Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………................1 1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………..1 2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………………..2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………………………....8 4. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………………….............8 5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………..8 6. Đóng góp của luận án……………………………………………………………….10 7. Kết cấu của luận án…………………………………………………………………11 CHƯƠNG 1: Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước từ góc nhìn thể loại và từ đặc điểm tư liệu, hệ thống truyện………………………………………………………………….12 1.1. Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước từ góc nhìn thể loại………………………………………………...12 1.1.1. Thể loại truyền thuyết…………………………………………………………..12 1.1.1.1. Khái niệm……………………………………………………………………..12 1.1.1.2. Phân loại truyền thuyết………………………………………………………..18 1.1.2. Thể loại giai thoại……………………………………………………………….19 1.1.2.1. Việc nghiên cứu về giai thoại…………………………………………………19 1.1.2.2. Về thuật ngữ giai thoại ……………………………………………………….21 1.1.2.3. Giai thoại là một thể loại văn học dân gian.......................................................21 1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử..27 1.1.3.1. Những điểm tương đồng……………………………………………………...27 1.1.3.2. Những điểm khác biệt………………………………………………………...28 1.2. Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước từ đặc điểm tư liệu. hệ thống truyện…………………………………31 1.2.1. Khái niệm Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước………………………………...............................31 1.2.2. Tình hình tư liệu………………………………………………………………...33 1.2.2.1. Nhóm tư liệu sử biên niên, địa chí thời kỳ nhà Nguyễn thế kỷ XVIII, XIX….34 1.2.2.2. Nhóm tư liệu biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa… thời kỳ trước 1975 đến nay.36 1.2.2.3. Nhóm tư liệu sưu tập truyện dân gian thời kỳ trước 1975 đến nay...................37 1.2.2.4. Những tư liệu không thuộc phạm vi đề tài........................................................39 1.2.3. Hệ thống truyện………………………………………………………………....41 1.2.3.1. Xác định nguồn tư liệu và tiêu chí sưu tầm, biên soạn……………………….41 1.2.3.2. Hệ thống hóa truyện kể…………………………………………………….....42 CHƯƠNG 2: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử là những nhân vật tiền hiền khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước………………………………..45 2.1. Khái quát hệ thống truyện………………………………………………………...45 2.2. Đặc điểm cấu tạo.....................................................................................................47 2.2.1. Mô hình cốt truyện...............................................................................................47 2.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện.........................................................48 2.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện……………………….......49 2.2.3.1. Truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chiến đấu chống động vật gây hại và chống thiên tai, dịch bệnh.............................................................................49

2.2.3.2. Truyền thuyết liên quan đến việc xây dựng công trình giúp đỡ cộng đồng......63 2.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………………………...............66 2.3.1. Sự phản ảnh một mặt tiến trình lịch sử Nam Bộ gắn với những nhân vật người anh hùng khai phá………………………………………………...............66 2.3.2. Ý nghĩa phản ánh đặc điểm của văn hóa mở đất..................................................68 CHƯƠNG 3: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những người anh hùng chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước….............................72 3.1. Khái quát hệ thống truyện………………………………………………………...72 3.2. Đặc điểm cấu tạo.....................................................................................................74 3.2.1. Mô hình cốt truyện...............................................................................................74 3.2.2. Những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện.......................................................75 3.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện...........................................77 3.2.3.1 Truyền thuyết về người anh hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước....................................................77 3.2.3.2. Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX........82 3.2.4. Nhận xét kết quả miêu tả....................................................................................111 3.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………….................................112 3.3.1. Sự phản ảnh một mặt tiến trình lịch sử Nam Bộ gắn với hình tượng người anh hùng chống ngoại xâm………………………..................................112 3.3.2. Một hiện tượng văn học dân gian độc đáo gắn với lịch sử................................114 CHƯƠNG 4: Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh.......………………………….116 4.1. Khái quát hệ thống truyện……………………………………………………….116 4.2. Đặc điểm cấu tạo...................................................................................................117 4.2.1. Mô hình cốt truyện.............................................................................................117 4.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện.......................................................118 4.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện..........................................119 4.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………….................................133 4.3.1. Sự thể hiện thái độ tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh…...133 4.3.2. Ý nghĩa văn hóa……………………………………………………………….136 4.3.3. Về vấn đề “Gia Long phục quốc” (khôi phục cơ đồ)………………………….137 CHƯƠNG 5: Giai thoại về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước............................................................................................................140 5.1. Khái quát hệ thống truyện……………………………………………………….140 5.2. Đặc điểm cấu tạo...................................................................................................142 5.2.1. Mô hình cốt truyện.............................................................................................142 5.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện………….......................................143 5.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện...........................................144 5.3. Giá trị nội dung của hệ thống truyện……………………….................................163 5.3.1. Sự ngợi ca những con người “dệt gấm thêu hoa”, xây dựng nên những biểu tượng văn hoá Nam Bộ……........................................................................163 5.3.2. Ý nghĩa sự đối kháng văn hoá............................................................................165 KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..167 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………........171 PHỤ LỤC…………………………………………………………………………….181

1

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Nam Bộ là vùng đất mới của Tổ quốc. Tuy mới chỉ được khai phá hơn ba thế kỷ, chưa có bề dầy thời gian như các vùng đất trung du Bắc Bộ hay vùng đất ven sông Hồng, sông Mã, nhưng với đặc điểm tự nhiên, con người, lịch sử..., Nam Bộ có truyền thống lịch sử, văn hóa riêng trên nền thống nhất của lịch sử, văn hóa dân tộc. Những cái tên như Gia Định, Đồng Nai, Rạch Gầm, Xoài Mút, Nhật Tảo, “Hào khí Đồng Nai”, “Nam Kỳ lục tỉnh”, v.v... đâu chỉ là địa danh, tên gọi bình thường, đó là mồ hôi, nước mắt, xương máu của cha ông ta trong hành trình “mang gươm đi mở cõi”, tiến về phương Nam khai khẩn, mở đất và giữ đất, viết tiếp những trang sử rạng ngời của một thời “khổ nhục nhưng vĩ đại” (chữ dùng của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng) của dân tộc. Theo đó, trên tiến trình lịch sử Nam Bộ từ buổi đầu hình thành đến cuối thế kỷ XIX đã nổi lên tên tuổi các nhân vật là những người có những đóng góp lớn lao đối với cộng đồng xã hội. Để lưu danh họ, bên cạnh những bộ sử biên niên, còn có một dòng chảy lịch sử khác của nhận thức và tình cảm nhân dân, đó là những truyện kể dân gian được sáng tác và lưu truyền qua bao thế hệ. Đây là hiện tượng văn học dân gian, văn hóa dân gian có giá trị, ý nghĩa to lớn, phản ánh sự nhận thức, tình cảm về lịch sử bằng cảm quan nghệ thuật dân gian của người dân Nam Bộ nói riêng, cả nước nói chung đối với con người và vùng đất thiêng liêng này. Đã có những công trình sưu tầm, nghiên cứu về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước. Tuy nhiên, Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước còn chưa được sưu tầm và nghiên cứu đầy đủ, do đó cần được sưu tầm, hệ thống hóa và đào sâu nghiên cứu thêm.

2. Tiếp cận với Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ tiếp tục tìm hiểu đặc trưng của truyền thuyết và đặc trưng của giai thoại và mối quan hệ, chuyển hóa lẫn nhau của hai đối tượng này trong thời kỳ cận đại và tại vùng đất Nam Bộ. Đây là thời kỳ tại Nam Bộ diễn ra rất nhiều sự kiện lịch sử nổi bật, trọng yếu của đất nước, dân tộc. Bên cạnh những truyền thống chung của cả nước, người dân Nam Bộ với những đặc điểm xã hội - văn hóa, tính cách riêng, trong hoàn cảnh lịch sử riêng, có cách tiếp cận riêng đối với những sự kiện, nhân vật lịch sử trên mảnh đất của mình. Và do đó, nghiên cứu đề tài này cũng góp phần làm sáng tỏ thêm bản chất thể loại của truyền thuyết và giai thoại, đồng thời tô đậm thêm đặc điểm địa phương của văn hóa dân gian Nam Bộ trên nền tảng thống nhất, đa dạng của văn hóa dân gian cả nước. Đề tài cũng cung cấp thêm minh chứng gián tiếp trả lời các câu hỏi: vì sao ở Việt Nam, thể loại truyền thuyết rất

2

phát triển, vì sao trong các thể loại văn học dân gian, truyền thuyết mang đậm tính địa phương hơn cả.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về thể loại

Thể loại truyền thuyết và giai thoại đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu

ở những phương diện, mức độ khác nhau.

Thuật ngữ truyền thuyết xuất hiện đầu tiên trong bài viết của Đào Duy Anh: “Những truyền thuyết đời thượng cổ nước ta” (Tạp chí Tri Tân số 30 ra ngày 7/1/1942). Việc nghiên cứu truyền thuyết thể hiện rõ nét hơn với những bước tiến mới từ những năm 1960 về sau, trong đó, nhiều công trình đặc biệt là các giáo trình đại học đã đi theo hướng tiếp cận truyền thuyết như là thể loại. Các tác giả của bộ Lịch sử văn học Việt Nam (xuất bản năm 1963) đã công nhận sự tồn tại của truyền thuyết với tư cách là một thể loại. Tuy nhiên, trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam - Văn học dân gian (1973), tác giả Đinh Gia Khánh không thừa nhận truyền thuyết như là một thể loại văn học dân gian mà xếp vào sử học. Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam của Lê Chí Quế (1999)..., cũng nghiên cứu truyền thuyết đặt trong hệ thống các thể loại. Chuyên khảo Truyền thuyết anh hùng trong loại hình tự sự dân gian (1971), trong đó có chuyên khảo Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến của Kiều Thu Hoạch được coi như là cái mốc chuyên khảo dày dặn đầu tiên cho việc nghiên cứu truyền thuyết như một thể loại văn học dân gian. Cũng phải kể tới công trình của Đỗ Bình Trị, Lê Trường Phát về thi pháp thể loại bao gồm truyền thuyết: Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian (1999), Thi pháp văn học dân gian (2000); hay Nguyễn Tấn Đắc, Truyện kể dân gian đọc bằng Type và Motif (2001), Hồ Quốc Hùng (biên soạn), Truyền thuyết Việt Nam & vấn đề thể loại (2003)… Ngoài ra có các bài viết tiêu biểu, như: Bùi Quang Thanh, Về một thể loại văn học dân gian, Tạp chí Văn học, số 4/1979, Tìm hiểu kết cấu dạng truyền thuyết anh hùng, Tạp chí Văn học, số 3/1981, Bùi Mạnh Nhị, Tiếp cận văn học dân gian địa phương từ đặc trưng của văn học dân gian, Tạp chí Văn học, số 3/1985; Trần Thị An: “Nghiên cứu truyền thuyết - những vấn đề đặt ra” Tạp chí Văn học, số 3/1994, “Suy nghĩ mới về bản chất thể loại truyền thuyết” Thông báo văn hóa dân gian, 2000… Tất cả các công trình trên, ở những mức độ khác nhau, đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu thể loại truyền thuyết. Nhìn chung, từ những quan niệm ban đầu chưa có sự nhất trí xem truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, đến nay giới nghiên cứu đã có những bước phát triển sâu rộng, khẳng định sự tồn

3

tại của thể loại truyền thuyết với những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật, hình thức tồn tại.

Các nghiên cứu về truyền thuyết ở những khía cạnh cụ thể khác nhau tiếp tục xuất hiện với hình thức bài báo hoặc luận án. Có thể kể đến các bài viết: Bước đầu tìm hiểu nguồn truyện kể địa danh Việt Nam, Nguyễn Bích Hà, Tạp chí Văn học, số 2/1986; hay Truyện kể địa danh từ góc nhìn thể loại, Trần Thị An, Tạp chí Văn học, số 3/1999, đưa ra những nhận xét mới trong việc nghiên cứu truyện kể địa danh ở cách tiếp cận thể loại… Hay các luận án tiến sĩ như: Những đặc trưng cơ bản của truyện dân gian vùng Thuận Hóa (1999), Hồ Quốc Hùng, Đặc trưng thể loại truyền thuyết và quá trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam (2002), Trần Thị An, Khảo sát truyện kể dân gian Khme Nam Bộ (qua thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích), Phạm Tiết Khánh (2007), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 - 1918), Võ Phúc Châu (2009), Đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đỗ Thị Hồng Hạnh (2013)...

Khác với thể loại truyền thuyết, do không thuộc vị trí của khung phân loại truyền thống nên việc nghiên cứu giai thoại đến nay chưa đầy đủ. Trong bài tiểu luận đầu sách Kho tàng giai thoại Việt Nam (1994), Vũ Ngọc Khánh nhận định: “Tuy vẫn luôn luôn được nhắc đến, kể đến với nhiều trân trọng, nhưng phải nói rằng giai thoại chưa được nghiên cứu bao nhiêu, và thật ra thì cũng chưa xác định vị trí cho rõ rệt lắm”. Đây cũng là tập tư liệu mở đầu, cùng với một số chuyên khảo khác đã đặt nền tảng quan trọng cho việc nghiên cứu thể loại giai thoại ở góc độ thể loại. Tiếp theo, cần kể tới các công trình, như: Khảo luận về giai thoại (trong Tổng tập Văn học dân gian người Việt, Kiều Thu Hoạch (2004), được bổ sung trong Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể loại (2006)) hay Giai thoại xứ Nghệ (trong Về văn học dân gian xứ Nghệ, Ninh Viết Giao (2004). Bên cạnh đó, có các bài viết như: Bước đầu phân biệt truyền thuyết và giai thoại, Võ Phúc Châu (2005), Giai thoại - một thể loại văn học dân gian, Nguyễn Bích Hà (2010).

Ngoài ra có thể kể đến các bộ tự điển với những định nghĩa, giới thuyết chung về thể loại truyền thuyết và giai thoại như: Từ điển văn học (1984), (Nhiều tác giả), Từ điển văn học (Bộ mới) (2004), Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học (2013), Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), hay chuyên khảo về type truyện dân gian bao gồm truyền thuyết và giai thoại: Từ điển Type truyện dân gian Việt Nam (2012), Nguyễn Thị Huế (chủ biên).

Về tư liệu nước ngoài, về các khái niệm, thuật ngữ, đặc trưng thể loại, chúng tôi tham khảo một số công trình nghiên cứu có tính tổng hợp, dịch thuật và giới thiệu, như:

4

Phônclo và thực tại của V.Ia.Propp, Chu Xuân Diên dịch; Mỹ học folklore, Hoàng Ngọc Hiến dịch (1998); “Chất dân gian của những người không phải dân chúng và chất phi dân gian của dân chúng” của Charles Seeger, trong Folklore thế giới - một số công trình nghiên cứu cơ bản, “Truyền thuyết” của Linda Dégh, trong Folklore một số thuật ngữ đương đại, Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (Đồng chủ biên) (2005); định nghĩa về giai thoại của từ điển Larousse trong Nguồn gốc văn minh nhân loại, M.Rohl (2008), Lê Thành biên dịch... cung cấp nhiều luận điểm có giá trị về lý thuyết thể loại; hay Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), với những khái niệm, tri thức văn hóa về biểu tượng mang ý nghĩa là ngữ liệu cho đề tài...

Còn có những quan niệm, nhận định của một số nhà nghiên cứu folklore thể giới về thể loại được ghi nhận từ các bài nghiên cứu hay giới thiệu sách sưu tầm, biên soạn, như: định nghĩa về truyền thuyết của nhà ngữ học Linda Dégh & A.Vizonyi trong bài viết “Nhận diện truyền thuyết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam” của Trần Thị An, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6 / 2006; nhận định liên quan đến giai thoại của P.Roland Barth: “Dẫn luận phân tích các cơ cấu truyện kể”, Tạp chí Communications (Giao Lưu, Paris) trong Giai thoại kẻ sĩ, Thái Doãn Hiểu (1996)...

2.2. Các công trình biên khảo, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa dân gian Nam Bộ

Nhóm tư liệu về lịch sử, văn hóa dân gian Nam Bộ có thể phân theo hai thời kỳ: Thời kỳ nhà Nguyễn Tiêu biểu có sách địa chí, lịch sử, như: Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, công trình nghiên cứu sâu rộng về vùng đất Gia Định xưa; Đại Nam nhất thống chí (phần Lục tỉnh Nam kỳ), Đại Nam thực lục (Quốc triều sử toát yếu là hình thức lược biên, rút gọn), Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn... Các công trình đã ghi nhận một số mẩu truyện kể về các nhân vật lịch sử Nam Bộ.

Từ đầu thế kỷ XX đến nay Giai đoạn trước năm 1975 có các công trình như: Nam Kỳ danh nhân, Đào Văn Hội (1943), nói đến thành phần võ tướng và văn nhân; Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1970), Đất Long Xuyên và công trình khai phá miền Hậu Giang, Đất Gia Định xưa, Bến Nghé xưa, Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa (1985)... của Sơn Nam, biên khảo về lịch sử khẩn hoang và phát triển vùng đất; hay Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển (1960), công trình khảo luận về lịch sử Sài Gòn… Rải rác trong các công trình, có một số mẩu truyện tương truyền về các nhân vật lịch sử.

Bên cạnh đó, có một số bài nghiên cứu liên quan các nhân vật lịch sử Nam Bộ trong Tập san Sử Địa, gồm: Nén hương hoài cổ Trương Định, Trương Bá Phát, Vài giai thoại có dính líu tới cụ Lãnh binh Trương Định, Lê Thọ Xuân, số 3, 1966; Phan

5

Thanh Giản dưới mắt người Pháp qua vài tài liệu, Nguyễn Thế Anh, số 7, 1967; hay chuyên khảo Kỷ niệm 100 Nguyễn Trung Trực số 12, 1968…

Sau năm 1975, về lịch sử, văn hóa, có các công trình nghiên cứu về đặc điểm vùng đất, con người, tiêu biểu như: Đình miếu và lễ hội dân gian, Sơn Nam (1994), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX Huỳnh Lứa, (2000), Nam Bộ đất và người Hội khoa học lịch sử TP. HCM (2005), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn Tạp chí Xưa & Nay (2009), Khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Phan Quang, Lê Hữu Phước (2001), Nguyễn Hữu Cảnh chân dung người mở cõi, Thanh Ba (2007)..; hay những công trình dưới hình thức hỏi đáp lịch sử như: Lịch sử Gia Định - Sài Gòn trước 1802, Cao Tự Thanh (2007), Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, Trương Định, Võ Duy Dương, Tủ sách lịch sử Việt Nam (2008); Bên cạnh đó, các tư liệu lịch sử địa phương như Nguyễn Trung Trực - thân thế và sự nghiệp, Bảo tàng Kiên Giang (1989), Những trang ghi chép về lịch sử – văn hóa Tiền Giang, Nguyễn Phúc Nghiệp (1998)... cũng có một số mẩu truyện kể về các nhân vật lịch sử.

Về lĩnh vực ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, có các công trình tiêu biểu như: Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ (1992), Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh, nghiên cứu các thiết chế văn hóa dân gian ở Nam Bộ; Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993), Vương Hồng Sển, giải thích địa danh theo phương pháp giải thích địa lý, ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống dân gian; Sổ tay hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên) (2003), ghi nhận hệ thống di tích văn hóa - tín ngưỡng vùng đất phương Nam; Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nguyễn Đăng Duy (1997), phác họa một mặt thiết yếu của đời sống người Nam Bộ, trong đó có mối quan hệ giữa truyền thuyết với tín ngưỡng; hay An Giang đôi nét văn hóa đặc trưng vùng đất bán sơn địa, Nguyễn Hữu Hiệp (2007); Văn hóa dân gian đảo Phú Quốc, Trương Thanh Hùng (2008); Nghiên cứu Hà Tiên, Trương Minh Đạt, (2008), nói đến lịch sử, văn hóa của vùng đất, đã ghi nhận một số mẩu truyện kể (như về Nguyễn Ánh, Mạc Tử Sanh, Nguyễn Trung Trực, Huỳnh Mẫn Đạt…)...

Nằm trong loại sách danh nhân Nam Bộ, có những tư liệu viết theo hình thức nhân vật chí, nghiên cứu, giới thiệu về con người, sự nghiệp, tác phẩm thơ văn, như: Theo dấu Bùi Hữu Nghĩa, Thái Văn Kiểm (1961), Những danh sĩ miền Nam, Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1990), Phan Văn Trị cuộc đời và tác phẩm, Nguyễn Khắc Thuần (1986), Bùi Hữu Nghĩa con người và tác phẩm, Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, Bảo Định Giang (2001)… Các công trình viết về cuộc đời và sự nghiệp của các danh nhân văn hoá miền Nam từ lúc hình thành vùng đất Đàng Trong thế kỷ XVII đến khi thực dân Pháp đặt ách thống trị.

6

2.3. Các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian, truyền thuyết và giai thoại dân gian Nam Bộ

Từ đầu thế kỷ XX đến trước 1975 đã có những công trình sưu tập, nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ. Bộ phận truyện dân gian Nam Bộ nói chung được nghiên cứu không nhiều, chủ yếu là sưu tầm, rải rác có một vài bài viết hoặc giới thiệu sơ lược. Từ sau 1975, trong điều kiện đất nước thống nhất, việc giới thiệu, nghiên cứu văn học dân gian ở Nam Bộ nói riêng đã có những bước phát triển mới.

Nhóm tư liệu sưu tầm, ghi chép Đến nay, công tác sưu tầm văn học dân gian Nam Bộ nói chung đã đạt được những thành tựu khả quan. Tư liệu sưu tầm, ghi chép nguồn truyện dân gian về nhân vật lịch sử Nam Bộ nói riêng khá phong phú, bao gồm các nhóm: thư tịch sách Quốc sử quán triều Nguyễn, sách biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa Nam Bộ, địa phương chí và sách sưu tầm, biên soạn văn học dân gian Nam Bộ.

Nhóm tư liệu nghiên cứu Về nghiên cứu lý luận, có các bài viết tiêu biểu như: Tiếp cận văn học dân gian địa phương từ đặc trưng của văn học dân gian, Bùi Mạnh Nhị, Tạp chí Văn học, số 3/1985: nêu những định hướng trong nghiên cứu văn học dân gian địa phương, nhấn mạnh sự phát triển mạnh của thể loại truyền thuyết ở giai đoạn cận đại gắn với những nét đặc thù của tiến trình lịch sử Nam Bộ; hay Đặc trưng truyện dân gian người Việt ở Nam Bộ trong Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nguyễn Phương Thảo (1997), đề cập nét đặc trưng của truyện dân gian Nam Bộ, bao gồm truyện về các nhân vật lịch sử và văn hóa.

Bên cạnh đó, trong lời dẫn ở một số sách sưu tập, có phần giới thiệu hoặc tiểu luận tổng quan về truyện dân gian bao gồm truyền thuyết và giai thoại Nam Bộ, như: Truyện dân gian Đồng bằng sông Cửu Long, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Cần Thơ (1994), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh của Huỳnh Ngọc Trảng (1998)...

Ngoài ra, có nhóm bài viết Kỷ yếu hội thảo về nhân vật lịch sử Nam Bộ, như Kỷ yếu Hội thảo khoa học về nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị (1985), Kỷ yếu Hội thảo khoa học về Nhà thơ - Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1987), Kỷ yếu Hội thảo Thân thế và sự nghiệp của Chưởng cơ - Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1993), Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX (2008)...

Về nghiên cứu chuyên sâu, có hai luận án đi trước có liên hệ về phạm vi đề tài. Ở Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 - 1918) của Võ Phúc Châu (2009), tác giả đã hệ thống hóa truyền thuyết dân gian về

7

những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ; khảo sát các nhóm truyền thuyết; những motif, nhóm motif phổ biến; nêu những chứng tích văn hóa liên quan tới các truyện kể... Công trình dày dặn này đã thống kê, miêu tả khá hệ thống các tình tiết, môtíp, là cơ sở để chúng tôi tham khảo, tiếp tục hệ thóng hóa và miêu tả các tình tiết, môtíp của nhóm truyền thuyết về người anh hùng chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, bên cạnh đó, ghi nhận phần phụ lục truyện kể của công trình như một tư liệu sưu tầm, biên soạn. Ở Đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đỗ Thị Hồng Hạnh (2013), tác giả đã xác lập cơ sở hình thành đặc trưng và một số tiêu chí để nhận diện, phân loại thể loại truyện kể; khảo sát đặc điểm tư liệu, trình bày đặc trưng cấu tạo truyền thuyết địa danh; đặc trưng cấu tạo truyền thuyết về một số nhân vật. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu luận án của chúng tôi có phần khác và rộng hơn so với hai luận án đã kể trên, cách tiếp cận và nhiệm vụ nghiên cứu của chúng tôi cũng có những điểm khác (sẽ trình bày ở các chương sau).

Liên quan tới lịch sử vấn đề, tới các mảng tư liệu dùng để so sánh, có thể kể đến các bài viết như: Về mấy khuynh hướng sai lầm ở các đô thị miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 về nghiên cứu văn học dân gian, Nguyễn Quang Vinh, Tạp chí Văn học, số 4 / 1977, Các hình thức tương tác cơ bản giữa văn học dân gian và văn học viết, Trần Đức Ngôn, Tạp chí Văn học, 2004, Các mảng truyện kể dân gian về cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám lưu truyền trên đất Yên Thế, Nguyễn Đình Bưu, Tạp chí Văn học số 1 / 1975, Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất mới, Hồ Quốc Hùng, Tạp chí Văn học, số 4 / 1998, hay sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Nguyễn Liên Phong (1909)...

Điểm qua các tư liệu, có thể thấy các công trình chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về lịch sử, văn hóa Nam Bộ và cung cấp những tư liệu sưu tầm về văn học dân gian. Với các công trình có liên hệ về phạm vi đề tài đã nêu, đây là những thành quả đáng trân trọng, giúp ích cho việc đào sâu, phát triển thêm vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, trong việc tập hợp, hệ thống mảng truyền thuyết Nam Bộ nói chung, chúng tôi sẽ chú trọng nhiều hơn việc phân biệt văn bản ghi chép lịch sử và truyện kể dân gian, đồng thời bổ sung thêm nguồn tư liệu truyện kể. Luận án của chúng tôi cũng sẽ tập trung vào những vấn đề cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu, như mối quan hệ giữa truyền thuyết và giai thoại hay việc xác lập giai thoại với tư cách là một thể loại văn học dân gian, diện mạo, những nét đặc thù của truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ, yếu tố truyền thống và sáng tạo, xu hướng xâm nhập lẫn nhau giữa truyền thuyết và giai thoại thời kỳ cận đại.

8

Đây cũng là yêu cầu đặt ra cho đề tài, nhằm góp phần khẳng định những sắc thái

độc đáo của loại hình tự sự dân gian Nam Bộ.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Truyền thuyết và giai thoại về nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX là đối tượng nghiên cứu chính của luận án. Các phương diện lịch sử, đời sống văn hóa, xã hội của cộng đồng cư dân Nam Bộ trong mối quan hệ với thể loại truyền thuyết và giai thoại cũng được xem là đối tượng nghiên cứu hữu quan.

Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các tư liệu văn bản trong các công trình sưu tập, biên soạn truyện dân gian và mở rộng ở các công trình lịch sử, địa chí triều Nguyễn, công trình biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa Nam Bộ... có ghi chép truyện kể đã được hệ thống hóa. Các truyện kể cùng nội dung, chủ đề trong truyện kể dân gian các vùng miền khác, tùy theo mục đích từng phần của nội dung luận án, được dùng để so sánh, liên hệ, để làm nổi bật đối tượng nghiên cứu.

4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Luận án hướng tới những mục tiêu chính như sau: Trên cơ sở lý thuyết thể loại, xác lập các tiêu chí chọn lọc tư liệu, luận án đã hệ thống các văn bản, các nhóm truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX. Đồng thời, luận án phác họa diện mạo, phân tích đặc trưng nghệ thuật, ý nghĩa và giá trị các truyền thuyết và giai thoại này trong hệ thống truyện dân gian Nam Bộ nói riêng, truyện dân gian Việt Nam nói chung; bước đầu xác lập mối quan hệ tương tác thể loại giữa truyền thuyết và giai thoại, sự vận động của các thể loại này trong sự phát triển của chúng ở thời cận đại.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thực hiện mục tiêu đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp hệ thống: Phương pháp này tạo cơ sở cho việc đánh giá, xác lập tiêu chí chọn lọc văn bản và hệ thống nguồn tư liệu, nguồn truyện, giúp tìm hiểu quy luật vận động của các thể loại.

Phương pháp thống kê, miêu tả: Thống kê các nhóm truyện, miêu tả kết cấu, nội dung, các môtíp trong các nhóm truyện làm cơ sở khái quát các luận điểm theo thể loại và các tiểu loại, phân tích các giá trị dựa trên những tiêu chí, số liệu cụ thể.

Phương pháp phân tích, so sánh: Phân tích truyện kể theo chủ đề, nội dung, các môtíp theo đặc trưng thể loại. So sánh, đối chiếu văn bản truyện, phân loại các nhóm tư liệu, so sánh liên hệ với các nhóm truyện ở các vùng miền.

Phương pháp liên ngành: Luận án sử dụng phương pháp này để tìm hiểu một số phương diện văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng, tôn giáo... làm cơ sở để phân tích các nhóm

9

truyện, mối quan hệ của truyền thuyết và giai thoại lịch sử với lịch sử vùng đất và với văn hóa, văn học dân gian Nam Bộ.

Những khái niệm công cụ

Chúng tôi xin giới thuyết một số khái niệm công cụ được sử dụng trong luận án,

bao gồm: đề tài, cốt truyện, đề tài - cốt truyện, tình tiết, môtíp (motif) và típ (type).

Đề tài là phạm vi hiện thực của đời sống khách quan mà tác phẩm đề cập. Cốt truyện theo Từ điển thuật ngữ văn học là “Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thái động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [52,99].

Khái niệm đề tài - cốt truyện dùng chỉ đề tài gắn liền với cốt truyện, tức một phạm vi giới hạn của đời sống khách quan được hướng đến, được xây dựng trong một hình thức tổ chức hệ thống sự kiện nhất định. Tùy theo sự đa dạng, phong phú của tác phẩm, quy mô nhóm đề tài - cốt truyện sẽ mở rộng.

Sự hiện thực hoá đề tài, cốt truyện được biểu hiện ở hệ thống tình tiết, môtíp,

đóng vai trò kiến tạo cốt truyện.

Tình tiết của truyền thuyết được rút ra, xây dựng từ những sự kiện thực tế, mang ý nghĩa thể hiện diễn tiến của cốt truyện. Sự xuất hiện lặp lại, có tính ổn định, tiêu biểu về mặt ý nghĩa nhất định của một hoặc một số tình tiết có thể tạo lập nên các môtíp. Đây là những đơn vị, thành tố nghệ thuật nhỏ nhất hàm chứa những quan niệm cụ thể về sự kiện hiện thực đã được “mã hóa”.

S.Thompson đã định nghĩa: “Mô típ là yếu tố nhỏ nhất của truyện kể dân gian, có khả năng lưu truyền một cách bền vững. Để có được khả năng này mô típ phải là một cái gì đó khác thường và gây ấn tượng” [60,13]. Định nghĩa này giới thuyết về cấu tạo, sự vận động và dấu hiệu đặc trưng của môtíp với vai trò là một đơn vị cấu trúc của truyện dân gian.

Nguyễn Tấn Đắc tóm lược và nhấn mạnh đặc trưng đơn vị môtíp của tác phẩm văn học dân gian: “Motif là những phần tử đơn vị vừa mang tính đặc trưng vừa mang tính bền vững của tác phẩm văn học dân gian” [37,11]. Chu Xuân Diên nói đến vai trò cốt yếu cụ thể của môtíp: thuật ngữ môtíp dùng chỉ “những yếu tố đơn giản nhất có ý nghĩa trong cấu tạo đề tài, cốt truyện của tác phẩm nghệ thuật” [143,465]. Đối với các thể loại tự sự của văn học dân gian, thuật ngữ này đươc hiểu theo nghĩa là “hạt nhân của cốt truyện”, là “công thức truyền thống” từ đó cốt truyện được triển khai hoặc như “yếu tố hợp thành” của cốt truyện. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: mô típ là “những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và

10

được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian” [52,197].

Nhóm tác giả Từ điển type truyện dân gian Việt Nam đã diễn giải về môtíp trong mối liên hệ với cấu trúc cốt truyện và típ (kiểu) truyện như sau: “Motif truyện kể thực chất là một khái niệm đơn giản, hay gặp trong truyện kể truyền thống, nó có thể là một đoạn kể ngắn, lặp đi lặp lại và có thể có tính chất khác thường, làm cho người ta nhớ hoặc nó có dấu hiệu đặc biệt... Sự lắp ghép của các motif một cách logíc sẽ tạo nên các cốt truyện, nhiều cốt truyện có những motif tương tự nhau sẽ tạo nên những type” [79,21].

Các định nghĩa, diễn giải nêu trên về môtíp là những cách hiểu mà chúng tôi thấy đúng và phù hợp. Chúng tôi thống nhất với quan niệm của tác giả Chu Xuân Diên về môtíp: là những yếu tố đơn giản nhất có ý nghĩa trong cấu tạo đề tài, cốt truyện, là hạt nhân của cốt truyện, là công thức truyền thống cho sự triển khai cốt truyện hoặc như yếu tố hợp thành của cốt truyện. Đồng thời, khi vận dụng khái niệm này, chúng tôi cũng chú ý những nội dung khác của khái niệm môtíp như: tính lặp lại, tính chất độc đáo của các chi tiết trong các văn bản tác phẩm hay sự hàm chứa một quan niệm về nhân sinh.

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

Luận án đã có những đóng góp sau: - Trên cơ sở tiếp cận cơ sở lý thuyết về thể loại, luận án đã khái quát những đặc điểm của truyền thuyết và giai thoại, tiếp tục so sánh truyền thuyết và giai thoại folklore, đồng thời chỉ ra sự gần gũi, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của các thể loại này.

- Luận án trình bày tổng quan được bức tranh vừa khái quát, vừa cụ thể tình hình sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước; tiếp cận những khía cạnh cụ thể của vấn đề văn bản hóa truyện dân gian, bổ sung một số tư liệu sưu tầm mới về văn bản và mối quan hệ của văn bản với các chứng tích văn hóa có liên quan.

- Luận án đã tập hợp, sưu tầm, thống kê, phân loại, hệ thống hóa 220 truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, thời kỳ mà tại Nam Bộ diễn ra rất nhiều sự kiện lịch sử nổi bật, trọng yếu của đất nước, dân tộc.

- Theo hướng tiếp cận thể loại, luận án đã khảo sát, miêu tả và xác định đặc trưng nghệ thuật và đặc trưng giá trị của hệ thống truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, chỉ ra đặc trưng mối quan hệ

11

của các yếu tố điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội và sự hình thành, phát triển của hệ thống truyện dân gian Nam Bộ.

- Kết quả nghiên cứu và nguồn truyện sưu tầm của luận án góp phần vào việc nghiên cứu văn hóa, lịch sử địa phương, đồng thời, góp phần lưu giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa phi vật thể của Nam Bộ.

7. KẾT CẤU LUẬN ÁN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, luận án có 5 chương: Chương 1: Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối

thế kỷ XIX trở về trước từ góc nhìn thể loại và từ đặc điểm tư liệu, hệ thống truyện

Chương 2: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những nhân vật

tiền hiền khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước

Chương 3: Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những người anh

hùng chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước Chương 4: Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh Chương 5: Giai thoại về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX

trở về trước.

12

CHƯƠNG 1

TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI VÀ TỪ ĐẶC ĐIỂM TƯ LIỆU, HỆ THỐNG TRUYỆN 1.1. TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI

Nghiên cứu văn học dân gian trên bình diện thể loại là nhiệm vụ rất cần thiết, vì như nhà nghiên cứu Bùi Mạnh Nhị đã nhận xét, “Trên thực tế không có văn học dân gian như là một lĩnh vực đơn nhất mà chỉ có văn học dân gian tồn tại trong những thể loại, với những tác phẩm cụ thể” [136,120]. Việc nghiên cứu, miêu tả đặc trưng thể loại đóng vai trò thiết yếu cho việc tìm hiểu những sáng tác thuộc thể loại.

1.1.1. Thể loại truyền thuyết 1.1.1.1. Khái niệm

Khái niệm và đặc trưng của truyền thuyết đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến. Do đó, chúng tôi chỉ khái quát, hệ thống lại những điểm cơ bản, làm cơ sở cho việc khảo sát đối tượng nghiên cứu của luận án.

Theo lối định nghĩa duy danh, truyền thuyết được hiểu là những điều được truyền lại từ đời trước bằng miệng qua các thế hệ, vì vậy, những “lời truyền thuyết” này bao hàm ý nghĩa là những sự việc thực hư chưa rõ, chưa có chứng cứ tin cậy. Hay truyền thuyết là thuyết, giả thuyết được truyền, theo đó, truyền thuyết là những lời truyền tụng trong dân gian về sự việc, sự kiện nào đó nhưng chưa bảo đảm là thực.

Ở Trung Quốc, danh từ truyền thuyết thường được dùng cùng “truyền văn” hay “truyền ngoa” (có cụm từ dĩ ngoa truyền ngoa), chỉ sự việc không phải là điều tai nghe, mắt thấy hay chuyện hoang đường, nó bao hàm ý nghĩa là điều không có thật, được lưu truyền lan rộng.

Ở một số nước phương Tây như Anh, Mỹ hay Pháp, khái niệm truyền thuyết được thể hiện trong từ legend (hay la légende) (xuất hiện trong ngôn ngữ Anh năm 1340), có gốc từ từ La tinh lagère (đọc) để chỉ một đoạn tài liệu đọc, về sau có nghĩa liên quan thông tin không chính xác, hay một câu chuyện không chắc có thực. Các nhà nghiên cứu cũng nói đến cách hiểu về giới hạn cụ thể của thuật ngữ. Tiếng Nga có hai thuật ngữ chỉ thể loại truyền thuyết: predanhie để chỉ truyền thuyết về các sự kiện và nhân vật có thật; legenda thì chỉ nhóm truyền thuyết huyền thoại, trong đó bao hàm cả truyền thuyết hoặc được dùng chỉ một bộ phận huyền thoại, tức là những truyện có yếu tố hoang đường, quái đản. Ở một số nước châu Âu, có sự phân biệt giữa thuật ngữ

13

légende và tradition, đều có nghĩa là lời truyền tụng, lời tục truyền nhưng có sự phân biệt giữa nhân vật lịch sử linh thiêng (thuộc tôn giáo) và lịch sử trần thế.

Ở góc độ thể loại, với ý nghĩa là một thuật ngữ khoa học, truyền thuyết có nội hàm rộng hơn. Giai đoạn thế kỷ XIX đến những thập niên đầu XX, trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu chuyên về truyền thuyết trên bình diện thể loại. Thuật ngữ khoa học truyền thuyết học được hình thành cho thấy tính chất quan trọng và rộng lớn của khoa học nghiên cứu truyền thuyết. Đây được coi là thể loại có tính đặc thù trong loại hình văn xuôi tự sự dân gian. Trong những quan niệm có tính bao quát về truyền thuyết, niềm tin vào những điều được kể, về tính có lý của nó là dấu hiệu quan trọng bản chất của thể loại truyền thuyết, khác với truyện cổ tích, nói theo Propp là “thế giới của những điều tưởng tượng, không thể xảy ra được” [158,36].

M.Rohl, nhà nghiên cứu khoa học xã hội Anh khi định nghĩa về truyền thuyết, đã chú trọng diễn giải vấn đề niềm tin: “Trong cốt lõi của nó có một niềm tin cơ bản ở phía người kể chuyện, cho rằng các sự việc được mô tả là điều có thật” [170,7].

L.Dégh, nhà folklore Hungary, cũng nói về niềm tin đặt vào truyền thuyết: “Cốt

lõi của truyền thuyết thực tế là một đức tin” [26,322].

L.Dégh & A.Vizonyi thống nhất quan điểm về vấn đề niềm tin có tính cốt yếu trong truyền thuyết: “Niềm tin là một vấn đề có tính nguyên tắc của truyền thuyết (…). Những khía cạnh phong phú của niềm tin về những điều có thực hay tưởng tượng được trình bày trong truyền thuyết là chiếc chìa khóa để các nhà nghiên cứu hiểu được thể loại này” [4,54].

F.Ranke, nhà nghiên cứu folklore Đức, nhấn mạnh tinh thần của niềm tin được tạo lập trong truyền thuyết: “Truyền thuyết trong bản chất của nó đòi hỏi một niềm tin ở người kể cũng như người nghe, rằng nó liên quan tới sự thực, rằng nó đã từng xảy ra” [4,54].

Ở Việt Nam, nhiều nhà chính trị, văn hóa, nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan

niệm về truyền thuyết.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhà chính trị, văn hóa lớn, đã nêu một ý kiến rất xác đáng về truyền thuyết: “Những truyền thuyết dân gian thường có cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gấm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời đời con người ưa thích” (Nhân ngày Giỗ Tổ vua Hùng, báo Nhân dân, 29.4.1969).

Kiều Thu Hoạch xác định: “Truyền thuyết là một thể loại chuyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện

14

tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ…”[72,18].

Lê Chí Quế định nghĩa: “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa hay nhân vật tôn giáo thông qua sự hư cấu thần kỳ” [163,49].

Cùng hướng đến chiều sâu ý nghĩa, giá trị tư tưởng của truyền thuyết, Bùi Quang Thanh kiến giải về những đặc trưng nghệ thuật thể loại: “Với sự tưởng tượng “thơ và mộng”, với “tâm tình thiết tha” của mình, nhân dân đã phủ lên những “cái lõi sự thật lịch sử” ấy những yếu tố hư ảo, thần kỳ, những nét khoa trương, phóng đại (…). Phải chăng có sử dụng những biệp pháp nghệ thuật như vậy, các tác giả dân gian mới thỏa mãn được lòng kính trong, được gửi gấm tình yêu thương mãnh liệt đối với quê hương đất nước, với những vị anh hùng của dân tộc?” [190,126].

Có thể thấy, quan niệm của M.Rohl, L.Dégh, F.Ranke... về truyền thuyết nhấn mạnh vấn đề niềm tin (về “những điều có thực hay tưởng tượng”), tức yếu tố thái độ tinh thần được đặt ở bình diện thứ nhất. Quan niệm của các nhà văn hoá, nhà nghiên cứu khác chú trọng đặc trưng “sự tưởng tượng”, “ thơ và mộng”, “sự hư cấu thần kỳ”..., là những yếu tố nghệ thuật xây dựng nên giá trị tư tưởng của thể loại, vấn đề niềm tin nằm trong “mạch ngầm” của tư tưởng, tình cảm.

Tựu trung, có thể rút ra định nghĩa về truyền thuyết xác lập trên các phương diện loại hình, đặc điểm nội dung, nghệ thuật và thái độ nhận thức như sau: truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian, phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, gắn với sự tưởng tượng và hư cấu thần kỳ, thể hiện cảm quan, sự đánh giá của nhân dân về lịch sử.

Về đặc điểm thể loại, các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh cái cốt lõi trước hết và trung tâm nhất của truyền thuyết là tính lịch sử. Sự khác biệt có tính cốt lõi của truyền thuyết so với các thể loại thần thoại và truyện cổ tích đã được Chu Xuân Diên khái quát: “Đặc điểm chủ yếu phân biệt truyền thuyết với các thể loại thần thoại và truyện cổ tích là trong truyền thuyết bao giờ cũng giữ lại được những nét chính yếu của những sự kiện và con người có thực, làm thành cái lõi cốt hiện thực lịch sử - cụ thể cho trí tưởng tượng nghệ thuật của nhân dân” [143,78]. Đã là truyền thuyết thì phải mang yếu tố lịch sử. Trong sự sáng tạo của truyền thuyết, lịch sử là yếu tố làm nên đặc tính thể loại, từ cảm hứng nghệ thuật, xu hướng lịch sử hóa, nội dung thể hiện. Trên tổng thể, truyền thuyết dân gian là “một dòng tự sự lịch sử độc đáo” [190,131], đã trình bày một cách đầy đủ bức tranh sinh động về lịch sử dân tộc hay địa phương. Đây là một

15

dạng thức “nghìn năm bia miệng”, là hình thức nhận thức lịch sử của nhân dân qua các thời đại như một dòng chảy lịch sử không vơi cạn. Song, yếu tố lịch sử trong truyền thuyết không phải là lịch sử đơn thuần mà gắn với sự kỳ ảo hóa (đồng thời là xu hướng khẳng định là sự thật những điều kỳ ảo) và đây chính là con đường của sáng tạo nghệ thuật. Bùi Mạnh Nhị nhận định: “Cái lõi sự thật lịch sử trong các truyền thuyết chỉ là cái nền, cái “phông” cho các tác phẩm, vì đã được nhào nặn lại, được kỳ ảo hóa để khái quát, lý tưởng các sự kiện, nhân vật, nhằm tăng “chất thơ” cho các câu chuyện” [140] .

Mối liên hệ đặc biệt giữa truyền thuyết và lịch sử cũng đã được đề cập ngay trong bài Tựa sách Lĩnh Nam chích quái thế kỷ XV, một trong những tập truyện đầu tiên được hình thành từ sự “góp nhặt và sàng lọc” các truyện kể dân gian của các học giả thời phong kiến: “Những truyện chép ở đây là sử ở trong truyện chăng?… Sử là thực và truyện là hư. Sử nằm trong truyện, truyện xen vào sử” [169,18].

Do tính chất gắn bó chặt chẽ với lịch sử của truyền thuyết, đã có ý kiến coi truyền thuyết là dã sử hay sử dân gian, tức là một bộ phận của lịch sử thời kỳ cổ sơ và là lịch sử truyền miệng (bên cạnh loại sử chính thống, tồn tại trên văn tự); vì vậy không coi truyền thuyết là một khái niệm thuộc phạm trù văn hóa dân gian.

Quan niệm đồng nhất hay nhầm lẫn giữa truyền thuyết và lịch sử không chỉ do sự gắn bó với lịch sử của truyền thuyết mà còn do điều kiện khách quan là có khoảng thời gian dài, nhiều cộng đồng, dân tộc chưa có sử thành văn, nên những câu chuyện về lịch sử của truyền thuyết đã trở thành nguồn sử liệu chính cho đời sau. Đây cũng là hiện tượng phổ biến mọi nước, khi chưa có chữ viết, lịch sử dân tộc thường được kể mở đầu bằng truyền thuyết như một sự thay thế, bổ khuyết cho lịch sử. Sau này những truyền thuyết đó được ghi chép lại.

Về quan hệ giữa lịch sử và văn học dân gian, có thể nhắc đến nhận xét của M.Gorki: “Từ thời viễn cổ, văn học dân gian luôn luôn là người đồng hành khăng khít và đặc thù của lịch sử”.

Sự “đặc thù” đó liên quan đến bản chất sáng tạo nghệ thuật của văn học dân gian, nói cách khác, tính chất sử được phản ánh một cách đặc thù trong văn học dân gian. Cách truyền thuyết và sử tiếp cận lịch sử khác nhau. Cách tiếp cận của sử chính là sự chính xác, khách quan về sự kiện, con người, còn truyền thuyết, tiếp cận theo đặc thù nghệ thuật. Khi phản ánh thực tại, truyền thuyết hướng về những vấn đề của lịch sử nhưng gắn với những sáng tạo nghệ thuật, theo hướng lý tưởng hóa. Propp đã nhận định về truyền thuyết: “Nhân dân đã tự do phát huy trí tưởng tượng lịch sử và hư cấu nghệ thuật” [157]. Theo đó, những sự kiện của đời sống thực được đưa vào tác phẩm

16

không phải là mục đích cuối cùng mà là chất liệu thực tế để tạo nên tư tưởng hình ảnh, chi tiết nghệ thuật, từ đó nhằm nêu lên những vấn đề có ý nghĩa của đời sống văn hóa tinh thần cộng đồng. Ví dụ, từ những mũi tên đồng tìm thấy ở di tích Cổ Loa đến hình tượng nỏ thần, có một khoảng cách vừa thực vừa rất mơ hồ của sự khái quát hoá, kỳ ảo hóa, để hướng đến sự thể hiện giá trị tinh thần lớn lao về sức mạnh, trí tuệ, trình độ sản xuất, sự vun bồi khí lực trong bài học giữ nước của dân tộc. Đây chính là lối kỳ ảo hóa lịch sử của truyền thuyết. Ở đây thực tại đã được thiêng hóa để gửi gấm vào đó những giá trị tư tưởng, thẩm mỹ và qua đó đã nâng tầm vóc của sự kiện, nhân vật lịch sử ở mức độ cao nhất.

Do đó, trong nghiên cứu truyền thuyết, nếu chỉ đi tìm những chi tiết lịch sử có thực thì chưa bao quát đầy đủ đặc trưng thể loại. Trần Thị An nhận định: “Hướng nghiên cứu này đã làm nghèo nàn truyền thuyết dân gian, chỉ đơn giản tìm trong truyền thuyết dân gian những chi tiết chính xác của lịch sử” [3,66].

Ở một góc nhìn khác, như Hồ Quốc Hùng nhận xét, truyền thuyết là “ký ức cộng đồng về quá khứ” [83,10]. Truyền thuyết nói về quá khứ, lịch sử được phản ánh trong truyền thuyết không phải là lịch sử chính xác ở những thời điểm cụ thể mà thông qua sự cảm nhận, nhận thức về lịch sử (bởi tính cố định, cụ thể trong sự hư cấu lịch sử sẽ không đồng nghĩa với tính xác thực mà “chủ yếu ở bản chất, ở cái cốt lõi của lịch sử” [72,17]. Đó là lịch sử trong chiều sâu, cái tồn lưu trong ký ức như một “mạch ngầm” của tinh thần, tình cảm, gắn liền với cảm hứng ngợi ca, tôn vinh. Đây là nét đặc thù của thể loại. Chính cảm hứng ngợi ca, tự hào về lịch sử mà qua những truyền thuyết dân gian về thời Bắc thuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Phùng Hưng…, các nhân vật đã trở thành những biểu tượng của tinh thần kiên cường, bất khuất của dân tộc như những ký ức lịch sử sâu đậm về quá khứ. Đây là dòng chảy lịch sử ở chiều sâu, thể hiện chất nhân văn của con người hướng về dân tộc, đất nước. Đỗ Bình Trị nhận định về ý nghĩa sâu sắc của truyền thuyết cổ xưa: “Những truyền thuyết thời cổ như những truyền thuyết về thời các vua Hùng, thường có nghịch lý: “lịch sử” trong đó thường lung linh, mờ ảo trong bao lớp sương mù của thời gian và nhiều điều huyễn hoặc của tư duy thần thoại, nhưng niềm tin vào “sự thật lịch sử” có lẽ còn mãnh liệt hơn so với những truyền thuyết đời sau” [209,88].

Mặt khác, truyền thuyết phản ánh lịch sử theo những cách thức riêng, có sự chọn lựa và sáng tạo. Truyền thuyết có sự chọn lựa những yếu tố lịch sử, nhằm thể hiện trong chiều sâu cái cốt lõi tinh thần những giá trị liên quan các quá trình lịch sử. Cho nên không phải bất kỳ sự kiện, nhân vật nào cũng có truyện kể nhưng tinh thần, xu thế của từng thời kỳ lịch sử lại được thể hiện sâu sắc trong truyền thuyết dân gian: “Nhân

17

dân đã thể hiện trong đó thái độ của mình đối với các biến cố, các nhân vật lịch sử và các tình huống lịch sử, đã thể hiện trong đó ý thức lịch sử của mình” [157].

Tính chất chắt lọc tinh thần các thời đại lịch sử của truyền thuyết đưa đến đặc điểm có tính đặc thù về thể loại. Hồ Quốc Hùng nhận định:“mỗi truyền thuyết dường như trở thành biểu tượng cho một giai đoạn, thời đại lịch sử nhất định” [83,22]. Như một mạch nguồn tự nhiên, từ thời Hùng Vương buổi bình minh của công cuộc dựng và giữ nước đến thời kỳ chống Pháp đau thương mà hào hùng, lịch sử dân tộc như chưa bao giờ gián đoạn trong những ký ức của cộng đồng về quá khứ. Những sự kiện và tinh thần đó không chờ ghi chép từ những bộ sử biên niên mới có mà vốn đã sống trong ký ức nhân dân như những giá trị tinh thần quý báu không mất đi theo thời gian. Sự chọn lựa còn thể hiện ở cái cụ thể, là chiều sâu tâm lý, tình cảm, gắn với “chất tâm tình”. Những sự kiện, nhân vật đi vào truyền thuyết phải là những tâm điểm được đánh giá cao, tập trung sự chú ý của nhân dân. Nhân vật là những đối tượng gần gũi, trải nhiều thế hệ luôn được ghi nhớ trong niềm cảm phục, sự tri ân, lại được lưu dấu trên những chứng tích địa danh, văn hóa như những vết khắc không phai mờ qua năm tháng.

Đặc điểm tiếp theo là tính kết chuỗi của các tác phẩm thành hệ thống truyện xoay quanh các nhân vật hay sự kiện. Đặc điểm này có nét đặc thù ở truyền thuyết. Không tác phẩm truyền thuyết nào tồn tại đơn lẻ. Tính kết chuỗi thể hiện trước hết ở hiện tượng các nhân vật gắn với những hệ thống truyện kể nhất định. Mức độ hệ thống ấy tồn tại ở một vùng miền, địa phương hoặc ở những phạm vi liên vùng. Trong đó, các truyện kể được phát sinh và lưu truyền ở nơi có dấu tích hoạt động của nhân vật hoặc lan xa theo tầm vóc sự kiện, tầm vóc công tích của nhân vật. Tính kết chuỗi ấy, xét về mặt tư tưởng, như các nhà nghiên cứu nhận định, thường “có chung những tính chất cụ thể lịch sử nhất định, tạo thành nếp cảm nghĩ truyền thống nhất định” [40,228] trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

Những khảo sát thực tiễn cho thấy có khoảng 200 truyền thuyết (với các dị bản) xoay quanh các vua Hùng, được sản sinh và lưu truyền ở khắp các tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ [231,14]; hệ thống truyền thuyết Hai Bà Trưng và các nữ tướng với số lượng không nhỏ phổ biến rộng rãi ở các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Hà Nội [198,129]; truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng Lê Lợi “trải ra mênh mông suốt từ Hà Tĩnh đến Lạng Sơn” [129,360]; và gần đây, theo số liệu tập hợp được, có đến hơn 80 truyền thuyết về những anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ...

Một đặc điểm khác là mối quan hệ gắn bó của truyền thuyết với các di tích văn hóa, nghi lễ, tập tục. Các di tích, nghi lễ, phong tục liên quan là hình thức văn hóa vật thể, môi trường “diễn xướng” và lưu giũ đặc biệt của truyền thuyết. Bùi Mạnh Nhị

18

nhận xét: “Truyền thuyết thường gắn với các di tích lịch sử, văn hóa (đền thờ, miếu mạo, lễ hội), danh lam thắng cảnh và phong tục thờ cúng ở địa phương” [140].

Khắp nơi trên đất nước, các địa danh, di tích lịch sử, văn hóa đi cùng nghi thức, tập tục thờ cúng đều gắn với truyền thuyết (có khi đã được thần tích hóa). Cơ sở lịch sử của câu chuyện đã đi vào đời sống tinh thần, tâm linh của nhân dân. Với cảm hứng tôn vinh lịch sử, những nơi tương truyền người anh hùng đặt chân đến hay lập nên công tích cần phải được lưu giữ, nhắc nhở muôn đời, nhân dân đã gửi vào truyền thuyết tâm niệm, ước vọng đó. Ký ức, tình cảm của nhân dân về quá khứ dân tộc có nhu cầu gắn kết với chứng tích văn hóa (hình thức di tích, lễ hội, tập tục thờ cúng…), lấy đó làm chỗ dựa bền chắc cho niềm tin và sự tôn vinh. Chính điều này đã tạo cho truyền thuyết ý nghĩa sâu sắc, bởi “hương khói” của sự thờ phụng chứa đựng giá trị thiêng, nó là “tiếng núi sông”, “hồn linh”, “tiếng rì rầm trong đất”, là niềm tin, niềm tự hào về truyền thống, sự trường tồn của dân tộc, bờ cõi đất nước.

Những chứng tích địa danh, lịch sử, văn hóa trong truyền thuyết thường mang ý nghĩa là những biểu tượng thiêng, như núi Nghĩa Lĩnh, núi Sóc Sơn, sông Tô Lịch... (Truyền thuyết về Vua Hùng, Tản Viên đón vợ, Thánh Gióng, Sông Tô Lịch...); hoặc là những dấu tích thực tế dùng cho việc tưởng niệm như đền, miếu, lễ hội… gắn với nhu cầu về tâm linh. Những chứng tích được gắn kết vào câu chuyện nhằm khẳng định thêm niềm tin vào điều được kể. Đặc biệt, yếu tố địa danh của nhiều truyền thuyết thể hiện rất sâu xa ký ức về lịch sử, có thể đối chiếu với các nguồn tư liệu khác nhau để tìm ra ý nghĩa bề sâu đó. Truyền thuyết ở những vùng đất có bề dầy lịch sử thể hiện rõ nét hơn đặc điểm này khi đặt trong mối liên hệ đối chiếu với giai thoại (bởi truyền thuyết ở những vùng đất mới chưa có sự bồi lắng nhiều lớp lịch sử, văn hóa, yếu tố nội dung liên quan với thực tại được thể hiện trực tiếp của nó dễ có khả năng đi gần với hình thức giai thoại).

1.1.1.2. Phân loại truyền thuyết

Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách phân loại truyền thuyết. Kiều Thu Hoạch phân chia truyền thuyết thành truyền thuyết nhân vật (bao gồm các tiểu loại: truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết phản diện, truyền thuyết tôn giáo), truyền thuyết địa danh, truyền thuyết phong vật. Lê Chí Quế chia thành truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết về các danh nhân văn hóa. Đỗ Bình Trị phân thành truyền thuyết địa danh, truyền thuyết phổ hệ, truyền thuyết lịch sử... Tuy có những khác biệt về quan điểm phân loại nhưng nhìn chung truyền thuyết lịch sử đều được xem là bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại, là “truyền thuyết lịch sử đích thực”; hay nói như Kiều Thu Hoạch về truyền thuyết nhân vật (có nội hàm tương ứng): “Nói tóm lại,

19

dù phân loại theo cách nào, dù có những quan điểm phân loại khác nhau giữa mặt này mặt khác, nhưng chung quy thì loại truyền thuyết nhân vật mà trong đó có loại truyền thuyết anh hùng chống ngoại xâm vẫn là biến thể nổi bật nhất và cũng chiếm số lượng nhiều nhất trong kho tàng truyền thuyết người Việt” [72,146]...

Tựu trung, theo tiêu chí đề tài, nội dung, có thể chia truyền thuyết dân gian Việt

Nam thành các tiểu loại (biến thể) sau:

Truyền thuyết địa danh: những truyện kể dân gian nhằm giải thích nguồn gốc những tên gọi địa danh ở các địa phương gắn với các sự kiện, nhân vật lịch sử (bao gồm tên gọi những địa điểm, địa vật, cảnh quan địa lý… ít nhiều có quan hệ đến hiện thực lịch sử - cụ thể). Ví dụ: Sự tích Hồ Gươm, Sự tích thành Lồi, Sự tích Chùa Phật Bốn Tay…

Truyền thuyết phong - vật: những truyện kể dân gian giải thích về nguồn gốc phong tục, sản vật trong quá trình lịch sử của nó hoặc có gắn với các nhân vật, sự kiện lịch sử, bao gồm sự hình thành tín ngưỡng, phong tục. Ví dụ: Sự tích tục đánh cá thờ, Sự tích đua ghe ngo, Tục vẽ mắt ghe ở Kiên Giang…

Truyền thuyết lịch sử: những truyện kể dân gian mang đậm yếu tố lịch sử, kể về nhân vật, sự kiện lịch sử, chủ yếu là nhân vật lịch sử gắn với tiến trình lịch sử địa phương, dân tộc, bao gồm những truyền thuyết về danh nhân lịch sử, văn hóa, tổ tiên nòi giống, truyền thuyết về những người có công đánh giặc, khẩn hoang, tạo lập làng xã, nghề nghiệp… Ví dụ: Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hai Bà Trưng, Hoàng Hoa Thám, Ông Không Lộ đúc chuông…

Việc phân loại trên đây cũng chỉ tương đối, bởi giữa các tiểu loại có sự đan xen vào nhau và sụ đan xen này có xu hướng đậm nét hơn trong hệ thống truyền thuyết ở những vùng đất mới, do hệ thống này vẫn đang còn trong quá trình vận động, biến đổi mạnh hơn so với truyền thuyết ở các vùng đất cổ. Mặt khác, theo nghĩa rộng, truyền thuyết địa danh và truyền thuyết phong vật cũng chính là các dạng khác của truyền thuyết lịch sử mà thôi. Luận án nêu vấn đề phân loại nói trên để tiện sử dụng quy ước khi chỉ tên các tác phẩm hay nhóm tác phẩm cụ thể trong quá trình khảo sát, phân tích.

1.1.2. Thể loại giai thoại 1.1.2.1. Việc nghiên cứu về giai thoại

Theo tư liệu, ngay ở Trung Quốc, thuật ngữ giai thoại xuất hiện sớm từ thời Đường - Tống, về sau có nhiều loại sách ghi chép giai thoại nhưng lý thuyết về thể loại không thấy đặt ra. Ở Phương Tây, đến những năm 60 của thế kỷ XX mới có một số công trình về lý thuyết giai thoại, như ở Nga với công trình của những tên tuổi như F.Xumtxốc, M.Xiđelnicốp, V.Guxép hay ở Pháp như P.Roland Barthes…

20

Nhà phê bình hiện đại P.Roland Barthes viết: “Truyện kể hiện diện trong huyền thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện hoang tưởng, truyện ngắn, anh hùng ca, bi kịch, chính kịch, hài kịch, kịch câm, tranh vẽ, kính ghép màu, điện ảnh, truyện tranh, việc văt, trò chuyện, giai thoại…” (Dẫn luận phân tích các cơ cấu truyện kể, Tạp chí Communications (Giao Lưu, Paris, 8-1968) [14,3]. Nhận định này cho thấy quan niệm về sự tồn tại của thể loại giai thoại: các truyện kể (récit) bao gồm giai thoại (anecdote), trong đó, giai thoại là một dưới - thể loại (“sous-genre”) của thể loại (“genre”) truyện kể.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “giai thoại” được chính thức sử dụng với hình thức ghi thành tiểu mục hoặc thành lời chú loại dưới các đề tài trên các báo quốc ngữ nổi tiếng giai đoạn 1865 - 1965 như Khuyến học, Nước Nam, Tiếng dân, Tri Tân… Truyện đời xưa (1866), Chuyện khôi hài (1882) của Trương Vĩnh Ký đã ghi một số mẩu chuyện kể có tính chất giai thoại (như Răng cắn lưỡi, Học trò sửa liễn của ông Hoàng, Câu đối có chí khí, Người can đảm...). Những mẩu chuyện kể có tính chất giai thoại cũng đã xuất hiện ở một số sách báo khoảng thời gian từ năm 1930 - 1945 và rải rác trong sách Hán Nôm từ thời Lê đến thời Nguyễn (tiêu biểu như bộ Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên sưu tập, xuất bản năm 1926 - 1938, ghi chép những mẩu chuyện lý thú trong đối đáp văn chương). Đến năm 1965 mới xuất hiện quyển sưu tập đầu tiên mang tên giai thoại: Giai thoại văn học Việt Nam, soạn giả Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch ở miền Bắc (bản thảo được thông báo hoàn thành năm 1963, Trần Thanh Mại viết Giới thiệu) và Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân ở miền Nam (thực tế được xuất bản lần đầu vào năm 1963, lời tựa sách của Đoàn Thêm với chủ ý: “phần chính cuốn sách này, phải chăng là sự tích kể lại, hay đúng hơn là những tài liệu thi văn mà Lãng Nhân đã cố gắng thâu lượm?” [132,3], mở đầu cho những tập sách kể chuyện giai thoại về sau. Ngoài những văn bản sưu tập, việc nghiên cứu về thể loại đến nay còn khá ít ỏi.

Giới nghiên cứu đến nay vẫn chưa có sự thống nhất ý kiến về thể loại “giai thoại”. Trong các sách chuyên ngành văn học dân gian trước nay, hệ thống thể loại văn học dân gian truyền thống không có giai thoại nhưng thực tế giai thoại tồn tại từ lâu với quy mô tác phẩm không nhỏ và có bộ phận nằm lẫn vào những thể loại khác. Những thập niên gần đây, trong phân loại truyện kể dân gian, một số nhà nghiên cứu hoặc biên soạn đã chính thức đưa vào thể loại giai thoại, đồng thời cũng đã có một số công trình nghiên cứu về giai thoại như là một thể loại văn học dân gian độc lập. Trong sách Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974) [40,53], Cao Huy Đỉnh đã nói đến giai thoại song mới chỉ là những nhận xét ngắn. Qua tổng quan tư liệu nghiên cứu về giai thoại, Nguyễn Bích Hà đưa ra ý kiến: “giai thoại với số lượng văn bản phong phú,

21

với vẻ đẹp về cả ngôn ngữ nghệ thuật và tư tưởng tác phẩm rất xứng đáng được dành một khoảng không gian nhất định trong hệ thống các thể loại VHDG” [50]. Điều này là cần thiết, vì nói như V.Guxép, nhà nghiên cứu folklore Nga: giai thoại “có một số đặc điểm cho phép xem nó như một thể loại độc lập”, và vì “Nhìn từ quá trình phát triển của việc sưu tầm, biên soạn giai thoại, thì dường như tự nó đã hình thành một thể loại độc lập” [45].

1.1.2.2. Về thuật ngữ giai thoại

Các nhà nghiên cứu thống nhất thuật ngữ giai thoại tương đương với thuật ngữ anecdote của phương Tây (mẩu chuyện ngắn, vui, lạ) là điều có tính chất vui, hay, thú vị. Kiều Thu Hoạch giới thuyết: “Giai thoại vốn là một thuật ngữ gốc Hán, giai có nghĩa là hay, thoại là câu chuyện kể. Như vậy, giai thoại là câu chuyện kể hay, đẹp, mà lâu nay giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ này là tương đương với thuật ngữ anecdote của phương Tây” [72,422].

Vũ Ngọc Khánh nói rõ, giai thoại (anecdote) có tính cách hài hước, dí dỏm, gây được những nụ cười “ý nhị, ít nhiều mang ý nghĩa triết học”; “thoại” được quan niệm là chuyện, nên có ngắn, có dài, do đó có tình tiết hoặc sự kiện [95,164].

Khái niệm giai thoại cũng được dẫn từ định nghĩa của Guxép: “Chúng tôi gọi giai thoại là tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài hước (satirique ou humoristique), được xây dựng trên một tình tiết có một sức tăng tiến, tới điểm cao (culmination), biểu hiện rõ rệt và hết sức bất ngờ. Những giai thoại có thể kết chuỗi xung quanh một nhân vật quen thuộc với đại chúng (populaire), có thể là nhân vật lịch sử hoặc tưởng tượng…”[45,233]. Quan niệm này có nhiều điểm gần với khái niệm truyện cười hoặc truyện trạng. Theo Ninh Viết Giao, đây là lý do tác giả Kho tàng giai thoại Việt Nam đã đưa vào tập sách những truyện “thường được các nhà nghiên cứu văn học dân gian xếp vào loại “truyện cười kết chuỗi”.

Coi giai thoại là anecdote (theo cách hiểu của phương Tây) là chưa đủ, giữa chúng vẫn có sự khác nhau, chính thực tiễn sáng tác đã đưa đến những nội hàm rộng hơn cho khái niệm giai thoại như một thể loại.

1.1.2.3. Giai thoại là một thể loại văn học dân gian

Theo Lại Nguyên Ân, giai thoại là một thể loại độc lập, về bản chất thuộc văn học viết: “Giai thoại thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức tồn tại của các chuyện kể dân gian” [69,519]. Nhận định này phù hợp với giai thoại văn học, có thể bao gồm nhóm giai thoại đi sứ, bởi phần lớn các giai thoại cũng gắn với thơ văn, song chưa bao

22

quát đầy đủ các tiểu loại giai thoại khác. Thực tế, không ít giai thoại được sáng tác và lưu truyền không “gắn với sinh hoạt văn học thành văn”.

Một số nhà nghiên cứu đã xác định giai thoại với tính chất là một thể loại văn học dân gian. Trong công trình của Cao Huy Đỉnh, giai thoại đã được nhắc đến như một thể loại thuộc lĩnh vực văn học dân gian: “Chung quanh Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu… và sau này có Nguyễn Trãi nữa, nhân dân có những lời ngợi khen, mến phục hoặc tin tưởng tự hào. Tiểu sử của những ông quan như thế thường lẫn lộn với tình tiết hư cấu trùng lặp về “các nhân tài nước Nam” và trở thành giai thoại” [40,53].

Kiều Thu Hoạch xác định rõ “giai thoại là sáng tác folkore, là văn học dân gian”, chứng minh giai thoại là văn học dân gian dựa trên tính tập thể, tính vô danh, vốn là các đặc trưng của thể loại văn học dân gian. Về quan niệm giai thoại văn học chủ yếu là do “những người có chữ sáng tạo nên” thì đây là những sáng tạo của “các nho sĩ trong những cuộc đàm tiếu nhân lúc “trà dư tửu hậu”, của những ông đồ quê luôn tắm mình trong cội nguồn văn hóa trào tiếu dân dã”, cũng là những người đã từng sáng tác văn học dân gian. Xét về mặt lịch sử sưu tầm, biên soạn, ở giai đoạn trước, hầu hết giai thoại đều là những mẩu chuyện hay được ghi lại vào lúc rảnh việc công (như “công hạ ký văn”, “công dư tiệp ký”) hoặc sau lúc ăn uống (“thoái thực ký văn”), tức giai thoại đều “nghe được và ghi chép lại từ miệng người khác”, là “dấu hiệu của folklore, của văn học dân gian” [72,427].

Vũ Ngọc Khánh khẳng định tính chất dân gian ở giai thoại: câu thơ, câu đối được vận dụng theo phong cách dân gian, nhân vật lịch sử và tác gia thành nhân vật dân gian, tác phẩm có đời sống dân gian như thể loại văn học dân gian khác [95,170].

Ninh Viết Giao qua phần tổng thuật tư liệu về giai thoại trong “Giai thoại xứ Nghệ” cũng xác nhận sự tồn tại của giai thoại như là thể loại văn học dân gian. Tác giả định nghĩa: “Giai thoại là những mẩu chuyện đẹp, hay, ngắn, gọn, vui, thú vị, có khả năng gây cho người nghe, người đọc một cảm giác thoải mái, sảng khoái, nhẹ nhàng, trong đó ẩn giấu một suy nghĩ, một tính cách, một thái độ… của nhân vật nào đó” [48,307].

Lê Văn Chưởng cũng nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của giai thoại trong mối tương quan với một số thể loại văn học dân gian: “Kho tàng truyện dân gian Việt Nam có một mảng truyện kể khá gần gũi với truyện cười và cũng tương quan với truyền thuyết, được tồn tại độc lập và có một đời sống riêng được gọi là giai thoại” [25,71].

23

Tuy nhiên, nhận xét giữa giai thoại và truyện cười “có cái gì giống nhau, có cái gì liên quan mật thiết với nhau” (Trần Thanh Mại) [147,3] mới là một dự cảm, cần nói rõ “có cái gì”, phân biệt giữa hai thể loại.

Những đặc trưng của giai thoại và phân loại Theo từ điển Larousse, “Giai thoại là một truyện rất ngắn gọn về một sự việc

hấp dẫn, lý thú của một nhân vật nào đó, truyện mà người ta còn ít biết đến” [70,14].

Định nghĩa trên thể hiện những nét đặc trưng có tính bao quát về giai thoại. Chính đặc điểm “rất ngắn gọn” đã đưa đến quan niệm xem giai thoại là một dưới - thể loại (“sous-genre”) của thể loại truyện kể (“récit”). Những khía cạnh riêng tư, đặc biệt, chưa phổ biến về nhân vật là những nét đặc thù tạo nên sức sống của giai thoại. Người nghe chờ đợi một thông tin mới về nhân vật, thường được tạo ra trong những tình huống đặc biệt, bất ngờ, đưa đến những ấn tượng sâu sắc.

Về tính chất ngắn gọn của giai thoại, như Ninh Viết Giao đã đề cập, có “một số giai thoại chưa dựng thành chuyện, sự việc rất đơn giản” [48,291], nhưng xưa nay vẫn được kể và lưu truyền.

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa “giai thoại”: “Một thể loại truyện kể ngắn gọn về một tình tiết có thực hoặc được thêu dệt của những nhân vật được nhiều người biết đến” (ví dụ: giai thoại về các nhà chính trị, các tướng, các nhà văn, nhà khoa học, các nhân vật có biệt tài như Mạc Đĩnh Chi, Trạng Quỳnh...) [52,132]. Chúng tôi cũng thống nhất với quan niệm này về giai thoại, tuy nhiên, “nhân vật được nhiều người biết đến” được định vị là những con người thật, không phải là nhân vật hư cấu.

Với tư cách là một thể loại văn học dân gian, giai thoại, trước hết, là những câu chuyện hay, đẹp, lý thú. Nói theo Kiều Thu Hoạch, một tác phẩm sở dĩ được gọi là giai thoại chính là do tính lý thú (“intéressant, plaisant”) tạo nên, nó phân biệt với truyện cười với tính gây cười (“risible”). Đồng thời, thông thường đã gọi là giai thoại phải có đối thoại, đối đáp (“dialogue”) giữa hai nhân vật, có những tình tiết dẫn tới kịch tính từ lời kể chuyện, tức lời thoại. Điều này thể hiện trước hết ở giai thoại văn học, bởi mục đích, chức năng của giai thoại văn học là đưa đến cảm giác sảng khoái, thú vị, một sự giải trí trí tuệ, dí dỏm bằng thơ văn. Ở đây tính lý thú mang ý nghĩa toàn diện, thể hiện ở bản thân thơ văn và còn ở chính tình huống của giai thoại.

Nhân vật giai thoại là những nhân vật có thật. Đó là các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa, các nhà nho, tổ sư của các nghề nghiệp… và là những người nổi tiếng. Theo Ninh Viết Giao, “Nhân vật càng nổi tiếng thì các giai thoại nói về họ càng hấp dẫn, lôi cuốn dễ đạt được tính chất mỹ cảm của nó” [48,290]. Đây là những mẩu chuyện về “người thật, việc thật” với những khía cạnh riêng tư, cụ thể về nhân vật.

24

Mặt khác, tính hư cấu cũng là một đặc trưng phổ quát của giai thoại, với ý nghĩa là “gán cho người nọ việc kia” [95,176]. Đây là sự hư cấu theo lối thêu dệt những tình tiết, sự kiện về nhân vật (nếu là giai thoại văn học thì có thể hư cấu cả thơ văn của nhân vật) theo xu hướng biểu đạt thái độ tôn phục. Điều này khác với tính chất “sự hư cấu thần kỳ” trong truyền thuyết. Cao Huy Đỉnh cũng đã nói đến “tình tiết hư cấu trùng lặp” giữa các nhân vật nổi tiếng và “các nhân tài nước Nam” [40,53] trong giai thoại. Theo Vũ Ngọc Khánh, giai thoại được chia làm ba loại: giai thoại văn học (những câu chuyện hoàn toàn là chuyện sáng tạo và chuyện những người sáng tạo trong địa hạt văn chương học thuật), giai thoại lịch sử (những câu chuyện khác liên quan với những sự kiện, những nhân vật hoạt động trong các chính trường, có liên hệ chặt chẽ với tiến trình tồn vong của đất nước) và giai thoại folklore (các mẩu chuyện về những tài năng thợ thêu, thợ chạm, những nghệ nhân, nghệ sĩ tuồng chèo, hội họa, điêu khắc, diễn xướng... gây được những thú vị, bất ngờ; các mẩu chuyện tạo nên những thành ngữ, phương ngôn, vẫn thường được nhân dân truyền tụng để biểu lộ niềm tin, tự hào về con người, quê hương, dòng họ...) [95,174]. Kiều Thu Hoạch phân giai thoại thành hai loại: giai thoại văn học (gồm nhóm giai thoại về các tác gia văn học và nhóm giai thoại về các sáng tác văn học khuyết danh, vô danh) và giai thoại lịch sử (gồm nhóm về danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa và nhóm giai thoại đi sứ). Gắn với quan niệm xem giai thoại là những chuyện vui vui, hay hay”, “hàm chứa yếu tố gây cười một cách nhẹ nhàng tao nhã”, trên cơ sở các giai thoại sưu tầm ở địa phương, Lê Văn Chưởng chia giai thoại thành các loại: giai thoại sinh hoạt hò, giai thoại vua-quan- hoàng tộc-thứ dân, giai thoại sân khấu, giai thoại sáng tác thơ văn. Các nhóm giai thoại được nêu tương quan với giai thoại văn học và giai thoại folklore. Nguyễn Bích Hà chia giai thoại làm ba loại: giai thoại văn học (về Nguyễn Du, Xuân Diệu…), giai thoại danh nhân (về Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh…), giai thoại cười (Truyện Trạng Quỳnh, Bác Ba Phi…). Tác giả cũng không đưa vào khái niệm giai thoại lịch sử và có quan niệm đồng nhất một bộ phận của giai thoại với loại “truyện cười kết chuỗi” hay truyện trạng.

Như vậy, các cách phân loại cũng chưa có tiêu chí nhất quán song đã có những điểm gần nhau, qua đó có thể nhận diện được các nhóm giai thoại. Chúng tôi thống nhất với cách phân chia thành ba tiểu loại giai thoại của Vũ Ngọc Khánh, gồm: giai thoại văn học, giai thoại lịch sử và giai thoại folklore, bởi các tiểu loại có khả năng bao quát rộng rãi các đối tượng truyện kể.

Tóm lại, giai thoại là một thể loại văn học dân gian đích thực. Văn học viết vẫn có giai thoại, là những giai thoại về các tác gia, tác phẩm đúng chất văn học (có thể bao

25

gồm nhóm giai thoại đi sứ). Những yếu tố xem là “ngoài chính thống” của nó sẽ là những đặc điểm làm nên giai thoại văn học bác học, với ý nghĩa là“một dòng phái sinh trong thực tiễn văn học” [193,17] như Cao Tự Thanh đã nhận định. Còn văn học dân gian vẫn có thể loại giai thoại, theo nguyên lý những gì của dân gian sẽ trở về với dân gian. Trong lời Giới thiệu Giai thoại văn học Việt Nam, Trần Thanh Mại cũng đã nói đến sự tồn tại của hai kiểu loại giai thoại: “trừ một số cá biệt, nói chung thì giai thoại văn học không thuộc phạm vi văn học dân gian” [147,3]. Thực tế, “một số cá biệt” đó lại là một mặt có ý nghĩa quan trọng của thể loại. Trong đó, có giai thoại văn học (dân gian), giai thoại folklore (gồm cả giai thoại xung quanh những bài thơ, câu đối khuyết danh hoặc nhân vật phiếm chỉ) và giai thoại lịch sử.

Vấn đề phân biệt giai thoại văn học và giai thoại văn học dân gian Quan niệm “Là dân gian, cái gì không phải là chính thống” (“Est populaire, ce qui n’est pas officiel”) (Trần Quốc Vượng dẫn của một nhà folklore Pháp) [224,172] là một cách hiểu ở phạm vi rộng. Đến với sáng tác văn học dân gian cần có thêm kiến giải cụ thể. Khái niệm “chính thống” được hiểu là sáng tác chính thức của cá nhân, có tính quan phương. Có thể có những sáng tác ngoài chính thống nhưng không hẳn là của dân gian.

Các nghiên cứu folklore thế giới đã đề cập đến vấn đề “chất dân gian của những người không phải dân chúng và chất phi dân gian của dân chúng” [20,171]. Thực tế này gợi mở nhận thức mới về tính chất không tuyệt đối của những phạm vi quy ước cũng như mở ra khả năng thứ hai cho cách hiểu về yếu tố thực tế của những sáng tác truyền miệng dân gian, trong đó bao gồm cả những sản phẩm được tạo từ thành phần ngoài dân chúng và những gì thuộc về tính chất không chính thống không hẳn mang chất lượng của truyền thống dân gian.

Cũng theo chiều hướng này, về vấn đề tác giả văn học dân gian, các nhà nghiên cứu đưa ra quan niệm văn học dân gian có thể là sáng tác của “những người có chữ nghĩa”, hơn nữa đó còn được coi là “nét đặc thù của văn hóa - văn học dân gian truyền thống Việt Nam”. Nói như A.Dundes, nhà folklore Mỹ khi bàn về chủ thể sáng tác văn hóa dân gian: “Chúng ta là những người sáng tác văn hóa dân gian trong số những người sáng tác văn hóa dân gian khác” [72,430].

Song, một vấn đề đặt ra khác là ai sẽ lưu truyền cho “chúng ta” với những tác phẩm giới hạn người thưởng thức? Như đối với giai thoại văn học, đây là sáng tác ngoài chính thống của tác giả nhưng không phải dành cho công chúng bình dân, trong thực tế nó “gắn với sinh hoạt văn học thành văn” [69,519]. Còn nếu xem sinh hoạt của những người có chữ nghĩa, các nhà nho cũng là môi trường dân gian căn cứ vào “thực

26

tế sinh hoạt văn học dân gian những thế kỷ trước” [95,169], thì cũng rất hạn hữu, không thể biện giải đầy đủ cho mọi sáng tác, để coi đó là tác phẩm văn học dân gian. Một tác phẩm được hình thành đều có một cá nhân khởi xướng song chỉ có tác phẩm nào trải qua quá trình dân gian hoá, qua sự gia công, bồi đắp của tập thể thì mới được coi là tác phẩm đích thực. Những giai thoại văn học dân gian ban đầu do cá nhân sáng tác, nhưng nó có yêu cầu về đời sống dân gian của tác phẩm, cái để “văn bản có thể sống và sống tiếp”. Giai thoại văn học dân gian phải là văn bản kể có chất dân gian đồng thời có khả năng lưu truyền rộng rãi trong nhân dân.

Mặt khác, ở đây nếu nói đến trường hợp như Propp đã nêu là “tác phẩm folklore có nguồn gốc văn học”, tác phẩm ban đầu là sáng tác của cá nhân nhà văn, nhà thơ, thì cũng phải đảm bảo dấu hiệu “folklore về mặt vận động” [158,23]. Tác phẩm phải được lưu truyền, có đời sống thực sự với những ghi chép có tính chất dị bản (còn có sự lưu truyền trên văn bản nhưng đó là trường hợp chất liệu tác phẩm dân gian đích thực).

Câu chuyện thơ văn dù độc đáo, hay, đẹp đến đâu (về sự thưởng thức chữ nghĩa) nhưng có tính quy phạm, lại lưu hành trong phạm vi giới hạn như ở tao đàn, nhà học, không được kể rộng rãi thì không thể trở thành tác phẩm văn học dân gian, như Giai thoại về Bùi Hữu Nghĩa (ghi phỏng theo Thi Long tạp lục, 1889), với Đằng giao khỉ phụng, Ngư mạo long thi hay Bình thơ Đường.... [188,50]. Lại có trường hợp tác phẩm là sáng tác ghi chép, kể chuyện thơ văn, trước sau chỉ có một văn bản sao chép qua lại, không có bản kể khác ghi nhận sự vận động của tác phẩm. Đây cũng không thuộc giai thoại văn học dân gian. Chẳng hạn, trong Giai thoại lịch sử Việt Nam [215], bên cạnh một số truyện được coi là giai thoại dân gian, còn lại là những giai thoại văn học, như: Ngô Thì Sĩ và cái vạ văn chương, Mạc Thiên Tích – ông quan cai trị giỏi, thơ hay…

Lại Nguyên Ân trong Từ điển văn học nhận định: “Trong những ghi chép sớm nhất, giai thoại văn học thường không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kỳ, có những mảng giai thoại xuất hiện thời kỳ sau lại gần với tiếu lâm” [69,519].

Trường hợp nói ở trên được hiểu là những sách chữ Hán thời kỳ đầu (những mẩu chuyện hay như sự tích, câu chuyện giao tiếp ứng xử, mạn đàm đối đáp văn chương… được ghi vào các tập: tạp thuật, tiệp ký, mạn lục, kiến văn lục, nhàn đàm… như Sơn cư tạp thuật, Công dư tiệp ký, Lan trì kiến văn lục…) chưa mang tên giai thoại. Ngay trong “những mảng giai thoại xuất hiện thời kỳ sau” cũng chưa có sự nhất quán trong việc phân loại. Có khi cùng một loại truyện nhưng được xếp vào thể loại giai thoại hay truyện cười hoặc đưa về thể loại độc lập là truyện trạng (nói như Kiều Thu Hoạch về giai thoại là sự phân loại “tạm thời để công bố”). Điều này do quan điểm phân loại đồng thời do tính chất phức tạp của đối tượng (như nhận xét của Cao

27

Huy Đỉnh: “tính chất châm biếm đả kích của giai thoại càng mạnh và nó sẽ lẫn lộn với truyện cười” [40,55]; hay nói như Guxép: “Các tiểu loại giai thoại chưa được phân hóa rõ rệt” [45,233]).

Hay trong Kho tàng giai thoại Việt Nam [93], truyện Ông Ó, truyện Ba Phi được xếp vào loại giai thoại folklore. Đây là những mẩu chuyện kết chuỗi xoay quanh “nhân vật quen thuộc với đại chúng” (tài nói trạng, gây cười), nhân vật tự kể chuyện hay mở rộng ra là những câu chuyện được gắn với tên tuổi của nhân vật. Thủ pháp gây cười mang phong cách riêng đậm dấu ấn địa phương. Truyện Ông Ó là tiếng cười chế nhạo, đả kích những thói xấu, sai trái của tầng lớp quan chức địa phương. Truyện Ba Phi với tiếng cười hồn nhiên, phóng khoáng của những người đi khai phá vùng đất mới. Đây là những tiếng cười mang sắc thái độc đáo, đậm chất Nam Bộ, thể hiện cốt cách tinh thần của những con người và những cái đặc biệt của sinh thái, sản vật nơi đất rừng phương Nam. Dựa vào phương thức nói trạng và chức năng tư tưởng thẩm mỹ của truyện kể, theo chúng tôi, có thể coi đây là thể loại truyện trạng.

1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử 1.1.3.1. Những điểm tương đồng

- Đặc điểm tính kết chuỗi Các truyền thuyết và giai thoại đứng riêng lẻ đều tạo lập thành những chuỗi truyện xoay quanh sự kiện, nhân vật trung tâm, ít có trường hợp chỉ có một truyện kể duy nhất về đối tượng. Điều này thể hiện đặc điểm tính kết chuỗi của thể loại (đây cũng là đặc điểm chung của những thể loại truyện dân gian có liên quan đến nhân vật cụ thể). Ví dụ chuỗi truyền thuyết về Hùng Vương, hay những giai thoại về Phan Thanh Giản… Tuy nhiên, mức độ chuỗi của truyền thuyết nhìn chung thường có quy mô, phạm vi rộng lớn hơn so với giai thoại.

- Phạm vi đề tài Truyền thuyết và giai thoại lịch sử đều có đối tượng phản ánh là những hiện tượng lịch sử, bao gồm nhân vật và sự kiện lịch sử gắn với lịch sử địa phương hoặc dân tộc. Trong đó, không có giới hạn riêng biệt sự kiện, nhân vật cho mỗi thể loại truyện, nói cách khác, một nhân vật, sự kiện lịch sử có thể có cả truyền thuyết lẫn giai thoại. Ví dụ về nhân vật Trương Định có truyền thuyết Phút cuối của Trương Định và giai thoại Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu…

- Sự gắn kết nội dung với những chứng tích địa danh, lịch sử, văn hóa Nhiều truyện kể ở cả hai loại truyện đều gắn với những chứng tích địa danh, lịch sử, văn hóa. Đây cũng là điểm giao thoa giữa hai thể loại. Ví dụ về nhân vật Lê Lợi có

28

truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm và cũng có giai thoại Chuyện Lê Lợi đặt tên các làng… Tuy nhiên mối quan hệ giữa truyền thuyết với các chứng tích lịch sử, văn hóa rõ rệt hơn so với giai thoại lịch sử.

- Phương thức phản ánh thực tại Về quan hệ với thực tại, cả hai thể loại đều dựa trên cơ sở hiện thực là các sự kiện, nhân vật lịch sử. Ở truyền thuyết, đó là “nét chính yếu của sự kiện và con người có thực” [143,78] (phân biệt với tính chất “bịa đặt” của truyện cổ tích). Với giai thoại là đặc điểm “gần gũi với người thật” [95,14]. Mặc dù yếu tố hư cấu, tưởng tượng vẫn là một đặc trưng nghệ thuật của truyền thuyết (bởi truyền thuyết không và “chưa bao giờ nói đúng 100 % về lịch sử”, hoặc có khi trùng khít với sử nhưng không phải là truyền thuyết). Và trong giai thoại có khi có sự hiện diện của yếu tố thêu dệt hoang đường. Ví dụ: câu chuyện liên quan môtíp Đứa bé khiển âm thần nằm trong mạch sự kiện có tính chất thêu dệt, huyên truyền về nhân vật Phan Thanh Giản.

- Dạng thức tồn tại của tác phẩm Trong tiến trình hình thành, tác phẩm truyền thuyết trước hết có thể chỉ là những tình tiết, sự kiện cốt yếu còn đơn lẻ, là những mẩu ký ức được kể lại. Qua quá trình lưu truyền, cốt truyện sẽ dần được hoàn chỉnh khi vận động trong không gian và thời gian. Đây là vấn đề có tính quy luật của văn học dân gian. Có khi tác phẩm được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình văn bản hóa. Trong thực tế, nhiều khi ban đầu, dân gian chỉ kể mẩu chuyện vắn tắt, để trở thành một văn bản đầy đủ phải nói đến vai trò của người biên soạn với quá trình văn bản hóa truyện kể và đến lượt nó có sự tác động trở lại dân gian, tạo nên một vòng đời mới trong đời sống tác phẩm. Quá trình này có khi chưa hoàn thành trọn vẹn, không ít truyền thuyết có thể tồn tại ở dạng thức cốt kể nhưng chưa phát triển đầy đủ chi tiết; hình thức tác phẩm lúc này có thể gần với giai thoại vốn có cấu trúc ngắn gọn (mặt khác, chính giai thoại cũng có khả năng tồn tại ở dạng cốt kể với những mẩu thông tin ban đầu).

Những điểm tương đồng trên đây có thể là nguyên nhân của việc chưa xác định ranh giới rõ giữa truyền thuyết và giai thoại, đưa đến hiện tượng cách dùng hai thuật ngữ chưa nhất quán ở một số sách sưu tập, biên soạn truyện dân gian.

1.1.3.2. Những điểm khác biệt

- Giai thoại thường phải ngắn gọn. Tính chất ngắn gọn của giai thoại phù hợp việc kể về một tình huống, sự kiện với yếu tố cốt lõi và ý nghĩa đơn nhất (là một “lát cắt”, một giai đoạn trong cuộc đời nhân vật) đồng thời phù hợp với yêu cầu đưa đến những điều hay, lạ, đặc biệt. Nếu là những câu chuyện xoay quanh nhân vật thì sẽ tạo nên chuỗi truyện.

29

V.Guxép khi bàn về folklore hiện đại cũng đã gián tiếp cho thấy đặc điểm hình thức này của giai thoại: “Bên cạnh những tác phẩm bông đùa được sáng tác không ít những tác phẩm thực sự trào phúng, nhất là trong những hình thức “nhỏ” của folklore, những bài ca đơn khúc, những giai thoại, những câu nói hóm, những tục ngữ và thành ngữ…”[45,579].

Truyền thuyết thường dài hơn, gắn với cốt truyện phức tạp hơn, thường là kể

trọn vẹn diễn biến cuộc đời nhân vật.

Tuy nhiên cũng không thể nhất thiết căn cứ độ dài, ngắn để phân định loại truyện. Độ dài, ngắn của văn bản truyện kể có khi do vấn đề biên soạn (đơn giản là sự thêm thắt lời kể hay việc tổ chức đơn vị văn bản và tình hình có thể phức tạp với cơ chế “nhuận sắc” bằng những yếu tố lịch sử). Mặt khác, trong chuỗi truyền thuyết về những sự kiện lịch sử lớn, thường có một hoặc vài truyện kể có quy mô về độ dài, còn những truyện kể xoay quanh có thể ngắn gọn hơn. Lại có những truyện kể trong quá trình vận động còn tồn tại ở dạng cốt kể. Vì vậy không thể phân biệt truyền thuyết với giai thoại chỉ từ dấu hiệu này.

- Nhiều người đã nói đến đặc điểm giai thoại phải có lời thoại, tức là lời đối đáp trực tiếp trong câu chuyện giữa các nhân vật. Trong một số giai thoại, yếu tố lời thoại mang ý nghĩa là những tình tiết thúc đẩy câu chuyện, tạo được kịch tính, mặt khác, tính chất thoại như một đặc trưng độc đáo, tạo cho giai thoại văn chương tính trí tuệ sâu sắc.

Bên cạnh đó cũng có những giai thoại lịch sử được kể theo lối không có lời đối đáp. Ngôn ngữ kể, giọng kể thể hiện rõ tính chất tương truyền của câu chuyện, có khi bao hàm một vài sắc thái (như tán tụng hoặc mỉa mai…). Có trường hợp lời thoại được thêm thắt từ người biên soạn không có chất dân gian, không tạo được hiệu quả nghệ thuật (như một số truyện được biên soạn trong sách sưu khảo Nam Bộ).

Văn bản truyền thuyết không yêu cầu lời thoại, mặc dù truyền thuyết cũng không giới hạn lời thoại. Ví dụ: trong truyện An Dương Vương, Lê Lợi trả gươm, chính lời thoại là một tình tiết độc đáo làm nên cái hay của tác phẩm. Song, về cơ bản, lời thoại của truyền thuyết đi theo mạch sự kiện, khác với tính chất đối đáp trong tình huống trực tiếp của giai thoại.

Ngôn ngữ kể của truyền thuyết thường là giản dị, đời thường nhưng thành kính,

trang trọng, gắn với cảm xúc, thể hiện trong những câu chuyện về người anh hùng.

- Ở giai thoại, sự kiện, tình tiết được nhắc đến mang ý nghĩa là những diễn biến thực tế, gắn với những sinh hoạt đời thường. Nó thường liên quan những tình huống và

30

ứng xử đặc biệt của nhân vật, nhằm phác họa những đặc điểm về cá tính, tính cách nhân vật cụ thể hoặc những khung cảnh, hoạt động tạo nên những dấu ấn về thực tại.

Trong truyền thuyết, sự kiện, tình tiết thường mang ý nghĩa sự biểu đạt nghệ thuật, là thực tại nhưng đồng thời chứa đựng sự ảo hóa, làm thực tại có tính linh thiêng, gắn với những ý nghĩa lớn lao về lịch sử đất nước, địa phương, dân tộc (ở những giai đoạn lịch sử đã lùi xa đặc điểm này thể hiện rõ nét, nhất là ở phần kết cục truyện kể với những ấn tượng sâu sắc nhất về nhân vật, sự kiện). Điều này còn thể hiện trong tính hệ thống của chuỗi truyện. Kể về những người anh hùng cứu nước, dân gian đã xây dựng những chuỗi truyện với nhiều sự kiện, tình tiết có tính chất khuôn mẫu theo thời gian, như về Nguyễn Huệ: tài năng thiên bẩm, trời trao mũ áo, lưỡng xà dâng kiếm…; về Lê Lợi: trao gươm thần, trả lại gươm thần…

- Truyền thuyết phản ánh sự nhận thức, cách đánh giá, thể hiện tình cảm của nhân dân về các sự kiện, nhân vật lịch sử của địa phương, dân tộc. Khi kể truyền thuyết, cả người kể và người nghe đều tin đó là điều có thật. Giai thoại lịch sử kể những điều hay, lạ, đặc biệt, gây ấn tượng về sự kiện, nhân vật lịch sử. Giai thoại, về cơ bản, không bao hàm sự lý tưởng hóa về sự kiện, nhân vật. Qua những chuyện kể đời thường, có phần “bên lề”, có thể góp nhặt được những dấu ấn về con người thật của nhân vật vốn là những “yếu nhân” của mỗi thời kỳ, thể hiện sắc nét sự nhận thức, đánh giá khách quan của dân chúng về các đối tượng. Khi kể giai thoại, về mặt tâm lý, cả người kể và người nghe đều không đặt ra vấn đề đó là điều có thật hay không có thật. Như vậy có sự khác biệt về mặt chức năng giữa hai thể loại.

- Truyền thuyết gắn với những yếu tố “thiêng hóa” (thời gian thiêng, không gian thiêng, sự kiện, nhân vật thiêng), là nơi gửi gấm những xúc cảm thiêng liêng trong sự nhận thức về quá khứ cộng đồng, dân tộc. Giai thoại lại thể hiện rõ tính chất đời thường, những cảm nhận cụ thể, gần gũi về đối tượng những sự việc đương thời hay quá khứ gần, gây được ấn tượng. Theo Vũ Ngọc Khánh, giai thoại được ví như “người bạn thường xuyên của con người và của các sự kiện lịch sử xã hội” [95,165], cái hay là giai thoại biết chọn lựa những khoảnh khắc lóe sáng, gây ấn tượng về nhân vật, sự kiện. Ở các giai thoại thời kỳ đầu thế kỷ XX về sau, tính chất đời thường càng tăng lên với những câu chuyện lan truyền về sinh hoạt của các tầng lớp trong xã hội thực dân phong kiến. Đó là những câu chuyện về khía cảnh sinh hoạt, ứng xử thường nhật của các nhân vật. Ở đây có sự khâm phục đối với các tài trí, nghĩa khí của nhân vật nhưng các giai thoại đều gần như không gợi tính chất “thiêng” như trong nội dung truyền thuyết. Đối với một số giai thoại kể cùng về một sự kiện hay nhân vật như đối tượng phản ánh của truyền thuyết thì tính chất “thiêng” lại xuất hiện ở mức độ nhất định.

31

Tính chất thiêng đó xuất hiện do các giai thoại này cũng gắn với chứng tích, dấu vết văn hóa, với địa danh, phong vật nào đó của một địa phương. Đây là điều rất lý thú của sự thâm nhập, tác động lẫn nhau giữa truyền thuyết và giai thoại lịch sử.

1.2. TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC TỪ ĐẶC ĐIỂM TƯ LIỆU, HỆ THỐNG TRUYỆN 1.2.1. Khái niệm Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước

1.2.1.1. Khái niệm “nhân vật lịch sử” thường dùng chỉ các nhân vật có những

hoạt động gắn với các sự kiện lịch sử địa phương hoặc của dân tộc hay nhân loại.

“Lịch sử” hiểu theo nghĩa rộng là những diễn tiến quá trình hoạt động, phát triển của con người ở các lĩnh vực đời sống, những gì đã xảy ra trong quá khứ của địa phương một quốc gia, dân tộc hay nhân loại. Nói cách khác, lịch sử là dòng chảy thời gian có tính quy luật, kết nối các sự kiện trong quá khứ do con người tạo ra. Trong đó, lịch sử không chỉ thuộc phạm vi chính trị hay chiến tranh mà còn có các lĩnh vực khác như lịch sử văn hóa, nghệ thuật, khoa học... Nói chung, lịch sử là những “bước đi” của con người diễn ra ở các phương diện đời sống xã hội, với ý nghĩa thành quả đạt được theo quy luật của sự phát triển. Theo đó, những người có đóng góp hay tạo ra những ảnh hưởng quan trọng trong các lĩnh vực đời sống đối với sự phát triển của cộng đồng trong tiến trình lịch sử dân tộc đều là nhân vật lịch sử. Như vậy, nhân vật lịch sử là các nhân vật có vai trò trong lịch sử, tiêu biểu cho mỗi thời kỳ ở các lĩnh vực khác nhau, trên nhiều phương diện đối với một cộng đồng dân cư nhất định.

Trong suốt trường kỳ lịch sử, trải quá trình chiến đấu chống ngoại xâm, có biết bao thế hệ con người ưu tú là các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa đã làm rạng danh đất nước. Họ là những con người đồng hành, làm rạng danh lịch sử. Đây là nhân vật lịch sử Việt Nam.

Về loại hình nhân vật, lịch sử ghi danh ba loại hình đáng tôn thờ: người anh hùng dân tộc chống ngoại xâm (có công đánh giặc giữ nước) hay anh hùng nông dân (chống áp bức, cường quyền) và danh nhân văn hóa (có năng lực sáng tạo mang ý nghĩa lớn trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật hoặc tạo ra thành quả văn hóa). Đồng thời, tất yếu cần bổ sung loại nhân vật lịch sử thứ tư: vừa có công đánh giặc vừa có công sáng tạo nên các kỳ tích văn hóa. Đây chính là anh hùng văn hóa. Về cơ cấu thành phần, nhân vật lịch sử có thể bao gồm nhiều đối tượng cụ thể, nổi bật nhất là những nhân vật hoạt động trên chính trường, có liên quan trực tiếp đến tiến trình tồn vong, hưng phế của đất nước. Các nhân vật này đóng vai trò là “yếu nhân” của mỗi thời kỳ,

32

giai đoạn lịch sử. Nhân vật lịch sử cũng có thể là những con người khác nhau trong các tầng lớp nhân dân đã có thành tựu đáng kể ở lĩnh vực cụ thể, nhất định nào đó hoặc trong hoạt động tạo được công tích, đóng góp cho lợi ích cộng đồng và thường biểu hiện ở phạm vi địa phương.

Trên thực tế, nhân vật lịch sử còn được hiểu là nhân vật có liên quan đến lịch sử ở khía cạnh những ảnh hưởng khác nhau. Như theo quan niệm của Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam: “trên chiều dài lịch sử tầm cỡ” của dân tộc, “có những ai hiền lương tài giỏi? có những ai kiên cường bất khuất? có những ai đạo cao hạnh trọng? mà cũng có những kẻ phản dân hại nước…” [196,2], nên trong hệ thống còn có loại nhân vật phản diện như Đặng Thị Huệ, Hoàng Cao Khải, Huỳnh Công Tấn… Theo đó, nhân vật lịch sử là những ai có liên quan đến lịch sử, kể cả nhân vật là hình ảnh đã gây ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của cộng đồng, dân tộc, hành trạng của những con người này cũng làm thành những câu chuyện được truyền tụng để chế giễu, nhắc nhở các thế hệ.

Tiến trình lịch sử Nam Bộ hơn ba thế kỷ là khoảng thời gian có tính chất đặc biệt, trong đó nổi lên tên tuổi các nhân vật có vai trò nổi trội, có những ảnh hưởng, đóng góp quan trọng đối với cộng đồng. Đây là những nhân vật lịch sử Nam Bộ.

Nhân vật lịch sử Nam Bộ là những người anh hùng chống ngoại xâm, những danh nhân văn hoá, tức là những người đã tạo nên các thành quả văn hóa, bao gồm những người anh hùng mở cõi, có công khai khẩn và ổn định cương thổ. Phần lớn nhân vật lịch sử Nam Bộ đã được ghi danh trong sử sách, trong đời sống, tên tuổi của họ được nhắc nhở, truyền tụng. Có người chỉ nhân dân lưu công tích của họ, còn chính sử không nhắc đến. Các truyện kể dân gian là minh chứng về nhân vật lịch sử, bởi đây là tiếng nói xuất phát từ nhận thực, tấm lòng thương quý của nhân dân đối với các nhân vật. Như vậy, nhân vật lịch sử phải là con người có danh tính cụ thể, sử sách ghi chép hoặc được nhân dân truyền tụng. Đây là một đặc điểm có tính khu biệt về đối tượng, bởi không ít trường hợp nhân vật truyện kể không đáp ứng điều kiện này.

Nhân vật lịch sử Nam Bộ là người địa phương hay có thể đến từ vùng miền khác nhưng có dấu ấn hoạt động trên vùng đất. Như Nguyễn Hữu Cảnh, sử ghi là Nguyễn Hữu Kỉnh, nhà quân sự, chính trị tài năng của chúa Nguyễn, theo lệnh triều đình vào Nam trấn nhậm, kinh lý, dấu chân trải hầu khắp Nam Bộ; hay Nguyễn Ánh, từ 1775 - 1802 là thời gian chạy nạn chúa Trịnh và bị quân Tây Sơn truy đuổi phải trốn lánh ở Nam Bộ... Thực tế, người Nam Bộ chính là những người quê gốc miền Bắc, miền Trung vào định cư, khai phá vùng đất mới từ mấy thế kỷ trước. Ngoài ra, nhân vật lịch sử Nam Bộ không chỉ là người Việt, bởi thành phần cư dân nơi đây mang đặc điểm của

33

quá trình cộng cư lâu dài. Như Nguyễn Văn Tồn, là người Khmer theo chúa Nguyễn lập nhiều công trận được cải tên, thành tích đóng góp của ông đối với cộng đồng cư dân Nam Bộ có cả người Việt lẫn Khmer. Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã ghi rõ lai lịch nhân vật: Truy nguyên sự tích ông Tồn, Người Miên vua đặt Nguyễn Tồn tính danh... [153,76].

1.2.1.2. Với đối tượng nghiên cứu, như đã nêu, điểm cốt yếu là có truyện kể về nhân vật hay không. Truyền thuyết và giai thoại là minh chứng rất cụ thể, sinh động về dấu ấn của nhân vật lịch sử trong nhân dân.

Nhân vật lịch sử chính là đối tượng trung tâm được truyền thuyết và giai thoại hướng đến. Luận án của chúng tôi sẽ tìm hiểu nghiên cứu về các truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, tức là từ khi người Việt tiến vào vùng đất Nam Bộ khai khẩn, mở rộng bờ cõi đất nước đến cuối thế kỷ XIX.

1.2.2. Tình hình tư liệu

Nguồn tư liệu thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám là các công trình biên soạn địa chí, lịch sử của các trí thức nho học thuộc tầng lớp quan phương theo mệnh lệnh của triều đình. Trong các công trình như Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, rải rác có ghi chép những câu chuyện tương truyền. Do đó, cùng với các tập ký ghi chép, biên soạn truyện dân gian như Công dư tiệp ký (Vũ Phương Đề), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ – Nguyễn Án)..., những tư liệu này đã trở thành nguồn văn bản ghi chép truyện dân gian, bởi đều có “chứa đựng những tư liệu về văn học dân gian” [92,56].

Đáng chú ý, có tư liệu biên khảo lịch sử viết bằng tiếng Pháp: Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận (Souvenirs Historiques Sur Saigon et Ses environs. Excursions et Reconnaissances) (1885) của Trương Vĩnh Ký, ghi nhận một số truyện kể về nhân vật, như Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt... [90,30].

Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, việc sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ tiếp tục phát triển. Trước 1975, có các công trình biên khảo, sưu tập, bài nghiên cứu của các nhà Nho cùng đội ngũ trí thức Tây học rải rác đã ghi một số mẩu truyện kể. Với điều kiện nghiên cứu, quan điểm học thuật đương thời, tính chất tư liệu có những nét đặc thù. Có thể kể đến các công trình như: Nam - kỳ danh nhân, Theo dấu Bùi Hữu Nghĩa, Tập san Sử Địa... Từ sau năm 1975 đến nay, tư liệu được mở rộng, chuyên biệt hơn. Đây là nguồn tư liệu chủ yếu cho việc hệ thống hóa truyện kể. Các tư liệu được luận án khảo sát có quy mô và hình thức khác nhau, được chia 3 nhóm: nhóm tư liệu lịch sử, địa chí triều Nguyễn (5 tư liệu); nhóm tư liệu sưu khảo,

34

nghiên cứu lịch sử, văn hóa, địa phương chí... (35 tư liệu); nhóm tư liệu sưu tập, biên soạn, điền dã… (24 tư liệu). Tổng cộng có 64 tư liệu (với 57 tư liệu được sử dụng để chọn lọc hệ thống truyện) (xem Phụ lục 1). Các tư liệu phong phú nhưng không thuần nhất, đặt ra những vấn đề về văn bản tư liệu.

1.2.2.1. Nhóm tư liệu sử biên niên, địa chí thời kỳ nhà Nguyễn thế kỷ XVIII, XIX Nhóm tư liệu có số lượng truyện ít nhưng có ý nghĩa khởi đầu cho nguồn

truyện, đồng thời cho thấy quan điểm nhận diện tư liệu truyện dân gian.

Nhìn chung, với Gia Định thành thông chí, công trình lịch sử, địa chí quy mô lớn của triều Nguyễn, các bộ sử, địa chí được biên soạn về sau đều có phần tham khảo, ghi chép lại sách này, như Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục... Trong đó, có những truyện tương truyền về nhân vật lịch sử Nam Bộ, đặc biệt là về “đức Thế tổ Cao Hoàng”, tức Nguyễn Ánh, tuy văn bản có chút ít sửa đổi nhưng về cơ bản là cùng một loại tư liệu, không phải những nguồn khác nhau.

Về quan điểm tiếp cận đối với nguồn tư liệu sử, những văn bản ghi chép truyện mang tính chất tương truyền về các nhân vật lịch sử có phải là văn bản truyện dân gian?

Nói chung, việc ghi chép lịch sử có yêu cầu về tính khách quan. Tuy có phần hạn chế do cách nhìn của sử gia trong thời đại nhưng về cơ bản chính sử trước nay vẫn là những căn cứ xác thực, đáng tin cậy ở mức độ nhất định. Nhiều sử gia đã cân nhắc, đánh giá lại những gì cho là chủ quan, sai lệch ghi ở sử cũ. Như Đại Việt sử ký tiền biên của triều Tây Sơn, bộ sử mang tính sử luận đậm nét, sử thần Ngô Thì Sĩ đã nêu chính kiến đối với sử liệu không xác thực: “Tác giả dối ta, ta tin rồi lại đi dối người khác. Bậc quân tử đối với điều mình không biết há lại bừa bãi thế sao” (NK.QI) [218,40]. Hay trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục triều Tự Đức, tuy “lời cẩn án”, “lời phê” có những chỗ bất cập (như nói về chiến công của Đinh Bộ Lĩnh hay của nhà Trần; hoặc về công lao của Gia Long khi dựa vào quân nhà Thanh) nhưng phần căn bản đã cho thấy tâm huyết và sự thận trọng của “vua và thần tử” triều Nguyễn nói riêng trong việc làm sử (nhất là việc xử lý những chi tiết mơ hồ về lịch sử của “sử cũ”)… Hay đoạn “bút phê” về sự kiện Bình Định Vương đánh thành Đông Quan cũng cho thấy sự cân nhắc, phán xét về các sự kiện (có thể để tránh lối mòn cũ): “có lẽ vì tập sử Lê ký là do các bầy tôi nhà Lê biên soạn, cho nên tuy gọi là thực lục, nhưng có nhiều lời lẽ quá khoe khoang, không đủ tin là chứng cứ xác thực được” (CB,QXII) [167,794]… Như vậy, tuy chính sử vốn là công cụ của triều đình ghi chép chuyện về vua chúa, các “bề tôi”, tư tưởng của các sử gia là tôn xưng nên có thể thêu dệt những

35

câu chuyện tán tụng, nhưng lịch sử cũng có những chế định của nó, không thể chỉ theo ý đồ chủ quan.

Mặt khác, việc đưa truyện dân gian vào chính sử đã có tiền lệ. Thời kỳ đầu, truyền thuyết đã được dùng như cứ liệu bổ khuyết cho lịch sử (tiêu biểu là Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên). Ở các giai đoạn sau, các sử gia ít nhiều cũng đã sử dụng truyện kể, những chi tiết truyền tụng trong dân gian để khắc họa nhân vật lịch sử. Điều này gắn với dụng ý chính trị của các sử gia phong kiến. Ở một phương diện nhất định đây còn là vấn đề quan điểm học thuật của thời kỳ “văn sử triết bất phân”. Các tác giả không chỉ dựa vào thư tịch bác học mà còn dựa vào “dã sử”, “lời truyền tụng”, tức nguồn “văn liệu” truyền miệng. Như phần Phàm lệ Đại Việt sử ký toàn thư, sách cuối thế kỷ XV của sử quán triều Lê, đã ghi: “Sách này làm ra gốc ở hai bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và của Phan Phu Tiên, tham khảo thêm Bắc sử, dã sử, các bản truyện ký xưa nay và những điều nghe thấy truyền lại rồi khảo đính, biên tập mà thành” [216]. Hay lời tấu trong Đại Nam liệt truyện, sách cuối thế kỷ XIX của sử quán triều Nguyễn: “nước có sử là để tỏ quy mô thể thống một đời, sử có truyện là để thuật gốc ngọn trước sau một người, cho nên làm sử có bốn thể thì truyện là một” (Q1) [164,9]. Quan niệm “truyện” ở đây thuộc phạm trù văn bản sử, một hình thức ghi chép lịch sử của thời kỳ này, tuy nhiên cũng cho thấy quan điểm làm sử không xem nhẹ việc ghi chép, mà hình thức này không thể bỏ qua lời kể tương truyền, vốn là những thực tế phong phú, phản ánh căn cứ xác thực nhất định của sự kiện trong đời sống và trong niềm tin của nhân dân. Như Đại Việt sử ký toàn thư khi nói về Trần Hưng Đạo đã đưa vào lời kể về sự linh thiêng: “Sau khi ông mất, người ở các châu huyện ở Lạng Giang gặp tai biến ốm đau, nhiều người đến cầu khấn. Hoặc mỗi khi có giặc, đều cầu đảo ở đền Hưng Đạo, thấy hộp kiếm kêu lên thì thắng lợi” (BK.Q4) [216,398]. Hay sách Quốc sử quán triều Nguyễn cũng ghi câu chuyện chúa Nguyễn Hoàng do lời tục truyền về “bà già áo đỏ ngồi trên đỉnh gò” đã dựng chùa Thiên Mụ [168,35]; hay chuyện đánh tướng nhà Mạc ở sông Ái Tử, đêm mộng thấy “người đàn bà áo xanh” đến mách bảo “dùng mỹ kế” [168,22].

Về Nam Bộ, sách Gia Định thành thông chí trong nội dung biên khảo đã ghi chép những lời truyền tụng, như trong mục Thành trì chí có ghi truyện Sư Hồng Ân đánh cọp [43,34]; mục Sơn xuyên chí nói về Sông Xá Hương có chi tiết tương truyền: “Người địa phương cầu khấn điều gì đều được linh ứng” [43,47]; về Sông Lũng Kỳ: đêm sinh Mạc Tông “tìm thấy tượng Phật vàng cao bảy thước ta, dọi sáng đáy sông...” [43,97]; mục Cương vực chí, đoạn nói về Trấn Hà Tiên có lời kể về lai lịch tên đất [43,159] hay Đại Nam nhất thống chí cũng ghi nhận những lời kể tương truyền về

36

Sông Song Ma, Sông Xá Hương (Q.XXVII) [165,217], Sư Ân, Sư Ngộ, sư Lượng (Q.XXVII) [165, 247]…

Việc đưa các truyện dân gian (hình thức tương truyền) vào chính sử đã thể hiện khuynh hướng sử hóa truyện dân gian của thời kỳ này. Điều này làm cho truyện kể về nhân vật lịch sử phần nhiều pha lẫn màu sắc sử biên niên. Tuy nhiên, nhờ đó truyện dân gian có hình thức lưu trữ sớm và bền vững về mặt giá trị. Nhiều sách sưu tập truyện dân gian về sau đã dẫn nguồn tư liệu này (chép nguyên văn hoặc liên hệ để bổ trợ bản kể mới), như các mẩu truyện về bà Thái phi Từ Dũ ghi chép trong Đại Nam liệt truyện được đưa vào Kho tàng giai thoại Việt Nam [93], Giai thoại phụ nữ Việt Nam [144].

Những mẩu truyện kể trong sử, địa chí là hình thức ghi chép nguyên trạng (như sử gia thường phát biểu ở mục phàm lệ hay lời tấu trình) hay đã cắt sửa cũng là vấn đề đặt ra. Do mục đích làm sử nên việc đưa nguồn “văn liệu” dân gian vào sẽ rập theo khuôn mẫu sử, tuy nhiên, xét về bản chất, đây là văn bản văn học dân gian, bởi điều cốt yếu là nguồn chất liệu tạo nên truyện kể. Việc nhận diện có thể căn cứ trên một số dấu hiệu đặc trưng, như: lời mở đầu “Tương truyền…”, yếu tố kỳ ảo, môtíp..., đồng thời văn bản còn được ghi chép ở loại tư liệu khác hoặc được truyền tụng (có một số văn bản là cốt kể lại rất gần với hình thức lời kể dân gian).

Với văn bản đã được chỉnh sửa theo phong cách sử, nếu có bản kể dân gian, thì cần đối chiếu, chọn lọc lại. Việc dẫn lại hoàn toàn văn bản sử một sự tích được lưu truyền có khi chưa ghi nhận được dạng thức đầy đủ của truyện kể (như những đoạn kể về Nguyễn Ánh ghi trong sách Quốc sử quán triều Nguyễn). Với những văn bản sử chỉ còn giữ một phần chất dân gian thì không thể xem toàn bộ văn bản là truyện dân gian, như các “giai thoại” lấy từ các trang viết của Đại Việt sử ký toàn thư: Chó trong nhà, cắn người lạ vì không phải là chủ nó, Thà làm quỉ nước Nam không thèm làm vương đất Bắc, Không ngại việc đánh giặc chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo [93].

1.2.2.2. Nhóm tư liệu biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa… thời kỳ trước 1975 đến nay

Tư liệu biên khảo, nghiên cứu lịch sử, văn hóa xã hội, tự điển ngôn ngữ, địa phương chí, nhân vật chí, thần tích…, thường ở hình thức lời kể tương truyền cũng là một kênh thu nhận, góp phần lưu giữ nguồn truyện dân gian. Trong đó, tư liệu ghi chép về nhân vật liên quan đến nghi lễ, tín ngưỡng có khả năng chứa sự tích, tức có nguồn gốc từ một truyền thuyết hay giai thoại nào đó. Đây là nguồn sưu tầm điền dã gắn với những di tích văn hoá vật chất (đền, chùa, miếu, võ…) (như Sổ tay hành hương đất phương Nam [208]). Tuy nhiên, các công trình này không xem truyện dân gian là đối

37

tượng nghiên cứu mà chỉ coi đó là tư liệu hỗ trợ nên khi tập hợp nguồn truyện cần chọn lọc lại văn bản.

Tác giả bộ Sưu khảo các tỉnh, thành năm xưa đã bộc bạch: “Chúng tôi thích làm văn hóa, viết sách, sưu khảo, tìm hiểu non sông gấm vóc…” [111,2]; “đã lê gót, dấn thân khắp nẻo đường đất nước để cống hiến cho bạn đọc những di tích lịch sử non nước nhà” [117,84], “ghi lại những gì tai nghe mắt thấy hoặc do người dân nơi đây kể lại” [118,92]. Mặc dù đây không phải là loại tư liệu sưu tập (truyện kể ít, sắp xếp thể loại còn đơn giản) nhưng nhìn chung đã ghi chép từ thực địa những mẩu truyện dân gian về nhân vật lịch sử Nam Bộ mà hầu hết đã được sách sưu tập về sau biên soạn, “nhuận sắc” lại. Một số sách biên khảo lịch sử, bài viết liên quan các nhân vật Nam Bộ đã góp nhặt những mẩu truyện tương truyền, mặc dù còn khá ít ỏi (như Theo dấu Bùi Hữu Nghĩa [85], Vài giai thoại có dính líu tới cụ Lãnh binh Trương Định trong Tập san Sử Địa [226]…).

Sau 1975, các tư liệu dạng này đa dạng hơn. Tiêu biểu là trong các Kỷ yếu Hội thảo khoa học, có những truyện thu thập từ lời kể trong dân gian địa phương, như về Nguyễn Hữu Cảnh, Trương Định, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa…

Các tư liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa địa phương có xu hướng sử dụng những mẩu truyện dân gian về nhân vật lịch sử như nguồn dữ kiện. Với loại văn bản này, không thể coi toàn bộ là văn bản truyện dân gian mà cần chọn lựa trong đó những mẩu truyện phù hợp (cũng dựa trên những dấu hiệu đặc trưng như: lời mở đầu (“Tương truyền”, “Lời tục truyền”, yếu tố kỳ ảo, môtíp...). Chẳng hạn, Anh hùng kháng Pháp Nguyễn Trung Trực [97], đây là tư liệu lịch sử không thể đồng nhất với tư liệu truyện dân gian (như các trường hợp: Hỏa hồng Nhật Tảo, Nghĩa binh đánh giặc ở Vàm Răng, Ông Nguyễn diệt giặc ở Kiên Giang...)… Hay Sổ tay hành hương đất phương Nam [208], đây là sách sưu khảo về văn hóa, lịch sử địa phương, có những văn bản mang tính chất ghi chép lịch sử như: Đốc binh Bùi Quang Diệu, Nguyễn Văn Quá…, trong khi các bản kể như Ông Cử Đa, Lê Quang Quan… có thể đưa vào hệ thống truyện về nhân vật lịch sử, những lời truyền tụng về sự kiện, nhân vật như những sự tích được kể.

1.2.2.3. Nhóm tư liệu sưu tập truyện dân gian thời kỳ trước 1975 đến nay

Đây là loại tư liệu chủ yếu cho thấy diện mạo của nền văn học dân gian Nam

Bộ, tạo cơ sở cho việc khảo sát, nghiên cứu.

Thời kỳ trước 1975, tập sách Chuyện xưa tích cũ của Sơn Nam, Ngọc Linh đã

tập hợp một số truyện kể về nhân vật, song còn ít và xếp lẫn với các loại truyện khác.

Thời kỳ sau 1975, tư liệu sưu tập truyện dân gian khá nở rộ. Trong đó có sách sưu tầm điền dã, loại tư liệu chuyên biệt. Các tuyển tập Thơ văn Đồng Tháp, Văn học

38

dân gian Đồng bằng sông Cửu Long, Văn học dân gian Sóc Trăng, Văn học dân gian Bạc Liêu, Văn học dân gian Châu Đốc... cho thấy một diện mạo tư liệu mới của truyện dân gian Nam Bộ. Về cơ bản, các tư liệu đã ghi chép, văn bản hóa theo hình thức ghi lại nguyên văn những truyện kể lưu hành ở địa phương hoặc có bước chỉnh lý văn bản theo đặc điểm truyện dân gian mà các tác giả sưu tầm, biên soạn quan niệm. Nhìn chung, các tư liệu này đã cố gắng giữ lại dấu ấn đời sống dân gian của các truyện kể.

Tuy nhiên, nguồn tư liệu có sự trùng lặp nhiều. Như truyện về Phan Văn Trị, tư liệu cổ nhất là Phan Văn Trị (1830-1910) phụ: Học Lạc - Nhiêu Tâm (1956), tư liệu này được lặp lại trong Kho tàng giai thoại Việt Nam (1998). Hay cùng một truyện kể lại có mặt trong bốn tư liệu của một tác giả biên soạn (Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười, Truyền thuyết Thiên Hộ Dương - Đốc binh Kiều…), hay lặp lại sách khác (có truyện chú thích nguồn). Có trường hợp, do điều kiện khách quan, một số truyện kể bị trùng lặp, như truyện Giết hổ cứu bạn [99], Tại sao mộ Phật thầy Tây An không đắp nấm [182], Nãi chuối cau cúng dường cho Thầy Tây An cư sĩ [160] đã in trong Kỳ tích núi Sam [21]. Hay do việc thay đổi địa giới hành chính Nam Bộ trước đây, như khi xuất bản Vĩnh Long xưa [120], một trấn lớn bao trùm một góc miền Tây mà Sa Đéc, Bến Tre là vùng thuộc Long Hồ ngày trước, tác giả nhắc lại các nhân vật đã nói đến ở Sa Đéc xưa [118], Kiến Hoà xưa [117].

Các tư liệu đặt ra vấn đề biên soạn, văn bản hóa truyện dân gian. Văn bản hóa tác phẩm văn học dân gian là xác lập cho tác phẩm một hình thức ngôn từ cụ thể. Việc ghi chép rất cần thiết, bởi “những lời truyền khẩu đáng nghe song cũng dễ thoảng qua hay chìm mất” [132,3]. Trên thực tế, các tác phẩm văn học dân gian được phổ biến, lưu hành không chỉ bằng phương thức truyền miệng mà còn bằng văn bản. Về bản chất, con đường hình thành tác phẩm văn học dân gian trong mối liên hệ với việc văn bản hóa mang tính chất một quá trình tái tạo, trong đó những sáng tác được ghi chép được cố định văn bản, khi phổ biến ra, đến lượt nó sẽ trở thành tác phẩm truyền miệng. Không chỉ nhân dân sáng tác và lưu truyền mà các nhà sưu tầm, biên soạn qua nhiều thế hệ cũng đã góp phần không chỉ trong việc sưu tầm, phục hồi, chỉnh lý các tác phẩm văn học dân gian phong phú và đa dạng.

Việc ghi chép, biên soạn truyện dân gian ngay từ thời kỳ trước 1975 đã khá phức tạp. “Không ít văn bản đã xa rời lối kể của dân gian - lối kể mà người ta còn có thể tìm thấy trong đời sống để đối chiếu một cách dễ dàng” [148,64]. Khuynh hướng này về sau có chiều hướng gia tăng với những dạng thức khác nhau. Với tư liệu truyện dân gian Nam Bộ, nhiều truyện kể được biên soạn lấy từ tư liệu lịch sử hay văn hóa, xã hội, trong đó, sự có mặt “yếu tố chính sử xen lẫn những tình tiết dã sử” nhiều khi do

39

nhóm biên soạn, chứ không phải do sự biến đổi hình thức của tác phẩm và thể loại. Như trong Nghìn năm bia miệng [206], không ít văn bản thường có độ dài đáng kể mang tính chất ghi chép biên khảo (như Vườn trầu dấy nghĩa, Người vợ Trương Định ở đất Gò Công...). Ở một số truyện, tác giả cũng ghi rõ dẫn theo nguồn tư liệu biên khảo, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo, văn hóa trước năm 1975, như Bổn sư Ngô Lợi: theo Hệ phái Tứ ân hiếu nghĩa của Hà Tôn Dân; hay ở truyện Trần Bá Lộc, tác giả ghi: “Chúng tôi xin cung cấp vài chi tiết thú vị trong đám tang của tên thực dân tay sai này…”. Những mẩu chi tiết góp nhặt trong đó mới là những giai thoại.

Một số tư liệu sưu tập chưa thuần chất. Đây là vấn đề “chất dân gian của những sáng tác dân gian”. Như truyện Thoại Ngọc Hầu diệt cọp, Những ngôi mộ bị xiềng và vong linh Trương Định [160]; Những chuyện lạ về Phật Thầy Tây An [182] có chi tiết khác lạ… Hay trong Giai thoại kẻ sĩ Việt Nam, lời tựa sách viết: giai thoại được “nghiền ngẫm và sáng tạo lại một phần theo cảm xúc, suy tưởng và văn phong của tác giả chứ đâu phải chỉ để sao chép các bản gốc, các bản dịch?” [70,14], theo quan điểm biên soạn này, có bản kể xuất hiện những chi tiết “ngoại biên”, như: “Chuyện như vậy nè bồ…” (Tại sao thành Vĩnh Long lại gọi là thành Quỳ) hay đưa vào lời bình (truyện số 249. Thơ…, Không biết ăn mắm - đồng nghĩa kẻ vong bổn… Hoặc có những văn bản mới là tiểu dẫn về hoàn cảnh sáng tác hay chi tiết thơ văn, chưa có cốt truyện để trở thành giai thoại, như truyện Nguyễn Hữu Huân [70], Thơ theo vận Từ Thứ [123]...

1.2.2.4. Những tư liệu không thuộc phạm vi đề tài

Chúng tôi đặt ra ngoài phạm vi khảo sát những trường hợp sau đây: Trường hợp thứ nhất là những văn bản có nội dung trích dẫn và bình sử. Việc bình sử đã có truyền thống từ trước. Như một tính chất đặc thù của công việc, các sử gia phong kiến thường có những lời bình sau các sự kiện lịch sử được ghi chép, như một cách thức khảo chứng về lịch sử, có khi là của chính tác giả hay dẫn lại của sử gia trước. Chẳng hạn, Đại Nam sử ký toàn thư dẫn lại lời bình của Phan Phu Tiên, Vũ Quỳnh ở Đại Việt sử ký; hay Đại Việt sử ký tiền biên dẫn lại lời bàn của Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên bên cạnh những lời bàn sắc sảo trực tiếp của Ngô Thì Sĩ; hoặc trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục có rất nhiều “lời cẩn án”, “lời phê”. Những lời bình chủ yếu là đánh giá công lao hoặc trách nhiệm của các đời vua chúa về trước hay bàn luận, xét đoán về sự thực giả của các chi tiết lịch sử đưa vào từ nguồn sử liệu dân gian (những truyền thuyết, lời tương truyền).

Trong phạm vi bình sử, còn một dạng thức là trích dẫn văn bản sử và bình. Đây là việc làm của các nhà nghiên cứu lịch sử từ thế kỷ XX đến nay, một hình thức biên soạn sách về lịch sử, theo lối tổ chức thành những câu chuyện lịch sử. Các tác giả gọi

40

đây là những “giai thoại lịch sử”. Thực tế, đây là những “giai thoại” của lịch sử, không phải thể loại của văn học dân gian. Nội dung nói đến những sự kiện gây ấn tượng hoặc còn nghi vấn, có tính chất giả thuyết đặt ra đối với người nghiên cứu lịch sử, được nhắc nhở, bàn luận lâu dài. Về bản chất, giai thoại của lịch sử (hình thức những câu chuyện lịch sử) là những văn bản sử, được diễn giải thông qua những lời bình để thể hiện quan điểm của người nghiên cứu lịch sử. Chính trong những “giai thoại lịch sử” loại này, có thể tìm thấy một số giai thoại dân gian về lịch sử. Ví dụ, Việt sử giai thoại [203], đây là văn bản sử với những câu chuyện lịch sử và những lời bình. Dạng thức chung của các tập sách là trích dẫn những văn bản sử, chủ yếu lấy từ hai bộ sử Đại Nam thực lục (Tiền biên) và Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên) và đưa ra “Lời bàn”. Trong đó, văn bản sử có thể là một đoạn kể về sự kiện lịch sử đặc biệt (như Di chúc của Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Khoát với những chế định khác thường…) hoặc là một số giai thoại dân gian đã được ghi chép trong sách lịch sử (như Lời khuyên của trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sự tích chùa Thiên Mụ)… Tương tự có Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương Nam [65], việc bình sử gắn với chủ đề về tiến trình mở đất phương Nam. Tư liệu được liên hệ, trích dẫn bao gồm các bộ sử triều Nguyễn và mở rộng ở một số tư liệu nghiên cứu, lịch sử khác (như Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn), Sử Cao Miên (Lê Hương), Xứ Đàng Trong (Phan Khoang)...). Tác giả chú trọng một số sự kiện chính sử không nhắc đến hoặc còn sơ lược, như các “giai thoại”: Di ngôn chánh trị của Nguyễn Hoàng; Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và cuộc hôn nhân giữa công chúa Ngọc Vạn và quốc vương Chân Lạp...

Trường hợp thứ hai là những hình thức sáng tác truyện kể lịch sử. Hình thức này có phương thức chung là dựa trên tư liệu lịch sử kết hợp với các mẩu truyện dân gian, phóng tác nội dung sự kiện, đặt lời thoại, tạo ra các chương, đoạn tác phẩm. Có tác giả gọi là những giai thoại lịch sử. Thực tế, đây là thể loại truyện ký văn học, không phải thể loại truyện dân gian.

Chẳng hạn, Phan Đình Phùng Việt sử giai thoại [134], trong Lời giới thiệu “lịch sử ký sự”, có sự kết hợp việc khai thác hai nguồn tư liệu thành văn và dân gian để dựng lại lịch sử, một hình thức sáng tác truyện lịch sử. Hay trường hợp sáng tác truyện lịch sử song với tên gọi “chuyện kể dân gian”. Như Nguyễn Trung Trực (Chuyện kể dân gian) [228], dấu ấn tác giả thể hiện rõ trong cách thức bố cục, ngôn ngữ kể chuyện, như: Trận hỏa công trên sông Nhật Tảo, Ông soái đặt con mình vào bọng cây sao, Phó tướng Lâm Quang Ky, Lê Lai của thế kỷ XIX…

Trường hợp thứ ba là những văn bản ghi chép lịch sử hay văn học sử. Một số sách “tuyển soạn” đưa vào những văn bản mang tính chất ghi chép lịch sử hay văn học

41

sử, có sự gia công biên soạn và cũng gọi là những “giai thoại lịch sử”. Các văn bản chủ yếu kể về thân thế, sự nghiệp nhân vật hay về sự kiện lịch sử và thường có những lời thoại theo lối kể chuyện lịch sử. Đối với những nhân vật có sáng tác thơ văn, văn bản ghi chép cả những bài thơ được nhân vật sáng tác, thể hiện chí khí hay dùng đối đáp với kẻ thù hoặc thơ do người đương thời cảm khái viết nên để ca ngợi. Ở trường hợp này, tùy vào biểu hiện cụ thể có thể xem là văn bản văn học sử về tác gia, tác phẩm, còn nếu có đầy đủ yếu tố “giai” và “thoại” thì đã là những giai thoại văn học. Đây là những hình thức văn bản khác nhau của các lĩnh vực văn học dân gian và lịch sử.

Như Giai thoại lịch sử Việt Nam [215], các giai thoại theo cách gọi của sách chủ yếu mang ý nghĩa là văn bản ghi chép lịch sử, như: Diệt nhà Trịnh, vào yết kiến vua Lê; Một danh tướng hàng đầu của triều Nguyễn hay Phen này miễn đặng hoà 2 nước.... Trường hợp các bản kể về Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị có liên quan đến nội dung thơ văn, có khả năng đây là những sáng tác của người trí thức đương thời đáp ứng được yêu cầu về lối kể chuyện nên đã trở thành những bản kể có đời sống.

Trường hợp khác là các tư liệu giai thoại văn học. Như Giai thoại về Bùi Hữu Nghĩa [188], bỏ qua những lời thoại thêm thắt từ việc biên soạn, phần cốt lõi của nó vẫn là “tài liệu thi văn”.

Cuối cùng là hình thức truyện sáng tác không thể hiện bản chất của tác phẩm văn học dân gian. Như truyện Hòn Củ Tron kể: quân sĩ theo lệnh Nguyễn Ánh đã tìm được một loại củ lạ, từ đó tạo thành tên hòn (thực ra tiếng Khmer là “prằm buôl chon” và chúng tôi đã gặp trực tiếp người sáng tác truyện). Hay truyện Nàng Ái Cơ trong chậu úp trong Địa phương chí Hà Tiên, theo một căn cứ của Trương Minh Đạt, dưới thời Pháp cứ vài năm có nhật tu một lần quyển Monographie de la Province de Hà Tiên, từ năm 1932 đến 1951 “đều không thấy ghi chép những điều thêu dệt lãng mạn có tính chất “truyền thuyết” [36,261] (và theo Trương Thanh Hùng, nhà nghiên cứu folklore ở Kiên Giang, đây là truyện do một nhà sư đặt ra).

1.2.3. Hệ thống truyện 1.2.3.1. Xác định nguồn tư liệu và tiêu chí sưu tầm, biên soạn

Như đã nêu, việc sưu tầm, biên soạn nguồn truyện về đề tài của luận án trước hết dựa vào các loại tư liệu đã được ghi chép, cố định hóa. Mặt khác, việc tập hợp truyện kể không chỉ giới hạn ở nguồn tư liệu văn bản mà còn mở rộng ở tư liệu kể, tức nguồn truyện trong dân chúng. Qua sưu tầm thực tế, chúng tôi ghi nhận 9 truyện kể lưu truyền về nhân vật (xem Phụ lục 1).

Để tập hợp, hệ thống hóa nguồn truyện, yêu cầu cơ bản đặt ra là xác định tiêu chí chất dân gian. Dấu hiệu nổi bật của tính chất dân gian của bản kể là tính chất tương

42

truyền, trong đó chất liệu thực tế đã được nhào nặn, lại được thể hiện qua lời kể, ngôn ngữ kể mang dấu ấn lời ăn tiếng nói nhân dân. Văn bản có thể là sáng tác của cá nhân nhưng nó phải được lưu truyền, có đời sống dân gian. Mặt khác, đây là những văn bản được ghi chép trong các sách sưu tập, thường có đôi chút khác biệt do sưu tầm thực tế hoặc do việc biên soạn, tạo nên dị bản. Theo đó, những chú thích về người kể, hình ảnh thực địa hay lời giới thiệu về quá trình sưu tầm biên soạn là chứng cứ đáng tin cậy.

Yêu cầu tiếp theo là tiêu chí thể loại. Luận án chỉ đưa vào đối tượng khảo sát hệ thống những truyện kể mang đặc điểm của truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử ở Nam Bộ trong khoảng thời gian đã xác định.

Trong quá trình xác định nguồn tư liệu, chúng tôi thấy có một số trường hợp tồn

nghi.

Trường hợp thứ nhất là những bản kể chưa xác định rõ nhân vật. Như truyện Chuyện Neak Trong (hay Người khuất mặt ở U Minh (Người ngay thẳng) [98]). Theo lời dẫn của Sơn Nam, đây là truyện về Nguyễn Trung Trực: “Người cư ngụ ở U Minh làng Đông Yên, Đông Thái, Đông Hưng, Vĩnh Hòa, những làng này đều lấn một phần vào rừng (…) - còn kể lại một chuyện cổ tích dính dấp với ông Nguyễn Trung Trực. Có lẽ đó là một chuyện Cao Miên, cải biến lại” [122,97]. Tuy nhiên đây mới là sự ước đoán, nhân vật trong truyện kể không có danh tính cụ thể.

Trường hợp thứ hai là những bản kể không thuần chất về nhân vật, sự kiện. Như truyện Tám chữ giết người trong Vĩnh Long xưa [120] kể: khi nghe Phan Hiển Đạo nói muốn ra hợp tác với giặc, Phan Thanh Giản đã tức giận quát mắng và phê 8 chữ, khiến Phan Hiển Đạo hổ thẹn trở về Vĩnh Kim Đông dùng thuốc độc tự tử. Trong khi theo Định Tường xưa [114], Phan Hiển Đạo lui về ở ẩn, khước từ khuyến dụ, ông tự vẫn để tỏ lòng tiết liệt với đất nước. Còn có giai thoại kể, cụ Nghè (Phan Hiển Đạo) là người có chí khí, thường giao du với các danh sĩ yêu nước: “Từ khi cụ Bùi Hữu Nghĩa quy ẩn ở Bình Thuỷ”, “cụ Cử Thạnh, cụ Nghè Phan Hiển Đạo ở Định Tường vẫn thường lui tới” (Xóm Bà Đồ).

Trường hợp khác là những bản kể chưa rõ là sáng tác dân gian. Như truyện Ông Đồ Phủ Kiết [208] (theo Tập san Sử Địa [181,86-92]) có hình thức văn bản ghi chép lịch sử hơn là truyện kể dân gian.

1.2.3.2. Hệ thống hóa truyện kể

Trên thực tế nguồn tư liệu, việc chọn lựa truyện kể chủ yếu dựa vào các văn bản sưu tầm, biên soạn. Chúng tôi có đối chiếu các văn bản để chọn bản kể chính thức. Tác phẩm được chọn là văn bản hoàn chỉnh, có chất dân gian, ưu tiên cho tư liệu đầu tiên công bố bản kể. Trong trường hợp cần thiết sẽ chỉnh lý, biên tập lại truyện kể.

43

Tiêu chí phân loại các hệ thống truyện dựa vào nội dung, chủ đề. Tác phẩm cùng hệ thống nội dung, chủ đề sẽ được tập hợp thành hệ thống truyện. Thực tế tư liệu cho thấy, các hệ thống nội dung, chủ đề luôn tương ứng với các hệ thống nhân vật. Cụ thể như sau:

Từ thế kỷ XVII, bắt đầu thời kỳ khai phá vùng đất Nam Bộ, xuất hiện mảng truyền thuyết về nhân vật lịch sử là những người có công khai phá đất đai lập nên xóm ấp, chiến đấu với động vật gây hại, kiến tạo công trình..., phản ánh hai sự kiện, biến cố quan trọng trong đời sống của những lưu dân người Việt bấy giờ.

Công cuộc mở cõi, hoạch định cương thổ, dẹp nạn xâm lấn cũng được thực hiện ngay từ buổi đầu kiến tạo vùng đất là cơ sở hình thành mảng truyền thuyết về nhân vật lịch sử là những người chiến đấu chống quân Cao Miên (Chân Lạp), Xiêm La. Đến thời kỳ Pháp xâm lược, tính từ 1858 đến nửa cuối thế kỷ XIX, xuất hiện hàng loạt truyện kể về những nhân vật lịch sử là những người yêu nước chống Pháp, nổi bật nhất là truyền thuyết về các nhân vật khởi nghĩa và giai thoại lịch sử về cuộc đấu tranh của các danh sĩ yêu nước chống thực dân và tay sai.

Song song với tiến trình phát triển lịch sử là tiến trình phát triển văn hóa, nổi lên mảng giai thoại về nhân vật lịch sử Nam Bộ là các danh nhân, danh sĩ (phần lớn là danh nhân văn hóa) với những dấu ấn độc đáo.

Tựu trung, tư liệu có 3 hệ thống nhân vật lịch sử là: nhân vật khai khẩn mở đất, nhân vật chiến đấu chống ngoại xâm và nhân vật danh nhân, danh sĩ, gắn với tiến trình lịch sử Nam Bộ.

Bên cạnh đó, biến cố lịch sử là cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn diễn ra ở Nam Bộ gắn với những dấu ấn lịch sử, văn hóa ở đây đã trở thành chất liệu phong phú cho sự hình thành mảng truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh.

Qua sưu tầm, tập hợp thống kê, phân loại, hệ thống truyện về đề tài của luận án có tổng số 220 đơn vị truyện (gồm 180 truyền thuyết, 40 giai thoại) và 17 dị bản, xoay quanh 104 nhân vật lịch sử, phân thành 4 nhóm truyện, được quy ước như sau: 1.1. Bảng thống kê, phân loại hệ thống truyện

Nhóm truyện

Ký hiệu

Thứ tự

nhóm

Số truyện Số nhân vật lịch sử

N.1.

31

37

1

(17%)

Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử là những nhân vật tiền hiền, khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước

2

N.2.

91

58

Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử là những người anh hùng chiến đấu chống ngoại

44

(38%)

xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước

3

Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh

N.3.

1

4

N.4.

52 (23%) 40

14

Giai thoại về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước

(22%)

Tổng cộng

220

104

Tiểu kết chương 1

Qua giới thuyết về thể loại truyền thuyết, giai thoại và khảo sát nguồn tư liệu

văn bản, hệ thống truyện, có thể khái quát một số nội dung sau:

1. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu đi trước, luận án khái quát lại khái niệm về truyền thuyết và giai thoại, trình bày những đặc điểm của hai thể loại này. Đối với giai thoại, qua sự phân loại đối tượng nghiên cứu, luận án tập trung vào giai thoại folklore như là đối tượng nghiên cứu.

2. Luận án tiếp tục so sánh truyền thuyết và giai thoại folklore, đồng thời chỉ ra sự gần gũi, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của chúng. Luận án cũng đã đề cập tới nhũng truyền thuyết và giai thoại kể về cùng một sự kiện và nhân vật lịch sử để qua đây thấy rõ hơn sự khác biệt và thâm nhập lẫn nhau giữa hai thể loại này. Việc giới thuyết về thể loại của luận án tạo cơ sở cho việc khảo sát đối tượng Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước.

3. Luận án trình bày nguồn tư liệu là đối tượng nghiên cứu, các tiêu chí xác định nguồn tư liệu này. Tư liệu nguồn truyện được phân mốc thời gian theo phân kỳ lịch sử, nhằm thể hiện những nét khái quát của tiến trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ nói riêng.

4. Các loại tư liệu phong phú và đa dạng (gồm 3 nhóm, 64 tư liệu). Bên cạnh tư liệu sưu tập, các tư liệu sử, biên khảo, nghiên cứu có đóng góp không nhỏ cho việc tập hợp, hệ thống hóa nguồn truyện. Một số tư liệu sưu tầm được biên soạn tốt, ghi chép theo lời kể truyền tụng trong nhân dân. Qua các nguồn, có thể tiếp cận được nhiều đơn vị truyện, so sánh, đối chiếu tìm đến văn bản hoàn chỉnh. Tuy nhiên, tư liệu liên quan đến đề tài còn phân tán, vấn đề ghi chép, văn bản hóa còn nhiều bất cập.

5. Luận án đã sưu tầm, tập hợp được hệ thống truyện có dung lượng khá lớn, gồm 220 đơn vị truyện, xoay quanh 104 nhân vật lịch sử. Đây là những tư liệu văn bản đáp ứng yêu cầu của đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, số lượng truyện từ tư liệu điền dã còn hạn chế. Đồng thời, chất lượng truyện kể trong một số trường hợp cũng cần được khảo sát kỹ trên nhiều bình diện.

45

CHƯƠNG 2

TRUYỀN THUYẾT VỀ CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ NAM BỘ LÀ NHỮNG NHÂN VẬT TIỀN HIỀN KHAI KHẨN MỞ ĐẤT TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC 2.1. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG TRUYỆN

Khái quát nguồn truyện dân gian về công cuộc khẩn hoang ở vùng đất mới, Đỗ Bình Trị đã nhận xét: “Ở nước ta từ thế kỷ XVI-XVII, công cuộc mở đất được đẩy mạnh. Quá trình di dân mở đất ấy chắc chắn phải được phản ánh chân thực, sinh động trong truyền thuyết phổ hệ về những vị tổ làng vùng đất mới phía Nam - những người lao động dũng cảm, tài trí phi thường, đại diện lỗi lạc nhất của thế hệ đầu “mang gươm đi mở đất” [211,190].

Quá trình khai khẩn mở đất nơi vùng đất cực Nam Tổ quốc đã được thể hiện chân thực và sinh động trong hệ thống truyền thuyết về những nhân vật tiền hiền khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước.

Hệ thống truyền thuyết này kể về lai lịch, công tích các nhân vật lịch sử là những người có công khai phá và xây dựng vùng đất, gắn với tiến trình lịch sử Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX. Nhân vật lịch sử được nói đến thuộc trong số ít những người đi khai sơn phá thạch còn lưu giữ được tên tuổi.

Các truyện kể có âm hưởng ngợi ca, tôn vinh. Khung thời gian của các tác phẩm là thời điểm đầu tiên khi người Việt đến Nam Bộ, tạo nên tính chất trang trọng, xúc cảm thiêng liêng về quá khứ cộng đồng dân tộc tại vùng đất mới. Nhân vật trung tâm mang dấu ấn nhân vật lịch sử, đó là những con người đã đóng góp công sức trong công cuộc khẩn hoang, trở thành hình tượng nhân vật người anh hùng. Các chứng tích địa danh, lịch sử, văn hoá được nhắc đến góp phần củng cố niềm tin về những diễn biến thực tại.

Hệ thống truyện bao gồm hai tiểu loại. Thứ nhất, truyền thuyết địa danh: những truyện kể gắn với lịch sử hình thành địa danh (Bà Rịa, Giồng Ông Ngộ, Sự tích cầu Thị Nghè...); thứ hai, truyền thuyết lịch sử: những truyện kể gắn với lịch sử vùng đất không có yếu tố địa danh cụ thể, nói cách khác, truyện không có chi tiết giải thích cho sự hình thành địa danh (Ông tiền hiền làng Tân Thành, Tăng Ân đánh cọp, Thoại Ngọc Hầu khai hoang...). Có truyện kể mang trực tiếp dấu hiệu của cả hai tiểu loại, như truyện Đồng Bà còn gọi là Tiền hiền đảo Phú Quốc, Bà Kim Giao; hay truyện Địa danh Cao Lãnh có bản kể khác là Ông Đỗ Công Tường ở Cao Lãnh...

Trong hệ thống truyện, sự giải thích địa danh là mục đích, cảm hứng chính. Nó thể hiện tâm tình của con người gắn bó với vùng đất khai phá và sự tri ân đối với

46

những bậc tiền nhân dày công mở đất. Những tên gọi địa danh thường gắn với tên người hay dấu tích về người có công khẩn hoang, lập ấp với ý nghĩa ngợi ca, tôn vinh. Do đó, một số truyền thuyết địa danh đã bước sang ranh giới truyền thuyết lịch sử. Nói cách khác, truyền thuyết lịch sử đa phần đã lẫn vào truyền thuyết địa danh, do chỗ giao thoa giữa hai loại truyện với yếu tố địa danh là dấu hiệu chung.

Chúng tôi tập hợp được 37 truyền thuyết và 4 dị bản về những nhân vật tiền hiền khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, xoay quanh 31 nhân vật lịch sử. Số lượng truyện không nhiều, có thể do nguyên nhân khách quan từ điều kiện sưu tầm, ghi chép tác phẩm. Trong hệ thống này, có 23 / 37 truyện (chiếm tỷ lệ 60 %) có nói đến nguồn gốc địa danh. Điều này càng chứng tỏ vai trò, dấu ấn to lớn của các nhân vật tiền hiền đi khai sơn phá thạch đối với sự hình thành, phát triển của vùng đất Nam Bộ. Về mặt văn bản, các truyện kể thuộc hệ thống này chủ yếu lấy từ nguồn tư liệu dân gian được ghi nhận từ các sách sưu tầm, biên soạn, địa phương chí... Có 4 truyện ghi chép từ tư liệu sử (Tăng Ân đánh cọp, Giồng Ông Ngộ, Sông Châu Phê, Sự tích cầu Thị Nghè). Hầu hết truyện kể có cấu trúc hoàn chỉnh.

Dựa vào tiêu chí đề tài, nội dung và đặc điểm nhân vật, có thể chia hệ thống truyện này thành hai bộ phận: Truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chống động vật gây hại và chống thiên tai dịch bệnh và Truyền thuyết liên quan đến việc xây dựng công trình giúp đỡ cộng đồng.

Dưới đây là bảng tổng hợp thống kê, phân loại:

Bảng 2.1. Thống kê, phân loại

Hệ thống truyện

Nhóm truyện

Số nhân vật lịch sử

truyện, Số dị bản (db)

28

4 db

31

Truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chống động vật gây hại và chống thiên tai dịch bệnh (N.1.1)

9

Truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những nhân vật tiền hiền khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước

Truyền thuyết liên quan đến việc xây dựng công trình giúp đỡ cộng đồng (N.1.2)

Tổng cộng

31

37 4 db

Truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chống động vật gây hại và chống thiên tai dịch bệnh đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống (28 / 37 truyện, chiếm tỷ lệ 75 %). Việc phân chia các nhóm truyện cũng có tính tương đối, dựa theo yếu tố nổi trội trong tác phẩm. Bởi có nhân vật thực hiện đồng thời sự nghiệp khẩn đất và kiến tạo công trình, lập kỳ tich văn hóa thực tế là hai mặt của công cuộc khẩn hoang, như truyện

47

Thoại Ngọc Hầu khai hoang nói đến việc khai hoang và đào kênh; hay Sự tích chùa Bình Đông nói đến việc khai khẩn, đào kênh, trị bệnh và lập chùa... (với trường hợp này, chúng tôi phân tích truyện kể ở các nội dung, song chỉ thống kê đơn vị truyện ở lần đầu).

22. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO 2.2.1. Mô hình cốt truyện

Các truyền thuyết có mô hình cốt truyện truyền thống với lược đồ gồm ba phần:

mở đầu, phát triển và kết thúc, gắn với các tiến trình sự kiện sau:

Tiến trình thứ nhất (1): kể về thời gian, đặc điểm vùng đất và lai lịch (thành phần xuất thân, danh tính, tài năng…), tình huống xuất hiện của các nhân vật trong khung cảnh buổi đầu của công cuộc khẩn hoang. Tiến trình thứ hai (2): kể hoạt động, công tích của nhân vật, gồm những thành tích, kỳ tích lao động… trong công cuộc khai phá và xây dựng vùng đất mới. Tiến trình thứ ba (1): kể thành quả hoạt động, dấu tích lưu lại, sự tri ân công đức, sự thờ cúng...

Mô hình cốt truyện trên được thể hiện ở Bảng 2.2.

Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật

(1) (1) (1) (1) (1) (1)

Chung cục Chung cục (kết quả (kết quả, dấu tích, sự kiện, dấu tích, sự tri ân công đức, sự sự tri ân) thờ cúng…) (3) (3)

tích, hoạt Công Công tích, Công tích, Công tích, Công tích, động của nhân vật hoạt động hoạt động hoạt động hoạt động (thành tích, kỳ tích (2) (2) (2) lao động…) (2) (2)

(1) (1) (1) (1) (1) (1)

Đặc trưng cấu tạo của truyền thuyết nói chung thể hiện qua sự vận động của các tình tiết, môtíp trong các cốt truyện cụ thể, theo một hình thức tổ chức hệ thống sự kiện nhất định. Theo đó, chúng tôi xác định kiểu nhân vật của các nhóm truyện gắn với đề tài - cốt truyện như sau: Bảng 2.3. Thống kê, phân loại kiểu nhân vật, đề tài - cốt truyện

Kiểu nhân vật

Đề tài - cốt truyện

Nhóm truyện

Số truyện, dị bản 28

4 db

Người đi khai sơn phá thạch, tìm sự ấm no cho cộng đồng (KNV.1.1)

Người có công khẩn đất, chiến đấu chống động vật gây hại và chống thiên tai dịch bệnh (ĐT-CT.1.1)

Truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chống động vật gây hại và chống thiên tai dịch bệnh (N.1.1.)

9

Người đi tiên phong kiến tạo công trình (KNV.1.2)

Truyền thuyết liên quan đến việc xây dựng công trình giúp đỡ cộng đồng (N.1.2.)

Người có công kiến tạo công trình cải tạo môi trường khẩn hoang và giúp đỡ cuộc sống cộng đồng (ĐT-CT.1.2)

48

Tổng cộng

37 4 db

2.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện

Hồ Quốc Hùng nhận xét: “Nhân dân đã biết chọn lọc, khai thác những tình tiết thích hợp cho việc tôn vinh, đề cao để tạo ấn tượng mạnh mẽ, phi thường nhưng gần gũi cho nhân vật truyền thuyết. Phương thức sáng tạo ấy mang đến cho truyền thuyết một số công thức biểu đạt đầy ấn tượng” [83,19].

Qua khảo sát 37 truyện về các nhân vật tiền hiền khai khẩn mở đất từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, chúng tôi thấy có 06 tình tiết và 13 môtíp biểu hiện trong các đề tài - cốt truyện (ĐT-CT) được thống kê như sau: Bảng 2.4. Thống kê tình tiết, môtíp

Các tình tiết, môtíp (ký hiệu m)

Tần số xuất hiện

Thứ tự

ĐT-CT 1.2

1.1.

1

18

16

2

Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ (m)

2

10

8

2

Nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khẩn hoang (m)

3

8

8

Người thực hiện việc triều đình hoặc người có tài lực xây dựng công trình

4

11

11

Biệt tài (m)

5

18

17

1

Khai hoang, lập ấp (m)

6

2

2

Sự giao lưu giữa các thành phần cư dân

7

6

6

Đánh cọp, Diệt sấu, rắn… (m)

8

2

2

Cứu hổ mắc xương

9

7

7

Khống chế loài vật gây hại bằng năng lực thần kỳ (m)

4

4

10 Khống chế dịch bệnh bằng năng lực thần kỳ (m)

3

3

11 Khấn nguyện chết thay hay tịch cốc (m)

7

7

12 Đào kênh, đắp đập, khơi sông, rạch...

7

7

13 Đắp đường, xây cầu, lập chợ, chùa, đình, đền...

3

3

14 Cái chết bi tráng (m)

15

27

16

11

Lưu địa danh, di tích (m)

16

3

3

Lưu câu ca, thành ngữ (m)

17

9

9

Tôn tiền hiền, thánh tổ, phúc thần… (m)

18

8

7

1

Thờ tự tại chùa, tháp, đình, đền… (m)

19

5

3

2

Sắc phong

118

159

41

Tổng cộng

(72%)

(28%)

49

2.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện

2.2.3.1. Truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chống động vật gây hại và chống thiên tai, dịch bệnh (N.1.1)

Hệ thống truyền thuyết liên quan đến việc khẩn đất, chống động vật gây hại và chống thiên tai, dịch bệnh có 2 / 28 truyện ghi nhận từ chính sử, các truyện còn lại lấy từ văn bản sưu tầm, biên soạn (có 4 dị bản).

Hệ thống truyền thuyết này có kiểu nhân vật trung tâm là Người đi khai sơn phá thạch, tìm sự ấm no cho cộng đồng (KNV.1.1). Đây là những lớp người đi tiên phong đến vùng đất trong buổi đầu còn hoang sơ, làm nên kỳ tích khai phá vĩ đại được nhân dân nhắc nhở, ngợi ca.

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống truyền thuyết có đề tài - cốt truyện là Người có công khẩn đất, chiến đấu chống động vật gây hại và chống thiên tai dịch bệnh (ĐT-CT.1.1).

Có thể sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện này như sau: Vùng đất hoang sơ (cid:1) nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khai hoang lập ấp (cid:1) đánh đuổi, trừ động vật gây hại hoặc chống thiên tai dịch bệnh (cid:1) kết quả sự kiện (về thực tại, về nhân vật).

Đề tài - cốt truyện có thể xác lập xoay quanh nhân vật mang đặc điểm: Nhân vật thủ lĩnh cộng đồng cư dân một vùng đất mới (NV.1.1.1), Nhân vật có sức khỏe hơn người, có công diệt thú dữ (NV.1.1.2) và Nhân vật dùng thần lực khống chế động vật gây hại hoặc cầu thần lực đẩy lùi thiên tai dịch bệnh (NV.1.1.3). Đặc điểm nhân vật có sự đan xen lẫn nhau, có trường hợp, nhân vật thuộc về hai hoặc cả ba đặc điểm (như truyện về nhân vật tôn giáo). Tuy nhiên, tính chất độc lập của từng nhân vật, như đã nói, vẫn chiếm ưu thế rõ hơn.

- Nhân vật thủ lĩnh cộng đồng cư dân một vùng đất mới (NV.1.1.1)

Nhóm này có 13 truyện, 1 dị bản: Bà Rịa 1, Bà Rịa 2, Tiền hiền đảo Phú Quốc (/ Bà Kim Giao hay Đồng Bà), Rạch Ông Tú, Giồng Ông Ngộ (hay Ông Nguyễn Chất), Lai lịch địa danh Định Yên, Ông tiền hiền làng Hòa An, Ông tiền hiền làng Tân Thành, Đình Thắng Tam, Ngã ba Ông Trạch, Cù lao Ông Chưởng (hay Lòng Ông Chưởng), Thoại Ngọc Hầu khai hoang, Núi Vọng Thê.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những người có vai trò tiên phong tổ chức

khai hoang, lập ấp, tạo dựng địa bàn sinh cơ của cộng đồng dân cư nơi đây.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau:

50

Vùng đất hoang sơ (cid:1) nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến

khai hoang, lập ấp (cid:1) được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ (m) (tần số xuất hiện: 10 lần) -Nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khẩn hoang (m) (6 lần) -Khai hoang, lập ấp (m) (17 lần) –Sự giao lưu giữa các thành phần cư dân (2 lần) -Lưu địa danh, di tích (m) (12 lần) -Lưu câu ca, thành ngữ (m) (1 lần) -Tôn tiền hiền, thánh tổ, phúc thần… (m) (7 lần) -Thờ tự tại chùa, tháp, đình… (m) (5 lần) -Sắc phong (3 lần) (2 tình tiết, 7 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ

Yếu tố thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ có quan hệ gắn bó. Về thời gian khởi đầu, đây là thời gian sự kiện, với ý nghĩa là điểm tựa của những hồi ức về quá khứ, thể hiện nét đặc trưng của truyền thuyết. Trong các truyện kể, yếu tố thời gian thường được miêu tả bằng một giới hạn tương đối, như: “Khoảng năm 1680”… (Bà Rịa 1); “Cách đây hơn 150 năm…” (Giồng Ông Ngộ)… Có truyện đưa vào thời gian phiếm chỉ hay một mốc sự kiện, biến cố lịch sử xã hội, như: “Xưa…”(Đồng Bà); “Vào khoảng những năm quân Tây Sơn còn hùng mạnh…” (Bà Rịa 2)… Các mốc thời gian cho thấy quá trình khai phá bắt đầu sớm nhất là vào cuối thế kỷ XVII và kéo dài về sau.

Gắn liền với thời gian quá khứ là hình ảnh không gian hoang sơ. Môtíp có cơ sở thực tại từ bối cảnh lịch sử, điều kiện tự nhiên vùng Nam Bộ. Thư tịch cổ, ghi chép của Châu Đạt Quan, sứ thần nhà Nguyên đi sứ Chân Lạp vào năm 1296 cho thấy vùng đồng bằng sông Cửu Long lúc đó còn rất hoang vu: “… chúng tôi đi ngang qua biển Côn Lôn và vào cửa sông. Sông này có hàng chục ngả, nhưng ta chỉ có thể vào được cửa thứ tư (cửa Tiền Giang vào Mỹ Tho ngày nay), các ngả khác có nhiều bãi cát, thuyền lớn không đi được. Nhìn lên bờ, chúng tôi thấy toàn cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, thoáng qua không dễ gì biết được lối vào, thế nên các thủy thủ cho rằng rất khó mà tìm được đúng cửa sông” [159,22]. Phủ biên tạp lục, sách thế kỷ XVIII đã ghi nhận: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm” [41,345]. Sách Gia Định thành thông chí ghi: “Xứ này có nhiều cá sấu và cọp dữ” [43,189]…

Thực tại đã được khái quát hóa trong những sáng tác văn học dân gian Nam Bộ. Nguyễn Phương Thảo nhận định: “Hiện ra trong các tác phẩm folklore ở mọi thể loại là một thiên nhiên của thời kỳ khai phá, dấu vết của một thời gian lao có thể mờ nhạt khi màu xanh cây cỏ, sự trù phú của những cánh đồng xuất hiện nhưng trong kí ức con

51

người, thiên nhiên ấy lại hoang vu, gợi ra sự hoang vắng khi con người mới đặt chân tới” [195,56].

Thực tế, không gian hoang sơ đã xuất hiện trong truyện dân gian Nam Trung Bộ, nơi khởi nguồn của tiến trình khai phá vùng đất mới, với hình ảnh rừng rậm và thú dữ, như: “Ngày trước ở vùng Ái Tử bấy giờ hãy còn là một khu rừng rậm ri, rậm rít…”, “…Nhà cửa, vườn tược cứ vừa dựng xong thì hôm sau voi đến phá sạch…” (Bàu Voi)…

Khung cảnh thiên nhiên vùng đất Nam Bộ được tái hiện cũng là cảnh rừng thiêng nước độc, thế lực đối nghịch với con người: địa hình lồi lõm, rừng rậm hoang sơ, sấu đầy bưng, hổ tung hoành vùng đồng hoang…: “Thuở ấy, ở đây còn là núi non rừng rậm, nước mặn thêm địa hình lồi lõm, đầy ma thiêng chướng khí…” (Bà Rịa 1); “Cách đây hơn thế kỷ, vùng đất Phước Long (Bạc Liêu) còn rất hoang vu, trũng thấp…” (Ngã ba Ông Trạch)...

Hình ảnh không gian hoang sơ cũng xuất hiện trong nhóm truyền thuyết địa danh Khmer Nam Bộ, như: “Hồi đó, vùng đất này còn rất hoang vu, nhà cửa thưa thớt…” (Sự tích vùng đất Tà Lọt); hay “Ngày xưa có ông Bassac cùng vợ là công chúa nước Lào” “vượt sông Hậu trở về quê nhà. Đến cửa Vàm Tấn (Đại Ngãi, Sóc Trăng) thình lình bị bão tố nổi lên”, nơi họ lạc vào “vẫn còn là rừng rậm hoang vu” (Sự tích đền chùa Bassac) (tương tự có Sự tích làng Tà Điếp, Sự tích Vũng Thơm, Sự tích ấp Bờ Đập…). Tuy hình ảnh chưa đậm đặc nhưng không gian được thể hiện có sắc thái độc đáo (với đất gò (giồng), nước nổi, bão tố, hạn hán, thú dữ….).

Qua đây cho thấy, không gian hoang sơ chính là không gian thực tại, hình ảnh đặc trưng của vùng đất, đã trở thành một không gian nghệ thuật đặc thù, ghi dấu quá trình con người chinh phục, thích ứng với thiên nhiên hoang dã, tạo lập nên địa bàn sinh thái nhân văn nơi đây. Môtíp Nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khẩn hoang

Môtíp được thể hiện gắn với tình huống sự xuất hiện của nhân vật trong tiến trình thứ nhất của cốt truyện. Trong đó, nổi lên yếu tố thành phần xã hội của các lớp cư dân đầu tiên đến với vùng đất hoang sơ.

Phổ biến nhất là loại nhân vật nông dân, lưu dân. Chi tiết thành phần xã hội này thường xuất hiện ở đầu truyện kể, như: “... trong số lưu dân từ Bình Định vào Nam khai hoang sinh sống có một phụ nữ tên Thị Rịa (không rõ họ), hướng dẫn lưu dân nghèo khổ ở Bình Định vào khai phá...” (Bà Rịa 1); hay ông Huỳnh Công Huy “chiêu mộ thêm lưu dân từ các nơi khác đến…” (Ông tiền hiền làng Tân Thành)... Theo đó,

52

đây là những truyện kể xuất hiện sớm hoặc là những sự kiện sớm nhất đã diễn ra được ghi nhớ, truyền tụng.

Liên quan thành phần nguồn gốc cư dân, về khái niệm lưu dân, theo Lưu Đức Dương, “Lưu trong từ Lưu dân chỉ sự lưu động, di động, đối lập với cố định, bản địa, dân trong từ Lưu dân chỉ nhân dân, người ở tầng lớp dưới đối lập với kẻ thống trị” [35,8]. Hay có những cách giải thích khác: đó là những người bỏ quê quán, làng xã trôi nổi kiếm sống hoặc di cư vào năm đói kém, chiến tranh… Nói chung, với lịch sử lưu dân thì dù ở đất nước nào đều gắn liền với những thân phận bị bần cùng hóa, phải lưu lạc mưu sinh ở quê người. Với tiến trình lịch sử Nam Bộ, những lưu dân miền Băc, miền Trung đến đây vào thời kỳ đầu của công cuộc khẩn hoang cũng là những người dân bần cùng, lưu tán, bước đường cùng phải tha hương. Cũng không phải ai khác, trên chặng đường gần ba thế kỷ, các lưu dân đã làm nên một công cuộc khai phá vĩ đại.

Cuộc chiến tranh khốc liệt giữa tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn ở miền Trung và miền Bắc đã tạo ra một làn sóng di cư của người dân vùng Thuận An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn... vào Đồng Nai, phủ Gia Định. Hình ảnh những đoàn di dân tự do bao gồm nhiều thành phần cư dân đi tìm đất mới đã được các nhà nghiên cứu lịch sử miêu tả: “Những người xách gươm giáo, mang cuốc, mang cày, dẫn dắt trâu bò theo đường bộ hay tính chuyện buôn bán theo đường ghe, lần lượt rời bỏ quê hương để vào, trở thanh người dân chính thức của miền Nam. Đồng thời cũng rời bỏ cái nghèo cực xơ xác để trở thành những công dân của một miền trù phú vào bậc nhất mà chắc họ không ngờ tới” [227,580]. Tiến trình ấy không phải chỉ diễn ra một sớm một chiều trong sự tưởng tượng thần kỳ hoặc sự ngẫu nhiên. Trong nhóm truyện, dấu ấn về lưu dân được thể hiện đậm nét, đây là ký ức về quá khứ in dấu trong tâm thức những con người ly hương, nhắc nhở hành trình gian khó của tiền nhân trên bước đường mở đất.

Trong đó, các nhân vật được miêu tả với tên tuổi và công tích cụ thể, không đặt nặng về dòng họ, phả hệ. Hầu hết các truyện có sự hoà lẫn đối tượng được tôn vinh trong mối liên hệ với cộng đồng cư dân làng xã nói chung. Có thể bởi ở vùng đất thiên nhiên khắc nghiệt, dân cư xiêu tán đến mức có dòng họ đến “hai, ba đời còn phân tán, chưa định cư được”. Hay bởi những con người trong hoàn cảnh khai phá thuở trước thường hướng đến quan hệ cộng đồng làng xã rộng rãi, họ là những con người của cả thôn xóm cư dân với tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”.

Bên cạnh đó là loại nhân vật có gốc tích tộc người khác (Chân Lạp). Tình huống sự xuất hiện của các nhân vật được miêu tả như một sự kiện hiện thực: về công cuộc khai phá vùng đảo, vua Lồi đã từng chịu thử thách và thất bại trước đó, mới đến bà Kim Giao ra khai khẩn đảo hoang thành công. Hai bản kể cho thấy nhân vật thuộc

53

dòng dõi hoàng tộc hoặc người có tài lực của vương triều Chân Lạp bấy giờ: “Tục truyền hồi xưa có ông chúa người Cao Miên ra đó lập nghiệp…” (Bà Kim Giao); hay “Từ rất xa xưa, có một người phụ nữ tên là Kim Giao, là công chúa của vương triều Chân Lạp chạy nạn ra đây sinh sống…” (Đồng Bà)…

Đây là loại thành phần nhân vật gắn với đặc điểm lịch sử hình thành của cư dân Nam Bộ. Theo tư liệu, khi nước Phù Nam suy vong, văn hóa Óc Eo bắt đầu lụi tàn, các công trình “bị vùi lấp trong lòng đất, trên những vùng phèn mặn mênh mông”, thì “Chắc chắn người Khơ Me cũng có mặt rải rác ở nơi này, nơi khác nhất là trên vùng đất giồng ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng vùng đất này đã trở thành hoang vu”; hay “Điều chắc chắn là từ khi nền văn hoá Óc Eo biến mất vào cuối thế kỷ thứ VI thì vùng Nam bộ trở thành một vùng hoang vu hiểm trở” [29,314]. Theo dòng Mekong những người Khmer cổ đã đến vùng Nam Bộ bấy giờ vẫn còn hoang vu, nê địa, trở thành một trong những thành phần cư dân bản địa, cũng đã tiến hành công việc khai khẩn từ sớm nhưng kết quả chưa có gì đáng kể. Mãi đến thế kỷ XVII, các lớp cư dân người Việt đặt chân đến đây và bắt đầu tiến hành công cuộc khẩn hoang một cách toàn diện. Nhân vật tiền hiền có gốc tích Chân Lạp trong truyện kể tạo nên một sắc thái đặc biệt, là hình ảnh khúc xạ từ hiện thực mang dáng dấp huyền thoại về ký ức xa xưa.

Một thành phần nhân vật khác là các tăng sĩ. Theo tư liệu, Phật giáo Đại thừa đã truyền vào Nam Bộ ngay trong những năm tháng đầu của công cuộc mở đất: “hình bóng vị Tăng sĩ có mặt rất sớm ở đất Nam Bộ, sớm hơn cả cuộc kinh lược của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào mùa Xuân năm 1698” [149]; vào thế kỷ XVI - XVII đã có một số chùa được xây dựng ở miền Đông Nam Bộ (như chùa Long Thiền ở Biên Hòa - Đồng Nai năm 1664); sách Gia Định thành thông chí đã ghi chép sự tích lập am, cất chùa ở những vùng đất “linh sơn” như núi Thị Vãi, Chùa Bà Đen…

Giải thích về sự thích ứng của nhân tố mới ở vùng đất tính từ bước đi ban đầu, Lê Ngọc Thuý nhận xét: “Phật giáo và Tăng sĩ chính là điểm tựa cho cuộc sống còn nhiều bấp bênh, bất trắc của người khai hoang giữa nơi hoang sơ, nhiều hiểm họa từ thiên nhiên, thời tiết...” [205,291].

Đây là cơ sở cho sự hình thành truyện dân gian về các nhân vật tôn giáo. Với tư tưởng nhập thế tích cực, về phía tăng sĩ, nổi lên những tấm gương hành thiện, thực hiện tối ưu tinh thần chánh pháp (gọi là những “Hoạt Phật”). Về phía cư dân, chủ thể tiếp nhận tôn giáo, đã nhìn thấy ở đó những tấm gương về sự hào hiệp, tinh thần vị nghĩa nên truyền tụng những câu chuyện ngợi ca (thường có màu sắc thêu dệt ly kỳ). Vớt tăng sĩ, tên nhân vật thường là pháp danh, gắn với lời kể về các hoạt động, như: “Ông

54

Tăng Ngộ” “kêu gọi thiện nam tín nữ đến làm công quả, khai phá rừng hoang, đắp đường sá…” (Giồng Ông Ngộ)…

Đồng bằng sông Cửu Long là nơi phát tích nhiều giáo phái có gốc tích từ Phật giáo Đại thừa, tập trung ở vùng Thất Sơn như Bửu Sơn kỳ hương, Tứ Ân hiếu nghĩa, Phật giáo Hoà hảo, xuất hiện lần lượt vào cuối thế kỷ XIX, đầu XX. Đây là giai đoạn chống Pháp xâm lược, thời điểm của tâm lý thất vọng, bất an trước thời cuộc đang có nhiều biến động, bế tắc. Nhân vật đạo gia vùng Thất Sơn có mặt trong các truyện kể là Phật thầy Tây An và các nhân vật đại đệ tử. Trong truyện Phật thầy Tây An có chi tiết quá trình tôn xưng Phật thầy. Lai lịch các nhân vật có khi mơ hồ, tạo sự ly kỳ: “Chẳng biết tên họ ông là gì. Chỉ biết ông là một vị tăng đồ đệ của Phật thầy Tây An, được cử làm chủ trại ruộng Thới Sơn ở Bảy Núi…” (Ông Tăng Chủ trị cọp)…

Ngoài ra, có thành phần nhân vật là những quan nhân thực hiện chức trách, mệnh lệnh triều đình đối với công cuộc khẩn hoang. Như truyện Thoại Ngọc Hầu khai hoang kể: “Nghe nói ông ở Quảng Nam được cử về để cai quản vùng này…”…

Còn có loại nhân vật là những người tham gia phong trào chống Pháp, như: “trong đoàn di dân này có ông Nguyễn Văn Trạch, một gia đình khá giả từng tham gia phong trào nghĩa quân…” (Ngã ba Ông Trạch) … Xét về thời gian, đây là những truyền thuyết xuất hiện muộn trong hệ thống.

Rõ ràng, trong thực tế cũng như trong truyền thuyết, các thành phần cư dân trong công cuộc khai khẩn mở đất ở Nam Bộ rất đa dạng. Trong đó, dấu ấn về đoàn di dân khẩn hoang được tô đậm như một nét đặc trưng lịch sử, văn hóa của vùng đất mới, mang ý nghĩa sự “mã hóa” về thực tại.

Mặt khác, môtíp được thể hiện có sự thống nhất trong cách biểu đạt ý tưởng mang ý nghĩa tâm thức văn hóa, đó là hành trình đi tìm đất mới, là khát vọng ngàn đời của con người về nơi sinh tồn. Bởi “miền đất hứa”, ý nghĩa tâm thức là “một cuộc mưu tìm” [23,289], có ý nghĩa lớn lao. Đất đai có giá trị to lớn về mặt vật chất lẫn tinh thần, đối với các cư dân, vùng đất khai phá rất quý báu, thiêng liêng. Với những đoàn người tha hương đi về phương Nam trong một hành trình đầy gian nan, mục đích của họ là đi tìm đất mới. theo đó, lý tưởng và khát vọng sâu xa nhất của cuộc đời con người đã trở nên hết sức khẩn thiết và cháy bỏng. Hình ảnh những lưu dân với công cụ thô sơ là chiếc cày, rựa hay phảng tự chế, làm nên những “khoảnh ruộng giữa tư bề đất hoang” [124,21] trên vùng đất còn đầy thú dữ là một thực tế sống động. Môtíp Khai hoang, lập ấp

Môtíp đóng vai trò chủ đạo, xuất hiện trong hầu hết các truyện kể. Về nhân vật Bà Rịa, sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã ghi công lao: “Làng Phước Liễu

55

cảnh đẹp thay, Gốc xưa Bà Rịa dựng gầy tư cơ” [153,7]. Truyện kể đã cụ thể hoá công tích quy dân khẩn hoang, như: “Nhờ uy tín và tài tổ chức, bà đã động viên được mọi người ra sức phá rừng, biến đất hoang thành ruộng đồng...” (Bà Rịa 1). Về thành tích của các nhân vật, truyện kể ông Trần Trọng Khiêm “đứng ra khai hoang, góp phần lập nên làng Hòa An, phủ Tân Thành…” (Ông tiền hiền làng Hòa An); hay các quan nhân thực hiện việc khẩn hoang, như: “Khi xưa, ông Thoại Ngọc Hầu vâng lệnh vua đi mở rộng lãnh thổ phía Nam…” (Núi Vọng Thê); “Ông khai hoang mở đất, đào kênh, đắp đường, kêu gọi người dân đến vùng này sinh sống…” (Thoại Ngọc Hầu khai hoang).

Môtíp có sự thống nhất với truyền thuyết địa danh Khmer Nam Bộ, với các biểu hiện như: người dân từ nơi khác đến gò nổi dựng nhà cửa và tạo lập làng xã (Sự tích Vũng Thơm); gặp thiên nhiên khắc nghiệt họ chuyển đến vùng đất khác khai phá, “lúc đó có một ông tên Điếp không đi mà quyết định ở lại làm nhà, trồng cây...” (Sự tích làng Tà Điếp); hay vợ chồng ông Bassac đã “mướn người khai phá đất rùng, chặt cây vỡ đất...” (Sự tích đền chùa Bassac)… Điều này cho thấy có điểm tương đồng trong sự nhận thức về điều kiện tự nhiên hoang sơ, khắc nghiệt. Tuy nhiên, trong truyền thuyết người Việt, các thủ lĩnh với vai trò tổ chức, ổn định cộng đồng có dấu ấn đậm nét hơn. Tình tiết Sự giao lưu giữa các thành phần cư dân

Tình tiết khắc họa khung cảnh sinh hoạt xã hội thời kỳ khai phá. Cơ sở của nó là hiện thực quá trình cộng cư, khi các cư dân Khmer, Chăm, Việt, Hoa lớp trước, lớp sau đặt chân đến vùng đất mới.

Như truyện Đồng Bà kể: “Bà Kim Giao mộ 100 người Việt, Khmer ra đảo”; “Nhờ sức trâu kéo cùng với sự làm lụng cần cù nên mùa màng ở đây ngày một phát triển, cuộc sống trở nên sung túc…”. Khi đặt chân lên lãnh địa còn hoang sơ, cùng với tài sản quý báu là đàn trâu của chủ nhân, những người Việt, Khmer đã cùng nhau tiến hành công cuộc khai hoang, vỡ ruộng và với những đường cày đầu tiên, chính họ đã trở thành cư dân “bản địa” của quốc đảo. Nhân vật bà Kim Giao đóng vai trò nối kết những hoạt động, tạo nên thành quả cụ thể ở một cộng đồng nhỏ hẹp đồng thời mang ý nghĩa công tích lớn đối với sự phát triển của cộng đồng cư dân Nam Bộ, được ngợi ca, tôn vinh. Môtíp Lưu địa danh, di tích

Trong truyền thuyết, người dân đặt tên địa danh như một truyền thống thể hiện đạo lý tri ân. Các truyện kể gắn tên nhân vật là người có công khai dân lập ấp trực tiếp với tên vùng đất (như: “Nhân dân kính cẩn thường gọi làng Bà Rịa…”); hay gắn tên nhân vật là người có công đánh đuổi thú dữ vào những tên gọi cảnh quan xung quanh gồm: eo, giồng đất, con rạch, ngã ba đường… (như: “con rạch mang tên Ông Tú ngày

56

nay vẫn còn…” (Rạch Ông Tú)... Tất cả đều mang ý tưởng tôn vinh người có công với cộng đồng.

Liên hệ với truyện địa danh Khmer Nam Bộ, kết thúc truyện, có nhân vật lưu lại tên trên địa danh nhưng không có sự kiện bi thiết, gây ấn tượng đậm như một số truyện người Việt. Ở đây những ai dũng cảm, hào hiệp, xả thân vì nghĩa đều được ghi nhớ, tôn vinh như những người anh hùng. Họ dung dị, gần gũi, được nhắc nhở ngay trong những tên gọi đất đai, làng xóm quen thuộc hàng ngày của người dân. Điều này tạo nên một tinh thần thực tiễn sâu đậm trong truyền thuyết dân gian Nam Bộ.

Trong đó, nổi lên hình ảnh về người nữ thủ lĩnh cộng đồng cư dân ở một vùng đât mới. Qua các bản kể về Bà Rịa, Bà Kim Giao, với những nhân vật đóng vai trò “tiền hiền” là phụ nữ, có thể là người Việt hay Khmer, phảng phất dáng dấp huyền thoại về các bà thần, mang đến sự sinh sôi, thịnh vượng cho đất đai, cư dân. Điều này cho thấy tục thờ Bà luôn có dấu ấn sâu đậm trong tâm thức người Việt và các cộng đồng cư dân, đặc biệt là ở những vùng đất mới phương Nam xa xôi. Môtíp Tôn tiền hiền, phúc thần, thánh tổ…

Khái niệm tiền hiền, hậu hiền (tiền hiền khai khẩn (hay khai canh) hoặc tiền hiền và hậu hiền khai khẩn), nhìn chung đều có ý nghĩa ca tụng các bậc tiền nhân có công tích tạo lập, ổn định làng xã. Nhân vật được tôn xưng cũng là cách ghi công tưởng niệm. Như: ông Huỳnh Công Huy, khi qua đời được tôn tiền hiền (Ông tiền hiền làng Tân Thành); hay: “Người đời sau tôn ông làm tiền hiền làng Mỹ Trà, dựng bia ghi công đức” (Rạch Ông Tú)… Đặc biệt, nhân vật đã được thần thành hóa, như: “Dân ở các làng Tam Phước, Phước Hải, Hội Mỹ, Lộc An… tôn thờ bà làm phúc thần của làng mình” (Bà Rịa 1); “Dân coi như vị thần” (Thoại Ngọc Hầu khai hoang)…

Việc thờ tự chứa đựng ý nghĩa thiêng liêng, thể hiện quan niệm ứng xử và đạo lý tri ân. Cùng với hình thức đặt tên địa danh, việc thờ người có công với làng xã đã trở thành tín ngưỡng phổ biến ở Nam Bộ nói riêng. Đây là khía cạnh văn hoá tâm linh, có tác động trực tiếp đối với đời sống văn hóa cộng đồng (trong đó, các truyện kể gắn với những nhân vật lịch sử cụ thể, ít mang dáng dấp thần tích).

Điều này do gốc rễ của tư tưởng sáng tác truyền thuyết là nhằm thần thánh hoá nhân vật người anh hùng. Nhân vật có thể có vị thế xã hội hoặc là những người xuất thân bình thường nhưng những hành động xã thân vì nghĩa đã nâng họ lên một bậc thang giá trị mới, trở thành những người anh hùng được nhân dân tôn kính, thờ phụng. Môtíp Thờ tự tại chùa, tháp, đình…

Môtíp thường xuất hiện tiếp nối với Tôn tiền hiền, phúc thần, thánh tổ… Điều này đều nhằm tôn vinh công đức, tài trí, sức mạnh và sự linh thiêng của nhân vật. Như:

57

“Để ghi nhớ công ơn khai hoang mở đất, nhân dân đã lập miếu thờ ông…”, “Dân coi như vị thần” (Thoại Ngọc Hầu khai hoang)… Môtíp Lưu câu ca, thành ngữ

Trong truyện dân gian, có hiện tượng sự xuất hiện “những phiến đoạn lời kể bằng văn vần” [150,22] gồm câu thơ, phổ biến hơn là câu ca dao hay câu nói có vần điệu. Bên cạnh kiểu xen kẽ giữa câu văn, lối xen kẽ cuối câu văn cũng thể hiện xu hướng thẩm mỹ hoá truyện kể. Nhìn chung, khi xuất hiện ở đoạn kết, nó mang tính chất lời bia truyền.

Như truyện Bà Rịa 2 kể: “Một vài nơi ở Nam Bộ có câu hát: “Ghe ai đỏ mũi, đen lườn, Giống ghe Thị Rịa xuống vườn thăm em”; hay ở Cù lao Ông Chưởng, người dân lưu truyền câu ca “Ba phen quạ nói với diều, Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm”. Lối thể hiện cho thấy dấu ấn về nhân vật cũng như tình cảm bộc trực của người Nam Bộ. Tình tiết Sắc phong

Tình tiết được biểu hiện như: do có công làm được việc hữu ích “chúa Nguyễn ra lệnh sắc phong cho bà hàm Nghè và cho ăn theo họ Nguyễn. Từ đó, bà trở thành bà Nghè Nguyễn Thị Rịa” (Bà Rịa 2); hay: “Sau khi ba ông đội chết, triều đình ban sắc phong cho ba ông để thờ tại đình làng” (Đình Thắng Tam).

- Nhân vật có sức khỏe hơn người, có công diệt thú dữ, động vật gây hại

(NV.1.1.2)

Nhóm này có 5 truyện: Eo Ông Từ, Tăng Ân đánh cọp, Sự tích Phước Long tự, Người thầy rắn ở Đồng Tháp Mười, Mãng xà vương ở Tân Bằng và 1 truyện được lặp: Ngã ba Ông Trạch.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những người có vai trò tiên phong đánh

đuổi, diệt trừ động vật gây hại, gầy dựng địa bàn sinh cơ của nhóm cộng đồng dân cư.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Vùng đất hoang sơ (cid:1) tăng sĩ hay nhân vật kỳ tài đánh đuổi, diệt trừ động vật gây hại (cid:1) diệt được thú dữ, động vật gây hại hoặc bị giết hại (cid:1) được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ (m) (tần số xuất hiện: 2 lần) -Biệt tài (m) (4 lần) -Đánh cọp, Diệt sấu, rắn… (m) (6 lần) -Cái chết bi tráng (m) (3 lần) -Lưu địa danh, di tích (m) (1 lần) -Thờ tự trong chùa, tháp… (m) (2 lần) (6 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ

58

Về yếu tố thời gian, có truyện chỉ thông tin nơi cư ngụ hay kể nhân vật là người địa phương, có thể do không nhắc đến gốc tích xa hoặc do xuất hiện muộn hơn, như: “Tại Bàu Vú, có ông Lê Văn Từ, chuyên nghề vào rừng múc dầu rái bán độ nhật…” (Eo Ông Từ)... Môtíp biệt tài

Biệt tài được nói đến chủ yếu là tài võ nghệ. Như: “Hai thầy trò nhà sư rất giỏi võ nghệ là Hồng Ân và Trí Năng...”; hay Lê Huy Nhạc, người bắt rắn kỳ tài, đạt đến kỹ xảo trong nghề: “một người cao lớn vạm vỡ chạy như bay đuổi theo một con rắn khổng lồ…” (Người thầy rắn ở Đồng Tháp Mười)… Môtíp Đánh cọp, Diệt sấu, rắn...

Môtíp đóng vai trò trung tâm của cốt truyện, chứa đựng hình ảnh thực tại về công cuộc cải tạo, chinh phục thiên nhiên ở Nam Bộ. Những người đi đầu trong công cuộc khai khẩn không chỉ đóng vai trò tổ chức lao động mà còn giúp dân diệt thú dữ. Họ đích thực là những con người “Nào đợi ai đòi ai bắt, Phen này xin ra sức đoạn kình” (Nguyễn Đình Chiểu), dũng cảm, quên mình, đối đầu với thế lực tự nhiên trực diện nhất. Đây chính là một phẩm chất đặc biệt, được tôi luyện trong hoàn cảnh đầy thử thách và đã tạo nên những kỳ tích phi thường.

Một số truyện kể về các nhân vật đối đầu với thú dữ gắn với hiện thực có phần dữ dội. Như hình ảnh những tăng nhân đánh cọp cứu dân: Hai thầy trò nhà sư “xung phong dùng côn giết cọp, mãnh thú bị hạ, nhưng sư Hồng Ân bị tử thương...” (Tăng Ân đánh cọp). Hành động này giống như Lục Vân Tiên, Hớn Minh dũng mãnh ra tay diệt ác, chính là hình ảnh những con người Nam Bộ nghĩa khí, can trường. Hay hình ảnh nhân vật chủ động đón diệt thú dữ: “Từ ngày cọp vào làng đe doạ cuộc sống yên lành của dân chúng ông Lê Văn Từ thường đón diệt chúng..” (Eo Ông Từ). Có truyện kể mang tính chất ly kỳ, như: quan ngự y Nguyễn Hữu Long với chi tiết giải cứu vật hiến sinh (Mãng xà vương ở Tân Bằng)...

Đây chính là môtíp chủ đạo hình thành nhóm truyện đánh cọp, diệt sấu có dấu ấn độc đáo ở vùng Nam Bộ, như Huỳnh Ngọc Trảng nhận định: “chuyện đánh cọp, giết sấu là một thể tài nổi bật nhất của loại hình tự sự dân gian trong buổi đầu khai phá vùng đất mới Gia Định” [207,12]. Môtíp Cái chết bi tráng

Môtíp biểu đạt phẩm chất của người anh hùng trong truyền thuyết. Ở đây, sự kiện được miêu tả gắn với hiện thực, nhân vật dũng cảm đối đầu với lực lượng thiên nhiên gây hại với kết quả là sự mất mát, hy sinh rất bi thiết. Như: “mãnh thú bị hạ, nhưng sư Hồng Ân bị tử thương...” (Tăng Ân đánh cọp); Ông Lê Văn Từ ở Bàu Vú

59

đón diệt cọp, bị tử nạn (Eo Ông Từ); hay ông Lê Đình Tuấn ở Lê Bình đánh cọp, bị giết hại (Sự tích Phước Long tự). Môtíp Thờ tự tại tháp, đền miếu, đình...

Trong các truyện kể, chuỗi sự kiện lập mộ bia, xây tháp, lập đền miếu… cùng với việc đặt tên dịa danh, có ý nghĩa ghi ân, tôn vinh, bất tử hóa công tích của các bậc tiền hiền trong công cuộc khẩn hoang, lập ấp. Môtíp được biểu hiện mang những ý niệm sâu xa: bia mộ lưu danh thiên cổ, tháp cao ghi công đức muôn trượng, đền miếu là chỗ ngự của thần thánh, nơi cất mình vào cõi linh thiêng… Như truyện Tăng Ân đánh cọp kể: “Dân chúng vùng chợ Tân Kiểng vô cùng thương tiếc… Họ an táng ông tại chỗ, trên mộ có xây tháp để ghi công đức...”. Môtíp Lưu tên địa danh, di tích

Dấu ấn môtíp được thể hiện trong truyện kể mang sắc thái riêng về vùng đất,

như: “Người ta thường gọi eo núi đó là Eo Ông Từ...”...

- Nhân vật dùng thần lực khống chế động vật gây hại hoặc cầu thần lực đẩy

lùi thiên tai dịch bệnh (NV.1.1.3)

Nhóm này có 10 truyện, 3 dị bản: Tổ Đỉa (/ Tổ Bưng Đỉa), Sự tích sư tôn chùa Giồng Ao, Hóc Ông Che, Cứu hổ mắc xương (/ Ông Tăng chủ trị cọp), Sấu năm chèo, Ngô Lợi, Phật thầy Tây An, Sự tích chùa Bình Đông, Phó thần Đinh Công Chánh, Địa danh Cao Lãnh (/ Ông Đỗ Công Tường ở Cao Lãnh hay Miếu Ông Bà Chủ Chợ Cao Lãnh), và 1 truyện được lặp: Giồng Ông Ngộ.

Nội dung các truyện chủ yếu nói đến các nhân vật tôn giáo, gắn với ý niệm về một khả năng thần kỳ tác động đến ngoại giới, tạo nên thành tích được biểu dương. Nhân vật dùng thần lực hoặc cầu thần lực khống chế động vật gây hại, trừ thiên tai dịch bệnh, đem lại sự bình yên cho cộng đồng. Nhân vật có thể thuộc thành phần khác, song có niềm tin tôn giáo.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Vùng đất hoang sơ (cid:1) nhân vật tôn giáo dùng thần lực hoặc cầu thần lực khống chế động vật gây hại, trừ thiên tai dịch bệnh / hay người theo đoàn di dân cầu thần lực trừ thiên tai dịch bệnh (cid:1) thú dữ khuất phục hay dịch bệnh bị đẩy lùi (cid:1) nhân vật được lưu tên địa danh hoặc được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ (m) (tần số xuất hiện: 4 lần) -Nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khẩn hoang (m) (3 lần) -Biệt tài (m) (7 lần) -Cứu hổ mắc xương (2 lần) -Khống chế loài vật gây hại bằng năng lực thần kỳ (m) (7 lần) -Khống chế dịch bệnh bằng năng lực thần

60

kỳ (m) (4 lần) -Khấn nguyện chết thay hay tịch cốc (m) (3 lần) -Lưu địa danh, di tích (m) (3 lần) Lưu câu ca, thành ngữ (m) (1 lần) -Thờ tự trong tháp, đền miếu, đình… (m) (2 lần) -Tôn tiền hiền, thánh tổ, phúc thần... (m) (2 lần) (1 tình tiết, 10 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ

Về dấu ấn môtíp, một số truyện có biểu hiện giản lược về thời gian, không gian sự kiện, như: “Sư tôn là một nhà tu hành từ trên núi xuống tên là Phan Văn Ao...” (Sự tích sư tôn chùa Giồng Ao)… Môtíp Nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khẩn hoang

Môtíp xuất hiện trong truyện Địa danh Cao Lãnh: “…trong đoàn lưu dân từ

miền Trung vào đây lập nghiệp có ông bà Đỗ Công Tường, tục danh là Lãnh…”… Môtíp biệt tài

Môtíp được thể hiện với tài võ nghệ và phép thuật, thường gắn với các nhân vật đạo gia. Như truyện Ông Tăng chủ trị cọp kể: “Ông Tăng, người giỏi võ nghệ”, “ông đã từng làm chúa tể của chúa sơn lâm một thời...”... Tình tiết Cứu hổ mắc xương

Tình tiết được thể hiện gắn với dấu ấn hiện thực về vùng đất. Trong các bản kể, người chữa trị cho hổ lần lượt là Phật thầy Tây An, Tăng chủ theo sự chỉ định của Phật thầy Tây An hay Tăng chủ. Liên hệ bản kể trong Lan Trì kiến văn lục [212] (tập truyện ghi chép “những điều tai nghe, mắt thấy”), nhân vật là người tiều phu ở Lạng Giang (Con hổ có nghĩa). Điều này cho thấy tính chất thêu dệt. Thực tế không có “đạo hổ” nào bị mắc xương được cứu giúp nhưng có tấm lòng hành thiện của con người đối với loài thú dữ và đã cảm hóa được chúng. Liên hệ với môtíp Bà mụ cọp hay Ông cả cọp khá phổ biến trong truyện dân gian ở vùng đất mới, tất cả đều nói lên một mặt thái độ ứng xử của những người đi khai phá với loài thú ở đất rừng. Môtíp Khống chế loài vật gây hại bằng năng lực thần kỳ

Môtíp có mặt ở hầu hết truyện về các nhân vật đạo gia. Dấu ấn môtíp được biểu hiện với sự kiện nổi bật là bắt sấu năm chèo. Việc ông Đình Tây lùng bắt sấu trừ họa cho dân có những chi tiết dị biệt làm tăng sự ly kỳ: “Ông Đình Tây đến nơi thì con sấu đã trốn đi chỗ khác và từ đó không thấy sấu ăn thịt người nữa...”, “Khi ông Trường Tây chết, người ta thấy con sấu lớn nằm bên mộ cụ Tây mà khóc”… Hay Ngô Lợi với khả năng siêu phàm, xưng Bổn sư ở vùng Thất Sơn, “làm lễ sắc phong hổ, khiến chúng hết quấy phá...”...

Với các nhân vật tăng sĩ, còn có những công việc rất thiết thực ở vùng đất mới khai phá còn hoang sơ. Như việc thu phục âm binh: “Sư Huệ Lâm đến một hóc rừng

61

làm mái che; thu phục âm binh”, “người khai hoang rủ nhau đến lập nghiệp...” (Hóc Ông Che); hoặc “làm phép đuổi thú dữ” cho dân cư tụ tập (Sự tích sư tôn chùa Giồng Ao)... Hay truyện Tổ Đỉa kể, thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu dùng thần lực (hình thức lấy “nhục thân” chịu đựng) trừ nạn đỉa vắt cho dân khai phá, canh tác ở vùng bàu trũng Gò Dầu, Tây Ninh (có bản kể Tổ Đỉa trừ diệt được nạn đỉa nhưng cũng lìa bỏ nhục thân). Mặt khác, việc dùng đức cảm hóa thú dữ được chú trọng. Truyện Tăng Ngộ kể ông là bậc chân tu, giàu lòng vị nghĩa, cọp beo khi gặp ông phải lùi bước: “Đôi khi gặp cọp, ông dửng dưng làm công việc, cọp phải cúi đầu, chẳng bao giờ dám quấy rối thiện nam tín nữ...” (hay ông “đuổi cọp để khẩn hoang và đắp đường ở Cần Giuộc...”)...

Tinh thần hành đạo, giúp đời được thể hiện như một tinh thần chánh pháp của các nhân vật tăng sĩ không chỉ có ở truyền thuyết địa danh Nam Bộ, đồng hành cùng các lưu dân, những vùng đất mới hoang sơ đều đã in dấu chân các tăng sĩ. Truyện dân gian Trung Bộ kể: “Tục truyền vị cao tăng này là người Tàu đã cùng người Việt vượt núi non hiểm trở vào miền Trung tìm đất lành sinh sống”, “lại hay đi tìm thế đất và yểm những tà khí ma quái cho nhân dân trong vùng. Hay tin Ái Tử là đất sống được nhưng bị nạn voi rừng, ông tìm đến và ra tay yếm lũ voi rừng, voi bỏ đi đâu mất sạch. Từ đó người kéo nhau đến ngày một đông...” (Bàu Voi)… Môtíp Khống chế dịch bệnh bằng năng lực thần kỳ

Về cơ sở thực tại, trong buổi đầu khẩn hoang trên vùng đất hoang sơ với rừng rậm, đồng lầy, cư dân còn phải đối mặt với các hiểm hoạ: lam sơn chướng khí, dịch bệnh… Sách Thần, người và đất Việt đã nói đến “cuộc khủng hoảng từ bệnh dịch xảy ra trên đất Nam Kỳ trong năm 1849 mà chính sử có ghi” [214,295]. Theo đó, để có cuộc sống yên ổn cần có sự trợ lực của những con người có khả năng xuất chúng, dù chỉ là sự nương dựa về mặt tinh thần. Nhu cầu thực tiễn này làm nảy sinh sự ngợi ca những nhân vật có thành tích bảo trợ cộng đồng thoát tai ương bệnh tật.

Môtíp có dấu ấn khá rõ nét. Ghi nhận thành tích của nhân vật đạo gia, truyện Phật thầy Tây An kể về việc “phát bùa, trị bệnh”. Về hình ảnh tăng sỉ, truyện Sự tích chùa Bình Đông kể: vào năm 1853, cư sĩ Nguyễn Văn Lợi “hốt thuốc Nam trị bệnh cho người dân. Dần dần, ông trở thành vị danh y nổi tiếng khắp Nam kỳ Lục tỉnh...”. Hay truyện Phó thần Đinh Công Chánh kể: “Tương truyền, lần đó làng Long Tuyền sau nạn lụt lớn thì trận đại dịch hoành hành”, “Ông lang Chánh đã lập đàn cầu cơ, xin thần thánh ban cho phương thuốc để cứu độ dân lành. Sau lần đó, không biết duyên cớ chi mà ông bốc thuốc hay như thần, uống vào là khỏi bệnh...”. Môtíp Khấn nguyện chết thay hay tịch cốc

62

Về dấu ấn môtíp, nhân vật thực hiện hành động xả thân vì cộng đồng gắn với niềm tin tâm linh. Như truyện Địa danh Cao Lãnh kể: “Đến năm Canh Thìn (1820), nạn dịch tả hoành hành rất dữ...”, hai ông bà nguyện thế mạng để cầu cho dân chúng thoát khỏi cảnh tai ương”; hay về Tăng Ngộ, trong vùng bệnh dịch phát mạnh, ông cầu kinh mật niệm rồi “nguyện tịnh cốc không ăn bữa cơm nào cả” (Giồng Ông Ngộ). Diễn tiến sự kiện mang tính chất thần kỳ, thể hiện cảm quan Phật giáo. Đây là môtíp hình thành trên thực tiễn điều kiện tự nhiên, xã hội, phù hợp tâm thức cư dân, thể hiện tinh thần nhân ái, đức hy sinh, tạo ấn tượng sâu sắc. Môtíp Thờ tự tại tháp, đền miếu, đình…

Môtíp được lặp trong truyện Giồng Ông Ngộ: “Dân làng xây tháp kỷ niệm ông.

Ngôi chùa mà ông xây cất ngày xưa, nay hãy còn ở Thanh Ba (Cần Giuộc)...”... Môtíp Tôn tiền hiền, thánh tổ, phúc thần...

Môtíp xuất hiện trong truyện về nhân vật tăng sĩ, như “Từ đó người dân địa phương tôn gọi sư là Tổ Đỉa”; hay về nhân vật khác, như: “Khi mất, ông rất linh hiển. Dân làng tôn ông thành thần” (Phó thần Đinh Công Chánh). Môtíp Lưu địa danh, di tích

Dấu ấn môtíp được biểu hiện gắn với các sự kiện về nhân vật, như: “... khu vực do ông điều khiển khai hoang mãi đến nay dân chúng còn gọi là Giồng Ông Ngộ”; hay “Từ đó, Chợ Vườn Quýt được gọi là chợ Cao Lãnh” (Địa danh Cao Lãnh). Môtíp Lưu câu ca, thành ngữ

Trong truyện Sấu Năm chèo, thành ngữ lưu lại gây ấn tượng về nhân vật, sự

kiện, như: “Làm ác đi vào họng ông Năm chèo”.

Qua các miêu tả, những sự kiện về các nhân vật tôn giáo gắn với tín ngưỡng dân gian tạo nên một dấu ấn khá đặc biệt. Bàn về thành tích của những nhân vật tôn giáo vùng Thất Sơn, đã có nhận định: “... các vị đại đệ tử của Phật Thầy Tây An, đạo đức gương mẫu, giỏi võ nghệ, đầy lòng vị tha, đoàn khai hoang của họ đến đẩy lùi thú dữ, cảnh hoang vu thay bằng trại ruộng, “các ngài không đem theo gươm giáo, chỉ “võ trang” bằng phẩm chất đạo đức cao cả”, bằng “lời kinh tiếng kệ” mà thú dữ phải lùi gót “không dám bạo hành”. Chính họ là những người đã “mang kinh đi mở cõi”…” [61]. Qua các truyện kể, ý nghĩa tinh thần này trước hết phải kể đến các tăng sĩ Phật giáo. Đây cũng là những người xả thân vì lợi ích cộng đồng, với họ là ý thức hành đạo, giúp đời, về phía người dân, đó là những nghĩa cử đáng trân trọng. Có sự thống nhất trong tinh thần đạo pháp của tôn giáo và lý tưởng của những lưu dân trên bước đường khai sơn phá thạch.

63

2.2.3.2. Truyền thuyết liên quan đến việc xây dựng công trình giúp đỡ cộng đồng (N.1.2.)

Hệ thống truyền thuyết liên quan đến việc xây dựng công trình giúp đỡ cộng đồng có 2 / 9 truyện ghi nhận từ chính sử, truyện còn lại lấy từ văn bản sưu tầm, biên soạn (có 1 dị bản).

Hệ thống truyền thuyết có kiểu nhân vật trung tâm là Người đi tiên phong kiến tạo công trình. Đây là những người đóng vai trò chủ đạo tạo lập nên những công trình vật chất thiết yếu giúp đỡ cộng đồng trong buổi đầu khẩn hoang ở vùng đất mới.

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống truyền thuyết có đề tài - cốt truyện: Người có công kiến tạo công trình cải tạo môi trường khẩn hoang và giúp đỡ cuộc sống cộng đồng.

Sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện này như sau: Vùng đất hoang sơ (cid:1) nhân vật theo đoàn di dân hoặc quan nhân tăng sĩ, người có tài lực kiến thiết công trình giúp đỡ cuộc sống cộng đồng (cid:1) lưu tên địa danh hoặc được ghi nhớ, thờ cúng.

Đề tài - cốt truyện có thể xác lập xoay quanh nhân vật mang đặc điểm: Người xây dựng công trình (NV.1.2.1) và Nhân vật tôn giáo hay người có tài lực kiến thiết công trình (NV.1.2.2),

- Người xây dựng công trình (NV.1.2.1) Nhóm này có 4 truyện: Kênh Vĩnh Tế, Đập Ông Chưởng, Sông Châu Phê, Rạch

Tham Tướng và 1 truyện được lặp: Thoại Ngọc Hầu khai hoang.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những người có vai trò tiên phong kiến tạo công trình cải tạo môi trường khẩn hoang, góp phần ổn định và phát triển đời sống cộng đồng dân cư.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện như sau: Vùng đất hoang sơ (cid:1) quan nhân tổ chức xây

dựng công trình phục vụ khẩn hoang (cid:1) lưu tên địa danh hoặc được sắc phong.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ (m) (tần số xuất hiện: 1 lần) -Người thực hiện việc triều đình hoặc người có tài lực xây dựng công trình (5 lần) -Đào kênh, đắp đập, khơi sông rạch... (5 lần) -Lưu địa danh, di tích (4 lần) -Sắc phong (2 lần) (4 tình tiết, 1 môtíp). Những tình tiết, môtíp tiêu biểu được miêu tả như sau: Tình tiết Đào kênh, đắp đập, khơi sông rạch...

Tình tiết thể hiện công tích liên quan việc khẩn hoang của các nhân vật ở phương diện kiến thiết công trình. Đây chủ yếu là những quan nhân thực hiện mệnh

64

lệnh triều đình. Như Chưởng cơ Mai Tấn Huệ: “Khai hoang; xây đập giúp dân canh tác (hay lập đồn điền trồng lúa nuôi quân)...” (Đập Ông Chưởng); hay Tham tướng Mạc Tử Sanh: “… kêu gọi nhân dân hồi cư, giúp họ khôi phục lại cuộc sống bình thường, tái thiết các công trình công cộng, trong đó có việc nạo vét con rạch…” (Rạch Tham Tướng) (chi tiết tương truyền: “Lễ Thành Hầu qua lung thôn Tân Điềm, lúc đó dân tứ chiếng lưa thưa. Ông thực hiện việc khuyến nông, khơi nhánh sông Tiền”). Tình tiết tạo ấn tượng sâu sắc về các nhân vật là những người có công trong công cuộc khẩn hoang được lưu danh trong sử sách triều Nguyễn. Môtíp Lưu địa danh, di tích

Môtíp có dấu ấn rõ nét. Về kết cấu, có các dạng thức chung như: “Con rạch về sau được đặt tên là…” (Rạch Tham Tướng); “Đập được gọi là…” (Đập Ông Chưởng)... Tình tiết Sắc phong

Tình tiết được thể hiện với sự kiện như: “vua châu phê hai sở ruộng gọi là ruộng Châu Phê” hay “sông, vàm Châu Phê”. Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã ghi: “Lịnh vua châu bút phê trần, Phước Vân ruộng khẩn cho phần quản chuyên. Để làm huyết thực tự điền, Người ta tự hậu kêu miền Châu phê” [153,51]. Điều này cũng cho thấy vai trò của triều Nguyễn trong công cuộc tổ chức khẩn hoang ở vùng đất mới.

- Người có tài lực hay nhân vật tôn giáo kiến thiết công trình (NV.1.2.2) Nhóm này có 5 truyện: Lai lịch chùa An Phước, Chợ Thủ Thừa, Chợ Nhơn Hòa, Kênh Thần Nông, Sự tích cầu Thị Nghè và 3 truyện được lặp: Giồng Ông Ngộ, Sự tích chùa Bình Đông, Địa danh Cao Lãnh.

Nội dung các truyện kể về các nhân vật là những người có vai trò tiên phong kiến tạo công trình giúp đỡ cộng đồng, góp phần ổn định và phát triển đời sống cộng đồng dân cư.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Vùng đất hoang sơ (cid:1) nhân vật theo đoàn di dân hoặc tăng sĩ, người có tài lực xây dựng công trình giúp đỡ cuộc sống của cộng đồng cư dân (cid:1) nhân vật được lưu tên địa danh hoặc được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Thời gian khởi đầu và không gian hoang sơ (m) (tần số xuất hiện: 1 lần) -Nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khẩn hoang (m) (2 lần) -Người thực hiện việc triều đình hoặc người có tài lực xây dựng công trình (3 lần) -Đào kênh, đắp đập, khơi sông rạch... (3 lần) - Đắp đường, xây cầu, lập chợ, chùa, đình, đền... (7 lần) -Lưu địa danh, di tích (m) (5 lần) -Thờ tự tại tháp, đền miếu, đình... (m) (1 lần) (3 tình tiết, 4 môtíp). Những tình tiết, môtíp tiêu biểu được miêu tả như sau:

65

Môtíp Nhân vật theo đoàn di dân hoặc kêu gọi người dân đến khẩn hoang:

Môtíp xuất hiện trong truyện Chợ Thủ Thừa: “Vào đầu thế kỷ XIX, cũng như các vùng lân cận, vùng này vẫn còn hoang vắng, ông Mai Tự Thừa từ miền ngoài đến đây lập nghiệp...”. Tình tiết Người thực hiện việc triều đình hoặc người có tài lực xây dựng công trình

Tình tiết được thể hiện với sự kiện nhân vật là những người có tài lực ở địa phương đã tham gia xây dựng công trình. Như truyện Chợ Nhơn Hòa kể: “Ông Huỳnh Công Bộ cũng là một vị phú ông, ông đã bỏ tiền ra để xây nhà lồng chợ...”... Tình tiết Đắp đường, xây cầu, lập chợ, chùa, đình, đền...

Tình tiết thể hiện công tích của các nhân vật là các tăng sĩ hay những người có tài lực ở địa phương trên phương diện kiến thiết công trình giúp đỡ cuộc sống cộng đồng. Đó là sự kiện nhân vật giúp đỡ hoặc vận động xây chùa, đình, xây đền thờ tiền thần hộ quốc, lập chợ, đắp đường, xây cầu… phục vụ khẩn hoang và cuộc sống sinh hoạt của cư dân. Một số truyện có sự gắn kết giữa các nhóm nội dung. Như truyện về tăng sĩ, đạo gia gắn liền với việc xây chùa, dựng am thì cũng liên quan việc chống thú dữ (bằng nội lực tinh thần) hoặc gồm cả việc trừ dịch bệnh hay xây dựng công trình phục vụ đời sống cư dân. Như trong Lai lịch chùa An Phước, có nhà sư đến “cất am nhỏ tu niệm”, tiếng kinh kệ đã xua đuổi thú dữ hoặc khiến chúng bớt hoành hành...”; hay trong Sự tích chùa Bình Đông: “cư sĩ Nguyễn Văn Lợi lập một chiếc am tu hành theo hình thức Mật tông, đồng thời hốt thuốc Nam trị bệnh cho người dân...”...

Bên cạnh đó, các thành phần nhân vật khác cũng tham gia khai khẩn đồng thời dự phần xây dựng công trình phục vụ cuộc sống cộng đồng. Đó là người có gốc tích lưu dân. Như về Mai Tự Thừa: “Ông bỏ tiền ra lập một ngôi chợ, nay là Chợ Thủ Thừa”; hay về Đỗ Công Tường: “Ông bà lập được một vườn quýt, nơi thuận tiện nên ghe xuồng thường tụ tập mua bán trao đổi lâu ngày thành một chợ nhỏ...” (Địa danh Cao Lãnh)... Đó còn là những người có tài lực ở địa phương. Như bà Nguyễn Thị Khánh đã “xuất tiền mua vật liệu, huy động nhân lực, trông coi xây dựng một cây cầu bằng gỗ...” (Sự tích cầu Thị Nghè)... Liên hệ với đoạn kể về nhân vật Thủ Huồng trong Gia Định thành thông chí [43,35], đây cũng là nhân vật có công tích xây dựng công trình phục vụ cuộc sống cộng đồng, song đã có hiện tượng cổ tích hóa truyện kể (Sự tích sông Nhà Bè, Truyện Thủ Huồng). Tình tiết Đào kênh, đắp đập, khơi sông rạch...

Tình tiết thể hiện công tích của các tăng sĩ hay những người có tài lực ở địa phương trong việc xây dựng công trình giúp đỡ cuộc sống cộng đồng. Như truyện

66

Kênh Thần Nông kể: “Ông Huỳnh Công Bộ thấy con kênh quá nhỏ thiếu nước nên mới bỏ tiền ra mướn đào..”... Môtíp Lưu địa danh, di tích

Môtíp có dấu ấn khá đậm nét. Về kết cấu, việc đặt tên địa danh có các dạng thức chung như: “nên người dân đã thống nhất lấy tên cho con kinh này là...” (Kênh Thần Nông); “Cầu bắc xong, dân chúng gọi là cầu…, về sau gọi là…, rồi dần dần cái xóm nơi bà ở, con sông chảy ngang qua cũng được gọi bằng…” (Sự tích cầu Thị Nghè)... Đây chính là những tên gọi đất đai, làng xóm quen thuộc hàng ngày của người dân, mang đậm dấu ấn thực tiễn. Môtíp Thờ tự tại tháp, đền miếu, đình...

Dấu ấn môtíp được biểu hiện trong truyện kể như: “dân làng lập đền để thờ ông

bà bên bờ rạch Thầy Khâm...” (Miếu Ông Bà Chủ Chợ Cao Lãnh).

Nhìn chung, các tình tiết, môtíp chung cục thể hiện sự tạo lập các yếu tố văn hóa, bao gồm địa danh, di tích lịch sử, văn hóa, tập tục thờ cúng… với dấu ấn đậm nét.

2.3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA HỆ THỐNG TRUYỆN 2.3.1. Sự phản ảnh một mặt tiến trình lịch sử Nam Bộ gắn với những nhân vật người anh hùng khai phá

Nhân vật trung tâm của truyền thuyết trong lĩnh vực khẩn hoang là những người anh hùng văn hoá, với thành tích xây dựng và kiến tạo một “thiên nhiên thứ hai” cho con người của vùng đất. Đây là nhân vật của những thành quả, kỳ tích lao động và chiến đấu, gắn với sứ mệnh tạo lập sự sống cho cộng đồng, đã nổi lên như một hình mẫu tiêu biểu của truyền thuyết dân gian Nam Bộ (Bà Rịa, Bà Kim Giao, Tăng Ân đánh cọp, Giồng Ông Ngộ, Thoại Ngọc Hầu khẩn hoang...).

Trong các truyện kể, xung đột chủ yếu là giữa con người với thiên nhiên. Hệ thống truyền thuyết đã phản ánh đặc điểm quá trình đấu tranh tạo dựng địa bàn sinh sống của người Việt trên vùng đất mới khai khẩn: về những gian nan, hiểm nạn, những thành tựu, khát vọng của cư dân trong bước đường chinh phục thiên nhiên. Bên cạnh hiện thực về công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, truyền thuyết đã tìm thấy chất liệu và nguồn cảm hứng mới. Tư tưởng thẩm mỹ là nhằm tôn vinh con người, với chuẩn mực giá trị là tinh thần quả cảm và lòng hào hiệp trọng nghĩa, vốn là những phẩm chất của con người vùng đất mới.

Sách Dậu dương tạp trở của Trung Quốc chép câu chuyện về Ngô Cương, người đời Đường, tu tiên bị phạt phải đẵn cây quế trên cung trăng, nhưng rìu đẵn đến đâu thân quế tự nối liền đến đó nên đã không bao giờ chấm dứt được việc làm này. Ở nhóm truyền thuyết, nhân vật không mang dáng dấp huyền thoại mà gần gũi với hiện

67

thực, họ là những con người trong hành trình khai phá đất phương Nam đầy gian nan, hiểm nạn. Với những nhát rìu bổ thân cây sẽ đứt lìa, song trước mặt còn cả một khu rừng rậm hoang sơ ! Nhưng những người đi khai phá đã không làm việc vô ích và vô vọng, vì không có một thế lực thần bí nào khống chế được họ. Những con người này cũng gần gũi với nhân vật Ngu Công dời núi (sách Liệt Tử), khai thông con đường mới cho dân sinh, với sức người nhỏ bé đã cải tạo tự nhiên. Nhưng họ không chỉ có sự gian khổ thầm lặng mà còn phải đối mặt với thử thách khắc nghiệt, bởi phía trước là nơi “sơn cùng thuỷ tận”, chỉ có “một con đường” là giành lấy sự sống.

Về đặc trưng nghệ thuật, nhìn chung, phương thức nhận thức và phản ánh thực tại của hệ thống truyền thuyết mang đậm dấu ấn hiện thực. Với nhóm truyền thuyết về chiến đấu chống động vật gây hại, phương thức này vừa mang yếu tố hiện thực, vừa có yếu tố kỳ ảo. Tác giả dân gian như đã tìm thấy ở sự thử thách giữa con người và thế lực tự nhiên huyền bí một phần “chất thơ”, niềm cảm hứng bay bổng như trong truyền thuyết thời cổ (có ý kiến cho rằng hình ảnh cọp có dáng dấp một “mộc tinh nơi rừng núi”, một “hồ tinh ở đồng bằng”). Với thành tích to lớn của thời kỳ khẩn hoang, con người tạo nên kỳ tích cũng phải có chút “khổng lồ” về khả năng (có một phần về niềm tin tôn giáo). Điều này thể hiện xu hướng thẩm mỹ nhằm tôn vinh những người có công thuần phục thú dữ trong buổi đầu khai hoang, lập ấp. Trên mảng màu phong phú của những truyện kể về thành tích chiến đấu chống động vật gây hại, ẩn chứa tinh thần quả cảm và nhân nghĩa vốn là phẩm chất của những con người đi chinh phục tự nhiên, có tính nhân văn.

Truyền thuyết khu vực phía Bắc không nổi rõ chủ đề khẩn hoang, lập ấp (ở chủ đề lịch sử, tư duy thần thoại hòa lẫn tư duy lịch sử kết tinh trong hình tượng người anh hùng chống ngoại xâm lại được thể hiện với dấu ấn đậm nét, như truyện Phù Đổng Thiên Vương, Cánh đồng Ao Voi…). Trong Truyền thuyết Việt Nam [94], mục truyền thuyết về tổ nghề, truyện về Triệu Cơ - tổ khai canh, người khai sáng nghề cày cấy mới là một danh hiệu tôn xưng không phải con người thật; hay trong Văn học dân gian Thái Bình [32], chỉ có truyện Các làng Tô ở Phụ Dực, còn lại vắng bóng mảng truyện về chủ đề. Truyện về các nhân vật tiền hiền chưa được sưu tầm, hệ thống hóa đầy đủ hoặc thường lẫn trong những thần tích, gắn với hoạt động nghi lễ, tín ngưỡng địa phương.

Trong truyền thuyết địa danh Trung Bộ, về chủ đề khẩn hoang, lập ấp, thành tích tạo lập địa bàn sinh cơ của con người ở đây được hình tượng hoá trên những cách thức nghệ thuật khác nhau. Trong đó, chất liệu thực tế được nhào nặn theo tư duy thần thoại có phần chiếm ưu thế. Như truyện Sự tích núi Thạch Bồ, Sự tích Lò Thung hay Sông Tiên, thác Bồ và bãi Vàng, nhân vật người anh hùng khai phá được nhận ra là “có

68

gốc gác thần linh Đại Việt”, với vóc dáng khổng lồ, sức mạnh khơi sông, bạt núi (như cách nói hình tượng về truyện địa danh ở đồng bằng sông Hồng là “những nhân vật đào sông xây núi trong thần thoại vẫn làm tiếp công việc của mình” [49,60]). Đặc biệt, có truyện Sự tích đất Gò Nổi giải thích địa danh theo tư duy hiện thực lịch sử. Nhân vật là con người cụ thể: ông Lê Văn Đạo, người đầu tiên đến vùng đất gò định cư, vỡ đất, lập làng (truyện Nguồn gốc Như Lệ chỉ kể chung: “người có công khai khẩn vùng đất là con cháu dòng dõi nhà Lê”). Tuy số lượng ít ỏi nhưng tính chất kỳ ảo lại có dấu ấn đặc biệt: con chim màu đỏ như đốm sáng hiện ra trước mũi thuyền dẫn đường đến vùng đất mới là một hình ảnh độc đáo. Có thể giữa khung cảnh biển trời bao la, núi non trùng điệp, con người có phần bay bổng trong trí tưởng tượng thần kỳ (mặc dù theo đánh giá chung “thần thoại, truyền thuyết vùng đất Quảng ít có yếu tố thần kỳ, hoang đường, mà trái lại mang nhiều nét hiện thực” [17,3]). Sâu xa hơn, theo tâm thức văn hóa chung, chim là biểu tượng của thiên gian, biểu trưng thái độ thân hữu của thần linh đối với con người, sự xuất hiện của nó như một thông điệp của trời [23,172], sự dẫn dắt đến nơi của sự sống, yên bình. Hình ảnh con chim lạ với hạt giống mầu nhiệm đã từng xuất hiện trong truyền thuyết Mai An Tiêm thuở xưa, đến nay như có sự nối tiếp trong hình ảnh con chim sắc đỏ đưa đường chỉ lối hậu nhân đến bến bờ sự sống. Đây là biểu tượng của ý chí và khát vọng cháy bỏng của con người trong hoàn cảnh gian nan, khi phía trước còn mờ mịt. Ở đây nhân vật tiên phong của vùng đất nơi con người đang ra sức lao động, vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt tìm đất sống đã được gửi gấm việc thực thi sứ mệnh dẫn dắt, mang hình bóng tiền hiền của cư dân một vùng quê đất Quảng. Hiện thực cụ thể có pha màu sắc thần kỳ, đưa đến chiều sâu của sự tôn vinh, ngợi ca.

Trong nhóm truyền thuyết, nhân vật chủ yếu “định vị ở địa phương” cụ thể mà chưa thể lan xa hơn. Các tác phẩm có giá trị như một tài sản văn hoá tinh thần, góp phần tạo nên sắc thái văn hóa địa phương. Tuy nhiên, do chưa đủ độ dài thời gian cho quá trình ảo hóa hoặc gạn lọc nên không ít truyện còn mang tính chất ghi chép sự kiện, chưa phát triển hoàn chỉnh để có những hình tượng nhân vật có tính khái quát cao. Yếu tố thần kỳ, tức tính chất hoang đường hoặc kỳ diệu, huyền ảo, nhìn chung khá mờ nhạt.

2.3.2. Ý nghĩa phản ánh đặc điểm của văn hóa mở đất

Hệ thống truyền thuyết đã biểu hiện những bối cảnh, những thành tựu, những nếp quen sinh hoạt, cách thức ứng xử xã hội của các lớp cư dân trong tiến trình khai phá vùng đất mới mang nét đặc trưng Nam Bộ.

Về phương diện xã hội, truyền thuyết về khẩn hoang phản ánh mối quan hệ giữa các thành phần cư dân ở vùng đất mới. Trong đó, tư tưởng chủ đạo là mối quan hệ giữa thiên nhiên, con người với cộng đồng xã hội, tạo nên một tinh thần thực tiễn đậm nét.

69

Trong truyền thuyết Trung Bộ, theo Hồ Quốc Hùng, “hầu như các truyền thuyết có chủ đề xung quanh “Nguồn gốc đặc trưng cảnh quan, sự hình thành xóm ấp”, ít nhiều có liên quan hoặc được thể hiện dưới hình thức xung đột, tranh chấp, lấn chiếm đất...” [81,72]. Đây được xem như một hiện thực có phần nóng bỏng trong quá trình khai khẩn mở đất của cư dân nơi dải đất dài miền Trung, như đã có nhận định: đó là quá trình cư dân Việt “vừa phải dám dũng cảm đương đầu - thậm chí mạo hiểm dấn thân, lại vừa biết điều tế nhị trong quá trình giao lưu hội nhập với cư dân bản địa” [77,10]. Tinh thần này cũng được phát huy trong tiến trình khai phá vùng đất Nam Bộ như một phẩm chất của người Việt đi khai hoang. Song, vấn đề có phần giảm nhẹ, cởi mở hơn, bởi việc mở rộng đất đai lãnh thổ được thực hiện mang tính tự phát, lại có ý nghĩa như một chiến lược có tính sáng tạo của thực tiễn văn hóa chính trị Việt Nam. Như Lê Văn Siêu nhận định: “ấy là thứ tinh thần của người dân thấy đất ruộng bám chặt lấy rồi dựng làng, sống hoà đồng với người, để làm ăn rất hợp pháp, hợp tình hợp lý để cuối cùng là quân đội đi sau và sự giao thiệp giữa hai lân bang về pháp luật sẽ đi sau nữa để thừa nhận những sự chiếm hữu đã rồi” [174,194]. Do vậy, sự đối đầu quyết liệt của con người chủ yếu là hướng vào thiên nhiên còn hoang sơ và dữ dằn.

Các truyện kể cho thấy các cư dân Việt và Khmer đã cùng giải thích sự tồn tại của mình trên vùng đất trong chiều hướng hòa hợp. Bởi lớp trước hay sau đều là những con người với khát vọng mưu sinh như một nhu cầu mang tính nhân bản, sự tiếp xúc giữa các thành phần cư dân diễn ra nơi vùng đất trong giai đoạn khai phá muộn còn sơ khai, hoang hoá, chưa đủ yếu tố xác lập chủ quyền. Hơn nữa, nơi vùng đất mới nhiều hiểm nguy, thử thách, việc con người cần phải nương dựa vào nhau để sinh tồn có ý nghĩa cấp thiết nhất. Truyện Đồng Bà kể: “Bà Kim Giao mộ 100 người Việt, Khmer ra đảo…”. Đi cùng không gian tự nhiên buổi đầu khai phá với rừng rậm, đồng lầy, sông nước, kênh rạch còn nguyên sơ là một không gian xã hội đặc thù, với làng mạc, xóm ấp nơi con người quần tụ. Đây cũng là không gian chung của cả một cộng đồng làng ấp, qua đó thể hiện sự gắn kết chặt chẽ của các nhân vật thủ lĩnh với cộng đồng cư dân ở vùng đất mới.

Trong các truyện kể, nổi lên dấu ấn người anh hùng văn hoá, gắn với tiến trình mở cõi có tính nhân văn. Như chi tiết tương truyền: xưa kia Lễ Thành Hầu đi qua nhiều vùng ở An Giang thường cho thuyền dừng lại rất lâu “để vào sâu trong bờ phủ dụ thổ quan nên dễ dãi với dân cư”, lại “ân cần khuyên thổ dân cùng dân Việt nên lấy đạo đức cư xử với nhau ôn hòa, đừng nên ganh ghét kỳ thị” (tư liệu ghi nhận, ở Nam Bộ, không một nhân vật lịch sử nào ở thế kỷ XVII và XVIII được người Việt, Khmer, Hoa thờ phụng nhiều như Nguyễn Hữu Cảnh; việc này cũng giống khi xưa còn ngôi đền Vĩnh

70

Yên ở Quảng Bình, “Truyền rằng trong những ngày lễ Vía Lễ Công cũng thấy loáng thoàng dáng kính cẩn của người Chăm đem vàng hương lễ vật đến cúng bái” [59,170]. Hay truyện về ông Điều Bát kể, người dân lập đền thờ và cúng vái cũng không phân biệt người Việt hay Khmer, Hoa. Liên hệ truyện Khmer, Sự tích đền chùa Bassac kể: về sau, để tưởng nhớ công lao nhân vật có vai trò tiền hiền, “đồng bào Kinh và Hoa còn lập thêm cổ miếu thờ ông Bassac ở gần chùa Bốn Mặt”. Điều này cho thấy có sự thống nhất trong tín ngưỡng thờ người có công khai hoang, lập ấp của cư dân Nam Bộ, qua đó cũng cho thấy tinh thần hoà hợp giữa các cộng đồng cư dân trên vùng đất mới đã được thể hiện trong nhóm truyền thuyết như một chủ đề thống nhất.

Về ứng xử cộng đồng, hiện lên những con người với phẩm chất, nghĩa cử cao đẹp. Những người thực thi công vụ làm việc với ý thức trách nhiệm cao, ngay cả với những kẻ lầm đường lỡ bước cũng nhận được sự bao dung. Như truyện Rạch Ông Tú kể: “Ông bắt được tên cầm đầu toán cướp, nhưng răn đe rồi tha cho…”. Chi tiết này cũng xuất hiện trong lời kể tương truyền về Nguyễn Hữu Cảnh. Những người có uy tín trong cộng đồng hành động với thiện tâm, sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì đồng bào, như: “ông bà nguyện thế mạng để cầu cho dân chúng thoát khỏi cảnh đau thương…” (Địa danh Cao Lãnh). Các nhân vật “thủ lĩnh cộng đồng” có tấm lòng thuần phác, nhân hậu với cả loài vật đã cùng gắn bó với mình trong lúc gian lao, một bài học ứng xử đầy tính nhân văn. Truyện Bà Kim Giao kể: “Khi ta chết, bao nhiêu ruộng đất này đem chia đều cho các người. Ta chỉ ao ước một điều là dù thế nào, các ngươi cũng thả bầy trâu này cho chúng được tự do…”…

Tâm linh là một mặt khác của cuộc sống con người, gắn với niềm tin vào những cái thiêng, có thể biểu hiện trong cuộc sống đời thường hoặc tín ngưỡng, tôn giáo. Nhóm truyền thuyết đã cho thấy những khía cạnh liên quan đến lĩnh vực văn hoá tâm linh con người ở vùng đất mới.

Nhiều truyền thuyết về người anh hùng khai phá đã đi vào tín ngưỡng thờ phụng của nhân dân địa phương (Bà Rịa, Tăng Ân đánh cọp, Giồng Ông Ngộ...). Qua các sự kiện hiện thực, có thể thấy cách thức tạo lập xóm ấp và tập tục thờ phụng các bậc tiền nhân đã dày công mở đất. Ở đây, thiên nhiên mang dấu vết huyền thoại, còn rất hoang sơ nhưng con người đã khác với huyền thoại cổ. Thành tích cũng không kỳ vĩ trong trí tưởng tượng thần kỳ, thành quả mà họ phải đổ mồ hôi và cả xương máu tạo lập là đất đai, đồng ruộng, làng xóm, chợ búa…, nơi có thể định cư, lập nghiệp mưu sinh. Những con người ấy đã trở thành tiền hiền, hậu hiền, được dân chúng tri ân, ấn trong tâm thức đó chính là những nhân thần được ngưỡng vọng. Như một chân lý phổ biến, “Khi con người biết thờ phụng con người đã lớn lên”, nhưng các loại cây, đá (mộc thần, thạch

71

thần) hay thánh thần mới là những biểu tượng mơ hồ của sự sợ hãi, phục tùng, mãi đến khi con người biết thờ phụng nhân thần, những người đóng góp công lao cho cộng đồng, là ý thức tôn thờ những bậc tiền nhân khai sơn phá thạch thì mới đạt được chân giá trị. Đây cũng chính là một cơ chế tinh thần củng cố sức mạnh cố kết cộng đồng thôn ấp, tạo nên những giá trị văn hóa truyền thống.

Theo chân các chúa Nguyễn, Phật giáo đã đến xứ sở Đàng Trong (chúa Nguyễn Phúc Chu được mệnh danh là “Quốc chúa - Bồ tát” với công tích hoằng pháp về phương Nam). Ở vùng đất mới khai phá, nhu cầu tâm linh hết sức thiết thực, Phật giáo với tính chất gần gũi và cởi mở đã đáp ứng tích cực yêu cầu nên ngày càng phát triển, trở thành một nhân tố tinh thần đồng hành cùng lịch sử. Theo truyền thống, đây là dòng Phật giáo dân gian mang màu sắc tín ngưỡng bản địa, một hiện tượng văn hóa tâm linh độc đáo của Nam Bộ. Trên nền hiện thực, truyện về các nhân vật tăng sĩ có dấu ấn sâu sắc. Các vị tăng nêu tấm gương hành đạo cao cả vì chúng sinh: Tăng Ân, “người Phật tử xả thân để cứu dân”; Tăng Ngộ lập chùa Tôn Thạnh, đúc tượng Địa Tạng cầu kinh mật niệm giúp đồng bào thoát cơn bệnh dịch (Giồng Ông Ngộ); sư Đạo Trung Thiện Hiếu nguyện hiến xác thân trừ đỉa để “dân chúng được bình yên cày cấy” (Tổ Đỉa)…

Tiểu kết chương 2

Qua khảo sát, chúng tôi khái quát nội dung đã thực hiện trong chương 2 như

sau:

1. Luận án xác định diện mạo thể loại và cơ cấu văn bản, làm cơ sở để khảo sát đặc trưng và giá trị hệ thống truyện, một bộ phận truyện dân gian để lại dấu ấn sâu đậm trên những chặng đường lịch sử Nam Bộ, gắn với những điều kiện đặc thù của tiến trình khẩn hoang một vùng đất mới.

2. Luận án đi vào miêu tả nội dung, phân tích đặc điểm cấu tạo của hệ thống truyện. Đồng thời, chúng tôi đưa ra kiến giải về đặc trưng, giá trị nội dung của hệ thống truyện này trên cơ sở những nét đặc thù về điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa Nam Bộ. Luận án cũng phân tích sự xâm nhập lẫn nhau giữa tiểu loại truyền thuyết địa danh và truyền thuyết lịch sử của nhóm truyện, thể hiện sự vận động, biến đổi trong hệ thống thể loại theo đặc trưng của văn học dân gian.

3. Luận án thực hiện việc so sánh, liên hệ với các nhóm truyền thuyết gần gũi trên vùng đất và ở các vùng miền khác, để chỉ ra những nét đặc thù của mảng đề tài, nội dung về khẩn hoang và sự tiếp nối tiến trình của một thể loại truyện dân gian ở vùng đất mới, cũng nhằm làm nổi rõ hơn những đặc trưng của nhóm truyền thuyết được khảo sát chính.

72

CHƯƠNG 3

TRUYỀN THUYẾT VỀ CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ NAM BỘ LÀ NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG CHIẾN ĐẤU CHỐNG NGOẠI XÂM TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC 3.1. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG TRUYỆN

Như đã nêu, truyền thuyết dân gian Nam Bộ được xây dựng trên chất liệu hiện thực là công cuộc khẩn hoang và chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân Nam Bộ. Đây là bản “trường ca” ngợi ca, tôn vinh tài trí, sự gan góc của những lớp người đi khai sơn phá thạch và lòng yêu nước, ý chí kiên cường của những thế hệ anh hùng chống xâm lược trên vùng đất cuối trời tổ quốc. Đóng vai trò trung tâm của bài ca yêu nước, anh hùng là hệ thống truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ là những người anh hùng chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước nói riêng.

Hệ thống truyền thuyết này kể về lai lịch, công tích các nhân vật lịch sử là những người có công trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm gắn với tiến trình lịch sử Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX.

Đây là kiểu truyền thuyết về người anh hùng lịch sử, mang âm hưởng bài ca chiến trận. Những cốt truyện lịch sử được xây dựng mang ý nghĩa như những ký ức lịch sử sâu đậm về quá khứ. Trong đó, các truyện kể đã tạo thành những tác phẩm xoay quanh các nhân vật, sự kiện. Về cách thức thể hiện, nhiều truyện kể đã có những môtíp, hình ảnh, chi tiết nghệ thuật... được lựa chọn, tô đậm về nhân vật, thể hiện truyền thống thẩm mỹ trong việc xây dựng hình tượng người anh hùng trong truyền thuyết dân gian. Đồng thời, những truyện kể được truyền tụng có mối quan hệ, sự gắn kết chặt chẽ với các di tích lịch sử, văn hóa (đền thờ, lễ hội...) ở các địa phương.

Hệ thống truyện bao gồm hai tiểu loại: truyền thuyết địa danh (Sông Xá Hương, Đốc binh Vàng, Vàm Hổ Cứ...) và truyền thuyết lịch sử (Oai linh ông Điều Bát làm chấn động đất Trấn Giang, Tài trí của Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân...). Giữa các tiểu loại này có mối quan hệ qua lại, đan xen.

Trong hệ thống truyện, truyền thuyết địa danh xuất hiện không nhiều nhưng có dấu ấn đặc thù. Đó là truyện kể về những vùng đất, xóm ấp, vàm rạch… ghi dấu chiến công hay chứng tích về nhân vật người anh hùng, trở thành những dấu ấn sâu sắc trong tâm tình con người nơi đây. Yếu tố địa danh mang ý nghĩa là chứng tích lịch sử, văn hóa liên quan đến những sự kiện về nhân vật. Đây cũng chính là những truyền thuyết địa danh gắn với cảm hứng lịch sử, biểu hiện của tâm thức lịch sử, đó là hướng niềm tin, lòng tôn kính của nhân dân về với quá khứ lịch sử thông qua địa vật, phong vật: “Lịch sử địa danh chính là lịch sử của làng của nước chắt lọc qua tình cảm của nhân

73

dân” [49,63]. Nói cách khác, đây chính là “cảm hứng sáng tạo được chuyển tải thành hình ảnh, thành những biểu tượng của lòng yêu nước thông qua hình thức giải thích các tên gọi của núi sông” [1,54].

Chúng tôi tập hợp được 91 truyền thuyết và 1 dị bản về những người anh hùng chiến đấu chống ngoại xâm ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, xoay quanh 58 nhân vật lịch sử. Con số thống kê bước đầu cho thấy hệ thống truyện phong phú và dấu ấn đậm nét của nó trong truyền thuyết về nhân vật lịch sử Nam Bộ. Trong hệ thống này, có 9 / 91 truyện (chiếm tỷ lệ 9,8 %) có nói đến nguồn gốc địa danh.

Dựa vào tiêu chí đề tài, nội dung, đặc điểm nhân vật, yếu tố thời gian lịch sử (thời điểm xuất hiện sự kiện về nhân vật), có thể chia hệ thống truyện này thành hai bộ phận: Truyền thuyết về người anh hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước và Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX.

Dưới đây là bảng tổng hợp thống kê, phân loại:

Bảng 3.1. Thống kê, phân loại

Hệ thống truyện

Nhóm truyện

Số truyện, dị bản

Số nhân vật lịch sử 10

13

1 db

Truyền thuyết về người anh hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước (N.2.1)

78

48

thuyết về Truyền hùng người anh chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước (N.2)

Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX (N.2.2)

Tổng cộng

58

91 1 db

Truyền thuyết về người anh hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước có 13 đơn vị truyện, 1 dị bản, xoay quanh 10 nhân vật lịch sử. Tư liệu sử có 2 truyện (Đền Lễ Công, Sông Xá Hương), còn lại là tư liệu sưu tầm, biên soạn. Số lượng truyện khá ít ỏi, nhưng đây là những truyền thuyết có ý nghĩa mở đầu về chống ngoại xâm gắn với các nhân vật lịch sử Nam Bộ.

Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX có 78 đơn vị truyện, xoay quanh 48 nhân vật lịch sử. Qua đó cũng cho thấy dấu ấn sâu sắc của sự kiện lịch sử trong đời sống tinh thần của nhân dân Nam Bộ nói riêng.

Dựa vào nhân vật và trình tự thời gian những cuộc khởi nghĩa chống Pháp có tiếng vang lớn và những cuộc khởi nghĩa chống Pháp khác, chúng tôi tập hợp các

74

truyện kể như sau: Truyện về Trương Định và nhân vật, sự kiện liên quan (14 truyện, 7 nhân vật lịch sử), Truyện về Thiên Hộ Dương và nhân vật, sự kiện liên quan (24 truyện, 12 nhân vật lịch sử), Truyện về Nguyễn Trung Trực và nhân vật, sự kiện liên quan (9 truyện, 2 nhân vật lịch sử), Truyện về Thủ Khoa Huân và nhân vật, sự kiện liên quan (3 truyện, 1 nhân vật lịch sử), Truyện về Trần Văn Thành và các nhân vật trong tổ chức tôn giáo vùng Thất Sơn (7 truyện, 5 nhân vật lịch sử), Truyện về các nhân vật khởi nghĩa khác ở Đông Nam Bộ (14 truyện, 14 nhân vật lịch sử), Truyện về các nhân vật khởi nghĩa khác ở Tây Nam Bộ (7 truyện, 8 nhân vật lịch sử). Các truyện kể nói trên cho thấy thêm vai trò của các nhân vật lịch sử Nam Bộ trong sự hình thành nhóm truyền thuyết về khởi nghĩa chống Pháp. Số lượng và quy mô các truyện về các nhân vật lịch sử không đồng đều. Đa phần truyện kể tập trung ở những cuộc khởi nghĩa có thanh thế lớn và có điều kiện thâm nhập rộng rãi trong nhân dân. Trong đó, truyện về nhân vật lãnh tụ kháng chiến đóng vai trò trung tâm của các truyện của hệ thống này (như truyện về Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực...).

3.2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO 3.2.1. Mô hình cốt truyện

Các truyền thuyết có mô hình cốt truyện truyền thống với lược đồ gồm ba phần,

gắn với các tiến trình sự kiện sau:

Tiến trình thứ nhất (1): ghi nhận các yếu tố thời gian, lai lịch, đặc điểm nhân vật (xuất thân, danh tính, chi tiết về nhân thân…), tình huống xuất hiện nhân vật… Tiến trình thứ hai (2): kể công tích, hoạt động của nhân vật, bao gồm: đánh giặc lập chiến công, kỳ tích… Tiến trình thứ ba (3): kết thúc sự kiện, bao gồm chung cục về nhân vật (thắng lợi hay thất trận, hy sinh), sự tri ân, tôn vinh công tích... đối với nhân vật.

Mô hình cốt truyện trên được thể hiện ở Bảng 3.2.

Tài năng, công Công tích, Công tích, Công tích, Công tích, tích (đánh giặc, lập hoạt động hoạt động hoạt động hoạt động chiến công…)

Đặc điểm vùng đất / Lai lịch, hoàn cảnh Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / xuất hiện nhân vật Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật

Chung cục Chung cục (kêt thúc sự nghiệp, sự (kết quả, dấu tích, tri ân…) sự tri ân)

(2) (2) (2) (2) (2)

(1) (1) (1) (1) (1) (1)

(3) (3)

(1) (1) (1) (1) (1)

Khái quát về nghệ thuật, chúng tôi xác định kiểu nhân vật của các nhóm truyện

gắn với đề tài - cốt truyện như sau: Bảng 3.3. Thống kê, phân loại kiểu nhân vật, đề tài - cốt truyện

Nhóm truyện

Đề tài - cốt truyện

Kiểu nhân vật

Số truyện, dị bản

Truyền thuyết về người anh Người anh Người anh hùng lập chiến

13

75

1 db

định an

công hoặc mất do gian lao hay thất trận, hy sinh (ĐT- CT.2.1)

hùng quốc, bang (KNV.2.1)

hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước (N.2.1.)

78

Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX (N.2.2.)

Người anh hùng với sức khỏe, tài trí và chiến công (ĐT-CT.2.2.1)

Người anh cứu hùng nước (KNV.2.2)

Người anh hùng với sự thất bại và cái chết kiên cường (ĐT-CT.2.2.2)

Tổng cộng

91 1 db

3.2.2. Những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện

Qua khảo sát 91 truyện về những người anh hùng chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, chúng tôi thấy có 10 tình tiết và 28 môtíp biểu hiện trong các đề tài - cốt truyện, được thống kê như sau: Bảng 4.3. Thống kê tình tiết, môtíp

Các tình tiết, môtíp (ký hiệu m)

ĐT-CT

Tần số xuất hiện

2.1

Thứ tự

1

1

2..2.1 & 2.2.2 24

25

Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ (m)

2

2

2

Thử tài (m)

3

10

10

Thực hiện mệnh lệnh triều đình

4

1

1

Gươm báu hộ quốc

66

66

5 Mộ binh, tham gia khởi nghĩa

6

1

1

Dân cản đầu ngựa tướng soái

7

2

2

Lời nói trước trận quyết chiến (m)

8

3

3

Nhân vật được giúp sức (m)

9

1

1

Trừng trị Việt gian

10

10

10

Lập mưu lừa giặc (m)

11

8

8

Sáng tạo vũ khí (m)

12

6

31

37

Thắng trận, lập công (m)

6

6

13 Gặp bất ngờ rủi ro (m)

2

2

14 Mất lúc nào không rõ hoặc do một nguyên nhân

76

nào khác (m)

11

11

15 Ẩn tích, phiêu bạt (m)

1

1

16 Đi tìm phương kế phục binh

17

3

3

Lời tiên tri, tuyên bố (m)

7

7

18 Kẻ phản trắc báo tin

1

1

19 Điềm báo cái chết (chiêm mộng) (m)

19

6

13

20 Cái chết kiên cường (m)

7

7

21 Chấp nhận ra hàng vì tính mạng nhân dân (m)

7

7

22 Khước từ khuyến dụ (m)

23

2

2

Làm thơ tuyệt mệnh

24

7

7

Lời nói cuối cùng (m)

4

4

25 Nguyền rủa kẻ thù (m)

6

6

26 Đao phủ khiếp sợ (m)

27

27

27 Nhân vật bị thụ hình (m)

28

7

7

Sự lạ khi đầu rơi (m)

4

1

3

29 Người dân nhận hung tin (m)

30

2

2

Sự linh ứng của thiên nhiên (m)

24

6

18

31 Hiển linh (m)

32

9

1

8

Tìm nhận thi hài và chôn cất, lập mộ (m)

33

27

11

16

Thờ tự tại chùa, đền miếu, đình... (m)

8

8

34 Người dân che mắt giặc (m)

35

17

5

12

Lưu địa danh, câu ca, thành ngữ... (m)

36

5

5

Lời nhắc nhở, bia truyền (m)

37

2

2

Lòng dân ray rứt

1

1

38 Kẻ thù phân bua

333

Tổng cộng

382

49 (12%)

(88%)

77

3.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của các nhóm truyện 3.2.3.1 Truyền thuyết về người anh hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước (N.2.1.)

Hệ thống truyền thuyết có 2 / 13 truyện ghi nhận từ chính sử, truyện còn lại lấy

từ văn bản sưu tầm, biên soạn (có 1 dị bản).

Hệ thống này có kiểu nhân vật trung tâm là Người anh hùng định quốc, an bang (KNV.2.1). Nhân vật là những bậc danh tướng, hào kiệt, những “cựu thần” nhà Nguyễn, thực hiện trách nhiệm mở cõi về phương Nam, ổn định cương thổ và chống giặc ngoài xâm lấn, được nhân dân nhắc nhở, ngợi ca.

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống truyền thuyết có đề tài - cốt truyện: Người anh hùng lập chiến công hoặc mất do gian lao hay thất trận, hy sinh (NCT.2.1).

Sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện này như sau: Quan nhân hay nhân vật thủ lĩnh cộng đồng thực hiện trách nhiệm (cid:1) thắng trận, lập công hoặc hy sinh (cid:1) hiển linh (cid:1) được ghi nhớ, thờ cúng.

Các nhân vật là Người có công định an bờ cõi (NV.2.1.1) và Người có công dẹp

loạn ở vùng biên cương (NV.2.1.2).

- Người có công định an bờ cõi (NV.2.1.1) Nhóm này có 7 truyện: Nguyễn Hữu Cảnh, Hắc Hổ tướng công, Oai linh Hầu tước Sĩ Hòa, Hữu phủ Tống quốc công, Thanh gươm hiển linh, Oai linh Ông Điều Bát làm chấn động đất Trấn Giang, Vồ Ông Bướm.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những quan nhân thực hiện trách nhiệm

đi kinh lý, thảo phạt..., đã lập nên công trận hoặc hy sinh.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Quan nhân nhận lệnh triều đình đi kinh lý, đánh giặc... (cid:1) thắng trận, lập công hoặc mất do gian lao (cid:1) hiển linh, được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Thực hiện mệnh lệnh triều đình (tần số xuất hiện: 6 lần) -Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ (m) (1 lần) -Gươm báu hộ quốc (1 lần) -Thắng trận, lập công (m) (5 lần) -Điềm báo cái chết (m) (1 lần) -Người dân nhận hung tin (m) (1 lần) -Hiển linh (m) (3 lần) -Thờ tự trong chùa, đền miếu... (m) (5 lần) -Lưu địa danh, câu ca... (m) (2 lần) (2 tình tiết, 7 môtíp), được miêu tả như sau: Tình tiết Thực hiện mệnh lệnh triều đình

Nhân vật là những quan nhân nhận lệnh của triều đình đi đánh dẹp, trấn giữ biên giới hoặc ổn định dân cư... Như về Nguyễn Hữu Cảnh, văn bản sử ghi: “Thống suất Nguyễn Hữu Kính đi đánh Nặc Chu nước Chân Lạp, thắng trận về đóng ở Lao Đôi...”

78

(/ “Kính lui quân về đóng ở Lao Đôi... ”); hay: “Hầu tước Sĩ Hòa quê Tòng Sơn Thanh Hóa, phụng mệnh đến Long Hồ...” (Oai linh Hầu tước Sĩ Hòa)... Môtíp Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ

Môtíp thể hiện một quan niệm có tính chiêm nghiệm: người có tướng mạo dị thường, có tài năng lạ là những con người đặc biệt. Đây là nhân vật xuất chúng, sẽ làm nên những công tích phi thường. Như truyện về Nguyễn Hữu Cảnh kể: “Ngày xưa, lâu lắm, ở Châu Phú có một ông Tướng to lớn, đánh võ rất giỏi, người ông thì đen sì nên người dân gọi là Hắc Hổ tướng công”. Tình tiết Gươm báu hộ quốc

Tình tiết xuất hiện trong truyện về Tống Phước Hiệp: “... đánh quân Xiêm lập nhiều công trận được tặng gươm báu...” (Thanh gươm hiển linh). Dấu ấn gươm thiêng chỉ mang ý nghĩa một hồi quang sót lại về uy vũ, chính khí của người anh hùng, song cũng tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ về hào khí của những trang hào kiệt giữ nước nơi vùng đất phương Nam. Môtíp Thắng trận, lập công

Đây là môtíp chiến công mang tính đặc trưng của thể loại, được biểu hiện như: “Bất thần quân ta phản công, quân Chân Lạp trở tay không kịp...”, “Xong trận này, quân Chân Lạp ở các vùng lân cận cũng xin hàng....” (Vồ Ông Bướm). Môtíp Điềm báo cái chết (Chiêm mộng)

Môtíp thể hiện kỳ ảo cái chết của người anh hùng, xuất hiện trong truyện về Nguyễn Hữu Cảnh. Văn bản sử miêu tả sự kiện “khí thiêng về thần” của nhân vật mang màu sắc huyền ảo, với lời đối thoại giữa con người với thần nhân trong giấc mơ đầy ứng nghiệm: “Gặp lúc mưa to gió lớn, núi Lao Đôi lở, tiếng động như sấm. Đêm nằm mơ thấy một người mặt đỏ mi trắng, tay cầm phủ việt bảo: “Tướng quân nên trở về sớm. Ở lại lâu sẽ không có lợi”. Hữu Kính cười nói rằng: “Mệnh ở trời, có phải ở đất này đâu...” (Nguyễn Hữu Cảnh) (hay: “Đêm mơ thấy thần nhân bảo trở về sớm; đem quân về đến Sầm Khê thì mất”). Môtíp Chiêm mộng hay Điềm báo mang ý nghĩa thiêng hóa thực tại. Trong tâm thức văn hóa, giấc mộng ban đêm (mộng dữ) là sự báo trước ít nhiều về một nguy biến sẽ đến. Giấc mơ của vị đại quan là một điềm báo về mệnh trời, với ông, cái chết không đến ngẫu nhiên, bất ngờ. Cuộc đời ông đi theo công đạo, xả thân quên mình nên thần linh soi bước. Đến giây phút cuối cùng, con người trí dũng này cũng không khưỡng cầu sự sống. Điều này cho thấy một nhân cách toàn mỹ. Sự kiện về nhân vật đã tô đậm quan niệm của nhân dân: “Sống làm danh tướng, chết làm thần”. Với những người anh hùng hy sinh vì nước, nhân vật trở nên uy vũ và

79

linh thiêng trong đời sống tâm linh con người. Đây là một môtíp truyền thống, đã được tái hiện trong nhóm truyền thuyết lịch sử khởi đầu của Nam Bộ. Môtíp Người dân nhận hung tin

Dấu ấn môtíp được biểu hiện: khi nhân vật mất do bạo bệnh, nhân dân thương tiếc khóc than. Như truyện Thanh gươm hiển linh kể: “Khi ông mất, dân chúng Long Hồ dinh rất thương cảm, đồng chịu tang, chợ búa nghỉ bán ba ngày, phố phường đều đóng cửa, kẻ làm ruộng ngưng cày cấy, dân chài lưới đem ghe về bến, dân tình đều than khóc, quốc kỳ treo rũ ở các tư dinh. Người dân các nơi lũ lượt kéo về cúng bái cầu an...”. Tình cảm thương quý của nhân dân được thể hiện như thước đo đức độ, phẩm chất nhân vật.

Hay về Nguyễn Hữu Cảnh với các chi tiết tương truyền: “Trước hung tin bất ngờ, “Ở Kiến An (cù lao Vôi), dân chúng hai bên cù lao đều thảng thốt bàng hoàng, nhiều nơi bật thành tiếng khóc như họ mới bị mất người thân”; “Nhân dân vùng Gia Định thương tiếc, bật khóc. Lập Dinh Ông ở cồn Cây Sao thờ Lễ Công, dân chúng xưng tụng là Ông Lớn”... Điều này nói lên tình cảm sâu sắc của nhân dân địa phương hay của nước láng giềng nơi nhân vật thực hiện trách nhiệm bang giao. Lịch sử thời kỳ này gắn với những cuộc giao tranh nhưng truyện kể về Nguyễn Hữu Cảnh không có dấu vết của trận đánh ác liệt nào, chỉ có hình ảnh về một “Đức ông” bao dung, tận tụy, lấy đức trị nhân. Điều này cho thấy nhân vật đã thực thi công cuộc mở cõi trên tinh thần nhân văn. Môtíp Thờ tự tại chùa, đền miếu, đình...

Dấu ấn chùa, đền miếu, đình... gắn với yếu tố tâm linh và quan niệm về đạo lý, nơi đây, nhân dân tưởng niệm và phụng thờ anh linh những anh hùng hy sinh vì nước. Môtíp xuất hiện trong truyện Hữu phủ Tống quốc công, Oai linh ông Điều Bát.... Còn có chi tiết tương truyền về Nguyễn Hữu Cảnh: “Chủ tướng mất, binh lính giải ngũ, tản lạc theo lộ trình từ sông Hậu, Tiền, Đồng Nai lập nghiệp. Họ lập đền thờ, đặt tên những vùng đất nơi ông đặt chân đến...”; “đem quân về đến Sầm Khê thì mất, rất thiêng, người Chân Lạp lập đền thờ...” - sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca ghi nhận: “Sông Lễ Công chỗ cù lao, Miễu ông Chưởng Lễ thuở nào lưu lai. Đồng Nai cũng có miếu ngài, Nam Vang, Châu Đốc lại hai chỗ thờ” [153,87]. Môtíp Hiển linh

Sự hiển linh mang ý nghĩa phù trợ chiến đấu hoặc trừ gian diệt bạo. Như truyện Oai linh Hầu tước Sĩ Hòa kể: “Những ai gian trá, ông hiển lộng oai thần, trừng trị cho đến biết sợ mà bỏ thói ác mới thôi; hoặc khi đất nước bị giặc đánh phá, ông cũng từng hiển linh, âm phù mặc trợ...”; hay “Ngôi míếu Quốc công rất linh ứng, kẻ tâm địa xấu

80

khiếp sợ gươm thiêng lấy đầu...”, “anh linh vị tiền nhân đã phát ứng, xô té nhào bọn Pháp ngang tàng, xấc xược...” (Hửu phủ Tống Quốc Công)...

Hình thức nhân vật hóa xuất hiện trong truyện Hắc Hổ tướng công: “Khi thác,

ông hóa thành thần được thờ phụng ở Châu Phú”. Môtíp Lưu địa danh, câu ca...

Dấu tích địa danh, câu ca... mang ý nghĩa sự tưởng nhớ, ghi công về người anh hùng. Như dấu tích địa danh liên quan trận đánh của Quản cơ Thành: “Chỗ của hai người ẩn náu và tu hành ngày xưa, nay được gọi là Vồ Ông Bướm...”.

- Người có công dẹp loạn ở vùng biên cương (NV.2.1.2) Nhóm này có 6 truyện, 1 dị bản: Đốc binh Vàng, Sông Xá Hương (/ Sự tích miếu

Ông Bần Quỳ), Phó cơ Điều, Quan lớn Tà Vông, Huỳnh Công Nghệ, Nguyễn Hữu Lễ.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những người thực thi trách nhiệm trấn giữ

biên cương hay bảo vệ dân cư..., đã thất trận và hy sinh, tuẫn tiết.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Quan nhân hay thủ lĩnh cộng đồng nhận lệnh triều đình trấn giữ biên cương hay bảo vệ dân cư... (cid:1) hy sinh, tuẫn tiết (cid:1) hiển linh, được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: - Thực hiện mệnh lệnh triều đình (tần số xuất hiện: 4 lần) -Thắng trận, lập công (m) (2 lần) -Cái chết kiên cường (m) (7 lần) - Tìm nhận thi hài và chôn cất, lập mộ (m) (1 lần) -Thờ tự tại chùa, đền miếu... (m) (6 lần) -Hiển linh (m) (3 lần) -Lưu địa danh, câu ca... (m) (4 lần) (1 tình tiết, 6 môtíp), được miêu tả như sau: Tình tiết Thực hiện mệnh lệnh triều đình

Nhân vật là những người thực hiện việc triều đình, như: vận lương đánh giặc, thám sát quân tình hay giúp dân chạy giặc... Như: “Khi quân Xiêm tràn vào đánh chiếm Hà Tiên, An Giang, triều đình đã cử Nguyễn Hiến Điều về vùng Tà Niên để dẹp loạn...”; Mai Công Hương, viên Xá sai ty (hay quan Tào vận), chuyển vận lương thực cho chúa Nguyễn trong trận đánh với quân Xiêm (hay “Cao Miên”) (Sông Xá Hương)... Môtíp Thắng trận, lập công

Môtíp xuất hiện trong truyện Quan lớn Tà Vông: “Bọn cướp nhiều lần kéo đến cướp bóc, đều bị ông và dân quân đánh bại...”; hay “Huỳnh Công Nghệ là người mưu dõng, đã tùng đẩy lùi bọn cướp từ bên kia biên giới sang đánh phá vùng đất này”. Môtíp Cái chết kiên cường

Môtíp thể hiện phẩm chất của người anh hùng. Về diễn biến thực tại, sự kiện hy sinh, tuẫn tiết đã được miêu tả bằng những hình ảnh không kém phần khốc liệt. Như về

81

Mai Công Hương: “Ông quyết tiến lên và không để quân lương rơi vào tay giặc… Quân Xiêm vây đánh rất ngặt, liệu bề không thoát, ông cho đục thuyền nhận chìm lương phạn và chết theo...” (Sự tích miếu ông Bần Quỳ); về Đốc binh Trần Ngọc: “quyết không để quân lương rơi vào tay giặc, ông ra lệnh thiêu huỷ cà và đừng trước mũi thuyền rút gươm tự sát. Lửa cháy cao ngất suốt bảy ngày bảy đêm...” (Đốc binh Vàng). Các nhân vật có chung khí khái hiên ngang, anh dũng, mang dáng dấp những tấm gương trung liệt trong sử sách xưa. Hay về Phó Cơ Điều: “…để khỏi sa vào tay đối phương, ông đâm vào cổ tự sát bên gốc cây trâm, cạnh bờ giếng. Nhóm nổi dậy cắt đầu ông về treo tại ngã ba So Đũa...”.. Môtíp Tìm nhận thi hài và chôn cất, lập mộ

Môtíp tiếp nhận một quan niệm về đời sống, mang ý nghĩa tâm linh. Theo tâm thức văn hóa chung, “Ngôi mộ dù khiêm nhường như một gò đất hay vươn lên trời cao như một kim tự tháp vẫn gợi ý nghĩa tượng trưng của ngọn núi”, nó là “những đài chứa sự sống”, “khẳng định tính vĩnh cửu của sự sống”, là nơi chuẩn bị để tái sinh, mặt khác là “nơi ở” hoặc “để giữ phần hồn người đã chết” [23,596]. Trong nhiều truyền thống văn hóa, người sống đã dốc sức “chuẩn bị cho ngôi nhà vĩnh cửu của mình”. Người Việt quan niệm “Sống nhà, thác mồ mả”, chăm lo “mồ yên mả đẹp” là trách nhiệm và nghĩa cử cao đẹp. Đối với những người anh hùng hy sinh vì đại nghĩa, để thể hiện sự thành kính, tri ân, nhân dân quyết không lãng xao “nghĩa tận”.

Môtíp xuất hiện trong truyện về Phó Cơ Điều: “Dân Vĩnh Hòa Đông đã bí mật tổ chức lấy đầu ông do người Khmer cất giấu ở một ngôi chùa tại rạch So Đũa về thờ tại đình làng và tôn ông làm chính thần”... Môtíp Thờ tự tại chùa, đền miếu, đình...

Dấu ấn môtíp thể hiện trong truyện Sự tích miếu Ông Bần Quỳ: sau khi nhân vật tuẫn tiết, “Dân chúng lập đền thờ...” (sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã ghi: “Miểu ông Bần quì tục ngữ còn ghi. Sông tra lên xuống hằng ghi, Ghe buôn tới đó đều thì vái van” [153,47]; hay truyện Quan lớn Tà Vông: “Thế nhân, tiếc thương cả ba anh em, lập đền miếu thờ tự ở nhiều nơi”... Môtíp Hiển linh

Môtíp được biểu hiện với sự hiển thánh. Trong đó, sự hiển linh có thể xảy ra ngay khi nhân vật hy sinh, như: “Khi ông nhận chìm lương phạn tử tiết, bần mọc bờ sông đều quỳ nên miếu thờ gọi là Miếu Ông Bần Quỳ”, “Trên khúc sông này thường nổi lên những đợt sóng mặc dù trời không chút gió”; hoặc xuất hiện ở thời gian về sau, như: “Tương truyền nước sông Tiền xoáy mạnh có năm làm lở đất trước đền thờ, dân chúng cầu nguyện xin dời đền về phần đất trong. Lạ thay, từ đó đất không lở mà còn

82

được bồi trở ra” (Đốc binh Vàng). Sự xuất hiện những hiện tượng lạ, như: cây rũ, sóng thần, nước xoáy, đất lở.... là những biến động của ngoại giới, thể hiện sự linh thiêng hóa thực tại, nhằm gửi gấm ý tưởng tôn vinh về nhân vật. Qua “tiếng rì rầm trong đất” là ý niệm về sự linh thiêng.

Đây là một môtíp truyền thống, chứa đựng quan niệm về sự bất tử của những người anh hùng, về sự kết nối không đứt gãy giữa quá khứ và hiện tại. Liên hệ với truyền thuyết xưa: “Bà Triệu hiển linh giúp Lý Nam Đế đánh quân Lâm Ấp”; hay Lý Phụ Man: “Sau này, ông tiếp tục hiển linh, báo mộng cho vua Lý Thái Tổ và giúp vua Trần Thái Tông dẹp giặc Mông”... Môtíp Lưu địa danh, câu ca...

Môtíp lưu dấu tích về nhân vật, mang ý nghĩa sự tưởng nhớ, ghi công. Như về Đốc binh Trần Ngọc: “Từ sự kiện trên mà rạch Tân Thạnh được đổi tên là Rạch Đốc Vàng để tưởng nhớ người anh hùng trung trực, nghĩa khí...” (Đốc binh Vàng)...

Các môtíp chung cục xuất hiện còn ít ỏi nhưng cũng đã ghi dấu ấn tình cảm, sự

tri ân sâu sắc của nhân dân đối với các bậc tiền nhân giữ nước.

Nhìn chung, bên cạnh một số bản kể ghi nhận từ tư liệu sử và biên khảo có hình thức cấu tạo cốt truyện và các tình tiết, môtíp còn khá rời rạc, đã tồn tại những bản kể có cấu trúc đầy đủ, hoàn chỉnh, bước đầu đánh dấu sự ổn định của truyền thuyết về chống ngoại xâm ở Nam Bộ. Trong đó, các môtíp truyền thống như tài năng, chiến công, sự hiển linh có dấu ấn khá rõ nét. Đây chính là cơ sở cho sự phát triển nhóm truyền thuyết về khởi nghĩa chống Pháp ở giai đoạn sau.

3.2.3.2. Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX (N.2.2.)

Hệ thống truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp có 78 truyện,

được lấy từ văn bản sưu tầm, biên soạn.

Hệ thống truyền thuyết có kiểu nhân vật trung tâm là Người anh hùng cứu nước (KNV.2.2). Đây là hình tượng nhân vật trung tâm của truyền thuyết về chống ngoại xâm. Cảm hứng chủ đạo là sự ngợi ca, tôn vinh những chiến tích vẻ vang, đồng thời tô đậm tính chất bi tráng của hình tượng người anh hùng.

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống truyền thuyết có 2 đề tài - cốt truyện: Người anh hùng với sức khỏe, tài trí và chiến công (ĐT-CT.2.2.1) và Người anh hùng với sự thất bại và cái chết kiên cường (ĐT-CT.2.2.2). Việc phân chia này xét trên yếu tố nổi trội. Như truyện Ông Hùng Dõng, Ông Phòng Biểu, bên cạnh sức khỏe, tài trí và chiến công, dấu ấn về sự thất bại, hy sinh của các nhân vật đậm nét hơn.

83

Đề tài - cốt truyện Người anh hùng với sức khỏe, tài trí và chiến công (ĐT-

CT.2.2.1)

Gắn với tư duy hiện thực lịch sử, nhân vật được miêu tả mang vẻ đẹp mới của

hình tượng nhân vật dũng sĩ trong tự sự dân gian.

Đề tài - cốt truyện có thể xác lập xoay quanh nhân vật mang đặc điểm: Người

có tài thao lược, ra trận lập công (NV.2.2.1).

Nhóm này có 17 / 78 truyện, gồm 12 truyện về nhân vật trung tâm: Sức khoẻ của Thiên Hộ Dương, Võ nghệ của Thiên Hộ Dương, Sức khoẻ và võ nghệ của Ông Nguyễn, Tài trí của Nguyễn Trung Trực, Đức Cố Quản và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, Dẹp mối bất hòa trong các tướng cận vệ, Đấu gươm với Đô đốc Bạc Má, Thiên Hộ Dương và đạo binh trâu, Rắn thần trợ lực ngài Thiên Hộ, Đốc binh Kiều đánh hỏa công, Ông Phòng Biểu trị tội Phạm Văn Khanh, Người liên lạc của Thiên Hộ Dương; 5 truyện về sự kiện và nhân vật liên quan: Người con gái Vĩnh Hanh, Cô gái Bến Nghé, Tiếng còi mục đồng, Lai lịch chiếc nóp, Rạch Ông Voi.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những lãnh tụ khởi nghĩa hay tướng lĩnh,

nghĩa binh đã chiến đấu, lập công với thắng lợi vẻ vang.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Nhân vật lãnh tụ khởi nghĩa hay tướng lĩnh, nghĩa binh tài ba hơn người (cid:1) thể hiện tài năng, chiến công (cid:1) thắng lợi (cid:1) dấu tích lưu lại.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Mộ binh hoặc tham gia khởi nghĩa (tần số xuất hiện: 12 lần) -Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ (m) (8 lần) -Thử tài (m) (2 lần) -Nhân vật được giúp sức (m) (3 lần) -Lập mưu lừa giặc (m) (6 lần) -Sáng tạo vũ khí (m) (4 lần) -Thắng trận, lập công (m) (13 lần) -Trừng trị Việt gian (1 lần) - Lời tiên tri, tuyên bố (m) (1 lần) -Lời nhắc nhở, bia truyền (m) (1 lần) -Lưu địa danh, câu ca... (m) (1 lần) (2 tình tiết, 9 môtíp), được miêu tả như sau: Tình tiết Mộ binh hoặc tham gia khởi nghĩa

Các nhân vật bao gồm nhiều thành phần, như các võ tướng, bậc trí thức hay nông dân..., những người đã phát động khởi nghĩa hay gia nhập hàng ngũ nghĩa quân trong những giai đoạn khác nhau của cuộc chiến. Tình tiết có mặt hầu hết trong nhóm truyện, có thể miêu tả chung.

Như về các nhân vật lãnh tụ khởi nghĩa: “Tương truyền, khi thực dân Pháp đánh ba tỉnh miền Tây Nam kỳ”, “Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân rút về Hòn Chông xây căn cứ chống giặc…” (Tài trí của Nguyễn Trung Trực); “Vốn là một ông giáo làng, Phan Ngọc Tòng đứng ra tập hợp dân chúng, tổ chức chống Pháp, được cử làm Đốc binh...”. Về nhân vật tôn giáo hoạt động khởi nghĩa ở vùng Thất Sơn: Đức cố

84

Quản Trần Văn Thành quê ấp Bình Phú, Châu Đốc, là giáo đồ, khởi binh đánh Pháp; Ngô Lợi, người Mõ Cày, Bến Tre, lên núi Tượng lập đạo Tứ ân hiếu nghĩa chống Pháp.... Hay về các nhân vật tướng lĩnh, nghĩa binh: “Đốc binh Kiều tên thật là Nguyễn Tấn Kiều, tướng tài dưới trướng Thiên Hộ Dương, sau lập căn cứ ở Gò Tháp...”; hay “Sáu Hải, xóm Chợ Giữa, Mỹ Tho”, một tướng cướp được Thủ Khoa Huân cảm hóa, trở thành người lính mõ...” (Người lính mõ của Thủ Khoa Huân)...

Trong đó, một số nhân vật được xây dựng theo hình thức sóng đôi, như Thiên Hộ Dương - Đốc binh Kiều, Lê Cẩn - Nguyễn Giao hay Tứ Kiệt... Mối liên hệ phổ biến nhất là việc các nhân vật phối hợp chiến đấu hay các tướng lĩnh tham gia nối dài những cuộc khởi nghĩa của lãnh tụ, như: “Ông Thận, Rộng, Long, Đước đều là dũng tướng của Đốc Binh Kiều và Thiên Hộ Dương”, “Bốn Ông chỉ huy đánh Pháp ở Cai Lậy, Vĩnh Long...” (Bốn trang hào kiệt Cai Lậy)... Mối liên hệ còn biểu hiện ở hình thức những di tích thờ cúng phối tự, như: Lãnh binh Nguyễn Văn Cẩn “về Gò Tháp lập chùa thờ Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều...”. Hình thức sóng đôi này đã tạo nên một kiểu mẫu về người anh hùng chiến trận, tạo niềm tin về người anh hùng tập thể với sức mạnh chiến đấu chống xâm lược. Môtíp Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ

Môtíp ẩn chứa một quan niệm về thực tại, đó là đối lập cao nhất của cái dị thường, khác thường là cái tốt, cái giá trị nhất của bản chất đối tượng được tôn vinh. Nhân vật được xây dựng với kiểu mẫu người anh hùng, mang dáng dấp người dũng sĩ trong truyền thuyết cổ: những con người có ngoại hình lạ, có năng lực phi thường, hoàn thiện về sức khoẻ và tài năng hầu gánh vác những trách nhiệm lớn lao. Đây là những “bệ phóng” đồng thời cũng chính là một phần “chất thơ” trong bài ca chiến công của truyền thuyết. Chất liệu là hình ảnh con người trên một không gian thực tại nơi vùng đất cuối phương Nam, tạo nên một sắc thái mới, độc đáo.

Tiêu biểu là các nhân vật lãnh tụ khởi nghĩa. Như về Võ Duy Dương, đó là tài kéo bè gỗ bằng sức hơn “bốn mươi người”, cử “đỉnh đồng nặng hai trăm cân”, “Một tay có thể nhổ nổi một cây tre mỡ và có thể một lúc cử năm trái linh (mỗi trái nặng 60 ký). Do vậy ông được người đời gọi là Ngũ Linh Thiên Hộ...”. Nhân vật còn là người “có sức khoẻ, năng tập võ nghệ”, nhất là biểu diễn đường roi song đôi tài tình: “Đường roi chuyển động chớp nhoáng, liên tục như lớp thành kỳ ảo, bao bọc lấy thân người...” (Sức khoẻ của Thiên Hộ Dương, Võ nghệ của Thiên Hộ Dương). Về Nguyễn Trung Trực, sức khỏe, biệt tài của nhân vật được tô đậm, đặc biệt là tài võ nghệ: “Tương truyền, Nguyễn Trung Trực là người có sức khoẻ siêu quần, võ nghệ tuyệt luân…” (Sức khoẻ và võ nghệ của Ông Nguyễn), “giỏi bơi lặn, bắt cá, bắt rắn độc, phi thân bắt

85

quạ”, có tài chạy nhảy phi thân; hay “Ông Trực là người giỏi võ, nhảy bay qua bờ rạch Tà Niên”; khi lâm trận, “phi thân qua hàng rào giữa đồn”… Theo đó, hình ảnh người anh hùng chống Pháp ở vùng sông nước Cửu Long đã được khắc họa sống động.

Hay nhân vật được xây dựng với phẩm chất thời niên thiếu: như Trần Văn Thành là người cương trực, can đảm, lúc nhỏ từng ngăn hào mục ức hiếp dân nghèo, là người “có võ nghệ cao cường” (Đức Cố Quản và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa)...

Bên cạnh đó là các tướng lĩnh, nghĩa binh. Đó là Nguyễn Văn Nghề, Người liên lạc của Thiên Hộ Dương có tướng mạo khác thường, thành tích lao động giỏi: gánh hai giỏ cá trâu kéo không nổi, ngoài ra còn tinh thông võ nghệ, rất quen thuộc địa bàn: “đường tắt vào Gò Tháp ông thuộc như lòng bàn tay, biết chổ nào lắm sình, chỗ nào rắn độc, thú dữ nhiều”; Ông Phòng Biểu cận tướng của Thiên Hộ Dương vốn là một lực điền với tài mạo dị thường: “Tương truyền ông có vóc người to lớn khỏe mạnh, da đen, môi chì, tướng mạo bặm trợn, trông rất dữ dằn, cổ to và ăn rất khỏe”, có thể nhấc bổng cây, ghìm trâu dữ, một mình “kéo nổi chiếc ghe chứa trăm giạ lúa qua lại trên ruộng”, xốc chiếc ghe lườn to chở đầy mạ bị mắc cạn “kéo sềnh sệch trên đất bùn”, gánh năm giỏ cá trâu kéo không nổi, có tài dùng thước sắt có thể “chặt đứt tiện ngang” một lúc ba chục cây mía lau; còn có tài vụt quét đuổi chim...; hay nhân vật người nông dân đến hiến kế cho ngài Thiên Hộ đánh giặc với tài thuần phục trâu rừng “có tới hàng trăm con” (Thiên Hộ Dương và đạo binh trâu)... Nơi vùng đất thiên nhiên còn hoang sơ họ trở thành những con người kỳ vĩ, nhưng không phải với thành tích khơi sông bạt núi của hình tượng thần thoại xa xưa mà là những con người thực với khát vọng chinh phục tự nhiên bằng sức lực và sự gan góc, quả cảm. Hay như cô Sáu Khỏe trong Người con gái Vĩnh Hanh: “Tương truyền cô có thân hình cân đối, khỏe mạnh, lại tinh thông Hán học và giỏi võ nghệ. Cô lại còn có biệt tài khảy đàn tranh”, dựa vào sắc tài, nhân vật đã lừa giặc lập công... Những con người ấy đã đem sức lực, tài trí đóng góp cho kháng chiến.

Tính chất phong phú có nét đặc thù của các chi tiết sự kiện đã tạo nên những

bản kể có chất lượng nghệ thuật.

Liên hệ chuỗi truyện về Hoàng Hoa Thám lưu truyền ở vùng Yên Thế [18,71], về nhân vật lãnh tụ khởi nghĩa, các “dấu hiệu” đặc biệt được tô đậm, như: “cậu bé Thắm không có tóc, tai to và một bên có lỗ, mắt sáng, tay dài quá khoeo”, sự ra đời “được báo trước bởi ngôi sao phúc tinh”, “ở rừng, hổ báo không dám bén mãng làm hại...”; thời niên thiếu gắn với hình ảnh những đứa trẻ chăn trâu làng Trũng, làng Chè, làng Am… trong trận giả tôn cậu bé làm vua mục đồng, một môtíp truyền thống của vùng văn hóa Bắc Bộ, tạo nên sắc thái độc đáo. Về các nghĩa quân, môtíp biệt tài nổi

86

rõ, như: “Cả Trọng có tài bắn xuyên qua bảy chiếc chai sắp hàng dọc, Cả Dinh có tài bắn lọt giữa những vòng đeo tay tung lên trời...”; hay bà Ba Cẩn “có tài bấm độn”... Theo đó, tính cách người anh hùng nông dân, khí phách của người anh hùng hy sinh vì nghiệp giải phóng dân tộc kết tinh trong hình tượng Hoàng Hoa Thám được nhận định là có những nét gần gũi với Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực. Liên hệ hình tượng nhân vật sử thi (với lối xây dựng chân dung người anh hùng phi thường từ hình dáng, sức vóc, vũ khí, tính cách, đến trang phục, đồ dùng...), qua môtíp về ngoại hình, sức khỏe, biệt tài..., các nhân vật của nhóm truyền thuyết đã thể hiện vẻ đẹp của các nhân vật dũng sĩ. Môtíp Thử tài

Theo quan niệm chung, cái thực tài phải trải qua thử thách mới thấy được chân giá trị. Trong các truyện kể, môtíp được thể hiện với tình huống thử thách trong hoạt động chiến đấu. Tập trung nhất là tài võ nghệ, một tài năng vốn được đề cao ở vùng đất còn hoang sơ với nhiều hiểm nguy đe dọa.

Tiêu biểu là truyện về Thiên Hộ Dương, nhân vật được xây dựng với hình ảnh một thủ lĩnh nghĩa quân tài kiêm văn võ. Về võ nghệ, trước sự thách đố với các tướng lĩnh tài ba dưới trướng như “Thủ Chiến, Phòng Biểu, Nhiêu Chấn và Thông Phụng”, Thiên Hộ Dương đã biểu diễn đường song roi rất tài tình khiến mọi người phải thán phục (Võ nghệ của Thiên Hộ Dương). Tài năng của nhân vật còn được thể hiện ngay trong hoàn cảnh khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa, như trong lúc “Đại đồn Tháp Mười bị triệt hạ, Pháp lùng sục tìm bắt”, Thiên Hộ Dương đã Đấu gươm với đô đốc Bạc Má (De la Grandière) với kết quả bất phân thắng bại. Về khả năng thông kim bác cổ, tình huống truyện được xây dựng gắn với chi tiết về thành phần nghĩa quân: trong số tướng lĩnh “có nhiều người thuộc hàng khoa cử...”, Thiên Hộ Dương đã lấy tích xưa để nhắc nhở nhằm Dẹp mối bất hòa giữa các tướng hộ vệ, củng cố sức mạnh cho hàng ngũ nghĩa quân. Đây là cách thức các tướng lĩnh tài ba dùng an quân, như trong Hịch tướng sĩ, Hưng Đạo Vương đã lấy gương trung liệt cổ để huấn dụ, cảnh tỉnh binh sĩ trước họa ngoại xâm treo trước mắt. Theo đó, hình tượng Thiên Hộ Dương mang vẻ đẹp mới của nhân vật lãnh tụ nghĩa binh đánh Pháp. Môtíp Nhân vật được giúp sức

Môtíp gắn với quan niệm người anh hùng lập chiến công không tách rời sức mạnh của tập thể quần chúng. Đây là sự trao truyền sức mạnh tâm linh từ tiền nhân thuở trước nhưng đồng thời là sự hiện hữu từ những con người đương thời. Chính các thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn thuở xưa đã phải ẩn nhẫn “nếm mật nằm gai” ở những thời khắc “Tuấn kiệt như sao buổi sớm...” để chờ nhân tài hội tụ. Ở hình tượng người

87

anh hùng sử thi, kiểu mẫu của cái đẹp, cái hào hùng, nhân vật cũng được xây dựng với sức cổ vũ mạnh mẽ cao độ từ tập thể quần chúng.

Trong các truyện kể, các lãnh tụ nghĩa quân lập nên chiến công thường nhờ vào sự trợ giúp của các anh tài, trong đó bao gồm hào kiệt các phương quy tụ về (Võ nghệ của Thiên Hộ Dương); hay lực lượng nông dân, quần chúng ủng hộ kháng chiến (như người dân hiến kế dùng đạo binh trâu đánh giặc).... Sự giúp sức thể hiện tính chính nghĩa của người anh hùng, mặt khác là sự gặp gỡ của tinh thần xả thân vì đại nghĩa. Sự kiện đã thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa lãnh tụ và quần chúng.

Liên hệ truyện về Hoàng Hoa Thám, giữa vị chủ tướng của phong trào khởi nghĩa với quần chúng luôn có sự gắn bó: “những bữa cơm dọc đường chiến đấu, bài thuốc của đồng bào dân tộc dịt khỏi vết thương ở trận Bến Trăm...”. Theo đó, hình tượng nhân vật lãnh tụ được xây dựng không tách rời hình tượng tập thể những người nông dân yêu nước. Môtíp Lập mưu lừa giặc

Môtíp nhằm đề cao cơ mưu, tài trí của người anh hùng, gắn với quan niệm: người tài thường đi liền với khả năng “thần cơ diệu toán”. Trong truyện cổ tích hoặc truyện trạng, loại nhân vật cơ trí cũng xây dựng trên cơ sở tinh thần đề cao trí tuệ con người. Trong truyền thuyết, gắn với tư duy lịch sử, môtíp mang dấu ấn hiện thực được hư cấu, tôn tạo, trong đó, người thủ lĩnh luôn tài ba hơn người.

Môtíp thể hiện tài trí của nhân vật thủ lĩnh và tướng lĩnh khởi nghĩa. Như về Đốc binh Kiều, tương truyền khi đóng quân ở Đồng Tháp Mười ông đã ra lệnh cấm đốt cỏ ba năm để chuẩn bị cho trận hoả công đánh Pháp; hay đạo binh rắn chính là “mưu kế dùng rắn độc giết giặc của Thiên Hộ Dương và nghĩa quân”, việc cho sử dụng đạo binh trâu đánh giặc, lập chiến công cũng là một cách dụng binh kỳ tài của “ngài Thiên Hộ” (Đốc binh Kiều đánh hỏa công, Thiên Hộ Dương và đạo binh trâu...); hoặc việc lập mưu trừng trị Việt gian cũng là một kế sách đặc biệt được thực hiện (Ông Phòng Biểu trị tội Phạm Văn Khanh)... Hay về Nguyễn Trung Trực, nhân vật được xây dựng là một thủ lĩnh mưu lược, tài trí vô song: lần đánh đồn Kiên Giang đã biết chờ đợi thời cơ, dùng kế hoãn binh để củng cố hàng ngũ nghĩa quân; hoặc khi bị giặc đàn áp phải rút ra Phú Quốc đã dùng kế nghi binh lừa giặc (Tài trí của Nguyễn Trung Trực)... Môtíp Sáng tạo vũ khí

Các môtíp có mối liên hệ, với ý nghĩa sáng tạo vũ khí là sự cụ thể hóa của việc

lập mưu, lừa giặc, bởi cần có vũ khí vật chất cụ thể dùng cho cơ mưu chống giặc.

Ở đây, đối đầu với súng đạn, thần công của bọn thực dân xâm lược, vũ khí của các nghĩa quân là sự tận dụng địa thế tổ chức trận địa, tô rèn binh khí, cải tạo điều kiện

88

tự nhiên... Những hình ảnh chiến trận mang đặc trưng của thiên nhiên và dấu ấn sáng tạo của con người Nam Bộ. Đó là cánh đồng cỏ dại, lau sậy mênh mông dùng đánh trận hoả công, đàn trâu rừng “xung trận” theo hiệu lệnh của “Ngưu quân thượng tướng”, bầy rắn “thần” biến hóa trong trận địa mai phục của Thiên Hộ Dương... Đó còn là Tiếng còi mục đồng với thanh âm vang xa làm ám hiệu đánh trận; hay là chiếc nóp giúp nghĩa quân đối phó với sự bất lợi của điều kiện tự nhiên (Muỗi Đồng Tháp Mười và chiếc nóp). Liên hệ truyện dân gian Thái Bình, Đoàn Công Uẩn đã bày kế diệt giặc Minh bằng cách bày cho dân làng lấy cói biển đan thành bao để chui vào ngủ tránh muỗi, khi bọn giặc bắt dâng nộp bao, ông tổ chức đội dân binh ban đêm đột nhập vào đồn tiêu diệt chúng (Dùng mưu giết giặc). Nét tương đồng trong hình thức sáng tạo vũ khí tô đậm tinh thần khắc phục gian khó, ý chí chiến đấu của nghĩa quân “ngài Thiên Hộ”. Môtíp Thắng trận, lập công

Môtíp đóng vai trò trung tâm của cốt truyện. Chiến công của các nhân vật được thực hiện ở khả năng cao nhất, ở nhiều khía cạnh như thắng trận, thoát hiểm hoặc làm tăng thanh thế nghĩa quân.... Như Thiên Hộ Dương, với đạo binh trâu: “Trận này, nghĩa quân thắng lớn”; với trận địa binh rắn: “quân giặc bị giết và bị bắt gần hết”; hoặc đã “xóa được mối hiềm khích bấy lâu trong các tướng cận vệ...”. Hay Đốc binh Kiều lập căn cứ ở Gò Tháp, “Thắng nhiều trận, uy danh khiến Pháp và tay sai khiếp sợ”; tổ chức trận hoả công, dân gian gọi là “cánh đồng sọ Tây” (Đốc binh Kiều đánh hoả công)... Về Nguyễn Trung Trực, tài năng của nhân vật được phát huy trong chiến đấu với những công tích lẫy lừng. Đó là trận Nhật Tảo và đặc biệt là trận đánh đồn Rạch Giá: “Một mình đột nhập đồn (Kiên Giang), hạ sát giặc, giải cứu cô ba Đỏ...”, “Quân Pháp bạt vía kinh hồn, phải co lại một thời gian” (Sức khỏe và võ nghệ của ông Nguyễn); hay ở Phú Quốc “Suốt một thời gian dài, tàu giặc chỉ rập rình mà không dám tấn công. Nhờ vậy mà nghĩa quân bảo toàn được lực lượng...” (Tài trí của Nguyễn Trung Trực)... Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã ghi: “Nhớ xưa đương cuộc chiến chinh, Ông Nguyễn Trung Trực tung hoành đã lâu. Trước nơi Nhựt Tảo đốt tàu, Sau nơi Rạch Giá đánh nhầu hoảng kinh” [153,93].

Đặc biệt, có sự xuất hiện yếu tố ảo hoá. Như truyện về Nguyễn Trung Trực, nhân vật mang dáng dấp dũng sĩ với thân thủ phi phàm vượt qua súng đạn quân thù: “Bọn giặc thấy ông Nguyễn một mình một ngựa lướt như bay về phía Hòn Tre. Chúng bắn đuổi theo. Nhưng đạn vừa bay khỏi nòng súng liền lập tức bay ngược lại, xuyên thẳng vào ngực chúng...” (Sức khỏe và võ nghệ của ông Nguyễn)... Tình tiết Trừng trị Việt gian

89

Tình tiết được xây dựng trên cơ sở hiện thực: có những kẻ cam tâm làm tay sai đắc lực cho giặc Pháp tàn hại nghĩa quân, đồng bào và không ít kẻ đã phải nhận lấy sự trừng phạt đích đáng. Như truyện Ông Phòng Biểu trị tội Phạm Văn Khanh kể: “Phòng Biểu theo lệnh Đốc binh Kiều đóng quân ở Thông Bình, trị tội tên phản dân hại nước...”. Liên hệ truyện Hoàng Hoa Thám, người thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế đã trực tiếp trừng trị tên tay sai đắc lực bằng một phát súng thiện nghệ: “một tiếng nổ khẽ. Phó đội Liên giật mình một cái rồi giật cương phóng ngựa như bay…”. Tình tiết được thể hiện như một chiến công của các nhân vật tướng lĩnh nghĩa binh, cho thấy tính thống nhất trong cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở các vùng miền cả nước. Môtíp Lời tiên tri, tuyên bố

Môtíp gắn với các nhân vật tôn giáo, mang ý nghĩa về tâm linh. Với các đạo gia hoạt động chống Pháp, lời tiên tri có nội dung mở ra chí lớn cho người hào kiệt, như: “Sau này con sẽ là một tay hào kiệt mang gươm đi giúp đời...” (Đức Cố Quản và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa). Môtíp Lời nhắc nhở bia truyền

Sự kiện kết thúc thắng lợi gắn với lời nhắc nhở bia truyền. Như truyện về các nhân vật liên quan: “cô gái Bến Nghé bị thả bè chuối trôi sông, bị giặc bắt rồi góp công giết giặc cứu nước”. Qua đó có bóng dáng của tướng quân Trương Định, chính Trương Định chứ không thể ai khác đã cứu giúp, đưa cô gái thoát khỏi cuộc đời bế tắc, nhục nhằn, lại cho cô cơ hội góp công giết giặc.

Còn có tình tiết thể hiện trong chi tiết tương truyền về nhân vật:

Tình tiết Dân cản đầu ngựa tướng soái

Tình tiết xuất hiện gắn với lời kể về Trương Định. Chức Bình Tây nguyên soái dân phong đã nói lên vị thế của Trương Định trong lòng nhân dân, nhờ dân ông đã đi đúng con đường trung nghĩa và cũng chính điều này làm dấy lên tình cảm mến phục. Đây là hành động thể hiện một thỉnh nguyện hết sức bức thiết của nhân dân, nên một tướng quân quay đầu ngựa ở lại với nhân dân, nhận trách nhiệm đối mặt với súng đạn quân thù bỗng trở nên lẫm liệt. Tình tiết ngắn gọn nhưng có sức nặng hơn nhiều lời tôn xưng, sẽ mãi là hình ảnh chính khí về người anh hùng đất Gò Công. Đây chính là “phút làm nên lịch sử, chói ngời hào quang” của Trương Định [46,3], với tinh thần chung đã được khắc họa trong câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu: “Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại...” (Văn tế Trương Định) hay “Viên đạn nghịch thần treo trước mắt, Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay” (Thơ điếu Phan Công Tòng).

90

Tựu trung, đây là bản hùng ca về người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ, tuy ngắn ngủi nhưng đầy hào khí, góp phần xây dựng hình tượng người anh hùng trong truyền thuyết dân gian. Các truyện kể kết thúc ở sự thắng lợi, như một trường đoạn đẹp nhất của sự kiện về nhân vật. Về hình thức, có sự kết thúc hợp lý của bản kể. Việc chấm dứt truyện kể ở phần chiến công lẫy lừng, không nói đến cái chết chung cục, về khách quan, cũng đã giữ lại ít nhiều vầng hào quang chiến thắng của người anh hùng.

Đề tài - cốt truyện Người anh hùng với sự thất bại và cái chết kiên cường

(ĐT-CT.2.2.2)

Chất liệu phong phú của hiện thực cũng tạo cơ sở cho sự hình thành đề tài - cốt truyện mang ý nghĩa như một khúc ca bi tráng. Liên quan khái niệm “cái bi”, ở đây có “sự bất tử về mặt tinh thần bằng những nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện” [52,37], cũng được thể hiện “thông qua hình tượng người anh hùng, những biểu hiện anh hùng”, nhằm khẳng định một lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp. Nhân vật xuất hiện không chỉ là những con người có sức khỏe, tài năng và chiến thắng mà còn là những con người chiến bại, với cái chết bi tráng. Trong đó, cái chết của những người anh hùng cứu nước có thể diễn ra trong những trận chiến khốc liệt hoặc nơi pháp trường đầy bi phẫn. Đây chính là sự thể hiện “cảm thức lịch sử gắn với tư duy nghệ thuật” trong truyền thuyết. Như với các truyền thuyết cổ: An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Bà Triệu..., trong mạch cảm hứng tôn vinh, truyền thuyết cũng lý giải lịch sử chiến bại, đồng thời chữa lại kết cục bi thảm về người anh hùng.

Nhóm này có 61 / 78 truyện. Sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện này như sau: Nhân vật lãnh tụ, tướng lĩnh, nghĩa binh (cid:1) thể hiện tài năng, chiến công (cid:1) thất bại, hy sinh và cái chết kiên cường (cid:1) được ghi nhớ, thờ cúng.

Đây là đề tài - cốt truyện có số lượng tình tiết, môtíp nhiều nhất và sự tạo lập

các dạng thức cốt truyện cũng phong phú, đa dạng nhất trong hệ thống truyện.

Đề tài - cốt truyện có thể xác lập xoay quanh nhân vật mang đặc điểm: Sự thất bại và phiêu bạt của những chiến binh đánh giặc (NV.2.2.2.1), Người anh hùng với cái chết trong chiến trận (NV.2.2.2.2) và Người anh hùng với cái chết bi phẫn nơi pháp trường (NV.2.2.2.3).

- Sự thất bại và phiêu bạt của những chiến binh đánh giặc (NV.2.2.2.1) Nhóm này có 17 / 61 truyện, gồm 14 truyện về nhân vật trung tâm: Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương, Thiên Hộ Dương lâm nạn, Ngày giỗ của ông Thiên Hộ, Ông Hùng Dõng, Ông Phòng Biểu, Chánh lãnh binh Nguyễn Hương, Lãnh binh Huỳnh Khắc Hớn, Lãnh binh Trần Văn Từ, Lãnh binh Nguyễn Văn Cần, Trương

91

Tấn Minh, Đức Cố Quản, Bổn sư Ngô Lợi, Ông Đạo Lập, Cử Đa; và 3 truyện về sự kiện, nhân vật liên quan: Người lính mõ của Thủ khoa Huân, Bà Điều, bà Đỏ (Mộ Bà Lớn Tướng), Bà Lưu.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những lãnh tụ, tướng lĩnh nghĩa binh hay người hoạt động tôn giáo tham gia khởi nghĩa với sự kết thúc thất bại. Trong đó, diễn tiến sự kiện về nhân vật không có sự đối đầu trực tiếp với kẻ thù.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Nhân vật lãnh tụ khởi nghĩa đi tìm phương kế phục binh (cid:1) bị hại do nhầm lẫn / hay Tướng lĩnh, nghĩa binh hay nhân vật tôn giáo ra trận đánh giặc, lập công hoặc tham gia ủng hộ kháng chiến (cid:1) thất bại và phiêu bạt (cid:1) được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Mộ binh hoặc tham gia khởi nghĩa (tần số xuất hiện: 14 lần) -Đi tìm phương kế phục binh (1 lần) -Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ (m) (7 lần) -Lập mưu, lừa giặc (m) (1 lần) -Sáng tạo vũ khí (m) (1 lần) - Thắng trận, lập công (m) (8 lần) -Gặp bất ngờ rủi ro (m) (2 lần) -Mất lúc nào không rõ hoặc do một nguyên nhân nào khác (m) (2 lần) -Lời tiên tri, tuyên bố (m) (2 lần) -Ẩn tích, phiêu bạt (m) (11 lần) -Hiển linh (m) (6 lần) -Thờ tự trong chùa, đền miếu, đình... (m) (3 lần) -Lưu địa danh, câu ca, thành ngữ... (m) (3 lần) -Lòng dân ray rứt (2 lần) (3 tình tiết, 11 môtíp), được miêu tả như sau: Tình tiết Đi tìm phương kế phục binh

Tình tiết được xây dựng thể hiện nỗ lực cuối cùng của nhân vật lãnh tụ nghĩa binh. Như truyện Thiên Hộ Dương lâm nạn kể, nhân vật trên đường ra biển đi “bắt liên lạc với Nguyễn Trung Trực ở Hòn Chông...”. Trên con đường đó không có điều thần kỳ tạo nên chiến công như nhân vật sử thi huyền thoại, nhưng đã cho ra một lời giải đáp về kết cục số phận của người anh hùng trong cuộc chiến. Môtíp Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ

Môtíp biểu hiện tập trung nhất là về biệt tài. Như “Lãnh binh Hớn oai quyền lớn, võ nghệ cao cường”, “khắp vùng Định Tường, ai cũng khiếp oai ông Hớn vì đường siêu đao của vị tướng này đến chỗ tuyệt luân...”; về Chánh Lãnh binh Nguyễn Hương: “ông chịu khó luyện tập võ nghệ, nên đã làu thông 18 môn binh khí”, từng bằng tay không đánh thắng cọp, bằng tài võ nghệ, phi thân khuất phục được tên hải tặc Tàu Ô... Hay về yếu tố ngoại hình lạ, như với nhân vật Sáu Hải với “bộ mặt rất dữ, mắt lớn, lông mày rậm, râu quai nón, thân hình lực lưỡng, lưng và tay đầy sẹo... ” (Người lính mõ của Thủ Khoa Huân), ngoại hình này gắn liền với quá khứ lầm lạc, cho thấy sức mạnh cảm hóa của người lãnh tụ khởi nghĩa. Môtíp Lập mưu, lừa giặc và Sáng tạo vũ khí

92

Việc lập mưu lừa giặc có thể diễn ra trong tình huống cụ thể. Như ông Phòng

Biểu dụng kế nhảy sông trốn thoát ngay trước mắt viên chỉ huy Pháp.

Về sáng tạo vũ khí, môtíp xuất hiện trong truyện Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương: “Thiên Hộ Dương ra lệnh cấm đốt cỏ suốt ba năm trời. Khi giặc Pháp tấn công vào Đồng Tháp, nhằm mùa màng cỏ khô. Ông ra lệnh cho nghĩa quân đốt cỏ...”. Môtíp Thắng trận, lập công

Môtíp gắn với sự kiện chiến đấu của nhân vật: ra trận lập công, duy trì chiến đấu.... Về ra trận lập công: “Những phen xuất chiến bất thần, nhanh như vũ bão của nhóm Lãnh binh Hớn đã khiến cho giặc Pháp và quân tân trào vỡ mật...”; Chánh Lãnh binh Nguyễn Hương cùng với Quản cơ Thành, “Hai ông đã cầm quân chống lại trận càn quét của giặc vào vùng Bảy Thưa một trận kinh hồn, đến nay đồng bào còn nhắc nhở...”. Về duy trì chiến đấu, như với các tướng lĩnh Thiên Hộ Dương: “Lãnh binh Nguyễn Văn Cẩn dù chủ tướng hy sinh vẫn kiên trì cố thủ...”....

Các nhân vật tôn giáo vùng Thất Sơn được miêu tả với hành tung kỳ bí, đánh Pháp bằng sức mạnh huyền cơ, bao gồm thần lực hoặc bùa chú, như Ngô Lợi cải trang, dùng thuật ẩn thân qua mắt thực dân Pháp, tránh được “đạo nạn”: “Đức Bổn sư bình tĩnh, tay cầm cây mác vót mà ông dùng để vạt thuốc nam, đi thẳng ra cửa giữa, với hình hài một cụ già râu tóc bạc phơ...”. Có truyện móc nối vào nội dung chống Pháp còn mơ hồ, như truyện Ông Đạo Lập kể: ở Hà Tiên tàng hình thoát đám mật thám Pháp và ở Châu Đốc hóa rắn nước đốt giúp tờ chiếu... Không chỉ riêng Ngô Lợi, hành trạng của các nhân vật đạo gia vẫn “còn nhiều điều chưa sáng rõ”. Môtíp Gặp bất ngờ rủi ro

Dấu ấn môtíp thể hiện ở những yếu tố khách quan tạo ra sự bất lợi: do thời tiết khác thường, do sức khỏe hoặc bị hại do nhầm lẫn..., đưa đến kết quả sự thất bại của cuộc chiến đấu. Như lần thất bại của Thiên Hộ Dương trong việc tổ chức trận địa đều do thời tiết bất lợi (gió, sa mù...) (Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương).

Sự kiện bị hại do nhầm lẫn xuất hiện duy nhất trong truyện về Thiên Hộ Dương. Về cái chết của nhân vật, tư liệu sử ghi: “Tháng Mười 1866, Võ Duy Dương trên đường ra Bình Thuận, đã bị tai nạn đắm thuyền và chết ở cửa biển Thần Mẫu”. Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca ghi nhận: “Thoát thân về với ghe bầu, Khỏi nơi Cần Hải tiền xu đón thoàn. Giấc nồng đêm dậy nhảy khan, Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cần” [153,67]. Với truyền thuyết, Thiên Hộ Dương bị hại là do sự nhầm lẫn, rủi ro, cái chết hiên ngang của ông đã gây sự “ân hận, vật vã đối với toán cướp biển (hay

93

Lý Sen)...” (Thiên Hộ Dương lâm nạn). Với các chiến binh chống giặc, đây là những cái chết bình thường theo logic thực tế, tuy không kỳ vĩ hóa nhưng cũng đường hoàng, lẫm liệt. Bởi cái chết là sự ngẫu nhiên, không may và người anh hùng đến giây phút cuối cùng vẫn chưa bao giờ rời bỏ lý tưởng cứu nước.

Theo đó, sự tập trung yếu tố sự bất ngờ rủi ro không phải là “sự bất ngờ”. Nó nhằm biện minh cho những thất bại của các nhân vật khởi nghĩa bằng những nguyên nhân khác nhau. Huỳnh Ngọc Trảng nhận định: “Những nguyên cớ không lấy gì làm chính đáng ấy đều cốt nói lên một điều là vận nước đã đến lúc bỉ nên trời khiến vậy...” [206,26]. Ẩn chứa trong sự kiện là thái độ tình cảm của nhân dân, rằng sự thành bại không thể luận anh hùng. Môtíp Mất lúc nào không rõ hoặc do một nguyên nhân nào khác

Môtíp đưa tới một lý do khác sự thật được biết đến, có thể là một thông tin sai lệch, nhằm làm mơ hồ chuyện sống chết. Đây là lối kết thúc như một sự mờ nhòe, không có hồi kết về nhân vật. Như: “Sau khi đại đồn Tháp Mười thất thủ, ông Thiên Hộ nghe đâu có ra miền Trung, sau đó trở vào Nam, rồi mất lúc nào không rõ...” (Ngày giỗ của ông Thiên Hộ); hay “Về sau, Thiên Hộ Dương bị bệnh và mất...” (Đoạn cuối cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương).

Môtíp thể hiện rõ cảm quan của nhân dân về hiện thực. Liên hệ truyện về Hoàng Hoa Thám, nhân dân Yên Thế không tin cụ Hoàng có thể chết về tay giặc với lời nói cuối cùng của nhân vật: “Tôi không chịu rơi vào tay chúng nó đâu. Tôi có chết thì chỉ có quạ biết”; hay người ta đưa ra những bằng chứng cả quyết đầu bị giặc bêu ở chợ “không phải đầu Đề Thám”, ngay cả “Bút Sê”, tên thực dân đối đầu, cũng không tin đó là sự thật; lại có thuyết nói cụ Hoàng ốm chết... Môtíp Lời tiên tri, tuyên bố

Môtíp gắn với sự kiện về các nhân vật đạo gia hoạt động chống Pháp. Lời tiên tri có nội dung đóng vai trò quân sư cho việc đánh giặc. Như: khi Cử Đa xin xuống núi đánh Tây, Đức Bổn sư dự đoán thời cơ bằng hành động thử nghiệm và lời tiên đoán: “Đến khi trời định thì đàn bà gõ đũa bếp trên đầu Tây, Tây cũng không dám mở miệng...”. Song, lời tiên tri của nhân vật đạo gia dù ứng nghiệm hay không vẫn không ngăn được quyết tâm của người thủ lĩnh đánh Tây. Như với Trần Văn Thành, “thầy khuyên không nên vẫn đánh, thất bại nhưng bọn Tây kinh hoàng...” (Đức Cố Quản)...

Bên cạnh lời tiên tri là lời tuyên bố, thực tế cũng là quay lưng với thực tại, đi vào cõi phiêu linh. Như: Cử Đa đánh Pháp thất bại, lên núi Tà Lơn tu đạo với tôn chỉ “không làm anh hùng đi tìm bồ tát..”.

94

Môtíp Ẩn tích, phiêu bạt

Môtíp được thể hiện gắn với sự kiện các nhân vật lãnh tụ, tướng lĩnh khởi nghĩa

thất trận tìm nơi ẩn lánh và không biết “phiêu bạt nơi đâu”.

Như Lãnh binh Huỳnh Khắc Hớn, bị giặc bắt, “được tha về quê quán, làng Phước Định, ẩn dật..”; Chánh Lãnh binh Nguyễn Hương: “Trước sự đàn áp gắt gao của thực dân Pháp, ông Quản Thành trốn vào chùa ẩn dật, còn ông giả làm thường dân về cùng vợ con ở làng Tân Tịch, tới khi qua đời”; Ông Phòng Biểu, “ra lệnh cho nghĩa quân giải tán về quê quán làm ăn. Riêng ông phiêu bạt nay đây mai đó...”, “Từ đó về sau ông sống ẩn dật...”; Ông Hùng Dõng “bỏ đi nơi khác không biết đi đâu. Từ đó ông biệt tăm luôn...”; hay Lãnh binh Nguyễn Văn Cẩn, khi “thời vận không còn, ông đành khóc hận bãi binh, xuất gia, về Gò Tháp lập chùa thờ Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều”. Với các nhân vật đạo gia, đích đến bây giờ là non cao, chốn thâm sơn cùng cốc để quên thế cuộc: “các đệ tủ đưa Đức Bổn sư lên ẩn ở núi Dài...” (Bổn sư Ngô Lợi). Có tín hiệu lạc quan hơn là hình ảnh nhân vật đắc đạo, thành tiên, song thực tế cũng là hình thức muốn lẫn vào cõi mơ hồ. Như: “Tục truyền sau này, Cử Đa chứng được đạo quả, thành tiên...”... Còn có những nhân vật phụ nữ tham gia khởi nghĩa, họ cũng rời xa cuộc chiến với những nét mờ về hành trạng. Như bà Đỏ, khi Nguyễn Trung Trực bị bắt, cuộc khởi nghĩa tan rã, “về sau đi lạc trên núi và mất tích luôn...” (Bà Điều, Bà Đỏ); hay “Rồi từ đó, thế cuộc không còn cơ hội để phục hồi phong trào kháng Pháp”, “Bà Lưu phiêu bạt nơi đâu không ai biết...”... Hình ảnh những người phụ nữ kiên cường mang số phận lưu lạc trong buổi binh đao lửa loạn, làm tăng thêm sự bi phẫn.

Hầu hết các truyện kể đều nhắc đến “thế cuộc”, “thời vận” bất lợi, cũng nhằm biện minh cho sự thất bại của phong trào kháng chiến chống Pháp đang hồi lỡ vận. Đây là một kiểu kết thúc xuất hiện như một trường đoạn mới trong bài ca chiến đấu của những người anh hùng đánh giặc. Nhân vật phiêu linh, lẫn khuất trong chúng dân vạn đại, như một niềm day dứt âm thầm về số phận những con người xả thân vì đại nghĩa trong hoàn cảnh gian nan của đất nước. Môtíp Hiển linh

Trong truyền thuyết, hình ảnh đám mây, cầu vồng... mang dấu ấn sự linh thiêng, một công cụ hiển thánh, như: người anh hùng thác sinh từ mây, cầu vồng... hay hóa thân bay lên trời cùng cầu vồng năm sắc, luồng hào quang sáng rực..., hoàn tác một vòng đời thần kỳ của nhân vật người anh hùng (như truyện Bà Triệu: “Khi mất hóa thành luồng hào quang sáng rực bay lên núi Hy Cương...”).

Hình thức nhân vật hóa xuất hiện duy nhất trong truyện Đức cố Quản: “khi thất

bại, ông xuống thuyền độc mộc hóa thành áng mây bay về trời...”.

95

Một biểu hiện khác là sự hiện thánh, báo mộng. Về quan niệm, đây là một khâu trung gian để người chết nói với người sống, tạo nên sự tương thông giữa cái thực và ảo. Điều này cho thấy sự hiện diện của cái kỳ ảo mang giá trị thiêng trong đời sống tinh thần con người, qua đó lưu lại dư âm hào hùng của quá khứ. Như giải thích lai lịch ngày tưởng niệm Thiên Hộ Dương, hình ảnh nhân vật kết đọng lại trong tâm tư người dân đã trở nên hết sức gần gũi và thiêng liêng: “Trong ánh đuốc chập chờn, họ thấy một người đứng tuổi, bịt khăn be, mang giày ống như các võ quan xưa, từ chỗ mộ đi vào miếu thì biến mất...” (Ngày giỗ của ông Thiên Hộ); hay lần đáo lệ kỳ yên, các viên chức làng thấy có “một người cao lớn, bụng to, cổ ba tay” nói: “Ta là Ba Bụng, được vua sắc phong làm thần đình làng Mỹ Long từ lâu mà các người không biết sao?...” (Ông Phòng Biểu). Thông điệp của sự hiển thánh còn mang nội dung điều cấm kỵ, như về Lãnh binh Nguyễn Văn Cần: “Tương truyền ngài rất hiển linh. Kẻ nào làm dơ ngôi mộ thì về đau bệnh ngay, phải vái van mới khỏi”. Hay về sự báo mộng, trong Người lính mõ của Thủ Khoa Huân, nó được dùng soi tỏ cho một tấm lòng trung nghĩa: “mộng thấy quan lớn cho lính đem trát hỏa tốc về gọi...”...

Tất cả đều nhằm tô đậm sự linh thiêng. Người anh hùng khi thác đã hóa thành thần, hiển hiện trong đời sống tâm linh con người. Hình ảnh không kỳ vĩ như trong truyền thuyết cổ xưa, song cũng đã được che phủ bởi vầng hào quang thần thánh. Môtíp Thờ tự tại chùa, đền miếu, đình...

Môtíp gắn với dấu tích thờ tự, trong đó, các hình ảnh thể hiện ý niệm tâm linh được miêu tả cụ thể hay gắn với yếu tố kỳ ảo. Như: “Sinh thời, Lãnh binh Hớn khi lâm trận hay sử dụng cây siêu đao. Tương truyền ngày nay, tại đình thần làng Phước Định hãy còn thờ sắc phong và cây siêu đao ấy”; hay dấu chân kết tụ trên thớ gỗ xây đình mang ý nghĩa sự linh thiêng (Lãnh binh Trần Văn Từ)... Môtíp Lưu câu ca, thành ngữ...

Môtíp được thể hiện gắn với một niềm xúc cảm chân thành hướng đến nhân vật. Như truyện Ông Hùng Dõng, lời ca như phảng phất hồn linh về người anh hùng trong tình cảm thiết tha của nhân dân: “Vái Trời, vái Phật, vái tổ, vái tiên, Vái ông Hùng Dõng giặc yên ông về...”... Tình tiết Lòng dân ray rứt

Tình tiết nói đến sự ân hận, giằng xé vì sự bất lực trước hoàn cảnh. Như trong truyện Bà Điều – bà Đỏ: “Bà đạp đồng về, trách dân chúng sao không cho sữa con bà”. Sự ray rứt của người dân đã được nêu trực tiếp: “Sự xác tín này bắt nguồn từ nỗi ân hận của người địa phương thời ấy về việc họ không giúp đỡ được thân nhân của ông Nguyễn” (ở góc độ tín ngưỡng, theo Trương Thanh Hùng: “Có thể thờ Bà là một loại

96

hình tín ngưỡng dân gian, sau đó người dân gắn vào hình tượng của Bà Lớn Tướng để nhớ đến cuộc kháng chiến của Nguyễn Trung Trực” [84,51]). Đó còn là một nỗi niềm trắc ẩn, như trong Ngày giỗ của ông Thiên Hộ, ngày tết ấm no, người dân bỗng cảm nhận sự hiện hữu của anh linh người anh hùng, phải chăng cũng là một niềm day dứt khôn nguôi vì chưa đáp trả một tấm lòng đại nghĩa.

Nhìn chung, các tình tiết, môtíp chung cục có dấu ấn khá đậm nét. Với những chiến binh xả thân vì đại nghĩa, nhân dân biết ơn và tưởng nhớ. Nhóm truyện kể một lần nữa đã khắc đậm dấu ấn tinh thần, đạo lý đó của nhân dân.

- Người anh hùng với cái chết trong chiến trận (NV.2.2.2.2) Nhóm này có 16 / 61 truyện, gồm 13 truyện về nhân vật trung tâm: Đốc binh Kiều, Chánh lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng, Phan Ngọc Tòng, Lê Cẩn - Nguyễn Giao, Phan Liêm - Phan Tôn, Mạc Bảo Đường, Phủ cậu Trần Xuân Hòa, Võ Đăng Được, Sự tích miếu Ông Gốc, Phó tướng Bình Tây Nguyễn Nhựt Chi, Đình chánh Tân Kim, Đình Mỹ Khánh, Phút cuối của Trương Định và 3 truyện về sự kiện và nhân vật liên quan: Đám lá tối trời, Rạch Nàng Hai, Rạch Bà Bướm.

Nội dung các truyện kể về cuộc chiến đấu của người anh hùng với sự thất bại và

cái chết trong trận địa.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật như sau: Nhân vật lãnh tụ, tướng lĩnh nghĩa binh ra trận đánh giặc hoặc quần chúng ủng hộ kháng chiến (cid:1) sa vào tay giặc, hy sinh trên trận địa (cid:1) hiển linh (cid:1) được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Mộ binh hoặc tham gia khởi nghĩa (tần số xuất hiện:14 lần) -Lập mưu, lừa giặc (m) (3 lần) -Sáng tạo vũ khí (m) (3 lần) -Thắng trận, lập công (m) (3 lần) -Lời nói trước trận quyết chiến (m) (2 lần) - Dân cản đầu ngựa tướng soái (1 lần) -Kẻ phản trắc báo tin (2 lần) -Gặp bất ngờ rủi ro (m) (2 lần) - Cái chết kiên cường (m) (13 lần) -Hiển linh (m) (5 lần) -Tìm nhận thi hài và chôn cất, lập mộ (m) (2 lần) -Người dân che mắt giặc (m) (2 lần) -Thờ tự tại chùa, đền miếu... (m) (4 lần) -Lưu địa danh, câu ca... (m) (4 lần) -Lời nhắc nhở, bia truyền (m) (1 lần) (3 tình tiết, 12 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Lập mưu, lừa giặc và Sáng tạo vũ khí

Các môtíp có mối liên hệ, được thể hiện trong chuỗi sự kiện về chiến đấu. Như truyện Chánh lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng kể: ‘Tương truyền, khi trấn thủ đồn Cây Mai, Lãnh binh Thăng nghĩ ra cách dùng mù u giết giặc”; Lê Cẩn - Nguyễn Giao lập kế dâng thư trá hàng dụ tên Tham biện “Bối Xê” (Alix Salicetti) lọt vào ổ phục kích... Đặc biệt, vũ khí đánh trận còn là tiếng hô khẩu lệnh tạo ra uy lực tinh thần mạnh mẽ, như: “Phan Ngọc Tòng đã chỉ huy nghĩa quân tấn công vào cứ điểm của giặc với khẩu lệnh

97

xung phong là tiếng “Hê” để uy hiếp tinh thần địch. Vì vậy, nhân dân địa phương còn gọi trận đánh này là “trận giặc Hê...”. Môtíp Thắng trận, lập công

Môtíp thể hiện chiến công của người anh hùng. Như truyện Chánh lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng kể: kết quả là “làm bọn Pháp thiệt hại nặng...”; hay truyện về sự kiện liên quan: “từ căn cứ này, nghĩa quân của Trương Công Định xuất binh tấn công quân Pháp chớp nhoáng rồi rút theo chiến thuật “Tam khoái” làm cho giặc Pháp lo sợ ngày đêm...” (Đám lá tối trời). Môtíp Lời nói trước trận quyết chiến

Môtíp xuất hiện gắn với một tình huống đặc biệt: trong tiếng súng đạn, gươm khua, còn có thanh âm lời nói chính khí của những con người quả cảm. Đó là câu nói khẳng khái trước khi vào trận đấu với tinh thần quyết chiến, như: “Giặc đến mà bà nói là mùng 5, mùng 7!” (Mạc Bảo Đường); hoặc lời tuyên bố của người chỉ huy nhóm nghĩa binh trong thời khắc thế trận bất lợi, như: “Ông Được tuyên bố: “Ai muốn về nhà thì về, ai ở lại thì tử chiến!” (Võ Đăng Được)... Tình tiết Dân cản đầu ngựa tướng soái

Tình tiết có mặt trong truyện về Nguyễn Tri Phương: “Triều đình có lệnh triệu hồi, nhân dân cản đầu ngựa khẩn cầu ông ở lại lãnh đạo cuộc chiến...” (Đình Mỹ Khánh). Tình tiết Kẻ phản trắc báo tin

Tình tiết có ý nghĩa làm tăng yếu tố kịch tính của sự kiện cuộc chiến đấu. Như truyện Đốc binh Kiều: “Về sau, do sự chỉ lối đưa đường của bọn Việt gian, giặc Pháp đem đại quân công hãm Gò Tháp”, song về kết quả, “trong trận giao tranh, quân Pháp đại bại, phải tháo lui bỏ chạy...”. Môtíp Gặp bất ngờ rủi ro

Về môtíp, đây là quan niệm nhằm biện minh cho sự thất bại của cuộc chiến đấu của người anh hùng. Như truyện Chánh lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng kể, “Tục truyền, Pháp tấn công vào lúc trời mưa, nên mấy khẩu thần công của ông bị ướt ngòi, châm không cháy”; hay về Đốc binh Kiều: “Ông lên đài cao trực tiếp quan sát cuộc tháo chạy của giặc” nhưng “Khi lui binh hối hả, một tên lính Pháp bị lún sình, sa lầy gần đó, thấy có người leo lên đài gần đó, hắn bắn một loạt làm ông trúng đạn”... Môtíp Cái chết kiên cường

Môtíp được tô đậm, gắn với các sự kiện về nhân vật như: cố thủ, tử trận, tuẫn tiết, đồng đội chứng kiến hy sinh... Trong đó, các sự kiện được kể theo hai dạng thức. Thứ nhất là tóm lược sự kiện. Như: “trong trận đánh ở Phú Xuân (Nhà Bè) ông Mai

98

Văn Thuận bị thương nặng. Trên đường rút lui về quê nhà, ông chết tại rạch Bún Xeo...” (Đình Mỹ Khánh); “Nguyễn Giao lánh nạn, cố dấy lên lần nữa nhưng đại sự vẫn không thành. Rốt cuộc, ông bị bắn thác tại sông Cổ Chiên...” (Đốc binh Lê Cẩn - Nguyễn Giao); Trần Xuân Hòa khi bị giặc bắt giải đi, “dọc đường ông cắn lưỡi tử tiết...”... Thứ hai là miêu tả cụ thể sự kiện, theo đó, cái chết nơi chiến trường của các nhân vật đều ở tư thế khác thường, lẫm liệt. Như với Mạc Bảo Đường, cái chết không phải ở chốn sa trường “da ngựa bọc thây” nhưng cũng là hình ảnh khốc liệt của chiến trận: “Khi đánh trận ông cưỡi ngựa, bị quân Pháp bắn hạ”; “chạy về đến nhà thì đã chết trên mình ngựa...”; Nguyễn Phương Hồng khi bị giặc vây hãm “ông ra bờ sông gieo mình xuống nước tử tiết không để cho giặc bắt...” (Sự tích miếu Ông Gốc)...

Trong đó, sự kiện đồng đội chứng kiến hy sinh có dấu ấn riêng. Như về cái chết của Trương Định, chính sử chỉ ghi ngày mất, tư liệu Pháp chép: “Trương Định chết vì một phát đạn trúng vào lưng”. Đối với những nghĩa binh đánh Pháp hy sinh, nhân dân muốn kể “sự thật” về cái chết của họ và sự thật ấy không thể đơn thuần là ngã xuống. Trương Định đã đáp trả luận điệu của tên phản bội bằng lời nói và hành động quyết liệt: “... sau khi bị thương nặng, biết mình không sống được, Trương Định điểm mặt Tấn rồi đâm vào bụng tự sát”; hay: “Trương Định bị thương nơi đùi, bèn tuốt gươm đâm vào hông tử tiết. Phía sau ông có Đốc binh Chấn cũng bị thương nơi vai, nhảy đến đỡ ông lên. Ông tắt hơi trên tay ông Chấn”. Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca ghi: “Tiếng xưa đám lá tối trời, Có ông Trương Định trải phơi gan vàng. Hiềm vì cơ chưởng nan minh, Lưỡi gươm đâm bụng liều mình như chơi” [153,52]. Hay Nguyễn Nhựt Chi với cái chết uất hận vì nhiệm vụ cứu nước bất thành: “Pháp kéo tới, nghĩa quân chống cự không nổi, Nguyễn Nhựt Chi cùng tùy tướng tên Cương đưa gươm về phương Bắc lạy ba lạy, thổ huyết chết...”. Diễn biến các sự kiện cho thấy những người “anh hùng thất thế” đã “hiên ngang” đến giờ phút cuối cùng. Môtíp Hiển linh

Môtíp xuất hiện với tần số cao, được biểu hiện với những dạng thức: sự hiển thánh, báo mộng, vùng đất linh thiêng..., mang ý nghĩa sự tương thông ý chí, tâm linh với người anh hùng.

Sự hiển thánh, báo mộng có hình thức xuất hiện trực tiếp hoặc thông qua vật trung gian tạo dấu ấn sự linh thiêng. Ở lối xuất hiện trực tiếp, nhân vật đưa dẫn những lời phán truyền là các bô lão, hương chức hoặc người giữ miếu.... Như: “về sau, người giữ miếu và ông Cả làng Tăng Hoa nằm mộng thấy “một người vận y phục vàng, mão quan, tay cầm kiếm lệnh, chân đi giày cong mũi” xưng tên và phán bỏ lệ cúng tế linh

99

đình (Nguyễn Nhựt Chi); hay “một vị bô lão đêm nằm mộng thấy ông hiện về với áo mão và khí giới lẫm liệt. Sáng ngủ dậy, liền chặt cây mít trước nhà và tạc tượng ông như hình trong mộng...” (Đình Mỹ Khánh)... Với lối xuất hiện gián tiếp, vật thần kỳ giữ chức năng trung gian, nhân vật đưa dẫn chỉ đóng vai trò thứ yếu. Như truyện Sự tích miếu Ông Gốc, hình ảnh vị thần thiêng là một khúc gỗ trôi sông: “chỗ ông Nguyễn Phương Hồng trầm mình” có “gốc cây trôi ngược dòng nước”, “Về sau, Hương cả làng được ông về báo mộng...”. Hình ảnh “khúc gỗ trôi sông” mang ý nghĩa cảm thức về sự linh thiêng có mối liên hệ với tín ngưỡng thờ Cây, thờ Nước của cư dân nông nghiệp, một môtíp truyền thống. Như truyện Sự tích Văn Lang đại vương ở vùng Thái Bình kể: “Đêm ấy, vị thần nhập trong khúc gỗ thiêng báo mộng cho ngư phủ biết rằng thần từ trên trời xuống để ban phúc cho dân, báo cho dân lập đền thờ...”. Các hình ảnh biểu đạt cũng nhằm thể hiện sự bất tử của nhân vật người anh hùng, đưa họ “vào miếu điện linh thiêng” để nhân dân thờ phụng.

Môtíp còn được biểu hiện gắn với ý niệm về sự linh thiêng của đất đai, phần mộ. Như truyện Đốc binh Kiều kể: người nông dân Gò Tháp do lạc mất trâu tình cờ tìm được mộ chí; một viên quan Pháp nghênh ngang trước mộ đã bị trừng trị... Hay truyện kể về mảnh đất có linh khí, dấu tích chiến trường xưa trong hồi vọng: “... thiên hạ đồn rằng, đêm đêm, ở vùng Đám lá tối trời như có tiếng gào thét, như tiếng binh đao va chạm. Có khi nghe như tiếng thiên binh vạn mã kéo đi...”. Đây là một môtíp truyền thống, như truyện Bố Cái Đại vương kể: “Phùng Hưng thường hiển linh, nghe thấy tiếng xe ngựa ầm ầm trên nóc nhà hoặc cây cổ thụ. Người dân lập đền thờ...”. Môtíp Tìm nhận thi hài và chôn cất, lập mộ

Môtíp gắn với một chuỗi sự kiện mang ý nghĩa tâm linh. Như truyện Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng kể: “Di hài Lãnh binh Thăng được đưa về Mỹ Lồng quàn suốt một tháng rồi mới an táng tại cố quán. Phần mộ ông hãy còn tại ấp Chợ, chợ Mỹ Lồng, huyện Kiến Hòa”... Môtíp Người dân che mắt giặc

Môtíp có sự tiếp nối với Thờ tự tại chùa, đền, miếu.... Sự kiện được kể: người dân chôn cất, lập miếu thờ song phải ngụy trang để qua mắt giặc. Như về Đốc binh Kiều, “Đề phòng bọn Pháp và tay sai biết mộ ông và quật lên sau này, ông Phòng Biểu đã bí mật chôn cất ông và còn làm nhiều ngôi mộ giả để đánh lạc hướng giặc...”. Môtíp Thờ tự tại chùa, đền miếu, đình...

Dấu ấn môtíp được thể hiện gắn với chuỗi sự kiện an táng, xây mộ, lập miếu thờ..., nói đến việc tạo lập hoặc thay đổi lệ thờ cúng. Như về Nguyễn Tri Phương, “Sau khi ông tuẫn tiết, dân làng Mỹ Khánh đem ông về thờ chung với người em là Tán lý

100

Nguyễn Duy...” (Đình Mỹ Khánh); về Mai Văn Thuận, “Dân chúng và nghĩa quân lập miếu thờ ông tại Bún Xeo và vong hồn ông được thỉnh về thờ ở đình Tân Xuân...” (Đình chánh Tân Kim); về Võ Đăng Được, dân chúng an táng, lập miếu thờ, cúng bái và lặng lẽ mang họ... Những sự kiện biểu đạt mang ý nghĩa sự tưởng niệm về người anh hùng, bởi trong tâm tưởng của nhân dân, người anh hùng chiến đấu, hy sinh đã trở thành thần linh hay tổ tiên được phụng thờ. Môtíp Lưu tên địa danh, câu ca...

Môtíp được thể hiện gắn với dấu ấn chiến trận, như về Phan Ngọc Tòng: “... nơi

ông và nghĩa quân hy sinh đã trở thành địa điểm thiêng có tên gọi mới là Gò Trụi”. Môtíp Lời nhắc nhở, bia truyền

Môtíp xuất hiện trong các truyện kể như một kiểu kết thúc làm nối dài công đức của người anh hùng. Như: “Cuối cùng hai ông tử trận. Cuộc khởi nghĩa tan rã lần lần nhưng tiếng thơm vẫn lưu muôn đời” (Phan Liêm - Phan Tôn).

- Người anh hùng với cái chết bi phẫn nơi pháp trường (NV.2.2.2.3) Nhóm này có 28 / 61 truyện, gồm 26 truyện về nhân vật trung tâm: Vàm Hổ Cứ, Nguyễn Văn Quá, Miếu thờ Trương đại tướng quân, Truyện về Lâm Quang Kỵ, Trần Văn Chải, Chuyện anh hùng Nguyễn Trung Trực, Truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Trung Trực chịu thụ hình, Ông Nguyễn, Kiếm bạt Kiên Giang, Thủ khoa Huân, Thủ khoa Huân thành thần, Bốn trang hào kiệt ở Cai Lậy, Tứ Kiệt, Phan Văn Đạt, Phan Văn Đạt lớn tiếng mắng giặc, Phan Công Hớn, Truyện về Trịnh Viết Bàng, Trần Văn Thiện, Đặng Khánh Tình, Ông Thống Linh, Sự tích Ông thần không đầu, Âu Dương Lân. Đỗ Tường Phong, Đỗ Tường Tự, Hồ Huân Nghiệp, Lê Quang Quan; 2 truyện về sự kiện, nhân vật liên quan: Mười tám dũng sĩ của Trương Định, Thà chết chứ không phản bội.

Nội dung các truyện kể về cuộc chiến đấu của người anh hùng với sự kết thúc

thất bại và cái chết nơi pháp trường.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Người lãnh tụ, tướng lĩnh nghĩa binh ra trận đánh giặc lập công hay quần chúng ủng hộ lãnh tụ khởi nghĩa (cid:1) sa vào tay giặc, hy sinh nơi pháp trường (cid:1) hiển linh (cid:1) được ghi nhớ, thờ cúng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Mộ binh hoặc tham gia khởi nghĩa (tần số xuất hiện: 26 lần) -Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ (m) (8 lần) -Thắng trận, lập công (m) (8 lần) -Kẻ phản trắc báo tin (3 lần) -Gặp bất ngờ rủi ro (m) (2 lần) - Chấp nhận ra hàng vì tính mạng nhân dân (m) (7 lần) -Khước từ khuyến dụ (m) (7 lần) -Lời nói cuối cùng (m) (7 lần) -Làm thơ tuyệt mệnh (2 lần) -Nguyền rủa kẻ thù (m) (4 lần) -Nhân vật bị thụ hình (m) (27 lần) -Đao phủ khiếp sợ (m) (6 lần) -Sự lạ khi đầu rơi

101

(m) (7 lần) -Kẻ thù phân bua (1 lần) -Sự linh ứng của thiên nhiên (m) (2 lần) -Người dân nhận hung tin (m) (3 lần) -Tìm nhận thi hài và chôn cất, lập mộ (m) (6 lần) -Người dân che mắt giặc (m) (6 lần) -Thờ tự tại chùa, đền miếu... (m) (9 lần) -Hiển linh (m) (7 lần) -Lưu địa danh, câu ca... (m) (4 lần) -Lời nhắc nhở, bia truyền (m) (3 lần) (4 tình tiết, 18 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ

Môtíp được tô đậm, chuẩn bị cho sự tạo lập những thành tích, chiến công cũng

như làm tăng sự bi phẫn của kết cục sự thất bại và cái chết kiên cường.

Nhân vật được miêu tả là những kỳ nhân, mang dáng dấp phi phàm, võ công biến hóa. Như Tứ Kiệt: “người to lớn khác thường, nước da màu đồng đen. Ai nấy đều có võ nghệ cao cường, tướng pháp lanh lẹ, râu rậm, tóc dài chấm gót. Các vị có biệt tài chạy nhanh và nhảy cao”, “Có lần gặp bất trắc, để thoát thân, một trong bốn ông cặp thêm bên nách một cháu nhỏ khoảng 10 tuổi, chạy vun vút như tên, tóc xổ ra phất phới như lá cờ...”; Âu Dương Lân “giỏi nham độn, luôn đem theo nón xếp, có bùa chú...”; Hồ Huân Nghiệp “dung mạo, hình thù cổ quái, mũi nhọn như mũi vịt, tay dài như tay vượn”, “Tài học của ông vào hàng cự phách trên văn đàn...”; “Quản Hớn là người đa mưu túc trí” (chi tiết tương truyền: “Quản Hớn dâng cây đậu phộng cho tên Phủ Ca nuôi ngựa để làm kế hỏa công...”); Ông Thống Linh “là người có võ nghệ cao cường, chí khí hiên ngang...”; Phan Văn Đạt: “có tư chất thông minh sáng suốt, sự học khá lỗi lạc...”. Hay Nguyễn Trung Trực, “Tương truyền, dù bị hàng trăm người bao vây, ông muốn thoát ra lúc nào cũng được”, “khi ông múa roi, trẻ con ném đá không bao giờ phạm đến...” (Chuyện anh hùng Nguyễn Trung Trực)... Môtíp Thắng trận, lập công

Môtíp thể hiện chiến công của người anh hùng. Các nhân vật lãnh tụ hoặc tướng lĩnh nghĩa binh dùng chiến thuật đột nhập hạ thành, phi thân thoát trận địa, đánh tập hậu..., làm giặc Pháp nhiều phen kinh hoàng. Như về Quản Bạch: “Trận nào cũng diệt được giặc. Sức mạnh nghĩa quân như hổ, thanh thế vang dội khắp vùng...” (Vàm Hổ Cứ”); về Trịnh Viết Bàng, “Thanh thế của nghĩa quân ngày càng mạnh, khiến bọn tay sai không dám lộng hành như trước. Giặc Pháp nghe tin đem tàu chở lính từ Mỹ Tho đến ruồng bố rất gắt, nhưng vẫn không sao tiêu diệt được...”; về Trương Công Luận: “đánh du kích gây thiệt hại cho giặc...”; hay về Âu Dương Lân, “Ông sát cánh với Thủ Khoa Huân, nhiều lần xua binh đốc chiến với giặc Pháp, khiến chúng phải kiêng nể...”... Dấu ấn hoạt động, thành tích của các nhân vật mang đậm nét hiện thực. Điều này cho thấy cuộc kháng chiến của các lãnh tụ nghĩa quân không chỉ có một cá nhân

102

anh hùng mà là một tập thể anh hùng, tiếp nối những chiến tích hào hùng và cả sự hy sinh lẫm liệt. Tình tiết Kẻ phản trắc báo tin

Tình tiết nói đến nguyên nhân sự kiện sa vào tay giặc của người anh hùng. Kẻ phản trắc là bọn Việt gian hay là kẻ hưởng bổng lộc triều đình, người thân quen, tên đào ngũ.... Như: “Đốc binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc đã dẫn giặc tới vùng Chơ Gạo bắt Nguyễn Hữu Huân...”; “Một người bạn của ông phản trắc, báo tin cho Pháp và dẫn quân về bao bắt. Thống Linh sa vào tay giặc...” (Ông Thống Linh); hay về Lê Quang Quan: “Một tên đào ngũ đã lén báo cho quân Pháp biết nơi ông ẩn náu...”... Môtíp Gặp bất ngờ rủi ro

Về biểu hiện, đây là những lý do khách quan dẫn đến sự thất bại của nhân vật khởi nghĩa. Như về Đỗ Tường Phong, Đỗ Tường Tự: “Nhưng chẳng may, bọn lái buôn người Hoa tham lam đã đánh tráo thùng thuốc đạn” làm ông “bị bại phải rút lui...”; về Trịnh Viết Bàng, do tên chỉ huy rượt bắt con chó đang chạy đuổi theo con kỳ đà đã bất ngờ phát hiện nơi ẩn náu của ông; hay Trần Văn Thiện, “Bị giặc Pháp truy lùng, ông dẫn con gái nhỏ chạy vào Đám lá tối trời”, rủi ro, một con heo nái chui vào chỗ trốn, nên bị giặc phát hiện... Tất cả nhằm thể hiện sự thất bại của các nhân vật khởi nghĩa không phải là kết quả trên khả năng thực và trong tư thế đối đầu với kẻ thù. Môtíp Chấp nhận ra hàng vì tính mạng nhân dân

Môtíp được biểu hiện gắn với những nguyên nhân của tình thế bất lợi: do kẻ phản trắc báo tin hoặc do những thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù, như dụng kế bắt thân nhân hay trả thù tàn bạo... Như về Nguyễn Hữu Huân, “Một người bạn của ông phản trắc, báo tin cho Pháp và dẫn lính về bao bắt...”; về Tú Kiệt, “Bốn Ông quyết định cứu người thân bằng cách tự nạp mình...”; “Dân chúng Hóc Môn bị chúng hãm hại chưa từng thấy. Do vậy, cuối cùng Quản Hớn và Nguyễn Văn Quá cùng những người chỉ huy khác tự ra nộp mạng chọn lấy cái chết để cứu dân...”... Hay về Nguyễn Trung Trực, chính sử ghi ông bị Pháp bắt: “Sau trận quyết tử kéo dài từ bãi biển Cửa Cạn về bãi Ông Lang, ông bị bắt tại bãi Ông Lang”. Tư liệu thực dân ghi: “Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc”. Nhiều bản kể, do tình thế bức bách, ông tự ra hàng, như: “Để cứu dân, cứu mẹ, Nguyễn Trung Trực mặc trang phục võ tướng uy nghi, lấy dây rau muống biển tự trói tay đi vào đồn giặc đổi mạng...” (Chuyện anh hùng Nguyễn Trung Trực) (hay do tên Tấn bắt mẹ ông, bắt giết dân, mỗi ngày giết mười người, nên ông ra nộp mình)... Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca ghi

103

nhận: “Thương thay mấy lúc tan tành, Rồi ra Phú Quốc ẩn danh tiềm tàng. Lâm cơ túng thế phải hàng, Phép công xử tại Kiên Giang bấy chầy” [153,94].

Môtíp còn được biểu hiện với sự kiện tự nguyện chết thay. Dấu ấn sự kiện có mối liên hệ với hình ảnh Lê Lai cứu chúa trong truyền thuyết xưa, bởi với tính cách trọng nghĩa khí, người Nam Bộ xem đây là hình mẫu hun đúc chí khí anh hùng. Như Truyện về Lâm Quang Ky kể: “Lâm Quang Ky quyết tâm đứng ra chết thay cho ông Nguyễn để ông tiếp tục sống mà lập chí lớn đánh giặc. Cụ lập kế, giả dạng làm ông Nguyễn ra hàng...” (chi tiết tương truyền: dòng họ Lâm ở Vĩnh Hòa Đông vẫn còn giữ một mảnh vải là “vạt áo của Lâm Quang Ky cắt đứt khi người vợ trẻ níu áo van xin ông đừng đi nhận cái chết thay cho chủ tướng”).

Những lý do ra hàng có thể đã được hư cấu khác nhau, song điều có thể thấy, ra hàng là một sự hy sinh, một nghĩa cử của người anh hùng, đồng thời cũng thể hiện sự chiến bại của người anh hùng mang màu sắc bi tráng. Môtíp Khước từ khuyến dụ

Môtíp có thể xuất hiện độc lập hoặc tiếp nối với Chấp nhận ra hàng. Việc kẻ thù ra sức khuyến dụ đối với những người anh hùng sa cơ cho thấy bản chất nham hiểm của chúng, bởi điều này đồng nghĩa với sự hạ bệ hoặc bôi nhọ thanh danh đối phương. Trong hoàn cảnh thử thách khắc nghiệt, người anh hùng đã tỏ rõ chí khí bằng thái độ, hành động quyết liệt.

Các nhân vật đều khảng khái từ chối khuyến dụ của kẻ thù, kiên cường giữ lòng trung thành với lá cờ đại nghĩa. Như Đỗ Tường Phong, Đỗ Tường Tự: khi bị bắt, “Giặc Pháp ra sức chiêu dụ” “nhưng ông khảng khái từ chối...”; Âu Dương Lân sa cơ, “nhưng ông vẫn khảng khái không chịu cúi đầu khuất phục...”; hay Phan Công Hớn: “Sau nhiều lần tra tấn, hàng phục ông không được, bọn giặc hết sức tức giận”, “Chúng bèn đem ông ra xử bắn ở chợ Gia Định...”...

Sự diễn biến liên tục của các môtíp đã cho thấy việc ra hàng và hàng phục là hoàn toàn khác biệt. Kẻ thù với mưu mô xảo quyệt có thể đẩy người anh hùng đến chỗ sa cơ nhưng không thể phá đổ bức tường thành của ý chí. Như về Nguyễn Trung Trực, người anh hùng An Nam trước mặt kẻ thù đã tỏ rõ chí khí “thà thác mà đặng câu địch khái”: “Đến hẹn, Nguyễn Trung Trực mặc võ phục, đeo kiếm đến trước mặt kẻ thù. Ông rút kiếm chém xuống đất, thà chịu rơi đầu chứ không chịu hàng...” (Nguyễn Trung Trực chịu thụ hình)... Môtíp Lời nói cuối cùng

Trong tâm thức văn hóa, “lời nói là biểu tượng thuần khiết nhất, tượng trưng cho sự biểu hiện của bản thể, một bản thể tự suy nghĩ và tự thể hiện, muốn được thấu

104

hiểu và được giao hòa...” [23,528]. Lời nói trong những thời khắc cuối cùng chứa đựng sâu sắc những phẩm chất và giá trị của bản thể con người.

Môtíp được thể hiện có dấu ấn đậm nét. Về hình thức thể loại, với sự kiện lời

nói cuối cùng, có sự gia tăng chất liệu ngôn từ đối thoại trong truyền thuyết.

Đây là những lời nói khảng khái tỏ rõ chính khí của nhân vật trong hoàn cảnh đối mặt với cái chết trên chiến trận khốc liệt hay nơi pháp trường đầy bi phẫn. Như truyện về Dương Văn Hạnh, khi giặc Pháp bắt và mua chuộc ông chỉ chỗ Trương Định, “ông Hạnh quyết liệt nói: “Ta thà chết chứ không để giặc bắt ông Định. Sanh vi quân, tử vi thần!...” (Sự tích Ông thần không đầu); về Nguyễn Trung Trực, khi sa vào tay giặc, bị Pháp dùng chiêu bài khuyến dụ, đã nói: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì nước Nam mới hết người đánh Tây!...” (Nguyễn Trung Trực chịu thụ hình)... Hay nơi pháp trường, tỏ rõ tinh thần bất khuất, cùng với lời nói khảng khái, các nhân vật đã có thái độ quyết liệt. Như Thủ khoa Huân: “Trước khi bị xử chém, bọn giặc bưng tới một mâm cơm đầy rượu thịt cho ông ăn. Ông lạnh lùng đá đổ mâm cơm...” (Thủ khoa Huân thành thần)…

Lời nói cuối cùng ngắn ngủi trên pháp trường các nhân vật dành cho lời căn dặn, để tỏ chí khí hoặc trút căm hờn. Như Đỗ Tường Tự bảo vợ con: “Ta sống thì chống Pháp tới cùng đến chết mới thôi. Ta cấm tất cả con cháu, không một đứa nào được ăn cơm của Tây...”; Trịnh Viết Bàng nói: “Ta chết, hãy đem xác ta về chôn ở Ngã tư, để cho con cháu nhớ mà không theo giặc!”; ông cũng nhắn nhủ bạn đồng tâm: “ráng sức mà làm cho bằng được việc lớn”; Phan Văn Đạt: “Nhờ anh em nói lại với các bạn đồng tâm nên cố sức làm cho thành công...”; hay Trịnh Viết Bàng: “Dặn dò xong mọi việc, ông đứng dậy sửa soạn quần áo ngay ngắn, bình thản bước ra chỗ xử chém...”... Những lời gửi gắm cho thấy đến giờ phút cuối cùng các nhân vật vẫn đặt niềm tin vào đại nghiệp chưa thành, không ân hận, băn khoăn. Mặt khác, đối với kẻ thù, đây là những lời nói hiên ngang. Như Đỗ Tường Tự đã dõng dạc nói với giặc: “Hãy để cho ta thấy súng Tây trước khi chết...”...

Liên hệ truyện về Hoàng Hoa Thám, dù kẻ thù tàn độc, nghĩa quân vẫn kiên cường, bất khuất: “Có người lúc bị xử án chém còn xô tên đao phủ, không để chúng trói vào cọc; hoặc lấy khăn bịt mắt, rồi tụt chiếc khăn nhiễu đưa cho hắn rồi bảo: “Ta đưa cho ngươi để ngươi nhớ lấy ngày hôm nay…”... Hay trong truyền thuyết Trung Bộ, Hoàng Trọng Mậu đã nói với tên mật thám Pháp: “Nếu chúng mày là bọn giặc văn minh, có kính nể tao thì cho tao một phát đạn thì hơn. Đừng hỏi lôi thôi gì nữa...”. Những lời tuyên bố đanh thép trước giây phút bị hành hình của những người anh hùng chống Pháp là một minh chứng cụ thể của chủ nghĩa anh hùng của dân tộc.

105

Tình tiết Làm thơ tuyệt mệnh

Như sự đối lập giữa “máu và hoa”, nơi pháp trường đen tối đã vang lên những vần thơ tuyệt mệnh. Môtíp được thể hiện gắn với quan niệm người anh hùng là những con người ưu tú, văn võ song toàn. Điều này cũng gắn với thực tế, những thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp giương cao cờ nghĩa đánh giặc nhiều người là những trí thức yêu nước xuất thân từ văn chương cử nghiệp. Với việc tỏ rõ chính khí qua những vần thơ tuyệt mệnh, người anh hùng đã đứng cao hơn hoàn cảnh với khí phách hiên ngang. Như Nguyễn Hữu Huân: “Tương truyền, trước lúc đao phủ xử tử, ông đã viết câu đối...”; “Trước khi chết, Thống Linh điềm nhiên ngâm hai câu thơ...” (Ông Thống Linh); hay về Nguyễn Trung Trực, trong một bản kể, “tương truyền trước giờ bị hành quyết, ông còn làm bài thơ tứ tuyệt...”...

Trên bình diện văn học, đây là những truyện kể dân gian có sự gắn kết với yếu

tố thơ ca bác học, tạo nên điểm giao thoa giữa hai bộ phận văn học dân tộc. Môtíp Nguyền rủa kẻ thù

Trong truyện cổ tích, môtíp này xuất hiện khi các nhân vật thuần phác ở vào thời khắc cuối cùng tự nhận thức được mưu mô thâm độc của kẻ thù. Nó trở thành cái duy nhất để trút sự căm hờn, gắn với niềm tin vào sức mạnh có thật của “quả báo nhãn tiền”, theo tư tưởng truyền thống dân gian và tôn giáo. Như lời nguyền rủa của ông Dầu, bà Dầu đối với tội ác của vua nhà Lý (Tại sao sông Tô Lịch và sông Thiên Phù thu hẹp lại), đây là tiếng căm giận muôn đời của núi sông đất trời trước cái ác đang tồn tại và sự diệt vong của nó.

Với truyền thuyết, lời nguyền rủa cũng là những tiếng căm hờn thốt lên từ sự uất hận. Như: Hồ Huân Nghiệp, sa vào tay giặc, “Ông thao thao bất tuyệt thóa mạ dã tâm của thực dân Pháp...”; Mười tám dũng sĩ của Trương Định: “Tao tiếc là không ăn được gan, uống máu mày”, “Mỗi người đều mắng Tấn một câu, trước khi bị lũ tay sai Huỳnh Công Tấn bắn chết...”; hay Phan Văn Đạt lớn tiếng mắng giặc: “Chúng mày là đồ chó lợn... Tao giận sống không nhai được thịt chúng mày, chết sẽ làm ma thần giúp nghĩa quân giết hết bọn mày cho thỏa chí...”... Môtíp Nhân vật bị thụ hình

Về cơ sở hiện thực của sự kiện nhân vật bị thụ hình, sự bùng nổ của phong trào khởi nghĩa chống Pháp trên cả nước cuối cùng đã bị dập tắt, các lãnh tụ, chiến binh hy sinh hiên ngang trên trận địa và dũng cảm đối mặt với cái chết nơi pháp trường.

Dấu ấn môtíp được thể hiện với các dạng thức thông tin sự kiện và miêu tả diễn biến sự kiện. Dạng thức thứ nhất ghi nhận, tóm lược sự kiện. Như truyện Vàm Hổ Cứ kể: “Nghĩa quân thất trận. Quản Bạch bị giặc bắt và bị chúng đem đi hành quyết tại

106

trường án Mỹ Tho...”; hay về Đặng Khánh Tình: “Cuối cùng, Pháp xử tử chặt đầu ông tại chợ Gò Công...”... Dạng thức thứ hai phơi bày rõ hơn hành động phi nhân của kẻ thù. Như truyện Sự tích Ông thần không đầu kể: “... chúng lấy thân tre chẻ đôi kẹp vào cổ, rồi chém đầu quăng xác xuống sông...”; truyện Phan Văn Đạt lớn tiếng mắng giặc kể: “quân giặc lấy móc sắt lớn móc vào họng ông rồi treo thây ông trên cọc buồm tàu của chúng đậu tại chợ Vũng Gù (Tân An) suốt ba ngày trời...”...; hay về nghĩa binh, quần chúng giữ lòng trung nghĩa: “… bị Pháp bắt chỉ chỗ đóng quân của Bình Tây Đại nguyên soái”, “Hai anh em lừa dắt chúng lội sình cả ngày mà không tìm được gì”, “giặc điên tiết xử bắn hai người...” (Thà chết chứ không phản bội)...

Đây là những hình ảnh bi tráng trong “trận chiến cuối cùng”, làm nâng cao

phẩm chất người anh hùng. Môtíp Đao phủ khiếp sợ

Môtíp biểu hiện nét đặc thù của cốt truyện. Sự kiện thể hiện gắn với một tình huống đầy kịch tính: nơi pháp trường của kẻ xâm lược, kẻ cầm đao thực thi án tử đã lạy van, tạ tội, còn người bị xử hình đối mặt với cái chết vẫn bình tĩnh, hiên ngang.

Như truyện Nguyễn Trung Trực chịu thụ hình kể: tên Bòn Tưa “bỏ đao, quỳ xuống đất lạy và xin Ông Nguyễn tha lỗi. Ông Nguyễn bảo: “Mày có lỗi gì mà xin lỗi? Mày làm theo lệnh của Lang sa mà... Nhưng nhớ chém ta một nhát cho ngọt, nếu không ta vặn họng mày !”; trong truyện Thủ khoa Huân thành thần, đao phủ là người địa phương theo giặc, “hắn lộ vẻ sợ hãi, chần chờ, không dám quơ đao. Ông nhìn hắn và nói: “Nhà ngươi có bổn phận, cứ việc thi hành, đừng để liên lụy đến mình!”. Nghe vậy, tên đao phủ mới dám ra tay. Vừa chém xong, hắn liền quỳ sụp xuống, lạy ông bốn lạy...”; hay về Phan Công Hớn: “Trước khi bị hành quyết, ông yêu cầu đao phủ cho đi một dao thật tốt...”... Sự lẫm liệt, đường hoàng của người anh hùng đã làm đao phủ khiếp sợ. Cái ác, cái hèn kém đã bị khuất phục trước sự dũng cảm, chính khí của người anh hùng. Môtíp Sự lạ khi đầu rơi

Khái niệm “lạ” mang ý nghĩa sự dị thường, khác lạ, nhằm tô đậm sự linh thiêng về cái chết của người anh hùng. Môtíp có dấu ấn đặc biệt, với diễn biến sự kiện mang tính chất cao trào của sự kiện nhân vật bị thụ hình.

Như về Nguyễn Trung Trực, khi bị chém, “Hai tay ông nâng lấy đầu mình...”. Đặc biệt, khí thiêng người anh hùng đã dồn tụ, đến tận giây phút lìa đời, vẫn hiển hiện đôi mắt “chí nhân” trừng trị lũ cường bạo: “Đôi mắt ông trợn ngược, tròng mắt đảo qua đảo lại, chiếu thẳng vào tên đao phủ, hắn hốt hoảng...”, “bọn lính Pháp hãi hùng...” (Nguyễn Trung Trực chịu thụ hình); hay Lê Quang Quan: “Tục truyền, thủ cấp ông

107

đựng trong giỏ tre mắt vẫn mở mắt trừng trừng. Một tên tay sai buông lời giễu cợt liền bị hồn linh của ông vặn cổ...”... Sự kiện “sự lạ” còn được tiếp nối về sau. Như về Tứ Kiệt: “bọn giặc đã vùi thủ cấp Bốn Ông xuống mé rạch. Linh hồn Bốn Ông tiếp tục hiển linh gây hoả hoạn”; hay về Ông Nguyễn, sự dị thường sau đó đã khiến “Bọn Pháp vô cùng kinh sợ”...

Đây là những cái chết bình thường theo lôgíc cuộc sống, khía cạnh kỳ ảo được tô đậm là sự khác thường về cái chết. Về bản chất, nó là hồi quang của môtíp cái chết thần kỳ, trong đó, cái phi thường, kỳ vĩ trong nhận thức của nhân dân về người anh hùng chủ yếu hướng về mặt tâm linh, không mang đậm tính chất lý tưởng hóa như trong truyền thuyết cổ. Tình tiết kẻ thù phân bua

Tình tiết lời phân bua của kẻ đi xâm lược xuất hiện chỉ một lần, song có ý nghĩa khá đặc biệt. Như truyện Thà chết chứ không phản bội kể: “Tên thiếu tá Pháp quay qua những người tham dự, mặt đỏ rần, nói: “Đấy là những người anh hùng. Ở xứ Hy Lạp, người ta có thể đúc tượng thờ những người ấy. Còn ở đây, chúng ta phải xử tử họ !”. Thực tế, hai nhân vật vô danh, hai người dân bình thường, không biết tên tuổi đã cho kẻ thù thực dân một bài học lớn, điều mà chúng đã không thể nhận thức được. Môtíp Sự linh ứng của thiên nhiên

Môtíp xuất hiện trong đoạn vĩ thanh của truyện kể, gắn với một cảm thức về thực tại: lúc người anh hùng hy sinh, khi ấy không gian ảm đạm. Như truyện Ông Nguyễn kể: “Dạo ấy, trời Rạch Giá mưa tuôn tầm tã suốt ba ngày đêm...”; hay Ông Thống Linh: “Sau khi Thống Linh mất”, “trời đổ mưa tầm tã suốt ba ngày ba đêm...”... Ở đây, không gian trở nên linh thiêng trong mối giao hoà giữa con người, đất trời và anh linh những anh hùng “vị quốc vong thân”.

Môtíp có mối tương quan với truyền thuyết cổ, truyện Sự tích bốn đại vương họ Đinh thời Hùng vương kể: “Khi các ông mất, trời đất rung chuyển, mưa lớn, sấm rung, chớp giật ba ngày liền chưa dứt...”; Đặng tướng quân tôn thần ở Nghệ An: “Khi ông chết, trời đất tối sầm, mưa to gió lớn...”; hay khi Lê Lai hy sinh “đất thảm trời sầu, người người rơi lệ”... Môtíp Người dân nhận hung tin

Về dấu ấn môtíp, sự kiện biểu hiện trước hết là sự phản ứng mạnh mẽ, bất ngờ của người dân khi hay tin người lãnh tụ nghĩa quân sa tay giặc. Như truyện Nguyễn Hữu Huân kể: “... dân chúng Tân An và Mỹ Tho đột nhiên kéo nhau băng đồng về chợ Mỹ Tho. Mỗi người đội trên đầu một tờ giấy bạch không có viết chữ, gọi là “trạng bạch”, đòi Pháp trả tự do cho Thủ khoa Huân”. Hành động đấu tranh không tưởng

108

nhưng đọng lại hình ảnh chính khí của người anh hùng và tấm lòng, thái độ dân chúng. Bên cạnh đó là sự thảng thốt, bàng hoàng khi nghe tin lãnh tụ nghĩa quân ra pháp trường, như một cấp độ khác của sự bất ý và đau xót. Như khi Nguyễn Trung Trực bị thụ hình, người dân khóc biệt, đau xót tiễn đưa: “Đồng bào Tà Niên” “khóc thương trải chiếu bông kín con đường Ông Nguyễn đi”, “Mọi người quỳ xuống lạy ba lạy làm lễ tạ ơn, kính dâng và tế sống ông...”; hay Âu Dương Lân bị xử tử nơi pháp trường ở Cồn Rồng, “dân chúng Định Tường thương tiếc...”...

Các biểu hiện cho thấy tình cảm sâu sắc, đồng thời còn là ý chí, niềm tin của nhân dân về người anh hùng với lịch sử chiến thắng đã làm nên sự trường tồn của dân tộc. Sự thất bại là vạn nhất. Môtíp Tìm nhận thi hài và chôn cất, lập mộ

Môtíp biểu hiện ý nghĩa tâm linh và đạo lý truyền thống. Sự kiện thân nhân, người dân tìm nhận thi hài diễn ra nơi không gian pháp trường, tạo nên một không khí bi phẫn. Như người con gái của Thủ khoa Huân “mặc áo dài đến chỗ hành quyết để thăm chừng đầu cha. Không ngờ, một tên Pháp đã lấy đầu ông thảy trả cho cô. Cô vội vàng dùng hai tay nâng vạt áo dài hứng đầu...” (Thủ Khoa Huân thành thần); Âu Dương Lân nơi pháp trường ở Cồn Rồng, khi đao phủ xuống tay, “cô con gái chìa vạt áo lụa trắng hứng lấy đầu”...; hay với Trần Văn Thiện, người thân đau xót, uất hận: người em ráp đầu chôn, “hết sức căm thù bọn giặc nên không bao giờ cho con cái học chữ Pháp”... Sự kiện còn diễn ra bên ngoài pháp trường, như về Nguyễn Trung Trực: “Đồng bào bí mật chia nhau ngày đêm đi khắp nơi tìm xác ông...” (Ông Nguyễn)...

Về việc chôn cất, lập mộ, truyện Thủ khoa Huân kể: “Phần mộ của ông được đắp cao, trong phần đất nhà...”... Việc xác nhận sự tồn tại cũng như âm thầm, kiên trì giữ gìn các phần mộ thể hiện dấu ấn tâm linh và tấm lòng của nhân dân đối với những người anh hùng hy sinh vì nước. Môtíp Thờ tự tại chùa, đền, miếu...

Dấu ấn môtíp được biểu hiện gắn với chuỗi sự kiện: chôn cất lập mộ, xây chùa, đền, miếu... thờ phụng. Như truyện Phan Văn Đạt kể: khi ông bị giặc hành hình, “Nhân dân khắp vùng ai nấy đều vô cùng đau xót và thương tiếc, đua nhau đốt vàng hương để cúng tế ông”; về Trương Công Luận: “Dân chúng Tăng Hoa đưa xác ông về an táng ở xóm Gò và xây miếu thờ”; về Nguyễn Văn Quá: “Dân đưa xác ông Quá về an táng ở Mỹ Hạnh và sau lập miếu thờ”; hay về Đỗ Tường Phong, Đỗ Tường Tự, “dân chúng quanh chợ có lập một ngôi miếu để thờ ông...”...

Nhân dân với lòng thành kính đã nâng các nhân thần là anh hùng lịch sử lên vị

trí đối tượng thờ cúng gần gũi và linh thiêng.

109

Môtíp Người dân che mắt giặc

Môtíp có mối tương quan với Thờ tự tại chùa, đền, miếu.... Đây cũng là một cuộc đối đầu gian nan của người dân đối với nhà cầm quyền thực dân, thể hiện sâu xa tấm lòng thành kính, tri ân đối với các anh hùng dân tộc.

Như về Thống Linh, “miếu thờ được nguỵ trang dưới dạng thờ Quan Công, dân gian quen gọi là chùa Ba Ông...” (Ông Thống Linh); về Đặng Khánh Tình, “Ngay trong đêm đó, nhân dân Gò Công thương cảm, dành giấy tiền vàng bạc đậy đắp xác ông. Pháp tra hỏi việc này, nhân dân bảo “Do ông trốt hốt”...”; về Dương Văn Hạnh, “Dân làng xã Lý Nhơn tìm vớt xác ông về chôn, làm mộ đá, sau xây đình thờ đặt ngay chỗ bị chém, “nhưng phải giấu tên ông mà gọi là “Ông thần không đầu”; hay về Ông Nguyễn: “10 năm sau có người tìm được đầu của ông” “đem về thờ ở đền thờ Vĩnh Huê. Về sau nhân dân rước Ông về thờ tại đình Cá Ông”; bị Pháp tra hỏi, hương cả đã trả lời: “ông Nguyễn chết vì chữ trung nên chúng tôi thờ” (Kiếm bạt Kiên Giang)... Môtíp Hiển linh

Môtíp được biểu hiện với dấu ấn vùng đất linh thiêng. Như: “chỗ Ông Nguyễn tử tiết, đêm đêm vẫn vang lên tiếng kèn thúc quân, tiếng binh sĩ hò reo, tiếng binh khí va chạm nhau loảng xoảng. Bọn Pháp ở quanh đó không bao giờ có được giấc ngủ yên lành” (hay: một số lính mã tà trồng lên đầu mộ cây đa, thường lén bọn Pháp đến lạy van xin tha tội); về Tứ Kiệt, đến mấy mươi năm sau, “Không ngờ liên tiếp nhiều đêm, nhiều đốm lửa to đỏ rực từ mộ Bốn Ông thoát lên rồi vụt xuống các khu xóm xung quanh Quận lỵ, gây lắm trận hỏa hoạn kinh hồn”...

Đặc biệt, sự kỳ ảo được tạo nên từ sự cảm quan về sự kiện, như Nguyễn Hữu Huân kể, “Người dân ở đây giải thích “binh tướng của Trương Định hiệp cùng nghĩa quân của Thủ Khoa Huân theo ngọn bão mà đánh sập đồn Tây...”.... Đây là “ngọn bão” của khí thiêng, anh linh của các chiến binh anh dũng mãi quyết tâm trừ diệt kẻ thù.

Sự hiển linh thể hiện quan niệm những người anh hùng cứu nước chính là những người “Sống cũng đánh giặc, chết cũng đánh giặc, hồn linh theo giúp cơ binh”, cũng cho thấy sức sống bất tử của những người anh hùng. Môtíp Lưu địa danh, câu ca, thành ngữ

Địa danh được lưu lại có thể là dấu tích một địa điểm hùng cứ hoặc nơi hoạt động kháng chiến của nhân vật lãnh tụ, tướng lĩnh nghĩa binh. Như: “nhân dân gọi vàm rạch nơi Quản Bạch lập căn cứ tiếp tục chống Pháp là Vàm Hổ Cứ”.

Dấu ấn môtíp còn gắn với chuỗi sự kiện thờ tự trong chùa, đền, miếu..., mang ý nghĩa sự ghi công, tưởng niệm về người anh hùng, như: “Nhân dân thờ cúng ông ở

110

chùa Quan Đế trong làng Mỹ Ngãi. Nhân dân còn lấy tên ông đặt cho chợ đầu làng là chợ Thống Linh” (Ông Thống Linh)... Môtíp Lời nhắc nhở, bia truyền

Với công đức vì dân, những người anh hùng được lưu danh trên “bia miệng” muôn đời. Môtíp xuất hiện trong một số truyện với dạng thức lời kể. Như: “Cuộc khởi nghĩa của Quản Hớn bị thất bại. Quản Hớn bị bắt giết, nhưng tên tuổi ông được lưu danh muôn đời trong lịch sử, trên bia truyền” (Phan Công Hớn); “mặc dù Pháp cấm nhắc đến uy danh của ông, nhân dân mỗi khi qua vàm rạch vẫn nhớ tới Quản Bạch cùng nghĩa quân của ông và vẫn gọi nơi này là Vàm Hổ Cứ... Hay với hình thức thơ ca: “Hậu thế đến nay còn lưu truyền bài thơ ca tụng Thống Linh...” (Ông Thống Linh)....

Nhìn chung, trong tiến trình thứ ba của cốt truyện, có sự gia tăng nhóm môtíp về dân chúng. Đây chính là sức mạnh âm ỉ của lòng dân được thể hiện chân xác và cũng không kém phần bi tráng, bởi trong thế trận đối đầu không cân sức với kẻ xâm lược, người dân chỉ có tấm lòng đau xót và kiên trinh. Không gian thờ tự linh thiêng, tấm lòng son sắt của nhân dân..., trải bao năm tháng đã làm dày thêm công đức của những người anh hùng và lưu giữ khí thiêng trường tồn cùng sông núi.

Tựu trung, trong các truyện kể, những cái chết trên trận địa dữ dội hoặc nơi pháp trường đầy bi phẫn và cả kết cục “phiêu bạt nơi đâu” đều mang tính chất bi tráng. Cái chết được biểu hiện có mối liên hệ với hiện thực lịch sử đồng thời đã “ẩn chứa một ý nghĩa nhân sinh”. Theo quan niệm tôn giáo, con người sống chết có mệnh, nhưng thân mệnh của những con người xả thân vì đại nghĩa thì đã sẵn sàng hy sinh vì đất nước. Đây không phải là số phận mà là hoàn cảnh thử thách với tính chất khốc liệt, để những con người ưu tú thể hiện phẩm chất và giá trị, qua đó làm nên phẩm chất, tinh hoa của dân tộc. Hình ảnh người anh hùng với sự thất bại và cái chết kiên cường đã trở thành một biểu tượng cao đẹp về người anh hùng cứu nước.

Tổng quát, hệ thống truyền thuyết về khởi nghĩa chống Pháp đã xây dựng một diện mạo chung nhất về hình tượng các nhân vật thủ lĩnh, tướng lĩnh nghĩa binh với đặc điểm về xuất thân, sức khoẻ, tài năng, thành tích chiến đấu và cả sự chiến bại… Trong đó, bên cạnh kết thúc thắng lợi, phần chung cục hầu hết kể về sự mất mát, hy sinh như một sự tất yếu, bởi nó là thực tế, là cái “bi” của hoàn cảnh lịch sử được tái hiện nhưng nó cũng chính là cái “hùng”, là dũng khí đánh giặc ngoại xâm của người anh hùng cứu nước. Nói cách khác, trong sự biểu đạt nghệ thuật của hệ thống truyền thuyết, trong lý tưởng ngợi ca sự nghiệp anh hùng, vừa có cái anh hùng cao cả vừa có sự bi thảm đau thương.

111

3.2.4. Nhận xét kết quả miêu tả

Qua miêu tả, trong hệ thống truyện, các hình thức cấu tạo cốt truyện và các

môtíp có sự tiếp nối các yếu tố truyền thống đồng thời có sự vận động, biến đổi.

Tổng quát, có sự thống nhất giữa các hình thức cấu tạo cốt truyện, môtíp chung nhất của hệ thống truyện và các yếu tố truyền thống. Theo đó, các truyện kể đi theo mô hình cốt truyện truyền thống (Bảng 3.2). Những môtíp tài năng, chiến công, cái chết bi tráng, sự hiển linh... đặc thù của thể loại xuất hiện ổn định.

Mặt khác, có sự thống nhất trong các hình thức cấu tạo cốt truyện, môtíp trong các nhóm truyện cụ thể. Đó là sự thể hiện đầy đủ các tiến trình sự kiện của cốt truyện; hay sự lặp lại các môtíp của cốt truyện được hình thành ở hai giai đoạn khác nhau của tiến trình phát triển hệ thống truyện (Bảng 3.3) (như: Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ, Cái chết bi tráng, Hiển linh...). Đây là sự tiếp nối các yếu tố truyền thống của văn học dân gian. Như Bùi Quang Thanh đã nhận định: “giữa các môtíp hay các dạng kết cấu của truyện kể trong những giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau luôn có sự móc nối tự nhiên, tạo ra mối quan hệ qua lại giữa các hệ thống truyện” [190,125].

Về kết cấu cốt truyện, so với kiểu mẫu truyền thuyết về chống ngoại xâm thời cổ đã có những biến đổi. Biểu hiện tập trung nhất là ở nhân vật, hình tượng trung tâm của truyền thuyết. Trong truyền thuyết thời cổ, cách thức xây dựng hình tượng nhân vật có xu hướng làm nổi bật tính phi thường, tầm vóc kỳ vĩ (về gốc tích, chiến công lẫn kết thúc sự nghiệp) bằng sự hư cấu. Nhiều môtíp tập trung vào hình tượng người anh hùng với sức vóc lớn lao, phẩm chất cao đẹp, tạo ra một chân dung lý tưởng theo quan niệm và ý niệm cộng đồng. Nói như Bùi Quang Thanh: “người anh hùng khổng lồ bao giờ cũng khổng lồ về thể xác, sức mạnh, chiến công để sẽ khổng lồ về hào quang và tầm vóc” [191,70]. Trong truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ nói riêng, gắn với tư duy hiện thực lịch sử, nhân vật được xây dựng có một phần dáng dấp nhân vật dũng sĩ nhưng vẫn còn dáng vẻ đời thường. Họ có sức lực phi thường do khả năng thiên bẫm cộng với sự khổ công rèn luyện (Sức khoẻ và võ nghệ cụ Nguyễn, Sức khoẻ của Thiên Hộ Dương, Võ nghệ của Thiên Hộ Dương, Ông Phòng Biểu…). Như Cao Huy Đỉnh đã nhận xét: “Nhân vật anh hùng mang dáng dấp thủ lĩnh địa phương gợi lên hình ảnh sống động gần gũi với cuộc sống hơn là hình tượng đầy hào quang kỳ vĩ ở dạng cổ điển” [40,588]. Nhân vật là những con người bình thường, chiến đấu lập chiến công hào hùng và thất trận, hy sinh bi tráng, như sự trở về với con người thực tại, sự ca tụng và cảm thương đều hướng đến sự gần gũi, chân thành (Ông Nguyễn, Ông Thống Linh, Thủ Khoa Huân thành thần...). Điều này cũng lý giải nguyên nhân sự vắng bóng môtíp nhân vật Ra đời thần kỳ trong cấu tạo cốt truyện. Tựu trung, truyền thuyết Nam

112

Bộ còn là truyền thuyết mới, in đậm màu săc địa phương, chưa nhiều yếu tố định hình vững chắc như truyền thuyết thời cổ.

Về môtíp, có sự mở rộng về số lượng, đồng thời, sự vận động của các môtíp tạo lập nên diện mạo đặc thù của những cốt truyện về nhân vật. Có thể minh chứng với truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp như sau: Người có tài thao lược, ra trận lập công (NV.2.2.1) với các môtíp: Người có dấu hiệu khác thường và tài năng lạ (9 lần), Lập mưu lừa giặc (6 lần), Sáng tạo vũ khí (4 lần), Thắng trận, lập công (14 lần)...; Sự thất bại và phiêu bạt của những chiến binh đánh giặc (NV.2.2.2.1) với các môtíp: Gặp bất ngờ rủi ro (2 lần), Mất lúc nào không rõ hoặc do một nguyên nhân nào khác (2 lần), Ẩn tích, phiêu bạt (11 lần)...; Người anh hùng với cái chết trong chiến trận (NV.2.2.2.2) với các môtíp: Lời nói trước trận quyết chiến (2 lần), Cái chết kiên cường (13 lần), Hiển linh (5 lần)...; hay Người anh hùng với cái chết bi phẫn nơi pháp trường (NV.2.2.2.3) với các môtíp: Chấp nhận ra hàng vì tính mạng nhân dân (7 lần), Lời nói cuối cùng (7 lần), Nhân vật bị thụ hình (27 lần), Đao phủ khiếp sợ (6 lần), Sự lạ khi đầu rơi (7 lần)...

Về yếu tố kỳ ảo hóa, “chất thơ và mộng” của đặc trưng thể loại, do đây là loại truyện ra đời ở giai đoạn muộn nên yếu tố thần kỳ chỉ còn là những hồi quang sót lại. Điều này là nguyên nhân đồng thời cũng chính là kết quả của sự không đồng đều về chất lượng nghệ thuật giữa các truyện kể. Như truyện về Thiên Hộ Dương và các nhân vật tướng lĩnh nghĩa binh, về Nguyễn Trung Trực..., nhân vật mang dáng dấp nhân vật dũng sĩ với lai lịch, hoạt động, chiến tích phi thường hay cái chết lẫm liệt có phần đậm chất hơn các truyện kể khác, tức đạt chất lượng nghệ thuật cao hơn.

3.3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA HỆ THỐNG TRUYỆN 3.3.1. Sự phản ảnh một mặt tiến trình lịch sử Nam Bộ gắn với hình tượng người anh hùng chống ngoại xâm

Như đã nêu, hệ thống truyền thuyết về những người anh hùng chiến đấu chống ngoại xâm từ cuối thế kỷ XIX trở về trước đã phản ánh đặc điểm quá trình đấu tranh chống ngoại xâm, một mặt của tiến trình lịch sử Nam Bộ. Cùng với đề tài về khai khẩn mở đất, truyền thuyết về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã tìm được chất liệu mới, hồi sinh cảm hứng, thể hiện nét đặc thù tư tưởng thẩm mỹ của văn học dân gian ở vùng đất phương Nam. Như Bùi Mạnh Nhị đã nhận xét: “Truyền thuyết là một thể loại luôn có xu hướng bám sát những nhân vật, sự kiện lịch sử của dân tộc và của từng địa phương” [136,120].

Trong truyền thuyết về chống ngoại xâm, nhân vật là người anh hùng lịch sử. Đây là nhân vật lấy nguyên mẫu trong lịch sử, được tái tạo thành những hình tượng

113

thẩm mỹ. Bởi như các nhà nghiên cứu đã nhận định, về bản chất “xuất phát từ những sự kiện lịch sử có thật, hệ thống truyện kể dân gían làm nhiệm vụ bồi đắp da thịt cho sự kiện và thổi vào đó một lý tưởng thẩm mỹ của quần chúng nhân dân” [40,71].

Truyền thuyết về người anh hùng mở cõi, chống nạn xâm lấn từ giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược trở về trước khắc họa hình tượng người anh hùng mở cõi, định quốc an bang. Nơi chiến trường miền Nam nghĩ về cội nguồn dân tộc, Huỳnh Văn Nghệ đã có niềm cảm hoài sâu sắc: “Từ độ mang gươm đi mở cõi, Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” (Nhớ Bắc). Trong sự nghiệp mở cõi về phía Nam, sử sách đã ghi công lao các chúa Nguyễn nhưng những người thực thi sứ mệnh lịch sử trong hành trình mở cõi thì cũng xứng đáng được vinh danh hàng đầu. Trong các truyện kể, nổi lên những nhân vật tướng lĩnh thực thi mệnh lệnh triều đình, đây chính là loại hình nhân vật có công mở rộng lãnh thổ và bảo vệ biên cương. Truyền thuyết dân gian đã thể hiện một cách nhận thức, đánh giá về lịch sử, góp phần minh chứng cho tính tích cực của lịch sử mở cõi ở vùng đất cuối phía Nam đất nước, với bước đi của lịch sử là “có chiến tranh nhưng không sắt máu”.

Truyền thuyết về người anh hùng khởi nghĩa chống Pháp đến cuối thế kỷ XIX thể hiện dấu ấn một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng vĩ đại, xây dựng chân dung những con người lý tưởng. Truyền thuyết đã làm sống lại quá khứ hào hùng, những hào kiệt đất phương Nam xông pha với giáo gươm lửa đạn, trải gần nửa thế kỷ đối đầu khốc liệt, những con người “mến nghĩa” ấy dù sống, dù thác vẫn hiên ngang, bất khuất. Qua hệ thống truyền thuyết, hình tượng người anh hùng chống Pháp được thể hiện với tầm vóc lớn lao. Đây chính là “một thế hệ yêu nước, mang phẩm chất anh hùng” [46,5]. Thế hệ đó bao gồm những người nông dân, người dân chài, những người xuất thân khoa cử hay thành phần tôn giáo... có chung lý tưởng yêu nước. Những nỗ lực, quyết tâm chiến đấu, những câu nói, hành động quyết liệt trước kẻ thù… đã minh chứng cho phẩm chất của những người anh hùng. Tất cả đã cho thấy đây không chỉ là hình tượng những cá nhân riêng lẻ mà là “hình tượng một tập thể anh hùng”. Đây là một nét đặc thù của truyền thuyết về chống Pháp ở Nam Bộ nói riêng, mang ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc.

Một biểu hiện khác là tính thiêng, tính cao cả của hình tượng người anh hùng. Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng trong cuộc sống con người, những cái thiêng, niềm tin của tâm linh cô đọng lại ở những không gian, biểu tượng, ý niệm, chuyển tải những ý nghĩa sâu xa. Trong đó, không gian thờ tự (chùa, đền miếu, đình...) là một đặc trưng của không gian tâm linh, nơi những xúc cảm về cái thiêng, cao

114

cả đã kết tụ lại thành niềm tin thiêng liêng. Đây là những yếu tố của hiện thực được dùng để biểu đạt những khía cạnh tâm linh trong đời sống con người.

Trong truyền thuyết về chống ngoại xâm nói riêng, không gian thờ tự thể hiện một ý niệm sâu xa của cộng đồng. Đây là đạo lý thờ người có công với nước. Oai linh của người anh hùng không mất đi, họ đã hóa thân bất tử. Với “thần và người đất Việt”, quá khứ thiêng liêng được nối kết không đứt gãy qua bao đời. Hệ thống truyền thuyết đã tạo dựng nên những ”tượng đài” lịch sử, văn hóa trong đời sống tinh thần nhân dân địa phương, mang giá trị văn hóa, trở thành nét đẹp, tinh hoa dân tộc.

3.3.2. Một hiện tượng văn học dân gian độc đáo gắn với lịch sử

Quá trình hình thành và phát triển hệ thống truyền thuyết về những người anh hùng chiến đấu chống ngoại xâm có mối quan hệ song hành với các chặng đường lịch sử của dân tộc, một lần nữa đã minh chứng cho “tính chất lịch sử” và “sự ra đời trong lịch sử” [194,349] của đặc trưng thể loại truyền thuyết.

Những tên gọi làng xóm, đất đai, nơi thờ tự... hay thân thế, sự nghiệp của các nhân vật lịch sử chống ngoại xâm đã trở thành chất liệu, đề tài, nội dung cho những câu chuyện được sáng tác và lưu truyền. Nó được ẩn tàng trong các lớp tín ngưỡng và dấu tích vật chất của nhân dân địa phương. Giá trị lịch sử của hệ thống truyền thuyết gắn với niềm tin và lòng tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa của địa phương và dân tộc. Về tính chất, lịch sử là khách quan, công bằng nhưng không hẳn những ghi chép về lịch sử đều có giá trị chân xác. Bởi xét cho cùng, nó cũng là sản phẩm của con người, có sự ảnh hưởng của thời đại, nhân sinh quan nên có khi khe khắt và phiến diện. Do vậy, ở những điều kiện phù hợp có những vấn đề sẽ được đánh giá lại và trong sự phán xét của lịch sử thì đã bao hàm sự đánh giá của những người dân vạn đại.

Qua truyền thuyết, những ký ức được lưu giữ đã bao hàm sự nhận thức lịch sử mà nhân dân đã ghi nhận, đánh giá theo cách thức riêng. Bùi Quang Thanh nhận định: “Các sử gia phong kiến đánh giá sai về lịch sử thì tâm lý tôn trọng lịch sử, thính nhạy với lịch sử của quần chúng nhân dân đã góp phần đánh giá lịch sử một cách đúng đắn, công bằng và sinh động nhất, có giá trị to lớn đối với sức sống cộng đồng” [191,72]. Trong truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ nói riêng, tâm lý tôn trọng lịch sử của nhân dân biểu hiện không chỉ ở thái độ trân trọng đối với các nhân vật bị che lấp do thiên kiến mà còn ở những ghi nhận khách quan đối với những thông tin lịch sử sai lệch. Như đối với Trương Định, sự nghiệp chính nghĩa của Bình Tây Đại nguyên soái ngời sáng không gì che lấp được, với truyền thuyết, tuy số lượng rất ít ỏi song cũng đã thể hiện được hai sự kiện ấn tượng nhất về nhân vật thủ lĩnh chống Pháp đất Gò Công, đó là việc từ chối nhận lệnh bãi binh và thời khắc cuối cùng trước lúc hy sinh. Bên

115

cạnh đó, những chỗ sơ lược hoặc khoảng trống của chính sử về Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương và các tướng lĩnh nghĩa binh... phần nào được lấp đầy qua những truyền thuyết đầy chất bi tráng về người anh hùng đánh giặc (Tập san Sử Địa ghi: “Ngay cả Chính – sử triều Nguyễn như “Đại Nam Liệt Truyện” cũng không hề nói tới Nguyễn Trung Trực...” [181,1]).

Trường hợp tư liệu thực dân, lại có sự phức tạp với những ghi chép không bảo đảm tính khách quan trung thực. Như về sự kiện Nguyễn Trung Trực lúc kẻ thù cật vấn, đã bị tư liệu làm sai lệch, với phát biểu: “... tôi lầm tưởng binh lực của Lang-sa khong mạnh mẽ như thật sự”, “Hồi trước, nếu tôi rõ đặng có lẽ tôi hiến công việc tôi...” (“Si je l’avais su, je leur [aux Francais] aurais peut-être offert mes services,...”) [181,24]. Theo đó, truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực có sức mạnh chính khí hơn vạn lời trần tình về sự kiện. Điều này cũng lý giải vì sao không phải lực lượng nào khác mà chính nhân dân mới thấy hết tầm vóc vĩ đại của những người anh hùng chống Pháp, dù đó là những con người rất đỗi bình thường với công tìch thầm lặng.

Tiểu kết chương 3

Chúng tôi khái quát những nội dung đã thực hiện ở chương 3 như sau: 1. Luận án khái quát diện mạo thể loại và cơ cấu hệ thống truyện, làm cơ sở để triển khai các bước khảo sát, nghiên cứu cụ thể. Trong đó, chúng tôi chú ý nhận diện ranh giới giữa các tiểu loại, khía cạnh sự tương tác qua lại trong hệ thống thể loại của truyền thuyết diễn ra ở cấp độ tiểu loại.

2. Luận án xác định diện mạo đặc thù của hệ thống truyện, thông qua việc tập trung miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo, khái quát về giá trị nội dung. Theo đó, luận án chỉ ra đặc điểm sự tiếp nối các yếu tố truyền thống và sự vận động, biến đổi về mặt thể loại của hệ thống truyền thuyết. Đồng thời, chúng tôi cũng nhận diện xu hướng chung của sự hình thành và phát triển của truyền thuyết ở giai đoạn muộn so với truyền thuyết thời cổ.

3. Với việc xác lập các yếu tố đặc trưng nghệ thuật, chúng tôi đã bước đầu khái quát hóa quá trình phát triển của truyền thuyết Nam Bộ trong việc phản ánh lịch sử, từ buổi đầu khi cha ông tiến về khẩn hoang, mở cõi đất phương Nam đến khi bước vào cuộc kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp. Luận án cũng minh chứng cho thấy tính truyền thống của thể loại, đó là truyền thuyết về chống ngoại xâm luôn có số lượng cao và có sức hấp dẫn nghệ thuật.

116

CHƯƠNG 4 TRUYỀN THUYẾT VỀ NHÂN VẬT NGUYỄN ÁNH

4.1. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG TRUYỆN

Đánh giá về nguồn truyện về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ, cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, Cao Tự Thanh đã nhận xét: “Quả thật Nguyễn Ánh là ông vua để lại nhiều truyền thuyết nhất Nam Bộ, vì trong các vua chúa Việt Nam không có người nào mà vết chân in khắp vùng Nam Bộ như ông ta, đặc biệt là trong thời gian trốn lánh Tây Sơn trước 1788” [194,145].

Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, phong trào khởi nghĩa Tây Sơn theo bước chân các chúa Nguyễn đã lan rộng đến Nam Bộ. Từ năm 1775 đến 1790, quân binh Tây Sơn và Nguyễn Ánh đã giao tranh nhiều trận ở vùng Gia Định. Với năm lần thất thủ, Nguyễn Ánh đã bôn ba chạy lánh nạn và ẩn tránh nhiều nơi. Theo đó, truyện về Nguyễn Ánh đã hình thành với quy mô không nhỏ và được lưu truyền rộng rãi ở Nam Bộ.

Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh là nhóm truyện kể dân gian ở vùng Nam Bộ, gắn với sự kiện quá trình Nguyễn Ánh bôn tẩu vào Nam khi bị Tây Sơn truy đuổi. Đây là những mẩu truyện nhỏ, hình thức ngắn gọn với cấu trúc đơn nhất, mỗi truyện kể về một tình huống sự kiện về nhân vật được xâu chuỗi xoay quanh sự kiện trung tâm là hành trình trốn lánh Tây Sơn của Nguyễn Ánh. Trong đó, có không ít những phiến đoạn lời kể tạo nên những mẩu thông tin được truyền tụng có thể xem là những chi tiết tương truyền, như lời kể Nguyễn Ánh đặt tên cây mù u là cây Nam Mai ghi trong chính sử; hay lời truyền về Bà Rịa sách Nam Ky phong tục nhơn vật diễn ca đã ghi nhận: “Thuở Cao Hoàng đế lánh nàn, Bà đem lương phạn chiến tràng hiến công” [153,7]. Mặt khác, truyền thuyết về Nguyễn Ánh phản ánh và lý giải về một nhân vật và sự kiện lịch sử có sức ảnh hưởng ở Nam Bộ. Nhìn chung, các câu chuyện được kể và truyền tụng gắn với niềm tin của người dân đối với các diễn biến sự kiện về nhân vật, đặt trong mối liên hệ với một số địa danh, di tích, tập tục, lễ hội dân gian... ở các địa phương (Giếng ngự, Sông Mỹ Thanh, Cạnh Đền, Tháp Vĩnh Hưng, Những chuyện lạ về cá Ông...).

Tuy nhiên, truyện về Nguyễn Ánh cũng biểu hiện đặc điểm là “Một thể loại truyện kể ngắn gọn về một tình tiết có thực hoặc được thêu dệt của những nhân vật được nhiều người biết đến”[52,132]. Không ít tác giả đã gọi đây “những giai thoại kỳ lạ” về cuộc đời Gia Long - Nguyễn Ánh. Nhân vật trung tâm của nhóm truyện là một nhân vật “đặc biệt” theo môtíp nhân vật giai thoại. Một số truyện kể có cách giải thích tên gọi giản đơn theo lối từ nguyên học dân gian. Như tên gọi Kênh (Sông) Chắc Băng

117

được giải thích do câu nói “trẫm chắc băng” của Nguyễn Ánh (thực ra tiếng Khmer là Chát Băng); hay Chợ Lấp Vò: là nơi binh lính của Nguyễn Ánh lấy đất lấp chỗ thuyền hỏng (thực ra tiếng Khmer là Srok tak por)...

Như vậy, truyện về Nguyễn Ánh mang tính chất giao thoa giữa truyền thuyết và

giai thoại trong tính chất biến đổi, chuyển hóa về thể loại.

Chúng tôi tập hợp được 52 truyện và 9 dị bản về nhân vật Nguyễn Ánh. Về địa bàn lưu hành nguồn truyện, theo tư liệu sưu tầm và yếu tố địa danh của truyện kể, có các địa điểm với số lượng truyện như sau: Bà Rịa - Vũng Tàu (3), Đồng Nai (1), Bình Dương (1), Gia Định (1), Tây Ninh (1), Long An (3), Tiền Giang (2), Bến Tre (3), Vĩnh Long (2), Trà Vinh (2), Đồng Tháp (3), Cần Thơ (3), Sóc Trăng (3), An Giang (6), Châu Đốc (3), Kiên Giang (6), Bạc Liêu (4), Cà Mau (5). Sơ khởi cho thấy, các truyện kể về Nguyễn Ánh trải khắp Nam Bộ, tương ứng với sự kiện hiện thực về nhân vật.

4.2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO 4.2.1. Mô hình cốt truyện

Các truyền thuyết có mô hình cốt truyện truyền thống với lược đồ chung gồm 3

phần: mở đầu, phát triển và kết thúc, gắn với các tiến trình sự kiện sau:

Tiến trình thứ nhất (1): nêu bối cảnh sự kiện, sự xuất hiện của nhân vật, chủ yếu gắn với yếu tố thời gian, bối cảnh cuộc giao tranh với Tây Sơn, trên đường bị truy đuổi trốn lánh vào Nam. Tiến trình thứ hai (2): kể những diễn biến sự kiện gây ấn tượng về nhân vật. Nội dung thể hiện những hành trạng, hoạt động thường mang tính chất ly kỳ đã xảy ra, như một sự may mắn bất ngờ hay một sự kiện đặc biệt liên quan nhân vật... để tạo thành một sự kiện đáng nhớ, một tên gọi địa điểm, di tích, một câu ca, lời truyền, một tập tục khác trước..., gắn với một hoàn cảnh cụ thể ra sao. Tiến trình thứ ba (3): kết thúc trực tiếp sự việc, bao gồm kết quả cụ thể liên quan nhân vật, như sự thoát hiểm, sự báo đáp sau khi lên ngôi hoặc một dấu tích lưu lại...

Mô hình cốt truyện trên được thể hiện ở Bảng 4.1.

Đặc điểm vùng đất / Giới thiệu nhân vật Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Đặc điểm vùng đất / Lai lịch, tình huống tình huống sự Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống Lai lịch, tình huống và việc xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật xuất hiện nhân vật

Chung cục Kết thúc sự việc (kết quả đạt được về (kết quả, dấu tích, nhân vật hoặc dấu sự tri ân) tích liên quan)

(1) (1) (1) (1) (1) (1)

Diễn tiến sự việc Công tích, Công tích, Công tích, Công tích, (những khía cạnh hoạt động hoạt động hoạt động hoạt động riêng, gây ấn tượng về nhân vật) (2) (2) (2) (2) (2)

(3) (3)

(1) (1) (1) (1) (1)

Khái quát về nghệ thuật, chúng tôi xác định kiểu nhân vật của hệ thống truyện

gắn với đề tài - cốt truyện như sau: Bảng 4.2. Thống kê, phân loại kiểu nhân vật, đề tài - cốt truyện

118

Hệ thống truyện

Kiểu nhân vật

Đề tài - cốt truyện

Số truyện, dị bản

52

9 db

Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh

Người khai sáng vương triềv với quá trình gian nan trước khi lên ngôi (KNV.3)

Những hành trạng ly kỳ của Nguyễn Ánh trong hành trình trốn lánh Tây Sơn (ĐT-CT.3)

4.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện

Qua khảo sát 52 truyện về nhân vật Nguyễn Ánh, chúng tôi thấy có 06 tình tiết

và 10 môtíp biểu hiện về đặc điểm nhân vật, được thống kê như sau: Bảng 4.3. Thống kê tình tiết, môtíp

Các tình tiết, môtíp

Tần số xuất hiện

NV. 3.2

NV. 3.3

NV. 3.1

Thứ tự

1

18

9

20

47

Nhân vật bị truy đuổi (m)

2

3

11

14

Vào địa phận vùng đất

3

18

18

Vật linh, điềm lạ trợ giúp (m)

4

12

12

Con người trợ giúp (m)

5

1

1

Con người không trợ giúp

6

5

2

7

Nhân vật khấn vái hoặc chiêm mộng (m)

7

17

8

25

Thoát hiểm

8

9

9

Nhân vật hay cung quyến trải qua gian lao (m)

9

27

27

Dấu tích hoạt động trên đường của nhân vật và binh gia tùy tướng (m)

10

1

1

3

5

Đặt tên sản vật (m)

11

2

2

Đặt tên địa danh (m)

12

42

7

8

27

Lưu địa danh, di tích (m)

13

1

1

Nhân vật đưa ra lời nguyền

14

2

4

6

Lưu câu ca, thành ngữ (m)

15

4

3

7

Sắc phong, sắc tứ

16

1

1

Thay đổi thói quen xưng gọi

75

43

106

224

Tổng cộng

(33%)

(20%)

(47%)

119

4.2.3. Miêu tả những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện

Hệ thống truyền thuyết về Nguyễn Ánh có 52 truyện và 9 dị bản, với 6 truyện

ghi nhận từ chính sử, các truyện còn lại lấy từ văn bản sưu tầm, biên khảo.

Hệ thống truyền thuyết có kiểu nhân vật trung tâm là Người khai sáng vương triều và quá trình gian nan trước khi lên ngôi ( KNV.3), đánh dấu sự kiện giai đoạn còn “tiềm để” của một nhân vật vua chúa, gắn với quá trình bôn tẩu vào Nam của Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn.

Tương ứng với kiểu nhân vật trên, hệ thống truyền thuyết có đề tài - cốt truyện:

Những hành trạng ly kỳ của Nguyễn Ánh trong hành trình trốn lánh Tây Sơn.

Sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện này như sau: Nguyễn Ánh bị truy đuổi, chạy nạn (cid:1) được sự trợ giúp hoặc không được trợ giúp / hay Vào địa phận vùng đất (cid:1) có những hành trạng, hoạt động trên đường bôn tẩu (cid:1) kết quả hay dấu tích lưu lại (về nhân vật, sự kiện).

Đề tài - cốt truyện được xác lập với nhân vật mang đặc điểm: Sự phù trợ thần kỳ cho vị vua tương lai (NV.3.1), Con người trợ giúp (NV.3.2) và Những dấu ấn hành trạng và dấu tích lưu lại (NV.3.3).

- Sự phù trợ thần kỳ cho vị vua tương lai (NV.3.1) Nhóm này có 11 truyện và 6 dị bản, gồm 6 truyện ghi nhận từ chính sử: Núi Trà Sơn, Chuyện cá sấu cứu Nguyễn Ánh tại vàm sông Ông Đốc (/ Sông Khoa Giang, Kỳ đà và rái cá cứu Nguyễn Ánh), Bầy rắn đội gầm thuyền, Nhờ sấu đưa qua sông dữ, Giông bão và dòng nước ngọt trên biển (/ Dòng nước ngọt ở đảo Phú Quốc) và 6 truyện lấy từ văn bản sưu tầm, biên soạn: Gành Rái với bầy rái thần và chuyện vua Gia Long (/ Rái thần cứu vua), Một loài cá nhỏ cứu Nguyễn Ánh, Chim linh báo tin cho Nguyễn Ánh (hay Chùa Sắc tứ Long Nguyên với Nguyễn Ánh), Những chuyện lại về cá Ông (/ Cá ông cứu Nguyễn Ánh), Gốc tích lễ cúng biển Mỹ Long, Búng Bình Thiên (/ 1 bản kể khác).

Nội dung các truyện kể về những sự thoát hiểm kỳ lạ của Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy đuổi, với những tình huống nguy cấp và sự cứu giúp thần kỳ, mang đậm tính chất hư cấu, thêu dệt.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về nhân vật này như sau: Nguyễn Ánh bị truy đuổi nguy khốn (cid:1) trông trời, khấn nguyện (cid:1) xuất hiện vật linh, điềm lạ trợ giúp thoát hiểm (cid:1) đặt tên vật trợ giúp hay về sau sắc phong danh hiệu thờ cúng.

Những tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Nhân vật bị truy đuổi (m) (tần số xuất hiện 18 lần) -Nhân vật khấn vái hoặc chiêm mộng (m) (5 lần) -Vật linh, điềm lạ trợ giúp (m) (18 lần) -Thoát hiểm (17 lần) -Đặt tên sản vật (m) (1 lần) -Lưu địa danh, di

120

tích (m) (7 lần) -Lưu câu ca, thành ngữ (m) (2 lần) -Sắc phong, sắc tứ (4 lần) (2 tình tiết, 6 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Nhân vật bị truy đuổi

Môtíp đóng vai trò mở đầu đặc trưng của nhóm truyện. Đây là mốc thời gian diễn ra cuộc giao tranh với Tây Sơn, gắn với những địa điểm trong hành trình bị truy đuổi, như: vượt biển đến Vũng Tàu ở Gành Rái; đến sông Đăng; tới Định Tường; chạy đến Trà Sơn (Long Xuyên); từ Vàm Nao định ra biển; vào Hà Tiên; ở cảng biển Ma Ly; ra đảo Côn Lôn; ở vàm sông Ông Đốc; cửa sông Soài Rạp (Gò Công); cửa Cần Giờ; cửa biển Trà Vinh; làng chài Bến Đáy (xã Mỹ Long)..., bao gồm những địa thế hiểm trở: trên núi, cảng biển, cửa sông… Đây là chiến trường xưa, nơi diễn ra các cuộc giao tranh giữa quân chúa Nguyễn với Tây Sơn.

Như: “Lúc Nguyễn Ánh trốn chạy vào đất miền Nam phải cùng đoàn tuỳ tùng vượt biển vào đây...” (Gành Rái với bầy rái thần và chuyện vua Gia Long); “Khi chúa Nguyễn Ánh lẩn trốn Tây Sơn chạy vào Nam, xuống tới Định Tường...” (Chim linh báo tin cho Nguyễn Ánh); “Nguyễn Ánh thua trận đang tìm đường bôn tẩu trước sự truy đuổi ráo riết của Tây Sơn…” (Lễ hội cúng biển Mỹ Long)... Môtíp Nhân vật khấn vái hoặc chiêm mộng

Môtíp tạo ra bước chuyển hợp lý cho sự xuất hiện các yếu tố thần kỳ, nằm trong ý tưởng đề cao nhân vật “chúa thánh”, đối tượng được lực lượng siêu nhiên tiếp nhận phù trợ. Như Chuyện cá sấu cứu Nguyễn Ánh ở vàm sông Ông Đốc kể: “Thấy sự lạ cho là điềm xấu, Nguyễn vương đứng trước mũi soái thuyền lâm râm khấn vái…”; hay truyện Búng Bình Thiên kể, Nguyễn Ánh được báo mộng, sáng ra “đào sâu xuống thì lập tức có nước ngọt...”... Môtíp “Vật linh, điềm lạ” trợ giúp

Môtíp thể hiện việc nhân vật được cứu giúp, được thực hiện thông qua các con

vật hoặc hiện tượng có tính chất linh thiêng.

Có 11 dạng thức biểu hiện, bao gồm: Cây đổ lấp đường, Chim báo điềm, tăng sĩ đoán giải, Cá sấu đỡ trâu vượt sông, Rái cá chỉ đường, Cá ông đỡ thuyền (hay Cá voi cứu thuyền), Giông bão nổi lên, Bầy rắn đội gầm thuyền, Cá sấu cản thuyền (hay Kỳ đà và rái cá chận thuyền), Cá nhảy vào thuyền, Nước ngọt trên biển, Nguồn, giếng nước ngọt. Tương ứng với 11 địa điểm chính: ở núi Trà Sơn; tới Định Tường; đi Lật Giang; ở cửa sông Soài Rạp (Gò Công) (hay Vàm Láng, Trà Vinh, cửa Cần Giờ); Gành Rái (Vũng Tàu) (hay ra Phú Quốc); Côn Lôn; Hà Tiên; Khoa Giang; Vàm Nao; cảng Ma Ly, Phước Tuy (hay đến An Giang, Sóc Trăng...).

121

Một số bản kể có những chi tiết biến đổi. Như về Cá ông đỡ thuyền có những chi tiết làm tăng mức độ kịch tính của sự việc: “... Bỗng từ dưới nước nổi lên một cặp cá ông kẹp hai bên mạn chiếc thuyền, đưa lưng đỡ và dìu thuyền vào đến đất bình an...” (Những chuyện lạ về cá Ông) (hay: “Dân chài vùng Bãi Ngao (Ba Tri) kể rằng, có lần thuyền của vua Gia Long đến đây gặp sóng to gió lớn và được Cá Ông hộ tống đến Bãi Ngao”)...; Cá sấu cản thuyền hay kỳ đà và rái cá chận thuyền báo có địch: “... Cá sấu chặn ngang trước thuyền ba lần...” (Sông Khoa Giang); “, “... Hai con rái cá lội qua rạch đón trước mũi thuyền như muốn cản đường...” (Kỳ đà và rái cá cứu Nguyễn Ánh). Về Nước ngọt trên biển giải nạn khát, trong văn bản sử, nước ngọt xuất hiện ở “cửa biển Ma Ly, khi lênh đênh trên biển bảy ngày...”; đến bản kể ghi chép ở Châu Đốc, nơi “xuất hiện một dòng nước ngọt” là “ở bờ biển” Phú Quốc. Các biến đổi không loại trừ khả năng thêm thắt, như có bản kể: “từ trong hang đá chạy ra một đàn rái cá vô số kể, tốp cắn lá cây che lấp miệng hang, tốp chạy xóa dấu chân để lại... ” (Rái thần cứu vua).

Truyện về loài cá cứu giúp nạn đói, tìm thấy nước ngọt giải nạn khát còn có ở vùng Trung Bộ trong hành trình bôn tẩu của Nguyễn Ánh. Như truyện Sự tích cá Cơm và bãi Xuân Đừng nói đến dấu tích trốn chạy trên vùng biển Vạn Ninh, Khánh Hòa: đoàn thuyền đói khát nhiều ngày, gió biển thổi vào, từng đàn cá dày đặc trên mặt nước, Nguyễn Ánh ra lệnh vớt đem phơi khô làm lương thực dự trữ, vì thế quan quân gọi loại cá này là “cá Cơm”; về nước uống, vương cho quân sĩ đến bãi Xuân Đừng, đào sâu xuống thì có nước ngọt như trên đất liền...

Các hình ảnh mang ý nghĩa chức năng sự trợ giúp rất cấp thiết đối với nhân vật. Nhìn chung, những “thế lực” trợ giúp ở đây bao gồm: loài vật thiêng (cá sấu, rắn biển, cá, chim…), các hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ (giông bão, nước ngọt trên biển…). Việc cứu giúp diễn ra trên mọi địa hình: trên núi, trên bộ, dưới sông... Ý nghĩa các tín hiệu cũng đa dạng: báo tin thuận lợi, cảnh báo nguy hiểm, cứu nạn hoặc hành động trợ giúp mang tính thực thi nhiệm vụ... Như vậy, trong lúc nguy nan nhất, Nguyễn Ánh đã có sự trợ giúp tích cực và đắc lực của những yếu tố siêu nhiên như những yếu tố văn hóa được cảm nhận từ tâm thức con người. Các hình ảnh vật linh, điềm lạ xuất hiện trong truyện kể liên quan đến những biểu tượng văn hóa Nam Bộ, Việt Nam và thế giới: chim: với ý nghĩa điềm trời hay thông điệp của trời; cá sấu: chủ tể của nước, biểu thị sức mạnh; rắn: thần chủ của nước; cá: biểu tượng của sự sống, vận may, báo điềm lành. Đặc biệt, các biểu tượng chim, cá, rắn, cây họp lại thành hệ thống biểu tượng mang ý nghĩa báo điềm, biến nguy thành an… Bên cạnh đó, cá voi mang ý nghĩa vị thần biển, với sức mạnh linh thiêng, độ mạng (cũng như một số con vật như cá sấu,

122

rùa, là biểu tượng “vật đỡ thế giới”). Không gian sông nước thể hiện sức mạnh có tính đối lập, có khi sông nước là điềm báo (thể hiện trong truyện Sự tích Trảo Trảo phu nhân, với ý nghĩa về quyền năng thần bí trong mối liên hệ với mưu đồ chính trị của con người). Mây mù cũng là công cụ của sự hiển thánh, linh cảm về điềm báo. Nguồn nước, mạch nước có ý nghĩa là nguồn chảy, biểu tượng của sự sống, nguồn sống. Con số ba trong tâm thức người Việt có ý nghĩa quy ước, là con số nhiều, thử thách tận cùng, “quá tam ba bận”…

Hình ảnh rái cá có sự tương ứng với truyện Tục hát Châu phê ở hai thôn Dương Thiện và Vinh Quang (Bình Định). Đây là hình ảnh xuất hiện trong truyền thuyết xa xưa về Đinh Tiên Hoàng (vùng Hoa Lư, Bắc Bộ) nhằm thần kỳ hóa gốc tích nhân vật người anh hùng. Hình ảnh này thực ra không mang ý nghĩa tâm linh đối với cư dân biển Nam Bộ, do đó ý nghĩa vật thiêng có khả năng là sự giao nối từ truyện kể dân gian miền khác. Lần tìm sâu xa hơn trong tâm thức văn hóa chung, rái cá với đặc tính ẩn hiện ở mặt nước, có thể ẩn chứa những điều linh thiêng, biểu đạt ý nghĩa sự linh ứng.

Trong truyền thuyết dân gian người Việt, những biểu tượng núi, đá, cây, sông nước... lặp lại khá nhiều lần (Thánh Gióng, Man Nương, Quốc sư xây đền Sóc Thiên Vương…). Sự xuất hiện có tính hệ thống của các biểu tượng cho thấy những cảm thức văn hóa riêng của người Việt trong sự biểu đạt chiều sâu những ký ức về lịch sử, mặt khác cho thấy đây còn là những biểu tượng thể hiện cảm ứng của thiên nhiên đối với vận mệnh con người nên để lại ấn tượng rất sâu sắc.

Về biểu tượng nguồn nước, giếng nước: truyện Giếng Tiên (hay Giếng Ngự) kể “Nguyễn Ánh chỉ mũi kiếm xuống đất, tức thì một dòng nước tuôn chảy ra”, “chỗ đã dậm chân đến nay vẫn còn dấu lún sâu trên đá”; còn có Giếng Gia Long ở núi Cấm, Dòng nước ngọt ở đảo Phú Quốc (tương tự, có Giếng Tiên của vua Gia Long trên đất Hòn Lao (Bình Thuận) [202]... Yếu tố thần kỳ như một thủ pháp nghệ thuật đưa đến ý nghĩa khác biệt: sự vật giếng là thực nhưng giếng tiên lại mang ý nghĩa biểu tượng, là giếng nước thần kỳ trời ban, thể hiện tâm thức văn hóa, bởi “Trong mọi truyền thống văn hóa, những giếng nước mang tính chất linh thiêng” [23,361].

Hệ thống biểu tượng văn hóa tập trung ở những truyện về vật linh, điềm lạ, cho thấy đây không phải là điều trùng hợp ngẫu nhiên. Những truyện kể đã chứa đựng những hình tượng có ý nghĩa chuyển tải sâu rộng. Yếu tố sự linh thiêng gắn với các biểu tượng tâm thức thể hiện nhu cầu về niềm tin. Có thể những câu chuyện bắt nguồn từ sự ao ước, kỳ vọng vào một sự trợ giúp thần kỳ trong những cảnh ngộ bế tắc, cùng đường, cũng có thể là niềm tin trên cơ sở những ý niệm về một “chân mệnh đế vương” trong quan niệm xưa nay của các “thần tử” (và đã được sử dụng như chiến thuật tâm

123

lý). Các câu chuyện được kể như những sự việc kỳ lạ, ẩn chứa những huyền cơ, việc lan truyền rộng rãi trong dân chúng cho thấy nguyên nhân cũng là kết quả những tác động thực tế đó. Ngay đến nhà biên khảo có khi cũng không khỏi băn khoăn về tính xác thực của truyện kể đã ghi chép. Vương Hồng Sển viết: “Phải chăng có vận số hay chuyện sấu ngăn mũi thuyền là bịa ?” [173,345]. Tình tiết Thoát hiểm

Tình tiết thể hiện trong văn bản sử nêu tóm lược sự kiện, như: “Rạng ngày nhờ dân ở đó nói lại mới hay đêm rồi có thuyền Tây Sơn đi tuần ở vàm, nếu ra ắt bị hại...” (Sông Khoa Giang). Trong văn bản sưu tầm, có sự thêm thắt chi tiết lời thoại. Tình tiết Sắc phong, sắc tứ

Việc sắc phong bao gồm ban tên vật thiêng đồng thời kết nối với việc cho thờ cúng. Như Cá sấu cứu Nguyễn Ánh ở vàm sông Ông Đốc kể: “Về sau phục được cơ nghiệp, Gia Long không quên ơn những giống vật đã cứu mình trong lúc hiểm nghèo, phong cho đàn cá sấu mỹ danh là Tân Ngạc Ngư Long”; hay: Gia Long “phong cho cá voi là Nam Hải cự Tộc Ngọc Lân Thượng đẳng thần” và “lệnh xây cất một đình thần để thờ phụng cá ông” (Những chuyện lạ về cá Ông)...

Việc phong tước hiệu thần cho các vật thiêng xuất phát từ ý niệm thiên tử phong bách thần, nhằm thêu dệt công tích thần kỳ để tôn vinh chủ thể của nó sánh ngang thần thánh. Việc sắc phong cá ông tạo nên sức mạnh tâm linh qua sự nối kết với hiện tượng tín ngưỡng truyền thống của cư dân làng biển. Đây là một dụng ý sâu xa của các chúa Nguyễn, nói như các nhà nghiên cứu, thực chất “Truyền thuyết cá Ông cứu chúa Nguyễn và được Gia Long sắc phong chỉ nhằm mục đích xác tín về vương mệnh của Nguyễn Ánh” [208,309]. Môtíp Lưu câu ca, thành ngữ

Các thành ngữ được tạo lập liên quan đến điển tích, diễn đạt ý niệm về thực tại. Như sự kiện rắn đội thuyền, kỳ đà và rái cá cản thuyền báo có địch được kể đã tạo nên điển tích “Gặp rắn thì đi, gặp quy thì về”, “Kỳ đà cản mũi”. Song, có thể hiểu ngược lại, điển tích là cái có trước, tạo cơ sở thêu dệt nên câu chuyện. Môtíp Đặt tên sản vật

Dấu ấn môtíp được thể hiện là kết quả của sự kiện vật linh cứu giúp. Trong Một loài cá nhỏ cứu Nguyễn Ánh, chi tiết đặt tên loài cá Linh cho thấy tính chất thêu dệt. Một loài cá quen thuộc đến từ vùng biển hồ Tonlé Sap theo mùa nước đã ngẫu nhiên mang tên gọi linh thiêng, gắn với dấu tích của một vị chúa đang cơn bĩ cực.

Tựu trung, việc sáng tạo nên những mẩu truyện “vật linh, điềm lạ” không nằm ngoài ý đồ của nhà Nguyễn. Đây có lẽ chính là mục đích của việc thêu dệt những câu

124

chuyện tán dương chúa thánh: để chứng minh chuyện “trời sắp sinh ra thánh nhân để khai sáng nghiệp lớn”, các “bề tôi” đã đưa vào ý tưởng “sông núi giúp linh, loài sấu theo bảo vệ”, “có quỷ thần hỗ trợ ngăn cấm những việc chẳng lành” [43,105]; tác giả Gia Định thành thông chí cũng không bỏ qua cả việc tạo luồng dư luận từ đối phương: “Trời cao đang giúp nên thánh thượng gặp được những báo ứng rất thần kỳ. Việc ấy cũng được truyền bá bởi bia miệng quân Tây Sơn”. Hay trong Quốc triều sử toát yếu (chính biên), nhân vật bà Quốc mẫu khi nghe Nguyễn Ánh thuật lại tình trạng khổ sở khi vượt biển, đã nói: “Con đi khắp chân trời mặt biển, nhiều lúc gian nan, nhưng ở núi thời gặp gió lớn, ở biển thời gặp nước ngọt, coi đó cũng đủ biết ý trời” [168,33]. Đồng thời, “bề tôi” sử thần cũng nêu ý kiến trực tiếp: “Ngài tuy còn dưỡng hối (chịu ở một nơi mà đợi thời vận), mà gió núi, nước ngọt, ứng nhiều điềm tốt, thức giả ai cũng biết có mạng làm vua” [168,33]. Những lời bàn luận trong chính sử đã nối kết ý tưởng thể hiện trong các truyện kể.

Tuy nhiên, ở đây cũng có những dấu ấn riêng từ các ý niệm được chọn lựa. Tạ Chí Đại Trường đã nhận xét: “trong biến cố, chúa tôi Nguyễn chỉ tiếp xúc với quyền lực siêu nhiên qua những xác thân, sự vật cụ thể tuy có vẻ tầm thường mà không thể coi thường được: nước ngọt giữa biển, cây ngã chặn đường quân giặc, rái cá “báo” có địch quân… Họ đã tiếp nhận sự trợ giúp chúa những “thần linh” trên vùng đất nổi bật tính đa dạng, uốn nắn con người phải theo” [214,219].

Trong đó, hình ảnh cá ông có dấu ấn nổi trội. Thử đặt mối liên hệ với chuỗi truyện về chúa Nguyễn Hoàng ở vùng Trung Bộ, với hình ảnh Cô Gái áo xanh (sách Quốc triều sử toát yếu ghi là “người đàn bà áo xanh” [168,22] ở Ái Tử (Quảng Trị), được coi là một hoá thân của Mẫu Thượng Ngàn; hay Bà Trời áo đỏ ở Thiên Mụ (Huế), với ý nghĩa sự quan tâm, trợ giúp của thế lực siêu nhiên. Đây là những mẫu thần linh có dấu ấn sâu đậm trong tâm thức cư dân Thuận Hoá, gợi ý tưởng về một vị “chân Chúa” cai quản lãnh địa mới của con người. Dụng ý này nói như nhận xét của Taylor: “Các giai thoại ghi lại sự gặp gỡ giữa Nguyễn Hoàng với thần linh địa phương và thiết lập nơi thờ cúng gợi cho thấy việc áp dụng một phương thức đặc biệt Việt Nam trong sự thiết lập một địa điểm mới của quyền lực hợp pháp, lần đầu tiên ở vùng đất mới phương Nam” (Taylor, Keith W., 2000, 179) [56,526]. Với cư dân vùng sông nước phương Nam, một trong những đối tượng quyền năng nhất chính là vị thần linh độ mạng trên biển cả. Khung không gian cho sự kết nối ý tưởng về vật thiêng là thực tế chiến trường giao tranh với Tây Sơn, tạo cơ sở cho sự tích hợp hình ảnh vào nhóm truyện. Còn lại là sự thêu dệt, huyên truyền, bởi như các nhà nghiên cứu đã xác nhận: “Ở Nam Bộ, miếu thờ cá Ông có sắc phong đều ghi niên hiệu Thiệu Trị và Tự Đức”,

125

“trong thực tế chưa thấy sắc phong cá ông nào được phong vào thời vua Gia Long” [208,309].

Ở giai đoạn khởi đầu của một vương triều, thường có những câu chuyện truyền tụng có tính chất thần kỳ như dọn đường cho sự xuất hiện một nhân tố mới với sức mạnh của chính khí (hình thức sấm truyền, sấm ký nằm trong ý đồ này). Những truyện kể “vật linh, điềm lạ” đặc biệt ứng nghiệm được dân gian truyền tụng rộng rãi (các nhà sưu khảo đã ghi chép), hiệu ứng của nó đã phát huy tác dụng nhất định đối với sự nghiệp của nhà Nguyễn ở Nam Bộ.

- Con người trợ giúp (NV.3.2) Nhóm này có 11 truyện, gồm: Về tên gọi Tân Lộc Phường, Mũi Ông Đội, Sự tích về Nguyễn Hữu Lễ, Sông Ông Đốc, Cầu Lính Yển, Kênh Ông Hóng, Kênh Bà Viên, Sông (Vàm) Cổ Chiên và thôn nữ được sắc ấn, Cù lao Đất và danh từ trái thuỷ liễu, Chúa Nguyễn Ánh và chùa Thiên Tôn, Gia Long sắc tứ Tam Bảo tự và 1 truyện được lặp: Chim linh báo tin cho Nguyễn Ánh (hay Chùa Sắc tứ Long Nguyên với Nguyễn Ánh).

Nội dung các truyện kể về những tình huống khác nhau của Nguyễn Ánh khi bị

quân Tây Sơn truy đuổi và sự trợ giúp của con người.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về nhân vật này như sau: Nguyễn Ánh bị truy đuổi, chạy nạn hay vào địa phận vùng đất (cid:1) được con người trợ giúp giải nguy (cid:1) Nguyễn Ánh hay người dân đặt tên đất, tên sản vật liên quan sự kiện hoặc về sau lên ngôi ban tên, ban sắc tứ.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Nhân vật bị truy đuổi (m) (tần số xuất hiện 9 lần) -Vào địa phận vùng đất (3 lần) -Con người trợ giúp (m) (12 lần) -Nhân vật khấn vái hoặc chiêm mộng (m) (2 lần) -Thoát hiểm (8 lần) -Lưu địa danh, di tích (m) (8 lần) -Đặt tên sản vật (m) (1 lần) -Sắc phong, sắc tứ (3 lần) (3 tình tiết, 5 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Nhân vật bị truy đuổi Môtíp mang nét đặc thù của nhóm truyện, được biểu hiện như: “Sau một lần giao tranh với quân Tây Sơn thất bại, Nguyễn Ánh chỉ còn một mình bỏ chạy vào khu vực làng Nhơn Ngãi ở thành Gia Định...” (Về tên gọi Tân Lộc Phường); “Khi quân Tây Sơn vào Nam đánh đuổi chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Ánh và binh sĩ của mình phải đi lẩn trốn…” (Chúa Nguyễn Ánh và chùa Thiên Tôn); hay: “Những ngày bị quân Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn Ánh có đến vùng Châu Đốc...” (Sự tích về Nguyễn Hữu Lễ)... Tình tiết Vào địa phận vùng đất

126

Tình tiết mang ý nghĩa giản lược về hoàn cảnh cuộc chiến, như: “Qua địa phận

sông Vàm Cỏ Tây...” (Kênh Ông Hóng); hay “... sắp đi ngang...” (Kênh Bà Viên)... Môtíp Nhân vật khấn vái hay chiêm mộng

Môtíp xuất hiện trong truyện Sự tích về Nguyễn Hữu Lễ: khi gặp địch quân “Nguyễn Ánh bèn ngước mặt lên trời than thì bỗng nhiên có một người tên Lễ đưa quân đến tiếp cứu...”. Môtíp Con người trợ giúp

Môtíp được biểu hiện gắn với sự kiện nhân vật được trợ giúp bởi những con người cụ thể. Sự trợ giúp về cơ bản không có màu sắc thần kỳ, song cũng thể hiện sâu sắc một ý niệm về thực tại.

Hình thức trợ giúp thứ nhất là sự cứu nguy. Đó là các binh gia, tỳ tướng hy sinh tính mệnh cứu chúa. Như: viên Đốc binh liều thân cứu chúa trong trận thủy chiến với Tây Sơn tại vàm Sông Ông Đốc (có bản kể do ngăn cản cầu viện nên bị sát hại); ở Kiên Giang, viên Đội lặn mò neo cứu thuyền quân (Mũi Ông Đội); hay ở làng Nhơn Ngãi, Gia Định, xóm ăn mày đã ra sức cứu giá (Về tên gọi Tân Lộc Phường)... Duy nhất, trong truyện Sự tích về Nguyễn Hữu Lễ yếu tố thần kỳ được kết nối vào sự kiện: khi gặp địch quân có một người tên Lễ đến tiếp cứu, khi bị Tây Sơn chém, thì “thân ông cầm đầu của mình ráp và thân” tìm gặp Nguyễn Ánh để nhắc “bệ hạ đừng quên ngày hôm nay...”.

Hình thức thứ hai là ủng hộ vật chất hậu cần, vốn là sự hậu thuẫn không thể thiếu. Đây là những con người cụ thể ở các địa phương, như: ông Hóng ở vùng Vàm Cỏ Tây cho đào con kênh, chở lúa gạo đến cho Nguyễn Ánh suốt ba tháng ròng (Kênh Ông Hóng); bà địa chủ Lê Thị Khách ở Bình Tân, Vĩnh Long giúp bữa cháo cho toàn quân (Kênh Bà Viên); Cai tổng Hạc tìm thức ăn dân dã dâng đãi chúa (Cù lao Đất và danh từ trái thuỷ liễu); bà lão giúp tìm nước uống, thức ăn ngoài đảo (Gia Long sắc tứ Tam Bảo tự)... (hay các chi tiết tương truyền: Bà Rịa ở vùng đất mở đầu công cuộc khai phá ở Nam Bộ giúp đỡ lương thực, bà Dương ở Sa Đéc đóng góp tiền của (Ngôi mộ bà Dương)...).

Về truyện hai thôn nữ buôn tơ sợi giúp cứu thuyền (Sông (Vàm) Cổ Chiên và thôn nữ được sắc ấn) có bản kể tương tự ở miền Trung: một bà lão đưa chẻ tơ làm quai chèo, các ông lão làng Vinh Quang bện dây dừa để thuyền Nguyễn Ánh chạy trốn về Gia Định (Tục hát Châu phê ở hai thôn Dương Thiện và Vinh Quang) (Bình Định) (hay truyện về Nguyễn Hoàng kể: người phụ nữ dùng dây tơ cột lại quai chèo giúp chúa thoát hiểm, về sau chúa cho bà cai quản một đoạn sông Bồ từ làng Bác Vọng đến phá Tam Giang (Sự tích miếu Bà Tơ)); còn có truyện về người phụ nữ họ Phạm ở hòn

127

Nần đầm Cù Mông, Phú Yên đã giúp miếng ăn kịp thời cho Nguyễn Ánh (Chiếc bánh nậm của Nữ nhi Phù Quốc)…

Hình thức thứ ba là giúp chỗ ẩn náu. Địa điểm thường là các ngôi chùa, nơi Nguyễn Ánh đã đến tá túc lúc bị truy đuổi. Như: “Trên đường lánh nạn thấy địa thế nơi này thuận lợi, vừa đồi cao vừa có chùa nên chúa Nguyễn đến ẩn náu…”. Diễn tiến sự kiện có yếu tố ly kỳ: “Tương truyền” “Ba cây hương do thiền sư đốt cháy một lượt và cùng tắt một lượt. Chúa cho đây là điều linh nghiệm....” (Chúa Nguyễn Ánh và chùa Thiên Tôn)... (hay các chi tiết tương truyền, như: cổ tự Phước Thạnh ở Sa Đéc, chùa Ông ở Tây Ninh, chùa Đại Giác ở Biên Hòa, Sắc tứ Long Huê tự ở Gò Vấp, Tổ Đình Bửu Hưng ở Lai Vung..., là những nơi Nguyễn Ánh đã từng ẩn tránh).

Các biểu hiện cho thấy Con người trợ giúp là một môtíp trung tâm của kiểu truyện, trở thành một môtíp nghệ thuật của hệ thống truyện về các chúa Nguyễn. Sự xuất hiện của nó như một yếu tố tác nhân của sự kiện, đóng vai trò kiến tạo cốt truyện. Về nội dung biểu đạt, đây là sự ủng hộ của con người đối với vị chúa lúc gian nan, gắn với ý tưởng về một vị “chân chúa” theo một quan niệm được phổ biến. Môtíp Lưu địa danh, di tích

Địa danh được tạo lập chủ yếu bao gồm loại địa danh gắn với yếu tố địa lý, địa vật (núi, sông, rạch, bãi, ao, giếng…). Tính chất phong phú về loại địa danh đưa đến những cảm nhận mới về sự tồn tại của nó, mặc dù không phải đã bao hàm tính chất xác thực của sự kiện. Các địa danh được tạo thành như: Mũi Ông Đội, Kênh Bà Viên, Sông (Vàm) Cổ Chiên, Sông Ông Đốc, Cầu Lính Yển… Tình tiết Sắc phong, sắc tứ

Về sắc tứ chùa, yếu tố biến đổi là tên gọi địa điểm ở những địa phương khác nhau, nơi nhân vật đã từng tá túc và phát nguyện báo đáp. Như: “Sau này khi lên ngôi, vua sắc phong rất nhiều ngôi chùa mà trước đây trên đường lánh nạn Tây Sơn vua có ghé qua ẩn náu, trong đó có chùa Thiên Tôn...” (Chúa Nguyễn Ánh và chùa Thiên Tôn)...

Sự kiện này có cơ sở thực tế, xuất phát từ ý đồ sâu xa của Nguyễn Ánh, như Sơn Nam đã nhận xét: “Nguyễn Ánh là người mưu trí về chính trị, đã biết bám vào các chùa Phật mà ẩn thân. Về sau này, vua nhà Nguyễn ban cho chùa xưa ở Nam Bộ hai chữ “Sắc tứ” mà người địa phương lấy làm hãnh diện” [128].

- Những dấu ấn hành trạng và dấu tích lưu lại (NV.3.3) Liên quan đến những dấu tích về Nguyễn Ánh ở các địa phương Nam Bộ, nhà biên khảo Huỳnh Minh đã nhận xét: “Trên đường bôn tẩu của nhà vua khắp trong miền Nam, từ rừng núi xa xôi và hẻo lánh, đều có những di tích do ngài xây dựng”

128

[117]. Đây được xem là dấu ấn thực tế gắn với những truyện kể về nhân vật Nguyễn Ánh. Nhà nghiên cứu Sơn Nam cũng đã ghi nhận, ở vùng Rạch Giá - Cà Mau, cùng với những “giai thoại” còn truyền tụng ở Rạch Cái Tàu, Rạch Hang Mai, Kim Qui, Cán Gáo, “hiện nay còn thấy các di tích gồm những dãy nền nhà ở vùng Cạnh Đền, Cây Bàng, mấy chiếc ghe ô, ghe sa ở vùng Cái Bát...” [126.59].

Nhóm này có 30 truyện và 3 dị bản. Các truyện kể chủ yếu cũng xoay quanh những hành trạng của nhân vật gắn với hành trình bị truy đuổi nhưng không có yếu tố tác nhân là sự phù trợ, ủng hộ của những con người cụ thể. Nội dung nói đến những sự kiện về nhân vật, liên quan tới sự hình thành tên gọi địa danh, di tích... lưu lại nhiều nơi.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về nhân vật này như sau: Nguyễn Ánh bị truy đuổi, chạy nạn hay vào địa phận vùng đất (cid:1) có những hành trạng, hoạt động trên đường (cid:1) dấu tích lưu lại.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Nhân vật bị truy đuổi (m) (tần số xuất hiện 20 lần) -Vào địa phận vùng đất (9 lần) -Nhân vật hay cung quyến trải gian lao (m) (9 lần) -Con người không trợ giúp (1 lần) -Nhân vật đưa ra lời nguyền (1 lần) -Dấu tích hoạt động trên đường của nhân vật hoặc binh gia tùy tướng (m) (18 lần) - Lưu địa danh, di tích (m) (26 lần) -Đặt tên sản vật (m) (3 lần) -Đặt tên địa danh (m) (3 lần) -Lưu câu ca, thành ngữ (m) (4 lần) -Thay đổi thói quen xưng gọi (1 lần) (4 tình tiết, 7 môtíp).

Nhân vật mang đặc điểm này có 4 dạng thức cốt truyện như sau:

Dạng thức 1 Nhóm này có 8 / 30 truyện và 1 dị bản, gồm: Kinh (Sông) Chắc Băng với Nguyễn Ánh,, Cạnh Đền, Tháp Vĩnh Hưng, Sông Mỹ Thanh, Mũi Công Chúa Ngọc Du, Hòn Bà (1 bản kể khác), Nguyễn Ánh và câu hát “Gió đưa cây cải về trời...”, Lời nguyền của vua Gia Long.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Nguyễn Ánh bị truy đuổi, chạy nạn (cid:1) nhân vật hay

cung quyến trải qua gian lao, nguy khốn (cid:1) dấu tích lưu lại.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Nhân vật bị truy đuổi (m) (tần số xuất hiện 9 lần) -Vào địa phận vùng đất (1 lần) -Nhân vật hay cung quyến trải gian lao (m) (9 lần) -Con người không trợ giúp (1 lần) –Nhân vật đưa ra lời nguyền (1 lần) - Lưu địa danh, di tích (m) (7 lần) -Lưu câu ca, thành ngữ (m) (4 lần) (3 tình tiết, 4 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Nhân vật bị truy đuổi

Môtíp đóng vai trò mở đầu các truyện kể. Như: “Năm 1783, lúc Nguyễn Vương bị quân Tây Sơn truy nã ráo riết, ngài phải đem vương mẫu và cung quyến chạy trốn

129

đến rừng U Minh…” (Cạnh Đền); “Bị quân Tây Sơn truy đuổi, vua Gia Long cùng hoàng hậu chạy đến biển Hà Tiên rồi ra đảo Phú Quốc...” (Lời nguyền của vua Gia Long); hay “Khi Nguyễn Ánh thất thế, ông cùng vợ con chạy thoát thân...” (Nguyễn Ánh và câu hát “Gió đưa cây cải về trời...”).... Tình tiết Vào địa phận vùng đất

Tình tiết được biểu hiện với nội dung giản lược hành trình bị truy đuổi của nhân vật. như: “Thuở xưa, vua Gia Long cùng công chúa có dịp đến đóng quân ở vùng đất thuộc ấp Vĩnh Đông...” (Tháp Vĩnh Hưng). Môtíp Nhân vật hay cung quyến trải qua gian lao

Môtíp có dấu ấn khá đậm nét. Về sự kiện biểu hiện, trên đường trốn lánh, bản thân nhân vật hoặc cung quyến trải qua nhiều tình huống, hoàn cảnh bi thương. Như khi ở Cà Mau, Nguyễn Ánh gặp phải “cơn bệnh ngặt” phải thốt ra câu nói tuyệt mệnh (Kênh (Sông) Chắc Băng với Nguyễn Ánh); ở Hà Tiên, công chúa bị vây bắt phải nhảy xuống biển (Mũi Công Chúa Ngọc Du); ở Trần Đề (Sóc Trăng), do không hợp phong thổ, ăn uống thiếu thốn, công chúa thọ tử (Sông Mỹ Thanh); hay ở Côn Lôn, do bà Phi Yến can ngăn việc cầu viện nên “Nguyễn Ánh không hài lòng và bạc đãi bà...” (Hòn Bà)... Tình tiết Con người không trợ giúp

Tình tiết xuất hiện duy nhất, với sự kiện: trong lúc bị truy đuổi, Nguyễn Ánh đã không nhận được sự giúp đỡ khiến người thân bị thiệt mạng. Như truyện Lời nguyền của vua Gia Long kể: “... vua bồng hoàng tử đi xin bú nhờ, nhưng những người phụ nữ quanh đó không hề thương lấy đứa trẻ sơ sinh tội nghiệp...” (chi tiết giống truyện Mộ Bà Lớn Tướng). Môtíp Lưu địa danh, di tích

Địa danh được tạo lập có thể là tên địa điểm hay di tích đền miếu, lăng mộ..., như Cạnh Đền, Tháp Vĩnh Hưng, Mũi Công Chúa Ngọc Du, Sông Mỹ Thanh..., nơi cung quyến của Nguyễn Ánh mất do gian lao, chiến trận. Cách thức phổ biến là người dân lấy chi tiết sự kiện liên quan nhân vật hay lấy tên cung quyến để đặt cho địa danh, di tích, như: “Về sau, người ta nhớ tới câu nói “Trẫm chắc băng” của Nguyễn vương mà đặt tên cho con kênh...” (Kênh (Sông) Chắc Băng với Nguyễn Ánh); hay: “Cảm thương cho vị công nương yểu mệnh trên đường tẩu quốc, người dân nơi đây lấy tên nàng đặt tên cửa sông là Sông Mỹ Thanh”... Tình tiết Nhân vật đưa ra lời nguyền

130

Tình tiết gắn với dấu tích lời ngoa truyền về thanh niên Phú Quốc: “vua đau đớn

và uất hận bèn ghi lại lời nguyền trên vách đá...” và “từ bấy trở đi...” đã ứng nghiệm.

Thực tế, vùng đất, con người nơi đây đã được sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca ghi nhận: “Hòn Phú Quốc chỗ kheo khư, Xứ không trộm cắp dân cư thái bình” [153,93]. Vấn đề ở sự xuất hiện ý tưởng biểu đạt về nhân vật. Điều này nói lên một mặt trong thái độ ứng xử của dân chúng đối với Nguyễn Ánh, có thể không phải chỉ có một chiều thuần phục.

Dạng thức 2 Nhóm này có 17 / 30 truyện và 2 dị bản: Núi Cấm, Sông Hàm Luông, Rạch Cán Cờ, Chợ Lấp Vò, Rạch Rọ Ghe, Vùng nước xoáy Long Hưng và sông Long Hồ, Địa danh Long Hưng và cây đa bến Ngự, Rạch Long Ẩn, Ấp Giá Ngự - Ao Ngự, Lai lịch địa danh Cù lao Cát, Địa danh Bãi Xàu, Giếng Bộng (hay Giếng ngự), Vũng Mây ngày xưa với câu chuyện giếng Ngự, Giếng Gia Long ở núi Cấm (/ Núi Cấm, giếng Tiên), Giếng Ngự ở Sóc Trăng, Giếng Ngự ở Phú Quốc (/ Giếng Gia Long hay Giếng Ngự), Cái nồi đồng kỳ dị và 1 truyện được lặp: Sông (Vàm) Cổ Chiên và thôn nữ được sắc ấn. Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Nguyễn Ánh bị truy đuổi, chạy nạn hay vào địa phận vùng đất (cid:1) sự kiện hoạt động của nhân vật hoặc binh gia tùy tướng (cid:1) dấu tích lưu lại. Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Nhân vật bị truy đuổi (m) (tần số xuất hiện 10 lần) hay –Vào địa phận vùng đất (7 lần) -Dấu tích hoạt động trên đường của nhân vật và binh gia tùy tướng (m) (19 lần) - Lưu địa danh, di tích (m) (19 lần) (1 tình tiết, 3 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Nhân vật bị truy đuổi

Môtíp đóng vai trò mở đầu truyện kể. Như truyện Địa danh Long Hưng và cây đa bến Ngự: “Tương truyền, khi Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi từ Gia Định xuống Sa Đéc, phải ẩn náu tại thôn Tân Long...”; hay “Tương truyền lúc Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy đuổi, có một thời ông lẩn trốn ở đây…” (Rạch Long Ẩn)... Tình tiết Vào địa phận vùng đất

Sự kiện được miêu tả gắn với một số địa điểm, như: “Xưa Nguyễn Ánh từ rạch Cái Rắn ra biển phải qua rạch Rau Giừa, tới rạch Cái Nước, rồi đổ ra sông Bảy Háp mới ra vịnh Xiêm La...” (Ấp Giá Ngự); hay ”Ở Bến Tre…(Sông Hàm Luông)... Môtíp Dấu tích hoạt động trên đường của nhân vật và binh gia, tùy tướng

Môtíp đóng vai trò trung tâm của cốt truyện. Về biểu hiện, phổ biến nhất là việc ghi nhận những địa điểm cụ thể gắn với các sự kiện hoạt động của Nguyễn Ánh và binh gia, tùy tướng.

131

Như: ở An Giang, nơi lẩn trốn rồi ra lệnh cấm (hay để lại một kho bạc trên núi) (Núi Cấm); ở Sóc Trăng, quan quân chạy nạn đến đây nấu cơm ăn (hay nơi đồng bào Khmer nấu cơm đãi) nhưng chưa chín lại phải chạy tiếp (Địa danh Bãi Xàu); ở Vĩnh Thành (Bến Tre), nơi làm rớt chiên cổ lệnh (Sông (Vàm) Cổ Chiên…); đến Thạnh Hưng (Lai Vung), nơi người dân giúp làm cán cờ (Rạch Cán Cờ); ở Đồng Tháp, nơi lấy đất lấp dò thuyền (Chợ Lấp Vò); ở Tân Long (Sa Đéc), nơi đóng quân và chỗ ngồi tựa (Địa danh Long Hưng và cây đa bến Ngự); ở Hồi Oa (Sa Đéc), nơi hưng vượng cơ đồ (Vùng nước xoáy Long Hưng và sông Long Hồ); trên con rạch sông Cán Gáo (Kiên Giang), nơi di chuyển thuyền binh (Rạch Rọ Ghe). ở Bạc Liêu, nơi dừng quân chuẩn bị vật dụng (Ấp Giá Ngự); ở Cà Mau, ẩn trốn và đào tìm nước (Rạch và xóm Long Ẩn - Ao Ngự); ở rạch Cái Muôi (Vĩnh Long) nồi đồng bị nội gián xoi thủng rơi xuống sông… (hay các chi tiết tương truyền: ở Bến Sau (Vũng Tàu), chôn giấu vàng trong lúc ẩn náu (Hòm vàng của vua Gia Long); từ biển Ba Tri vào cửa Hàm Luông, nơi ghe lương neo đậu (Búng Ghe Lương); nơi có búng nước ngọt (Lai lịch giếng nước ở Sóc Trăng); nơi đặt cơ sở đúc tiền (Hang Tiền); nơi trú ẩn, lấy nước cho binh tướng, chỗ ngồi tựa (Hang Gia Long - Giếng Tiên - Ghế Gia Long)… Có chi tiết được đưa vào nhằm tạo “chứng cứ” cho câu chuyện, như: “Thấy con vích biển đang bươi trên bãi cát, thấy có điềm có nước, vua cho bưng con vích đi, cho quân đào ngay chỗ đó và tìm thấy nước...” (Giếng Ngự ở Sóc Trăng). Môtíp Lưu địa danh, di tích

Môtíp được lặp với tần số cao. Cách thức đặt tên địa danh chủ yếu nhằm tạo sự “hợp lý” cho câu chuyện. Theo đó, đa phần do người dân đặt tên để ghi dấu ấn về nhân vật (như truyện Núi Cấm kể: “... người dân đặt tên là núi Ông Cấm để nhớ lại lúc nhà vua trốn ở đây”; hay “... nên sau này người ta mới đặt tên cho con rạch là rạch Rọ Ghe”...). Địa danh loại này thường gắn với những tên gọi mộc mạc, bởi như nhận xét của Trương Thanh Hùng: “Gia Long không đặt tên đất một cách dân dã như thế” [84,49] (hiện tượng giống với chuỗi truyện về Nguyễn Hoàng ở vùng Trung Bộ, như về địa danh Trộ Bãi Mía ở xã Quảng Lợi, tương truyền là nơi chúa dừng lại ăn mía và vứt lại bã).

Liên quan việc đặt tên địa vật, những địa điểm đào tìm nguồn nước được kể có ở nhiều nơi, như Giếng Bộng ở Phước Tuy, Giếng Gia Long ở Cà Mau hay Giếng Ngự ở Phú Quốc, Sóc Trăng, Vũng Tàu (sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca ghi nhận: “Thắng Nhì có giếng bao giờ, Tục kêu giếng Ngự sờ sờ còn ghi” [153,6])... Cách giải thích gốc tích tên gọi không bao hàm sự kiện xác thực, như Giếng vua ở Lý Sơn kể tương truyền là của Nguyễn Ánh cho đào lúc bị truy đuổi chạy dạt ra đảo, thực tế đây

132

là giếng nước của người Chăm cổ và nhiều ngôi làng ven biển thường xuất hiện những “giếng vua” như thế).

Dạng thức 3 Nhóm này có 4 / 30 truyện: Về tên gọi địa danh Cần Thơ, Lai lịch địa danh Thủy Liễu ở Gò Quao (hay Rạch Thủy Liễu), Lai lịch trái Phù Quân, Xoài Ngự (2 chi tiết tương truyền: Cây Nam Mai, Nước mắm ngự).

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Nguyễn Ánh chạy nạn hay vào địa phận vùng đất (cid:1)

thấy cảnh quan địa cuộc, địa vật... (cid:1) đặt tên cho vùng đất, sản vật.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Nhân vật bị truy đuổi (m) (tần số xuất hiện 1 lần) hoặc –Nhân vật vào địa phận vùng đất (3 lần) -Đặt tên địa danh (m) (2 lần) - Đặt tên sản vật (m) (3 lần) (1 tình tiết, 3 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Nhân vật bị truy đuổi

Môtíp đóng vai trò mở đầu của truyện kể, như: “Vào thời chiến tranh loạn lạc không nhớ rõ năm nào, trong lúc chạy loạn, vua Gia Long đã đặt chân đến nơi này…” (Lai lịch địa danh Thủy Liễu ở Gò Quao). Tình tiết Vào địa phận vùng đất

Nội dung sự kiện không nêu rõ hoặc giản lược hành trình trốn lánh, như: “Ngày xưa khi chưa lên ngôi vua, chúa Nguyễn Ánh vào Nam và đã đi qua nhiều nơi ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Một hôm đoàn thuyền của chúa đi theo dòng sông Hậu vào địa phận thủ sở Trấn Giang…” (Về tên gọi địa danh Cần Thơ)… Môtíp Đặt tên địa danh

Môtíp được biểu hiện gắn với chuỗi sự kiện: nhân vật đi qua địa phận, nghe thấy

âm thanh, hoạt động, cảnh vật đã liên tưởng và đặt tên đất.

Như truyện Về tên gọi địa danh Cần Thơ kể: “Lúc đêm vừa xuống thì đoàn thuyền cũng vừa đến vàm sông. Giữa đêm có vọng lại nhiều câu ngâm thơ, hò hát, tiếng đàn, tiếng sáo, “Chúa khen cảnh quan sông nước hữu tình…” và đặt tên cho cái tên đầy thơ mộng là Cầm Thi giang, tức là con sông của thi ca đàn hát”. Hay: “Vào một đêm vua đi thuyền trên sông”, “thấy nhánh của những cây bần này rủ xuống mặt sông, trăng sáng mờ mờ ảo ảo nên tưởng đó là những cây liễu...”, kết quả là sự xuất hiện tên gọi địa danh (Lai lịch địa danh Thủy Liễu ở Gò Quao). Môtíp Đặt tên sản vật

Môtíp được biểu hiện gắn với chuỗi sự kiện: nhân vật gặp sản vật chưa có tên (hoặc tên dân dã) và đặt tên. Việc đặt tên sản vật tạo ấn tượng về mối liên hệ với thiên nhiên, gây được mỹ cảm.

133

Như: đến cửa Hàm Luông (Bến Tre), Nguyễn Ánh ăn bần, nhìn cây bần trên sông đặt tên là Cây Thuỷ Liễu; hay đến Thốt Nốt ăn giống xoài ngon đặt tên là Xoài Ngự… (chi tiết tương truyền: Nguyễn Ánh đến Ba Động thưởng thức nước mắm rươi, sau gọi đó là Nước mắm Ngự). Có tên gọi được đặt gắn với hoàn cảnh gian nan của hành trình bị truy đuổi, như: đến núi Bà Đen, binh sĩ tìm thấy trái lạ (hay Nguyễn Ánh mộng thấy sơn thần chỉ trái lạ), gọi là Trái Phù Quân.

Các truyện kể hầu hết rất thi vị, nhân vật có phong thái như “tao nhân mặc khách”, dựa theo cảm hứng mà đặt mỹ danh cho sản vật, theo Vương Hồng Sển, thực tế lại rất khắc nghiệt: “Nhiều lúc không còn lương thực, Nguyễn Ánh phải ăn trái bần chua với mắm sống, tay bốc cơm nguội, tay xé mắm chứ không dùng đũa” [173].

Dạng thức 4 Dạng này có 1 / 30 truyện: Anh Cả và anh Hai. Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Do tránh tên ông Hoàng Cả (cid:1) thay đổi cách gọi thứ. Tình tiết của cốt truyện: -Thay đổi thói quen xưng gọi (tần số xuất hiện: 1 lần)

(1 tình tiết) được miêu tả như sau: Tình tiết Thay đổi thói quen xưng gọi

Tình tiết biểu hiện sự thay đổi một thói quen xưng gọi, đó là tục gọi người con đầu là anh Hai chứ không gọi anh Cả: do “tiếng Cả là để dành riêng cho đứa con đầu lòng của vua, người dân đặt cho đứa con đầu lòng của mình là thứ Hai” (Anh Cả, anh Hai). Nội dung sự kiện biểu đạt ý nghĩa văn hóa, bởi cùng với một số lối giải thích khác, nó nhắc nhở những quy ước về nề nếp gia đình có phần cởi mở của cư dân nơi đây. Trong cảm nhận, việc “cất” đi tiếng “cả” như “cất” bớt gánh trách nhiệm và cả sự tôn ti. Còn theo tác giả Thần, người và đất Việt: “chữ “cả” biến mất ở miền Nam (…) - và hầu như từ thời Đàng Trong trong thứ bậc gia đình không phải vì sự tôn kính Hoàng tử Cảnh theo một cách giải thích mà vì nó được dành riêng cho thần thánh”, như Thầy Cả Bá Đa Lộc (Piere Pigneau de Béhaine) hay Thầy Xế Cả của người Chăm …[214,216].

4.3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA HỆ THỐNG TRUYỆN

Đánh giá tổng quan, xét yếu tố xác thực của những sự kiện được kể, có ý kiến cho là truyện kể “ít có giá trị trong việc tìm hiểu lịch sử” [194,145] hay “Đây là truyền thuyết không có cứ liệu lịch sử minh chứng” [208,375]. Đáng chú ý là một số ý nghĩa khách quan đưa đến từ hệ thống truyện.

4.3.1. Sự thể hiện thái độ tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh

Lý giải sự lưu hành phổ biến của nguồn truyện về Nguyễn Ánh so với sự khuyết vắng truyện về nhân vật Nguyễn Huệ trên địa bàn, có ý kiến cho rằng, do sau nhiều

134

năm bôn ba cuối cùng Nguyễn Ánh cũng lấy được ngôi báu, sau này một số tác giả đã chép lại những sự kiện và tạo ra những chuyện kể về quá trình “tẩu quốc” của nhân vật hoàng đế khai sáng triều Nguyễn thành tập sách để phổ biến. Qua thời gian, nó đã trở thành những “truyền thuyết” trong dân gian ở một số địa phương. Đây cũng là cơ sở để xem xét khách quan tính chất, ý nghĩa nguồn truyện. Tuy nhiên, qua những ghi nhận khác nhau, nhìn chung, các truyện kể được sáng tác và lưu truyền đã thể hiện ở bề sâu thái độ tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh.

Thái độ tình cảm của người dân đối với Nguyễn Ánh biểu hiện đậm nét trong những truyện kể về địa danh, dấu tích lưu lại. Nói đến dấu ấn và truyền thuyết về Nguyễn Ánh ở Nam Bộ, Nguyễn Hữu Hiệp đã nhận xét: “Khi chúa Nguyễn còn bôn ba gian nan ở miền Nam lẩn tránh quân Tây Sơn, địa phương nào có để lại dấu chân ông đi qua, kể cả đường sông, đường biển, hầu như nơi đó đều có để lại những dấu ấn tình cảm vô cùng sâu đậm” [62,75]. Trong các truyện kể, các hình thức đặt tên địa danh đã biểu đạt thái độ tình cảm tích cực của người dân đối với nhân vật. Địa danh được đặt ra thường có từ ngự (Bãi Ngự, Ao Ngự, Ấp Giá Ngự); hay đặt theo lối kiêng tên hiệu (Sông Hàm Luông); có khi được thể hiện với hình thức câu hát như một ước vọng rất tha thiết (Vùng nước xoáy Long Hưng và sông Long Hồ)… Nổi bật nhất là việc đưa các sự kiện gắn với nhân vật, nhằm giải thích sự hình thành những dấu tích cụ thể. Như Trương Thanh Hùng đã nhận xét: “Truyện Giếng Gia Long hay Giếng Ngự ở Phú Quốc, vết nứt dưới đáy vũng là vết gươm của Gia Long chém xuống tìm mạch nước, còn phiền đá gần giống như chiếc ghế dựa mà người dân cho là trước đây vua ngự, truyền thuyết không hợp lý lắm nhưng là tình cảm của người dân ở đây đối với Gia Long” [84,49] (liên hệ truyện vùng Trung Bộ, tương truyền có tảng đá lõm sâu in dấu chân Nguyễn Ánh khi dừng quân trú lánh lúc bị truy đuổi (Truyền thuyết về dấu chân Nguyễn Ánh ở Vũng La)).

Hay nói về những tên gọi địa danh xuất hiện ở các địa phương, theo Huỳnh Minh: “Nhân dân đặt gọi địa danh để ghi nhớ kỷ niệm nơi Nguyễn Ánh từng đặt chân đến trong thời gian còn lẩn tránh quân Tây Sơn” [115]. Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca cũng đã nhắc đến những địa danh lưu dấu tình cảm của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh: “Hòn Đất, Hòn Tre non nước tạc, Ghe phen giúp đỡ đức Cao hoàng”... [153,89].

Chung quy là sự nhận thức, đặc biệt là thái độ tâm lý của người dân đối với Nguyễn Ánh. Trên thực tế, giai đoạn “tẩu quốc” rất đỗi gian nan, bi thiết đối với các chúa Nguyễn nhưng một mặt là điều kiện để một vị vua chúa có thể gần dân, trong tư thế kẻ quyền quý bị sa cơ, cũng đã nuôi dưỡng, phát triển thành những tình cảm chân

135

thành từ dân chúng. Thôn xóm miền Hậu Giang đã lưu truyền câu ca: “Ngồi buồn nhớ chúa ta xưa, Long Xuyên bạn cũ bao giờ cho nguôi” được cho là chỉ việc “Tân Chính vương và Thái Thượng vương bị quân Tây Sơn giết ở Long Xuyên” [171,287]. Có thể do không có điều kiện nào để dân chúng nơi đây hiểu được chính khí của đội quân Tây Sơn, trong khi họ vốn đã dành những tình cảm chân thành cho vị chúa của mình trong bước gian nan. Bởi đối với người Nam Bộ, những lưu dân tạo lập nên thôn xóm từ những gian lao, hiểm nạn, họ sẵn lòng cưu mang người khác, nhất là với những ai gặp lúc nguy nan nếu đồng cảm thì luôn hết lòng trợ giúp. Cuộc chiến giữa nhà Nguyễn với Tây Sơn đối với người dân nếu chưa thể phân định rõ ranh giới chính nghĩa hay phi nghĩa thì việc giúp “vua” buổi nguy nan là nghĩa cử nên làm. Đây là một mặt tính cách hào hiệp của người Nam Bộ nói riêng.

Trong các truyện kể, hình ảnh con người trợ giúp có dấu ấn rõ nét, họ có thể là những bá hộ hoặc kẻ ăn mày. Nếu các nhà bình luận lịch sử đã coi sự sống sót của Nguyễn Ánh trong cuộc chiến là một “may mắn kỳ lạ của số phận” thì sự may mắn đó có một phần nguyên nhân từ những chuyện “ly kỳ” như thế đã xảy ra. Như sự trợ giúp kịp thời và hiệu quả của xóm ăn mày không phải là ngẫu nhiên của cách hành xử mà là thái độ ủng hộ đối với vị chúa đang sa cơ (Về tên gọi Tân Lộc Phường).

Thái độ tình cảm của dân chúng có cơ sở thực tế từ tình hình chính trị xã hội. Có ý kiến nhận xét: “Nếu Nguyễn Ánh không trở thành một vị vua đầu tiên của triều Nguyễn thì sự kiện ông ở Phú Quốc sẽ ít người nhắc đến. Nhưng vì sau đó, Nguyễn Ánh đã trở thành vua Gia Long và triều Nguyễn đã dành cho Phú Quốc những chính sách ưu đãi nên dấu ấn của Nguyễn Ánh khá đậm đà trên đảo và có những truyền thuyết về “chân mệnh thiên tử” này” [84,124]. Hay khi nói về thái độ rất mực tôn kính của người dân Kiên Giang đối với người anh hùng Nguyễn Trung Trực, nhà nghiên cứu Sơn Nam cũng đã liên hệ với Nguyễn Ánh: “Bởi Rạch Giá là đất mới chưa sản xuất được ông quan văn, quan võ nào nổi danh hồi thời “đàng cựu”. Còn có một lý do khác về tâm lý, cũng theo Sơn Nam: “Vua Gia Long là vua đầu tiên và là ông vua cuối cùng đã đặt chân đến rừng U Minh. Những chuyện bôn ba tẩu quốc của ông khiến cho người dân cảm thấy đất Rạch Giá dính liền với “sơn hà xã tắc..” [122,94].

Như vậy, tâm lý trọng thị bậc vua chúa như một nếp nghĩ quen thuộc của người dân nơi đây. Hơn nữa, đây lại là ông vua đầu tiên của Nam Bộ. Khi những lưu dân trải qua biết bao bao gian khổ tạo lập nên thôn ấp nhưng mới là những tổ chức tự quản, phải đến khi có lệnh chúa Nguyễn thiết lập chính quyền, chia lập bộ đinh, bộ điền, thì người dân mới thật sự “có nước”, một niềm hân hoan và trân trọng. Đồng thời, với tính cách trọng nghĩa, người Nam Bộ xem đây là “tấc đất, ngọn rau ơn chúa” thấy có trách

136

nhiệm phải đền bồi. Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã nêu đúng thái độ tinh thần này: “Thuở Cao hoàng đế Gia Long, Lắm khi trú tất ruỗi dong lánh nàn. Sử xanh còn chép rõ ràng, Ngọn rau tấc đất thấy càng cảm thâm“… [153,90].

Hay nói như Sơn Nam về một thực tế: “Trận thủy chiến Nguyễn Huệ đánh tan mấy vạn binh Xiêm thuộc phe chúa Nguyễn ở Tiền Giang dường như chẳng được ca ngợi cho lắm đối với người miền Nam, mặc dù đó là chiến công của dân tộc. Phải chăng vì người miền Nam “ăn cơm chúa” nên muốn giữ lòng trung hậu ?” [127,338]. Liên hệ truyện dân gian miền Trung, sự trợ giúp của người dân cũng do xem trọng ân nghĩa với vua: hai làng Dương Thịnh và Vinh Quang vốn mang nặng ân tình với đời chúa trước, ít cảm tình với nghĩa quân Tây Sơn; hay vị hào trưởng mang ân huệ chúa Nguyễn nên đã che giấu, giúp đỡ (Tục hát Châu phê ở hai thôn Dương Thiện và Vinh Quang).

Ở một khía cạnh khác, công cuộc xác lập cương thổ, an dân ở vùng đất mới của các chúa Nguyễn Đàng Trong sớm đạt hiệu quả, tạo cơ sở cho mối liên hệ dân - nước lâu bền (còn nhờ ở người thực hiện việc kinh lý, nhân dân ghi nhớ về Nguyễn Hữu Cảnh với công đức, uy danh rộng lớn khắp vùng). Đây cũng là điều Tây Sơn thiếu vắng. Dấu ấn của nhà Tây Sơn ở vùng đất này chủ yếu chỉ là những lần tiến đánh, truy đuổi, với khổ nạn can qua mà người dân phải gánh chịu. Do đó, trong cuộc đối đầu lịch sử giữa nhà Nguyễn và Tây Sơn, ý thức về “chân mệnh thiên tử” định theo khuôn khổ giáo dục chung thì hầu hết người dân đã sớm dành cho chúa Nguyễn. Nhất là tầng lớp địa chủ, phú nông, với những lợi ích thiết thân, họ đã hết lòng ủng hộ thế lực này. Vì vậy, bước đường bôn tẩu lẩn tránh Tây Sơn của chúa Nguyễn đã được sự giúp đỡ, hậu thuẫn của người dân.

Từ gốc rễ đã sinh ra nhiều cành lá, những câu chuyện về Nguyễn Ánh mở rộng

trong dân chúng, ngày càng dày thêm trong thời gian cuộc giao tranh và về sau.

4.3.2. Ý nghĩa văn hóa

Đến nay, đứng trên quan điểm đổi mới, đánh giá về những thành tựu đóng góp to lớn nhất của nhà Nguyễn, các nhà nghiên cứu lịch sử đã nhận định: “nhà Nguyễn đã để lại một di sản lớn lao nhất là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ bắc chí nam”, “Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hoá đồ sộ” [102,11].

Xét tổng thể hiện tượng truyện, về giá trị văn hóa, đây cũng chính là một phần

văn hoá phi vật thể đã được xây dựng, kiến tạo của di sản văn hóa dân gian Nam Bộ.

Nhóm truyền thuyết ghi nhận hành trình trốn lánh Tây Sơn của Nguyễn Ánh, với những hành trạng ly kỳ trong một không gian rộng lớn suốt từ Gia Định đến những nơi tận cùng xứ sở phương Nam. Điều này thể hiện dấu chân Nguyễn Ánh đã in hầu

137

khắp Nam Bộ hoặc cách nhìn nhận của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh. Các truyện kể được ghi chép một phần trong sử sách triều Nguyễn và được truyền tụng, trong đó có một phần có mối liên hệ gắn kết với các chứng tích văn hóa bao gồm địa danh, di tích thờ cúng, tín ngưỡng, lễ hội dân gian... trên nhiều địa phương Nam Bộ, họp thành một không gian văn hóa của nhóm truyện. Như về địa danh, có Hà Tiên, Phú Quốc với Chùa Hang, Mũi Công chúa Ngọc Du...; Sóc Trăng với Sông Mỹ Thanh, Bãi Xàu...; Bạc Liêu, Cà Mau với Ấp Giá Ngự, Cạnh Đền...; An Giang với Núi Cấm, Búng Bình Thiên...; Sa Đéc, Vĩnh Long với Long Hưng và sông Long Hồ, Kênh Bà Viên; riêng Giếng Ngự thì có nhiều nơi (Vũng Tàu, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cà Mau...); về di tích, tín ngưỡng, lễ hội, có Định Tường, Kiên Giang với Sắc tứ chùa Long Nguyên, Sắc tứ Tam Bảo tự…; hay Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh với Lăng Ông, Lăng Ông Nam Hải, Lễ hội cúng biển Mỹ Long...

Tuy nhiên, sự gắn kết mang ý nghĩa hư cấu, thêu dệt là chủ yếu, bởi không ít địa điểm, sự việc không bao hàm tính chất xác thực. Như về các dấu tích liên quan Nguyễn Ánh ở Hà Tiên, Phú Quốc, đã có ý kiến nhận định: “Phú Quốc là một trong những nơi Gia Long tá túc trong thời kỳ bôn tẩu vì sự truy kích của Tây Sơn. Chính vì vậy mà ở Phú Quốc - giống như Hà Tiên có một số di tích được gắn với Nguyễn Ánh” [208,377]. Hay về dấu tích thờ tự ở Côn Đảo được cho là liên quan đến nhân vật bà Phi Yến (Hòn Bà), nhà nghiên cứu Đinh Văn Hạnh đã đưa ra sự kiến giải: “Lịch sử tồn tại 113 năm của nhà tù thực dân đã phủ che lớp văn hóa dân gian hiếm hoi trên đảo để viết nên những câu chuyện khác”, theo đó, “Câu chuyện về bà Phi Yến là một truyền thuyết lịch sử, nhưng lại quá xa lạ với sự thật lịch sử…” [53]. Hoặc cùng là Lăng Ông Nam Hải nhưng khác với Gò Công, Bến Tre, Lăng (hay Dinh) Ông Nam Hải ở Bà Rịa - Vũng Tàu và Phú Quốc thì gắn với câu chuyện tương truyền thuần chất về cá Ông... Điều này cho thấy xu hướng đưa sự kiện về nhân vật hơn là sự giải thích gốc tích thật.

4.3.3. Về vấn đề “Gia Long phục quốc” (khôi phục cơ đồ)

Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ tồn tại trong những hình thức văn bản khác nhau có những tác động, sự ảnh hưởng lâu dài. Dư âm của nó không chỉ thể hiện thái độ, cách đánh giá của người dân về sự kiện lịch sử cụ thể mà còn trở thành dấu ấn sự kiện tác động vào tư tưởng, nhận thức như một ý thức chính trị. Đến giai đoạn về sau, khi có điều kiện nó đã tái hiện lại như một phần của lịch sử, nhằm bộc lộ tư tưởng, tình cảm người đương thời đối với “sơn hà xã tắc”. Điều này đã được thể hiện với bộ phận văn học quốc ngữ Nam Kỳ giai đoạn đầu của tiến trình hiện đại hóa với mảng tiểu thuyết lịch sử. Nói như nhận xét của Cao Tự Thanh: “Ý thức chính trị này (xem họ Nguyễn là vương triều chính thống – chúng tôi chú thích) sẽ

138

được tái tạo qua các tiểu thuyết dã sử như Gia Long tẩu quốc, Gia Long phục quốc, mang hàm ý chống Pháp xuất hiện trong văn học viết bằng chữ quốc ngữ Latinh ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX” [194,145].

Về thể loại, tiểu thuyết dã sử lấy sự kiện lịch sử làm khung cảnh, nhân vật là người có thật trong lịch sử hoặc được hư cấu thêm nhưng phải phù hợp với sự thật lịch sử, ngoài ra, có thể hư cấu ở các chi tiết thuộc về tình cảm, tâm lý (như Việt Nam anh kiệt của Phạm Minh Kiên, xb 1926). Tính chất của nó có điểm khác biệt với ngoại sử, chỉ lấy không gian và thời gian lịch sử dựa vào chính sử hoặc ngay trong điều kiện lịch sử xã hội hiện tại, những sự kiện và nhân vật cụ thề chủ yếu là hư cấu (như Phan yên ngoại sử của Trương Duy Toản, xb 1910).

Việc viết tiểu thuyết lịch sử nói chung bấy giờ mục đích là làm cho “quốc sử ta càng ngày càng được phổ thông”. Chính Tân Dân Tử, nhà viết tiểu thuyết lịch sử tiên phong của văn học Việt Nam khi đề cao vai trò tiểu thuyết đã nêu quan điểm một cách trực tiếp: “Vậy nếu muốn cho lịch sử nước nhà phổ thông thì chẳng chi hay hơn là dùng tiểu thuyết làm mai nhơn để dẫn dắt quốc dân vào con đường lịch, đó là một phương pháp rất anh linh, và một phương pháp rất công hiệu”; cũng theo tác giả, “tiểu thuyết về lịch sử thì cần nhứt cho quốc dân ta trong lúc này hơn hết” [9,76]. Hay như thái độ của Trương Duy Toản trước đó về những “đề xưa chuyện cũ” (của truyện Tàu): “Phương chi mình lại ôm cả đống ấy về Nam Bộ mà diễn dịch ra làm của mình” [9.76].

Theo đó, Hoàng tử Cảnh như tây nói về công cuộc khôi phục cơ nghiệp, cũng như sự kiện thâu phục cơ nghiệp của Gia Long phục quốc được cho là mang ý nghĩa sâu xa hơn việc phục hồi cơ nghiệp tổ tiên nhà Nguyễn, có mối liên hệ với thời cuộc trước mắt (với nhân vật Quang Trung và Gia Long, tác giả đều gọi là “đại anh hùng” của Việt Nam). Nhân vật Quốc mẫu có tiếng nói trong những ghi chép chính sử (sự cảm thán, lời khen ngợi chúa thánh), có khả năng là phát ngôn của các sử gia, đến đây được nhà văn tiếp tục đưa vào thành nhân vật văn học. Trong Gia Long phục quốc, ý kiến của nhân vật nói đến cái hại của việc cầu viện Pháp thực tế là phát ngôn của tác giả tiểu thuyết, thể hiện sự nhận thức đối với sự kiện lịch sử quá khứ đồng thời là thái độ đối với nhà cai trị thực dân đương thời (cũng như trường hợp Phan Yên ngoại sử, các nhà nghiên cứu đã nói đến sự bóng gió của việc “chống Tây Sơn”, hay Tam Yên di hận (xb 1929) của Nguyễn Văn Vinh, với những tên gọi theo lối mô phỏng, ám chỉ “việc thực dân Pháp cướp nước”).

Như vậy, nhóm truyện dân gian về Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ trong sự vận động, phát triển đã được mở rộng ý nghĩa, trong mối liên hệ với lĩnh vực sáng tác của

139

văn chương thành văn đầu thế kỷ XX trong tiến trình phát triển của văn hoá, lịch sử Nam Bộ.

Tiểu kết chương 4

Qua trình bày, chúng tôi khái quát nội dung đã thực hiện ở chương 4 như sau: 1. Luận án khảo sát, miêu tả, phân tích, đánh giá hệ thống truyện, đi từ bước cơ sở khái quát diện mạo thể loại, cơ cấu văn bản tư liệu... Chúng tôi chú ý nhận diện yếu tố sự thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau trong hệ thống thể loại của truyền thuyết và giai thoại biểu hiện ở nhóm truyện.

2. Luận án hướng đến nhiệm vụ xác định diện mạo đặc thù của hệ thống truyện, thông qua việc tập trung miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo và công thức biểu đạt, đồng thời, khái quát về giá trị nội dung. Với quy mô của hệ thống truyện, đặt trong sự so sánh, đối chiếu với nhóm truyện cùng loại hoặc gần gũi ở các vùng miền khác, luận án nhằm khám phá những nét đặc trưng riêng của hệ thống truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ.

3. Luận án cũng nói đến dấu ấn tồn tại của nhóm truyện thể hiện trong văn bản văn học của thời kỳ sau. Đây chính là biểu hiện của sự tương tác giữa văn học dân gian và văn học viết, được coi là quy luật chung của mọi nền văn học.

140

CHƯƠNG 5

GIAI THOẠI VỀ NHỮNG DANH NHÂN, DANH SĨ NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC 5.1. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG TRUYỆN

“Danh nhân”, theo Đào Duy Anh, là người có tiếng (tiếng tốt, tiếng thơm, là tài giỏi) được nhiều người biết (homme célèbre) [6,196]. Trên tiêu chí thành tích cá nhân và thái độ của cộng đồng Sách Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hóa truyền thống cũng đưa ra định nghĩa: “Danh nhân là những người có thành tích xuất sắc trong hoạt động thực tiễn xã hội, được cả cộng đồng xã hội thừa nhận và dành cho những hình thức tôn vinh trọng thể nhằm tưởng lệ công lao và nêu gương cho thế hệ sau” [44,32].

Nhìn chung, danh nhân là những con người đã định hình tên tuổi với những thành tựu, sự cống hiến ở những lĩnh vực chuyên biệt, chủ yếu là lĩnh vực văn hóa, khoa học... với vai trò khai phóng hoặc tiếp nối sự phát triển văn hóa, khoa học... Danh nhân là nhân vật lịch sử tích cực, có đóng góp lớn trong tiến trình lịch sử, có sức ảnh hưởng lâu dài, có cống hiến cho quê hương, dân tộc, nhân loại.

Liên quan đến khái niệm “danh nhân” là khái niệm “danh sĩ”. “Danh sĩ” dùng chỉ riêng những nhà khoa bảng, trí thức, có những thành tựu trên địa hạt văn chương, học thuật. Trải suốt tiến trình lịch sử, các danh sĩ là một phần tinh hoa của giống nòi, làm nên nền văn hiến của dân tộc.

Nam Bộ là nơi sản sinh nhiều danh nhân, danh sĩ nổi tiếng, những người có công mở mang trong các mặt chính trị, văn hóa, kinh tế vùng đất “Đàng Trong” từ lúc hình thành vào thế kỷ XVII cho đến khi thực dân Pháp đặt ách thống trị. Nhiều nhân vật được tôn xưng là đức thượng công, vị đại hiền, đại nho, nhà bác học…, được các học giả, nhà nghiên cứu trước nay trân trọng đưa vào hàng “Danh nhân Nam kỳ”, “Danh sĩ miền Nam”, “Danh nhân văn hóa miền Nam”… Đây là “các nhà nho, nhà trí thức có những công lao và cống hiến, như đem đến ánh sáng văn hoá và giáo dục, tạo nên những sáng tác văn học, công trình nghiên cứu kinh tế, lịch sử, địa dư, xã hội... hoặc dùng ngòi bút chiến đấu trực diện với thực dân và tay sai...” [8,3]. Xoay quanh các nhân vật nổi tiếng, đã có nhiều câu chuyện được kể và truyền tụng.

Giai thoại về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước là nhóm truyện kể về cuộc đời, hành trạng của các nhân vật lịch sử là những danh tướng, nhà nho, nhà trí thức… Nam Bộ nổi tiếng, đã có cống hiến trên những lĩnh vực nhất định để tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần cho đời sống xã hội, tập trung ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

141

Các truyện kể đều ngắn gọn, kể về một sự kiện có ý nghĩa đơn nhất trong một tình huống hay một thời điểm, giai đoạn nhất định trong cuộc đời nhân vật. Yếu tố lời thoại xuất hiện khá phổ biến (26/ 40 truyện). Nhân vật là những con người cụ thể, có một vai trò lịch sử nhất định, câu chuyện về họ thu hút sự chú ý của công chúng. Trong đó, những sự kiện liên quan đến hành trạng của nhân vật đã được khám phá, ghi nhận từ thực tế hoặc chỉ là sự thêu dệt, xuất phát từ tâm lý tôn phục. Với các nhân vật danh nhân, danh sĩ Nam Bộ, đây là kiểu nhân vật Người trí thức của giai thoại.

Hệ thống truyện bao gồm ba tiểu loại: giai thoại lịch sử (Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu, Những cuộc gặp giữa Pôngsông và cụ Đồ Chiểu…”), giai thoại văn học (Xóm Bà Đồ, Tài ứng đối của Phan Văn Trị…) và giai thoại folklore (Về địa danh Bình Thủy - Long Tuyền, Kép Hứa Văn hát bội…). Giữa các tiểu loại có mối quan hệ qua lại, đan xen.

Thực tế, xét đặc điểm loại nhân vật, giai thoại lịch sử không chỉ bao gồm giai thoại về danh nhân lịch sử (về quân sự), các danh nhân văn hóa cũng có giai thoại loại này (khi các nhân vật hoạt động văn hóa tham gia việc chính sự, như gặp gỡ lãnh tụ khởi nghĩa hay đối thoại với nhà cầm quyền thực dân…). Như truyện Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu đề cập đến mối quan hệ giữa danh sĩ yêu nước và các lãnh tụ khởi nghĩa trong hoàn cảnh bấy giờ. Mặt khác, giai thoại văn học cũng có thể hàm chứa nội dung lịch sử, không đơn thuần là chuyện trong giới hoặc thuộc lãnh địa “làng văn”. Bởi với trường hợp bản thân nhân vật là người sáng tạo văn chương nhưng cũng là danh sĩ hoạt động yêu nước và thơ văn chứa đựng nội dung yêu nước, trở thành phương tiện, vũ khí sắc bén của người trí thức chống giặc thì truyện kể về nhân vật đã bước sang “ranh giới” giai thoại lịch sử. Hiện thực đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và tay sai là cơ sở cho sự hình thành và phát triển thể loại giai thoại lịch sử liên quan lĩnh vực văn hoá. Như truyện Thà ẩn non cao với tình huống đối đáp thơ văn hay Thơ ứng khẩu của Phan Văn Trị, Ăn mắm sống không phải là Tây… với yếu tố sự xen lẫn câu thơ, đều biểu đạt tư tưởng, chí hướng của các nhân vật danh sĩ đối với vấn đề vận mệnh dân tộc. Đây là chỗ giao thoa, khó phân định rạch ròi giữa giai thoại lịch sử và giai thoại văn học. Những giai thoại văn học trong hoàn cảnh mới đã có sự chuyển đổi, chứa đựng tinh thần mới, chuyển tải những nội dung lịch sử nên cũng mang ý nghĩa là một loại giai thoại lịch sử. Hiện tượng này làm gần lại khoảng cách giữa giai thoại văn học và giai thoại lịch sử, đồng thời tạo thêm sự gần gũi về đề tài, nội dung với thể loại truyền thuyết lịch sử.

Chúng tôi tập hợp được 40 đơn vị truyện và 3 dị bản, xoay quanh 14 nhân vật

lịch sử.

142

Trong đó, có 1 truyện ghi nhận từ tư liệu sử (Lai lịch địa danh Hà Tiên), còn lại,

chủ yếu lấy từ tư liệu sưu tầm, biên soạn.

5.2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO 5.2.1. Mô hình cốt truyện

Nhóm giai thoại có mô hình cốt truyện truyền thống với lược đồ gồm 3 phần:

mở đầu, phát triển và kết thúc, gắn với các tiến trình sự kiện sau:

Tiến trình thứ nhất (1): kể về lai lịch nhân vật, thời gian, địa điểm, tình huống sự kiện; hoặc có thể trực tiếp đi vào sự việc. Tiến trình thứ hai (2): kể diễn tiến sự việc, những khía cạnh riêng, gây ấn tượng về nhân vật. Với loại nhân vật danh sĩ trí thức yêu nước, phổ biến nhất là việc tổ chức sự kiện cuộc đấu trí của nhân vật đối với đối phương, nếu liên quan cụ thể đến thơ văn thì sẽ dẫn đến một bài thơ, câu đối hay một lời giải thích, một câu nói... làm điểm mở nút cho câu chuyện, thể hiện trí tuệ của nhân vật và đưa nhân vật đến thắng lợi ra sao... Tiến trình thứ ba (3): kết thúc sự việc về nhân vật hoặc kết quả minh chứng về phẩm chất, sự nhận thức, tình cảm…đối với nhân vật được rút ra từ sự việc.

Mô hình cốt truyện trên được thể hiện ở Bảng 5.1.

Giới thiệu nhân vật và tình huống sự việc (1)

Diễn tiến sự việc (những khía cạnh ấn riêng, gây tượng…) (2)

Kết quả sự việc (kết quả đạt được về nhân vật hoặc dấu tích liên quan) (3)

Khái quát về nghệ thuật, chúng tôi xác lập kiểu nhân vật của hệ thống giai thoại

gắn với đề tài - cốt truyện như sau: Bảng 5.2. Thống kê, phân loại kiểu nhân vật, đề tài - cốt truyện

Kiểu nhân vật

Đề tài - cốt truyện

Hệ thống truyện

Số truyện, dị bản (db)

15

Những quan nhân nổi tiếng (KNV.4.1)

Những con người xuất chúng, cá tính đặc biệt (ĐT-CT.4.1)

1 db

tài địa

10

Những văn phương (KNV.4.2)

1 db

Con người của truyền thống (ĐT- tài địa phương văn CT.4.2)

Giai thoại về danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX về trước

3

vùng

Cảm hứng đặt tên địa danh (ĐT-CT.4.3)

Những danh nhân trên đất sử lịch (KNV.4.3)

12

Người trí thức yêu nước (KNV.4.4)

Đối kháng thực dân và tay sai (ĐT-CT.4.4)

143

1 db

Tổng cộng

40 3 db

5.2.2. Những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện

Qua khảo sát 40 truyện về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ, chúng tôi thấy có

14 tình tiết, 15 môtíp biểu hiện trong các đề tài - cốt truyện, được thống kê như sau: Bảng 5.3. Thống kê tình tiết, môtíp

Các tình tiết, môtíp

Thứ tự

Tần số xuất hiện

4.1

ĐT-CT 4.2

4.3

4.4

1

Lời nói tỏ chính kiến (m)

4

2

2

2

Làm quan giữ hiếu nghĩa, nếp thanh bần

1

1

3

Làm quan không cậy quyền, tư lợi

2

2

4

Làm quan không phụ nghĩa ân

3

3

5

Làm quan giữ lòng tận tụy

2

2

6

Người có dấu hiệu khác thường (m)

2

2

7

Đứa bé khiển âm thần (m)

1

1

8

Sở thích khác lạ

1

1

9

Sợ oai đại quan

2

2

10

Sự hiểu nhầm có lợi

1

1

11

Lập kế qua mắt sứ thần (m)

1

1

12

Điềm lạ về địa cuộc, địa vật (m)

3

3

13

Đặt hay đổi tên địa danh, di tích (m)

3

3

14

1

1

Lai lịch câu thơ (hay Lời văn ký thác tâm sự) (m)

15

Lai lịch thi đàn (m)

2

2

16

Ứng đối, ứng tác so tài văn (m)

3

3

17

6

2

4

Ứng đối, ứng tác thơ châm biếm, đả kích (m)

18

Ứng đối, ứng tác thơ tỏ chí hướng (m)

3

1

2

19

Ra câu đối, bài thơ đề tặng (m)

2

2

20

Ra bài thơ biện bác (m)

1

1

21

Sự tán thưởng, hài lòng

7

3

4

22

Cuộc gặp tham vấn (m)

3

3

23

Lánh giặc, giữ nếp thanh bạch

4

4

144

24

Khước từ khuyến dụ

3

3

25

Tẩy chay (không dùng) hàng Tây

1

1

26

Lời nói khảng khái (m)

3

3

27

Làm kẻ thù bẽ mặt

2

2

28

Sự thất bại của đối phương

3

3

29

Sự tôn phục, nhắc nhở

2

2

Tổng cộng

73

19 25%

17 24%

6 8%

31 43%

5.2.2. Miêu tả những tình tiết, môtíp của hệ thống truyện

Hệ thống giai thoại có kiểu nhân vật trung tâm thứ nhất là Những quan nhân nổi tiếng (KNV.4.1). Đây là những nhân vật đại quan nổi tiếng về tài quân sự, tài bang giao, tài cai trị, tài học hay về đạo đức..., có sức ảnh hưởng đối với dân chúng ở những khía cạnh khác nhau.

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống giai thoại có đề tài - cốt truyện:

Những con người xuất chúng, cá tính đặc biệt (ĐT-CT4.1).

Nhóm này có 15 truyện và 1 dị bản. Sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện này như sau: Nhân vật đại quan có lối hành xử tỏ rõ đức độ, phẩm chất hay có những dấu ấn đặc biệt về con người (cid:1) nêu gương sáng, được ngợi khen hay tôn phục.

Các nhân vật là Những quan nhân “thương nước, thương dân” (NV.4.1.1) và

Những con người có dấu hiệu khác thường (NV.4.1.2).

- Những quan nhân “thương nước, thương dân” (NV.4.1.1) Nhóm này có 7 / 15 truyện và 1 dị bản: Khen thưởng viên trưởng đồn, Nhắc nhở người vác tre (/ Thương nước, thương dân), Đức độ cao nhã, Truyện về Phan Thanh Giản, Việc vua, việc nước là hệ trọng, Đến thăm thầy cũ, Những mẩu chuyện về Phan Thanh Giản.

Đây là những truyện về Phan Thanh Giản. Nội dung các truyện kể về nhân vật đại quan có “đức độ cao nhã”, lối hành xử

mẫu mực, tạo được mối thiện cảm, sự tôn phục trong dân chúng.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Nhân vật đại quan trong việc thực hiện chức trách và trong quan hệ xã hội (cid:1) có lối hành xử tỏ rõ đức độ, phẩm chất (cid:1) nêu gương sáng, được ngợi khen.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Làm quan không cậy quyền, tư lợi (tần số xuất hiện: 2 lần) -Làm quan giữ lòng tận tụy (2 lần) -Lời nói tỏ chính kiến (m) (2 lần) -

145

Làm quan giữ lòng hiếu nghĩa, nếp thanh bần (1 lần) -Làm quan không phụ nghĩa ân (3 lần) (4 tình tiết, 1 môtíp), được miêu tả như sau: Tình tiết Làm quan không cậy quyền, tư lợi

Tình tiết thể hiện cách hành xử liên quan đến những khía cạnh sinh hoạt đặt trên vị thế xã hội của nhân vật. Như chuyện Phan Thanh Giản về quê chịu tang cha, đi bằng ghe nhỏ, bị kêu xét, đích thân ông lên trình và năn nỉ, sau đó cho đòi viên cai đồn tới dinh nhưng để “khen ngợi vì đã làm đúng phận sự” (Khen thưởng viên trưởng đồn). Hay lúc đi thăm mộ, có người vác tre quơ trúng “làm trầy da rách áo”, ông bảo đưa cây mác nhưng là để trẩy nhánh tre, rồi nhắc nhở “từ rày về sau phải có ý tứ, kẻo thiệt hại đến người đi đường” (Nhắc nhở người vác tre). Biểu hiện cho thấy, đây là con người luôn giữ đúng chức trách, công tư phân minh, chính trực, liêm khiết, lấy đức dạy dân. Tình tiết Làm quan giữ lòng tận tụy

Tình tiết thể hiện đức tính chính trực của một “bề tôi” trung thành với vua. Như việc Phan Thanh Giản lấy lời trung can gián vua, bị phạt giữ việc quét dọn bàn ghế ở công đường, “Ông thản nhiên hoàn thành công vụ không một lời than phiền” (Truyện về Phan Thanh Giản). Đây cũng là người tận tụy với chức trách, luôn xem Việc vua việc nước là hệ trọng, như: ông dứt khoát “không để vợ con ràng buộc, níu kéo”; hay ông đã trả lời Tổng đốc Trương Văn Uyển: “Việc dân việc nước lo từ sáng chí tối không chu tất được, đâu có thì giờ đâu tính chuyện hầu thiếp…”(Truyện về Phan Thanh Giản). Môtíp Lời nói tỏ chính kiến

Về dấu ấn môtíp, đây là những phát ngôn thể hiện cá tính, phẩm chất nhân vật. Như Phan Thanh Giản đã nói ông thích nhất là bông quỳ, vì “có sắc tự nhiên, lòng dạ ngay thẳng nên nó dám nhìn vào mặt trời mà không thấy e thẹn với lương tâm” (Truyện về Phan Thanh Giản); hay “Việc vua việc nước là hệ trọng”... Những lời nói này cho thấy tấm lòng trung cang, chính trực của nhân vật. Tình tiết Làm quan giữ lòng hiếu nghĩa, nếp thanh bần

Sự kiện được nói đến là tấm lòng hiếu thảo của Phan Thanh Giản: khi cha qua đời, ông “bưng từ món ăn dâng cúng và đích thân làm cỏ, gánh đất đắp mộ để báo hiếu”. Về lối sống thanh đạm, bình dân, ông làm quan thượng phẩm triều đình mà “sản nghiệp không có gì cả, phu nhân thì đích thân cấy lúa, trồng bông vải, nhà thờ tổ tiên thì phên tre, cột dựng bằng cây mấm”, khi về chịu tang, “đi bằng ghe nhỏ như thường dân” (Thương nước, thương dân) (về tính cần kiệm, tương truyền, “trong chuyến đi sứ sang Pháp chuộc ba tỉnh miền Đông, ông vẫn đem theo chai mắm làm thức ăn để tiết kiệm”).

146

Tình tiết Làm quan không phụ nghĩa ân

Tình tiết gắn với một số sự kiện về nhân vật, trong đó, ấn tượng sâu sắc nhất là thái độ cư xử đúng mực, sự chân tình. Như về Phan Thanh Giản, tuy làm quan to nhưng khi có dịp về quê ông đều ghé thăm các ân nhân. Đối với quan Hiệp trấn Vĩnh Long, ngưởi giúp ông ăn học ngày trước, ông “luôn kính trọng coi như cha”. Với thầy học cũ, khi đi đến gần chòi tranh nơi thầy ở, ông “liền xuống võng đi bộ vào cung kính hết mực” (hay “xếp võng điều và lọng lại, xuống đi bộ vào lạy thăm thầy”), lạy và dâng hai nén bạc để mua trà, khi lãnh chục bắp thầy cho bản thân tự xách lấy, ra về thì “đi bộ một đỗi xa xa mới truyền võng lọng” (Đến thăm thầy cũ). Sự kiện về nhân vật có dáng dấp câu chuyện của những ông Đồ xứ Nghệ, nơi được mệnh danh là đất học, đất “tôn sư trọng đạo”, ở đó, những người làm nên chức quan cao tột phẩm như Tổng đốc, Thượng thư khi về làng cũ thăm thầy dù chỉ là một ông đồ quê thì vẫn đứng ngoài cổng, ngoài sân xin phép gặp, tất cả đều “một mực cung kính, từ cách ngồi đứng đến cách nói năng” [48,307]. Ở vùng quê Nam Bộ, những con người hàng ngày ra sức làm lụng, mưu sinh luôn nuôi ước vọng con cháu về sau đỗ đạt nên danh hầu thoát cảnh nhọc nhằn, do vậy, rất trọng chữ và trọng thầy. Hơn nữa, trong sự trọng tình của những con người nơi đây đã bao hàm tinh thần trọng nghĩa. Hình ảnh Phan Thanh Giản, người đỗ đạt cao, một đại quan triều Nguyễn luôn tôn kính thầy học chính là sự kết tinh của truyền thống, đồng thời trở thành tấm gương cổ vũ cho tinh thần truyền thống đó.

Còn có các biểu hiện: đối với những người đồng hương năm xưa, ông tiếp đón ân cần, nêu một bài học về tình nghĩa thủy chung (Đức độ cao nhã); hay ông cất giữ kỹ vật thuở hàn vi là chiếc áo lương được bà Ân may cho lúc đi thi, “thỉnh thoảng lấy ra coi và nhắc lại gốc tích chiếc áo cho con cháu biết” (Những mẩu chuyện về Phan Thanh Giản)...

Tựu trung, kể chuyện về Phan Thanh Giản, người dân nói đến đạo đức và nhân cách được coi là phẩm chất tiêu biểu của “vị đại hiền” nhà Nguyễn: lòng hiếu thảo, lối sống thanh đạm, bình dân, trọng ân nghĩa, công tư phân minh, chính trực, liêm khiết..., trong đó nổi lên đức tính liêm khiết, đức độ. Tựa truyện Thương nước, thương dân [124,26] do Sơn Nam đặt cũng đã nói hộ tấm lòng ưu quốc ái dân của nhân vật, mà theo quan niệm truyền thống, đây vốn là thước đo giá trị nhân văn của con người. Phan Huy Lê nhận định: Phan Thanh Giản là “một người trí thức nặng lòng yêu nước thương dân nhưng cuối đời đã lâm vào cảnh bế tắc, bi kịch trong một bối cảnh gian truân và đau thương của đất nước” [103,212]. Giai thoại cũng góp phần đưa đến sự nhận diện đầy đủ hơn về nhân cách, sự nghiệp của nhân vật.

147

- Những con người có dấu hiệu khác thường (NV.4.1.2) Nhóm này có 8 / 15 truyện. Đây là truyện về Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa. Nội dung các truyện kể về các nhân vật là người có những dấu hiệu đặc biệt về nhân thân và những điều khác thường về hành trạng, tạo sự tôn phục trong dân chúng. Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện về nhân vật này như sau: Nhân vật đại quan hay danh sĩ nổi tiếng (cid:1) có những dấu ấn đặc biệt về con người và hành trạng (cid:1) được dân chúng tôn phục.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Người có dấu hiệu khác thường (m) (tần số xuất hiện: 1 lần) -Đứa bé sai khiến âm thần (m) (1 lần) -Sợ oai đại quan (2 lần) -Sở thích đặc biệt (2 lần) -Sự hiểu nhầm có lợi (1 lần) -Lập kế qua mắt sứ thần (m) (1 lần) - Sự tôn phục, nhắc nhở (2 lần) (4 tình tiết, 3 môtíp). Có 3 dạng thức cốt truyện như sau:

Dạng thức 1 Nhóm này có 3 truyện: Quan Tổng trấn và voi Vinh, Tướng tinh ngài Tả Quân,

Cậu bé Phan thuở nhỏ.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Đại quan nổi tiếng (cid:1) có những dấu hiệu lạ về nhân

thân.

Nhóm môtíp của cốt truyện: -Người có dấu hiệu khác thường (m) (tần số xuất

hiện: 2 lần) -Đứa bé khiển âm thần (m) (1 lần) (2 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Người có dấu hiệu khác thường

Môtíp được biểu hiện bao gồm yếu tố ngoại hình khác lạ và biệt tài. Như về Lê Văn Duyệt, nhân vật có ngoại hình lạ, thể hiện một nội lực mạnh mẽ: “Tả Quân tính nết cương cường”, “người thấp nhỏ như uy nghi, mắt sắc sảo ít ai dám nhìn thẳng”. Một biểu hiện đặc biệt là tướng tinh (nói đến tính cách của con người mang mệnh con vật đó): “Ngài Tả Quân là người có hào khí, theo lời đồn đại thì “tướng tinh” của Ngài là con cọp bạch” (Tướng tinh ngài Tả Quân). Đây là khí chất được tôn xưng dành cho những tướng lĩnh dũng mãnh, phi phàm. Biệt tài của nhân vật được nói đến là năng lực khống chế, sai khiến thú dữ: “những con hổ Ngài nuôi để đấu vật đều sợ và nghe lời Ngài”, “những con voi bất trị chỉ sợ có một mình Ngài Tổng trấn” (Quan Tổng trấn và voi Vinh). Các biểu hiện nhằm đề cao uy vũ và tài năng của nhân vật ở khía cạnh biểu dương khí chất. Môtíp Đứa bé khiển âm thần

Môtíp xuất hiện trong mẩu truyện về Phan Thanh Giản: “Vào lúc còn nhỏ, trong buổi đến trường học, cậu bé họ Phan gọi chiếc bè chuối tống ôn vào bờ. Sau đó, có

148

người nhập đồng lên và nói rằng nếu mời được cậu bé này cho phép thì chư vị thần linh trên bè mới dám đi tiếp...” (Cậu bé Phan thuở nhỏ). Biểu hiện này có ý nghĩa đề cao nhân thân nhân vật.

Liên hệ truyện về Lý Công Uẩn, nhân vật được tô vẽ nét phi thường: đứa bé sai

khiến được Thần, Phật báo trước số mệnh làm vua.

Về dấu hiệu khác thường, còn có các chi tiết tương truyền, như về Bùi Hữu Nghĩa: “Ông Thủ khoa trước lúc lâm chung, có điềm sao sáng lạ lùng rớt xuống, trời mưa trái tiết và đổi gió…”; hay về Phan Thanh Giản: “Trước ngày cụ Phan về quê, cọp gầm liên tục mấy đêm ở Bảo Thạnh, Bảo Thuận”.

Dạng thức 2 Nhóm này có 3 truyện: Xã trưởng Vĩnh Kim Đông, Những mẩu chuyện về Quan

Thượng công, Kép Hứa Văn diễn tuồng.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Đại quan nổi tiếng (cid:1) có uy vũ và cá tính đặc biệt (cid:1)

được tôn phục.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Sợ oai đại quan (tần số xuất hiện: 2 lần) -

Sở thích đặc biệt (1 lần) (2 tình tiết), được miêu tả như sau: Tình tiết Sợ oai quan lớn

Tình tiết xuất hiện trong những mẩu truyện về Lê Văn Duyệt, biểu hiện qua

những sự việc vị quan nhân cai trị quá nghiêm khắc, làm dân chúng khiếp sợ.

Như Xã trưởng làng Vĩnh Kim Đông “khi được lệnh đòi hầu, đã “hồn kinh phách lạc, vội từ giã vợ con và hội tề...”, thật ra Tả Quân gọi ông chỉ là để nhờ chút việc riêng. Hay đứa nhỏ khoảng 5, 6 tuổi ở Chợ Lớn chửi rủa cha mẹ; viên thơ lại có ý trêu chọc thiếu nữ bán bánh; tên ăn trộm cuộn giấy hút thuốc ngoài phố..., theo lệnh Tả Quân tất cả đều bị chém (về chi tiết cách luận tội đứa nhỏ, trong một truyện kể khác, nhân vật đưa ra cách phán xử là bà Viên và đứa trẻ được bao dung). Sự việc có tính chất thêu dệt cho thấy thái độ kiêng nể đến mức khiếp sợ của dân chúng đối với “Ông Lớn Thượng”. Trương Vĩnh Ký đã nhận xét: “Vụ xử tử không thủ tục tư pháp này làm dân chúng miền Nam khiếp sợ” [213].

Các giai thoại minh chứng cho việc đề cao luật pháp, là cách ngài Tổng trấn duy trì đạo đức trong dân chúng trong việc cai trị, ổn định Nam Bộ thời kỳ đầu thế kỷ XIX. Tình tiết Sở thích đặc biệt

Tình tiết thể hiện cá tính riêng của nhân vật. Như truyện Lê Văn Duyệt nói đến sở thích đá gà và xem hát bội, sở thích mê say những thứ đầy tính chiến đấu của ông (Kép Hứa Văn diễn tuồng). Tính ham mê võ nghệ và sức lực phi thường của Lê Văn

149

Duyệt được người Nam Bộ nể trọng. Điều này có nguyên nhân từ hoàn cảnh lịch sử, những lớp người đi khai hoang thuở trước luôn trọng võ nghệ.

Dạng thức 3 Nhóm này có 2 truyện: Quan Tả quân ăn sỏi, Tiếp sứ thần Xiêm. Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Đại quan giữ chức trách bang giao (cid:1) gặp tình huống

lợi thế hoặc có sự sắc sảo, khôn ngoan (cid:1) được tôn phục.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Sự hiểu nhầm có lợi (tần số xuất hiện: 1 lần) -Lập kế qua mắt sứ thần (m) (1 lần) -Sự tôn phục, nhắc nhở (2 lần) (2 tình tiết, 1 môtíp), được miêu tả sau: Tình tiết Sự hiểu nhầm có lợi

Tình tiết thể hiện sự kiện về nhân vật thông qua một tình huống nhầm lẫn. Như truyện kể về việc bang giao của Lê Văn Duyệt: “Bữa kia Tả quân ăn đường phèn uống trà, nhai nghe rốp rốp”, nghe hỏi thì có người nói đó là ăn sỏi, “Ai dè lời giễu cợt ấy có ảnh hưởng lớn làm cho chúng Thổ dân khiếp vía, kinh sợ oai khí nước Nam, lại xưng tụng quan Tả quân là ông tướng trời...” (hay: “Khi dân Cao Miên nghe tiếng ông nhai đường lạo xạo, hỏi các sĩ quan Việt tháp tùng xem ông tướng trời này ăn cái gì thì họ trả lời là ông ăn sỏi đá…”) (Quan Tả quân ăn sỏi). Sự nhầm lẫn diễn ra theo chiều hướng có lợi, tạo nên một sự kiện lý thú về nhân vật. Môtíp Lập kế qua mắt sứ thần

Môtíp nhằm biểu dương tài trí của nhân vật. Trong truyện dân gian, sự kiện các sứ thần lân bang đến nước An Nam với mục đích “nhòm ngó” hoặc phô trương thanh thế, thường tạo thành một tình huống thử thách đối với nhân vật cơ trí. Song, khác với việc đối đáp hoặc thi tài, ở đây là hình thức “giác đấu”, biểu dương sức mạnh. Như truyện Tiếp sứ thần Xiêm kể: “Cho Lê Văn Khôi giả sĩ tốt làm võ sĩ đánh cọp”, khi sứ thần Xiêm khen ngợi, Tả Quân đã khôn khéo trả lời: “Bọn tiểu tốt dưới trướng ta đều như vậy cả, có gì đáng lạ đâu”. Tình tiết Sự tôn phục, nhắc nhở

Tình tiết thể hiện qua lời kể trực tiếp. Như trong truyện Quan Tả quân ăn sỏi, sự nhầm lẫn diễn tiến theo chiều hướng có lợi: “Nước Xiêm La cũng sợ quan Tả quân lắm ”, “trước hết vua để lời hỏi thăm Tả quân có khỏe mạnh chăng” (có chi tiết kể, các nước lân cận sợ oai phong, gọi ngài là “cọp gấm Đồng Nai”).

Sử sách đã dành những ngôn từ đẹp để ngợi ca “Đức Thượng Công”: đức tính thanh liêm, ngay thẳng, cứng rắn, nhà cai trị khôn ngoan, sáng suốt... Các giai thoại cũng đã thể hiện những khía cạnh khác nhau trong sự đánh giá của nhân dân về nhân

150

vật. Qua đó cho thấy những nét riêng về nhân thân, về sự nghiệp nội trị, nổi bật nhất là cai trị đất Gia Định của nhân vật lịch sử này.

Đáng chú ý, trong các truyện kể có sự xuất hiện yếu tố hư cấu thần kỳ. Sự tô vẽ yếu tố linh thiêng gắn với những điểm mốc của cuộc đời và sự nghiệp nhân vật cũng là một cách thức bày tỏ sự ngưỡng mộ, tôn phục. Như về Phan Thanh Giản, từ “cậu bé Phan thuở nhỏ” đến lúc trở thành vị đại quan; hay về Lê Văn Duyệt, từ lúc còn vô danh đến khi trở thành Tổng trấn Gia Định.

Hệ thống giai thoại có kiểu nhân vật trung tâm thứ hai là Những văn tài địa phương (KNV.4.2). Đây là những danh nhân văn học, có liên quan trực tiếp đến địa hạt văn chương. Các truyện kể nằm trong mạch cảm xúc ngợi ca, tự hào về con người và vùng đất giàu truyền thống văn học này. Như Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục đã nhận xét: “Họ Nguyễn trước kia chuyên giữ một phương… không chuộng văn học, ít thu lượm người tuấn dị… Thế mà văn mạch ở đất này dằng dặc, không dứt, thật đáng khen” [41].

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống giai thoại có đề tài - cốt truyện

Con người của truyền thống văn tài địa phương (ĐT-CT.4.3).

Nhóm này có 10 truyện và 1 dị bản. Sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện như sau: Danh sĩ trong sinh hoạt văn học hay trong tình huống ứng đối thơ văn (cid:1) thể hiện tài văn hay dấu ấn hoạt động văn chương (cid:1) kết quả sự kiện về nhân vật.

Đề tài - cốt truyện có thể xác lập xoay quanh nhân vật mang đặc điểm: Danh sĩ

trong sinh hoạt văn học (NV.4.2.1) và Tài ứng đối, ứng tác (NV.4.2.2).

- Danh sĩ trong sinh hoạt văn học (NV4.2.1) Nhóm này gồm 2 / 10 truyện và 1 dị bản: Xóm Bà Đồ (/ Tao Đàn Bà Đồ), Câu

chuyện trá hôn.

Đây là truyện về các nhân vật Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thị Nguyệt. Nội dung các truyện kể về nhân vật liên quan các tình huống sáng tác tác phẩm

hay hoạt động thi đàn diễn ra trên vùng đất.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện kể về các nhân vật này như sau: Danh sĩ trong sinh hoạt văn học (cid:1) tình huống sáng tác tác phẩm hay hoạt động thi đàn (cid:1) được ngợi khen hay lưu tên thi đàn.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Lai lịch câu thơ (m) (tần số xuất hiện: 1

lần) -Lai lịch thi đàn (m) (2 lần) (2 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Lai lịch câu thơ (hay Lời văn ký thác tâm sự)

151

Về biểu hiện, đây là tình huống sáng tác tác phẩm Kim thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa. Sách Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã ghi nhận: “Chợ Bình Thủy ông thủ khoa, Tên Bùi Hữu Nghĩa gốc nhà nho lâm... Thường khi sắp đặt nôm na, Bổn tuồng Kim thạch diễn ra khéo lời” [153,85]. Câu chuyện trá hôn kể về niềm đau hận thấu tâm can gửi vào trang giấy: “Cụ đành riêng hận, để rồi trả lại bằng đặt tuồng hát bội Kim Thạch kỳ duyên, trong đó cụ mắng nhiếc thậm tệ con người manh tâm bội ước: “Thối hôn nên mượn kế trá hôn, Bất giá, lại kiếm nơi cải giá”. Hoàn cảnh bất ý của tác giả được chuyển tải thành nội dung sáng tác, mang ý nghĩa là những trang văn làm nên từ chính cuộc đời. Tình huống có phần giống với tâm sự của cụ Đồ Chiểu khi sáng tác Lục Vân Tiên, làm rõ tình cảm yêu ghét, bởi nó được viết lên từ chính tim óc nhà thơ. Điều này làm thấm sâu hơn tinh thần đạo đức, nhân nghĩa gửi gấm trong tác phẩm. Môtíp Lai lịch thi đàn

Môtíp được biểu hiện gắn với sự kiện về sự hình thành tao đàn Bà Đồ, một sinh

hoạt văn học đặc sắc của vùng đất Cần Thơ xưa.

Truyện Xóm Bà Đồ kể về nhân vật Nguyễn Thị Nguyệt: “Khoảng hai mươi năm cuối đời, khi đã có tuổi, tao nhân từ khách đã bắt đầu kéo về vùng này để tị địa, bà bớt việc dạy để cùng với những danh nho như Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị... lập ra tao đàn để ngâm vịnh thơ ca từ phú”. Ở một bản kể khác, tên gọi tao đàn Bà Đồ mang dấu ấn Bùi Hữu Nghĩa: “Sự hiện diện của Bùi Hữu Nghĩa ở xóm này thu hút các văn tài đến thăm viếng, làm thơ, xướng họa…” (Tao đàn Bà Đồ). Tên tuổi các danh sĩ đất Nam Hà hội tụ trong tao đàn, làm nên một sinh hoạt văn học độc đáo của vùng Nam Bộ. Kết quả là sự hình thành tên gọi: “Tao Đàn đó người ta gọi là Tao đàn Bà Đồ”, hay “nên nhân dân trong vùng gọi đây là Xóm Bà Đồ”. - Tài ứng đối, ứng tác (NV.4.2.2) “Ứng đối, ứng tác” bao hàm sự sáng tác tức thời bài thơ hoặc câu đối trong một tình huống đối đáp trực tiếp, nó cũng bao gồm cả sự ứng khẩu, tức sáng tác nhanh bài thơ hoặc câu đối trong tình huống ngẫu hứng hoặc được yêu cầu. Các phương thức đều tạo nên sự tự nhiên, sinh động của câu chuyện. Ứng đối, ứng tác bao gồm các trường hợp: sáng tác ứng khẩu (tình huống bài thơ, câu đối đề tặng...), đối đáp, so tài văn...

Nhóm này có 8 / 10 truyện. Đây là những truyện về Nguyễn Đình Chiểu, Bùi

Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Học Lạc, Sương Nguyệt Anh.

Nội dung các truyện kể về các nhân vật là những danh sĩ, liên quan việc ứng

khẩu, đối đáp thơ văn.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện về các nhân vật này như sau:

152

Danh sĩ trong tình huống ứng khẩu (cid:1) đối đáp so tài văn, ra câu đối, bài thơ đề

tặng, biện bác hay châm biếm, đả kích (cid:1) sự tán thưởng, hài lòng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Ứng đối, ứng tác so tài văn (m) (tần số xuất hiện: 3 lần) -Ra câu đối, bài thơ đề tặng (m) (2 lần) -Ra câu đối, bài thơ biện bác (m) (1 lần) -Ứng đối, ứng tác thơ văn châm biếm, đả kích (m) (2 lần) -Sự tán thưởng, hài lòng (3 lần) -Sự thất bại của đối phương (1 lần) (2 tình tiết, 4 môtíp).

Có 2 dạng thức cốt truyện như sau:

Dạng thức 1 Nhóm này có 6 truyện: Đối đáp với tú tài Văn Bình, Nguyễn Đình Chiểu và thầy Tàng, Tài ứng đối bất thần, Đề tặng vợ thầy thuốc, Đề hàng cơm, Mâm xôi Thằng Lạc. Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Danh sĩ trong tình huống ứng khẩu (cid:1) đối đáp so tài

văn hay ra câu đối, bài thơ đề tặng, biện bác (cid:1) sự tán thưởng, hài lòng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Ứng đối, ứng tác so tài văn (m) (tần số xuất hiện: 3 lần) -Ra câu đối, bài thơ đề tặng (m) (2 lần) -Ra câu đối, bài thơ biện bác (m) (1 lần) -Sự tán thưởng, hài lòng (3 lần) -Sự thất bại của đối phương (1 lần) (2 tình tiết, 3 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Ứng đối, ứng tác so tài văn

Môtíp ứng đối, ứng tác thơ văn đóng vai trò trung tâm trong các giai thoại về danh sĩ, ở đây, chủ yếu là những cuộc đối đáp có tính ngẫu hứng giữa các danh sĩ với văn nhân, người giỏi chữ nghĩa hay nho sinh…

Về đối đáp giữa danh sĩ với người giỏi chữ nghĩa, tình huống mở đầu thường là sự ngẫu hứng, tình cờ. Như: “Một hôm, Phan Văn Trị đi ăn giỗ”, “các danh sĩ cùng nhau ngồi đàm luận văn chương, một người ra đối...” (Tài ứng đối bất thần); “Một hôm, đang ngồi chơi, thầy Tàng đọc…”(Nguyễn Đình Chiểu và thầy Tàng)...

Về đối đáp giữa danh sĩ với văn nhân hay nho sinh có tên tuổi, diễn tiến sự kiện thường có kịch tính. Thường là đối phương (nho sinh, văn sĩ) tìm đến so tài văn, danh sĩ vờ yếu thế nhằm đưa đối phương vào chỗ chữ nghĩa hiểm hóc, sau đó đáp trả và giành thắng lợi. Nếu thành phần tham gia có tính đối lập, trong cách thức tạo tình huống, nhân vật sẽ ở thế bắt buộc phải phô tài. Như tú tài Văn Bình với tính tự cao tự đại đã tìm đến tận nhà Thủ khoa Nghĩa để so tài văn thơ (Đối đáp với tú tài Văn Bình) … Tiếp theo, các nhân vật lấy được thế chủ động, đưa đối phương vào “trận địa”. Cách thức này còn nhằm đề cao đức tính khiêm tốn như một phẩm chất của nhân tài.

Văn tài của các danh sĩ thể hiện ở cách thức xây dựng câu đối. Phổ biến nhất là sử dụng lối chơi chữ, thường là tận dụng lớp nghĩa khác nhau của từ ngữ. Như các vế đối “Sắc nan / Dung dị”, “Quít ngọt / Chả ngon”, vừa đối lại rất chỉnh vừa gây bất ngờ,

153

bởi tưởng như chưa đối nhưng thực tế đã hoàn thành (Tài ứng đối bất thần). Hoặc với vế đối “Trâu khát nước bò xuống uống” và “Trê thèm mồi lóc lên ăn”, hai chữ “bò” và “lóc”, có thể hiểu là danh từ hoặc động từ (Nguyễn Đình Chiểu và thầy Tàng). Ngoài ra, lối nói lái gắn với yếu tố tục được dùng tạo sự bất ngờ, hài hước, khi mỗi từ ngữ riêng lẻ đều đối rất hợp lý, bình thường nhưng gộp lại cả vế câu thì lộ ra thâm ý giễu cợt đối tượng (Đối đáp với tú tài Văn Bình). Hay lối dùng điển cố, như: “Thầy Tàng tai không nghe sấm” (lấy câu thơ cổ về uy vũ), đối lại: “Đồ Chiểu mắt chẳng xé mây” (lấy tích lời Mã Siêu) (Nguyễn Đình Chiểu và thầy Tàng). Cách thức diễn đạt này tạo nên chất trí tuệ của giai thoại về danh sĩ. Môtíp Ra câu đối, bài thơ đề tặng

Nội dung ứng tác bao gồm: nữ sĩ làm bài thơ cho vợ người thầy thuốc gửi thăm

chồng hay văn nhân làm câu đối tặng cho chủ hàng cơm.

Nét đặc sắc trong hình thức sáng tác là tạo ra một trường nghĩa. Như bài thơ của Sương Nguyệt Anh làm tặng vợ người thầy thuốc, từ ngữ được dùng vừa phù hợp nghề nghiệp vừa thổ lộ tình cảm thắm thiết của gia chủ: “Bà liền viết một bài thơ mà mỗi câu đều có tên một vị thuốc: “… Dù miền sinh địa tìm khương hoạt, Cũng đoái phòng trong phận quýt hồng” (Đề tặng vợ thầy thuốc). Đây là cách thức nghệ thuật được dùng trong câu đối đề tặng vợ người thợ nhuộm, thợ rèn… của nhà thơ Tam nguyên Yên Đổ. Bên cạnh đó là lối vận dụng điển cố để diễn đạt nội dung hiện thực. Như câu đối tặng chủ hàng cơm của Học Lạc, điển tích được lựa chọn rất phù hợp, ý tứ thanh nhã lại gần gũi, đáp ứng thị hiếu của đối tượng thưởng thức: “Mạc vị quán trung vô phiến mẫu, Chỉ hiềm lộ thượng thiếu Vương tôn” (Đề hàng cơm). Môtíp Ra bài thơ biện bác

Đây là lối sáng tác ứng khẩu có tính chất trào lộng. Như bài thơ Mâm xôi thằng Lạc của Học Lạc làm để tạ lỗi hương chức, một mặt nói lên ý muốn trần tình của tác gỉa, mặt khác, có ý giễu cợt, phơi bày cái thấp kém, vô năng của bọn chức dịch ở làng xã: “Vành mâm xôi, đề thằng Lạc...” . Qua đó cho thấy khẩu khí của nhà thơ trào phúng xứ Mỹ Tho. Tình tiết Sự tán thưởng, hài lòng

Sự tán thưởng, hài lòng được biểu hiện trực tiếp qua lời kể. Như về sáng tác ứng khẩu câu đối, thơ đề tặng, biện bác, về kết quả, đó sự tán thưởng, như: “Nhiều nhà hàng cơm ở Mỹ Tho, sau này đều xin treo đôi câu đối ấy” (Đề hàng cơm); hay tạo ra tác động đối với đối phương: “Bọn chức dịch thấy không làm gì được, đành tha” (Mâm xôi Thằng Lạc).

154

Về sáng tác ứng khẩu đối đáp văn chương, câu chuyện đều kết thúc nhanh chóng với kết quả đạt được. Đó là sự hài lòng, vui thích về sự am tường chữ nghĩa, mang đến tiếng cười đồng điệu, như: “Cả hai người cùng cười” (Nguyễn Đình Chiểu và thầy Tàng). Còn đối với đám đông thưởng thức sẽ là những lời khen, tán thưởng, như “Ai cũng khen ngợi”; “Cử tọa đều vỗ tay tán thưởng” (Tài ứng đối bất thần). Tình tiết Sự thất bại của đối phương

Tình tiết thể hiện sự thất bại thảm hại của đối phương trước một văn tài. Như sự thất bại và bái phục của tú tài Văn Bình (Đối đáp với tú tài Văn Bình) (theo Giai thoại văn chương Thái Bình [33], đây là mẩu truyện về một danh sĩ là thủ khoa ở Thái Bình).

Dạng thức 2 Nhóm này có 2 truyện: Trảm càn đước, Vẽ rồng. Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Danh sĩ trong tình huống ngẫu hứng (cid:1) ứng khẩu thơ

văn châm biếm, đả kích.

Môtíp của cốt truyện: -Ứng đối, ứng tác thơ văn châm biếm, đả kích (m) (tần số

xuất hiện: 2 lần) (1 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Ứng đối, ứng tác thơ châm biếm, đả kích

Môtíp sử dụng lối khai thác tính biểu trưng của từ ngữ. Diễn biến thường là nhân một sự việc tình cờ, nhân vật ứng tác thơ văn hàm ý đả kích. Như về Phan Văn Trị với câu thơ ngẫu hứng: “Đứng lại làm chi cho mất công....” (Vẽ rồng). Rồng vốn là biểu tượng của vua chúa đã bị đặt vào chỗ thấp kém. Có ý kiến cho đây là sự gán ghép, bởi ông là nho sĩ thanh cao, không làm chuyện không thanh lịch. Tính xác thực của sự kiện chưa rõ, song đã phản ánh cái nhìn của dân chúng về thái độ đánh giá vua chúa của Phan Văn Trị. Yếu tố tục được dùng như một phương thức hạ bệ đối tượng. Hay truyện kể: đã có lần Phan Văn Trị đòi phải “Trảm càn đước chi đầu, ẩm càn đước chi huyết, phanh càn đước chi thi, thực càn đước chi nhục”. “Càn đước” theo nghĩa hàm ẩn còn gắn với tên Tự Đức, ám chỉ vua chúa ươn hèn, bất tài. Mai Cao Chương nhận định: “Qua một số giai thoại chẳng những ông khinh bỉ Tự Đức mà còn căm ghét đến mức đòi chém đầu, uống máu, xẻ thịt phanh thây tên vua đầu hàng này” [24]. Hay có ý kiến cho đó là nhằm đả kích vua quan nhà Nguyễn co cổ, rụt đầu trước súng Tây.

Hệ thống giai thoại có kiểu nhân vật trung tâm thứ ba là Những danh nhân trên lịch sử vùng đất (KNV.4.3), Đây là những nhân vật nổi tiếng có dấu ấn trong tiến trình lịch sử địa phương về phương diện lịch sử kiến tạo cảnh quan, địa vật vùng đất.

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống giai thoại có đề tài - cốt truyện:

Cảm hứng đặt tên địa danh (ĐT-CT.4.3).

155

Đề tài - cốt truyện có thể xác lập với nhân vật mang đặc điểm Nhân vật đặt tên

địa danh (NV.4.3).

Nhóm này có 3 truyện: Lai lịch địa danh Hà Tiên, Về địa danh Bình Thuỷ -

Long Tuyền, Chùa Tây An.

Đây là truyện về Mạc Cửu, Doãn Uẩn. Huỳnh Mẫn Đạt. Nội dung các truyện kể về các nhân vật là những con người nổi tiếng, có vị thế xã hội đã đặt, đổi tên một địa điểm hành chính, địa điểm tự nhiên, công trình di tích... theo cảm hứng hay nhằm ban chúc điều tốt đẹp.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện về các nhân vật này như sau: Danh nhân, danh sĩ trong dịp đi qua (cid:1) thấy địa cuộc, địa vật (cid:1) cho xây, đặt hay đổi tên vùng đất, di tích nhằm ban chúc điều tốt đẹp.

Nhóm môtíp của cốt truyện: -Điềm lạ về địa cuộc, địa vật (m) (tần số xuất hiện:

3 lần) - Đặt hay đổi tên địa danh (m) (3 lần) (2 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Điềm lạ về địa cuộc, địa vật

Môtíp tạo dấu ấn linh thiêng cho sự hình thành, kiến tạo những địa danh, di tích của vùng đất. Về diễn biến sự kiện, nhân vật thấy cảnh vật, địa thế (sông, vàm rạch…) hay hoạt động của con người; hoặc thấy một hiện tượng gắn với điềm báo về địa cuộc, địa vật... đã liên tưởng đến một tên gọi đặt cho địa điểm, thường là mỹ từ.

Như Mạc Cửu khi dong thuyền trên sông Giang Thành, bỗng thấy “xa xa trong cảnh vật chập chờn của hoàng hôn có một đàn tiên nữ đang nô đùa trên sông nước”(hay: “Nhân một đêm thanh vắng, thấy trên sông có các vị tiên lữ hiện xuống chơi, bày ra cuộc du hồ”) (Lai lịch địa danh Hà Tiên); Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt “vừa đến Cồn Linh thì gặp phải trận cuồng phong, nhìn thấy phía trước có chỗ yên lặng có thể núp gió, bèn truyền quân chèo thuyền đi vào vàm rạch...” (Về địa danh Bình Thuỷ - Long Tuyền); hay Tổng đốc Doãn Uẩn, một đêm “đứng trên tháp canh thành An Giang, thấy đám mây ngũ sắc từ chân núi bay lên trên đó có vị Bồ Tát...” (Chùa Tây An)… Môtíp Đặt, đổi tên địa danh, di tích

Môtíp được biểu hiện gắn với sự diễn giải tên gọi có tính chất thi vị hoá. Như truyện Lai lịch địa danh Hà Tiên kể: “Lấy hình ành có người tiên hiện ra trên sông (hay “chốn có tiên lữ đến chơi trên sông”) quy ra chữ là Hà Tiên để đặt cho vùng đất mới (theo chính sử: “Buổi ban sơ ông Mạc Cửu đến đây khai thác đất hoang biến thành một giang sơn cẩm tú, chiêu tập nhân dân tới làm nên cơ nghiệp lớn”, ngày trước có một văn nhân tặng ba chữ Hà Tiên quốc [43,159]); Về địa danh Bình Thuỷ - Long Tuyền nhìn thấy ngọn rạch yên lặng, xem ra có long cuộc, Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt đã tuyên bố: “Nay ta theo dòng nước đến đây được bình yên vô sự. Vậy ta đặt tên cho

156

chỗ này là Bình Thuỷ...”; hay nhìn thấy địa điểm tốt Tổng đốc Doãn Uẩn “đã cho dựng chùa Tây An”...

Nhìn chung, các giai thoại nói đến những sự kiện lý thú, độc đáo, có cơ sở thực hoặc tưởng tượng liên quan đến những nhân vật nổi tiếng, nhân đó tạo thành tên gọi địa danh. Đây là hiện tượng sự móc nối tên gọi địa danh vào các nhân vật lịch sử tiêu biểu của địa phương. Qua những câu chuyện đẹp, thi vị, ẩn chứa sâu xa niềm tự hào về vùng đất, con người. Trong đó, cái cốt lõi chính là dấu ấn về các nhân vật, bởi trong mối quan hệ với thiên nhiên văn hóa, đóng vai trò chủ thể là con người lịch sử. Như về Mạc Cửu, dòng họ Mạc có công trong việc khai phá, mở mang vùng đất Hà Tiên, Châu Đốc, sáp nhập đất đai vào cương thổ nhà Nguyễn, làm mở rộng non sông. Qua câu chuyện thêu dệt về sự ra đời tên gọi Hà Tiên, đã cho thấy sự ngưỡng mộ, tôn vinh về con người và xứ sở, bởi như có ý kiến nhận xét: “Lịch sử người đã là lịch sử thần tiên, lịch sử xứ cũng là lịch sử thần tiên nữa, người có lịch sử thần tiên âu là người anh hùng, xứ có lịch sử thần tiên âu là xứ danh thắng” [75, 240].

Hệ thống giai thoại có kiểu nhân vật trung tâm thứ tư là Người trí thức yêu nước (KNV.4.4), gắn với dấu ấn về các nhân vật danh sĩ, nhà trí thức yêu nước Nam Bộ trong cuộc đối đầu với bọn thực dân xâm lược.

Tương ứng với kiểu nhân vật nêu trên, hệ thống giai thoại có đề tài - cốt truyện:

Đối kháng thực dân và tay sai (ĐT-CT.4.4).

Nhóm này có 12 truyện. Sơ đồ hóa diễn tiến cốt truyện của những truyện kể thuộc đề tài - cốt truyện này như sau: Danh sĩ có những hoạt động yêu nước hoặc đối thoại với thực dân và tay sai (cid:1) ứng đối thơ văn hoặc xử trí linh hoạt (cid:1) kết quả sự kiện về nhân vật.

Đề tài - cốt truyện có thể xác lập với nhân vật mang đặc điểm: Danh sĩ với chí hướng chống giặc (NV.4.4.1) và Đối thoại - “lắc đầu” (hay Danh sĩ với thái độ bất hợp tác) (NV.4.4.2).

- Danh sĩ với chí hướng chống giặc (NV.4.4.1) Nhóm này có 6 / 12 truyện và 1 dị bản. Nội dung các truyện kể về nhân vật là những nhà trí thức yêu nước bộc lộ thái độ phản kháng đối với thực dân và tay sai bằng hình thức văn chương hoặc bằng hành động ứng xử.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện về các nhân vật này như sau: Danh sĩ có cuộc gặp gỡ hoặc hoạt động lánh giặc (cid:1) ứng khẩu thơ văn tỏ chí hướng hay gặp gỡ tham vấn (cid:1) sự tán thưởng, hài lòng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Ứng đối, ứng tác thơ văn tỏ chí hướng (m) (tần số xuất hiện: 2 lần) -Cuộc gặp tham vấn (m) (2 lần) -Lời nói tỏ chính kiến (m) (2

157

lần) -Sự tán thưởng, hài lòng…(2 lần) -Lánh giặc, giữ nếp thanh bạch (3 lần) -Khước từ khuyến dụ (1 lần) (3 tình tiết, 3 môtíp). Có 3 dạng thức cốt truyện như sau:

Dạng thức 1 Nhóm này có 2 truyện: Cử Trị gặp Lê Quang Chiểu, Câu đối mừng năm mới. Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Danh sĩ có cuộc gặp gỡ (cid:1) ứng khẩu thơ văn tỏ chí

hướng (cid:1) sự tán thưởng, hài lòng.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Ứng đối, ứng tác thơ văn tỏ chí hướng (m) (tần số xuất hiện: 2 lần) -Sự tán thưởng, hài lòng... (1 lần) (1 tình tiết, 1 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Ứng đối, ứng tác thơ văn tỏ chí hướng

Những cuộc gặp gỡ và đối đáp “xuất khẩu thành thi”, là một hình thức phổ biến của giai thoại về các danh sĩ Nam Bộ. Đây là cuộc gặp gỡ giữa các danh sĩ là nhà trí thức, việc ứng đối thơ văn là một hình thức cầu nối để tỏ chí hướng yêu nước. Như: “Có lần, Phan Văn Trị gặp Lê Quang Chiểu ở Cây Cẩm…”. Nhân vật đã chủ động đưa ý tưởng khai đề: “Nhà thơ đọc: “Người Cây Cẩm trổ tài dệt gấm”, “Chiểu đối lại: “Khách đường xa biết sức chống xe”. Tình huống cuộc gặp được tạo ở địa danh “Cây Cẩm” để đặt mối liên hệ với việc “người Cây Cẩm”. Qua việc vận dụng lối chơi chữ, chí hướng thêu dệt gấm hoa cho đời và kiên cường đối đầu gian nan của các bậc danh sĩ đã được thể hiện sâu sắc. Hay trong truyện Câu đối mừng năm mới, khi Lê Quang Chiểu đổi lại quà tặng “xin thầy một câu đối để dán tết”, “Phan Văn Trị rất cảm động liền đem giấy đỏ ra viết tặng ngay một câu đối: “Nhà nghèo mới rõ người con hiếu, nước loạn mới biết kẻ tôi trung, một mảnh giấy khó tả hết việc nước nhà”… Hình thức đối chặt chẽ, cô đọng, vừa như đáp tạ một tấm lòng vừa gửi gấm sâu xa một tinh thần, ý chí kiên trung cúa nhà thơ. Tình tiết Sự tán thưởng, hài lòng

Tình tiết đưa đến sự nhận thức: các nhân vật là những nhà thơ yêu nước có cùng chí hướng, đang cất lên tiếng nói đồng tâm. Như truyện Phan Văn Trị gặp Lê Quang Chiểu kể: “Điều này cho thấy Lê Quang Chiểu rất hiểu Phan Văn Trị”...

Dạng thức 2 Nhóm này có 2 truyện và 1 dị bản: Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu, Ăn mắm

sống không phải là Tây (/Ăn mắm sống không phải là Tây).

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Danh sĩ có cuộc gặp gỡ với nhau hoặc với lãnh tụ khởi

nghĩa (cid:1) được tham vấn (cid:1) sự tán thưởng, hài lòng.

158

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Cuộc gặp tham vấn (m) (tần số xuất hiện: 3 lần) -Lời nói tỏ chính kiến (m) (2 lần) -Sự tán thưởng, hài lòng (3 lần) (1 tình tiết, 2 môtíp), được miêu tả như sau: Môtíp Cuộc gặp tham vấn và Lời nói tỏ chính kiến

Các môtíp có mối liên hệ. Về cuộc gặp tham vấn, đây là những cuộc gặp gỡ giữa các nhà nho yêu nước với các lãnh tụ kháng chiến chống Pháp bấy giờ. Như truyện Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu kể, “Mùa hè năm 1862, Trương Định có cuộc gặp gỡ với cụ Đồ Chiểu...”. Đối với Trương Định, điều quan tâm lớn nhất là muốn “theo bụng dân” đánh giặc chứ “chẳng nghe thiên tử chiếu” đầu hàng và mong tiếng nói đồng tâm của nhà thơ đang lắng nghe bằng tấm lòng. Hay về Phan Văn Trị, nhà thơ yêu nước xứ Phong Điền muốn tìm người bạn tri âm đất Đồng Nai. Cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường diễn ra quyết liệt đang là mối quan tâm hàng đầu của các danh sĩ, vậy là nhân dân kể họ đã nói về nỗi băn khoăn đó, bởi người yêu nước, trung nghĩa bấy giờ cũng phải tự nói rõ tấm lòng và muốn tỏ rõ thái độ khinh miệt đối với bọn tay sai theo Tây (Ăn mắm sống không phải là Tây).

Lời đối thoại đảm nhận chức năng thông tin sự kiện, dẫn dắt ý tưởng, tạo chiều sâu trí tuệ. Như Trương Định hỏi với “vẻ ấm ức” về việc thánh chỉ đòi giải binh đầu Pháp, cụ Đồ không trả lời hẳn mà lấy hình ảnh “cây dừa xanh tốt” làm hàm ý. “Trương Định hiểu ngay, nói: “Ở đây, cái gốc ở ngay đây!”. Điều được nói đến chính là dựa sức dân là kế sâu bền gốc, đi theo đó là đi đúng con đường chính nghĩa. Kết quả đã giải quyết thoả đáng sự băn khoăn của Trương Định và bộc lộ tâm ý của cụ Đồ. Hay trước lời than phiền của Cử Trị, cụ Đồ đã dùng món mắm, một món ăn quốc tuý để làm ám dụ: “Phải chú là Tây thì chú đâu biết ăn mắm sống?” (hay “Ăn mắm sống không phải là Tây”). Thực tế, đây là câu trả lời thoả đáng cho sự bức bối của Cử Trị trước những lời đàm luận của một nhóm “thiên hạ”. Đây là những lời nói tỏ chính kiến. Hay câu thơ trong tác phẩm của Đồ Chiểu được Cử Trị vận vào tình huống câu chuyện đã giúp nhà thơ biện giải tấm lòng và tỏ rõ thái độ trước thời cuộc: “Di, Tề nào khứng giúp Châu, Một mình một núi ai hầu chi ai!”. Tình tiết Sự tán thưởng, hài lòng

Tình tiết thể hiện kết quả đạt được của những cuộc gặp gỡ. Như trong Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu, kết quả là không khí hào hứng: “Trương Định cười vang, Đồ Chiểu hào hứng đọc bài thơ mới”. Sau cuộc gặp, tướng quân Trương Định sẽ vững tâm bước tiếp con đường đã chọn, còn cụ Đồ Chiểu có thêm cảm hứng trút tâm can lên ngòi bút; hay cụ Đồ Chiểu và Cử Trị đều hài lòng với lời nói sâu sắc của mình (Ăn mắm sống không phải là Tây).

159

Đây là những cuộc gặp của các danh sĩ yêu nước trong cơn quốc biến, họ tìm nhau ở tấm lòng, thực tế còn có điều chưa rõ nhưng người dân đã hình dung như đã diễn ra. Trong đó, nổi lên hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu, cũng giống như trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người am hiểu thời cuộc đã lui về ở ẩn - ở cụ Đồ Chiểu là “tỵ địa”, bất hợp tác với giặc - mà ai làm việc gì lớn lao cũng đến xin lĩnh ý. Qua đây cho thấy vai trò quan trọng của những bậc trí thức ưu tú trong những giai đoạn lịch sử có nhiều biến động của đất nước.

Dạng thức 3 Nhóm này có 2 truyện: Phan Văn Trị ở Phong Điền, Cụ Đồ Chiểu giả điếc và 2

truyện được lặp: Câu đối mừng năm mới, Xóm Bà Đồ.

Sơ đồ cốt truyện: Danh sĩ lánh giặc (cid:1) giữ nghề nghiệp cao quý, tỏ khí tiết. Nhóm tình tiết của cốt truyện: -Lánh giặc, giữ nếp thanh bạch (tần số xuất hiện:

4 lần) -Khước từ khuyến dụ (1 lần) (2 tình tiết), được miêu tả như sau: Tình tiết Lánh giặc, giữ nếp sống thanh bạch

Tình tiết được biểu hiện với sự kiện các danh sĩ lui về tránh giặc, sống thanh bần. Về cơ sở thực tế, các danh sĩ, nhà nho yêu nước đã chọn con đường đi cùng nhân dân, tỏ rõ tấm lòng và khí tiết thanh cao. Như khi thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông, Phan Văn Trị đã về sống ở quê vợ Phong Điền, theo phong trào tỵ địa do chính ông tham gia khởi xướng. Nguyễn Đình Chiểu cũng tỵ địa về Ba Tri, Vĩnh Long (Bến Tre)... Trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, các nhà nho giữ gìn nếp sống giản dị, thường là dạy học, viết sách, làm thuốc.

Như về Phan Văn Trị, “Ông thường ngồi câu một mình trên xuồng nhỏ, đi đó đây, có lúc trôi nổi đến tận Châu Đốc”; về gia cảnh: “Ông sống trong cảnh nghèo, thanh bạch, được nhân dân và môn sinh giúp đỡ...” (Phan Văn Trị ở Phong Điền). Hay về Bùi Hữu Nghĩa, “Những năm tháng cuối đời, cụ sinh sống thanh bạch bằng nghề thuốc, làm thơ xướng họa và dạy học…” (Xóm Bà Đồ); về Nguyễn Đình Chiểu: “Sau đó cụ về Bến Tre dạy học, viết sách…” (Cụ Đồ Chiểu giả điếc). Đây là nghề nghiệp đồng thời cũng biểu hiện sự thanh cao, khí tiết. Bởi thực dân Pháp với chiêu bài văn hóa luôn tỏ ra trọng thị đối với các trí thức bản xứ, các nhà khoa bảng bấy giờ nếu đồng ý ra hợp tác với chúng sẽ có vật chất đầy đủ. Song các bậc thức giả đã tỏ rõ tấm lòng yêu nước, nêu tấm gương sáng về đạo đức, trong khi đối lập với họ, có không ít kẻ ra làm tay sai cho giặc được vinh thân phì gia (như Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương…). Chi tiết về gia cảnh nhân vật cho thấy rõ hơn ý nghĩa sâu sắc đó. Như truyện Phan Văn Trị ở Phong Điền kể: “Lúc sinh thời ông ăn uống đạm bạc, chỉ thích

160

dưa mắm”; “Gia đình ông ở rạch Cái Tắc trong một ngôi nhà lá đơn sơ, cất tạm ở mé sông. Người vợ của ông sau này phải đi giã gạo mướn để nuôi cả gia đình…”.

Các mẩu truyện cho thấy nhân dân ghi nhớ và dành tình cảm trân trọng đối với

các nhà trí thức yêu nước.

- “Đối thoại: lắc đầu” (hay Danh sĩ với thái độ bất hợp tác) (NV.4.4.2) Nhóm này có 6 / 12 truyện. Đây là truyện về Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,

Lê Quang Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Văn Thạnh, Học Lạc.

Nội dung các truyện kể về nhân vật là những danh sĩ đối thoại trực tiếp bằng lời

nói hoặc thơ văn, bộc lộ thái độ bất hợp tác đối với nhà cầm quyền thực dân.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện của những truyện về nhân vật này như sau: Danh sĩ trong tình huống đối thoại với thực dân và tay sai (cid:1) ứng đối thơ văn hoặc xử trí linh hoạt (cid:1) sự thất bại của đối phương.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Ứng đối, ứng tác thơ châm biếm, đả kích (m) (4 lần) -Khước từ khuyến dụ (3 lần) -Tẩy chay (không dùng) hàng Tây (1 lần) -Lời nói khảng khái (m) (3 lần) - Làm kẻ thù bẽ mặt (2 lần) -Sự thất bại của đối phương (3 lần) (4 tình tiết, 2 môtíp).

Có 2 dạng thức cốt truyện như sau:

Dạng thức 1 Nhóm này có 2 truyện: Những cuộc gặp giữa Pôngsông và cụ Đồ Chiểu, Hũ mắm của Tôn Thọ Tường và 2 truyện được lặp: Phan Văn Trị ở Phong Điền, Cụ Đồ Chiểu giả điếc.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Danh sĩ trong tình huống đối thoại với thực dân và tay

sai (cid:1) xử trí linh hoạt (cid:1) sự thất bại của đối phương.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Khước từ khuyến dụ (3 lần) -Tẩy chay (không dùng) hàng Tây (1 lần) -Lời nói khảng khái (m) (3 lần) -Làm kẻ thù bẽ mặt (2 lần) (3 tình tiết, 1 môtíp), được miêu tả như sau: Tình tiết Khước từ khuyến dụ

Biểu hiện thứ nhất là việc các danh sĩ từ chối tiếp xúc và phản ứng đối với hành động mua chuộc của những kẻ tay sai. Như truyện Hũ mắm của Tôn Thọ Tường kể: “Có lần, Pháp cho Tôn Thọ Tường là người bạn cố giao đến dụ dỗ...”, cụ Đồ “đã tìm cớ lánh mặt” nhưng do quan hệ quen biết nên “đành miễn cưỡng nhận” món quà là hũ mắm cá lóc, đến lúc phát hiện có vàng, “cụ Đồ vô cùng tức giận, bèn sai người đem số vàng đó trả lại và viết thơ trách Tôn Thọ Tường đã làm nhục mình”.

Biểu hiện thứ hai là việc các danh sĩ tỏ thái độ cự tuyệt trước thủ đoạn mua chuộc của kẻ thù thực dân. Như với Phan Văn Trị, “Giặc Pháp cũng đã nhiều lần mua

161

chuộc nhà thơ. Nhân dân kể lại rằng, có lần chúng cho tiền cụ Cử, cụ đã quẳng tiền vào mặt chúng rồi bỏ đi” (Phan Văn Trị ở Phong Điền). Tình tiết Tẩy chay (không dùng) hàng Tây

Tình tiết thể hiện thái độ bất hợp tác của nhân vật đối với kẻ thù một cách quyết liệt. Như về Nguyễn Đình Chiểu: “Ông lội đường ruộng mà đi chớ nhất định không đi đường lộ của Tây”; “Không dùng xà bông, chỉ giặt bằng nước tro”; “hay hỏi sao mặc toàn đồ trắng, cụ nói: -Tôi để tang cho đất nước” (Những giai thoại về Nguyễn Đình Chiểu). Môtíp Lời nói khảng khái

Môtíp có dấu ấn khá đậm nét. Đây là phát ngôn của các nhân vật trong tình huống đối thoại với thực dân hoặc tay sai. Trong đó, có sự xuất hiện nhân vật đối kháng là kẻ thù thực dân với thủ đoạn chính trị thâm hiểm. Những lời đối đáp sắc sảo, những câu nói hay, độc đáo của lời thoại trong các truyện kể đã trở thành những lời truyền tụng có sức sống lâu bền.

Như về Nguyễn Đình Chiểu, truyện kể về những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa tên đại diện nhà cầm quyền thực dân với nhà thơ yêu nước đất Nam Kỳ: “Lần khác, Quan chánh tham biện người Pháp tỉnh Bến Tre đến tận nhà thăm viếng”; hay: “Lần khác, Ponson lại đến nhà và thông báo về việc chính quyền Pháp đã xét để trả lại ruộng đất của cụ Đồ ở Tân Thới (Gia Định) và giục cụ cho người về nhận”. Cụ trả lời: “Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi xá gì?” (hay “nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”). Hay mang nặng nghĩa tình với nhân dân Cần Giuộc, nhà thơ cảm nhận được cái quý giá của sự yêu thương, trân trọng của người dân dành cho ông, điều này gửi gấm sâu sắc trong câu nói của ông với nhà cầm quyền thực dân: “Tôi đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của môn đệ và sự quý mến của đồng bào tôi!” (Những cuộc gặp giữa Pôngsông và cụ Đồ Chiểu). Hay khi Tôn Thọ Tường khuyên ra hợp tác với Pháp. “Cử Thạnh cười với vẻ khinh bỉ: -Tôi đã bỏ quan vì nghĩa nay há lại làm quan cho giặc sao?”, “Không bao giờ tôi muối mặt làm điều vô sỉ được”.

Lời nói khảng khái còn biểu hiện ở hình thức sự xen lẫn câu thơ trong bản kể, với câu thơ được lấy từ chính tác phẩm của nhân vật, tạo nên ý nghĩa biểu cảm sâu sắc. Như: “Lần thứ hai, Chủ tỉnh Pháp đến gặp, tỏ ra lo lắng về cảnh già nua, bệnh tật của cụ, nêu việc cấp tiền dưỡng lão, cụ từ chối và trả lời: “Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”. Tình tiết Làm kẻ thù bẽ mặt

162

Đây là cách thức đối phó với kẻ thù ở tình huống đối mặt trực tiếp. Về diễn biến sự kiện, trước kẻ thù với chiêu bài khuyến dụ, các danh sĩ đã khảng khái từ chối hay ứng phó linh hoạt làm chúng rơi vào thế bị động hoặc trở thành lố bịch.

Như về Nguyễn Đình Chiểu: một lần, lấy cớ nhờ nhuận chính bản Lục Vân Tiên, tên chủ tỉnh Pôngsông cùng Lê Quang Hiền đến thăm nhà thơ và mặc dù Hiền cố gắng dịch chậm, nhưng cụ “vẫn chập chập lắc đầu, đưa tay ra hiệu giả vờ là mình không nghe, không hiểu gì cả...” (Cụ Đồ Chiểu giả điếc). Hay đáp lời khẩn khoản của Ponson, cụ Đồ nói điều mong ước, đó là việc lễ tế vong hồn những người dân chết trận, nhưng “Đến hôm sau, khi Pôngsông cho người khé né vác cờ xí và lễ vật xuống Ba Tri thì mới hay cụ Đồ Chiểu đã làm lễ tế trước rồi!” (Những cuộc gặp giữa Pôngsông và cụ Đồ Chiểu).

Liên hệ giai thoại về Nguyễn Khuyến, vị danh sĩ Bắc Hà cũng đối phó với nhà cầm quyền thực dân theo cách thức riêng có phần hóm hỉnh: khi gặp viên công sứ Pháp, ông tỏ ra rất cung kính, loay hoay sửa áo sửa khăn, rồi bỗng chắp tay lạy ngay cái cột bên cạnh hắn, tên công sứ “lắc đầu ngán ngẩm, hỏi han qua quýt, rồi sai người dẫn ông về” (Lạy cột). Sự thắng lợi có ý nghĩa sâu sắc, nó chứng tỏ tinh thần kiên cường, bất khuất của các danh sĩ yêu nước chống kẻ thù thực dân.

Dạng thức 2 Nhóm này có 4 truyện: Thơ ứng khẩu của Phan Văn Trị, Cử Thạnh, Chó chết

trôi, Thơ ứng khẩu của Huỳnh Mẫn Đạt.

Sơ đồ kết cấu cốt truyện: Danh sĩ trong tình huống đối thoại với thực dân và tay

sai (cid:1) ứng đối thơ văn tỏ thái độ phản kháng (cid:1) sự thất bại của đối phương.

Nhóm tình tiết, môtíp của cốt truyện: -Ứng đối, ứng tác thơ văn châm biếm, đả kích (m) (tần số xuất hiện: 4 lần) -Sự thất bại của đối phương (3 lần) (1 tình tiết, 1 tình tiết), được miêu tả sau: Môtíp Ứng đối thơ văn châm biếm, đả kích

Về dấu ấn môtíp, đây là lối ứng tác thơ văn (bài thơ, câu đối) bộc lộ thái độ đối

kháng một cách kín đáo hoặc rõ ràng, quyết liệt của các danh sĩ đối với đối phương.

Trước hết là thái độ đối kháng một cách kín đáo. Tình huống ứng tác của nhân vật có tính chất ngẫu nhiên. Như truyện Thơ ứng khẩu của Huỳnh Mẫn Đạt kể: “Ông Huỳnh Mẫn Đạt đứng trước một tình thế khó xử bèn ngâm bài thơ tỏ bày tâm sự...” (hoặc “ông không sao được, đành đứng ra đáp lễ bằng một bài thơ...”). Về yếu tố nghệ thuật, lời văn của Huỳnh Mẫn Đạt thể hiện sự công kích nhưng tao nhã, sâu sắc: “…Sự đời thấy vậy thì hay vậy, Thà ẩn non cao chẳng thấy nghe”.

163

Bên cạnh đó là thái độ đối kháng một cách quyết liệt, đối tượng là những kẻ tay sai nhân cách thấp kém. Nhân vật bị đưa vào tình huống bắt buộc ứng đối. Như tên Trần Bá Lộc có ý muốn răn đe, buộc Phan Văn Trị ứng khẩu bài thơ với đầu đề được ra theo lối vô học; hay Cử Thạnh đứng trước vế đối phô trương hợm hĩnh của tên Trần Bá Thọ. Nhân vật cũng ứng đối trong một tình huống ngẫu nhiên. Như Học Lạc, một lần từ Thuộc Nhiêu lên Sài Gòn, tình cờ gặp đám tang linh đình của Huỳnh Công Tấn, trước lời thách đố của một người bạn, nhà thơ đã ứng khẩu bài thơ châm biếm đối tượng (Chó chết trôi).

Trong đó, yếu tố tục được dùng như một phương thức nghệ thuật nhằm châm biếm, đả kích sâu cay. Ở thế bị động, nhân vật đã dùng cái tục đáp trả đích đáng đối phương theo lối “gậy ông đập lưng ông”. Như: Phan Văn Trị “đứng ngâm ngay bốn câu: “Cậy thể khom lưng nồi dưới đít, Biết đâu sắp bị chó liền tha !” (Thơ ứng khẩu của Phan Văn Trị), bài thơ miêu tả rất chân thật sự vật mà Trần Bá Lộc yêu cầu, nhưng cái phần “ý tại ngôn ngoại” của bài thơ, đó là sự khinh ghét, phỉ nhổ đối với bọn tay sai cũng rất rõ ràng. Hay nhân vật chủ động dùng cái tục để đánh vào sự hợm hĩnh của đối phương. Như trước vế đối của Trần Bá Thọ, kẻ đang huênh hoang, tự tâng bốc về gia thế: “Phụ tử hiếu sanh con thế ấy mới là vàng”, Cử Thạnh đã đối lại: “Tham phú phụ bần (…) đứa nào ở bạc”. Còn trong bài thơ của Học Lạc, hình tượng được xây dựng mang tính hai mặt, tạo cho người nghe liên tưởng đến thân phận “chó săn”, thâm ý đả kích mạnh mẽ: “Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu, Thác thả dòng sông xác nổi phều…”. Tình tiết Sự thất bại của đối phương

Tình tiết thể hiện qua kết quả cụ thể. Đó là sự thất bại của đối phương trong chiêu bài khuyến dụ, như: “Kết cục, cả thầy lẫn tớ hôm nay đành tiu nghỉu ra về”, “Ponson bị một vố đau, khác nào cha con anh Bùi Kiệm “máu dê” trong Lục Vân Tiên” (Những cuộc gặp giữa Pôngsông và cụ Đồ Chiểu). Cách thức so sánh có sự liên tưởng thú vị. Qua hình ảnh nhân vật phản diện trong tác phẩm của cụ Đồ Chiểu, có thể hình dung sự thất vọng đến hài hước của đối tượng và thái độ giễu cợt đối với chúng.

Về bài thơ, vế đối công kích những tên tay sai, dù với mục đích “răn đe” hay phô trương hợm hĩnh, đối phương đều nhận lấy kết quả thích đáng, như: “nghe xong bài thơ, Trần Bá Lộc tức lộn ruột. Nhưng không sao bắt bẻ được” (Thơ ứng khẩu của Phan Văn Trị); hay “Đối lại chan chát, lời lẽ sâu cây. Câu đối như roi vọt đánh vào phường buôn dân bán nước, khiến Trần Bá Thọ tái mặt” (Cử Thạnh)...

Cac giai thoại đưa đến sự nhận thức về tinh thần đối kháng kẻ thù của người trí thức trong cuộc đối đầu trực diện với thực dân và tay sai. Với tư tưởng yêu nước, các

164

danh sĩ Nam Bộ đã hành động theo lương tri, trách nhiệm, theo tinh thần đạo lý truyền thống của nhân dân, giữ khí khái đường hoàng trước kẻ thù.

5.3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA HỆ THỐNG TRUYỆN 5.3.1. Sự ngợi ca những con người “dệt gấm thêu hoa”, xây dựng nên những biểu tượng văn hoá Nam Bộ

Các truyện kể nói đến những khía cạnh riêng về hành trạng hoặc thành quả văn hóa liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của các danh nhân, danh sĩ Nam Bộ, qua đó, đã biểu hiện những ý nghĩa khách quan sâu sắc.

Theo truyền thống, giai thoại về các nhà khoa bảng, danh nhân văn hóa, các sĩ phu yêu nước hoặc các nhân vật nổi tiếng ở các địa phương làm đa dạng, phong phú thêm kho tàng giai thoại danh nhân Việt Nam. Nhóm giai thoại về danh nhân, danh sĩ Nam Bộ cũng nằm trong mạch ngợi ca, tôn vinh. Trước hết là về các nhân tài địa phương. Về chủ đề con người, truyền thống lịch sử, văn hóa địa phương, ca dao Nam Bộ có câu: “Đồng Nai có bốn rồng vàng, Lộc hoạ, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi”; hay: “Vĩnh Long có cặp rồng vàng, Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan tuẫn thần”. Mỗi bộ môn nghệ thuật xuất hiện một nhân tài được ngợi ca, trong đó thi ca gắn liền với tên tuổi Bùi Hữu Nghĩa. Bên cạnh đó là Phan Thanh Giản, với dân chúng, tài học của nhân vật cũng xứng vào hàng “thi long”, tiêu biểu của truyền thống văn tài địa phương. Các mẩu truyện được truyền tụng cho thấy thái độ, tình cảm của người dân đối với các nhân vật có sức ảnh hưởng lớn đương thời. Tiêu biểu như tình cảm trân trọng đối với Bùi Hữu Nghĩa, vị thủ khoa văn tài lỗi lạc; Phan Thanh Giản, vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Bộ; hay Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Lê Quang Chiểu..., những nhà thơ yêu nước, danh nhân văn học... Họ là những con người “trổ tài dệt gấm” (làm thơ) và hoạt động yêu nước. Hay thái độ kiêng nể có phần kính sợ đối với Lê Văn Duyệt, người có hai thời kỳ làm Tổng trấn mà uy danh vang khắp Gia Định thành năm xưa...

Bên cạnh đó, tấm lòng yêu nước thương dân, đạo đức cao cả đối với nhân dân của các danh nhân, danh sĩ Nam Bộ cũng đã được nhiều giai thoại nhắc đến. Trong đối thoại với thực dân và tay sai, nổi bật nhất là cách hành xử nghĩa khí, can trường của các danh nhân, danh sĩ (như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Văn Thạnh...). Các giai thoại đã cho thấy tấm gương về lối sống, đạo đức của những trí thức ưu tú, một điểm sáng của cốt cách tinh thần người Nam Bộ. Ở đây có sự gặp gỡ với các bậc danh nhân, danh sĩ đất Bắc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền..., những con người có tấm lòng ưu thời mẫn thế, cuộc sống cá nhân luôn

165

giản dị, thanh cao và có thái độ cương quyết trước kẻ thù xâm lược. Đây chính là các danh nhân, danh sĩ đã kiến tạo nên biểu tượng văn hóa Nam Bộ, Việt Nam.

Về không gian địa điểm, những tên gọi Tao đàn Bà Đồ, Cần Thơ, Phong Điền, Ba Tri, Cần Giuộc, Đồng Nai...; hay sông Ba Lai, sông Giang Thành, xứ sở Vĩnh Long, Hà Tiên..., những địa chỉ văn hóa, lịch sử, những hình ảnh về vùng đất, con người... có sức âm vang mạnh mẽ. Về dấu ấn thiên nhiên, hình ảnh cây dừa xanh tốt trong câu chuyện giữa cụ Đồ Chiểu và tướng quân Trương Định hay hình ảnh món mắm, một món ăn dân dã, quen thuộc, các danh sĩ yêu nước đã dùng để phê phán những kẻ theo Tây quên cội nguồn...., tất cả mang đậm dấu ấn tinh thần, ý chí của con người nơi đây. Thiên nhiên vùng đất, lịch sử, truyền thống văn hóa, con người kiến tạo nên những thành quả văn hóa... thực đã kết tinh trong những câu chuyện “đẹp” về các nhân vật lịch sử Nam Bộ.

5.3.2. Ý nghĩa sự đối kháng văn hoá

Danh nhân, danh sĩ yêu nước với ngòi bút chiến đấu đã thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh quật cường chống kẻ thù thực dân. Những câu chuyện về văn chương, về hoạt động mang đậm tinh thần yêu nước, bất khuất của các danh nhân, danh sĩ Nam Bộ đã được nhân dân tiếp nhận và lưu truyền rộng rãi.

Nói về tinh thần chống thực dân xâm lược trên phương diện sự đối kháng chính trị, nhóm tác giả Viện nghiên cứu văn hóa - nghệ thuật Việt Nam nhận xét: “Sự đối kháng chính trị trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX luôn gắn với sự đối kháng văn hoá. Sự đối kháng văn hoá trước hết là sự đối kháng với Thiên Chúa giáo một tôn giáo được các nhà Nho và Nhà nước phong kiến coi là “tả đạo”. Sự đối kháng văn hoá này ngày càng vượt khỏi mâu thuẫn tư tưởng - văn hóa và mang ý nghĩa chính trị” [208,45]. Đạo lý truyền thống dân tộc dựa trên Nho học, tuy đã biến đổi cho thích hợp với hoàn cảnh vùng đất mới vẫn rất sống động mãnh liệt, trở thành một ý thức đối kháng đặc biệt. Sự đối kháng này không chỉ đối với đạo Tây, dòng tư tưởng dọn đường và song hành cùng bước chân xâm lược đã bị xem là “tả đạo”, giữa chữ Tây và chữ Ta (chữ Nho) mà còn ở thái độ ứng xử đối với những gì liên quan đến thế lực xâm lược.

Các giai thoại đã thể hiện thái độ tinh thần này. Việc cụ Đồ Chiểu không đi đường lộ Tây đắp, không xài bột giặt Tây làm… đã nói lên sự “tẩy chay”, không chấp nhận mọi thứ thuộc về kẻ thù. Trước hết, có thể đó là sự đối kháng về nếp sống, nếp sinh hoạt, tức do không chấp nhận cái khác biệt, xa lạ nên nó trở nên nghịch mắt. Sâu xa hơn, những thứ ấy vốn có lai lịch bất minh, thuộc về kẻ xâm lược nên thấy đáng ghét, “lai căng”, tức là sự đối kháng về tư tưởng chính trị. Hay câu nói của cụ Đồ Chiểu: “Phải chú là Tây thì chú đâu biết ăn mắm sống?” (hay “Ăn mắm sống không

166

phải là Tây”, “Không biết ăn mắm sống, chỉ có kẻ vong bổn”) mang hàm ý sâu xa. Đây là thái độ không chấp nhận đầu hàng, phản quốc. Tinh thần của nó thể hiện chính trong câu thơ Nguyễn Đình Chiểu, bấy giờ đang trở nên nhức nhối lương tri những con người chính trực, yêu nước: “Sống làm chi theo quân tả đạo, Quăng vùa hương, xô bàn độc nghĩ lại thêm buồn, Theo làm chi ở lính mã tà, Chia rượu chát, phát bánh mì, nghĩ càng thêm hổ…”. Hay các giai thoại về những lần gặp giữa cụ Đồ Chiểu và Pôngsông, với những hành động, lời nói khảng khái thể hiện thái độ bất hợp tác với nhà cầm quyền thực dân; về bài thơ đối đáp có tính công kích sâu sắc của Huỳnh Mẫn Đạt đối với Tôn Thọ Tường; hay về Phan Văn Trị với bài thơ ứng khẩu châm biếm sâu cay đối với Trần Bá Lộc… được ghi nhận là đã lan truyền khắp Nam Bộ bấy giờ. Đây chính là thái độ đối kháng chính trị dưới hình thức đấu tranh văn hoá.

Các giá trị tư tưởng ghi nhận từ hệ thống truyện đã cho thấy việc tôn vinh danh

nhân, danh sĩ Nam Bộ nói riêng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Tiểu kết chương 5

Qua trình bày, chúng tôi khái quát nội dung đã thực hiện ở chương 5 như sau: 1. Luận án khảo sát, miêu tả, phân tích, đánh giá hệ thống truyện về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, đi từ bước cơ sở khái quát diện mạo thể loại, cơ cấu văn bản. Trong đó, chúng tôi chú ý nhận diện yếu tố sự thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau trong hệ thống thể loại diễn ra ở cấp độ tiểu loại.

2. Luận án cũng hướng đến nhiệm vụ xác định diện mạo đặc thù của hệ thống truyện, thông qua việc tập trung miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa ra những kiến giải về đặc trưng, giá trị nội dung của hệ thống truyện, một bộ phận truyện dân gian mang tính đại diện cho vùng đất và còn có tính bao quát những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

3. Các miêu tả, phân tích của luận án cũng đã thể hiện sinh động đặc điểm thể loại của giai thoại về danh nhân Nam Bộ nói riêng, như đã có nhận xét, đó là sự “gần gũi với người thật, ít có yếu tố siêu nhiên, thần kỳ” [99,14].

167

KẾT LUẬN

Tiếp cận văn hóa dân gian là một công việc đòi hỏi nhiều công sức và tâm huyết. Nghiên cứu Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, theo hướng tiếp cận thể loại, chúng tôi tiếp nối các công trình nghiên cứu đi trước hướng đến việc khám phá diện mạo, nét đặc trưng nổi bật của một mảng nội dung, giá trị tiêu biểu, có tính nghệ thuật của văn hóa dân gian ở vùng đất còn non trẻ này.

Qua khảo sát nghiên cứu đề tài, chúng tôi xin khái quát một số vấn đề như sau: 1. Trước hết, luận án đã giới thuyết nhận thức lý luận về thể loại truyền thuyết và giai thoại. Đây là cơ sở, xuất phát điểm cho việc tập hợp tư liệu, nghiên cứu những sáng tác cụ thể thuộc đối tượng nghiên cứu.

Với truyền thuyết, luận án nhấn mạnh “thực tại được phản ánh” là hiện thực lịch sử thông qua cảm quan của nhân dân, biểu hiện trong những hình thức nghệ thuật đặc biệt; truyền thuyết là “sử trong truyện”; truyền thuyết gắn với niềm tin của nhân dân về những điều được kể dù những điều đó có gắn với yếu tố hoang đường; truyền thuyết thường tồn tại theo hệ thống truyện xoay quanh nhân vật và sự kiện lịch sử và thường gắn với các chứng tích văn hóa. Đây là thể loại văn học dân gian có sự hình thành và biến đổi qua các thời kỳ. Thực tại lịch sử trong truyền thuyết đã được nhào nặn lại theo cách cảm, cách nghĩ của nhân dân. Có khi thực tại đó trùng với chính sử nhưng cũng nhiều trường hợp khác chính sử. Những yếu tố tưởng tượng hoang đường, hư cấu trong truyền thuyết không chỉ là yếu tố nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa thể hiện niềm tin, ước vọng của nhân dân.

Bên cạnh đó, luận án chú trọng đặc điểm tính kết chuỗi của các tác phẩm thành hệ thống truyện xoay quanh các nhân vật hay sự kiện, có nét đặc thù ở truyền thuyết. Mức độ hệ thống truyền thuyết tùy theo các điều kiện có thể khác nhau nhưng nhìn chung thường có quy mô, phạm vi rộng lớn hơn so với giai thoại.

Luận án cũng nhấn mạnh đặc điểm mối quan hệ gắn bó của truyền thuyết với các di tích lịch sử văn hóa, nghi lễ, tập tục... với ý nghĩa là những hình thức văn hóa vật thể, môi trường “diễn xướng” của truyền thuyết.

Có nhiều cách phân loại truyền thuyết. Trong luận án này, chúng tôi phân truyền thuyết thành các tiểu loại: truyền thuyết địa danh, truyền thuyết phong vật và truyền thuyết lịch sử.

168

Với giai thoại, lý thuyết về thể loại này chưa ổn định. Trong lĩnh vực sưu tầm, biên soạn, việc chưa phân biệt rõ ranh giới giữa giai thoại với truyện cười, truyện trạng, cho thấy sự chưa thống nhất về quan điểm phân loại, đồng thời cũng nói lên tính chất phức tạp của đối tượng. Sự khó khăn trong nghiên cứu về giai thoại là ở chỗ không ít bộ phận của nó nằm lẫn vào những thể loại khác. Từ những đặc trưng của sự sáng tác, lưu truyền và những thành tựu của quá trình sưu tầm, biên soạn, cần khẳng định giai thoại folklore với tư cách là một thể loại văn học dân gian độc lập. Giai thoại được nhận diện với đặc trưng “tính lý thú”, “tính chất gần gũi với con người thật”, yếu tố “sự hư cấu trùng lặp”... Vấn đề đặt ra là cần phân biệt giữa thể loại giai thoại folklore với giai thoại văn học bác học, nhằm “phân hóa” rõ vị trí thể loại.

Về sự gần gũi, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của truyền thuyết và giai thoại, luận án đã chỉ ra những điểm tương đồng và khac biệt giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử.

2. Luận án đã tập hợp, hệ thống hóa nguồn truyện kể dân gian về các nhân vật lịch sử ở Nam Bộ. Nguồn tư liệu sưu tầm, sử dụng chủ yếu là các văn bản đã được công bố qua thư tịch “cổ” về vùng đất và những tập sưu tầm, biên soạn của nhiều tác giả, nhiều cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó là những tư liệu sưu tầm điền dã của nhiều tổ chức, cá nhân. Các truyện kể ghi nhận từ nguồn thư tịch “cổ” về vùng đất tuy khá ít ỏi nhưng là những đơn vị tác phẩm khởi đầu của hệ thống truyện, có sự minh chứng về thời gian tồn tại của văn bản. Một số tư liệu sưu tầm điền dã đã ghi nhận được lời kể truyền tụng còn tươi mới trong nhân dân. Qua đây cũng giúp chúng tôi thấy rõ thêm mối quan hệ ảnh hưởng giữa yếu tố lịch sử, địa lý, văn hóa... và sự hình thành truyện kể dân gian của vùng đất. Nguồn tư liệu phong phú là điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong việc tập hợp, chọn lọc văn bản. Tuy nhiên, như đã nêu, tư liệu liên quan đến đề tài còn phân tán, vấn đề ghi chép, văn bản hóa còn nhiều bất cập.

Luận án đã chỉ ra tiêu chí để lựa chọn, tập hợp tư liệu, trong đó tiêu chí hàng đầu là “chất dân gian” của bản kể. Cùng với tiêu chí nói trên là tiêu chí thể loại (bao gồm cả việc ghi nhận các cốt kể, dị bản và chi tiết tương truyền) và tiêu chí nhân vật lịch sử.

Luận án nghiên cứu về các truyền thuyết, giai thoại gắn với nhân vật lịch sử ở Nam Bộ từ thế kỷ XIX trở về trước theo các nhóm nội dung, chủ đề cơ bản của tiến trình lịch sử Nam Bộ tương ứng với các hệ thống nhân vật lịch sử gồm: nhân vật khai khẩn mở đất, nhân vật chiến đấu chống ngoại xâm và nhân vật danh nhân, danh sĩ. Bên cạnh đó, những dấu ấn lịch sử, văn hóa đã trở thành chất liệu cho sự hình thành mảng truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh.

169

Theo đó, đối tượng nghiên cứu khảo sát của luận án gồm 4 nhóm truyện, với tổng số 220 đơn vị truyện và 17 dị bản (truyền thuyết có 180 truyện, 14 dị bản và giai thoại có 40 truyện, 3 dị bản) xoay quanh 104 nhân vật lịch sử.

3. Trọng tâm tiếp theo của luận án là việc khảo sát hệ thống truyện từ đặc trưng thể loại. Về đặc trưng nghệ thuật, luận án tập trung miêu tả nội dung, phân tích đặc điểm cấu tạo của các nhóm truyện. Việc khảo sát đi từ khái quát các kiểu nhân vật, các đề tài - cốt truyện, làm cơ sở xác định các đặc điểm nhân vật. Sự hiện thực hoá cốt truyện được biểu hiện cơ bản ở các tình tiết và môtíp, đơn vị kiến tạo cốt truyện.

Hệ thống truyện có các kiểu nhân vật, đề tài - cốt truyện, môtíp theo truyền thống, đồng thời có bổ sung một số đơn vị với sắc thái mới, phong phú. Đáng chú ý, hệ thống truyền thuyết Nam Bộ về chống giặc ngoại xâm đã cho thấy con đường sáng tạo của thể loại truyền thuyết ở thời kỳ cận đại. Theo đó, luận án đã khái quát những nét đặc sắc của truyền thuyết Nam Bộ so với truyền thuyết vùng Bắc Bộ nói chung với những điểm tương đồng như: đều lấy sự kiện và nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng làm cốt lõi cho nội dung tác phẩm; cảm hứng sáng tác chủ đạo là ngợi ca và tôn vinh, xu hướng thiêng hóa các nhân vật lịch sử; và những điểm dị biệt có tính đặc trưng như: cấu tạo cốt truyện không xuất hiện môtíp nhân vật Ra đời thần kỳ, ít xuất hiện môtíp nhân vật Hóa thân, ít yếu tố thần kỳ tham gia vào cốt truyện thay vào đó là yếu tố ly kỳ, chiến công của các nhân vật lịch sử anh hùng chủ yếu do tự rèn luyện bản thân chứ không phải là sự phù trợ bởi yếu tố thần kỳ.

Hệ thống truyện với nhân vật trung tâm là các nhân vật lịch sử Nam Bộ, những người có những thành tích, hoạt động hoặc có dấu ấn trong tiến trình khẩn hoang, xây dựng văn hóa và đánh giặc, mở nước và giữ nước gian khổ trên vùng đất mới đã phản ánh công cuộc xây dựng và kiến tạo văn hóa, ghi nhận và làm khắc sâu thêm những giá trị truyền thống và tinh hoa của phẩm chất con người Việt Nam nói chung và con người Nam Bộ nói riêng.

4. Theo hướng tiếp cận thể loại, từ các tư liệu trong các hệ thống truyện, qua các phân tích nghệ thuật, chúng tôi rút ra một số nhận thức về sự tương tác giữa truyền thuyết và giai thoại như sau:

Thể loại truyền thuyết và giai thoại định theo khuôn mẫu truyền thống không hoàn toàn trùng khớp với các thể loại truyện dân gian Nam Bộ. Có sự vận động, chuyển hóa thể loại trong mối quan hệ tương tác diễn ra trong giai đoạn phát triển muộn, xuất hiện ở những vùng đất cách xa cội nguồn truyền thống.

Khác với truyền thuyết ở các vùng đất cổ xưa đậm màu huyền thoại, truyền thuyết về các nhân vật lịch sử Nam Bộ mang dấu ấn thực tại. Đây có thể xem là kết quả

170

của sự tương tác của truyền thuyết đối với giai thoại trong tiến trình vận động, biến đổi trong giai đoạn phát triển về sau của các thể loại. Truyền thuyết và giai thoại đã thể hiện những đặc trưng thể loại trong những điều kiện phát triển mới.

Những khảo sát về sự gần gũi, thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của truyền thuyết và giai thoại trong luận án tuy còn ít ỏi nhưng hy vọng sẽ góp phần đặt vấn đề nghiên cứu những lý thuyết cơ sở về tương tác thể loại trong loại hình tự sự dân gian nói riêng.

5. Luận án này mới chỉ là điểm mốc đầu của quá trình nghiên cứu lâu dài về một đề tài phong phú, hấp dẫn. Từ kết quả đạt được, chúng tôi đề xuất một số nhiệm vụ nghiên cứu cần phát triển như sau:

- Cần tiếp tục hoàn chỉnh và công bố những công trình sưu tầm, biên soạn chuyên biệt về các nhân vật lịch sử ở Nam Bộ, đặc biệt, lưu ý công tác sưu tầm điền dã các nguồn tư liệu dân gian. Đây là nhiệm vụ cần thiết và có ý nghĩa trong việc bảo tồn và phát triển nền văn hóa dân gian Nam Bộ nói riêng trong nền văn hóa đa dạng, thống nhất và đậm đà bản sắc của dân tộc.

- Cần tiếp tục khảo sát nghiên cứu thêm những đặc trưng nội dung, nghệ thuật nguồn truyện kể dân gian về các nhân vật lịch sử Nam Bộ ở cấp độ kiểu truyện, các môtíp truyền thống, các môtíp mới.

- Tiếp tục triển khai sâu rộng hơn vấn đề tương tác thể loại giữa truyền thuyết và giai thoại, xác lập một lý thuyết chung làm cơ sở cho sự vận dụng vào sưu tầm nghiên cứu những hệ thống truyện cụ thể.

- Mở rộng phạm vi đề tài nghiên cứu truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử ở Nam Bộ về thời gian (đến giai đoạn đầu thế kỷ XX), làm phong phú thêm những đặc trưng, giá trị của nguồn truyện dân gian Nam Bộ.

171

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An (1999), “Truyện kể địa danh từ góc nhìn thể loại”, Văn học, số 3. 2. Trần Thị An (2001), “Suy nghĩ mới về bản chất thể loại truyền thuyết”, Thông

báo văn hóa dân gian, Đại học quốc gia Hà Nội.

3. Trần Thị An (2002), Đặc trưng thể loại truyền thuyết và quá trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.

4. Trần Thị An (2006), “Nhận diện truyền thuyết các dân tộc thiểu số ở Việt

Nam”, Văn hóa dân gian, số 6.

5. Chiêng Xom An (1992), “Bàn thêm về thể loại truyền thuyết”, Văn hóa dân

gian, số 2.

6. Đào Duy Anh (1963), Hán Việt tự điển, Trường Thi, Sài Gòn. 7. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hoá sử cương, Văn hoá thông tin, Hà Nội. 8. Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp (1990), Những danh sĩ miền Nam, Tiền Giang. 9. Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX, Đại học quốc gia TP.HCM.

10. Nguyễn Thế Anh (1967), “Phan Thanh Giản dưới mắt người Pháp qua vài tài

liệu”, Sử Địa, số 7, Khai Trí, Sài Gòn.

11. Thanh Ba (2007), Nguyễn Hữu Cảnh chân dung người mở cõi, Mũi Cà Mau. 12. Ban bảo vệ di tích đình Nguyễn Trung Trực (2004), Nguyễn Trung Trực. 13. Bảo tàng Kiên Giang (1989), Nguyễn Trung Trực - thân thế và sự nghiệp, Kiên

Giang.

14. Barthes P.Roland Barthes (1996), “Dẫn luận phân tích các cơ cấu truyện kể”, Communications (Giao Lưu, Paris), Giai thoại kẻ sĩ, Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 15. J.Barrow (2008), Một chuyến du hành đến xứ Nam Kỳ (1792-1793), Nguyễn

Thừa Hỷ dịch, Thế giới, Hà Nội.

16. Nguyễn Công Bình (chủ biên) (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu

Long, Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Bổn (1983), Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, Sở Văn

hoá thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng.

18. Nguyễn Đình Bưu (1975), “Các mảng truyện kể dân gian về cuộc khởi nghĩa

Hoàng Hoa Thám lưu truyền trên đất Yên Thế”, Văn học, số 1.

19. Trương Bá Cần (2011), Hoạt động ngoại giao của nước Pháp nhằm củng cố cơ

sở tại Nam Kỳ (1862 – 1874), Thế giới, Hà Nội.

20. Charles Seeger (2005), “Chất dân gian của những người không phải dân chúng và chất phi dân gian của dân chúng”, Folklore thế giới một số công trình nghiên cứu cơ bản, nhóm tác giả biên dịch, Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Liêm Châu (1993), Kỳ tích núi Sam, Châu Đốc. 22. Võ Phúc Châu (2011), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống

Pháp ở Nam Bộ (1858 - 1918), Thời đại, Hà Nội.

172

23. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,

Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch, Đà Nẵng.

24. Mai Cao Chương (1985), “Tiếng thơ Phan Văn Trị”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị, tổ chức ở Cần Thơ, Sở Văn hóa thông tin Cần Thơ.

25. Lê Văn Chưởng (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, Trẻ,

TP.HCM.

26. Linda Dégh (2005), “Truyền thuyết”, Folklore một số thuật ngữ đương đại, Lê

Thị Thanh Hương dịch, Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Chu Xuân Diên (2001), Mấy vấn đề văn hóa và văn hóa dân gian Việt Nam,

Văn nghệ TP.HCM.

28. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian mấy vấn đề phương pháp luận và

nghiên cứu thể loại, Giáo dục, Hà Nội.

29. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, ĐHQG TP.HCM. 30. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng, TP.HCM. 31. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2005), Văn học dân gian Bạc Liêu, TP.HCM. 32. Phạm Đức Duật (biên soạn) (2011), Văn học dân gian Thái Bình, Lao Động, Hà

Nội.

33. Thanh Dũng (2009), “Thanh kiếm cổ luân lạc”, Báo Thanh Niên, ngày 31/12. 34. Nguyễn Đăng Duy (1997), Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Hà Nội. 35. Lưu Đức Dương (2001), Lịch sử lưu dân, Cao Tự Thanh dịch, Trẻ, TP.HCM. 36. Trương Minh Đạt (2008), Nghiên cứu Hà Tiên, Trẻ, TP.HCM. 37. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng Type và Motif, Khoa học

xã hội, Hà Nội.

38. Trần Bạch Đằng (chủ biên), (1996), Địa chí Đồng Tháp Mười, Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

39. Vũ Phương Đề (2001), Công dư tiệp ký, Đoàn Thăng dịch, Văn học, Hà Nội. 40. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh (Năm 1996), Văn hoá thông tin, Hà Nội. 41. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Tập 1, Mai Ngọc Mai dịch, Khoa học xã

hội, Hà Nội.

42. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Khoa học

xã hội, Hà Nội.

43. Trinh Hoài Đức (2004), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch, Tổng

hợp Đồng Nai.

44. Diêm Thị Đường (1998), Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hóa truyền

thống, Văn hóa thông tin, Hà Nội

45. V.Guxép (1998), Mỹ học folklore, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Đà Nẵng. 46. Bảo Đinh Giang (2000), “Phút làm nên lịch sử, chói ngời hào quang”, Văn học,

số 7.

173

47. Bảo Định Giang (2001), Những ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ

nửa sau thế kỷ XIX, Trẻ, TP. HCM.

48. Ninh Viết Giao (2004), Về văn học dân gian xứ Nghệ, Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

49. Nguyễn Bích Hà (1986), “Bước đầu tìm hiểu nguồn truyện kể địa danh Việt

Nam”, Văn học, số 2.

50. Nguyễn Bích Hà (2010), “Giai thoại - một thể loại văn học dân gian”, Nội san

Trường ĐHSP Hà Nội.

51. Lê Thị Diệu Hà (2004), “Những “huyền thoại” về mở đất trong dân gian Nam Bộ”, Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hóa văn nghệ dân gian Nam Bộ, Khoa học xã hội, Hà Nội.

52. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2012), Tư điển thuật

ngữ văn học, Giáo dục, Hà Nội.

53. Đinh Văn Hạnh (2008), “Miếu Bà ở Côn Đảo thờ ai ?”, nguồn:

http://www.vanchuongviet.org/index.

54. Đinh Văn Hạnh, Phan An (2004), Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa – Vũng

Tàu, Trẻ, TP.HCM.

55. Đỗ Thị Hồng Hạnh (2013), Đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM.

56. Trần Đình Hằng (2008), “Từ Cô Gái áo xanh ở Ái Tử (Quảng Trị) đến Bà Trời áo đỏ ở Thiên Mụ (Huế): sinh lộ tư tưởng của vùng đất mới Nam Hà”, Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Thế giới, Hà Nội.

57. Nguyễn Văn Hầu (1972), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu

Giang, Hương Sen, Sài Gòn.

58. Nguyễn Văn Hầu (2004), Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, Trẻ, TP.HCM. 59. Như Hiên (1993), L.T.H Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) với công cuộc khai

sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỷ 17, Văn hoá thông tin, Hà Nội.

60. Nguyễn Thị Hiền (1996), “Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bảng mục lục tra cứu típ và môtip truyện cổ dân gian của Antti và Stith Thompson”, Văn hóa dân gian, số 2.

61. Nguyễn Hữu Hiệp (2007), An Giang đôi nét văn hóa đặc trưng vùng bán sơn

địa, Phương Đông, Cà Mau.

62. Nguyễn Hữu Hiệp (2008), “Những dấu ấn và giai thoại về Nguyễn Ánh trên vùng đất Phương Nam”, Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Thế giới, Hà Nội.

63. Nguyễn Hữu Hiếu (1988), Giai thoại dân gian vùng Đồng Tháp Mười, Đồng

Tháp.

64. Nguyễn Hữu Hiếu (1997), Nam kỳ cố sự (Chuyện kể Nam Bộ), Đồng Tháp.

174

65. Nguyễn Hữu Hiếu (2003), Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương Nam,

Trẻ, TP.HCM.

66. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện

tích và giả thuyết, Khoa học xã hội, Hà Nội.

67. Nguyễn Hữu Hiếu (2006), Truyền thuyết Thiên Hộ Dương – Đốc binh Kiều,

Tổng hợp Đồng Tháp.

68. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Văn hóa dân gian vùng Đồng Tháp Mười, Dân Trí,

Hà Nội.

69. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Thế giới, Hà Nội. 70. Thái Doãn Hiểu, Hoàng Liên (1996), Giai thoại kẻ sĩ, Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 71. Diệp Đình Hoa (1996), “Tính duy lý của truyền thuyết, huyền thoại: người Việt

cổ chiếm lĩnh vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Văn hóa dân gian, số 2.

72. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể loại, Khoa

học xã hội, Hà Nội.

73. Thái Hoàng (1999), “Truyền thuyết dân gian về địa danh”, Văn học, số 9. 74. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (2001), Tang thương ngẫu lục, Ngô Văn Triện dịch,

Văn học, Hà Nội.

75. Đào Văn Hội (1943), Nam - kỳ danh nhân, Soctrang, Imprimerie, Ly Cong

Quan.

76. Hội khoa học lịch sử TP. Hồ Chí Minh (2005), Nam Bộ đất và người, Trẻ,

TP.HCM.

77. Hội văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng (2007), Truyện kể dân gian đất

Quảng, Tập 2, Đà Nẵng.

78. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam (1986), Giai thoại văn nghệ dân gian, Hà Nội. 79. Nguyễn Thị Huế (chủ biên) (2012), Từ điển Type truyện dân gian Việt Nam,

Lao Động, Hà Nội .

80. Hồ Quốc Hùng (1998), “Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất

mới”, Văn học, số 4.

81. Hồ Quốc Hùng (1999), Những đặc trưng cơ bản của truyện dân gian vùng Thuận Hóa, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM.

82. Hồ Quốc Hùng (2000), “Về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết anh hùng bộ lạc

ở một vùng đất mới”, Văn học, số 10.

83. Hồ Quốc Hùng (biên soạn) (2003), Truyền thuyết Việt Nam & vấn đề thể loại,

Trẻ, TP.HCM

84. Trương Thanh Hùng (2008), Văn hóa dân gian đảo Phú Quốc, Phương Đông,

Cà Mau.

85. Thái Văn Kiểm (1961), Theo dấu Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872), Văn Hữu, số 10. 86. Nguyễn Xuân Kính (2013), Con người, môi trường và văn hóa, Khoa học xã

hội, Hà Nội.

175

87. Lê Văn Kỳ (1998), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các

anh hùng, Khoa học xã hội, Hà Nội.

88. Trương Vĩnh Ký (1866), Truyện đời xưa, Sài Gòn. 89. Trương Vĩnh Ký (1882), Chuyện khôi hài, Sài Gòn. 90. Trương Vĩnh Ký (1997), “Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận” (“Souvenirs Historiques Sur Saigon et Ses environs”, Excursions et Reconnaissances), Nguyễn Đình Đầu dịch, Trẻ, TP.HCM.

91. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Khoa học xã

hội, Hà Nội.

92. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1997), Văn học dân gian Việt Nam, Giáo dục, Hà

Nội.

93. Vũ Ngọc Khánh (1994), Kho tàng giai thoại Việt Nam, Văn hóa, Hà Nội. 94. Vũ Ngọc Khánh (1998), Truyền thuyết Việt Nam, Văn hoá thông tin, Hà Nội. 95. Vũ Ngọc Khánh (1999), Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam, Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

96. Phạm Tiết Khánh (2007), Khảo sát truyện kể dân gian Khơ Me Nam Bộ (qua thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

97. Nguyễn Văn Khoa (2001), Anh hùng kháng Pháp Nguyễn Trung Trực, Trẻ,

TP.HCM.

98. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1994), Truyện dân gian Đồng bằng sông Cửu

Long, Đồng Tháp.

99. Khoa Ngữ văn Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian Đồng bằng sông

Cửu Long, Giáo dục, Hà Nội.

100. Phan Khoang (1970), Việt sử - xứ Đàng Trong (1558 – 1777), Khai Trí, Sài

Gòn.

101. Trúc Lâm (2010), Chuyện xưa tích cũ trên vùng đất Kiên Giang, tài liệu đánh

máy.

102. Phan Huy Lê (2008), “Báo cáo đề dẫn”, Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn

trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Thế giới, Hà Nội.

103. Phan Huy Lê (2008), “Phan Thanh Giản Con người, sự nghiệp & bi kịch cuối

đời”, Xưa nay, số 318.

104. Nguyễn Thu Linh (1988), “Thử minh giải truyền thuyết về nguồn gốc hội Liễu

Đôi”, Văn học, số 8.

105. Dương Hoàng Lộc (2011), “Diện mạo văn học dân gian xã Phú Lễ (huyện Ba Tri - tỉnh Bến Tre)”, Nam bộ đất và người (tập 8), Đại học Quốc gia TP.HCM. 106. Dương Hoàng Lộc (2013), “Tìm hiểu văn học dân gian Phật giáo ở Bình

Dương”, nguồn: www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/.

107. Đặng Văn Lung (2003), Lịch sử và Văn học dân gian, Văn học, Hà Nội. 108. Huỳnh Lứa (1985), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, TP.HCM.

176

109. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII,

XVIII, XIX, Khoa học xã hội, Hà Nội.

110. Huỳnh Minh (1966), Định Tường Xưa và Nay, Huỳnh Minh. 111. Huỳnh Minh (2001), Bạc Liêu xưa, Thanh Niên, Hà Nội 112. Huỳnh Minh (2001), Cà Mau xưa, Thanh Niên, Hà Nội 113. Huỳnh Minh (2001), Cần Thơ xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 114. Huỳnh Minh (2001), Định Tường (Mỹ Tho) xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 115. Huỳnh Minh (2001), Gò Công xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 116. Huỳnh Minh (2001), Gia Định xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 117. Huỳnh Minh (2001), Kiến Hòa (Bến Tre) xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 118. Huỳnh Minh (2001), Sa Đéc xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 119. Huỳnh Minh (2001), Tây Ninh xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 120. Huỳnh Minh (2001), Vĩnh Long xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 121. Huỳnh Minh (2001), Vũng Tàu xưa, Thanh Niên, Hà Nội. 122. Sơn Nam (1968), “Đất khởi nghĩa và vài giai thoại về Nguyễn Trung Trực”, Sử

Địa, Khai Trí, Sài Gòn, số 12.

123. Sơn Nam, Tô Nguyệt Đình (1993), Chuyện xưa tích cũ, Trẻ, TP.HCM. 124. Sơn Nam (1997), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Trẻ, TP.HCM. 125. Sơn Nam (1998), Đất Gia Định xưa, Trẻ, TP.HCM. 126. Sơn Nam (2003), Đất Long Xuyên và công trình khai phá miền Hậu Giang,

Trẻ, TP.HCM.

127. Sơn Nam (2006), Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam, Trẻ, TP.HCM. 128. Sơn Nam (2008), “Một vài nét xưa và nay của Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-TP

Hồ Chí Minh”, nguồn: http://www.quangduc.com/

129. Tăng Kim Ngân (1993), “Vùng truyền thuyết Lam Sơn”, Ngô Đức Thịnh, Văn

hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Khoa học xã hội, Hà Nội.

130. Nguyễn Phúc Nghiệp (1998), Những trang ghi chép về lịch sử – văn hóa Tiền

Giang, Trẻ, TP.HCM.

131. Trần Đức Ngôn (1995), “Các hình thức tương tác cơ bản giữa văn học dân gian

và văn học viết”, Nghiên cứu văn hóa, số 2.

132. Lãng Nhân (1966), Giai thoại làng Nho, Nam chi tùng thư, Sài Gòn. 133. Nguyễn Xuân Nhân (1998), Văn học dân gian Tây Sơn, Trẻ, TP.HCM. 134. Đào Trinh Nhất (2000), Phan Đình Phùng - Việt sử giai thoại, Văn hóa, Hà

Nội

135. Phan Đăng Nhật (1981), “Phương pháp nghiên cứu văn học dân gian trong hệ

thống của các tác phẩm”, Văn học, số 5.

136. Bùi Mạnh Nhị (1985), “Tiếp cận văn học dân gian địa phương từ đặc trưng của

văn học dân gian”, Văn học, số 3.

137. Bùi Mạnh Nhị (1987), “Rồng vàng đất Đồng Nai”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học

về Nhà thơ - Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, tổ chức tại Hậu Giang, 20/10.

177

138. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (2000), Văn học dân gian những công trình nghiên

cứu, Giáo dục, Hà Nội.

139. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (2000), Văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc,

Giáo dục, Hà Nội.

140. Bùi Mạnh Nhị, Thi pháp văn học dân gian, Chuyên đề giảng dạy Sau đại hoc. 141. Nhiều tác giả (1998), Góp phần tìm hiểu lịch sử – văn hóa 300 năm Sài Gòn –

TP. Hồ Chí Minh, Trẻ, TP.HCM.

142. Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ xưa & nay, TP. HCM. 143. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học,Tập II, Khoa học xã hội, Hà Nội. 144. Nhiều tác giả (2001), Giai thoại về phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ. 145. Nhiều tác giả (2010), Văn hóa dân gian Bình Tân, Huyện Bình Tân. 146. Đoàn Nô (2011), “Thử tìm hiểu địa danh “Cù lao Cát”, Sáng tác & Biên khảo,

Báo Cần Thơ, ngày 13/2.

147. Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch (1988), Giai thoại văn học Việt Nam,

Văn học, Hà Nội.

148. Vũ Ngọc Phan (1975), “Vấn đề viết hay kể truyện cổ dân gian”, Văn học, số 2. 149. Thích Hiển Pháp (1998), “Điểm lại một số nét về sắc thái Phật giáo Nam Bộ nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh”: http://www.quangduc.com/ 150. Lê Trường Phát (1987), “Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi trong

truyện kể dân gian”, Văn học, số 4.

151. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Giáo dục, Hà Nội. 152. Trương Bá Phát (1966), “Nén hương hoài cổ Trương Định”, Sử Địa, Khai Trí,

Sài Gòn, số 3.

153. Nguyễn Liên Phong (1909), Nam kỳ phong tục nhân vật diễn ca, Phát Toán,

Sài Gòn.

154. Nguyễn Hằng Phương (2011), “Tiếp cận theo thể loại – hướng đi tích cực của

nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam”, Nghiên cứu văn học, số 10.

155. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hóa dân

gian người Việt ở Nam Bộ, Khoa học xã hội, Hà Nội.

156. Trần Thanh Phương (1985), Minh Hải địa chí, Mũi Cà Mau. 157. V.Ia.Propp (1999), Phônclo và thực tại, Chu Xuân Diên dịch - tài liệu đánh

máy, Thư viện trường Đại học KHXH&NV TP.HCM.

158. V.Ia.Propp (2000), “Đặc trưng của phônclo”, Chu Xuân Diên dịch, Văn học

dân gian - những công trình nghiên cứu, Giáo dục, Hà Nội.

159. Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ ký, Lê Hương dịch, Kỷ nguyên

mới, Sài Gòn.

160. Nguyễn Ngọc Quang (chủ biên) (2010), Văn học dân gian Châu Đốc, Dân Trí,

Hà Nội.

161. Nguyễn Phan Quang (2001), Khởi nghĩa Trương Định, TP.HCM. 162. Phan Quang ((1981), Đồng bằng sông Cửu Long, Văn hóa, Hà Nội. 163. Lê Chí Quế (chủ biên) (2004), Văn học dân gian Việt Nam, ĐHQG Hà Nội.

178

164. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, 4 tập, Viện sử học

dịch, Thuận Hóa, Huế.

165. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, Tập 5, Phạm

Trọng Điềm dịch, Khoa học xã hội, Hà Nội.

166. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nguyễn Ngọc

Tính dịch, Giáo dục, Hà Nội.

167. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục,

2 tập, Viện sử học dịch, Giáo dục, Hà Nội.

168. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Quốc triều sử toát yếu, Tập 3, Quốc sử

quán và Hoàng Văn Lâu dịch, Văn học, Hà Nội.

169. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1960), Lĩnh Nam chích quái, Đinh Gia Khánh, Nguyễn

Ngọc San dịch, Văn hoá, Hà Nội.

170. M.Rohl (2008), Nguồn gốc văn minh nhân loại, Lê Thành biên dịch, LĐXH,

Hà Nội.

171. Nguyễn Văn Sâm (1972), Văn học nam hà (Văn học xứ Đàng Trong), Lửa

Thiêng.

172. Vương Hồng Sển (1969), Sài Gòn năm xưa, Khai trí, Sài Gòn. 173. Vương Hồng Sển (1993), Tự vị tiếng Việt miền Nam, Văn hoá, Hà Nội. 174. Lê Văn Siêu (2008), “Truyền thống dân tộc”, Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Thế giới, Hà Nội. 175. Sở Văn hóa thông tin Cần Thơ (1985), Kỷ yếu Hội thảo khoa học về nhà thơ

yêu nước Phan Văn Trị, tổ chức tại Cần Thơ.

176. Sở Văn hóa thông tin và Bảo tàng Đồng Tháp (2005), Lý lịch di tích đình Định

Yên, Văn hóa thông tin Đồng Tháp.

177. Sở văn hóa thông tin – TDTT An Giang (1993), Kỷ yếu Hội thảo Thân thế và sự nghiệp của Chưởng cơ - Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, tổ chức tại thị xã Châu Đốc, An Giang.

178. Nguyễn Sương (2008), Chuyện làng cổ Bình Thủy Long Tuyền, Đại học Cần

Thơ.

179. Tạp chí Xưa & Nay (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Văn hóa Sài

Gòn.

180. Nhất Tâm (1956), Phan Văn Trị (1830-1910): phụ Học Lạc – Nhiêu Tâm, Tân

Việt.

181. Tập san Sử Địa (1968), Kỷ niệm 100 Nguyễn Trung Trực, Khai Trí, Sài Gòn,

số 12.

182. Huỳnh Công Tín (chủ biên) (1995), Văn học dân gian An Giang, Công trình

nghiên cứu khoa học tỉnh An Giang.

183. Bùi Đức Tịnh (1999), Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, Văn nghệ

TP.HCM,

184. Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố (1957), “Lời tựa”, Phan Đình Phùng - Việt sử giai

thoại, Văn học, Hà Nội.

179

185. Tủ sách lịch sử Việt Nam (2008), Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Trương Định,

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

186. Tủ sách lịch sử Việt Nam (2008), Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Võ Duy Dương,

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

187. Tủ sách lịch sử Việt Nam (2008), Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung

Trực, Quân đội nhân dân, Hà Nội.

188. Phạm Duy Tư (1994), Giai thoại và thơ Bùi Hữu Nghĩa, Sở Văn hóa thông tin

Cần Thơ.

189. Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Giáo dục, Hà Nội. 190. Bùi Quang Thanh (1979), “Về một thể loại văn học dân gian”, Văn học, số 4. 191. Bùi Quang Thanh (1981), “Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người

Việt”, Văn học, số 3.

192. Bùi Quang Thanh, “Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết anh hùng”, Tuyển

tập 40 năm Tạp chí văn học 1960-1999, TP.HCM.

193. Cao Tự Thanh (1995), Giai thoại thơ Đường, Phụ nữ, Hà Nội. 194. Cao Tự Thanh (2007), Lịch sử Gia Định – Sài Gòn trước 1802, Văn hóa Sài

Gòn.

195. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo,

Giáo dục, Hà Nội.

196. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam,

Tổng hợp TP.HCM.

197. Ca Văn Thỉnh (1984), Hào khí Đồng Nai, TP.HCM. 198. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hoá vùng & phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Trẻ,

TP.HCM.

199. GS.TS. Ngô Đức Thịnh, TS. Frank Proschan (Đồng chủ biên) (2004), Folklore một số thuật ngữ đương đại, nhóm tác giả biên dịch, Khoa học xã hội, Hà Nội. 200. GS.TS. Ngô Đức Thịnh, TS. Frank Proschan (Đồng chủ biên) (2004), Folklore thế giới một số công trình nghiên cứu cư bản, nhóm tác giả biên dịch, Khoa học xã hội, Hà Nội.

201. Thích Huệ Thông (2000), Sơ thảo Phật giáo Bình Dương, Mũi Cà Mau. 202. Thời nay (1966), “Giếng Tiên của vua Gia Long”, Báo nguyệt san, số 153. 203. Nguyễn Khắc Thuần (2001), Việt sử giai thoại, Giáo dục, Hà Nội. 204. Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân (1986), Phan Văn Trị - cuộc đời và

tác phẩm, TP.HCM.

205. Lê Ngọc Thuý (2010), “Phật giáo và văn học Phật giáo trên vùng đất mới Nam Bộ”, Văn học Phật giáo với 1.000 năm Thăng Long Hà Nội. Văn hóa thông tin, HN.

206. Huỳnh Ngọc Trảng (1992), Nghìn năm bia miệng, 2 tập, TP.HCM. 207. Huỳnh Ngọc Trảng (1998), “Văn học dân gian Sài Gòn – Gia Định”, Địa chí

văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Tập 2, TP.HCM.

180

208. Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên) (2002), Sổ tay hành hương đất phương Nam,

TP.HCM.

209. Đỗ Bình Trị (1995), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Giáo dục, Hà Nội. 210. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân

gian, Giáo dục, Hà Nội.

211. Đỗ Bình Trị (1999), Văn học, Tập 2, Giáo dục, Hà Nội. 212. Vũ Trinh (2004), Lan Trì kiến văn lục, Hoàng Văn Lâu dịch, Thuận Hoá. 213. Nguyễn Văn Trung (2014), Hồ sơ về Lục Châu học - tìm hiểu con người ở

vùng đất mới, Nxb Trẻ.

214. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, Văn hoá thông tin, Hà Nội 215. Kiều Văn (2002), Giai thoại lịch sử Việt Nam, Văn hóa thông tin, Hà Nội. 216. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Ngô

Đức Thọ dịch, Khoa học xã hội, Hà Nội.

217. Lê Trí Viễn (chủ biên) (1986), Thơ văn Đồng Tháp, Tổng hợp Đồng Tháp. 218. Viện nghiên cứu Hán Nôm (1997), Đại Việt sử ký tiền biên, nhóm tác giả dịch,

Khoa học xã hội, Hà Nội.

219. Viện nghiên cứu văn hóa dân gian (2003), Thông báo văn hóa dân gian 2002,

Khoa học xã hội, Hà Nội.

220. Trần Trung Viên (sưu tập) (2004), Văn đàn bảo giám, Văn học, Hà Nội 221. Viện văn hóa dân gian (1999), Văn hóa dân gian những phương pháp nghiên

cứu, Khoa học xã hội, Hà Nội.

222. Nguyễn Quang Vinh (1977), “Về mấy khuynh hướng sai lầm ở các đô thị miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 về nghiên cứu văn học dân gian”, Văn học, số 4.

223. Nguyễn Quang Vinh (2010), Hồn quê Việt như tôi thấy..., Đại học Quốc gia Hà

Nội.

224. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Văn học, Hà

Nội

225. Trần Quốc Vượng (2004), Những mẩu chuyện lịch sử, Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

226. Lê Thọ Xuân (1966), “Vài giai thoại có dính líu tới cụ Lãnh binh Trương

Định”, Sử Địa, Khai Trí, Sài Gòn, số 3.

227. Nguyễn Văn Xuân (1969), Khi những lưu dân trở lại, Thời mới, Sài Gòn. 228. Vĩnh Xuyên (1994), Nguyễn Trung Trực (Chuyện kể dân gian), Mũi Cà Mau. 229. Vĩnh Xuyên (2008), Truyền thuyết dân gian Kiên Giang, Văn nghệ, TP.HCM. 230. Vĩnh Xuyên, Lê Quang Khai, Cuộc thi sưu tầm văn học dân gian Đồng bằng

sông Cửu Long, tài liệu đánh máy.

231. Nguyễn Khắc Xương (1971), Truyền thuyết Hùng Vương, Chi hội văn nghệ

dân gian Vĩnh Phú.