ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ----------***----------
NGUYỄN THÀNH KHÁNH
TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX - TỪ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
HUẾ - NĂM 2016
ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ----------***----------
NGUYỄN THÀNH KHÁNH
TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX - TỪ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. NGUYỄN PHONG NAM
HUẾ - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả, số liệu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án
NGUYỄN THÀNH KHÁNH
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế,
Trường Đại học Duy Tân Đà Nẵng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập
và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý thầy, cô giáo Khoa Ngữ văn
trường Trường Đại học Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại
học Duy Tân và Phòng Sau đại học - Trường Đại học Khoa học Huế đã đóng
góp nhiều ý kiến quý báu trong quá trình hoàn chỉnh luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS. TS Nguyễn
Phong Nam - Người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu khoa học và hoàn thành luận án này.
Huế, ngày 20 tháng 09 năm 2016
Nguyễn Thành Khánh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................. 1
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ............................................... 2
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................ 3
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................. 4
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ............................................................... 5
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ............................................................................. 6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................. 7
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .... 7
1.1.1. Giai đoạn trước 1945 ............................................................................... 7
1.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 .................................................................... 10
1.1.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay ...................................................................... 12
1.2. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................ 21
1.2.1. Những vấn đề đã được thống nhất ......................................................... 21
1.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận ................................. 22
CHƯƠNG 2. DIỆN MẠO TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XX .................................................................................................... 25
2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG TRUYỆN TRINH THÁM ..................... 25
2.1.1. Khái niệm truyện trinh thám .................................................................... 25
2.1.2. Đặc trưng thể loại truyện trinh thám ........................................................ 31
2.1.3. Phân loại truyện trinh thám Việt Nam ..................................................... 41
2.2. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM 47
2.2.1. Các giai đoạn hình thành và phát triển ..................................................... 47
2.2.2. Quy luật vận động của truyện trinh thám ................................................. 50
2.2.3. Truyện trinh thám trong tiến trình hiện đại hóa văn xuôi ..................... 58
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG
TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ............... 64
3.1. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT ................................................................... 65
3.1.1. Nhân vật thám tử ................................................................................... 65
3.1.2. Nhân vật tội phạm .................................................................................. 76
3.2. HÌNH TƯỢNG KHÔNG GIAN, THỜI GIAN ........................................ 83
3.2.1. Hình tượng không gian .......................................................................... 83
3.2.2. Hình tượng thời gian .............................................................................. 91
CHƯƠNG 4. ĐẶC ĐIỂM CỐT TRUYỆN VÀ PHƯƠNG THỨC TRẦN
THUẬT TRONG TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ
KỶ XX ............................................................................................................. 99
4.1. CỐT TRUYỆN .......................................................................................... 99
4.1.1. Vấn đề cốt truyện truyện trinh thám ........................................................ 99
4.1.2. Mô hình cốt truyện truyện trinh thám Việt Nam .................................... 103
4.2. PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT .......................................................... 113
4.2.1. Điểm nhìn - vai kể ................................................................................. 114
4.2.2. Ngôn ngữ trần thuật .............................................................................. 123
KẾT LUẬN ................................................................................................... 137
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................ 140
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 141
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu sắc. Với sự gặp gỡ văn
minh Phương Tây, sự tiếp thu mạnh mẽ và rộng rãi những tinh hoa văn hoá thế giới, văn
học Việt Nam đã bứt ra khỏi hệ hình văn học trung đại, để tiến hành công cuộc hiện đại
hoá. Văn học nước ta đã thay đổi nhanh chóng, với những thành tựu rực rỡ. Đây cũng là
lúc thể loại văn học trinh thám được hình thành và phát triển.
So với các thể loại khác, truyện trinh thám xuất hiện khá muộn, tuy vậy nó lại có
những bước tiến rất nhanh. Chỉ trong một thời gian ngắn, nó đã có một diện mạo khá
hoàn chỉnh, với sự góp công của nhiều cây bút tên tuổi và số lượng tác phẩm lên đến
hàng trăm cuốn. Thể loại này đã thu hút được rất đông độc giả thuộc đủ mọi thành phần
khác nhau trong xã hội. Thông qua việc tiếp thu một thể loại của phương Tây, kết hợp
với truyện vụ án phương Đông và các thể loại văn học truyền thống, nó đã trở thành một
sản phẩm tinh thần có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với cộng đồng. Mức độ ảnh hưởng đến
người đọc của truyện trinh thám trên thực tế là rất lớn. Đây là thể loại thường tạo nên
những con số đáng kinh ngạc về lượng sách phát hành.
Truyện trinh thám đã khẳng định được vị thế của mình trong đời sống văn học dân
tộc. Tuy vậy, thể loại này lại không được giới chuyên môn đề cao. Vì nhiều lý do, trong
đó có nguyên nhân thuộc về quan niệm, nhận thức, ngay từ khi mới ra đời, thể loại văn
học trinh thám đã bị coi là không có giá trị gì đáng kể, ngoài việc giải trí. Phần lớn các
nhà nghiên cứu, thậm chí ngay cả các nhà văn viết truyện trinh thám cũng đều xem thể
loại này là một thứ văn chương “hạng hai”, xoàng xĩnh. Truyện trinh thám bị đánh giá là
thua kém các thể loại khác về giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng.
Như vậy là đã có một sự vênh lệch rất lớn trong quan niệm của giới nghiên cứu,
phê bình và công chúng thưởng thức về cùng một hiện tượng văn học. Đây là một nghịch
lý trong đời sống văn học ở nước ta. Chính vì vậy mà từ lâu nay, các nhà chuyên môn đã
dành nhiều thời gian, công sức tìm hiểu, lý giải nhiều vấn đề liên quan đến thể loại
truyện trinh thám Việt Nam. Trên thực tế, trong thời gian gần đây, đã có không ít tác
phẩm được sưu tầm và tái bản để đáp ứng nhu cầu của độc giả; mặt khác cũng đã có
nhiều cuộc Hội thảo được tổ chức, nhiều công t nh nghiên cứu, khảo luận về văn học
2
trinh thám được công bố. Có thể coi đó là một sự nỗ lực trong việc đưa đến một cái nhìn
khách quan, công bằng hơn về vai trò và vị trí của thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Tuy nhiên, chưa thể nói rằng mọi vấn đề của truyện trinh thám đã được giải quyết
một cách sáng tỏ và thỏa đáng. Vẫn còn nhiều câu hỏi về thể loại chưa được trả lời, nhiều
vấn đề cơ bản vẫn chưa có được tiếng nói chung giữa các nhà nghiên cứu. Thậm chí còn
nhiều vấn đề mang tính bản chất của thể loại này cần được nhận thức lại. Chẳng hạn
những vấn đề có tính “nhận thức luận” về thể loại, vấn đề lịch sử hình thành, quy luật
vận động, vai trò của truyện trinh thám trong tiến trình hiện đại hóa văn học, những đặc
trưng cơ bản của truyện trinh thám Việt Nam ... Nghiên cứu và giải quyết đúng đắn
những vấn đề trên không chỉ góp phần soi sáng một hiện tượng văn học độc đáo mà còn
mở ra một hướng nhìn mới về việc đa dạng hóa chức năng văn học trong quá trình phát
triển văn học Việt Nam hiện đại. Đây cũng là lý do thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài
luận án.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Truyện trinh thám Việt Nam được hình thành trên cơ sở tiếp thu và cải biến mô
hình của văn học Phương Tây. Đây là một phương pháp sáng tạo thích hợp được các nhà
văn áp dụng trong thời điểm giao thời. Để làm phong phú thêm cho văn học dân tộc, các
nhà văn đã tạo nên một thể loại văn học mới, chưa từng có tiền lệ trong văn học dân tộc
bằng việc mô phỏng nhưng có sự sáng tạo, tiếp biến cho phù hợp với hoàn cảnh và tâm
lý độc giả bản địa. Chính vì vậy truyện trinh thám Việt Nam vừa có dáng dấp của truyện
trinh thám Phương Tây nhưng lại có những nét đặc thù.
Mục tiêu chủ yếu của luận án này là làm rõ những đặc điểm của thể loại truyện
trinh thám Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX trên các vấn đề: lịch sử hình thành
và phát triển, quy luật vận động; các phương diện nội dung và nghệ thuật của thể loại...
Trên cơ sở mục tiêu đã xác định như trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện tiến trình lịch sử của thể loại truyện
trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX .
- Tìm hiểu những điểm đặc trưng thể loại của truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỷ XX, thông qua việc phân tích, đánh giá các yếu tố cụ thể như thế giới hình
3
tượng (hình tượng nhân vật, không gian, thời gian), tổ chức tác phẩm (cốt truyện, kết
cấu), phương thức trần thuật (ngôn ngữ, giọng điệu…).
- Xác định vai trò, giá trị của thể loại truyện trinh thám đồng thời khái quát quy luật
vận động của nó trong tiến trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu truyện trinh thám Việt Nam là một việc làm cần nhiều công sức, bởi
hiện tại trong giới khoa học vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về những vấn đề rất cơ
bản liên quan đến thể loại trinh thám (Định nghĩa thế nào là truyện trinh thám? Truyện
trinh thám ở Việt Nam xuất hiện lúc nào? Tác giả trinh thám đầu tiên là ai? Truyện trinh
thám có phải là thể loại văn học hay không?…). Chính vì thế, bên cạnh nhiệm vụ chính,
chúng tôi còn phải giải quyết những vấn đề liên quan khác, có tính chất lý thuyết, lý luận
về thể loại này. Chúng tôi coi đó cũng là những nhiệm vụ cần thiết được giải quyết trong
luận án.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm văn xuôi thuộc thể loại trinh thám
xuất hiện trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XX. Tác phẩm đó cần đảm bảo các yêu
cầu cụ thể: về cốt truyện, phải có đủ hai yếu tố cơ bản nổi bật là các sự kiện làm nên một
vụ án và người điều tra (bao gồm nhân vật thám tử/ một người có nghĩa khí anh hùng/
một vị quan thanh liêm/ một thanh niên trí thức tiến bộ …). Về kết cấu, tác phẩm được tổ
chức theo mô thức “đố - giải đố”, truyện kết thúc khi vụ án được giải mã. Về văn bản,
tác phẩm được viết bằng văn xuôi quốc ngữ, gồm các ấn phẩm đã in (thành sách, đăng
trên báo chí). Trên cơ sở tiêu chí như vậy, luận án của chúng tôi khảo sát các kiểu truyện
trinh thám chủ yếu sau:
- Truyện trinh thám kỳ án: Gồm một số truyện trinh thám có yếu tố kinh dị, kỳ ảo
của Thế Lữ.
- Truyện trinh thám suy luận: gồm những truyện kể về nhân vật thám tử (chẳng hạn
truyện Lê Phong phóng viên của Thế Lữ; truyện thám tử Kỳ Phát, Huỳnh Kỳ của Phạm
Cao Củng…).
- Truyện trinh thám mang màu sắc ái tình - hành động - võ hiệp (cốt truyện có vụ
án và người điều tra vụ án). Ở nhóm này có khi tác phẩm được đề là “ái tình tiểu thuyết”,
“hành động tiểu thuyết”, “võ hiệp tiểu thuyết, “kỳ tình tiểu thuyết” … song do chúng đáp
4
ứng các tiêu chí của thể loại trinh thám nên chúng tôi vẫn đưa vào. Nhóm này gồm tác
phẩm của một số tác giả như Biến Ngũ Nhy, Phú Đức, Bửu Đình, Nam Đình Nguyễn
Thế Phương, Bùi Huy Phồn …
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống diện mạo truyện trinh thám, một thể loại
mới, xuất hiện trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Chúng tôi sẽ tập trung
làm rõ những đặc trưng của thể loại văn học này, từ quá trình hình thành và phát triển,
cho đến những đặc điểm của hình tượng nghệ thuật, các kiểu cốt truyện và phương thức
trần thuật…
Về mặt văn bản, tác phẩm được chọn để khảo sát chủ yếu nằm trong khoảng thời
gian nửa đầu thế kỷ XX. Các văn bản này được in ấn trong một khoảng thời gian rất dài,
bao gồm những bản đã được in thành sách, đăng báo, tái bản… Cũng trong giai đoạn
này, mặc dù có một số tác phẩm mang yếu tố trinh thám được nhắc đến ở công trình của
các nhà nghiên cứu đi trước, nhưng do chưa tìm được đầy đủ văn bản nên chúng tôi
không đưa vào diện khảo sát. Mặt khác, do hạn chế trong khâu xử lý văn bản, nên luận
án chúng tôi không nghiên cứu các truyện trinh thám dịch, truyện trinh thám viết bằng
chữ quốc ngữ phát hành ở nước ngoài.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình
Truyện trinh thám Việt Nam là một hiện tượng rất đặc biệt của văn học nước nhà.
So với truyện trinh thám Phương Tây, nó có nhiều điểm đặc thù, khác biệt cả về nội
dung và hình thức nghệ thuật, lẫn vai trò, vị trí… trong đời sống. Để nhận thức về đối
tượng này, trong luận án chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu loại hình. Phương
pháp này được vận dụng để nhận diện, phân loại đối tượng một cách hiệu quả.
4.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Phương pháp cấu trúc – hệ thống giúp chúng tôi có thể tiếp cận đối tượng một cách
hợp lý, thuận lợi. Tác phẩm truyện trinh thám được đặt trong các mối quan hệ thuộc
nhiều cấp độ, mô thức tổ chức, hệ thống khác nhau…Từ đó có thể xác định được vai trò,
vị trí, đặc trưng… của thể loại truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
5
4.3. Phương pháp lịch sử
Truyện trinh thám là một thể loại văn học được hình thành và phát triển trong một
giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Đây cũng là một sản phẩm văn hóa – văn học
mang tính lịch sử sâu sắc. Chính vì vậy, việc vận dụng phương pháp lịch sử là điều cần
thiết. Với việc vận dụng phương pháp này, chúng tôi có điều kiện để khảo sát một cách
cụ thể sự chi phối, ảnh hưởng của hoàn cảnh kinh tế chính trị văn hóa xã hội đối với đời
sống văn học nói chung, thể loại truyện trinh thám nói riêng.
4.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng trong luận án nhằm làm nổi bật điểm tương
đồng, dị biệt giữa truyện trinh thám Việt Nam trong tương quan với truyện trinh thám
của các nền văn học khác (đặc biệt là văn học Phương Tây); nét đặc thù của truyện trinh
thám so với các thể loại khác (cùng thuộc phương thức tự sự); điểm riêng biệt độc đáo
giữa phong cách nghệ thuật của các nhà văn trinh thám tiêu biểu...
Ngoài các phương pháp vừa nêu trên, trong luận án này chúng tôi còn vận dụng các
phương pháp, thủ pháp đặc thù của tự sự học và thi pháp học để giải quyết vấn đề.
Truyện trinh thám Việt Nam là một hiện tượng văn học phức tạp. Nghiên cứu về
thể loại này đòi hỏi phải vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp mới có thể tiếp cận chân
lý nghệ thuật một cách thấu đáo. Bởi vì phương pháp nào cũng có những ưu điểm và hạn
chế nên các phương pháp sẽ bổ sung cho nhau trong quá trình nghiên cứu.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Luận án “Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX – từ đặc trưng thể loại”
của chúng tôi, có một số đóng góp mới cụ thể như sau:
1/. Nhận diện một cách đầy đủ, hệ thống diện mạo truyện trinh thám Việt Nam; mô
tả, trình bày đầy đủ quá trình hình thành, phương thức tiếp thu, tiếp biến của thể loại, từ
đó làm rõ vai trò và vị trí của truyện trinh thám trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân
tộc.
2/. Xác lập nội hàm khái niệm “truyện trinh thám Việt Nam”; phân tích các kiểu
truyện trinh thám nửa đầu thế kỷ XX; khái quát đặc điểm hình tượng nghệ thuật, đặc
điểm cốt truyện và phương thức trần thuật, những đặc trưng riêng của truyện trinh thám
Việt Nam trong giai đoạn này.
6
3/. Đánh giá một cách khách quan, khoa học về giá trị, vai trò, vị trí của thể loại
truyện trinh thám; đồng thời trình bày quy luật vận động của thể loại này trong tiến trình
lịch sử của văn học Việt Nam hiện đại.
Luận án cũng trình bày về những tác động, ảnh hưởng của thể loại truyện trinh
thám đối với người đọc trong việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ, nhân cách văn hóa của
cá nhân và cộng đồng.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án có bố cục như sau:
1/. MỞ ĐẦU: Trình bày lý do, mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và
những đóng góp mới của luận án.
2/. NỘI DUNG: Gồm 4 chương
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Trong
chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát các công trình nghiên cứu có nội dung liên
quan đến đề tài luận án. Trên cơ sở mô tả, phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu của
giới chuyên môn về thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX,
chúng tôi đi vào xác định những vấn đề trọng tâm luận án tập trung giải quyết.
Chương 2. Diện mạo truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Nội dung chủ
yếu của chương này là phác thảo diện mạo truyện trinh thám trên cơ sở tìm hiểu khái
niệm, đặc điểm loại hình để xác định quy luật vận động của truyện trinh thám Việt Nam
trong tiến trình văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Chương 3. Đặc điểm hình tượng nghệ thuật trong truyện trinh thám Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX. Trong chương này chúng tôi tiến hành nghiên cứu thế giới hình tượng
(chủ yếu là hình tượng nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật), để qua đó chỉ rõ
những nét đặc trưng riêng của thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Chương 4. Đặc điểm cốt truyện, phương thức trần thuật trong truyện trinh thám
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chương này tập trung vào nhiệm vụ phân tích, làm rõ việc
tiếp thu, tiếp biến và sự vận dụng sáng tạo của nhà văn trinh thám Việt Nam trên hai
phương diện cơ bản nhất là cốt truyện và phương thức trần thuật trong tác phẩm.
3/. KẾT LUẬN
4/. TÀI LIỆU THAM KHẢO
5/. PHỤ LỤC
7
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Truyện trinh thám Việt Nam ra đời vào đầu thế kỷ XX. Trong một quãng thời
gian rất dài, thể loại này thường bị coi là “văn chương hạng hai”, ít được giới nghiên
cứu chú ý. Đây là một thực tế rất dễ nhận thấy và do nhiều nguyên nhân khác nhau
chi phối, cả chủ quan lẫn khách quan. Trước hết là bởi truyện trinh thám ở giai đoạn
đầu chưa có những thành tựu thật sự nổi bật. Một trở ngại khác là do thị hiếu thẩm
mỹ của người Việt nửa đầu thế kỷ XX; họ chưa thể quen với hình ảnh nhân vật thám
tử điều tra dựa trên cơ sở tư duy logic, kết hợp với phương tiện khoa học hiện đại để
phá án. Hoạt động thám tử, điều tra vụ án theo lối phương Tây vẫn còn là những thứ
xa lạ đối với người Việt Nam vốn quen với lối truyện “kỳ án”, “công án”. Thế nên
người đọc thường cho rằng truyện trinh thám là kết quả của sự bịa đặt, hư cấu, do nhà
văn tự tưởng tượng ra. Đấy là chưa kể, do sự chi phối của quan niệm truyền thống,
văn chương đích thực phải là thứ văn chương dùng để “tải đạo”, “ngôn chí”, những
thứ vốn rất mờ nhạt đối với truyện trinh thám. Bởi vậy, thể loại này đương nhiên
không được chú trọng, không được đánh giá cao. Hoạt động sáng tác, nghiên cứu,
phê bình văn học trinh thám do vậy cũng có những đặc điểm riêng.
1.1.1. Giai đoạn trước 1945
Năm 1928, tác giả S.S Van Dine (1888 – 1939, bút danh của Willard
Huntington Wright), nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn Mỹ, đã đưa ra “Hai mươi
nguyên tắc của việc viết truyện trinh thám”. Ông cho rằng “Truyện trinh thám là một
dạng của trò chơi trí tuệ. Hơn nữa, có thể nói, đó còn là một sự thử thách mang tính
thể thao, trong đó tác giả cần phải đọ sức một cách trung thực với độc giả” [151]. Đây
được coi là những nguyên lý mẫu mực về mặt lý thuyết cho các nhà văn, nhà nghiên
cứu khi tìm đến truyện trinh thám.
Ở Việt Nam, những năm đầu thế kỷ XX, các nhà văn chủ yếu tiếp xúc với
truyện trinh thám phương Tây thông qua tác phẩm của các nhà văn như Edgar Allan
Poe, Conan Doyle, Agatha Christie... Họ coi tác phẩm của các nhà văn này như một
8
thứ khuôn mẫu trong lĩnh vực truyện trinh thám để học hỏi, mô phỏng theo. Trong
quá trình tìm tòi, thử nghiệm để sáng tác một thể loại hoàn toàn mới mẻ như vậy, các
nhà văn Việt Nam đã tạo ra một kiểu truyện trinh thám với những đặc điểm riêng. Đó
là những tác phẩm mà cốt truyện xoay quanh việc điều tra một vụ án (thường là cái
chết bí ẩn, một vụ mất cắp), có nhân vật thám tử (chuyên nghiệp hoặc không chuyên);
và trong suốt quá trình điều tra, cả tác giả và độc giả cùng khám phá bí mật cho đến
kết thúc câu chuyện, vụ án được làm sáng tỏ. Đây cũng là những những nguyên tắc
cơ bản của truyện trinh thám Phương Tây mà các nhà văn Việt Nam đã vận dụng.
Bên cạnh đó, họ còn biết kết hợp với kiểu truyện “kỳ án”, “công án” rất phổ biến
trong văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc. Sự kết hợp này đã tạo nên một thể
loại truyện trinh thám “hỗn hợp”, được pha trộn yếu tố vụ án – ái tình – hành động –
võ hiệp rất độc đáo.
Tuy nhiên, trên thực tế, hiện tượng này lại chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu
một cách đầy đủ. Có thể nói cho đến giữa thế kỷ XX, ở Việt Nam vẫn chưa có một
công trình nghiên cứu quy mô nào về thể loại truyện trinh thám được công bố. Những
gì được gọi là nghiên cứu thực ra chỉ là những nhận xét, lời bàn sơ lược về một số
hiện tượng cụ thể; đó thường là các bài giới thiệu, phân tích về nội dung, nghệ thuật
trong tác phẩm của một số cây bút như Thế Lữ, Phạm Cao Củng… do chính các nhà
văn thực hiện.
Trong “Lời giới thiệu” Vàng và máu, Khái Hưng đã nhận xét về hiện tượng kết
hợp “bút pháp” phương Tây và phương Đông ở các truyện trinh thám kinh dị của Thế
Lữ. Nhà văn lý giải như sau: “Tác giả những truyện Vàng và máu và Một đêm trăng
đã tỏ ra có óc khoa học của Edgar Poe và tâm hồn thi sĩ của Bồ Tùng Linh, hai nhà
viết những truyện ghê gớm huyền hoặc, làm cho độc giả yếu bóng vía phải rùng mình
lúc đêm khuya” [51, tr.416]. Đưa ra đánh giá này, Khái Hưng dường như chỉ căn cứ
vào các truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ ở giai đoạn đầu (Vàng và máu, Một đêm
trăng xuất hiện vào năm 1934). Thực ra, khái quát như vậy về Thế Lữ là chưa đầy đủ
bởi ông còn có cả loạt truyện trinh thám suy luận (tập trung nhất là truyện về nhân vật
thám tử Lê Phong) xuất hiện từ năm 1937.
9
Trong khi đó, Dương Quảng Hàm lại có cái nhìn khác về tác phẩm Vàng và máu,
Bên đường thiên lôi của Thế Lữ. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến “chủ đích” của tác giả
khi sáng tác truyện trinh thám kinh dị:
Ông thường công kích những điều mê tín dị đoan. Muốn đạt chủ đích ấy, ông
đặt những câu chuyện có vẻ rất rùng rợn làm cho người đọc ghê sợ, rồi đến đoạn
kết, ông đem cái lẽ khoa học ra mà giải thích các việc đã xảy ra một cách rất đơn
giản, tự nhiên. Chính vì thế, các câu chuyện có sức hấp dẫn kỳ lạ, làm cho người
đọc thích thú [45, tr.9].
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Tập II (1943), cũng
dành một phần để nói về truyện trinh thám Việt Nam. Ông đặc biệt chú ý đến Phạm Cao
Củng, theo tác giả, Phạm Cao Củng là tiêu biểu nhất trong số các cây bút theo đuổi thể
loại văn học này. Vũ Ngọc Phan cho rằng :
Trong các tiểu thuyết trinh thám của Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và Phạm Cao Củng,
chỉ có tiểu thuyết của Phạm Cao Củng là có phần đặc sắc hơn..., các truyện trinh
thám của Bùi Huy Phồn mang tính chất “hoạt kê” ... cách điều tra, phán đoán sự
việc mà ông miêu tả trong truyện còn đơn giản, nhiều yếu tố ngẫu nhiên, vô lý
[89, tr.53].
Có thể thấy Vũ Ngọc Phan đã đánh giá cao sự sáng tạo của Phạm Cao Củng trong
việc tiếp biến một thể loại văn học có nguồn gốc từ phương Tây. Ở đây cái nhìn của ông
đối với Thế Lữ có phần gần gũi với Khái Hưng. Theo Vũ Ngọc Phan thì “Về tiểu thuyết,
tuy loại truyện trinh thám của Thế Lữ chưa thành công, nhưng về những truyện ghê sợ,
ông đã chứng tỏ là một tiểu thuyết gia có biệt tài, nghệ thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ
ở đây đã lên tới trình độ cao” [89, tr.54]. Điều đáng lưu ý là Vũ Ngọc Phan tuy đề cao
khả năng của Thế Lữ trong các tác phẩm trinh thám kinh dị (ông gọi là “truyện ghê sợ”)
nhưng không hiểu vì sao ông lại không thừa nhận sự thành công của Thế Lữ trong loạt
tác phẩm viết về thám tử Lê Phong.
Đối với các tác giả chỉ viết một vài truyện mang màu sắc trinh thám như Thúy Am
(Anh hùng tương ngộ, Cái hầm bí mật, Người hay ma), Cuồng Sĩ (Ai giết quan tòa), Vũ
Đình Tuyết (Mảnh giấy bí mật, Con ma đeo kính Vuông khăn đẩm máu), một số tác
phẩm do Tân Dân Quán xuất bản không ghi tên tác giả như Con khỉ giết người, Xác chết
chạy đi đâu … hầu như rất ít hoặc không được các nhà nghiên cứu nhắc đến.
10
Ngoài các bài viết về tác giả cụ thể vừa kể trên, một số nhà nghiên cứu, nhà văn
cũng đề cập đến những vấn đề chung của thể loại trinh thám. Nhà văn Nguyễn Công
Hoan cũng có thái độ không mấy thiện cảm về truyện trinh thám. Tác giả giễu cợt nhân
vật “thám tử” trong truyện Cái lò gạch bí mật (với đề từ: Truyện trinh thám An Nam),
một kẻ có cái gì đó không bình thường: “Trinh độ này thích đọc truyện trinh thám Tây,
và cả ngày, lúc nào anh cũng có vẻ bí mật, hay nhận xét từng cái cử chỉ cỏn con của
người khác, và hay suy xét tâm lý người ta bằng những câu vụn vặt mà anh nghe lóm
được. Anh muốn làm nhà trinh thám thứ nhất của nước Việt Nam” [155, tr.3]. Kết thúc
truyện, tang vật mà nhà thám tử tìm thấy sau nhiều ngày theo dõi kẻ tình nghi: “Tang vật
đó to bằng vành khăn đàn bà, cuộn khoanh lù lù trên mặt đất thành một bãi, đầu hình búp
măng, màu vàng, mà ở đuôi là có hơi ngắn, thôi thối … [155, tr.3].
Nhìn chung, hầu hết những công trình nghiên cứu về truyện trinh thám trong giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX chỉ tập trung vào hai tác giả ở miền Bắc, nhưng chủ yếu tập
trung vào nhóm truyện kinh dị. Mặc dù có biểu dương sự sáng tạo của nhà văn Việt Nam
trong việc tiếp thu thể loại văn học phương Tây, nhưng lại không thực sự coi trọng giá trị
của thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam.
1.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Lịch sử Việt Nam, kể từ 1945 đến 1975 vận động theo một tiến trình rất đặc biệt.
Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
đánh dấu một giai đoạn lịch sử: chấm dứt sự hiện hữu của chế độ thực dân – phong kiến.
Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, lịch sử dân tộc lại bước vào một hoàn cảnh mới: từ
1945 đến 1954, nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp; từ 1954, đất nước chia đôi thành
Miền Nam và Miền Bắc. Từ đây, mỗi miền là một thể chế chính trị, có nền kinh tế, đời
sống văn hóa riêng; và tương ứng với đó là một nền văn học phát triển theo những đường
hướng, đặc điểm riêng. Tình trạng này kéo dài đến 1975, khi đất nước được thống nhất.
Ở Miền Bắc, để đáp ứng yêu cầu thực tế của đời sống, các nhà văn đã tạo nên
một nền văn học mới – văn học Cách mạng. Trong hoàn cảnh cả xã hội dốc sức
cho hai nhiệm vụ chính là xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống
nhất nước nhà, văn học cũng được huy động như một nguồn lực để phục vụ sự
nghiệp chung. Văn chương được coi là vũ khí chiến đấu chứ không còn là phương
tiện giải trí. Chính vì vậy mà thể loại truyện trinh thám ở miền Bắc, để có thể thích
11
nghi với hoàn cảnh mới, đã chuyển sang một dạng khác, đó là trinh thám tình báo,
phản gián theo ảnh hưởng văn học các nước Xã hội chủ nghĩa (tiêu biểu là Liên
Xô, Trung Quốc). Lối truyện trinh thám phổ biến chặng đầu thế kỷ XX đã không
còn. Thay vào đó là sự “biến dạng” của thể loại để trở thành các tiểu phẩm dưới
hình thức “câu chuyện cảnh giác”, “chuyện vì an ninh tổ quốc”. Ngoài ra, còn có
các truyện trinh sát – hình sự viết về chiến công phá án của lực lượng công an
hoặc một số truyện tình báo được dịch từ nước ngoài. Trong bối cảnh đó, không
khó lý giải tình trạng thưa vắng các công trình nghiên cứu về thể loại truyện trinh
thám.
Ở Miền Nam, kể từ năm 1954, truyện trinh thám cũng hầu như không phát
triển; thật hiếm có những sáng tác mới thuộc thể loại này được xuất bản. Chính vì
vậy mà tình hình nghiên cứu truyện trinh thám cũng không có gì đáng kể. Tuy
nhiên, trong các công trình nghiên cứu văn học sử dùng cho học đường, một số
nhà nghiên cứu (phần lớn là các giáo sư đại học) cũng có đề cập đến các tác giả,
tác phẩm trinh thám.
Tác giả Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên (1965), đã
dành 11 trang đánh giá về mảng truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh thám của Thế
Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho Thơ mới còn có một Thế
Lữ văn xuôi đặc sắc. Tuy nhiên, truyện trinh thám của Thế Lữ cũng có nhược điểm:
“Tiểu thuyết của ông cao quá, lấy làm truyện những điều lạ quá, làm nhân vật những
người hiếm quá... Cao quá cả ở cách viết săn sóc chải chuốt, cách lập luận khoa học tỷ
mỷ, vì vậy không phổ biến trong độc giả trung bình.... Các tác phẩm trinh thám của ông
có nhiều tình tiết phi lý, không gian và thời gian truyện ngắn và hẹp một cách khiên
cưỡng [77, tr.214]. Phạm Thế Ngũ cho rằng “thể loại tiểu thuyết này ngay bản chất của
nó, không có lợi thú văn học lắm.” [77, tr.214].
Tác giả Lê Huy Oanh đã đi sâu tìm hiểu nghệ thuật xây dựng cốt truyện và
nghệ thuật kể chuyện trong truyện trinh thám kinh dị của Thế Lữ và kết luận:
“Vàng và máu là một kỳ công nghệ thuật đáng được khâm phục. Ở đó, bao nhiêu li
kì rùng rợn được dàn dựng công phu, hấp dẫn” [86, tr.55].
Bên cạnh các tác giả truyện trinh thám gốc miền Bắc như Thế Lữ, Phạm Cao Củng,
một tác giả miền Nam là Phú Đức cũng được nhắc đến. Một số cây bút như Thượng Sỹ,
12
Vũ Bằng, Ngọa Long… đã đề cập đến nhiều vấn đề trong sáng tác của nhà văn Phú Đức
và khẳng định “chỉ với cái tên tác giả Phú Đức là đủ đảm bảo, đủ lôi kéo bạn đọc rồi;
nhưng phải nhìn nhận là trong tất cả tiểu thuyết của Phú Đức thì chỉ có bộ Châu về hiệp
phố là hay hơn hết” [102, tr.25].
Nhìn chung, so với trước, giai đoạn 1945 – 1975, truyện trinh thám không phát
triển và có thể nói là lịch sử thể loại đã bị đứt đoạn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng tác phẩm trinh thám không còn giữ được sức cuốn hút mạnh mẽ như trước; bản
thân các nhà văn cũng không dành nhiều tâm sức để sáng tác. Ngay cả những người vốn
sở trường trong địa hạt truyện trinh thám cũng không còn duy trì mạch thể loại: Thế Lữ
chuyển sang viết kịch, Bùi Huy Phồn làm thơ và viết tiểu thuyết, Phạm Cao Củng và các
nhà văn Nam Bộ không có nhiều sáng tác mới… Đương nhiên, tình hình nghiên cứu
truyện trinh thám cũng không thể khởi sắc được.
1.1.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Sau năm 1975, đất nước hòa bình thống nhất, lịch sử chuyển sang một giai đoạn
mới. Tuy vậy, đời sống văn học vẫn chưa có những biến chuyển mang tính đột phá. Văn
học vẫn tiếp tục mạch vận động như cũ, từ cảm hứng chủ đạo cho đến phương pháp sáng
tác, nghệ thuật thể hiện. Trong hoạt động nghiên cứu, nhận thức về văn học, các dòng
văn học không nằm trong hệ quy chiếu của chủ nghĩa hiện thực và hiện thực xã hội chủ
nghĩa tiếp tục bị phê phán một cách nghiêm khắc. Tác giả Vũ Đức Phúc, trong một bài
viết với tựa đề “Truyện trinh thám” (1981), đã dành nhiều trang giới thiệu lịch sử hình
thành truyện trinh thám thế giới, với những tác gia tiêu biểu như Honoré de Balzac,
Charles Dickens, E. Allan Poe …. Theo tác giả, điều đáng kể trong truyện trinh thám
chính là hiện thực xã hội (tư bản) mà nhà văn đã tập trung phản ánh, mô tả với tinh thần
phê phán. Đánh giá về truyện trinh thám Việt Nam, nhà nghiên cứu đưa ra một kết luận
khá bất ngờ: “Truyện trinh thám có ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội” [91, tr.36]. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung trong “Lời giới thiệu” Văn xuôi lãng mạn Việt Nam
1930 – 1945, đã phân chia truyện của Thế Lữ chi tiết hơn, tác giả viết: “Ông được biết
trước hết là ở loại truyện kinh dị (...) rồi loại truyện tình lãng mạn đường rừng (...) và
nhất là truyện trinh thám, ông là một trong những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở
nước ta” [55, tr.423]. Ông xếp sáng tác của Thế Lữ thành nhiều nhóm khác nhau, trong
đó đáng chú ý là “truyện kinh dị”, “truyện trinh thám”, “truyện đường rừng”. Nguyễn
13
Hoành Khung đánh giá về văn nghiệp của Thế Lữ cả hai giai đoạn trước và sau cách
mạng tháng Tám: Thành công nhất của nhà văn vẫn là truyện trinh thám. Đồng thời, tác
giả cũng nhận định về thể loại truyện trinh thám Việt Nam: Chính cái “phụ đề” ghi bên
cạnh tên truyện “Truyện trinh thám An Nam” của nhà văn Nguyễn Công Hoan, cho thấy
cái nhìn khắt khe về thể loại truyện trinh thám Việt Nam của nhà văn hiện thực Nguyễn
Công Hoan. Bình luận về truyện ngắn này, Nguyễn Hoành Khung cho rằng “Thiên
truyện thường được xem như một ngón đòn “đả kích khá trúng thứ văn chương” hiện
đại, “lai căng toàn những chuyện ly kỳ rẻ tiền” [54, tr.7]. Nhà văn trinh thám “hoạt kê”
Bùi Huy Phồn, trong “Đôi lời tâm sự cùng bạn đọc” in trong tác phẩm Lá huyết thư (tái
bản năm 1989) nhận định:
“Trong những năm cuối thập kỷ 20 đầu thập kỷ 30 bên cạnh những tiểu thuyết
... chứa chan lòng yêu nước thương nòi, chúng ta còn bị một thứ bịnh dịch điên
loạn về các loại truyện phong thần, kiếm hiệp, dao bay, trinh thám ... tung ra từ
bốn phương tám hướng để ngu dân, đầu độc đông đảo thanh niên hồi bấy giờ,
thứ bịnh dịch cũng không kém phần nguy hiểm như các thứ truyện trinh thám rẻ
tiền, truyện về những vụ án hình sự đương ăn dỗ tiền và mê hoặc con em chúng
ta ngày nay” [ 93, tr. 6].
Từ năm 1986 trở đi, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Đây
cũng là lúc các nhà nghiên cứu bắt đầu có sự thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá về
các hiện tượng văn học. Thể loại truyện trinh thám do vậy cũng được nghiên cứu một
cách thận trọng, với một thái độ khách quan, khoa học hơn. Ít thấy những lời phê phán
gay gắt dành cho thể loại văn học này như trước đây; thậm chí có những tác giả đặt lại
vấn đề, xác định lại vai trò, vị trí của truyện trinh thám trong đời sống văn học. Trong bối
cảnh đó, xuất hiện rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến
thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Nhà thơ Tế Hanh trong bài “Thương tiếc nhà thơ Thế Lữ”, cho rằng: “Thế Lữ thích
viết những truyện li kì nhưng cấu trúc lúc nào cũng rõ ràng, khoa học như Vàng và máu,
Bên đường thiên lôi (...). Ở anh, cái chất mở đường đi tiên phong thật rõ ràng trong thơ,
trong truyện, trong báo chí, sân khấu” [45, tr.382 - 383].
Phan Trọng Thưởng với bài viết “Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong”, nhận xét:
14
Chỉ sau khi tập Mấy vần thơ ra đời được ít lâu, Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh
vực văn xuôi với hai sở trường là tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh
thám như Vàng và máu (Đời nay-1937), Bên đường thiên lôi (1936); Mai
Hương và Lê Phong (1937). Với Vàng và máu (tiểu thuyết kinh dị), ông có thể
được coi là tác giả đạt đỉnh cao nghệ thuật của loại truyện này. Điều đáng chú ý
là sự thay đổi thể loại ở Thế Lữ đồng thời cũng kéo theo cả thế giới nghệ thuật
trong sáng tác của ông. Nếu như ở thơ Mới ông thích cõi tiên, ở truyện trinh
thám ông thích cõi đời thì ở truyện li kỳ, rùng rợn, ông thích cõi âm [112, tr.13].
Nhà nghiên cứu đã không quên đề cao đóng góp quý báu của Thế Lữ trong việc mở ra
khuynh hướng văn chương mới cho nhóm Tự lực văn đoàn.
Tác giả Hoàng Minh Châu đã tỏ ra đồng tình với nhận định trên, khi cho rằng:
“Nhưng có lẽ các nhà văn hiện nay và cả độc giả, nếu có dịp đọc lại những truyện
trinh thám của Thế Lữ - nhà thơ, ắt sẽ ngạc nhiên mà kêu rằng … viết truyện trinh
thám được như ông không phải dễ!” [13, tr.28].
Tác giả Hoài Việt khẳng định: “Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu tưởng
tượng, giàu mộng mơ nhưng ông lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa
học” [123, tr.109].
Nhà nghiên cứu Nam Chi lại cho rằng: “Thế Lữ viết truyện trinh thám, truyện li
kì dù hay dù dở đều phải hợp lý… hợp lý trong tình tiết thì phải thuận lý trong câu
văn. Thế Lữ đã đưa vào trong tiểu thuyết Việt Nam cấu trúc câu văn Tây phương,
minh bạch khúc chiết mà vẫn giữ được dáng dấp mềm mại của câu nói Việt Nam”
[135]. Đây là một trong những nhận định sâu sắc về nghệ thuật viết truyện trinh thám
của Thế Lữ.
Trong Thế Lữ - Tác gia và tác phẩm của Phạm Đình Ân, với bài viết “Thế Lữ
và năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe”, tác giả Kim Oanh đã so sánh, chứng
minh năm truyện trinh thám của Thế Lữ đã chịu ảnh hưởng mẫu hình của nhà văn Mỹ
Edgar Poe và kết luận: “Chất duy lý khoa học phương Tây được quyện lẫn với tính
chất ma quái huyền bí của Bồ Tùng Linh và cái kỳ ảo hoang đường của truyện truyền
kỳ dân gian Việt Nam là thành màu sắc truyện trinh thám Thế Lữ” [5, tr.12].
Tác giả Hoài Anh cho rằng: “Thế Lữ cả thơ và truyện đều có hơi hướng Poe,
nặng về duy mỹ mà không đau khổ đến mức bệnh hoạn, tuyệt vọng như Baudelaire”
[2, tr.13]. Riêng Đỗ Lai Thúy khẳng định: “Thế Lữ là người khởi điểm của những
15
khởi điểm”, tên tuổi của ông gắn liền với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam và
ông cũng là một trong những người đặt nền móng cho thể loại truyện trinh thám Việt
Nam.
Nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ tiếp tục đề cao về mảng truyện trinh thám của Thế
Lữ: “Loại sáng tác này cho ta thấy một Thế Lữ có tài quan sát, có óc quan sát sắc
bén, có trí tưởng tượng dồi dào, cho nên dù ít đề cập đến vấn đề gì quan trọng về xã
hội và nhân sinh nó vẫn được đón nhận và được tìm đọc một cách lý thú. Cho đến
nay, trong lịch sử văn học Việt Nam, không thấy có tên tuổi nào đáng được xếp cạnh
Thế Lữ trong loại sáng tác khá độc đáo này” [57, tr.55-56].
Trong số các công trình, bài viết về truyện trinh thám và truyện đường rừng của
Thế Lữ, lời nhận xét, bình phẩm của Văn Giá trong “Lời tựa” (tái bản) là một cách
nhìn khá mới mẻ về truyện trinh thám:
Ở cả hai loại trên, Thế Lữ đều có những đóng góp xuất sắc, chúng ta nhận ra
một thời đại dân chủ trong văn học, chỉ có dân chủ trong sáng tạo, trong cảm
quan của tác giả, trong sự ganh đua, thể nghiệm bạo dạn và tự tin của nhà
nghệ sĩ, chúng ta mới thấy sự bùng nổ của nhiều thể loại văn học đến thế, và
cũng chỉ có dân chủ, nên ở mỗi thể loại mới có những đỉnh cao đẹp đẽ và kỳ
thú đến thế [39, tr.13].
Từ đó, tác giả đưa ra kết luận, cái tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm là do tài năng của
người nghệ sĩ kết hợp với tinh thần dân chủ, tự do sáng tạo.
Về những sáng tác của Phạm Cao Củng, nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu đã so
sánh kết cấu truyện của Phạm Cao Củng và Trình Tiểu Thanh ở Trung Quốc. Bà cho
rằng:
Có thể nói đây là sự gặp gỡ đầu tiên giữa Trình Tiểu Thanh và Phạm Cao
Củng – hai tiểu thuyết gia trinh thám không hề quen biết, không hề có thông
tin gì nhau – về kết cấu của truyện trinh thám. Tiếp đó hai ông cũng gặp gỡ
nhau ở chỗ xây dựng nhân vật chính là một thám tử có trình độ vận dụng lý
luận học và óc quan sát để phân tích sự việc, gỡ dần ra đầu mối chính [12, tr.
28].
Đồng thời, Thy Ngọc trong “Truy tìm truyện trinh thám Việt Nam” đánh giá cao
tinh thần Việt hóa cốt truyện của Phạm Cao Củng. Tác giả cho rằng: “Phạm Cao
Củng dù là học hỏi phương Tây, nhưng ông ấy cũng biết “thổi” cho nhân vật một tính
16
cách Việt, tâm hồn Việt, đời sống Việt cùng những phẩm chất được ưa chuộng ở
phương Đông, như trọng nghĩa khí, tình cảm, đạo đức, coi thường tiền bạc, không
hành động vì thù lao” [147].
Đồng tình với ý kiến trên của Thy Ngọc, Phạm Tú Châu nêu rõ:
Cái đặc biệt mà người ta thấy ở tiểu thuyết trinh thám suy luận của Phạm
Cao Củng là tuy vay mượn một thể loại văn học phương Tây nhưng ông đã
Việt Nam hóa rất tài tình, cộng thêm phần sáng tạo riêng có. Những nhân
vật và khung cảnh trong truyện của ông đều có tính chất Việt Nam, hợp với
trình độ người Việt hiện thời, không nhặt nhạnh những mẩu truyện ly kỳ
của Tây phương và cố gò ép vào những khung cảnh lai Việt lai Pháp [24,
tr.12].
Nhà văn Trần Thanh Hà trong bài viết “Tiểu thuyết trinh thám Việt Nam phải
thoát ra khỏi lối tả chân” đã đưa ra nhận định một cách khái quát: Truyện trinh thám
Việt Nam ra đời muộn so với trinh thám phương Tây hẳn một thế kỷ (tính từ Edgar
Allan Poe cho đến cuốn trinh thám đầu tiên của Phạm Cao Củng in năm 1936). Nó có
khởi đầu khá rôm rả với mấy xê-ri của Phạm Cao Cũng và Thế Lữ, nhưng bị đứt đoạn
do chiến tranh [145].
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục đánh giá cao
các tác phẩm trinh thám của Thế Lữ. Đồng thời, tác phẩm của Phạm Cao Củng bước
đầu cũng được giới nghiên cứu nhận định và phổ biến rộng rãi để người đọc có cái
nhìn đa chiều về tài năng của hai nhà văn trinh thám đích thực. Tuy nhiên, nổi bật
nhất vẫn là những khám phá mới về những tác phẩm mang màu sắc trinh thám – ái
tình – hành động mà trước đây người đọc ít được tiếp cận.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung đã có cái nhìn rất mới về văn học Nam Bộ,
trong đó có tiểu thuyết trinh thám. Theo tác giả: “Truyện trinh thám Nam Bộ phát
triển rất sớm, ảnh hưởng truyện kỳ án võ hiệp của Trung Quốc và phù hợp với tính
cách của người dân Nam Bộ nên được hưởng ứng rất rộng rãi” [121, tr.137].
Một số nhà nghiên cứu khác như Đoàn Lê Giang, trong công trình “Văn học
quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỉ XIX đến 1945 - Thành tựu và triển vọng nghiên
cứu”, đã khái quát, giới thiệu về diện mạo của các tác giả, tác phẩm truyện trinh thám
ở miền Nam những năm đầu thế kỷ XX, và đã khẳng định: “Những phát hiện gần đây
17
cho thấy Biến Ngũ Nhy mới là nhà văn trinh thám đầu tiên và sớm nhất của Việt
Nam” [42, tr.3].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân thừa nhận một thực tế rằng “Loại truyện
trinh thám hành động của Phú Đức, Nam Đình ở trong Nam đã kích thích các nhà văn
ngoài Bắc viết loại sách tương tự, vì nó ăn khách quá trời” [142]. Tác giả Nguyễn Thị
Thanh Xuân với bài viết “Phú Đức - Một mẫu hình nhà văn Nam Bộ đặc biệt đầu thế
kỷ XX”, đã phân tích khá chi tiết về cách đặt nhan đề, cách xây dựng nhân vật trong
truyện trinh thám của Phú Đức và kết luận “nhân vật trong truyện trinh thám của Phú
Đức còn hơi gượng” [125, tr.19-23]
Tác giả Lê Tiến Dũng, Hồ Khánh Vân trong bài “Bửu Đình - Nhà tiểu thuyết
Nam Bộ” cho rằng: “Màu sắc trinh thám trong tiểu thuyết Bửu Đình in đậm ở tình
huống truyện, còn ở tình tiết truyện thì màu sắc này không rõ nét như các tác phẩm
trinh thám. Bao giờ Bửu Đình cũng xây dựng tác phẩm dựa trên tình huống có tính vụ
án. Một vụ giết người, một vụ mất cắp…, tình huống truyện này thành cái khung bọc
quanh tác phẩm, và toàn bộ cốt truyện được triển khai theo tình huống ấy để hướng
đến mục đích cuối cùng là “phá án”. Thế nhưng, so với những tác phẩm trinh thám
khác thì tính trinh thám của Bửu Đình chỉ dừng lại ở mức độ khởi đầu… tình tiết
trong tiểu thuyết trinh thám của Bửu Đình không đạt đến độ chín muồi của nghệ thuật
tiểu thuyết trinh thám” [27, tr.4].
Nhận xét về sáng tác của Biến Ngũ Nhy, các tác giả Nguyễn Kim Anh, Hà
Thanh Vân, Nguyễn Thị Trúc Bạch cho rằng:
Tác phẩm Kim thời dị sử của Biến Ngũ Nhy được coi là cuốn tiểu thuyết
trinh thám đầu tiên của văn học Việt Nam hiện đại, nó mang dáng dấp của
một tiểu thuyết phương Tây hiện đại và giá trị của nó trong văn học sử đã
được ghi nhận và thành quả của Biến Ngũ Nhy, người đi tiên phong mở
đường trong lãnh vực này đã được một số cây bút sau ông như Phú Đức,
Nam Đình Nguyễn Thế Phương, Sơn Vương … ở Nam Bộ và Thế Lữ, Phạm
Cao Củng … ở miền Bắc nối tiếp [4, tr.163].
Cũng trong công trình Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Hà
Thanh Vân nhận định: Tiểu thuyết Nguyễn Thế Phương hầu hết thuộc thể loại trinh
thám li kì, hấp dẫn. Yếu tố li kì và hiện đại được ông nhấn mạnh. Và phong cách viết
18
của ông rất gần với nhà văn Phú Đức, tuy nhiên văn phong không thật sắc sảo, dường
như những tiểu thuyết này được viết để đăng báo dài kỳ ông không mấy quan tâm
trau chuốt ngôn từ … nhiều chi tiết còn bất hợp lý, tỏ ra dễ dãi, không thuyết phục
người đọc…. Có thể nói, ông cùng với Biến Ngũ Nhy, Phú Đức và một số tác giả
khác đã có công xây dựng một dòng tiểu thuyết trinh thám, võ hiệp, kỳ tình, phiêu
lưu mạo hiểm làm phong phú thêm bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc của tiểu thuyết
Nam bộ đầu thế kỷ XX [4, tr.439].
Theo nhà nghiên cứu Võ Văn Nhơn thì Biến Ngũ Nhy, Nam Đình Nguyễn Thế
Phương và Phú Đức là những nhà văn trinh thám sớm nhất của Việt Nam: “Trước
1945, Châu về hiệp phố của Phú Đức có lẽ là bộ tiểu thuyết được độc giả Nam kỳ say
mê nhất, và là bộ tiểu thuyết có độ dài kỉ lục mà chưa tác phẩm nào có thể vượt qua.
Tác phẩm được khởi đăng trên Trung lập báo năm 1926” [85, tr.37]. Xét về cấu trúc
và độ dài, Nam Đình là một “kiện tướng”, tác phẩm của ông luôn pha trộn giữa chất
trinh thám và ái tình, văn phong mộc mạc, nhưng tình tiết khá hấp dẫn. Võ Văn Nhơn
cho rằng: “Các tác phẩm chính của Lê Hoàng Mưu hầu hết đều thuộc thể loại trinh
thám hấp dẫn và li kì” [85, tr.26-35] .
Nhị Linh trong bài viết “Văn học trinh thám Nam Bộ đầu thế kỷ XX” nêu vấn
đề: Do những cách ngăn về địa lí và những đặc thù về lịch sử, nên văn học sử Việt
Nam dường như vẫn còn bỏ sót hoặc “làm lơ” các nhà văn tiền phong, có nhiều đóng
góp vào thể loại văn học trinh thám, viễn tưởng, phiêu lưu ở Nam Bộ đầu thế kỉ XX.
Tại cuộc Hội thảo “Văn học trinh thám có phải là văn học” ở Hội chợ sách lần
thứ 6 do Công ty Nhã Nam tổ chức tại Sài Gòn từ ngày từ 15.03 đến 20.03.2010,
Nguyễn Minh Hoàng, đã khái quát: “Làm sao không nể, đọc và hồi hộp như quả bom
nổ chậm. Ai cho rằng truyện trinh thám chỉ cốt để giải trí nhưng tôi lại nghĩ khác,
chính nó là thước đo của một nền văn học” [148]. Tác giả Cao Việt Dũng lý giải: Nếu
coi những cuốn truyện hình sự vẫn được bán hoặc cho thuê đầy rẫy trên thị trường
hiện nay là truyện trinh thám thì bạn đã hạ thấp thể loại này, những người hâm mộ
chân chính của văn học trinh thám đích thực sẽ dễ dàng kể ra nền tảng trinh thám của
vô số tác phẩm lớn, cả văn học lẫn điện ảnh.
Nhà nghiên cứu kiêm dịch giả Nguyễn Tiến Văn thì đưa ra nhận định: Văn học
trinh thám đã từng có một lịch sử phát triển khá lâu và lớn mạnh tại Việt Nam, có thể kể,
19
đó là từ dòng trinh thám của Trung Quốc thông qua những câu chuyện dạng Bao Công,
đến dòng trinh thám châu Âu tràn vào Việt Nam những năm trước 1945. Các tác phẩm
trinh thám đáp ứng được nhiều yêu cầu của bạn đọc như tâm lý an lòng, sự trừng phạt
đối với tội ác…Nhà báo Yên Ba lại không đồng tình với ý kiến trên nên. Trong bài viết:
“Từ thám tử Kỳ Phát đến điệp viên Nguyễn Thành Luân", tác giả cho rằng: Sách trinh
thám ở Việt Nam không có một lịch sử lâu dài. Lý do là vì chữ quốc ngữ mãi đến những
năm đầu tiên của thế kỷ XX mới dần được truyền bá và hoàn thiện, theo đó văn học chữ
quốc ngữ cũng mới được hình thành. Theo tác giả thì nếu tạm coi việc ra đời tiểu thuyết
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách do nhà in Nam Kỳ (Hà Nội) xuất bản năm 1925 như là
cuốn tiểu thuyết đầu tiên theo đúng nghĩa của nó trong nền văn học chữ quốc ngữ Việt
Nam, thì văn học trinh thám phải đợi hơn mười năm sau mới có cuốn tiểu thuyết đầu tiên
với hai nhân vật thám tử Kỳ Phát và Lê Phong phóng viên của Phạm Cao Củng và Thế
Lữ đã làm say mê người đọc Bắc Hà một thời.
Mặc dù tác phẩm Mảnh trăng thu của Bửu Đình, được xuất bản năm 1930, tác
phẩm đã mang những yếu tố trinh thám vụ án (có giết người, truy tìm thủ phạm), thế
nhưng tác giả cũng chỉ đề là “ái tình tiểu thuyết”, kể về truyện tình ái của một lớp
thanh niên thời bấy giờ lồng trong khung cảnh của một vụ án... [144]. Trong Hội
thảo, các diễn giả không chỉ đề cập đến đặc trưng thể loại, vai trò của truyện trinh
thám mà còn nhấn mạnh những đóng góp của truyện trinh thám như là một thể loại
văn học. Đồng thời, Hội thảo còn đặt vấn đề về nguồn gốc truyện trinh thám Việt, tác
giả và tác phẩm trinh thám Việt đầu tiên? Mặc dù có một số ý kiến chưa thống nhất
về cách đánh giá nhưng Hội thảo đã đem đến cho độc giả những cái nhìn mới cùng sự
quan tâm đặc biệt về thể loại truyện trinh thám Việt Nam.
Vấn đề thể loại cũng thu hút được nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê
bình. Tác giả Thy Ngọc đã băn khoăn: “Cái gọi là “dòng văn học trinh thám Việt
Nam” chỉ là một vạch rất đỗi mờ nhòe và đứt gãy trong lịch sử văn học nước nhà”
[147]. Nhà văn Trần Thanh Hà nhận định: “Ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa phương
Tây, một số nhà văn đã mô phỏng các cốt truyện hình sự - điều tra trong truyện trinh
thám nước ngoài, làm manh nha một thể loại mới: tiểu thuyết trinh thám Việt Nam”
[145]. Tiểu Quyên trong “Đánh giá tiểu thuyết trinh thám Việt giai đoạn hiện nay”
cho rằng: Không có nhiều tác phẩm văn học thuộc thể loại trinh thám, kỳ ảo, đời sống
20
văn học Việt đang bỏ trống sân chơi này cho dòng sách truyện trinh thám, kỳ ảo của
văn học thế giới ào ạt tràn vào [142].
Khi bàn về vai trò của thể loại trinh thám trong đời sống, Văn Giá đưa ra những
nhận định khá thuyết phục:
Ngày nay nhìn vào những mảng văn học này, chúng ta rộng lòng hơn khi đón nó
và trên thực tế sẽ bổ ích cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc với những tác phẩm văn
học mà ở đó không phải lúc nào cũng chăm chăm đi tìm bằng được ý nghĩa xã
hội một cách thô thiển và vị tất đã thấy! Thể loại tự nó không có lỗi, cái quan
trọng là người sử dụng nó như thế nào và đạt đến trình độ nào, cũng như người
thưởng thức với thái độ và khả năng khám phá ra sao mà thôi [39, tr.13].
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí, các công trình nghiên cứu
phê bình, sưu tầm và giới thiệu tác phẩm ít nhiều liên quan đến các tác giả và tác
phẩm truyện trinh thám như: Văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX (1900-1945) của Hoài
Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp (1988), Phác thảo quan hệ văn học Pháp và văn
học Việt Nam hiện đại của Hoàng Nhân (1988), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX
do Cao Xuân Mỹ sưu tầm (tập 1, 2), Mai Quốc Liên giới thiệu (1999), Giáo trình lịch
sử Văn học Việt Nam của Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Báo chí với văn học giai đoạn
1932-1945 của Lê Thị Đức Hạnh (2001), Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX do
Mai Quốc Liên (chủ biên), Nguyễn Văn Lưu và Nguyễn Cừ (sưu tầm, biên soạn -
2002), Lược khảo văn học Việt Nam từ khởi thủy đến hiện đại của Bùi Đức Tịnh
(2005), Văn học miền Nam nơi miền đất mới (tập 1,2) của Nguyễn Q. Thắng…
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy một số luận án Tiến sĩ, có đề
cập đến những vấn đề liên quan đến luận án như: Sự hình thành và vận động của thể
loại tiểu thuyết văn xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX của Tôn Thất Dụng (1993), Đóng góp của Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam của Lê Ngọc
Thúy (2001), Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX của Cao Xuân Mỹ (2001), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX của Võ Văn Nhơn (2008).
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu từ sau năm 1986 đã có nhiều thay đổi
so với giai đoạn trước đó với cái nhìn khá mới mẻ, cởi mở và phóng khoáng theo tinh
21
thần đổi mới. Phần lớn các công trình nghiên cứu cố gắng đi sâu tìm hiểu và đánh giá
lại vai trò, vị trí của thể loại, tác giả và tác phẩm trên cơ sở những giá trị khách quan
vốn có của thể loại nên đã có nhiều nhận xét có tình, có lý, dựa trên những tài liệu
đáng tin cậy. Tuy nhiên, không phải không còn những ý kiến cực đoan trong việc
nhận xét và cảm thụ, đòi hỏi giới nghiên cứu cần phải có thời gian để trao đổi một
cách thẳng thắn, trên tinh thần khoa học và dân chủ.
1.2. ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nhìn chung trong khoảng thời gian gần một thế kỷ qua, hoạt động nghiên cứu,
tìm hiểu về thể loại truyện trinh thám Việt Nam của giới chuyên môn rất khiêm tốn.
Xét về quy mô, còn thiếu những chuyên luận, những công trình dài hơi, mang tính hệ
thống; hầu hết chỉ là các bài báo và một số rất ít luận văn, luận án… Ở giai đoạn đầu,
hầu hết các bài viết, bài nghiên cứu chỉ tập trung đánh giá tác phẩm trinh thám kinh
dị, kỳ ảo, điều tra của Thế Lữ và Phạm Cao Củng. Việc nghiên cứu sâu về phương
diện thể loại truyện trinh thám hầu như không được đặt ra. Trong một số trường hợp
cụ thể, cũng có người đưa ra nhận định chung về thể loại thể loại này, song thường
thể hiện một cái nhìn khắt khe, không mấy thiện cảm. Truyện trinh thám vẫn luôn bị
xếp vào hàng thứ yếu trong các thang bậc giá trị văn học; trong giới chuyên môn vẫn
tồn tại một định kiến khá nặng nề, cho đây là “văn chương hạng hai”, “lai căng, ly kỳ
rẻ tiền, không có lợi thú cho văn học”.
Ở nửa sau của thế kỷ XX, tình hình nghiên cứu có nhiều thay đổi. Đặc biệt là từ
thời điểm đất nước đổi mới, bước vào quá trình hội nhập quốc tế đến nay, những vấn
đề liên quan đến thể loại truyện trinh thám (lý thuyết thể loại, tác giả, tác phẩm…) đã
được nhìn nhận lại một cách khách quan hơn. Các nhà nghiên cứu và độc giả đã có cái
nhìn cởi mở hơn về thể loại này. Truyện trinh được xem như một thể loại “hấp dẫn, hồi
hộp, khoa học và có những đóng góp đáng ghi nhận”. Việc nghiên cứu thể loại truyện
trinh thám nửa đầu thế kỷ XXI đã có những thay đổi mang tính “đột phá”, với nhiều
phát hiện mới mẻ, có giá trị. Đáng chú ý là việc sưu tầm, đánh giá những đóng góp của
Phạm Cao Củng và các nhà văn trinh thám Nam Bộ.
1.2.1. Những vấn đề đã được thống nhất
Có thể thấy, việc nghiên cứu, giới thiệu truyện trinh thám tuy diễn ra khá sớm.
Một loạt những bài viết về truyện trinh thám đầu thế kỷ XX của Khái Hưng (1934),
22
Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc Phan (1942)… cho đến Phạm Thế Ngũ (1965),
Nguyễn Văn Dân (1997)… đặc biệt là các bài viết được công bố đầu thế kỷ XXI của
Phạm Đình Ân (2006), Đoàn Lê Giang (2006), Trần Thanh Hà (2006), Võ Văn Nhơn
(2006), Trần Hữu Tá (2006), Nguyễn Thị Thanh Xuân (2006), Nguyễn Văn Trung
(2006)… cho thấy việc nghiên cứu đối tượng này càng về sau càng phong phú và đa
dạng. Những công trình từ sau 1986 đã thể hiện được tinh thần đổi mới trong nghiên
cứu văn chương Việt Nam nói chung, truyện trinh thám nói riêng. Những nỗ lực
trong việc tìm tòi, sưu tầm, giới thiệu, phổ biến truyện trinh thám đã gặt hái được
nhiều thành quả đáng trân trọng.
Theo chúng tôi, trong quá trình nghiên cứu truyện trinh thám Việt Nam, một số
vấn đề cơ bản dưới đây của thể loại đã ít nhiều nhận được sự đồng thuận của giới
chuyên môn:
Thứ nhất, về nguồn gốc, xuất xứ truyện trinh thám: trên cơ sở mô phỏng truyện
truyện trinh thám phương Tây và truyện vụ án Trung Quốc, kết hợp với văn học
truyền thống, các nhà văn đầu thế kỷ XX đã tạo ra một thể loại văn học mới; đó là
truyện trinh thám Việt Nam.
Thể loại truyện trinh thám Việt Nam có những nét đặc thù, cả về nội dung lẫn hình
thức; có quy luật vận động riêng. Do ảnh hưởng hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX, nó hình thành một cách nhanh chóng, góp phần thúc đẩy quá
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Tuy nhiên, dòng văn học trinh thám Việt Nam “chỉ
là một vạch chỉ rất đỗi mờ nhòe và đứt gãy trong lịch sử văn học nước nhà” [145].
Thứ hai, về thành tựu: Thể loại truyện trinh thám Việt Nam được hình thành bởi
sự đóng góp của nhiều nhà văn như Phú Đức, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng Mưu, Nam
Đình Nguyễn Thế Phương, Bửu Đình, Bùi Huy Phồn … với các truyện mang màu sắc
khác nhau (trinh thám hành động – vụ án – ái tình – võ hiệp…). Trong đó Thế Lữ,
Phạm Cao Củng được xem là hai nhà văn thành công nhất về thể loại này. Các truyện
trinh thám của Thế Lữ và Phạm Cao Củng đều ảnh hưởng truyện trinh thám cổ điển
của nhà văn trinh thám Mỹ Adgar Allan Poe, Sir Arthur Conan Doyle trong việc xây
dựng hình tượng nhân vật thám tử.
1.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận
23
Trên thực tế, truyện trinh thám Việt Nam là một đối tượng được giới nghiên cứu
nhìn nhận rất khác nhau. Điều này cũng có nghĩa xung quanh đối tượng này đang tồn
tại nhiều vấn đề cần được tiếp tục tìm hiểu, giải quyết.
Trước hết là những khác biệt trong việc đánh giá vị trí, vai trò, tầm ảnh hưởng
của văn học trinh thám trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam nói chung, đối
với tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nói riêng. Ở đây có hai xu hướng đánh
giá hoàn toàn trái ngược nhau. Mặc dù càng về sau, xu hướng khẳng định càng tỏ ra
vượt trội, song do chỗ phần lớn các công trình nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc
phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, chưa có những công trình đánh giá
một cách đầy đủ, hệ thống về thể loại do đó, sức thuyết phục chưa cao.
Bàn về quá trình sinh thành truyện trinh thám Việt Nam, hầu như các nhà
nghiên cứu đều khẳng định cội nguồn của nó là từ tiểu thuyết trinh thám phương Tây,
truyện vụ án Trung Quốc. Tuy nhiên về cơ bản, vẫn chỉ là những nhận định chung
chung, chưa có sự đối chiếu, so sánh, chứng minh thật chi tiết, đầy đủ. Không thể phủ
nhận sự ảnh hưởng của truyện trinh thám phương Tây, truyện vụ án Trung Quốc đối
với trinh thám Việt Nam, song ảnh hưởng như thế nào?, chi phối đến đâu?, biểu hiện
ra sao?, phần tiếp thu, sáng tạo của nhà văn nước ta như thế nào?… vẫn là những câu
hỏi chưa được trả lời đầy đủ. Nghĩa là, vẫn tồn tại nhiều vấn đề về chưa được giải
quyết một cách thỏa đáng.
Ngoài ra, một số vấn đề mang tính “nhận thức luận”, “lý thuyết văn học”…trên
thực tế vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát. Chẳng hạn nội hàm của khái niệm truyện
trinh thám Việt Nam?, quá trình sinh thành và vận động của truyện trinh thám trong
lịch sử văn học Việt Nam (với những câu hỏi cụ thể: Ai là người khai sinh ra thể loại
trinh thám ? Tác phẩm đầu tiên là gì ? …); vấn đề phân loại truyện trinh thám, đặc
trưng thể loại?…
Tất nhiên, những vấn đề trên không phải là chưa có ai nghiên cứu, tìm hiểu. Sự
thật thì suốt thời gian dài vừa qua, ít nhiều chúng cũng đã được đề cập qua một số ý
kiến của giới chuyên môn. Tuy vậy, xung quanh những vấn đề mấu chốt của thể loại
trinh thám vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu rất khác nhau, đòi hỏi phải tiếp tục nhận
thức một cách đầy đủ, khoa học hơn.
24
1.2.3. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Tiếp thu thành tựu của những nhà nghiên cứu đi trước, vận dụng các phương
pháp nghiên cứu đã được lựa chọn, luận án của chúng tôi sẽ tập trung giải quyết một
số vấn đề cơ bản sau:
1. Xác lập nội hàm khái niệm thể loại truyện trinh thám Việt Nam; tiến hành
phân chia nhóm/ loại truyện trinh thám theo những tiêu chí cụ thể. Trên cơ sở đó,
trình bày một cách hệ thống diện mạo lịch sử truyện trinh thám, vai trò và vị trí của
thể loại này trong tiến trình vận động của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
2. Phân tích, khảo sát các hình tượng nghệ thuật chủ yếu trong tác phẩm: nhân vật
thám tử và tội phạm, không gian - thời gian nghệ thuật; qua đó làm rõ những đặc điểm
riêng (tính cách nhân vật, môi trường, hoàn cảnh) của truyện trinh thám Việt Nam.
3. Làm rõ đặc điểm các kiểu cốt truyện, nghệ thuật kết cấu và phương thức trần
thuật (thông qua điểm nhìn, vai kể, ngôn ngữ…) trong truyện trinh thám. Từ đó, có
thể thấy được sự vận dụng các yếu tố truyền thống và hiện đại của nhà văn nhằm tạo
nên sức hấp dẫn của tác phẩm đối với người đọc.
Thể loại truyện trinh thám được xem là trò chơi giải trí, là câu đố trí tuệ, một
trong những thể loại quan trọng của văn học duy lý. Đây rõ ràng là một thử thách lớn
đối với các nhà văn Việt Nam chặng đầu thế kỷ XX, bởi thể loại trinh thám vừa tuân
theo những quy ước chặt chẽ của văn học và đời sống, nhưng đồng thời, cũng đầy
tính ngẫu hứng, đầy tính năng động.
Nhận định về truyện trinh thám Việt Nam, có một số ý kiến cho rằng, thể loại
này không có giá trị gì đáng kể ngoài mục tiêu giải trí; các nhà văn viết truyện trinh
thám cũng chỉ nhằm đáp thị hiếu một bộ phận công chúng, viết để kịp đăng báo theo
kiểu feuilleton, viết chủ yếu để kiếm tiền nhuận bút …. Đây rõ ràng là một quan niệm
không đúng, một lối nhận định có phần hời hợt. Theo chúng tôi, truyện trinh thám là
một thể loại mới, ra đời cùng với dòng văn xuôi tự sự nửa đầu thế kỷ XX như một tất
yếu lịch sử. Chính thể loại trinh thám, với những đặc điểm riêng của nó, đã góp phần
hoàn thiện diện mạo nền văn học Việt Nam hiện đại.
25
CHƯƠNG 2 DIỆN MẠO TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG TRUYỆN TRINH THÁM
2.1.1. Khái niệm truyện trinh thám
2.1.1.1. Truyện trinh thám trong quan niệm của các tác giả nước ngoài
Truyện trinh thám là một sản phẩm của xã hội tiêu thụ phương Tây. Tác phẩm
Murders trong nhà xác Rue của Edgar Allen Poe xuất hiện trên Tạp chí Graham vào
năm 1841 của Lady và Gentleman (với nhân vật thám tử C. Augustes Dupin), được coi
là truyện trinh thám đầu tiên trên thế giới. E. Allen Poe đã cách tân thể loại truyện ngắn,
chuẩn bị cho sự ra đời của loại tiểu thuyết khoa học giả tưởng, kinh dị, huyễn hoặc và
ông trở thành người khai sinh ra tiểu thuyết trinh thám cổ điển.
Hơn bốn mươi năm sau, vào năm 1887, nhân vật Sherlock Holmes của Sir Arthur
Doyle tiếp tục xuất hiện và nhanh chóng trở thành nhân vật thám tử nổi tiếng nhất trong
văn học thế giới. Tuy vậy, cũng phải hơn một thập niên nữa, bước sang đầu thế kỷ XX,
dòng văn học trinh thám ở các nước Phương Tây mới thịnh hành và phát triển mạnh. Và
cũng từ đấy thuật ngữ này mới được dùng một cách phổ biến, chính thức trong đời sống
văn học.
Trên thực tế, khái niệm “truyện trinh thám”, “tiểu thuyết trinh thám” cũng như giá
trị của nó vốn được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo Oxford Learners Dictionaries
(in lần đầu vào năm 1948), “tiểu thuyết trinh thám” là câu chuyện trong đó có một vụ
giết người hoặc tội phạm khác và một thám tử cố gắng để giải quyết nó. Nhưng trước đó,
vào năm 1922, S.S.Van Dine – nhà văn trinh thám Mỹ đã đưa ra “Hai mươi quy tắc để
viết truyện trinh thám”. Đến năm 1928, một thành viên Câu lạc bộ các nhà văn trinh
thám Anh (Dectection Club) là Ronald Knox, đã đúc kết mười nguyên tắc nổi tiếng mà
ông gọi là “Mười điều răn cho truyện trinh thám” (Decalogue). Trong đó, điều cơ bản
cần tuân thủ là: “Thủ phạm phải được giới thiệu ở phần đầu tác phẩm, bí ẩn không có
tính siêu nhiên, thám tử không được phép trở thành kẻ sát nhân” [140].
Năm 1941, Raymond Chandler, nhà văn trinh thám Mỹ, trong bài tiểu luận “The
Simple Art of Murder” (Nghệ thuật sáng tạo truyện trinh thám), in trên tờ Atlandtic
26
Monthly, cho rằng: Truyện trinh thám là một cuộc phiêu lưu của nhân vật thám tử, nhằm
“khám phá sự thật bị che giấu và nó sẽ chẳng mang màu sắc phiêu lưu nếu điều ấy không
xảy ra một cách tình cờ với người phù hợp cho những cuộc phiêu lưu” [11, tr.59]. Trong
khi đó, Laurence Divillairs, vị Tiến sĩ triết học người Pháp lại nhận xét về thể loại trinh
thám “là thể loại văn học thứ yếu, tiểu thuyết trinh thám (Policier) – trong cách giải thích
thuần túy nhất, là không phải tiểu thuyết đen, tiểu thuyết phản gián hoặc tiểu thuyết li kỳ,
giật gân (thriller), mà là tiểu thuyết trinh thám về ẩn ngữ” [59, tr.107].
Khác với quan niệm của các tác giả trên, Julia Kristeva, nhà phân tâm học, giáo sư
tại Đại học Paris VII, coi truyện trinh thám là “một thể loại lạc quan”, một hiện tượng xã
hội rất đáng lưu ý. Theo Kristeva “không phải là hoàn toàn vì ngu xuẩn mà dường như
hiện nay, người đọc chỉ có đọc hoặc xem những truyện hoặc phim trinh thám. Phải
chăng, ngày nay người ta càng khao khát hơn bao giờ hết sự thắng lợi của công lý?” [56,
tr.110].
Nhà nghiên cứu T.Todorov, trong tiểu luận “Loại hình của tiểu thuyết trinh thám”
(Thi pháp văn xuôi) đề cao giá trị thẩm mỹ của tiểu thuyết trinh thám. Theo ông, truyện
trinh thám là một kiểu loại văn học đặc thù. Nó cần được nhìn nhận, đánh giá theo những
tiêu chí thích hợp. Ông viết: “Trong xã hội chúng ta, không có một chuẩn mực thẩm mỹ
nào duy nhất mà có hai chuẩn mực, không thể dùng những đơn vị đo lường giống nhau
để đo nghệ thuật “lớn” và nghệ thuật “trung bình” [114, tr.20]. Nhà văn, nhà phê bình
văn học người Achentina, Jorge Luis Borges (1899-1986) cũng khẳng định: “Văn học
của chúng ta đang hướng về sự hỗn loạn… Trong thời đại cực kì hỗn loạn ấy, có một thứ
vẫn còn giữ, giữ một cách khiêm tốn, những giá trị truyền thống: đó là truyện trinh thám
[10, tr.707].
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia trong giới nghiên cứu văn học Xô Viết trước đây lại
có quan niệm khác. Họ không thừa nhận tính “chính danh” của truyện trinh thám và coi
đó là một hiện tượng được gọi là “cận văn học”. Cũng vì thế, người ta đã đưa ra nhiều
tên gọi khác nhau để chỉ các tác phẩm liên quan đến hiện tượng văn học này. Chẳng hạn,
“văn học chống tội phạm”, “truyện chống gián điệp”, “truyện tình báo”, “truyện phản
gián”, “truyện hình sự”, “truyện trinh thám”…
Đầu thế kỷ XX, Conan Doyle là người đã tạo nên khuôn mẫu cho nhân vật thám tử
và cấu trúc của truyện trinh thám cổ điển; cũng vì thế nên truyện trinh thám cổ điển còn
27
được gọi là “truyện trinh thám trường phái Anh Quốc”. Từ thập niên 1920-1930, các tác
giả người Anh đã đưa thể loại trinh thám lên đỉnh cao. Nhân vật chính trong truyện trinh
thám Anh thường là “ông cò” (police), thám tử, trùm các băng cướp… Đặc biệt, với
nhân vật Sherlock Holmes, thám tử đã trở thành một nghề chuyên nghiệp; công việc
chính là phá án, thông qua các phương tiện và phương pháp tư duy khoa học.
Quan niệm về thể loại truyện trinh thám có nhiều sự thay đổi theo thực tế sáng tác.
Trong nửa đầu thế kỷ XX, ở phương Tây, nhìn chung truyện trinh thám được xây dựng
theo mô hình cấu trúc “câu đố”. Đặc trưng của mô hình này là “đố” - “giải đố”, là tư duy
logic, suy lý, suy luận. Chính vì thế mà nhân vật thám tử nhiều khi bị biến thành một “cỗ
máy” nhận thức. Trong bối cảnh này, dĩ nhiên tính nghệ thuật, chất văn chương bị đẩy
xuống hàng thứ yếu. Việc một số nhà nghiên cứu không thừa nhận đưa truyện trinh thám
vào “ngôi đền nghệ thuật” cũng là điều có thể hiểu được.
Trong khoảng thời gian từ năm 1945 trở về sau, khái niệm truyện trinh thám
thường được dùng để chỉ những tác phẩm văn học mà trong đó có một thám tử, điều tra
một vụ án thông qua quá trình suy luận khoa học để vén bức màn bí mật của câu chuyện.
Rất nhiều nhà văn đã thành công về thể loại này. Nhiều tác phẩm cuốn hút một lượng
độc giả khổng lồ từ mọi giai tầng, mọi chủng tộc, mọi lứa tuổi, trên cơ sở sự cách tân về
mặt cấu trúc và hình tượng nhân vật thám tử.
Có thể nói rằng với sự phát triển nhanh chóng của thể loại, nhà văn ở mỗi nước đều
có những quan niệm riêng, nên đã phát sinh ra các phân nhánh khác nhau như trinh thám
cổ điển, trinh thám đen, trinh thám chính trị, trinh thám tình báo – phản gián, trinh thám
hình án ..., và phương thức thể hiện cũng ít nhiều có sự khác biệt.
Từ những gì đã trình bày ở trên, có thể thấy quan niệm về nét đặc thù của thể loại
truyện trinh thám mà các tác giả và các nhà nghiên cứu văn học ở nước ngoài đã bàn
thảo, tựu trung chỉ xoay quanh hai yếu tố mấu chốt là nhân vật và sự kiện:
- Nhân vật: Truyện trinh thám là một trò chơi trí tuệ, một thể loại văn học nặng về
giải trí vì thế nhân vật thám tử có vai trò đặc biệt quan trọng. Quá trình điều tra vụ án
luôn được tiến hành dựa trên tư duy logic, suy luận khoa học của thám tử.
- Sự kiện: Sự kiện mở đầu truyện trinh thám thường có tính chất bí ẩn nhưng hành
trình khám phá sự thật của vụ án luôn hướng đến sự rõ ràng, minh bạch. Vấn đề cốt yếu
28
của một tiểu thuyết trinh thám không phải là miêu tả tội ác (như một đối tượng, một biểu
hiện của hiện thực cuộc sống) mà là cuộc điều tra về tội ác.
2.1.1.2. Truyện trinh thám trong quan niệm của các tác giả Việt Nam
Nhìn chung, ở Việt Nam, giới nghiên cứu cũng như người sáng tác vẫn chưa có
một sự thống nhất trong quan niệm về thể loại này. Nhiều người vẫn hiểu một cách đơn
giản rằng truyện trinh thám là truyện về hoạt động của công an, cảnh sát, mật thám…(vì
có nguồn gốc từ thuật ngữ “roman policier” mà ra). Thể loại này thường được khái quát
thành một “công thức”: đó là những tác phẩm viết về “cuộc đấu tranh của những nhà
trinh thám với kẻ địch”. Điều này thể hiện rất rõ trong các bộ từ điển. Chẳng hạn, Từ
điển tiếng Việt (Nguyễn Kim Thản – Hồ Hải Thuỵ - Nguyễn Đức Dương) định nghĩa:
“Trinh thám: dò xét, thám thính; thám tử: người làm công việc dò xét trong xã hội cũ.
Truyện trinh thám nội dung kể những vụ án hình sự li kỳ và hoạt động điều tra của các
thám tử để tìm ra thủ phạm” [105, tr.1672]; Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Ngọc Bích chủ
biên) cũng ghi: “Tiểu thuyết trinh thám là tiểu thuyết lấy đề tài những chuyện li kỳ trong
cuộc đấu tranh giữa những nhà trinh thám với kẻ địch” [8, tr.865]; Từ điển bách khoa thư
– Wikipedia, cũng trình bày tương tự: Tiểu thuyết trinh thám là một nhánh của tiểu
thuyết tội phạm. Đó là những tác phẩm có vấn đề trung tâm là điều tra về tội ác (thường
là những vụ án giết người) bởi một thám tử cũng có thể chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư.
Tiểu thuyết trinh thám là hình thức phổ biến nhất của cả tiểu thuyết bí ẩn và tiểu thuyết
tội phạm… Còn nhà văn Phạm Cao Củng thì giải thích: “Trinh thám là một loại tiểu
thuyết điều tra, trong đó nhân vật chính theo dõi, khám phá ra thủ phạm các trộm cướp,
gian dâm, bắt cóc, án mạng, và ai có khiếu về lãnh vực này đều làm được, không cứ gì
phải là thám tử nhà nước. Loại này Pháp gọi là Roman Policier và Anh là Detetive story
[24, tr.358]. Trong khi nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cho rằng, tiểu thuyết trinh thám là
một tiểu loại hình trong tiểu thuyết phiêu lưu: “Tiểu thuyết phiêu lưu là một thuật ngữ có
nội dung rất rộng bao gồm tiểu thuyết du ký, tiểu thuyết hiệp sĩ thời trung cổ, tiểu thuyết
bợm nghịch, tiểu thuyết đen, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu
thuyết tình báo, phản gián” [31, tr.210].
Thực ra, đối với thực tế văn học Việt Nam, hiểu về truyện trinh thám như trên là
không phù hợp. Khác với tác phẩm trinh thám phương Tây, vốn khá rành mạch về
phương diện loại hình, truyện trinh thám Việt Nam lại rất đa dạng. Nó không chỉ bó hẹp,
29
giới hạn trong một vài phương diện của hoạt động điều tra, phá án, hình sự… mà gộp
nhập, pha trộn rất nhiều yếu tố khác nhau trong một tác phẩm.
Văn học Việt Nam thời trung đại, do bị chi phối bởi quan niệm “Văn dĩ tải đạo”
nên các tác phẩm văn chương thường nói lên ý chí và tình cảm của tác giả với mục đích
giáo huấn con người, hoặc tố cáo hiện thực xã hội. Đến nửa đầu thế kỷ XX, do ảnh
hưởng của văn học phương Tây, kết hợp với các thể loại tiểu thuyết giàu trí tưởng tượng
khác như võ hiệp, “công án” của văn học Trung Quốc, truyện trinh thám Việt Nam đã
bước đầu được hình thành. Thực ra, cái gọi là “tiểu thuyết trinh thám” lúc này có diện
mạo khá phong phú. Đó là lối truyện mang màu sắc trinh thám nghĩa hiệp – ái tình – vụ
án ở Nam Bộ kiểu như Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc của Biến Ngũ Nhi
(1917), Huyết lệ hoa (ghi rõ là trinh thám tiểu thuyết, của Nam Đình Nguyễn Thế
Phương (đăng trên Đông Pháp thời báo, 1928). Tiếp theo là truyện trinh thám của Phú
Đức, Bửu Đình… Đáng chú ý nhất là truyện trinh thám mô phỏng truyện phương Tây
của Thế Lữ và Phạm Cao Củng.
Có thể nói truyện trinh thám Việt Nam là một thể loại được nảy sinh trên cơ sở tiếp
thu, tiếp biến các yếu tố văn học nước ngoài, kết hợp với những yếu tố của văn học dân
tộc. Chính vì thế nên việc đưa ra một định nghĩa chính xác, đầy đủ nhất về truyên trinh
thám Việt Nam là rất khó. Tuy nhiên, để nghiên cứu thể loại văn học này, việc xác lập
một định nghĩa và quy ước nội hàm của nó là điều không thể không đặt ra. Do vậy, trong
luận án này, chúng tôi vẫn phải đề xuất một cách hiểu mới về thuật ngữ truyện trinh
thám Việt Nam (dựa trên cơ sở ý kiến của những người đi trước, và quan niệm của cá
nhân). Theo đó, truyện trinh thám Việt Nam là một thể loại văn học với những tiêu chí
cụ thể sau đây:
- Truyện trinh thám là truyện về quá trình điều tra vụ án và tội phạm (bao gồm cả
những câu chuyện về ái tình, hành động, võ hiệp...). Đây là một trong những khâu quan
trọng tạo nên “tuyến” vận động của các nhân vật.
- Nhân vật trung tâm của truyện là thám tử (hoặc một nhân vật có đủ tư chất và
năng lực để tiến hành các hoạt động điều tra vụ án một cách độc lập). Truyện kết thúc
với việc giải mã những bí mật để tìm ra thủ phạm.
30
- Quá trình điều tra chủ yếu gắn với bí mật về sự phạm tội (chứ không phải miêu tả
tội ác), nên sự thật được khám phá đơn thuần là sự thật về vụ án. Vì vậy, thể loại này
được xem là trò chơi giải trí, là câu đố trí tuệ, là “văn học duy lý”.
- Sức hấp dẫn của câu chuyện phụ thuộc rất nhiều vào quá trình giải mã những bí
mật. Do vậy, kỹ thuật trinh thám có vai trò hết sức quan trọng đối với nhân vật thám tử
(thông qua khả năng xử lý tình huống, trí tưởng tượng, phán đoán, nhận xét, suy lý… về
các biến cố, nhân vật).
Từ những tiêu chí trên, có thể diễn đạt một cách ngắn gọn: Truyện trinh thám Việt
Nam là những tác phẩm tự sự, viết về quá trình điều tra vụ án của nhân vật thám tử. Quá
trình phá án dựa trên tư duy logic để làm sáng tỏ vụ án ở phần kết thúc truyện.
Đối chiếu truyện trinh thám Việt Nam với thể loại truyện trinh thám phương Tây,
không khó để nhận ra một số điểm khác biệt. Trong truyện trinh thám phương Tây,
không có chuyện tình yêu đôi lứa đối với thám tử hay nhân vật điều tra (nguyên tắc này
đã được V. Dine đề xuất khá sớm). Tuy nhiên, phần lớn truyện trinh thám Việt Nam đều
ít nhiều có những tình tiết, biểu hiện liên quan đến tình yêu lứa đôi. Đặc điểm này thể
hiện rất rõ qua rất nhiều sáng tác của các nhà văn tiên phong ở Nam Bộ; kể cả tác phẩm
của hai cây bút tiêu biểu là Thế Lữ và Phạm Cao Củng cũng vậy. Đây rõ ràng là một sự
khác biệt giữa truyện trinh thám Phương Tây và truyện trinh thám Việt Nam.
Lý giải về hiện tượng vừa nêu, trong giới nghiên cứu ý kiến cũng chưa có sự thống
nhất. Nhưng theo quan niệm của chúng tôi thì nguyên nhân là do truyện trinh thám Việt
Nam ra đời trong giai đoạn giao thời, chuyển tiếp giữa hai thời đại văn học; cái cũ và cái
mới đang chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Các nhà văn trinh thám, do sức ép của một bộ
phận độc giả, buộc phải sáng tạo nên một lối truyện trinh thám với những đặc điểm
riêng, phù hợp với thị hiếu người đọc đương thời. Nếu các nhà văn sáng tạo câu chuyện
theo đúng môtip thể loại truyện trinh thám phương Tây thì sẽ khó phù hợp với tâm lý của
người đọc. Bởi lẽ, người Việt Nam vốn đã rất quen thuộc với những khuôn mẫu của văn
học truyền thống cũng như chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc. Mô thức văn học phổ
biến hàng ngàn năm luôn là những câu chuyện trong đó (bắt buộc) không thể thiếu vắng
nỗi ngang trái trong tình yêu lứa đôi, chuyện tài tử, giai nhân, anh hùng trượng nghĩa,
cứu nhân độ thế… Thiếu “công thức” đó, tác phẩm khó có sức cuốn hút độc giả.
31
Không phải ngẫu nhiên mà văn học trinh thám Việt Nam giai đoạn từ 1917 đến 1930
đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm mang tính chất “dung hợp” về thể loại. Chẳng hạn trong
tác phẩm của Biến Ngũ Nhy, Bửu Đình, Phú Đức, Lê Hoằng Mưu, yếu tố trinh thám luôn
được kết hợp, pha trộn với yếu tố ái tình, nghĩa hiệp, giáo huấn ... Điều này vốn rất hiếm
thấy, thậm chí không thấy xuất hiện trong truyện trinh thám phương Tây.
Tất nhiên, cùng với sự vận động của đời sống văn học nói chung, truyện trinh thám
cũng có nhiều thay đổi. Từ lối truyện mang màu sắc trinh thám ái tình - hành động –
nghĩa hiệp rất phổ biến ở chặng đầu, kể từ năm 1932 về sau, lại xuất hiện lối truyện trinh
thám thiên về suy luận - mạo hiểm - lãng mạn… với hai cây bút tiêu biểu là Thế Lữ và
Phạm Cao Củng. Đây cũng có thể xem là một biến thể khác của truyện trinh thám (theo
tiêu chí truyện phương Tây). Truyện của Thế Lữ, Phạm Cao Củng thường nhằm giải mã
những vụ án dựa trên tư duy logic của khoa học (Vàng và máu, Những nét chữ, Mai
Hương – Lê Phong, Kho tàng họ Đặng…), hoặc căn cứ dấu vết còn lưu lại ở hiện trường
(Lê Phong phóng viên, Gói thuốc lá, Nhà sư Thọt, Chiếc tất nhuộm bùn, Người một mắt
...). Những tác phẩm này đã gần hơn với mô hình thể loại truyện trinh thám phương Tây.
Tuy nhiên, bóng dáng của tình yêu đôi lứa vẫn thấp thoáng trong đó (Đám cưới Kỳ Phát,
Kho tàng họ Đặng, Chiếc tất nhuộm bùn, Những nét chữ…).
Có thể thấy rằng, cả trên bình diện lý thuyết lẫn bình diện thực tiễn sáng tác, truyện
trinh thám Việt Nam là một thể loại văn học rất đặc biệt. Nó ra đời trong một hoàn cảnh
riêng; vừa chắt lọc, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của nhân loại nhưng cũng giữ
được những nét riêng của mình; tất cả được kết hợp lại để hình thành nên diện mạo, bản
sắc riêng. Tuy chưa có những kiệt tác nhưng truyện trinh thám Việt Nam đã tạo được vị
trí độc lập, có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Nói như T.Todorov : “
Trong xã hội của chúng ta, không có một chuẩn mực thẩm mỹ duy nhất, mà có hai
chuẩn; không thể dùng những đơn vị đo lường giống nhau để đo nghệ thuật “lớn” và
nghệ thuật “bình dân” [114, tr.9].
2.1.2. Đặc trưng thể loại truyện trinh thám
2.1.2.1. Thám tử giữ vai trò quyết định trong câu chuyện
Trong truyện trinh thám, nhân vật thám tử có vai trò quyết định đối với nội dung
câu chuyện. Thám tử có thể là một nhân viên của bộ máy công lực, là thành viên của lực
lượng cảnh sát hoặc cũng có thể là một người hoạt động độc lập. Trong lịch sử truyện
32
trinh thám thế giới, có những nhân vật thám tử nổi tiếng đến mức, từ chỗ một hình tượng
văn học được hư cấu, đã trở thành một thứ điển phạm; danh tiếng nhân vật lẫy lừng,
quen thuộc với độc giả không khác gì một danh nhân có thật ở đời. Tất nhiên, đó là một
công việc không hề dễ dàng. Không phải cứ có seri truyện về một nhân vật thám tử nào
đó là nhân vật đó sẽ nghiễm nhiên đi vào lịch sử văn học trinh thám.
Tâm điểm của tác phẩm trinh thám chính là nhân vật thám tử, người theo dõi,
người phát hiện tội phạm. Tìm hiểu quá trình điều tra tội ác và sự trừng phạt cũng chính
là tìm hiểu về nhân vật thám tử. Thám tử giữ vai trò chính trong cốt truyện truyện trinh
thám. Khi cảnh sát (hoặc người đọc) có cảm tưởng như vụ án hoàn toàn đi vào bế tắc,
khi việc truy tìm bí mật như đi vào ngõ cụt thì nhà thám tử, bằng sự quan sát sâu sắc,
bằng những suy luận logich, bằng phán đoán xác thực … đã tìm ra thủ phạm một cách
thuyết phục và hết sức bất ngờ. Nếu không có nhân vật thám tử, tác phẩm không được
xem là truyện trinh thám. Điều này được S.S.Van Dine chỉ rõ:
Tiểu thuyết trinh thám bắt buộc phải có một thám tử. Và một thám tử sẽ
không phải là một thám tử nếu anh ta không phá án. Nhiệm vụ của anh ta là
tập hợp các manh mối cuối cùng sẽ dẫn tới người đã tham gia vào hoạt động
mờ ám trong chương đầu tiên của cuốn sách; và nếu thám tử không đưa ra
được những kết luận của mình thông qua một sự phân tích những manh mối,
anh ta sẽ chẳng thể giải quyết được khó khăn của anh ta hơn là một cậu học
trò tìm được câu trả lời giấu đằng sau bài tập số học [140].
Nhân vật thám tử trong các truyện trinh thám phải có một số tố chất cơ bản để có
thể xử lý tốt các tình huống căng thẳng và nguy hiểm. Qua các tác phẩm trinh thám thành
công từ trước tới nay, có thể nêu ra những điều kiện cụ thể cần đáp ứng như sau:
- Thám tử cần có sức khỏe, lòng dũng cảm, kiên trì và không ngại khó khăn; có
thần kinh vững vàng, bình tĩnh trong mọi tình huống.
- Thám tử cần có óc phán đoán nhạy bén, dễ thích nghi với mọi điều kiện, môi
trường, hoàn cảnh khác nhau.
- Thám tử là người có tính cách quyết đoán, có thể hành động độc lập.
- Thám tử là người có sở thích tìm hiểu, khám phá, ưa mạo hiểm, dấn thân.
Những yếu tố, phẩm chất trên là điều kiện cơ bản để nhân vật trở thành một thám
tử chuyên nghiệp nhưng như thế vẫn chưa đầy đủ. Nhân vật thám tử cần phải được trang
33
bị những công cụ, những thiết bị cần thiết để phục vụ cho công tác điều tra phá án. Ngoài
ra, một điều không kém phần quan trọng có thể giúp thám tử thành công trong việc phá
án là các mối quan hệ xã hội, nếu sống tách biệt, hành động một cách đơn độc, thám tử
sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó một thám tử giỏi, là người có quan hệ rộng, tiếp xúc,
giao lưu với nhiều thành phần trong xã hội. Nhờ đó, anh ta dễ dàng lấy được thông tin từ
nhiều nguồn để tiến hành phân tích, tổng hợp, phán đoán… nhanh chóng tìm ra cốt lõi
của vấn đề, công việc điều tra nhờ vậy thuận lợi hơn.
Trong nhận thức của nhà văn trinh thám Việt Nam, thám tử là một nghề (dù không
nuôi sống bản thân) nhưng nhân vật phải có niềm đam mê đối với công việc. Ý thức
công việc và lòng yêu nghề trở thành một phẩm chất không thể thiếu của nhân vật thám
tử. Chẳng hạn, tâm sự của thám tử Kỳ Phát: “Tôi ham mê đọc truyện trinh thám, tò mò
theo những vụ án lạ đăng trên mặt báo, kỹ lưỡng khảo xét bất cứ việc gì bí mật xảy ra ở
bên mình, tôi đã học đủ nghề để phòng khi dùng đến nhưng tôi vẫn làm việc ở một ấp
trên trung du, cốt để tự nuôi sống, còn nghề trinh thám kia, thì khi nào có dịp, tôi mới
đem ra áp dụng, coi như là một trò giải trí mà thôi …” [21; tr.21]. Kỳ Phát luôn tỏ ra thờ
ơ với mọi thứ không liên quan đến vụ án và trong khi điều tra, anh luôn giữ thái độ tỉnh
táo, cần mẫn của một thám tử chuyên nghiệp.
Thám tử Lê Phong, nhân vật trong truyện của Thế Lữ cũng vậy, Lê Phong là phóng
viên của báo Thời Thế (sau này còn có thêm Mai Hương, phóng viên điều tra, đồng sự
tâm đắc của Lê Phong). Khi được cử đi tường thuật vụ án, qua những việc điều tra cụ
thể, từ việc khám phá vụ buôn lậu ở Lạng Thương đến các vụ giết người, các băng đảng
bí mật ở Hà Nội… lòng say mê cùng bản năng nghề nghiệp của chàng được bộc lộ rất rõ.
Lê Phong bộc bạch: “Tôi không làm phóng viên nữa thì đời tôi không còn gì”. Chính vì
vậy, hoạt động thám tử, công việc điều tra phá án trở thành lẽ sống, mục đích cuộc đời
của chàng. Vậy nên, Lê Phong nghiên cứu rất sâu những kỹ thuật cần thiết cho việc phá
án. Chàng rất giỏi trong việc giải các loại mật mã, cũng là bậc thầy về cải trang, với một
chiếc kính lúp, Lê Phong có thể suy đoán nhân dạng của thủ phạm chỉ từ những dấu vết
đơn giản mà chúng vô tình để lại hiện trường như vết chân, vết giày dép, vết bánh xe và
tàn thuốc… Lê Phong cũng rất tài tình trong việc nhận xét về cảm xúc của người đối
diện. Chàng có thể xoa dịu và làm an lòng những khách hàng đang gặp khủng hoảng về
tâm lý (Gói thuốc lá). Lê Phong với những tính cách nổi bật đã tạo nên dấu ấn truyện
34
trinh thám của Thế Lữ trong lòng người đọc. Hình tượng thám tử Lê Phong là sự pha
trộn giữa nhân vật thám tử trong truyện trinh thám suy luận (theo kiểu Conan Doyle) kết
hợp với truyện trinh thám hành động, lãng mạn, giàu kịch tính.
Ngoài những nhân vật thám tử chuyên nghiệp, ăn lương bổng nhà nước, còn có
hạng thám tử “nghiệp dư”, “tài tử”. Họ là những người vì hoàn cảnh riêng, hoặc cũng có
thể chỉ vì sở thích mà làm thám tử. Thám tử Đỗ Hiếu Liêm (Châu về hiệp phố) làm việc
ở sở mật thám để tìm cơ hội bắt bọn cướp Thanh Long trả thù cho cha mẹ. Quan Phủ
Trang Tử Minh (Người bán ngọc) “một vị minh quan, giữ mực công bình, không chịu vị
tình xử đoản”, điều tra vụ án Tô Thường Hậu để tìm ra nguyên nhân sâu xa của vụ án mà
xử người có tội. Quan Châu Nga Lộc (Vàng và máu): “là một người Thổ vào dạng trí
thức.... Những điều mà dân quê mê tín, như những việc bí hiểm trong hang Thần, ông
vẫn ngờ là chuyện huyền hoặc cả”, cho nên ông đã can đảm khám phá thực chất sự linh
thiêng của núi Văn Dú. Thám tử Thành Trai, Minh Đường, Tám Lọ (Mảnh trăng thu),
điều tra làm sáng tỏ vụ án đã trải qua năm năm trời để tìm cách minh oan cho Kiều Tiên
bị mang tiếng oan giết chồng. Hoàng Ngọc Ẩn nhiều phen vào sinh ra tử để giúp Lệ
Thủy đạt ước nguyện của mình…
Phần lớn, các các truyện trinh thám đều được xây dựng trên những nghi vấn và vận
hành như một cuộc chơi đầy kỳ thú trong một không gian mở. Chính vì vậy, trò chơi
trinh thám không phải chỉ dành riêng cho thám tử mà còn dành cho chính người đọc. Ở
đó, độc giả chạy đua với thám tử, vì cả hai đều nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án
và đều có khả năng ngang nhau trong việc “lật mặt nạ” đối phương. Có thể khẳng định
rằng, tác phẩm văn học mà thiếu vắng nhân vật thám tử thì hiển nhiên đó sẽ không còn/
không phải là tác phẩm trinh thám. Trong toàn bộ thế giới nghệ thuật của truyện trinh
thám, nhân vật thám tử do đó, trở thành yếu tố trung tâm, giữ vai trò quyết định.
Ngày nay, khi mà công chúng tiếp nhận có rất nhiều tác phẩm để lựa chọn, nhằm
thỏa mãn nhu cầu thưởng thức thì truyện trinh thám vẫn là một sản phẩm nghệ thuật
được đông đảo độc giả hướng đến. Nguyên nhân là vì, hơn bất cứ thể loại nào khác,
truyện trinh thám không chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí mà còn góp phần thỏa mãn niềm
khao khát vĩnh cữu của con người trong việc thực thi công lí. Đây cũng chính là điều làm
nên sức hấp dẫn của thể loại này.
35
2.1.2.2. Điều tra sự thật vụ án là chất liệu chính truyện trinh thám
Laurence Devillairs cho rằng: “Trung tâm của một cuốn tiểu thuyết trinh thám
không phải là tội ác mà là một cuộc điều tra”. Sự thật trong truyện trinh thám mang
hình thức của một bí mật cần được khám phá. Đó thường là một vụ ngoại tình, một
âm mưu chiếm đoạt tài sản, một sự lừa đảo, một loạt tội ác… và nó thường biến
hình theo tội ác. Các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng: Trong xã hội hiện đại, tội
ác không chỉ được thực hiện bởi những động cơ dục vọng thông thường, đơn giản
mà trái lại, bởi những“phức hợp tâm lí của các tình cảm”, và những mưu mô thâm
độc kết hợp với công cụ hiện đại khiến việc điều tra ngày càng khó khăn. Phạm trù
sự thật trong truyện trinh thám do vậy, có những bước chuyển biến mới. Theo Từ
điển thuật ngữ văn học, “Tiểu thuyết trinh thám chỉ trở thành một thể loại độc lập
khi các nhà văn đưa những tình tiết về quá trình điều tra vụ án lên bình diện thứ
nhất của nội dung” [47, tr.424]. Chính vì vậy, càng về sau, các tác giả trinh thám
càng có xu hướng đi sâu vào việc phân tích, miêu tả tâm lí để “khai thác những vấn
đề bất ổn của nhân cách, bản năng”.
Truyện trinh thám thực chất là một thể loại truyện kể về quá trình điều tra của
nhân vật thám tử. Do đó, sự thật và hành trình kiếm tìm sự thật chính là hạt nhân, là
chất liệu chính của văn chương trinh thám. Chẳng hạn, trong “Lê Phong phóng
viên”, mọi tình tiết đều xoay quanh vụ án mất hai chục bạc ở Tòa soạn báo Thời
Thế. Qua điều tra, Lê Phong đã làm cho kẻ ăn cắp (chính là người thợ in) phải cúi
đầu nhận tội. Sự kiện này là tâm điểm của câu chuyện. Tuy nhiên, Lê Phong còn
cảm thấy “tiếc” bởi tính chất đơn giản, quy mô hạn chế, không có gì đáng gọi là
một vụ “chấn động”. Chàng nghĩ: “Tiếc rằng chỉ mất có hai chục bạc thôi! Giá là
một cái án mạng thì thú quá” [63, tr.23].
Ở truyện “Gói thuốc lá” (Thế Lữ), điều quan trọng nhất là những bí ẩn xung
quanh một vụ giết người. Trong khi hầu hết mọi người đều cho rằng tên Thổ là thủ
phạm giết Đường và Thạc thì ngược lại, Lê Phong không tin điều đó. Chàng cho
rằng tên Thổ là một người không liên quan, không phải là hung thủ. Với phương
pháp điều tra riêng của mình, Lê Phong đã nhanh chóng giải mã được điều khó tin,
hóa giải bí ẩn chỉ trong vòng 24 giờ. Hóa ra kẻ giết người là Thạc (bạn Đường và
Lê Phong) chứ không phải là người Thổ Nông An Tăng.
36
Bí mật vụ án trong Mảnh trăng thu (Bửu Đình) cũng có ý nghĩa tương tự, nghĩa là
trở thành “câu đố” được đưa ra để nhà điều tra “giải đố”. Các câu đố ở đây là: Ai giết
Thuần Phong? Thuần Phong chết thì có lợi cho ai? Và vụ hai chiếc nhẫn bị mất cắp của
bà Cai, Ai là thủ phạm?... Tất cả trở thành mạch chính của câu chuyện. Tìm được lời giải
đáp này thì câu chuyện kết thúc: Thám tử Thành Trai chiêm nghiệm: “Phàm trong những
sự bí mật thì dầu một chút gì xem có hơi khác thường cũng phải cho là lạ, mà cần phải
suy nghĩ cho ra lẽ, vì sao mà có? Có để làm gì? Nhưng con mắt đã quen xem xét sự bí
mật, sự lạnh lùng, hễ thấy có sự gì khác thường là chăm chú vào ngay” [36; tr.239].
Việc điều tra phát hiện tội phạm, tìm kẻ ném đá giấu tay là cả quá trình đấu trí căng
thẳng, gay cấn. Điều này, một mặt tạo điều kiện để bộc lộ tâm lý nhân vật, mặt khác,
cung cấp dữ liệu để thúc đẩy câu chuyện phát triển. Khi đọc tác phẩm, người đọc thường
bị cuốn theo diễn biến sự kiện, nảy sinh trạng thái lo lắng, sợ hãi… Tuy nhiên, việc tạo ra
cảm giác bất an trước tai họa, nỗi lo lắng sợ hãi trước sự hiểm nguy, rùng rợn… không
phải là mục tiêu chính của thể loại truyện trinh thám. Những trạng thái cảm xúc đó chỉ là
“hiệu ứng” nảy sinh từ hoạt động điều tra của thám tử. Chỉ có tư duy phán đoán và suy
luận để giải đáp điều bí ẩn mới là mục tiêu, nhiệm vụ của văn chương trinh thám. Nói
cách khác, cái đích của truyện trinh thám không phải mô tả tội ác, tội phạm mà là điều
tra tìm kiếm sự thật bị che dấu.
Trong truyện trinh thám, việc điều tra bí mật của cái chết thường xuyên được đặt
ra. Bởi cái chết không xuất hiện một cách phi lí, tình cờ, mà cái chết ở đây như đã có sắp
đặt, có sự chuẩn bị trước. Trước một cái chết, nhân vật thám tử tiến hành cuộc điều tra,
thế nhưng càng mở rộng diện tìm hiểu thì bí hiểm càng lúc càng tăng. Nói như F.
Trufaut: “Cái chết thật đáng tò mò, bạn có thấy thế không? Khi con người chết vì bệnh
tật, đó thật là tàn nhẫn, vô lí, nhưng đó lại là cái chết thực sự. Khi họ chết vì các tội ác, vì
bọn giết người, bọn ám sát, cái chết lại trở nên trừu tượng. Giống như là giải pháp về cái
bí ẩn đã xảy ra từ trước. Giống như ta đang sống trong tiểu thuyết trinh thám vậy [152].
Nội dung truyện trinh thám, nói một cách cô đọng, không gì khác là tìm kiếm và
phơi bày sự thật bị che dấu. Điều bị che dấu đó đương nhiên liên quan đến những con
người bất hảo, nhân cách lệch lạc, thiếu nhân tính. Vì những bất ổn nhân cách, những
con người đó đã gây nên những sự cố hoặc tội ác không thể ngờ tới như loạn luân, giết
người hàng loạt, cướp của… Cái ác hiển lộ thành muôn hình khối và sự thật về cái ác
37
cũng hết sức đa dạng. Chẳng hạn nhân vật Nguyễn Viết Sung trong Mảnh trăng Thu,
bọn người Tàu trong Vàng và máu, Hội Thất Viên trong Đám cưới Kỳ Phát…. Truyện
trinh thám ngoài việc phô bày tội ác còn lí giải để giúp ngươi đọc hiểu vì sao con người
trở nên ác độc như thế. Đọc truyện trinh thám, người đọc thường có thói quen tra vấn
nguyên nhân tội ác. Và các nhà văn đã chỉ ra rằng, cái ác có mầm mống từ môi trường
sống, từ điều kiện xã hội, do lòng tham lam, thói ích kỷ… mà ra.
Truyện trinh thám là một sự “thách thức” tư duy để hóa giải điều bí ẩn. Bí ẩn chỉ
được giải mã thông qua suy luận logic, khả năng liên tưởng, tìm ra mối liên hệ giữa
những sự vật hiện tượng tưởng như riêng rẽ, rời rạc, không quan trọng … Điều này rất
khác với nguyên tắc vận hành của truyện kỳ ảo, truyền kỳ.
Kết thúc cuộc điều tra của thám tử, người đọc hoàn toàn cảm thấy thỏa mãn khi thủ
phạm của vụ án hay án mạng đều đã bị phát hiện và phải chịu sự trừng phạt. Vì vậy,
truyện trinh thám không chỉ là bài ca về lý trí mà còn là bài ca về đạo đức, công lý của
con người. Tất nhiên, pháp luật và công lý không phải lúc nào cũng song hành với nhau,
nên sự thật về công lý hay tội ác cũng có lúc cần phải nhận thức lại. Luật pháp mặc dù
được đặt trên ý kiến và quyền lợi của số đông nhưng không phải lúc nào cũng là chân lý.
Thành thử, có khi sự thật của vụ án được khám phá nhưng thủ phạm lại không bị trừng
phạt bởi những quan niệm về đạo đức của tác giả. Truyện Bóng người áo tím của Phạm
Cao Củng là một ví dụ. Kết thúc truyện là sự tha thứ: “Thôi, con đứng dậy! tha cho
Nhung. Cổ nhân có nói: Oán cừu nên cởi chớ không nên buộc! Nếu cứ oan oan tương
báo mãi thì biết bao giờ mới xong” [22, tr.235].
2.1.2.3. Kinh nghiệm thực tiễn kết hợp với tư duy logic là cơ sở của việc khám
phá bí mật
Đối với các tác giả phương Tây, viết truyện trinh thám được coi là một cách để
phục vụ nhu cầu giải trí của giới bình dân. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với dễ
dãi, vì thế nên truyện rất được độc giả trân trọng; nội dung tác phẩm thường chứa đựng
hàm lượng thông tin sâu sắc về nhiều lĩnh vực: lịch sử, văn hóa, tôn giáo …. Nó khiến
cho các độc giả có học thức, trình độ cao cũng say mê tìm đọc. Trong khi đó ở Việt
Nam, một số người quan niệm rằng truyện trinh thám là thứ văn chương giải trí thuần
túy, văn chương “hạng hai” – nghĩa là ít giá trị. Một số người lại phê phán truyện trinh
thám ít chú trọng tính giáo dục, tính nghệ thuật không cao; tác giả viết truyện trinh thám
38
v mục đích kiếm tiền… Thực ra, đó là một định kiến sai lầm. Bởi vì cái gọi là tính giáo
dục của văn chương vốn rất rộng và đa dạng chứ không chỉ bó hẹp vào một vài phương
diện cụ thể nào đó. Hơn nữa, với một tác phẩm văn học thu hút được sự chú ý, tạo hứng
thú cho độc giả, bản thân nó đã mặc nhiên hàm chứa những giá trị; và một nhà văn làm
giàu được bằng nghề viết thì lại càng đáng trân trọng, đáng quý. Đúng như lời của
Salvador Dali, khi ông viết trong Điều răn đầu tiên đối với những người muốn trở thành
nghệ sĩ: “Hoạ sĩ thì giàu vẫn tốt hơn là nghèo, hãy lao động nghệ thuật để sao cho ngòi
bút của anh có thể sinh ra vàng và ngọc quý” [128, tr.304]. Vấn đề ở chỗ, viết được một
tác phẩm trinh thám hấp dẫn đông đảo bạn đọc không hề là công việc dễ dãi. Trái lại, nó
đòi hỏi nhà văn phải thực sự là người có tài và phải nắm vững nghệ thuật viết văn, phải
tinh thông các thủ pháp, thi pháp thể loại.
Nhân vật thám tử rất cần đến năng lực quan sát, nhận định tình hình và suy luận
logic. Giữa vô vàn sự kiện, tình tiết, chi tiết liên quan đến vụ án, anh ta phải biết lựa
chọn, thu thập, sắp xếp dữ liệu, phân tích mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng... Anh
ta sẽ phải vận dụng mọi kinh nghiệm để suy luận, tìm ra phương án tối ưu nhằm phá án.
Chính nhờ vậy mà khi kết thúc câu chuyện, ta thấy diễn biến các vụ án đều phù hợp với
tài phán đoán và suy luận của thám tử. Nói cách khác, năng lực tư duy là tiền đề cho
thành công của thám tử trong quá trình phá án.
Chẳng hạn, trong Lê Phong phóng viên, Thế Lữ đã để cho nhân vật thú nhận: “Tôi
theo phương pháp phán đoán Sherlock Holmes. Phương pháp ấy thần tình lắm nhưng cắt
nghĩa rồi thì ai cũng cho là chẳng có gì…” [63; tr.19]. Để tìm ra chứng cứ, Lê Phong
thường nghiên cứu hiện trường một cách tỉ mỉ: “Anh lại bò ra… đếm từng viên gạch,
xem từng khe, lại lật cả mép cái thảm giải dưới đất, nghĩa là anh cẩn thận không bỏ qua
cặp mắt lý luận một tí gì…” [68; tr.99]. Nhờ tư duy logic sắc sảo, Lê Phong phát hiện ra
tác giả thật của bức thư được ký tên Đào Thị Kiều Anh. Chàng giải thích quá trình suy
luận của mình:
Tôi biết rằng cô Kiều Anh ấy chính là ông, tôi lại biết rằng ông viết thư cho tôi
bằng thứ bút máy ngòi xấu và cong, ông cặp bút vào giữa ngón đeo nhẫn và
ngón áp út. Ông viết được nửa trang giấy thì hết mực (…) Chỉ cần tài quan sát
như tôi là đủ … chữ ngoài phong bì rắn rỏi ngang tàng hơn chữ trong thư nhưng
xét kỷ thì cùng một lối. Mà chữ rắn rỏi ấy là chữ của đàn ông… mấy giọt nước
39
nhỏ hoen ở trang thứ nhất, chính là mấy giọt nước bọt họ cười bắn vào… bức
thư viết gần cửa sổ là vì tôi thấy những giọt nước văng bắn vào – mà cũng vì
thế tôi biết lúc ấy trời mưa bên ngoài …người viết thư muốn cho chữ viết thành
ẻo lả mà không mất tự nhiên nên cầm bút theo lối đầm …[66; tr.254-256].
Cũng từ đó, chàng khám phá ra bí mật bức thư gởi cho cô Tuyết Mai và tìm ra Đỗ Lăng,
người đã viết bức thư khiến cô lo sợ mà tự tử. “Sự bí mật vô song đã ba năm nay, mà anh
xét ra chỉ có trong nửa ngày” [66; tr.327].
Nhân vật Kỳ Phát trong truyện của Phạm Cao Củng thường có cuốn sổ tay để ghi
chép những điều quan trọng tại hiện trường của vụ án. Đây cũng là một nguồn tài liệu
quan trọng được dùng cho quá trình điều tra. Phương pháp suy luận của Kỳ Phát thường
là đi sâu phân tích những gì mà chàng quan sát được để tìm ý nghĩa của những chứng cứ
đó. Trong truyện Nhà sư thọt, Kỳ Phát giải thích giá trị của những bằng chứng và cách
sử dụng chúng trong việc hóa giải điều bí ẩn của vụ án: “Muốn nghĩ ra, trước hết phải
nhận xét cho thật kỹ lưỡng, sau mới do những điều biết ấy, luận theo lý ra những điều
mình chưa biết! Nếu không biết nhận xét hẳn hoi thì dù nghĩ nát óc cũng không ra được
điều gì!” [21; tr.27]. Những vụ án do Kỳ Phát điều tra thường bắt đầu với việc suy luận.
Chàng có thể chỉ dựa vào những chứng cứ hiện trường, những thông tin gián tiếp mà
đoán ra thân thế, nghề nghiệp của nhân vật, dù không cần hỏi thông tin từ họ.
Tính logic trong suy luận của các nhân vật thám tử, cơ bản đều dựa trên phương
pháp nghiên cứu hiện trường vụ án một cách khoa học và cẩn thận. Điều quan trọng
trong quá trình suy luận là thám tử phải biết cách loại bỏ, để cuối cùng lựa chọn một khả
năng họp lý nhất. Thám tử thu thập bằng chứng, diễn giải trình tự sự việc, phát hiện
những uẩn khúc, những mâu thuẫn và... phá án. Logic suy luận của họ đôi khi chưa thật
chặt chẽ, chưa nhuần nhuyễn nhưng đó cũng là chuyện thường tình. Điều quan trọng là
kết luận cuối cùng được đưa ra; sự việc trở nên hiển nhiên và đơn giản.
Để suy luận có thể thực hiện một cách dễ dàng, thám tử còn phải lưu tâm tới nhiều
yếu tố: từ tâm lý nhân vật, tác động xã hội đối với hành vi của kẻ phạm tội, cho đến các
yếu tố khoa học, công nghệ... Trong truyện Mảnh trăng thu (Bửu Đình), nhân vật Thành
Trai suy luận: “Khi kẻ gian vào nhà, Thuần Phong còn thức thì tất nhiên không có thể
giết chàng dễ quá như vậy … mà trong nhà không mất món gì cả, vậy kẻ này không phải
là trộm cướp … Đứa gian này chỉ định tâm giết Thuần Phong mà thôi … mà nó vào nhà
40
dễ dàng như vậy chắc nó đã dùng thuốc mê nên mới dễ ra tay như thế” [36; tr.237]. Ở
một đoạn khác, dựa trên một dấu hiệu rất đơn giản, chàng tranh biện trước Tòa án: “Tôi
xin Tòa chú ý vào một điều này, bất kỳ chữ C nào trong mấy tờ giấy này đều cùng thấy
mất cái đầu cả … Vậy sao Tòa không đem cái máy chữ của tôi xem thử có quả vậy
chăng? [36; tr.477].
Trong Mai Hương – Lê Phong (Thế Lữ), cũng từ suy luận logic mà nhân vật Quan
Châu Nga Lộc khám phá ra cái chết kì dị của bọn Tàu khi đi tìm kho báu: “Cái thần giữ
của của nó mới hiểm ác chứ! Có ai ngờ đâu những vật ghê gớm này lại là những tảng đá
tầm thường …, nhưng đó là những hòn đá giết người” [68; tr.27].
Rõ ràng là trong truyện trinh thám, phương pháp, năng lực suy luận của thám tử
giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động điều tra. Thực tế cho thấy tội ác chỉ được
khám phá nhờ vào tư duy, suy luận logic chứ không phải do may rủi. Truyện trinh thám
bắt đầu bằng một bí ẩn, và cuối truyện, bí ẩn được khám phá bởi sự vận động của trí tuệ.
Do đặc trưng thể loại, truyện trinh thám đòi hỏi nhà văn không chỉ có trí tưởng
tượng phong phú, mà cần nhiều năng lực, kỹ năng khác. Đó là tư duy logic, suy luận sắc
sảo, có kiến thức luật pháp vững vàng, kinh nghiệm thực tiễn phong phú, sự hiểu biết sâu
sắc về thế giới tội phạm… Không có những kiến thức và khả năng này, không thể tạo
dựng cốt truyện chặt chẽ, kết cấu hợp lý, phương thức phá án phù hợp… nghĩa là không
thể sáng tạo được tác phẩm trinh thám hấp dẫn. Bởi vì thể loại này rất khác so với truyện
diễm tình, truyện tâm lý, truyện trào phúng… Thế nhưng đây lại chính là “sở đoản” của
các nhà văn Việt Nam. Bản thân người viết truyện trinh thám chịu ảnh hưởng sâu sắc của
những tập quán, những phương cách ứng xử vốn nặng về tình cảm, cảm tính (duy tình)
mà nhẹ về tư duy logic (duy lý); đó là chưa kể đến hoàn cảnh xã hội, môi trường sống,
nền tảng luật pháp… ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, vốn đang ở một trình độ rất
hạn chế. Điều đó cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn học trinh thám Việt
Nam. Các nhà văn đã không cho ra đời các nhân vật thám tử trứ danh kiểu như Sherlock
Holmes, Conan Doyle… mà các bậc thầy thể loại này đã làm đối với văn học phương
Tây. Nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam mới chỉ là những Thành Trai,
Ba Lâu, Hoàng Ngọc Ẩn, Kỳ Phát, Lê Phong, Mai Hương … Vấn đề đối với nhà văn
trinh thám Việt Nam khi sáng tác không chỉ/ không hẳn là tài năng mà còn là hoàn cảnh
lịch sử - xã hội, điều kiện văn hóa. Họ phải tạo ra những sản phẩm văn học phù hợp với
41
“tầm đón đợi” của công chúng đương thời. Và đó cũng là những đóng góp đáng kể của
văn học trinh thám.
2.1.3. Phân loại truyện trinh thám Việt Nam
2.1.3.2. Về phương pháp phân loại
Truyện trinh thám Việt Nam là một hiện tượng văn học phức tạp. Khi nghiên cứu
loại hình này, một yêu cầu không thể thiếu là phải tiến hành phân loại chúng để xem xét
những đặc trưng riêng của từng nhóm, từng bộ phận khác nhau. Trong thực tế, mỗi một tác
phẩm văn học cụ thể, bao giờ cũng chứa đựng trong nó rất nhiều đặc điểm (lịch sử xã hội,
cấu trúc, hình thức ngôn từ ...), và điều đó, tạo nên sự trở ngại khi xếp nó vào trong khung
khổ một thể loại nhất định. Nếu lựa chọn nhiều tiêu chí để phân loại, sẽ không tránh được
tình trạng một tác phẩm cụ thể nào đó có mặt trong các nhóm, thể loại khác xa nhau. Trái
lại, nếu chỉ dựa vào một vài tiêu chí cơ bản để phân chia thì lại khó phù hợp.
Ở phương Tây, khi bàn về “Loại hình của truyện trinh thám”, T.Todorov cho rằng
tiểu thuyết trinh thám là một lãnh vực văn học quần chúng, nó không phải là một thể
loại; những cách phân chia thể hoặc loại truyền thống đều không phù hợp với truyện
trinh thám. Căn cứ vào nội dung thể hiện, T. Todorov chia tiểu thuyết trinh thám ra làm
ba loại hình. Thứ nhất là tiểu thuyết ẩn ngữ. Đây là loại tiểu thuyết trinh thám cổ điển,
mở đầu bằng một thông tin về vụ án bí mật (yếu tố đầu tiên, ẩn ngữ), tiếp đó là quá trình
thám tử điều tra vụ án (phần biểu thị đầy đủ), tác giả mô tả quá trình điều tra để người
đọc biết điều đó được tiến hành như thế nào nhằm làm rõ thông tin ban đầu. Loại truyện
này mang dáng dấp kiểu truyện cổ điển nên xuất hiện nhiều yếu tố kỳ ảo, ẩn ngữ (vụ án)
được giải mã, câu chuyện kết thúc. Loại hình thứ hai là tiểu thuyết đen. Ở kiểu tác phẩm
này, nhà văn mô tả trực tiếp toàn bộ quá trình, sự kiện vụ án, không có điều bí ẩn như
trong tiểu thuyết ẩn ngữ. Vụ án do ngẫu nhiên, tình cờ mà nhân vật thám tử tham gia phá
án. Nội dung câu chuyện xoay quanh những vụ án mang tính chất “ bạo lực – dưới mọi
hình thức và ái tình – mang tính thú vật thường được ưa chuộng hơn – có đam mê hỗn
loạn – thù ghét không thương xót ...” [114, tr.16]. Kiểu truyện này hấp dẫn người đọc bởi
“sự hiếu kỳ”, duy trì sự chờ đợi “mọi sự đều có thể, và thám tử nếu không liều mạng
sống thì cũng là liều sức khỏe” [114, tr.15]. Loại hình thứ ba, Tiểu thuyết phân vân hồi
hộp. Đây là những tác phẩm kết hợp các đặc tính của hai hình thái trên (khám phá điều bí
ẩn, suy nghĩ về quá khứ, tương lai, các biến cố, sự phân vân hồi hộp điều gì sẽ xảy đến
42
với các nhân vật chính?). Loại hình này cho ra đời hai kiểu truyện: “Truyện về người
thám tử - có thể bị tổn thương và Người thám tử - khả nghi”. Cả ba loại hình trên của tiểu
thuyết trinh thám có thể gặp ở cùng một tác gia và được phát triển, kế thừa qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau. Tôrôrốp kết luận: “ Nếu hình thái này (hoặc một hình thái khác)
trở thành mầm móng cho một thể loại mới của tiểu thuyết trinh thám, thì điều đó sẽ
chẳng phải là một lập luận chống lại sự phân loại được đề xuất ... thể loại mới không
nhất thiết hình thành từ một sự phủ định đặc trưng chủ yếu của thể loại cũ, mà từ một sự
tổ hợp khác của các đặc tính” [114, tr.22]. Ông cũng cho rằng, so với các thể loại khác,
nội dung tiểu thuyết trinh thám có nhiều yếu tố bám sát đời sống hiện thực hơn hư cấu
nghệ thuật nên vai trò hư cấu sáng tạo của loại hình này không giống các loại tiểu thuyết
tâm lý hiện thực.
Đối với S. Dine, điều quan trọng nhất đối với truyện trinh thám là nhân vật thám
tử và thế giới tội ác. Trong “Hai mươi nguyên tắc viết truyện trinh thám” Dine cho rằng,
đối với thể loại này, mỗi truyện “cần phải có nhiều nhất là một thám tử, một thủ phạm,
một nạn nhân (một xác chết)” và “Tiểu thuyết trinh thám thực sự cần phải được miễn
mọi tình tiết yêu đương. Đưa tình yêu vào đó, thực tế, sẽ làm xáo trộn cơ chế” của câu
chuyện.
Những tiêu chí trên, không cần phải bàn cãi gì thêm, đúng là rất thích đáng khi
dùng để phân loại truyện trinh thám Phương Tây. Thế nhưng đối với các tiểu thuyết gia
trinh thám Việt Nam, đấy lại là một vấn đề khác. Bởi đơn giản là hoàn cảnh lịch sử - xã
hội không giống nhau, tâm thức văn hóa, thị hiếu nghệ thuật của người đọc (và cả tác
giả) rất khác nhau. Trước thực tế này, các nhà văn trinh thám Việt Nam đã vận dụng một
cách sáng tạo mô hình truyện trinh thám phương Tây để sáng tác những tác phẩm thỏa
mãn thị hiếu của người đọc thời bấy giờ. Cũng vì thế mà không ít tác phẩm trinh thám
Việt Nam, xét theo tiêu chí (thể loại) của Dine và tiêu chí (loại hình) của T.Todorov thì
không thể lọt vào bất cứ khung khổ nào.
Theo nhìn nhận của chúng tôi, việc phân loại tiểu thuyết trinh thám mà T.Todorov
và các nguyên tắc của S.S.Dine là có cơ sở xác đáng nhưng nó chỉ phù hợp với truyện
trinh thám phương Tây. Bởi lẽ, trên thực tế, xã hội Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XX không có nghề thám tử tư. Mặc dù, ở đời có vô số nghề kiếm sống (nhân sinh bách
nghệ), thế nhưng người Việt Nam lúc này không thể hình dung nổi thám tử lại là một
43
nghề nghiệp nghiêm chỉnh. Người Việt, dù cũng thích thú với loại truyện “công án” (như
Bao Công trong văn học Trung Quốc hoặc chuyện kỳ án trong văn học dân gian Việt
Nam), song đó là những thứ hoàn toàn khác so với truyện trinh thám phương Tây. Họ
càng không thể làm quen ngay được với một câu chuyện (văn chương) mà trong đó chỉ
thuần chuyện điều tra, phá án… nhưng lại thiếu vắng các yếu tố phiêu lưu, kỳ ảo, ly kỳ,
ái tình, võ hiệp… Vì thế, truyện trinh thám Việt Nam những năm ba mươi đầu thế kỷ
XX thực ra là một thể loại dung hợp, các yếu tố trên.
Từ trước đến nay, một số nhà nghiên cứu trong nước đã cố gắng sắp xếp các tác
phẩm trinh thám Việt Nam theo từng loại để tiện việc so sánh, đánh giá. Thế nhưng do
đứng trên nhiều góc nhìn khác nhau và quan điểm loại hình khác nhau nên việc phân loại
đó xem ra vẫn còn nhiều bất cập.
Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX vốn là kết quả tiếp biến truyện
trinh thám phương Tây trên hai loại hình: trinh thám kinh dị, kỳ ảo và trinh thám cổ điển;
các loại hình khác được tiếp tục ở giai đoạn sau. Việc phân loại, trên thực tế cũng được
các nhà nghiên cứu thực hiện dựa vào tiêu chí của hai loại hình trên. Chẳng hạn, Đặng
Anh Đào quan niệm truyện trinh thám là một thể loại, một phân nhánh của tiểu thuyết.
Trên cơ sở đó, nhà nghiên cứu đưa ra nhận định: “Nếu có một khác biệt về sự phát triển
của các loại hình tiểu thuyết ở Việt Nam so với tiểu thuyết nước ngoài, đó chính là sự
xuất hiện muộn mằn và còi cọc của truyện trinh thám” [29, tr.133]. Tác giả Thy Ngọc thì
khái quát: “Cái gọi là “dòng văn học trinh thám Việt Nam” – chỉ là một vạch chỉ rất đỗi
mờ nhòe và đứt gãy trong lịch sử văn học nước nhà” [147]…
Một số nhà nghiên cứu khác lại hình dung thể loại truyện trinh thám gồm có các
nhóm: truyện trinh thám kinh dị, truyện trinh thám kỳ ảo, truyện mang màu sắc trinh
thám - ái tình, truyện mang màu sắc trinh thám nghĩa hiệp – vụ án, truyện trinh thám suy
luận - lãng mạn, truyện trinh thám suy luận - mạo hiểm.
Cách phân loại như trên đã xuất hiện khá lâu, bởi nó đơn giản, dễ hình dung và
cũng chỉ ra được quy luật hình thành của nó. Chẳng hạn, nhóm truyện trinh thám kì ảo,
kinh dị được hình thành do chịu ảnh hưởng văn học truyền thống, phương Tây và Trung
Quốc. Nhóm truyện mang màu sắc trinh thám ảnh hưởng truyện vụ án, hành động, võ
hiệp theo mô hình truyện vụ án Trung Quốc (tình yêu lứa đôi kết hợp với hành động võ
44
hiệp, theo “công thức trinh thám thô sơ”). Nhóm truyện trinh thám suy luận vốn chịu ảnh
hưởng truyện trinh thám phương Tây...
Tuy nhiên, người đọc dễ nhận thấy các yếu tố ái tình, vụ án, nghĩa hiệp thường
lồng vào nhau, đan xen giữa các tình huống rất khó để phân biệt rạch ròi nên cách phân
loại trên, ít nhiều cũng khiến các nhà nghiên cứu băn khoăn, bởi nó chưa xác định rõ
ràng các tiêu chí về đặc trưng truyện trinh thám. Vì thế, tác giả Trần Thanh Hà, trong
“Nhận diện tiểu thuyết trinh thám Việt Nam”, chỉ thừa nhận có hai nhà văn viết theo thể
loại trinh thám cổ điển phương Tây là Thế Lữ và Phạm Cao Củng. Riêng các tác phẩm
vụ án mang màu sắc trinh thám của một số tác giả Nam Bộ thì theo tác giả, chúng được
xây dựng theo “phương thức thô sơ nhất” của tiểu thuyết trinh thám, cho nên không thể
xếp vào thể loại truyện trinh thám. Tuy nhiên, theo chúng tôi, quan niệm như thế vẫn
chưa thỏa đáng. Bởi vì ngay tác phẩm của Thế Lữ, Phạm Cao Củng, Bùi Huy Phồn thì
nội dung cũng không thuần nhất, nghĩa là trong đó vẫn xuất hiện các yếu tố khác, chẳng
hạn ái tình (Những nét chữ, Lê Phong phóng viên, Đám cưới Kỳ Phát, Kho tàng nhà họ
Đặng), hoặc yếu tố hoạt kê (Lê Phong làm thơ, Người một mắt,Mối thù truyền nghiệp).
Tác giả Lê Tú Anh cũng đồng quan điểm với Trần Thanh Hà ở chỗ chỉ xếp các tác
phẩm trinh thám theo lối phương Tây của Thế Lữ và Phạm Cao Củng vào nhóm tiểu
thuyết trinh thám. Đối với những tiểu thuyết có các yếu tố vụ án mang màu sắc trinh
thám, có nguồn gốc ảnh hưởng từ tiểu thuyết nghĩa hiệp, công án của Trung Quốc, tiểu
thuyết hiệp sĩ thời trung cổ… tác giả cho rằng nên gọi chung là tiểu thuyết “nghĩa hiệp”;
các truyện của Phú Đức được xếp vào loại truyện “võ hiệp”; các truyện của Lan Khai
được xếp vào loại truyện “lịch sử, đường rừng” [3, tr.156].
Thực ra, vào giai đoạn đầu thế kỷ XX, phần lớn các nhà văn Việt Nam chưa có
điều kiện tiếp xúc đầy đủ, hệ thống và cũng chưa ý thức một cách rõ ràng các tiêu chí của
thể loại trinh thám vốn đã rất thịnh hành ở phương Tây. Họ chỉ hiểu về thể loại này thông
qua tiếp xúc với những tác phẩm cụ thể (đến từ phương Tây), nên việc vận dụng còn
lúng túng. Vì vậy, truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX chủ yếu là những tác
phẩm nói về vụ án, có nhân vật điều tra một cách độc lập (bao gồm một thám tử, một vị
quan của triều đình, một thanh niên trí thức, thậm chí có khi là một kẻ cướp…) để tìm ra
thủ phạm. Mấu chốt của truyện thường khởi đầu bằng một vụ án giết người, một vụ trộm
cắp và thám tử điều tra tìm sự thật dựa trên cơ sở tư duy logic. Tất nhiên, nó hoàn toàn
45
không giống với truyện “công án” của Trung Quốc, ở đó việc tìm ra bí mật chủ yếu nhờ
vào lời tự thú của hung thủ, sự vụng về của can phạm, lời khai của nhân chứng …. Ngoại
trừ các nhân vật trong sáng tác của Thế Lữ và Phạm Cao Củng, thám tử có tính chuyên
nghiệp theo kiểu truyện phương Tây, ở các tác phẩm khác, thám tử thường chỉ là công
việc tình cờ, ngẫu nhiên, tính chất nghiệp dư rất rõ.
Có thể thấy việc phân loại truyện trinh thám giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một
việc rất khó khăn, phức tạp. Bởi lý thuyết về thể loại còn rất nghèo nàn, hơn nữa hiện
tượng giao thoa thể loại là một vấn đề chưa được giải quyết. Nhưng theo chúng tôi, dù
sao thì sự phân chia cũng chỉ là sự quy ước, mang tính tương đối. Vấn đề quan trọng là
làm sao để thuận tiện, hợp lý trong quá trình nhận diện đối tượng.
2.1.3.1. Các kiểu truyện truyện trinh thám
Chúng tôi cho rằng, việc phân chia các kiểu truyện trinh thám Việt Nam cần dựa
trên nhiều dữ kiện: đặc điểm giai đoạn lịch sử, nội dung cốt truyện, đặc trưng thể loại…
Trong đó, đặc biệt chú trọng đến “tính chất” và “hình thức” truyện trinh thám. Nói đến
“tính chất” là muốn nhấn mạnh đến những yếu tố cơ bản, thể hiện được đặc điểm của thể
loại; còn nói đến “hình thức” là muốn nhấn mạnh đến những yếu tố thuộc về hình thức,
có thể nhận thấy được. Với tinh thần đó, chúng tôi phân truyện trinh thám Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX thành ba kiểu/ nhóm truyện như sau:
+ Kiểu truyện trinh thám kỳ ảo (những vụ án ly kỳ, kỳ ảo): Đây là truyện trinh
thám với những vụ án có tình tiết kỳ ảo, quái lạ. Tiêu biểu cho kiểu truyện này là các tác
phẩm của Thế Lữ như: Vàng và máu (1934), Ba hồi kinh dị (1940), Trại Bồ Tùng Linh
(1941).... Truyện trinh thám kỳ ảo của Thế Lữ (ngoại trừ một số truyện “đường rừng”,
“lãng mạn” trong Gió trăng ngàn và Bên đường thiên lôi), tuy có sử dụng yếu tố kinh dị,
kỳ ảo, ma quái như trong văn học trung đại, nhằm đáp ứng thị hiếu người đọc đương
thời, nhưng tác giả đã giải thích chúng dưới cái nhìn khoa học, lược bỏ yếu tố mê tín,
duy tâm siêu hình.
+ Kiểu truyện trinh thám suy luận: bao gồm các truyện chịu ảnh hưởng tác phẩm
trinh thám cổ điển phương Tây, theo “lý thuyết câu đố”. Ở đây, nhà văn đã bước đầu xây
dựng được nhân vật thám tử theo hình mẫu thám tử phương Tây. Có thể kể đến các tác
phẩm của Thế Lữ, chịu ảnh hưởng A. Poe từ cách dựng cốt truyện, nhân vật cho đến sử
dụng tình tiết nghệ thuật như: Lê Phong làm thơ (1936), Lê Phong phóng viên (1937),
46
Những nét chữ (1939), Lê Phong & Mai Hương (1939), Đòn hẹn (1939), Gói thuốc lá
(1940); hoặc truyện về thám tử Kỳ Phát của Phạm Cao Củng như: Vết tay trên trần
(1936), Gia tài nhà họ Đặng (1937), Một cái Tết rùng rợn của Kỳ Phát, Máu đỏ lòng son
(1937), Ba viên ngọc bích (1938), Chiếc tất nhuộm bùn (1938), Người một mắt (1940),
Nhà sư thọt (1941), Kỳ Phát giết người (1941), Đám cưới Kỳ Phát (1942), Bóng người
áo tím (1942), Hàm răng mài nhọn (1942), Đôi hoa tai của bà Chúa (1942); nhân vật
thám tử Tám Huỳnh Kỳ trong Bàn tay sáu ngón, Hai người lên máy chém (1950), Người
chó sói (1950), Chiếc gối đẫm máu (1951)... Hình tượng nhân vật Kỳ Phát mang đậm
dáng dấp của Sherlock Holmes của Sir Arthur Doye, còn Tám Huỳnh Kỳ có nhiều nét
tương tự nhân vật Arsène Lupin do nhà văn Pháp Maurice Leblanc tạo ra. Trong nhóm
truyện này. + Kiểu truyện trinh thám ái tình - nghĩa hiệp – hành động: Gồm các truyện
kết hợp ảnh hưởng văn học truyền thống, truyện vụ án Trung Quốc, truyện trinh thám
phương Tây. Chẳng hạn, tác phẩm của các nhà văn như Lê Hoàng Mưu (Người bán
ngọc, 1917-1918), Bửu Đình (Mảnh trăng thu), Biến Ngũ Nhy (Kim thời dị sử - Ba Lâu
ròng nghề đạo tặc, 1917 - 1920), Phú Đức Nguyễn Đức Thuận (Châu về Hiệp Phố,
1926), Tôi có tội, Căn nhà bí mật), Nguyễn Thế Phương (Huyết lệ Hoa), Bùi Huy Phồn
Gan dạ đàn bà (1942), Mối thù truyền kiếp (1942), Tờ di chúc của dòng họ Trần Thạch
(1943).
Nhằm giải quyết nhu cầu giải trí của độc giả thành thị, các nhà văn đã khéo léo
lồng ghép, kết hợp chủ đề tình yêu và vụ án một cách tài tình đến mức khó có thể
phân biệt nội dung nào là chính. Ngay các nhà văn cũng đành gọi tác phẩm của mình
bằng những tên kép như “trinh thám – kỳ tình” (Mảnh trăng thu – Bửu Đình), “võ
hiệp - kỳ tình” (Châu về hiệp phố – Phú Đức), “ái tình phiêu lưu – mạo hiểm” (Ân
oán vì tình – Phạm Minh Kiên)… Thông qua câu chuyện ái tình, nhà văn xây dựng
những nhân vật anh hùng trượng nghĩa, giỏi võ nghệ, thông minh, có nhiều tài năng
để đối đầu với những kẻ gian manh nhằm thực thi công lý, giúp đỡ người nghèo, thân
cô thế nhược. Hầu hết, các tác phẩm đều được mở đầu bằng một vụ phạm tội, rồi từ
đó dẫn dắt câu chuyện theo lối truy tìm hung thủ. Hạn chế lớn nhất của các tác phẩm
kiểu này là kết quả vụ án được làm sáng tỏ thường do sự tình cờ, ngẫu nhiên theo chủ
quan của nhà văn, với kết thúc “có hậu” mà ít dựa vào việc quan sát hiện trường, kết
hợp với suy luận logic. Mục đích những tác phẩm trên đều hướng đến việc giáo dục,
47
cảnh tỉnh hay tả chân xã hội ... Chức năng giải trí theo đúng nghĩa của thể loại thực sự
chưa được nổi bật. Chính vì vậy, các tác phẩm chủ yếu mới chỉ đáp ứng “những công
thức thô sơ của truyện trinh thám”.
Chúng tôi đã cố gắng khoanh vùng tư liệu để phân loại truyện trinh thám một cách
hệ thống, nhằm làm nổi bật diện mạo và quá trình phát triển của nó trong dòng văn xuôi
tự sự nửa đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong điều kiện lý thuyết phân loại giữa phương
Đông và phương Tây còn nhiều khác biệt, thể loại truyện trinh thám Việt Nam mang
nặng dấu ấn cả hai khu vực nên cách phân loại trên vẫn còn nhiều chỗ chưa hoàn toàn ổn
thỏa, cần phải đi sâu nghiên cứu thêm. Điều quan trọng, là trên cơ sở những sự tương
đồng và quy luật lặp lại của một thể loại, chúng tôi đã nhận ra tính độc đáo của nó. Thuật
ngữ “truyện trinh thám Việt Nam” mà chúng tôi sử dụng trong luận án này được thể hiện
trên cơ sở chung của ba kiểu truyện trên.
2.2. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
2.2.1. Các giai đoạn hình thành và phát triển
2.2.1.1. Truyện vụ án trong văn học truyền thống – yếu tố góp phần hình thành
truyện trinh thám
Trong kho tàng chuyện dân gian Việt Nam, có nhiều truyện kể về việc điều tra vụ
án, đáng chú ý là truyện Kiện cành đa. Chuyện kể một anh nông dân vì nghèo túng,
phiêu bạt đi làm ăn xa, bỏ vợ ở nhà. Ba năm sau anh trở về, đem theo một số bạc dành
dụm được. Sợ rằng vợ ở nhà không chung thủy với mình nên trước khi vào nhà, anh đem
chôn số bạc đó vào gốc cây đa đầu làng. Hôm sau, khi trở ra gốc đa tìm kiếm thì không
thấy số bạc đâu cả. Nguyên do là khi anh kể cho vợ nghe việc giấu bạc, kẻ gian đã nghe
lóm được và lấy mất. Quá đau khổ vì mất của nhưng không biết làm sao. Sau khi đã suy
tính, anh bèn chặt một cành đa đem đến nhờ ông Trạng nổi tiếng làng bên xử kiện. Nhờ
mưu kế tài tình của quan Trạng; tên trộm bị bắt và nhận tội. Người đời sau có câu “Kiện
cành đa” với ý nói xử kiện một cách gián tiếp, nghĩa là từ một sự kiện này để tìm ra sự
kiện khác. Motip này được lưu truyền với rất nhiều dị bản trong văn học dân gian Việt
Nam và thế giới.
Tìm hiểu trong kho tàng văn học Hán Nôm của dân tộc ta, chúng tôi cũng nhận
thấy có không ít tác phẩm chứa đựng “nội dung trinh thám”. Tất nhiên nội hàm “trinh
thám” trong văn học Hán Nôm khác với cách hiểu “văn học trinh thám” trong văn học
48
hiện đại sau này. Đáng chú ý nhất là tác phẩm Điểu thám kỳ án của Trương Văn Chi
(chưa rõ năm sinh năm mất), được sáng tác vào cuối thế kỷ XIX (khoảng năm 1890).
Điểu thám kỳ án được các nhà nghiên cứu xếp vào loại “tiểu thuyết công án”. Tác phẩm
chia làm 13 tiết, nội dung thuật về những ẩn khuất trong vụ án với các chi tiết oan sai và
công việc điều tra để lần ra sự thật của vị quan thanh liêm. Điểu thám kỳ án có cốt
truyện, kết cấu theo hình thức tiểu thuyết chương hồi. Một số người cho rằng, “Nếu chấp
nhận nội dung tiểu thuyết này thuộc loại trinh thám thì đây là một truyện trinh thám sớm
nhất của văn học Việt Nam” [150].
Nhìn chung, nếu xét ở góc độ thể loại truyện trinh thám bằng văn xuôi chữ quốc
ngữ thì trước năm 1900, ở nước ta chưa có tác phẩm nào xuất hiện.
2.2.1.2. Truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Tìm hiểu về lịch sử vận động và phát triển của truyện trinh thám Việt nửa đầu thế
kỷ XX, có thể phân thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất (từ đầu thế kỷ XX đến những năm ba mươi)
Xét trên tổng thể, những năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn mang tính thử nghiệm,
tìm đường của cả nền văn học. Tác phẩm trinh thám lúc này đương nhiên còn rất ít về số
lượng và đơn giản về kỹ thuật, nghệ thuật. Nội dung truyện cũng vẫn tập trung vào
những vấn đề quen thuộc, có tính chất truyền thống. Chỉ cần nhìn vào tên một số tác
phẩm mang màu sắc trinh thám lần đầu tiên xuất hiện (chủ yếu các tác phẩm đăng nhiều
kỳ trên các bài báo), dễ dàng nhận thấy tư tưởng chủ đạo trong đó: chủ yếu nhằm minh
họa cho quan niệm về đạo đức. Chẳng hạn Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc
(1921); Mật thám truyện, Chủ nợ bất nhơn (1921) của Biến Ngũ Nhy…
Từ những năm hai mươi trở đi, văn xuôi tự sự bằng chữ quốc ngữ đã có một
cuộc cách tân mạnh mẽ. Cùng với đó, nghệ thuật truyện trinh thám cũng có một bước
tiến rất dài so với truyền thống: kết cấu và cốt truyện được hiện đại hóa, tính cách
nhân vật được xem như là trung tâm của tác phẩm, ngôn ngữ gần gũi với đời sống
hàng ngày… Trên các báo bắt đầu đăng truyện trinh thám, với sự kết hợp nhiều yếu
tố: trinh thám – ái tình – hành động - võ hiệp… Chẳng hạn như Bí mật phi thường
(Tuấn Anh, 1925), Cái rương bí mật (Tuấn Anh, 1925); Gái trả thù cha (Nguyễn
Chánh Sắt, 1925); Cái thây ma chết oan (Nguyễn Tinh Uyên, 1926); Châu về hiệp
phố (1926), Lửa lòng (1929), Căn nhà bí mật (1931) của Phú Đức; Mảnh trăng thu,
49
Cậu Tám Lọ của Bửu Đình; Lá huyết thư (1931), Người bán ngọc (1931) của Lê
Hoàng Mưu; Bó hoa lài (1930), Vô oan trái (1931), Khép cửa phòng thu (1933),
Chén thuốc độc (1934) của Nam Đình Nguyễn Thế Phương… Riêng đối với một số
tác giả chỉ viết một vài truyện mang màu sắc trinh thám như Thúy Am (với Anh hùng
tương ngộ, Cái hầm bí mật, Người hay ma), Cuồng Sĩ (với Ai giết quan tòa), Vũ Đình
Tuyết (với Mảnh giấy bí mật, Con ma đeo kính, Vuông khăn đẫm máu), một số tác
phẩm do Tân Dân quán xuất bản, không ghi tên tác giả như Con khỉ giết người, Xác
chết chạy đi đâu … chỉ được các nhà nghiên cứu nhắc đến nhưng chưa thể tìm thấy
tác phẩm trên thị trường. Đây là thời kỳ phát triển rất mạnh mẽ của kiểu truyện mang
màu sắc trinh thám, nhất là các tác phẩm xuất bản ở Nam Bộ thông qua phương tiện
báo chí.
Chúng tôi cho rằng, truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn ba mươi năm đầu của
thế kỷ XX hầu hết là những “tiểu thuyết dung hợp” nên những yếu tố ái tình, võ hiệp,
hành động pha lẫn trinh thám khó phân biệt rạch ròi. Đây là một biểu hiện khó tránh khỏi
của nhà văn trong bước đầu thử nghiệm một thể loại mới. Truyện trinh thám Việt Nam là
kết quả sự giao lưu, tiếp biến từ văn học truyền thống sang hiện đại nên các nhà văn
không thể cắt đứt hoặc bỏ qua giai đoạn chuyển tiếp, bởi nó không phù hợp với tầm đón
đợi của người đọc. Chính vì vậy, chúng tôi xem xét các tác phẩm giai đoạn này, theo
khái niệm truyện trinh thám: có nhân vật điều tra, có vụ án. Chúng tôi xếp vào loại
truyện mang màu sắc trinh thám ái tình – hành động – nghĩa hiệp.
- Giai đoạn thứ hai (từ những năm ba mươi đến những giữa thế kỷ XX)
Bước sang những năm ba mươi hai của thế kỷ XX là giai đoạn phát triển và đạt
đến đỉnh cao của thể loại trinh thám chịu ảnh hưởng phương Tây, những tác phẩm
trinh thám dung hợp mang màu sắc ái tình, hành động, võ hiệp (phần lớn của các nhà
văn Nam Bộ) hầu như vắng bóng trên văn đàn, và thực sự truyện trinh thám theo
đúng nghĩa đích thực ở nước ta cũng chỉ đạt được những thành tựu nhất định trong
khoảng thời gian hai mươi năm tính đến Cách mạng Tháng Tám. Hai tác giả tiêu biểu
cho xu hướng này là Thế Lữ và Phạm Cao Củng. Thế Lữ nổi tiếng với Vàng và máu
(1934), Một chuyện ghê gớm, Ba hồi kinh dị (1936); Lê Phong làm thơ (1936), Lê
Phong phóng viên (1937), Những nét chữ (1939), Lê Phong - Mai Hương (1939),
50
Đòn hẹn (1939), Gói thuốc lá (1940)…Phạm Cao Củng với Vết tay trên trần (1936),
Kho tàng họ Đặng (1937), Một cái Tết rùng rợn của Kỳ Phát, Máu đỏ lòng son
(1937), Chiếc tất nhuộm bùn (1938), Người một mắt (1940), Nhà sư thọt (1941), Kỳ
Phát giết người (1941), Đám cưới Kỳ Phát (1942), Bóng người áo tím (1942), Hàm
răng mài nhọn(1942), Chiếc gối đẫm máu (1942), Ba viên ngọc bích (1938), Đôi hoa
tai của bà Chúa (1942) … Với hàng loạt câu chuyện về thám tử Lê Phong và Kỳ
Phát, người đọc có thể theo dõi tiến trình điều tra, phá án của hai nhà trinh thám đích
thực như một số truyện trinh thám phương Tây của Conan Doyle. Ngoài ra, một số
truyện trinh thám ái tình – nghĩa hiệp – hành động vẫn tiếp tục ra mắt bạn đọc như:
Bùi Huy Phồn với Bức thư của dòng họ Trần Thạch (1941), Mối thù truyền nghiệp
(1942). So với giai đoạn trước, truyện trinh thám ở giai đoạn này đã tiến gần với thể
loại truyện trinh thám cổ điển phương Tây, một số tác phẩm đã gây được ấn tượng
lớn trong lòng người đọc.
Truyện trinh thám Việt Nam, tính từ giữa thế kỷ XX trở về sau, có thể xem là
giai đoạn “thoái trào” của thể loại này. Sau năm 1945, do tình hình chính trị xã hội có
nhiều biến động, cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp, rồi sau đó là cuộc chiến tranh chống Mỹ, thống nhất Tổ quốc. Truyện trinh
thám giai đoạn này, hầu như không được người đọc quan tâm. Các tác giả cũng
không còn chuyên chú vào sáng tác thể loại này. Nhà văn Thế Lữ đã chuyển sang viết
kịch; Phạm Cao Củng chỉ có một vài tác phẩm viết về tướng cướp Huỳnh Kỳ. Ở miền
Bắc thể loại này đã chuyển sang dạng truyện cảnh giác; ở miền Nam thì thể loại này
gần như biến mất, không còn đất sống.
2.2.2. Quy luật vận động của truyện trinh thám
2.2.2.1. Tiếp thu, kế thừa văn học truyền thống
Thực ra, đối với truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, sự kế thừa về mặt
thể loại ở văn học truyền thống là không nhiều. Có thể kể đến các trường hợp như Trại
Bồ Tùng Linh, Một chuyện rùng rợn, Gia tài họ Đặng, Vàng và máu, Châu về hiệp phố,
Mối thù truyền nghiệp … Các truyện này ít nhiều có ảnh hưởng lối truyện tráng sĩ, nghĩa
hiệp, thậm chí cả những môtip phổ biến trong truyện thơ Nôm thời kỳ trung đại. Sự kế
thừa thể hiện rõ nhất qua các yếu tố như cốt truyện, kết cấu, nhân vật…
51
Công thức phổ biến ở loại truyện thơ Nôm theo chủ đề tài tử giai nhân thường là
gặp gỡ - lưu lạc – đoàn viên: “Tài tử gặp giai nhân, đôi trẻ yêu nhau rồi li tán và vượt
qua mọi trở ngại khó khăn, chàng thi đỗ làm quan và cưới nàng, đôi uyên ương sắt cầm
hòa hiệp, bách niên giai lão” [104, tr.8-13]. Cốt truyện Nôm thường hay lấy những môtip
quen thuộc từ nguồn truyện dân gian hay vay mượn từ cốt truyện của Trung Quốc. Điều
này vẫn được các tác giả vận dụng trong nhiều truyện trinh thám: Mối thù dòng tộc (Mối
thù truyền nghiệp), đi tìm kho báu (Vàng và máu, Kho tàng nhà họ Đặng), âm mưu
chiếm đoạt tài sản (Mảnh trăng thu), duyên kỳ ngộ (Trại Bồ Tùng Linh), anh hùng
trượng nghĩa (Ba Lâu ròng nghề đạo tặc; Cậu Tám Lọ), hoặc tiếp biến theo lối cải biên
“cố sự tân biên” (Châu về hiệp phố)...
Lối kết cấu theo nguyên tắc “nhân – quả”, "thiện ác đáo đầu chung hữu báo" trong
truyện thơ Nôm xuất hiện rất nhiều ở những tác phẩm có khuynh hướng đạo lý. Cái kết
thúc có hậu “ân trả oán đền, một nhà đoàn viên” là câu trả lời đầy đủ, rõ ràng cho vấn đề
tác phẩm đặt ra. Hầu hết, mọi tác phẩm theo mô hình này đều nhằm mục đích truyền bá,
giáo dục đạo đức, đạo lý. Rất nhiều truyện trinh thám ái tình – nghĩa hiệp – hành động
nửa đầu thế kỷ XX tuân thủ nghiêm ngặt công thức trên. Bởi vì, chỉ có như vậy mới phù
hợp với thị hiếu người đọc, khiến cho họ cảm thấy được thỏa mãn.
Mô hình cấu trúc truyện trinh thám giai đoạn này thường được tổ chức theo trục
tuyến tính của thời gian; câu chuyện chỉ tập trung vào hành động của nhân vật mà ít liên
quan đến cảnh vật bên ngoài hay diễn biến nội tâm. Nếu có tình tiết phụ xen vào, mạch
chuyện thường phải tạm thời gián đoạn, để nhường chỗ triển khai yếu tố phụ, sau đó mới
tiếp tục mạch chính. Các tác phẩm như Châu về hiệp phố, Mảnh trăng thu, Mối thù
truyền nghiệp… tiêu biểu cho lối kể chuyện này. Lối kết cấu như vậy, không chỉ thuận
tiện cho nhà văn trinh thám trước một thể loại mới, mà còn phù hợp với trình độ của
đông đảo người đọc, vốn quen với mô hình truyện kể truyền thống như truyện thơ Nôm,
truyện truyền kỳ...
Nhân vật thám tử cũng mang dáng dấp của các nhân vật (chính) trong văn học
truyền thống. Chẳng hạn, Kỳ Phát trong truyện Nhà sư thọt, sau khi tìm được kho báu,
không nhận bất cứ sự trả ơn nào của gia đình nhà họ Đặng; Kỳ Phát đã giáo dục cho
thằng Do, không đi ăn trộm nữa mà theo giúp chàng điều tra các vụ án, giúp người bị
hại; nhân vật Minh Đường (Mảnh trăng thu) sẵn sàng bênh vực Thuỷ Tiên, đánh lại bọn
52
người xấu khi chúng ức hiếp cô dưới bến tàu; nhân vật Tư Minh (Người bán ngọc) có
tấm lòng cao thượng, cương trực giống hình tượng một vị quan thanh liêm thường được
đề cao trong truyện Nôm… Mặt khác, một số nhân vật phản diện, có quyền lực, có học
thức nhưng tha hoá, chạy theo đồng tiền và gái đẹp trong truyện trinh thám, ít nhiều
mang dấu ấn những nhân vật phản diện trong văn học truyền thống.
Từ những so sánh đối, đối chiếu trên, có thể nói truyện trinh thám Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX ít nhiều đã có sự kế thừa thành tựu văn học truyền thống. Đó là một sự
tiếp thu đầy sáng tạo của các nhà văn. Nỗ lực cách tân thể loại trên cơ sở kế thừa truyền
thống của họ đã tạo nên một dạng thức tiểu thuyết trinh thám mới, với những đặc điểm
riêng biệt, không lẫn với loại truyện truyền thống để một mặt đáp ứng nhu cầu độc giả,
mặt khác, góp phần hiện đại hóa văn học dân tộc.
2.2.2.2. Tiếp biến văn học nước ngoài
Giai đoạn đầu thế kỷ XX, truyện trinh thám Việt Nam còn chịu ảnh hưởng sự tiếp
biến từ văn học Trung Quốc và văn học phương Tây. Chính sự giao thoa ảnh hưởng này
đã một mặt, đẩy nhanh sự phát triển và mặt khác, tạo nét riêng cho một thể loại mới.
Những thành quả từ những năm hai mươi trở đi của truyện trinh thám là bằng chứng cho
thấy năng lực tiếp biến đã biến chuyển thành bản lĩnh sáng tạo của nhà văn Việt Nam.
Quá trình tiếp tiến được triển khai trên nhiều phương diện. Thứ nhất, văn học dịch được
đẩy mạnh (nguồn chủ yếu từ văn học Trung Quốc và văn học các nước phương Tây);
nhiều tác phẩm mới xuất hiện theo phương thức phóng tác. Thứ hai, vận dụng các đề tài,
thể loại truyện nước ngoài vào thực tế văn học Việt Nam (mô phỏng cốt truyện, tiếp thu
thi pháp phương Tây, Trung Quốc) theo con đường từ tự phát lên tự giác. Chính vì thế,
truyện trinh thám Việt Nam, một thể loại mới gia nhập vào đời sống văn học dân tộc, đã
bộc lộ rõ nét kết quả tiếp biến văn học này. Cụ thể:
+ Tiếp biến nghệ thuật tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc
Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đối với truyện trinh thám, trước hết phải
nói đến tiểu thuyết chương hồi. Biểu hiện của kiểu kết cấu chương hồi cổ điển trong
truyện trinh thám rõ ràng nhất là về mặt hình thức. Không ít tác phẩm trinh thám giai
đoạn đầu có bố cục nhiều hồi, mỗi hồi ứng với một sự kiện trong tác phẩm và được mở
đầu bằng một câu hay một cặp câu văn vần. Mỗi chương, thường tương ứng với một sự
53
kiện chính của cốt truyện. Trong Lửa lòng chẳng hạn, các cụm từ “Đây nói ...”, “Lại nói
...” đặc trưng của ngôn ngữ tiểu thuyết chương hồi liên tục được sử dụng.
Thám tử Kỳ Phát của Phạm Cao Củng có những tính cách rất được ưa chuộng ở
phương Đông như coi khinh quyền thế, đứng về phía người dân thấp cổ bé miệng, không
quản ngại nguy nan, mạo hiểm để làm sáng tỏ chính nghĩa, luôn tôn trọng tình cảm và
đạo đức… Kỳ Phát khác với Sherlock Holmes ở chỗ, anh mang dáng dấp của nhân vật
hiệp khách, tráng sĩ trong văn học Trung Quốc: giúp người bị hại anh không bao giờ
nhận thù lao, thậm chí khi được chia một phần kho tàng với “không biết bao nhiêu là thoi
vàng, bạc và cả đống châu báu, chàng lẳng lặng bỏ đi” [21, tr.114]. Chàng có đầy đủ
phẩm chất của một tài tử lãng mạn, đa tình nên phù hợp với “trình độ, tri thức và cuộc
sống của người Việt Nam” nói chung lúc bấy giờ. Trong Người bán ngọc, Lê Hoàng
Mưu sử dụng yếu tố hấp dẫn bằng cách treo lơ lửng cái hồi hộp, phập phồng của số phận
nhân vật trung tâm, đưa người đọc đi sâu vào cuộc phiêu lưu tình ái của Tô Thường Hậu.
Ở đây, do ảnh hưởng tiểu thuyết công án Trung Quốc khiến người đọc liên tưởng đến sự
căng thẳng, mưu trí của nhân vật Bao Công khi điều tra vụ án.
Sự xuất hiện những lời bình luận của tác giả trong khi kể chuyện cũng là một biểu
hiện của kiểu kết cấu chương hồi. Lời bình thường xuất hiện ngay sau những sự kiện
đáng bình luận, hoặc khi nhà văn muốn nhắn nhủ một điều gì đó tới độc giả. Trong Mai
Hương - Lê Phong, nói về cái chết của Lê Phong khi bị bọn Lương Hữu bấm cái máy
ảnh có mũi thuốc độc vào người, tác giả giải thích: “Đến đây, người thuật chuyện cần
phải nói ngay để độc giả biết rằng lúc đó Lê Phong thấy mình chết thực” [68, tr.204].
Tuy nhiên, đó chỉ là sự “rơi rớt”, ảnh hưởng ở mức độ tiểu tiết, lối kết cấu chương
hồi, không có mặt trong suốt cả tác phẩm mà chỉ xuất hiện bất chợt ở một vài chương.
Việc vận dụng một cách “tùy tiện”, bất chợt nguyên tắc kết cấu chương hồi vào truyện
trinh thám chứng tỏ các tác giả không gò ép hình thức tác phẩm vào một cái khuôn đúc
sẵn nào. Trái lại, để đáp ứng nhu cầu của tầng lớp công chúng mới, các nhà văn đã từng
bước thoát khỏi kiểu kết cấu chương hồi cổ điển.
Trong Châu về hiệp phố, Phú Đức cũng chia hồi, nhưng không ghi “Hồi thứ...” hay
“Chương thứ...” mà chỉ đánh số La Mã; không có hai câu thơ ở đầu mỗi hồi, chỉ có một
vài từ tóm tắt nội dung của chương, cụ thể : I. Dụng sắc giết người; II. Ngọc Ẩn ra tài …
54
Truyện trinh thám của Thế Lữ cũng vậy. Ở mỗi phần, ông đặt một đề mục riêng cho
câu chuyện. Trong Vàng và máu, Thế Lữ ghi Phần 1, Phần 2 mà không tóm tắt nội dung
hay đề thơ. Trong Đòn Hẹn gồm hai chương: Chương 1. Lê Phong bị hăm dọa, nhưng ở
Chương 2, ông lại để trống. Trong Lê Phong phóng viên, truyện được chia ra làm nhiều
phần và mỗi phần có một tựa đề như thể giới thiệu về nội dung: Một cách xin việc kỳ khôi
– Lê Phong làm việc – Bắt đầu câu chuyện …. Trong Những nét chữ, tác giả kể theo từng
chủ đề câu chuyện: Bức thư tình - Bài thơ - Một thảm tình - Giả thuyết và sự thực - Phân
tích - Lại một chuyện tình... Trong Gói thuốc lá, Thế Lữ chia thành mười hai chương,
“Chương I : X.A.E.X.I.G? Những chữ kỳ dị....”; và một số tác phẩm, ông viết liền một
mạch từ đầu đến cuối, không chia đoạn, không đánh số La Mã, chỉ cách đoạn bằng những
khoảng trống của văn bản, nghĩa là không hề có dấu hiệu hình thức của bố cục tác phẩm.
Đây một bước tiến dài của nhà văn trong quan niệm về kết cấu tiểu thuyết hiện đại.
Với Phạm Cao Củng, các tác phẩm đều chia theo chương, dưới mỗi chương có đặt
một đề tựa. Trong Chiếc tất nhuộm bùn, các chương có đề tựa riêng. Chương 1. Tôi là
thằng ăn cắp; Chương 2. Một gia đình bí mật … Trong Kho tàng nhà họ Đặng, Chương
1. Người khách lạ; Chương 2. Chiếc đĩa gia bảo ... Trong Nhà sư thọt, Chương 1. Anh
ăn trộm không gặp vận; Chương 2. Một bài học về luân lý cho không …, mỗi chương
đều mở đầu bằng một câu tóm nội dung chính của chương.
Rõ ràng là dấu hiệu của kiểu kết cấu chương hồi đã có mặt trong nhiều truyện trinh
thám. Không thể phủ nhận rằng, lối kết cấu này vẫn phù hợp với thị hiếu của một bộ
phận công chúng ở giai đoạn này. Trên mô hình cơ bản của tiểu thuyết chương hồi, các
nhà văn trinh thám đã vận dụng, dung hợp thêm những đặc điểm của tiểu thuyết phương
Tây. Tinh thần tiếp thu có cải biến này, một mặt thể hiện sự tiếp nối với văn xuôi tự sự
truyền thống, mặt khác cho thấy tinh thần độc lập sáng tạo của nhà văn trong buổi đầu
khai sinh một thể loại c n nhiều khó khăn.
+Tiếp biến nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại của phương Tây
Sự tiếp xúc với văn học phương Tây đầu thế kỷ có vai trò như một chất xúc tác, tạo
điều kiện cho việc hình thành những thể loại mới ở Việt Nam. Đây là một xu hướng
chung của thời đại chứ không còn là ý thức của riêng một vài cá nhân. Thế hệ trí thức
đầu thế kỷ XX đã không chối bỏ, cắt đứt quá khứ; trái lại họ dựa vào đó làm cơ sở để
55
tiếp nhận các yếu tố mới mẻ, hiện đại nhằm làm phong phú thêm những giá trị vốn có
của dân tộc.
Truyện trinh thám ái tình – hành động - nghĩa hiệp đầu tiên là Kim thời dị sử - Ba
Lâu ròng nghề đạo tặc của Biến Ngũ Nhy (xuất hiện năm 1917). Nhân vật Ba Lâu in đậm
dấu ấn thám tử Asrène Lupin. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi cho rằng “Tác phẩm là cái
mốc đánh dấu sự có mặt của một thể loại mà sau này Phú Đức và Bửu Đình ở miền Nam
cũng như Thế Lữ và Phạm Cao Củng ở miền Bắc là những người kế tục”. Trong Kim thời
dị sử, Biến Ngũ Nhy đã sử dụng lối kết cấu hiện đại của văn học phương Tây, dùng lối văn
sáng sủa và khá trôi chảy để triển khai câu chuyện.
Hiện tượng mô phỏng theo kiểu truyện trinh thám cổ điển phương Tây rõ nhất là
các sáng tác của Thế Lữ và Phạm Cao Củng. Phạm Cao Củng thành công với nhân vật
thám tử Kỳ Phát. “Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam ưa chuộng tư duy cảm tính, thiếu
truyền thống và tư duy lý tính thì viết truyện trinh thám như Phạm Cao Củng đã là thành
công, hơn nữa cái ưu điểm của ông ấy là dù học ở phương Tây nhưng nhân vật đã được
thổi cho một tính cách Việt, một tâm hồn Việt và đời sống Việt cũng như những phẩm
chất được ưa chuộng ở phương Đông, trọng nghĩa khí, tình cảm, đạo đức, trọng nghĩa
khinh tài và không hành động vì thù lao” [44, tr.8].
Đối với Thế Lữ, sự ảnh hưởng văn chương phương Tây rất đậm nét trên nhiều
phương diện. Đặc biệt, dấu ấn Edgar Poe trong sáng tác của ông rất rõ. Chính Khái Hưng
là người phát hiện điều này từ rất sớm. Năm 1934, trong lời tựa Vàng và máu, Khái
Hưng đã nhận xét: “Tác giả những truyện Vàng và máu và Một đêm trăng đã tỏ ra có óc
khoa học của Edgar Poe và tâm hồn thi sĩ của Bồ Tùng Linh..” [51, tr.416]. Các nhà
nghiên cứu khác như Vũ Ngọc Phan (1942), Phạm Thế Ngũ (1965), Nguyễn Văn Dân
(1997), và gần đây nhất là Phạm Đình Ân (2006) cũng đều có những nhận định tương tự.
Tác giả Hoài Anh còn cho rằng: “Thế Lữ cả thơ và truyện đều có hơi hướng Poe, nặng
về duy mỹ mà không đau khổ đến mức bệnh hoạn, tuyệt vọng như Baudelaire” [2,
tr.513]. Ngay bản thân nhà văn Thế Lữ cũng công khai ý thức chủ động tiếp nhận văn
học phương Tây để sáng tạo nền quốc văn mới của mình. Ông khẳng định: “Tôi muốn
viết văn, viết báo để ta cùng “mở mày mở mặt”, Pháp họ có nhà văn thì mình cũng có
nhà văn. Họ làm báo, viết văn, thì ta cũng làm được” [68, tr. 99]. Thế Lữ từng tâm niệm:
“Cái ý phá những lề lối trói buộc là nhất quán trong tôi” [68, tr.106]. Có thể nói, tác
56
phẩm của ông là sự tổng hợp Đông - Tây một cách thú vị thông qua việc tiếp nhận sáng
tạo hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe.
Nhìn chung, việc tiếp biến văn học phương Tây của truyện trinh thám Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX được thể hiện cụ thể trên cơ sở các yếu tố sau:
- Về cốt truyện: Vai trò của cốt truyện trong truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn
đã ít nhiều có sự thay đổi; không đóng vai trò chủ yếu như trước nữa. Trong một số
trường hợp, nó đã nhường vị trí đầu tiên cho tính cách nhân vật. Các nhà văn trinh thám
đã mạnh dạn rũ bỏ quy phạm “thuật nhi bất tác”; chú ý đến việc xây dựng cốt truyện gần
gũi với hiện thực đời sống. Một số tác phẩm có cốt truyện phức tạp, nhiều tuyến, đảo lộn
thời gian sự kiện, lấy thời gian làm thứ tự tình tiết; chẳng hạn như Chiếc tất nhuộm bùn,
Người khách lạ, Kho tàng họ Đặng, Vết tay trần… Cũng có khi tác giả sử dụng lối kết
thúc có hậu một cách tự nhiên. Tuy nhiên, ở một vài tác phẩm như Mảnh trăng thu,
Người bán ngọc, Nhà sư thọt, kẻ có tội lại không bị trừng trị theo pháp luật mà tác giả để
cho bọn họ tự chất vấn lương tâm mình; đồng thời đưa ra những kết thúc bỏ ngỏ, không
có hậu, bất ngờ, gợi cho người đọc những suy nghĩ, tự vấn.
- Về kết cấu: Một số truyện tuy kết cấu theo kiểu cũ, thường dựa trên lịch sử của
một con người, một gia đình như Mảnh trăng thu, Châu về hợp phố, Kho tàng họ Đặng,
Mối thù truyền nghiệp… nhưng số phận của họ đan chéo vào nhau, tính cách nhân vật trở
nên phức tạp hơn. Ngoài ra, còn có những truyện kết cấu theo lối đơn tuyến được xây
dựng trên một chuỗi biến cố nhất định: Bóng người áo tím, Đám cưới của Kỳ Phát, Đôi
hoa tai của bà Chúa, Lê Phong phóng viên, Người bán ngọc... Những dạng thức kết cấu,
cốt truyện như vậy của truyện trinh thám đã thể hiện rất rõ tính chất giao thời và dung
hợp của thể loại. Nếu kết cấu theo lối chương hồi và nhân – quả cho thấy dấu ấn đậm nét
của các dạng tự sự truyền thống phương Đông thì những biểu hiện của kiểu kết cấu, cốt
truyện hiện đại theo mô hình phương Tây cũng khá rõ ràng. Tất nhiên, sự phân chia như
thế không phải lúc nào cũng rạch ròi. Trong quá trình vận động, truyện trinh thám đã dần
dần thoát ly ảnh hưởng truyền thống, chuẩn bị cho những tác phẩm mới mẻ hơn trong
giai đoạn sau.
- Về nghệ thuật miêu tả: Nhà văn trinh thám đã học tập lối mô tả nhân vật, phân
tích tính cách nhân vật của văn xuôi hiện đại phương Tây. Nhân vật Ba Lâu và Đội Tiền
trong Kim thời dị sử rất gần gũi với Arsène Lupin và Sherlock Homes trong Arsène
57
Lupin chống Sherlock Homes hay Arsène Lupin trong Arsène Lupin con người bí ẩn của
Maurice Leblanc. Nhân vật Năm Nhỏ na ná như nhân vật Milady trong Les trois
Mousquetaires của A.Dumas (Ba người lính Ngự lâm pháo thủ). Bút pháp mà các nhà
văn phương Tây sử dụng trong văn trinh thám có sức hấp dẫn đặc biệt đối với đa số các
nhà văn Việt Nam. Phạm Cao Củng thừa nhận điều này:
Hồi ở nhà, tôi có đọc nhiều cuốn truyện trinh thám chữ Pháp trong tủ sách gia
đình của các anh tôi. Tôi có đọc nhiều cuốn của tác giả Maurice Leblanc mà
nhân vật chính là anh chàng Arsène Lupin, một tay trẻ tuổi hào hoa chuyên nghề
trộm cắp. Tôi khoái Arsène Lupin vì anh có nhiều mưu mô thực tài tình, nhiều
khi lại tỏ ra là một tay đại đạo nghĩa hiệp nữa. Bởi vậy, tôi nghĩ dựng ra một
nhân vật chính trong loạt truyện trinh thám của tôi: đó là anh chàng thám tử Kỳ
Phát, tuy làm thám tử tư (chứ không chuyên nghề trộm cắp, nhưng cũng có tính
hào hoa, tài bay bướm giống như Arsène Lupin vậy) [24, tr.45].
- Ngôn ngữ: Trong các truyện trinh thám, hình thức câu văn xuôi hiện đại, thay
thế cho câu văn biền ngẫu cũng là dấu hiệu rõ ràng về ảnh hưởng của phương Tây.
Ngôn ngữ đời sống hàng ngày được sử dụng thường xuyên khiến câu chuyện trở nên
gần gũi hơn với cuộc đời thực.
Tất nhiên, dấu ấn văn học phương Tây trong truyện trinh thám Việt Nam cũng
có sự biến đổi theo từng chặng thời gian. Nếu những năm đầu thế kỷ XX, nó nặng về
mô phỏng, bắt chước thì đến những năm ba mươi tình hình có khác. Đặc biệt, khi thể
loại truyện trinh thám đã xác lập được vị thế trong đời sống văn học, thì các nhà văn
càng có xu hướng tìm tòi, khẳng định bản sắc dân tộc. Lúc này, hiện tượng mô
phỏng, phóng tác ít dần.
Ngoài ra, sự pha trộn yếu tố trinh thám phương Tây và truyện vụ án phương
Đông có lẽ là một sự dung hợp khá hài hòa trong truyện trinh thám trên nhiều phương
diện. Điều này thể hiện rất rõ qua sáng tác của các nhà văn như Thế Lữ, Phạm Cao
Củng, Lê Hoằng Mưu, Phú Đức, Bửu Đình... Hầu hết các tác phẩm vừa mang tính chất
võ hiệp, ái tình, hành động vừa có tính khoa học của tư duy lôgic trong việc khám phá
tội ác, vạch mặt kẻ xấu, thực thi công lý... Nhân vật thám tử tài ba của các nhà văn
trinh thám Việt Nam vừa có cái tỉnh táo của lý trí, suy lý kiểu phương Tây, vừa thấp
thoáng nét lãng tử của những nhà nho tài tử thuở xưa. Phong thái ung dung, trọng nghĩa
58
khinh tài khiến nhân vật trung tâm của truyện dễ đi vào lòng người đọc. Sự pha trộn
phong cách Đông – Tây trong truyện trinh thám thể hiện trên nhiều bình diện. Đó là sự
kết hợp tính khuôn mẫu của lối văn chương giáo huấn đạo lý và văn chương tả thực, tả
chân; hay sự kết hợp giữa chất anh hùng, trọng nghĩa khinh tài trong tiểu thuyết cổ điển
Trung Hoa với chất phiêu lưu, mạo hiểm của tiểu thuyết trinh thám phương Tây (thông
qua các yếu tố võ hiệp, ái tình, trinh thám…).
2.2.3. Truyện trinh thám trong tiến trình hiện đại hóa văn xuôi
Sự ra đời của truyện trinh thám Việt Nam phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cả
khách quan (hoàn cảnh xã hội, điều kiện lịch sử) và chủ quan (những yếu tố có tính
chất nội sinh của nền văn học). Vào những năm đầu của thế kỷ XX, trong đời sống xã
hội đã xuất hiện những điều kiện cần thiết để hình thành một nền văn học mới, trong
đó có thể loại trinh thám. Thực tế cho thấy, chính sự tiếp xúc với thế giới, nhất là
châu Âu (chủ yếu là Pháp), đã làm nảy sinh cơ hội để nền văn học nước ta hòa nhập
với văn học của thế giới. Các tác phẩm văn học đã trở thành một thứ hàng hóa để đáp
ứng nhu cầu của độc giả - người tiêu dùng. Một tầng lớp độc giả mới, đa số là công
chúng ở thành thị, nhanh chóng được hình thành. Mối tương tác giữa nhà văn (người
sản xuất) và độc giả (người tiêu dùng) đã khiến cho văn học phát triển nhanh chóng,
đồng thời sự ra đời của báo chí quốc ngữ la tinh là một trong những nhân tố quan
trọng góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu
thế kỷ XX. Chính báo chí là bà đỡ mát tay cho văn học quốc ngữ nói chung và truyện
trinh thám nói riêng. Hầu hết các nhà văn trinh thám như Biến Ngũ Nhy, Bửu Đình,
Phú Đức, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Thế Phương, Thế Lữ, Phạm Cao Củng, Đồ Phồn
... trước khi là nhà tiểu thuyết đã là các nhà báo, các tác phẩm của họ trước khi xuất
bản thành sách đã được in nhiều kỳ trên các báo Nông cổ mín đàm, Đuốc nhà Nam,
Công luận báo, Phong hóa, Ngày nay ... Các tờ báo quốc ngữ là môi trường tốt nhất
cho các nhà văn rèn luyện ngòi bút của mình, là nơi kích thích sự sáng tạo của họ,
giúp họ nhanh nhạy nắm bắt thị hiếu của công chúng độc giả và góp phần định hình
quan niệm về thể loại. Tuy nhiên, do quá coi trọng thị hiếu quần chúng, một số tác
phẩm đăng báo còn nhiều hạn chế về kết cấu, ngôn ngữ bởi tác giả viết nhanh, viết ẩu
là chuyện không thể tránh khỏi.
59
Từ trước tới nay, khi đánh giá về vai trò, vị trí của truyện trinh thám trong lịch
sử văn học Việt Nam, ý kiến của giới chuyên môn rất khác nhau. Điều này tùy thuộc
vào quan niệm, nhận thức của nhà nghiên cứu. Có người cho đó là loại “văn chương
hạng hai”, “văn chương giải trí”, với hàm ý đó là một thứ “cận văn học”, ngoài lề, phi
chính thống, ít hoặc không có giá trị… Ngược lại, cũng không ít người đề cao giá trị
của truyện trinh thám; coi đó là một thể loại văn học đích thực. Điều này không có gì
lạ, bởi việc đánh giá văn học trinh thám vốn đã phân hóa sâu sắc từ lâu, ngay tại
phương Tây, nơi được coi là “cội nguồn” của thể loại, cũng đã có tình trạng đó.
Theo quan niệm của chúng tôi, trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, truyện trinh
thám đã tác động rất mạnh mẽ đối với “văn hóa đọc” của người Việt Nam. Có một
thực tế là sự phổ biến của truyện trinh thám trong cộng đồng không hề thua kém,
thậm chí nhiều khi còn tỏ ra vượt trội so với các thể loại văn học khác. Trong bối
cảnh một nền văn học hiện đại đang định hình, chính mảng sách trinh thám chứ
không phải thể loại nào khác, mới thường xuyên tạo ra những hiện tượng “sách ăn
khách”. Không ít tác phẩm trinh thám của Biến Ngũ Nhy, Phú Đức, Thế Lữ, Phạm
Cao Củng… đã gây nên những “cơn sốt” – điều chưa từng có trong sinh hoạt tinh
thần người Việt trước đó. Và như vậy, cũng có nghĩa là chúng mặc nhiên xác lập
được một vị thế đáng kể trong đời sống văn học. Đó cũng chính là những yếu tố tạo
nên lịch sử văn học nước nhà. Bởi vì lịch sử văn học không phải là một cái gì đó mơ
hồ, trừu tượng; trái lại, nó là quá trình vận động của các hiện tượng văn học cụ thể.
Truyện trinh thám, vì những tác động của nó đối với đời sống, không thể bị gạt ra
khỏi lịch sử văn học. Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà cho rằng: “Có một số thể loại
nghệ thuật đúng là chủ yếu nhằm vào việc đáp ứng nhu cầu giải trí đơn giản ấy (nhạc
nhảy, truyện trinh thám, phim võ hiệp (…) và chúng cũng cần cho cuộc sống.” [118,
tr.249]. Mặc dù, cách thể hiện khác nhau nhưng tất cả các loại hình nghệ thuật đều
cần cho cuộc sống, bởi vì cuộc sống luôn cân bằng những tiếng nói đa dạng, sự khác
biệt không phải để loại bỏ nhau mà ngược lại, có thể bổ sung cho nhau để đem đến
cho cuộc sống những giây phút bình yên hạnh phúc và sự thanh thản của tâm hồn.
Nhận định như thế là rất thỏa đáng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, chỉ nhấn mạnh chức năng giải trí, tiêu khiển của
truyện trinh thám là chưa thấy hết giá trị của nó. Trên thực tế, thể loại này còn hàm
60
chứa nhiều giá trị, còn có nhiều chức năng quan trọng khác. Đó là những điều thuộc
phương diện giáo dục, nhận thức… Trước năm 1945, trong văn tuyển dùng để giảng
dạy và học tập ở các trường Pháp Việt vẫn có cả tác phẩm trinh thám. Trích đoạn tác
phẩm trinh thám có tính chất kinh điển như Án mạng trên phố Morgue (The Murders
in the Rue Morgue) của Edgar A. Poe, được dịch ra tiếng Việt năm 1936, là một ví dụ
điển hình. Đối với độc giả, điều quan tâm lớn nhất khi cầm một cuốn sách là sức cuốn
hút của nó chứ không phải là thể loại gì. Mọi giá trị khác chỉ thực sự nảy sinh khi họ
bị chinh phục, bị cuốn theo câu chuyện mà tác giả trình bày. Bởi vậy, theo quan niệm
của chúng tôi, không nên xác định giá trị của văn chương trên tiêu chí thể loại.
Thể loại truyện trinh thám hấp dẫn người đọc (và người đọc tự giáo dục, nhận
thức) bằng cách riêng của nó. Ở đây có một hiện tượng tưởng như nghịch lý: chính
truyện trinh thám nhiều tiểu xảo và thiên về cách sắp xếp tình huống, nên người ta lại
thích tìm đọc. Cầm cuốn sách trên tay, có thể người đọc đoán biết mọi chuyện sẽ dẫn
đến đâu nhưng vẫn hồi hộp khi dở từng trang sách. Cái hấp dẫn của truyện là thứ hấp
dẫn căng thẳng của một trò chơi trí tuệ. Nguyên tắc cao nhất của nó là tìm ra phương
án tối ưu trong một loạt điều kiện không xác định. Mặc dù biết mọi chuyện chỉ là giả
định, song người đọc vẫn tin là thực. Điều này, giống như khi đã tham gia trò chơi, dù
chỉ là trò chơi đơn giản nhất, người tham gia vẫn thấy hồi hộp và khoan khoái khi
mình thắng cuộc.
Truyện trinh thám bản chất là khêu gợi óc tò mò, vốn đặc trưng của trí tuệ con
người. Ở đây, người đọc thường muốn nhìn sâu vào những bí mật chưa ai hiểu,
những mảng đời sống bị giấu trong bóng tối. Đặc biệt, sự tò mò trong truyện trinh
thám luôn hướng về vụ án giết người, về cái chết đầy bí ẩn. Đó là những tội ác đã có
từ thời xa xưa của nhân loại, nhưng lại dễ dàng động tới phần tiềm thức sâu thẳm của
mỗi người. Xã hội càng văn minh, những vụ giết người ngày càng ít đi nhưng lại
càng đáng sợ hơn. Trong việc tìm hiểu những hành động mà bản thân mình không
dám làm, người đọc tìm thấy một ít thú vị nào đó, nhất là người đọc ở các thành phố
lớn, bởi con người sống ở đó vừa gần bên nhau, vừa rất rời rạc. Vì thế, trong hầu hết
truyện trinh thám, nhà văn thường chú ý đến nguyên nhân phạm tội; nếu qua câu
chuyện, nhà văn biết phát hiện ra ý nghĩa xã hội và đề cao đạo lý, thì tác động giáo
dục và cảnh báo của tác phẩm càng sâu sắc và có giá trị to lớn. Người đọc bị lôi cuốn,
61
say mê bởi tình tiết vụ án được viết ra trong tác phẩm để rồi tác động đến tình cảm
của bản thân. Họ sẽ tự đối thoại với chính mình, lắng nghe lương tâm lên tiếng. Họ
dựa vào đạo đức, tình yêu cùng lẽ công bằng của cuộc sống, của luật pháp để đánh
giá thiện và ác, lương tri và tội lỗi, lý trí cao cả và dục vọng thấp hèn… Như vậy, đó
chính là tấm gương để tự soi mình, phán xét người khác. Truyện trinh thám dù có
phóng đại cái tốt, cũng nhằm mong muốn nó trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy hơn, từ đó hấp
dẫn lôi cuốn người đọc, làm cho độc giả tin rằng trên đời bao giờ cũng còn có công
lý, có con người tốt. Mỗi tác phẩm đều khơi dậy ở người đọc khát vọng vươn tới cái
lý tưởng, bắt chước để làm theo điều thiện, theo cái tốt đẹp mà tác phẩm đã phản ánh.
Đối với cái xấu, mặc dù nhà văn cố ý phóng đại, làm cho nó đáng ghê tởm hơn, cũng
nhằm mục đích phủ nhận. Tác động này không diễn ra một lúc mà thấm dần vào tâm
trí người đọc.
Nghiên cứu văn chương Việt Nam, nếu chỉ chú trọng vào dòng văn học “tinh
anh”, tập trung vào sự bề thế và qui mô, bỏ qua sự nhỏ lẻ, chú trọng vào các đối
tượng đã được định hình, bỏ qua các “thể loại dung hợp” thì đó là một cách tiếp cận
không hợp lý. Bởi lẽ, từ phương pháp tiếp cận như thế sẽ dẫn đến quan niệm cực
đoan, chủ quan. Trong trường hợp này, chắc chắn sẽ bỏ sót nhiều giá trị văn chương
vốn chưa được tường minh. Đã đến lúc phải thay đổi định kiến bất công về thể loại
trinh thám. Quan niệm cho rằng viết về cái xấu, nỗi đau và sự mất mát, những buồn
vui phi lý, những xung đột cá nhân là những chuyện vặt vãnh, thua kém những đề tài
về lao động sản xuất và chiến đấu… là không công bằng. Truyện trinh thám Việt
Nam, ngay từ khi mới xuất hiện đã đề cao vai trò giải trí (có lẽ đây cũng là mục đích
của phần lớn các tác phẩm văn học nghệ thuật), chính yếu tố này đã tạo nên sức hấp
dẫn với người đọc. Nhưng điều này không làm suy giảm giá trị của nó, bởi chức năng
giải trí, suy cho cùng cũng là mục tiêu quan trọng nhất của mọi tác phẩm nghệ thuật.
Thông qua giải trí, truyện trinh thám sẽ tác động đến quan điểm, tư tưởng và đạo đức
con người.
Cùng với các thể loại tự sự khác, truyện trinh thám Việt Nam, ít nhiều đã phản
ánh một mảng hiện thực xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, góp phần làm thay đổi
và đa dạng hóa thể loại tự sự. Nó vừa kết hợp miêu tả hiện thực, vừa thể hiện tâm lý,
cá tính nhân vật, vừa suy luận logic, để rồi nó đem lại cho người đọc cách nhìn đúng
62
đắn về cuộc sống. Thực tiễn cho thấy, tội ác như là một hiện thực đời sống; nó được
phản ánh rất sớm trong các tác phẩm văn học, nó song hành cùng sự tiến bộ, văn
minh. Vai trò của truyện trinh thám trong bối cảnh này là góp phần giúp con người
nhận diện rõ hơn cái ác để chống lại nó.
Hiện nay, trong giới nghiên cứu, đa số đều thống nhất rằng truyện trinh thám là
một thứ trò chơi trí tuệ; nhưng do nhiều nguyên nhân, nỗi ngần ngại “sợ bị nó ru ngủ”
về một thứ văn chương “chỉ đặt trọng tâm ở chức năng giải trí” vẫn còn đeo bám
không ít người. Vì thế, truyện trinh thám vẫn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm
để nhận thức lại, nhằm lý giải một cách đúng đắn về chức năng giải trí của tác phẩm
văn chương trong thế giới hiện đại. Điều này, thể hiện rõ qua thái độ mâu thuẫn trong
việc đánh giá thành tựu thể loại truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Một
mặt, người nghiên cứu thừa nhận sự hấp dẫn kỳ lạ từ truyện trinh thám, mặt khác, lại
cho rằng truyện trinh thám Việt Nam đơn giản, khuôn sáo, non nớt của tiểu thuyết
buổi đầu phôi thai nên ít có giá trị. Thực ra, có một thực tế đã bị giới nghiên cứu bỏ
qua: Truyện trinh thám là thể loại văn học giải trí. Nó thuộc về một loại hình văn học
khác so với các thể loại mang tính hiện thực, phê phán, chính luận…. Trong tiến trình
văn học Việt Nam, thể loại truyện trinh thám đã đóng một phần đáng kể trong việc
thúc đấy sự phát triển của văn xuôi tự sự nói chung. Nó là một thể loại văn học độc
đáo, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cộng đồng.
TIỂU KẾT
Nhận diện truyện trinh thám Việt Nam là một việc không hề dễ dàng bởi vì
ngay cả nội hàm của khái niệm truyện trinh thám nói chung, hiện tại vẫn tồn tại nhiều
ý kiến khác nhau. Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến thỏa đáng, hợp lý của những
người đi trước (cả học giả trong nước và nước ngoài) về thể loại truyện trinh thám,
trong chương 1 này, chúng tôi đã đưa ra quan niệm riêng về truyện trinh thám Việt
Nam. Đó là một thể loại văn học gồm các tác phẩm thuộc phương thức tự sự, viết về
quá trình điều tra vụ án của nhân vật thám tử; quá trình điều tra chủ yếu dựa trên tư
duy logic để làm sáng tỏ vụ án. Thể loại truyện trinh thám được thể hiện thông qua
một hình thức nghệ thuật có những đặc điểm riêng, từ cốt truyện, kết cấu, cách kể
chuyện, cho đến ngôn ngữ nghệ thuật…
63
Truyện trinh thám Việt Nam được hình thành và phát triển theo một phương
thức riêng. Đó là sự pha trộn nhiều thể loại, là sự tiếp biến văn hóa, văn học phương
Đông, phương Tây (kết hợp với các yếu tố truyền thống) để hình thành một thể loại
văn học mới. Tính chất mới mẻ của truyện trinh thám Việt Nam thể hiện không chỉ ở
nội dung, hình thức mà còn qua chức năng, vai trò của nó đối với đời sống. Do sự chi
phối của điều kiện lịch sử, văn hóa, truyện trinh thám Việt Nam không thuần túy là
một lối văn chương giải trí mà thông qua câu chuyện điều tra vụ án, nhà văn còn lồng
ghép trong đó nhiều chức năng khác của văn học.
Truyện trinh thám Việt Nam là một thể loại được sinh thành muộn, nhưng lại
phát triển với một tốc độ rất nhanh. Chỉ trong vòng nửa thế kỷ, diện mạo của một thể
loại văn học mới mẻ đã được định hình và tiến tới chỗ hoàn thiện. Từ chỗ thử nghiệm
bằng những tác phẩm mang yếu tố trinh thám những năm đầu thế kỷ XX, đến giữa
thế kỷ, truyện trinh thám Việt Nam đã có nhiều thành tựu đáng kể. Nó đã góp phần
quan trọng trong việc đẩy nhanh sự phát triển của văn học dân tộc trên con đường
hiện đại hóa.
64
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Trong tác phẩm văn học, điều quan trọng nhất chính là các hình tượng thế giới
nghệ thuật. Đây là bằng chứng về tài năng sáng tạo của nhà văn; cũng là một trong
những dấu hiệu quan trọng để phân xuất các thể loại. Chính vì thế, dù nghiên cứu bất
cứ thể loại nào, yếu tố không thể bỏ qua là hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, hình
tượng nghệ thuật là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu theo
nghĩa khái quát, trừu tượng, cũng có thể hiểu hình tượng với ý nghĩa cụ thể, trực
quan. Trong luận án này, chúng tôi xem hình tượng nghệ thuật là “Các khách thể đời
sống được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật” [83,
tr.99]. Về bản chất, đó là sự quy chiếu, miêu tả thế giới, mô phỏng thực tại bằng
những đường nét, màu sắc, hình khối…của các sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội,
nhằm tạo ra một thế giới mang tính nghệ thuật. Đấy cũng là cơ sở để người đọc tìm
hiểu tư tưởng triết lý, quan niệm nghệ thuật của nhà văn.
Hình tượng thế giới nghệ thuật trong truyện trinh thám là một thế giới đặc biệt.
Đó là thế giới mà kẻ phạm tội chọn làm nơi ẩn náu, nhà thám tử tiến hành hoạt động
điều tra khám phá bí mật của các vụ án; là sự mô phỏng hiện thực theo nguyên tắc
riêng, quy ước riêng của thể loại. Nó bao gồm hai yếu tố cơ bản: con người và hoàn
cảnh. Nhân vật trung tâm của truyện trinh thám là thám tử (dù là thám tử nghiệp dư
hay chuyên nghiệp) và đối lập với nhân vật thám tử là bọn tội phạm với nhiều mưu
mô xảo quyệt, giết người một cách tinh vi, tìm mọi cách để che dấu tội lỗi. Để tác
phẩm thu hút người đọc, các tác giả phải tổ chức một hoàn cảnh phù hợp với diễn
biến câu chuyện, trên cơ sở thực tiễn xã hội. Hoàn cảnh bao gồm cả yếu tố tự nhiên
và môi trường sống. Cả hai yếu tố này kết hợp càng khéo léo, câu chuyện càng có sức
thu hút. Tất nhiên trong tác phẩm văn học, thế giới nghệ thuật không chỉ có nhân vật
và hoàn cảnh, nhưng đây là những hình tượng quan trọng nhất cần được tìm hiểu một
cách đầy đủ.
65
Ở luận án này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm hình tượng nhân vật thám
tử - tội phạm, cùng không gian, thời gian nghệ thuật của các tác phẩm; tiến hành phân
tích, so sánh, đối chiếu để tìm ra những nét đặc trưng riêng của thể loại truyện trinh
thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3.1. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT
3.1.1. Nhân vật thám tử
Trong truyện trinh thám, có hai mẫu hình nhân vật tồn tại song song là thám tử
và tội phạm. Đối với nhân vật thám tử, nét chung của kiểu loại nhân vật này là thông
minh, có tài suy luận logic, phản ứng nhanh nhạy trong mọi tình huống; giỏi võ thuật,
có lòng nhân hậu, kiên quyết đấu tranh để đòi lại lẽ công bằng cho người bị hại.
Tiểu thuyết gia trinh thám nổi tiếng người Mỹ, “cha đẻ” nhân vật thám tử Harry
Bosch, nhà văn Michael Cornnely, từng nói: “Tôi cho rằng một quyển tiểu thuyết
trinh thám - giống như bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào - thành công hay thất bại đều do
cách xây dựng nhân vật. Sáng tạo một nhân vật trung tâm để có thể hấp dẫn và tìm
được sự đồng cảm sâu sắc nơi độc giả chính là điểm lớn nhất mà người viết phải đối
mặt khi đến với thể loại trinh thám. Đây gần như là nhiệm vụ khó khăn nhất” [15,
tr.134]. Một tác phẩm trinh thám hấp dẫn, ngoài những sự kiện, tình tiết đầy kịch
tính, nhất thiết phải có những nhân vật mang phong cách riêng. Không phải ngẫu
nhiên mà Mark Sanderson khuyên các nhà văn viết truyện trinh thám “phải biết xây
dựng nhân vật chính thật ấn tượng”.
3.1.1.1. Thám tử là người tài đức, nghĩa hiệp
Trong thể loại truyện trinh thám Việt Nam, hình tượng nhân vật thám tử được
nhà văn mô tả là những con người tài đức, nghĩa hiệp, luôn luôn đại diện cho công lý.
Môi trường hoạt động của nhân vật cũng rất đặc biệt, đầy thử thách nghiệt ngã với
những mối nguy hiểm luôn rình rập. Đây là công việc không dành cho những ai yếu
bóng vía, không có khả năng và nghị lực. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân, nhân vật
thám tử Việt Nam vừa giống lại vừa khác so với hình mẫu chung. Đặc điểm nổi bật
nhất của nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam là những con người tài
đức kết hợp với tinh thần “nghĩa hiệp”.
Thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam, phần lớn được mô phỏng theo mô
hình nhân vật trong truyện trinh thám phương Tây và truyện vụ án phương Đông, nên
66
có những điểm chung rất dễ nhận thấy. Các nhân vật thám tử đều rất thông minh. Đây
quả là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất của một thám tử, bởi trong thực tế, không có
kẻ nào kém thông minh mà lại theo đuổi nghề này. Sự thông minh bộc lộ qua khả năng
quan sát tinh tế, nhanh nhạy, suy luận sắc sảo, biết nhiều thế võ đặc biệt, giỏi lái xe, bắn
súng … Những kỹ năng đó là “chiêu”, “thuật” của thám tử, khiến người đọc thích thú,
hồi hộp theo dõi hành động của họ, nếu không có kỹ năng, phẩm chất vượt trội, thám tử
không thể thực hiện tốt vai trò của mình. Chẳng hạn, một đoạn tả “trường đoạn” rượt
đuổi sau đây: “Xe trước hiệu Fiat chạy mau như gió, xe sau đuổi theo không kịp mà lại
bị bụi (…), xe chàng vừa tránh qua một bên thì người ngồi trên xe kia bắn một phát, cái
bánh đằng sau của xe chàng xẹp xuống, nếu chàng không kềm kịp thì đã bị lăn xuống
ruộng rồi” [36, tr.29, 293]. Rõ ràng là tình tiết này rất xa lạ với người Việt đầu thế kỷ
XX, song nó làm cho câu chuyện tăng thêm sức hấp dẫn. Hoặc tài cải dạng, hóa trang
cũng là một trong những thủ thuật giúp thám tử tiếp cận thủ phạm một cách tài tình.
Cũng giống như các thám tử phương Tây, thám tử Lê Phong thành công trong nhiều vụ
án cũng nhờ “kính đen, lông mày giả, hai bộ râu, cái khăn quàng”. Anh chiêm nghiệm:
“Ăn mặc cũng chưa đủ. Phải đổi dạng, đổi nét mặt, đổi cả tiếng nói nữa. Tôi cần phải
làm thế để cho người ta không nhận được” [63; tr. 135]. Chàng thám tử Kỳ Phát cũng
không kém: “Anh có cách cải trang rất khéo léo và rất nhanh chóng để dễ đi quan sát các
chỗ tối tăm bí hiểm ở Hà Nội, nơi có đủ các thứ tiếng sống sượng tục tĩu của đủ các hạng
người hạ lưu” [19; tr.31]. Với Hoàng Ngọc Ẩn, ngoài tư chất thông minh, tài trí, võ nghệ
siêu quần lại có tài thay đổi diện mạo đến ngay người bạn thân thiết là Đỗ Hiếu Liêm
cũng không nhận ra được.
Để trở thành thám tử, kỹ năng siêu việt trong xử lý tình huống là không thể
thiếu, song điều quan trọng nhất lại là nhân cách, lý tưởng. Nhân vật thám tử trong
truyện trinh thám Việt Nam rất giàu tình thương yêu đối với con người, nhất là các
nạn nhân của xã hội. Chính nhân cách sáng ngời này đã giúp họ có một niềm tin tuyệt
đối ở bản thân mình, giúp họ có đủ nghị lực vượt qua thử thách khi đối mặt với vụ án,
tạo cho họ một bản lĩnh vững vàng: “Mình là người chính trực, không làm hại ai,
không có gì là khuất trong lòng thế thì dù có những loài yêu quỷ hung bạo thật chăng
nữa, chúng nó đã dám làm gì được mình” [64, tr.64].
67
Xã hội Việt Nam thời trước không có nghề thám tử tư như ở phương Tây nên
phần lớn, việc hành nghề của các thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam thường
không phải là một nghề để họ kiếm sống. Do đó, họ gồm nhiều hạng người trong xã
hội, có công ăn việc làm riêng và trở thành thám tử với nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Có những thám tử ăn lương bổng nhà nước: Anbe Huỳnh (Tôi có tội); Mai Trung, Kỳ
Phương (Gói thuốc lá), Đặng Dung (Mối thù truyền nghiệp) là Thanh tra Sở Liêm
phóng, Đỗ Hiếu Liêm (Châu về hiệp phố), gia nhập ngành mật thám mong tìm dấu
vết Thanh Long để trả thù nhà. Quan Châu Nga Lộc (Vàng và máu), Quan Phủ Trang
Tử Minh (Người bán ngọc), là quan lại triều đình… Cũng có hạng người vì nghề
nghiệp, vì học thức, vì lịch duyệt, vì sở thích cá nhân mà tự nguyện tham gia điều tra
vụ án, trở thành thám tử “tài tử” do muốn đem lại chính nghĩa, công bằng cho người
bị hại. Chẳng hạn Lê Phong phóng viên, Mai Hương, Kỳ Phát, Thành Trai, Minh
Đường, Kiều Tiên, Hàng Tâm (Mảnh trăng thu), Hoàng Ngọc Ẩn, Lệ Thủy, Bách Si
Ma (Châu về hợp phố)… Thậm chí, có thám tử là kẻ cướp như Ba Lâu (Ba Lâu ròng
nghề đạo tặc), Tấn Phước (Giọt lệ má hồng), Tám Huỳnh Kỳ (Bàn tay sáu ngón),
đảng Thư Hùng kiếm trong (Khép cửa phòng thu); không chỉ thám tử “chính ngạch”
mà cả kẻ “tập” làm thám tử nữa, như trường hợp Tám Lọ (Cậu Tám Lọ), Sáu Do
Đường Gòong (Nhà sư thọt)… Có thể nói trong truyện trinh thám Việt Nam, có cả
một tập hợp rất đa dạng các kiểu thám tử khác nhau.
Nhân vật thám tử Việt Nam có những nét tính cách vừa giống, vừa khác kiểu
nhân vật thám tử Phương Tây, kể cả ngoại hình và tính cách. Người đọc không thể
nhầm lẫn thám tử “Kỳ Phát tầm người cao và gầy, vận âu phục, đội mũ dạ, khuôn mặt
sáng ngời, nhất là đôi mắt”[21, tr.105], so với chàng thám tử phương Tây, S. Holmes
vừa suy luận vụ án vừa ngậm tẩu thuốc lá. Nhà văn Phạm Cao Củng tâm sự: “về loại
truyện trinh thám, tôi học đòi cách thức của những bậc thầy Anh, Pháp, cần phải cố
làm sao cho vai chính của chuyện mình không mất tính cách Việt Nam...”[24, tr.123].
Các nhân vật thám tử Việt Nam hành nghề thám tử một cách tự phát, hầu hết họ đều
không có quan hệ gì với công việc hành pháp trước khi trở thành thám tử. Họ đến với
“nghề thám tử” như một sở thích, một sự đam mê, do yêu cầu của công việc, hoặc
ngẫu nhiên. Nhân vật Kỳ Phát, trở thành thám tử rất tình cờ; ban đầu chỉ vì “ham mê
đọc truyện trinh thám”. Sở thích này (đọc sách) dẫn lối tới sở thích kia (điều tra phá
68
án): “tôi đã học đủ nghề để phòng khi dùng đến, nhưng tôi vẫn làm việc ở một ấp trên
trung du, vừa trông coi đồn điền, vừa dạy học thêm, cốt để tự nuôi sống, còn nghề
trinh thám kia, thì khi nào có dịp tôi mới đem ra mà áp dụng, coi như là một trò giải
trí mà thôi... vì vậy tôi chẳng phải là một tay trinh thám nhà nghề” [21; tr.21-22]. Kỳ
Phát thường cộng tác với bạn là thanh tra Trúc Lâm, thuộc Sở Liêm phóng (Mật
thám) Hà Nội, và tất cả các vụ án do Kỳ Phát tìm ra thủ phạm đều đem tặng cho Trúc
Lâm lãnh công và lập danh. Phóng viên Lê Phong, sau khi khám phá ra bí mật vụ án
“thì chỉ có việc mau mau về nhà báo cắm đầu mà viết bài tường thuật và ... đợi đến
một vụ án mạng ly kỳ hơn” [64; tr.106]; Thành Trai “một cử nhân Luật, từng du học
ở Pháp”, điều tra vụ án nhằm tìm cách minh oan em gái, con chú chàng là Kiều Tiên;
Tám Lọ giúp Minh Đường tìm cách minh oan cho Kiều Tiên bị mắc tiếng oan là lấy
trộm hai chiếc nhẫn của mẹ Minh Đường; Hoàng Ngọc Ẩn, Đỗ Hiếu Liêm (trong
Châu về hiệp phố) “vốn là học sanh y viện cao đẳng tại Hà Nội nhân dịp bãi trường,
mới sang tàu về đến Sài Gòn trong ít bữa” [77, tr.493], vì cảm mến nghĩa tình mà ra
tay giúp đỡ nàng Lệ Thủy và những kẻ thế cô; Quan Châu Nga Lộc, Quan Phủ Trang
Tư Minh vì địa vị, trách nhiệm nên tham gia làm sáng tỏ vụ án…
Điều đáng quý ở các nhân vật thám tử Việt Nam là bất vụ lợi. Dường như đó là
một nguyên tắc ứng xử bất thành văn mà tất cả thám tử đều tuân thủ rất nghiêm ngặt.
Thám tử “không phải là một trinh thám nhà nghề nên không hề có lấy của ai một xu
nhỏ…, chúng tôi làm việc gì cũng nghĩ và tự hỏi liệu cái khó nhọc của mình có giúp
cho ai được gì không, hay là để một kẻ không đáng hưởng …” [20; tr.50]. Đây là một
nét đặc trưng trong việc xây dựng kiểu nhân vật thám tử Việt Nam. Nó không hoàn
toàn theo khuôn mẫu như trong truyện trinh thám cổ điển phương Tây. Bởi lẽ, ở
Phương Tây, nghề thám tử hình thành và phát triển mạnh trong lòng xã hội tư bản do
nhu cầu thực tế; khi đời sống ở các thành thị phát triển, sẽ kéo theo nhiều mặt trái của
nó, nghề thám tử trở nên cần thiết và được trả công. Nhưng đối với xã hội Việt Nam
đầu thế kỷ XX, thực tế nghề thám tử chưa được xã hội công nhận, nhân vật thám tử
có chăng chỉ là ước mơ của một bộ phận thị dân.
3.1.1.2. Thám tử tiếp cận vụ án do tình cờ, ngẫu nhiên
Nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam khi tiếp cận vụ án, phần
nhiều thường do tình cờ hoặc ngẫu nhiên. Trong Vàng và máu, một buổi tối, tên đầy
69
tớ vào thưa với quan Châu Nga Lộc “có một thằng trông mặt sợ hãi lắm, ở đâu hồng
hộc chạy vào đây ... bây giờ nó không chịu ra nữa..., nó ở hang Văn Dú ...” [67;
tr.08], và sự gặp gỡ ngẫu nhiên với thằng Thổ đã khiến quan Châu khám phá ra kho
báu ở hang Văn Dú. Trong Một chuyện ghê gớm, nhân vật “tôi’ trong một đêm đi săn
giữa rừng sâu, tình cờ phát hiện ra một căn hầm dưới ngôi miếu cổ, từ đó anh điều tra
ra tội ác của bọn quan lại Tàu ngày trước.
Trong Mai Hương - Lê Phong, việc phát hiện ra cái chết của bác sĩ Đoàn trong
ngày lễ ra trường giúp Lê Phong tình cờ khám phá ra vụ án bọn Lương Hữu muốn
chiếm đoạt pho sách có chứa địa đồ kho báu ở vùng Lạng Sơn đang nằm trong tay
bác sĩ Đoàn. Phóng viên Lê Phong đến tòa soạn báo Thời Thế để nộp bài, tình cờ biết
được ông Chủ nhiệm “vừa soạn lại số tiền ba trăm bạc để trên bàn, sực nhớ một việc
cần, ông sang phòng bên, lúc trở lại thì thấy mất hẳn một tờ giấy hai chục” [63; tr.22].
Bằng quan sát hiện trường, Lê Phong đã chỉ ra thủ phạm trước sự kinh ngạc của mọi
người. Lê Phong nhận nhiệm vụ tòa soạn phân công nhằm mục đích lôi kéo khán giả
cho tờ báo của mình. Sau mười lăm ngày lẫn lút ở rừng sâu theo dõi bọn buôn súng
lậu, vừa về đến Bắc Giang thì được tin “một cái án mạng kỳ quái mới xảy ra hồi
mười một giờ đêm hôm qua” [63; tr.38]. Rồi khi anh đang thả bộ trên phố đêm, bỗng
dưng trông thấy một chiếc xe hơi dừng lại ở Sở cảnh sát; một người đàn ông đi vào
bên trong và đang trình bày việc một người vừa bị giết chết. Lê Phong “lẳng lặng
theo người ấy vào bên trong”, rồi “bám” xe ô tô của họ đến hiện trường để xem xét
vụ án. Anh chia xẻ “Tôi vì sự tình cờ, trong một đêm tẻ ngắt, ở một tỉnh tẻ ngắt như
Phủ - Lạng - Thương này, bỗng dưng gặp ngay một việc khác thường, gặp một cái án
mạng mà tôi gọi là cái may ghê gớm của tôi” [63; tr.53]. Với phương pháp điều tra
riêng của mình, Lê Phong đã chỉ ra thủ phạm vụ án là người đàn ông đã đến báo Sở
cảnh sát.
Trong Mảnh trăng thu, Thành Trai “tình cờ nhìn thấy người đàn bà trùm khăn đen,
mặc quần áo đen vịn tay trên lưng ghế sau” [36; tr.12]; vài hôm sau anh lại tình cờ nhìn
thấy “người đàn bà ấy” trong nhà hàng Lương Hữu. Anh gặp gỡ người đàn bà một cách
“ngẫu nhiên”, và biết được đó là Kiều Tiên, con chú ruột của anh. Thành Trai dấn thân vào
việc điều tra vụ án Kiều Tiên giết chồng. Cuối cùng đã minh oan cho cô em, vạch rõ thủ
đoạn của Nguyễn Viết Sung. Hoặc trường hợp Hoàng Ngọc Ẩn (Châu về hiệp phố) cùng
70
bạn đi xem chiếu bóng, tình cờ Lệ Thủy bị ngất, anh ra tay cứu giúp và câu chuyện lại tiếp
nối với nhiều tình tiết ngẫu nhiên về sự gặp gỡ và chia ly…
Đặc biệt, trong các truyện của Phạm Cao Củng, yếu tố tình cờ, ngẫu nhiên được tác
giả sắp xếp một cách rất khéo léo. Kỳ Phát, trong một đêm trời mưa không ngủ được,
đang nằm đọc truyện “bỗng ngạc nhiên và kinh hãi vì ở nhà dưới có tiếng thì thầm to
nhỏ”. Từ đó, chàng theo dõi và khám phá ra người Dì của mình đã đưa tình nhân về nhà
sau khi cha chàng vừa mới qua đời. Và Kỳ Phát “đột nhiên hôm nay, nhận được thư,
chiếc thư lạ không đề người gởi” [20; tr.64]. Theo lời dặn trong bức thư, anh khăn gói
lên Lào Cai, đi tàu xuôi về Phú Thọ, Việt Trì. Tức giận vì bị người đàn bà buôn thuốc
phiện gởi thư để dàn cảnh qua mặt nhà đoan, Kỳ Phát quyết truy đuổi người đàn bà, cuối
cùng chàng nhận ra người này khi đang hấp hối là Liên (mẹ ruột anh) và Ba Lâm (bố
anh) là tay trùm buôn lậu, hai người bặt tin đã hơn hai mươi năm.
Trong Kho tàng họ Đặng, Kỳ Phát không may bị thủng ruột đạp xe đêm 30 Tết
khi đi về nhà người bạn ở Nam Định. Anh xin vào tá túc qua đêm ở nhà cụ Lượng,
tình cờ anh phát hiện ra chiếc đĩa cổ. Từ đó anh giải mã bí mật bốn chiếc đĩa cổ và
giúp cụ Lượng tìm ra kho báu của dòng họ. Trong Nhà sư thọt, một lần đến thăm bạn
nhưng bạn lại vắng nhà , Kỳ Phát ngủ lại trong phòng bạn một mình, đêm khuya
thanh vắng, một tên trộm lẻn vào phòng bắt trói Kỳ Phát nhưng chàng đã tự giải
thoát. Không những thế, anh còn bắt được tên trộm Sáu Do Đường Goòng. Tình cờ
khi xem xét chiếc can và chiếc mũ do Sáu Do Đường Goòng vừa lấy trộm được, Kỳ
Phát thấy trong lần “cầu da” có mảnh giấy có chứa một điều gì bí mật, chính nhờ nội
dung mảnh giấy này, anh đã điều tra ra vụ án đầy bí ẩn trong mối tình Bích Loan và
nhà sư thọt.
Trong các tác phẩm của Bùi Huy Phồn, yếu tố ngẫu nhiên, tình cờ thể hiện rõ
trong cách điều tra, phá án của thanh tra Sở Liêm phóng Đặng Dung, nhân vật trong
truyện thường là sản phẩm của trí tưởng tượng hoang đường, đôi lúc đơn giản, vô lý
(Trần Thạch Minh cải trang thành Bùi Quốc Bảo, và giả đóng vai bác sĩ để giết Kiều
Oanh, Mẹ Quốc bảo cải trang thành mụ già hành khất để nhắc nhở Minh nhớ mối thù
xưa, Bích Liên một nữ thám tử tài trí mưu lược đã dứt bỏ cõi trần, lánh nơi cửa Phật).
Rõ ràng các yếu tố tình cờ, ngẫu nhiên đã trở thành một môtíp phổ biến trong
cốt truyện, gắn với quá trình tiếp cận vụ án của các thám tử. Đây là một yếu tố có vai
71
trò quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình điều tra, phá án của các thám tử. Đối với
thám tử chuyên nghiệp, yếu tố ngẫu nhiên không phải không xảy đến, song chắc chắn
là cá biệt, hiếm hoi. Trái lại, đối với các thám tử “không chuyên”, theo lối tài tử,
nghĩa hiệp như trong truyện trinh thám Việt Nam thì lại được tác giả sử dụng thường
xuyên.
3.1.1.3. Thám tử kết hợp tư duy lôgic với mưu mẹo để giải mã mọi bí ẩn
Tư duy logic là một trong những đặc trưng cơ bản của truyện trinh thám. Yếu tố
làm nên thành công nhất của nhân vật thám tử là tài quan sát và suy luận. Đây là một
yêu cầu có tính nghiêm ngặt của thể loại, bởi truyện trinh thám cổ điển là thể loại giải
mã “câu đố” bằng trí tuệ; người đọc và tác giả dựa trên cơ sở quan sát hiện trường để
cùng truy tìm thủ phạm. Nhân vật thám tử vì vậy, phải có tài suy luận dựa trên tư duy
logic và óc tưởng tượng để thuyết phục người đọc.
Trong các truyện trinh thám Việt Nam, hình tượng nhân vật thám tử cũng được
xây dựng trên nguyên tắc chung này. Để có thể suy đoán, tư duy, trước hết nhân vật
phải biết cách quan sát, tìm hiểu, thu nhận thông tin. Chàng phóng viên Lê Phong của
Thế Lữ bộc bạch: “Anh chỉ cốt lợi dụng cái thì giờ ấy để quan sát mọi người. Đó là
một mưu kế đắc dụng cho anh nhiều lần. Lê Phong tự đặt cho mình cái tên giản dị là
“Người Ngoài Phố”..., anh lang thang ở các vỉa hè Hà Nội, hoặc ngồi trong tòa án,
hoặc đọc những tờ trình ở vài sở cảnh sát, hoặc ngồi ăn lạc rang hay dí dỏm hỏi
chuyện mấy đứa trẻ bán báo bên hồ Gươm. Quyển sổ tay nhét trong túi rút ra luôn, và
cái bút chì không mấy khi được nghỉ việc” [64, tr.6;30].
Từ những gì thu nhận được qua tìm hiểu, quan sát, thám tử bắt đầu tư duy về
vấn đề mình quan tâm. Nhân vật Kỳ Phát của Phạm Cao Củng rất có tài trong việc
suy luận, rất sắc sảo trong phân tích, đánh giá tình hình. Trong quá trình phá án, khi
có mặt tại hiện trường, cũng như khi ở một mình, trong đầu anh luôn đặt ra những
luận lý. Những người bình thường không hiểu vì sao Kỳ Phát lại có năng lực biết
trước được rất nhiều vấn đề; thậm chí có người cho rằng anh là thầy bói toán. Thực
ra, tất cả đều do suy xét, phán đoán dựa trên tư duy lo gic.
Hầu hết các suy luận của nhân vật thám tử đều dựa trên các chứng cứ khoa học
và thực tiễn, kết hợp với trình độ hiểu biết sâu rộng trong tất cả các lãnh vực đời
sống. Chẳng hạn, nhân vật quan Châu Nga Lộc đã chinh phục hang thần Văn Dú
72
bằng suy luận khoa học, từ đó hóa giải lời nguyền, bùa phép bí mật hại người của bọn
người Tàu thâm hiểm. Ông lý giải hiện tượng bí hiểm từ những xác chết khô cứng
bên trong hang núi Văn Dú: “Chẳng qua chỉ là cái kì mưu của viên quan Tầu nhà
Minh chứ không có thần thánh gì hết (...) Nhựa cây này ngâm tên thì tên hóa độc, bắn
không cứ vào chỗ hiểm, chỉ cần làm trầy da rướm máu cũng đủ làm cho kẻ bị thương
chết không thể cứu được” [67, tr.32].
Thám tử phải là người nhạy cảm, có óc phán đoán sắc bén, đặc biệt, vượt lên
trên cái bình thường. Có như thế anh ta mới nhận ra được những gì người thường
không thấy, dù cũng nhìn ngắm, quan sát. Thám tử Thành Trai trong Mảnh trăng thu
của Bửu Đình, khi ngắm nhìn một người con gái có khuôn mặt đa sầu đa cảm “đẹp
một cách mơ màng không trông thấy rõ”, Thành Trai nghĩ thầm: “Người đàn bà này
phải có một nổi niềm riêng mà chưa ai thấu rõ … Ta phải dò xét xem sao …, phải
khám phá cho ra sự bí mật này” [36, tr.26]. Khi theo dõi thủ phạm, thấy có sự khác lạ
trong lối sinh hoạt, Thành Trai suy ngẫm: “Con Liễu ngày nay nghiễm nhiên là một
bà chủ nhà ngủ, còn thằng Lực chẳng qua là một anh sốp phơ, sao lại dám trèo cao
như thế?. Nếu nó dám ghẹo con Liễu thì tức là nó đã sắm bộ hậu cũng oai lắm …, mà
nếu thiệt là sốp phơ thì tiền đâu mà oai? [36, tr.246 ].
Nhân vật Lê Phong của Thế Lữ quan sát đối tượng và đưa ra những suy xét về
hung thủ rất sắc sảo: “Mọi ngày Thạc bẻm mép và to tiếng thì lúc ngồi trong nhà
chiếu bóng, anh ta lại im lặng và cả trong những đoạn phim vui nhất anh ta cũng ít
cười, thông thường Thạc không bao giờ xức nước hoa mà tối hôm qua, người anh ta
thơm phức, rất ghét ca-vat sặc sở nhưng tối hôm qua đeo một cái ca-vat đỏ chói ...”
[64, tr.145].
Có một điều cần lưu ý là những suy luận của nhân vật thám tử trong truyện trinh
thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, dù là diễn dịch hay quy nạp vẫn rất “hiển nhiên”
và “đơn giản”, phù hợp với nhận thức của người Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy nhiên,
đối với nhân vật thám tử, chỉ tư duy logic, suy đoán dựa trên quy luật cuộc sống
không thôi, dù sắc sảo đến mấy vẫn chưa đủ để phá án. Bên cạnh suy lý, còn phải biết
kết hợp với trí tưởng tượng và cả mưu mẹo trong quá trình điều tra. Đây cũng chính
là một đặc điểm của nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam. Dùng mưu
trí, mẹo mực để giải quyết các tình huống hàng ngày là một lối ứng xử mang đậm dấu
73
ấn tính cách của người Việt Nam; vừa thực tế, thực dụng, tháo vát đồng thời cũng có
gì đó mang tính chất láu lỉnh, tinh khôn. Chẳng hạn, để kiểm tra sự suy đoán của
mình, Lê Phong dùng mưu mẹo bằng cách thử ngược bài tính: “Tôi nghĩ ra một mưu
mẹo nhỏ: Anh trả tôi gói thuốc lá chứ! Gói thuốc mà anh mượn lúc xem xi-nê kia mà.
Thạc chợt nhớ ra, lấy gói thuốc trả tôi”. Thật ra, anh có cho Thạc mượn gói thuốc lá
nào đâu, “Và đó cũng là cái mưu mẹo láu lĩnh tôi thử lại lần thứ hai Mai Hương ạ”
[64; tr.128]. Trong Những nét chữ, Lê Phong trả lời thư Đào Thị Kiều Anh: “Thưa ...
ông. Tôi gọi ông là ông vì biết ông không phải là người con gái...., và hơn thế nữa
ông lại viết thư cho tôi bằng thứ bút máy ngòi xấu và cong (...), lúc gần viết xong thì
trời mưa, một cơn gió thổi vào làm tờ giấy chực bay, ông phải vội lấy tay đè lên – vì
ông ngồi viết gần cửa sổ (…) Cái đó có phải là thần thánh chi đâu, chỉ cần có tài quan
sát như tôi là đủ” [66, tr.112-113].
Rõ ràng là chỉ với tài suy luận, quan sát hiện trường thôi chưa chắc đã xử lý
được vấn đề; đôi khi nhờ mưu mẹo, xảo thuật cá nhân, thám tử dễ dàng qua mặt hung
thủ. Thậm chí nhiều lúc thám tử phải đặt mình vào vị trí kẻ phạm tội để đọc suy luận
của chúng. Thám tử Lê Phong muốn giấu những giấy má quan trọng không bị lọt vào
tay bọn Tam Sơn quỷ quyệt, đã bảo thằng Biên “lấy những tờ giấy trong hộp bỏ vào
những phong bì dùng rồi”, và “Không cất đâu hết. Để nó cả trên bàn nhà ngoài”,
“nhét nó vào ngăn để thư hoặc ngăn kéo nhưng không cần khóa, bởi “Những chỗ hở
như thế là chỗ giấu kín nhất đó. Vì đó là những chỗ chúng nó không thèm để tâm đến
nhất.” [64, tr.22,23,55]. Lê Phong tự nhủ: “Con nhà làm báo ít ra cũng phải có một
nghìn và một mưu kế trong túi, hay nói một cách giản dị hơn, ít ra cũng phải tinh quái
hơn ma” [63,tr.53-55]. Nhờ đó, anh khám phá vụ án giết người một cách tinh vi, nạn
nhân không phải bị bọn buôn lậu trả thù mà là chết vì sự ghen tuông của Lường –
Duỳn. Quan Châu Nga Lộc cũng dùng quyền lực và mưu kế, buộc người Thổ Kao
Lâm không thể không khai ra bí mật việc anh ta cùng tên người Thổ Nùng Khai đến
hang Văn Dú.
Tuy đã có nhiều cố gắng, song năng lực suy luận và tư duy logic vẫn là một hạn
chế của các nhà văn trinh thám Việt Nam. Những nhân vật thám tử trong truyện mang
màu sắc trinh thám, phần lớn ít có những suy luận phán đoán khoa học mang tính trí
tuệ, bởi chủ yếu họ là những người anh hùng hành động vì nghĩa hiệp, và trong
74
những vụ án họ điều tra, đa phần liên quan ít nhiều đến dòng họ, bè bạn, người
yêu…. Động cơ phá án của các thám tử này nặng về tình cảm, tò mò hơn là niềm đam
mê của một thám tử đích thực. Nghiệp vụ phá án của họ cũng xuất phát từ những suy
luận do tưởng tượng, nhiều cảm tính, thiếu cơ sở luận chứng khoa học.
Kỹ thuật phá án trong truyện trinh thám là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên,
phương pháp giải mã các bí mật thông qua những bức thư, những nét chữ là một kiểu
“trò chơi trí tuệ” mang nặng tính cách của người Việt Nam nên có lẽ chỉ hấp dẫn đối
với độc giả người Việt Nam. Phần nhiều, việc tìm ra bí mật vụ án trong truyện của
Thế Lữ và một vài truyện của Phạm Cao Củng là nhờ cách giải mã các bí mật thông
qua các bài thơ, nét chữ. Việc giải mã những nét chữ và sắp xếp ý nghĩa các câu thơ
Việt Nam là một trò chơi, là “mẹo” phổ biến của người Việt trong thời kỳ chữ Quốc
ngữ đang hình thành và phát triển. Chẳng hạn, Lê Phong (Những nét chữ) suy luận sự
thật Tuyết Mai tự tử chết vì sợ Hội kín trả thù khi đọc bài thơ Chơi núi cảm tác của
Đỗ Lăng đăng trên nhật báo. Sắp xếp các từ ngữ trong bài thơ, Tuyết Mai tự hiểu
“Đảng khép Tuyết Mai tội bội phản”. Những chữ cái X.A.E.X.I.G mà Lê Phong
nghiệm ra đó là những con số của dãy số trúng độc đắc trong tờ vé số của Đường “đó
là những chữ số dịch ra chữ cái A là 1, B là 2, C là v.v..., theo thứ tự tức là 015097,
con số trúng độc đắc trong kỳ xổ số” [64, tr.145]. Đây cũng chính là nguyên nhân mà
Thạc đã giết Đường. Câu chuyện về cái chết bí ẩn bác sĩ Doãn kết thúc khi Lê Phong
tìm ra nguyên nhân cái chết: “Đem ghép những chữ rải rác trong các trang của năm
pho sách lại chúng tạo thành một bản di chúc dặn chỗ tìm đến một kho vàng bạc,
châu báu của người Tàu.” [68, tr.160]. Hoặc nhân vật Kỳ Phát giải mã bí mật kho báu
của dòng họ Đặng bằng cách sắp xếp những câu thơ trên bốn chiếc đĩa cổ; Thành Trai
yêu cầu Tòa án đối chiếu chữ trên giấy với chữ trên máy chữ…) để tìm ra thủ phạm.
Chính phương pháp giải mã vụ án qua những bức thư, nét chữ đã góp phần “Việt
hóa” nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam.
Theo lẽ thường, sự trừng phạt dành cho kẻ phạm tội được thực hiện dựa trên cơ
sở luật pháp. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong truyện trinh thám Việt Nam, cái gọi
là luật pháp không phải là những căn cứ của một bộ luật nào đó. Về thực chất, đây là
một quan niệm về lẽ công bằng; một thứ “luật tục”, vốn đã ăn sâu trong tiềm thức
người Việt Nam thì đúng hơn. Vì thế mà không ít nhân vật thám tử hành xử chủ yếu
75
theo “lệ” chứ không theo luật. Trong truyện của Phạm Cao Củng, tác giả để cho thám
tử Kỳ Phát hành xử một cách khá ngộ nghĩnh. Anh không quan tâm đến pháp luật,
bởi việc thực thi pháp luật đã có viên thanh tra Trúc Lâm của Sở Liêm phóng đảm
trách, còn như “Việc làm tội thủ phạm chẳng phải công việc của tôi”. Khi đã khám
phá ra vụ án, anh để cho kẻ phạm tội “tự xử”, “chịu tội ở đâu tùy ý”. Đối với những
tên tội phạm đã nhận rõ tội ác của mình và mong muốn hối cải, Kỳ Phát thường mở
đường, tạo điều kiện cho họ hoàn lương. Đây rõ ràng là cách ứng xử của bậc nghĩa
hiệp; nó xa lạ với nhiệm vụ của một thám tử thực thụ. Với nhân vật Lê Phong của
Thế Lữ cũng vậy; khi đã đưa ra đủ chứng cứ của kẻ có tội “Hắn bị bắt hay không thì
tùy thuộc vào cuộc điều tra thứ hai của nhà chuyên trách ... Tôi đã cho họ biết cả sự
thực” [64, tr.106]. Một kẻ gian ác như Nguyễn Viết Sung, khi những mưu mô xảo
quyệt bị bại lộ sau hai mươi năm, chính lòng nhân hậu mà những người bị hại “đã
buộc Y phải bỏ hết cả tiền của và cơ nghiệp lại cho con trai là Nguyễn Viết Chi, mà
đi xứ khác ...” [36; tr.588]. Đó là những hành động được gọi là “tự xử”, “tự phục
thiện”. Đây phải chăng là một nét đẹp nhân văn truyền thống trong văn hóa của người
Việt, theo triết lý “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”; nó hoàn toàn khác
với cách xử lý tội phạm trong truyện trinh thám phương Tây: kẻ gây oán phải bị sự
trừng trị của pháp luật.
Nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam là những con người có nhân
phẩm, tính cách đáng được trân trọng, nhưng tác giả không xây dựng họ hoàn thiện
như những thánh nhân. Trái lại, họ có dáng dấp của những con người bình thường,
với những tính cách đa diện, phức tạp và cả những khiếm khuyết. Nhìn chung, các
nhà văn trinh thám thường đặt nhiệm vụ xây dựng tính cách nhân vật thấp hơn nhiều
so với nhiệm vụ tường thuật sự kiện. Đây cũng là lý do khiến cho tính cách nhân vật
chưa sắc nét, nhiều khi đơn giản. Môi trường hoạt động, quan hệ giữa các nhân vật
thường chỉ bó hẹp chưa trong phạm vi các vụ án gia đình.
Những ưu điểm cùng hạn chế của hình tượng thám tử trong truyện trinh thám
Việt Nam đương nhiên là phụ thuộc vào năng lực tác giả, song cũng còn do ảnh
hưởng của hoàn cảnh lịch sử, điều kiện đời sống thực tế. Trong hoàn cảnh đất nước
đang chịu sự thống trị của thực dân Pháp, khi mà công lý - luật pháp đang bị đồng
tiền và các thế lực tội phạm bẻ cong, nhân vật thám tử, trên một mức độ nhất định, trở
76
thành nhân vật lý tưởng của thời đại. Cách hành xử “vong thân vị nghĩa”, sẵn sàng
thay mặt công lý và lẽ phải để trừ gian diệt bạo của nhân vật thám tử rõ ràng là hình
ảnh mang tính lý tưởng của cộng đồng. Công chúng tìm thấy trong tác phẩm trinh
thám mẫu hình con người trượng nghĩa, có thể đáp ứng được nỗi khát khao được
sống trong một xã hội trật tự, công bằng của họ.
3.1.2. Nhân vật tội phạm
Trong văn học, chủ đề tội ác của con người vốn được thể hiện từ xa xưa. Đó
cũng là một hiện tượng thực tế được các tác giả mô tả, trình bày song song với các
biểu hiện khác của đời sống. Tuy nhiên, đối với đề tài này, mỗi thể loại văn học lại có
cách tiếp cận, khai thác khác nhau. Trong truyện trinh thám, miêu tả cái ác không
nhằm mục đích “phản ánh”; nó là “đối tượng” được trình bày để phục vụ cho việc
điều tra của thám tử. Vì thế, trong cấu trúc của tác phẩm trinh thám, đây là điểm nút
làm khởi động cả guồng máy cốt truyện. Cũng do vậy mà trong thế giới nhân vật
truyện trinh thám, kẻ gây ra tội ác là nhân vật không thể thiếu. Có thể nói rằng, truyện
trinh thám thực chất là quá trình phát hiện nhân vật bí ẩn này. Khi thám tử tìm ra thủ
phạm (kẻ thủ ác giấu mặt) cũng có nghĩa là câu chuyện (buộc) phải chấm dứt, chẳng
có lý do gì để kéo dài nữa.
Theo mô hình chung của truyện trinh thám, mọi nhân vật tội phạm (nhân vật
phản diện) đều có những điểm giống nhau: âm mưu thâm độc được tính toán một
cách chi li hòng che dấu tội lỗi; hành động rất tàn bạo, coi trọng tiền của hơn nhân
phẩm, tính mạng con người, sẵn sàng ra tay giết chết những ai biết được thông tin về
tội ác của chúng. Chúng còn có sức mạnh về tiền bạc và địa vị để thực hiện hành vi
phạm tội; luôn chuẩn bị sẵn những chứng cứ ngoại phạm để qua mặt nhà điều tra…
Nhân vật tội phạm trong truyện trinh thám Việt Nam, bên cạnh điểm chung của
thể loại, lại có những nét riêng. Đây là kết quả của việc mô phỏng lẫn chiêm nghiệm
thực tế. Nhân vật tội phạm ở đây phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh sống của người
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nó vừa có dáng dấp của những kẻ phạm pháp Tây Âu
nhưng đồng thời, cũng có những nét phá phách, chịu ảnh hưởng của môtip nhân vật
phản diện trong văn học truyền thống.
Kiểu nhân vật này được các nhà văn trinh thám mô tả từ nhiều góc nhìn khác nhau.
Chúng gồm nhiều hạng người, đủ các thành phần trong xã hội, đủ các kiểu mưu mô tàn
77
ác và thâm hiểm. Đó có thể là kẻ xuất thân trí thức như nhân vật Tâm (Nhà sư thọt), Trần
Thạch Minh (Mối thù truyền nghiệp), Lương Hữu, đảng Tam Sơn (Mai Hương -Lê
Phong); quan lại phong kiến như hương hào Nguyễn Viết Sung (Mảnh trăng thu), quan
Đô đốc Hồ Quốc Thanh (Người bán ngọc); người thuộc các băng đảng như Hội Thất
viên (Đám cưới Kỳ Phát), dân buôn lậu kiêm lưu manh như Lường – Duỳn (Lê Phong
phóng viên)… Hoặc đơn giản, chỉ là những kẻ tham lam, tối mắt vì tiền (Lão quản gia
Hai Tòng trong Người một mắt, gã lái xe cũ của cụ Tham trong Lê Phong làm thơ, anh
Cai trong Đôi hoa tai bà Chúa…); kẻ đa tình như Đỗ Lăng trong Những nét chữ, Liên
Hương / Xê Xinh Nguyệt trong Tôi có tội, Mộng Ngọc trong Buổi diễn tất niên của
người hổ, Hàn Thiết trong Quả báo, Cô Nhung trong Bóng người áo tím, Dì ghẻ Kỳ
Phát trong Chiếc tất nhuộm bùn…); đến những ông chủ giàu có (Phan Kỳ Hổ trong Châu
về hiệp phố)….. Tất cả đã góp mặt để làm nên một “cõi nhân gian” méo mó, tạp nham.
Nhân vật tội phạm trong truyện trinh thám Việt Nam không chỉ đa dạng về diện mạo,
gốc tích mà kiểu cách phạm tội cũng theo một lối riêng, không giống với tội phạm trong
các truyện trinh thám phương Tây. Kiểu nhân vật tội phạm được các tác giả mô tả nhiều
nhất là kẻ sát nhân cướp của và sát nhân vì tình.
3.1.2.1. Tội phạm giết người cướp của
Thực ra việc phân chia các kiểu nhân vật thủ ác chỉ mang tính chất tương đối.
Bởi vì bản chất của tội phạm là như nhau, đặc biệt là tội phạm giết người, dù là vì
động cơ gì. Hơn nữa, đặc trưng tội phạm là lẩn trốn và che dấu hoặc ngụy tạo, khiến
cho việc phân biệt những người vô tội và kẻ phạm tội rất khó khăn. Đó là điểm chung
cố hữu của giới tội phạm mọi thời, mọi nơi. Tuy nhiên ở luận án này, để thuận lợi
trong việc xem xét cách thức xây dựng nhân vật phản diện của truyện trinh thám Việt
Nam, chúng tôi tạm chia như vậy.
Thông thường, truyện trinh thám mở đầu bằng một vụ án giết người đầy bí ẩn
và từ đó thám tử vào cuộc để điều tra tội phạm. Từ đây, chân dung kẻ thủ ác được tác
giả bắt đầu phác thảo và hoàn thiện dần. Trong truyện trinh thám Việt Nam, kẻ gây ra
tội ác đáng sợ này mang nhiều khuôn mặt khác nhau.
Đáng ghê tởm trước nhất là kẻ gây tội ác giết người, chiếm đoạt tài sản mà kẻ
thủ ác lại chính là những kẻ mang danh trí thức. Kẻ sát nhân này đáng sợ nhất bởi
mức độ tinh vi và sự chai lì về nhân cách. Lương Hữu, một trí thức Tây học (Mai
78
Hương - Lê Phong) tuyên bố: “Giết người, ăn cướp cũng là nghệ thuật chứ sao?…
Nếu không có những phương pháp nghệ thuật tuyệt xảo thì khi nào việc này nhanh
chóng được đến thế?” [68; tr.196]. Một khi đã xem giết người là một nghệ thuật, hắn
“khổ tâm lắm”, nhưng không phải do lương tâm dằn vặt, mà… để nghiên cứu ra một
công cụ giết người rất hiện đại: “Một vật rất nhỏ mọn, không có đáng chi hết hay chỉ
có dáng hiền lành của một cái máy ảnh thôi (…), ấy thế mà chỉ thoáng một cái, một
người chết ngay tại trận, chết một cách huyền bí lặng lẽ, không ai ngờ vì không ai
hiểu, cả đến những tay thành thạo của Sở Liêm phóng cũng vậy …” [68; tr.197]. Bác
sĩ Trần Thế Doãn, một niềm tự hào của ngành y học Việt Nam là nạn nhân của công
trình văn minh ấy. Lý do chỉ vì ông giữ năm pho sách cổ chứa đựng thông tin, địa chỉ
một kho báu: “Vụ ám sát bác sĩ Doãn tỏ ra rằng, nghệ thuật giết người ở đây thực đã
tiến hành nhanh hơn cả mọi khoa học khác. Bọn hung thủ ra chiều không cần gì pháp
luật, không sợ gì các nhà chuyên trách (...) rõ rệt rằng chúng coi thường cả mọi cách
đề phòng” [68; tr.59].
Một nhân vật khác của Phạm Cao Củng là Tâm (Nhà sư thọt), vốn là một kỹ sư
giàu có, đã thành kẻ sát nhân đáng ghê tởm. Tâm âm mưu giết bố vợ bằng cách cố
tình đẩy ông Hàn Tú xuống giếng sau nhà để mong chiếm đoạt gia tài của bố vợ.
Nhân vật Hương sơ Nguyễn Viết Sung (Mảnh trăng thu) phạm tội ác bắt cóc,
đánh tráo trẻ con vào các nhà giàu để mong nhờ cậy về sau. Hắn dự định sẽ hoàn
thành âm mưu trong vòng hai mươi năm. Đầu tiên, hắn ta đánh tráo con gái của mình
(mới ba ngày tuổi) thay con của bà Cai. Hắn tính toán rằng gia đình bà Cai giàu có
nhất vùng, lại không có con trai, thế nào gia tài cũng thuộc về đứa con gái (thực chất
là con của Sung). Về sau, khi cô gái lớn của bà Cai lấy chồng, ngay đêm tân hôn, hắn
đã âm mưu bí mật giết hại chú rể Thuần Phong, khiến cô dâu Kiều Nga mang tiếng
hàm oan nên phải bỏ nhà chạy trốn. Hắn đã thành công khi đứa con gái bà Cai mang
tội giết chồng không thể trở về. Thế là, hắn chỉ đợi ông bà Phán qua đời thì cả cái gia
tài to lớn kia thuộc về tay con gái hắn mà cũng là của hắn. Vừa gian manh lại vừa đồi
bại: “Nó nhơn lúc đêm hôm tăm tối, dùng thuốc mê mà xông cho người đàn bà ấy mê
đi rồi nó hãm hiếp, gây họa cho cả gia đình … cả một nhà bị nhục nhã cũng trong hai
mươi năm nay đều là tại tên Nguyễn Viết Sung này cả (…). Nó thiệt là một con quỉ”
[36; tr.588-589].
79
Trong Châu về hiệp phố, nhân vật Phan Kỳ Hổ vì lòng tham mà cho đồng bọn
giết chết người bạn cùng hùn vốn làm ăn với mình để giành hết phần hùn; đồng thời
hắn còn tìm về nhà Lâm Nghĩa Sĩ để trộm các giấy tờ liên quan đến việc hùn vốn.
Việc làm bị vợ Lâm Nghĩa Sĩ phát hiện, hắn đốt nhà, giết vợ Lâm Nghĩa Sĩ, lấy hết
tiền bạc, giấy tờ. Cả một gia đình tan nát dưới tay Kỳ Hổ. Chưa dừng ở đó, Phan Kỳ
Hổ (sau đổi tên là Hồ Kỳ Phước) làm cho ông bố nuôi Lâm Hồng Sơn (con Lâm
Nghĩa Sĩ) phá sản; dùng xe hơi mưu sát hại Hồng Sơn (nhưng may mắn là chàng
thoát chết); hắn xúi Thành Mỹ đấu gươm để giết chàng … Ở truyện Châu về hiệp
phố, người đọc thích thú với các nhân vật thám tử như Hoàng Ngọc Ẩn, Hiếu Liêu,
Bách Si Ma bao nhiêu thì căm ghét những hành vi bỉ ổi, sự tráo trở, nham hiểm và
độc ác của Phan Kỳ Hổ bấy nhiêu.
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, cùng với sự lỏng lẻo của luật pháp, sự xuống
cấp của đạo lý, đã bắt đầu xuất hiện kiểu tội phạm như ở các nước phương Tây:
những thế lực ngầm trong xã hội, nhất là các băng đảng, hội kín… Những cái chết bí
ẩn không phải do bệnh tật, ma mị, trù yểm… mà do sự thanh toán, trả thù. Tuyết Mai
(Những nét chữ) vì sợ bị Đảng kín trả thù nên tự tử; Bố Thanh Ngọc (Đám cưới Kỳ
Phát), trước đây tham gia hội Thất Viên, sau đó ông ly khai, luật của Hội là những kẻ
ly khai phải bị thắt cổ bằng dãi lụa trắng. Chú và Cha của Thanh Ngọc bị buộc thắt cổ
chết. Mẹ Ngọc biết người tiếp theo sẽ là Thanh Ngọc nên mượn cớ, tổ chức đám cưới
gấp rút với Kỳ Phát để mong hóa giải tai họa cho con… Câu chuyện là lời tố cáo sâu
sắc đối với hành vi giết người của các tổ chức bí mật, họ coi thường luật pháp và có
khi còn đứng trên cả luật pháp. Trong Đòn hẹn, Thế Lữ chỉ rõ những mưu mô tàn bạo
của băng đảng Tam Sơn khi thanh toán đồng bọn, những kẻ cầm đầu thường rất tàn
bạo: “Sơn Nhị là một tay rất nguy hiểm, một trong ba tên đầu đảng Tam Sơn … xưa
nay chưa có một lực lượng gian ác nào tài khéo, khôn ngoan, sâu sắc và nguy hiểm
hơn (...). Chúng lại chỉ huy một bọn người trung thành, tận tụy, không sợ gì luật pháp
vì có một lòng tin chắc chắn ở kẻ cầm đầu” [64, tr.24].
Ngoài ra, còn có những nhân vật liều lĩnh để gây nên tội ác như Lâm Nục trong
(Vết tay trên trần), hắn nuôi dưỡng hận thù trong vòng sáu năm trời để trả thù Nùng
Cao, vì ông đã chặt mất cánh tay hắn, khi hắn vô ý làm vỡ chiếc lọ cổ. Có khi là giết
người vì sự báo thù của dòng họ “Nhát dao thứ năm trên cổ dành cho dòng họ
80
Nguyễn Thanh” [94, tr.26]. Anh Cai (Đôi hoa tai của Bà Chúa) biết ông Hợp có tài
sản lớn và làm ăn phi pháp nên vạch kế hoạch giết ông Hợp để chiếm tài sản rồi đổ
tội cho An, một chàng trai yếu bóng vía, luôn đau ốm lại mắc bịnh hoang tưởng. An
lo sợ nên nhận tội. Trong quá trình điều tra, Kỳ Phát thấy có nhiều điểm thiếu logic
và không trùng khớp, cùng với sự kêu cứu của vợ An, Kỳ Phát khám phá được bản
chất vụ án, minh oan cho An và bắt Cai đền tội. Trong Ba đốt ngón tay, kể về vụ giết
người xảy ra trong nhà ông lão bán đồ cổ, sống cô độc nhưng lắm tiền của. Hung thủ
chủ yếu muốn trộm tài sản nhưng bị ông lão phát hiện nên giết người để bịt đầu mối.
Dấu vết hiện trường là xác ông lão, vài ba vết máu trên nắp rương và một chiếc móng
tay. Hôm sau, trong nồi nước nấu phở ở quán Cao Lâu của ông chủ người Hoa, khách
hàng phát hiện có ba đốt xương lạ. Kỳ Phát khám phá ra hung thủ là anh Quắm,
người giúp việc cho quán, thường ngày anh đem cơm cho ông lão. Sau khi giết ông
lão, về chỗ làm sợ bị phát hiện nên hắn đã chặt luôn ba đốt ngón tay của ông lão vất
vào nồi phở để phi tang.
Với quan niệm “ác giả ác báo”, những kẻ thủ ác không thể nào lẩn trốn được
mãi; khi âm mưu bại lộ, tội ác bị phát hiện, chúng phải nhận lãnh hậu quả. Sự trừng
phạt dành cho kẻ thủ ác trong truyện trinh thám được coi là tất yếu, hợp quy luật. Đây
cũng là ý nghĩa giáo dục mà các tác giả truyện trinh thám muốn gởi đến người đọc.
3.1.2.2. Tội phạm giết người vì ái tình
Nghiên cứu về các nhân vật tội phạm, chúng tôi thấy trong truyện trinh thám
Việt Nam, dạng tội phạm liên quan đến đời sống tình cảm (tình yêu, sự ghen tuông,
lừa dối, ngoại tình …) được các tác giả đề cập có số lượng vượt trội hơn so với các
dạng khác. Dạng tội phạm này đặc biệt ở chỗ trong mối quan hệ với nạn nhân, đây là
kẻ gần gũi, thân thiết. Thế nhưng do mù quáng, ích kỷ, rút cuộc trở thành tội phạm.
Nhân vật Lường – Duỳn (Lê Phong phóng viên), tính toán cách giết Đào Ngung
một cách khéo léo đến nổi Sở Liêm phóng không chút nghi ngờ. Lường – Duỳn tin ở
cái mưu của mình nên không trốn tránh, đối với vợ cũng như đối với pháp luật hắn vẫn
tỏ ra tử tế như thường. Qua quan sát hiện trường và phỏng vấn nhân chứng, kết luận
của Lê Phong làm cho mọi người đều sửng sốt: “Hắn thực là có tài, có mưu trí và lần
đầu giết người đã có nghệ thuật lắm (…) Tôi thú thực rằng, phải là một người thông
minh, học thức lắm mới có những thủ đoạn như thế” [63, tr.100].
81
Với Người bán ngọc, câu chuyện trả thù của quan đô đốc Hồ Quốc Thanh thật
khủng khiếp. Vì ghen tuông, Quốc Thanh ra tay sát hại đứa đầy tớ: “chẳng để con
Đào Anh năn nỉ một lời, trăn trối nửa tiếng, bèn hươu gươm chém Đào Anh một đao
rồi đá thây văng xuống ao làm cho máu nhuộm hồ nước, thây chịu bèo sen chôn lấp”
[77; tr.552]. Rồi cũng vì căm giận người vợ phản bội, Quốc Thanh lập mưu giết vợ.
Khi không thực hiện được việc bỏ thuốc độc vào rượu, hắn lừa vợ xuống hầm lấy
rượu, thừa cơ đứng ở sau lưng nhấc ngược hai chân nàng chốc đầu vào thùng rượu:
“Hồ phu nhân thở không đặng, cùng có vùng vẫy một ít hơi chớ chẳng phải không,
nhưng bởi mái rượu thì hẹp mình lại bị nắm chặt hai chơn mà thòng đầu xuống không
thể ngóc dậy (...), giây phút Hồ phu nhân hộc máu ra của khiếu rồi vật mình mà chết”
[77; tr.571]. Tiếp đến, kẻ giết người này còn buộc Hồ Lăng (một người hầu thân cận)
phải thực hiện “khổ nhục kế” để truy tìm tông tích tình địch.
Điều ít ai ngờ là kẻ giết người trong truyện trinh thám không chỉ nam giới mà có
cả phái nữ. Trong Bóng người áo tím, kẻ thủ ác là Nhung (người áo tím). Đây là một
nữ tặc thực sự. Nhung sẵn sàng hy sinh tình yêu chân thành của Hoàn vì tiền bạc.
Chẳng những thế, Nhung còn có dã tâm giết người yêu để bịt đầu mối. Kết quả kẻ
tham lam, hiểm ác không thực hiện được âm mưu lại còn bị bắn chết. Trong Tôi có
tội của Phú Đức, Liên Hương (Xê Xinh Nguyệt) và Anh Phong Hiển yêu nhau, bị gia
đình ngăn cấm, nhưng bất chấp tất cả, hai người đến với nhau. Xê Xinh Nguyệt lại
dan díu với Phạm Linh (một người nghèo khổ được Anh Phong Hiển cưu mang),
nhưng Phạm Linh lại bỏ nàng để đi theo một người phụ nữ góa chồng, giàu có. Khi
Xê Xinh Nguyệt phát hiện, nàng bí mật đem súng tới chỗ Phạm Linh đe dọa, xô xát,
dẫn đến súng nổ, Phạm Linh bỏ mạng. Thám tử Anbe Huỳnh quả quyết tên bồi phòng
Bùi Văn Cường là hung thủ. Anh Phong Hiển đứng ra tự nhận mình đã giết Phạm
Linh để cứu Bùi Văn Cường. Phút chót Xê Xinh Nguyệt xuất hiện tại tòa khai hết
mọi tội lỗi và trút hơi thở cuối cùng vì bịnh lao.
Cô Huệ (Mảnh trăng thu), người con gái mà mọi người nghĩ rằng Minh Đường
sẽ cưới làm vợ sau này, vì ghen tuông cô ta sẵn sàng làm bất cứ điều gì đối với những
ai ngăn cản ước mơ của cô. Trong mắt mọi người: “Nó vốn là đứa rất sâu độc mà lại
muốn Minh Đường lắm, nên hễ thấy bất kỳ ai có nhan sắc mà đến đây là nó kiếm
cách làm nhục … nó khôn xảo lắm … nó càng ghen ghét ai thì lại càng làm ra cách
82
thân mật để cho người ta dễ lầm” [36, tr.117]. Không thỏa mãn thì tìm cách trả thù,
trả thù không được chỉ còn cách tự tử. Đó là con đường đi của Huệ khi đã tin tưởng
vào ái tình, nhưng may mắn kết thúc truyện cô đã tỉnh ngộ. Trong Chiếc tất nhuộm
bùn, kế mẫu của Kỳ Phát lấy bố anh để mong ông sớm qua đời rồi gom lấy tài sản
hòng trốn đi với tình nhân. Khi chồng mới mất, bà đã đưa tình nhân vào nhà để tình
tự và chuẩn bị cùng nhau cao chạy xa bay. Kỳ Phát phát hiện ra sự thật thì bị vu oan.
Ngoài nhân vật tội phạm giết người (vì mục đích chiếm đoạt tài sản, vì tình ái),
trong truyện trinh thám Việt Nam còn có những dạng tội phạm khác: do lòng tham,
do sống đua đòi… Chẳng hạn, Nguyên (Lê Phong làm thơ), một lái xe cũ của cụ
Tham, cấu kết với hai tên bịp bợm, âm mưu lừa gạt gia chủ; Lão quản gia Hai Tòng
(Người một mắt) giúp việc lâu năm cho gia đình ông Cửu Phú, khi thấy bà chủ nửa
đêm mở cửa phòng ra ngoài, hắn đã lẻn vào lấy cắp cái tráp và năm trăm đồng bạc.
Thị Lục (Mảnh trăng thu) giúp việc trong nhà Nguyệt Thanh, bày mưu giúp Thiện
Tâm chiếm đoạt thân xác cô chủ: “Bây giờ cậu nên làm liều một lần … hễ đàn bà con
gái mà chữ trinh mất rồi thì còn gì nữa, tất phải chịu nghe theo cậu … Cậu có thuốc
mê không?. Chỉ cần nhỏ vài giọt vào trong ly cà phê hay nước trà thì nàng mê liền”
[36; tr.456]; Năm Nhỏ (Ba Lâu ròng nghề đạo tặc), vì muốn có tiền để đánh bài nên
đã bán đứng chồng cho cảnh sát…
Từ những hình tượng nhân vật tội phạm trong truyện trinh thám Việt Nam,
chúng ta có thể thấy, các kiểu nhân vật tội phạm chịu ảnh hưởng văn học truyền
thống khá đậm nét, nhân vật phản diện thường được mô tả theo các công thức, các
môtip quen thuộc. Cụ thể: cái xấu, cái ác thường mang tính chung chung, không rõ
ràng; nhân vật tội phạm chủ yếu được nhà văn miêu tả thông qua các hành động một
cách bí ẩn, không đi sâu nội tâm, nhất là tính cách và diện mạo chưa được khắc họa
rõ nét, kể cả ngoại hình. Nhiều khi, tác giả lại quá nhấn mạnh các khuyết tật (chột,
thọt…) như một cách để “đánh dấu”, “nhận diện” nhân vật.
Thực ra, việc phân chia các kiểu tội phạm trong truyện trinh thám chủ yếu là để
nhận rõ các đối tượng gây nên tội ác. Trên thực tế, rất khó để có thể phân biệt một
cách rạch ròi. Nhiều khi kẻ phạm tội cũng lại là nạn nhân. Truyện trinh thám là một
dạng “câu đố” và “giải đố”, thông qua hai nhân vật, thám tử và kẻ phạm tội. Đây là
câu chuyện về sự tương tác giữa kẻ phạm tội và kẻ đi tìm sự thật. Mục đích chính ở
83
đây không phải nhằm phản ánh toàn bộ những mâu thuẫn xã hội, vì thế các yếu tố
không thuộc vào đặc trưng của thể loại đều bị lược bỏ. Thông qua hình tượng nhân
vật thám tử và tội phạm, những đặc trưng riêng của truyện trinh thám Việt Nam phần
nào được bộc lộ, nhân vật trong truyện hết sức gần gũi với độc giả. Mỗi tác phẩm là
một cuộc truy tìm nguyên căn và lý giải tội ác một cách li kỳ, hấp dẫn, phù hợp với
thị hiếu tiếp nhận của người đọc lúc bấy giờ. Các tác giả trinh thám đã dẫn dắt người
đọc đi từ sự hồi hộp này đến sự hồi hộp khác, từ sự phỏng đoán này đến sự phỏng
đoán khác, từ bất ngờ này đến bất ngờ khác đầy thú vị. Đây chính là thành công bước
đầu của những nhà văn trinh thám Việt Nam khi khai sinh một thể loại văn học mới
trong thời kỳ quá độ.
3.2. HÌNH TƯỢNG KHÔNG GIAN, THỜI GIAN
3.2.1. Hình tượng không gian
Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại, triển
khai thế giới nghệ thuật; là trường nhìn được mở ra từ một điểm nhìn. Mỗi tác phẩm
có một không gian riêng, do tác giả miêu tả (dựa trên cảm nhận, ấn tượng về không
gian thực tế) vì thế, nó mang tính ước lệ và giàu cảm xúc. Hầu hết các truyện trinh
thám Việt Nam đều sử dụng “không gian bối cảnh” như một yếu tố để làm tăng sức
hấp dẫn cho tác phẩm; trong đó nổi bật nhất là hình tượng không gian “phố thị” và
không gian “đường rừng”.
3.2.1.1. Không gian phố thị
Không gian “phố thị” thực ra chỉ là một cách nói để chỉ bối cảnh, hoàn cảnh
diễn ra câu chuyện, được nhà văn tạo ra trong tác phẩm: môi trường thành phố, đô
thị. Nó là một hình tượng được mô phỏng từ thực tế; là sự “chiếu ứng” của thế giới
thực vào trong tác phẩm văn học.
Truyện trinh thám Việt Nam ra đời trong giai đoạn giao thời, xã hội có nhiều
thay đổi lớn, truyền thống dân tộc đang bị huỷ hoại dần trước sự tấn công của lối
sống phương Tây. Đây là lúc hình thành/ phân hóa không gian sống của những tầng
lớp cư dân đa dạng hóa hơn trước. Cùng với tầng lớp địa chủ, hào phú, nông dân…
vốn dĩ ổn định qua hàng ngàn năm lịch sử, ở thành thị xuất hiện ngày càng đông đảo
tầng lớp trung lưu với những nghề nghiệp khác nhau như giới chủ, trí thức (nhà báo,
bác sĩ, luật sư, nhà giáo), tầng lớp vô sản, dân nghèo (phu xe, thợ thuyền)… Hiện
84
thực đời sống lúc này phồn tạp hơn rất nhiều so với trước đó; ý niệm về một không
gian yên ả, chung chung như trong văn học truyền thống được thay thế bằng một bức
tranh nhiều màu sắc với những mảng tối sáng đối lập nhau một cách gay gắt. Đó là
bức tranh hiện thực của chế độ phong kiến suy tàn và chế độ thực dân đang phát triển,
tất cả những mặt trái của cuộc sống xã hội hầu như đều được nhà văn mô phỏng vào
trong tác phẩm.
Trong tác phẩm trinh thám, không gian hiện thực thường xuất hiện dưới hai
dạng, hữu hình và vô hình. Không gian hữu hình là “bề nổi” của cuộc sống; nó bao
gồm những yếu tố có thể trực quan, cảm nhận trực tiếp được. Đó là không gian phố
thị với những đường nét, chiều kích, đồ vật ... Người đọc cảm nhận được không gian
phố thị với mùa thu Hà Nội đầy hương sắc qua những trang miêu tả của Thế Lữ:
“Trời lạnh nhưng nắng ráo. Ánh mặt trời buổi sáng tươi cười gội xuống những chòm
lá cây thu, tươi cười chiếu lên các mặt tường cao lộng lẫy, vuốt ve màu áo của những
cô nhan sắc đi cạnh những cậu lịch sự, và soi lấp loáng những xe hơi tối tân đang đỗ
trước Đông Dương đại học đường” [64; tr.3]. Cảnh phố thị với những đường phố sầm
uất, nhộn nhịp của Hà Nội “từ chợ Hôm đến Gô-đa, Bờ Hồ, người xuống ít mà người
lên thì nhiều …”, cùng các căn nhà kín cổng cao tường, những nhà hàng sang trọng.
Lúc về đêm, những tửu điếm đầy khói thuốc phiện, những chuyến tàu điện rì rầm và
thỉnh thoảng những chiếc xe hơi bóng loáng lướt nhanh trên đường phố làm những
anh phu xe ẩn mình bên vệ đường giật mình tỉnh giấc. Hoặc khung cảnh không gian
Nam Bộ rộng lớn, xứ Sài Gòn văn minh “Xe chạy qua Catinat, qua Norodom, lại Paul
Blanchy rồi lên thẳng Tân Định… xe quẹo qua đàng Champagne …”. Tuy nhiên,
đằng sau vẻ văn minh là một thực tế khác, những tai họa bất ngờ và nguy hiểm có thể
xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống người dân. Chìm khuất dưới bề nổi phù hoa lại
là một xã hội khác; nó chứa đựng đầy những bất ổn mà ít ai có thể đoán trước được.
Thế giới tội phạm gắn với những tệ nạn xã hội, những mánh khóe lọc lừa, những
người giàu lại muốn giàu thêm bằng những mưu mô, toan tính thâm hiểm.... Từ bắt
cóc tống tiền đến buôn bán thuốc phiện, những băng nhóm thanh toán, trả thù nhau
một cách tàn bạo để tranh giành địa bàn, mâu thuẫn trong làm ăn… Đây chính là tác
nhân đẩy nhanh sự tha hóa của giống nòi; nó tạo ra những không gian sống ngột ngạt:
85
“Những hơi thuốc phiện nồng nặc đưa ra, trong cái không khí nặng nề và ấm áp …
trong buồng, quanh ngọn đèn dầu lạc, ba người ngả nghiêng nằm …” [68; tr.185].
Trong các truyện trinh thám ảnh hưởng phương Tây của Thế Lữ và Phạm Cao
Củng, cách mô tả không gian thường có sự vận động theo diễn tiến câu chuyện. Vào
đầu tác phẩm, nhà văn thường để các sự kiện mấu chốt diễn ra trong một không gian
nhỏ hẹp; môi trường quen thuộc của những người làm thuê làm mướn, đi ở cho bọn
nhà giàu…. Quá trình phát triển của câu chuyện cũng là quá trình mở rộng không
gian hành động của nhà điều tra. Lúc này, do yêu cầu của nhiệm vụ, thám tử không bị
giới hạn trong khoảng không gian chật hẹp ban đầu nữa, anh ta bắt đầu vượt qua giới
hạn, mở rộng liên kết, nhằm tìm chứng cứ để vén bức màn bí mật. Vụ án “nhảy xe
lửa” trước chợ Hôm (Đòn hẹn), Lê Phong và đồng nghiệp khám phá ra thủ phạm
chính là Đảng Tam Sơn đã tạo dựng hiện trường để xử đồng bọn. Cái chết của cụ Hàn
Tú ở cái giếng sau vườn trong trại Bích Loan (Nhà sư thọt), Lê Phong tìm được thủ
phạm chính là Tâm, chàng rễ của cụ Hàn. Cái chết của Bác sĩ Trần Thế Đoàn trong
hội trường Đông Dương Đại học đường (Mai Hương - Lê Phong), Mai Hương đã bắt
được thủ phạm là Lương Hữu. Trong Châu về hiệp phố, Hoàn Ngọc Ẩn, Lệ Thủy,
Hiếu Liêm thậm chí còn mở rộng cuộc điều tra ra cả biên độ nước ngoài để tìm thủ
phạm các vụ cướp của, cướp hoàn ngọc.
Trong một số truyện, tác giả hạn chế việc mở rộng không gian vụ án, câu
chuyện chỉ quẩn quanh trong một phạm vi hạn hẹp, thường là không gian trong gia
đình, nhiều lắm thì cũng mở rộng quy mô một khu phố. Chẳng hạn, cái chết bí mật
của nhân vật Đường trong căn phòng trọ (Gói thuốc lá). Vụ án mất tráp bạc 500 đồng
ở nhà ông Cửu Phú (Nhà sư thọt). Việc ngoại tình của bà Dì ghẻ Kỳ Phát khi cha
chàng vừa mới qua đời xảy ra ngay trong nhà Kỳ Phát (Chiếc tất nhuộm bùn). Kỳ
Phát căn cứ vào hiện trường trong phòng ngủ của ông Nùng Cao sau khi chết để tìm
ra hung thủ chính là Lâm Nục (Vết tay trên trần,). Kỳ Phát tìm ra nguyên nhân cái
chết của người dạy Hổ do Quế hãm hại (Buổi Tất niên của người hổ). Chính trong
không gian nhỏ hẹp ấy, nhân vật thám tử xuất hiện như một vị cứu tinh, họ là hiện
thân của niềm tin và hy vọng trong cuộc sống, không có những nhân vật thám tử số
phận của những nạn nhân trong xã hội khó tìm ra ánh sáng còn lại của cuộc đời.
86
Trong truyện trinh thám, còn có một dạng “không gian đặc biệt” khác, tạm gọi
là không gian quyền lực được các nhà văn “lồng ghép” vào không gian hiện thực để
tăng thêm sức thuyết phục về “sự thật” của câu chuyện. Không gian này gắn liền với
đời sống sinh hoạt thường ngày của các nhân vật quyền lực, thế giới ngầm, những tay
buôn lậu, các băng đảng… Đây là một “không gian” riêng, một bầu khí quyển riêng
mà ai cũng cảm thấy (vì nó tồn tại trên thực tế) song không thể miêu tả (chỉ cảm
nhận, suy luận ra). Cái “thế giới” đó được tạo ra bởi quyền lực, nó tồn tại bên trong
thế giới thực. Chẳng hạn, trong truyện Người bán ngọc, ở xứ Tô Châu, ngoài không
gian địa lý còn có “không gian” riêng của quan Hồ Quốc Thanh. Ông Đô đốc chỉ vì
căm giận vợ mà trở thành một kẻ bạo ngược: giết kẻ tôi tớ mà không cần xét xử, lập
mưu chuốc rượu cho vợ rồi dìm chết trong hầm rượu, kết hợp cùng quan Phủ, sai lính
bắt Tô Thường Hậu tra trấn dã man để thỏa mãn lòng tự ái. Đây là lối ứng xử của kẻ
đứng trên/ đứng ngoài luật pháp.
Với quan Châu Nga Lộc cũng vậy, tại vùng đất miền núi xa xôi này, ông cũng
tạo ra một không gian riêng, ở đó quyền lực của ông là tuyệt đối, bao trùm. Câu phán
bảo dành cho đối tượng đang thất thế, thể hiện rất rõ quyền lực đáng sợ của ông: “tha
mày cũng là tao mà xử mày cũng là tao”. Đến tôi tớ, người nhà và bọn người làm
thuê dù rất “tin và sợ những cái ghê gớm của hang thần, nhưng họ lại tin và sợ cái oai
của quan Châu chẳng kém” [67; tr.20]. Thậm chí, những nhân vật như Mã Hồng, “khi
hồi hưu vẫn giữ thói thị oai, làm nhiều điều tà khuất ức bách dân gian. Tuổi tuy già
nhưng tính đam mê nữ sắc đẹp không bớt. Đàn bà con gái thấy ưa mắt là sai bắt về
làm vợ cho được ” [66; tr.104]. Điều này cho thấy quyền hành ở đây đã thành vô
biên, không giới hạn.
Trong Kim thời dị sử, hình ảnh ông “cò” mật thám thể hiện quyền uy theo một
cách khác: “Bớ Ba Lâu, hãy trói tay mà chịu tội đi, bằng không chúng ta bắn chết!
Phen này đố mi chạy đâu cho thoát. Lính đã bao vây nhà rồi, dầu mi có phép tàng
hình cũng không trốn khỏi” [113; tr.234]. Cho đến những nhân vật như ông Chánh
thanh tra Mai Trung ở Sở liêm phóng, mới nhìn là con người bình dị nhưng bên trong
lại là một kẻ nắm quyền sinh sát, nắm giữ quyền thực thi pháp luật. Một người có
trách nhiệm nhưng niềm tin người bị hại chờ đợi ánh sáng công lý ở nơi ông thật mờ
nhạt: “những cái bí mật mà ông không tìm ra, hay tìm được ra sau hai hay ba năm
87
công phu, trong lúc đó kẻ bị oan vẫn chịu oan thay cho thủ phạm” [63; tr.83]. Tất cả
những con người có quyền, có thế này đã tạo ra và trấn giữ một thứ “không gian
quyền lực” ít nhiều mang tính chất quyết định cho số phận các nạn nhân.
Để bổ sung thêm bức tranh hiện thực, các tác giả trinh thám cũng chú ý đến
những không gian vật thể tiêu biểu như, hang động, phòng, khe ... nhằm tăng thêm
sức hấp dẫn, li kỳ của câu chuyện. Đó là hang núi Văn Dú vừa linh thiêng, ghê sợ,
vừa đầy bí ẩn (Vàng và máu, Kho tàng nhà họ Đặng), là hang động trong cổ miếu
giữa rừng già “ nơi này là một thứ sào huyệt của một bọn giặc cướp nào không thì
cũng là một nơi ngục thất bí hiểm đặc biệt mà những hình cụ đó tất dùng vào một
việc tra trấn hành phạt riêng” [66, tr.71]. Là căn phòng tối tăm, đầy khói thuốc phiện
cùng con rắn hổ mang của Ông Phán (Ông Phán nghiện), là “căn phòng lịch sự, yên
tĩnh và sang trọng nhưng đầy những điều kỳ lạ” (Mai Hương – Lê Phong), “căn
phòng khóa kín” mà Nùng Cao bị giết một cách bí ẩn (Vết tay trên trần), và căn
phòng “chật hẹp, bốn bề bít kín như bưng, buồng chỉ có một lỗ trống bằng hai bàn
tay” mà Bá Vy đã giam giữ Kỳ Phát (Kho tàng nhà họ Đặng).
Đồng thời, một dạng không gian hiện thực khác đầy tăm tối, chật hẹp là nơi cư
ngụ của các nạn nhân. Đó là không gian gắn với những thân phận người dân thấp cổ
bé miệng, phải lãnh chịu hậu quả do tội phạm gây ra. Chẳng hạn, nhân vật Lý Chu,
vợ bị quan trên bắt về làm nhục mà đành chịu: “Biết mình dù có phá sản để đi khiếu
cũng vô ích, cái quyền thế của họ Mã vững chắc như thành” [66, tr.104]; những Kiều
Tiên, Thị Minh, Hàng Tâm, Tám Lọ trong Mảnh trăng thu cũng trong tình cảnh
tương tự. Không gian sống của những người lương thiện luôn bị bóp nghẹt bởi các
thế lực hắc ám, một khi những kẻ có tiền của, các quan chức thoái hóa câu kết với lưu
manh, du đãng, tội phạm, thì người dân tất yếu bị đẩy vào bước đường cùng. Trong
Tôi có tội của Phú Đức, tòa đại hình xử tội một cách hồ đồ, luận tội thiếu thuyết phục,
chứng cứ thiếu cơ sở và thám tử Anbe Huỳnh phá án một cách máy móc, suy diễn hời
hợt, không nắm vững hiện trường… thì oan sai mà người dân phải gánh chịu là không
có gì khó hiểu.
Có thể thấy, các nhà văn đã bám rất sát thực tế đời sống để sáng tạo nên những
hình tượng không gian đặc thù của truyện trinh thám. Không gian đó vừa đảm bảo cho
sự phát triển hợp lý của câu chuyện, lại vừa in đậm dấu ấn văn hóa, lịch sử một thời.
88
3.2.1.2. Không gian đường rừng
Trong truyện trinh thám Việt Nam, rất ít khi tác giả miêu tả không gian thôn quê
như trong các tác phẩm thuộc xu hướng văn học lãng mạn hoặc văn học hiện thực
giai đoạn 1930-1945. Ngoài không gian phố thị, các nhà văn viết truyện trinh thám
chú ý nhiều đến một dạng không gian khác, tạm gọi là không gian “đường rừng”. Đây
dường như là sự ảnh hưởng từ truyện truyền kỳ trong buổi giao thời khi chuyển sang
giai đoạn hiện đại hóa của văn xuôi tự sự. Chính điều này đã làm tăng thêm tính lãng
mạn, chất kỳ ảo, hấp dẫn của thể loại.
Không gian đường rừng (hay không gian miền núi) là một hình tượng mới mẻ,
được nhà văn xây dựng trong truyện trinh thám. Nó tỏ ra sinh động hơn hẳn không
gian phố thị. Dù bản chất của tác phẩm trinh thám là nói chuyện tội phạm, điều tra,
đấu trí… nghĩa là rất căng thẳng, quyết liệt. Thế nhưng, môi trường, khung cảnh
không phải chỉ toàn những cảnh trí rùng rợn, u ám mà trái lại, cũng có khi rất lãng
mạn, nhẹ nhàng. Có lẽ, tác giả truyện trinh thám muốn tạo nên sự đối lập, khai thác
hiệu ứng tương phản của các yếu tố trong truyện nên các nhân vật, sự kiện liên quan
chuyện điều tra lại được đặt trong những không gian mở, biên độ rộng, giàu chất thơ.
Chẳng hạn, vẻ đẹp của một đêm trăng thanh gió mát, không gian ngào ngạt hương
hoa, đầy sức quyến rũ:
Một giải suối róc rách ở gần, tiếng sóng như thủy tinh reo vào trong thứ
giọng rù rì tối tăm của những côn trùng dưới cỏ. Sau lều thì khu rừng cây yên
lặng như ngủ kỹ, nhưng ở trong đưa những tiếng bí mật, khiến cho mình cảm
thấy được cái sinh hoạt của nó lúc đêm khuya. Một con hươu đang ngơ ngẫn
nhìn cái lều vắng không. Những tiếng rất nhẹ của con sóc chạy trên cành,
những tiếng lá cựa dưới mình một con vật đang nằm, một tiếng vỗ cánh nặng
nề của chim lớn … văng vẳng trên không chỉ còn những tiếng nhạc gần rồi
lại xa, với những hơi sáo rất nhỏ, rất trong và cao tít …[66, tr.95].
Một cảnh chiều tà:
Mặt trời đã xế bóng về tây, mấy khóm mây xanh xanh trắng trắng đã hóa ra
màu hồng, liên tiếp nhau kết thành một bức màn che ngang nửa làng, xa xa có
một bầy chim thẳng cánh về non, khi giăng chữ nhứt, khi kéo hàng binh, gió
thoảng lai rai, mấy cây bồ đề cao buông tiếng đờn ríu rít. Bên ngoài sông nhỏ,
89
đôi ba chiếc thuyền con lên xuống nhẹ nhàng với năm bảy chị hàng buôn nói
cười vui vẻ [35, tr.6].
Những trang văn mô tả không gian, cảnh vật như vậy khiến cho câu chuyện bớt
vẻ ngột ngạt và trở nên gần gũi, chân thật hơn.
Tuy nhiên, nét lãng mạn của không gian đường rừng không phải là phổ biến.
Đặc trưng của không gian đường rừng không phải ở nét thơ mộng, lãng mạn mà là sự
lạ lẫm, bí ẩn, nhiều bất trắc… thường là tai họa. Thế nên, trong các truyện của Thế
Lữ (Một truyện ghê gớm, Tiếng hú ban đêm, Vàng và máu), khung cảnh thường được
mô tả bằng một cái nhìn đầy vẻ huyền bí; không gian ấy hứa hẹn nhiều thứ bất ngờ,
những điều li kì, rùng rợn đến khó tin. Nó là hoàn cảnh, là phông nền cho những mối
tình lãng mạn giữa các chàng trai thành thị, vốn chán cảnh phồn hoa đô hội, thích
phiêu lãng, tìm đến chốn rừng núi, với các sơn nữ. Môi trường tự nhiên hoang dã ở
miền núi có tác dụng kích thích trí tưởng tượng, khơi gợi cảm giác lo lắng pha lẫn
thích thú của người đọc. Trong Vàng và máu:
Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía cũng như các ngày ủ
dột âm u, Văn Dú lại hiện ra với một vẻ riêng oai linh và màu nhiệm (…).
Đối với ngọn núi lớn, người Thổ không chỉ có tấm lòng kính cẩn phảng phất
đối với mọi cảnh bát ngát cao cả, họ còn sợ hãi Văn Dú như một vật có tri
giác, có quyền phép làm hại người… ai nói tới Văn Dú là một sự gở lạ [67,
tr.1].
Thế Lữ là nhà văn có biệt tài trong việc miêu tả khung cảnh “đường rừng”, “xứ
lạ”. Ông sử dụng rất nhiều yếu tố kỳ lạ, thậm chí là kỳ ảo để tạo nên ấn tượng, đan
cài, trộn lẫn hư và thực, với những linh cảm ghê rợn cứ quẩn quanh bủa vây con
người. Có thể là không gian ở cõi âm, không gian trong cõi vô thức, không gian tâm
linh… Đó là những khung cảnh âm u, gợi không khí chết chóc hoang lạnh (Vàng và
máu, Trại Bồ Tùng Linh, Tiếng hú ban đêm, Cái đầu lâu, Một chuyện ghê gớm …),
với những âm thanh lạ, với bóng ma hư ảo, chập chờn. Tất cả những ảnh hình ghê rợn
đó góp phần làm nên “không khí” trinh thám. Ở phần mở đầu mỗi truyện, nhà văn
thường tìm cách tạo dựng một không gian đậm chất liêu trai: “Mỗi lần một bóng, một
mình trong lúc đêm khuya mưa gió sụt sùi mà nghe thấy những tiếng ểnh ương nó ỳ
oặc, tiếng ếch nhái nó nghiến răng bốn bề, tôi lại nhớ ngay đến chuyện ngày trước.
90
Bên tai như vang những tiếng người chết nó cười, nó kéo từng đoàn, từng lũ đến đầu
giường tôi nằm mà tranh nhau nguyền rủa tôi” [65, tr.52]. Con người khi tiếp xúc với
khung cảnh ấy, thường gợn lên những xúc cảm ghê rợn bởi cảm giác tâm linh khó
diễn tả:
Tôi vẫn thấy một cảm giác lạ. Một cảm giác đột ngột, không liên lạc, hình
như vừa chợt đến: gờn gợn lạnh lẽo và mạnh mẽ … tôi tái người hẳn đi một
lượt. Một tiếng động nhẹ - nhưng rành rẽ - một tiếng nhẹ và nhanh do một cử
chỉ nào của cái vật đứng bên ngoài … tôi nhẹ nhàng với lấy cái đèn bấm
trong ngăn kéo rồi ngẩng lên, và kinh ngạc dị thường. Giữa khung cửa sổ,
một khuôn mặt lặng lẽ, trắng một cách lạ, một khuôn mặt đàn bà rất trẻ, đẹp,
một vẻ đẹp tuyệt mỹ, đẹp đến lạnh mình… hiện lên như ở đó đã tự bao giờ và
thoáng biến ngay, như không bao giờ có [66, tr.355].
Cùng với khung cảnh thâm u, các hiện tượng tự nhiên như mưa gió, sấm sét
cũng được tác giả đưa vào tác phẩm với mục đích làm tăng thêm vẻ hoang lạnh, hãi
hùng: “Nghe tiếng gió chạy như cuồng, tiếng mưa đập từng trận trên mái nhà và bốn
bề xung quanh, nghe tiếng sấm sét rung chuyển cả một bầu trời tối tăm, tôi lại tưởng
đến những chuyện yêu quái núp vào những gốc cây đa hay chùa cổ để ẩn tránh lưỡi
tầm sét” [66, tr. 238]. Những hình ảnh kỳ bí về bầu trời thâm u, khu rừng vắng lặng,
những ngọn đồi bị che phủ bởi sương mù …, cùng với thứ ánh sáng, âm thanh ma mị
cứ trở đi trở lại trong tác phẩm; nó có tác dụng kích thích tò mò của người đọc, khơi
gợi năng lực tưởng tượng và khả năng khám phá hiện thực của độc giả.
Để tăng thêm sự kỳ ảo, ly kỳ cho không gian truyện, tác giả còn dùng nhiều
chi tiết như ánh sáng, bóng tối và cả sự im lặng… để bổ sung thêm: “Những hôm
cây hóc bụi và tưởng sự huyền bí ẩn nấp dưới các hình bóng dị kỳ … Đêm tối sấn
đến quanh đây cùng với cả một thế giới bí hiểm và vô hình [66, tr.360]. “Cái yên
lặng và dáng tầm thường của hang đá này như có vẻ lừa dối nham hiểm … Giữa
nơi kín đáo như thế này, trong một quả núi chứa chất những điều bí hiểm …” [67,
tr.29]. Bức tranh đa chiều, với gam màu sáng lạnh của sương khói, của bóng tối
cùng âm thanh dồn dập, xối xả của những cơn mưa dữ mà tác giả mô tả trong
truyện, như một cách dự báo, dự cảm về mối hiểm nguy đang rình rập, sắp sửa
diễn ra bất cứ lúc nào.
91
3.2.2. Hình tượng thời gian
Trong tác phẩm văn học, thời gian là một hình tượng nghệ thuật do nhà văn
sáng tạo nên. Bởi thế, nó dung hợp cả tính chất khách quan của thời gian thực tế lẫn
tính cảm tính, chủ quan của cá nhân tạo ra nó. Nghiên cứu truyện trinh thám Việt
Nam, chúng tôi nhận thấy thời gian nghệ thuật ở đây có nét đặc trưng so với các thể
loại khác. Theo T. Todorov: “Mỗi truyện trinh thám xếp chồng lên nhau hai lớp thời
gian, những ngày của cuộc điều tra, khởi đầu từ tội ác, và những ngày của tấn thảm
kịch dẫn tới tội ác” [114, tr.10]. Đó là dạng “thời gian vụ án’, “thời gian điều tra”
được trải dài theo hướng tuyến tính hoặc phi tuyến tính, tùy theo kết cấu cụ thể của
câu chuyện.
3.2.2.1. Thời gian tuyến tính
Trong tiểu thuyết trinh thám, các nhà văn thường dựa vào sự chuyển vận của
thời gian, lấy đó làm cái trục chính để triển khai sự kiện, biến cố và cuộc đời nhân
vật. Nó thường bắt đầu từ kết quả (một xác chết, một vài nhân chứng), cần phải điều
tra để tìm ra nguyên nhân (tội phạm và điều đã dẫn hắn đến tội ác). Thời gian trong
truyện trinh thám thường là một tội ác đã xảy ra trước câu chuyện mà người kể thuật
lại dưới dạng hồi ức (khác với truyện trinh thám đen, truyện kể dưới dạng hành
động). Các biểu hiện của thời gian ở đây khá đa dạng: thông qua chiều hướng (thuận,
nghịch), thông qua nhịp điệu (nhanh, chậm)… nên tất cả sự sắp xếp, tường thuật của
tác giả đều nhằm phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
Thời gian tuyến tính là cách thể hiện câu chuyện dựa trên chiều hướng vận động
của thời gian thực tế. Diễn biến câu chuyện được kể theo trình tự, sự kiện diễn ra
trước nói trước, cái diễn ra sau nói sau. Đó là sự sắp xếp có chủ ý của nhà văn, dựa
trên mô thức thời gian hiện thực, thời gian lịch sử. Dạng thức thời gian tuyến tính
được nhà văn sử dụng trong phần lớn các truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn nửa
đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến các truyện Vết tay trần, Nhà sư thọt, Người một mắt,
Bóng người áo tím, Người bán ngọc, Buổi tất niên của người Hổ, Tôi có tội, Cậu Tám
Lọ, Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, Những nét chữ, Lê Phong phóng viên, Mai Hương &
Lê Phong… như những ví dụ tiêu biểu. Đặc điểm dễ nhận thấy đối với kiểu thời gian
này là mọi sự kiện, tình tiết xảy ra trong câu chuyện đều bắt đầu từ một mốc thời gian
92
cụ thể và tuần tự tiến triển; tất cả được tác giả sắp xếp theo chu trình liên kết của sự
việc, thời gian càng gấp rút, khẩn trương, câu chuyện càng thu hút người đọc.
Trong Người bán ngọc chẳng hạn, câu chuyện xảy ra được đặt trong bối cảnh
thời gian cụ thể là xã hội Trung Quốc sau cách mạng 1911. Quá trình diễn biến bắt
đầu từ khi nhân vật Tô Thường Hậu bày mưu làm quen với Hồ Phu nhân, cho đến khi
Hồ công phát hiện, và bị bắt giam, bị tra trấn nhưng nhờ Quan Tri phủ Trang Tử
Minh, Tô Thường Hậu thoát tội chết. Mọi sự kiện, biến cố truyện tiếp nối nhau theo
mạch vận động của thời gian. Trong Kho tàng họ Đặng, chuyện bắt đầu xảy ra vào tối
30 Tết, Kỳ Phát đạp xe về nhà bạn ở Thái Bình ăn Tết, đến 11 giờ đêm, xe đạp thủng
lốp; Kỳ Phát đành phải xin vào tá túc ở một nhà ven đường. Ở đây, chàng tình cờ anh
phát hiện ra chiếc đĩa cổ có điều bí ẩn… các tình tiết tiếp theo tuần tự diễn ra cho đến
khi chàng giúp anh em cụ Cả tìm được kho báu. Câu chuyện kết thúc là cảnh liên
hoan vui vẻ của nhà cụ Cả. Trong Đòn hẹn, câu chuyện mở đầu vào thời điểm Lê
Phong nhận được một bức thư của người lạ thông báo “từ một giờ rưỡi đến một giờ
bốn mươi lăm trưa hôm nay, một vụ án mạng sẽ xảy ra ở xế cửa nhà ông”. Và cứ thế,
câu chuyện tiếp diễn theo trình tự thời gian; Lê phong lần lượt điều tra vụ án và tìm
được thủ phạm chính là Đảng Tam Sơn.
Trong Gói thuốc lá, trước cái chết bất ngờ, đầy bí ẩn của Đường (bạn Lê Phong)
vào buổi tối trong nhà trọ, cuộc điều tra được tiến hành với sự tham gia của ông
Chánh thanh tra Sở liêm phóng Mai Trung, mật thám nhà nước Kỳ Phương. Những
chữ viết tắt trên tấm danh thiếp đặt trước mặt Đường, khi anh chết bỗng dưng thất
lạc. Mọi người đều dồn tất cả sự nghi ngờ vào người Thổ Nông Văn Tăng, bởi trước
khi chết, Đường cho Lê Phong biết anh ta tránh mặt tên người Thổ học cùng lớp
trước đây vì sợ bị trả thù. Lê Phong tuyên bố sẽ khám phá vụ án trong hai ngày, trong
khi thám tử Kỳ Phương tuyên bố là ba ngày. Cuộc chạy đua gấp rút của hai thám tử
đẩy câu chuyện đi đến hồi căng thẳng; mọi người đều cho suy luận của Kỳ Phương là
có lý. Chánh thanh tra Sở liêm phóng cho lính truy lùng tên người Thổ ráo riết. Bằng
mưu kế và suy luận sắc sảo, Lê Phong kết hợp với Nông Văn Tăng bắt được thủ
phạm là Đinh Văn Thạc (bạn của Lê Phong và Đường) sau hai ngày điều tra vụ án.
Thạc giết Đường vì muốn chiếm hữu tờ vé số trúng độc đắc của Đường.
93
Một vụ án mạng khác, xảy ra ở nhà ông Lường - Duỳn, phố Châu Giang, vô tình
lọt vào tai Lê Phong. Chàng tức tốc theo Sở mật thám điều tra, dù bị họ ngăn cản.
Nạn nhân trước đây là một người đi theo bọn buôn súng lậu, chết bởi con dao, (một
thứ khí giới của người Thổ) đâm vào tim rất mạnh. Pháp luật đang truy lùng nhóm
người Thổ vừa đến Châu Giang mấy ngày trước. Lê phong phải vắt óc làm việc “rất
nhanh, rất nhanh… để cái bí mật dầy đặc lạ thường ấy đột nhiên rõ ngay trước mặt,
đột nhiên bị khám phá một cách nhanh chóng, cũng lạ thường” [64, tr.92]. Kết thúc
vụ án, Lê Phong kết luận nạn nhân Đào Ngung chết là do ông Lường - Duỳn (kẻ đi
báo cảnh sát), đồng thời là kẻ giết người vì ghen tuông. Vụ án kết thúc trong vòng 3
ngày trước sự thán phục thầm lặng của Sở liêm phóng.
Tính xác định của thời gian nghệ thuật trong truyện trinhh thám là một dụng ý
của nhà văn. Với một câu chuyện có địa chỉ, thời điểm cụ thể, rõ ràng, sức thuyết
phục của nó chắc chắn sẽ lớn hơn là những thông tin mang tính chất phiếm định,
phiếm chỉ. Dù là câu chuyện tưởng tượng nhưng người đọc vẫn cứ ngỡ như là chuyện
có thực trong đời sống. Đồng thời, để tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, thời gian
trong truyện trinh thám thường có xu hướng “đêm hóa”, thời khắc ban đêm nhiều hơn
ban ngày. Điều này là hợp lý, bởi bóng tối thường đồng lõa với tội ác: “hung thủ thế
nào cũng sẽ giết người mà nó tưởng chưa chết, song phải giết đêm nay” [64, tr.132].
Thế cho nên, Lê Phong bắt được kẻ giết người trong đêm đi xem chiếu bóng cùng Lê
Phong và Văn Bình, Thạc đã âm mưu lẻn về giết Đường (Gói thuốc lá). Nhân vật
Nguyễn Viết Sung (Mảnh trăng thu) vào đêm tân hôn của Kiều Tiên, đã lập mưu giết
chết Kiều Phong để chiếm đoạt gia tài bà Phán. Trong Người bán ngọc, mưu kế của
Tô Thường Hậu bán ngọc cho Hồ Phu nhân cũng vào ban đêm: “Bây giờ trời đã
khuya, không lý ngồi đây kiếm mãi ..., chi bằng hiền nương ở lại đây, không ai dám
hỏi chi tới hiền nương mà sợ...” [77, tr.503]. Trong truyện của Phạm Cao Củng, các
vụ án và phá án thường diễn ra về đêm: Thám tử Kỳ Phát bắt được kẻ trộm trong một
đêm tối: “Trên bàn giấy, bây giờ chỉ còn ngọn đèn đêm, Kỳ Phát vươn vai ngáp dài
một cái, trong phòng chỉ còn tiếng chàng thở đều đều ..., rồi cánh cửa từ từ hé mở,
không tiếng kẹt nhỏ, một bóng đen rón rén bước vào, rồi chỉ hai phút sau, ngọn đèn
đêm vụt tắt” [21, tr.15]; ông Hàn Tú bị kẻ giết người đẩy xuống cái giếng sau vườn
khoảng 9 giờ tối. Cậu bé Kỳ Phát đã phát hiện Dì ghẻ tư tình với trai khi Bố chàng
94
vừa mới qua đời vào một đêm không ngủ được; Đêm ba mươi Tết, Kỳ Phát tình cờ
xin tá túc ở nhà Cụ Lượng và phát hiện ra chiếc đĩa cổ chứa đựng bí ẩn về kho báu
nhà họ Đặng. Trong đêm tối, lão quản gia Hai Tòng (Người một mắt), lợi dụng bà
Cửu Phú mở cửa phòng ra ngoài đã lẻn vào lấy cái tráp có năm trăm đồng bạc. Vụ án
Nùng Chí (Vết tay trên trần) trả thù, bằng cách đã huấn luyện con khỉ trong đoàn sơn
đông mãi võ của mình, đêm khuya chui qua trần nhà để giết Nùng Cao...
Sắp xếp kết cấu truyện theo thời gian tuyến tính là một dạng của nghệ thuật kết
cấu truyền thống. Với hình thức này, tác giả dễ dàng chia tác phẩm ra nhiều chương
đoạn, đến khi sự kiện phát triển lên thành cao trào, đầy kịch tính, nhà văn dừng lại và
chuyển sang chương khác nhằm gây tò mò, háo hức cho người đọc. Thực tế, nhà văn
trinh thám chủ yếu chú ý phương thức trinh thám là chính nên thời gian truyện
thường ngắn, đôi lúc gượng ép.
3.2.2.2. Thời gian phi tuyến tính
Phần lớn, cốt truyện trinh thám thường là một vài vụ án riêng lẽ, do đó, nhà văn
sử dụng dạng thức thời gian tuyến tính là thích hợp nhất. Thế nhưng, điều đó cũng có
nguy cơ dẫn đến tình trạng đơn điệu, đơn giản, truyện khó hấp dẫn người đọc. Để
khắc phục điều này, tác giả phải vận dụng một hình thức khác, đó là thời gian phi
tuyến tính.
Khác với thời gian tuyến tính, thời gian phi tuyến tính là kiểu đảo lộn, thay đổi
trật tự, chiều hướng thời gian. Câu chuyện thường bắt đầu từ kết quả của vụ án đã kết
thúc để thuật lại những quá trình đã điều tra trước đó. Cũng có khi người kể chuyện
bắt đầu bằng một chi tiết (có vẻ ngẫu nhiên) trong các chuỗi tình tiết của vụ án, quay
về quá khứ, rồi tiếp tục kể những sự kiện tiếp theo. Kết cấu thời gian phi tuyến tính
trong truyện trinh thám cũng xuất phát từ quan niệm của nhà văn, coi thể loại này là
một trò chơi giải trí. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật để làm tăng sức hấp dẫn,
tăng kịch tính của thể loại. Để “cứu” một cuộc điều tra vụ án sắp có khả năng vào rơi
vào bế tắc thì tác giả buộc phải ghép nối, liên kết với những tình tiết, diễn biến thuộc
những thời khắc, địa điểm khác nhau. Chính điều này làm tăng thêm sự đa dạng, phức
tạp của hình tượng thời gian. Đây cùng là điều kiện để người kể chuyện bộc tài năng
của mình thông qua việc chắp nối các sự kiện theo trình tự đan xen thời gian hiện tại -
quá khứ.
95
Trong các tác phẩm mang màu sắc trinh thám – ái tình – vụ án, thời gian cốt
truyện thường được kéo dài, từ việc nọ đến việc kia, tình tiết này đến tình tiết khác.
Mảnh trăng thu mở đầu bằng việc tình cờ Thành Trai nhận ra em gái Kiều Tiên (con
chú), bị mang tội giết chồng mà bỏ xứ ra đi từ nhiều năm nay. Thời gian truyện đi từ
nỗi oan của Kiều Tiên trong vụ án giết chồng, kéo theo các mối quan hệ chằng chịt
trong việc cô làm chị em kết nghĩa với cô Tư Xuân, nhận làm con nuôi bà Huyện, giả
đóng vai Nguyệt Hương giúp Trường Khánh để xoa dịu nổi đau của bà mẹ vì nhớ đứa
con thất lạc từ nhỏ, sau này may mắn tìm ra ở Huế ... Quá khứ và hiện tại hòa lẫn một
cách khéo léo và cuối cùng Kiều Tiên đã tìm ra kẻ gây tai họa cho gia đình nàng, cả
nhà đoàn viên. Trong Châu về hiệp phố, Phú Đức dùng hơn năm trăm trang để kể câu
chuyện ly tán và trưởng thành Lâm Võ Cử (Hoàng Ngọc Ẩn), và hành động của
Hoàng Ngọc Ẩn trong mối quan hệ đan chéo với những người bạn của anh, nhất là
trong tình yêu với Lệ Thủy… Không gian truyện mở rộng ra cả Trung Quốc, Hồng
Kông, Ấn Độ; thời gian truyện kéo dài gần năm năm và tác giả đã kể một cách mạch
lạc hoàn cảnh gia đình, bản thân của từng nhân vật trong quá khứ cũng như hiện tại.
Đến khi kết thúc, người đọc vẫn thấy câu chuyện như còn đang tiếp diễn. Đây là biểu
hiện của sự đồng hiện thời gian trong tiểu thuyết hiện đại.
Trình tự xuất hiện các sự kiện trong tác phẩm là một trong những dấu hiệu quan
trọng để nhận biết dạng thức thời gian nghệ thuật. Sự sắp xếp này thường liên quan
mật thiết tới ý đồ, dụng ý của tác giả. Vì thế, có những sự kiện được kể liên tục, lại có
những sự kiện bị ngắt quãng, đan xen lẫn lộn hoặc đảo ngược thứ tự trước sau. Chẳng
hạn, trong Chiếc tất nhuộm bùn, mở đầu câu chuyện là tình tiết Kỳ Phát trông thấy
một người đàn bà đánh đứa bé độ mười hai, mười ba tuổi. Từ đó, chàng nhớ lại (kể
về) tuổi thơ của mình, lúc trạc tuổi thằng bé; cũng bị Dì ghẻ đánh: “Đời tôi có lẽ là
toàn những cái phiêu lưu bí mật, ngay từ lúc tuổi thơ, tôi đã bị nhiều nỗi khổ lạ lùng
... Trước hết, tôi hãy nói cho anh biết một điều mà chưa có dịp nào tôi nói đến ...”
[20, tr.15-16]. Kỳ Phát lớn lên với người vú nuôi. Một hôm, tình cờ theo dấu một
người đàn bà buôn thuốc phiện, Kỳ Phát bất ngờ phát hiện ra đó là mẹ ruột của mình;
càng éo le hơn khi bà chết trên tay anh. Sau khi chôn cất mẹ, chàng mời người vú
nuôi lên chơi; qua chuyện của bà vú, chàng biết rõ chuyện tình của bố mẹ mình. Câu
96
chuyện thường bị đứt quãng bởi sự chuyển đổi sự kiện, tình tiết nên thời gian ở đây
cứ trôi theo chuỗi ký ức, đan xen hiện tại, quá khứ.
Ở một vài tác phẩm, thời gian dòng ý thức, hồi tưởng cũng được thể hiện khá rõ
nét. Trong Mảnh trăng thu, tác giả không để cho thời gian chảy theo một hướng từ
hiện tại đến tương lai mà xoay vòng thời gian: từ hiện tại đến quá khứ rồi quay trở về
hiện tại… Thông qua nhật ký của Kiều Tiên, người đọc nắm bắt được tâm trạng nhân
vật một cách rõ nét: “Tấm thân lưu lạc đã mấy năm trời nay, mà chẳng có ngày nào là
tôi không đọc lại khúc này ... Minh Đường ơi! Minh Đường ơi! Anh có biết cho tấm
lòng em chăng? Tuy là em sống đây? Tuy ngày nào em cũng nhớ anh, nhưng thiệt
chẳng khác nào em đã chết” [36, tr.70]. Thời gian hồi tưởng dường như tuôn chảy
miên man, không có độ dừng, không cắt lớp; tác giả để quá khứ diễn ra trọn vẹn rồi
mới quay trở về hiện tại. Yếu tố thời gian nghệ thuật đa dạng như vậy rất phù hợp với
lối truyện pha trộn giữa chất trinh thám – ái tình. Với các truyện mang màu sắc trinh
thám tình yêu – võ hiệp – hành động, người đọc thường thấy thời gian gắn với hành
động của nhân vật chính, nhất là những trang miêu tả các pha giao đấu với đối thủ,
những cuộc rượt đuổi. Thời gian trong các tác phẩm này thường kéo dài, sức dồn nén
của áp lực điều tra không lớn bởi hầu hết thám tử hành động vì mối quan hệ gia đình,
tình yêu, bè bạn. Trừ yếu tố trinh thám trong những pha truy bắt thủ phạm mang đầy
kịch tính, các tình huống khác đều diễn ra chậm, dàn trải. Đồng thời, nhiều chỗ tác
giả đan xen, thêm vào những mối quan hệ khá rời rạc, chủ yếu là những tình tiết
nhằm tăng thêm độ dài cho tác phẩm mà ít có những tình tiết kịch tính.
Chúng ta nhận thấy rằng, vai trò không gian và thời gian là một trong những
nhân tố quan trọng trong tác phẩm văn học bởi mọi sự vật, hiện tượng đều gắn liền
với tọa độ không gian thời gian xác định nên những cảm nhận của con người về thế
giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Thời gian trong truyện trinh
thám có thể nhanh hay chậm, đều đều hay thay đổi đột ngột, gấp gáp đầy biến động,
xoắn xít đan chen nhau giữa hiện tại hay quá khứ tùy thuộc vào tâm trạng tâm hồn và
đặc thù cuộc sống nhân vật trong không gian truyện. Và từ sự đổi thay của không
gian, thời gian của truyện, người đọc nhận ra sự đổi thay trong chính mình. Đây chính
là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong truyện trinh thám, tạo
thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Chính không gian vụ án hẹp, thời gian ngắn,
97
khẩn trương của một số truyện càng làm tăng tính chất căng thẳng, hồi hộp khiến
người đọc càng bị kích thích, bị lôi kéo để nhanh chóng “giải câu đố” tìm ra thủ
phạm. Đặc trưng này một mặt thuộc về phương diện đề tài nhưng mặt khác cũng là
nguyên tắc cơ bản trong việc tổ chức tác phẩm của thể loại. Điều đáng chú ý ở đây là
không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện trinh thám đã mang tính khái quát
cao, phản ánh một phạm vi rộng lớn của cuộc sống, gần hơn với đời sống con người,
nó vừa góp phần trong việc thể hiện tính cách nhân vật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm
vừa góp phần thể hiện quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
Truyện trinh thám với đặc trưng là điều tra vụ án, tìm nhân chứng, vật chứng
gắn liền với sự quan sát hiện trường để giải mã bí mật, nên không gian, thời gian
nghệ thuật là một thủ pháp tối ưu nhằm tăng thêm tính hấp dẫn cho câu chuyện. Với
một nhà văn tài năng thì nghệ thuật xây dựng hình tượng không gian, thời gian trong
một cốt truyện đầy kịch tính là một dịp tốt để chèn vào các nội dung phụ, làm tăng
thêm các tình tiết căng thẳng giúp người đọc chăm chú theo dõi, tạo nên sức hấp dẫn
của câu chuyện, qua đó, người đọc tiếp thu được nhiều thông điệp của tác giả. Ngược
lại, với những nhà văn tài năng có hạn, việc đưa thêm vào các hình ảnh, chi tiết đôi
khi làm tác phẩm thêm rối rắm, xa vấn đề trung tâm và đánh mất hứng thú của người
đọc.
Nếu như các nhà văn lãng mạn giai đoạn này phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái
cũ và cái mới, các nhà văn hiện thực miêu tả nỗi lầm than cơ cực cùng với những bất
công của cuộc sống, thì những nhà văn trinh thám lại chú ý đến một mảng tối ẩn phía
sau cuộc đời, đó là tội ác, tội phạm. Với việc xây dựng hình tượng không gian, thời
gian nghệ thuật, các nhà văn trinh thám đã làm cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn,
người đọc như bị cuốn hút mãnh liệt vào cốt truyện mà khó dứt ra được, bởi sự thôi
thúc đầy kịch tính của thời gian phá án. Ẩn đàng sau các câu chuyện, các số phận là
một bức tranh của không gian, thời gian hiện thực về cuốc sống và con người, mặc dù
chỉ là những mảng rời rạc được nối ghép. Thông qua đó, người đọc càng hiểu thêm về
hiện thực xã hội trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc.
TIỂU KẾT
Thế giới nghệ thuật trong truyện trinh thám là thế giới đặc biệt, đó là một thế
giới được nhà văn sáng tạo ra để chuyển tải đến độc giả thông điệp của mình. Nhân
98
vật trong tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người, ngoài
khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội, truyện trinh thám còn đi
sâu khám phá số phận con người. Thông qua hình tượng nhân vật thám tử, nhà văn ca
ngợi những con người nghĩa hiệp, đại diện cho công lý. Đặc điểm nổi bật nhất của
nhân vật thám tử trong truyện trinh thám Việt Nam là tinh thần nghĩa hiệp, luôn hành
xử theo triết lý bất vụ lợi. Vì nhiều nguyên nhân, thám tử trong truyện trinh thám Việt
Nam vừa giống lại vừa khác so với hình mẫu thám tử phương Tây. Họ có những nét
tính cách riêng, được bộc lộ qua những mối quan hệ éo le, lãng mạn theo kiểu môtíp
“tài tử giai nhân” trong văn học truyền thống (điều mà trong truyện trinh thám
phương Tây rất hiếm thấy). Mặt khác, các phương pháp giải mã vụ án với các mưu
mẹo theo một kiểu “Việt hóa”. Đối với các nhân vật phản diện, sự hiện hữu của
chúng trong truyện trinh thám Việt Nam cũng có nét riêng, phản ánh thực tế xã hội và
con người Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, nhân vật tội phạm
không phải là nhân vật chính của thể loại nên tính cách nhân vật được miêu tả chung
chung, không được bộc lộ rõ nét. Nhân vật tội phạm vừa chịu ảnh hưởng rõ nét môtip
các nhân vật phản diện trong văn học truyền thống (với rất nhiều kiểu phạm tội theo
lối cổ điển như tham lam, trộm cắp, chiếm đoạt tài sản…) lại vừa có tính chất hiện
đại (hành động truy tìm bản đồ kho báu, buôn lậu, thanh toán giữa các băng đảng, lợi
dụng tình yêu, lòng ghen tuông..).
Hầu hết các truyện trinh thám Việt Nam đều sử dụng “không gian bối cảnh” như
một yếu tố để làm tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm; trong đó nổi bật nhất là hình tượng
không gian “phố thị” và không gian “đường rừng”. Không gian đó vừa đảm bảo cho
sự phát triển hợp lý của câu chuyện, lại vừa mang tính hiện thực, in đậm dấu ấn văn
hóa, lịch sử một thời. Với dạng “thời gian vụ án’, “thời gian điều tra” được trải dài
theo hướng tuyến tính hoặc phi tuyến tính, nhà văn thường dựa vào sự chuyển vận
của thời gian, lấy đó làm cái trục chính để triển khai sự kiện, biến cố và cuộc đời
nhân vật. Các biểu hiện của thời gian khá đa dạng về chiều hướng (thuận, nghịch), về
nhịp điệu (nhanh, chậm)… Có thể nói rằng tất cả các yếu tố trên đã góp phần tạo nên
đặc trưng riêng của thể loại trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX để từng bước hội
nhập vào nền văn học thế giới.
99
CHƯƠNG 4
ĐẶC ĐIỂM CỐT TRUYỆN VÀ PHƯƠNG THỨC TRẦN
THUẬT TRONG TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
4.1. CỐT TRUYỆN
4.1.1. Vấn đề cốt truyện truyện trinh thám
4.1.1.1. Về khái niệm cốt truyện
Khái niệm cốt truyện vốn xuất hiện từ thời cổ đại. Trong tác phẩm Nghệ thuật thi
ca, Aristote cho rằng: cốt truyện là yếu tố quan trọng nhất trong tác phẩm “thi ca” (nghệ
thuật ngôn ngừ nói chung); nó chứng tỏ khả năng sáng tạo của nhà nghệ sĩ. Tuy nhiên,
suốt hàng nghìn năm qua, khái niệm này đã có sự biến đổi rất lớn về nội hàm; đã hình
thành những cách hiểu rất khác nhau về “cốt truyện”. Chẳng hạn, theo quan niệm truyền
thống, cốt truyện là toàn bộ những sự kiện được nhà văn kể trong văn bản tự sự mà
người đọc có thể kể lại. Theo thi pháp học hiện đại, giá trị nổi bật của cốt truyện là cách
trình bày (phương án kể). Cũng có quan niệm có tính chất dung hòa, coi cốt truyện là
“Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định,
tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và
kịch… một mặt, cốt truyện là phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn thể
hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật; mặt khác, cốt truyện còn là phương
tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội [47, tr.100]. Thật ra, tuy có những cách hiểu
khác nhau như vậy nhưng nhìn chung, điều cốt lõi trong nhận thức về cốt truyện, theo
chúng tôi vẫn ổn định. Có thể nói cốt truyện là thành phần cơ bản, quan trọng nhất trong
tác phẩm tự sự; nó bao gồm một hệ thống các yếu tố (nhân vật, tính cách, biến cố, sự
kiện) được tổ chức một cách chặt chẽ để hướng đến một hiệu quả thẩm mỹ.
Do đặc điểm thể loại, trong cốt truyện truyện trinh thám phải đảm bảo hai điều kiện
có tính chất tiền đề là điều tra vụ án (sự kiện) và thám tử điều tra vụ án (nhân vật).
Không có hai yếu tố này thì sẽ không có (không thành) truyện trinh thám. Cả hai yếu tố
này (sự kiện – nhân vật) được kết nối, tổ chức theo một mạch thống nhất, làm sao để khi
câu chuyện kết thúc thì phải chỉ ra được kẻ phạm tội.
100
Với cốt truyện trinh thám phương Tây, vụ án và kẻ tội phạm thường được giới
thiệu ngay ở phần đầu truyện; lý do gây án cũng được giới thiệu một cách kỹ lưỡng và
vai trò mở nút thường được nhấn mạnh nhằm đề cao vai trò của lý trí. Vấn đề chính của
cốt truyện nằm ở việc xác định sự thật, và con đường tìm ra sự thật là một quá trình hành
động đầy khó khăn, phức tạp của thám tử. Nhân vật điều tra phải kết hợp được trực giác
nhạy bén, quan sát sắc sảo, với tư duy logic và suy luận sáng suốt để đi đến kết luận đúng
đắn. Ở đây, người đọc bắt gặp “sự bất ngờ có quan hệ nhân quả” trong quan niệm về cốt
truyện của Aristote.
Mỗi một kiểu truyện trinh thám thường có một vài nét riêng trong cấu trúc cốt
truyện. Chẳng hạn trong truyện trinh thám suy luận, cốt truyện có nhiều tình tiết, biến cố
phức tạp hơn so với các kiểu truyện trinh thám khác. Tuy nhiên, có thể khái quát mô
hình chung của cốt truyện trinh thám, bao gồm các phần, các yếu tố như sau:
PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN THẮT NÚT PHẦN MỞ NÚT
- Các manh mối vụ án
Một vụ án khủng - Những tình tiết bí ẩn - Sự kiện/ Vụ án (bí ẩn)
khiếp/ Một sự kiện - Những yếu tố “gây nhiễu” được giải mã
gây chấn động - Các giả thiết và suy luận - Hung thủ được xác định
loại trừ
Đặc điểm thể loại truyện trinh thám là kể về việc điều tra một vụ án, cho nên dù
triển khai câu chuyện theo cách nào thì đến khi kết thúc, phải chỉ ra được thủ phạm
và nguyên nhân gây án một cách rõ ràng, thông qua những chứng cứ duy lý. Nhà văn
trinh thám không dễ dàng gây sự hứng thú, tò mò cho người đọc nếu đó là những câu
chuyện rời rạc, thiếu logic, phương pháp giải mã các vụ án hoàn toàn xa lạ với tâm lý,
trình độ của người đọc. Bởi thế, yêu cầu đặt ra đối với cốt truyện truyện trinh thám là
phải có nhân vật thám tử tài ba, sắc sảo; nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn, gay cấn, thắt
mở rất hợp lý, đầy kịch tính. Câu chuyện càng giàu tính chất phiêu lưu mạo hiểm thì
sức hút đối với độc giả càng mạnh mẽ; hứng thú của người đọc mới được duy trì từ
đầu đến cuối.
Cốt truyện luôn luôn là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ trong quá trình xây
dựng tác phẩm. Thông qua cốt truyện, nhà văn vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa
101
thể hiện tâm hồn, tình cảm và sự đánh giá chủ quan của mình đối với cuộc sống. Tuy
nhiên, xung đột xã hội mới chỉ là cơ sở khách quan của cốt truyện, vì vậy không thể
đồng nhất xung đột xã hội với cốt truyện. Nhà văn không thể bê nguyên xi những chuyện
có thật ngoài đời vào tác phẩm, mà những hiện thực đó phải được nhà văn đồng hóa một
cách có nghệ thuật nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, thứ yếu để xây dựng cốt
truyện theo hướng điển hình hóa. Vì vậy, cùng sống trong một hoàn cảnh xã hội giống
nhau, nhưng các nhà văn lại xây dựng những cốt truyện khác nhau; qua đó thể hiện quan
điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng, phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của riêng mình.
4.1.1.2. Kiểu cốt truyện trinh thám tiêu biểu của Phương Tây
Truyện trinh thám Việt Nam như đã nói, chịu ảnh hưởng sâu sắc thể loại trinh thám
phương Tây. Để kết luận về đặc điểm cốt truyện của thể loại trinh thám Việt Nam, điều
cần thiết là phải hiểu rõ những đặc điểm của thể loại mà các nhà văn Việt Nam đã lựa
chọn để học tập, mô phỏng. Chính vì thế, trong chương này, chúng tôi sẽ dành một phần
của luận án để trình bày một cách khái quát về đặc điểm cốt truyện truyện trinh thám
phương Tây.
Thể loại truyện trinh thám đòi hỏi rất cao yếu tố lý trí, nhất là trong việc tổ chức
các sự kiện của cốt truyện. Truyện trinh thám phương Tây có nhiều kiểu, nhóm khác
nhau; mỗi nhóm có mô hình cốt truyện riêng. Có thể kể đến một số kiểu cốt truyện tiêu
biểu sau:
+ Cốt truyện trinh thám kinh dị, kỳ ảo: Xuất hiện ở Anh vào cuối thế kỷ XVIII, cốt
truyện kết hợp các môtip kinh dị, cạm bẫy, hồn ma, sức mạnh siêu nhiên với niềm hoài
niệm quá vãng. Cốt truyện kỳ ảo mở đầu bằng những điều rất bình thường, dần dần đưa
người đọc đến những bí ẩn không thể giải thích nổi. Nhà văn Adgar Allan Poe là người
đã rất thành công với kiểu truyện này. Tác phẩm của ông là sự kết hợp giữa cái siêu hình
và cái hiện thực; nó báo hiệu sự ra đời của tiểu thuyết khoa học giả tưởng, kinh dị và
huyễn hoặc về sau.
+ Cốt truyện trinh thám cổ điển: Nhà văn Edgar Allan Poe được coi là “ông tổ” của
truyện trinh thám cổ điển (một cách nói để phân biệt với truyện trinh thám hiện đại). Nhà
văn Mỹ này đã sáng tạo nên nhân vật thám tử A. Dupin trứ danh, được xem như “người
hùng suy lý” nên truyện trinh thám của ông được gọi bằng nhiều tên như: trinh thám suy
lý, trinh thám câu đố, trinh thám cổ điển...
102
Kiểu cốt truyện truyện trinh thám cổ điển, kể về quá trình thám tử điều tra, khám
phá tội ác và được cấu trúc theo dạng “câu đố”, dựa theo “lý thuyết trò chơi”. Mở đầu là
một sự kiện, một tội ác, một vụ án bí ẩn, khủng khiếp, người kể trình bày các dấu vết của
hiện trường. Phần thắt nút là những tình tiết bí hiểm vây quanh, thám tử thẩm vấn các
nhân vật tình nghi; những yếu tố liên quan được “tung hỏa mù” để người đọc tìm hiểu
manh mối vụ án; các giả thiết được đặt ra bằng phương pháp loại trừ. Phần mở nút là khi
kẻ phạm tội và động cơ gây án được kết luận. Poe nêu rõ, “Mọi cốt truyện đúng như tên
gọi là cốt truyện phải được xây dựng nhằm vào sự mở nút của nó trước khi ngòi bút động
đến những vấn đề khác”. Nhà văn tính toán, cân nhắc những hiệu ứng sẽ xảy ra đối với
người đọc. Theo đó, bối cảnh truyện thường diễn ra vào ban đêm; cách kể chuyện
thường theo thời gian hồi tưởng, nhân vật trần thuật thường là ngôi thứ nhất nên cốt
truyện của Poe mang dáng dấp những lời tự thuật, liên tưởng đến giá trị phê phán xã hội.
Một số tác phẩm tiêu biểu như Án mạng đường nhà xác, Con quỷ đồi bại, Con cánh cam
vàng, Bí mật của Marie Roger. Kiểu cốt truyện “câu đố” của Edgar Poe được nhiều nhà
văn trên thế giới tuân thủ khi xây dựng truyện trinh thám cổ điển.
Truyện trinh thám cổ điển tiến đến “thời kỳ hoàng kim” từ những năm 1890-1945
với nhiều cách tân về cốt truyện. Hình ảnh thám tử chuyên nghiệp Shelock Holmes xuất
hiện đã kéo theo nhiều sự thay đổi về cốt truyện. Đây là lúc truyện trinh thám phát triển
theo hướng đề cao sự tương tác giữa tác giả, tác phẩm và người đọc.
+ Cốt truyện trinh thám hiện đại Mỹ: Một nhà văn Mỹ khác, Mark Twain đã đưa ra
một kiểu truyện trinh thám rất khác với truyện trinh thám cổ điển. Đặc điểm của trinh
thám hiện đại là “sự hài hước và chủ nghĩa hiện thực của Mark Twain vượt qua những
quy định của thể loại trinh thám, nhắm đến sự phê phán các định chế, những ảo tưởng
của xã hội và đưa chất văn học vào trong cấu trúc truyện trinh thám” [11, tr.8], với sự ra
đời của nhân vật thám tử tư hard-boiled. Từ đó, truyện trinh thám hiện đại Mỹ vẫn tiếp
tục cho đến ngày nay với nhiều trường phái khác nhau.
+ Cốt truyện trinh thám đen: Thuật ngữ “truyện trinh thám đen” gắn với một thể
loại tiểu thuyết có tên là “tiểu thuyết đen” vốn gây nhiều tranh cãi trong giới phê bình
văn học phương Tây. Ranh giới loại truyện này rất khó phân biệt, bởi nó bao gồm nhiều
yếu tố: hình án (cảnh sát), kinh dị, bí hiểm, hiện thực… Truyện trinh thám đen cũng có
nhiều dòng khác nhau: Truyện trinh thám đen của Pháp đặt nặng phần điều tra và phân
103
tích tâm lý, coi trọng vai trò tội phạm, truyện của Anh lại đặt thám tử làm nhân vật quan
trọng, truyện trinh thám Mỹ lại nhấn mạnh vào hành động của nhân vật…
+ Cốt truyện trinh thám li kì, giật gân: Đối với truyện trinh thám li kì, giật gân, cốt
truyện khá sơ lược, đơn giản. Nó không sáng tạo ra một thế giới, cũng không mang ý
nghĩa đời sống và cá tính các nhân vật. Truyện kể như một cái khung định sẵn và được tự
động hóa; các nhân vật không có chiều sâu tính cách. Kiểu truyện này ít chú ý về trần
thuật mà chỉ liệt kê các hành động.
+ Cốt truyện trinh thám - hình sự: Đây là kiểu truyện rất khó xác lập tiêu chí để
phân biệt với kiểu truyện khác. Đặc điểm kiểu cốt truyện này là người đọc sẽ đồng hành
với các nhân vật trong từng bước phá án chứ không phải theo lối “đánh đố”. Nhân vật
chính trong truyện trinh thám - hình sự thường là một cảnh sát điều tra, một điệp viên
hoạt động trong lòng địch.
Một trong những nét độc đáo nhất làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của cốt truyện
trinh thám phương Tây là trong mỗi tác phẩm bao giờ cũng xuất hiện những nhân vật có
bản lĩnh, độc đáo, có cá tính, để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Đó thường là
những tính cách đa diện và phức tạp; hành xử mạnh mẽ, dứt khoát.
4.1.2. Mô hình cốt truyện truyện trinh thám Việt Nam
Truyện trinh thám là một thể loại mới mẻ, thuộc dòng văn học giải trí, được hình
thành khá muộn so với các thể loại khác trong dòng văn xuôi tự sự Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX. Các nhà văn trinh thám đã ý thức sâu sắc về những yếu tố làm nên sức sống của
một tác phẩm, cho nên họ đã không ngừng tìm tòi sáng tạo, nhất là cốt truyện. Nếu như
cốt truyện phiêu lưu tập trung vào hành trình nhân vật với kết quả là những khám phá
mới mẽ về con người và cuộc sống thì cốt truyện trinh thám tập trung vào vụ án để trả lời
câu hỏi: Ai là thủ phạm? Chính cuộc truy tìm này đã đem đến cho độc giả Việt Nam
những giây phút thư giãn thông qua cấu trúc của các kiểu cốt truyện trinh thám, vừa
truyền thống vừa hiện đại.
Trên cơ sở mô phỏng, tiếp biến một thể loại văn học từ nước ngoài, cốt truyện
trinh thám Việt Nam vừa có những đặc điểm chung, vừa có những nét riêng; không
tuân thủ hoàn toàn theo nguyên tắc thể loại của phương Tây. Nhà văn Phạm Cao Củng
cho rằng: “ Khi tìm một cốt truyện trinh thám để viết, tác giả phải đi ngược lại độc giả,
nghĩa là trước hết phải tìm một kết cấu câu chuyện, gói ghém, dằng buộc lại, rồi dấu
104
phủ đi. Sau đó, tác giả theo một con đường ngoắt ngoéo đi tới chỗ khởi đầu câu
chuyện, và dọc đường phải cắm sẵn những cột mốc để đánh dấu lối đi. Cuối cùng, con
đường này phải xóa nhòa hẳn, không để cho người đọc nhận biết ...” [24, tr.77]
Hình thành và phát triển trong giai đoạn giao thời của lịch sử dân tộc, cốt truyện
truyện trinh thám Việt Nam một mặt chịu ảnh hưởng truyện phương Tây qua mô hình
ba phần (mở đầu - thắt nút - hóa giải), tuy vậy, dấu ấn văn học truyền thống vẫn được
duy trì khá rõ nét. Điều này được thể hiện thông qua sự xuất hiện (một cách có hệ
thống) những môtíp quen thuộc trong truyện kể dân gian, truyện thơ Nôm, truyện nghĩa
hiệp…, ngay cả về tư tưởng nghệ thuật cũng vậy. Nhìn chung, truyện trinh thám Việt
Nam thường bám rất sát triết lý, quan niệm truyền thống: “thiện giả thiện báo, ác giả ác
báo”, “nhân quả”. Đó có thể cũng là một nguyên nhân khiến cốt truyện thường có hiện
tượng “pha tạp”, phối ghép yếu tố trinh thám cùng với các yếu tố khác (truyện trinh
thám - lịch sử, trinh thám - tình ái, trinh thám - truyền kỳ…).
Trong các truyện mang màu sắc trinh thám, nhất là các truyện ra đời ở giai đoạn
ba mươi năm đầu của thế kỷ, tác giả thường có xu hướng xây dựng cốt truyện theo lối
truyền thống. Một mô hình cốt truyện gồm các bước: Gặp gỡ - tai biến – lưu lạc – đoàn
viên. Điều này thể hiện rất rõ qua các truyện Mảnh trăng thu (Bửu Đình), Châu về hiệp
phố (Phú Đức), Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc (Biến Ngũ Nhy)… Ở các
truyện này, các sự kiện, biến cố, hành động nhân vật giữ vai trò quan trọng; các sự kiện
luôn gắn với chuỗi hành động của nhân vật. Mô thức tư duy theo lối “thiện – ác đáo
đầu chung hữu báo” ở lối truyện này vẫn hiện diện thường xuyên trong tác phẩm. Với
các truyện trinh thám kỳ ảo, kinh dị, cốt truyện thường mở đầu bằng vụ án (cái chết),
hoặc những sự kiện kỳ lạ và kết thúc câu chuyện, tác giả giải thích các hiện tượng đó
dựa trên cơ sở khoa học. Chẳng hạn, truyện Hai lần chết, Ông Phán nghiện, Vàng và
máu, Một chuyện ghê gớm... Cũng có không ít truyện trinh thám suy luận không có cái
chết và thám tử cũng không truy tìm nguyên nhân của cái chết (Lê Phong làm thơ,
Người một mắt).
Cốt truyện truyện trinh thám Việt Nam do được hình thành trong một hoàn cảnh
đặc biệt nên trong thực tế, có rất nhiều kiểu dạng khác nhau. Nhưng xét trên đại thể, có
hai mô hình cơ bản: cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến.
105
4.1.2.1. Cốt truyện đơn tuyến
Cốt truyện đơn tuyến là kiểu cốt truyện rất phổ biến trong truyện trinh thám Việt
Nam, nó có nguồn gốc từ lối xây dựng cốt truyện trong văn học truyền thống. Ở đây, cấu
trúc tự sự được triển khai theo mạch thẳng thời gian, duy trì quan hệ nhân quả. Tất cả
diễn biến theo từng lớp lang, tuần tự; thời gian trần thuật thường trùng với thời gian cốt
truyện.
Tác phẩm trinh thám theo lối cốt truyện đơn tuyến thường chỉ có một nhân vật
chính, đặt trong mối quan hệ với tất cả nhân vật khác, hướng về một chủ đề và dễ theo
dõi nội dung, tư tưởng. Nó thể hiện trọn vẹn một vụ án, với một nguyên nhân ban đầu và
một kết quả cuối cùng. Trong cốt truyện đơn tuyến, kịch tính được tác giả đặc biệt chú
trọng (do ảnh hưởng cốt truyện dân gian, truyện thơ Nôm, truyện truyền kỳ của văn học
trung đại). Nếu cốt truyện đơn tuyến trong văn học trung đại thường được tác giả cài đặt
nhiều chi tiết li kỳ, sản phẩm của quá trình thần thánh hóa, truyền thuyết hóa theo quan
điểm, tín ngưỡng dân gian thì cốt truyện trinh thám nửa đầu thế kỷ XX thường hướng tới
tính xác thực của chi tiết, lập luận logic, biện chứng, có sức thuyết phục và gây được ấn
tượng mạnh mẽ đối với người đọc. Bởi cốt truyện đơn tuyến và tình tiết truyện thường
giao nhau một cách đơn giản, cho nên dung lượng, quy mô tác phẩm thường cũng vừa
phải. Đa phần cốt truyện ngắn gọn, thường xoay quanh nổ lực điều tra nhằm truy tìm
nguyên nhân sự thật của một vụ án nên ít tình tiết, việc trần thuật theo dòng tuyến tính sẽ
giúp cho độc giả dễ nắm bắt nội dung ý nghĩa của truyện. Dựa vào mô hình cốt truyện
trong văn học truyền thống trước tiên là để chính tác giả “luyện bút”, sau nữa là giúp độc
giả quen dần với một thể loại mới. Có thể dễ dàng nhận ra mô hình cốt truyện đơn tuyến
qua tác phẩm của Phạm Cao Củng như Quả báo, Buổi tất niên, Bát cơm siếu mẫu, Người
hổ, Người một mắt, Đôi hoa tai của Bà Chúa, Ba đốt ngón tay… hoặc các truyện Vàng
và máu, Lê Phong làm thơ của Thế Lữ, Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc của
Biến Ngũ Nhy ... Đây chính là dấu hiệu của một thể loại văn học mới hình thành, chưa
đoạn tuyệt hẳn với những chi phối nặng nề của văn học quá khứ và chuyển tiếp từ văn
xuôi chữ Hán sang chữ quốc ngữ nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng là một cách xử lý
phù hợp của nhà văn trinh thám Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
Kịch tính là một yếu tố quan trọng trong cốt truyện trinh thám đơn tuyến, chính
nhờ yếu tố kịch mà câu chuyện được đẩy tới điểm đỉnh, tạo không khí hồi hộp, căng
106
thẳng cho câu chuyện khiến độc giả thích thú, kịch tính thường tập trung vào các xung
đột, các tình huống gay cấn trong đời sống nhân vật. Người kể luôn luôn đặt sự vật, hiện
tượng trong thế đối lập tốt – xấu, cao cả - thấp hèn, ánh sáng – bóng tối, thiện ác; và ẩn
chứa trong đó là cái nhìn động: đi từ đau thương bất hạnh đến hạnh phúc. Kịch tính xuất
hiện rõ nét ở tình huống truyện, là yếu tố chủ yếu để tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Trong Ba Lâu ròng nghề đạo tặc là những câu chuyện của tướng cướp Ba Lâu qua từng
vụ án, tác giả thông qua những tình tiết li kỳ, hấp dẫn, đầy kịch tính mà Ba Lâu đối đầu
với cảnh sát để rồi trốn thoát một cách ngoạn mục.
Trong Tiếng hú ban đêm, kịch tính nảy sinh từ mâu thuẫn không thể hóa giải
của nhân vật Mụ Ké. Với tư cách người mẹ, ước mơ của mụ Ké là đảm bảo cho đứa
con gái duy nhất của mình sẽ có một cuộc sống hạnh phúc; nhưng điều đó không thể
đạt đến vì đứa bé trong một lần đi dạo trong rừng đã bị hổ bắt ăn thịt. Trong cơn đau
đớn tột cùng đó, khát vọng lớn nhất của người mẹ là tìm cách trả thù. Tuy nhiên, đấy
lại là một mâu thuẫn không thể hóa giải, nói đúng hơn là chỉ có cách là tự hủy diệt.
Đối đầu với mãnh thú, chắc chắn bi kịch sẽ xảy ra với người đàn bà bất hạnh. Tác giả
mô tả tình huống kịch (bi kịch) một cách chi tiết: “Mẹ Mí Nàng còn sức chém, con hỗ
còn sức bám lấy lưng bà ta. Đến lúc người đàn bà tắt hơi buông thõng tay xuống thì
con hỗ vừa hết sức mà rã rời chân ra” [66, tr.18]. Tác phẩm hấp dẫn người đọc, một
phần rất quan trọng là nhờ tính kịch này. Trong Một chuyện ghê gớm, tình huống
truyện xảy ra khi nhân vật “tôi” (trong nhóm người Nùng đi săn), phát hiện ra cổ
miếu hoang trong rừng; từ đó anh còn phát hiện ra điều ghê gớm hơn: một tay Khách
trú tra trấn man rợ nạn nhân (một cô gái trẻ). Trong thế cùng đường, anh giết được
tay người Khách. Qua lời kể của cô gái, anh biết về câu chuyện trả thù khủng khiếp
suốt ba đời của dòng họ Lý Thạch: “bao nhiêu con trai nhà họ Mã đều phải chết như
phụ thân nó ngày trước và con gái, con dâu nhà họ Mã cùng chịu một khổ hình cay
độc, nhơ nhuốc như mẹ nó đã bị hành hạ khi xưa” [65, tr.110]. Đây cũng là một dạng
cốt truyện mang tính kịch (hành động kịch).
Trong Vàng và máu, kịch tính được đẩy lên càng lúc càng cao kể từ khi tên người
Thổ chạy lạc vào nhà quan Châu Nga Lộc. Câu chuyện bắt đầu với núi Văn Dú đầy
huyền thoại bí ẩn và ghê sợ, sự xuất hiện đột ngột của người Thổ trong nhà quan Châu
Nga Lộc, lần lượt các tình tiết khám phá núi Văn Dú và cách lý giải nguyên nhân những
107
cái chết của bọn người Tàu tìm vàng. Cuối cùng Châu Nga Lộc tìm được kho báu. Các
câu hỏi đầy bí ẩn cứ liên tục hiện ra trong đầu vị quan miền núi? “Chúng mày là người ở
đâu? Đến hang văn Dú làm gì? Vì sao lại có người chết ? Mảnh giấy lấy được trong tay
Nùng Khai ẩn chứa điều gì ? Tình cờ giải mã được tờ giấy, đưa người nhà vào hang Văn
Dú, Châu Nga Lộc lại đối diện với thử thách lớn hơn: “Một cảnh tượng hãi hùng trước
cửa hang với những xác chết nằm, ngồi đủ kiểu” (…) lý giải được nguyên nhân những
cái chết cùng các tảng đá cuội “không được đứa nào chạm đến những tảng đá ấy. Nó
nguy hiểm lắm đó, nó làm chết người” (…). Thấy được kho báu, kịch tính lên tới điểm
đỉnh khi quan Châu Nga Lộc nín lặng, liếc mắt nhìn bọn tôi tớ: “Nhưng mà không! (Ông
nghĩ thầm) không hề gì! Chúng nó là người trung thành lắm. Ta phải bình tĩnh mới được
... ừ không sợ gì!” [67, tr.32].
Trong các truyện trinh thám suy luận và mạo hiểm, với kết cấu cốt truyện đơn
tuyến, tác giả thường vận dụng nhiều cách để đẩy kịch tính lên cao. Mấu chốt ở đây là
xung đột giữa thám tử và tội phạm. Một bên muốn nhanh chóng tìm ra thủ phạm của vụ
án, một bên tìm cách che dấu tội lỗi của mình sao cho không bị phát hiện. Xung đột càng
căng thẳng thì hành động của nhân vật càng trở nên quyết liệt, sức hấp dẫn của tác phẩm
càng được tăng thêm. Nhiều khi, ở phần thắt nút, nhà văn lại xen vào một số tình tiết
“gây nhiễu”, “tung hỏa mù”, tạo sự nghi ngờ… đẩy độ căng thẳng của câu chuyện lên
mức cao hơn. Trong Nhà sư thọt, diễn biến câu chuyện chỉ xoay quanh hoạt động điều
tra của thám tử Kỳ Phát. Mở đầu, Kỳ Phát bắt được kẻ ăn trộm; lấy được cái mũ và chiếc
can mà anh chàng Do trộm được; từ đó Kỳ Phát khám phá ra nguyên nhân vụ án
là chàng rể âm mưu giết bố vợ để chiếm đoạt gia tài. Tuy nhiên, ở lần chạm trán
thứ hai giữa Kỳ Phát và Tâm, kịch tính được đẩy lên điểm đỉnh. Kỳ Phát đưa ra
điều kiện dứt khoát: “Ta hẹn cho mi một phút, nếu chiếc đồng hồ treo trên tường
kia đánh dứt tiếng chuông mười rưỡi mà mi vẫn chưa ưng thuận thì ta là Kỳ
Phát, thề có vong linh Tiếp, ta quyết đưa mi ra nộp cho các nhà chuyên môn
ngay” [21, tr.104]. Liếc nhìn kim đồng hồ từ từ dịch chuyển, một sự im lặng đến
nghẹt thở, và Tâm vội rút phắc một gói giấy buộc bằng chỉ đỏ, lấm lét trao cho
Kỳ Phát… Đây là một tình tiết có tác dụng gia tăng kịch tính.
Cũng có khi, nhà văn lại đưa vào các tình tiết tạo sự bất ngờ. Trong Kho tàng họ
Đặng, mạch truyện được bắt đầu từ đêm ba mươi Tết cho đến khi Kỳ Phát tìm ra kho
108
tàng của nhà họ Đặng. Các sự kiện trong truyện đều tập trung vào việc truy tìm bí ẩn trên
chiếc đĩa cổ và giải mã bí mật di chúc của dòng họ Đặng. Tuy nhiên, sau khi vào được
trong hang, miệng hầm bị lấp kín, cả bọn người đi tìm kho báu kinh hoàng, hoảng sợ. Sự
nguy cấp mỗi lúc một tăng. Nước trong hang đã ngập đến đầu, thời gian chỉ còn tính
bằng phút; “Còn bốn phút”, mọi người hết sức chống chọi: “Còn hai phút”, mọi người
im lặng như tờ, chấp nhận cái chết đến từ từ. Bỗng Kỳ Phát “giơ cao, đập khẽ trên trần
hầm, vài ba mảnh đất mỏng rơi xuống, để lộ một phiến đá. Đó là một lối lên tầng hầm
trên” [18, tr.160]. Tình huống bất ngờ này đã khiến cả nhóm vừa thoát chết, một cái chết
đã cầm chắc, lại vừa tìm được kho báu.
Truyện trinh thám sử dụng cốt truyện đơn tuyến rất gần gũi với mô hình cốt truyện
trong văn học truyền thống. Với cốt truyện theo mô hình nhân – quả, câu chuyện kết thúc
có hậu, nhân vật bị hại trong vụ án được trả lại sự công minh… là một môtip quen thuộc
trong văn chương truyền thống (như truyện thơ Nôm, truyện nghĩa hiệp…). Ở đó, phạm
vi câu chuyện thường thu hẹp trong một gia đình, dòng họ; các sự kiện chủ yếu chỉ xoay
quanh các mối quan hệ tình yêu đôi lứa, tranh giành tài sản… Và do câu chuyện đơn
giản, cốt truyện không có nhiều sự kiện, nhân vật ít cho nên cách tổ chức đơn tuyến là
thích hợp. Tất cả các yếu tố sẽ được trải ra theo thời gian tuyến tính; sự kiện nào diễn ra
trước sẽ được trình bày trước, sự kiện nào diễn ra sau thì nhất thiết phải trình bày sau.
Thời gian trở thành một “nhân chứng vô hình”, âm thầm dõi theo toàn bộ tiến trình sự
việc. Do vậy, tác phẩm không khác gì một cuốn phim hoàn chỉnh, ghi chép chi tiết,
tường tận những gì lần lượt diễn ra. Hoàn toàn tôn trọng thứ tự trước sau của các biến cố,
sự kiện. Cốt truyện theo thời gian tuyến tính giúp câu chuyện vận động một cách tự
nhiên, không làm xáo trộn mạch tư duy của độc giả nên việc theo dõi diễn biến truyện
cũng trở nên dễ dàng hơn.
Trong xã hội, ở đâu xuất hiện cái ác thì ở đó cũng có những con người đại diện cho
chánh nghĩa, phanh phui và trừng trị kẻ gây ác. Cảm hứng của nhà văn trinh thám chủ
yếu là cảm hứng ngợi ca; đứng về phía chính nghĩa, thông qua những nhân vật thám tử
anh minh, đầy nghĩa khí để bảo vệ, biểu dương cái lương thiện, tốt đẹp. Tuy nhiên, sự
phân biệt rạch ròi giữa thiện và ác trong truyện nhiều khi dẫn nhà văn đến chỗ đơn giản
hóa, có xu hướng lí tưởng hóa hiện thực. Thực tế cuộc sống vốn phức tạp; mọi thứ đều
có tác động qua lại, chuyển hóa cho nhau chứ không tồn tại một cách tách biệt và tĩnh tại.
109
Nhưng trong giai đoạn mở đầu của văn chương trinh thám, tác giả chưa thể tạo ra được
những tác phẩm hoàn thiện, chưa xây dựng được những hình tượng nhân vật thám tử
lừng danh như các bậc thầy truyện trinh thám phương Tây cũng là điều dễ hiểu. Nhà văn
mới chỉ mô phỏng hiện thực để sáng tạo nên các tác phẩm phù hợp với hoàn cảnh và
nhận thức của người đọc đương thời; phù hợp với khung cảnh và tính cách Việt Nam.
Điều đó, theo chúng tôi, cũng đã là một thành công đáng ghi nhận trong buổi đầu phôi
thai của thể loại.
4.1.2.2. Cốt truyện đa tuyến
Bên cạnh những tác phẩm sử dụng cốt truyện đơn tuyến, truyện trinh thám Việt
Nam còn có những tác phẩm có cốt truyện tổ chức theo lối đa tuyến. Cốt truyện đa tuyến
là cốt truyện trình bày một hệ thống sự kiện phức tạp, nhằm tái hiện nhiều bình diện của
đời sống trong một thời kỳ lịch sử, tái hiện những diễn biến phức tạp của nhân vật. Đây
là kiểu cốt truyện có nhiều nhân vật, nhiều sự kiện phức tạp, phát triển theo nhiều tuyến;
chúng hoặc song hành, hoặc chồng chéo, đan xen, tác động qua lại, giao thoa với
nhau…Các tác phẩm này thường có quy mô lớn, tuyến hành động của truyện kể được
hình thành qua mối quan hệ giữa các nhân vật và chính từ mối quan hệ này sẽ tạo ra tình
huống. Vì vậy, sự di chuyển của nhân vật từ một tình huống này sang một tình huống
khác có thể được thực hiện nhờ việc tham gia của một nhân vật mới hay có sự thay đổi
mối quan hệ. Môtip làm thay đổi tình huống là môtip linh động, là trung tâm và động lực
của chuyện kể, còn cốt truyện chú trọng đến trần thuật, vì thế người kể chuyện có vai trò
lớn trong việc phát triển cốt truyện. Do đó, câu chuyện thường diễn ra trong một bối
cảnh không gian – thời gian rộng, đa dạng, lâu dài. Cốt truyện đa tuyến như trong văn
học truyền thống tuy không thực sự phổ biến trong truyện trinh thám, song cũng không
phải quá hiếm hoi. Nét đặc trưng của nó là sự hiện diện của các “phe” đối nghịch, đối lập
nhau trong tác phẩm. Điều này được nhà văn trinh thám Việt Nam kế thừa để vận dụng
một cách linh hoạt trong thể loại văn học mới này.
Mô hình chung của cốt truyện đa tuyến trong truyện trinh thám Việt Nam là xây
dựng một hệ thống nhân vật gồm các “phe”, và tổ chức các chuỗi sự kiện, biến cố tương
ứng. Thông thường, truyện đa tuyến sẽ có hai “phe” chính diện và phản diện đối lập
nhau về lí tưởng, chính kiến, đạo đức, hành động… Một bên (phe chính) đại diện cho
chính nghĩa, lí tưởng, cái đẹp…, một bên (phe tà) thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu
110
tranh với nhau không khoan nhượng, không thỏa hiệp, một mất một còn và kết thúc,
phần thắng thường thuộc “phe” chính nghĩa. Khi đã gộp nhân vật thành thành “phe” thì
mặc nhiên trong mỗi “phe” sẽ hình thành các bộ phận (tuyến, nhóm) khác nhau. Mỗi
tuyến là một tập hợp những kiểu người gần gũi với nhau về công việc, về hoàn cảnh, về
phẩm cách… Chẳng hạn trong phe chính có nhân vật thám tử, ông “cò” (police), mật
thám, những người nghĩa khí… phe tà gồm kẻ thủ ác, bọn giết người, trộm cướp, những
băng đảng … Các tuyến nhân vật quan hệ, phối hợp với nhau theo đuổi những sự việc,
những mục đích (có vẻ) độc lập, riêng biệt, thế nhưng tất cả đều móc xích, tương tác lẫn
nhau trong suốt diễn biến câu chuyện.
Biểu hiện của cốt truyện đa tuyến khá đa dạng: cốt truyện “feuilleton”, cốt truyện
“trinh thám – tình cảm”, truyện “trinh thám – kịch”… Với mô hình cốt truyện theo lối
“feuilleton”, truyện gồm chuỗi nhiều chuyện (tương đối độc lập), thực ra đây là một lối
truyện viết theo lối tiểu thuyết chương hồi truyền thống trong văn học Việt Nam và
Trung Quốc. Đồng thời, một số tác phẩm trinh thám có cốt truyện đa tuyến, gần với
truyện trinh thám phương Tây, được bồi đắp thêm những tình tiết, sự kiện, nguyên nhân
gây án… quen thuộc với người đọc Việt Nam. Tất cả các tác phẩm đều được đăng báo
nhiều kỳ, trước khi in thành sách. Vào đầu thế kỷ XX, những thiên truyện như Kim thời
dị sử của Biến Ngũ Nhy, Người bán ngọc của Lê Hoằng Mưu, Châu về hiệp phố của Phú
Đức… đăng trên các báo, trở thành những sự kiện lớn trong đời sống tinh thần của người
Việt Nam (nhất là vùng Nam Bộ). Nhìn chung, đó đều là những bộ tiểu thuyết có nhiều
nhân vật, với những tình tiết phức tạp.
Bên cạnh cốt truyện “feuilleton”, một kiểu cốt truyện đa tuyến khác, tạm gọi là
trinh thám - tâm lý cũng thường được các nhà văn sử dụng. Sở dĩ gọi như vậy là vì tuy
cũng thuộc thể loại trinh thám, vẫn là chuyện điều tra, phá án nhưng tác giả rất chú trọng
đến việc mô tả, trình bày tâm lý của nhân vật, coi đó cũng là thành phần chính của
truyện. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, sự vận động nội tâm nhân vật là cơ sở thúc
đẩy truyện phát triển. Với mô hình cốt truyện trinh thám – tâm lý, nhân vật thám tử trở
nên “thật” hơn, gần gũi với người đọc; giảm bớt tính chất “tôn quý”, với những nét đặc
trưng của mẫu nhân vật nghĩa hiệp lí tưởng, như vẫn thường thấy trong văn học truyền
thống. Truyện Mảnh trăng thu (Bửu Đình) chẳng hạn, thể hiện rất rõ những nỗ lực đổi
mới, cách tân về mặt hình thức thể loại của tác giả. Gần một phần ba số trang trong cuốn
111
sách này là những trang nhật ký về thời gian lưu lạc của Kiều Tiên. Trong Người bán
ngọc, người đọc thường xuyên bắt gặp dòng suy tưởng của Tô Thường Hậu và Trang Tử
Minh về tình yêu đôi lứa, về hạnh phúc, lẽ công bằng… Kiểu cốt truyện này hấp dẫn
không những ở tình tiết ly kỳ mà còn vì tâm lý nhân vật được khai thác đến tận cùng
những ngóc ngách sâu kín của nó. Với kiểu cốt truyện trinh thám – tâm lý, vừa đảm bảo
được tính chất trinh thám, phá án, vừa chú trọng dòng vận động nội tâm của nhân vật,
các tác giả đã tạo được một lối truyện mới mẻ nhưng không xa lạ đối với người đọc
đương thời.
Những truyện mang màu sắc trinh thám – ái tình – hành động - võ hiệp, kịch tính
thường xuất hiện ở hành động nghĩa hiệp của nhân vật trung tâm, thời gian truyện kéo
dài. Với cốt truyện đa tuyến, kịch tính của cốt truyện ít căng thẳng vì đa phần là những
vụ án liên quan đến tình cảm của những người trong gia đình, dòng họ nên tác giả
thường mở rộng các mối quan hệ của vụ án để dẫn đến lối kết thúc có hậu. Mảnh trăng
thu kể chuyện truy tìm kẻ giết chồng Kiều Tiên trong đêm tân hôn, khiến nàng mang tội
giết chồng phải bỏ đi nhà tránh nạn. Điểm thắt nút của câu chuyện là lúc Minh Đường
đối đầu với Nguyễn Viết Sung để tìm tung tích Kiều Tiên: “Hai con mắt Minh Đường lại
ngó chăm chăm vào hai con mắt Nguyễn Viết Sung như mèo vờn chuột, làm cho
Nguyễn Viết Sung tự nhiên biến sắc, phải cúi mặt xuống ngay...” [36, tr.408]. Tuy nhiên,
không có tình tiết “bùng nổ” mà mọi chuyện được gỡ bỏ từ từ. Ở phần tiếp theo, tác giả
kéo dài câu chuyện, thêm nhiều sự kiện để kết thúc truyện một cách có hậu. Trong Châu
về hợp phố, kịch tính tập trung ở việc điều tra vụ án, đồng thời kết hợp với ái tình, võ
hiệp và hành động. Mặc dù cốt truyện gồm nhiều sự kiện, biến cố khác nhau, lồng ghép,
đan xen vào nhau, nhưng chất li kỳ của câu chuyện điều tra vẫn được đảm bảo. Điều này
thể hiện ở sự bất ngờ trong mối quan hệ của các nhân vật; tạo nên những tình huống căng
thẳng và hồi hộp cho người đọc. Trong Người bán ngọc, sức thu hút độc giả của thiên
truyện này không chỉ ở chỗ mô tả nhiều yếu tố, tình tiết liên quan dục tính một cách rất
chi tiết, điều mà văn chương truyền thống thường né tránh hoặc ít khi đề cập đến mức
chi li, chi tiết. Truyện được người đọc hâm mộ một phần cũng chính là do yếu tố kịch
của cốt truyện. Kịch tính liên tục được đẩy lên cao kể từ khi quan Đô đốc phát hiện ra
việc người vợ mình ngoại tình. Chính sự trả thù của phu quân và quá trình điều tra của
Trang Tử Minh là những trang viết khiến người đọc không dễ dàng gấp trang sách,
112
không thể bỏ dở nửa chừng bởi sự cuốn hút đầy kịch tính của vụ án. Chính những “mở
nút” bất ngờ đã đem đến những thành công không nhỏ cho truyện trinh thám trong hành
trình chinh phục độc giả.
Trong Chiếc tất nhuộm bùn, tình huống làm gia tăng kịch tính cũng được tác giả sử
dụng khá hấp dẫn. Người Dì ghẻ đem tình nhân về nhà khi cha Kỳ Phát vừa mới qua đời,
bị Kỳ Phát bắt gặp tại trận. Như vậy, bí mật lâu nay bị giấu kín tưởng chừng đã được
phanh phui. Thế nhưng “Chính lúc chàng nhảy vào bắt con dâm phụ, nó đã to mồm lu
loa vu cáo cho chàng cái tội đê hèn: sáng tinh sương lẻn vào buồng Dì mở hòm ăn cắp”
[20, tr.38]. Cũng vì thế mà từ đó, số phận Kỳ Phát rẽ sang một lối khác, đầy cơ cực, tủi
nhục. Đây là một tình tiết rất bất ngờ. Trong Người một mắt, sự kiện bà Cửu mất cái tráp
bạc đã tạo nên một “điểm nút” trong câu chuyện. Mọi nghi ngờ dồn về phía ông Tư
Vượng. Người đọc hồi hộp, căng thẳng bởi ông này khó thoát khỏi cảnh bị truy tố. Thế
nhưng, mọi thứ lại biến đổi theo một cách khác; cuối cùng kẻ ăn cắp lại chính là lão quản
gia của gia đình ông Cửu.
Thám tử Lê Phong (Lê Phong phóng viên), khi đối diện với Lường - Duỳn, anh ta
vẫn tỏ ra tự nhiên, lịch sự tỏ ra có học thức và lịch duyệt. Kịch tính truyện càng đẩy lên cao
do chỗ tác giả dùng nhiều tình tiết “gây nhiễu” để đánh lạc hướng người đọc. Những yếu
tố (gây nhiễu) khiến độc giả càng bị cuốn hút vào câu chuyện, càng bị kích thích suy đoán
về thủ phạm. Để rồi, người đọc thích thú và ngạc nhiên khi phần mở nút, Lê Phong tuyên
bố: “Một người đàn bà biết chồng đi vắng và đánh phấn thoa son để khâu vá trước mặt em
trai ? ... Đó là một điều bất thường ...” [63, tr.99]. Đoạn kết câu chuyện chỉ là việc Lê
Phong lý giải cách thức gây án của thủ phạm. Trong (Gói thuốc lá), người đọc như rối trí
trước cái chết đầy bí ẩn của Đường. Kẻ tội phạm như ẩn sâu trong bóng tối, vụ án đầy
những yếu tố bí ẩn; kịch tính của câu chuyện được dẫn dắt từ tấm thiếp in dòng chữ
X.A.E.X.I.G. trên bàn Thạc biến mất. Ở đây, sức căng của truyện bị chi phối theo các tình
tiết liên quan đến những kẻ tình nghi theo kiểu “cốt truyện vặn xoắn”, nên chỉ cần Lê
Phong giải mã được dòng chữ trên là câu chuyện kết thúc. Trong Những nét chữ, kịch tính
truyện không cao, sức hấp dẫn của truyện là gợi lên óc tò mò ở người đọc khi Lê Phong
lần lượt giải thích cái chết của Tuyết Mai là do Đỗ Lăng vô tình đăng một bài thơ trên báo
khiến nàng sợ hãi mà tự tử. Trong Bức thư của dòng họ Trần Thạch và Mối thù truyền
nghiệp, Bùi Huy Phồn đã xây dựng được một cốt truyện ly kỳ với nhiều tình tiết lắt léo,
113
gây ấn tượng mạnh, thông qua câu chuyện báo thù của dòng họ, tác giả đã tạo được sức
hấp dẫn, li kỳ cho câu chuyện.
Với sự đổi mới nghệ thuật xây dựng cốt truyện, truyện trinh thám nửa đầu thế kỷ
XX đã có những thành công bước đầu đáng ghi nhận. Từ những cốt truyện kịch tính kiểu
truyền thống, các nhà văn đã học tập, sáng tạo những cốt truyện vụ án theo kiểu phương
Tây – vốn là điều mới mẻ với văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Nhà văn hướng tới tính xác
thực của chi tiết, lập luận lôgích, biện chứng, vụ án kết thúc không phải do ngẫu nhiên
hay thần thánh hóa, nên đã có sức thuyết phục người đọc. Mục đích của nhà văn khi sáng
tác, suy cho cùng cũng nhằm thu hút mối quan tâm của độc giả đối với tác phẩm của
mình. Điều này phụ thuộc rất lớn vào việc sáng tạo ra cốt truyện, yếu tố có vai trò quyết
định ở mọi tác phẩm tự sự, bất cứ thể loại nào. Tuy nhiên, cuộc sống không cung cấp cho
nhà văn cốt truyện sẵn có, hoàn chỉnh đến mức nhà văn chỉ việc chép lại. Cuộc sống là
nguồn sáng tác duy nhất nhưng bất cứ tác phẩm thành công nào đều không phải là bản
sao của cuộc sống. Bởi vậy, thực tế không phải tác phẩm trinh thám nào trong giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX cũng thành công. Nhiều truyện kém hấp dẫn, cốt truyện không mang
kịch tính, thiếu mạch lạc, lan man. Hầu hết những truyện chưa tạo nên hứng thú cho
người đọc là do không vượt quá những ràng buộc của cách viết cũ.
Cũng cần lưu ý một điều, trong các truyện trinh thám, yếu tố “ngoài cốt truyện” tuy
không tham gia vào hệ thống, nhưng vẫn có sức mạnh hỗ trợ cho cốt truyện và làm tăng
sức hấp dẫn của cốt truyện. Các nhà văn giàu kinh nghiệm thường quan tâm khai thác
yếu tố tương đối độc lập này, giành cho nó một địa vị xứng đáng trong tác phẩm. Đáng
tiếc, đây lại chính là hạn chế của nhà văn trinh thám Việt Nam. Thực ra, việc phân loại
các kiểu cốt truyện như trên chỉ mang tính tương đối, bởi cốt truyện không bao giờ là
một cái khung cố định. Hơn nửa, truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX có sự
giao thoa, dung hợp về thể loại nên rất khó để phân biệt rạch ròi.
4.2. PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT
Khái niệm “trần thuật”, theo Từ điển thuật ngữ văn học, “là phương diện cơ bản
của phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân
vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ
là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử
nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả” [47, tr.460]. Như vậy, sẽ có rất nhiều yếu
114
tố, phương diện liên quan đến nghệ thuật trần thuật, phương thức trần thuật. Tuy vậy, ở
đây chúng tôi chỉ tập trung vào hai điểm được coi là quan trọng nhất đối với thể loại trinh
thám là quan điểm (hay điểm nhìn) trần thuật và ngôn ngữ trần thuật. Quan điểm trần
thuật, thể hiện tập trung ở vị thế trần thuật - vai kể, cùng với ngôn ngữ trần thuật là các
phương thức, phương tiện để nhà văn bộc lộ tư tưởng và cá tính sáng tạo của mình.
4.2.1. Điểm nhìn - vai kể
4.2.1.1. Vai kể ngôi thứ nhất
Trong truyện trinh thám, phần lớn điểm nhìn được trao cho nhân vật kể. Do vậy
cuộc sống và con người ở đây luôn được nhìn dưới góc độ, cảm quan khác nhau. Theo
quan sát của chúng tôi, đối với các truyện trinh thám mang màu sắc ái tình - nghĩa hiệp,
câu chuyện thường được kể ở ngôi thứ ba. Các truyện thiên về điều tra, phá án thường
được kể ở ngôi thứ nhất. Truyện kể ở ngôi thứ nhất là câu chuyện được kể lại do một
người kể chuyện hiện diện như một nhân vật trong truyện. Nhân vật “tôi” ấy thường là
nhân vật trung tâm, hoặc có thể đóng vai trò người dẫn truyện, hoặc một phần tử trong hệ
thống nhân vật tham gia vào tình huống của truyện. Việc sử dụng ngôi thứ nhất trong tự
truyện ở các tác phẩm văn học không phải là sự sử dụng tùy hứng hay ngẫu nhiên mà nó
mang tính lịch sử, gắn liền với nhu cầu khách quan của thời đại. Người trần thuật trong
truyện giữ một vai trò quan trọng, bởi yêu cầu các truyện phải được viết bởi chính những
người đã từng sống trong hoàn cảnh ấy.
Các tác phẩm trinh thám của Thế Lữ và Phạm Cao Củng chẳng hạn, phần lớn đều
được kể ở ngôi thứ nhất, vì thế điểm nhìn trần thuật chủ yếu phụ thuộc vào nhân vật “tôi”
– người kể chuyện. Ở đây, truyện kể dưới cái nhìn của người trong cuộc, nhân vật thám
tử đã tham gia phá án kể lại những gì mình đã trải qua, đã chiêm nghiệm cho người khác
nghe. Người “khác” đó có thể là một người bạn thân, một cộng sự, một nhân vật bất kỳ
nào đó. Chẳng hạn, trong một truyện của Phạm Cao Củng: “trước hết, tôi nói cho anh
biết một điều mà chưa có dịp nào tôi nói đến ... Anh không hiểu, phải, anh không hiểu,
vậy tôi nói câu này cho anh hiểu nhé (…) Kỳ Phát kể chuyện, có ý ngậm ngùi. Tôi
hỏi...” [20, tr.14;164]. “Nhưng rồi anh sẽ hiểu, anh hãy bình tĩnh nghe em nói rõ và đừng
ngắt lời em” [65, tr.61]. Thực ra, hình thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất vốn không quen
thuộc đối với nhà văn Việt Nam, bởi hình thức trần thuật này phát sinh từ châu Âu (thế
115
kỷ XIX). Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ XX, các nhà văn Việt Nam đã vận dụng khá thuần
thục.
Để tạo nên sự phong phú và đa dạng trong nghệ thuật trần thuật, có khi tác giả lại
“di chuyển” điểm nhìn. Chẳng hạn, thay đổi ngôi thứ trần thuật từ ngôi thứ ba sang ngôi
thứ nhất: “Ngày nào cũng vậy, cứ đúng mười một giờ sáng là anh ta đã có mặt trong tòa
báo ... Tới đây, đoạn truyện mà tôi thuật ra trên kia. Lê Phong ngừng lại vì thấy tôi ngẫn
ngơ chưa hiểu” [63, tr.9; 53]. Đôi khi, nhà văn phối hợp các điểm nhìn khác nhau, xen
lẫn điểm nhìn nhân vật và tác giả, khiến ranh giới dường như bị xóa mờ, khó phân biệt
chủ thể của phát ngôn: “Chúng tôi yên lặng nhìn nhau, có lẽ cả hai cùng nghĩ ngợi không
ngờ rằng trong chuyện này Sắc đẹp và Tình yêu có liên quan một cách lạ lùng quái gỡ
như vậy” [20, tr.99]; “Chúng tôi vào lều giở bánh tây, cơm nắm ..., ăn uống xong tôi để
các bạn ngồi đó ... tôi ngẫm nghĩ một lát rồi quyết định đi vào rừng” [66, tr.94].
Đối với truyện trinh thám, người kể chuyện là một phương diện quan trọng trong
việc dẫn dắt tìm ra cái bí ẩn. Nhân vật thường sử dụng ngôi thứ nhất, xưng “tôi”. Điều
này cho phép tác giả đưa vào việc trần thuật quan điểm riêng của nhân vật, sắc thái tâm
lý, cá tính mang đậm tính chủ quan. Với hình thức này, người kể chuyện trực tiếp tham
gia vào câu chuyện và hiện hữu trong thế giới mà nhân vật hoạt động. Chính ngôi kể
chuyện này tạo cho người đọc cảm giác tin cậy, xác tín về những sự việc và con người
được nói đến trong truyện. Mặt khác, việc nhân vật xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất giúp
người kể đi sâu khám phá thế giới nội tâm, những mối quan hệ, những diễn biến phức
tạp của tâm lý nhân vật, mục đích ở đây là kể một câu chuyện đã xảy ra trong thực tế.
Bản thân người kể truyện “tôi” trong truyện trinh thám còn có ý nghĩa nhân đôi; “tôi”
vừa là người kể chuyện về một vụ án (mình đã chứng kiến, tham gia), đồng thời là kẻ đã
“thoát” ra khỏi các tình huống vụ án, nay quay lại “nhận thức” chính bản thân mình,
phán xét, đánh giá về hành vi của mình. Các nhân vật xuất hiện trong câu chuyện của
nhân vật “tôi” cũng được thể hiện trong sự kết hợp giữa việc miêu tả hành động, lời nói
với những diễn biến tâm lý phức tạp bên trong của nhân vật. Đây là một yếu tố quan
trọng trong việc hình thành nên những hiệu ứng thẩm mỹ của thể loại.
Dạng thức trần thuật từ ngôi thứ nhất với kiểu nhân vật người trực tiếp tham gia
điều tra vụ án, hình ảnh nhân vật “tôi” ở đây không chỉ đảm nhiệm chức năng trần thuật
mà còn tự bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm, xúc cảm cá nhân của mình. Điều này
116
đã tạo nên một kiểu nhân vật đặc biệt: Nhân vật nhạy cảm, giàu cảm xúc và suy tư, quan
sát thế giới xung quanh một cách tự do cùng với những lời bình luận đánh giá sự việc
làm tăng thêm tính hấp dẫn của câu chuyện. Người kể chuyện “tôi” hiện diện khắp nơi:
anh ta biết kẻ đã giết người và điều khiển độc giả theo logic của câu chuyện. Thậm chí,
anh ta còn hiện diện trong truyện với tư cách người làm chứng. Có lúc người kể chuyện
xưng “tôi” thể hiện những chi tiết, tình cảm ngoại đề, nhưng không tiết lộ bí mật câu
chuyện cho đến khi kết thúc. Nhân vật “tôi” trong Một chuyện ghê gớm, kể lại câu
chuyện tìm được cái hầm bí mật trong rừng sâu và câu chuyện báo thù của người Tàu:
Tôi bình sinh đã biết hiều chuyện kỳ dị mà không hề có mấy kinh lạ sợ hãi, vì
mình đã biết trước là điều hoang đường không dám tin. Chính tôi đã một phen
hút chết ở câu chuyện này đây… Cố tình quên nhưng cũng không thể quên
được. Tôi đã trải qua một bước nguy hiểm, phải một phen khiếp sợ thái quá, hầu
như lạc mất hồn vía, còn sống lại chỉ như để mà nhớ mãi, tâm trí như cái kho
tích chứa bao nhiêu điều quái gỡ đã qua …[66, tr.50].
Trong các truyện trinh thám của Thế Lữ, có rất nhiều trường hợp người kể xưng
“tôi”, cũng là người trực tiếp chứng kiến câu chuyện: “Tôi toan dò bước đến gần thì đã
thấy người con gái dướn mình văng cái thây chết xuống (…) Tôi lại phải nói cho độc giả
hay rằng con người giản dị thực thà kia lại là người đa tình (...) Đầu đuôi câu chuyện
như thế này (…) Thưa Cụ, tôi làm nghề viết báo ở Hà Nội. Tôi vào thăm Cụ đây” [66,
tr.111-160]. Có một sự gián cách giữa tác giả thật và nhân vật tác giả trong tư cách người
dẫn chuyện. Sự xuất hiện tên thật của nhà văn - người kể chuyện trong truyện trinh thám
với tư cách người dẫn chuyện nhằm tạo một sự hấp dẫn; ngầm ý rằng, câu chuyện độc
giả đang theo dõi là chuyện có thật trong cuộc sống hiện tại, không phải chuyện bịa.
Một số trường hợp, nhà văn Việt Nam đã biết cách sử dụng lối trần thuật “kép”,
trong tác phẩm xuất hiện ít nhất hai người người kể chuyện, tạo ra hai tầng trần thuật
cùng tiến hành song song. Một người dẫn chuyện xưng “tôi” là nhân vật xuất hiện bên
cạnh câu chuyện được nhân vật chính kể - với vai trò dẫn chuyện. Chẳng hạn, nhân vật
“tôi” và Văn Bình trong truyện của Thế Lữ; Kỳ Phát và người bạn trong các truyện của
Phạm Cao Củng: “thỉnh thoảng trong những đêm mưa lạnh như thế này, tìm đến anh, hút
thuốc lá, hãm chè tàu, kể cho nhau nghe câu chuyện xưa ...” [21, tr. 126]. Những cuộc
gặp gỡ tâm tình giữa người dẫn chuyện và nhân vật thám tử còn là nguyên cớ, nhằm
117
khơi nguồn cho hành động kể của nhân vật chính. Vai kể “tôi” này là chủ thể độc lập,
anh ta đóng vai trò một người nghe kể lại câu chuyện từ nhân vật “tôi” thứ nhất và chỉ
trần thuật lại một cách khách quan những gì nghe được. Những câu chuyện ấy đều được
sắp xếp theo điểm nhìn, định hướng của “tôi” (người kể chuyện) nhằm làm nổi bật vai
trò người kể. Nhân vật chính xưng “tôi” kể câu chuyện cuộc đời mình cho nhân vật
người dẫn chuyện nghe trong những khoảng thời gian nhất định; điều đó dẫn đến việc
nhân vật người dẫn chuyện thường xuyên phải xuất hiện theo thời gian của nhân vật tự
kể. Người dẫn chuyện luôn đồng hành cùng quá trình kể của nhân vật chính – chủ thể
câu chuyện. Người dẫn chuyện xuất hiện để dẫn dắt câu chuyện, đồng thời đưa ra những
nhận xét, đối thoại với nhân vật chính. Do đó, bên cạnh điểm nhìn của nhân vật chính
còn có điểm nhìn của nhân vật người dẫn chuyện; luân phiên theo lối điểm nhìn trực tiếp
và điểm nhìn gián tiếp. Nó không chỉ mô tả những gì anh ta thấy (kể chuyện) mà còn
miêu tả cảm xúc, tâm trạng của nhân vật.
Nhân vật “tôi” là người chứng kiến hoặc tham dự vào vụ án với tư cách tìm hiểu
thêm những góc khuất mà người đọc chưa hiểu, hoặc gợi mở những tình tiết mà nhà
thám tử chưa kịp nói ra. Một số tình tiết trong Nhà sư thọt của Phạm Cao Củng:
Khi mở khóa cửa vào, tôi đã thấy Kỳ Phát ngồi ở đấy rồi … suốt trong bữa
cơm, Kỳ Phát rành rọt kể lại cho tôi từ lúc đầu tiên Kỳ Phát vào trong buồng
này, lúc chàng uống rượu rồi choáng váng nằm ngủ cho đến lúc Do vào thi hành
thủ đoạn [21, tr.31,33].
Thậm chí có nhiều lúc nhân vật tôi (người nghe chuyện) cũng tham gia vào câu
chuyện:
Tôi gật gù rồi nói: “Theo tôi thì không có cách gì ngoài cách điều đình với Tâm,
chúng ta phải đổi lấy cái tự do của hắn để đổi lấy cái gia tài cho Loan và Hợp….
Kỳ Phát gật đầu: Tôi cũng đồng ý với anh, vì ngoài ra không còn phương kế nào
thuận tiện hơn nữa” [21, tr.88].
Một đoạn khác, trong Kho tàng họ Đặng: “Kỳ Phát kể chuyện có ý ngậm ngùi …
Tôi hỏi: “Chàng thiếu niên ấy là anh chứ gì?”. Kỳ Phát buồn rầu trả lời: “Phải, tôi đứng
nấp ở ngoài cửa để xem câu chuyện kết thúc ra sao, khi thấy Cúc ngã gục thì tôi bỏ đi…
Nói xong , bạn tôi gục đầu xuống chăn mà ngủ Nhưng tôi biết Kỳ Phát đâu ngủ chóng
thế” [18, tr.165].
118
Trong Vết tay trên trần, người kể chuyện là bạn của nhân vật thám tử: “Chuyến tàu
của Kỳ Phát và tôi tuy sớm mà ánh nắng cũng đã gay gắt lắm. Từ Nam Định qua Trình
Xuyên, núi Gôi, tôi để ý nhìn Kỳ Phát chỉ thấy hắn lim dim con mắt, thỉnh thoảng lại
ngáp dài … Tàu đã sắp đến Thanh mà hắn vẫn điềm nhiên ngủ như thường… Bây giờ
hẵn chàng không lấy làm lạ nữa, mong chàng sẽ đọc ở mấy hàng đây, lời xin lỗi trân
trọng của Kỳ Phát và của người chép truyện này” [18, tr.7, 15]. Và cứ thế, người kể
chuyện lần lượt kể về việc điều tra vụ án Lâm Nục trả thù Nùng Cao. Kiểu kết hợp các
ngôi trần thuật trong tác phẩm của Phạm Cao Củng thường diễn ra với hai cách thức
chính: hoặc là người kể chuyện toàn năng tổ chức câu chuyện rồi trao lại quyền kể cho
nhân vật chính tự kể; hoặc người kể nấp dưới vai người kể chuyện “biết hết mọi thứ”
nhưng đến cuối tác phẩm lại xưng “tôi” nhằm xác định chủ thể kể chuyện.
Trong truyện Những nét chữ, chủ bút Văn Bình, người đồng nghiệp, bạn của Lê
Phong ở tòa soạn báo Thời Thế, có lúc là người kể chuyện “Tôi giương mắt nhìn Lê
Phong, toan hỏi nhưng anh lắc đầu, vẫn giữ nguyên cái giọng bình tĩnh và nét mặt thản
nhiên” [65, tr.102]; đồng thời, cũng là người nghe, người trực tiếp tham gia và theo dõi
vụ án:
Văn Bình ạ, tôi vừa chợt nghĩ đến một điều quái gỡ, một điều không thể tin
được, nó vô lý như chuyện hoang đường… anh tò mò quá ! Lại bép xép nữa
nên tôi không nói … Thế tôi phải cung khai với anh hết. Anh đáo để thật … Nửa
phút im lặng, trong đó Bình đoán Lê Phong đương dò xét vẻ mặt và cử chỉ
người đối diện với mình” [66, tr.75, 79].
Hoặc trong Mai Hương - Lê Phong, Chương XII – Thế rồi…: “Đến đây, người
thuật chuyện cần phải nói ngay để độc giả biết rằng lúc đó Lê Phong thấy mình chết
thật” [68, tr.204].
Người kể chuyện xưng “tôi” trong vai trò dẫn chuyện tất nhiên sẽ biết ít nhiều về
nhân vật chính và nói với độc giả ở ngôi thứ nhất. Nhưng dù như vậy, người kể chuyện
này không phải là người biết hết toàn bộ câu chuyện. Anh ta chỉ có thể kể cái mà anh ta
biết với tư cách là người nghe kể lại. Điều này dẫn đến hệ quả: nhân vật “tôi” cũng
không phải là tác giả - nhà văn ngoài đời thật, dù có chính nhân vật nhân danh tác giả để
phát ngôn. Xét về hình thức thì “tôi” (người dẫn chuyện) cũng giống như độc giả; nghĩa
là không thể đoán biết trước những gì đã xảy ra với nhân vật thám tử khi nhân vật tự bộc
lộ, tự kể câu chuyện của mình. “Tôi” là bạn thân của thám tử, được tham gia vào quá
119
trình điều tra, chỉ là kẻ đồng hành với quá trình kể chuyện. Như vậy, “tôi” kể lại sự việc
theo cách của một người đang theo dõi câu chuyện. Do độc giả chỉ có thể biết về hành
động của nhân vật thám tử, chứ không thể nào xâm nhập vào tâm trí và quá trình suy
luận của thám tử, cho nên nhà văn không để độc giả nhận ra thủ phạm trước khi nhân vật
thám tử công bố danh tánh. Nhân vật “người bạn” đang kể chuyện giúp tác giả ngăn
người đọc truyện đi sâu vào luồng suy nghĩ của thám tử bằng cách thể hiện những lời ca
ngợi, những câu bình phẩm đầy thán phục dành cho tài trí của thám tử. Đồng thời, điều
này còn tạo kịch tính, tạo bất ngờ ở phần cuối tác phẩm. Bởi khi độc giả đang lạc vào mê
trận của các thông tin, thì việc thám tử đột ngột chỉ ra thủ phạm, rõ ràng là một cách tạo
ấn tượng rất hiệu quả.
Có thể dễ dàng nhận thấy trong Lê Phong phóng viên, Mai Hương & Lê Phong,
Chiếc tất nhuộm bùn, Kho tàng họ Đặng, Những nét chữ … câu chuyện được triển khai
theo hai tầng trần thuật, với nhân vật tôi chỉ đóng vai trò người dẫn truyện. “Tôi” như thế
cũng không biết gì hơn độc giả; “tôi” thực chất cũng chỉ là một độc giả. Việc sáng tạo ra
nhân vật người dẫn chuyện trong truyện trinh thám, rõ ràng là một cách làm cho truyện
bớt đơn điệu. Đấy cũng là thủ pháp làm chậm nhịp độ kể, giảm tiết tấu của câu chuyện,
mở rộng phạm vi khiến độc giả có điều kiện để tưởng tượng và suy tưởng các mối liên
hệ của vụ án.
Sử dụng ngôi thứ nhất là một thể nghiệm khá mới mẻ của thể loại trinh thám Việt
Nam. Thông qua các điểm nhìn, vai kể, sự trải nghiệm có tính chủ quan của cá nhân, câu
chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn. Thực chất người kể chuyện xưng “tôi”, đồng thời là
nhân vật chính trong truyện luôn mang hai tư cách: người dẫn truyện và người tham dự.
Với tư cách là người kể chuyện, diễn ngôn của anh ta không bị thử thách trước sự thực.
Với tư cách nhân vật (tham dự vào câu chuyện), anh ta không nhất thiết phải nói sự thật;
tức là có thể giấu kín những gì cần che dấu để duy trì tính hấp dẫn của câu chuyện. Nói
cách khác, lời kể của nhân vật “tôi”, có thể thực hoặc có thể giả. Người kể chuyện xưng
“tôi” trong lúc kể có thể phơi bày hoặc che giấu sự việc. Tính chất hai mặt này ở người
kể chuyện xưng “tôi” tỏ ra hiệu quả hơn bất kỳ nhân vật nào khác trong truyện. Nhân vật
“tôi” dù trong tư cách một người tham dự, nhưng chính anh ta cũng không biết rõ những
biến cố sắp xảy ra. Bởi vì “ Ngôi kể thứ nhất là ngôi kể dễ dàng nhất trong việc phù phép
độc giả, bởi lẽ đại từ tôi thuộc về tất cả mọi người”. Nhân vật tôi dễ dàng liên kết, khơi
gợi sự đồng cảm đối với người đọc, cách kể ngôi thứ nhất đảm bảo sự xác thực cho câu
120
chuyện, đồng thời gây được sự chú ý bởi cách diễn đạt mang đầy trải nghiệm cá nhân.
Trong tiểu thuyết, khi sử dụng lối trần thuật ở ngôi thứ nhất, vai trò của người trần
thuật hết sức quan trọng. Nó chi phối phương thức triển khai thế giới nghệ thuật của nhà
văn. Sự chi phối của người trần thuật trước hết, dễ thấy nhất là đối với thế giới nhân vật.
Đúng như ý kiến của Kate Hamburger: “Các nhân vật trong một truyện kể ở ngôi thứ
nhất chỉ có thể được nắm bắt trong một mối liên hệ thường xuyên với người trần thuật ở
ngôi thứ nhất. Điều đó không có nghĩa là tất cả chúng đều phải ở trong một mối liên hệ
với cá nhân anh ta, mà chỉ là chúng được anh ta nhìn, quan sát và mô tả, chỉ duy nhất bởi
anh ta thôi” [43]. Có thể thấy, với phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, tư cách kể
chuyện được trao cho nhân vật nên mang đậm dấu ấn chủ quan. Người kể, với năng lực
phân tích phán đoán riêng, đã tự do thể hiện những hiểu biết, quan niệm về nhân sinh của
mình.
4.2.1.2. Vai kể ngôi thứ ba
Khác với trường hợp vai kể ở ngôi thứ nhất, người kể xuất hiện trực tiếp xưng
“tôi”, khi trần thuật ở ngôi thứ ba, người kể chuyện không hiện diện trực tiếp mà giấu
mặt, ẩn kín (chính xác là “chuyển vai”). Ở đây, người trần thuật chứng kiến câu chuyện
và kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình; câu chuyện được kể theo quan
điểm, ngôn ngữ và giọng điệu khác với cách kể trực tiếp (ngôi thứ nhất). Trần thuật ở
ngôi thứ ba dưới hình thức “người kể chuyện” (do tác giả sáng tạo ra), vì thế mang tính
“khách quan”, “trung tính”.
Lời trần thuật ngôi thứ ba không chỉ có nhiệm vụ tái hiện mà còn phân tích, lý giải
thế giới khách quan, các nhân vật, sự kiện trong tác phẩm. Lối trần thật này xuất hiện từ
xa xưa, rất phổ biến trong các loại hình văn học dân gian, văn học trung đại. Theo M.
Bakhtin, lời văn trần thuật gián tiếp có thể chia làm hai loại: loại thứ nhất là trần thuật
gián tiếp một giọng, có vai trò tái hiện, phẩm bình các hiện tượng của thế giới trong ý
nghĩa khách quan vốn có của chúng; loại thứ hai là lời gián tiếp hai giọng, có sự phối
hợp, “hấp thụ” lời nhân vật, trong phát ngôn của người trần thuật cùng lúc có thể có cả
lời trực tiếp hoặc những suy tư gián tiếp của nhân vật. Loại thứ hai này cho phép tác giả
di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật,
ngôn ngữ tiểu thuyết.
Vai kể ở ngôi thứ ba, cho phép người kể có cơ hội quan sát toàn diện cuộc sống, số
phận con người và phản ánh nó vào tác phẩm một cách cụ thể, khách quan. Người thuật
121
chuyện dường như là người thông hiểu tất cả, có thể phán xét, đánh giá về mọi điều.
Trong truyện của Thế Lữ: “Kể từ ngày hôm ấy, người Mán Khao La lại càng thêm lo sợ.
Họ biết thế nào cũng có những tai họa phi thường. Nhưng lạ thay! Hết ngày ấy sang đêm
khác, dân làng cứ mất mật mà sẵn, chờ những điều ghê gớm không xảy đến bao giờ” [65,
tr.35]. Một đoạn khác: “Anh cảm ơn công săn sóc của chúng tôi, rồi tự giam mình trong
gian nhà phố Hàng Bột, nhất định không tiếp ai cả, sống ở đây một cách yên lặng, kín
đáo, bảo là một cách thầm vụng cũng được, như muốn cho người ta quên mình đi” [65,
tr.209]. Ở đây, người kể chuyện đứng đằng sau nhân vật và các sự kiện, đẩy nhân vật ra
trước độc giả để kể. Vì thế, trước mắt độc giả không thấy người nói, chỉ thấy hiện thực
được trình bày. Ở một phương diện nào đó, người kể ở ngôi thứ ba không khác một
người làm công việc ghi biên bản, kể lại những điều đó.
Trong những trường hợp như vừa nêu, người kể chuyện thường mượn điểm nhìn
của nhân vật để kể, đôi khi chính người kể đã hoà quyện vào nhân vật đến mức khó phân
biệt được giọng người kể với giọng kể của nhân vật: “Nếu Thành Trai không chịu dùng
những kẻ có tội thì ta tìm cách dùng thử, coi bọn nó có làm được việc gì chăng. Hạng
người nào mà lại không dùng được ..., ta nghe nhiều người trưởng lão nói: Dụng nhơn
như dụng võ. Thế thì có người nào là bỏ đâu” [36, tr. 268]. Với dạng thức này, người kể
chuyện hàm ẩn ít khi tham gia vào bất kỳ tình huống hay hành động nào trong truyện mà
đứng ngoài để quan sát, nắm bắt và thuật lại tường tận cho người nghe:
Đi tới cạnh bọn phóng viên, họ đến đó để làm bài tường thuật, người thiếu niên
bỗng trông ra ngoài đường, vẻ mặt sáng hẵn lên, rồi vội vã như có việc khẩn cấp
vô cùng, anh chàng chạy ra cửa. Ở đó, người ta đang dồn lại bắt tay một người
mới đến, hấp tấp và lúng túng trong bộ smoking mới may …[68, tr.7].
Không mang tính chất chủ quan như người kể ngôi thứ nhất, người kể ngôi thứ ba
sẽ trình bày sự việc một cách khách quan và tỉnh táo:
Chàng vừa xem thơ vừa suy nghĩ … Nét mặt coi rất nghiêm nghị, trầm tịnh.
Xem xong xếp thơ lại để trên bàn, chàng chống tay vào gò má, ngồi suy nghĩ
(…) Chiều hôm ấy lối bảy giờ rưỡi tối chàng mặc áo quần nỉ đen, đi giày cao su
đen mà lại nhà bà Phán. Chàng bước vào cửa, con Sư tử hầm hù nhưng không
sủa. Chàng thấy trong nhà đèn thắp sáng mà êm lặng. Chàng gõ cửa …[36,
tr.412].
122
Hoặc khi miêu tả sự vật, hiện tượng: “Núi Văn Dú có một cái hang lớn. Đó là nơi
chứa những tai họa ghê gớm cho giống người Thổ và là cái nguồn những sự khủng khiếp
và những chuyện kinh hoàng. Người ta gọi là hang Thần, vì đó là chỗ Thần núi ở” [67,
tr.1] và kết thúc “Núi Văn Dú trông vẫn ngất ngưỡng cao lớn nhưng người ta chỉ coi là
một ngọn núi cao lớn thường. Đến nổi cái tên đã làm khiếp đảm mấy châu huyện ngót ba
trăm năm trời, họ cũng quên dần đi. Bây giờ thì không mấy ai biết đến nữa” [67, tr.33].
Trần thuật ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể về nhiều chuyện, nhiều người,
cả những bí mật trong tâm hồn con người: “ Dưới nhà, Hoàng Ngọc Ẩn nóng lòng như
lửa đốt, không đợi được nên chuyển thần lực nhảy tới kê vai hữu, tống cửa vài cái rất
mạnh thì hai cánh cửa sứt khóa mở hoác ra ..., nhưng mà nơi thương tích bị bắn nhằm,
máu chảy ra lai láng và thổn thức vô cùng” [77, tr.388]. Ngôi kể thứ ba mang tính khách
quan và tự do nhất. Nó không bị ràng buộc vào nhân vật cụ thể nào: “Ngày nào cũng
vậy, cứ đúng mười một giờ sáng là anh ta đã có mặt trong phòng khách tòa soạn. Anh ta
nói là muốn giáp mặt anh chủ nhiệm để hỏi một việc cần lắm. Việc anh ta cần, chúng tôi
đã biết: Anh ta muốn xin vào làm một phóng viên” [63, tr.9].
Có lúc, người kể chuyện xen vào câu chuyện những lời bình phẩm của cá nhân:
“Duy chỉ có Thiện Tâm thì mong cho chàng lại phải ở tù để Nguyệt Thanh khỏi về tay
chàng … Nghĩ cũng tức cười cho cho cái máu ghen của phường ngu ngốc”; “Minh Đường
thì lấy khăn lau mồ hôi đến hai ba lần mà trong mấy giọt mồ hôi ấy có lẫn mấy giọt nước
mắt” [36, tr.473, 482]. Để tránh đơn điệu, tạo sự đa dạng trong trần thuật, nhà văn còn tìm
cách gắn kết các ngôi kể làm cho câu chuyện sinh động và thú vị hơn. Hơn nữa, các ngôi
kể khi có sự kết hợp đan xen sẽ giúp nhà văn đi sâu vào thế giới bên trong của nhân vật
mà vẫn đảm bảo tính khách quan. Trong đoạn mở đầu Chiếc tất nhuộm bùn của Phạm Cao
Củng: “Chúng tôi đều ngồi im lặng … Ngồi trên đê, Kỳ Phát đưa mắt trông ra xa. Hắn lấy
ngón tay đập rơi tàn thuốc lá, rồi mơ màng nhìn theo làn khói tỏa bay …” [20, tr.13] và
tiếp nối câu chuyện nhân vật xưng tôi (Kỳ Phát) kể lại câu chuyện cuộc đời mình “Trước
hết tôi hãy nói cho anh biết một điều mà chưa có dịp nào tôi nói đến là nơi sinh trưởng của
tôi. Chính quê tôi ở Hải Dương… nhà tôi cũng là một nhà giàu trong thành phố” [20,
tr.16]. Kết thúc tác phẩm nhân vật tôi không còn là người kể chuyện mà lại trao quyền lại
cho người người nghe để nhận xét “Riêng tôi nhìn Kỳ Phát, cố nhận xem trên bộ mặt
thông minh sắc sảo của chàng trinh thám trẻ tuổi ấy có những nét nào còn lại của tay đầu
đảng buôn lậu Ba Lâm…” [20, tr.99].
123
Lối kể với đại từ ngôi thứ nhất được các nhà văn trinh thám rất ưa thích. Tuy nhiên,
trên thực tế, họ đã không “đoạn tuyệt” với vai kể truyền thống. Trong khi thể nghiệm sự
cách tân bằng lối kể mới, họ vẫn kế thừa lối kể truyền thống. Ở Việt Nam, trần thuật từ
ngôi thứ ba là hình thức trần thuật cổ điển được sử dụng phổ biến trong tự sự trung đại.
Việc lựa chọn các hình thức trần thuật gắn liền với vấn đề tổ chức điểm nhìn. Sự tái hiện
vụ án từ một góc nhìn, một điểm nhìn bao trùm toàn bộ hiện thực của “người kể chuyện
ngôi thứ ba” có những ưu điểm nhất định. Cái nhìn của “nhân vật” này khác hẳn cái nhìn
của nhân vật khác ở chỗ, khi thuật truyện như thế, sự thực sẽ được hiện ra một cách đầy
đủ, toàn vẹn hơn.
Điểm nhìn trần thuật, vai kể có vai trò rất quan trọng trong các tác phẩm tự sự, nó
không chỉ là phương tiện để thể hiện mà còn là cầu nối giữa tác giả và độc giả; nhằm
khơi gợi, tạo sự tò mò, kích thích người đọc. Trần thuật từ vị thế người kể chuyện ngôi
thứ nhất có những điểm tiến bộ so với lối trần thuật truyền thống. Tuy nhiên mỗi phương
thức trần thuật đều có mặt ưu việt và mặt hạn chế riêng. Quá trình sử dụng các kiểu trần
thuật cũng thể hiện phần nào con đường vận động của thể loại truyện trinh thám ở Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.
4.2.2. Ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ trần thuật là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái
nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả; là nơi bộc lộ rõ ý thức sử dụng ngôn ngữ của nhà
văn. Mỗi câu, mỗi chữ trong tác phẩm có thể chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách
giải thích, nhưng đồng thời phải được cá thể hoá. Ngôn ngữ trần thuật còn là ngôn ngữ
đa thanh vì đặc trưng của ngôn ngữ văn xuôi là sự tác động qua lại rất phức tạp giữa
tiếng nói tác giả, người kể chuyện và nhân vật; giữa ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ được
miêu tả. Ngoài ra, yếu tố vùng miền trong ngôn ngữ (nói đúng hơn là những giá trị văn
hoá ẩn sâu dưới các lớp ngôn từ) cũng ít nhiều ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật.
Điều đó góp phần làm gia tăng giá trị cho tác phẩm. Khảo sát ngôn ngữ trần thuật, luận
án hy vọng sẽ góp phần nhận diện những đặc điểm cơ bản của truyện trinh thám Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Ngôn ngữ trần thuật là một phương diện rất phức tạp của nghệ thuật tự sự. Tuy
nhiên ở đây chúng tôi chỉ lựa chọn hai vấn đề để trình bày: đặc điểm lời thoại (đối thoại
và độc thoại) và dấu ấn vùng miền trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện trinh thám.
4.2.2.1. Đặc điểm lời thoại
124
Truyện trinh thám Việt Nam là bức tranh phản ánh nhiều kiểu người trong xã hội,
từ quan lại, trí thức, người thành đạt cho đến dân buôn lậu, kẻ bất hảo … Nhân vật trong
tác phẩm được miêu tả dưới góc độ “đời tư”, diễn biến tâm lý phức tạp, khó nắm bắt.
Cũng vì thế nên khi mô tả nhân vật, nhà văn thường tìm cách thể hiện cho được nét đặc
trưng trong ngôn ngữ của từng loại người, nhằm đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Cách
thể hiện phổ biến nhất là thông qua đối thoại, độc thoại. Thực ra, việc thể hiện tính cách
nhân vật thông qua lời thoại không phải là mới. Thủ pháp này đã xuất hiện trong văn học
trung đại. Tuy nhiên, khi vận dụng vào truyện trinh thám, các nhà văn đã có nhiều cách
tân đáng kể. Điểm đáng lưu ý trong cách dùng lời thoại ở đây là tổ chức đối thoại và độc
thoại theo kiểu “phân vai”.
Đối thoại là một dạng lời phát ngôn trực tiếp, mang tính cá thể hóa cao của nhân
vật khi tham gia giao tiếp. Nó có vai trò quan trọng trong việc chuyển đạt thông tin, cả
thông tin sự kiện cũng như thông tin về trạng thái cảm xúc của chủ thể. Nhà văn thường
căn cứ vào địa vị xã hội, vai trò và công việc trong cuộc sống của nhân vật để thực hiện
lời thoại với lớp từ ngữ, sắc thái phù hợp. Với hạng “người nhà nước” như quan lại, mật
thám, kẻ giàu có, giọng điệu trong giao tiếp của họ thường mang tính chất “hành chính”,
kẻ cả, đầy vẻ uy quyền. Ví như quan Châu Nga Lộc, tuy chỉ là quan chức ở một vùng
miền núi xa xôi nhưng lời lẽ rất hách dịch: “tha mày cũng là tao mà xử mày cũng là tao”,
“Tao có đủ quyền để bênh vực mày, cũng có đủ quyền buộc tội mày nữa, mà tao muốn
cho mày ở đây hay đuổi mày ra khỏi Châu cũng được” [67, tr.12, 20]. Với Hồ Quốc
Thanh, một ông chủ khi nói với tôi tớ, trong giọng nói luôn toát lên sự đe nẹt, dọa dẫm
của bậc trên, có quyền sinh quyền sát: “Sao? Mi có chịu là cứ thiệt mà khai hay không?
… Mi chớ có xảo ngôn mà oan hồn ăn năn không kịp. Ta đã nói, ta mà hỏi đến mi là bởi
chuyện ta biết đã rõ ràng …” [77, tr.541].
Trong Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, lời lẽ của một ông “cò” (police)
thể hiện một uy lực đáng sợ: “Bớ Ba Lâu, hãy trói tay mà chịu tội đi, bằng không chúng
ta bắn chết! Phen này đố mi chạy đâu cho thoát. Lính đã bao vây nhà rồi, dầu mi có phép
tàng hình cũng không trốn khỏi” [113, tr.234].
Đối với nhân vật thám tử, ngôn ngữ lại có nét riêng của nghề điều tra, phá án: thận
trọng, chính xác. Nhà văn thường sử dụng cách nói trung tính, khách quan; diễn đạt ngắn
gọn, dứt khoát, mạnh mẽ: “Thế nào, mi tin rồi chứ? Ta hẹn cho mi một phút ... ta là Kỳ
Phát, thề có vong linh Tiếp ta quyết sẽ đưa mi nộp cho các nhà chuyên trách ngay” [21,
125
tr.104]. Ngôn ngữ mang phong cách của con người khẳng khái, tự tin, có bản lĩnh: “Rồi
ta sẽ tìm cho ra nghĩa kín, ta sẽ khám phá cho kỳ được” [66, tr.17]. Trong vai trò người
dẫn truyện, nhiều khi nhân vật còn đưa ra những giả định, gợi ý để tạo điều kiện cho
nhân vật “tôi” (thám tử) giải thích, phân tích một cách tường tận những vướng mắc trong
các chứng cứ vụ án. Trong Chiếc tất nhuộm bùn: “Kỳ Phát lắc đầu. Như anh nghĩ thì
không có gì lạ thực, song tôi ngạc nhiên vì thấy trong thư, chữ tuy cứng cỏi đàn ông mà
nhận kỹ thì vẫn là thứ chữ đàn bà, cùng một lối chữ viết ngoài phong bì. Nghĩa là phải là
một người có con mắt nhận xét rất tỉ mỉ mới biết được thế, chứ người thường tôi cam
đoan ít ai thấy được” [20, tr. 65]. Trong Kho tàng họ Đặng, thông qua việc đối thoại giữa
Kỳ Phát và Cúc, nhà trinh thám có dịp giải mã những bí ẩn, điều mà người đọc đang cố
tìm hiểu: “Tôi bừng mắt dậy, không thấy Cụ đâu, tình cờ trông thấy trong cái bát điếu
còn chiếc đóm chưa tắt hẳn mà ngước nhìn lên, tôi còn nhìn thấy một làn khói tỏa mờ. Vì
thế tôi biết ông Cụ vừa mới hút thuốc xong thì đi” [20, tr. 121]. Kỳ Phát giải thích một
cách rõ ràng hơn: “Tôi cố ý tát nó một cái vào má, chỗ dán lá cao để xem rằng má nó có
mụn nhọt hay không (...), nó không ra dáng đau đớn gì cả. Nhờ đó tôi biết chắc rằng lá
cao chỉ dùng để che dấu vết sẹo kia mà thôi (...) Tôi bèn ghé tai nó dọa rằng “Vừa mới
vượt ngục ra mà muốn vô khám nửa sao”. Nó chột dạ thế là không dám làm dữ nữa” [20,
tr.125]. Hoặc trong Vết tay trên trần, người dẫn truyện và Kỳ Phát đối đáp với nhau: “Tại
sao anh lại biết con khỉ lấy chìa khóa ở đỉnh màn?”. Kỳ Phát trả lời: “Anh thực vô tâm,
anh đã quên rằng trên màn chỉ có một chỗ có bốn vết tay, còn lại toàn ba vết là gì …”
[18, tr.48]. Và cứ thế Kỳ Phát giải thích lý do anh phát hiện ra thủ phạm.
Đặc biệt, trong các truyện của Thế Lữ, phương thức đối thoại được sử dụng rất
thường xuyên. Nhiều khi đối thoại được dùng để “kết hợp” nhiệm vụ trần thuật, dắt dẫn
(theo nguyên tắc ngôn ngữ kịch). Muốn thế, các “cặp” tham gia đối thoại phải gần gũi,
hiểu nhau. Chẳng hạn cặp Lê Phong – Văn Bình, lúc nào bên cạnh Lê Phong cũng có
Văn Bình (người bạn trong tòa soạn báo) để anh giải bày, tâm sự. Những lời đối thoại lúc
này, mục đích để cho Lê Phong giải thích tư duy biện luận của mình đối với bí mật vụ
án. Lê Phong chia sẻ tất cả những suy nghĩ của mình với Văn Bình:
Tôi hỏi:
- Thế ra bài thơ lục bát là một bản án của một đảng bí mật?
- Không phải. Một bức thư báo trước, báo cho Tuyết Mai cái số mệnh của mình
thế nào…
126
- Ồ ! nhưng Tuyết Mai sao lại bị khép vào tội phản bội, hay cô có chân trong
một hội kín nào ?
- Hẳn thế.
- Mà vì phản bội thực, sợ bị đảng ám sát nên cô quyên sinh ?
- Phải rồi.
Tôi kinh ngạc vì thấy Lê Phong trả lời những câu hỏi đó một cách rất thản nhiên,
anh trông tôi bằng đôi mắt tươi cười nửa như soi mói, nửa như chế riễu …[66,
tr.159 ].
Trong một vài truyện, đối thoại thực chất là một cuộc đấu trí, so tài của các nhà
thám tử trong giới hạn thời gian truy tìm thủ phạm vụ án. Đối thoại trong Gói thuốc lá là
sự thách thức giữa thám tử nhà nước Mai Trung và Lê Phong:
Mai Trung nói: Còn ông Kỳ Phương với tôi không cam đoan, chúng tôi quyết bắt
được hung thủ ngay, chậm lắm là ... năm ngày nữa. Lê Phong xé một tờ giấy đưa
cho ông Kỳ Phương ... Vậy xin mời hai ông ba ngày sau quá bộ lại tệ xá nghe Lê
Phong phân giải những chữ này ... Và luôn thể bắt hung thủ ở đó [64, tr. 93].
Trong Người một mắt là sự gặp gỡ giữa giữa hai thám tử Kỳ Phát và Lê Song:
Lê Song không nhịn được nữa, vội bảo: Ông Kỳ Phát, lần này ông đã chịu thua
tôi chưa? Bây giờ ông định dẫn tôi đi bắt thủ phạm ở đâu? Nhưng Kỳ Phát chỉ
lặng yên, mĩm cười ... Tôi chỉ sung sướng ở chỗ một lần nữa tôi làm được cho
ông Lê Song tức tối! Mà bây giờ hẳn ông phải chịu thua rồi? Lê Song lắc đầu:
Tôi không chịu thua! [21, tr.201].
Cũng có khi, lời thoại người kể chuyện cùng thám tử hòa chung với nhau:
- Anh đã tìm được nhiều điều hay? Nhiều điều mà anh tin là vững chải?
- Tôi tưởng thế , nhưng sao anh biết? (...)
- Theo tôi thì chuyện này có thể có nhiều điều đáng chú ý lắm. Cả đến những
việc nhỏ như cái tơ cái tóc cũng không được bỏ qua.
- Anh nói nốt đi, lời bàn của anh hay lắm (...)
- Hay lắm! Giỏi lắm! Anh suy đoán rất hợp với phương pháp của tôi [66, tr. 287
– 288].
Trong các truyện sử dụng lối trần thuật ngôi thứ ba, lời thoại của người kể chuyện
(giấu mặt) chỉ làm nhiệm vụ miêu tả lại những hành động và suy nghĩ của nhân vật chính
để giải thích bí mật vụ án: “Ông Châu quay lại để khám người Khách ... Ông Châu xem
127
ra thì biết người ấy bị giết chứ không phải quyên sinh ... Ông nhìn kỹ những hòn đá gần
của hang rơi xuống trước tiên thì lại thấy xung quanh đá bong ra những mảnh cát to hạt
và sắc cạnh mà ông không dám động tới...” [67, tr.21, 31].
Với những truyện có tính chất dung hợp (trinh thám – ái tình – hành động) như
Kim thời dị sử - Ba Lâu ròng nghề đạo tặc, lời thoại thường thể hiện dưới hình thức gián
tiếp, phát ngôn của nhân vật không hiển lộ trực tiếp mà thông qua lời người kể chuyện:
Hai tên lính lật đật đưa súng sáu nhắm ngay mặt Ba Lâu mà la lên rằng: Bớ Ba
Lâu, hãy trói tay mà chịu tội đi, bằng không chúng ta bắn chết. Phen này đố mi
chạy đâu thoát ... Ba Lâu cũng đứng tĩnh táo như không có sự chi lạ, hai tay cầm
hai cây súng sau nhắm ngay bọn lính mà nói chậm rằng: Chúng bây đừng chợp
rợp, tau bắn nát óc bây giờ. Hãy đứng tử tế cho ta nói chuyện cho mà nghe ...
[77, tr.234].
Một hình thức lời thoại khác cũng thường được nhà văn trinh thám sử dụng là độc
thoại. Độc thoại là lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá
trình tâm lí, diễn biến nội tâm, nó vốn là dòng chảy tinh thần thầm kín ở bên trong, một
khi được bộc lộ ra bên ngoài bằng những câu nói, tức nội tâm đã được hữu hình hóa.
Độc thoại nội tâm là hình thức phản ánh thế giới tinh thần của con người một cách mới
mẻ và hiện đại. Khi độc thoại, con người đặt mình trong hoàn cảnh giao tiếp đặc biệt,
giao tiếp với chính mình. Khác với đối thoại, có phân biệt người nói – người nghe, độc
thoại nội tâm chỉ là một, không có sự chia tách nào. Vì nói với mình nên độc thoại nội
tâm là tiếng nói chân thực nhất trong tâm hồn con người. Xét về bản chất, độc thoại nội
tâm cũng có tính chất trao đổi, phản biện; bởi khi đó con người đối diện với chính mình
để thể hiện một quan điểm về mình hoặc về người khác.
Trong truyện trinh thám, người đọc bắt gặp nhiều trường hợp nhân vật “trải lòng”,
“tự vấn”, tranh biện… qua những dòng độc thoại. Những lúc đó, suy tư, chiêm nghiệm
về cuộc đời, về thời cuộc, về chính mình… hiển lộ mộc cách rõ ràng nhất. Với phương
thức trần thuật này, người kể chuyện đã gắn “điểm nhìn bên trong” với “điểm nhìn bên
ngoài” nên khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật bị thu hẹp lại. Người trần
thuật dễ dàng thể hiện tâm trạng cụ thể của nhân vật, dễ dàng trình bày những diễn biến
trong tâm hồn nhân vật cho độc giả thấy.
Trong Chiếc tất nhuộm bùn, Kỳ Phát tâm sự: “Đời tôi có lẽ hoàn toàn là những cái
phiêu lưu, bí mật, ngay từ lúc tuổi thơ, tôi đã bị nhiều nỗi khổ lạ lùng … Anh không
128
hiểu, phải anh không hiểu, vậy tôi nói câu này cho anh hiểu nhé, Tôi cũng là một thằng
ăn cắp” [20, tr.15]. Và Kỳ Phát kể lại tuổi thơ đau buồn của mình, cha chết, người Dì kế
theo nhân tình, chàng một lần tình cờ theo dõi bọn người buôn thuốc phiện thì gặp được
mẹ ruột của mình, từ đó Kỳ Phát biết được thân phận của mình theo lời kể của người vú
nuôi già. Hoặc một đoạn khác: “Nhiều vụ trộm cướp bí mật, nhiều vụ án mạng li kỳ, tôi
vẫn coi thường, nhưng lần này tôi đứng trước cả hạnh phúc của một đời, những tấm lòng
hy sinh cao cả, tôi tự nhiên thấy cái nguy hiểm của sự nhầm lẫn do phương pháp xử lý
của mình” [18, tr.89].
Trong Lê Phong phong viên, thám tử Lê Phong thường tự nhủ bản thân: “Con nhà
làm báo ít ra cũng phải có một nghìn và một mưu kế trong túi, hay nói một cách giản dị
hơn, ít ra cũng phải tinh quái hơn ma”. Những lúc tâm trí bị kích động mạnh, anh nóng
ra cả người lên, lẩm bẩm một mình:
Trời? Ta biết lấy gì cảm ơn sự tình cờ nó làm cho ta được gặp việc này ! Một
người bác sĩ giỏi nhất nước Nam lại là một người có không biết bao nhiêu là
chuyện kín … Có bao sự nguy hiểm nó vây bọc. Rồi còn phải chết nữa. Chết
ngay bây giờ, trong giữa lúc được thấy cảnh rực rỡ nhất đời… Bức thư như
khiêu khích ta, như thách thức ta … Lê Phong ơi, mi thực là một tay phóng viên
có diễm phúc …[68, tr.17].
Trước một vụ án mà bí mật vẫn chưa hé mở, Lê Phong thường suy nghĩ: “Các nhà
chuyên trách mỗi lúc mỗi thấy vụ án thêm li kì hơn. Họ dùng các phương pháp nhà nghề
khám xét mọi nơi: từng cánh cửa, từng mặt bàn, chân ghế, từng cái song sắt cửa sổ …
Không, không có một dấu vết nào của hung thủ để lại…” [64, tr.70]. Thế là, anh lại
hướng vào một số dấu vết mà hung thủ vô tình để lại tại hiện trường, không theo phương
pháp điều tra của mật thám và đôi mắt linh hoạt vẫn không hề bỏ sót một vật gì quanh
mình, anh đã phát hiện vụ án một cách tài tình.
Một cộng sự khác của Lê Phong, nhân vật Mai Hương, cũng thường xuyên tự vấn,
tự nhủ: “Phải có linh giác đàn bà mới thấy trước được những điều mà thông minh trí tuệ
đến đâu cũng không thể thấy được … trí mạo hiểm giúp ta làm được nhiều việc lớn
nhưng khi trí mạo hiểm ấy đến bực táo bạo thì rất hại người” [69, tr.62]. Với Châu Nga
Lộc, khi bọn tôi tớ nậy được lớp gạch phủ trên phiến đá, những thỏi vàng hiện ra trong
hang. Bỗng nhiên ông nín lặng. Ông liếc nhìn bọn tôi tớ … ông thấy cái ghê rợn chạy
khắp người. “Nhưng mà không! (Ông nghĩ thầm) ... Ta phải bình tĩnh mới được … ừ
129
không sợ gì! Tuy thế, ông vẫn để ý đến cử chỉ của họ và nhìn lại cái gươm sáng của ông
dựng ở một bên đùi” [68, tr.32]. Từ lời độc thoại của viên quan người Thổ khi cùng tôi
tớ tìm được kho báu trong hang, người đọc thấy được sự thông minh, nhanh nhạy và tài
năng của một ông quan miền núi.
Trong Người bán ngọc, Hồ Quốc Thanh nghi vợ ngoại tình, muốn xử tội nhưng
còn đắn đo bởi ông nghĩ:
Nếu mình kêu hết vô mà tra hỏi, như chuyện có, dầu khi vợ mình trở về, nó có
học lại cũng không sao, còn như chuyện không mà mình nghi mà tra hỏi như
thế, thì khi vợ mình về nó học lại, chi cho khỏi sanh sự bất bình, đất bằng sóng
dậy. Chi bằng mình hỏi một đứa mà thôi cũng đủ rõ ngọn nguồn. Phải lựa đứa
nào bây giờ … [77, tr.539].
Với tính toán thâm độc, Hồ Quốc Thanh đã trả thù vợ, bọn tôi tớ và Tô Thường
Hậu một cách dã man, tàn độc. Đoạn miêu tả nội tâm của Trang Tử Minh trước sự tiếp
đón của Hồ Quốc Thanh; khi nhận “chút lễ mọn của Hồ Đô đốc”, thầm nghĩ:
Nghĩ thật không ra, sự này cũng lạ! Hồ Quốc Thanh vả chăng là một vị Đô đốc
trấn Phủ tỉnh này, oai danh cả dậy, vị chi một đứa gian như Tô Thường Hậu cắp
của trong hòm mà phải trông nom theo mãi. Nó có dại làm lỡ đến điều bất đặng
thì thôi để mặc lượng quan sửa phạt, cần gì phải chuốc dữ mua hờn đến đổi phải
đem bạc làm tin, khiến làm sự bất minh bất mục … Nếu Đô đốc có quyền mà
không giết, để tặng bạc mua lòng, giao nghĩa mượn tay, ắt trong còn có lẽ gì,
khuất lấp chưa minh ra đặng [77, tr.607].
Với suy nghĩ như vậy, Trang Tử Minh đã tìm ra nguyên nhân vụ án và xử lý một
cách đúng mực với tư cách một vị quan thanh liêm.
Trong Mảnh trăng thu, tâm trạng của các nhân vật Thành Trai, Nguyệt Thanh rất
phức tạp. Để thể hiện điều này, biện pháp độc thoại được tác giả sử dụng rất nhiều và đã
tỏ ra rất hiệu quả. Tâm sự của Nguyệt Thanh khi nghĩ về Minh Đường:
Không biết ngày nay chàng ra thế nào ? Có lẽ chàng đã quên ta rồi. Chàng có
khinh khi ta là một đứa gái vô liêm sỉ chăng? Không có lẽ nào như thế. Chàng
đã biết rõ ta là người trọng danh dự, bao giờ ta lại làm điều bất chánh ấy? Mà
biết làm sao cho gặp được chàng bây giờ ? Ôi năm năm nay tấm thân lưu lạc
này còn chút trong sạch là nhờ lòng Trời xót thương …. Ta đã làm cho Thiện
Tâm phải mờ tối mà ta chưa làm cho nó đau đớn, ta quyết chưa thôi [36, tr.451].
130
Sống trong oan trái đọa đày, nàng vẫn tự an ủi mình “Chết thì hết chuyện, phải
sống, phải chịu nhục trong một lúc mới được. Chịu nhục để tìm ra cái đứa nó hại mình…
kẻ gian thắng trong một lúc, song rốt cuộc thì sau cũng bị, vì kẻ gian cũng như cái bóng
tối, hễ có ánh sáng là phải tiêu ngay.” [36, tr.136]. Ở phần kết câu chuyện, Minh Đường
cảm thấy vui vẻ sau khi nhận thấy sự lúng túng của Nguyễn Viết Sung, chàng nghĩ thầm:
“Tao đố mày chạy đàng trời. Mày không bao giờ thoát khỏi tay tao. Mầy sâu độc lắm,
mày làm cho bạn yêu quý của tao phải khổ sở đau đớn, tao quyết không dung mày …”
[36, tr.412]. Và suy nghĩ của Nguyễn Viết Sung, đã thể hiện rõ bản chất của con người
thâm độc:
Ta không biết sợ ai …tuy ta lo ngại như vậy chớ ai làm gì được ta! Ta dám đố cả
bọn trinh thám … ta dám đố cả loài người, ai giỏi làm cho bại lộ mưu cơ ta thì ta
cho là tài … ở đời mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết, ai biết đề phòng hạ
tay lợi hại trước thì người ấy được …Trời Phật chỉ ở lại trong lòng kẻ khờ nhát, kẻ
yếu hèn, chớ với người cứng cỏi thì không bao giờ. Ai khôn hơn ta thì thắng ta, ai
dại hơn ta thì thua ta …Miễn ta đạt mục đích dầu có phải hại ai mà thành công ta
cũng hại, ai chết kệ ai! Ở đời này mà đạo đức thì là đồ dại [36, tr.411].
Nhân vật trung tâm của truyện trinh thám là các thám tử, với ngôn ngữ trần thuật
tường minh, người kể chuyện “tôi” có lúc độc thoại nhằm giúp người đọc hiểu sâu sắc
hơn về con người đang miêu tả:
Muốn hiểu rõ Kỳ Phát, tôi đã từng chia hắn ra làm hai: Kỳ Phát lúc tĩnh và Kỳ
Phát lúc động. Kỳ Phát lúc tĩnh thì yếu ớt, nhu nhược hay nghĩ vơ vẫn, ít nói,
những khi ấy thì đừng ai mong hiểu hắn gì, nhất là điều hắn đã muốn giấu thì
cạy răng hắn cũng không nói nửa lời. Kỳ Phát lúc động thì lại khác hẳn: hai mắt
sáng quắc, chân tay luôn cử động, hắn đã biện thuyết về một vấn đề gì thì nói
mãi cho người ta nghe phải phục thì mới thôi [18, tr.15].
Trước một vấn đề đang tìm hiểu nguyên nhân, Kỳ Phát thường đặt ra những câu
hỏi: “Nếu vậy thì lạ thật, chẳng lẽ tôi mê hoảng … Bí mật – Lạ thực – Lạ thực”, và anh
suy nghĩ “Tôi tin rằng tôi sẽ tìm ra manh mối chuyện bí mật này” [21, tr.28]. Kỳ Phát
cho rằng: “Có lẽ là bẩm tính trời sinh, nên tôi có óc trinh thám ngay từ nhỏ”. Nhân vật
thám tử này luôn đặt ra những câu hỏi về nguyên nhân sự việc: “ Thế thầy lấy cớ gì mà
bảo tôi lấy cắp chiếc đồng hồ của thầy? “; “Theo phép trinh thám thì bất cứ một điều gì,
mình kết luận thì cũng phải viện chứng cớ …”; “Óc một nhà trinh thám là nhận xét chứ
131
không tưởng tượng”; “Nếu không biết nhận xét hẳn hoi thì dù nghĩ nát óc cũng không ra
được điều gì”; “Là một người trọng chữ tín, tôi đã dúng tay vào việc gì thì dù sao cũng
không chịu bỏ dở dang” [18, tr.132, 136]… Những lúc điều tra căng thẳng “Kỳ Phát như
tức tối đến cực điểm, tức đến nỗi không gắt lên, không nói to lên được nữa” và thường
lẩm bẩm “Cóc khô, Cóc khô”. Có lúc lại đập bàn, cáu gắt, gật đầu, mĩm cười: “có lẽ số
trời định vậy nên không bao giờ tôi có thể vui được cảnh gia đình. Ngay từ thuở nhỏ tôi
cũng vậy …” [19, tr.106]. Rõ ràng là những đoạn lời thoại như trên mang tính biểu cảm
cao hơn hẳn so với lời trần thuật theo ngôi; nó giúp cho người đọc nhận biết một cách
trực tiếp tư tưởng, ý tưởng của tác giả.
Trường hợp phóng viên Lê Phong trong truyện của Thế Lữ cũng vậy. Lời thoại
(đối thoại, độc thoại) rất được coi trọng trong việc mô tả bản chất, cá tính đặc biệt của
nhân vật. Lê Phong khi đi xin việc: “Vâng, tôi biết thế này là đường đột quá, nhưng xin
ông biết cho rằng tôi muốn làm phóng viên, mà nhất là trong tòa báo ông. Người ta cần
phải chọn mặt gởi vàng. Tôi muốn đem cái tài của tôi dùng cho báo ông trước nhất …
Ông cứ giao việc cho tôi xem … Mà nếu ông cần biết ngay học thức của tôi” [64, tr.10-
11]. Con người “kỳ khôi” này cuối cùng cũng được ông chủ nhiệm tòa soạn Trần Đăng
nhận vào làm phóng viên, “Từ đó anh là một tay giúp việc lanh lợi của báo Thời Thế về
phần phóng sự”. Anh làm việc một cách rất chăm chỉ, chu đáo bởi “lương tâm nhà nghề
là một điều thiêng liêng nhất đối với người con trai này”. Khi nắm bắt được một vụ án,
Lê Phong thường nói: “Tôi được một tin quan trọng lắm”. Anh thường viết bài ngay tại
trận, trên ô tô, ngay khi vừa xem xét xong vụ án. Một tin gì lạ mới xảy ra mà có một
phóng viên báo khác biết trước thường làm cho anh buồn bực mấy giờ liền, và câu nói
cửa mồm luôn được anh nhắc lại “Quái, một việc như thế này mà sao mình chưa biết”.
Lê Phong thường sung sướng, hạnh phúc khi phát hiện các vụ án kỳ quái, nhất là nghệ
thuật giết người một cách bí hiểm “Bao nhiêu tâm lực tôi. Lý trí tôi, tình cảm thị hiếu,
bản năng, trực giác của tôi đều sôi nổi lên … đều “thức tỉnh” để chăm chú vào việc này”
[64, tr.41]. Với chiếc kính lúp thường xuyên ở bên bàn giấy, Lê Phong thường soi xét
những dấu vết dù nhỏ nhất mà anh nghi ngờ, với vẻ mặt nghiêm trọng rồi lẩm bẩm “Vô
lý quá, vô lý thực”.
Ngôn ngữ nhân vật là cơ sở để nhận định, soi chiếu tính cách nhân vật, là những
phát ngôn được hoàn thiện trong giao tiếp của nhân vật, có khả năng bộc lộ ý đồ tác
giả. Bằng độc thoại nội tâm, tác giả đã diễn đạt những giằng xé, dằn vặt trong tâm
132
hồn nhân vật trước biến cố cuộc đời, tạo nên giọng điệu riêng. Đây là một hình thức
kế thừa ngôn ngữ văn học truyền thống, đồng thời là kết quả của sự mô phỏng, tiếp
biến ngôn ngữ tự sự hiện đại của phương Tây. Nó góp phần tạo nét riêng của thể loại
trinh thám Việt Nam.
4.2.2.2. Dấu ấn ngôn ngữ vùng miền
Với truyện trinh thám cổ điển phương Tây, một đặc điểm rất rõ ở ngôn ngữ của
thể loại văn học này là sự trau chuốt, bóng bẩy, mang tính “quý tộc”. Tuy nhiên, đối
với truyện trinh thám Việt Nam thì tình hình có khác. Vào đầu thế kỷ XX, với xu thế
hiện đại hóa văn học, các tác giả văn xuôi nói chung, nhà văn trinh thám nói riêng,
luôn mong muốn xây dựng một lối truyện mang sắc thái Việt Nam. Nguyên lý cơ bản
ở đây là “dùng tiếng An Nam ròng”, thứ tiếng nói hàng ngày của người dân để làm
nên tác phẩm văn chương. Chính vì thế, hầu hết truyện trinh thám đều chú trọng đến
văn hóa từng vùng miền, trong đó nổi bật hơn hết là chất địa phương của ngôn ngữ.
Cần thấy rõ là trong các phẩm giai đoạn này, tính chất phương ngữ rất đậm, và đó là
việc làm có chủ ý. Tính chất vùng miền được thấm vào nhiều yếu tố chứ không phải
thuần túy là do chất giọng “bản địa” của nhà văn. Người trần thuật không những “tải”
nội dung truyện kể mà còn chuyển những giá trị văn hóa nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ.
Các tác giả trinh thám Việt Nam đã dẫn người đọc đi vào các vùng miền cụ thể
của đất nước thông qua yếu tố ngôn ngữ. Thế Lữ với các truyện Một truyện ghê gớm,
Tiếng hú ban đêm, Vàng và máu... đã mô tả cảnh núi rừng miền Bắc một cách đầy ấn
tượng. Tác giả đã đưa người đọc tới những vùng đất thâm u của tổ quốc, tiếp xúc với
những cảnh quan, sự vật, phong tục, lối sống đầy vẻ li kỳ, đôi khi thật rùng rợn. Cuộc
sống của những người Thổ, Mán, Mường, Nùng, Khách mang đậm dấu ấn nơi chốn
rừng thiêng, nước độc. Thế Lữ đã tạo nên một mạch “truyện đường rừng” thật độc
đáo với những chủ đề, những mô típ đậm chất “miền thượng” như mối tình lãng mạn
với các cô “sơn nữ”, cảnh rừng núi âm u, lãng mạn: “Chiều mồng ba, trời tạnh ráo và
ấm áp hơn mấy ngày trước gió bấc, mưa phùn. Tôi sung sướng chạy ra ngoài chơi, đi
lẫn với bọn trai gái Thổ, cười nói vang đường, súng sính trong bộ quần áo chàm mới
... Xa xa, áp vào chân núi lác đác mấy chiếc nhà sàn mái dốc” [66, tr.15]; “Một giải
suối róc rách ở gần, một con hươu đang ngơ ngẫn. Những tiếng rất nhẹ của con sóc
chạy trên cành ... Xa xa, giọng thác ào ào, để ý thì mỗi lúc thấy gần thêm, rồi lại xa
dần, rồi lại như biến mất” [67, tr.97]. Trong truyện trinh thám của Thế Lữ, sắc thái
133
vùng miền còn lộ rõ ở phương diện ngôn ngữ. Trước hết là cách nói, cách diễn đạt
của nhân vật. Trong Tiếng hú ban đêm (câu chuyện kể về cuộc chiến đấu khủng khiếp
giữa một bà mẹ có cô con gái bị hổ ăn thịt với con hổ cái và đàn con để trả thù), ta
thấy cách nghĩ (bằng lời) rất “lạ” của một người mẹ miền núi: “Mày giết con tao!
Mày không trả con tao. Tao cũng giết con mày. Tao lại giết mày nốt” [65, tr.45]. Quả
là lời nói của nhân vật ở đây không thể lẫn với nhân vật cư trú ở nơi khác được.
Ngay đến sự hiện diện dày đặc của các danh từ chỉ tộc người, chỉ nơi chốn trong
tác phẩm cũng tạo nên sắc thái địa phương rất đa dạng: từ những tên gọi chỉ sắc tộc
như người Thổ, người Mán, người Nùng, người Khách…, đến những tên người như
mụ Ké, Mí Nàng, thầy Mo, ông Thẻng, ông Ba-đi-ghệt, quan Châu Nga Lộc, Nùng
Khai; cho đến các tên đất tên làng như Khao La, Sam Na, bản Khau Gié, Lùng Sa,
Mùng Sáy, Kao Lâm, rùng Xia Khoảng… đã tạo nên một “âm vang ngôn từ” miền
núi. Chưa hết, còn có rất nhiều sự vật, sự việc đặc thù chỉ có trong vốn từ ngữ của các
dân tộc vùng núi. Thậm chí nhiều khi nhà văn còn giữ nguyên thổ âm thổ ngữ, đồng
thời ghi chú bằng tiếng Việt chuẩn: ngộ, chồi, trò chơi đánh còn, “Ché Sao giỏi a!”
“đẩy vẩy, đẩy vẩy (được chứ), “tử khỏi tức đuổi nớ ?” (Tôi chơi có được không?),
Noọng Mai (em Mai), trái Mắc phì phà, tay nải... Đây cũng là một thủ pháp tạo sức
hấp dẫn, gợi liên tưởng về “sự thật” trong tác phẩm. Càng lúc, người đọc càng bị
cuốn theo các sự kiện cũng như không khí của một câu chuyện hoàn toàn mang tính
chất Việt Nam.
Dấu ấn địa phương còn thể hiện ở phạm vi vùng miền (Bắc – Trung – Nam).
Đọc truyện của các tác giả miềm Bắc, chúng ta thấy những địa danh quen thuộc như
Thị trấn Lạng Sơn ; Nam Định; Phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên; Trường Kỹ nghệ
thực hành Hải Phòng; Ga Lào Cai; nhất là Hà Nội (với chợ Hôm, Phố Huế, Phố Quan
Thánh, Phố Richaud, Phố Carreau, Bờ Hồ, Ga xe điện, nhà thương Phủ Doãn, Đông
Dương Đại học đường, Hàng Bún, Hàng Cót, Hàng Bông, Hàng Đẫy, Cửa Nam,
trường Albert Sarraut …). Để tạo được sức thuyết phục, rút ngắn khoảng cách giữa
tác phẩm và độc giả, các nhà văn trinh thám thường đưa vào tác phẩm lối nói dung dị,
lời ăn tiếng nói đặc trưng vùng miền, sử dụng ngôn ngữ đời thường. Trong các truyện
trinh thám xuất bản ở miền Bắc, người đọc cảm nhận được sự chân thật và gần gũi
qua những ngôn từ địa phương: “Tôi mới đến ở sau này, nên không biết, anh ạ”
(Người Vú già nói với Kỳ Phát), “Phát đấy ư con ? Con đóng cửa lại rồi đứng đây
134
thầy bảo …”, “Kỳ Phát ngồi chờ uống cốc cà phê sữa, rồi lập tức ra ga”, “Thằng ông
mãnh, mày chạy đâu mà như bố chết thế”, “Thôi đích xe bọn kia hỏng gì, nên chốc
chốc phải đỗ lại chữa chạy, nhờ đó ta mới đuổi theo chóng kịp như thế này …”,
“Mời cụ xơi nước, mời cô…”, “Bạn tôi chỉ chiếc đèn cầy trên bàn mà bảo:…”,
“Chính cái ô kia nó dẫn tôi từ bà cụ đến chàng trẻ tuổi”, “Kỳ Phát rút trong ví ra vài
chiếc nĩa và bốn chiếc móc bằng thép”, “Nó thắp hương cây cắm vào hai cái lọ
vuông… rồi đặt bốn ngọn nến sáp cắm sẵn…”, “Anh vặn cây bút máy thảo một lúc
xong bức thư … thứ bút máy ngòi xấu và cong”, “Viết trên xe lửa, trên ô tô, đâu
cũng được …”. “Có phải chính bà đã cho con sen uống thuốc ngủ phải không?”,
“nhưng không để lại vết tay trên chuôi dao, vì hắn đeo găng tay…”, “Ông Lê Phong
đi xem xi –nê ?”.
Với những truyện mang màu sắc trinh thám – võ hiệp – ái tình xuất bản ở Nam
Bộ, các địa danh quen thuộc như Sài Gòn – Thủ Đức – Chợ Lớn, Nhà hát Tây, Gia
Định, Cần Giờ, Cần Đước; huyện Bình Dương; cánh đồng Rạch Kiến; Rạch Vĩnh
Tường; Tây Ninh; Vĩnh Long; Trà Vinh; Bến Tre; Tiền Giang... Người đọc thấy
những câu văn vừa gần gũi, vừa chân thực theo ngôn ngữ địa phương: “Thôi nhơn
dịp bãi trường này cha sẽ trao hết nghề cho con đặng cho con khỏi sút tài … Năm
nay cha xem trong mình yếu nhiều …”, “Tủ sắt của lão khóa chữ gì, nói phứt cho tôi
mở cho mau, kẻo mất công khoan và cưa lâu lắc lắm”, “Qua đây em chớ không phải
là ai đâu, qua là Ba Lộng đây”, “ Chúng bây đừng chợp rợp mà tao bắn nát óc bây
giờ”, “Nhơn có việc cần, nên tôi không kíp thay âu phục; tôi đến để mượn cái xe hơi
của ông ít hôm …”, “Chàng dùng bữa rồi vô phòng kêu bồi biểu lấy cho chàng một
cây cần câu và một gói mồi”, “Chiếc ghe lớn nhảy lơn tơn thì vào đến cầu tàu”,
“Hôm nay vì đi lựa dây nịt mà lựa hoài không vừa ý”, “Lối này coi bộ khá hơn trước
nhiều”, “Không biết vì cớ gì mà anh ấy không gởi thơ cho cháu ?”; “Kiều Tiên có nói
em nghe như có mùi nhang… nên dòm vào khóa”, “Chàng lật đật bấm chuông kêu
bồi, biểu mau mau chạy đi rước thầy thuốc.”, “Minh Đường chụp tay bóp một cái
dường như cái kẹp sắt, làn cho Bảy Lộng bủn rủn tay chơn …”, “nó giết Thuần
Phong để giựt gia tài cho con nó…”; “Chi bằng cứ giả đò im lặng rồi tôi xin tìm kẻ
gian cho bà.”; “Má bây giờ già yếu rồi, có làm gì được con đâu…”; “Ê chú, nới chơn
cho dài thêm một chút mà, xe chạy như rùa bò biết bao giờ tới chốn”; “Chủ nhà may
Thanh Phát có đeo trên tay chiếc cà rá hột xoàn giá đáng năm ngàn đồng”; “Anh
135
không biết cái cẳng tôi đau và sưng lớn lên…”; “Khi Năm Mạnh vâng lịnh lấy đồ
nghề ra đi … tôi dám chắc thầy coi cái rương này thì sao cũng ưng bụng … lập tức
lấy đèn điện trong túi ra rọi ngay lại ghế…”; “nên ráng sức bình sanh mà đánh”;
“thiên hạ đi coi dập diều mỗi khi pháo xẹt lên trời”; “Cậu này bộ gươm máy kêu cỗ
hay sao mà kiếm điều nói bỡn vậy hử ? … mụ quyết không làm đặng”; “nhìn cho
mãng nhãn rồi cũng ngồi xuống chống tay, cúi mặt xuống quyết hun cho thỏa”; “tôi
có dám đèo bồng làm chi cho không thành mà phải bia danh miệng thế.”; “mi khai
thiệt hết đầu dây mối nhợ ta nghe.”; “Rượu còn đây chớ hết đâu song uống không
đặng, bởi vì con thằn lằng té cặm đầu vào trong mà chết.”; “Lạ dữ a ! Hai đàng
khai khác …”.
Việc tăng cường ngôn ngữ vùng miền, gắn với đời sống cư dân địa phương trong
tác phẩm không chỉ tạo ra sắc thái độc đáo của truyện trinh thám, mà nó cũng góp phần
thay đổi kiểu ngôn ngữ bác học, quy ước, phép tắc trong văn học trung đại, góp phần
quan trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Mặc dù vẫn còn
dấu vết câu văn biền ngẫu, vẫn còn xen các câu thơ trong một số tác phẩm, nhưng lối văn
này càng về sau càng phai nhạt dần, nhường chỗ cho một lối văn hiện đại. Tuy nhiên, ở
một số tác phẩm, ngôn ngữ đời thường đã được đưa vào tác phẩm một cách tự do, tùy
tiện, đôi chỗ có phần rườm rà, song đó chính là dấu hiệu cho sự hiện đại hóa của thể loại
này trong giai đoạn sau, bởi nó đã tạo nên sự gần gũi rõ rệt giữa nhà văn và nhân vật của
mình trong đời sống. Một số nhà phê bình nhận định văn phong truyện trinh thám Nam
Bộ “ít có giá trị nghệ thuật, lời văn sổ toẹt, thẳng như ruột ngựa, không cầu kỳ hoa mỹ”.
Theo chúng tôi, những nhận xét trên không hẳn vô căn cứ song cũng có phần không thỏa
đáng. Ngôn ngữ bao giờ cũng gắn với đời sống cộng đồng. Nó phản ánh văn hóa, thói
quen, sở thích của cộng đồng. Nếu khác đi, những sáng tác này khó đi vào lòng người
đọc Nam Bộ.
TIỂU KẾT
Trong chương này, có hai phương diện chủ yếu của nghệ thuật truyện trinh thám
được tập trung tìm hiểu là cốt truyện và phương thức trần thuật.
Xét về cốt truyện, do những điều kiện đặc thù của giai đoạn giao thời nửa đầu thế
kỷ XX, cốt truyện đóng vai trò đáng kể trong tác phẩm tự sự. Người đọc có thể kể lại cốt
truyện mà ít chú ý đến cách viết của nhà văn. Thực chất, cốt truyện trong truyện trinh
136
thám là sợi dây liên kết các mối quan hệ của nhân vật, cách sắp xếp các sự kiện, yếu tố
nhằm kích thích sự tò mò, hấp dẫn đối với người đọc. Hầu hết cốt truyện đều rõ ràng, với
những xung đột đầy kịch tính, diễn biến hành động của thám tử theo thi pháp truyền
thống, kết thúc rõ ràng, mạch lạc. Đồng thời, cốt truyện trinh thám cũng có sự vận động,
thay đổi trên cơ sở sự giao thoa, dung hợp và phát triển của thể loại. Đó là sự xuất hiện
của các yếu tố văn hóa, văn học truyền thống; thông qua một kiểu truyện mang màu sắc
trinh thám ái tình – hành động – võ hiệp, với những dạng thức thô sơ nhất của thể loại
truyện trinh thám, trên cơ sở nhà văn đã kết hợp giữa mô hình truyện vụ án của phương
Đông với truyện trinh thám phương Tây, giữa yếu tố cũ và mới để tạo ra một kiểu truyện
trinh thám đáp ứng thị hiếu của người đọc Việt Nam.
Về nghệ thuật trần thuật, các nhà văn cũng đã thể hiện một sự kết hợp khéo léo các
yếu tố như điểm nhìn, vai kể và ngôn ngữ trần thuật. Trong truyện trinh thám, phần lớn
điểm nhìn được trao cho nhân vật. Do vậy, cuộc sống và con người ở đây luôn được nhìn
nhận dưới nhiều góc độ, cảm quan rất khác nhau. Đối với các truyện mang màu sắc trinh
thám - ái tình - nghĩa hiệp, câu chuyện thường được kể ở ngôi thứ ba. Sử dụng ngôi thứ
nhất trong tác phẩm là một thể nghiệm khá mới mẻ của các nhà văn trinh thám. Tuy
nhiên, các nhà văn đã không “đoạn tuyệt” với vai kể truyền thống; trong khi thể nghiệm
sự cách tân bằng lối kể mới, họ vẫn kế thừa lối kể truyền thống. Ngôn ngữ trần thuật
trong truyện trinh thám Việt Nam là một trong những yếu tố quan trọng trong phương
thức biểu hiện, đồng thời nó còn là yếu tố cơ bản thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn,
với ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật đã tạo nên giá trị nghệ thuật của tác
phẩm thông qua lời đối thoại và độc thoại. Nhờ đối thoại và độc thoại mà các vấn đề
trong tác phẩm đặt ra được xem xét dưới những điểm nhìn khác nhau, ngôn ngữ đối
thoại thường gây ra những tình huống bất ngờ và tạo cảm giác thực của đời sống đã khúc
xạ qua lăng kính nhà văn, nó giữ vai trò đáng kể trong việc khắc họa tính cách nhân vật.
Dấu vết của thời đại đã ảnh hưởng và quy định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới
được hình thành, nhất là dấu ấn vùng miền trong ngôn ngữ nghệ thuật. Điểm nổi bật ở
đây là sự kế thừa ngôn ngữ văn học truyền thống, đồng thời mô phỏng, tiếp biến ngôn
ngữ tự sự hiện đại của phương Tây. Tất cả các yếu tố trên đã góp phần tạo nét riêng của
thể loại trinh thám Việt Nam.
137
KẾT LUẬN
Trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, truyện trinh thám là một hiện
tượng rất đáng chú ý. Ngay từ khi mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, thể loại văn học
này lập tức thu hút được sự quan tâm của độc giả. Và chỉ trong vòng vài thập niên
phát triển, nó đã trở thành một xu hướng văn học, với diện mạo khá rõ ràng. Với hàng
trăm tác phẩm, hàng chục nhà văn có tên tuổi, truyện trinh thám đã xác lập được vị trí
quan trọng trong đời sống văn học nước nhà. Tuy nhiên, khoảng thời gian hưng thịnh
của nó lại hết sức ngắn ngủi, chỉ trong mấy thập niên. Từ giữa thế kỷ XX trở đi, văn
học trinh thám đã nhanh chóng rơi vào cảnh “thoái trào”. Càng về sau, số nhà văn
chuyên viết về thể loại này càng thưa thớt; ngày càng hiếm những tác phẩm tạo được
dấu ấn đối với độc giả. Do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã hội, thể loại truyện
trinh thám Việt Nam từ trước đến nay ít được giới chuyên môn nghiên cứu. Thậm
chí, còn có những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, không đúng về một thể loại
này.
Thực tế cho thấy, tuy vẫn còn những hạn chế về mặt thi pháp, thủ pháp song
truyện trinh thám là một hiện tượng đáng quan tâm trong tiến trình văn học Việt
Nam. Các nhà văn trinh thám đã có nhiều cố gắng để tạo một thể loại mới, trên cơ sở
tiếp thu, mô phỏng thể loại truyện trinh thám cổ điển phương Tây, góp phần tạo nên
sự đa dạng và phong phú cho thể loại văn chương tự sự Việt Nam trên bước đường
hội nhập với văn học thế giới. Nó đã đáp ứng được phần nào nhu cầu thưởng thức của
độc giả.
Từ những nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thể loại, luận án chúng tôi đi đến
một số kết luận:
1. Truyện trinh thám Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một thể loại
mới được hình thành trên cơ sở tiếp thu văn học truyền thống, tiếp biến văn học
phương Tây và Trung Quốc. Truyện trinh thám có vai trò và giá trị nhất định trong
dòng văn xuôi tiếng Việt hiện đại, nó vừa mang những đặc trưng chung của thể loại
truyện trinh thám phương Tây, vừa mang những đặc điểm riêng của văn học dân tộc
ở một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đây là một thể loại văn học phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử và thị hiếu của người Việt Nam đương thời.
138
2. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, nhưng các nhà văn trinh thám Việt Nam đã
có những thành công nhất định trong việc xây dựng hình tượng nhân vật thám tử
mang đậm bản sắc dân tộc. Đó là những con người nghĩa hiệp; tiếp cận vụ án do
những yếu tố tình cờ, ngẫu nhiên, và điều tra vụ án như một nhu cầu đạo đức, hành
xử vì lý tưởng chứ không phải là nghề để họ kiếm sống. Đồng thời, những nhân vật
tội phạm và các vụ án thường liên quan tới tình cảm, tài sản, mâu thuẫn trong phạm
vi dòng họ, gia đình... nên phương thức phá án và tư duy của thám tử cũng mang
những nét đặc thù, phù hợp với tâm lý và con người của thời đại. Các nhà văn trinh
thám vận dụng không gian hiện thực, kỳ ảo, thời gian khẩn trương, kịch tính làm nền
cho cốt truyện để tạo sự hấp dẫn cho câu chuyện.
3. Sự kết hợp một cách hài hòa mô hình cốt truyện theo kiểu truyền thống và hiện
đại, với những nỗ lực vượt ra khỏi kết cấu chương hồi, hướng đến mô hình cốt truyện
theo lối hiện đại phương Tây, được các nhà văn đặc biệt chú trọng. Thông qua phương
thức tự sự, với sự luân chuyển điểm nhìn và vai kể, nhất là vai kể ở ngôi thứ nhất, cho
phép tác giả trình bày quan điểm, tư tưởng riêng của mình một cách thuận lợi nhất. Mặt
khác, với sự kết hợp ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, ngôn ngữ vùng miền… đã làm cho
câu chuyện trở nên gần gũi, tăng sức thuyết phục đối với người đọc.
Sự hình thành và phát triển của truyện trinh thám Việt Nam là kết quả tổng hợp
của nhiều yếu tố, từ hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa cụ thể của dân tộc đến sự giao
thoa thể loại trong tiến trình hiện đại hóa văn học, nhất là ảnh hưởng văn học Pháp.
Là một thể loại mô phỏng kiểu truyện “giải mã câu đố” nên hầu hết tác phẩm chủ yếu
tập trung ở phương thức phá án và thông qua tài năng nhân vật thám tử. Các nhà văn
thể hiện yếu tố tội ác, kẻ phạm tội trong truyện trinh thám không phải với mục đích
phơi bày hiện thực xã hội mà chủ yếu là do đặc trưng của thể loại. Truyện trinh thám
Việt Nam là một thực thể đáp ứng đầy đủ tiêu chí của một thể loại văn học nên theo
quan niệm của chúng tôi, khái niệm truyện trinh thám Việt Nam có thể hiểu là những
tác phẩm tự sự, viết về quá trình điều tra vụ án của nhân vật thám tử và tư duy logic
là chất liệu chính để làm sáng tỏ vụ án.
Cũng từ quan niệm trên, dựa vào thực tế tư liệu hiện có, chúng tôi cho rằng
truyện Kim thời dị sử - Ba lâu ròng nghề đạo tặc (1917) chính là tác phẩm đầu tiên,
nhà văn Biến Ngũ Nhy là người khai sinh ra thể loại truyện trinh thám Việt Nam,
139
đồng thời Thế Lữ và Phạm Cao Củng là hai tác giả đã đưa truyện trinh thám Việt phát
triển đến đỉnh cao của thể loại. Truyện trinh thám Việt Nam không chỉ có tác dụng
giải trí, tiêu khiển mà còn có tác dụng giáo dục đạo đức, lối sống, cổ xúy tinh thần
“khuyến thiện trừng ác” vốn là điểm mạnh ở các thể loại khác. Chính điều này đã tạo
cho truyện trinh thám có một vị trí và giá trị nhất định trong tiến trình hiện đại hóa
văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Trong quá trình nghiên cứu, một số vấn đề liên quan đến đề tài, luận án chưa thể
đề cập đến, hoặc mới chỉ nhắc qua, chưa có điều kiện giải quyết. Cụ thể như:
- Sự ảnh hưởng của các tác phẩm dịch đối với thể loại truyện trinh thám Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.
- Hiện tượng tương tác, dung hợp giữa thể loại giữa truyện trinh thám với các
thể loại tự sự khác của văn học Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa.
- Sự vận động và phát triển của truyện trinh thám Việt Nam trong tiến trình văn
học Việt Nam đương đại (sau năm 1975).
Gần một trăm năm trôi qua kể từ khi tác phẩm trinh thám đầu tiên ra đời, đã có
một số nhà nghiên cứu tìm hiểu và đánh giá hiện tượng thể loại văn chương phức tạp
này. Khen cũng lắm mà chê cũng không ít, nhưng chưa ai khẳng định những nghiên
cứu của mình là tiếng nói cuối cùng. Luận án chúng tôi cũng chỉ là những cố gắng
tiếp nối người đi trước để góp thêm tiếng nói của mình về những vấn đề đặc trưng
của thể loại, từ đó xác định những đóng góp của thể loại truyện trinh thám Việt Nam
cho dòng văn xuôi tự sự nửa đầu thế kỷ XX ./.
140
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1/ “Yếu tố kỳ ảo trong truyện trinh thám kinh dị và lãng mạn của Thế Lữ”- Kỷ
yếu Hội thảo khoa học: Yếu tố kỳ ảo và huyền thoại trong văn học; 2013.
2/ “Truyện trinh thám trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học & giáo dục, Số 17B (04), 2015. ISSN 1859-4603
3/ “Đặc điểm truyện trinh thám Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa
học & Công nghệ, (3)16, 2015. ISSN 1859 – 4905.
4/. “Bàn về quá trình vận động của truyện trinh thám Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học & Công nghệ, Số (99)2, 2016. ISSN 1859-531.
5/ Nguyễn Thành Khánh (2016) “Mẫu hình Căn phòng khép kín của Poe trong
truyện trinh thám Vết tay trên trần của Phạm Cao Củng” Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, Tập 5 (số 2), 6/2016. ISSN 2354 – 0850.
141
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. SÁCH, BÁO, TẠP CHÍ
[1] Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp (1988), Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa
thế kỷ XX (1900 - 1945), Nxb TP.Hồ Chí Minh.
[2] Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[3] Lê Tú Anh (2013), “Tiểu thuyết quốc ngữ đầu thế kỷ XX và chức năng dự báo
của văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (3), tr.98-109.
[4] Nguyễn Kim Anh (chủ biên) (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. Nxb Đại học quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
[5] Phạm Đình Ân (2006), Thế Lữ - Tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6] Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học,Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[7] Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: Lí luận tác gia và tác phẩm (Tập 1), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
[8] Nguyễn Ngọc Bích (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[9] Nguyễn Thị Bình (1999), “Một vài đặc điểm của tiểu thuyết Mới”, Tạp chí Văn
học, (6) tr.17-18.
[10] Jorge Luis Borges (2002), Edgar Poe và truyện trinh thám, Tuyển tập Edgar Poe,
Nxb Văn học, Hà Nội.
[11] Raymond Chandler (1944), The Simple Art of Murder, (Nghệ thuật sáng tạo
truyện trinh thám), The Atlandtic Monthly.
[12] Phạm Tú Châu (2001), “Cuộc kỳ ngộ giữa Phạm Cao Củng và Trình Tiểu Thanh –
Hai tác giả trinh thám nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học , (6), tr.24-32.
[13] Hoàng Minh Châu (1993), Bài học tình yêu, Nxb Văn học, Hà Nội.
[14] Nguyễn Huệ Chi (2005, tái bản 2013 ), Tiểu thuyết quốc ngữ đầu thế kỷ XX ,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[15] Michael Cornnely (2010), Việc máu (Blood Work), Trần Tiễn Cao Đăng dịch,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[16] Phạm Cao Củng – Phùng Bảo Thạch (1940), Viết báo, Nxb Ngày nay, Hà Nội.
[17] Phạm Cao Củng (1942), Kho vàng Ba bể, Nxb Huyền Nga, Hà Nội.
142
[18] Phạm Cao Củng (1967), Vết tay trên trần – Kho tàng họ Đặng, Nxb Chi Lăng,
Sài Gòn.
[19] Phạm Cao Củng (1997), Truyện trinh thám, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
[20] Phạm Cao Củng (2006), Chiếc tất nhuộm bùn – Kho tàng họ Đặng, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
[21] Phạm Cao Củng (2006), Nhà sư thọt – Người một mắt , Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
[22] Phạm Cao Củng (2006), Truyện trinh thám, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
[23] Phạm Cao Củng (2006), Đám cưới Kỳ Phát – Bóng người áo tím, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
[24] Phạm Cao Củng (2012), Hồi ký Phạm Cao Củng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[25] Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học, lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
[26] Nguyễn Văn Dân (2011), Lý luận Văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[27] Lê Tiến Dũng - Hồ Khánh Vân (2009), “Bửu Đình, nhà tiểu thuyết Nam Bộ”, Tạp
chí Khoa học & Công nghệ, Trường ĐHKHXH&NV, TP. Hồ Chí Minh, (8).
[28] Tôn Thất Dụng (1993) Sự hình thành và vận động của thể loại tiểu thuyết văn
xuôi tiếng Việt ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XX đến 1932, Luận án Tiến sĩ
khoa học Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.
[29] Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây – Tiếp nhận và giao thoa trong
Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[30] Phan Cự Đệ (1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
[31] Phan Cự Đệ (1997), Văn học - Đổi mới và giao lưu văn hoá, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[32] Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (1997, tái bản lần thứ
nhất ), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[33] Phan Cự Đệ (2003), “ Tiểu thuyết phiêu lưu và tiểu thuyết tâm lý”, Tạp chí Nhà
văn, (7).
[34] Phan Cự Đệ (chủ biên), (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lịch
sử và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
143
[35] Bửu Đình (1989), Cậu Tám Lọ, Nxb Tổng hợp, Tỉnh Tiền Giang.
[36] Bửu Đình (2001), Mảnh trăng thu, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
[37] Phú Đức (2003), Tôi có tội, Nxb Tổng hợp, Tiền Giang.
[38] Hà Minh Đức (chủ biên) (2005), Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[39] Ngô Văn Giá (1996, Sưu tầm và biên soạn), Tiếng hú ban đêm, tập truyện ngắn
Thế Lữ, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
[40] Bằng Giang (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ 1865-1930, Nxb Trẻ, TP. Hồ
Chí Minh.
[41] Bằng Giang (1993), “Truyện Tàu với một số tiểu thuyết gia đầu tiên ở Việt
Nam”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, (106).
[42] Đoàn Lê Giang (2006), “Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỉ XIX đến 1945 -
Thành tựu và triển vọng nghiên cứu”, Tạp chí nghiên cứu Văn học, (7).
[43] Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, (Vũ Hoàng Đich và
Trần Ngọc Vương dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
[44] Trần Thanh Hà (2006), Lời tựa truyện trinh thám đặc sắc của Phạm Cao Củng),
Nhà sư thọt – Người một mắt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
[45] Dương Quảng Hàm (1996), “Lời giới thiệu”, Tập truyện ngắn Tiếng hú ban đêm,
Nxb Văn hóa, Hà Nội.
[46] Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam Văn học sử yếu, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội.
[47] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục , Hà Nội.
[48] Tế Hanh (1989), “Thương tiếc nhà thơ Thế Lữ”, Báo Văn nghệ, (23) ra ngày 3/6.
[49] Hoàng Ngọc Hiến (2006), Triết lý văn hóa và triết luận trong văn chương, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
[50] Nguyễn Công Hoan (Tái bản 1988), Đời viết văn của tôi, Nxb Đại học và Giáo
dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
[51] Khái Hưng (1934), “ Lời giới thiệu”, Vàng và máu, Nxb Đời nay, Hà Nội.
[52] Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900 -1932, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
[53] Bửu Kế (1997), Từ điển Hán Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hóa, Huế
144
[54] Nguyễn Hoành Khung (1973, tái bản 1988), Văn học Việt Nam 1930-1945 -tập I,
Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
[55] Nguyễn Hoành Khung (1989), “Lời giới thiệu”, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[56] Julia Kristeva (1996), Trả lời phỏng vấn, in trong Magazine Litérarire.
[57] Lê Đình Kỵ (1983, tái bản 1995), “Lời giới thiệu”Tuyển tập Thế Lữ, Nxb Văn
học, Hà Nội.
[58] Landrum Larry N. (1999) American Mystery and Dectective Novels: A Rerence
Guide (Hướng dẫn tham khảo truyện trinh thám Mỹ); Greenwood Publishing Group.
[59] Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 1932, Nxb Sài Gòn.
[60] Nguyễn Lân (2000), Từ điển và từ ngữ Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
[61] Phong Lê (2002) “ Văn xuôi những năm 20 (thế kỷ XX) – Phòng chờ cho bước
chuyển sang giai đoạn sau 1932”, Tạp chí Văn học (5).
[62] Thế Lữ (1936), “ Lê Phong làm thơ ”, Tạp chí Ngày nay, Tập 24,25.
[63] Thế Lữ (1963), Lê Phong phóng viên, Nxb Ngày nay, Sài Gòn.
[64] Thế Lữ (1996), Đòn hẹn – Gói thuốc lá, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[65] Thế Lữ (1996), Tiếng hú ban đêm (Tập truyện ngắn), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
[66] Thế Lữ (1997), Truyện ngắn , Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[67] Thế Lữ (2000), Vàng và máu, Nxb Văn học, Hà Nội.
[68] Thế Lữ (2003), Mai Hương - Lê Phong, Nxb Văn học, Hà Nội.
[69] Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[70] Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[71] Cao Xuân Mỹ (1999, sưu tầm), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, Trung tâm
nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
[72] Nguyễn Đăng Na (2001), Đặc điểm Văn học Việt Nam trung đại – Những vấn đề
văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[73] Nguyễn Phong Nam (2007), Truyện thơ Nôm – Những nghiên cứu hình thái học,
Nxb Đà Nẵng.
145
[74] Nguyễn Phong Nam (2008), “Nghiên cứu về quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam – Một số vấn đề phương pháp luận”, Tạp chí Khoa học - Công nghệ, ĐH
Đà Nẵng, (5).
[75] Nguyễn Phong Nam (2014), Truyện truyền kỳ Việt Nam – Đặc điểm hình thái
văn hóa – Lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội.
[76] Phạm Thế Ngũ (tái bản 1998), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Tập 3,
Nxb Đồng Tháp.
[77] Đinh Quang Nhã (1999), Văn xuôi Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX, Tập I – Trung
tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn nghệ, TP.Hồ Chí Minh.
[78] Vương Trí Nhàn (biên soạn 1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[79] Vương Trí Nhàn (2000), Những lời bàn về tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX –
1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[80] Hoàng Nhân (1998) Phác thảo quan hệ Văn học Pháp với Văn học Việt Nam
hiện đại, Nxb Mũi Cà Mau, Minh Hải.
[81] Nhiều tác giả (1983) Số phận của tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
[82] Nhiều tác giả (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
[83] Nhiều tác giả (2004), Từ điển Văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
[84] Nhiều tác giả, (2007), Từ điển tiếngViệt, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
[85] Võ Văn Nhơn (2006), “Lê Hoàng Mưu – Nhà văn của những thử nghiệm táo bạo
thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (7).
[86] Lê Huy Oanh (1994),“Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong Vàng và máu”,
Thế Lữ, tác gia và tác phẩm), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[87] Hoàng Kim Oanh (2009), “Thế Lữ Và Năm Hình Mẫu Truyện Trinh Thám
Edgar Poe”. Tạp chí Khoa học xã hội, (9), Viện Phát triển bền vững vùng Nam
bộ- Thành phố Hồ Chí Minh, tr.55 - 68.
[88] Poe Edgar (2002), Tuyển tập truyện ngắn Poe. Ngô Tự Lập và nhóm Địa cầu
dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
[89] Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
[90] Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[91] Vũ Đức Phúc (1981), Truyện trinh thám, Tạp chí Văn học, (6).
146
[92] Nam Đình Nguyễn Thế Phương (1934), Chén thuốc độc, cuốn 5, Nxb Phạm Văn
Thinh, Sài Gòn.
[93] Bùi Huy Phồn (1989), Lá huyết thư, Nxb Thanh Niên, Hà Nội
[94] Bùi Huy Phồn (1943), Gan dạ đàn bà, Mối thù truyền nghiệp, Tờ di chúc của
dòng họ Trần Thạch, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội.
[95] Claudine Salmon (biên soạn) (2004), Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở
Châu Á (từ thế kỷ XVII – thế kỷ XX), Trần Hải Yến dịch, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
[96] John C.Schaffer và Thế Uyên (1994), “Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam Kỳ”, Tạp
chí Văn học, (8), tr. 8-13.
[97] Vương Hồng Sển (1993), Thú xem truyện Tàu, Nxb TP.Hồ Chí Minh.
[98] Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[99] Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[100] Trần Đình Sử (chủ biên) (2012), Lý luận văn học - Tác phẩm và thể loại (Tập
2), Nxb ĐHSP, Hà Nội.
[101] Doãn Quốc Sỹ (1973), Văn học và tiểu thuyết, Nxb Sáng tạo, Sài Gòn.
[102] Thượng Sỹ, Vũ Bằng, Ngọa Long (1971), “Văn nghiệp Phú Đức – Tiểu thuyết
gia một thời nổi tiếng ở Nam bộ”, Tạp chí Văn học (9).
[103] Trần Hữu Tá (2000), “Nghĩ về buổi bình minh của tiểu thuyết Nam Bộ”, Tạp
chí Văn học, (10).
[104] Trần Hữu Tá (2006), “Những bổ khuyết cần thiết cho bức tranh toàn cảnh văn
học Việt Nam hiện đại”. Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên
cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[105] Nguyễn Kim Thản – Hồ Hải Thuỵ - Nguyễn Đúc Dương (2005), Từ điển tiếng
Việt – Trung tâm KHXH&NV Quốc gia; Nxb Văn hoá, Sài Gòn.
[106] Vũ Thanh (1999),“Dư ba truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện
đại” Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
[107] Nguyễn Quyết Thắng (1990), “Bình minh của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam”,
Tạp chí Bách khoa, (1), tr.44-49.
[108] Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – Những vấn đề lý thuyết và thể loại, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
147
[109] Bùi Việt Thắng (2001), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
[110] Ngô Bích Thu (2012), “Vai trò của lý trí trong truyện trinh thám và truyện kỳ
ảo qua trường hợp Edgar Allan Poe”, Tạp chí Khoa học, Đại học quốc gia Hà
Nội, (28), tr. 254-265.
[111] Lê Ngọc Thúy (2009), “Bài giảng dành cho học viên cao học”, Quá trình hiện
đại hóa văn học quốc ngữ Nam Bộ từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1930.
Trường ĐH CầnThơ.
[112] Phan Trọng Thưởng (1997), “Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong”, Tạp chí Văn
học, (7).
[113] Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và
thơ mới (1865-1932), Nxb TP. Hồ Chí Minh.
[114] Tzvetan Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào – Lê Hồng Sâm
dịch, Nxb ĐHSP Hà Nội.
[115] PhùngVănTửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại – Những tìm tòi đổi mới, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[116] Phùng văn Tửu (2006) “Những đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỷ XX, Tạp chí
nghiên cứu văn học, (5).
[117] Lê Ngọc Trà (Tập hợp và giới thiệu), (2002), Văn hóa Việt Nam – Đặc trưng
và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[118] Lê Ngọc Trà (2007), Mười điều răn của hoạ sĩ Tây Ban Nha – Văn chương
thẩm mỹ và văn hóa, Nxb TP.Hồ Chí Minh.
[119] Trần Thị Trâm (1994), “Vai trò của báo chí trong sự phát triển văn học dân tộc
đầu thế kỷ XX”,Tạp chí Văn học, (6).
[120] Trung tâm nghiên cứu Quốc học (1999), Văn xuôi Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX –
Phú Đức tiểu thuyết Châu về hợp phố, Nxb Văn nghệ, TP HCM.
[121] Nguyễn Văn Trung (2006), “Về các loại truyện viết bằng chữ quốc ngữ cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam” Văn xuôi Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX,
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
[122] Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú (1976), Lịch sử văn học Việt Nam Giai đoạn II
Đầu thế kỷ XX – 1930), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[123] Hoài Việt (1991), Thế Lữ - Cuộc đời trong nghệ thuật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
148
[124] Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học - Nhà nho tài tử và
văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục,Hà Nội.
[125] Nguyễn Thị Thanh Xuân (2006), “Phú Đức – Một mẫu nhà văn Nam bộ đầu
thế kỷ XX”, Tạp chí nghiên cứu Văn học, (7), tr. 19-23.
II. TÀI LIỆU INTERNET
.com/2012/03.. Truy cập ngày 12.04.2012
[126] Nguyễn Vy Khanh (2012), Cái chết trong văn học. http://vanchuongplusvn
[127] Võ Văn Điệp (2013), Mối quan hệ giữa truyền thống và cách tân.http://
blogspot. vovandiep84.co.uk/2013/08/.html. Truy cập ngày 02.07. 2013
[128] Thạch Thư Xá (2012). Làm họa sĩ thì cần bao nhiêu tiền.http://thachthuxa.
wordpress. .com/2012/10. Truy cập ngày 20.09.2012
[129] Trần Trung Sáng (2013).Phạm cao Củng – Chàng thám tử Kỳ Phát.http://
nhavan tphcm. com.vn /chan-dung-phong-van/pham-cao-cung-chang-tham-tu-
ky-phat.html. Truy cập ngày1.12.2013
[130] Kiến thức văn học (2012) Quan hệ giữa văn nghệ và hiện thực.http://kienthuc
vanhoc.ucoz.co.com.index.chng. Truy cập ngày 10.12.2012
[131] Văn chương (2011).Thám tử Kỳ Phát.http://www.vanchuongplusvn.blogspot.
.com/...tham-pham-cao-cung-qua.html . Truy cập ngày10.12.2013
[132] Lao đông cuối tuần (2012). Phạm Cao Củng – Nhà văn.http:// ww.laodong.
Com. vn/lao-dong-cuoi-tuan/pham-cao-cung-nha-van... Truy cập ngày
10.01.2014
[133] Tự lực văn đoàn (2010).http://www.tulucvandoan.net/ Truy cập ngày
14.01.2014.
[134] Truyện trinh thám (2011), Truyện trinh thám Phạm Cao Củng. http://
webtruyen.com/truyen-trinh-tham/ Truy cập ngày 16.01.2014
[135] Nam Chi (2013) Tiểu thuyết trinh thám Việt Nam đầutiên.http://thamtu.
com.vn ./tieu-thuyet-trinh-tham-dau-tien-cua-viet-nam/. Truy cập ngày
19.06.2013
149
[136] Đặng Anh Đào (2013), Truyện trinh thám hiện đại.http://www.thamtuvietmy
.com/thong-tin/chuyen-tham-tu/truyen-trinh-tham-hien-dai-hang-ngoai- Truy
cập ngày 12.06.2013
[137] Đặng Tiến (2012) Những đóng góp của Thế Lữ .http://vanhoanghean.com.vn.
./nhung-goc-nhin-van-hoa/ - Đặng Tiến. Truy cập ngày 12.04.2014
[138] Trần Anh Huy (1013), Truyện trinhthám.http://sachnoituoitre.khoapro.com/...
/...book - truyen-trinh-tham... Truy cập ngày 22.02.2014
[139] Truyện Thế Lữ (2011), Tuyển tập truyện trinh thám của Thế Lữ.http://.123do
c.vn/...tuyen-tap-the-lu-truyen-trinh-tham-part-2.htm. Tuyển tập Thế Lữ . Truy
cập ngày 14.04.2013
[140] S.S. Dine (2010) Hai mươi nguyên tắc viết truyện trinh thám.
http://viptruye.n.vn/@forum/f18/nguyen-tac-viet-truyen-trinh-tham-1414.html
.Truy cập ngày 14.04.2013
[141] Tin từ các báo (2010),Tọa đàm về văn học trinh thám.http://www.ict-
hcm.gov.vn/282/ /ext/articleview/article/214566/14.(TNTT>, ngày
22/03/2012). Truy cập ngày 07.06.2013
[142] Lý Đợi (2012), Văn học trinh thám ở Nam Bộ.
http://khoavanhocngonngu.edu.vn /home/index Van-hoc-trinh-tham-o-Nam-
Bo-đau-the-ky XX. Truy cập ngày 16.04.2013
[143] Khoa Ngôn ngữ và văn học (2013).http://khoangonngu.edu.vn.home/index.
php%3 Foption%3Dcom_content%26view%3Darticle%26i... Truy cập ngày
06.09.2013
[144] Yên Ba (2011), Từ Kỳ Phát đến thám tử Nguyễn Thành Luân,
http://nhilinhblogspot.com /2010/03tu-ky-phat-den-nguyen-thanh-luan-qua-
yen.html. Truy cập ngày 23.05.2013
[145] Trần Thanh Hà (2012), Thời vàng son của tiểu thuyết trinh thám. http://
thethaovanhoa. Truy cập ngày 04.05.2013
[146] Cao Việt Dũng (2013) Thời vàng son của tiểu thuyết trinh thám
.http://www.baomoi.com /Bai-1-Thoi-vang-son-Truycậpngày 16.09.2013.
[147] Thy Ngọc (2013), Truy tìm truyện trinh thám Việt http://www.dilivn.com/tin-
van-nghe/244-truy-tim-truyn-trinh-tham-viet-nam- Truy cập ngày 21.09.2013
150
[148] Thông tin truyền thông (2012) http://www.ict-hcm.gov.vn/home - Truy cập
ngày 14.06.2012
[149] Tiểu thuyết trinh thám (2012),Tiểu thuyết trinh thám, một niềm may mắn cho
văn học. http://sites.google .com/site/lovebooktk/tieu-thuyet-trinh-tham-mot-
niem-may-man-cua-van-hoc. Truy cập ngày 17.03.1014
[150] Thám tử VDT (2012). Điểu thám kỳ án.http://www.thamtu.com.vn/tieu-thuyet-
trinh-tham-dau-tien-cua-viet-nam/ – Truy cập ngày 19.08.2012
[151] Edu. Văn học (2013), Tính hiện thực trong văn học.http://werbrv1.ctu.edu.vn/
/courewares/su pham/llvanhoc1/ch4.htm. (Quan điểm của Biêlinxki)
[152] Đạo diễn tài ba (2013) Francois Truffaut (2007) http://nld.com.vn/van-hoa-van-
nghe/francois-truffaut-dao-dien-tai-ba-177433.htm. Truy cập 20/12/2014.
[153] Phạm Mạnh Hùng (2013), Phú Đức, tiểu thuyết gia feuillecton tiêu biểu của
miền Nam. http://khoavanhocngonngu.edu.vn.
[154] Lê Huy Bắc (2013), Chương 4 - Cốt truyên tự sự, http://d.violet.vn
/uploads/resources /600/1420406/preview.swf.
[155] Nguyễn Công Hoan (1936), Cái lò gạch bí mật-http://www.5book.vn/chapter/
/truyen-ngan-nguyen-cong-hoan/Q8QL
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÁC PHẨM TRINH THÁM VIỆT NAM TIÊU BIỂU NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 1. Thúy Am (1936), Anh-hùng tương-ngộ, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, Hà Nội. (Hữu
Ích, từ 25/2/1936 đến 30/3/1938)
2. Thúy Am (1937), Cái hầm bí-mật, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, Hà Nội.
3. Thúy Am (1937) Người hay ma, Imprimerie Tân Dân Thư Quán, Hà Nội.
4. Phạm Cao Củng (2006), Chiếc tất nhuộm bùn – Kho tàng họ Đặng, Nxb CAND, Hà Nội.
5. Phạm Cao Củng (1967), Vết tay trên trần – Kho tàng họ Đặng, Nxb Chi Lăng, Sài Gòn.
6. Phạm Cao Củng (2006), Nhà sư thọt – Người một mắt , Nxb CAND, Hà Nội.
7. Phạm Cao Củng (2006), Đám cưới Kỳ Phát – Bóng người áo tím, Nxb CAND, Hà Nội.
8. Phạm Cao Củng (1945), Một cái Tết rùng rợn của Kỳ Phát, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.
9. Phạm Cao Củng (1942), Chiếc gối đẫm máu, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.
10. Phạm Cao Củng (1942), Hàm răng mài nhọn , Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.
11. Phạm Cao Củng (Phương Trì) (1937), Máu đỏ lòng son, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.
12. Phạm Cao Củng (Phương Trì, 1950), Bàn tay sáu ngón, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.
13. Dương Minh Đạt (1927), Anh hùng ba mặt (Bí mật phi thường), Nxb Xưa và Nay, Sài
Gòn.
14. Dương Minh Đạt (1927), Bình vỡ gương tan, Nxb Xưa và Nay, Sài Gòn.
15. Bửu Đình (1988), Mảnh trăng thu (Imp. Xưa Nay – Sài Gòn 1931), In dài kì trên Phụ
nữ tân văn năm 1930, Nxb Tổng hợp Tiền Giang tái bản năm 1988.
16. Bửu Đình (1988), Cậu Tám Lọ, (in trên Phụ nữ tân văn), NXB Tổng hợp Tiền
Giang.
17. Việt Đông (1932), Trường huyết chiến, (04 cuốn, tiếp theo bộ Oan tình ly hận), Nhà
in Đức Lưu Phương, S. 96 trang.
18. Việt Đông (1932), Ngọc nát hoa tươi, (04 cuốn), tiếp theo bộ Trường huyết chiến,
Nhà in Đức Lưu Phương, Saigon.
19. Phú Đức (2003), Tôi có tội, Nxb Tổng hợp, Tỉnh Tiền Giang.
20. Phú Đức (1926), Châu về hợp phố, Nxb Xưa nay, Nxb Tiền Giang (1988) tái bản
toàn tập 3 cuốn, (Lần đầu tiên đăng trên báo Trung Lập).
21. Phú Đức (1929), Lửa lòng, in trên báo Công Luận
22. Phú Đức (1930), Trường tình huyết lệ, in trên báo Công Luận
23. Phú Đức (1930), Căn nhà bí mật, in trên báo báo Công Luận
24. Đỗ Lệnh Hùng (1942), Chiếc khăn nhuốm máu Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội (theo Hồi ký
Phạm Cao Củng).
25. Thế Lữ (1996), Đòn hẹn – Gói thuốc lá, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội.
26. Thế Lữ (2000), Vàng và máu, Nxb Văn học, Hà Nội
27. Thế Lữ (2003), Mai Hương & Lê Phong, Nxb Văn học, Hà Nội.
28. Thế Lữ (1996), Tiếng hú ban đêm, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
29. Thế Lữ (1963), Lê Phong phóng viên, Nxb Ngày Nay, Sài Gòn
30. Thế Lữ (1936), Lê Phong làm thơ, Tạp chí Ngày nay, Tập (24,25).
31. Lê Hoàng Mưu (1929), Đêm rốt của người tội tử hình (4 quyển, nhà in Lưu Đức
Phương, Sài Gòn). Khởi đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 2076, ngày 16 tháng 7 năm
1925 đến số 2182, ngày 22 tháng 11 năm 1925.
32. Lê Hoàng Mưu (1931), Người bán ngọc, (4 quyển), nhà in Lưu Đức Phương, Sài Gòn,
1931, (in lại trong Văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX, tập 1, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1999).
33. Biến Ngũ Nhy (1921) Kim thời dị sử - Bau Lâu ròng nghề đạo tặc,đăng trên Công
luận báo từ tháng l0 năm 1917, in thành sách năm 1921. (Imp. Moderne L. Héloury
S. Moutégout Sài Gòn).
34. Biến Ngũ Nhy (1918-1921), Một người ăn cắp bạc nhà nước; Kim thời dị sử - Chủ
nợ bất nhơn; Vị lai tân truyện - Cái nhục ngàn năm (các truyện trinh thám in dở
dang trong mục Mật thám truyện trên Công Luận báo).
35. Nam Đình Nguyễn Thế Phương (1931), Vô oan trái, (đăng trên Công Luận báo từ số
2579), Nhà in Bảo Tồn, Sài Gòn.
36. Nam Đình Nguyễn Thế Phương (1928), Huyết lệ hoa (Đăng trên Đông Pháp thời
báo).
37. Nam Đình Nguyễn Thế Phương (1934), Chén thuốc độc (5 cuốn), Nxb Phạm Văn
Thình, Sài Gòn.
38. Bùi Huy Phồn (1942), Gan dạ đàn bà, (In trong Tiểu thuyết thứ năm), Nxb Hàn
Thuyên, Hà Nội
39. Bùi Huy Phồn (1942), Mối thù truyền nghiệp, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội
40. Bùi Huy Phồn (1941), Tờ di chúc dòng họ Trần Thạch, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội
41. Cuồng Sĩ (1928), Ai giết quan toà, do Tân-Dân Thư Quán xuất bản
42. Nguyễn Chánh Sắt (1920), Gái trả thù cha (1920), 4 tập - Trinh thám tiểu thuyết,
Nxb Sài Gòn, Nxb Văn Nghệ TP.HCM (tái bản năm 2002).
43. Vũ Đình Tuyết (?), Mảnh giấy bí mật (?).
44. Vũ Đình Tuyết (?), Con ma đeo kính (?).
45. Vũ Đình Tuyết (?), Vuông khăn đẫm máu (?).
46. (Vô Danh Thị), Con khỉ giết người và Xác chết chạy đi đâu (không ghi tên tác giả,
do Tân-Dân Thư Quán xuất bản).