HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BẠCH HOÀNG KHÁNH

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ

ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ

CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI - 2014

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BẠCH HOÀNG KHÁNH

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ

ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ

CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội)

Chuyên ngành

: Xã hội học

Mã số

: 62 31 30 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS NGUYỄN ĐÌNH TẤN 2. PGS.TS PHẠM XUÂN HẢO

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ

ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Bạch Hoàng Khánh

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

1. BVTQ: bảo vệ Tổ quốc 2. NVQS: nghĩa vụ quân sự 3. QPTD: quốc phòng toàn dân 4. XHCN: xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

Trang 1 12 12

21

29

29

61

67

73 73

76

102

128

128

145 152 156

157 158

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về chức năng, vai trò của gia đình 1.2. Tình hình nghiên cứu về dòng họ và thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 2.1. Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên 2.2. Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên 2.3. Quan điểm C.Mác - Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về gia đình, vai trò của gia đình Chương 3: THỰC TRẠNG, CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY 3.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu 3.2. Thực trạng vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên 3.3. Các yếu tố tác động vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay Chương 4: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY 4.1. Một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay 4.2. Một số vấn đề đặt ra và đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên trong những năm tới 136 4.3. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN

Trang

Bảng 3.1: Vai trò của các tổ chức, lực lượng đối với thanh niên trong

thực hiện NVQS, BVTQ

78

Bảng 3.2: Đánh giá về sự tham gia của gia đình, dòng họ và các tổ chức,

lực lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến

tuổi nhập ngũ theo các nhóm khảo sát

79

Bảng 3.3: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên

truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo các nhóm

khảo sát

83

Bảng 3.4: Đánh giá của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng về sự

tham gia giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS

theo nhóm đối tượng khảo sát

86

Bảng 3.5: Những hoạt động giáo dục, động viên thanh niên tham gia

đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo nhóm đối

tượng khảo sát

89

Bảng 3.6: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện đối với thanh

niên trúng tuyển NVQS và có giấy gọi nhập ngũ theo nhóm đối tượng

khảo sát

94

Bảng 3.7: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

104

Bảng 3.8: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, động viên

thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS

106

Bảng 3.9: Điều kiện kinh tế của địa phương với hoạt động giáo dục, tuyên

truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ

120

Bảng 3.10: Hệ thống chính trị cơ sở với hoạt động giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ

122

Bảng 3.11: Cộng đồng làng xã với hoạt động giáo dục, động viên thanh

niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ

124

Bảng 3.12: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước với hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám

tuyển NVQS của gia đình, dòng họ

125

Bảng 4.1: Một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng

họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay

128

Bảng 4.2: Nghề nghiệp và thu nhập bình quân người/tháng của gia đình

theo nơi ở của gia đình

131

Bảng 4.3: Những vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình, dòng họ đối với

việc thực hiện NVQS của thanh niên

137

Bảng 4.4: Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên trong những năm tới

142

Bảng 4.5: Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối

145

với việc thực hiện NVQS của thanh niên

DANH MỤC CÁC BIỂU TRONG LUẬN ÁN

Trang

Biểu 3.1: Đóng góp của gia đình, dòng họ trong đấu tranh chống giặc

ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ

77

Biểu 3.2: Cảm nhận của gia đình khi thanh niên đến tuổi nhập ngũ, đi

đăng ký khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS

81

Biểu 3.3: Gia đình, dòng họ và các tổ chức lực lượng tham gia giáo dục,

động viên thanh niên trúng tuyển NVQS

92

Biểu 3.4: Lựa chọn của bố mẹ về việc thực hiện NVQS của con em

93

Biểu 3.5: Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình đối với

thanh niên đang tại ngũ

99

Biểu 3.6: Hoạt động động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ của

gia đình, dòng họ

100

Biểu 3.7: Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng trong thực

hiện NVQS của thanh niên

103

Biểu 3.8: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ

108

Biểu 3.9: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, động viên

thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi của gia đình, dòng họ

110

Biểu 3.10: Gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đảng viên với vai

trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS

112

của gia đình, dòng họ

Biểu 3.11: Học vấn của bố thanh niên với vai trò giáo dục, động viên

thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ

115

Biểu 3.12: Thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong

giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

117

DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH TRONG LUẬN ÁN

Mô hình 2.1: Bốn vòng tròn đồng tâm của thiết chế xã hội

58

Mô hình 2.2: Vòng tròn khép kín giữa hệ thống chính trị cở sở với

cộng đồng làng xã và gia đình, dòng họ

59

Mô hình 2.3: Vòng tròn khép kín giữa trưởng dòng họ, chủ hộ gia

đình và thanh niên

60

Mô hình 2.4: Các thành phần và mối quan hệ của hệ thống gia đình

62

Mô hình 3.1: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục,

tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

81

41

Lược đồ 2.1: Thao tác hoá khái niệm về gia đình, dòng họ

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Gia đình, dòng họ có vị thế, vai trò to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ

nước của dân tộc ta. Gia đình, dòng họ là những đơn vị xã hội lập nên làng xã, xác

lập và khẳng định chủ quyền của đất nước trên biên giới đất liền, biển đảo. Các gia

đình, dòng họ chung sức, chung lòng lập nên những pháo đài làng xã vững chắc

trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước. Gia đình, dòng họ động viên

và tổ chức cho con em tham gia lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu và BVTQ,

đồng thời là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh giặc.

Chiến tranh giải phóng và BVTQ của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân, là

một nghệ thuật quân sự độc đáo của dân tộc ta. Thực hiện nền QPTD, chiến tranh

nhân dân, dân tộc ta thường xuyên duy trì việc thực hiện NVQS đối với công dân.

Nước có giặc, toàn dân tham gia đánh giặc. Đất nước hòa bình mọi người vừa có

trách nhiệm xây dựng đất nước vừa có trách nhiệm tham gia lực lượng vũ trang,

củng cố quốc phòng, giữ vững đất nước.

Kế thừa nghệ thuật quân sự truyền thống và kinh nghiệm thực hiện chiến tranh

nhân dân, nền QPTD của cha ông, Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương và ban

hành chính sách thực hiện NVQS với công dân. Những công dân trong độ tuổi có

thể phục vụ được trong lực lượng vũ trang, có sức khoẻ đều phải thực hiện NVQS.

Thực hiện NVQS là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi công dân Việt Nam.

Hiện nay, trong điều kiện thời bình, cả nước tập trung cho nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội nên nhu cầu gọi thanh niên nhập ngũ phục vụ trong quân đội không

nhiều. Một số công dân trong độ tuổi NVQS được miễn, hoãn nhập ngũ. Hàng năm,

số lượng công dân gọi nhập ngũ không nhiều và có một số đối tượng được miễn,

hoãn thực hiện NVQS đã tạo ra cho công tác tuyển quân hàng năm của các địa

phương những thuận lợi và không ít khó khăn. Vấn đề công bằng, bình đẳng, công

khai, dân chủ trong thực hiện NVQS của công dân đã và đang là vấn đề xã hội cần

quan tâm giải quyết ở địa phương cơ sở hiện nay.

Trong bối cảnh đó, việc đảm bảo chỉ tiêu, chất lượng gọi thanh niên nhập ngũ

hàng năm của các địa phương phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của hệ thống chính trị

cơ sở, của các đoàn thể chính trị - xã hội, của các tổ chức xã hội công dân và vai trò

2

của gia đình, dòng họ. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, trên cơ sở phối kết hợp chặt chẽ các

vai trò thì công tác tuyển quân hàng năm của các địa phương mới được thực hiện

đúng, đủ, chất lượng. Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng, trong công tác tuyển quân

hàng năm phải phát huy cao độ vai trò của gia đình, dòng họ.

Gia đình, dòng họ là nhân tố quan trọng, quyết định đến việc thực hiện NVQS

của thanh niên. Gia đình, dòng họ xây dựng và nuôi dưỡng ý thức NVQS cho thanh

niên, động viên và tổ chức cho thanh niên nhập ngũ, tạo dựng những yếu tố để

thanh niên yên tâm thực hiện nhiệm vụ trong thời gian thực hiện NVQS. Hiện nay,

độ tuổi gọi nhập ngũ từ 18 đến 25, nhưng tập trung chủ yếu từ 18 đến 20 tuổi. Ở độ

tuổi này, phần lớn thanh niên đang sống trong gia đình, phụ thuộc vào gia đình, nhất

là những thanh niên vừa học xong trung học phổ thông. Do đó, mức độ, tính chất

thực hiện NVQS của thanh niên phụ thuộc rất nhiều vào sự động viên và quyết định

của gia đình, dòng họ.

Là một đơn vị kinh tế, xã hội, văn hóa, gia đình, dòng họ có nhiều sự tính toán

trong việc quyết định cho con em thực hiện NVQS. Trong nền kinh tế thị trường, sự

tính toán dựa trên lợi ích có thể dẫn đến việc gia đình, dòng họ tìm mọi phương

thức để con em được miễn hoãn hoặc thoái thác thực hiện NVQS để chăm lo cho

bản thân và gia đình. Trên thực tế, đại đa số gia đình, dòng họ giáo dục, động viên,

tổ chức cho con em thực hiện NVQS theo quy định của pháp luật, song cũng có gia

đình, dòng họ không hợp tác với hệ thống chính trị ở cơ sở trong quá trình gọi thanh

niên nhập ngũ, ít quan tâm đến thanh niên trong thời gian họ thực hiện NVQS. Thực

tiễn công tác gọi thanh niên nhập ngũ ở các địa phương cơ sở cho thấy, để công tác

này đạt kết quả cao phải phát huy hơn nữa vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên.

Nhằm góp phần lý giải về lý luận và thực tiễn vai trò gia đình, dòng họ đối với

việc thực hiện NVQS của thanh niên, cung cấp cơ sở khoa học thực tiễn cho việc

hình thành các giải pháp phát huy vai trò gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Vai trò của gia đình, dòng họ đối

với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp huyện

Ứng Hoà, thành phố Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu của luận án. Đây là nghiên cứu

xã hội học mới, không trùng lặp với các công trình đã công bố. Kết quả nghiên cứu

3

sẽ góp phần vào luận giải vai trò xã hội của gia đình, dòng họ, nâng cao chất lượng

tuyển quân, góp phần xây dựng nền QPTD, BVTQ thời kỳ mới, bổ sung nội dung

chuyên ngành xã hội học gia đình, xã hội học quân sự và xã hội học quản lý.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý thuyết và thực tiễn vai trò của gia đình,

dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên; đánh giá và đề xuất giải pháp

phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

trong những năm tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những vấn đề lý thuyết về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên.

- Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên hiện nay.

- Đề xuất giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực

hiện NVQS của thanh niên.

3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên.

Khách thể nghiên cứu

- Gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ; gia đình, dòng họ có thanh niên

không trúng tuyển NVQS.

- Thanh niên trong độ tuổi thực hiện NVQS theo quy định của pháp luật;

thanh niên đang thực hiện NVQS.

Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

- Về thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2014. Thời điểm khảo sát thực tế: năm

2012, 2013.

- Về nội dung: Nghiên cứu tương quan giữa gia đình, dòng họ với việc thực

hiện NVQS của thanh niên; làm rõ vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc tổ

chức thực hiện NVQS, xây dựng nền QPTD, BVTQ.

4

4. Câu hỏi nghiên cứu

- Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên được thể hiện

trên những vai trò gì?

- Yếu tố nào có mối quan hệ với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay?

5. Giả thuyết nghiên cứu, các biến số và khung nghiên cứu

5.1. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết thứ nhất: Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên luôn thể hiện vai trò quan trọng, quyết định trong giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh niên tham

gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập

ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội.

Giả thuyết thứ hai: Vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của

con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với số lượng con trai của gia đình, thu nhập, nghề

nghiệp của gia đình, trình độ học vấn của bố thanh niên, gia đình có bố mẹ là đảng

viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên.

Giả thuyết thứ ba: Trong những năm tới, vai trò của gia đình, dòng họ đối với

việc thực hiện NVQS của thanh niên trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh

niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký,

khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ và động

viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội sẽ ngày càng tăng.

5.2. Hệ các biến số

Biến số độc lập

- Số lượng con trai của gia đình: được đo bằng chỉ số 1 con trai, 2 con trai và 3

con trai trở lên.

- Đặc điểm của gia đình: thu nhập; nghề nghiệp; trình độ học vấn của bố thanh

niên; gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên.

+ Thu nhập của gia đình được đo bằng thu nhập bình quân người/ tháng, với các

chỉ số: từ 2 triệu trở lên, từ 1 đến dưới 2 triệu, dưới 1 triệu.

+ Nghề nghiệp của gia đình được đo bằng nghề nghiệp của bố mẹ thanh niên, với

các chỉ số: nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp.

5

+ Trình độ học vấn của bố thanh niên được đo bằng các chỉ số: tiểu học, trung

học cơ sở, trung học phổ thông và trung cấp trở lên.

+ Gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên được

đo bằng chỉ số: bố mẹ là đảng viên và bố mẹ không là đảng viên.

Biến số phụ thuộc:

- Giáo dục, truyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ.

- Giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS.

- Giáo dục, động viên thanh niên lên đường thực hiện NVQS khi có giấy gọi

nhập ngũ.

- Động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội.

Yếu tố khách quan

- Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Điều kiện kinh tế của địa phương.

- Hệ thống chính trị cơ sở.

- Cộng đồng làng xã.

6

Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

5.3. Khung nghiên cứu

Điều kiện kinh tế của địa phương

Số lượng con trai của gia đình

Giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ Giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS

Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

Giáo dục, động viên thanh niên lên đường thực hiện NVQS khi có giấy gọi nhập ngũ

Đặc điểm của gia đình: thu trình độ nhập; học vấn; nghề nghiệp; bố mẹ là đảng viên và bố mẹ không là đảng viên

Động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội

Cộng đồng làng xã Hệ thống chính trị cơ sở

6. Cơ sở lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu

6.1. Lý thuyết nghiên cứu

Lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen. Vận dụng lý thuyết hệ thống

gia đình để nhận biết các thành phần của gia đình, vị trí, vai trò của các thành viên

trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; trên cơ sở đó, phân

tích mối quan hệ giữa bố mẹ với con cái và vai trò của bố mẹ với con cái.

Lý thuyết trung gian của Robert K.Merton về tập hợp vai trò. Vận dụng lý

thuyết trung gian về tập hợp vai trò để phân tích, đánh giá các vai trò của gia đình,

dòng họ được thể hiện trên những hoạt động cụ thể; tương quan, mối quan hệ giữa

các yếu tố với những vai trò của gia đình, dòng họ đối với con cháu.

6.2. Phương pháp luận

Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và

7

pháp luật, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về

NVQS, về gia đình có công với cách mạng, có thanh niên đang tại ngũ để phân tích,

đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

6.3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích tài liệu

- Thu thập, phân tích số liệu, tài liệu về gia đình, dòng họ trong các công trình,

bài viết của các tác giả trong và ngoài nước.

- Thu thập, phân tích các báo cáo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, về

công tác quân sự, an ninh - quốc phòng của huyện Ứng Hoà và xã Quảng Phú Cầu,

xã Đại Cường, thị trấn Vân Đình từ năm 2006 đến 2014. Các báo cáo được thu thập

chủ yếu từ cơ quan quân sự huyện và xã, thị trấn.

Trong số 29 đơn vị hành chính thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội, đề

tài chọn nghiên cứu xã Quảng Phú Cầu, xã Đại Cường và thị trấn Vân Đình theo

các tiêu chí sau:

+ Về địa lý: trong địa giới hành chính của huyện Ứng Hoà, xã Quảng Phú Cầu

ở phía Bắc - cửa ngõ của huyện, xã Đại Cường ở phía Nam - cuối huyện, thị trấn

Vân Đình ở trung tâm của huyện.

+ Về lịch sử: cả ba địa phương đều có truyền thống cách mạng kiên cường, có

những đóng góp to lớn về nhân lực, vật lực cho công cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong chiến tranh BVTQ.

+ Về kinh tế - xã hội: Quảng Phú Cầu và Đại Cường là hai xã nông nghiệp. Xã

Đại Cường chủ yếu phát triển kinh tế dựa vào trồng trọt và chăn nuôi, đời sống sinh

hoạt của gia đình, dòng họ còn mang nhiều ấn của xã hội nông thôn; xã Quảng Phú

Cầu, ngoài phát triển kinh tế nông nghiệp còn phát triển kinh tế tiểu thủ công

nghiệp, kinh tế làng nghề, đời sống sinh hoạt của gia đình, dòng họ trong xã hội

nông thôn nhưng có nhiều tiếp biến với kinh tế thị trường; thị trấn Vân Đình là

trung tâm hành chính, văn hoá, kinh tế, xã hội của huyện, đời sống sinh hoạt của gia

đình, dòng họ chủ yếu được tổ chức theo xã hội đô thị.

Phỏng vấn sâu

- 15 cán bộ xã, thị trấn, thôn, tổ dân phố. Trong đó, phỏng vấn 06 cán bộ xã,

thị trấn (chủ tịch, phó chủ tịch xã, thị trấn, chỉ huy trưởng quân sự, chỉ huy phó

quân sự xã, thị trấn); 09 cán bộ thôn, tổ dân phố.

8

- 35 người trong gia đình, dòng họ, gồm: 09 trưởng họ, 16 bố mẹ thanh niên

trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và 10 thanh niên nhập ngũ và không nhập ngũ.

Điều tra bằng phiếu

- Điều tra bằng phiếu đối với 800 người thuộc các nhóm đối tượng sau: 198

người là bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS từ năm 2010 đến năm 2013, điều tra

tháng 2, tháng 8 của năm 2012 và tháng 2, tháng 8 của năm 2013; 402 người là bố mẹ

thanh niên không trúng tuyển NVQS, điều tra tháng 8 năm 2013 ở xã Quảng Phú

Cầu, xã Đại Cường, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hoà, Hà Nội; 200 người là thanh

niên đang tại ngũ ở tiểu đoàn huấn luyện tân binh, Sư đoàn B71, Quân chủng Phòng

không - Không quân, điều tra tháng 9 năm 2012. Kết quả thu về 789 phiếu.

Phương pháp lấy mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản

- Với nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS: dựa vào danh sách 198

thanh niên trúng tuyển NVQS do Ban chỉ huy quân sự xã Quảng Phú Cầu, xã Đại

Cường, thị trấn Vân Đình cung cấp trong các đợt tuyển quân (tháng 2 và tháng 8) từ năm

2010 đến năm 2013, nghiên cứu toàn bộ bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS.

- Với nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển quân sự: trên cơ sở danh

sách những thanh niên không trúng tuyển NVQS do Ban chỉ huy quân sự xã, thị

trấn cung cấp trong đợt tuyển quân tháng 8 năm 2013: xã Quảng Phú Cầu có 282

thanh niên không trúng tuyển NVQS; xã Đại Cường có 114 thanh niên không trúng

tuyển NVQS; thị trấn Vân Đình có 247 thanh niên không trúng tuyển NVQS. Sử

=

S

2 NPX +− )1

− P 1( ) 2 PX 1(

P )

2 Nd (

dụng công thức tính mẫu của Krejcie và Morgan (1970) [128]:

Trong đó: S = cỡ mẫu cần thiết; N = quy mô dân số; P = tỷ lệ dân số; d = mức

độ chính xác hiện như là một tỷ lệ; X2 = độ tin cậy: giá trị bảng chi bình phương

cho một mức độ tự do ở mức độ tin cậy mong muốn.

Từ số lượng thanh niên không trúng tuyển NVQS được cung cấp, sử dụng công

thức tính mẫu, tính được dung lượng mẫu cần thiết như sau: xã Quảng Phú Cầu là

163 thanh niên; xã Đại Cường là 88 thanh niên; thị trấn Vân Đình là 151 thanh niên.

Sau đó, điều tra bằng phiếu với bố hoặc mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS.

9

- Với nhóm thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội: dựa vào danh sách 200

thanh niên tại ngũ ở tiểu đoàn huấn luyện tân binh do lãnh đạo, chỉ huy tiểu đoàn cung

cấp trong đợt huấn luyện tân binh, tháng 9 năm 2012, nghiên cứu toàn bộ thanh niên.

Thanh niên đang tại ngũ có nơi ở trước khi nhập ngũ thuộc 10 tỉnh, thành ở

miền Trung: Thanh Hoá, Hà Tĩnh và miền Bắc: Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng,

Nam Định, Thái Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Hà Nội (không có thanh niên ở huyện

Ứng Hoà). Do không có thanh niên nào thuộc huyện Ứng Hoà, Hà Nội nên kết quả

điều tra thanh niên tại ngũ được dùng để đối chiếu, so sánh với kết quả điều tra bố

mẹ thanh niên và đánh giá các vấn đề phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong

thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.

- Số lượng phiếu được xử lý 789 (11 phiếu không chứa đủ thông tin, không

được xử lý, trong đó 09 phiếu của bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS; 02

phiếu của thanh niên đang tại ngũ).

- Trong phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa biến số độc lập, yếu tố khách quan

với biến số phụ thuộc có sử dụng sự kiểm định Chi-square thông qua chỉ số: Pearson chi-

square. Nếu chỉ số Pearson chi-square có mức ý nghĩa P < 0,05 và có giá trị tuyệt

đối càng lớn thì mối quan hệ giữa hai biến số càng chặt chẽ và ngược lại.

10

- Bảng cơ cấu mẫu điều tra:

Cơ cấu mẫu

Đặc điểm đối tượng

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Chung (N=789)

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) % SL

Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) %

SL

SL

%

SL

%

Nơi ở

Tuổi

Giới tính Nghề nghiệp

40,9 21,7 37,4 30,8 30,8 22,7 15,7 69,2 30,8 30,3 52,0 17,7 9,6 90,4 39,4 33,8 26,7 44,4 46,0 9,6 92,4 5,1 2,5

159 86 148 144 146 53 50 291 102 184 161 48 43 350 173 128 92 211 166 16 390 1 2

40,5 21,9 37,7 36,6 37,2 13,5 12,7 74,0 26,0 46,6 41,0 12,2 10,9 89,1 44,1 32,6 23,4 53,7 42,2 4,1 99,2 0,3 0,5

159 80,3 5,6 11 14,1 28 22,2 44 77,8 145 53,0 105 27,8 55 19,1 38 50,5 100 42,9 85 6,6 13 91,9 182 3,5 7 4,5 9

240 129 222 205 207 98 81 428 163 403 275 111 106 683 356 250 183 399 342 48 755 18 16

30,4 16,3 28,1 34,7 35,0 16,6 13,7 54,2 20,7 51,1 34,9 14,1 13,4 86,6 45,1 31,7 23,2 50,6 43,3 6,1 95,7 2,8 3,0

Quảng Phú Cầu 81 Đại Cường 43 Vân Đình 74 Dưới 46 61 Từ 46 - 50 61 Từ 51 - 55 45 31 Trên 55 Bố thanh niên 137 Mẹ thanh niên 61 Nông nghiệp 60 Nông nghiệp hỗn hợp 103 Phi nông nghiệp 35 Bố mẹ là đảng viên 19 Bố mẹ không là đảng viên 179 2 - 4 người 78 5 người 67 6 người trở lên 53 88 1 con trai 91 2 con trai 19 183 10 5

Nông dân Công nhân Khác

Đảng viên Thành viên gia đình Con trai trong gia đình 3 con trai trở lên Thành phần xuất thân Trình độ học vấn

13,1 56,1 27,3 3,5 2,0

35 256 76 26 38

8,9 65,1 19,3 6,6 9,7

6 80 102 10 10

3,0 40,4 51,5 5,0 5,1

67 447 232 43 52

8,5 46,7 29,4 5,4 6,6

26 111 54 7 4

43

21,7

199

50,6

69

34,8

311

39,4

151

76,3

156

39,7

119

60,1

426

54,0

Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp trở lên 2 triệu trở lên 1-dưới 2 triệu Dưới 1triệu

Thu nhập bình quân người/ tháng

11

7. Điểm mới, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

7.1. Điểm mới của luận án

- Điểm mới về lý luận: Bên cạnh việc đưa ra những nghiên cứu mới về gia đình,

dòng họ, đặc điểm của gia đình, dòng họ, luận án phân tích quan niệm và yếu tố tác

động vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Đặc

biệt, luận án đưa ra 3 mô hình tương tác giữa các yếu tố tác động, chi phối việc thực

hiện NVQS của thanh niên.

- Điểm mới về thực tiễn: Dựa trên những tài liệu, số liệu thu thập, xử lý được từ

điều tra khảo sát của tác giả, luận án có những phân tích, đánh giá mới về thực trạng

vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên và yếu tố

tác động đến vai trò của gia đình đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

- Vấn đề được rút ra từ những phân tích, đánh giá thực trạng; một số thuận lợi,

khó khăn, đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên; giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên đều là những nghiên cứu mới trong luận án.

7.2. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, phát triển lý thuyết xã hội học gia đình,

xã hội học quân sự, xã hội học quản lý, nhất là lý thuyết xã hội hoá; góp phần hoàn

thiện lý luận về công tác quản lý đối với thanh niên trong độ tuổi thực hiện NVQS và

thanh niên đang tại ngũ.

- Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của thanh niên

trong thực hiện NVQS; góp phần khẳng định vai trò của gia đình, dòng họ trong xây

dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ Việt Nam XHCN.

- Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy xã

hội học gia đình, xã hội học quân sự, xã hội học quản lý.

8. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và danh mục tài liệu tham khảo,

nội dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết.

12

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Gia đình, dòng họ và vai trò của gia đình, dòng họ được nhìn nhận dưới nhiều

góc độ tiếp cận khác nhau, trong đó có những công trình nghiên cứu dưới góc độ

tiếp cận xã hội học. Sự tham gia của xã hội học đã góp phần nhận thức về gia đình,

dòng họ trở nên cụ thể, sâu sắc và toàn diện hơn.

Cho đến nay, đã có nhiều công trình, bài viết cả trong và ngoài nước nghiên

cứu về gia đình, dòng họ, trên các hướng, nội dung khác nhau. Trong đó, có các

hướng, nội dung nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình,

dòng họ và chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình, dòng họ; làng Việt,

dòng họ và thực hiện NVQS của thanh niên.

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHỨC NĂNG, VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH

1.1.1. Chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình

Nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình có nhiều

công trình, bài viết, trong đó có cả những công trình, bài viết của tác giả trong nước

và nước ngoài. Điển hình cho hướng nghiên cứu này là các tác giả August Comte,

Cooley, Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý, Lê Ngọc Văn, v.v…

Trước hết, nghiên cứu về vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được thể

hiện trong sách “Xã hội học gia đình” của Martine Segalen [77]. Ở đây, tác giả đã

trình bầy các vấn đề chủ yếu: suy nghĩ về gia đình hiện đại; những biến đổi của

quan hệ thân tộc; những biến đổi của gia đình; các chức năng của gia đình; gia đình,

chuẩn mực và nhà nước. Đặc trưng của cuốn sách là sự kết hợp giữa trình bầy lý

thuyết và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu về gia đình và các quan

hệ của gia đình ở châu Âu; đặt gia đình và sự biến đổi của gia đình trong các quan

hệ với xã hội, giai cấp, nhà nước, dòng họ, quan hệ thân tộc, đề cao vị thế thiết chế

xã hội của gia đình, dòng họ và nhấn mạnh vai trò giáo dục, xã hội hóa của gia đình.

Trong làm rõ vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình, tác giả đã phân tích các

chiều cạnh quan hệ xã hội của gia đình: mẹ và con gái; quan hệ thân tộc theo giới

tính; tự do, bình đẳng, bất bình đẳng trong quan hệ gia đình.

Cuốn Gia đình học của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý [53] là một công trình

nghiên cứu khoa học về gia đình Việt Nam, về vai trò của gia đình. Trong cuốn sách,

13

các tác giả đã có những nghiên cứu chuyên sâu về vị trí, vai trò, chức năng của gia

đình và cho rằng: “Gia đình có thể biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng, về các

hình thức và chuẩn mực trong các mối quan hệ, nhưng vị trí, vai trò của nó đối với sự

phát triển của xã hội thì vẫn không thay đổi” [53, tr. 642-643]. Đặc biệt, khi nghiên

cứu về giáo dục gia đình và xã hội hoá cá nhân, các tác giả viết: “Giáo dục gia đình là

phương thức dạy dỗ cho con trẻ lớn lên có được những kiến thức cần thiết để mưu

sinh, lao động, sản suất và ứng xử với đời” [53, tr. 261-262]. Trong những nội dung

mà các bậc cha mẹ giáo dục con cháu được các tác giả đưa ra như: sự lễ phép, hiếu

thảo, tính trung thực, tính tự lập, niềm tin vào cuộc sống và sự truyền dạy về lý tưởng

cách mạng, thì “Sự truyền dạy về lý tưởng cách mạng không cao, chỉ chiếm 51,7%”

[53, tr. 271], nhưng theo các tác giả điều này không có nghĩa gia đình không chú

trọng giáo dục mà chỉ là một sự thay đổi phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh sống

của kinh tế thị trường. Nghiên cứu này của tác giả là những gợi mở thú vị cho việc

gia đình giáo dục, tuyên truyền con em về nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân với

quê hương, đất nước, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ BVTQ.

Nghiên cứu về chức năng, vai trò xã hội hoá của gia đình phải kể đến August

Comte, nhà xã hội học người Pháp. Trong phân tích xã hội dưới dạng cơ cấu của nó,

Comte đã xác định vị trí và chức năng của gia đình trong sự vận động của tổng thể xã

hội. Ông chia xã hội thành hai phần cơ bản là tĩnh học xã hội (phần cơ cấu chức

năng) và động học xã hội (phần lịch sử). Với cách phân chia này, Comte chỉ ra, gia

đình vừa nằm trong phần cơ cấu tĩnh của xã hội (vị thế, vai trò, chức năng quan trọng

trong xã hội) vừa nằm trong phần động của xã hội (vận động và biến đổi cùng với các

sự kiện lịch sử). Ông cũng cho rằng, gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên của

con người trước khi bước vào đời sống xã hội. Gia đình là một thành phần chủ yếu,

quan trọng của xã hội, tạo nên diện mạo xã hội; mối quan hệ giữa các thành viên

trong gia đình tạo nên sự gắn kết của gia đình trong xã hội [94, tr.12].

Ch.H.Cooley, trong cuốn Bản chất con người và trật tự xã hội lại đưa ra quan

điểm, một trong những thành tố cấu thành trật tự xã hội là gia đình. Cooley coi gia

đình là một trong những nhóm nhỏ của xã hội và là nhóm có vai trò quan trọng nhất

trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Ông đưa hệ thống phương pháp luận có tính cơ

cấu - chức năng vào phân tích gia đình. Qua đó, Cooley đã có điều kiện để mổ xẻ,

14

phân tích các quan hệ gia đình một cách cụ thể, sát thực. Tuy nhiên, trong phân tích

gia đình, Cooley có phần coi nhẹ các nhân tố mang tính chủ thể như nhận thức, tâm

lý, tâm trạng, các nhân tố về văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán trong sự vận

động của các quan hệ gia đình [94, tr.13].

Cũng đề cập đến chức năng gia đình, nhưng thiên về chức năng xã hội hoá

của gia đình, cuốn sách Gia đình với chức năng xã hội hóa của Lê Ngọc Văn [102]

đã cho thấy những biến đổi trong chức năng xã hội hóa của gia đình Việt Nam,

những thách thức, khó khăn và những giải pháp cho gia đình Việt Nam nhằm hoàn

thiện chức năng xã hội hóa trong điều kiện hiện nay. Trong phân tích chức năng xã

hội hoá của gia đình, tác giả cho rằng, gia đình không chỉ tái sản xuất ra con người

về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra đời sống tình cảm, tâm hồn, văn hoá, tức là

xã hội hoá. Quá trình xã hội hoá giúp chuyển hoá con người từ một thực thể tự

nhiên thành con người xã hội và con người sinh ra nếu không nhận được sự giáo

dục, tách khỏi môi trường xã hội thì sẽ không trở thành con người thực thụ: “Người

ta sinh ra không phải đã là con người mà chỉ trở thành con người trong quá trình

giáo dục” [Trích theo 78, tr.49]. Đây đều là những gợi ý thú vị cho nghiên cứu chức

năng, vai trò xã hội hoá NVQS cho thanh niên của gia đình.

Nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục của gia đình còn được nhìn nhận

trong nhiều công trình, bài viết của các tác giả. Nổi bật cho các công trình nghiên

cứu chức năng giáo dục của gia đình là cuốn sách: Những nghiên cứu xã hội học về

gia đình Việt Nam của Tương Lai [58]. Công trình đã trình bày khá rõ nét những

đặc điểm của gia đình, như nội dung phân tích về gia đình và giáo dục gia đình của

Trần Đình Hượu, phụ nữ với chức năng giáo dục gia đình của Đặng Thanh Lê; phân

tích sâu sắc ảnh hưởng của giáo dục gia đình đối với sự hình thành và hoàn thiện

nhân cách của con người.

Cũng bàn về giáo dục gia đình, Trịnh Duy Luân và Helle Rydstrom - Wil

Burghoorn trong cuốn Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi [62] đã đưa

ra những số liệu về vai trò của cha mẹ trong giáo dục con cái, như “Vai trò của

cha mẹ trong việc dạy bảo, đưa con vào kỷ luật: cả hai vợ chồng là 27,7%, chồng

là 20,6%, vợ là 19,9%, người khác là 1,5%” [62, tr.141]. Sự dạy bảo, đưa con vào

kỷ luật của cha mẹ là nhân tố quan trọng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho

15

con em chưa đến tuổi nhập ngũ, giúp con cháu hình thành tác phong, lối sống kỷ

luật của người lính ngay từ khi còn nhỏ. Sách Gia đình trong tấm gương xã hội học

(2004) do Mai Quỳnh Nam chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội lại có nhiều bài

viết làm rõ chức năng, chức năng giáo dục của gia đình và cấu trúc, các mối quan hệ

trong gia đình.

Tiếp đến Xã hội học Giáo dục của Lê Ngọc Hùng [46] là cuốn sách chuyên

ngành, gồm 9 chương, nhưng trong chương 8: Dân số, gia đình và nhà trường, tác

giả đã tập trung phân tích vị trí, vai trò của giáo dục nhà trường trong mối quan hệ

với dân số và gia đình và các vấn đề như: hôn nhân và giáo dục gia đình, cơ cấu các

loại gia đình. Về vai trò của gia đình, tác giả chỉ rõ: “gia đình với hoàn cảnh kinh tế

- xã hội và quan điểm giáo dục của bố mẹ mới là những yếu tố tác động trực tiếp

mạnh mẽ tới động cơ học tập, chất lượng học tập và khả năng thành đạt của học

sinh” [46, tr. 283]. Điều này gợi mở cho nghiên cứu mối quan hệ giữa yếu tố kinh

tế, thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS

của thanh niên.

Kiểu loại gia đình và giáo dục trẻ em trong gia đình ở Hà Nội hiện nay của

tác giả Nguyễn Chí Dũng [27] đã đưa ra những nghiên cứu về biến đổi của gia

đình và tác động của nó tới quá trình giáo dục, nhu cầu, nội dung và phương pháp

giáo dục. Tác giả đã nhấn mạnh vào các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo

dục gia đình: đẩy mạnh giáo dục toàn diện trong đó giáo dục đạo đức, lối sống,

nhân cách phải đặt lên hàng đầu; giáo dục tình yêu thương và kính trọng đối với

người già là một phần không thể thiếu trong giáo dục đạo đức; chú ý giáo dục

phòng ngừa những tệ nạn xã hội; phát huy vai trò của chủ thể trong quá trình giáo

dục. Biến đổi chức năng của gia đình và giáo dục trẻ em hiện nay của Hoàng Bá

Thịnh [88] lại tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi chức năng gia đình

đến sự phát triển của trẻ em. Tác giả chỉ ra, cha mẹ có trình độ văn hoá thấp cũng

ảnh hưởng đến quá trình nuôi dạy và giáo dục con cái; sự nuông chiều con cái và

buông lỏng quản lý của gia đình cũng là tiền đề cho những hành vi phạm pháp

trong giới trẻ hiện nay.

Sách Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở tuổi thiếu niên trong gia

đình thành phố hiện nay của Nguyễn Thanh Bình [8] có những nghiên cứu về những

16

yếu tố ảnh hưởng đến gia đình, giáo dục gia đình và trẻ em. Nghiên cứu chỉ rõ, ở gia

đình thành phố nước ta đã có sự thay đổi khá toàn diện về cơ cấu, quy mô gia đình,

thu nhập, mức sống, đời sống tình cảm, tính chất của các mối quan hệ trong gia đình

và định hướng cho con cái. Đặc biệt, tác giả còn nhấn mạnh vai trò của gia đình trong

giáo dục đạo đức như: yêu thương, trách nhiệm, ham học, có ý thức tự tin, dũng cảm,

tôn trọng và hợp tác với mọi người, khoan dung, trung thực, khiêm tốn.

Luận án Tiến sĩ xã hội học Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em

hư ở thành phố (Qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội) của Nguyễn Đức Mạnh [64]

đã tập trung làm rõ vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức gia phong cho trẻ;

nhấn mạnh đến ảnh hưởng của yếu tố nghề nghiệp, trình độ học vấn, văn hoá, lối

sống… của bố mẹ đến những trẻ em trong gia đình. Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa xã

hội khoa học Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay

của Nghiêm Sĩ Liêm [59] đã có những nghiên cứu về chức năng giáo dục của gia

đình đối với thế hệ trẻ; nhấn mạnh đến giáo dục đạo đức, giáo dục học tập văn hoá,

giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho thế hệ trẻ, giáo dục giới tính cho thế

hệ trẻ. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra vai trò của ông bà, bố mẹ, anh chị em đối với

việc giáo dục thế hệ trẻ. Tác giả nhấn mạnh: “Vai trò của cả cha mẹ là đảm bảo

hạnh phúc gia đình, chăm lo sự phát triển của con cái. Cùng với người mẹ, người

cha giáo dục con cái về nhân cách và những giá trị văn hoá tinh thần của gia đình,

của dòng họ và của thân tộc” [59, tr.52]. Bài viết Giáo dục gia đình trong thời đại

ngày nay của Lê Trung Trấn [93] nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục gia đình

qua hai bình diện truyền thống và hiện đại. Tác giả cũng đưa ra nội dung giáo dục

tiền hôn nhân, giáo dục hành vi ứng xử, giáo dục văn hoá, giáo dục nghề nghiệp, giáo

dục tri thức và giáo dục sức khoẻ.

Tóm lại, những nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia

đình có thể được nhận diện trên một số nội dung nghiên cứu như sau: Thứ nhất, chức

năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được đề cập trong các công trình

nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Cụ thể, công trình Xã hội học gia đình của

Martine Segalen, trong kết hợp nghiên cứu giữa lý thuyết và thực nghiệm các tác giả

có nhấn mạnh vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình thông qua các mối quan hệ

của gia đình; các nghiên cứu của August Comte lại nhấn mạnh gia đình là môi

17

trường xã hội hoá đầu tiên của con người trước khi bước vào đời sống xã hội hay

Ch.H.Cooley, trong cuốn Bản chất con người và trật tự xã hội cho rằng, gia đình có

vai trò quan trọng trong quá trình xã hội hoá cá nhân; Những nghiên cứu xã hội học

về gia đình Việt Nam của Tương Lai có nhiều bài viết của các tác giả nghiên cứu về

chức năng giáo dục gia đình. Những công trình nghiên cứu này chỉ có giá trị tham

khảo nhất định trong triển khai vấn đề nghiên cứu của luận án. Bởi vì, tuy nghiên

cứu nhiều và khá kỹ về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình, nhưng

chưa có công trình nào nghiên cứu vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình trong

thực hiện NVQS của thanh niên.

Thứ hai, chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được thể hiện

thông qua các nghiên cứu về trẻ em, học sinh. Nổi bật là công trình Gia đình học của

Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý đã có những phân tích giá trị về vai trò của giáo

dục gia đình trong dạy dỗ con trẻ lớn lên và hình thành sự lễ phép, hiếu thảo, tính

trung thực, tính tự lập, niềm tin vào cuộc sống, lý tưởng cách mạng cho con trẻ; Gia

đình với chức năng xã hội hóa của Lê Ngọc Văn chủ yếu đề cập đến chức năng xã

hội hoá con cái của gia đình; Xã hội học Giáo dục của Lê Ngọc Hùng lại nhấn mạnh

vai trò của bố mẹ với động cơ, chất lượng học tập và khả năng thành đạt của học

sinh; Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở tuổi thiếu niên trong gia đình

thành phố hiện nay của Nguyễn Thanh Bình lại có những nghiên cứu về những yếu

tố ảnh hưởng đến giáo dục gia đình và trẻ em... Đối tượng nghiên cứu trẻ em, học

sinh hoàn toàn khác với thanh niên, nhưng các nghiên cứu này, nhất là nghiên cứu

nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của gia đình trong xã hội hoá con trẻ; nghiên cứu

về mối quan hệ giữa yếu tố kinh tế, thu nhập của gia đình với vai trò giáo dục của

bố mẹ với con cái đều là những tài liệu tham khảo giá trị, gợi mở cho nghiên cứu

vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình trong thực hiện NVQS của thanh niên.

Thứ ba, chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được nhìn nhận ở

khía cạnh giáo dục các giá trị truyền thống, đạo đức, lối sống, kỷ luật, nhân cách cho

con trẻ. Chẳng hạn, công trình Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi của

Trịnh Duy Luân và Helle Rydstrom - Wil Burghoorn nhấn mạnh vai trò của cha

mẹ trong việc dạy bảo, đưa con vào kỷ luật; Kiểu loại gia đình và giáo dục trẻ em

trong gia đình ở Hà Nội hiện nay của Nguyễn Chí Dũng cho rằng, trong nghiên cứu

18

về biến đổi gia đình thì giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho trẻ em phải được

đưa lên hàng đầu; Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em hư ở thành phố

(Qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội) của Nguyễn Đức Mạnh lại tập trung làm rõ

vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức gia phong cho trẻ... Những công trình

nêu trên có nhiều phân tích, đánh giá về vai trò giáo dục của gia đình đối với con trẻ

về đạo đức, lối sống, nhân cách,... nhưng chưa có những phân tích đánh giá vai trò

giáo dục của gia đình đối với con trẻ về nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với

sự nghiệp xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ; không có công trình, bài viết nào

nghiên cứu vai trò giáo dục của gia đình đối với thanh niên về thực hiện NVQS. Do

vậy, chúng chỉ có giá trị tham khảo cho phân tích, đánh giá vai trò giáo dục của gia

đình trong thực hiện NVQS của thanh niên.

1.1.2. Chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình

Tâm lý tình cảm là một trong những chức năng cơ bản của gia đình. Hướng

nghiên cứu này có trong nhiều công trình, bài viết của các tác giả và được thể hiện

theo những cách thức khác nhau.

Trong nghiên cứu về gia đình ở phần IV, chương 14 (tr.451 - 488), Xã hội học,

John J. Macionis [63] đã đề cập đến nhiều lĩnh vực: ý niệm cơ bản về quan hệ họ

hàng; gia đình trong viễn tưởng giữa các nền văn hóa; phân tích lý thuyết về gia

đình; diễn tiến đời sống của gia đình Mỹ điển hình; tính đa dạng trong gia đình Mỹ;

sự chuyển tiếp và các vấn đề trong đời sống gia đình; kĩ thuật sinh sản mới với gia

đình. Đặc biệt, John J. Macionis đưa ra quan niệm về quan hệ họ hàng: “ám chỉ các

mối quan hệ xã hội dựa trên huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng” [63, tr.452];

đưa ra: “Mô hình cấu trúc - chức năng hướng đến một số chức năng xã hội quan

trọng do gia đình thực hiện” [63, tr.456]. Trong các chức năng cơ bản của gia đình,

tác giả nhấn mạnh chức năng bảo đảm vật chất và tình cảm của gia đình. Tác giả coi

đây là chức năng bảo đảm sự ổn định của gia đình và duy trì các mối quan hệ trong

gia đình, nhất là mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái.

Cũng nói về mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái, nhưng mối quan hệ này được

minh chứng bằng các số liệu của Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 của

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Unicef và Viện Gia đình và

Giới [14]. Chẳng hạn, trong chương VII của công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa

19

bố mẹ với con cái, cụ thể mối quan tâm của cha mẹ đối với việc học của con, kết quả

điều tra cho biết: “Cha mẹ quan tâm nhiều hơn đến vấn đề học thêm ở cả hai nhóm

tuổi 7-14 tuổi (47,4%) và 15-17 tuổi (42,8%). Trong khoảng trên 50% số hộ có trẻ

trong độ tuổi đang theo học cần quyết định việc học thêm thì tỷ lệ cha mẹ tham gia

quyết định của nhóm 7-14 tuổi là 83,4% và nhóm 15-17 tuổi là 73,8%. Đối với thời

gian học ở nhà thì nhóm trẻ nhỏ tuổi được cha mẹ tham gia quyết định nhiều hơn

nhóm lớn tuổi (49% so với 26,6%)” [14, tr.96]. Ngoài ra, kết quả điều tra gia đình

Việt Nam cũng có những phân tích về mối quan tâm của cha mẹ tới bạn bè của con,

tới các hoạt động vui chơi của con. Những mối quan tâm thể hiện mối quan hệ giữa

cha mẹ với con cái đã gián tiếp nói lên tầm quan trọng của chức năng tâm lý tình cảm

của gia đình.

Chức năng tâm lý tình cảm của gia đình cũng được đề cập gián tiếp trong bài

“Young Koreans head to military amid tentions” (Thanh niên Hàn Quốc nhập ngũ

trong căng thẳng) của Nemo Kim. Khi viết về thanh niên đang tại ngũ ở Hàn Quốc,

tác giả đã nêu lên những băn khoăn, lo lắng không những của thanh niên đang tại

ngũ, mà còn của gia đình, bố mẹ thanh niên. Thông qua trao đổi, phỏng vấn với một

người mẹ có con trai nhập ngũ, bài viết đã cho thấy sự băn khoăn, lo lắng của người

mẹ với con cái: "Tôi vô cùng lo lắng khi vụ Cheonan xảy ra. Chỉ nghĩ đến những

người mẹ tội nghiệp của những người đã chết trên đảo Yeonpyeong cũng khiến tôi

rơi lệ" [133].

Đề cập trực tiếp đến vai trò tâm lý tình cảm của gia đình, bài viết Gia đình là

một giá trị của tác giả Đặng Cảnh Khanh [52] đã nhấn mạnh gia đình là một giá trị

không chỉ đối với cá nhân mỗi con người mà còn đối với cả nhân loại, gia đình là

thiết chế kinh tế đầu tiên, là điểm tựa cho sự phấn đấu của mỗi cá nhân, là nơi

nương tựa về tình cảm, tinh thần, tồn tại từ tổ tiên ông bà con cháu và tiếp tục mãi

tiếp nối. Bài viết Gia đình nguồn hỗ trợ tình cảm cho thanh niên và vị thành niên,

Nguyễn Hữu Minh [69] lại tập trung phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm gia

đình và một số mặt trong đời sống tinh thần của thanh niên và vị thành niên. Bài

viết đã minh chứng rõ nét về vai trò của gia đình đối với sức khoẻ và tinh thần của

thanh niên và vị thành niên; sự phụ thuộc vai trò này của gia đình vào khả năng

kinh tế, mức độ bền chặt của các mối quan hệ tình cảm bên trong, đặc điểm loại

20

hình gia đình và học vấn của cha mẹ. Cuốn sách Vai trò gia đình trong việc xây

dựng nhân cách con người Việt Nam do Lê Thi chủ biên [87] cũng đã làm nổi bật

vai trò tâm lý tình cảm của gia đình. Thông qua những phân tích, đề tài cho rằng,

sự quan tâm, động viên, chăm lo của cha mẹ có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình

thành nhân cách trẻ em.

Như vậy, hướng nghiên cứu về chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia

đình có thể được thể hiện trên một số khía cạnh sau: Một là, chức năng, vai trò tâm

lý tình cảm của gia đình thể hiện thông qua nghiên cứu chuyên biệt về xã hội học

như công trình nghiên cứu Xã hội học của John J. Macionis và nghiên cứu thực

nghiệm như Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 của Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch. Nghiên cứu này cho rằng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình giúp

đảm bảo sự ổn định và duy trì mối quan hệ trong gia đình, nhất là mối quan hệ giữa

bố mẹ và con cái. Qua đó, bố mẹ kiểm soát được con cái, định hướng con cái thực

hiện nghĩa vụ, trách nhiệm phù hợp với lứa tuổi. Hai là, chức năng, vai trò tâm lý

tình cảm của gia đình được thể hiện gián tiếp thông qua những băn khoăn, lo lắng

của bố mẹ với con đang nhập ngũ nơi xảy ra chiến sự. Sự quan tâm này của bố mẹ

có thể thúc đẩy hoặc hạn chế nghị lực của người lính nên ảnh hưởng nhất định đến

việc hoàn thành nhiệm vụ của con em. Ba là, chức năng, vai trò tâm lý tình cảm

của gia đình được thể hiện trực tiếp thông qua bài Gia đình là một giá trị của Đặng

Cảnh Khanh; bài Gia đình nguồn hỗ trợ tình cảm cho thanh niên và vị thành niên

của Nguyễn Hữu Minh; đề tài Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con

người Việt Nam của Lê Thi. Những bài viết và đề tài này đã có các nghiên cứu chỉ

rõ gia đình là nơi nương tựa về tình cảm, tình thần; gia đình tạo nên những mối

quan hệ bền chặt bên trong; gia đình có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành

nhân cách của con em.

Tuy các công trình, bài viết có những nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp,

chuyên biệt hay thực nghiệm về chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình,

nhưng chưa có công trình, bài viết nào nói về chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của

gia đình đối với thanh niên nhập ngũ. Cho nên, những công trình, bài viết này chỉ có

giá trị tham khảo hữu ích, bổ sung kinh nghiệm phân tích, đánh giá vai trò tâm lý

tình cảm của gia đình trong thực hiện NVQS của thanh niên.

21

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DÒNG HỌ VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN

Hướng nghiên cứu về dòng họ và thực hiện NVQS của thanh niên được nhận

diện thông qua bài viết đăng tải trên các trang website và những công trình, bài viết

đã được công bố của các tác giả trong và ngoài nước. Hướng nghiên cứu này góp

phần làm rõ vai trò của dòng họ và thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.

1.2.1. Các nghiên cứu về dòng họ

Các công trình, bài viết nghiên cứu về dòng họ tuy không trực tiếp đề cập trực

tiếp vai trò của dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên, nhưng thông qua các

nghiên cứu này của các tác giả, thấy rằng: các công trình, bài viết nghiên cứu về

dòng họ đã gián tiếp khẳng định vai trò của dòng họ thông qua mối tương tác với

thiết chế làng trong phát huy nghĩa vụ, trách nhiệm của thanh niên với việc xây

dựng nền QPTD, BVTQ.

Trước hết, phải nói đến những nghiên cứu chuyên sâu của Mai Văn Hai, Phan

Đại Doãn về dòng họ. Trong công trình Quan hệ dòng họ ở châu thổ sông Hồng

[38], Mai Văn Hai và Phan Đại Doãn đã có những phân tích sắc bén về dòng họ.

Thông qua kết quả điều tra hai dòng họ Trần Hữu và Trần Huy ở Đào Xá, Nam

Sách, Hải Dương, hai tác giả đã phác hoạ chân thực sự ganh đua, cạnh tranh thế lực

gay gắt dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí trở thành mối thâm thù, hận huyết truyền đời.

Điều này đã gây không khí căng thẳng, ngột ngạt, phá vỡ an ninh làng xã, ảnh

hưởng đến việc tuyên truyền, vận động con cháu của dòng họ tham gia xây dựng và

BVTQ. Công trình cũng cho thấy, sự cố kết của dòng họ có ảnh hưởng rất lớn đến

việc thúc đẩy vai trò của dòng họ đối với các thành viên.

Cuốn Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế văn hóa xã hội [22] là một

nghiên cứu điển hình của Phan Đại Doãn. Công trình nghiên cứu các vấn đề kinh tế,

văn hóa, xã hội của làng ở đồng bằng sông Hồng. Thông qua các nghiên cứu này,

Phan Đại Doãn đã làm sáng tỏ nhiều nhiều đặc thù của làng xã. Đặc biệt, tác giả

phân tích khá rõ đặc điểm của dòng họ, nhất là đặc điểm tính quan hệ cộng đồng

của dòng họ có khả năng chi phối mạnh mẽ đến các thành viên. Nghiên cứu của Lê

Ngọc Văn về Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay

[103] lại cho thấy những phân tích, đánh giá khá toàn diện về cấu trúc họ hàng và

22

chức năng của thiết chế họ hàng ở đồng bằng sông Hồng. Trong đó, chức năng duy

trì sự cố kết và trật tự của dòng họ nhằm duy trì, mở rộng, tăng cường các quan hệ

họ hàng trước những nguy cơ rạn nứt từ tính tự do của các cá nhân trong các quan

hệ kinh tế, xã hội thị trường là những phân tích giá trị cho các nghiên cứu về vai trò

của dòng họ đối với thanh niên.

Một trong những công trình nghiên cứu nổi bật về dòng họ là cuốn Làng ở vùng

châu thổ sông Hồng vấn đề còn bỏ ngỏ do Philippe Papin - Olivier Tessier chủ biên

[72]. Công trình gồm 5 phần, 737 trang, có những nghiên cứu chuyên sâu về dòng họ.

Các nghiên cứu về dòng họ tập trung làm rõ các quan hệ truyền thống của dòng họ,

quan hệ giữa các dòng họ trong làng và quan hệ giữa họ với làng dựa trên các quy

ước làng và hương ước dòng họ. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ giữa các thành

viên trong dòng họ, đề cao vai trò của dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền, động

viên con cháu trong thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với dòng tộc, với quê hương, đất

nước. Cũng nghiên cứu về dòng họ cuốn Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá

khứ của John Kleinen [56] chỉ ra: “Quan hệ họ hàng được mô tả như một mô hình

theo hướng nam giới chiếm vai trò chủ đạo với họ và dòng họ…” [56, tr.187]. Tác

giả cũng cho rằng, mối quan hệ giữa dòng họ và gia đình được củng cố bởi tục thờ

cúng tổ tiên “Tổ tiên là người mà cả khi sống lẫn chết, cả con cái cha mẹ đều phải

kính trọng” [56, tr.188]. Những quan điểm của tác giả về gia dòng họ có ý nghĩa

quan trọng cho nghiên cứu vai trò của dòng họ đối với các thành viên.

Trong cuốn Xã hội học văn hóa [21], từ trang 279 đến 289, Đoàn Văn Chúc

đã có những kiến giải khá sâu sắc về nhóm họ đồng tông. Theo tác giả, nhóm họ

đồng tông là nhóm dòng dõi, nhóm nội tộc. Quan hệ dòng dõi là điều kiện của sự

hình thành nhóm họ và các nhóm chi họ. Trong dòng họ, người trưởng họ nắm giữ

vai trò quan trọng đối với các thành viên, như giúp hòa giải những xích mích, đề

xuất những tương trợ cho các thành viên, bênh vực các thành viên khi bị xâm hại,

tuyên truyền, vận động các thành viên thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật của

Nhà nước. Sách Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm [86] cũng có

những trang mô tả về dòng họ, như là nét đặc sắc về văn hóa trong tổ chức, quan

hệ làng xã nông thôn Việt Nam. Tác giả viết: “Đối với người Việt Nam, gia tộc trở

thành một cộng đồng gắn bó có vai trò quan trọng thậm chí còn hơn cả gia đình”

23

[86, tr.89]; “Sức mạnh của gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau.

Người trong họ có trách nhiệm cưu mang nhau về vật chất” [86, tr.90]. Bài viết

Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá trị cơ bản của văn hóa làng

Việt của Mai Văn Hai [36] đã tiến hành nghiên cứu các giá trị cơ bản của văn hoá

dòng họ trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Qua đó đưa ra những nhận định

về sự biến đổi các giá trị của dòng họ dưới tác động của quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước có ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò của dòng họ đối

với các thành viên.

Các công trình nghiên cứu về dòng họ nêu trên được thể hiện trên nhiều góc

độ khác nhau, như: nghiên cứu về quan hệ dòng họ ở đồng bằng sông Hồng; nghiên

cứu dòng họ thông qua nghiên cứu làng xã, thực trạng và vấn đề đặt ra với gia đình;

nghiên cứu dòng họ theo hướng tiếp cận văn hoá, xã hội. Song, có thể nhận thấy

rằng, các công trình nghiên cứu về dòng họ chủ yếu khai thác khía cạnh quan hệ

trong dòng họ, mối quan hệ giữa dòng họ với làng, gia đình và đặc điểm của sự cố

kết dòng họ. Tuy các khía cạnh nghiên cứu này không đề cập trực tiếp đến vai trò

của dòng họ với thanh niên, con cháu trong thực hiện NVQS, nhưng chính những

đặc điểm sự cố kết cộng đồng, quan hệ dựa trên huyết thống của dòng họ mà dòng

họ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các thành viên trong giáo dục, động viên

con cháu tham gia vào sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay. Vì vậy, đây

đều là tài liệu tham khảo quý giá cho nghiên vai trò của gia đình, dòng họ đối với

việc thực hiện NVQS của thanh niên.

1.2.2. Thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên

Thực hiện NVQS với nam giới đến tuổi trưởng thành là quy định bắt buộc

với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện

kinh tế, chính trị - xã hội và dân số mà các nước quy định độ tuổi nhập ngũ cho

công dân nam của nước mình; hoặc quy định nhập ngũ bắt buộc hay nhập ngũ tự

nguyện, theo hợp đồng, thậm chí quy định nhập ngũ bắt buộc đối với cả nữ giới (ở

Isreal, tất cả thanh niên nam, nữ học xong trung học đều phải vào quân ngũ) [114].

Tình hình thực hiện NVQS của một số nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy,

trong xây dựng và BVTQ ở mỗi quốc gia cần thiết phải thực hiện NVQS đối với

thanh niên.

24

Thực hiện NVQS của thanh niên ở một số nước trên thế giới

Thái Lan áp dụng hình thức nhập ngũ theo hai nấc tuổi: nhập ngũ bắt buộc với

nam thanh niên đủ 21 tuổi trở lên và nhập ngũ tự nguyện với nam thanh niên từ 18

đến dưới 21 tuổi. Thời gian nhập ngũ bắt buộc ở Thái Lan là 2 năm.

Trung Quốc, đất nước đông dân nhất thế giới, việc thực hiện NVQS là bắt

buộc có chọn lọc với nam giới từ 18 đến 24 tuổi và thời gian nhập ngũ là hai năm và

không có hình thức nhập ngũ tự nguyện. Điều này được ghi rõ trong Điều 55 của

Hiến pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc: Thực hiện NVQS là nghĩa vụ và

vinh dự của mọi công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc; trong Luật NVQS

năm 1984 của Trung Quốc: NVQS là một nhiệm vụ cho mọi công dân không phân

biệt chủng tộc và tín ngưỡng tôn giáo [131].

Hàn Quốc, đất nước về lý thuyết vẫn trong tình trạng chiến tranh với Triều

Tiên nên việc thực hiện NVQS ở Hàn Quốc được thực hiện nghiêm minh. Mọi nam

giới ở Hàn Quốc đều phải thực hiện NVQS trước tuổi 35, thời gian phục vụ quân

ngũ là 21 tháng đối với lục quân và 23-24 tháng đối với hải quân, không quân.

NVQS ở Hàn Quốc áp dụng với công dân, kể cả con quan chức hay người nổi tiếng.

Năm 2012, nam diễn viên Bi Rain phải nhập ngũ ở tuổi 29. Năm 2011 nam ca sĩ

nhạc rapper nổi tiếng ở Hàn Quốc bị kết án tù 6 tháng, một năm quản chế và 120

giờ phục vụ cộng đồng vì trốn NVQS. Miễn trừ NVQS ở Hàn Quốc chỉ áp dụng với

các đối tượng bị khuyết tật về thể chất hoặc có tình trạng tâm thần không ổn định

(hàng năm thanh niên Hàn Quốc đến tuổi 18 đều được kiểm tra sức khoẻ thể chất và

tinh thần) [131].

Sau thời gian dài khủng hoảng, đến nay nước Nga đang dần lấy lại vị thế của

một nước lớn trên thế giới về cả kinh tế, chính trị và quân sự. Do sự phát triển ngày

càng lớn mạnh của Liên bang Nga nên luật NVQS cũng có những điều chỉnh phù

hợp. NVQS ở Nga được áp dụng với mọi công dân tuổi từ 18 đến 27; thời gian phục

vụ quân ngũ trước đây là 24 tháng, rồi giảm xuống 18 tháng và từ năm 2008 đến

nay là 12 tháng. Từ 1 tháng 1 năm 2008, một số quy định pháp lý về NVQS cũng

được nới lỏng như: bác sĩ và giáo viên ở nông thôn có con nhỏ dưới 3 tuổi không

bắt buộc phải nhập ngũ; sinh viên đã tốt nghiệp đại học tham gia học giáo dục quân

sự sẽ được miễn phí [131].

25

Do có những đặc thù về kinh tế, chính trị và quân sự cho nên nước Mỹ thực thi

chính sách quân đội nhà nghề. Nước Mỹ áp dụng hình thức tự nguyện nhập ngũ đối

với cả nam và nữ đủ 18 tuổi (17 tuổi với sự đồng ý của cha mẹ). Độ tuổi nhập ngũ

tự nguyện tối đa trong quân đội Mỹ là 42, trong đó tuổi nhập ngũ tối đa ở không

quân là 27, hải quân là 34, thuỷ quân lục chiến là 28. Thời gian tại ngũ tối đa trong

quân đội Mỹ là 8 năm, nhưng thường từ 2 đến 5 năm. Tuy không thực hiện bắt buộc

nhập ngũ với mọi công dân, nhưng kể từ năm 2011, Mỹ cũng có những quy định rõ

ràng về NVQS. Nam công dân Mỹ, tuổi từ 18 đến 25 phải đăng ký với cơ quan

quân sự có chọn lọc. Cơ quan này có nhiệm vụ thống kê và đảm bảo nguồn nhân lực

cho các lực lượng vũ trang khi đất nước trong tình trạng khẩn cấp. Phụ nữ Mỹ

không bị bắt buộc đăng ký với cơ quan quân sự có chọn lọc nhưng họ có thể tự

nguyện tham gia [131].

Thực hiện NVQS của thanh niên ở Việt Nam: Luật NVQS là cơ sở pháp lý

bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ; tạo điều kiện cho

nhân dân làm tròn NVQS và tham gia xây dựng nền QPTD. Luật NVQS góp phần

quan trọng vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh

nhuệ, từng bước hiện đại và tăng cường QPTD, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ

trong thời kỳ mới. Luật NVQS có các quy định về đối tượng, thời gian thực hiện

NVQS; trách nhiệm, nghĩa vụ của thanh niên trong thời gian tại ngũ; vai trò, trách

nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong thực hiện NVQS; quy định tạm miễn, hoãn

gọi nhập ngũ.

Luật NVQS đang hiện hành quy định, công dân nam từ đủ 18 tuổi đến hết 25

tuổi, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn

hóa, nghề nghiệp, nơi cư trú có nhiệm vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt

Nam. Thời gian phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ trong thời bình, với lục

quân là 18 tháng, với các binh chủng kỹ thuật là 24 tháng [13, tr.64, 67]. Trong thời

gian tại ngũ, thanh niên phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, sẵn sàng

chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và hoàn thành mọi

nhiệm vụ được giao; Gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội; Ra sức học tập chính trị, quân

26

sự, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh

chiến đấu,… [13, tr.84].

Luật NVQS cũng quy định vai trò của các cơ quan trong hệ thống chính trị các

cấp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình, Hội đồng NVQS xã,

phường, thị trấn trong việc thực hiện NVQS của thanh niên. Trong đó có quy định,

gia đình có trách nhiệm động viên, giáo dục và tạo điều kiện cho công dân làm tròn

NVQS [13, tr.66].

Ngoài ra, các văn bản hiện hành còn có các quy định về đối tượng được miễn,

tạm hoãn gọi nhập ngũ. Nghị định Chính phủ, số 38/2007/NĐ-CP, ngày 15 tháng 3

năm 2007 quy định những công dân được miễn gọi nhập ngũ trong thời bình: Con

của liệt sĩ, con của thương binh hạng 1, con của bệnh binh hạng 1; Một người anh

trai hoặc em trai của liệt sĩ; Một con trai của thương binh hạng 2; Cán bộ, viên

chức, công chức, thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện, trí thức trẻ tình

nguyện đã phục vụ từ hai mươi bốn tháng trở lên và công dân được tạm hoãn gọi

nhập ngũ: Công dân có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại

ngũ và học viên là hạ sĩ quan, binh sĩ đang học tập tại các trường quân đội, trường

ngoài quân đội theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng; Công dân đang học tập tại các

trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức giáo dục chính quy tập

trung (Trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường phổ

thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, trường năng

khiếu, dự bị đại học; v.v...) [17].

Về thực hiện NVQS của thanh niên còn có nhiều bài viết đề cập. Bài Hà Nội

tiễn 1.900 thanh niên lên đường nhập ngũ (15/2/2014) của Hà Trang và Nguyễn

Khánh, đăng trên báo điện tử Tuổi trẻ. Các tác giả đã phản ánh trung thực sự nhiệt

huyết của thanh niên Hà Nội, hăng hái lên đường làm nhiệm vụ xây dựng và

BVTQ. Hoà vào không khí đó là những giọt nước mắt, cái nắm tay chặt chẽ của

người thân gia đình tiễn đưa con em và niềm vui của của bố mẹ khi có con nhập

ngũ: “Thực sự rất thương con vì đang trong vòng tay gia đình mà phải đi ra tự lập

hoàn toàn, nhưng cũng rất là mừng vì cháu nhận thức được cái nghĩa vụ nó phải đi

vì Tổ quốc” [Trích theo, 116]. Bài Hàng ngàn thanh niên các địa phương phấn khởi

nhập ngũ (19/2/2014) của Vinh Quang, Quang Sáng và cộng tác viên Trúc Giang,

27

đăng trên báo điện tử VOV. Bài viết đã phản ánh rõ số lượng và chất lượng nhập

ngũ của các thanh niên ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng,

như: Trong tổng số 2.570 thanh niên lên đường thực hiện NVQS ở thành phố Hồ

Chí Minh, có 113 đảng viên tình nguyện nhập ngũ, 25% thanh niên có trình độ đại

học, cao đẳng, trung cấp; Lâm Đồng, trong tổng số 500 thanh niên lên đường thực

hiện NVQS, khoảng trên 90% thanh niên có đơn tình nguyện xin nhập ngũ và số

đảng viên, cán bộ công chức được gọi đi nhập ngũ so với mọi năm cao hơn 12%;

Bình Thuận, trong 700 thanh niên trúng tuyển NVQS, có 24 đảng viên trẻ, 58 thanh

niên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học và 54 thanh niên là dân tộc ít người [118].

Bên cạnh đó, bài Cán bộ, công chức cũng phải nhập ngũ như con em nông

dân, trích đăng tờ trình dự án luật NVQS (sửa đổi) của Đại tướng Phùng Quang

Thanh trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trên báo điện tử Dân trí lại cho thấy tình

hình đối tượng nhập ngũ trong cả nước. Hiện nay, công dân đã có việc làm, có trình

độ học vấn cao, có chuyên môn kỹ thuật và con em cán bộ, công chức, các gia đình

có điều kiện kinh tế thực hiện NVQS chưa nhiều, chỉ chiếm 4,94% và có xu hướng

giảm. Con em nông dân, người chưa có việc làm nhập ngũ chiếm số đông, trên 80%

và có xu hướng tăng. Cho nên, theo Đại tướng Phùng Quang Thanh, phải tuyển cán

bộ là công chức, viên chức, đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp vào phục vụ trong quân đội; tránh để như hiện nay số nhập ngũ có tới 90%

con em nông dân, còn số có điều kiện học hành cơ bản, làm cán bộ công chức trong

hệ thống chính trị gần như không tuyển [111].

Hiện nay, hướng nghiên cứu xã hội học về thực hiện NVQS của thanh niên

hầu như chưa có, nhưng thông qua các tư liệu, bài viết được đăng tải trên các

website của thế giới, Việt Nam và các văn bản pháp luật trong nước đã được công

bố, có thể thấy rằng, các tư liệu, bài viết đó có những giá trị tham khảo nhất định.

Bởi vì, thực hiện NVQS của thanh niên các nước trên thế giới, dù có nhiều đặc

điểm khác Việt Nam về đối tượng, độ tuổi, thời gian nhập ngũ, nhưng đều cho thấy,

để xây dựng và BVTQ, việc thực hiện NVQS của thanh niên là cần thiết với mọi

quốc gia. Do đó, tư liệu về thực hiện NVQS của thanh niên các nước trên thế giới sẽ

giúp bổ sung các hình thức, biện pháp phù hợp nhằm phát huy tốt nhất công tác gọi

thanh niên nhập ngũ ở Việt Nam.

28

Với các tư liệu về thực hiện NVQS của thanh niên ở Việt Nam, tuy không trực

tiếp đề cập đến vai trò của gia đình, dòng họ, nhưng các tư liệu, bài viết cũng đã cung

cấp khá đầy đủ về đối tượng, thời gian, trách nhiệm của thanh niên nhập ngũ…; về

tình hình nhập ngũ của thanh niên và những bất cập trong công tác gọi thanh niên

nhập ngũ hiện nay. Đặc biệt, tư liệu văn bản pháp luật còn khẳng định chức năng, vai

trò quan trọng của gia đình trong giáo dục, động viên con em làm tròn nghĩa vụ

BVTQ. Tất cả những tư liệu, bài viết đều ít nhiều có ý nghĩa tham khảo cho nghiên

cứu vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Gia đình, dòng họ là một chủ đề, hiện tượng xã hội - văn hóa được các khoa

học nghiên cứu. Xã hội học là một trong những khoa học xã hội và nhân văn

nghiên cứu về gia đình, dòng họ.

Xã hội học gia đình là một ngành xã hội học ra đời, phát triển cùng với sự

hình thành, phát triển của xã hội học. Các nghiên cứu xã hội học về gia đình

được triển khai trên các bình diện lý thuyết và thực nghiệm. Xã hội học gia đình

và các nghiên cứu xã hội học về gia đình, dòng họ đã góp phần làm rõ quan

niệm, cấu trúc, chức năng, tính chất các mối quan hệ của gia đình, dòng họ; chỉ

rõ những đóng góp của gia đình, dòng họ đối với sự ổn định, phát triển của xã

hội; đồng thời chỉ ra những vấn đề cần tháo gỡ để có giải pháp xây dựng gia

đình, dòng họ đúng với vị thế và vai trò xã hội của nó.

Kết quả nghiên cứu xã hội học và các khoa học xã hội nhân văn khác về gia

đình, dòng họ tạo nền tảng lý thuyết, thực nghiệm cho nghiên cứu về “Vai trò của

gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay”.

29

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

2.1. GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN

SỰ CỦA THANH NIÊN

2.1.1. Gia đình, dòng họ, đặc điểm, chức năng của gia đình, dòng họ

2.1.1.1. Gia đình, dòng họ

Gia đình

Từ thế kỷ 16 đã có định nghĩa về gia đình, nhưng trải qua 5 thế kỷ, định nghĩa

gia đình vẫn chưa được thống nhất giữa những nhà khoa học xã hội. Đến nay câu hỏi

gia đình là gì vẫn có nhiều cách trả lời khác nhau:

C.Mác và Ph.Ăngghen (1845): “Hằng ngày ngoài việc tái tạo ra đời sống của

bản thân mình, con người còn tạo ra những cái khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan

hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [19, tr.248].

Cục điều tra dân số Mỹ (1991): “Gia đình là nhóm xã hội từ hai người trở lên

có mối quan hệ với nhau bởi huyết thống, hôn nhân hoặc cha mẹ (con) nuôi và

những người này sống cùng với nhau trong một hộ gia đình (có thể sống ở nhiều địa

chỉ)” [130].

Nguyễn Đình Tấn và Lê Tiêu La (1999): “Gia đình là một nhóm xã hội nhỏ đặc

thù, có đặc trưng cơ bản là được thiết lập trên cơ sở của hôn nhân mà từ đó hình thành

các quan hệ huyết thống ruột thịt giữa các thành viên” [79, tr.17].

Luật Hôn nhân và Gia đình (2000): “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với

nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh

những nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau” [12, tr.13].

John J. Macionis (2004): “Gia đình là một tập thể xã hội có từ hai người trở lên

trên cơ sở huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau” [63, tr.451].

Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý (2007):

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù liên kết con người lại với nhau

nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống, chăm sóc và giáo dục con cái. Các

mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ họ hàng. Đó là sự liên

kết ít nhất cũng là của hai người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và

30

việc nhận con nuôi. Những người này có thể sống cùng hoặc khác mái nhà

với nhau [53, tr.54].

Lê Ngọc Văn (2011): “Gia đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn

nhân, huyết thống hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn

nhân, cùng chung sống, có ngân sách chung” [105, tr.38].

Tuy còn có những khía cạnh khác nhau trong quan niệm về gia đình, song tất

cả đều chỉ ra những nội dung chính: Một là, gia đình là một nhóm xã hội có từ 2

người trở lên. Hai là, nhóm xã hội gia đình là một tập hợp người dựa trên hôn nhân,

huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Ba là, nhóm xã hội gia đình cùng chung sống

trong một mái nhà hoặc có thể sống khác mái nhà với nhau. Bốn là, các quan hệ xã

hội được xác định từ các vị trí cơ bản trong cấu trúc gia đình: vợ chồng, cha mẹ và

con cái, anh chị em.

Từ đó, có thể quan niệm: Gia đình là một nhóm xã hội có từ hai người trở lên;

tập hợp người dựa trên hôn nhân, huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, với các quan hệ

xã hội cơ bản: vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em; sống chung trong một mái

nhà hoặc có thể sống khác mái nhà với nhau.

Dòng họ

Theo Phan Đại Doãn, dòng họ có hai nghĩa chính: Nghĩa hẹp, dòng họ là quan

hệ huyết thống (thân sơ khác nhau), có một mối quan hệ tín ngưỡng và kinh tế nhất

định (có nhà thờ, và có thể có "vốn" chung, trước kia có ruộng hương hỏa), nhưng

không chung một ngôi nhà, một bếp, các gia đình duy trì quan hệ ngang. Nghĩa

rộng, dòng họ, ngoài mối liên hệ ngang lại có mối liên hệ dọc đứng, đến 9 đời (cửu

tộc), ngoài ra còn có quan hệ nội ngoại, nhưng huyết thống bên nội là quan hệ quyết

định nhất [25, tr.11].

Nelly Krowolski định nghĩa: “Tộc hay dòng họ là tập hợp toàn thể con cháu

bên nội của cùng một ông tổ được thừa nhận” [Trích theo, 72, tr.343].

Nguyễn Từ Chi quan niệm: “Họ, quá lắm cũng chỉ có thể xem là một dạng đặc

biệt của gia đình mở rộng, mà tác dụng chính đối với các thành viên của nó (tức là

các gia đình nhỏ hợp thành nó) là tạo ra một niềm cộng cảm dựa trên huyết

thống” [16, tr.253].

31

Mai Văn Hai định nghĩa: “Dòng họ là toàn thể những người cùng huyết thống

với nhau. Mỗi dòng họ thường bắt nguồn từ một thủy tổ - thường là người có công

“khai sơn phá thạch”, khởi đầu cho dòng họ tại một địa vực nhất định” [37, tr.2].

Nghiên cứu về văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam, Léopol Cadière cho rằng:

“Người Việt cho dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng thuộc về một họ, tức gia đình theo

nghĩa rộng, tổ chức vững chắc, liên kết chặt chẽ bằng huyết thống, bằng những

quyền lợi vật chất, bằng những niềm tin tôn giáo, bằng các mối dây luân lý của

cộng đồng” [15, tr. 241-242].

Từ các chuyên khảo về gia đình, Le Play sắp xếp khung phân tích các loại gia

đình: gia đình gia trưởng, gia đình không ổn định và gia đình - gốc. Từ các loại gia

đình cho chúng ta hiểu về dòng họ. Dòng họ là hệ quả của quá trình phân ra, nhân

rộng ra của gia đình - gốc (gia đình con trai trưởng ở cùng với bố mẹ) qua nhiều

năm tháng. Nội dung mang tính đặc trưng cốt lõi của dòng họ chính là quan hệ

huyết thống [Trích theo, 77, tr.19].

Tuy còn nhiều quan niệm về dòng họ nhưng về cơ bản, các quan niệm đều

tương đối thống nhất ở các nội dung chủ yếu: Một là, dòng họ là một “gia đình

lớn” nhiều thế hệ, “gia đình mở rộng”, gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống,

có chung một thủy tổ. Hai là, quan hệ trong dòng họ gồm quan hệ huyết thống và

các quan hệ khác: quan hệ kinh tế lưu giữ và trao truyền gia sản, quan hệ tín

ngưỡng thờ cúng thủy tổ, quan hệ cộng đồng tuân theo nguyên tắc luân lý. Quan

hệ trong dòng họ có quan hệ ngang, quan hệ dọc. Ba là, phạm vi không gian sinh

tồn của dòng họ có thể ở trong một làng, xã, có thể ở phạm vi quốc gia, quốc tế.

Quan hệ dòng họ diễn ra trực tiếp, chủ yếu trong phạm vi làng, kéo dài đến 9 đời

(cửu tộc). Nói chung, dòng họ trong xã hội nông nghiệp chủ yếu được lập thành

trong một làng. Trong một làng, dòng họ giữ vai trò quan trọng đối với đời sống

cộng đồng làng xóm.

Từ đó có thể quan niệm: Dòng họ là một kiểu của “gia đình mở rộng” với

nhiều gia đình gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống, có chung sự đồng cảm và

tính cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống, có mối quan hệ kinh tế, văn hóa, tín

ngưỡng thờ cúng thủy tổ và tuân theo nguyên tắc luân lý.

32

2.1.1.2. Đặc điểm của gia đình, dòng họ

Đặc điểm của gia đình

Đặc điểm nổi bật của gia đình đó là một một nhóm xã hội, tập hợp người dựa

trên hôn nhân, huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, trong đó hôn nhân và huyết thống

là hạt nhân, dấu hiệu quan trọng nhất. Với các dấu hiệu đó, gia đình là một nhóm xã

hội đặc biệt, khác biệt so với các nhóm xã hội khác như nhóm bạn bè, lớp học, làng

bản, đơn vị cấp phân đội của quân đội,… Quan hệ hôn nhân, nhất là quan hệ huyết

thống là cơ sở tạo dựng mối quan hệ bền chặt của nhóm gia đình.

Gia đình là một hiện tượng xã hội lịch sử. Sự hình thành, biến đổi của gia đình

đồng hành với sự biến đổi của xã hội. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của

chế độ tư hữu và của Nhà nước”, Ph.Ăngghen chỉ rõ, lịch sử hình thành và phát

triển của gia đình đã trải qua bốn hình thức: gia đình huyết thống, gia đình pu-na-lu-

an, gia đình cặp đôi, gia đình một vợ một chồng và hiện nay gia đình đang ở hình

thức thứ năm. Ph.Ăngghen cho biết: “nếu người ta công nhận sự thật là gia đình đã

lần lượt trải qua bốn hình thức và hiện đang ở dưới hình thức thứ năm thì một vấn

đề sẽ được đặt ra là trong tương lai, hình thức thứ năm đó có thể tồn tại lâu dài được

không? Câu trả lời duy nhất có thể đưa ra là: hình thức đó phải tiến triển cùng với

sự tiến triển của xã hội,…” [20, tr.129]. Các hình thức gia đình là nền tảng để xác

định cơ cấu gia đình và quan hệ gia đình.

Cấu trúc cơ bản của gia đình gồm: vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em.

Cấu trúc gia đình quy định vị trí, vị thế xã hội của từng người trong gia đình, qua

đó quy định tính chất quan hệ giữa các con người trong mỗi gia đình. Các vị trí,

mỗi vị thế trong gia đình luôn được quy chuẩn một khuôn mẫu hành vi (gia pháp)

buộc mỗi người khi ở vào vị trí, vị thế đó phải thực hiện nghiêm ngặt. Khuôn mẫu

hành vi của các vị trí, vị thế trong gia đình biến đổi theo không gian, thời gian, phụ

thuộc chủ yếu vào văn hóa dân tộc (với cả hai nghĩa quốc gia và tộc người). Quan

hệ giữa các vị trí, vị thế trong gia đình tuân thủ theo các chuẩn mực xã hội đó, và

việc duy trì nghiêm ngặt, thường xuyên, liên tục qua nhiều thế hệ các chuẩn mực

quan hệ trong gia đình tạo dựng “nếp nhà”, “gia phong”. “Nếp nhà”, “gia phong”

cũng có thể được xem là một giá trị văn hóa của nhóm xã hội gia đình, điểm khác

biệt so với các nhóm xã hội khác. Cũng như, “tình đồng chí đồng đội” là một giá trị

33

văn hóa truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, các nhóm xã hội khác

không thể có.

Nếp nhà, gia phong vừa mang tính riêng của từng gia đình, vừa mang tính

chung của dòng họ, làng xã, tộc người, quốc gia dân tộc, hệ tư tưởng, có tính quốc gia

và quốc tế. Nếp nhà, gia phong có thể được xem như là một nội dung biểu hiện bản

sắc văn hóa của một quốc gia dân tộc, của một tộc người, của một vùng văn hóa. Nếp

nhà, gia phong ở các quốc gia phương Đông có những nội dung biểu hiện khác với

nếp nhà, gia phong ở các quốc gia phương Tây. Trong các quốc gia phương Đông,

nếp nhà, gia phong ở mỗi quốc gia có những nội dung, biểu hiện mang tính bản sắc.

Ở Việt Nam, tính tôn ti trên dưới là một nét nổi bật trong nếp nhà.

Đặc điểm của dòng họ

Huyết thống là yếu tố cơ bản để xác định dòng họ. Quá trình hình thành dòng

họ là quá trình phân ra, nhân rộng ra của gia đình - gốc. Từ một gia đình - gốc các

con trai lần lượt ra ở riêng chỉ có con trai trưởng ở với bố mẹ; tiếp theo các gia đình

của con trai lại phân ra theo cách các con trai lại lần lượt ra ở riêng, từ đó mà hình

thành dòng họ. Dòng họ là một hình thức tập hợp những người có chung thủy tổ

(cội nguồn), cùng chung huyết thống. Tính chất cơ bản, đặc thù trong quan hệ dòng

họ là quan hệ dựa trên huyết thống của người đàn ông. Đây là một đặc điểm cơ bản

để phân biệt dòng họ bên nội với bên ngoại, với các nhóm xã hội khác ngoài gia

đình và phân định rõ, dòng họ trong nghiên cứu chỉ là dòng họ bên nội.

Cấu trúc tổ chức của dòng họ là hệ quả của quá trình phân ra, nhân rộng ra của

gia đình - gốc, hình thành các chi, phái, ngành, nhánh, cành,… Trong đó, tộc trưởng

đứng đầu dòng tộc, sau đó là các trưởng chi, trưởng phái, trưởng ngành, trưởng

nhánh, trưởng cành. Các vị trưởng này được kết cấu trong Hội đồng gia tộc và mỗi

vị trưởng đều là con trưởng của mỗi phân cấp và bắt buộc phải là nam giới. Nhờ

nguyên tắc phụ quyền mà cấu trúc trong dòng tộc được phân định ngôi thứ chặt chẽ.

Qua đó, vị trí, vị thế xã hội và các mối quan hệ họ hàng trong nội tộc cũng được xác

định rõ ràng. Tính tôn ti trên dưới là đặc điểm nổi bật của quan hệ trong dòng họ.

Ngạn ngữ dân gian Việt Nam đã chỉ rõ, trong quan hệ dòng họ: “Bé bằng củ khoai,

cứ vai mà gọi”; “Xanh đầu con ông bác, bạc đầu con ông chú”.

34

Dòng họ người Việt được kết cấu từ những người có cùng huyết thống và có sự

phân ngôi, phân vai cụ thể, rõ ràng. Dòng họ là một nhóm xã hội có cách thức tổ chức

chặt chẽ. Tính chặt chẽ trong tổ chức của dòng họ không chỉ bị quy định bởi cách thức

tổ chức theo tính tôn ti nghiêm ngặt mà còn bị chi phối bởi luật tục thờ cúng tổ tiên và

những quy định mang tính luân lý. Thờ cúng tổ tiên dòng tộc, với ngày giỗ tổ và các

nghi thức trong ngày giỗ tổ là một bộ phận trong sinh hoạt dòng họ đã trở thành

nguyên tắc sống, lối sống của các cư dân trong dòng họ. Trong nhiều dòng họ, từ

những quy định bằng miệng sau đó hình thành văn bản hương ước gia tộc, với tên gọi:

“Tộc ước - Gia pháp”. “Tộc ước - Gia pháp” là bộ quy tắc ứng xử chung của dòng họ,

bao quát nhiều vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội không chỉ của dòng họ mà

còn có các vấn đề thuộc về Làng, về Nước. Ví như, có Tộc ước của dòng họ Đỗ Văn ở

xã Quảng Phú Cầu quy định nghĩa vụ tham gia chiến đấu gìn giữ quê hương khi đất

nước có giặc ngoại xâm của các thành viên trong dòng họ và trách nhiệm của những

người khác phải chăm lo cho người trong dòng họ đi đánh giặc. “Tộc ước - Gia pháp”

mang tính luân lý buộc mọi người tuân theo, tự giác tuân theo nếu không muốn bị

dòng họ coi khinh, ruồng rẫy, xua đuổi. Với cách thức tổ chức chặt chẽ, với những

quy định mang tính luân lý đã tạo ra trong dòng họ tính cộng đồng rất cao. Sự đoàn

kết, cố kết, tính cộng đồng là một đặc điểm nổi bật của dòng họ.

Sự cố kết dòng họ không chỉ dựa trên sự cố kết về lợi ích vật chất, mà chủ yếu

dựa trên các giá trị tinh thần, giá trị cộng đồng. Nó là kết quả của sự tự giác trong hành

vi cộng đồng của mỗi thành viên trong dòng họ và sự điều chỉnh của dư luận xã hội

dòng họ, sự phán quyết của dòng họ trong các ngày họp họ, giỗ tổ dựa theo quy định

của Tộc ước. Sức mạnh của dòng họ tập trung chủ yếu ở tinh thần, tính cộng đồng.

Đặc điểm chung của gia đình, dòng họ

Từ những đặc điểm của gia đình, của dòng họ rút ra những đặc điểm chung

nhất của gia đình và dòng họ:

Thứ nhất, gia đình, dòng họ là nhóm xã hội, tập hợp người dựa trên huyết

thống. Trong xã hội truyền thống Việt Nam, những người cùng quan hệ huyết thống

gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị cơ sở là gia đình và đơn vị cấu thành là gia

tộc. Tổ chức nông thôn theo truyền thống là gia đình và gia tộc [86, tr.89]. Với gia

đình, ngoài dấu hiệu huyết thống còn có hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Hôn

35

nhân là tiền đề, điều kiện của huyết thống. Nhờ có hôn nhân mà các thế hệ người

của một gia đình - gốc được sinh ra, phát triển thành dòng họ. Quan hệ xã hội dựa

trên cơ sở huyết thống là đặc điểm chung của gia đình, dòng họ, tạo sự gắn kết giữa

gia đình và dòng họ.

Thứ hai, cách thức tổ chức của gia đình, dòng họ chặt chẽ, với tính tôn ti trên -

dưới nghiêm ngặt. Với dòng họ, đó là thứ bậc của sự phân thành các chi, phái, ngành,

nhánh, cành,…; trong đó trưởng các chi, phái, ngành, nhánh, cành là người đứng đầu,

giữ vai trò quan trọng. Với gia đình, đó là thứ bậc của chồng - vợ, bố mẹ - con cái,

anh chị em. Nét chung trong quan hệ mang tính tôn ti của gia đình, dòng họ là “trên

bảo dưới nghe”. Trên thực tế, trong nhiều làng quê Việt Nam, nhất là những làng quê

thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng, tính tôn ti trong gia đình và trong dòng họ bện

chặt vào nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh của gia đình, dòng họ. Tính tôn ti

là một yếu tố tạo nên sự cố kết trong cộng đồng dòng họ, gia đình.

Thứ ba, tính cộng đồng là một đặc trưng nổi bật của gia đình, dòng họ. Tính

cộng đồng của gia đình, dòng họ thể hiện rõ nhất ở sự đoàn kết, cố kết chặt chẽ

trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mọi sinh hoạt của làng nước.

Tính cộng đồng của gia đình, dòng họ bắt nguồn từ quan hệ huyết thống,

những người có chung một cội nguồn. Đồng thời, nó còn bị “trói buộc” bởi kinh tế,

tín ngưỡng, những giáo lý mang tính luân lý đã trở thành những giá trị văn hóa

truyền thống của các gia đình, dòng họ. Những người trong gia đình, dòng họ luôn

tự giác tuân theo và làm giàu thêm những giá trị văn hóa truyền thống, gia cố tính

cố kết cộng đồng dựa trên huyết thống. Họ cũng luôn luôn sẵn sàng hành động để

bảo vệ gia đình, dòng họ, bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống, tính cố kết

cộng đồng của gia đình, dòng họ.

Tính cộng đồng đã tạo cho gia đình, dòng họ, các thành viên trong gia đình,

dòng họ một sức mạnh tinh thần - tâm lý, để mỗi người hoàn thành chức phận xã

hội đối với gia đình, dòng họ và với làng xã, với xã hội.

Đặc điểm chung cho thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và dòng họ. Trong

đời sống xã hội truyền thống của các làng quê Việt Nam, gia đình và dòng họ quện

chặt làm một, cho cái nhìn chung về vị thế, vai trò xã hội.

36

2.1.1.3. Chức năng của gia đình, dòng họ

Chức năng của gia đình

Hiện nay còn có những ý kiến khác nhau về chức năng của gia đình và có sự

phân biệt các chức năng của gia đình trong mỗi giai đoạn lịch sử, trong các phương

thức sản xuất, chế độ xã hội. Song, tựu chung lại, gia đình có các chức năng cơ bản:

duy trì và phát triển nòi giống; kinh tế; giáo dục, xã hội hóa; thoả mãn nhu cầu tâm

lý, tình cảm.

Duy trì và phát triển nòi giống là chức năng quan trọng, mục đích hàng đầu

của việc hình thành gia đình. Chức năng duy trì và phát triển nòi giống mang tính

bản năng của con người, của loài người và dần dần mang tính xã hội sâu sắc. Việc

sinh nhiều con hay ít con phụ thuộc vào sản xuất, vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào

nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong xã hội nông nghiệp,

với cấu trúc làng xã, các gia đình mong có nhiều con để có sức sản xuất và xác lập

vị thế, địa vị xã hội trong làng xã. Trong xã hội công nghiệp, xã hội hiện đại, nhu

cầu sinh nhiều con không lớn và thay vào đó là nhu cầu sinh ít con, vừa đủ để có thế

hệ kế cận. Trong các xã hội như Trung Quốc, Việt Nam, việc duy trì và phát triển

nòi giống trở thành nhu cầu mang tính giá trị, trở thành một giá trị xã hội biểu hiện

ở việc sinh con trai, con gái. Con trai là người “nối dõi tông đường”, xác lập giá trị

xã hội, địa vị xã hội của gia đình. Việc đề cao quá mức người con trai trong gia đình

sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc huy động nhân lực cho nhiệm vụ quân sự, quốc

phòng, BVTQ. Nhiệm vụ BVTQ đòi hỏi sự phục vụ chủ yếu của những người con

trai, song nhiệm vụ đó cũng sẽ mang lại rủi ro cho sự “nối dõi tông đường” của các

gia đình nếu chẳng may những người con trai đó hy sinh, mà sự hy sinh trong chiến

tranh thường rất lớn. Sẽ có những gia đình, vì để có người “nối dõi tông đường” họ

sẽ tìm nhiều cách thức không cho con em thực hiện NVQS hoặc chỉ cho con em

thực hiện NVQS khi đã có “cháu nối dõi tông đường”.

Chức năng kinh tế, trong bất kỳ xã hội nào, kinh tế cũng là chức năng không

thể thiếu của gia đình. Gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở, một hình thức sở hữu về tư

liệu sản xuất. Hoạt động kinh tế của gia đình thúc đẩy sự phát triển, lưu thông và

tiêu thụ hàng hoá cho xã hội. Gia đình đảm bảo nhu cầu về vật chất, tinh thần cho

các thành viên. Khi người thanh niên thực hiện NVQS, cho dù đã được sự bảo trợ

37

của nhà nước, của quân đội về nhu cầu sinh hoạt cá nhân nhưng họ luôn luôn mong

muốn và thường nhận được sự trợ giúp về “kinh tế” của gia đình, dòng họ để họ có

thêm điều kiện hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, hoàn thành NVQS.

Giáo dục, xã hội hóa là một chức năng quan trọng của gia đình. Gia đình là

môi trường giáo dục, xã hội hoá chính yếu của cá nhân trong suốt cuộc đời. Gia

đình tạo khuôn mẫu, vị trí xã hội ban đầu để cá nhân làm cơ sở tiến hành các tương

tác xã hội, thực hiện các vai trò xã hội, thiết lập được vị thế xã hội. Những tri thức,

kinh nghiệm xã hội đầu tiên cá nhân tiếp nhận, làm quen là từ môi trường gia đình.

Gia đình cũng là môi trường quan trọng đòi hỏi mỗi cá nhân phải suy nghĩ, xem xét,

lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp với gia đình, với xã hội. Cho dù sống trong gia

đình hay sống ngoài gia đình, kể cả khi thanh niên đang thực hiện NVQS, nhiều suy

nghĩ và hành vi của họ đều hướng về các giá trị luân lý của gia đình và dòng họ để

xác định phương thức ứng xử với bản thân, với chức phận đảm nhận.

Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm lý - tình cảm, đời sống tâm lý tình cảm trở

thành sợi dây gắn kết, quyết định hạnh phúc của gia đình. Gia đình giúp đảm bảo

sự cân bằng tâm lý, thoả mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên nhằm duy trì độ

bền vững của hôn nhân và gia đình, đảm bảo sự ổn định của xã hội. Con người ta,

vui, buồn, sướng, khổ đều muốn có sự chia xẻ và sẵn sàng chia xẻ với những

người thân trong gia đình. Đồng thời, họ luôn có được sự trợ giúp về tâm lý, tình

cảm của gia đình. Gia đình là chỗ dựa vững chắc về tâm lý, tình cảm của mỗi

thành viên trong suốt cuộc đời. Tổ chức quân sự, hoạt động quân sự luôn đòi hỏi

tính kỷ luật và ẩn chứa nhiều khó khăn, gian khổ, thậm chí đòi hỏi cả sự hy sinh

về tính mạng. Do đó, thanh niên thực hiện NVQS rất cần có sự trợ giúp về tâm lý,

tình cảm của gia đình để họ có thêm động lực vượt qua những khó khăn, trở ngại

trong môi trường quân sự, hoạt động quân sự.

Chức năng của dòng họ

Cho đến hiện nay có ít các tài liệu bàn về chức năng của dòng họ. Việc có ít

những bàn luận về chức năng của dòng họ không phải vì dòng họ không có chức

năng. Đối với người Việt Nam, “gia tộc trở thành một cộng đồng xã hội gắn bó có vai

trò quan trọng thậm chí còn hơn cả gia đình, họ coi trọng khái niệm liên quan đến gia

tộc như trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ, gia phả, giỗ tổ, giỗ họ” [86, tr.89].

38

Do sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và dòng họ nên chức năng của gia đình

cũng có thể được nhìn nhận là chức năng của dòng họ nhưng có sự khác biệt ở mức

độ và tính chất. Dòng họ tham gia vào duy trì và phát triển nòi giống ở chiều cạnh

“nối dõi tông đường”. Bằng luật tục được quy định bởi hương ước, dòng tộc áp

buộc các gia đình trong dòng họ phải sinh ra những người con trai để nối dõi tông

đường, nhất là gia đình trưởng họ. Trong nhiều trường hợp, áp lực “nối dõi tông

đường” của dòng họ mạnh hơn áp lực trong mỗi gia đình.

Chức năng kinh tế của dòng họ thể hiện ở việc cưu mang nhau trong sản xuất,

bảo đảm cuộc sống. Trong xã hội nông nghiệp Việt Nam, các dòng họ thường có

ruộng công, giao cho một số gia đình canh tác để có sản vật phục vụ cho sinh hoạt

của dòng họ và có thể giao cho những gia đình khó khăn về đời sống canh tác. Hiện

nay, nhiều dòng họ vẫn duy trì sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để bảo đảm cuộc sống

trong dòng họ ngang bằng với các dòng họ khác trong làng xã.

Chức năng giáo dục, xã hội hóa của dòng họ thể hiện thông qua sinh hoạt và

quan hệ dòng họ, bằng các quy định trong hương ước. Các giá trị, chuẩn mực xã hội

của dòng họ được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được duy trì bằng sự

kiểm soát nghiêm ngặt, người nào trong dòng họ không tuân theo sẽ bị dòng họ phỉ

báng, có thể bị loại trừ ra khỏi dòng họ. Tính quy định chặt chẽ của các luật tục và

sự kiểm soát nghiêm minh đã tạo cho dòng họ vị thế trong giáo dục, xã hội hóa các

thành viên, với nhiều trường hợp có tác dụng hơn gia đình.

Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm lý - tình cảm của dòng họ không trực tiếp

như của gia đình, nhưng lại giữ vị thế lớn hơn gia đình trong các trường hợp trạng

thái tâm lý, tâm trạng xã hội của các thành viên trong dòng họ mang tính xã hội,

tính cộng đồng rộng lớn, nhất là với những thành viên có địa vị xã hội cao trong xã

hội. Trong nhiều trường hợp, sự “bảo vệ” của dòng họ đem lại trạng thái yên tâm,

phấn khởi trong cuộc sống, trong thực hiện chức năng xã hội của các thành viên.

Như vậy, có thể khẳng định, dòng họ có các chức năng cơ bản như gia đình,

với mức độ rộng hẹp và tính chất cao thấp có sự khác biệt đối với gia đình. “Sức

mạnh của gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu lẫn nhau. Người trong

dòng họ có trách nhiệm cưu mang nhau về vật chất”, “hỗ trợ nhau về trí tuệ, tính

thần” và “dìu dắt nhau, làm chỗ dựa cho nhau về chính trị: Một người làm quan, cả

39

họ được nhờ” [86, tr.90]. Những chức năng của gia đình, dòng họ nêu trên là cơ sở

quan trọng để xem xét, phân tích các vai trò của gia đình, dòng họ.

2.1.2. Vai trò xã hội, vai trò xã hội của gia đình, dòng họ

2.1.2.1. Vai trò xã hội

Trong xã hội học, vai trò xã hội là một khái niệm cơ bản, then chốt, đã và đang

có những ý kiến khác nhau trong quan niệm về vai trò xã hội.

Vai trò xã hội là “một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định” [82, tr.127]; “Sự phối hợp và tương tác qua lại của các

khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội gọi là vai trò hay nói một

cách khác, vai trò là những hành động, hành vi ứng xử, những khuôn mẫu tác phong

mà xã hội chờ đợi hay đòi hỏi ở một người hay một nhóm xã hội nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế (vị trí xã hội) của họ” [82, tr.127]; “tập hợp các giá trị, chuẩn

mực, hành vi, nghĩa vụ, lợi ích của một người hay một nhóm xã hội trên cơ sở vị trí

xã hội của họ trong hệ thống xã hội, là hàng loạt quy tắc áp đặt phương thức ứng xử

cho cá nhân ngấm ngầm hoặc công khai” [108, tr.60]. “Vai trò xã hội là hành vi

mong đợi của con người gắn liền với vị thế xã hội và mang tính điển hình đối với

những người có vị thế phù hợp trong xã hội” [79, tr.10].

Với các quan niệm về vai trò xã hội ta dễ nhận thấy: Thứ nhất, vai trò là tập

hợp các giá trị, chuẩn mực của một vị thế xã hội; thứ hai, các cá nhân ở vào các vị

thế xã hội phải tuân thủ các giá trị, chuẩn mực của vị thế xã hội đó; nghĩa là những

cá nhân đó đang đảm nhiệm một vai trò xã hội; thứ ba, vai trò xã hội là hành vi của

con người, nhóm xã hội gắn liền với vị thế xã hội. Lê Ngọc Hùng cho rằng: “Vai trò

là kiểu hành vi, hoạt động mà một người hay một nhóm người cần phải thực hiện

một cách tương ứng với vị thế xã hội của họ” [46, tr.159].

Như vậy, để làm rõ vai trò xã hội của một cá nhân, nhóm xã hội phải xác định

đúng vị thế xã hội của cá nhân, nhóm xã hội đó đang đảm nhiệm; đồng thời làm rõ

chuẩn mực xã hội, chức năng xã hội quy định kiểu hành vi, hoạt động của cá nhân,

nhóm xã hội. Ví như, một người đàn ông trong gia đình, họ là cháu (trong quan hệ

với ông bà), là con (trong quan hệ với bố mẹ), là chồng (trong quan hệ với vợ), là

bố (trong quan hệ với các con), là anh, em (trong quan hệ với anh chị em trong gia

đình). Mỗi vị trí đó có những quy chuẩn ứng xử cụ thể, và khi vào vai trong một

40

quan hệ xác định, người đàn ông đó phải xác định đúng vị trí của mình để ứng xử

cho đúng. Danh với phận đi cùng nhau, muốn biết “phận sự” phải làm rõ “danh”.

Xem xét, đánh giá vai trò của một cá nhân, nhóm xã hội phải so sánh giữa hành vi,

hoạt động của họ với các giá trị, chuẩn mực của vị thế xã hội mà họ đang đảm

nhiệm, làm rõ sự đúng chuẩn hay lệch chuẩn. Đúng chuẩn và lệch chuẩn là thang

đo vai trò của cá nhân, nhóm xã hội.

2.1.2.2 Vai trò xã hội của gia đình, dòng họ

Vai trò xã hội của gia đình, dòng họ được quy định từ vị thế xã hội và chức năng

của gia đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ có vị thế xã hội rất lớn trong xã hội. Gia đình

là tế bào của xã hội, một thiết chế xã hội. Gia đình, dòng họ thực sự ấm no, tiến bộ,

hạnh phúc, thực hiện tốt các chức năng là một yếu tố bảo đảm cho sự ổn định và phát

triển xã hội. Sự giáo dục, xã hội hóa, chăm lo của gia đình, dòng họ đối với các thành

viên giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đào luyện nên các con người xã hội về

mọi phương diện, để họ có đủ các điều kiện làm tròn bổn phận công dân trong xã hội,

thành viên trong các cộng đồng xã hội. Không có những con người hội tụ đủ những

yếu tố đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội thì xã hội không thể phát triển. Con người vừa

là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, và là chủ thể của lịch sử.

Từ khái niệm vai trò xã hội, xuất phát từ vị thế, chức năng của gia đình, dòng họ

có thể xác định: Vai trò của gia đình, dòng họ là kiểu hoạt động tương ứng với vị thế

xã hội; là hoạt động của gia đình, dòng họ thực hiện đúng, đủ, tốt các chức năng, đáp

ứng sự mong đợi của cộng đồng, của xã hội, góp phần vào sự ổn định, phát triển của

xã hội. Kết quả hoạt động tương ứng với vị thế xã hội và thực hiện đúng, đủ, tốt các

chức năng là thước đo thực tế vai trò xã hội của gia đình, dòng họ.

Vai trò của gia đình, dòng họ thể hiện trên hai bình diện: đối với các thành viên

gia đình, dòng họ và đối với xã hội, cộng đồng.

Đối với các thành viên, vai trò xã hội của gia đình, dòng họ gồm các nội dung

cơ bản: Một là, gia đình, dòng họ là tổ ấm bao bọc, che chở cho mỗi thành viên, là

thành trì vững chắc bảo vệ các thành viên trước những tác động của xã hội. Hai là,

gia đình, dòng họ là nguồn động viên, hỗ trợ tình cảm, vật chất cho mỗi thành viên, là

nơi lưu truyền, khích lệ mỗi thành viên phấn đấu trưởng thành. Ba là, gia đình, dòng

họ là nôi giáo dục, môi trường xã hội hóa đặc biệt quan trọng cho mỗi thành viên và

41

là môi trường xã hội bền vững để mỗi thành viên học tập suốt đời. Bốn là, gia đình,

dòng họ tạo lập vị thế xã hội để mỗi thành viên thực hành các vai trò xã hội trong quá

trình tham gia, hội nhập với xã hội.

Đối với xã hội, cộng đồng, vai trò xã hội của gia đình, dòng họ gồm các nội

dung cơ bản: Một là, gia đình, dòng họ là những đơn vị sản xuất quan trọng trong

xã hội và cùng đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất

nước. Hai là, gia đình, dòng họ góp phần xây dựng môi trường văn hóa, thiết chế

văn hóa của cộng đồng làng xã, cộng đồng xã hội. Ba là, gia đình, dòng họ góp

phần giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội. Bốn là, gia đình, dòng họ tham gia vào

quá trình xây dựng và củng cố nền QPTD, thế trận an ninh nhân dân.

Trên thực tế, nếu nhìn ở cấp độ vĩ mô thì sự đóng góp của gia đình, dòng họ đối

với xã hội, cộng đồng xã hội thường khó nhận biết. Bởi vì, xã hội, cộng đồng xã hội

là một hệ thống rộng lớn, còn gia đình, dòng họ chỉ là những nhóm nhỏ, đa dạng về

quy mô, kết cấu, khác biệt về vùng, miền, lãnh thổ. Ở cấp độ vi mô, vai trò của gia

đình, dòng họ dễ nhận biết. Trong một cộng đồng xã hội cụ thể (cộng đồng làng xã

hay cộng đồng tổ dân phố), vai trò của gia đình, dòng họ dễ nhận biết và có thể được

làm rõ bằng phương pháp thực chứng. Tuy vậy, cũng cần nhận thức rằng, ở cả cấp vĩ

mô và vi mô, gia đình và dòng họ có vai trò rất lớn, không thể phủ định. Trong lịch

sử dân tộc Việt Nam, gia đình, dòng họ cùng với làng xã có vai trò rất to lớn trong

dựng nước và giữ nước, góp phần làm nên lịch sử hào hùng của dân tộc.

Những phân tích lý luận về gia đình, dòng họ và vai trò của gia đình, dòng họ

được thâu tóm trong lược đồ sau:

Lược đồ 2.1: Thao tác hoá khái niệm về gia đình, dòng họ

Gia đình, dòng họ

Đặc điểm

Chức năng

Vai trò

Đặc điểm Gia đình

Quan niệm gia đình

Quan niệm dòng họ

Đặc điểm dòng họ

Chức năng gia đình

Chức năng dòng họ

Vai trò xã hội

Đặc điểm chung gia đình, dòng họ

Vai trò xã hội gia đình, dòng họ

Quan niệm

42

2.1.3. Vai trò của gia đình, dòng họ trong huy động nguồn lực cho công

cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam

2.1.3.1. Thời kỳ phong kiến

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước thời kỳ phong kiến, vai trò của gia đình,

dòng họ luôn luôn được đề cao, coi trọng. Chiến lược, sách lược dựng xây đất nước

của các triều đại phong kiến trước đây xác định gia đình, dòng họ là gốc của nước,

là thành tố quan trọng, không thể thiếu trong tam giác văn hóa giữ nước: Nhà -

Làng - Nước.

Trong các triều đại phong kiến ở nước ta, triều đại Lý, Trần, Lê đã tạo dựng

nên lịch sử giữ nước huy hoàng của dân tộc Việt Nam. Để gây dựng nên mốc son

lịch sử ấy, triều đại Lý, Trần, Lê luôn coi trọng vai trò của gia đình, dòng họ và vai

trò này có thể được thâu tóm trên một số nội dung cơ bản dưới đây:

Thứ nhất, gia đình hun đúc tinh thần yêu nước cho các thành viên. Trong xã

hội phong kiến, lấy giáo lý Nho giáo làm chuẩn, luôn coi trọng nền nếp, thứ bậc, tôn

ti trật tự trong gia đình. Do đó, vai trò của gia đình trong hun đúc tinh thần yêu

nước cho các thành viên luôn được coi trọng, đặc biệt dưới triều đại Lý, Trần, Lê.

Trong xã hội thời Lý, gia đình hun đúc tinh thần yêu nước cho các thành viên

dựa trên sự kết hợp giữa ý thức bảo vệ xóm làng quê hương với ý thức quốc gia

dân tộc, gắn liền làng với nước trên cơ sở của những quan hệ cộng đồng chặt chẽ,

những phong tục tập quán cổ truyền, những tín ngưỡng dân gian của một cộng

đồng cư dân nông nghiệp. Gia đình giáo dục lòng yêu chuộng hòa bình, nhưng

kiên cường, không chịu nhục, sẵn sàng đánh trả kẻ thù nếu chúng dám xâm phạm

đất nước, làm mất đi sự tôn nghiêm của dòng tộc, tổ tiên; hun đúc tinh thần yêu

nước cho các thành viên dựa trên sự quán triệt tư tưởng chỉ đạo chiến lược tích

cực, lấy tiến công để tự vệ. Sẵn sàng đánh giặc, thậm chí đánh giặc từ lúc chúng

mới chỉ có âm mưu chuẩn bị về lương thực, tiền đồn, con người để xâm lược nước

ta (Cuộc tiến công các trại biên giới của quân Tống ở cửa biển Khâm Châu, Liêm

Châu và chủ yếu là thành Ung Châu do Thái uý Lý Thường Kiệt lãnh đạo năm

1075). Gia đình hun đúc tinh thần yêu nước cho các thành viên dựa trên cơ sở

đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp nhân dân. Chẳng hạn, trong cuộc kháng chiến

chống quân xâm lược Tống, “các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc và Đông

43

Bắc giữ vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giữ nước

của cả dân tộc” [95, tr.175].

Vào giữa thế kỷ XIII, nhà Trần tiếp nối truyền thống yêu nước của nhà Lý và

tiếp tục phát huy để rồi nâng tinh thần yêu nước lên một tầm cao mới. Đó là tinh

thần sĩ tốt đồng lòng, vua - quan - binh - dân đồng sức chăm lo xây dựng đất nước

vững mạnh, tích cực thao luyện, rèn sức, luyện chí để sẵn sàng đánh thắng kẻ thù

xâm lược, bảo vệ vững bền non sông gấm vóc, bảo vệ tổ ấm gia đình. Chính việc

gắn gia đình với làng, làng với nước; gắn việc bảo vệ hương hỏa tổ tiên, bổng lộc

của gia đình vua và gia đình quý tộc với hương hỏa tổ tiên, với bổng lộc của gia

đình thứ dân, gia đình nông nô, nô tỳ đã tạo ra một nét độc đáo mới trong tinh thần

yêu nước của vua quan, quân dân nhà Trần. Tinh thần yêu nước này đã thấm sâu

vào mọi tầng lớp nhân dân, tạo ra sự thống nhất về nhận thức, đồng lòng về ý chí từ

vua đến dân. Tinh thần yêu nước này đã được trải nghiệm trong thực tế đấu tranh

chống quân xâm lược Mông Nguyên.

Tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình đã tạo nên những phẩm chất cao

quý của con dân Đại Việt. Đó là biết gạt bỏ những hiềm khích cá nhân, gia đình, lấy

đại cục quốc gia, dân tộc làm đầu. Điển hình cho tinh thần yêu nước cao quý ấy

chính là việc Trần Quốc Tuấn người đã tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến thứ

nhất và là người chỉ huy tối cao cuộc kháng chiến thứ hai và thứ ba chủ động xóa bỏ

mối thù riêng trong dòng họ (với thái sư Trần Quang Khải), giải quyết những bất

hòa trong triều để củng cố khối đoàn kết trong hoàng tộc, một lòng một dạ chiến

đấu vì độc lập của Tổ quốc. Phẩm chất của Trần Quốc Tuấn cho thấy ông không chỉ

là người trí dũng song toàn, tài kiêm văn vũ, trước họa xâm lăng của nước người,

ông luôn đặt lợi ích dân tộc, của đất nước lên trên hết, mà còn cho thấy một nét văn

hóa độc đáo của tinh thần yêu nước của con dân Đại Việt.

Đến triều Lê, tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình được tiếp nối

truyền thống yêu nước quật cường được gây dựng từ triều đại Lý và Trần. Nhưng

tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình trong triều đại Lê cũng có những nét

riêng và phát triển lên tầm cao mới. Tinh thần yêu nước này được hun đúc từ chính

khí phách không chịu khuất phục kẻ thù xâm lược của các gia đình, dòng họ thuộc

mọi tầng lớp trong xã hội. Khi giặc Minh xâm lược, các gia đình yêu nước từ quý

44

tộc quan lại cho đến nông dân nô tì, từ các dòng họ dân tộc đa số ở miền xuôi cho

đến các dòng họ dân tộc thiểu số ở miền núi đã vùng lên cầm vũ khí đấu tranh quyết

liệt với kẻ thù. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra và tuy thất bại, nhưng đã tạo

một tiền đề vững chắc, chuyển tiếp khí phách yêu nước quật cường từ các gia đình,

dòng họ yêu nước cho dòng họ Lê (Lê Lợi) ở Lam Sơn Thanh Hóa dựng cờ khởi

nghĩa, phát triển và đi đến thắng lợi hoàn toàn (từ 1418-1428). Qua đó, mở ra một

triều đại phong kiến của dòng họ Lê mới (hậu Lê) ở nước ta và nền độc lập dân tộc

nhờ đó được bảo đảm trong gần bốn thế kỷ (đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII).

Tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình, dòng họ ở triều đại Lê là tinh thần

chủ động, linh hoạt, tự định đoạt, huy động được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước

trong xã hội dưới ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn, trên cơ sở: “Lấy đại nghĩa để thắng

hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo”. Chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn đã

chứng tỏ rằng vào thế kỷ XV, dân tộc Việt Nam đã là một dân tộc trưởng thành, có ý

thức dân tộc sâu sắc, có sức sống phi thường và năng lực sáng tạo phong phú. Đó là

một dân tộc đã có hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đã có

năm thế kỷ sống độc lập hoàn toàn với tư cách là một quốc gia tiên tiến ở châu Á,

một dân tộc anh hùng mà không một thế lực xâm lược nào có thể khuất phục nổi.

Nguyễn Trãi với bản Bình Ngô Đại Cáo - bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của

dân tộc đã cho thấy ông là một thiên tài trên nhiều lĩnh vực - tư tưởng, chính trị,

quân sự, ngoại giao, văn học. Ông đã đem tài năng lỗi lạc đó cùng với tất cả tâm

hồn, nghị lực của mình hiến dâng cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Ông là một anh

hùng dân tộc vĩ đại, một người dân yêu nước tiêu biểu của dân tộc, thể hiện sự đóng

góp to lớn của một con người trong một gia đình, dòng họ vào công cuộc dựng

nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, vai trò của gia đình, dòng họ trong huy động nguồn vật lực cho công

cuộc giữ nước. Dưới thời Lý, Trần, Lê, để đảm bảo thắng lợi cho công cuộc giữ

nước, triều đình phong kiến đã biết phát huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội,

trong đó có nguồn lực từ gia đình, dòng họ. Thời kỳ đó, gia đình, dòng họ đã thực

sự trở thành tế bào cơ bản, quan trọng của xã hội, nhất là trong đấu tranh chống

ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Những đóng

góp của gia đình trong phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trong

45

phát triển văn hóa, xã hội của đất nước, trở thành những nhân tố quyết định thắng

lợi cho sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Trong các đóng góp của gia đình, dòng họ về vật lực cho công cuộc giữ nước

thì sự đóng góp về vật chất từ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp trong các thái

ấp, điền ấp giữ vai trò quan trọng nhất. Bởi vì, đây chính là nguồn cung cấp lương

thực chính yếu cho triều đình và cho quân đội để đánh giặc giữ nước, bảo vệ nền

độc lập, thống nhất của Tổ quốc.

Trong xã hội phong kiến vào thời gian đó, “Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng

đất chiếm ưu thế trong xã hội và là một cơ sở quan trọng của chế độ trung ương tập

quyền. Đại bộ phận ruộng đất trong nước lúc đó là ruộng đất của công xã. Công xã

vẫn là nền tảng bền vững của xã hội và các đơn vị hành chính như hương, giáp…

đều dựng lên trên cơ sở những công xã đó” [96, tr.154]. Đặc biệt, vào đời Lý, công

xã còn bảo lưu được quyền tự trị rộng rãi về nhiều mặt. Ruộng đất của công xã nào

do công xã đó quản lý và phân phối cho các thành viên cày cấy. Nhưng ruộng đất

của công xã phải đặt dưới quyền quản lý tối cao của nhà vua nên nông dân công xã

cày ruộng đất công phải nộp tô thuế, lao dịch và đi lính cho nhà nước phong kiến.

Mức tô thuế quy định là 100 thăng mỗi mẫu. Nông dân công xã là thần dân của nhà

vua và là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội.

Trên danh nghĩa là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất, nhà vua có quyền đem

một số gia đình nông dân hoặc ruộng đất của công xã phong cấp cho vương hầu,

quý tộc và quan lại cao cấp. Sự phong cấp này dẫn đến sự thành lập thái ấp của một

số quan lại, quý tộc. Nhưng chỉ có một số ít ruộng đất cấp vĩnh viễn trở thành đất

tư, còn lại phần lớn ruộng đất phong cấp vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Việc

kế thừa thái ấp do nhà vua quyết định. Nghĩa là, nhà vua có thể cho con cháu người

được phong cấp tiếp tục hưởng thái ấp nhưng cũng có quyền thu hồi. Do đó, ở nước

ta không có những lãnh địa thế tập và những lãnh chúa quý tộc có thế lực cha truyền

con nối lâu đời như ở châu Âu. Mỗi gia đình đóng góp vật chất trên cơ sở đóng thuế

cho chủ thái ấp hoặc trực tiếp cho nhà nước phong kiến theo quy định: “ruộng hạng

nhất mối mẫu 100 thăng, ruộng hạng hai 3 mẫu 100 thăng, ruộng hạng ba 4 mẫu

100 thăng” [96, tr.155].

46

Với việc gia đình là nguồn cung cấp chính yếu về nguồn vật lực, nuôi, chăm sóc và

bảo vệ sức kéo trong sản xuất nông nghiệp, gia đình đã góp phần quan trọng vào việc

phát triển kinh tế nông nghiệp - nền kinh tế mũi nhọn của vương triều Lý, Trần, Lê. Qua

đó, gia đình đã chứng tỏ vai trò không thể thiếu trong việc cung cấp nguồn vật lực cho

công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Thứ ba, vai trò của gia đình, dòng họ cung cấp nguồn nhân lực cho công cuộc

giữ nước. Trong công cuộc giữ nước, nguồn nhân lực là nhân tố không thể thiếu và

gia đình, dòng họ được coi là nguồn bổ sung nhân lực chính yếu. Nguồn nhân lực

của gia đình, dòng họ chính là những con em, những người thân, ruột thịt. Trong

công cuộc giữ nước, các thành viên gia đình, dòng họ trở thành lực lượng cốt yếu từ

lãnh đạo, tổ chức đến trực tiếp tham gia đấu tranh bảo vệ non sông gấm vóc, bảo vệ

sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Dưới triều đại Lý, Trần, Lê quy mô dân số nước ta còn nhỏ (khoảng 4-5 triệu

dân), các gia đình thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau trong xã hội cũng không

nhiều và đa dạng như ngày nay. Nhưng nước ta vào thời gian đó phải liên tục đương

đầu với các đội quân xâm lược (Tống, Nguyên, Minh) đông đảo và hùng mạnh. Vì

thế, việc tuyển mộ binh lính cho quân đội từ các gia đình luôn được các nhà nước

phong kiến coi trọng và đề ra những biện pháp phù hợp.

Trên thực tế, tùy vào cách thức tổ chức và xây dựng quy mô quân đội, mỗi

triều đại phong kiến có cách tuyển mộ binh lính phù hợp. Chẳng hạn, dưới triều Lý:

“Quân đội của nhà Lý bao gồm quân cấm vệ và quân các lộ. Quân cấm vệ là quân

thường trực của triều đình có nhiệm vụ bảo vệ Kinh thành. Đây là một đội quân tinh

nhuệ được tuyển lựa cẩn thận và tổ chức, huấn luyện chu đáo. Những người lính

trong quân cấm vệ đều xăm vào ngực và trán những dấu hiệu riêng. Quân các lộ là

quân đội địa phương làm nhiệm vụ canh phòng và bảo vệ các lộ, phủ, châu” [95,

tr.153]. Ngoài ra, các vương hầu và các tù trưởng thiểu số còn có lực lượng vũ trang

riêng. Số quân này không nhiều nhưng khi đất nước có chiến tranh nội hoặc ngoại

xâm, chính quyền trung ương sẽ điều động các đội quân này và đặt dưới quyền

kiểm soát của mình. Chính vì cách thức tổ chức và xây dựng quân đội như vậy, cho

nên ngay từ thời nhà Lý, nghĩa vụ binh dịch đã được đặt ra với một chế độ đăng ký

hộ khẩu cho các gia đình và tuyển lính chặt chẽ: “Dân đinh các làng, xã từ 18 đến

47

20 tuổi gọi là hoàng nam, từ 20 đến 60 tuổi gọi là đại hoàng nam. Đó là loại dân

đinh có nghĩa vụ quân dịch phải đăng ký vào sổ quân” [95, tr.153].

Các dân đinh từ các gia đình sau khi tuyển mộ vào binh lính được tổ chức và

huấn luyện chặt chẽ, quy củ và được phiên chế vào các đơn vi: quân, vệ. Các quân,

vệ lại bao gồm nhiều binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, kỵ binh, tượng binh. Trang bị

quân đội: giáo, mác, cung nỏ, khiên, máy bắn đá, v.v…

Do vậy, có thể thấy, ngay từ triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, việc tuyển mộ

binh lính đã được diễn ra chặt chẽ và quy củ. Lực lượng chủ yếu cho quân đội thời

này được tuyển chọn từ các gia đình, được huấn luyện theo phương châm đào tạo ra

những “tinh binh” chứ không cần “đa binh”. Việc tuyển mộ binh lính của triều đại

Lý, Trần, Lê, cho thấy gia đình là nguồn cung cấp nhân lực chủ yếu cho quân đội,

cho công cuộc giữ nước của nhà nước phong kiến. Những đóng góp đó chứng tỏ gia

đình, dòng họ có vai trò quan trọng trong việc củng cố nhà nước phong kiến tập

quyền cả về đối nội và đối ngoại; gia đình, dòng họ đã gián tiếp lập nên nhiều chiến

công rực rỡ trong các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước.

2.1.3.2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong xây

dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí

Minh chủ trương động viên, tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, có lực lượng vũ

trang nhân dân làm nòng cốt. Quán triệt chủ trương đó, Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện

thắng lợi động viên toàn dân và vũ trang toàn dân, đồng thời xây dựng lực lượng vũ

trang từng bước lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Những tháng đầu của cuộc

kháng chiến chống Pháp, bộ đội chủ lực của quân đội ta là những đơn vị nhỏ lẻ, cấp

trung đội, đại đội. Đến đầu những năm 50 thế kỷ XX, khoảng giữa cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp, quân đội ta đã có những đại đoàn bộ binh (đại đoàn 308, 316,

320, 312, 304) và đại đoàn công pháo. Bằng việc ra đời các đại đoàn bộ binh và các

đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích cho thấy việc huy động toàn dân đánh

giặc, tham gia xây dựng bộ đội chủ lực nói riêng, lực lượng vũ trang nói chung của

Đảng ta thành công.

Đóng góp vào thành công đó là vai trò của gia đình, dòng họ trong việc động

viên con em tham gia lực lượng vũ trang. Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước

48

ta, tuy chính quyền các cấp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được thiết

lập và phát huy vai trò quản lý nhà nước trong việc huy động sức người cho cuộc

kháng chiến, nhưng mức độ và phạm vi quản lý nhà nước còn hạn hẹp, nhất là vùng

địch tạm chiếm. Vì thế, việc huy động một số lượng khá lớn người tham gia lực

lượng vũ trang phụ thuộc nhiều vào gia đình, dòng họ, làng xã. Nhân dân Việt Nam

giàu lòng yêu nước, có truyền thống và bản lĩnh chống giặc ngoại xâm, đó là một

trong những yếu tố tạo sức mạnh, làm nên chiến thắng. Các gia đình, dòng họ đã khơi

dậy tinh thần yêu nước, truyền thống và bản lĩnh cho con em, động viên và tổ chức

cho họ tham gia quân đội, dân quân du kích.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với ý chí “Không có gì quý hơn

độc lập tự do”, nhân dân cả nước ta đã dồn tất cả sức lực để đánh Mỹ, thống nhất đất

nước. Ở miền Nam, với sự động viên và tổ chức của gia đình, rất nhiều thanh niên

vùng Mỹ, Ngụy chiếm đóng ra vùng giải phóng để gia nhập quân giải phóng. Do đó,

lực lượng vũ trang phát triển mạnh ở cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích;

với quy mô bộ đội chủ lực tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh [91, tr.195].

Trên miền Bắc, việc tuyển quân và đưa quân vào chiến trường là một nhiệm vụ

lớn, được tiến hành ngay từ đầu và trong suốt cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo

của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của cơ quan quân sự các cấp, với lòng yêu nước của

các tầng lớp nhân dân, việc tuyển quân và đưa quân vào chiến trường đã trở thành

phong trào quần chúng thực sự tự giác. Trong cả cuộc chiến tranh, miền Bắc đã huy

động hơn 1 triệu người nhập ngũ, có địa phương chiếm 10% dân số [90, tr.46].

Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thực hiện quan điểm quốc phòng

toàn dân, chiến tranh nhân dân, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương nghĩa vụ

quân sự đối với tất cả các công dân. Từ sau năm 1975 đến nay, hàng năm trên cả

nước thực hiện tuyển quân 2 lần, với số lượng đủ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội

trong điều kiện mới. Trên thực tế, công tác tuyển quân hàng năm được thực hiện nền

nếp, các địa phương giao quân nhanh gọn, đủ số lương, đúng tiêu chuẩn.

Kết quả huy động con người cho xây dựng lực lượng vũ trang trong hai cuộc

kháng chiến, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là thành quả lãnh đạo

của các cấp ủy đảng, chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự vào cuộc của các tổ

chức chính trị - xã hội và công sức của các gia đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ

49

giữ vai trò rất quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho kháng chiến và bảo

vệ Tổ quốc.

Vai trò của gia đình, dòng họ trong huy động nguồn lực cho kháng chiến và

bảo vệ Tổ quốc thể hiện ở những nội dung chính: Một là, gia đình, dòng họ đã khơi

dậy, nuôi dưỡng và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất chống

giặc ngoại xâm cho con em. Trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất nước, các

bậc cha mẹ, các dòng họ vì lòng yêu nước và danh dự của gia đình, dòng họ mà

động viên con em nhập ngũ. Kháng chiến thành công, hòa bình lập lại, nhiều dòng

họ ghi tạc tên tuổi những con cháu đã hy sinh trong nhà thờ họ, để vừa tưởng nhớ,

vừa nêu gương chung cho cả họ.

Việc tôn vinh các liệt sĩ trong dòng họ mang một ý nghĩa rất lớn, vừa nêu lên

những gương sáng của dòng họ trong sự nghiệp cứu nước, vừa cổ vũ việc học tập

và lao động của con em nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện

nay. Hai là, gia đình, dòng họ đã động viên và tổ chức cho con em tòng quân giết

giặc, gìn giữ quê hương đất nước. Nhà nhà, các dòng họ, xóm thôn động viên và

tổ chức cho con em nhập ngũ. Các thành viên trong gia đình, dòng họ cũng vì

danh dự của gia đình, dòng họ mà chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của đất

nước. Trên đất nước ta, trong hai cuộc kháng chiến chống pháp, chống Mỹ, hầu

như gia đình nào cũng có người tham gia lực lượng vũ trang. Có những gia đình

đã đưa tiễn tất cả các người con, cháu trong gia đình tòng quân đánh giặc, như gia

đình mẹ Nguyễn Thị Thứ có chín người con hy sinh; gia đình ông bà Nguyễn Văn

Kiểu có sáu người con và chồng hy sinh [115]. Ba là, gia đình, dòng họ đã chú

trọng xây dựng hậu phương để con em yên tâm đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc, làm

tròn nghĩa vụ công dân đối với đất nước. Các gia đình có con em nhập ngũ luôn

vươn lên trong lao động sản xuất và đi đầu trong các phong trào ở địa phương.

Các dòng họ dồn sự chăm lo vào các gia đình có con em đang tại ngũ hoặc gia

đình có con em là liệt sĩ, thương binh. Sự cưu mang, đùm bọc trong gia đình, dòng

họ là một nguồn động viên lớn để các chiến sĩ yên tâm làm nhiệm vụ. Gia đình,

dòng họ thực sự là một thiết chế xã hội với nhiều uy quyền trong việc nâng cao

nhận thức, định hướng thái độ, hành vi thực hiện NVQS của thanh niên, những

thành viên trong gia đình, dòng họ.

50

2.1.4. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân

sự của thanh niên

2.1.4.1. Quan niệm, nội dung vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực

hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên

Quan niệm vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên

Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên là

kiểu hoạt động tương ứng với vị thế xã hội của gia đình, dòng họ trong sự nghiệp dựng

nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; là hoạt động của gia đình, dòng họ thực hiện

chức năng giáo dục, xã hội hóa, tâm lý tình cảm nhằm giáo dục, động viên, tổ chức

cho con em thực hiện NVQS, góp phần xây dựng tiềm lực quốc phòng, nâng cao sức

mạnh bảo vệ Tổ quốc.

Trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc, các gia đình và các dòng họ đã có

công lớn trong đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành và giữ vững nền độc lập, xây dựng

đất nước ngày càng giàu mạnh. Lịch sử của dân tộc, của từng địa phương đã vinh

danh nhiều gia đình, dòng họ có công với đất nước, quê hương. Ngày nay, gia đình,

dòng họ giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực hiện NVQS là sự tiếp nối và

phát huy truyền thống, sự khẳng định vị thế xã hội của gia đình, dòng họ trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị thế xã hội trong dựng nước và giữ nước của

dân tộc đòi hỏi gia đình, dòng họ phải giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực

hiện NVQS; giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực hiện NVQS là những

hoạt động tương xứng với vị thế xã hội của gia đình, dòng họ, một trong ba đỉnh

của tam giác văn hóa giữ nước của dân tộc ta: Nhà - Làng - Nước.

Gia đình, dòng họ có các chức năng cơ bản: duy trì và phát triển nòi giống;

kinh tế; giáo dục, xã hội hóa; thoả mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm. Quá trình thực

hiện các chức năng là quá trình thực hiện vai trò của gia đình, dòng họ đối với các

thành viên và đối với cộng đồng, xã hội. Kết quả thực hiện các chức năng là thước

đo vai trò của gia đình, dòng họ.

Phạm vi về nội dung thực hiện chức năng của gia đình, dòng họ bao trùm đời

sống vật chất và tinh thần của các thành viên, hoạt động sản xuất vật chất và đời

sống tinh thần của cộng đồng, của xã hội. Trong đó, giáo dục, động viên, tổ chức

51

cho con em thực hiện NVQS là một nội dung cụ thể trong các nội dung thực hiện

chức năng của gia đình, dòng họ đối với các thành viên và đối với đất nước. Việc

giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực hiện NVQS đòi hỏi gia đình, dòng họ

thực hiện tốt các chức năng giáo dục, xã hội hóa, thoả mãn nhu cầu tâm lý, tình

cảm. Quá trình thực hiện các chức năng này trực tiếp giáo dục ý thức NVQS, định

hướng hành vi cho con em thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân và bảo

trợ cho họ trong thời gian thực hiện NVQS. Điều 10 Luật NVQS ghi rõ: “Gia

đình, trong phạm vi chức năng của mình, có trách nhiệm động viên, giáo dục và

tạo điều kiện cho công dân làm tròn NVQS” [13, tr.66].

Việc thực hiện chức năng duy trì và phát triển nòi giống, kinh tế của gia đình,

dòng họ cũng có tác động đến thực hiện NVQS của thanh niên, vì gia đình và dòng

họ là địa chỉ cung ứng nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là

những yếu tố tác động đến thực hiện vai trò của gia đình trong giáo dục, động viên,

tổ chức cho thanh niên thực hiện NVQS.

Giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ không

chỉ góp phần vào việc thực hiện Luật NVQS, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, mả còn góp phần

xây dựng tiềm lực nền quốc phòng toàn dân, nâng cao sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Lớp

lớp thanh niên hăng hái lên đường tòng quân, nhà nhà động viên, tổ chức cho con em

thực hiện NVQS sẽ tạo dựng “cơ sở xã hội”, “dư luận xã hội” cho quá trình củng cố

bền vững nền quốc phòng toàn dân và là một điều kiện bảo đảm thắng lợi cho công

cuộc giữ nước hiện nay. Việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò giáo dục, động viên,

tổ chức cho thanh niên thực hiện NVQS có ý nghĩa, giá trị xã hội rộng lớn.

Nội dung vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên

Vai trò của gia đình, dòng họ đối với các thành viên là rộng lớn, đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên hướng vào một hoạt động cụ thể, gắn với một đối

tượng cụ thể. Tuy thế, nó cũng ẩn chứa và bao trùm trong đó tất cả các nội dung vai

trò của gia đình, dòng họ. Xem xét vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực

hiện NVQS của thanh niên cần dựa trên những hoạt động của gia đình, dòng họ, cụ

52

thể là những hoạt động gắn liền với việc thực hiện vai trò giáo dục, xã hội hoá và

vai trò tâm lý tình cảm của gia đình, dòng họ đối với các thành viên.

Từ quan niệm vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên, nội dung vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên gồm: Giáo dục, tuyên truyền về NVQS cho con, cháu chưa đến tuổi nhập

ngũ; Giáo dục, động viên cho con, cháu tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS; Giáo

dục, động viên con, cháu lên đường khi có lệnh gọi nhập ngũ; Động viên, chăm lo con,

cháu trong thời gian thực hiện NVQS ở các đơn vị quân đội.

Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền về NVQS cho con, cháu chưa đến tuổi

nhập ngũ. Giáo dục, xã hội hóa là một chức năng, vai trò cơ bản của gia đình, dòng họ.

Giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con, cháu chưa đến tuổi nhập ngũ là một nội dung

quan trọng. Thông qua hoạt động đó, gia đình, dòng họ tạo dựng cho con, cháu ý thức

được ý nghĩa cao cả của việc tham gia NVQS; củng cố tinh thần, trách nhiệm

BVTQ của công dân. Hoạt động giáo dục đó nhằm tiếp nối truyền thống chống giặc

ngoại xâm của gia đình, dòng họ; hun đúc ý thức dân tộc, lòng yêu nước, tinh thần

sẵn sàng BVTQ cho con, cháu. Hoạt động này được tiến hành thường xuyên, liên

tục, ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động của gia đình, dòng họ.

Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền về NVQS cho thanh niên được thể

hiện trên một số hoạt động sau: một là, những người thân trong gia đình kể những

mẩu chuyện chiến đấu, những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,

BVTQ của gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước cho con em; hai là, dòng họ

thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước về thực hiện NVQS,

BVTQ trong các buổi sinh hoạt của dòng họ; ba là, gia đình định hướng con em

theo nghề quân đội; bốn là, gia đình thường xuyên dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về

trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố nền QPTD,

BVTQ khi đến tuổi trưởng thành; năm là, dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực

hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ.

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu tham gia đăng ký, khám

tuyển NVQS. Đăng ký, khám tuyển NVQS là một quy định của luật pháp đối với

nam thanh niên bước vào tuổi 18; mắt khâu quan trọng trong công tác tuyển quân

hàng năm. Việc thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS sẽ gặp nhiều thuận

53

lợi, nếu như gia đình, dòng họ phát huy tốt vai trò trong động viên, tổ chức cho con,

cháu thực hiện đúng quy định của pháp luật về tuyển quân; thực hiện nghiêm kế

hoạch đăng ký, khám tuyển NVQS của cơ quan quân sự địa phương.

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu khám tuyển NVQS được thể

hiện trên các hoạt động: trước hết, gia đình thường xuyên giáo dục, nhắc nhở con

em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định; hai là, dòng họ tổ chức gặp mặt

con cháu có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên; ba là,

người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám

tuyển NVQS; bốn là, gia đình giúp con em hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển là

quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc; năm là, dòng họ

giáo dục con cháu hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền

thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ; sáu là, người thân trong gia đình động viên,

đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS.

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu lên đường thực hiện NVQS

khi có lệnh gọi nhập ngũ. Sau khâu đoạn đăng ký và khám tuyển NVQS, những

thanh niên đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, sức khoẻ, học vấn và không thuộc

diện miễn, hoãn NVQS sẽ được gọi nhập ngũ. Đến lúc này những băn khoăn, lo

lắng của thanh niên vẫn còn rất nhiều. Bởi vì, nhiều thanh niên vẫn nghĩ, đi đăng

ký, khám tuyển NVQS không có nghĩa là lên đường nhập ngũ. Những đối tượng

này, khi trúng tuyển sẽ cảm thấy hụt hẫng và nảy sinh nhiều tâm tư cần được gỡ bỏ.

Cho nên, việc gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu lên đường nhập ngũ

là việc làm hết sức cần thiết.

Tiễn đưa người thân trong gia đình, dòng họ đi công tác xa, việc tiễn đưa con,

cháu lên đường thực hiện nghĩa vụ công dân đối với quê hương, đất nước, một phần

thể hiện sự quan tâm, tình cảm của những người ruột thịt với thanh niên; một phần

khẳng định gia đình, dòng họ vẫn luôn là chỗ dựa tinh thần tốt nhất, một nguồn

động viên đối với thanh niên. Những hình ảnh của buổi đưa tiễn sẽ được thanh niên

ghi nhớ và khắc sâu trong lòng, sẽ là chỗ dựa về tình thần vững chắc để thanh niên

có thêm nghị lực vượt qua những khó khăn, vất vả của cuộc sống người lính.

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu lên đường nhập ngũ khi có lệnh

gọi được thể hiện: thứ nhất , trước khi lên đường nhập ngũ, gia đình tổ chức gặp mặt,

54

chia tay, mời đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú bác cô

trong dòng họ, mời bạn bè của thanh niên đến thăm hỏi, động viên thanh niên; thứ hai,

dòng họ tổ chức gặp mặt giáo dục, động viên, khích lệ thanh niên để thanh niên thấy rõ

việc thanh niên lên đường làm nhiệm vụ BVTQ cũng là niềm vui, vinh dự, tự hào của

gia đình và dòng họ; thứ ba, dòng họ phân công người động viên, giúp đỡ gia đình có

thanh niên trúng tuyển NVQS để thanh niên yên tâm lên đường nhập ngũ; thứ tư, dòng

họ huy động vật chất giúp thanh niên vơi bớt những khó khăn, thiếu thốn và thích nghi

tốt hơn với đời sống quân ngũ; thứ năm, ngày thanh niên lên đường làm NVQS, đại

diện người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội.

Gia đình, dòng họ động viên, chăm lo con, cháu trong thời gian thực hiện

NVQS ở các đơn vị quân đội. Cuộc sống binh nghiệp cũng làm cho thanh niên phải

xa rời cuộc sống sôi động ngoài xã hội. Do đó, không ít thanh niên, nhất là thời gian

đầu tại ngũ cảm thấy hẫng hụt vì sự thiếu thốn cả vật chất và tinh thần. Điều này dễ

làm thanh niên giảm sút về ý chí, nghị lực trong thực hiện các quy định của quân đội

và có thể nảy sinh tư tưởng đào bỏ ngũ. Nguồn động viên của gia đình, dòng họ giúp

cho thanh niên có thêm nghị lực thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, tích cực

tu dưỡng và rèn luyện để hình thành những phẩm chất cao đẹp của Bộ đội cụ Hồ.

Sự động viên, chăm lo của gia đình, dòng họ đối với thanh niên trong thời gian

thực hiện NVQS được thể hiện trên nhiều hoạt động: một là, những người thân trong

gia đình thường xuyên viết thư, gọi điện thăm hỏi, động viên thanh niên yên tâm

thực hiện NVQS; hai là, người thân trong gia đình sợ thanh niên vất vả, không quen

với đời sống quân ngũ nên nhờ cậy người quan tâm giúp đỡ; ba là, người thân trong

gia đình lo lắng thanh niên thiếu thốn vật chất nên gửi tiền hoặc hiện vật cho thanh

niên; bốn là, người thân trong gia đình thường xuyên đến đơn vị thăm hỏi để giáo

dục, động viên con em hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tại ngũ; năm là,

người thân trong dòng họ đến đơn vị thăm hỏi để động viên, khích lệ con cháu hoàn

thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tại ngũ.

Như vậy, vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh

niên diễn ra từ khi họ sinh ra, lớn lên trong gia đình, dòng họ và trong thời gian

thanh niên thực hiện NVQS trong các đơn vị quân đội. Nó được tiến hành không chỉ

với những thanh niên nhập ngũ mà với tất cả các thanh niên, các thành viên trong

55

các gia đình, dòng họ. Như thế, gia đình, dòng họ đã góp sức vào xây dựng con

người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có

tri thức, sống có văn hóa, nghĩa tình với gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước.

2.1.4.2. Các yếu tố tác động vai trò của gia đình, dòng họ với việc thực hiện

nghĩa vụ quân sự của thanh niên

Quá trình thực hiện vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS

của thanh niên chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố: Số lượng con trai của gia

đình, đặc điểm của gia đình và các yếu tố thuộc biến số vĩ mô: Điều kiện kinh tế của

địa phương; Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

Hệ thống chính trị cơ sở; Cộng đồng làng xã.

Các yếu tố thuộc biến số độc lập

Số lượng con trai của gia đình. Gia đình ít con trai hay nhiều con trai đều chi

phối đến việc thực hiện vai trò của gia đình trong giáo dục, động viên con em thực

hiện NVQS. Gia đình ít con trai, thì việc nhập ngũ của con, em sẽ đem đến sự trống

vắng về tình cảm, thiếu nguồn nhân lực cốt yếu; dẫn đến những băn khoăn, do dự

trong việc động viên, khuyến khích con em tham gia thực hiện NVQS. Gia đình có

nhiều con trai thì việc nhập ngũ của con em có nhiều thuận lợi hơn, vì ít nhiều bố

mẹ cũng yên tâm hơn khi ở nhà vẫn có người làm việc, vẫn có người nối dõi tông

đường... Nhưng gia đình có nhiều con trai lại ít có điều kiện quan tâm, dạy dỗ con

cái, ít có điều kiện tuyên truyền NVQS cho con em hơn gia đình có ít con trai.

Đặc điểm của gia đình. Đặc điểm của gia đình được thể hiện ở: mức sống,

trình độ học vấn của bố thanh niên, nghề nghiệp của gia đình, gia đình có bố mẹ là

đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên. Các thành phần này đều có

những chi phối đến việc thực hiện NVQS của thanh niên. Bởi vì, trong thực tế

tuyển quân, những gia đình có mức sống khá giả có thể không muốn con em mình

phải nhập ngũ, họ lo cho con em sẽ có cuộc sống vất vả nơi quân ngũ; bố của

thanh niên có trình độ học vấn cao lại muốn hướng cho con vào những công việc

“nhàn hạ” nhưng thu nhập cao; những gia đình có nghề nghiệp đòi hỏi cần nhiều

lao động lại có nhiều băn khoăn, lo lắng khi con em thực hiện NVQS; gia đình có

bố mẹ là đảng viên lại muốn con được vào môi trường quân ngũ để rèn luyện, để

cống hiến cho sự nghiệp cách mạng… Tất cả có thể trở thành các nhân tố thúc đẩy

56

hoặc cản trợ việc nhập ngũ của thanh niên, làm cho công tác tuyển quân ở địa

phương gặp thuận lợi hoặc khó khăn.

Các yếu tố khách quan

Điều kiện kinh tế của địa phương. Các phong trào chính trị - xã hội ở các địa

phương phụ thuộc rất lớn vào điều kiện kinh tế - xã hội. Kinh tế phát triển, đời sống

nhân dân được nâng cao, giáo dục và đào tạo phát triển, giáo dục quốc phòng được

đẩy mạnh, chính trị ổn định, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững là điều kiện thuận

lợi để các địa phương động viên, tổ chức cho thanh niên nhập ngũ; điều kiện thuận lợi

để chăm lo cho thanh niên trong thời gian tại ngũ, thực hiện chính sách hậu phương

quân đội. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội là yếu tố thúc đẩy phong

trào tòng quân của thanh niên. Đồng thời, đó là một yếu tố, một cơ sở để gia đình

giáo dục, động viên, tổ chức cho con, em thực hiện NVQS.

Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong

hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay có Luật NVQS và các chính

sách đối với người có công với cách mạng, với gia đình có thanh niên đang tham

gia quân ngũ, với thanh niên hoàn thành NVQS. Nhưng để chính sách, pháp luật

của Nhà nước đến được với người dân, đến với các gia đình, dòng họ có thanh niên

nhập ngũ cần có đường lối, chủ trương của Đảng định hướng, chỉ đạo, dẫn dắt. Đây

là yếu tố không thể thiếu trong hệ thống chính trị ở nước ta. Yếu tố này có tác động

trực tiếp, thiết thực đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS

của thanh niên. Bởi vì, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước ngoài các điều khoản quy định có tính bắt buộc thanh niên đến tuổi thực

hiện NVQS, còn chỉ rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của gia đình, dòng họ; giúp

cho mỗi người dân, mỗi gia đình hiểu rõ được sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của

Đảng đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD và BVTQ hiện nay.

Hệ thống chính trị cơ sở. Yếu tố này có tác động rất lớn đến vai trò của gia

đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của con, em. Bởi vì, cấp ủy đảng, chính

quyền cơ sở và các đoàn thể chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn

thanh niên, Hội Cựu chiến binh…) là các tổ chức trực tiếp lãnh đạo, hướng dẫn và

thực hiện chức năng quản lý xã hội đối với các gia đình, dòng họ trong việc thực hiện

đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó

57

có việc thực hiện Luật NVQS. Cấp ủy đảng, tổ chức đảng được xây dựng trong sạch,

vững manh, giữ vững vai trò lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt đối với địa phương; chính

quyền thực sự của dân, do dân, vì nhân dân; các đoàn thể chính trị - xã hội được xây

dựng vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, tổ chức các phong trào chính trị, văn

hóa, xã hội mạnh mẽ sẽ tạo thành thiết chế chính trị - xã hội để phát huy vai trò của

gia đình, dòng họ trong động viên, tổ chức cho con, em thực hiện NVQS.

Cộng đồng làng xã. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, làng

xã giữ vai trò đặc biệt quan trọng, một yếu tố của tam giác văn hóa giữ nước: Nhà -

Làng - Nước. Trải qua thăng trầm của lịch sử, mỗi làng quê Việt Nam đã tạo dựng

cho mình một bản sắc văn hóa, gây dựng truyền thống chống giặc ngoại xâm, hình

thành nên một thiết chế - thiết chế làng xã của riêng mình. Làng Việt là một cộng

đồng lễ nghi, một đơn vị dựng nước và giữ nước. Làng xã là môi trường văn hóa, xã

hội cho sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, dòng họ. Mỗi gia đình, dòng họ

bằng các hoạt động cụ thể của mình đóng góp vào sự hình thành, giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa, truyền thống của làng xã. Trong mối quan hệ đó, văn hóa, truyền

thống và kỷ cương trong làng xã hình thành thiết chế văn hóa - xã hội buộc các gia

đình, dòng họ có trách nhiệm phát huy truyền thống trong việc động viên, tổ chức cho

con, em thực hiện NVQS. Đồng thời, các gia đình, dòng họ cũng luôn ý thức được

rằng, việc động viên, tổ chức cho con, em thực hiện NVQS là sự đóng góp để bảo tồn

và phát huy văn hóa, truyền thống của địa phương.

2.1.4.3. Mô hình tác động của các yếu tố đến vai trò gia đình, dòng họ đối

với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên

Tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực

hiện NVQS của thanh niên được thực hiện thông qua các thiết chế xã hội (nhà nước,

làng xã, dòng họ, gia đình), sự tương tác giữa các yếu tố mang tính trực tiếp ở cơ sở

(hệ thống chính trị cơ sở, cộng đồng làng xã, cộng đồng dòng họ, gia đình) và

những yếu tố trực tiếp trong quan hệ dòng họ, gia đình, thanh niên. Dưới đây là ba

mô hình được rút ra từ nghiên cứu của đề tài luận án:

Thứ nhất, sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo

mô hình bốn vòng tròn đồng tâm của thiết chế xã hội: thiết chế Nhà nước, thiết chế

làng xã, thiết chế dòng họ và thiết chế gia đình.

58

Thiết chế gia đình

Thiết chế dòng họ

Thiết chế làng xã

Thiết chế Nhà nước

Mô hình 2.1: Bốn vòng tròn đồng tâm của thiết chế xã hội

Mô hình này cho thấy các thiết chế cùng gặp nhau ở một điểm, đó là: các thiết

chế đều là tập hợp của các khuôn mẫu hành vi, các chuẩn mực, giá trị bền vững

được quy định thành văn hoặc không thành văn. Nếu Nhà nước có pháp luật, làng

xã có hương ước, lệ làng thì dòng họ có tộc ước, gia đình có gia quy. Tính pháp lý

và mức độ áp dụng, thực hiện của pháp luật, hương ước, tộc ước, gia quy tuy có

khác nhau nhưng cùng một mục đích điều tiết các hành vi xã hội của cá nhân phù

hợp với vai trò được mong đợi, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội. Do

đó, sự tác động của các thiết chế đan cài vào nhau, thông qua nhau nhằm đạt được

sự hướng dẫn, kiểm soát hành vi xã hội theo khuôn mẫu được quy định trong các

luật, lệ, hương ước, tộc ước, gia quy.

Thiết chế nhà nước, làng xã, dòng họ và gia đình có mối liên hệ chặt chẽ, tạo

nên sự hướng dẫn, kiểm soát hành vi xã hội nhiều tầng, nhiều lớp và tạo áp lực xã

hội rất lớn đối với mỗi cá nhân, nhóm xã hội trong việc thực hiện NVQS. Thiết chế

nhà nước lớn nhất, với quy chuẩn chặt chẽ nhất, bao trùm và chi phối thiết chế làng

xã, dòng họ và gia đình. Thiết chế làng xã như là một thiết chế trung gian nhưng

mang tính trực tiếp chi phối thiết chế dòng họ, gia đình. Trong xã hội truyền thống

Việt Nam, ở nhiều thời điểm, thiết chế làng xã mang tính “thiết chế nhà nước”, giữ

vai trò rất quan trọng, thay thế thiết chế nhà nước, “phép vua thua lệ làng”. Thiết chế

59

dòng họ, gia đình chịu sự chi phối của thiết chế nhà nước, làng xã, chi phối trực tiếp

đến ý thức và hành vi thực hiện NVQS của thanh niên. Điều này có thể thấy, trong

công tác gọi thanh niên nhập ngũ, thiết chế nhà nước có các văn bản pháp luật quy

định thanh niên đến tuổi trưởng thành phải thực hiện NVQS nhưng sự hăng hái thực

hiện các quy định của pháp luật phụ thuộc vào sự vận hành của thiết chế dòng họ,

gia đình. Thiết chế dòng họ, gia đình phát huy tốt vai trò trong việc thực hiện NVQS

của thanh niên sẽ tạo nên tính hiệu lực, hiệu quả của thiết chế nhà nước, làng xã.

Thực tiễn chỉ ra rằng, dòng họ và gia đình giữ vai trò quyết định việc thực hiện

NVQS của thanh niên. Thiết chế dòng họ, gia đình tạo hiệu ứng xã hội mạnh đối với

hành vi thực hiện NVQS của thanh niên.

Thứ hai, sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo mô

hình vòng tròn khép kín giữa hệ thống chính trị cở sở với cộng đồng làng xã và gia

đình, dòng họ.

Mô hình 2.2: Vòng tròn khép kín giữa hệ thống chính trị cở sở với cộng đồng

làng xã và gia đình, dòng họ.

Mô hình 2.2. cho biết mối tương tác khép kín giữa hệ thống chính trị cơ sở với

cộng đồng làng xã và dòng họ, gia đình. Hệ thống chính trị cơ sở gồm cấp uỷ đảng,

chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn triển khai công

việc xuống cộng đồng làng xã thông qua đội ngũ cán bộ thôn, tổ dân phố; đội ngũ

cán bộ thôn, tổ dân phố tiếp tục triển khai công việc xuống các gia đình; từ gia đình,

các công việc được thực hiện rồi chuyển lên hệ thống chính trị cơ sở. Hoạt động của

hệ thống chính trị ở cơ sở vừa định hướng, vừa tạo dựng cơ sở cho việc hình thành

dư luận cộng đồng làng xã trong việc thực hiện NVQS của thanh niên. Dư luận xã

60

hội trong cộng đồng làng xã tạo áp lực xã hội rất lớn đối với việc thực hiện NVQS

của thanh niên. Sự phối kết hợp giữa hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở với

cộng đồng làng xã và cộng đồng dòng họ, gia đình đặc biệt có hiệu quả trong công

tác gọi thanh niên nhập ngũ ở các xã, phường, thị trấn hiện nay.

Thứ ba, sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo mô

hình vòng tròn khép kín giữa dòng họ, gia đình và thanh niên.

Mô hình 2.3: Vòng tròn khép kín giữa trưởng dòng họ, chủ hộ gia đình và

thanh niên.

Trưởng dòng họ Chủ hộ gia đình

Thanh niên

Mô hình 2.3. cho thấy tương tác khép kín giữa dòng họ - gia đình - thanh niên,

mà trực tiếp là trưởng dòng họ, chủ hộ gia đình và thanh niên. Mối quan hệ giữa

dòng họ với gia đình và các thành viên được dựa trên tộc ước, gia quy. Tộc ước, gia

quy có những quy định nghiêm ngặt về tôn ti, trật tự, thứ bậc trong dòng họ và gia

đình. Theo đó, trưởng họ, chủ hộ gia đình (thường là người cha) có vai trò rất quan

trọng, với những quyết định buộc các thành viên trong họ, trong gia đình phải tuân

theo. Vai trò của dòng họ, gia đình thông qua vai trò của trưởng họ, chủ hộ gia đình;

hiệu lực, hiệu quả vai trò của dòng họ, gia đình phụ thuộc vào tính tích cực thực

hiện vai trò của trưởng họ, chủ hộ gia đình. Trên thực tế, có không ít trường hợp,

việc thực hiện NVQS của thanh niên phụ thuộc nhiều vào quyết định của trưởng họ,

chủ gia đình, vào sự tham vấn giữa trưởng họ, chủ hộ gia đình và thanh niên.

Ở cộng đồng làng xã, mối quan hệ giữa dòng họ với gia đình và thành viên rất

chặt chẽ. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua nhiều vai trò của gia đình, dòng

họ, trong đó có vai trò giáo dục, xã hội hoá và vai trò tâm lý tình cảm của dòng họ,

gia đình đối với thanh niên trong thực hiện NVQS. Trên thực tế, việc thực hiện

NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của thanh niên đối với Tổ quốc và đã được luật hoá.

61

Song, trong quá trình thực hiện NVQS của thanh niên, nhất là ở khâu đoạn gọi

thanh niên đăng ký, khám tuyển và chuẩn bị lên đường nhập ngũ, vai trò của gia

đình, dòng họ rất quan trọng, nhiều trường hợp mang tính quyết định. Bởi vì, nếu

gia đình, dòng họ không phát huy tốt vai trò và dựa vào những “kẽ hở” của quy

định tạm, miễn hoãn nhập ngũ, thì công tác tuyển quân của địa phương khó có kết

quả tốt, thậm chí không đạt đủ chỉ tiêu tuyển quân. Có không ít thanh niên vẫn còn

chần chừ đi đăng ký, khám tuyển, cả khi trúng tuyển vẫn cố tình trốn tránh vì có sự

bao che của gia đình, dòng họ.

2.2. CÁC LÝ THUYẾT VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA

GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA

THANH NIÊN

2.2.1. Lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen

Murray Bowen sinh ngày 31 tháng 1 năm 1913, mất ngày 9 tháng 10 năm

1990. Ông là giáo sư lâm sàng học tại Trung tâm Y tế đại học Georgetown và là

thành viên của Hiệp hội Tâm thần Mỹ và Tập đoàn vì sự tiến bộ về Tâm thần học.

Thông qua công tác điều trị và tư vấn cho các gia đình có thành viên bị bệnh tâm

thần phân liệt, Bowen hình thành nên lý thuyết hệ thống gia đình [136].

Theo Murray Bowen, lý thuyết hệ thống gia đình không chỉ đơn thuần là một

kỹ thuật điều trị mà còn là triết lý tìm kiếm những nguyên nhân của hành vi. Hành

vi này không phải của cá nhân mà được hình thành trong sự tương tác giữa các

thành viên của gia đình với nhau. Bởi vì, trong gia đình, các thành viên đều có mối

liên hệ chặt chẽ với nhau và các mối liên hệ này là thường xuyên và phụ thuộc lẫn

nhau hình thành một thể thống nhất - hệ thống gia đình. Do đó, hành vi của một

thành viên trong gia đình có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống gia đình.

Phương pháp tiếp cận hệ thống gia đình của Murray Bowen được dựa trên một

số yếu tố cơ bản: một là, gia đình là một cấu trúc có các bộ phận liên hệ chặt chẽ

với nhau. Mỗi hành vi của một thành viên trong hệ thống gia đình đều có thể ảnh

hưởng đến mọi người khác trong gia đình; hai là, các yếu tố trong cấu trúc gia đình

chỉ có thể được nhìn thấy trong các tương tác của nó. Các cá nhân tạo nên một hệ

thống gia đình. Hệ thống gia đình này là một tổng thể phức tạp mà không thể được

hiểu thông qua việc tìm hiểu một cách riêng biệt từng thành viên; ba là, vai trò gia

62

đình được thực hiện thông qua mô hình tương tác giữa các thành viên gia đình; bốn

là, trong gia đình có các quy tắc nhất định, chúng tự điều tiết và tạo nên đặc thù

riêng của gia đình. Gia đình là một hệ thống có mục đích và có một mục tiêu.

Thường các mục đích và mục tiêu này tạo nên sự thống nhất cho gia đình; năm là,

ranh giới: đối với các gia đình để hoạt động tốt, hệ thống còn phải duy trì ranh giới;

sáu là, thích ứng: sự phản ứng của gia đình với môi trường xã hội buộc hệ thống gia

đình phải luôn thay đổi và tự điều chỉnh để duy trì gia đình và để đáp ứng nhu cầu

của các thành viên trong gia đình cũng như thích ứng với môi trường xung quanh;

bảy là, hệ thống gia đình thay đổi thông qua các chu kỳ đời sống gia đình [135].

Murray Bowen còn mô tả các thành phần và mối quan hệ của chúng với toàn

bộ hệ thống theo mô hình sau:

Mô hình 2.4: Các thành phần và mối quan hệ của hệ thống gia đình

Hệ thống gia đình

1. Cấu trúc gia đình Đầu vào

Sự thay đổi/ Sự nhấn mạnh

2. Các tương tác gia đình 4. Chu kỳ đời sống gia đình

3. Các chức năng gia đình Đầu ra

Nguồn: Mô hình được lấy từ lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen [132].

Mô hình này được lý giải như sau:

1.Cấu trúc gia đình cho biết các đặc điểm của gia đình như bản chất của các thành

viên trong gia đình, phong cách văn hóa và ý thức hệ của gia đình. Những đặc điểm

này là đầu vào hệ thống gia đình và tác động qua lại tạo nên các tương tác gia đình.

2.Các tương tác gia đình là trung tâm của hệ thống gia đình. Nó là quá trình

tương tác giữa các thành viên gia đình và trên cơ sở các quy tắc đã được xác định

mà các gia đình được điều chỉnh tương tác của mình. Điều này cũng thể hiện sự gắn

63

kết, khả năng thích ứng và phong cách giao tiếp của gia đình. Cuối cùng, những

tương tác gia đình nhằm phục vụ chính từng thành viên gia đình và nhu cầu của

toàn bộ gia đình.

3.Các chức năng gia đình là đầu ra của hệ thống và tác động qua lại với các

tương tác gia đình. Ở đây, gia đình sử dụng các nguồn lực sẵn có thông qua cấu trúc

của nó (đầu vào) và thành viên trong gia đình tương tác với nhau để đáp ứng nhu

cầu của chính họ và gia đình.

4.Chu kỳ đời sống gia đình đưa ra các yếu tố của sự thay đổi trong hệ thống gia

đình. Theo thời gian, những thay đổi tích cực hoặc không tích cực của gia đình đều

làm thay đổi cấu trúc gia đình và làm thay đổi nhu cầu của gia đình. Sự thay đổi này

sơm hay muộn cũng tạo tạo ra sự thay đổi trong các tương tác gia đình.

Bên cạnh những ưu điểm, lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen vẫn

còn có những phê phán cho rằng, lý thuyết này nhấn mạnh đến mối quan hệ, tương

tác và tình cảm giữa các thành viên trong hệ thống gia đình. Trong khi, các gia đình

hạt nhân, thường gặp trong xã hội hiện đại, không những các thành phần cấu thành

hệ thống gia đình ít mà mối tương tác giữa các thành phần này cũng lỏng lẻo hơn

[134]. Song, dù còn có những phê phán, dù lý thuyết hệ thống gia đình của Murray

Bowen chủ yếu dùng để giải thích cho quá trình trị liệu thành viên trong gia đình bị

tâm thần phân liệt, nhưng lý thuyết đã chỉ rõ, gia đình là một hệ thống, có cấu trúc

chặt chẽ, các thành viên trong gia đình có mối liên hệ khăng khít; lý thuyết cũng đề

cập đến vai trò, chức năng của gia đình. Do vậy, trong nghiên cứu vai trò của gia

đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên có thể áp dụng lý thuyết

hệ thống gia đình của Bowen trên một số nội dung sau:

Thứ nhất, lý thuyết hệ thống gia đình của Bowen khẳng định, gia đình là một

cấu trúc có các bộ phận liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều này hết sức quan trọng khi

nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình đối với việc thực hiện NVQS của thanh

niên. Bởi vì, để hiểu được vai trò của gia đình, dòng họ đối con cháu thì trước hết

phải tìm hiểu cấu trúc gia đình, dòng họ, các bộ phận cấu thành của gia đình, dòng

họ; qua mối quan hệ, tương tác trong gia đình, dòng họ mới thấy được độ gắn kết

giữa các thành viên của gia đình, dòng họ, nhất là mới thấy được vai trò của bố mẹ

với con cái, của ông bà, chú bác cô với các cháu.

64

Thứ hai, lý thuyết hệ thống gia đình của Bowen nói rằng vai trò gia đình được

thể hiện thông qua mô hình tương tác giữa các thành viên gia đình. Điều này cho

thấy, để nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với thanh niên thực hiện

NVQS phải xuất phát từ mối tương tác giữa các thành viên của gia đình, dòng họ.

Cụ thể, mối tương tác giữa bố mẹ với con cái, giữa ông bà, bác chú cô trong dòng

họ với các cháu, giữa anh chị em trong gia đình, dòng họ với nhau.

Thứ ba, lý thuyết hệ thống gia đình của Bowen nhấn mạnh đến các quy tắc

trong gia đình. Các quy tắc này giúp gia đình tự điều tiết, giáo dục con cái và tạo

nên sự thống nhất trong gia đình. Đây là điều thực sự cần thiết để nghiên cứu vai trò

của gia đình, dòng họ với việc thực hiện NVQS của con cháu. Bởi vì, trong thực

tiễn, khá nhiều các gia đình, dòng họ ở Việt Nam hiện nay có các quy tắc (gia quy,

tộc ước) riêng. Gia quy, tộc ước của gia đình, dòng họ chính là nền tảng quan trọng

để gia đình, dòng họ giáo dục, động viên, khuyến khích con cháu tham gia NVQS.

2.3.2. Lý thuyết trung gian của Robert K. Merton về tập hợp vai trò

Robert K. Merton (1910 - 2003) sinh ra trong một gia đình Do Thái di cư sang Mỹ,

sống ở thành phố Philadelphia. Ông cùng với Parsons trong một thời gian dài được

mọi người biết đến là những người đứng đầu trường phái cấu trúc - chức năng trong

xã hội học Mỹ. Nhưng, trong khi Parsons là tác giả của những công trình nghiên cứu

xã hội học quan trọng như: “Hệ thống xã hội” (The Social Sytem) (1951); “Tiến tới

một lý thuyết tổng quát về hành động” (Towards a General Theory of Action)

(1951)...; Merton lại nổi tiếng với công trình ‘‘Lý thuyết xã hội và cấu trúc xã hội’’

(Social Theory and Social Structure) (1968) [45, tr.227, 240].

Robert K. Merton được coi là người phát kiến ra lý thuyết trung gian và ông đã

áp dụng lý thuyết này để đưa ra lý thuyết về tập hợp vai trò. Năm 1967, trong tập

sách bàn về xã hội học lý thuyết, Merton đã phân tích lý thuyết tập hợp vai trò để làm

rõ lý thuyết trung gian trong xã hội học. Theo ông, “lý thuyết tập hợp - vai thuộc loại

lý thuyết trung gian, tức là thuộc nhóm những lý thuyết nằm ở vị trí giữa những giả

thuyết nghiên cứu và những nỗ lực to lớn có tính hệ thống hướng tới việc xây dựng

một lý thuyết thống nhất, lý thuyết lớn về vai xã hội” [Trích theo, 47, tr.124].

Để đưa ra quan niệm về tập hợp vai trò, Robert K. Merton đã kế thừa và mở

rộng khái niệm vị thế - vai trò của Ralph Linton (1893 - 1953) nhà nhân học văn

65

hoá người Mỹ. Linton cho rằng, một cá nhân trong xã hội nắm nhiều vị thế và mỗi

một vị thế tương ứng với một vai trò. Merton lại nói, mỗi một cá nhân trong xã hội

cũng có nhiều vị thế, nhưng tương ứng với một vị thế có thể có nhiều vai trò, mà ông

gọi là vai trò tập hợp. Đây chỉ là một sự khác nhau nhỏ về khái niệm vị thế, vai trò,

song rất quan trọng. Merton cũng đưa ra phân biệt giữa vai trò tập hợp với vai trò đa

dạng, đó là: “một loại các vai của các vị thế xã hội khác nhau là các vai đa dạng, ví

dụ, một người nắm giữ các vị thế như bác sỹ, giáo sư, người cha sẽ thực hiện các vai

đa dạng tương ứng với từng vị thế. Trong khi đó, vai - tập hợp là tập hợp các vai gắn

với một vị thế xã hội nhất định chứ không phải nhiều vai với nhiều vị thế xã hội”

[Trích theo, 47, tr.126].

Lý thuyết tập hợp vai trò, Merton đã đặt ra một loạt vấn đề nghiên cứu quan

trọng trong xã hội học, như: tìm hiểu sự tác động của cấu trúc xã hội với việc hình

thành tập hợp vai trò; xem xét cách thực hiện tập hợp vai trò để đảm bảo tính cân

bằng, ổn định cũng như để giải quyết những mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra giữa

các vai trò.

Lý thuyết tập hợp vai trò của Merton để chỉ một cấu trúc gồm các vai trò và

các quan hệ của chúng mà cá nhân thực hiện khi nắm giữ một vị thế nhất định. Lý

thuyết cũng chỉ ra, tập hợp vai trò liên quan trực tiếp tới chức năng; chức năng

chính là vai trò mà hành vi cá nhân hay thiết chế xã hội đảm nhận, thực hiện. Do

vậy, trong xem xét gia đình với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh, gồm nhiều bộ

phận có quan hệ với nhau, mỗi bộ phận thực hiện chức năng (vai trò) nhất định.

Gia đình như một cái đồng hồ, nếu kim đồng hồ không thực hiện đúng vai trò của

mình, thì đồng hồ hay gia đình sẽ bị rối loạn, không phát triển theo tuần tự. Kết

cấu, mối quan hệ trong gia đình có bền chặt, gia đình mới vững chắc, mới thực

hiện tốt vai trò của mình đối với xã hội, với các thành viên. Trên cơ sở này có thể

áp dụng lý thuyết trung gian của Robert K. Merton trong nghiên cứu vai trò của

gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên theo một số nội

dung chủ yếu sau:

Một là, các vai trò của gia đình. Gia đình có các vai trò cơ bản như: sản xuất, hỗ

trợ tâm lý tình cảm, tái sản xuất giống nòi, giáo dục, xã hội hoá. Mỗi vai trò của gia

đình, dòng họ đáp ứng những mong đợi nhất định của xã hội đối với gia đình, dòng

66

họ. Trong nghiên cứu, vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên, những mong đợi của xã hội với gia đình, dòng họ chính là việc gia đình,

dòng họ tái sản xuất ra nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp củng cố nền QPTD, xây

dựng và BVTQ; gia đình, dòng họ giáo dục, động viên, khuyến khích, định hướng cho

con cháu thấy được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với quê hương,

đất nước, sẵn sàng đăng ký, khám tuyển NVQS và lên đường nhập ngũ.

Hai là, quan hệ vai trò giữa gia đình và các bộ phận khác của xã hội. Điều này

này nhấn mạnh mối quan hệ vai trò giữa gia đình, dòng họ với các bộ phận khác nhau

trong xã hội. Cụ thể, trong quá trình gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên, mối quan hệ vai trò giữa gia đình, dòng họ với các

bộ phận trong xã hội chính là mối quan hệ giữa gia đình, dòng họ với cấp uỷ đảng,

chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương, với cán bộ thôn, tổ dân phố...

Sự phối kết hợp này sẽ giúp cho gia đình, dòng họ thực hiện tốt vai trò của mình đối

với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

Ba là, gia đình thực hiện vai trò đối với cá nhân. Chúng ta thấy rằng, thường

trong các gia đình, dòng họ bao gồm nhiều thành viên như ông bà, bố mẹ, con cái,

bác chú cô, các cháu. Mỗi thành viên trong gia đình, dòng họ có nhiều vai trò và

ứng với mỗi một vai trò là một vị thế nhất định. Trong nghiên cứu vai trò của gia

đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên chủ yếu được lý giải về

vai trò của bố mẹ với con cái, vai trò của bác chú cô với các cháu và vai trò của anh

chị em với nhau. Những vai trò này được thể hiện thông qua việc bố mẹ, chú bác cô

giáo dục, động viên, khuyến khích, chăm lo thanh niên thực hiện NVQS, từ lúc

thanh niên còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông đến quá trình đăng ký, khám

tuyển, rồi trúng tuyển và lên đường nhập ngũ ở các đơn vị quân đội.

Bốn là, mối liên hệ giữa cấu trúc gia đình và vai trò của gia đình. Có thể

thấy rằng, mối liên hệ giữa cấu trúc gia đình và vai trò của gia đình trong nghiên

cứu các gia đình có thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh

niên đang tại ngũ chính là mối quan hệ giữa quy mô của gia đình, cơ cấu xã hội

của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên. Mối quan hệ này là một trong những nội dung nghiên cứu chính yếu

của luận án.

67

2.3. QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC - PH.ĂNGGHEN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH,

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VỀ GIA ĐÌNH, VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH

2.3.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh về gia

đình, vai trò của gia đình

2.3.1.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về gia đình

Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về gia đình được thể hiện rõ nhất trong

tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của

Ph.Ăngghen. Đây được coi là một trong những tác phẩm kinh điển chủ yếu nhất của

chủ nghĩa Mác. Tác phẩm này đã phân tích một cách khoa học sự phát triển của xã

hội loài người ở thời kỳ sớm nhất của nó, làm sáng tỏ quá trình tan rã của chế độ

công xã nguyên thuỷ và hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ tư hữu và nhà

nước, giải thích sự hình thành gia đình. Đặc biệt, khi giải thích về sự hình thành gia

đình, tác phẩm đã đề cập đến bốn kiểu loại gia đình và mỗi kiểu loại gia đình

thường đặc trưng cho một giai đoạn, một trình độ phát triển của lịch sử xã hội loài

người. Theo đó, dấu hiệu buổi đầu của thời đại văn minh được thể hiện ở gia đình

một vợ một chồng.

Cũng theo Ph.Ăngghen, gia đình là sản phẩm của lịch sử, với tư cách là tế bào

của xã hội, gia đình có tác động trực tiếp đến sự phát triển của xã hội. Ông khẳng định:

Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, suy cho cùng,

là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản

xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực

phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những

thứ đó; mặt khác, là sản xuất ra bản thân con người là sự truyền nòi

giống. Những trật tự xã hội, trong đó có những con người của một thời

đại nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại sản

xuất đó quyết định: một mặt do trình độ phát triển của lao động và mặt

khác do sự phát triển của gia đình [20, tr.44].

Với quan điểm trên Ph.Ăngghen cho rằng, gia đình có vai trò to lớn đối với sự

tồn tại và phát triển của xã hội. Thông qua chức năng kinh tế, gia đình sản xuất ra

của cải vật chất cho xã hội, giúp nuôi sống các thành viên và thúc đẩy xã hội loài

người phát triển. Kinh tế gia đình phát triển, không những nâng cao đời sống vật

68

chất cho mỗi thành viên gia đình mà còn phát triển các phẩm chất, nhân cách tốt

đẹp của các thành viên gia đình. Kinh tế gia đình phát triển sẽ thúc đẩy sự phồn

thịnh của đất nước, góp phần vào sự ổn định và phát triển của đất nước.

Bên cạnh đó, quan điểm của Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ, chức năng tái sản xuất

ra giống nòi sẽ giúp duy trì sự phát triển của gia đình, dòng họ, đảm bảo nguồn

nhân lực cho xã hội. Do vậy, sự phát triển của mỗi thành viên gia đình và sự tái tạo

ra con người có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ

đất nước.

2.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình, vai trò của gia đình

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, về đường lối cách mạng, phương

pháp cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta và dân tộc ta.

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về gia đình, vai trò của gia đình là

một trong những tư tưởng quan trọng, thể hiện ở những nội dung cơ bản:

Một là, gia đình là hạt nhân của xã hội, nhiều gia đình cộng lại mới thành xã

hội, gia đình tốt thì xã hội tốt. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thảo luận

dự thảo luật hôn nhân và gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Rất quan tâm

đến gia đình là đúng, và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia

đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì

vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt. Tục ngữ ta có

câu “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn” [67, tr.523].

Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, gia đình có vị thế xã hội rất quan trọng,

là yếu tố hạt nhân cấu thành xã hội. Gia đình và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, gia

đình tốt thì xã hội tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Muốn xây dựng xã hội tốt đẹp

phải xây dựng các gia đình tốt, ấm no, hạnh phúc.

Hai là, giáo dục gia đình rất quan trọng, một trong ba đỉnh của tam giác môi

trường giáo dục: Gia đình - Nhà trường - Xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,

những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương

đùm bọc lẫn nhau, cần cù sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua

mọi khó khăn, thử thách,… của mỗi con người Việt Nam được hình thành, phát

triển và được giữ gìn, vun đắp, phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam. Thông qua

69

giáo dục gia đình, các thế hệ được tiếp thu những tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân

tộc và nhân loại, hình thành cách thức ứng xử đúng mực cả ở bên trong và bên

ngoài gia đình. Gia đình là môi trường giáo dục đặc biệt quan trọng, nơi nuôi

dưỡng, giáo dục để hình thành nhân cách con người, nhân cách con người tốt hay

xấu đều do sự giáo dục trong gia đình. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội

về thành viên của mình, có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp

cho xã hội những công dân có ích.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, giáo dục trong gia đình, giáo dục trong nhà

trường, giáo dục ngoài xã hội phải kết hợp chặt chẽ với nhau để đào luyện nên

những con người hữu ích. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành Giáo dục

tháng 6 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ Đảng trong ngành Giáo

dục: “Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường,

chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho

việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy

nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn

toàn” [66, tr.394]. Người cũng chỉ rõ rằng, gia đình chủ động phối kết hợp với nhà

trường và xã hội trong giáo dục con em mình. Người viết: “Tôi cũng mong các gia

đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con

em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”; “Tôi

mong cha mẹ học trò hết sức giúp đỡ nhà trường trong việc giáo dục con em chúng ta cho có kết quả tốt đẹp” [66, tr.81,25].

Ba là, giáo dục trong gia đình là sự dạy bảo lẫn nhau; cha mẹ giữ vai trò

quyết định giáo dục trong gia đình. Giáo dục trong gia đình, theo Người là mỗi

người nhắc nhở, dạy bảo nhau, các cụ phụ lão thi đua, đốc thúc con cháu tham gia

mọi công việc, các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp đỡ người lớn, vợ chưa

biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo.

Bác Hồ cho rằng giáo dục gia đình không chỉ bó hẹp trong phạm vi từng gia

đình riêng lẻ mà phải mở rộng tác dụng ra làng xã và toàn xã hội, phải chăm lo đến

cả con cái những gia đình khác trong đại gia đình của dân tộc ta. Theo nghĩa mới thì

gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Những người cùng lao động trong một nhà máy,

trong một cơ quan, trong một hợp tác xã… đều phải đoàn kết và thương yêu nhau

70

như anh em trong một gia đình. Rộng rãi nữa là đồng bào cả nước đều là anh em

trong một gia đình. Đã là đại gia đình thì sự săn sóc, dạy dỗ cũng không chỉ nhằm

làm cho con cháu mình khỏe và ngoan mà phải cố gắng cho tất cả con cháu mình

Bốn là, để giáo dục trong gia đình được tốt thì gia đình phải là gia đình tốt. Theo

Chủ tịch Hồ Chí Minh gia đình tốt là một gia đình trên thuận, dưới hòa, không thiên vị,

đồng thời có đời sống vật chất no đủ. “Về tinh thần, thì phải trên thuận, dưới hòa

ngoan và khỏe.

không thiên tư, thiên ái. Bỏ thói mẹ chồng hành hạ nàng dâu, dì ghẻ ghét bỏ con

chồng. Về vật chất, từ ăn mặc đến việc làm phải ăn đều, tiêu song, có kế hoạch, có ngăn nắp” [65, tr.100].

2.3.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam về gia đình, vai trò của gia đình

Đảng, Nhà nước ta luôn xác định rõ và đề cao vai trò của gia đình trong sự

nghiệp cách mạng nói chung, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói

riêng; đồng thời có những chủ trương, chính sách chăm lo xây dựng gia đình và

phát huy vai trò của gia đình.

Trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước đều xác định rất rõ, gia đình là tế

bào của xã hội, môi trường xã hội quan trọng tạo nguồn nhân lực phục vụ sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định, xây

dựng gia đình “thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng,

trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [31, tr.77]. Chỉ thị số 49/CT-

TW, ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình thời

kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng đã ghi rõ: “Gia đình là tế bào của

xã hội, nơi duy trì nòi giống,… bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp,

chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và

BVTQ” [29].

Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chủ trương xây dựng gia đình ấm no, bình

đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của

xã hội, là môi trường quan trọng trong giáo dục con người. Đại hội Đảng lần thứ X

chỉ rõ: “Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm

71

của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành,

nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người” [30, tr.104]. Đại hội Đảng lần thứ XI

xác định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần

giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam,

nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ” [31, tr.223]. Ngày 4/5/2001, Thủ tướng Chính phủ

ra Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg về Ngày gia đình Việt Nam: "Xây dựng gia

đình no ấm, bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc". Quyết định cho thấy quyết tâm của

Chính phủ trong xây dựng và phát huy vai trò của gia đình trong chiến lược phát

triển đất nước giai đoạn mới.

Để xây dựng gia đình thực sự là tế bào của xã hội, ấm no, tiến bộ, hạnh phúc,

thực sự là môi trường quan trọng trong giáo dục con người, Nhà nước ta đã thể chế

hóa thành các luật: Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới,… Trong đó

quy định rất rõ mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: cha mẹ với con cái,

con cái với cha mẹ,… Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2000 quy định rõ:

Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng

nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự,

truyền thống tốt đẹp của gia đình; cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục

con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập, được sống trong môi trường

gia đình đầm ấm, hoà thuận [12, tr.24-25].

Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo chất lượng con người khi được gia đình tái sản

xuất, Nghị quyết XI của Đảng xác định cần “Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ

sinh sản, sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp

phần nâng cao chất lượng dân số. Bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi

trường lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ” [31,

tr.231]. Tạo điều kiện cho các em được phát triển toàn diện, lớn lên trở thành những

công dân có ích, góp phần vào công cuộc dựng xây nước nhà.

Từ sự tổng hợp và phân tích trên đã cho thấy rõ quan điểm của C.Mác và

Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản

Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về vị thế, vai trò

của gia đình, thể hiện ở những điểm chính sau: Một là, gia đình là hạt nhân, tế

bào của xã hội. Hai là, gia đình có vị thế xã hội rất quan trọng, là nền tảng, cái

72

gốc sâu bền của xã hội và đất nước, gia đình tốt thì xã hội tốt. Ba là, gia đình

giữ vai trò quan trọng trong hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con

người. Giáo dục gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đào luyện

nên những con người có đức tài để phụng sự đất nước. Bốn là, gia đình là địa

chỉ tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và BVTQ.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Các khái niệm gia đình, dòng họ, vai trò của gia đình, dòng họ và vai trò của gia

đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên đã được làm rõ về quan

niệm, nội dung, hình thức biểu hiện. Trong phân tích vai trò của gia đình, dòng họ đối

với việc thực hiện NVQS của thanh niên, luận án đã chỉ ra bốn nội dung và ba mô

hình tương tác giữa các yếu tố tác động, chi phối việc thực hiện NVQS của thanh

niên. Nội dung và mô hình tương tác giữa các yếu tố chi phối việc thực hiện NVQS

của thanh niên là khung lý thuyết phân tích, cơ sở lý luận để làm rõ trên thực tế vai

trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.

Ngoài ra, luận án cũng phân tích rõ hai lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu vai

trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

Gia đình, vấn đề gia đình là một nội dung được nghiên cứu trong học thuyết

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. C.Mác, Ph. Ăngghen, Hồ Chí Minh đã làm rõ

quá trình hình thành và phát triển của gia đình, nhấn mạnh vai trò của gia đình đối với

các cá nhân, với cộng đồng và xã hội, đưa ra những định hướng xây dựng gia đình

ấm no, hạnh phúc và phát huy vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội.

Trong quá trình lãnh đạo, quản lý cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và

BVTQ, Đảng, Nhà nước ta luôn luôn coi trọng xây dựng gia đình thực sự là một tế

bào của xã hội, phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng con người

Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức công dân cao, có tri thức và sức khỏe để

thực hiện trách nhiệm của người công dân đối với đất nước, sống có nghĩa tình và

nhân văn đối với cộng đồng. Trong đó, Đảng, Nhà nước ta cũng đã nhấn mạnh đến

vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng quân đội, xây dựng nền QPTD, trong

sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam.

73

Chương 3

THỰC TRẠNG, CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH,

DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA

THANH NIÊN HIỆN NAY

3.1. SƠ LƯỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

3.1.1. Về địa lý, kinh tế - xã hội

Ứng Hoà nằm ở phía Nam thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp huyện Chương

Mỹ và huyện Thanh Oai, phía Đông giáp huyện Phú Xuyên, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp huyện Mỹ Đức; diện tích 183.72 km2; dân số 179.900 người

Huyện Ứng Hoà có 29

(năm 2009) [117].

đơn vị hành chính trực thuộc,

gồm thị trấn Vân Đình (nơi đặt

trụ sở Uỷ ban nhân dân huyện

Ứng Hoà) và 28 xã: Cao

Thành, Đại Cường, Đại Hùng,

Đội Bình, Đông Lỗ, Đồng

Tiến, Đồng Tân, Hoa Sơn, Hoà

Lâm, Hoà Nam, Hoà Phú, Hoà

Xá, Hồng Quang, Kim Đường, Liên Bạt, Lưu Hoàng, Minh Đức, Phù Lưu, Phương

Tú, Quảng Phú Cầu, Sơn Công, Tảo Dương Văn, Trầm Lộng, Trung Tú, Trường

Thịnh, Vạn Thái, Viên An, Viên Nội [117].

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, huyện Ứng

Hoà là địa phương dẫn đầu trong chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Hiện

nay, huyện là một trong những địa phương thuộc thành phố Hà Nội có những

chuyển biến tích cực về phát triển kinh tế - xã hội. Là một huyện nông nghiệp,

nhưng với quyết tâm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, kết hợp nâng cao hiệu quả sản xuất

nông nghiệp với khôi phục ngành nghề thủ công truyền thống và phát triển nghề

74

năm 2011) [112].

mới, năm 2012 GDP của huyện Ứng Hoà đạt trên 1.272 tỷ đồng (tăng 9,0% so với

Những thành tựu đạt được của huyện Ứng Hoà trong những năm vừa qua:

Về nông nghiệp, Ứng Hoà phát triển mô hình nông nghiệp giá trị kinh tế cao

trên cơ sở phát huy tốt nhất hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Huyện đẩy mạnh

chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng theo mô hình chuyên canh, đa canh, nuôi thuỷ

sản, công tác dồn điền đổi thửa hoàn thành với 138/138 thôn giao ruộng tại thực địa.

Năm 2012, kinh tế “nông nghiệp đạt 516,2 tỷ đồng (tăng 3,0%), giá trị bình quân

trên một hécta đất nông nghiệp đạt 94 triệu đồng. Thu nhập bình quân từ những mô

hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp đạt 1,332 tỷ đồng/trang trại” [112].

Về công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong toàn

huyện Ứng Hoà luôn tăng theo chiều hướng năm sau cao hơn năm trước. Sáu tháng

đầu năm 2013, “Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ước đạt 198.632

triệu đồng (tăng 0,16% so với cùng kỳ)” [117]. Điểm nổi bật của huyện Ứng Hoà là

phát triển tiểu thủ công nghiệp thông qua 118/138 làng có nghề truyền thống như

làng may Trạch Xá thuộc xã Hoà Lâm, làng bún Bặt thuộc xã Liên Bạt, làng đàn

Đào Xá thuộc xã Đông Lỗ, làng nghề khảm trai Cao Xá thuộc xã Trung Tú và làng

nghề đan lát, trẻ tăm thuộc xã Quảng Phú Cầu. Thu nhập từ làng nghề từ 1,8 đến 2,5

triệu đồng/người/tháng [117].

Về thương mại - dịch vụ, du lịch, giá trị thương mại và dịch vụ của toàn huyện

luôn tăng trưởng đáng khích lệ. Tính đến sáu tháng đầu năm 2013, “giá trị thương

mại - dịch vụ ước đạt 277,8 tỷ đồng (tăng 1,2% so với cùng kỳ)” [117]. Để có được

tỷ lệ tăng trưởng này, huyện đã đầu tư để xây dựng và nâng cấp các chợ ở các xã.

Đặc biệt, tại thị trấn Vân Đình, huyện đầu tư xây dựng chợ đầu mối nông sản và

trung tâm thương mại. Bên cạnh đó, dựa trên hệ thống các danh thắng nổi tiếng:

Đình chùa Tử Dương, Đình Hoàng Xá, Đình Đông Lỗ, Đền Thái Bình, Đền Đức

Thánh Cả, khu Cháy với Bảo tàng và Tượng đài lịch sử lưu giữ nhiều hiện vật của

thời kháng chiến chống Pháp, khu lưu niệm Trần Đăng Ninh ở thôn Quảng Nguyên,

xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hoà. Những danh thắng này cho thấy, huyện có

nhiều tiềm năng về phát triển du lịch.

75

Về giáo dục, đào tạo, y tế của huyện có những bước phát triển vượt bậc, ngày

càng đáp ứng nhu cầu dạy, học và chăm sóc khoẻ của người dân. “Cuối năm 2013,

toàn huyện có 32 trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia (mầm non 7

trường, tiểu học 14 trường, THCS 11 trường). Cùng với giáo dục, công tác y tế,

chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng có nhiều chuyển biến tích cực, 100% số xã, thị

trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế,…” [117].

3.1.2. Về công tác quân sự, quốc phòng - an ninh và thực hiện nghĩa vụ

quân sự

Huyện Ứng Hoà là một trong những địa bàn có vị trí trọng yếu của vành đai,

áo giáp bảo vệ cho Thủ đô Hà Nội. Huyện án ngữ một phần rộng lớn ở địa đầu Thủ

đô, từ tuyến sông Đáy đến quốc lộ 1. Trước đây, với địa lý vùng trũng ở đông - nam

huyện, Ứng Hoà đã ngăn cản sự cơ động của giặc Pháp xâm lược. Trong những

năm kháng chiến (1946 - 1954), vùng đông - nam Ứng Hoà là khu căn cứ, nơi tập

kết của bộ đội, du kích. Phía tây huyện, dải đất ven sông Đáy như một phòng tuyến

ngăn chặn địch xâm nhập từ hướng Hoà Bình qua Mỹ Đức vào trung tâm Hà Nội.

Ngày nay, trong chiến lược xây dựng thế trận QPTD, an ninh nhân dân, Ứng Hoà

vẫn là một trong những khu vực phòng thủ chủ yếu bảo vệ nội đô Hà Nội.

Trong công tác thực hiện NVQS, phát huy truyền thống chống thực dân Pháp

xâm lược, quê hương của “Chiếc gậy Trường Sơn”, cùng với sự quan tâm chỉ đạo

thường xuyên của Huyện uỷ, Uỷ ban Nhân dân huyện và Ban chỉ huy quân sự huyện,

Ứng Hoà luôn là một trong những địa phương dẫn đầu của thành phố Hà Nội. Đặc biệt,

trong số các thanh niên được chọn nhập ngũ, có rất nhiều thanh niên có trình độ cao

đẳng, trung học chuyên nghiệp và phần lớn viết thư tình nguyện tòng quân, sẵn sàng tu

dưỡng, rèn luyện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đợt giao nhận quân năm

2013, trong số 205 tân binh được Ban chỉ huy quân sự huyện giao cho các đơn vị:

Quân chủng Phòng không - Không quân; Quân khu 3; Quân đoàn 2; Sư đoàn 301/Bộ

Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Đoàn Nghi lễ 781 “có 160 thanh niên viết đơn tình nguyện

lên đường nhập ngũ; 11 thanh niên đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp và 4 thanh niên có giấy báo trúng tuyển cao đẳng,…, đặc biệt có tân

binh Nguyễn Văn Thắng ở Đại Hùng đã đỗ Đại học vẫn quyết tâm gác bút nghiên lên

đường thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc” [117].

76

Tại xã Đại Cường, xã Quảng Phú Cầu và thị trấn Vân Đình, công tác quân sự

luôn được đề cao và được thực hiện đúng theo kế hoạch; công tác an ninh chính trị

được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định, kịp thời giải quyết các mâu thuẫn trong

nội bộ nhân dân, không để xảy ra các hiện tượng xã hội phức tạp. Trong tổ chức thực

hiện NVQS, xã Đại Cường thường xuyên “tổ chức, rà soát, quản lý thanh niên trong

độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ, tiến hành các bước sơ tuyển, khám tuyển, hoàn thành

100% chỉ tiêu giao quân năm 2011” [97]; xã Quảng Phú Cầu, đợt giao quân lần 2

năm 2012, “địa phương đã tập trung tổ chức khám tuyển quân, toàn xã có 12 thanh

niên đủ điều kiện lên đường nhập ngũ, hoàn thành chỉ tiêu trên giao. Xử lý hành

chính đối với 3 trường hợp chống khám tuyển NVQS” [98]; thị trấn Vân Đình, đợt

giao quân lần 2 năm 2011 “đã tuyển chọn và giao quân được 9 nam thanh niên có đủ

điều kiện sức khoẻ, phẩm chất đạo đức, chính trị. Hoàn thành 100% chỉ tiêu huyện

giao” [4].

Nhìn chung, công tác quân sự, quốc phòng, an ninh và thực hiện NVQS của

huyện Ứng Hòa luôn được coi trọng, thực hiện tốt; thường xuyên là một địa phương

có tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tốt, nền QPTD được củng cố,

khu vực phòng thủ được tăng cường, công tác tuyển quân đủ số lượng với chất

lượng cao.

3.2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, gia đình, dòng họ luôn

giữ một vị trí, vai trò quan trọng, mang ý nghĩa quyết định sự được mất, hưng vong của

một thể chế, triều đại.

Bước vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, tiến hành

chiến tranh biên giới BVTQ, gia đình, dòng họ vẫn luôn là một trong những nhân tố

quan trọng góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn. Trong chiến tranh khốc liệt, gia

đình, dòng họ không những đóng góp những người con ưu tú của mình cho đất

nước mà còn sẵn sàng đóng góp tất cả gia sản cho cách mạng, một lòng một dạ đi

theo Đảng và Bác Hồ.

Những đóng góp vô giá về con người, vật chất và tinh thần của gia đình, dòng

họ trong sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm, BVTQ được bố, mẹ của thanh

77

niên và thanh niên đánh giá rất cao. Với bốn mức độ được đưa ra để đánh giá những

đóng góp về con người, vật chất và tinh thần của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu

tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc và trong BVTQ hiện nay, người được hỏi trả

lời như sau: Đóng góp về người: rất quan trọng - 75,0%, quan trọng - 20,8%, không

quan trọng - 1,4%, khó đánh giá - 2,8%; Đóng góp về vật chất: rất quan trọng -

55,3%, quan trọng - 29,8%, không quan trọng - 5,6%, khó đánh giá - 9,4%; Đóng góp

về tinh thần: rất quan trọng - 68,3%, quan trọng - 26,6%, không quan trọng - 2,4%,

khó đánh giá - 5,7% (Biểu 3.1).

Biểu 3.1: Đóng góp của gia đình, dòng họ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm

của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ (với N = 789).

80

75

68,3

55,3

60

40

29,8

23,6

20,8

20

9,4

5,7

5,6

2,8

2,4

1,4

0

Rất quan trọng

Quan trọng

Không quan trọng

Khó đánh giá

Đóng góp về con người

Đóng góp về vật chất

Đóng góp về tinh thần

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 3].

Đơn vị: %

Đánh giá về vai trò của gia đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện

NVQS, BVTQ, bố mẹ của thanh niên và thanh niên tại ngũ cũng khẳng định: vai trò

của gia đình: rất quan trọng - 64,1%, quan trọng - 30,9%, không quan trọng - 1,1%,

khó đánh giá - 3,8%; vai trò của dòng họ: rất quan trọng - 49,6%, quan trọng -

33,7%, không quan trọng - 4,9%, khó đánh giá - 11,8%. Ở mức quan trọng, gia

đình, dòng họ được đánh giá cao hơn so với hệ thống chính trị ở cơ sở, nhà trường,

các tổ chức đoàn thể ở địa phương, truyền thông đại chúng và bạn bè của thanh

niên. Trong đó, vai trò của bạn bè thanh niên ở mức thấp nhất 21,0%. Với mức độ

khó đánh giá, vai trò của truyền thông đại chúng được cho rằng khó đánh giá nhất

(17,9%); vai trò của gia đình, dòng họ dễ đánh giá nhất, mức độ khó 3,8% (Bảng

3.1). Kết quả đó cho thấy rằng, ở làng xã (cấp cơ sở), việc nhìn nhận, đánh giá vai

78

trò của gia đình, dòng họ đối với thực hiện NVQS của thanh niên thuận lợi hơn, cho

độ tin cậy cao. Đồng thời, khẳng định rõ vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên.

Bảng 3.1: Vai trò của các tổ chức, lực lượng đối với thanh niên trong thực

hiện NVQS, BVTQ (với N = 789)

Đơn vị: %

Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên

1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè của thanh niên

Rất quan trọng 48,2 40,9 39,2 64,1 49,6 30,5 21,1

Mức độ đánh giá Quan trọng 34,1 46,8 48,9 30,9 33,7 48,3 57,5

Không quan trọng 4,1 2,3 1,5 1,2 4,9 3,3 6,6

Khó đánh giá 13,6 10,0 10,4 3,8 11,8 17,9 14,8

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 4].

3.2.1. Vai trò giáo dục, tuyên truyền nghĩa vụ quân sự cho thanh niên

chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ

NVQS là quy định bắt buộc đối với nhiều quốc gia và thực hiện NVQS sẽ góp

phần vào sự nghiệp xây dựng, ổn định và phát triển đất nước của mỗi nước. Ở Việt

Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong thời kỳ kháng

chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và thời kỳ xây dựng, BVTQ, NVQS

đều được cụ thể hoá trong các điều luật và văn bản pháp luật của Nhà nước. Dù rất

quan trọng và được quy định rõ ràng, nhưng NVQS không phải lúc nào cũng được

thanh niên chú tâm tìm hiểu. Thực tế điều tra cho biết, trong các nhóm khảo sát, chỉ

có 11,6% bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS, 11,5% bố mẹ của thanh niên

không trúng tuyển NVQS và chính nhóm thanh niên đang tại ngũ cũng chỉ có

19,2% trả lời: trước khi đến tuổi đăng ký, khám tuyển và nhập ngũ, thanh niên có

tìm hiểu về NVQS [Phụ lục, Bảng 5]. Từ kết quả điều tra cho thấy, sự thụ động của

thanh niên trong tìm hiểu pháp luật, nhất là những điều luật liên quan đến quyền lợi

và nghĩa vụ của thanh niên; và cũng cho thấy rằng, nhận thức của thanh niên về

NVQS là do có sự tác động từ các tổ chức, các lực lượng. Vì thế, cần phải có chế tài

phù hợp nhằm phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng và tích cực tổ chức

79

các hoạt động nhằm kích thích, tạo điều kiện cho thanh niên tìm hiểu về NVQS, để

họ có nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ BVTQ.

Trong thời gian vừa qua, các tổ chức, các lực lượng đã chủ động thực hiện

công tác tuyên truyền NVQS cho thanh niên theo chức năng, nhiệm vụ. Số liệu

khảo sát xã hội học bố mẹ của thanh niên nhập ngũ, bố mẹ của thanh niên không

nhập ngũ và thanh niên đang thực hiện NVQS ở đơn vị quân đội đều khẳng định gia

đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng có đóng góp vào việc giáo dục, tuyên

truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (Bảng 3.2).

Bảng 3.2: Đánh giá về sự tham gia của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực

lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

theo các nhóm khảo sát.

Tổng thể (N=789)

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Đơn vị: %

Gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng có tham gia giáo dục, tuyên truyền

71,7 62,6 53,0 48,5 49,0 20,7 46,9

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 77,3 56,6 49,5 51,0 52,0 18,2 42,9

Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 88,8 55,1 53,7 52,4 49,9 18,1 47,6

81,6 57,5 52,5 51,1 50,2 18,8 46,2

Gia đình Dòng họ Nhà trường Truyền thông đại chúng Hệ thống chính quyền cơ sở Bạn bè thanh niên Ban, ngành, đoàn thể địa phương Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 5].

Số liệu bảng 3.2 cho thấy: Một là, các tổ chức, lực lượng đã tham gia giáo dục,

tuyên truyền NVQS cho thanh niên; khẳng định sự vào cuộc của toàn xã hội chăm

lo cho công tác quân sự, quốc phòng, BVTQ. Hai là, mức độ đánh giá của bố mẹ

thanh niên trúng tuyển NVQS, bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS và

thanh niên đang tại ngũ về vai trò của gia đình, dòng họ và của các tổ chức, các lực

lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên khá tương đồng, độ chênh

lệch không cao, thể hiện tính “khách quan”, độ tin cậy của kết quả điều tra. Tỷ lệ

người trả lời tương ứng với gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng lần lượt ở

nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS, bố mẹ của thanh niên không trúng

tuyển NVQS và nhóm thanh niên đang tại ngũ, nhóm tổng thể: gia đình là 77,3%,

80

88,8% và 71,7%, 81,6%; dòng họ là 56,6%, 55,1% và 62,6%, 57,5%; hệ thống

chính quyền cơ sở là 52,0%, 49,9% và 49,0%, 50,2%; ban ngành, đoàn thể địa

phương là 42,9%, 47,6% và 46,9%, 46,2%... Ba là, khẳng định vai trò quan trọng,

vượt trội của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên

so với các tổ chức, lực lượng khác. Trong đó, tỷ lệ đánh giá vai trò của gia đình cao

nhất (bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS là 77,3% và

88,8%), tiếp sau là dòng họ (bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển

NVQS là 56,6% và 55,1%). Bốn là, có một vài tỷ lệ phản ánh mức độ khác biệt về

vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS của gia đình, dòng họ cho thanh niên: Bố mẹ

của thanh niên không trúng tuyển NVQS đánh giá vai trò của gia đình cao hơn bố

mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và so với thanh niên tại ngũ cũng cao hơn;

thanh niên đang tại ngũ lại có đánh giá vai trò của dòng họ cao hơn đánh giá của bố

mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS.

Khảo sát các mẫu đối tượng với câu hỏi giả định: Khi thanh niên đến tuổi

nhập ngũ, đi đăng ký khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS, ông bà có cảm nhận gì?

Có tới 91,1% bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS, 79,3% bố mẹ của

thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ là 80,8% trả lời, gia đình

sẽ cảm thấy phấn khởi, tự hào khi thanh niên đến tuổi trưởng thành, đi đăng ký

khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS; có tỷ lệ trả lời tương ứng khá cao về phương án

thanh niên đến tuổi trưởng thành, nhập ngũ sẽ là cơ hội để rèn luyện: 75,3%, 60,6%

và 63,1%. Ngược lại, có tỷ lệ rất ít người được hỏi cho rằng, con em đến tuổi nhập

ngũ và trúng tuyển NVQS, gia đình sẽ băn khoăn, lo lắng và gia đình muốn con em

được miễn, hoãn. Tỷ lệ trả lời ở bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS, bố mẹ thanh

niên không trúng tuyển NVQS so với thanh niên đang tại ngũ cho hai phương án

này là: 14,1% và 7,1%, 20,6% và 13,2% so với 11,6% và 5,6% [Biểu 3.2]. Kết quả

điều tra củng cố thêm khẳng định vai trò quan trọng, vượt trội của gia đình, dòng họ

trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên.

81

Biểu 3.2: Cảm nhận của gia đình khi thanh niên đến tuổi nhập ngũ, đi đăng ký

khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS. Đơn vị: %

91.1

80.8

79.3

75.3

63.1

60.6

20.6

14.1

13.2

11.6

7.1

5.6

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Phấn khởi, tự hào Băn khoăn, lo lắng Cơ hội để thanh niên

rèn luyện

Muốn con em được miễn, hoãn

Bố mẹ thanh niên nhập ngũ

Thanh niên đang tại ngũ

Bố mẹ thanh niên không nhập ngũ

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 6].

Biểu 3.2 cho thấy, gia đình giữ vai trò quan trọng trong giáo dục, tuyên truyền

cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ về NVQS, BVTQ. Gia đình sẽ luôn cảm

thấy vinh dự, phấn khởi, tự hào khi con cháu trong gia đình, dòng họ đăng ký khám

tuyển, trúng tuyển NVQS.

Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

của gia đình, dòng họ được thể hiện thông qua một số hoạt động (Mô hình 3.1).

Mô hình 3.1: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên

Hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS

truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (tỷ lệ %, N = 789).

Gia đình

Dòng họ

68,2

49,8

65,1

49,9

48,5

(4)

(1)

(5)

(2)

(3)

Thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 7].

ngoại xâm, BVTQ cho con em; (2) - Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy

Ghi chú: (1) - Gia đình kể chuyện chiến đấu, chuyện về truyền thống chống giặc

82

ước của dòng họ về NVQS, BVTQ; (3) - Gia đình định hướng con em theo nghề quân

đội; (4) - Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ

quốc khi đến tuổi trưởng thành; (5) - Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện

NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của dòng họ.

Theo mô hình 3.1, những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục,

tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ không phải lúc nào

cũng được bố mẹ hay bản thân thanh niên trả lời với đa số. Trong tổng số 789 người

được điều tra, chỉ có hoạt động (4) và (5) mà gia đình, dòng họ dùng để giáo dục,

tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ có tỷ lệ người trả lời có

là 68,2% và 65,1%, nhiều hơn so với tỷ lệ người trả lời không là 31,8% và 34,9%.

Các hoạt động còn lại, tuy có tỷ lệ người trả lời có: ở hoạt động (1) là 49,8%; hoạt

động (2) là 48,5%; hoạt động (3) là 49,9% thấp hơn một chút so với tỷ lệ người trả

lời không nhưng điều đó không có nghĩa gia đình, dòng họ không chú ý hoặc coi

nhẹ những hoạt động này. Vì số liệu điều tra nhóm tổng thể cũng cho biết, chỉ có

185 người, chiếm 23,4% người được hỏi nói rằng, gia đình, dòng họ để con cháu tự

tìm hiểu về NVQS, BVTQ [Phụ lục, Bảng 7]. Gia đình, dòng họ luôn quan tâm, coi

trọng giáo dục, tuyên truyền cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ về NVQS,

quyền và nghĩa vụ BVTQ.

Tìm hiểu về các hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, nhưng được phân tách trên từng

nhóm đối tượng khảo sát, thấy rằng: Hoạt động (4), (5) vẫn được gia đình, dòng họ

thực hiện nhiều nhất, bởi tỷ lệ trả lời cho hai hoạt động này trong cả ba nhóm đối

tượng khảo sát, cao nhất là 71,5%, thấp nhất cũng là 61,6% và cao hơn tỷ lệ trả lời ở

các hoạt động khác (Bảng 3.3).

83

Bảng 3.3: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo các nhóm khảo sát.

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Đơn vị: %

Những hoạt động giáo dục, tuyên truyền của gia đình, dòng họ

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 43,4

Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 55,5

45,0

43,9

46,9

54,2

51,5

48,0

50,1

64,1

65,7

71,5

61,6

60,6

69,2

(1) Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em (2) Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ (3) Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội (4) Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành (5) Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 7].

Bảng 3.3 cho thấy, trong ba hoạt động (1), (2) và (3) gia đình, dòng họ thực hiện

giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ có sự khác nhau

về tỷ lệ trả lời ở các nhóm khảo sát. Nhóm tổng thể, tỷ lệ trả lời cho ba hoạt động này

chỉ xấp xỉ 50,0% [Mô hình 3.1]; bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS tỷ lệ trả lời

cao nhất chỉ là 48,0%; bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS đều có tỷ lệ

trả lời trên 50,0%, đó là: hoạt động (1) là 55,5%, hoạt động (2) là 54,2% và hoạt động

(3) là 50,1%; ở nhóm thanh niên đang tại ngũ, chỉ có hoạt động (3) có tỷ lệ trả lời

51,5%, còn tỷ lệ trả lời ở hoạt động (1) là 45,0% và hoạt động (2) là 43,9%. Tuy tỷ lệ

trả lời ở các nhóm cho các hoạt động (1), (2) và (3) chênh nhau không quá xa, nhưng

ít nhiều cho thấy bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS có sự quan tâm, chú

trọng hơn, nhất là ở hoạt động gia đình kể những mẩu chuyện chiến đấu, chống giặc

ngoại xâm, BVTQ cho con em. Ở hoạt động này, nếu bố mẹ của thanh niên không

trúng tuyển NVQS trả lời 55,5%, thì bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS chỉ trả

lời 43,4% và với thanh niên đang tại ngũ cũng chỉ là 45,0%.

84

Về vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập

ngũ của gia đình, dòng họ, bố của một thanh niên cho biết:

Con tôi, ngay từ khi còn nhỏ tôi thỉnh thoảng kể cho em nó nghe chuyện

thế hệ chúng tôi trước kia hào hứng đi nhập ngũ ra sao. Nhất là những

mẩu chuyện tôi cùng đồng đội tham gia chiến đấu, với những tấm gương

hy sinh anh dũng, chiến đấu ngoan cường, nhiều người bị thương nhưng

nhất định không chịu rời vị trí về tuyến sau. Em nó rất thích nghe tôi kể,

nhiều lúc còn bắt tôi kể lại và tôi cũng không biết những câu chuyện có

tác động như thế nào với em nhưng khi em nó đến tuổi nhập ngũ em nó

rất vui và sẵn sàng ngay (PVS: Nam, 57 tuổi, từng tham gia kháng chiến

chống Mỹ, xã Quảng Phú Cầu).

Những tư liệu, số liệu trình bầy ở trên cho thấy: Thứ nhất, công tác giáo

dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên là một hoạt động trọng điểm, được tiến

hành thường xuyên trong quá trình thực hiện nhà nước pháp quyền, xây dựng

nền QPTD, BVTQ ở địa phương cơ sở. Thứ hai, các tổ chức, các lực lượng ở địa

phương cơ sở đã tham gia giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên theo

chức năng, nhiệm vụ. Thứ ba, gia đình, dòng họ giữ vai trò quan trọng, nổi trội

so với các tổ chức, các lực lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh

niên. Thứ tư, nội dung giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên của gia

đình, dòng họ khá rộng: truyền đạt nội dung cơ bản của luật NVQS, tuyên truyền

truyền thống chống giặc ngoại xâm của gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước,

giáo dục ý thức BVTQ. Trong đó, có những nội dung nổi trội như: việc dạy bảo

con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành,

giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ là tiếp nối truyền thống, kỷ

cương của gia đình, dòng họ. Thứ năm, hình thức giáo dục, tuyên truyền NVQS

cho thanh niên của gia đình, dòng họ khá đa dạng, phù hợp với tính chất và nền

nếp sinh hoạt của gia đình, dòng họ. Đối với gia đình: kể chuyện truyền thống,

trao đổi để nhắc nhớ về NVQS,…; đối với dòng họ: sinh hoạt dòng họ, gặp gỡ

trao đổi giữa bác chú cô trong dòng họ với con cháu là hình thức được sử dụng

nhiều hơn, có hiệu quả hơn.

85

3.2.2. Vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám

tuyển nghĩa vụ quân sự của gia đình, dòng họ

Trong các đợt tuyển quân, mọi thanh niên trong độ tuổi thực hiện NVQS đều

được Hội đồng quân sự địa phương gửi thông báo đăng ký, khám tuyển NVQS.

Tuy đây mới chỉ là khâu đoạn đăng ký, khám tuyển nhưng cũng gây không ít

những băn khoăn, tính toán không chỉ với những thanh niên vừa học xong trung

học phổ thông, vừa đủ tuổi gọi nhập ngũ, mà còn đối với cả những thanh niên đã

được gọi khám tuyển nhiều lần trước đó. Do vậy, trong công tác gọi thanh niên

nhập ngũ, bên cạnh việc phát huy vai trò giáo dục, động viên của các tổ chức, lực

lượng, còn cần phải phát huy vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng

ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ.

Vai trò của các tổ chức, lực lượng và gia đình, dòng họ trong giáo dục, động

viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS được chính những thanh niên

đang thực hiện NVQS và bố mẹ của thanh niên khẳng định. Trong nhóm tổng thể

đối tượng được điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến, có rất nhiều người đồng ý với

phương án cho rằng, khi thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS rất cần sự

gặp gỡ, động viên của người thân trong gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng.

Trong ba nhóm đối tượng khảo sát, nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và

không trúng tuyển NVQS không có ai, so với nhóm thanh niên đang tại ngũ cũng

chỉ có 2,5% người được hỏi [Phụ lục, Bảng 8] nói rằng trong quá trình thanh niên đi

đăng ký, khám tuyển NVQS, không có ai gặp gỡ, động viên. Tỷ lệ phần trăm người

trả lời ở từng nhóm khảo sát về sự tham gia của gia đình, dòng họ và các tổ chức,

lực lượng trong giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS được

thể hiện trong bảng 3.4.

86

Bảng 3.4: Đánh giá của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng về sự tham gia

giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS theo nhóm đối tượng khảo sát.

Mẫu tổng thể (N=789)

Đơn vị: %

Đánh giá của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng

Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 49,6 78,6

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 40,9 74,2

Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 48,0 76,8

47,0 77,1

74,8

65,7

70,2

71,4

81,2 77,1 63,6 67,9 55,7 83,5 43,3

79,3 72,2 65,2 69,7 61,6 88,9 44,9

80,4 72,8 64,9 69,1 57,9 84,2 44,0

79,8 64,6 67,2 70,7 58,6 80,8 44,4

Chủ tịch, phó chủ tịch xã Chỉ huy trưởng, chỉ huy phó quân sự xã Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn Trưởng thôn Đoàn thanh niên Hội phụ nữ Hội cựu chiến binh Người thân trong dòng họ Người thân trong gia đình Bạn bè của thanh niên Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 8].

Số liệu bảng 3.4 cho thấy, trong quá trình đăng ký, khám tuyển NVQS của

thanh niên, hầu hết các tổ chức, lực lượng được người điều tra trả lời là có tham gia

giáo dục, động viên, song ở các mức độ khác nhau. Trong đó, sự tham gia của người

thân trong gia đình có tỷ lệ đánh giá cao nhất (80,8% và 83,5% ở nhóm bố mẹ của

thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS), sau đó đến sự tham gia của

trưởng thôn (79,8% và 81,2% ở nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không

trúng tuyển NVQS); sự tham gia của chỉ huy trưởng, chỉ huy phó quân sự xã, bí thư

đảng ủy, phó bí thư đảng ủy, đảng viên chi bộ thôn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội

cựu chiến binh có tỷ lệ đánh giá khá cao; sự tham gia của chủ tịch, phó chủ tịch xã và

bạn bè của thanh niên có tỷ lệ đánh giá thấp (40,9%, 44,4% và 49,6%, 43,3% ở nhóm

bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS). Đáng chú ý, sự tham gia

của người thân trong dòng họ có tỷ lệ đánh giá khá thấp (58,6% và 55,7% ở nhóm bố

mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS).

Một thanh niên trúng tuyển NVQS ở thị trấn Vân Đình trả lời phỏng vấn về vai

trò của gia đình trong giáo dục, động viên đăng ký, khám tuyển NVQS như sau:

87

Học xong trung học phổ thông tháng 5 thì tháng 7 là em đi đăng ký,

khám tuyển NVQS. Lúc đầu em cũng thấy lo lắng đấy, nhưng rất may gia

đình em, nhất là bố em đã truyền dạy cho em về nghĩa vụ phải thực hiện

với Tổ quốc và có trúng tuyển thì quân đội cũng là môi trường tốt để rèn

luyện con người. Còn mẹ em luôn gần gũi động viên, an ủi nên em cảm

thấy vững tin khi ra thị trấn đăng ký, khám tuyển NVQS (PVS: Nam, 18

tuổi, thị trấn Vân Đình).

Với các tổ chức, lực lượng tham gia giáo dục, động viên thanh niên đăng ký,

khám tuyển NVQS, giữa các nhóm khảo sát, hầu hết đều có tỷ lệ người trả lời cao

và khá cao. Ví như, trưởng thôn: 79,8% với nhóm bố mẹ thanh niên trúng tuyển

NVQS, 81,2% với nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS, so với

80,4% và 79,3% của nhóm tổng thể và nhóm thanh niên đang tại ngũ; chỉ huy

trưởng, chỉ huy phó quân sự xã: 74,2% với nhóm bố mẹ thanh niên trúng tuyển

NVQS, 78,6% với nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS, so với

77,1% và 76,8% của nhóm tổng thể và nhóm thanh niên đang tại ngũ; hội phụ nữ:

67,2% với nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS, 63,6% với nhóm bố mẹ

của thanh niên không trúng tuyển NVQS, so với 65,2% và 64,9% của nhóm thanh

niên đang tại ngũ và nhóm tổng thể. Tỷ lệ người trả lời về sự tham gia giáo dục

động viên của các tổ chức, lực lượng nêu trên còn cao hơn tỷ lệ người trả lời về sự

tham gia giáo dục, động viên của những người thân trong dòng họ: 58,6% với nhóm

bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS; 55,7% với nhóm bố mẹ của thanh niên

không trúng tuyển NVQS; so với 57,9% và 61,6% của nhóm tổng thể và nhóm

thanh niên đang tại ngũ.

Kết quả điều tra cho thấy tính hợp lý của người được điều tra, bởi vì trong

công tác gọi thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS, một số lực lượng, tổ chức

được Hội đồng tuyển quân, đứng đầu là Bí thư đảng uỷ kiêm chính trị viên Ban chỉ

huy quân sự xã giao nhiệm vụ tùy theo chức năng, nhiệm vụ. Cho nên, hoạt động

giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của Ban chỉ

huy quân sự xã, trưởng thôn, chi bộ thôn và đảng viên, các tổ chức chính trị - xã hội

(Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) được đề cao. Ban chỉ huy quân

sự xã có nhiệm vụ rà soát toàn bộ danh sách những thanh niên trong độ tuổi thực

88

hiện NVQS, báo cáo lên Hội đồng tuyển quân xã, viết giấy mời và tuyên truyền trên

hệ thống loa phát thanh xã thông báo về việc đăng ký, khám tuyển NVQS (danh

sách, thời gian, địa điểm, quy định của địa phương); trưởng thôn đưa giấy mời đến

từng gia đình có thanh niên trong độ tuổi đăng ký, khám tuyển NVQS và động viên,

tổ chức cho họ đăng ký, khám tuyển; cấp ủy đảng, đảng viên chi bộ thôn, đoàn

thanh niên, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh phối hợp cùng với ban quân sự xã,

trưởng thôn đến gặp gỡ để giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển,

nhất là các thanh niên còn đang băn khăn, lo lắng, có ý định trốn tránh NVQS.

Phỏng vấn sâu một trưởng thôn về vai trò của các tổ chức, lực lượng trong gặp

gỡ, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS, được biết:

Tôi ở trong Hội đồng tuyển quân của xã. Trong các đợt tuyển quân hàng

năm, sau khi lên danh sách và có giấy mời những thanh niên phải được

gọi đi đăng ký, khám tuyển NVQS, tôi được giao nhiệm vụ phối hợp với

ban quân sự xã và các ban, ngành, đoàn thể địa phương đến từng nhà

thanh niên. Tôi thường đưa giấy mời trực tiếp cho bố mẹ của thanh niên,

nhờ bố mẹ thanh niên nhắc nhở thanh niên, rồi hỏi thăm, nói chuyện,

động viên thanh niên đi khám tuyển đúng thời gian quy định. (PVS:

Nam, 59 tuổi, trưởng thôn, xã Đại Cường).

Trong giáo dục, động viên con cháu đi đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình,

dòng họ thực hiện nhiều hoạt động như: (1) Gia đình thường xuyên giáo dục, nhắc

nhở thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định; (2) Dòng

họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để

giáo dục, động viên; (3) Những người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên

thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; (4) Người thân trong gia đình động

viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS; (5) Dòng họ giáo dục

thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống,

kỷ cương của gia đình, dòng họ; (6) Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng

ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với

Tổ quốc (Bảng 3.5).

89

Bảng 3.5: Những hoạt động giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký,

khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo nhóm đối tượng khảo sát.

Mẫu tổng thể (N=789)

Đơn vị: %

Những hoạt động của gia đình, dòng họ

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 69,7

Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 83,5

Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 71,2

76,9

59,6

43,8

56,6

51,0

65,2

65,9

66,7

65,9

59,1

45,5

60,1

52,6

53,0

41,0

52,5

46,9

57,1

70,5

59,6

64,4

(1) Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định (2) Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên (3) Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS (4) Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS (5) Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ (6) Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 9].

Bảng 3.5 cho biết, trong quá trình thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS,

gia đình, dòng họ thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, nhưng có những hoạt

động được gia đình, dòng họ quan tâm, chú trọng hơn hay được các nhóm đối

tượng khảo sát đánh giá cao hơn. Điều này cũng được thể hiện rõ thông qua tỷ lệ

người được điều tra trả lời như hoạt động (1) có tỷ lệ đánh giá ở các nhóm khảo

sát cao nhất, trong đó nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS lại trả

lời với tỷ lệ lớn nhất, với 83,5%. Tỷ lệ này cao hơn khá nhiều so với đánh giá của

nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS là 69,7% và so với nhóm thanh

niên đang tại ngũ (71,2%) và nhóm tổng thể (76,9%) cũng cao hơn. Hoạt động (5)

lại có đánh giá ở các nhóm khảo sát thấp nhất, trong đó nhóm bố mẹ của thanh

niên trúng tuyển NVQS có tỷ lệ trả lời lớn nhất, với 53,0% so với 41,0% ở nhóm

90

bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS và 52,5%, 46,9% ở nhóm thanh

niên đang tại ngũ, nhóm tổng thể.

Song, dù còn có những tỷ lệ đánh giá khác nhau cho cùng một hoạt động hoặc

cho các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển

NVQS của gia đình, dòng họ nhưng điều này không có nghĩa gia đình, dòng họ

không coi trọng hay không muốn giáo dục, động viên con cháu. Trên thực tế, ở khâu

đoạn đăng ký, khám tuyển NVQS, hoạt động nào phù hợp hơn sẽ được gia đình, dòng

họ quan tâm, thực hiện nhiều hơn. Chẳng hạn, ở khâu đoạn này thì việc thường xuyên

nhắc nhở con, cháu đi đăng ký, khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định có ý

nghĩa trực tiếp, thiết thực hơn; còn việc giáo dục con cháu giữ gìn truyền thống, kỷ

cương là cả một quá trình lâu dài, từ khi con, cháu còn nhỏ, đang học phổ thông đến

khi con, cháu đủ tuổi đi đăng ký, khám tuyển NVQS, rồi trúng tuyển và chuẩn bị lên

đường nhập ngũ, làm nhiệm vụ ở đơn vị quân đội, cho nên được các nhóm đối tượng

đánh giá cao nhất và thấp nhất. Hay khi gia đình có con em trúng tuyển NVQS, bố

mẹ, bác chú cô trong họ sẽ tiếp tục động viên con cháu, nhằm giúp con cháu vơi bớt

những băn khoăn, lo lắng. Do đó, tỷ lệ đánh giá cho hoạt động (5) của nhóm bố mẹ

có con trúng tuyển NVQS cao hơn nhóm bố mẹ không có con trúng tuyển NVQS.

Tóm lại, dù trả lời với tỷ lệ cao hay thấp, song kết quả điều tra cũng đã cho

thấy bức tranh toàn cảnh, rõ ràng về sự tham gia của các tổ chức, các lực lượng và

của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển

NVQS. Sự phối kết hợp đồng bộ giữa các tổ chức, các lực lượng là một nền nếp

trong thực hiện giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS ở địa

phương cơ sở hiện nay. Chính sự vào cuộc của các tổ chức, các lực lượng trong hệ

thống chính trị ở cơ sở đã tạo môi trường xã hội, áp lực xã hội đối với gia đình,

dòng họ trong việc giáo dục, động viên con em đăng ký, khám tuyển NVQS. Kết

quả điều tra khẳng định tính thực tiễn khoa học của mô hình tác động của các yếu tố

đối với thực hiện NVQS của thanh niên: mô hình vòng tròn khép kín giữa hệ thống

chính trị ở cở sở với cộng đồng làng xã và gia đình, dòng họ (Mô hình 2.2, tr. 59).

Cũng như trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên, trong giáo dục,

động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình và dòng họ vẫn giữ vai

trò quan trọng, nổi trội. Gia đình vẫn là tổ chức, lực lượng quan trọng nhất trong

91

giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS. Kết quả điều tra cũng

chỉ ra rằng, trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên, gia đình và dòng họ

được đánh giá ở mức cao nhất; trong giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám

tuyển NVQS, vai trò của gia đình vẫn được đánh giá ở mức cao nhất, song vai trò

của dòng họ được đánh giá ở mức chưa cao. Như vậy, vai trò của gia đình, dòng họ

trong thực hiện NVQS của thanh niên có sự biến động theo nội dung, chỉ báo.

Có một vài hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển

NVQS của gia đình, dòng họ cũng đã được sử dụng trong giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên. Song, đã xuất hiện một số hoạt động phù hợp với việc giáo

dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS như: Dòng họ tổ chức gặp

mặt thanh niên trong dòng họ có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS và người trong

dòng họ đến từng gia đình thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để

giáo dục, động viên; Gia đình nhắc nhớ, động viên và trực tiếp đưa thanh niên khám

tuyển NVQS. Như vậy, vai trò của gia đình, của dòng họ đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên có sự phát triển phù hợp với từng giai đoạn của quá trình thực

hiện NVQS của thanh niên. Phương pháp tiếp cận hệ thống gia đình của Murray

Bowen đã chi rõ, sự phản ứng của gia đình với môi trường xã hội buộc hệ thống gia

đình phải luôn thay đổi và tự điều chỉnh để duy trì gia đình, để đáp ứng nhu cầu của

các thành viên trong gia đình cũng như thích ứng với môi trường xung quanh.

3.2.3. Vai trò giáo dục, động viên thanh niên lên đường thực hiện nghĩa vụ

quân sự khi có giấy gọi nhập ngũ của gia đình, dòng họ

Sau khi đăng ký, khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS và có lệnh gọi nhập ngũ,

không ít thanh niên vẫn cảm thấy hồi hộp, lo lắng, băn khoăn. Thanh niên hồi hộp,

lo lắng vì sự thay đổi môi trường sống, vì nỗi nhớ nhà, người thân trong gia đình,

nỗi nhớ bạn bè trong thời gian sắp tới. Thanh niên băn khoăn vì ít nhiều vẫn có suy

nghĩ, nhập ngũ sẽ lấy đi cơ hội được tiếp tục học lên cao đẳng, đại học và tiến thân

trong xã hội. Do vậy, sự động viên, khích lệ của những người thân trong gia đình,

dòng họ đối với thanh niên vẫn luôn hết sức cần thiết. Điều này không những giúp

thanh niên hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc, mà còn khẳng định

vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng nền QPTD, cho thấy sự gắn kết giữa

gia đình, dòng họ với đơn vị quân đội trong giáo dục, rèn luyện chiến sĩ mới.

92

Vai trò của gia đình, dòng họ được chứng minh qua khảo sát thực tế 396 bố mẹ

có con em trúng tuyển NVQS và thanh niên đang nhập ngũ ở đơn vị quân đội. Tỷ lệ

người trả lời về vai trò của những người thân trong gia đình và vai trò của trưởng họ,

chú bác cô trong dòng họ đối với con cháu có giấy gọi trúng tuyển NVQS, chuẩn bị

nhập ngũ ở nhóm bố mẹ có con em trúng tuyển NVQS là 73,2% và 63,1%; trong khi

ở nhóm bố mẹ có con em trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ là 82,1% và

68,9% và nhóm thanh niên đang tại ngũ là 90,9% và 74,7%. Vai trò này càng trở nên

quan trọng hơn khi so sánh với tỷ lệ trả lời thấp hơn rất nhiều về sự tham gia của các

bác cựu chiến binh, cụ già trong thôn và bạn bè cùng trang lứa với thanh niên chuẩn

bị nhập ngũ (Biểu 3.3).

Biểu 3.3: Gia đình, dòng họ và các tổ chức lực lượng tham gia giáo dục, động

viên thanh niên trúng tuyển NVQS.

Đơn vị: %

90,9

82,1

74,7

73,2

68,9

63,1

31,8

28,3 24,7

20,2

18,9 22,2

15,7 17,7

15,2

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

Cựu chiến binh Cụ già trong

thôn

Bạn bè thanh niên

Người thân trong gia đình

Trưởng họ và bác chú cô trong họ

Bố mẹ thanh niên và thanh niên

Bố mẹ thanh niên trúng NVQS

Thanh niên đang tại ngũ

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 10].

Vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên con cháu lên đường

nhập ngũ khi có giấy gọi còn được thể hiện ở khía cạnh, gia đình luôn mong muốn

thanh niên trúng tuyển NVQS để làm nhiệm vụ BVTQ. Khi hỏi 393 người là bố mẹ

có con không trúng tuyển NVQS về lý do thanh niên không được lên đường nhập

ngũ, trong bảy lý do được đưa ra: thanh niên không đủ điều kiện về sức khoẻ; thanh

niên không đủ điều kiện về học vấn; điều kiện gia đình neo đơn, khó khăn; chỉ tiêu

tuyển quân ít; thanh niên đã có giấy gọi nhập học vào các trường cao đẳng, đại học;

93

thanh niên chưa muốn nhập ngũ; gia đình chưa muốn con em nhập ngũ. Lý do gia

đình chưa muốn con em nhập ngũ có tỷ lệ trả lời rất thấp, thấp nhất trong các lý do

nêu trên, với 7,1% [Phụ lục, Bảng 11]. Điều tra bằng phiếu đối với bố mẹ có con

không trúng tuyển NVQS với câu hỏi: Ông bà có muốn được lựa chọn việc thực

hiện NVQS của con em không? gần như toàn bộ 393 người được hỏi nói có muốn

lựa chọn, chỉ có 6 người nói không, chiếm 1,5% [Biểu 3.4]. Và trong ba lựa chọn

được đưa ra: muốn con em trúng tuyển NVQS; muốn con em ở nhà phụ giúp gia

đình; muốn con em tiếp tục đi học, tỷ lệ người trả lời cao nhất cho lựa chọn muốn

con em trúng tuyển NVQS, với 44,3% [Biểu 3.4].

Biểu 3.4: Lựa chọn của bố mẹ về việc thực hiện NVQS của con em (với N = 393).

1,5

34,6

44,3

19,6

Muốn con em trung tuyển NVQS

Muốn con em ở nhà

Muốn con em đi học

Không lựa chọn

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 13].

Đơn vị: %

Sự tham gia giáo dục, động viên của gia đình, dòng họ đối với thanh niên chuẩn

bị lên đường thực hiện NVQS khi có giấy gọi nhập ngũ được thể hiện trên nhiều

hoạt động khác nhau, như: (1) Gia đình tổ chức gặp mặt, mời đại diện cấp uỷ đảng,

chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú bác cô trong dòng họ, mời bạn bè của

thanh niên đến chia tay thanh niên; (2) Dòng họ tổ chức gặp mặt động viên, khích lệ

thanh niên để thanh niên thấy rõ việc thanh niên lên đường làm nhiệm vụ BVTQ

cũng là niềm vui, vinh dự, tự hào của gia đình và dòng họ; (3) Dòng họ phân công

người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS để thanh niên yên tâm lên

đường nhập ngũ; (4) Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên vơi bớt những khó

khăn, thiếu thốn và thích nghi tốt hơn với đời sống quân ngũ; (5) Người thân trong

gia đình cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội (Bảng 3.6).

94

Bảng 3.6: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện đối với thanh niên

trúng tuyển NVQS và có giấy gọi nhập ngũ theo nhóm đối tượng khảo sát.

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Đơn vị: %

Những hoạt động của gia đình, dòng họ

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 95,5

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 97,0

98,5

57,6

74,7

66,2

30,3

31,3

30,8

22,2

25,8

24,0

17,7

22,2

19,9

(1) Gia đình tổ chức gặp mặt, chia tay thanh niên (2) Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên (3) Dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS (4) Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên (5) Người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 14].

Bảng 3.6 thấy rằng, khi thanh niên có giấy gọi thực hiện NVQS và chuẩn bị

lên đường nhập ngũ, đã có nhiều hoạt động được dòng họ thực hiện: Dòng họ tổ

chức gặp mặt thanh niên, thành phần bao gồm trưởng họ, ban gia tộc và các chú bác

cô và anh chị em. Trong buổi gặp mặt, thanh niên được trưởng họ, cùng ban gia tộc

khuyên răn về nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc, về việc chấp

hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, về truyền thống của dòng họ trong xây

dựng và BVTQ; Dòng họ phân công các chú bác cô, anh chị em đến động viên,

thăm hỏi thanh niên, giúp thanh niên có thêm tinh thần và nghị lực vượt qua mọi

khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; Thay mặt dòng họ,

trưởng họ trao cho thanh niên vật phẩm như cây bút, quyển sổ và những hiện vật

nhỏ khác (đồng hồ, một chút tiền); Dòng họ cử người cùng gia đình tham gia lễ giao

quân cho đơn vị tiếp nhận. Chẳng hạn, tỷ lệ người được hỏi trả lời cho hoạt động (2)

và hoạt động (3) của dòng họ với thanh niên chuẩn bị lên đường nhập ngũ như sau:

nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS là 57,6% và 30,3%; còn ở nhóm

thanh niên tại ngũ, nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên tại

ngũ là 74,7% và 31,3%, 66,2% và 30,8%.

95

Ngoài ra, hoạt động của dòng họ với thanh niên chuẩn bị lên đường nhập ngũ

còn được chính bố mẹ có con trúng tuyển NVQS và những chiến sĩ đang tại ngũ trả

lời khi được hỏi: Các dòng họ có tham gia động viên, tổ chức cho thanh niên lên

đường nhập ngũ khi có giấy gọi không? Phần lớn người được hỏi ở nhóm bố mẹ của

thanh niên trúng tuyển NVQS (155/ 198 người, chiếm 78,3%) trả lời có, chỉ có 11,6%

trả lời không và 10,6% trả lời không rõ. Tỷ lệ trả lời ở nhóm thanh niên đang tại ngũ

cũng cao ở đánh giá có, với 79,9% và rất thấp ở đánh giá không, không rõ, với 5,6%,

14,1% [Phụ lục, Bảng 15].

Bên cạnh đó, dòng họ với vai trò chủ yếu của trưởng họ có chi phối không nhỏ

đến gia đình trong động viên thanh niên nhập ngũ. Trong tộc ước của một dòng họ

ở xã Quảng Phú Cầu ghi: “Tặng phẩm trai họ nhập ngũ BVTQ là niềm vinh dự của

gia đình và dòng họ. Hội đồng gia tộc tổ chức động viên tặng phẩm giá trị (bằng

hiện vật)” [100, tr.5]. Do đó, khi gia đình nào trong dòng họ có thanh niên được gọi

nhập ngũ, thay mặt dòng họ, trưởng họ cùng ban gia tộc có vai trò gặp gỡ, động

viên gia đình, khuyến khích, khích lệ con cháu phát huy truyền thống của dòng họ,

giữ uy tín cho dòng họ để hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với đất

nước. Đối với gia đình còn băn khoăn, lo lắng hoặc có ý định để con em trốn

NVQS, dòng họ có vai trò khuyên bảo, thậm chí răn đe, khai trừ ra khỏi dòng họ.

Trong dòng họ có người nhập ngũ thì dòng họ sẽ có một ban gia tộc

(khoảng 20 người) đến thăm hỏi động viên gia đình, động viên tặng quà là

cây bút và quyển sổ để khuyến khích con cháu mình. (PVS: Nam, Trưởng

dòng họ Đỗ, 51 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).

Về phía gia đình, với câu hỏi: Trước khi thanh niên lên đường nhập ngũ gia

đình tổ chức gặp mặt, chia tay không? có đến 384 trên tổng số 396 người được hỏi

là bố mẹ có con nhập ngũ và thanh niên đang tại ngũ trả lời có tổ chức gặp mặt, chia

tay, chiếm 97,0% và tỷ lệ trả lời ở nhóm thanh niên đang tại ngũ là 98,5%. Tỷ lệ trả

lời này cao hơn một chút so với nhóm bố mẹ có con nhập ngũ, với 95,5% [Bảng

3.6]. Trong gặp mặt, chia tay thanh niên lên đường nhập ngũ, gia đình mời đại diện

cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời những người thân trong trong

dòng họ và mời bạn bè thân thiết của thanh niên. Tỷ lệ trả lời tương ứng ở nhóm ở

nhóm bố mẹ có con nhập ngũ là 29,8%, 89,9% và 72,2%, so với tỷ lệ trả lời ở nhóm

96

thanh niên đang tại ngũ là 16,7%, 80,3% và 86,4% thì thấy rằng: cùng có đánh giá

cao cho phương án gia đình mời những người thân trong trong dòng họ và mời bạn

bè thân thiết của thanh niên và đánh giá thấp cho phương án gia đình mời đại diện

cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương [Phụ lục, Bảng 16]. Trong buổi gặp

mặt, chia tay thanh niên, hoà cùng với bữa cơm thân mật, ấm cúng là những lời

động viên, khuyên nhủ của cán bộ thôn xã, của chú bác cô, anh chị em trong họ, của

bạn bè thân thiết, nhất là của bố mẹ thanh niên. Những lời động viên, khuyên nhủ

đó đã tạo nên một bầu không khí đầm ấm, tiếp thêm nghị lực giúp thanh niên hoàn

thành mọi nhiệm vụ trong quá trình thực hiện NVQS. Một thanh niên trúng tuyển

nghĩa vụ quân sự ở địa bàn khảo sát hồ hởi nói:

Trước khi tôi lên đường nhập ngũ, dòng họ có tổ chức gặp mặt và gia

đình thì tổ chức liên hoan chia tay, việc làm này khiến tôi rất xúc động và

cảm thấy vinh dự, tự hào. Ngoài việc truyền động lực tinh thần lớn lao

cho tôi, tôi còn cảm thấy mình có trách nhiệm tiếp nối truyền thống của

dòng họ, gia đình để không phụ lòng những người thân yêu của tôi (PVS:

Nam, 18 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).

Như vậy, kết quả điều tra khảo sát cho thấy, khi thanh niên có giấy gọi nhập

ngũ, gia đình và dòng họ đã phát huy vai trò giáo dục, động viên con em nhập ngũ.

So với giáo dục và tuyên truyền NVQS, giáo dục và động viên thanh niên đăng ký,

khám tuyển NVQS, vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên con em

nhập ngũ được đẩy cao hơn, cụ thể, thiết thực hơn. Nó thể hiện ở các nội dung: đại

đa số gia đình, dòng họ mong muốn và kiên quyết cho con em lên đường nhập ngũ,

thực hiện NVQS, BVTQ; gia đình, dòng họ tạo mọi điều kiện thuận lợi để con em

nhập ngũ thực hiện NVQS.

Đối với những thanh niên trúng tuyển, có giấy gọi nhập ngũ, dòng họ đã có

những việc làm thiết thực, thể hiện tốt vai trò của mình đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên. Dòng họ không chỉ gặp gỡ, động viên thanh niên lên

đường nhập ngũ, mà còn phân công các thành viên trong dòng họ giúp đỡ gia

đình thanh niên, huy động vật chất để trao tặng cho thanh niên và cùng địa

phương, gia đình tổ chức đưa thanh niên đến địa điểm giao quân để bàn giao cho

các đơn vị quân đội nhận quân. Qua đó có thể thấy rằng, dòng họ đã thực hiện

97

vai trò “hậu phương” đối với những con em thực hiện NVQS, phục vụ trong các

đơn vị quân đội.

Khi con em có lệnh gọi nhập ngũ, gia đình động viên, tổ chức chia tay, đưa tiễn

đến địa diểm giao quân và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để con em nhanh chóng

thích nghi với môi trường quân sự, với những ngày đầu sống xa gia đình, không có sự

theo dõi và chăm sóc của bố mẹ. Thực tiễn cho thấy rằng, gia đình, bố mẹ và người

thân của những thanh niên có giấy gọi nhập ngũ đã thực sự là “điểm tựa” về tinh thần

và vật chất để thanh niên yên tâm lên đường thực hiện NVQS của mình.

Ở thời điểm thanh niên có giấy gọi nhập ngũ, cả hệ thống chính trị ở cơ sở, cộng

đồng làng xã dồn sức, trí, lực để động viên, tổ chức cho thanh niên nhập ngũ theo

đúng quy định pháp luật. Hoạt động của hệ thống chính trị, cộng đồng làng xã hội tụ

ở các gia đình có con em nhập ngũ và kết quả của hoạt động đó ở việc các gia đình

động viên con em thực hiện NVQS đúng theo lệnh gọi nhập ngũ. Ở thời điểm này,

gia đình, dòng họ giữ vai trò quan trọng, quyết định. Kết quả điều tra cho thấy, đại đa

số các gia đình đều động viên cho con em nhập ngũ, nhưng cũng có gia đình tìm mọi

cách để con em không phải nhập ngũ, cá biệt có gia đình tổ chức cho con em trốn

tránh không nhập ngũ. Vai trò của gia đình, dòng họ quy tụ vào vai trò của trưởng họ,

chủ gia đình, được thể hiện ở mối liên hệ giữa trưởng họ, chủ hộ và thanh niên có

giấy gọi nhập ngũ. Trưởng họ, chủ gia đình kiên quyết bắt con em nhập ngũ thì sẽ

không có thanh niên nào trốn tránh NVQS và ngược lại. Thực tiễn kết quả điều tra đã

khẳng định về sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo mô

hình vòng tròn khép kín giữa trưởng dòng họ, chủ hộ gia đình và thanh niên.

Mô hình các thành phần gia đình và mối quan hệ của chúng với toàn bộ hệ

thống của Murray Bowen đã chỉ ra các tương tác gia đình là trung tâm của hệ thống

(tr.62). Nó là quá trình tương tác giữa các thành viên gia đình để xác định các quy

tắc, thể hiện sự gắn kết, khả năng thích ứng và phong cách giao tiếp của gia đình,

nhằm phục vụ các thành viên gia đình và nhu cầu của toàn bộ gia đình. Quy tắc của

gia đình, dòng họ được hình thành thể hiện ở tộc ước, gia pháp và ở việc xác định vị

trí, vị thế của trưởng họ, chủ hộ gia đình. Trong các dòng họ, gia đình Việt Nam,

trưởng họ, chủ hộ gia đình giữ vai trò quyết định các nội dung hoạt động của dòng

họ, gia đình. Tính tôn ti nghiêm ngặt trong dòng họ, gia đình xác định uy quyền uy

98

thực của trưởng họ, chủ hộ gia đình trong việc động viên, tổ chức cho con em nhập

ngũ, thực hiện NVQS.

3.2.4. Vai trò động viên, chăm lo thanh niên trong thời gian thực hiện nghĩa vụ

quân sự ở các đơn vị quân đội của gia đình, dòng họ

Sau khi nhập ngũ, thực hiện NVQS ở các đơn vị quân đội, mỗi thanh niên được

sự quản lý, giáo dục, rèn luyện trực tiếp của cán bộ chỉ huy đơn vị và phải chấp hành

nghiêm chỉnh điều lệnh, điều lệ quân đội. Nhưng quân đội cũng không phải môi trường

tách biệt hoàn toàn với xã hội bên ngoài và mỗi thanh niên khoác trên mình màu xanh

áo lính vẫn có những mối quan hệ bên ngoài xã hội, vẫn có những nhu cầu hưởng thụ

cuộc sống và vẫn chịu những tác động của cơ chế thị trường. Sau khi nhập ngũ, nhiều

thanh niên còn có những tâm tư, suy nghĩ thiệt hơn nhất định. Cá biệt có thanh niên còn

luyến tiếc cuộc sống ngoài xã hội, ngại khó, ngại khổ, sợ sau một khoảng thời gian

trong quân ngũ, thanh niên bị lỡ cơ hội học hành hay tìm kiếm một công việc thích

hợp. Do vậy, thanh niên tại ngũ rất cần sự quan tâm, động viên, nhắc nhở của các tổ

chức, lực lượng, của gia đình và dòng họ, nhất là trong những ngày đầu nhập ngũ, bắt

đầu làm quen với cuộc sống của người lính để giúp họ yên tâm công tác.

Đối với gia đình, dòng họ có con cháu nhập ngũ, ít nhiều vẫn có những lo lắng

cho thanh niên. Dù quân đội là môi trường tốt để thanh niên rèn luyện cả về phẩm

chất đạo đức, sức khoẻ, lẫn lối sống, tác phong, nghị lực vượt khó nhưng thanh niên,

nhất là trong những ngày đầu mới làm quen môi trường sống mới, chắc chắn sẽ vấp

phải nhiều bỡ ngỡ. Bởi vì, thanh niên chưa kịp thích nghi với lối sống trong quân

ngũ, chưa quen nếp ăn, ngủ, sinh hoạt của người lính và sự rèn luyện trên thao

trường. Những khó khăn, vất vả đó dễ làm cho thanh niên suy sụp, chán nản vả nảy

sinh tư tưởng đào bỏ ngũ. Hiện tượng này không những ảnh hưởng đến sự nghiêm

minh của quân đội mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chính các gia đình. Do đó, việc

thanh niên thực hiện NVQS tại các đơn vị quân đội, bên cạnh niềm tự hào của gia đình

đình, dòng họ có con cháu đang làm nhiệm vụ BVTQ, còn là nỗi lo âu của những

người thân trong gia đình, dòng họ. Họ lo cho con cháu không hoàn thành được nhiệm

vụ của người lính. Tuy sự quan tâm, lo lắng đối với thanh niên đang tại ngũ được thể

hiện ở tất cả các thành viên của gia đình, song tỷ lệ người trả lời cho sự quan tâm, lo

lắng này là khác nhau. Trong các nhóm khảo sát, tỷ lệ trả lời cao nhất đều ứng với mẹ

99

của thanh niên, như: ở nhóm bố mẹ có con nhập ngũ là 47,0% và ở nhóm bố mẹ có con

nhập ngũ và thanh niên đang tại ngũ là 42,8%, ở nhóm thanh niên đang tại ngũ là

49,5%. Tiếp đến, tỷ lệ trả lời tương ứng với các nhóm khảo sát nêu trên: bố của thanh

niên là 30,3% và 32,1%, 33,8%; anh chị em của thanh niên là 12,1% và 10,6%, 9,1%;

ông của thanh niên là 6,1% và 4,5%, 3,0%; bà của thanh niên cùng là 4,5% (Biểu 3.5).

Biểu 3.5: Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình đối với thanh

niên đang tại ngũ.

Đơn vị: %

47 49,5 48,3

50

40

33,8

32,1

30,3

30

20

12,1

9,1 10,6

10

6,1

4,5 4,5 4,5

3 4,5

0

Mẹ

Bố

Anh chị em

Ông

Bố mẹ có con nhập ngũ

Thanh niên đang tại ngũ

Bố mẹ có con nhập ngũ và thanh niên tại ngũ

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 17].

Chính từ sự quan tâm, lo lắng của gia đình, dòng họ đối với thanh niên đang thực

hiện NVQS ở đơn vị quân đội, đòi hỏi gia đình, dòng họ phải có vai trò thiết thực để

đáp ứng những mong đợi của thanh niên và đơn vị nơi thanh niên đang rèn luyện.

Thực tế hiện nay, gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên tại ngũ thường

thông qua năm hoạt động chủ yếu: (1) Những người thân trong gia đình thường xuyên

viết thư, gọi điện thăm hỏi, động viên thanh niên yên tâm thực hiện NVQS; (2) Người

thân trong gia đình sợ thanh niên vất vả, không quen với đời sống quân ngũ nên nhờ

cậy người quan tâm giúp đỡ; (3) Người thân trong gia đình lo lắng thanh niên thiếu

thốn vật chất nên gửi tiền hoặc hiện vật cho thanh niên; (4) Người thân trong gia đình

đến đơn vị thăm hỏi để giáo dục, động viên thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ trong

thời gian tại ngũ; (5) Người thân trong dòng họ đến đơn vị thăm hỏi để giáo dục, động

viên thanh niên (Biểu 3.6). Những hoạt động này thể hiện vai trò to lớn của gia đình,

dòng họ đối với thanh niên tại ngũ, là nguồn bổ sung tình cảm, tinh thần hữu hiệu để

kích thích thanh niên tại ngũ hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và BVTQ.

100

Biểu 3.6: Hoạt động động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ của gia

đình, dòng họ.

70

Đơn vị: %

64,1

60,1

60

56,1

53,3 54,5

52

50

40

31,3

27,3

30

23,2

22,7

19,4

20

16,2

15,2

11,9

8,6

10

0

Gia đình gọi điện, viết thư

Gia đình đến đơn vị thăm

Dòng họ đến đơn vị thăm

Gia đình nhờ cậy người giúp đỡ

Gia đình gửi tiền hoặc hiện vật

Bố mẹ có con nhập ngũ và thanh niên tại ngũ

Bố mẹ có con nhập ngũ

Thanh niên tại ngũ

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 18].

Biểu 3.6 cho thấy, vai trò quan trọng của gia đình, dòng họ đối với thanh

niên đang tại ngũ được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể, dù tỷ lệ đánh giá

cho các hoạt động này của nhóm bố mẹ có con nhập ngũ khá đa dạng như: ở hoạt

động 1 là 56,1%, hoạt động 2 là 23,2%, hoạt động 3 là 15,2%...; tỷ lệ đánh giá cho

các hoạt động này ở nhóm thanh niên tại ngũ, nhóm bố mẹ có con nhập ngũ và

thanh niên tại ngũ cũng giống như nhóm bố mẹ có con nhập ngũ, đó là khá cao ở

hoạt động 1, với 64,1% và 60,1%, thấp ở hoạt động 2, với 31,3% và 27,3% và rất

thấp ở hoạt động 3, với 8,6% và 11,9%.

Dù tỷ lệ trả lời cho các hoạt động động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ

của các gia đình, dòng họ ở cả ba nhóm khảo sát không quá cao (chỉ có hoạt động

1 và có tỷ lệ trả lời trên 50,0% và trên 60,0%, các hoạt động còn lại phần lớn phần

lớn có tỷ lệ trả lời dưới 30,0%) nhưng cũng chứng tỏ: một là, trong điều kiện môi

trường tương đối khép kín của quân đội, thanh niên lại được rèn luyện để trở thành

anh “Bộ đội cụ Hồ”, lẽ ra gia đình, dòng họ có thể “phó mặc” cho đơn vị, quân

đội, nhưng gia đình, dòng họ vẫn cho thấy vai trò không thể thiếu trong chăm lo,

động viên thanh niên đang tại ngũ; hai là, các hoạt động được gia đình, dòng họ

101

chăm lo, động viên thanh niên tại ngũ tuy khá đa dạng, song vẫn chủ yếu tập trung

vào hình thức viết thư, gọi điện hay lên đơn vị trực tiếp thăm hỏi. Hình thức nhờ

cậy người giúp đỡ, tuy vẫn có nhưng không nhiều. Hoạt động gửi tiền hoặc hiện

vật có tỷ lệ người trả lời thấp nhất.

Ở thời điểm hiện tại, việc bảo đảm về ăn, ở, mặc, sinh hoạt cho người chiến

sĩ khá tốt. Với những chiến sĩ quê ở khu vực nông thôn, miền núi, điều kiện về ăn,

ở, mặc, sinh hoạt của đơn vị quân đội có thể còn tốt hơn ở gia đình. Ngoài việc

bảo đảm các chế độ về ăn, mặc, các chiến sĩ lại được trợ cấp hàng tháng khá cao,

có chiến sĩ, sau khi hoàn thành NVQS còn có một khoản tiền nhất định về phụ

giúp gia đình. Vì thế, gia đình gửi tiền hoặc hiện vật cho chiến sĩ có xu hướng

giảm. Trong các nhóm điều tra, hoạt động gửi tiền hoặc hiện vật của gia đình cho

thanh niên đang tại ngũ có tỷ lệ người trả lời thấp nhất phù hợp với thực tế nuôi

dưỡng bộ đội hiện nay. Vấn đề mà người chiến sĩ cần đó là tình cảm gia đình, tình

thương yêu của bố mẹ. Thực tiễn cho thấy, gia đình luôn luôn là điểm tựa về tinh

thần của người chiến sĩ quân đội.

Nói về môi trường sinh hoạt trong quân đội, khi hỏi một thanh niên đang thực

hiện NVQS ở đơn vị quân đội, được biết:

Nói thật với anh rằng, lúc mới trúng tuyển NVQS, chuẩn bị lên đường

nhập ngũ, dù rất phấn khởi nhưng trong suy nghĩ em vẫn không ngớt

những băn khoăn. Bố, mẹ em cũng có đôi chút lo lắng vì sợ em không

quen với môi trường quân ngũ, sợ em ăn đói, chịu khổ nên lúc em đi,

bố, mẹ, rồi cô, bác trong họ cũng cho em một chút tiền. Nhập ngũ rồi

em mới thấy mình và gia đình đã lo quá xa, vì doanh trại quân đội rất

khang trang, sạch đẹp, ăn, ở đúng giờ, lại rèn luyện thường xuyên nên

hiện giờ em thấy khoẻ hơn và tăng cân so với lúc ở nhà (PVS: Nam,

chiến sĩ, tiểu đoàn huấn luyện, sư B71 - Phòng không Không quân).

Như vậy, vai trò của gia đình, dòng họ đối với thực hiện NVQS của thanh niên

nối dài kể từ khi người thanh niên sống trong gia đình cho đến khi người thanh niên

đang sống trong quân đội. Trước khi nhập ngũ, người thanh niên được gia đình,

dòng họ giáo dục và tuyên truyền về NVQS, giáo dục và động viên đăng ký, khám

tuyển NVQS, giáo dục và động viên thanh niên nhập ngũ. Gia đình, dòng họ đã

thực hiện chức năng giáo dục, xã hội hóa nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và định

102

hướng hành vi cho con em thực hiện NVQS, BVTQ. Khi thanh niên đang tại ngũ,

gia đình, dòng họ thăm hỏi, động viên, hỗ trợ về nhiều phương diện, chủ yếu hỗ trợ

về tinh thần để con em vượt qua khó khăn, gian khổ của hoat động quân sự, hoàn

thành NVQS. Gia đình, dòng họ đã thực hiện chức năng tâm lý, tình cảm, tạo điểm

tựa về tinh thần cho con em trong thời gian thực hiện NVQS.

Lý thuyết tập hợp vai trò của Robert K. Merton đã chỉ ra rằng, tập hợp vai trò

liên quan trực tiếp tới chức năng; chức năng chính là vai trò mà hành vi cá nhân hay

thiết chế xã hội đảm nhận, thực hiện. Do đó, gia đình có các vai trò cơ bản như: sản

xuất, hỗ trợ tâm lý tình cảm, tái sản xuất giống nòi, giáo dục, xã hội hoá. Mỗi vai

trò của gia đình, dòng họ đáp ứng những mong đợi nhất định của xã hội đối với gia

đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ thăm hỏi, động viên, hỗ trợ cho con em đang tại

ngũ là đã thực hiện chức năng hỗ trợ tâm lý tình cảm. Thông qua đó, gia đình và

dòng họ cũng giáo dục cho con em thấm sâu hơn nữa tình nghĩa gia đình, mối liên

hệ với gia đình, dòng họ và ý thức thực hiện NVQS, trách nhiệm nối dài truyền

thống đóng góp của gia đình, dòng họ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân

tộc, trong truyền thống chống giặc ngoại xâm của quê hương.

3.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI

VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY

Từ phân tích thực trạng ở trên cho thấy, gia đình, dòng họ có vai trò rất quan

trọng đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Vai trò của gia đình, dòng họ đối

với việc thực hiện NVQS của thanh niên được thể hiện trên hai vai trò cơ bản: vai trò

giáo dục, xã hội hoá và vai trò tâm lý tình cảm. Trong thực hiện hai vai trò này có

nhiều hoạt động tương ứng thể hiện vị thế quan trọng của gia đình, dòng họ với thanh

niên, từ lúc thanh niên còn chưa đến tuổi nhập ngũ, học tại các trường phổ thông, đến

khi thanh niên đến tuổi đăng ký, khám tuyển NVQS, rồi trúng tuyển NVQS, lên đường

nhập ngũ ở các đơn vị quân đội. Song, không phải lúc nào, những vai trò của gia đình,

dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên cũng được tiến hành thuận lợi, mà thực tế

phải chịu rất nhiều tác động của các yếu tố. Theo đánh giá của 591 người là bố mẹ thanh

niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS, trong số mười hai yếu tố tác động đến vai

trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, có tám yếu tố

được phân tích, đánh giá trong mối quan hệ giữa các biến số. Tám yếu tố này có tỷ lệ

người trả lời như sau (Biểu 3. 7).

103

Biểu 3.7: Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng trong thực hiện

NVQS của thanh niên (với N = 591).

80

Đơn vị: %

71,7

66,5

65

59,3

59,2

53,1

53,3

51.8

60

40

20

0

Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 Yếu tố 5 Yếu tố 6 Yếu tố 7 Yếu tố 8

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 19].

đình; yếu tố 3 - Điều kiện kinh tế của gia đình; yếu tố 4 - Gia đình có bố mẹ là đảng viên

và gia đình không có bố mẹ là đảng viên; yếu tố 5 - Đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước; yếu tố 6 - Hệ thống chính trị cơ sở; yếu tố 7 - Cộng đồng

làng xã; yếu tố 8 - Điều kiện kinh tế của địa phương.

Ghi chú: yếu tố 1 - Số lượng con trai của gia đình; yếu tố 2 - Nghề nghiệp của gia

Cũng đề cập đến vấn đề yếu tố tác động, khi hỏi bố của một thanh niên trúng

tuyển NVQS tháng 2 năm 2013 được biết, yếu tố quy mô của gia đình và yếu tố

kinh tế của gia đình có sự chi phối nhất định đến vai trò của gia đình, dòng họ đối

với việc thực hiện NVQS của thanh niên:

Vợ chồng tôi có ba đứa, nhưng vừa rồi tôi lại mới mở xưởng làm tăm

hương nên việc thằng lớn nhà tôi trúng tuyển NVQS, gia đình tôi cũng

gặp đôi chút khó khăn. Bởi vì, xưởng mới mở, phải đầu tư vốn liếng,

công việc làm tăm lại đòi hỏi nhiều người, có nó ở nhà chúng tôi vừa tiết

kiệm được chi phí vừa có thêm người quán xuyến công việc. Nhưng vì

trách nhiệm với Tổ quốc là trên hết nên chúng tôi cũng động viên em nó

cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ, rồi về làm kinh tế cùng gia đình cũng

chưa muộn (PVS: Nam, 48 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).

3.3.1. Các yếu tố thuộc biến số độc lập

3.3.1.1. Số lượng con trai của gia đình

Những phân tích dưới đây lựa chọn yếu tố số lượng con trai của gia đình, vì

con trai là đối tượng phải thực hiện NVQS theo quy định của pháp luật nên số

104

lượng con trai trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực phục vụ

cho sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ.

Theo kết quả điều tra, trong tổng số 591 người được hỏi, gia đình 1 con trai có

299, chiếm 50,6%, gia đình 2 con trai có 257, chiếm 43,5%, gia đình 3 con trai trở lên

có 35, chiếm 5,9% [Phụ lục, Bảng 22]. Để đảm bảo tính đại diện trong phân tích mối

quan hệ, tác giả gộp gia đình có 2 trai với gia đình có 3 con trai trở lên được gia đình

có 2 con trai trở lên là 292, chiếm 49,4%. Kết quả điều tra này được dùng để phân

tích mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến

tuổi nhập ngũ và vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám

tuyển NVQS của gia đình, dòng họ.

Số lượng con trai của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo

dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

Phân tích mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia đình với vai trò của gia

đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền con cháu về NVQS cho thấy, trong tổng

số 591 người được khảo sát, ở tất cả các gia đình có từ 1 đến 2 con trai trở lên đều

khẳng định gia đình, dòng họ có thực hiện các hoạt động để giáo dục, tuyên truyền về

NVQS, BVTQ cho con cháu trước tuổi nhập ngũ. Trong mối quan hệ này, tỷ lệ trả lời

cao nhất là 73,6% và tỷ lệ trả lời thấp nhất là 38,1% (Bảng 3.7).

Bảng 3.7: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).

Đơn vị: %

Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

Số lượng con trai của gia đình 2 con trai trở lên 1 con trai 50,3 39,1

38,1

39,7

43,5 72,2

42,2 73,6

68,9

64,4

299

292

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Tổng

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 20]; *P < 0,05.

105

Bảng 3.7 chỉ ra, tỷ lệ trả lời ở các gia đình có ít con trai hay nhiều con trai

trong cùng một hoạt động hay trong các hoạt động được gia đình, dòng họ sử dụng

để giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con cháu là khác nhau. Trong cùng hoạt động

gia đình kể những mẩu chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con

em chưa đến tuổi nhập ngũ, tỷ lệ trả lời ở gia đình có 1 con trai là 39,1%, gia đình

có 2 con trai trở lên là 50,3%. Trong các hoạt động được gia đình, dòng họ sử dụng

để giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con cháu chưa đến tuổi nhập ngũ như: Gia

đình thường xuyên dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với

Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành; Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện

NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ; Gia

đình định hướng thanh niên theo nghề quân đội; Gia đình kể chuyện chiến đấu,

chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em; Dòng họ nhắc

nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ, tỷ lệ trả lời từ cao đến thấp ở

gia đình có 1 con trai là: 72,2%; 68,9%; 43,5%; 39,1%; 38,1%.

Số liệu bảng 3.7 cũng chỉ ra, ở gia đình ít con trai hay nhiều con trai đều có tỷ lệ

trả lời cao nhất và xấp xỉ bằng nhau cho cùng hoạt động gia đình thường xuyên dạy bảo,

nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng

thành. Tỷ lệ trả lời ở gia đình có 1 con trai là 72,2%, gia đình có 2 con trai trở lên là

73,6%. Ngược lại, tỷ lệ trả lời cho hoạt động dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện

nghiêm quy ước của dòng họ của gia đình 1 con trai và 2 con trai trở lên là 38,1% và

39,7%. Nhưng nhìn chung tỷ lệ trả lời cho các hoạt động của gia đình 1 con trai hay 2

con trai trở lên đều xấp xỉ bằng nhau và hoặc cùng cao, hoặc cùng thấp. Chỉ riêng hoạt

động gia đình kể chuyện chiến đấu, chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,

BVTQ cho con em dù có tỷ lệ trả lời không cao nhưng lại có sự chênh lệch rõ nhất. Đây

cũng là hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố số lượng con trai của gia đình.

Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên

tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ

Trong đăng ký, khám tuyển NVQS của thanh niên, số lượng con trai của gia

đình có những mối quan hệ nhất định. Theo bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và

không trúng tuyển NVQS, gia đình 2 con trai trở lên có tỷ lệ trả lời cho các hoạt động

giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS từ 50,0% trở lên

106

nhiều hơn gia đình 1 con trai. Nhưng tỷ lệ trả lời cao nhất (79,6%) lại ở gia đình 1 con

trai và tỷ lệ trả lời thấp nhất (40,4%) rơi vào gia đình 2 con trai trở lên (Bảng 3.8).

Bảng 3.8: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh

niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591).

Đơn vị: %

Vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS

Số lượng con trai của gia đình 2 con trai trở lên 1 con trai 78,1 79,6

43,5

45,9

65,6

65,8

43,5

50,0

42,5

40,4

64,2

67,8

299

292

Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Tổng

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 21].

Bảng 3.8 cho thấy, ở mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia đình với

các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS, gia

đình 1 con trai hay nhiều con trai cùng trả lời với tỷ lệ cao, thấp và xấp xỉ bằng

nhau cho cùng một hoạt động như: Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi,

động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình 1 con trai trả lời

65,6%, gia đình 2 con trai trở lên trả lời 65,8%; Dòng họ gặp mặt thanh niên có

giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, tỷ lệ trả lời ở gia

đình 1 con trai là 43,5% và gia đình 2 con trai trở lên là 45,9%.

Cũng theo bảng 3.8, gia đình ít con trai hay nhiều con trai đều cùng đánh giá

cao cho hoạt động gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS

đúng thời gian quy định; người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh

niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng

ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc. Tỷ

107

lệ đánh giá ở gia đình 1 con trai và 2 con trai trở lên cho các hoạt động này là:

79,6% và 78,1%; 65,6% và 65,8%; 64,2% và 67,8%. Điều này chứng tỏ, các hoạt

động nêu trên, được các gia đình 1 hay 2 con trai trở lên quan tâm giáo dục, động

viên con em nhiều hơn. Với các hoạt động còn lại như: Dòng họ giáo dục thanh

niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ

cương của gia đình, dòng họ; Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên

đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS; Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng

ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, gia đình 1 hay 2 con trai trở lên ít

quan tâm giáo dục, động viên con em hơn.

Như vậy, trong mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia đình với những hoạt

động thể hiện vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập

ngũ và vai trò giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS của gia

đình, dòng họ chỉ một trên mười một hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với số lượng

con trai của gia đình. Chín trên mười hoạt động còn lại, gia đình 1, 2 con trai trở lên trả

lời với tỷ lệ cùng cao hay cùng thấp và xấp xỉ bằng nhau. Với các hoạt động có tỷ lệ

đánh giá cao của gia đình 1 con trai và 2 con trai trở lên, chứng tỏ, các gia đình này có

sự ưu tiên, quan tâm nhất định đến các hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho

thanh niên và giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS.

3.3.1.2. Nghề nghiệp của gia đình

Nghề nghiệp của gia đình được đo bằng chỉ báo nghề nghiệp của bố mẹ thanh

niên. Nghiên cứu khảo sát thực tế thấy rằng, nghề nghiệp của bố, mẹ có thanh niên

trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên tại ngũ khá đang dạng như: nghề

tự do, nội trợ, lái xe ôm, lái xe taxi, làm ruộng, trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán, dịch vụ,

thợ mộc, thợ nề, làm may, chủ xưởng, công nhân, bác sỹ, giáo viên, bộ đội, cán bộ xã,

công chức, nghỉ hưu… Nói chung, nghề nghiệp của gia đình có thể nhóm thành ba

nghề cơ bản: nông nghiệp (chỉ làm nghề nông: cấy lúa, trồng trọt, chăn nuôi); nông

nghiệp hỗn hợp (vừa làm nghề nông vừa làm các nghề khác: nông nghiệp với buôn

bán, dịch vụ, làm may, thợ nề, thợ mộc, làm tăm…); và phi nông nghiệp (làm các nghề

không phải nông nghiệp: công chức, công nhân, bác sỹ, giáo viên, bộ đội…). Đây cũng

chính là ba nghề được dùng để phân tích mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia

đình với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

108

Theo kết quả điều tra, nghề nghiệp của gia đình chủ yếu là nghề nông, tiếp đến

là nghề nông nghiệp hỗn hợp và phi nông. Với nhóm khảo sát là bố mẹ thanh niên

trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS, tỷ lệ trả lời lần lượt ở các nghề: nghề nông

nghiệp là 41,3%, nghề nông nghiệp hỗn hợp là 44,7% và nghề phi nông nghiệp là

14,0%; với nhóm khảo sát là bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS, tỷ lệ trả lời lần

lượt ở các nghề: nghề nông nghiệp là 30,3%, nghề nông nghiệp hỗn hợp là 52,0% và

nghề phi nông nghiệp là 17,7% [Phụ lục, Bảng 23]. Kết quả điều tra này được dùng

để phân tích mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên

chưa đến tuổi nhập ngũ và vai trò giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập

ngũ khi có giấy gọi.

Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho

thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ

Mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình,

dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

được thể hiện thông qua các hoạt động (Biểu 3.8).

Biểu 3.8: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS

cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (với N = 591).

Đơn vị: %

73 73,1 73,4 70,5

67,5

64,4 62,7

48,2

46,2

44,3 45,1 47

36,1 39,8

35,2

80 70 60 50 40 30 20 10 0

Hoạt động 1 * Hoạt động 2 * Hoạt động 3

Hoạt động 4

Hoạt động 5

Nông nghiệp

Nông nghiệp hỗn hợp

Phi nông nghiệp

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 24]; *P < 0,05.

con em; hoạt động 2 - Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của

dòng họ; hoạt động 3 - Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội; hoạt động 4 - Gia đình

Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho

109

dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng

thành; hoạt động 5 - Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ thực hiện NVQS cũng là tiếp nối truyền

thống của gia đình, dòng họ.

Số liệu biểu 3.8 chỉ ra, hầu như có sự tăng dần về tỷ lệ đánh giá của gia đình

nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp cho các hoạt động giáo dục,

tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ. Chỉ có hoạt động dòng

họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền

thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ là có tỷ lệ đánh giá theo chiều ngược lại. Tỷ

lệ trả lời cho hoạt động này ở gia đình nông nghiệp là 70,5%, gia đình nông nghiệp

hỗn hợp là 64,4% và gia đình phi nông nghiệp là 62,7%. Các gia đình nông nghiệp,

nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp cùng có tỷ lệ trả lời khá cao và xấp xỉ

bằng nhau cho hoạt động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của

công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành, với 73,0%, 73,1% và 73,4%;

cùng có tỷ lệ trả lời khá thấp và xấp xỉ bằng nhau cho hoạt động gia đình định

hướng con em theo nghề quân đội, với 44,3%, 45,1% và 47,0%. Hoạt động có mối

quan hệ chặt chẽ với yếu tố nghề nghiệp của gia đình có sự khác biệt rõ ràng về tỷ

lệ đánh giá. Nhất là, hoạt động gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm,

BVTQ cho con em, tỷ lệ trả lời thấp ở gia đình nông nghiệp (35,2%) với tỷ lệ trả lời

cao nhất ở gia đinh phi nông nghiệp (67,5%) khác biệt lên tới 32,3%.

Có thể thấy rằng, trong các hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh

niên chưa đến tuổi nhập ngũ, có tới bốn trên năm hoạt động, gia đình phi nông

nghiệp cho thấy sự quan tâm hơn gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình nông

nghiệp hỗn hợp lại quan tâm hơn gia đình nông nghiệp và chỉ có một hoạt động, sự

quan tâm của các gia đình là theo chiều hướng ngược lại. Ở hoạt động có mối quan

hệ chặt chẽ, thậm chí rất chặt chẽ với yếu tố nghề nghiệp của gia đình, với tỷ lệ

đánh giá cao nhất và khá chênh lệch của gia đình phi nông nghiệp với gia đình nông

nghiệp hỗn hợp và gia đình nông nghiệp, cho thấy: sự quan tâm, chú trọng đặc biệt

hơn đến hoạt động gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho

con em và dòng họ dạy bảo, nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của gia

đình phi nông nghiệp so với các gia đình khác. Bởi vì, thực tế ở địa bàn khảo sát,

trong các gia đình phi nông, có 75,9% làm nghề công chức, viên chức, giáo viên, bộ

110

đội, công nhân và cán bộ nghỉ hưu. Các gia đình này, nhất là gia đình công chức,

giáo viên, bộ đội, cán bộ nghỉ hưu có điều kiện về thời gian hơn và muốn định

hướng giáo dục con em thông qua các câu chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm,

BVTQ hơn gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình nông nghiệp.

Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên lên

đường nhập ngũ khi có giấy gọi của gia đình, dòng họ

Mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình,

dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi

được thể hiện trên các hoạt động (Biểu 3.9).

Biểu 3.9: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên

lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi của gia đình, dòng họ (với N = 198).

Đơn vị: %

100

100

95,1

88,6

80

73,3

60

54,3

51,4

41,7

39,8

40

37,1

22,3

20,4

20

15

14,3

6,7

5

0

Hoạt động 1 * Hoạt động 2 * Hoạt động 3 * Hoạt động 4 Hoạt động 5 * Nông nghiệp hỗn hợp

Phi nông nghiệp

Nông nghiệp

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 25]; *P < 0,05.

hoạt động 2 - Dòng họ giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS; hoạt động 3 -

Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên; hoạt động 4 - Người thân trong dòng họ cùng

tham gia giao quân cho đơn vị; hoạt động 5 - Gia đình tổ chức gặp mặt chia tay thanh niên

có mối quan hệ chặt chẽ hoặc rất chặt chẽ với yếu tố nghề nghiệp của gia đình.

Ghi chú: hoạt động 1 - Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên;

Trong biểu 3.9, các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ, rất chặt chẽ với yếu tố

nghề nghiệp của gia đình có tỷ lệ đánh giá chênh lệch, đa dạng. Chẳng hạn, hoạt

động dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên, gia đình nông nghiệp

111

có tỷ lệ trả lời cao nhất, với 73,3%, đến gia đình phi nông nghiệp là 54,3% và gia

đình nông nghiệp hỗn hợp chỉ 39,8%; hoạt động dòng họ phân công người giúp đỡ

gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS, gia đình nông nghiệp hỗn hợp lại trả lời

với tỷ lệ cao nhất, với 41,7%, đến gia đình phi nông nghiệp là 37,1% và gia đình

nông nghiệp chỉ là 6,7%; hoạt động dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên, tỷ

lệ trả lời cao nhất là gia đình phi nông nghiệp, với 51,4%, đến gia đình nông nghiệp

hỗn hợp là 22,3% và gia đình nông nghiệp chỉ là 5,0%.

Cũng biểu 3.9, trong các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố nghề

nghiệp của gia đình, có hai hoạt động gia đình nông nghiệp cho thấy ít thực hiện hơn

khá nhiều so với gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình phi nông nghiệp, như:

hoạt động dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển

NVQS, gia đình nông nghiệp trả lời là 6,7% so với 41,7% của gia đình nông nghiệp

hỗn hợp; hoạt động dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên, gia đình nông nghiệp

trả lời là 5,0% so với 51,4% của gia đình phi nông nghiệp. Nhưng cũng có hai hoạt

động, gia đình nông nghiệp lại cho thấy sự quan tâm hơn gia đình nông nghiệp hỗn

hợp và gia đình phi nông nghiệp như: hoạt động gia đình tổ chức gặp mặt chia tay

thanh niên, gia đình nông nghiệp trả lời là 100,0% so với 88,6% của gia đình phi

nông nghiệp; hoạt động dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên, gia

đình nông nghiệp trả lời là 73,3% so với 39,8% của gia đình nông nghiệp hỗn hợp.

Như vậy, trong mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia đình với các hoạt

động giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi, gia đình

nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp đã có những đánh giá chênh

lệch, đa dạng và khác biệt. Bên cạnh đó, cũng thông qua tỷ lệ đánh giá rất cao và

cao, gia đình nông nghiệp đã cho biết sự quan tâm lựa chọn thực hiện những hoạt

động này một cách rõ ràng hơn gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình phi nông

nghiệp. Phải chăng, với đặc thù chỉ làm nghề nông và lối sống chân thật, tình cảm

của người nông dân nên gia đình nông nghiệp quan tâm thực hiện hơn những hoạt

động mang tính gần gũi, tinh thần như gặp mặt, động viên con em.

Nói về việc gia đình, dòng họ gặp gỡ, động viên thanh niên trúng tuyển

NVQS, chuẩn bị lên đường nhập ngũ, bố của thanh niên trúng tuyển NVQS ở xã

Đại Cường cho biết:

112

Đợt tuyển quân vừa rồi, con tôi đi khám và đã trúng tuyển NVQS. Mặc dù,

em nó đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng nhập ngũ nếu trúng tuyển, nhưng tôi

thấy, sau khi trúng tuyển NVQS, em có chút suy tư, lo lắng. Chính tôi và

bà xã nhà tôi đã thường xuyên hỏi chuyện và động viên em và rất may có

cả mấy bác trong họ đến chơi, hỏi thăm, khích lệ nên dần dần em đã tự tin

hơn. Ngày em nhập ngũ, tôi thấy nó rất vui, nói cười suốt, do đó vợ chồng

tôi cảm thấy rất yên tâm (PVS, bố thanh niên, 52 tuổi, xã Đại Cường).

3.3.1.3. Gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên

Theo kết quả điều tra, trong tổng số 591 người, có 62 người trả lời trong gia

đình có bố mẹ là đảng viên, chiếm 10,5%, tỷ lệ nói rằng bố mẹ không là đảng viên

có 529 người, chiếm 89,5% [Phụ lục, Bảng 26].

Trong phân tích mối quan hệ giữa gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình

không có bố mẹ là đảng viên với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên thấy rằng, yếu tố này có mối quan hệ với các hoạt động thể

hiện vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng

ký, khám tuyển NVQS (Biểu 3.10).

Biểu 3.10: Gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đảng viên với vai trò

giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình,

dòng họ (với N = 591).

Đơn vị: %

67,7

65,8

70

60

50

43,3

41,9

40,3

40

30,6

29

28,7

24,7

30

21,2

17,9

17,4

20

10

0

Hoạt động 1* Hoạt động 2* Hoạt động 3* Hoạt động 4* Hoạt động 5* Hoạt động 6

Bố mẹ là đảng viên

Bố mẹ không là đảng viên

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng

27]; *P < 0,05.

113

đúng thời gian quy định; hoạt động 2 - Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký,

khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên; hoạt động 3 - Người thân trong dòng họ đến

thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; hoạt động 4 - Người thân

trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS; hoạt động 5 -

Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền

thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ; hoạt động 6 - Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ

việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc.

Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS

Biểu 3.10 cho biết, chỉ có hoạt động gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc

đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc

là không có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố gia đình có bố mẹ đảng viên và không

đảng viên, dù tỷ lệ đánh giá cho hoạt động này khá cao và cao nhất trong các mức

đánh giá (67,7% và 65,8%). Ở các hoạt động còn lại, tỷ lệ trả lời cao nhất cho hoạt

động người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám

tuyển NVQS, với 41,9% của gia đình có bố mẹ là đảng viên; tỷ lệ trả lời thấp nhất

cho hoạt động dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS

cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ, với 17,4% của gia

đình không có bố mẹ là đảng viên. Đặc biệt, các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ

với gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đàng viên, tỷ lệ đánh giá ở gia đình

có bố mẹ là đảng viên đều cao hơn gia đình không có bố mẹ là đảng viên, như: hoạt

động gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian

quy định, tỷ lệ đánh giá của gia đình có bố mẹ là đảng viên là 40,3% và gia đình

không có bố mẹ là đảng viên là 28,7%; hoạt động dòng họ gặp mặt thanh niên có

giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, tỷ lệ đánh giá của gia

đình có bố mẹ là đảng viên là 30,6% và gia đình không có bố mẹ là đảng viên là

17,9%; hoạt động người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi

đăng ký, khám tuyển NVQS, tỷ lệ đánh giá của gia đình có bố mẹ là đảng viên là

40,3% và gia đình không có bố mẹ là đảng viên là 21,2%...

Tóm lại, có sự khác biệt rõ ràng trong giáo dục, động viên con em tham gia

đăng ký, khám tuyển NVQS giữa gia đình có bố mẹ là đảng viên với gia đình không

có bố mẹ là đảng viên. Điều này chứng tỏ, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện

114

nay, ý thức trách nhiệm về xây dựng, BVTQ và nền nếp, tác phong của gia đình có

bố mẹ là đảng viên vẫn luôn được phát huy, phát triển, nâng cao trong giáo dục,

động viên con em đi đăng ký, khám tuyển NVQS. Thực tế khảo sát 591 người về

mối quan hệ giữa việc thực hiện NVQS cũng là để nối tiếp truyền thống của gia

đình, dòng họ với yếu tố gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đảng viên, được

biết, tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ này ở gia đình có bố mẹ là đảng viên là 43,9% cao

hơn gia đình không có bố mẹ là đảng viên, với 35,5%.

3.3.1.4. Trình độ học vấn của bố thanh niên

Trình độ học vấn của bố thanh niên được sử dụng trong nghiên cứu, bởi vì

trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhất là gia đình ở nông thôn, người bố phần lớn

vẫn giữ vai trò chủ hộ, có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết những công việc quan

trọng của gia đình.

Kết quả khảo sát cho biết, trong tổng số 591 người được khảo sát, bố thanh niên

có 428, chiếm 72,4%, mẹ thanh niên có 163, chiếm 27,6%. Trình độ học vấn của bố

thanh niên được đo qua các chỉ số: tiểu học có 41 người, chiếm 9,6%; trung học cơ sở

có 271 người, chiếm 63,3%; trung học phổ thông có 89 người, chiếm 20,8%; trung

cấp trở lên có 27 người, chiếm 6,3%. Do bố thanh niên có trình độ học vấn trung cấp

trở lên chiếm tỷ lệ nhỏ, không đủ đại diện để phân tích mối quan hệ nên tác giả gộp

với trình độ học vấn cấp 3, được trình độ học vấn cấp 3 trở lên có 116 người, chiếm

27,1% [Phụ lục, Bảng 28].

Trong mối quan hệ giữa trình độ học vấn của bố thanh niên với vai trò của gia

đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên, thấy rằng, yếu tố tố này có mối

quan hệ với vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển

NVQS của gia đình, dòng họ (Biểu 3.11).

115

Biểu 3.11: Trình độ học vấn của bố thanh niên với vai trò giáo dục, động viên

thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ (với N = 428).

100

Đơn vị: %

81.9

83,6

75,6

80

72,3

67,2

65,5

62

61,2

57,8

60

51,2

49,1

46,1

43,9

43,9

41,4

39 40,2

36.9

40

20

0

Hoạt động 1 Hoạt động 2* Hoạt động 3* Hoạt động 4* Hoạt động 5 Hoạt động 6*

Tiểu học

Trung học cơ sở

Trung học phổ thông trở lên

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng

29]; *P < 0,05.

thời gian quy định; hoạt động 2 - Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám

tuyển để giáo dục, động viên; hoạt động 3 - Những người thân trong dòng họ đến thăm hỏi,

động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; hoạt động 4 - Người thân trong gia đình

động viên, đưa thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS. ở hoạt động 5 - Dòng họ giáo dục

thanh niên hiểu rõ việc khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình,

dòng họ; hoạt động 6 - Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là

quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc.

Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình thường xuyên nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển đúng

Số liệu biểu 3.11 chỉ rõ, hầu hết các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên

đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ đều có mối quan hệ chặt chẽ với

trình độ học vấn của bố thanh niên. Hoạt động 1, tuy không có mối quan hệ chặt chẽ

với trình độ học vấn của bố thanh niên nhưng lại có tỷ lệ trả lời cao nhất ở tất cả các

cấp học vấn, nhất là trình độ học vấn trung học phổ thông trở lên, tỷ lệ đánh giá lên

tới 83,6%. Tỷ lệ đánh giá thấp nhất lại ứng với trình độ học vấn trung học cơ sở cho

hoạt động 2, với 36,9%; trình độ học vấn trung học cơ sở của bố thanh niên cũng có

tỷ lệ đánh giá 72,3%, cao hơn với đánh giá của trình độ học vấn tiểu học và trung

học phổ thông trở lên cho cùng hoạt động 6. Hai tỷ lệ đánh giá ở trình độ học vấn

trung học cơ sở của bố thanh niên, với một cao nhất, một thấp nhất cho cùng một

hoạt động không theo tỷ lệ lệ thuận, còn lại các hoạt động 1, 3, 4, 5, tỷ lệ trả lời ở

116

các trình độ học vấn của bố thanh niên đều chứng tỏ, trình độ học vấn càng cao thì

tỷ lệ trả lời càng cao, như: hoạt động 3, tỷ lệ trả lời ở trình độ học vấn tiểu học là

51,2%, trình độ học vấn trung học cơ sở là 62,9%, trình độ học vấn trung học phổ

thông trở lên là 67,2%; hoạt động 4, tỷ lệ trả lời ở trình độ học vấn tiểu học là

41,4%, trình độ học vấn trung học cơ sở là 46,1%, trình độ học vấn trung học phổ

thông trở lên là 65,5%.

Tóm lại, giữa trình độ học vấn của thanh niên với những hoạt động giáo dục,

động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ

về cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ. Tỷ lệ đánh giá của người trả lời đã cho thấy, hầu

hết có sự thuận chiều giữa trình độ học vấn của bố thanh niên với các hoạt động

giáo dục, động viên con em đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ. Đặc

biệt, người trả lời cũng đã cho biết, bố thanh niên có trình độ học vấn tiểu học ít

quan tâm, thực hiện các hoạt động giáo dục, động viên con em đăng ký, khám tuyển

NVQS hơn bố thanh niên có trình độ học vấn trung học phổ thông trở lên. Phải

chăng, điều này là do bố thanh niên có trình độ học vấn thấp nên ít có những hình

thức, biện pháp phù hợp để giáo dục con em; mặt khác, do bố thanh niên còn phải

lam lũ, làm ăn nuôi con cái nên ít có điều kiện gần gũi giáo dục, động viên con.

Thực tế khảo sát tại địa bàn nghiên cứu đã chứng minh, bố thanh niên có trình độ

học vấn thấp thường ứng với thu nhập thấp. Kết quả điều tra 428 bố thanh niên về

thu nhập bình quân người/ tháng với trình độ học vấn như sau: mức thu nhập bình

quân người 2 triệu trở lên/ tháng, bố thanh niên có trình độ học vấn tiểu học chiếm

4,9%, trung học cơ sở chiếm 7,4%, trung học phổ thông trở lên chiếm 8,6%. Hay ở

một nghiên cứu về gia đình Việt Nam cũng đã chỉ ra, mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa

trình độ học vấn của cha mẹ với việc tham gia quyết định vào việc quan hệ bạn bè

cho con, tỷ lệ đánh như sau: cha mẹ có trình độ học vấn tiểu học là 23,7%, phổ

thông cơ sở là 32,9%, phổ thông trung học là 39,4%, trung học cao đẳng là 41,1%,

đại học trở lên là 41,4% [14, tr.102].

3.3.1.5. Thu nhập của gia đình

Thu nhập của gia đình được tính bằng thu nhập bình quân người/tháng của gia

đình (đơn vị VNĐ). Thu nhập bình quân người/tháng của gia đình căn cứ vào số

liệu khảo sát 591 bố mẹ có thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS, kết

quả là 7,1% có thu nhập 2 triệu trở lên, 40,9% có thu nhập từ 1 đến dưới 2 triệu,

117

52,0% có thu nhập dưới 1 triệu. Các khoảng thu nhập này được xác định trên cơ sở

thang đo định danh về thu nhập bình quân của gia đình/tháng với số lượng thành

viên trong gia đình [Phụ lục, Bảng 30].

Trong phân tích mối quan hệ giữa yếu tố thu nhập của gia đình với vai trò của gia

đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, thấy rằng, yếu tố thu nhập

bình quân người/tháng của gia đình có mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (Biểu 3.12).

Biểu 3.12: Thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo

dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).

Đơn vị: %

95.2

100

81

71.5

80

63.5

63.8

51.5

52.4

50.8

50.8

60

40.4

35.5

33.3 36

40

26.2 26

20

0

Hoạt động 1 * Hoạt động 2 * Hoạt động 3 * Hoạt động 4 * Hoạt động 5 *

2 triệu trở lên

Từ 1 đến dưới 2 triệu

Dưới 1 triệu

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 31]; *P < 0,05.

cho con em; hoạt động 2 - Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ;

hoạt động 3 - Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội; hoạt động 4 - Gia đình dạy bảo,

nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành; hoạt

động 5 - Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền

thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ.

Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ

Biểu 3.12 cho biết, mối quan hệ giữa thu nhập bình quân người/tháng với các

hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của

gia đình, dòng họ có mối quan hệ chặt chẽ, rất chặt chẽ với nhau. Tỷ lệ đánh giá về

mối quan hệ này rất đa dạng, có tỷ lệ đánh giá rất cao, với 95,2%, có tỷ lệ đánh giá

khá cao, với 63,8%, có tỷ lệ đánh giá thấp 26,0%. Ngoài ra, tỷ lệ trả lời cho từng

hoạt động cũng khác biệt, như: hoạt động 1, người có thu nhập bình quân/tháng từ 2

triệu trở lên trả lời cao nhất, với 52,4%; hoạt động 2, người có thu nhập bình

118

quân/tháng dưới 1 triệu trả lời cao nhất, với 50,8%; hoạt động 6, người có thu nhập

bình quân/tháng từ 1 đến dưới 2 triệu trả lời cao nhất, với 71,5%... Đặc biệt, hoạt

động 3 - Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội, người có thu nhập bình

quân/tháng càng thấp thì tỷ lệ đánh giá càng cao cho hoạt động này, đó là: thu nhập

bình quân người/tháng từ 2 triệu trở lên trả lời 33,3%, thu nhập bình quân

người/tháng từ 1 đến dưới 2 triệu lại trả lời 36,0% và thu nhập bình quân

người/tháng dưới 1 triệu là 51,5%.

Nhìn chung, người có thu nhập bình quân/tháng từ 2 triệu trở lên đánh giá các

hoạt động của gia đình với con em cao hơn người có thu nhập bình quân/tháng từ 1

đến dưới 2 triệu và dưới 1 triệu. Người có thu nhập bình quân/tháng từ 1 đến dưới 2

triệu và dưới 1 triệu lại đánh giá các hoạt động của dòng họ với con cháu cao hơn

người có thu nhập bình quân/tháng từ 2 triệu trở lên. Với đánh giá nghịch chiều

giữa các mức thu nhập bình quân người/tháng cho hoạt động gia đình định hướng

con em theo nghề quân đội, đã chứng tỏ điều kiện kinh tế gia đình càng thấp, gia

đình lại càng quan tâm lựa chọn, định hướng con em vào quân đội. Dù quân đội

được đánh giá là gian khổ, bó buộc về thời gian và nguy hiểm hơn các nghề khác

ngoài xã hội, song trong thời bình hiện nay, quân đội đã được cải thiện rất nhiều về

môi trường ăn, ở, sinh hoạt và làm việc; vào quân đội lại được đảm bảo về quân

trang, bố mẹ, vợ con của người quân nhân được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và có

những chính sách hỗ trợ nhất định; quân đội cũng được cho là có thu nhập ổn định,

con em được rèn luyện về thể chất, tinh thần, đạo đức, lối sống… Điều này được đa

số gia đình sống ở nông thôn, bố mẹ làm nghề nông nghiệp và có hoàn cảnh kinh tế

khó khăn quan tâm. Số liệu khảo sát của đề tài về mối quan hệ giữa nơi ở với thu

nhập và hoạt động gia đình định hướng con em theo nghề quân đội được biết: xã

Đại Cường có 87,6% bố mẹ làm nghề nông nghiệp, trong khi xã Quảng Phú Cầu là

30,9% và thị trấn Vân Đình là 25,7%; Đại Cường cũng có tỷ lệ trả lời cho mức thu

nhập bình quân người/ tháng dưới 1 triệu đồng cao nhất, với 62,8%, trong khi Vân

Đình là 51,8% và Quảng Phú Cầu là 46,3%; tỷ lệ người trả lời về mức thu nhập

bình quân người/ tháng dưới 1 triệu đồng với hoạt động gia đình định hướng con em

theo nghề quân đội, xã Đại Cường là 69,1%, cao nhất, rồi đến xã Quảng Phú Cầu là

49,5% và thị trấn Vân Đình là 40,9%.

119

Bên cạnh đó, khi hỏi một gia đình ở xã Quảng Phú Cầu, có con nhập ngũ có điều

kiện kinh tế gia đình khó khăn, mẹ của thanh niên nói:

Anh thấy đấy, đồ đạc nhà tôi cũng chẳng có gì giá trị và tôi vào lúc

nông nhàn cũng đi làm thuê cho các xưởng tăm, nhưng do sức khoẻ yếu

nên thu nhập cũng chẳng được là bao. Bố em không may mất sớm, một

mình tôi nuôi hai đứa, nay em đến tuổi nhập ngũ, tôi rất phấn khởi và

chỉ mong sao em được ở lại phục vụ lâu dài trong quân đội luôn (PVS,

mẹ thanh niên, 45 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).

3.3.2. Các yếu tố khách quan

Ngoài mối quan hệ với các yếu tố thuộc biến độc lập, vai trò của gia đình,

dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên còn có mối quan hệ với những

yếu tố thuộc biến số vĩ mô: điều kiện kinh tế của địa phương; hệ thống chính trị cơ

sở; cộng đồng làng xã; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước.

3.3.2.1. Điều kiện kinh tế của địa phương

Điều kiện kinh tế của địa phương được đo bằng chỉ số thu nhập bình quân

người/ tháng của gia đình ở địa bàn khảo sát. Chỉ số này được dùng để phân tích

mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến

tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (Bảng 3.9).

120

Bảng 3.9: Điều kiện kinh tế của địa phương với hoạt động giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (với N = 591).

Đơn vị: %

Nơi ở

Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

Thu nhập bình quân người/ tháng 1 triệu trở lên 15,5

Dưới 1triệu 42,3

22,5

53,2

Quảng Phú Cầu

29,4 90,7

49,5 56,8

91,5

73,9

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *

129 71,9

111 61,1

30,8

47,8

Tổng Vân Đình

37,4 81,3

40,9 73,9

46,7

51,3

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ

107 22,9

115 40,7

25,0

51,9

Tổng Đại Cường

47,9 66,7

69,1 58,0

62,5

67,9

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ

48

81

Tổng

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 33]; *P < 0,05.

Bảng 3.9, ở ba địa phương khảo sát, điều kiện kinh tế là khác nhau, nếu như ở

xã Quảng Phú Cầu, gia đình có mức thu nhập bình quân người/tháng từ 1 triệu trở

lên chiếm tỷ lệ cao nhất, với 53,8% và mức thu nhập bình quân người/tháng dưới 1

triệu đồng là thấp nhất, với 46,2%, thì ở thị trấn Vân Đình là 48,2% và 51,8%, ở xã

Đại Cường là 37,2% và 62,8%. Chính vì điều kiện kinh tế giữa các địa phương khác

121

nhau nên hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con em của gia đình, dòng họ

cũng có nhiều khác biệt.

Khác biệt trước hết, ở Quảng Phú Cầu, các hoạt động giáo dục, tuyên truyền

NVQS của gia đình, dòng họ đều có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân

người/ tháng; trong khi, ở Vân Đình chỉ có hoạt động dòng họ thường xuyên nhắc

nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ và ở Đại Cường, ngoài hoạt

động này, có thêm hoạt động gia đình định hướng con em theo nghề quân đội là có

mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân người/tháng.

Khác biệt thứ hai, thông qua tỷ lệ trả lời, gia đình có mức thu nhập bình quân

người/ tháng dưới 1 triệu ở các địa phương có đánh giá cao cho các hoạt động giáo

dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng

họ hơn gia đình có thu nhập bình quân người/tháng từ 1 triệu trở lên, đó là: Quảng

Phú Cầu và Vân Đình có 3/5 hoạt động, Đại Cường có 4/5 hoạt động.

Khác biệt thứ ba, cùng hoạt động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách

nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành, gia đình có thu nhập

bình quân người/tháng 1 triệu trở lên ở Quảng Phú Cầu và Vân Đình trả lời với tỷ lệ

rất cao và cao, với 90,7% và 81,3%; ở Đại Cường trả lời với tỷ lệ khá cao, với

66,7%. Cùng hoạt động gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm,

BVTQ cho con em, gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên ở

Vân Đình trả lời với tỷ lệ khá cao, với 71,9%; ở Quảng Phú Cầu và Đại Cường trả

lời với tỷ lệ thấp, với 15,5% và 22,9%. Hay cùng hoạt động gia đình định hướng

con em theo nghề quân đội, gia đình có mức thu nhập bình quân người/ tháng dưới

1 triệu ở Đại Cường đánh giá với tỷ lệ cao nhất, với 69,1%; ở Quảng Phú Cầu và

Vân Đình đánh giá với tỷ lệ thấp hơn là 49,5% và 40,9%.

Những khác biệt nêu trên, nhất là những khác biệt trong các mối quan hệ chặt

chẽ chứng tỏ rằng, điều kiện kinh tế của địa phương có chi phối đến hoạt động giáo

dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng

họ. Cụ thể, trong những hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân

người/tháng, ở Đại Cường, gia đình có thu nhập bình quân người/ tháng dưới 1 triệu

quan tâm, thực hiện hoạt động dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện

nghiêm quy ước của dòng họ và gia đình định hướng con em theo nghề quân đội

122

hơn gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên; ở Vân Đình, gia

đình có thu nhập bình quân người/tháng dưới 1 triệu quan tâm, thực hiện hoạt động

dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ

hơn gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên; ở Quảng Phú Cầu,

gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên quan tâm, thực hiện hoạt

động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ

quốc khi đến tuổi trưởng thành và dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện

NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ hơn

gia đình có thu nhập bình quân người/tháng dưới 1 triệu.

3.3.2.2. Hệ thống chính trị cơ sở

Theo đánh giá của bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS,

yếu tố hệ thống chính trị cơ sở có tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ trong

thực hiện NVQS của thanh niên, với tỷ lệ trả lời 53,3% (Biểu 3.7). Sự tác động này,

được thể hiện rõ hơn trong mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với các hoạt

động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo địa phương khảo sát (Bảng 3.10).

Bảng 3.10: Hệ thống chính trị cơ sở với hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS

cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (với N = 591).

Đơn vị: %

Quảng Phú Cầu

Vân Đình

Đại Cường

Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

66,3

31,0

20,9

25,3

31,4

31,0

Hệ thống chính trị cơ sở

33,5 81,6

40,7 82,6

56,3 56,3

88,6

53,5

70,4

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *

158

86

71

Tổng

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 34]; *P < 0,05.

123

Bảng 3.10, hầu hết người trả lời đánh giá hệ thống chính trị cơ sở và những hoạt

động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình

dòng họ trong các địa phương khảo sát có mối quan hệ chặt chẽ, rất chặt chẽ. Trong

mối quan hệ này, ứng với từng hoạt động, mỗi địa phương lại có những đánh giá khác

nhau về sự chi phối của yếu tố hệ thống chính trị cơ sở, như: hoạt động gia đình kể

chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em, tỷ lệ trả lời ở thị trấn Vân

Đình là cao nhất, với 66,3%; hoạt động dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện

NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ, tỷ lệ trả

lời ở xã Quảng Phú Cầu lại cao nhất, với 88,6%; hoạt động gia đình định hướng con

em theo nghề quân đội, tỷ lệ trả lời ở xã Đại Cường là cao nhất, với 56,3%.

Ngoài ra, trong các mức độ đánh giá, chỉ có hoạt động dòng họ thường xuyên

nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ là không có nhiều sự khác

biệt giữa các địa phương; hay chỉ có hoạt động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về

trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành là có sự khác

nhau rõ ràng giữa Quảng Phú Cầu và Vân Đình so với Đại Cường, tỷ lệ trả lời là

81,6% và 82,6% so với 56,3% (Bảng 3.10).

Nhìn chung, hệ thống chính trị ở xã Quảng Phú Cầu, thị trấn Vân Đình và xã Đại

Cường có những khác nhau nhất định trong quản lý, điều hành công tác giáo dục, tuyên

truyền NVQS, xây dựng nền QPTD, BVTQ. Bởi vì, thị trấn Vân Đình, hệ thống chính

trị được tổ chức theo tiêu chí của đô thị, còn Quảng Phú Cầu và Đại Cường, hệ thống

chính trị lại được tổ chức theo tiêu chí của nông thôn; hệ thống chính trị còn bị chi

phối, quyết định của điều kiện kinh tế ở địa phương, như với mức thu nhập bình quân

người/tháng dưới 1 triệu của gia đình, ở Đại Cường có tỷ lệ trả lời cao nhất, rồi đến

Vân Đình và Quảng Phú Cầu [Phụ lục, Bảng 48] (Quảng Phú Cầu lại có mức thu nhập

bình quân người/tháng từ 1 đến dưới 2 triệu là 45,8%, hơn Vân Đình là 40,5% và Đại

Cường là 32,6%). Chính vì được tổ chức và có điều kiện kinh tế khác nhau như vậy

nên hệ thống chính trị có những chi phối, tác động khác nhau đến vai trò giáo dục,

tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ giữa các địa phương.

3.3.2.3. Cộng đồng làng xã

Theo đánh giá của bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS,

yếu tố cộng đồng làng xã có tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ trong thực

hiện NVQS của thanh niên, với tỷ lệ trả lời 53,1% (Biểu 3.7). Sự tác động này,

124

được thể hiện rõ hơn trong mối quan hệ giữa cộng đồng làng xã với các hoạt động

giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo địa

phương khảo sát (Bảng 3.11).

Bảng 3.11: Cộng đồng làng xã với hoạt động giáo dục, động viên thanh niên

tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ (với N = 591).

Đơn vị: %

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS

Quảng Phú Cầu

Vân Đình

Đại Cường

79,3

77,0

81,4

43,4

48,6

41,9

46,5

73,9

85,1

48,1

48,6

47,3

Cộng đồng làng xã

50,4

36,9

40,5

65,9

59,5

59,5

Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc

129

111

74

Tổng

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 35]; *P < 0,05.

Bảng 3.11, tỷ lệ đánh giá giữa cộng đồng làng xã với các hoạt động giáo dục,

động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo

địa phương nơi khảo sát khá đa dạng, ít nhiều thể hiện được mối quan hệ giữa chúng.

Nhưng chỉ có mối quan hệ giữa cộng đồng làng xã với hoạt động người thân trong

dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS theo địa

phương là chặt chẽ, thậm chí rất chặt chẽ, với tỷ lệ trả lời tăng dần như sau: xã Quảng

Phú Cầu là 46,5%, thị trấn Vân Đình là 73,9% và xã Đại Cường là 85,1%. Song, với

hoạt động thiết thực, thể hiện rõ tính cộng đồng thông qua việc người thân trong dòng

họ đến nhà thăm hỏi, động viên cũng đã phần nào chỉ ra sự quan trọng của yếu tố cộng

đồng làng xã trong công tác thực hiện NVQS của thanh niên.

Bên cạnh đó, tỷ lệ đánh giá về mối quan hệ này cũng chứng tỏ, yếu tố cộng đồng

làng xã có liên hệ chặt chẽ với địa phương, làng xã cụ thể. Chẳng hạn, Đại Cường là một

xã nông thôn, với 87,6% gia đình làm nông nghiệp nên tính cộng đồng của người nông

125

thôn, sự cởi mở, chất phác của người nông dân là nhân tố quan trọng tạo nên sự gắn kết

của cộng làng xã, do đó có đánh giá cao nhất; Quảng Phú Cầu cũng là một xã nông thôn

nhưng lại có đến 68,3% gia đình làm nghề nông nghiệp hỗn hợp (phần lớn các gia đình

làm thêm nghề phụ: chẻ tăm, đan lát, làm thuê cho các xưởng tăm…) và hoạt động kinh

tế làng nghề đã ít nhiều làm xói mòn tính cộng đồng của người dân, của những người

trong dòng họ, do vậy có đánh giá thấp nhất; Vân Đình là thị trấn, trung tâm hành chính,

kinh tế, xã hội của huyện Ứng Hoà nên người dân chịu ảnh hưởng của lối sống thị thành,

sự gắn kết của dòng họ cũng bị ảnh hưởng, nhưng lại không bị sự chi phối của yếu tố

kinh tế làng nghề, cho nên có đánh giá thấp hơn Đại Cường và cao hơn Quảng Phú Cầu.

3.3.2.4. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

Theo đánh giá của bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS, yếu tố

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có tác động đến vai

trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên, với tỷ lệ trả lời 59,2%

(Biểu 3.7). Sự tác động này, được thể hiện rõ hơn trong mối quan hệ giữa đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với các hoạt động giáo dục, tuyên

truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập theo địa phương khảo sát (Bảng 3.12).

Bảng 3.12: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước với hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của

gia đình, dòng họ (với N = 591).

Đơn vị: %

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS

Quảng Phú Cầu

Đại Cường

Vân Đình

89,4

76,7

77,9

36,4

43,8

43,4

42,4

80,8

78,6

35,6

56,2

47,6

43,2

32,9

33,8

Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

78,0

66,2

71,2

Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định * Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc

132

145

73

Tổng

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 36]; *P < 0,05.

126

Tỷ lệ trả lời ở bảng 3.12 đã ít nhiều cho thấy yếu tố đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có mối quan hệ với các hoạt động giáo dục,

động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo địa phương

khảo sát, trong đó có ba mối quan hệ chặt chẽ và rất chặt chẽ. Trong các mối quan hệ

chặt chẽ, không những cho thấy sự chênh lệch về tỷ lệ đánh giá mà còn phản ánh, ở

những địa phương khác nhau, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước có sự chi phối khác nhau đến các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên

đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ. Cụ thể, hoạt động gia đình giáo dục,

nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định, tỷ lệ trả lời ở Quảng

Phú Cầu là 89,4% cao hơn hẳn Vân Đình và Đại Cường, với 77,9% và 76,7%; hoạt động

người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển

NVQS, trong khi tỷ lệ trả lời ở Đại Cường lên tới 80,8%, cao hơn Vân Đình, với 78,6%

và cao hơn rất nhiều so với Quảng Phú Cầu, chỉ là 42,4%; hoạt động người thân trong

gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS, tuy không có tỷ

lệ trả lời rất cao và cao nhưng Đại Cường vẫn là cao nhất, với 56,2%, tiếp đến là Vân

Đình, với 47,6% và vẫn cao rất nhiều so với Quảng Phú Cầu là 35,6%.

Như vậy, theo số liệu khảo sát ở các địa phương, không phải hoạt động giáo

dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ nào

cũng có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước. Bởi vì, dù đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước là các văn bản pháp quy đối với mọi địa phương, nhưng do tính

đặc thù nên mỗi địa phương có cách thức vận dụng và chấp hành phù hợp nhất.

Chẳng hạn, Đại Cường là một xã nông thôn không có nghề truyền thống, Quảng Phú

Cầu cũng là xã nông thôn nhưng có nghề truyền thống, Vân Đình là thị trấn và chính

tính đặc thù này đã tạo nên sự khác nhau nhất định trong mối quan hệ giữa yếu tố

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với hoạt động

giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Nghiên cứu thực trạng dựa trên những kết quả khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý

kiến và phỏng vấn sâu đã phản ánh rõ vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

127

thực hiện NVQS của thanh niên. Vai trò này được thể hiện trên bốn nội dung: Gia

đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền cho con cháu về NVQS, BVTQ; Gia đình,

dòng họ giáo dục, động viên con cháu đăng ký, khám tuyển NVQS; Gia đình, dòng

họ giáo dục, động viên con cháu lên đường thực hiện NVQS khi có lệnh gọi nhập

ngũ; Gia đình, dòng họ động viên, chăm lo con cháu trong thời gian tại ngũ ở đơn vị

quân đội. Qua đó, khẳng định giả thuyết: Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên luôn là nhân tố quan trọng, quyết định là đúng.

Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên chịu

sự tác động của nhiều yếu tố thông qua sự phân tích tương quan, mối quan hệ giữa số

lượng con trai của gia đình; các đặc điểm của gia đình; điều kiện kinh tế của địa

phương; hệ thống chính trị cơ sở, cộng đồng làng xã; đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với các vai trò của gia đình, dòng họ từ

giáo dục, tuyên truyền, vận động thanh niên lúc chưa đến tuổi nhập ngũ đến giai đoạn

đăng ký, khám tuyển, rồi trúng tuyển, thực hiện NVQS ở đơn vị. Mối quan hệ này đã

phản ánh rõ lý thuyết tập hợp vai trò của Robert K.Merton về mối liên hệ giữa cấu

trúc gia đình và vai trò của gia đình. Dù trong thực tế phân tích các mối quan hệ có

nhiều cấp độ khác nhau, đó là có mối quan hệ rất chặt chẽ, có mối quan hệ chặt chẽ

và có mối quan hệ chưa chặt chẽ.

Thông quan phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia

đình, đặc điểm của gia đình với các hoạt động thể hiện vai trò của gia đình, dòng họ

trong thực hiện NVQS của thanh niên, thấy rằng: hầu như yếu tố số lượng con trai

của gia đình chưa có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động thể hiện vai trò của gia

đình, dòng họ; ngược lại, yếu tố đặc điểm của gia đình lại cho thấy có mối quan hệ

chặt chẽ, thậm chí rất chặt chẽ với phần lớn các hoạt động thể hiện vai trò của gia

đình, dòng họ. Điều này khẳng định giả thuyết: Vai trò của gia đình, dòng họ trong

thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập, nghề nghiệp

của gia đình, trình độ học vấn của bố thanh niên, gia đình có bố mẹ là đảng viên và

gia đình không có bố mẹ là đảng viên là đúng; Vai trò của gia đình, dòng họ trong

thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với số lượng con trai của

gia đình chưa được chứng minh là đúng trong nghiên cứu này.

128

Chương 4

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY

ĐÌNH, DÒNG HỌ TRONG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH

4.1. MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI VAI TRÒ CỦA GIA

NIÊN HIỆN NAY

Gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS hiện nay có

nhiều thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn. Trong đó, có một số thuận lợi và

khó khăn cơ bản được chính bố mẹ của thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển

và thanh niên đang tại ngũ đánh giá với tỷ lệ lần lượt như sau: Tình hình kinh tế - xã

hội của địa phương, đất nước: thuận lợi - 64,7% và khó khăn - 35,3%; Điều kiện

kinh tế, quy mô, cơ cấu gia đình: thuận lợi - 61,8% và khó khăn - 38,2%; Nền nếp,

truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ: thuận lợi - 65,5% và

khó khăn - 34,5%; Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở: thuận lợi - 56,9% và khó

khăn - 43,1%; Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ: thuận

lợi - 53,3% và khó khăn - 46,7%; Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành

NVQS: thuận lợi - 49,4% và khó khăn - 51,6% (Bảng 4.1).

Bảng 4.1: Một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng họ trong

thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay (với N = 789).

Đơn vị: %

Mức độ đánh giá

Những thuận lợi và khó khăn trong việc gia đình, dòng họ

Thuận lợi Khó khăn

thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS những năm tới

Tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước

64,7

35,3

Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình

61,8

38,2

Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ

65,5

34,5

Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ

53,3

46,7

Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS

49,4

51,6

Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở

56,9

43,1

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 37].

129

Những đánh giá của người trả lời về một số thuận số thuận lợi và khó khăn đối

với vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay được

biểu hiện cụ thể trên từng nội dung sau:

4.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước

Từ khi đổi mới đến nay, kinh tế - xã hội nước ta có nhiều biến đổi, phát triển.

Đến năm 2013, quy mô nền kinh tế của đất nước đã đạt gần 176 tỷ USD, thu nhập

bình quân đầu người khoảng 1.960 USD [111]. Kinh tế liên tục tăng trưởng, tạo tiền

đề đưa đất nước “ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát

triển có thu nhập trung bình” [31, tr.91]. Xã hội ngày càng phát triển theo hướng dân

chủ. Giáo dục và đào tạo có những thay đổi tích cực và được đầu tư nhiều hơn, trình

độ dân trí được nâng lên. Chính trị ổn định, an ninh quốc phòng luôn được tăng

cường, củng cố: “bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh

thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo” [31, tr.137]. Văn kiện Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi

mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát

triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp

chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong

từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên

từng địa bàn” [31, tr.82].

Hoà chung với sự ổn định, phát triển của đất nước, kinh tế - xã hội huyện Ứng

Hoà, địa phương nơi khảo sát cũng có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực.

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại nhiều hiệu quả, công nghiệp, dịch

vụ đều có bước tăng trưởng khá. Đặc biệt, mô hình phát triển tiểu thủ công nghiệp ở

địa phương vừa mang lại nhiều công ăn việc làm cho người dân vừa đóng góp phần

lớn GDP cho huyện. Kinh tế địa phương tăng lên hàng năm đã góp phần làm cho đời

sống người dân khấm khá hơn. Năm 2008 thu nhập bình quân là 5,2 triệu/ người/

năm, thì đến tháng 6 năm 2013 đã khoảng 17-19,5 triệu đồng/người/năm [110]. Cùng

với phát triển kinh tế, tình hình chính trị, xã hội luôn được đảm bảo ổn định, trật tự an

toàn xã hội được giữ vững, không xảy ra điểm nóng, phong trào toàn dân chăm lo xây

dựng và bảo vệ quê hương, đất nước khá tốt.

130

Kinh tế - xã hội phát triển, chính trị ổn định là thuận lợi cơ bản để gia đình,

dòng họ, người dân càng tin tưởng vào đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, vào

hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy, việc tuyên truyền, vận

động, gắn vai trò trách nhiệm của gia đình, dòng họ với sự nghiệp xây dựng nền

QPTD, BVTQ sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Đặc biệt trong bối cảnh tình hình

quốc phòng, an ninh ở biên giới, hải đảo luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột, ảnh

hưởng trực tiếp đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát

triển cũng kéo theo hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh, nhất là tâm lý ngại khổ, tư

tưởng đề cao chủ nghĩa cá nhân của thanh niên, các giá trị tốt đẹp của gia đình,

dòng họ bị suy giảm,… Điều này tạo nên những khó khăn nhất định đối với vai trò

của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.

4.1.2. Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp của gia đình

Gia đình ở hai xã và thị trấn được khảo sát trong đề tài luận án tương đối khác

nhau về điều kiện kinh tế, cơ cấu nghề nghiệp. Xã Quảng Phú Cầu có 6/6 thôn được

công nhận làng nghề. Do đó, ngoài sản xuất nông nghiệp, các gia đình trong xã còn

làm nghề tiểu thủ công nghiệp (làm tăm hương, tăm xỉa và đan lát cót, rổ, rá, quạt).

Xã Đại Cường có 3 thôn và là 3 trong 20 thôn của huyện Ứng Hoà không được

công nhận làng nghề, các gia đình trong xã chủ yếu làm nghề nông. Thị trấn Vân

Đình là trung tâm hành chính, chính trị, thương mại, dịch vụ của huyện Ứng Hoà.

Cho nên, các hộ gia đình ở thị trấn làm nghề thương mại, dịch vụ, công chức,… là

chủ yếu, số hộ sản xuất nông nghiệp rất ít. Những đặc trưng nghề nghiệp tạo nên sự

khác biệt tương đối về điều kiện kinh tế của các gia đình ở các xã và thị trấn.

Thực tế khảo sát bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS ở

các xã và thị trấn cho thấy, tỷ lệ đánh giá của người trả lời về nơi ở với nghề nghiệp

của gia đình và thu nhập bình quân người/ tháng của gia đình như sau (Bảng 4.2).

131

Bảng 4.2: Nghề nghiệp và thu nhập bình quân người/tháng của gia đình theo

nơi ở của gia đình.

Đơn vị: %

Nghề nghiệp của gia đình

Tổng

Nơi ở

Thu nhập bình quân người/tháng của gia đình Dưới Từ 1 đến Từ 2 1 triệu dưới 2 triệu trở triệu lên 46,3 45,8 7,9 51,8 40,5 7,7 62,8 32,6 4,7

Nông nghiệp hỗn hợp 68,3 10,1 39,2

Nông nghiệp 30,9 87,6 25,7

Quảng Phú Cầu Đại Cường Vân Đình

Phi nông nghiệp 0,8 240 2,3 129 35,1 222 Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 38].

Điều kiện kinh tế và nghề nghiệp của gia đình ở các xã, thị trấn nêu trên vừa

tạo thuận lợi vừa gây khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng họ trong quá trình

thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay. Thuận lợi vì, phần lớn các gia đình thuộc

địa bàn khảo sát làm nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và sống ở nông thôn nên so

với các gia đình ở đô thị sẽ ít chịu tác động của kinh tế thị trường hơn; sự cố kết của

gia đình, dòng họ cũng chặt chẽ hơn và gia quy, tộc ước được coi trọng trong giáo

dục con cháu; con cháu của gia đình, dòng họ ngay từ khi còn nhỏ đã quen với môi

trường sống vất vả của nghề nông; “Con em nông dân, người chưa có việc làm nhập

ngũ chiếm số đông (trên 80%) và có xu hướng tăng” (Theo nhận định của Uỷ ban

Quốc phòng An ninh của Quốc hội) [Trích theo, 111]. Bên cạnh đó, có khá nhiều gia

đình ở xã Quảng Phú Cầu, Đại Cường và thị trấn Vân Đình có mức thu nhập bình

quân người/ tháng từ 1 đến dưới 2 triệu đồng (mức thu nhập tuy không cao nhưng

cũng không thấp trong điều kiện hiện nay) qua đó, tạo nên sự ổn định về kinh tế của

gia đình. Đây đều là những nhân tố quan trọng để gia đình, dòng họ phát huy tốt nhất

vai trò trong giáo dục, động viên con cháu thực hiện NVQS hiện nay.

Khó khăn vì, chính sự vất vả, bươn chải của các gia đình làm nghề nông, sự

thiếu thốn của khu vực nông thôn so với đô thị gây nên những hiệu ứng so bì nhất

định với các gia đình ở đô thị, có kinh tế vững hơn, có cuộc sống “dễ chịu” hơn về

việc thực hiện NVQS của con em. Với các gia đình làm nghề nông hỗn hợp, tuy

kinh tế bớt phần khó khăn song với việc vừa phải làm nghề nông vừa phải làm các

132

nghề phụ như làm tăm của các gia đình ở xã Quảng Phú Cầu - một nghề rất cần có

nhân công. Nhất là những lao động nam giới đang độ tuổi thanh niên, có sức khoẻ

tốt, nhanh nhẹn, có thể làm việc với năng suất cao, làm những công việc nặng nhọc.

Cho nên, việc những nam thanh niên đang là lao động chủ chốt của gia đình nhập

ngũ sẽ gây ra không ít băn khoăn, lo lắng cho gia đình.

Thu nhập chủ yếu của gia đình tôi từ làm tăm, nay em nó được gọi nhập

ngũ, gia đình thiếu đi một nguồn nhân lực chính và cũng bớt đi nguồn thu

nhập nên tôi cũng hơi băn khoăn. Song gia đình vẫn luôn mong mong

quân đội, Nhà nước đào tạo em nên người (PVS ông Trần Văn P, 44 tuổi,

xã Quảng Phú Cầu).

Ngoài những khó khăn về điều kiện kinh tế và nghề nghiệp của gia đình, số lượng

con trai của gia đình cũng gây nên những khó khăn nhất định đối với vai trò của gia

đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay. Theo số liệu khảo sát

591 người, gia đình có một con trai chiếm tỷ lệ cao nhất, với 50,6%, tiếp đến gia đình

có 2 con trai là 43,5%; gia đình có 3 con trai trở lên rất ít, chỉ có 5,9% [Phụ lục, Bảng

22]. Chính vì số lượng con trai trong gia đình ít, cho nên nam thanh niên thường rất

được bố, mẹ quan tâm, chăm sóc, không muốn con cái phải chịu khổ và không ít gia

đình có tư tưởng không muốn cho con đi bộ đội. Phỏng vấn sâu mẹ một thanh niên về

những suy nghĩ của gia đình khi có con trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, được biết:

Con tôi trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, tôi cũng chẳng có ý kiến gì,

nhưng thực lòng tôi rất buồn và lo lắng vì nhà chỉ có nó là con trai duy

nhất và đây cũng là lần đầu tiên em xa gia đình một thời gian dài (PVS

bà Lê Thị V, 43 tuổi, thị trấn Vân Đình).

Những băn khoăn, lo lắng đó của gia đình nếu không được sự gặp gỡ, động

viên, giải đáp kịp thời của trưởng thôn, các đảng viên trong thôn và của Ban chỉ

huy quân sự xã cùng các tổ chức đoàn thể khác sẽ ít nhiều khiến gia đình không

thực sự thoải mái khi có con em nhập ngũ và không phát huy tốt nhất vai trò của

gia đình đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên.

4.1.3. Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở

Trong công tác thực hiện NVQS của thanh niên, được sự phân công của cơ

quan, đơn vị cấp trên, Ban chỉ huy quân sự huyện giao chỉ tiêu tuyển quân đến

133

từng xã, thị trấn trong huyện. Quán triệt sự chỉ đạo của huyện về công tác tuyển

quân, Đảng bộ, cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân xã, thị trấn ra nghị quyết lãnh đạo,

chương trình hành động về công tác quốc phòng gắn với xây dựng cơ sở vững

mạnh toàn diện. Trong đó, luôn đưa ra chỉ tiêu hoàn thành tốt hoặc vượt chỉ tiêu

gọi thanh niên nhập ngũ. Theo kế hoạch, hàng năm cứ đến đợt tuyển quân, đảng

uỷ, chính quyền xã, thị trấn triển khai theo ngành dọc xuống các chi bộ thôn và

các đoàn thể cùng phối hợp chặt chẽ từ khâu lập danh sách cho đến gọi loa thông

báo những nam thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ đi khám tuyển NVQS; tuyên

truyền, vận động các gia đình, dòng họ làm tốt chức trách, nhiệm vụ trong động

viên con, cháu tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định; cán

bộ, cùng các đoàn thể địa phương: hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, hội phụ nữ

đến từng gia đình gặp gỡ nói chuyện, động viên gia đình và thanh niên được gọi

khám tuyển, được gọi nhập ngũ.

Với sự quan tâm, cùng cách làm có tổ chức chặt chẽ, khoa học như trên đã

tạo điều kiện thuận lợi để các gia đình, dòng họ thực hiện vai trò trong giáo dục,

tuyên truyền, động viên con, cháu tham gia thực hiện NVQS. Song, nếu trong

công tác tuyển quân tại các xã, thị trấn, ở các khâu sàng lọc tiêu chuẩn của thanh

niên, ở các bước phối hợp tuyên truyền, vận động của các tổ chức, lực lượng trong

hệ thống chính trị cơ sở chưa thật chính xác và ăn ý, như: vẫn để lọt thanh niên đủ

tiêu chuẩn nhưng không gọi nhập ngũ hoặc ngược lại; vẫn có sự lúng túng hay

không làm hết trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng sẽ trở thành những rào cản,

gây trở ngại cho việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về

NVQS không những ở hiện tại mà cả những năm tiếp theo.

4.1.4. Văn hóa, truyền thống làng xã, dòng họ, gia đình

Văn hóa, truyền thống của thôn, làng cũng là điều kiện thuận lợi cho việc gia

đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS. Văn hóa truyền thống

thôn, làng được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng cụ thể hơn cả là trong quy ước

làng. Với ưu điểm, hầu hết các thôn ở xã Quảng Phú Cầu, xã Đại Cường và tổ dân

phố ở thị trấn Vân Đình được công nhận làng văn hóa, tổ dân phố văn hoá và đều có

quy ước riêng. Trong quy ước có nêu rõ: “Thực hiện nghĩa vụ quân sự ngoài quy

định chung của Luật Nghĩa vụ quân sự, các tổ chức đoàn thể trong thôn và gia đình

134

động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên trong độ tuổi đi khám tuyển và

lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Nếu ai chống đối thì sẽ báo lên Hội đồng quân sự

xã xử lý” [99, tr.15]. Quy ước làng, tổ dân phố được chính các gia đình trong làng,

tổ dân phố thống nhất và tự nguyện chấp hành, do đó để không vi phạm quy ước

làng, các gia đình cần thực hiện tốt vai trò của mình trong giáo dục, động viên con,

em thực hiện NVQS.

Truyền thống gia đình, dòng họ có thể được nhận biết thông qua việc ông bà,

bố mẹ, chú bác cô tham gia cách mạng; ông bà, bố mẹ, chú bác cô, anh chị em trong

gia đình, dòng họ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; bố mẹ, chú bác cô, anh

chị em trong gia đình, dòng họ đang tham gia lực lượng vũ trang; hay chỉ đơn giản

là ông bà, bố mẹ, chú bác cô, anh chị em trong gia đình luôn chấp hành tốt mọi

đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nuôi dạy con,

cháu chăm ngoan, hiếu thảo. Điều này tạo nhiều thuận lợi cho việc gia đình, dòng

họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS. Bởi vì, với các gia đình, dòng họ

có truyền thống cách mạng và có các thành viên tham gia kháng chiến, đang phục vụ

quân đội, là đảng viên Đảng Cộng sản thường chú trọng giáo dục con cháu ngay từ khi

còn nhỏ về tình yêu quê hương đất nước; ý nghĩa của việc giành giữ và xây dựng,

BVTQ thông qua các câu chuyện chiến đấu và công tác của mình. Khi con cháu trưởng

thành, một phần tiếp tục được ông bà, bố mẹ định hướng về nghĩa vụ, trách nhiệm của

công dân đối với việc tham gia NVQS, một phần, do thấm nhuần lời dạy của ông bà, bố

mẹ, thấm nhuần nền nếp, tác phong của người quân nhân. Qua đó, xây dựng cho

thanh niên tình yêu với cuộc sống của người lính, giúp thanh niên tự ý thức được vai

trò của bản thân với Tổ quốc.

4.1.5. Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ

Những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước, chính

sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có thanh niên đang tham gia quân

ngũ ngày càng được củng cố và hoàn thiện, như Pháp lệnh số 04/2012/PL-

UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ưu đãi người có công với cách

mạng; Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ, quy định chi

tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách

mạng; Nghị định số 101/2013/NĐ-CP ngày 04/9/2013 quy định mức trợ cấp, phụ

135

cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Cùng với đó, Bộ Lao động,

Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày

15/5/2013 hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi

đối với người có công với cách mạng và thân nhân. Việc kịp thời ban hành, bổ sung

những chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có thanh niên

đang tại ngũ không những tăng cường lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước

và Chính Phủ mà còn gia tăng lòng tự tôn, tự hào, tinh thần yêu nước của người dân

đối với Tổ quốc; kích thích gia đình, dòng họ sẵn sàng đóng góp vật chất, tinh thần

cho sự nghiệp xây dựng và củng cố nền QPTD; cho gia đình, dòng họ tiếp tục phát

huy tốt nhất vai trò trong việc thực hiện NVQS thanh niên.

Việc ban hành chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có

thanh niên đang tại ngũ thể hiện chủ trương đúng đắn của Đảng, quyết sách hợp lý

của Nhà nước. Song, khi áp dụng chính sách với từng đối tượng cụ thể vẫn tồn tại

không ít bất cập, vẫn còn những thân nhân của gia đình có công với cách mạng, gia

đình có thanh niên đang tại ngũ chưa được hưởng kịp thời, đầy đủ những hỗ trợ của

chính sách. Thực tế khảo sát cũng cho thấy, vẫn có 46,7% (Bảng 4.1) bố, mẹ thanh

niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ đánh giá

rằng, chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có thanh niên

đang tại ngũ vẫn còn gây nên khó khăn cho việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò

đối với thanh niên về NVQS.

4.1.6. Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự

Việc làm của thanh niên sau khi xuất ngũ là một trong những nhân tố có chi

phối đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh

niên. Giải quyết tốt vấn đề việc làm cho thanh niên sau khi hoàn thành NVQS

cũng là tháo gỡ những băn khoăn, lo lắng của không ít gia đình có con em đang

nhập ngũ; tháo gỡ những khó khăn cản trợ gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối

với thanh niên về NVQS. Bởi vì, gia đình cho rằng, con, em nhập ngũ là đã thiệt

thòi trong việc học nghề, học việc, thiếu đi cơ hội tìm được việc làm phù hợp sau

khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Cho nên, sau khi xuất ngũ, nếu thanh niên

không được hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm sẽ rất khó khăn tìm việc

trong cơ chế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Vì lẽ đó, trong hai mức

136

đánh giá thuận lợi, khó khăn của các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò

của gia đình, dòng họ đối với thanh niên về NVQS, vấn đề việc làm của thanh

niên sau khi hoàn thành NVQS có tỷ lệ người đánh giá khó khăn cao nhất, với

51,6% (Bảng 4.1).

Nhằm tháo gỡ vấn đề dạy nghề, tạo việc làm cho bộ đội xuất ngũ, qua đó góp

phần động viên thanh niên yên tâm đăng ký, khám tuyển và lên đường thực hiện

NVQS; góp phần hoàn thành tốt công tác gọi thanh niên nhập ngũ ở các địa phương;

cũng như phát huy hơn nữa vai trò của gia đình, dòng họ trong động viên thanh niên

nhập ngũ, Thủ tường Chính phủ đã ban hành Quyết định 121/2009/QĐ-TTg về cơ chế

hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và chính sách hỗ trợ bộ đội

xuất ngũ học nghề. Cơ sở pháp lý này ngày càng được hoàn thiện, bổ sung và đi vào

thực tiễn sẽ tạo nên nhiều thuận lợi, kích thích gia đình, dòng họ phát huy tốt nhất vai

trò đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.

Thực tế ở huyện Ứng Hòa cho thấy, một số quân nhân sau khi hoàn thành NVQS

trở về địa phương đã được chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở huyện, xã, thị

trấn tạo điều kiện cho học nghề, tạo việc làm, bố trí việc làm phù hợp. Một số quân nhân

có nhiều tiến bộ, trưởng thành trong thời gian tại ngũ đã được bố trí vào các vị trí chỉ

huy trong lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, bổ sung nguồn cho cán bộ quân sự

cấp xã. Tuy vậy, quân nhân sau khi hoàn thành NVQS trở về địa phương được đào tạo

nghề, tạo việc làm, bố trí việc làm chưa nhiều và còn nhiều bất cập, cần được tháo gỡ.

Những bất cập đó ảnh hưởng nhất định đến việc động viên thanh niên thực hiện NVQS,

chi phối nhiều đến hiệu quả giáo dục, tuyên truyền, động viên của gia đình, dòng họ đối

với con em trong thực hiện NVQS, BVTQ.

4.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH,

DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH

NIÊN TRONG NHỮNG NĂM TỚI

4.2.1. Một số vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay

Từ phân tích, đánh giá thực trạng và thuận lợi, khó khăn trong thực hiện vai

trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên đặt ra một số

vấn đề: 1.Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ đối

137

với việc thực hiện NVQS, BVTQ của thanh niên; 2.Phát huy vai trò của gia đình,

dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và

củng cố nền QPTD; 3.Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã

hội quan trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ thời

kỳ mới; 4.Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ thời kỳ mới; 5.Phát triển kinh tế - xã hội

của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ,

hiện đại. Đây cũng là những vấn đề được bố mẹ thanh niên trúng tuyển, không

trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ nhận định (Bảng 4.3).

Bảng 4.3: Những vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).

Những vấn đề đặt về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

Mức độ đánh giá Tỷ lệ % 62,4

Số lượng 492

550

69,7

562

71,2

428

54,2

455

57,7

Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS, BVTQ của thanh niên Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và củng cố nền QPTD Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ trong những năm tới Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ những năm tới Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 39].

Số liệu bảng 4.3 chỉ ra, trong năm vấn đề được đưa ra, có hai vấn đề đặt ra,

người trả lời nhất trí với tỷ lệ là 54,2% và 57,7%; có ba vấn đề đặt ra, tỷ lệ trả lời

nhất trí cao hơn, đó là 62,4%, 69,7% và 71,2%. Đây cũng chính là ba vấn đề được

phân tích, đánh giá.

4.2.1.1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ

đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc của thanh niên

Thông qua phỏng vấn sâu và điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến thấy rằng,

có mối liên hệ giữa hoạt động của các tổ chức, lực lượng với vai trò của gia đình,

138

dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Mối quan hệ này được thể

hiện trong suốt quá trình thực hiện NVQS. Cụ thể, vào các đợt tuyển quân, Hội

đồng tuyển quân của xã, thị trấn nhóm họp, rồi phân công trách nhiệm đến từng tổ

chức, lực lượng, cá nhân. Từ bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch xã, chỉ huy trưởng quân

sự xã, thị trấn đến các hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên và các đảng

viên chi bộ thôn, trưởng thôn đều tham gia vào công tác tuyển quân của xã, thị trấn.

Các tổ chức, lực lượng, cá nhân này đến từng gia đình, gặp gỡ thân nhân thanh niên

để nói chuyện, động viên, giải đáp những khúc mắc về Luật NVQS nói chung, về

nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối việc xây dựng và BVTQ, về công tác gọi

thanh niên nhập ngũ ở xã, thị trấn. Chính vì vậy, phần đông các gia đình, dòng họ

có con, cháu đến tuổi thực hiện NVQS, từ chỗ còn hoài nghi, băn khoăn, thắc mắc,

lo lắng về công tác tuyển quân đến chỗ trở thành một thiết chế có vai trò quyết định

đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Kết quả này đã cho thấy một vấn đề

cần được đúc rút trong công tác gọi thanh niên nhập ngũ, đó là: Vấn đề nhận thức

của các tổ chức, lực lượng, cá nhân về công tác tuyển quân có tầm quan trọng đặc

biệt trong gắn vai trò của gia đình, dòng họ với việc thực hiện NVQS của thanh

niên. Bởi vì, muốn thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động gia đình, dòng họ phát

huy vai trò trong thực hiện NVQS của thanh niên, thì bản thân các tổ chức, lực

lượng, cá nhân phải có nhận thức đúng, được trang bị đầy đủ kiến thức về Luật

NVQS, về sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ.

4.2.1.2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa

vụ quân sự của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và củng cố nền quốc

phòng toàn dân

Thanh niên ở địa phương nghiêm chỉnh chấp hành Luật NVQS, sẵn sàng đăng

ký, khám tuyển, vui vẻ lên đường nhập ngũ khi trúng tuyển và luôn tu dưỡng, rèn

luyện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong quá trình tại ngũ là một trong

những yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp củng cố nền QPTD, xây dựng và

BVTQ được thắng lợi.

Thực tế nghiên cứu địa bàn khảo sát cho thấy, việc thực hiện NVQS của thanh

niên luôn gắn với vai trò của gia đình, dòng họ, đặc biệt là vai trò của bố mẹ với

thanh niên nhập ngũ. Từ khi còn trên ghế nhà trường, còn chưa đến tuổi thực hiện

139

NVQS, phần lớn các thanh niên đã được ông bà, bố mẹ giáo dục, định hướng về

nghĩa vụ trách nhiệm của công dân nam giới đến tuổi trưởng thành đối với việc xây

dựng nền QPTD, BVTQ. Đến quá trình đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình, bố

mẹ vẫn là những người thường xuyên gặp gỡ, động viên, an ủi, bảo ban, do đó

không ít thanh niên từ chỗ còn sợ sệt, lo lắng đến chỗ vui vẻ, tình nguyện đi đăng

ký, khám tuyển. Khi thanh niên trúng tuyển NVQS, gia đình, bố, mẹ luôn là người

thân thích nhất trao đổi, động viên thanh niên và trước khi thanh niên lên đường

nhập ngũ, gia đình tổ chức gặp mặt, chia tay mời đại diện các tổ chức đoàn thể, các

chú bác cô trong dòng họ, bạn bè thân thích của thanh niên. Qua đó, tạo nên bầu

không khí đầm ấm, tình cảm, khích lệ thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ đối với

Tổ quốc. Trong khi tại ngũ, thông qua các đợt thăm hỏi tại đơn vị đóng quân và

thường xuyên viết thư, gọi điện động viên, khuyên bảo thanh niên, những người

thân trong gia đình, dòng họ trở thành chỗ dựa tin cậy để thanh niên trong thời gian

tại ngũ vượt qua được mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt

mọi nhiệm vụ được giao. Do vậy, cần phải thấy rằng, vấn đề phát huy vai trò của

gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ luôn

gắn với vai trò, trách nhiệm giáo dục, tuyên truyền, vận động của gia đình, dòng họ

đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên từ lúc thanh niên chưa đến tuổi nhập

ngũ đến khi thanh niên tham gia thực hiện NVQS.

4.2.1.3. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan

trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ

quốc những năm tới

Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng

trong giáo dục, động viên thanh niên nhập ngũ, BVTQ có ý nghĩa thiết thực trong

phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

Bởi vì, chăm lo xây dựng thiết chế gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội

quan trọng chính là quan tâm đến việc giữ gìn và phát huy những giá trị, chuẩn mực

tốt đẹp của gia đình, dòng họ từ ngàn xưa, chính là quan tâm đến việc tổ chức trật

tự, kỷ cương, nền nếp trong gia đình, dòng họ. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử

nhưng sự tổ chức, các giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của gia đình, dòng họ vẫn luôn

đồng hành cùng với sự tồn tại và phát triển của gia đình, dòng họ Việt Nam.

140

Thực tế cho thấy rằng, gia đình, dòng họ nào được tổ chức chặt chẽ, trật tự,

nền nếp trong gia đình, dòng họ được tôn trọng, phát huy thì các thành viên trong

gia đình, dòng họ luôn có mối quan hệ bền chặt, gia đình sống đầm ấm, hạnh phúc,

dòng họ cố kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Trong công tác gọi thanh niên nhập

ngũ cũng vậy, chính nhờ các giá trị, chuẩn mực của gia đình, dòng họ được các

thành viên tôn trọng, thực hiện, mà ông bà, bố mẹ, chú bác cô mới bảo ban, dạy dỗ

được con cháu; con cháu mới nghe lời ông bà, bố mẹ, chú bác cô và vui vẻ, yên tâm

thực hiện nghĩa vụ của bản thân đối với Tổ quốc. Không những thế, trong thời gian

tại ngũ, mối liên hệ giữa thanh niên với những người thân trong gia đình, dòng họ

vẫn luôn được duy trì, trở thành nguồn động lực to lớn giúp thanh niên hoàn thành

được mọi nhiệm vụ được giao. Bởi vì, thanh niên thấu hiểu hơn ai hết, việc nhập

ngũ của thanh niên không chỉ là nghĩa vụ, bổn phẩn với quê hương, đất nước mà

còn là truyền thống, danh dự của gia đình, dòng họ, nơi những người thân yêu dấu

luôn đặt niềm tin vào sự trưởng thành của thanh niên trong thời gian quân ngũ, để

sau khi hoàn thành NVQS trở về, thanh niên vẫn luôn là niềm vinh dự, tự hào của

gia đình, dòng họ.

Song, muốn xây dựng gia đình, dòng họ thực sự trở thành thiết chế xã hội

quan trọng, giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ những năm tới,

cần quan tâm hoàn thiện các chính sách về gia đình, dòng họ, về thanh niên nhập

ngũ và xuất ngũ. Đối với các gia đình có thanh niên nhập ngũ thuộc diện khó khăn,

neo đơn, cần phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời cả về vật chất và tinh thần. Đối với

thanh niên nhập ngũ và xuất ngũ cần luôn có có sự quan tâm, hỗ trợ, kịp thời giải

toả những khúc mắc về tư tưởng của thanh niên; tạo điều kiện và hướng dẫn thanh

niên tiếp cận và học được nghề phù hợp với bản thân, để sau khi thanh niên xuất

ngũ lập nghiệp nhanh chóng ổn định được cuộc sống. Khi gia đình thanh niên được

hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời, thanh niên nhập ngũ không còn những khúc mắc về tư

tưởng và yên tâm về cuộc sống sau xuất ngũ chính là động lực to lớn để gia đình,

dòng họ phát huy tốt nhất vai trò trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện

NVQS, BVTQ những năm tới.

Như vậy, trong công tác gọi thanh niên nhập ngũ nói riêng và trong sự nghiệp

củng cố nền QPTD, xây dựng và BVTQ nói chung, vấn đề xây dựng thiết chế gia

141

đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng có tầm quan trọng hàng đầu trong

phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

4.2.2. Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa

vụ quân sự của thanh niên trong những năm tới

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay, gia đình, dòng họ

vẫn luôn là một giá trị xã hội, một đơn vị lễ nghi. Gia phong, gia giáo là giá trị bền

vững tạo nên tính tôn ti trật tự, tạo dựng truyền thống, giúp cho sự duy trì sự ổn

định của gia đình, dòng họ. Mặt khác, nhìn nhận gia đình, dòng họ là một giá trị,

một đơn vị lễ nghi cũng chính là sự nhìn nhận ý nghĩa xã hội của gia đình, dòng họ

với tính cách là một thiết chế xã hội. Thông qua việc duy trì các giá trị, chuẩn mực,

các quy ước nhằm gắn kết các thành viên trong gia đình, dòng họ để thực hiện chức

năng xã hội, vai trò xã hội.

Thiết chế xã hội gia đình, dòng họ biểu hiện ở cấu trúc, tính tổ chức, tính

cộng đồng, hệ giá trị, chuẩn mực, khả năng kiểm soát hành vi của gia đình, dòng

họ đối với mỗi thành viên và sự đóng góp của gia đình, dòng họ đối với sự ổn

định, phát triển xã hội. Đối với các thành viên, gia đình, dòng họ định hướng và

kiểm soát hành vi, đảm bảo cho hành động của các thành viên đúng chuẩn, để gia

đình và dòng họ thực sự là một giá trị, đơn vị lễ nghi, tế bào của xã hội. Đối với

cộng đồng, xã hội, sự ổn định của gia đình, dòng họ đóng góp vào sự ổn định, phát

triển xã hội. Sự bền vững của thiết chế gia đình, dòng họ là một cơ sở cho việc

đánh vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

trong những năm tới.

Điều tra bố mẹ của thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh

niên đang tại ngũ thấy rằng, đa số nhất trí với vai trò của gia đình, dòng họ đối với

việc thực hiện NVQS của thanh niên trong những năm tới. Cụ thể, gia đình, dòng

họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong xây dựng nền QPTD, BVTQ, tỷ lệ người trả

lời có là 81,4%; gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS,

BVTQ cho con cháu, tỷ lệ người trả lời có là 63,6%; gia đình, dòng họ vẫn luôn

quan tâm động viên con cháu trong đăng ký, khám tuyển NVQS, tỷ lệ người trả lời

có là 68,6%; gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con cháu lên

đường nhập ngũ, tỷ lệ trả lời có là 56,5%; gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên

142

chăm lo con em trong quá trình thực hiện NVQS, tỷ lệ người trả lời có là 52,3%

(Bảng 4.4).

Bảng 4.4: Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên trong những năm tới (với N = 789).

Mức độ đánh giá Số lượng Tỷ lệ %

Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên trong thời gian tới

642

81,4

502

63,6

541

68,6

761

96,5

492

62,3

Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con cháu Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con cháu trong đăng ký, khám tuyển NVQS Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con cháu lên đường nhập ngũ Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con cháu trong quá trình thực hiện NVQS

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 40].

Truyền thống và những giá trị bền vững của gia đình, dòng họ; những đánh

giá của người trả lời về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS

của thanh niên trong những năm tới; các kết quả phân tích thực trạng vai trò của gia

đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên là những căn cứ quan trọng để

đưa ra các đánh giá sau:

Thứ nhất, vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến

tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ ngày càng được tăng cường, đẩy mạnh

Qua khảo sát thực tế bằng phiếu trưng cầu ý kiến và phỏng vấn sâu với bố, mẹ

của thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ cho

thấy, gia đình, dòng họ đóng vai trò quan trọng đối với việc giáo dục, tuyền truyền

NVQS, BVTQ cho thanh niên. Số liệu điều tra cũng chỉ ra, có 63,6% người trả lời

cho rằng, gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ

cho con cháu (Bảng 4.4).

Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của

gia đình, dòng họ vẫn sẽ được tăng cường, đẩy mạnh trong những năm tới. Bởi vì,

việc giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con cháu là giá trị có tính bền vững,

143

xuất phát từ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm từ ngàn xưa của dân tộc ta

và trong cuộc đấu tranh đó, gia đình luôn là lực lượng giữ vai trò nòng cốt. Vai trò này

được thể hiện từ việc huy động của cải vật chất của gia đình cho sự nghiệp đấu tranh

giải phóng dân tộc, đến việc động viên, thuyết phục con cháu trong gia đình, dòng họ

tòng quân, làm tròn bổn phận với quê hương, đất nước. Ngày nay, truyền thống đó

được tiếp nối từ chính những câu chuyện về lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng của

dân tộc, về quá trình công tác và chiến đấu mà ông bà, bố mẹ kể cho con cháu; bằng

những lời răn dạy đạo lý về nghĩa vụ, bổn phận của thanh niên đối với quê hương, đất

nước của ông bà, bố mẹ đối với con cháu; bằng tất cả sự mẫu mực, tình thương yêu

của ông bà, bố mẹ với con cháu. Tất cả trở thành chất xúc tác để con cháu trong gia

đình thấm nhuần, có thêm nghị lực, tinh thần sẵn sàng thực hiện NVQS, BVTQ.

Thứ hai, vai trò giáo dục, động viên con cháu tham gia đăng ký, khám tuyển

nghĩa vụ quân sự của gia đình, dòng họ ngày càng được đề cao

Qua thực tế điều tra, khảo sát cho thấy, trong tất cả các tổ chức, lực lượng ở

địa phương nơi tuyển quân có vai trò đối với việc giáo dục, động viên thanh niên

nhập ngũ, thì gia đình, dòng họ luôn được cho rằng có vai trò quan trọng nhất. Cùng

với kết quả người trả lời về gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con

cháu trong đăng ký, khám tuyển NVQS, với tỷ lệ trả lời là 68,6% (Bảng 4.4), cho

thấy xu thế này sẽ vẫn tiếp tục chiếm ưu thế trong những năm tới. Bởi vì, chừng nào

gia đình, dòng họ vẫn là chỗ dựa về tình cảm, là nơi che chở cho các thanh niên thì

chừng đó gia đình, dòng họ vẫn có vai trò quan trọng trong việc dạy dỗ, bảo ban

thanh niên những điều hay lẽ phải, những điều nên làm hay không nên làm; mặt

khác, chừng nào gia quy, tộc ước và hương ước của làng xóm vẫn được thanh niên

chấp thuận, tuân theo, thì chừng đó gia đình, dòng họ còn có thể bắt buộc thanh

niên trong gia đình, dòng họ nếu còn do dự, ngập ngừng trong việc đăng ký, khám

tuyển NVQS sẽ phải chấp hành, tuân theo.

Thứ ba, vai trò giáo dục, động viên con cháu lên đường thực hiện NVQS

khi có giấy gọi nhập ngũ của gia đình, dòng họ luôn giữ vị trí chủ đạo và ngày

càng hiệu quả

Kết quả điều tra bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS

và thanh niên đang tại ngũ thấy rằng, xu hướng gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ

144

chức chia tay con cháu lên đường nhập ngũ, có tỷ lệ trả lời rất cao là 96,5% cao

(Bảng 4.4). Ngoài ra, con em trong gia đình lên đường nhập ngũ, luôn được sự quan

tâm của các thành viên trong gia đình và của cả dòng họ. Sự quan tâm này được thể

hiện trên nhiều phương diện khác nhau, từ việc dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên,

tặng quà cho thanh niên trước khi lên đường nhập ngũ, đến việc cử người tham gia

giao quân với đơn vị nhận quân; từ việc các thành viên trong gia đình thường xuyên

gặp gỡ, tiếp xúc, động viên, đến việc gia đình tổ chức gặp mặt chia tay, mời đại diện

chính quyền, đoàn thể xã, mời chú bác, cô dì trong dòng họ và bạn bè của thanh niên.

Tất cả đã trở thành truyền thống của gia đình, dòng họ, trở thành các giá trị có tính

chất bền vững, cho nên khó có thể thay đổi trong những năm tới đây. Do đó, những

năm tiếp theo, vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc giáo dục, động viên thanh

niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi vẫn luôn luôn giữ vai trò chủ đạo.

Thứ tư, vai trò động viên, chăm lo con cháu trong thời gian tại ngũ ở các đơn vị

quân đội của gia đình, dòng họ vẫn được duy trì và có thể tăng cao

Kết quả điều tra bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS

và thanh niên đang tại ngũ cho biết, gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo

con cháu trong quá trình thực hiện NVQS, được người trả lời đánh giá khá cao, với

62,3% (Bảng 4.4). Cùng với các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ được kết nối

bằng sợi dây tình cảm giữa cha mẹ với con cái, giữa các anh chị em trong gia đình,

giữa những người thân trong dòng họ. Do đó, sự động viên, chăm lo con cháu trong

thời gian tại ngũ của gia đình không chỉ là bổn phận, trách nhiệm giữa những người

thân trong gia đình với nhau, mà còn thể hiện sự cố kết, truyền thống của gia đình,

dòng họ. Chừng nào những giá trị này vẫn chiếm chủ đạo trong đời sống gia đình,

dòng họ thì chừng đó, sự động viên, chăm lo của gia đình, dòng họ đối với con cháu

trong thời gian tại ngũ vẫn được duy trì ở mức cao nhất. Thực tế cho thấy, phần lớn ở

gia đình, dòng họ Việt Nam hiện nay, con cháu trong các gia đình, dòng họ vẫn được

giáo dục trong môi trường của những gia đình phương Đông, lấy nền nếp, tôn ti, trật

tự, cúng lễ tổ tiên, hiếu lễ với bề trên, tương thân tương ái, đoàn kết nương tựa vào

nhau là chủ đạo. Do vậy, trong những năm tới, vai trò của gia đình, dòng họ đối với

việc động viên, chăm lo cho thanh niên trong thời gian thực hiện NVQS ở các đơn vị

quân đội vẫn được duy trì và có thể tăng cao.

145

Vai trò của gia đình, dòng họ động viên, chăm lo cho con em trong thời gian

thực hiện NVQS ở đơn vị quân đội sẽ tăng cao khi yêu cầu nhiệm vụ BVTQ có

diễn tiễn phức tạp, các đơn vị quân đội luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu

cao, nhiệm vụ chiến đấu của một số đơn vị quân đội mang tính trực tiếp.

ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY

4.3. GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ

Kết quả điều tra cho biết, trong các giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của gia

đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay, bố mẹ của

thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ đều trả

lời với tỷ lệ ở mức đánh giá có khá cao. Tỷ lệ người trả lời với mức đánh giá có từ

cao xuống thấp cho từng giải pháp chủ yếu như sau: Nâng cao nhận thức của các tổ

chức, lực lượng trong xã hội về vai trò của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng

cố quốc phòng, BVTQ là 72,4%; Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm

cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ trở về địa phương là 72,1%; Thường

xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ là 64,3%; Đẩy mạnh việc chăm

lo xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là thiết chế xã hội bền vững là

62,3%; Thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng làng, xã, dòng họ, gia đình

văn hóa là 60,4% (Bảng 4.5).

Bảng 4.5: Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).

Mức độ đánh giá Số lượng Tỷ lệ %

Giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

571

72,4

492

62,3

477

60,4

507 569

64,3 72,1

Nâng cao nhận thức của các tổ chức, lực lượng trong xã hội về vai trò của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ Đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là thiết chế xã hội bền vững Thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng làng, xã, dòng họ, gia đình văn hóa Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ trở về địa phương

Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,

Bảng 41].

146

Những kết quả đánh giá trong bảng 4.5, cùng với những phân tích, đánh giá

thực trạng, những vấn đề đặt ra và một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia

đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên là cơ sở quan trọng để đưa ra

các giải pháp cơ bản.

4.3.1. Nâng cao nhận thức của các tổ chức, lực lượng trong xã hội về vai

trò của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ

quốc hiện nay

Các tổ chức, lực lượng trong xã hội phải củng cố và nâng cao nhận thức về

vai trò của gia đình trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ. Củng cố quốc

phòng để khắc phục hiện tượng quá xem trọng phát triển kinh tế mà bỏ quên nhiệm

vụ BVTQ; không chú trọng khắc phục những bất công bằng xảy ra trong xã hội, ít

quan tâm đến những gia đình khó khăn, neo đơn, có công với cách mạng, gia đình ở

vùng sâu, vùng xa, gia đình có con, em đang thực hiện NVQS; coi nhiệm vụ xây

dựng nền QPTD là của quân đội, công an, mà quên mất vai trò của gia đình, dòng

họ trong đóng góp những thanh niên ưu tú, những người thân ruột thịt cho lực lượng

vũ trang.

Đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện, củng cố các giá trị, chuẩn mực của xã hội về

vai trò của gia đình, dòng họ trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ. Trong mỗi

một thời kỳ, mỗi một giai đoạn cách mạng, việc thay đổi các giá trị đạo đức, kể cả

hiến pháp và pháp luật cho phù hợp là hết sức cần thiết. Nhưng những giá trị, chuẩn

mực tốt đẹp của gia đình, dòng họ truyền thống, như: ông bà, cha mẹ mẫu mực, con

cháu hiếu thảo, tôn ti trật tự trong gia đình, dòng họ, truyền thống chống giặc ngoại

xâm, bảo vệ đất nước của gia đình, dòng họ vẫn phải là các giá trị chủ đạo trong xây

dựng và phát triển xã hội mới. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, tìm ra những giá trị mới,

qua đó hoàn thiện, củng cố các giá trị, chuẩn mực của xã hội về vai trò của gia đình

đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ trong tình hình mới.

Khắc phục triệt để ý thức xem nhẹ vai trò của gia đình trong sự nghiệp củng

cố quốc phòng - an ninh, BVTQ trong xã hội hiện nay. Bởi vì, khi ý thức xem nhẹ

vai trò của gia đình còn tồn tại trong xã hội, nghĩa là xã hội đang xem nhẹ chính

những yếu tố tạo nên sự vững chắc của chính mình. Ngoài ra, thiết chế xã hội về vai

trò của gia đình kể cả khi được hoàn thiện cũng khó có thể phát huy hiệu quả cao

147

nhất. Điều đó có nghĩa, xã hội sẽ đánh mất bản sắc phát triển, xa rời truyền thống

đấu tranh chống giặc ngoại xâm từ ngàn xưa. Qua đó, khó huy động được nhân lực

và vật lực của gia đình vào quá trình xây dựng và BVTQ.

4.3.2. Đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực

sự là thiết chế xã hội bền vững

Phải nâng cao vị trí, vai trò của thiết chế gia đình, dòng họ trong xã hội.

Nghĩa là, phải gắn gia đình, dòng họ với xã hội, gắn thiết chế gia đình, dòng họ với

thiết chế xã hội, nhân rộng những giá trị tốt đẹp của gia đình, dòng họ (truyền thống

yêu nước chống giặc ngoại xâm, tính tôn ti, trật tự, tính ổn định) ra toàn xã hội.

Ngược lại, lấy những quy chuẩn pháp luật của thiết chế xã hội, những giá trị, chuẩn

mực đã được cộng đồng xã hội chấp nhận, ủng hộ để kiểm soát, điều tiết gia đình,

dòng họ, các chức năng của gia đình, dòng họ. Hướng thiết chế gia đình, dòng họ

vào quỹ đạo chuẩn của thiết chế xã hội.

Phải xây dựng, củng cố các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ. Các mối

quan hệ chủ đạo trong gia đình được xác định bao gồm: bố mẹ - con cái, ông bà -

các cháu, chú bác cô - các cháu, anh - chị - em với nhau. Khi các mối các hệ này

được đảm bảo, được duy trì theo các chuẩn của thiết chế gia đình, dòng họ sẽ góp

phần củng cố thiết chế gia đình, dòng họ vững bền. Ngoài ra, thiết chế gia đình,

dòng họ thông qua các quy tắc, chuẩn mực của mình phải điều tiết, kiểm soát

được các thành viên trong gia đình, dòng họ, kiểm soát được các mối quan hệ

trong gia đình, sao cho thiết chế gia đình, dòng họ được xây dựng dựa trên tiêu

chí: ông bà, bố mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, cùng nhau thực hiện mục tiêu

chung xây dựng gia đình đầm ấm, hạnh phúc, dòng họ đoàn kết, tương thân,

tương ái, xây dựng xã hội ấm no, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN

trong thời kỳ mới.

Phải hạn chế, xóa bỏ các giá trị, chuẩn mực lạc hậu của thiết chế gia đình,

dòng họ, xây dựng hệ các giá trị mới phù hợp với sự phát triển của gia đình,

dòng họ trong xã hội hiện nay. Các giá trị, thiết chế lạc hậu của gia đình, dòng

họ như tính bảo thủ, trì trệ, trông chờ, ỉ lại, tính gia trưởng, những cái làm cho

gia đình, dòng họ, các thành viên trong gia đình, dòng họ khó thích nghi với cái

mới, khó có tư duy sáng tạo và cứng nhắc cần phải hạn chế, xóa bỏ. Bởi vì,

148

chính những hệ giá trị lạc hậu của thiết chế gia đình, dòng họ là một trong những

nguyên nhân cơ bản của tình trạng cục bộ địa phương, kìm nén sự phát triển

trong kinh doanh, buôn bán, trong lãnh đạo quản lý đất nước, xã hội, làm suy

giảm vai trò của thiết chế gia đình, dòng họ đối với thiết chế xã hội.

4.3.3. Thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng làng, xã, dòng họ, gia

đình văn hóa, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới

Phải thường xuyên củng cố, hoàn thiện những quy định về xây dựng làng xã,

dòng họ, gia đình văn hóa, gắn xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hoá với xây

dựng và BVTQ. Đó là, trong xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa bên cạnh

việc đưa ra được các quy định, điều ước cụ thể cũng cần phải thường xuyên củng

cố, hoàn thiện những quy ước, nhất là những quy ước về xây dựng, BVTQ cho phù

hợp với sự biến đổi của xã hội, của làng xã và của chính các dòng họ, gia đình. Bởi

vì, xã hội hiện nay là xã hội mở, luôn vận động và phát triển, những quy định, quy

ước của ngày hôm nay chưa chắc để trở thành chuẩn mực của ngày hôm sau.

Phải hiện thực hóa các quy ước về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn

hóa, kiên quyết loại bỏ những thói hư tật xấu, hiện tượng trốn, tránh NVQS và

những vi phạm pháp luật trong làng xã, dòng họ và gia đình. Khi đã đưa ra được

các giá trị, chuẩn mực về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa còn cần phải

hiện thực hóa trong đời sống. Nghĩa là, các quy ước này phải có giá trị đích thực

của nó trong việc định hướng hành vi cho tất cả các thành viên trong xã hội. Và nếu

có các hành vi vi phạm, các quy định về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn

hóa cùng với pháp luật của Nhà nước phải được sử dụng để kịp thời trừng phạt, răn

đe đối tượng vi phạm.

Phải phát huy tính cộng đồng trong xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn

hoá. Vì để xây dựng được làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa cần phải xây dựng

được các quy ước, tộc ước. Các quy ước, tộc ước này chỉ có giá trị đích thực khi

được cả cộng đồng làng xã, dòng họ nhất trí, thông qua và cùng nhau thực hiện. Khi

có sự vi phạm quy ước, tộc ước về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa, thì

đối tượng vi phạm sẽ bị cộng đồng làng xã, dòng họ lên án, tẩy chay và đôi khi sự

lên án, tẩy chay của cộng đồng làng, xã, dòng họ còn mạnh hơn sự trừng phạt của

pháp luật.

149

4.3.4. Thường xuyên quan tâm tới gia đình có con em nhập ngũ

Chính quyền và các tổ chức đoàn thể phải thường xuyên thăm hỏi, động viên,

giúp đỡ những gia đình có con em nhập ngũ. Bởi vì, những hoạt động này vừa mang

lại niềm hạnh phúc, vinh dự cho gia đình, vừa chứng tỏ vai trò, trách nhiệm của chính

quyền và các đoàn thể trong sự nghiệp xây dựng nền QPTD, thể hiện tính cộng đồng,

tinh thần đoàn kết của làng xã Việt Nam hiện nay.

Phải thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, động viên thanh niên đang thực

hiện NVQS tại đơn vị quân đội. Biện pháp này đòi hỏi phải kết hợp giữa đơn vị với

địa phương và gia đình, dòng họ, gắn trách nhiệm của địa phương, gia đình, dòng

họ đối với thanh niên nhập ngũ. Bởi vì, khi mới nhập ngũ, thanh niên phải thay đổi

lối sống, vẫn còn vương vấn nỗi nhớ quê hương, gia đình và người thân; thanh niên

phải học tập, rèn luyện các bài tập quân sự, chính trị, phải gò mình trong khuôn khổ

của kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước nên dễ bị sa sút về ý chí, sợ môi trường

sống của quân đội, thậm chí có ý định đào bỏ ngũ.

Phải kịp thời, đảm bảo chính sách xã hội đối với gia đình có công với cách

mạng, gia đình có con em nhập ngũ. Chính sách xã hội đối với gia đình có công với

cách mạng, gia đình có con, em nhập ngũ thể hiện tính nhân đạo, ưu việt xã hội ta.

Nhưng thực tế, vẫn còn không ít những bất cập trong thực hiện chính sách đối với gia

đình có con em nhập ngũ như: khi bị ốm đau, bệnh tật, những thành viên của gia đình

có công với cách mạng, bố mẹ của thanh niên nhập ngũ không kịp thời được hưởng

chế độ bảo hiểm y tế đối với gia đình có công, với thân nhân bộ đội hoặc có được

hưởng thì cũng rất hạn chế về chăm sóc sức khoẻ và thuốc chữa bệnh; chưa được ưu

tiên trong sản xuất nông nghiệp; chưa thực sự được chính quyền địa phương quan

tâm, giúp đỡ những lúc gặp khó khăn. Hạn chế này sẽ tác động không nhỏ đến vai trò

của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, làm suy giảm sự

đúng đắn của chính sách xã hội của Nhà nước.

4.3.5. Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn

thành nghĩa vụ quân sự, xuất ngũ trở về địa phương

Quân đội cùng với chính quyền địa phương tổ chức các lớp dạy nghề cho bộ

đội xuất ngũ. Việc dạy nghề này cần phải có sự phối kết hợp giữa đơn vị quân đội

với địa phương nơi bộ đội xuất ngũ trở về. Ngay từ trong quá trình tại ngũ, đơn vị

150

quân đội cần quan tâm định hướng nghề phù hợp cho bộ đội, cần liên kết với các

trường dạy nghề trong và ngoài quân đội để giới thiệu những quân nhân có nguyện

vọng học nghề theo học; chính quyền địa phương cần tích cực, chủ động trong việc

giải quyết việc làm cho quân nhân xuất ngũ, cử cán bộ chuyên trách định hướng,

giới thiệu việc làm cho bội bộ xuất ngũ; phối hợp với cơ quan cấp trên, tạo điều

kiện hoặc ưu tiên thanh niên hoàn thành NVQS được học những nghề đang thịnh

hành trong xã hội.

Ưu tiên, hỗ trợ bộ đội hoàn thành NVQS vay vốn lập nghiệp. Đối với những

thanh niên hoàn thành NVQS không muốn theo học nghề để tìm việc làm ngoài xã

hội, mà muốn được phát triển kinh tế tại quê hương nhưng lại thiếu vốn. Trong phạm

vi có thể, chính quyền địa phương cần hỗ trợ vốn, vật nuôi, cây trồng, kỹ thuật cho

họ, hay có thể đứng ra đảm bảo để đối tượng này được ưu tiên vay vốn ở các ngân

hàng; cần tạo điều kiện, khuyến khích họ lập nghiệp tại quê hương, góp phần làm

giàu cho làng xã.

Phát hiện, bồi dưỡng những bộ đội có năng lực, tố chất, tạo điều kiện cho họ

được đào tạo chuyên sâu để phục vụ quân đội lâu dài. Vì bộ đội là một ngành nghề

đặc biệt, ngoài yếu tố sức khoẻ, phẩm chất chính trị tốt, tố chất, năng lực trí tuệ phù

hợp với nghề quân sự cũng đặc biệt quan trọng. Nhất là, trong điều kiện hiện đại

hóa quân đội, việc làm chủ được công nghệ, hay phát minh được công nghệ, vũ khí,

khí tài mới có ý nghĩa sống còn đến sức chiến đấu của quân đội. Việc phát hiện ra

những quân nhân có năng lực, tố chất đặc biệt không những làm tăng sức mạnh của

quân đội mà còn góp phần vào công tác giải quyết việc làm cho thanh niên hoàn

thành NVQS.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Quá trình gia đình, dòng họ thực hiện vai trò giáo dục, động viên con cháu

thực hiện NVQS trong những năm tới có những thuận lợi và khó khăn do các yếu tố

mang lại như: tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương, đất nước, điều

kiện kinh tế, số lượng con trai, nghề nghiệp của gia đình, vai trò của hệ thống chính

trị ở cơ sở, văn hóa kỷ cương làng xã... Do vậy, muốn phát huy tốt vai trò của gia

đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên cần luôn chú ý đến các

yếu tố thuận lợi, khắc phục triệt để những mặt tiêu cực, khó khăn của chúng.

151

Dựa trên những kết quả nghiên cứu thực trạng vai trò của gia đình, dòng họ

đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, luận án đã rút ra một số vấn đề. Ngoài

ra, trên những đánh giá, phân tích thực trạng và các giá trị có tính bền vững của gia

đình, dòng họ trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước, đấu tranh giải phóng dân

tộc, luận án đưa ra một số đánh giá. Những đánh giá này phần nào cho thấy sự gia

tăng vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

trong những năm tới đây. Điều này khẳng định giả thuyết: Trong những năm tới, vai

trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên trong giáo

dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động

viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh

niên lên đường nhập ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị

quân đội sẽ ngày càng tăng là đúng.

Hệ thống giải pháp luận án đưa ra được dựa trên các kết quả nghiên cứu, phân

tích, tổng hợp trong suốt quá trình nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc

thực hiện NVQS của thanh niên. Cho nên, những giải pháp này hoàn toàn có tính khả

thi và nếu được áp dụng đúng sẽ góp phần nâng cao vai trò của gia đình, dòng họ đối

với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.

152

KẾT LUẬN

1. Lý luận và thực tiễn đều chỉ ra và khẳng định rằng, gia đình, dòng họ giữ vị

trí, vị thế xã hội đặc biệt quan trọng trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ,

gia đình tốt thì xã hội mới tốt, muốn xây dựng xã hội tốt đẹp phải xây dựng gia đình

ấm no, hạnh phúc, tiến bộ.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã ghi nhận sự đóng

góp to lớn, hiệu quả của gia đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ cung cấp nhân lực,

vật lực cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, giành và giữ độc lập dân tộc. Gia đình,

dòng họ là cái nôi nuôi dưỡng ý thức giữ gìn đất nước, khơi dậy và phát huy ý thức

kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm cho mỗi thành viên, chăm lo cho con

em khi ra chiến trường đánh giặc và khi họ chiến thắng trở về. Các gia đình, dòng

họ ở Việt Nam đã thực hiện tốt vị thế tế bào cơ bản của xã hội, thiết chế xã hội

trong việc giáo dục, động viên, tổ chức cho con em đánh giặc giữ nước.

Kế tiếp truyền thống đó, trong thời kỳ xây dựng và BVTQ, các gia đình,

dòng họ đã phát huy vai trò trong việc nuôi dưỡng và phát huy ý thức BVTQ cho

con em. Đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, gia đình, dòng họ đã giáo

dục và tuyên truyền NVQS; giáo dục và động viên con em đăng ký, khám tuyển

NVQS, lên đường nhập ngũ khi có lệnh gọi; động viên và chăm lo con em trong

thời gian họ tại ngũ. Như thế, trong thời kỳ mới, gia đình và dòng họ vẫn là môi

trường quan trọng, trực tiếp giáo dục và phát huy nếp sống, hình thành nhân cách

con người sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội cho

các thế hệ thanh niên.

2. Kết quả điều tra khảo sát thực tiễn về vai trò của gia đình, dòng họ đối với

việc thực hiện NVQS của thanh niên ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội và ở một

đơn vị quân đội trong năm 2012, 2013 cho thấy: Một là, gia đình, dòng họ giữ vai

trò quan trọng nổi trội trong việc giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS.

Hai là, gia đình, dòng họ góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị nhân lực cho quân

đội, cho sự nghiệp BVTQ. Hoạt động chuẩn bị đó thông qua việc thực hiện chức

năng giáo dục, tuyên truyền NVQS, xây dựng ý thức BVTQ; giáo dục, động viên

con em nhập ngũ và thăm hỏi, động viên, chăm lo cho con em hoàn thành tốt

153

NVQS. Ba là, vai trò của gia đình, dòng họ được phát huy cao nhất, giữ vị trí quan

trọng, quyết định nhất trong việc giáo dục, động viên con em lên đường nhập ngũ

khi có lệnh gọi nhập ngũ. Thực tế chỉ ra rằng, việc bảo đảm đủ số lượng người nhập

ngũ của từng địa phương trong từng đợt tuyển quân phụ thuộc rất lớn vào quyền uy

của gia đình, dòng họ đối với thanh niên.

Vai trò là kiểu hành vi, hoạt động mà một người hay một nhóm người cần phải

thực hiện một cách tương ứng với vị thế xã hội của họ [46, tr.159]. Tập hợp vai trò

liên quan trực tiếp tới chức năng; chức năng chính là vai trò mà hành vi cá nhân hay

thiết chế xã hội đảm nhận, thực hiện. Kết quả điều tra khảo sát thực tế đã cho thấy và

khẳng định rõ, các gia đình, dòng họ luôn luôn thực hiện các công việc trong thực

hiện NVQS của thanh niên tương ứng với vị thế tế bào xã hội, thiết chế xã hội, một

giá trị, đơn vị lễ nghi. Các gia đình, dòng họ đã thực hiện đúng, tốt các chức năng,

nhất là các chức năng giáo dục, xã hội hóa, tâm lý, tình cảm đối với việc thực hiện

NVQS của thanh niên.

Kết quả điều tra khảo sát thực tế cũng chỉ ra rằng, để các nghiên cứu xã hội học

thực nghiệm về vai trò của gia đình có hiệu quả cần xác định đúng các chỉ báo, chỉ số

trên cơ sở thao tác hóa các chức năng của gia đình phù hợp với vấn đề nghiên cứu.

Các chức năng của gia đình mang tính chung, đối với các vấn đề cụ thể của cuộc

sống, các chức năng của gia đình sau khi đã thao tác hóa, xác định chỉ báo, chỉ số

mang tính riêng. Đóng góp khoa học của các công trình nghiên cứu xã hội học thực

nghiệm ở việc thao tác hóa các chức năng của gia đình, xác định chỉ báo, chỉ số phù

hợp với vấn đề nghiên cứu.

3. Kết quả điều tra khảo sát thực tế không chỉ góp phần khẳng định tính khoa

học các lý thuyết về gia đình, về vai trò xã hội, vai trò xã hội của gia đình, mà còn

khẳng định tính đúng của các giả thuyết nghiên cứu đã xác định.

Các giả thuyết khoa học: Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên luôn thể hiện vai trò quan trọng, quyết định trong giáo dục, tuyên truyền

NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh niên tham

gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập

ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội; Vai trò của gia

đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với đặc

154

điểm của gia đình, số lượng con trai của gia đình; Trong những năm tới, vai trò của

gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên trong giáo dục, tuyên

truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh

niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên

đường nhập ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội sẽ

ngày càng tăng về cơ bản được kiểm nghiệm là đúng. Chỉ có giả thuyết, vai trò của

gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với

số lượng con trai của gia đình chưa được chứng minh là đúng trong nghiên cứu này.

4. Nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn lực cho sự nghiệp củng cố nền QPTD,

BVTQ phải phát huy tốt vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS

của thanh niên. Muốn vậy, cần thực hiện tốt các giải pháp: Nâng cao nhận thức của

các tổ chức, lực lượng trong xã hội về vai trò của gia đình, dòng họ đối với sự

nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ; Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm

cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ trở về địa phương; Thường xuyên quan

tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ; Đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng gia đình,

dòng họ Việt Nam thực sự là thiết chế xã hội bền vững; Thường xuyên quan tâm

đến công tác xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa cũng sẽ góp phần to lớn

vào sự khẳng định vai trò của gia đình, dòng họ.

Trong những năm tới, quá trình thực hiện vai trò của gia đình và dòng họ đối

với thực hiện NVQS của thanh niên có nhiều thuận lợi nhưng cũng có những khó

khăn trở ngại. Điều này phụ thuộc vào nhận thức về vai trò của gia đình, dòng họ,

vào quá trình xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ; phụ thuộc vào phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước, vào sự vận hành của các thiết chế xã hội

và dư luận xã hội. Dù thế nào, vai trò của gia đình và dòng họ đối với thực hiện

NVQS của thanh niên luôn giữ vị trí quan trọng, nổi trội, quyết định và ngày càng

phát huy, phát triển, nâng cao và điều này là một xu thế.

5. Nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của

thanh niên hiện nay là một nghiên cứu xã hội học có ý nghĩa thiết thực đối với sự

nghiệp củng cố nền QPTD, xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN. Kết quả nghiên

cứu đã mở ra một hướng mới nghiên cứu về gia đình trong lĩnh vực quân sự; giúp

155

cho các cấp lãnh đạo chỉ huy đơn vị có thêm những cách thức, biện pháp thực hiện

công tác gọi thanh niên nhập ngũ và quản lý thanh niên trong thời gian tại ngũ.

Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn và tương đối mới mẻ đối với xã hội học trong

lĩnh vực quân sự, do đó, vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu sâu, rộng và hệ

thống hơn.

156

KHUYẾN NGHỊ

1. Đối với Nhà nước: Nhà nước cần thường xuyên đổi mới, củng cố, hoàn

thiện chính sách và thực hiện tốt chính sách đối với gia đình có công với cách

mạng, có thân nhân thực hiện NVQS. Từ đó, tạo nên sự yên tâm, tin tưởng, khích lệ

gia đình làm tròn bổn phận, trách nhiệm của gia đình đối với việc động viên, tổ

chức cho thanh niên thực hiện NVQS.

2. Đối với các cơ quan chức năng:

- Cần phát hiện và kịp thời nêu gương những gia đình điển hình trong phát huy

vai trò đối với việc tuyên truyền, động viên, chăm lo cho thanh niên thực hiện

NVQS. Có như vậy mới tạo ra sự đồng thuận trong toàn xã hội về sự tham gia của

gia đình đối với việc giáo dục, tuyên truyền NVQS, xây dựng và củng cố nền

QPTD, BVTQ Việt Nam XHCN.

- Cần chú trọng, đẩy mạnh tạo việc làm cho thanh niên xuất ngũ, tạo điều kiện

cho thanh niên xuất ngũ có chí hướng học lên cao đẳng, đại học; có biện pháp kịp

thời, hỗ trợ thanh niên xuất ngũ được vay vốn ưu đãi để lập nghiệp. Qua đó, tạo nên

sự yên tâm, tin tưởng của gia đình nói chung, gia đình có thanh niên xuất ngũ nói

riêng, để các gia đình luôn phát huy tốt nhất vai trò đối với quá trình thực hiện

NVQS của thanh niên.

- Cần đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền để các làng xã, dòng họ, gia đình luôn

chú trọng giữ gìn, bảo tồn và phát huy những gia quy, tộc ước tốt đẹp đã hình thành

và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân

tộc, quy định các thành viên trong gia đình và dòng họ phải thực hiện nghĩa vụ đối

với quê hương, đất nước.

- Trong công tác thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay cần phải coi trọng

yếu tố đặc điểm của gia đình như nghề nghiệp, học vấn, nhất là gia đình có bố mẹ là

đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên để có thể phát huy tốt nhất vai

trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.

3. Đối với đơn vị quân đội: Đơn vị quân đội nơi thanh niên đóng quân phải

luôn luôn coi trọng sự kết hợp với gia đình và chính quyền, các đoàn thể địa phương

để tạo nên một kênh liên lạc hữu ích giúp gia đình, dòng họ phát huy tốt nhất vai trò

trong tuyên truyền, động viên, chăm lo cho thanh niên thực hiện NVQS.

157

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Bạch Hoàng Khánh (2011), “Giải pháp phát huy vai trò gia đình đối với

việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay”, Tạp chí Giáo

dục lý luận chính trị quân sự, (1).

2. Bạch Hoàng Khánh (2012), “Vai trò của gia đình trong xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc hiện nay”, Đại hội XI của Đảng với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 267.

3. Bạch Hoàng Khánh (2014), “Vai trò của gia đình trong thực hiện nghĩa vụ

quân sự của thanh niên”, Tạp chí Quản lý giáo dục, (2).

4. Bạch Hoàng Khánh (2014), “Phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ

sở với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên”, Tạp chí Tuyên

giáo, (5).

158

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT

ơ

1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

2. Chung Á, Nguyễn Đình Tấn (1997), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

3. L. Therese Baker (1998), Thực hành nghiên cứu xã hội, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

4. Ban chỉ huy quân sự thị trấn Vân Đình, Báo cáo thực hiện nhiệm vụ năm 2011,

phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2012.

5. Mai Huy Bích (2009), Xã hội học gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Tony Bilton và cộng sự (1993), Nhập môn xã hội học, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

7. Đỗ Thị Bình - Lê Ngọc Văn - Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt

Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Nguyễn Thanh Bình (2001), Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở

tuổi thiếu niên trong gia đình thành phố hiện nay, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

9. Bộ Quốc phòng - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Hướng dẫn thực hiện một

số điều của Nghị định số 38/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2007 của

Chính phủ về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời bình đối

với công dân nam trong đội tuổi gọi nhập ngũ, Thông tư liên tịch số

175/2011/TTLT-BQP-BGDĐT, ngày 13 tháng 9 năm 2011.

10. Bộ Quốc phòng - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Sửa đổi, bổ sung một số

điều của Thông tư liên tịch số 175/2011/TTLT-BQP-BGDĐT ngày 13 tháng

9 năm 2011 của Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực

hiện một số điều của Nghị định số 38/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm

2007 của Chính phủ về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ

thời bình đối với công dân nam trong độ tuổi gọi nhập ngũ, Thông tư liên

tịch số 13/2013/TTLT-BQP-BGDĐT, ngày 22 tháng 1 năm 2013.

159

11. Bộ Quốc phòng, Trung tâm từ điển bách khoa quân sự (2005), Từ điển Bách

khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

12. Bộ Tư pháp (2010), Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

13. Bộ Tư pháp (2007), Luật Nghĩa vụ quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Unicef và Viện Gia

đình và Giới (6/2008), Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, Hà

Nội.

15. Léopold Cadière (1997), Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Văn

hoá - Thông tin, Hà Nội.

16. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa & tộc người, Nxb

Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

17. Chính phủ (2007), Về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời

bình đối với công dân nam trong độ tuổi gọi nhập ngũ, Nghị định số

38/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2007.

18. Bruce J. Cohen, Terri L. Orbuch, Nguyễn Minh Hoà dịch (1995), Xã hội học

nhập môn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. 20. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Sự thật, Hà Nội. 21. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội. 22. Phan Đại Doãn (2008), Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế văn hóa xã

hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Phan Đại Doãn (1999), “Cơ sở kinh tế và thể chế tông pháp của dòng họ

người Việt”, Tạp chí dân tộc học, (3), Hà Nội.

24. Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc (1990), “Mối quan hệ làng, họ và gia

đình truyền thống”, Tạp chí Xã hôi học, 31 (3), tr. 26-33.

25. Phan Đại Doãn (1994), “Tìm hiểu chức năng và đặc điểm gia đình người Việt

dưới giác độ Xã hội học Lịch sử”, Tạp chí Xã hội học, số 46 (2), tr.11-19. 26. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia,

Hà Nội.

160

27. Nguyễn Chí Dũng (2006), “Kiểu loại gia đình và giáo dục trẻ em trong gia

đình ở Hà Nội hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, (2), tr.21-27.

28. Emile Durkheim, Nguyễn Gia Lộc dịch (1993), Các quy tắc của phương

pháp xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Chỉ thị 49-CT/TW về xây dựng gia đình

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 21 tháng 2 năm 2005.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Hồ Ngọc Đại (1990), “Tam giác gia đình”, Tạp chí xã hội học, 31 (1), tr. 3-5. 33. Guter Endruweit (1999), Các lý thuyết xã hội học hiện đại, Nxb Thế giới, Hà Nội. 34. Guter Endruweit, Gisela Troomsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

35. J. H. Fischer, Trần Văn Đính dịch (1973), Xã hội học, Nxb Sài Gòn (cũ). 36. Mai Văn Hai (2009), “Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá

trị cơ bản của văn hoá làng Việt trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá”, Tạp chí Xã hội học, 105 (1), tr. 36-41.

37. Mai Văn Hai, Quan hệ dòng họ và những quan niệm khác nhau về vai trò

của nó, http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa.

38. Mai Văn Hai, Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ sông

Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2003), Xã hội học văn hoá, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

40. Phạm Xuân Hảo (Chủ biên) (2001), Xã hội học quân sự, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

41. Phạm Xuân Hảo (2005), Một số vấn đề xã hội học trong xây dựng quân đội, xây

dựng nền quốc phòng toàn dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

42. Phạm Xuân Hảo (2006), Vai trò của gia đình trong giữ nước hiện nay, in

trong sách: Gia đình Việt Nam - Quan hệ, quyền lực và xu hướng biến đổi,

Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

161

43. Francois Houtart & Geneviève Lemercinier (2001), Xã hội học về một xã ở

Việt Nam (Tham gia xã hội, các mô hình văn hóa, gia đình, tôn giáo ở xã Hải

Vân), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

44. Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học Kinh tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 45. Lê Ngọc Hùng (2009), Lịch sử & lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

46. Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học Giáo dục, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 47. Lê Ngọc Hùng (2013), Lý thuyết xã hội học hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

48. Lê Ngọc Hùng - Lưu Hồng Minh đồng chủ biên (2009), Giáo trình Xã hội học, Nxb

Dân trí, Hà Nội.

49. Vũ Tuấn Huy (2002), “Vai trò của người cha trong gia đình”, Tạp chí Xã hội học, 80

(4), tr. 29-39.

50. Vũ Tuấn Huy (2006), “Những vấn đề của gia đình Việt Nam trong quá trình

biến đổi xã hội theo xu hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa”, Tạp chí Xã

hội học, 94 (2), tr. 13-20.

51. Huyện Ứng Hoà (2010), Lịch sử Đảng bộ huyện Ứng Hoà (1930 - 2010) (Tái bản

lần thứ nhất), Nxb Lao động, Hà Nội.

52. Đặng Cảnh Khanh (2005), “Gia đình là một giá trị”, Tạp chí Gia đình và trẻ em (9). 53. Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý (2007), Gia đình học, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

54. Nguyễn Linh Khiếu (1995), “Góp phần tìm hiểu các nhân tố tác động đến

tích tích cực của các gia đình trong giai đoạn hiện nay (qua khảo sát ở các

tỉnh phía Nam)”, Tạp chí Xã hội học, 52 (4), tr. 87-91.

55. Warren Kidd, Mark Kirby và các tác giả (2006), Những bài giảng về xã hội

học, Nxb Thống kê, Hà Nội.

56. John Kleinen (2013), Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ (2013),

Nxb Lao động, Hà Nội.

57. Hermann Korte, Nguyễn Liên Hương dịch (1997), Nhập môn lịch sử xã hội

học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

162

58. Tương Lai (Chủ biên) (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Nghiêm Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở

nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học.

60. Vũ Mạnh Lợi (2006), “Một số xu hướng và thái độ của thanh niên Việt Nam

với vấn đề việc làm”, Tạp chí Xã hội học, 52 (4), tr. 13-26.

61. Trịnh Duy Luân (2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 62. Trịnh Duy Luân và Helle Rydstrom - Wil Burghoorn đồng chủ biên (2008),

Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

63. John. J. Macionis (2004), Xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 64. Nguyễn Đức Mạnh (2002), Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em

hư ở thành phố (Qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội), Luận án Tiến sĩ Xã

hội học.

65. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 66. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. Nguyễn Hữu Minh (2006), “Gia đình - nguồn hỗ trợ tình cảm cho thanh niên

và vị thành niên”, Tạp chí Xã hội học, (3), tr. 25-39.

70. Mai Quỳnh Nam (2004), Gia đình trong tấm gương xã hội học, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

71. Lê Mạnh Năm (2000), “Vai trò của gia đình nông thôn đồng bằng sông Hồng

trong vấn đề giải quyết việc làm cho con cái”, Tạp chí Xã hội học, (2), tr. 30-36. 72. Philippe Papin - Olivier Tessier chủ biên (2002), Làng ở vùng châu thổ sông

Hồng vấn đề còn bỏ ngỏ (Le Village en questions), Trung tâm Khoa học xã

hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.

73. Vũ Hào Quang (2006), Gia đình Việt Nam - Quan hệ, quyền lực và xu hướng

biến đổi, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

74. Vũ Hào Quang (2004), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 75. Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu Xã

hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

163

76. Richard T.Schaefer (2005), Xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 77. Martine Segalen (2013), Xã hội học gia đình, Nxb Thế giới, Hà Nội. 78. Jan Szczepanski (1969), Những khái niệm cơ bản của xã hội học (bản dịch tiếng

Nga), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

79. Nguyễn Đình Tấn - Lê Tiêu La đồng chủ biên (1999), Vai trò nam chủ hộ

ngư dân ven biển trong bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt

Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Nguyễn Đình Tấn - Nguyễn Chí Dũng đồng chủ biên (2007), Giáo trình xã hội học

trong quản lý (Hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

81. Nguyễn Đình Tấn (2004), Một số lý thuyết cơ bản trong lịch sử xã hội học, Trung

tâm Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

82. Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 83. Nguyễn Đình Tấn (Chủ biên) (2008), Giáo trình xã hội học, Học viện Cảnh

sát nhân dân, Hà Nội.

84. Bùi Đình Thanh (2002), “Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng”,

Tạp chí Xã hội học, 80 (4), tr. 13-19.

85. Nguyễn Quý Thanh (2008), Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội.

86. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 87. Lê Thi (Chủ biên) (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách

con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

88. Hoàng Bá Thịnh (2006), Biến đổi chức năng của gia đình và giáo dục trẻ em

hiện nay, Đại học Quốc gia Hà Nội.

89. Tổng cục Chính trị (2013), Thông báo nội bộ, (Tài liệu phục vụ sinh hoạt và

học tập ở chi bộ hàng tháng), tháng 8 năm 2013.

90. Tổng cục Chính trị (1995), Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc

kháng chiến chống Mĩ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 91. Tổng cục Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước

thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Tổng cục Chính trị (1960), Tổng kết công tác chính trị của Quân đội nhân

dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

164

93. Lê Trung Trấn (2006), “Giáo dục gia đình trong thời đại ngày nay”,

http://www.gopfp.gov.vn/so-6-51.

94. Trung tâm nghiên cứu Giới và Phát triển, Lê Thị Quý chủ nhiệm (2011), Vấn

đề gia đình trong phát triển xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Báo cáo

tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước, Mã số:

KX.02.23/06-10, Hà Nội.

95. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

96. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nguyễn Khánh Toàn chủ biên (1971),

Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

97. Uỷ ban nhân dân xã Đại Cường, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế

- xã hội năm 2011, phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012 (Báo

cáo tại kỳ họp thứ 16, HĐND xã khoá XVIII)

98. Uỷ ban nhân dân xã Quảng Phú Cầu, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm

2013 (Báo cáo tại kỳ họp thứ 6 - HĐND xã khoá XIX)

99. Uỷ ban nhân dân xã Quảng Phú Cầu, Quy ước làng văn hóa (Làng Phú

Lương Hạ, xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa), Hà Tây - 1999.

100.Uỷ ban nhân dân xã Quảng Phú Cầu, Tộc ước Họ Đỗ Văn - Phú Lương, Bản

sửa đổi bổ sung lần thứ 2, năm 2007.

101.Đặng Nghiêm Vạn (1991), “Dòng họ, gia đình các dân tộc ít người trước sự

phát triển hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.10-18.

102.Lê Ngọc Văn (1997), Gia đình với chức năng xã hội hoá, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

103.Lê Ngọc Văn (Chủ biên) (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với

gia đình Việt Nam hiện nay (Phân tích các tài liệu nghiên cứu và điều tra về

gia đình Việt Nam được tiến hành 15 năm gần đây (1990-2004), Nxb Uỷ ban

Dân số Gia đình và Trẻ em, Hà Nội.

104.Lê Ngọc Văn (Chủ biên) (2006), Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền,

quan điểm giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

165

105.Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

106.Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng (2000), Tác động

của những biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta đến quá trình xây dựng Quân

đội nhân dân Việt Nam về chính trị trong giai đoạn mới, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

107.Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện nghiên cứu Xã hội học (1988),

Những cơ sở nghiên cứu xã hội học, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va.

108.Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

109.Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà

Nội.

110.http://citinews.net/kinh-doanh/chenh-lech-lon-ve-thu-nhap-binh-quan-dau-

nguoi-giua-cac-huyen.

111.http://dantri.com.vn/kinh-doanh/thu-tuong-gdp-binh-quan-dau-nguoi

112.http://hanoimoi.com.vn

113.http://thanglong.chinhphu.vn/

114.http://www.tienphong.vn/gioi-tre-israel-truong-thanh-trong-quan-ngu

115. http://trianlietsi.vn/

116. http://tuoitre.vn

117.http://unghoa.hanoi.gov.vn

118. http://vov.vn

II. TIẾNG ANH

119.Ambert, Anee-Marie (2006), Changing Families: Relationships in Context.

Toronto, ON: Pearson.

120.Baker, Maureen (2007), Choices and Constraints in Family Life, New York,

NY: Oxford University Press.

121.Eastman, Lloyd E (1988), Family, Fields and Ancestors, Toronto, ON:

Oxford University Press.

122.Howard, Jane (1978), Families, New York, NY: Simon & Schuster.

123.Irving, Howard H (2002), Family Mediation: Theory and Practice with

Chinese Families, Aberdeen, HK: Hong Kong University Press.

166

124.Kumagai, Fumie (2008), Families in Japan: Changes, Continuities, and

Regional Variations, Toronto, ON: University Press of America.

125.Lefebvre, Henri. 1968. The Sociology of Marx. New York, NY: Vintage.

126.Lewis, Oscar (1959), Five Families: An Intimate and Objective Revelation of

Family Life in Mexico Today-a Dramatic Study of the Culture of Poverty,

Toronto, ON: Mentor.

127.Mandell, Nancy and Ann Duffy (2005), Canadian Families 3rd Edition,

Toronto, ON: Thomson Nelson.

128. Robert V. Krejcie & Daryle W. Morgan (1970), Determining sample size

for research activities, Educational and Psychological Measurement, pp. 30,

607-610.

129.Sociology by Leonard Broom and Philip Selznick copyright 1998 by Row,

Peterson and Company Evanston, Illinois, USA.

130.https://www.census.gov

131.https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook. 132.http://www.dss.mo.gov/cd/info/cwmanual/section7. 133.http://edition.cnn.com

134.https://www.familysystemstraining.com/papers/bowen-illustration-and-

critique.

135.http://www.slideshare.net/guestb636eb/structural-family-theory.

136.https://www.thebowencenter.org/pages/murraybowen.

PHỤ LỤC

Bảng 1: Điều kiện trúng tuyển NVQS của thanh niên (với N = 789)

Điều kiện trúng tuyển NVQS của thanh niên

Mức độ đánh giá Có (SL/%) 745/94,4 653/82,7 269/34,1 365/46,3 211/26,7

Không (SL/%) 44/5,6 136/17,3 520/65,9 424/53,7 578/73,3

Có đủ điều kiện về sức khoẻ và học vấn Có tinh thần tự nguyện, xung phong Bố mẹ muốn quân đội rèn luyện con cái Thanh niên thi trượt các trường cao đẳng, đại học Không nhờ cậy ai Bảng 2: Việc nhập ngũ của thanh niên thời kỳ đất nước có chiến tranh (với N = 789) Việc nhập ngũ của thanh niên thời kỳ đất nước có chiến tranh

Mức độ đánh giá Có (SL/%) 668/84,7 194/26,4 401/50,8 202/25,6 363/46,1 518/65,7 123/15,6 85/10,8

Không (SL/%) 121/15,3 595/75,4 388/49,2 587/74,4 425/53,9 271/34,3 666/84,4 704/89,2

Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định Vì danh dự của gia đình, dòng họ Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ Vì sự động viên của gia đình, dòng họ Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước Miễn cưỡng nhập ngũ Không có sự lựa chọn nào khác Bảng 3: Vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay (với N = 789)

Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá

Rất quan trọng Quan trọng

Khó đánh giá

164/20,8 235/29,8 186/23,6

592/75,0 436/55,3 539/68,3

22/2,8 74/9,4 45/5,7

Không quan trọng 11/1,4 44/5,6 19/2,4

Mức độ đánh giá

Đóng góp về con người Đóng góp về vật chất Đóng góp về tinh thần Bảng 4: Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ (với N = 789) Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên

Rất quan trọng 380/48,2 323/40,9 309/39,2 506/64,1 391/49,6 241/30,5 166/21,1

Quan trọng 269/34,1 369/46,8 386/48,9 244/30,9 266/33,7 381/48,3 454/57,5

Không quan trọng 32/4,1 18/2,3 12/1,5 9/1,2 39/4,9 26/3,3 52/6,6

Khó đánh giá 108/13,6 79/10,0 82/10,4 30/3,8 93/11,8 141/17,9 117/14,8

Nhà trường Hệ thống chính quyền cơ sở Các tổ chức đoàn thể ở địa phương Gia đình Dòng họ Truyền thông đại chúng Bạn bè của thanh niên

Bảng 5: Vai trò của các tổ chức, lực lượng, phương tiện trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên (số lượng/ tỷ lệ %).

Vai trò của gia đình, dòng họ và hoạt động của các tổ chức, lực lượng

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198)

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Mẫu tổng thể (N=789 )

Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 349/88,8

644/81,6

218/55,1

454/57,5

211/53,7

414/52,5

403/51,1

206/52,4

396/50,2

196/49,9

142/71,7 124/62,6 105/53,0 96/48,5 97/49,0

153/77,3 112/56,6 98/49,5 101/51,0 103/52,0

148/18,8

71/18,1

365/46,2

187/47,6

41/20,7 93/46,9

36/18,2 85/42,9

106/13,4

45/11,5

23/11,6

38/19,2

Gia đình Dòng họ Nhà trường Truyền thông đại chúng Hệ thống chính quyền cơ sở Bạn bè thanh niên Ban, ngành, đoàn thể địa phương Tự tìm hiểu Bảng 6: Cảm nhận của gia đình khi thanh niên đến tuổi nhập ngũ, đi đăng ký khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %).

Cảm nhận của gia đình

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198)

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Mẫu tổng thể (N=789 )

Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 358/ 91,1

160/ 80,8

Phấn khởi, tự hào

157/ 79,3

Băn khoăn, lo lắng

28/ 14,1

23/ 11,6

81/ 20,6

120/ 60,6

125/ 63,1

296/ 75,3

14/ 7,1

11/ 5,6

52/ 13,2

675/85, 6 132/16, 7 541/68, 6 77/9,8

Cơ hội để thanh niên rèn luyện Muốn con em được miễn, hoãn

Bảng 7: Hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện vai trò trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).

Những hoạt động giáo dục, tuyên truyền của gia đình, dòng họ

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Mẫu tổng thể (N=789 )

Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 218/ 55,5

89/ 45,0

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 86/ 43,4

393/49, 8

93/ 46,9

87/ 43,9

213/ 54,2

383/48, 5

95/ 48,0

102/ 51,5

197/ 50,1

281/ 71,5

130/ 65,7 127/ 64,1

394/49, 9 538/68, 2

272/ 69,2

122/ 61,6 120/ 60,6

514/65, 1

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Con em tự tìm hiểu

59/ 29,8

57/ 28,8

69/ 17,6

185/23, 4

Vai trò của gia đình, dòng họ và hoạt động của các tổ chức, lực lượng

Mẫu tổng thể (N=789 )

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198)

Bảng 8: Vai trò của các lực lượng, tổ chức, cá nhân trong gặp gỡ, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %). Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 195/49,6

Chủ tịch, phó chủ tịch xã

95/ 48,0

81/ 40,9

371/47,

309/78,6

152/ 76,8

147/ 74,2

294/74,8

139/ 70,2

130/ 65,7

319/81,2

157/ 79,3

158/ 79,8

Chỉ huy trưởng, chỉ huy phó quân sự xã Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn Trưởng thôn

303/77,1

143/ 72,2

128/ 64,6

Đoàn thanh niên

Hội phụ nữ

133/ 67,2

129/ 65,2

250/63,6

Hội cựu chiến binh

140/ 70,7

138/ 69,7

267/67,9

Người thân trong dòng họ

116/ 58,6

122/ 61,6

219/55,7

Người thân trong gia đình

160/ 80,8

176/ 88,9

328/83,5

Bạn bè của thanh niên

170/43,3

89/ 44,9

88/ 44,4

10/2,5

0/0,0

0/0,0

0 608/77, 1 563/71, 4 634/80, 4 574/72, 8 512/64, 9 545/69, 1 457/57, 9 664/84, 2 347/44, 0 10/1,3 Không có ai Bảng 9: Hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện vai trò trong gặp gỡ, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %).

Những hoạt động của gia đình, dòng họ

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Mẫu tổng thể (N=789 )

Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 328/ 83,5

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 138/ 69,7 141/ 71,2

607/76, 9

118/ 59,6 112/ 56,6

172/ 43,8

402/51, 0

129/ 65,2 132/ 66,7

259/ 65,9

520/65, 9

Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS

117/ 59,1 119/ 60,1

179/ 45,5

415/52, 6

105/ 53,0 104/ 52,5

161/ 41,0

370/46, 9

113/ 57,1 118/ 59,6

277/ 70,5

508/64, 4

17/ 8,6

10/ 5,1

28/ 7,1

55/7,0

Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Gia đình để con, cháu tự đi khám tuyển NVQS

Bảng 10: Gia đình, dòng họ và các tổ chức lực lượng trong giáo dục, động viên thanh niên trúng tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %).

Nhóm đối tượng khảo sát

Những hoạt động của các tổ chức, lực lượng

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 125/ 63,1

148/ 74,7

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 273/ 68,9

Trưởng họ và bác chú cô trong họ Cựu chiến binh Cụ già trong thôn Bạn bè thanh niên Người thân trong gia đình

44/ 22,2 40/ 20,2 49/ 24,7 145/ 73,2

31/ 15,7 30/ 15,2 63/ 31,8 180/ 90,9

75/ 18,9 70/ 17,7 112/ 28,3 325/ 82,1

Mức độ đánh giá

Bảng 11: Lý do không lên đường nhập ngũ của thanh niên (với N = 393). Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên có giấy gọi trúng tuyển NVQS, chuẩn bị nhập ngũ

Có (SL/%) 114/29,0 49/12,5 28/7,1 70/17,8

Không (SL/%) 279/71,0 344/87,5 365/92,9 323/82,2

115/29,3 243/61,8 46/11,8

278/70,7 150/38,2 347/88,2

Do con em không đủ điều kiện về sức khoẻ Do con em không đủ điều kiện về học vấn Do gia đình không muốn con em nhập ngũ Do điều kiện gia đình neo đơn, khó khăn nên con em được miễn, hoãn Do chỉ tiêu tuyển quân ít nên con em không trúng tuyển Do con em đã có giấy gọi vào cao đẳng, đại học Do con em không muốn nhập ngũ nên tìm mọi cách để không trúng tuyển

Số lượng

Tỷ lệ %

Bảng 12: Lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em Lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em

98,5 1,5 100,0

387 6 393

Có lựa chọn Không lựa chọn Tổng Bảng 13: Những lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em

Tỷ lệ %

Số lượng

44,3 19,6 34,6 1,5 100,0

174 77 136 6 393

Những lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em Muốn con em trúng NVQS Muốn con em ở nhà Muốn con em đi học Không lựa chọn Tổng Bảng 14: Những hoạt động của gia đình, dòng họ đối với thanh niên trước khi lên đường nhập ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).

Nhóm đối tượng khảo sát

Những hoạt động của gia đình, dòng họ

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198)

Bố,mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396)

189/ 95,5

195/ 98,5

384/97,0

114/ 57,6

148/ 74,7

262/66,2

60/ 30,3

62/ 31,3

122/30,8

44/ 22,2 35/ 17,7

51/ 25,8 44/ 22,2

95/24,0 79/19,9

Gia đình tổ chức liên hoan, mời đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú, bác, cô trong dòng họ, mời bạn bè của thanh niên đến chia tay thanh niên Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên Dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên Đại diện người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội

Bảng 15: Dòng họ tham gia giáo dục, động viên thanh niên làm NVQS khi có

giấy gọi nhập ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).

Nhóm đối tượng khảo sát

Sự tham gia giáo dục, động viên thanh niên làm NVQS của dòng họ

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 155/78,3

Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 158/79,8

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 313/79,0

23/11,6

11/5,6

34/8,6

Không

21/10,6

28/14,1

49/12,4

Không rõ Bảng 16: Những cá nhân, tổ chức được gia đình mời trong liên hoan chia tay

thanh niên (số lượng/ tỷ lệ %).

Những cá nhân, tổ chức được gia đình mời trong liên hoan chia tay thanh niên

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198)

Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 92/23,2

Đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền,

Nhóm đối tượng khảo sát Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 33/16,7

59/29,8

đoàn thể địa phương

Những người thân trong trong dòng họ

337/85,1

Bạn bè thân thiết của thanh niên

314/79,3

178/89,9 143/72,2

159/80,3 171/86,4

Bảng 17: Những người thân trong gia đình quan tâm, lo lắng cho thanh niên

tại ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).

Nhóm đối tượng khảo sát

Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Ông Bà Bố Mẹ Anh chị em

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 12/ 6,1 9/ 4,5 60/ 30,3 93/ 47,0 24/ 12,1

6/ 3,0 9/ 4,5 67/ 33,8 98/ 49,5 18/ 9,1

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 18/4,5 18/4,5 127/32,1 191/48,3 42/10,6

Bảng 18: Những hoạt động chăm lo, động viên của gia đình, dòng họ đối với

thanh niên đang tại ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).

Nhóm đối tượng khảo sát

Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình

Thanh niên đang tại ngũ (N=198)

Gia đình gọi điện, viết thư Gia đình đến đơn vị thăm Gia đình nhờ cậy người giúp đỡ Gia đình gửi tiền hoặc hiện vật Dòng họ đến đơn vị thăm

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 111/ 56,1 108/ 54,5 46/ 23,2 30/ 15,2 32/ 16,2

127/ 64,1 103/ 52,0 62/ 31,3 17/ 8,6 45/ 22,7

Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 238/ 60,1 211/ 53,3 108/ 27,3 47/ 11,9 77/ 19,4

Bảng 19: Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 591).

Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

Mức độ đánh giá Có (SL/%) 393/66,5 384/65,0 424/71,7 350/59,3 350/59,2 306/51,8 315/53,3 325/55,0 311/52,5 361/61,1 314/53,1 289/48,9

Không (SL/%) 198/33,5 207/35,0 167/28,3 241/40,7 241/40,8 285/48,2 276/46,7 266/45,0 280/47,5 230/38,9 277/46,9 302/51,1

Nghề nghiệp của gia đình Điều kiện kinh tế của gia đình Số lượng con trai trong gia đình Gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Điều kiện kinh tế của địa phương Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở Sự cố kết của dòng họ Truyền thống thực hiện NVQS của dòng họ Phương tiện truyền thông đại chúng Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch Bảng 20: Mối quan hệ giữa số lượng con trai trong gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (tỷ lệ %, với N = 591).

Số lượng con trai của gia đình

Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

1 con trai

117/39,1

2 con trai trở lên 147/50,3

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em *

114/38,1

116/39,7

130/43,5

129/42,2

216/72,2

215/73,6

206/68,9

188/64,4

63/21,1 299

59/20,2 292

Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Con em tự tìm hiểu Tổng

Bảng 21: Mối quan hệ giữa số lượng con trai trong gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (tỷ lệ %, với N = 591).

Vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS

Số lượng con trai của gia đình

1 con trai

238/79,6

2 con trai trở lên 228/78,1

130/43,5

134/45,9

196/65,6

192/65,8

130/43,5

146/50,0

127/42,5

118/40,4

192/64,2

198/67,8

28/9,4 299

17/5,8 292

Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Con em tự đi khám NVQS Tổng

Bảng 22: Số lượng thành viên trong gia đình, số thế hệ, số lượng con trai, con gái trong gia đình.

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Số lượng thành viên trong gia đình

Với N = 591 Số lượng

Với N = 591 Số lượng

Số lượng thành viên trong gia đình

2-4 người

251

45,2

195 145

31,6 23,2

5 người 6 người trở lên

0,3 2,7 39,4 33,0 18,7 5,6 0,3 100,0 Tổng

2 người 3 người 4 người 5 người 6 người 7 người 8 người Tổng

Số thế hệ trong gia đình

Số lượng/ tỷ lệ %

299/50,6 257/43,5 35/5,9

591 Số lượng con gái 0 con 1 con 2 con 3 con

100,0 Số lượng/ tỷ lệ % 161/27,2 313/53,0 109/18,4 8/1,4

2 16 233 195 110 33 2 591 Số Số lượng/ lượng tỷ lệ % con trai 2 thế hệ 1 con 377/63,8 3 thế hệ trở lên 214/36,2 2 con 3 con trở lên Bảng 23: Nghề nghiệp của gia đình

Nghề nghiệp

Với N = 591

Nghề nghiệp

Với N = 198

của gia đình

của gia đình

Số

Tỷ lệ %

Số

Tỷ lệ

%

lượng

lượng

244

41,3

Nông nghiệp

60

30,3

Nông nghiệp

264

44,7

Nông nghiệp

103

52,0

Nông nghiệp

hỗn hợp

hỗn hợp

83

14,0

Phi nông

35

17,7

Phi nông

nghiệp

nghiệp

591

198

100,0

100,0 Tổng

Tổng

Bảng 24: Mối quan hệ giữa nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).

Vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

Nghề nghiệp của gia đình Nông nghiệp hỗn hợp (SL/ %) 122/46,2

Phi nông nghiệp (SL/ %) 56/67,5

Nông nghiệp (SL/ %) 86/35,2

88/36,1

105/39,8

40/48,2

108/44,3 178/73,0

119/45,1 193/73,1

39/47,0 61/73,4

172/70,5

170/64,4

52/62,7

48/19,7 244

53/20,1 264

21/25,3 83

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ dạy bảo, nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Để con cháu tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ Tổng

Bảng 25: Mối quan hệ giữa nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi (với N = 198).

Nghề nghiệp của gia đình

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có lệnh gọi

Nông nghiệp (SL/ %)

Nông nghiệp hỗn hợp (SL/ %)

Phi nông nghiệp (SL/ %)

44/73,3

41/39,8

19/54,3

4/6,7

43/41,7

13/37,1

Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên * Dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS * Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên *

3/5,0

23/22,3

18/51,4

9/15,0

21/20,4

5/14,3

60/100,0

98/95,1

31/88,6

60

103

35

Đảng viên của gia đình

Tỷ lệ %

Đại diện người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội Gia đình tổ chức gặp mặt, mời đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú, bác, cô trong dòng họ, mời bạn bè của thanh niên đến chia tay thanh niên * Tổng Bảng 26: Đảng viên của gia đình Với N = 591 Đảng viên của gia đình Số lượng 62

10,5

Với N = 198 Số lượng 19

Tỷ lệ % 9,6

529

89,5

179

90,4

Bố hoặc mẹ là đảng viên Bố hoặc mẹ không là đảng viên

591

198

100,0

Bố hoặc mẹ là đảng viên Bố hoặc mẹ không là đảng viên Tổng

100,0 Tổng

Bảng 27: Mối quan hệ giữa đảng viên của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591).

Đảng viên của gia đình

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS

Bố mẹ là đảng viên (SL/ %) 25/40,3

Bố mẹ không là đảng viên (SL/ %) 152/28,7

19/30,6

95/17,9

25/40,3

112/21,2

26/41,9

131/24,7

18/29,0

92/17,4

42/67,7

348/65,8

5/8,1 62

47/8,9 529

Với N = 428

Học vấn của bố thanh niên

Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định * Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên * Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ * Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Con em tự đi khám NVQS Tổng Bảng 28: Học vấn của gia đình Học vấn của gia Với N = 591 đình

Số lượng 41 271 89 27 428

Tỷ lệ % 9,6 63,3 20,8 6,3 100,0

Số lượng 61 367 130 33 591

Tỷ lệ % 10,3 62,1 22,0 5,6 100,0

Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp trở lên Tổng

Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp trở lên Tổng Bảng 29: Mối quan hệ giữa học vấn của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591).

Học vấn của bố thanh niên

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS

Tiểu học (SL/%) 31/75,6

THCS (SL/%) 222/81,9

THPT trở lên (SL/%) 97/83,6

18/43,9

100/36,9

67/57,8

21/51,2

168/62,0

78/67,2

17/41,4

125/46,1

76/65,5

16/39,0

109/40,2

57/49,1

18/43,9

196/72,3

71/61,2

Gia đình phải thường xuyên giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, khích lệ * Những người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS Người thân trong gia đình động viên đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc * Gia đình để con, cháu tự đi khám tuyển NVQS

1/2,4

25/9,2

9/7,8

41

271

116

Tổng

7-10tr

Thu nhập bình quân một tháng của gia đình Dưới 3tr Trên 10tr

3-dưới 7tr

Bảng 30: Số lượng thành viên trong gia đình với thu nhập bình quân một tháng của gia đình (số lượng) Số lượng thành viên trong gia đình

4 36 47 25 10 122

10 163 107 68 10 358

4 4 2 4 14

Tổng (số lượng) 2 16 233 195 110 33 2 591

2 người 3 người 4 người 5 người 6 người 7 người 8 người Tổng

Thu nhập bình quân người/ tháng

2 2 30 37 15 9 2 97 Số lượng 42 242 307 591

Tỷ lệ % 7,1 40,9 52,0 100,0

Trên 2 triệu Từ 1 - dưới 2 triệu Dưới 1 triệu Tổng Bảng 31: Mối quan hệ giữa thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).

Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

Thu nhập bình quân người/ tháng Dưới 1 Từ 1-dưới triệu 2 triệu (SL/ %) (SL/ %) 156/50,8 86/35,5

Từ 2 triệu trở lên (SL/ %) 22/52,4

11/26,2

63/26,0

156/50,8

14/33,3

87/36,0

158/51,5

40/95,2

196/81,0

195/63,5

21/40,4

173/71,5

196/63,8

10/23,8 42

40/16,5 242

72/23,5 307

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em* Dòng họ thường xuyên nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy ước trong các buổi sinh hoạt của dòng họ* Gia đình định hướng thanh niên theo nghề quân đội* Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành* Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ* Để con, cháu tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ Tổng

Bảng 33: Mối quan hệ giữa điều kiện kinh tế của địa phương với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ và (với N = 591).

Nơi ở

Thu nhập bình quân người/ tháng

Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ

1 triệu trở lên 20/15,5

Dưới 1triệu 47/42,3

29/22,5

59/53,2

Quảng Phú Cầu

38/29,4 117/90,7

55/49,5 63/56,8

118/91,5

82/73,9

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *

129 77/71,9

111 76/61,1

33/30,8

55/47,8

Tổng Vân Đình

40/37,4 87/81,3

47/40,9 85/73,9

50/46,7

59/51,3

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ

107 11/22,9

115 33/40,7

12/25,0

42/51,9

Tổng Đại Cường

23/47,9 32/66,7

56/69,1 47/58,0

30/62,5

55/67,9

Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ

48

81

Tổng

Đại Vân Quảng Phú Cầu Cường Đình 33/20,9 57/66,3 22/31,0

40/25,3 27/31,4 22/31,0

53/33,5 35/40,7 40/56,3

Bảng 34: Mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591). Hệ thống chính trị cơ sở

129/81,6 71/82,6 40/56,3

Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *

140/88,6 46/53,5 50/70,4

158 86 71 Tổng

Đại Cường 57/77,0

Quảng Vân Đình Phú Cầu 105/81,4 88/79,3

31/41,9

56/43,4

54/48,6

63/85,1

60/46,5

82/73,9

35/47,3

62/48,1

54/48,6

30/40,5

65/50,4

41/36,9

44/59,5

85/65,9

66/59,5

Bảng 35: Mối quan hệ giữa cộng đồng làng xã với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi (với N = 591). Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Cộng Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động đồng viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * làng Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh xã niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc

Tổng

129

111

74

Vân Đình

Đại Cường

Quảng Phú Cầu

Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS

118/89,4

113/77,9

56/76,7

32/43,8

48/36,4

77/43,4

114/78,6

59/80,8

56/42,4

41/56,2

47/35,6

69/47,6

24/32,9

57/43,2

49/33,8

Bảng 36: Mối quan hệ giữa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591). Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

103/78,0

52/71,2

96/66,2

Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định * Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc

132

145

73

Tổng

Bảng 37: Những thuận lợi và khó khăn trong việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS những năm tới (với N = 789).

Mức độ đánh giá

Những thuận lợi và khó khăn trong việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS những năm tới

Thuận lợi (SL/ %) 510/64,7 488/61,8 517/65,5 421/53,3 390/49,4 449/56,9

Khó khăn (SL/ %) 279/35,3 301/38,2 272/34,5 368/46,7 399/51,6 340/43,1

789/100,0

Tình hình kinh tế, xã hội của địa phương, đất nước Điều kiện kinh tế, quy mô, cơ cấu nghề nghiệp gia đình Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở Tổng Bảng 38: Nơi ở với nghề nghiệp của bố mẹ thanh niên và thu nhập bình quân một tháng của gia đình (với N = 789).

Nghề nghiệp của bố mẹ thanh niên

Nơi ở

Tổng

Nông nghiệp hỗn hợp (SL/ %) 164/68,3 87/39,2 13/10,1 11/5,6 275

Nông nghiệp Phi nông nghiệp (SL/ %) (SL/ %) 74/30,9 2/0,8 57/25,7 78/35,1 113/87,6 3/2,3 159/80,3 28/14,1 111 403 Thu nhập bình quân một tháng của gia đình

Quảng Phú Cầu Vân Đình Đại Cường Khác (chiến sĩ tại ngũ) Tổng Nơi ở

240 222 129 198 789 Tổng

Quảng Phú Cầu Vân Đình Đại Cường

2 triệu trở lên (SL/ %) 19/7,9 17/7,7 6/4,7 42

Từ 1 đến dưới 2 triệu (SL/ %) 110/45,8 90/40,5 42/32,6 242

Dưới 1 triệu (SL/ %) 111/46,3 115/51,8 81/62,8 307

240 222 129 591

Tổng

Bảng 39: Những vấn đề đặt về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).

Những vấn đề đặt về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

Mức độ đánh giá Có (SL/ %)

Không (SL/ %)

492/62,4

297/37,6

550/69,7

239/30,3

562/71,2

227/28,8

428/54,2

361/45,8

455/57,7

334/42,3

Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS, BVTQ của thanh niên Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và củng cố nền QPTD Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ thời kỳ mới Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ thời kỳ mới Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Tổng

789/100,0

Bảng 40: Vai trò của gia đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo (với N = 789).

Vai trò của gia đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ từ nay đền năm 2020

Mức độ đánh giá Không (SL/ %) 147/18,6

Có (SL/ %) 642/81,4

502/63,6

287/36,4

248/31,4

541/68,6

761/96,5

28/3,5

297/37,7

492/62,3

789/100,0

Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện NVQS Tổng Bảng 41: Giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).

Giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với

Mức độ đánh giá Không (SL/ %)

Có (SL/ %)

việc thực hiện NVQS của thanh niên

571/72,4

218/27,6

492/62,3 477/60,4 507/64,3 569/72,1

297/37,7 312/39,6 282/35,7 220/27,9

407/51,6

382/48,8

789/100,0

Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến TN trong quá trình thực hiện NVQS Tổng

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

1. GIA ĐÌNH CÓ THANH NIÊN NHẬP NGŨ

1. Ông, bà vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân và gia đình:

1.Gia đình ông, bà ở xóm, thôn:……… xã:……………(ở tổ……thị trấn…..............)

2.Tuổi:…………………… 3.Giới tính: 1.Nam: 2.Nữ:

4.Dân tộc: 1.Kinh 2.Khác 5.Tôn giáo: 1.Có 2.Không

6.Nghề nghiệp chính của ông, bà (xin ghi rõ):…………………………………………

7.Nghề nghiệp phụ của ông bà (xin ghi rõ):……………………………………………

8.Thu nhập chính của gia đình ông bà là từ: 1.Nghề chính: 2.Nghề phụ:

9.Ông, bà có là đảng viên không: 1.Có 2.Không

10.Gia đình ông, bà có mấy nhân khẩu (xin ghi rõ):……………………………………

11.Gia đình ông, bà có mấy thế hệ: 1.Hai thế hệ 2.Ba thế hệ trở lên

12.Ông, bà có mấy: 1.Con trai:………………….. 2.Con gái:……………….

13.Dòng họ của ông là Họ (xin ghi rõ):…………………………………………………

14.Thành phần xuất thân của ông bà: 1.Nông dân 2.Công nhân

3.Trí thức 4.Thành phần khác

15.Ông, bà học hết: 1.Cấp 1 2.Cấp 2 3.Cấp 3

4.Trung cấp 5.Cao đẳng, đại học trở lên

16.Mức thu nhập bình quân trong một tháng hiện nay của gia đình ông, bà?

1.Dưới 3 triệu 2.Từ 3 đến dưới 7 triệu

3.Từ 7 đến 10 triệu 4.Trên 11 triệu

17.Mức thu nhập hiện nay của gia đình ông, bà so với 5 năm trước?

1.Tốt hơn 2.Như trước

3.Kém hơn 4.Khó đánh giá

2. Trong gia đình ta có ai đã và đang phục vụ trong quân đội không?

1.Ông 2.Bà 3.Chồng 4.Vợ 5.Con trai 6.Con gái 7.Không có ai

3. Trong dòng họ của ông, bà, hiện nay có người nào đang phục vụ trong quân đội

không?

1.Có 2.Không 3.Không rõ

4. Khi chưa nhập ngũ, con, em của ông bà được tuyên truyền, giáo dục về NVQS,

BVTQ chủ yếu từ:

1.Gia đình

2.Dòng họ

3.Nhà trường

4.Phương tiện truyền thông đại chúng

5.Hệ thống chính quyền cơ sở

6.Bạn bè

7.Ban, ngành, đoàn thể ở địa phương

8.Con, em tự tìm hiểu

5. Ông, bà cảm thấy như thế nào khi có con, em được gọi nhập ngũ?

1.Phấn khởi, tự hào

2.Băn khoăn, lo lắng

3.Con, em có cơ hội tốt để rèn luyện trong môi trường quân đội

4.Muốn con, em được miến, hoãn

6. Trước độ tuổi nhập ngũ, gia đình, dòng họ đã giáo dục thanh niên về NVQS,

BVTQ như thế nào?

1. Gia đình thường xuyên kể những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,

BVTQ cho con, em.

2. Trong các buổi sinh hoạt của dòng họ, nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy

ước của dòng họ về NVQS, BVTQ.

3. Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội

4. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ

quốc khi đến tuổi trưởng thành.

5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống,

kỷ cương của gia đình, dòng họ.

6. Gia đình để con em tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ

7. Trong quá trình được tuyển chọn nhập ngũ, con, em của ông, bà đã được các tổ

chức, cá nhân nào gặp gỡ, động viên?

1.Chủ tịch, phó chủ tịch xã

2.Xã đội trưởng, xã đội phó

3.Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn

4.Trưởng thôn

5.Đoàn thanh niên

6.Hội phụ nữ

7.Hội cựu chiến binh

8.Những người thân trong dòng họ

9.Người thân trong gia đình

10.Bạn bè của con, em

11.Không có ai

8. Trong quá trình khám tuyển NVQS, gia đình, dòng họ đã giáo dục, động viên

con em như thế nào?

1. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian

2. Dòng họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi khám tuyển NVQS trong

dòng họ để động viên, khuyến khích

3. Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi khám tuyển NVQS

4. Người thân trong gia đình đưa con em đi khám tuyển NVQS

5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ

cương của gia đình, dòng họ

6. Gia đình giúp con em hiểu rõ việc khám tuyển NVQS là trách nhiệm của công dân

7. Gia đình để con em tự đi khám tuyển NVQS

9. Theo ông, bà sự cố kết của dòng họ hiện nay như thế nào?

1.Bền chặt 2.Không bền chặt 3.Không rõ

10. Ở địa phương ông, bà, các dòng họ có tham gia động viên thanh niên làm

NVQS hàng năm không?

1.Có 2.Không 3.Không rõ

11. Dòng họ của ông, bà đã có những hoạt động nào trong quá trình tuyển quân hàng

năm?

1.Họp dòng họ tổ chức liên hoan, gặp mặt, động viên thanh niên trong dòng họ nhập ngũ

2.Phân công người trong dòng họ động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS

3.Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS

4.Dòng họ cử người tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội

5.Dòng họ cử người tham gia cùng các đoàn đại biểu của địa phương đến đơn vị quân

đội thăm hỏi, động viên thanh niên đang tại ngũ

12. Trong gia đình, dòng họ, ai là người có ảnh hưởng tới các quyết định của thanh

niên nhất?

1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh chị em

6.Các chú, bác, cô, dì trong dòng họ 7.Các anh chị em trong dòng họ

13. Khi được lệnh nhập ngũ, trong dòng họ, hàng xóm, gia đình ai là người động

viên, khuyên nhủ thanh niên nhiều nhất?

1.Trưởng họ

2.Chú, bác, cô, dì trong dòng họ

3.Các bác cựu chiến binh trong thôn

4.Các cụ già trong làng xóm

5.Bạn bè cùng trang lứa

6.Người thân trong gia đình

14. Trước khi nhập ngũ, gia đình có tổ chức liên hoan chia tay cho con, em không?

1.Có 2.Không

Nếu có, gia đình mời những ai tham dự?

1.Đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương

2.Chú bác trong dòng họ

3.Bạn bè của con, em

4.Những người khác (xin ghi rõ):………………………………………………………

15. Khi đang tại ngũ, trong gia đình ai là người lo lắng cho con, em nhiều nhất?

1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 4.Anh chị em

16. Khi đang tại ngũ, người thân trong gia đình, dòng họ có những hoạt động nào

sau đây đối với con, em:

1.Thường xuyên gọi điện, viết thư động viên thăm hỏi

2.Thường xuyên đến đơn vị thăm

3.Nhờ cậy người quan tâm, giúp đỡ

4.Gửi tiền hoặc hiện vật

5.Hoạt động khác (xin ghi rõ):………………………………………………………… 17. Ông, bà đánh giá như thế nào về vai trò của các tổ chức, lực lượng

với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ?

Mức độ đánh giá Nội dung đánh giá

Không quan trọng Khó đánh giá

Rất quan trọng Quan trọng

1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè của thanh niên 18. Theo ông, bà, con, em trong gia đình thực hiện NVQS, BVTQ vì

những lý do chủ yếu nào sau đây:

1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định 2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ 3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ 4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ 5.Để rèn luyện bản thân 6.Do thi trượt đại học, cao đẳng 7.Để có cơ hội việc làm sau khi hoàn thành NVQS

19. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, theo ông, bà yếu tố nào chi phối vai trò

gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

1.Nghề nghiệp của gia đình

2.Điều kiện kinh tế của gia đình

3.Số lượng con trai trong gia đình

4.Gia đình có đảng viên và gia đình không có đảng viên.

5.Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

6.Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, đất nước.

7.Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.

8.Truyền thống thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ

9.Sự cố kết của dòng họ

10.Phương tiện truyền thông đại chúng

11.Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã

12.Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch

20. Theo ông, bà, trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, việc nhập ngũ của thanh

niên như thế nào?

1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định

2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ

3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ

4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ

5.Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân

6.Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước

21. Ông, bà cho biết vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống

giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay?

Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá

Rất quan trọng Quan trọng

Không quan

Khó đánh

trọng

giá

Đóng góp về con người

Đóng góp về vật chất

Đóng góp về tinh thần

22. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện

nay, theo ông, bà cần đặt ra những vấn đề nào dưới đây:

1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng

2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng, củng cố nền QPTD

3. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ XD nền QPTD, BVTQ

4.Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu XDQĐ thời kỳ mới

5. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng

6.Vấn đề khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………

23. Theo ông, bà, từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo, vai trò của gia

đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ sẽ như thế nào?

1.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ

2.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em

3.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS

4.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ

5.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện NVQS

24. Ông, bà cho biết những thuận lợi, khó khăn để gia đình, dòng họ thực hiện vai

trò với thanh niên nhập ngũ hiện nay? Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá

Thuận lợi

Khó khăn

Sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất nước Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình

25. Để tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh

niên, theo ông, bà cần phải thực hiện những biện pháp chủ yếu nào sau đây?

1.Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phong, BVTQ

2.Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững

3.Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương

4.Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ

5.Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ

6.Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến thanh niên trong quá trình thực

hiện NVQS

7.Khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………………

2. THANH NIÊN NHẬP NGŨ

1. Đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân và gia đình:

1.Trước nhập ngũ đồng chí ở: Quận (thị xã,thị trấn) hay huyện..........Tỉnh, TP………

2.Dân tộc: 1.Kinh 2.Khác 3.Tôn giáo: 1.Có 2.Không

4.Nghề nghiệp của bố, mẹ đồng chí (xin ghi rõ):………………………………………

5.Gia đình đồng chí có là đảng viên không: 1.Có 2.Không

6.Gia đình đồng chí có mấy nhân khẩu (xin ghi rõ):……………………………………

7.Gia đình đồng chí có mấy thế hệ: 1.Hai thế hệ 2.Ba thế hệ trở lên

8.Đồng chí có mấy: 1.Anh, em trai:…………… 2.Chị, em gái:……………..

9.Dòng họ của đồng chí là Họ (xin ghi rõ):…………………………………………….

10.Thành phần xuất thân của đồng chí: 1.Nông dân 2.Công nhân

3.Trí thức 4.Thành phần khác

11.Đồng chí học hết: 1.Cấp 1 2.Cấp 2 3.Cấp 3

4.Trung cấp 5.Cao đẳng, đại học trở lên

12.Mức thu nhập bình quân trong một tháng hiện nay của gia đình đồng chí?

1.Dưới 3 triệu 2.Từ 3 đến dưới 7 triệu

3.Từ 7 đến 10 triệu 4.Trên 11 triệu

13.Mức thu nhập hiện nay của gia đình đồng chí so với 5 năm trước?

1.Tốt hơn 2.Như trước

3.Kém hơn 4.Khó đánh giá

2. Trong gia đình đồng chí có ai đã và đang phục vụ trong quân đội không?

1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh, em trai 6.Chị, em gái 7.Không có ai

3. Trong dòng họ của đồng chí, hiện nay có người nào đang phục vụ trong quân đội

không?

1.Có 2.Không 3.Không rõ

4. Khi chưa nhập ngũ, đồng chí được tuyên truyền, giáo dục về NVQS, BVTQ chủ

yếu từ:

1.Gia đình

2.Dòng họ

3.Nhà trường

4.Phương tiện truyền thông đại chúng

5.Hệ thống chính quyền cơ sở

6.Bạn bè

7.Ban, ngành, đoàn thể ở địa phương

8.Đồng chí tự tìm hiểu

5. Đồng chí cảm thấy như thế nào khi được gọi nhập ngũ

1.Phấn khởi, tự hào

2.Băn khoăn, lo lắng

3.Có cơ hội tốt rèn luyện bản thân trong môi trường quân đội

4.Muốn được miến, hoãn

6. Trước độ tuổi nhập ngũ, gia đình, dòng họ đã giáo dục thanh niên về NVQS,

BVTQ như thế nào?

1. Gia đình thường xuyên kể những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,

BVTQ cho con, em.

2. Trong các buổi sinh hoạt của dòng họ, nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy

ước của dòng họ về NVQS, BVTQ.

3. Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội

4. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ

quốc khi đến tuổi trưởng thành.

5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống,

kỷ cương của gia đình, dòng họ.

6. Gia đình để con em tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ

7. Trong quá trình được tuyển chọn nhập ngũ, đồng chí đã được các tổ chức, cá

nhân nào gặp gỡ, động viên?

1.Chủ tịch, phó chủ tịch xã

2.Xã đội trưởng, xã đội phó

3.Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn

4.Trưởng thôn

5.Đoàn thanh niên

6.Hội phụ nữ

7.Hội cựu chiến binh

8.Những người thân trong dòng họ

9.Người thân trong gia đình

10.Bạn bè

11.Không có ai

8. Trong quá trình khám tuyển NVQS, gia đình, dòng họ đã giáo dục, động viên

con em như thế nào?

1. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian

2. Dòng họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi khám tuyển NVQS trong

dòng họ để động viên, khuyến khích

3. Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi khám tuyển NVQS

4. Người thân trong gia đình đưa con em đi khám tuyển NVQS

5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ

cương của gia đình, dòng họ

6. Gia đình giúp con em hiểu rõ việc khám tuyển NVQS là trách nhiệm của công dân

7. Gia đình để con em tự đi khám tuyển NVQS

9. Theo đồng chí, sự cố kết của dòng họ hiện nay như thế nào?

1.Bền chặt 2.Không bền chặt 3.Không rõ

10. Ở địa phương đồng chí, các dòng họ có tham gia động viên thanh niên làm

NVQS hàng năm không?

1.Có 2.Không 3.Không rõ

11. Dòng họ của đồng chí đã có những hoạt động nào trong quá trình tuyển quân

hàng năm?

1.Họp dòng họ tổ chức liên hoan, gặp mặt, động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện

NVQS

2.Phân công người trong dòng họ động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS

3.Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS

4.Dòng họ cử người tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội

5.Dòng họ cử người tham gia cùng các đoàn đại biểu của địa phương đến đơn vị quân

đội thăm hỏi, động viên thanh niên đang tại ngũ

12. Trong gia đình, dòng họ, ai là người có ảnh hưởng tới các quyết định của đồng

chí nhất?

1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh chị em

6.Các chú, bác, cô, dì trong dòng họ 7.Các anh chị em trong dòng họ

13. Khi được lệnh nhập ngũ, trong dòng họ, hàng xóm, gia đình ai là người động

viên, khuyên nhủ đồng chí nhiều nhất?

1.Trưởng họ

2.Chú, bác, cô, dì trong dòng họ

3.Các bác cựu chiến binh trong thôn

4.Các cụ già trong làng xóm

5.Bạn bè cùng trang lứa

6.Người thân trong gia đình

14. Trước khi nhập ngũ, gia đình có tổ chức liên hoan chia tay cho đồng chí không?

1.Có 2.Không

Nếu có, gia đình mời những ai tham dự?

1.Đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương

2.Chú bác trong dòng họ

3.Bạn bè của đồng chí

4.Những người khác (xin ghi rõ):………………………………………………………

15. Khi đang tại ngũ, trong gia đình ai là người lo lắng cho đồng chí nhiều nhất?

1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 4.Anh chị em

16. Khi đang tại ngũ, người thân trong gia đình, dòng họ có những hoạt động nào

sau đây đối với đồng chí:

1.Thường xuyên gọi điện, viết thư động viên thăm hỏi

2.Thường xuyên đến đơn vị thăm

3.Nhờ cậy người quan tâm, giúp đỡ

4.Gửi tiền hoặc hiện vật

5.Hoạt động khác (xin ghi rõ):……………………………………………………………

17. Đồng chí đánh giá như thế nào về vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh

niên trong thực hiện NVQS, BVTQ? Nội dung đánh giá

Rất quan trọng

Mức độ đánh giá Quan trọng

Không quan trọng

Khó đánh giá

1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè cùng trang lứa

18. Đồng chí thực hiện NVQS, BVTQ vì những lý do chủ yếu nào sau đây:

1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định

2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ

3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ

4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ

5.Để rèn luyện bản thân

6.Do thi trượt đại học, cao đẳng

7.Để có cơ hội việc làm sau khi hoàn thành NVQS

19. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, theo đồng chí yếu tố nào chi phối vai trò

gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên?

1.Nghề nghiệp của gia đình

2.Điều kiện kinh tế của gia đình

3.Số lượng con trai trong gia đình

4.Gia đình có đảng viên và gia đình không có đảng viên.

5.Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

6.Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, đất nước.

7.Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.

8.Truyền thống thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ.

9.Sự cố kết của dòng họ

10.Phương tiện truyền thông đại chúng

11Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã

12.Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch

20. Theo đồng chí, trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, việc nhập ngũ của thanh

niên như thế nào?

1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định

2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ

3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ

4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ

5.Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân

6.Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước

21. Đồng chí cho biết vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống

giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay?

Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá

Rất quan

Quan trọng

Không quan

Khó đánh

trọng

trọng

giá

Đóng góp về con người

Đóng góp về vật chất

Đóng góp về tinh thần

22. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện

nay, theo đồng chí cần đặt ra những vấn đề nào dưới đây:

1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng

2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng, củng cố nền QPTD

3. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ XD nền QPTD, BVTQ

4. Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu XDQĐ thời kỳ mới

5. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng

6. Vấn đề khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………

23. Theo đồng chí, từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo, vai trò của gia

đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ sẽ như thế nào?

1.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ

2.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em

3.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS

4.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ

5.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện

NVQS

24. Đồng chí cho biết những thuận lợi, khó khăn để gia đình, dòng họ thực hiện vai

trò với thanh niên nhập ngũ hiện nay?

Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá

Thuận lợi

Khó khăn

Sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất nước

Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia

đình, dòng họ

Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ

Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS

Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở

Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình

25. Để tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh

niên, theo đồng chí cần phải thực hiện những biện pháp chủ yếu nào sau đây?

1.Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ

2.Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững

3.Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương

4.Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ

5.Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ

6.Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến thanh niên trong quá trình thực

hiện NVQS

7.Khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………………

3. GIA ĐÌNH CÓ THANH NIÊN KHÔNG TRÚNG TUYỂN NVQS

1. Ông, bà vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân và gia đình:

1.Gia đình ông, bà ở xóm, thôn:……… xã:……………(ở tổ……thị trấn…..............)

2.Tuổi:………………………… 3.Giới tính: 1.Nam: 2.Nữ:

4.Dân tộc: 1.Kinh 2.Khác 5.Tôn giáo: 1.Có 2.Không

6.Nghề nghiệp chính của ông, bà (xin ghi rõ):……………………………………………

7.Nghề nghiệp phụ của ông bà (xin ghi rõ):………………………………………………

8.Thu nhập chính của gia đình ông bà là từ: 1.Nghề chính: 2.Nghề phụ:

9.Ông, bà có là đảng viên không: 1.Có 2.Không

10.Gia đình ông, bà có mấy nhân khẩu (xin ghi rõ):……………………………………

11.Gia đình ông, bà có mấy thế hệ: 1.Hai thế hệ 2.Ba thế hệ trở lên

12.Ông, bà có mấy: 1.Con trai:………………….. 2.Con gái:………………….

13.Dòng họ của ông là Họ (xin ghi rõ):…………………………………………………..

14.Thành phần xuất thân của ông bà: 1.Nông dân 2.Công nhân

3.Trí thức 4.Thành phần khác

15.Ông, bà học hết: 1.Cấp 1 2.Cấp 2 3.Cấp 3

4.Trung cấp 5.Cao đẳng, đại học trở lên

16.Mức thu nhập bình quân trong một tháng hiện nay của gia đình ông, bà?

1.Dưới 3 triệu 2.Từ 3 đến dưới 7 triệu

3.Từ 7 đến 10 triệu 4.Trên 11 triệu

17.Mức thu nhập hiện nay của gia đình ông, bà so với 5 năm trước?

1.Tốt hơn 2.Như trước

3.Kém hơn 4.Khó đánh giá

2. Trong gia đình ta có ai đã và đang phục vụ trong quân đội không?

1.Ông 2.Bà 3.Chồng 4.Vợ 5.Con trai 6.Con gái 7.Không có ai

3. Trong dòng họ của ông, bà, hiện nay có người nào đang phục vụ trong quân đội

không?

1.Có 2.Không 3.Không rõ

4. Khi chưa gọi nhập ngũ, con, em của ông bà được tuyên truyền, giáo dục về

NVQS, BVTQ chủ yếu từ:

1.Gia đình

2.Dòng họ

3.Nhà trường

4.Phương tiện truyền thông đại chúng

5.Hệ thống chính quyền cơ sở

6.Bạn bè

7.Ban, ngành, đoàn thể ở địa phương

8.Con, em tự tìm hiểu

5. Ông, bà cảm thấy như thế nào nếu con, em được gọi nhập ngũ?

1.Phấn khởi, tự hào

2.Băn khoăn, lo lắng

3.Con, em có cơ hội tốt để rèn luyện trong môi trường quân đội

4.Muốn con, em được miễn, hoãn

6. Trước độ tuổi nhập ngũ, gia đình, dòng họ đã giáo dục thanh niên về NVQS,

BVTQ như thế nào?

1. Gia đình thường xuyên kể những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,

BVTQ cho con, em.

2. Trong các buổi sinh hoạt của dòng họ, nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy

ước của dòng họ về NVQS, BVTQ.

3. Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội

4. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ

quốc khi đến tuổi trưởng thành.

5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống,

kỷ cương của gia đình, dòng họ.

6. Gia đình để con em tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ

7. Trong quá trình khám tuyển NVQS, con, em của ông, bà đã được các tổ chức, cá

nhân nào gặp gỡ, động viên?

1.Chủ tịch, phó chủ tịch xã

2.Xã đội trưởng, xã đội phó

3.Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn

4.Trưởng thôn

5.Đoàn thanh niên

6.Hội phụ nữ

7.Hội cựu chiến binh

8.Những người thân trong dòng họ

9.Người thân trong gia đình

10.Bạn bè của con, em

11.Không có ai

8. Trong quá trình khám tuyển NVQS, gia đình, dòng họ đã giáo dục, động viên

con em như thế nào?

1. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian

2. Dòng họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi khám tuyển NVQS trong

dòng họ để động viên, khuyến khích

3. Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi khám tuyển NVQS

4. Người thân trong gia đình đưa con em đi khám tuyển NVQS

5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ

cương của gia đình, dòng họ

6. Gia đình giúp con em hiểu rõ việc khám tuyển NVQS là trách nhiệm của công dân

7. Gia đình để con em tự đi khám tuyển NVQS

9. Theo ông, bà sự cố kết của dòng họ hiện nay như thế nào?

1.Bền chặt 2.Không bền chặt 3.Không rõ

10. Ở địa phương ông, bà, các dòng họ có tham gia động viên thanh niên làm

NVQS hàng năm không?

1.Có 2.Không 3.Không rõ

11. Dòng họ của ông, bà đã có những hoạt động nào đối với việc thực hiện NVQS

của thanh niên trong họ?

1.Họp dòng họ tổ chức liên hoan, gặp mặt, động viên thanh niên trong dòng họ nhập ngũ

2.Phân công người trong dòng họ động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS

3.Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS

4.Dòng họ cử người tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội

5.Dòng họ cử người tham gia cùng các đoàn đại biểu của địa phương đến đơn vị quân

đội thăm hỏi, động viên thanh niên đang tại ngũ

12. Trong gia đình, dòng họ, ai là người có ảnh hưởng tới quyết định thực hiện

NVQS của thanh niên nhất?

1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh chị em

6.Các chú, bác, cô, dì trong dòng họ 7.Các anh chị em trong dòng họ

13. Con em của ông, bà đã tham gia khám tuyển NVQS mấy lần?

1. Lần đầu tiên 2. Lần thứ hai

3. Lần thứ ba 4. Lần thứ bốn trở lên

14. Ông, bà có ý kiến gì khi con em không lên đường thực hiện NVQS sau khám tuyển?

1. Do con em không đủ điều kiện về sức khỏe

2. Do con em không đủ điều kiện về học vấn

3. Do gia đình không muốn con em nhập ngũ

4. Do điều kiện gia đình neo đơn, khó khăn nên con em được miễn, hoãn

5. Do chỉ tiêu tuyển quân hàng năm ít nên con em không trúng tuyển

6. Do con em đã có giấy gọi nhập học vào các trường cao đẳng, đại học

7. Do con em không muốn nhập ngũ nên tìm mọi cách để không trúng tuyển

15. Ông, bà có muốn được lựa chọn việc thực hiện NVQS của con em không?

1. Có 2. Không

Nếu có, ông bà sẽ lựa chọn như thế nào?

1. Muốn con em trúng tuyển NVQS

2. Muốn con em ở nhà phụ giúp gia đình

3. Muốn con em tiếp tục đi học

16. Theo ông, bà, những thanh niên trúng tuyển NVQS ở xã ta là những người:

1. Có đủ điều kiện về sức khỏe và học vấn

2. Có tinh thần tự nguyện, xung phong

3. Điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn

4. Bố mẹ muốn quân đội rèn luyện con cái

5. Thi trượt các trường cao đẳng, đại học

6. Không nhờ cậy ai

17. Ông, bà đánh giá như thế nào về vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh

niên trong quá trình thực hiện NVQS, BVTQ?

Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá Quan trọng

Không quan trọng

Rất quan trọng

Khó đánh giá

1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè của thanh niên

18. Theo ông, bà, thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ vì những lý do chủ yếu nào

sau đây:

1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định

2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ

3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ

4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ

5.Để rèn luyện bản thân

6.Do thi trượt đại học, cao đẳng

7.Để có cơ hội việc làm sau khi hoàn thành NVQS

19. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, theo ông, bà yếu tố nào chi phối vai trò

gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên

1.Nghề nghiệp của gia đình

2.Điều kiện kinh tế của gia đình

3.Số lượng con trai trong gia đình

4.Gia đình có đảng viên và gia đình không có đảng viên.

5.Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

6.Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, đất nước.

7.Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.

8.Truyền thống thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ.

9.Sự cố kết của dòng họ

10.Phương tiện truyền thông đại chúng

11Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã

12.Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch

20. Theo ông, bà, trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, việc nhập ngũ của thanh

niên như thế nào?

1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định

2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ

3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ

4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ

5.Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân

6.Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước

21. Ông, bà cho biết vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống

giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay?

Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá

Rất quan trọng Quan trọng

Không quan

Khó đánh

trọng

giá

Đóng góp về con người

Đóng góp về vật chất

Đóng góp về tinh thần

22. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện

nay, theo ông, bà cần đặt ra những vấn đề nào dưới đây?

1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng

2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng, củng cố nền QPTD

3. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ XD nền QPTD, BVTQ

4. Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu XDQĐ thời kỳ mới

5. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng

6. Vấn đề khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………

23. Theo ông, bà, từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo, vai trò của gia

đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ sẽ như thế nào?

1.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ

2.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em

3.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS

4.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ

5.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện NVQS

24. Ông, bà cho biết những thuận lợi, khó khăn để gia đình, dòng họ thực hiện vai

trò với thanh niên nhập ngũ hiện nay? Nội dung đánh giá

Mức độ đánh giá

Thuận lợi

Khó khăn

Sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất nước Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình

25. Để tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh

niên, theo ông, bà cần phải thực hiện những biện pháp chủ yếu nào sau đây?

1.Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng,

BVTQ

2.Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững

3.Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương

4.Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ

5.Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ

6.Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến thanh niên trong quá trình thực

hiện NVQS

7.Khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………………

PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU

1. GIA ĐÌNH DÒNG HỌ

1. Họ tên:………………………………………………………………….

- Tuổi:……………………………- Giới tính:……………………….....

- Trình độ học vấn:……………………………………………………...

- Nghề nghiệp:.............................................................................................

- Thôn, xã (tổ, thị trấn):…………………………………………………

2. Trong quá trình thực hiện NVQS của con, cháu, ông, bà có những hoạt động chủ yếu?

- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi con, cháu chưa đến tuổi nhập ngũ?

- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi con, cháu đi đăng ký, khám tuyển

NVQS?

- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi tổ chức, tiễn đưa con, cháu nhập ngũ?

- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi con, cháu thực hiện NVQS ở đơn vị quân

đội?

3. Ông, bà cho biết những yếu tố nào chi phối, tác động đến vai trò của gia đình,

dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên?

4. Ông, bà có những suy nghĩ gì về việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay?

2. CÁN BỘ XÃ, THÔN (THỊ TRẤN, TỔ DÂN PHỐ)

1. Họ tên:…………………........Tuổi:.……………….Giới tính:.............

- Trình độ học vấn:……………………Nghề nghiệp:..………………...

- Thôn, xã (tổ, thị trấn):…………………………………………………

2. Ông, bà có những hoạt động chủ yếu nào đối với thanh niên được gọi nhập ngũ?

3. Trong thời gian thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự, ông, bà thường có những

hoạt động gì đối với gia đình của thanh niên?

4. Ông, bà cho biết hoạt động chủ yếu của ông bà sau khi thanh niên hoàn thành

nghĩa vụ quân sự trở về địa phương?

5. Theo ông bà để công tác gọi thanh niên nhập ngũ được thực hiện tốt hơn nữa, thì

cần phải thực hiện những gì?

3. THANH NIÊN

1. Họ tên:………………………………………Tuổi:....…….………….

- Nơi ở của gia đình………………………………………………………

2. Đồng chí cho biết những hoạt động chủ yếu của gia đình, dòng họ, chính quyền,

đoàn thể địa phương đối với quá trình thực hiện NVQS của thanh niên?

- Những hoạt động chủ yếu của gia đình, dòng họ?

- Những hoạt động chủ yếu của chính quyền, đoàn thể địa phương?

3. Đồng chí cho biết những suy nghĩ về việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện

nay?