VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ ÁNH

VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH LIÊN KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ ÁNH

VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH LIÊN KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á

Ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số: 9310106

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. TRẦN QUANG MINH 2. TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

được thu thập, tính toán, tổng hợp từ các nguồn thống kê và cơ sở dữ liệu công khai,

tin cậy của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước. Các trích dẫn trong luận án

là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án không trùng lặp với bất kỳ công

trình nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Tác giả luận án

Đỗ Thị Ánh

i

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ LUẬN ÁN .......................................................................... 10

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu

vực Đông Á và vai trò của một chủ thể ................................................................. 10

1.1.1. Nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu vực ..... 10

1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về vai trò của một

quốc gia trong hội nhập khu vực ...................................................................... 12

1.2. Những nghiên cứu về liên kết kinh tế Đông Á ............................................... 13

1.2.1. Nghiên cứu trong nước ........................................................................... 13

1.2.2. Nghiên cứu nước ngoài .......................................................................... 15

1.3. Những nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á ....... 18

1.3.1. Nghiên cứu trong nước ........................................................................... 18

1.3.2. Nghiên cứu nước ngoài .......................................................................... 20

1.4. Đánh giá những điểm đã thống nhất và vấn đề còn tồn tại, xác định nội

dung luận án sẽ tập trung giải quyết ..................................................................... 23

1.4.1. Những điểm đã thống nhất ..................................................................... 23

1.4.2. Vấn đề còn tồn tại và những nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết .. 24

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LIÊN

KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT CHỦ THỂ ....................... 26

2.1. Một số vấn đề lý luận về liên kết kinh tế khu vực và vai trò của một

chủ thể ...................................................................................................................... 26

2.1.1. Lý thuyết về liên kết kinh tế khu vực trên phương diện thể chế ............ 26

2.1.2. Một số lý luận về liên kết kinh tế trên phương diện thực tế (De-facto) ....... 32

2.1.3. Một số lý luận liên quan đến vai trò của một chủ thể trong quan hệ

quốc tế .............................................................................................................. 36

2.1.4. Điều kiện cơ bản của liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của một số

chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành và tiến triển của

liên kết kinh tế Đông Á .................................................................................... 40

ii

2.2. Thực tiễn liên kết kinh tế Đông Á ................................................................... 43

2.2.1. Liên kết kinh tế trên phương diện thực tế - Mạng sản xuất Đông Á ...... 43

2.2.2. Liên kết kinh tế trên phương diện thể chế tại Đông Á ........................... 48

2.2.3. Một số nhận xét về tiến trình liên kết kinh tế Đông Á ........................... 57

2.3. Vai trò của một số chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình

liên kết kinh tế Đông Á (ASEAN, Trung Quốc, Mỹ) ........................................... 60

2.3.1. Vai trò của ASEAN ................................................................................ 60

2.3.2. Vai trò của Trung Quốc .......................................................................... 63

2.3.3. Vai trò của Mỹ ....................................................................................... 67

2.4. Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 71

Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRONG TIẾN

TRÌNH LIÊN KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á .............................................................. 73

3.1. Những vai trò chủ yếu của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á từ

khoảng giữa thập niên 1980 đến những năm đầu thập niên 2010 ...................... 73

3.1.1. Những vai trò chủ yếu của Nhật Bản ..................................................... 73

3.1.2. Một số đánh giá về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông

Á từ giữa thập niên 1980 đến những năm đầu thập niên 2010 ........................ 80

3.2. Vai trò nổi bật của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế từ khoảng

đầu thập niên 2010 đến nay .................................................................................... 82

3.2.1. Thuận lợi và thách thức của Nhật Bản trong việc nâng cao vai trò

trong liên kết kinh tế Đông Á ........................................................................... 83

3.2.2. Vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á trong

bối cảnh cạnh tranh Trung Mỹ ......................................................................... 99

3.3. Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 122

Chương 4: VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH LIÊN

KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á ..................................................................................... 124

4.1. Một số dự báo về tương lai tiến trình liên kết kinh tế Đông Á (từ nay

đến 2025) và vai trò của Nhật Bản ....................................................................... 124

4.1.1. Triển vọng tiến trình liên kết kinh tế Đông Á (từ nay đến 2025) ........ 124

4.1.2. Triển vọng vai trò của Nhật Bản .......................................................... 128

iii

4.2. Quan điểm của Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á và một số hàm ý

chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của liên kết kinh tế khu vực ................... 130

4.2.1. Quan điểm cơ bản của Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á .............. 130

4.2.2. Hàm ý chính sách đối với Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á ......... 132

4.3. Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á ................... 135

4.3.1. Khái quát lịch sử hợp tác kinh tế Việt Nam Nhật Bản ......................... 135

4.3.2. Thực trạng quan hệ Việt Nam Nhật Bản hiện nay ............................... 136

4.4. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả vai trò của

Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á và thúc đẩy hơn nữa

quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản ................................................................ 139

4.5. Tiểu kết chương 4 ........................................................................................... 144

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ .... 149

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 150

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

ACFTA ASEAN-China Free Trade Area

Khu vực Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc

Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB

ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC

AFTA ASEAN Free Trade Area

Khu vực Thương mại Tự do ASEAN

AIIB

Asian Infrastructure Investment Bank Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng châu Á

AJCEP

ASEAN-Japan Comprehensive Economic Partnership Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản

APEC

Asia-Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Association of South East Asian Nations

ASEAN+1

Khung khổ hợp tác giữa ASEAN và một nước đối tác

ASEAN+3

Khung khổ hợp tác giữa ASEAN và 3 đối tác Đông Bắc Á

ASEAN+6

Khung khổ hợp tác giữa ASEAN và 3 đối tác Đông Bắc Á, Ốtxtrâylia, Niudilân, Ấn Độ

ASEM Asia-Europe Meeting Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu

CEPEA Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á

Comprehensive Economic Partnership for East Asia

CEPT Common Effective Preferential Hiệp định Thuế quan ưu đãi có hiệu

v

Tariff lực chung

CFTA Continental Free Trade Area

Thỏa thuận thương mại tự do châu Phi

Châu Á – Thái Bình Dương

Châu Á- TBD

CJKFTA

China–Japan-South Korea Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại tự do Trung Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc

CLMV

Cambodia, Laos, Myanmar and Viet Nam

Nhóm thành viên mới ASEAN gồm Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam

COMESA Common Market for Eastern and

Southern Africa Thị trường chung Đông và Nam Phi

CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership

CU Customs Union Đồng minh Thuế quan

EAC East African Community Cộng đồng Kinh tế Đông Phi

EAFTA East Asia Free Trade Area

Hiệp định Thương mại Tự do Đông Á

EAS East Asia Summit Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á

EPA Economic Partnership Agreements Hiệp định đối tác kinh tế

EU European Union Liên minh Châu Âu

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FOIP Free and Open Indo-Pacific

Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở

FTA Free trade agreement Hiệp định thương mại tự do

FTA Free trade area Khu vực thương mại tự do

GATT General Agreement on Tariffs and Hiệp ước chung về thuế quan và

vi

Trade mậu dịch

GATS

General Agreement on Trade in Services Hiệp định Chung về Thương mại và Dịch vụ

GCC Gulf Cooperation Council Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

GMS Greater Mekong Subregion Tiểu vùng Sông Mê-công

IPS Indo-Pacific Strategy

Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương

JETRO Japan External Trade Organization Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật

Bản

Mercado Común del Sur Thị trường chung Nam Mỹ

MERCOS UR

MNC Multinational corporation Tập đoàn đa quốc gia

MNF Most Favoured Nation Quy chế tối huệ quốc

NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ

North American Free Trade Agreement

Newly Industrialized Country Nước công nghiệp mới NIC

Newly industrialized economies NIEs

Các nền kinh tế mới công nghiệp hóa

OECD

Organisation for Economic Co- operation and Development Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển

PTA Preferential Trade Arrangement Thỏa thuận thương mại ưu đãi

RCEP

Regional Comprehensive Economic Partnership Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực

Rules of origin Quy định xuất xứ hàng hóa ROO

Regional trade agreement Hiệp định thương mại khu vực RTA

SAARC South Asian Association for Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á

vii

Regional Cooperation

SACU Southern African Customs Union

Liên minh thuế quan Nam Châu Phi

SADC

Southern African Development Community Cộng đồng phát triển Nam Châu Phi

Trade in Services Agreement Hiệp định Thương mại dịch vụ TiSA

TTIP

Transatlantic Trade and Investment Partnership Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương

TPP

Trans-Pacific Partnership Agreement Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương

TFTA Tripartite Free Trade Area Khu vực thương mại tự do ba bên

United States dollar Dollar Mỹ USD

World Bank Ngân hàng Thế giới WB

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

viii

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH

BẢNG

Bảng 3.1. Xếp hạng các nước về Chỉ số thịnh vượng toàn diện (IWI) bình quân

đầu người của Liên Hợp Quốc (năm 2008) ........................................... 76

Bảng 3.2. Vốn sản xuất tính theo đầu người ............................................................. 77

Bảng 3.3. Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản ................................................................ 87

Bảng 3.4. Bảng xếp hạng Top 50 công ty hàng đầu châu Á (2005 và 2011) .......... 94 HÌNH

Hình 2.1. Tỷ lệ thương mại nội khối của Đông Á so với các khu vực khác ............. 44

Hình 2.2. Xuất khẩu nội khối tại Đông Á trong từng lĩnh vực (1980~2008) ........... 45

Hình 2.3. Tỷ lệ các mặt hàng trong tổng giá trị thương mại của Đông Á (theo

từng quý trong các năm từ 2011-2018) ................................................... 46

Hình 2.4. Tăng trưởng thương mại Đông Á theo danh mục sản phẩm trong thời

gian từ 2001–2016 ................................................................................... 47

Hình 2.5. Xuất khẩu của các quốc gia Đông Á sang hai nền kinh tế lớn nhất

thế giới .................................................................................................... 65

Hình 3.1. FDI của Nhật Bản tại Đông Á (1996-2015) .............................................. 74

Hình 3.2. Tỷ lệ FDI của Nhật Bản đối với các quốc gia Đông Á (2015) ................. 75

Hình 3.3 Quyền phủ quyết của Trung Quốc nếu Nhật Bản tham gia AIIB .............. 78

Hình 3.4. GDP danh nghĩa của Nhật Bản ................................................................. 86

Hình.3.5. Quan điểm của các nước về ảnh hưởng của Nhật Bản ............................. 91

Hình 4.1. Điểm đến tiềm năng sau khi Nhật Bản di chuyển cơ sở sản xuất khỏi

Trung Quốc ............................................................................................ 138

ix

x

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với trào lưu toàn cầu hóa, liên kết/ hội nhập kinh tế khu vực đã trở thành

xu thế tất yếu trong quan hệ quốc tế hiện đại [9]. Nếu phân chia nền kinh tế toàn cầu

thành ba “cực tăng trưởng”, có thể thấy rằng ứng với mỗi “cực tăng trưởng” này lại

có một hình thái liên kết/ hội nhập kinh tế khác nhau, thứ nhất phải kể đến châu Âu

(EU), tiếp theo là châu Mỹ (NAFTA, MERCOSUR) và thứ ba là Đông Á - khu vực

hiện cũng là động lực tăng trưởng chính của kinh tế thế giới.

Tuy nhiên không như kỳ vọng, liên kết kinh tế Đông Á không chỉ là một tiến

trình lâu dài mà còn rất phức tạp. Sự phức tạp này có thể ví như một ma trận toán

học, thứ nhất bởi bên tham gia không chỉ là Chính phủ các nước mà còn bao gồm

Thị trường và Người dân (đặc biệt là tầng lớp trung lưu). Thứ hai, về quy mô, hội

nhập kinh tế không chỉ ở quy mô Khu vực (Đông Á), mà còn là Tiểu khu vực

(ASEAN) và Khu vực mở rộng (CEPEA, RCEP, EAFTA, CPTPP…). Thứ ba, về

trạng thái, cùng với sự Hợp tác, còn tồn tại quan hệ Cạnh tranh, thậm chí Đối lập.

Trong tiến trình lâu dài và phức tạp đó mỗi bên đều muốn khẳng định vai trò với

những toan tính khác nhau. Những chủ thể có vai trò quan trọng không chỉ có tác

quyết định tới nội dung, triển vọng… của tiến trình liên kết mà cả sự ổn định và

thịnh vượng của khu vực Đông Á.

Đông Á đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc hơn bất cứ khu vực nào khác với

một Trung Quốc lớn mạnh, đối đầu kinh tế Trung Mỹ quyết liệt, vai trò trung tâm

của ASEAN ngày càng thu hẹp... Thế nhưng ngay cả khi xu hướng bảo hộ và dân

tộc của chính quyền Mỹ gây nên sự thất vọng về vị thế lãnh đạo tự do hóa kinh tế,

thương mại và vai trò của nước này trong liên kết kinh tế khu vực, thì Trung Quốc

cũng chưa thể hiện được là một hình mẫu “lãnh đạo” thuyết phục. Không ít quốc gia

Đông Á, đặc biệt là ASEAN vẫn luôn kỳ vọng về một nhân tố cân bằng [15].

Là một cường quốc kinh tế khu vực và thế giới, Nhật Bản có ảnh hưởng rất

lớn đối với sự phát triển của các quốc gia Đông Á cũng như tiến trình liên kết kinh

tế. Lợi ích của Nhật Bản ở khu vực này đã được hình thành từ rất lâu và người Nhật

cũng luôn ý thức rằng Nhật Bản cần có một vai trò quan trọng tại Đông Á. Là con

1

chim đầu đàn trong “Đàn ngỗng bay” những năm 1970 - 1980, Nhật Bản đã “kéo

theo” không ít quốc gia cùng phát triển, đóng góp đáng kể vào sự ra đời của những

“con rồng, “con hổ” Đông Á. Đến nay ngoài việc tích cực thúc đẩy các khuôn khổ

hội nhập kinh tế như ASEAN (AFTA, AEC), ASEAN+1 (AJCEP), ASEAN+3

(EAFTA), ASEAN+6 (CEPEA)…, Nhật Bản cũng là cường quốc kinh tế duy nhất

tại Đông Á và châu Á - TBD tham gia cùng lúc cả hai khuôn khổ thương mại tự do

đa phương quan trọng là TPP (với phiên bản mới là CPTPP) và RCEP.

Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong tiến

trình liên kết kinh tế Đông Á, nhất là trước sự thay đổi nhanh chóng về tương quan

sức mạnh quốc tế và chiến lược của các “siêu cường” hiện nay rõ ràng đang là một

yêu cầu cấp thiết. Bên cạnh việc giúp hiểu rõ bản chất và tương lai của tiến trình

liên kết Đông Á, năng lực và vị thế thực sự của Nhật Bản ở khu vực, làm chủ thể

nào đang chi phối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua việc đặt ra và kiểm soát các

“luật chơi” của Đông Á, nghiên cứu này cũng có ý nghĩa tham khảo trong hoạch

định chính sách hội nhập, phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước và thúc đẩy hơn

nữa mối quan hệ song phương Việt Nam - Nhật Bản. Ngoài ra, mặc dù các vấn đề

liên quan tới Nhật Bản ở Đông Á đã được các nhà khoa học thế giới cũng như Việt

Nam nghiên cứu từ rất nhiều chiều cạnh, thế nhưng những nghiên cứu về vai trò của

Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á lại không chỉ thiếu tính hệ thống,

mà còn thực sự ít ỏi, thậm chí có thể nhận xét rằng, sau nhiều thập niên “mất mát”

và suy thoái, vai trò kinh tế quốc tế của Nhật Bản dường như đã trở thành một chủ

đề nghiên cứu bị lãng quên. Bên cạnh đó, về phương diện lý luận, có thể thấy rằng

cho đến nay cũng vẫn chưa có một hệ thống lý luận phổ quát về liên kết/ hội nhập

kinh tế khu vực đặc trưng của Đông Á (như các khu vực khác, đặc biệt là EU), cũng

như chưa có một khung phân tích mang tính quy chuẩn về vai trò của một chủ thể

trong tiến trình này. Bởi vậy, nếu vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết được

làm rõ qua luận án, thì đây cũng là minh chứng cho sự hình thành của một khung

phân tích hợp lý, có ý nghĩa tham khảo cho những các nghiên cứu về sau. Có thể

nói, đó chính là những lý do khuyến khích nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Vai trò

2

của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á” cho luận án tiến sĩ sau một

quá trình học tập và nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội.

2. Mục đích, nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu của đề tài luận án

2.1. Mục đích: Làm rõ vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế

Đông Á, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án sẽ giải quyết

các nhiệm vụ cụ thể sau:

+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về liên kết kinh tế Đông Á

và vai trò của các chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình này

+ Phân tích, làm rõ vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á từ giữa

thập niên 1980 đến nay và dự báo triển vọng những năm tới đây (2019-2025)

+ Đề xuất các giải pháp nhằm giúp Việt Nam tranh thủ tốt các cơ hội có được

từ vai trò của Nhật Bản, tăng cường hơn nữa quan hệ với đối tác quan trọng này,

tham gia chủ động và hiệu quả hơn nữa vào tiến trình liên kết kinh tế khu vực

2.3. Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi nghiên cứu chính:

Liên kết kinh tế Đông Á mang tính tất yếu, khách quan, song cũng là một tiến

trình lâu dài, phức tạp. Tiến triển của liên kết Đông Á cũng không giống những khu

vực khác trên thế giới, càng đòi hỏi phải có những chủ thể là nhân tố đóng vai trò

dẫn dắt tích cực và hiệu quả. Bởi vậy, câu hỏi nghiên cứu chính mà luận án cần làm

rõ là: Liên kết kinh tế Đông Á diễn ra theo những cách thức nào và trong tiến trình

đó vai trò của Nhật Bản được biểu hiện cụ thể như thế nào?

Các câu hỏi cụ thể :

1) Thực trạng và cách thức tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á?

2) Nhật Bản có vai trò gì, những khó khăn và thuận lợi của Nhật Bản trong

việc gia tăng hơn nữa vai trò của mình là gì?

3) Trong tiến trình này vai trò của Nhật Bản có tiến triển để thích ứng với bối

cảnh mới của liên kết kinh tế hay không và những tiến triển (nếu có) này ảnh hưởng

thế nào đến tiến trình liên kết kinh tế Đông Á?

3

4) Việt Nam cần có những chính sách gì để tận dụng tốt hơn các cơ hội có

được từ vai trò và những đóng góp của Nhật Bản trong liên kết kinh tế khu vực,

đồng thời tham gia một cách tích cực và hiệu quả vào tiến trình này ?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là vai trò của Nhật Bản

trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian:

Đông Á theo cách hiểu về địa lý truyền thống là khu vực gồm 10 nước Đông

Nam Á (ASEAN10) và 3 nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc).

Tuy nhiên, với tính chất địa kinh tế, địa chính trị phức tạp, khái niệm Đông Á ngày

càng mang tính mở và động, thay đổi tùy theo bối cảnh và quan điểm (chẳng hạn

Ngân hàng Thế giới gần đây thường sử dụng cách gọi "East Asia and the Pacific –

EAP" thay vì "East Asia"). Do vậy mà căn cứ từ thực tiễn năng động của tiến trình

liên kết kinh tế Đông Á, trong một số nội dung của luận án phạm vi nghiên cứu sẽ

không chỉ gói gọn trong nội bộ khu vực mà là khu vực mở rộng (gồm các quốc gia

tham gia có lợi ích và ảnh hưởng ở khu vực, ví dụ như Ấn Độ, Úc, New Zealand

trong ASEAN+6, Mỹ và một số nước trong TPP - CPTPP…).

- Phạm vi về thời gian: Từ khoảng giữa thập niên 1980 đến nay (cuối 2018)

và dự báo triển vọng đến 2025. Trong đó, để làm nổi bật được sự chuyển biến vai

trò của Nhật Bản trong tổng thể tiến trình liên kết, nội dung chương chính (chương

III) sẽ phân định theo hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ khoảng giữa những năm

1980 đến những năm đầu thập niên 2010. Giai đoạn hai từ những năm đầu thập niên

2010 đến nay. Sở dĩ NCS lựa chọn cách phân định như vậy bởi ở hai thời điểm này

ko chỉ Nhật Bản mà cả tiến trình liên kết kinh tế Đông Á đều đứng trước những

bước ngoặt vô cùng to lớn. Đặc biệt, trật tự kinh tế khu vực và thế giới đều có sự

biến động, cho thấy khả năng chuyển dịch quyền lực từ Tây sang Đông, ảnh hưởng

hết sức sâu sắc tới tiến trình liên kết kinh tế khu vực. Ngay cả quy mô tiến trình liên

kết, nếu trước kia chủ yếu bó hẹp trong nội bộ khu vực, thì từ những năm đầu 2010

quy mô khu vực mở rộng đã trở thành xu thế mạnh mẽ và khó đảo ngược.

4

Cụ thể, liên quan đến mốc thời gian thứ nhất, vào những năm đầu thập niên

1980, Nhật Bản trên đà tăng trưởng thần kỳ đã nhanh chóng vươn lên thành nền

kinh tế thứ 2 thế giới, trở thành mối đe dọa thực sự đối với vị thế số 1 của Mỹ. Mặc

dù Thỏa ước Plaza (Plaza Accord) ký ngày 22/9/1985 tại New York giữa 5 quốc gia

là Mỹ, (CHLB) Đức, Anh, Pháp và Nhật là nhằm làm giảm tỉ giá đồng đô la Mỹ so

với đồng Yên và các ngoại tệ khác, tuy nhiên thỏa ước này cũng được xem như một

“cuộc chiến tranh” kinh tế mà Mỹ chủ yếu nhằm vào Nhật Bản. Tăng trưởng GDP

và xuất khẩu của Nhật Bản gần như ngưng lại từ nửa đầu năm 1986. Những nỗ lực

của Ngân hàng Trung ương nước này nhằm duy trì tỉ giá đồng Yên đã tạo nên tình

trạng bong bóng trên thị trường chứng khoán. Sự sụp đổ của thị trường này đã đẩy

kinh tế Nhật rơi vào khủng hoảng. Những "thập kỷ mất mát" sau đó đã khiến nước

này không còn khả năng trở thành mối đe dọa về kinh tế đối với Mỹ.

Liên quan đến tiến trình liên kết kinh tế Đông Á, không chỉ là nguyên nhân

quan trọng dẫn tới sự đảo chiều của kinh tế Nhật, Thỏa ước Plaza cũng đã làm thay

đổi hẳn chiến lược công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu của nước này, khiến

quan hệ kinh tế, thương mại Nhật – Mỹ xấu đi, trong khi quan hệ giữa Nhật với các

nước Đông Á được đẩy mạnh. Sự tăng giá của đồng Yên dẫn tới một làn sóng FDI ồ

ạt chảy từ Nhật Bản sang các nước Đông Á khác (NIEs, ASEAN4). Từ giữa những

năm 1980, hệ thống phân công lao động quốc tế do MNCs Nhật Bản khởi nguồn đã

kích hoạt chuỗi sản xuất và cung ứng cho nhiều ngành công nghiệp (điện máy, điện

tử, ô tô…). Mạng sản xuất khu vực ngày càng mở rộng, thúc đẩy liên kết kinh tế

trên phương diện thực tế (De-facto) tiến triển mạnh tại Đông Á.

Mốc thời gian thứ hai từ đầu thập niên 2010 cũng khởi nguồn từ sự trỗi dậy

của một siêu cường kinh tế mới, một lần nữa cho thấy kịch bản diễn ra chuyển giao

quyền lực thế giới mới. Theo dự báo của WB và IMF, nếu tốc độ tăng trưởng của

Mỹ và Trung Quốc không thay đổi thì chỉ 2025 hoặc 2030 Trung Quốc sẽ vươn lên

thay Mỹ thành nền kinh tế số 1 thế giới. Ngoài ra, cách thức Trung Quốc thiết lập

hệ thống quyền lực của riêng họ cũng giống những gì Mỹ từng làm sau Thế chiến II

để xây dựng và duy trì vị thế siêu cường. Quan hệ cạnh tranh, đối đầu quyết liệt

diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc đã tác động hết sức sâu sắc tới Đông Á và Nhật Bản.

5

Liên kết kinh tế Đông Á trải qua nhiều biến động lớn, quy mô liên kết không còn là

Khu vực hay Tiểu khu vực mà Khu vực mở rộng với sự hình thành và tiến triển của

những thể chế liên kết kinh tế đa phương như EAFTA, FTAAP, RCEP, TPP, BRI,

AIIB. Về phần Nhật Bản, một lần nữa đối diện với trật tự quốc tế thay đổi, nước

này không chỉ bị Trung Quốc vượt lên, đánh mất vị trí nền kinh tế thứ hai mà còn

rơi vào tình thế khó khăn khi ở giữa "hai chiến tuyến", một bên là láng giềng phụ

thuộc sâu sắc về kinh tế, xã hội và một bên là đồng minh quan trọng nhất.

- Phạm vi về lĩnh vực nghiên cứu:

 Tiến trình liên kết kinh tế Đông Á:

Có thể thấy rằng, liên kết kinh tế Đông Á thực chất là một tiến trình chứ

không phải là một kết quả hay đích đến. Luận án sẽ xem xét tiến trình này từ hai

phương diện Thực tế (Liên kết/ hội nhập kinh tế trên phương diện thực tế, tiếng

Anh: De facto economic integration, tiếng Nhật: 事実上の経済統合) và Thể chế

(Liên kết/ hội nhập kinh tế trên phương diện thể chế, tiếng Anh: De jure economic

integration, tiếng Nhật: 制度的経済統合). Ở phương diện thực tế, luận án tập trung

chủ yếu vào góc độ vi mô từ khía cạnh mạng sản xuất khu vực, cụ thể là các lĩnh

vực thương mại, đầu tư. Về phương diện thể chế, các phân tích sẽ xoay quanh

những vấn đề vĩ mô như hiệp định thương mại tự do khu vực. Ngoài ra, cũng liên

quan đến phương diện thể chế, có thể thấy rằng từ khoảng đầu thập niên 2010 tại

Đông Á đã diễn ra nhiều động thái cạnh tranh ảnh hưởng, điều chỉnh chiến lược, tập

hợp lực lượng thông qua các thể chế hội nhập giữa hai cường quốc Trung - Mỹ, tác

động rất lớn tới tiến trình liên kết kinh tế, phá vỡ giới hạn địa lý khu vực trước đây.

Với lý do như vậy, luận án này sẽ chú ý làm rõ về sự biến đổi vai trò của Nhật Bản

trong tình hình mới này. Bên cạnh đó, sự ra đời của chiến lược BRI của Trung Quốc

đã khiến Mỹ và các đồng minh trong đó có Nhật Bản buộc phải nhanh chóng lên

các kế hoạch cả trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Bởi vậy mà bên cạnh thương mại, đầu

tư và FTA thì cơ sở hạ tầng cũng là một lĩnh vực mà luận án muốn tập trung làm rõ.

Trong khuôn khổ có giới hạn của luận án, những lĩnh vực liên kết kinh tế khu

vực liên quan khác như thương mại phi truyền thống (thương mại điện tử, kinh tế

6

môi trường...), thương mại dịch vụ, dịch chuyển thể nhân, mua sắm công, sở hữu trí

tuệ, lĩnh vực ngoại giao kinh tế (viện trợ chính thức của chính phủ - ODA), lĩnh vực

tài chính tiền tệ... chỉ được đề cập như các vấn đề chung chứ không nằm trong phạm

vi nghiên cứu chính của luận án.

 Chủ thể/ Bên tham gia có ảnh hưởng quan trọng: Được hiểu là một nước

hoặc nhóm nước tham gia chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đối với tiến trình liên kết

kinh tế Đông Á mà việc làm rõ vai trò của các chủ thể này sẽ làm nổi bật được vai

trò của Nhật Bản. Trong luận án này (ngoài Nhật Bản) Trung Quốc, Mỹ và ASEAN

sẽ được coi là các chủ thể (hay các bên tham gia) có ảnh hưởng quan trọng.

 Vai trò quốc gia: Cách hiểu về vai trò một quốc gia trong luận án tương

đương với vị thế, chức năng, tầm ảnh hưởng và trách nhiệm quốc tế của quốc gia đó

(trách nhiệm quốc tế là thái độ tôn trọng các chuẩn mực quốc tế, xử lý hài hòa lợi

ích quốc gia, lợi ích cộng đồng và lợi ích chính đáng của quốc gia khác, đóng góp

cho việc xây dựng các khuôn khổ pháp lý phù hợp với điều kiện quốc tế, cung cấp

các dịch vụ công quốc tế, kiến tạo các khuôn khổ hội nhập theo hướng công bằng,

dân chủ, văn minh hơn…).

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận:

Luận án này sử dụng các phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học như

duy vật biện chứng với việc tập trung vào các cặp phạm trù như bản chất-hiện tượng,

khả năng- hiện thực, nguyên nhân-kết quả…; phương pháp luận mang quan điểm

thực tiễn, theo đó coi trọng tính ứng dụng của vấn đề nghiên cứu; phương pháp luận

duy vật lịch sử qua việc xem xét các sự vật trong những hoàn cảnh cụ thể.

4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Các phương pháp nghiên cứu chính mà luận án sử dụng bao gồm :

- Phương pháp phân tích, thống kê kinh tế: tổng hợp, phân tích các thông tin

dữ liệu sơ cấp, thứ cấp trong đó có các kết quả phân tích định lượng của các công

trình nghiên cứu uy tín đã được công bố...

- Phương pháp so sánh: Bằng việc sử dụng biện pháp nghiên cứu so sánh, vai

trò của Nhật Bản trong liên kết Đông Á không chỉ được xem xét một cách riêng lẻ

7

mà còn được đặt trong tổng thể nhiều mối quan hệ, qua đó đánh giá một cách chính

xác và khách quan hơn về đối tượng nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Như đã đề cập ở trên, liên kết kinh tế

Đông Á là một tiến trình lâu dài và phức tạp, không ít vấn đề nếu chỉ riêng chuyên

ngành kinh tế sẽ không thể giải thích đầy đủ, đòi hỏi phải có sự kết hợp với nghiên

cứu liên ngành. Với lý do đó, luận án sẽ không chỉ gói gọn việc phân tích trong

khuôn khổ của chuyên ngành kinh tế (kinh tế thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế), mà

trong những trường hợp cần thiết sẽ sử dụng cả phương pháp liên ngành (kinh tế -

chính trị) để có thể lý giải thuyết phục hơn về những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với

liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của Nhật Bản.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

Thứ nhất, luận án góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về liên kết kinh tế

Đông Á, hình thành nên một khung nghiên cứu tương đối hợp lý về vai trò của Nhật

Bản trong tiến trình này.

Thứ hai, luận án giúp có được một cái nhìn tổng thể về toàn bộ tiến trình liên

kết kinh tế Đông Á.

Thứ ba, luận án đưa ra được những đánh giá khá toàn diện và mang tính

xuyên suốt về vai trò của Nhật Bản trong tiến trình này.

Thứ tư, luận án đề xuất một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam về hội

nhập kinh tế khu vực, tận dụng có hiệu quả vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh

tế Đông Á, tăng cường hơn nữa mối quan hệ song phương, đóng góp cho định

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Về mặt lý luận:

Luận án góp phần hệ thống hóa những cơ sở lý thuyết giải thích cho sự tiến

triển và tính tất yếu của liên kết kinh tế Đông Á, làm rõ vai trò của Nhật Bản trong

từng giai đoạn, hình thành nên khung nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản đối với

tiến trình liên kết kinh tế Đông Á.

6.2. Về mặt thực tiễn:

- Cung cấp các kết quả nghiên cứu có ý nghĩa tham khảo trong hoạch định

chính sách đối ngoại của các cơ quan quản lý vĩ mô Việt Nam.

8

- Là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập chuyên

ngành quan hệ kinh tế quốc tế.

7. Kết cấu của luận án:

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:

Chương 1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề

luận án

Chương 2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của liên kết kinh tế Đông Á

và vai trò của một chủ thể

Chương 3. Thực trạng vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh

tế Đông Á

Chương 4. Việt Nam và Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á

9

Chương 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ LUẬN ÁN

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu

vực Đông Á và vai trò của một chủ thể

1.1.1. Nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu vực

1.1.1.1. Nghiên cứu trong nước

Điểm lại những nghiên cứu trong nước có đóng góp lớn về phương diện lý

luận, cuốn sách “Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn

cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế” (2007) do TS. Trần Quang Minh làm chủ

biên đã hệ thống hoá một cách khá đầy đủ về các học thuyết và chính sách chủ yếu

của Nhật Bản về liên kết Đông Á kể từ sau Chiến tranh Lạnh, cung cấp một cái nhìn

toàn diện và sâu sắc về liên kết kinh tế Đông Á từ góc độ tiếp cận của Nhật Bản,

một trong những quốc gia đầu tầu thúc đẩy tiến trình này [19].

Nghiên cứu “Ba quan điểm lý thuyết về Cộng đồng kinh tế Đông Á (EAEC)”

(2009) của TS. Nguyễn Mạnh Hùng đã phân tích một số lý luận giải thích cho sự

tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á như Chủ nghĩa chức năng mới, Chủ nghĩa

hiện thực cấu trúc và Chủ nghĩa kiến tạo xã hội. Trong khi Chủ nghĩa chức năng

mới nhận định rằng, dựa trên những điều kiện hiện nay Cộng đồng kinh tế Đông Á

hoàn toàn khả thi và Chủ nghĩa hiện thực cho thấy hợp tác giữa các nước Đông Á

dù khó khăn song không phải không thể xảy ra, thì dưới góc nhìn của Chủ nghĩa

kiến tạo xã hội vốn dĩ nhấn mạnh các yếu tố “chuẩn mực”, đến nay dường như

EAEC vẫn chưa thể xây dựng một chuẩn mực cho quá trình hội nhập [13].

Bên cạnh đó, luận án “Xu hướng hình thành các hiệp định thương mại tự do

(FTA) tại Đông Á” (2008) của NCS. Bùi Trường Giang cũng là một công trình có

giá trị về phương diện lý luận. Nghiên cứu này đã đưa ra một cách tiếp cận đa chiều

đối với nền tảng lý luận về xu hướng hình thành các hiệp định thương mại tự do khu

vực và song phương tại Đông Á từ giữa thập niên 1990, qua đó làm rõ những đặc

điểm của thực tiễn hình thành các hiệp định thương mại tự do khu vực và chính

10

sách của mỗi quốc gia, chiều hướng vận động và hệ quả của xu hướng hình thành

các hiệp định thương mại tự do khu vực trong tương lai [10].

1.1.1.2. Những nghiên cứu nước ngoài

Đề cập tới những nghiên cứu lý thuyết nước ngoài về liên kết kinh tế khu vực

trước tiên sẽ không thể không nhắc đến khung lý luận của nhà kinh tế học Béla

Balassa (1928 – 1991). Đặc biệt, những nội dung mà ông đề cập trong cuốn sách

“Lý luận về hội nhập kinh tế” (経済統合の理論, 1963) để giải thích về mô hình

hội nhập kinh tế khu vực cho đến nay vẫn được xem là một lý luận quan trọng [88].

Cũng trong cuốn sách này, Balassa đã đưa ra khái niệm và các cấp độ liên kết,

những lý thuyết đã cho thấy tầm nhìn sâu rộng của tác giả khi đã “dự báo” chính

xác tương lai nhiều thập kỷ thực tiễn của liên kết kinh tế khu vực tại châu Âu.

Ngoài ra, về các công trình nghiên cứu lý luận tạo dựng nền tảng cho nghiên

cứu liên kết kinh tế khu vực trên thế giới nói chung và Đông Á nói riêng khác còn

có “Hội nhập khu vực: Kinh nghiệm, Lý thuyết và Thước đo” (“Regional

Integration: Experience, Theory, and Measurement”, 1999) của Ali M. El-Agraa.

Nghiên cứu này đã phân tích tổng thể về lý thuyết và thực tiễn hội nhập kinh tế lấy

ý tưởng từ việc thành lập Cộng đồng Than và Thép tại châu Âu năm 1951 và một số

quá trình hội nhập khu vực khác từ sau những năm 1960. Tác giả chú trọng vào khía

cạnh nghiên cứu thực nghiệm lý thuyết và kỹ thuật thuần túy, bao gồm kỹ thuật lập

mô hình và kỹ thuật trừu tượng nhằm ước tính lợi ích của hội nhập kinh tế [40].

Nghiên cứu “Hội nhập kinh tế khu vực“ (“Regional economic integration”,

1995) của Richard Baldwin và Anthony Venables đã đề cập tới những lý thuyết áp

dụng trong đánh giá về hiệu quả kinh tế của các hiệp định liên kết khu vực

(Regional Integration Agreements - RIAs). Những hiệu quả này được chia thành ba

loại: hiệu quả phân bổ, hiệu quả tích lũy và hiệu quả vị trí. Loại thứ nhất bao gồm

tác động của RIAs tới việc phân bổ nguồn lực tĩnh, trong các môi trường có sự cạnh

tranh hoàn hảo và không hoàn hảo. Loại thứ hai bao gồm tác động của RIAs tới sự

tích tụ các yếu tố sản xuất và bao gồm cả các tác động tăng trưởng trung và dài hạn.

Loại thứ ba là ảnh hưởng của RIAs đối với việc phân bổ các nguồn lực không gian.

Ngoài ra, dựa trên lý thuyết về địa lý kinh tế, nghiên cứu này cũng thảo luận về các

11

phương pháp và kết quả đánh giá thực nghiệm của các RIAs tại Bắc Mỹ (NAFTA)

và châu Âu (EC) cũng như giải thích các vấn đề khác như cơ cấu của RIAs và ý

nghĩa của RIAs đối với hệ thống thương mại thế giới [77].

Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB) “Hội nhập khu

vực và phát triển” (“Regional Integration and Development”, 2003) của các tác giả

Maurice Schiff và L. Alan Winters - kết quả của một dự án nghiên cứu về chủ nghĩa

khu vực - đã đưa ra những phân tích lý thuyết nhằm đánh giá ảnh hưởng của các

thỏa thuận liên kết kinh tế khu cũng như vấn đề như làm thế nào tận dụng tối đa các

thỏa thuận liên kết kinh tế khu vực, tác động của những thỏa thuận liên kết kinh tế

khu vực về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiệu quả tích cực của hội nhập kinh tế.

Ngoài ra, báo cáo cũng đề cập đến sự giao thoa giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả

chính trị, mối quan hệ giữa chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa đa phương [68].

Ngoài ra, về các lý thuyết có liên quan đến hiệu quả của liên kết kinh tế khu

vực khác còn có Jacob Viner (1950) với các khái niệm Hiệu quả sáng tạo và Hiệu

ứng chệch hướng thương mại [56]; L. Summers (1991) với thuật ngữ “Đối tác

thương mại tự nhiên” (Natural Trading Partner - NTP) khá phổ biến trong các

nghiên cứu về hội nhập kinh tế khu vực liên quan đến khía cạnh gia tăng phúc lợi

thương mại thông qua những thỏa thuận ưu đãi, khoảng cách và chi phí vận chuyển

trong giao dịch thương mại… [65].

1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về vai trò của một

quốc gia trong hội nhập khu vực

Có thể thấy rằng, cho đến nay các đề tài nghiên cứu lý thuyết về vai trò của

một quốc gia trong hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế khu vực nói

riêng là vô cùng ít ỏi. Bởi vậy, trong phạm vi những tài liệu có thể tiếp cận, nghiên

cứu sinh chỉ tổng hợp lại một số nghiên cứu tiêu biểu có liên quan trực tiếp tới chủ

đề luận án như sau.

Trước hết, cuốn sách “Những khái niệm về vai trò quốc gia trong nghiên

cứu chính sách đối ngoại” (National Role Conceptions in the Study of Foreign

Policy, 1970) của tác giả K. J. Holsti được đánh giá là một nghiên cứu lý thuyết về

vai trò của quốc gia đầu tiên thu hút được sự chú ý đối với các ấn phẩm về chính

12

sách đối ngoại sau khi xuất bản. Trước khi Holsti đưa ra các khái niệm về vai trò

quốc gia này, một số lý thuyết về vai trò đã được phát triển trong gần bốn thập kỷ

nhưng là thuộc các lĩnh vực xã hội học, tâm lý học xã hội và nhân học. Không áp

dụng toàn bộ các lý thuyết đi trước, thay vào đó Holsti quan tâm tới những khía

cạnh như lãnh đạo quốc gia có thể tạo dựng uy tín, bản sắc của nhà nước, hay đưa ra

các khái niệm về vai trò quốc gia theo cách thức một quốc gia hành động trong

khuôn khổ hệ thống quốc tế [60].

Tiếp theo, nghiên cứu “Lý thuyết vai trò và phân tích chính sách đối

ngoại” (“Role Theory and Foreign Policy Analysis”, 1987) của giáo sư Đại học

Arizona Stephen G. Walker đã có những bước phát triển hơn nữa trong việc vận

dụng lý thuyết vai trò trong nghiên cứu chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế.

Walker lập luận rằng lý thuyết về vai trò có giá trị mô tả, tổ chức và giải thích cho

việc nghiên cứu về chính sách đối ngoại. Walker đã phân tích chính sách đối ngoại

với ba hình thức nghiên cứu truyền thống là nghiên cứu so sánh về chính sách đối

ngoại, cách tiếp cận quy trình ra quyết định, chủ nghĩa hiện thực chính trị [78].

Ngoài ra, trong nghiên cứu “Lý thuyết vai trò và chính sách đối ngoại”

(“Role Theory and Foreign Policy”), giáo sư Cameron G. Thies (Đại học Iowa) đã

lập luận rằng những cách tiếp cận lý thuyết về vai trò trong phân tích chính sách đối

ngoại tập trung vào một hoặc chỉ một vài vai trò thường nhằm mục đích cung cấp

một lời giải thích về một sự lựa chọn chính sách đối ngoại. Có thể nói lý thuyết vai

trò của Cameron là một khung lý luận tương đối giá trị trong việc phân tích chính

sách đối ngoại và quan hệ quốc tế nói chung [43].

1.2. Những nghiên cứu về liên kết kinh tế Đông Á

1.2.1. Nghiên cứu trong nước

Tại Việt Nam, những nghiên cứu về chủ đề liên kết Đông Á nhìn chung khá

phong phú. Trong số đó, không thể không nhắc đến một số công trình có ý nghĩa

đặt nền móng cho nghiên cứu liên kết kinh tế Đông Á như “Hướng tới Cộng đồng

Kinh tế Đông Á” (2004) do GS. TS. Đỗ Hoài Nam và PGS. TSKH. Võ Đại Lược

đồng chủ biên [21], “Đối sách của các nước Đông Á trước việc hình thành các

khu vực mậu dịch tự do (FTA) từ cuối những năm 1990” (2006) do PGS. TS. Lưu

13

Ngọc Trịnh chủ biên [35], “Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối

cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế” (2007) do TS. Trần Quang Minh

chủ biên [18], “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa của Việt

Nam” (2005, tái bản 2006, 2010) của GS. Đại học Waseda Trần Văn Thọ [28], cuốn

sách “Cộng đồng kinh tế Đông Á (EAEC) và toan tính của các nước lớn” (2010)

do PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh chủ biên [37], hay luận án tiến sĩ “Xu hướng hình

thành các hiệp định thương mại tự do (FTA) tại Đông Á” (2008) do NCS Bùi

Trường Giang thực hiện [10]…

Đi sâu vào một số nghiên cứu liên quan khác còn có “Biến đổi trong quan hệ

tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản với triển vọng nhất thế hóa Đông Á”

(2009) của tác giả Nguyễn Anh Chương. Nghiên cứu này đã đề cập đến vai trò quan

trọng của “Tam giác chiến lược” Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản trong cục diện

quan hệ quốc tế ở Đông Á, đó là thúc đẩy và quyết định chiều hướng vận động của

liên kết khu vực. Theo tác giả, với sự phát triển và vai trò ngày càng quan trọng của

ASEAN cùng tính chất phức tạp của quan hệ Trung - Nhật, tính khả thi của việc

thiết lập một liên minh Trung - Nhật ở Đông Á là không lớn [8].

Nghiên cứu “ASEAN trong thế kỷ XXI: Xây dựng Cộng đồng và khẳng định

vai trò trong khu vực” (2012) của PGS. TS. Nguyễn Huy Hoàng cho thấy sự hình

thành Cộng đồng ASEAN trong thời điểm chuyển giao giai đoạn phát triển có ý

nghĩa thử thách quan trọng đối với sự tăng cường liên kết. Mặc dù tác động của

khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với các nền kinh tế là rất lớn nhưng vai trò và vị

thế của ASEAN trong các cấu trúc hợp tác khu vực là không thể phủ nhận [39].

Bài viết “Nhật – Trung: Những trở ngại tiềm tàng trong quan hệ song

phương” (2009) của Đỗ Minh Cao cho rằng, Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN…

đều nỗ lực thể hiện vai trò của mình trước ý tưởng về Cộng đồng Đông Á. Hệ quả

tích cực là tiến trình liên kết được thúc đẩy, tuy nhiên mặt trái lại là những nổi cộm

trong quan hệ giữa các chủ thể như Trung Quốc và Nhật Bản [7].

Nghiên cứu “Phương thức hình thành các hiệp định thương mại tự do

(FTA) trong khu vực Đông Á hướng tới một cộng đồng kinh tế Đông Á trong

tương lai” (2009) của TS. Bùi Trường Giang đã phân tích những động thái nhằm

14

thiết lập một cộng đồng kinh tế thông qua một số khung khổ hội nhập, trong đó có

ASEAN+6 do Nhật Bản đề xuất với tên gọi Sáng kiến Đối tác Kinh tế Toàn diện

Đông Á (CEPEA). Theo tác giả, CEPEA là một nỗ lực “cân bằng” của Nhật Bản

trước ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc trong liên kết kinh tế khu vực [11].

Cuốn sách “Quan hệ Hoa Kỳ - ASEAN 2001-2020” của GS.TS. Nguyễn

Thiết Sơn đã đưa ra những đánh giá về bối cảnh quốc tế, khu vực của quan hệ Mỹ -

ASEAN trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, sự điều chỉnh chính sách của Mỹ, thực

trạng, triển vọng quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh của Mỹ với ASEAN và những

tác động đối với sự phát triển của các nước ASEAN trong đó có Việt Nam [24].

PGS. TS. Nguyễn Huy Hoàng trong nghiên cứu “Hợp tác kinh tế trong quan

hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – ASEAN” (2018) với việc phân tích quan hệ

kinh tế và mối liên quan giữa quan hệ kinh tế với quan hệ đối tác chiến lược Trung

Quốc – ASEAN đã chỉ ra rằng, bên cạnh thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược, quan

hệ kinh tế Trung Quốc – ASEAN đồng thời cũng gặp phải những cản trở nhất định

như sự sụt giảm lòng tin từ phía ASEAN với Trung Quốc về động cơ thực sự của

nước này trong thúc đẩy quan hệ hai bên [136].

Nhấn mạnh tới nhân tố Việt Nam trong tiến trình liên kết kinh tế, cuốn sách

“Việt Nam hội nhập kinh tế Đông Á trong khuôn khổ ASEAN + 3” (2015) của

PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn, PGS. TS Hà Văn Hội và TS. Nguyễn Anh Thu đã

phân tích cơ chế hợp tác giữa ASEAN với ba đối tác Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn

Quốc và chỉ rõ, hội nhập kinh tế thông qua ASEAN, ASEAN+3 mang lại cho Việt

Nam nhiều cơ hội cải thiện cơ cấu kinh tế, tăng xuất khẩu, thu hút FDI…, tuy nhiên

Việt Nam cũng phải đối mặt với thách thức không nhỏ từ hàng hóa và dịch vụ của

các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc, cũng như các vấn đề nảy sinh từ quan hệ địa

- chính trị phức tạp trong khu vực [25].

1.2.2. Nghiên cứu nước ngoài

Trong số những công trình nghiên cứu nước ngoài, “TPP, RCEP và chiến

lược châu Á - TBD của Nhật Bản”, (“TPP, RCEP, and Japan’s FTA Strategy in

Asia-Pacific”, 2014) của GS. Đại học Waseda Urata Shujiro đã giải thích về chiến

lược của Nhật Bản đối với RCEP trong trào lưu FTA tại Đông Á và châu Á - TBD,

15

qua đó đưa ra đáp án cho câu hỏi, liệu quan hệ giữa hai khuôn khổ hội nhập kinh tế

RCEP và TPP là mâu thuẫn hay bổ sung cho nhau [82].

Nghiên cứu “CEPEA: Thực trạng liên kết kinh tế Đông Á” (“CEPEA~東ア

ジ ア 経 済 統 合 の 現 状 ”, 2008) của Yoshizaki Tatsuhiko thuộc

Sojitz Research Institute [91] và “Liên kết kinh tế Đông Á một cách toàn diện đã

khởi động” (“動き始めた包括的東アジア経済連携”, 2009) của Nezuri Saburo

[95] thuộc báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Sáng kiến CEPEA của các học giả

Nhật Bản và Đông Á đã nhận định, ASEAN+6 là con đường khởi đầu của khuôn

khổ hợp tác OECD phiên bản Đông Á và có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện

vai trò của Nhật Bản trong hội nhập Đông Á.

Sách trắng về Cộng đồng Đông Á xuất bản đầu tiên trên thế giới "Cộng đồng

Đông Á năm 2010 - Cộng đồng Đông Á liệu có khả thi không? Có cần thiết

không?" (“東アジア共同体白書二〇一〇 東アジア共同体は可能か、必要か

", 2010) của Viện Nghiên cứu Cộng đồng Đông Á Nhật Bản (東アジア共同体評議

会) đã hệ thống hóa thực trạng và những thách thức của "Cộng đồng Đông Á" nhìn

từ quan điểm của Nhật Bản. Cuốn sách là kết quả của những hội thảo diễn ra trong

2 năm xoay quanh các vấn đề như Cộng đồng Đông Á là gì? Khả năng hiện thực?

Chiến lược quốc gia của Nhật Bản với các sáng kiến thúc đẩy Cộng đồng Đông Á?

Nhật Bản cần đóng vai trò như thế nào trong các sáng kiến đó? [94]

Tập hợp các công trình nghiên cứu thuộc đề tài "Châu Á trong thời đại toàn

cầu hóa và vai trò của Nhật Bản" (“グローバリゼーション下のアジアと日本

の役割”, 2005) của Viện nghiên cứu tài chính, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật

Bản – JBIC là kết quả sau 16 lần hội thảo của nhóm các học giả hàng đầu của Nhật

Bản nhằm làm sáng tỏ vai trò cần thiết của Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa,

khu vực hóa tiến triển mạnh mẽ tại châu Á. Toàn cầu hóa là một hiện tượng phức

tạp, không chỉ là sự di chuyển quốc tế của số lượng lớn vốn, hàng hóa, dịch vụ,

thông tin mà còn là sự thống nhất các quy tắc luật lệ hướng tới việc đơn nhất hóa

các mô hình, hội tụ các hành vi. Châu Á theo quan niệm của các tác giả bao gồm

Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Ấn Độ. Kết quả tổng hợp được gồm 9 phần đưa ra

những phân tích về thực trạng, đánh giá triển vọng và đề xuất chính sách [85].

16

Nghiên cứu "Hội nhập kinh tế Đông Á sẽ đi về đâu ?" ("Whither East Asian

Economic Integration?” (2002) của tác giả Naoko Munakata đã làm rõ sự tiến triển

của các khuôn khổ liên kết khác nhau tại Đông Á, qua đó đánh giá triển vọng liên

kết kinh tế khu vực. Ngoài ra, tác giả cũng đã phân tích những nỗ lực của Nhật Bản

nhằm vượt qua những thách thức về kinh tế và chính trị trong quá trình hội nhập,

cũng như đánh giá những tác động của chính sách của Mỹ đối với Đông Á [71].

Báo cáo "Liên kết Đông Á hướng tới Cộng đồng kinh tế Đông Á" (East

Asian intergration towards an East Asian economic community), của Christopher M.

Dent (2017) đã mô tả sự tiến triển của liên kết kinh Đông Á ở cấp vi mô từ những

năm 1960, sau đó kể từ những năm 1990 các chính phủ Đông Á đã tăng cường hội

nhập ở cấp vĩ mô trong bối cảnh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế gia tăng. Gần đây,

nhiều nỗ lực thúc đẩy liên kết đang ưu tiên hơn vấn đề kết nối mạng lưới các trung

tâm hạ tầng. Đáng chú ý, năm 2013 chính phủ Trung Quốc đã khởi động Ngân hàng

Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp tài chính cho các dự án hạ tầng với

mục đích nâng cao năng lực phát triển kinh tếi của các nước châu Á [44].

Nghiên cứu “Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và hội nhập kinh tế

Đông Á” (Trans - Pacific Partnership (TPP) and East Asian Economic Integration)

của Kaewkamol Pitakdumrongkit (2017) đề cập tới viễn cảnh của hội nhập kinh tế

Đông Á khi quan điểm của Mỹ về TPP gần đây thay đổi, đặc biệt là thái độ tiêu cực

của chính quyền Trump về hiệp định thương mại tự do đa phương này [61].

“Báo cáo 2016 về liên kết kinh tế châu Á: Điều gì dẫn dắt đầu tư trực tiếp

nước ngoài ở châu Á và Thái Bình Dương” ("Asian Economic Integration Report

2016: What Drives Foreign Direct Investment in Asia and The Pacific", 2016) nhận

định rằng hội nhập khu vực ở Châu Á và TBD đã tạo nguồn lực quan trọng cho sự

tăng trưởng. Bất chấp bối cảnh nhiều yếu tố thiếu chắc chắn gia tăng sau bầu cử

tổng thống 2016 của Mỹ, Anh rời EU, tăng trưởng toàn cầu chậm lại hay quá trình

tái cơ cấu kinh tế diễn ra tại Trung Quốc... Châu Á và TBD vẫn là điểm đến quan

trọng trên thế giới về FDI, thúc đẩy hội nhập kinh tế, đóng góp cho xã hội thông

qua việc tích lũy vốn vật chất, con người, chuyển giao công nghệ và tri thức [46].

17

1.3. Những nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế

Đông Á

1.3.1. Nghiên cứu trong nước

Trong số các nghiên cứu trong nước đề cập tới vai trò của Nhật Bản trong liên

kết kinh tế Đông Á, cuốn sách "Hướng tới Cộng đồng kinh tế Đông Á" (2004) của

GS. TS. Đỗ Hoài Nam và PGS. TSKH Võ Đại Lược (chủ biên) đã tóm lược một

cách cơ bản về vai trò của Nhật Bản. Theo đó, về vai trò đề xuất các ý tưởng liên

kết, sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997 Nhật Bản đã đề xuất thành lập

Quỹ tiền tệ châu Á (AMF), một tổ chức tài chính độc lập và thay thế IMF trong một

số lĩnh vực. Ngoài ra, ý tưởng về Cộng đồng Đông Á của Thủ tướng Koizumi đưa

ra năm 2002 trong chuyến thăm Đông Nam Á là bước tiếp theo của cơ chế 10+3

hướng tới một liên minh chặt chẽ như EU. Tuy nhiên trên thực tế, trước trào lưu

thương mại tự do, thay vì đóng vai trò chủ đạo trong thúc đẩy liên kết khu vực,

Nhật Bản lại tỏ ra khá thụ động, đặc biệt là khi so sánh với chính sách FTA tích cực

mà Trung Quốc xúc tiến [21].

Đề tài Nghị định thư giữa Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Đại học Tokyo

Nhật Bản “Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước thành viên mới của ASEAN

trong bối cảnh Đông Á đầu thế kỷ XXI” do PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh (2010) làm chủ

nhiệm ngoài khái quát lại lịch sử quan hệ giữa Nhật Bản với các nước CLMV trong

thế kỷ trước đã làm rõ thực trạng quan hệ giữa Nhật Bản với các nước thành viên

mới của ASEAN vào thập niên đầu của thế kỷ XIX, đồng thời chỉ ra những cơ hội

và thách thức lớn trong quan hệ hai bên. Trong trật tự Đông Á hiện nay không thể

phủ định vai trò và vị trí quan trọng của Nhật Bản, thứ nhất bởi Nhật Bản là một

cường quốc kinh tế khu vực, bên cạnh đó Nhật Bản cũng là một quốc gia có ý chí

mạnh mẽ trong việc trở thành thủ lĩnh của Đông Á [16].

Cuốn sách “Cộng đồng kinh tế Đông Á (EAEC) và những toan tính của các

nước lớn” (2010) của PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh không chỉ mang đến một cái nhìn

tổng thể về liên kết kinh tế Đông Á mà còn làm sáng tỏ những toan tính sâu xa của

các nước lớn trong và ngoài khu vực như Mỹ, Nhật, ASEAN và Trung Quốc. Đặc

18

biệt, vai trò và động cơ của Nhật Bản trong hội nhập kinh tế với tư cách là một quốc

gia có ảnh hưởng mạnh mẽ cũng là nội dung đã được làm rõ một cách căn bản [37].

Bài viết “Tự do hóa thương mại của Nhật Bản, vai trò và nhân tố tác động”

(2010) của PGS. TS. Phạm Thị Thanh Bình nhận định quan điểm chính sách của

Nhật Bản đối với các FTAs chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có nỗ lực

duy trì các quy tắc thương mại của WTO. Ngoài ra, việc ký kết các hiệp định

thương mại khu vực cũng được xem là cách thức để đạt được mục tiêu quan trọng

với Nhật Bản là thiết lập một cơ cấu phân công lao động quốc tế ở Đông Á mà ở đó

Nhật Bản nắm giữ vị trí cao nhất [3].

Cuốn sách “Trung Quốc và Ấn Độ trỗi dậy: Tác động và đối sách của các

nước Đông Á” do PGS. TS. Phạm Thái Quốc chủ biên đã cho thấy một bức tranh

thể hiện sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc và Ấn Độ, vươn lên là những

nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, tạo động lực phát triển không chỉ tại

Đông Á mà cả thế giới. Sự trỗi dậy của hai cường quốc này đã khiến các nước

Đông Á, trong đó có Nhật Bản phải nhanh chóng có những đối sách khác nhau

trước những tác động to lớn cả về phương diện kinh tế, hợp tác, cạnh tranh ảnh

hưởng và vị thế quốc tế [23].

Nghiên cứu “Cơ sở tạo lập chính sách Đông Á – Thái Bình Dương của Nhật

Bản – Khía cạnh lịch sử và lợi ích quốc gia” (2008) của PGS. TS. Ngô Xuân Bình

đã nhìn lại lịch sử thời kỳ Minh Trị, khi Nhật Bản từng không muốn xem mình là

một quốc gia Đông Á và hết sức kỳ vọng vào việc sánh ngang hàng với các cường

quốc phương Tây. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, Đông Á - TBD đã trở thành

mối quan tâm to lớn của Nhật Bản. Với vị trí địa lý đặc thù, Nhật Bản xác định mục

tiêu đóng vai trò cầu nối giữa các mối quan hệ liên TBD giữa Mỹ với Đông Á [5].

Cũng trong cuốn sách “Chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau thời kỳ

chiến tranh lạnh” (2000), PGS. TS. Ngô Xuân Bình đã đi sâu vào các khía cạnh đa

phương hóa chính sách đối ngoại, giảm sự phụ thuộc vào Mỹ, đối sách trước thách

thức từ Trung Quốc, thúc đẩy hợp tác với ASEAN, ảnh hưởng của Nhật Bản trong

các thể chế đa phương. Cuốn sách mô tả một diện mạo mới của các quan hệ quốc tế

sau Chiến tranh Lạnh, ở đó tồn tại nhiều xu hướng đa dạng, phụ thuộc, bổ sung cho

19

nhau, thậm chí đối lập và loại trừ nhau. Sự chuyển dịch sang một thế giới đa cực

mang tính chất cạnh tranh và hợp tác đan xen cũng đã tạo ra một môi trường quốc tế

mới ẩn chứa nhiều cơ hội và không ít thách thức. Tuy nhiên, Nhật Bản là một trong

số không nhiều quốc gia đã thích nghi nhanh với sự biến đổi của tình hình mới [4].

1.3.2. Nghiên cứu nước ngoài

1.3.2.1. Các công trình nghiên cứu tiếng Anh

Nghiên cứu “Chính sách đối ngoại ngày nay của Nhật Bản” (“Japanese

Foreign Policy Today”, 2000) của các tác giả Inoguchi Takashi và Purnedra Jain là

công trình tập hợp nhiều bài viết phân tích về lĩnh vực quan hệ quốc tế của Nhật

Bản, các vấn đề toàn cầu và khu vực nổi bật, đồng thời làm rõ các định hướng chính

sách lớn của Nhật Bản. Các tác giả đã nhận định rằng mặc dù Mỹ là quốc gia quyền

lực hàng đầu thế giới, tuy nhiên tại khu vực Thái Bình Dương nói chung và Đông Á

nói riêng Nhật Bản là nền kinh tế có tầm ảnh hưởng rất lớn [79].

Nghiên cứu “Chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh Lạnh:

Đối phó với những thay đổi” (“Japan’s Foreign policy After the Cold War: Coping

with changes”, 1993) của GS. Đại học Columbia Gerald L. Curtis cùng 17 học giả

Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc là những chuyên gia trong từng lĩnh vực cụ thể đã phân

tích một cách tương đối đầy đủ về chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với các

nước Đông Á trong các lĩnh vực khác nhau như ngoại giao, kinh tế và an ninh [49].

Báo cáo “Hội nhập kinh tế Đông Á và vai trò của Nhật Bản” (“Economic

Integration in East Asia and Japan’s Role”, 2004) của giáo sư Đại học Waseda

Kinoshita Toshihiko đã nhấn mạnh, thông qua các FTA chất lượng cao tại Đông Á

Nhật Bản có thể thực hiện hiệu quả vai trò dẫn dắt tiến trình liên kết, hợp tác với

Trung Quốc và các nước để hội nhập sâu và tiến nhanh hơn tới một cộng đồng kinh

tế châu Á. Khi Thủ tướng Malaysia Mahathir đề xuất các ý tưởng về EAEG, EAEC

và vấp phải sự phản đối của Mỹ, Nhật Bản đã không thể hỗ trợ những đề xuất đó.

Hiện tại khu vực đã có nhiều thay đổi và hy vọng Mỹ sẽ không phá vỡ “giấc mơ

Đông Á” một lần nữa. Trách nhiệm của Nhật Bản – một đồng minh tin cậy của Mỹ

- là đảm bảo rằng việc thiết lập cộng đồng Đông Á sẽ không gây tổn hại tới lợi ích

của Mỹ và quan hệ hai bên là không thể thay thế bởi Trung Quốc. Tính minh bạch

20

và sự cởi mở của kinh tế khu vực trong lĩnh vực thương mại đầu tư sẽ là chìa khóa

gìn giữ niềm tin của Mỹ. Trong khi bảo vệ niềm tin này, Nhật Bản vẫn có thể đóng

vai trò lãnh đạo theo cách riêng của mình tại Đông Á [63].

Cuốn sách “Quan hệ quốc tế của Nhật Bản: Chính trị, Kinh tế và An ninh”

(“Japan's International Relations: Politics, Economics and Security”, 2001) của

bốn học giả Anh: Glenn Hook D., Julie Gilson, Christopher Hughes và Hugo

Dobson là một nghiên cứu khá toàn diện về chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau

chiến tranh. Cuốn sách đề cập tới quan hệ Nhật - Mỹ, Nhật Bản - Đông Á, Nhật Bản

- Châu Âu, và Nhật Bản với các tổ chức toàn cầu. Về mối quan hệ của Nhật Bản với

Đông Á, ở phương diện kinh tế các tác giả đề cập tới Nhật Bản trong vai trò kiến

tạo mô hình phát triển cho các nước trong khu vực, vai trò của "con ngỗng đầu đàn"

và Nhật Bản trước và trong khủng hoảng tài chính châu Á 1997 [50].

Nghiên cứu “Nhật Bản và thế giới: Những cân nhắc với giới hoạch định

chính sách Mỹ” (“Japan and the world: Considerations for U.S. policymakers”,

1990) của các tác giả Kenneth B. Pyle, Chalmers Johnson và Edward J. Lincoln

gồm ba tiểu luận ”Vai trò mới nổi của Nhật Bản ở Đông Á” (“Japan's Emerging

Role in East Asia”, “Tương lai quan hệ Nhật - Mỹ: Tìm kiếm một sự cân bằng mới”

(“The Future of Japanese-American Relations: Seeking a New Balance”) và “Câu

hỏi Nhật Bản” (“The Japanese Question”). Trong số đó, tiểu luận “Vai trò mới nổi

của Nhật Bản ở Đông Á” của Lincoln đã mô tả về những thay đổi của mối quan hệ

giữa Nhật Bản với thế giới một thập kỷ trước khi nước này bước vào suy thoái.

Theo đó, mặc dù Nhật Bản mới chỉ được công nhận là một quốc gia công nghiệp

phát triển từ những năm 1970, tuy nhiên chỉ trong vài năm đã trở thành một chủ nợ

quốc tế lớn. Với sự thay đổi nhanh chóng đó, Nhật Bản đã có vai trò mạnh mẽ hơn

trong các vấn đề quốc tế, đặc biệt là tại Đông Á. Các tác giả dự đoán rằng tương lai

nước Nhật sẽ có vai trò kinh tế và chính trị to lớn và rõ ràng hơn trong khu vực [62].

Cuốn sách “Đối diện với Châu Á - Vai trò của Nhật Bản trong sự năng động

của hợp tác khu vực về chính trị và kinh tế” (“Facing Asia – Japan’s role in the

Political and Economic Dynamism of Regional Cooperation”, 2000), do Blechinger

Verena và Legewie Jochen đồng chủ biên bàn về các chủ đề vai trò của Nhật Bản

21

trong hội nhập châu Á về các phương diện chính trị và kinh tế, Nhật Bản có nắm

giữ vai trò chủ đạo trong hội nhập chính trị và kinh tế hay không, những kỳ vọng

của châu Á đối với vai trò của Nhật Bản, vai trò của nhà nước và khu vực phi chính

phủ của Nhật Bản đối với trật tự đang thay đổi tại châu Á – TBD như thế nào [41].

1.3.2.2. Các công trình nghiên cứu tiếng Nhật:

Mặc dù số lượng các nghiên cứu tiếng Nhật - ngôn ngữ cần thiết trong nghiên

cứu đất nước học – khá phong phú, tuy nhiên do phạm vi có hạn, luận án chỉ đưa ra

một số công trình tiêu biểu sau:

Nghiên cứu "Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC và TPP – Vai trò được kỳ

vọng của Nhật Bản" (2013) (“ASEAN 経済共同体(AEC)構想とTPP ―求め

られる日本の役割―” ) của Machida Fumitaka đã phân tích sự cần thiết của việc

Nhật Bản cần đóng một vai trò tích cực hơn với tư cách là một cường quốc kinh tế

khu vực có ảnh hưởng lớn trong cả TPP và RCEP [98].

Sách trắng "Cộng đồng Đông Á năm 2010 - Cộng đồng Đông Á liệu có khả

thi không? Có cần thiết không?" (“東アジア共同体白書二〇一〇 東アジア共

同体は可能か、必要か", 2010) cho thấy rằng bước vào thế kỷ 21, đối với Nhật

Bản, liên kết Đông Á là một vấn đề chiến lược không thể né tránh. Cuốn sách là

một nỗ lực nhằm giải đáp cho những vấn đề thách thức đối với Nhật Bản cũng như

tìm kiếm những phương thức ứng phó với trào lưu liên kết khu vực tại Đông Á [94].

Cuốn sách “Liên kết kinh tế Đông Á và Nhật Bản”(“東アジアの地域経済

連携と日本”, 2012) do Mikio Sakata chủ biên đã đề cập đến hiện trạng liên kết

kinh tế Đông Á và lựa chọn của Nhật Bản, cũng như chiến lược tăng trưởng kinh tế

của Nhật Bản tại Đông Á. Trong phần thực trạng và triển vọng hợp tác kinh tế Nhật

- Trung, tác giả đã tập trung phân tích những rủi ro trong đầu tư đối với các công ty

Nhật Bản, những vấn đề đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, môi trường đầu

tư và tình hình hiện tại của nền kinh tế khu vực Đông Bắc Trung Quốc, hợp tác kinh

tế Đông Bắc Á – Siberia. Ngoài ra, nghiên cứu cũng kiểm chứng về mức độ phụ

thuộc lẫn nhau với sự tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN [92].

22

Nhà kinh tế học Nhật Bản Hara Yonosuke, GS. Đại học Tokyo trong phần đầu

dự án nghiên cứu "Vai trò của Nhật Bản trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế" (“グ

ローバリゼーション時代の日本の役割”, 2005) đã đưa ra những dự báo về hợp

tác kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa và bối cảnh chuyển đổi trật tự quốc tế. Tác

giả cho rằng các nền kinh tế thị trường khác nhau, các thể chế kinh tế khác nhau tại

châu Á vừa cạnh tranh vừa cùng tồn tại trong tương lai sẽ phải cùng xây dựng một

khuôn khổ quản trị chủ nghĩa tư bản toàn cầu (グローバル資本主義, Global

Capitalism) và việc can dự một cách tích cực vào khuôn khổ này chính là vai trò

của Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế [85].

Theo nghiên cứu "Tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á và những động thái

hình thành mạng lưới FTA" (“東アジアにおける経済統合の進展とFTA形成

への動き:日本の役割”, 2005) của GS. Đại học Waseda Urata Shujiro, dựa trên

sự mở rộng thương mại và đầu tư nhờ vào những chính sách mở cửa, trong tương

lai tự do thương mại và đầu tư vẫn là những nhân tố quan trọng hỗ trợ cho tăng

trưởng của các nước Đông Á. Trước sự đình trệ của các vòng đàm phán đa phương

trong khuôn khổ WTO, vai trò của Nhật Bản trong tương lai cũng cần thích ứng

một cách tích cực theo hướng thiết lập những hiệp định liên kết kinh tế toàn diện

bao gồm cả cắt giảm thuế, thuận lợi hóa thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế [96].

1.4. Đánh giá những điểm đã thống nhất và vấn đề còn tồn tại, xác định

nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết

1.4.1. Những điểm đã thống nhất

Qua việc khảo sát các công trình đi trước, có thể thấy rằng đây là những

nghiên cứu công phu và có giá trị rất lớn về mặt học thuật, tạo nền móng vững chắc

cho quá trình nghiên cứu về liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của Nhật Bản sau

này. Trong đó, các nghiên cứu lý thuyết đã cung cấp nhiều cơ sở lý luận quan trọng,

giúp luận án triển khai một khung phân tích phù hợp về vai trò của Nhật Bản trong

liên kết kinh tế Đông Á. Ngoài ra, các nghiên cứu đi trước cũng đã giúp phác họa

nên một bức tranh tổng thể về liên kết kinh tế Đông Á cũng như hệ thống các quan

điểm, chính sách và sự tham gia của Nhật Bản vào tiến trình này. Với nội dung đa

23

dạng, các nghiên cứu này đã gợi mở nhiều ý tưởng trong phương hướng triển khai

nội dung của luận án, cung cấp những thông tin đa chiều giúp luận án có được góc

nhìn khách quan hơn, tạo điều kiện, cơ sở nền tảng đáng tin cậy cho nhiều đánh giá

và nhận định quan trọng của luận án.

1.4.2. Vấn đề còn tồn tại và những nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết

Vấn đề còn tồn tại

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số khoảng trống bỏ ngỏ cần tiếp tục bổ

sung, nghiên cứu sâu, giải thích thấu đáo và cập nhật hơn nữa. Trước hết có thể

thấy, phạm vi về mặt thời gian của các nghiên cứu đi trước chủ yếu chỉ giới hạn

trong một thời điểm nhất định, không có tính xuyên suốt kéo dài, nhất là từ thời kỳ

ban đầu của tiến trình liên kết kinh tế Đông Á đến nay. Nhiều nghiên cứu chủ yếu

cũng chỉ dừng lại ở việc nêu lên thực trạng và triển vọng chứ chưa làm nổi bật

được bản chất, động cơ và các nhân tố tác động tới tiến trình liên kết kinh tế Đông

Á. Các vấn đề được đề cập hoặc mang tính chất chung chung hoặc chỉ là một mảng

đơn lẻ trong tiến trình liên kết kinh tế. Tiến trình liên kết cũng chỉ được xem xét từ

một phương diện, hoặc là thực tế, hoặc là thể chế, thiếu hẳn sự liên kết, xâu chuỗi

với nhau. Nhiều công trình nghiên cứu cả ở trong và ngoài nước ít nhiều có đề cập

đến sự tham gia và đóng góp của Nhật Bản trong liên kết khu vực ở Đông Á, nhưng

không dành nhiều phân tích, đánh giá sâu với tư cách là một chủ thể có vai trò nổi

bật trong tiến trình này. Đa số các nghiên cứu, ngay cả các công trình xuất bản gần

đây cũng không hoặc rất ít có sự liên hệ với những xu thế, vấn đề mới mang tính

thời sự liên quan đến vai trò của Nhật Bản trong bối cảnh khu vực Đông Á đang

biến chuyển hết sức nhanh chóng hiện nay. Ngoài ra, mặc dù chính sách đối ngoại,

thương mại, đầu tư của Nhật Bản tại khu vực Đông Á, cũng như sự tham gia của

nước này trong hội nhập Đông Á là đều những chủ đề rất được quan tâm, thế

nhưng đáng ngạc nhiên là số lượng những nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của

Nhật Bản trong liên kết kinh tế lại hết sức khiêm tốn. Cụ thể, trong số các công

trình nghiên cứu tiếng Việt, trong khi lĩnh vực văn hóa, chính trị, an ninh... khá phổ

biến, thì về khía cạnh kinh tế, nhất là các nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong

liên kết kinh tế Đông Á lại rất ít ỏi. Tương tự như vậy, từ việc khảo cứu những

24

công trình nghiên cứu tiếng Anh cũng có thể thấy một điểm chung là hầu hết đều

chú trọng vào nội dung chính sách đối ngoại của Nhật Bản, nếu như có một số ít đề

cập đến vai trò đối với hội nhập Đông Á thì cũng chỉ là những nghiên cứu khái quát

chung, tập trung vào một cơ chế nhất định, thiếu sự xâu chuỗi thành một mạch tổng

thể, hoặc đi sâu vào các mảng chính trị, an ninh chứ không tập trung phân tích một

cách có chiều sâu về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế. Còn về những

nghiên cứu bằng ngôn ngữ bản địa là tiếng Nhật, mặc dù so với nghiên cứu của thế

giới đây là những công trình sát nhất với nội dung nghiên cứu của đề tài, thế nhưng

không thể phủ nhận thực tế là trong quá trình thực hiện các công trình của mình,

các học giả Nhật Bản vẫn có khuynh hướng nhìn nhận vấn đề từ góc độ của người

Nhật, áp dụng những lý luận riêng và tiền đề cũng xuất phát từ lợi ích của Nhật Bản.

Những nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết

Song song với việc kế thừa và tiếp nối những thành quả phong phú của các

nghiên cứu đi trước, với những khoảng trống còn tồn tại, luận án sẽ tập trung phân

tích, làm rõ vai trò của Nhật Bản đối với tiến trình liên kết kinh tế Đông Á ở các

phương diện thực tế, phương diện thể chế, đặc biệt là trong bối cảnh đối đầu kinh tế

Trung Mỹ đang diễn ra hết sức gay gắt thời gian gần đây.

Trong quá trình phân tích, luận án sẽ sử dụng những lý luận liên quan để phân

tích và làm rõ vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á. Trên cơ sở

những kết luận thu được, luận án sẽ đưa ra một số kiến nghị, giải pháp phục vụ cho

quá trình hoạch định chính sách đối với một quốc gia đang tích cực tham gia hội

nhập kinh tế khu vực và thế giới như Việt Nam hiện nay.

25

Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LIÊN KẾT KINH TẾ

ĐÔNG Á VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT CHỦ THỂ

2.1. Một số vấn đề lý luận về liên kết kinh tế khu vực và vai trò của một

chủ thể

2.1.1. Lý thuyết về liên kết kinh tế khu vực trên phương diện thể chế

2.1.1.1. Khái niệm liên kết kinh tế khu vực

Về khái niệm liên kết khu vực (hay “hội nhập”, “thống nhất”, “nhất thể

hóa”... khu vực, tương đương “integration” trong tiếng Anh), Trung tâm Nghiên

cứu Châu Âu thuộc ĐH. Carleton đã định nghĩa: “Liên kết khu vực là quá trình hai

hay nhiều quốc gia nhất trí hợp tác và phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm đạt được

hòa bình, ổn định và thịnh vượng” [115].

Về định nghĩa liên kết kinh tế khu vực, theo khái niệm được Béla Balassa đưa

ra gần nửa thế kỷ trước, “Trong trường hợp liên kết kinh tế được coi là một quá

trình, ở đó người ta tiến hành những biện pháp chính sách tiến tới loại bỏ các phân

biệt đối xử trong các đơn vị kinh tế của các quốc gia. Còn trong trường hợp chỉ

trạng thái, liên kết kinh tế là trạng thái không tồn tại những khác biệt giữa nền kinh

tế của các quốc gia” [88].

Tương tự, Pinder (1969) cho rằng liên kết kinh tế khu vực là một quá trình kết

hợp các bộ phận, các nước thành viên vào một tổng thể, hướng tới việc loại bỏ sự

phân biệt các tác nhân kinh tế giữa các thành viên, và liên minh là kết quả của sự

kết hợp này [76]. F. Kahnert và các tác giả khác (1969) quan niệm liên kết kinh tế

khu vực là quá trình loại bỏ sự phân biệt tồn tại theo biên giới quốc gia [47].

Mennis và Sauvant (1976) nhận định đây là quá trình khiến cho ranh giới giữa các

quốc gia trở nên ít gián đoạn hơn, do đó dẫn đến sự hình thành một hệ thống [69].

Pelkmans (1984) cho rằng quá trình này tiến tới loại bỏ biên giới kinh tế, tăng

cường tính di động của hàng hóa, dịch vụ… giữa hai hoặc nhiều hơn nền kinh tế

[75]. W. Molle (1990) cũng quan niệm rằng quá trình này dần dần loại bỏ hoàn toàn

biên giới kinh tế giữa các quốc gia [83]. El-Agraa (1982) cho rằng quá trình này

26

loại bỏ sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia tham gia và thành lập nên các yếu tố

phối hợp nhất định [39].

Với đối tượng nghiên cứu chính là EU, Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu, ĐH.

Carleton đã định nghĩa liên kết kinh tế khu vực là một quá trình mà các nước khác

nhau đồng ý loại bỏ rào cản thương mại giữa họ. Rào cản thương mại có thể là thuế

quan (thuế đối với hàng nhập khẩu vào một nước), hạn ngạch (giới hạn số lượng sản

phẩm có thể nhập khẩu) và hạn chế biên giới quốc gia [115].

Về quan điểm của đa phần các học giả Nhật Bản, tương tự như Kimura (1995),

liên kết kinh tế khu vực được hiểu là việc các quốc gia thỏa thuận cùng loại bỏ các

rào cản đối với các hoạt động khác nhau của nền kinh tế, trước hết là sự di chuyển

của hàng hóa qua biên giới các nước [93]. Từ điển bách khoa Mypedia (Asahi

Shimbun) giải thích liên kết kinh tế khu vực là việc hợp nhất nền kinh tế giữa các

quốc gia lân cận, vận hành nền kinh tế bởi các chính sách kinh tế chung. Điều này

có thể dẫn tới xu hướng bảo hộ đối với các nước ngoài khu vực, bởi vậy đây cũng là

một ngoại lệ có kèm theo điều kiện được quy định trong Hiệp định chung về Thuế

quan và Thương mại GATT 1994 [114].

2.1.1.2. Các cấp độ của liên kết kinh tế khu vực

Phân chia theo từng giai đoạn từ thấp đến cao, Balassa (1963) đã chỉ ra các

cấp độ của liên kết kinh tế khu vực là ① Khu vực mậu dịch tự do (Free trade area -

FTA), ② Đồng minh thuế quan (Custom union - CU). Tiếp theo là giai đoạn tự do

hóa các yếu tố sản xuất (vốn và lao động) khu vực với cấp độ ③ Thị trường chung

(Common market). Khi vốn và lao động được tự do hóa các nước trong khu vực sẽ

tiến tới hội nhập chính sách (như chính sách kinh tế, chính sách tài chính, chính

sách xã hội… ), tiến triển lên cấp độ tiếp theo là ④ Đồng minh kinh tế (Economic

union). Cuối cùng sẽ là giai đoạn ⑤ Hội nhập kinh tế hoàn toàn (Complete

economic integration). Nếu trong Khu vực thương mại tự do (FTA) các thành viên

thực hiện cắt giảm hàng rào thuế quan, phi thuế quan và hạn chế định lượng trong

thương mại nội khối, tuy nhiên vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập với các

nước ngoài khối, thì Liên minh thuế quan (CU) là một hình thức mở rộng hơn, ở đó

các nước thành viên cùng thiết lập một biểu thuế quan chung với phần còn lại của

27

thế giới, tạo nên một rào cản chung với các nước không phải là thành viên. Thị

trường chung (Common market) là hình thức liên minh phức tạp và ở trình độ cao

hơn cả FTA và CU, ở đó các nước thành viên bãi bỏ mọi thuế quan và biện pháp

bảo hộ khác, bên cạnh đó cho phép di chuyển các nhân tố sản xuất, dịch vụ, nguyên

liệu, lao động và vốn. Liên minh kinh tế được xây dựng trên cơ sở các nước thành

viên thống nhất các chính sách thương mại, tiền tệ, tài chính và một số chính sách

kinh tế - xã hội chung với trong và ngoài khối. Ngoài việc các luồng vốn, hàng hóa,

lao động và dịch vụ được tự do di chuyển, các nước còn tiến tới thống nhất các

chính sách quản lý kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống chung của các chính sách tài

khóa, tiền tệ, công nghiệp và giao thông, sử dụng chung một đồng tiền. Cùng quan

điểm với Balassa về các cấp độ của liên kết kinh tế còn có Pinder (1969) [76],

Holzman (1976) [54] và El-Agraa (1999) [40].

2.1.1.3. Lợi ích của liên kết kinh tế khu vực

Đối với một quốc gia, những lợi ích cơ bản của liên kết kinh tế khu vực là mở

rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, xóa bỏ độc

quyền, thu hút đầu tư, tận dụng lợi thế công nghệ, phát huy lợi thế so sánh, tập hợp

nguồn lực của nhiều quốc gia để phát triển kinh tế, nâng cao vị thế chính trị...

Còn đối với doanh nghiệp, lợi ích này là mở rộng thị trường, tăng khả năng

lựa chọn đầu vào sản xuất (từ đó giảm chi phí, giá thành, nâng cao chất lượng, tính

cạnh tranh của sản phẩm), tăng cơ hội tiếp cận với công nghệ sản xuất, phương

pháp quản lí mới, có động lực đầu tư thiết bị và công nghệ hiện đại, phân công lao

động và chuyên môn hoá tốt hơn, từ đó tăng được năng suất.

Lợi ích đối với người tiêu dùng là chất lượng, giá cả sản phẩm nội địa được

cải thiện (do doanh nghiệp trong nước phải đáp ứng hệ thống tiêu chuẩn và có mức

giá hợp lí để cạnh tranh), có thêm cơ hội sử dụng hàng hóa nhập khẩu đa dạng, chất

lượng tốt, giá thành rẻ hơn.

2.1.1.4. Một số khái niệm liên quan khác

Toàn cầu hóa kinh tế

Là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nền kinh tế trên thế giới do sự gia

tăng nhanh của dịch chuyển xuyên biên giới của hàng hóa, dịch vụ, công nghệ và

28

vốn. Toàn cầu hóa kinh tế làm giảm các rào cản về thuế quan và các quy định hạn

chế thương mại thế giới, đồng thời tăng cường hội nhập kinh tế giữa các quốc gia và

tạo ra một thị trường toàn cầu duy nhất [139].

Thương mại tự do

Thương mại tự do (自由貿易、free trade) là một kiểu thị trường lý tưởng, ở

đó trao đổi thương mại được tiến hành tự do không có sự can thiệp của nhà nước

thông qua thuế quan và các chính sách hạn chế nhập khẩu khác. Vào thế kỷ 19,

thương mại tự do được ủng hộ bởi Adam Smith và David Ricardo của Anh,

François Quesnay của Pháp, đối lập với chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa trọng

thương [131]. Tuy nhiên, gần đây đôi khi thương mại tự do bị phong trào chống

toàn cầu hóa phản đối do xu hướng bị lạm dụng bởi những nước lớn giàu có.

Thương mại tự do bao gồm Thương mại tự do về hàng hóa; Thương mại tự do

về dịch vụ; Tự do lưu chuyển lao động giữa các nước; Tự do lưu chuyến vốn giữa

các nước; Không tồn tại những chính sách thương mại bảo hộ (như thuế, tiền trợ

cấp, quy định, luật…); Không tồn tại những chính sách bóp méo thương mại nhằm

mục đích củng cố quyền sở hữu nhà đất để đảm bảo các quyền lợi trên.

Hiệp định thương mại khu vực (Regional trade agreements - RTA):

Theo định nghĩa của WTO, RTA là hiệp định thương mại đối ứng giữa hai hay

nhiều đối tác, bao gồm hai hình thức hội nhập kinh tế là Khu vực Thương mại Tự

do (FTA) và Liên minh Thuế quan (CU). Về cơ sở pháp lý, RTA được GATT/WTO

công nhận trên nguyên tắc có đi có lại theo Điều XXIV/GATT 1994; Điều V/GATS

và Điều khoản Cho phép (Enabling Clause) 1979 [104]. Ví dụ về RTA có NAFTA,

EU, AFTA và EAFTA (thuộc Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

(APEC), trong đó NAFTA, EU và ASEAN được nhìn nhận là một trong những

RTAs thành công nhất hiện nay. Năm 1990 có 50 RTAs hiệu lực vào con số này là

280 vào năm 2017 [129].

Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement - FTA) và Hiệp định đối

tác kinh tế (Economic Partnership Agreement - EPA):

Theo định nghĩa của Bộ Ngoại giao Nhật Bản, FTA là thỏa thuận giữa quốc

gia hoặc khu vực cụ thể với mục đích cắt giảm hoặc loại bỏ các rào cản như thuế

29

quan đối với hàng hóa hoặc dịch vụ. Còn EPA mà nước này thường theo đuổi ngoài

tự do hoá thương mại còn bao gồm các quan hệ kinh tế khác như đầu tư, di chuyển

thể nhân, sở hữu trí tuệ, quy tắc cạnh tranh… [127]. Chính phủ Australia định nghĩa

FTA là hiệp ước quốc tế nhằm làm giảm các rào cản đối với thương mại và đầu tư

[117]. Còn theo định nghĩa Trung tâm WTO và Hội nhập – Phòng Công nghiệp và

Thương mại Việt Nam (VCCI), FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia

hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm

mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa,

dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên. Hội nhập kinh tế thông qua các FTAs là

phương pháp giúp các quốc gia, nhất là nước đi sau tranh thủ cơ hội từ môi trường

quốc tế và có điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của nền kinh tế [12].

Nội dung FTA thường gồm các quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế

quan và phi thuế quan, danh mục cắt giảm (thông lệ là 90%), lộ trình, thời gian thực

hiện (thường trong vòng 10 năm) và quy tắc xuất xứ. FTA có các phương thức khu

vực (các nước trong khu vực, ví dụ AFTA), song phương (giữa 2 nước), đa phương

(giữa nhiều nước, ví dụ TPP) hay FTA giữa một tổ chức với một nước (FTA giữa

ASEAN với Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc... hay FTA Việt Nam EU).

Về phương thức đa phương, trong văn bản của WTO cũng nhắc đến thuật ngữ

thương mại “đa phương” (hoặc “đa biên” - multilateral trade), đây được hiểu là hệ

thống thương mại do WTO điều hành. Do không phải toàn bộ các nước trên thế giới

đều là thành viên WTO nên "đa phương" chỉ phạm vi hẹp hơn "toàn cầu". "Đa

phương" cũng không đồng nghĩa với những thoả thuận khu vực (như EU, ASEAN,

NAFTA), mà là một khái niệm ở giữa "toàn cầu" và "khu vực". Do phương thức đa

phương áp dụng đồng loạt với các thành viên nên thông qua đó việc xây dựng các

quy tắc chung cũng sẽ nhanh chóng hơn. Nhiều trường hợp các nước muốn sử dụng

hệ thống đa phương để giải quyết những vấn đề trong quan hệ song phương. Đặc

biệt, nếu những nước nhỏ yếu thế hơn những nước lớn khi đàm phán thương mại

song phương, thì tại một diễn đàn đa phương họ có thể góp chung tiếng nói để tránh

việc bị chèn ép, tạo ảnh hưởng nhất định.

30

Về sự tiến triển của FTA, có thể thấy rằng cùng với những biến chuyển của

thương mại thế giới, nội dung và phạm vi điều chỉnh của các FTAs cũng đã từng

bước được mở rộng. Thế hệ các FTAs đầu tiên tập trung vào tự do hóa thương mại

hàng hóa hữu hình, thành viên thường là các quốc gia gần gũi về mặt địa lý. Sau

này sự phát triển của sản xuất, công nghệ đã thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển mẽ.

Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) hiệu lực năm 1995 cũng khuyến

khích hơn nữa tự do hóa thương mại dịch vụ, nội dung FTA dần được phát triển,

bao gồm cả dịch vụ, đầu tư và thành viên tham gia cũng mở rộng về không gian địa

lý. Đây được xem như thế hệ thứ hai của FTA. Bước sang thế kỷ XXI, cùng với xu

thế toàn cầu hóa, thương mại quốc tế ngày càng được tăng cường. Quá trình tự do

hóa thương mại gắn chặt với quá trình liên kết sản xuất. Hình thành các mạng sản

xuất và chuỗi giá trị mà mỗi bên tùy điều kiện và năng lực của mình tham gia các

phân đoạn khác nhau. Các thỏa thuận mới trong FTA do đó còn bao hạm cả các nội

dung mà GATT/WTO chưa quy định như thuận lợi hóa thương mại, chính sách

cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao

động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công [106]. Thế hệ FTA thứ ba

này được gọi là “FTA thế hệ mới”, “FTA plus” hay “Mega FTA”.

Trong số các FTA thế hệ thứ ba, “Mega FTA” - hiệp định thương mại tự do đa

phương tạo nên một khu vực liên kết kinh tế rộng lớn – hình thành nên các quy tắc

có khả năng trở thành tiêu chuẩn toàn cầu và thúc đẩy hợp tác trong nhiều lĩnh vực.

Có thể thấy một xu thế nổi bật hiện nay là sự xuất hiện của nhiều “Mega FTA” đang

chi phối mạnh mẽ tiến trình toàn cầu hóa và khu vực hóa trên thế giới như TPP

(CPTPP); RCEP; Hiệp định Đối tác Đầu tư và Thương mại xuyên Đại Tây Dương

(TTIP) giữa 28 thành viên EU và Mỹ; Hiệp định Thương mại Dịch vụ (TISA) giữa

Úc, Canada, Chile, Colombia, Costa Rica, EU, Hồng Kông, Iceland, Israel, Nhật

Bản, Hàn Quốc, Liechtenstein, Mauritius, Mexico, New Zealand, Na Uy, Pakistan,

Panama, Peru, Thụy Sĩ, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ; Hiệp định tự do thương

mại ba bên (Tripartite Free Trad Area - TFTA) sáp nhập ba cộng đồng kinh tế khu

vực châu Phi gồm Thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng

Phát triển miền Nam châu Phi (SADC) và Cộng đồng Kinh tế Đông Phi (EAC);

31

Thỏa thuận thương mại tự do châu Phi (CFTA) gồm 44 quốc gia châu Phi và giai

đoạn tiếp theo là tất cả 54 quốc gia triển vọng sẽ trở thành thành viên.

Bảo hộ thương mại

Trong kinh tế học quốc tế, bảo hộ thương mại là thuật ngữ chỉ việc áp dụng

một số tiêu chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi

trường, xuất xứ…, áp thuế nhập khẩu cao, lập các hàng rào bảo vệ các ngành sản

xuất, dịch vụ chống lại sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài [12]. Lý do khiến

các quốc gia đưa ra chính sách bảo hộ thương mại thường là để bảo vệ sản xuất,

việc làm, bảo vệ an ninh quốc gia, thực hiện tái phân phối, trả đũa đối thủ…

2.1.2. Một số lý luận về liên kết kinh tế trên phương diện thực tế (De-facto)

Để lý giải về thực tiễn liên kết kinh tế Đông Á thì ngoài những lý thuyết hội

nhập thể chế còn cần tìm hiểu những lý thuyết về hội nhập trên phương diện thực tế.

Lý do bởi ngay từ khi chưa xuất hiện những thể chế hội nhập chính thức, Đông Á

đã đi tiên phong về hội nhập thực tế vốn dĩ được thúc đẩy bởi các động lực thị

trường. Đông Á cũng chính là khu vực đầu tiên trên thế giới thiết lập được một

mạng lưới sản xuất, phân công lao động quốc tế rộng lớn và hiệu quả như ngày nay.

Về phân công lao động quốc tế, sự phân công lao động giữa các quốc gia này

được hình thành với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều kiện để phát triển

phân công lao động quốc là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên (do đó các quốc gia

thường dựa vào những ưu thế về tài nguyên thiên nhiên để chuyên môn hoá sản

xuất, phát huy lợi thế so sánh), ngoài ra còn là sự khác biệt về trình độ phát triển

của lực lượng sản xuất, trình độ phát triển khoa học - kĩ thuật và công nghệ...

Về hình thức phân công lao động quốc tế, thứ nhất phân công lao động liên

ngành là mỗi nước sản xuất một ngành sau đó trao đổi với nước khác. Đây là hình

thức phân công lao động ở cấp độ thấp và xu hướng ngày càng giảm đi. Thứ hai,

phân công lao động nội bộ ngành là các nước sản xuất từng sản phẩm cho một

ngành hoặc từng chi tiết của sản phẩm sau đó trao đổi với nhau. Đây là loại hình

phân công lao động quốc tế ở cấp độ cao, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước

là rất lớn và loại hình này có xu hướng ngày càng gia tăng.

32

Điểm lại những lý thuyết liên quan đến phân công lao động quốc tế và mạng

sản xuất trước hết không thể không nhắc đến Lý thuyết lợi thế so sánh của David

Ricardo và Hechscher - Ohlin (H-O). Ricardo chỉ ra rằng, mỗi quốc gia sẽ có lợi khi

chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có chi phí tương đối thấp và

nhập khẩu hàng hóa có chi phí tương đối cao. Còn lý thuyết H - O giải thích rằng cơ

cấu thương mại quốc tế được quyết định bởi sự khác biệt giữa các yếu tố nguồn lực.

Bởi vậy thay vì tiến hành toàn bộ hệ thống sản xuất, một quốc gia sẽ chỉ tập trung

vào một phân khúc có lợi thế. Thông qua hội nhập kinh tế, các thành viên tham gia

có thể tận dụng lợi thế so sánh để thúc đẩy tăng trưởng trên nguyên tắc cùng có lợi.

Là những học giả hàng đầu Nhật Bản nhiều năm nghiên cứu về lĩnh vực mạng

sản xuất Đông Á, Kimura và Ando (2003) đã đưa ra một khung tiếp cận lý thuyết

trong phân tích về mạng sản xuất Đông Á [70]. Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế học

không gian, lý thuyết về “Phân mảng sản xuất” (Fragmentation) giải thích việc phân

chia quy trình sản xuất vốn thống nhất trước kia thành nhiều mảng do các “chủ thể”

khác nhau đảm nhiệm. Trước khi diễn ra quá trình “Phân mảng sản xuất”, các

ngành công nghiệp nằm ở một nước phát triển giàu nguồn vốn. Quá trình sản xuất

từ thượng nguồn đến hạ nguồn bao gồm các quy trình và công việc khác nhau được

phân mảnh thành các công đoạn sản xuất. Nếu các công đoạn này được đặt ở những

nơi có lợi thế phù hợp, chúng sẽ giúp giảm chi phí sản xuất tổng thể. Thứ hai, cũng

thuộc lĩnh vực kinh tế học không gian, lý thuyết “Tích tụ” (Agglomeration) hoặc

Cụm công nghiệp (Industrial cluster) nhấn mạnh tính hiệu quả phát sinh từ việc tập

trung các cứ điểm sản xuất về mặt địa lý. Cụm công nghiệp (khu công nghiệp) là sự

tập trung về địa lí của những công ty có mối liên hệ với nhau về mặt cung ứng như:

phía cung cấp nguyên vật liệu hay phía cung cấp dịch vụ, những ngành hoặc đơn vị

liên quan. Lợi thế của cụm công nghiệp là sự tập trung kinh tế, cơ cấu hạ tầng địa

phương thuận lợi, hệ thống trao đổi có sẵn, được sự đầu tư có tổ chức của chính phủ,

chi phí giao dịch và thông tin được giảm thiểu. Ngày nay các quốc gia đang khuyến

khích sự tích tụ, bởi điều này đem lại lợi thế cạnh tranh quốc tế lớn. Thứ ba là lý

thuyết liên quan đến tập đoàn đa quốc gia, giải thích hành vi mà các tập đoàn này

triển khai nhằm nâng cao thị phần trên thị trường quốc tế.

33

Kinh tế học không gian giải thích hành vi của các công ty bằng cách xem xét

tới chi phí vận chuyển khi lựa chọn địa điểm, và phân tích tác động của chi phí vận

chuyển, mối quan hệ giữa chi phí vận chuyển và sự sắp xếp về mặt không gian.

Trong đó P. Krugman (1991) đã đưa ra mô hình hạt nhân/ ngoại vi liên quan đến sự

hình thành hình thức tập trung trong các ngành công nghiệp [64]. Liên quan đến mô

hình này, P. Krugman và A. Venables (1995) đã mở rộng phân tích ở quy mô quốc

tế với giả định về hai khu vực, phía Nam chưa được công nghiệp hóa và phía Bắc

đã hoàn tất công nghiệp hóa, nếu chi phí vận chuyển (là tất cả các chi phí cần thiết

để vận chuyển hàng hoá giữa hai điểm, ngoài ra còn bao gồm chi phí đóng gói, chi

phí bảo hiểm, thuế hải quan, các hàng rào biên giới ngoài thuế, lệ phí tại cảng, lệ phí

liên quan đến bốc xếp, lưu kho…) thấp hơn, ngành sản xuất công nghiệp sẽ di

chuyển từ nơi tiền lương cao là phía Bắc xuống phía Nam, diễn ra quá trình phân

công lao động quốc tế [74]. Thuộc lĩnh vực kinh tế học không gian và lý thuyết về

thương mại đa quốc gia, Jones và H. Kierzkowski (1990) [59], Deardorff (2001)

ngoài việc nhấn mạnh chi phí vận chuyển và chi phí thương mại đã tập trung vào

hành vi phân mảnh (fragmentation) của các công ty, phân chia quá trình sản xuất

trên quy mô quốc tế [45]. Grossman và Helpman (2002) giải thích về hoạt động

thuê ngoài (outsourcing) gia công, trong đó chỉ ra rằng việc thuê ngoài gia công phụ

thuộc vào quy mô của thị trường trong nước và ngoài nước, chi phí tìm kiếm các

nhà cung cấp, chi phí đầu vào [51]… Hummels, Ishi, và Yi (2001) lấy đối tượng là

các quốc gia tiên tiến đã chứng minh quan hệ sản xuất theo chiều dọc [55]. Hanson,

Mataloni, và Slaughter (2003) phân tích mối quan hệ giao dịch giữa công ty mẹ ở

nước sở tại là Mỹ xuất khẩu hàng hoá trung gian sang công ty con tại địa phương

quốc gia nhận đầu tư đã đưa ra giả định về phân công lao động quốc tế trong nội bộ

công ty (intra-firm) [52], còn Freenstra (1998) thì giả định hội nhập thương mại

quốc tế tiến triển, các quy trình sản xuất được phân chia để nhấn mạnh tính cần thiết

của thuê ngoài gia công [48]. Có thể thấy rõ nền kinh tế Đông Á phụ thuộc khá sâu

sắc vào sự phân công lao động quốc tế trong hệ thống khu vực của các công ty đa

quốc gia. Liên quan tới lý thuyết về tập đoàn đa quốc gia, Markusen (1984) đã lý

giải thích hành vi xúc tiến thương mại nội ngành theo chiều ngang của các tập đoàn

34

đa quốc gia sản xuất và bán sản phẩm ở nhiều quốc gia [67]. Helpman (1984) giải

thích hành vi chế tạo và thương mại theo chiều dọc của các tập đoàn đa quốc gia, có

các chức năng khác nhau ở nước sở tại và quốc gia tiếp nhận đầu tư [53]. Markusen

(2002) mô hình hóa hành vi của các công ty đa quốc gia triển khai kết hợp theo

chiều ngang và theo chiều dọc do điều kiện khác biệt về yếu tố lao động có tay nghề

giữa nước sở tại và nước tiếp nhận đầu tư [66].

Ngoài ra, liên quan đến lý thuyết về mạng sản xuất và phân công lao động

quốc tế tại Đông Á, đặc biệt là trong việc phân tích vai trò của Nhật Bản đối với hội

nhập kinh tế trên phương diện thực tế sẽ không thể không nhắc tới lý thuyết Đàn

ngỗng bay (雁行形態理論) do nhà kinh tế học Nhật Bản Akamatsu Kaname (赤松

要) đưa ra vào thập niên 1930 và sau này được các học giả khác là Kojima Kiyoshi

và Okita Saburo phát triển. Lý thuyết này gồm ba phiên bản là trường hợp một nước

một sản phẩm, trường hợp một nước nhiều sản phẩm và phiên bản thứ ba áp dụng

cho nhiều nước. Phiên bản thứ ba của lý thuyết “Đàn ngỗng bay” có thể dùng để mô

tả đặc trưng phát triển công nghiệp ở các nước Đông Á và giải thích sự đuổi bắt của

các nước ở khu vực Đông Á với những nước phát triển đi trước trong khu vực ở

một ngành công nghiệp hoặc một nhóm ngành hàng cụ thể. Sau này Lý thuyết “Đàn

ngỗng bay” đã được mở rộng phạm vi áp dụng, giúp giải thích sự phát triển mạng

lưới sản xuất và liên kết kinh tế khu vực Đông Á. Theo lý thuyết “Đàn ngỗng bay”,

Nhật Bản được coi là con chim đầu đàn, tiếp theo là các nền kinh tế mới công

nghiệp hoá NIEs, các nước Đông Nam Á và Trung Quốc, giống như một đàn chim

bay theo trình tự hình chữ V. Chẳng hạn, khi một ngành công nghiệp của Nhật Bản

đang ở pha gia tăng xuất khẩu thì Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore

nhập khẩu sản phẩm đó. Theo thời gian, xuất khẩu ngành này ở Nhật sau khi đạt tới

đỉnh cao và bắt đầu giảm thì cũng là lúc các nền kinh tế đi sau tự đẩy mạnh sản xuất

để thay thế nhập khẩu. Khi họ xuất khẩu thì cũng là lúc ngành công nghiệp này ở

Nhật không còn lợi thế cạnh tranh và bắt đầu kết thúc xuất khẩu, tuy nhiên lại có

ngành công nghiệp khác thay thế là ngành xuất khẩu chủ đạo. Cứ như vậy sự dịch

chuyển diễn ra từ ngành này sang ngành khác (từ dệt tới đóng tàu, ô tô khách, hàng

điện tử và ô tô cao cấp), từ Nhật Bản sang NIEs rồi sang các nước Đông Á khác.

35

Tại một thời điểm nhất định, Nhật Bản sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm tiên

tiến nhất, NIEs sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm trung bình, còn các nước đi sau

sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm đơn giản hơn.

Từ việc khảo cứu những lý thuyết liên quan đến liên kết kinh tế Đông Á trên

đây, có thể thấy rằng mặc dù về tổng thể các lý thuyết này tương đối độc, tách biệt

nhau, tuy nhiên giữa chúng vẫn tồn tại một mối liên hệ hữu cơ, từ đó giúp định hình

nên một khung lý thuyết hợp lý và chặt chẽ để lý giải về thực tiễn tiến trình liên kết

kinh tế Đông Á và vai trò các chủ thể quan trọng, trong đó có Nhật Bản.

Trên cơ sở những lý thuyết này, luận án quan niệm liên kết/ hội nhập kinh tế

khu vực là sự thỏa thuận giữa các quốc gia trong khu vực nhằm mục đích giảm hoặc

loại bỏ các rào cản đối với dòng vận chuyển của hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản

xuất, đồng thời là quá trình các bên chia sẻ lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực,

chính sách, tuân thủ các luật chơi chung bắt nguồn từ những nhu cầu nội tại như

phát triển kinh tế, an ninh chính trị, nâng cao vị thế và kết quả là sự tối ưu hóa việc

sử dụng tài nguyên và năng suất, tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa, dịch vụ và

các hoạt động kinh tế nhằm tăng cường phúc lợi và đời sống. Đây chính là hình

thức liên kết thể chế thông qua các khuôn khổ hội nhập giữa các chính phủ.

Bên cạnh đó, liên kết kinh tế Đông Á đồng thời cũng là một quá trình gắn kết,

phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế thông qua mạng lưới sản xuất, biến Đông Á

thành một khu vực kinh tế mang tính hợp nhất cao. Trái với hình thức kể trên, hình

thức liên kết về phương diện thực tế với động lực thị trường này là một quá trình

hội nhập tự phát, không bắt nguồn từ sự tham gia chính thức của các chính phủ.

2.1.3. Một số lý luận liên quan đến vai trò của một chủ thể trong quan hệ

quốc tế

Mặc dù trên thế giới lý thuyết về vai trò đã được phát triển từ khá lâu, thế

nhưng những lý thuyết này chủ yếu thuộc về các lĩnh vực xã hội học, tâm lý học xã

hội và nhân học. Trong số ít những nghiên cứu về lý thuyết vai trò trong lĩnh vực

quan hệ quốc tế, cuốn sách của Stephen G. Walker (1987) đã chỉ ra rằng lý thuyết

vai trò có giá trị mô tả và giải thích cho những nghiên cứu về chính sách đối ngoại

với ba hình thức nghiên cứu so sánh về chính sách đối ngoại, cách tiếp cận quy trình

36

ra quyết định và chủ nghĩa hiện thực [78]. Còn theo Cameron G. Thies (2009), cách

tiếp cận lý thuyết vai trò trong phân tích chính sách đối ngoại tập trung vào một

hoặc chỉ một vài vai trò thường nhằm mục đích cung cấp lời giải thích về một sự

lựa chọn chính sách đối ngoại [43].

Đi cụ thể vào khái niệm vai trò, có thể thấy rằng dù đã có không ít nghiên cứu

trong lĩnh vực khoa học xã hội đề cập tới và thuật ngữ này cũng đã được sử dụng ở

những cấp độ phân tích khác nhau, thế nhưng cho đến nay một định nghĩa phổ quát

của thuật ngữ “vai trò” hầu như vẫn chưa được xây dựng. Tuy nhiên có thể nhận

thấy rằng cách giải thích về vai trò nói chung và vai trò của một chủ thể nói riêng ở

những nghiên cứu khoa học liên quan thường hội tụ xung quanh các mệnh đề như

“vị trí”, “vị thế”, “địa vị”, “quyền lực”, “chức năng”, “tầm ảnh hưởng”, “năng lực”,

“sức mạnh”, “mức độ tham gia”, “mức độ cam kết”, “nỗ lực hành động”...

Liên quan đến vai trò của một quốc gia, K. J. Holsti (1970) có thể được coi là

học giả đầu tiên đã đưa ra một lý thuyết về vai trò của quốc gia được biết đến tương

đối rộng rãi. Theo Holsti, lãnh đạo quốc gia có thể đóng vai trò không nhỏ trong

việc tạo dựng uy tín, bản sắc của nhà nước. Tác giả cũng cho rằng vai trò quốc gia

được thể hiện theo cách thức một quốc gia hành động trong khuôn khổ hệ thống

quốc tế [60]. Nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực chính trị quốc tế thế kỷ 20

Hans Joachim Morgenthau là một trong những người đã khai sinh trường phái chủ

nghĩa hiện thực. Trường phái này vốn dĩ xem các quốc gia là chủ thể chính trong

các quan hệ quốc tế mà lĩnh vực nghiên cứu quan trọng là quyền lực trong quan hệ

quốc tế. Theo Morgenthau, việc xác định quyền lực, sức mạnh của các quốc gia có

thể dựa trên các tiêu chí như lãnh thổ, dân số, kinh tế, tài nguyên, đặc điểm và tinh

thần dân tộc, quân đội, khả năng của chính phủ và ngoại giao [71].

Đề cập tới yếu tố quyền lực trong quan hệ quốc tế, Hoàng Khắc Nam (2011)

đã nhận định, hầu hết khái niệm trong quan hệ quốc tế xuất hiện sau Thế chiến II

được xây dựng dựa trên năng lực của chủ thể trong sự tương tác với các chủ thể

khác coi quyền lực là năng lực của quốc gia. Tác giả cũng đưa ra các thuật ngữ quan

trọng như quyền lực cứng, quyền lực mềm, quyền lực hữu hình, quyền lực vô hình

và cả quyền lực dựa trên quan điểm mác-xít [141].

37

Mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế đều cần có sức mạnh để tồn tại và phát

triển trong mối quan hệ với các quốc gia, chủ thể khác. Sức mạnh tổng hợp của đất

nước cũng là một trong những nhân tố then chốt tạo nên vị thế của quốc gia. Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra rằng: Ta có mạnh thì người khác mới đếm xỉa đến.

Ta yếu thì chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dẫu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh

của ta”[9].

Khái niệm sức mạnh quốc gia đã được nghiên cứu một cách có hệ thống ở

phương Tây từ cuối thế kỷ 19 nhưng chủ yếu theo phương pháp định tính, còn

nghiên cứu định lượng mới được đưa ra vào thập niên 1960, 1970. Theo quan điểm

chung, sức mạnh của quốc gia bao gồm các yếu tố vật chất (sức mạnh cứng), tinh

thần và ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế (sức mạnh mềm). Ngoài sức mạnh cứng

của một quốc gia có thể nhận biết thông qua những con số cụ thể như tiềm lực quân

sự, thực lực kinh tế (quy mô kinh tế, GDP và cơ cấu kinh tế), khoa học - kỹ thuật,

nguồn tài nguyên..., sức mạnh mềm cũng có thể giúp nâng cao địa vị quốc tế của

một nước. Thuật ngữ sức mạnh mềm vốn được dùng trong lĩnh vực ngoại giao,

nhưng cũng có thể được áp dụng trong phân tích sức mạnh, uy tín quốc tế của một

quốc gia. Theo khái niệm Joseph Samuel Nye (2004) – cha đẻ của học thuyết

“Quyền lực mềm” đưa ra, quyền lực hay sức mạnh mềm là khả năng đạt thứ mình

muốn thông qua sự hấp dẫn thay vì ép buộc, xuất phát từ sự hấp dẫn về văn hóa, tư

tưởng chính trị và các chính sách của một quốc gia, sức lôi cuốn nước khác đi theo

mình, không như sức mạnh cứng xưa nay là những sức mạnh hữu hình chi phối các

quan hệ quốc tế. J. Nye đã chỉ ra 3 nguồn gốc của sức mạnh mềm, đó là văn hóa,

thể chế chính trị và chính sách ngoại giao của một nước [60].

Về vai trò của sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế, có thể thấy rằng bản thân

sức mạnh là khả năng ảnh hưởng đến quốc gia khác khiến họ làm điều mình muốn.

Có ba cách để đạt được điều này, thứ nhất là đe dọa bằng “cây gậy”, thứ hai là dụ

dỗ, mua chuộc bằng “củ cà rốt” và thứ ba là hấp dẫn hay hợp tác với họ - cách làm

không phải mất “gậy” hay “cà rốt” mà vẫn khiến họ tin phục, đi theo hoặc tuân thủ

các tiêu chuẩn do mình đặt ra. Khi được các quốc gia khác thừa nhận thì sức mạnh

mềm của chính quốc gia đó sẽ được nâng lên. Có một điểm chung là quốc gia nào

38

càng có ảnh hưởng sâu rộng, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa thì quốc gia đó càng

cần phải sử dụng song song hiệu quả cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm, nghĩa là

một nước càng là nước lớn lại càng cần sử dụng hiệu quả sức mạnh mềm.

Căn cứ từ những lý thuyết, quan niệm và những thuật ngữ liên quan tới vai trò

mang tính phổ quát nói trên, luận án này lý giải về vai trò tương đương với vị thế,

chức năng, tầm ảnh hưởng và trách nhiệm quốc tế của chủ thể hay quốc gia đó.

Bên cạnh đó, để đánh giá vai trò của một chủ thể trong tiến trình liên kết kinh

tế khu vực luận án này sẽ sử dụng các tiêu chí sau:

 Mức độ, cách thức tham gia và thúc đẩy sự tiến triển của liên kết trên

phương diện thực tế, thể hiện ở sự đóng góp đối với sự phát triển của mạng sản xuất

khu vực thông qua thương mại và đầu tư.

 Mức độ, cách thức can dự, tham gia và thúc đẩy sự tiến triển của liên kết thể

chế, thể hiện ở khả năng đề xuất, kiến tạo, thúc đẩy các ý tưởng, sáng kiến, khuôn

khổ thể chế liên kết kinh tế khu vực, xây dựng các luật chơi và chuẩn mực cụ thể,

khả năng kêu gọi sự hưởng ứng, tham gia của các đối tác đối với những ý tưởng, đề

xuất, khuôn khổ liên kết này. Năng lực chỉ đạo, hoạch định và kiểm soát các quy

phạm quốc tế, tiêu chuẩn quốc tế và cơ chế quốc tế.

 Uy tín quốc tế, thái độ tôn trọng các chuẩn mực quốc tế, nỗ lực hành động vì

lợi ích chung, đóng góp cho việc xây dựng các khuôn khổ pháp lý phù hợp với điều

kiện quốc tế, cung cấp các dịch vụ công quốc tế, kiến tạo các khuôn khổ hội nhập

theo hướng công bằng, dân chủ, văn minh hơn.

 Bên cạnh các yếu tố làm nên sức mạnh cứng như năng lực, trình độ (kinh tế,

công nghệ…), các yếu tố liên quan đến sức mạnh mềm khác như sức hấp dẫn và sự

ảnh hưởng của văn hóa, các quan niệm về giá trị, sức hấp dẫn của đường lối phát

triển, mức độ ủng hộ của dư luận quốc tế đối với hình ảnh quốc gia cũng là tiêu chí

được xem xét.

 Về tiêu chí vai trò lãnh đạo, có thể nói một quốc gia/ chủ thể được xem là có

vai trò lãnh đạo hay dẫn dắt sẽ không thể thiếu một số điều kiện tổng hợp. Thứ nhất,

đó là sở hữu một sức mạnh, thực lực về kinh tế. Thực lực kinh tế không chỉ là cấu

thành cơ bản của sức mạnh tổng hợp quốc gia mà còn là nhân tố đảm bảo vị trí quốc

39

tế quan trọng của một quốc gia. Trong lịch sử, các cường quốc có vai trò lãnh đạo,

chi phối chính trị quốc tế đều có tiềm lực kinh tế hùng mạnh. Tiềm lực kinh tế cũng

là biểu hiện cho năng lực cạnh tranh quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực

hóa. Thứ hai, quốc gia/ chủ thể đó phải sở hữu một mô hình mà các nước khác

muốn mô phỏng, sao chép. Thứ ba, quốc gia/ chủ thể đó phải có ý nguyện và nỗ lực

trong việc cung cấp sản phẩm công quốc tế. Thứ tư, là quốc gia lãnh đạo, dẫn dắt

nhất thiết phải nhận được sự ủng hộ, tin tưởng từ những nước khác.

Các khái niệm và tiêu chí trên đây sẽ là bộ khung để đánh giá vai trò của một

chủ thể. Tùy theo mức độ đáp ứng các tiêu chí trên, vai trò của một chủ thể sẽ được

đánh giá là quan trọng, tích cực hay không, hoặc sẽ chỉ ra những vai trò cụ thể như

kết nối, lãnh đạo, dẫn dắt hay thúc đẩy... tiến trình liên kết kinh tế.

2.1.4. Điều kiện cơ bản của liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của một số

chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành và tiến triển của liên kết

kinh tế Đông Á

Đông Á là một khu vực rộng lớn, phức tạp và bị phân mảnh hơn so với châu

Âu. Ở đây cũng không có lịch sử chung hàng nghìn năm, không có một tín ngưỡng

tôn giáo thống trị, không có “giá trị chung” châu Á. Nhiều thể chế đa phương ở

Đông Á kém phát triển hơn so với châu Âu, nhưng các vấn đề lịch sử, chính trị, an

ninh lại phức tạp hơn. Trong bối cảnh có quá nhiều vấn đề nan giải như xung đột

kinh tế (chiến tranh thương mại, chiến tranh thông tin), chủ nghĩa bảo hộ, vấn đề vũ

khí hạt nhân, chạy đua quân sự, hận thù lịch sử…, có thể thấy rằng tương lai ổn

định của Đông Á phụ thuộc nhiều vào nhân tố hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau, điều này

cho thấy liên kết kinh tế khu vực có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Tuy nhiên sự hình thành và tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á cũng dựa

trên một số tiền đề, điều kiện nhất định. Tiền đề của liên kết kinh tế Đông Á là

nguyên nhân và động lực, góp phần tạo nên sự vận động của tiến trình này. Theo

Vũ Dương Ninh, tiền đề chính của liên kết Đông Á gồm các yếu tố lịch sử, văn hóa

- xã hội, an ninh - chính trị và kinh tế [22]. Trong số này, kinh tế được xem là yếu tố

quan trọng hàng đầu bởi kinh tế không chỉ là lợi ích cơ bản gắn với nhu cầu phát

triển mà còn là mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại, động lực cho sự mở rộng

40

quan hệ quốc tế của các quốc gia trong mọi giai đoạn. Sự tham gia sâu rộng vào hội

nhập kinh tế khu vực sẽ tạo ra động lực mới cho cải cách kinh tế trong nước. Bản

chất của mục tiêu kinh tế là sự tăng trưởng ngày càng cao và sự mở rộng thị trường

không ngừng, cả hai điều này đều dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và

nhu cầu tăng cường hội nhập kinh tế.

Quá trình hội nhập kinh tế Đông Á bắt đầu định hình rõ rệt từ những năm

1980. Quá trình này xuất phát từ các lực lượng thị trường, chủ yếu là các công ty đa

quốc gia về sau ngày càng được các chính phủ quan tâm, đặc biệt từ sau khủng

hoảng 1997. Sau 1997 hội nhập kinh tế tại Đông Á đã chuyển biến theo hướng tăng

cường các khuôn khổ thể chế. Ngoài ra cũng phải kể đến những tác động từ môi

trường quốc tế. Sự phát triển của chủ nghĩa khu vực ở châu Âu và Bắc Mỹ đã tạo

sức ép đối với chủ nghĩa khu vực ở Đông Á, khiến Đông Á có nhu cầu liên kết sâu

sắc với nhau hơn để tăng vị thế trong nền kinh tế thế giới và các thể chế kinh tế toàn

cầu, mở rộng thị trường xuất khẩu và giảm sự phụ thuộc vào thị trường bên ngoài.

Theo Lưu Ngọc Trịnh (2010) để đi đến được một khuôn khổ liên kết kinh tế

khu vực ở mức độ của châu Âu, Đông Á cần đạt được sự liên kết cả ở 3 phương

diện: Thứ nhất là thương mại - đầu tư - sản xuất, thứ hai là tài chính - tiền tệ, và thứ

ba là hội nhập thể chế cấp cao [37]. Về bản chất, khi nói đến liên kết kinh tế, người

ta đặc biệt nhấn mạnh tới phương diện thể chế giữa các chính phủ, vấn đề thiết lập

các cơ chế tự do thương mại và hội nhập kinh tế toàn diện song phương và đa

phương. Tuy nhiên có thể thấy những thành quả kinh tế đạt được tại Đông Á có sự

đóng góp rất lớn của sự dẫn dắt của thị trường và doanh nghiệp. Mạng sản xuất khu

vực đã tạo ra những mối liên kết chặt chẽ về cả thương mại và đầu tư cũng như

chuyển dịch nhân lực, nền tảng quan trọng cho sự hội nhập sâu rộng hơn ở khu vực

Đông Á. Theo Watanabe (2003) dù đích đến là Khu vực thương mại tự do (FTA)

hay Đồng minh thuế quan (CU), thì điều kiện lớn nhất để liên kết kinh tế khu vực

được triển khai hiệu quả tại Đông Á là hội nhập thực tế (De-facto) đã tiến triển [97].

Các yếu tố đóng góp cho sự tiến triển của hội nhập trên phương diện thực tế rất đa

dạng, nhưng mấu chốt là bổ sung cho nhau về mặt cơ cấu kinh tế giữa các nước với

nhau. Ngoài ra, trong thời kỳ toàn cầu hóa, các công ty đa quốc gia quản lý các

41

nguồn lực toàn cầu là một trung gian phân phối hiệu quả tiềm năng sẵn có của các

nước. Bởi vậy mà điều kiện đối với hội nhập khu vực trên phương diện thể chế còn

bao gồm mức độ thương mại, đầu tư trong khu vực của các công ty đa quốc gia có ý

nghĩa làm tăng tính bổ sung, tương hỗ lẫn nhau giữa các quốc gia.

Cũng liên quan đến hội nhập về phương diện thể chế, đáng lưu ý là trong

những năm gần đây làn sóng kinh tế kỹ thuật số đang phát triển mạnh mẽ ở Đông Á

và thế giới. Việc ứng dụng những công nghệ thông tin tiên tiến trong mạng sản xuất

không chỉ giúp sự kết nối giữa doanh nghiệp (business-to-business: B2B), mà cả sự

kết nối giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng (business-to-consume: B2C) và

người tiêu dùng với nhau (consumer-to-consumer: C2C) trở nên dễ dàng, nhanh

chóng hơn rất nhiều. Các mô hình kinh doanh mới trong bán buôn bán lẻ, giao

thông vận tải và du lịch… ra đời. Trước những tác động của kinh tế kỹ thuật số, nổi

lên các thách thức mới là làm thế nào để tiến trình liên kết, hội nhập thích ứng được

với làn sóng công nghệ mới hiện nay.

Bên cạnh đó sự tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á cũng ảnh hưởng lớn bởi

một điều kiện tiên quyết khác nữa, đó là khả năng xử lý hài hòa quan hệ nước lớn –

nước lớn, nước lớn – nước nhỏ trong việc thúc đẩy tiến trình liên kết kinh tế khu

vực. Ngoài hai nước lớn khu vực có ảnh hưởng lớn không thể phủ nhận là Nhật Bản

và Trung Quốc, triển vọng của liên kết kinh tế Đông Á còn phụ thuộc vào cường

quốc liên quan khác. Theo Lưu Ngọc Trịnh (2009), mặc dù về phương diện địa lý

không nằm trong khu vực Đông Á, sự hiện diện của siêu cường bên ngoài là Mỹ lại

là nhân tố có ý nghĩa gần như tiên quyết [36]. Bên cạnh những cường quốc loại vừa

như Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc và New Zealand, ASEAN cũng nổi lên như là một liên

minh của nhiều nước nhỏ về kinh tế nhưng lại giữ vị trí quan trọng trong thúc đẩy

liên kết kinh tế khu vực. Đông Á chịu tác động đồng thời của hai quá trình toàn cầu

hóa và khu vực hóa trong bối cảnh cùng tồn tại cả ba trung tâm sức mạnh là Mỹ,

Nhật Bản và Trung Quốc, bên cạnh đó là sự hiện diện quan trọng của ASEAN. Đặc

biệt từ những năm đầu thập niên 2010 đã diễn ra quá trình hợp tác và cạnh tranh đan

xen, trong đó đặc biệt nổi lên sự tranh giành ảnh hưởng quyết liệt giữa Mỹ và Trung

Quốc gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ tới liên kết kinh tế khu vực. Phần sau đây

42

luận án sẽ đi vào tìm hiểu cơ sở thực tiễn của liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của

một số chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình này.

2.2. Thực tiễn liên kết kinh tế Đông Á

2.2.1. Liên kết kinh tế trên phương diện thực tế - Mạng sản xuất Đông Á

Từ sau Thế chiến II, quá trình kiến tạo nền tảng sản xuất khu vực đã bắt đầu

manh nha tại Đông Á. Từ khoảng giữa thập niên 1980, một mạng lưới sản xuất,

phân phối, lắp ráp sản phẩm đã bắt đầu hình thành. Sau khi Thỏa ước Plaza ra đời,

Trung Quốc và các nền kinh tế Đông Á khác đã áp dụng nhiều chính sách khuyến

khích đầu tư nước ngoài. Thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thúc đẩy

sự gắn kết, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau giữa các nền kinh tế và trở thành nền tảng

thúc đẩy liên kết kinh tế tại Đông Á.

Tại EU xu hướng phân công lao động trong các ngành công nghiệp được tiến

hành giữa các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau như Đức, Pháp, Anh, Ý...

hình thành nên phương thức thương mại hàng ngang. Tại Bắc Mỹ, quan hệ kinh tế -

thương mại song phương với siêu cường hùng mạnh nhất là Mỹ có ý nghĩa quan

trọng “sống còn” đối với các thành viên còn lại, thương mại và đầu tư trong nội bộ

NAFTA cũng được xúc tiến, tuy không thể nói là đặc biệt tích cực. Trong khi đó tại

Đông Á, có thể thấy rằng liên kết kinh tế khu vực trên nền tàng thương mại và đầu

tư diễn ra hết sức mạnh mẽ. Từ ban đầu liên kết kinh tế Đông Á đã tiến triển nhanh

với sự dẫn dắt của thị trường (market-driven) - một quá trình từ dưới lên trên

(bottom-up) do các công ty đa quốc gia đi tiên phong. Chính động lực thị trường,

nói cách khác là những lợi ích dựa trên 3 yếu tố là sự khác biệt về tiền lương giữa

các nước; chi phí thương mại thấp, lợi tức gia tăng theo quy mô và vị trí địa lý đã

thúc đẩy sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của một mạng lưới sản xuất (hay

"mạng sản xuất", "chuỗi cung ứng", "chuỗi giá trị") xuyên quốc gia, khiến khu vực

được cả thế giới mệnh danh là "công xưởng châu Á". Indermit Gill, Homi Kharas

(2007) nhận xét rằng sự tiến triển của xu hướng khu vực hóa, một quá trình do thị

trường tạo ra khi sản xuất, thương mại, đầu tư,... trong Đông Á đều gia tăng đã

khiến cho nhiều nước Đông Á nhận thấy rằng hội nhập khu vực sẽ giúp cho năng

lực cạnh tranh quốc tế của họ tăng lên [14]. Sự tiến triển rõ rệt của liên kết kinh tế

43

khu vực Đông Á bộc lộ thông qua sự gia tăng vững chắc của tỷ lệ thương mại nội

vùng (Hình 2.1).

Hình 2.1. Tỷ lệ thương mại nội khối của Đông Á so với các khu vực khác

(Đơn vị:%/ năm)

Chú thích:

- Đông Á bao gồm ASEAN 8 (trừ Myanma và Brunei), Trung Nhật Hàn, Đài

Loan, Hong Kong; EU gồm 27 nước

- Công thức tính Tỷ lệ thương mại nội khối (域内貿易比率) = Kim ngạch xuất

nhập khẩu trong nội bộ khu vực / Kim ngạch xuất khẩu của khu vực đó ra thị

trường thế giới x 100

Nguồn: Nghiên cứu sinh lập tính toán từ số liệu của RIETI-TID

(http://www.rieti-tid.com)

Công ty đa quốc gia (TNC) tiến hành đầu tư, mở rộng hoạt động ra bên ngoài

biên giới, qua đó tăng cường mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, cùng có lợi và cùng

phát triển giữa các quốc gia. Với hoạt động của các TNCs, mạng sản xuất tại các

nước Đông Á đã kết nối hệ thống cứ điểm sản xuất theo một phương thức phân

công lao động đa tầng. Quy trình sản xuất được phân chia (fragmentation) thành

nhiều công đoạn nhỏ đặt tại các quốc gia có trình độ phát triển và mức độ thu nhập

khác nhau căn cứ trên cơ sở năng lực công nghệ và lợi thế so sánh đầu vào quá trình

44

sản xuất. Sự phát triển của một mạng lưới sản xuất trải dài trong khu vực cho phép

các TNCs hưởng lợi từ lợi thế so sánh đó. Điều này giải thích cho sự phát triển của

xu hướng thương mại nội ngành theo hàng dọc nói riêng và ngoại thương nội bộ các

quốc gia trong khu vực nói chung tại Đông Á, đặc biệt là trong lĩnh vực công

nghiệp máy móc, điện - điện tử và công nghiệp ô tô (Hình 2.2), đồng thời cho thấy

mức độ phụ thuộc sâu sắc lẫn nhau về mặt kinh tế của các quốc gia trong khu vực

Đông Á.

Hình 2.2. Xuất khẩu nội khối tại Đông Á trong từng lĩnh vực (1980~2008)

Đơn vị: Triệu USD, Năm

Nguồn: Nghiên cứu sinh lập từ dữ liệu của RIETI-TID

(http://www.rieti-tid.com/)

Đối với ngành công nghiệp chế tạo, Đông Á là một khu vực sản xuất hấp dẫn

với ưu thế lớn không chỉ vì giá nhân công thấp, mà còn bởi tính bổ trợ lẫn nhau

giữa các nền kinh tế. Những đặc tính của ngành công nghiệp này, đặc biệt là khả

năng kết nối của quy trình sản xuất đã khuyến khích sự phát triển của mạng sản xuất

khu vực. Bên cạnh đó, đặc trưng nổi bật của Đông Á là giao dịch linh kiện, phụ

tùng và hàng hóa trung gian chiếm một tỷ trọng khá lớn trong thương mại nội bộ

khu vực. Theo báo cáo của Bộ Kinh tế Công nghiệp Nhật Bản [111], trong tổng kim

45

ngạch thương mại hàng hóa của ba mặt hàng máy móc chủ yếu (ba hạng mục làm

tăng giá trị xuất khẩu nhiều nhất: máy móc tổng hợp, điện máy, vận tải ngoài đường

sắt) chia theo thành phẩm và linh kiện, phụ tùng, kết quả là tổng kim ngạch giao

dịch ngoại thương của cả thành phẩm và phụ tùng đều có xu hướng gia tăng, trong

đó đặc biệt nổi bật là tỷ trọng của phụ tùng, linh kiện (Hình 2.3).

Hình 2.3. Tỷ lệ các mặt hàng trong tổng giá trị thương mại của Đông Á

(theo từng quý trong các năm từ 2011-2018)

Đơn vị: Tỷ USD, %

Nguồn: World Trade Atlas

Các quốc gia Đông Á cùng tạo nên một “chu trình liên kết”, ví dụ vi mạch

silicon được sản xuất tại Singapore, kiểm tra kỹ thuật tại Malaysia, sau đó được lắp

ráp vào các ổ đĩa sản xuất tại Thái Lan. Giao thương sản phẩm điện tử, chủ yếu gồm

linh kiện, các sản phẩm trung gian, bán thành phẩm, hay là các hoạt động trao đổi

nội ngành và nội doanh nghiệp cũng liên hệ chặt chẽ với sự gia tăng đầu tư trực

tiếp. Điều này cho thấy sự di chuyển năng động của linh kiện phụ tùng giữa các

quốc gia, đồng nghĩa với việc một hệ thống phân công lao động ở mức độ cao đã

được thiết lập.

46

Hình 2.4. Tăng trưởng thương mại Đông Á theo danh mục sản phẩm

trong thời gian từ 2001–2016

Đơn vị: %

Ghi chú: Đông Á được hiểu là ASEAN + 6 và Đài Loan.

Nguồn: Ayako OBASHI, Fukunari KIMURA (2018) tính toán dựa trên dữ liệu

nhập khẩu song phương SITC Rev 3, Rev. 4 Comtrade và chỉ số nhập khẩu của Mỹ

(US BLS) [73].

Cả trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo ôtô, việc cho phép một doanh nghiệp

nhập khẩu miễn thuế đối với các chi tiết sản xuất tại các quốc gia khác nhau trong

khu vực góp phần làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, các hãng sản xuất

ôtô nhờ vào việc này mà tối ưu hóa việc tổ chức sản xuất của mình. Chẳng hạn như

47

Toyota đã phân bổ sản xuất các linh kiện xe hơi tại nhiều nước, kết quả là giảm

được giá thành và tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ. Cách tổ chức sản xuất

này là hiện tượng không thấy ở nơi nào khác trên thế giới ở cấp độ khu vực.

Những năm gần đây một số ý kiến cho rằng không gian mở rộng mạng lưới

sản xuất Đông Á gần như cạn kiệt và đây là lý do tại sao trao đổi thương mại khu

vực bị chậm lại. Tuy nhiên trên thực tế, sự suy giảm của thương mại Đông Á cũng

tương tự như tình hình trên thế giới chủ yếu do sự tăng trưởng chậm chạp trong

thương mại hàng hóa sơ cấp, nguyên nhiên liệu thô, nguyên liệu chế biến hóa chất

và tài nguyên khoáng sản. Ngược lại, trong các lĩnh vực phụ tùng, linh kiện sản xuất

và các sản phẩm cuối cùng được lắp ráp trong mạng sản xuất trong các ngành công

nghiệp chế tạo thương mại Đông Á vẫn tiếp tục tăng đều đặn ngay cả sau thời điểm

2011 khi một thảm họa động đất, sóng thần lịch sử xảy ra tại Nhật Bản (Hình 2.4).

Điều này cho thấy rằng mạng lưới sản xuất Đông Á không bị chậm lại và tiềm năng

mở rộng hơn nữa của mạng lưới sản xuất này vẫn còn.

2.2.2. Liên kết kinh tế trên phương diện thể chế tại Đông Á

Đông Á trong tổng thể liên kết kinh tế khu vực trên thế giới

Trước khi tìm hiểu tiến triển của liên kết thể chế tại Đông Á, luận án sẽ nhìn

lại một cách tổng thể về liên kết kinh tế khu vực trên thế giới. Cùng với sự phát

triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, xu thế hợp tác và mở cửa của các quốc gia đã

thúc đẩy hội nhập kinh tế trên khắp thế giới. Ngày nay hội nhập kinh tế khu vực đã

trở thành một trào lưu quan trọng của quan hệ quốc tế hiện đại. Dẫn đầu về hội nhập

trên thế giới là châu Âu với hạt nhân là EU (Liên minh châu Âu). Lịch sử hình

thành EU bắt đầu từ liên minh thuế quan (EEC) 1958, đến nay đã tiến tới một thị

trường đơn nhất đạt đến liên minh kinh tế và tiền tệ. Trong số 28 quốc gia thành

viên của EU, 18 quốc gia áp dụng một đồng tiền duy nhất, nghĩa là đồng euro của

khu vực được sử dụng tại 18 quốc gia của các nước thành viên. Tổng GDP của EU

là gần 17,3 nghìn tỷ USD (năm 2017) [121]. Đối chiếu trên cơ sở phân loại cấp độ

hội nhập của Balassa, có thể đánh giá tiến triển của EU từ EEC 1958 ở giai đoạn ②,

EC 1967 ở giai đoạn ③, EU 1999 bắt đầu bước vào giai đoạn ④, và hiện tại EU 28

đang ở giai đoạn ③ và đạt đến giai đoạn ④ là EU 18. Ngoài EU về hội nhập khu

vực tại châu Âu còn phải kể đến EFTA (Hiệp hội Thương mại Tự do châu Âu).

48

Tiếp sau EU, Bắc Mỹ là nơi hội nhập khu vực tiến triển sớm nhất với NAFTA

(Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ, phiên bản cập nhật của hiệp định được gọi là

Thỏa thuận Mỹ - Mexico - Canada, viết tắt là USMCA) bao gồm Mỹ, Mexico,

Canada. Dân số NAFTA tương đương gần 7% của thế giới nhưng GDP lên tới 21,1

nghìn tỷ USD (2016) [118] và quy mô thị trường có thể sánh được với Eurozone.

NAFTA có "trung tâm" là Hoa Kỳ, và FTA phát triển theo mô hình "Hub-and-

spoke model" (Mô hình trục và nan hoa). Ngoài ra châu Mỹ còn có một thỏa thuận

ở mức độ tự do hóa cao khác là FTA Trung Mỹ (CAFTA) giữa Nam Mỹ và Chile.

Còn tại Nam Mỹ có Mercosure (gồm Brazil, Argentina, Uruguay, Paraguay,

Venezuela) được thiết lập từ năm 1994. Căn cứ trên cơ sở phân loại của Balassa,

NAFTA hiện đang ở giai đoạn ②. Đối với Mercosur, với việc thực hiện mức thuế

chung bên ngoài và tự do hóa thương mại trong khu vực vào năm 1995 ít nhất đã

tương đương với giai đoạn ②.

Ngoài ra từ năm 2012 các nước thuộc dãy Andes ở Nam Mỹ sát Thái Bình

Dương như Colombia, Peru, Chile, và Mexico đã hình thành "Liên minh Thái Bình

Dương" (Allianza del Pacifico), một khuôn khổ liên kết kinh tế khu vực mới thu hút

nhiều chú ý. Trước đó từ năm 2001 FTA bao gồm cả hai miền Bắc Mỹ và Nam Mỹ:

"FTA toàn châu Mỹ" (FTAA) gồm 34 quốc gia châu Mỹ trừ Cuba đã được tiến

hành đàm phán, tuy với sự phản đối của Brazil các phiên đàm phán kể từ năm 2006

vẫn chưa được mở lại.

Như đã nói ở trên hội nhập kinh tế Đông Á về cơ bản có hai nhân tố thúc đẩy.

Ngoài nhân tố thị trường với sự mở rộng của “mạng sản xuất” xuyên quốc gia còn

phải kể đến các hiệp định thương mại tự do khu vực giúp làm giảm hoặc loại bỏ các

rào cản thương mại giữa các nền kinh tế, qua đó đẩy mạnh liên kết kinh tế ở phương

diện thể chế. Dưới đây là những tiến triển cụ thể của liên kết thể chế tại Đông Á.

Liên kết kinh tế trên phương diện thể chế (De jure) - Các khuôn khổ hiệp định

thương mại tự do khu vực tại Đông Á

Một trong những nhân tố thúc đẩy hội nhập kinh tế Đông Á thời gian qua

chính là các thỏa thuận thương mại tự do giữa các chính phủ. Hình thức phổ biến

nhất của liên kết kinh tế là việc các nước ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA).

49

Nhìn lại tổng thế xu thế liên kết kinh tế khu vực trên thế giới, đặc biệt là tại châu Âu

có thể thấy liên kết thể chế chính là xu thế áp đảo. Các biện pháp rào cản qua biên

giới các nước như thuế quan được cắt giảm khiến cho về mặt thương mại ý nghĩa

của biên giới quốc gia trở nên mờ nhạt dần.

Mặc dù liên kết kinh tế khu vực trên phương diện thực tế đã manh nha từ

những năm 1980 tuy nhiên phải đến thời điểm sau năm 1997 xu hướng liên kết thể

chế (De-jure) mới thực sự rõ nét và khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đã đánh

dấu sự biến chuyển này của liên kết kinh tế khu vực. Có thể chứng kiến sự ra đời

liên tiếp của các FTA song phương hay đa phương tại Đông Á. Về nguyên nhân của

điều này trước hết có thể kể tới biến chuyển của bối cảnh quốc tế như tình thế khó

khăn của đàm phán đa phương trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay, sự gia

tăng của các hiệp định thương mại trên thế giới (EU, NAFTA...). Tuy nhiên không

thể phủ nhận, một trong những lý do liên kết thể chế tại Đông Á được đẩy nhanh

bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính 1997~1998 từng gây ra những hậu quả

nghiêm trọng tại nhiều nước Đông Á. Khi đó, phản ứng hờ hững của Mỹ đã khiến

nhiều nước thất vọng, đặc biệt khi Mỹ đã giải cứu Mexico năm 1994 nhưng lại từ

chối Thái Lan ba năm sau đó. Cách làm của Mỹ và IMF là đổ lỗi nguyên nhân

khủng hoảng cho hệ thống kinh tế và cách điều hành sai lầm của các nước Đông Á.

Trước tình hình đó, các nước Đông Á đã không khỏi có sự tư duy lại về quá trình

toàn cầu hóa do Mỹ lãnh đạo, cũng như chính sách của Mỹ và các thể chế như IMF,

đồng thời bắt đầu quá trình tìm kiếm các giải pháp cho riêng mình. Một loạt ý tưởng

và đề xuất hội nhập kinh tế không có sự góp mặt của Mỹ đã xuất hiện như “Sáng

kiến Chiềng Mai”, các hiệp định thương mại và đầu tư của châu Á, các quỹ trái

phiếu khu vực, các hiệp định và thể chế như khuôn khổ như Hội nghị cấp cao Đông

Á (EAS mà sau này Mỹ mới tham gia), Cộng đồng kinh tế ASEAN (EAC), các

khuôn khổ ASEAN+3, ASEAN+6... Bên cạnh đó, trong bối cảnh mạng sản xuất

Đông Á được mở rộng, sản xuất linh kiện và các sản phẩm trung gian được thực

hiện tại nhiều quốc gia khác nhau và phạm vi giao dịch vượt ra ngoài biên giới quốc

gia, di chuyển năng động trong khu vực đã kết nối với nhu cầu về sự hình thành của

các FTAs. Có thể thấy tại Đông Á phương thức liên kết trên phương diện thực tế

cũng đã thúc đẩy đáng kể sự tiến triển của liên kết thể chế.

50

Đánh giá về mức độ tiến triển của liên kết kinh tế tại Đông Á, nhìn từ sự phân

loại cấp độ hội nhập của Bela Balassa có thể thấy rằng Đông Á đã không hoàn toàn

đi theo cách phân loại này. Ví dụ, mặc dù những FTA truyền thống có đối tượng là

tự do hóa thương mại hàng hóa, nhưng FTA những năm gần đây bao gồm phạm vi

rộng hơn nhiều với một loạt những nội dung như tự do hóa thương mại dịch vụ, đầu

tư, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, và được gọi là “FTA thế hệ mới”. Trong số

những yếu tố mới nêu trên, tự do hóa của di chuyển thể nhân và đầu tư đã vượt qua

mức Liên minh thuế quan (thứ ②), và một số đã trở thành các yếu tố của cấp độ

thị trường chung (thứ ③). Mặc dù mới ở cấp độ ①, Hiệp định đối tác kinh tế

(EPA) mà Nhật Bản sử dụng được coi là gần tương tự một FTA thế hệ mới về khái

niệm. Mặc dù Khu vực Thương mại Tự do ASEAN AFTA là một FTA truyền thống,

nhưng cũng có nhiều chương trình hành động khác nhau, nên về mức độ hội nhập

về tổng thể, không hẳn là thấp hơn quá nhiều so với Đồng minh thế quan Nam Mỹ

(MERCOSUR) đang ở giai đoạn ②. Các khuôn khổ APEC, ASEAN+3, ASEAN+6

đều mới ở mức tiền hội nhập (chưa đạt đến cấp độ thứ nhất). Dưới đây sẽ là nội

dung cụ thể của từng khuôn khổ.

 Khuôn khổ ASEAN (AFTA và AEC): Tại Đông Á, hầu như chỉ có

ASEAN là định chế liên kết kinh tế duy nhất có thể so sánh với các khuôn khổ liên

kết chính thức khác trên thế giới. Vào thời điểm mới hình thành năm 1967 đến 1992

hội nhập kinh tế của ASEAN chỉ ở “mức thấp”. Phải trải qua khoảng 1 thập kỷ sau

khi thành lập, tại Hội nghị thượng đỉnh Bali (1976), những toan tính cụ thể đầu tiên

về kinh tế mới được đưa ra. Tuy nhiên theo thời gian, hội nhập kinh tế đã dần trở

thành một trong các trụ cột chính. Năm 1977, thỏa thuận về ưu đãi thuế quan là nỗ

lực đáng kể đầu tiên về liên kết kinh tế ở cấp khu vực, mặc dù thỏa thuận này chỉ

nhằm tới một số lượng hàng hóa hạn chế, chưa đủ để thúc đẩy thương mại nội vùng

vốn còn khiêm tốn. Những sáng kiến được đưa ra sau đó, đặc biệt là các dự án hợp

tác công nghiệp trong giai đoạn 1977 tới 1983 (AIP, AIC, AIJV4) nhằm tận dụng

tính bổ trợ lẫn nhau và khuyến khích hợp tác về công nghiệp phần nhiều không hiệu

quả. Năm 1988, một giải pháp mới về liên kết sản xuất chung nhãn hiệu (BBC)

được đưa ra, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân bằng việc giảm 50% thuế với

51

điều kiện 50% thành phần có xuất xứ nội địa và ít nhất có 2 quốc gia thành viên liên

quan đến hoạt động sản xuất. Giải pháp này đã đạt được thành công nhất định, ít

nhất cũng đã đóng góp vào việc hình thành mạng lưới sản xuất khu vực.

Tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nhiều so với các nước phát triển và đang phát triển

của ASEAN liên quan tới mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước thành viên, đặc

biệt với sự thúc đẩy của một đối tác quan trọng là Nhật Bản. Những nước ASEAN

ngày càng gắn kết trong một mạng lưới sản xuất khu vực kết nối với các doanh

nghiệp Nhật Bản, đặc biệt trong lĩnh vực ôtô và điện tử. Thương mại nội khối

ASEAN có sự biến đổi sâu sắc. Giao thương nguyên liệu và sản phẩm thô giảm

xuống, trong khi các sản phẩm công nghiệp lại tăng lên, đặc biệt là tỷ lệ linh kiện,

phụ tùng. Sự năng động của thương mại nội ngành đã thúc đẩy hội nhập tiến triển.

Từ 1992 đến nay hội nhập kinh tế ASEAN đã được thể chế hóa. AFTA thành

lập năm 1992 đánh dấu một sự thay đổi về hội nhập kinh tế về mặt thể chế giữa

chính phủ các nước. Mục tiêu của AFTA là thiết lập một khu vực thương mại tự do

trong vòng 15 năm, dự kiến tiến hành theo từng chặng các thời hạn cắt giảm hàng

rào thuế quan. Với phần lớn các nước liên quan, sự thay đổi này phản ánh bước

chuyển của chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu thành chiến lược xúc

tiến xuất khẩu, thúc đẩy thương mại nội ngành, cải thiện khả năng cạnh tranh của

các nền kinh tế thuộc ASEAN. Điều này cũng phản ảnh xu thế hội nhập quốc tế

đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Ngoài ra, trong bối cảnh sau khủng hoảng, sự

cạnh tranh từ Trung Quốc đã khiến các nước ASEAN nhận thấy sự cần thiết phải

hành động nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh và sức hút đầu tư nước ngoài. Thực

tế, vào đầu những năm 2000, các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc

tăng mạnh trong khi vào ASEAN lại giảm gây ra nhiều lo ngại đã thúc giục chính

phủ các nước ASEAN nhanh chóng hoàn thành AFTA, khuyến khích khai thác quy

mô liên kết các nền kinh tế và những lợi thế so sánh của từng thành viên.

AFTA được xem là một thành công của liên kết kinh tế Đông Á và tại Hội

nghị Thượng đỉnh Vientiane tháng 10/2003, các nước thành viên ASEAN quyết

định sẽ tiến xa hơn, hướng tới thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Chính

thức hình thành cuối năm 2015, AEC là một tiến bộ quan trọng trong tiến trình hội

52

nhập kinh tế của ASEAN với 4 mục tiêu: Một thị trường và một nền tảng sản xuất

duy nhất, Một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh, Phát triển công bằng và Một

khu vực hội nhập với kinh tế thế giới. Mặc dù chưa thể coi là hoàn hảo, AEC vẫn là

một thành tựu khó có thể tưởng tượng được cách đây nửa thế kỷ.

 Các khuôn khổ ASEAN+1: ASEAN đã được xem là một trung tâm nòng

cốt (pivotal center) của mạng sản xuất Đông Á và các khuôn khổ thể chế hình thành

bởi các FTAs có thể hỗ trợ nhiều lớp cho sự liên kết kinh tế trên phương diện thực

tế. Nhận ra vai trò nòng cốt của ASEAN cũng như thấy được nguồn lợi tiềm tàng

của việc tăng cường liên kết, các đối tác Đông Á khác đã coi FTA với khối là chiến

lược kinh tế quan trọng. Bởi vậy mà lấy trung tâm là ASEAN, các hiệp định thương

mại tự do xoay quanh ASEAN và các đối tác được gọi là các FTA ASEAN+1 tại

Đông Á liên tiếp ra đời, trước hết là FTA ASEAN với Trung Quốc (ký năm 2004).

Trung Quốc là nước lớn Đông Á đi theo xu thế thời đại sớm và tích cực nhất.

Nước này đã khởi xướng Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA)

và được các nước ASEAN đồng loạt hưởng ứng. Tiếp theo, Trung Quốc đã đưa ra

Chương trình “thu hoạch sớm” xóa bỏ thuế quan đối với một số mặt hàng nhập

khẩu từ ASEAN6 (Bruney, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái

Lan) từ 2004. ACFTA có hiệu lực từ tháng 7/2005, thời hạn cắt giảm thuế đối với

sản phẩm hàng hóa là tháng 1/2010 với các thành viên ASEAN sáng lập và 2015

với các nước ASEAN4 còn lại. Ô tô, xe gắn máy, và đồ gia dụng được coi là các

sản phẩm nhạy cảm có tốc độ cắt giảm thuế chậm hơn. Đến 2007 hai bên cũng đã

có thỏa thuận về thương mại dịch vụ, tuy nhiên mức độ tự do hóa không cao. Thỏa

thuận đầu tư đã được đưa ra năm 2009, nhưng không bao gồm tự do hóa đầu tư.

FTA giữa ASEAN với Nhật Bản (AJCEP) ký vào năm 2008 gồm cả ba nước

chưa có FTA với Nhật Bản là Campuchia, Lào, Myanmar. Đây là một FTA/EPA

toàn diện trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và

hợp tác kinh tế. Bằng cách đưa vào quy tắc xuất xứ cộng gộp, hiệp định bổ sung các

nội dung mà những hiệp định song phương trước đó chưa có về thương mại linh

kiện, phụ tùng và bán thành phẩm.

53

Về phần mình, Hàn Quốc cũng đã nhanh chóng đàm phán FTA với ASEAN

trong bối cảnh cả Trung Quốc và Nhật Bản đều đã tích cực xúc tiến bởi không

muốn chậm chân hơn. FTA ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA) ký năm 2006 (riêng với

Thái Lan là 2009) có hiệu lực từ tháng 6/2007. Tháng 1/2010 Hàn Quốc và

ASEAN6 bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế quan. Hai bên cũng đã có thỏa thuận cả

về thương mại dịch vụ trong năm 2007, nhưng mức độ tự do hóa không cao. Nội

dung áp dụng cho các sản phẩm của khu công nghiệp Bắc Triều Tiên Kaesong cũng

được đề cập. Thỏa thuận đầu tư được hai bên ký năm 2009 không chỉ gồm bảo hộ

đầu tư mà cả tự do hóa đầu tư (ưu đãi tối huệ quốc và đãi ngộ quốc dân).

Ngoài ra, Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Ấn Độ (AIFTA) đã được ký vào

năm 2009 với mục tiêu thành lập một khu vực mậu dịch tự do vào năm 2015 với

các nước ASEAN 5 (Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Brunei), năm 2016

đối với CLMV và Philippines. Sau một quá trình đàm phán khó khăn, hiệp định đã

có hiệu lực vào năm 2010. Đặc trưng của hiệp định này là chế độ cắt giảm thuế

quan phức tạp và tỷ lệ cắt giảm thuế quan thấp (chỉ khoảng 75%), lý do bởi sự phản

ứng mạnh mẽ đối với tự do hóa từ phía nội bộ Ấn Độ. Lĩnh vực thương mại dịch vụ

và đầu tư sau đó vẫn tiếp tục được đàm phán.

Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Úc - New Zealand (AANZFTA) được ký

năm 2009 và bắt đầu có hiệu lực từ đầu 2010. AANZFTA có tỷ lệ cắt giảm thuế

quan cao, bao gồm cả các lĩnh vực như dịch vụ, đầu tư, thương mại điện tử, di

chuyển thể nhân, tuy nhiên không bao gồm nội dung mua sắm của chính phủ.

 Khuôn khổ ASEAN+3 (EAFTA): ASEAN+3 là một cơ chế hợp tác giữa

ASEAN và ba quốc gia Đông Bắc Á là Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Hợp

tác ASEAN+3 bắt nguồn từ ý tưởng thành lập Nhóm kinh tế Đông Á (EAEC) do

Thủ tướng Malaysia Mahathir bin Mohamad đề xuất đầu những năm 1990. Năm

1995 ASEAN đề nghị tổ chức thượng đỉnh ASEAN+3. Năm 1997 Hội nghị cấp cao

không chính thức Nhật – Trung - Hàn lần đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lumpur,

chính thức khởi động tiến trình hợp tác ASEAN+3. Năm 2000, tại hội nghị cấp cao

giữa ASEAN với Nhật – Trung - Hàn, ASEAN+3 đã chính thức được thể chế hóa,

hướng tới việc xây dựng một cộng đồng kinh tế tại Đông Á trong tương lai. Tuy

54

nhiên về triển vọng của khuôn khổ này, trong khi về phía ASEAN nhìn chung

không có vấn đề gì lớn, thế nhưng các nước lớn Đông Bắc Á lại rất khó tìm được

tiếng nói chung bởi những rào cản về lịch sử, chính trị, an ninh, gây trở ngại đáng

kể cho triển vọng thiết lập các cơ chế hợp tác.

 APEC (FTAAP): Thành lập năm 1989, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á –

Thái Bình Dương (APEC) là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp

kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nền kinh tế thành viên trên cơ sở

hoàn toàn tự nguyện. Tại APEC 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên

bố sẽ thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực sâu rộng hơn, thông qua lộ trình hiện thực

hóa tầm nhìn Khu vực mậu dịch tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP), khiến

cho FTAAP trở thành một khuôn khổ thu hút nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên FTAAP

cũng không phải là một khái niệm mới, ban đầu từng được đặt ra trong "Mục tiêu

Bogor" năm 1994 và là ý tưởng được đưa ra bởi Úc và Mỹ. Tuy nhiên, nhìn từ quan

điểm hội nhập khu vực, FTAAP vẫn là một mục tiêu kinh tế tương đối lâu dài, đặc

biệt khi các nước Đông Á như Myanmar, Campuchia, Lào và Ấn Độ cần phải là

thành viên APEC trước khi được đưa vào FTAAP, đồng thời cũng có các nước

APEC không phải là thành viên RCEP như Canada, Chile, Hồng Kông, Mexico,

Papua New Guinea, Peru, Nga, Đài Loan và Mỹ.

 Khuôn khổ CEPEA (ASEAN+6): Trong khi Hàn Quốc và Trung Quốc tán

thành khuôn khổ ASEAN+3 và Khu vực thương mại tự do Đông Á (EAFTA), thì

đến năm 2006 Nhật Bản đã đề xuất sáng kiến ASEAN+6 đầu tiên là Đối tác kinh tế

toàn diện Đông Á (CEPEA) nhằm xây dựng khu vực thương mại tự do Đông Á “mở

rộng” bao gồm 16 quốc gia ASEAN 10, Trung, Nhật, Hàn, Ấn Độ, Úc, New

Zealand với trọng tâm là thúc đẩy thương mại tự do thông qua cắt giảm thuế quan,

hợp tác đầu tư, sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực kinh tế khác.

 TPP và RCEP: Trong bối cảnh cả sáng kiến ASEAN+3 (EAFTA) và

ASEAN+6 (CEPEA) đều không tiến triển như kỳ vọng, đến khoảng đầu thập niên

2010 những nỗ lực thúc đẩy đàm phán các Mega FTA là RCEP và TPP một lần nữa

đã cho thấy sự tiến triển đáng kể của liên kết kinh tế Đông Á.

55

TPP là một khuôn khổ đàm phán đa phương nhằm thiết lập một khu vực

thương mại tự do chung cho 12 quốc gia khu vực châu Á - TBD. Mức độ thể chế

hóa của TPP rất cao, mang tính ràng buộc về mặt pháp lý. Về đặc điểm cơ bản của

TPP, có thể thấy rằng Mỹ chính là người tạo ra luật chơi, quy định cho TPP và nếu

TPP thành công, các luật chơi theo tiêu chuẩn cao của hợp tác Châu Á – TBD nhiều

khả năng sẽ thay thế các quy định lỏng lẻo, thiếu sự ràng buộc mà các nước Đông Á

đã triển khai gần hai thập kỷ qua. Còn RCEP là một hiệp định thương mại do nhằm

liên kết 16 nền kinh tế Đông Á (ASEAN+6). So sánh RCEP với TPP, có thể thấy

hai khuôn khổ này tương tự nhau về mục tiêu nhằm thiết lập một khu vực thương

mại tự do rộng lớn. Tuy nhiên cụ thể, nếu như TPP là một mô hình kiểu Mỹ ưu tiên

chất lượng, đòi hỏi tiêu chuẩn cao về luật lao động, bảo vệ môi trường và sở hữu trí

tuệ…, thì RCEP là một mô hình chỉ huy tập trung với những quy định về tiêu chuẩn

thấp về việc cắt giảm hàng rào thương mại và cùng hạn chế các yêu cầu cho hài hòa

lợi ích chung. Nói cách khác, trong khi TPP giải quyết vấn đề chất lượng, thì RCEP

tập trung chính vào vấn đề “noodle bowl”. Kỳ vọng đặt ra với RCEP cũng thấp hơn

nhiều so với TPP với trọng tâm chính là thương mại hàng hóa, ít chú trọng đến các

vấn đề phi thuế quan, những cam kết của RCEP cũng không vượt quá các tiêu

chuẩn của WTO. Phạm vi địa lý của RCEP cũng hạn chế hơn so với TPP, phía tham

gia ngoài ASEAN chỉ gồm những quốc gia đã có FTA với khối, còn TPP mặc dù

không có sự hiện diện của Trung Quốc nhưng bao quát một phạm vi rộng lớn. Điều

này cũng có nghĩa là RCEP chỉ tập trung vào Đông Á và không có tác dụng thúc

đẩy thương mại giữa Đông Á với Bắc và Nam Mỹ. Mặc dù các chi tiết đàm phán

RCEP được giữ bí mật, tiến độ đàm phán hiệp định này rất chậm và thời hạn cuối

năm 2016 để đưa ra kết luận cũng đã bị bỏ lỡ.

Mặc dù Trung Quốc không tham gia TPP nhưng lại là đối tác đàm phán chính

của RCEP. Trung Quốc là nền kinh tế lớn nhất của RCEP, bởi vậy ở khía cạnh quy

mô khuôn khổ hội nhập này mang ý nghĩa Trung Quốc là trọng tâm (về tỷ lệ GDP

trong RCEP, trong khi Nhật Bản chiếm 29%, 10 quốc gia ASEAN chiếm 11%, Ấn

Độ 9%, Úc và New Zealand 8%, Hàn Quốc 6% thì Trung Quốc chiếm tỷ lệ lên tới

37%). Nếu RCEP có hiệu lực, ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc và sự phụ thuộc

56

của các nước ASEAN vào Trung Quốc chắc chắn sẽ gia tăng. Nguyên tắc của

RCEP là có cân nhắc tới hoàn cảnh đặc biệt của các thành viên tham gia đàm phán.

Mặc dù điều này không phù hợp với nguyên tắc thương mại tự do chung, nhưng lại

tương đồng với cách thức mà Trung Quốc tiến hành khi xúc tiến ACFTA. Việc các

bên thường nhấn mạnh vai trò “ASEAN là trung tâm“ thực ra cũng là một điều có

lợi cho Trung Quốc. Vai trò trung tâm của ASEAN sẽ làm giảm sự cảnh giới của

Mỹ với RCEP, giúp Trung Quốc tránh được sự đối đầu trực tiếp với Mỹ.

2.2.3. Một số nhận xét về tiến trình liên kết kinh tế Đông Á

Thứ nhất, về liên kết trên phương diện thực tế, mặc dù sự tiến triển mạnh mẽ

là không thể phủ nhận, tuy nhiên mô thức liên kết “de facto” cũng làm phát sinh

những ý kiến trái chiều về tính thiếu bền vững bởi một mặt tạo ra nền tảng cung ứng

hàng hoá trong khu vực, mặt khác lại hướng đến xuất khẩu và tìm kiếm thị trường

bên ngoài cho các sản phẩm cuối cùng ở Bắc Mỹ và Châu Âu, khiến cho mức độ lệ

thuộc vào thị trường bên ngoài rất lớn. Bởi lẽ đó, một trong những tiến đề cần thiết

đối với tiến trình liên kết tại Đông Á hiện nay là tăng cường hợp tác nội khối trên cơ

sở tiếp tục phát triển nền tảng sản xuất khu vực đồng thời nhấn mạnh phát triển nền

tảng thị trường cho các sản phẩm cuối cùng ngay trong nội bộ khu vực.

Ngoài ra, trước sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật và đổi mới công

nghệ, phân công lao động quốc tế nói chung cũng liên tục đổi khác cả về hình thức,

quy mô và tính chất. Có thể thấy vào nửa đầu thế kỷ 19 về trước, cách mạng công

nghiệp lần thứ nhất với động cơ hơi nước và đường sắt đã thay đổi đáng kể lĩnh vực

sản xuất. Tới nửa cuối thế kỷ XX, khi cách mạng công nghiệp lần thứ hai nhờ dầu

mỏ và động cơ đốt trong diễn ra, lĩnh vực sản xuất cũng có những bước tiến vượt

bậc với sự xuất hiện của các dây chuyền sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng, tự động

hóa... Trước đây phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của từng đơn

vị sản xuất có quy mô đầy đủ, khi đó nguyên liệu thô và thành phẩm được giao dịch

giữa các quốc gia là xu thế chủ đạo. Vào thế kỷ 19 nếu hình thức phân công lao

động theo chiều dọc là chủ đạo thì bước sang thế kỷ thứ 20 đã chuyển sang hình

thức phân công lao động theo chiều ngang. Những năm 1990, với cuộc cách mạng

ICT, các ý tưởng trong sản xuất đã có thể di chuyển bất chấp khoảng cách, quy trình

57

sản xuất được phân mảnh, sản xuất và tiêu thụ hoàn toàn có thể tách rời nhau,

không phụ thuộc vào biên giới quốc gia. Càng ngày những tiến bộ công nghệ diễn

ra nhanh chóng càng tác động mạnh mẽ đến mạng sản xuất khu vực. Chẳng hạn,

nếu như trước kia khi chi phí vận chuyển, liên lạc đắt đỏ, việc sản xuất, vận chuyển,

tiêu thụ ra ngoài biên giới quốc gia vốn phức tạp, chứa nhiều rủi ro khiến lợi thế so

sánh bị hạn chế, thì hiện nay nhờ công nghệ thông tin và giao thông đã trở nên tiện

lợi, chi phí vận tải quốc tế, liên lạc viễn thông giảm xuống đáng kể. Cuộc cách

mạng Công nghệ thông tin (Information Technology: IT) càng thúc đẩy sự phát

triển của xã hội trên nền tảng tri thức, sự gia tăng đáng kể của tầng lớp trung lưu,

đồng thời mang lại nhiều biến đổi liên quan đến xã hội dân sự và dân chủ ở khu

vực. Hơn nữa, trước hai làn sóng là IT với đại diện là Trí tuệ nhân tạo (Artificial

Tntelligence: AI), Robot, “Công nghiệp 4.0” (được người Đức quảng bá từ 2011) và

Công nghệ Truyền thông (Communication Technology: CT), các chi phí trực tiếp

này sẽ ngày càng giảm. Giá nhiều sản phẩm được giao dịch qua internet, giá dịch vụ

giao thông, vận tải, lưu trú, thuê địa điểm được giảm thiểu đáng kể so với trước với

sự xuất hiện của các dịch vụ như Uber, Grab, Be, Go-Jek, Airbnb…, có thể thấy

rằng thời kỳ các quy trình sản xuất có thể phân mảnh và đặt tại những địa điểm cách

xa nhau, hay vượt ra bên ngoài khu vực đã mở ra. Thậm chí khi hoạt động của con

người có thể được thay thế bằng máy móc, để nâng cao hiệu quả tích tụ của hoạt

động sản xuất kinh tế, không loại trừ khả năng một số công đoạn sản xuất còn có

thể quay trở về các nước phát triển tiên tiến.

Thứ hai, về liên kết thể chế, việc có hàng chục các thỏa thuận ưu đãi thương

mại trong khu vực dẫn đến “Hội chứng bát mì” (Noodle Bowl Syndrome)" đã làm

giảm những lợi ích tiềm tàng của liên kết kinh tế. Trong khi châu Âu mất hơn một

thập niên để thảo luận về thỏa thuận thương mại của châu lục, thì việc hàng chục

thỏa thuận song phương giữa các quốc gia Đông Á xuất hiện chỉ trong một thời gian

ngắn đã cho thấy có một cuộc đua ngầm trong việc hình thành các FTA mà thiếu

một tầm nhìn cho những khuôn khổ hội nhập rộng lớn và sâu sắc hơn.

Bên cạnh đó, có một thực trạng là từ năm 1991 các quy tắc thương mại đa

phương gần như không có bất kỳ tiến triển nào, trong khi các lĩnh vực thương mại

58

mới như thương mại dịch vụ, thương mại điện tử… phát triển như vũ bão và ngày

càng chiếm tỷ trọng lớn mà chưa có những quy tắc điều chỉnh thống nhất, cho thấy

mức độ cần thiết của việc xây dựng những nguyên tắc đảm bảo tính tự do thương

mại, chính sách cạnh tranh, an ninh mạng, bảo vệ người tiêu dùng …

Thứ ba, những năm gần đây thực tiễn liên kết kinh tế khu vực đã cho thấy một

xu thế mới, đó là đặt trọng tâm vào vấn đề kết nối mạng lưới cơ sở hạ tầng kinh tế.

Có thể thấy rằng tại Đông Á, kể cả Trung Quốc đang trong giai đoạn chuyển đối mô

hình ngành nghề và điều chỉnh cơ cấu, Hàn Quốc đang từ quốc gia phát triển trung

bình sang quốc gia phát triển cao, hay Nhật Bản đã bước vào thời đại hậu công

nghiệp hóa đang tích cực tìm kiếm điểm tăng trưởng mới đều là những nước có

kinh nghiệm và nguồn vốn dồi dào trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong khi đó phần

lớn các nước Đông Nam Á từ Singapore đến Việt Nam đều đang cần xây dựng thêm

sân bay, đường bộ hay tàu điện ngầm…, đặc biệt những nước đang ở giai đoạn đầu

và giai đoạn giữa công nghiệp hóa lại càng có nhu cầu về phát triển cơ sở hạ tầng.

Nhìn từ góc độ Đông Á, sự kết hợp giữa ưu thế công nghệ của Nhật Bản và Hàn

Quốc, năng lực sản xuất dồi dào trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng và ngành chế tạo

của Trung Quốc cùng ưu thế về nguồn nhân lực và tài nguyên của các nước Đông Á

khác không những có thể tạo ra nguồn cung đáp ứng nhu cầu của các nước đang

phát triển trong khu vực về cơ sở hạ tầng mà còn có thể giảm bớt sự phụ thuộc quá

mức của Đông Á vào châu Âu và Mỹ. Hợp tác năng lực sản xuất quốc tế, cơ sở hạ

tầng sẽ còn thúc đẩy các chuỗi ngành nghề ở Đông Á hơn nữa, giúp thúc đẩy tiến

trình hội nhập kinh tế khu vực.

Đặc biệt từ năm 2013 chính phủ Trung Quốc đã khởi động Ngân hàng Đầu tư

Cơ sở Hạ tầng Châu Á (AIIB) nhằm cung cấp vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng với

mục đích nâng cao năng lực phát triển kinh tế ở các nước châu Á. Về dài hạn, AIIB

sẽ hỗ trợ cho các chiến lược lớn "Vành đai con đường" và "Con Đường Tơ Lụa trên

biển thế kỷ XIX" của Trung Quốc có liên quan đến các dự án cơ sở hạ tầng trên

biển và đất liền trải dài khắp lục địa Á – Âu (Eurasia). Chiến lược của Trung Quốc

đã thúc giục Mỹ và các đồng minh trong đó có Nhật Bản phải xây dựng các chương

trình cơ sở hạ tầng riêng, điều chỉnh Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương

59

tự do và rộng mở (FOIP) hướng sang khía cạnh phát triển và đầu tư. Trong bối cảnh

Trung Quốc đang giành ưu thế lớn trong xuất khẩu cơ sở hạ tầng thông qua việc

chào giá rất thấp, Mỹ và Nhật Bản muốn tạo ra hình ảnh về chất lượng, an toàn và

minh bạch và lĩnh vực này cũng là một cách thức thắt chặt quan hệ đối tác kinh tế

giữa Mỹ và Nhật Bản tại Đông Á. Trong nội hàm FOIP do chính quyền Mỹ công bố

tháng 12/2017 về phương diện kinh tế cũng khuyến khích hợp tác khu vực nhằm

duy trì các tuyến đường biển tự do, thương mại công bằng và tài chính minh bạch

cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Cuối năm 2018 một loạt sáng kiến hạ tầng khoảng 60 tỷ

USD được Quốc hội Mỹ thông qua và Chương trình “Cơ sở hạ tầng chất lượng” trị

giá 50 tỷ USD của Nhật Bản cũng đã được công bố vào năm 2018.

2.3. Vai trò của một số chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình

liên kết kinh tế Đông Á (ASEAN, Trung Quốc, Mỹ)

2.3.1. Vai trò của ASEAN

Cách đây hơn nửa thế kỷ, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gồm

5 thành viên đã ra đời cùng với Tuyên bố Bangkok ký ngày 8/8/1967. Brunei (1984),

Việt Nam (1995), Myanmar (1997), Lào (1997) và Campuchia (1999) đã lần lượt

gia nhập sau đó. Trái ngược với thể chế siêu quốc gia và phương châm “cộng đồng”

của EU, ASEAN đề cao chủ quyền quốc gia như tên gọi “Hiệp hội các quốc gia” và

nhất quán với 3 nguyên tắc: tham vấn, đồng thuận và không can thiệp vào công việc

nội bộ. Mặc dù hướng tới những nguyên tắc rất khác so với EU, ASEAN được đánh

giá không chỉ là một mô hình hội nhập khu vực thành công trên thế giới mà còn

nắm giữ vai trò trung tâm (centrality) trong liên kết kinh tế Đông Á. Với tư cách là

chủ thể tiến hành hội nhập sớm nhất trong khu vực, tiến trình liên kết kinh tế Đông

Á không thể thiếu vai trò của ASEAN.

Tuy nhiên trên thực tế vai trò trung tâm của ASEAN không phải tự nhiên mà

có. Việc ASEAN phát triển từ 5 thành viên ban đầu lên 10 thành viên đã khiến năng

lực tổng thể của khối gia tăng và trở thành một lực lượng quan trọng. Với GDP xấp

xỉ 2.760 tỷ USD năm 2017 [128], ASEAN là nền kinh tế lớn thứ 3 châu Á (sau

Trung Quốc, Nhật Bản và đứng trước Ấn Độ). Thành tựu mà các nước ASEAN đạt

được trong hơn 50 năm qua là rất khả quan với sự phát triển kinh tế năng động, gắn

60

kết chặt chẽ với mạng lưới sản xuất của Đông Á và thế giới. Không chỉ vậy, với vị

trí chiến lược ở ngã tư giao lưu thương mại thế giới, đặc biệt là khả năng làm cầu

nối, cung cấp nhiều diễn đàn tiếp xúc, tương tác, ASEAN đã khiến nhiều nước lớn

phải xác định lại chính sách đối ngoại nhằm thắt chặt hơn mối quan hệ với khối.

Ban đầu ASEAN chủ yếu chỉ là một cộng đồng ngoại giao. Ngoại trừ

Singapore, phần lớn ASEAN đều là nước sản xuất hàng hóa, các nền kinh tế không

có tính chất bổ sung cho nhau. ASEAN chỉ bắt đầu tham gia liên kết một cách có

chiều sâu từ sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore (1992) với

tuyên bố thiết lập một khu vực thương mại tự do (AFTA) trong vòng 15 năm.

Thế nhưng từ cuối những năm 1990, ASEAN đã khởi xướng và thúc đẩy

nhiều khuôn khổ liên kết kinh tế “ASEAN+n” với các quốc gia ngoài khối như

“ASEAN+1, “ASEAN+3” và “ASEAN+6”. Vai trò quan trọng của ASEAN trong

hội nhập khu vực không chỉ thể hiện ở việc khởi xướng, sáng lập và thúc đẩy hợp

tác mà còn cho thấy ASEAN đã có ảnh hưởng quyết định đến tiến trình, nội dung và

nguyên tắc hội nhập khu vực. Mặc dù RCEP và CEPEA về mặt hình thức đều là

“ASEAN+6”, nhưng với ASEAN lại có sự khác nhau về chất và kết quả cũng khác

nhau. CEPEA được Nhật Bản đề xuất năm 2005, không thể hiện rõ quyền phát ngôn

của ASEAN, còn RCEP lại giúp thể hiện vai trò trung tâm của ASEAN. RCEP tạo

nên các mối liên kết kinh tế chặt chẽ hơn cho các nước tại bốn khu vực gồm Đông

Bắc Á, châu Đại Dương, Nam Á và Đông Nam Á cũng như củng cố mối quan hệ

kinh tế giữa 48% dân số thế giới. Với một Mega FTA như RCEP, ASEAN không

chỉ khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế khu vực mà còn thu hút lợi

ích kinh tế và chính trị từ thỏa thuận thương mại đến từ 16 thành viên, một thành

quả không nhỏ của ASEAN trong bối cảnh đang phải đối mặt với một cấu trúc khu

vực thay đổi nhanh chóng. Bằng việc đưa những nước lớn như Trung Quốc, Nhật

Bản, Ấn Độ vào một hệ thống hợp tác, RCEP có thể giúp ASEAN tránh cho khối bị

chia rẽ. RCEP cũng là bằng chứng cho thấy ASEAN không chỉ tăng cường kết nối

giữa khối và các nước lân cận mà còn giữ vị trí trung tâm không thể bàn cãi.

Tuy nhiên, cũng cần phải đề cập đến một điều kiện tiên quyết giúp ASEAN có

được vai trò trung tâm trong liên kết kinh tế khu vực, đó là sự vận dụng tốt cân bằng

61

nước lớn, kiên trì chính sách trung lập. Lý do chính thực ra cũng vì thực lực của

ASEAN không mạnh. Nếu ASEAN ở thế bất lợi trong cuộc đấu với các nước lớn

thì có thể rơi vào tình thế khó khăn là buộc phải lựa chọn một bên nào đó, trong khi

với ASEAN, cấu trúc hợp tác khu vực cần phải duy trì được thế cân bằng.

Bên cạnh đó, kiên trì “phương thức ASEAN” cũng có thể giúp khối tận dụng

vai trò trung tâm, khiến các đối tác phải lắng nghe quan điểm, đồng thời cũng khiến

họ khó có thể lợi dụng một số ít thành viên để ép buộc cả ASEAN nhằm đạt được

thỏa thuận chỉ có lợi cho họ. Về phương diện hội nhập kinh tế, có thể thấy ngay ở

các chuẩn mực và nguyên tắc tổ chức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái

Bình Dương (APEC) thể hiện ở “Nhận thức chung Kuching” đạt được tháng 2/1990

giữa các thành viên cũ của ASEAN với tư cách là hội viên sáng lập APEC cũng đã

nhấn mạnh, APEC không thể làm suy yếu vị thế và vai trò của ASEAN, đồng thời

vận dụng khái niệm hợp tác kinh tế khu vực ASEAN trong APEC. Mặc dù đến nay

vẫn có 3 nước thành viên ASEAN chưa gia nhập APEC, nhưng “phương thức

ASEAN” này cũng đã được gắn vào khái niệm cốt lõi của APEC.

Tại Đông Á, dù là nước lớn khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,

hay nước lớn toàn cầu và liên quan như Mỹ, Nga và Ấn Độ, Australia thì đều có

nhiều vướng mắc lẫn nhau về lợi ích, ảnh hưởng, lịch sử... Trong bối cảnh đó, đối

tượng các nước dễ hợp tác nhất - ASEAN - trở thành chủ thể rất được hoan nghênh.

Vai trò trung tâm của ASEAN mang đến cơ hội tốt trong tìm kiếm nền tảng chung

cho hội nhập khu vực. Lợi ích của các nước lớn khu vực đều giao nhau ở Đông

Nam Á. Bởi vậy mà ASEAN là một “công cụ” vô cùng hữu ích để đảm bảo mức độ

gắn kết dù nhỏ ở một khu vực mà sự gắn kết vốn khó đạt được như Đông Á. Có thể

nói với ASEAN và các thể chế liên kết kinh tế của ASEAN, lần đầu trong lịch sử

hiện đại Đông Á cũng như châu Á - TBD xuất hiện một hệ thống quan hệ quốc tế

được khởi đầu và chi phối bởi các nước yếu chứ không phải các cường quốc.

Các nước ASEAN được tiếng là người kiến tạo đối thoại và nắm giữ vai trò

trung tâm trong liên kết kinh tế Đông Á, tuy nhiên trên thực tế vai trò này vẫn phải

đối diện với không ít thách thức cả chủ quan lẫn khách quan. Trước hết, ASEAN

vẫn chưa thể giải quyết vấn đề hạt nhân lãnh đạo nội bộ khối. Kể từ khi thành lập

62

đến nay ASEAN vẫn không có một quốc gia nòng cốt đóng vai trò lãnh đạo. Điều

này khiến cho việc điều hòa nội bộ trong các vấn đề quan trọng trở nên khó khăn,

một khi phát sinh bất đồng dù trong nội bộ hoặc với bên ngoài thì việc đi đến được

nhận thức chung cũng không đơn giản. Thứ hai, khả năng quy tụ trong nội bộ

ASEAN cũng xuất hiện nhiều vấn đề do sự khác biệt về lợi ích của các thành viên.

ASEAN vẫn chưa là một khối thực sự đoàn kết trước các cường quốc. 10 quốc gia

lại có vị trí địa lý phân tán trên một khu vực mà ảnh hưởng của Trung Quốc áp đảo

cả về kinh tế và an ninh, trong khi họ vẫn khá phân vân về lập trường của Mỹ. Thứ

ba là về cam kết của các thành viên đối với tiến trình hội nhập kinh tế. Mặc dù có

một lộ trình toàn diện và rõ ràng về AEC, nhưng những gì đạt được vẫn còn xa với

yêu cầu. Diễn đàn khu vực chỉ giành được thành tựu to lớn trong thời gian đầu

thành lập, gần đây dường như đã mất đi nhiều động lực. Sự suy giảm trong việc

thực hiện AEC cũng cho thấy nhiệt tình đi xuống của các nước thành viên ASEAN

trong hội nhập khu vực. Ngoài ra, sự thừa nhận và mức độ hợp tác của các đối tác

của ASEAN luôn quyết định tính ổn định của vai trò trung tâm ASEAN. Điều này

có nghĩa là vai trò trung tâm của ASEAN gần như không được quyết định bởi bản

thân họ, mà bởi quan hệ giữa họ với các đối tác. Nếu các đối tác không phối hợp

hoặc phản đối vai trò của ASEAN thì cũng có nghĩa vai trò trung tâm của ASEAN

trong hội nhập khu vực sẽ không còn được thừa nhận.

2.3.2. Vai trò của Trung Quốc

Sau nhiều thập kỉ chỉ có tầm ảnh hưởng khiêm tốn, Trung Quốc hiện đã có vai

trò khu vực chủ động và quan trọng hơn trước nhiều. Cải cách kinh tế và sự hội

nhập sâu vào mạng sản xuất khu vực và quốc tế tạo điều kiện cho sự tăng trưởng

cao suốt 3 thập kỷ, khiến sức mạnh quốc gia của Trung Quốc trong khu vực gia tăng

nhanh chóng. Có thể nói, hiện không khu vực nào trên thế giới mà Trung Quốc có

được ảnh hưởng mạnh mẽ như Đông Á.

Đối với Trung Quốc, Đông Á có ý nghĩa quan trọng hàng đầu về chính trị, an

ninh và kinh tế. Đông Á là nguồn cung cấp nguyên liệu thô, linh kiện, công nghệ,

chuyên môn quản lý mạng sản xuất hoạt động tại Trung Quốc, đồng thời cũng là thị

trường cho các sản phẩm. Nguồn vốn FDI từ Đông Á có tác dụng quan trọng trong

63

việc thúc đẩy kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Thành công của nền kinh tế Trung

Quốc một phần đáng kể có thể quy cho hoạt động của các TNCs vốn nhập khẩu linh

kiện từ Đông Á, sử dụng lao động Trung Quốc, xuất khẩu các sản phẩm đã hoàn

thiện đến thị trường Mỹ, Châu Âu. Đông Á luôn nằm trong ưu tiên hàng đầu về

chính sách đối ngoại của Trung Quốc và hội nhập kinh tế Đông Á vừa là chiến lược

khu vực, vừa là chiến lược toàn cầu nhằm phát triển kinh tế, nâng cao vai trò, vị thế.

Những năm gần đây Trung Quốc đã theo đuổi phương thức ngoại giao kinh tế

nhằm trấn an các láng giềng Đông Á rằng một Trung Quốc trỗi dậy sẽ không đe dọa

lợi ích của họ. Trung Quốc tìm cách thuyết phục các quốc gia Đông Á rằng họ sẽ

được chia sẻ lợi ích từ sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc và “Các bên

cùng thắng” và “Lợi ích chung” là khẩu hiệu của ngoại giao kinh tế Trung Quốc.

Trong quá trình đàm phán FTA với các nước ASEAN, Trung Quốc sẵn sàng bỏ qua

các lợi thế đàm phán mà một quốc gia lớn mạnh hơn dễ dàng có được trong đàm

phán song phương, tỏ ra họ sẽ không theo đuổi chiến lược “chia để trị” đối với

ASEAN. Trung Quốc cũng thường không ràng buộc mục đích tiếp cận thị trường

như một công cụ ngoại giao và FTA của Trung Quốc với ASEAN còn bao gồm các

điều khoản về "Chương trình Thu hoạch sớm” (Early Havest Program). Trung Quốc

và ASEAN đã hoàn thành đúng hạn mục tiêu xây dựng khu vực thương mại tự do,

năm 2015 ký nghị định liên quan đến việc nâng cấp khu vực thương mại tự do mà

đầu tháng 7/2016 bắt đầu hiệu lực. Kết quả là cách nhìn nhận của nhiều nước Đông

Á về Trung Quốc đã dần thay đổi, từ một mối đe dọa sang cơ hội, cho dù Nhật Bản

là một ngoại lệ. Tất nhiên ở một mức độ nào đó, điều này phản ánh thực tế rằng các

quốc gia Đông Á nhỏ hơn cũng không đủ sức để thay đổi hiện trạng.

Sự xuất hiện của ACFTA đã tạo ra một hiệu ứng domino tại Đông Á, thúc

giục các nước Đông Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New

Zealand cùng ký FTA với ASEAN. Từ các hiệp định này, các quốc gia đã thúc đẩy

các FTA đa phương quy mô khu vực được dẫn dắt bởi Trung Quốc như ASEAN+3

hoặc ASEAN+6 (CEPEA) bởi Nhật Bản và sau đó những sáng kiến này đã dẫn tới

RCEP mà Trung Quốc có ưu thế. Trung Quốc cũng sẵn lòng tham gia sâu hơn vào

các thể chế đa phương như APEC.

64

Có thể thấy sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc và quan hệ kinh tế

thương mại ngày càng khăng khít với Đông Á là yếu tố hàng đầu giúp gia tăng vai

trò và ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực. Thị trường của Trung Quốc cũng giúp

thúc đẩy đáng kể tăng trưởng của khu vực. Các quốc gia Đông Á ngày càng trở nên

phụ thuộc về xuất khẩu vào Trung Quốc, trong khi sự phụ thuộc của Trung Quốc

vào các thị trường Đông Á lại không đổi. Khối lượng trao đổi thương mại của

Trung Quốc với các nước Đông Á đã tăng ngoạn mục, nhưng tỷ trọng xuất khẩu của

Trung Quốc sang Đông Á (không bao gồm Hồng Kông) đã giảm từ 34% năm 1996

xuống còn 24% trong năm 2006 [102]. Ngược lại, kể từ đầu những năm 2000 Trung

Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất hoặc thứ hai của hầu hết các quốc gia

Đông Á. Vào năm 2016 kim ngạch thương mại hai bên đạt 452,2 tỷ USD, trong đó

Trung Quốc xuất khẩu sang ASEAN 256 tỷ USD, nhập khẩu từ ASEAN 196,2 tỷ

USD [32], liên tiếp là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN.

Hình 2.5. Xuất khẩu của các quốc gia Đông Á

sang hai nền kinh tế lớn nhất thế giới

Đơn vị : Tỷ USD

Nguồn : IMF (số liệu 2017)

65

Trong một thập kỷ qua, Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành thị trường lớn

nhất của nhiều nền kinh tế Đông Á, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,

Thái Lan, Indonesia và Philippines, ngoại trừ Ấn Độ là một trong những nước ít ỏi

vẫn xuất khẩu sang Mỹ nhiều hơn. Không ít quan điểm cho rằng tâm điểm thương

mại Đông Á đã chuyển từ Mỹ sang Trung Quốc. Vai trò to lớn của Trung Quốc

trong thương mại khu vực và kì vọng về tốc độ phát triển trong tương lai của nước

này đã biến Trung Quốc thành một thị trường đầy hấp dẫn, tạo ra ảnh hưởng đáng

kể trong quan hệ với các đối tác thương mại.

Bên cạnh đó Trung Quốc cũng nổi lên như một nguồn cung quan trọng về FDI

ở Đông Á. Các số liệu thống kê của Trung Quốc cho thấy doanh nghiệp Trung

Quốc đã đầu tư ít nhất 2,45 tỷ đô la vào Đông Á cho tới năm 2005, trong khi số liệu

thống kê của ASEAN cho thấy 2,3 tỷ đô la vốn FDI của Trung Quốc đã được đầu tư

vào khu vực trong những năm 2002 - 2006, đóng góp đáng kể cho các nền kinh tế

Đông Nam Á [102]. Đầu tư hai chiều Trung Quốc ASEAN cũng phát triển nhanh.

Năm 2016 đầu tư 2 chiều đạt 15,84 tỷ USD, trong đó Trung Quốc đầu tư vào

ASEAN 9,31 tỷ USD. Đến cuối năm 2016, tổng cộng đầu tư hai chiều Trung Quốc

– ASEAN đạt 177,9 tỷ USD, trong đó Trung Quốc đầu tư vào ASEAN 72 tỷ USD

[32]. Trung Quốc và ASEAN đã xác định mục tiêu tổng kim ngạch thương mại

song phương đạt 1000 tỷ USD, tổng vốn đầu tư 150 tỷ USD vào năm 2020. Việc

thực hiện sáng kiến BRI cũng đã mở ra động lực mới cho hai bên về hợp tác cơ sở

hạ tầng và sự kết nối kinh tế. Tính đến cuối tháng 5/2017 tổng giá trị hợp đồng công

trình xây dựng cơ sở hạ tầng mà các doanh nghiệp Trung Quốc ký với các nước

ASEAN là 296,27 tỷ USD, tổng giá trị hợp đồng đã hoàn thành là 204 tỷ USD.

Hiện nay một loạt dự án như đường cao tốc, đường sắt, bến cảng, hàng không, điện

lực và cầu đang trong quá trình thực hiện [27]. Các nước nghèo hơn ở Đông Nam Á

và Trung Á cũng là những đối tượng nhận được hỗ trợ phát triển từ Trung Quốc.

Những hỗ trợ này phần lớn giúp cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông vận tải nối giữa

Đông Nam Á và các nước Trung Á với Trung Quốc. Cơ sở hạ tầng được cải thiện

góp phần vào phát triển kinh tế của các quốc gia này, đồng thời cũng giúp liên kết

các nước này chặt chẽ hơn với nền kinh tế Trung Quốc, tạo ra sự phụ thuộc về

thương mại có thể lớn hơn nữa trong tương lai.

66

Ngoài ra để đối phó với TPP, Trung Quốc đã nỗ lực hơn nữa trong việc thúc

đẩy một khuôn khổ thương mại tự do với các đối tác trong khu vực có ý nghĩa loại

trừ và làm suy yếu vị thế của Mỹ tại Đông Á là RCEP. Đồng thời trước mối đe dọa

của Chính sách xoay trục của chính quyền Tổng thống Obama, Trung Quốc đã nhấn

mạnh sáng kiến “Một Vành đai, một con đường” do Tập Cận Bình đưa ra năm 2013.

Sáng kiến “Một vành đai, một con đường” (OBOR và sau này là BRI) được đánh

giá là còn lớn hơn cả “Kế hoạch Marshall” khi cố gắng bao trùm phần lớn thế giới.

“Giấc mộng Trung Hoa” nhấn mạnh “đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực”, hướng

đến “phát triển đổi mới”, trong đó “củng cố kết nối toàn diện và phát triển cơ sở hạ

tầng” và để thực hiện được tham vọng này Trung Quốc đã có những kế hoạch thực

tế, không hề viển vông như AIIB trong khuôn khổ sáng kiến OBOR - BRI. Nhiều ý

kiến cho rằng mục tiêu cuối cùng (dù không công khai) của Trung Quốc là thay thế

vị trí của Mỹ trong vai trò cường quốc thống trị ở Đông Á.

Mỹ từng đóng vai trò dẫn đầu trong xây dựng trật tự kinh tế tế hậu Thế chiến

II. Thế nhưng sự phản đối toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ, biệt lập hiện nay đã

khiến uy tín và ảnh hưởng kinh tế của Mỹ ở Đông Á suy giảm, trực tiếp mang lại lợi

ích cho Trung Quốc. Trung Quốc đã nắm thời cơ này đẩy nhanh xây dựng BRI,

AIIB, nỗ lực thúc đẩy RCEP để gia tăng hơn liên kết kinh tế ở các tầng nấc sâu hơn

với các nước Đông Á. Trung Quốc đã thành công trong việc sử dụng con bài kinh tế

để mua sân sau, lôi kéo đồng minh…. điều đang được chứng minh là hiệu quả.

Trong khi Mỹ tập trung vào khía cạnh an ninh thì Trung Quốc sử dụng "củ cà rốt"

kinh tế để mua ảnh hưởng chính trị. Phần tiếp theo sẽ đề cập tới vai trò của Mỹ

trong bối cảnh liên kết kinh tế khu vực không ngừng tiến triển và sự trỗi dậy mạnh

mẽ của Trung Quốc đang thách thức vị trí lãnh đạo của nước này tại Đông Á.

2.3.3. Vai trò của Mỹ

Mặc dù không phải là một quốc gia Đông Á, nếu như không nói là cách khá xa

về mặt địa lý, Mỹ vẫn có một vai trò trọng yếu về kinh tế, chính trị và an ninh ở một

khu vực nhiều điểm nóng và luôn cần duy trì được thế cân bằng như Đông Á. Có

thể nói, sự can dự của Mỹ là cần thiết với tư cách là một nhân tố bên ngoài có ảnh

hưởng rất lớn đến tiến trình liên kết kinh tế Đông Á.

67

Trước hết về phương diện kinh tế, Mỹ có tầm quan trọng mang tính quyết định

đối với sự tăng trưởng của các nền kinh tế Đông Á. Mặc dù khác với Trung Quốc,

Mỹ không có sẵn tiền để "hào phóng ban tặng", thế nhưng nước này vẫn có sức hấp

dẫn rất lớn ở những khía cạnh khác, đó là thị trường rộng lớn, nguồn đầu tư tư nhân

khổng lồ, công nghệ hiện đại, tiên tiến là những điều mà các nước trong khu vực

đều rất cần. Trong giao dịch thương mại Mỹ có một vị trí hết sức quan trọng. Với

ASEAN tổng kim ngạch thâm hụt thương mại của Mỹ năm 2017 lên đến 91,8 tỉ

USD. Nhiều nước Đông Á xem Mỹ như một thị trường tiêu thụ chính, họ xuất khẩu

sang Mỹ nhiều, tuy nhiên lại có xu hướng nhập khẩu ở những đối tác có giá cả rẻ

hơn. Cũng vì vậy mà về cán cân thương mại năm 2017 giữa Mỹ và các nước

ASEAN, chỉ với Brunei và Singapore là Mỹ có thặng dư [124]. Về phần Singapore,

lý do là nước này đang hướng tới mục tiêu phát triển thành một trung tâm công

nghệ cao, tiến tới một quốc gia thông minh, vì vậy họ cần nhập khẩu công nghệ tiên

tiến hàng đầu của Mỹ chứ không phải từ những nơi khác. Số liệu của Văn phòng

Đại diện Thương mại Mỹ đầu 2017 cũng cho thấy Việt Nam nhập khẩu 8,1 tỉ USD

từ Mỹ trong khi xuất khẩu 46,5 tỉ USD. Bên cạnh đó thâm hụt mậu dịch của Mỹ với

Malaysia cũng lên tới 24,4 tỉ USD; Thái Lan 20,2 tỉ USD; Indonesia 13,3 tỉ USD;

Philippines 3,2 tỉ USD và Campuchia là 2,7 tỉ USD (2017) [107].

Không chỉ là một đối tác kinh tế - thương mại quan trọng, với không ít quốc

gia Đông Á, Mỹ gần như là một “nhà lãnh đạo” chính trị, đồng thời cũng là “chỗ

dựa” cần thiết về an ninh. Bởi vậy, cho dù các nước Đông Á ngày càng gắn kết về

kinh tế và đã cùng nhau thúc đẩy các thể chế hội nhập khu vực, thế nhưng sự phụ

thuộc của họ vào Mỹ vẫn không hề mất đi.

Bên cạnh đó, Mỹ cũng là một nhân tố hữu hiệu để cân bằng các cường quốc

trong khu vực. Nhật Bản muốn dựa vào Mỹ để kiềm chế bớt sự thống trị khu vực

của Trung Quốc. Hàn Quốc ngoài hoan nghênh sự có mặt của Mỹ trong hội nhập

kinh tế Đông Á cũng hy vọng có thể đóng một vai trò không thua kém các nước lớn

khác trong tiến trình này, ngoài ra cũng cần Mỹ để thúc đẩy tăng trưởng. Ngược lại,

Mỹ đã sử dụng các yếu tố phức tạp giữa ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn

Quốc để cản trở và làm suy giảm ảnh hưởng và vai trò của Trung Quốc, trong đó

68

Nhật Bản là một "cánh tay phải" quan trọng. Nếu như Trung Quốc trước đây từng

coi cơ chế ASEAN+3 như là một hình thức li gián quan hệ Mỹ Nhật, thì Nhật Bản

thường có xu hướng gắn kết với Mỹ để kiềm chế Trung Quốc. Bởi vậy mà trái

ngược với Trung Quốc, theo quan điểm của Nhật Bản quá trình xây dựng liên kết

kinh tế Đông Á không thể bỏ qua vai trò của Mỹ.

Mỹ có xu hướng tìm cách tham gia vào tiến trình hội nhập Đông Á thông qua

các thỏa thuận thương mại song phương. Nhưng đến nay Mỹ mới có một vài hiệp

định thương mại tự do ký với những nước thân cận như Ôxtrâylia, Singapore và

Hàn Quốc. FTA với Singapore (2003) là hiệp định thương mại tự do đầu tiên mà

Mỹ ký kết với một nước Đông Á. Còn FTA song phương với Hàn Quốc (KORUS,

năm 2010) là thỏa thuận thương mại lớn nhất của Mỹ kể từ sau khi NAFTA được

ký vào năm 1994. Ngoài ra Mỹ cũng từng mong muốn đưa phần lớn các quốc gia

ASEAN vào khuôn khổ APEC. Cuối 2006 Mỹ từng đề nghị APEC xem xét việc

thành lập một khu vực mậu dịch tự do của khu vực Châu Á Thái Bình Dương

(FTAAP) bao gồm Mỹ để nhờ đó có thể tránh hoặc ít nhất là giảm thiểu sự phân

biệt đối xử trong thương mại. Về mặt địa lý nằm ngoài khu vực nên việc Mỹ bị gạt

khỏi tiến trình hội nhập Đông Á có thể gây ra nhiều thách thức về lợi ích kinh tế,

chính trị cũng như an ninh. Chẳng hạn về kinh tế, sự dịch chuyển sản xuất các sản

phẩm công nghiệp và công nghệ cao từ một số nước Đông Á sang Trung Quốc, sau

đó hầu hết lại được xuất khẩu sang Mỹ sẽ làm tăng thêm tính cạnh tranh vốn đã

khốc liệt với các sản phẩm tương tự của Mỹ. Một thách thức khác nữa là sự phân

biệt đối xử mà Mỹ phải đối mặt khi không phải là thành viên của Đông Á.

Trong chiến lược toàn cầu, Mỹ luôn coi Đông Á là khu vực địa - chiến lược,

địa - chính trị trọng yếu, liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia và vai trò lãnh đạo

thế giới của Mỹ, bởi vậy Mỹ luôn muốn duy trì sự ràng buộc chặt chẽ với Đông Á

và cố gắng đảm bảo vai trò lãnh đạo khu vực. Mặc dù vậy, Mỹ lại có vai trò khá mờ

nhạt trong hội nhập kinh tế Đông Á. Khi khủng hoảng tài chính 1997-1998 gây

nhiều khó khăn cho các quốc gia Đông Á, nhất là Indonesia và Thái Lan, Mỹ bị phê

phán là đã đứng ngoài trong việc tìm kiếm giải pháp cho khủng hoảng ở khu vực.

Dù đã giải cứu Mexico năm 1994, Mỹ từ chối không bảo lãnh cho Thái Lan chỉ ba

69

năm sau đó, tạo ra nhận thức rằng họ sẵn sàng bỏ rơi Đông Á. Trong những năm

tiếp theo nhiều thể chế hội nhập liên tục hình thành mà không có sự tham gia của

Mỹ, đẩy Mỹ rời xa Đông Á hơn nữa.

Trong bối cảnh Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ

hai thế giới, lớn nhất khu vực, được “hỗ trợ” bởi sự liên kết kinh tế chặt chẽ với các

nền kinh tế Đông Á đang ngày càng mở rộng ảnh hưởng, trở thành mối đe dọa thực

sự đối với vai trò lãnh đạo của Mỹ, Mỹ đã khởi xướng TPP - một trong những thỏa

thuận thương mại tự do đa phương lớn nhất cho đến nay. Về mặt kinh tế, hiệp định

này nhằm mục tiêu thúc đẩy tự do thương mại và đầu tư, thành lập một thị trường

mở, chấm dứt tình trạng vắng mặt Mỹ trong liên kết kinh tế Đông Á. Tuy nhiên,

việc Mỹ đột ngột từ bỏ TPP đã không chỉ phủ nhận những mục tiêu này mà còn đẩy

TPP rơi vào nguy cơ sụp đổ. Với khẩu hiệu “Nước Mỹ trước tiên”, nước này đã bác

bỏ sự đồng thuận của Mỹ sau chiến tranh, theo đó thương mại tự do là điều tốt cho

tất cả các bên tham gia, làm suy giảm các giá trị mà phương Tây từng coi là nền

tảng thiết yếu cho tăng trưởng kinh tế. Sau TPP, các hiệp định như NAFTA,

KORUS cũng đối mặt với tương lai mờ mịt trước yêu cầu phải đàm phán lại của Mỹ.

Tổng thống Trump cũng từ bỏ chiến lược xây dựng khu thương mại tự do khu vực

FTAAP do Mỹ khởi xướng, không mặn mà với "Mục tiêu Bogor" mà APEC đã đề

ra với mục tiêu xây dựng một thị trường mở châu Á - TBD. Cả 3 nước lớn Đông Á

là Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ đều đang phải chịu sự tấn công của chủ nghĩa bảo

hộ của Tổng thống Trump. Chính sách thương mại ngặt nghèo và đơn phương của

Mỹ đã ảnh hưởng đáng kể tới hội nhập kinh tế Đông Á, gây lo ngại cho các đối tác

và đồng minh khu vực, kéo theo những hậu quả tiêu cực dài hạn từ quan điểm xây

dựng các quy tắc kinh tế - thương mại mới. Mỹ cần những đồng minh và đối tác

đáng tin cậy để thúc đẩy các lợi ích "then chốt" ở Đông Á, tuy nhiên lại từ bỏ đưa ra

một lựa chọn về kinh tế như TPP để họ cân nhắc với lợi ích đến từ Trung Quốc.

Trong bối cảnh ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ, sự vắng mặt

khỏi các thỏa thuận thương mại tự do của Đông Á nhiều khả năng sẽ khiến vai trò

của Mỹ ngày càng suy giảm, dù họ có dồn bao nhiêu sức lực vào hiện diện quân sự

đi nữa.

70

Trong khi Mỹ không còn quan tâm đến việc duy trì và thúc đẩy trật tự mà

nước này từng dẫn dắt, tương lai của liên kết khu vực rõ ràng sẽ phụ thuộc nhiều

hơn vào Trung Quốc. Trung Quốc đang đạt được những thành công lớn trong việc

tái cơ cấu nền kinh tế, nền kinh tế nước này cũng ngày càng cởi mở hơn, đặc biệt là

với các láng giềng Đông Á. Sau khi Mỹ rời TPP, Trung Quốc đã tỏ ra rất tích cực

trong việc tài trợ cho một trật tự mở, đa phương, tự do, hướng tới việc thay Mỹ trở

thành chủ thể dẫn dắt toàn cầu hóa và khu vực hóa.

2.4. Tiểu kết chương 2

Chương này đã khái quát lại những vấn đề lý luận và thực tiễn của liên kết

kinh tế Đông Á và vai trò của các chủ thể có ảnh hưởng quan trọng tới tiến trình này,

qua đó hình thành một khung phân tích về đối tượng nghiên cứu. Có thể thấy rằng

tại Đông Á hội nhập kinh tế thực tế đã diễn ra trước hội nhập trên phương diện thể

chế. Quá trình hội nhập thực tế chủ yếu nhờ vào các kênh thương mại và đầu tư do

các công ty đa quốc gia, đặc biệt là của Nhật Bản đi tiên phong giúp thúc đẩy sự

hình thành và phát triển của mạng sản xuất Đông Á. Tận dụng sự cách biệt về chi

phí nhân công, trình độ kỹ năng, các lợi thế về môi trường chính sách và vị trí địa lý

gần gũi, mạng sản xuất đã gắn kết và thúc đẩy sự phụ thuộc sâu sắc lẫn nhau giữa

các quốc gia, biến Đông Á thành một khu vực kinh tế có tính hợp nhất cao.

Bên cạnh đó, hội nhập về phương diện thể chế cũng tiến triển mạnh tại Đông

Á. Khi chuỗi cung ứng phân tán trên nhiều quốc gia, các doanh nghiệp rất cần đến

FTA loại bỏ các rào cản thương mại giúp mạng sản xuất hoạt động hiệu quả hơn.

Trong thời đại chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, doanh nghiệp các nước kết nối với

nhau thông qua mối quan hệ thương mại - đầu tư - dịch vụ - sở hữu trí tuệ, sự luân

chuyển hai chiều không gián đoạn về hàng hóa, nhân lực, sáng kiến mới… bởi vậy

các FTA giảm thuế đơn thuần là chưa đủ để cải tiến hiệu quả của mạng sản xuất.

Bởi vậy các quy tắc kinh tế thế kỷ XIX cần hướng tới thiết lập các quy tắc và tiêu

chuẩn phổ biến, giúp hoàn thiện hơn nữa mạng lưới sản xuất, khiến mỗi bên tham

gia vào chuỗi giá trị đều được hưởng lợi.

Hiện nay vai trò trung tâm của ASEAN trong hội nhập thể chế dường như thu

hẹp hơn, xu hướng bảo hộ của Mỹ đang đặt ra nhiều câu hỏi về vai trò kinh tế của

71

nước này tại khu vực, trong khi Trung Quốc cũng chưa tỏ ra là một hình mẫu lãnh

đạo thực sự thuyết phục. Đặc biệt, sau khi Mỹ từ bỏ TPP, thay vì dựa vào Mỹ để

định hình lại kiến trúc kinh tế khu vực, Đông Á cần phải tự tìm kiếm giải pháp cho

chính mình. Tương lai liên kết kinh tế Đông Á chưa rõ sẽ tiến triển tiếp theo hướng

nào trong số các phương án còn lại như Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Đối tác

kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Khu vực thương mại tự do của khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương (FTAAP) và TPP11. Trong bối cảnh đó, vai trò của một quốc gia

có khả năng đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tiến trình liên kết rõ ràng có ý nghĩa vô cùng

quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của khu vực. Ở chương tiếp theo, luận

án sẽ xem xét về những vai trò chủ yếu của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh

tế Đông Á.

72

Chương 3

THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH

LIÊN KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á

3.1. Những vai trò chủ yếu của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á từ

khoảng giữa thập niên 1980 đến những năm đầu thập niên 2010

3.1.1. Những vai trò chủ yếu của Nhật Bản

Thúc đẩy liên kết kinh tế trên phương diện thực tế

Nhật Bản sau Thế chiến II, bằng nỗ lực tự thân và dựa vào mối liên minh với

Mỹ đã từng bước phục hồi và phát triển ngoạn mục trở thành nền kinh tế hàng đầu

thế giới và khu vực. Với vị thế siêu cường kinh tế, Nhật Bản đã tạo ra những ảnh

hưởng to lớn đối với khu vực Đông Á thông qua con đường ngoại giao kinh tế. Vào

giai đoạn đầu của tiến trình liên kết kinh tế Đông Á, có thể thấy rằng Nhật Bản

chính là “nhà lãnh đạo” của khu vực. Đông Á những năm 1980, 1990 không còn là

những nền kinh tế hoàn toàn tách biệt. Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài

mà Trung Quốc và các nền kinh tế Đông Á, đặc biệt là ASEAN-4 (Indonesia,

Malaysia, Philippines, Thailand) thực thi đã khiến các nước này hội nhập sâu hơn

vào nền kinh tế khu vực. Từ nửa sau những năm 1980 tại Đông Á đã diễn ra và lan

rộng một làn sóng đầu tư mạnh mẽ. Trong làn sóng đầu tư này Nhật Bản nổi lên là

nhà đầu tư lớn nhất [20]. Các công ty Nhật Bản đã đóng một vai trò chủ đạo trong

việc hình thành một cấu trúc sản xuất toàn khu vực, xây dựng nên một mô hình

phân công lao động nhiều tầng. Trong mô hình này, tổ chức sản xuất được thực hiện

dựa trên lợi thế so sánh của các nước. Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, các công

ty Nhật với chiến lược phân mảnh đã tiến hành đầu tư vào nhiều cứ điểm đặt tại các

nước, qua đó hình thành nên một mạng lưới sản xuất dày đặc chưa từng xuất hiện ở

khu vực nào khác trên thế giới. Trong mạng sản xuất Đông Á, hàng hóa trung gian

và các linh kiện, phụ tùng sản phẩm được luân chuyển tích cực giữa các cứ điểm

sản xuất bố trí tại các nước. Điều này đã dẫn đến việc quan hệ kinh tế và sự phụ

thuộc lẫn nhau giữa Nhật Bản và các nước ngày càng trở nên gắn bó. Mức độ tham

gia vào phân công lao độ của từng quốc gia khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố

73

như điều kiện địa lý, tình hình phát triển cơ sở hạ tầng cứng, nguồn nhân lực sẵn có,

môi trường, hệ thống chính sách kinh tế… Tuy nhiên thông qua hội nhập trên

phương diện thực tế, các quốc gia mặc dù có trình độ phát triển khác nhau nhưng

đều có thể tìm thấy lợi ích của mình trong quá trình tham gia hội nhập. Nếu các

nước đi trước như Nhật Bản có thể đẩy mạnh hoạt động thương mại, đầu tư, mở

rộng quy mô sản xuất, tận dụng và khai thác được các nguồn lực từ bên ngoài như

tài nguyên, lao động và thị trường, đồng thời gia tăng ảnh hưởng kinh tế và chính trị

thì các nước đi sau có thể tiếp nhận vốn, tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên

tiến thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ vậy có thêm việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế, học hỏi được kinh nghiệm, kỹ năng quản lý. Hình thức liên kết kinh tế trên

phương diện thực tế này giúp thúc đẩy tăng trưởng của các quốc gia, đồng thời tăng

trưởng tích cực lại khuyến khích hoạt động đầu tư diễn ra mạnh mẽ hơn. Có thể

thấy sự tăng trưởng cao của Đông Á cuối những năm 1980 và thời gian sau đó có

phần đóng góp đáng kể của đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các doanh

nghiệp Nhật Bản. Theo lý thuyết Đàn ngỗng bay, Nhật Bản có thể được ví như “con

chim đầu đàn” (lead goose) kéo các nước Đông Á cùng công nghiệp hóa và phát

triển theo, thúc đẩy sự ra đời những “con hổ”, “con rồng” Đông Á, góp phần làm

nên thành công từng được gọi là “Phép màu Đông Á” [84].

Hình 3.1. FDI của Nhật Bản tại Đông Á (1996-2015)

Đơn vị: Triệu USD

74

Nguồn: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (Bank of Japan), JETRO

Hình 3.2. Tỷ lệ FDI của Nhật Bản đối với các quốc gia Đông Á (2015)

Đơn vị: %

Nguồn: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (Bank of Japan), JETRO

Vai trò của một cường quốc kinh tế có ảnh hưởng lớn trong khu vực

Sau Thế chiến II, đặc biệt trong những năm từ 1955~1970 là giai đoạn phát

triển thần kỳ của kinh tế Nhật Bản. Tốc độ phát triển cao của nước này còn kéo dài

liên tục đến thập niên 1980. Hiện tại, theo số liệu của Ngân hàng thế giới (WB)

[116], Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới với GDP danh nghĩa 4,87

nghìn tỷ USD (2017) và GDP tính theo bình quân đầu người là 38.439,52 USD

(đứng thứ 25 trên thế giới). Nếu quan sát từ góc độ số lượng, quy mô của nền kinh

tế dựa trên GDP như trên, có thể thấy rằng sau giai đoạn tăng trưởng “thần kỳ”, vài

chục năm qua kinh tế Nhật Bản luôn phải chật vật với vấn đề tăng trưởng thấp. Thế

nhưng nếu nhìn từ góc độ chất lượng để đánh giá về mức độ “giàu có” của nền kinh

tế Nhật Bản, theo một nghiên cứu của Liên Hợp Quốc (LHQ) năm 2012 được tiến

hành dưới sự ủy thác của Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon [81] có thể thấy một kết

luận bất ngờ khác. Cụ thể, nếu như chỉ số GDP/đầu người của Mỹ là 51.704 USD

(năm 2012) cao hơn hẳn Nhật Bản (46.707 USD) [126], thì về khía cạnh chất lượng

nền kinh tế tính toán dựa trên chỉ số Inclusive Wealth Index (Chỉ số thịnh vượng

75

toàn diện – IWI) của LHQ, Nhật Bản đạt 435.000 đôla/người, cao hơn Mỹ tới

12,5% và quốc gia này mới chính là nền kinh tế số 1 thế giới. Chỉ số IWI được

"Inclusive Wealth Report 2012” của LHQ sử dụng nhằm mục đích tìm hiểu sự thịnh

vượng của một quốc gia. Chỉ số này không chỉ giúp xác định quốc gia nào giầu có

nhất và nguồn của cải của quốc gia đó cấu thành như thế nào, mà còn giúp nhận biết

về tính chất bền vững của nền kinh tế quốc gia đó. IWI tập trung vào tính bền vững

chứ không tìm kiếm kết quả phát triển kinh tế ngắn hạn như GDP và HDI (Human

Development Index – Chỉ số phát triển còn người).

Bảng 3.1. Xếp hạng các nước về Chỉ số thịnh vượng toàn diện (IWI) bình quân

đầu người của Liên Hợp Quốc (năm 2008)

Đơn vị: 1 triệu USD (thời giá năm 2000)

Quốc gia

Thứ tự xếp hạng 1 Nhật Bản Chỉ số IWI (A)=B+C+D 435.466 Vốn con người (B) 312.394 Vốn sản xuất (C) 118.193 Vốn thiên nhiên (A) 4.879

2 Mỹ 386.351 291.397 73.243 21.711

3 Canada 331.919 171.960 56.520 103.439

4 Nauy 327.621 201.361 90.274 35.986

5 Australia 283.810 132.376 66.970 84.463

6 Đức 236.115 161.914 59.513 14.688

7 Anh 219.089 192.953 24.386 17.51

8 Pháp 208.623 154.190 51.774 2.658

Nguồn: "Báo cáo Thịnh vượng tổng hợp 2012 (Inclusive Wealth Report 2012 -

IWR 2012)" của Liên Hợp Quốc

Có một điểm đáng lưu ý là top 10 quốc gia trên thế giới có thứ tự xếp hạng

cao nhất về mức độ thịnh vượng và phúc lợi kinh tế này không xuất hiện Trung

Quốc. Nguyên nhân khiến Nhật Bản mặc dù có GDP thấp hơn Mỹ và Trung Quốc

lại đứng ở vị trí cao hơn chính là bởi các điều kiện vật chất của nền kinh tế Nhật

Bản cao hơn hẳn (so với Mỹ cao hơn khoảng 60%). Ngay chỉ số IWI bình quân đầu

người của một quốc gia phát triển hàng đầu châu Âu là Đức cũng chỉ bằng một nửa

của Nhật Bản. Ngoài ra về chỉ số Vốn sản xuất tính theo đầu người, Nhật Bản cũng

đứng ở vị trí số 1 thế giới [133].

76

Bảng 3.2. Vốn sản xuất tính theo đầu người

Đơn vị: 1 triệu USD ( thời giá năm 2000)

Thứ tự xếp hạng 1 2 3 4 5 6 Quốc gia Nhật Bản Na uy Mỹ Australia Đức Pháp Kim ngạch 118.193 90.274 73.243 66.970 59.513 51.774

Nguồn: "Báo cáo Thịnh vượng tổng hợp 2012 (Inclusive Wealth Report 2012 -

IWR 2012)" của Liên Hợp Quốc

Với tiềm lực kinh tế mạnh, thông qua con đường thương mại, đầu tư trực tiếp

nước ngoài, Nhật Bản hoàn toàn có thể tiến hành chuyển dịch công nghệ và phương

thức sản xuất, mô hình phát triển tiên tiến của mình sang các nước Đông Á đi sau.

Gần đây nhiều ý kiến cho rằng thời đại của mô hình phát triển kinh tế Đông Á "đàn

ngỗng bay" mà con chim đầu đàn là Nhật Bản đã chấm dứt, Đông Á đã thực sự

bước sang một “thời đại mới”. Tuy nhiên, mặc dù phải trải qua giai đoạn trì trệ kéo

dài về tăng trưởng, song nếu xét tiềm năng toàn bộ nền kinh tế, có thể thấy rằng

Nhật Bản vẫn giữ được vị trí kinh tế hàng đầu không chỉ ở Đông Á mà cả trên thế

giới vì nền tảng kinh tế vững chắc được tích luỹ trong một quá trình lâu dài.

Không ít ý kiến cho rằng, tầm quan trọng của Trung Quốc trong kinh tế khu

vực thường có xu hướng được đánh giá quá cao, còn của Nhật Bản thì lại bị đánh

giá quá thấp. Trên thực tế, thương mại của Trung Quốc trong khu vực Đông Á, ví

dụ như với ASEAN được thực hiện phần lớn bởi những TNCs đến từ các nền kinh

tế tiên tiến, trong đó có Nhật Bản. Hơn nữa, dù Trung Quốc nổi tiếng là thị trường

rộng lớn và tăng trưởng năng động, tuy nhiên người tiêu dùng Nhật Bản vẫn giàu có

hơn, có nghĩa là Nhật Bản có thể đóng vai trò tích cực hơn đối với sự tăng trưởng

của các nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu của khu vực. Nhật Bản cũng là nước sở

hữu nhiều phát minh khoa học công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao, có vốn, hàm lượng

tri thức và công nghệ, giá trị gia tăng cao. Các nền kinh tế đang phát triển Đông Á,

bao gồm cả Trung Quốc rõ ràng không thể đạt đến tiềm năng của họ nếu không có vốn

đầu tư và sự đổi mới công nghệ của nước ngoài – điều mà một nền kinh tế như Nhật

77

Bản có thể mang lại [6]. Nhật Bản cung cấp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),

chuyển giao công nghệ nhiều hơn và cách biết làm thế nào để phát triển khu vực Đông

Á hơn là đối tác Trung Quốc của họ [58]. Nhật Bản đã và đang giữ vững vị trí này và

có thể sẽ tiếp tục duy trì được như vậy trong một thời gian tương đối dài sau này.

Hình 3.3 Quyền phủ quyết của Trung Quốc nếu Nhật Bản

tham gia AIIB

Nguồn:https://www.eastwestcenter.org/system/tdf/private/api125.pdf?file=1

&type=node&id=35659, Truy cập 10/10/2017

Thậm chí với tiềm lực kinh tế của mình, khi tham gia vào các thể chế như TPP

và AIIB, Nhật Bản hoàn toàn có khả năng thay đổi cán cân, thậm chí là cấu trúc của

chúng (Hình 3.3). Qua đây có thể thấy được rằng, mặc dù kinh tế vẫn chưa hồi phục

hoàn toàn, tuy nhiên tại Đông Á Nhật Bản sẽ vẫn là một cường quốc kinh tế, là đầu

tàu và động lực phát triển quan trọng. Vai trò chi phối về kinh tế, thương mại của

Nhật Bản vẫn mang lại những ảnh hưởng tích cực đối với các nước Đông Á cũng

như tiến trình liên kết kinh tế khu vực nói chung.

Vai trò như một thị trường có triển vọng giúp giảm sự lệ thuộc vào cung

cầu bên ngoài

Như đã phân tích ở các phần trước, độ kết dính của Đông Á kém xa các khu

vực khác, thể hiện ở việc Đông Á phần lớn cũng tập trung vào các thị trường ngoại

78

khối hơn là thị trường trong khu vực. Chính sự lệ thuộc rất lớn vào thị trường bên

ngoài, cụ thể là thị trường Mỹ và châu Âu cũng là một nhân tố gây cản trở cho tiến

trình liên kết kinh tế khu vực. Về giải pháp cho vấn đề này, có thể nhìn nhận ở Nhật

Bản một vai trò như một thị trường xuất khẩu và tiêu thụ hết sức quan trọng. Trong

khi các nước Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc được xem như là "công xưởng thế

giới, thì ngoài việc là một thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn, Nhật Bản cũng có khả

năng tăng cường vai trò của nhà cung cấp hàng hóa sản xuất đối với châu Á các vật

liệu chất lượng cao, phụ tùng quan trọng, máy móc cơ khí chính xác cao, những lĩnh

vực mà nước này có lợi thế so sánh hơn hẳn. Chẳng hạn, ngay cả tập đoàn công

nghệ hàng đầu của Trung Quốc và thế giới là Huawei cũng phải phụ thuộc hoàn

toàn vào nguồn cung cấp nhiều linh kiện, phụ tùng quan trọng mà bản thân Huawei

không thể tự sản xuất từ hơn 100 công ty Nhật Bản như Panasonic, Kyocera,

Toshiba… Bên cạnh đó, việc Nhật Bản gia tăng hơn nữa vai trò như một thị trường

tiêu thụ cũng sẽ đóng góp đáng kể vào việc mở rộng thị trường nội khối cũng như

thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Đông Á. Ngoài ra, hiện nay nhiều nước Đông Á

trong đó có Việt Nam cũng có thể kỳ vọng đáng kể ở Nhật Bản về việc giải phóng

thị trường lao động và các sản phẩm nông nghiệp... Như vậy rõ ràng sự tăng cường

vai trò của Nhật Bản đối với Đông Á như một thị trường xuất khẩu, tiêu thụ năng

động sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giảm phụ thuộc vào bên ngoài.

Vai trò “cầu nối” của Nhật Bản trong hội nhập kinh tế khu vực

Là nền kinh tế có ảnh hưởng lớn tại Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương và

thế giới, Nhật Bản cũng là cường quốc kinh tế Đông Á duy nhất tham gia cả hai

Mega FTA là TPP và RCEP. Trưởng Ban thư ký APEC Alan Bollard từng đánh giá,

việc Nhật Bản quyết định tham gia TPP đã làm thay đổi toàn bộ cấu trúc đàm phán

[109]. Và sự hiện diện của Nhật Bản trong RCEP cũng khiến cho khuôn khổ này đạt

đến quy mô to lớn cả về sản lượng kinh tế và thương mại. Qua đây cũnh có thể thấy

rằng Nhật Bản là chủ thể quan trọng trong quá trình xây dựng các quy tắc, luật lệ

của TPP và RCEP. TPP, RCEP (cũng như CJK FTA) được chính phủ Nhật Bản

đánh giá là các bước nhằm hiện thực hóa khuôn khổ Khu vực thương mại tự do

châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP) [110]. Vai trò mà Nhật Bản có thể thực hiện

trong hai khuôn khổ RCEP và TPP là dẫn dắt cả hai khuôn khổ tới “bến cuối” là

79

FTAAP. Để thực hiện tốt sự gắn kết giữa RCEP với TPP, Nhật Bản có thể hợp tác

với những quốc gia khác để tạo ra một môi trường thúc đẩy cả hai khuôn khổ RCEP

và TPP cùng tiến triển, trở thành đòn bẩy kích thích lẫn nhau, rút ra kinh nghiệm

nhằm điều chỉnh những nội dung quá tham vọng cũng như nâng cao những tiêu

chuẩn chưa đạt yêu cầu. Vai trò này sẽ không chỉ tạo cho Nhật Bản cơ hội tham gia

sâu rộng vào tiến trình hội nhập kinh tế, mà còn là phương tiện để nước này thực

hiện những lợi ích quốc gia. Nhật Bản cũng chứng tỏ được những ảnh hưởng to lớn

về phương diện kinh tế khi cùng lúc tham gia đàm phán nhiều hiệp định thương mại

mang tầm vóc to lớn khác như Nhật - EU, Nhật - Trung - Hàn... bởi thông qua đó,

Nhật Bản có thể trở thành một “cầu nối” huyết mạch giữa các khu vực kinh tế lớn

của thế giới là Đông Nam Á - châu Âu - châu Á Thái Bình Dương - Mỹ.

Trong truyền thống chính sách ngoại giao, Nhật Bản từng nắm giữ vai trò là

một "cầu nối" quan trọng giữa các bên. Cụ thể là trong Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản

từng nắm sứ mệnh làm cầu nối giữa Đông và Tây, Bắc và Nam. Hiện tại Nhật Bản

cũng đang đứng ở một thời điểm lý tưởng để trở thành một "cầu nối" tại châu Á - Thái

Bình Dương và Đông Á, bởi vậy mà nước này sẽ không thể bỏ qua cơ hội lớn này.

3.1.2. Một số đánh giá về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á

từ giữa thập niên 1980 đến những năm đầu thập niên 2010

Về phương diện thực tế, có thể thấy rằng là một nền kinh tế lớn của Đông Á,

Nhật Bản đã thể hiện rõ vai trò là đầu tàu dẫn dắt, thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực.

Không chỉ là nhà đầu tư trực tiếp lớn nhất, nhà cung cấp các kết cấu sản phẩm trọng

yếu kỹ thuật cao, trung tâm sáng tạo và phổ biến công nghệ kỹ thuật tiên tiến của

Đông Á, Nhật Bản còn thể hiện được vai trò kết nối giữa các nước về phương diện

kinh tế thông qua những chính sách và chiến lược đối với mạng sản xuất Đông Á,

giúp kết nối và thúc đẩy kết nối trong liên kết kinh tế nhờ vào việc giúp thu hẹp

khoảng cách phát triển giữa các quốc gia trong khu vực. Liên kết kinh tế trên

phương diện thực tế tại Đông Á với sự mở rộng của mạng sản xuất khu vực đã kéo

theo sự tăng trưởng năng động của Nhật Bản cũng như nhiều quốc gia Đông Á khác.

Tuy nhiên, trái ngược với thành công kể trên, không thể không nhắc tới một hệ

quả trái chiều khác, đó là việc Nhật Bản vô hình chung đồng thời cũng góp phần

vào việc thúc đẩy nhanh chóng sự trỗi dậy của một sức mạnh khác có thể đe dọa tới

80

vai trò của chính Nhật Bản trong khu vực. Vào thời kỳ “những con nhạn” Đông Á

bắt đầu trưởng thành cùng lực đẩy tích cực từ phía Nhật Bản và 4 con rồng, các con

hổ xuất hiện, Trung Quốc vẫn còn rất lạc hậu. Sau khi Đặng Tiểu Bình thực hiện

chính sách mở cửa kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản đã tích cực dồn ODA, FDI vào

nước này, khuyến khích các TNCs của mình ồ ạt đổ vào Trung Quốc, Trong số các

nước chậm phát triển Đông Á, Trung Quốc mặc dù là “con nhạn” bay gần cuối đàn,

“to xác nhưng yếu ớt, đói khát”, lập tức chớp lấy thời cơ “ăn rất khỏe, rất nhiều”,

“lớn bổng” và “bay vượt” lên phía trước các “tiền bối”, thậm chí đã đoạt luôn cả vị

trí “đầu đàn” tại Đông Á của Nhật Bản. Nhật Bản không thể ngờ “con nhạn yếu đói”

này đã tiếp thu được tất cả nguồn lực mình trao cho cũng như tận dụng hết các cơ

hội phát triển khác, cuối cùng đã vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế số 1

Đông Á, thứ hai thế giới vào năm 2010. Hơn nữa, trong khi “con ngỗng bay cuối

cùng” nhờ hội nhập kinh tế khu vực mà tiếp nhận được vốn, mô hình phát triển,

công nghệ tiên tiến của mình để phát triển vượt lên, Nhật Bản lại rơi vào suy thoái

triền miên. Vài thập kỷ mất mát, kinh tế trì trệ kém phát triển càng khiến cho vai trò

của Nhật Bản tại Đông Á, trong đó có vai trò trong hội nhập kinh tế khu vực trở nên

hết sức lu mờ.

Còn về phương diện thể chế, có thể thấy rằng cho đến nay, Nhật Bản đã không

thành công trong việc tạo ra các thể chế hội nhập hiệu quả. Hơn nữa, so với Trung

Quốc Nhật Bản tỏ ra chậm chân trong việc ký kết FTA với các đối tác Đông Á. Mặc

dù đóng vai trò trung tâm trong mạng lưới sản xuất Đông Á, tuy nhiên trước năm

2000 Nhật Bản có vai trò không mấy tích cực trong việc đàm phán các FTA.

Trong khi Nhật Bản khá chậm chạp trong việc tạo ra các thể chế liên kết kinh

tế, Trung Quốc cùng với sự vươn lên về kinh tế đã từng bước tạo ra những thể chế

liên kết kinh tế rất mạnh như FTA Trung Quốc-ASEAN, ASEAN+3, RCEP, AIIB,

BRI..., trở thành quốc gia nắm vị trí chủ đạo trong tiến trình hội nhập kinh tế. Phải

tới những năm đầu của thế kỷ 21, chính sách thương mại quốc tế của Nhật Bản mới

được điều chỉnh theo hướng tăng cường ký kết các hiệp định mậu dịch tự do trong

khu vực [19]. Nhật Bản chỉ bắt đầu đàm phán FTA với Singapore năm 2001 và ký

thỏa thuận cuối năm 2002. Sau đó nước này bắt đầu đàm phán FTA với từng thành

81

viên ASEAN. Năm 2006, Nhật Bản sáng kiến CEPEA thay thế cho EAFTA mà sau

này RCEP dựa trên khuôn khổ được đề xuất này. FTA Nhật – Trung – Hàn bắt đầu

đàm vào tháng 3 năm 2013 tuy nhiên không có mấy tiến triển.

Với Nhật Bản việc ký kết các hiệp định thương mại này được coi là cách thức

tốt nhất để đạt được mục tiêu cuối cùng là thiết lập một cơ cấu phân công lao động

quốc tế mới ở Đông Á với vai trò đầu tầu của Nhật Bản. Tuy nhiên trước một Trung

Quốc rất nỗ lực xây dựng liên kết thể chế thông qua việc đưa ra nhiều sáng kiến ưu

đãi với ASEAN, việc Nhật Bản chậm chễ và không thành công trong việc tạo ra

những thể chế hội nhập khu vực hiệu quả đã khiến cho các nước Đông Nam Á càng

dễ dàng lún sâu hơn vào “quỹ đạo” của Trung Quốc.

Ngoài ra, chính sách bảo hộ mạnh với ngành nông nghiệp nông nghiệp, mức

độ tự do hóa của FTA của Nhật Bản có thể nói là chưa cao. So với các nước đối tác

đàm phán là những quốc gia đang phát triển, số ngoại lệ Nhật Bản đưa ra còn nhiều

hơn, trên phương diện ngoại giao kinh tế điều này rõ ràng sẽ tạo ra tâm lý thiếu tích

cực đối với phía đối tác, ảnh hưởng đến sự tiến triển của hội nhập kinh tế khu vực

về lâu dài.

3.2. Vai trò nổi bật của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế từ

khoảng đầu thập niên 2010 đến nay

Từ 2010 Trung Quốc đã chính thức vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế đứng

đầu khu vực, thứ hai thế giới và được dự đoán là sẽ sớm soán ngôi vị cường quốc số

một của Mỹ. Khó phủ nhận một thực tế rằng khu vực Đông Á, châu Á - TBD đã

bước vào giai đoạn do “G2” do Mỹ và Trung Quốc “thống trị”. Trong bối cảnh cạnh

tranh quyết liệt giữa một cường quốc “bá chủ lâu đời” và một cường quốc “mới

nổi”, liên kết kinh tế Đông Á đã trải qua không ít biến động. Sự xuất hiện và tiến

triển của các Mega FTA như RCEP, TPP và các định chế kinh tế lớn như AIIB cho

thấy sự đối đầu Mỹ - Trung trong việc định hình các nguyên tắc luật lệ kinh tế,

thương mại đang diễn ra mạnh mẽ. Trong khi vai trò của Nhật Bản đối với liên kết

kinh tế khu vực ngày càng trở nên mờ nhạt, liệu Nhật Bản có khả năng tìm lại vị thế

trước kia không và đâu là những thuận lợi, thách thức của nước này trong việc nâng

cao vai trò, phần tiếp theo luận án sẽ tập trung làm rõ câu hỏi này.

82

3.2.1. Thuận lợi và thách thức của Nhật Bản trong việc nâng cao vai trò

trong liên kết kinh tế Đông Á

3.2.1.1. Những thuận lợi

Yếu tố trong nước:

Tình hình chính trị trong nước:

Chính trường trở nên ổn định:

Sự bất ổn chính trị là nhân tố có ảnh hưởng sâu sắc tới hiệu quả và tính lâu dài

của chính sách kinh tế và điều này đặc biệt đúng với Nhật Bản, quốc gia mà chính

trường trong một thời gian rất dài từng trải qua nhiều sóng gió. Lãnh đạo đất nước

liên tiếp thay đổi, có tới 9 thủ tướng chỉ trong 2 năm từ 1989 đến 2001 và 5 thủ

tướng trong vòng 5 năm trước khi ông Shinzo Abe quay lại cầm quyền lần 2. Mỗi

nhà lãnh đạo cùng nội các mới lên lại đưa ra một cam kết cải cách khác nhau, kết

quả là hiếm có chính sách nào đi đến chặng đường cuối.

Tuy nhiên tình hình đã khác nhiều sau khi Thủ tướng Abe tái nhậm chức

(tháng 12/2012 đến nay). Sau vài thập kỷ, Nhật Bản cuối cùng cũng có một chính

phủ ổn định. Kể từ khi quay trở lại chức chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do (LDP) năm

2012, Thủ tướng Abe đã lãnh đạo đảng vượt qua ít nhất 5 lần bầu cử. Năm 2015,

ông tái cử chức chủ tịch đảng trong bối cảnh không có đối thủ. Trong cuộc bầu cử

sớm tháng 10/2017, ông Abe đã giành chiến thắng áp đảo. Đầu năm 2018 thủ tướng

Abe từng phải đối mặt với làn sóng công kích mạnh mẽ của các đảng đối lập về một

số vụ việc có thể phá hoại triển vọng về một nhiệm kỳ thứ 3, dẫn tới khả năng thay

đổi lãnh đạo sớm hơn dự kiến. Tuy nhiên, với những thành tích thực chất về cả đối

nội, đối ngoại trên các phương diện kinh tế, chính trị, an ninh..., tại cuộc bầu cử nội

bộ đảng LDP tháng 9/2018, Thủ tướng Abe đã dễ dàng đánh bại đối thủ duy nhất là

cựu Bộ trưởng Quốc phòng Shigeru Ishida, giữ vững vị trí lãnh đạo đảng cầm

quyền, tiếp tục thêm một nhiệm kỳ 3 năm đến tháng 8/2021, trở thành thủ tướng tại

nhiệm lâu nhất trong lịch sử hiện đại Nhật Bản.

Thủ tướng Abe - nhà lãnh đạo luôn quyết tâm nâng cao vị thế của Nhật Bản

Liên quan đến vai trò thúc đẩy hội nhập kinh tế của nhà lãnh đạo Nhật Bản

hiện nay, có thể thấy rằng ngay từ đầu ông Abe đã sớm nhận ra giá trị của TPP và

luôn hành động để thúc đẩy cũng như khôi phục thỏa thuận sau khi Mỹ rút lui. Thủ

83

tướng Nhật Bản đã nhận biết được điều mà Tổng thống Mỹ D.Trump không biết, đó

là TPP không đơn thuần chỉ là một thỏa thuận thương mại. Giá trị thực sự của hiệp

định còn là mặt chiến lược. TPP và phiên bản mới là CPTPP có thể trở thành khuôn

khổ thiết lập các quy tắc cho sự gắn kết và hội nhập kinh tế. Để duy trì trật tự quốc tế tự

do, các cường quốc lãnh đạo cần tôn trọng sự dẫn dắt của pháp luật và các thể chế quốc

tế đa phương, trong khi Tổng thống Trump với cách tiếp cận có tổng bằng 0 về các mối

quan hệ quốc tế hầu như không hứng thú với những điều đó. Mặc dù vậy, ông Abe

cũng nhận thức được sự cần thiết phải hợp tác chặt chẽ với nhà lãnh đạo đứng đầu của

Mỹ bất chấp cách hiểu khác nhau về tương lai trật tự khu vực Đông Á.

Kể cả trong các vấn đề nội bộ, dưới thời chính quyền Abe chủ nghĩa cục bộ

quan liêu giữa các Bộ Ngoại giao, MITI, Bộ Nông nghiệp và thủy hải sản từng kiềm

chế các sáng kiến thương mại tự do của Nhật Bản cũng đã bị xóa bỏ. Cơ quan phụ

trách vấn đề TPP do Thủ tướng đứng đầu có hơn 50 nhân viên chuyên nghiệp từ

những bộ ngành liên quan từng tham gia đàm phán TPP nằm dưới sự lãnh đạo của

Văn phòng Nội các Nhật Bản. Mặc dù số lượng nhân viên ở trụ sở chính đã giảm

xuống còn khoảng 20 người sau khi ký TPP ban đầu vào tháng 2/2016, Văn phòng

Nội các đã tăng cường nhân sự cho trụ sở chính vào mùa xuân năm 2017 khi xác

định APEC Đà Nẵng sẽ là thời điểm thích hợp để ký TPP11. Mặc dù Thủ tướng

Abe từng thừa nhận TPP đã ở trong tình cảnh hết sức khó khăn khi Mỹ rút khỏi, tuy

nhiên chưa bao giờ cho rằng hiệp định đã kết thúc. Thậm chí theo ông Abe, Nhật

Bản cần đi đầu trong việc giúp cho TPP11 sớm có hiệu lực và đề cập tới trách

nhiệm đưa Nhật Bản trở thành quốc gia đầu tiên phê chuẩn hiệp định.

Nếu có nhân vật nào đóng vai trò lớn nhất trong việc tạo ra “thời đại châu Á –

TBD” thì người đó chính là ông Abe. Sự quyết tâm của chính quyền Thủ tướng Abe

“đưa Nhật Bản trở lại là quốc gia bình thường” cho thấy nước Nhật đã sẵn sàng đảm

nhận một vai trò lớn hơn ở khu vực. Xuất thân từ gia đình 3 thế hệ đều là những

chính trị gia kỳ cựu, kế thừa nhiệt huyết từ ông ngoại là cựu Thủ tướng Nobusuke

Kishi - người từng sẵn sàng đánh cược sinh mạng chính trị vào mục tiêu nâng cao vị

thế đất nước thông qua việc lần đầu sửa đổi Hiệp ước An ninh Nhật Mỹ - ông Abe

luôn dồn hết sức lực và tâm trí nhằm thay đổi không chỉ vị thế của Nhật Bản thời

hậu chiến mà cả trật tự khu vực và quốc tế sau khi vai trò của Mỹ suy giảm.

84

Ý nghĩa của sự ổn định chính trị trong việc nâng cao vai trò của Nhật Bản

Có thể nói chính trị và kinh tế có một mối quan hệ biện chứng, chính trị ổn

định giúp đảm bảo tính liên tục của các chính sách nói chung và chính sách kinh tế

nói riêng. Chính trị nội bộ Nhật Bản hiện nay đang hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi

cho việc triển khai chính sách hội nhập kinh tế khu vực. Các yếu tố nội trị ổn định

góp phần giúp chính sách của Nhật Bản với Đông Á tiếp tục được duy trì và thúc

đẩy, củng cố thêm sức mạnh của nước Nhật trong thời điểm khu vực có nhiều

chuyển biến. Nhiệm kỳ đủ dài cũng sẽ giúp nhà lãnh đạo có thời gian thực hiện

những mục tiêu chính sách. Nhà lãnh đạo là nhân tố quan trọng giúp chèo lái đất

nước vượt qua khó khăn, giúp nâng cao vai trò, vị thế của quốc gia. Chính sách

ngoại giao của Thủ tướng Abe với Đông Á hiện nay đang cho thấy hình ảnh một

nước Nhật nhiều tham vọng nhất kể từ sau Thế chiến II, đồng thời định hình một

vai trò kinh tế, an ninh, chính trị hoàn toàn mới cho nước Nhật. Có thể thấy rằng

đây chính là một thuận lợi hết sức to lớn trong việc nâng cao vai trò của Nhật Bản.

Kinh tế có dấu hiệu hồi sinh

Nếu “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” là tham vọng của Tổng thống Mỹ

Donald Trump, “Phục hưng Trung Hoa vĩ đại” là “giấc mơ” của Chủ tịch Trung

Quốc Tập Cận Bình, thì với quyết tâm hồi sinh nền kinh tế trì trệ kéo dài trong

nhiều thập niên, lãnh đạo nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới - Thủ tướng Nhật Bản

Shinzo Abe đã đề ra học thuyết kinh tế “Abenomics” [2].

Kinh tế Nhật Bản đã ở trong tình trạng suy thoái suốt gần ba thập kỷ qua. Xu

hướng lạm phát chỉ ở quanh mức 0% đã kéo dài từ những năm 1990. Sau bùng nổ

kinh tế, Nhật Bản đã rơi vào giảm phát liên tục trong nhiều thập niên bất chấp các

nỗ lực của các chính quyền Nhật Bản từ năm 1992 đến năm 2012. Khó khăn kinh tế

của một xã hội đang gặp khủng hoảng về nhân khẩu học cộng với tỉ lệ nợ công ngày

càng cao (233% GDP năm 2012) và thiên tai liên tiếp, trong đó có thảm họa kép

2011 đã khiến Nhật Bản ngày một lún sâu vào vòng xoáy khủng hoảng. Kinh tế trì

trệ, cùng với cách xử lý thiếu quyết đoán của chính quyền Đảng Dân chủ Nhật Bản

(DPJ) trong tranh chấp biển đảo với Trung Quốc đã khiến vị thế quốc tế của Nhật

Bản suy giảm theo, tạo ra tâm lý bi quan. Trong bối cảnh đó, điều Nhật Bản cần

phải làm đầu tiên là cố gắng để không đánh mất lợi thế là sức mạnh kinh tế - yếu tố

85

có ý nghĩa tiên quyết đối với việc nâng cao vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh

tế khu vực. Không có một nước Nhật Bản hồi sinh về kinh tế, Đông Á sẽ càng dễ

lún sâu hơn vào quỹ đạo kinh tế-chiến lược của Trung Quốc. Tuy nhiên, mục tiêu

này cũng sẽ buộc Nhật Bản sẽ phải tiến hành nhiều cải cách cơ cấu khó khăn, chẳng

hạn như tiến hành tự do hóa. Nhận ra vấn đề cấp bách này, ngoài 2 mũi tên đầu tiên

là chính sách tiền tệ và tài khóa, “mũi tên” thứ ba trong chiến lược Abenomics đã

xác định cải cách cơ cấu là mục tiêu quan trọng hàng đầu.

Tính đến thời điểm 5 năm sau khi Abenomics được thực hiện, kinh tế Nhật

Bản đã ở trong giai đoạn tăng trưởng liên tục dài nhất trong gần 30 năm. Theo số

liệu được Văn phòng Nội các Nhật Bản công bố ngày 10/8/2018, tăng trưởng GDP

Nhật Bản trong quý từ tháng 4-6 là 0,5%, tương đương 1,9%/năm [108]. GDP danh

nghĩa sau 5 năm đã tăng trưởng hơn 10%, cho thấy suy thoái kinh tế của Nhật Bản

đã có sự chuyển biến rõ rệt.

Hình 3.4. GDP danh nghĩa của Nhật Bản

Đơn vị: Nghìn tỷ Yên

Nguồn: Thống kê của Chính phủ Nhật Bản

Ngoài ra, để đánh giá một nền kinh tế có tăng trưởng hay không cần phải xem

xét về chỉ số chứng khoán. Một trong những hiệu quả rõ rệt mà Abenomics mang

lại chính là thúc đẩy thị trường chứng khoán Nhật Bản tăng trưởng mạnh mẽ, trái

với bức tranh màu xám chung của chứng khoán khu vực và thế giới. Chỉ trong

khoảng 5 năm, chỉ số Nikkei của Nhật Bản đã tăng hơn hai lần, xác thực rõ hơn về

một giai đoạn tăng trưởng được nhìn nhận là dài thứ hai sau chiến tranh (kể từ thời

kỳ bùng nổ bùng nổ tăng trưởng Izanagi kéo dài 57 tháng từ tháng 11/1965-7/1970).

Trước khi Abenomics được thực hiện giá cổ phiếu Nhật Bản đã có lúc rớt xuống

86

mức 8,664 Yên, hiện tại đã tăng lên 22.865 Yên (giá đóng cửa ngày 1/9/2018 [122]).

Vào đầu 2018, chỉ số Nikkei từng đạt tới mức trên 24.000 Yên. Đây là lần đầu tiên

chỉ số chứng khoán Nhật Bản quay trở lại ngưỡng 24.000 Yên của 26 năm trước

đây. Sự phục hồi của kinh tế Nhật Bản còn được thể hiện qua những chỉ tiêu kinh tế

quan trọng sau:

Tình hình tài chính được cải thiện: Tổng thu chi của nhà nước và địa phương

đã tăng lên khoảng 22 ngàn tỷ Yên trong 5 năm cầm quyền của Thủ tướng Abe. Cán

cân tài chính được cải thiện cân rõ rệt nhờ vào chính sách đẩy lùi giảm phát, thâm

hụt ngân sách giảm mạnh từ 8,8% xuống 2,8%.

Tỷ lệ thất nghiệp rất thấp: Sau 5 năm thực hiện Abenomics tỷ lệ tuyển dụng

tại Nhật Bản đã đạt đến mốc cao vượt trội, và mức cao này cũng lần đầu diễn ra

đồng thời ở tất cả các địa phương trong cả nước, kể cả những khu vực như Okinawa

hay Kochi-ken. Theo số liệu chính thức được công bố ngày 26/12, tỷ lệ thất nghiệp

của Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp nhất trong 23 năm kể từ tháng 11/1993.

Quan sát bảng dưới đây có thể thấy, tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản giảm từ 4,3%

năm 2012 xuống còn 2,8% vào năm 2018.

Bảng 3.3. Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản

2012 4.33 2013 4.01 2014 3.58 2015 3.38 2016 3.12 2017 2.88 2018 2.8 Năm Tỷ lệ

Nguồn: IMF - World Economic Outlook Databases (4/2018)

Hiện tại tỷ lệ việc làm/ứng viên đang ở mức 1,56, có nghĩa là có sẵn 156 việc

làm cho mỗi 100 lao động tìm việc, mức cao nhất trong gần 44 năm qua. Tỷ lệ

tuyển dụng của sinh viên tốt nghiệp đại học từ 93,9% tháng 4 năm 2013 đến tháng 4

năm 2018 là 98%, trong đó tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học được tuyển dụng là 98,6,

nam là 97,5, khối khoa học tự nhiên là 97,2%, khối khoa học xã hội là 98,2% [130].

Đây là tỷ lệ tuyển dụng ở mức cao nhất từ trước đến nay. Khi gần 100% có công ăn

việc làm, giới trẻ Nhật Bản cũng có thể kỳ vọng hơn rất nhiều ở tương lai.

Mức lương danh nghĩa tháng 4/2018 đã tăng tháng thứ chín liên tiếp, theo số

liệu được công bố bởi Bộ Lao động và An sinh xã hội Nhật Bản với mức tăng 0,8%.

Mặc dù không ít ý kiến cho rằng đây là hiện tượng thiếu hụt lao động bắt nguồn từ

vấn đề lão hóa dân số, sở dĩ các công ty của Nhật Bản buộc phải tăng lương cao hơn

87

là để tìm kiếm và giữ chân công nhân. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng, nếu như

tình hình kinh tế ảm đạm không mấy khả quan, các công ty không thể gia tăng cả số

lượng tuyển lao động và tiền lương đồng loạt. Việc tăng lương sẽ khiến cho thu

nhập hộ gia đình được mở rộng. Sự gia tăng nhu cầu trong nước thông qua gia tăng

thu nhập hộ gia đình là nhân tố hết sức cần thiết cho quá trình phục của nền kinh tế.

Gia tăng xuất khẩu: Có thể nói xuất khẩu của Nhật Bản là một chìa khóa cho

sự phục hồi kinh tế đất nước. Đồng Yên giảm giá khoảng 30% trong thời gian qua

cũng giúp cho giá hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản, đặc biệt là ô tô và sản phẩm

điện tử… nâng cao được khả năng cạnh tranh trên các thị trường nước ngoài, đặc

biệt là châu Âu và Mỹ. Đến tháng 6/2018 xuất khẩu của Nhật đã tăng tháng thứ 19

liên tiếp bất chấp sự gia tăng căng thẳng trong thương mại quốc tế thời gian gần đây

[123]. Trong nhiệm kỳ thứ 2 của Thủ tướng Abe, Nhật Bản cũng đã hoàn thành các

thỏa thuận về thương mại và đầu tư như CPTPP và Hiệp định Đối tác Kinh tế (EPA)

Nhật Bản - EU. Trong bối cảnh điều kiện thương mại có triển vọng được cải thiện,

có lợi cho các nhà xuất khẩu của Nhật Bản, mức độ lạc quan về nền kinh tế sẽ được

nâng lên. Việc tham gia tích cực vào các FTAs quan trọng cũng giúp Nhật Bản nâng

cao ảnh hưởng tại các diễn đàn, thể chế kinh tế quốc tế và khu vực [10].

Du lịch trở thành một mũi nhọn của tăng trưởng kinh tế: Sự phát triển mạnh

mẽ của ngành du lịch Nhật Bản trong thời gian qua cũng có thể xem là một trong

những thành tựu của chính sách "Abenomics". Nhật Bản trở thành điểm đến hấp

dẫn, đặc biệt là với tầng lớp trung lưu đang gia tăng nhanh chóng ở châu Á. Du

khách nước ngoài đến Nhật Bản đạt mức cao kỷ lục vào năm 2017, đánh dấu năm

thứ 5 liên tiếp với tốc độ tăng trưởng cao nhất các nước châu Á. Chi tiêu của du

khách nước ngoài tại Nhật Bản năm 2017 là 35,9 tỷ USD. Từ năm 2012 chi tiêu của

khách du lịch chiếm gần 20% tăng trưởng tiêu dùng của Nhật Bản (chưa bao gồm

phí nghỉ trọ). Nhật Bản đã đặt mục tiêu đón 40 triệu du khách quốc tế với số lượng

chi tiêu 8.000 tỷ Yên vào dịp Thế vận hội Olympic Tokyo 2020. Mặc dù con số này

là một thách thức không nhỏ, nhưng nếu ngành du lịch tiếp tục duy trì mức tăng

trưởng hiện nay thì Nhật Bản hoàn toàn có thể lạc quan về mục tiêu trên.

Yếu tố quốc tế:

Một quốc gia dẫn đầu không thể thiếu những điều kiện quan trọng như sở hữu

một sức mạnh kinh tế vượt trội, có một mô hình mà các nước khác muốn mô phỏng,

88

sao chép, sở hữu ý nguyện mạnh mẽ trong việc cung cấp sản phẩm công quốc tế và

nhận được sự ủng hộ, tin cậy từ những nước khác. Trong quan hệ quốc tế, sự tin cậy

lẫn nhau giữa các quốc gia là một yếu tố quan trọng để triển khai những hợp tác

mang tính thực chất, đáp ứng lợi ích của các bên. Đối với bất cứ quốc gia nào, việc

tạo dựng lòng tin, hình ảnh tốt đẹp về đất nước cũng đồng nghĩa với việc nâng cao

được vị thế quốc tế. Từ những phân tích trước có thể thấy Nhật Bản đã đáp ứng tốt

ba tiêu chí đầu. Sau đây luận án sẽ tiếp tục làm rõ về tiêu chí thứ tư.

Nhìn nhận của quốc tế, đặc biệt là các nước Đông Á về vai trò và ảnh

hưởng của Nhật Bản

Trong một cuộc điều tra dư luận được tiến hành vào tháng 3/2014 về dư luận

các nước ASEAN 7 (Indonesia, Philippine, Singapore, Thái Lan, Việt Nam,

Mianma) về Nhật Bản, với câu hỏi, “Theo anh chị, quan hệ hữu hảo giữa ASEAN

và Nhật Bản có ý nghĩa quan trọng không?”, thì 96% trả lời “quan trọng”, 2% trả lời

“không quan trọng” và 0% cho rằng “hoàn toàn không có ý nghĩa gì”.

Còn với câu hỏi “Trong số các nước sau (Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Nga, Hàn

Quốc, Úc, Ấn Độ, Anh, Pháp, Đức, Niu di lân), đâu là quốc gia đáng tin cậy nhất”,

câu trả lời: Mỹ là 16%, Trung Quốc 5%, Nhật 33%, Nga 3%, Hàn Quốc 2%, Úc 5%,

Ấn Độ 1%, Anh, Pháp 1%, Đức 3%, Niu-di-lân 4%, có nghĩa là Nhật Bản được

xem là quốc gia được tin cậy nhất. (Tính theo quốc gia thì chỉ riêng Philippin có

số % người được hỏi đánh giá Mỹ cao hơn Nhật Bản, lần lượt là 41% và 31%).

Về những đóng góp quốc tế của Nhật Bản, với câu hỏi “Với tư cách là một

quốc gia châu Á, Nhật Bản có đóng một vai trò tích cực đối với sự phát triển của

châu Á hay không”, thì đáp án trả lời: Đóng vai trò tích cực 92% Vai trò không tích

cực lắm 4% Hoàn toàn không có vai trò gì 0%.

Đối với câu hỏi “Đối tác quan trọng hiện tại là nước nào” (câu trả lời nhiều

phương pháp) trong số 11 nước, Nhật Bản (65%), Trung Quốc (48%), Mỹ (47%).

Đối với câu hỏi “Quốc gia đối tác quan trọng trong tương lai”, Nhật Bản cũng đứng

đầu (60%), sau đó là Trung Quốc (43%) và Mỹ (40%).

Liên quan đến hình ảnh của Nhật Bản, trong bảy quốc gia ASEAN, số người

chọn "quốc gia có nền khoa học và công nghệ phát triển" (81%) " đất nước có nền

kinh tế mạnh" (62%), cho thấy hình ảnh về một quốc gia có nền khoa học và công

89

nghệ phát triển, thịnh vượng. Ngoài ra, vị trí thứ hai là "Đất nước có thiên nhiên

tươi đẹp" (62%), "Đất nước có một nền văn hóa phong phú," (59%), " Đất nước

nguồn gốc của văn hóa mới anime, thời trang, ẩm thực…" (44%).

Câu trả lời khẳng định về vai trò tích cực của Nhật Bản đối với sự phát triển

của châu Á chiếm 92%, câu trả lời tích cực về hợp tác kinh tế và kỹ thuật của chính

phủ Nhật Bản là 89%.

Không chỉ những cuộc điều tra do phía Nhật Bản tiến hành, ngay cả các cuộc

điều tra do nước ngoài thực hiện cũng cho thấy kết quả tương tự. Chẳng hạn, theo

một cuộc thăm dò của BBC, với đa số người được hỏi từ nhiều nước khác nhau,

Nhật Bản được đánh giá là quốc gia đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề quốc

tế, chỉ ngoại trừ quan điểm tại hai quốc gia Trung Quốc và Hàn Quốc (nơi 71% ở

Trung Quốc và 53% số người ở Hàn Quốc được hỏi đã cho rằng Nhật Bản không có

vai trò tích cực). Trong số 27 quốc gia mà BBC [101] khảo sát, 24 nước đánh giá về

vai trò của Nhật Bản một cách tích cực, chỉ có hai nước nhìn nhận về vai trò của

Nhật Bản một cách tiêu cực và một nước còn lại là trung dung. Cụ thể, tại khu vực

châu Á - Thái Bình Dương, những nước có quan điểm khá tích cực đối với vai trò

của Nhật Bản gồm có Indonesia (84%), Philippines (70%) và Úc (55%). Ấn Độ

cũng nghiêng về quan điểm tích cực (với 37% tích cực và 16% tiêu cực). Sự đánh

giá tích cực về Nhật Bản cũng vẫn ổn định từ cả phía người Mỹ (66%) và người

Nga (56%), chỉ có hai ngoại lệ duy nhất đối với Nhật Bản vẫn là hai nước láng

giềng Trung Quốc và Hàn Quốc, nơi mà đa số ý kiến đánh giá là tiêu cực.

Kết quả một cuộc điều tra khác diễn ra vào năm 2014 cũng cho thấy 60% lãnh

đạo của các nước Malaysia, Indonesia, Phillippnes, Singapore, Thái Lan, Myanma

và Việt Nam coi Nhật Bản là quốc gia quan trọng nhất tại châu Á, vượt trên cả vị trí

của Trung Quốc. Bên cạnh đó tỷ lệ người dân ủng hộ vai trò của Nhật Bản tại khu

vực là 96% [43].

Theo ước tính của Viện nghiên cứu Nomura, thị trường các ngành "quyền lực

mềm" Nhật Bản (như âm nhạc, thời trang, thực phẩm và du lịch…) hiện có giá trị

khoảng 64 nghìn tỷ yên, lớn hơn cả quy mô thị trường của ngành công nghiệp ô tô.

Đây chính là cơ hội lớn để Nhật Bản thúc đẩy hơn nữa sức mạnh và vị thế.

90

Hình.3.5. Quan điểm của các nước về ảnh hưởng của Nhật Bản

Nguồn: BBC [101]

91

Bên cạnh yếu tố văn hóa, các yếu tố khác cũng góp phần quan trọng nâng cao

quyền lực mềm của Nhật Bản như xã hội ổn định, tinh thần bền bỉ, kiên cường, kỷ

luật tốt trong các thảm họa, sức mạnh khoa học kỹ thuật, sự tham gia và vai trò chủ

chốt của Nhật Bản trong các tổ chức quốc tế. Chính phủ Nhật Bản luôn cố gắng

thực hiện tốt vai trò điều hành và phát triển quyền lực mềm quốc gia. Bên cạnh đó,

các tổ chức phi chính phủ, tập đoàn, công ty đa quốc gia Nhật Bản cũng góp phần

không nhỏ chuyển tải giá trị văn hóa Nhật Bản ra quốc tế. Mục tiêu về quyền lực

mềm của Nhật Bản là quảng bá hình ảnh một quốc gia hòa bình, khẳng định các giá

trị văn hóa Nhật Bản sẽ có ích cho các nước khác, tất cả đều nhằm giúp Nhật Bản

có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Không chỉ vậy,

việc gia tăng quyền lực mềm còn tác động tới thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, góp

phần giúp kinh tế phục hồi và tăng trưởng trở lại. Có thể thấy trong khi nhiều mặt

hàng tiêu dùng và thực phẩm của Trung Quốc bị người tiêu dùng nước ngoài e ngại

hoặc từ chối thì hàng hóa của Nhật Bản lại luôn được tin tưởng và chào đón. Trong

bài phát biểu trước Thượng nghị viện về Xây dựng tầm nhìn Nhật Bản, Thủ tướng

Abe đã khẳng định mục tiêu của Nhật Bản là hướng đến “một quốc gia có giá trị

văn hóa, truyền thống, lịch sử và đáng tin cậy, được tôn trọng, yêu quý trên thế giới,

một quốc gia thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình”.

Trong bối cảnh Trung Quốc vấp phải trở ngại là những nước lớn khu vực như

Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia… không chịu chấp nhận sự lãnh đạo của họ, Mỹ

phải đối diện với thách thức là tư tưởng "châu Á phải do người châu Á lãnh đạo",

thì việc sự hiện diện và vai trò của Nhật Bản được hầu hết chính phủ và người dân

các nước Đông Á hoan nghênh rõ ràng là một nhân tố rất thuận lợi đối với mục tiêu

đẩy mạnh chính sách hội nhập kinh tế khu vực và nâng cao hơn nữa vai trò trong

tiến trình này.

3.2.1.2. Một số thách thức đối với Nhật Bản trong việc nâng cao vai trò trong

liên kết kinh tế Đông Á

Sự giảm sút vai trò trong liên kết kinh tế trên phương diện thực tế:

Có thể thấy sự giảm sút vị thế của Nhật Bản trong mạng sản xuất Đông Á thể

hiện qua sự thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh giữa Nhật Bản với Hàn

92

Quốc và Trung Quốc. Cho đến nay cấu trúc liên kết kinh tế - thương mại dựa trên

phương thức phân công lao động hàng dọc giữa Nhật Bản với các nước Đông Á

trong đó có Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn tồn tại. Tuy nhiên, từ nửa cuối những

năm 2000, có thể thấy khoảng cách về năng lực cạnh tranh giữa Nhật Bản với Hàn

Quốc và Trung Quốc đã dần thu hẹp. Đến nay đã có nhiều những thay đổi mạnh mẽ

trong về vị trí trong mạng sản xuất Đông Á. Trung Quốc đã trở thành quốc gia có

ảnh hưởng lớn và mang tính chi phối trong mạng sản xuất Đông Á và toàn cầu, cả

về giá trị xuất khẩu và sự đa dạng của các sản phẩm [72] mặc dù xuất nhập khẩu

của Trung Quốc không hoàn toàn thuộc về họ và vai trò của các TNCs Nhật Bản

hay Hàn Quốc vẫn chiếm đáng kể trong thương mại quốc tế của Trung Quốc. Là

nhà cung cấp linh kiện và phụ tùng máy móc lớn nhưng sự phụ thuộc của Nhật Bản

với Trung Quốc vẫn không ngừng gia tăng, liên kết sản xuất chế tạo giữa Hàn Quốc

và Nhật Bản không ngừng giảm, vị trí tương đối của Nhật Bản trong mạng sản xuất

khu vực đã trở nên suy yếu hơn.

Ngoài ra, quan sát danh sách xếp hạng 50 công ty hàng đầu châu Á tại hai thời

điểm 2005 và 2011 cũng có thể thấy sự đi xuống về năng lực cạnh tranh của các

công ty của Nhật Bản với Hàn Quốc và Trung Quốc. Theo xếp hạng này, nếu năm

2005 có tới 38 công ty Nhật lọt vào top 50, thì đến 2011 đã giảm xuống chỉ còn 22

công ty. Trong khi đó, số lượng các công ty Trung Quốc từ chỗ chỉ có 6 đã tăng lên

16 công ty. Nếu 2005 có 6 vị trí dẫn đầu đều thuộc về Nhật Bản, thì đến năm 2011

các vị trí Top 1~3 đều là các công ty Trung Quốc. Về phần Hàn Quốc, số công ty

của nước này lọt vào top 50 cũng đã tăng từ 4 lên 5 công ty vào 2011[135].

Một trong những tác nhân quan trọng đẩy nhanh sự thu hẹp khoảng cách về

năng lực cạnh tranh giữa Nhật Bản với Hàn Quốc chính là sự phát triển mạnh mẽ

của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã khiến ý nghĩa và tầm quan trọng

của trình độ kỹ thuật cao vốn là thế mạnh của Nhật Bản trở nên lạc hậu. Quá trình

module hóa các sản phẩm công nghiệp có phương thức sản xuất hàng loạt (như thiết

bị bán dẫn) đã giúp giảm thiểu chi phí sản xuất, tối đa hóa doanh thu... nhờ vậy mà

các công ty của Hàn Quốc thậm chí có thể lấn át nhiều “đối thủ” Nhật Bản.

93

Nguồn: Fortune 500

Bảng 3.4. Bảng xếp hạng Top 50 công ty hàng đầu châu Á (2005 và 2011)

94

Liên quan đến lợi thế cạnh tranh về sở hữu công nghệ, khâu nghiên cứu và

phát triển (R&D), từng là một nước đi sau về công nghệ, tư tưởng bảo mật, khép kín

về công nghệ vẫn còn bám rễ sâu tại Nhật Bản. Những công ty của Nhật Bản có tính

lưu động thấp, nhân viên thuộc bộ phận R&D được các công ty đào tạo, bồi dưỡng

và “giữ chân”, ngược lại những nhân viên này rất trung thành và mong muốn gắn bó

suốt đời với công ty.

Trong khi đó, về phía các công ty Hàn Quốc, quá trình di chuyển lao động lại

diễn ra khá thường xuyên. Chính nhờ quá trình di chuyển lao động năng động mà

họ có thể sao chép được nhiều công nghệ sản xuất, giúp Hàn Quốc bước lên nấc

thang công nghệ cao hơn [17]. Ngày nay xu hướng quốc tế hóa đã trở nên phổ biến

tại nhiều trung tâm sáng chế trên thế giới, các nhà nghiên cứu, sáng chế, phát minh

cũng tham gia tích cực vào trào lưu toàn cầu hóa. Trên thương trường với những

cạnh tranh khốc liệt, kỹ thuật công nghệ đã trở thành một nhân tố có thể vượt ra

ngoài biên giới một quốc gia. Tại các công ty lớn của Hàn Quốc những công nghệ

mở được thu thập, từ đó phát triển lên tầm cao hơn, giúp họ tạo lập được lợi thế

cạnh tranh.

Về khả năng tiếp cận, khai thác thị trường, có thể thấy một trong những bí

quyết mang đến sự thành công vượt trội của Hàn Quốc nằm ở sự tăng trưởng của

các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Indonexia hay Việt Nam...,

nơi tiêu thụ số lượng lớn các sản phẩm có tính năng, thiết kế và mức giá trung bình,

khác biệt với các thị trường phát triển. Nửa đầu những năm 2000, các công ty Nhật

Bản sở hữu những thương hiệu mạnh chủ yếu nắm giữ các thị trường phát triển Âu

Mỹ. Trong khi đó, các doanh nghiệp Hàn Quốc từ sớm đã có chiến lược xâm nhập

vào các thị trường đang phát triển. Thương hiệu Nhật Bản ở các thị trường này còn

rất mờ nhạt, các doanh nghiệp Nhật cũng chỉ tập trung vào số ít là tầng lớp trung

lưu. Tuy nhiên, do tính chất thiếu ổn định của các thị trường mới nổi, nhiều công ty

Nhật Bản đã phải trực diện với không ít khó khăn, thậm chí phá sản, trong khi đa

phần doanh nghiệp Hàn Quốc kinh doanh rất phát đạt với phương thức quản lý

nhanh nhạy từ trên xuống. Qua đây có thể thấy rằng sự thu hẹp khoảng cách về

năng lực cạnh tranh giữa Nhật Bản với Hàn Quốc và Trung Quốc chính là một trong

95

những bằng chứng cho thấy vai trò của Nhật Bản trong mạng sản xuất khu vực sẽ

ngày càng bị đe dọa bởi các “đối thủ” lớn mạnh khác.

“Mối đe dọa” Trung Quốc

Chỉ vỏn vẹn chưa đầy một thập kỷ, từ một nước lớn khu vực, Trung Quốc đã

trở thành một cường quốc thế giới. Trung Quốc đã giành được ngôi vị nền kinh tế

thứ hai thế giới và số 1 khu vực của Nhật Bản từ 2010, đồng thời trở thành quốc gia

có thương mại hàng hóa và dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Trong khi Nhật Bản

chậm chạp trong việc tạo ra những thể chế hội nhập hữu hiệu, Trung Quốc đã liên

tục sử dụng sức mạnh kinh tế ngày càng tăng, dần trở thành trung điểm của trật tự

kinh tế và chính trị khu vực. Trung Quốc đã thiết lập khu vực tự do mậu dịch với

ASEAN, đề xuất nhiều hành động cụ thể, táo bạo nhằm tăng cường mạnh mẽ sự

hiện diện của mình trong khu vực. Từ đó đến nay Trung Quốc cũng đã gia tăng đầu

tư vào các láng giềng, kể cả với Đài Loan, trở thành đối tác thương mại lớn hàng

đầu của ASEAN, Hàn Quốc, thậm chí cả Nhật Bản. Nước này có tổng kim ngạch

thương mại với các quốc gia tham gia ký TPP trước đây còn cao hơn cả Mỹ.

Trước sự lôi kéo của Trung Quốc với nhiều sáng kiến, ưu đãi kinh tế hấp dẫn,

một cách tự nhiên các nước Đông Á sẽ bị kéo vào quỹ đạo của Trung Quốc. Mặc dù

Trung Quốc luôn bị chỉ trích là ngang ngược, tuy nhiên lúc cần vẫn có thể chơi “con

bài quyến rũ”. Trung Quốc có thể sử dụng vai trò là đối tác thương mại lớn nhất,

hay là quốc gia nhập siêu mà không bao giờ tỏ ra “tức giận”. Khác hẳn so với

phương Tây, các khoản vay do nhà nước Trung Quốc cung cấp cũng thường không

kèm theo bất cứ điều kiện chính trị nào. Mùa xuân năm 2013 Trung Quốc khởi

xướng Con đường tơ lụa trên biển. Năm 2014 chủ tịch Trung Quốc tuyên bố về

"Giấc mộng Trung Hoa" và sau đó năm 2015 là sáng kiến AIIB, chứng tỏ vai trò và

khả năng cung cấp “tài sản công” mà các chủ thể trong khu vực đều có thể sử dụng

chung. Sau Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 10/2017, ông Tập Cận

Bình đã trở thành Chủ tịch nước quyền lực nhất của Trung Quốc kể từ thời Mao

Trạch Đông. Trong bài phát biểu của mình, ông Tập đã cam kết Trung Quốc sẽ tiếp

tục tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong các vấn đề quốc tế trong thời đại mới khi mà

nước này hướng tới “sân khấu” trung tâm toàn cầu. Những nỗ lực như vậy đã đưa

96

Trung Quốc vào vị trí tâm điểm về địa chính trị - kinh tế của khu vực Đông Á và xa

hơn là của cả thế giới, đồng thời tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng đến những nỗ lực

nâng cao vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế khu vực.

Quyết định từ bỏ TPP của Mỹ

Đối với Nhật Bản TPP có tầm quan trọng rất lớn về phương diện kinh tế, trước

hết vì theo một ý nghĩa nhất định, hiệp định này giống như một FTA giữa Mỹ và

Nhật Bản. Bên cạnh những ảnh hưởng to lớn [1], TPP còn gắn liền với chương trình

Abenomics, khi Thủ tướng Abe đã lên kế hoạch dựa vào TPP để chèo lái chương

trình cải cách cơ cấu nền kinh tế. TPP còn giúp giảm sự phụ thuộc thương mại của

Nhật Bản vào Trung Quốc. Đặc biệt, bên cạnh những ý nghĩa kinh tế đơn thuần,

TPP còn là một công cụ thiết lập các quy tắc kinh tế thương mại mà Nhật Bản cùng

với Mỹ chính là những nước đi đầu thúc đẩy. Được ví như “NATO kinh tế” [33],

TPP chính là trụ cột kinh tế trong chiến lược “Tái cân bằng châu Á” của Mỹ, bên

cạnh hai trụ cột khác là an ninh - quân sự. Để duy trì sự thống trị của Mỹ ở Đông Á,

ngăn chặn mối thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Mỹ, đảm bảo lợi ích chiến

lược về an ninh - chính trị, ứng phó trước tình hình tái cấu trúc trật tự đang hình

thành, TPP giúp Mỹ cụ thể hóa chiến lược này thông qua việc viết nên các quy tắc

kinh tế - thương mại, tạo ra một cấu trúc khu vực có thể đối phó với Trung Quốc.

Không chỉ là mắt xích quan trọng nhằm kiềm chế Trung Quốc, TPP còn là biểu hiện

quan trọng về vai trò lãnh đạo của Mỹ ở châu Á [34]. Bởi vậy mà sự từ bỏ TPP của

Mỹ đã làm sụt giảm nghiêm trọng ảnh hưởng kinh tế và thương mại của Mỹ ở khu

vực đúng vào thời điểm mà ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc đang lên nhanh, các

sáng kiến kinh tế đa phương lấy Trung Quốc làm trung tâm như BRI, AIIB, RCEP

đã thu hút hầu hết các quốc gia châu Á. Không ít ý kiến đã nhận xét việc Mỹ rút

khỏi hiệp định TPP là “Sự ly khai một lần nữa lại làm rung chuyển thế giới sau

Brexit” [113], “Một món quà vô giá mà Mỹ trao tặng cho Trung Quốc” hay “Mỹ đã

trao cho Trung Quốc chìa khóa nhất thể hóa kinh tế châu Á – TBD” [31]…

Rõ ràng việc Mỹ - đồng minh quan trọng nhất của Nhật Bản – dành nhiều

quan tâm đến khu vực Đông Á là cơ hội giúp nâng cao đáng kể vai trò của Nhật

trong khu vực và tăng cường thêm phạm vi hợp tác Mỹ Nhật. Nhìn lại tuyên bố lần

97

đầu tiên của Mỹ về việc sẽ thúc đẩy hiệp định TPP đã được đưa ra chính tại Nhật

Bản (tháng 11/2009 bởi Tổng thống Barack Obama) [90]. Vào tháng 7/2013, quyết

định tham gia đàm phán TPP được đưa ra muộn mằn của Nhật Bản từng được đánh

giá là sự kiện quan trọng nhất trong quan hệ giữa Mỹ với châu Á - TBD trong một

thập kỷ qua [86]. Chính quyết định tham gia của Nhật Bản đã giúp làm tăng gấp bội

ảnh hưởng về kinh tế của TPP và đưa Mỹ trở lại cuộc chơi thương mại tự do tại

Đông Á. Là đồng minh luôn sát cánh cùng với Mỹ, Nhật Bản cũng đã bỏ qua những

lợi ích tiềm tàng cũng như việc hàng loạt đồng minh quan trọng của Mỹ là Anh,

Australia, Hàn Quốc, Philippines, Đức, Italy… đều đệ đơn xin gia nhập Ngân hàng

Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) vẫn cương quyết đứng ngoài cơ chế đối lập

với TPP này. Bởi vậy có thể nói quyết định từ bỏ TPP của Tổng thống Trump đã

cho thấy sự thiếu trách nhiệm đối với đồng minh thân cận nhất tại khu vực như Nhật

Bản. Sự thay đổi chính sách đột ngột, “đầu voi đuôi chuột” của Mỹ còn khiến Nhật

mất đi hy vọng có thể dựa vào những chuẩn mực quy tắc được lập nên như một

hàng rào bảo vệ trước Trung Quốc và cho thấy dấu hiệu nguy hiểm về sự thay đổi

chiến lược tổng thể của Mỹ đối với khu vực Đông Á.

Bên cạnh đó, mặc dù thu hẹp sự gánh vác trách nhiệm, chính quyền Tổng

thống Trump vẫn giữ nguyên lập trường thực dụng với quan niệm “Nước Mỹ trên

hết” trong quan hệ thương mại song phương, cho thấy một cách tiếp cận vụ lợi và

mang tính giao dịch, ngay cả với đồng minh quan trọng nhất như Nhật Bản.

Hơn nữa, đối với một đồng minh luôn tận tụy như Nhật Bản thì mặc dù sự "rời

xa" Đông Á của Mỹ là một thách thức rất lớn đối với việc nâng cao vai trò và vị thế

khu vực, thế nhưng họ cũng không có nhiều phương án để lựa chọn. Môi trường địa

chính trị của Nhật Bản nghiêm trọng hơn nhiều so với những đồng minh khác của

Mỹ ở châu Âu. Bị bao vây bởi các cường quốc hạt nhân (Trung Quốc, Nga và gần

đây là Triều Tiên), Nhật Bản cũng có các vấn đề về lãnh thổ khá nan giải với cả

Trung Quốc và Nga, buộc họ phải không ngừng duy trì liên minh vững chắc với Mỹ.

Nói một cách ngắn gọn Nhật Bản không có một phương án thay thế đáng tin cậy

nào khác cho liên minh này.

98

Tuy nhiên trong thách thức nhiều khi cũng ẩn chứa cơ hội. Liệu Nhật Bản có

tận dụng được những cơ hội này để tìm lại vị thế dẫn đầu trong quá khứ hay không?

Phần tiếp theo sẽ làm rõ câu hỏi này thông qua tìm hiểu vai trò của Nhật Bản đối

với liên kết kinh tế khu vực trong bối cảnh đối đầu quyết liệt diễn ra giữa Trung

Quốc và Mỹ tại Đông Á, châu Á - TBD.

3.2.2. Vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á trong

bối cảnh cạnh tranh Trung Mỹ

Chính trị quốc tế luôn là một “chiến trường” tranh giành ảnh hưởng giữa các

cường quốc. Đông Á là nơi hiện diện lợi ích của hai siêu cường, bởi vậy mà sự can

dự, lôi kéo ảnh hưởng của các siêu cường này là không thể tránh khỏi. Mặc dù cuộc

chiến thương mại và công nghệ thông tin Mỹ - Trung hiện nay đang là chủ đề được

chú ý nhiều, tuy nhiên còn có sự tranh giành vị thế kinh tế không kém phần quyết

liệt khác đã diễn ra giữa một nước muốn duy trì ngôi vị “bá chủ” với một nước mới

nổi tin rằng họ có tư cách để khẳng định vị thế một cường quốc.

3.2.2.1. Cạnh tranh Trung Mỹ nhìn từ hai định chế kinh tế TPP và AIIB

Thực chất AIIB và TPP là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. AIIB là một ngân

hàng đa phương hỗ trợ cho kiến thiết cơ sở hạ tầng tại các nước đang phát triển

châu Á, còn TPP là một thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia vùng lòng

chảo Thái Bình Dương. Mặc dù thuộc hai lĩnh vực, thế nhưng cả hai định chế kinh tế

cùng xuất phát từ APEC - diễn đàn mà trong vài năm trở lại đây đã trở thành "sân khấu

khu vực" thể hiện sự đối đầu Trung Mỹ - đều có những tác động mang tính chi phối

đến tiến trình liên kết kinh tế Đông Á. Đông Á hiện đang là trung tâm phát triển của

kinh tế thế giới. Việc thiết lập những định chế sẽ làm nên các quy tắc kinh tế của khu

vực chính là điều kiện cần của bất cứ quốc gia nào muốn nhằm đến quyền lãnh đạo

trong thế kỷ 21. Những phân tích dưới đây sẽ làm rõ về bản chất của hai định chế này,

từ đó lý giải nguyên nhân vì sao nói TPP và AIIB đại diện cho quan hệ đối lập Mỹ -

Trung về phương diện thiết lập các nguyên tắc kinh tế tại Đông Á, châu Á - TBD.

Ý nghĩa kinh tế của TPP – Thỏa thuận chất lượng cao của thế kỷ XIX

Khuôn khổ đàm phán thương mại tự do đa phương Hiệp định đối tác Xuyên

Thái Bình Dương (TPP) là một định chế hội nhập kinh tế giữa 12 quốc gia trong

99

vùng lòng chảo châu Á - TBD do Mỹ đề xướng. TPP quy tụ một khu vực gồm hơn

800 triệu người, gần 40% GDP toàn cầu, tuy nhiên không bao gồm Trung Quốc. Là

tiêu điểm quan trọng của thương mại Đông Á, châu Á – TBD và thế giới, TPP được

ca ngợi là bước tiến quan trọng nhất đối với tự do hóa thương mại kể từ Vòng đàm

phán của WTO tại Uruguay năm 1995, sự kiện đàm phán thương mại toàn cầu lớn

nhất từ trước đến nay. Nếu hoàn tất, TPP sẽ đặt nền móng cho một trật tự thương

mại quốc tế mới mà WTO và các thể chế tiền thân đã không làm được trong hơn

nửa thế kỷ qua. Kể từ khi thành lập, WTO vẫn chưa nâng cấp được các quy định về

đầu tư và thương mại, trong khi đàm phán Doha vẫn bế tắc. Do đó, TPP có thể trở

thành định chế có sức cuốn hút rất mạnh mẽ để thúc đẩy các nước, đặc biệt là Trung

Quốc tiến hành cải cách thị trường và tham gia các cam kết tự do hóa cao hơn.

Hơn nữa, còn được gọi là “Thỏa thuận chất lượng cao của thế kỷ XIX", TPP

được kỳ vọng sẽ là mô hình mới cho các Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA) trên

thế giới. PTA thế hệ trước (thế kỷ XX) về cơ bản nhằm tạo điều kiện cho hàng hóa

trao đổi qua biên giới vượt qua hàng rào thuế quan. Còn TPP không chỉ cho phép

các thành viên có quyền thâm nhập thị trường hàng hóa của nhau, mà còn giải quyết

những vấn đề mới của thương mại như đầu tư, dịch vụ tài chính, viễn thông, thương

mại điện tử, các biện pháp đối kháng, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, tăng năng lực sản

xuất, tiêu chuẩn hiệu suất lao động, môi trường. Không chỉ tác động tích cực tới 12

quốc gia tham gia ký kết, TPP với mô hình cũng như quy mô chưa từng có từ trước

đến nay còn đẩy nhanh hơn hội nhập kinh tế khu vực Đông Á, châu Á - TBD.

Ý nghĩa chiến lược của TPP

Để nắm rõ được bản chất, bên cạnh ý nghĩa kinh tế đơn thuần không thể

không đề cập đến ý nghĩa chiến lược của TPP. Báo cáo kết quả sau 3 năm triển khai

Chiến lược tái cân bằng [80] của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ ngày

17/4/2014 đã khẳng định, TPP chính là nền tảng của chính sách Tái cân bằng châu

Á. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter nhấn mạnh, TPP không chỉ là bộ

phận quan trọng Chính sách xoay trục mà về mặt chiến lược còn có giá trị nhiều

hơn so với việc Mỹ có thêm một hạm đội tàu sân bay nữa tại châu Á [29]. Cựu

Tổng thống Mỹ Barack Obama thậm chí đã không úp mở về việc TPP là công cụ để

100

đối trọng với Trung Quốc. Ông Obama đã nhiều lần tuyên bố TPP sẽ giúp kinh tế

Mỹ phát triển và tăng cường an ninh quốc gia. Châu Á – TBD vẫn sẽ trở thành một

khối kinh tế dù có Mỹ hay không. Mỹ có thể dẫn đầu, hoặc đứng sang một bên. Thế

giới đã thay đổi, các luật lệ cũng đang thay đổi cùng với nó. Nếu Mỹ không viết

những luật lệ mới thì Trung Quốc sẽ làm và điều này không chỉ đe dọa công ăn việc

làm của người Mỹ mà còn làm suy yếu sự lãnh đạo của Mỹ trên toàn thế giới [140].

Ngoài ra, TPP còn là biểu hiện cụ thể về cam kết của Mỹ đối với khu vực.

Brad Glosserman, Giám đốc Diễn đàn Thái Bình Dương, Trung tâm Nghiên cứu

Chính sách và Chiến lược (CSIS) đã nhận xét, là một bộ phận then chốt trong chính

sách ngoại giao của Mỹ, TPP nối kết Mỹ chặt chẽ hơn với các nước trong khu vực.

Qua nối kết về kinh tế và chính trị, Mỹ đánh đi một tín hiệu để các đồng minh cũng

như các địch thủ của họ biết rằng họ đang thật sự đoàn kết.

Việc sử dụng PTA để tăng cường mối quan hệ chiến lược của nhiều nước lớn,

trong đó có Mỹ là một cách làm tương đối phổ biến. Cựu Đại diện Thương mại Mỹ

Robert Zollik từng phát biểu : “Với Mỹ PTA là một hướng ưu tiên bởi đây chính là

sự hợp tác trong các vấn đề chính sách đối ngoại và an ninh”. Ngay cả chuyên gia

về thương mại tự do Jagdish Bgawati cũng nhận xét “TPP về cơ bản phục vụ lợi ích

các quốc gia lo ngại vì sự hung hăng của Trung Quốc, những nước đang tìm kiếm

không chỉ sự gia tăng thương mại, mà quan trọng hơn còn là an ninh chính trị”. Còn

theo Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Mỹ, nhằm đối phó với một Trung Quốc đang trỗi

dậy, nước này cần phải xây dựng một loạt mối quan hệ mới với các đồng minh và

đối tác có cùng tư tưởng của Mỹ ở châu Á không bao gồm Trung Quốc, đưa ra các

chính sách hiệu quả để đối phó với việc nước này sử dụng tràn lan các công cụ địa

kinh tế ở châu Á [30]. Cũng theo hội đồng này, liên minh Mỹ - châu Á cần được

khởi động để đối phó với sự "bắt nạt" của Trung Quốc với các láng giềng là đồng

minh, bạn bè của nước Mỹ theo cách thức phù hợp với quy tắc quốc tế, tăng cường

khả năng đối phó với Trung Quốc của các nước châu Á một cách độc lập lẫn hợp

tác chiến lược, đôi khi sẽ được hỗ trợ một cách có hệ thống bởi Mỹ. Hiện tại, không

một sức mạnh đơn lẻ nào – kể cả Mỹ – có thể tự mình đối trọng được sức mạnh và

tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Để bảo đảm được sự cân bằng lực lượng ổn định,

101

những quốc gia “cùng chung tư tưởng” cần đoàn kết với nhau trong việc tạo ra một

trật tự khu vực dựa trên quy tắc.

Qua đây có thể thấy rằng, bao gồm cả hai nền kinh tế thứ nhất và thứ ba thế

giới, mục tiêu đối với TPP của Mỹ không chỉ giới hạn ở các vấn đề kinh tế. Có

những mục tiêu địa - chính trị quan trọng mà Mỹ muốn giải quyết, đó là tăng cường

các liên minh và đối tác trong khu vực Đông Á, châu Á - TBD để cùng đối phó với

sức mạnh và ảnh hưởng đang ngày một gia tăng nhanh chóng của Trung Quốc.

Nhận diện AIIB

Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (Asian Infrastructure Investment

Bank - AIIB) là một tổ chức tài chính phát triển quốc tế nằm trong nhóm Ngân hàng

Phát triển Đa phương (Multilateral Development Bank - MDB) tương tự IMF (Quỹ

Tiền tệ quốc tế) do Mỹ dẫn dắt và ADB (Ngân hàng Phát triển châu Á) do Nhật Bản

và Mỹ chủ đạo. Sáng kiến thành lập AIIB đã được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản,

Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình công bố lần đầu tại APEC Indonesia 2013.

Khi chính thức công bố tại APEC Bắc Kinh tháng 11/2014, Trung Quốc đã vận

động được hơn 21 quốc gia ký vào tuyên bố thành lập. Đến tháng 6/2017 tổng số

thành viên AIIB đã nâng lên 80 quốc gia. Đến tháng 9/2017 AIIB đã vượt qua ADB

trở thành thể chế đa phương lớn thứ hai thế giới chỉ sau Ngân hàng thế giới.

Mục tiêu của AIIB là thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua đầu tư cơ sở hạ

tầng khu vực châu Á. Các dự án mà AIIB ưu tiên cấp vốn thuộc các lĩnh vực trọng

yếu như năng lượng, giao thông vận tải và viễn thông… Với nguồn vốn pháp định

100 tỷ USD, phần lớn do Trung Quốc đóng góp, AIIB sẽ bổ sung với các MDBs

hiện có để cùng giải quyết các nhu cầu vốn vay cơ sở hạ tầng tại những quốc gia

đang phát triển châu Á.

Tại châu Á, đầu tư cho cơ sở hạ tầng đang là một đòi hỏi hết sức bức thiết. Dù

ADB và WB đã đóng góp rất nhiều trong cấp vốn phát triển khu vực, thế nhưng

những thể chế hiện hành này vẫn chưa đáp ứng được quy mô quá lớn về nhu cầu hạ

tầng của khu vực. Giải pháp giúp hỗ trợ cho con số 8.000 tỷ USD thiếu hụt theo tính

toán của ADB cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng như AIIB sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với sự

tăng trưởng của các nền kinh tế khu vực. Thông qua kết nối và thúc đẩy hội nhập

102

sâu hơn, sáng kiến này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các nước cũng

như duy trì vai trò của các nền kinh tế châu Á như là động lực chính của tăng

trưởng toàn cầu trong thời gian tiếp theo.

Ý nghĩa chiến lược của AIIB

Tất nhiên, động cơ của Trung Quốc khi lập ra một ngân hàng trị giá lên tới

1.000 tỷ USD không chỉ đơn thuần là "từ thiện”. Trước hết AIIB sẽ giúp tái phân bổ

số dự trữ ngoại hối khổng lồ gần 4.000 tỷ USD của Trung Quốc vào lĩnh vực cơ sở

hạ tầng với nhiều lợi ích hứa hẹn, mở ra cơ hội tiêu thụ tiềm năng cho các doanh

nghiệp thép và xi măng Trung Quốc đang khổ sở vì thừa năng suất, tạo những thị

trường rộng lớn cho các doanh nghiệp đường sắt, nhiệt điện… của nước này. Một

động lực khác nữa là Trung Quốc có thể củng cố vị trí trung tâm trong mạng lưới

sản xuất khu vực và thế giới, chìa khóa của tăng trưởng kinh tế trong vài thập kỷ tới.

Trung Quốc hiểu rằng khi nền kinh tế trưởng thành và thu nhập đầu người tăng lên,

các ngành công nghiệp có mức thu nhập thấp vốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong

nước sẽ di chuyển sang các nước kém phát triển hơn, nơi có giá nhân công rẻ hơn.

Bởi vậy trước khi điều đó xảy ra, Trung Quốc muốn sắp xếp cho họ một chỗ đứng ở

vị trí trung tâm của mạng sản xuất. Bằng cách này, trong tương lai Trung Quốc

cũng có thể nắm giữ được những thị phần có giá trị gia tăng cao hơn trong mạng sản

xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thêm vào đó, đằng sau những lý do kinh tế đơn thuần, AIIB cũng có những

động cơ chiến lược khác. Thứ nhất, AIIB giúp Trung Quốc đẩy nhanh hơn nữa tốc

độ quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ. Có thể thấy khi một cộng đồng kinh tế vận hành

có hiệu quả, đến một lúc nào đó nhu cầu về việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ

hình thành. Với ý nghĩa như vậy, với viên gạch đầu tiên là AIIB và trọng tâm là lĩnh

vực cơ sở hạ tầng, mục tiêu chiến lược đẩy nhanh quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ

cũng được Trung Quốc hướng tới. Theo báo cáo của SWIFT, Deutsche Bank năm

2014, đồng Nhân dân tệ năm 2013 đã vươn lên trở thành đồng tiền thứ hai trên thế

giới được sử dụng rộng rãi nhất trong thanh toán thương mại. Thứ hai, Trung Quốc

muốn cạnh tranh với hệ thống Bretton Woods do Mỹ lập nên. Sau Thế chiến II, Mỹ

đã hình thành trật tự kinh tế thế giới (Chế độ Bretton Woods) cùng với các đồng

103

minh với các định chế tài chính và phát triển, để từ "Trật tự-dựa-trên-luật-định"

(Rules-based-order) này ảnh hưởng đến kinh tế thế giới. Trật tự do Mỹ dẫn đầu đã

mang lại lợi ích cho Mỹ. IMF được tạo ra nhằm duy trì chế độ Bretton Woods chỉ

có Mỹ nắm quyền phủ quyết. Tại châu Á, Nhật Bản và Mỹ cũng cùng độc quyền

quyền phủ quyết trong ADB. Trong khi đó, vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc

trong các định chế tài chính lâu đời như ADB hay IMF lại cực kỳ nhỏ.

Nhưng thời thế đã thay đổi, GDP danh nghĩa của Trung Quốc hiện đã chiếm

tới 12% GDP thế giới. Trong lịch sử chưa từng có một chính phủ nào kiểm soát trực

tiếp nhiều của cải như giới lãnh đạo của Trung Quốc hiện nay. Do đó không ngạc

nhiên khi sức mạnh kinh tế gia tăng, Trung Quốc sẽ muốn sử dụng chúng để thúc

đẩy các mục tiêu chiến lược. Để nâng cao vị thế tài chính quốc tế của mình, Trung

Quốc đã yêu cầu thay đổi thành phần quyền biểu quyết trong IMF và ADB nhưng

không được Mỹ và Nhật Bản chấp nhận. Và AIIB ra đời với sự điều phối của Trung

Quốc đã trở thành đối trọng lớn của các định chế tài chính và phát triển lâu đời này.

Trong số các nước thành viên AIIB chỉ có mình Trung Quốc nắm trên 25% số phiếu.

Theo quy định, những dự luật quan trọng nhất muốn được thông qua phải có 75%

phiếu bầu cần thiết, bởi vậy có thể nói chỉ có Trung Quốc là nước có quyền phủ

quyết và nắm vai trò chi phối đối với AIIB. Trụ sở của AIIB cũng được đặt tại Bắc

Kinh và Thống đốc ngân hàng là người Trung Quốc – ông Kim Lập Quần. Với

AIIB, Trung Quốc đã có thể thách thức vị thế của Mỹ trên trường quốc tế trong vai

trò dẫn dắt các quốc gia khác theo Trật tự-dựa-trên-luật-định được Mỹ thiết lập từ

trước với một "Beijing Woods" do họ lập ra.

Thứ ba, trong việc thành lập AIIB, Bắc Kinh còn ấp ủ một tham vọng sâu xa

là hiện thực hóa sáng kiến "Vành đai và Con đường" kết nối Đông Á với châu Âu,

châu Phi và Trung Đông, giành thế chủ đạo trong dẫn dắt tiến trình hội nhập kinh tế.

Khẩu hiệu "Giấc mộng Trung Hoa" của Chủ tịch Tập đã được cụ thể hóa với

một kế hoạch hành động mang tên Sáng kiến "Một vành đai một con đường"

(OBOR, tên gọi trước đây của "Vành đai và Con đường" - BRI). OBOR/BRI là

chính sách đối ngoại quan trọng nhất mà ông Tập vẫn gọi là “Dự án thế kỷ”. Sáng

kiến này cho thấy rằng ông Tập theo đuổi đường lối đối ngoại chủ động đi tiên

104

phong, trái với tư tưởng “giấu mình chờ thời” của ông Đặng Tiểu Bình trước đây.

Mục tiêu của BRI theo mô tả của ông Tập là thúc đẩy hội nhập khu vực, đẩy mạnh

thương mại và tăng trưởng kinh tế. Một số nhà phân tích thậm chí còn so sánh BRI

với Kế hoạch Marshall của Mỹ sau Thế chiến II. Đặt Trung Quốc vào vị trí trung

tâm, kế hoạch bao phủ khu vực có dân số 4,4 tỷ người và tổng GDP 21.000 tỷ USD

(khoảng 1/3 GDP toàn cầu) này có thể định hình lại kinh tế toàn cầu trong thế kỷ

XXI bằng việc kết nối các nền kinh tế Á – Âu – Phi bằng một mạng lưới giao thông

và cơ sở hạ tầng rộng lớn chưa từng có.

Tương tự nhiều "nước lớn" khác trong đó có Mỹ, với Trung Quốc việc đề xuất

các sáng kiến thường hướng đến đa mục tiêu, nói cách khác là lợi ích kinh tế, chính

trị, an ninh được lồng ghép. BRI nằm trong một kế hoạch tổng thể được gọi là

“Chiến lược phối hợp” (Cooperative strategy) của Trung Quốc. Theo Báo “Bưu

điện Hoa Nam Buổi sáng”, BRI kết hợp với AIIB cùng với SRF (Quỹ Con đường

Tơ lụa) tạo thành một cơ chế đồng bộ giúp các công ty của Trung Quốc xây dựng

các con đường bộ, tuyến đường sắt, cảng biển và những hệ thống đường điện trải

dài khắp châu Á, châu Phi và Trung Đông. Mạng lưới cơ sở hạ tầng này cuối cùng

sẽ liên kết ba lục địa bằng hệ thống đường sắt và đường bộ, làm sống lại các tuyến

đường thương mại trên đất liền và trên biển xa xưa. Sau cùng, nếu tầm nhìn này

được thực hiện thì tất cả các tuyến đường đó sẽ dẫn tới Bắc Kinh, hiện thực

hóa ” Giấc mộng Trung Hoa" khi biến Trung Quốc trở thành quốc gia trung tâm.

Tầm nhìn của Trung Quốc trong thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực và lý

do nước này chú trọng vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng

Để hiểu rõ hơn về động lực của Trung Quốc đối với BRI và AIIB, trước hết

cần xem xét lại tầm nhìn của Trung Quốc về hội nhập kinh tế khu vực. Có thể thấy

rằng cách tiếp cận phổ biến của phương Tây với hội nhập kinh tế khu vực (ví dụ

NAFTA và EU) là tự do hóa thương mại, kinh tế, sử dụng các hiệp định tự do hóa

để dỡ bỏ rào cản pháp lý và thể chế đối với thương mại và đầu tư, tạo ra các quy

định, tiêu chuẩn và cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính ràng buộc pháp lý, thiết

lập một không gian mở cho các doanh nghiệp tư nhân.

105

Trong khi đó, cách tiếp cận của Trung Quốc với hội nhập kinh tế khu vực lại

tập trung vào khía cạnh tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, nghĩa là thúc

đẩy thương mại và đầu tư bằng cách cải thiện năng lực kết nối giữa các thị trường

thông qua phát triển cơ sở hạ tầng. Trong khi Mỹ chỉ tập trung vào việc thực hiện

hợp chuẩn quy tắc tại các quốc gia khác mà ít chú trọng tới điều gì là cần thiết với

những nền kinh tế đó, thì Trung Quốc lại muốn tập trung đầu tư vào xây dựng cơ sở

hạ tầng cho các đối tác, bởi rõ ràng phát triển cơ sở hạ tầng là vẫn là những vấn đề

thiết thân với các quốc gia đang phát triển châu Á, hơn là những tiêu chuẩn cao về

môi trường, sở hữu trí tuệ... Cơ sở hạ tầng tốt sẽ thúc đẩy sự phát triển, dẫn đến sự

hội nhập kinh tế lớn hơn. Sáng kiến này thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ giữa các thị

trường đang nổi có tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ dọc tuyến đường nhờ vào hợp

tác kinh tế và thương mại, tăng cường cơ sở hạ tầng giao thông, tạo ra các kết nối

khu vực mới và các cụm khu công nghiệp khổng lồ.

Hơn nữa BRI cũng có thể phát triển thành một mô hình sáng tạo luật chơi và

đóng vai trò như một phương tiện định hình lại trật tự kinh tế và chính trị toàn cầu.

Với BRI Trung Quốc có thể tạo ra những hành lang kinh tế xuyên lục địa tỏa khắp

Á - Âu (Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa) và vành đai biển Á - Âu (Con đường tơ

lụa trên biển thế kỷ 21), kết quả là sẽ thúc đẩy các dòng kinh tế ra vào xuất phát từ

Trung Quốc. Cấu thành của BRI và hai Con đường tơ lụa gồm cả hạ tầng cứng và

mềm. Hạ tầng cứng là thép, bê tông, máy móc để xây đường sắt, đường cao tốc,

cảng biển, đường ống dẫn nhiên liệu, khu công nghiệp, cơ sở hải quan cửa khẩu và

các đặc khu thương mại. Còn hạ tầng mềm là những thể chế tài chính cho phát triển

như các thỏa thuận thương mại và đầu tư quốc tế, diễn đàn hợp tác đa phương, công

trình nghiên cứu hàn lâm, giao lưu văn hóa, du lịch… tạo nền tảng xã hội cho các

dòng thương mại và đầu tư. Việc thúc đẩy BRI theo những chương trình nghị sự

này sẽ không đòi hỏi Trung Quốc phải đối mặt với những cuộc đàm phán đa

phương lâu dài và đầy rẫy khó khăn. Chỉ cần Trung Quốc đứng lên đóng vai trò dẫn

dắt trong đề xuất, thảo luận, thúc đẩy hợp tác và cung cấp cho đối tác những khuyến

khích vật chất như tín dụng, đầu tư và cơ hội thương mại mới, rất nhiều quốc gia sẽ

sẵn sàng tình nguyện hợp tác với sáng kiến hội nhập kinh tế của Trung Quốc.

106

Hơn nữa cơ sở hạ tầng kinh tế cũng không phải là ưu tiên lớn đối với các nhà

tài trợ phương Tây, bởi vậy mà Trung Quốc lại càng lợi thế trong vai trò định hình

hội nhập kinh tế Á - Âu. Một thế kỷ trước, nhà lý luận địa chính trị người Anh

Halford Mackinder đã lập luận, bất cứ ai nắm quyền kiểm soát lục địa Á - Âu sẽ

kiểm soát được cả thế giới. Bởi vậy có thể nói tầm nhìn địa chiến lược Á - Âu này

sẽ vô cùng hiệu quả nếu tốc độ tăng trưởng nhanh của Trung Quốc tiếp tục được

duy trì. Trung Quốc không chỉ nhanh chóng tạo được ảnh hưởng ngày càng to lớn

về kinh tế, quân sự và chính trị với các nước láng giềng, mà còn có thể làm chủ

không gian ảnh hưởng ở châu Á, kiểm soát các nguồn lực Á – Âu, Phi, tạo nền tảng

vững chắc cho việc thiết lập một trật tự quốc tế mới.

Lý giải về việc vươn xa sang hướng Tây, có thể thấy Trung Quốc là quốc gia

đại lục rất lớn, biên giới đất liền tiếp giáp với 14 quốc gia. Chính vì vậy, ổn định

quan hệ với các nước láng giềng trên đất liền bằng một mạng lưới như BRI là rất

cần thiết. Bên cạnh đó, theo chuyên gia Đông Nam Á Shiraishi Takashi (Giám đốc

Học viện Nghiên cứu Chính sách, Viện Nghiên cứu Kinh tế Châu Á của Nhật Bản),

giai đoạn sau khủng hoảng tài chính, các nước Đông Nam Á đều xa rời Mỹ hơn và

ảnh hưởng của Trung Quốc đã gia tăng vượt bậc. Thế nhưng chỉ trong vòng vẻn vẹn

vài năm kể từ 2008, uy tín Trung Quốc đã sụp đổ, từ vấn đề Biển Đông và biển Hoa

Nam cũng có thể được sự thất bại trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Với

Nhật Bản, Trung Quốc cũng đã gây nên nhiều hiềm khích về chủ quyền biển đảo,

khiến cho quan hệ Nhật Mỹ càng trở nên khăng khít. Khi quan hệ với các nước láng

giềng xung quanh trở nên căng thẳng, Trung Quốc muốn hướng về phía Tây, nơi họ

chưa từng có xung đột.

Hơn nữa, liên quan đến vấn đề lãnh thổ, việc mở rộng đầu tư cơ sở hạ tầng vào

những quốc gia Trung Á cũng tạo ra cho Trung Quốc một khu vực láng giềng giáp

các tỉnh phía Tây Trung Quốc vốn bất ổn như Tây Tạng và Tân Cương trở nên ổn

định. Ngoài ra việc khuyến khích các dự án quanh khu vực Biển Đông cũng có thể

giúp Trung Quốc củng cố sức nặng tuyên bố chủ quyền của mình ở khu vực này.

Theo nhiều chuyên gia, chính sách "ngoại giao cơ sở hạ tầng" của Trung Quốc phản

ánh một động cơ là tăng cường các mối quan hệ dọc theo vùng ngoại vi đất liền của

107

họ vào thời điểm mà các tranh chấp lãnh thổ gây căng thẳng trong quan hệ với các

nước láng giềng có biển. Trong bối cảnh các mối quan hệ bên sườn hàng hải phía

Đông xấu đi, Trung Quốc bắt đầu muốn xây dựng các quan hệ hợp tác và ổn định

bên sườn đất liền phía Tây. Đây là khu vực mà sự hiện diện của Mỹ không được

mạnh mẽ như ở vùng biển Đông Á, nơi Mỹ đang "rầm rộ" triển khai kế hoạch "Tái

cân bằng" dựa vào các đồng minh truyền thống (phần lớn đều là các cường quốc

biển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và Australia), đồng thời tìm

cách phát triển các mối quan hệ đối tác mới với các nước Đông Nam Á như Việt

Nam và Myanmar.

Vậy xét cho cùng liên hệ giữa AIIB và BRI là gì ? Về câu hỏi này, Tạp chí

Forbes của Mỹ ngày 15/11/2017 đã phân tích, mối liên hệ giữa AIIB và BRI giống

như hai cánh tay trên cùng một cơ thể [100]. Phó Giáo sư Lý Cự Uy chuyên gia tài

chính nổi tiếng của Đại học Thành Thị (Hong Kong) cho rằng, mục đích chính của

Trung Quốc khi khởi xướng AIIB và lập “Quỹ Con đường Tơ lụa” (SRF) là nhằm

vào Mỹ, cạnh tranh ảnh hưởng và thách thức vị trí lãnh đạo khu vực của Mỹ. Để

thực hiện sáng kiến tham vọng kết hợp giữa hỗ trợ kinh tế với gia tăng quyền lực

địa chiến lược, BRI rất cần đến những định chế tài chính mới do Trung Quốc dẫn

dắt như AIIB, SRF và Ngân hàng Phát triển Mới (thuộc BRICS). Hỗ trợ chặt chẽ

cho BRI, AIIB là công cụ tài chính để tạo nên các “quan hệ đối tác liên kết”. Tại

APEC Bắc Kinh 2014, ông Tập đã tuyên bố trọng tâm cho vay của AIIB sẽ là

những dự án hạ tầng vận tải kết nối châu Á với châu Âu. AIIB với mục đích thúc

đẩy BRI đến nay đã đầu tư 2,8 tỷ USD (khoảng 314,5 tỷ JPY) vào các dự án năng

lượng và cơ sở hạ tầng [119], cho thấy không chỉ cung cấp tài chính cho xây dựng

cơ sở hạ tầng đơn thuần, AIIB chính là phương tiện để thực hiện "Vành đai và Con

đường". Bao bọc Á- Phi-Âu trong một loạt những thỏa thuận kinh tế, cấu trúc hợp

tác, kiểm soát những vị trí trọng yếu như trò chơi cờ vây, Trung Quốc thể hiện rằng

họ có khả năng cung cấp “tài sản công cộng” mà các nước đều có thể sử dụng.

Theo nhận định của Trung Quốc mục tiêu của TPP là cấu kết các nền kinh tế

vây quanh Trung Quốc thành một trận tuyến thống nhất, cộng với Hiệp định

Thương mại và Đầu tư Xuyên Đại Tây Dương (T-TIP) Mỹ đang thương thuyết với

108

các nước châu Âu sẽ trở thành một trận tuyến toàn cầu mà Mỹ bày ra. Để đối lại,

kinh tế cũng không phải là động lực duy nhất của BRI. Mục tiêu quan trọng của

BRI chính là ngăn chặn và đẩy lùi ảnh hưởng của Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và đặc biệt

là Mỹ tại châu Á.

Qua những phân tích trên có thể thấy được rằng ý nghĩa chiến lược của AIIB

và mối liên hệ giữa AIIB với đại chiến lược BRI của Trung Quốc. AIIB cũng như

BRI không chỉ là các sáng kiến kinh tế thuần túy mà còn là công cụ địa chính trị

nhằm tối đa hóa các lợi ích của Trung Quốc, mắt xích quan trọng mà Trung Quốc

lập lên để loại trừ Mỹ trên lục địa từ Á đến Âu, đối phó với chiến lược Xoay trục

châu Á, giành quyền chủ đạo chính sách và xác định "luật chơi" của thế kỷ XXI.

Ngược lại, TPP là về cơ bản cũng là công cụ đối phó của các quốc gia đang lo

ngại trước sự lấn áp của Trung Quốc, những nước đang tìm kiếm không chỉ sự gia

tăng thương mại, mà quan trọng hơn là chính trị, an ninh. Để đối phó với một Trung

Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, họ cảm thấy sự cần thiết phải xây dựng một mối quan

hệ mới với các đối tác có cùng "tư tưởng” theo cách thức phù hợp với quy tắc,

chuẩn mực quốc tế. Có thể nói đây chính là nguyên nhân sâu xa của việc Nhật Bản

dốc toàn lực vào việc thúc đẩy TPP và phiên bản mới là CPTPP. Phần sau của luận

án sẽ làm rõ hơn về đối sách của Nhật Bản trong bối cảnh mới của khu vực.

3.2.2.2. Ứng phó của Nhật Bản trong bối cảnh cạnh tranh Trung – Mỹ

Nhất quán thúc đẩy TPP

Rốt cuộc Nhật Bản đã xác định vị trí của mình ở đâu khi những động lực khu

vực hóa đang được định hình trong bối cảnh đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ ?

Sau nhiều năm cân nhắc và vượt qua sự phản đối kịch liệt từ trong nước, năm

2013 Nhật Bản đã quyết định tham gia đàm phán TPP. Quyết định này thể hiện sự

thay đổi đáng kể về thứ tự ưu tiên của Nhật Bản trong chiến lược FTA khu vực.

Đến năm 2016, việc TPP được 12 nước tham gia đặt bút ký tại Auckland, New

Zealand sau 5 năm thương lượng gian nan đã đánh dấu sự thắng lợi lớn không chỉ

của Mỹ mà cả Nhật Bản. Hai nước Mỹ và Nhật Bản cùng nhau chiếm 85% GDP

của TPP đã đi tiên phong và cùng các nước khác tạo nên một khối liên kết kinh tế

quan trọng đủ sức chống đỡ lại sự áp đảo của Trung Quốc ở Đông Á. Trong quá

109

trình thương thảo TPP có một vấn đề mà cả Mỹ và Nhật Bản đều thống nhất phải

giải quyết, đó là hạn chế quyền lực của Trung Quốc sau sự ra đời của AIIB.

Việc Nhật Bản tham gia vào TPP nhưng lại đứng ngoài AIIB dường như đi

ngược lại tôn chỉ mà nước này luôn theo đuổi trong hơn 60 năm qua, đó là thúc đẩy

phát triển kinh tế và đầu tư cho cơ sở hạ tầng tại châu Á. Thoạt nhìn, lựa chọn của

Nhật Bản chỉ đơn thuần là cân nhắc ưu tiên đồng minh Mỹ hơn so với đối thủ Trung

Quốc. Tuy nhiên trên thực tế thì Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào Mỹ cả về khía cạnh

tiếp cận thị trường lẫn an ninh. Hơn nữa, trước những căng thẳng về tranh chấp lãnh

thổ và nỗi lo ngại trước một nước Trung Quốc đang không ngừng trỗi dậy, Nhật

Bản không bao giờ muốn trợ giúp sáng kiến khu vực của Trung Quốc, dù các doanh

nghiệp Nhật Bản có thể có lợi ích từ các dự án thông qua AIIB đi nữa.

Bởi vậy, ngay cả khi chỉ còn một mình là nền kinh tế lớn duy nhất của châu Á

đứng ngoài AIIB Nhật Bản cũng không hề nao núng. Sau khi Trung Quốc tuyên bố

số vốn pháp định của AIIB là gần 100 tỷ USD, Nhật Bản lập tức phản ứng bằng một

kế hoạch trị giá đúng 100 tỷ USD đầu tư cho cơ sở hạ tầng tại châu Á. Theo hãng

thông tấn Jiji Press ngày 19/5/2015, Nhật Bản sẽ đầu tư 100 tỷ USD vào các dự án

cầu đường, đường sắt và những dự án hạ tầng khác ở châu Á theo hình thức quan hệ

đối tác công - tư kéo dài 5 năm. Kế hoạch này nhằm tỏ rõ lập trường của Nhật Bản

là cam kết tiếp tục đóng góp mạnh mẽ cho tăng cường sở hạ tầng chất lượng cao ở

châu Á thông qua phát triển nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ, thể hiện sự

khác biệt với AIIB, cho thấy Nhật Bản muốn duy trì và giữ vững lòng tin của các

quốc gia đang phát triển trong khu vực. Ngoài ra, việc Nhật Bản lựa chọn TPP và

bỏ qua AIIB mà không mấy lo ngại còn vì ADB mang chức năng tương tự vẫn đang

nằm dưới sự chi phối của họ. Nhật Bản từ lâu vẫn là nhà cung cấp vốn chủ chốt cho

các dự án phát triển cơ sở hạ tầng châu Á, hỗ trợ giảm đói nghèo, nâng cao mức

sống người dân, đặc biệt là với các nước nghèo [132].

Trong bối cảnh Trung Quốc thay đổi thái độ, tỏ ý định muốn hàn gắn với Nhật

Bản trong tình hình quan hệ Trung - Mỹ ngày càng xấu đi, trong chuyến thăm

Trung Quốc 10/2018, Thủ tướng Abe đã tuyên bố Nhật Bản có thể tham gia BRI

thông qua hợp tác với Trung Quốc để xây dựng hạ tầng tại một nước thứ ba nếu

110

“những điều kiện nhất định” được đảm bảo. (Nội dung các điều kiện này là: Hạ tầng

tự do -ai cũng có thể sử dụng, Mua sắm minh bạch, Tính kinh tế và sự rõ ràng của

các khoản nợ). Tuy nhiên đã nảy sinh khác biệt đáng kể về quan điểm của hai bên.

Đó là theo Nhật Bản, xuất phát điểm của một dự án là cần có yêu cầu, đề nghị từ

phía chính phủ nước sở tại. Lý do vì theo nguyên tắc của Nhật Bản, một dự án hợp

tác phát triển phải hỗ trợ được cho phát triển kinh tế, cải thiện phúc lợi của người

dân, do vậy phải xuất phát từ yêu cầu của chính phủ nước thứ ba. Tuy nhiên theo

phía Trung Quốc, xuất phát điểm của một dự án xây dựng cơ sở hạ tầng là doanh

nghiệp xây dựng của nước này phải trúng thầu, nghĩa là khả năng đầu tư sang nước

thứ ba. Sau khi trúng thầu doanh nghiệp xây dựng Trung Quốc sẽ đề xuất với ngân

hàng đầu tư cơ sở hạ tầng nước họ để tiến hành triển khai dự án. Có thể do sự khác

biệt này mà cho đến nay chưa có ví dụ về hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng Trung -

Nhật với nước thứ ba nào thành công.

Duy trì tốt quan hệ với Mỹ

Trước thái độ thiếu thiện cảm đối với Nhật Bản của ứng viên Tổng thống Mỹ

D. Trump và sự thay đổi chính sách 180 độ một cách khó hiểu của Mỹ đối với TPP

chỉ ít lâu sau khi nước này còn hết lời "tán dương" với tư cách là trụ cột của chiến

lược Tái cân bằng châu Á, chính quyền của Thủ tướng Abe đã chứng tỏ được sự sắc

sảo khi nhanh chóng đẩy lùi sự khủng hoảng tiềm tàng trong quan hệ Nhật - Mỹ

bằng việc tập trung xây dựng mối quan hệ cá nhân tốt đẹp với nhà lãnh đạo cao nhất

của Mỹ ngay từ giai đoạn đầu, nhấn mạnh sự trao đổi có đi có lại về kinh tế, gia

tăng cam kết với liên minh, thúc đẩy mạnh hoạt động ngoại giao trên khắp khu vực,

tiếp tục duy trì vai trò cầu nối với đối tác lớn của Đông Á là Mỹ. Ngay sau chiến

thắng bất ngờ cuối 2016 của ông Trump, Thủ tướng Abe đã trở thành nhà lãnh đạo

thế giới đầu tiên gặp gỡ tổng thống đắc cử Mỹ. Nội dung quan trọng của cuộc gặp là

cho ông Trump thấy sự từ bỏ TPP về chiến lược là lợi bất cập hại, bởi TPP không

chỉ thúc đẩy kinh tế các bên tham gia mà còn có tác dụng gắn kết Mỹ với Đông Á.

Mặc dù ông Trump không thay đổi quyết định, tuy nhiên không thể phủ nhận lãnh

đạo Nhật Bản đã làm rất tốt việc xử sự với chính quyền mới của Mỹ. Ông Abe đã

thành công trong việc tái khẳng định tầm quan trọng của liên minh Nhật - Mỹ, cho

111

Mỹ thấy được rằng trong việc duy trì sự hiện diện của Mỹ ở Đông Á, nếu thiếu đi

sự hợp tác chặt chẽ và lâu dài với Nhật sẽ rất khó để Mỹ duy trì ảnh hưởng tại Đông

Á, để đối phó với sức mạnh đang lên của Trung Quốc thì không có một mối quan hệ

nào quan trọng hơn là quan hệ với Nhật Bản, bên cạnh đó cũng đã để ngỏ một giải

pháp cho sự quay trở lại TPP của Mỹ trong tương lai.

Củng cố và thiết lập quan hệ "liên minh" với các quốc gia có "cùng tư tưởng"

Ngay sau thành quả tại APEC Đà Nẵng, trong Hội nghị cấp cao ASEAN tại

Philippines, Nhật Bản cũng đã thành công trong việc thuyết phục các nhà lãnh đạo

Mỹ, Úc và Ấn Độ cùng ngồi vào bàn thảo luận với tư cách nhóm "Bộ tứ". Trước

đây chính ông Abe cũng đã từng đưa ra một khái niệm tương tự - Bộ Tứ Kim cương

- vào nhiệm kỳ đầu tiên, năm 2007 nhằm thiết lập một liên minh ở khu vực châu Á

– TBD để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhóm "Bộ tứ" này còn muốn kết

nạp thêm một số thành viên ASEAN có liên quan dù hiện tại điều này chưa thể thực

hiện. Sự hồi phục của nhóm "Bộ tứ" gồm Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc này truyền

đi một thông điệp rằng các trung tâm quyền lực của khu vực đang liên kết lại để đối

phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Đối với họ, sự quyết đoán của Trung Quốc ở

Biển Đông, biển Hoa Đông, Ấn Độ Dương và kế hoạch mở rộng tầm ảnh hưởng

vượt ra khỏi khu vực Đông Á thông qua sáng kiến BRI và AIIB đều đáng báo động.

Mặc dù Mỹ là đồng minh chính, Nhật Bản cho thấy cũng chủ trương củng cố

và phát triển các mối quan hệ khác. Việc Nhật Bản tích cực khôi phục TPP và nhóm

"Bộ tứ", thắt chặt hơn quan hệ với các nước Đông Á khác cho thấy Nhật Bản rõ

ràng không muốn chấp thuận một trật tự khu vực do Trung Quốc dẫn dắt. Đồng thời,

Nhật Bản vẫn sẽ cùng với các nước khác cạnh tranh với Trung Quốc và tìm mọi

cách thích ứng với sự thiếu vắng vai trò lãnh đạo của Mỹ ở Đông Á.

Nỗ lực cứu vãn TPP không có Mỹ

Trước vô số thách thức, Nhật Bản đã nhanh chóng quyết định nắm vai trò kế

thừa, thay Mỹ trở thành "đầu tàu" tiếp tục dẫn dắt TPP. Chưa đầy 24 giờ sau khi kết

quả bầu cử tại Mỹ được công bố và ông Trump trở thành Tổng thống, Hạ viện Nhật

đã cấp tốc thông qua TPP. Đúng một tháng sau, Quốc hội nước này phê chuẩn TPP

và Nhật Bản đã trở thành quốc gia đầu tiên phê chuẩn hiệp định. Là nền kinh tế lớn

112

nhất chiếm khoảng một nửa GDP trong khối sau khi Mỹ rời khỏi TPP, Nhật Bản đã

chủ động nắm lấy vị trí tiên phong trong việc dẫn dắt TPP. Phản ứng quyết đoán

của Nhật Bản ít nhiều đã giúp cho tinh thần hiệp định tiếp tục được giữ vững, khích

lệ các thành viên còn lại của TPP nhanh chóng quay trở lại bàn đàm phán.

Nhật Bản đã bằng nhiều cách thúc đẩy để hiệp định sớm có hiệu lực, tìm kiếm

những giải pháp giúp nhanh chóng hoàn tất một hiệp định TPP mới. Trong cuộc gặp

thủ tướng Australia tại Sydney ngày 14/1, ông Abe đã đạt được một thỏa thuận theo

đó hai nước này sẽ cùng đảm bảo cho TPP nhanh chóng có hiệu lực. Nhật Bản cũng

kêu gọi những đối tác khác như Singapore có tiếng nói hơn trong quá trình thúc đẩy

tự do hóa thương mại khu vực, thay vì phó mặc hoàn toàn cho Trung Quốc. Đến

2/5/17 tại Toronto (Canada) 11 thành viên còn lại đã nối lại cuộc đàm phán đầu tiên

về hiệp định mới không gồm Mỹ. Tại đây, Nhật Bản đã đề ra mục tiêu hoàn tất TPP

trong APEC 2017 tại Đà Nẵng. Nhật Bản cho rằng TPP có thể sớm có hiệu lực bằng

cách điều chỉnh văn kiện ban đầu, kể cả trong trường hợp nếu 11 quốc gia thất bại

trong việc giải quyết những khác biệt, giải pháp một TPP mới gồm 5 nước đã nhất

trí tiếp tục thúc đẩy hiệp định hoặc nhiều hơn vẫn sẽ tiếp tục được triển khai.

Tại APEC 2017, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ

Donald Trump đã có mặt tại Đà Nẵng, tuy nhiên cả hai lãnh đạo các cường quốc lớn

nhất khu vực và thế giới này lại không đóng vai trò nổi bật nhất. Vị trí đó phải kể

đến lãnh đạo của Nhật Bản.

Nhật Bản - nền kinh tế lớn thứ ba thế giới và thứ hai khu vực - đã giữ vững lập

trường ủng hộ TPP trong bối cảnh có nhiều cảnh báo cho rằng sự sụp đổ của TPP có

thể ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế khu vực và thế giới. Bộ trưởng Nhật

Bản phụ trách về TPP Toshimitsu Motegi phát biểu: “Chúng tôi muốn duy trì tiêu

chuẩn cao để hoàn tất thỏa thuận giữa 11 quốc gia… Chúng tôi đã đề ra danh sách

các lĩnh vực mà mỗi nước muốn tạm dừng thảo luận và thống nhất về điều này, còn

lại là những gì mà các nước quan ngại hoặc là những vấn đề quan trọng”. Lúc này

vẫn còn khoảng 20 vấn đề mà các thành viên TPP11 cần phải ngã ngũ. Và sau khi

đạt được thỏa thuận TPP11 ngày 11/11, Nhật Bản vẫn duy trì quan điểm mạnh mẽ

về TPP khi nhận định rằng hiệp định này "phát đi một tín hiệu mạnh mẽ đến Mỹ và

113

các nước khác ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương", đồng thời bày tỏ hy vọng Mỹ

sẽ quay trở lại hiệp định.

Liệu những nỗ lực của Nhật Bản có thành công và nước này sẽ nắm giữ vai trò

gì trong sáng kiến sẽ góp phần tích cực vào việc định hình các quy tắc kinh tế,

thương mại khu vực Đông Á, châu Á – TBD này, những phân tích tiếp theo sẽ tiếp

tục đi sâu làm rõ.

3.2.2.3. Vai trò của Nhật Bản đối với CPTPP

Việc Mỹ rút khỏi TPP chỉ vài giờ sau khi Tổng thống Donald Trump nhậm

chức dường như đã khiến hiệp định thế kỷ này mất hẳn động lực. Sau sự từ bỏ của

Mỹ, 11 thành viên còn lại trong đó có Nhật Bản đã phải rất nỗ lực để duy trì “sức

sống” của hiệp định. Cuối cùng sau khoảng 1 năm đàm phán, một thỏa thuận mới

có tên là CPTPP đã được 11 thành viên còn lại đi đến thống nhất. Sau đây là một số

nét khái quát về nội dung hiệp định mới này.

Khái quát về CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) -

phiên bản mới của TPP sau khi Mỹ rút khỏi - đã được 11 nước thành viên còn lại đi

tới thống nhất tại APEC Đà Nẵng ngày 11/11/2017. Khác biệt dễ nhận thấy nhất ở

CPTPP so với TPP là sự vắng mặt của Mỹ đã khiến hiệp định mới bị thu hẹp hơn so

với ban đầu. Về quy mô, nếu tính cả Mỹ, TPP chiếm 11% dân số và 37% GDP của

giới, nhưng sau khi Mỹ rút khỏi, dân số CPTPP giảm xuống 6% dân số thế giới và

GDP giảm còn 13,3 % GDP thế giới. Việc rút lui của Mỹ cũng dẫn đến sự giảm sút

không thể phủ nhận đối với các lợi ích kinh tế tiềm năng của hiệp định. Nếu có Mỹ,

tổng xuất khẩu của cả 12 nước thành viên sẽ là 26,6% thương mại thế giới, trong đó

có khoảng 11,4% đến từ nội khối. Không có Mỹ kim ngạch thương mại của TPP 11

giảm xuống còn 15,2% thương mại thế giới và 2,3% thương mại nội khối. Nguyên

nhân bởi Mỹ chiếm tới 60% GDP của TPP12, đồng thời cũng là nền thương mại lớn

nhất trong số 12 nước thành viên TPP, tương đương 41% thương mại của khối và

11,4% thế giới [87].

Hơn nữa, việc Mỹ rời đi cũng làm giảm tương đối hiệu quả tự do hóa. Bản dự

thảo của CPTPP cho thấy có khoảng 20 (và sau này là 22) trong số hơn 1.000 điều

114

khoản của TPP đã bị đóng băng (chứ không phải xóa bỏ, để phòng trường hợp Mỹ

sẽ quay trở lại).

Tuy nhiên, cho dù bị thu hẹp tương đối so với phiên bản gốc là TPP, CPTPP

vẫn nằm trong số các siêu thỏa thuận thương mại tự do đáng chú ý nhất trên thế giới

hiện nay, quy tụ một trong những khối tự do thương mại lớn nhất thế giới trải dài

trên cả ba châu lục Á, Mỹ và Châu Đại Dương, có thị trường lên tới 463 triệu dân,

GDP vào khoảng 10.000 tỷ USD, về tỷ lệ thương mại trong tổng thương mại thế

giới chiếm đến 15,2%, nghĩa là hơn 1/7 toàn cầu. Các thành viên CPTPP cũng đã

duy trì thành công các quy tắc thương mại tiêu chuẩn cao của TPP trước kia như

cam kết xóa bỏ trên 95% các dòng thuế, cuối cùng sẽ xóa bỏ 99,9% thuế đối với các

sản phẩm công nghiệp…, cho thấy ảnh hưởng của hiệp định đối với thương mại của

các nước thành viên là rất lớn.

Bên cạnh những con số nêu trên, CPTPP ước tính sẽ mang lại những hiệu quả

kinh tế lớn hơn cho các nước thành viên thông qua thúc đẩy tự do hóa hơn nữa dòng

vốn đầu tư, tạo điều kiện cho hoạt động thương mại điện tử xuyên quốc gia, bảo vệ

tốt hơn quyền sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh hơn nữa mạng lưới sản xuất khu vực – một hiệu

quả khó có thể kỳ vọng ở những thỏa thuận thương mại song phương. CPTPP ra đời

ngoài đẩy mạnh thương mại nội khối, thúc đẩy mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng

mới trong khu vực cũng sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và

cải thiện đời sống người dân. Như Thủ tướng Canada Trudeau từng phát biểu tại Diễn

đàn Kinh tế Thế giới ở Davos (Thụy Sĩ), trước làn sóng bảo hộ ngày càng tăng hiện

nay, những hiệp định thương mại giá trị nhất cần phải “đặt quan ngại của phần lớn

công chúng vào trọng tâm đàm phán”, việc thêm cụm từ “Tiến bộ” vào tên gọi của TPP

gốc mang thông điệp sẽ đảm bảo hơn nữa lợi ích kinh tế cho số đông.

Việc 11 quốc gia TPP còn lại có thể duy trì hiệp định theo cách này hay cách

khác là một hướng đi tích cực tại thời điểm tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang

chậm lại. Các thành viên cũng đang cân nhắc mở rộng thêm quy mô của TPP11

trước sự quan tâm của nhiều nước trong và ngoài khu vực. Bằng việc mở rộng

thêm quy mô, hiệp định mới CPTPP sẽ càng tăng cường hơn nữa lợi ích của các

quốc gia thành viên.

115

Lý do Nhật Bản thúc đẩy TPP11 - CPTPP

Nhìn vào tiến triển của CPTPP dường như hiệp định này đã đạt được mục tiêu

phần nào chóng vánh sau một số cuộc đàm phán trong năm 2017, song trên thực tế

quá trình thương lượng diễn ra không mấy dễ dàng do chủ trương của các nước là

khá đa dạng.

Cụ thể về chủ trương của các thành viên còn lại đối với TPP11, nhìn chung có

thể chia thành ba nhóm. Trước hết New Zealand và Australia nhờ vào việc giảm

thuế có thể đẩy mạnh việc xuất khẩu nông sản, vì vậy thuộc nhóm có quan điểm

tích cực. Tiếp đó, Canada và Mexico vốn là thành viên của Hiệp định Thương mại

Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), bởi vậy thông qua đàm phán TPP11, hai nước ngoài ý

muốn đa dạng hóa đối tác truyền thống, giảm thiểu sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ,

đồng thời còn kỳ vọng ở việc có thêm cơ sở để đối phó với sức ép từ Mỹ trước bối

cảnh chính quyền Trump đang đặt ra những điều khoản cứng rắn trong quá trình

đàm phán lại NAFTA. Cuối cùng, những nước đang phát triển như Việt Nam và

Malaysia trước đây với tiền đề “việc xuất khẩu sang thị trường khổng lồ của Mỹ sẽ

được mở rộng” nên đã chấp nhận những điều khoản như cải cách doanh nghiệp nhà

nước hoặc nới lỏng các hạn chế về vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, họ cho rằng

TPP khi không còn có Mỹ sẽ là một câu chuyện hoàn toàn khác. Thực tế TPP ban

đầu được xây dựng trên nền tảng những lĩnh vực có sự hiện diện đáng kể của Mỹ.

Trước kia Mỹ đã đưa vào các điều khoản về đầu tư, mua sắm của chính phủ, doanh

nghiệp nhà nước (SOE), sở hữu trí tuệ… Tuy nhiên, các nước thành viên đang phát

triển nhìn chung không thích những nội dung đó. Lý do bởi đây là những nội dung

liên quan tới vấn đề nội bộ, mặc dù vậy họ cũng đã chấp nhận để đánh đổi lấy việc

gia tăng cơ hội tiếp cận thị trường Mỹ. Thế nhưng việc Mỹ ra đi đã làm cán cân phí

tổn - lợi ích của họ thay đổi.

Về phần Nhật Bản, nền kinh tế chủ chốt trong TPP11, mặc dù thuộc nhóm

nước có chủ trương tích cực, song nội bộ cũng có không ít ý kiến thận trọng đối với

việc tham gia TPP11, phản đối việc giảm sâu thuế đối với nông sản nhập khẩu,

cũng như yêu cầu phải giải thích thỏa đáng việc tại sao Nhật Bản vẫn muốn theo

đuổi một hiệp định không có Mỹ như TPP11.

116

Đề cập tới những lý do khiến Nhật Bản theo đuổi TPP11, trước hết đây giống

một “con đê” phòng hộ trước sự thúc giục đàm phán hiệp định thương mại song

phương từ phía Mỹ. Nếu tiến hành đàm phán song phương, xung đột lợi ích của hai

nước sẽ gia tăng, và Nhật Bản trước sức ép của Mỹ có thể sẽ phải chấp nhận những

nhượng bộ đáng kể. Tuy nhiên, nếu trước đó Nhật Bản đã hoàn tất đàm phán

TPP11, họ hoàn toàn có thể từ chối các yêu cầu đó dựa trên căn cứ "những nhượng

bộ cao hơn mức trần của TPP là điều không thể thực hiện".

Ngoài ra CPTPP cũng có thể mang lại lợi ích và củng cố uy tín của Nhật Bản

trong đàm phán Hiệp định RCEP khi có đến 7 nước sở hữu tư cách thành viên kép

có thể cùng tạo nên một liên minh thúc đẩy các quy tắc trong đàm phán RCEP như

đã từng thực hiện trong TPP11, từ đó có thể đưa RCEP trở thành một thỏa thuận

thương mại chất lượng cao. Đây cũng là một động lực quan trọng để Nhật Bản dẫn

đầu các cuộc đàm phán của CPTPP.

Tiếp theo, liên quan đến hiệu quả kinh tế của TPP11 - CPTPP đối với Nhật

Bản, theo một số phân tích cho thấy, trong khi TPP12 dự kiến sẽ làm tăng GDP

Nhật Bản lên 1,37%, thì GDP của Nhật Bản vẫn sẽ tăng lên 1,11% ngay cả khi

không có Mỹ [89]. Hơn nữa, đối với Nhật Bản, những cải cách mà TPP đòi hỏi

cũng chính là một trong những “đơn thuốc” mà chính sách kinh tế Abenomics đã đề

xuất nhằm thúc đẩy đầu tư tư nhân, khôi phục tiềm lực tăng trưởng kinh tế dài hạn.

Các nguyên tắc mang tính không phân biệt đối xử có liên quan đến đầu tư trực tiếp

nước ngoài, cấm cưỡng chế chuyển nhượng kỹ thuật, mở cửa mua sắm của chính

phủ đối với các công ty nước ngoài, giảm trợ cấp đối với các doanh nghiệp nhà

nước… sẽ tạo môi trường cạnh tranh tốt hơn cho các doanh nghiệp Nhật Bản, mặt

khác việc mở cửa một loạt sản phẩm lâu nay vẫn được bảo hộ của Nhật Bản, chẳng

hạn như gạo, thịt bò… cũng sẽ giúp sắp xếp hợp lý hơn về vốn, nhân lực và các

nguồn lực khác.

Một lý do quan trọng cần phải nhắc tới nữa là CPTPP sẽ thu hút sự quay trở

lại của Mỹ trong tương lai. Mục tiêu thực sự của CPTPP không phải chỉ dừng lại ở

11 quốc gia mà cuối cùng phải khôi phục lại được hình thức TPP ban đầu với sự

góp mặt của Mỹ. Một hiệp định có sự tham gia của Mỹ cũng là điều cần thiết để gia

117

tăng áp lực cải cách đối với Trung Quốc, nước vẫn chưa có một nền kinh tế thị

trường đúng nghĩa. Thiếu sự có mặt của Mỹ, Trung Quốc sẽ có thể ấn định những

quy tắc thương mại khu vực và toàn cầu theo hướng có lợi cho họ, đồng nghĩa với

việc gia tăng ảnh hưởng tại Đông Á, châu Á - TBD, và đây cũng là một trong những

lý do khiến Nhật Bản rất quyết liệt trong việc duy trì TPP dù Mỹ đã rút khỏi.

Vai trò của Nhật Bản đối với CPTPP

Nỗ lực cứu vãn hiệp định khỏi nguy cơ đổ vỡ sau khi Mỹ ra đi

Trước khả năng rút lui của Mỹ, Nhật Bản đã nhanh chóng thay thế Mỹ tiếp tục

dẫn dắt TPP. Ngay sau khi ứng cử viên Tổng thống Hillary Clinton - cựu Ngoại

trưởng Mỹ từng tuyên bố chiến lược “xoay trục" châu Á trong đó có TPP “là để

đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ - thất bại và ông Donald Trump

thắng cử, hai Viện của Quốc hội Nhật Bản đã cấp tốc thông qua hiệp định và Nhật

Bản trở thành quốc gia đầu tiên phê chuẩn TPP. Sự quyết đoán của Nhật Bản ít

nhiều đã giúp tinh thần hiệp định tiếp tục được giữ vững, khích lệ các thành viên

còn lại nhanh chóng quay lại bàn đàm phán, cứu vãn TPP khỏi nguy cơ đổ vỡ.

Ngoài ra trong hơn một năm, Nhật Bản bằng nhiều nỗ lực ngoại giao cũng đã tìm

kiếm các giải pháp khác nhau nhằm duy trì và thúc đẩy TPP11. Tại các cuộc gặp gỡ

cấp cao song phương với lãnh đạo các nước còn lại, Thủ tướng Nhật Bản Abe luôn

nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sớm khởi động và hiệu lực hóa các quy tắc

thương mại cấp độ cao đã được các thành viên nhất trí trong hiệp định TPP ban đầu.

Dẫn dắt thành công các cuộc đàm phán của CPTPP

Sau khi Mỹ rút lui Nhật Bản đã trở thành nước nắm quyền chủ đạo, điều phối,

dẫn dắt, tạo ra những liên kết thúc đẩy các cuộc đàm phán về CPTPP đi đến thành

công. Ngay từ đầu Nhật Bản đã nhấn mạnh việc sớm hiệu lực hóa hiệp định bằng

cách điều chỉnh văn kiện gốc, kể cả trong trường hợp nếu 11 quốc gia thất bại trong

việc giải quyết những khác biệt, giải pháp về một hiệp định mới với số lượng thành

viên ít hơn vẫn sẽ tiếp tục được triển khai. Ngày 2/5/17, tại Toronto (Canada) các

nước TPP11 đã cùng nhau nối lại cuộc đàm phán đầu tiên về một hiệp định mới

không bao gồm Mỹ, khi đó Nhật Bản đã đưa ra mục tiêu hoàn tất TPP11 tại hội

nghị APEC Đà Nẵng tháng 11/2017. Sự tích cực của Nhật Bản cũng được thể hiện

118

bằng việc luôn tiên phong dẫn dắt các cuộc thảo luận của TPP11 tại Hakone Nhật

Bản tháng 7/2017 và sau đó. Nhật Bản cũng là nước có vai trò quan trọng hàng đầu

trong việc 11 thành viên đạt được thỏa thuận khung về CPTPP. Tại APEC 2017,

dưới nỗ lực của Thủ tướng Abe và quan chức của nước này cùng sự phối hợp của

quốc gia chủ nhà Việt Nam, mặc dù có nhiều sự khác biệt về chủ trương của các

thành viên, diễn biến đàm phán giữa các nước TPP11 diễn ra khá căng thẳng, thậm

chí một số thời điểm còn có nước muốn rút khỏi đàm phán, hay lễ ký cấp nguyên

thủ không thể diễn xảy ra do sự thay đổi quyết định đột ngột từ phía Thủ tướng

Canada Trudeau, tuy nhiên vào những giờ khắc cuối cùng của APEC Đà Nẵng, 11

nước cũng đã đạt được sự đồng thuận về “thỏa thuận khung” của CPTPP.

Thậm chí Nhật Bản cũng cho thấy thái độ kiên định đối với lộ trình của

CPTPP mà 11 nước thành viên đã nhất trí bất chấp động thái mới từ Mỹ. Cụ thể là

khi Tổng thống Trump ngày 25/1 cho biết sẽ cân nhắc về việc Mỹ quay trở lại TPP

theo những điều khoản "tốt hơn", đại diện Nhật Bản đã khẳng định, mặc dù Nhật

Bản hoan nghênh "việc Mỹ đã công nhận tầm quan trọng của TPP”, nhưng "các

điều khoản của TPP11 đã được quyết định và ưu tiên của chúng tôi là đưa TPP11

sớm có hiệu lực". Điều này cho thấy rằng việc Mỹ để ngỏ khả năng quay trở lại

cũng không làm thay đổi nội dung và lộ trình của Nhật Bản về CPTPP. Nội các

Nhật Bản cũng đã thông qua việc ký thỏa thuận TPP không có Mỹ ngay trước lễ ký

chính thức CPTPP giữa 11 nước tại Santiago de Chile ngày 8/3/2018.

Khuyến khích sự quay trở lại TPP của Mỹ

Tuy nhiên, liệu Nhật Bản có thể vừa dẫn đầu thành công một hiệp định gồm

11 quốc gia không có Mỹ, vừa đóng vai trò là cầu nối CPTPP với Mỹ hay không

cũng là một vấn đề được quan tâm, chú ý. Khi 11 nước thành viên thống nhất được

thỏa thuận khung về CPTPP ngày 11/11/2017, phía Nhật Bản đã phát biểu rằng,

thành công này "phát đi một tín hiệu mạnh mẽ đến Mỹ và các quốc gia châu Á -

Thái Bình Dương khác". Nhiều nền kinh tế cũng đang quan tâm đến hiệp hiệp định

thay thế TPP này. Bên cạnh Indonesia, Hàn Quốc, Philippines và Đài Loan, Thái

Lan, nước Anh cũng đã nhiều lần thể hiện mong muốn tham gia hiệp định sau khi

rời Liên minh Châu Âu (EU). Đối với Nhật Bản, CPTPP chính là mô hình của tự do

119

hóa thương mại của Đông Á. Nhật Bản cho biết họ cũng hoan nghênh cả sự có mặt

của Trung Quốc nếu quốc gia này hội tụ đủ các điều kiện đã được các nước nhất trí

từ trước. Nếu Nhật Bản thúc đẩy được một khuôn khổ tự do hóa thương mại mang

lại lợi ích cho mỗi quốc gia, Mỹ sẽ không thể không nhận thức lại rằng các hiệp

định thương mại tự do đa phương là có lợi cho đất nước họ. Thực tế sự hấp dẫn của

CPTPP cũng từng mở ra ít nhiều khả năng quay trở lại của Mỹ.

Trong cuộc họp báo được tổ chức sau các cuộc đàm phán cuối cùng tại Tokyo

ngày 24/1/2018, Bộ trưởng Nhật Bản chịu trách nhiệm về TPP đã đề cập đến một

trong những yếu tố quan trọng nhất của TPP, đó là đưa Mỹ quay trở lại. Hai ngày

sau tại Davos ông Trump cho biết sẽ cân nhắc đến khả năng quay trở lại TPP. Tờ

New York Times dẫn lời nhà cựu thương thuyết thương mại của Mỹ Wendy Cutler

cũng đưa ra nhận định rằng Mỹ sẽ khó có thể phớt lờ những quy định mà tất cả các

nước TPP11 đã nhất trí và theo thời gian Mỹ sẽ muốn xem xét lại việc tham gia

hiệp định. Sau khi Tổng thống Trump để ngỏ khả năng này, nhiều thượng nghị sĩ

Mỹ đã gửi thư kêu gọi đưa nền kinh tế số 1 thế giới trở lại bàn đàm phán CPTPP. Vị

trí địa lý, sức mạnh kinh tế và các mối quan hệ gần gũi của Nhật Bản với Mỹ ở

nhiều cấp độ khác nhau giúp cho Nhật Bản là đối tác không thể thiếu của Mỹ. Dù

quá trình thuyết phục Mỹ quay trở lại sẽ không dễ dàng, nhưng từ những lý do kinh

tế lẫn chiến lược đã phân tích ở trên, có thể thấy Nhật Bản vẫn là nước mong muốn

sự hiện diện của Mỹ trong CPTPP nhiều nhất.

Khẳng định vị trí của CPTPP trong việc định hình các quy tắc, thúc đẩy

thương mại tự do và hội nhập kinh tế khu vực

CPTPP với những tiêu chuẩn cao có thể trở thành một hình mẫu cho các thỏa

thuận thương mại đa phương khác. Chẳng hạn như khuôn khổ RCEP có quy mô lên

tới 30% GDP thế giới, tuy nhiên lại có mức độ tự do hóa không cao. Dựa trên nền

tảng của 5 hiệp định ASEAN + 1, RCEP khó có thể trở thành một khuôn khổ thiết

lập nên quy tắc kinh tế toàn cầu thế kỷ XXI. Trước đây, ngay cả trong giai đoạn

TPP đối mặt với nhiều trở ngại nhất, RCEP cũng không thể thay thế TPP. Hiện tại

RCEP cũng vẫn đang “đi sau” CPTPP trong việc giải quyết các vấn đề liên quan

đến cắt giảm thuế, bảo vệ người lao động, thương mại số và môi trường... Việc

120

CPTPP đi đến thành công cũng làm giảm bớt sức hút của RCEP, đặc biệt khi RCEP

vẫn dừng bước ở vấn đề giảm thuế và trong 15 điều khoản của RCEP mới chỉ hoàn

thành được một số lượng tương đối khiêm tốn.

Ngoài ra, CPTPP cùng với sự dẫn dắt của Nhật Bản đang được kỳ vọng sẽ là

một đối trọng đáng kể trước làn sóng bảo hộ hiện nay. Có thể thấy nếu mỗi quốc gia

đều có hành động bảo hộ thì thương mại quốc tế sẽ giảm sút và tăng trưởng toàn

cầu sẽ chậm lại. Tổng thống Mỹ Trump trong chuyến thăm Châu Á cuối năm 2017

đã tuyên bố ý tưởng “hợp tác với các nước trong khu vực Ấn Độ - TBD để tăng

cường quan hệ và thúc đẩy sự thịnh vượng". Tuy nhiên, từ trước đến nay ông

Trump đã nhiều lần thể hiện quan điểm bảo hộ và dân tộc chủ nghĩa. Dù trước đây

Mỹ là nước chủ đạo dẫn dắt TPP, thế nhưng ngay sau khi lên nắm quyền, ông

Trump đã lập tức quay lưng ngay lại với thỏa thuận này. Sau khi rút khỏi TPP, ông

Trump nói Mỹ sẽ xúc tiến các thỏa thuận song phương, tuy nhiên chính quyền của

ông dường như không thể tìm kiếm được các đối tác đàm phán tự nguyện nào. Hiện

nay Mỹ cũng đang gia tăng đe dọa áp thuế nhôm và thép với cả các đối tác và đồng

minh thân cận nhất của mình. Mức thuế áp lên cá tra và cá basa mới nhất (POR13)

của Mỹ đối với Việt Nam cũng được đánh giá là vô lý, bởi đây không chỉ là mức

thuế cao nhất từ trước đến nay mà còn cao gấp hai lần giá bán ra [120].

Mặt khác, về phía Trung Quốc, tại APEC 2017 ông Tập Cận Bình cũng đã

nhấn mạnh "nên tiếp tục thúc đẩy phát triển của châu Á - TBD theo chính sách mở"

và khẳng định Trung Quốc sẽ đóng một vai trò tích cực trong việc mở rộng thương

mại tự do của khu vực châu Á - TBD. Tuy nhiên, trên thực tế có thể thấy Trung

Quốc luôn là nước bị chỉ trích về việc vi phạm các quy tắc thương mại quốc tế,

chẳng hạn như các doanh nghiệp nhà nước vẫn được trợ cấp từ chính phủ, quyền sở

hữu trí tuệ, vấn đề quyền người lao động, môi trường… chưa được bảo vệ thích

đáng. Ngoài ra chỉ cần xảy ra xung khắc, bất đồng chính trị nào đó với một nước,

Trung Quốc sẽ không e dè, sẵn sàng “trút giận” ngay vào nông sản nhập khẩu từ

nước đó (như từng làm với sản phẩm chuối, đu đủ, dứa của Philippines hay nông

sản của các quốc gia láng giềng khác). Trước những biểu hiện như vậy, vị trí quốc

121

gia lãnh đạo, dẫn dắt tiến trình thương mại tự do hiện nay có thể do Trung Quốc

đảm trách hay không vẫn là một nghi vấn lớn.

Tóm lại, mặc dù những lợi ích kinh tế phần nào bị thu hẹp khi không có Mỹ,

chắc chắn thành công của CPTPP là một kết quả đáng khích lệ, bởi thực tế đi đến sự

thống nhất về một hiệp định thương mại đa phương hoàn toàn không phải là vấn đề

dễ dàng, như từng chứng kiến từ thất bại của Vòng đàm phán Doha sau nhiều năm

đàm phán đằng đẵng. Việc CPTPP hoàn tất sẽ giúp giữ được "ngọn lửa" đối với

toàn cầu hóa và thương mại đa phương. Sẽ còn trải qua nhiều thời gian nữa để thế

giới có thể chứng kiến thêm một thỏa thuận tương tự như CPTPP. Sự ra đời của

CPTPP đã giúp làm giảm nhẹ những thiệt hại do Mỹ rút khỏi gây ra, đồng thời

mang lại một lựa chọn thay thế cho những sáng kiến liên kết kinh tế khu vực do

Trung Quốc dẫn dắt như BRI, AIIB...

3.3. Tiểu kết chương 3

Chương 3 đã làm rõ vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông

Á các giai đoạn những năm 1980 – 2010 và 2010 đến nay.

Trước hết, có thể thấy rằng với sự tương tác giữa thương mại và đầu tư trực

tiếp, đặc biệt là từ Nhật Bản, mối liên kết kinh tế trong khu vực đã được làm sâu sắc

thêm. Sự mở rộng của mạng lưới sản xuất khu vực kết nối xung quanh các doanh

nghiệp Nhật Bản đã giúp không ít quốc gia Đông Á đạt được tăng trưởng tích cực.

Trong hệ thống này Nhật Bản giữ vai trò như một trung tâm đơn nhất lan tỏa đầu tư,

công nghệ và tri thức sang các nền kinh tế khác. Trong bối cảnh như vậy, sự hình

thành của một khu vực kinh tế thống nhất phi thuế quan sẽ cho phép các TNCs giảm

được chi phí và tăng thu nhập nhờ sắp xếp hợp lý các cứ điểm sản xuất. Sự phụ

thuộc lẫn nhau về kinh tế ở Đông Á đã tạo nền tảng cho quá trình hội nhập kinh tế

về phương diện thực tế.

Tuy nhiên về hội nhập trên phương diện thể chế, có thể thấy rằng Nhật Bản đã

không mấy thành công. So với Trung Quốc Nhật Bản tỏ ra chậm chân trong việc ký

kết FTA với các đối tác Đông Á và cũng chưa tạo ra được những cơ chế hội nhập

thực sự hữu hiệu, điều này dẫn đến sự lu mờ vai trò của Nhật Bản trong tiến trình

liên kết kinh tế khu vực trước sự áp đảo của Trung Quốc. Khoảng đầu thập niên

122

2010 trở lại đây, trước sự cạnh tranh Trung - Mỹ về các ý tưởng hội nhập kinh tế và

thiết lập trật tự kinh tế khu vực với AIIB do Trung Quốc chủ đạo và TPP do Mỹ dẫn

dắt, Nhật Bản đã lựa chọn ủng hộ TPP, giúp Nhật Bản có thể có những ảnh hưởng

lớn hơn đến không gian phát triển kinh tế, thương mại và chiến lược của Đông Á.

Thế nhưng chính quyền Trump đã bất ngờ đưa Mỹ rời khỏi TPP. Trong khi

đó, Trung Quốc càng tích cực hơn nữa trong việc thúc đẩy các nghị trình mà họ ưu

tiên như RCEP, FTAAP và đặc biệt là BRI và AIIB. Khác với quan điểm của

phương Tây về hội nhập khu vực là tự do hóa kinh tế, thông qua các hiệp định đa

phương để dỡ bỏ rào cản pháp lý và thể chế, cách tiếp cận của Trung Quốc về hội

nhập kinh tế khu vực lại tập trung vào khía cạnh tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế,

nghĩa là thúc đẩy thương mại và đầu tư bằng cách cải thiện năng lực kết nối giữa

các thị trường thông qua cơ sở hạ tầng với mục tiêu tạo ra những hành lang kinh tế,

thúc đẩy các dòng kinh tế ra vào xuất phát từ Trung Quốc.

Trong bối cảnh sức mạnh của Mỹ suy giảm và Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ,

Nhật Bản cho thấy rằng họ sẵn sàng đi tiên phong thay vì ở thế bị động. Sự vắng

mặt của Mỹ tại TPP đã giúp Nhật Bản có nhiều “không gian” hơn để thể hiện vai trò

lãnh đạo của mình tại châu Á. Nhật Bản đã đón lấy cơ hội này để đề ra những

nguyên tắc dựa trên đồng thuận với các đối tác còn lại trong TPP, tập trung vào vấn

đề tự do hóa thương mại và đầu tư dựa trên luật pháp, thay vì phải chấp nhận những

sức ép và yêu cầu từ phía Mỹ như quá trình đàm phán trước đây. Kết quả là với

CPTPP châu Á đã chứng tỏ được một mức độ liên kết chặt chẽ có thể so sánh với

hai khu vực hội nhập kinh tế là Châu Âu và Bắc Mỹ và cam kết về việc hình thành

một khu vực kinh tế bao trùm vẫn nằm trong cấu trúc khu vực, bất chấp việc chính

quyền Trump đang theo đuổi chính sách “nước Mỹ trước tiên”, vấn đề Brexit tại EU

và nguy cơ đổ vỡ của NAFTA. Với sự thành công của CPTPP, Nhật Bản cho thấy

họ đang dần lấp đi khoảng trống ở châu Á do việc Mỹ rút lui khỏi TPP tạo ra. Nhật

Bản rõ ràng cũng đã nâng cao đáng kể vị thế của mình trong tiến trình liên kết kinh

tế, cho thấy nước này không chỉ là một nhân tố hết sức quan trọng thúc đẩy sự phát

triển kinh tế khu vực mà còn đóng vai trò dẫn dắt Đông Á, châu Á - TBD đi theo

con đường mở cửa, hợp tác và cùng có lợi.

123

Chương 4

VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH LIÊN KẾT

KINH TẾ ĐÔNG Á

4.1. Một số dự báo về tương lai tiến trình liên kết kinh tế Đông Á (từ nay

đến 2025) và vai trò của Nhật Bản

4.1.1. Triển vọng tiến trình liên kết kinh tế Đông Á (từ nay đến 2025)

Sau năm 2018 tình hình Đông Á dự đoán sẽ tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ,

cho thấy sự cần thiết của hội nhập kinh tế khu vực sâu sắc hơn nữa. Trước hết có

thể thấy rằng trên thế giới nói chung cũng như Đông Á nói riêng nhiều thể chế đa

phương đang gặp phải khó khăn. Để thích nghi với tình hình mới, những thể chế

này sẽ phải có những chuyển đổi mang tính bước ngoặt, trong khi một số khuôn khổ,

“luật chơi” khác sẽ được điều chỉnh hoặc tái định hình. Cụ thể, cùng với vấn đề cải

cách và nâng cao hiệu quả WTO, tại Đông Á, châu Á - TBD, sự điều chỉnh, triển

khai các thỏa thuận, sáng kiến sẽ định hình nên cấu trúc kinh tế khu vực như CPTPP,

RCEP, Tầm nhìn APEC sau 2020, chiến lược BRI của Trung Quốc, chiến lược Ấn

Độ Dương - Thái Bình Dương (IPS) của Mỹ sẽ tiếp tục diễn ra.

Trong những năm tới đây các quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh tại Đông Á

chủ yếu sẽ xoay quanh trục quan hệ trung tâm Mỹ - Trung. Chính sách của hai nước

lớn này sẽ tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách và quan hệ của các nước trong

khu vực. Căng thẳng thương mại Trung - Mỹ cũng làm nổi rõ điểm yếu của Đông Á,

đó là dễ tổn thương trước động thái bảo hộ từ những thị trường xuất khẩu lớn, khi

các chuỗi cung ứng khu vực bị gián đoạn và tâm lý nhà đầu tư trở nên dao động.

Bảo hộ gia tăng còn ảnh hưởng lan tỏa đến toàn hệ thống các mối quan hệ kinh tế,

thương mại. Xuất khẩu nhiều khả năng sẽ chậm lại và dòng vốn FDI có xu hướng đi

xuống. Nhiều việc làm có thể sẽ mất hoặc bị thay thế. Trước tình trạng đó, việc tăng

cường kết nối, cụ thể là đẩy mạnh các dự án cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho hoạt động trao

đổi hàng hóa xuyên biên giới và thương mại nội khối nhiều khả năng sẽ trở thành

một trong những chính sách ứng phó được ưu tiên hàng đầu.

Mặc dù kết quả của xung đột kinh tế thương mại Mỹ - Trung hiện vẫn chưa

rõ ràng, nhưng rủi ro đối với kinh tế khu vực cả trên thực tiễn và tâm lý chắc chắn

124

sẽ rất lớn. Theo OECD chiến tranh thương mại sẽ khiến các giao dịch ảnh hưởng

nặng nề, môi trường kinh tế trở nên bất trắc, khó dự đoán, buộc các MNCs phải tính

toán lại chiến lược đầu tư, sản xuất kinh doanh. Căng thẳng Trung – Mỹ sẽ không

chỉ là vấn đề ngắn hạn mà là dài hạn, những khía cạnh như thương mại chỉ là bề nổi,

ẩn chứa đằng sau còn nhiều vấn đề khác như công nghệ, sở hữu trí tuệ, tỷ giá, mô

hình phát triển, cạnh tranh chiến lược… Một “cặp” xung đột khác cũng có thể tác

động không nhỏ tới tăng trưởng và sự vận hành của mạng sản xuất khu vực, đó là

căng thẳng Nhật Bản – Hàn Quốc ngày càng leo thang bởi một số sự việc diễn ra từ

hồi đầu thế kỷ XX. Phá bỏ không ít thỏa thuận từ thời chính quyền Park Geun-hye

và trước đó, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cho thấy chủ trương của ông là

xích gần Bắc Triều Tiên và “đối đầu” với Nhật Bản. Dĩ nhiên phải kể tới một

nguyên nhân quan trọng khác là vị thế của ông Moon gần đây đang suy yếu. Kinh tế

Hàn Quốc đã sụt giảm nhiều nhất trong vòng 10 năm qua kể từ khủng hoảng tài

chính toàn cầu. Hơn nữa những nỗ lực của ông Moon trong việc hòa giải với Triều

Tiên cũng chưa có mấy kết quả. Trong bối cảnh đó, việc thổi bùng lên cuộc tranh

cãi và thái độ cứng rắn với Nhật Bản sẽ giúp ông ghi điểm với công chúng. Nâng

cao mức tín nhiệm là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với ông Moon trước thềm

cuộc Tổng tuyển cử sẽ diễn ra vào 2020. Bởi vậy có thể thấy rằng nhiều khả năng

căng thẳng Nhật – Hàn sẽ khó có thể lắng dịu lại trước thời điểm này. Những “cặp”

xung đột kể trên rõ ràng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng cũng như làm gián

đoạn một phần trong chuỗi cung ứng của khu vực cũng như tiến trình liên kết kinh

tế nói chung. Ngoài ra, ngay cả những nhân tố ngắn hạn như tỷ lệ nợ công cao, tỷ

giá và chính sách thắt chặt tài khóa của một số nền kinh tế lớn cũng có thể tác động

không thuận lợi tới sự ổn định kinh tế vĩ mô của nhiều quốc gia, làm đổi hướng các

dòng thương mại và đầu tư, ảnh hưởng trực tiếp đến liên kết kinh tế.

Về triển vọng vai trò của một số bên tham gia chính tại Đông Á, có thể thấy

rằng sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các bên, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung

Quốc sẽ tiếp tục dẫn đến những động thái điều chỉnh và tập hợp lực lượng. Trong

quá trình cạnh tranh và nỗ lực mở rộng vùng ảnh hưởng, các nước lớn sẽ cần lôi kéo

sự tham gia của các nước nhỏ và vừa khác. Bởi vậy mà các diễn đàn, cơ chế liên kết

125

kinh tế đa phương sẽ là những công cụ quan trọng để các nước lớn, nhất là Mỹ và

Trung Quốc thể hiện vai trò và ảnh hưởng cũng như tập hợp xung quanh mình

những nước đồng minh hoặc thân cận. Bên cạnh Mỹ và Trung Quốc, các bên Đông

Á khác cũng sẽ ngày càng quan tâm nhiều hơn, muốn can dự sâu hơn và có vai trò

lớn hơn ở khu vực. Mặc dù về cơ bản các quy tắc, khuôn khổ do Mỹ, Nhật chi phối

vẫn có ảnh hưởng quyết định, các cơ chế do Trung Quốc chủ đạo cũng ngày càng

có sức nặng hơn.

Về phần Trung Quốc, nước này sẽ tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Vành đai,

Con đường” phiên bản 2.0. Với những khó khăn trong nước về kinh tế như tốc độ

tăng trưởng giảm mạnh, về xã hội là áp tạo việc làm mới, giảm thất nghiệp, về

chính trị như vấn đề Hồng Công, vấn đề bầu cử Tổng thống tại Đài Loan năm

2020... Trung Quốc có khả năng sẽ tiến hành một số điều chỉnh, kể cả trong cuộc

chiến thương mại với Mỹ, nhưng về cơ bản sẽ không điều chỉnh chiến lược đối với

BRI. Về lâu dài Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy BRI, thể hiện rõ với một số điểm

sau. Thứ nhất là ngày càng mở rộng hơn phạm vi BRI. Không chỉ vươn tới tận Bắc

Cực với mong muốn triển khai một "Con đường tơ lụa vùng Cực" đi qua các tuyến

hàng hải ở Bắc Đại Tây Dương, cạnh tranh liên quan đến đảo lớn nhất thế giới

Greenland với Mỹ, BRI mở còn mở rộng phạm vi hoạt động sang cả lĩnh vực vũ trụ

và không gian mạng thông qua hệ thống vệ tinh, cảm biến định vị từ xa nhằm tiến

tới có thể kiểm soát và cạnh tranh với các cường quốc hàng đầu trong lĩnh vực này.

Thứ hai là BRI sẽ dần hình thành các “tuyến” kết nối rõ ràng hơn về kết cấu hạ tầng,

mạng lưới thương mại, năng lượng và hành lang kinh tế mà ở đó Trung Quốc đóng

vai trò trung tâm, cấu trúc “trung tâm - ngoại vi” sẽ được tổ chức chặt chẽ hơn, hình

thành tuyến giao thông kết nối Á – Âu. Thứ ba, Trung Quốc sẽ tiếp tục đầu tư vào

các cảng biển quan trọng, có vị trí chiến lược về nhiều mặt. Thứ tư là nước này sẽ

tích cực khai thác hơn nữa các công cụ tài chính và cơ chế hợp tác hỗ trợ cho triển

khai BRI như lập mạng lưới các đối tác, đẩy nhanh hợp tác với bên thứ ba…

Về phía Mỹ trong những năm tới đây sẽ đẩy mạnh triển khai Chiến lược Ấn

Độ Dương – Thái Bình Dương Tự do và Cởi mở (FOIP), cho thấy nước này sẽ ngày

càng cứng rắn hơn đối với Trung Quốc và tiếp tục tập hợp lực lượng ở khu vực.

126

Hiện tại vẫn chưa có sự rõ ràng về ý tưởng bao trùm của sáng kiến này cũng như

các cấu trúc cần thiết cho việc thực thi. Tuy nhiên rõ ràng việc Trung Quốc triển

khai nhanh chóng BRI đã thúc đẩy Mỹ đẩy nhanh FOIP. Liên quan đến triển khai

FOIP, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ tại cuộc họp ba bên đầu tiên bên lề Thượng đỉnh G20

tháng 12/2018 tại Buenos Aires đã nhất trí rằng một trật tự “tự do, rộng mở và trên

nền tảng các quy tắc” là thiết yếu đối với sự hòa bình và thịnh vượng. Trong khi Mỹ

nhấn mạnh ảnh hưởng mềm là nền tảng thì Nhật Bản đề cao khía cạnh kinh tế. Đối

với Nhật Bản, FOIP rộng mở với tất cả các quốc gia tôn trọng luật pháp quốc tế, sự

tự do di chuyển và những tiêu chuẩn liên quan đến sự minh bạch và phát triển bền

vững. Tuy nhiên, kết quả bầu cử tổng thống Mỹ lần thứ 59 diễn ra cuối năm 2020

có thể sẽ tác động không nhỏ tới phương hướng triển khai chiến lược này.

Song song với với những diễn biến bất ổn định, thiếu rõ ràng của triển vọng

liên kết kinh tế Đông Á cũng cần phải nhắc tới những nhân tố, xu hướng thuận lợi

có thể mang lại những cơ hội và ảnh hưởng tích cực đối với tiến trình này. Trước

hết Đông Á vẫn sẽ là trung tâm của hoạt động kinh tế toàn cầu và tiếp tục là động

cơ tăng trưởng chính của thế giới. Thời báo Financial Times tính toán theo số liệu

của IMF đã nhận định, tới năm 2020 các nền kinh tế khu vực sẽ chiếm một tỷ lệ

đáng kể trong nền kinh tế thế giới. Thậm chí nếu xét từ cơ sở thị trường hối đoái,

Đông Á cũng chiếm tỷ lệ lớn trên toàn cầu, tăng đáng kể so với thập niên đầu của

thế kỷ 21. Cục diện này cho phép đưa ra dự báo rằng trong tương lai tới đây vị thế

của Đông Á trong nền kinh tế thế giới sẽ vẫn tiếp nối xu thế diễn ra hiện nay.

Ngoài ra, khu vực và thế giới cũng đã bước vào thời kỳ chuyển đổi mô hình

tăng trưởng theo các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến 2030

(SDGs), mô hình kinh tế xanh và kinh tế tri thức... Bên cạnh đó, hòa bình, hợp tác

và phát triển vẫn là nguyện vọng và lợi ích của các quốc gia, cục diện đa phương,

đa trung tâm, đa tầng nấc tiếp tục được thúc đẩy bởi nhiều bên với nhiều sáng kiến,

ngoài BRI, FOIP kể trên còn có các cơ chế khác như CPTPP, APEC, ASEAN…

Về phần ASEAN, vai trò trung tâm của ASEAN cũng không ngừng bị thách

thức, rõ rệt nhất là từ sau khi Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) được mở rộng

thành ASEAN+8. Sự ra đời của CPTPP dưới sự dẫn dắt của Nhật Bản cũng là một

127

thách thức không nhỏ đối với vai trò trung tâm của ASEAN trong liên kết kinh tế

Đông Á, sự sụt giảm mức độ gắn kết của khuôn khổ ASEAN+3 cũng khiến vị thế

trung tâm của ASEAN nhiều khả năng sẽ ngày càng thu hẹp, khiến cho hội nhập

kinh tế phụ thuộc hơn vào các nước lớn, thậm chí bị các nước lớn điều khiển.

4.1.2. Triển vọng vai trò của Nhật Bản

Với bối cảnh đặc thù của Đông Á, trong tương lai vài năm tới một khuôn khổ

hội nhập kinh tế bao trùm và mang tính ràng buộc cao như EU là ít tính khả thi.

Thay vào đó nhiều khả năng vẫn là sự đan xen của một mạng lưới các khuôn khổ

bao quát các lĩnh vực khác nhau (chẳng hạn như thương mại, đầu tư hay cơ sở hạ

tầng…) nhưng cùng hướng đến mục tiêu thúc đẩy liên kết kinh tế sâu rộng hơn nữa.

Trong bối cảnh triển vọng tiến trình liên kết kinh tế Đông Á gồm nhiều thách thức

và cơ hội đan xen như đã phân tích ở trên, vai trò của Nhật Bản trong tiến trình này

dự đoán có thể đi theo 3 kịch bản sau:

Ở kịch bản thứ nhất, Nhật Bản sẽ thể hiện vai trò đi tiên phong dẫn dắt, thúc

đẩy liên kết kinh tế khu vực tiến triển hơn nữa. Ngoài ra, kinh tế Nhật Bản cũng sẽ

tiếp tục hồi phục và sự phục hồi này là rất cần thiết đối với sự ổn định và phát triển

của các quốc gia cũng như tiến trình liên kết. Nhật Bản có thể nắm giữ vai trò là

một trung tâm, khu tổ hợp công nghiệp lớn và quan trọng của mạng sản xuất Đông

Á, nơi cung cấp những cấu kiện có tính năng cao và không thể thiếu. Trong kịch

bản này, Nhật Bản cũng thể hiện được sự độc lập tương đối với Mỹ trong thúc đẩy

hội nhập về mặt thể chế. Với Mỹ một mặt Nhật Bản chủ trương thắt chặt quan hệ,

mặt khác cũng tìm cách tách khỏi Mỹ và có thái độ chủ động đối với một số vấn đề

quan trọng của liên kết kinh tế khu vực.

Kịch bản thứ hai là Nhật Bản sẽ cùng với Mỹ làm sâu sắc thêm tiến trình này.

Đây là kịch bản có thể tính đến trong một số trường hợp, chẳng hạn như Tổng thống

Trump không thể tiếp tục một nhiệm kỳ thứ hai sau cuộc bầu cử cuối 2020, người

kế nhiệm ông có quan điểm ôn hòa hơn đối với các nguyên tắc thương mại đa

phương cùng có lợi và coi trọng hơn mối quan hệ với khu vực Đông Á. Hoặc Nhật

Bản ủng hộ chiến lược FOIP trong trường hợp chiến lược này được triển khai theo

hướng có lợi với tiến trình liên kết kinh tế Đông Á. Trong chiến lược FOIP của Mỹ

128

vai trò của Nhật Bản là rất quan trọng. Nhật Bản có thể giúp Mỹ phát huy vai trò chủ

đạo, đối trọng với sự trỗi dậy và những tham vọng to lớn của Trung Quốc. Là đồng

minh quan trọng nhất của Mỹ ở Đông Á, Nhật Bản vẫn sẽ có một vị thế đáng kể ở khu

vực, thể hiện được vai trò thúc đẩy và can dự tích cực vào tiến trình liên kết kinh tế.

Kịch bản thứ ba là vai trò của Nhật Bản một lần nữa trở nên lu mờ, giảm sút

trong bối cảnh vai trò ASEAN nổi lên, hai siêu cường Trung Mỹ quyết định bắt tay

nhau, thống nhất cùng chia sẻ quyền lực và cùng định hướng tiến trình liên kết của

khu vực, không cần đến vai trò của Nhật Bản.

Trong ba phương án này kịch bản đầu tiên có nhiều khả năng hiện thực hơn

cả. Hai cường quốc Mỹ - Trung đối đầu quyết liệt và kéo dài, ASEAN cũng khó có

khả năng trở thành đầu tàu thực sự đối với tiến trình liên kết kinh tế, đây cũng là

kịch bản phản ánh đúng bối cảnh thực tế cũng như năng lực và kỳ vọng của Nhật

Bản. Trong bối cảnh Đông Á hiện nay, liên kết khu vực rất khó có thể do Trung

Quốc hoặc Mỹ hoặc cả hai cùng dẫn dắt.

Không chỉ nảy sinh những quan ngại cảnh giác, thậm chí đã có một làn sóng

quay lưng lại với “Vành đai và Con đường” khi liên tiếp có các quốc gia quyết định

đình chỉ, thu hẹp hoặc chấm dứt các dự án cơ sở hạ tầng do Trung Quốc tài trợ.

Trung Quốc đã đạt được những thành công nhất định với chính sách dùng “củ cà rốt”

kinh tế để “mua” ảnh hưởng chính trị từ các quốc gia muốn tận dụng sự “hào phóng”

của họ để phục vụ mục đích phát triển. Không thể trách các quốc gia này về sự thực

dụng của họ, bởi đó là cách họ định nghĩa lợi ích quốc gia, tuy nhiên, cách làm của

Trung Quốc cũng không bền vững. Thứ nhất, nguồn lực kinh tế, tài chính của Trung

Quốc sẽ bị dàn trải và có thể cạn kiệt dần, nhất là khi nước này còn đang khó khăn

với không ít các vấn đề trong nước. Thứ hai, với bất cứ quốc gia nào, lợi ích kinh tế

có thể rất cần thiết nhưng cũng không thể quan trọng bằng lợi ích chiến lược. Bởi

vậy mà gần đây, một vài nước trong khu vực từng nằm trong quỹ đạo của Trung

Quốc cũng đã có những bước điều chỉnh, dần thoát khỏi thế phụ thuộc.

Còn FOIP thì ngay cả ở khái niệm cũng chưa rõ ràng và cách thức và nội

dung triển khai cũng vẫn còn là những câu hỏi chưa có đáp án. Phương án RCEP

được Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ nhưng không chỉ có tiêu chuẩn thấp, bỏ qua

129

hàng rào phi thuế quan mà lâu nay vẫn dậm chân tại chỗ. Triển vọng của RCEP

cũng còn phải phụ thuộc vào các cuộc bầu cử diễn ra trong năm 2019 tại các nước

như Ấn Độ, Indonesia, Úc, Thái Lan... Về phần FTA giữa Trung – Nhật – Hàn (khu

vực chiếm 20,5% GDP toàn cầu, 17,5% khối lượng thương mại của thế giới và

21,5% dân số thế giới), mặc dù đã gần 7 năm trôi qua kể từ khi đàm phán được khởi

động, 3 bên chưa đạt được sự tiến triển nào và triển vọng cũng rất ít khả quan trong

bối cảnh còn tồn tại quá nhiều vấn đề gây tranh cãi liên quan đến lợi ích mỗi quốc

gia. Bởi vậy CPTPP với sự dẫn dắt của Nhật Bản hiện có thể coi là hình mẫu khả thi

nhất đối với hội nhập kinh tế Đông Á. Trong khuôn khổ này Nhật được kỳ vọng sẽ tiếp

tục đóng vai trò như một chủ thể đi tiên phong và chèo lái đáng tin cậy trong thúc đẩy

hội nhập, hợp tác, có khả năng điều hòa và gắn kết lợi ích của các bên tham gia. Mặc

dù những lợi ích kinh tế phần nào bị thu hẹp khi không có Mỹ, CPTPP vẫn là một hiệp

định đầy hứa hẹn. Hiện tại hiệp định cũng đang thu hút sự quan tâm của nhiều thành

viên mới tiềm năng như Anh, Indonesia, Hàn Quốc, Philippines, Đài Loan, Colombia,

Thái Lan... Việc duy trì một vai trò chủ đạo trong liên kết kinh tế sẽ giúp Nhật Bản can

dự nhiều hơn vào khu vực Đông Á và không chỉ khẳng định vị thế mà còn có thể tìm

kiếm lợi ích và duy trì một trật tự kinh tế khu vực mở, minh bạch, dựa trên quy tắc và

chuẩn mực quốc tế. Việc Nhật Bản có thể tăng cường quan hệ với các đối tác và vai trò

của nước này sẽ được tiếp tục phát huy đến đâu trong liên kết kinh tế Đông Á chắc

chắn sẽ liên quan rất nhiều vào cách thức vận hành của CPTPP sau 2018. Tất nhiên

những cơ chế như FOIP hay thậm chí cả CPTPP mới chỉ mang tính khởi đầu, trong

tương lai gần có thể chưa tiến triển như kỳ vọng hoặc phát sinh một số vấn đề, nhưng

có một điều chắc chắn là với sự hiện diện mạnh mẽ của Nhật Bản, tiến trình liên kết

kinh tế Đông Á sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn.

4.2. Quan điểm của Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á và một số hàm ý

chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của liên kết kinh tế khu vực

4.2.1. Quan điểm cơ bản của Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á

Trong các kỳ Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế luôn

là một chủ trương lớn. Xuất phát từ chủ trương này, những năm gần đây Việt Nam

đã có nhiều điều chỉnh chiến lược đối nội và đối ngoại nhằm hội nhập sâu vào hệ

130

thống kinh tế khu vực và thế giới. Có thể khẳng định hòa bình, ổn định và phát triển

ở Đông Á luôn gắn liền với lợi ích thiết thân của Việt Nam. Đồng thời, phù hợp với

mục tiêu của Việt Nam trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế Đông Á đã trở thành một nhân tố quan trọng để

tạo thế và lực cho đất nước.

Sự hội nhập sâu và gắn kết chặt chẽ với kinh tế khu vực của Việt Nam cũng đang

ngày càng được thể hiện rõ nét. Việt Nam đã tích cực tham gia hội nhập kinh tế Đông Á

thông qua khuôn khổ ASEAN với các định chế như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN,

Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Bên cạnh đó, hội

nhập kinh tế Đông Á của Việt Nam cũng liên tục được đẩy mạnh ở các cấp độ khu vực

và liên khu vực, trong đó tham gia một loạt các hiệp định thương mại tự do với nòng cốt

là khối ASEAN như ASEAN+1, ASEAN+3, ASEAN+6 mà Việt Nam là một trong

những nước tích cực đi đầu. Cụ thể, Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN ký các hiệp

định thương mại tự do giữa khối ASEAN với các đối tác gồm Trung Quốc vào năm

2004, với Hàn Quốc năm 2006, Nhật Bản năm 2008, Australia và New Zealand, Ấn Độ

năm 2009. Việt Nam cũng đã chủ động, tích cực tham gia sâu vào diễn đàn APEC cũng

như tham gia vào quá trình đàm phán hiệp định RCEP nhằm đạt được một thỏa thuận

kinh tế toàn diện, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Bên cạnh đó, sự tham gia của Việt Nam vào tiến trình liên kết kinh tế Đông Á

đã chuyển từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và hợp tác” sang “chủ động đóng góp,

tích cực khởi xướng và tham gia vào quá trình định hình các thể chế”. Tháng

10/2015, Việt Nam đã cùng 12 nước thành viên đàm phán ký Hiệp định Đối tác

xuyên Thái Bình Dương (TPP). Sau khi Mỹ rút khỏi TPP, tháng 3/2018, Việt Nam

và 10 nước đối tác đã ký kết Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện xuyên Thái

Bình Dương (CPTPP). Tháng 11/2018, Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua

CPTPP với 96,7% đại biểu tán thành, thể hiện nỗ lực và quyết tâm của Việt Nam

trong việc thúc đẩy hội nhập trong nước và tham gia tích cực vào tiến trình hội nhập

kinh tế khu vực Đông Á, châu Á - TBD. Năng lực chủ trì, điều hành và vai trò dẫn

dắt của Việt Nam ngày càng được khẳng định sau thành công của APEC 2017 và

góp phần tích cực thúc đẩy sự hình thành hiệp định CPTPP. Bên cạnh đó, hội nhập

131

kinh tế khu vực của Việt Nam cũng đã chuyển sang giai đoạn triển khai sâu rộng và

toàn diện. Có thể nói việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ

mới, nhất là CPTPP, RCEP - những FTA thế hệ mới, nhiều bên, quy mô rộng, mức

độ cam kết cao là những đột phá quan trọng của hội nhập quốc tế toàn diện của Việt

Nam. Với việc triển khai và hoàn tất FTA đã thực thi, đang đàm phán và chuẩn bị

phê chuẩn, Việt Nam hứa hẹn sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới

khu vực thương mại tự do rộng lớn, góp phần gia tăng lợi ích của Việt Nam với hầu

hết các đối tác quan trọng trong khu vực.

Hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam nhấn mạnh trọng tâm là đẩy mạnh và

nâng tầm đối ngoại đa phương. Trong bối cảnh nội hàm của liên kết kinh tế ngày

càng trở nên mở rộng, số lượng đối tác tăng lên, Việt Nam cần có cách tiếp cận đa

ngành, liên ngành và đa phương, lựa chọn cách thức hội nhập để tăng cường năng

lực sản xuất trong nước, bên cạnh đó tận dụng cơ hội, tiềm năng của liên kết về

công nghệ, quản lý, nguồn lực và tham gia vào những tầng nấc cao hơn trong mạng

sản xuất khu vực. Về liên kết thể chế, trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, nhiều

khuôn khổ đa phương sẽ trở thành những mục tiêu lớn của hội nhập kinh tế khu vực

của Việt Nam như thúc đẩy xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN, thực hiện các

cam kết trong Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, Tầm nhìn

ASEAN đến năm 2025, Mục tiêu Bogor của APEC về tự do hóa thương mại và đầu

tư vào năm 2020, xây dựng, định hình các khuôn khổ liên kết kinh tế khu vực châu

Á – TBD, thực thi và tăng cường liên kết trong CPTPP, RCEP, hướng tới hình

thành khu vực mậu dịch tự do châu Á – TBD (FTAAP)…

4.2.2. Hàm ý chính sách đối với Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á

Trong những năm qua, chính sách hội nhập của Việt Nam đã chứng minh

được tính đúng đắn, góp phần không nhỏ vào sự ổn định và phát triển của đất nước.

Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực, trong đó bao gồm

cả những biến chuyển về vai trò của Nhật Bản, Việt Nam rất cần những định hướng

chính sách phù hợp với tình hình mới để đạt được nhiều thành tựu hơn nữa.

Trong bối cảnh liên kết kinh tế Đông Á không ngừng tiến triển, hội nhập kinh

tế khu vực của Việt Nam bên cạnh tranh thủ nguồn lực bên ngoài cần khai thác tốt

132

nguồn lực trong nước, xây dựng đồng bộ thị trường để đủ sức hội nhập với khu vực.

Song song với đó là việc xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh, có năng lực cạnh

tranh, bởi đây là nhân tố vô cùng quan trọng trong hội nhập kinh tế. Ngoài ra, cần

đổi mới, hoàn thiện môi trường pháp lý, hành chính, cơ chế quản lý minh bạch hơn,

làm thông thoáng môi trường kinh doanh, thúc đẩy đầu tư của các thành phần, đặc

biệt là các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính lớn, công nghệ cao, trình độ

quản lý tiên tiến. FDI cần phải được đặt trong chiến lược phát triển hoàn chỉnh,

chiến lược thu hút FDI theo hướng khuyến khích TNCs ngày càng đầu tư vào các

ngành có giá trị gia tăng cao hơn, hàm lượng công nghệ và tri thức nhiều hơn [130].

Hội nhập kinh tế tiểu khu vực tại Đông Á đã được định hình tương đối rõ, tuy

nhiên quy mô cũng như đích đến cuối cùng của hội nhập kinh tế khu vực vẫn còn

khá mơ hồ. Trong bối cảnh có nhiều biến chuyển, thách thức hiện nay, để tăng

cường quan hệ với các đối tác khu vực và hội nhập một cách hiệu quả, Việt Nam

cần thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh trong quan hệ kinh tế quốc tế và khu

vực. Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi, nghiên cứu và đánh giá tác động của việc

thực hiện các cam kết cắt giảm thuế trong các FTA và tác động đối với một số

ngành nghề quan trọng, từ đó kịp thời kiến nghị điều chỉnh các chính sách liên quan.

Nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và dự báo các vấn đề mới, các xu thế vận

động của hội nhập, đặc biệt trong việc thực hiện các cam kết thương mại, các FTA

ở cấp độ cao hơn để có các điều chỉnh chính sách và biện pháp phù hợp. Ở một tầm

chiến lược hơn, sự tham gia tích cực, chủ động của Chính phủ và đặc biệt là giới

doanh nghiệp vào các cơ chế liên kết sẽ góp phần từng bước đưa Việt Nam trở

thành mắt xích quan trọng của mạng lưới kết nối kinh tế Đông Á và toàn cầu. Trong

tương lai Việt Nam cần tiếp tục hội nhập theo hướng chủ động, phát huy được vai

trò trong các cơ chế liên kết kinh tế đa phương quan trọng, đóng góp vào việc tăng

cường hệ thống thương mại đa phương công bằng, minh bạch và dựa trên luật lệ.

Những năm tới đây sẽ là giai đoạn Việt Nam đi vào thực thi nhiều cam kết

kinh tế quốc tế trên nhiều tầng nấc, mức độ cắt giảm sâu, đặc biệt là những cam kết

FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn cao. Năm 2018 là thời hạn thực hiện Hiệp định hàng

hóa ASEAN (ATIGA), từ 2020 đến 2025 sẽ cần hoàn tất các cam kết của các FTA

133

ASEAN với Trung Quốc, Australia và New Zealand, Ấn Độ, Hàn Quốc. Từ 2026

đến 2030 là giai đoạn thực thi các cam kết trong FTA với Nhật Bản, Liên minh

Kinh tế Á - Âu, Chile... Ngoài ra với Việt Nam CPTPP cũng là một trong những

hiệp định thương mại tự do hết sức quan trọng. Đây sẽ là giai đoạn tác động trực

diện và sâu rộng đến kinh tế đất nước, địa phương và doanh nghiệp, đồng thời sức

ép cạnh tranh cũng sẽ ngày càng gay gắt hơn, đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung chính

sách, hướng dẫn kịp thời để đảm bảo thực thi có hiệu quả.

Với các đối tác khác, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, có thể thấy rằng hiện

nay các quốc gia đều đang tích cực đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc và nỗ lực tham

gia liên kết kinh tế sâu rộng. Tầng lớp trung lưu trong khu vực ngày càng phát triển,

báo hiệu sức tiêu thụ trong khu vực sẽ tiếp tục tăng mạnh, lợi ích giữa các nước

ngày càng có sự gắn bó chặt chẽ. Đối với Việt Nam, khối ASEAN mạnh có ý nghĩa

vô cùng quan trọng trong việc thiết lập cơ sở cho liên kết Đông Á, do vậy nhiệm vụ

quan trọng là ưu tiên trước hết cho quá trình liên kết ASEAN. Việt Nam cần có

chiến lược đặc thù dựa trên cơ sở phân định rõ ràng những lợi ích kinh tế, chính trị

và xã hội có được nhờ liên kết kinh tế. Bên cạnh đó trong quá trình hợp tác Việt

Nam còn phải đối diện với nhiều thách thức như trình độ phát triển giữa các nước

chưa đồng đều, hạ tầng cơ sở, chất lượng nhân lực và thể chế khác biệt. Là một

trong 4 thành viên kém phát triển hơn của ASEAN và Đông Á (CLMV -

Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam), từ nhiều năm nay Việt Nam đã tham gia

mạng lưới sản xuất khu vực Đông Á nhưng sự hiện diện của Việt Nam trong chuỗi

liên kết vẫn còn yếu. Nếu nhìn vào triển vọng liên kết kinh tế Đông Á của các nước

thì nhóm CLMV trong đó có Việt Nam có hai vấn đề, thứ nhất là năng lực và trình

độ phát triển còn hạn chế và thứ hai là vẫn đang phải giải quyết các mối quan hệ

kinh tế nội bộ lạc hậu, vì vậy sẽ gặp nhiều khó khăn tham gia vào hệ thống phân

công lao động trong khu vực như đã cam kết. Do vậy, Việt Nam cùng với các nước

trong nhóm cần phải thúc đẩy nhanh tiến trình cải cách thị trường để tiếp tục tham

gia hiệu quả hơn nữa vào liên kết kinh tế khu vực. Việt Nam cùng 3 quốc gia kém

phát triển này cùng với nhóm các thành viên phát triển hơn của ASEAN nên cùng

nhau tạo dựng chiến lược phát triển kinh tế hiệu quả cho toàn khối. Thực hiện thành

công chiến lược này sẽ giúp Việt Nam và ASEAN có được những đột phá quan

134

trọng trong cạnh tranh sản xuất và cải cách các mối quan hệ kinh tế nội bộ lạc hậu.

Điều này đòi hỏi phải có sự quyết tâm, bên cạnh đó cũng cần có sự ủng hộ đủ mạnh

từ bên ngoài nhằm mục đích thúc đẩy cải cách thị trường và liên kết với nền kinh tế

khu vực. Với các đối tác chủ chốt trong liên kết kinh tế Đông Á, Việt Nam có thể

thu hút đầu tư hơn nữa và mở rộng thị trường của mình để nâng cao vị thế cạnh

tranh. Việt Nam cũng cần thể hiện được vai trò của mình trong việc tham gia vào

cải tổ cơ cấu hệ thống phân chia lao động trong khu vực dựa trên nguyên tắc chuỗi

cung ứng. Ngoài ra, trong hoạt động kinh tế thương mại của Việt Nam với Trung

Quốc hiện nay thường có một xu hướng là trong khi Việt Nam thặng dư xuất khẩu

với hầu hết các nền kinh tế phát triển (Nhật Bản, Mỹ, châu Âu) thì Việt Nam thậm

hụt thương mại rất lớn với một nền kinh tế đang phát triển như Trung Quốc. Điều

này dường như là một nghịch lý đối với Việt Nam, một quốc gia đã có quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đang cố gắng thực hiện thu hẹp khoảng cách phát

triển với các nước khác trên thế giới. Hướng tới lợi ích phát triển lâu dài, quan ngại

lớn của Việt Nam về thâm hụt thương mại với Trung Quốc chính là ở chỗ sự phân

chia lao động giữa 2 nền kinh tế. Việt Nam chuyên môn hóa trong việc cung cấp

nguyên liệu, dầu thô và các sản phẩm nông nghiệp sơ chế sang Trung Quốc. Trung

Quốc xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có công nghệ trung bình sang Việt Nam,

nghĩa là mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể

mang tính chất mô hình bắc – nam. Là một nền kinh tế phụ thuộc lớn vào Trung

Quốc, tình hình này sẽ là bất lợi rất lớn đối với Việt Nam.

4.3. Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á

4.3.1. Khái quát lịch sử hợp tác kinh tế Việt Nam Nhật Bản

Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản đã phát triển từ thế kỷ 16,

khi các thương nhân Nhật lập “Thị trấn Nhật Bản” tại Hội An để thuận tiện cho việc

mở rộng buôn bán. Vào đầu thế kỷ 17, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu quan trọng

của Đàng Trong (miền Nam Việt Nam). Tới khi Tokugawa Shogunate (徳川幕府)

áp đặt những hạn chế đối với việc trao đổi nước ngoài, Trung Quốc mới thay vị trí

Nhật Bản trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Đàng Trong. Đầu thế kỷ 20, sự

chuyển mình vươn lên thành một cường quốc của Nhật Bản đã tạo nguồn cảm hứng

cho nhiều nhân sĩ yêu nước của Việt Nam muốn học hỏi về hiện đại hóa và giành

135

độc lập cho đất nước. Nhưng đến Thế chiến II có tới 2 triệu người Việt Nam chết

đói do hậu quả của việc Nhật Bản tái tổ chức sản xuất nông nghiệp để hỗ trợ chiến

tranh trong thời gian chiếm đóng Việt Nam. Tuy vậy giai đoạn bi thảm này dường

như không quá đè nặng lên mối quan hệ ngoại giao song phương được hai nước

chính thức thiết lập năm 1973. Từ đó đến nay, quan hệ Việt Nam Nhật Bản tuy có

lúc thăng trầm, nhưng về tổng thể không ngừng phát triển. Từ năm 1973 đến 1979,

hợp tác hai bên chủ yếu xoay quanh việc Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam. Với “học

thuyết Fukuda” nhằm mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, viện trợ của Nhật Bản đã

giúp quan hệ hai nước bước vào đúng quỹ đạo. Từ 1979-1992, sau Chiến tranh biên

giới Tây Nam, việc Nhật Bản cùng Mỹ và phương Tây tiến hành trừng phạt Việt

Nam đã khiến quan hệ hai nước sa sút. Từ 1992 Chiến tranh Lạnh kết thúc, vấn đề

Campuchia được giải quyết, Nhật Bản đã dỡ bỏ hoàn toàn các biện pháp trừng phạt

Việt Nam, khởi động lại viện trợ, tiến hành bình thường hóa quan hệ. Từ năm 2009

hai nước nâng cấp quan hệ lên mức “Đối tác chiến lược”. Từ 2014 quan hệ hai nước

đã trở thành “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á”. Cho

đến nay quan hệ hai nước ngày càng mở rộng, các lĩnh vực hợp tác được tăng

cường. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quan hệ hai nước đi theo xu thế phát triển

toàn diện ở tầng nấc sâu và mang tính chiến lược, hai bên đã tăng cường hợp tác

trong vấn đề phát triển bền vững như lấy viện trợ kinh tế để kết nối phát triển, cùng

thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế.

4.3.2. Thực trạng quan hệ Việt Nam Nhật Bản hiện nay

Có thể thấy không giống đa phần các mối quan hệ lớn giữa hai quốc gia, quan

hệ song phương Việt Nam và Nhật Bản nhìn chung không có trở ngại nào, thậm chí

có lợi ích hai bên còn trùng hợp trong hầu hết các vấn đề quan trọng. Quan hệ hai

nước cũng đang ở giai đoạn tốt đẹp nhất với sự tin cậy chính trị cao, Nhật Bản là

“đồng minh” tự nhiên với Việt Nam, nhất là trong xây dựng kiến trúc kinh tế khu

vực, an ninh biển, giữ gìn sự ổn định của khu vực. Cục diện hợp tác cùng có lợi,

cùng thắng không chỉ phù hợp với lợi ích chiến lược của hai bên mà còn góp phần

quan trọng để Đông Á ứng phó với những thách thức của kinh tế, chính trị quốc tế,

thúc đẩy Đông Á trở thành khu vực có sức sống nhất trong kinh tế toàn cầu.

136

Quan hệ kinh tế Việt Nam Nhật Bản phát triển mạnh trên cả 3 lĩnh vực then

chốt là ODA, FDI và thương mại [134]. Chẳng hạn vào năm 2016, Nhật Bản là nhà

cung cấp ODA lớn nhất, nhà đầu tư lớn thứ hai, nguồn khách du lịch lớn thứ ba và

là đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam [38]. Trong lĩnh vực ODA, có thể

thấy rằng từ năm 2006 tới nay Nhật Bản luôn là quốc gia viện trợ nhiều nhất cho

Việt Nam, chiếm tới 30%, thời gian từ 1992 - 2011 là gần 20 tỷ USD [26]. Nguồn

vốn ODA của Nhật Bản đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc cải thiện cơ

sở hạ tầng, nguồn nhân lực cũng như các cải cách kinh tế, xã hội khác. Bên cạnh đó,

việc Nhật Bản cam kết duy trì lâu dài hỗ trợ nguồn vốn xây dựng và nâng cấp cơ sở

hạ tầng cho Việt Nam cũng giúp tăng cường những lợi ích chung và làm sâu sắc

thêm mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản.

Về phương diện FDI, Nhật Bản là quốc gia có vốn đầu tư trực tiếp vào Việt

Nam lớn nhất tính đến tháng 6/2013 với 32,6 tỷ USD, vượt xa đối tác thứ hai là Đài

Loan (với hơn 26 tỷ USD). Mặc dù năm 2015 Nhật Bản là nhà đầu tư lớn thứ hai

của Việt Nam (sau Hàn Quốc), nhưng FDI tích lũy lên tới 38,9 tỷ USD. Tính đến

cuối 2016 các công ty Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam 3.320 dự án với tổng vốn

đăng ký 42,5 tỷ USD [26]. Không phải ngẫu nhiên mà về lĩnh vực thương mại,

trong nhiều năm qua Nhật Bản luôn là một trong ba đối tác thương mại lớn nhất của

Việt Nam (cùng Trung Quốc và Mỹ), với tổng kim ngạch thương mại hai chiều luôn

chiếm từ 10 - 15% trong tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam với tất

cả các nước trên thế giới. Thương mại hai nước luôn vận động theo xu hướng đi lên

với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 20%, ngoại trừ năm 2009 do

khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm 2011 tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước

đã đạt trên 21 tỷ USD, vượt xa so với dự kiến. Năm 2016 Việt Nam xuất khẩu sang

Nhật Bản 14,68 tỷ USD và nhập khẩu từ Nhật Bản 15,04 tỷ USD, là đối tác thương

mại lớn thứ 4 của Việt Nam sau Trung Quốc, Mỹ và Hàn Quốc [38]. Việt Nam

cũng là lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư Nhật Bản nếu di chuyển địa điểm sản

xuất khỏi Trung Quốc (Hình 4.1). Ngoài sự hỗ trợ đối với chiến lược công nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam, Nhật Bản còn hỗ trợ Việt Nam trong

các vấn đề từng là nguyên nhân hạn chế sự phát triển của ngành công nghiệp trong

thời gian dài như cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, giúp Việt Nam xây dựng các khu

137

công nghiệp, bến cảng, nhà máy điện, các công trình lớn như đường cao tốc, nhà ga

số 3 Sân bay quốc tế Nội Bài. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhật Bản hỗ trợ Việt

Nam hiện đại hóa nông nghiệp bằng cách xuất khẩu các công nghệ tiên tiến và kinh

nghiệm quản lý, mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích

các công ty Nhật Bản đầu tư nhiều hơn vào Việt Nam. Nhật Bản cũng đã giúp Việt Nam

nâng cấp ngành nông nghiệp, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm và nâng cao khả năng

cạnh tranh quốc tế, cam kết từ 2015-2020 giúp Việt Nam xây dựng chuỗi giá trị thực

phẩm từ nông nghiệp đến chế biến, xây dựng thương hiệu, tiêu thụ sản phẩm. Trong vấn

đề mở rộng hợp tác đưa hội nhập kinh tế đi vào chiều sâu, có thể thấy những năm gần

đây trong bối cảnh khu vực Đông Á, châu Á – TBD có nhiều biến đổi, Việt Nam và

Nhật Bản đều đã có những điều chỉnh chính sách đối ngoại. Sự lệ thuộc lẫn nhau gia tăng

đáng kể đã trở thành động lực quan trọng khiến quan hệ giữa hai nước phát triển hơn nữa.

Sau đây khi hiệp định CPTPP đã có hiệu lực, quan hệ liên kết kinh tế giữa Việt Nam và

Nhật Bản được kỳ vọng sẽ còn tiếp tục phát triển hơn nữa.

Hình 4.1. Điểm đến tiềm năng sau khi Nhật Bản di chuyển cơ sở

sản xuất khỏi Trung Quốc

Chú thích: Lựa chọn trong số các “ứng cử viên”: Trung Quốc (những vùng

chi phí thấp hơn), Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Việt Nam, Philippines,

Campuchia, Lào, Myanmar, Bangladesh và một số nước khác.

Nguồn: Viện nghiên cứu Mizuho, Điều tra hoạt động kinh doanh ở châu Á [137]

138

4.4. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả vai trò của

Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á và thúc đẩy hơn nữa quan hệ

hợp tác Việt Nam – Nhật Bản

Trong số các quốc gia Đông Á, Nhật Bản rất coi trọng Việt Nam bởi vị trí

chiến lược cũng như lợi ích đan xen, không có mâu thuẫn trực tiếp và là một mắt

xích ngày càng quan trọng trong liên kết kinh tế Đông Á. Chính vì vậy, việc tận

dụng hiệu quả vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết, tranh thủ lập trường,

quan điểm ủng hộ và sự hỗ trợ mạnh mẽ của Nhật Bản có thể tạo thuận lợi cho Việt

Nam thúc đẩy tăng trưởng, phát huy ưu thế địa chính trị, địa kinh tế, nâng cao năng

lực và vị thế. Căn cứ từ những phân tích ở các phần trên, sau đây luận án sẽ nêu ra

một số kiến nghị chính sách nhằm tận dụng vai trò, ảnh hưởng của Nhật Bản và

giúp Việt Nam hội nhập hiệu quả hơn nữa vào liên kết kinh tế Đông Á.

Trước hết, có thể thấy rằng Việt Nam hiện đang đứng trước không ít thách

thức trong công cuộc phát triển bền vững. Từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần

khắc phục nhiều điểm yếu, gỡ bỏ các "nút thắt" trong mô hình phát triển cũ, đảm

bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển các yếu tố hướng tới một mô hình tăng

trưởng mới bền vững, bao trùm. Để làm được điều này cần tập trung phát triển các

ngành có lợi thế so sánh mới trong nền kinh tế khu vực và thế giới, khuyến khích

ứng dụng công nghệ, đổi mới và sáng tạo để thích ứng với những thay đổi nhanh

chóng của hội nhập khu vực và quốc tế. Bối cảnh khu vực hiện nay cũng là cơ hội

để Việt Nam xem xét lại tư duy phát triển bao gồm nhận thức mới về công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, mô hình tăng trưởng và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa theo các quy tắc và xu thế chung, từ đó đẩy mạnh cải cách, vượt qua những

trở ngại, thách thức. Về khía cạnh này, Việt Nam có thể kỳ vọng vào sự hỗ trợ và

vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế. Nhật Bản cũng là một cường quốc với

sức mạnh kinh tế, khoa học công nghệ, có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng và cũng là

nước G-7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (vào năm

2011). Thủ tướng Abe từng tuyên bố Nhật Bản sẵn sàng phối hợp chặt chẽ để triển

khai Chiến lược Công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam

- Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030 trong 6 ngành gồm chế biến nông

139

thủy sản, điện tử, ô tô và phụ tùng ô tô, máy nông nghiệp, công nghiệp môi trường

và tiết kiệm năng lượng và đóng tàu. Trong nhiều lĩnh vực tương tự Nhật Bản cũng

có thể trở thành chỗ dựa vững chắc để Việt Nam thúc đẩy phát triển kinh tế và hội

nhập sâu hơn nữa vào mạng sản xuất khu vực.

Thứ hai, việc mở rộng quan hệ và tận dụng tốt vai trò của Nhật Bản đối với

liên kết kinh tế trên phương diện thực tế cũng giúp Việt Nam có thể phát huy nhiều

ưu thế vốn có của mình. Cụ thể, về ưu thế tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về thị

trường và lực lượng lao động, dân số khoảng 95 triệu người, 70% là những người

trẻ có năng lực lao động và nhu cầu tiêu dùng mạnh mẽ, chi phí lao động chỉ bằng

50% của Trung Quốc và 40% của Thái Lan [57]. Việt Nam với nguồn tài nguyên

thiên nhiên phong phú, lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công tương đối rẻ

kết hợp với Nhật Bản là nước có tiềm lực lớn về vốn và công nghệ là những yếu tố

hai bên có thể bổ sung cho nhau trong quá trình phát triển trên cơ sở cùng có lợi. Sự

bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là ưu thế của Nhật Bản về nguồn vốn, kỹ thuật và kinh

nghiệm quản lý có thể bù đắp điểm yếu tương ứng của Việt Nam. Nhật Bản cũng sở

hữu những kỹ thuật và kinh nghiệm phong phú về phương diện phát triển bền vững

quốc gia, bởi vậy có thể giúp đỡ Việt Nam trong việc hiện thực hóa mục tiêu này.

Bên cạnh đó, có thể thấy rằng những biểu hiện kinh tế tích cực của Việt Nam trong

những năm gần đây và sự tiến triển của hội nhập kinh tế ASEAN cũng là những

nhân tố rất có giá trị đối với Nhật Bản. Bản thân Nhật Bản cũng cần đa dạng hóa bố

cục thương mại, bởi vậy Việt Nam có thể phát huy lợi thế của mình hài hòa với nhu

cầu của phía Nhật Bản. Hai bên đã ký Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật

Bản (VJEPA), một hiệp định có nội dung toàn diện gồm nhiều lĩnh vực như thương

mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh, di

chuyển của thể nhân. Bên cạnh việc vận dụng được nhiều hơn nguồn lực từ Nhật

Bản để phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam cũng có thể phát huy lợi thế của mình

phù hợp với những nhu cầu của Nhật Bản trong các lĩnh vực.

VJEPA cùng với những thoả thuận kinh tế đã ký trước đó giữa Việt Nam và

Nhật Bản đã tạo nên một khuôn khổ pháp lý toàn diện, ổn định và thuận lợi cho

hoạt động thương mại và đầu tư của doanh nghiệp hai nước, góp phần phát huy tiềm

140

năng, lợi thế của, nâng cao hiệu quả trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư

giữa hai bên, đáp ứng xu thế chung về hội nhập kinh tế khu vực. Hai bên có thể tiếp

tục phối hợp thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác thương mại song phương để hoàn thành

sớm mục tiêu tăng gấp đôi kim ngạch thương mại và đầu tư vào năm 2020. Sự phục

hồi của kinh tế Nhật Bản thông qua chính sách kinh tế Abenomics cũng mang lại

những lợi ích to lớn cho các nước Đông Á, trong đó có Việt Nam.

Trước trào lưu mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực diễn ra mạnh mẽ, để có thể

tận dụng ưu thế so sánh, tiếp nhận sự chuyển dịch năng lực sản xuất quốc tế, hội

nhập sâu sắc với mạng sản xuất khu vực, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện hơn nữa

môi trường đầu tư, thương mại trong nước, tích cực tham gia đàm phán thương mại

tự do, thúc đẩy hội nhập khu vực. Việc thu hút thêm FDI từ Nhật Bản cũng có thể

giúp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Tham gia vào

tiến trình liên kết kinh tế Đông Á, Việt Nam đã mở cửa thị trường nội địa, chủ động

thay đổi cơ cấu kinh tế, xây dựng các khu công nghiệp tập trung và lên kế hoạch

thành lập một số khu kinh tế hành chính đặc biệt để thu hút hơn nữa vốn đầu tư. Các

doanh nghiệp Nhật Bản thông qua đầu tư có thể tạo điều kiện hỗ trợ Việt Nam duy

trì năng lực sản xuất tương quan, hình thành hiệu ứng tích tụ, kết nối từ trên xuống

dưới, giúp cho doanh nghiệp Việt Nam hội nhập tốt hơn với mạng sản xuất khu vực.

Bên cạnh nguồn vốn đầu tư trực tiếp, Việt Nam cũng có thể tranh thủ các

nguồn lực khác của Nhật Bản như ODA để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và phát triển bền vững, thúc đẩy mối quan hệ cùng có lợi thông qua

hợp tác dựa trên công nghệ và tri thức của Nhật Bản trong quá trình triển khai ODA.

Nhật Bản luôn coi Việt Nam là đối tác quan trọng trong chính sách ODA của Nhật

Bản. Không chỉ có vậy, tại Đông Á Việt Nam còn có thể được coi là hình mẫu

thành công của chính sách viện trợ phát triển sau chiến tranh của Nhật Bản, giúp

Nhật Bản chứng tỏ được sức mạnh mềm.

Thứ ba, trong tương lai Việt Nam không thể tiếp tục phát triển nhanh, bền

vững và toàn diện bằng cách chỉ dựa vào các ngành công nghiệp và nguyên liệu

thâm dụng lao động. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay rất cần

phải chú trọng nhân tố đổi mới sáng tạo, sử dụng các công nghệ mới trong các

141

ngành sản xuất truyền thống, tạo ra những bước đột phá trong lĩnh vực sản xuất

công nghệ cao, trở thành một “mắt xích" quan trọng hơn trong mạng lưới sản xuất

khu vực và toàn cầu. Xu hướng phát triển kinh tế trên cơ sở đổi mới công nghệ và

sự mở rộng của mạng lưới sản xuất khu vực là điều kiện quan trọng để Việt Nam

thu hẹp khoảng cách về công nghệ. Thời điểm hiện tại công tác chuẩn bị cho văn

kiện Đại hội Đảng 13 đã được khởi động với 5 đột phá chiến lược đang được tính

đến, trong đó có “Đổi mới sáng tạo”, một thế mạnh của các doanh nghiệp Nhật Bản.

Bởi vậy có thể nói trong tương lai đây đổi mới sáng tạo cũng có thể trở thành một

lĩnh vực, cơ hội hợp tác quan trọng giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Thứ tư, Việt Nam cần chủ động hơn khi tham gia vào quá trình hình thành các

thể chế khu vực và soạn thảo các "quy tắc", bắt kịp làn sóng FTA để có chiến lược

hội nhập kinh tế phù hợp, có thái độ tích cực với việc thành lập các khuôn khổ khu

vực mở. Tuy vậy, bối cảnh cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn đòi

hỏi Việt Nam phải có các chính sách cẩn trọng, linh hoạt và thông minh để cân bằng

quan hệ với tất cả các nước lớn, tạo lợi ích xen kẽ, tránh rơi vào tình trạng đối đầu,

hoặc phụ thuộc. Cho đến nay hai bên Việt Nam – Nhật Bản luôn phối hợp có hiệu

quả tại các diễn đàn khu vực, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy liên kết kinh tế.

Trong tương lai Việt Nam cũng có thể cùng Nhật Bản tiếp tục hợp tác nhằm đóng

góp một cách tích cực và mang tính xây dựng vào sự ổn định và thịnh vượng của

khu vực. Liên quan đến hợp tác trong quá trình triển khai các khuôn khổ hội nhập,

trong đó có CPTPP, bằng việc tích cực tham gia vào mạng lưới sản xuất giữa các

thành viên CPTPP, Việt Nam có thể hội nhập sâu hơn nữa vào mạng sản xuất khu

vực, qua đó gia tăng cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ năm, phát triển cơ sở hạ tầng vẫn sẽ là một trong những lĩnh vực trọng

tâm của liên kết kinh tế khu vực, ít nhất là trong tương lai gần. Trong Chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 mà Đại hội Đảng lần thứ

XI đề ra có một mục tiêu quan trọng là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, thực hiện đột phá chiến lược trong 3 lĩnh vực lớn là xây dựng thể chế kinh tế

thị trường, nâng cao trình độ nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm nâng

cao sức cạnh tranh kinh tế và chất lượng tăng trưởng. Từ năm 2010 Việt Nam đã

142

bước vào hàng ngũ các nước có thu nhập trung bình, thị trường trong nước tiếp tục

được cải thiện, đang trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, nhu cầu về cơ sở hạ

tầng là rất lớn. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 2016 -2020

nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam sẽ vượt trên 100 tỷ USD. Việt Nam

không chỉ có vị trí là cầu nối giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Nằm trong khối

ASEAN - khối trong những năm gần đây hội nhập kinh tế được đẩy nhanh, khả

năng liên kết hiệu quả với hai thị trường lớn là Trung Quốc và Ấn Độ cũng sẽ làm

tăng thêm lợi thế so sánh của Việt Nam. Việt Nam có thể kỳ vọng vào Nhật Bản ở

việc hỗ trợ giúp gia tăng tính kết nối trong khu vực và mở rộng các chuỗi giá trị

thông qua các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng xuyên biên giới và kết nối với các trung

tâm kinh tế nhằm gia tăng cơ hội thương mại. Hai nước Việt Nam – Nhật Bản cũng

có thể tăng cường hợp tác về cơ sở hạ tầng tại Việt Nam như đường sắt, đường bộ,

cảng biển, cảng hàng không trọng điểm, cấp thoát nước và phát triển tài nguyên

nước trong khuôn khổ các bản ghi nhớ, hợp tác giữa các cơ quan hữu quan của hai

nước, thúc đẩy hơn nữa hợp tác công - tư (PPP). Phía Nhật Bản đã cam kết tiếp tục

hỗ trợ Việt Nam cải tạo hệ thống đường sắt Bắc - Nam hiện có và trong tương lai

nên tiếp tục khuyến khích sự tham gia của nước này trong việc xây dựng các tuyến

đường sắt đô thị. Trước sự cạnh tranh mới giữa Trung Quốc, Mỹ và các đồng minh

trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, không ít nước tiếp nhận có thể cảm thấy áp lực phải

lựa chọn giữa các đối tác là các nước lớn. Tuy nhiên Việt Nam cần thay đổi tư duy

“vị thế yếu” để khai thác lợi thế trong môi trường cạnh tranh thay cho tình trạng

“độc quyền” trước đây, đặc biệt là khi không chỉ Trung Quốc mà cả Nhật Bản và

Mỹ đều đang cố gắng trở thành nhà tài trợ tốt hơn.

Cuối cùng, Việt Nam có thể tận dụng sự hợp tác với Nhật Bản để giảm bớt sự

phụ thuộc của mình vào Trung Quốc. Cho đến nay Nhật Bản luôn giúp đỡ Việt

Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và đây cũng là một

trong những cách thức có hiệu quả để làm giảm sự phụ thuộc này. Hiện tại và trong

tương lai tới đây các doanh nghiệp Nhật Bản sẽ đẩy mạnh chiến lược Trung Quốc +

1, cụ thể là thu hẹp đầu tư ở Trung Quốc, đầu tư nhiều hơn cho các nước Đông Á

lân cận có ưu thế tự nhiên, làm sâu sắc thêm quan hệ thị trường với các nước này,

143

giảm bớt sự ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc, bởi vậy Việt Nam có thể tranh thủ

điều này để mở rộng và làm sâu sắc quan hệ Việt – Nhật cũng như thúc đẩy hơn nữa

công cuộc phát triển kinh tế. Hỗ trợ sự phát triển của Việt Nam ngoài đạt được

những lợi ích kinh tế, Nhật Bản cũng đồng thời muốn ủng hộ sự lớn mạnh về kinh

tế và chính trị của một quốc gia có tiềm năng kiềm chế ảnh hưởng đang gia tăng của

Trung Quốc. Bên cạnh đó, sự ủng hộ của Nhật Bản đối với việc xây dựng cộng

đồng ASEAN, thúc đẩy liên kết kinh tế Đông Á, đặc biệt là tăng cường hợp tác

trong khuôn khổ TPP – CPTPP cũng là nhằm hình thành bộ quy tắc có thể hạn chế

sự “bá quyền” của Trung Quốc, thúc đẩy sự đa cực hóa cục diện kinh tế chính trị

Đông Á theo hướng cân bằng hơn. Về phía Việt Nam có thể dựa vào Nhật Bản để

đa dạng hóa hơn các mối quan hệ kinh tế, từ đó giảm bớt sự phụ thuộc kinh tế quá

nhiều vào Trung Quốc, giảm những rủi ro địa chính trị có thể xảy ra.

4.5. Tiểu kết chương 4

Trong những năm tới đây liên kết kinh tế Đông Á dự đoán sẽ tiếp tục chuyển

biến mạnh mẽ, cho thấy tầm quan trọng của hội nhập kinh tế sâu sắc hơn nữa. Sự

tham gia của các quốc gia vào mạng sản xuất ngày càng đạt tới những tầng nấc cao,

những thể chế hội nhập tiếp tục được thúc đẩy. Trong bối cảnh đó, bên cạnh những

cơ hội, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Việt Nam là một nước

đi sau, bởi vậy mà điều cần làm là tháo gỡ các nút thắt, khai thác thế mạnh và nguồn

lực trong nước, tranh thủ lợi thế so sánh trong hợp tác và phân công lao động quốc

tế để phát triển kinh tế.

Trong thời gian qua quan hệ Việt Nam Nhật Bản liên tục phát triển tốt đẹp.

Với Việt Nam Nhật Bản luôn là đối tác thương mại, nhà cung cấp FDI và ODA

hàng đầu. Vai trò và sự gia tăng vị thế của Nhật Bản trong tiến trình liên kết hầu hết

đều mang lại những ảnh hưởng có lợi với Việt Nam. Những đóng góp của Nhật Bản

đối với liên kết kinh tế Đông Á giúp tạo ra môi trường kinh tế khu vực ổn định, đây

nhân tố rất quan trọng để những quốc gia đi sau như Việt Nam phát triển phồn thịnh.

Sự trỗi dậy và những nỗ lực gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu

vực đang là một thách thức không nhỏ đối với vai trò của Nhật Bản. Trong bối cảnh

Trung Quốc chủ động từng bước đẩy mạnh liên kết kinh tế Đông Á, Nhật Bản

144

không còn sự lựa chọn nào khác ngoài tích cực hơn trong việc tăng cường hợp tác

với các nước trong khu vực Đông Á, bao gồm cả Việt Nam. Về phía Việt Nam cũng

luôn ủng hộ Nhật Bản trong nhiều vấn đề, đặc biệt là trong việc phát huy vai trò

trong liên kết kinh tế khu vực, mong muốn Nhật Bản tăng cường động lực trong

thúc đẩy hội nhập, trở thành quốc gia có ảnh hưởng to lớn trong các vấn đề quốc tế

tương xứng với địa vị kinh tế của mình.

145

KẾT LUẬN

Luận án này đã tiến hành phân tích, làm rõ về vai trò của Nhật Bản trong tiến

trình liên kết kinh tế Đông Á và thu được những kết quả sau:

1. Luận án đã hệ thống hóa lại những vấn đề lý luận và thực tiễn về liên kết

kinh tế Đông Á và vai trò của các chủ thể có ảnh hưởng quan trọng như ASEAN,

Trung Quốc và Mỹ. Có thể thấy rằng tại Đông Á liên kết kinh tế khu vực đã tiến

triển trên cả hai phương diện là thực tế và thể chế. Trải qua khoảng 1/4 thế kỷ liên

kết kinh tế đã hình thành và phát triển chủ yếu dựa vào sự dẫn dắt của thị trường với

hoạt động thương mại và đầu tư tích cực. Không chỉ dừng ở đó, cả về phương diện

thể chế, Đông Á cũng ngày càng có nhiều tiến triển đáng kể. Từ khoảng thập niên

2010, sau khi Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới những động thái

cạnh tranh giữa hai cường quốc là Trung Quốc và Mỹ luôn diễn ra hết sức quyết liệt.

2. Luận án cũng đã phân tích, làm rõ vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế

Đông Á từ giữa thập niên 1980 đến nay và dự báo triển vọng tới 2025. Có thể thấy

rằng vào giai đoạn đầu của tiến trình liên kết kinh tế Nhật Bản chính là “nhà lãnh

đạo” khu vực. Trong làn sóng đầu tư từ sau Thỏa ước Plaza, Nhật Bản là nhà đầu tư

lớn nhất, đồng thời là đối tác thương mại hàng đầu với các nước. Các công ty Nhật

Bản cũng nắm vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành một cấu trúc sản xuất

toàn khu vực, xây dựng nên một mô hình phân công lao động nhiều tầng chưa từng

xuất hiện ở khu vực nào khác trên thế giới. Cách thức liên kết kinh tế này đã thúc

đẩy tích cực tăng trưởng tại nhiều quốc gia Đông Á.

3. Tuy nhiên, liên kết kinh tế dựa theo mô hình mạng sản xuất không phải là

một phương thức toàn diện bởi nó chỉ dựa trên khía cạnh sản xuất. Hình thức liên

kết thông qua mạng sản xuất khu vực này cũng khiến cho Nhật Bản khó có thể duy

trì sự thống trị của mình đối với nền kinh tế Đông Á. Thêm vào đó, do sự phụ thuộc

lớn vào thị trường Mỹ, thái độ của Nhật Bản trước khủng hoảng châu Á 1997 cũng

tương đối "bị động" trong việc xây dựng một thể chế liên kết chính thức. Phải tới

những năm đầu của thế kỷ 21, chính sách thương mại quốc tế của Nhật Bản mới

được điều chỉnh theo hướng tăng cường ký kết các hiệp định mậu dịch tự do. Trong

khi Nhật Bản chậm chạp trong việc tạo ra các thể chế liên kết khu vực với các đối

146

tác Đông Á, Trung Quốc cùng với sự vươn lên về kinh tế đã dùng sức mạnh của

mình khiến nhiều nước Đông Á ngày càng lệ thuộc hơn vào Trung Quốc, đồng thời

liên tiếp đưa ra những sáng kiến hội nhập hiệu quả, trở thành nước đi đầu trong tiến

trình liên kết kinh tế Đông Á.

4. Trong bối cảnh kinh tế Nhật Bản chìm trong suy thoái kéo dài, Trung Quốc

lại trỗi dậy mạnh mẽ, vị thế của Nhật Bản trong tiến trình liên kết đứng trước những

thử thách to lớn, khuôn khổ TPP mà Mỹ xúc tiến ra đời. TPP trong đó Nhật Bản là

thành viên sáng lập trở thành một cơ hội có thể giúp làm sâu sắc thêm hội nhập kinh

tế của Nhật Bản ở Đông Á và gia tăng đáng kể vai trò của nước này. Mặc dù các

cuộc đàm phán TPP đã thành công vào đầu 2016, nước Mỹ đã bất ngờ rút khỏi hiệp

định, gây ra nguy cơ tan vỡ đối với TPP.

5. Thay đổi quan điểm trước thái độ thiếu nhất quán của Mỹ, trải qua một quá

trình đàm phán gian nan, phiên bản mới của TPP - CPTPP giữa 11 thành viên còn

lại ra đời với vai trò chủ chốt của Nhật Bản, cho thấy vai trò trong tiến trình liên kết

của nước này đã được nâng lên rõ rệt. Có thể thấy rằng trên con đường tìm kiếm lại

vị thế trong liên kết kinh tế khu vực của Nhật Bản, bên cạnh những thuận lợi còn

không ít khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên, bằng những nỗ lực về đối nội và đối ngoại,

Nhật Bản đã dần phát huy được sức mạnh của mình, có sự chủ động, độc lập hơn,

có thể thoát khỏi cái bóng của Mỹ trong quan hệ quốc tế, tiếng nói của Nhật Bản

cũng có sức nặng hơn trong vấn đề quan trọng của khu vực. Qua đó cũng có thể có

dự báo về khả năng Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì được vị thế hàng đầu trong tiến

trình liên kết kinh tế trong tương lai gần. Trước câu hỏi quốc gia nào nên tiên phong

trong trong bối cảnh Mỹ đang “sao nhãng” khỏi Đông Á thì một nước Nhật có năng

lực về kinh tế và quyết đoán trong mục tiêu nâng cao hơn nữa vai trò của mình

trong khu vực rõ ràng đang là một ứng cử viên hàng đầu.

6. Luận án cũng đã đề xuất được một số giải pháp nhằm giúp Việt Nam tranh

thủ tốt các cơ hội có được từ vai trò của Nhật Bản, tăng cường hơn nữa quan hệ với

đối tác quan trọng này cũng như tham gia chủ động và hiệu quả hơn nữa vào tiến

trình liên kết kinh tế khu vực. Việc Nhật Bản nỗ lực nâng cao vai trò, vị thế trong

liên kết kinh tế Đông Á đã ảnh hưởng không nhỏ tới quan hệ quốc tế và chính sách

147

của các quốc gia khu vực. Với Việt Nam, một vai trò mạnh mẽ của Nhật Bản sẽ

giúp tạo dựng môi trường phát triển kinh tế, ổn định an ninh trong khu vực. Vai trò

và những nỗ lực nâng cao vai trò của Nhật Bản cũng tạo nên nhiều thời cơ, thuận

lợi mới để thúc đẩy phát triển, thực hiện tốt hơn chủ trương hội nhập toàn diện, làm

sâu sắc và nâng tầm các quan hệ đối tác, tăng cường thế và lực mới cho đất nước.

Đặc biệt, hình ảnh một nước Nhật kiệt quệ sau chiến tranh nhanh chóng vươn lên,

nỗ lực xóa đi hình ảnh không mấy tốt đẹp trong quá khứ, cho thấy phát triển kinh tế

là khía cạnh quan trọng để khẳng định vai trò, một khi kinh tế phát triển tất yếu có

nhu cầu nâng cao vị thế, nhưng phát triển phải theo con đường hòa bình, phù hợp

với lợi ích chung của khu vực cũng chính là bài học hết sức quý giá.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số khoảng trống mà trong khuôn khổ luận

án vẫn chưa thể giải quyết.

1. Thứ nhất, luận án vẫn chưa đề cập đến vai trò của Nhật Bản trong chiến lược

Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở của Mỹ. Sự ra đời chiến lược

này xuất phát từ hai yếu tố then chốt. Bên cạnh yếu tố nội tại của Mỹ, sự trỗi dậy

mạnh mẽ của Trung Quốc đang đe dọa dòng chảy thương mại tự do, chủ quyền biển

đảo của của một số quốc gia, ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định khu vực và thách

thức nghiêm trọng vai trò lãnh đạo của Mỹ. Vì cả hai yếu tố này, Mỹ đang rất cần

tập hợp lực lượng, thắt chặt quan hệ với các đồng minh khu vực, trong đó có Nhật

Bản để bảo vệ lợi ích, duy trì ảnh hưởng của mình tại Đông Á.

2. Thứ hai, cuộc chiến kinh tế Mỹ - Trung đang tạo nhiều sức ép mạnh mẽ và

căng thẳng thương mại gia tăng giữa hai nước đã khiến các TNCs bắt đầu tính toán

di chuyển chuỗi sản xuất của họ rời khỏi Trung Quốc, dẫn đến khả năng Đông Á và

thế giới sẽ giảm bớt đáng kể sự phụ thuộc vào Trung Quốc với vai trò là "Công

xưởng sản xuất của thế giới". Đối đầu Mỹ - Trung không chỉ thúc đẩy các TNCs

đánh giá lại Trung Quốc với vai trò là trung tâm sản xuất của khu vực mà thậm chí

ngay cả các doanh nghiệp Trung Quốc cũng đang tìm cách ra đi. Trong bối cảnh đó,

vai trò của Nhật Bản sẽ có những biến đổi như thế nào cũng là những nội dung mà

những nghiên cứu tiếp theo cần tiếp tục khai phá, đào sâu hơn nữa.

148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

1.

Đỗ Thị Ánh (2015), "Liên kết kinh tế Đông Á : Vài nét về lý luận

và thực tiễn", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 1 năm 2015

2.

Đỗ Thị Ánh (2015), "Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực

(RCEP) và những toan tính của Nhật Bản", Tạp chí Nghiên cứu

Đông Bắc Á, Số 4 năm 2015

3.

Đỗ Thị Ánh (2017), "The United States’ withdrawal from TPP :

Economic implication and next steps for Japan" Tạp chí Nghiên

cứu Đông Bắc Á (Tiếng Anh), Số 1 năm 2017

4.

Đỗ Thị Ánh (2017), "Nhật Bản trước quyết định rút khỏi TTP của

Mỹ: ảnh hưởng kinh tế và phương hướng đối phó", Tạp chí Nghiên

cứu Đông Bắc Á, Số 2 năm 2017

5.

Đỗ Thị Ánh (2017), "Vai trò của Nhật Bản trong hội nhập kinh tế

Đông Á", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7 năm 2017

6.

Đỗ Thị Ánh (2018), "Japan’s role in CPTPP", Tạp chí Nghiên cứu

Đông Bắc Á (Tiếng Anh), Số 1 năm 2018

7.

Đỗ Thị Ánh (2018), "Những thành tựu của nền kinh tế Nhật Bản

sau 5 năm thực hiện chính sách Abenomics", Tạp chí Tài chính, Bộ

Tài chính, Kỳ I, tháng 3 năm 2018 (676)

8.

Đỗ Thị Ánh (2018), " Vai trò của Nhật Bản đối với CPTPP", Tạp

chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5 năm 2018

149

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Thị Ánh (2017), “Nhật Bản trước quyết định rút khỏi TTP của Mỹ: ảnh

hưởng kinh tế và phương hướng đối phó”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á,

Số 2 (192) tháng 2/2017

2. Đỗ Thị Ánh (2018), “Những thành tựu của nền kinh tế Nhật Bản sau năm năm

thực hiện Chính sách Abenomics”, Tạp chí Tài chính, Bộ Tài chính, Kỳ 1 -

Tháng 03/2018 (676)

3. Phạm Thị Thanh Bình (2010), “Tự do hóa thương mại của Nhật Bản, vai trò

và nhân tố tác động”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7/2010

4. Ngô Xuân Bình (2000), “Chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau thời kỳ chiến

tranh lạnh”, NXB. Khoa học Xã hội

5. Ngô Xuân Bình (2008), “Cơ sở tạo lập chính sách Đông Á – Thái Bình Dương

của Nhật Bản – Khía cạnh lịch sử và lợi ích quốc gia”, Tạp chí Nghiên cứu

Đông Bắc Á, số 7/2008

6. Ngô Xuân Bình (2009), “Châu Á – Thái Bình Dương trong chính sách của

Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc ", NXB Đại học quốc gia Hà Nội

7. Đỗ Minh Cao (2009), “Nhật – Trung: Những trở ngại tiềm tàng trong quan hệ

song phương”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 10/2009

8. Nguyễn Anh Chương (2009), “Biến đổi trong quan hệ tam giác Trung Quốc –

ASEAN – Nhật Bản với triển vọng nhất thế hóa Đông Á”, Tạp chí Nghiên cứu

Đông Bắc Á, số 8/2009

Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), “Văn kiện Đảng toàn tập”, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia

9. Phạm Văn Đức (2006), “Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt Nam

hiện nay”, Tạp chí Triết học, 3/2006

10. Bùi Trường Giang (2008), “Xu hướng hình thành các hiệp định thương mại tự

do (FTA) tại Đông Á”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Kinh tế & Chính trị Thế

giới, Viện KHXH Việt Nam

150

11. Bùi Trường Giang (2009), “Phương thức hình thành các hiệp định thương mại

tự do (FTA) trong khu vực Đông Á hướng tới một cộng đồng kinh tế Đông Á

trong tương lai”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 9/2009

12. Hồ sơ sự kiện (2018), “Thương mại: Tự do và bảo hộ”, Chuyên san của Tạp

chí Cộng sản - Cơ quan lý luận và chính trị của TW Đảng Cộng sản Việt Nam,

số 372 ngày 10/4/2018

13. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), “Ba quan điểm lý thuyết về Cộng đồng kinh tế

Đông Á (EAEC)”, Hội thảo khoa học Hội nhập Đông Á và chính sách của các

nước lớn, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội

14. Indermit Gill, Homi Kharas (2007), “Đông Á phục hưng - Ý tưởng phát triển

kinh tế”, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội

15. ISEAS (2017), “Cái kết của TPP: Những triệu chứng suy thoái của Mỹ và

phản ứng của ASEAN”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam ,

5/5/2017

16. Lê Bộ Lĩnh (2010), “Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước thành viên mới của

ASEAN trong bối cảnh Đông Á đầu thế kỷ XXI”, Nhiệm vụ khoa học theo

Nghị định thư giữa Viện KHXH Việt Nam và Đại học Tokyo, Nhật Bản

17. Cù Chí Lợi (2010), “Công nghiệp Việt Nam trong mạng sản xuất khu vực: Vị

trí, triển vọng và kiến nghị chính sách”, Bộ KH và CN, Chương trình trọng

điểm cấp NN KX.01/06-10 “Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt

Nam đến năm 2020”, Hà Nội

18. Trần Quang Minh (2007), “Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong

bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”, Nhà xuất bản Khoa học

Xã hội, Hà Nội

19. Trần Quang Minh (2015), “Thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam –

Nhật Bản trong bối cảnh mới ở Đông Á”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

20. Nguyễn Thị Thu Mỹ (2007), “Hợp tác ASEAN + 3 Quá trình phát triển Thành

tựu và triển vọng”, NXB Chính trị quốc gia

21. Đỗ Hoài Nam, Võ Đại lược, Nguyễn Xuân Thắng, Lê Bộ Lĩnh, Bùi Trường

Giang (2004), “Hướng tới cộng đồng kinh tế Đông Á”, NXB Thế giới, Hà Nội

151

22. Vũ Dương Ninh (2005), “Tiền đề của Cộng đồng Đông Á”, Hội thảo quốc tế

“Hướng tới Cộng đồng Đông Á - Cơ hội và thách thức, Hà Nội, 16-17/9/2005

23. Phạm Thái Quốc (2013), “Trung Quốc và Ấn Độ trỗi dậy: Tác động và đối

sách của các nước Đông Á”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội

24. Nguyễn Thiết Sơn (2012), “Quan hệ Hoa Kỳ - ASEAN 2001-2020”, Nhà Xuất

bản Từ điển Bách khoa, 2012

25. Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Anh Thu, Hà Văn Hội (2015), “Việt Nam hội

nhập kinh tế Đông Á trong khuôn khổ ASEAN + 3”, Nhà xuất bản Khoa học và

Kỹ thuật, Hà Nội, 2015

26. Tạp chí Nghiên cứu các vấn đề quốc tế, Trung Quốc (2017) “Sự phát triển mới

trong quan hệ Việt – Nhật: Động lực và triển vọng” (Phần đầu), Thông tấn xã

Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 1/3/2017

27. Tạp chí Đương đại Trung Quốc (2017), “Sự lựa chọn tương lai của ASEAN

trong thời đại đa cực hóa của khu vực Đông Á”, số 10/2017, Thông tấn xã

Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt 11/11/2017

28. Trần Văn Thọ (2005, tái bản 2006, 2010) “Biến động kinh tế Đông Á và con

đường công nghiệp hóa của Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà

Nội

29. Thông tấn xã Việt Nam (2017), " Trung – Nhật - Ấn với “Giấc mơ Ấn Độ

Dương – Thái Bình Dương” của Tổng thống Donald Trump”, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, 22/11/2017

30. Thông tấn xã Việt Nam (2016), Tài liệu tham khảo đặc biệt, Các vấn đề Quốc

tế số tháng 6/2016, tr.41-57

31. Thông tấn xã Việt Nam (2016) Tài liệu tham khảo đặc biệt, 26/11/2016

32. Thông tấn xã Việt Nam (2017), “Hợp tác Trung Quốc – ASEAN: Cơ chế,

thành tựu và triển vọng”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, 10/8/2017

33. Today Online (2016), “Sự thất bại của TPP báo hiệu sự suy giảm vai trò của

Mỹ”, Singapore 16/10, Tin tham khảo thế giới, Thông tấn xã Việt Nam,

17/10/2016, tr.16.

152

34. Today Online (2016), “Sự thất bại của TPP báo hiệu sự suy giảm vai trò của

Mỹ”, Singapore 16/10, Tin tham khảo thế giới, Thông tấn xã Việt Nam,

17/10/2016, tr.15.

35. Lưu Ngọc Trịnh (chủ biên, 2006), “Đối sách của các nước Động Á trước việc

hình thành các khu vực mậu dịch tự do (FTA) từ cuối những năm 1990”, Nhà

xuất bản Lao động, Hà Nội

36. Lưu Ngọc Trịnh (2009), “Triển vọng hình thành cộng đồng kinh tế Đông Á và

tác động của nó tới sự phát triển của Việt Nam”, Đề tài Khoa học cấp nhà

nước số KX.01.06/06-10, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Viện KHXH

Việt Nam, Hà Nội, 11/2009

37. Lưu Ngọc Trịnh (2010), “Cộng đồng kinh tế Đông Á (EAEC) và toan tính của

các nước lớn”, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội

38. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2017), “Tầm quan trọng chiến lược của quan

hệ Việt Nam – Nhật Bản”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt

Nam, 5/6/2017

39. Nguyễn Huy Hoàng (2012), “ASEAN trong thế kỷ XXI: Xây dựng Cộng đồng

và khẳng định vai trò trong khu vực”, Sự kiện và Nhân vật, Chuyên san Cộng

đồng ASEAN: Triển vọng và thách thức

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH

40. Ali M. El-Agraa (1982), “International Economic Integration”, Macmillan

41. Ali M. El-Agraa (1999), “Regional Integration: Experience, Theory, and

Measurement”, Rowman & Littlefield Publishers; First Edition edition, 31

August 1999

42. Blechinger Verena, Legewie Jochen (2000), “Facing Asia – Japan’s role in

the Political and Economic Dynamism of Regional Cooperation”, IUDICIUM

Verlag GmbH 31 Dec 2000

43. Cameron G. Thies (2009), “Role Theory and Foreign Policy”, International

Studies Association Compendium Project, Foreign Policy Analysis section,

available at http://myweb.uiowa.edu/bhlai/workshop/role.pdf

153

44. Catharin Dalpino (2015), “Japan-Southeast Asia relations: Abe opens new

fronts” Comparative Connection, Volume 17, Issue 1

45. Christopher M. Dent (2017), “East Asian intergration towards an East Asian

economic community”, Asian Development Bank Institute - ADBI Working

Paper Series No. 665, February 2017, available at

https://www.adb.org/sites/default/files/publication/228896/adbi-wp665.pdf

46. Deardorff, Alan. V (2001), "Fragmentation in Simple Trade Models" North

American Journal of Economics and Finance

47. Economic Research and Regional Cooperation Department, Asian

Development Bank – ADB, (2016), "Asian Economic Integration Report

2016: What Drives Foreign Direct Investment in Asia and The Pacific",

Economic Research and Regional Cooperation Department - ERCD, ADB,

available at https://www.adb.org/sites/default/files/publication/214136/aeir-

2016.pdf

48. F Kahnert ... [et al.] (1969), “Economic integration among developing

countries”, The organisation for economics co-operation and development,

Paris

49. Feenstra, Robert C. (1998) "Integration of Trade and Disintegration of

Production in the Global Economy", Journal of Economic Perspectives

50. Gerald L. Curtis, Michael Blaker (1993), (“Japan’s Foreign policy After the

Cold War: Coping with changes”, M.E. Sharpe

51. Glenn Hook D., Julie Gilson, Christopher Hughes và Hugo Dobson (2001)

“Japan's International Relations: Politics, Economics and Security”,

Routledge, London

52. Grossman, Gene M, Elhanan Helpman (2002), "Outsourcings in A Global

Economy," NBER Working Paper 8728

53. Hanson, Gordon H .; Raymond J. Mataloni; and Matthew J. Slaughter (2003)

"Vertical Production Networks in Multinational Firms", NBER Working

Paper 9723.

154

54. Helpman, Elhanan (1984), "A Simple Theory of Trade with Multinational

Corporations ", Journal of Political Economy

55. Holzman, F. (1976), “International Trade Under Communism”, Publisher,

Basic Books: New York, USA.

56. Hummels, David, Jun Ishi, and Kei-Mu Yi (2001) "The Nature and Growth of

Vertical Specialization", Journal of International Economics

57. Jacob Viner (1950), “The Customs Union Issue”, Carnegie Endowment for

International Peace

58. Japan External Trade Organization - JETRO (2006), “Comparative Survey of

the Labor Environment in ASEAN, China, India”, Overseas Research

Department, October 2006

59. John Lee (2015), “Japan’s Good Fight”, available at https://www.project-

syndicate.org/commentary/abe-reform-japan-by-john-lee-2015-

05?barrier=accesspaylog

60. Jones, Ronald W., Henryk Kierzkowski (1990) "The Role of Services in

Production and International Trade: A Theoretical Framework" in Ronald W.

Jones and Anne O. Krueger, eds. “The Political Economy of International

Trade: Essays in Honor” of Robert E. Baldwin, Cambridge, MA: Blackwell

Joseph S. Nye (2004) “Soft Power: The Means to Success in World Politics”,

Public Affairs, New York

61. K. J. Holsti (1970), “National Role Conceptions in the Study of Foreign

Policy”, International Studies Quarterly, Vol. 14, No. 3, Sep., 1970

62. Kaewkamol Pitakdumrongkit (2017), “Trans-Pacific Partnership (TPP) and

East Asian Economic Integration”, (S. Rajaratnam - RSIS), Chiba University,

17 March 2017

63. Kenneth B. Pyle, Chalmers Johnson và Edward J. Lincoln (1990),“Japan and

the world: Considerations for U.S. policymakers”, NBR ANALYSIS, Nov

1990

64. Kinoshita Toshihiko (2004), “Economic Integration in East Asia and Japan’s

Role”, SPFUSA, Washington, DC, 24/6/2004

155

65. Krugman (1991), "Increasing Returns and Economic Geography" The Journal

of Political Economy, vol.99, No. 3

66. Lawrence H. Summers (1991), “Regionalism and the World Trading System”

available at

https://www.kansascityfed.org/publicat/sympos/1991/S91summe.pdf

67. Markusen (2002), “Multinational Firms and the Theory of International

Trade”, Boston, the MIT Press.

68. Markusen, James R (1984), "Multinationals, Multi-Plant Economies, and the

Gains from Trade", Journal of International Economics

69. Maurice Schiff and L. Alan Winters (2003), “Regional Integration and

Development”, A co-publication of the World Bank and Oxford University

Press, available at

http://siteresources.worldbank.org/BRAZILINPOREXTN/Resources/3817166

-1185895645304/4044168-1186324101142/12RegionalIntegrationFull.pdf

70. Mennis, B. và K. Sauvant (1976), “Emerging Forms of Transnational

Community”, Lexington Books

71. Mitsuyo Ando & Fukinari Kimura (2003), "The Formation of International

Production and Distribution Networks in East Asia" NBER Working Papers

10167, National Bureau of Economic Research, Inc.

Hans J. Morgenthau (1978), “Politics Among Nations: The Struggle for Power

and Peace”, Fifth Edition, New York: Alfred A. Knopf

72. Naoko Munakata (2002), "Whither East Asian Economic Integration?",

Working Papers by CEAP Visiting Fellows, available at

https://www.brookings.edu/research/whither-east-asian-economic-integration/

73. Obashi Ayako, Kimura Fukunari (2016) “The Role of China, Japan, and

Korea in Machinery Production Networks”, Economic Research Institute for

ASEAN and East Asia (ERIA) Discussion Paper Series, available at

http://www.eria.org/ERIA-DP-2016-10.pdf

156

74. Obashi Ayako, Kimura Fukunari (2018) “Are Production Networks Passé in

East Asia? Not Yet”, ERIA Discussion Paper Series, available at

http://www.eria.org/uploads/media/ERIA_DP_2018_03.pdf

75. Paul Krugman and Anthony J. Venables (1995), “Globalization and the

Inequality of Nations”, The Quarterly Journal of Economics, Vol. CX

November 1995, available at

http://piketty.pse.ens.fr/files/KrugmanVenables1995.pdf, truy cập 12/9/2017

76. Pelkmans, J. (1984), “Market Integration in the European Community”,

Publisher Springer Netherlands

77. Pinder, J. (1969), “Problems of European Integration”, In: G. Denton (eds.)

Economic Integration in Europe, London: Weidenfeld and Nicolson

78. Richard Baldwin, Anthony Venables (1995), “Regional economic

integration”, Chapter 31 in Handbook of International Economics, 1995, vol.

3, available at

http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1573440405800115

79. Stephen G. Walker (1987), “Role Theory and Foreign Policy Analysis”, Duke

University Press (June 30, 1987)

80. Takashi Inoguchi, Purnendra Jain (2000), “Japanese Foreign Policy Today”,

Palgrave Macmillan; 2000 edition, November 18, 2000

81. U.S. Government Printing Office (2014), “Re – balancing the Rebalance:

Resourcing U.S. diplomatic strategy in the Asia – Pacific region”, United

States Senate, One Hundred Thirteenth Congress, Second Session, April 17,

2014, available at

https://www.foreign.senate.gov/imo/media/doc/872692.pdf

82. United Nations (2012), “Inclusive Wealth Report 2012” (IWR 2012)

83. Urata Shujiro (2014), “TPP, RCEP, and Japan’s FTA Strategy in Asia-

Pacific”, ADBI, ADB, 18/4/2014

84. Willem Molle (1990), “The Economics of European Integration (Theory,

Practice, Policy”, Dartmouth

157

85. World Bank (1993), “The East Asian miracle : economic growth and public

policy”, Oxford University Press

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NHẬT

86. JBIC (2005), “グローバリゼーション下のアジアと日本の役割”, available

at https://www.jica.go.jp/jica-ri/IFIC_and_JBICI-Studies/jica-

ri/research/archives/jbic/glb.html

87. Kato Thomas, “A U.S. View on TPP – TPP 米国の視点”、バプリック・ブ

レイン、2013 年 7 月 10 日

88. NHK News (2018),”トランプ政権 TPP離脱を表明” available at

https://www3.nhk.or.jp/news/imasaratpp/article15.html

89. バラッサ(著)・中島正信(訳)、「経済統合の理論」、ダイヤモン

ド社、1963 年

90. 中央日報, “安倍首相のTPPへの執念…米抜き11カ国と発効を推進”,

available at http://japanese.joins.com/article/120/228120.html

内閣官房TPP政府対策本部, “TPP協定交渉について”, available at

http://www.cas.go.jp/jp/tpp/pdf/siryou/150312ver_siryou.pdf

91. 原田 泰, 東京財団 (2013)、“TPP でさらに強くなる日本”、PHP 研究所、

2013/3/23

92. 吉崎達彦、“特集:CEPEA~東アジア経済統合の現状”、 双日総合研究

所、 溜池通信 vol.387 Weekly Newsletter March 19, 2008

93. 坂田 幹男 (著), 唱 新 (著) (2012), “東アジアの地域経済連携と日本”, 晃

洋書房, 2012/03

94. 木村福成、小浜, (1995),「実証国際経済学入門」、日本評論社、1995 年

2 月

95. 東アジア共同体評議会, 伊藤憲一 (監修), (2010), “東アジア共同体白書

二〇一〇 東アジア共同体は可能か、必要か",たちばな出版 2010/9/17

158

96. 根津 利三郎 (2009)、 “動き始めた包括的東アジア経済連携” 、富士通総

研、 22/8/2009

97. 浦田 秀次郎 (2005), “東アジアにおける経済統合の進展とFTA 形成への

動き:日本の役割”,「グローバリゼーション下のアジアと日本の役割」

研 究 会 (Available at https://www.jica.go.jp/jica-ri/IFIC_and_JBICI-

Studies/jica-ri/research/archives/jbic/pdf/glb/02.pdf )

98. 渡辺利夫 (2003), “東アジアにおけるデ・ファクト経済統合の進展”,

RIM 環太平洋ビジネス情報 2003 年 10 月 Vol.3 No.11, available at

https://www.jri.co.jp/page.jsp?id=15648

99. 町田 史隆 (2013), “ASEAN 経済共同体(AEC)構想とTPP ―求められ

る日本の役割―”, available at https://www.jbic.go.jp/wp-

content/uploads/reference_ja/2013/06/2918/jbic_RRJ_2013037.pdf

100. 西村豪太, “米中経済戦争 AIIB 対TPP―日本に残された大逆転のチャン

ス”, 東洋経済新報社, 2015 年 12 月 18 日

WEBSITE

101. http://japanese.china.org.cn/business/txt/2017-07/17/content_41230023.htm,

truy cập 12/12/2017

102. http://news.bbc.co.uk/2/shared/bsp/hi/pdfs/05_03_11_bbcws_country_poll.pdf

, truy cập 10/10/2017

103. http://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2013/08/chinas-role-in-

asia.pdf , truy cập 10/2/2016

104. http://piketty.pse.ens.fr/files/KrugmanVenables1995.pdf, truy cập 12/9/2017

105. http://rtais.wto.org/UI/PublicAllRTAList.aspx, truy cập 30/6/2018

106. http://siteresources.worldbank.org/BRAZILINPOREXTN/Resources/3817166

-1185895645304/4044168-1186324101142/12RegionalIntegrationFull.pdf

107. http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/vai-tro-cua-

cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-trong-thuong-mai-quoc-te-

122913.html truy cập 1/7/2018

159

108. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/hang-hoa-asean-va-cuoc-chien-

thuong-mai-142011.html

109. http://www.esri.cao.go.jp/en/sna/data/sokuhou/files/2018/qe182/pdf/main_1e.

pdf Truy cập 31/8/2018

110. http://www.japantimes.co.jp/news/2013/09/10/business/japans-inclusion-in-

fta-talks-changes-balance/

111. http://www.jetro.go.jp/theme/wto-fta/biznews/53bc9e3ee2900

112. http://www.meti.go.jp/statistics/toppage/report/bunseki/pdf/h18/h4a0612j7.pdf

113. http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1573440405800115

114. http://www.tbsradio.jp/51536

115. http://www.wto.org/english/tratop_e/region_e/regatt_e.htm, truy cập

12/1/2018

116. https://carleton.ca/ces/eulearning/introduction/what-is-the-eu/extension-what-

is-regional-integration, truy cập 5/9/2017

117. https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.CD?locations=RS&view

=map truy cập 5/6/2018

118. https://ftaportal.dfat.gov.au/help/explain-fta, truy cập 5/6/2018

119. https://international.gc.ca/trade-commerce/trade-agreements-accords-

commerciaux/agr-acc/nafta-alena/fta-ale/facts.aspx?lang=eng, truy cập

12/12/2018

120. https://jp.reuters.com/article/column-one-belt-one-road-aiib-idJPKBN19O094

121. https://tuoitre.vn/ca-tra-viet-nam-het-duong-sang-my-

20180319160448109.htm, truy cập ngày 12/3/2018

122. https://tradingeconomics.com/european-union/gdp, truy cập 12/12/2018

123. https://www.bbc.co.uk/news/topics/c55p555ng9gt/nikkei-225, truy cập

31/8/2018

124. https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-07-18/japan-s-exports-

extend-growth-streak-to-19-months-in-june, truy cập 30/8/2018

160

125. https://www.census.gov/foreign-

trade/balance/index.html?sec_ak_reference=18.4e8d93f.1551935010.a47a01d,

truy cập 7/10/2018

126. https://www.foreign.senate.gov/imo/media/doc/872692.pdf, truy cập 1/1/2019

127. https://www.imf.org/external/pubs/ft/weo/2012/01/weodata/index.aspx/ truy

cập 5/12/2018

128. https://www.mofa.go.jp/mofaj/comment/faq/keizai/epa_fta.html, truy cập

2/6/2018

129. https://www.statista.com/statistics/796245/gdp-of-the-asean-countries , truy

cập 1/11/2018

130. https://www.worldbank.org/en/topic/regional-integration/brief/regional-trade-

agreements , truy cập 1/7/2018

131. https://www.ybook.vn/tin-tuc-su-kien/2777/cu-soc-thoi-gian-va-kinh-te-viet-

nam (Trần Văn Thọ (2016), “Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam”, NXB Trí

thức)

132. https://ja.wikipedia.org/wiki/%E8%87%AA%E7%94%B1%E8%B2%BF%E6

%98%93

133. http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=5777

134. http://www.ihdp.unu.edu/docs/Publications/Secretariat/Reports/IWR_Report.p

df

135. https://www.jica.go.jp/vietnam/english/office/others/c8h0vm0000cydg8v-

att/general_04_01_vn.pdf

136. https://archive.fortune.com/magazines/fortune/fortune500_archive/full/2005/ ,

https://fortune.com/fortune500/2011/

137. Nguyễn Huy Hoàng (2018), “Hợp tác kinh tế trong quan hệ đối tác chiến lược

Trung Quốc – ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số tháng 7/2018,

Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

(http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/vh-phuong-dong-

nhung-van-de-chung/3476-nguyen-huy-hoang-hop-tac-kinh-te-trong-quan-he-

doi-tac-chien-luoc-trung-quoc-asean.html truy cập ngày 12/12/2018

161

138. https://www.mizuho-ri.co.jp/publication/research/pdf/eo/MEA181218.pdf

139. https://ja.wikipedia.org/wiki/%E3%82%B0%E3%83%AD%E3%83%BC%E3

%83%90%E3%83%AA%E3%82%BC%E3%83%BC%E3%82%B7%E3%83

%A7%E3%83%B3#%E7%B5%8C%E6%B8%88%E7%9A%84%E3%82%B

0%E3%83%AD%E3%83%BC%E3%83%90%E3%83%AA%E3%82%BC%E

3%83%BC%E3%82%B7%E3%83%A7%E3%83%B3

140. Obama, B. (2016), “The TPP would let America, not China lead the way on

global trade”, Washington Post.

www.washingtonpost.com/opinions/president-obama-the-tpp-wouldlet-

america-not-China-lead-the-way-on-global-trade/2016/0502/680540e4-0fd0-

11e6-93ae-50921721165d_story.html

141. http://www.vjol.info/index.php/ncca/article/viewFile/10402/9541

162