ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________
PHẠM THỊ THANH PHƢỢNG
TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ ĐƢƠNG ĐẠI-
TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
Chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số:
62 22 32 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :PGS. TS ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA LUẬN ÁN
THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS Đoàn Đức Phƣơng
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN PGS.TS Phạm Thành Hƣng
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong các công trình
nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu một cách
trung thực, cẩn trọng trong luận án.
NGHIÊN CỨU SINH
Phạm Thị Thanh Phƣợng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đoàn Đức Phương- người
thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án .
Tôi xin chân thành cảm ơn cơ sở đào tạo, các thầy cô giáo, cơ quan, bạn bè
và gia đình đã luôn động viên, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
NGHIÊN CỨU SINH
Phạm Thị Thanh Phƣợng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 8
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 9
5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................... 10
6. Cấu trúc luận án................................................................................................ 10
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................ 11
1.1. Một số vấn đề lí luận về tư duy nghệ thuật ................................................ 11
1.1.1. Khái niệm tư duy nghệ thuật ................................................................... 11
1.1.2. Đặc trưng của tư duy nghệ thuật ............................................................ 12
1.1.3. Tư duy nghệ thuật theo thể loại văn học ................................................. 14
1.2. Đặc trưng thể loại truyện ngắn ................................................................... 15
1.2.1. Định nghĩa truyện ngắn .......................................................................... 16
1.2.2. Các yếu tố thi pháp đặc trưng ................................................................. 17
1.3. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam ...................... 21
1.3.1. Lí giải sự “lên ngôi” của các cây bút nữ ................................................ 22
1.3.2. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ ................................... 23
1.3.3. Tiếp cận văn xuôi nữ dưới góc nhìn phê bình nữ quyền ..................... 27
Chƣơng 2. DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN NỮ ĐƢƠNG ĐẠI TRONG SỰ
VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI Error!
Bookmark not defined.
2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và sự đổi mới văn họcError! Bookmark not defined.
2.2. Sự “lên ngôi” và biến đổ i củ a thể loa ̣i truyê ̣n ngắnError! Bookmark not defined.
2.2.1. Vụ “được mùa” và ưu thế của thể loại truyê ̣n ngắ nError! Bookmark not defined.
2.2.2. Những biến đổi của thể loại truyê ̣n ngắ n ... Error! Bookmark not defined.
2.3. “Hiê ̣n tươ ̣ng” truyê ̣n ngắn nữ đương đa ̣i ....... Error! Bookmark not defined. 2.3.1. Truyê ̣n ngắ n nữ trướ c thờ i kì đổi mớ i ........ Error! Bookmark not defined. 2.3.2. Truyê ̣n ngắ n nữ thờ i kì đổi mớ i .................. Error! Bookmark not defined. 2.3.3. Sự hòa nhịp chung với văn chương nữ thế giớiError! Bookmark not defined.
Chƣơng 3. TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠIDƢỚI GÓC
NHÌN TƢ DUY NGHỆ THUẬT ....................... Error! Bookmark not defined.
3.1.Quan niệm sáng tác của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại……………...56
not
3.2. Cảm quan mới về cuộc sống của các nhà văn nữError! Bookmark defined.
3.2.1. Hình tượng cuộc sống qua góc nhìn đạo đức, thế sựError! Bookmark not defined.
3.2.2. Yếu tố tự truyện như một phương thức tư duy nghệ thuật đặc thù của phái nữ .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại ........... Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Hình tượng người phụ nữ ........................... Error! Bookmark not defined.
3.3.2. Một nửa còn lại của thế giới ...................... Error! Bookmark not defined.
3.4. Thế giới biểu tượng trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại .......... Error! Bookmark not defined.
3.4.1. Con người dị biệt- khát vọng hướng thiện và khát vọng được cứu rỗi .............................................................................. Error! Bookmark not defined.
3.4.2. Sex- bản năng hay là khát vọng tình yêu ... Error! Bookmark not defined.
3.4.3. Giấc mơ- thế giới tâm linh thẳm sâu của con ngườiError! Bookmark not defined.
3.4.4. Thiên nhiên- dấu vết cổ mẫu và những ẩn dụ về cuộc đời con người Error! Bookmark not defined.
3.5. Không gian, thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại .............................................................................. Error! Bookmark not defined.
3.5.1. Những cặp tương quan không gian tiêu biểu trong truyện ngắn nữ .. Error! Bookmark not defined.
3.5.2. Cảm thức thời gian trong truyện ngắn nữ . Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 4. ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠITRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM
ĐƢƠNG ĐẠI ...................................................... Error! Bookmark not defined.
4.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại .............................................................................. Error! Bookmark not defined.
4.1.1. Các kiểu loại người kể chuyện ngôi thứ nhất trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại ..................................................... Error! Bookmark not defined.
4.1.2. Đặc trưng điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại ........................................ Error! Bookmark not defined.
4.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống ................... Error! Bookmark not defined.
4.2.1. Tình huống giàu kịch tính .......................... Error! Bookmark not defined.
4.2.2. Tình huống tâm trạng ................................. Error! Bookmark not defined.
4.2.3. Tình huống tự nhận thức ............................ Error! Bookmark not defined.
4.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ....................... Error! Bookmark not defined.
4.3.1. Các loại hình cốt truyện trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại Error! Bookmark not defined.
not
4.3.2. Thủ pháp độc thoại nội tâm và “dòng ý thức”Error! Bookmark defined.
4.3.3. Xây dựng các kiểu kết truyện theo nguyên lí “đồng sáng tạo” ......... Error! Bookmark not defined.
4.4. Những sáng tạo về mặt kết cấu ..................... Error! Bookmark not defined.
4.4.1. Kết cấu đảo lộn thời gian tuyến tính .......... Error! Bookmark not defined.
4.4.2. Kết cấu vòng tròn ....................................... Error! Bookmark not defined.
4.4.3. Kết cấu truyện lồng trong truyện ............... Error! Bookmark not defined.
4.4.4. Kết cấu liên văn bản ................................... Error! Bookmark not defined.
4.4.5. Kết cấu lắp ghép, phân mảnh ..................... Error! Bookmark not defined.
4.5. Ngôn ngữ và giọng điệu ................................ Error! Bookmark not defined.
4.5.1. Ngôn ngữ đa phong cách ........................... Error! Bookmark not defined.
4.5.2. Giọng điệu đa sắc thái ............................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ......................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌCCỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................. Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 32
PHỤ LỤC ............................................................ Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bắt đầu từ một vài gương mặt gây ấn tượng “lạ”, “mới mẻ”, “cách tân”,từthời
kì đổi mới đến nay, số lượng các cây bút nữ viết truyện ngắn đã tăng lên “đột biến”,
nhiều khi như “áp đảo” cả giới còn lại để tạo nên một thời kì “âm thịnh”đặc sắctrong
đời sống văn xuôi đương đại.Sự ấn tượng không chỉ dừng lại ở những con số, mà điều
quan trọng nó mang đến một giá trị, một cá tính, một bản lĩnh nghệ thuật của một
“tiềm năng” dường như đã bị “dồn nén” từ lâu. Truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại
thực sự là một hiện tượng độc đáo cần nhiều lời giải mã cho sự “trỗi dậy” này.
Năm 1986 Đại hội Đảng VI với việc nhấn mạnh “đổi mới tư duy” đã được coi
là một cái mốc quan trọng tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển của văn học. Sự
năng động của tư duy chính là nhân tố chìa khóa mở ra thành công của công cuộc đổi
mới trên mọi lĩnh vực. Trong đời sống nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học, “tư duy
nghệ thuật” cũng trở thành “điểm nóng”. Nó được coi là yếu tố căn cốt tạo nên những
thành tựu to lớn của văn học thời kì đổi mới. Nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam
đương đại dưới góc độ tư duy nghệ thuật sẽ lý giải được sự “lên ngôi” của các cây bút
nữ từ chính yếu tố chủ quan- chủ thể sáng tạo nữ. Qua đó chúng ta sẽ phần nào tìm ra
được đặc điểm “khu biệt” trong tư duy nghệ thuật của truyện ngắn nữ so với truyện
ngắn của những cây bút nam.
Đa số tác giả nữ xuất hiện và thành công với truyện ngắn- sự lựa chọn thể loại
này của họ hẳn không ngẫu nhiên, vô tình. Liệu có một mối liên hệ nào đấy giữa giới
tính- phái tính nữ với đặc trưng thể loại truyện ngắn, khiến các cây bút nữ tỏ ra rất
“vừa tay” (chữ dùng của Lý Hoài Thu) với thể loại này? Tìm hiểu đặc trưng thể loại
của truyện ngắn nữ đương đại sẽ tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi đó, đồng thời sẽ làm
sáng rõ đóng góp của các sáng tác nữ vào sự vận động và biến đổi của thể loại truyện
8
ngắn trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam.
Nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại qua hai góc độ: tư duy nghệ
thuật và đặc trưng thể loại, chúng tôi hi vọng sẽ khai mở được nhiều giá trị còn tiềm
ẩn trong hiện tượng độc đáo này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích: trên cơ sở so sánh với truyện ngắn nữ giai đoạn trước và truyện
ngắn nam cùng thời, luận án muốn tìm ra chất nữ tính trong bề sâu của tư duy nghệ
thuật, tạo nên những nét đặc trưng thể loại của truyện ngắn nữ đương đại- đó chính là
những nét “khu biệt” làm nên giá trị, sự “thăng hoa” của truyện ngắn nữ đương đại.
2.2. Nhiệm vụ:trước tiên, qua việc tổng hợp tư liệu, luận án sẽ làm sáng rõ
những vấn đề lí luận cơ bản về tư duy nghệ thuật, đặc trưng thể loại truyện ngắn, đồng
thời phân tích, đánh giá các xu hướng nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại
từ 1986 đến nay. Tiếp theo, luận án sẽ đưa ra một cái nhìn khái quát về “hiện tượng”
truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại, đặt nó trong những bối cảnh rộng lớn hơn để soi
chiếu: bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học thời kì đổi mới; sự “lên ngôi” và biến
đổi của thể loại truyện ngắn; sự vận động của truyện ngắn- văn xuôi nữ Việt Nam từ
trung đại đếnđương đại; sự “bùng nổ” của văn chương nữ thế giới đương đại. Nhiệm
vụ trọng tâm của luận án được xác định trong hai nhiệm vụ tiếp theo: thứ nhất, từ việc
tìm hiểu quan niệm sáng tác của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, luận án sẽ chỉ ra
chất “nữ tính” trong bề sâu của tư duy nghệ thuật truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại
(được khảo sát qua bốn phương diện: hình tượng cuộc sống, thế giới nhân vật, thế giới
biểu tượng và không- thời gian nghệ thuật); thứ hai, qua việc phân tích các yếu tố cơ
bản nhất làm nên đặc trưng thể loại truyện ngắn trong truyện ngắn nữ Việt Nam
đương đại: người kể chuyện ngôi thứ nhất, nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ
thuật tổ chức cốt truyện, những sáng tạo về mặt kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu, luận
án muốn khẳng định đóng góp to lớn của các nhà văn nữ trong việc cách tân hình thức
thể loại truyện ngắn.
9
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: các phương diện biểu hiện của tư duy nghệ thuật và các yếu tố làm
nên đặc trưng thể loại trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại.
- Phạm vi: khái niệm “đương đại” được chúng tôi lựa chọn từ thời điểm năm
1986- năm diễn ra Đại hội Đảng VI, đánh dấu mốc thời kì văn học đổi mới- đến nay,
do đó phạm vi nghiên cứu của luận án là các truyện ngắn của các tác giả nữ Việt Nam
từ 1986 đến nay, tập trung vào những tác phẩm đăng trên các tuyển tập truyện ngắn
nữ Việt Nam đương đại và những tác phẩm tiêu biểu của các tác giả tiêu biểu (Lê
Minh Khuê, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân Hà,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy…).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, ngoài phương pháp phân tích, tổng hợp,
chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như sau:
- Phương pháp lịch sử- xã hội: nhằm tìm ra những tác động của hoàn cảnh lịch
sử, xã hội Việt Nam thời kì đổi mới đến sự phát triển của truyện ngắn nữ Việt Nam
đương đại, đồng thời đặt truyện ngắn nữ trong các tiến trình lịch sử khác nhau (tiến
trình văn học dân tộc, thể loại,…) để đánh giá chính xác, khoa học đặc điểm, đóng
góp của hiện tượng này.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: để phân tích yếu tố “hình thức mang tính
quan niệm” (không gian- thời gian nghệ thuật) trong truyện ngắn nữ đương đại.
- Phương pháp loại hình: bao quát đặc trưng thể loại truyện ngắn từ các phương
diện biểu hiện cụ thể trong truyện ngắn nữ đương đại.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng thường xuyên trong sự liên hệ với truyện
ngắn nữ các giai đoạn trước và truyện ngắn của các tác giả nam cùng thời để tìm ra
nét đặc trưng của truyện ngắn nữ đương đại.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn học với văn hóa, tâm lí học): những
mã văn hóa sẽ được vận dụng để tìm hiểu biểu tượng trong truyện ngắn nữ đương đại,
còn những lí thuyết về tâm lí giới tính sẽ giúp giải mã những biểu hiện của “bản tính
10
nữ” trong truyện ngắn nữ đương đại.
- Phương pháp tiểu sử: được sử dụng khi tìm hiểu yếu tố tự thuật như một
phương thức tư duy nghệ thuật đặc thù của phái nữ.
Ngoài ra, trong luận án có tiếp cận phương pháp từ lí thuyết phê bình nữ quyền.
5. Đóng góp mới của luận án
- Qua việc tìm hiểu truyện ngắn nữ đương đại từ góc độ tư duy nghệ thuật và
đặc trưng thể loại, luận án bổ sung một cách nhìn, một cách đánh giá về một giai đoạn
văn học dân tộc đang còn tiếp tục vận động và phát triển- giai đoạn văn học Việt Nam
sau 1975.
- Luận án cũng làm sáng tỏ, cụ thể hóa những lý thuyết về tư duy nghệ thuật và
về cấu trúc thể loại văn học qua một trường hợp tiêu biểu, độc đáo là truyện ngắn nữ
đương đại.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Diện mạo truyện ngắn nữ đương đại trong sự vận động của truyện
ngắn Việt Nam thời kì đổi mới
Chương 3: Truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật
11
Chương 4: Đặc trưng thể loại truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề lí luận về tƣ duy nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm tư duy nghệ thuật
Các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất nhận định rằng: công cuộc đổi mới
là trung tâm của dòng chảy văn chương Việt Nam đương đại. Bắt đầu từ cái mốc này
(năm 1986), diễn trình văn học nước ta có sự “gia tốc” mạnh mẽ với những biến
chuyển lớn lao trên tất cả các phương diện (sáng tác, lí luận- phê bình...). Cũng bắt
đầu từ thời điểm này, với yêu cầu của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa
VI (thể hiện qua Nghị quyết 05) là “đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”
trong văn nghệ, vấn đề “tư duy nghệ thuật- tư duy văn học” đã trở thành một đối
tượng cần được nghiên cứu. Những ghi nhận nhanh nhạy của các nhà lí luận- phê bình
văn học: Mấy ghi nhận về sự đổi mới của tư duy nghệ thuật và hình tượng con người
trong văn học ta thập kỷ qua- Trần Đình Sử (1986) [78], Đôi nét về một tư duy văn
học mới đang hình thành- Nguyên Ngọc (1990) [58], Đổi mới tư duy văn học và đóng
góp của một số cây bút văn xuôi- Mai Hương (2006) [35]... chứng tỏ vai trò “hạt
nhân” của tư duy nghệ thuật đối với sự đổi mới văn học. Tuy nhiên, việc xuất phát từ
những kiến thức lí luậnđể tường minh khái niệm, đặc trưng, các phương thức biểu
hiện của tư duy nghệ thuật trước khi đi vào những biểu hiện cụ thể của nó dường như
chưa được chú trọng trong các bàiviết trên.
Theo Từ điển tiếng Việt, tư duy là “giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi
sâu vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức như
biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí” [67, tr.1070]. Trong các giáo trình triết
học, theo quan điểm phép biện chứng duy vật của triết học Mác- Lênin, thuật ngữ “tư
duy” xuất hiện gắn liền với thuật ngữ “tư duy trừu tượng” trong sự khái quát con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
12
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn- đó là con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [12, tr.114].Với tư cách là một
khâu trong quá trình nhận thức, tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao
hơn (so với giai đoạn nhận thức cảm tính) của quá trình nhận thức. “Đó là sự phản ánh
gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự
vật, hiện tượng khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan
trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng (...) được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và
suy lý” [12, tr.117]. Như vậy, qua hai định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra những
khía cạnh mang tính bản chất của khái niệm “tư duy”: đó là hoạt động nhận thức lí
tính của con người; mục đích là nhận thức và phản ánh thế giới khách quan;đặc trưng
là phản ánh, truy tìm các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, của con người đối
với thế giới khách quan, con người với con người, từ đó rút ra tri thức mới về sự vật,
hiện tượng. Dựa trên các tiêu chí khác nhau chúng ta có thể có nhiều cách phân loại tư
duy. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cách phân loại căn cứ vào các tập hợp của hình thái ý
thức xã hội như tác giả Nguyễn Bá Thành là khá hợp lý. Theo đó, tư duy có thể được
phân loại thành các nhóm lớn sau đây: tư duy khoa học, tư duy tôn giáo và tư duy
nghệ thuật (xin xem thêm phần “Phân loại tư duy theo phương pháp” [86, tr.21]).
Trong các sách giáo trình Lí luận văn học ([25],[50]), thay vì việc đưa ra một
định nghĩa về tư duy nghệ thuật các tác giả thường chỉ trình bày những đặc trưng của
nó. Thiết nghĩ việc định hình khái niệm này bằng một định nghĩa (dẫu không thể toàn
vẹn về nó) là một việc làm cần thiết để từ đó chúng ta đi sâu phân tích các khía cạnh
đặc thù của kiểu tư duy này. Chúng tôi đồng thuận với quan điểm của tác giả Nguyễn
Bá Thành khi ông dùng thuật ngữ “tư duy nghệ thuật” để chỉ phương thức tư duy sáng
tác trong các ngành nghệ thuật như văn học, hội họa, âm nhạc, điêu khắc... Và theo
đó, tư duy nghệ thuật có thể được định nghĩa “là sự khôi phục và sáng tạo các biểu
tượng trực quan, là sự hình tượng hóa hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan”
[86, tr.54].
13
1.1.2. Đặc trưng của tư duy nghệ thuật
Về bản chất, tư duy nghệ thuậtcũng là một hoạt động nhận thức hiện thực cuộc
sống của người nghệ sĩ. Nhưng khác với tư duy khoa học lấy tư duy lôgic làm nòng
cốt, kiểu tư duy đặc thù của nghệ thuật là tư duy hình tượng. Trong sự đối sánh hai
kiểu tư duy này (lôgic và hình tượng), chúng ta có thể rút ra được những nét đặc trưng
của tư duy nghệ thuật.
Tư duy lôgic là quá trình thâm nhập vào bản chất của đối tượng để tìm ra bản
chất và quy luật nội tại của chúng. Trong quá trình tư duy lôgic, những cái ngẫu
nhiên, cá biệt từng bước bị gạt bỏ để nắm bắt cái cốt lõi, cái phổ quát, cái chung của
các lớp sự vật, hiện tượng. Sự trừu tượng hóa trong tư duy lôgic là quá trình phản ánh
thế giới bằng các khái niệm, phán đoán, công thức, mô hình... Trong khi đó, tư duy
hình tượng lại phản ánh cái chung qua cái cụ thể mang tính đại diện, mang tính quy
luật- sự khái quát hóa không rời bỏ mà gắn liền, thể hiện qua cái cá thể, các biểu
tượng trực quan.Ở đây cần nhấn mạnh là cái cụ thể, cá thể trong tư duy nghệ thuật
không phải là sự nhận thức mang tính cảm tính đơn thuần mà nó đã có sự lựa chọn,
liên tưởng, là kết quả của một quá trình tổng hợp. Mặt khác sự khái quát nghệ thuật để
nắm bắt bản chất đối tượng không đồng nhất với sự khái quát của khoa học bởi nhận
thức thực tại trong khoa học tương đối thống nhất, còn trong nghệ thuật thì vô cùng
phong phú và đa dạng, có khi trái ngược nhau bởi nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của
thế giới quan, nhân sinh quan và trình độ văn hóa của người sáng tạo.
Nếu tư duy khoa học mang tính khách quan thì trong tư duy nghệ thuật tính
chất chủ quan lại được thể hiện đậm nét. Nghệ thuật không chỉ phản ánh quy luật của
đời sống mà còn phản ánh cách đánh giá thẩm mĩ về đời sống– nó bao hàm thái độ
của nghệ sĩ đối với hiện thực được tái hiện. Yếu tố tình cảm và lí tưởng xã hội trong
tư duy nghệ thuật khiến cho nó mang tính biểu hiện cao, thể hiện được thế giới tinh
thần phong phú, đa dạng của con người trong mối quan hệ với thế giới xung quanh.
Bên cạnh đó, sự thể nghiệm và hư cấu trong tư duy nghệ thuật cũng góp phần tạo ra
nét đặc trưng của nhận thức nghệ thuật. Sự “hình tượng hóa hiện thực khách quan”
14
trong tư duy nghệ thuật không đơn giản là bằng những hình tượng nghe- nhìn mà chủ
yếu là trên cơ sở những hình tượng tưởng tượng. Quá trình tư duy nghệ thuật với sự
tham gia tích cực của cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ đã tạo ra những hình tượng
nghệ thuật độc đáo, giàu sức biểu cảm biểu hiện, mang tầm khái quát lớn lao, có sức
sống lâu bền trong sự tiếp nhận của người thưởng thức.
Tư duy nghệ thuật đòi hỏi một ngôn ngữ nghệ thuật làm “hiện thực trực tiếp”
cho nó. “Ngôn ngữ đó là hệ thống các kí hiệu nghệ thuật, các hình tượng, các phương
tiện tạo hình và biểu hiện” [27, tr.325]. Sự vận động của ngôn ngữ nghệ thuật là biểu
hiện trực tiếp của quá trình tư duy. Thứ ngôn ngữ ấy (của các ngành nghệ thuật như
âm nhạc, hội họa, điêu khắc, văn học,...) “dường như đã thoát khỏi thứ ngôn ngữ
thường ngày mà vươn tới một hệ thống kí hiệu thẩm mĩ riêng biệt” [86, tr.56]. Vì thế
tư duy nghệ thuật đã phản ánh trình độ tư duy trừu tượng và khái quát ở giai đoạn cao.
1.1.3. Tư duy nghệ thuật theo thể loại văn học
Trước hết, cần nhìn nhận lại đối tượng nhận thức của văn học, bởi chúng ta đã
chỉ ra rạch ròi sự khác nhau giữa tư duy nghệ thuật và tư duy khoa học (ở tính hư cấu,
lí tưởng thẩm mĩ về cuộc sống và tình cảm chủ quan của người nghệ sĩ). Nếu cùng
mang bản chất là hoạt động nhận thức thế giới khách quan, cùng nhận thức một đối
tượng, tại sao nhận thức khoa học không chấp nhận những đặc trưng của tư duy nghệ
thuật (trong đó có tư duy văn học) như chúng ta đã chỉ ra ở trên? Giải thích điều này
bằng việc chỉ ra đối tượng đặc thù của văn học: “Văn học như là tư duy về cái khả
nhiên” [82], ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử là những gợi ý rất xác đáng giúp
ta giải thích được cơ chế nội tại của tư duy văn học. Theo ông thì “tư duy chẳng phải
gì khác, mà là hành động xuyên qua hiện thực để tiến đến các khả năng bị che giấu
trong đó”. “Cái khả năng” có thể gọi cách khác là “cái khả nhiên”- “cái có thể như
thế”. “Hiện thực tồn tại trong dạng cái dĩ nhiên (cái đã có như vậy rồi) và “cái tất
nhiên” (cái bắt buộc phải có theo qui luật tất yếu). Chỉ có trong văn học là có cái khả
nhiên do nhà văn sáng tạo dựa trên cái khả năng của cuộc sống mà nhà văn phát hiện
ra. (...) Cái khả nhiên không phải là sự bịa đặt tùy tiện mà là sản phẩm sáng tạo trên
15
cơ sở cái khả năng mang ý nghĩa nhân sinh” [82, tr.10]. Với đối tượng đặc thù ấy (cái
khả nhiên), chúng ta không thể kiểm nghiệm tính chân thật của văn học bằng hiện
thực, thực tiễn mà chỉ có thể kiểm nghiệm bằng kinh nghiệm, cảm giác, sự suy luận,
ước muốn và tình cảm.
Nói đến tư duy văn học là nói đến kiểu tư duy nghệ thuật ngôn từ. Ở phần trên
chúng ta đã nói thứ ngôn ngữ làm “hiện thực trực tiếp” cho tư duy nghệ thuật “là hệ
thống các kí hiệu nghệ thuật, các hình tượng, các phương tiện tạo hình và biểu hiện”.
Trong văn học, mỗi thể loại có một phương thức biểu hiện đặc trưng để tiếp cận, nhận
thức đối tượng đặc thù của mình (ví dụ trong thơ là sự thể hiện cảm xúc của nhân vật
trữ tình, là vần điệu, nhịp điệu; trong thể loại tự sự là cốt truyện, nhân vật; trong kịch
là xung đột, ngôn ngữ và hành động của nhân vật;...). Do đó, xét về nội dung, đặc
điểm, chất liệu của các hình tượng- công cụ của tư duy nghệ thuật, chúng ta có thể
phân loại tư duy văn học theo thể loại (ví dụ tư duy thơ, tư duy tiểu thuyết, tư duy
kịch,...). Tuy nhiên, trong đời sống nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học, tư duy nghệ
thuật theo thể loại văn học không chỉ dừng lại ở nghĩa hẹp của nó là tư duy văn học
trong một thể loại cụ thể mà nó được mở rộng nghĩa, được dùng như một khái niệm
chỉ hệ hình tư duy (ví dụ “tư duy sử thi” và “tư duy tiểu thuyết”).
Tìm hiểu tư duy nghệ thuật trong truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam, bên
cạnh việc chỉ ra những đặc điểm mang tính đặc trưng được thể hiện qua hệ thống các
hình tượng nghệ thuật, chúng tôi còn muốn tìm ra sự cộng hưởng của các loại tư duy
theo thể loại văn học trong tác phẩm của các nhà văn nữ.
1.2. Đặc trƣng thể loại truyện ngắn
Trong thực tiễn đời sống văn học, khi tổng kết một giai đoạn, một thời kì,
truyện ngắn với tư cách một thể loại bao giờ cũng được nhắc đến với một vị trí tiêu
biểu làm nên diện mạo một nền văn học (Quá trình văn học đương đại nhìn từ
phương diện thể loại- Vũ Tuấn Anh [2], Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong
văn học thời kỳ đổi mới- Lý Hoài Thu [92], Đời sống thể loại văn học sau 1975- Trần
Ngọc Dung [19],...). Tuy nhiên trên phương diện lí luận, sự tồn tại của truyện ngắn
16
với tư cách là một thể loại độc lập không phải đã được định danh một cách thống nhất.
Biểu hiện rõ nhất cho vấn đề này là trong giáo trình Lí luận văn học do Hà Minh Đức
chủ biên [25], phần nói về “Loại thể văn học”, thể loại truyện ngắn đã không được đề
cậpvới tư cách là một thể loại “quan trọng thường bắt gặp trong quá trình nghiên cứu
và thưởng thức văn học” (với mục đích “hiểu sâu đặc điểm của một số thể loại văn
học chính, từ đó có thể mở rộng sự bàn luận ra các thể loại văn học khác” [25, tr.164],
các tác giả chỉ đề cập đến bốn thể loại: thơ, tiểu thuyết, kịch, các thể kí văn học).
Trong chuyên luận Truyện ngắn- những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, tác giả
Bùi Việt Thắng cũng khẳng định: “Truyện ngắn được quan niệm là một bộ phận của
tiểu thuyết, vì thế trên nguyên tắc không có lí thuyết riêng cho truyện ngắn, lí thuyết
của nó dựa vào lí thuyết của tiểu thuyết” [91, tr.61]. Nhận diện thể loại truyện ngắn
là một nỗ lực liên tục của cả người sáng tác và giới nghiên cứu lí luận.Thiết nghĩ,
nguyên tắc về tính lịch sử, tính thời đại, tính dân tộc và tínhbiến đổi của thể loại
luôn luôn là những nguyên tắc khoa học giúp ta có những nhận định đúng đắn khi
nghiên cứu về bất cứ thể loại văn học nào. Mặc dù có nhiều quan điểm về sự ra đời
cũng như khái niệm truyện ngắn, nhưng chúng tôi lựa chọn phạm vi là “truyện ngắn
hiện đại” (trong sự đối sánh với “truyện ngắn trung đại”, và có thể là “truyện ngắn
cổ đại”... như sự phân chia các giai đoạn phát triển thể loại truyện ngắn của một số
nhà nghiên cứu) để làm điểm tựa lựa chọn các vấn đề lý thuyết nhằm xác lập nội
hàm khái niệm thể loại này.
1.2.1. Định nghĩa truyện ngắn
Định nghĩa truyện ngắn được hiện hữu trong các sách lí luận, từ điển về văn
học, trong các ý kiến bàn luận của chính những người sáng tác (Pautôpxki, Nguyễn
Công Hoan, Nguyễn Kiên, Nguyên Ngọc,...). Nó phong phú, đa dạng đến mức có
nhiều ý kiến cho rằng không thể và không nên định nghĩa truyện ngắn, bởi đó là thể
loại “nghìn mặt”, thể loại “không thể nắm bắt” (trích theo [92, tr.40]). Về nguyên tắc,
chúng tôi tán đồng với quan điểm của Lê Huy Bắc khi ông cho rằng: “truyện ngắn
không thể lệ thuộc vào tiểu thuyết về mặt kĩ thuật, phản ánh... Nên những định nghĩa
17
về truyện ngắn cần phải xuất phát từ chính đặc trưng của thể loại” [9, tr.89]. Theo
chúng tôi, cách định nghĩa truyện ngắn của Phan Cự Đệ [96, tr.782]là bao gồm một hệ
thống đặc điểm nhằm phản ánh những đặc trưng về nội dung và hình thức thể loại là
khá hợp lí. Theo đó, nội hàm khái niệm thể loại truyện ngắn thể hiện ở những đặc
điểm sau:
- Là hình thức hư cấu tự sự cỡ nhỏ.
- Thường miêu tả một lát cắt của đời sống, một giai đoạn, thậm chí một khoảnh
khắc, một phút lóe sáng đầy ý nghĩa khám phá trong cuộc đời nhân vật.
- Do tính ngắn gọn nên truyện ngắn thường tập trung cao độ xung quanh một
chủ đề; cốt truyện thường xây dựng trên một hành động cỡ nhỏ, đơn giản trong một
không gian và thời gian nhất định với những chi tiết được chắt lọc, tiết kiệm, dồn nén
nhằm hướng tới một hiệu quả duy nhất ở phần kết thúc.
Tất nhiên trên đây chỉ là những đặc điểm cơ bản mang tính khái quát nhất về
thể loại truyện ngắn. Trong quá trình phát triển, truyện ngắn sẽ thâu nạp thêm những
đặc điểm mới do sự tác động của những thay đổi trong lịch sử xã hội và trong chính
đời sống nội tại của nền văn học. Nội hàm khái niệm truyện ngắn sẽ được soi rọi rõ
hơn qua các yếu tố thi pháp đặc trưng của thể loại.
1.2.2. Các yếu tố thi pháp đặc trưng
Thuộc loại hình tự sự nên về mặt lí thuyết, trước hết truyện ngắn phải mang
những đặc trưng cốt lõi của loại hình này (trong sự phân biệt với loại hình trữ tình,
kịch). Đó là “phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con
người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó.
Cho nên tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là một hệ
thống nhân vật được khắc họa đầy đủ nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch. (...)
Nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí của
nhân tố tổ chức ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, đòi hỏi nhà văn phải sáng
tạo ra hình tượng người trần thuật” (mục từ “Tự sự” trong Từ điển thuật ngữ văn học
[27, tr.328]). Trong sự “cạnh tranh” với các thể loại khác cùng thuộc loại hình tự sự,
18
muốn khẳng định tính “độc lập” của mình, truyện ngắn phải “khoanh vùng” những
đặc trưng thẩm mĩ riêng biệt. Về mặt này, các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất
khi cho rằng “ngắn” là nét đặc trưng nhất, quan trọng nhất, tạo nên những quy chuẩn
khu biệt thể loại này với các thể loại lân cận. Sự so sánh với tiểu thuyết là thao tác
thường xuyên được tiến hành khi “nhận dạng” truyện ngắn. Vấn đề đặt ra là, sự khác
biệt giữa hai thể loại này là về cấp độ (degree) hay về chủng loại (kind)?
Theo sự thu nhận của chúng tôi, sự khác nhau giữa truyện ngắn và tiểu thuyết
không phải nằm ở dung lượng dài- ngắn, mà ở đặc trưng của nguyên tắc phản
ánh.Như ở phần định nghĩa đã nêu, truyện ngắn là một hình thức hư cấu tự sự cỡ nhỏ,
trong khi tiểu thuyết là hình thức hư cấu tự sự cỡ lớn. Cả hai đều nằm trong khu vực
tiếp xúc trực tiếp với cái hiện thực đang vận động và phát triển, đều huy động kinh
nghiệm sống và từng trải của chính tác giả, đều sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi
giàu chất tạo hình và đa thanh, nhưng nếu tiểu thuyết mở rộng biên độ phản ánh, việc
thiết lập thường phong phú, đa diện thì truyện ngắn chọn lấy một nút thắt, đi thẳng
vào trung tâm xung đột (có thể là xung đột xã hội hoặc xung đột tâm lý), từ đó bung
ra, đập mạnh vào ấn tượng người đọc. “Nó cắt ra một mảnh nhỏ của hiện thực, đặt
mảnh ấy vào trong những giới hạn nào đó, nhưng nhờ vậy tác phẩm sẽ bung ra như
một cú nổ làm mở toang một hiện thực rộng lớn hơn rất nhiều” (Julio Cotázar, trích
theo [41]). Điều đó có nghĩa là, truyện ngắn dĩ nhiên phải ngắn, nhưng không phải là
một chương của tiểu thuyết, một cái sườn truyện từ đó có thể phát triển ra thành tiểu
thuyết, mà thực sự như một bài hai-kư “một sự tình vắn tắt đã tìm được hình thức vừa
vặn với mình” (Roland Barthes).Với nguyên tắc “tinh lọc”, “nén gọn”, thể loại truyện
ngắn dung nạp một hệ thống thi pháp đặc trưng để tạo nên hiệu quả riêng biệt của
mình.
1.2.2.1. Tình huống truyện ngắn
Có ý kiến cho rằng đây là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn (Chu Văn
19
Sơn [76]). Xuất phát từ những trang viết của Hêghen về tình huống trong tác phẩm
Mỹ học, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã rút ra những kết luận chính để giúp chúng
ta hiểu về tình huống [91, tr.96]:
- Tình huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt.
- Tình huống trở thành xung đột.
- Tình huống giúp cho những gì còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay
bộc lộ và hoạt động tích cực.
- Tình huống là bước trung gian (giữa tình trạng im lìm và tình trạng hành động).
Nói về vai trò quan trọng của tình huống đối với thể loại truyện ngắn, nhà văn
Nguyên Ngọc đã có cách diễn đạt rất hình tượng: “Truyện ngắn dẫu sao cũng phải…
ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là điểm huyệt. Trên cơ thể con người
cũng như trên cơ thể cuộc sống, có những huyệt, điểm vào đó, có thể làm rung động
toàn thể. Truyện ngắn nhằm vào đó. Truyện ngắn điểm huyệt hiện thực bằng cách
nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu
trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày. Nhìn chung, mỗi truyện ngắn bao giờ cũng
được xây dựng trên một tình huống, khai thác tình huống ấy”[23, tr.355].
Có nhiều cách phân loại tình huống. Dựa theo kiểu nhân vật chính trong tác
phẩm chúng ta có thể phân thành ba dạng cơ bản: tình huống giàu kịch tính, tình
huống tâm trạng và tình huống tự nhận thức.
1.2.2.2. Cốt truyện truyện ngắn
Như ở trên đã đề cập, về mặt lí thuyết, khi thuộc loại hình tự sự thì truyện ngắn
bao giờ cũng là một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên tác phẩm
truyện ngắn bao giờ cũng có cốt truyện. Đó là “một hệ thống các sự kiện phản ánh
những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật,
qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của
chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [25;137]. Tuy nhiên, quan
niệm về đặc điểm cốt truyện trong truyện ngắn mang tính lịch sử chứ không phải là
một “công thức đóng khung” bất biến theo thời gian. Theo trường phái “cổ điển” mà
20
tiêu biểu là quan niệm của Edgar Poe (thế kỉ XIX)về tính “hiệu quả duy nhất” trong
truyện ngắn thì cốt truyện truyện ngắn phải hết sức chặt chẽ với sự phát triển giàu
kịch tính của các sự kiện và đặc biệt phải chú trọng tạo ra những cái kết bất ngờ (có
thể kể đại diện xuất sắc cho những sáng tác cốt truyện “kinh điển” kiểu này là
O’Henry ở Mỹ, Môpatxăng ở Pháp, Nguyễn Công Hoan ở Việt Nam,...). Đến nửa sau
thế kỉ XX, giới lí luận phê bình và cả những người sáng tác lại phản ứng khá gay gắt
với quan niệm “kịch hóa” cốt truyện như thế. Họ khẳng định những phẩm chất mới
của cốt truyện,dùng những cốt truyện không có kịch tính nhưng được trình diễn bằng
một lối kể tinh xảo để thay thế cho những cốt truyện giàu kịch tính- cái mà tác phẩm
đó phản ánh là suy nghĩ, cảm giác, diễn biến nội tâm của con người chứ không phải
tính cách nhân vật hay những xung đột xã hội.Nhưng dù nằm trong ô phân loại nào
(cốt truyện sự kiện, cốt truyện tâm lí hay sự hỗn hợp sự kiện- tâm lí) thì với đặc trưng
là ngắn gọn, muốn tạo được sự “dồn nén” trong dung lượng- khả năng phản ánh hiện
thực, muốn gây được dư âm cộng hưởng trong nhận thức của người đọc, cốt truyện
truyện ngắn phải đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng chi tiết và đoạn kết. Đó là
những yếu tố quan trọng góp phần tạo ra khả năng “bùng nổ” của hình thức hư cấu tự
sự cỡ nhỏ này.
1.2.2.3. Kết cấu truyện ngắn
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp, sinh động các yếu tố trong chỉnh thể tác
phẩm nhằm tạo ra hiệu quả nghệ thuật theo ý đồ của nhà văn. Kết cấu tồn tại ở hai cấp
độ cơ bản:
- Cấp độ hình tượng (toàn bộ tổ chức của thế giới nghệ thuật: hệ thống các nhân
vật, sự kiện, tình tiết và trình tự xuất hiện của chúng, tương quan về không gian, thời
gian, tương quan các chi tiết…)
- Cấp độ trần thuật (tổ chức điểm nhìn, bố cục, các thành phần của trần thuật…)
Đặc trưng “hình thức hư cấu tự sự cỡ nhỏ” khiến việc sáng tác truyện ngắn
được liên tưởng đến việc thực hiện một tác phẩm thủ công mĩ nghệ đòi hỏi sự tinh
xảo, chính xác cao: “Gọt giũa một văn bản ngắn, làm cho nó tròn trịa, toàn bích trong
21
phạm vi vài trang giấy là một thú vui lớn, đồng thời đòi hỏi người viết phải có nghệ
thuật cao. Viết một truyện ngắn, giống như sáng tác một tác phẩm nghệ thuật nhỏ,
nhưng tinh xảo, cần phải hết sức chú ý và thận trọng, (...) tạo cho người đọc có cảm
giác rằng những điều ta nói ra không thể nói khác được” (Régine Deforges- trích theo
[92, tr.60]). Như vậy, để mỗi một yếu tố đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất trong
khuôn khổ một giới hạn “kích cỡ” tự sự nhỏ bé, vai trò của việc “bày binh bố trận”,
sắp xếp vị trí, tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố một cách lôgic, hợp lí, nghệ thuật
là vô cùng quan trọng.
Sự biến hóa năng động của thể loại truyện ngắn khiến chúng ta thật khó có thể
liệt kê tất cả các dạng kết cấu của nó. Trong đời sống thể loại tự sự, tồn tại phổ biến
một số kiểu kết cấu như: kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu tâm lí, kết cấu vòng
tròn, kết cấu mở, kết cấu lồng ghép, kết cấu phân mảnh...
1.3. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ đƣơng đại Việt Nam
Từ năm 1986, bắt đầu từ một vài tên tuổi “gây hấn”, và liên tiếp các gương mặt
đạt danh hiệu “thủ khoa” trong các cuộc thi truyện ngắn trên tạp chíVăn nghệ quân
đội, báo Văn nghệ,... sáng tác của các nhà văn nữ trong suốt thập kỉ 90 và cho đến
ngày nay đã trở thành một “hiện tượng” trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Điều
đặc biệt là “sự trỗi dậy” của phái đẹp trong sáng tác văn học lại “bén duyên” và gắn
bó bền chặt với thể loại truyện ngắn. Với những thành tựu không thể phủ nhận trên cả
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, truyện ngắn nữ đương đại đã có đóng
góp không nhỏ cho sự vận động, biến đổi của thể loại truyện ngắn nói riêng và nền
văn xuôi đương đại nói chung. Sức hấp dẫn của một “sắc diện” mới, một “giới tính”
đã từng bị “lấn lướt” trong đời sống sáng tác văn chương (ở thể loại văn xuôi) đã đem
lại nhiều “hứng khởi” cho giới nghiên cứu, lí luận và phê bình văn học. Không kể
những bài viết về các tác giả nữ cụ thể ngay khi họ vừa xuất hiện và tạo tiếng vang
trên văn đàn, ngay từ đầu những năm 90 cho đến những năm đầu thế kỉ XXI, liên tiếp
xuất hiện những bài viết tổng kết về thành tựu của văn xuôi nữ(trong đó có truyện
ngắn nữ). Giới nữ “đăng đàn” và thành công vang dội đã tạo ra một niềm tin đầy hân
22
hoan vào tương lainền văn học nước nhà cho các nhà thẩm định văn chương.Bên cạnh
xu hướng “tổng kết”, “đánh giá” thành tựu đó, từ năm 2005, truyện ngắn nữ nói riêng
và văn xuôi nữ nói chung được soi rọi ở những khía cạnh cụ thể hơn về nội dung và
nghệ thuật, dựa trên những lí thuyết lí luận phê bình hiện đại phương Tây. Trong
phạm vi khảo sát của chúng tôi, nghiên cứu về truyện ngắn nữ (có thể lồng trong “văn
xuôi nữ”), có một số khuynh hướng chính như sau:
1.3.1. Lí giải sự “lên ngôi” của các cây bút nữ
Như một lẽ tự nhiên, khi phụ nữ bỗng trở nên xuất sắc ở một lĩnh vực nào đó,
mọi người đều đổ dồn đi tìm nguyên nhân.Năm 1993, trong bài viết Văn chương nữ
giới- một cách thế hiện diện ở đời [70, tr.132], Huỳnh Như Phương đã lí giải rằng:
“Nhìn dọc suốt thế kỷ XX này, rõ ràng là tầm nhìn của người phụ nữ trong sáng tác
văn học, cũng như cõi lòng của họ biểu hiện trong thơ văn ngày càng mở rộng hơn với
tất cả các chiều kích của nó” [70, tr.135], và theo ông, đối với người phụ nữ, “làm văn
chương là một cách thế hiện diện trong xã hội”, bởi qua văn chương, “người phụ nữ
không muốn để cho nam giới độc quyền kết luận về ý nghĩa cuộc đời này, độc quyền
đau khổ trước những bi kịch và độc quyền tìm cách ứng phó với những tình huống bi
kịch đó” [70, tr.136]. Dưới sự kiến giải của tác giả (qua sự so sánh với văn chương nữ
giới trong quá khứ), chính sự giành được vai trò tương xứng trong xã hội, mở rộng
phạm vi hoạt động xã hội đã giúp người phụ nữlàm chủ văn hóa và nghệ thuật. Với
những gì văn chương nữ giới đã thể hiện trong thời hiện đại, tác giả bài viết hi vọng
rằng “thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của văn hóa nghệ thuật, đồng thời là thế kỷ của phụ nữ”.
Năm 1996, trong cuộc trao đổi ý kiến về Phụ nữ và sáng tác văn chương trên
tạp chí Văn học [59], các cây bút phê bình, các nhà văn, nhà thơ đã rất cởi mở nói lên
suy nghĩ của mình về mặt mạnh và mặt yếu của người phụ nữ với tư cách là một chủ
thể sáng tác, từ đó chỉ ra những nguyên nhân khiến cho văn xuôi nữ phát triển nổi trội
trong thời gian vừa qua. Nói về mặt mạnh của các cây bút nữ, Vương Trí Nhàn cho
rằng “hình như do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn
nam giới”, còn Văn Tâm thì đề cao sự đóng góp “một cái mảng khá bí ẩn là tâm hồn
23
họ”. Cùng chung quan điểm ấy của Văn Tâm, Đặng Anh Đào cũng nhấn mạnh đến
đặc điểm “họ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách hoặc nói như phương
Tây, người ta vẫn nói, họ tự ăn mình”. Bà đặc biệt khâm phục các cây bút nữ đương
thời bởi bà nhận thấy rằng “mình không bao giờ dám viết những điều mình nghĩ, như
lớp trẻ hơn hiện nay”. Bên cạnh mặt mạnh, những người trong nghề văn cũng rất
thẳng thắn chỉ ra giới hạn của các cây bút nữ: đó là “nguy cơ lặp lại mình” (Đặng Anh
Đào), “không bao giờ có cái sự gọi là đồ sộ, vĩ đại” (Lê Minh Khuê). Tuy nhiên, vấn
đề thu hút nhiều sự cắt nghĩa nhất trong buổi tọa đàm là hiện tượng “âm thịnh dương
suy”, và “tại sao gần đây, phụ nữ đi viết văn xuôi có vẻ nổi hơn so với số chị em làm
thơ”. Đã có nhiều lí do được đưa ra: “trước tiên là cái hoàn cảnh đất nước sau chiến
tranh. Phụ nữ vốn là những người hiểu một cách sâu sắc, hiểu bằng cả tâm hồn mình,
cái sức ép trước đây của hoàn cảnh. Nỗi đau hôm qua ở họ thấm thía, nên sự hồi sinh
của dân tộc những năm này họ cũng cảm thấy đầy đủ hơn”(Ngô Thế Oanh), “trong cái
diện tìm tòi đã khá rộng, hình như xu hướng hiện nay vẫn là tìm vào những cái suồng
sã, thô nhám, xô lệch... của hiện thực, mà thiếu sự thăng hoa quý phái, nên thơ không
khởi sắc lên được” (Vương Trí Nhàn);sự thay đổi trong quan niệm về nghề văn (trở
nên cởi mở, dân chủ hơn, trong đó có một bộ phận mang tính cách thị trường có một
vị trí rõ rệt) đã khiến nhiều chị em thử vận may trong văn chương và coi đây như một
nghề để kiếm sống, vì thế mới có trường hợp “vừa nhảy vào nghề” “đã viết ào ào”, vì
“phải tính cho nhanh, nếu không ra sao thì còn rút chứ” (Đặng Minh Châu)... Có
nhiều cách diễn đạt và nhiều “trọng tâm” khác nhau cho các nguyên nhân, nhưng các
nhà bàn luận đều thống nhất ở lí do hoàn cảnh xã hội dân chủ sau chiến tranh đã tạo ra
một môi trường thuận lợi cho các cây bút nữ thử sức và phát triển. Và họ đều đặt niềm
tin vào sự “hưng thịnh” của nền văn chương do chị em viết nên.
1.3.2. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ
Mặc dù có ý kiến không nên phân biệt giới tính trong sáng tác văn học nhưng
trên thực tế, suốt từ đầu thập kỉ 90 đến những năm đầu thế kỉ XXI, liên tiếp xuất hiện
những bài viết chọn sáng tác văn xuôi (đặc biệt là truyện ngắn) của các cây bút nữ để
24
làm đối tượng nghiên cứu, đánh giá. Ngay từ năm 1990, Nguyễn Thị Như Trang đã
tổng kết Thành tựu và đội ngũ các nhà văn nữ Việt Nam [105]. Mặc dù chỉ là “những
nét khái quát còn hạn hẹp sơ lược” “trong việc điểm lại những hoạt động phong phú,
đa dạng và những thành công trong sáng tác văn học của các nhà văn nữ Việt Nam”
như chính tác giả đã viết, nhưng qua đó chúng ta cũng thấy được tài năng và vai trò to
lớn của các thế hệ nhà văn nữ trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Năm 1993, bằng “con mắt xanh” của một nhà phê bình có nghề, Bùi Việt
Thắng trong Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ)
[89, tr.189] đã sớm nhận ra “dung nhan” “lấp lánh” trong sáng tác của các cây bút nữ
trẻ mới xuất hiện trên văn đàn (Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm,
Y Ban, Nguyễn Minh Dậu và Phan Thị Vàng Anh). Theo tác giả, “làm nên đặc trưng
của những cây bút nữ trẻ là cái nhu cầu đến như là mê say được tham dự, được hòa
nhập vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người”. Tác giả cũng rất tinh tế
chỉ ra những biểu hiện của “nữ tính” được “phát lộ” rất rõ “trong sự quyết liệt đấu
tranh giành giữ tình yêu và sự bình quyền trong tình cảm” (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ- Y
Ban), trong sự “chan chứa nỗi lo lắng mơ hồ về cuộc đời vốn mênh mông vừa là thiên
đường vừa là địa ngục”, trong cái “đa sự đa đoan”... Bên cạnh nét đặc trưng về nội
dung, Bùi Việt Thắng còn chỉ ra những “ấn tượng” trong hình thức “lạ hóa” đối
tượng, trong lối viết “phá cách” rất tự do, khoáng đạt và uyển chuyển linh hoạt ở các
truyện ngắn nữ. Mặc dù vẫn còn cảm thấy “thiếu một cái gì đó thật căn cốt, thật dư
ba” ở sáng tác của các cây bút nữ trẻ nhưng tác giả bài viết “vẫn tin vào thế hệ thứ
năm này như tin vào tiền đồ của văn học nước nhà sẽ tới một thời kỳ phục hưng”.
Cùng mang một niềm tin như thế vào sức sáng tạo của các nhà văn nữ, năm
1995, trong bài viết Những tác giả nữ trong nền văn xuôi cách mạng mở đầu tập
truyện ngắn các tác giả nữ 1945-1995 [60], Hà Minh Đức đã nêu ra nhiều yếu tố mới
xuất hiện trong truyện ngắn của các thế hệ nhà văn nữ nổi lên từ sau 1975. Đó là “các
nhân vật mở rộng nếp cảm nghĩ, bộc lộ rõ cá tính trong các mối quan hệ, trong thị
hiếu thẩm mĩ và ngôn ngữ xử sự. Cấu trúc câu chuyện cũng vần xoay theo những kiểu
25
dáng mới không theo nếp truyền thống”. Đó là “sự mạnh dạn của nhiều cây bút nữ
trong việc bộc lộ phần rất riêng tư của tình yêu kể cả những khao khát thầm kín có
tính chất bản năng ở mỗi con người”. Đó là “cái tôi của mỗi người đều không giấu kín
mà bộc lộ chân tình linh hoạt trên trang viết”. Bên cạnh đó ông cũng rất nhấn mạnh
đến “chất nữ tính” trong văn chương các tác giả nữ: “Đáng quý khi đọc những trang
viết của các tác giả nữ, chúng ta đã tiếp nhận được những cảm xúc mềm mại, tinh tế,
phần thì bộc lộ vẻ đẹp khách quan của những tâm hồn nữ, phần thì làm dịu đi ở người
đọc những mệt mỏi trăn trở trước những khó khăn của cuộc đời. Chính cái chất tâm lý
ấy góp phần tạo nên chất thơ riêng của tác giả nữ”. Theo đánh giá của tác giả, trong
khoảng hơn thập kỷ qua sáng tác của các nhà văn nữ “đã thành dòng chảy xiết mạnh
mẽ, hứa hẹn nhiều thành quả tươi đẹp” [60, tr.8].
Bước sang thế kỉ XXI, truyện ngắn nữ nói riêng và văn xuôi nữ nói chung vẫn
tiếp tục khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn- bằng chứng là vẫn liên tục có
các bài viết đánh giá về đóng góp, đặc điểm sáng tác của “hiện tượng” này. Năm
2001, Bích Thu trong Văn xuôi của phái đẹp [95]đã chỉ ra khá cặn kẽ những biểu hiện
của sự vận động và đổi mới trong sáng tác của các nhà văn nữ trên cả phương diện
nộidung và hình thức biểu đạt. Theo tác giả, văn chương của phái đẹp hôm nay “đã
không thi vị hóa những chuyện đời, không tỏ ra đài các hoặc đa cảm trong những giọt
lệ khóc chồng hay giấc mộng phù du mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp cận và khai thác
đề tài thế sự, đời tư, với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng và bén ngọt,
riết róng mà đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những con người sống quanh
mình”. Với việc chỉ ra “sở trường” của các nhà văn nữ như một “ưu thế riêng của giới
tính” trong việc khai thác “đối tượng” sáng tạo phong phú mà bí ẩn là cuộc đời và tâm
hồn của chính mình”, tác giả cho rằng “ngay từ những sáng tác khởi đầu, những người
viết nữ đã đưa vào tác phẩm “một đời sống, một lối viết và một kiểu hệ lụy riêng” rất
phụ nữ”. Nói về đề tài “muôn thuở” trong sáng tác của các cây bút nữ- đề tài tình yêu
với đủ cung bậc cảm xúc, tác giả đã nêu ra một nhận định khá thú vị: “sự vỡ lẽ về đàn
ông qua các trang viết của các nhà văn nữ đã bộc lộ lòng vị tha, nhân ái của phụ nữ
26
với con người và cuộc đời. Suy cho cùng đó cũng là một cách dung hòa, cân bằng các
mối quan hệ, ứng xử ở đời”. Không chỉ đề cao sự hòa nhập nhanh của văn xuôi nữ
vào sự đổi mới của văn học nghệ thuật nước nhà nói chung trên phương diện nội
dung, Bích Thu còn rất đề cao đóng góp làm nên “sự đa dạng của loại hình văn xuôi
nghệ thuật” ở các cây bút nữ.Đó là khả năng biểu đạt và phân tích sâu sắc, tinh tế thế
giới tâm hồn con người, là kiểu xây dựng cốt truyện theo dòng tâm trạng nhân vật, là
việc phát hiện các tình huống tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật với bút pháp tự sự trữ
tình, là cố gắng không ngừng làm mới cách diễn đạt, biểu cảm... Với cảm nhận sáng
tác của các nhà văn nữ đã có một “tiếng nói riêng, hương sắc riêng” trong nền văn
xuôi đương đại, tác giả tin rằng “phụ nữ với tác phẩm của phụ nữ sẽ là lời mời, tiếng
gọi của văn chương và người đọc trong thế kỷ 21”.
Nhận diện đặc điểm của văn xuôi nữ qua một số phong cách tác giả nữ tiêu
biểu (Thùy Linh, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Lý Lan, Lê Minh Khuê), năm
2003, Vũ Đức Tân trong Văn xuôi của một số cây bút nữ [85] đã rút ra xu thế trong
cách viết của nhiều cây bút nữ hiện nay là “không né tránh hiện thực phức tạp của
cuộc sống”, “những nhân vật lý tưởng trở nên hiếm hoi hơn”- điều đó thể hiện thái độ
dũng cảm của các nhà văn nữ khi nhìn nhận cuộc sống. Nhận thấy “bút pháp hiện thực
vẫn là bút pháp chủ đạo khi hướng tới việc phê phán hay khen ngợi, nêu bật những nét
nhân bản của nhân vật”, tác giả cho rằng những trang viết của các cây bút nữ “dường
như vẫn còn ít có sự bay bổng nâng cao con người hơn những cơm áo đời thường. Cái
chân trời trong văn xuôi của họ còn mong manh biết bao nhiêu”.
Năm 2004, khi Phác thảo vài nét về diện mạo truyện ngắn đương đại và sự góp
mặt của một số cây bút nữ [88], Nguyễn Thị Thành Thắngđã liệt kê khá đầy đủ sự
“lên ngôi” của một số cây bút nữ, qua đó thấy được phái đẹp đã “tự cân bằng văn
chương, cân bằng chính thiên chức của họ, bằng sự tinh tế dịu dàng, hồn nhiên mà
khoan hậu”. Điểm nổi bật trong bài viết là khi nói về hướng tiếp cận đời sống trong
truyện ngắn của một số cây bút nữ, tác giả đã chỉ ra sự khác biệt giữa hình tượng
người đàn ông của xã hội hiện đại và cách nhìnngười đàn ông của các cây bút nữ
27
trước đây. Theo tác giả, việc xuất hiện một loạt các cây bút nữ viết về đề tài tình yêu
mang bóng dáng của “một nửa thế giới” là “phái mạnh” trong cuộc sống hiện đại hôm
nay đã khiến truyện ngắn “sâu sắc và tinh tế hơn, dịu dàng và khoan hậu hơn”- đó
phải chăng cũng là nét hấp dẫn mà truyện ngắn hiện đại Việt Nam mang đến cho
người đọc.
Nếu Nguyễn Thị Thành Thắng đặt truyện ngắn nữ trong cái nền là truyện ngắn
đương đại để đánh giá thì Lê Hương Thủy trong Điểm qua về sự vận động của truyện
ngắn các cây bút nữ [101] lại xem xét hiện tượng này trong dòng chảy của thời gian
từ đầu thế kỉ XX đến thời điểm hiện tại (năm 2006) để thấy được sự vận động và phát
triển của nó. Theo tác giả, “với sự đổi mới quan niệm hiện thực về con người, với đặc
thù trong cách lựa chọn đề tài và xử lí chất liệu hiện thực, truyện ngắn nữ thời kì đổi
mới đã có được dấu ấn riêng trong tương quan với truyện ngắn nữ trước thời kì đổi
mới”. Với sự đánh giá khách quan, tác giả đã chỉ ra cả lợi thế lẫn những hạn chế của
các cây bút nữ, và nếu biết tận dụng tối đa những lợi thế vốn có và khắc phục những
điểm yếu thì truyện ngắn nữ sẽ tiếp tục có những đóng góp vào sự vận động và phát
triển của truyện ngắn dân tộc.
Gần đây, bài viết của Trần Thục: Một góc nhìn về văn xuôi nữ [98] (vốn là
tham luận tham dự tọa đàm “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương
đại”, Viện Văn học, 29/11/2012) đã điểm lại những đặc điểm trong sáng tác của các
cây bút nữ ở các khía cạnh đề tài, nhân vật, giọng điệu... Tác giả cũng điểm qua mảng
sáng tác văn học mạng của những cây bút nữ để thấy diện mạo phong phú của hiện
tượng này. Mặc dù về cơ bản chỉ là sự khẳng định lại những ý kiến đã từng được các
nhà nghiên cứu đưa ra trước đó về sáng tác của các nhà văn nữ, nhưng bài viết của
Trần Thục một lần nữa là lời khẳng định giá trị, đóng góp không thể phủ nhận của văn
xuôi nữ trong nền văn học Việt Nam đương đại.
1.3.3. Tiếp cận văn xuôi nữ dưới góc nhìn phê bình nữ quyền
Cùng với nhiều khuynh hướng phê bình văn học ra đời trong thế kỉ XX như
Phê bình hiện tượng luận, Phê bình cấu trúc, Phê bình hậu thực dân,... Phê bình nữ
28
quyền (Feminist Criticism) phát triển mạnh trong khoảng hơn 40 năm trở lại đây ở các
nước phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ, Anh và Pháp. Hình thành và ra đời trong phong
trào của phụ nữ chống áp bức, đòi các quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, giáo dục
và các quyền công dân khác trong xã hội (thế kỉ XVIII), hạt nhân lí luận của khuynh
hướng phê bình này là học thuyết Quyền bình đẳng của phụ nữ (Feminism). Trên thế
giới, lí thuyết phê bình văn học nữ quyền có nhiều giai đoạn phát triển, nhiều trường
phái với những chủ trương, mục đích khác nhau. Ở nước ta, khi vận dụng lí thuyết này
vào nghiên cứu văn xuôi nữ, có một số khuynh hướng như sau:
1.3.3.1. Đi tìm biểu hiện của “đặc trưng tính nữ” trong văn xuôi nữ
Có lẽ, “khơi mở” cho hướng nghiên cứu này là bài viết Suy nghĩ về đặc điểm
của nữ văn sĩ của Phương Lựu vào năm 1998 [51]. Từ việc chỉ ra mặt mạnh và mặt
yếu trong tâm lý nữ giới đối với việc sáng tạo văn học, tác giả đã nêu ra một số “tính
chất và phạm vi nhất định” mà các sáng tác văn học nữ thường tập trung vào: mang
màu sắc tự truyện, tập trung về đề tài tình yêu.Mặc dù tác giả có nói rằng “cố gắng
vận dụng một số điểm hữu quan trong Tâm lý học nữ giới (Women psychology) để
tiếp cận vấn đề” nhưng với việc nêu lên một nhận định rằng “đặc điểm giới tính trong
văn học là có thật. (...) Vấn đề nữ tính, thuyết âm dương trong nghệ thuật không phải
hoàn toàn là vô căn cứ”, bài viết thực sự là những lời “dẫn nhập” rất gần với cách tiếp
cận từ góc độ phê bình nữ quyềnnở rộ sau này.
Một trong những mục đích của phê bình nữ quyền là đi tìm đặc trưng của “lối
viết nữ”- nghĩa là một phương thức tư duy và thể hiện văn bản nghệ thuật mang phong
cách nữ giới (trong sự đối sánh khác biệt với sáng tác của nam giới). Đi theo định
hướng này, năm 2012, Hồ Khánh Vân trong bài viết Một vài lý giải về hiện tượng tự
thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ 1990 đến nay [115] đã
chỉ ra rằng: “Phương thức tự thuật đã tạo nên một mô thức tự sự bao trùm từ phương
diện nội dung đến hình thức nghệ thuật của tác phẩm (...). Đây thực sự là một đặc
trưng tư duy nghệ thuật của lối viết nữ, tạo nên điểm nhìn sáng tác riêng biệt của
29
người phụ nữ so với nam giới trong thế giới văn chương”.
Gần đây, “đặc trưng tính nữ” còn được Lê Thị Hường soi rọi từ những phương
diện rất cụ thể như: Tư duy biểu tượng trong văn xuôi nữ [39] và Chiến tranh qua cảm
thức nữ giới [38]. Rõ ràng, dấu ấn thiên tính nữ in đậm nét trên mỗi trang văn của
phái đẹp, từ thủ pháp nghệ thuật (hệ biểu tượng) đến cách triển khai đề tài (chiến
tranh). Khẳng định tồn tại một bản sắc riêng khác biệt với phái nam trong sáng tác văn
chương của các nhà văn nữ cũng là một cách để khẳng định sự bình quyền nam- nữ
trong sáng tạo nghệ thuật của các nhà phê bình nữ quyền.
1.3.3.2. Đi tìm biểu hiện của ý thức phái tính và tinh thần nữ quyền trong văn
xuôi nữ
Bài viết tiêu biểu mở đầu cho khuynh hướng này là của Nguyễn Đăng Điệp vào
năm 2006: Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương
đại [24]. Theo tác giả, “âm hưởng nữ quyền” trong văn học đương đại Việt Nam (chủ
yếu tác giả đề cập đến sáng tác của các cây bút nữ) được bộc lộ qua bốn phương diện
cơ bản: a- ngôn ngữ quyết liệt, mạnh mẽ không kém gì nam giới; b- công khai xét lại
lịch sử và các điển phạm nghệ thuật bằng cái nhìn riêng của cá nhân và giới nữ; c-
công khai bày tỏ thái độ chống lại sự lệ thuộc vào thế giới đàn ông và dám xông vào
các đề tài cấm kị một cách tự do, nhất là đề tài tình dục; d- tuy quyết liệt, mạnh mẽ
nhưng hơi ấm nữ tính trong nhiều trường hợp vẫn được “bảo lưu một cách vô thức” đã
tạo hương vị riêng cho tác phẩm của các nhà văn nữ. Mặc dù bài viết chỉ là “những
suy nghĩ ban đầu” về vấn đề này như tác giả nói, nhưng những ý tưởng đó đã trở
thành những gợi ý định hướng cho những triển khai cụ thể ở các bài viết sau này của
các nhà nghiên cứu khác.
Năm 2011, trong Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại [15], từ nhận
định “tiếng nói các cây bút nữ mang âm sắc nữ quyền rất rõ”, tác giả Nguyễn Thị
Bình đã đặt ra mục đích của bài viết là “tìm xem trong văn xuôi nữ ý thức phái tính có
dồi dào như trong thơ không và nó có diện mạo như thế nào?”. Theo tác giả, vấn đề
này được thể hiện trên ba phương diện: những tuyên ngôn về “viết”, những nhân vật
30
in đậm ý thức phái tính và ngôn ngữ của ý thức phái tính. Trên tinh thần cơ bản của
Phê bình nữ quyền là xây dựng những tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá
các hiện tượng văn học của giới nữ, tác giả Nguyễn Thị Bình đã nhận diện, lí giải vai
trò của ý thức phái tính đối với hoạt động sáng tạo văn chương giới nữ một cách khá
thuyết phục. Đó là một cách đọc văn xuôi nữ đương đại Việt Nam rất hiện đại, nhân
văn. Tuy nhiên, việc tác giả đồng nhất hai khái niệm “phái tính” và “giới tính”, coi đó
“là cái được qui định bởi Tự nhiên/Tạo hóa, gắn với cấu tạo sinh học phức tạp và bí
ẩn của mỗi người” thì có lẽ cần phải bàn thêm. Bởi trên thực tế, phái tính (sex) và giới
tính (gender) là có sự khác nhau: khái niệm phái tính dựa trên đặc điểm thuần sinh
học của cơ thể con người còn khái niệm giới tính lại dựa trên cấu trúc văn hoá – xã
hội (sự khác biệt của từng giới do quy định của văn hóa, đó là sản phẩm của một phức
hợp rộng, gồm các tập tục, phong tục phổ biến và những khuôn mẫu của một nền văn
hoá đặc thù, điều đó tạo ra “nam tính” và “nữ tính” chứ không phải là “nam giới” và
“nữ giới”). Mặt khác, lập luận của tác giả (ngay trong phần mở đầu) có vẻ trái ngược
khi tác giả nói rằng “dùng cách gọi “ý thức phái tính” để chỉ một dạng thức nữ
quyền...”, nhưng ngay sau đó lại khẳng định: “ý thức nữ quyền có thể xem như biểu
hiện mạnh nhất, tự giác nhất của ý thức nữ tính”. Thiết nghĩ, việc dùng chính xác các
thuật ngữ, khái niệm cũng như sự thống nhất trong lập luận là vô cùng cần thiết để tạo
ra tính khoa học cho việc áp dụng một lý thuyết mới vào nghiên cứu các hiện tượng
văn học.
Năm 2012, văn xuôi nữ tiếp tục được “lật xới” những “vỉa tầng” thể hiện tinh
thần nữ quyền qua bài viết của Nguyễn Mạnh Hà: Người ta sinh ra không là đàn bà,
người ta trở thành đàn bà (về tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt
Nam sau 1986) [108, tr.40]. Bắt đầu từ việc “lần về nguồn gốc, tìm hiểu nguyên nhân”
của tình trạng bất công đối với giới nữ tồn tại hàng chục thế kỉ (từ lợi ích kinh tế hình
thành các thiết chế xã hội, văn hóa), tác giả Nguyễn Mạnh Hà đã khẳng định: “văn
học nữ quyền không tách khỏi nữ quyền trong kinh tế- xã hội, nếu không muốn nói nó
là một bộ phận đặc trưng, có được là nhờ nữ quyền trong kinh tế- xã hội”. Điều này
31
giải thích cho việc “bùng nổ về tinh thần nữ quyền” trong văn học Việt Nam từ sau
mốc Đại hội Đảng lần VI, đặc biệt trong truyện ngắn và tiểu thuyết, biểu hiện nổi bật
ở ba điểm: đả phá trật tự nam quyền, tìm lại chính mình và khẳng định những ưu việt.
Có thể thấy những “luận điểm” cơ bản của tư tưởng “nữ quyền” đã được bài viết đề
cập, triển khai: sự phản kháng lại chế độ “nam quyền”, sự khẳng định bản ngã, bản
sắc, giá trị, vị trí bình đẳng của giới nữ. Tác giả cũng chỉ ra được một số hạn chế trong
việc thể hiện vấn đề này ở các nhà văn Việt Nam: sự cực đoan thái quá nhiều khi dẫn
đến cái nhìn lệch lạc (về nam giới, về tính dục), những khoảng trống cần bổ sung:
mức độ chịu đựng các áp lực, giảm stress của giới nữ; một cái nhìn triết học về nữ
giới... Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu áp nguyên toàn bộ tư tưởng nữ quyền của
phương Tây để tìm và đòi hỏi sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam thì e rằng
hơi khiên cưỡng (vì vấn đề nữ quyền ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc sẽ có nội hàm,
ngoại diên khác nhau)- và quả là trong bài viết của Nguyễn Mạnh Hà một số thuật
ngữ của phong trào nữ quyền trên thế giới được áp vào nội dung của tiểu thuyết,
truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đã tạo ra sự “lên gân” không đáng có: “cuộc chiến
chống nam quyền đang còn rất cam go”, “cuộc chiến đòi công lí, trả lại bản nguyên”
...
Cuối năm 2012,trong buổi Tọa đàmVăn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt
Nam đương đạido Viện Văn học tổ chức, đã có khá nhiều bài tham luận đề cập đến sự
biểu hiện của vấn đề nữ quyền trong các sáng tác nữ: Văn học nữ (quyền) thời đổi mới
(khảo sát truyện ngắn Võ Thị Hảo) của Đoàn Ánh Dương, “Xét lại” thế giới đàn ông
bằng cái nhìn đàn bà- một trong những biểu hiện của âm hưởng nữ quyền trong văn
xuôi nữ Việt Nam những năm gần đây của Nguyễn Thị Thanh Xuân, Tự thuật tính
dục- một lối viết nữ trong văn xuôi VN từ năm 1990 đến nay của Hồ Khánh Vân,...
Gần đây nhất, luận án tiến sĩ Ngữ văn của Nguyễn Thị Thanh Xuân: Vấn đề phái tính
và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số
nhà văn nữ tiêu biểu) [120] cũng đưa ra một hướng tiếp cận văn xuôi nữ đương đại
dưới ánh sáng của lý thuyết phê bình văn học nữ quyền trên cả phương diện nội dung
32
và nghệ thuật.
Có thể thấy, nghiên cứu truyện ngắn nữ/ văn xuôi nữ đương đại Việt Nam- một
hiện tượng đang “khuấy đảo” nền văn học dân tộc từ lí thuyết Phê bình nữ quyền đang
là “miền đất hứa”, hứa hẹn nhiều sự “giải mã” lí thú, logic và nhân văn.
Tiểu kết
Qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ đương đại Việt Nam,
chúng tôi nhận thấy rằng:
- Đây thực sự là một “hiện tượng” độc đáo của nền văn xuôi đương đại Việt
Nam. Hiện tượng này không chỉ mang tính chất “cục bộ” của nền văn học một dân tộc
mà nó còn có tính “cộng hưởng” với sự “trỗi dậy” của giới nữ trong nền văn học thế
giới.
Hiện tượng này gần 30 năm qua (kể từ mốc 1986) luôn là “điểm nóng” thu hút sự chú
ý của dư luận, và đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ, trong đó TÀI LIỆU THAM
KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Vũ Tuấn Anh (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học (4), tr.14-
19.
2. Vũ Tuấn Anh (1996), “Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại”,
Tạp chí Văn học (9), tr.28-31.
3. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại,
Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Phan Thị Vàng Anh (2012), Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
5. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
6. R. Barthes (2006), “Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể” (Tôn Quang Cường
dịch), http://docsach.dec.vn.
7. Lê Huy Bắc (2008), “Cốt truyện trong tự sự”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (7), tr.34-
43.
33
8. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí Văn học
(9), tr.66-73.
9. Lê Huy Bắc (2004), “Truyện ngắn: nguồn gốc và thể loại”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học (5), tr.84-95.
10. Y Ban (2005), Cưới chợ, NXB Văn học, Hà Nội.
11. Y Ban (2005), I am Đàn bà, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Bình (2008), “Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học (5), tr.41-49.
14. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975- 1995- Những đổi mới cơ bản,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Bình (2011), “Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học (9), tr.74-85.
16. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2015), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB
Đà Nẵng, Đà Nẵng.
17. Nguyễn Văn Dân (2010), “Sức sống dai dẳng của kỹ thuật “dòng chảy ý thức””, Tạp
chí Nghiên cứu văn học (8), tr.17-29.
18. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
19. Trần Ngọc Dung (2006), “Đời sống thể loại văn học sau 1975”, Tạp chí Nghiên cứu
văn học (2), tr.91-97.
20. Đoàn Ánh Dương (2007), “Cánh đồng bất tận, nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ
trần thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (2), tr.96-109.
21. Trần Thanh Đạm (2003), “Nhìn lại văn học Việt Nam sau 1975: 3 giai đoạn, 3 xu
hướng”, Báo Văn nghệ (34), tr.10.
22. Đặng Anh Đào (1996), “Truyện cực ngắn”, Tạp chí Văn học (2), tr.9-15.
23. Phan Cự Đệ chủ biên (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Đăng Điệp (2013), "Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học
Việt Nam đương đại”, http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=7679.
34
25. Hà Minh Đức chủ biên (1999), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
26. Lưu Hà (thực hiện) (2005), “Võ Thị Xuân Hà: Viết là nghiệp của tôi”,
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/vo-thi-xuan-ha-viet-la-nghiep-
cua-toi-1885249.html.
27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1999), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng Chủ biên (2006), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
29. Lê Thị Đức Hạnh (1987), “Những nét đặc sắc trong truyện ngắn của Thanh Hương”,
Tạp chí Văn học (2), tr.110-116.
30. Võ Thị Hảo (2005), Người sót lại của Rừng Cười, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
31. Phạm Thị Hoài (1995), Man nương, NXB Hà Nội, Hà Nội.
32. Phạm Thị Hoài (1989), Mê lộ, NXB Tổng hợp Phú Khánh, TP. Hồ Chí Minh.
33. Trịnh Thu Hồng (1999), “Thể loại tự truyện trong sáng tác của một số nhà văn nữ”,
Tạp chí Văn học (6), tr.80-84.
34. Nguyễn Thị Thu Huệ (2006), 37 truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội.
35. Mai Hương (2006), “Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn
xuôi”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (11), tr.3-14.
36. Quỳnh Hương
(thực hiện)
(2004), “Phỏng vấn nhà văn Dạ Ngân”,
https://sites.google.com/site/dangannga/b%C3%A1ovnca%3Aph%E1%BB%8Fngv%E
1%BA%A5nnh%C3%A0v%C4%83nd%E1%BA%A1ng%C3%A2n.
37. Lê Thị Hường (1995), “Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí Văn học
(4), tr.29-33.
38. Lê Thị Hường
(2014),
“Chiến
tranh
qua
cảm
thức
nữ
giới”,
http://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/1319974/phe-binh-van-nghe/chien-
tranh-qua-cam-thuc-nu-gioi.html.
39. Lê Thị Hường
(2013), “Tư duy biểu
tượng
trong văn xuôi nữ”,
http://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/826069/phe-binh-van-nghe/tu-duy-
bieu-tuong-trong-van-xuoi-nu.html.
35
40. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học: Nhập môn lí thuyết trần thuật (Nguyễn Thị
Như Trang dịch), Tài liệu khoa học, trường ĐH KHXH&NV, Hà Nội.
41. Nguyễn Phương Khánh (2012), “Truyện ngắn- những đường biên thể loại”,
http://tapchivan.com/tin-ly-luan-van-nghe-truyen-ngan---nhung-duong-bien-the-loai-
254.html.
42. Nguyễn Thị Khánh (2000), “Phê bình nữ quyền”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội
(9), tr.12-24.
43. Lưu Tư Khiêm (14-1-2006), “Văn học nữ tính” (Phan Trọng Hậu dịch), Báo Văn
nghệ (2), tr.12.
44. Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội.
45. Lê Minh Khuê (2012), Nhiệt đới gió mùa, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
46. Lê Minh Khuê (2009), Những ngôi sao, trái đất, dòng sông, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
47. Lý Lan (2009), “Phê bình Văn học nữ quyền”,
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=2707&CategoryID=41.
48. Du Tử Lê (2015), “Võ Thị Xuân Hà, trầm-tích-chữ-nghĩa, văn chương một thời”,
http://www.dutule.com/D_1-2_2-148_4-7036/vo-thi-xuan-ha-tram-tich-chu-nghia-
van-chuong-mot-thoi.html.
49. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng Chủ biên (2009), Văn học Việt Nam sau
1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy,NXB Giáo dục, Hà Nội.
50. Phương Lựu chủ biên (2002), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
51. Phương Lựu (1998), “Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ”,Tạp chí Văn học (2), tr.17-
23.
52. Phương Lựu (1996), “Tản mạn về văn nghệ với tính dục”,Tạp chí Văn học (3), tr.7-
11.
53. Phương Lựu (2001), “Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật”,Tạp chí
Tác phẩm mới (3), tr.93-98.
54. Lưu Quỳnh Mai (thực hiện) (2001), “Phỏng vấn nhà văn Lê Minh Hà”,
http://dactrung.net/Bai-tr-5556-Phong_Van_Nha_Van_Le_Minh_Ha.aspx.
36
55. Nguyễn Thị Ninh (2011), “Chất thơ trong ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương
đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (11), tr.78-85.
56. Hương Nguyên (2002), “Các nhà văn nữ Việt Nam thời Pháp thuộc”, Tạp chí Văn
học (3), tr.63-70.
57. Nguyễn Văn Nguyên (2009), “Nhận diện “thân thể sáng tác” trong văn học đương
đại Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr.93-101.
58. Nguyên Ngọc (1990), “Đôi nét về một tư duy văn học mới đang hình thành”, Tạp chí
Văn học (4), tr.25-29.
59. Vương Trí Nhàn ghi (1996), “Phụ nữ và sáng tác văn chương”, Tạp chí Văn học (6),
tr.63-65.
60. Nhiều tác giả (1995), Truyện ngắn các tác giả nữ (tuyển chọn: 1945-1995), NXB
Văn học, Hà Nội.
61. Nhiều tác giả (2003), Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
62. Nhiều tác giả (2007), Truyện ngắn nữ đầu thế kỉ 21 (2001- 2007), NXB Văn học, Hà
Nội.
63. Nhiều tác giả (1999), Truyện ngắn nữ thập niên 90, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
64. Nhiều tác giả (2001), Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
65. Nhiều tác giả (2007), Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam (1975-2007), NXB Phụ nữ, Hà
Nội.
66. Nhiều tác giả. Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương đại (trích đăng
một số tham luận Tọa đàm “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương
đại”, Viện Văn học, 29/11/2012). http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=4298.
67. Hoàng Phê chủ biên (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội- Đà Nẵng.
68. Phạm Phú Phong (2008), “Lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học (6), tr.62-70.
69. Trần Thị Hoài Phương (2009), Biểu tượng như một phương thức phản ánh của văn
xuôi đương đại (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh
37
Thái), Luận văn Thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà
Nội.
70. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
71. Poxpêlop (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
72. Nguyễn Đức Quang, Ngô Vĩnh Bình, Phạm Hoa thực hiện (1993), “Chúng tôi phỏng
vấn bốn cây bút nữ”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (3), tr.109-113.
73. Nguyễn Hưng Quốc (2005), “Nữ quyền luận”,
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artwo
rkId=3822.
74. Vũ Quỳnh (thực hiện) (2008), “Nhà văn Y Ban: Kinh nghiệm của tôi: Hạ thấp mình
xuống”, http://vnca.cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Nha-van-Y-Ban-Kinh-
nghiem-cua-toi-Ha-thap-minh-xuong-325507/.
75. Lê Hồng Sâm (1993), “Sự đông đảo của những cây bút nữ tài năng, một hiện tượng
mới trong văn học Pháp thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học (4), tr.8-11.
76. Chu Văn Sơn (2011), “Tiếp cận truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện”,
http://phanthanhvan.vnweblogs.com/post/8200/285484.
77. Trần Đình Sử (2010), “Cần sửa lại một thuật ngữ dịch sai trong lí luận và nghiên cứu
văn học của ta”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr.91-100.
78. Trần Đình Sử (1986), “Mấy ghi nhận về sự đổi mới của tư duy nghệ thuật và hình
tượng con người trong văn học ta thập kỷ qua”, Tạp chí Văn học (6), tr.7- 14.
79. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
80. Trần Đình Sử chủ biên (2004), Tự sự học (Một số vấn đề lí luận và lịch sử), NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
81. Trần Đình Sử chủ biên (2008), Tự sự học- Một số vấn đề lí luận và lịch sử (Phần 2),
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
82. Trần Đình Sử (2007), “Văn học như là tư duy về cái khả nhiên”, Tạp chí Nghiên cứu
văn học (2), tr.3-12.
38
83. Tạp chí Hợp Lưu (thực hiện) (2008), “Phỏng vấn Đỗ Hoàng Diệu: Bản năng nhà văn
trong xã hội đồng phục”, http://hopluu.net/a434/phong-van-do-hoang-dieu-ban-nang-
nha-van-trong-xa-hoi-dong-phuc.
84. Đoàn Minh Tâm (2012), Văn học trẻ như tôi hình dung, NXB Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
85. Vũ Đức Tân (7/3/2003), “Văn xuôi của một số cây bút nữ”, Báo Người Hà Nội (10),
tr.7.
86. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam,NXB Văn học,
Hà Nội.
87. Trần Khánh Thành tuyển chọn (2004), Hà Minh Đứctuyển tập (tập 1), NXB Giáo
dục, Hà Nội.
88. Nguyễn Thị Thành Thắng (2004), “Phác thảo vài nét về diện mạo truyện ngắn đương
đại và sự góp mặt của một số cây bút nữ”, Tạp chí Văn, Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh
(18), tr.119-126.
89. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn,NXB Văn học Hà Nội, Hà Nội.
90. Bùi Việt Thắng (2004), “Truyê ̣n ngắn hôm nay” , Tạp chí Nghiên cứ u văn h ọc (1),
tr.69-78.
91. Bùi Việt Thắng (2007), Truyện ngắn- những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
92. Phạm Thị Thật (2009), Truyện ngắn Pháp cuối thế kỉ XX- Một số vấn đề lí thuyết và
thực tiễn sáng tác,NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
93. Phùng Gia Thế (2012), “Tính bất khả tín, hàm hồ trong thế giới nghệ thuật văn xuôi
Việt Nam đương đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (12), tr.60-71.
94. Bích Thu (1996), “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học (9),
tr.32- 36.
95. Bích Thu (2001), “Văn xuôi của phái đẹp”, Tạp chí Sông Hương (145), tr.61-63.
96. Lý Hoài Thu tuyển chọn (2006), Phan Cự Đệtuyển tập (tập 3), NXB Giáo dục, Hà
Nội.
39
97. Lý Hoài Thu (2002), “Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ
đổi mới”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (1), tr.55-59.
98. Trần
Thục
(2013),
“Một
góc
nhìn
về
văn
xuôi
nữ”,
http://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/440093/phe-binh-van-nghe/mot-goc-
nhin-ve-van-xuoi-nu.html.
99. Đỗ Bích Thúy (2013), Đàn bà đẹp, NXB Văn học, Hà Nội.
100.
Hỏa Diệu Thúy (2011), “Chặng “khởi động” trong hành trình truyện ngắn Việt
Nam sau năm 1975”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (7), tr.103-110.
101.
Lê Hương Thủy (2006), “Điểm qua về sự vận động của truyện ngắn các cây bút
nữ”, Tạp chí Nhà văn (3), tr.64-71.
102.
Lê Thị Hương Thủy (2004), Truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kì đổi mới
(qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan), Luận
văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
103.
Lê Thị Hương Thủy (2006), “Truyện ngắn sau 1975- một số đổi mới về thi pháp”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học (11), tr.59-69.
104.
Lê Thị Hương Thủy (2013), Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (Nhìn từ góc
độ thể loại), Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
105.
Nguyễn Thị Như Trang (18-8-1990), “Thành tựu và đội ngũ các nhà văn nữ Việt
Nam”, Báo Văn nghệ (33), tr.15.
106.
Vũ Quỳnh Trang (thực hiện) (2008), “Nhà văn Võ Thị Hảo: Viết như nguyện
cầu”,
http://suckhoedoisong.vn/van-hoa-the-thao/nha-van-vo-thi-hao-viet-nhu-
nguyen-cau-2008627101751238.htm.
107.
Trần Lê Hoa Tranh (2010), Văn xuôi nữ Trung Quốc cuối thế kỷ XX- đầu thế kỷ
XXI, NXB Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
108.
Trường đại học Vinh, Khoa Ngữ văn (2012), Tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam
từ 1975 đến nay, NXB Đại học Vinh, Nghệ An.
109.
Lê Văn Tù ng (2007), “Tính năng đô ̣ng nghê ̣ thuâ ̣t củ a văn ho ̣c hiê ̣n đa ̣i Viê ̣t Nam
và một cách nhìn từ thể loa ̣i”, Tạp chí Nghiên cứ u văn học (5), tr.108-117.
110.
Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
40
111.
Nguyễn Ngọc Tư (2008), Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh.
112. Trần Thị Tươi (2008), “Từ cổ mẫu đến hệ hình tượng nhân vật gây ám ảnh trong
truyện ngắn Việt Nam đương đại”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
113. Nguyễn Tường (31-7-1999), “Những cây bút nữ trên văn đàn Pháp”, Báo Văn nghệ
(31), tr.11.
114. Hồ Khánh Vân (2012), “Bước đầu xác lập một số khái niệm trong phê bình văn học
nữ quyền”, http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=4299.
115. Hồ Khánh Vân (2013), “Một vài lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn
xuôi
của
các
tác
giả
nữ
Việt
Nam
từ
1990
đến
nay”,http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=7506.
116. Hồ Khánh Vân (2012), “Từ quan niệm về lối viết nữ (l’écriture féminine) đến việc
xác
lập một
phương
pháp
nghiên
cứu
trong
phê
bình
nữ
quyền”,http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=628.
117. Hồ Khánh Vân (2010), “Ý thứ c nữ quyền và sự phát triển bướ c đầu củ a văn ho ̣c nữ Nam Bô ̣ trong tiến trình hiê ̣n đa ̣i hóa văn ho ̣c dân tô ̣c đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứ u văn học (7), tr.81-94.
118. Nguyễn Vĩnh (3-2004), “Những quý bà giải nhất văn chương”, Báo Văn nghệ (32),
tr.14.
119. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2007), “Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học (1), tr.105-130.
120. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2013), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn
xuôi Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu), Luận án
tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
121. Đàm Ngọc Xuyến dịch (14-12-2002), “Các nữ sĩ châu Phi”, Báo Văn nghệ (50),
tr.12.
TIẾNG ANH
41
122. Dirk de Geest, Hendrik van Gorp (1999), “Literary Genres from a Systemic-
Functionalist Perspective”, European Journal of English Studies (1), pp.33-50.
42
43