HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BẠCH HOÀNG KHÁNH
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BẠCH HOÀNG KHÁNH
VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành
: Xã hội học
Mã số
: 62 31 30 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS NGUYỄN ĐÌNH TẤN 2. PGS.TS PHẠM XUÂN HẢO
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Bạch Hoàng Khánh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1. BVTQ: bảo vệ Tổ quốc 2. NVQS: nghĩa vụ quân sự 3. QPTD: quốc phòng toàn dân 4. XHCN: xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang 1 12 12
21
29
29
61
67
73 73
76
102
128
128
145 152 156
157 158
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về chức năng, vai trò của gia đình 1.2. Tình hình nghiên cứu về dòng họ và thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 2.1. Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên 2.2. Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên 2.3. Quan điểm C.Mác - Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về gia đình, vai trò của gia đình Chương 3: THỰC TRẠNG, CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY 3.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu 3.2. Thực trạng vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên 3.3. Các yếu tố tác động vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay Chương 4: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY 4.1. Một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay 4.2. Một số vấn đề đặt ra và đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên trong những năm tới 136 4.3. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay KẾT LUẬN KHUYẾN NGHỊ DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 3.1: Vai trò của các tổ chức, lực lượng đối với thanh niên trong
thực hiện NVQS, BVTQ
78
Bảng 3.2: Đánh giá về sự tham gia của gia đình, dòng họ và các tổ chức,
lực lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến
tuổi nhập ngũ theo các nhóm khảo sát
79
Bảng 3.3: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên
truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo các nhóm
khảo sát
83
Bảng 3.4: Đánh giá của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng về sự
tham gia giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS
theo nhóm đối tượng khảo sát
86
Bảng 3.5: Những hoạt động giáo dục, động viên thanh niên tham gia
đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo nhóm đối
tượng khảo sát
89
Bảng 3.6: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện đối với thanh
niên trúng tuyển NVQS và có giấy gọi nhập ngũ theo nhóm đối tượng
khảo sát
94
Bảng 3.7: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
104
Bảng 3.8: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, động viên
thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS
106
Bảng 3.9: Điều kiện kinh tế của địa phương với hoạt động giáo dục, tuyên
truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ
120
Bảng 3.10: Hệ thống chính trị cơ sở với hoạt động giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ
122
Bảng 3.11: Cộng đồng làng xã với hoạt động giáo dục, động viên thanh
niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ
124
Bảng 3.12: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước với hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám
tuyển NVQS của gia đình, dòng họ
125
Bảng 4.1: Một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng
họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay
128
Bảng 4.2: Nghề nghiệp và thu nhập bình quân người/tháng của gia đình
theo nơi ở của gia đình
131
Bảng 4.3: Những vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình, dòng họ đối với
việc thực hiện NVQS của thanh niên
137
Bảng 4.4: Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên trong những năm tới
142
Bảng 4.5: Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối
145
với việc thực hiện NVQS của thanh niên
DANH MỤC CÁC BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Trang
Biểu 3.1: Đóng góp của gia đình, dòng họ trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ
77
Biểu 3.2: Cảm nhận của gia đình khi thanh niên đến tuổi nhập ngũ, đi
đăng ký khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS
81
Biểu 3.3: Gia đình, dòng họ và các tổ chức lực lượng tham gia giáo dục,
động viên thanh niên trúng tuyển NVQS
92
Biểu 3.4: Lựa chọn của bố mẹ về việc thực hiện NVQS của con em
93
Biểu 3.5: Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình đối với
thanh niên đang tại ngũ
99
Biểu 3.6: Hoạt động động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ của
gia đình, dòng họ
100
Biểu 3.7: Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng trong thực
hiện NVQS của thanh niên
103
Biểu 3.8: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ
108
Biểu 3.9: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, động viên
thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi của gia đình, dòng họ
110
Biểu 3.10: Gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đảng viên với vai
trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS
112
của gia đình, dòng họ
Biểu 3.11: Học vấn của bố thanh niên với vai trò giáo dục, động viên
thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ
115
Biểu 3.12: Thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong
giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
117
DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH TRONG LUẬN ÁN
Mô hình 2.1: Bốn vòng tròn đồng tâm của thiết chế xã hội
58
Mô hình 2.2: Vòng tròn khép kín giữa hệ thống chính trị cở sở với
cộng đồng làng xã và gia đình, dòng họ
59
Mô hình 2.3: Vòng tròn khép kín giữa trưởng dòng họ, chủ hộ gia
đình và thanh niên
60
Mô hình 2.4: Các thành phần và mối quan hệ của hệ thống gia đình
62
Mô hình 3.1: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục,
tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
81
41
Lược đồ 2.1: Thao tác hoá khái niệm về gia đình, dòng họ
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Gia đình, dòng họ có vị thế, vai trò to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta. Gia đình, dòng họ là những đơn vị xã hội lập nên làng xã, xác
lập và khẳng định chủ quyền của đất nước trên biên giới đất liền, biển đảo. Các gia
đình, dòng họ chung sức, chung lòng lập nên những pháo đài làng xã vững chắc
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước. Gia đình, dòng họ động viên
và tổ chức cho con em tham gia lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu và BVTQ,
đồng thời là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh giặc.
Chiến tranh giải phóng và BVTQ của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân, là
một nghệ thuật quân sự độc đáo của dân tộc ta. Thực hiện nền QPTD, chiến tranh
nhân dân, dân tộc ta thường xuyên duy trì việc thực hiện NVQS đối với công dân.
Nước có giặc, toàn dân tham gia đánh giặc. Đất nước hòa bình mọi người vừa có
trách nhiệm xây dựng đất nước vừa có trách nhiệm tham gia lực lượng vũ trang,
củng cố quốc phòng, giữ vững đất nước.
Kế thừa nghệ thuật quân sự truyền thống và kinh nghiệm thực hiện chiến tranh
nhân dân, nền QPTD của cha ông, Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương và ban
hành chính sách thực hiện NVQS với công dân. Những công dân trong độ tuổi có
thể phục vụ được trong lực lượng vũ trang, có sức khoẻ đều phải thực hiện NVQS.
Thực hiện NVQS là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi công dân Việt Nam.
Hiện nay, trong điều kiện thời bình, cả nước tập trung cho nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội nên nhu cầu gọi thanh niên nhập ngũ phục vụ trong quân đội không
nhiều. Một số công dân trong độ tuổi NVQS được miễn, hoãn nhập ngũ. Hàng năm,
số lượng công dân gọi nhập ngũ không nhiều và có một số đối tượng được miễn,
hoãn thực hiện NVQS đã tạo ra cho công tác tuyển quân hàng năm của các địa
phương những thuận lợi và không ít khó khăn. Vấn đề công bằng, bình đẳng, công
khai, dân chủ trong thực hiện NVQS của công dân đã và đang là vấn đề xã hội cần
quan tâm giải quyết ở địa phương cơ sở hiện nay.
Trong bối cảnh đó, việc đảm bảo chỉ tiêu, chất lượng gọi thanh niên nhập ngũ
hàng năm của các địa phương phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của hệ thống chính trị
cơ sở, của các đoàn thể chính trị - xã hội, của các tổ chức xã hội công dân và vai trò
2
của gia đình, dòng họ. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, trên cơ sở phối kết hợp chặt chẽ các
vai trò thì công tác tuyển quân hàng năm của các địa phương mới được thực hiện
đúng, đủ, chất lượng. Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng, trong công tác tuyển quân
hàng năm phải phát huy cao độ vai trò của gia đình, dòng họ.
Gia đình, dòng họ là nhân tố quan trọng, quyết định đến việc thực hiện NVQS
của thanh niên. Gia đình, dòng họ xây dựng và nuôi dưỡng ý thức NVQS cho thanh
niên, động viên và tổ chức cho thanh niên nhập ngũ, tạo dựng những yếu tố để
thanh niên yên tâm thực hiện nhiệm vụ trong thời gian thực hiện NVQS. Hiện nay,
độ tuổi gọi nhập ngũ từ 18 đến 25, nhưng tập trung chủ yếu từ 18 đến 20 tuổi. Ở độ
tuổi này, phần lớn thanh niên đang sống trong gia đình, phụ thuộc vào gia đình, nhất
là những thanh niên vừa học xong trung học phổ thông. Do đó, mức độ, tính chất
thực hiện NVQS của thanh niên phụ thuộc rất nhiều vào sự động viên và quyết định
của gia đình, dòng họ.
Là một đơn vị kinh tế, xã hội, văn hóa, gia đình, dòng họ có nhiều sự tính toán
trong việc quyết định cho con em thực hiện NVQS. Trong nền kinh tế thị trường, sự
tính toán dựa trên lợi ích có thể dẫn đến việc gia đình, dòng họ tìm mọi phương
thức để con em được miễn hoãn hoặc thoái thác thực hiện NVQS để chăm lo cho
bản thân và gia đình. Trên thực tế, đại đa số gia đình, dòng họ giáo dục, động viên,
tổ chức cho con em thực hiện NVQS theo quy định của pháp luật, song cũng có gia
đình, dòng họ không hợp tác với hệ thống chính trị ở cơ sở trong quá trình gọi thanh
niên nhập ngũ, ít quan tâm đến thanh niên trong thời gian họ thực hiện NVQS. Thực
tiễn công tác gọi thanh niên nhập ngũ ở các địa phương cơ sở cho thấy, để công tác
này đạt kết quả cao phải phát huy hơn nữa vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên.
Nhằm góp phần lý giải về lý luận và thực tiễn vai trò gia đình, dòng họ đối với
việc thực hiện NVQS của thanh niên, cung cấp cơ sở khoa học thực tiễn cho việc
hình thành các giải pháp phát huy vai trò gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Vai trò của gia đình, dòng họ đối
với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp huyện
Ứng Hoà, thành phố Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu của luận án. Đây là nghiên cứu
xã hội học mới, không trùng lặp với các công trình đã công bố. Kết quả nghiên cứu
3
sẽ góp phần vào luận giải vai trò xã hội của gia đình, dòng họ, nâng cao chất lượng
tuyển quân, góp phần xây dựng nền QPTD, BVTQ thời kỳ mới, bổ sung nội dung
chuyên ngành xã hội học gia đình, xã hội học quân sự và xã hội học quản lý.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý thuyết và thực tiễn vai trò của gia đình,
dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên; đánh giá và đề xuất giải pháp
phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
trong những năm tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý thuyết về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên.
- Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên hiện nay.
- Đề xuất giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực
hiện NVQS của thanh niên.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên.
Khách thể nghiên cứu
- Gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ; gia đình, dòng họ có thanh niên
không trúng tuyển NVQS.
- Thanh niên trong độ tuổi thực hiện NVQS theo quy định của pháp luật;
thanh niên đang thực hiện NVQS.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2014. Thời điểm khảo sát thực tế: năm
2012, 2013.
- Về nội dung: Nghiên cứu tương quan giữa gia đình, dòng họ với việc thực
hiện NVQS của thanh niên; làm rõ vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc tổ
chức thực hiện NVQS, xây dựng nền QPTD, BVTQ.
4
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên được thể hiện
trên những vai trò gì?
- Yếu tố nào có mối quan hệ với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay?
5. Giả thuyết nghiên cứu, các biến số và khung nghiên cứu
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên luôn thể hiện vai trò quan trọng, quyết định trong giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh niên tham
gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập
ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội.
Giả thuyết thứ hai: Vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của
con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với số lượng con trai của gia đình, thu nhập, nghề
nghiệp của gia đình, trình độ học vấn của bố thanh niên, gia đình có bố mẹ là đảng
viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên.
Giả thuyết thứ ba: Trong những năm tới, vai trò của gia đình, dòng họ đối với
việc thực hiện NVQS của thanh niên trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh
niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký,
khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ và động
viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội sẽ ngày càng tăng.
5.2. Hệ các biến số
Biến số độc lập
- Số lượng con trai của gia đình: được đo bằng chỉ số 1 con trai, 2 con trai và 3
con trai trở lên.
- Đặc điểm của gia đình: thu nhập; nghề nghiệp; trình độ học vấn của bố thanh
niên; gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên.
+ Thu nhập của gia đình được đo bằng thu nhập bình quân người/ tháng, với các
chỉ số: từ 2 triệu trở lên, từ 1 đến dưới 2 triệu, dưới 1 triệu.
+ Nghề nghiệp của gia đình được đo bằng nghề nghiệp của bố mẹ thanh niên, với
các chỉ số: nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp.
5
+ Trình độ học vấn của bố thanh niên được đo bằng các chỉ số: tiểu học, trung
học cơ sở, trung học phổ thông và trung cấp trở lên.
+ Gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên được
đo bằng chỉ số: bố mẹ là đảng viên và bố mẹ không là đảng viên.
Biến số phụ thuộc:
- Giáo dục, truyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ.
- Giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS.
- Giáo dục, động viên thanh niên lên đường thực hiện NVQS khi có giấy gọi
nhập ngũ.
- Động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội.
Yếu tố khách quan
- Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Điều kiện kinh tế của địa phương.
- Hệ thống chính trị cơ sở.
- Cộng đồng làng xã.
6
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
5.3. Khung nghiên cứu
Điều kiện kinh tế của địa phương
Số lượng con trai của gia đình
Giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ Giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS
Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
Giáo dục, động viên thanh niên lên đường thực hiện NVQS khi có giấy gọi nhập ngũ
Đặc điểm của gia đình: thu trình độ nhập; học vấn; nghề nghiệp; bố mẹ là đảng viên và bố mẹ không là đảng viên
Động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội
Cộng đồng làng xã Hệ thống chính trị cơ sở
6. Cơ sở lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
6.1. Lý thuyết nghiên cứu
Lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen. Vận dụng lý thuyết hệ thống
gia đình để nhận biết các thành phần của gia đình, vị trí, vai trò của các thành viên
trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình; trên cơ sở đó, phân
tích mối quan hệ giữa bố mẹ với con cái và vai trò của bố mẹ với con cái.
Lý thuyết trung gian của Robert K.Merton về tập hợp vai trò. Vận dụng lý
thuyết trung gian về tập hợp vai trò để phân tích, đánh giá các vai trò của gia đình,
dòng họ được thể hiện trên những hoạt động cụ thể; tương quan, mối quan hệ giữa
các yếu tố với những vai trò của gia đình, dòng họ đối với con cháu.
6.2. Phương pháp luận
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và
7
pháp luật, chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
NVQS, về gia đình có công với cách mạng, có thanh niên đang tại ngũ để phân tích,
đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
6.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tài liệu
- Thu thập, phân tích số liệu, tài liệu về gia đình, dòng họ trong các công trình,
bài viết của các tác giả trong và ngoài nước.
- Thu thập, phân tích các báo cáo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, về
công tác quân sự, an ninh - quốc phòng của huyện Ứng Hoà và xã Quảng Phú Cầu,
xã Đại Cường, thị trấn Vân Đình từ năm 2006 đến 2014. Các báo cáo được thu thập
chủ yếu từ cơ quan quân sự huyện và xã, thị trấn.
Trong số 29 đơn vị hành chính thuộc huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội, đề
tài chọn nghiên cứu xã Quảng Phú Cầu, xã Đại Cường và thị trấn Vân Đình theo
các tiêu chí sau:
+ Về địa lý: trong địa giới hành chính của huyện Ứng Hoà, xã Quảng Phú Cầu
ở phía Bắc - cửa ngõ của huyện, xã Đại Cường ở phía Nam - cuối huyện, thị trấn
Vân Đình ở trung tâm của huyện.
+ Về lịch sử: cả ba địa phương đều có truyền thống cách mạng kiên cường, có
những đóng góp to lớn về nhân lực, vật lực cho công cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong chiến tranh BVTQ.
+ Về kinh tế - xã hội: Quảng Phú Cầu và Đại Cường là hai xã nông nghiệp. Xã
Đại Cường chủ yếu phát triển kinh tế dựa vào trồng trọt và chăn nuôi, đời sống sinh
hoạt của gia đình, dòng họ còn mang nhiều ấn của xã hội nông thôn; xã Quảng Phú
Cầu, ngoài phát triển kinh tế nông nghiệp còn phát triển kinh tế tiểu thủ công
nghiệp, kinh tế làng nghề, đời sống sinh hoạt của gia đình, dòng họ trong xã hội
nông thôn nhưng có nhiều tiếp biến với kinh tế thị trường; thị trấn Vân Đình là
trung tâm hành chính, văn hoá, kinh tế, xã hội của huyện, đời sống sinh hoạt của gia
đình, dòng họ chủ yếu được tổ chức theo xã hội đô thị.
Phỏng vấn sâu
- 15 cán bộ xã, thị trấn, thôn, tổ dân phố. Trong đó, phỏng vấn 06 cán bộ xã,
thị trấn (chủ tịch, phó chủ tịch xã, thị trấn, chỉ huy trưởng quân sự, chỉ huy phó
quân sự xã, thị trấn); 09 cán bộ thôn, tổ dân phố.
8
- 35 người trong gia đình, dòng họ, gồm: 09 trưởng họ, 16 bố mẹ thanh niên
trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và 10 thanh niên nhập ngũ và không nhập ngũ.
Điều tra bằng phiếu
- Điều tra bằng phiếu đối với 800 người thuộc các nhóm đối tượng sau: 198
người là bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS từ năm 2010 đến năm 2013, điều tra
tháng 2, tháng 8 của năm 2012 và tháng 2, tháng 8 của năm 2013; 402 người là bố mẹ
thanh niên không trúng tuyển NVQS, điều tra tháng 8 năm 2013 ở xã Quảng Phú
Cầu, xã Đại Cường, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hoà, Hà Nội; 200 người là thanh
niên đang tại ngũ ở tiểu đoàn huấn luyện tân binh, Sư đoàn B71, Quân chủng Phòng
không - Không quân, điều tra tháng 9 năm 2012. Kết quả thu về 789 phiếu.
Phương pháp lấy mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản
- Với nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS: dựa vào danh sách 198
thanh niên trúng tuyển NVQS do Ban chỉ huy quân sự xã Quảng Phú Cầu, xã Đại
Cường, thị trấn Vân Đình cung cấp trong các đợt tuyển quân (tháng 2 và tháng 8) từ năm
2010 đến năm 2013, nghiên cứu toàn bộ bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS.
- Với nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển quân sự: trên cơ sở danh
sách những thanh niên không trúng tuyển NVQS do Ban chỉ huy quân sự xã, thị
trấn cung cấp trong đợt tuyển quân tháng 8 năm 2013: xã Quảng Phú Cầu có 282
thanh niên không trúng tuyển NVQS; xã Đại Cường có 114 thanh niên không trúng
tuyển NVQS; thị trấn Vân Đình có 247 thanh niên không trúng tuyển NVQS. Sử
=
S
−
2 NPX +− )1
− P 1( ) 2 PX 1(
P )
2 Nd (
dụng công thức tính mẫu của Krejcie và Morgan (1970) [128]:
Trong đó: S = cỡ mẫu cần thiết; N = quy mô dân số; P = tỷ lệ dân số; d = mức
độ chính xác hiện như là một tỷ lệ; X2 = độ tin cậy: giá trị bảng chi bình phương
cho một mức độ tự do ở mức độ tin cậy mong muốn.
Từ số lượng thanh niên không trúng tuyển NVQS được cung cấp, sử dụng công
thức tính mẫu, tính được dung lượng mẫu cần thiết như sau: xã Quảng Phú Cầu là
163 thanh niên; xã Đại Cường là 88 thanh niên; thị trấn Vân Đình là 151 thanh niên.
Sau đó, điều tra bằng phiếu với bố hoặc mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS.
9
- Với nhóm thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội: dựa vào danh sách 200
thanh niên tại ngũ ở tiểu đoàn huấn luyện tân binh do lãnh đạo, chỉ huy tiểu đoàn cung
cấp trong đợt huấn luyện tân binh, tháng 9 năm 2012, nghiên cứu toàn bộ thanh niên.
Thanh niên đang tại ngũ có nơi ở trước khi nhập ngũ thuộc 10 tỉnh, thành ở
miền Trung: Thanh Hoá, Hà Tĩnh và miền Bắc: Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng,
Nam Định, Thái Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Hà Nội (không có thanh niên ở huyện
Ứng Hoà). Do không có thanh niên nào thuộc huyện Ứng Hoà, Hà Nội nên kết quả
điều tra thanh niên tại ngũ được dùng để đối chiếu, so sánh với kết quả điều tra bố
mẹ thanh niên và đánh giá các vấn đề phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong
thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.
- Số lượng phiếu được xử lý 789 (11 phiếu không chứa đủ thông tin, không
được xử lý, trong đó 09 phiếu của bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS; 02
phiếu của thanh niên đang tại ngũ).
- Trong phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa biến số độc lập, yếu tố khách quan
với biến số phụ thuộc có sử dụng sự kiểm định Chi-square thông qua chỉ số: Pearson chi-
square. Nếu chỉ số Pearson chi-square có mức ý nghĩa P < 0,05 và có giá trị tuyệt
đối càng lớn thì mối quan hệ giữa hai biến số càng chặt chẽ và ngược lại.
10
- Bảng cơ cấu mẫu điều tra:
Cơ cấu mẫu
Đặc điểm đối tượng
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Chung (N=789)
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) % SL
Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) %
SL
SL
%
SL
%
Nơi ở
Tuổi
Giới tính Nghề nghiệp
40,9 21,7 37,4 30,8 30,8 22,7 15,7 69,2 30,8 30,3 52,0 17,7 9,6 90,4 39,4 33,8 26,7 44,4 46,0 9,6 92,4 5,1 2,5
159 86 148 144 146 53 50 291 102 184 161 48 43 350 173 128 92 211 166 16 390 1 2
40,5 21,9 37,7 36,6 37,2 13,5 12,7 74,0 26,0 46,6 41,0 12,2 10,9 89,1 44,1 32,6 23,4 53,7 42,2 4,1 99,2 0,3 0,5
159 80,3 5,6 11 14,1 28 22,2 44 77,8 145 53,0 105 27,8 55 19,1 38 50,5 100 42,9 85 6,6 13 91,9 182 3,5 7 4,5 9
240 129 222 205 207 98 81 428 163 403 275 111 106 683 356 250 183 399 342 48 755 18 16
30,4 16,3 28,1 34,7 35,0 16,6 13,7 54,2 20,7 51,1 34,9 14,1 13,4 86,6 45,1 31,7 23,2 50,6 43,3 6,1 95,7 2,8 3,0
Quảng Phú Cầu 81 Đại Cường 43 Vân Đình 74 Dưới 46 61 Từ 46 - 50 61 Từ 51 - 55 45 31 Trên 55 Bố thanh niên 137 Mẹ thanh niên 61 Nông nghiệp 60 Nông nghiệp hỗn hợp 103 Phi nông nghiệp 35 Bố mẹ là đảng viên 19 Bố mẹ không là đảng viên 179 2 - 4 người 78 5 người 67 6 người trở lên 53 88 1 con trai 91 2 con trai 19 183 10 5
Nông dân Công nhân Khác
Đảng viên Thành viên gia đình Con trai trong gia đình 3 con trai trở lên Thành phần xuất thân Trình độ học vấn
13,1 56,1 27,3 3,5 2,0
35 256 76 26 38
8,9 65,1 19,3 6,6 9,7
6 80 102 10 10
3,0 40,4 51,5 5,0 5,1
67 447 232 43 52
8,5 46,7 29,4 5,4 6,6
26 111 54 7 4
43
21,7
199
50,6
69
34,8
311
39,4
151
76,3
156
39,7
119
60,1
426
54,0
Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp trở lên 2 triệu trở lên 1-dưới 2 triệu Dưới 1triệu
Thu nhập bình quân người/ tháng
11
7. Điểm mới, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Điểm mới của luận án
- Điểm mới về lý luận: Bên cạnh việc đưa ra những nghiên cứu mới về gia đình,
dòng họ, đặc điểm của gia đình, dòng họ, luận án phân tích quan niệm và yếu tố tác
động vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Đặc
biệt, luận án đưa ra 3 mô hình tương tác giữa các yếu tố tác động, chi phối việc thực
hiện NVQS của thanh niên.
- Điểm mới về thực tiễn: Dựa trên những tài liệu, số liệu thu thập, xử lý được từ
điều tra khảo sát của tác giả, luận án có những phân tích, đánh giá mới về thực trạng
vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên và yếu tố
tác động đến vai trò của gia đình đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
- Vấn đề được rút ra từ những phân tích, đánh giá thực trạng; một số thuận lợi,
khó khăn, đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên; giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên đều là những nghiên cứu mới trong luận án.
7.2. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, phát triển lý thuyết xã hội học gia đình,
xã hội học quân sự, xã hội học quản lý, nhất là lý thuyết xã hội hoá; góp phần hoàn
thiện lý luận về công tác quản lý đối với thanh niên trong độ tuổi thực hiện NVQS và
thanh niên đang tại ngũ.
- Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của thanh niên
trong thực hiện NVQS; góp phần khẳng định vai trò của gia đình, dòng họ trong xây
dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ Việt Nam XHCN.
- Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy xã
hội học gia đình, xã hội học quân sự, xã hội học quản lý.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Gia đình, dòng họ và vai trò của gia đình, dòng họ được nhìn nhận dưới nhiều
góc độ tiếp cận khác nhau, trong đó có những công trình nghiên cứu dưới góc độ
tiếp cận xã hội học. Sự tham gia của xã hội học đã góp phần nhận thức về gia đình,
dòng họ trở nên cụ thể, sâu sắc và toàn diện hơn.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình, bài viết cả trong và ngoài nước nghiên
cứu về gia đình, dòng họ, trên các hướng, nội dung khác nhau. Trong đó, có các
hướng, nội dung nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình,
dòng họ và chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình, dòng họ; làng Việt,
dòng họ và thực hiện NVQS của thanh niên.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHỨC NĂNG, VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH
1.1.1. Chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình
Nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình có nhiều
công trình, bài viết, trong đó có cả những công trình, bài viết của tác giả trong nước
và nước ngoài. Điển hình cho hướng nghiên cứu này là các tác giả August Comte,
Cooley, Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý, Lê Ngọc Văn, v.v…
Trước hết, nghiên cứu về vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được thể
hiện trong sách “Xã hội học gia đình” của Martine Segalen [77]. Ở đây, tác giả đã
trình bầy các vấn đề chủ yếu: suy nghĩ về gia đình hiện đại; những biến đổi của
quan hệ thân tộc; những biến đổi của gia đình; các chức năng của gia đình; gia đình,
chuẩn mực và nhà nước. Đặc trưng của cuốn sách là sự kết hợp giữa trình bầy lý
thuyết và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu về gia đình và các quan
hệ của gia đình ở châu Âu; đặt gia đình và sự biến đổi của gia đình trong các quan
hệ với xã hội, giai cấp, nhà nước, dòng họ, quan hệ thân tộc, đề cao vị thế thiết chế
xã hội của gia đình, dòng họ và nhấn mạnh vai trò giáo dục, xã hội hóa của gia đình.
Trong làm rõ vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình, tác giả đã phân tích các
chiều cạnh quan hệ xã hội của gia đình: mẹ và con gái; quan hệ thân tộc theo giới
tính; tự do, bình đẳng, bất bình đẳng trong quan hệ gia đình.
Cuốn Gia đình học của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý [53] là một công trình
nghiên cứu khoa học về gia đình Việt Nam, về vai trò của gia đình. Trong cuốn sách,
13
các tác giả đã có những nghiên cứu chuyên sâu về vị trí, vai trò, chức năng của gia
đình và cho rằng: “Gia đình có thể biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng, về các
hình thức và chuẩn mực trong các mối quan hệ, nhưng vị trí, vai trò của nó đối với sự
phát triển của xã hội thì vẫn không thay đổi” [53, tr. 642-643]. Đặc biệt, khi nghiên
cứu về giáo dục gia đình và xã hội hoá cá nhân, các tác giả viết: “Giáo dục gia đình là
phương thức dạy dỗ cho con trẻ lớn lên có được những kiến thức cần thiết để mưu
sinh, lao động, sản suất và ứng xử với đời” [53, tr. 261-262]. Trong những nội dung
mà các bậc cha mẹ giáo dục con cháu được các tác giả đưa ra như: sự lễ phép, hiếu
thảo, tính trung thực, tính tự lập, niềm tin vào cuộc sống và sự truyền dạy về lý tưởng
cách mạng, thì “Sự truyền dạy về lý tưởng cách mạng không cao, chỉ chiếm 51,7%”
[53, tr. 271], nhưng theo các tác giả điều này không có nghĩa gia đình không chú
trọng giáo dục mà chỉ là một sự thay đổi phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh sống
của kinh tế thị trường. Nghiên cứu này của tác giả là những gợi mở thú vị cho việc
gia đình giáo dục, tuyên truyền con em về nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân với
quê hương, đất nước, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ BVTQ.
Nghiên cứu về chức năng, vai trò xã hội hoá của gia đình phải kể đến August
Comte, nhà xã hội học người Pháp. Trong phân tích xã hội dưới dạng cơ cấu của nó,
Comte đã xác định vị trí và chức năng của gia đình trong sự vận động của tổng thể xã
hội. Ông chia xã hội thành hai phần cơ bản là tĩnh học xã hội (phần cơ cấu chức
năng) và động học xã hội (phần lịch sử). Với cách phân chia này, Comte chỉ ra, gia
đình vừa nằm trong phần cơ cấu tĩnh của xã hội (vị thế, vai trò, chức năng quan trọng
trong xã hội) vừa nằm trong phần động của xã hội (vận động và biến đổi cùng với các
sự kiện lịch sử). Ông cũng cho rằng, gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên của
con người trước khi bước vào đời sống xã hội. Gia đình là một thành phần chủ yếu,
quan trọng của xã hội, tạo nên diện mạo xã hội; mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình tạo nên sự gắn kết của gia đình trong xã hội [94, tr.12].
Ch.H.Cooley, trong cuốn Bản chất con người và trật tự xã hội lại đưa ra quan
điểm, một trong những thành tố cấu thành trật tự xã hội là gia đình. Cooley coi gia
đình là một trong những nhóm nhỏ của xã hội và là nhóm có vai trò quan trọng nhất
trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Ông đưa hệ thống phương pháp luận có tính cơ
cấu - chức năng vào phân tích gia đình. Qua đó, Cooley đã có điều kiện để mổ xẻ,
14
phân tích các quan hệ gia đình một cách cụ thể, sát thực. Tuy nhiên, trong phân tích
gia đình, Cooley có phần coi nhẹ các nhân tố mang tính chủ thể như nhận thức, tâm
lý, tâm trạng, các nhân tố về văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán trong sự vận
động của các quan hệ gia đình [94, tr.13].
Cũng đề cập đến chức năng gia đình, nhưng thiên về chức năng xã hội hoá
của gia đình, cuốn sách Gia đình với chức năng xã hội hóa của Lê Ngọc Văn [102]
đã cho thấy những biến đổi trong chức năng xã hội hóa của gia đình Việt Nam,
những thách thức, khó khăn và những giải pháp cho gia đình Việt Nam nhằm hoàn
thiện chức năng xã hội hóa trong điều kiện hiện nay. Trong phân tích chức năng xã
hội hoá của gia đình, tác giả cho rằng, gia đình không chỉ tái sản xuất ra con người
về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra đời sống tình cảm, tâm hồn, văn hoá, tức là
xã hội hoá. Quá trình xã hội hoá giúp chuyển hoá con người từ một thực thể tự
nhiên thành con người xã hội và con người sinh ra nếu không nhận được sự giáo
dục, tách khỏi môi trường xã hội thì sẽ không trở thành con người thực thụ: “Người
ta sinh ra không phải đã là con người mà chỉ trở thành con người trong quá trình
giáo dục” [Trích theo 78, tr.49]. Đây đều là những gợi ý thú vị cho nghiên cứu chức
năng, vai trò xã hội hoá NVQS cho thanh niên của gia đình.
Nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục của gia đình còn được nhìn nhận
trong nhiều công trình, bài viết của các tác giả. Nổi bật cho các công trình nghiên
cứu chức năng giáo dục của gia đình là cuốn sách: Những nghiên cứu xã hội học về
gia đình Việt Nam của Tương Lai [58]. Công trình đã trình bày khá rõ nét những
đặc điểm của gia đình, như nội dung phân tích về gia đình và giáo dục gia đình của
Trần Đình Hượu, phụ nữ với chức năng giáo dục gia đình của Đặng Thanh Lê; phân
tích sâu sắc ảnh hưởng của giáo dục gia đình đối với sự hình thành và hoàn thiện
nhân cách của con người.
Cũng bàn về giáo dục gia đình, Trịnh Duy Luân và Helle Rydstrom - Wil
Burghoorn trong cuốn Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi [62] đã đưa
ra những số liệu về vai trò của cha mẹ trong giáo dục con cái, như “Vai trò của
cha mẹ trong việc dạy bảo, đưa con vào kỷ luật: cả hai vợ chồng là 27,7%, chồng
là 20,6%, vợ là 19,9%, người khác là 1,5%” [62, tr.141]. Sự dạy bảo, đưa con vào
kỷ luật của cha mẹ là nhân tố quan trọng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho
15
con em chưa đến tuổi nhập ngũ, giúp con cháu hình thành tác phong, lối sống kỷ
luật của người lính ngay từ khi còn nhỏ. Sách Gia đình trong tấm gương xã hội học
(2004) do Mai Quỳnh Nam chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội lại có nhiều bài
viết làm rõ chức năng, chức năng giáo dục của gia đình và cấu trúc, các mối quan hệ
trong gia đình.
Tiếp đến Xã hội học Giáo dục của Lê Ngọc Hùng [46] là cuốn sách chuyên
ngành, gồm 9 chương, nhưng trong chương 8: Dân số, gia đình và nhà trường, tác
giả đã tập trung phân tích vị trí, vai trò của giáo dục nhà trường trong mối quan hệ
với dân số và gia đình và các vấn đề như: hôn nhân và giáo dục gia đình, cơ cấu các
loại gia đình. Về vai trò của gia đình, tác giả chỉ rõ: “gia đình với hoàn cảnh kinh tế
- xã hội và quan điểm giáo dục của bố mẹ mới là những yếu tố tác động trực tiếp
mạnh mẽ tới động cơ học tập, chất lượng học tập và khả năng thành đạt của học
sinh” [46, tr. 283]. Điều này gợi mở cho nghiên cứu mối quan hệ giữa yếu tố kinh
tế, thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS
của thanh niên.
Kiểu loại gia đình và giáo dục trẻ em trong gia đình ở Hà Nội hiện nay của
tác giả Nguyễn Chí Dũng [27] đã đưa ra những nghiên cứu về biến đổi của gia
đình và tác động của nó tới quá trình giáo dục, nhu cầu, nội dung và phương pháp
giáo dục. Tác giả đã nhấn mạnh vào các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục gia đình: đẩy mạnh giáo dục toàn diện trong đó giáo dục đạo đức, lối sống,
nhân cách phải đặt lên hàng đầu; giáo dục tình yêu thương và kính trọng đối với
người già là một phần không thể thiếu trong giáo dục đạo đức; chú ý giáo dục
phòng ngừa những tệ nạn xã hội; phát huy vai trò của chủ thể trong quá trình giáo
dục. Biến đổi chức năng của gia đình và giáo dục trẻ em hiện nay của Hoàng Bá
Thịnh [88] lại tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi chức năng gia đình
đến sự phát triển của trẻ em. Tác giả chỉ ra, cha mẹ có trình độ văn hoá thấp cũng
ảnh hưởng đến quá trình nuôi dạy và giáo dục con cái; sự nuông chiều con cái và
buông lỏng quản lý của gia đình cũng là tiền đề cho những hành vi phạm pháp
trong giới trẻ hiện nay.
Sách Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở tuổi thiếu niên trong gia
đình thành phố hiện nay của Nguyễn Thanh Bình [8] có những nghiên cứu về những
16
yếu tố ảnh hưởng đến gia đình, giáo dục gia đình và trẻ em. Nghiên cứu chỉ rõ, ở gia
đình thành phố nước ta đã có sự thay đổi khá toàn diện về cơ cấu, quy mô gia đình,
thu nhập, mức sống, đời sống tình cảm, tính chất của các mối quan hệ trong gia đình
và định hướng cho con cái. Đặc biệt, tác giả còn nhấn mạnh vai trò của gia đình trong
giáo dục đạo đức như: yêu thương, trách nhiệm, ham học, có ý thức tự tin, dũng cảm,
tôn trọng và hợp tác với mọi người, khoan dung, trung thực, khiêm tốn.
Luận án Tiến sĩ xã hội học Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em
hư ở thành phố (Qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội) của Nguyễn Đức Mạnh [64]
đã tập trung làm rõ vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức gia phong cho trẻ;
nhấn mạnh đến ảnh hưởng của yếu tố nghề nghiệp, trình độ học vấn, văn hoá, lối
sống… của bố mẹ đến những trẻ em trong gia đình. Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa xã
hội khoa học Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay
của Nghiêm Sĩ Liêm [59] đã có những nghiên cứu về chức năng giáo dục của gia
đình đối với thế hệ trẻ; nhấn mạnh đến giáo dục đạo đức, giáo dục học tập văn hoá,
giáo dục lao động và rèn luyện tính tự lập cho thế hệ trẻ, giáo dục giới tính cho thế
hệ trẻ. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra vai trò của ông bà, bố mẹ, anh chị em đối với
việc giáo dục thế hệ trẻ. Tác giả nhấn mạnh: “Vai trò của cả cha mẹ là đảm bảo
hạnh phúc gia đình, chăm lo sự phát triển của con cái. Cùng với người mẹ, người
cha giáo dục con cái về nhân cách và những giá trị văn hoá tinh thần của gia đình,
của dòng họ và của thân tộc” [59, tr.52]. Bài viết Giáo dục gia đình trong thời đại
ngày nay của Lê Trung Trấn [93] nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục gia đình
qua hai bình diện truyền thống và hiện đại. Tác giả cũng đưa ra nội dung giáo dục
tiền hôn nhân, giáo dục hành vi ứng xử, giáo dục văn hoá, giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục tri thức và giáo dục sức khoẻ.
Tóm lại, những nghiên cứu về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia
đình có thể được nhận diện trên một số nội dung nghiên cứu như sau: Thứ nhất, chức
năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được đề cập trong các công trình
nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm. Cụ thể, công trình Xã hội học gia đình của
Martine Segalen, trong kết hợp nghiên cứu giữa lý thuyết và thực nghiệm các tác giả
có nhấn mạnh vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình thông qua các mối quan hệ
của gia đình; các nghiên cứu của August Comte lại nhấn mạnh gia đình là môi
17
trường xã hội hoá đầu tiên của con người trước khi bước vào đời sống xã hội hay
Ch.H.Cooley, trong cuốn Bản chất con người và trật tự xã hội cho rằng, gia đình có
vai trò quan trọng trong quá trình xã hội hoá cá nhân; Những nghiên cứu xã hội học
về gia đình Việt Nam của Tương Lai có nhiều bài viết của các tác giả nghiên cứu về
chức năng giáo dục gia đình. Những công trình nghiên cứu này chỉ có giá trị tham
khảo nhất định trong triển khai vấn đề nghiên cứu của luận án. Bởi vì, tuy nghiên
cứu nhiều và khá kỹ về chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình, nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình trong
thực hiện NVQS của thanh niên.
Thứ hai, chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được thể hiện
thông qua các nghiên cứu về trẻ em, học sinh. Nổi bật là công trình Gia đình học của
Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý đã có những phân tích giá trị về vai trò của giáo
dục gia đình trong dạy dỗ con trẻ lớn lên và hình thành sự lễ phép, hiếu thảo, tính
trung thực, tính tự lập, niềm tin vào cuộc sống, lý tưởng cách mạng cho con trẻ; Gia
đình với chức năng xã hội hóa của Lê Ngọc Văn chủ yếu đề cập đến chức năng xã
hội hoá con cái của gia đình; Xã hội học Giáo dục của Lê Ngọc Hùng lại nhấn mạnh
vai trò của bố mẹ với động cơ, chất lượng học tập và khả năng thành đạt của học
sinh; Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở tuổi thiếu niên trong gia đình
thành phố hiện nay của Nguyễn Thanh Bình lại có những nghiên cứu về những yếu
tố ảnh hưởng đến giáo dục gia đình và trẻ em... Đối tượng nghiên cứu trẻ em, học
sinh hoàn toàn khác với thanh niên, nhưng các nghiên cứu này, nhất là nghiên cứu
nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của gia đình trong xã hội hoá con trẻ; nghiên cứu
về mối quan hệ giữa yếu tố kinh tế, thu nhập của gia đình với vai trò giáo dục của
bố mẹ với con cái đều là những tài liệu tham khảo giá trị, gợi mở cho nghiên cứu
vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình trong thực hiện NVQS của thanh niên.
Thứ ba, chức năng, vai trò giáo dục, xã hội hoá của gia đình được nhìn nhận ở
khía cạnh giáo dục các giá trị truyền thống, đạo đức, lối sống, kỷ luật, nhân cách cho
con trẻ. Chẳng hạn, công trình Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi của
Trịnh Duy Luân và Helle Rydstrom - Wil Burghoorn nhấn mạnh vai trò của cha
mẹ trong việc dạy bảo, đưa con vào kỷ luật; Kiểu loại gia đình và giáo dục trẻ em
trong gia đình ở Hà Nội hiện nay của Nguyễn Chí Dũng cho rằng, trong nghiên cứu
18
về biến đổi gia đình thì giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho trẻ em phải được
đưa lên hàng đầu; Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em hư ở thành phố
(Qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội) của Nguyễn Đức Mạnh lại tập trung làm rõ
vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức gia phong cho trẻ... Những công trình
nêu trên có nhiều phân tích, đánh giá về vai trò giáo dục của gia đình đối với con trẻ
về đạo đức, lối sống, nhân cách,... nhưng chưa có những phân tích đánh giá vai trò
giáo dục của gia đình đối với con trẻ về nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với
sự nghiệp xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ; không có công trình, bài viết nào
nghiên cứu vai trò giáo dục của gia đình đối với thanh niên về thực hiện NVQS. Do
vậy, chúng chỉ có giá trị tham khảo cho phân tích, đánh giá vai trò giáo dục của gia
đình trong thực hiện NVQS của thanh niên.
1.1.2. Chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình
Tâm lý tình cảm là một trong những chức năng cơ bản của gia đình. Hướng
nghiên cứu này có trong nhiều công trình, bài viết của các tác giả và được thể hiện
theo những cách thức khác nhau.
Trong nghiên cứu về gia đình ở phần IV, chương 14 (tr.451 - 488), Xã hội học,
John J. Macionis [63] đã đề cập đến nhiều lĩnh vực: ý niệm cơ bản về quan hệ họ
hàng; gia đình trong viễn tưởng giữa các nền văn hóa; phân tích lý thuyết về gia
đình; diễn tiến đời sống của gia đình Mỹ điển hình; tính đa dạng trong gia đình Mỹ;
sự chuyển tiếp và các vấn đề trong đời sống gia đình; kĩ thuật sinh sản mới với gia
đình. Đặc biệt, John J. Macionis đưa ra quan niệm về quan hệ họ hàng: “ám chỉ các
mối quan hệ xã hội dựa trên huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng” [63, tr.452];
đưa ra: “Mô hình cấu trúc - chức năng hướng đến một số chức năng xã hội quan
trọng do gia đình thực hiện” [63, tr.456]. Trong các chức năng cơ bản của gia đình,
tác giả nhấn mạnh chức năng bảo đảm vật chất và tình cảm của gia đình. Tác giả coi
đây là chức năng bảo đảm sự ổn định của gia đình và duy trì các mối quan hệ trong
gia đình, nhất là mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái.
Cũng nói về mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái, nhưng mối quan hệ này được
minh chứng bằng các số liệu của Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Unicef và Viện Gia đình và
Giới [14]. Chẳng hạn, trong chương VII của công trình nghiên cứu mối quan hệ giữa
19
bố mẹ với con cái, cụ thể mối quan tâm của cha mẹ đối với việc học của con, kết quả
điều tra cho biết: “Cha mẹ quan tâm nhiều hơn đến vấn đề học thêm ở cả hai nhóm
tuổi 7-14 tuổi (47,4%) và 15-17 tuổi (42,8%). Trong khoảng trên 50% số hộ có trẻ
trong độ tuổi đang theo học cần quyết định việc học thêm thì tỷ lệ cha mẹ tham gia
quyết định của nhóm 7-14 tuổi là 83,4% và nhóm 15-17 tuổi là 73,8%. Đối với thời
gian học ở nhà thì nhóm trẻ nhỏ tuổi được cha mẹ tham gia quyết định nhiều hơn
nhóm lớn tuổi (49% so với 26,6%)” [14, tr.96]. Ngoài ra, kết quả điều tra gia đình
Việt Nam cũng có những phân tích về mối quan tâm của cha mẹ tới bạn bè của con,
tới các hoạt động vui chơi của con. Những mối quan tâm thể hiện mối quan hệ giữa
cha mẹ với con cái đã gián tiếp nói lên tầm quan trọng của chức năng tâm lý tình cảm
của gia đình.
Chức năng tâm lý tình cảm của gia đình cũng được đề cập gián tiếp trong bài
“Young Koreans head to military amid tentions” (Thanh niên Hàn Quốc nhập ngũ
trong căng thẳng) của Nemo Kim. Khi viết về thanh niên đang tại ngũ ở Hàn Quốc,
tác giả đã nêu lên những băn khoăn, lo lắng không những của thanh niên đang tại
ngũ, mà còn của gia đình, bố mẹ thanh niên. Thông qua trao đổi, phỏng vấn với một
người mẹ có con trai nhập ngũ, bài viết đã cho thấy sự băn khoăn, lo lắng của người
mẹ với con cái: "Tôi vô cùng lo lắng khi vụ Cheonan xảy ra. Chỉ nghĩ đến những
người mẹ tội nghiệp của những người đã chết trên đảo Yeonpyeong cũng khiến tôi
rơi lệ" [133].
Đề cập trực tiếp đến vai trò tâm lý tình cảm của gia đình, bài viết Gia đình là
một giá trị của tác giả Đặng Cảnh Khanh [52] đã nhấn mạnh gia đình là một giá trị
không chỉ đối với cá nhân mỗi con người mà còn đối với cả nhân loại, gia đình là
thiết chế kinh tế đầu tiên, là điểm tựa cho sự phấn đấu của mỗi cá nhân, là nơi
nương tựa về tình cảm, tinh thần, tồn tại từ tổ tiên ông bà con cháu và tiếp tục mãi
tiếp nối. Bài viết Gia đình nguồn hỗ trợ tình cảm cho thanh niên và vị thành niên,
Nguyễn Hữu Minh [69] lại tập trung phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm gia
đình và một số mặt trong đời sống tinh thần của thanh niên và vị thành niên. Bài
viết đã minh chứng rõ nét về vai trò của gia đình đối với sức khoẻ và tinh thần của
thanh niên và vị thành niên; sự phụ thuộc vai trò này của gia đình vào khả năng
kinh tế, mức độ bền chặt của các mối quan hệ tình cảm bên trong, đặc điểm loại
20
hình gia đình và học vấn của cha mẹ. Cuốn sách Vai trò gia đình trong việc xây
dựng nhân cách con người Việt Nam do Lê Thi chủ biên [87] cũng đã làm nổi bật
vai trò tâm lý tình cảm của gia đình. Thông qua những phân tích, đề tài cho rằng,
sự quan tâm, động viên, chăm lo của cha mẹ có ảnh hưởng quan trọng tới sự hình
thành nhân cách trẻ em.
Như vậy, hướng nghiên cứu về chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia
đình có thể được thể hiện trên một số khía cạnh sau: Một là, chức năng, vai trò tâm
lý tình cảm của gia đình thể hiện thông qua nghiên cứu chuyên biệt về xã hội học
như công trình nghiên cứu Xã hội học của John J. Macionis và nghiên cứu thực
nghiệm như Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch. Nghiên cứu này cho rằng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình giúp
đảm bảo sự ổn định và duy trì mối quan hệ trong gia đình, nhất là mối quan hệ giữa
bố mẹ và con cái. Qua đó, bố mẹ kiểm soát được con cái, định hướng con cái thực
hiện nghĩa vụ, trách nhiệm phù hợp với lứa tuổi. Hai là, chức năng, vai trò tâm lý
tình cảm của gia đình được thể hiện gián tiếp thông qua những băn khoăn, lo lắng
của bố mẹ với con đang nhập ngũ nơi xảy ra chiến sự. Sự quan tâm này của bố mẹ
có thể thúc đẩy hoặc hạn chế nghị lực của người lính nên ảnh hưởng nhất định đến
việc hoàn thành nhiệm vụ của con em. Ba là, chức năng, vai trò tâm lý tình cảm
của gia đình được thể hiện trực tiếp thông qua bài Gia đình là một giá trị của Đặng
Cảnh Khanh; bài Gia đình nguồn hỗ trợ tình cảm cho thanh niên và vị thành niên
của Nguyễn Hữu Minh; đề tài Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam của Lê Thi. Những bài viết và đề tài này đã có các nghiên cứu chỉ
rõ gia đình là nơi nương tựa về tình cảm, tình thần; gia đình tạo nên những mối
quan hệ bền chặt bên trong; gia đình có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành
nhân cách của con em.
Tuy các công trình, bài viết có những nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp,
chuyên biệt hay thực nghiệm về chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của gia đình,
nhưng chưa có công trình, bài viết nào nói về chức năng, vai trò tâm lý tình cảm của
gia đình đối với thanh niên nhập ngũ. Cho nên, những công trình, bài viết này chỉ có
giá trị tham khảo hữu ích, bổ sung kinh nghiệm phân tích, đánh giá vai trò tâm lý
tình cảm của gia đình trong thực hiện NVQS của thanh niên.
21
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DÒNG HỌ VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN
Hướng nghiên cứu về dòng họ và thực hiện NVQS của thanh niên được nhận
diện thông qua bài viết đăng tải trên các trang website và những công trình, bài viết
đã được công bố của các tác giả trong và ngoài nước. Hướng nghiên cứu này góp
phần làm rõ vai trò của dòng họ và thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.
1.2.1. Các nghiên cứu về dòng họ
Các công trình, bài viết nghiên cứu về dòng họ tuy không trực tiếp đề cập trực
tiếp vai trò của dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên, nhưng thông qua các
nghiên cứu này của các tác giả, thấy rằng: các công trình, bài viết nghiên cứu về
dòng họ đã gián tiếp khẳng định vai trò của dòng họ thông qua mối tương tác với
thiết chế làng trong phát huy nghĩa vụ, trách nhiệm của thanh niên với việc xây
dựng nền QPTD, BVTQ.
Trước hết, phải nói đến những nghiên cứu chuyên sâu của Mai Văn Hai, Phan
Đại Doãn về dòng họ. Trong công trình Quan hệ dòng họ ở châu thổ sông Hồng
[38], Mai Văn Hai và Phan Đại Doãn đã có những phân tích sắc bén về dòng họ.
Thông qua kết quả điều tra hai dòng họ Trần Hữu và Trần Huy ở Đào Xá, Nam
Sách, Hải Dương, hai tác giả đã phác hoạ chân thực sự ganh đua, cạnh tranh thế lực
gay gắt dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí trở thành mối thâm thù, hận huyết truyền đời.
Điều này đã gây không khí căng thẳng, ngột ngạt, phá vỡ an ninh làng xã, ảnh
hưởng đến việc tuyên truyền, vận động con cháu của dòng họ tham gia xây dựng và
BVTQ. Công trình cũng cho thấy, sự cố kết của dòng họ có ảnh hưởng rất lớn đến
việc thúc đẩy vai trò của dòng họ đối với các thành viên.
Cuốn Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế văn hóa xã hội [22] là một
nghiên cứu điển hình của Phan Đại Doãn. Công trình nghiên cứu các vấn đề kinh tế,
văn hóa, xã hội của làng ở đồng bằng sông Hồng. Thông qua các nghiên cứu này,
Phan Đại Doãn đã làm sáng tỏ nhiều nhiều đặc thù của làng xã. Đặc biệt, tác giả
phân tích khá rõ đặc điểm của dòng họ, nhất là đặc điểm tính quan hệ cộng đồng
của dòng họ có khả năng chi phối mạnh mẽ đến các thành viên. Nghiên cứu của Lê
Ngọc Văn về Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay
[103] lại cho thấy những phân tích, đánh giá khá toàn diện về cấu trúc họ hàng và
22
chức năng của thiết chế họ hàng ở đồng bằng sông Hồng. Trong đó, chức năng duy
trì sự cố kết và trật tự của dòng họ nhằm duy trì, mở rộng, tăng cường các quan hệ
họ hàng trước những nguy cơ rạn nứt từ tính tự do của các cá nhân trong các quan
hệ kinh tế, xã hội thị trường là những phân tích giá trị cho các nghiên cứu về vai trò
của dòng họ đối với thanh niên.
Một trong những công trình nghiên cứu nổi bật về dòng họ là cuốn Làng ở vùng
châu thổ sông Hồng vấn đề còn bỏ ngỏ do Philippe Papin - Olivier Tessier chủ biên
[72]. Công trình gồm 5 phần, 737 trang, có những nghiên cứu chuyên sâu về dòng họ.
Các nghiên cứu về dòng họ tập trung làm rõ các quan hệ truyền thống của dòng họ,
quan hệ giữa các dòng họ trong làng và quan hệ giữa họ với làng dựa trên các quy
ước làng và hương ước dòng họ. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ giữa các thành
viên trong dòng họ, đề cao vai trò của dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền, động
viên con cháu trong thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với dòng tộc, với quê hương, đất
nước. Cũng nghiên cứu về dòng họ cuốn Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá
khứ của John Kleinen [56] chỉ ra: “Quan hệ họ hàng được mô tả như một mô hình
theo hướng nam giới chiếm vai trò chủ đạo với họ và dòng họ…” [56, tr.187]. Tác
giả cũng cho rằng, mối quan hệ giữa dòng họ và gia đình được củng cố bởi tục thờ
cúng tổ tiên “Tổ tiên là người mà cả khi sống lẫn chết, cả con cái cha mẹ đều phải
kính trọng” [56, tr.188]. Những quan điểm của tác giả về gia dòng họ có ý nghĩa
quan trọng cho nghiên cứu vai trò của dòng họ đối với các thành viên.
Trong cuốn Xã hội học văn hóa [21], từ trang 279 đến 289, Đoàn Văn Chúc
đã có những kiến giải khá sâu sắc về nhóm họ đồng tông. Theo tác giả, nhóm họ
đồng tông là nhóm dòng dõi, nhóm nội tộc. Quan hệ dòng dõi là điều kiện của sự
hình thành nhóm họ và các nhóm chi họ. Trong dòng họ, người trưởng họ nắm giữ
vai trò quan trọng đối với các thành viên, như giúp hòa giải những xích mích, đề
xuất những tương trợ cho các thành viên, bênh vực các thành viên khi bị xâm hại,
tuyên truyền, vận động các thành viên thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Sách Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm [86] cũng có
những trang mô tả về dòng họ, như là nét đặc sắc về văn hóa trong tổ chức, quan
hệ làng xã nông thôn Việt Nam. Tác giả viết: “Đối với người Việt Nam, gia tộc trở
thành một cộng đồng gắn bó có vai trò quan trọng thậm chí còn hơn cả gia đình”
23
[86, tr.89]; “Sức mạnh của gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau.
Người trong họ có trách nhiệm cưu mang nhau về vật chất” [86, tr.90]. Bài viết
Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá trị cơ bản của văn hóa làng
Việt của Mai Văn Hai [36] đã tiến hành nghiên cứu các giá trị cơ bản của văn hoá
dòng họ trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Qua đó đưa ra những nhận định
về sự biến đổi các giá trị của dòng họ dưới tác động của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước có ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò của dòng họ đối
với các thành viên.
Các công trình nghiên cứu về dòng họ nêu trên được thể hiện trên nhiều góc
độ khác nhau, như: nghiên cứu về quan hệ dòng họ ở đồng bằng sông Hồng; nghiên
cứu dòng họ thông qua nghiên cứu làng xã, thực trạng và vấn đề đặt ra với gia đình;
nghiên cứu dòng họ theo hướng tiếp cận văn hoá, xã hội. Song, có thể nhận thấy
rằng, các công trình nghiên cứu về dòng họ chủ yếu khai thác khía cạnh quan hệ
trong dòng họ, mối quan hệ giữa dòng họ với làng, gia đình và đặc điểm của sự cố
kết dòng họ. Tuy các khía cạnh nghiên cứu này không đề cập trực tiếp đến vai trò
của dòng họ với thanh niên, con cháu trong thực hiện NVQS, nhưng chính những
đặc điểm sự cố kết cộng đồng, quan hệ dựa trên huyết thống của dòng họ mà dòng
họ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các thành viên trong giáo dục, động viên
con cháu tham gia vào sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay. Vì vậy, đây
đều là tài liệu tham khảo quý giá cho nghiên vai trò của gia đình, dòng họ đối với
việc thực hiện NVQS của thanh niên.
1.2.2. Thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên
Thực hiện NVQS với nam giới đến tuổi trưởng thành là quy định bắt buộc
với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị - xã hội và dân số mà các nước quy định độ tuổi nhập ngũ cho
công dân nam của nước mình; hoặc quy định nhập ngũ bắt buộc hay nhập ngũ tự
nguyện, theo hợp đồng, thậm chí quy định nhập ngũ bắt buộc đối với cả nữ giới (ở
Isreal, tất cả thanh niên nam, nữ học xong trung học đều phải vào quân ngũ) [114].
Tình hình thực hiện NVQS của một số nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy,
trong xây dựng và BVTQ ở mỗi quốc gia cần thiết phải thực hiện NVQS đối với
thanh niên.
24
Thực hiện NVQS của thanh niên ở một số nước trên thế giới
Thái Lan áp dụng hình thức nhập ngũ theo hai nấc tuổi: nhập ngũ bắt buộc với
nam thanh niên đủ 21 tuổi trở lên và nhập ngũ tự nguyện với nam thanh niên từ 18
đến dưới 21 tuổi. Thời gian nhập ngũ bắt buộc ở Thái Lan là 2 năm.
Trung Quốc, đất nước đông dân nhất thế giới, việc thực hiện NVQS là bắt
buộc có chọn lọc với nam giới từ 18 đến 24 tuổi và thời gian nhập ngũ là hai năm và
không có hình thức nhập ngũ tự nguyện. Điều này được ghi rõ trong Điều 55 của
Hiến pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc: Thực hiện NVQS là nghĩa vụ và
vinh dự của mọi công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc; trong Luật NVQS
năm 1984 của Trung Quốc: NVQS là một nhiệm vụ cho mọi công dân không phân
biệt chủng tộc và tín ngưỡng tôn giáo [131].
Hàn Quốc, đất nước về lý thuyết vẫn trong tình trạng chiến tranh với Triều
Tiên nên việc thực hiện NVQS ở Hàn Quốc được thực hiện nghiêm minh. Mọi nam
giới ở Hàn Quốc đều phải thực hiện NVQS trước tuổi 35, thời gian phục vụ quân
ngũ là 21 tháng đối với lục quân và 23-24 tháng đối với hải quân, không quân.
NVQS ở Hàn Quốc áp dụng với công dân, kể cả con quan chức hay người nổi tiếng.
Năm 2012, nam diễn viên Bi Rain phải nhập ngũ ở tuổi 29. Năm 2011 nam ca sĩ
nhạc rapper nổi tiếng ở Hàn Quốc bị kết án tù 6 tháng, một năm quản chế và 120
giờ phục vụ cộng đồng vì trốn NVQS. Miễn trừ NVQS ở Hàn Quốc chỉ áp dụng với
các đối tượng bị khuyết tật về thể chất hoặc có tình trạng tâm thần không ổn định
(hàng năm thanh niên Hàn Quốc đến tuổi 18 đều được kiểm tra sức khoẻ thể chất và
tinh thần) [131].
Sau thời gian dài khủng hoảng, đến nay nước Nga đang dần lấy lại vị thế của
một nước lớn trên thế giới về cả kinh tế, chính trị và quân sự. Do sự phát triển ngày
càng lớn mạnh của Liên bang Nga nên luật NVQS cũng có những điều chỉnh phù
hợp. NVQS ở Nga được áp dụng với mọi công dân tuổi từ 18 đến 27; thời gian phục
vụ quân ngũ trước đây là 24 tháng, rồi giảm xuống 18 tháng và từ năm 2008 đến
nay là 12 tháng. Từ 1 tháng 1 năm 2008, một số quy định pháp lý về NVQS cũng
được nới lỏng như: bác sĩ và giáo viên ở nông thôn có con nhỏ dưới 3 tuổi không
bắt buộc phải nhập ngũ; sinh viên đã tốt nghiệp đại học tham gia học giáo dục quân
sự sẽ được miễn phí [131].
25
Do có những đặc thù về kinh tế, chính trị và quân sự cho nên nước Mỹ thực thi
chính sách quân đội nhà nghề. Nước Mỹ áp dụng hình thức tự nguyện nhập ngũ đối
với cả nam và nữ đủ 18 tuổi (17 tuổi với sự đồng ý của cha mẹ). Độ tuổi nhập ngũ
tự nguyện tối đa trong quân đội Mỹ là 42, trong đó tuổi nhập ngũ tối đa ở không
quân là 27, hải quân là 34, thuỷ quân lục chiến là 28. Thời gian tại ngũ tối đa trong
quân đội Mỹ là 8 năm, nhưng thường từ 2 đến 5 năm. Tuy không thực hiện bắt buộc
nhập ngũ với mọi công dân, nhưng kể từ năm 2011, Mỹ cũng có những quy định rõ
ràng về NVQS. Nam công dân Mỹ, tuổi từ 18 đến 25 phải đăng ký với cơ quan
quân sự có chọn lọc. Cơ quan này có nhiệm vụ thống kê và đảm bảo nguồn nhân lực
cho các lực lượng vũ trang khi đất nước trong tình trạng khẩn cấp. Phụ nữ Mỹ
không bị bắt buộc đăng ký với cơ quan quân sự có chọn lọc nhưng họ có thể tự
nguyện tham gia [131].
Thực hiện NVQS của thanh niên ở Việt Nam: Luật NVQS là cơ sở pháp lý
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ; tạo điều kiện cho
nhân dân làm tròn NVQS và tham gia xây dựng nền QPTD. Luật NVQS góp phần
quan trọng vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại và tăng cường QPTD, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ
trong thời kỳ mới. Luật NVQS có các quy định về đối tượng, thời gian thực hiện
NVQS; trách nhiệm, nghĩa vụ của thanh niên trong thời gian tại ngũ; vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong thực hiện NVQS; quy định tạm miễn, hoãn
gọi nhập ngũ.
Luật NVQS đang hiện hành quy định, công dân nam từ đủ 18 tuổi đến hết 25
tuổi, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp, nơi cư trú có nhiệm vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. Thời gian phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ trong thời bình, với lục
quân là 18 tháng, với các binh chủng kỹ thuật là 24 tháng [13, tr.64, 67]. Trong thời
gian tại ngũ, thanh niên phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao; Gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội; Ra sức học tập chính trị, quân
26
sự, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh
chiến đấu,… [13, tr.84].
Luật NVQS cũng quy định vai trò của các cơ quan trong hệ thống chính trị các
cấp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình, Hội đồng NVQS xã,
phường, thị trấn trong việc thực hiện NVQS của thanh niên. Trong đó có quy định,
gia đình có trách nhiệm động viên, giáo dục và tạo điều kiện cho công dân làm tròn
NVQS [13, tr.66].
Ngoài ra, các văn bản hiện hành còn có các quy định về đối tượng được miễn,
tạm hoãn gọi nhập ngũ. Nghị định Chính phủ, số 38/2007/NĐ-CP, ngày 15 tháng 3
năm 2007 quy định những công dân được miễn gọi nhập ngũ trong thời bình: Con
của liệt sĩ, con của thương binh hạng 1, con của bệnh binh hạng 1; Một người anh
trai hoặc em trai của liệt sĩ; Một con trai của thương binh hạng 2; Cán bộ, viên
chức, công chức, thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện, trí thức trẻ tình
nguyện đã phục vụ từ hai mươi bốn tháng trở lên và công dân được tạm hoãn gọi
nhập ngũ: Công dân có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại
ngũ và học viên là hạ sĩ quan, binh sĩ đang học tập tại các trường quân đội, trường
ngoài quân đội theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng; Công dân đang học tập tại các
trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức giáo dục chính quy tập
trung (Trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường phổ
thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, trường năng
khiếu, dự bị đại học; v.v...) [17].
Về thực hiện NVQS của thanh niên còn có nhiều bài viết đề cập. Bài Hà Nội
tiễn 1.900 thanh niên lên đường nhập ngũ (15/2/2014) của Hà Trang và Nguyễn
Khánh, đăng trên báo điện tử Tuổi trẻ. Các tác giả đã phản ánh trung thực sự nhiệt
huyết của thanh niên Hà Nội, hăng hái lên đường làm nhiệm vụ xây dựng và
BVTQ. Hoà vào không khí đó là những giọt nước mắt, cái nắm tay chặt chẽ của
người thân gia đình tiễn đưa con em và niềm vui của của bố mẹ khi có con nhập
ngũ: “Thực sự rất thương con vì đang trong vòng tay gia đình mà phải đi ra tự lập
hoàn toàn, nhưng cũng rất là mừng vì cháu nhận thức được cái nghĩa vụ nó phải đi
vì Tổ quốc” [Trích theo, 116]. Bài Hàng ngàn thanh niên các địa phương phấn khởi
nhập ngũ (19/2/2014) của Vinh Quang, Quang Sáng và cộng tác viên Trúc Giang,
27
đăng trên báo điện tử VOV. Bài viết đã phản ánh rõ số lượng và chất lượng nhập
ngũ của các thanh niên ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng,
như: Trong tổng số 2.570 thanh niên lên đường thực hiện NVQS ở thành phố Hồ
Chí Minh, có 113 đảng viên tình nguyện nhập ngũ, 25% thanh niên có trình độ đại
học, cao đẳng, trung cấp; Lâm Đồng, trong tổng số 500 thanh niên lên đường thực
hiện NVQS, khoảng trên 90% thanh niên có đơn tình nguyện xin nhập ngũ và số
đảng viên, cán bộ công chức được gọi đi nhập ngũ so với mọi năm cao hơn 12%;
Bình Thuận, trong 700 thanh niên trúng tuyển NVQS, có 24 đảng viên trẻ, 58 thanh
niên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học và 54 thanh niên là dân tộc ít người [118].
Bên cạnh đó, bài Cán bộ, công chức cũng phải nhập ngũ như con em nông
dân, trích đăng tờ trình dự án luật NVQS (sửa đổi) của Đại tướng Phùng Quang
Thanh trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trên báo điện tử Dân trí lại cho thấy tình
hình đối tượng nhập ngũ trong cả nước. Hiện nay, công dân đã có việc làm, có trình
độ học vấn cao, có chuyên môn kỹ thuật và con em cán bộ, công chức, các gia đình
có điều kiện kinh tế thực hiện NVQS chưa nhiều, chỉ chiếm 4,94% và có xu hướng
giảm. Con em nông dân, người chưa có việc làm nhập ngũ chiếm số đông, trên 80%
và có xu hướng tăng. Cho nên, theo Đại tướng Phùng Quang Thanh, phải tuyển cán
bộ là công chức, viên chức, đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp vào phục vụ trong quân đội; tránh để như hiện nay số nhập ngũ có tới 90%
con em nông dân, còn số có điều kiện học hành cơ bản, làm cán bộ công chức trong
hệ thống chính trị gần như không tuyển [111].
Hiện nay, hướng nghiên cứu xã hội học về thực hiện NVQS của thanh niên
hầu như chưa có, nhưng thông qua các tư liệu, bài viết được đăng tải trên các
website của thế giới, Việt Nam và các văn bản pháp luật trong nước đã được công
bố, có thể thấy rằng, các tư liệu, bài viết đó có những giá trị tham khảo nhất định.
Bởi vì, thực hiện NVQS của thanh niên các nước trên thế giới, dù có nhiều đặc
điểm khác Việt Nam về đối tượng, độ tuổi, thời gian nhập ngũ, nhưng đều cho thấy,
để xây dựng và BVTQ, việc thực hiện NVQS của thanh niên là cần thiết với mọi
quốc gia. Do đó, tư liệu về thực hiện NVQS của thanh niên các nước trên thế giới sẽ
giúp bổ sung các hình thức, biện pháp phù hợp nhằm phát huy tốt nhất công tác gọi
thanh niên nhập ngũ ở Việt Nam.
28
Với các tư liệu về thực hiện NVQS của thanh niên ở Việt Nam, tuy không trực
tiếp đề cập đến vai trò của gia đình, dòng họ, nhưng các tư liệu, bài viết cũng đã cung
cấp khá đầy đủ về đối tượng, thời gian, trách nhiệm của thanh niên nhập ngũ…; về
tình hình nhập ngũ của thanh niên và những bất cập trong công tác gọi thanh niên
nhập ngũ hiện nay. Đặc biệt, tư liệu văn bản pháp luật còn khẳng định chức năng, vai
trò quan trọng của gia đình trong giáo dục, động viên con em làm tròn nghĩa vụ
BVTQ. Tất cả những tư liệu, bài viết đều ít nhiều có ý nghĩa tham khảo cho nghiên
cứu vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Gia đình, dòng họ là một chủ đề, hiện tượng xã hội - văn hóa được các khoa
học nghiên cứu. Xã hội học là một trong những khoa học xã hội và nhân văn
nghiên cứu về gia đình, dòng họ.
Xã hội học gia đình là một ngành xã hội học ra đời, phát triển cùng với sự
hình thành, phát triển của xã hội học. Các nghiên cứu xã hội học về gia đình
được triển khai trên các bình diện lý thuyết và thực nghiệm. Xã hội học gia đình
và các nghiên cứu xã hội học về gia đình, dòng họ đã góp phần làm rõ quan
niệm, cấu trúc, chức năng, tính chất các mối quan hệ của gia đình, dòng họ; chỉ
rõ những đóng góp của gia đình, dòng họ đối với sự ổn định, phát triển của xã
hội; đồng thời chỉ ra những vấn đề cần tháo gỡ để có giải pháp xây dựng gia
đình, dòng họ đúng với vị thế và vai trò xã hội của nó.
Kết quả nghiên cứu xã hội học và các khoa học xã hội nhân văn khác về gia
đình, dòng họ tạo nền tảng lý thuyết, thực nghiệm cho nghiên cứu về “Vai trò của
gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay”.
29
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1. GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN
SỰ CỦA THANH NIÊN
2.1.1. Gia đình, dòng họ, đặc điểm, chức năng của gia đình, dòng họ
2.1.1.1. Gia đình, dòng họ
Gia đình
Từ thế kỷ 16 đã có định nghĩa về gia đình, nhưng trải qua 5 thế kỷ, định nghĩa
gia đình vẫn chưa được thống nhất giữa những nhà khoa học xã hội. Đến nay câu hỏi
gia đình là gì vẫn có nhiều cách trả lời khác nhau:
C.Mác và Ph.Ăngghen (1845): “Hằng ngày ngoài việc tái tạo ra đời sống của
bản thân mình, con người còn tạo ra những cái khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan
hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [19, tr.248].
Cục điều tra dân số Mỹ (1991): “Gia đình là nhóm xã hội từ hai người trở lên
có mối quan hệ với nhau bởi huyết thống, hôn nhân hoặc cha mẹ (con) nuôi và
những người này sống cùng với nhau trong một hộ gia đình (có thể sống ở nhiều địa
chỉ)” [130].
Nguyễn Đình Tấn và Lê Tiêu La (1999): “Gia đình là một nhóm xã hội nhỏ đặc
thù, có đặc trưng cơ bản là được thiết lập trên cơ sở của hôn nhân mà từ đó hình thành
các quan hệ huyết thống ruột thịt giữa các thành viên” [79, tr.17].
Luật Hôn nhân và Gia đình (2000): “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh
những nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau” [12, tr.13].
John J. Macionis (2004): “Gia đình là một tập thể xã hội có từ hai người trở lên
trên cơ sở huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau” [63, tr.451].
Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý (2007):
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù liên kết con người lại với nhau
nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống, chăm sóc và giáo dục con cái. Các
mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ họ hàng. Đó là sự liên
kết ít nhất cũng là của hai người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và
30
việc nhận con nuôi. Những người này có thể sống cùng hoặc khác mái nhà
với nhau [53, tr.54].
Lê Ngọc Văn (2011): “Gia đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn
nhân, huyết thống hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn
nhân, cùng chung sống, có ngân sách chung” [105, tr.38].
Tuy còn có những khía cạnh khác nhau trong quan niệm về gia đình, song tất
cả đều chỉ ra những nội dung chính: Một là, gia đình là một nhóm xã hội có từ 2
người trở lên. Hai là, nhóm xã hội gia đình là một tập hợp người dựa trên hôn nhân,
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Ba là, nhóm xã hội gia đình cùng chung sống
trong một mái nhà hoặc có thể sống khác mái nhà với nhau. Bốn là, các quan hệ xã
hội được xác định từ các vị trí cơ bản trong cấu trúc gia đình: vợ chồng, cha mẹ và
con cái, anh chị em.
Từ đó, có thể quan niệm: Gia đình là một nhóm xã hội có từ hai người trở lên;
tập hợp người dựa trên hôn nhân, huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, với các quan hệ
xã hội cơ bản: vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em; sống chung trong một mái
nhà hoặc có thể sống khác mái nhà với nhau.
Dòng họ
Theo Phan Đại Doãn, dòng họ có hai nghĩa chính: Nghĩa hẹp, dòng họ là quan
hệ huyết thống (thân sơ khác nhau), có một mối quan hệ tín ngưỡng và kinh tế nhất
định (có nhà thờ, và có thể có "vốn" chung, trước kia có ruộng hương hỏa), nhưng
không chung một ngôi nhà, một bếp, các gia đình duy trì quan hệ ngang. Nghĩa
rộng, dòng họ, ngoài mối liên hệ ngang lại có mối liên hệ dọc đứng, đến 9 đời (cửu
tộc), ngoài ra còn có quan hệ nội ngoại, nhưng huyết thống bên nội là quan hệ quyết
định nhất [25, tr.11].
Nelly Krowolski định nghĩa: “Tộc hay dòng họ là tập hợp toàn thể con cháu
bên nội của cùng một ông tổ được thừa nhận” [Trích theo, 72, tr.343].
Nguyễn Từ Chi quan niệm: “Họ, quá lắm cũng chỉ có thể xem là một dạng đặc
biệt của gia đình mở rộng, mà tác dụng chính đối với các thành viên của nó (tức là
các gia đình nhỏ hợp thành nó) là tạo ra một niềm cộng cảm dựa trên huyết
thống” [16, tr.253].
31
Mai Văn Hai định nghĩa: “Dòng họ là toàn thể những người cùng huyết thống
với nhau. Mỗi dòng họ thường bắt nguồn từ một thủy tổ - thường là người có công
“khai sơn phá thạch”, khởi đầu cho dòng họ tại một địa vực nhất định” [37, tr.2].
Nghiên cứu về văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam, Léopol Cadière cho rằng:
“Người Việt cho dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng thuộc về một họ, tức gia đình theo
nghĩa rộng, tổ chức vững chắc, liên kết chặt chẽ bằng huyết thống, bằng những
quyền lợi vật chất, bằng những niềm tin tôn giáo, bằng các mối dây luân lý của
cộng đồng” [15, tr. 241-242].
Từ các chuyên khảo về gia đình, Le Play sắp xếp khung phân tích các loại gia
đình: gia đình gia trưởng, gia đình không ổn định và gia đình - gốc. Từ các loại gia
đình cho chúng ta hiểu về dòng họ. Dòng họ là hệ quả của quá trình phân ra, nhân
rộng ra của gia đình - gốc (gia đình con trai trưởng ở cùng với bố mẹ) qua nhiều
năm tháng. Nội dung mang tính đặc trưng cốt lõi của dòng họ chính là quan hệ
huyết thống [Trích theo, 77, tr.19].
Tuy còn nhiều quan niệm về dòng họ nhưng về cơ bản, các quan niệm đều
tương đối thống nhất ở các nội dung chủ yếu: Một là, dòng họ là một “gia đình
lớn” nhiều thế hệ, “gia đình mở rộng”, gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống,
có chung một thủy tổ. Hai là, quan hệ trong dòng họ gồm quan hệ huyết thống và
các quan hệ khác: quan hệ kinh tế lưu giữ và trao truyền gia sản, quan hệ tín
ngưỡng thờ cúng thủy tổ, quan hệ cộng đồng tuân theo nguyên tắc luân lý. Quan
hệ trong dòng họ có quan hệ ngang, quan hệ dọc. Ba là, phạm vi không gian sinh
tồn của dòng họ có thể ở trong một làng, xã, có thể ở phạm vi quốc gia, quốc tế.
Quan hệ dòng họ diễn ra trực tiếp, chủ yếu trong phạm vi làng, kéo dài đến 9 đời
(cửu tộc). Nói chung, dòng họ trong xã hội nông nghiệp chủ yếu được lập thành
trong một làng. Trong một làng, dòng họ giữ vai trò quan trọng đối với đời sống
cộng đồng làng xóm.
Từ đó có thể quan niệm: Dòng họ là một kiểu của “gia đình mở rộng” với
nhiều gia đình gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống, có chung sự đồng cảm và
tính cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống, có mối quan hệ kinh tế, văn hóa, tín
ngưỡng thờ cúng thủy tổ và tuân theo nguyên tắc luân lý.
32
2.1.1.2. Đặc điểm của gia đình, dòng họ
Đặc điểm của gia đình
Đặc điểm nổi bật của gia đình đó là một một nhóm xã hội, tập hợp người dựa
trên hôn nhân, huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, trong đó hôn nhân và huyết thống
là hạt nhân, dấu hiệu quan trọng nhất. Với các dấu hiệu đó, gia đình là một nhóm xã
hội đặc biệt, khác biệt so với các nhóm xã hội khác như nhóm bạn bè, lớp học, làng
bản, đơn vị cấp phân đội của quân đội,… Quan hệ hôn nhân, nhất là quan hệ huyết
thống là cơ sở tạo dựng mối quan hệ bền chặt của nhóm gia đình.
Gia đình là một hiện tượng xã hội lịch sử. Sự hình thành, biến đổi của gia đình
đồng hành với sự biến đổi của xã hội. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của Nhà nước”, Ph.Ăngghen chỉ rõ, lịch sử hình thành và phát
triển của gia đình đã trải qua bốn hình thức: gia đình huyết thống, gia đình pu-na-lu-
an, gia đình cặp đôi, gia đình một vợ một chồng và hiện nay gia đình đang ở hình
thức thứ năm. Ph.Ăngghen cho biết: “nếu người ta công nhận sự thật là gia đình đã
lần lượt trải qua bốn hình thức và hiện đang ở dưới hình thức thứ năm thì một vấn
đề sẽ được đặt ra là trong tương lai, hình thức thứ năm đó có thể tồn tại lâu dài được
không? Câu trả lời duy nhất có thể đưa ra là: hình thức đó phải tiến triển cùng với
sự tiến triển của xã hội,…” [20, tr.129]. Các hình thức gia đình là nền tảng để xác
định cơ cấu gia đình và quan hệ gia đình.
Cấu trúc cơ bản của gia đình gồm: vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em.
Cấu trúc gia đình quy định vị trí, vị thế xã hội của từng người trong gia đình, qua
đó quy định tính chất quan hệ giữa các con người trong mỗi gia đình. Các vị trí,
mỗi vị thế trong gia đình luôn được quy chuẩn một khuôn mẫu hành vi (gia pháp)
buộc mỗi người khi ở vào vị trí, vị thế đó phải thực hiện nghiêm ngặt. Khuôn mẫu
hành vi của các vị trí, vị thế trong gia đình biến đổi theo không gian, thời gian, phụ
thuộc chủ yếu vào văn hóa dân tộc (với cả hai nghĩa quốc gia và tộc người). Quan
hệ giữa các vị trí, vị thế trong gia đình tuân thủ theo các chuẩn mực xã hội đó, và
việc duy trì nghiêm ngặt, thường xuyên, liên tục qua nhiều thế hệ các chuẩn mực
quan hệ trong gia đình tạo dựng “nếp nhà”, “gia phong”. “Nếp nhà”, “gia phong”
cũng có thể được xem là một giá trị văn hóa của nhóm xã hội gia đình, điểm khác
biệt so với các nhóm xã hội khác. Cũng như, “tình đồng chí đồng đội” là một giá trị
33
văn hóa truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, các nhóm xã hội khác
không thể có.
Nếp nhà, gia phong vừa mang tính riêng của từng gia đình, vừa mang tính
chung của dòng họ, làng xã, tộc người, quốc gia dân tộc, hệ tư tưởng, có tính quốc gia
và quốc tế. Nếp nhà, gia phong có thể được xem như là một nội dung biểu hiện bản
sắc văn hóa của một quốc gia dân tộc, của một tộc người, của một vùng văn hóa. Nếp
nhà, gia phong ở các quốc gia phương Đông có những nội dung biểu hiện khác với
nếp nhà, gia phong ở các quốc gia phương Tây. Trong các quốc gia phương Đông,
nếp nhà, gia phong ở mỗi quốc gia có những nội dung, biểu hiện mang tính bản sắc.
Ở Việt Nam, tính tôn ti trên dưới là một nét nổi bật trong nếp nhà.
Đặc điểm của dòng họ
Huyết thống là yếu tố cơ bản để xác định dòng họ. Quá trình hình thành dòng
họ là quá trình phân ra, nhân rộng ra của gia đình - gốc. Từ một gia đình - gốc các
con trai lần lượt ra ở riêng chỉ có con trai trưởng ở với bố mẹ; tiếp theo các gia đình
của con trai lại phân ra theo cách các con trai lại lần lượt ra ở riêng, từ đó mà hình
thành dòng họ. Dòng họ là một hình thức tập hợp những người có chung thủy tổ
(cội nguồn), cùng chung huyết thống. Tính chất cơ bản, đặc thù trong quan hệ dòng
họ là quan hệ dựa trên huyết thống của người đàn ông. Đây là một đặc điểm cơ bản
để phân biệt dòng họ bên nội với bên ngoại, với các nhóm xã hội khác ngoài gia
đình và phân định rõ, dòng họ trong nghiên cứu chỉ là dòng họ bên nội.
Cấu trúc tổ chức của dòng họ là hệ quả của quá trình phân ra, nhân rộng ra của
gia đình - gốc, hình thành các chi, phái, ngành, nhánh, cành,… Trong đó, tộc trưởng
đứng đầu dòng tộc, sau đó là các trưởng chi, trưởng phái, trưởng ngành, trưởng
nhánh, trưởng cành. Các vị trưởng này được kết cấu trong Hội đồng gia tộc và mỗi
vị trưởng đều là con trưởng của mỗi phân cấp và bắt buộc phải là nam giới. Nhờ
nguyên tắc phụ quyền mà cấu trúc trong dòng tộc được phân định ngôi thứ chặt chẽ.
Qua đó, vị trí, vị thế xã hội và các mối quan hệ họ hàng trong nội tộc cũng được xác
định rõ ràng. Tính tôn ti trên dưới là đặc điểm nổi bật của quan hệ trong dòng họ.
Ngạn ngữ dân gian Việt Nam đã chỉ rõ, trong quan hệ dòng họ: “Bé bằng củ khoai,
cứ vai mà gọi”; “Xanh đầu con ông bác, bạc đầu con ông chú”.
34
Dòng họ người Việt được kết cấu từ những người có cùng huyết thống và có sự
phân ngôi, phân vai cụ thể, rõ ràng. Dòng họ là một nhóm xã hội có cách thức tổ chức
chặt chẽ. Tính chặt chẽ trong tổ chức của dòng họ không chỉ bị quy định bởi cách thức
tổ chức theo tính tôn ti nghiêm ngặt mà còn bị chi phối bởi luật tục thờ cúng tổ tiên và
những quy định mang tính luân lý. Thờ cúng tổ tiên dòng tộc, với ngày giỗ tổ và các
nghi thức trong ngày giỗ tổ là một bộ phận trong sinh hoạt dòng họ đã trở thành
nguyên tắc sống, lối sống của các cư dân trong dòng họ. Trong nhiều dòng họ, từ
những quy định bằng miệng sau đó hình thành văn bản hương ước gia tộc, với tên gọi:
“Tộc ước - Gia pháp”. “Tộc ước - Gia pháp” là bộ quy tắc ứng xử chung của dòng họ,
bao quát nhiều vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội không chỉ của dòng họ mà
còn có các vấn đề thuộc về Làng, về Nước. Ví như, có Tộc ước của dòng họ Đỗ Văn ở
xã Quảng Phú Cầu quy định nghĩa vụ tham gia chiến đấu gìn giữ quê hương khi đất
nước có giặc ngoại xâm của các thành viên trong dòng họ và trách nhiệm của những
người khác phải chăm lo cho người trong dòng họ đi đánh giặc. “Tộc ước - Gia pháp”
mang tính luân lý buộc mọi người tuân theo, tự giác tuân theo nếu không muốn bị
dòng họ coi khinh, ruồng rẫy, xua đuổi. Với cách thức tổ chức chặt chẽ, với những
quy định mang tính luân lý đã tạo ra trong dòng họ tính cộng đồng rất cao. Sự đoàn
kết, cố kết, tính cộng đồng là một đặc điểm nổi bật của dòng họ.
Sự cố kết dòng họ không chỉ dựa trên sự cố kết về lợi ích vật chất, mà chủ yếu
dựa trên các giá trị tinh thần, giá trị cộng đồng. Nó là kết quả của sự tự giác trong hành
vi cộng đồng của mỗi thành viên trong dòng họ và sự điều chỉnh của dư luận xã hội
dòng họ, sự phán quyết của dòng họ trong các ngày họp họ, giỗ tổ dựa theo quy định
của Tộc ước. Sức mạnh của dòng họ tập trung chủ yếu ở tinh thần, tính cộng đồng.
Đặc điểm chung của gia đình, dòng họ
Từ những đặc điểm của gia đình, của dòng họ rút ra những đặc điểm chung
nhất của gia đình và dòng họ:
Thứ nhất, gia đình, dòng họ là nhóm xã hội, tập hợp người dựa trên huyết
thống. Trong xã hội truyền thống Việt Nam, những người cùng quan hệ huyết thống
gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị cơ sở là gia đình và đơn vị cấu thành là gia
tộc. Tổ chức nông thôn theo truyền thống là gia đình và gia tộc [86, tr.89]. Với gia
đình, ngoài dấu hiệu huyết thống còn có hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Hôn
35
nhân là tiền đề, điều kiện của huyết thống. Nhờ có hôn nhân mà các thế hệ người
của một gia đình - gốc được sinh ra, phát triển thành dòng họ. Quan hệ xã hội dựa
trên cơ sở huyết thống là đặc điểm chung của gia đình, dòng họ, tạo sự gắn kết giữa
gia đình và dòng họ.
Thứ hai, cách thức tổ chức của gia đình, dòng họ chặt chẽ, với tính tôn ti trên -
dưới nghiêm ngặt. Với dòng họ, đó là thứ bậc của sự phân thành các chi, phái, ngành,
nhánh, cành,…; trong đó trưởng các chi, phái, ngành, nhánh, cành là người đứng đầu,
giữ vai trò quan trọng. Với gia đình, đó là thứ bậc của chồng - vợ, bố mẹ - con cái,
anh chị em. Nét chung trong quan hệ mang tính tôn ti của gia đình, dòng họ là “trên
bảo dưới nghe”. Trên thực tế, trong nhiều làng quê Việt Nam, nhất là những làng quê
thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng, tính tôn ti trong gia đình và trong dòng họ bện
chặt vào nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh của gia đình, dòng họ. Tính tôn ti
là một yếu tố tạo nên sự cố kết trong cộng đồng dòng họ, gia đình.
Thứ ba, tính cộng đồng là một đặc trưng nổi bật của gia đình, dòng họ. Tính
cộng đồng của gia đình, dòng họ thể hiện rõ nhất ở sự đoàn kết, cố kết chặt chẽ
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mọi sinh hoạt của làng nước.
Tính cộng đồng của gia đình, dòng họ bắt nguồn từ quan hệ huyết thống,
những người có chung một cội nguồn. Đồng thời, nó còn bị “trói buộc” bởi kinh tế,
tín ngưỡng, những giáo lý mang tính luân lý đã trở thành những giá trị văn hóa
truyền thống của các gia đình, dòng họ. Những người trong gia đình, dòng họ luôn
tự giác tuân theo và làm giàu thêm những giá trị văn hóa truyền thống, gia cố tính
cố kết cộng đồng dựa trên huyết thống. Họ cũng luôn luôn sẵn sàng hành động để
bảo vệ gia đình, dòng họ, bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống, tính cố kết
cộng đồng của gia đình, dòng họ.
Tính cộng đồng đã tạo cho gia đình, dòng họ, các thành viên trong gia đình,
dòng họ một sức mạnh tinh thần - tâm lý, để mỗi người hoàn thành chức phận xã
hội đối với gia đình, dòng họ và với làng xã, với xã hội.
Đặc điểm chung cho thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và dòng họ. Trong
đời sống xã hội truyền thống của các làng quê Việt Nam, gia đình và dòng họ quện
chặt làm một, cho cái nhìn chung về vị thế, vai trò xã hội.
36
2.1.1.3. Chức năng của gia đình, dòng họ
Chức năng của gia đình
Hiện nay còn có những ý kiến khác nhau về chức năng của gia đình và có sự
phân biệt các chức năng của gia đình trong mỗi giai đoạn lịch sử, trong các phương
thức sản xuất, chế độ xã hội. Song, tựu chung lại, gia đình có các chức năng cơ bản:
duy trì và phát triển nòi giống; kinh tế; giáo dục, xã hội hóa; thoả mãn nhu cầu tâm
lý, tình cảm.
Duy trì và phát triển nòi giống là chức năng quan trọng, mục đích hàng đầu
của việc hình thành gia đình. Chức năng duy trì và phát triển nòi giống mang tính
bản năng của con người, của loài người và dần dần mang tính xã hội sâu sắc. Việc
sinh nhiều con hay ít con phụ thuộc vào sản xuất, vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào
nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong xã hội nông nghiệp,
với cấu trúc làng xã, các gia đình mong có nhiều con để có sức sản xuất và xác lập
vị thế, địa vị xã hội trong làng xã. Trong xã hội công nghiệp, xã hội hiện đại, nhu
cầu sinh nhiều con không lớn và thay vào đó là nhu cầu sinh ít con, vừa đủ để có thế
hệ kế cận. Trong các xã hội như Trung Quốc, Việt Nam, việc duy trì và phát triển
nòi giống trở thành nhu cầu mang tính giá trị, trở thành một giá trị xã hội biểu hiện
ở việc sinh con trai, con gái. Con trai là người “nối dõi tông đường”, xác lập giá trị
xã hội, địa vị xã hội của gia đình. Việc đề cao quá mức người con trai trong gia đình
sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc huy động nhân lực cho nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng, BVTQ. Nhiệm vụ BVTQ đòi hỏi sự phục vụ chủ yếu của những người con
trai, song nhiệm vụ đó cũng sẽ mang lại rủi ro cho sự “nối dõi tông đường” của các
gia đình nếu chẳng may những người con trai đó hy sinh, mà sự hy sinh trong chiến
tranh thường rất lớn. Sẽ có những gia đình, vì để có người “nối dõi tông đường” họ
sẽ tìm nhiều cách thức không cho con em thực hiện NVQS hoặc chỉ cho con em
thực hiện NVQS khi đã có “cháu nối dõi tông đường”.
Chức năng kinh tế, trong bất kỳ xã hội nào, kinh tế cũng là chức năng không
thể thiếu của gia đình. Gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở, một hình thức sở hữu về tư
liệu sản xuất. Hoạt động kinh tế của gia đình thúc đẩy sự phát triển, lưu thông và
tiêu thụ hàng hoá cho xã hội. Gia đình đảm bảo nhu cầu về vật chất, tinh thần cho
các thành viên. Khi người thanh niên thực hiện NVQS, cho dù đã được sự bảo trợ
37
của nhà nước, của quân đội về nhu cầu sinh hoạt cá nhân nhưng họ luôn luôn mong
muốn và thường nhận được sự trợ giúp về “kinh tế” của gia đình, dòng họ để họ có
thêm điều kiện hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, hoàn thành NVQS.
Giáo dục, xã hội hóa là một chức năng quan trọng của gia đình. Gia đình là
môi trường giáo dục, xã hội hoá chính yếu của cá nhân trong suốt cuộc đời. Gia
đình tạo khuôn mẫu, vị trí xã hội ban đầu để cá nhân làm cơ sở tiến hành các tương
tác xã hội, thực hiện các vai trò xã hội, thiết lập được vị thế xã hội. Những tri thức,
kinh nghiệm xã hội đầu tiên cá nhân tiếp nhận, làm quen là từ môi trường gia đình.
Gia đình cũng là môi trường quan trọng đòi hỏi mỗi cá nhân phải suy nghĩ, xem xét,
lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp với gia đình, với xã hội. Cho dù sống trong gia
đình hay sống ngoài gia đình, kể cả khi thanh niên đang thực hiện NVQS, nhiều suy
nghĩ và hành vi của họ đều hướng về các giá trị luân lý của gia đình và dòng họ để
xác định phương thức ứng xử với bản thân, với chức phận đảm nhận.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm lý - tình cảm, đời sống tâm lý tình cảm trở
thành sợi dây gắn kết, quyết định hạnh phúc của gia đình. Gia đình giúp đảm bảo
sự cân bằng tâm lý, thoả mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên nhằm duy trì độ
bền vững của hôn nhân và gia đình, đảm bảo sự ổn định của xã hội. Con người ta,
vui, buồn, sướng, khổ đều muốn có sự chia xẻ và sẵn sàng chia xẻ với những
người thân trong gia đình. Đồng thời, họ luôn có được sự trợ giúp về tâm lý, tình
cảm của gia đình. Gia đình là chỗ dựa vững chắc về tâm lý, tình cảm của mỗi
thành viên trong suốt cuộc đời. Tổ chức quân sự, hoạt động quân sự luôn đòi hỏi
tính kỷ luật và ẩn chứa nhiều khó khăn, gian khổ, thậm chí đòi hỏi cả sự hy sinh
về tính mạng. Do đó, thanh niên thực hiện NVQS rất cần có sự trợ giúp về tâm lý,
tình cảm của gia đình để họ có thêm động lực vượt qua những khó khăn, trở ngại
trong môi trường quân sự, hoạt động quân sự.
Chức năng của dòng họ
Cho đến hiện nay có ít các tài liệu bàn về chức năng của dòng họ. Việc có ít
những bàn luận về chức năng của dòng họ không phải vì dòng họ không có chức
năng. Đối với người Việt Nam, “gia tộc trở thành một cộng đồng xã hội gắn bó có vai
trò quan trọng thậm chí còn hơn cả gia đình, họ coi trọng khái niệm liên quan đến gia
tộc như trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ, gia phả, giỗ tổ, giỗ họ” [86, tr.89].
38
Do sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và dòng họ nên chức năng của gia đình
cũng có thể được nhìn nhận là chức năng của dòng họ nhưng có sự khác biệt ở mức
độ và tính chất. Dòng họ tham gia vào duy trì và phát triển nòi giống ở chiều cạnh
“nối dõi tông đường”. Bằng luật tục được quy định bởi hương ước, dòng tộc áp
buộc các gia đình trong dòng họ phải sinh ra những người con trai để nối dõi tông
đường, nhất là gia đình trưởng họ. Trong nhiều trường hợp, áp lực “nối dõi tông
đường” của dòng họ mạnh hơn áp lực trong mỗi gia đình.
Chức năng kinh tế của dòng họ thể hiện ở việc cưu mang nhau trong sản xuất,
bảo đảm cuộc sống. Trong xã hội nông nghiệp Việt Nam, các dòng họ thường có
ruộng công, giao cho một số gia đình canh tác để có sản vật phục vụ cho sinh hoạt
của dòng họ và có thể giao cho những gia đình khó khăn về đời sống canh tác. Hiện
nay, nhiều dòng họ vẫn duy trì sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để bảo đảm cuộc sống
trong dòng họ ngang bằng với các dòng họ khác trong làng xã.
Chức năng giáo dục, xã hội hóa của dòng họ thể hiện thông qua sinh hoạt và
quan hệ dòng họ, bằng các quy định trong hương ước. Các giá trị, chuẩn mực xã hội
của dòng họ được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được duy trì bằng sự
kiểm soát nghiêm ngặt, người nào trong dòng họ không tuân theo sẽ bị dòng họ phỉ
báng, có thể bị loại trừ ra khỏi dòng họ. Tính quy định chặt chẽ của các luật tục và
sự kiểm soát nghiêm minh đã tạo cho dòng họ vị thế trong giáo dục, xã hội hóa các
thành viên, với nhiều trường hợp có tác dụng hơn gia đình.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm lý - tình cảm của dòng họ không trực tiếp
như của gia đình, nhưng lại giữ vị thế lớn hơn gia đình trong các trường hợp trạng
thái tâm lý, tâm trạng xã hội của các thành viên trong dòng họ mang tính xã hội,
tính cộng đồng rộng lớn, nhất là với những thành viên có địa vị xã hội cao trong xã
hội. Trong nhiều trường hợp, sự “bảo vệ” của dòng họ đem lại trạng thái yên tâm,
phấn khởi trong cuộc sống, trong thực hiện chức năng xã hội của các thành viên.
Như vậy, có thể khẳng định, dòng họ có các chức năng cơ bản như gia đình,
với mức độ rộng hẹp và tính chất cao thấp có sự khác biệt đối với gia đình. “Sức
mạnh của gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu lẫn nhau. Người trong
dòng họ có trách nhiệm cưu mang nhau về vật chất”, “hỗ trợ nhau về trí tuệ, tính
thần” và “dìu dắt nhau, làm chỗ dựa cho nhau về chính trị: Một người làm quan, cả
39
họ được nhờ” [86, tr.90]. Những chức năng của gia đình, dòng họ nêu trên là cơ sở
quan trọng để xem xét, phân tích các vai trò của gia đình, dòng họ.
2.1.2. Vai trò xã hội, vai trò xã hội của gia đình, dòng họ
2.1.2.1. Vai trò xã hội
Trong xã hội học, vai trò xã hội là một khái niệm cơ bản, then chốt, đã và đang
có những ý kiến khác nhau trong quan niệm về vai trò xã hội.
Vai trò xã hội là “một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định” [82, tr.127]; “Sự phối hợp và tương tác qua lại của các
khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội gọi là vai trò hay nói một
cách khác, vai trò là những hành động, hành vi ứng xử, những khuôn mẫu tác phong
mà xã hội chờ đợi hay đòi hỏi ở một người hay một nhóm xã hội nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế (vị trí xã hội) của họ” [82, tr.127]; “tập hợp các giá trị, chuẩn
mực, hành vi, nghĩa vụ, lợi ích của một người hay một nhóm xã hội trên cơ sở vị trí
xã hội của họ trong hệ thống xã hội, là hàng loạt quy tắc áp đặt phương thức ứng xử
cho cá nhân ngấm ngầm hoặc công khai” [108, tr.60]. “Vai trò xã hội là hành vi
mong đợi của con người gắn liền với vị thế xã hội và mang tính điển hình đối với
những người có vị thế phù hợp trong xã hội” [79, tr.10].
Với các quan niệm về vai trò xã hội ta dễ nhận thấy: Thứ nhất, vai trò là tập
hợp các giá trị, chuẩn mực của một vị thế xã hội; thứ hai, các cá nhân ở vào các vị
thế xã hội phải tuân thủ các giá trị, chuẩn mực của vị thế xã hội đó; nghĩa là những
cá nhân đó đang đảm nhiệm một vai trò xã hội; thứ ba, vai trò xã hội là hành vi của
con người, nhóm xã hội gắn liền với vị thế xã hội. Lê Ngọc Hùng cho rằng: “Vai trò
là kiểu hành vi, hoạt động mà một người hay một nhóm người cần phải thực hiện
một cách tương ứng với vị thế xã hội của họ” [46, tr.159].
Như vậy, để làm rõ vai trò xã hội của một cá nhân, nhóm xã hội phải xác định
đúng vị thế xã hội của cá nhân, nhóm xã hội đó đang đảm nhiệm; đồng thời làm rõ
chuẩn mực xã hội, chức năng xã hội quy định kiểu hành vi, hoạt động của cá nhân,
nhóm xã hội. Ví như, một người đàn ông trong gia đình, họ là cháu (trong quan hệ
với ông bà), là con (trong quan hệ với bố mẹ), là chồng (trong quan hệ với vợ), là
bố (trong quan hệ với các con), là anh, em (trong quan hệ với anh chị em trong gia
đình). Mỗi vị trí đó có những quy chuẩn ứng xử cụ thể, và khi vào vai trong một
40
quan hệ xác định, người đàn ông đó phải xác định đúng vị trí của mình để ứng xử
cho đúng. Danh với phận đi cùng nhau, muốn biết “phận sự” phải làm rõ “danh”.
Xem xét, đánh giá vai trò của một cá nhân, nhóm xã hội phải so sánh giữa hành vi,
hoạt động của họ với các giá trị, chuẩn mực của vị thế xã hội mà họ đang đảm
nhiệm, làm rõ sự đúng chuẩn hay lệch chuẩn. Đúng chuẩn và lệch chuẩn là thang
đo vai trò của cá nhân, nhóm xã hội.
2.1.2.2 Vai trò xã hội của gia đình, dòng họ
Vai trò xã hội của gia đình, dòng họ được quy định từ vị thế xã hội và chức năng
của gia đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ có vị thế xã hội rất lớn trong xã hội. Gia đình
là tế bào của xã hội, một thiết chế xã hội. Gia đình, dòng họ thực sự ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc, thực hiện tốt các chức năng là một yếu tố bảo đảm cho sự ổn định và phát
triển xã hội. Sự giáo dục, xã hội hóa, chăm lo của gia đình, dòng họ đối với các thành
viên giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đào luyện nên các con người xã hội về
mọi phương diện, để họ có đủ các điều kiện làm tròn bổn phận công dân trong xã hội,
thành viên trong các cộng đồng xã hội. Không có những con người hội tụ đủ những
yếu tố đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội thì xã hội không thể phát triển. Con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, và là chủ thể của lịch sử.
Từ khái niệm vai trò xã hội, xuất phát từ vị thế, chức năng của gia đình, dòng họ
có thể xác định: Vai trò của gia đình, dòng họ là kiểu hoạt động tương ứng với vị thế
xã hội; là hoạt động của gia đình, dòng họ thực hiện đúng, đủ, tốt các chức năng, đáp
ứng sự mong đợi của cộng đồng, của xã hội, góp phần vào sự ổn định, phát triển của
xã hội. Kết quả hoạt động tương ứng với vị thế xã hội và thực hiện đúng, đủ, tốt các
chức năng là thước đo thực tế vai trò xã hội của gia đình, dòng họ.
Vai trò của gia đình, dòng họ thể hiện trên hai bình diện: đối với các thành viên
gia đình, dòng họ và đối với xã hội, cộng đồng.
Đối với các thành viên, vai trò xã hội của gia đình, dòng họ gồm các nội dung
cơ bản: Một là, gia đình, dòng họ là tổ ấm bao bọc, che chở cho mỗi thành viên, là
thành trì vững chắc bảo vệ các thành viên trước những tác động của xã hội. Hai là,
gia đình, dòng họ là nguồn động viên, hỗ trợ tình cảm, vật chất cho mỗi thành viên, là
nơi lưu truyền, khích lệ mỗi thành viên phấn đấu trưởng thành. Ba là, gia đình, dòng
họ là nôi giáo dục, môi trường xã hội hóa đặc biệt quan trọng cho mỗi thành viên và
41
là môi trường xã hội bền vững để mỗi thành viên học tập suốt đời. Bốn là, gia đình,
dòng họ tạo lập vị thế xã hội để mỗi thành viên thực hành các vai trò xã hội trong quá
trình tham gia, hội nhập với xã hội.
Đối với xã hội, cộng đồng, vai trò xã hội của gia đình, dòng họ gồm các nội
dung cơ bản: Một là, gia đình, dòng họ là những đơn vị sản xuất quan trọng trong
xã hội và cùng đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất
nước. Hai là, gia đình, dòng họ góp phần xây dựng môi trường văn hóa, thiết chế
văn hóa của cộng đồng làng xã, cộng đồng xã hội. Ba là, gia đình, dòng họ góp
phần giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội. Bốn là, gia đình, dòng họ tham gia vào
quá trình xây dựng và củng cố nền QPTD, thế trận an ninh nhân dân.
Trên thực tế, nếu nhìn ở cấp độ vĩ mô thì sự đóng góp của gia đình, dòng họ đối
với xã hội, cộng đồng xã hội thường khó nhận biết. Bởi vì, xã hội, cộng đồng xã hội
là một hệ thống rộng lớn, còn gia đình, dòng họ chỉ là những nhóm nhỏ, đa dạng về
quy mô, kết cấu, khác biệt về vùng, miền, lãnh thổ. Ở cấp độ vi mô, vai trò của gia
đình, dòng họ dễ nhận biết. Trong một cộng đồng xã hội cụ thể (cộng đồng làng xã
hay cộng đồng tổ dân phố), vai trò của gia đình, dòng họ dễ nhận biết và có thể được
làm rõ bằng phương pháp thực chứng. Tuy vậy, cũng cần nhận thức rằng, ở cả cấp vĩ
mô và vi mô, gia đình và dòng họ có vai trò rất lớn, không thể phủ định. Trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, gia đình, dòng họ cùng với làng xã có vai trò rất to lớn trong
dựng nước và giữ nước, góp phần làm nên lịch sử hào hùng của dân tộc.
Những phân tích lý luận về gia đình, dòng họ và vai trò của gia đình, dòng họ
được thâu tóm trong lược đồ sau:
Lược đồ 2.1: Thao tác hoá khái niệm về gia đình, dòng họ
Gia đình, dòng họ
Đặc điểm
Chức năng
Vai trò
Đặc điểm Gia đình
Quan niệm gia đình
Quan niệm dòng họ
Đặc điểm dòng họ
Chức năng gia đình
Chức năng dòng họ
Vai trò xã hội
Đặc điểm chung gia đình, dòng họ
Vai trò xã hội gia đình, dòng họ
Quan niệm
42
2.1.3. Vai trò của gia đình, dòng họ trong huy động nguồn lực cho công
cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
2.1.3.1. Thời kỳ phong kiến
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước thời kỳ phong kiến, vai trò của gia đình,
dòng họ luôn luôn được đề cao, coi trọng. Chiến lược, sách lược dựng xây đất nước
của các triều đại phong kiến trước đây xác định gia đình, dòng họ là gốc của nước,
là thành tố quan trọng, không thể thiếu trong tam giác văn hóa giữ nước: Nhà -
Làng - Nước.
Trong các triều đại phong kiến ở nước ta, triều đại Lý, Trần, Lê đã tạo dựng
nên lịch sử giữ nước huy hoàng của dân tộc Việt Nam. Để gây dựng nên mốc son
lịch sử ấy, triều đại Lý, Trần, Lê luôn coi trọng vai trò của gia đình, dòng họ và vai
trò này có thể được thâu tóm trên một số nội dung cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, gia đình hun đúc tinh thần yêu nước cho các thành viên. Trong xã
hội phong kiến, lấy giáo lý Nho giáo làm chuẩn, luôn coi trọng nền nếp, thứ bậc, tôn
ti trật tự trong gia đình. Do đó, vai trò của gia đình trong hun đúc tinh thần yêu
nước cho các thành viên luôn được coi trọng, đặc biệt dưới triều đại Lý, Trần, Lê.
Trong xã hội thời Lý, gia đình hun đúc tinh thần yêu nước cho các thành viên
dựa trên sự kết hợp giữa ý thức bảo vệ xóm làng quê hương với ý thức quốc gia
dân tộc, gắn liền làng với nước trên cơ sở của những quan hệ cộng đồng chặt chẽ,
những phong tục tập quán cổ truyền, những tín ngưỡng dân gian của một cộng
đồng cư dân nông nghiệp. Gia đình giáo dục lòng yêu chuộng hòa bình, nhưng
kiên cường, không chịu nhục, sẵn sàng đánh trả kẻ thù nếu chúng dám xâm phạm
đất nước, làm mất đi sự tôn nghiêm của dòng tộc, tổ tiên; hun đúc tinh thần yêu
nước cho các thành viên dựa trên sự quán triệt tư tưởng chỉ đạo chiến lược tích
cực, lấy tiến công để tự vệ. Sẵn sàng đánh giặc, thậm chí đánh giặc từ lúc chúng
mới chỉ có âm mưu chuẩn bị về lương thực, tiền đồn, con người để xâm lược nước
ta (Cuộc tiến công các trại biên giới của quân Tống ở cửa biển Khâm Châu, Liêm
Châu và chủ yếu là thành Ung Châu do Thái uý Lý Thường Kiệt lãnh đạo năm
1075). Gia đình hun đúc tinh thần yêu nước cho các thành viên dựa trên cơ sở
đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp nhân dân. Chẳng hạn, trong cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược Tống, “các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc và Đông
43
Bắc giữ vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giữ nước
của cả dân tộc” [95, tr.175].
Vào giữa thế kỷ XIII, nhà Trần tiếp nối truyền thống yêu nước của nhà Lý và
tiếp tục phát huy để rồi nâng tinh thần yêu nước lên một tầm cao mới. Đó là tinh
thần sĩ tốt đồng lòng, vua - quan - binh - dân đồng sức chăm lo xây dựng đất nước
vững mạnh, tích cực thao luyện, rèn sức, luyện chí để sẵn sàng đánh thắng kẻ thù
xâm lược, bảo vệ vững bền non sông gấm vóc, bảo vệ tổ ấm gia đình. Chính việc
gắn gia đình với làng, làng với nước; gắn việc bảo vệ hương hỏa tổ tiên, bổng lộc
của gia đình vua và gia đình quý tộc với hương hỏa tổ tiên, với bổng lộc của gia
đình thứ dân, gia đình nông nô, nô tỳ đã tạo ra một nét độc đáo mới trong tinh thần
yêu nước của vua quan, quân dân nhà Trần. Tinh thần yêu nước này đã thấm sâu
vào mọi tầng lớp nhân dân, tạo ra sự thống nhất về nhận thức, đồng lòng về ý chí từ
vua đến dân. Tinh thần yêu nước này đã được trải nghiệm trong thực tế đấu tranh
chống quân xâm lược Mông Nguyên.
Tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình đã tạo nên những phẩm chất cao
quý của con dân Đại Việt. Đó là biết gạt bỏ những hiềm khích cá nhân, gia đình, lấy
đại cục quốc gia, dân tộc làm đầu. Điển hình cho tinh thần yêu nước cao quý ấy
chính là việc Trần Quốc Tuấn người đã tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến thứ
nhất và là người chỉ huy tối cao cuộc kháng chiến thứ hai và thứ ba chủ động xóa bỏ
mối thù riêng trong dòng họ (với thái sư Trần Quang Khải), giải quyết những bất
hòa trong triều để củng cố khối đoàn kết trong hoàng tộc, một lòng một dạ chiến
đấu vì độc lập của Tổ quốc. Phẩm chất của Trần Quốc Tuấn cho thấy ông không chỉ
là người trí dũng song toàn, tài kiêm văn vũ, trước họa xâm lăng của nước người,
ông luôn đặt lợi ích dân tộc, của đất nước lên trên hết, mà còn cho thấy một nét văn
hóa độc đáo của tinh thần yêu nước của con dân Đại Việt.
Đến triều Lê, tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình được tiếp nối
truyền thống yêu nước quật cường được gây dựng từ triều đại Lý và Trần. Nhưng
tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình trong triều đại Lê cũng có những nét
riêng và phát triển lên tầm cao mới. Tinh thần yêu nước này được hun đúc từ chính
khí phách không chịu khuất phục kẻ thù xâm lược của các gia đình, dòng họ thuộc
mọi tầng lớp trong xã hội. Khi giặc Minh xâm lược, các gia đình yêu nước từ quý
44
tộc quan lại cho đến nông dân nô tì, từ các dòng họ dân tộc đa số ở miền xuôi cho
đến các dòng họ dân tộc thiểu số ở miền núi đã vùng lên cầm vũ khí đấu tranh quyết
liệt với kẻ thù. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra và tuy thất bại, nhưng đã tạo
một tiền đề vững chắc, chuyển tiếp khí phách yêu nước quật cường từ các gia đình,
dòng họ yêu nước cho dòng họ Lê (Lê Lợi) ở Lam Sơn Thanh Hóa dựng cờ khởi
nghĩa, phát triển và đi đến thắng lợi hoàn toàn (từ 1418-1428). Qua đó, mở ra một
triều đại phong kiến của dòng họ Lê mới (hậu Lê) ở nước ta và nền độc lập dân tộc
nhờ đó được bảo đảm trong gần bốn thế kỷ (đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII).
Tinh thần yêu nước được hun đúc từ gia đình, dòng họ ở triều đại Lê là tinh thần
chủ động, linh hoạt, tự định đoạt, huy động được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước
trong xã hội dưới ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn, trên cơ sở: “Lấy đại nghĩa để thắng
hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo”. Chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn đã
chứng tỏ rằng vào thế kỷ XV, dân tộc Việt Nam đã là một dân tộc trưởng thành, có ý
thức dân tộc sâu sắc, có sức sống phi thường và năng lực sáng tạo phong phú. Đó là
một dân tộc đã có hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đã có
năm thế kỷ sống độc lập hoàn toàn với tư cách là một quốc gia tiên tiến ở châu Á,
một dân tộc anh hùng mà không một thế lực xâm lược nào có thể khuất phục nổi.
Nguyễn Trãi với bản Bình Ngô Đại Cáo - bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của
dân tộc đã cho thấy ông là một thiên tài trên nhiều lĩnh vực - tư tưởng, chính trị,
quân sự, ngoại giao, văn học. Ông đã đem tài năng lỗi lạc đó cùng với tất cả tâm
hồn, nghị lực của mình hiến dâng cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Ông là một anh
hùng dân tộc vĩ đại, một người dân yêu nước tiêu biểu của dân tộc, thể hiện sự đóng
góp to lớn của một con người trong một gia đình, dòng họ vào công cuộc dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, vai trò của gia đình, dòng họ trong huy động nguồn vật lực cho công
cuộc giữ nước. Dưới thời Lý, Trần, Lê, để đảm bảo thắng lợi cho công cuộc giữ
nước, triều đình phong kiến đã biết phát huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội,
trong đó có nguồn lực từ gia đình, dòng họ. Thời kỳ đó, gia đình, dòng họ đã thực
sự trở thành tế bào cơ bản, quan trọng của xã hội, nhất là trong đấu tranh chống
ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Những đóng
góp của gia đình trong phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trong
45
phát triển văn hóa, xã hội của đất nước, trở thành những nhân tố quyết định thắng
lợi cho sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trong các đóng góp của gia đình, dòng họ về vật lực cho công cuộc giữ nước
thì sự đóng góp về vật chất từ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp trong các thái
ấp, điền ấp giữ vai trò quan trọng nhất. Bởi vì, đây chính là nguồn cung cấp lương
thực chính yếu cho triều đình và cho quân đội để đánh giặc giữ nước, bảo vệ nền
độc lập, thống nhất của Tổ quốc.
Trong xã hội phong kiến vào thời gian đó, “Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng
đất chiếm ưu thế trong xã hội và là một cơ sở quan trọng của chế độ trung ương tập
quyền. Đại bộ phận ruộng đất trong nước lúc đó là ruộng đất của công xã. Công xã
vẫn là nền tảng bền vững của xã hội và các đơn vị hành chính như hương, giáp…
đều dựng lên trên cơ sở những công xã đó” [96, tr.154]. Đặc biệt, vào đời Lý, công
xã còn bảo lưu được quyền tự trị rộng rãi về nhiều mặt. Ruộng đất của công xã nào
do công xã đó quản lý và phân phối cho các thành viên cày cấy. Nhưng ruộng đất
của công xã phải đặt dưới quyền quản lý tối cao của nhà vua nên nông dân công xã
cày ruộng đất công phải nộp tô thuế, lao dịch và đi lính cho nhà nước phong kiến.
Mức tô thuế quy định là 100 thăng mỗi mẫu. Nông dân công xã là thần dân của nhà
vua và là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội.
Trên danh nghĩa là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất, nhà vua có quyền đem
một số gia đình nông dân hoặc ruộng đất của công xã phong cấp cho vương hầu,
quý tộc và quan lại cao cấp. Sự phong cấp này dẫn đến sự thành lập thái ấp của một
số quan lại, quý tộc. Nhưng chỉ có một số ít ruộng đất cấp vĩnh viễn trở thành đất
tư, còn lại phần lớn ruộng đất phong cấp vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Việc
kế thừa thái ấp do nhà vua quyết định. Nghĩa là, nhà vua có thể cho con cháu người
được phong cấp tiếp tục hưởng thái ấp nhưng cũng có quyền thu hồi. Do đó, ở nước
ta không có những lãnh địa thế tập và những lãnh chúa quý tộc có thế lực cha truyền
con nối lâu đời như ở châu Âu. Mỗi gia đình đóng góp vật chất trên cơ sở đóng thuế
cho chủ thái ấp hoặc trực tiếp cho nhà nước phong kiến theo quy định: “ruộng hạng
nhất mối mẫu 100 thăng, ruộng hạng hai 3 mẫu 100 thăng, ruộng hạng ba 4 mẫu
100 thăng” [96, tr.155].
46
Với việc gia đình là nguồn cung cấp chính yếu về nguồn vật lực, nuôi, chăm sóc và
bảo vệ sức kéo trong sản xuất nông nghiệp, gia đình đã góp phần quan trọng vào việc
phát triển kinh tế nông nghiệp - nền kinh tế mũi nhọn của vương triều Lý, Trần, Lê. Qua
đó, gia đình đã chứng tỏ vai trò không thể thiếu trong việc cung cấp nguồn vật lực cho
công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, vai trò của gia đình, dòng họ cung cấp nguồn nhân lực cho công cuộc
giữ nước. Trong công cuộc giữ nước, nguồn nhân lực là nhân tố không thể thiếu và
gia đình, dòng họ được coi là nguồn bổ sung nhân lực chính yếu. Nguồn nhân lực
của gia đình, dòng họ chính là những con em, những người thân, ruột thịt. Trong
công cuộc giữ nước, các thành viên gia đình, dòng họ trở thành lực lượng cốt yếu từ
lãnh đạo, tổ chức đến trực tiếp tham gia đấu tranh bảo vệ non sông gấm vóc, bảo vệ
sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Dưới triều đại Lý, Trần, Lê quy mô dân số nước ta còn nhỏ (khoảng 4-5 triệu
dân), các gia đình thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau trong xã hội cũng không
nhiều và đa dạng như ngày nay. Nhưng nước ta vào thời gian đó phải liên tục đương
đầu với các đội quân xâm lược (Tống, Nguyên, Minh) đông đảo và hùng mạnh. Vì
thế, việc tuyển mộ binh lính cho quân đội từ các gia đình luôn được các nhà nước
phong kiến coi trọng và đề ra những biện pháp phù hợp.
Trên thực tế, tùy vào cách thức tổ chức và xây dựng quy mô quân đội, mỗi
triều đại phong kiến có cách tuyển mộ binh lính phù hợp. Chẳng hạn, dưới triều Lý:
“Quân đội của nhà Lý bao gồm quân cấm vệ và quân các lộ. Quân cấm vệ là quân
thường trực của triều đình có nhiệm vụ bảo vệ Kinh thành. Đây là một đội quân tinh
nhuệ được tuyển lựa cẩn thận và tổ chức, huấn luyện chu đáo. Những người lính
trong quân cấm vệ đều xăm vào ngực và trán những dấu hiệu riêng. Quân các lộ là
quân đội địa phương làm nhiệm vụ canh phòng và bảo vệ các lộ, phủ, châu” [95,
tr.153]. Ngoài ra, các vương hầu và các tù trưởng thiểu số còn có lực lượng vũ trang
riêng. Số quân này không nhiều nhưng khi đất nước có chiến tranh nội hoặc ngoại
xâm, chính quyền trung ương sẽ điều động các đội quân này và đặt dưới quyền
kiểm soát của mình. Chính vì cách thức tổ chức và xây dựng quân đội như vậy, cho
nên ngay từ thời nhà Lý, nghĩa vụ binh dịch đã được đặt ra với một chế độ đăng ký
hộ khẩu cho các gia đình và tuyển lính chặt chẽ: “Dân đinh các làng, xã từ 18 đến
47
20 tuổi gọi là hoàng nam, từ 20 đến 60 tuổi gọi là đại hoàng nam. Đó là loại dân
đinh có nghĩa vụ quân dịch phải đăng ký vào sổ quân” [95, tr.153].
Các dân đinh từ các gia đình sau khi tuyển mộ vào binh lính được tổ chức và
huấn luyện chặt chẽ, quy củ và được phiên chế vào các đơn vi: quân, vệ. Các quân,
vệ lại bao gồm nhiều binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, kỵ binh, tượng binh. Trang bị
quân đội: giáo, mác, cung nỏ, khiên, máy bắn đá, v.v…
Do vậy, có thể thấy, ngay từ triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, việc tuyển mộ
binh lính đã được diễn ra chặt chẽ và quy củ. Lực lượng chủ yếu cho quân đội thời
này được tuyển chọn từ các gia đình, được huấn luyện theo phương châm đào tạo ra
những “tinh binh” chứ không cần “đa binh”. Việc tuyển mộ binh lính của triều đại
Lý, Trần, Lê, cho thấy gia đình là nguồn cung cấp nhân lực chủ yếu cho quân đội,
cho công cuộc giữ nước của nhà nước phong kiến. Những đóng góp đó chứng tỏ gia
đình, dòng họ có vai trò quan trọng trong việc củng cố nhà nước phong kiến tập
quyền cả về đối nội và đối ngoại; gia đình, dòng họ đã gián tiếp lập nên nhiều chiến
công rực rỡ trong các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước.
2.1.3.2. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương động viên, tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, có lực lượng vũ
trang nhân dân làm nòng cốt. Quán triệt chủ trương đó, Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện
thắng lợi động viên toàn dân và vũ trang toàn dân, đồng thời xây dựng lực lượng vũ
trang từng bước lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Những tháng đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, bộ đội chủ lực của quân đội ta là những đơn vị nhỏ lẻ, cấp
trung đội, đại đội. Đến đầu những năm 50 thế kỷ XX, khoảng giữa cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, quân đội ta đã có những đại đoàn bộ binh (đại đoàn 308, 316,
320, 312, 304) và đại đoàn công pháo. Bằng việc ra đời các đại đoàn bộ binh và các
đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích cho thấy việc huy động toàn dân đánh
giặc, tham gia xây dựng bộ đội chủ lực nói riêng, lực lượng vũ trang nói chung của
Đảng ta thành công.
Đóng góp vào thành công đó là vai trò của gia đình, dòng họ trong việc động
viên con em tham gia lực lượng vũ trang. Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước
48
ta, tuy chính quyền các cấp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được thiết
lập và phát huy vai trò quản lý nhà nước trong việc huy động sức người cho cuộc
kháng chiến, nhưng mức độ và phạm vi quản lý nhà nước còn hạn hẹp, nhất là vùng
địch tạm chiếm. Vì thế, việc huy động một số lượng khá lớn người tham gia lực
lượng vũ trang phụ thuộc nhiều vào gia đình, dòng họ, làng xã. Nhân dân Việt Nam
giàu lòng yêu nước, có truyền thống và bản lĩnh chống giặc ngoại xâm, đó là một
trong những yếu tố tạo sức mạnh, làm nên chiến thắng. Các gia đình, dòng họ đã khơi
dậy tinh thần yêu nước, truyền thống và bản lĩnh cho con em, động viên và tổ chức
cho họ tham gia quân đội, dân quân du kích.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với ý chí “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”, nhân dân cả nước ta đã dồn tất cả sức lực để đánh Mỹ, thống nhất đất
nước. Ở miền Nam, với sự động viên và tổ chức của gia đình, rất nhiều thanh niên
vùng Mỹ, Ngụy chiếm đóng ra vùng giải phóng để gia nhập quân giải phóng. Do đó,
lực lượng vũ trang phát triển mạnh ở cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích;
với quy mô bộ đội chủ lực tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh [91, tr.195].
Trên miền Bắc, việc tuyển quân và đưa quân vào chiến trường là một nhiệm vụ
lớn, được tiến hành ngay từ đầu và trong suốt cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của cơ quan quân sự các cấp, với lòng yêu nước của
các tầng lớp nhân dân, việc tuyển quân và đưa quân vào chiến trường đã trở thành
phong trào quần chúng thực sự tự giác. Trong cả cuộc chiến tranh, miền Bắc đã huy
động hơn 1 triệu người nhập ngũ, có địa phương chiếm 10% dân số [90, tr.46].
Trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thực hiện quan điểm quốc phòng
toàn dân, chiến tranh nhân dân, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương nghĩa vụ
quân sự đối với tất cả các công dân. Từ sau năm 1975 đến nay, hàng năm trên cả
nước thực hiện tuyển quân 2 lần, với số lượng đủ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội
trong điều kiện mới. Trên thực tế, công tác tuyển quân hàng năm được thực hiện nền
nếp, các địa phương giao quân nhanh gọn, đủ số lương, đúng tiêu chuẩn.
Kết quả huy động con người cho xây dựng lực lượng vũ trang trong hai cuộc
kháng chiến, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là thành quả lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự vào cuộc của các tổ
chức chính trị - xã hội và công sức của các gia đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ
49
giữ vai trò rất quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho kháng chiến và bảo
vệ Tổ quốc.
Vai trò của gia đình, dòng họ trong huy động nguồn lực cho kháng chiến và
bảo vệ Tổ quốc thể hiện ở những nội dung chính: Một là, gia đình, dòng họ đã khơi
dậy, nuôi dưỡng và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất chống
giặc ngoại xâm cho con em. Trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất nước, các
bậc cha mẹ, các dòng họ vì lòng yêu nước và danh dự của gia đình, dòng họ mà
động viên con em nhập ngũ. Kháng chiến thành công, hòa bình lập lại, nhiều dòng
họ ghi tạc tên tuổi những con cháu đã hy sinh trong nhà thờ họ, để vừa tưởng nhớ,
vừa nêu gương chung cho cả họ.
Việc tôn vinh các liệt sĩ trong dòng họ mang một ý nghĩa rất lớn, vừa nêu lên
những gương sáng của dòng họ trong sự nghiệp cứu nước, vừa cổ vũ việc học tập
và lao động của con em nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay. Hai là, gia đình, dòng họ đã động viên và tổ chức cho con em tòng quân giết
giặc, gìn giữ quê hương đất nước. Nhà nhà, các dòng họ, xóm thôn động viên và
tổ chức cho con em nhập ngũ. Các thành viên trong gia đình, dòng họ cũng vì
danh dự của gia đình, dòng họ mà chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của đất
nước. Trên đất nước ta, trong hai cuộc kháng chiến chống pháp, chống Mỹ, hầu
như gia đình nào cũng có người tham gia lực lượng vũ trang. Có những gia đình
đã đưa tiễn tất cả các người con, cháu trong gia đình tòng quân đánh giặc, như gia
đình mẹ Nguyễn Thị Thứ có chín người con hy sinh; gia đình ông bà Nguyễn Văn
Kiểu có sáu người con và chồng hy sinh [115]. Ba là, gia đình, dòng họ đã chú
trọng xây dựng hậu phương để con em yên tâm đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc, làm
tròn nghĩa vụ công dân đối với đất nước. Các gia đình có con em nhập ngũ luôn
vươn lên trong lao động sản xuất và đi đầu trong các phong trào ở địa phương.
Các dòng họ dồn sự chăm lo vào các gia đình có con em đang tại ngũ hoặc gia
đình có con em là liệt sĩ, thương binh. Sự cưu mang, đùm bọc trong gia đình, dòng
họ là một nguồn động viên lớn để các chiến sĩ yên tâm làm nhiệm vụ. Gia đình,
dòng họ thực sự là một thiết chế xã hội với nhiều uy quyền trong việc nâng cao
nhận thức, định hướng thái độ, hành vi thực hiện NVQS của thanh niên, những
thành viên trong gia đình, dòng họ.
50
2.1.4. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân
sự của thanh niên
2.1.4.1. Quan niệm, nội dung vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực
hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên
Quan niệm vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên
Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên là
kiểu hoạt động tương ứng với vị thế xã hội của gia đình, dòng họ trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; là hoạt động của gia đình, dòng họ thực hiện
chức năng giáo dục, xã hội hóa, tâm lý tình cảm nhằm giáo dục, động viên, tổ chức
cho con em thực hiện NVQS, góp phần xây dựng tiềm lực quốc phòng, nâng cao sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc, các gia đình và các dòng họ đã có
công lớn trong đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành và giữ vững nền độc lập, xây dựng
đất nước ngày càng giàu mạnh. Lịch sử của dân tộc, của từng địa phương đã vinh
danh nhiều gia đình, dòng họ có công với đất nước, quê hương. Ngày nay, gia đình,
dòng họ giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực hiện NVQS là sự tiếp nối và
phát huy truyền thống, sự khẳng định vị thế xã hội của gia đình, dòng họ trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vị thế xã hội trong dựng nước và giữ nước của
dân tộc đòi hỏi gia đình, dòng họ phải giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực
hiện NVQS; giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực hiện NVQS là những
hoạt động tương xứng với vị thế xã hội của gia đình, dòng họ, một trong ba đỉnh
của tam giác văn hóa giữ nước của dân tộc ta: Nhà - Làng - Nước.
Gia đình, dòng họ có các chức năng cơ bản: duy trì và phát triển nòi giống;
kinh tế; giáo dục, xã hội hóa; thoả mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm. Quá trình thực
hiện các chức năng là quá trình thực hiện vai trò của gia đình, dòng họ đối với các
thành viên và đối với cộng đồng, xã hội. Kết quả thực hiện các chức năng là thước
đo vai trò của gia đình, dòng họ.
Phạm vi về nội dung thực hiện chức năng của gia đình, dòng họ bao trùm đời
sống vật chất và tinh thần của các thành viên, hoạt động sản xuất vật chất và đời
sống tinh thần của cộng đồng, của xã hội. Trong đó, giáo dục, động viên, tổ chức
51
cho con em thực hiện NVQS là một nội dung cụ thể trong các nội dung thực hiện
chức năng của gia đình, dòng họ đối với các thành viên và đối với đất nước. Việc
giáo dục, động viên, tổ chức cho con em thực hiện NVQS đòi hỏi gia đình, dòng họ
thực hiện tốt các chức năng giáo dục, xã hội hóa, thoả mãn nhu cầu tâm lý, tình
cảm. Quá trình thực hiện các chức năng này trực tiếp giáo dục ý thức NVQS, định
hướng hành vi cho con em thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân và bảo
trợ cho họ trong thời gian thực hiện NVQS. Điều 10 Luật NVQS ghi rõ: “Gia
đình, trong phạm vi chức năng của mình, có trách nhiệm động viên, giáo dục và
tạo điều kiện cho công dân làm tròn NVQS” [13, tr.66].
Việc thực hiện chức năng duy trì và phát triển nòi giống, kinh tế của gia đình,
dòng họ cũng có tác động đến thực hiện NVQS của thanh niên, vì gia đình và dòng
họ là địa chỉ cung ứng nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là
những yếu tố tác động đến thực hiện vai trò của gia đình trong giáo dục, động viên,
tổ chức cho thanh niên thực hiện NVQS.
Giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ không
chỉ góp phần vào việc thực hiện Luật NVQS, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, mả còn góp phần
xây dựng tiềm lực nền quốc phòng toàn dân, nâng cao sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Lớp
lớp thanh niên hăng hái lên đường tòng quân, nhà nhà động viên, tổ chức cho con em
thực hiện NVQS sẽ tạo dựng “cơ sở xã hội”, “dư luận xã hội” cho quá trình củng cố
bền vững nền quốc phòng toàn dân và là một điều kiện bảo đảm thắng lợi cho công
cuộc giữ nước hiện nay. Việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò giáo dục, động viên,
tổ chức cho thanh niên thực hiện NVQS có ý nghĩa, giá trị xã hội rộng lớn.
Nội dung vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên
Vai trò của gia đình, dòng họ đối với các thành viên là rộng lớn, đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên hướng vào một hoạt động cụ thể, gắn với một đối
tượng cụ thể. Tuy thế, nó cũng ẩn chứa và bao trùm trong đó tất cả các nội dung vai
trò của gia đình, dòng họ. Xem xét vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực
hiện NVQS của thanh niên cần dựa trên những hoạt động của gia đình, dòng họ, cụ
52
thể là những hoạt động gắn liền với việc thực hiện vai trò giáo dục, xã hội hoá và
vai trò tâm lý tình cảm của gia đình, dòng họ đối với các thành viên.
Từ quan niệm vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên, nội dung vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên gồm: Giáo dục, tuyên truyền về NVQS cho con, cháu chưa đến tuổi nhập
ngũ; Giáo dục, động viên cho con, cháu tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS; Giáo
dục, động viên con, cháu lên đường khi có lệnh gọi nhập ngũ; Động viên, chăm lo con,
cháu trong thời gian thực hiện NVQS ở các đơn vị quân đội.
Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền về NVQS cho con, cháu chưa đến tuổi
nhập ngũ. Giáo dục, xã hội hóa là một chức năng, vai trò cơ bản của gia đình, dòng họ.
Giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con, cháu chưa đến tuổi nhập ngũ là một nội dung
quan trọng. Thông qua hoạt động đó, gia đình, dòng họ tạo dựng cho con, cháu ý thức
được ý nghĩa cao cả của việc tham gia NVQS; củng cố tinh thần, trách nhiệm
BVTQ của công dân. Hoạt động giáo dục đó nhằm tiếp nối truyền thống chống giặc
ngoại xâm của gia đình, dòng họ; hun đúc ý thức dân tộc, lòng yêu nước, tinh thần
sẵn sàng BVTQ cho con, cháu. Hoạt động này được tiến hành thường xuyên, liên
tục, ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động của gia đình, dòng họ.
Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền về NVQS cho thanh niên được thể
hiện trên một số hoạt động sau: một là, những người thân trong gia đình kể những
mẩu chuyện chiến đấu, những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,
BVTQ của gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước cho con em; hai là, dòng họ
thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước về thực hiện NVQS,
BVTQ trong các buổi sinh hoạt của dòng họ; ba là, gia đình định hướng con em
theo nghề quân đội; bốn là, gia đình thường xuyên dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về
trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố nền QPTD,
BVTQ khi đến tuổi trưởng thành; năm là, dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực
hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ.
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu tham gia đăng ký, khám
tuyển NVQS. Đăng ký, khám tuyển NVQS là một quy định của luật pháp đối với
nam thanh niên bước vào tuổi 18; mắt khâu quan trọng trong công tác tuyển quân
hàng năm. Việc thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS sẽ gặp nhiều thuận
53
lợi, nếu như gia đình, dòng họ phát huy tốt vai trò trong động viên, tổ chức cho con,
cháu thực hiện đúng quy định của pháp luật về tuyển quân; thực hiện nghiêm kế
hoạch đăng ký, khám tuyển NVQS của cơ quan quân sự địa phương.
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu khám tuyển NVQS được thể
hiện trên các hoạt động: trước hết, gia đình thường xuyên giáo dục, nhắc nhở con
em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định; hai là, dòng họ tổ chức gặp mặt
con cháu có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên; ba là,
người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám
tuyển NVQS; bốn là, gia đình giúp con em hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển là
quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc; năm là, dòng họ
giáo dục con cháu hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền
thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ; sáu là, người thân trong gia đình động viên,
đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS.
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu lên đường thực hiện NVQS
khi có lệnh gọi nhập ngũ. Sau khâu đoạn đăng ký và khám tuyển NVQS, những
thanh niên đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, sức khoẻ, học vấn và không thuộc
diện miễn, hoãn NVQS sẽ được gọi nhập ngũ. Đến lúc này những băn khoăn, lo
lắng của thanh niên vẫn còn rất nhiều. Bởi vì, nhiều thanh niên vẫn nghĩ, đi đăng
ký, khám tuyển NVQS không có nghĩa là lên đường nhập ngũ. Những đối tượng
này, khi trúng tuyển sẽ cảm thấy hụt hẫng và nảy sinh nhiều tâm tư cần được gỡ bỏ.
Cho nên, việc gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu lên đường nhập ngũ
là việc làm hết sức cần thiết.
Tiễn đưa người thân trong gia đình, dòng họ đi công tác xa, việc tiễn đưa con,
cháu lên đường thực hiện nghĩa vụ công dân đối với quê hương, đất nước, một phần
thể hiện sự quan tâm, tình cảm của những người ruột thịt với thanh niên; một phần
khẳng định gia đình, dòng họ vẫn luôn là chỗ dựa tinh thần tốt nhất, một nguồn
động viên đối với thanh niên. Những hình ảnh của buổi đưa tiễn sẽ được thanh niên
ghi nhớ và khắc sâu trong lòng, sẽ là chỗ dựa về tình thần vững chắc để thanh niên
có thêm nghị lực vượt qua những khó khăn, vất vả của cuộc sống người lính.
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên con, cháu lên đường nhập ngũ khi có lệnh
gọi được thể hiện: thứ nhất , trước khi lên đường nhập ngũ, gia đình tổ chức gặp mặt,
54
chia tay, mời đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú bác cô
trong dòng họ, mời bạn bè của thanh niên đến thăm hỏi, động viên thanh niên; thứ hai,
dòng họ tổ chức gặp mặt giáo dục, động viên, khích lệ thanh niên để thanh niên thấy rõ
việc thanh niên lên đường làm nhiệm vụ BVTQ cũng là niềm vui, vinh dự, tự hào của
gia đình và dòng họ; thứ ba, dòng họ phân công người động viên, giúp đỡ gia đình có
thanh niên trúng tuyển NVQS để thanh niên yên tâm lên đường nhập ngũ; thứ tư, dòng
họ huy động vật chất giúp thanh niên vơi bớt những khó khăn, thiếu thốn và thích nghi
tốt hơn với đời sống quân ngũ; thứ năm, ngày thanh niên lên đường làm NVQS, đại
diện người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội.
Gia đình, dòng họ động viên, chăm lo con, cháu trong thời gian thực hiện
NVQS ở các đơn vị quân đội. Cuộc sống binh nghiệp cũng làm cho thanh niên phải
xa rời cuộc sống sôi động ngoài xã hội. Do đó, không ít thanh niên, nhất là thời gian
đầu tại ngũ cảm thấy hẫng hụt vì sự thiếu thốn cả vật chất và tinh thần. Điều này dễ
làm thanh niên giảm sút về ý chí, nghị lực trong thực hiện các quy định của quân đội
và có thể nảy sinh tư tưởng đào bỏ ngũ. Nguồn động viên của gia đình, dòng họ giúp
cho thanh niên có thêm nghị lực thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, tích cực
tu dưỡng và rèn luyện để hình thành những phẩm chất cao đẹp của Bộ đội cụ Hồ.
Sự động viên, chăm lo của gia đình, dòng họ đối với thanh niên trong thời gian
thực hiện NVQS được thể hiện trên nhiều hoạt động: một là, những người thân trong
gia đình thường xuyên viết thư, gọi điện thăm hỏi, động viên thanh niên yên tâm
thực hiện NVQS; hai là, người thân trong gia đình sợ thanh niên vất vả, không quen
với đời sống quân ngũ nên nhờ cậy người quan tâm giúp đỡ; ba là, người thân trong
gia đình lo lắng thanh niên thiếu thốn vật chất nên gửi tiền hoặc hiện vật cho thanh
niên; bốn là, người thân trong gia đình thường xuyên đến đơn vị thăm hỏi để giáo
dục, động viên con em hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tại ngũ; năm là,
người thân trong dòng họ đến đơn vị thăm hỏi để động viên, khích lệ con cháu hoàn
thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tại ngũ.
Như vậy, vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh
niên diễn ra từ khi họ sinh ra, lớn lên trong gia đình, dòng họ và trong thời gian
thanh niên thực hiện NVQS trong các đơn vị quân đội. Nó được tiến hành không chỉ
với những thanh niên nhập ngũ mà với tất cả các thanh niên, các thành viên trong
55
các gia đình, dòng họ. Như thế, gia đình, dòng họ đã góp sức vào xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có
tri thức, sống có văn hóa, nghĩa tình với gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước.
2.1.4.2. Các yếu tố tác động vai trò của gia đình, dòng họ với việc thực hiện
nghĩa vụ quân sự của thanh niên
Quá trình thực hiện vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS
của thanh niên chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố: Số lượng con trai của gia
đình, đặc điểm của gia đình và các yếu tố thuộc biến số vĩ mô: Điều kiện kinh tế của
địa phương; Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Hệ thống chính trị cơ sở; Cộng đồng làng xã.
Các yếu tố thuộc biến số độc lập
Số lượng con trai của gia đình. Gia đình ít con trai hay nhiều con trai đều chi
phối đến việc thực hiện vai trò của gia đình trong giáo dục, động viên con em thực
hiện NVQS. Gia đình ít con trai, thì việc nhập ngũ của con, em sẽ đem đến sự trống
vắng về tình cảm, thiếu nguồn nhân lực cốt yếu; dẫn đến những băn khoăn, do dự
trong việc động viên, khuyến khích con em tham gia thực hiện NVQS. Gia đình có
nhiều con trai thì việc nhập ngũ của con em có nhiều thuận lợi hơn, vì ít nhiều bố
mẹ cũng yên tâm hơn khi ở nhà vẫn có người làm việc, vẫn có người nối dõi tông
đường... Nhưng gia đình có nhiều con trai lại ít có điều kiện quan tâm, dạy dỗ con
cái, ít có điều kiện tuyên truyền NVQS cho con em hơn gia đình có ít con trai.
Đặc điểm của gia đình. Đặc điểm của gia đình được thể hiện ở: mức sống,
trình độ học vấn của bố thanh niên, nghề nghiệp của gia đình, gia đình có bố mẹ là
đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên. Các thành phần này đều có
những chi phối đến việc thực hiện NVQS của thanh niên. Bởi vì, trong thực tế
tuyển quân, những gia đình có mức sống khá giả có thể không muốn con em mình
phải nhập ngũ, họ lo cho con em sẽ có cuộc sống vất vả nơi quân ngũ; bố của
thanh niên có trình độ học vấn cao lại muốn hướng cho con vào những công việc
“nhàn hạ” nhưng thu nhập cao; những gia đình có nghề nghiệp đòi hỏi cần nhiều
lao động lại có nhiều băn khoăn, lo lắng khi con em thực hiện NVQS; gia đình có
bố mẹ là đảng viên lại muốn con được vào môi trường quân ngũ để rèn luyện, để
cống hiến cho sự nghiệp cách mạng… Tất cả có thể trở thành các nhân tố thúc đẩy
56
hoặc cản trợ việc nhập ngũ của thanh niên, làm cho công tác tuyển quân ở địa
phương gặp thuận lợi hoặc khó khăn.
Các yếu tố khách quan
Điều kiện kinh tế của địa phương. Các phong trào chính trị - xã hội ở các địa
phương phụ thuộc rất lớn vào điều kiện kinh tế - xã hội. Kinh tế phát triển, đời sống
nhân dân được nâng cao, giáo dục và đào tạo phát triển, giáo dục quốc phòng được
đẩy mạnh, chính trị ổn định, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững là điều kiện thuận
lợi để các địa phương động viên, tổ chức cho thanh niên nhập ngũ; điều kiện thuận lợi
để chăm lo cho thanh niên trong thời gian tại ngũ, thực hiện chính sách hậu phương
quân đội. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội là yếu tố thúc đẩy phong
trào tòng quân của thanh niên. Đồng thời, đó là một yếu tố, một cơ sở để gia đình
giáo dục, động viên, tổ chức cho con, em thực hiện NVQS.
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong
hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay có Luật NVQS và các chính
sách đối với người có công với cách mạng, với gia đình có thanh niên đang tham
gia quân ngũ, với thanh niên hoàn thành NVQS. Nhưng để chính sách, pháp luật
của Nhà nước đến được với người dân, đến với các gia đình, dòng họ có thanh niên
nhập ngũ cần có đường lối, chủ trương của Đảng định hướng, chỉ đạo, dẫn dắt. Đây
là yếu tố không thể thiếu trong hệ thống chính trị ở nước ta. Yếu tố này có tác động
trực tiếp, thiết thực đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS
của thanh niên. Bởi vì, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước ngoài các điều khoản quy định có tính bắt buộc thanh niên đến tuổi thực
hiện NVQS, còn chỉ rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của gia đình, dòng họ; giúp
cho mỗi người dân, mỗi gia đình hiểu rõ được sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của
Đảng đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD và BVTQ hiện nay.
Hệ thống chính trị cơ sở. Yếu tố này có tác động rất lớn đến vai trò của gia
đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của con, em. Bởi vì, cấp ủy đảng, chính
quyền cơ sở và các đoàn thể chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn
thanh niên, Hội Cựu chiến binh…) là các tổ chức trực tiếp lãnh đạo, hướng dẫn và
thực hiện chức năng quản lý xã hội đối với các gia đình, dòng họ trong việc thực hiện
đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó
57
có việc thực hiện Luật NVQS. Cấp ủy đảng, tổ chức đảng được xây dựng trong sạch,
vững manh, giữ vững vai trò lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt đối với địa phương; chính
quyền thực sự của dân, do dân, vì nhân dân; các đoàn thể chính trị - xã hội được xây
dựng vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, tổ chức các phong trào chính trị, văn
hóa, xã hội mạnh mẽ sẽ tạo thành thiết chế chính trị - xã hội để phát huy vai trò của
gia đình, dòng họ trong động viên, tổ chức cho con, em thực hiện NVQS.
Cộng đồng làng xã. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, làng
xã giữ vai trò đặc biệt quan trọng, một yếu tố của tam giác văn hóa giữ nước: Nhà -
Làng - Nước. Trải qua thăng trầm của lịch sử, mỗi làng quê Việt Nam đã tạo dựng
cho mình một bản sắc văn hóa, gây dựng truyền thống chống giặc ngoại xâm, hình
thành nên một thiết chế - thiết chế làng xã của riêng mình. Làng Việt là một cộng
đồng lễ nghi, một đơn vị dựng nước và giữ nước. Làng xã là môi trường văn hóa, xã
hội cho sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, dòng họ. Mỗi gia đình, dòng họ
bằng các hoạt động cụ thể của mình đóng góp vào sự hình thành, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa, truyền thống của làng xã. Trong mối quan hệ đó, văn hóa, truyền
thống và kỷ cương trong làng xã hình thành thiết chế văn hóa - xã hội buộc các gia
đình, dòng họ có trách nhiệm phát huy truyền thống trong việc động viên, tổ chức cho
con, em thực hiện NVQS. Đồng thời, các gia đình, dòng họ cũng luôn ý thức được
rằng, việc động viên, tổ chức cho con, em thực hiện NVQS là sự đóng góp để bảo tồn
và phát huy văn hóa, truyền thống của địa phương.
2.1.4.3. Mô hình tác động của các yếu tố đến vai trò gia đình, dòng họ đối
với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên
Tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực
hiện NVQS của thanh niên được thực hiện thông qua các thiết chế xã hội (nhà nước,
làng xã, dòng họ, gia đình), sự tương tác giữa các yếu tố mang tính trực tiếp ở cơ sở
(hệ thống chính trị cơ sở, cộng đồng làng xã, cộng đồng dòng họ, gia đình) và
những yếu tố trực tiếp trong quan hệ dòng họ, gia đình, thanh niên. Dưới đây là ba
mô hình được rút ra từ nghiên cứu của đề tài luận án:
Thứ nhất, sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo
mô hình bốn vòng tròn đồng tâm của thiết chế xã hội: thiết chế Nhà nước, thiết chế
làng xã, thiết chế dòng họ và thiết chế gia đình.
58
Thiết chế gia đình
Thiết chế dòng họ
Thiết chế làng xã
Thiết chế Nhà nước
Mô hình 2.1: Bốn vòng tròn đồng tâm của thiết chế xã hội
Mô hình này cho thấy các thiết chế cùng gặp nhau ở một điểm, đó là: các thiết
chế đều là tập hợp của các khuôn mẫu hành vi, các chuẩn mực, giá trị bền vững
được quy định thành văn hoặc không thành văn. Nếu Nhà nước có pháp luật, làng
xã có hương ước, lệ làng thì dòng họ có tộc ước, gia đình có gia quy. Tính pháp lý
và mức độ áp dụng, thực hiện của pháp luật, hương ước, tộc ước, gia quy tuy có
khác nhau nhưng cùng một mục đích điều tiết các hành vi xã hội của cá nhân phù
hợp với vai trò được mong đợi, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội. Do
đó, sự tác động của các thiết chế đan cài vào nhau, thông qua nhau nhằm đạt được
sự hướng dẫn, kiểm soát hành vi xã hội theo khuôn mẫu được quy định trong các
luật, lệ, hương ước, tộc ước, gia quy.
Thiết chế nhà nước, làng xã, dòng họ và gia đình có mối liên hệ chặt chẽ, tạo
nên sự hướng dẫn, kiểm soát hành vi xã hội nhiều tầng, nhiều lớp và tạo áp lực xã
hội rất lớn đối với mỗi cá nhân, nhóm xã hội trong việc thực hiện NVQS. Thiết chế
nhà nước lớn nhất, với quy chuẩn chặt chẽ nhất, bao trùm và chi phối thiết chế làng
xã, dòng họ và gia đình. Thiết chế làng xã như là một thiết chế trung gian nhưng
mang tính trực tiếp chi phối thiết chế dòng họ, gia đình. Trong xã hội truyền thống
Việt Nam, ở nhiều thời điểm, thiết chế làng xã mang tính “thiết chế nhà nước”, giữ
vai trò rất quan trọng, thay thế thiết chế nhà nước, “phép vua thua lệ làng”. Thiết chế
59
dòng họ, gia đình chịu sự chi phối của thiết chế nhà nước, làng xã, chi phối trực tiếp
đến ý thức và hành vi thực hiện NVQS của thanh niên. Điều này có thể thấy, trong
công tác gọi thanh niên nhập ngũ, thiết chế nhà nước có các văn bản pháp luật quy
định thanh niên đến tuổi trưởng thành phải thực hiện NVQS nhưng sự hăng hái thực
hiện các quy định của pháp luật phụ thuộc vào sự vận hành của thiết chế dòng họ,
gia đình. Thiết chế dòng họ, gia đình phát huy tốt vai trò trong việc thực hiện NVQS
của thanh niên sẽ tạo nên tính hiệu lực, hiệu quả của thiết chế nhà nước, làng xã.
Thực tiễn chỉ ra rằng, dòng họ và gia đình giữ vai trò quyết định việc thực hiện
NVQS của thanh niên. Thiết chế dòng họ, gia đình tạo hiệu ứng xã hội mạnh đối với
hành vi thực hiện NVQS của thanh niên.
Thứ hai, sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo mô
hình vòng tròn khép kín giữa hệ thống chính trị cở sở với cộng đồng làng xã và gia
đình, dòng họ.
Mô hình 2.2: Vòng tròn khép kín giữa hệ thống chính trị cở sở với cộng đồng
làng xã và gia đình, dòng họ.
Mô hình 2.2. cho biết mối tương tác khép kín giữa hệ thống chính trị cơ sở với
cộng đồng làng xã và dòng họ, gia đình. Hệ thống chính trị cơ sở gồm cấp uỷ đảng,
chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn triển khai công
việc xuống cộng đồng làng xã thông qua đội ngũ cán bộ thôn, tổ dân phố; đội ngũ
cán bộ thôn, tổ dân phố tiếp tục triển khai công việc xuống các gia đình; từ gia đình,
các công việc được thực hiện rồi chuyển lên hệ thống chính trị cơ sở. Hoạt động của
hệ thống chính trị ở cơ sở vừa định hướng, vừa tạo dựng cơ sở cho việc hình thành
dư luận cộng đồng làng xã trong việc thực hiện NVQS của thanh niên. Dư luận xã
60
hội trong cộng đồng làng xã tạo áp lực xã hội rất lớn đối với việc thực hiện NVQS
của thanh niên. Sự phối kết hợp giữa hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở với
cộng đồng làng xã và cộng đồng dòng họ, gia đình đặc biệt có hiệu quả trong công
tác gọi thanh niên nhập ngũ ở các xã, phường, thị trấn hiện nay.
Thứ ba, sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo mô
hình vòng tròn khép kín giữa dòng họ, gia đình và thanh niên.
Mô hình 2.3: Vòng tròn khép kín giữa trưởng dòng họ, chủ hộ gia đình và
thanh niên.
Trưởng dòng họ Chủ hộ gia đình
Thanh niên
Mô hình 2.3. cho thấy tương tác khép kín giữa dòng họ - gia đình - thanh niên,
mà trực tiếp là trưởng dòng họ, chủ hộ gia đình và thanh niên. Mối quan hệ giữa
dòng họ với gia đình và các thành viên được dựa trên tộc ước, gia quy. Tộc ước, gia
quy có những quy định nghiêm ngặt về tôn ti, trật tự, thứ bậc trong dòng họ và gia
đình. Theo đó, trưởng họ, chủ hộ gia đình (thường là người cha) có vai trò rất quan
trọng, với những quyết định buộc các thành viên trong họ, trong gia đình phải tuân
theo. Vai trò của dòng họ, gia đình thông qua vai trò của trưởng họ, chủ hộ gia đình;
hiệu lực, hiệu quả vai trò của dòng họ, gia đình phụ thuộc vào tính tích cực thực
hiện vai trò của trưởng họ, chủ hộ gia đình. Trên thực tế, có không ít trường hợp,
việc thực hiện NVQS của thanh niên phụ thuộc nhiều vào quyết định của trưởng họ,
chủ gia đình, vào sự tham vấn giữa trưởng họ, chủ hộ gia đình và thanh niên.
Ở cộng đồng làng xã, mối quan hệ giữa dòng họ với gia đình và thành viên rất
chặt chẽ. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua nhiều vai trò của gia đình, dòng
họ, trong đó có vai trò giáo dục, xã hội hoá và vai trò tâm lý tình cảm của dòng họ,
gia đình đối với thanh niên trong thực hiện NVQS. Trên thực tế, việc thực hiện
NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của thanh niên đối với Tổ quốc và đã được luật hoá.
61
Song, trong quá trình thực hiện NVQS của thanh niên, nhất là ở khâu đoạn gọi
thanh niên đăng ký, khám tuyển và chuẩn bị lên đường nhập ngũ, vai trò của gia
đình, dòng họ rất quan trọng, nhiều trường hợp mang tính quyết định. Bởi vì, nếu
gia đình, dòng họ không phát huy tốt vai trò và dựa vào những “kẽ hở” của quy
định tạm, miễn hoãn nhập ngũ, thì công tác tuyển quân của địa phương khó có kết
quả tốt, thậm chí không đạt đủ chỉ tiêu tuyển quân. Có không ít thanh niên vẫn còn
chần chừ đi đăng ký, khám tuyển, cả khi trúng tuyển vẫn cố tình trốn tránh vì có sự
bao che của gia đình, dòng họ.
2.2. CÁC LÝ THUYẾT VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA
GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA
THANH NIÊN
2.2.1. Lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen
Murray Bowen sinh ngày 31 tháng 1 năm 1913, mất ngày 9 tháng 10 năm
1990. Ông là giáo sư lâm sàng học tại Trung tâm Y tế đại học Georgetown và là
thành viên của Hiệp hội Tâm thần Mỹ và Tập đoàn vì sự tiến bộ về Tâm thần học.
Thông qua công tác điều trị và tư vấn cho các gia đình có thành viên bị bệnh tâm
thần phân liệt, Bowen hình thành nên lý thuyết hệ thống gia đình [136].
Theo Murray Bowen, lý thuyết hệ thống gia đình không chỉ đơn thuần là một
kỹ thuật điều trị mà còn là triết lý tìm kiếm những nguyên nhân của hành vi. Hành
vi này không phải của cá nhân mà được hình thành trong sự tương tác giữa các
thành viên của gia đình với nhau. Bởi vì, trong gia đình, các thành viên đều có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau và các mối liên hệ này là thường xuyên và phụ thuộc lẫn
nhau hình thành một thể thống nhất - hệ thống gia đình. Do đó, hành vi của một
thành viên trong gia đình có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống gia đình.
Phương pháp tiếp cận hệ thống gia đình của Murray Bowen được dựa trên một
số yếu tố cơ bản: một là, gia đình là một cấu trúc có các bộ phận liên hệ chặt chẽ
với nhau. Mỗi hành vi của một thành viên trong hệ thống gia đình đều có thể ảnh
hưởng đến mọi người khác trong gia đình; hai là, các yếu tố trong cấu trúc gia đình
chỉ có thể được nhìn thấy trong các tương tác của nó. Các cá nhân tạo nên một hệ
thống gia đình. Hệ thống gia đình này là một tổng thể phức tạp mà không thể được
hiểu thông qua việc tìm hiểu một cách riêng biệt từng thành viên; ba là, vai trò gia
62
đình được thực hiện thông qua mô hình tương tác giữa các thành viên gia đình; bốn
là, trong gia đình có các quy tắc nhất định, chúng tự điều tiết và tạo nên đặc thù
riêng của gia đình. Gia đình là một hệ thống có mục đích và có một mục tiêu.
Thường các mục đích và mục tiêu này tạo nên sự thống nhất cho gia đình; năm là,
ranh giới: đối với các gia đình để hoạt động tốt, hệ thống còn phải duy trì ranh giới;
sáu là, thích ứng: sự phản ứng của gia đình với môi trường xã hội buộc hệ thống gia
đình phải luôn thay đổi và tự điều chỉnh để duy trì gia đình và để đáp ứng nhu cầu
của các thành viên trong gia đình cũng như thích ứng với môi trường xung quanh;
bảy là, hệ thống gia đình thay đổi thông qua các chu kỳ đời sống gia đình [135].
Murray Bowen còn mô tả các thành phần và mối quan hệ của chúng với toàn
bộ hệ thống theo mô hình sau:
Mô hình 2.4: Các thành phần và mối quan hệ của hệ thống gia đình
Hệ thống gia đình
1. Cấu trúc gia đình Đầu vào
Sự thay đổi/ Sự nhấn mạnh
2. Các tương tác gia đình 4. Chu kỳ đời sống gia đình
3. Các chức năng gia đình Đầu ra
Nguồn: Mô hình được lấy từ lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen [132].
Mô hình này được lý giải như sau:
1.Cấu trúc gia đình cho biết các đặc điểm của gia đình như bản chất của các thành
viên trong gia đình, phong cách văn hóa và ý thức hệ của gia đình. Những đặc điểm
này là đầu vào hệ thống gia đình và tác động qua lại tạo nên các tương tác gia đình.
2.Các tương tác gia đình là trung tâm của hệ thống gia đình. Nó là quá trình
tương tác giữa các thành viên gia đình và trên cơ sở các quy tắc đã được xác định
mà các gia đình được điều chỉnh tương tác của mình. Điều này cũng thể hiện sự gắn
63
kết, khả năng thích ứng và phong cách giao tiếp của gia đình. Cuối cùng, những
tương tác gia đình nhằm phục vụ chính từng thành viên gia đình và nhu cầu của
toàn bộ gia đình.
3.Các chức năng gia đình là đầu ra của hệ thống và tác động qua lại với các
tương tác gia đình. Ở đây, gia đình sử dụng các nguồn lực sẵn có thông qua cấu trúc
của nó (đầu vào) và thành viên trong gia đình tương tác với nhau để đáp ứng nhu
cầu của chính họ và gia đình.
4.Chu kỳ đời sống gia đình đưa ra các yếu tố của sự thay đổi trong hệ thống gia
đình. Theo thời gian, những thay đổi tích cực hoặc không tích cực của gia đình đều
làm thay đổi cấu trúc gia đình và làm thay đổi nhu cầu của gia đình. Sự thay đổi này
sơm hay muộn cũng tạo tạo ra sự thay đổi trong các tương tác gia đình.
Bên cạnh những ưu điểm, lý thuyết hệ thống gia đình của Murray Bowen vẫn
còn có những phê phán cho rằng, lý thuyết này nhấn mạnh đến mối quan hệ, tương
tác và tình cảm giữa các thành viên trong hệ thống gia đình. Trong khi, các gia đình
hạt nhân, thường gặp trong xã hội hiện đại, không những các thành phần cấu thành
hệ thống gia đình ít mà mối tương tác giữa các thành phần này cũng lỏng lẻo hơn
[134]. Song, dù còn có những phê phán, dù lý thuyết hệ thống gia đình của Murray
Bowen chủ yếu dùng để giải thích cho quá trình trị liệu thành viên trong gia đình bị
tâm thần phân liệt, nhưng lý thuyết đã chỉ rõ, gia đình là một hệ thống, có cấu trúc
chặt chẽ, các thành viên trong gia đình có mối liên hệ khăng khít; lý thuyết cũng đề
cập đến vai trò, chức năng của gia đình. Do vậy, trong nghiên cứu vai trò của gia
đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên có thể áp dụng lý thuyết
hệ thống gia đình của Bowen trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, lý thuyết hệ thống gia đình của Bowen khẳng định, gia đình là một
cấu trúc có các bộ phận liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều này hết sức quan trọng khi
nghiên cứu về gia đình, vai trò của gia đình đối với việc thực hiện NVQS của thanh
niên. Bởi vì, để hiểu được vai trò của gia đình, dòng họ đối con cháu thì trước hết
phải tìm hiểu cấu trúc gia đình, dòng họ, các bộ phận cấu thành của gia đình, dòng
họ; qua mối quan hệ, tương tác trong gia đình, dòng họ mới thấy được độ gắn kết
giữa các thành viên của gia đình, dòng họ, nhất là mới thấy được vai trò của bố mẹ
với con cái, của ông bà, chú bác cô với các cháu.
64
Thứ hai, lý thuyết hệ thống gia đình của Bowen nói rằng vai trò gia đình được
thể hiện thông qua mô hình tương tác giữa các thành viên gia đình. Điều này cho
thấy, để nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với thanh niên thực hiện
NVQS phải xuất phát từ mối tương tác giữa các thành viên của gia đình, dòng họ.
Cụ thể, mối tương tác giữa bố mẹ với con cái, giữa ông bà, bác chú cô trong dòng
họ với các cháu, giữa anh chị em trong gia đình, dòng họ với nhau.
Thứ ba, lý thuyết hệ thống gia đình của Bowen nhấn mạnh đến các quy tắc
trong gia đình. Các quy tắc này giúp gia đình tự điều tiết, giáo dục con cái và tạo
nên sự thống nhất trong gia đình. Đây là điều thực sự cần thiết để nghiên cứu vai trò
của gia đình, dòng họ với việc thực hiện NVQS của con cháu. Bởi vì, trong thực
tiễn, khá nhiều các gia đình, dòng họ ở Việt Nam hiện nay có các quy tắc (gia quy,
tộc ước) riêng. Gia quy, tộc ước của gia đình, dòng họ chính là nền tảng quan trọng
để gia đình, dòng họ giáo dục, động viên, khuyến khích con cháu tham gia NVQS.
2.3.2. Lý thuyết trung gian của Robert K. Merton về tập hợp vai trò
Robert K. Merton (1910 - 2003) sinh ra trong một gia đình Do Thái di cư sang Mỹ,
sống ở thành phố Philadelphia. Ông cùng với Parsons trong một thời gian dài được
mọi người biết đến là những người đứng đầu trường phái cấu trúc - chức năng trong
xã hội học Mỹ. Nhưng, trong khi Parsons là tác giả của những công trình nghiên cứu
xã hội học quan trọng như: “Hệ thống xã hội” (The Social Sytem) (1951); “Tiến tới
một lý thuyết tổng quát về hành động” (Towards a General Theory of Action)
(1951)...; Merton lại nổi tiếng với công trình ‘‘Lý thuyết xã hội và cấu trúc xã hội’’
(Social Theory and Social Structure) (1968) [45, tr.227, 240].
Robert K. Merton được coi là người phát kiến ra lý thuyết trung gian và ông đã
áp dụng lý thuyết này để đưa ra lý thuyết về tập hợp vai trò. Năm 1967, trong tập
sách bàn về xã hội học lý thuyết, Merton đã phân tích lý thuyết tập hợp vai trò để làm
rõ lý thuyết trung gian trong xã hội học. Theo ông, “lý thuyết tập hợp - vai thuộc loại
lý thuyết trung gian, tức là thuộc nhóm những lý thuyết nằm ở vị trí giữa những giả
thuyết nghiên cứu và những nỗ lực to lớn có tính hệ thống hướng tới việc xây dựng
một lý thuyết thống nhất, lý thuyết lớn về vai xã hội” [Trích theo, 47, tr.124].
Để đưa ra quan niệm về tập hợp vai trò, Robert K. Merton đã kế thừa và mở
rộng khái niệm vị thế - vai trò của Ralph Linton (1893 - 1953) nhà nhân học văn
65
hoá người Mỹ. Linton cho rằng, một cá nhân trong xã hội nắm nhiều vị thế và mỗi
một vị thế tương ứng với một vai trò. Merton lại nói, mỗi một cá nhân trong xã hội
cũng có nhiều vị thế, nhưng tương ứng với một vị thế có thể có nhiều vai trò, mà ông
gọi là vai trò tập hợp. Đây chỉ là một sự khác nhau nhỏ về khái niệm vị thế, vai trò,
song rất quan trọng. Merton cũng đưa ra phân biệt giữa vai trò tập hợp với vai trò đa
dạng, đó là: “một loại các vai của các vị thế xã hội khác nhau là các vai đa dạng, ví
dụ, một người nắm giữ các vị thế như bác sỹ, giáo sư, người cha sẽ thực hiện các vai
đa dạng tương ứng với từng vị thế. Trong khi đó, vai - tập hợp là tập hợp các vai gắn
với một vị thế xã hội nhất định chứ không phải nhiều vai với nhiều vị thế xã hội”
[Trích theo, 47, tr.126].
Lý thuyết tập hợp vai trò, Merton đã đặt ra một loạt vấn đề nghiên cứu quan
trọng trong xã hội học, như: tìm hiểu sự tác động của cấu trúc xã hội với việc hình
thành tập hợp vai trò; xem xét cách thực hiện tập hợp vai trò để đảm bảo tính cân
bằng, ổn định cũng như để giải quyết những mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra giữa
các vai trò.
Lý thuyết tập hợp vai trò của Merton để chỉ một cấu trúc gồm các vai trò và
các quan hệ của chúng mà cá nhân thực hiện khi nắm giữ một vị thế nhất định. Lý
thuyết cũng chỉ ra, tập hợp vai trò liên quan trực tiếp tới chức năng; chức năng
chính là vai trò mà hành vi cá nhân hay thiết chế xã hội đảm nhận, thực hiện. Do
vậy, trong xem xét gia đình với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh, gồm nhiều bộ
phận có quan hệ với nhau, mỗi bộ phận thực hiện chức năng (vai trò) nhất định.
Gia đình như một cái đồng hồ, nếu kim đồng hồ không thực hiện đúng vai trò của
mình, thì đồng hồ hay gia đình sẽ bị rối loạn, không phát triển theo tuần tự. Kết
cấu, mối quan hệ trong gia đình có bền chặt, gia đình mới vững chắc, mới thực
hiện tốt vai trò của mình đối với xã hội, với các thành viên. Trên cơ sở này có thể
áp dụng lý thuyết trung gian của Robert K. Merton trong nghiên cứu vai trò của
gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên theo một số nội
dung chủ yếu sau:
Một là, các vai trò của gia đình. Gia đình có các vai trò cơ bản như: sản xuất, hỗ
trợ tâm lý tình cảm, tái sản xuất giống nòi, giáo dục, xã hội hoá. Mỗi vai trò của gia
đình, dòng họ đáp ứng những mong đợi nhất định của xã hội đối với gia đình, dòng
66
họ. Trong nghiên cứu, vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên, những mong đợi của xã hội với gia đình, dòng họ chính là việc gia đình,
dòng họ tái sản xuất ra nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp củng cố nền QPTD, xây
dựng và BVTQ; gia đình, dòng họ giáo dục, động viên, khuyến khích, định hướng cho
con cháu thấy được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với quê hương,
đất nước, sẵn sàng đăng ký, khám tuyển NVQS và lên đường nhập ngũ.
Hai là, quan hệ vai trò giữa gia đình và các bộ phận khác của xã hội. Điều này
này nhấn mạnh mối quan hệ vai trò giữa gia đình, dòng họ với các bộ phận khác nhau
trong xã hội. Cụ thể, trong quá trình gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên, mối quan hệ vai trò giữa gia đình, dòng họ với các
bộ phận trong xã hội chính là mối quan hệ giữa gia đình, dòng họ với cấp uỷ đảng,
chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương, với cán bộ thôn, tổ dân phố...
Sự phối kết hợp này sẽ giúp cho gia đình, dòng họ thực hiện tốt vai trò của mình đối
với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
Ba là, gia đình thực hiện vai trò đối với cá nhân. Chúng ta thấy rằng, thường
trong các gia đình, dòng họ bao gồm nhiều thành viên như ông bà, bố mẹ, con cái,
bác chú cô, các cháu. Mỗi thành viên trong gia đình, dòng họ có nhiều vai trò và
ứng với mỗi một vai trò là một vị thế nhất định. Trong nghiên cứu vai trò của gia
đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên chủ yếu được lý giải về
vai trò của bố mẹ với con cái, vai trò của bác chú cô với các cháu và vai trò của anh
chị em với nhau. Những vai trò này được thể hiện thông qua việc bố mẹ, chú bác cô
giáo dục, động viên, khuyến khích, chăm lo thanh niên thực hiện NVQS, từ lúc
thanh niên còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông đến quá trình đăng ký, khám
tuyển, rồi trúng tuyển và lên đường nhập ngũ ở các đơn vị quân đội.
Bốn là, mối liên hệ giữa cấu trúc gia đình và vai trò của gia đình. Có thể
thấy rằng, mối liên hệ giữa cấu trúc gia đình và vai trò của gia đình trong nghiên
cứu các gia đình có thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh
niên đang tại ngũ chính là mối quan hệ giữa quy mô của gia đình, cơ cấu xã hội
của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên. Mối quan hệ này là một trong những nội dung nghiên cứu chính yếu
của luận án.
67
2.3. QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC - PH.ĂNGGHEN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH,
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA VỀ GIA ĐÌNH, VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH
2.3.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh về gia
đình, vai trò của gia đình
2.3.1.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về gia đình
Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về gia đình được thể hiện rõ nhất trong
tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của
Ph.Ăngghen. Đây được coi là một trong những tác phẩm kinh điển chủ yếu nhất của
chủ nghĩa Mác. Tác phẩm này đã phân tích một cách khoa học sự phát triển của xã
hội loài người ở thời kỳ sớm nhất của nó, làm sáng tỏ quá trình tan rã của chế độ
công xã nguyên thuỷ và hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ tư hữu và nhà
nước, giải thích sự hình thành gia đình. Đặc biệt, khi giải thích về sự hình thành gia
đình, tác phẩm đã đề cập đến bốn kiểu loại gia đình và mỗi kiểu loại gia đình
thường đặc trưng cho một giai đoạn, một trình độ phát triển của lịch sử xã hội loài
người. Theo đó, dấu hiệu buổi đầu của thời đại văn minh được thể hiện ở gia đình
một vợ một chồng.
Cũng theo Ph.Ăngghen, gia đình là sản phẩm của lịch sử, với tư cách là tế bào
của xã hội, gia đình có tác động trực tiếp đến sự phát triển của xã hội. Ông khẳng định:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, suy cho cùng,
là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản
xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực
phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những
thứ đó; mặt khác, là sản xuất ra bản thân con người là sự truyền nòi
giống. Những trật tự xã hội, trong đó có những con người của một thời
đại nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại sản
xuất đó quyết định: một mặt do trình độ phát triển của lao động và mặt
khác do sự phát triển của gia đình [20, tr.44].
Với quan điểm trên Ph.Ăngghen cho rằng, gia đình có vai trò to lớn đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Thông qua chức năng kinh tế, gia đình sản xuất ra
của cải vật chất cho xã hội, giúp nuôi sống các thành viên và thúc đẩy xã hội loài
người phát triển. Kinh tế gia đình phát triển, không những nâng cao đời sống vật
68
chất cho mỗi thành viên gia đình mà còn phát triển các phẩm chất, nhân cách tốt
đẹp của các thành viên gia đình. Kinh tế gia đình phát triển sẽ thúc đẩy sự phồn
thịnh của đất nước, góp phần vào sự ổn định và phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, quan điểm của Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ, chức năng tái sản xuất
ra giống nòi sẽ giúp duy trì sự phát triển của gia đình, dòng họ, đảm bảo nguồn
nhân lực cho xã hội. Do vậy, sự phát triển của mỗi thành viên gia đình và sự tái tạo
ra con người có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ
đất nước.
2.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình, vai trò của gia đình
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, về đường lối cách mạng, phương
pháp cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần to lớn của Đảng ta và dân tộc ta.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về gia đình, vai trò của gia đình là
một trong những tư tưởng quan trọng, thể hiện ở những nội dung cơ bản:
Một là, gia đình là hạt nhân của xã hội, nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội tốt. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thảo luận
dự thảo luật hôn nhân và gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Rất quan tâm
đến gia đình là đúng, và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì
vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt. Tục ngữ ta có
câu “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn” [67, tr.523].
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, gia đình có vị thế xã hội rất quan trọng,
là yếu tố hạt nhân cấu thành xã hội. Gia đình và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, gia
đình tốt thì xã hội tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Muốn xây dựng xã hội tốt đẹp
phải xây dựng các gia đình tốt, ấm no, hạnh phúc.
Hai là, giáo dục gia đình rất quan trọng, một trong ba đỉnh của tam giác môi
trường giáo dục: Gia đình - Nhà trường - Xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương
đùm bọc lẫn nhau, cần cù sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua
mọi khó khăn, thử thách,… của mỗi con người Việt Nam được hình thành, phát
triển và được giữ gìn, vun đắp, phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam. Thông qua
69
giáo dục gia đình, các thế hệ được tiếp thu những tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân
tộc và nhân loại, hình thành cách thức ứng xử đúng mực cả ở bên trong và bên
ngoài gia đình. Gia đình là môi trường giáo dục đặc biệt quan trọng, nơi nuôi
dưỡng, giáo dục để hình thành nhân cách con người, nhân cách con người tốt hay
xấu đều do sự giáo dục trong gia đình. Các gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội
về thành viên của mình, có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp
cho xã hội những công dân có ích.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, giáo dục trong gia đình, giáo dục trong nhà
trường, giáo dục ngoài xã hội phải kết hợp chặt chẽ với nhau để đào luyện nên
những con người hữu ích. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành Giáo dục
tháng 6 năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ Đảng trong ngành Giáo
dục: “Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường,
chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho
việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy
nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn
toàn” [66, tr.394]. Người cũng chỉ rõ rằng, gia đình chủ động phối kết hợp với nhà
trường và xã hội trong giáo dục con em mình. Người viết: “Tôi cũng mong các gia
đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con
em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”; “Tôi
mong cha mẹ học trò hết sức giúp đỡ nhà trường trong việc giáo dục con em chúng ta cho có kết quả tốt đẹp” [66, tr.81,25].
Ba là, giáo dục trong gia đình là sự dạy bảo lẫn nhau; cha mẹ giữ vai trò
quyết định giáo dục trong gia đình. Giáo dục trong gia đình, theo Người là mỗi
người nhắc nhở, dạy bảo nhau, các cụ phụ lão thi đua, đốc thúc con cháu tham gia
mọi công việc, các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp đỡ người lớn, vợ chưa
biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo.
Bác Hồ cho rằng giáo dục gia đình không chỉ bó hẹp trong phạm vi từng gia
đình riêng lẻ mà phải mở rộng tác dụng ra làng xã và toàn xã hội, phải chăm lo đến
cả con cái những gia đình khác trong đại gia đình của dân tộc ta. Theo nghĩa mới thì
gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Những người cùng lao động trong một nhà máy,
trong một cơ quan, trong một hợp tác xã… đều phải đoàn kết và thương yêu nhau
70
như anh em trong một gia đình. Rộng rãi nữa là đồng bào cả nước đều là anh em
trong một gia đình. Đã là đại gia đình thì sự săn sóc, dạy dỗ cũng không chỉ nhằm
làm cho con cháu mình khỏe và ngoan mà phải cố gắng cho tất cả con cháu mình
Bốn là, để giáo dục trong gia đình được tốt thì gia đình phải là gia đình tốt. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh gia đình tốt là một gia đình trên thuận, dưới hòa, không thiên vị,
đồng thời có đời sống vật chất no đủ. “Về tinh thần, thì phải trên thuận, dưới hòa
ngoan và khỏe.
không thiên tư, thiên ái. Bỏ thói mẹ chồng hành hạ nàng dâu, dì ghẻ ghét bỏ con
chồng. Về vật chất, từ ăn mặc đến việc làm phải ăn đều, tiêu song, có kế hoạch, có ngăn nắp” [65, tr.100].
2.3.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về gia đình, vai trò của gia đình
Đảng, Nhà nước ta luôn xác định rõ và đề cao vai trò của gia đình trong sự
nghiệp cách mạng nói chung, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng; đồng thời có những chủ trương, chính sách chăm lo xây dựng gia đình và
phát huy vai trò của gia đình.
Trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước đều xác định rất rõ, gia đình là tế
bào của xã hội, môi trường xã hội quan trọng tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định, xây
dựng gia đình “thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng,
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [31, tr.77]. Chỉ thị số 49/CT-
TW, ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng gia đình thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng đã ghi rõ: “Gia đình là tế bào của
xã hội, nơi duy trì nòi giống,… bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp,
chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và
BVTQ” [29].
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chủ trương xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của
xã hội, là môi trường quan trọng trong giáo dục con người. Đại hội Đảng lần thứ X
chỉ rõ: “Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm
71
của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành,
nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người” [30, tr.104]. Đại hội Đảng lần thứ XI
xác định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần
giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam,
nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ” [31, tr.223]. Ngày 4/5/2001, Thủ tướng Chính phủ
ra Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg về Ngày gia đình Việt Nam: "Xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc". Quyết định cho thấy quyết tâm của
Chính phủ trong xây dựng và phát huy vai trò của gia đình trong chiến lược phát
triển đất nước giai đoạn mới.
Để xây dựng gia đình thực sự là tế bào của xã hội, ấm no, tiến bộ, hạnh phúc,
thực sự là môi trường quan trọng trong giáo dục con người, Nhà nước ta đã thể chế
hóa thành các luật: Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới,… Trong đó
quy định rất rõ mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình: cha mẹ với con cái,
con cái với cha mẹ,… Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2000 quy định rõ:
Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng
nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự,
truyền thống tốt đẹp của gia đình; cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục
con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập, được sống trong môi trường
gia đình đầm ấm, hoà thuận [12, tr.24-25].
Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo chất lượng con người khi được gia đình tái sản
xuất, Nghị quyết XI của Đảng xác định cần “Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ
sinh sản, sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp
phần nâng cao chất lượng dân số. Bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi
trường lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ” [31,
tr.231]. Tạo điều kiện cho các em được phát triển toàn diện, lớn lên trở thành những
công dân có ích, góp phần vào công cuộc dựng xây nước nhà.
Từ sự tổng hợp và phân tích trên đã cho thấy rõ quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về vị thế, vai trò
của gia đình, thể hiện ở những điểm chính sau: Một là, gia đình là hạt nhân, tế
bào của xã hội. Hai là, gia đình có vị thế xã hội rất quan trọng, là nền tảng, cái
72
gốc sâu bền của xã hội và đất nước, gia đình tốt thì xã hội tốt. Ba là, gia đình
giữ vai trò quan trọng trong hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con
người. Giáo dục gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đào luyện
nên những con người có đức tài để phụng sự đất nước. Bốn là, gia đình là địa
chỉ tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Các khái niệm gia đình, dòng họ, vai trò của gia đình, dòng họ và vai trò của gia
đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên đã được làm rõ về quan
niệm, nội dung, hình thức biểu hiện. Trong phân tích vai trò của gia đình, dòng họ đối
với việc thực hiện NVQS của thanh niên, luận án đã chỉ ra bốn nội dung và ba mô
hình tương tác giữa các yếu tố tác động, chi phối việc thực hiện NVQS của thanh
niên. Nội dung và mô hình tương tác giữa các yếu tố chi phối việc thực hiện NVQS
của thanh niên là khung lý thuyết phân tích, cơ sở lý luận để làm rõ trên thực tế vai
trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.
Ngoài ra, luận án cũng phân tích rõ hai lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu vai
trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
Gia đình, vấn đề gia đình là một nội dung được nghiên cứu trong học thuyết
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. C.Mác, Ph. Ăngghen, Hồ Chí Minh đã làm rõ
quá trình hình thành và phát triển của gia đình, nhấn mạnh vai trò của gia đình đối với
các cá nhân, với cộng đồng và xã hội, đưa ra những định hướng xây dựng gia đình
ấm no, hạnh phúc và phát huy vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và
BVTQ, Đảng, Nhà nước ta luôn luôn coi trọng xây dựng gia đình thực sự là một tế
bào của xã hội, phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng con người
Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức công dân cao, có tri thức và sức khỏe để
thực hiện trách nhiệm của người công dân đối với đất nước, sống có nghĩa tình và
nhân văn đối với cộng đồng. Trong đó, Đảng, Nhà nước ta cũng đã nhấn mạnh đến
vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng quân đội, xây dựng nền QPTD, trong
sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam.
73
Chương 3
THỰC TRẠNG, CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH,
DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA
THANH NIÊN HIỆN NAY
3.1. SƠ LƯỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Về địa lý, kinh tế - xã hội
Ứng Hoà nằm ở phía Nam thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp huyện Chương
Mỹ và huyện Thanh Oai, phía Đông giáp huyện Phú Xuyên, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp huyện Mỹ Đức; diện tích 183.72 km2; dân số 179.900 người
Huyện Ứng Hoà có 29
(năm 2009) [117].
đơn vị hành chính trực thuộc,
gồm thị trấn Vân Đình (nơi đặt
trụ sở Uỷ ban nhân dân huyện
Ứng Hoà) và 28 xã: Cao
Thành, Đại Cường, Đại Hùng,
Đội Bình, Đông Lỗ, Đồng
Tiến, Đồng Tân, Hoa Sơn, Hoà
Lâm, Hoà Nam, Hoà Phú, Hoà
Xá, Hồng Quang, Kim Đường, Liên Bạt, Lưu Hoàng, Minh Đức, Phù Lưu, Phương
Tú, Quảng Phú Cầu, Sơn Công, Tảo Dương Văn, Trầm Lộng, Trung Tú, Trường
Thịnh, Vạn Thái, Viên An, Viên Nội [117].
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, huyện Ứng
Hoà là địa phương dẫn đầu trong chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Hiện
nay, huyện là một trong những địa phương thuộc thành phố Hà Nội có những
chuyển biến tích cực về phát triển kinh tế - xã hội. Là một huyện nông nghiệp,
nhưng với quyết tâm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, kết hợp nâng cao hiệu quả sản xuất
nông nghiệp với khôi phục ngành nghề thủ công truyền thống và phát triển nghề
74
năm 2011) [112].
mới, năm 2012 GDP của huyện Ứng Hoà đạt trên 1.272 tỷ đồng (tăng 9,0% so với
Những thành tựu đạt được của huyện Ứng Hoà trong những năm vừa qua:
Về nông nghiệp, Ứng Hoà phát triển mô hình nông nghiệp giá trị kinh tế cao
trên cơ sở phát huy tốt nhất hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Huyện đẩy mạnh
chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng theo mô hình chuyên canh, đa canh, nuôi thuỷ
sản, công tác dồn điền đổi thửa hoàn thành với 138/138 thôn giao ruộng tại thực địa.
Năm 2012, kinh tế “nông nghiệp đạt 516,2 tỷ đồng (tăng 3,0%), giá trị bình quân
trên một hécta đất nông nghiệp đạt 94 triệu đồng. Thu nhập bình quân từ những mô
hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp đạt 1,332 tỷ đồng/trang trại” [112].
Về công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong toàn
huyện Ứng Hoà luôn tăng theo chiều hướng năm sau cao hơn năm trước. Sáu tháng
đầu năm 2013, “Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ước đạt 198.632
triệu đồng (tăng 0,16% so với cùng kỳ)” [117]. Điểm nổi bật của huyện Ứng Hoà là
phát triển tiểu thủ công nghiệp thông qua 118/138 làng có nghề truyền thống như
làng may Trạch Xá thuộc xã Hoà Lâm, làng bún Bặt thuộc xã Liên Bạt, làng đàn
Đào Xá thuộc xã Đông Lỗ, làng nghề khảm trai Cao Xá thuộc xã Trung Tú và làng
nghề đan lát, trẻ tăm thuộc xã Quảng Phú Cầu. Thu nhập từ làng nghề từ 1,8 đến 2,5
triệu đồng/người/tháng [117].
Về thương mại - dịch vụ, du lịch, giá trị thương mại và dịch vụ của toàn huyện
luôn tăng trưởng đáng khích lệ. Tính đến sáu tháng đầu năm 2013, “giá trị thương
mại - dịch vụ ước đạt 277,8 tỷ đồng (tăng 1,2% so với cùng kỳ)” [117]. Để có được
tỷ lệ tăng trưởng này, huyện đã đầu tư để xây dựng và nâng cấp các chợ ở các xã.
Đặc biệt, tại thị trấn Vân Đình, huyện đầu tư xây dựng chợ đầu mối nông sản và
trung tâm thương mại. Bên cạnh đó, dựa trên hệ thống các danh thắng nổi tiếng:
Đình chùa Tử Dương, Đình Hoàng Xá, Đình Đông Lỗ, Đền Thái Bình, Đền Đức
Thánh Cả, khu Cháy với Bảo tàng và Tượng đài lịch sử lưu giữ nhiều hiện vật của
thời kháng chiến chống Pháp, khu lưu niệm Trần Đăng Ninh ở thôn Quảng Nguyên,
xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hoà. Những danh thắng này cho thấy, huyện có
nhiều tiềm năng về phát triển du lịch.
75
Về giáo dục, đào tạo, y tế của huyện có những bước phát triển vượt bậc, ngày
càng đáp ứng nhu cầu dạy, học và chăm sóc khoẻ của người dân. “Cuối năm 2013,
toàn huyện có 32 trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia (mầm non 7
trường, tiểu học 14 trường, THCS 11 trường). Cùng với giáo dục, công tác y tế,
chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng có nhiều chuyển biến tích cực, 100% số xã, thị
trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế,…” [117].
3.1.2. Về công tác quân sự, quốc phòng - an ninh và thực hiện nghĩa vụ
quân sự
Huyện Ứng Hoà là một trong những địa bàn có vị trí trọng yếu của vành đai,
áo giáp bảo vệ cho Thủ đô Hà Nội. Huyện án ngữ một phần rộng lớn ở địa đầu Thủ
đô, từ tuyến sông Đáy đến quốc lộ 1. Trước đây, với địa lý vùng trũng ở đông - nam
huyện, Ứng Hoà đã ngăn cản sự cơ động của giặc Pháp xâm lược. Trong những
năm kháng chiến (1946 - 1954), vùng đông - nam Ứng Hoà là khu căn cứ, nơi tập
kết của bộ đội, du kích. Phía tây huyện, dải đất ven sông Đáy như một phòng tuyến
ngăn chặn địch xâm nhập từ hướng Hoà Bình qua Mỹ Đức vào trung tâm Hà Nội.
Ngày nay, trong chiến lược xây dựng thế trận QPTD, an ninh nhân dân, Ứng Hoà
vẫn là một trong những khu vực phòng thủ chủ yếu bảo vệ nội đô Hà Nội.
Trong công tác thực hiện NVQS, phát huy truyền thống chống thực dân Pháp
xâm lược, quê hương của “Chiếc gậy Trường Sơn”, cùng với sự quan tâm chỉ đạo
thường xuyên của Huyện uỷ, Uỷ ban Nhân dân huyện và Ban chỉ huy quân sự huyện,
Ứng Hoà luôn là một trong những địa phương dẫn đầu của thành phố Hà Nội. Đặc biệt,
trong số các thanh niên được chọn nhập ngũ, có rất nhiều thanh niên có trình độ cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp và phần lớn viết thư tình nguyện tòng quân, sẵn sàng tu
dưỡng, rèn luyện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đợt giao nhận quân năm
2013, trong số 205 tân binh được Ban chỉ huy quân sự huyện giao cho các đơn vị:
Quân chủng Phòng không - Không quân; Quân khu 3; Quân đoàn 2; Sư đoàn 301/Bộ
Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Đoàn Nghi lễ 781 “có 160 thanh niên viết đơn tình nguyện
lên đường nhập ngũ; 11 thanh niên đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và 4 thanh niên có giấy báo trúng tuyển cao đẳng,…, đặc biệt có tân
binh Nguyễn Văn Thắng ở Đại Hùng đã đỗ Đại học vẫn quyết tâm gác bút nghiên lên
đường thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc” [117].
76
Tại xã Đại Cường, xã Quảng Phú Cầu và thị trấn Vân Đình, công tác quân sự
luôn được đề cao và được thực hiện đúng theo kế hoạch; công tác an ninh chính trị
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định, kịp thời giải quyết các mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân, không để xảy ra các hiện tượng xã hội phức tạp. Trong tổ chức thực
hiện NVQS, xã Đại Cường thường xuyên “tổ chức, rà soát, quản lý thanh niên trong
độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ, tiến hành các bước sơ tuyển, khám tuyển, hoàn thành
100% chỉ tiêu giao quân năm 2011” [97]; xã Quảng Phú Cầu, đợt giao quân lần 2
năm 2012, “địa phương đã tập trung tổ chức khám tuyển quân, toàn xã có 12 thanh
niên đủ điều kiện lên đường nhập ngũ, hoàn thành chỉ tiêu trên giao. Xử lý hành
chính đối với 3 trường hợp chống khám tuyển NVQS” [98]; thị trấn Vân Đình, đợt
giao quân lần 2 năm 2011 “đã tuyển chọn và giao quân được 9 nam thanh niên có đủ
điều kiện sức khoẻ, phẩm chất đạo đức, chính trị. Hoàn thành 100% chỉ tiêu huyện
giao” [4].
Nhìn chung, công tác quân sự, quốc phòng, an ninh và thực hiện NVQS của
huyện Ứng Hòa luôn được coi trọng, thực hiện tốt; thường xuyên là một địa phương
có tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tốt, nền QPTD được củng cố,
khu vực phòng thủ được tăng cường, công tác tuyển quân đủ số lượng với chất
lượng cao.
3.2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, gia đình, dòng họ luôn
giữ một vị trí, vai trò quan trọng, mang ý nghĩa quyết định sự được mất, hưng vong của
một thể chế, triều đại.
Bước vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, tiến hành
chiến tranh biên giới BVTQ, gia đình, dòng họ vẫn luôn là một trong những nhân tố
quan trọng góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn. Trong chiến tranh khốc liệt, gia
đình, dòng họ không những đóng góp những người con ưu tú của mình cho đất
nước mà còn sẵn sàng đóng góp tất cả gia sản cho cách mạng, một lòng một dạ đi
theo Đảng và Bác Hồ.
Những đóng góp vô giá về con người, vật chất và tinh thần của gia đình, dòng
họ trong sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm, BVTQ được bố, mẹ của thanh
77
niên và thanh niên đánh giá rất cao. Với bốn mức độ được đưa ra để đánh giá những
đóng góp về con người, vật chất và tinh thần của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc và trong BVTQ hiện nay, người được hỏi trả
lời như sau: Đóng góp về người: rất quan trọng - 75,0%, quan trọng - 20,8%, không
quan trọng - 1,4%, khó đánh giá - 2,8%; Đóng góp về vật chất: rất quan trọng -
55,3%, quan trọng - 29,8%, không quan trọng - 5,6%, khó đánh giá - 9,4%; Đóng góp
về tinh thần: rất quan trọng - 68,3%, quan trọng - 26,6%, không quan trọng - 2,4%,
khó đánh giá - 5,7% (Biểu 3.1).
Biểu 3.1: Đóng góp của gia đình, dòng họ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm
của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ (với N = 789).
80
75
68,3
55,3
60
40
29,8
23,6
20,8
20
9,4
5,7
5,6
2,8
2,4
1,4
0
Rất quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
Khó đánh giá
Đóng góp về con người
Đóng góp về vật chất
Đóng góp về tinh thần
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 3].
Đơn vị: %
Đánh giá về vai trò của gia đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện
NVQS, BVTQ, bố mẹ của thanh niên và thanh niên tại ngũ cũng khẳng định: vai trò
của gia đình: rất quan trọng - 64,1%, quan trọng - 30,9%, không quan trọng - 1,1%,
khó đánh giá - 3,8%; vai trò của dòng họ: rất quan trọng - 49,6%, quan trọng -
33,7%, không quan trọng - 4,9%, khó đánh giá - 11,8%. Ở mức quan trọng, gia
đình, dòng họ được đánh giá cao hơn so với hệ thống chính trị ở cơ sở, nhà trường,
các tổ chức đoàn thể ở địa phương, truyền thông đại chúng và bạn bè của thanh
niên. Trong đó, vai trò của bạn bè thanh niên ở mức thấp nhất 21,0%. Với mức độ
khó đánh giá, vai trò của truyền thông đại chúng được cho rằng khó đánh giá nhất
(17,9%); vai trò của gia đình, dòng họ dễ đánh giá nhất, mức độ khó 3,8% (Bảng
3.1). Kết quả đó cho thấy rằng, ở làng xã (cấp cơ sở), việc nhìn nhận, đánh giá vai
78
trò của gia đình, dòng họ đối với thực hiện NVQS của thanh niên thuận lợi hơn, cho
độ tin cậy cao. Đồng thời, khẳng định rõ vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên.
Bảng 3.1: Vai trò của các tổ chức, lực lượng đối với thanh niên trong thực
hiện NVQS, BVTQ (với N = 789)
Đơn vị: %
Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên
1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè của thanh niên
Rất quan trọng 48,2 40,9 39,2 64,1 49,6 30,5 21,1
Mức độ đánh giá Quan trọng 34,1 46,8 48,9 30,9 33,7 48,3 57,5
Không quan trọng 4,1 2,3 1,5 1,2 4,9 3,3 6,6
Khó đánh giá 13,6 10,0 10,4 3,8 11,8 17,9 14,8
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 4].
3.2.1. Vai trò giáo dục, tuyên truyền nghĩa vụ quân sự cho thanh niên
chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ
NVQS là quy định bắt buộc đối với nhiều quốc gia và thực hiện NVQS sẽ góp
phần vào sự nghiệp xây dựng, ổn định và phát triển đất nước của mỗi nước. Ở Việt
Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và thời kỳ xây dựng, BVTQ, NVQS
đều được cụ thể hoá trong các điều luật và văn bản pháp luật của Nhà nước. Dù rất
quan trọng và được quy định rõ ràng, nhưng NVQS không phải lúc nào cũng được
thanh niên chú tâm tìm hiểu. Thực tế điều tra cho biết, trong các nhóm khảo sát, chỉ
có 11,6% bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS, 11,5% bố mẹ của thanh niên
không trúng tuyển NVQS và chính nhóm thanh niên đang tại ngũ cũng chỉ có
19,2% trả lời: trước khi đến tuổi đăng ký, khám tuyển và nhập ngũ, thanh niên có
tìm hiểu về NVQS [Phụ lục, Bảng 5]. Từ kết quả điều tra cho thấy, sự thụ động của
thanh niên trong tìm hiểu pháp luật, nhất là những điều luật liên quan đến quyền lợi
và nghĩa vụ của thanh niên; và cũng cho thấy rằng, nhận thức của thanh niên về
NVQS là do có sự tác động từ các tổ chức, các lực lượng. Vì thế, cần phải có chế tài
phù hợp nhằm phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng và tích cực tổ chức
79
các hoạt động nhằm kích thích, tạo điều kiện cho thanh niên tìm hiểu về NVQS, để
họ có nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ BVTQ.
Trong thời gian vừa qua, các tổ chức, các lực lượng đã chủ động thực hiện
công tác tuyên truyền NVQS cho thanh niên theo chức năng, nhiệm vụ. Số liệu
khảo sát xã hội học bố mẹ của thanh niên nhập ngũ, bố mẹ của thanh niên không
nhập ngũ và thanh niên đang thực hiện NVQS ở đơn vị quân đội đều khẳng định gia
đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng có đóng góp vào việc giáo dục, tuyên
truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (Bảng 3.2).
Bảng 3.2: Đánh giá về sự tham gia của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực
lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
theo các nhóm khảo sát.
Tổng thể (N=789)
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Đơn vị: %
Gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng có tham gia giáo dục, tuyên truyền
71,7 62,6 53,0 48,5 49,0 20,7 46,9
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 77,3 56,6 49,5 51,0 52,0 18,2 42,9
Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 88,8 55,1 53,7 52,4 49,9 18,1 47,6
81,6 57,5 52,5 51,1 50,2 18,8 46,2
Gia đình Dòng họ Nhà trường Truyền thông đại chúng Hệ thống chính quyền cơ sở Bạn bè thanh niên Ban, ngành, đoàn thể địa phương Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 5].
Số liệu bảng 3.2 cho thấy: Một là, các tổ chức, lực lượng đã tham gia giáo dục,
tuyên truyền NVQS cho thanh niên; khẳng định sự vào cuộc của toàn xã hội chăm
lo cho công tác quân sự, quốc phòng, BVTQ. Hai là, mức độ đánh giá của bố mẹ
thanh niên trúng tuyển NVQS, bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS và
thanh niên đang tại ngũ về vai trò của gia đình, dòng họ và của các tổ chức, các lực
lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên khá tương đồng, độ chênh
lệch không cao, thể hiện tính “khách quan”, độ tin cậy của kết quả điều tra. Tỷ lệ
người trả lời tương ứng với gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng lần lượt ở
nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS, bố mẹ của thanh niên không trúng
tuyển NVQS và nhóm thanh niên đang tại ngũ, nhóm tổng thể: gia đình là 77,3%,
80
88,8% và 71,7%, 81,6%; dòng họ là 56,6%, 55,1% và 62,6%, 57,5%; hệ thống
chính quyền cơ sở là 52,0%, 49,9% và 49,0%, 50,2%; ban ngành, đoàn thể địa
phương là 42,9%, 47,6% và 46,9%, 46,2%... Ba là, khẳng định vai trò quan trọng,
vượt trội của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên
so với các tổ chức, lực lượng khác. Trong đó, tỷ lệ đánh giá vai trò của gia đình cao
nhất (bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS là 77,3% và
88,8%), tiếp sau là dòng họ (bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển
NVQS là 56,6% và 55,1%). Bốn là, có một vài tỷ lệ phản ánh mức độ khác biệt về
vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS của gia đình, dòng họ cho thanh niên: Bố mẹ
của thanh niên không trúng tuyển NVQS đánh giá vai trò của gia đình cao hơn bố
mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và so với thanh niên tại ngũ cũng cao hơn;
thanh niên đang tại ngũ lại có đánh giá vai trò của dòng họ cao hơn đánh giá của bố
mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS.
Khảo sát các mẫu đối tượng với câu hỏi giả định: Khi thanh niên đến tuổi
nhập ngũ, đi đăng ký khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS, ông bà có cảm nhận gì?
Có tới 91,1% bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS, 79,3% bố mẹ của
thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ là 80,8% trả lời, gia đình
sẽ cảm thấy phấn khởi, tự hào khi thanh niên đến tuổi trưởng thành, đi đăng ký
khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS; có tỷ lệ trả lời tương ứng khá cao về phương án
thanh niên đến tuổi trưởng thành, nhập ngũ sẽ là cơ hội để rèn luyện: 75,3%, 60,6%
và 63,1%. Ngược lại, có tỷ lệ rất ít người được hỏi cho rằng, con em đến tuổi nhập
ngũ và trúng tuyển NVQS, gia đình sẽ băn khoăn, lo lắng và gia đình muốn con em
được miễn, hoãn. Tỷ lệ trả lời ở bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS, bố mẹ thanh
niên không trúng tuyển NVQS so với thanh niên đang tại ngũ cho hai phương án
này là: 14,1% và 7,1%, 20,6% và 13,2% so với 11,6% và 5,6% [Biểu 3.2]. Kết quả
điều tra củng cố thêm khẳng định vai trò quan trọng, vượt trội của gia đình, dòng họ
trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên.
81
Biểu 3.2: Cảm nhận của gia đình khi thanh niên đến tuổi nhập ngũ, đi đăng ký
khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS. Đơn vị: %
91.1
80.8
79.3
75.3
63.1
60.6
20.6
14.1
13.2
11.6
7.1
5.6
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Phấn khởi, tự hào Băn khoăn, lo lắng Cơ hội để thanh niên
rèn luyện
Muốn con em được miễn, hoãn
Bố mẹ thanh niên nhập ngũ
Thanh niên đang tại ngũ
Bố mẹ thanh niên không nhập ngũ
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 6].
Biểu 3.2 cho thấy, gia đình giữ vai trò quan trọng trong giáo dục, tuyên truyền
cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ về NVQS, BVTQ. Gia đình sẽ luôn cảm
thấy vinh dự, phấn khởi, tự hào khi con cháu trong gia đình, dòng họ đăng ký khám
tuyển, trúng tuyển NVQS.
Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
của gia đình, dòng họ được thể hiện thông qua một số hoạt động (Mô hình 3.1).
Mô hình 3.1: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên
Hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS
truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (tỷ lệ %, N = 789).
Gia đình
Dòng họ
68,2
49,8
65,1
49,9
48,5
(4)
(1)
(5)
(2)
(3)
Thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 7].
ngoại xâm, BVTQ cho con em; (2) - Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy
Ghi chú: (1) - Gia đình kể chuyện chiến đấu, chuyện về truyền thống chống giặc
82
ước của dòng họ về NVQS, BVTQ; (3) - Gia đình định hướng con em theo nghề quân
đội; (4) - Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ
quốc khi đến tuổi trưởng thành; (5) - Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện
NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của dòng họ.
Theo mô hình 3.1, những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục,
tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ không phải lúc nào
cũng được bố mẹ hay bản thân thanh niên trả lời với đa số. Trong tổng số 789 người
được điều tra, chỉ có hoạt động (4) và (5) mà gia đình, dòng họ dùng để giáo dục,
tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ có tỷ lệ người trả lời có
là 68,2% và 65,1%, nhiều hơn so với tỷ lệ người trả lời không là 31,8% và 34,9%.
Các hoạt động còn lại, tuy có tỷ lệ người trả lời có: ở hoạt động (1) là 49,8%; hoạt
động (2) là 48,5%; hoạt động (3) là 49,9% thấp hơn một chút so với tỷ lệ người trả
lời không nhưng điều đó không có nghĩa gia đình, dòng họ không chú ý hoặc coi
nhẹ những hoạt động này. Vì số liệu điều tra nhóm tổng thể cũng cho biết, chỉ có
185 người, chiếm 23,4% người được hỏi nói rằng, gia đình, dòng họ để con cháu tự
tìm hiểu về NVQS, BVTQ [Phụ lục, Bảng 7]. Gia đình, dòng họ luôn quan tâm, coi
trọng giáo dục, tuyên truyền cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ về NVQS,
quyền và nghĩa vụ BVTQ.
Tìm hiểu về các hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, nhưng được phân tách trên từng
nhóm đối tượng khảo sát, thấy rằng: Hoạt động (4), (5) vẫn được gia đình, dòng họ
thực hiện nhiều nhất, bởi tỷ lệ trả lời cho hai hoạt động này trong cả ba nhóm đối
tượng khảo sát, cao nhất là 71,5%, thấp nhất cũng là 61,6% và cao hơn tỷ lệ trả lời ở
các hoạt động khác (Bảng 3.3).
83
Bảng 3.3: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo các nhóm khảo sát.
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Đơn vị: %
Những hoạt động giáo dục, tuyên truyền của gia đình, dòng họ
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 43,4
Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 55,5
45,0
43,9
46,9
54,2
51,5
48,0
50,1
64,1
65,7
71,5
61,6
60,6
69,2
(1) Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em (2) Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ (3) Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội (4) Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành (5) Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 7].
Bảng 3.3 cho thấy, trong ba hoạt động (1), (2) và (3) gia đình, dòng họ thực hiện
giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ có sự khác nhau
về tỷ lệ trả lời ở các nhóm khảo sát. Nhóm tổng thể, tỷ lệ trả lời cho ba hoạt động này
chỉ xấp xỉ 50,0% [Mô hình 3.1]; bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS tỷ lệ trả lời
cao nhất chỉ là 48,0%; bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS đều có tỷ lệ
trả lời trên 50,0%, đó là: hoạt động (1) là 55,5%, hoạt động (2) là 54,2% và hoạt động
(3) là 50,1%; ở nhóm thanh niên đang tại ngũ, chỉ có hoạt động (3) có tỷ lệ trả lời
51,5%, còn tỷ lệ trả lời ở hoạt động (1) là 45,0% và hoạt động (2) là 43,9%. Tuy tỷ lệ
trả lời ở các nhóm cho các hoạt động (1), (2) và (3) chênh nhau không quá xa, nhưng
ít nhiều cho thấy bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS có sự quan tâm, chú
trọng hơn, nhất là ở hoạt động gia đình kể những mẩu chuyện chiến đấu, chống giặc
ngoại xâm, BVTQ cho con em. Ở hoạt động này, nếu bố mẹ của thanh niên không
trúng tuyển NVQS trả lời 55,5%, thì bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS chỉ trả
lời 43,4% và với thanh niên đang tại ngũ cũng chỉ là 45,0%.
84
Về vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập
ngũ của gia đình, dòng họ, bố của một thanh niên cho biết:
Con tôi, ngay từ khi còn nhỏ tôi thỉnh thoảng kể cho em nó nghe chuyện
thế hệ chúng tôi trước kia hào hứng đi nhập ngũ ra sao. Nhất là những
mẩu chuyện tôi cùng đồng đội tham gia chiến đấu, với những tấm gương
hy sinh anh dũng, chiến đấu ngoan cường, nhiều người bị thương nhưng
nhất định không chịu rời vị trí về tuyến sau. Em nó rất thích nghe tôi kể,
nhiều lúc còn bắt tôi kể lại và tôi cũng không biết những câu chuyện có
tác động như thế nào với em nhưng khi em nó đến tuổi nhập ngũ em nó
rất vui và sẵn sàng ngay (PVS: Nam, 57 tuổi, từng tham gia kháng chiến
chống Mỹ, xã Quảng Phú Cầu).
Những tư liệu, số liệu trình bầy ở trên cho thấy: Thứ nhất, công tác giáo
dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên là một hoạt động trọng điểm, được tiến
hành thường xuyên trong quá trình thực hiện nhà nước pháp quyền, xây dựng
nền QPTD, BVTQ ở địa phương cơ sở. Thứ hai, các tổ chức, các lực lượng ở địa
phương cơ sở đã tham gia giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên theo
chức năng, nhiệm vụ. Thứ ba, gia đình, dòng họ giữ vai trò quan trọng, nổi trội
so với các tổ chức, các lực lượng trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh
niên. Thứ tư, nội dung giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên của gia
đình, dòng họ khá rộng: truyền đạt nội dung cơ bản của luật NVQS, tuyên truyền
truyền thống chống giặc ngoại xâm của gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước,
giáo dục ý thức BVTQ. Trong đó, có những nội dung nổi trội như: việc dạy bảo
con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành,
giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ là tiếp nối truyền thống, kỷ
cương của gia đình, dòng họ. Thứ năm, hình thức giáo dục, tuyên truyền NVQS
cho thanh niên của gia đình, dòng họ khá đa dạng, phù hợp với tính chất và nền
nếp sinh hoạt của gia đình, dòng họ. Đối với gia đình: kể chuyện truyền thống,
trao đổi để nhắc nhớ về NVQS,…; đối với dòng họ: sinh hoạt dòng họ, gặp gỡ
trao đổi giữa bác chú cô trong dòng họ với con cháu là hình thức được sử dụng
nhiều hơn, có hiệu quả hơn.
85
3.2.2. Vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám
tuyển nghĩa vụ quân sự của gia đình, dòng họ
Trong các đợt tuyển quân, mọi thanh niên trong độ tuổi thực hiện NVQS đều
được Hội đồng quân sự địa phương gửi thông báo đăng ký, khám tuyển NVQS.
Tuy đây mới chỉ là khâu đoạn đăng ký, khám tuyển nhưng cũng gây không ít
những băn khoăn, tính toán không chỉ với những thanh niên vừa học xong trung
học phổ thông, vừa đủ tuổi gọi nhập ngũ, mà còn đối với cả những thanh niên đã
được gọi khám tuyển nhiều lần trước đó. Do vậy, trong công tác gọi thanh niên
nhập ngũ, bên cạnh việc phát huy vai trò giáo dục, động viên của các tổ chức, lực
lượng, còn cần phải phát huy vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng
ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ.
Vai trò của các tổ chức, lực lượng và gia đình, dòng họ trong giáo dục, động
viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS được chính những thanh niên
đang thực hiện NVQS và bố mẹ của thanh niên khẳng định. Trong nhóm tổng thể
đối tượng được điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến, có rất nhiều người đồng ý với
phương án cho rằng, khi thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS rất cần sự
gặp gỡ, động viên của người thân trong gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng.
Trong ba nhóm đối tượng khảo sát, nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và
không trúng tuyển NVQS không có ai, so với nhóm thanh niên đang tại ngũ cũng
chỉ có 2,5% người được hỏi [Phụ lục, Bảng 8] nói rằng trong quá trình thanh niên đi
đăng ký, khám tuyển NVQS, không có ai gặp gỡ, động viên. Tỷ lệ phần trăm người
trả lời ở từng nhóm khảo sát về sự tham gia của gia đình, dòng họ và các tổ chức,
lực lượng trong giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS được
thể hiện trong bảng 3.4.
86
Bảng 3.4: Đánh giá của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng về sự tham gia
giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS theo nhóm đối tượng khảo sát.
Mẫu tổng thể (N=789)
Đơn vị: %
Đánh giá của gia đình, dòng họ và các tổ chức, lực lượng
Bố mẹ thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 49,6 78,6
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 40,9 74,2
Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 48,0 76,8
47,0 77,1
74,8
65,7
70,2
71,4
81,2 77,1 63,6 67,9 55,7 83,5 43,3
79,3 72,2 65,2 69,7 61,6 88,9 44,9
80,4 72,8 64,9 69,1 57,9 84,2 44,0
79,8 64,6 67,2 70,7 58,6 80,8 44,4
Chủ tịch, phó chủ tịch xã Chỉ huy trưởng, chỉ huy phó quân sự xã Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn Trưởng thôn Đoàn thanh niên Hội phụ nữ Hội cựu chiến binh Người thân trong dòng họ Người thân trong gia đình Bạn bè của thanh niên Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 8].
Số liệu bảng 3.4 cho thấy, trong quá trình đăng ký, khám tuyển NVQS của
thanh niên, hầu hết các tổ chức, lực lượng được người điều tra trả lời là có tham gia
giáo dục, động viên, song ở các mức độ khác nhau. Trong đó, sự tham gia của người
thân trong gia đình có tỷ lệ đánh giá cao nhất (80,8% và 83,5% ở nhóm bố mẹ của
thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS), sau đó đến sự tham gia của
trưởng thôn (79,8% và 81,2% ở nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không
trúng tuyển NVQS); sự tham gia của chỉ huy trưởng, chỉ huy phó quân sự xã, bí thư
đảng ủy, phó bí thư đảng ủy, đảng viên chi bộ thôn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội
cựu chiến binh có tỷ lệ đánh giá khá cao; sự tham gia của chủ tịch, phó chủ tịch xã và
bạn bè của thanh niên có tỷ lệ đánh giá thấp (40,9%, 44,4% và 49,6%, 43,3% ở nhóm
bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS). Đáng chú ý, sự tham gia
của người thân trong dòng họ có tỷ lệ đánh giá khá thấp (58,6% và 55,7% ở nhóm bố
mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS).
Một thanh niên trúng tuyển NVQS ở thị trấn Vân Đình trả lời phỏng vấn về vai
trò của gia đình trong giáo dục, động viên đăng ký, khám tuyển NVQS như sau:
87
Học xong trung học phổ thông tháng 5 thì tháng 7 là em đi đăng ký,
khám tuyển NVQS. Lúc đầu em cũng thấy lo lắng đấy, nhưng rất may gia
đình em, nhất là bố em đã truyền dạy cho em về nghĩa vụ phải thực hiện
với Tổ quốc và có trúng tuyển thì quân đội cũng là môi trường tốt để rèn
luyện con người. Còn mẹ em luôn gần gũi động viên, an ủi nên em cảm
thấy vững tin khi ra thị trấn đăng ký, khám tuyển NVQS (PVS: Nam, 18
tuổi, thị trấn Vân Đình).
Với các tổ chức, lực lượng tham gia giáo dục, động viên thanh niên đăng ký,
khám tuyển NVQS, giữa các nhóm khảo sát, hầu hết đều có tỷ lệ người trả lời cao
và khá cao. Ví như, trưởng thôn: 79,8% với nhóm bố mẹ thanh niên trúng tuyển
NVQS, 81,2% với nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS, so với
80,4% và 79,3% của nhóm tổng thể và nhóm thanh niên đang tại ngũ; chỉ huy
trưởng, chỉ huy phó quân sự xã: 74,2% với nhóm bố mẹ thanh niên trúng tuyển
NVQS, 78,6% với nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS, so với
77,1% và 76,8% của nhóm tổng thể và nhóm thanh niên đang tại ngũ; hội phụ nữ:
67,2% với nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS, 63,6% với nhóm bố mẹ
của thanh niên không trúng tuyển NVQS, so với 65,2% và 64,9% của nhóm thanh
niên đang tại ngũ và nhóm tổng thể. Tỷ lệ người trả lời về sự tham gia giáo dục
động viên của các tổ chức, lực lượng nêu trên còn cao hơn tỷ lệ người trả lời về sự
tham gia giáo dục, động viên của những người thân trong dòng họ: 58,6% với nhóm
bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS; 55,7% với nhóm bố mẹ của thanh niên
không trúng tuyển NVQS; so với 57,9% và 61,6% của nhóm tổng thể và nhóm
thanh niên đang tại ngũ.
Kết quả điều tra cho thấy tính hợp lý của người được điều tra, bởi vì trong
công tác gọi thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS, một số lực lượng, tổ chức
được Hội đồng tuyển quân, đứng đầu là Bí thư đảng uỷ kiêm chính trị viên Ban chỉ
huy quân sự xã giao nhiệm vụ tùy theo chức năng, nhiệm vụ. Cho nên, hoạt động
giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của Ban chỉ
huy quân sự xã, trưởng thôn, chi bộ thôn và đảng viên, các tổ chức chính trị - xã hội
(Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) được đề cao. Ban chỉ huy quân
sự xã có nhiệm vụ rà soát toàn bộ danh sách những thanh niên trong độ tuổi thực
88
hiện NVQS, báo cáo lên Hội đồng tuyển quân xã, viết giấy mời và tuyên truyền trên
hệ thống loa phát thanh xã thông báo về việc đăng ký, khám tuyển NVQS (danh
sách, thời gian, địa điểm, quy định của địa phương); trưởng thôn đưa giấy mời đến
từng gia đình có thanh niên trong độ tuổi đăng ký, khám tuyển NVQS và động viên,
tổ chức cho họ đăng ký, khám tuyển; cấp ủy đảng, đảng viên chi bộ thôn, đoàn
thanh niên, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh phối hợp cùng với ban quân sự xã,
trưởng thôn đến gặp gỡ để giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển,
nhất là các thanh niên còn đang băn khăn, lo lắng, có ý định trốn tránh NVQS.
Phỏng vấn sâu một trưởng thôn về vai trò của các tổ chức, lực lượng trong gặp
gỡ, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS, được biết:
Tôi ở trong Hội đồng tuyển quân của xã. Trong các đợt tuyển quân hàng
năm, sau khi lên danh sách và có giấy mời những thanh niên phải được
gọi đi đăng ký, khám tuyển NVQS, tôi được giao nhiệm vụ phối hợp với
ban quân sự xã và các ban, ngành, đoàn thể địa phương đến từng nhà
thanh niên. Tôi thường đưa giấy mời trực tiếp cho bố mẹ của thanh niên,
nhờ bố mẹ thanh niên nhắc nhở thanh niên, rồi hỏi thăm, nói chuyện,
động viên thanh niên đi khám tuyển đúng thời gian quy định. (PVS:
Nam, 59 tuổi, trưởng thôn, xã Đại Cường).
Trong giáo dục, động viên con cháu đi đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình,
dòng họ thực hiện nhiều hoạt động như: (1) Gia đình thường xuyên giáo dục, nhắc
nhở thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định; (2) Dòng
họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để
giáo dục, động viên; (3) Những người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên
thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; (4) Người thân trong gia đình động
viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS; (5) Dòng họ giáo dục
thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống,
kỷ cương của gia đình, dòng họ; (6) Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng
ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với
Tổ quốc (Bảng 3.5).
89
Bảng 3.5: Những hoạt động giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký,
khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo nhóm đối tượng khảo sát.
Mẫu tổng thể (N=789)
Đơn vị: %
Những hoạt động của gia đình, dòng họ
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 69,7
Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 83,5
Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 71,2
76,9
59,6
43,8
56,6
51,0
65,2
65,9
66,7
65,9
59,1
45,5
60,1
52,6
53,0
41,0
52,5
46,9
57,1
70,5
59,6
64,4
(1) Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định (2) Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên (3) Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS (4) Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS (5) Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ (6) Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 9].
Bảng 3.5 cho biết, trong quá trình thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS,
gia đình, dòng họ thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, nhưng có những hoạt
động được gia đình, dòng họ quan tâm, chú trọng hơn hay được các nhóm đối
tượng khảo sát đánh giá cao hơn. Điều này cũng được thể hiện rõ thông qua tỷ lệ
người được điều tra trả lời như hoạt động (1) có tỷ lệ đánh giá ở các nhóm khảo
sát cao nhất, trong đó nhóm bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS lại trả
lời với tỷ lệ lớn nhất, với 83,5%. Tỷ lệ này cao hơn khá nhiều so với đánh giá của
nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS là 69,7% và so với nhóm thanh
niên đang tại ngũ (71,2%) và nhóm tổng thể (76,9%) cũng cao hơn. Hoạt động (5)
lại có đánh giá ở các nhóm khảo sát thấp nhất, trong đó nhóm bố mẹ của thanh
niên trúng tuyển NVQS có tỷ lệ trả lời lớn nhất, với 53,0% so với 41,0% ở nhóm
90
bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS và 52,5%, 46,9% ở nhóm thanh
niên đang tại ngũ, nhóm tổng thể.
Song, dù còn có những tỷ lệ đánh giá khác nhau cho cùng một hoạt động hoặc
cho các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển
NVQS của gia đình, dòng họ nhưng điều này không có nghĩa gia đình, dòng họ
không coi trọng hay không muốn giáo dục, động viên con cháu. Trên thực tế, ở khâu
đoạn đăng ký, khám tuyển NVQS, hoạt động nào phù hợp hơn sẽ được gia đình, dòng
họ quan tâm, thực hiện nhiều hơn. Chẳng hạn, ở khâu đoạn này thì việc thường xuyên
nhắc nhở con, cháu đi đăng ký, khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định có ý
nghĩa trực tiếp, thiết thực hơn; còn việc giáo dục con cháu giữ gìn truyền thống, kỷ
cương là cả một quá trình lâu dài, từ khi con, cháu còn nhỏ, đang học phổ thông đến
khi con, cháu đủ tuổi đi đăng ký, khám tuyển NVQS, rồi trúng tuyển và chuẩn bị lên
đường nhập ngũ, làm nhiệm vụ ở đơn vị quân đội, cho nên được các nhóm đối tượng
đánh giá cao nhất và thấp nhất. Hay khi gia đình có con em trúng tuyển NVQS, bố
mẹ, bác chú cô trong họ sẽ tiếp tục động viên con cháu, nhằm giúp con cháu vơi bớt
những băn khoăn, lo lắng. Do đó, tỷ lệ đánh giá cho hoạt động (5) của nhóm bố mẹ
có con trúng tuyển NVQS cao hơn nhóm bố mẹ không có con trúng tuyển NVQS.
Tóm lại, dù trả lời với tỷ lệ cao hay thấp, song kết quả điều tra cũng đã cho
thấy bức tranh toàn cảnh, rõ ràng về sự tham gia của các tổ chức, các lực lượng và
của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển
NVQS. Sự phối kết hợp đồng bộ giữa các tổ chức, các lực lượng là một nền nếp
trong thực hiện giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS ở địa
phương cơ sở hiện nay. Chính sự vào cuộc của các tổ chức, các lực lượng trong hệ
thống chính trị ở cơ sở đã tạo môi trường xã hội, áp lực xã hội đối với gia đình,
dòng họ trong việc giáo dục, động viên con em đăng ký, khám tuyển NVQS. Kết
quả điều tra khẳng định tính thực tiễn khoa học của mô hình tác động của các yếu tố
đối với thực hiện NVQS của thanh niên: mô hình vòng tròn khép kín giữa hệ thống
chính trị ở cở sở với cộng đồng làng xã và gia đình, dòng họ (Mô hình 2.2, tr. 59).
Cũng như trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên, trong giáo dục,
động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình và dòng họ vẫn giữ vai
trò quan trọng, nổi trội. Gia đình vẫn là tổ chức, lực lượng quan trọng nhất trong
91
giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS. Kết quả điều tra cũng
chỉ ra rằng, trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên, gia đình và dòng họ
được đánh giá ở mức cao nhất; trong giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám
tuyển NVQS, vai trò của gia đình vẫn được đánh giá ở mức cao nhất, song vai trò
của dòng họ được đánh giá ở mức chưa cao. Như vậy, vai trò của gia đình, dòng họ
trong thực hiện NVQS của thanh niên có sự biến động theo nội dung, chỉ báo.
Có một vài hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển
NVQS của gia đình, dòng họ cũng đã được sử dụng trong giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên. Song, đã xuất hiện một số hoạt động phù hợp với việc giáo
dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS như: Dòng họ tổ chức gặp
mặt thanh niên trong dòng họ có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS và người trong
dòng họ đến từng gia đình thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để
giáo dục, động viên; Gia đình nhắc nhớ, động viên và trực tiếp đưa thanh niên khám
tuyển NVQS. Như vậy, vai trò của gia đình, của dòng họ đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên có sự phát triển phù hợp với từng giai đoạn của quá trình thực
hiện NVQS của thanh niên. Phương pháp tiếp cận hệ thống gia đình của Murray
Bowen đã chi rõ, sự phản ứng của gia đình với môi trường xã hội buộc hệ thống gia
đình phải luôn thay đổi và tự điều chỉnh để duy trì gia đình, để đáp ứng nhu cầu của
các thành viên trong gia đình cũng như thích ứng với môi trường xung quanh.
3.2.3. Vai trò giáo dục, động viên thanh niên lên đường thực hiện nghĩa vụ
quân sự khi có giấy gọi nhập ngũ của gia đình, dòng họ
Sau khi đăng ký, khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS và có lệnh gọi nhập ngũ,
không ít thanh niên vẫn cảm thấy hồi hộp, lo lắng, băn khoăn. Thanh niên hồi hộp,
lo lắng vì sự thay đổi môi trường sống, vì nỗi nhớ nhà, người thân trong gia đình,
nỗi nhớ bạn bè trong thời gian sắp tới. Thanh niên băn khoăn vì ít nhiều vẫn có suy
nghĩ, nhập ngũ sẽ lấy đi cơ hội được tiếp tục học lên cao đẳng, đại học và tiến thân
trong xã hội. Do vậy, sự động viên, khích lệ của những người thân trong gia đình,
dòng họ đối với thanh niên vẫn luôn hết sức cần thiết. Điều này không những giúp
thanh niên hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc, mà còn khẳng định
vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng nền QPTD, cho thấy sự gắn kết giữa
gia đình, dòng họ với đơn vị quân đội trong giáo dục, rèn luyện chiến sĩ mới.
92
Vai trò của gia đình, dòng họ được chứng minh qua khảo sát thực tế 396 bố mẹ
có con em trúng tuyển NVQS và thanh niên đang nhập ngũ ở đơn vị quân đội. Tỷ lệ
người trả lời về vai trò của những người thân trong gia đình và vai trò của trưởng họ,
chú bác cô trong dòng họ đối với con cháu có giấy gọi trúng tuyển NVQS, chuẩn bị
nhập ngũ ở nhóm bố mẹ có con em trúng tuyển NVQS là 73,2% và 63,1%; trong khi
ở nhóm bố mẹ có con em trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ là 82,1% và
68,9% và nhóm thanh niên đang tại ngũ là 90,9% và 74,7%. Vai trò này càng trở nên
quan trọng hơn khi so sánh với tỷ lệ trả lời thấp hơn rất nhiều về sự tham gia của các
bác cựu chiến binh, cụ già trong thôn và bạn bè cùng trang lứa với thanh niên chuẩn
bị nhập ngũ (Biểu 3.3).
Biểu 3.3: Gia đình, dòng họ và các tổ chức lực lượng tham gia giáo dục, động
viên thanh niên trúng tuyển NVQS.
Đơn vị: %
90,9
82,1
74,7
73,2
68,9
63,1
31,8
28,3 24,7
20,2
18,9 22,2
15,7 17,7
15,2
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Cựu chiến binh Cụ già trong
thôn
Bạn bè thanh niên
Người thân trong gia đình
Trưởng họ và bác chú cô trong họ
Bố mẹ thanh niên và thanh niên
Bố mẹ thanh niên trúng NVQS
Thanh niên đang tại ngũ
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 10].
Vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên con cháu lên đường
nhập ngũ khi có giấy gọi còn được thể hiện ở khía cạnh, gia đình luôn mong muốn
thanh niên trúng tuyển NVQS để làm nhiệm vụ BVTQ. Khi hỏi 393 người là bố mẹ
có con không trúng tuyển NVQS về lý do thanh niên không được lên đường nhập
ngũ, trong bảy lý do được đưa ra: thanh niên không đủ điều kiện về sức khoẻ; thanh
niên không đủ điều kiện về học vấn; điều kiện gia đình neo đơn, khó khăn; chỉ tiêu
tuyển quân ít; thanh niên đã có giấy gọi nhập học vào các trường cao đẳng, đại học;
93
thanh niên chưa muốn nhập ngũ; gia đình chưa muốn con em nhập ngũ. Lý do gia
đình chưa muốn con em nhập ngũ có tỷ lệ trả lời rất thấp, thấp nhất trong các lý do
nêu trên, với 7,1% [Phụ lục, Bảng 11]. Điều tra bằng phiếu đối với bố mẹ có con
không trúng tuyển NVQS với câu hỏi: Ông bà có muốn được lựa chọn việc thực
hiện NVQS của con em không? gần như toàn bộ 393 người được hỏi nói có muốn
lựa chọn, chỉ có 6 người nói không, chiếm 1,5% [Biểu 3.4]. Và trong ba lựa chọn
được đưa ra: muốn con em trúng tuyển NVQS; muốn con em ở nhà phụ giúp gia
đình; muốn con em tiếp tục đi học, tỷ lệ người trả lời cao nhất cho lựa chọn muốn
con em trúng tuyển NVQS, với 44,3% [Biểu 3.4].
Biểu 3.4: Lựa chọn của bố mẹ về việc thực hiện NVQS của con em (với N = 393).
1,5
34,6
44,3
19,6
Muốn con em trung tuyển NVQS
Muốn con em ở nhà
Muốn con em đi học
Không lựa chọn
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 13].
Đơn vị: %
Sự tham gia giáo dục, động viên của gia đình, dòng họ đối với thanh niên chuẩn
bị lên đường thực hiện NVQS khi có giấy gọi nhập ngũ được thể hiện trên nhiều
hoạt động khác nhau, như: (1) Gia đình tổ chức gặp mặt, mời đại diện cấp uỷ đảng,
chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú bác cô trong dòng họ, mời bạn bè của
thanh niên đến chia tay thanh niên; (2) Dòng họ tổ chức gặp mặt động viên, khích lệ
thanh niên để thanh niên thấy rõ việc thanh niên lên đường làm nhiệm vụ BVTQ
cũng là niềm vui, vinh dự, tự hào của gia đình và dòng họ; (3) Dòng họ phân công
người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS để thanh niên yên tâm lên
đường nhập ngũ; (4) Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên vơi bớt những khó
khăn, thiếu thốn và thích nghi tốt hơn với đời sống quân ngũ; (5) Người thân trong
gia đình cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội (Bảng 3.6).
94
Bảng 3.6: Những hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện đối với thanh niên
trúng tuyển NVQS và có giấy gọi nhập ngũ theo nhóm đối tượng khảo sát.
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Đơn vị: %
Những hoạt động của gia đình, dòng họ
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 95,5
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 97,0
98,5
57,6
74,7
66,2
30,3
31,3
30,8
22,2
25,8
24,0
17,7
22,2
19,9
(1) Gia đình tổ chức gặp mặt, chia tay thanh niên (2) Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên (3) Dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS (4) Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên (5) Người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 14].
Bảng 3.6 thấy rằng, khi thanh niên có giấy gọi thực hiện NVQS và chuẩn bị
lên đường nhập ngũ, đã có nhiều hoạt động được dòng họ thực hiện: Dòng họ tổ
chức gặp mặt thanh niên, thành phần bao gồm trưởng họ, ban gia tộc và các chú bác
cô và anh chị em. Trong buổi gặp mặt, thanh niên được trưởng họ, cùng ban gia tộc
khuyên răn về nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc, về việc chấp
hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, về truyền thống của dòng họ trong xây
dựng và BVTQ; Dòng họ phân công các chú bác cô, anh chị em đến động viên,
thăm hỏi thanh niên, giúp thanh niên có thêm tinh thần và nghị lực vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; Thay mặt dòng họ,
trưởng họ trao cho thanh niên vật phẩm như cây bút, quyển sổ và những hiện vật
nhỏ khác (đồng hồ, một chút tiền); Dòng họ cử người cùng gia đình tham gia lễ giao
quân cho đơn vị tiếp nhận. Chẳng hạn, tỷ lệ người được hỏi trả lời cho hoạt động (2)
và hoạt động (3) của dòng họ với thanh niên chuẩn bị lên đường nhập ngũ như sau:
nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS là 57,6% và 30,3%; còn ở nhóm
thanh niên tại ngũ, nhóm bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên tại
ngũ là 74,7% và 31,3%, 66,2% và 30,8%.
95
Ngoài ra, hoạt động của dòng họ với thanh niên chuẩn bị lên đường nhập ngũ
còn được chính bố mẹ có con trúng tuyển NVQS và những chiến sĩ đang tại ngũ trả
lời khi được hỏi: Các dòng họ có tham gia động viên, tổ chức cho thanh niên lên
đường nhập ngũ khi có giấy gọi không? Phần lớn người được hỏi ở nhóm bố mẹ của
thanh niên trúng tuyển NVQS (155/ 198 người, chiếm 78,3%) trả lời có, chỉ có 11,6%
trả lời không và 10,6% trả lời không rõ. Tỷ lệ trả lời ở nhóm thanh niên đang tại ngũ
cũng cao ở đánh giá có, với 79,9% và rất thấp ở đánh giá không, không rõ, với 5,6%,
14,1% [Phụ lục, Bảng 15].
Bên cạnh đó, dòng họ với vai trò chủ yếu của trưởng họ có chi phối không nhỏ
đến gia đình trong động viên thanh niên nhập ngũ. Trong tộc ước của một dòng họ
ở xã Quảng Phú Cầu ghi: “Tặng phẩm trai họ nhập ngũ BVTQ là niềm vinh dự của
gia đình và dòng họ. Hội đồng gia tộc tổ chức động viên tặng phẩm giá trị (bằng
hiện vật)” [100, tr.5]. Do đó, khi gia đình nào trong dòng họ có thanh niên được gọi
nhập ngũ, thay mặt dòng họ, trưởng họ cùng ban gia tộc có vai trò gặp gỡ, động
viên gia đình, khuyến khích, khích lệ con cháu phát huy truyền thống của dòng họ,
giữ uy tín cho dòng họ để hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với đất
nước. Đối với gia đình còn băn khoăn, lo lắng hoặc có ý định để con em trốn
NVQS, dòng họ có vai trò khuyên bảo, thậm chí răn đe, khai trừ ra khỏi dòng họ.
Trong dòng họ có người nhập ngũ thì dòng họ sẽ có một ban gia tộc
(khoảng 20 người) đến thăm hỏi động viên gia đình, động viên tặng quà là
cây bút và quyển sổ để khuyến khích con cháu mình. (PVS: Nam, Trưởng
dòng họ Đỗ, 51 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).
Về phía gia đình, với câu hỏi: Trước khi thanh niên lên đường nhập ngũ gia
đình tổ chức gặp mặt, chia tay không? có đến 384 trên tổng số 396 người được hỏi
là bố mẹ có con nhập ngũ và thanh niên đang tại ngũ trả lời có tổ chức gặp mặt, chia
tay, chiếm 97,0% và tỷ lệ trả lời ở nhóm thanh niên đang tại ngũ là 98,5%. Tỷ lệ trả
lời này cao hơn một chút so với nhóm bố mẹ có con nhập ngũ, với 95,5% [Bảng
3.6]. Trong gặp mặt, chia tay thanh niên lên đường nhập ngũ, gia đình mời đại diện
cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời những người thân trong trong
dòng họ và mời bạn bè thân thiết của thanh niên. Tỷ lệ trả lời tương ứng ở nhóm ở
nhóm bố mẹ có con nhập ngũ là 29,8%, 89,9% và 72,2%, so với tỷ lệ trả lời ở nhóm
96
thanh niên đang tại ngũ là 16,7%, 80,3% và 86,4% thì thấy rằng: cùng có đánh giá
cao cho phương án gia đình mời những người thân trong trong dòng họ và mời bạn
bè thân thiết của thanh niên và đánh giá thấp cho phương án gia đình mời đại diện
cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương [Phụ lục, Bảng 16]. Trong buổi gặp
mặt, chia tay thanh niên, hoà cùng với bữa cơm thân mật, ấm cúng là những lời
động viên, khuyên nhủ của cán bộ thôn xã, của chú bác cô, anh chị em trong họ, của
bạn bè thân thiết, nhất là của bố mẹ thanh niên. Những lời động viên, khuyên nhủ
đó đã tạo nên một bầu không khí đầm ấm, tiếp thêm nghị lực giúp thanh niên hoàn
thành mọi nhiệm vụ trong quá trình thực hiện NVQS. Một thanh niên trúng tuyển
nghĩa vụ quân sự ở địa bàn khảo sát hồ hởi nói:
Trước khi tôi lên đường nhập ngũ, dòng họ có tổ chức gặp mặt và gia
đình thì tổ chức liên hoan chia tay, việc làm này khiến tôi rất xúc động và
cảm thấy vinh dự, tự hào. Ngoài việc truyền động lực tinh thần lớn lao
cho tôi, tôi còn cảm thấy mình có trách nhiệm tiếp nối truyền thống của
dòng họ, gia đình để không phụ lòng những người thân yêu của tôi (PVS:
Nam, 18 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).
Như vậy, kết quả điều tra khảo sát cho thấy, khi thanh niên có giấy gọi nhập
ngũ, gia đình và dòng họ đã phát huy vai trò giáo dục, động viên con em nhập ngũ.
So với giáo dục và tuyên truyền NVQS, giáo dục và động viên thanh niên đăng ký,
khám tuyển NVQS, vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên con em
nhập ngũ được đẩy cao hơn, cụ thể, thiết thực hơn. Nó thể hiện ở các nội dung: đại
đa số gia đình, dòng họ mong muốn và kiên quyết cho con em lên đường nhập ngũ,
thực hiện NVQS, BVTQ; gia đình, dòng họ tạo mọi điều kiện thuận lợi để con em
nhập ngũ thực hiện NVQS.
Đối với những thanh niên trúng tuyển, có giấy gọi nhập ngũ, dòng họ đã có
những việc làm thiết thực, thể hiện tốt vai trò của mình đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên. Dòng họ không chỉ gặp gỡ, động viên thanh niên lên
đường nhập ngũ, mà còn phân công các thành viên trong dòng họ giúp đỡ gia
đình thanh niên, huy động vật chất để trao tặng cho thanh niên và cùng địa
phương, gia đình tổ chức đưa thanh niên đến địa điểm giao quân để bàn giao cho
các đơn vị quân đội nhận quân. Qua đó có thể thấy rằng, dòng họ đã thực hiện
97
vai trò “hậu phương” đối với những con em thực hiện NVQS, phục vụ trong các
đơn vị quân đội.
Khi con em có lệnh gọi nhập ngũ, gia đình động viên, tổ chức chia tay, đưa tiễn
đến địa diểm giao quân và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để con em nhanh chóng
thích nghi với môi trường quân sự, với những ngày đầu sống xa gia đình, không có sự
theo dõi và chăm sóc của bố mẹ. Thực tiễn cho thấy rằng, gia đình, bố mẹ và người
thân của những thanh niên có giấy gọi nhập ngũ đã thực sự là “điểm tựa” về tinh thần
và vật chất để thanh niên yên tâm lên đường thực hiện NVQS của mình.
Ở thời điểm thanh niên có giấy gọi nhập ngũ, cả hệ thống chính trị ở cơ sở, cộng
đồng làng xã dồn sức, trí, lực để động viên, tổ chức cho thanh niên nhập ngũ theo
đúng quy định pháp luật. Hoạt động của hệ thống chính trị, cộng đồng làng xã hội tụ
ở các gia đình có con em nhập ngũ và kết quả của hoạt động đó ở việc các gia đình
động viên con em thực hiện NVQS đúng theo lệnh gọi nhập ngũ. Ở thời điểm này,
gia đình, dòng họ giữ vai trò quan trọng, quyết định. Kết quả điều tra cho thấy, đại đa
số các gia đình đều động viên cho con em nhập ngũ, nhưng cũng có gia đình tìm mọi
cách để con em không phải nhập ngũ, cá biệt có gia đình tổ chức cho con em trốn
tránh không nhập ngũ. Vai trò của gia đình, dòng họ quy tụ vào vai trò của trưởng họ,
chủ gia đình, được thể hiện ở mối liên hệ giữa trưởng họ, chủ hộ và thanh niên có
giấy gọi nhập ngũ. Trưởng họ, chủ gia đình kiên quyết bắt con em nhập ngũ thì sẽ
không có thanh niên nào trốn tránh NVQS và ngược lại. Thực tiễn kết quả điều tra đã
khẳng định về sự tác động của các yếu tố đến vai trò của gia đình, dòng họ theo mô
hình vòng tròn khép kín giữa trưởng dòng họ, chủ hộ gia đình và thanh niên.
Mô hình các thành phần gia đình và mối quan hệ của chúng với toàn bộ hệ
thống của Murray Bowen đã chỉ ra các tương tác gia đình là trung tâm của hệ thống
(tr.62). Nó là quá trình tương tác giữa các thành viên gia đình để xác định các quy
tắc, thể hiện sự gắn kết, khả năng thích ứng và phong cách giao tiếp của gia đình,
nhằm phục vụ các thành viên gia đình và nhu cầu của toàn bộ gia đình. Quy tắc của
gia đình, dòng họ được hình thành thể hiện ở tộc ước, gia pháp và ở việc xác định vị
trí, vị thế của trưởng họ, chủ hộ gia đình. Trong các dòng họ, gia đình Việt Nam,
trưởng họ, chủ hộ gia đình giữ vai trò quyết định các nội dung hoạt động của dòng
họ, gia đình. Tính tôn ti nghiêm ngặt trong dòng họ, gia đình xác định uy quyền uy
98
thực của trưởng họ, chủ hộ gia đình trong việc động viên, tổ chức cho con em nhập
ngũ, thực hiện NVQS.
3.2.4. Vai trò động viên, chăm lo thanh niên trong thời gian thực hiện nghĩa vụ
quân sự ở các đơn vị quân đội của gia đình, dòng họ
Sau khi nhập ngũ, thực hiện NVQS ở các đơn vị quân đội, mỗi thanh niên được
sự quản lý, giáo dục, rèn luyện trực tiếp của cán bộ chỉ huy đơn vị và phải chấp hành
nghiêm chỉnh điều lệnh, điều lệ quân đội. Nhưng quân đội cũng không phải môi trường
tách biệt hoàn toàn với xã hội bên ngoài và mỗi thanh niên khoác trên mình màu xanh
áo lính vẫn có những mối quan hệ bên ngoài xã hội, vẫn có những nhu cầu hưởng thụ
cuộc sống và vẫn chịu những tác động của cơ chế thị trường. Sau khi nhập ngũ, nhiều
thanh niên còn có những tâm tư, suy nghĩ thiệt hơn nhất định. Cá biệt có thanh niên còn
luyến tiếc cuộc sống ngoài xã hội, ngại khó, ngại khổ, sợ sau một khoảng thời gian
trong quân ngũ, thanh niên bị lỡ cơ hội học hành hay tìm kiếm một công việc thích
hợp. Do vậy, thanh niên tại ngũ rất cần sự quan tâm, động viên, nhắc nhở của các tổ
chức, lực lượng, của gia đình và dòng họ, nhất là trong những ngày đầu nhập ngũ, bắt
đầu làm quen với cuộc sống của người lính để giúp họ yên tâm công tác.
Đối với gia đình, dòng họ có con cháu nhập ngũ, ít nhiều vẫn có những lo lắng
cho thanh niên. Dù quân đội là môi trường tốt để thanh niên rèn luyện cả về phẩm
chất đạo đức, sức khoẻ, lẫn lối sống, tác phong, nghị lực vượt khó nhưng thanh niên,
nhất là trong những ngày đầu mới làm quen môi trường sống mới, chắc chắn sẽ vấp
phải nhiều bỡ ngỡ. Bởi vì, thanh niên chưa kịp thích nghi với lối sống trong quân
ngũ, chưa quen nếp ăn, ngủ, sinh hoạt của người lính và sự rèn luyện trên thao
trường. Những khó khăn, vất vả đó dễ làm cho thanh niên suy sụp, chán nản vả nảy
sinh tư tưởng đào bỏ ngũ. Hiện tượng này không những ảnh hưởng đến sự nghiêm
minh của quân đội mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chính các gia đình. Do đó, việc
thanh niên thực hiện NVQS tại các đơn vị quân đội, bên cạnh niềm tự hào của gia đình
đình, dòng họ có con cháu đang làm nhiệm vụ BVTQ, còn là nỗi lo âu của những
người thân trong gia đình, dòng họ. Họ lo cho con cháu không hoàn thành được nhiệm
vụ của người lính. Tuy sự quan tâm, lo lắng đối với thanh niên đang tại ngũ được thể
hiện ở tất cả các thành viên của gia đình, song tỷ lệ người trả lời cho sự quan tâm, lo
lắng này là khác nhau. Trong các nhóm khảo sát, tỷ lệ trả lời cao nhất đều ứng với mẹ
99
của thanh niên, như: ở nhóm bố mẹ có con nhập ngũ là 47,0% và ở nhóm bố mẹ có con
nhập ngũ và thanh niên đang tại ngũ là 42,8%, ở nhóm thanh niên đang tại ngũ là
49,5%. Tiếp đến, tỷ lệ trả lời tương ứng với các nhóm khảo sát nêu trên: bố của thanh
niên là 30,3% và 32,1%, 33,8%; anh chị em của thanh niên là 12,1% và 10,6%, 9,1%;
ông của thanh niên là 6,1% và 4,5%, 3,0%; bà của thanh niên cùng là 4,5% (Biểu 3.5).
Biểu 3.5: Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình đối với thanh
niên đang tại ngũ.
Đơn vị: %
47 49,5 48,3
50
40
33,8
32,1
30,3
30
20
12,1
9,1 10,6
10
6,1
4,5 4,5 4,5
3 4,5
0
Mẹ
Bố
Anh chị em
Ông
Bà
Bố mẹ có con nhập ngũ
Thanh niên đang tại ngũ
Bố mẹ có con nhập ngũ và thanh niên tại ngũ
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 17].
Chính từ sự quan tâm, lo lắng của gia đình, dòng họ đối với thanh niên đang thực
hiện NVQS ở đơn vị quân đội, đòi hỏi gia đình, dòng họ phải có vai trò thiết thực để
đáp ứng những mong đợi của thanh niên và đơn vị nơi thanh niên đang rèn luyện.
Thực tế hiện nay, gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên tại ngũ thường
thông qua năm hoạt động chủ yếu: (1) Những người thân trong gia đình thường xuyên
viết thư, gọi điện thăm hỏi, động viên thanh niên yên tâm thực hiện NVQS; (2) Người
thân trong gia đình sợ thanh niên vất vả, không quen với đời sống quân ngũ nên nhờ
cậy người quan tâm giúp đỡ; (3) Người thân trong gia đình lo lắng thanh niên thiếu
thốn vật chất nên gửi tiền hoặc hiện vật cho thanh niên; (4) Người thân trong gia đình
đến đơn vị thăm hỏi để giáo dục, động viên thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ trong
thời gian tại ngũ; (5) Người thân trong dòng họ đến đơn vị thăm hỏi để giáo dục, động
viên thanh niên (Biểu 3.6). Những hoạt động này thể hiện vai trò to lớn của gia đình,
dòng họ đối với thanh niên tại ngũ, là nguồn bổ sung tình cảm, tinh thần hữu hiệu để
kích thích thanh niên tại ngũ hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và BVTQ.
100
Biểu 3.6: Hoạt động động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ của gia
đình, dòng họ.
70
Đơn vị: %
64,1
60,1
60
56,1
53,3 54,5
52
50
40
31,3
27,3
30
23,2
22,7
19,4
20
16,2
15,2
11,9
8,6
10
0
Gia đình gọi điện, viết thư
Gia đình đến đơn vị thăm
Dòng họ đến đơn vị thăm
Gia đình nhờ cậy người giúp đỡ
Gia đình gửi tiền hoặc hiện vật
Bố mẹ có con nhập ngũ và thanh niên tại ngũ
Bố mẹ có con nhập ngũ
Thanh niên tại ngũ
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng 18].
Biểu 3.6 cho thấy, vai trò quan trọng của gia đình, dòng họ đối với thanh
niên đang tại ngũ được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể, dù tỷ lệ đánh giá
cho các hoạt động này của nhóm bố mẹ có con nhập ngũ khá đa dạng như: ở hoạt
động 1 là 56,1%, hoạt động 2 là 23,2%, hoạt động 3 là 15,2%...; tỷ lệ đánh giá cho
các hoạt động này ở nhóm thanh niên tại ngũ, nhóm bố mẹ có con nhập ngũ và
thanh niên tại ngũ cũng giống như nhóm bố mẹ có con nhập ngũ, đó là khá cao ở
hoạt động 1, với 64,1% và 60,1%, thấp ở hoạt động 2, với 31,3% và 27,3% và rất
thấp ở hoạt động 3, với 8,6% và 11,9%.
Dù tỷ lệ trả lời cho các hoạt động động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ
của các gia đình, dòng họ ở cả ba nhóm khảo sát không quá cao (chỉ có hoạt động
1 và có tỷ lệ trả lời trên 50,0% và trên 60,0%, các hoạt động còn lại phần lớn phần
lớn có tỷ lệ trả lời dưới 30,0%) nhưng cũng chứng tỏ: một là, trong điều kiện môi
trường tương đối khép kín của quân đội, thanh niên lại được rèn luyện để trở thành
anh “Bộ đội cụ Hồ”, lẽ ra gia đình, dòng họ có thể “phó mặc” cho đơn vị, quân
đội, nhưng gia đình, dòng họ vẫn cho thấy vai trò không thể thiếu trong chăm lo,
động viên thanh niên đang tại ngũ; hai là, các hoạt động được gia đình, dòng họ
101
chăm lo, động viên thanh niên tại ngũ tuy khá đa dạng, song vẫn chủ yếu tập trung
vào hình thức viết thư, gọi điện hay lên đơn vị trực tiếp thăm hỏi. Hình thức nhờ
cậy người giúp đỡ, tuy vẫn có nhưng không nhiều. Hoạt động gửi tiền hoặc hiện
vật có tỷ lệ người trả lời thấp nhất.
Ở thời điểm hiện tại, việc bảo đảm về ăn, ở, mặc, sinh hoạt cho người chiến
sĩ khá tốt. Với những chiến sĩ quê ở khu vực nông thôn, miền núi, điều kiện về ăn,
ở, mặc, sinh hoạt của đơn vị quân đội có thể còn tốt hơn ở gia đình. Ngoài việc
bảo đảm các chế độ về ăn, mặc, các chiến sĩ lại được trợ cấp hàng tháng khá cao,
có chiến sĩ, sau khi hoàn thành NVQS còn có một khoản tiền nhất định về phụ
giúp gia đình. Vì thế, gia đình gửi tiền hoặc hiện vật cho chiến sĩ có xu hướng
giảm. Trong các nhóm điều tra, hoạt động gửi tiền hoặc hiện vật của gia đình cho
thanh niên đang tại ngũ có tỷ lệ người trả lời thấp nhất phù hợp với thực tế nuôi
dưỡng bộ đội hiện nay. Vấn đề mà người chiến sĩ cần đó là tình cảm gia đình, tình
thương yêu của bố mẹ. Thực tiễn cho thấy, gia đình luôn luôn là điểm tựa về tinh
thần của người chiến sĩ quân đội.
Nói về môi trường sinh hoạt trong quân đội, khi hỏi một thanh niên đang thực
hiện NVQS ở đơn vị quân đội, được biết:
Nói thật với anh rằng, lúc mới trúng tuyển NVQS, chuẩn bị lên đường
nhập ngũ, dù rất phấn khởi nhưng trong suy nghĩ em vẫn không ngớt
những băn khoăn. Bố, mẹ em cũng có đôi chút lo lắng vì sợ em không
quen với môi trường quân ngũ, sợ em ăn đói, chịu khổ nên lúc em đi,
bố, mẹ, rồi cô, bác trong họ cũng cho em một chút tiền. Nhập ngũ rồi
em mới thấy mình và gia đình đã lo quá xa, vì doanh trại quân đội rất
khang trang, sạch đẹp, ăn, ở đúng giờ, lại rèn luyện thường xuyên nên
hiện giờ em thấy khoẻ hơn và tăng cân so với lúc ở nhà (PVS: Nam,
chiến sĩ, tiểu đoàn huấn luyện, sư B71 - Phòng không Không quân).
Như vậy, vai trò của gia đình, dòng họ đối với thực hiện NVQS của thanh niên
nối dài kể từ khi người thanh niên sống trong gia đình cho đến khi người thanh niên
đang sống trong quân đội. Trước khi nhập ngũ, người thanh niên được gia đình,
dòng họ giáo dục và tuyên truyền về NVQS, giáo dục và động viên đăng ký, khám
tuyển NVQS, giáo dục và động viên thanh niên nhập ngũ. Gia đình, dòng họ đã
thực hiện chức năng giáo dục, xã hội hóa nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và định
102
hướng hành vi cho con em thực hiện NVQS, BVTQ. Khi thanh niên đang tại ngũ,
gia đình, dòng họ thăm hỏi, động viên, hỗ trợ về nhiều phương diện, chủ yếu hỗ trợ
về tinh thần để con em vượt qua khó khăn, gian khổ của hoat động quân sự, hoàn
thành NVQS. Gia đình, dòng họ đã thực hiện chức năng tâm lý, tình cảm, tạo điểm
tựa về tinh thần cho con em trong thời gian thực hiện NVQS.
Lý thuyết tập hợp vai trò của Robert K. Merton đã chỉ ra rằng, tập hợp vai trò
liên quan trực tiếp tới chức năng; chức năng chính là vai trò mà hành vi cá nhân hay
thiết chế xã hội đảm nhận, thực hiện. Do đó, gia đình có các vai trò cơ bản như: sản
xuất, hỗ trợ tâm lý tình cảm, tái sản xuất giống nòi, giáo dục, xã hội hoá. Mỗi vai
trò của gia đình, dòng họ đáp ứng những mong đợi nhất định của xã hội đối với gia
đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ thăm hỏi, động viên, hỗ trợ cho con em đang tại
ngũ là đã thực hiện chức năng hỗ trợ tâm lý tình cảm. Thông qua đó, gia đình và
dòng họ cũng giáo dục cho con em thấm sâu hơn nữa tình nghĩa gia đình, mối liên
hệ với gia đình, dòng họ và ý thức thực hiện NVQS, trách nhiệm nối dài truyền
thống đóng góp của gia đình, dòng họ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc, trong truyền thống chống giặc ngoại xâm của quê hương.
3.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI
VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
Từ phân tích thực trạng ở trên cho thấy, gia đình, dòng họ có vai trò rất quan
trọng đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Vai trò của gia đình, dòng họ đối
với việc thực hiện NVQS của thanh niên được thể hiện trên hai vai trò cơ bản: vai trò
giáo dục, xã hội hoá và vai trò tâm lý tình cảm. Trong thực hiện hai vai trò này có
nhiều hoạt động tương ứng thể hiện vị thế quan trọng của gia đình, dòng họ với thanh
niên, từ lúc thanh niên còn chưa đến tuổi nhập ngũ, học tại các trường phổ thông, đến
khi thanh niên đến tuổi đăng ký, khám tuyển NVQS, rồi trúng tuyển NVQS, lên đường
nhập ngũ ở các đơn vị quân đội. Song, không phải lúc nào, những vai trò của gia đình,
dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên cũng được tiến hành thuận lợi, mà thực tế
phải chịu rất nhiều tác động của các yếu tố. Theo đánh giá của 591 người là bố mẹ thanh
niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS, trong số mười hai yếu tố tác động đến vai
trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, có tám yếu tố
được phân tích, đánh giá trong mối quan hệ giữa các biến số. Tám yếu tố này có tỷ lệ
người trả lời như sau (Biểu 3. 7).
103
Biểu 3.7: Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng trong thực hiện
NVQS của thanh niên (với N = 591).
80
Đơn vị: %
71,7
66,5
65
59,3
59,2
53,1
53,3
51.8
60
40
20
0
Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 Yếu tố 5 Yếu tố 6 Yếu tố 7 Yếu tố 8
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 19].
đình; yếu tố 3 - Điều kiện kinh tế của gia đình; yếu tố 4 - Gia đình có bố mẹ là đảng viên
và gia đình không có bố mẹ là đảng viên; yếu tố 5 - Đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; yếu tố 6 - Hệ thống chính trị cơ sở; yếu tố 7 - Cộng đồng
làng xã; yếu tố 8 - Điều kiện kinh tế của địa phương.
Ghi chú: yếu tố 1 - Số lượng con trai của gia đình; yếu tố 2 - Nghề nghiệp của gia
Cũng đề cập đến vấn đề yếu tố tác động, khi hỏi bố của một thanh niên trúng
tuyển NVQS tháng 2 năm 2013 được biết, yếu tố quy mô của gia đình và yếu tố
kinh tế của gia đình có sự chi phối nhất định đến vai trò của gia đình, dòng họ đối
với việc thực hiện NVQS của thanh niên:
Vợ chồng tôi có ba đứa, nhưng vừa rồi tôi lại mới mở xưởng làm tăm
hương nên việc thằng lớn nhà tôi trúng tuyển NVQS, gia đình tôi cũng
gặp đôi chút khó khăn. Bởi vì, xưởng mới mở, phải đầu tư vốn liếng,
công việc làm tăm lại đòi hỏi nhiều người, có nó ở nhà chúng tôi vừa tiết
kiệm được chi phí vừa có thêm người quán xuyến công việc. Nhưng vì
trách nhiệm với Tổ quốc là trên hết nên chúng tôi cũng động viên em nó
cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ, rồi về làm kinh tế cùng gia đình cũng
chưa muộn (PVS: Nam, 48 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).
3.3.1. Các yếu tố thuộc biến số độc lập
3.3.1.1. Số lượng con trai của gia đình
Những phân tích dưới đây lựa chọn yếu tố số lượng con trai của gia đình, vì
con trai là đối tượng phải thực hiện NVQS theo quy định của pháp luật nên số
104
lượng con trai trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực phục vụ
cho sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ.
Theo kết quả điều tra, trong tổng số 591 người được hỏi, gia đình 1 con trai có
299, chiếm 50,6%, gia đình 2 con trai có 257, chiếm 43,5%, gia đình 3 con trai trở lên
có 35, chiếm 5,9% [Phụ lục, Bảng 22]. Để đảm bảo tính đại diện trong phân tích mối
quan hệ, tác giả gộp gia đình có 2 trai với gia đình có 3 con trai trở lên được gia đình
có 2 con trai trở lên là 292, chiếm 49,4%. Kết quả điều tra này được dùng để phân
tích mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến
tuổi nhập ngũ và vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám
tuyển NVQS của gia đình, dòng họ.
Số lượng con trai của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo
dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
Phân tích mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia đình với vai trò của gia
đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền con cháu về NVQS cho thấy, trong tổng
số 591 người được khảo sát, ở tất cả các gia đình có từ 1 đến 2 con trai trở lên đều
khẳng định gia đình, dòng họ có thực hiện các hoạt động để giáo dục, tuyên truyền về
NVQS, BVTQ cho con cháu trước tuổi nhập ngũ. Trong mối quan hệ này, tỷ lệ trả lời
cao nhất là 73,6% và tỷ lệ trả lời thấp nhất là 38,1% (Bảng 3.7).
Bảng 3.7: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).
Đơn vị: %
Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
Số lượng con trai của gia đình 2 con trai trở lên 1 con trai 50,3 39,1
38,1
39,7
43,5 72,2
42,2 73,6
68,9
64,4
299
292
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Tổng
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 20]; *P < 0,05.
105
Bảng 3.7 chỉ ra, tỷ lệ trả lời ở các gia đình có ít con trai hay nhiều con trai
trong cùng một hoạt động hay trong các hoạt động được gia đình, dòng họ sử dụng
để giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con cháu là khác nhau. Trong cùng hoạt động
gia đình kể những mẩu chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con
em chưa đến tuổi nhập ngũ, tỷ lệ trả lời ở gia đình có 1 con trai là 39,1%, gia đình
có 2 con trai trở lên là 50,3%. Trong các hoạt động được gia đình, dòng họ sử dụng
để giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con cháu chưa đến tuổi nhập ngũ như: Gia
đình thường xuyên dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với
Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành; Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện
NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ; Gia
đình định hướng thanh niên theo nghề quân đội; Gia đình kể chuyện chiến đấu,
chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em; Dòng họ nhắc
nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ, tỷ lệ trả lời từ cao đến thấp ở
gia đình có 1 con trai là: 72,2%; 68,9%; 43,5%; 39,1%; 38,1%.
Số liệu bảng 3.7 cũng chỉ ra, ở gia đình ít con trai hay nhiều con trai đều có tỷ lệ
trả lời cao nhất và xấp xỉ bằng nhau cho cùng hoạt động gia đình thường xuyên dạy bảo,
nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng
thành. Tỷ lệ trả lời ở gia đình có 1 con trai là 72,2%, gia đình có 2 con trai trở lên là
73,6%. Ngược lại, tỷ lệ trả lời cho hoạt động dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện
nghiêm quy ước của dòng họ của gia đình 1 con trai và 2 con trai trở lên là 38,1% và
39,7%. Nhưng nhìn chung tỷ lệ trả lời cho các hoạt động của gia đình 1 con trai hay 2
con trai trở lên đều xấp xỉ bằng nhau và hoặc cùng cao, hoặc cùng thấp. Chỉ riêng hoạt
động gia đình kể chuyện chiến đấu, chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,
BVTQ cho con em dù có tỷ lệ trả lời không cao nhưng lại có sự chênh lệch rõ nhất. Đây
cũng là hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố số lượng con trai của gia đình.
Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên
tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ
Trong đăng ký, khám tuyển NVQS của thanh niên, số lượng con trai của gia
đình có những mối quan hệ nhất định. Theo bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và
không trúng tuyển NVQS, gia đình 2 con trai trở lên có tỷ lệ trả lời cho các hoạt động
giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS từ 50,0% trở lên
106
nhiều hơn gia đình 1 con trai. Nhưng tỷ lệ trả lời cao nhất (79,6%) lại ở gia đình 1 con
trai và tỷ lệ trả lời thấp nhất (40,4%) rơi vào gia đình 2 con trai trở lên (Bảng 3.8).
Bảng 3.8: Số lượng con trai của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh
niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591).
Đơn vị: %
Vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS
Số lượng con trai của gia đình 2 con trai trở lên 1 con trai 78,1 79,6
43,5
45,9
65,6
65,8
43,5
50,0
42,5
40,4
64,2
67,8
299
292
Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Tổng
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 21].
Bảng 3.8 cho thấy, ở mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia đình với
các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS, gia
đình 1 con trai hay nhiều con trai cùng trả lời với tỷ lệ cao, thấp và xấp xỉ bằng
nhau cho cùng một hoạt động như: Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi,
động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình 1 con trai trả lời
65,6%, gia đình 2 con trai trở lên trả lời 65,8%; Dòng họ gặp mặt thanh niên có
giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, tỷ lệ trả lời ở gia
đình 1 con trai là 43,5% và gia đình 2 con trai trở lên là 45,9%.
Cũng theo bảng 3.8, gia đình ít con trai hay nhiều con trai đều cùng đánh giá
cao cho hoạt động gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS
đúng thời gian quy định; người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh
niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng
ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc. Tỷ
107
lệ đánh giá ở gia đình 1 con trai và 2 con trai trở lên cho các hoạt động này là:
79,6% và 78,1%; 65,6% và 65,8%; 64,2% và 67,8%. Điều này chứng tỏ, các hoạt
động nêu trên, được các gia đình 1 hay 2 con trai trở lên quan tâm giáo dục, động
viên con em nhiều hơn. Với các hoạt động còn lại như: Dòng họ giáo dục thanh
niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ
cương của gia đình, dòng họ; Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên
đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS; Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng
ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, gia đình 1 hay 2 con trai trở lên ít
quan tâm giáo dục, động viên con em hơn.
Như vậy, trong mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia đình với những hoạt
động thể hiện vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập
ngũ và vai trò giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS của gia
đình, dòng họ chỉ một trên mười một hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với số lượng
con trai của gia đình. Chín trên mười hoạt động còn lại, gia đình 1, 2 con trai trở lên trả
lời với tỷ lệ cùng cao hay cùng thấp và xấp xỉ bằng nhau. Với các hoạt động có tỷ lệ
đánh giá cao của gia đình 1 con trai và 2 con trai trở lên, chứng tỏ, các gia đình này có
sự ưu tiên, quan tâm nhất định đến các hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho
thanh niên và giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS.
3.3.1.2. Nghề nghiệp của gia đình
Nghề nghiệp của gia đình được đo bằng chỉ báo nghề nghiệp của bố mẹ thanh
niên. Nghiên cứu khảo sát thực tế thấy rằng, nghề nghiệp của bố, mẹ có thanh niên
trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên tại ngũ khá đang dạng như: nghề
tự do, nội trợ, lái xe ôm, lái xe taxi, làm ruộng, trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán, dịch vụ,
thợ mộc, thợ nề, làm may, chủ xưởng, công nhân, bác sỹ, giáo viên, bộ đội, cán bộ xã,
công chức, nghỉ hưu… Nói chung, nghề nghiệp của gia đình có thể nhóm thành ba
nghề cơ bản: nông nghiệp (chỉ làm nghề nông: cấy lúa, trồng trọt, chăn nuôi); nông
nghiệp hỗn hợp (vừa làm nghề nông vừa làm các nghề khác: nông nghiệp với buôn
bán, dịch vụ, làm may, thợ nề, thợ mộc, làm tăm…); và phi nông nghiệp (làm các nghề
không phải nông nghiệp: công chức, công nhân, bác sỹ, giáo viên, bộ đội…). Đây cũng
chính là ba nghề được dùng để phân tích mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia
đình với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
108
Theo kết quả điều tra, nghề nghiệp của gia đình chủ yếu là nghề nông, tiếp đến
là nghề nông nghiệp hỗn hợp và phi nông. Với nhóm khảo sát là bố mẹ thanh niên
trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS, tỷ lệ trả lời lần lượt ở các nghề: nghề nông
nghiệp là 41,3%, nghề nông nghiệp hỗn hợp là 44,7% và nghề phi nông nghiệp là
14,0%; với nhóm khảo sát là bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS, tỷ lệ trả lời lần
lượt ở các nghề: nghề nông nghiệp là 30,3%, nghề nông nghiệp hỗn hợp là 52,0% và
nghề phi nông nghiệp là 17,7% [Phụ lục, Bảng 23]. Kết quả điều tra này được dùng
để phân tích mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên
chưa đến tuổi nhập ngũ và vai trò giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập
ngũ khi có giấy gọi.
Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho
thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ
Mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình,
dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
được thể hiện thông qua các hoạt động (Biểu 3.8).
Biểu 3.8: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS
cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (với N = 591).
Đơn vị: %
73 73,1 73,4 70,5
67,5
64,4 62,7
48,2
46,2
44,3 45,1 47
36,1 39,8
35,2
80 70 60 50 40 30 20 10 0
Hoạt động 1 * Hoạt động 2 * Hoạt động 3
Hoạt động 4
Hoạt động 5
Nông nghiệp
Nông nghiệp hỗn hợp
Phi nông nghiệp
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 24]; *P < 0,05.
con em; hoạt động 2 - Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của
dòng họ; hoạt động 3 - Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội; hoạt động 4 - Gia đình
Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho
109
dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng
thành; hoạt động 5 - Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ thực hiện NVQS cũng là tiếp nối truyền
thống của gia đình, dòng họ.
Số liệu biểu 3.8 chỉ ra, hầu như có sự tăng dần về tỷ lệ đánh giá của gia đình
nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp cho các hoạt động giáo dục,
tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ. Chỉ có hoạt động dòng
họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền
thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ là có tỷ lệ đánh giá theo chiều ngược lại. Tỷ
lệ trả lời cho hoạt động này ở gia đình nông nghiệp là 70,5%, gia đình nông nghiệp
hỗn hợp là 64,4% và gia đình phi nông nghiệp là 62,7%. Các gia đình nông nghiệp,
nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp cùng có tỷ lệ trả lời khá cao và xấp xỉ
bằng nhau cho hoạt động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của
công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành, với 73,0%, 73,1% và 73,4%;
cùng có tỷ lệ trả lời khá thấp và xấp xỉ bằng nhau cho hoạt động gia đình định
hướng con em theo nghề quân đội, với 44,3%, 45,1% và 47,0%. Hoạt động có mối
quan hệ chặt chẽ với yếu tố nghề nghiệp của gia đình có sự khác biệt rõ ràng về tỷ
lệ đánh giá. Nhất là, hoạt động gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm,
BVTQ cho con em, tỷ lệ trả lời thấp ở gia đình nông nghiệp (35,2%) với tỷ lệ trả lời
cao nhất ở gia đinh phi nông nghiệp (67,5%) khác biệt lên tới 32,3%.
Có thể thấy rằng, trong các hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh
niên chưa đến tuổi nhập ngũ, có tới bốn trên năm hoạt động, gia đình phi nông
nghiệp cho thấy sự quan tâm hơn gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình nông
nghiệp hỗn hợp lại quan tâm hơn gia đình nông nghiệp và chỉ có một hoạt động, sự
quan tâm của các gia đình là theo chiều hướng ngược lại. Ở hoạt động có mối quan
hệ chặt chẽ, thậm chí rất chặt chẽ với yếu tố nghề nghiệp của gia đình, với tỷ lệ
đánh giá cao nhất và khá chênh lệch của gia đình phi nông nghiệp với gia đình nông
nghiệp hỗn hợp và gia đình nông nghiệp, cho thấy: sự quan tâm, chú trọng đặc biệt
hơn đến hoạt động gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho
con em và dòng họ dạy bảo, nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của gia
đình phi nông nghiệp so với các gia đình khác. Bởi vì, thực tế ở địa bàn khảo sát,
trong các gia đình phi nông, có 75,9% làm nghề công chức, viên chức, giáo viên, bộ
110
đội, công nhân và cán bộ nghỉ hưu. Các gia đình này, nhất là gia đình công chức,
giáo viên, bộ đội, cán bộ nghỉ hưu có điều kiện về thời gian hơn và muốn định
hướng giáo dục con em thông qua các câu chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm,
BVTQ hơn gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình nông nghiệp.
Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên lên
đường nhập ngũ khi có giấy gọi của gia đình, dòng họ
Mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình,
dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi
được thể hiện trên các hoạt động (Biểu 3.9).
Biểu 3.9: Nghề nghiệp của gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên
lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi của gia đình, dòng họ (với N = 198).
Đơn vị: %
100
100
95,1
88,6
80
73,3
60
54,3
51,4
41,7
39,8
40
37,1
22,3
20,4
20
15
14,3
6,7
5
0
Hoạt động 1 * Hoạt động 2 * Hoạt động 3 * Hoạt động 4 Hoạt động 5 * Nông nghiệp hỗn hợp
Phi nông nghiệp
Nông nghiệp
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 25]; *P < 0,05.
hoạt động 2 - Dòng họ giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS; hoạt động 3 -
Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên; hoạt động 4 - Người thân trong dòng họ cùng
tham gia giao quân cho đơn vị; hoạt động 5 - Gia đình tổ chức gặp mặt chia tay thanh niên
có mối quan hệ chặt chẽ hoặc rất chặt chẽ với yếu tố nghề nghiệp của gia đình.
Ghi chú: hoạt động 1 - Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên;
Trong biểu 3.9, các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ, rất chặt chẽ với yếu tố
nghề nghiệp của gia đình có tỷ lệ đánh giá chênh lệch, đa dạng. Chẳng hạn, hoạt
động dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên, gia đình nông nghiệp
111
có tỷ lệ trả lời cao nhất, với 73,3%, đến gia đình phi nông nghiệp là 54,3% và gia
đình nông nghiệp hỗn hợp chỉ 39,8%; hoạt động dòng họ phân công người giúp đỡ
gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS, gia đình nông nghiệp hỗn hợp lại trả lời
với tỷ lệ cao nhất, với 41,7%, đến gia đình phi nông nghiệp là 37,1% và gia đình
nông nghiệp chỉ là 6,7%; hoạt động dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên, tỷ
lệ trả lời cao nhất là gia đình phi nông nghiệp, với 51,4%, đến gia đình nông nghiệp
hỗn hợp là 22,3% và gia đình nông nghiệp chỉ là 5,0%.
Cũng biểu 3.9, trong các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố nghề
nghiệp của gia đình, có hai hoạt động gia đình nông nghiệp cho thấy ít thực hiện hơn
khá nhiều so với gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình phi nông nghiệp, như:
hoạt động dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển
NVQS, gia đình nông nghiệp trả lời là 6,7% so với 41,7% của gia đình nông nghiệp
hỗn hợp; hoạt động dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên, gia đình nông nghiệp
trả lời là 5,0% so với 51,4% của gia đình phi nông nghiệp. Nhưng cũng có hai hoạt
động, gia đình nông nghiệp lại cho thấy sự quan tâm hơn gia đình nông nghiệp hỗn
hợp và gia đình phi nông nghiệp như: hoạt động gia đình tổ chức gặp mặt chia tay
thanh niên, gia đình nông nghiệp trả lời là 100,0% so với 88,6% của gia đình phi
nông nghiệp; hoạt động dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên, gia
đình nông nghiệp trả lời là 73,3% so với 39,8% của gia đình nông nghiệp hỗn hợp.
Như vậy, trong mối quan hệ giữa yếu tố nghề nghiệp của gia đình với các hoạt
động giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi, gia đình
nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và phi nông nghiệp đã có những đánh giá chênh
lệch, đa dạng và khác biệt. Bên cạnh đó, cũng thông qua tỷ lệ đánh giá rất cao và
cao, gia đình nông nghiệp đã cho biết sự quan tâm lựa chọn thực hiện những hoạt
động này một cách rõ ràng hơn gia đình nông nghiệp hỗn hợp và gia đình phi nông
nghiệp. Phải chăng, với đặc thù chỉ làm nghề nông và lối sống chân thật, tình cảm
của người nông dân nên gia đình nông nghiệp quan tâm thực hiện hơn những hoạt
động mang tính gần gũi, tinh thần như gặp mặt, động viên con em.
Nói về việc gia đình, dòng họ gặp gỡ, động viên thanh niên trúng tuyển
NVQS, chuẩn bị lên đường nhập ngũ, bố của thanh niên trúng tuyển NVQS ở xã
Đại Cường cho biết:
112
Đợt tuyển quân vừa rồi, con tôi đi khám và đã trúng tuyển NVQS. Mặc dù,
em nó đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng nhập ngũ nếu trúng tuyển, nhưng tôi
thấy, sau khi trúng tuyển NVQS, em có chút suy tư, lo lắng. Chính tôi và
bà xã nhà tôi đã thường xuyên hỏi chuyện và động viên em và rất may có
cả mấy bác trong họ đến chơi, hỏi thăm, khích lệ nên dần dần em đã tự tin
hơn. Ngày em nhập ngũ, tôi thấy nó rất vui, nói cười suốt, do đó vợ chồng
tôi cảm thấy rất yên tâm (PVS, bố thanh niên, 52 tuổi, xã Đại Cường).
3.3.1.3. Gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên
Theo kết quả điều tra, trong tổng số 591 người, có 62 người trả lời trong gia
đình có bố mẹ là đảng viên, chiếm 10,5%, tỷ lệ nói rằng bố mẹ không là đảng viên
có 529 người, chiếm 89,5% [Phụ lục, Bảng 26].
Trong phân tích mối quan hệ giữa gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình
không có bố mẹ là đảng viên với vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên thấy rằng, yếu tố này có mối quan hệ với các hoạt động thể
hiện vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng
ký, khám tuyển NVQS (Biểu 3.10).
Biểu 3.10: Gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đảng viên với vai trò
giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình,
dòng họ (với N = 591).
Đơn vị: %
67,7
65,8
70
60
50
43,3
41,9
40,3
40
30,6
29
28,7
24,7
30
21,2
17,9
17,4
20
10
0
Hoạt động 1* Hoạt động 2* Hoạt động 3* Hoạt động 4* Hoạt động 5* Hoạt động 6
Bố mẹ là đảng viên
Bố mẹ không là đảng viên
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng
27]; *P < 0,05.
113
đúng thời gian quy định; hoạt động 2 - Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký,
khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên; hoạt động 3 - Người thân trong dòng họ đến
thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; hoạt động 4 - Người thân
trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS; hoạt động 5 -
Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền
thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ; hoạt động 6 - Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ
việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc.
Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS
Biểu 3.10 cho biết, chỉ có hoạt động gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc
đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc
là không có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố gia đình có bố mẹ đảng viên và không
đảng viên, dù tỷ lệ đánh giá cho hoạt động này khá cao và cao nhất trong các mức
đánh giá (67,7% và 65,8%). Ở các hoạt động còn lại, tỷ lệ trả lời cao nhất cho hoạt
động người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám
tuyển NVQS, với 41,9% của gia đình có bố mẹ là đảng viên; tỷ lệ trả lời thấp nhất
cho hoạt động dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS
cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ, với 17,4% của gia
đình không có bố mẹ là đảng viên. Đặc biệt, các hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ
với gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đàng viên, tỷ lệ đánh giá ở gia đình
có bố mẹ là đảng viên đều cao hơn gia đình không có bố mẹ là đảng viên, như: hoạt
động gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian
quy định, tỷ lệ đánh giá của gia đình có bố mẹ là đảng viên là 40,3% và gia đình
không có bố mẹ là đảng viên là 28,7%; hoạt động dòng họ gặp mặt thanh niên có
giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, tỷ lệ đánh giá của gia
đình có bố mẹ là đảng viên là 30,6% và gia đình không có bố mẹ là đảng viên là
17,9%; hoạt động người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi
đăng ký, khám tuyển NVQS, tỷ lệ đánh giá của gia đình có bố mẹ là đảng viên là
40,3% và gia đình không có bố mẹ là đảng viên là 21,2%...
Tóm lại, có sự khác biệt rõ ràng trong giáo dục, động viên con em tham gia
đăng ký, khám tuyển NVQS giữa gia đình có bố mẹ là đảng viên với gia đình không
có bố mẹ là đảng viên. Điều này chứng tỏ, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
114
nay, ý thức trách nhiệm về xây dựng, BVTQ và nền nếp, tác phong của gia đình có
bố mẹ là đảng viên vẫn luôn được phát huy, phát triển, nâng cao trong giáo dục,
động viên con em đi đăng ký, khám tuyển NVQS. Thực tế khảo sát 591 người về
mối quan hệ giữa việc thực hiện NVQS cũng là để nối tiếp truyền thống của gia
đình, dòng họ với yếu tố gia đình có bố mẹ là đảng viên và không là đảng viên, được
biết, tỷ lệ trả lời cho mối quan hệ này ở gia đình có bố mẹ là đảng viên là 43,9% cao
hơn gia đình không có bố mẹ là đảng viên, với 35,5%.
3.3.1.4. Trình độ học vấn của bố thanh niên
Trình độ học vấn của bố thanh niên được sử dụng trong nghiên cứu, bởi vì
trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhất là gia đình ở nông thôn, người bố phần lớn
vẫn giữ vai trò chủ hộ, có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết những công việc quan
trọng của gia đình.
Kết quả khảo sát cho biết, trong tổng số 591 người được khảo sát, bố thanh niên
có 428, chiếm 72,4%, mẹ thanh niên có 163, chiếm 27,6%. Trình độ học vấn của bố
thanh niên được đo qua các chỉ số: tiểu học có 41 người, chiếm 9,6%; trung học cơ sở
có 271 người, chiếm 63,3%; trung học phổ thông có 89 người, chiếm 20,8%; trung
cấp trở lên có 27 người, chiếm 6,3%. Do bố thanh niên có trình độ học vấn trung cấp
trở lên chiếm tỷ lệ nhỏ, không đủ đại diện để phân tích mối quan hệ nên tác giả gộp
với trình độ học vấn cấp 3, được trình độ học vấn cấp 3 trở lên có 116 người, chiếm
27,1% [Phụ lục, Bảng 28].
Trong mối quan hệ giữa trình độ học vấn của bố thanh niên với vai trò của gia
đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên, thấy rằng, yếu tố tố này có mối
quan hệ với vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển
NVQS của gia đình, dòng họ (Biểu 3.11).
115
Biểu 3.11: Trình độ học vấn của bố thanh niên với vai trò giáo dục, động viên
thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ (với N = 428).
100
Đơn vị: %
81.9
83,6
75,6
80
72,3
67,2
65,5
62
61,2
57,8
60
51,2
49,1
46,1
43,9
43,9
41,4
39 40,2
36.9
40
20
0
Hoạt động 1 Hoạt động 2* Hoạt động 3* Hoạt động 4* Hoạt động 5 Hoạt động 6*
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông trở lên
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục, Bảng
29]; *P < 0,05.
thời gian quy định; hoạt động 2 - Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám
tuyển để giáo dục, động viên; hoạt động 3 - Những người thân trong dòng họ đến thăm hỏi,
động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS; hoạt động 4 - Người thân trong gia đình
động viên, đưa thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS. ở hoạt động 5 - Dòng họ giáo dục
thanh niên hiểu rõ việc khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình,
dòng họ; hoạt động 6 - Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là
quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc.
Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình thường xuyên nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển đúng
Số liệu biểu 3.11 chỉ rõ, hầu hết các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên
đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ đều có mối quan hệ chặt chẽ với
trình độ học vấn của bố thanh niên. Hoạt động 1, tuy không có mối quan hệ chặt chẽ
với trình độ học vấn của bố thanh niên nhưng lại có tỷ lệ trả lời cao nhất ở tất cả các
cấp học vấn, nhất là trình độ học vấn trung học phổ thông trở lên, tỷ lệ đánh giá lên
tới 83,6%. Tỷ lệ đánh giá thấp nhất lại ứng với trình độ học vấn trung học cơ sở cho
hoạt động 2, với 36,9%; trình độ học vấn trung học cơ sở của bố thanh niên cũng có
tỷ lệ đánh giá 72,3%, cao hơn với đánh giá của trình độ học vấn tiểu học và trung
học phổ thông trở lên cho cùng hoạt động 6. Hai tỷ lệ đánh giá ở trình độ học vấn
trung học cơ sở của bố thanh niên, với một cao nhất, một thấp nhất cho cùng một
hoạt động không theo tỷ lệ lệ thuận, còn lại các hoạt động 1, 3, 4, 5, tỷ lệ trả lời ở
116
các trình độ học vấn của bố thanh niên đều chứng tỏ, trình độ học vấn càng cao thì
tỷ lệ trả lời càng cao, như: hoạt động 3, tỷ lệ trả lời ở trình độ học vấn tiểu học là
51,2%, trình độ học vấn trung học cơ sở là 62,9%, trình độ học vấn trung học phổ
thông trở lên là 67,2%; hoạt động 4, tỷ lệ trả lời ở trình độ học vấn tiểu học là
41,4%, trình độ học vấn trung học cơ sở là 46,1%, trình độ học vấn trung học phổ
thông trở lên là 65,5%.
Tóm lại, giữa trình độ học vấn của thanh niên với những hoạt động giáo dục,
động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ
về cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ. Tỷ lệ đánh giá của người trả lời đã cho thấy, hầu
hết có sự thuận chiều giữa trình độ học vấn của bố thanh niên với các hoạt động
giáo dục, động viên con em đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ. Đặc
biệt, người trả lời cũng đã cho biết, bố thanh niên có trình độ học vấn tiểu học ít
quan tâm, thực hiện các hoạt động giáo dục, động viên con em đăng ký, khám tuyển
NVQS hơn bố thanh niên có trình độ học vấn trung học phổ thông trở lên. Phải
chăng, điều này là do bố thanh niên có trình độ học vấn thấp nên ít có những hình
thức, biện pháp phù hợp để giáo dục con em; mặt khác, do bố thanh niên còn phải
lam lũ, làm ăn nuôi con cái nên ít có điều kiện gần gũi giáo dục, động viên con.
Thực tế khảo sát tại địa bàn nghiên cứu đã chứng minh, bố thanh niên có trình độ
học vấn thấp thường ứng với thu nhập thấp. Kết quả điều tra 428 bố thanh niên về
thu nhập bình quân người/ tháng với trình độ học vấn như sau: mức thu nhập bình
quân người 2 triệu trở lên/ tháng, bố thanh niên có trình độ học vấn tiểu học chiếm
4,9%, trung học cơ sở chiếm 7,4%, trung học phổ thông trở lên chiếm 8,6%. Hay ở
một nghiên cứu về gia đình Việt Nam cũng đã chỉ ra, mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa
trình độ học vấn của cha mẹ với việc tham gia quyết định vào việc quan hệ bạn bè
cho con, tỷ lệ đánh như sau: cha mẹ có trình độ học vấn tiểu học là 23,7%, phổ
thông cơ sở là 32,9%, phổ thông trung học là 39,4%, trung học cao đẳng là 41,1%,
đại học trở lên là 41,4% [14, tr.102].
3.3.1.5. Thu nhập của gia đình
Thu nhập của gia đình được tính bằng thu nhập bình quân người/tháng của gia
đình (đơn vị VNĐ). Thu nhập bình quân người/tháng của gia đình căn cứ vào số
liệu khảo sát 591 bố mẹ có thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS, kết
quả là 7,1% có thu nhập 2 triệu trở lên, 40,9% có thu nhập từ 1 đến dưới 2 triệu,
117
52,0% có thu nhập dưới 1 triệu. Các khoảng thu nhập này được xác định trên cơ sở
thang đo định danh về thu nhập bình quân của gia đình/tháng với số lượng thành
viên trong gia đình [Phụ lục, Bảng 30].
Trong phân tích mối quan hệ giữa yếu tố thu nhập của gia đình với vai trò của gia
đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, thấy rằng, yếu tố thu nhập
bình quân người/tháng của gia đình có mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (Biểu 3.12).
Biểu 3.12: Thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo
dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).
Đơn vị: %
95.2
100
81
71.5
80
63.5
63.8
51.5
52.4
50.8
50.8
60
40.4
35.5
33.3 36
40
26.2 26
20
0
Hoạt động 1 * Hoạt động 2 * Hoạt động 3 * Hoạt động 4 * Hoạt động 5 *
2 triệu trở lên
Từ 1 đến dưới 2 triệu
Dưới 1 triệu
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 31]; *P < 0,05.
cho con em; hoạt động 2 - Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ;
hoạt động 3 - Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội; hoạt động 4 - Gia đình dạy bảo,
nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành; hoạt
động 5 - Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền
thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ.
Ghi chú: hoạt động 1 - Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ
Biểu 3.12 cho biết, mối quan hệ giữa thu nhập bình quân người/tháng với các
hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của
gia đình, dòng họ có mối quan hệ chặt chẽ, rất chặt chẽ với nhau. Tỷ lệ đánh giá về
mối quan hệ này rất đa dạng, có tỷ lệ đánh giá rất cao, với 95,2%, có tỷ lệ đánh giá
khá cao, với 63,8%, có tỷ lệ đánh giá thấp 26,0%. Ngoài ra, tỷ lệ trả lời cho từng
hoạt động cũng khác biệt, như: hoạt động 1, người có thu nhập bình quân/tháng từ 2
triệu trở lên trả lời cao nhất, với 52,4%; hoạt động 2, người có thu nhập bình
118
quân/tháng dưới 1 triệu trả lời cao nhất, với 50,8%; hoạt động 6, người có thu nhập
bình quân/tháng từ 1 đến dưới 2 triệu trả lời cao nhất, với 71,5%... Đặc biệt, hoạt
động 3 - Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội, người có thu nhập bình
quân/tháng càng thấp thì tỷ lệ đánh giá càng cao cho hoạt động này, đó là: thu nhập
bình quân người/tháng từ 2 triệu trở lên trả lời 33,3%, thu nhập bình quân
người/tháng từ 1 đến dưới 2 triệu lại trả lời 36,0% và thu nhập bình quân
người/tháng dưới 1 triệu là 51,5%.
Nhìn chung, người có thu nhập bình quân/tháng từ 2 triệu trở lên đánh giá các
hoạt động của gia đình với con em cao hơn người có thu nhập bình quân/tháng từ 1
đến dưới 2 triệu và dưới 1 triệu. Người có thu nhập bình quân/tháng từ 1 đến dưới 2
triệu và dưới 1 triệu lại đánh giá các hoạt động của dòng họ với con cháu cao hơn
người có thu nhập bình quân/tháng từ 2 triệu trở lên. Với đánh giá nghịch chiều
giữa các mức thu nhập bình quân người/tháng cho hoạt động gia đình định hướng
con em theo nghề quân đội, đã chứng tỏ điều kiện kinh tế gia đình càng thấp, gia
đình lại càng quan tâm lựa chọn, định hướng con em vào quân đội. Dù quân đội
được đánh giá là gian khổ, bó buộc về thời gian và nguy hiểm hơn các nghề khác
ngoài xã hội, song trong thời bình hiện nay, quân đội đã được cải thiện rất nhiều về
môi trường ăn, ở, sinh hoạt và làm việc; vào quân đội lại được đảm bảo về quân
trang, bố mẹ, vợ con của người quân nhân được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và có
những chính sách hỗ trợ nhất định; quân đội cũng được cho là có thu nhập ổn định,
con em được rèn luyện về thể chất, tinh thần, đạo đức, lối sống… Điều này được đa
số gia đình sống ở nông thôn, bố mẹ làm nghề nông nghiệp và có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn quan tâm. Số liệu khảo sát của đề tài về mối quan hệ giữa nơi ở với thu
nhập và hoạt động gia đình định hướng con em theo nghề quân đội được biết: xã
Đại Cường có 87,6% bố mẹ làm nghề nông nghiệp, trong khi xã Quảng Phú Cầu là
30,9% và thị trấn Vân Đình là 25,7%; Đại Cường cũng có tỷ lệ trả lời cho mức thu
nhập bình quân người/ tháng dưới 1 triệu đồng cao nhất, với 62,8%, trong khi Vân
Đình là 51,8% và Quảng Phú Cầu là 46,3%; tỷ lệ người trả lời về mức thu nhập
bình quân người/ tháng dưới 1 triệu đồng với hoạt động gia đình định hướng con em
theo nghề quân đội, xã Đại Cường là 69,1%, cao nhất, rồi đến xã Quảng Phú Cầu là
49,5% và thị trấn Vân Đình là 40,9%.
119
Bên cạnh đó, khi hỏi một gia đình ở xã Quảng Phú Cầu, có con nhập ngũ có điều
kiện kinh tế gia đình khó khăn, mẹ của thanh niên nói:
Anh thấy đấy, đồ đạc nhà tôi cũng chẳng có gì giá trị và tôi vào lúc
nông nhàn cũng đi làm thuê cho các xưởng tăm, nhưng do sức khoẻ yếu
nên thu nhập cũng chẳng được là bao. Bố em không may mất sớm, một
mình tôi nuôi hai đứa, nay em đến tuổi nhập ngũ, tôi rất phấn khởi và
chỉ mong sao em được ở lại phục vụ lâu dài trong quân đội luôn (PVS,
mẹ thanh niên, 45 tuổi, xã Quảng Phú Cầu).
3.3.2. Các yếu tố khách quan
Ngoài mối quan hệ với các yếu tố thuộc biến độc lập, vai trò của gia đình,
dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên còn có mối quan hệ với những
yếu tố thuộc biến số vĩ mô: điều kiện kinh tế của địa phương; hệ thống chính trị cơ
sở; cộng đồng làng xã; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
3.3.2.1. Điều kiện kinh tế của địa phương
Điều kiện kinh tế của địa phương được đo bằng chỉ số thu nhập bình quân
người/ tháng của gia đình ở địa bàn khảo sát. Chỉ số này được dùng để phân tích
mối quan hệ với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến
tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (Bảng 3.9).
120
Bảng 3.9: Điều kiện kinh tế của địa phương với hoạt động giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (với N = 591).
Đơn vị: %
Nơi ở
Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
Thu nhập bình quân người/ tháng 1 triệu trở lên 15,5
Dưới 1triệu 42,3
22,5
53,2
Quảng Phú Cầu
29,4 90,7
49,5 56,8
91,5
73,9
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *
129 71,9
111 61,1
30,8
47,8
Tổng Vân Đình
37,4 81,3
40,9 73,9
46,7
51,3
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ
107 22,9
115 40,7
25,0
51,9
Tổng Đại Cường
47,9 66,7
69,1 58,0
62,5
67,9
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ
48
81
Tổng
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 33]; *P < 0,05.
Bảng 3.9, ở ba địa phương khảo sát, điều kiện kinh tế là khác nhau, nếu như ở
xã Quảng Phú Cầu, gia đình có mức thu nhập bình quân người/tháng từ 1 triệu trở
lên chiếm tỷ lệ cao nhất, với 53,8% và mức thu nhập bình quân người/tháng dưới 1
triệu đồng là thấp nhất, với 46,2%, thì ở thị trấn Vân Đình là 48,2% và 51,8%, ở xã
Đại Cường là 37,2% và 62,8%. Chính vì điều kiện kinh tế giữa các địa phương khác
121
nhau nên hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho con em của gia đình, dòng họ
cũng có nhiều khác biệt.
Khác biệt trước hết, ở Quảng Phú Cầu, các hoạt động giáo dục, tuyên truyền
NVQS của gia đình, dòng họ đều có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân
người/ tháng; trong khi, ở Vân Đình chỉ có hoạt động dòng họ thường xuyên nhắc
nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ và ở Đại Cường, ngoài hoạt
động này, có thêm hoạt động gia đình định hướng con em theo nghề quân đội là có
mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân người/tháng.
Khác biệt thứ hai, thông qua tỷ lệ trả lời, gia đình có mức thu nhập bình quân
người/ tháng dưới 1 triệu ở các địa phương có đánh giá cao cho các hoạt động giáo
dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng
họ hơn gia đình có thu nhập bình quân người/tháng từ 1 triệu trở lên, đó là: Quảng
Phú Cầu và Vân Đình có 3/5 hoạt động, Đại Cường có 4/5 hoạt động.
Khác biệt thứ ba, cùng hoạt động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách
nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành, gia đình có thu nhập
bình quân người/tháng 1 triệu trở lên ở Quảng Phú Cầu và Vân Đình trả lời với tỷ lệ
rất cao và cao, với 90,7% và 81,3%; ở Đại Cường trả lời với tỷ lệ khá cao, với
66,7%. Cùng hoạt động gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm,
BVTQ cho con em, gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên ở
Vân Đình trả lời với tỷ lệ khá cao, với 71,9%; ở Quảng Phú Cầu và Đại Cường trả
lời với tỷ lệ thấp, với 15,5% và 22,9%. Hay cùng hoạt động gia đình định hướng
con em theo nghề quân đội, gia đình có mức thu nhập bình quân người/ tháng dưới
1 triệu ở Đại Cường đánh giá với tỷ lệ cao nhất, với 69,1%; ở Quảng Phú Cầu và
Vân Đình đánh giá với tỷ lệ thấp hơn là 49,5% và 40,9%.
Những khác biệt nêu trên, nhất là những khác biệt trong các mối quan hệ chặt
chẽ chứng tỏ rằng, điều kiện kinh tế của địa phương có chi phối đến hoạt động giáo
dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng
họ. Cụ thể, trong những hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân
người/tháng, ở Đại Cường, gia đình có thu nhập bình quân người/ tháng dưới 1 triệu
quan tâm, thực hiện hoạt động dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện
nghiêm quy ước của dòng họ và gia đình định hướng con em theo nghề quân đội
122
hơn gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên; ở Vân Đình, gia
đình có thu nhập bình quân người/tháng dưới 1 triệu quan tâm, thực hiện hoạt động
dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ
hơn gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên; ở Quảng Phú Cầu,
gia đình có thu nhập bình quân người/tháng 1 triệu trở lên quan tâm, thực hiện hoạt
động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ
quốc khi đến tuổi trưởng thành và dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện
NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ hơn
gia đình có thu nhập bình quân người/tháng dưới 1 triệu.
3.3.2.2. Hệ thống chính trị cơ sở
Theo đánh giá của bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS,
yếu tố hệ thống chính trị cơ sở có tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ trong
thực hiện NVQS của thanh niên, với tỷ lệ trả lời 53,3% (Biểu 3.7). Sự tác động này,
được thể hiện rõ hơn trong mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với các hoạt
động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo địa phương khảo sát (Bảng 3.10).
Bảng 3.10: Hệ thống chính trị cơ sở với hoạt động giáo dục, tuyên truyền NVQS
cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ (với N = 591).
Đơn vị: %
Quảng Phú Cầu
Vân Đình
Đại Cường
Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
66,3
31,0
20,9
25,3
31,4
31,0
Hệ thống chính trị cơ sở
33,5 81,6
40,7 82,6
56,3 56,3
88,6
53,5
70,4
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *
158
86
71
Tổng
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 34]; *P < 0,05.
123
Bảng 3.10, hầu hết người trả lời đánh giá hệ thống chính trị cơ sở và những hoạt
động giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của gia đình
dòng họ trong các địa phương khảo sát có mối quan hệ chặt chẽ, rất chặt chẽ. Trong
mối quan hệ này, ứng với từng hoạt động, mỗi địa phương lại có những đánh giá khác
nhau về sự chi phối của yếu tố hệ thống chính trị cơ sở, như: hoạt động gia đình kể
chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em, tỷ lệ trả lời ở thị trấn Vân
Đình là cao nhất, với 66,3%; hoạt động dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện
NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ, tỷ lệ trả
lời ở xã Quảng Phú Cầu lại cao nhất, với 88,6%; hoạt động gia đình định hướng con
em theo nghề quân đội, tỷ lệ trả lời ở xã Đại Cường là cao nhất, với 56,3%.
Ngoài ra, trong các mức độ đánh giá, chỉ có hoạt động dòng họ thường xuyên
nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ là không có nhiều sự khác
biệt giữa các địa phương; hay chỉ có hoạt động gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về
trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành là có sự khác
nhau rõ ràng giữa Quảng Phú Cầu và Vân Đình so với Đại Cường, tỷ lệ trả lời là
81,6% và 82,6% so với 56,3% (Bảng 3.10).
Nhìn chung, hệ thống chính trị ở xã Quảng Phú Cầu, thị trấn Vân Đình và xã Đại
Cường có những khác nhau nhất định trong quản lý, điều hành công tác giáo dục, tuyên
truyền NVQS, xây dựng nền QPTD, BVTQ. Bởi vì, thị trấn Vân Đình, hệ thống chính
trị được tổ chức theo tiêu chí của đô thị, còn Quảng Phú Cầu và Đại Cường, hệ thống
chính trị lại được tổ chức theo tiêu chí của nông thôn; hệ thống chính trị còn bị chi
phối, quyết định của điều kiện kinh tế ở địa phương, như với mức thu nhập bình quân
người/tháng dưới 1 triệu của gia đình, ở Đại Cường có tỷ lệ trả lời cao nhất, rồi đến
Vân Đình và Quảng Phú Cầu [Phụ lục, Bảng 48] (Quảng Phú Cầu lại có mức thu nhập
bình quân người/tháng từ 1 đến dưới 2 triệu là 45,8%, hơn Vân Đình là 40,5% và Đại
Cường là 32,6%). Chính vì được tổ chức và có điều kiện kinh tế khác nhau như vậy
nên hệ thống chính trị có những chi phối, tác động khác nhau đến vai trò giáo dục,
tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ giữa các địa phương.
3.3.2.3. Cộng đồng làng xã
Theo đánh giá của bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS,
yếu tố cộng đồng làng xã có tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ trong thực
hiện NVQS của thanh niên, với tỷ lệ trả lời 53,1% (Biểu 3.7). Sự tác động này,
124
được thể hiện rõ hơn trong mối quan hệ giữa cộng đồng làng xã với các hoạt động
giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ theo địa
phương khảo sát (Bảng 3.11).
Bảng 3.11: Cộng đồng làng xã với hoạt động giáo dục, động viên thanh niên
tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ (với N = 591).
Đơn vị: %
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS
Quảng Phú Cầu
Vân Đình
Đại Cường
79,3
77,0
81,4
43,4
48,6
41,9
46,5
73,9
85,1
48,1
48,6
47,3
Cộng đồng làng xã
50,4
36,9
40,5
65,9
59,5
59,5
Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc
129
111
74
Tổng
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 35]; *P < 0,05.
Bảng 3.11, tỷ lệ đánh giá giữa cộng đồng làng xã với các hoạt động giáo dục,
động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo
địa phương nơi khảo sát khá đa dạng, ít nhiều thể hiện được mối quan hệ giữa chúng.
Nhưng chỉ có mối quan hệ giữa cộng đồng làng xã với hoạt động người thân trong
dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS theo địa
phương là chặt chẽ, thậm chí rất chặt chẽ, với tỷ lệ trả lời tăng dần như sau: xã Quảng
Phú Cầu là 46,5%, thị trấn Vân Đình là 73,9% và xã Đại Cường là 85,1%. Song, với
hoạt động thiết thực, thể hiện rõ tính cộng đồng thông qua việc người thân trong dòng
họ đến nhà thăm hỏi, động viên cũng đã phần nào chỉ ra sự quan trọng của yếu tố cộng
đồng làng xã trong công tác thực hiện NVQS của thanh niên.
Bên cạnh đó, tỷ lệ đánh giá về mối quan hệ này cũng chứng tỏ, yếu tố cộng đồng
làng xã có liên hệ chặt chẽ với địa phương, làng xã cụ thể. Chẳng hạn, Đại Cường là một
xã nông thôn, với 87,6% gia đình làm nông nghiệp nên tính cộng đồng của người nông
125
thôn, sự cởi mở, chất phác của người nông dân là nhân tố quan trọng tạo nên sự gắn kết
của cộng làng xã, do đó có đánh giá cao nhất; Quảng Phú Cầu cũng là một xã nông thôn
nhưng lại có đến 68,3% gia đình làm nghề nông nghiệp hỗn hợp (phần lớn các gia đình
làm thêm nghề phụ: chẻ tăm, đan lát, làm thuê cho các xưởng tăm…) và hoạt động kinh
tế làng nghề đã ít nhiều làm xói mòn tính cộng đồng của người dân, của những người
trong dòng họ, do vậy có đánh giá thấp nhất; Vân Đình là thị trấn, trung tâm hành chính,
kinh tế, xã hội của huyện Ứng Hoà nên người dân chịu ảnh hưởng của lối sống thị thành,
sự gắn kết của dòng họ cũng bị ảnh hưởng, nhưng lại không bị sự chi phối của yếu tố
kinh tế làng nghề, cho nên có đánh giá thấp hơn Đại Cường và cao hơn Quảng Phú Cầu.
3.3.2.4. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Theo đánh giá của bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS, yếu tố
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có tác động đến vai
trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên, với tỷ lệ trả lời 59,2%
(Biểu 3.7). Sự tác động này, được thể hiện rõ hơn trong mối quan hệ giữa đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với các hoạt động giáo dục, tuyên
truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập theo địa phương khảo sát (Bảng 3.12).
Bảng 3.12: Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước với hoạt động giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của
gia đình, dòng họ (với N = 591).
Đơn vị: %
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS
Quảng Phú Cầu
Đại Cường
Vân Đình
89,4
76,7
77,9
36,4
43,8
43,4
42,4
80,8
78,6
35,6
56,2
47,6
43,2
32,9
33,8
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
78,0
66,2
71,2
Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định * Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc
132
145
73
Tổng
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 36]; *P < 0,05.
126
Tỷ lệ trả lời ở bảng 3.12 đã ít nhiều cho thấy yếu tố đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có mối quan hệ với các hoạt động giáo dục,
động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ theo địa phương
khảo sát, trong đó có ba mối quan hệ chặt chẽ và rất chặt chẽ. Trong các mối quan hệ
chặt chẽ, không những cho thấy sự chênh lệch về tỷ lệ đánh giá mà còn phản ánh, ở
những địa phương khác nhau, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước có sự chi phối khác nhau đến các hoạt động giáo dục, động viên thanh niên
đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ. Cụ thể, hoạt động gia đình giáo dục,
nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định, tỷ lệ trả lời ở Quảng
Phú Cầu là 89,4% cao hơn hẳn Vân Đình và Đại Cường, với 77,9% và 76,7%; hoạt động
người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển
NVQS, trong khi tỷ lệ trả lời ở Đại Cường lên tới 80,8%, cao hơn Vân Đình, với 78,6%
và cao hơn rất nhiều so với Quảng Phú Cầu, chỉ là 42,4%; hoạt động người thân trong
gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS, tuy không có tỷ
lệ trả lời rất cao và cao nhưng Đại Cường vẫn là cao nhất, với 56,2%, tiếp đến là Vân
Đình, với 47,6% và vẫn cao rất nhiều so với Quảng Phú Cầu là 35,6%.
Như vậy, theo số liệu khảo sát ở các địa phương, không phải hoạt động giáo
dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ nào
cũng có mối quan hệ chặt chẽ với yếu tố đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Bởi vì, dù đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước là các văn bản pháp quy đối với mọi địa phương, nhưng do tính
đặc thù nên mỗi địa phương có cách thức vận dụng và chấp hành phù hợp nhất.
Chẳng hạn, Đại Cường là một xã nông thôn không có nghề truyền thống, Quảng Phú
Cầu cũng là xã nông thôn nhưng có nghề truyền thống, Vân Đình là thị trấn và chính
tính đặc thù này đã tạo nên sự khác nhau nhất định trong mối quan hệ giữa yếu tố
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với hoạt động
giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS của gia đình, dòng họ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Nghiên cứu thực trạng dựa trên những kết quả khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý
kiến và phỏng vấn sâu đã phản ánh rõ vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
127
thực hiện NVQS của thanh niên. Vai trò này được thể hiện trên bốn nội dung: Gia
đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền cho con cháu về NVQS, BVTQ; Gia đình,
dòng họ giáo dục, động viên con cháu đăng ký, khám tuyển NVQS; Gia đình, dòng
họ giáo dục, động viên con cháu lên đường thực hiện NVQS khi có lệnh gọi nhập
ngũ; Gia đình, dòng họ động viên, chăm lo con cháu trong thời gian tại ngũ ở đơn vị
quân đội. Qua đó, khẳng định giả thuyết: Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên luôn là nhân tố quan trọng, quyết định là đúng.
Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên chịu
sự tác động của nhiều yếu tố thông qua sự phân tích tương quan, mối quan hệ giữa số
lượng con trai của gia đình; các đặc điểm của gia đình; điều kiện kinh tế của địa
phương; hệ thống chính trị cơ sở, cộng đồng làng xã; đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với các vai trò của gia đình, dòng họ từ
giáo dục, tuyên truyền, vận động thanh niên lúc chưa đến tuổi nhập ngũ đến giai đoạn
đăng ký, khám tuyển, rồi trúng tuyển, thực hiện NVQS ở đơn vị. Mối quan hệ này đã
phản ánh rõ lý thuyết tập hợp vai trò của Robert K.Merton về mối liên hệ giữa cấu
trúc gia đình và vai trò của gia đình. Dù trong thực tế phân tích các mối quan hệ có
nhiều cấp độ khác nhau, đó là có mối quan hệ rất chặt chẽ, có mối quan hệ chặt chẽ
và có mối quan hệ chưa chặt chẽ.
Thông quan phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa số lượng con trai của gia
đình, đặc điểm của gia đình với các hoạt động thể hiện vai trò của gia đình, dòng họ
trong thực hiện NVQS của thanh niên, thấy rằng: hầu như yếu tố số lượng con trai
của gia đình chưa có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động thể hiện vai trò của gia
đình, dòng họ; ngược lại, yếu tố đặc điểm của gia đình lại cho thấy có mối quan hệ
chặt chẽ, thậm chí rất chặt chẽ với phần lớn các hoạt động thể hiện vai trò của gia
đình, dòng họ. Điều này khẳng định giả thuyết: Vai trò của gia đình, dòng họ trong
thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập, nghề nghiệp
của gia đình, trình độ học vấn của bố thanh niên, gia đình có bố mẹ là đảng viên và
gia đình không có bố mẹ là đảng viên là đúng; Vai trò của gia đình, dòng họ trong
thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với số lượng con trai của
gia đình chưa được chứng minh là đúng trong nghiên cứu này.
128
Chương 4
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
ĐÌNH, DÒNG HỌ TRONG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH
4.1. MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI VAI TRÒ CỦA GIA
NIÊN HIỆN NAY
Gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS hiện nay có
nhiều thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn. Trong đó, có một số thuận lợi và
khó khăn cơ bản được chính bố mẹ của thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển
và thanh niên đang tại ngũ đánh giá với tỷ lệ lần lượt như sau: Tình hình kinh tế - xã
hội của địa phương, đất nước: thuận lợi - 64,7% và khó khăn - 35,3%; Điều kiện
kinh tế, quy mô, cơ cấu gia đình: thuận lợi - 61,8% và khó khăn - 38,2%; Nền nếp,
truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ: thuận lợi - 65,5% và
khó khăn - 34,5%; Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở: thuận lợi - 56,9% và khó
khăn - 43,1%; Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ: thuận
lợi - 53,3% và khó khăn - 46,7%; Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành
NVQS: thuận lợi - 49,4% và khó khăn - 51,6% (Bảng 4.1).
Bảng 4.1: Một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng họ trong
thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay (với N = 789).
Đơn vị: %
Mức độ đánh giá
Những thuận lợi và khó khăn trong việc gia đình, dòng họ
Thuận lợi Khó khăn
thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS những năm tới
Tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước
64,7
35,3
Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình
61,8
38,2
Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ
65,5
34,5
Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ
53,3
46,7
Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS
49,4
51,6
Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
56,9
43,1
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 37].
129
Những đánh giá của người trả lời về một số thuận số thuận lợi và khó khăn đối
với vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay được
biểu hiện cụ thể trên từng nội dung sau:
4.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước
Từ khi đổi mới đến nay, kinh tế - xã hội nước ta có nhiều biến đổi, phát triển.
Đến năm 2013, quy mô nền kinh tế của đất nước đã đạt gần 176 tỷ USD, thu nhập
bình quân đầu người khoảng 1.960 USD [111]. Kinh tế liên tục tăng trưởng, tạo tiền
đề đưa đất nước “ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát
triển có thu nhập trung bình” [31, tr.91]. Xã hội ngày càng phát triển theo hướng dân
chủ. Giáo dục và đào tạo có những thay đổi tích cực và được đầu tư nhiều hơn, trình
độ dân trí được nâng lên. Chính trị ổn định, an ninh quốc phòng luôn được tăng
cường, củng cố: “bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo” [31, tr.137]. Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi
mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát
triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong
từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên
từng địa bàn” [31, tr.82].
Hoà chung với sự ổn định, phát triển của đất nước, kinh tế - xã hội huyện Ứng
Hoà, địa phương nơi khảo sát cũng có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại nhiều hiệu quả, công nghiệp, dịch
vụ đều có bước tăng trưởng khá. Đặc biệt, mô hình phát triển tiểu thủ công nghiệp ở
địa phương vừa mang lại nhiều công ăn việc làm cho người dân vừa đóng góp phần
lớn GDP cho huyện. Kinh tế địa phương tăng lên hàng năm đã góp phần làm cho đời
sống người dân khấm khá hơn. Năm 2008 thu nhập bình quân là 5,2 triệu/ người/
năm, thì đến tháng 6 năm 2013 đã khoảng 17-19,5 triệu đồng/người/năm [110]. Cùng
với phát triển kinh tế, tình hình chính trị, xã hội luôn được đảm bảo ổn định, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững, không xảy ra điểm nóng, phong trào toàn dân chăm lo xây
dựng và bảo vệ quê hương, đất nước khá tốt.
130
Kinh tế - xã hội phát triển, chính trị ổn định là thuận lợi cơ bản để gia đình,
dòng họ, người dân càng tin tưởng vào đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, vào
hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy, việc tuyên truyền, vận
động, gắn vai trò trách nhiệm của gia đình, dòng họ với sự nghiệp xây dựng nền
QPTD, BVTQ sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Đặc biệt trong bối cảnh tình hình
quốc phòng, an ninh ở biên giới, hải đảo luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột, ảnh
hưởng trực tiếp đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát
triển cũng kéo theo hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh, nhất là tâm lý ngại khổ, tư
tưởng đề cao chủ nghĩa cá nhân của thanh niên, các giá trị tốt đẹp của gia đình,
dòng họ bị suy giảm,… Điều này tạo nên những khó khăn nhất định đối với vai trò
của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.
4.1.2. Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp của gia đình
Gia đình ở hai xã và thị trấn được khảo sát trong đề tài luận án tương đối khác
nhau về điều kiện kinh tế, cơ cấu nghề nghiệp. Xã Quảng Phú Cầu có 6/6 thôn được
công nhận làng nghề. Do đó, ngoài sản xuất nông nghiệp, các gia đình trong xã còn
làm nghề tiểu thủ công nghiệp (làm tăm hương, tăm xỉa và đan lát cót, rổ, rá, quạt).
Xã Đại Cường có 3 thôn và là 3 trong 20 thôn của huyện Ứng Hoà không được
công nhận làng nghề, các gia đình trong xã chủ yếu làm nghề nông. Thị trấn Vân
Đình là trung tâm hành chính, chính trị, thương mại, dịch vụ của huyện Ứng Hoà.
Cho nên, các hộ gia đình ở thị trấn làm nghề thương mại, dịch vụ, công chức,… là
chủ yếu, số hộ sản xuất nông nghiệp rất ít. Những đặc trưng nghề nghiệp tạo nên sự
khác biệt tương đối về điều kiện kinh tế của các gia đình ở các xã và thị trấn.
Thực tế khảo sát bố mẹ thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS ở
các xã và thị trấn cho thấy, tỷ lệ đánh giá của người trả lời về nơi ở với nghề nghiệp
của gia đình và thu nhập bình quân người/ tháng của gia đình như sau (Bảng 4.2).
131
Bảng 4.2: Nghề nghiệp và thu nhập bình quân người/tháng của gia đình theo
nơi ở của gia đình.
Đơn vị: %
Nghề nghiệp của gia đình
Tổng
Nơi ở
Thu nhập bình quân người/tháng của gia đình Dưới Từ 1 đến Từ 2 1 triệu dưới 2 triệu trở triệu lên 46,3 45,8 7,9 51,8 40,5 7,7 62,8 32,6 4,7
Nông nghiệp hỗn hợp 68,3 10,1 39,2
Nông nghiệp 30,9 87,6 25,7
Quảng Phú Cầu Đại Cường Vân Đình
Phi nông nghiệp 0,8 240 2,3 129 35,1 222 Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 38].
Điều kiện kinh tế và nghề nghiệp của gia đình ở các xã, thị trấn nêu trên vừa
tạo thuận lợi vừa gây khó khăn đối với vai trò của gia đình, dòng họ trong quá trình
thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay. Thuận lợi vì, phần lớn các gia đình thuộc
địa bàn khảo sát làm nông nghiệp, nông nghiệp hỗn hợp và sống ở nông thôn nên so
với các gia đình ở đô thị sẽ ít chịu tác động của kinh tế thị trường hơn; sự cố kết của
gia đình, dòng họ cũng chặt chẽ hơn và gia quy, tộc ước được coi trọng trong giáo
dục con cháu; con cháu của gia đình, dòng họ ngay từ khi còn nhỏ đã quen với môi
trường sống vất vả của nghề nông; “Con em nông dân, người chưa có việc làm nhập
ngũ chiếm số đông (trên 80%) và có xu hướng tăng” (Theo nhận định của Uỷ ban
Quốc phòng An ninh của Quốc hội) [Trích theo, 111]. Bên cạnh đó, có khá nhiều gia
đình ở xã Quảng Phú Cầu, Đại Cường và thị trấn Vân Đình có mức thu nhập bình
quân người/ tháng từ 1 đến dưới 2 triệu đồng (mức thu nhập tuy không cao nhưng
cũng không thấp trong điều kiện hiện nay) qua đó, tạo nên sự ổn định về kinh tế của
gia đình. Đây đều là những nhân tố quan trọng để gia đình, dòng họ phát huy tốt nhất
vai trò trong giáo dục, động viên con cháu thực hiện NVQS hiện nay.
Khó khăn vì, chính sự vất vả, bươn chải của các gia đình làm nghề nông, sự
thiếu thốn của khu vực nông thôn so với đô thị gây nên những hiệu ứng so bì nhất
định với các gia đình ở đô thị, có kinh tế vững hơn, có cuộc sống “dễ chịu” hơn về
việc thực hiện NVQS của con em. Với các gia đình làm nghề nông hỗn hợp, tuy
kinh tế bớt phần khó khăn song với việc vừa phải làm nghề nông vừa phải làm các
132
nghề phụ như làm tăm của các gia đình ở xã Quảng Phú Cầu - một nghề rất cần có
nhân công. Nhất là những lao động nam giới đang độ tuổi thanh niên, có sức khoẻ
tốt, nhanh nhẹn, có thể làm việc với năng suất cao, làm những công việc nặng nhọc.
Cho nên, việc những nam thanh niên đang là lao động chủ chốt của gia đình nhập
ngũ sẽ gây ra không ít băn khoăn, lo lắng cho gia đình.
Thu nhập chủ yếu của gia đình tôi từ làm tăm, nay em nó được gọi nhập
ngũ, gia đình thiếu đi một nguồn nhân lực chính và cũng bớt đi nguồn thu
nhập nên tôi cũng hơi băn khoăn. Song gia đình vẫn luôn mong mong
quân đội, Nhà nước đào tạo em nên người (PVS ông Trần Văn P, 44 tuổi,
xã Quảng Phú Cầu).
Ngoài những khó khăn về điều kiện kinh tế và nghề nghiệp của gia đình, số lượng
con trai của gia đình cũng gây nên những khó khăn nhất định đối với vai trò của gia
đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay. Theo số liệu khảo sát
591 người, gia đình có một con trai chiếm tỷ lệ cao nhất, với 50,6%, tiếp đến gia đình
có 2 con trai là 43,5%; gia đình có 3 con trai trở lên rất ít, chỉ có 5,9% [Phụ lục, Bảng
22]. Chính vì số lượng con trai trong gia đình ít, cho nên nam thanh niên thường rất
được bố, mẹ quan tâm, chăm sóc, không muốn con cái phải chịu khổ và không ít gia
đình có tư tưởng không muốn cho con đi bộ đội. Phỏng vấn sâu mẹ một thanh niên về
những suy nghĩ của gia đình khi có con trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, được biết:
Con tôi trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, tôi cũng chẳng có ý kiến gì,
nhưng thực lòng tôi rất buồn và lo lắng vì nhà chỉ có nó là con trai duy
nhất và đây cũng là lần đầu tiên em xa gia đình một thời gian dài (PVS
bà Lê Thị V, 43 tuổi, thị trấn Vân Đình).
Những băn khoăn, lo lắng đó của gia đình nếu không được sự gặp gỡ, động
viên, giải đáp kịp thời của trưởng thôn, các đảng viên trong thôn và của Ban chỉ
huy quân sự xã cùng các tổ chức đoàn thể khác sẽ ít nhiều khiến gia đình không
thực sự thoải mái khi có con em nhập ngũ và không phát huy tốt nhất vai trò của
gia đình đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên.
4.1.3. Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
Trong công tác thực hiện NVQS của thanh niên, được sự phân công của cơ
quan, đơn vị cấp trên, Ban chỉ huy quân sự huyện giao chỉ tiêu tuyển quân đến
133
từng xã, thị trấn trong huyện. Quán triệt sự chỉ đạo của huyện về công tác tuyển
quân, Đảng bộ, cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân xã, thị trấn ra nghị quyết lãnh đạo,
chương trình hành động về công tác quốc phòng gắn với xây dựng cơ sở vững
mạnh toàn diện. Trong đó, luôn đưa ra chỉ tiêu hoàn thành tốt hoặc vượt chỉ tiêu
gọi thanh niên nhập ngũ. Theo kế hoạch, hàng năm cứ đến đợt tuyển quân, đảng
uỷ, chính quyền xã, thị trấn triển khai theo ngành dọc xuống các chi bộ thôn và
các đoàn thể cùng phối hợp chặt chẽ từ khâu lập danh sách cho đến gọi loa thông
báo những nam thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ đi khám tuyển NVQS; tuyên
truyền, vận động các gia đình, dòng họ làm tốt chức trách, nhiệm vụ trong động
viên con, cháu tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định; cán
bộ, cùng các đoàn thể địa phương: hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, hội phụ nữ
đến từng gia đình gặp gỡ nói chuyện, động viên gia đình và thanh niên được gọi
khám tuyển, được gọi nhập ngũ.
Với sự quan tâm, cùng cách làm có tổ chức chặt chẽ, khoa học như trên đã
tạo điều kiện thuận lợi để các gia đình, dòng họ thực hiện vai trò trong giáo dục,
tuyên truyền, động viên con, cháu tham gia thực hiện NVQS. Song, nếu trong
công tác tuyển quân tại các xã, thị trấn, ở các khâu sàng lọc tiêu chuẩn của thanh
niên, ở các bước phối hợp tuyên truyền, vận động của các tổ chức, lực lượng trong
hệ thống chính trị cơ sở chưa thật chính xác và ăn ý, như: vẫn để lọt thanh niên đủ
tiêu chuẩn nhưng không gọi nhập ngũ hoặc ngược lại; vẫn có sự lúng túng hay
không làm hết trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng sẽ trở thành những rào cản,
gây trở ngại cho việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về
NVQS không những ở hiện tại mà cả những năm tiếp theo.
4.1.4. Văn hóa, truyền thống làng xã, dòng họ, gia đình
Văn hóa, truyền thống của thôn, làng cũng là điều kiện thuận lợi cho việc gia
đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS. Văn hóa truyền thống
thôn, làng được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng cụ thể hơn cả là trong quy ước
làng. Với ưu điểm, hầu hết các thôn ở xã Quảng Phú Cầu, xã Đại Cường và tổ dân
phố ở thị trấn Vân Đình được công nhận làng văn hóa, tổ dân phố văn hoá và đều có
quy ước riêng. Trong quy ước có nêu rõ: “Thực hiện nghĩa vụ quân sự ngoài quy
định chung của Luật Nghĩa vụ quân sự, các tổ chức đoàn thể trong thôn và gia đình
134
động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên trong độ tuổi đi khám tuyển và
lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Nếu ai chống đối thì sẽ báo lên Hội đồng quân sự
xã xử lý” [99, tr.15]. Quy ước làng, tổ dân phố được chính các gia đình trong làng,
tổ dân phố thống nhất và tự nguyện chấp hành, do đó để không vi phạm quy ước
làng, các gia đình cần thực hiện tốt vai trò của mình trong giáo dục, động viên con,
em thực hiện NVQS.
Truyền thống gia đình, dòng họ có thể được nhận biết thông qua việc ông bà,
bố mẹ, chú bác cô tham gia cách mạng; ông bà, bố mẹ, chú bác cô, anh chị em trong
gia đình, dòng họ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; bố mẹ, chú bác cô, anh
chị em trong gia đình, dòng họ đang tham gia lực lượng vũ trang; hay chỉ đơn giản
là ông bà, bố mẹ, chú bác cô, anh chị em trong gia đình luôn chấp hành tốt mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nuôi dạy con,
cháu chăm ngoan, hiếu thảo. Điều này tạo nhiều thuận lợi cho việc gia đình, dòng
họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS. Bởi vì, với các gia đình, dòng họ
có truyền thống cách mạng và có các thành viên tham gia kháng chiến, đang phục vụ
quân đội, là đảng viên Đảng Cộng sản thường chú trọng giáo dục con cháu ngay từ khi
còn nhỏ về tình yêu quê hương đất nước; ý nghĩa của việc giành giữ và xây dựng,
BVTQ thông qua các câu chuyện chiến đấu và công tác của mình. Khi con cháu trưởng
thành, một phần tiếp tục được ông bà, bố mẹ định hướng về nghĩa vụ, trách nhiệm của
công dân đối với việc tham gia NVQS, một phần, do thấm nhuần lời dạy của ông bà, bố
mẹ, thấm nhuần nền nếp, tác phong của người quân nhân. Qua đó, xây dựng cho
thanh niên tình yêu với cuộc sống của người lính, giúp thanh niên tự ý thức được vai
trò của bản thân với Tổ quốc.
4.1.5. Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ
Những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước, chính
sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có thanh niên đang tham gia quân
ngũ ngày càng được củng cố và hoàn thiện, như Pháp lệnh số 04/2012/PL-
UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ưu đãi người có công với cách
mạng; Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ, quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng; Nghị định số 101/2013/NĐ-CP ngày 04/9/2013 quy định mức trợ cấp, phụ
135
cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Cùng với đó, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày
15/5/2013 hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi
đối với người có công với cách mạng và thân nhân. Việc kịp thời ban hành, bổ sung
những chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có thanh niên
đang tại ngũ không những tăng cường lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước
và Chính Phủ mà còn gia tăng lòng tự tôn, tự hào, tinh thần yêu nước của người dân
đối với Tổ quốc; kích thích gia đình, dòng họ sẵn sàng đóng góp vật chất, tinh thần
cho sự nghiệp xây dựng và củng cố nền QPTD; cho gia đình, dòng họ tiếp tục phát
huy tốt nhất vai trò trong việc thực hiện NVQS thanh niên.
Việc ban hành chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có
thanh niên đang tại ngũ thể hiện chủ trương đúng đắn của Đảng, quyết sách hợp lý
của Nhà nước. Song, khi áp dụng chính sách với từng đối tượng cụ thể vẫn tồn tại
không ít bất cập, vẫn còn những thân nhân của gia đình có công với cách mạng, gia
đình có thanh niên đang tại ngũ chưa được hưởng kịp thời, đầy đủ những hỗ trợ của
chính sách. Thực tế khảo sát cũng cho thấy, vẫn có 46,7% (Bảng 4.1) bố, mẹ thanh
niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ đánh giá
rằng, chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình có thanh niên
đang tại ngũ vẫn còn gây nên khó khăn cho việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò
đối với thanh niên về NVQS.
4.1.6. Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự
Việc làm của thanh niên sau khi xuất ngũ là một trong những nhân tố có chi
phối đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh
niên. Giải quyết tốt vấn đề việc làm cho thanh niên sau khi hoàn thành NVQS
cũng là tháo gỡ những băn khoăn, lo lắng của không ít gia đình có con em đang
nhập ngũ; tháo gỡ những khó khăn cản trợ gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối
với thanh niên về NVQS. Bởi vì, gia đình cho rằng, con, em nhập ngũ là đã thiệt
thòi trong việc học nghề, học việc, thiếu đi cơ hội tìm được việc làm phù hợp sau
khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Cho nên, sau khi xuất ngũ, nếu thanh niên
không được hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm sẽ rất khó khăn tìm việc
trong cơ chế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Vì lẽ đó, trong hai mức
136
đánh giá thuận lợi, khó khăn của các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò
của gia đình, dòng họ đối với thanh niên về NVQS, vấn đề việc làm của thanh
niên sau khi hoàn thành NVQS có tỷ lệ người đánh giá khó khăn cao nhất, với
51,6% (Bảng 4.1).
Nhằm tháo gỡ vấn đề dạy nghề, tạo việc làm cho bộ đội xuất ngũ, qua đó góp
phần động viên thanh niên yên tâm đăng ký, khám tuyển và lên đường thực hiện
NVQS; góp phần hoàn thành tốt công tác gọi thanh niên nhập ngũ ở các địa phương;
cũng như phát huy hơn nữa vai trò của gia đình, dòng họ trong động viên thanh niên
nhập ngũ, Thủ tường Chính phủ đã ban hành Quyết định 121/2009/QĐ-TTg về cơ chế
hoạt động của các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Quốc phòng và chính sách hỗ trợ bộ đội
xuất ngũ học nghề. Cơ sở pháp lý này ngày càng được hoàn thiện, bổ sung và đi vào
thực tiễn sẽ tạo nên nhiều thuận lợi, kích thích gia đình, dòng họ phát huy tốt nhất vai
trò đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.
Thực tế ở huyện Ứng Hòa cho thấy, một số quân nhân sau khi hoàn thành NVQS
trở về địa phương đã được chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở huyện, xã, thị
trấn tạo điều kiện cho học nghề, tạo việc làm, bố trí việc làm phù hợp. Một số quân nhân
có nhiều tiến bộ, trưởng thành trong thời gian tại ngũ đã được bố trí vào các vị trí chỉ
huy trong lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, bổ sung nguồn cho cán bộ quân sự
cấp xã. Tuy vậy, quân nhân sau khi hoàn thành NVQS trở về địa phương được đào tạo
nghề, tạo việc làm, bố trí việc làm chưa nhiều và còn nhiều bất cập, cần được tháo gỡ.
Những bất cập đó ảnh hưởng nhất định đến việc động viên thanh niên thực hiện NVQS,
chi phối nhiều đến hiệu quả giáo dục, tuyên truyền, động viên của gia đình, dòng họ đối
với con em trong thực hiện NVQS, BVTQ.
4.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH,
DÒNG HỌ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH
NIÊN TRONG NHỮNG NĂM TỚI
4.2.1. Một số vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay
Từ phân tích, đánh giá thực trạng và thuận lợi, khó khăn trong thực hiện vai
trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên đặt ra một số
vấn đề: 1.Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ đối
137
với việc thực hiện NVQS, BVTQ của thanh niên; 2.Phát huy vai trò của gia đình,
dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
củng cố nền QPTD; 3.Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã
hội quan trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ thời
kỳ mới; 4.Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ thời kỳ mới; 5.Phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ,
hiện đại. Đây cũng là những vấn đề được bố mẹ thanh niên trúng tuyển, không
trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ nhận định (Bảng 4.3).
Bảng 4.3: Những vấn đề đặt ra về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).
Những vấn đề đặt về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
Mức độ đánh giá Tỷ lệ % 62,4
Số lượng 492
550
69,7
562
71,2
428
54,2
455
57,7
Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS, BVTQ của thanh niên Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và củng cố nền QPTD Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ trong những năm tới Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ những năm tới Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 39].
Số liệu bảng 4.3 chỉ ra, trong năm vấn đề được đưa ra, có hai vấn đề đặt ra,
người trả lời nhất trí với tỷ lệ là 54,2% và 57,7%; có ba vấn đề đặt ra, tỷ lệ trả lời
nhất trí cao hơn, đó là 62,4%, 69,7% và 71,2%. Đây cũng chính là ba vấn đề được
phân tích, đánh giá.
4.2.1.1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ
đối với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc của thanh niên
Thông qua phỏng vấn sâu và điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến thấy rằng,
có mối liên hệ giữa hoạt động của các tổ chức, lực lượng với vai trò của gia đình,
138
dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Mối quan hệ này được thể
hiện trong suốt quá trình thực hiện NVQS. Cụ thể, vào các đợt tuyển quân, Hội
đồng tuyển quân của xã, thị trấn nhóm họp, rồi phân công trách nhiệm đến từng tổ
chức, lực lượng, cá nhân. Từ bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch xã, chỉ huy trưởng quân
sự xã, thị trấn đến các hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên và các đảng
viên chi bộ thôn, trưởng thôn đều tham gia vào công tác tuyển quân của xã, thị trấn.
Các tổ chức, lực lượng, cá nhân này đến từng gia đình, gặp gỡ thân nhân thanh niên
để nói chuyện, động viên, giải đáp những khúc mắc về Luật NVQS nói chung, về
nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối việc xây dựng và BVTQ, về công tác gọi
thanh niên nhập ngũ ở xã, thị trấn. Chính vì vậy, phần đông các gia đình, dòng họ
có con, cháu đến tuổi thực hiện NVQS, từ chỗ còn hoài nghi, băn khoăn, thắc mắc,
lo lắng về công tác tuyển quân đến chỗ trở thành một thiết chế có vai trò quyết định
đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên. Kết quả này đã cho thấy một vấn đề
cần được đúc rút trong công tác gọi thanh niên nhập ngũ, đó là: Vấn đề nhận thức
của các tổ chức, lực lượng, cá nhân về công tác tuyển quân có tầm quan trọng đặc
biệt trong gắn vai trò của gia đình, dòng họ với việc thực hiện NVQS của thanh
niên. Bởi vì, muốn thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động gia đình, dòng họ phát
huy vai trò trong thực hiện NVQS của thanh niên, thì bản thân các tổ chức, lực
lượng, cá nhân phải có nhận thức đúng, được trang bị đầy đủ kiến thức về Luật
NVQS, về sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ.
4.2.1.2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa
vụ quân sự của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và củng cố nền quốc
phòng toàn dân
Thanh niên ở địa phương nghiêm chỉnh chấp hành Luật NVQS, sẵn sàng đăng
ký, khám tuyển, vui vẻ lên đường nhập ngũ khi trúng tuyển và luôn tu dưỡng, rèn
luyện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong quá trình tại ngũ là một trong
những yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp củng cố nền QPTD, xây dựng và
BVTQ được thắng lợi.
Thực tế nghiên cứu địa bàn khảo sát cho thấy, việc thực hiện NVQS của thanh
niên luôn gắn với vai trò của gia đình, dòng họ, đặc biệt là vai trò của bố mẹ với
thanh niên nhập ngũ. Từ khi còn trên ghế nhà trường, còn chưa đến tuổi thực hiện
139
NVQS, phần lớn các thanh niên đã được ông bà, bố mẹ giáo dục, định hướng về
nghĩa vụ trách nhiệm của công dân nam giới đến tuổi trưởng thành đối với việc xây
dựng nền QPTD, BVTQ. Đến quá trình đăng ký, khám tuyển NVQS, gia đình, bố
mẹ vẫn là những người thường xuyên gặp gỡ, động viên, an ủi, bảo ban, do đó
không ít thanh niên từ chỗ còn sợ sệt, lo lắng đến chỗ vui vẻ, tình nguyện đi đăng
ký, khám tuyển. Khi thanh niên trúng tuyển NVQS, gia đình, bố, mẹ luôn là người
thân thích nhất trao đổi, động viên thanh niên và trước khi thanh niên lên đường
nhập ngũ, gia đình tổ chức gặp mặt, chia tay mời đại diện các tổ chức đoàn thể, các
chú bác cô trong dòng họ, bạn bè thân thích của thanh niên. Qua đó, tạo nên bầu
không khí đầm ấm, tình cảm, khích lệ thanh niên hoàn thành tốt nhiệm vụ đối với
Tổ quốc. Trong khi tại ngũ, thông qua các đợt thăm hỏi tại đơn vị đóng quân và
thường xuyên viết thư, gọi điện động viên, khuyên bảo thanh niên, những người
thân trong gia đình, dòng họ trở thành chỗ dựa tin cậy để thanh niên trong thời gian
tại ngũ vượt qua được mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao. Do vậy, cần phải thấy rằng, vấn đề phát huy vai trò của
gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ luôn
gắn với vai trò, trách nhiệm giáo dục, tuyên truyền, vận động của gia đình, dòng họ
đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên từ lúc thanh niên chưa đến tuổi nhập
ngũ đến khi thanh niên tham gia thực hiện NVQS.
4.2.1.3. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan
trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ
quốc những năm tới
Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng
trong giáo dục, động viên thanh niên nhập ngũ, BVTQ có ý nghĩa thiết thực trong
phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
Bởi vì, chăm lo xây dựng thiết chế gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội
quan trọng chính là quan tâm đến việc giữ gìn và phát huy những giá trị, chuẩn mực
tốt đẹp của gia đình, dòng họ từ ngàn xưa, chính là quan tâm đến việc tổ chức trật
tự, kỷ cương, nền nếp trong gia đình, dòng họ. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử
nhưng sự tổ chức, các giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của gia đình, dòng họ vẫn luôn
đồng hành cùng với sự tồn tại và phát triển của gia đình, dòng họ Việt Nam.
140
Thực tế cho thấy rằng, gia đình, dòng họ nào được tổ chức chặt chẽ, trật tự,
nền nếp trong gia đình, dòng họ được tôn trọng, phát huy thì các thành viên trong
gia đình, dòng họ luôn có mối quan hệ bền chặt, gia đình sống đầm ấm, hạnh phúc,
dòng họ cố kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Trong công tác gọi thanh niên nhập
ngũ cũng vậy, chính nhờ các giá trị, chuẩn mực của gia đình, dòng họ được các
thành viên tôn trọng, thực hiện, mà ông bà, bố mẹ, chú bác cô mới bảo ban, dạy dỗ
được con cháu; con cháu mới nghe lời ông bà, bố mẹ, chú bác cô và vui vẻ, yên tâm
thực hiện nghĩa vụ của bản thân đối với Tổ quốc. Không những thế, trong thời gian
tại ngũ, mối liên hệ giữa thanh niên với những người thân trong gia đình, dòng họ
vẫn luôn được duy trì, trở thành nguồn động lực to lớn giúp thanh niên hoàn thành
được mọi nhiệm vụ được giao. Bởi vì, thanh niên thấu hiểu hơn ai hết, việc nhập
ngũ của thanh niên không chỉ là nghĩa vụ, bổn phẩn với quê hương, đất nước mà
còn là truyền thống, danh dự của gia đình, dòng họ, nơi những người thân yêu dấu
luôn đặt niềm tin vào sự trưởng thành của thanh niên trong thời gian quân ngũ, để
sau khi hoàn thành NVQS trở về, thanh niên vẫn luôn là niềm vinh dự, tự hào của
gia đình, dòng họ.
Song, muốn xây dựng gia đình, dòng họ thực sự trở thành thiết chế xã hội
quan trọng, giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ những năm tới,
cần quan tâm hoàn thiện các chính sách về gia đình, dòng họ, về thanh niên nhập
ngũ và xuất ngũ. Đối với các gia đình có thanh niên nhập ngũ thuộc diện khó khăn,
neo đơn, cần phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời cả về vật chất và tinh thần. Đối với
thanh niên nhập ngũ và xuất ngũ cần luôn có có sự quan tâm, hỗ trợ, kịp thời giải
toả những khúc mắc về tư tưởng của thanh niên; tạo điều kiện và hướng dẫn thanh
niên tiếp cận và học được nghề phù hợp với bản thân, để sau khi thanh niên xuất
ngũ lập nghiệp nhanh chóng ổn định được cuộc sống. Khi gia đình thanh niên được
hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời, thanh niên nhập ngũ không còn những khúc mắc về tư
tưởng và yên tâm về cuộc sống sau xuất ngũ chính là động lực to lớn để gia đình,
dòng họ phát huy tốt nhất vai trò trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện
NVQS, BVTQ những năm tới.
Như vậy, trong công tác gọi thanh niên nhập ngũ nói riêng và trong sự nghiệp
củng cố nền QPTD, xây dựng và BVTQ nói chung, vấn đề xây dựng thiết chế gia
141
đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng có tầm quan trọng hàng đầu trong
phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
4.2.2. Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện nghĩa
vụ quân sự của thanh niên trong những năm tới
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay, gia đình, dòng họ
vẫn luôn là một giá trị xã hội, một đơn vị lễ nghi. Gia phong, gia giáo là giá trị bền
vững tạo nên tính tôn ti trật tự, tạo dựng truyền thống, giúp cho sự duy trì sự ổn
định của gia đình, dòng họ. Mặt khác, nhìn nhận gia đình, dòng họ là một giá trị,
một đơn vị lễ nghi cũng chính là sự nhìn nhận ý nghĩa xã hội của gia đình, dòng họ
với tính cách là một thiết chế xã hội. Thông qua việc duy trì các giá trị, chuẩn mực,
các quy ước nhằm gắn kết các thành viên trong gia đình, dòng họ để thực hiện chức
năng xã hội, vai trò xã hội.
Thiết chế xã hội gia đình, dòng họ biểu hiện ở cấu trúc, tính tổ chức, tính
cộng đồng, hệ giá trị, chuẩn mực, khả năng kiểm soát hành vi của gia đình, dòng
họ đối với mỗi thành viên và sự đóng góp của gia đình, dòng họ đối với sự ổn
định, phát triển xã hội. Đối với các thành viên, gia đình, dòng họ định hướng và
kiểm soát hành vi, đảm bảo cho hành động của các thành viên đúng chuẩn, để gia
đình và dòng họ thực sự là một giá trị, đơn vị lễ nghi, tế bào của xã hội. Đối với
cộng đồng, xã hội, sự ổn định của gia đình, dòng họ đóng góp vào sự ổn định, phát
triển xã hội. Sự bền vững của thiết chế gia đình, dòng họ là một cơ sở cho việc
đánh vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
trong những năm tới.
Điều tra bố mẹ của thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh
niên đang tại ngũ thấy rằng, đa số nhất trí với vai trò của gia đình, dòng họ đối với
việc thực hiện NVQS của thanh niên trong những năm tới. Cụ thể, gia đình, dòng
họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong xây dựng nền QPTD, BVTQ, tỷ lệ người trả
lời có là 81,4%; gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS,
BVTQ cho con cháu, tỷ lệ người trả lời có là 63,6%; gia đình, dòng họ vẫn luôn
quan tâm động viên con cháu trong đăng ký, khám tuyển NVQS, tỷ lệ người trả lời
có là 68,6%; gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con cháu lên
đường nhập ngũ, tỷ lệ trả lời có là 56,5%; gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên
142
chăm lo con em trong quá trình thực hiện NVQS, tỷ lệ người trả lời có là 52,3%
(Bảng 4.4).
Bảng 4.4: Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên trong những năm tới (với N = 789).
Mức độ đánh giá Số lượng Tỷ lệ %
Đánh giá vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên trong thời gian tới
642
81,4
502
63,6
541
68,6
761
96,5
492
62,3
Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con cháu Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con cháu trong đăng ký, khám tuyển NVQS Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con cháu lên đường nhập ngũ Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con cháu trong quá trình thực hiện NVQS
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 40].
Truyền thống và những giá trị bền vững của gia đình, dòng họ; những đánh
giá của người trả lời về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS
của thanh niên trong những năm tới; các kết quả phân tích thực trạng vai trò của gia
đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên là những căn cứ quan trọng để
đưa ra các đánh giá sau:
Thứ nhất, vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến
tuổi nhập ngũ của gia đình, dòng họ ngày càng được tăng cường, đẩy mạnh
Qua khảo sát thực tế bằng phiếu trưng cầu ý kiến và phỏng vấn sâu với bố, mẹ
của thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ cho
thấy, gia đình, dòng họ đóng vai trò quan trọng đối với việc giáo dục, tuyền truyền
NVQS, BVTQ cho thanh niên. Số liệu điều tra cũng chỉ ra, có 63,6% người trả lời
cho rằng, gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ
cho con cháu (Bảng 4.4).
Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ của
gia đình, dòng họ vẫn sẽ được tăng cường, đẩy mạnh trong những năm tới. Bởi vì,
việc giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con cháu là giá trị có tính bền vững,
143
xuất phát từ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm từ ngàn xưa của dân tộc ta
và trong cuộc đấu tranh đó, gia đình luôn là lực lượng giữ vai trò nòng cốt. Vai trò này
được thể hiện từ việc huy động của cải vật chất của gia đình cho sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, đến việc động viên, thuyết phục con cháu trong gia đình, dòng họ
tòng quân, làm tròn bổn phận với quê hương, đất nước. Ngày nay, truyền thống đó
được tiếp nối từ chính những câu chuyện về lịch sử dựng nước, giữ nước hào hùng của
dân tộc, về quá trình công tác và chiến đấu mà ông bà, bố mẹ kể cho con cháu; bằng
những lời răn dạy đạo lý về nghĩa vụ, bổn phận của thanh niên đối với quê hương, đất
nước của ông bà, bố mẹ đối với con cháu; bằng tất cả sự mẫu mực, tình thương yêu
của ông bà, bố mẹ với con cháu. Tất cả trở thành chất xúc tác để con cháu trong gia
đình thấm nhuần, có thêm nghị lực, tinh thần sẵn sàng thực hiện NVQS, BVTQ.
Thứ hai, vai trò giáo dục, động viên con cháu tham gia đăng ký, khám tuyển
nghĩa vụ quân sự của gia đình, dòng họ ngày càng được đề cao
Qua thực tế điều tra, khảo sát cho thấy, trong tất cả các tổ chức, lực lượng ở
địa phương nơi tuyển quân có vai trò đối với việc giáo dục, động viên thanh niên
nhập ngũ, thì gia đình, dòng họ luôn được cho rằng có vai trò quan trọng nhất. Cùng
với kết quả người trả lời về gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con
cháu trong đăng ký, khám tuyển NVQS, với tỷ lệ trả lời là 68,6% (Bảng 4.4), cho
thấy xu thế này sẽ vẫn tiếp tục chiếm ưu thế trong những năm tới. Bởi vì, chừng nào
gia đình, dòng họ vẫn là chỗ dựa về tình cảm, là nơi che chở cho các thanh niên thì
chừng đó gia đình, dòng họ vẫn có vai trò quan trọng trong việc dạy dỗ, bảo ban
thanh niên những điều hay lẽ phải, những điều nên làm hay không nên làm; mặt
khác, chừng nào gia quy, tộc ước và hương ước của làng xóm vẫn được thanh niên
chấp thuận, tuân theo, thì chừng đó gia đình, dòng họ còn có thể bắt buộc thanh
niên trong gia đình, dòng họ nếu còn do dự, ngập ngừng trong việc đăng ký, khám
tuyển NVQS sẽ phải chấp hành, tuân theo.
Thứ ba, vai trò giáo dục, động viên con cháu lên đường thực hiện NVQS
khi có giấy gọi nhập ngũ của gia đình, dòng họ luôn giữ vị trí chủ đạo và ngày
càng hiệu quả
Kết quả điều tra bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS
và thanh niên đang tại ngũ thấy rằng, xu hướng gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ
144
chức chia tay con cháu lên đường nhập ngũ, có tỷ lệ trả lời rất cao là 96,5% cao
(Bảng 4.4). Ngoài ra, con em trong gia đình lên đường nhập ngũ, luôn được sự quan
tâm của các thành viên trong gia đình và của cả dòng họ. Sự quan tâm này được thể
hiện trên nhiều phương diện khác nhau, từ việc dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên,
tặng quà cho thanh niên trước khi lên đường nhập ngũ, đến việc cử người tham gia
giao quân với đơn vị nhận quân; từ việc các thành viên trong gia đình thường xuyên
gặp gỡ, tiếp xúc, động viên, đến việc gia đình tổ chức gặp mặt chia tay, mời đại diện
chính quyền, đoàn thể xã, mời chú bác, cô dì trong dòng họ và bạn bè của thanh niên.
Tất cả đã trở thành truyền thống của gia đình, dòng họ, trở thành các giá trị có tính
chất bền vững, cho nên khó có thể thay đổi trong những năm tới đây. Do đó, những
năm tiếp theo, vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc giáo dục, động viên thanh
niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi vẫn luôn luôn giữ vai trò chủ đạo.
Thứ tư, vai trò động viên, chăm lo con cháu trong thời gian tại ngũ ở các đơn vị
quân đội của gia đình, dòng họ vẫn được duy trì và có thể tăng cao
Kết quả điều tra bố mẹ của thanh niên trúng tuyển và không trúng tuyển NVQS
và thanh niên đang tại ngũ cho biết, gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo
con cháu trong quá trình thực hiện NVQS, được người trả lời đánh giá khá cao, với
62,3% (Bảng 4.4). Cùng với các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ được kết nối
bằng sợi dây tình cảm giữa cha mẹ với con cái, giữa các anh chị em trong gia đình,
giữa những người thân trong dòng họ. Do đó, sự động viên, chăm lo con cháu trong
thời gian tại ngũ của gia đình không chỉ là bổn phận, trách nhiệm giữa những người
thân trong gia đình với nhau, mà còn thể hiện sự cố kết, truyền thống của gia đình,
dòng họ. Chừng nào những giá trị này vẫn chiếm chủ đạo trong đời sống gia đình,
dòng họ thì chừng đó, sự động viên, chăm lo của gia đình, dòng họ đối với con cháu
trong thời gian tại ngũ vẫn được duy trì ở mức cao nhất. Thực tế cho thấy, phần lớn ở
gia đình, dòng họ Việt Nam hiện nay, con cháu trong các gia đình, dòng họ vẫn được
giáo dục trong môi trường của những gia đình phương Đông, lấy nền nếp, tôn ti, trật
tự, cúng lễ tổ tiên, hiếu lễ với bề trên, tương thân tương ái, đoàn kết nương tựa vào
nhau là chủ đạo. Do vậy, trong những năm tới, vai trò của gia đình, dòng họ đối với
việc động viên, chăm lo cho thanh niên trong thời gian thực hiện NVQS ở các đơn vị
quân đội vẫn được duy trì và có thể tăng cao.
145
Vai trò của gia đình, dòng họ động viên, chăm lo cho con em trong thời gian
thực hiện NVQS ở đơn vị quân đội sẽ tăng cao khi yêu cầu nhiệm vụ BVTQ có
diễn tiễn phức tạp, các đơn vị quân đội luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu
cao, nhiệm vụ chiến đấu của một số đơn vị quân đội mang tính trực tiếp.
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
4.3. GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ
Kết quả điều tra cho biết, trong các giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của gia
đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay, bố mẹ của
thanh niên trúng tuyển, không trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ đều trả
lời với tỷ lệ ở mức đánh giá có khá cao. Tỷ lệ người trả lời với mức đánh giá có từ
cao xuống thấp cho từng giải pháp chủ yếu như sau: Nâng cao nhận thức của các tổ
chức, lực lượng trong xã hội về vai trò của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng
cố quốc phòng, BVTQ là 72,4%; Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm
cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ trở về địa phương là 72,1%; Thường
xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ là 64,3%; Đẩy mạnh việc chăm
lo xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là thiết chế xã hội bền vững là
62,3%; Thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng làng, xã, dòng họ, gia đình
văn hóa là 60,4% (Bảng 4.5).
Bảng 4.5: Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).
Mức độ đánh giá Số lượng Tỷ lệ %
Giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
571
72,4
492
62,3
477
60,4
507 569
64,3 72,1
Nâng cao nhận thức của các tổ chức, lực lượng trong xã hội về vai trò của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ Đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là thiết chế xã hội bền vững Thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng làng, xã, dòng họ, gia đình văn hóa Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ trở về địa phương
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, năm 2012, 2013 [Phụ lục,
Bảng 41].
146
Những kết quả đánh giá trong bảng 4.5, cùng với những phân tích, đánh giá
thực trạng, những vấn đề đặt ra và một số thuận lợi, khó khăn đối với vai trò của gia
đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh niên là cơ sở quan trọng để đưa ra
các giải pháp cơ bản.
4.3.1. Nâng cao nhận thức của các tổ chức, lực lượng trong xã hội về vai
trò của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc hiện nay
Các tổ chức, lực lượng trong xã hội phải củng cố và nâng cao nhận thức về
vai trò của gia đình trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ. Củng cố quốc
phòng để khắc phục hiện tượng quá xem trọng phát triển kinh tế mà bỏ quên nhiệm
vụ BVTQ; không chú trọng khắc phục những bất công bằng xảy ra trong xã hội, ít
quan tâm đến những gia đình khó khăn, neo đơn, có công với cách mạng, gia đình ở
vùng sâu, vùng xa, gia đình có con, em đang thực hiện NVQS; coi nhiệm vụ xây
dựng nền QPTD là của quân đội, công an, mà quên mất vai trò của gia đình, dòng
họ trong đóng góp những thanh niên ưu tú, những người thân ruột thịt cho lực lượng
vũ trang.
Đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện, củng cố các giá trị, chuẩn mực của xã hội về
vai trò của gia đình, dòng họ trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ. Trong mỗi
một thời kỳ, mỗi một giai đoạn cách mạng, việc thay đổi các giá trị đạo đức, kể cả
hiến pháp và pháp luật cho phù hợp là hết sức cần thiết. Nhưng những giá trị, chuẩn
mực tốt đẹp của gia đình, dòng họ truyền thống, như: ông bà, cha mẹ mẫu mực, con
cháu hiếu thảo, tôn ti trật tự trong gia đình, dòng họ, truyền thống chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ đất nước của gia đình, dòng họ vẫn phải là các giá trị chủ đạo trong xây
dựng và phát triển xã hội mới. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, tìm ra những giá trị mới,
qua đó hoàn thiện, củng cố các giá trị, chuẩn mực của xã hội về vai trò của gia đình
đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD, BVTQ trong tình hình mới.
Khắc phục triệt để ý thức xem nhẹ vai trò của gia đình trong sự nghiệp củng
cố quốc phòng - an ninh, BVTQ trong xã hội hiện nay. Bởi vì, khi ý thức xem nhẹ
vai trò của gia đình còn tồn tại trong xã hội, nghĩa là xã hội đang xem nhẹ chính
những yếu tố tạo nên sự vững chắc của chính mình. Ngoài ra, thiết chế xã hội về vai
trò của gia đình kể cả khi được hoàn thiện cũng khó có thể phát huy hiệu quả cao
147
nhất. Điều đó có nghĩa, xã hội sẽ đánh mất bản sắc phát triển, xa rời truyền thống
đấu tranh chống giặc ngoại xâm từ ngàn xưa. Qua đó, khó huy động được nhân lực
và vật lực của gia đình vào quá trình xây dựng và BVTQ.
4.3.2. Đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực
sự là thiết chế xã hội bền vững
Phải nâng cao vị trí, vai trò của thiết chế gia đình, dòng họ trong xã hội.
Nghĩa là, phải gắn gia đình, dòng họ với xã hội, gắn thiết chế gia đình, dòng họ với
thiết chế xã hội, nhân rộng những giá trị tốt đẹp của gia đình, dòng họ (truyền thống
yêu nước chống giặc ngoại xâm, tính tôn ti, trật tự, tính ổn định) ra toàn xã hội.
Ngược lại, lấy những quy chuẩn pháp luật của thiết chế xã hội, những giá trị, chuẩn
mực đã được cộng đồng xã hội chấp nhận, ủng hộ để kiểm soát, điều tiết gia đình,
dòng họ, các chức năng của gia đình, dòng họ. Hướng thiết chế gia đình, dòng họ
vào quỹ đạo chuẩn của thiết chế xã hội.
Phải xây dựng, củng cố các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ. Các mối
quan hệ chủ đạo trong gia đình được xác định bao gồm: bố mẹ - con cái, ông bà -
các cháu, chú bác cô - các cháu, anh - chị - em với nhau. Khi các mối các hệ này
được đảm bảo, được duy trì theo các chuẩn của thiết chế gia đình, dòng họ sẽ góp
phần củng cố thiết chế gia đình, dòng họ vững bền. Ngoài ra, thiết chế gia đình,
dòng họ thông qua các quy tắc, chuẩn mực của mình phải điều tiết, kiểm soát
được các thành viên trong gia đình, dòng họ, kiểm soát được các mối quan hệ
trong gia đình, sao cho thiết chế gia đình, dòng họ được xây dựng dựa trên tiêu
chí: ông bà, bố mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, cùng nhau thực hiện mục tiêu
chung xây dựng gia đình đầm ấm, hạnh phúc, dòng họ đoàn kết, tương thân,
tương ái, xây dựng xã hội ấm no, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
trong thời kỳ mới.
Phải hạn chế, xóa bỏ các giá trị, chuẩn mực lạc hậu của thiết chế gia đình,
dòng họ, xây dựng hệ các giá trị mới phù hợp với sự phát triển của gia đình,
dòng họ trong xã hội hiện nay. Các giá trị, thiết chế lạc hậu của gia đình, dòng
họ như tính bảo thủ, trì trệ, trông chờ, ỉ lại, tính gia trưởng, những cái làm cho
gia đình, dòng họ, các thành viên trong gia đình, dòng họ khó thích nghi với cái
mới, khó có tư duy sáng tạo và cứng nhắc cần phải hạn chế, xóa bỏ. Bởi vì,
148
chính những hệ giá trị lạc hậu của thiết chế gia đình, dòng họ là một trong những
nguyên nhân cơ bản của tình trạng cục bộ địa phương, kìm nén sự phát triển
trong kinh doanh, buôn bán, trong lãnh đạo quản lý đất nước, xã hội, làm suy
giảm vai trò của thiết chế gia đình, dòng họ đối với thiết chế xã hội.
4.3.3. Thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng làng, xã, dòng họ, gia
đình văn hóa, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới
Phải thường xuyên củng cố, hoàn thiện những quy định về xây dựng làng xã,
dòng họ, gia đình văn hóa, gắn xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hoá với xây
dựng và BVTQ. Đó là, trong xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa bên cạnh
việc đưa ra được các quy định, điều ước cụ thể cũng cần phải thường xuyên củng
cố, hoàn thiện những quy ước, nhất là những quy ước về xây dựng, BVTQ cho phù
hợp với sự biến đổi của xã hội, của làng xã và của chính các dòng họ, gia đình. Bởi
vì, xã hội hiện nay là xã hội mở, luôn vận động và phát triển, những quy định, quy
ước của ngày hôm nay chưa chắc để trở thành chuẩn mực của ngày hôm sau.
Phải hiện thực hóa các quy ước về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn
hóa, kiên quyết loại bỏ những thói hư tật xấu, hiện tượng trốn, tránh NVQS và
những vi phạm pháp luật trong làng xã, dòng họ và gia đình. Khi đã đưa ra được
các giá trị, chuẩn mực về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa còn cần phải
hiện thực hóa trong đời sống. Nghĩa là, các quy ước này phải có giá trị đích thực
của nó trong việc định hướng hành vi cho tất cả các thành viên trong xã hội. Và nếu
có các hành vi vi phạm, các quy định về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn
hóa cùng với pháp luật của Nhà nước phải được sử dụng để kịp thời trừng phạt, răn
đe đối tượng vi phạm.
Phải phát huy tính cộng đồng trong xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn
hoá. Vì để xây dựng được làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa cần phải xây dựng
được các quy ước, tộc ước. Các quy ước, tộc ước này chỉ có giá trị đích thực khi
được cả cộng đồng làng xã, dòng họ nhất trí, thông qua và cùng nhau thực hiện. Khi
có sự vi phạm quy ước, tộc ước về xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa, thì
đối tượng vi phạm sẽ bị cộng đồng làng xã, dòng họ lên án, tẩy chay và đôi khi sự
lên án, tẩy chay của cộng đồng làng, xã, dòng họ còn mạnh hơn sự trừng phạt của
pháp luật.
149
4.3.4. Thường xuyên quan tâm tới gia đình có con em nhập ngũ
Chính quyền và các tổ chức đoàn thể phải thường xuyên thăm hỏi, động viên,
giúp đỡ những gia đình có con em nhập ngũ. Bởi vì, những hoạt động này vừa mang
lại niềm hạnh phúc, vinh dự cho gia đình, vừa chứng tỏ vai trò, trách nhiệm của chính
quyền và các đoàn thể trong sự nghiệp xây dựng nền QPTD, thể hiện tính cộng đồng,
tinh thần đoàn kết của làng xã Việt Nam hiện nay.
Phải thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, động viên thanh niên đang thực
hiện NVQS tại đơn vị quân đội. Biện pháp này đòi hỏi phải kết hợp giữa đơn vị với
địa phương và gia đình, dòng họ, gắn trách nhiệm của địa phương, gia đình, dòng
họ đối với thanh niên nhập ngũ. Bởi vì, khi mới nhập ngũ, thanh niên phải thay đổi
lối sống, vẫn còn vương vấn nỗi nhớ quê hương, gia đình và người thân; thanh niên
phải học tập, rèn luyện các bài tập quân sự, chính trị, phải gò mình trong khuôn khổ
của kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước nên dễ bị sa sút về ý chí, sợ môi trường
sống của quân đội, thậm chí có ý định đào bỏ ngũ.
Phải kịp thời, đảm bảo chính sách xã hội đối với gia đình có công với cách
mạng, gia đình có con em nhập ngũ. Chính sách xã hội đối với gia đình có công với
cách mạng, gia đình có con, em nhập ngũ thể hiện tính nhân đạo, ưu việt xã hội ta.
Nhưng thực tế, vẫn còn không ít những bất cập trong thực hiện chính sách đối với gia
đình có con em nhập ngũ như: khi bị ốm đau, bệnh tật, những thành viên của gia đình
có công với cách mạng, bố mẹ của thanh niên nhập ngũ không kịp thời được hưởng
chế độ bảo hiểm y tế đối với gia đình có công, với thân nhân bộ đội hoặc có được
hưởng thì cũng rất hạn chế về chăm sóc sức khoẻ và thuốc chữa bệnh; chưa được ưu
tiên trong sản xuất nông nghiệp; chưa thực sự được chính quyền địa phương quan
tâm, giúp đỡ những lúc gặp khó khăn. Hạn chế này sẽ tác động không nhỏ đến vai trò
của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, làm suy giảm sự
đúng đắn của chính sách xã hội của Nhà nước.
4.3.5. Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn
thành nghĩa vụ quân sự, xuất ngũ trở về địa phương
Quân đội cùng với chính quyền địa phương tổ chức các lớp dạy nghề cho bộ
đội xuất ngũ. Việc dạy nghề này cần phải có sự phối kết hợp giữa đơn vị quân đội
với địa phương nơi bộ đội xuất ngũ trở về. Ngay từ trong quá trình tại ngũ, đơn vị
150
quân đội cần quan tâm định hướng nghề phù hợp cho bộ đội, cần liên kết với các
trường dạy nghề trong và ngoài quân đội để giới thiệu những quân nhân có nguyện
vọng học nghề theo học; chính quyền địa phương cần tích cực, chủ động trong việc
giải quyết việc làm cho quân nhân xuất ngũ, cử cán bộ chuyên trách định hướng,
giới thiệu việc làm cho bội bộ xuất ngũ; phối hợp với cơ quan cấp trên, tạo điều
kiện hoặc ưu tiên thanh niên hoàn thành NVQS được học những nghề đang thịnh
hành trong xã hội.
Ưu tiên, hỗ trợ bộ đội hoàn thành NVQS vay vốn lập nghiệp. Đối với những
thanh niên hoàn thành NVQS không muốn theo học nghề để tìm việc làm ngoài xã
hội, mà muốn được phát triển kinh tế tại quê hương nhưng lại thiếu vốn. Trong phạm
vi có thể, chính quyền địa phương cần hỗ trợ vốn, vật nuôi, cây trồng, kỹ thuật cho
họ, hay có thể đứng ra đảm bảo để đối tượng này được ưu tiên vay vốn ở các ngân
hàng; cần tạo điều kiện, khuyến khích họ lập nghiệp tại quê hương, góp phần làm
giàu cho làng xã.
Phát hiện, bồi dưỡng những bộ đội có năng lực, tố chất, tạo điều kiện cho họ
được đào tạo chuyên sâu để phục vụ quân đội lâu dài. Vì bộ đội là một ngành nghề
đặc biệt, ngoài yếu tố sức khoẻ, phẩm chất chính trị tốt, tố chất, năng lực trí tuệ phù
hợp với nghề quân sự cũng đặc biệt quan trọng. Nhất là, trong điều kiện hiện đại
hóa quân đội, việc làm chủ được công nghệ, hay phát minh được công nghệ, vũ khí,
khí tài mới có ý nghĩa sống còn đến sức chiến đấu của quân đội. Việc phát hiện ra
những quân nhân có năng lực, tố chất đặc biệt không những làm tăng sức mạnh của
quân đội mà còn góp phần vào công tác giải quyết việc làm cho thanh niên hoàn
thành NVQS.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Quá trình gia đình, dòng họ thực hiện vai trò giáo dục, động viên con cháu
thực hiện NVQS trong những năm tới có những thuận lợi và khó khăn do các yếu tố
mang lại như: tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương, đất nước, điều
kiện kinh tế, số lượng con trai, nghề nghiệp của gia đình, vai trò của hệ thống chính
trị ở cơ sở, văn hóa kỷ cương làng xã... Do vậy, muốn phát huy tốt vai trò của gia
đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên cần luôn chú ý đến các
yếu tố thuận lợi, khắc phục triệt để những mặt tiêu cực, khó khăn của chúng.
151
Dựa trên những kết quả nghiên cứu thực trạng vai trò của gia đình, dòng họ
đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, luận án đã rút ra một số vấn đề. Ngoài
ra, trên những đánh giá, phân tích thực trạng và các giá trị có tính bền vững của gia
đình, dòng họ trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước, đấu tranh giải phóng dân
tộc, luận án đưa ra một số đánh giá. Những đánh giá này phần nào cho thấy sự gia
tăng vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
trong những năm tới đây. Điều này khẳng định giả thuyết: Trong những năm tới, vai
trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên trong giáo
dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động
viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh
niên lên đường nhập ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị
quân đội sẽ ngày càng tăng là đúng.
Hệ thống giải pháp luận án đưa ra được dựa trên các kết quả nghiên cứu, phân
tích, tổng hợp trong suốt quá trình nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc
thực hiện NVQS của thanh niên. Cho nên, những giải pháp này hoàn toàn có tính khả
thi và nếu được áp dụng đúng sẽ góp phần nâng cao vai trò của gia đình, dòng họ đối
với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay.
152
KẾT LUẬN
1. Lý luận và thực tiễn đều chỉ ra và khẳng định rằng, gia đình, dòng họ giữ vị
trí, vị thế xã hội đặc biệt quan trọng trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ,
gia đình tốt thì xã hội mới tốt, muốn xây dựng xã hội tốt đẹp phải xây dựng gia đình
ấm no, hạnh phúc, tiến bộ.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã ghi nhận sự đóng
góp to lớn, hiệu quả của gia đình, dòng họ. Gia đình, dòng họ cung cấp nhân lực,
vật lực cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, giành và giữ độc lập dân tộc. Gia đình,
dòng họ là cái nôi nuôi dưỡng ý thức giữ gìn đất nước, khơi dậy và phát huy ý thức
kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm cho mỗi thành viên, chăm lo cho con
em khi ra chiến trường đánh giặc và khi họ chiến thắng trở về. Các gia đình, dòng
họ ở Việt Nam đã thực hiện tốt vị thế tế bào cơ bản của xã hội, thiết chế xã hội
trong việc giáo dục, động viên, tổ chức cho con em đánh giặc giữ nước.
Kế tiếp truyền thống đó, trong thời kỳ xây dựng và BVTQ, các gia đình,
dòng họ đã phát huy vai trò trong việc nuôi dưỡng và phát huy ý thức BVTQ cho
con em. Đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, gia đình, dòng họ đã giáo
dục và tuyên truyền NVQS; giáo dục và động viên con em đăng ký, khám tuyển
NVQS, lên đường nhập ngũ khi có lệnh gọi; động viên và chăm lo con em trong
thời gian họ tại ngũ. Như thế, trong thời kỳ mới, gia đình và dòng họ vẫn là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục và phát huy nếp sống, hình thành nhân cách
con người sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội cho
các thế hệ thanh niên.
2. Kết quả điều tra khảo sát thực tiễn về vai trò của gia đình, dòng họ đối với
việc thực hiện NVQS của thanh niên ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội và ở một
đơn vị quân đội trong năm 2012, 2013 cho thấy: Một là, gia đình, dòng họ giữ vai
trò quan trọng nổi trội trong việc giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS.
Hai là, gia đình, dòng họ góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị nhân lực cho quân
đội, cho sự nghiệp BVTQ. Hoạt động chuẩn bị đó thông qua việc thực hiện chức
năng giáo dục, tuyên truyền NVQS, xây dựng ý thức BVTQ; giáo dục, động viên
con em nhập ngũ và thăm hỏi, động viên, chăm lo cho con em hoàn thành tốt
153
NVQS. Ba là, vai trò của gia đình, dòng họ được phát huy cao nhất, giữ vị trí quan
trọng, quyết định nhất trong việc giáo dục, động viên con em lên đường nhập ngũ
khi có lệnh gọi nhập ngũ. Thực tế chỉ ra rằng, việc bảo đảm đủ số lượng người nhập
ngũ của từng địa phương trong từng đợt tuyển quân phụ thuộc rất lớn vào quyền uy
của gia đình, dòng họ đối với thanh niên.
Vai trò là kiểu hành vi, hoạt động mà một người hay một nhóm người cần phải
thực hiện một cách tương ứng với vị thế xã hội của họ [46, tr.159]. Tập hợp vai trò
liên quan trực tiếp tới chức năng; chức năng chính là vai trò mà hành vi cá nhân hay
thiết chế xã hội đảm nhận, thực hiện. Kết quả điều tra khảo sát thực tế đã cho thấy và
khẳng định rõ, các gia đình, dòng họ luôn luôn thực hiện các công việc trong thực
hiện NVQS của thanh niên tương ứng với vị thế tế bào xã hội, thiết chế xã hội, một
giá trị, đơn vị lễ nghi. Các gia đình, dòng họ đã thực hiện đúng, tốt các chức năng,
nhất là các chức năng giáo dục, xã hội hóa, tâm lý, tình cảm đối với việc thực hiện
NVQS của thanh niên.
Kết quả điều tra khảo sát thực tế cũng chỉ ra rằng, để các nghiên cứu xã hội học
thực nghiệm về vai trò của gia đình có hiệu quả cần xác định đúng các chỉ báo, chỉ số
trên cơ sở thao tác hóa các chức năng của gia đình phù hợp với vấn đề nghiên cứu.
Các chức năng của gia đình mang tính chung, đối với các vấn đề cụ thể của cuộc
sống, các chức năng của gia đình sau khi đã thao tác hóa, xác định chỉ báo, chỉ số
mang tính riêng. Đóng góp khoa học của các công trình nghiên cứu xã hội học thực
nghiệm ở việc thao tác hóa các chức năng của gia đình, xác định chỉ báo, chỉ số phù
hợp với vấn đề nghiên cứu.
3. Kết quả điều tra khảo sát thực tế không chỉ góp phần khẳng định tính khoa
học các lý thuyết về gia đình, về vai trò xã hội, vai trò xã hội của gia đình, mà còn
khẳng định tính đúng của các giả thuyết nghiên cứu đã xác định.
Các giả thuyết khoa học: Gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên luôn thể hiện vai trò quan trọng, quyết định trong giáo dục, tuyên truyền
NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh niên tham
gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập
ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội; Vai trò của gia
đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với đặc
154
điểm của gia đình, số lượng con trai của gia đình; Trong những năm tới, vai trò của
gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên trong giáo dục, tuyên
truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ, giáo dục, động viên thanh
niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS, giáo dục, động viên thanh niên lên
đường nhập ngũ và động viên, chăm lo thanh niên đang tại ngũ ở đơn vị quân đội sẽ
ngày càng tăng về cơ bản được kiểm nghiệm là đúng. Chỉ có giả thuyết, vai trò của
gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của con cháu có mối quan hệ chặt chẽ với
số lượng con trai của gia đình chưa được chứng minh là đúng trong nghiên cứu này.
4. Nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn lực cho sự nghiệp củng cố nền QPTD,
BVTQ phải phát huy tốt vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS
của thanh niên. Muốn vậy, cần thực hiện tốt các giải pháp: Nâng cao nhận thức của
các tổ chức, lực lượng trong xã hội về vai trò của gia đình, dòng họ đối với sự
nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ; Chú trọng hơn nữa việc dạy nghề, tạo việc làm
cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ trở về địa phương; Thường xuyên quan
tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ; Đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng gia đình,
dòng họ Việt Nam thực sự là thiết chế xã hội bền vững; Thường xuyên quan tâm
đến công tác xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình văn hóa cũng sẽ góp phần to lớn
vào sự khẳng định vai trò của gia đình, dòng họ.
Trong những năm tới, quá trình thực hiện vai trò của gia đình và dòng họ đối
với thực hiện NVQS của thanh niên có nhiều thuận lợi nhưng cũng có những khó
khăn trở ngại. Điều này phụ thuộc vào nhận thức về vai trò của gia đình, dòng họ,
vào quá trình xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ; phụ thuộc vào phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước, vào sự vận hành của các thiết chế xã hội
và dư luận xã hội. Dù thế nào, vai trò của gia đình và dòng họ đối với thực hiện
NVQS của thanh niên luôn giữ vị trí quan trọng, nổi trội, quyết định và ngày càng
phát huy, phát triển, nâng cao và điều này là một xu thế.
5. Nghiên cứu vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của
thanh niên hiện nay là một nghiên cứu xã hội học có ý nghĩa thiết thực đối với sự
nghiệp củng cố nền QPTD, xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN. Kết quả nghiên
cứu đã mở ra một hướng mới nghiên cứu về gia đình trong lĩnh vực quân sự; giúp
155
cho các cấp lãnh đạo chỉ huy đơn vị có thêm những cách thức, biện pháp thực hiện
công tác gọi thanh niên nhập ngũ và quản lý thanh niên trong thời gian tại ngũ.
Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn và tương đối mới mẻ đối với xã hội học trong
lĩnh vực quân sự, do đó, vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu sâu, rộng và hệ
thống hơn.
156
KHUYẾN NGHỊ
1. Đối với Nhà nước: Nhà nước cần thường xuyên đổi mới, củng cố, hoàn
thiện chính sách và thực hiện tốt chính sách đối với gia đình có công với cách
mạng, có thân nhân thực hiện NVQS. Từ đó, tạo nên sự yên tâm, tin tưởng, khích lệ
gia đình làm tròn bổn phận, trách nhiệm của gia đình đối với việc động viên, tổ
chức cho thanh niên thực hiện NVQS.
2. Đối với các cơ quan chức năng:
- Cần phát hiện và kịp thời nêu gương những gia đình điển hình trong phát huy
vai trò đối với việc tuyên truyền, động viên, chăm lo cho thanh niên thực hiện
NVQS. Có như vậy mới tạo ra sự đồng thuận trong toàn xã hội về sự tham gia của
gia đình đối với việc giáo dục, tuyên truyền NVQS, xây dựng và củng cố nền
QPTD, BVTQ Việt Nam XHCN.
- Cần chú trọng, đẩy mạnh tạo việc làm cho thanh niên xuất ngũ, tạo điều kiện
cho thanh niên xuất ngũ có chí hướng học lên cao đẳng, đại học; có biện pháp kịp
thời, hỗ trợ thanh niên xuất ngũ được vay vốn ưu đãi để lập nghiệp. Qua đó, tạo nên
sự yên tâm, tin tưởng của gia đình nói chung, gia đình có thanh niên xuất ngũ nói
riêng, để các gia đình luôn phát huy tốt nhất vai trò đối với quá trình thực hiện
NVQS của thanh niên.
- Cần đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền để các làng xã, dòng họ, gia đình luôn
chú trọng giữ gìn, bảo tồn và phát huy những gia quy, tộc ước tốt đẹp đã hình thành
và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân
tộc, quy định các thành viên trong gia đình và dòng họ phải thực hiện nghĩa vụ đối
với quê hương, đất nước.
- Trong công tác thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay cần phải coi trọng
yếu tố đặc điểm của gia đình như nghề nghiệp, học vấn, nhất là gia đình có bố mẹ là
đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên để có thể phát huy tốt nhất vai
trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên.
3. Đối với đơn vị quân đội: Đơn vị quân đội nơi thanh niên đóng quân phải
luôn luôn coi trọng sự kết hợp với gia đình và chính quyền, các đoàn thể địa phương
để tạo nên một kênh liên lạc hữu ích giúp gia đình, dòng họ phát huy tốt nhất vai trò
trong tuyên truyền, động viên, chăm lo cho thanh niên thực hiện NVQS.
157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Bạch Hoàng Khánh (2011), “Giải pháp phát huy vai trò gia đình đối với
việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên hiện nay”, Tạp chí Giáo
dục lý luận chính trị quân sự, (1).
2. Bạch Hoàng Khánh (2012), “Vai trò của gia đình trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay”, Đại hội XI của Đảng với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 267.
3. Bạch Hoàng Khánh (2014), “Vai trò của gia đình trong thực hiện nghĩa vụ
quân sự của thanh niên”, Tạp chí Quản lý giáo dục, (2).
4. Bạch Hoàng Khánh (2014), “Phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ
sở với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của thanh niên”, Tạp chí Tuyên
giáo, (5).
158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
ơ
1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
2. Chung Á, Nguyễn Đình Tấn (1997), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. L. Therese Baker (1998), Thực hành nghiên cứu xã hội, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Ban chỉ huy quân sự thị trấn Vân Đình, Báo cáo thực hiện nhiệm vụ năm 2011,
phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2012.
5. Mai Huy Bích (2009), Xã hội học gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Tony Bilton và cộng sự (1993), Nhập môn xã hội học, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
7. Đỗ Thị Bình - Lê Ngọc Văn - Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt
Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Thanh Bình (2001), Những vấn đề cấp bách trong giáo dục con ở
tuổi thiếu niên trong gia đình thành phố hiện nay, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
9. Bộ Quốc phòng - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Hướng dẫn thực hiện một
số điều của Nghị định số 38/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2007 của
Chính phủ về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời bình đối
với công dân nam trong đội tuổi gọi nhập ngũ, Thông tư liên tịch số
175/2011/TTLT-BQP-BGDĐT, ngày 13 tháng 9 năm 2011.
10. Bộ Quốc phòng - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư liên tịch số 175/2011/TTLT-BQP-BGDĐT ngày 13 tháng
9 năm 2011 của Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 38/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm
2007 của Chính phủ về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ
thời bình đối với công dân nam trong độ tuổi gọi nhập ngũ, Thông tư liên
tịch số 13/2013/TTLT-BQP-BGDĐT, ngày 22 tháng 1 năm 2013.
159
11. Bộ Quốc phòng, Trung tâm từ điển bách khoa quân sự (2005), Từ điển Bách
khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp (2010), Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
13. Bộ Tư pháp (2007), Luật Nghĩa vụ quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Unicef và Viện Gia
đình và Giới (6/2008), Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, Hà
Nội.
15. Léopold Cadière (1997), Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Văn
hoá - Thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa & tộc người, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
17. Chính phủ (2007), Về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời
bình đối với công dân nam trong độ tuổi gọi nhập ngũ, Nghị định số
38/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2007.
18. Bruce J. Cohen, Terri L. Orbuch, Nguyễn Minh Hoà dịch (1995), Xã hội học
nhập môn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. 20. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Sự thật, Hà Nội. 21. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội. 22. Phan Đại Doãn (2008), Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế văn hóa xã
hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Phan Đại Doãn (1999), “Cơ sở kinh tế và thể chế tông pháp của dòng họ
người Việt”, Tạp chí dân tộc học, (3), Hà Nội.
24. Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc (1990), “Mối quan hệ làng, họ và gia
đình truyền thống”, Tạp chí Xã hôi học, 31 (3), tr. 26-33.
25. Phan Đại Doãn (1994), “Tìm hiểu chức năng và đặc điểm gia đình người Việt
dưới giác độ Xã hội học Lịch sử”, Tạp chí Xã hội học, số 46 (2), tr.11-19. 26. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội.
160
27. Nguyễn Chí Dũng (2006), “Kiểu loại gia đình và giáo dục trẻ em trong gia
đình ở Hà Nội hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, (2), tr.21-27.
28. Emile Durkheim, Nguyễn Gia Lộc dịch (1993), Các quy tắc của phương
pháp xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Chỉ thị 49-CT/TW về xây dựng gia đình
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 21 tháng 2 năm 2005.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Hồ Ngọc Đại (1990), “Tam giác gia đình”, Tạp chí xã hội học, 31 (1), tr. 3-5. 33. Guter Endruweit (1999), Các lý thuyết xã hội học hiện đại, Nxb Thế giới, Hà Nội. 34. Guter Endruweit, Gisela Troomsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
35. J. H. Fischer, Trần Văn Đính dịch (1973), Xã hội học, Nxb Sài Gòn (cũ). 36. Mai Văn Hai (2009), “Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá
trị cơ bản của văn hoá làng Việt trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”, Tạp chí Xã hội học, 105 (1), tr. 36-41.
37. Mai Văn Hai, Quan hệ dòng họ và những quan niệm khác nhau về vai trò
của nó, http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa.
38. Mai Văn Hai, Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ sông
Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2003), Xã hội học văn hoá, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
40. Phạm Xuân Hảo (Chủ biên) (2001), Xã hội học quân sự, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
41. Phạm Xuân Hảo (2005), Một số vấn đề xã hội học trong xây dựng quân đội, xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
42. Phạm Xuân Hảo (2006), Vai trò của gia đình trong giữ nước hiện nay, in
trong sách: Gia đình Việt Nam - Quan hệ, quyền lực và xu hướng biến đổi,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
161
43. Francois Houtart & Geneviève Lemercinier (2001), Xã hội học về một xã ở
Việt Nam (Tham gia xã hội, các mô hình văn hóa, gia đình, tôn giáo ở xã Hải
Vân), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học Kinh tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 45. Lê Ngọc Hùng (2009), Lịch sử & lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
46. Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học Giáo dục, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 47. Lê Ngọc Hùng (2013), Lý thuyết xã hội học hiện đại, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
48. Lê Ngọc Hùng - Lưu Hồng Minh đồng chủ biên (2009), Giáo trình Xã hội học, Nxb
Dân trí, Hà Nội.
49. Vũ Tuấn Huy (2002), “Vai trò của người cha trong gia đình”, Tạp chí Xã hội học, 80
(4), tr. 29-39.
50. Vũ Tuấn Huy (2006), “Những vấn đề của gia đình Việt Nam trong quá trình
biến đổi xã hội theo xu hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa”, Tạp chí Xã
hội học, 94 (2), tr. 13-20.
51. Huyện Ứng Hoà (2010), Lịch sử Đảng bộ huyện Ứng Hoà (1930 - 2010) (Tái bản
lần thứ nhất), Nxb Lao động, Hà Nội.
52. Đặng Cảnh Khanh (2005), “Gia đình là một giá trị”, Tạp chí Gia đình và trẻ em (9). 53. Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý (2007), Gia đình học, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
54. Nguyễn Linh Khiếu (1995), “Góp phần tìm hiểu các nhân tố tác động đến
tích tích cực của các gia đình trong giai đoạn hiện nay (qua khảo sát ở các
tỉnh phía Nam)”, Tạp chí Xã hội học, 52 (4), tr. 87-91.
55. Warren Kidd, Mark Kirby và các tác giả (2006), Những bài giảng về xã hội
học, Nxb Thống kê, Hà Nội.
56. John Kleinen (2013), Làng Việt đối diện tương lai hồi sinh quá khứ (2013),
Nxb Lao động, Hà Nội.
57. Hermann Korte, Nguyễn Liên Hương dịch (1997), Nhập môn lịch sử xã hội
học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
162
58. Tương Lai (Chủ biên) (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Nghiêm Sĩ Liêm (2001), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học.
60. Vũ Mạnh Lợi (2006), “Một số xu hướng và thái độ của thanh niên Việt Nam
với vấn đề việc làm”, Tạp chí Xã hội học, 52 (4), tr. 13-26.
61. Trịnh Duy Luân (2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 62. Trịnh Duy Luân và Helle Rydstrom - Wil Burghoorn đồng chủ biên (2008),
Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
63. John. J. Macionis (2004), Xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 64. Nguyễn Đức Mạnh (2002), Vai trò của gia đình đối với việc giáo dục trẻ em
hư ở thành phố (Qua nghiên cứu ở thành phố Hà Nội), Luận án Tiến sĩ Xã
hội học.
65. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 66. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. Nguyễn Hữu Minh (2006), “Gia đình - nguồn hỗ trợ tình cảm cho thanh niên
và vị thành niên”, Tạp chí Xã hội học, (3), tr. 25-39.
70. Mai Quỳnh Nam (2004), Gia đình trong tấm gương xã hội học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
71. Lê Mạnh Năm (2000), “Vai trò của gia đình nông thôn đồng bằng sông Hồng
trong vấn đề giải quyết việc làm cho con cái”, Tạp chí Xã hội học, (2), tr. 30-36. 72. Philippe Papin - Olivier Tessier chủ biên (2002), Làng ở vùng châu thổ sông
Hồng vấn đề còn bỏ ngỏ (Le Village en questions), Trung tâm Khoa học xã
hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.
73. Vũ Hào Quang (2006), Gia đình Việt Nam - Quan hệ, quyền lực và xu hướng
biến đổi, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
74. Vũ Hào Quang (2004), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 75. Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu Xã
hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
163
76. Richard T.Schaefer (2005), Xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 77. Martine Segalen (2013), Xã hội học gia đình, Nxb Thế giới, Hà Nội. 78. Jan Szczepanski (1969), Những khái niệm cơ bản của xã hội học (bản dịch tiếng
Nga), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
79. Nguyễn Đình Tấn - Lê Tiêu La đồng chủ biên (1999), Vai trò nam chủ hộ
ngư dân ven biển trong bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Nguyễn Đình Tấn - Nguyễn Chí Dũng đồng chủ biên (2007), Giáo trình xã hội học
trong quản lý (Hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
81. Nguyễn Đình Tấn (2004), Một số lý thuyết cơ bản trong lịch sử xã hội học, Trung
tâm Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
82. Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 83. Nguyễn Đình Tấn (Chủ biên) (2008), Giáo trình xã hội học, Học viện Cảnh
sát nhân dân, Hà Nội.
84. Bùi Đình Thanh (2002), “Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng”,
Tạp chí Xã hội học, 80 (4), tr. 13-19.
85. Nguyễn Quý Thanh (2008), Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội.
86. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 87. Lê Thi (Chủ biên) (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách
con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
88. Hoàng Bá Thịnh (2006), Biến đổi chức năng của gia đình và giáo dục trẻ em
hiện nay, Đại học Quốc gia Hà Nội.
89. Tổng cục Chính trị (2013), Thông báo nội bộ, (Tài liệu phục vụ sinh hoạt và
học tập ở chi bộ hàng tháng), tháng 8 năm 2013.
90. Tổng cục Chính trị (1995), Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 91. Tổng cục Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước
thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Tổng cục Chính trị (1960), Tổng kết công tác chính trị của Quân đội nhân
dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
164
93. Lê Trung Trấn (2006), “Giáo dục gia đình trong thời đại ngày nay”,
http://www.gopfp.gov.vn/so-6-51.
94. Trung tâm nghiên cứu Giới và Phát triển, Lê Thị Quý chủ nhiệm (2011), Vấn
đề gia đình trong phát triển xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Báo cáo
tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước, Mã số:
KX.02.23/06-10, Hà Nội.
95. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
96. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nguyễn Khánh Toàn chủ biên (1971),
Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Uỷ ban nhân dân xã Đại Cường, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế
- xã hội năm 2011, phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012 (Báo
cáo tại kỳ họp thứ 16, HĐND xã khoá XVIII)
98. Uỷ ban nhân dân xã Quảng Phú Cầu, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm
2013 (Báo cáo tại kỳ họp thứ 6 - HĐND xã khoá XIX)
99. Uỷ ban nhân dân xã Quảng Phú Cầu, Quy ước làng văn hóa (Làng Phú
Lương Hạ, xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa), Hà Tây - 1999.
100.Uỷ ban nhân dân xã Quảng Phú Cầu, Tộc ước Họ Đỗ Văn - Phú Lương, Bản
sửa đổi bổ sung lần thứ 2, năm 2007.
101.Đặng Nghiêm Vạn (1991), “Dòng họ, gia đình các dân tộc ít người trước sự
phát triển hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học, (2), tr.10-18.
102.Lê Ngọc Văn (1997), Gia đình với chức năng xã hội hoá, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
103.Lê Ngọc Văn (Chủ biên) (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với
gia đình Việt Nam hiện nay (Phân tích các tài liệu nghiên cứu và điều tra về
gia đình Việt Nam được tiến hành 15 năm gần đây (1990-2004), Nxb Uỷ ban
Dân số Gia đình và Trẻ em, Hà Nội.
104.Lê Ngọc Văn (Chủ biên) (2006), Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền,
quan điểm giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
165
105.Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
106.Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng (2000), Tác động
của những biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta đến quá trình xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam về chính trị trong giai đoạn mới, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
107.Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện nghiên cứu Xã hội học (1988),
Những cơ sở nghiên cứu xã hội học, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va.
108.Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
109.Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội.
110.http://citinews.net/kinh-doanh/chenh-lech-lon-ve-thu-nhap-binh-quan-dau-
nguoi-giua-cac-huyen.
111.http://dantri.com.vn/kinh-doanh/thu-tuong-gdp-binh-quan-dau-nguoi
112.http://hanoimoi.com.vn
113.http://thanglong.chinhphu.vn/
114.http://www.tienphong.vn/gioi-tre-israel-truong-thanh-trong-quan-ngu
115. http://trianlietsi.vn/
116. http://tuoitre.vn
117.http://unghoa.hanoi.gov.vn
118. http://vov.vn
II. TIẾNG ANH
119.Ambert, Anee-Marie (2006), Changing Families: Relationships in Context.
Toronto, ON: Pearson.
120.Baker, Maureen (2007), Choices and Constraints in Family Life, New York,
NY: Oxford University Press.
121.Eastman, Lloyd E (1988), Family, Fields and Ancestors, Toronto, ON:
Oxford University Press.
122.Howard, Jane (1978), Families, New York, NY: Simon & Schuster.
123.Irving, Howard H (2002), Family Mediation: Theory and Practice with
Chinese Families, Aberdeen, HK: Hong Kong University Press.
166
124.Kumagai, Fumie (2008), Families in Japan: Changes, Continuities, and
Regional Variations, Toronto, ON: University Press of America.
125.Lefebvre, Henri. 1968. The Sociology of Marx. New York, NY: Vintage.
126.Lewis, Oscar (1959), Five Families: An Intimate and Objective Revelation of
Family Life in Mexico Today-a Dramatic Study of the Culture of Poverty,
Toronto, ON: Mentor.
127.Mandell, Nancy and Ann Duffy (2005), Canadian Families 3rd Edition,
Toronto, ON: Thomson Nelson.
128. Robert V. Krejcie & Daryle W. Morgan (1970), Determining sample size
for research activities, Educational and Psychological Measurement, pp. 30,
607-610.
129.Sociology by Leonard Broom and Philip Selznick copyright 1998 by Row,
Peterson and Company Evanston, Illinois, USA.
130.https://www.census.gov
131.https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook. 132.http://www.dss.mo.gov/cd/info/cwmanual/section7. 133.http://edition.cnn.com
134.https://www.familysystemstraining.com/papers/bowen-illustration-and-
critique.
135.http://www.slideshare.net/guestb636eb/structural-family-theory.
136.https://www.thebowencenter.org/pages/murraybowen.
PHỤ LỤC
Bảng 1: Điều kiện trúng tuyển NVQS của thanh niên (với N = 789)
Điều kiện trúng tuyển NVQS của thanh niên
Mức độ đánh giá Có (SL/%) 745/94,4 653/82,7 269/34,1 365/46,3 211/26,7
Không (SL/%) 44/5,6 136/17,3 520/65,9 424/53,7 578/73,3
Có đủ điều kiện về sức khoẻ và học vấn Có tinh thần tự nguyện, xung phong Bố mẹ muốn quân đội rèn luyện con cái Thanh niên thi trượt các trường cao đẳng, đại học Không nhờ cậy ai Bảng 2: Việc nhập ngũ của thanh niên thời kỳ đất nước có chiến tranh (với N = 789) Việc nhập ngũ của thanh niên thời kỳ đất nước có chiến tranh
Mức độ đánh giá Có (SL/%) 668/84,7 194/26,4 401/50,8 202/25,6 363/46,1 518/65,7 123/15,6 85/10,8
Không (SL/%) 121/15,3 595/75,4 388/49,2 587/74,4 425/53,9 271/34,3 666/84,4 704/89,2
Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định Vì danh dự của gia đình, dòng họ Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ Vì sự động viên của gia đình, dòng họ Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước Miễn cưỡng nhập ngũ Không có sự lựa chọn nào khác Bảng 3: Vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay (với N = 789)
Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá
Rất quan trọng Quan trọng
Khó đánh giá
164/20,8 235/29,8 186/23,6
592/75,0 436/55,3 539/68,3
22/2,8 74/9,4 45/5,7
Không quan trọng 11/1,4 44/5,6 19/2,4
Mức độ đánh giá
Đóng góp về con người Đóng góp về vật chất Đóng góp về tinh thần Bảng 4: Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ (với N = 789) Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên
Rất quan trọng 380/48,2 323/40,9 309/39,2 506/64,1 391/49,6 241/30,5 166/21,1
Quan trọng 269/34,1 369/46,8 386/48,9 244/30,9 266/33,7 381/48,3 454/57,5
Không quan trọng 32/4,1 18/2,3 12/1,5 9/1,2 39/4,9 26/3,3 52/6,6
Khó đánh giá 108/13,6 79/10,0 82/10,4 30/3,8 93/11,8 141/17,9 117/14,8
Nhà trường Hệ thống chính quyền cơ sở Các tổ chức đoàn thể ở địa phương Gia đình Dòng họ Truyền thông đại chúng Bạn bè của thanh niên
Bảng 5: Vai trò của các tổ chức, lực lượng, phương tiện trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên (số lượng/ tỷ lệ %).
Vai trò của gia đình, dòng họ và hoạt động của các tổ chức, lực lượng
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198)
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Mẫu tổng thể (N=789 )
Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 349/88,8
644/81,6
218/55,1
454/57,5
211/53,7
414/52,5
403/51,1
206/52,4
396/50,2
196/49,9
142/71,7 124/62,6 105/53,0 96/48,5 97/49,0
153/77,3 112/56,6 98/49,5 101/51,0 103/52,0
148/18,8
71/18,1
365/46,2
187/47,6
41/20,7 93/46,9
36/18,2 85/42,9
106/13,4
45/11,5
23/11,6
38/19,2
Gia đình Dòng họ Nhà trường Truyền thông đại chúng Hệ thống chính quyền cơ sở Bạn bè thanh niên Ban, ngành, đoàn thể địa phương Tự tìm hiểu Bảng 6: Cảm nhận của gia đình khi thanh niên đến tuổi nhập ngũ, đi đăng ký khám tuyển, rồi trúng tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %).
Cảm nhận của gia đình
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198)
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Mẫu tổng thể (N=789 )
Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 358/ 91,1
160/ 80,8
Phấn khởi, tự hào
157/ 79,3
Băn khoăn, lo lắng
28/ 14,1
23/ 11,6
81/ 20,6
120/ 60,6
125/ 63,1
296/ 75,3
14/ 7,1
11/ 5,6
52/ 13,2
675/85, 6 132/16, 7 541/68, 6 77/9,8
Cơ hội để thanh niên rèn luyện Muốn con em được miễn, hoãn
Bảng 7: Hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện vai trò trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).
Những hoạt động giáo dục, tuyên truyền của gia đình, dòng họ
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Mẫu tổng thể (N=789 )
Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 218/ 55,5
89/ 45,0
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 86/ 43,4
393/49, 8
93/ 46,9
87/ 43,9
213/ 54,2
383/48, 5
95/ 48,0
102/ 51,5
197/ 50,1
281/ 71,5
130/ 65,7 127/ 64,1
394/49, 9 538/68, 2
272/ 69,2
122/ 61,6 120/ 60,6
514/65, 1
là
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Con em tự tìm hiểu
59/ 29,8
57/ 28,8
69/ 17,6
185/23, 4
Vai trò của gia đình, dòng họ và hoạt động của các tổ chức, lực lượng
Mẫu tổng thể (N=789 )
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198)
Bảng 8: Vai trò của các lực lượng, tổ chức, cá nhân trong gặp gỡ, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %). Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 195/49,6
Chủ tịch, phó chủ tịch xã
95/ 48,0
81/ 40,9
371/47,
309/78,6
152/ 76,8
147/ 74,2
294/74,8
139/ 70,2
130/ 65,7
319/81,2
157/ 79,3
158/ 79,8
Chỉ huy trưởng, chỉ huy phó quân sự xã Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn Trưởng thôn
303/77,1
143/ 72,2
128/ 64,6
Đoàn thanh niên
Hội phụ nữ
133/ 67,2
129/ 65,2
250/63,6
Hội cựu chiến binh
140/ 70,7
138/ 69,7
267/67,9
Người thân trong dòng họ
116/ 58,6
122/ 61,6
219/55,7
Người thân trong gia đình
160/ 80,8
176/ 88,9
328/83,5
Bạn bè của thanh niên
170/43,3
89/ 44,9
88/ 44,4
10/2,5
0/0,0
0/0,0
0 608/77, 1 563/71, 4 634/80, 4 574/72, 8 512/64, 9 545/69, 1 457/57, 9 664/84, 2 347/44, 0 10/1,3 Không có ai Bảng 9: Hoạt động gia đình, dòng họ thực hiện vai trò trong gặp gỡ, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %).
Những hoạt động của gia đình, dòng họ
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Mẫu tổng thể (N=789 )
Nhóm đối tượng khảo sát Bố mẹ của thanh niên không trúng tuyển NVQS (N=393) 328/ 83,5
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS (N=198) 138/ 69,7 141/ 71,2
607/76, 9
118/ 59,6 112/ 56,6
172/ 43,8
402/51, 0
129/ 65,2 132/ 66,7
259/ 65,9
520/65, 9
Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS
117/ 59,1 119/ 60,1
179/ 45,5
415/52, 6
105/ 53,0 104/ 52,5
161/ 41,0
370/46, 9
113/ 57,1 118/ 59,6
277/ 70,5
508/64, 4
17/ 8,6
10/ 5,1
28/ 7,1
55/7,0
Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Gia đình để con, cháu tự đi khám tuyển NVQS
Bảng 10: Gia đình, dòng họ và các tổ chức lực lượng trong giáo dục, động viên thanh niên trúng tuyển NVQS (số lượng/ tỷ lệ %).
Nhóm đối tượng khảo sát
Những hoạt động của các tổ chức, lực lượng
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 125/ 63,1
148/ 74,7
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 273/ 68,9
Trưởng họ và bác chú cô trong họ Cựu chiến binh Cụ già trong thôn Bạn bè thanh niên Người thân trong gia đình
44/ 22,2 40/ 20,2 49/ 24,7 145/ 73,2
31/ 15,7 30/ 15,2 63/ 31,8 180/ 90,9
75/ 18,9 70/ 17,7 112/ 28,3 325/ 82,1
Mức độ đánh giá
Bảng 11: Lý do không lên đường nhập ngũ của thanh niên (với N = 393). Vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh niên có giấy gọi trúng tuyển NVQS, chuẩn bị nhập ngũ
Có (SL/%) 114/29,0 49/12,5 28/7,1 70/17,8
Không (SL/%) 279/71,0 344/87,5 365/92,9 323/82,2
115/29,3 243/61,8 46/11,8
278/70,7 150/38,2 347/88,2
Do con em không đủ điều kiện về sức khoẻ Do con em không đủ điều kiện về học vấn Do gia đình không muốn con em nhập ngũ Do điều kiện gia đình neo đơn, khó khăn nên con em được miễn, hoãn Do chỉ tiêu tuyển quân ít nên con em không trúng tuyển Do con em đã có giấy gọi vào cao đẳng, đại học Do con em không muốn nhập ngũ nên tìm mọi cách để không trúng tuyển
Số lượng
Tỷ lệ %
Bảng 12: Lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em Lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em
98,5 1,5 100,0
387 6 393
Có lựa chọn Không lựa chọn Tổng Bảng 13: Những lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em
Tỷ lệ %
Số lượng
44,3 19,6 34,6 1,5 100,0
174 77 136 6 393
Những lựa chọn của bố, mẹ thanh niên về việc thực hiện NVQS của con em Muốn con em trúng NVQS Muốn con em ở nhà Muốn con em đi học Không lựa chọn Tổng Bảng 14: Những hoạt động của gia đình, dòng họ đối với thanh niên trước khi lên đường nhập ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).
Nhóm đối tượng khảo sát
Những hoạt động của gia đình, dòng họ
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198)
Bố,mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396)
189/ 95,5
195/ 98,5
384/97,0
114/ 57,6
148/ 74,7
262/66,2
60/ 30,3
62/ 31,3
122/30,8
44/ 22,2 35/ 17,7
51/ 25,8 44/ 22,2
95/24,0 79/19,9
Gia đình tổ chức liên hoan, mời đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú, bác, cô trong dòng họ, mời bạn bè của thanh niên đến chia tay thanh niên Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên Dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên Đại diện người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội
Bảng 15: Dòng họ tham gia giáo dục, động viên thanh niên làm NVQS khi có
giấy gọi nhập ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).
Nhóm đối tượng khảo sát
Sự tham gia giáo dục, động viên thanh niên làm NVQS của dòng họ
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 155/78,3
Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 158/79,8
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 313/79,0
Có
23/11,6
11/5,6
34/8,6
Không
21/10,6
28/14,1
49/12,4
Không rõ Bảng 16: Những cá nhân, tổ chức được gia đình mời trong liên hoan chia tay
thanh niên (số lượng/ tỷ lệ %).
Những cá nhân, tổ chức được gia đình mời trong liên hoan chia tay thanh niên
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198)
Bố mẹ thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 92/23,2
Đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền,
Nhóm đối tượng khảo sát Thanh niên đang tại ngũ (N=198) 33/16,7
59/29,8
đoàn thể địa phương
Những người thân trong trong dòng họ
337/85,1
Bạn bè thân thiết của thanh niên
314/79,3
178/89,9 143/72,2
159/80,3 171/86,4
Bảng 17: Những người thân trong gia đình quan tâm, lo lắng cho thanh niên
tại ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).
Nhóm đối tượng khảo sát
Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Ông Bà Bố Mẹ Anh chị em
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 12/ 6,1 9/ 4,5 60/ 30,3 93/ 47,0 24/ 12,1
6/ 3,0 9/ 4,5 67/ 33,8 98/ 49,5 18/ 9,1
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 18/4,5 18/4,5 127/32,1 191/48,3 42/10,6
Bảng 18: Những hoạt động chăm lo, động viên của gia đình, dòng họ đối với
thanh niên đang tại ngũ (số lượng/ tỷ lệ %).
Nhóm đối tượng khảo sát
Sự quan tâm, lo lắng của các thành viên trong gia đình
Thanh niên đang tại ngũ (N=198)
Gia đình gọi điện, viết thư Gia đình đến đơn vị thăm Gia đình nhờ cậy người giúp đỡ Gia đình gửi tiền hoặc hiện vật Dòng họ đến đơn vị thăm
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và (N=198) 111/ 56,1 108/ 54,5 46/ 23,2 30/ 15,2 32/ 16,2
127/ 64,1 103/ 52,0 62/ 31,3 17/ 8,6 45/ 22,7
Bố mẹ của thanh niên trúng tuyển NVQS và thanh niên đang tại ngũ (N=396) 238/ 60,1 211/ 53,3 108/ 27,3 47/ 11,9 77/ 19,4
Bảng 19: Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 591).
Các yếu tố tác động đến vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
Mức độ đánh giá Có (SL/%) 393/66,5 384/65,0 424/71,7 350/59,3 350/59,2 306/51,8 315/53,3 325/55,0 311/52,5 361/61,1 314/53,1 289/48,9
Không (SL/%) 198/33,5 207/35,0 167/28,3 241/40,7 241/40,8 285/48,2 276/46,7 266/45,0 280/47,5 230/38,9 277/46,9 302/51,1
Nghề nghiệp của gia đình Điều kiện kinh tế của gia đình Số lượng con trai trong gia đình Gia đình có bố mẹ là đảng viên và gia đình không có bố mẹ là đảng viên Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Điều kiện kinh tế của địa phương Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở Sự cố kết của dòng họ Truyền thống thực hiện NVQS của dòng họ Phương tiện truyền thông đại chúng Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch Bảng 20: Mối quan hệ giữa số lượng con trai trong gia đình với vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (tỷ lệ %, với N = 591).
Số lượng con trai của gia đình
Vai trò giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
1 con trai
117/39,1
2 con trai trở lên 147/50,3
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em *
114/38,1
116/39,7
130/43,5
129/42,2
216/72,2
215/73,6
206/68,9
188/64,4
63/21,1 299
59/20,2 292
Dòng họ nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Con em tự tìm hiểu Tổng
Bảng 21: Mối quan hệ giữa số lượng con trai trong gia đình với vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (tỷ lệ %, với N = 591).
Vai trò giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS
Số lượng con trai của gia đình
1 con trai
238/79,6
2 con trai trở lên 228/78,1
130/43,5
134/45,9
196/65,6
192/65,8
130/43,5
146/50,0
127/42,5
118/40,4
192/64,2
198/67,8
28/9,4 299
17/5,8 292
Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Con em tự đi khám NVQS Tổng
Bảng 22: Số lượng thành viên trong gia đình, số thế hệ, số lượng con trai, con gái trong gia đình.
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Số lượng thành viên trong gia đình
Với N = 591 Số lượng
Với N = 591 Số lượng
Số lượng thành viên trong gia đình
2-4 người
251
45,2
195 145
31,6 23,2
5 người 6 người trở lên
0,3 2,7 39,4 33,0 18,7 5,6 0,3 100,0 Tổng
2 người 3 người 4 người 5 người 6 người 7 người 8 người Tổng
Số thế hệ trong gia đình
Số lượng/ tỷ lệ %
299/50,6 257/43,5 35/5,9
591 Số lượng con gái 0 con 1 con 2 con 3 con
100,0 Số lượng/ tỷ lệ % 161/27,2 313/53,0 109/18,4 8/1,4
2 16 233 195 110 33 2 591 Số Số lượng/ lượng tỷ lệ % con trai 2 thế hệ 1 con 377/63,8 3 thế hệ trở lên 214/36,2 2 con 3 con trở lên Bảng 23: Nghề nghiệp của gia đình
Nghề nghiệp
Với N = 591
Nghề nghiệp
Với N = 198
của gia đình
của gia đình
Số
Tỷ lệ %
Số
Tỷ lệ
%
lượng
lượng
244
41,3
Nông nghiệp
60
30,3
Nông nghiệp
264
44,7
Nông nghiệp
103
52,0
Nông nghiệp
hỗn hợp
hỗn hợp
83
14,0
Phi nông
35
17,7
Phi nông
nghiệp
nghiệp
591
198
100,0
100,0 Tổng
Tổng
Bảng 24: Mối quan hệ giữa nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).
Vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
Nghề nghiệp của gia đình Nông nghiệp hỗn hợp (SL/ %) 122/46,2
Phi nông nghiệp (SL/ %) 56/67,5
Nông nghiệp (SL/ %) 86/35,2
88/36,1
105/39,8
40/48,2
108/44,3 178/73,0
119/45,1 193/73,1
39/47,0 61/73,4
172/70,5
170/64,4
52/62,7
48/19,7 244
53/20,1 264
21/25,3 83
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ dạy bảo, nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Để con cháu tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ Tổng
Bảng 25: Mối quan hệ giữa nghề nghiệp của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi (với N = 198).
Nghề nghiệp của gia đình
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có lệnh gọi
Nông nghiệp (SL/ %)
Nông nghiệp hỗn hợp (SL/ %)
Phi nông nghiệp (SL/ %)
44/73,3
41/39,8
19/54,3
4/6,7
43/41,7
13/37,1
Dòng họ tổ chức gặp mặt, động viên, khích lệ thanh niên * Dòng họ phân công người giúp đỡ gia đình có thanh niên trúng tuyển NVQS * Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên *
3/5,0
23/22,3
18/51,4
9/15,0
21/20,4
5/14,3
60/100,0
98/95,1
31/88,6
60
103
35
Đảng viên của gia đình
Tỷ lệ %
Đại diện người thân trong dòng họ cùng tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội Gia đình tổ chức gặp mặt, mời đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương, mời chú, bác, cô trong dòng họ, mời bạn bè của thanh niên đến chia tay thanh niên * Tổng Bảng 26: Đảng viên của gia đình Với N = 591 Đảng viên của gia đình Số lượng 62
10,5
Với N = 198 Số lượng 19
Tỷ lệ % 9,6
529
89,5
179
90,4
Bố hoặc mẹ là đảng viên Bố hoặc mẹ không là đảng viên
591
198
100,0
Bố hoặc mẹ là đảng viên Bố hoặc mẹ không là đảng viên Tổng
100,0 Tổng
Bảng 27: Mối quan hệ giữa đảng viên của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591).
Đảng viên của gia đình
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS
Bố mẹ là đảng viên (SL/ %) 25/40,3
Bố mẹ không là đảng viên (SL/ %) 152/28,7
19/30,6
95/17,9
25/40,3
112/21,2
26/41,9
131/24,7
18/29,0
92/17,4
42/67,7
348/65,8
5/8,1 62
47/8,9 529
Với N = 428
Học vấn của bố thanh niên
Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định * Dòng họ gặp mặt thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên * Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ * Gia đình giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc Con em tự đi khám NVQS Tổng Bảng 28: Học vấn của gia đình Học vấn của gia Với N = 591 đình
Số lượng 41 271 89 27 428
Tỷ lệ % 9,6 63,3 20,8 6,3 100,0
Số lượng 61 367 130 33 591
Tỷ lệ % 10,3 62,1 22,0 5,6 100,0
Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp trở lên Tổng
Tiểu học Trung học cơ sở Trung học phổ thông Trung cấp trở lên Tổng Bảng 29: Mối quan hệ giữa học vấn của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591).
Học vấn của bố thanh niên
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS
Tiểu học (SL/%) 31/75,6
THCS (SL/%) 222/81,9
THPT trở lên (SL/%) 97/83,6
18/43,9
100/36,9
67/57,8
21/51,2
168/62,0
78/67,2
17/41,4
125/46,1
76/65,5
16/39,0
109/40,2
57/49,1
18/43,9
196/72,3
71/61,2
Gia đình phải thường xuyên giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên, khích lệ * Những người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS Người thân trong gia đình động viên đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc * Gia đình để con, cháu tự đi khám tuyển NVQS
1/2,4
25/9,2
9/7,8
41
271
116
Tổng
7-10tr
Thu nhập bình quân một tháng của gia đình Dưới 3tr Trên 10tr
3-dưới 7tr
Bảng 30: Số lượng thành viên trong gia đình với thu nhập bình quân một tháng của gia đình (số lượng) Số lượng thành viên trong gia đình
4 36 47 25 10 122
10 163 107 68 10 358
4 4 2 4 14
Tổng (số lượng) 2 16 233 195 110 33 2 591
2 người 3 người 4 người 5 người 6 người 7 người 8 người Tổng
Thu nhập bình quân người/ tháng
2 2 30 37 15 9 2 97 Số lượng 42 242 307 591
Tỷ lệ % 7,1 40,9 52,0 100,0
Trên 2 triệu Từ 1 - dưới 2 triệu Dưới 1 triệu Tổng Bảng 31: Mối quan hệ giữa thu nhập của gia đình với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591).
Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
Thu nhập bình quân người/ tháng Dưới 1 Từ 1-dưới triệu 2 triệu (SL/ %) (SL/ %) 156/50,8 86/35,5
Từ 2 triệu trở lên (SL/ %) 22/52,4
11/26,2
63/26,0
156/50,8
14/33,3
87/36,0
158/51,5
40/95,2
196/81,0
195/63,5
21/40,4
173/71,5
196/63,8
10/23,8 42
40/16,5 242
72/23,5 307
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em* Dòng họ thường xuyên nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy ước trong các buổi sinh hoạt của dòng họ* Gia đình định hướng thanh niên theo nghề quân đội* Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con, cháu về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành* Dòng họ giúp con, cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ* Để con, cháu tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ Tổng
Bảng 33: Mối quan hệ giữa điều kiện kinh tế của địa phương với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ và (với N = 591).
Nơi ở
Thu nhập bình quân người/ tháng
Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ
1 triệu trở lên 20/15,5
Dưới 1triệu 47/42,3
29/22,5
59/53,2
Quảng Phú Cầu
38/29,4 117/90,7
55/49,5 63/56,8
118/91,5
82/73,9
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *
129 77/71,9
111 76/61,1
33/30,8
55/47,8
Tổng Vân Đình
40/37,4 87/81,3
47/40,9 85/73,9
50/46,7
59/51,3
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ
107 11/22,9
115 33/40,7
12/25,0
42/51,9
Tổng Đại Cường
23/47,9 32/66,7
56/69,1 47/58,0
30/62,5
55/67,9
Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ * Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ
48
81
Tổng
Đại Vân Quảng Phú Cầu Cường Đình 33/20,9 57/66,3 22/31,0
40/25,3 27/31,4 22/31,0
53/33,5 35/40,7 40/56,3
Bảng 34: Mối quan hệ giữa hệ thống chính trị cơ sở với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ (với N = 591). Hệ thống chính trị cơ sở
129/81,6 71/82,6 40/56,3
Gia đình, dòng họ giáo dục, tuyên truyền NVQS cho thanh niên chưa đến tuổi nhập ngũ Gia đình kể chuyện chiến đấu, chống giặc ngoại xâm, BVTQ cho con em * Dòng họ thường xuyên nhắc nhở con cháu thực hiện nghiêm quy ước của dòng họ Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội * Gia đình dạy bảo, nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc khi đến tuổi trưởng thành * Dòng họ giúp con cháu hiểu rõ việc thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ *
140/88,6 46/53,5 50/70,4
158 86 71 Tổng
Đại Cường 57/77,0
Quảng Vân Đình Phú Cầu 105/81,4 88/79,3
31/41,9
56/43,4
54/48,6
63/85,1
60/46,5
82/73,9
35/47,3
62/48,1
54/48,6
30/40,5
65/50,4
41/36,9
44/59,5
85/65,9
66/59,5
Bảng 35: Mối quan hệ giữa cộng đồng làng xã với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ khi có giấy gọi (với N = 591). Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đăng ký, khám tuyển NVQS Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Cộng Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động đồng viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * làng Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh xã niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc
Tổng
129
111
74
Vân Đình
Đại Cường
Quảng Phú Cầu
Gia đình, dòng họ giáo dục, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS
118/89,4
113/77,9
56/76,7
32/43,8
48/36,4
77/43,4
114/78,6
59/80,8
56/42,4
41/56,2
47/35,6
69/47,6
24/32,9
57/43,2
49/33,8
Bảng 36: Mối quan hệ giữa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với vai trò của gia đình, dòng họ trong giáo dục, động viên thanh niên tham gia đăng ký, khám tuyển NVQS (với N = 591). Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
103/78,0
52/71,2
96/66,2
Gia đình giáo dục, nhắc nhở thanh niên đi khám tuyển NVQS đúng thời gian quy định * Dòng họ gặp mặt những thanh niên có giấy gọi đăng ký, khám tuyển NVQS để giáo dục, động viên Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi đăng ký, khám tuyển NVQS * Người thân trong gia đình động viên, đưa thanh niên đến nơi đăng ký, khám tuyển NVQS * Dòng họ giáo dục thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ cương của gia đình, dòng họ Gia đình giúp thanh niên hiểu rõ việc đăng ký, khám tuyển NVQS là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc
132
145
73
Tổng
Bảng 37: Những thuận lợi và khó khăn trong việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS những năm tới (với N = 789).
Mức độ đánh giá
Những thuận lợi và khó khăn trong việc gia đình, dòng họ thực hiện vai trò đối với thanh niên về NVQS những năm tới
Thuận lợi (SL/ %) 510/64,7 488/61,8 517/65,5 421/53,3 390/49,4 449/56,9
Khó khăn (SL/ %) 279/35,3 301/38,2 272/34,5 368/46,7 399/51,6 340/43,1
789/100,0
Tình hình kinh tế, xã hội của địa phương, đất nước Điều kiện kinh tế, quy mô, cơ cấu nghề nghiệp gia đình Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở Tổng Bảng 38: Nơi ở với nghề nghiệp của bố mẹ thanh niên và thu nhập bình quân một tháng của gia đình (với N = 789).
Nghề nghiệp của bố mẹ thanh niên
Nơi ở
Tổng
Nông nghiệp hỗn hợp (SL/ %) 164/68,3 87/39,2 13/10,1 11/5,6 275
Nông nghiệp Phi nông nghiệp (SL/ %) (SL/ %) 74/30,9 2/0,8 57/25,7 78/35,1 113/87,6 3/2,3 159/80,3 28/14,1 111 403 Thu nhập bình quân một tháng của gia đình
Quảng Phú Cầu Vân Đình Đại Cường Khác (chiến sĩ tại ngũ) Tổng Nơi ở
240 222 129 198 789 Tổng
Quảng Phú Cầu Vân Đình Đại Cường
2 triệu trở lên (SL/ %) 19/7,9 17/7,7 6/4,7 42
Từ 1 đến dưới 2 triệu (SL/ %) 110/45,8 90/40,5 42/32,6 242
Dưới 1 triệu (SL/ %) 111/46,3 115/51,8 81/62,8 307
240 222 129 591
Tổng
Bảng 39: Những vấn đề đặt về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).
Những vấn đề đặt về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
Mức độ đánh giá Có (SL/ %)
Không (SL/ %)
492/62,4
297/37,6
550/69,7
239/30,3
562/71,2
227/28,8
428/54,2
361/45,8
455/57,7
334/42,3
Nhận thức của các tổ chức, lực lượng về vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS, BVTQ của thanh niên Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên, đáp ứng yêu cầu xây dựng và củng cố nền QPTD Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng trong giáo dục, động viên thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ thời kỳ mới Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và củng cố nền QPTD, BVTQ thời kỳ mới Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Tổng
789/100,0
Bảng 40: Vai trò của gia đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo (với N = 789).
Vai trò của gia đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ từ nay đền năm 2020
Mức độ đánh giá Không (SL/ %) 147/18,6
Có (SL/ %) 642/81,4
502/63,6
287/36,4
248/31,4
541/68,6
761/96,5
28/3,5
297/37,7
492/62,3
789/100,0
Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện NVQS Tổng Bảng 41: Giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên (với N = 789).
Giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với
Mức độ đánh giá Không (SL/ %)
Có (SL/ %)
việc thực hiện NVQS của thanh niên
571/72,4
218/27,6
492/62,3 477/60,4 507/64,3 569/72,1
297/37,7 312/39,6 282/35,7 220/27,9
407/51,6
382/48,8
789/100,0
Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến TN trong quá trình thực hiện NVQS Tổng
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
1. GIA ĐÌNH CÓ THANH NIÊN NHẬP NGŨ
1. Ông, bà vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân và gia đình:
1.Gia đình ông, bà ở xóm, thôn:……… xã:……………(ở tổ……thị trấn…..............)
2.Tuổi:…………………… 3.Giới tính: 1.Nam: 2.Nữ:
4.Dân tộc: 1.Kinh 2.Khác 5.Tôn giáo: 1.Có 2.Không
6.Nghề nghiệp chính của ông, bà (xin ghi rõ):…………………………………………
7.Nghề nghiệp phụ của ông bà (xin ghi rõ):……………………………………………
8.Thu nhập chính của gia đình ông bà là từ: 1.Nghề chính: 2.Nghề phụ:
9.Ông, bà có là đảng viên không: 1.Có 2.Không
10.Gia đình ông, bà có mấy nhân khẩu (xin ghi rõ):……………………………………
11.Gia đình ông, bà có mấy thế hệ: 1.Hai thế hệ 2.Ba thế hệ trở lên
12.Ông, bà có mấy: 1.Con trai:………………….. 2.Con gái:……………….
13.Dòng họ của ông là Họ (xin ghi rõ):…………………………………………………
14.Thành phần xuất thân của ông bà: 1.Nông dân 2.Công nhân
3.Trí thức 4.Thành phần khác
15.Ông, bà học hết: 1.Cấp 1 2.Cấp 2 3.Cấp 3
4.Trung cấp 5.Cao đẳng, đại học trở lên
16.Mức thu nhập bình quân trong một tháng hiện nay của gia đình ông, bà?
1.Dưới 3 triệu 2.Từ 3 đến dưới 7 triệu
3.Từ 7 đến 10 triệu 4.Trên 11 triệu
17.Mức thu nhập hiện nay của gia đình ông, bà so với 5 năm trước?
1.Tốt hơn 2.Như trước
3.Kém hơn 4.Khó đánh giá
2. Trong gia đình ta có ai đã và đang phục vụ trong quân đội không?
1.Ông 2.Bà 3.Chồng 4.Vợ 5.Con trai 6.Con gái 7.Không có ai
3. Trong dòng họ của ông, bà, hiện nay có người nào đang phục vụ trong quân đội
không?
1.Có 2.Không 3.Không rõ
4. Khi chưa nhập ngũ, con, em của ông bà được tuyên truyền, giáo dục về NVQS,
BVTQ chủ yếu từ:
1.Gia đình
2.Dòng họ
3.Nhà trường
4.Phương tiện truyền thông đại chúng
5.Hệ thống chính quyền cơ sở
6.Bạn bè
7.Ban, ngành, đoàn thể ở địa phương
8.Con, em tự tìm hiểu
5. Ông, bà cảm thấy như thế nào khi có con, em được gọi nhập ngũ?
1.Phấn khởi, tự hào
2.Băn khoăn, lo lắng
3.Con, em có cơ hội tốt để rèn luyện trong môi trường quân đội
4.Muốn con, em được miến, hoãn
6. Trước độ tuổi nhập ngũ, gia đình, dòng họ đã giáo dục thanh niên về NVQS,
BVTQ như thế nào?
1. Gia đình thường xuyên kể những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,
BVTQ cho con, em.
2. Trong các buổi sinh hoạt của dòng họ, nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy
ước của dòng họ về NVQS, BVTQ.
3. Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội
4. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ
quốc khi đến tuổi trưởng thành.
5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống,
kỷ cương của gia đình, dòng họ.
6. Gia đình để con em tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ
7. Trong quá trình được tuyển chọn nhập ngũ, con, em của ông, bà đã được các tổ
chức, cá nhân nào gặp gỡ, động viên?
1.Chủ tịch, phó chủ tịch xã
2.Xã đội trưởng, xã đội phó
3.Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn
4.Trưởng thôn
5.Đoàn thanh niên
6.Hội phụ nữ
7.Hội cựu chiến binh
8.Những người thân trong dòng họ
9.Người thân trong gia đình
10.Bạn bè của con, em
11.Không có ai
8. Trong quá trình khám tuyển NVQS, gia đình, dòng họ đã giáo dục, động viên
con em như thế nào?
1. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian
2. Dòng họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi khám tuyển NVQS trong
dòng họ để động viên, khuyến khích
3. Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi khám tuyển NVQS
4. Người thân trong gia đình đưa con em đi khám tuyển NVQS
5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ
cương của gia đình, dòng họ
6. Gia đình giúp con em hiểu rõ việc khám tuyển NVQS là trách nhiệm của công dân
7. Gia đình để con em tự đi khám tuyển NVQS
9. Theo ông, bà sự cố kết của dòng họ hiện nay như thế nào?
1.Bền chặt 2.Không bền chặt 3.Không rõ
10. Ở địa phương ông, bà, các dòng họ có tham gia động viên thanh niên làm
NVQS hàng năm không?
1.Có 2.Không 3.Không rõ
11. Dòng họ của ông, bà đã có những hoạt động nào trong quá trình tuyển quân hàng
năm?
1.Họp dòng họ tổ chức liên hoan, gặp mặt, động viên thanh niên trong dòng họ nhập ngũ
2.Phân công người trong dòng họ động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS
3.Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS
4.Dòng họ cử người tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội
5.Dòng họ cử người tham gia cùng các đoàn đại biểu của địa phương đến đơn vị quân
đội thăm hỏi, động viên thanh niên đang tại ngũ
12. Trong gia đình, dòng họ, ai là người có ảnh hưởng tới các quyết định của thanh
niên nhất?
1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh chị em
6.Các chú, bác, cô, dì trong dòng họ 7.Các anh chị em trong dòng họ
13. Khi được lệnh nhập ngũ, trong dòng họ, hàng xóm, gia đình ai là người động
viên, khuyên nhủ thanh niên nhiều nhất?
1.Trưởng họ
2.Chú, bác, cô, dì trong dòng họ
3.Các bác cựu chiến binh trong thôn
4.Các cụ già trong làng xóm
5.Bạn bè cùng trang lứa
6.Người thân trong gia đình
14. Trước khi nhập ngũ, gia đình có tổ chức liên hoan chia tay cho con, em không?
1.Có 2.Không
Nếu có, gia đình mời những ai tham dự?
1.Đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương
2.Chú bác trong dòng họ
3.Bạn bè của con, em
4.Những người khác (xin ghi rõ):………………………………………………………
15. Khi đang tại ngũ, trong gia đình ai là người lo lắng cho con, em nhiều nhất?
1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 4.Anh chị em
16. Khi đang tại ngũ, người thân trong gia đình, dòng họ có những hoạt động nào
sau đây đối với con, em:
1.Thường xuyên gọi điện, viết thư động viên thăm hỏi
2.Thường xuyên đến đơn vị thăm
3.Nhờ cậy người quan tâm, giúp đỡ
4.Gửi tiền hoặc hiện vật
5.Hoạt động khác (xin ghi rõ):………………………………………………………… 17. Ông, bà đánh giá như thế nào về vai trò của các tổ chức, lực lượng
với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ?
Mức độ đánh giá Nội dung đánh giá
Không quan trọng Khó đánh giá
Rất quan trọng Quan trọng
1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè của thanh niên 18. Theo ông, bà, con, em trong gia đình thực hiện NVQS, BVTQ vì
những lý do chủ yếu nào sau đây:
1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định 2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ 3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ 4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ 5.Để rèn luyện bản thân 6.Do thi trượt đại học, cao đẳng 7.Để có cơ hội việc làm sau khi hoàn thành NVQS
19. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, theo ông, bà yếu tố nào chi phối vai trò
gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
1.Nghề nghiệp của gia đình
2.Điều kiện kinh tế của gia đình
3.Số lượng con trai trong gia đình
4.Gia đình có đảng viên và gia đình không có đảng viên.
5.Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
6.Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, đất nước.
7.Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.
8.Truyền thống thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ
9.Sự cố kết của dòng họ
10.Phương tiện truyền thông đại chúng
11.Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã
12.Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
20. Theo ông, bà, trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, việc nhập ngũ của thanh
niên như thế nào?
1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định
2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ
3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ
4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ
5.Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân
6.Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước
21. Ông, bà cho biết vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay?
Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá
Rất quan trọng Quan trọng
Không quan
Khó đánh
trọng
giá
Đóng góp về con người
Đóng góp về vật chất
Đóng góp về tinh thần
22. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện
nay, theo ông, bà cần đặt ra những vấn đề nào dưới đây:
1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng
2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng, củng cố nền QPTD
3. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ XD nền QPTD, BVTQ
4.Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu XDQĐ thời kỳ mới
5. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng
6.Vấn đề khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………
23. Theo ông, bà, từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo, vai trò của gia
đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ sẽ như thế nào?
1.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ
2.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em
3.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS
4.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ
5.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện NVQS
24. Ông, bà cho biết những thuận lợi, khó khăn để gia đình, dòng họ thực hiện vai
trò với thanh niên nhập ngũ hiện nay? Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá
Thuận lợi
Khó khăn
Sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất nước Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình
25. Để tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh
niên, theo ông, bà cần phải thực hiện những biện pháp chủ yếu nào sau đây?
1.Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phong, BVTQ
2.Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững
3.Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương
4.Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ
5.Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ
6.Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến thanh niên trong quá trình thực
hiện NVQS
7.Khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………………
2. THANH NIÊN NHẬP NGŨ
1. Đồng chí vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân và gia đình:
1.Trước nhập ngũ đồng chí ở: Quận (thị xã,thị trấn) hay huyện..........Tỉnh, TP………
2.Dân tộc: 1.Kinh 2.Khác 3.Tôn giáo: 1.Có 2.Không
4.Nghề nghiệp của bố, mẹ đồng chí (xin ghi rõ):………………………………………
5.Gia đình đồng chí có là đảng viên không: 1.Có 2.Không
6.Gia đình đồng chí có mấy nhân khẩu (xin ghi rõ):……………………………………
7.Gia đình đồng chí có mấy thế hệ: 1.Hai thế hệ 2.Ba thế hệ trở lên
8.Đồng chí có mấy: 1.Anh, em trai:…………… 2.Chị, em gái:……………..
9.Dòng họ của đồng chí là Họ (xin ghi rõ):…………………………………………….
10.Thành phần xuất thân của đồng chí: 1.Nông dân 2.Công nhân
3.Trí thức 4.Thành phần khác
11.Đồng chí học hết: 1.Cấp 1 2.Cấp 2 3.Cấp 3
4.Trung cấp 5.Cao đẳng, đại học trở lên
12.Mức thu nhập bình quân trong một tháng hiện nay của gia đình đồng chí?
1.Dưới 3 triệu 2.Từ 3 đến dưới 7 triệu
3.Từ 7 đến 10 triệu 4.Trên 11 triệu
13.Mức thu nhập hiện nay của gia đình đồng chí so với 5 năm trước?
1.Tốt hơn 2.Như trước
3.Kém hơn 4.Khó đánh giá
2. Trong gia đình đồng chí có ai đã và đang phục vụ trong quân đội không?
1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh, em trai 6.Chị, em gái 7.Không có ai
3. Trong dòng họ của đồng chí, hiện nay có người nào đang phục vụ trong quân đội
không?
1.Có 2.Không 3.Không rõ
4. Khi chưa nhập ngũ, đồng chí được tuyên truyền, giáo dục về NVQS, BVTQ chủ
yếu từ:
1.Gia đình
2.Dòng họ
3.Nhà trường
4.Phương tiện truyền thông đại chúng
5.Hệ thống chính quyền cơ sở
6.Bạn bè
7.Ban, ngành, đoàn thể ở địa phương
8.Đồng chí tự tìm hiểu
5. Đồng chí cảm thấy như thế nào khi được gọi nhập ngũ
1.Phấn khởi, tự hào
2.Băn khoăn, lo lắng
3.Có cơ hội tốt rèn luyện bản thân trong môi trường quân đội
4.Muốn được miến, hoãn
6. Trước độ tuổi nhập ngũ, gia đình, dòng họ đã giáo dục thanh niên về NVQS,
BVTQ như thế nào?
1. Gia đình thường xuyên kể những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,
BVTQ cho con, em.
2. Trong các buổi sinh hoạt của dòng họ, nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy
ước của dòng họ về NVQS, BVTQ.
3. Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội
4. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ
quốc khi đến tuổi trưởng thành.
5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống,
kỷ cương của gia đình, dòng họ.
6. Gia đình để con em tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ
7. Trong quá trình được tuyển chọn nhập ngũ, đồng chí đã được các tổ chức, cá
nhân nào gặp gỡ, động viên?
1.Chủ tịch, phó chủ tịch xã
2.Xã đội trưởng, xã đội phó
3.Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn
4.Trưởng thôn
5.Đoàn thanh niên
6.Hội phụ nữ
7.Hội cựu chiến binh
8.Những người thân trong dòng họ
9.Người thân trong gia đình
10.Bạn bè
11.Không có ai
8. Trong quá trình khám tuyển NVQS, gia đình, dòng họ đã giáo dục, động viên
con em như thế nào?
1. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian
2. Dòng họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi khám tuyển NVQS trong
dòng họ để động viên, khuyến khích
3. Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi khám tuyển NVQS
4. Người thân trong gia đình đưa con em đi khám tuyển NVQS
5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ
cương của gia đình, dòng họ
6. Gia đình giúp con em hiểu rõ việc khám tuyển NVQS là trách nhiệm của công dân
7. Gia đình để con em tự đi khám tuyển NVQS
9. Theo đồng chí, sự cố kết của dòng họ hiện nay như thế nào?
1.Bền chặt 2.Không bền chặt 3.Không rõ
10. Ở địa phương đồng chí, các dòng họ có tham gia động viên thanh niên làm
NVQS hàng năm không?
1.Có 2.Không 3.Không rõ
11. Dòng họ của đồng chí đã có những hoạt động nào trong quá trình tuyển quân
hàng năm?
1.Họp dòng họ tổ chức liên hoan, gặp mặt, động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện
NVQS
2.Phân công người trong dòng họ động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS
3.Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS
4.Dòng họ cử người tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội
5.Dòng họ cử người tham gia cùng các đoàn đại biểu của địa phương đến đơn vị quân
đội thăm hỏi, động viên thanh niên đang tại ngũ
12. Trong gia đình, dòng họ, ai là người có ảnh hưởng tới các quyết định của đồng
chí nhất?
1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh chị em
6.Các chú, bác, cô, dì trong dòng họ 7.Các anh chị em trong dòng họ
13. Khi được lệnh nhập ngũ, trong dòng họ, hàng xóm, gia đình ai là người động
viên, khuyên nhủ đồng chí nhiều nhất?
1.Trưởng họ
2.Chú, bác, cô, dì trong dòng họ
3.Các bác cựu chiến binh trong thôn
4.Các cụ già trong làng xóm
5.Bạn bè cùng trang lứa
6.Người thân trong gia đình
14. Trước khi nhập ngũ, gia đình có tổ chức liên hoan chia tay cho đồng chí không?
1.Có 2.Không
Nếu có, gia đình mời những ai tham dự?
1.Đại diện cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương
2.Chú bác trong dòng họ
3.Bạn bè của đồng chí
4.Những người khác (xin ghi rõ):………………………………………………………
15. Khi đang tại ngũ, trong gia đình ai là người lo lắng cho đồng chí nhiều nhất?
1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 4.Anh chị em
16. Khi đang tại ngũ, người thân trong gia đình, dòng họ có những hoạt động nào
sau đây đối với đồng chí:
1.Thường xuyên gọi điện, viết thư động viên thăm hỏi
2.Thường xuyên đến đơn vị thăm
3.Nhờ cậy người quan tâm, giúp đỡ
4.Gửi tiền hoặc hiện vật
5.Hoạt động khác (xin ghi rõ):……………………………………………………………
17. Đồng chí đánh giá như thế nào về vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh
niên trong thực hiện NVQS, BVTQ? Nội dung đánh giá
Rất quan trọng
Mức độ đánh giá Quan trọng
Không quan trọng
Khó đánh giá
1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè cùng trang lứa
18. Đồng chí thực hiện NVQS, BVTQ vì những lý do chủ yếu nào sau đây:
1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định
2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ
3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ
4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ
5.Để rèn luyện bản thân
6.Do thi trượt đại học, cao đẳng
7.Để có cơ hội việc làm sau khi hoàn thành NVQS
19. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, theo đồng chí yếu tố nào chi phối vai trò
gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên?
1.Nghề nghiệp của gia đình
2.Điều kiện kinh tế của gia đình
3.Số lượng con trai trong gia đình
4.Gia đình có đảng viên và gia đình không có đảng viên.
5.Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
6.Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, đất nước.
7.Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.
8.Truyền thống thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ.
9.Sự cố kết của dòng họ
10.Phương tiện truyền thông đại chúng
11Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã
12.Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
20. Theo đồng chí, trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, việc nhập ngũ của thanh
niên như thế nào?
1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định
2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ
3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ
4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ
5.Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân
6.Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước
21. Đồng chí cho biết vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay?
Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá
Rất quan
Quan trọng
Không quan
Khó đánh
trọng
trọng
giá
Đóng góp về con người
Đóng góp về vật chất
Đóng góp về tinh thần
22. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện
nay, theo đồng chí cần đặt ra những vấn đề nào dưới đây:
1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng
2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng, củng cố nền QPTD
3. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ XD nền QPTD, BVTQ
4. Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu XDQĐ thời kỳ mới
5. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng
6. Vấn đề khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………
23. Theo đồng chí, từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo, vai trò của gia
đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ sẽ như thế nào?
1.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ
2.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em
3.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS
4.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ
5.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện
NVQS
24. Đồng chí cho biết những thuận lợi, khó khăn để gia đình, dòng họ thực hiện vai
trò với thanh niên nhập ngũ hiện nay?
Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá
Thuận lợi
Khó khăn
Sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất nước
Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia
đình, dòng họ
Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ
Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS
Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình
25. Để tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh
niên, theo đồng chí cần phải thực hiện những biện pháp chủ yếu nào sau đây?
1.Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, BVTQ
2.Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững
3.Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương
4.Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ
5.Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ
6.Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến thanh niên trong quá trình thực
hiện NVQS
7.Khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………………
3. GIA ĐÌNH CÓ THANH NIÊN KHÔNG TRÚNG TUYỂN NVQS
1. Ông, bà vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân và gia đình:
1.Gia đình ông, bà ở xóm, thôn:……… xã:……………(ở tổ……thị trấn…..............)
2.Tuổi:………………………… 3.Giới tính: 1.Nam: 2.Nữ:
4.Dân tộc: 1.Kinh 2.Khác 5.Tôn giáo: 1.Có 2.Không
6.Nghề nghiệp chính của ông, bà (xin ghi rõ):……………………………………………
7.Nghề nghiệp phụ của ông bà (xin ghi rõ):………………………………………………
8.Thu nhập chính của gia đình ông bà là từ: 1.Nghề chính: 2.Nghề phụ:
9.Ông, bà có là đảng viên không: 1.Có 2.Không
10.Gia đình ông, bà có mấy nhân khẩu (xin ghi rõ):……………………………………
11.Gia đình ông, bà có mấy thế hệ: 1.Hai thế hệ 2.Ba thế hệ trở lên
12.Ông, bà có mấy: 1.Con trai:………………….. 2.Con gái:………………….
13.Dòng họ của ông là Họ (xin ghi rõ):…………………………………………………..
14.Thành phần xuất thân của ông bà: 1.Nông dân 2.Công nhân
3.Trí thức 4.Thành phần khác
15.Ông, bà học hết: 1.Cấp 1 2.Cấp 2 3.Cấp 3
4.Trung cấp 5.Cao đẳng, đại học trở lên
16.Mức thu nhập bình quân trong một tháng hiện nay của gia đình ông, bà?
1.Dưới 3 triệu 2.Từ 3 đến dưới 7 triệu
3.Từ 7 đến 10 triệu 4.Trên 11 triệu
17.Mức thu nhập hiện nay của gia đình ông, bà so với 5 năm trước?
1.Tốt hơn 2.Như trước
3.Kém hơn 4.Khó đánh giá
2. Trong gia đình ta có ai đã và đang phục vụ trong quân đội không?
1.Ông 2.Bà 3.Chồng 4.Vợ 5.Con trai 6.Con gái 7.Không có ai
3. Trong dòng họ của ông, bà, hiện nay có người nào đang phục vụ trong quân đội
không?
1.Có 2.Không 3.Không rõ
4. Khi chưa gọi nhập ngũ, con, em của ông bà được tuyên truyền, giáo dục về
NVQS, BVTQ chủ yếu từ:
1.Gia đình
2.Dòng họ
3.Nhà trường
4.Phương tiện truyền thông đại chúng
5.Hệ thống chính quyền cơ sở
6.Bạn bè
7.Ban, ngành, đoàn thể ở địa phương
8.Con, em tự tìm hiểu
5. Ông, bà cảm thấy như thế nào nếu con, em được gọi nhập ngũ?
1.Phấn khởi, tự hào
2.Băn khoăn, lo lắng
3.Con, em có cơ hội tốt để rèn luyện trong môi trường quân đội
4.Muốn con, em được miễn, hoãn
6. Trước độ tuổi nhập ngũ, gia đình, dòng họ đã giáo dục thanh niên về NVQS,
BVTQ như thế nào?
1. Gia đình thường xuyên kể những câu chuyện về truyền thống chống giặc ngoại xâm,
BVTQ cho con, em.
2. Trong các buổi sinh hoạt của dòng họ, nhắc nhở thanh niên thực hiện nghiêm quy
ước của dòng họ về NVQS, BVTQ.
3. Gia đình định hướng con em theo nghề quân đội
4. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em về trách nhiệm của công dân đối với Tổ
quốc khi đến tuổi trưởng thành.
5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, thực hiện NVQS, BVTQ cũng là tiếp nối truyền thống,
kỷ cương của gia đình, dòng họ.
6. Gia đình để con em tự tìm hiểu về NVQS, BVTQ
7. Trong quá trình khám tuyển NVQS, con, em của ông, bà đã được các tổ chức, cá
nhân nào gặp gỡ, động viên?
1.Chủ tịch, phó chủ tịch xã
2.Xã đội trưởng, xã đội phó
3.Bí thư, phó bí thư, đảng viên chi bộ thôn
4.Trưởng thôn
5.Đoàn thanh niên
6.Hội phụ nữ
7.Hội cựu chiến binh
8.Những người thân trong dòng họ
9.Người thân trong gia đình
10.Bạn bè của con, em
11.Không có ai
8. Trong quá trình khám tuyển NVQS, gia đình, dòng họ đã giáo dục, động viên
con em như thế nào?
1. Gia đình thường xuyên nhắc nhở con em đi khám tuyển NVQS đúng thời gian
2. Dòng họ tổ chức gặp mặt những thanh niên có giấy gọi khám tuyển NVQS trong
dòng họ để động viên, khuyến khích
3. Người thân trong dòng họ đến thăm hỏi, động viên thanh niên đi khám tuyển NVQS
4. Người thân trong gia đình đưa con em đi khám tuyển NVQS
5. Dòng họ giúp con em hiểu rõ, khám tuyển NVQS cũng là giữ gìn truyền thống, kỷ
cương của gia đình, dòng họ
6. Gia đình giúp con em hiểu rõ việc khám tuyển NVQS là trách nhiệm của công dân
7. Gia đình để con em tự đi khám tuyển NVQS
9. Theo ông, bà sự cố kết của dòng họ hiện nay như thế nào?
1.Bền chặt 2.Không bền chặt 3.Không rõ
10. Ở địa phương ông, bà, các dòng họ có tham gia động viên thanh niên làm
NVQS hàng năm không?
1.Có 2.Không 3.Không rõ
11. Dòng họ của ông, bà đã có những hoạt động nào đối với việc thực hiện NVQS
của thanh niên trong họ?
1.Họp dòng họ tổ chức liên hoan, gặp mặt, động viên thanh niên trong dòng họ nhập ngũ
2.Phân công người trong dòng họ động viên thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS
3.Dòng họ huy động vật chất giúp thanh niên trong dòng họ thực hiện NVQS
4.Dòng họ cử người tham gia giao quân cho các đơn vị quân đội
5.Dòng họ cử người tham gia cùng các đoàn đại biểu của địa phương đến đơn vị quân
đội thăm hỏi, động viên thanh niên đang tại ngũ
12. Trong gia đình, dòng họ, ai là người có ảnh hưởng tới quyết định thực hiện
NVQS của thanh niên nhất?
1.Ông 2.Bà 3.Bố 4.Mẹ 5.Anh chị em
6.Các chú, bác, cô, dì trong dòng họ 7.Các anh chị em trong dòng họ
13. Con em của ông, bà đã tham gia khám tuyển NVQS mấy lần?
1. Lần đầu tiên 2. Lần thứ hai
3. Lần thứ ba 4. Lần thứ bốn trở lên
14. Ông, bà có ý kiến gì khi con em không lên đường thực hiện NVQS sau khám tuyển?
1. Do con em không đủ điều kiện về sức khỏe
2. Do con em không đủ điều kiện về học vấn
3. Do gia đình không muốn con em nhập ngũ
4. Do điều kiện gia đình neo đơn, khó khăn nên con em được miễn, hoãn
5. Do chỉ tiêu tuyển quân hàng năm ít nên con em không trúng tuyển
6. Do con em đã có giấy gọi nhập học vào các trường cao đẳng, đại học
7. Do con em không muốn nhập ngũ nên tìm mọi cách để không trúng tuyển
15. Ông, bà có muốn được lựa chọn việc thực hiện NVQS của con em không?
1. Có 2. Không
Nếu có, ông bà sẽ lựa chọn như thế nào?
1. Muốn con em trúng tuyển NVQS
2. Muốn con em ở nhà phụ giúp gia đình
3. Muốn con em tiếp tục đi học
16. Theo ông, bà, những thanh niên trúng tuyển NVQS ở xã ta là những người:
1. Có đủ điều kiện về sức khỏe và học vấn
2. Có tinh thần tự nguyện, xung phong
3. Điều kiện kinh tế gia đình quá khó khăn
4. Bố mẹ muốn quân đội rèn luyện con cái
5. Thi trượt các trường cao đẳng, đại học
6. Không nhờ cậy ai
17. Ông, bà đánh giá như thế nào về vai trò của các tổ chức, lực lượng với thanh
niên trong quá trình thực hiện NVQS, BVTQ?
Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá Quan trọng
Không quan trọng
Rất quan trọng
Khó đánh giá
1.Nhà trường 2.Hệ thống chính quyền cơ sở 3.Các tổ chức đoàn thể ở địa phương 4.Gia đình 5.Dòng họ 6.Truyền thông đại chúng 7.Bạn bè của thanh niên
18. Theo ông, bà, thanh niên thực hiện NVQS, BVTQ vì những lý do chủ yếu nào
sau đây:
1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định
2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ
3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ
4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ
5.Để rèn luyện bản thân
6.Do thi trượt đại học, cao đẳng
7.Để có cơ hội việc làm sau khi hoàn thành NVQS
19. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, theo ông, bà yếu tố nào chi phối vai trò
gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên
1.Nghề nghiệp của gia đình
2.Điều kiện kinh tế của gia đình
3.Số lượng con trai trong gia đình
4.Gia đình có đảng viên và gia đình không có đảng viên.
5.Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
6.Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, đất nước.
7.Vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở.
8.Truyền thống thực hiện NVQS của gia đình, dòng họ.
9.Sự cố kết của dòng họ
10.Phương tiện truyền thông đại chúng
11Quan hệ, tính cộng đồng làng, xã
12.Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
20. Theo ông, bà, trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, việc nhập ngũ của thanh
niên như thế nào?
1.Là công dân phải thực hiện NVQS theo luật quy định
2.Vì danh dự của gia đình, dòng họ
3.Nối tiếp truyền thống của gia đình, dòng họ
4.Vì sự động viên của gia đình, dòng họ
5.Phấn khởi tự hào, tình nguyện tòng quân
6.Vì sự thống nhất, hòa bình, ổn định của đất nước
21. Ông, bà cho biết vai trò của gia đình, dòng họ trong lịch sử đấu tranh chống
giặc ngoại xâm của dân tộc và trong xây dựng nền QPTD, BVTQ hiện nay?
Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá
Rất quan trọng Quan trọng
Không quan
Khó đánh
trọng
giá
Đóng góp về con người
Đóng góp về vật chất
Đóng góp về tinh thần
22. Vai trò của gia đình, dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện
nay, theo ông, bà cần đặt ra những vấn đề nào dưới đây?
1. Nhận thức của các tổ chức, lực lượng
2. Phát huy vai trò của gia đình, dòng họ trong xây dựng, củng cố nền QPTD
3. Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ XD nền QPTD, BVTQ
4. Phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước đáp ứng nhu cầu XDQĐ thời kỳ mới
5. Chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ thực sự là thiết chế xã hội quan trọng
6. Vấn đề khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………
23. Theo ông, bà, từ nay đền năm 2020 và những năm tiếp theo, vai trò của gia
đình, dòng họ với thanh niên trong thực hiện NVQS, BVTQ sẽ như thế nào?
1.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ là nền tảng vững chắc trong XD nền QPTD, BVTQ
2.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm giáo dục, tuyên truyền NVQS, BVTQ cho con, em
3.Gia đình, dòng họ vẫn luôn quan tâm động viên con, em trong đăng ký, khám tuyển NVQS
4.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ động viên, tổ chức chia tay con, em lên đường nhập ngũ
5.Gia đình, dòng họ vẫn sẽ thường xuyên chăm lo con, em trong quá trình thực hiện NVQS
24. Ông, bà cho biết những thuận lợi, khó khăn để gia đình, dòng họ thực hiện vai
trò với thanh niên nhập ngũ hiện nay? Nội dung đánh giá
Mức độ đánh giá
Thuận lợi
Khó khăn
Sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất nước Nền nếp, truyền thống thực hiện NVQS của làng xã, gia đình, dòng họ Chính sách đối với gia đình, dòng họ có thanh niên nhập ngũ Việc làm của thanh niên sau khi hoàn thành NVQS Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở Điều kiện kinh tế, số lượng con trai và nghề nghiệp gia đình
25. Để tăng cường vai trò của gia đình, dòng họ trong thực hiện NVQS của thanh
niên, theo ông, bà cần phải thực hiện những biện pháp chủ yếu nào sau đây?
1.Nâng cao nhận thức của gia đình, dòng họ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng,
BVTQ
2.Xây dựng gia đình, dòng họ Việt Nam thực sự là tổ chức xã hội bền vững
3.Xây dựng làng xã, dòng họ, gia đình nền nếp, trật tự, kỷ cương
4.Thường xuyên quan tâm tới gia đình có thanh niên nhập ngũ
5.Chú trọng dạy nghề, tạo việc làm cho cho bộ đội hoàn thành NVQS, xuất ngũ
6.Gia đình, dòng họ phải thường xuyên quan tâm đến thanh niên trong quá trình thực
hiện NVQS
7.Khác (xin ghi rõ):………………………………………………………………………
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU
1. GIA ĐÌNH DÒNG HỌ
1. Họ tên:………………………………………………………………….
- Tuổi:……………………………- Giới tính:……………………….....
- Trình độ học vấn:……………………………………………………...
- Nghề nghiệp:.............................................................................................
- Thôn, xã (tổ, thị trấn):…………………………………………………
2. Trong quá trình thực hiện NVQS của con, cháu, ông, bà có những hoạt động chủ yếu?
- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi con, cháu chưa đến tuổi nhập ngũ?
- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi con, cháu đi đăng ký, khám tuyển
NVQS?
- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi tổ chức, tiễn đưa con, cháu nhập ngũ?
- Những hoạt động chủ yếu của ông, bà khi con, cháu thực hiện NVQS ở đơn vị quân
đội?
3. Ông, bà cho biết những yếu tố nào chi phối, tác động đến vai trò của gia đình,
dòng họ đối với việc thực hiện NVQS của thanh niên?
4. Ông, bà có những suy nghĩ gì về việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện nay?
2. CÁN BỘ XÃ, THÔN (THỊ TRẤN, TỔ DÂN PHỐ)
1. Họ tên:…………………........Tuổi:.……………….Giới tính:.............
- Trình độ học vấn:……………………Nghề nghiệp:..………………...
- Thôn, xã (tổ, thị trấn):…………………………………………………
2. Ông, bà có những hoạt động chủ yếu nào đối với thanh niên được gọi nhập ngũ?
3. Trong thời gian thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự, ông, bà thường có những
hoạt động gì đối với gia đình của thanh niên?
4. Ông, bà cho biết hoạt động chủ yếu của ông bà sau khi thanh niên hoàn thành
nghĩa vụ quân sự trở về địa phương?
5. Theo ông bà để công tác gọi thanh niên nhập ngũ được thực hiện tốt hơn nữa, thì
cần phải thực hiện những gì?
3. THANH NIÊN
1. Họ tên:………………………………………Tuổi:....…….………….
- Nơi ở của gia đình………………………………………………………
2. Đồng chí cho biết những hoạt động chủ yếu của gia đình, dòng họ, chính quyền,
đoàn thể địa phương đối với quá trình thực hiện NVQS của thanh niên?
- Những hoạt động chủ yếu của gia đình, dòng họ?
- Những hoạt động chủ yếu của chính quyền, đoàn thể địa phương?
3. Đồng chí cho biết những suy nghĩ về việc thực hiện NVQS của thanh niên hiện
nay?