như một sự xác quyết: con người đang tự đánh mất tầm vóc của
mình“tự co lại như con sâu, cái kiến, thúc thủ trong phần sinh linh vừa bé mọn, vừa
cô đơn, bất lực” [141, 193].
Ngay trong bài nói chuyện đầu tiên trước công chúng văn học nhân một buổi
họp báo của ngành giáo dục với nhan đề Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà
văn, Nguyễn Huy Thiệp đã thẳng thắn chỉ ra một thực trạng cô đơn, mơ mộng đến
tội nghiệp trong đời sống tinh thần của đại đa số người Việt khi đối diện với câu hỏi
mang tính triết học: “Ta là ai?” [140, 13]. Càng đi vào khai thác nỗi cô đơn, tác giả
càng có cơ sở để soi xét, thấu thị khao khát được trân trọng, được yêu thương, được
khẳng định quyền sống chính đáng cả về thể chất lẫn tinh thần của từng cá thể giữa
93
cuộc đời. Cũng vì lẽ đó mà đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ta cảm nhận thật rõ
sự côi cút, ám ảnh của mọi sinh linh nhưng không thấy tuyệt vọng mà nhoi nhói
trăn trở để mang đến một quan niệm, một khát vọng tồn tại chính thể, đúng nghĩa về
hai chữ CON NGƯỜI.
3.1.2.3. Bi kịch từ sự khủng hoảng
Bi kịch từ sự khủng hoảng về giá trị, khủng hoảng về niềm tin cũng là một
biểu hiện đáng lưu tâm khi độc giả đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc
nhìn của phạm trù cái Bi. Theo đó, thế giới hình tượng trong sáng tác của ông chưa
bao giờ bằng lòng với những gì đang có mà luôn ở trong trạng thái dằn vặt, hoài
nghi và có xu hướng nổi loạn bằng những cuộc ra đi, kiếm tìm và tự khẳng định một
hệ giá trị riêng cho họ giữa cuộc đời.
Cuộc sống yên bình nơi quê nhà không thể thỏa mãn được tâm hồn khao khát
tự do, khao khát được giác ngộ về lẽ tồn tại cá nhân của chàng Chương quê mùa,
chất phác (truyện Con gái Thủy Thần), chàng chọn con đường ra đi để không bị
chôn vùi trong những thứ mòn cũ, những giới hạn chật hẹp của cuộc sống lam lũ
sau lũy tre làng. Ông Thuấn vị tướng về hưu trong những ngày cuối đời cũng chọn
cho mình một sự an nghỉ riêng không phải trên mảnh đất có ngôi biệt thự xinh đẹp
của gia đình mà giữa vòng tay đồng đội, trong trận địa cũ - nơi đã lưu giữ cả tuổi
trẻ, sự hi sinh và lẽ sống của thế hệ ông (truyện Tướng về hưu). Thầy giáo Triệu
(truyện Những bài học nông thôn) đã quay lưng với thành thị, khước từ sự bao bọc
sung túc của gia đình để tìm về với miền quê hẻo lánh, làm anh giáo làng, học và
dạy học bằng những tri thức dung dị của người bình dân. Nam diễn viên đóng vai
Chiêu Hổ (truyện Chút thoáng Xuân Hương) cũng thẳng thắn chối từ thứ nghệ thuật
giả tạo, quyết dành một chuyến đi thâm nhập thực tế bến Tầm Xuân để mang về
những sự trải nghiệm, chân lý về nghệ thuật và cái Đẹp cho riêng mình... Khát khao
ra đi để khám phá cuộc đời và nhận ra chính mình là một khao khát chính đáng và
hướng thượng, nhưng những con người ấy luôn va đập phải những hiện thực thật
tàn nhẫn. Truyền thuyết về người con gái Thủy Thần vẫn hiện hữu đầy sắc màu
huyền ảo nhưng chàng Chương biết rằng không có cổ tích giữa cuộc đời thực, mà
đời thực chỉ có hằng hà sa số những cái láo khoét, mụ mị, lạc hậu mà thôi.
94
Có thể nói, hành trình kiếm tìm chân lý và hình tượng những con người chọn
lựa sự ra đi trở thành một hình thái thẩm mỹ nổi bật trong trang văn Nguyễn Huy
Thiệp. Trên mỗi hành trình ấy, tác giả thường mang về cho độc giả trạng thái
“khủng hoảng” về nhận thức, về giá trị của con người bằng việc lồng vào đó “tâm
thức hậu hiện đại”, khơi dậy tinh thần hoài nghi cái chính thống, giải thiêng mọi
hình tượng cao cả trong quá khứ lẫn hiện tại để nhận thức lại toàn bộ chân giá trị
của cộng đồng. Bước vào những trang truyện mang sắc màu cổ tích, ta bắt gặp hình
ảnh về con trâu đen huyền thoại gửi gắm triết lý ước mơ “ở hiền gặp lành” của
người bình dân xưa, nhưng lại phải tỉnh mộng bởi cái ác và sự ngu muội của những
người đánh cá trên sông: thấy người chết sẽ ch o thuyền đi không ai cứu. Trong
truyện Trương Chi, Nguyễn Huy Thiệp cũng viết lại câu chuyện cổ tích bằng một
cái nhìn đương đại: tác giả vẫn giữ môtíp câu chuyện tình dang dở giữa chàng lái đò
Trương Chi với nàng Mỵ Nương kiều diễm nhưng lại đặc tả rất sâu hình ảnh một
chàng Trương được đời thường hóa đến tận cùng. Chàng sống rất cô đơn, ngh o
khó, đầy dằn vặt, bức bối, sẽ nói tục, làm tục khi có nhu cầu và dám đấu tranh để
được là mình, hát khúc ca tình yêu thành thực nhất của lòng mình. Lật lại những
truyện lấy cảm hứng từ lịch sử, người đọc cũng bắt gặp hình tượng những vĩ nhân
bị xô đổ, bị đặt vào những phỏng đoán, giả định, hoài nghi không thương tiếc. Vàng
lửa là một thiên truyện tiêu biểu cho cách cắt nghĩa mang tính giả tưởng, siêu hư ấy.
Qua lời tên người Pháp giúp việc cho Gia Long - Phăng, đại thi hào Nguyễn Du chỉ
là một viên quan tận tụy, nhỏ bé, ngh o túng và đáng thương: “Trước mặt tôi là một
người bé nhỏ, mặt nhàu nát vì đau khổ... Ông hơn những người khác ở nhân cách
nhưng nhân cách ấy có giá trị gì khi cuộc đời thực của ông xúi xó, túng kiết?” [141,
151]. Tầm vóc lịch sử của vị khai quốc công thần triều Lê như Nguyễn Trãi cũng
hoàn toàn biến mất để nhường chỗ cho một tâm hồn “cô đơn chính với đồng loại
của mình” [141, 304]. Từ đó, Nguyễn Thị Lộ hiện diện trong cuộc đời Nguyễn như
một cứu tinh bù lấp, nâng đỡ phần cô đơn yếu đuối trong ông: “Gặp Nguyễn Thị
Lộ, Nguyễn sống ráo riết hơn và nghiêm ngặt hơn... Nguyễn đến với nàng bằng tình
yêu thương tuyệt vọng đối với con người” [141, 306]. Khi đặt ra vấn đề giải thiêng
và sẵn sàng thử nghiệm giải thiêng điều này đồng nghĩa với việc Nguyễn Huy Thiệp
95
đã hoàn toàn bước ra khỏi lối mòn của quan niệm về hình tượng con người có tính
lý tưởng hay những hình mẫu con người trung tâm trong văn học truyền thống để
chứng thực một quan niệm mang tính nhân loại: đã là con người thì đều có những bi
kịch, sự dằn vặt và mặc cảm riêng khi đối diện với chính mình.
Tóm lại, bi kịch từ sự khủng hoảng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
phản ánh một cái nhìn rất đúng với bản chất con người trong thực tế. Con người
luôn có xu hướng hoài nghi, vượt thoát ra ngoài những giới hạn, khuôn khổ truyền
thống để hướng về cái mới và những chân trời rộng lớn. Để làm được điều đó, mỗi
nhân vật của ông đều phải dấn thân vào những hành trình trải nghiệm vừa cô đơn,
vừa quyết liệt, đầy bất trắc xen lẫn sự rạn gãy, khủng hoảng về niềm tin, về nhận
thức và giá trị... Chặng đường họ đi thật khác biệt với những gì vốn có, thường
thấy, nhưng đó là cách dấn thân từ bỏ quá khứ để thẳng tiến về thực tại, đương đại
và tương lai.
3.1.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Bi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Hành trình khảo sát về cái Bi, nhìn từ quan niệm đến thực tiễn sáng tác
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, thực sự mang về cho người đọc những khám
phá vừa sâu sắc vừa gần gũi. Cái Bi hiện diện với bản chất thẩm mỹ riêng mang
đậm cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ, đồng thời cũng lan tỏa những thông điệp
nghệ thuật thật ám ảnh khi hướng về những con người giữa cõi nhân sinh.
Thật vậy, từ những biểu hiện nêu trên, ta có thể khẳng định cái Bi trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cái Bi gắn liền với cảm quan về con người cá
nhân, cá thể. Đó là bi kịch lạc loài của một vị tướng khi về hưu (truyện Tướng về
hưu), là gánh nặng mưu sinh của những con người lao động (truyện Những người
thợ xẻ), là cái chết khi chưa một lần được thỏa nguyện làm người của một kẻ ăn
mày (truyện Cún), hay sự cô đơn tội nghiệp của một em bé luôn khát khao bóng
hình người mẹ (truyện Tâm hồn mẹ)... Tất cả những câu chuyện buồn ấy đều bắt
nguồn từ những cảnh đời, cảnh người hết sức bình thường, bé nhỏ. Họ không đại
diện cho tiếng nói của các giai cấp trong xã hội mà xuất phát từ những khao khát
thành thực của mỗi con người cá nhân được sống trong sự thấu hiểu, cảm thông và
chia sẻ của đồng loại, được hưởng niềm hạnh phúc tự do, chính thể trần thế... nhưng
96
thực tế, những mơ ước bình dị và tự nhiên ấy lại bị chính những cái xấu, cái ác, cái
ti tiện, hủ lậu oái oăm trong cuộc sống ràng buộc và phủ nhận. Chính vì thế, đã là
con người bước vào giữa cuộc nhân sinh, ai cũng có một nỗi buồn, một bi kịch
riêng. Những người lao động có nỗi cơ cực tái tê của người lao động, đấng quân
vương vua chúa cũng có những dằn vặt đớn đau của kẻ làm vua... Từ góc độ cái Bi,
mọi nhân vật trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp đều bình đẳng về vai trò và cảm
xúc thẩm mỹ bởi xét đến cùng, tất cả những con người ấy đứng ở góc độ của một cá
thể độc lập, họ đều không tránh khỏi những phút giây bất lực trước sự tha hóa, cô
đơn lạc loài vì sự vô tâm của đồng loại, họ không hiểu, không tìm được tiếng nói
chung, hay sự hoang mang tột độ khi niềm tin và những giá trị lý tưởng bỗng chốc
sụp đổ ... bởi đó là những rung cảm tự nhiên, mang tính nhân bản nhất, con người
nhất. Như vậy có thể thấy, nhân vật trung tâm của cái Bi trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp không phải những người anh hùng hay những nhân vật mang tính ước lệ,
hội tụ sự ưu tú nhất của thời đại như trong lịch sử văn học từng phản ánh mà là
những con người đời thường, hiện diện như những sinh linh bé nhỏ, thậm chí tầm
thường, nhưng chở đầy khao khát tự do, tình yêu và hạnh phúc trần thế.
Dùng con người cá nhân để cảm nhận rõ hơn tấn bi kịch tinh thần tập thể, đó
là con đường mà Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn để thể hiện và khám phá về phạm
trù cái Bi. Cái nhìn đời tư đã cho phép nhà văn cũng như người đọc nhận thức một
cách rõ nét sự thay đổi trong tính chất xung đột được phản ánh trong các tác phẩm
của phạm trù thẩm mỹ này. Nguyễn Huy Thiệp gần như bỏ qua hoàn toàn những
mâu thuẫn mang tính lịch sử - thời đại khách quan để tập trung vào thể hiện những
va chạm, xung đột nội tại chủ quan, bắt nguồn từ nhân tố con người cá nhân, cá thể.
Đó là cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các mặt đối lập trong một con
người, bởi với tác giả, con người là một thể phức hợp, đa diện, đa nhân cách. Bản
chất tích cực của con người tự nhiên là sự khao khát tinh thần tự do, chính thể và
trần thế, nhưng mặt khác nó cũng chứa đầy bản năng, thú tính và dục vọng. Nếu
không có sự tiết chế của văn hóa, xã hội, mặt tự nhiên sẽ bùng phát thành sự vô đạo,
man rợ và cái ác. Với con người xã hội, nó nỗ lực tạo dựng cho cuộc sống một trật
tự, tôn ti ổn định cần thiết bằng các quy ước, ràng buộc, trách nhiệm chung giữa các
97
cá nhân nhưng quá xem trọng những quy ước ấy, con người sẽ trở nên trì trệ, ấu trĩ,
giả dối, sống thúc thủ trong những vỏ bọc ngụy tạo mà không dám thành thực với
chính mình. Từ đó, khai thác mâu thuẫn nhiều mặt trong con người cá nhân để nhận
thấy bi kịch tập thể từ sự tha hóa, nỗi cô đơn hay sự khủng hoảng trong đời sống là
cách đặt vấn đề hết sức nghiêm túc và ráo riết của nhà văn: chừng nào con người
còn chưa ý thức một cách tự giác về sự tồn tại chân chính của cá nhân, chưa có
được cái nhìn phản tỉnh về bản thân và đồng loại thì sự tha hóa, cô đơn và khủng
hoảng còn đeo bám, hủy hoại và gây nên những lầm lạc, đau khổ cho con người. Sự
phục tùng chân lý đám đông, thiếu tinh thần hoài nghi và dân chủ chỉ khiến chúng
ta trở nên mù quáng và suy đồi mà thôi.
Cái Bi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự mang lại nhiều khám
phá ấn tượng cho người đọc. Cảm xúc nó gợi ra chính là sự day dứt khôn nguôi
trước hiện thực ngổn ngang của đời sống mà ở đó rất nhiều những giá trị tốt đẹp đã
và đang phân rã trong từng câu chuyện cuộc đời tưởng chừng như rất cá nhân, vụn
vặt. Một sự kiện vị tướng về hưu đâu có gì nổi bật nhưng dường như nó lại đặt dấu
chấm hết, chấm dứt sứ mệnh lịch sử hiển hách của cả một thế hệ cha ông đi trước -
những người là anh hùng thời chiến nhưng lại thất bại thảm hại với cuộc sống thời
bình. Câu nói “Sao tôi cứ như lạc loài?” của ông Thuấn (truyện Tướng về hưu) đã
cho thấy bi kịch lạc loài cùng nỗi xót xa vô hạn của một con người đại diện cho một
thế hệ sống, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp trong quá khứ mà giờ đây không thể
tìm thấy chỗ đứng an nhiên nơi cuộc sống thời bình. Đọc truyện Không có vua cũng
vậy, ý niệm về một mô hình mái ấm gia đình truyền thống cha hiền, con thảo bỗng
chốc sụp đổ không thương tiếc khi độc giả bắt gặp sự thản nhiên, mạnh ai nấy sống,
không chút tôn ti, trật tự giữa các thành viên trong gia đình ông Kiền. Nếu quan sát
kỹ ta sẽ nhận thấy, những mất mát thường được Nguyễn Huy Thiệp gợi nhắc bằng
những cái chết. Đó là sự hi sinh đường đột của vị tướng khi về thăm lại chiến
trường xưa (truyện Tướng về hưu), là nỗi oan trái của một cô lái đò trên sông đã
chết đuối vì không ai cứu (truyện Chả đi sông ơi), là một kẻ ăn mày tật nguyền
sống lay lắt đến chết trong cô đơn nơi góc chợ (truyện Cún), một cô bé mới lớn đã
trở thành tử tù chỉ vì không chịu nổi nỗi uất ức khi bị người cha cưỡng đoạt đã giết
98
cha và các em (truyện Tội ác và trừng phạt), một người chồng trong cơn đói khát
giữa những ngày động rừng đã ngộ sát vợ rồi đang tâm lấy xác bà làm mồi nhử săn
thú (truyện Con thú lớn nhất)... Mọi hỉ nộ ái ố đua chen của con người giữa cuộc
nhân sinh đều trở nên vô nghĩa khi con người trở về với đất. Thấm thía và xót xa
trước sự hữu hạn, bé nhỏ của đời người, Nguyễn Huy Thiệp chọn cách nói nhiều
hơn về cái chết của những con người bình thường nhất, vô danh nhất. Bởi với người
anh hùng, lúc ra đi họ vẫn được ghi danh là người đã hi sinh vì lý tưởng, vì những
giá trị tốt đẹp, còn những con người bình thường, sự sống đối với họ nhọc nhằn bao
nhiêu thì cái chết đối với họ vô nghĩa bấy nhiêu. Đa phần những nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chết vì sự vô tâm của đồng loại, chết vì sự túng
quẫn và ngu muội... bởi thế, nó ám ảnh và nhức nhối vô cùng. Có thể thấy, sự quan
tâm, thấu hiểu, tình người và biết bao những giá trị tốt đẹp đều trở nên xa xỉ trước
sự ngự trị của dục vọng, đồng tiền, cái ác và sự mông muội. Chỉ khi con người biết
nhìn thẳng vào những hiện thực ngổn ngang ấy họ mới biết thức tỉnh nhân tâm để tự
biết trân quý, giữ gìn sự lương thiện, tình người và những giá trị tốt đẹp cho chính
mình và đồng loại. Mỗi trang truyện của Nguyễn Huy Thiệp cũng như những câu
chuyện cổ giữa bản thung lũng Hua Tát huyền thoại. Đó là những câu chuyện nói
nhiều đến nỗi đau khổ của con người, nhưng chính vì hiểu rõ những đau khổ ấy mà
ở trong ta nảy nở ra sự “sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tính người” [141, 197].
Nhiều bạn đọc cho rằng Nguyễn Huy Thiệp đã “tàn nhẫn”, “vô tâm” và “bi quan”
quá khi ông nhìn vào cuộc đời chỉ toàn những bụi bặm, khổ đau. Nhưng nếu ta bình
tĩnh lại, nhìn sâu vào chuỗi cảm xúc về sự xót xa, ta sẽ thấy cái Bi trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp thực sự mang về cho con người sự “thanh lọc” tâm hồn như lời
khẳng định xác đáng của độc giả Đông La: “Nguyễn Huy Thiệp viết trung thực về
cái xấu, cái ác để người ta nhận ra là cái xấu, cái ác, ghê tởm, căm thù chúng thì
không thể là tàn nhẫn, vô luân” [105, 149].
Tóm lại, qua những sáng tác của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã khai thác triệt
để sự hiện diện của cái Bi trong đời sống xã hội từ cái nhìn đời tư về số phận của
những con người cá nhân giữa mênh mông sự sống. Sự tha hóa, nỗi cô đơn, khủng
hoảng về niềm tin luôn ngự trị trong mọi cảnh đời, cảnh người để rồi nếu không có
99
niềm tin, không có tình yêu, sự thấu hiểu và ý thức trân quý lẽ tồn tại của chính
mình, con người sẽ mãi chìm trong những bi kịch cuộc đời vô nghĩa. Có thể nói,
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nói thật nhiều đến những mất mát, nỗi đau nhưng
cái đọng lại sau những sự thật chua xót ấy là tình yêu và sự khao khát những giá trị
tốt đẹp của con người và cuộc đời.
3.2. Cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
3.2.1. Quan niệm về cái Hài của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp là người luôn sẵn sàng bày tỏ những quan điểm cá nhân
trước mọi hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống. Với cái Hài cũng vậy, qua những
trang viết, nhà văn cũng ý thức rất rõ về ý nghĩa và sự hiện diện của nó trong cuộc
đời cũng như trong văn học nghệ thuật.
Trong bài viết “Cười lên đi” (in trong tuyển tạp văn tiểu luận và phê bình
Giăng lưới bắt chim, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005), Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ
khá rõ quan niệm của mình về phạm trù cái Hài. Trước hết, tác giả khẳng định sức
hấp dẫn và sự hiện diện của phạm trù thẩm mỹ này trong đời sống thực tế bằng câu
chuyện vui về việc khảo sát những người dự tiệc, sau 2 năm nhớ gì nhất thì có tới
2/3 số khách dự hôm ấy đều chỉ nhớ “mỗi một chuyện tiếu lâm Tây vớ vẩn” [140,
80]. “Sao bao nhiêu chuyện “nghiêm túc” chẳng ai nhớ mà người ta lại nhớ một
chuyện thật là vớ vẩn?”, câu hỏi đó được tác giả đặt ra nhằm khái quát khả năng tác
động trực diện “đánh đúng tâm lý” thị hiếu thẩm mỹ đám đông của con người là dễ
tiếp nhận và ghi nhớ những chuyện nôm na tầm phào hơn những điều kinh viện,
sách vở. Điều này là một khẳng định nghiêm túc vai trò và sự hiện diện của cái Hài
trong đời sống nhằm phản biện lại những quan niệm xem cái Hài chỉ là cái mua vui,
thứ giải trí, tầm thường và thấp kém.
Từ sự xác lập cho cái Hài một vị trí thẩm mỹ cần thiết, Nguyễn Huy Thiệp
càng ý thức rõ hơn vai trò và vị trí quan trọng của nó trong hành trình sáng tạo nghệ
thuật của một nhà văn. Ông lý giải rằng: “Khi mới bắt đầu viết, nhà văn thường bi
kịch hóa các vấn đề [...] khiến cho tác phẩm đầu tay của nhà văn thường lúng túng,
không mạch lạc, “khó tin””. Nhưng trải qua quá trình trải nghiệm và tích lũy vốn
sống, kinh nghiệm viết rồi họ sẽ cởi mở hơn “đời” hơn và “bắt đầu cười được”
100
[140, 81]. Chính vì thế, sự hiện diện của tiếng cười (biểu hiện bản chất nhất của cái
Hài) trong trang viết của người nghệ sĩ có thể xem là một tiêu chí quan trọng để
xem xét thế giới nội tâm và tài năng sáng tác của chủ thể: “Chỉ khi nào tố chất hài
kịch xuất hiện ở trong tác phẩm của nhà văn lúc ấy mới biết chắc rằng nhà văn có
thật là nhà văn hay không” [140, 81]. Nói cách khác, cái Hài là một thước đo năng
lực sáng tạo quan trọng của một nhà văn.
Không dừng ở đó, như đã đề cập về bản chất, tiếng cười mà phạm trù cái Hài
mang lại không đơn thuần là tiếng cười có cơ chế khách quan gắn với bản năng sinh
học như tiếng cười tâm lý, sinh lý hay tiếng cười bệnh lý, mà nó xuất hiện một cách
chủ đích: “có ý thức”, có đối tượng gây cười và tình huống nhận thức ra tiếng cười
cụ thể. Vì thế trừ một vài người có khả năng thiên bẩm, đa số nhà văn muốn cười
được cần rất nhiều “công phu” để r n luyện. Trong khi đó, cuộc sống là một thể
phức hợp bề bộn, luôn vận động có sự biến đổi “lẫn lộn”, có cả những bi kịch và hài
kịch. Chính vì thế cười được chính là một đạo pháp cao, giúp con người “bay được
trên các bi kịch, trên các thành kiến và nguyên tắc” [140, 82]. Cách nói này chứng
tỏ, trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp, cái Hài hoàn toàn có quyền sánh ngang
với mọi phạm trù thẩm mỹ khác, thậm chí còn mang lại tiếng nói dân chủ và giá trị
nhận thức cấp tiến cho con người và xã hội.
Không dừng ở đó, trong những dự đoán về những dấu hiệu của hình thức nghệ
thuật đương đại, Nguyễn Huy Thiệp đã nhận định những tác phẩm đương đại “có
giá” là những tác phẩm phải “đưa được ra một quan niệm mới”. Theo đó, ông đã kỳ
vọng vào một “Thời của tiểu thuyết” hay kỳ vọng vào sự ra đời và khả năng khuynh
loát đời sống văn nghệ đương thời của dòng tiểu thuyết mua vui, “tiểu thuyết ba xu”
[140, 221]. Ông lập luận rằng: “Khi xã hội kinh tế thị trường thay đổi, kinh tế thương
trường, hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa v.v... mọi sự có vẻ dễ dàng hơn, thậm chí
nhiều chuyện chỉ là trò đùa hay trò du hí” [140, 224]. Do vậy, văn chương rất cần một
tinh thần cởi mở: bên cạnh những “giá trị thiên chức” chính thống cũng nên xem xét, đón
nhận cả thứ văn “du hí” như một sự phù hợp tất yếu với hiện thực. Với lập luận sắc sảo
này, Nguyễn Huy Thiệp tin rằng thời của tiểu thuyết mua vui sẽ là thời đại mà văn học
phát triển theo hướng đại chúng, cập nhật và phù hợp với tâm thức thị hiếu ưa chuộng cái
101
Hài hước, nôm na, mách qué, tầm phào của thời đại. Như vậy, qua những bàn luận dự
đoán về sự ra đời và phát triển của một thể loại đại tự sự là dòng tiểu thuyết mua vui, nhà
văn cũng đã ít nhiều gửi gắm trong đó quan niệm thừa nhận sự hiện diện phổ quát của
cái Hài qua những sáng tác ưa chuộng thứ văn hóa giễu nhại, văn hóa Carnaval đường
phố. Cái Hài sở dĩ phát huy tối ưu được vai trò thẩm mỹ của mình vì bản chất của nó
tương hợp với xu hướng vận động của nghệ thuật đương đại - nghệ thuật của đại chúng
và tinh thần dân chủ, nhân văn như kỳ vọng của tác giả: “Tôi vẫn nghĩ là thời của tiểu
thuyết sẽ là thời của những “ta-bu” ít dần đi, không còn nữa. Đấy là thời mà những kiêng
kỵ, húy kỵ sẽ không còn nữa” [140, 233].
Có thể nói, rõ ràng ở phạm trù cái Hài, Nguyễn Huy Thiệp đã dành khá nhiều
sự ưu ái khi một mặt thừa nhận sự hiện diện thực tế của nó, một mặt tích cực khẳng
định tinh thần nhân văn, tiến bộ mà nó mang lại cho con người, đồng thời xem
phạm trù này như một mốc tham chiếu để nhìn nhận năng lực sáng tạo của người
cầm bút. Cái Hài là cái trí năng, nghệ thuật và sự sáng tạo. Mức độ xác đáng của
quan điểm này tới đâu trong giới hạn bài viết này tạm thời chúng ta chưa bàn tới
nhưng thái độ trân trọng và đề cao giá trị thẩm mỹ của cái Hài trong cuộc đời và
trong văn học của Nguyễn Huy Thiệp là hoàn toàn có cơ sở và tính tích cực trong
bối cảnh nền văn nghệ nước nhà đang hừng hực khí thế đổi mới để hiện đại hóa,
dân chủ hóa các sáng tác văn chương nghệ thuật.
3.2.2. Biểu hiện của cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, cái Hài được nhà văn hiện thực hóa
trên nhiều phương diện từ nội dung đến hình thức tác phẩm. Tuy nhiên, để hình
dung rõ hơn về điều đó từ vai trò là một phạm trù thẩm mỹ cơ bản, giàu tinh thần
dân chủ và đặc biệt phù hợp với xu hướng vận động của văn học nghệ thuật đương
đại (như kỳ vọng của tác giả), chúng tôi nhận thấy cái Hài được nhận diện rõ nét
nhất ở hai khía cạnh đó là sự giễu nhại hiện thực khách quan hay giễu nhại đời sống và
sự tự giễu nhại chính mình hay giễu nhại phản thân được thể hiện trong từng trang viết.
3.2.2.1. Sự giễu nhại cuộc đời
Sự giễu nhại cuộc đời là biểu hiện nổi bật đầu tiên của cái Hài trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đời sống xã hội phản ánh qua mối quan hệ giữa các sự
102
vật, hiện tượng mà con người là chủ thể trung tâm, kết tinh trọn vẹn đầy đủ và sinh động
nhất bản chất của mình trong các mối quan hệ ấy. Chính vì vậy, cái Hài ở đây xuất hiện
trực tiếp bằng sự giễu nhại xoay quanh con người và các mối quan hệ của con người.
Về phía con người, biểu hiện đáng chú ý đầu tiên của cái Hài trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp chính là sự lố lăng, kệch cỡm, đạo đức giả của con người
trong đời sống. Đọc truyện Tướng về hưu ta sẽ thấy rõ nét hơn biểu hiện ấy. Cái Hài
nằm ngay trong những sự kiện lớn xoay quanh gia đình vị tướng về hưu. Đầu tiên là
đám cưới dở khóc dở cười của anh Tuân - người cháu họ của ông Thuấn. Bề ngoài,
đó là một hỷ sự “môn đăng hộ đối” khi cô dâu Kim Chi là con gái ông Vụ phó, còn
chú rể cũng là cháu họ của ông Thuấn - nguyên là một quân nhân với hàm thiếu
tướng, mọi người tham dự đều cố tỏ ra nghiêm túc, trang trọng... nhưng bản chất đó
lại là một đám cưới chữa cháy vì cô dâu đã trót có thai. Theo đó, người đọc được
chứng kiến một đám cưới ngoại ô đặc biệt hài hước vì sự “lố lăng” và “dung tục”.
Các nhân vật xuất hiện trong đó đều bị cuốn vào một vở diễn vụng về hỗn loạn,
“trống đánh xuôi, k n thổi ngược”. Đầu tiệc là dàn nhạc sống hiện đại bỗng đâu
chen vào bài hát quê mùa khủng khiếp “Ừ... ê... cái con gà quay [...] Ừ... ê... cái con
gà rù” của anh chàng cùng hợp tác xã xe bò với chú rể. Ông Thuấn chủ hôn thì
“luống cuống khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa [...] Cha tôi nhày cóc
từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người”. Bố cô dâu cũng không kém phần
hốt hoảng, luống cuống “làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu”. Trong khi đó, mọi thứ
xung quanh đều hỗn loạn mạnh ai nấy tấu: “K n clarinét đệm rất bậy bạ [...] Pháo
ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí”[141, 19]... Tất cả những thanh âm, sự việc được
nhà văn chen trộn lộn xộn vào nhau khiến tiếng cười nhạo theo đó bật lên một cách
hết sức tự nhiên trước trạng thái kệch cỡm, khổ sở của những người trong cuộc. Đó
là một đám ma bà Thuấn mà ở đó cũng hội đủ những lễ nghi thành kính tiễn đưa, có
đủ tiếng khóc than và phân ưu của những người ở lại nhưng vẫn không khỏa lấp
được sự vô tâm, hời hệt đến nhố nhăng của người trong cuộc. Ông Bổng thì tranh
thủ đánh tam cúc ăn tiền, lo kiếm chác trong lúc canh di thể. Nực cười nhất, ông còn
mượn sự linh thiêng của người chết để sở cầu linh ứng cho chuyện bài bạc của
mình: khi nào kết tốt đen, ông lại chạy vào vái quan tài để khấn chị phù hộ cho
103
mình “vét nhẵn túi chúng nó” [141, 24]. Cái Hài xuất hiện ngay trong cảnh đưa tiễn
người đã khuất qua hình ảnh đám đô tùy khiêng linh cữu, ở họ mọi sự nghiêm cẩn
đều được thay thế bằng trạng thái hỉ hả, vô cùng thản nhiên: “Họ khênh quan tài
như việc bình thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc,
tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài” [141, 24]. Cô Lài
là người giúp việc ngày ngày chăm nom bà cụ, khi bà mất cô đã khóc và kể lể thật
nhiều điều bi ai khiến ai nghe cũng day dứt, não lòng... vậy mà chỉ một lúc sau cô
đã có thể tháo bỏ mặt nạ đám hiếu để “tíu tít” chạy ra “bê thịt”, chạy vào “bê rượu”.
Sự thương xót hình thức ấy đã bị bóc mẽ ngay trong chi tiết tối đến cô Lài tắm giặt
xong lại xúng xính “mặc quần áo mới” để lại ra hương án khóc hờ than vãn [141,
23]. Đám hỉ và đám hiếu là những sự kiện lớn trong cuộc đời mỗi con người, nó
quy tụ ở đó mối quan hệ cố kết cộng đồng, gia đình và dòng tộc. Do đó, không phải
vô tình mà Nguyễn Huy Thiệp lại chọn câu chuyện đám cưới, rồi đám ma của gia
đình một vị tướng về hưu để giễu nhại sự kệch cỡm, lố lăng hay thói giả tạo, hình
thức của con người trong cuộc sống. Người ta chợt nhận ra chính bản tính háo danh,
sĩ diện và vô tâm của con người là nguồn cơn đẩy các nhân vật trên vào những tình
huống “cười nôn ruột”, bởi dù có cố gắng trang bị một vẻ bề ngoài tốt đẹp “hợp
cảnh”, “hợp tình” như thế nào họ vẫn tự để lộ ra bản chất trống rỗng và phù phiếm
của mình mà thôi.
Tâm tính thực dụng, chuộng danh, hám lợi của một bộ phận không nhỏ con
người trong xã hội hiện đại cũng là một phương diện được nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp khai thác khá ấn tượng để thể nghiệm về cái Hài. Truyện ngắn Huyền thoại
phố phường có thể xem là một minh chứng tiêu biểu cho biểu hiện này. Trong tác
phẩm, lần lượt các nhân vật chính đều được nhà văn gán cho những định danh xã
hội hết sức tốt đẹp (cô Thoa là ngọc nữ tuổi hai mươi, bà Thiều là thiếu phụ phẩm
hạnh, còn Hạnh là thanh niên trẻ tài năng), nhưng khi lớp mặt nạ được bóc trần thì
những danh xưng mỹ miều ấy lại nhanh chóng trở thành một bản tính a dua, trống
rỗng và đầy dục vọng. Cô Thoa - con gái bà Thiều - luôn được mẹ mình tự hào khoe
là người con gái có vẻ đẹp trời phú, thanh cao do “sức sống tinh thần” mang lại.
Vậy nhưng vẻ đẹp ấy ngay lập tức được giải thiêng bằng một trích ngang lý lịch đầy
104
tính giễu nhại: “Thoa mới hai mươi tuổi, thi trượt đại học, r n luyện trí tuệ chủ yếu
thông qua giáo trình của lớp Anh văn buổi tối. Tuy nhiên, chính vẻ trẻ trung, cách
đánh mông và cử chỉ tuyệt khéo khi nhăn mũi của cô quả rất ưa nhìn” [141, 231].
Bản thân bà Thiều trước mặt mọi người cũng thường vào vai người đàn bà quyền
quý đức hạnh tuyệt vời rất đạt. Trong bữa tiệc trước mặt các quan khách, bà gợi lại
những câu chuyện thuở hàn vi để “làm sang”, chứng tỏ sự thành đạt hiện thời của
mình là nhờ “ý chí” vươn lên trong cuộc sống. Từ đó, sự giễu nhại thói háo danh,
xu nịnh hiện lên một cách rõ nét khi bản thân người kể lẫn người nghe đều hiểu rất
rõ bản chất câu chuyện, nhưng không ai lên tiếng, ngược lại cùng hùa vào tán
dương, tự lừa phỉnh mình để làm vừa lòng nhau: “Khách khứa đều hiểu việc biến
đổi một bà bán bún ốc thành nhà triệu phú buôn vàng đâu chỉ đơn thuần là sự vận
động ý chí? Nhưng gì thì gì, bởi thức ăn ngon, tất cả những lời chối tai đều có thể
nuốt trôi được” [141, 231]. Niềm tự hào đức hạnh ngày thường của người đàn bà
quyền quý ấy cuối cùng cũng bị lột trần lúc bà cay đắng thú nhận với cô con gái:
“Cứ sống đi con, rồi con sẽ hiểu cuộc đời. Khốn nạn! Khốn nạn vô cùng! Con phải
biết rằng chính mẹ của con cũng là một con đàn bà khốn nạn!” [141, 240]. Xuyên
suốt tác phẩm, Hạnh được xem là nhân vật sắm vai người quân tử dụng công và tài
năng hơn cả. Y nhận được sự cảm mến của mọi người từ cái mác của một trí thức
trẻ tuổi, có tài, có chí. Nhưng tài và chí của y thực chất chỉ là cái vỏ để bao bọc cho
một con người đầy dã tâm, luôn khát th m tiền bạc và sự giàu có. Bản chất ấy cứ lộ
dần ra, ban đầu là bằng cử chỉ, lời nói “đưa đẩy” lấy lòng, sau đó tạo lòng tin bằng
hành động “khổ nhục kế” xắn tay mò tìm chiếc nhẫn trong cống nước thải cho gia
chủ, rồi thủ đoạn hơn, y còn tung ra chiêu “tình kế” cưỡng đoạt bà Thiều và chiếm
đoạt bằng được tấm vé số may mắn. Trớ trêu thay, rắp tâm đánh tráo số phận, đổi
đời từ tấm vé không thành, người đọc hả hê với kết quả xổ số độc đắc rơi đúng vào
tấm vé Hạnh ném trả mẹ con bà Thiếu, y trở về đúng xuất phát điểm vốn có của
mình là một kẻ “ngụy quân tử”, lưu manh và bần hàn trong xã hội. Cái Hài được gợi
ra trong tác phẩm dưới hình thức một trò chơi may rủi của số phận mà những người
tham gia vào đó ai cũng tự tin mình là người đức hạnh, xứng đáng có được sự may
105
mắn thắng cuộc, để rồi cuối cùng tất cả đều phải ngậm ngùi tự thừa nhận sự giả dối,
khoe mẽ, hám danh hám lợi của mình.
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, cái Hài cũng hay xuất hiện từ
những tiếng cười được bật ra khi nhà văn nói về sự mê chấp, ngộ nhận và cả tin của
chính con người trong cuộc sống. Đọc truyện Chả đi sông ơi, ta thấy hình ảnh
những người đánh cá trên sông thật tăm tối, nực cười: họ tin vào sự tồn tại của Hà
bá với những cơn thịnh nộ giáng xuống mình, nhưng lại không nhận ra cái ác và sự
mê muội hiện thực của mình. Bởi vậy, những người đánh cá trên sông có tục lệ oái
oăm là thấy người đuối nước sẽ không cứu mà ch o thuyền đi ngay. Trong truyện
Con gái Thủy Thần, cái Hài cũng xuất hiện từ câu chuyện về sự mơ mộng của
chàng Chương: chàng là một thanh niên chất phác, luôn tin tuyệt đối về sự tồn tại
của Mẹ Cả - Người con gái Thủy Thần vừa xinh đẹp, tốt bụng và có phép màu.
Nhưng sự ngây thơ, cả tin ấy cuối cùng đã được bố Đô Thi trả lời bằng sự thật phũ
phàng: “Hối ấy tao chưa bị liệt. Tao bịa ra chuyện Mẹ Cả. Ai cũng tin” [141, 78].
Sự hài hước xuất hiện ở tình tiết những câu chuyện linh thiêng tương truyền giờ chỉ
là một sự bịa đặt: đôi giao long sinh ra con gái Thủy Thần năm ấy chỉ là cái nia rách
trôi trên sông ngày nước lũ, linh cữu an táng trong mộ phần của Mẹ Cả đào lên hóa
ra là một khúc gỗ mục chẳng ra hình thù gì. Đó là một cuộc đánh đổi giá trị hài
hước mà xót xa bởi nó cho thấy con người trong cuộc sống thường rất ngây thơ, dễ
tin vào những điều huyền bí, siêu thực, dù họ biết mười mươi nó chỉ là điều người
với người đặt ra phỉnh lừa nhau mà thôi. Hay trong truyện Muối của rừng, con
người cũng được một phen tỉnh mộng, bẽ bàng trước thiên nhiên. Ông Diểu lúc đầu
hăng hái, chủ động, nai nịt gọn gàng và tự tin về thành quả của chuyến đi săn bao
nhiêu thì lúc trở về trong bộ dạng thê thảm, nực cười bấy nhiêu: “Ông cứ trần
truồng như thế, cô đơn như thế mà đi” [141, 67]. Sự giễu nhại nảy sinh trong tình
huống hết oái oăm: con người luôn mê chấp, tự huyễn hoặc, tự cho mình là giới
thượng đẳng, ý thức và nhân văn nhưng trong cuộc xâm phạm tự nhiên ấy, thiên
nhiên lại là thứ dạy cho con người về tình đồng loại và hướng thiện, dạy cho con
người thấy sự bé nhỏ, hữu hạn vô nghĩa của chính mình.
106
Cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện đặc biệt ấn
tượng khi nhà văn giễu nhại sự bê tha, nhếch nhác trong bản tính của mỗi con
người. Trong truyện Những người thợ xẻ, ta thấy ở đó một cuộc mưu sinh đầy cực
nhọc của con người và cũng thấy những nhọc nhằn biến con người thành kẻ bần
tiện. Ông Thuyết đã làm đến chức phó giám đốc nông trường mà vẫn không sao
thoát bỏ được bản tính keo kiệt: “Ngồi nói chuyện, chủ nhà không mời được hớp
nước nóng” [141, 101]. Tay Bường từng trải, lọc lõi, minh triết và hiểu đời khi nói
bao nhiêu thì hành động lại “khó ngửi”, bất hảo bấy nhiêu. Ở những con người ấy,
những thói xấu được giễu nhại, phơi bày một cách gián tiếp qua điểm nhìn và nhận
định của các nhân vật khác khiến nó trở nên thật hóm hỉnh mà không kém phần sinh
động, khách quan. Đọc truyện Chuyện ông Móng, ta cũng thấy ở đó một sự giễu
nhại sâu sắc về cung cách sống bê tha, nhem nhuốc theo đúng nghĩa đen của con
người khi nhà văn vẽ ra cả một phiên chợ đặc biệt - chợ buôn phân (nhất là phân
người). Ở đó, cái Hài bật ra trong cách mô tả tỉnh khô, sống động của tác giả về các
khâu mua bán, mặc cả, đổi trác của mặt hàng đặc biệt này. Độc giả khó có thể nhịn
được cười với cung cách làm việc chuyên nghiệp của ông Móng và nhất là tuyệt
chiêu bắt nhặng của ông: “Ông dùng một cái gắp phân bằng cật tre, trông hơi giống
một cái đũa cả sục sâu vào đáy sọt phân rồi rút ra, đưa lên mũi ngửi. Một con nhặng
xanh bay nhoằng ở ngay trước mặt [...] Ông lùi một bước, quắc mắt, chuyển cái gắp
phân từ tay trái sang tay phải rồi ước lượng [...] đập v o một cái vào không trung
[...] Sau tiếng hô người ta thấy con nhặng xanh ngã vật ngay xuống ở giữa sọt phân”
[141, 470]. Qua câu chuyện hài hước về kỹ nghệ tuyệt thế đập nhặng và chuyên
môn sâu kiểm hàng của ông Móng, ta thấy cả một sự nhếch nhác, ngh o h n và cần
lao của bao nhiêu kiếp người đã được giấu đi giữa phố phường thành thị khi ánh
sáng ban ngày ùa tới. Hay đến với truyện Những bài học nông thôn, người đọc cũng
nhận thức được nhiều điều lý thú về bản chất quê mùa, lam lũ của những người bình
dân. Cung cách trọng lễ nghĩa có phần lạc hậu của những con người ở nông thôn
cũng được nhà văn “nhại” lại một cách hài hước trong cảnh bữa cơm gia đình Lâm:
“Chị Hiên mời: “Các cụ xơi tự nhiên”. Thằng Tiến đòi: “Cho em làm các cụ với!”
Mẹ Lâm gạt đi: “Hỗn nào! Chim bằng quả ớt thế thì làm các cụ ra sao?” Cái Khanh
107
bụm miệng cười. Tôi đỏ mặt. Bà Lâm thở dài: “Các cụ toàn chim to” [141, 121]. Sự
nề nếp thường thấy trong những bữa cơm của các gia đình truyền thống ở nông thôn
được gỡ bỏ, thay vào đó là một không khí thân mật, suồng sã với những phát ngôn
dùng nhiều tiếng tục nhưng được nói một cách hết dí dỏm, hài hước. Nó khác hẳn
thứ ngôn ngữ trí thức (bề ngoài trang trọng, rất mực văn hóa nhưng bên trong lại
đầy sự cay nghiệt, gia trường và thô tục) trong bức thư bố Hiếu gửi cho cậu: “Con
thân êu. Bố rất bực mình vì bố đi vắng thì mẹ tự tiện thả con về nông thôn. Tao xin
báo cho mà biết, đồ chó, rằng nhà mà ở thành phố, tương lai của mà ở đấy...
Con ơi, con hã nghe bố, con phải về nga ” [141, 138]. Có thể nói, khi hướng về
con người, Nguyễn Huy Thiệp dường như không che giấu bất cứ một góc cạnh
thiếu khuyết, xấu xí, tiêu cực nào trong bản chất của họ mà cố gắng soi chiếu, nhìn
nhận bằng tất cả sự tỉnh táo và óc quan sát chi tiết, tỉ mỉ nhất. Theo đó, những thói
hư, tật xấu, những giới hạn trong nhận thức, hành động, lối sống, thói quen... tất cả
đều được tác giả đặt ra, giễu nhại một cách thẳng thắn, không thương tiếc.
Chưa dừng ở đó, sự hiện hữu của cái Hài còn được Nguyễn Huy Thệp khai
thác và thể hiện rất rõ qua sự giễu nhại về các mối quan hệ của con người trong đời
sống. Trong các mối quan hệ giữa người với người, mối quan hệ gần gũi nhất, riêng
tư nhất chính là tình yêu nam nữ (tình cảm thuộc về bản năng của giới). Trong văn
học nghệ thuật, ta cũng thấy tình yêu cũng là tình cảm được khai thác thể hiện nhiều
và phong phú bậc nhất, quy tụ một lượng tác giả và sáng tác hùng hậu. Với Nguyễn
Huy Thiệp, khi đề cập tới mảng đề tài hấp dẫn này, bên cạnh những trang viết ca
ngợi sự thiêng liêng cao quý đúng nghĩa của nó, ông cũng không quên giễu nhại thứ
tình cảm kệch cỡm, vụ lợi nhân danh tình yêu. Ở truyện Cún, cô Diệu là người đàn
bà từng trải, thực dụng, vật chất luôn là thứ tình cảm giá trị nhất đối với cô. Chính
vì vậy, cô đã đi qua nhiều cuộc tình và có rất nhiều người đàn ông đã đi qua đời cô,
nhưng cả cô và họ đều không thể cập tới bến bờ hạnh phúc. Trong khi đó, Cún chỉ
là một kẻ ăn mày tật nguyền không nên hồn người thì lại làm ra được một điều kỳ
diệu là mang tới cho cô Diệu một đứa con trai đẹp đẽ nên người. Điều tưởng như
không thể lại là có thể, bởi tình yêu đơn phương mà Cún đã dành cho người đàn bà
ấy xuất phát từ khát vọng làm người, nó lương thiện và không hề toan tính như
108
những cuộc tình mà cô Diệu và những người đàn ông của cô đã trải qua. Nguyễn
Huy Thiệp đã vẽ ra hai nghịch cảnh tình yêu oái oăm, hài hước ấy để cho ta thấy
rằng cuộc sống này cái na ná tình yêu, giả danh tình yêu nhiều vô kể... Trong truyện
Con gái Thủy Thần cũng vậy, người như cô Phượng (cô chủ nhà) chưa bao giờ có
được tình yêu đúng nghĩa ngoài những thỏa mãn nhục dục, xác thịt. Bởi vậy, những
phát ngôn triết lý về cuộc đời của cô cũng đầy tính giễu nhại, thật mà như đùa: “Cô
Phượng bảo tôi: “Có lẽ ở thế hệ trước thì cha anh tôi cũng giống như anh bây giờ.
Họ mang lại đủ thứ cho chúng tôi, trước hết là vật chất, trừ mỗi một thứ là văn hóa
sống” [...] “kết luận có lẽ chỉ một chữ thôi: “sướng!”” [141, 95]. Ở một truyện ngắn
khác (truyện Sang sông), Nguyễn Huy Thiệp cũng vẽ ra một chân dung biếm họa về
tình yêu qua những “trò khỉ”, trơ trẽn của cặp trai gái trên chuyến đò sang sông hôm
ấy: “Cô gái ngồi ở đầu mũi đò cựa quậy. Người yêu của cô luồn bốn ngón tay sâu
thêm chút nữa vào trong quần lót của cô”. Cử chỉ ấy bị bóc mẽ bởi một chi tiết nực
cười cuối câu chuyện khi chàng trai càng cố che giấu sự trơ trẽn bệnh hoạn của
mình thì càng lộ diện: “Anh lén chùi tay vào khe ván đò nhưng không làm sao gạt
được sợi lông xoăn dính ở ngón tay” [136]. Có thể nói, với Nguyễn Huy Thiệp, ông
luôn ghi nhận tình yêu như là thứ tình cảm thiêng liêng cao quý nhất trong cuộc đời
con người, nhưng tình cảm ấy chỉ đáng trân trọng khi nó là thứ tình cảm không toan
tính, cao cả về tâm hồn và có văn hóa về thể xác. Vì thế mọi thứ giả danh tình yêu
đều cần chế giễu, phủ nhận.
Sự giễu nhại cuộc đời cũng được Nguyễn Huy Thiệp soi chiếu từ mối quan
hệ giữa người với người trong góc độ gia đình, dòng họ. Đọc các truyện Tướng về
hưu, Không có vua, Giọt máu, Tâm hồn mẹ, Thổ cẩm... ta thấy ở đó hình ảnh biếm
họa về các gia đình, dòng họ được nhà văn lựa chọn và miêu tả một cách tỉ mỉ, sinh
động. Bề ngoài những gia đình ấy vẫn mang một mô hình truyền thống, yên bình,
tôn ti, nhưng khi nhìn vào mối quan hệ của từng thành viên với nhau ta lại thấy ở đó
những xung đột giá trị, sự sụp đổ tôn ti không thể cứu vãn. Đầu tiên là sự sụp đổ
của một mô hình gia đình trí thức hoàn hảo trong xã hội. Ông Thuấn là quân nhân,
cả đời gắn với chiến trường, súng đạn, về hưu hàm thiếu tướng, được bạn b , gia
đình và đồng đội kính mến. Vợ ông cả đời tần tảo chăm lo cửa nhà giữ đạo nuôi
109
con. Con trai ông là kỹ sư, con dâu là bác sĩ, hai cô cháu gái đều được bố mẹ dạy dỗ
chu đáo ngoan ngoãn, học giỏi... Tất cả những điều kiện đó đảm bảo cho gia đình vị
tướng về hưu một hình ảnh mẫu mực, nề nếp, con hiền cháu thảo, trên dưới thuận
hòa, đời sống vật chất, tinh thần đều ấm êm, sung túc. Nhưng càng đi sâu vào trong
tác phẩm, người đọc càng “tỉnh mộng” bởi những lớp vỏ hoàn hảo của gia đình cứ
bóc dần đi để lộ ra một sự khủng hoảng trầm trọng trong quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình. Vị tướng oai phong nơi trận mạc gần như lạc điệu, không có bất
cứ tiếng nói gì đáng kể trong gia đình. Cô con dâu tháo vát, thực dụng, giỏi hạch
toán kinh tế trở thành trụ cột. Vợ với chồng, con cái với cha mẹ, cháu chắt với ông
bà... đều thành những mối quan hệ hợp quần nhưng không có tiếng nói đồng thuận,
không thể hiểu nhau. Nghe những câu nói ngây thơ buồn cười của trẻ con mà những
người lớn đều thấy lòng buồn tê tái: “Cái Mi hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phải trả
tiền? Sao lại bỏ tiền vào miệng bà?”. Cái Vi bảo: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền
không bố?” [...] Cái Vi bảo: “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là
tiền. Chết cũng cần”[141, 24]. Rõ ràng ở thời đại kinh tế thị trường, thiết chế của
một gia đình không đơn thuần dựa vào sự cố kết tinh thần tự nhiên của những con
người có cùng huyết thống nữa mà nó còn bị chi phối bởi quan hệ vật chất, bằng
sức mạnh của đồng tiền. Qua những câu chuyện khôi hài về đám tang, đám cưới,
chuyện đào của, hôi của... xoay quanh gia đình vị tướng về hưu, nhà văn đã chỉ ra
những rạn nứt, loạn giá trị đang ngấm ngầm tồn tại trong lớp vỏ bọc của một gia
đình nề nếp, mẫu mực nhất so với mặt bằng chung của xã hội. Tiếng nói hài hước
về sự xung đột giá trị trong gia đình được tác giả khéo léo lồng vào những phát
ngôn đầy tính đối thoại của nhân vật. Ông Thuấn, vị tướng chỉ huy đã phải ngậm
ngùi thừa nhận sự bất lực của bản thân ông và tinh thần gia trưởng của cánh mày
râu: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn, càng nhục” [141, 26].
Trong khi đó, cô con dâu lại hoàn toàn tự tin xoay chuyển mọi tình thế bằng một sự
lo liệu thực tế in đậm bài toán vật chất: “Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người
một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết” [141, 26]. Sự rạn vỡ của mô hình
gia đình cũng được phản ánh một cách chân thực trong tác phẩm đầy tính hài hước
Không có vua. Nếu nhìn thoáng qua, gia đình bình dân ấy cũng khá yên bình, trong
110
sạch: “Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông. Bà Nhớn, vợ lão Kiền, mất đã mười
một năm, lúc đó lão Kiền năm mươi ba tuổi, cái tuổi oái oăm, lấy vợ nữa cũng dở,
không lấy nữa cũng dở. Lão Kiền chọn cái ít dở hơn, ở vậy...”[141, 42]. Nhưng gạt
sang bên sự trong sạch của những dòng trích ngang lý lịch ấy, nếu ta nhìn sâu vào
mối quan hệ của từng thành viên trong gia đình thì lại thấy một hình ảnh gia đình
không có chút tôn ti: cha chẳng ra đạo cha, con không thành đạo con, anh em bất
hòa vô lối. Bao trùm lên gia đình lão Kiền là bầu không khí tự do đến khôi hài: “Ăn
cơm chẳng ai mời ai, sáu người đàn ông, ai cũng cởi trần, mặc quần đùi, cười nói
thản nhiên, chan chan húp húp như rồng cuốn” [141, 42]. Mỗi lần các thành viên
trong gia đình giao tiếp với nhau họ đều dùng những lời lẽ bóng gió chế nhạo, bóc
mẽ, coi thường nhau một cách không thương tiếc. Hay ở truyện Giọt máu, bức tranh
phóng to về hình ảnh gia đình Việt cũng được Nguyễn Huy Thiệp lồng vào đó sự
giễu nhại không kiêng d . Danh tiếng về một dòng họ Phạm có gia phả bề thế, trọng
văn, phát lộc được lột trần bởi những con người đầy dã tâm và thủ đoạn như Phạm
Ngọc Chiểu, Phạm Ngọc Phong... để rồi ta chỉ thấy cái mà những bậc cha chú của
dòng họ ấy truyền lại cho hậu thế là một sự mạt pháp, nhục nhã đến tái tê. Những
lời trăng trối cuối đời của Phong đã chính thức thừa nhận sự sụp đổ hoàn toàn của
mô hình gia đình, dòng tộc, khi nó không thật sự mang về niềm tự hào và nguồn
sống tốt đẹp cho các thành viên trong đó: “Mình ơi, thằng Tâm là giọt máu cuối
cùng của họ Phạm đấy. Chỉ mong giọt máu này đỏ chứ không phải thứ máu đen như
ông cha nó” [141, 269]. Như vậy, đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, độc giả
không chỉ tìm thấy cái Hài qua tiếng nói giễu nhại về những thói hư, tật xấu, góc
khuất nhố nhăng, đồi bại, nhếch nhác trong con người mà còn được nhìn thẳng vào
bản chất nhiễu loạn của đời sống qua những mối quan hệ giữa con người với con
người. Nhà văn không ngần ngại phá vỡ vỏ bọc bình yên sĩ diện của gia đình, tấn
công vào thành trì kiên cố của danh tiếng dòng tộc để vạch ra sự rạn nứt, sụp đổ tha
hóa của nhiều hệ giá trị trong cuộc sống như nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã nhận
định: “Mỗi tác phẩm của ông vì thế là một vở diễn đầy bi hài về sự tha hóa không
thể cứu vãn của đời sống ở thời mạt thế” [102].
111
Tóm lại, qua sự giễu nhại không thương tiếc về đời sống, Nguyễn Huy Thiệp đã
soi thấu trước mắt người đọc những góc khuất lấp, nham nhở, phần nhỏ bé, tầm thường
nhất của con người và những mối quan hệ phức tạp của con người giữa cuộc nhân sinh.
Tiếng cười được cất lên tự nhiên nhưng thấm thía sự đời, bởi ẩn sau đó là những quan
ngại có căn cứ của nhà văn về sự tha hóa, thực dụng của con người, về sụp đổ khó cứu
vãn của những hệ giá trị truyền thống... được tác giả gợi ra qua những câu chuyện tầm
thường hay những tình huống dở khóc dở cười trong cuộc sống.
3.2.2.3. Sự giễu nhại phản thân
Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, song hành với sự giễu nhại cuộc đời
là sự giễu nhại phản thân như một nhu cầu đối diện với chính mình của người nghệ
sĩ đương đại. Với nhà văn cũng như nhiều đồng nghiệp của ông, cái nhìn chân xác
về cuộc đời chỉ có thể có khi chính người cầm bút dám thành thực với chính mình.
Sự thành thực đó sẽ bao gồm cả những trải lòng nghiêm túc và cũng có cả những
giây phút tự trào hóm hỉnh, xót xa để cái Hài có thể cất lên tiếng nói dân chủ cho
chính người văn và nghề văn.
Thật vậy! Cái Hài hiện diện trước hết ở cách nói giễu nhại xoay quanh danh
phận “nhà văn”. Quan sát thế giới nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, ta sẽ thấy hình
ảnh những nhà văn, nhà thơ xuất hiện khá phổ biến trong các sáng tác như: Vàng
lửa, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương, Ngu ễn Thị Lộ, Mưa, Thiên văn, Thương
cả cho đời bạc, Hạc vừa ba vừa kêu thảng thốt, Đưa sáo sang sông, Bài học tiếng
Việt, Chú Hoạt tôi, Sang sông, Quan Âm chỉ lộ... Có những gương mặt văn sĩ là
những nguyên mẫu thuộc về quá khứ (như Nguyễn Trãi trong truyện Ngu ễn Thị
Lộ, Nguyễn Du trong truyện Vàng lửa, Hồ Xuân Hương trong truyện Chút thoáng
Xuân Hương, hay Tú Xương trong truyện Thương cả cho đời bạc...), có những tên
tuổi nhà văn là những nguyên mẫu thuộc về hiện tại (như Lưu Quang Vũ trong
truyện Bài học tiếng Việt, Nguyễn Bính trong truyện Hạc vừa ba vừa kêu thảng
thốt...), và có cả hình ảnh những nhà văn mang bóng dáng của chính tác giả và cuộc
đời trần thế (như nhân vật nhà văn, nhà thơ trong các truyện Giọt máu, Chú Hoạt
tôi, Quan Âm chỉ lộ...). Ở đó, nụ cười hóm hỉnh tự trào được cất lên khi nhà văn đưa
ra những cái nhìn giải thiêng về chính những người cầm bút bằng cái nhìn hiện thực
112
nhất, tỉnh táo nhất. Câu hỏi “nhà văn là gì?” được tác giả đặt ra rồi tự trả lời bằng
một đáp án phũ phàng “Chẳng là gì cả” [140, 52]. Bởi ông thấm thía vô cùng cái
danh hão của nghề nghiệp trong con mắt người đời. Người nghệ sĩ trong mọi thời
đại đều rơi vào nghịch cảnh dở khóc dở cười: tâm hồn họ bao giờ cũng nhạy cảm
trước những đau khổ của con người nhưng với đời sống thường nhật, họ lại hoàn
toàn bị động, thô vụng, thậm chí thất bại, vô tích sự. Vì thế, Nguyễn Du dù nhãn
quan có thấu thị tuyệt vời, tấm lòng có nhân đạo bao la đến mấy vẫn không giấu nổi
hình ảnh của ông trong cuộc đời thực “xúi xó, túng kiết” [141, 151]. Tú Xương
nhạo đời, khinh đời bon chen giả dối mà khi đi ra giữa cuộc đời ông cũng lẫn vào
dòng quẩn quanh ngh o túng, bất lực của cuộc đời “thõng tay vào chợ” [141, 362].
Hình tượng chàng thi sĩ có cái tên rất lãng tử Trang Sinh, Hồ Điệp hay Điệp Lang
hiện lên thật khôi hài. Không ai biết hắn là thi sĩ bởi một vẻ ngoài hết sức tầm
thường, khốn khó: “Hắn đội chiếc mũ cát trắng rộng vành, chiếc mũ đã cũ, ngả màu
cháo lòng. Hắn không có đồ đạc gì ngoài một chiếc hộp sắt tây đựng bánh bích quy
đã cũ” [141, 372]. Chàng thi sĩ ấy mơ mộng trên chuyến đò tìm về rước dâu mà
không biết điều ấy hoàn toàn vô nghĩa, trở nên phi thực tế bởi vì cô gái ước hẹn
năm xưa đã tự vẫn tự khi nào. Sự hài hước bẽ bàng được phơi bày trong câu nói của
mấy người lái đò bị hớ: “Cái vị tên là Hồ Điệp, hay Trang Sinh, hay Điệp Lang còn
ở đây không? Sao nói có đám cưới mà chờ đến tối cũng không có nhỉ? Vậy ai trả
tiền đò cho chúng tôi đây?” [141, 380]. Độc giả sẽ không khỏi ái ngại bật cười trước
cảnh một nhà thơ đang mân mê ăn d mẩu lương khô trong tay nải (truyện Thiên
văn) hay ái ngại khi nhìn vào tư trang bỏ lại quán trọ của chàng thi sĩ nọ, trong
chiếc cặp số chàng mang k k ấy rút cuộc chả có gì ngoài đôi quần lót phụ nữ trị
giá 30 nghìn đồng (truyện Đưa sáo sang sông), một người mê văn chương nhưng
vụng về, vô tích sự bị đuổi khỏi nhà (truyện Chú Hoạt tôi)... Có thể nói, Nguyễn
Huy Thiệp đã không ngần ngại tự trào bóc trần hình ảnh nhà văn trong tận cùng sự
nhếch nhác, bần hàn. Danh xưng thi sĩ hay nhà văn nghe sang trọng, đặc biệt bao
nhiêu thì bước ra cuộc đời, dưới ánh mắt người đời nó lại trống rỗng, vô nghĩa lý
bấy nhiêu. Đời sống thực không mơ mộng, bay bổng như thơ văn mà đa phần là
những lo toan về cái ăn cái mặc, vì thế, sự ngh o nàn, khốn khó, túng kiết về vật
113
chất dù người nghệ sĩ có cố che giấu, lảng tránh tới đâu nó cũng vẫn hiện hữu như
một nhu cầu tồn tại tất yếu. Nỗi mặc cảm về sự ngh o khó với các nhà văn là có
thật, nó khiến họ luôn trong tình trạng cười ra nước mắt, khinh bỉ chính mình đấy nhưng
cũng thương xót cho sự b o bọt, bất lực của chính mình đến tận tâm can...
Bên cạnh sự ngh o h n về vật chất, hình ảnh tự trào về nhà văn trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp còn được tác giả khai thác ở chính đặc tính mơ mộng, lãng mạn về tinh
thần của những người nghệ sĩ. Tâm hồn với họ là cả một thế giới kỳ bí siêu thực, khó lý giải
một cách rạch ròi, bởi thế họ hay suy nghĩ, hành động theo cách của riêng mình, thậm chí
điên rồ. Một người bình thường sẽ chẳng bao giờ viển vông bất chấp tính mạng tay không
đưa đò trong cơn giông tố chỉ để thỏa nỗi khao khát, tò mò như người thi sĩ trong truyện
Thiên văn. Họ cũng chẳng dành quá nhiều bận tâm cho một lời hứa bảy năm về trước để lặn
lội đường xa tìm về chốn cũ rồi lại đau đớn, vật vã ra đi như nhà thơ nọ trong buổi chiều cuối
năm trong truyện Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt. Hay trong muôn vạn đường tu cũng chả
mấy người chọn văn chương làm nghiệp như chú Hoạt để cả đời sống hòa vào phường du
thủ du thực vô gia cư giữa chốn thị thành. Mọi triết lý, mơ mộng cao nhã của những văn
nhân trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp đều có thể đem ra để tự trào tếu táo. Nhà văn
thường hay để các nhân vật văn nhân của mình đọc văn làm thơ đầy cảm hứng (như thói
quen vốn có), nhưng lại đặt họ vào những cuộc giao tiếp không đầu không cuối với mọi
người và kết quả là văn nhân tự biến mình thành một kẻ lạc loài, lập dị trước cuộc đời. Cuộc
trò truyện giữa chàng thi sĩ và người đàn bà hàng nước trong truyện Đưa sáo sang sông là
một dẫn chứng tiêu biểu. Bề ngoài, hai người trò chuyện với nhau có vẻ rất rôm rả, hợp ý, lời
tiếp lời, nhưng những thông tin trong cuộc giao tiếp ấy lại hài hước vì sự lạc điệu “Ông nói
gà, bà nói vịt”:
- ... quang cảnh ở đâ vẫn như xưa... Câ thì vẫn đứng thế thôi/ Hàng thì bán đứng
bán ngồi chen nhau/”
- Thì nhà quê mà! - Bà Hai Thoan chép miệng - Sống già cả đời mà chẳng thấ văn
minh đâu cả...
- Vì người ta đã dìm thu ền...
- Ai dìm thu ền? Ông xơi thêm quả trứng luộc nữa, ông nhá...
- Được! Chốc nữa thế nào cũng giông/ Sang đò tôi đến giữa đồng là mưa...
114
- Chẳng mưa được, ông ạ... mưa suốt từ đầu tháng Chạp đến na còn gì... Thế ông
chờ hàng về ha ông đợi ai?
- Gọi em một tiếng tưởng xong/ Không ngờ ai nấp trong lòng trộm nghe...
- Chết! Có trộm à? [141, 418 - 419].
Trong trích đoạn trên ta thấy, với người thi sĩ, bất cứ chi tiết, thông tin gì về đời sống
cũng được ông dùng lối tư duy hình tượng để gợi dẫn, liên tưởng tới một câu thơ, tứ thơ lãng
mạn. Trong khi đó, bà hàng nước với tư duy thông thường của đời sống chỉ có thể hiểu được
phần hiển ngôn mà tuyệt nhiên không hay về những ý tình ngụ gửi trong ấy. Tiếng cười bật
ra là bởi hai con người dùng hai thứ ngôn ngữ, hai lối tư duy hoàn toàn lạc điệu với nhau
nhưng vẫn bắt nhịp với nhau như thể hợp ý tình. Người thi sĩ cứ đọc thơ vì nghĩ mình đang
trải lòng với đời, còn người đàn bà bán nước cứ chuyện phiếm về đời mà không hay thi sĩ
đang nói chuyện thơ. Tình thế ấy cho người đọc thấy một chân dung khôi hài về người văn
dưới góc nhìn của người trong cuộc: sự mơ mộng luôn khiến họ thiếu khuyết một cái nhìn
hiện thực tỉnh táo để có thể chấp nhận đời, hòa nhập với đời thay vì lơ lửng, lãng đãng mê
đuổi theo thế giới tinh thần mình tự vẽ ra và trốn chìm trong đó. Viết nên những dòng tự trào
này, Nguyễn Huy Thiệp không chỉ thấm thía cho tâm tính khác người của các văn nhân mà
còn xác lập cho chính mình một thái độ đối diện dám nhìn thẳng, nói thật về những thiếu
khuyết trong đời sống, tâm hồn thực tế của người viết văn qua các thời đại. Chính vì lẽ đó
mà những người nghệ sĩ thường ngập mình trong những cô đơn, mặc cảm, tự thấy mình lạc
lõng, bé mọn trước cuộc đời.
Không dừng ở đó, trong các sáng tác của mình, Nguyễn Huy Thiệp cũng nhận thức
rất rõ những nỗi nhọc nhằn, giới hạn của nghề văn. Từ đó, cái Hài xuất hiện từ sự giễu nhại
không thương tiếc những góc khuất trong nghề nghiệp của mình. Một mặt, ông nhận thấy sự
cao quý, trong sáng của văn chương, nhưng ngược lại cũng nhìn ra đầy sự giả trá, mạo danh
và ngộ nhận ở đó. Đọc truyện Giọt máu, ta sẽ thấy rõ hơn cơ sở của những tiếng cười tự trào,
cười ra nước mắt ấy. Sự rẻ rúng của nghề nghiệp được người viết lột tả khi tác giả thuật lại
câu chuyện giữa thầy Bình Chi với ông Gia - ông tổ họ Phạm. Ở đó, Bình Chi đã nói rất
thành thật và nho nhã về các loại văn chương trong cuộc đời, trong khi đó, ông Gia lại đặt
vấn đề một cách thực tế, khôi hài: “Tôi suy rằng thịt dọi là thứ vừa phải, nhiều người mua,
chẳng bao giờ ế. Vậy có thứ văn chương nào tương tự thế không, chỉ vừa phải, nhiều người
115
theo thì cho cháu học” [141, 245]. Đặt văn chương bên cạnh những liên tưởng vừa hài hước
vừa thực dụng của ông Gia là cách Nguyễn Huy Thiệp đã dùng để giễu nhại hóm hỉnh một
loại văn chương khá thịnh hành, đó là thứ văn chương “học để làm quan”. Từ ngày học được
thứ văn chương vừa tầm ấy, Phạm Ngọc Chiểu đã thành tài, được bổ làm tri huyện Tiên Du
và y ra sức đục khoét của dân, gây bao chuyện bất nhân thất đức. Đến đời con y, Phạm Ngọc
Phong, nghiệp văn chương cũng được kế tục bằng một kiểu làm ăn mới, thời thượng và
chuyên nghiệp hơn là làm báo. Nhưng chuyện văn chuyện báo ở đâu chẳng thấy, người đọc
chỉ thấy ở đó những mánh lới, thủ đoạn buôn gian bán lận, bất chấp để làm giàu. Cái đáng
cười ở chỗ, Phong sống gian hùng nhưng khi luận bàn về nghề văn, chuyện văn, y lại tỏ vẻ
đạo mạo, chỉn chu, khác hẳn bản chất con buôn vốn có:
Một hôm Thiều Hoa bảo Phong: “Có ta nhà thơ bán tập bản thảo ha ha , tôi định
ghi tên ông rồi cho xuất bản”. Phong trừng mắt bảo: “Nhảm nhí! Rõ chu ện đàn bà” [...]
Thiều Hoa bảo: “Thế tôi bảo nó chữa lại rồi ghi tên tôi có được không?” Phong bảo: “Đàn
bà không có thơ đâu. Thơ phải là tâm sự lớn. Đàn bà thì tâm sự gì. Thơ phải cao cả. Mỗi
tháng các bà hành kinh một lần thì cao cả gì [141, 263].
Chỉ qua một đoạn đối thoại ngắn nhưng người đọc đã thấy ở đó bao thông tin về
nghề văn được gợi nhắc. Ở đó có cả sự cảnh vẻ, mượn tiếng làm sang, dùng tiền mua danh
tiếng văn nhân nhã hứng của những kẻ “trong nghề” có tiền như Phong, Thiều Hoa, lại có cả
những người cầm bút bần hàn mưu sinh nhờ “bán bản thảo”, bán đứa con tinh thần của mình
và có cả những người xuất bản tiếp tay gắn mác, “ghi tên” để danh chính ngôn thuận công
bố những tác phẩm mà sáng tác một người, in tên một nẻo... Dưới thời đại kinh tế thị trường,
khi mà mọi hoạt động của con người đều có thể trở thành hàng hóa dùng để giao dịch và đưa
vào hạch toán kinh tế thì việc làm báo, làm văn cũng nghiễm nhiên được xem là một nghề
bình đẳng như bao nghề khác. Tuy nhiên, chuyện mua danh bán tiếng sáng tác
không dựa vào thực tài mà thông qua tiền bạc và quan hệ như cách hành nghề
của các nhân vật trong truyện Giọt máu là điều không thể chấp nhận.
Văn chương và người làm văn chương không phải ai cũng có thật tâm,
thực tài và sự sang trọng nên Nguyễn Huy Thiệp đã chỉ ra đầy sự kém cỏi,
nhếch nhác khiến nhà văn phải “ngượng” với chính nghề nghiệp của mình. Nỗi
ngượng ấy được phơi bày một cách hài hước qua đoạn đối thoại hồn nhiên giữa
tay nhà thơ với người nhân tình trong quán trọ:
116
... Còn anh, anh vẫn làm thơ đấ chứ...
- Khổ... vẫn không bỏ được cái nghề đê tiện ấ ... Vẫn nhì nhằng, một câu
sáu, một câu tám...
- Buồn cười... Hồi nào có anh trên Hà Nội bảo anh vốn liếng có 600 từ...
- Làm gì được 600... chỉ có ngót nghét 500. Bí lắm! Hồi nhỏ có được học
hành gì đâu... Ít chữ nên phải vất vả hơn người, cứ xào xáo từng từ, nhiều khi
cững ngượng... thiếu lương thiện...
- Làm thơ cũng giống như đi buôn nhỉ? “Buôn tài không bằng dài vốn
[141, 421].
Nhà thơ, người trong cuộc đã thừa nhận “xào xáo” là một chiêu trò láu
cá của họ nhằm qua mắt công chúng và giấu nhẹm đi sự kém cỏi, ít học của
mình. Văn chương nghệ thuật nếu chỉ dừng ở trò dối trá, đê tiện để kiếm danh
kiếm lợi như vậy thì không khác gì hành nghề “đi buôn”. Chính vì vậy mà
Nguyễn Huy Thiệp đã không ngần ngại dùng tiếng cười để lên án, giễu nhại
tính vụ lợi, hám danh của những kẻ vô lại, trình độ thấp kém nhưng học đòi
chọn nghề văn chương.
Giễu nhại thứ văn chương kiếm chác, Nguyễn Huy Thiệp cũng không
quên cười vào mặt thứ văn chương nghệ thuật xu nịnh, a dua tầm thường.
Trong truyện ngắn Trương Chi, Nguyễn Huy Thiệp đã mượn cốt truyện dân
gian để gửi vào đó những quan niệm nghệ thuật của người hiện đại. Tiếng hát
của chàng Trương trở thành biểu tượng của văn học - nghệ thuật trong đời
sống, còn hình ảnh Mị Nương và đám quan lại là hiện thân cho tiếng nói quyền
lực của nền chính trị đương thời. Mỗi lần Trương Chi hát được hình dung như
một hành trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Ở đó, mỗi lần cất tiếng hát, chàng
đều thấy bức bối, căm giận bởi sự can thiệp thô thiển của muôn vàn những thiết
chế, ước lệ, áp đặt mà xã hội, cuộc đời đặt ra: lúc thì “Hát ca ngợi công danh
đi!”, khi thì “Nên hát về sự nhẫn nhục”, rồi lại “Hát ca ngợi tiền bạc đi” [141,
312 - 313]. Cái đáng cười ở chỗ, những tiếng hát ấy rất tầm thường, a dua theo
đám đông, vì toàn “ấy a”, “huầy dô” không chút nghệ thuật. Bởi thế một người
có tài ca hát như Trương Chi cũng phải chán ngán thốt lên “cứt”. Ta thấy tình
117
thế dở khóc dở cười của người nghệ sĩ khi đảm trách vai trò người sáng tạo
nghệ thuật: Nếu a dua theo đám đông, họ sẽ được hò reo, vỗ tay tán thưởng,
nhưng sẽ phải giấu nhẹm đi nỗi nhục “không được là mình” để trở thành trò
tiêu khiển kệch cỡm. Thái độ khinh bạc của chàng Trương chính là thái độ
khước từ thứ nghệ thuật a dua, rẻ tiền, biến nghệ sĩ thành công cụ để ngợi ca
quyền lực, tiền bạc và sự giả dối: “Chàng chỉ sợ khi chính bản thân chàng lâm
vào tình thế phải tự hạ nhục bản tính mình, thế là mất hết, không còn tiếng hát, không
còn Trương Chi” [141, 314]. Phút giây Trương Chi thăng hoa trong cảm xúc khi hát cho
tình yêu, cho bản tính của chính mình đã khiến tất cả đám đông xu nịnh hoạn quan, đồng
cô, hề lùn, bọn bói toán (những kẻ quen với trò mua vui xu nịnh) phải im bặt, “đứng dạt
cả ra” cúi đầu trước cái Đẹp đích thực của nghệ thuật tỏa sáng. Như vậy, phác họa câu
chuyện hư cấu hài hước về những phút giây văng tục, chửi bậy có phần thô thiển của
Trương Chi, Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo bênh vực tiếng nói tự do, chính thể của văn
chương nghệ thuật đồng thời chế giễu thứ văn nghệ a dua, xu nịnh rẻ tiền không chút giá
trị. Cái nhìn đó góp phần làm cho sự giễu nhại của cái Hài trong những sáng tác của nhà
văn thêm phần sinh động và ý nghĩa.
Tóm lại, cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không chỉ biểu hiện ở
sự giễu nhại những bộn bề, tiêu cực của con người và đời sống mà còn hiện hữu
ngay trong cái nhìn phản tư không che đậy của nhà văn về nghề văn và người làm
văn. Ở đó, người viết vừa thấy được tình trạng bi đát, nhọc nhằn của người cầm bút,
nhưng đồng thời cũng kiên quyết chỉ ra những hạn chế, sự giả dối, bất cập hiện thời
còn tồn đọng trong quá trình sáng tạo văn chương nghệ thuật. Từng câu chuyện bi
hài kịch về văn chương và người nghệ sĩ được gợi ra vừa hóm hỉnh nhưng cũng vô
cùng sâu sắc, nghiêm khắc và hấp dẫn.
3.2.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Quan sát biểu hiện của cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ta cũng thấy
ở đó một sự nhất quán trong quan niệm thẩm mỹ và thực tiễn sáng tác của nhà văn. Điều
này sẽ được kiến giải rõ ràng hơn khi ta quan sát bản chất và những hiệu ứng thẩm mỹ
mà phạm trù này mang lại cho người đọc qua các sáng tác của nhà văn.
118
Đầu tiên, bản chất của cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ ngay
trong đặc điểm của đối tượng gây cười. Sự giễu nhại cuộc đời hay giễu nhại văn chương
nghệ thuật đều được nhà văn đặt ra ở mỗi tác phẩm bằng một thái độ dân chủ, không
kiêng d . Với ông, tiếng cười không phải là công cụ để đấu tranh giai cấp, phục vụ chính
trị (như một vài giai đoạn của lịch sử văn học đã từng xác lập) mà là cơ hội để con người
nhận thức lại bản thân và cuộc đời. Vì thế, bất kể người có thân phận cao quý hay h n
mọn, bậc danh nhân hay kẻ tiểu tốt vô danh, người có học, thành đạt hay người bình dân
lao động, vua chúa, anh hùng, quan lại, viên chức, nông dân, hay kẻ cắp, thằng ăn mày...
tất cả mọi loại người trong xã hội đều có thể trở thành đối tượng mang ra giễu nhại, gây
cười nếu họ có sự hớ hênh, kệch cỡm, những thói hư tật xấu hay những điểm hạn chế,
lệch chuẩn, ngộ nhận... Sự bình đẳng không kiêng d ấy cho phép nhà văn và các sáng
tác của ông có thể tiếp cận và xâm nhập tối đa vào mọi góc cạnh đời sống, truy tìm
những góc khuất, điểm chưa hoàn thiện của con người, cuộc đời để nhận diện và tống
tiễn chúng bằng những tiếng cười đậm đầy ý nghĩa. Sự xuất hiện của cái Hài dân chủ
như vậy đã giúp người đọc phần nào có được sự bình tĩnh cần thiết để lý giải và chấp
nhận những thử nghiệm giải thiêng thần tượng của tác giả. Bởi suy cho cùng, việc hư
cấu, gán cho người nổi tiếng những câu chuyện bi hài, nhảm nhí, khó tin cũng là một
cách để nhà văn hướng người đọc tới một thái độ khách quan hơn, dân chủ hơn khi nhìn
nhận con người và cuộc sống từ góc độ nhân sinh.
Như một hệ quả tất yếu, khi mở rộng tối đa đối tượng của cái cười đồng nghĩa
với việc Nguyễn Huy Thiệp có thể gợi mở, khai thác được nhiều tình điệu thẩm mỹ
của sự hài hước trong từng đối tượng. Theo đó, cái Hài trong truyện ngắn của nhà văn
có thể tạo ra một tiếng cười có chủ đích và đa sắc điệu. Người đọc có thể thấy những
tiếng cười hóm hỉnh, khôi hài nhẹ nhàng tạo ra từ những thói quen, sự hồn nhiên thô
kệch của con người như cách nói nôm na, thông tục của người nông thôn (truyện
Những bài học nông thôn), sự thô vụng, quê mùa của chàng Chương (truyện Con gái
Thủ Thần), sự ngh o h n, nhếch nhác của những nhà thơ, nhà văn hay cách hành
nghề lão luyện có một không hai của ông Móng (truyện Tru ện ông Móng)... Ở đó,
tiếng cười khôi hài được gợi nên qua những tình huống, cử chỉ, lời nói hài hước nhẹ
nhàng để người đọc có thể nhận ra và bao dung hơn trước những thói tật, thiếu khuyết
119
còn vô tình hiện hữu trong con người và đời sống. Xuyên qua những tiếng cười khôi
hài, ta bắt gặp những nụ cười biểu thị thái độ rõ ràng hơn, dứt khoát hơn, đó là tiếng
cười mang màu sắc trào phúng. Người viết vờ như không biết hùa theo những trò
diễn của nhân vật, rồi để nhân vật dần tự đánh rơi mặt nạ ngụy tạo của mình để lộ bản
chất thực bên trong. Đó là cái giá đích đáng mà các nhân vật trong truyện Hu ền
thoại phố phường phải trả khi họ tự vẽ ra những danh xưng mỹ miều cho mình, là
phút bẽ mặt của các thành viên trong gia đình ông Kiền khi người này tự vạch mặt
đấu tố người kia (truyện Không có vua), hay khoảnh khắc mất thiêng của những kẻ
quen nói điều hay lẽ đẹp nhưng vô tích sự trên chuyến đò Sang sông thử thách hôm
ấy... Ở sắc điệu này, sự mỉa mai, châm biếm thường được nhà văn tạo ra thông qua
ngôn ngữ đối thoại và những tình huống giàu kịch tính trong tác phẩm để nhân vật
bằng chính nhận định, lời nói, hành động của mình sẽ tự bóc mẽ, phơi bày bản chất
thật sự của mình và phủ định đi lớp màn ngụy tạo ban đầu. Nhờ vậy, người đọc thấu
thị được nhiều hơn những vênh lệch về giá trị, sự ngộ nhận, nhầm lẫn trong đời sống
để có thái độ tỉnh táo hơn, quyết liệt hơn với những cái giả dối, xấu xa ở đời. Ấn
tượng và có sức khơi gợi, ám ảnh hơn cả là sự giễu nhại mang màu sắc của cái hài
hước đen (black humor) trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Ở đó, những
tiếng cười được gợi ra trong các tình huống oái oăm, bất ngờ và thậm chí đầy bi đát
khiến ta “cười ra nước mắt”, “cười trong sự đau khổ”. Trong truyện Tướng về hưu,
không phải ngẫu nhiên mà nhà văn hai lần nói tới cái chết, đó cũng là hai lần nói cái
Bi trong cái Hài và thấy cái Hài ở giữa cái Bi. Bà Thuấn chết vì tuổi già sức yếu,
nhưng qua cái chết ấy trừ những giọt nước mắt xót xa của nhân vật tôi và nỗi buồn
hiện hữu trong dáng ngồi trầm mặc, câm lặng của ông Thuấn thì hầu hết những người
trong cuộc đều dùng một hình thức chung vừa than vãn, kể lể, buồn thương chung
của “nhà có đám”, để che đi sự vô tâm, thờ ơ và thực dụng của mình. Sự rạch ròi, tỉnh
táo cắt đặt việc lớn của người con dâu, những trò diễn nhập vai của cô Lài người giúp
việc hay sự hồn nhiên trong cử chỉ, lời nói, hành động của người em cậu, đám đô
tùy... đều khiến độc giả không khỏi bật cười, nhưng sau tiếng cười ấy lại nhói lên một
niềm xót xa vô hạn. Cuộc đời là thế, cõi sống mong manh, người với người gắn kết
bởi tình thân, vậy mà tình thân cũng đầy những khoảng cách và sự xa ngái, người
120
thân không thể hiểu, trước đồng loại càng ngập nỗi lạc loài. Cũng chính vì thế mà khi
về hưu, sống trong cuộc đời bộn bề thường nhật, ông Thuấn mới nhận ra sự thất bại,
cô đơn thật sự của chính mình. Cái chết đến với ông quá bất ngờ và hài hước: Chiến
trường, súng đạn suốt mấy chục năm chién đấu gian khổ chẳng cướp được sinh mạng
của ông, ấy vậy mà thời bình không tiếng súng lại tiễn đưa ông chóng vánh ngay
trong lần ông về thăm chiến tuyến. Hai cái chết khác nhau, một bình thường, một bất
thường, nhưng đều đọng lại ở đó một nỗi ám ảnh về sự cô đơn, hữu hạn rợn ngợp của
đời người trước tấn trò đời mênh mông. Đọc những truyện khác như Chả đi sông ơi,
Không có vua, Cún, Tội ác và trừng phạt, Con thú lớn nhất, Chút thoáng Xuân
Hương, Trương Chi..., chủ đề cái chết cũng được Nguyễn Huy Thiệp gợi ra một cách
hài hước, không kiêng nể. Tiếng cười phát lộ từ cảnh huống oái oăm, phi lý bởi thế,
nó không đơn sắc, vui vẻ, thanh thản mà gắn liền với sự hoài nghi, nỗi thất vọng tuột
cùng khi hướng về nhân thế. Những triết lý chua chát như “tất cả mọi sự thanh cao
hoang tưởng vẫn chết trong cõi dung tục như thường!” [141, 280], hay “tôi đi xem
thiên hạ đào vàng, vừa khinh bỉ, vừa đau đớn, vừa buồn cười... Chỗ nào cũng tàn ác,
dâm dục, đều giả, tham lam...”[141, 322]... càng cho ta thấy sự hiện hữu rõ nét của
cái hài hước đen trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Có thể nói, cái Hài đã đi trọn hành trình nghệ thuật dành tiếng nói đầy sắc thái
thẩm mỹ của mình để hướng về con người và cõi nhân sinh. Ở nhận định của nhà phê
bình văn học Đông La, sự hài hước trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã giúp cho
độc giả thấy rõ hơn “cái duyên” của người cầm bút: “anh đã trộn vào nhau được hai yếu
tố trái ngược, đọc anh người ta vừa gật gù bởi những ý tưởng sâu sắc, vừa có thể bật cười
khoái chí vì những tình tiết, những lời thoại hóm hỉnh, vui nhộn” [140, 140]. Với mọi sự
giễu nhại từ cuộc đời đến văn chương, người cầm bút suy cho cùng đều hướng vào nỗ
lực mang tới cho người đọc những nhận thức đa chiều, bản chất nhất về đời sống. Nói
cách khác, cái Hài trong các truyện ngắn ở đây không đơn thuần là những cái cười mua
vui, trống rỗng mà mang trong mình luồng thông tin đa chiều và tính đối thoại rõ nét
trong cách nhìn nhận, lý giải về đời sống. Vì thế, nhà văn giễu nhại những thói hư, tật
xấu ở đời là để con người hiểu hơn về mình, không quá tự tin, ảo tưởng vào giá trị và sức
121
mạnh cộng đồng, cũng không quá bi quan, tiêu cực khi nhìn vào những phần hao khuyết,
chưa hoàn thiện của cuộc sống. Ngay cả sự giễu nhại phản thân cũng vậy, nhiều người
chạnh lòng cho rằng Nguyễn Huy Thiệp đang hạ nhục, bôi xấu nghề văn và người viết
văn. Nhưng nếu bình tĩnh nhìn sâu vào những câu chuyện khôi hài ấy, ta sẽ ngộ ra những
tiêu cực, hạn chế mà tác giả đặt ra là hoàn toàn có căn cứ. Căn bệnh háo danh, đạo đức
giả là một căn bệnh nan y và phổ biến trong xã hội không trừ một ai, ngay cả các nhà
văn. Bởi vậy, việc lấy tiếng cười để châm biếm, đả kích, tống tiễn những cái xấu xa, tiêu
cực ra khỏi đời sống và văn chương nghệ thuật, đồng thời giác ngộ cho độc giả một thái
độ tỉnh táo, dám đối diện và chấp nhận hiện thực là điều hoàn toàn đúng đắn, đáng trân
trọng. Những hiệu ứng tích cực này có thể thấy ngay trong nhận định của nhiều bạn đọc
trong đó phải kể đến tác giả Nguyễn Thị Hồng. Ở bài viết “Những cung bậc tiếng cười
trong một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp”, sau khi phân tích các cấp độ, sắc thái
thẩm mỹ của tiếng cười (từ tiếng cười khôi hài mang cảm hứng khẳng định đến tiếng
cười trào phúng mang cảm hứng phủ định hay tiếng cười bi cảm mang màu sắc hoài
nghi), người viết đã không ngần ngại khẳng định: “Nguyễn Huy Thiệp qua mỗi dòng
trào lộng đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc về một ngòi bút tinh tế,
sâu sắc, chứa đựng những tư tưởng nhân đạo, nhân văn thâm trầm, giản dị mà có sức
đánh động sâu sắc tới nhân sinh” [66, 89].
Tóm lại, trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ nếu khai thác một cái
nhìn thuận chiều về đời sống bao giờ cũng an toàn và dễ dàng hơn cả. Nhưng Nguyễn
Huy Thiệp là một cá tính văn chương nổi bật, bởi ông luôn đặt dấu chân mình ở những
con đường gập ghềnh, hoang vu, ít người qua lại nhất. Ông chọn cái xấu, cái tiêu cực,
nhem nhuốc của cuộc đời làm xuất phát điểm cho những khám phá nghệ thuật của mình.
Sự hiện diện của cái Hài không khoan nhượng trong các sáng tác của nhà văn là minh
chứng cho con đường góc cạnh mà ông đã lựa chọn. Ở đó, tiếng cười trí tuệ, có mục đích
được cất lên đa sắc điệu đã cho người đọc những nhận thức, phản biện mới mẻ về con
người, cuộc sống và văn chương để độc giả thấm thía một điều: cuộc sống này không
phải màu hồng mà đầy mảng tối với những cái nhố nhăng, đồi bại, giả dối, tăm tối, dẫu
khổ nhục nhưng cũng đáng yêu thương, trân trọng vô cùng.
122
Tiểu kết chƣơng 3
Cái Bi và cái Hài cũng là hai phạm trù thẩm mỹ mà Nguyễn Huy Thiệp đã dành
khá nhiều tâm huyết để nhìn nhận và phản ánh như những phương tiện khái quát tư
tưởng nghệ thuật đặc biệt trong các sáng tác. Để rồi, nhìn về những câu chuyện bi hài
kịch của cuộc đời, của con người, độc giả nhận thấy ở đó một hiện thực còn đầy dang
dở với những mất mát, đau xót trộn lẫn cái kệch cỡm, oái oăm của một thời đại “mạt
pháp” với những con “vật - người”, “người hóa quỷ”... Hiện thực ấy thôi thúc chúng ta
phải biết trân trọng hơn nữa những giá trị, tình cảm lương thiện tốt đẹp trong cõi người,
đồng thời có thái độ tỉnh táo, nhận thức rõ và đúng đắn về những thiếu khuyết của cuộc
đời mới mong có những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Có thể nói, cái Bi và cái Hài đã
góp thêm một tiếng nói phản tỉnh, tạo ra tính chất đối thoại dân chủ và nhân văn tích
cực cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đó cũng là lý do tại sao bạn đọc luôn bị hấp
dẫn lôi cuốn bởi những sáng tác của nhà văn.
123
Chƣơng 4
CÁI NGHỊCH LÝ VÀ CÁI THÔ KỆCH
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
4.1. Cái Nghịch lý trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
4.1.1. Quan niệm về cái Nghịch lý của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Nghịch lý là một phạm trù thẩm mỹ đặc biệt hiện diện song hành cùng các phạm trù
cơ bản như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái Hài trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cũng
như các phạm trù cơ bản khác, sự hiện diện của cái Nghịch lý không phải ngẫu nhiên mà là
cả quá trình thử nghiệm nghệ thuật, phản ánh quan niệm thẩm mỹ riêng của chủ thể sáng tạo
trước thực tại.
Từ góc độ ngữ nghĩa phổ thông, trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên có
định nghĩa: Nghịch lý là từ ngữ dùng để chỉ “điều có vẻ ngược với logic thông thường,
nhưng vẫn đúng hoặc khó bác” [109, 674]. Ở góc độ chuyên ngành, cái Nghịch lý (tiếng
Anh: Paradox) cũng được đề cập trong một số công trình nghiên cứu với những nét nghĩa
chuyên biệt. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân chủ biên có cắt nghĩa:
Nghịch lý là một thủ pháp nhằm đưa ra những châm ngôn, phán đoán mà “nội dung của nó
bất đồng rõ rệt - so với ý kiến đã được số đông chấp nhận, đã thành truyền thống hoặc so với
lẽ phải thông thường (đôi khi chỉ là bề ngoài)” [4, 213]. Nói cách khác, cái Nghịch lý ở đây
được xem là một hình thức diễn ngôn đặc biệt, đi ngược lại những quy luật logic, hình thức
thông thường để truyền tải những thông điệp, những dụng ý thẩm mỹ riêng. Còn trong Từ
điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),
nghịch lý được nhìn nhận trong tương quan giữa logic học và văn học: ở bình diện logic, đó
là “những suy luận” mang tính nhị nguyên “trái hẳn với kiểu lý giải truyền thống hay trái lẽ
phải thông thường” nhưng lại “cho thấy những chân lý nào đó”, ở bình diện văn học, nghịch
lý là “biện pháp gây ấn tượng”, là “nguyên tắc” xây dựng hình tượng và tác phẩm từ những
điều phi lý, nghịch dị bất ngờ [44, 205]. Từ những quan niệm trên, ta có thể thấy nghịch lý là
một phạm trù đặc biệt, phản ánh các sự vật hiện tượng bề ngoài có thể ngược đời, kỳ dị, đi
ngược lại logic thông thường của đời sống, song bản chất lại có cơ sở và sức thuyết phục
nhất định. Như vậy, con đường để nhận thức về phạm trù này không thể chỉ dừng ở những
124
biểu hiện bề ngoài mà quan trọng hơn là chúng ta cần phải tìm được hạt nhân hợp lý, logic
bên trong và bản chất của đối tượng.
Xuất phát từ nội hàm khái niệm nguồn đó soi chiếu vào các lập luận trong các trang
viết của Nguyễn Huy Thiệp ta sẽ nhận thấy cơ sở xác đáng và sự nhạy bén trong quan niệm
nghệ thuật của nhà văn về phạm trù cái Nghịch lý. Đầu tiên, nhà văn đã chỉ ra bản chất của
đời sống là một cuộc tranh đấu phức tạp, lộn xộn và hết sức ngẫu nhiên. Ở đó, con người
vừa phải “giành giật miếng ăn” để sinh tồn vừa phải nỗ lực hướng tới một đời sống vật dục
có văn hóa. Họ cũng dày công đi tìm những quy luật, trật tự, giá trị cho cuộc đời, nhưng khi
tìm ra rồi họ lại thấy nó thật vô lý, vô nghĩa vì đã “bé cái nhầm” [140, 14]. Hiện thực luôn
vận động, biến đổi không ngừng trong khi con người lại quá bé nhỏ và hữu hạn, vì thế mọi
điều đều có thể xảy ra trong cõi nhân sinh, mọi giá trị cũng có thể đổi thay trong thời đại.
Tưởng chừng như đơn giản, tôn ti ấy “cái gì cũng có thể quan trọng hóa nó được nhưng
cũng có thể không quan trọng hóa nó cũng được” [140, 224]. Nhận định này của Nguyễn
Huy Thiệp cho thấy ông đã ý thức rất rõ về sự tồn tại của cái Nghịch lý giữa hiện thực. Nó
xuất hiện như một phần tất yếu của đời sống khách quan, phản ánh ở tính phức tạp, bất định
và đầy sự ngẫu nhiên của các sự vật hiện tượng. Như vậy, cái Nghịch lý hoàn toàn có thể
sánh ngang với cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái Hài về vai trò thẩm mỹ và giá trị biểu hiện
trong văn chương nghệ thuật.
Cái Nghịch lý là một phần của cuộc sống, khi đi vào trong văn học nghệ thuật, sự
hiện diện của nó càng được nhà văn nhận thức một cách rõ ràng hơn. Ông lập luận rằng:
“Trong văn chương, trong sách vở có chứa cả thế gian” [140, 90]. Con người tìm đến văn
học không phải để thỏa sự hiếu kỳ, tò mò mà là hướng đến những nhận thức giá trị về bản
thân, con người và đời sống. Mỗi hình tượng trong tác phẩm hoàn toàn có thể trở thành một
thần tượng, một hình mẫu lý tưởng cho bạn đọc. Nhưng nếu quan sát ta sẽ nhận thấy bản
thân sự tôn thờ thần tượng ấy của con người cũng không hề đơn giản thuần nhất mà đầy
nghịch lý: “những cô gái mới lớn, hết sức đức hạnh và trong trắng lại lén lút đọc những
truyện nhảm nhí. Người anh hùng của các thiếu nữ hoa niên không phải là những tấm gương
sáng đạo đức mà lại là một gã Đông Juăng nào đó. Ở những người đàn ông bán giời không
văn tự, cuộc đời đầy những sóng gió bất hảo thì thần tượng văn học của họ lại là những
gương sáng đạo đức” [140, 29]. Bởi thế, không có lý gì văn học phải tự giới hạn mình chỉ
125
nhận thức, khẳng định những quy luật thuận chiều mà khước từ sự phong phú, mới mẻ khi
hướng tới cái ngẫu nhiên, khác thường, khó đoán định của khách thể đời sống. Trái lại, thấu
thị được những điều đó, văn học sẽ giúp độc giả của mình có được một tâm thế, một bản lĩnh
sống tích cực, tỉnh táo và nhân văn hơn.
Không dừng ở đó, với nhà văn, ông kỳ vọng rất nhiều vào một nền văn học thời
kỳ hội nhập nơi có tiếng nói văn nghệ chuyên nghiệp, thực chất và có thành tựu. Để
dần biến những kỳ vọng, lý tưởng đó thành hiện thực, ông cho rằng cần tạo cho văn
học một môi trường dân chủ: “Dân chủ hóa trong văn học là một nhu cầu của thời đại
[...] thiếu một bầu không khí dân chủ trong sinh hoạt văn học, thiếu một sự cởi mở
trong tiếp nhận và thưởng thức văn học thì cũng rất khó cho văn học phát triển” [140,
224]. Nói cách khác, dân chủ là điều kiện thiết yếu để xây dựng một nền văn học có giá
trị. Sự dân chủ ấy phải đến từ mọi phía: nhà văn, thời đại, tác phẩm và người đọc. Về
phần mình, nhà văn đã thể hiện tinh thần dân chủ bằng cách tự mày mò thử nghiệm,
mạnh dạn công khai quan niệm và cách biểu hiện nghệ thuật riêng của tác giả trong các
sáng tác mà không để tiếng nói chính trị hay tiền bạc nào can thiệp, chi phối. Ông dám
đối chất với mọi chân lý đám đông, nhìn vào mọi cái tiêu cực trong đời sống và chấp
nhận tất cả những cái khả biến, lẫn lộn, ngổn ngang của đời sống. Điều này chứng tỏ,
việc tìm và thể hiện cái Nghịch lý trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không đơn
thuần là một sự phản ánh trung thành hiện thực khách quan mà còn là một nỗ lực, một
thái độ dân chủ hóa trong sinh hoạt văn nghệ của chính người cầm bút.
Với nhãn quan tinh tế của những người cầm bút, hiện thực đời sống chưa bao giờ là
đơn điệu và thiếu sức hấp dẫn nhưng tự thử thách mình bằng việc tìm đến những điều phi lý,
oái oăm và khó lý giải một cách nghiêm túc, quyết liệt như Nguyễn Huy Thiệp không phải
ai cũng dám làm. Chúng ta có thể nhận thấy trong quan niệm của nhà văn, cái Nghịch lý
không phải cái ngược đời, đi ngược lại bản chất cuộc sống mà là một mặt “khả biến” bề bộn
của hiện thực mà con người chưa chiếm lĩnh nhận thức hết được. Vì thế, nó chính là một
khoảng trống đắc địa để người nghệ sĩ có thể thể hiện bản lĩnh, nhiệt tâm và tầm vóc của
chính mình. Đồng thời, thể hiện cái Nghịch lý cũng là cách góp phần tạo ra bầu không khí
dân chủ, lành mạnh cho nhận thức của con người trong văn học để văn học là chính nó,
không tô hồng hay bôi đen bất cứ điều gì của đời sống.
126
4.1.2. Biểu hiện của cái Nghịch lý trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Như đã đề cập, cái Nghịch lý bắt nguồn từ chính sự ngẫu nhiên khả biến của hiện
thực. Chính vì thế, đến với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy sự hiện hữu của phạm
trù thẩm mỹ này ở sự bộn bề phức tạp của chính đời sống, từ con người, xã hội đến văn
chương nghệ thuật. Những biểu hiện đó được nhà văn khai thác dưới nhiều góc độ khiến cái
Nghịch lý hiện lên vừa sinh động vừa thuyết phục.
4.1.2.1. Nghịch lý trong đời sống
Khi hướng về cuộc đời, điều mà Nguyễn Huy Thiệp theo đuổi là nỗ lực mang tới cho
con người những nhận thức mới mẻ, nhiều chiều và bản chất về chính con người và cõi nhân
sinh. Nỗ lực ấy được tác giả khơi lên từ một bức tranh hiện thực sinh động, bề bộn và đầy
những điều bất trắc, nghịch lý.
Đọc các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, không khó để chúng ta một nhận thấy một
cõi đời quá đỗi phức tạp: Từ trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với gia đình,
dòng tộc đến những mối quan hệ rộng lớn giữa cá nhân với xã hội và thời đại... tác giả đều
có thể chỉ ra ở đó đầy những nghịch cảnh và sự bất ổn. Con người luôn tự tin coi mình là
động vật linh trưởng bậc cao, sự tồn tại của nhân loại gắn với những thành tựu văn hóa, văn
minh và những tình cảm “tính người” rất lương thiện, tốt đẹp. Vậy nhưng đọc các truyện
ngắn của ông ta lại thấy một hiện thực tàn nhẫn, ngự trị đầy những định kiến, hẹp hòi, sự vô
tâm, mông muội và cái ác. Thuyết nhân quả “Ở hiền gặp lành” thường được cộng đồng xem
như một nguyên tắc đạo đức sống tốt đẹp, Nguyễn Huy Thiệp đã phản biện lại những
nguyên tắc ấy bằng những sự thật ngang trái nhất, phũ phàng nhất: chị Thắm (truyện Chả đi
sông ơi) sống lương thiện, luôn cứu vớt, giúp đỡ và tận tâm với mọi người cuối cùng lại chết
đuối mà không ai cứu, cái Thu lúc nào cũng đối xử ân cần, bao dung với thằng Đăng như
một “người mẹ” nhưng người lớn lại luôn coi nó là một “con ranh” khó chịu, là cội nguồn
của mọi lỗi lầm, thói hư tật xấu của thằng Đăng (truyện Tâm hồn mẹ). Những người sống
phóng khoáng, thuận tự nhiên như nàng Bua (truyện Những ngọn gió Hua Tát) luôn bị cộng
đồng kỳ thị, công kích, ông Thuấn (truyện Tướng về hưu), một vị tướng có tâm thì chả mấy
khi được vui mà chỉ toàn thấy “nhục”, ngay cả những bậc vĩ nhân, danh tiếng lừng lẫy nhất
như Nguyễn Du, Quang Trung, Nguyễn Trãi hay Hồ Xuân Hương, Đề Thám... tưởng chừng
là những thần tượng của lòng nhân nghĩa, sự anh hùng, tài năng và trí tuệ cũng ngấm ngầm
127
những nỗi niềm riêng đầy cô đơn, cay đắng và bất lực trước thời đại... Tất cả những điều ấy
cho ta thấy, Nguyễn Huy Thiệp đã gỡ bỏ hoàn toàn thứ niềm tin cổ tích trong văn học khi
phản ánh hiện thực cuộc đời. Với ông, cổ tích là chuyện hoang đường, chỉ có cái ác, cái xấu
xa, đồi bại, ngu dốt, ngh o đói... là có thật ở mọi thời đại, mọi miền quê, mọi lớp người. Vì lẽ
đó, trong cuộc đời thường hằng, việc những người phải chịu thiệt thòi là điều không có gì xa
lạ. Kẻ anh hùng không phải lúc nào cũng giành phần thắng. Người tầm thường có thể làm
việc phi thường, ngược lại kẻ mang danh phi thường lại có những mặt vô cùng tầm thường,
nhỏ bé... Như vậy, cái Nghịch lý trước hết biểu hiện ở một bức tranh đời sống vừa gần gũi,
dung dị, nhưng cũng vô cùng bề bộn, phức tạp với đầy những điều mâu thuẫn và oái oăm.
Bản thân cuộc sống vốn không xuôi chiều như cách người ta vẫn hay lầm tưởng, suy
diễn, tung hô về nó. Chính vì thế, cái Nghịch lý hiện hữu như một tất yếu buộc con người
phải đối diện và thừa nhận nó. Điều này được xác lập một cách rõ ràng qua thế giới nghệ
thuật mà Nguyễn Huy Thiệp tạo ra trong các sáng tác của mình. Đó là một thế giới đời
thường nhưng thật khác lạ, đầy những sự việc ngược đời, quái dị, có những điều tưởng
chừng như phí lý nhất đều có thể xảy ra. Trong truyện Chả đi sông ơi, khi kể về trùm Thịnh
đốt quán có cảnh thật rùng rợn: giữa ban ngày người ta thấy một con chuột cống to bằng bắp
chân, phóng từ quán ra ngoài rồi “cười hềnh hệch”. Chuyện về một kẻ ăn mày không ra hình
người lại có thể sinh ra một cậu con trai đẹp đẽ, sau này trở thành một nhà phê bình danh
tiếng (truyện Cún) cũng thật khó tin. Độc giả sẽ không thể hiểu bằng cách nào mà một nhà
thơ dáng hình thư sinh, tay không xuống thuyền mà một mình có thể an toàn qua sông giữa
lúc bão giông dữ dội nhất (truyện Thiên văn). Ta cũng không thể lý giải được cơ chế nào
giúp chiếc tù và cũ kĩ bị bỏ quên trên mái nhà có thể quét sạch nạn sâu rừng chỉ trong phút
chốc, nàng Sinh có sức mạnh kỳ diệu gì mới có thể nhấc ngẫu vật thiêng bóp nhẹ khiến nó
tan ra thành nước trong khi cả bản Hua Tát không ai làm ngẫu vật ấy xê dịch được (truyện
Những ngọn gió Hua Tát). Trong truyện Phẩm tiết, sự xuất hiện của người phụ nữ Ngô Thị
Vinh Hoa cũng đầy những điều bí ẩn, kỳ lạ. Khi đẻ ra Vinh Hoa trên nóc nhà bỗng có “mây
ngũ sắc bay đến tỏa ra ánh sáng rực rỡ, khắp nơi hương thơm ngào ngạt. Lớn lên nàng vừa
xinh đẹp, giỏi giang lại có tài tri thiên mệnh “nói câu nào thiêng câu ấy”. Vua chúa, tiền bạc,
quyền lực đều phải quy thuận yếm thế trước nàng. Khi Quang Trung đột ngột qua đời chỉ có
tay Vinh Hoa vuốt nhà vua mới có thể nhắm mắt, sau đó ngón tay út của nàng “đen như
128
chàm, rửa thế nào cũng không sạch” [141, 163]. Có thể thấy, trong những câu chuyện ấy,
ranh giới thực - ảo, điều không thể - có thể đã bị nhà văn xóa nhòa đi và thay vào đó là
những tình tiết bất ngờ, thực hư lẫn lộn, khó có thể lý giải một cách rành rẽ. Điều này có thể
mâu thuẫn với logic thông thường, lý tính của đời sống, nhưng lại có sức thuyết phục và thu
hút được niềm tin của con người về sự li kỳ, bí ẩn khó đoán định của đời sống.
Nghịch lý sở dĩ trở thành một mặt tất yếu của hiện thực vì nó hiện diện ở mọi nơi,
trong bất cứ hoàn cảnh, thời đại nào và không loại trừ một ai. Khát vọng thấu suốt, kiểm soát
mọi lẽ đời của con người thực tế là một khát vọng không tưởng. Nhà văn đã giúp người đọc
nhận ra điều đó từ những tình huống bất ngờ không thể đoán định của đời sống. Với mỗi tác
phẩm, người đọc lại như lạc vào một thế giới mà ở đó mọi ranh giới được - mất, thắng - thua,
sống chết đều vô cùng mong manh khó lòng phân giải. Ông Thuấn trong truyện Tướng về
hưu trong chiến tranh là người chiến thắng nhưng về với đời thường lại thành người chiến
bại, thảm hại nhất ông lại thất bại với chính người thân và trong chính gia đình mình. Vua
Quang Trung trong truyện Phẩm tiết đã hao tổn bao tâm sức để đánh bại quân Thanh, khao
quân, dụ tướng, thu phục nhân sĩ trong thiên hạ, song công sức ấy đều không thay đổi được
vận khí ngắn ngủi của Tây Sơn được gắn với lời sấm truyền của người ái phi kỳ bí Ngô Thị
Vinh Hoa. Nhãn quan tuyệt vời và tinh thần tự chủ vượt trội của người anh hùng “đại diện
cho tâm hồn An Nam” - Đề Thám - thực tế cũng không thể xoay chuyển được thời cuộc vì
“suốt đời thỏa hiệp, không bao giờ dám bước qua lằn ranh bổn phận, nghĩa vụ, cương tỏa”
[141, 194]... Nguyễn Huy Thiệp cũng vẽ ra những cuộc đi săn hoàn hảo, những tay súng săn
cự phách, dạn dày như ông Diểu (truyện Muối của rừng), tay thợ săn (truyện Con thú lớn
nhất) hay ông Nhân (truyện Sói trả thù) vậy mà kết cục của những cuộc truy lùng đuổi bắt
ấy họ đều trở về tay không. Ông Diểu không còn mảnh vải che thân hay bất cứ đồ đạc gì.
Lão thợ săn thì tự kết liễu đời mình nằm gục bên cái xác thối rữa của người vợ mà chả hạ
được con thú nào ngoài mình. Ông Nhân ban đầu có vẻ thắng lợi hoan hỉ khi ông bắn hạ
được bầy sói, bắt cả sói con về nuôi, cuối cùng lại nhận được kết cục đau lòng là sự trả thù
của con sói con lên chính mạng sống của cậu con trai duy nhất ngay trong ngày cúng ma cho
nó. Trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Huy Thiệp có lẽ đã vẽ ra hàng trăm cái chết
mỗi người một cách, chả ai giống ai, nhưng đa phần trong đó lại là những sự ra đi hết sức bất
ngờ, oái oăm, bất đắc kỳ tử. Trong truyện Tướng về hưu, chiến tranh, bom đạn, kẻ thù đều
129
không thể giết được người chỉ huy trận địa ấy, vậy mà ông lại ra đi nhẹ nhàng giữa thời bình
ngay trong lần lên chốt thăm đồng đội cũ. Ranh giới sự sống và cái chết trong truyện Nàng
Bua cũng thật mong manh, bất ngờ. Một mình nàng có thể nuôi sống chín đứa con không
cha vượt qua bao dị nghị điều tiếng và đói khát của cuộc đời. Đến khi nàng có một người
chồng được thừa nhận, có điều kiện để hưởng hạnh phúc với sự đầy đủ, nề nếp truyền thống
thì người đàn bà ấy lại chết lúc trở dạ giữa đống mền chăn ấm áp. Chẳng ai ngờ bậc đại phú
trọng nghĩa, khinh tài, sống ngay thẳng, phóng khoáng như Ngô Khải (truyện Phẩm tiết) lại
phải nhận cái chết hàm oan, uất ức vì gian kế của tên Sâm - một quản gia thân tín. Truyện
Trương Chi cũng vậy, Trương Chi đấu tranh cho tình yêu tự do lại phải trả giá bằng cái chết,
còn Mị Nương an phận thì “sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc” [141, 318]... Có thể
nói, cái chết đến với các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một cách ngẫu
nhiên, đầy nghịch lý. Nó hoàn toàn nằm ngoài những suy đoán logic thông thường của
người đọc và đời sống. Điều này một lần nữa chứng tỏ rằng, sự bề bộn, lộn xộn, “động”,
“loạn” của đời sống mà nhà văn đặt ra trong các tác phẩm là hoàn toàn có cơ sở. Ta nhận ra
rằng cái Nghịch lý hiện hữu ở giữa những ranh giới đối lập mà con người tự kiến tạo ra. Từ
đó, cuộc đời này bên cạnh những cái tất nhiên, logic vẫn có đầy cái ngẫu nhiên, phi lý, ngoài
những điều có lý vẫn đầy rẫy những sự vụ vô lý ngự trị, bởi thế, mọi cố gắng lý giải đời sống
theo một khuôn mẫu, trật tự hay logic nào đó đều trở nên vô nghĩa và không thỏa đáng: “mọi
sự thanh cao hoang tưởng vẫn chết trong cõi dung tục như thường!” [141, 208].
Cái Nghịch lý còn hiện hữu ngay trong cách lý giải và xem xét về các mối quan hệ
của con người trong xã hội. Nguyễn Huy Thiệp cũng nhận ra không ít những bất ổn phi lý
ngay trong lòng những mô hình trật tự, giá trị truyền thống. Gia đình, dòng họ, cộng đồng trở
thành những “tổ quỷ” di dưỡng thứ trật tự gia trưởng vừa ấu trĩ vừa trì trệ và ích kỉ. Gia đình
vị tướng về hưu bề ngoài sung túc, nền nếp nhưng bên trong lại hời hợt, vô tâm, chẳng ai
hiểu ai (truyện Tướng về hưu). Sự đông đúc, sum vầy mỗi dịp lễ tết của gia đình lão Kiền
cũng không khỏa lấp được cảnh không có vua, cá m một lứa trong các mối quan hệ cha -
con, anh - em, chồng - vợ (truyện Không có vua). Ông tổ dòng họ Phạm giữ đức trọng văn
bao nhiêu thì đời con, đời cháu lại thủ đoạn, bất nhân bấy nhiêu (truyện Giọt máu). Gia đình,
dòng họ, làng quê hay công sở đã trở thành những “tổ quỷ”, nơi dung túng che đậy cho
những thứ lố lăng, xấu xa, lạc hậu... Từ sự đổ vỡ của những mô hình giá trị trung tâm tất yếu
130
dẫn tới sự đảo lộn, sai trật và phi lý trong mối quan hệ giữa người với người. Sợi dây ràng
buộc giữa cá nhân với cộng đồng giờ đây không còn là trách nhiệm, tình thân và sự đồng
cảm tự nhiên nữa, thay vào đó là sự chi phối của lợi ích, dục vọng và sự thấp h n. Bởi vậy,
trong những khái quát về tình cảm con người, bản thân tác giả cũng rơi vào trạng thái đầy
mâu thuẫn, hoài nghi. Có lúc Nguyễn Huy Thiệp tự tin khẳng định: “tình yêu là điều diệu kỳ
nhất” (truyện Quan Âm chỉ lộ). Vậy nhưng trong những truyện ngắn khác, ông lại ngấm
ngầm chỉ ra đầy thứ láo toét nhân danh tình yêu: đó là “trò khỉ” không biết ngượng của đôi
nam nữ dở ra trên chuyến đò có đầy đủ ban bệ từ nhà văn, nhà sư đến người mẹ, nhà buôn,
tên tướng cướp (truyện Sang sông), là thứ văn hóa “sướng” mà cô Phượng chủ nhà say sưa
giáo hóa cho chàng Chương trong truyện Con gái Thủy Thần, hay là “tiếng lòng lýu la lýu
lo” tự nhiên chủ nghĩa mà người thầy giáo giảng say mê cho các sinh viên của mình trong
truyện Những tiếng lòng líu la líu lo... Rõ ràng, nếu để thiết lập và hướng tới một trật tự đời
sống thường nhật, dựa theo thói quen và tâm lý đám đông là điều không thể trong thế giới
nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Bởi tác giả đã từng bước lật ra vô vàn những
nghịch lý đã và đang hiện hữu trong cuộc đời buộc người đọc phải có cái nhìn khác, cách tư
duy khác mới có thể chấp nhận được sự bề bộn, oái oăm của hiện thực trong sáng tác. Đồng
thời ông cũng chỉ ra, khi cuộc sống rơi vào trạng thái “loạn” về mặt giá trị thì sự hiện diện
phổ quát của những điều ngược đời, khó lý giải cũng là lẽ đương nhiên.
Cái Nghịch lý của cuộc đời còn nằm ngay trong sự tồn tại của mỗi con người nhìn từ
góc độ bản thể. Con người luôn đặt ra khát vọng có tính lý tưởng là được tồn tại, phát triển
một cách toàn diện, hài hòa trên cả hai phương diện tự nhiên và xã hội, nhưng đọc truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp ta lại thấy tác giả đã chứng minh khát vọng hòa hợp lý tưởng ấy là
điều không tưởng. Bởi mặt tự nhiên luôn hướng bản thân con người tới sự tự do của mỗi cá
nhân, thuận theo tự nhiên và không vụ lợi, trong khi đó, con người xã hội lại tập trung thiết
lập những trật tự có mục đích thông qua các định ước, khuôn khổ, chuẩn mực chung cho loài
người. Từ đó, cuộc tranh đấu giữa hai mặt tự nhiên và xã hội, giữa tự do và thiết chế, cái
chung và cái riêng... trong cùng một con người là cuộc đấu tranh muôn thuở. Sự trớ trêu, bất
công mà mỗi người phải nếm trải trong số phận của mình khi đấu tranh cho sự tồn tại chính
thể, cá nhân đó có thể xem là một phần biểu hiện không thể thiếu của cái Nghịch lý trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Các nhân vật trong sáng tác của ông luôn có xu hướng phá
131
tung hình tượng bình ổn thông thường của họ trong đời sống. Chàng Chương sẵn sàng rũ bỏ
gia đình, quê hương để lang thang theo đuổi giấc mơ tìm được người con gái Thủy Thần
trong nhân thế (truyện Con gái Thủy Thần). Sạ cũng chẳng ngại làm những việc oái oăm,
ngược đời và liều lĩnh nhằm chứng minh mình khác với những gì đời đang có (truyện
Những ngọn gió Hua Tát). Trương Chi cũng sẵn sàng chọn cái chết để thể hiện “bản tính”
thật sự của mình trong khúc ca tình yêu say mê, tự do (truyện Trương Chi). Những người ở
đỉnh cao danh vọng như Quang Trung, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Đề Thám (truyện Vàng
lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam... ) cũng rũ sạch hào quang của danh nhân,
người anh hùng, sống trở về với những xúc cảm, trăn trở đời thường nhất, con người
nhất. Các nhân vật ấy đều có chủ trương phủ định trạng thái bình ổn mang quy ước
của xã hội hiện thời để khẳng định tiếng nói bản ngã cá nhân của mình. “Giữ
nguyên tình trạng đòi hỏi một sự ngu xuẩn phi thường, ngu xuẩn thiên tài” [141,
305], họ không chấp nhận được điều đó nên thay bằng sự thỏa hiệp các nhân vật
chọn cho mình cách khước từ, rời xa những giá trị trung tâm, truyền thống và tự
thiết lập hệ giá trị cho riêng mình. Chỉ có cách rời bỏ quê hương, gia đình để tìm ra
biển lớn chàng Chương mới thấy được cái mênh mông bất tận của cuộc đời khi đất
nước sắp bước sang năm 2000, sang một thế kỉ mới. Tiếng hát tình yêu tự do của
Tương Chi sẽ chẳng bao giờ được cất lên nếu chàng “nhẫn nhục”ca ngợi đám đông,
quyền lực, tiền bạc. Danh nhân có nghĩa lý gì đâu khi bản thân họ không được sống,
được nhìn nhận như một con người trần thế có tình yêu, có cảm xúc? Rõ ràng cái
Nghịch lý hiện hữu ngay trong lẽ tồn tại của mỗi con người khi cùng một lúc chúng
ta phải thỏa mãn cả phần bản thể tự nhiên lẫn trách nhiệm xã hội.
Thấm thía cái vô hạn định, tính khả biến của đời sống, những mâu thuẫn bản
thể bên trong mỗi con người, Nguyễn Huy Thiệp đã kiến tạo khá nhiều hình ảnh
những con người ra đi để tìm chân lý, tìm hệ giá trị, tình yêu, hay lẽ tồn tại riêng
cho chính mình. Nghịch lý nảy sinh ở chỗ họ càng khao khát kiếm tìm bao nhiêu thì
câu trả lời của thực tế càng phũ phàng, tàn nhẫn bấy nhiêu. Trong truyện Chả đi
sông ơi, nhân vật tôi đặt hết niềm tin vào lẽ phải, cái thiện, phép màu của câu
chuyện về con trâu đen huyền bí, cuối cùng bẽ bàng vỡ lẽ: “Chuyện con trâu đen chỉ
là chuyện đồn nhảm nhí [...] Ở bến Cốc này thì chuyện giết người ăn cướp có thực,
ngoại tình có thực, cờ bạc có thực, còn chuyện trâu đen là giả” [141, 9]. Chàng
132
Chương trong truyện Con gái Thủy Thần cũng khao khát kiếm tìm vẻ đẹp tuyệt đích
của dáng hình Mẹ Cả nhưng đi tới đâu cũng chỉ thấy những chuyện “láo khoét” và
những khuôn mặt đời thường xấu xí, dung tục “đầy nhục cảm, không đểu cáng,
dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ” [141, 72]. Chàng đau đớn nhận ra cuộc đời
không có cái Đẹp tuyệt đích, không vụ lợi và biển khơi cũng không hề có người
con gái Thủy Thần nào. Hướng ra chốn thành thị, ta cũng hoài công kiếm tìm
những giá trị văn hóa văn minh, thay vào đó là tâm tính vụ lợi bất chấp, người lừa
người, người ăn thịt người (truyện Tướng về hưu, Hu ền thoại phố phường, Giọt
máu...). Tìm về sự thanh bình nơi thôn dã, ta lại nhận được toàn cảnh sống tù túng,
nhếch nhác, ngh o khổ (truyện Chả đi sông ơi, Con gái Thủy Thần, Thương nhớ
đồng quê, Những bài học nông thôn...). Muốn tận hưởng vẻ hoang sơ, hùng vĩ nơi
rẻo cao kết quả là độc giả phải chứng kiến toàn những tội ác bắt nguồn từ sự mông
muội (truyện Tội ác và trừng phạt, Thổ cẩm, Những ngọn gió Hua Tát...). Không
tìm được điểm tựa vào những giá trị tích cực của cuộc sống hiện tại, ta tìm về với
nỗi niềm hoài cổ. Nhưng đọc các truyện ngắn viết về các danh nhân bước ra từ
trong quá khứ, chúng ta chợt nhận ra nghịch cảnh: càng những người có danh
tiếng, ở đỉnh cao danh vọng họ lại càng trở nên lạc loài trong nhân thế, họ là
những “khối cô đơn khổng lồ”. Cái Nghịch lý nằm trong chính những câu trả lời
đầy phũ phàng, cay đắng mà hiện thực mang đến cho những kỳ vọng hay niềm tin
ngây thơ của con người về các giá trị xung quanh. Nỗi thất vọng, ê chề tràn thấm
cõi nhân sinh.
Có thể nói, mọi giá trị trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đều được nhà
văn khai thác, thể hiện bằng những điều phản giá trị. Cái Nghịch lý tồn tại từ trong
sự bề bộn, phức tạp, ngẫu nhiên của đời sống, hiện hữu trong những mâu thuẫn nội
tại của mỗi con người và nó có cả trong những điều bí ẩn khó đoán định của bản
thân con người và cuộc sống. Đến với phạm trù thẩm mỹ này đồng nghĩa với việc
người đọc phải chấp nhận một hành trình đi tìm chân lý trong những điều phi lý,
ngược đời. Bởi cứ đi tìm cái Đẹp ta sẽ thấy toàn cái xấu xa, tìm cái Thiện sẽ nhận
về vô vàn tội ác, càng tin tưởng sẽ càng thất vọng xót xa... Tuy nhiên, chính những
câu trả lời cắc cớ, những tình huống khó chấp nhận ấy lại tạo lập một lối tư duy
133
thẩm mỹ vô cùng mới mẻ và đầy sức hấp dẫn đối với độc giả khi khám phá về con
người và đời sống qua văn học nghệ thuật.
4.1.2.2. Nghịch lý trong văn chương nghệ thuật
Cái Nghịch lý không chỉ bao trùm lên đời sống, con người mà nó còn hiện
diện ngay trong đời sống của văn học nghệ thuật. Thân phận của người nghệ sĩ trên
con đường sáng tạo và số phận của những tác phẩm cũng chứa đầy những điều mâu
thuẫn, khó lý giải, đoán định.
Về phía người nghệ sĩ, danh tiếng chính là nghịch lý đầu tiên mà họ phải đối
diện và chấp nhận khi dấn thân vào sự nghiệp của người cầm bút. Sáng tạo chưa
bao giờ là công việc giản đơn và sáng tác để được công chúng thừa nhận mình là
một nhà văn lại càng khó khăn hơn. Những yêu cầu, đòi hỏi gắt gao từ công chúng,
thời đại buộc những người nghệ sĩ ấy vừa phải thấu cảm, lăn lộn với nhân thế vừa
phải kiến tạo cho mình những phẩm chất cao hơn đời sống trong khi họ vẫn phải
đảm đương trách nhiệm của một con người đời thường. Từ đó, danh phận của người
nghệ sĩ luôn hàm chứa mâu thuẫn không thể dung hòa giữa khát vọng nghệ thuật
với đời sống thực tế của họ. Khát vọng nghệ thuật hướng tới những giá trị đẹp đẽ,
cao cả và thiêng liêng bao nhiêu thì cuộc đời thực của họ lại nhếch nhác, méo mó,
đáng thương bấy nhiêu. Trong truyện Vàng lửa, chân dung của Nguyễn Du hiện lên
hoàn toàn trái ngược với hào quang của danh phận “đại thi hào” mà đời sau suy tôn
cho ông. Trong mắt tên Phăng - cận thần người Pháp của vua Gia Long - Nguyễn
Du chỉ là một nhà thơ có tài, nhưng đầy mặc cảm, “mặt nhàu nát vì đau khổ” và
cuộc đời lại “xúi xó, túng kiết” [141, 151]. Với Gia Long, ông cũng không coi
Nguyễn Du ra gì chỉ như “con ngựa giống tốt trong cả đàn ngựa, lợn, bò, gà mà ông
chăn dắt” [141, 152]. Hình ảnh Tú Xương trong truyện Thương cả cho đời bạc cũng
nhom nhem, tầm thường khác xa với vẻ tài tử nhạo đời của thi sĩ trong mỗi bài thơ
tự trào. Ở đó, ông Tú trở về trong hình ảnh đời thường là một người chồng “không
có nghề nghiệp gì”, “không để ý gì đến nhà cửa” đến nỗi vợ ông phải đón ông về để
làm ông đồ dạy con, đối đãi như một ông đồ người ngoài [141, 349]. Ông đã trót
hứa với cô đào Thu cấp cho cô ít vốn để về quê làm ăn, nhưng mỗi lần cô hỏi ông
chỉ biết “ậm ừ” cho qua [141, 356]. Nhân vật thi sĩ trong truyện Hạc vừa bay vừa
134
kêu thảng thốt cũng bị lẫn vào giữa đám đông tấp nập. Nhận định “Không hề ai biết
hắn là một thi sĩ” được tác giả lặp lại nhiều lần trong tác phẩm như một sự khẳng
định cho tính chất mập mờ, vô thừa nhận của danh phận người nghệ sĩ. Cuộc sống
đời thường hay vô tâm lướt qua họ, coi thường và d chừng với họ. Bởi thế, thuở
sinh thời thi sĩ Trang Sinh cũng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương... và
bao người nghệ sĩ khác đều mờ nhạt, bị coi thường, lẫn vào đám đông và những thói
dung tục. Lời bàn luận ở cuối thiên truyện là minh chứng cho nghịch lý về danh
phận của những người nghệ sĩ khi họ theo đuổi con đường nghệ thuật lắm nỗi đa
đoan: “Thi sĩ là người thế nào? Tiếc thay một số ít lại là những vị thánh nhân bị bôi
bẩn trong đám đông phàm phu tục tử, mạnh mẽ lịch sự, nhiều tri thức và đầ kiêu
hãnh.” [141, 380]. Hay trong truyện Quan Âm chỉ lộ, danh phận nhà văn cũng được
tác giả bóc trần trước người đọc qua những lời thẳng tuột của nhân vật Lai: “Chú là
nhà văn danh tiếng nhưng ngh o [...] nghề của chú chẳng phải nghề. Đó là nghiệp
chướng [...] Không đi thì viết thế nào? Nhưng không có tiền thì chịu” [139]. Những
câu nói ấy đã chứng minh một nghịch lý: trong văn chương nghệ thuật chữ “danh”
không phải lúc nào cũng đi cùng “phận” mà nhiều khi người càng vang danh thì số
phận càng nhếch nhác, bê tha, đầy mặc cảm và sự dằn vặt, khổ đau.
Văn chương là một thế giới tinh thần “hoang tưởng”, còn người cầm bút vẫn
là một con người bằng xương bằng thịt của hiện thực. Vì thế danh tiếng của họ dễ bị
đánh đồng với vẻ tầm thường, nhếch nhác bề ngoài, còn phần thanh cao trong tâm
hồn lại vô tình bị chà đạp, lướt qua. Từ đó, sáng tác trở thành con đường duy nhất
để người nghệ sĩ tìm về con người thật, cảm xúc thật và sự tự tin cho riêng mình.
Tuy nhiên, con đường sáng tác của nhà văn chưa bao giờ thuận chiều, dễ dàng như
những gì ta thấy trong các tác phẩm. Vượt ra ngoài mặc cảm của danh phận, những
người nghệ sĩ ấy lại phải đối diện với nghịch lý khác là nghịch lý về khát vọng nghệ
thuật. Trong tận cùng hoạt động sáng tạo, người nghệ sĩ chân chính đều nuôi khát
vọng có được nhiều thành tựu, cống hiến được nhiều điều hữu ích lý tưởng cho
cuộc đời. Tuy nhiên, khát vọng ấy không phải lúc nào cũng đồng thuận với mong
mỏi của người cầm bút mà nhiều khi lại tạo ra những cảnh huống trớ trêu trước
cuộc đời. Khát vọng nghệ thuật của Nguyễn Du (truyện Vàng lửa) được thừa nhận
135
là bắt nguồn từ “lòng tốt”, lòng nhân đạo: “Nguyễn Du sống dân dã, ông hồn nhiên
chịu đựng sự ngh o túng cùng nhân dân” [141, 152]. Nhưng khát vọng ấy trong mắt
Phăng chỉ là thứ “lòng tốt nhỏ”, hoàn toàn bất lực vì “không cứu được ai” [141,
152]. Sự tài tử của thơ ca Tú Xương vô hình chung chỉ là thứ thơ ca lỡm đời, bạc
phước, chẳng ích lợi gì cho gia quyến của ông (truyện Thương cả cho đời bạc).
Những vần thơ của Trang Sinh năm ấy chẳng biết tài tình đến đâu, nhưng nó đã vô
tình day dứt để người con gái tên Xoan năm ấy trẫm mình xuống sông tự vẫn
(truyện Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt). Nhân vật nhà văn trong truyện Quan Âm
chỉ lộ cũng có lần phải thừa nhận sự bất lực trước nghệ thuật của bản thân: “quả
thực không phải lúc nào tôi cũng trả lời được những câu hỏi do công việc và cuộc
sống đặt ra” [139]. Khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ là chân chính và cao cả,
nhưng không phải lúc nào nó cũng mang về sự thỏa đáng, thành công cho người
nghệ sĩ. Ngược lại, nghệ thuật là con đường mà mỗi người đi đều không thể đoán
định tương lai nó sẽ như thế nào, đi về đâu, bởi giữa khát vọng với hiện thực còn là
một khoảng cách lớn mà người nghệ sĩ không thể tự mình định đoạt.
Xoay quanh thân phận người nghệ sĩ, tự do cũng là một nghịch lý mà
Nguyễn Huy Thiệp đặt ra trong các truyện ngắn của mình. Để hiện thực hóa khát
vọng nghệ thuật của mình, người nghệ sĩ cần thỏa sức tìm tòi khám phá và thể
nghiệm trong các sáng tác. Tuy nhiên, thực tế luôn đòi hỏi ở họ phải tôn trọng
những giới hạn, những quy ước, húy kị của cộng đồng. Điều đó vô hình chung đẩy
người làm nghệ thuật vào sự bất lực và lúng túng vì thứ tự do “trong khuôn khổ” ấy
khiến họ không được phát huy hết “bản tính” của mình. Bởi thế, một người có
giọng hát tuyệt hay như Trương Chi (truyện Trương Chi) bỗng trở nên lúng túng,
khổ sở, hát như hết hơi khi phải hát thứ tiếng tự do đám đông ca ngợi công danh, ca
ngợi tiền bạc, ca ngợi sự nhẫn nhục. Nam diễn viên được giao vai Chiêu Hổ (truyện
Chút thoáng Xuân Hương) cảm thấy thật mơ hồ vì mình như rơi vào “một trò đùa
ác” khi phải đóng một bộ phim về Hồ Xuân Hương mà mọi thứ đều nhợt nhạt, nhố
nhăng [141, 282]. Xã hội đòi hỏi nghệ thuật đích thực nhưng lại giới hạn người
nghệ sĩ trong những khuôn khổ chật hẹp, thực tế ấy thật phi lý. Tuy nhiên, nếu
người nghệ sĩ được giải phóng hết “bản tính” của mình, phát lộ hết thế giới hoang
136
tưởng mà họ đặt ra trong các sáng tác thì đồng nghĩa chúng ta phải phá bỏ mọi trật
tự, giới hạn, chấp nhận mọi thử nghiệm, mọi giá trị tốt - xấu, sang - h n, “bất chấp
tất cả” để thoát thành “bướm và hoa”, điều này lại càng khó được xã hội chấp nhận
hơn. Chính vì thế, tự do trong sáng tác đối với nhà văn, nhà thơ, người nghệ sĩ
không phải một đặc quyền mà là một nghịch lý về sự trả giá. Trương Chi hát cho
đám đông thật khổ sở, chả hay ho gì nhưng được sống, còn hát cho riêng mình, cho
tình yêu tự do tuyệt đối thì chàng chỉ còn con đường duy nhất là chọn lấy cái chết.
Nhà văn trẻ tài năng họ Lưu khi theo đuổi thứ ngôn ngữ tự nhiên thuần khiết của
tiếng Việt cũng trở thành kẻ lập dị, biến thái, bị chủ nhà cấm cửa (truyện Bài học
tiếng Việt)... Tất cả những nghịch cảnh trớ trêu ấy được Nguyễn Huy Thiệp gợi ra
cho ta thấy, tự do cũng như khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ không hề đơn
giản và dễ kiểm soát khi đối diện với hiện thực phũ phàng của cuộc đời.
Không dừng ở đó, đối với thân phận của những người chọn đi con đường văn
chương nghệ thuật, nghịch lý còn ẩn tàng trong lằn ranh mong manh của hai chữ
Tâm và Tài. Hình tượng lý tưởng của người nghệ sĩ mọi thời đại chính là người vừa
có tâm với nghệ thuật vừa có tài năng để khẳng định được giá trị của nghệ thuật,
nhưng điều ấy chẳng hề đơn giản. Nguyễn Huy Thiệp đã chứng minh điều này bằng
một loạt chân dung các nhà văn, nhà thơ, người nghệ sĩ trong sáng của mình mà ở
đó ranh giới giữa tâm và tài đều thật mơ hồ, bất cập. Người có tâm, có tài như
Nguyễn Du, Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Trương Chi, thi sĩ Trang Sinh (Hồ
Điệp)... đều chỉ được thừa nhận khi họ đã thành người thiên cổ, còn thuở sinh thời
người đời chỉ xem họ là những con người nhỏ bé, lập dị, tầm thường. Cái nhìn xã
hội dành cho giới nghệ sĩ hầu hết có vẻ coi thường, d chừng, thậm chí rẻ rúng.
Không ai muốn yêu muốn lấy một nhà thơ đơn giản vì họ chỉ mải chạy theo những
điều vô bổ “đá cầu với thằng trẻ con sáu tiếng đồng hồ” [141, 291]. Không ai tin nổi
một thằng chăn bò, thọt chân, “một đồ thừa” lại có thể làm thơ vẽ ra cả bầu trời,
cuộc sống (truyện Chú Hoạt tôi)... Chính vì thế, người nghệ sĩ thường phải chịu
nhiều uất ức, đau khổ về tâm can tinh thần mới nuôi dưỡng, tôi luyện được thứ tài
năng xuất chúng. Chữ Tâm, chữ Tài được mặc định như một phẩm chất lý tưởng
của người nghệ sĩ, có điều nó lại không mấy khi lộ diện một cách ồn ào, bề mặt mà
137
âm thầm in vào trong số phận của từng nhà văn, nhà thơ. Trong truyện Thiên văn,
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã không ngần ngại chỉ ra: “Thi sĩ bao giờ cũng làm
những việc lạ thường, đuổi theo những vẻ đẹp kỳ ảo, những vẻ đẹp huyền bí. Chỉ có
điều vết chân thi sĩ để lại thường rất nhỏ” [141, 335]. Nghệ thuật cũng khó đoán
định như cuộc đời, không phải bao giờ người có thực tâm, thực tài cũng được thấu
hiểu, trân trọng, điều ấy thật phi lý nhưng cũng thật xót xa khi nó phản ánh đúng
thân phận đa đoan, đầy thăng trầm của người nghệ sĩ.
Từ thân phận của người nghệ sĩ soi chiếu vào số phận của các tác phẩm, cái
Nghịch lý cũng xuất hiện ở nhiều phương diện mà bản thân tác giả không thể chế
ước được. Đầu tiên, nghịch lý xuất hiện ngay trong cách định giá giá trị của văn
chương nghệ thuật trước cuộc đời. Trong truyện Giọt máu, văn chương trở thành
một con đường lập thân, kiếm lợi của cả một gia đình dòng họ. Ở đó, các nhân vật
dùng văn để lừa người, mua bán, “buôn chữ” để kiếm lợi, ghi danh với đời. Trong
một truyện khác, Thương cả cho đời bạc, ta thấy văn chương chỉ là những cuộc dạo
chơi lỡm đời. Đọc truyện Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, ta lại thấy tiếng nói của
nghệ thuật là tiếng lòng của những kẻ tri kỉ, tri âm. Văn chương trong lời tâm sự của
hai cô gái trong truyện Mưa chứa đầy sự hoài nghi về thứ câu từ êm tai, dễ lừa
người và vô tích sự. Trong các truyện Chú Hoạt tôi, Quan Âm chỉ lộ, văn chương lại
được xem như một thứ “đạo” giữa cuộc đời. Rõ ràng, trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, văn học đến với cuộc đời bằng một hệ giá trị không thuần nhất: “Văn
chương có nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống. Có thứ văn
chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời, trốn việc. Lại có thứ văn chương
làm loạn” [141, 245]. Vì thế, tác giả đã nhận thức rất rõ đến cái “giá phải chăng”
của nó: “Văn chương cũng mâu thuẫn và lố bịch [...] không nên ca ngợi quá văn
chương. Trong sáng tạo văn chương có sự sự ê chề thê thảm phần nào giống như ở
người phụ nữ khi sinh đẻ có sự ê chề vậy” [140, 96]. Có người trọng thị, xem văn
chương là cao cả, nhưng tất yếu sẽ có kẻ thấy nó là trò mua vui, sự nổi loạn, thứ bịp
bợm, thấp h n... Có thể nói, ranh giới giữa cao cả và thấp h n, giữa giá trị và phi giá
trị trong văn chương nghệ thuật là vô cùng bé nhỏ, mong manh. Vì thế, giá trị trở
thành một nghịch lý khi chúng ta nhìn nhận về các sáng tác của người nghệ sĩ trong
138
từng thời đại. Nó có thể là cơ sở để suy tôn, nhưng cũng có thể là điểm tựa để nhấn
chìm số phận của nhà văn hay các sáng tác trước công chúng và thời đại.
Một nghịch lý khác xuất hiện khá phổ biến trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp là nghịch lý về tính chân thực của văn chương nghệ thuật. Ranh giới nghệ thuật
và phi nghệ thuật, giá trị và phi giá trị đã khó nắm bắt, lằn ranh giữa cái chân thực và
sự giả dối càng mong manh, khó đoán định hơn. Nguyễn Huy Thiệp đã không ngần
ngại chỉ ra những mâu thuẫn oái oăm của nghệ thuật khi đòi hỏi tính chân xác của tác
phẩm, nhưng lại giới hạn người nghệ sĩ trong những vùng sáng tạo an toàn. Bản thân
người nghệ sĩ cũng luôn tôn thờ khát vọng hướng về cái chân, tìm ra bản chất của đời
sống, vạn vật trong khi bản thân họ chưa bao giờ được sống thật hết đáy lòng. Nhà
phê bình X (truyện Cún) không bao giờ chấp nhận sự thật cha mình là một kẻ ăn mày
dị dạng. Nhà văn trong truyện Quan Âm chỉ lộ cũng có lúc thừa nhận những điều
mình viết, giảng giải về cuộc đời thật xa xỉ, phù phiếm, thậm chí dối trá... Chính
những thực tế trái chiều ấy khiến anh Triệu (truyện Những bài học nông thôn) không
tìm thấy niềm tin trong văn học: “Tôi thấy buồn vì văn học của ta ít giá trị thật. Nó
thiếu tín ngưỡng và thẩm mỹ thực” [141, 129]. Ông Thuấn trong truyện Tướng về
hưu cũng ngán ngẩm nhận định: “Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào”
[141, 17]. Truyện Chút thoáng Xuân Hương cho ta một cái nhìn bất bình: “Văn
chương là thứ bỉ ổi bậc nhất! [...] Nó gây ra sự nổi loạn trong cuộc đời thường. Cuộc
đời trôi đi đơn giản. Day đi dứt lại làm chi?” [141, 287]. Những nhận định ấy cho
thấy hướng về văn học để có tính chân thực không hề đơn giản như những điều con
người tự đặt ra cho văn chương nghệ thuật và người cầm bút. Văn học là thế giới của
sự “hoang tưởng”, nhận định ấy của Nguyễn Huy Thiệp đã chứng tỏ sự phân biệt
không thể đồng nhất, trộn lẫn giữa sáng tác và hiện thực cuộc đời. Vì vậy, khát vọng
biến văn học thành đời sống và ngược lại là những điều không tưởng.
Tóm lại, khảo sát trên bình diện đời sống và văn nghệ, ta nhận thấy cái
Nghịch lý hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi. Nó nằm ngay trong những tình huống
không ngờ, những điều phi lý khó lý giải của các sự vật, hiện tượng. Cái Nghịch lý
hiện diện cho thấy cuộc đời cũng như văn học, nghệ thuật chất chứa những góc
khuất, sự bề bộn mà nếu chỉ nhìn bằng cảm quan lý tính, một chiều ta sẽ không bao
139
giờ tri nhận, cảm thấu hay lý giải nổi. Tuy nhiên, tìm về những cái bất thường, oái
oăm cũng là cách để nhà văn tìm ra con đường khẳng định bản lĩnh và cá tính sáng
tạo của mình. Điều này sẽ được chứng thực rõ nét hơn khi chúng ta nhìn vào bản
chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Nghịch lý trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4.1.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Nghịch lý trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
Như đã đề cập, cái Nghịch lý xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
với vai trò của một phạm trù thẩm mỹ. Vì thế, ngoài việc nhìn nhận các biểu hiện
của nó trong đời sống, trong nghệ thuật, ta cũng cần quan tâm đến bản chất thẩm
mỹ và những hiệu ứng mà nó tạo ra cho đời sống thẩm mỹ của các tác phẩm.
Điều đầu tiên chúng ta có thể khẳng định, việc đề xuất và lựa chọn phản ánh
cái Nghịch lý trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là một thử nghiệm
nghệ thuật ấn tượng và hoàn toàn có cơ sở. Bởi những điều bất hợp lý, nghịch dị mà
tác giả đặt ra trong sáng tác đều bắt nguồn từ bức tranh muôn màu của đời sống.
Những câu chuyện cổ tích, những chi tiết li kỳ, về bản chất là phản ánh niềm tin,
mơ ước của con người về sức mạnh công lý, thiện ác phân minh. Nhưng nếu chỉ
biết ước mơ và chờ đợi, con người sẽ tự sa lầy trong thế giới niềm tin mù quáng
mình tự huyễn hoặc ra mà không thấu hiểu vị trí thực sự của mình. Vì thế, nghịch lý
của cuộc đời cho ta cái nhìn phản cổ tích, rũ bỏ sự cả tin, mơ mộng của con người
để chấp nhận thực tế, lớn lên cùng thực tế, dù nó phũ phàng. Đó cũng là hành trình
mà nhân vật tôi (truyện Chả đi sông ơi), chàng Chương (truyện Con gái Thủy
Thần), ông Diểu (truyện Muối của rừng), Trương Chi (trong truyện ngắn cùng
tên)... đã đi qua. Những cái kết truyền thống được viết lại bằng những khả năng, dự
báo, giả thuyết hoàn toàn mới mẻ, phá vỡ mọi lối tư duy logic truyền thống, nhưng
lại ám ảnh và có sức thuyết phục lòng người, bởi nó thức tỉnh con người trước thói
quen ảo tưởng và u mê vào những chân giá trị cộng đồng.
Cái Nghịch lý xuất hiện phổ quát trong đời sống, trong nghệ thuật cũng cho
thấy cả một cuộc khủng hoảng về giá trị và niềm tin được nhà văn đặt ra trong các
sáng tác của mình. Ở đó những góc khuất của đời sống, con người và văn học nghệ
thuật được phơi bày không kiêng nể khiến hệ thống những giá trị ổn định nhất, lý
140
tưởng nhất cũng có nguy cơ lung lay, sụp đổ. Nguyễn Huy Thiệp không nhìn cõi nhân sinh
bằng sự ngợi ca, suy tôn thường thấy mà tập trung vào những câu hỏi có tính chất vấn:
Con người có thật văn minh, tốt đẹp như ta nghĩ khi vẫn còn nhan nhản cái ác, sự mông
muội và những điều giả dối? Gia đình, dòng họ, xóm làng, công sở, xã hội có đúng là nơi
nâng niu, di dưỡng bản tính con người hay nó đang dung túng cho thứ tâm tính thực dục,
nhố nhăng, đồi bại? Lịch sử có thật chân xác, vô tư khi nó vẫn cố tình ỉm đi phần đời
thường cá nhân của những tên tuổi vang danh lừng lẫy?... Trong văn học nghệ thuật, từng
nỗi suy tư khắc khoải về nghề văn, người văn, về giá trị đích thực... cũng được người viết
trăn trở đặt ra qua những câu chuyện vừa bi hài vừa khó hiểu. Nhà văn, nhà thơ những
danh xưng ấy vừa đáng trân trọng nhưng cũng đáng hoài nghi bởi trong số họ không phải
ai cũng hết lòng thành thực với nghệ thuật, không phải ai cũng tự tin khẳng định thực tài.
Nghệ thuật cũng có đầy sự nhái tạo, mạo danh, bất cập mà nếu chỉ dựa vào cái nhìn một
chiều và những khuôn khổ chật hẹp, công chúng sẽ bị phỉnh lừa một cách trắng trợn. Có
thể nói, bước vào trang văn Nguyễn Huy Thiệp, độc giả đôi lúc không tránh khỏi cảm giác
choáng ngợp vì không thể tìm thấy một giá trị trung tâm, chuẩn mực, thay vào đó là những
hoài nghi, giả định, thậm chí những phản biện động trời. Cái ác, cái xấu, cái giả dối xuất
hiện nhiều hơn cái thiện, cái Đẹp, cái chân thực... Nói cách khác, bản chất cái Nghịch lý
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một sự hoài nghi, đổ vỡ niềm tin vào những giá trị
hiện có. Điểm này dù có phần cực đoan nhưng Nguyễn Huy Thiệp hoàn toàn có lý khi đặt
ra cái Nghịch lý như một sự hoài nghi về quá khứ, hiện tại để con người có được những
nhận thức tiến bộ, đúng mực trong tương lai.
Thức tỉnh con người trước sự u mê, ảo tưởng, ráo riết hoài nghi mọi chân lý,
giá trị, cái Nghịch lý trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn gắn liền với cảm
thức hiện sinh của tác giả trước cuộc đời. Thấy được sự hiện diện tất yếu của cái
Nghịch lý, ta càng thấm thía sự bé nhỏ, vô nghĩa của con người trước mênh mang
cuộc sống. Chỉ có tự nhiên là những giá trị vĩnh hằng, còn đời người vạn biến tốt -
xấu, đúng - sai, được - mất, sang - h n... đều chỉ là những lằn ranh bé mọn. Trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có những thứ tưởng chừng như tốt đẹp lại cất giữ
đầy những ê chề, có những thứ tưởng như rất ê chề lại là cội nguồn của những điều
tốt đẹp. Bởi vậy, mọi sự suy đoán, áp đặt của người đọc với những tín hiệu thẩm mỹ
141
đó đều không thật thỏa đáng. Giá trị với nhà văn nằm ở những khoảnh khắc thực
tâm, tự nhiên, tự nguyện của con người, chứ không phải thứ lối mòn sắp đặt của
cộng đồng xã hội. Bởi vậy đọc truyện Sang sông chẳng ai ngờ một tên cướp cả đời
làm chuyện đại nghịch bất đạo phút nguy cấp lại có thể hành động như một anh
hùng, nhận phần thua thiệt về mình để cứu đứa trẻ. Trong khi đó, đôi nam nữ trẻ
hồn nhiên, người thiếu phụ nhiều kinh nghiệm, nhà thơ, nhà buôn hay nhà sư đầy
triết lý đều trở thành những kẻ thờ ơ, vô tích sự. Người anh hùng, quân tử như
Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Đề Thám... khi đối diện với chính mình
cũng chẳng thể khỏa lấp nỗi cô đơn bất lực trước thời cuộc. Mọi phán xét đối với
nhân gian đều chẳng có nghĩa lý khi con người vẫn quẩn quanh trong những mặc
cảm, trách nhiệm và sự giả dối, không dám đối diện với chính mình. Có thể nói,
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhờ có sự xuất hiện của cái Nghịch lý mà
cuộc sống, con người, nghệ thuật đều được nhìn dưới sự công bằng, đồng hiện ở cả
mặt tính cực lẫn hạn chế nhờ những giả thiết bất ngờ được đặt ra. Những giá trị ổn
cố được tác giả phá bỏ thay vào đó là những thử nghiệm, hoán đổi táo bạo: trong cái
Cao cả có cái thấp h n, giữa đẹp có xấu, giữa thiện có ác... Sự hoán đổi đồng hiện
ấy giúp người đọc không thể dùng lối tư duy một chiều để khám phá, nhìn nhận các
sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Vì thế, cái Nghịch lý xuất hiện như một sự kích
thích, mời gọi độc giả cùng đối thoại, phản biện về hiện thực khách quan với nhà
văn thông qua tác phẩm văn chương.
Với những đề xuất và thử nghiệm nêu trên, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã
khiến người đọc thực sự bị cuốn hút bởi hệ thống hình tượng nghệ thuật phong phú,
đa nhân cách, những tình huống truyện đầy bất ngờ kịch tính hay thứ ngôn ngữ
phức điệu, đa thanh, đa nghĩa mà nhà văn dùng để chứng minh sự hiện diện của cái
Nghịch lý trong con người, giữa cõi nhân sinh và đời sống văn học nghệ thuật.
Chính vì thế, nhà phê bình văn học Đông La đã không ngần ngại bày tỏ sự ngưỡng
mộ của mình về cách khai thác và thể hiện phạm trù cái Nghịch lý trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Bản chất cái Nghịch lý là hướng con người tới sự suy tư
để nhìn ra bản chất đối tượng và trong cảm nhận của Đông La, nhà văn đã làm được
điều đó: “Nguyễn Huy Thiệp đã thành công trong việc xây dựng những tác phẩm
142
giàu chất triết lý. Truyện của anh thường không kể về một câu chu ện gì đấy, mà là
sự suy tư về những vấn đề gì đấy.” [105, 133]. Hay ở một độc giả khác, qua bài viết
Có một nghệ thuật ba-rốc trong các tru ện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay
không?, Thái Hòa cũng tỏ rõ sự trân trọng khi ghi nhận lối đặt vấn đề, thể hiện cái
Nghịch lý trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp. Người viết cho rằng thấu thị cái khả
biến, bộn bề, lộn xộn và ngẫu nhiên của đời sống chính là cách nhà văn phơi trần
một sự thật “tàn nhẫn”, “khốc liệt” để nhắc con người sống “Thật” hơn, “Thiện”
hơn và “Đẹp” hơn.
Tóm lại, tính thống nhất từ quan niệm đến thực tế sáng tác xoay quanh phạm
trù cái Nghịch lý đã cho thấy Nguyễn Huy Thiệp thực sự là một nhà văn bản lĩnh và
đầy tâm huyết với sự nghiệp đổi mới văn học nghệ thuật nước nhà. Việc đề xuất và
thử nghiệm một phạm trù thẩm mỹ mới mẻ trong sáng tác của nhà văn đã mang về
cho người đọc thật nhiều nhận thức ấn tượng. Chấp nhận Nghịch lý trở thành một
hành trình khơi dậy tư duy phê phán tích cực cho người đọc qua các sáng tác văn
học. Nỗ lực ấy đủ để ta thấy tầm vóc và những cống hiến không thể phủ nhận của
nhà văn khi hướng tới hiện thực và con người.
4.2. Cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
4.2.1. Quan niệm về cái Thô kệch của Nguyễn Huy Thiệp
Dõi theo suốt hành trình sáng tác văn học, ta dễ nhận thấy Nguyễn Huy
Thiệp là nhà văn mà cá tính bộc lộ ngay trong những quan niệm thẩm mỹ rất riêng
của ông, trong đó có quan niệm về cái Thô kệch. Trong khuôn khổ công trình, quan
niệm này sẽ được người viết xem xét, khảo sát tập trung ở hai cơ sở là tập tiểu luận
Giăng lưới bắt chim và tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp của nhà văn.
Trước hết, theo nghĩa thông tục, “thô kệch” là một tính từ chỉ tính chất
“không thanh”, “không nhã” (ví dụ: Dáng người thô kệch. Cử chỉ vụng về thô kệch.
Ăn nói thô kệch…) [109, 932]. Còn trong nghiên cứu văn học, thuật ngữ này lại hàm
chứa những ý nghĩa riêng. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do nhà nghiên cứu
Lại Nguyên Ân chủ biên, các tác giả có dịch thuật ngữ Grotesque (tiếng Anh) bằng
các nghĩa nghịch dị, kỳ quặc hay thô kệch, nó được hiểu là một thủ pháp, một kiểu
tổ chức hình tượng nghệ thuật dựa vào sự hư cấu và kết hợp một cách tự do các thái
143
cực tương phản, kỳ quặc như “cái huyền hoặc và cái thực, cái đẹp và cái xấu, cái bi
và cái hài, cái giống thực và cái biếm họa [4, 210]. Chính sự kết hợp kỳ quặc này đã
phá hủy không thương tiếc những hình tượng trung tâm ổn định trong truyền thống,
đồng thời đòi hỏi người thưởng thức phải chấp nhận bước qua lối tư duy, thị hiếu
thẩm mỹ quen thuộc mới có thể chấp nhận và ghi nhận những hệ giá trị của đối
tượng. Như vậy dù ở ý nghĩa thông tục hay bình diện chuyên ngành, những sự vật,
hiện tượng, hay hình tượng nghệ thuật đại diện cho cái Thô kệch đều hết sức khác
biệt và không dễ tạo được thiện cảm tức thì về phương diện thẩm mỹ cho chủ thể
thưởng thức. Đưa cái Thô kệch vào trong sáng tác là một thử nghiệm dễ làm nhưng
khó đạt, hay tạo những hiệu ứng ngược và hiểu lầm không đáng có. Chính vì tính
chất “mạo hiểm” ấy mà cái Thô kệch không phải lựa chọn ưu tiên hay “lý tưởng”
cho hành trình sáng tạo của đại đa số các nhà văn. Nhưng với Nguyễn Huy Thiệp lại
khác, xuất phát từ bản chất xã hội đầy phức tạp của văn học “văn chương chính là
đời, là người”, ông chọn cách nói không với những cái phù phiếm, ngụy tạo hay vẻ
dễ dài, hoàn mỹ bề ngoài. Ông luôn ý thức cao độ về “sự chính” như một nhu cầu
tất yếu của văn học: “Văn chương đòi hỏi sự “chính” cũng như xử thế, như ăn ngủ,
như làm việc, như vui chơi, như mọi sự ở đời” nên “muốn hiểu được sự “chính” lại
phải hiểu cả sự “bất chính” nghĩa là… phải “đủ vành” (!)” [140, 100]. Nguyễn Huy
Thiệp đã chọn cho mình một lối đi riêng, sẵn sàng “đẩy hết, đẩy đến tận cùng nhân
vật cũng như những vấn đề nêu ra trong tác phẩm” để nhà văn “phải trung thực với
mình đến tận đốt xương sống cuối cùng” [140, 65]. Bởi thế, những cái nhem nhuốc,
khuất lấp, kỳ quặc hay thô kệch được ông xem như một phần tất yếu của hiện thực
đời sống, nó hoàn toàn xứng đáng với vai trò là một phạm trù của khách thể thẩm
mỹ, ngang hàng với các phạm trù thẩm mỹ khác (như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi,
cái Hài) trong văn học: “Ta biết cách dùng từ ngữ và cách văng tục trong thơ của
Maiacovsky chẳng hay hớn và sang trọng gì, nhưng không phải vì thế mà ông
không phải nhà thơ vĩ đại”[140, 65].
Không dừng ở đó, ngay cả khi bàn về phạm trù trung tâm như cái Đẹp,
Nguyễn Huy Thiệp cũng tự hình thành cho mình một quan niệm văn học riêng, ông
chỉ ra: bản chất của cái Đẹp không phải sự phô diễn thuần túy nội dung hay trau
144
chuốt về hình thức mà điều kiện thiết yếu của nó là cái “thật”, cái “chính xác” [140,
37]. Điều này được người viết lý giải bởi căn nguyên: “không ở đâu người ta lại đòi
hỏi sự chân thực lớn lao và khắc nghiệt như là văn học [140, 256]. Vậy nên, để tìm
thấy cái Đẹp và thành công, người nghệ sĩ phải tự trau dồi bản lĩnh, dám đứng ra trả
giá, dám “bất chấp”, thậm chí “ngập trong bùn, sục tung lên” mới có thể “thoát thành
bướm và hoa” [141, 256]. Nói cách khác, bản chất văn học luôn hướng về cái Đẹp, cái
Đẹp (theo ông) lại gắn liền với cái thật, mà trong cái thật (của đời sống, của tác phẩm,
của nghề văn) tất yếu tồn tại, hiện hữu cái Thô kệch. Có điều, thị hiếu đám đông và ngay
cả các nhà văn cũng thường hay bàng quan, tìm cách né tránh, “lờ” đi cái thô để “tốt đẹp
phô ra, xấu xa đậy lại”, tự tạo cho mình “một môi trường hết sức an toàn, không phải cố
gắng gì lớn, chẳng phải chuẩn bị gì, chẳng phải tốn công” [140, 53]. Theo đó, hiện thực
mà họ hướng tới trong quan niệm của ông chỉ là thứ “hiện thực huyền ảo”, mung lung,
hình thức [141, 283]. Có thể nói, dù không phát ngôn và gọi tên một cách trực diện như
một số phạm trù thẩm mỹ khác, nhưng qua những lập luận trên người đọc vẫn có thể
thấy rất rõ quan niệm của nhà văn về cái Thô kệch: với Nguyễn Huy Thiệp, cái thô là
một trong những cơ sở hiện thực để con người nhìn ra cái thật và tìm đến cái Thô kệch
chính là cách để nhà văn kiếm tìm và khẳng định cái Đẹp bản chất nhất, chân chính nhất
trong cuộc sống, con người và văn chương nghệ thuật.
Cuối cùng, xoay quanh quan niệm của nhà văn về cái Thô kệch (khi chọn viết
nhiều về cái không thanh, không nhã…) hiếm thấy ai có được sự mạnh dạn và lòng tin
mãnh liệt vào chân giá trị của nghề văn và người cầm bút như Nguyễn Huy Thiệp. Ông
nhận thức rất rõ những thay đổi trong mỹ cảm của thời đại: “Nhân dân đã chán ngấy
những cuốn sách thuyết giảng đạo đức giả [...] chán ngấy các sách mua vui rẻ tiền […]
Thậm chí đến cả những sách ca ngợi tinh thần dân tộc trong các cuộc chiến tranh vệ quốc
[…] bây giờ cũng trở nên lạc lõng” [140, 36]. Và rồi, với tư cách là một nhà văn của thời
kỳ Đổi mới, ông đã sẵn sàng gạt bỏ những định kiến, e ngại thông thường để suy tư về
những góc khuất, góc thô nhám của cuộc đời và con người. Nguyễn Huy Thiệp đã dốc
lòng viết ra những cuốn sách có tính “phản tỉnh”, “tự vấn”, “tự nhận thức lại mình” hơn
là giáo huấn mua vui hay ngợi ca thuần túy. Chính vì thế, nhà văn đã chọn cái Thô kệch
145
như một phương tiện nghệ thuật, một “liều thuốc đắng” để bạn đọc cùng suy ngẫm, cùng
“giã tật” bằng những sự thật phũ phàng đến mất lòng.
Tóm lại, Nguyễn Huy Thiệp đã bộc lộ khá rõ chủ trương nới rộng trường thẩm mỹ
cho bạn đọc khi đưa ra quan niệm riêng của mình về phạm trù cái Thô kệch. Cái Thô kệch
tồn tại khách quan và phong phú bởi thế, không có lý do gì để con người và nghệ thuật tự
giới hạn mình trong những hiện tượng thẩm mỹ quen thuộc, truyền thống mà chối từ, né
tránh hay phủ nhận sự hiện hữu thẩm mỹ của cái Thô kệch. Nói cách khác, cái Thô kệch cần
và nên được nhìn nhận, định giá một cách công bằng, ngang hàng với các phạm trù thẩm mỹ
khác như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, hay cái Hài, đồng thời, dám thừa nhận cái thô chính là
thái độ dám đối diện với cái thật (cái Chân) để tiếp tục thắp lên khát vọng đi tìm cái Thiện,
cái Mỹ (cái Đẹp) cho con người và những sáng tác nghệ thuật chân chính.
4.2.2. Biểu hiện của cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Với vai trò của một phạm trù thuộc về khách thể thẩm mỹ, cái Thô kệch cũng
được nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tập trung khai thác ở nhiều lĩnh vực, bình diện khác
nhau nhưng phong phú và ám ảnh hơn cả là sự hiện diện của nó trong đời sống con
người phản chiếu qua thế giới hình tượng độc đáo của tác phẩm.
4.2.2.1. Sự thô kệch bề ngoài
Trước hết, cái Thô kệch bộc lộ ở chính yếu tố ngoại hình của các nhân vật. Độc
giả không khó để kể ra những con người có hình dạng thô lậu, cục mịch trong trang văn
Nguyễn Huy Thiệp. Hình ảnh Tảo - tay đánh cá mòi chột mắt, nổi tiếng với những câu
chuyện rùng rợn ở bến Cốc (truyện Chả đi sông ơi) là một minh chứng. Ngoại hình của
y được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ với sự thô kệch nổi bật: “Gã béo lẳn và đen trùi trũi […]
đôi mắt lờ đờ như là mắt cá, một vết sẹo bỏng ở má bên trái to bằng bàn tay làm mặt gã
biến dạng hẳn đi” [141, 7]. Ngoại hình của tên tử tù Quản Văn Lanh (truyện Tội ác và
trừng phạt) hiện lên với đầy những nét thô kệch: “trán thấp, môi dày, quai hàm bạnh,
hoàn toàn lầm lì […] dưới vầng trán ngắn ngủn và bạt về phía thóp kia, hắn nghĩ gì”
[141, 338]. Chân dung của bố Đô Thi (truyện Con gái Thủy Thần) được miêu tả kỳ dị tới
từng chi tiết: “râu tóc lởm chởm, đôi mắt đục ngầu […] hai chân teo lại, lông chân trông
như lông lợn” [141, 78]. Người chồng thợ săn trong truyện Con thú lớn nhất cũng hiện
lên với vẻ ngoài hiện thân như thần Chết của núi rừng: “Người chồng cao lớn, gầy guộc,
146
mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục ngầu và sâu hoắm, phảng phất những
tia lân tinh lạnh lẽo” [141, 200]. Có thể thấy, diện mạo của chuỗi các nhân vật kể trên
đều được nhà văn Nguyễn Huy Thiệp khắc họa với những hình hài ít gây thiện cảm. Vẻ
đẹp hình thể vốn có của con người ở đây đã bị thay thế bằng những đặc điểm dị thường
mà nhìn vào đó ta chỉ thấy những liên tưởng về cái xấu xí, hoang dã. Các so sánh đậm tô
sự vật hóa ngoại hình của nhân vật (mắt lờ đờ như mắt cá, lông chân trông như lông lợn
hay mũi như mỏ chim...) như gợi nhắc mối hoài nghi: liệu tất cả con người có thực là
đỉnh cao văn minh và tiến hóa của muôn loài, hay đâu đó vẫn còn những “vật người”,
những hiện tượng “lại tổ” thô nhám mà ta chưa màng tới?
Không dừng ở đó, Nguyễn Huy Thiệp còn thường dừng lại và đặc tả chân dung
của những con người thông qua những khiếm khuyết, dị tật bẩm sinh ở họ. Hình ảnh
thằng ăn mày “hình nhân mặt đẹp” ở xóm chợ (truyện Cún) theo đó hiện lên thật ám ảnh
với độc giả. Y có khuôn mặt đẹp và đôi mắt biết nói, nhưng chúng chẳng có gì ăn khớp
với hình hài dặt dẹo, tật nguyền của Cún: “đầu nó to tướng, hai chân tay mềm oặt như
chẳng có xương, chỉ hơi lệch trọng tâm là người nó ngã kềnh ra đất” [141, 33]. Người
đọc cũng không khỏi tò mò, sửng sốt trước vẻ ngoài kỳ dị của tên lâm tặc khét tiếng
trong truyện Thổ cẩm, một kẻ tồn tại bên lề xã hội: “Tuy lác mắt, thọt chân, lại gù lưng
nữa nhưng lại có sức khỏe phi phường” [141, 454]. Hay như hình dáng bé nhỏ “lết đôi
chân qu ” của Tốn (trong truyện Không có vua), hình ảnh côi cút của nàng Pùa bị liệt cả
hai chân (truyện Trái tim hổ)… tất cả những con người ấy đều mang trong mình một
hình hài có nhiều điểm thiếu khuyết, bất bình thường. Nếu quan sát kỹ người đọc sẽ nhận
thấy, vẻ ngoài thô kệch của những nhân vật mà nhà văn miêu tả đa phần gắn với những
con người thuộc tầng lớp thấp trong xã hội: một tay đánh cá mòi trên sông, một người
thợ xẻ nơi rừng thiêng nước độc, một kẻ ăn mày hay một đứa con hoang bị bỏ rơi...
Những con người ấy hầu như thất học, xa lạ với xã hội văn minh và cuộc sống của họ
chìm trong sự ngh o nàn, lam lũ, gánh nặng mưu sinh khiến họ trở nên lầm lũi, cô độc,
nhân hình biến dạng, vẻ “ngợm” được tô đậm hơn nét “người”… Ở những con người ấy,
ngoại hình thô kệch chính là một lý do khiến cuộc đời của họ vốn đã thua thiệt lại thêm
phần bất hạnh và cô đơn. Họ gần như không thể hòa nhập để sống một cuộc sống bình
thường, bởi còn đó những mặc cảm, tự ti lẫn sự kỳ thị, vô tâm của đồng loại. Trùm Thịnh
147
trở nên cục cằn, độc ác, thành kẻ “không đùa được” trong mắt nhân vật tôi và tất cả những
người sống trên bến Cốc. Cún sống trong thân phận kẻ ăn mày quái dị luôn bị cái đói, cái
rét và sự cô đơn giày vò: “Sống như con giun, con dế, như con ong, cái kiến […] - Con
người sống khác…” [141, 34]. Người cha của Đô Thi bị liệt mấy chục năm chả đi đâu chỉ
nằm một chỗ trông lưới. Thế giới của Tốn cũng chỉ gói gọn trong bốn bức tường, gắn với
cái xô nước và tấm giẻ lau để ngày ngày Tốn lết đôi chân qu trong nhà, hễ thấy nhà bẩn là
lại đi lau. Nàng Pùa đang độ mười sáu, lứa tuổi xuân đẹp nhất nhưng đôi chân liệt khiến
nàng suốt năm suốt tháng nằm một chỗ, mùa xuân đến, sàn nhà Pùa không có những tiếng
kh n b vì: “Không ai lấy cô gái liệt cả hai chân làm vợ” [141, 198]… Có thể thấy,
Nguyễn Huy Thiệp đã dành khá nhiều những trang viết để phản ánh hình ảnh những con
người có hình hài thô kệch, kỳ dị hay khuyết tật trong các truyện ngắn của mình. Sự xuất
hiện phổ quát của các nhân vật ấy như một sự khẳng định rằng cái Thô kệch là có thật, nó
là một phần tất yếu của hiện thực đời sống, dù nó khó chấp nhận đến đâu.
4.2.2.2. Sự thô kệch trong tâm tính
Biểu hiện nổi bật nữa của cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là
sự thô kệch trong tính cách của các nhân vật. Các nhân vật như chàng Chương (truyện
Con gái Thủy Thần), lão Kiền (truyện Không có vua), tay Bường (truyện Những người
thợ xẻ), Sạ (truyện ngắn cùng tên), hay ông Móng (truyện Chuyện ông Móng)… đều là
những con người có tính cách “bất thường” so với đồng loại. Chàng Chương hiện lên
trong bản chất một chàng trai quê mùa thô vụng: “ Cả lớp không ai thích tôi. Tôi làm mất
điểm thi đua. Tôi lố bịch nữa. Cả lớp không ai ăn mặc như tôi […] Tôi mặc quần nâu áo
xanh trứng sáo” [141, 75]. Ông Kiền khi vợ mất, ông chọn con đường mà những người
đàn ông ít chọn là hy sinh hạnh phúc cá nhân sống cảnh “gà trống nuôi con”, nhưng tính
tình ông thì lại vô cùng khó chịu: “Lão Kiền suốt ngày cau có […] lão cãi nhau với mọi
người như cơm bữa, lời lẽ độc địa” [141, 43]. Tay Bường - một tay thợ xẻ thực dụng,
tầm thường mà luôn tỏ ra triết lý và hiểu đời: “Cái tay Bường này, tôi biết, khi hắn lý giải
về sự sống nói chung, bao giờ hắn cũng minh triết, bao giờ hắn cũng cố gắng thanh cao
về mặt nhân cách. Thế nhưng đời thực của hắn thì như cứt chó. Không sao ngửi được”
[141, 115]. Nhân vật Sạ hiện lên thật khác người, đó là một thanh niên “điên rồ” thích
phiêu lưu, làm theo ý mình, tự khẳng định mình: “Niềm ham sống và những khát vọng
148
mãnh liệt bứt chàng ra khỏi mọi nếp thường” [141, 218]. Thầy giáo Triệu (truyện Những
bài học nông thôn) là một thầy giáo trẻ sinh ra trong gia đình trí thức tiếng tăm ở Hà Nội,
nhưng lại luôn bất mãn, khước từ gia thế, quay lưng với thành thị để về làm anh giáo
qu n vô danh ở một làng quê. Ông Móng cũng được xem là một ví dụ đặc biệt khi ông
chọn cho mình một công việc, một con đường “sám hối” có một không hai là gắn bó với
chợ phân người: “Sự linh hoạt của ông khiến cho phiên chợ sôi nổi hẳn lên nhưng có vẻ
gì khá bất nhẫn. Ông ta như một vị nhạc trưởng, như người giữ nhịp điệu cho cả phiên
chợ quái đản này” [141, 469]… Có thể thấy một điểm chung trong những nhân vật kể
trên là họ không mang trong mình những phẩm chất lý tưởng truyền thống (như sự vị
tha, nhân ái, đức hy sinh, sự cao cả hay anh hùng…) mà hiện lên với những nét tính cách
méo mó, tầm thường, thậm chí gàn dở, quê kệch… Những tính cách ấy gợi nhắc cho ta
sự hiện diện của những phần hao khuyết, chưa hoàn thiện vẫn thường hằng trong đời
sống, con người và cả nghệ thuật. Nhưng kỳ thú thay, ở chính những tính cách tầm
thường, thô kệch ấy, người đọc lại bắt gặp một thế giới nhân vật được sống không cần
che đậy, sống đúng, sống với con người thật trần trụi của mình, dù điều đó có biến họ
thành kẻ bất thường, ngô nghê giữa những người bình thường. Chàng Chương hiện như
một “vật thể tự do”, dám bứt mình ra khỏi nếp sống thường nhật nhưng tù đọng, u uất,
đầy thành kiến và ngộ nhận của làng quê để đi tìm người con gái Thủy Thần trong mộng,
để tìm ra biển lớn mênh mông… Sạ làm bao chuyện ngược đời, điên rồ nhằm thỏa khao
khát được khẳng định mình trong mắt dân làng và những người xung quanh. Bạc Kỳ
Sinh (truyện Truyện tình kể trong đêm mưa) sẵn sàng chấp nhận một đời phiêu bạt, tha
hương, bất chấp tất cả để được sống tận cùng với tình yêu của mình. Trong mỗi lời tâm
sự của y là chất chứa khát vọng về một tình yêu đầy phiêu lưu, nguy hiểm, nhưng tuyệt
đích và cao thượng: “Ông đã yêu bao giờ chưa? Tình yêu dạy cho ta bước đi của hổ, của
báo, cho ta sức mạnh của mãnh thú […] Nó khiến ta nhân đạo hơn hoặc độc ác hơn…
Những kẻ h n hạ không có tình yêu” [141, 411]. Như vậy, qua các sáng tác Nguyễn Huy
Thiệp đã khẳng định cái Thô kệch không chỉ xuất hiện ở các biểu hiện hình thức bề
ngoài mà còn tồn tại ngay trong tâm tính phức tạp bên trong con người cho dù họ là ai.
Không dừng ở đó, chất đời thường, sự thô kệch còn thấm qua từng cử chỉ, hành
động, lời nói, lối sinh hoạt, cách ứng xử của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy
149
Thiệp. Mọi sự nghiêm cẩn, bi thương của đám tang ma trong truyện Tướng về hưu phút
chốc tan biến khi nhà văn chêm vào đó khung cảnh bình thản của đám đô tùy: “Ngoài
sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy đánh tam cúc ăn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông Bổng
lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi: “Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi
chúng nó” [141, 24]. Không khí tự do “cá m một lứa” trong gia đình nhà chồng Sinh
(truyện Không có vua) được đặc tả qua cảnh bữa cơm gia đình không một cử chỉ thanh
tao: “Ăn cơm chả ai mời ai, sáu người đàn ông, ai cũng cởi trần, mặc quần đùi, cười nói
thản nhiên, chan chan húp húp như rồng cuốn” [141, 42]. Tần suất dày đặc của những
diễn ngôn tính dục là một minh chứng tiêu biểu cho sự hiện diện của cái Thô kệch trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể con người (Chim,
Dái, Bướm, Vú) thường được gọi đích danh và bình thản xuất hiện trong rất nhiều phát
ngôn của các nhân vật. Trong truyện Những bài học nông thôn, ta thấy khá rõ cách nói
nôm na của các thành viên trong gia đình, nhất là bà nội Lâm. Mỗi câu nói của bà đều là
những kinh nghiệm sống được đúc rút bằng những từ ngữ, lối ví von thông tục: “Các cụ
toàn chim to [...] Ăn đi con. Đàn ông nó chẳng thương mình đâu. Rượu thì nó ngồi mâm
trên. Ngủ thì nó đè lên mình” hay “Già quá hóa giặc cậu ạ.[…] Còn tôi, cả đời chỉ biết
mỗi một con b…, mang tiếng thủy chung đức hạnh, chẳng biết báu cho ai, chỉ biết về già
sống lâu khổ con khổ cháu”[141, 122]. Trong truyện Trương Chi, hình ảnh đầu tiên của
chàng Trương Chi cũng hiện lên với những hành động thật trần tục: “Trương Chi đứng ở
đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống dòng sông [...] Chàng duỗi chân, ngả
người vào lòng thuyền. Chàng nói: Cứt!” [141, 38 - 310]. Độc giả cũng khó có thể quên
những miêu tả sống động mà đầy ám ảnh về cung cách mưu sinh của những con người
trong tác phẩm Chuyện ông Móng. Ở đó, người ta có thể kiểm hàng, bán mua, thêm bớt,
bàn luận về chất thải của con người một cách bình thản như cách giao dịch của bao mặt
hàng khác: “Ông Móng bảo: - Phân của mày hôm nay không đậm vị như phân hôm qua!
Nát nhẽo nát nh o… Thôi thì giảm đi một giá… Người phụ nữ bảo: - Cháu gánh kẽo kẹt
suốt từ ngoài cửa ô đến đây, nặng ơi là nặng… Ông Móng bảo: - Cho chết! Ai bảo
mày tham múc nhiều nước vào… Mày phải chắt cho kiệt nước đi thì phân mới
ngon!” [141, 470]. Người đọc cũng không khó để tìm thấy những trường đoạn miêu
tả rất chi tiết hình ảnh con người sống bê tha bên những phế phẩm của cuộc sống.
150
Đó là giấc mơ rùng rợn của Khảm (truyện Không có vua) bị ngập trong bể phân lợn:
“Mưa bão đến, bể cứt trôi phăng phăng [..] cứt vào cả mồm, cả lỗ tai” [141, 53], hay
là cảnh Hạnh (truyện Huyền thoại phố phường) mò mẫm ở rãnh nước thải tìm nhẫn
cho Thoa: “Y xắn tay áo mò dọc theo cái rãnh đầy bùn,lõng bõng nước bẩn, thậm
chí còn có cả cục phân người” [141, 236]…
Cái Thô kệch còn được Nguyễn Huy Thiệp đẩy lên thành một thử nghiệm để
“giải thiêng” mọi thần tượng trong quá khứ. Trong những câu chuyện hư cấu về đề tài
danh nhân, lịch sử, nhà văn đã không ngần ngại hạ bệ mọi hình tượng vua chúa, quan lại,
những danh nhân trong sử sách bằng cách gán cho họ những suy nghĩ, hành vi, cử chỉ
thô kệch, đời thường đến tầm thường. Gia Long (truyện Phẩm tiết) đường đường là một
vị vua, người đứng đầu trong triều đình phong kiến nhưng trong lời nói, hành xử chỉ
xứng là “vua vịt, vua gà”. Khi bị bề dưới qua mặt, vua nổi giận bất cần khuôn phép:
“Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê ư? Ta cho cắt dái mày! Ta cho mày ăn cứt”.
Gặp người đẹp Ngô Thị Vinh Hoa, Gia Long cũng không ngại ngùng ngả bài: “Ta muốn
sở hữu nàng như nuôi con gà, con vịt trong nhà” [141, 164]. Chàng Trương Chi trong
câu chuyện cổ tích thuở xưa lãng mạn và bi thương là thế khi bước vào trang viết
Nguyễn Huy Thiệp (truyện Trương Chi) cũng trở nên cục cằn, thô lậu, hành xử lỗ mãng,
hễ phát ngôn là đi k m những lời văng tục, chửi thề... Hay chân dung nhà văn, nhà tiểu
thuyết danh tiếng tên Vũ (truyện Bài học tiếng Việt) cũng trở nên thô thiển, biến thái bởi
ngay giữa buổi dạ tiệc đông đúc, chàng đã không ngại ngần kéo tay Yến để vào hạ bộ
của mình để diễn tả giá trị sống: “Thưa bà, nó ở đây!” [141, 435]. Ở đây, nhà văn đã cố
tình phá bỏ những giá trị ổn định, một chiều lý tưởng về các thần tượng để chứng minh
bản chất phức tạp, tính đa nhân cách, “nhân vô thập toàn” của họ từ góc nhìn của một
con người bình thường trong thực tế. Sự giải thiêng không nằm ngoài dụng ý khám phá,
khai thác những phút giây các vĩ nhân được sống với cảm xúc thực của một cá thể người
trần thế, không ước lệ không ngụy tạo mà thôi.
Có thể nói, cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hiện lên khá
phong phú, sinh động và không kém phần ám ảnh so với các phạm trù thẩm mỹ
khác như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, hay cái Hài. Sự hiện diện của nó gắn liền với
tâm tính, hành vi, ứng xử, với hình ảnh của con người đời thường, nhỏ bé, ẩn chứa
151
trong mình đầy những giới hạn và mâu thuẫn. Nguyễn Huy Thiệp đã chủ trương
phá vỡ những thói quen sùng tín, lý tưởng hóa các hình tượng bằng cách dừng lại
đặc tả các góc khuất là sự thô thiển, nhếch nhác, chưa thanh chưa nhã của con
người... như một cách để người đọc nhận thức lại cuộc đời và tự xác lập cho mình
quan điểm đúng nghĩa hơn, dân chủ hơn về con người và các hệ giá trị của cuộc
sống vốn bộn bề và đầy rẫy sự ngụy tạo này.
4.2.3. Bản chất và hiệu ứng thẩm mỹ của cái Thô kệch trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
Soi chiếu từ quan niệm của chủ thể đến thực tiễn các sáng tác ta có thể thấy bản
chất của cái Thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những sự vật, hiện tượng,
con người mang trong mình những thuộc tính chưa thanh, chưa đẹp, chưa đạt độ hài hòa,
hoàn mỹ, nó chắc chắn không phải cái Đẹp, nhưng cũng chưa hẳn là cái xấu xa, độc ác.
Bởi cái Thô kệch ở đây được tác giả phản ánh trong một trạng thái đặc biệt là phạm trù
phản ánh thuộc tính đang vận động, chưa hoàn thiện của những sự vật, hiện tượng xoay
quanh cuộc sống và con người… Ngoại hình thô kệch với những con người lao động ấy
là hệ quả tất yếu của những lam lũ, cực nhọc để mưu sinh: cái đói, cái rét khiến họ trở
nên cục cằn, cay nghiệt, thậm chí bất chấp cả luật pháp, đạo lý. Ngoại hình thô kệch ở
những con người mang dị tật bẩm sinh (chột mắt, thọt chân, bại liệt…) đó là sự bất công
của tạo hóa, họ sống nhưng thua thiệt, không thể sống một cách bình thường, tự nhiên
như một con người. Cái Thô kệch ở tính cách hay đơn giản ở trong những hành vi, cử
chỉ, lời nói dung tục… đôi khi là những thói quen, sự mê chấp, ngộ nhận bản năng, đời
thường của con người. Chúng là những điều làm cho cuộc sống con người trở nên góc
cạnh, nhiều vẻ, phủ lên đó những bụi bặm, nhem nhuốc, tầm thường nhưng ráo riết và
thấm thía vị đời. Rõ ràng, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp không hề né tránh mà chấp nhận,
nhìn thẳng vào những cái chưa thanh, chưa nhã như một cách xác lập thái độ tôn trọng
hiện thực khách quan của người nghệ sĩ trong các sáng tác.
Không dừng ở đó, đặt cái Thô kệch vào giữa ranh giới của những cái tốt và xấu,
thiện và ác… cũng cho thấy nhà văn không hề cực đoan hay bất nhất trong quan niệm và
thực tiễn sáng tác: ông không bênh vực, cổ súy và cũng không phủ nhận sạch trơn bản
chất chưa thanh chưa nhã của cái Thô kệch. Nguyễn Huy Thiệp đã vạch ra khả năng
152
“chuyển hóa” nhiều mặt (cả tích cực và tiêu cực) của phạm trù như một cách để hướng
độc giả tới sự nhận thức về bản chất của các hiện tượng. Cái thô hoàn toàn có thể chuyển
hóa thành cái thiện, cái mỹ khi con người còn lương tri, còn tinh thần hướng thượng, sự
phản tỉnh và lòng bao dung, nhân ái trước cuộc đời. Ông Diểu (truyện Muối của rừng)
cuối buổi đi săn trở về trong trạng thái bi hài “nồng nỗng” không một miếng vải che
thân, không có con thú nào mang về, thậm chí khẩu súng săn cũng mất, nhưng hành
động “phóng sinh” cho con khỉ đực lại báo hiệu điềm lành, báo hiệu sự trở về của lương
tri trong con người đang giữa cảnh huống không mấy thanh lịch. Chàng Chương (truyện
Con gái Thủy Thần), chàng Trương Chi (truyện Trương Chi) hay Bạc Kỳ Sinh (truyện
Truyện tình kể trong đêm mưa)... có thể chỉ là con người quê mùa, tầm thường và lập dị,
nhưng trong sâu thẳm họ hiện hữu như những cá thể độc lập, dám khát vọng và dám
đứng ra trả giá, tranh đấu, kiếm tìm những giá trị tuyệt đích của cuộc đời… Theo đó, cái
Thô kệch hiện diện như một tín hiệu thẩm mỹ chỉ báo điềm lành, là hành trình cái thô
đang hướng về cái thanh, cái thiện, cái mỹ, là sự trở về của cái Đẹp và tính thiện bản
nguyên trong con người. Đối lập với trạng thái ấy, Nguyễn Huy Thiệp cũng chỉ ra xu
hướng: cái Thô kệch hoàn toàn có thể trở thành cội nguồn của cái xấu xa và cái ác. Đó là
khi nó quy thuận, hướng về những dục vọng, sự ích kỉ, thực dụng và vô tâm, mê chấp
của con người. Cảm giác tê tái ngập tràn khi ta chứng kiến cảnh bốn người con trai Cấn,
Khảm, Khiêm, Đoài (truyện Không có vua) bàn chuyện hậu sự cho bố bằng cách biểu
quyết: “Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé” [141, 56]. Tên tử tù Quản Văn
Lanh (truyện Tội ác và trừng phạt) hay tên lâm tặc chột mắt (truyện Thổ cẩm) hẳn đã có
một trang đời khác nếu không bị rơi vào tình cảnh của những người ngh o khổ, tăm tối
vô thừa nhận: “… lớn lên trong mặc cảm về nhân cách, sống trong hoàn cảnh hết sức
nhọc nhằn” [141, 337]. Cái Thô kệch về bản chất không phải là cái xấu, nhưng tính chất
chưa hài hòa, hoàn thiện làm cho nó khác biệt và có khoảng cách nhất định với hệ giá trị
có tính chuẩn mực, truyền thống. Bởi thế những con người, sự vật, sự việc thô kệch dễ
trở thành những hiện tượng dị biệt, ít nhận được thiện cảm hay bị kỳ thị, cô lập, tách khỏi
đời sống cộng đồng. Nỗi cô đơn, sự mặc cảm, cái đói, sự mông muội... trở thành những
môi trường thuận lợi để cái Thô kệch chuyển hóa thành cái xấu xa, tiêu cực, ranh giới tốt
- xấu, thiện - ác trở nên vô cùng bé nhỏ, mong manh.
153
Trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp, cái Thô kệch hiện hữu và được đẩy lên vai
trò là một phạm trù bình đẳng với các phạm trù thẩm mỹ chính thống: Cái thô song hành
cùng cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái Hài và trở thành điểm tựa để cái Đẹp được phát lộ
và nhìn nhận một cách đúng nghĩa nhất. Đến với truyện Chả đi sông ơi ta không chỉ
thấy vẻ dịu dàng, thơ mộng của dòng sông, của những câu chuyện cổ tích, của chị Thắm
- người con gái đẹp, lương thiện đưa đò mà còn nhận ra một thực tế xót xa từ phía sau sự
thô kệch của những người đánh cá trên sông: “Có ai yêu thương họ đâu... Họ đói và ngu
muội lắm” [141, 11]. Lời cô lái đò giản dị, thấm thía giúp lòng người dịu lại, tự hóa giải
mọi định kiến, sự vô tâm để biết lắng nghe, thấu cảm nhiều hơn với những người đánh cá
trên sông đang oằn mình vì gánh nặng mưu sinh. Khao khát hạnh phúc trần thế lứa đôi
trở nên thiêng liêng hơn, cao quý hơn khi nó được cảm thấu từ sự bé mọn, cô đơn, thua
thiệt của những con người mang đầy dị tật, thô nhám như cô Lài (truyện Tướng về hưu),
Tốn (truyện Không có vua), Cún (truyện ngắn cùng tên), hay nàng Pùa, nàng Sinh
(truyện Những ngọn gió Hua Tát). Ngay cả lúc Nguyễn Huy Thiệp giải thiêng thần
tượng không thương tiếc (truyện Kiếm sắc, Phẩm tiết, Vàng lửa, Chút thoáng Xuân
Hương, Mưa Nhã Nam, Ngu ễn Thị Lộ, Trương Chi...), ta vẫn thấy ở đó một hành trình
đi tìm cái thẩm mỹ được soi chiếu từ điểm nhìn của cái Thô kệch. Sự hiện diện của
những chi tiết chưa đẹp, chưa thanh ở những nhân vật danh nhân lịch sử (như vua Quang
Trung, Nguyễn Du, Đề Thám, Nguyễn Trãi hay Hồ Xuân Hương, Trương Chi...) chính
là sự chứng thực bản chất con người trong họ. Trong cõi nhân sinh, mọi danh xưng xã
hội đều thật vô nghĩa, người với người đều là những cá thể bình đẳng, bên cạnh những
phẩm chất cao đẹp mà người đời suy tôn, ở họ vẫn có những phần đời thường, nhỏ bé,
chưa hoàn thiện. Quang Trung có thể có giây phút hồ đồ, Nguyễn Du trong cuộc đời đầy
trầm tích là dấu ấn của những biến động thời đại có thể trào lên sự mặc cảm đớn đau,
Nguyễn Trãi, Đề Thám, Trương Chi cũng có thể có những lúc ngập trong nỗi cô đơn, uất
ức và bất lực... đấy mới là con người thực, bản chất thực của đời sống. Có thể thấy, sự
xuất hiện phổ quát của những con người có hình hài thô nhám, những đứa trẻ dị dạng, tật
nguyền, những chàng trai, cô gái tính tình khác thường, lập dị hay những danh nhân, lịch
sử lần lượt bị giải thiêng… đã giúp cái Thô kệch trở thành một phạm trù riêng, có tiếng
nói thẩm mỹ riêng trong các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
154
Trong lịch sử văn học, Nguyễn Huy Thiệp không phải người đầu tiên đề xuất và
thể nghiệm về cái Thô kệch, vì hình tượng về cái Thô kệch cũng đã xuất hiện khá nhiều
trong các sáng tác văn học dân gian và cả tác phẩm của nhiều nhà văn lớn trên thế giới.
Tuy nhiên, sự khác biệt ở đây là nhà văn cho những cái xấu xí, hao khuyết, kì dị xuất
hiện phổ quát và có quyền sánh ngang những phạm trù truyền thống như cái Đẹp, cái
Cao cả, cái Bi hay cái Hài. Điều này đã khiến không ít người đọc cảm thấy gợn gạo,
phản cảm, hoài nghi về tư tưởng và nhận thức của nhà văn, tiêu biểu là tác giả Đỗ Văn
Khang. Trong chuỗi những bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí của mình, ông một mực
cho rằng sự hiện diện của cái Thô kệch trong trang văn Nguyễn Huy Thiệp là lối viết “tự
nhiên chủ nghĩa” [105, 242]. Đồng thời, ông còn cho rằng văn chương Nguyễn Huy
Thiệp đã và đang sa sút đi vì “thô lỗ, tục tằn và bộc lộ một trình độ văn hóa yếu kém”
[105, 411]. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoài nghi ấy, phần đông người đọc vẫn
nhận thấy rất rõ tiếng nói “phản tỉnh” vừa quyết liệt vừa tha thiết trước lối mòn, sự trì trệ
trong nhận thức của con người về đời sống thông qua sự hiện diện của cái Thô kệch. Bức
tranh hiện thực muôn màu muôn vẻ, chứ không đơn thuần là sắc hồng hay toàn mảng
xám, bởi thế không có lý do gì cái Thô kệch không có quyền cất lên tiếng nói phản tỉnh
của mình, để chúng ta không bị ru ngủ trong những phép thắng lợi tinh thần mà tỉnh táo
hơn, thấu thị và ráo riết hơn, dám nhìn vào những cái xấu xí, cái chưa thanh chưa đẹp để
nhận ra chân giá trị của chính mình.
Như vậy, cái Thô kệch mà nhà văn thường xuyên biểu hiện trong các sáng tác và thế
giới hình tượng suy đến tận cùng là một phương tiện nghệ thuật để Nguyễn Huy Thiệp thể
nghiệm quan niệm văn học của mình qua các sáng tác. Theo đó, ông chọn con đường nhìn
thẳng vào cái thô để có cái thật. Đối mặt với cái thô, trải lòng với cái thô ấy là cách để nhà
văn tìm ra cái Đẹp bản chất của đời sống trong văn học. Từ quan niệm đến thực tiễn sáng
tác, Nguyễn Huy Thiệp đã có niềm tin và sự mạnh dạn tìm tòi nhất định khi coi cái Thô kệch
như một phạm trù thẩm mỹ độc lập, độc đáo… nhưng nhìn nhận về những hiệu ứng thẩm
mỹ mà phạm trù này mang lại quan niệm đó vẫn ít nhiều bộc lộ tính chủ quan và cực đoan,
các tác phẩm nhiều khi xuất hiện những chi tiết thô kệch phản cảm. Tuy nhiên, vượt lên trên
tất cả những giới hạn đó, ta vẫn thấy không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu - phê bình
văn học Nguyễn Thanh Sơn lại ví truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là những viên ngọc Biện
Hòa ẩn sau lớp vỏ xù xì thô kệch [109, 116 - 128].
155
Tiểu kết chƣơng 4
Cái Nghịch lý và cái Thô kệch là hai phạm trù thẩm mỹ đặc biệt được nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp đưa vào vị trí trung tâm, sánh ngang với các phạm trù truyền thống
(như cái Đẹp, cái Cao cả, cái Bi, cái Hài) trong thế giới nghệ thuật của các sáng tác. Nỗ
lực đó đã tạo cho các truyện ngắn của ông một đặc tính nổi bật, đó là tính đối thoại và
tính dân chủ khi miêu tả, phản ánh và lý giải về cuộc đời. Hiện thực với nhà văn chưa
bao giờ xuôi thuận, đơn giản như những gì văn học truyền thống từng kiến tạo, mà nó là
một thể phức hợp bộn bề, vừa có cái cao cả, tốt đẹp lẫn phần thô lậu, xấu xí, vừa có các
giá trị lẫn phản giá trị, những điều duy lý và nghịch lý, phi lý song tồn..., bởi vậy, đối
thoại để nhận thức lại quá khứ, dân chủ để nhìn nhận đúng bản chất vấn đề hiện tại là
một nhu cầu thiết thân mà những phạm trù thẩm mỹ này mang đến cho người đọc đương
đại qua sự hiện diện của mình trong văn học. Quan niệm này dù có phần giới hạn, cực
đoan, nhưng sự mới mẻ và tính tích cực trong việc mở rộng trường thẩm mỹ cho người
đọc của hai phạm trù này là điều không thể phủ nhận.
156
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung và các truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp nói riêng từ góc nhìn các phạm trù thẩm mỹ là một cách tiếp cận có ý
nghĩa không nhỏ trên cả bình diện lý thuyết và thực tiễn. Về phương diện lý thuyết,
hướng tiếp cận này cho phép người nghiên cứu không chỉ xem xét văn học dưới góc
độ là một hình thái ý thức xã hội (như quan niệm lý luận truyền thống) mà còn tập
trung vào những đặc tính thẩm mỹ - nghệ thuật của đối tượng nghiên cứu dựa vào
những thành tựu lý luận và mỹ học hiện đại. Về phương diện thực tiễn, việc khảo
sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp giúp chúng ta nhận thấy rõ nét trò to lớn của ba
thành tố nhà văn - tác phẩm - người đọc trong việc kiến tạo nên diện mạo thâm mỹ
của đời sống văn học thời đại. Từ đó, tiếp cận tác phẩm từ các phạm trù thẩm mỹ
vừa giúp người nghiên cứu vận dụng linh hoạt các thành tựu lý thuyết hiện đại vừa
nhận thức khách quan, đúng nghĩa hơn bản chất của các hiện tượng thẩm mỹ trong
sáng tác, tránh được cái nhìn thiên kiến cực đoan về trường hợp truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp nói riêng và các hiện tượng văn học nói chung.
2. Vận dụng lý thuyết mỹ học vào nghiên cứu một trường hợp tiêu biểu là
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta nhận thấy khá rõ tư duy đổi mới và sáng
tạo không ngừng nghỉ của tác giả ngay trong cách ông quan niệm về sự hiện diện
của các phạm trù thẩm mỹ trong đời sống, trong con người và đặc biệt là trong nghệ
thuật. Với cái Đẹp ông xem tính chính xác là điều kiện tiên quyết làm nên giá trị
xứng đáng cho con người, cuộc sống và nghệ thuật. Với cái Cao cả, nhà văn đưa ra
yêu cầu giải thiêng thần tượng cái Cao cả trong truyền thống để nỗ lực truy tìm
những giá trị tuyệt đích đúng nghĩa trong hiện tại, đời thường. Với cái Bi, Nguyễn
Huy Thiệp hướng người đọc tới thái độ không né tránh mà dám nhìn thẳng vào
những nỗi đau, sự trần trụi để khởi sinh niềm tin và những giá trị tốt đẹp cho cuộc
đời. Ở cái Hài, đó là đề xuất nghiêm khắc nhận thức lại bản chất của cuộc sống, giá
trị của con người và bản thân qua tiếng cười và sự giễu nhại. Cái Nghịch lý là sự
chứng minh tính “khả biến” phức tạp, vô thường và đầy bất trắc của hiện thực để
con người tự thức tỉnh bản thân khỏi sự ngộ nhận, ru mình trong những chân lý đám
đông. Còn cái Thô kệch lại là nỗ lực chấp nhận những phần hao khuyết của hiện
157
thực để biết trân quý hơn, thấu cảm hơn những phần tốt đẹp của cõi nhân sinh.
3. Trong hành trình hiện thực hóa quan niệm thẩm mỹ của mình, Nguyễn
Huy Thiệp đã rất thành công khi kiến tạo những hiệu ứng thẩm mỹ tích cực, mới mẻ
cho người đọc về sự hiện diện của các phạm trù thẩm mỹ trên nhiều phương diện:
trong tự nhiên, trong đời sống, trong con người và trong văn học - nghệ thuật. Bởi
những biểu hiện ấy được nhà văn khai thác bằng một cảm quan nhạy bén, đầy cá
tính thông qua thế giới hình tượng vô cùng phong phú, sinh động, với những tình
huống truyện vừa chân thật, vừa bất ngờ và một phong cách ngôn ngữ có sự tối ưu
hóa tính phức điệu, đa thanh, đa nghĩa... Ở mỗi biểu hiện, nhà văn thường chỉ đưa ra
các thông tin, dữ liệu giàu sức “gợi” về khách thể, còn luôn dành khoảng trống để
độc giả trong vai trò chủ thể sẽ tự chiêm nghiệm, giác ngộ ra những nhận thức thẩm
mỹ theo chủ kiến của mình, đồng thời hướng người đọc tới cái nhìn đa chiều về mọi
mặt của đời sống. Chính vì vậy, những cảm xúc về sự hiện diện của cái Đẹp, cái
Cao cả, cái Bi, cái Hài hay cái Nghịch lý, cái Thô kệch trong tác phẩm đều hết sức
tự nhiên, chạm thấu tới tâm thức của người đọc đương đại. Đồng thời, hiện thực
được mở rộng và tiếp cận tối đa về phạm vi đã giúp truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
vượt thoát ra ngoài giới hạn chật hẹp của những sáng tác thuộc loại hình tự sự cỡ
nhỏ, tưởng chừng như đã hoàn thiện để trở thành những “biến thể” truyện ngắn,
truyện ngắn hóa tiểu thuyết đầy hấp dẫn và thông tin với độc giả.
4. Đứng từ góc nhìn của các phạm trù thẩm mỹ, ta thấy nhà văn luôn thể hiện
một thái độ nhất quán và quyết liệt: không chấp nhận cái Đẹp hay cái Cao cả suy
tôn không bản chất, sẵn sàng chấp nhận đối diện với mọi cái Bi - cái Hài của thế
cuộc nhân sinh, thừa nhận thẳng thắn những điều bất bình thường, nghịch dị, cái Phi
lý và cái Thô kệch trong cuộc đời. Thái độ đó bề ngoài có phần kiên quyết đến cực
đoan nhưng bản chất lại thể hiện một tấm lòng yêu thương, đồng cảm chân thành
của người nghệ sĩ. Ông đã không kiêng d phơi bày thật nhiều những góc khuất, nói
nhiều đến cái xấu xa, nhem nhuốc, ti tiện, ngu muội của con người và cuộc đời để
rồi lắng lại sau đấy là sự tôn trọng, thành thực với độc giả, phản tỉnh ráo riết trước
hiện thực và kiên trì hướng con người tới những giá trị, tình cảm cao thượng của cái
CHÂN - THIỆN - MỸ. Tuy nhiên, trong nỗ lực để hướng tới những giá trị thẩm mỹ
158
lý tưởng ấy, không phải thử nghiệm nghệ thuật nào của nhà văn cũng thành công và được
ghi nhận. Sự công kích bài bác quyết liệt của một bộ phận độc giả trước những “hư cấu quá
đà” hay những chi tiết dung tục, cực đoan xoay quanh các phạm trù đặc biệt là cái Cao cả,
cái Nghịch lý và cái Thô kệch... là hoàn toàn có cơ sở. Bởi thực tế các thử nghiệm đó chưa
thực sự thuyết phục và hiệu ứng thẩm mỹ tích cực với công chúng, bạn đọc. Cuối cùng, vượt
qua tất cả những giới hạn không mong muốn của hành trình sáng tạo nghệ thuật đầy gian
khó nêu trên, sự đồng hiện phong phú, đa sắc thái của các phạm trù thẩm mỹ trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự mang về cho độc giả những trang viết có tính “thức
tỉnh”, thật sự ráo riết, hấp dẫn và đầy tinh thần đổi mới về phương diện nhận thức và thẩm
mỹ. Nhà văn có thể chưa thành công ở mọi thử nghiệm nghệ thuật, nhưng nỗ lực tìm tòi, cá
tính sáng tạo bộc lộ nhất quán trong từng trang viết và trong cả cuộc đời văn nghiệp đầy
thăng trầm của ông hoàn toàn xứng đáng để chúng ta ghi nhận Nguyễn Huy Thiệp là một
trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Kiều Hương (2016), “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn
tiếp nhận văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 7(533), tr.39-tr.46.
2. Nguyễn Thị Kiều Hương (2016), “Cuộc thử nghiệm tiểu thuyết của Nguyễn Huy
Thiệp”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia Văn học Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa,
khoa Văn học, trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, NXB Thông tin và
Truyền thông, Hà Nội, tr.630-.636.
3. Nguyễn Thị Kiều Hương (2017),“Sự tương tác thể loại trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia Nghiên cứu và giảng dạ văn học trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm II, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội, tr.134-139.
4. Nguyễn Thị Kiều Hương (2018), “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn
của phạm trù cái Đẹp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 5(555), tr.102-110.
5. Nguyễn Thị Kiều Hương (2018), “Tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ
góc nhìn các phạm trù thẩm mỹ”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư 6 (56),
tr.10-14& tr.122.
6. Nguyễn Thị Kiều Hương (2019), “Quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 4 (566), tr.101-110.
7. Nguyễn Thị Kiều Hương (2019), “Cái thô kệch trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư 6 (62), tr.46-49& tr.56.
8. Nguyễn Thị Kiều Hương (2020), “Cái nghịch lí trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 5 (579), tr. 35-41.
160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Bùi Ngọc Anh (2013), Yếu tố giễu nhại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, Vĩnh Phúc.
2. Aristote (2007), Nghệ thuật thi ca (Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ
Xuân Hà, Thành Thế Yên Báy - dịch, Đoàn Tử Huyến - hiệu đính), NXB Lao
động, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2002), Sống với văn học cùng thời, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Lê Huy Bắc (2012), Văn học hậu hiện đại: Lý thu ết và tiếp nhận, NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
6. Phan Thanh Bình (2007), Nghệ thuật xâ dựng nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường
Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
7. Tạ Thị Thanh Bình (2014), Con người cô đơn và tha hóa trong tru ện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ tâm thức hiện sinh, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
Lý luận văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Hà Nội.
8. Trần Thị Thu Bình (2011), Cách tổ chức hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm
tự sự (Qua một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp), Luận văn Thạc sĩ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
9. Trương Thị Ngọc Cẩm (2013), Quan hệ về con người trong sáng tác Ngu ễn
Huy Thiệp (khảo sát tru ện ngắn), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học
Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấ trước đèn (Phê bình – Tiểu luận), NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Minh Châu, “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh
họa”, https://phebinhvanhoc.com.vn/hay-doc-loi-ai-dieu-cho-mot-giai-doan-van-
nghe-minh-hoa/, ngày đăng tải 14/06/2012.
161
12. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant (2016), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới
(Phạm Vĩnh Cư – Nguyễn Xuân Giao – Lưu Huy Khánh – Nguyên Ngọc – Vũ
Đình Phòng - Nguyễn Văn Vỹ dịch), NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
13. Lê Thị Sao Chi (2011), Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong tru ện
ngắn Ngu ễn Minh Châu, Ngu ễn Hu Thiệp, Ngu ễn Thị Thu Huệ..., Luận án
tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
14. Nguyễn Chí Công (2013), Đặc điểm tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, Khóa luận
tốt nghiệp ngành Ngữ văn, Trường Đại học Cần Thơ.
15. Nguyễn Văn Dân (2013), Chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ thuật, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
16. Diderot. D (2006), Mỹ học (Phùng Văn Tửu dịch và giới thiệu), NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
17. Diderot. D (2013), Từ mỹ học đến các loại hình nghệ thuật (Phùng Văn Tửu
dịch và giới thiệu), NXB Tri thức, Hà Nội.
18. Thục Du, “Nguyễn Huy Thiệp và dòng văn 8x”, http://dantri.com.vn/nhip-song-
tre/nguyen-huy-thiep-va-dong-van-8x-1155622902.htm,
ngày đăng tải 14/08/2006.
19. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
20. Đoàn Tiến Dũng (2010), Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
21. Đoàn Tiến Dũng (2011), “Tự sự dòng ý thức và đồng hiện thời gian trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (5), tr.66 - 70.
22. Nguyễn Hồng Dũng (2012), “Thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - ranh
giới và sự xâm nhập thể loại, hiệu ứng thẩm mỹ”, Tạp chí Khoa học Đại học
Huế 72A (3), tr. 55-62.
23. Nguyễn Văn Dũng (2011), Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng.
162
24. Hồ Hải Duyên (2013), So sánh lối viết truyện của Albert Camus và Ngu ễn Huy
Thiệp, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Sư phạm Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
25. Đoàn Ánh Dương (2014), Không gian văn học đương đại, NXB Phụ nữ, Hà Nội
26. Lê Văn Dương, Lê Đình Lục, Lê Hồng Vân (2011), Mỹ học đại cương, NXB
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
27. Trần Đạo (1990), “Nguyễn Huy Thiệp - thời điểm của câu hỏi, thời điểm của
con người”, http://amvc.free.fr/PHD/VGNLN/NguyenHuyThiepthoidiem.htm.
28. Nguyễn Đăng Điệp (2010), “Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp”, Thi
pháp học ở Việt Nam nhân 70 năm sinh GS.TS. Trần Đình Sử, NXB Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội, tr.426.
29. Nguyễn Đăng Điệp (2016), Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội
nhập quốc tế, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
30. Phan Thị Điệp (2016), “Diễn ngôn nhân vật trong nhóm truyện ngắn thế sự của
Nguyễn Huy Thiệp”, Hội thảo khoa học sinh viên lần IX , Trường Đại học Văn
Hiến, tr. 106 - 120.
31. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Phê bình Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Văn học, Hà Nội.
32. Trần Thanh Đoàn (2011), Đặc điểm tư du tru ện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
33. Nguyễn Văn Đông (2012), Lời văn nghệ thuật Nguyễn Huy Thiệp, Luận án Tiến
sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Đông, “Màu sắc triết lý và giọng điệu giễu nhại trong lời thoại nhân vật của Nguyễn
Huy Thiệp”, http://vns.hnue.edu.vn/T%C6%B0-li%E1%BB%87u/V%C4%83n-
Ti%E1%BA%BFng-Vi%E1%BB%87t/article/73, ngày đăng tải 23/12/2016.
35. Hà Minh Đức - chủ biên (2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
36. Hoàng Cẩm Giang, “Sự xâm nhập vài tái sinh một số mô thức tự sự dân gian
trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay”,
http://khoavanhoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=87
3:s-xam-nhp-va-tai-sinh-ca-mt-s-mo-thc-t-s-dan-gian-trong-vn-xuoi-vit-nam-t-
1986-n-nay&catid=83:ngh-thut-hc&Itemid=247, ngày đăng tải 04/03/2011.
163
37. Ngô Thị Thu Giang (2014), Cảm quan sinh thái trong tru ện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên.
38. Nông Thị Giang (2018), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nhìn từ sự tiếp nhận
của người đọc, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
39. Phạm Thị Gươm (2017), Đặc sắc của hai vở chèo "Vong bướm" và "Tru ền
thuyết tìm vua" của Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
40. Đặng Thái Hà, “Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ điểm nhìn phê
bình sinh thái”, http://vietvan.vn/vi/bvct/id3683/Buoc-dau-tim-hieu-truyen-ngan-
Nguyen-Huy-Thiep-tu-diem-nhin-phe-binh-sinh-thai/, ngày đăng tải 25/3/2017.
41. Đặng Thái Hà (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (qua tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu, Ngu ễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
42. Trần Thị Thanh Hà (2005), Tiếng cười trong sáng tác Ngu ễn Huy Thiệp, Luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư Phạm Hà
Nội, Hà Nội.
43. Ngô Thanh Hải, “Nguyễn Huy Thiệp và những giai thoại lịch sử”,
http://nguvan.hnue.edu.vn, ngày đăng tải 16/01/2019.
44. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - đồng chủ biên (2004), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
45. Nguyễn Phương Hảo (2011), Màu sắc hiện sinh trong sáng tác của Ngu ễn Hu
Thiệp và Phạm Thị Hoài, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
46. Đồng Nguyễn Minh Hằng (2013), Đặc điểm nhân vật người kể chu ện trong
tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, Hà Nội.
47. Đồng Nguyễn Minh Hằng (2015), “Đặc điểm ngôn ngữ người trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, tập 8 (238), tr.
103-108.
164
48. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2013), Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp - Nguồn mạch dân
gian trong bối cảnh hiện đại, hậu hiện đại, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận
Văn học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
49. Trần Thị Diễm Hằng (2002), Thế giới nhân vật trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu
Thiệp nhìn từ góc độ chức năng nhân vật, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Ngữ
văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
50. Võ Thu Hằng, Triết lý văn chương trên trang viết Ngu ễn Hu Thiệp,
http://giaitri.vnexpress.net, ngày đăng tải 5/9/2007.
51. Đoàn Văn Hân (2012), Đặc điểm nhân vật trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
52. Huỳnh Thị Thu Hậu (2017), Nghệ thuật nghịch dị trong tiểu thu ết Việt Nam từ
1986 đến 2012, Luận án Tiến sĩ Văn học, chuyên ngành Văn học Việt Nam,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, Huế.
53. Lý Trạch Hậu (2002), Bốn bài giảng mỹ học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
54. Hegel (1999), Mỹ học - tập I (Phan Ngọc - dịch và giới thiệu), NXB Văn học, Hà Nội.
55. Vũ Thu Hiền (1999), Những đổi mới nghệ thuật trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
56. Vương Thị Thanh Hiền (2010), Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với tru ện
ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học,
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
57. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thu ết hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
58. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long (Phan Ngọc - dịch và giới thiệu), NXB
Lao động, Hà Nội.
59. Đỗ Đức Hiểu (2000), “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”, Thi pháp hiện đại, NXB
Hội Nhà văn, Hà Nội, 272-283.
60. Trương Văn Hòa (2006), Con người trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp,
Khóa luận tốt nghiệp ngành Văn học, Đại học Vinh, Vinh.
61. Nguyễn Thị Năm Hoàng (2016), Tru ện ngắn Việt Nam sau 1975 - Nhìn từ góc
độ thể loại, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
165
62. Bùi Thị Nguyệt Hồng (2003), Biểu tượng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
63. Cao Hồng (2011), Một chặng đường đổi mới Lý luận Văn học Việt Nam (1986-
2011), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
64. Cao Hồng (2013), Lý luận - phê bình văn học đổi mới và sáng tạo, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội.
65. Cao Hồng (2017), Lý luận - phê bình văn học: Một góc nhìn mới, NXB Hội nhà
văn, Hà Nội.
66. Nguyễn Thị Hồng (2018), “Những cung bậc tiếng cười trong một số truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Khoa học, Đại học Đồng Nai (08), tr. 78-89.
67. Lê Thị Hồng (2005), Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp viết về đời tư và thế sự
đạo đức, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Văn học Việt Nam,
Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
68. Nguyễn Thị Huệ (2007), Từ cảm quan trào lộng đến ngôn ngữ nghệ thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt
Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
69. Denis Huisman (2004), Mỹ học (Xuân Lộc dịch và chú thích), NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
70. Châu Minh Hùng, “Hình thức đa thanh mới qua truyện của Nguyễn Huy Thiệp”,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày đăng tải 01/03/2009.
71. Châu Minh Hùng, “Tiếng nói của cái tục trong văn Nguyễn Huy Thiệp”,
http://chumonglong.wordpress.com.vn, ngày đăng tải 02/04/2012.
72. Trương Chí Hùng, “Những nét chính trong phong cách truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp”, http://youth.agu.edu.vn/?q=node/234, ngày đăng tải 04/01/2014.
73. Đỗ Huy (1996), Mỹ học với tư cách là một khoa học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Nguyễn Hoàng Huy - sưu tầm và biên dịch (2013), Mỹ học và phê bình nghệ
thuật, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.
75. Nguyễn Thu Huyền (2009), So sánh và ẩn dụ trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
76. Lê Thị Hương (2007), Nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
166
77. Nguyễn Thị Mai Hương (2018), Chủ đề sinh thái trong tru ện ngắn của
Nguyễn Minh Châu và Ngu ễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn
học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
78. Tạp chí sông Hương (1989), Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, NXB
Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
79. Marc Jimenez (2016), 50 câu hỏi mỹ học đương đại (Phan Diệu Hương dịch),
NXB Thế giới, Hà Nội.
80. Trần Thiện Khanh, “Quy ước diễn ngôn và văn chương giai đoạn 1986 – 1991”,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c205/n5456/Quy-uoc-dien-ngon-van-
chuong-giai-doan-1986-1991.html, ngày đăng tải 04/05/2010.
81. Đỗ Văn Khang (2004), Nghệ thuật học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
82. Khoa Văn học (2011), Người đọc và công chúng nghệ thuật đương đại, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
83. Cao Kim Lan, “Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi
pháp hậu hiện đại”, http://khoavanhue.husc.edu.vn/lich-su-trong-truyen-ngan-nguyen-
huy-thiep-va-dau-vet-cua-he-hinh-thi-phap-hau-hien-dai/, ngày đăng tải 01/10/2017.
84. Mã Giang Lân, Bùi Việt Thắng (2007), Văn học Việt Nam sau 1975, Giáo trình
Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
85. Đỗ Thị Liên (2007), Thành ngữ, tục ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành Ngữ văn, Đại học Cần Thơ.
86. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB Giáo dục, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên (2009), Văn học Việt Nam sau
1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.
88. Phương Lựu - chủ biên (2006), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
89. Lê Thị Lý (2016), “Hình tượng con người đi tìm chân lý trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp”, Tạp chí khoa học Trường Đại học Vinh 45 (2B), tr. 24-33.
90. Rôdentan.M (1976), Từ điển triết học, NXB Sự thật, Hà Nội.
91. Marc Jimenes (2016), 50 câu hỏi mỹ học đương đại (Phan Diệu Hương - dịch),
NXB Thế giới, Hà Nội.
167
92. Iu.M.Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh
Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
93. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (2000), Toàn tập (tập 42), NXB Chính trị - Sự thật, Hà Nội.
94. Tôn Thảo Miên chủ biên (2014), Công chúng, giao lưu và quảng bá Văn học
Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2010), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
95. Hồ Tấn Nguyên Minh, “Quan niệm về con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp”,https://www.chungta.com/nd/tulieutracuu/quan_niem_ve_con_nguoi_trong_truyen
_ngan_nguyen_huy_thiep.html, ngày đăng tải 05/9/2016.
96. Nhiều tác giả (2010), Cà phê Hàng Hành (tu ển tru ện ngắn ha báo văn
nghệ), NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
97. Nhiều tác giả (2005), Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu
và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.
98. Phạm Thị Như (2011), Phong cách ngụ ngôn hiện đại trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu
Thiệp và Phạm Thị Hoài, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
99. Đỗ Hải Ninh, “Những thế hệ nhà văn thời Đổi mới: Tiếp nối và chuyển động”,
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-
nhin-van-hoa/nhung-the-he-nha-van-thoi-doi-moi-tiep-noi-va-chuyen-dong,
ngày đăng tải 20/5/2016.
100. Lã Nguyên (2007), “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài”, Tạp chí
Văn học (12), tr. 12-38.
101. Lã Nguyên, “Văn học Việt Nam trong bước chuyển mình”,
http://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/PheBinhVanHoc/View_Det
ail.aspx?ItemID=3, ngày đăng tải 19/9/2012.
102. Lã Nguyên, “Văn học Việt Nam1975-1991: Nhìn lại những bước đi. Lắng nghe những
tiếng nói”, https://languyensp.wordpress.com/2013/09/28/van-hoc-viet-nam-
1975-1991/, ngày đăng tải 28/9/2013.
103. Lã Nguyên, “Nguyễn Huy Thiệp và bước ngoặt của văn học Việt Nam sau
1975”, http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-
nhin-van-hoa/nguyen-huy-thiep-va-buoc-ngoat-cua-van-hoc-viet-nam-sau-
1975, ngày đăng tải 06/06/2014.
168
104. Lã Nguyên, “Văn học kỳ ảo: nhìn từ hệ hình thế giới quan”,
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Vanhocnuocngoai/tabid/105/newstab/36
3/Default.aspx, ngày đăng tải 13/11/2014.
105. Phạm Xuân Nguyên tuyển chọn và giới thiệu (2001), Đi tìm Ngu ễn Hu
Thiệp, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
106. Hoàng Kim Oanh (2008), Đặc trưng tru ện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
107. M.F. Ôp-xi-a-nhi-côp (1987), Mỹ học Mác – Lê-nin (Phạm Văn Bích dịch),
NXB Văn hóa, Hà Nội.
108. Liviu Petrescu (2013), Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại (Lê Nguyên Cẩn dịch
và giới thiệu), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
109. Hoàng Phê chủ biên (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ -
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ, Hà Nội.
110. Phạm Phú Phong, “Giọng điệu văn chương Nguyễn Huy Thiệp”,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c92/n499/Giong-dieu-van-chuong-
Nguyen-Huy-Thiep.html, ngày đăng tải 29/7/2008.
111. Vũ Đình Phùng (2005), Tìm hiểu nghệ thuật tổ chức cốt tru ện trong tru ện
ngắn đương đại:Qua tru ện ngắn Ngu ễn Minh Châu và Ngu ễn Hu Thiệp,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
112. Dương Minh Phương, “Hâm nóng Nguyễn Huy Thiệp”,
https://www.tienphong.vn/van-hoa/ham-nong-nguyen-huy-thiep-1048394.tpo,
ngày đăng tải 10/9/2016.
113. Ngô Lan Phương (2016), Diễn ngôn tính dục trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
114. Lê Thị Phượng (2004), Một số phương diện đặc sắc trong nghệ thuật kết cấu
tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt
Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
169
115. Nguyễn Minh Quân, “Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản”,
http://phebinhvanhoc.com.vn, ngày đăng tải 17/9/2012.
116. Nguyễn Thị Son (2013), Yếu tố kỳ ảo trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp,
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
117. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “Đọc những cách đọc Nguyễn Huy Thiệp và thử đọc
Nguyễn Huy Thiệp”, Người đọc và công chúng nghệ thuật đương đại, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.193-208.
118. Nguyễn Hữu Sơn (2018), “Nhận diện những sáng tác về đề tài lịch sử của Nguyễn
Huy Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứ Văn học 3 (553), tr. 37-47.
119. Nguyễn Thanh Sơn (2002), Phê bình văn học của tôi, NXB Trẻ, Hà Nội.
120. Trần Đình Sử (2004), Dẫn luận thi pháp học văn học, NXB Đại học Sư phạm
Hà Nội, Hà Nội.
121. Trần Đình Sử, “Tư duy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”,
http://phebinhvanhoc.com.vn/tu-duy-truyen-ngan-nguyen-huy-thiep/, ngày đăng tải
15/04/2012.
122. Trần Đình Sử (2011), Giáo trình Lý luận văn học tập 2, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
123. Trần Đình Sử (2016), Trên đường biên của lý luận văn học, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
124. Hoàng Thị Bích Thảo (2014), Thi pháp hu ền thoại trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
125. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội.
126. Bùi Việt Thắng (2007), Truyện ngắn- những vấn đề lý thu ết và thực tiễn thể
loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
127. Phùng Gia Thế (2007), “Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2), tr. 30-34.
128. Phùng Gia Thế (2016), Những dấu hiệu chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi
Việt Nam đương đại (chuyên luận), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
170
129. Phùng Gia Thế (2016), Văn học Việt Nam sau 1986 – Phê bình đối thoại (Tiểu
luận – Phê bình), NXB Thế giới, Hà Nội.
130. Nguyễn Thành Thi (2010), “Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (5), tr. 26 - 37.
131. Trần Viết Thiện (2007), “Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp - Chiều tương tác
độc đáo”, Tạp chí Sông Hương (216), tr. 35-40.
132. Trần Viết Thiện (2007), “Tư duy tiểu thuyết và cái nhìn về con người trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Báo Văn hóa nghệ thuật (5), tr. 19 - 24.
133. Trần Viết Thiện (2012), Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986
đến na , Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
134. Nguyễn Huy Thiệp (1986), “Cô Mị”, Báo Văn nghệ (18), tr. 45-.53.
135. Nguyễn Huy Thiệp (1986), “Vết trượt”, Báo Văn nghệ (39), tr.23-47.
136. Nguyễn Huy Thiệp (1992), “Sang sông”,
https://vietmessenger.com/books/?title=tuong%20ve%20huu&page=3.
137. Nguyễn Huy Thiệp (2004), “Cánh buồm nâu thuở ấy”,
https://vietmessenger.com/books/?title=tuong%20ve%20huu&page=23.
138. Nguyễn Huy Thiệp (2004), “Những tiếng lòng líu la líu lo”,
https://vietmessenger.com/books/?title=tuong%20ve%20huu&page=22.
139. Nguyễn Huy Thiệp (2004), “Quan Âm chỉ lộ”,
https://vietmessenger.com/books/?title=tuong%20ve%20huu&page=25.
140. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Giăng lưới bắt chim , NXB Thanh Niên, tái bản 2010, Hà Nội.
141. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
142. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Ngu ễn Hu Thiệp - Tu ển tập tru ện ngắn, NXB
Văn hóa Sài Gòn, Tp.Hồ Chí Minh.
143. Nguyễn Huy Thiệp (2007), “Café Hàng Hành”,
https://vietmessenger.com/books/?title=tuong%20ve%20huu&page=24.
144. Nguyễn Huy Thiệp (2008), “Như sương như khói bay”,
https://vietmessenger.com/books/?title=tuong%20ve%20huu&page=17.
171
145. Nguyễn Thị Hải Thiệp (2008), “Một số biểu hiện của tư duy tiểu thuyết trong
truyện ngắn Tội ác và trừng phạt của Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Nghiên cứu
văn học, số 3/2008, 50-57.
146. Như Thiết (2002), Cái Đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
147. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (2017), “Nguyễn Huy Thiệp và sự thức tỉnh”,
https://www.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/nguyen-huy-thiep-va-su-
thuc-tinh-92559/.
148. Trần Nho Thìn (2017), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng
dạ văn học, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
149. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
150. Bích Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại sáng tạo và tiếp nhận (Tiểu luận -
phê bình), NXB Văn học, Hà Nội.
151. Lý Hoài Thu, “Nhìn lại chức năng giải trí của văn học nghệ thuật”,
http://vannghequandoi.com.vn/Binh-luan-van-nghe/nhin-lai-chuc-nang-giai-tri-
cua-van-hoc-nghe-thuat-7855.html, ngày đăng tải 16/09/2015.
152. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Liên văn bản trong sáng tác Ngu ễn Huy Thiệp, Luận án
Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
153. Nguyễn Thị Thùy (2015), Một số cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
154. Triệu Thanh Thùy (2014), Các ếu tố kèm lời dẫn thoại qua khảo sát tru ện
ngắn Ma Văn Kháng và Ngu ễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
155. Đỗ Thị Ngọc Thúy (2010), Phê bình tiểu luận của Nguyễn Huy Thiệp, Luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
156. Đồng Thị Thanh Thủy (2003), Vẻ đẹp thiên tính nữ trong văn xuôi Việt Nam sau
1975, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
172
157. Lê Chung Thủy (2011), Phong cách tự sự dân gian trong văn học Việt Nam
đương đại (Khảo sát qua các tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh và Ngu ễn
Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học,Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
158. Lê Hương Thủy (2018), “Sự tương tác thể loại trong truyện ngắn Việt Nam đương
đại”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam tập 60 (4), tr. 40-45.
159. Lê Thị Hương Thủy (2013), Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến na : nhìn từ
góc độ thể loại, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Học viện
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
160. Lê Thị Hương Thủy, “Hiện tượng truyện ngắn tiểu thuyết hóa trong văn học Việt Nam
đương đại”, http://tonvinhvanhoadoc.vn/hien-tuong-truyen-ngan-tieu-thuyet-hoa-trong-
van-hoc-viet-nam-duong-da.html/, ngày đăng tải 13/9/2014.
161. Nguyễn Hoàng Diệu Thủy (2005), Nguyễn Huy Thiệp từ ý thức tự vấn đến
những cách tân nghệ thuật quan trọng, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn
học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
162. Nguyễn Thị Thu Thủy (2011), “Một số đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp”, Tạp chí Ngôn ngữ (10), tr. 39 - 49.
163. Cung Kim Tiến biên soạn (2002), Từ điển triết học, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
164. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ
đổi mới, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
165. Trần Mạnh Tiến (2011), “Sự hình thành quan niệm mĩ học và nghệ thuật Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX. Nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn từ truyền thống đến hiện đại”, Kỉ yếu
Hội thảo Khoa học 60 năm khoa Ngữ văn 1951 - 2011, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
166. Lê Thị Trang (2014), Tư tưởng nhân văn hiện thực trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận Văn học, Trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
167. Nguyễn Thị Trang (2014), Thủ pháp nhại trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
173
168. Phạm Thị Thùy Trang (2009), Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học, Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
169. Phạm Thị Trâm (2002), Vai trò của văn học dân gian trong sáng tác của một số nhà
văn hiện đại, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Dân gian, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
170. Đặng Lê Tuyết Trinh (2012), Một số đặc điểm trong sự vận động của tru ện
ngắn Việt Nam hiện đại qua tru ện ngắn Đỗ Chu và Ngu ễn Hu Thiệp, Luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Lý luận văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
171. Lê Thị Nguyệt Trong (2011), Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam,
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
172. Lê Dục Tú (2017), “Tác động của kinh tế thị trường đến văn học Việt Nam
thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam (5), tr. 65-71.
173. Mai Anh Tuấn (2015),“Tự sự thân thể trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học (10), tr.75 - 90.
174. Mai Anh Tuấn,“Niên biểu văn chương Nguyễn Huy Thiệp”,
https://maianhtuan.wordpress.com/2016/02/09/nien-bieu-van-chuong-nguyen-
huy-thiep/, ngày đăng tải 9/02/2016.
175. Mai Anh Tuấn (2017), Tiếp cận tác phẩm Ngu ễn Hu Thiệp từ nhân học văn
hóa, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
176. Mai Anh Tuấn, “Hua Tát và Nguyễn Huy Thiệp”, http://tiasang.com.vn/-van-hoa/Hua-
Tat-va-Nguyen-Huy-Thiep-10969, ngày đăng tải 12/10/2017.
177. Lê Thị Tuyết (2014), Tình thái từ trong tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
178. Nguyễn Thị Vân (2015), Không gian văn hóa trong một số tru ện ngắn tiêu
biểu của Ngu ễn Hu Thiệp, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt
Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
174
TIẾNG ANH
179. Alan Goldman (2018), Aesthetic Value, Routledge Press, USA.
180. Benedetto Croce (1995), Aesthetic: As Science of Expression and General
Linguistic, Transaction Publisher, USA.
181. Doan Duc Phuong (2019),“Reception of Literary Works and Issue of
Aesthetic Education in Modern Society”, Vietnam Social Sciences - Journal of
Vietnam Academy of Social Sciences, (2), pp. 71-84.
182. Jacques Ranci re (2009),The Aesthetic Unconscious, translated by Debra
Keates and James Swenson, Polity Press, UK.
183. Malcolm Budd (2008), Aesthetic essays, Oxford University Press, USA.
184. Martin Seel (2005), Aesthetics of Appearing, translated by John Farrell,
Standford University Press, USA.
185. Mary A. McCloskey (1987), Kant's Aesthetic, State University of New York
Press, USA.
186. Mikel Dufrenne (1973), The Phenomenology of Aesthetic Experience
Publishing house, USA.
187. Pamela R. Matthews, David McWhirter (2003), Aesthetic Subjects, University
of Minnesota Press, UK.
188. Peter Abbs (1989), A is for aesthetic: essays on creative and aesthetic
education, The Falmer Press, USA.
189. Theodor W.Adomo (2013), Aesthetic theory, Bloomsbury Academic
Publishing house.
175
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC CÁC TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
ĐƢỢC KHẢO SÁT 1. “Chảy đi sông ơi”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
2. “Tướng về hưu”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
3. “Cún”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005
4. “Không có vua”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
5. “Muối của rừng”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
6. “Con gái Thủy Thần:
- Truyện thứ nhất
- Truyện thứ hai
- Truyện thứ ba”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà
Nội, 2005.
7. “Những người thợ xẻ”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
8. “Những bài học nông thôn”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn,
Hà Nội, 2005.
9. “Kiếm sắc”, Truyện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
10. “Vàng lửa”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
11. “Phẩm tiết”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
12. “Thương nhớ đồng quê”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn,
Hà Nội, 2005.
13. “Mưa Nhã Nam”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
14. “Những ngọn gió Hua Tát:
- Trái tim hổ
- Con thú lớn nhất
- Nàng Bua
- Tiệc xòe vui nhất
- Sói trả thù
- Đất quên
- Chiếc tù và bị bỏ quên
- Sạ
- Nạn dịch
- Nàng Sinh”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
15. “Tâm hồn mẹ”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
16. “Huyền thoại phố phường”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội, 2005.
17. “Giọt máu”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
18. “Chút thoáng Xuân Hương”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội, 2005.
19. “Mưa”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
20. “Nguyễn Thị Lộ”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
21. “Trương Chi”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
22. “Đời thế mà vui”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
23. “Thiên văn”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
24. “Tội ác và trừng phạt”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
25. “Thương cả cho đời bạc”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn,
Hà Nội, 2005.
26. “Chăn trâu cắt cỏ”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà
Nội, 2005.
27. “Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội
Nhà văn, Hà Nội, 2005.
28. “Lòng mẹ”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
29. “Không khóc ở California”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội, 2005.
30. “Truyện tình kể trong đêm mưa”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội
Nhà văn, Hà Nội, 2005.
31. “Đưa sáo sang sông”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
32. “Bài học tiếng Việt”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
33. “Sống dễ lắm”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
34. “Thổ cẩm”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
35. “Những người muôn năm cũ”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội, 2005.
36. “Chuyện ông Móng”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
37. “Chú Hoạt tôi”, Tru ện ngắn Ngu ễn Hu Thiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
38.“Cô Mị”, Báo Văn nghệ, số 18, ngày 3/5/1986.
39. “Vết trượt”, Báo Văn nghệ, số 39, ngày 27/9/1986.
40. “Sang sông”, Báo Văn nghệ, số 8, ngày 22/2/1991.
41. “Cánh buồm nâu thuở ấy”, 2004.
42. “Những tiếng lòng líu la líu lo”, 2004.
43. “Quan âm chỉ lộ”, 2004.
44. “Café Hàng Hành”, 2007.
45. “Như sương khói bay”, 2008.
Ghi chú:
1. Các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được xếp theo thứ tự: Truyện in trong
tuyển tập xếp trước, truyện đăng/ in lẻ hoặc chưa in xếp sau.
2. Thứ tự các truyện in trong tuyển tập sao y thứ tự của Nhà xuất bản.
3. Thứ tự các truyện đăng/ in lẻ sắp xếp theo thời gian tác phẩm được phát hành.
4. Thứ tự các truyện chưa đăng/ in xếp theo thời gian tác giả công bố hoàn thành bản thảo.
PHỤ LỤC 2
DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT TRANH LUẬN
VỀ HIỆN TƢỢNG NGUYỄN HUY THIỆP
Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận (Tạp chí Sông Hương, 1989):
1. Tôi không chúc bạn “thuận buồm xuôi gió” - Hoàng Ngọc Hiến.
2. Về mối quan hệ giữa sử và văn - Tạ Ngọc Liễn.
3. Về một cách hiểu truyện ngắn “Vàng lửa” - Thù Sương.
4. Sự “mơ mộng” và sự “nghiêm khắc” trong truyện Phẩm tiết - Đỗ Văn Khang.
5. “Đọc” Nguyễn Huy Thiệp - Văn Tâm
6. Cái Tâm và cái Tài của người viết - Mai Ngữ.
7. Ba lần đọc Phẩm tiết - Vũ Phan Ngu ên.
8. Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ
thuật” - Trương Hồng Quang, Nguyễn Mai Xuân.
9. Về tính nữ, chữ tâm và lòng nhân ái từ một bài viết của anh Hoàng Ngọc Hiến
- Trần Thanh Đạm.
10. Thị hiếu và lối đọc truyện hiện nay qua một cuộc tranh luận - Đặng Anh Đào.
Đi tìm Ngu ễn Huy Thiệp (Phạm Xuân Nguyên, NXB Văn hóa Thông tin, 2001):
1. Tôi không chúc bạn “thuận buồm xuôi gió” - Hoàng Ngọc Hiến (Đã in trong
Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, 1989, 102).
2. Khi ông “Tướng về hưu” xuất hiện - Đặng Anh Đào.
3. Đôi điều cảm nhận sau khi đọc truyện và xem phim “Tướng về hưu” - Nguyễn
Mạnh Đẩu.
4. Các vị tướng nói về phim “Tướng về hưu” - Lê Hà.
5. “Tướng về hưu” một tác phẩm có tính nghệ thuật - Trần Đạo.
6. Lời thoại trong truyện ngắn “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp - Nguyễn
Thị Hương.
7. “Những ngọn gió Hua Tát” của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các truyền
thuyết văn học - T.N. Philimonova.
8. Đọc “Chút thoáng Xuân Hương” - Đào Du Hiệp.
9. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - Trần Duy Thanh.
10. Có một nghệ thuật Ba-rốc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không?
- Thái Hòa.
11. Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh - Greg Lockhart.
12. Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp - Nguyễn Thanh Sơn.
13. Về cái “Ma lực” trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - Đông La.
14. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - Evelipe Pieller.
15. Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp - T.N. Philimonova.
16. Về truyện ngắn “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp - Tạ Ngọc Liễn.
17. Đọc văn phải khác với đọc sử - Lại Ngu ên Ân.
18. Có một cách đọc “Vàng lửa” - Đỗ Văn Khang.
19. Về một cách hiểu truyện ngắn “Vàng lửa” - Thù Sương (Đã in trong Nguyễn Huy
Thiệp - Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, 1989, 119).
20. Viết như thế, cũng là một cách bắn súng lục vào quá khứ - Nguyễn Thú Ái.
21. Bàn thêm về truyện ngắn “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp - Văn Giá.
22. “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp “triết học lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ
thuật”? - Trương Hồng Quang - Nguyễn Xuân Mai (Đã in trong Nguyễn Huy Thiệp -
Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, 1989, 168).
23. Sự “mơ mộng” và sự “nghiêm khắc” trong truyện ngắn “Phẩm tiết” - Đỗ Văn
Khang (Đã in trong Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông
Hương, 1989, 126).
24. Đọc “Phẩm tiết” của Nguyễn Huy Thiệp - Nguyễn Diệp.
25. Ba lần đọc “Phẩm tiết” của Nguyễn Huy Thiệp - Vũ Phan Ngu ên (Đã in trong Nguyễn
Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, 1989, 163).
26. Mười lời bình về truyện ngắn “Phẩm tiết” của Nguyễn Huy Thiệp - Trương
Hồng Quang.
27. Kiếp luân hồi của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ - Đặng Anh Đào.
28. Đoản thiên về truyện “Nguyễn Thị Lộ” của Nguyễn Huy Thiệp - Đỗ Văn Khang.
29. “Một cây bút có tài, nhưng...” - Hồng Diệu.
30. “Đọc” Nguyễn Huy Thiệp - Văn Tâm (Đã in trong Nguyễn Huy Thiệp - Tác
phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, 1989, 1137).
31. Về những cách đọc văn Nguyễn Huy Thiệp - Nguyễn Văn Lưu.
32. Sử - Văn, Văn - Sử và thái độ người phê bình - Đỗ Trung Lai.
33. Về một lối cảm thụ và phê bình “bắt vít” - Nguyễn Thanh Sơn - Trịnh Bá Đĩnh.
34. Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp - Vương Anh Tuấn.
35. Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - T.N. Philimonova
36. Tư duy tiểu thuyết và folklore hiện đại - Hoàng Ngọc Hiến.
37. Nguyễn Huy Thiệp những chuyện huyền kỳ, núi, sông và nước... - Nguyễn
Vy Khanh.
38. Biển không có thủy thần - Đặng Anh Đào.
39. Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng mới - Diệp Minh Tuyền.
40. Tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp - Vương Trí Nhàn.
41. Vì sao văn của Nguyễn Huy Thiệp ngày càng sa sút - Đỗ Văn Khang.
42. Cái Tâm và cái Tài của người viết - Mai Ngữ (Đã in trong Nguyễn Huy Thiệp -
Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, 1989, 154).
43. “Để đánh giá đầy đủ sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp...” - Ngọc Oanh.
44. Chữ nghĩa với tâm hồn... - Trung Phương.
45. Một trường hợp đang bàn cãi - Nguyễn Văn Bổng.
46. Xung quanh sáng tác Nguyễn Huy Thiệp - Hồng Diệu.
47. “Về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp”
48. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, vài cảm nghĩ - Nguyễn Đăng Mạnh.
49. Về mối quan hệ giữa sử và văn - Tạ Ngọc Liễn (Đã in trong Nguyễn Huy Thiệp -
Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương, 1989, 113).
50. Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp - Đỗ Đức Hiểu.
51. Chân dung nhà văn, từ một thế nhìn.
52. Trái tim Thiệp - Sean Jamis Rose, Lê Minh Hà.
53.Nguyễn Huy Thiệp - Trần Thị Mai Nhi.
54. Xung quanh “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” - Nguyễn Hải Hà - Nguyễn Thị Bình.
Ghi chú:
Các bài viết được xếp theo thứ tự sao y thứ tự của Nhà xuất bản.
PHỤ LỤC 3
DANH MỤC CÁC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHIÊN CỨU
VỀ HIỆN TƢỢNG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP
1. Lê Thị Sao Chi (2011), Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong tru ện
ngắn Ngu ễn Minh Châu, Ngu ễn Hu Thiệp, Ngu ễn Thị Thu Huệ..., Luận án Tiến
sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An.
2. Nguyễn Văn Đông (2012), Lời văn nghệ thuật Ngu ễn Hu Thiệp, Luận án Tiến
sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Liên văn bản trong sáng tác Ngu ễn Hu Thiệp, Luận án
Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Phạm Thị Trâm (2002), Vai trò của văn học dân gian trong sáng tác của một số nhà văn
hiện đại, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Dân gian, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Mai Anh Tuấn (2017), Tiếp cận tác phẩm Ngu ễn Hu Thiệp từ nhân học văn
hóa, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, Hà Nội.