VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN

VẬN DỤNG QUAN NIỆM THẨM MĨ

VÀ TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC LÀM ĐẸP

VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE PHỤ NỮ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2016

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN

VẬN DỤNG QUAN NIỆM THẨM MĨ

VÀ TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC LÀM ĐẸP

VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE PHỤ NỮ HIỆN NAY

Chuyên ngành: VĂN HÓA DÂN GIAN

Mã số: 62 22 01 30

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và công trình này

đảm bảo các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu.

Nghiên cứu sinh

TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN

i

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... iv

DANH MỤC BẢNG, HỘP .................................................................................................. v

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG VÀ

TỔNG QUAN VỀ BẮC BỘ, CHÂU THỔ BẮC BỘ ...................................................... 11

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................ 11

1.2. Lý thuyết vận dụng và khái niệm .................................................................................. 14

1.3. Tổng quan về Bắc Bộ và châu thổ Bắc Bộ ................................................................... 34

CHƯƠNG 2 TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SẮC ĐẸP CỦA NGƯỜI

PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY ............................................................................ 50

2.1. Những quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ ............................................................ 50

2.2. Thực tế làm đẹp của phụ nữ Việt Nam hiện nay .......................................................... 62

2.3. Tri thức dân gian trong việc làm đẹp cho phụ nữ hiện nay .......................................... 79

CHƯƠNG 3: TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA

NGƯỜI PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY ............................................................. 93

3.1. Quan niệm dân gian về sức khỏe của phụ nữ và việc chữa bệnh ................................. 93

3.2. Thực tế chăm sóc sức khỏe hiện nay ở phụ nữ Việt Nam ............................................ 95

3.3. Tri thức dân gian trong việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ hiện nay ....................... 100

CHƯƠNG 4: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ............................................................... 117

4.1. Mối quan hệ giữa sắc đẹp và sức khỏe ....................................................................... 117

4.2. Sự khác nhau giữa tác giả dân gian và tác giả của dòng văn học viết trong quan niệm

về vẻ đẹp của người phụ nữ ............................................................................................... 121

4.3. Sức mạnh, giá trị và những số phận nổi chìm của những người phụ nữ đẹp thời trước ..... 125

4.4. Sự mở rộng trong cách nhìn nhận và điều kiện xã hội tiến bộ của khoa học, kỹ thuật,

bảo vệ, cổ súy cho cái đẹp của người phụ nữ .................................................................... 131

4.5. Đánh giá tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe của phụ nữ ..... 138

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN . 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 152

PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 164

ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BMI Body Mass Index

ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Đại học ĐH

Hà Nội HN

Nxb Nhà xuất bản

NCS Nghiên cứu sinh

Phỏng vấn sâu PVS

Thảo luận nhóm TLN

Thành phố Tp

Trang tr

Tr. CN Trước Công nguyên

iv

DANH MỤC BẢNG, HỘP

Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát tại các tỉnh ........................................................................... 6

Bảng 2. Phân biệt tri thức bản địa và kiến thức khoa học ....................................................... 28

Bảng 3: Xu hướng quan tâm đến hoạt động chăm sóc sắc đẹp ........................................... 62

Bảng 4: Các nguyên liệu tự nhiên trong làm đẹp ................................................................ 79

Bảng 5: Phương pháp chăm sóc sắc đẹp dân gian được phụ nữ sử dụng hiện nay(%) ....... 86

Bảng 6: Một số nguyên liệu thường dùng để chăm sóc sức khỏe .................................... 100

Bảng 7: Những hình thức “kiêng cữ” sau khi sinh của phụ nữ ......................................... 108

CÁC BẢNG

Hộp 1: Tác dụng làm đẹp của một số loại lá, hoa, củ, quả ................................................. 82

Hộp 2: Làm đẹp tóc bằng bồ kết .......................................................................................... 83

Hộp 3: Làm son dưỡng môi từ sáp ong ............................................................................... 83

Hộp 4: Tác dụng chữa bệnh của một số loại cây ............................................................... 101

CÁC HỘP

v

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vẻ đẹp cơ thể là một yêu cầu quan trọng đầu tiên của người phụ nữ

hiện đại vì nó tăng sự quyến rũ của nữ tính. Vẻ đẹp mà người phụ nữ thu hút

người khác có được là nhờ sự bộc lộ những nét đẹp thiên phú, nhờ việc biết

cách giữ gìn và chủ động làm đẹp. Ngày nay, cuộc sống đã khác trước với

nhịp độ ngày càng gia tăng, người phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào đời

sống xã hội và dần dần thay đổi cách nghĩ, cách làm và nhất là cách biểu lộ

tình cảm, cách làm đẹp. Do nhu cầu làm đẹp của phái nữ, xã hội đã hình

thành và phát triển dịch vụ làm đẹp (Spa). Ở Việt Nam, công nghệ này đã

phát triển, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và đang lan rộng ra các vùng

nông thôn.

Trong một cuộc điều tra xã hội học, người ta thấy 80% số người được

hỏi đều cho rằng người phụ nữ Việt Nam hiện đại có tính năng động, tự tin,

cởi mở, ham thích hoạt động xã hội, có khả năng lãnh đạo với tinh thần trách

nhiệm cao. Một số người Việt Nam vẫn giữ một thái độ cố hữu: "Cái nết đánh

chết cái đẹp". Trên thực tế, nhu cầu làm đẹp để tôn tạo những nét đẹp trên sắc

mặt, cơ thể lại phát triển khá mạnh. Tiếc rằng nhu cầu và việc làm này chưa

được sự hướng dẫn một cách khoa học trên quan điểm thẩm mỹ của văn hóa

học. Có không ít người, vì thiếu hiểu biết đã chạy theo mốt mới, theo cái hiện

đại, làm đẹp theo kiểu phản thẩm mỹ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.

Dù rất quan tâm đến cái đẹp hay chỉ thừa nhận nó ở mức độ vừa phải, mọi

người đều cho rằng người phụ nữ đẹp cũng còn là người phụ nữ khỏe mạnh.

Thực hiện đề tài khoa học Vận dụng quan niệm thẩm mĩ và tri thức dân

gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khoẻ phụ nữ hiện nay, chúng tôi sẽ

trình bày những hiểu biết và thực hành của người dân xưa trong việc chăm

1

sóc sắc đẹp và sức khỏe cho người phụ nữ Việt, từ đó rút ra những ưu điểm

của cách làm đẹp và chăm sóc sức khỏe dân gian còn phù hợp mà phụ nữ hiện

đại cần học tập.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trong việc làm đẹp và giữ gìn sức khỏe của người phụ nữ Bắc Bộ hiện

nay, có những quan niệm và phương pháp dân gian nào được vận dụng? Vị

trí, vai trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe của

phái đẹp hiện nay như thế nào?

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ khái niệm tri thức dân gian, quan niệm dân gian về cái đẹp,

thẩm mỹ, sức khỏe, những bài thuốc và cách thức sử dụng của nhân dân ta

ngày xưa.

- Trình bày quan niệm và những phương thức làm đẹp của người phụ

nữ hiện đại, đánh giá vai trò và tác dụng của tri thức dân gian trong vấn đề

này.

- Trình bày những phương thức chăm sóc sức khỏe của phụ nữ hiện

đại, nhận diện vai trò của tri thức dân gian trong vấn đề này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Chúng tôi nghiên cứu việc làm đẹp, giữ gìn, rèn luyện sức khỏe của

phụ nữ hiện nay ở Bắc Bộ, tìm hiểu trong số những phương thức, những bài

thuốc làm đẹp và tăng cường sức khỏe hiện nay có những phương thức nào,

bài thuốc nào sử dụng từ tri thức dân gian.

Đối với người phụ nữ hiện nay, chúng tôi điều tra và phỏng vấn những

2

phụ nữ từ 16 đến dưới 70 tuổi (nhóm chưa có chồng, nhóm có chồng và nhóm

người có tuổi). Những người này đại diện cho các thế hệ khác nhau, thể hiện

việc chăm sóc sắc đẹp, sức khỏe trước và sau khi có con và sự khác biệt giữa

các thế hệ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong điều kiện thời gian có hạn, chúng tôi không thể nghiên cứu việc

vận dụng quan điểm thẩm mĩ và tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm

sóc sức khỏe phụ nữ của tất cả các dân tộc ở mọi vùng trên đất nước ta.

Chúng tôi xin được giới hạn nghiên cứu tri thức dân gian trong việc làm đẹp

và chăm sóc sức khỏe của phụ nữ Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Khi điều kiện

cho phép, chúng tôi so sánh, liên hệ vấn đề này ở một số dân tộc thiểu số cư

trú tại Bắc Bộ. Việc giới hạn không gian nghiên cứu này là phù hợp với tính

chất của tri thức dân gian. Tri thức dân gian (hay tri thức địa phương, hay

kiến thức bản địa) có tính chất vùng, miền (địa phương) rất rõ. Các nhà

nghiên cứu có nhiều phương án phân vùng văn hóa Việt Nam, trong đó có

cách phân chia nước ta thành ba vùng lớn: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Trong

luận án, chúng tôi quan niệm: Bắc Bộ là khu vực tính từ các tỉnh từ biên giới

phía Bắc kéo đến hết Ninh Bình (chúng tôi sẽ xin trở lại vấn đề này trong tiểu

mục lý thuyết vận dụng). Trong Bắc Bộ, chúng tôi tập trung khảo sát vùng

châu thổ Bắc Bộ. Trong châu thổ Bắc Bộ, chúng tôi khảo sát ở tám tỉnh và

thành phố: Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng

Yên, Thái Bình, Hà Nội. Đây là những nơi vừa bảo lưu nhiều nét truyền

thống văn hóa, đồng thời cũng là nơi biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa,

xã hội.

Luận án nghiên cứu tri thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp và sức

khỏe của phụ nữ Việt và đánh giá sự tồn tại của các tri thức này trong xã hội

ngày nay. Tuy chủ yếu viết về người Việt, trong một số trường hợp, chúng tôi

3

có mở rộng đến những dân tộc khác nhằm làm rõ hơn vấn đề của người phụ

nữ Việt.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp luận

Chúng tôi vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử để xem xét đối tượng nghiên cứu trong sự vận động và trong mối liên

hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Thí dụ, trong việc làm đẹp, ở xã hội cũ,

trong thời con gái, phụ nữ rất chú ý đến việc làm đẹp và chăm sóc sắc đẹp,

nhưng sau khi lập gia đình, họ ít chú ý đến việc làm đẹp cho bản thân (tuy vẫn

ăn trầu cho môi đỏ, ra đường mặc quần áo đẹp hoặc chí ít cũng tươm tất hơn

lúc ở nhà, đeo đồ trang sức,…). Trong xã hội ngày nay, không chỉ ở thời con

gái mà sau khi đã lập gia đình hay khi tuổi đã cao, người phụ nữ vẫn quan tâm

chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp cho bản thân. Sự giao lưu với thế giới, điều

kiện sống, những quan niệm mới về bình đẳng giới đã đem đến sự thay đổi

đó. Đó chính là hoàn cảnh cụ thể đã giúp NCS giải thích về một hiện tượng

hiện nay khác với truyền thống.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp tổng hợp trong nghiên cứu văn hóa dân gian

Theo tác giả Đinh Gia Khánh, trong khoa nghiên cứu văn hóa dân gian,

phương pháp tổng hợp có tầm quan trọng đặc biệt. Vậy phương pháp tổng

hợp là gì? Cũng theo tác giả Đinh Gia Khánh, đó là phương pháp tiếp cận

thẩm mỹ kết hợp với phương pháp tiếp cận chỉnh thể. Để nghiên cứu một tác

phẩm, một hiện tượng văn hóa dân gian thì cần phải phân tích chủ thể nguyên

hợp ấy ra các thành tố, hơn nữa cần phải phân tích các thành tố ra các yếu tố

nhỏ hơn để có thể đi sâu tìm hiểu nội dung cũng như cấu trúc của từng thành

tố nói riêng, của chỉnh thể nguyên hợp nói chung. Trong nghiên cứu văn hóa

4

dân gian, khởi đầu bằng việc phân tích là một điều tất yếu. Nhưng quá trình

phân tích ấy lại được bổ sung và nâng cao bằng quá trình tổng hợp bởi vì dẫu

có tiến hành thao tác khoa học nào đi chăng nữa thì cuối cùng cũng phải đạt

mục tiêu là nhận thức được sâu sắc và toàn diện tác phẩm, hiện tượng với tư

cách là một chủ thể nguyên hợp [133, tr. 10-11].

4.2.2. Phương pháp liên ngành

Theo tác giả Đinh Gia Khánh, phương pháp liên ngành hay nói cho

đúng hơn tổ chức nghiên cứu liên ngành thường cần thiết mỗi khi xử lý những

đề tài khoa học rộng lớn, tức là mỗi khi phải đề cập đến nhiều thực thể khác

nhau và nhiều đối tượng khoa học khác nhau. Tổ chức nghiên cứu liên ngành

huy động nhiều ngành khoa học khác nhau, nhưng quá trình nghiên cứu thì

mỗi ngành khoa học vẫn giữ tính chất độc lập của mình, vẫn tuân theo

phương pháp tiếp cận của mình, vẫn sử dụng những phương pháp mà nhà

khoa học cho là thích hợp hơn là với phương hướng tiếp cận của ngành khoa

học khác. Trong tổ chức nghiên cứu liên ngành, có một ngành khoa học giữ

vai trò trung tâm, nói cho đúng hơn là giữ vai trò tổ chức. Vai trò ấy được quy

định bởi những điều kiện khác nhau như mục tiêu cuối cùng của đề tài nghiên

cứu hoặc tính chất của tư liệu nghiên cứu. Theo tác giả Đinh Gia Khánh, đề

tài Hùng Vương dựng nước (được Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức

vào nửa cuối những năm 60 – đầu những năm 70 của thế kỷ XX) đã được xử

lý theo tổ chức nghiên cứu liên ngành. Nhiều ngành khoa học xã hội và cả

một số ngành khoa học tự nhiên đã được huy động vào việc nghiên cứu đề tài

này.

Thời đại Hùng Vương không ghi lại những tư liệu thành văn, những

văn bản, nhưng còn lưu lại khá nhiều hiện vật khảo cổ học. Vì vậy khoa học

khảo cổ đã giữ vai trò trung tâm, vai trò tổ chức của việc nghiên cứu liên

ngành. Khi nghiên cứu về Tây Nguyên là một vùng trong đó các tộc người

5

còn giữ được nhiều hơn các nơi khác những nét đặc thù của xã hội thời kỳ

tiền giai cấp. Bởi vậy trong việc xử lý đề tài này theo tổ chức liên ngành thì

dân tộc học đóng vai trò trung tâm, vai trò tổ chức. Trong đề tài quy hoạch

đồng bằng sông Hồng hoặc quy hoạch đồng bằng sông Cửu Long thì dù

ngành khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nông học, văn hóa dân gian…có

thể tùy theo hoàn cảnh mà có đóng góp nhiều hoặc ít vào kết quả nghiên cứu

nhưng ngành kinh tế học phải giữ vai trò trung tâm, vai trò tổ chức, bởi vì

mục tiêu của việc nghiên cứu liên ngành này trước hết là mục tiêu kinh tế

[133, tr.12-14].

Từ những gợi ý của tác giả Đinh Gia Khánh, để thực hiện đề tài này

chúng tôi vận dụng những quy phạm của khoa nghiên cứu văn hóa dân gian

bên cạnh việc tiếp thu phương pháp nghiên cứu và thụ hưởng kết quả nghiên

cứu của mỹ học, y học và xã hội học, trong đó khoa nghiên cứu văn hóa dân

gian đóng vai trò trung tâm.

4.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học

Cơ cấu mẫu nghiên cứu của chúng tôi như sau: Phỏng vấn bảng hỏi

được thiết kế sẵn với 300 phụ nữ từ 16 đến dưới 70 tuổi tại 8 tỉnh, thành ở

khu vực châu thổ Bắc Bộ, cụ thể là: Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Vĩnh

Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nội. Ở mỗi tỉnh, thành trên,

chúng tôi khảo sát hai địa điểm: một là thành phố/thị xã/ thị trấn/ thị tứ và một

địa điểm ở một xã trong tỉnh.

Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát tại các tỉnh

TT Tỉnh Số lượng Tỷ lệ (%)

1 Hải Dương 38 12.7

2 Hưng Yên 39 13.0

3 Thái Bình 38 12.7

4 Hà Nội 39 13.0

6

5 Nam Định 37 12.3

6 Ninh Bình 38 12.7

7 Phú Thọ 36 12.0

8 Vĩnh Phúc 35 11.7

Tổng 300 100

(Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2013)

- Về độ tuổi: Nhóm tuổi từ 16-25 chiếm 35%, nhóm từ 25-35 tuổi

chiếm 15%, nhóm từ 36-55 tuổi chiếm 25% và nhóm trên 55 tuổi chiếm 25%.

- Về nơi sinh sống: Tỷ lệ sống ở khu vực nông thôn chiếm gần một nửa

(46,7%), tỷ lệ ở khu vực thị trấn/thị tứ chiếm 22,8% và ở thành phố chiếm

30,4%.

- Về nghề nghiệp: Làm nông nghiệp thuần túy chiếm 27,3%, buôn bán,

dịch vụ: 12,1%, cán bộ viên chức 19,0%, làm tự do 3,5%, nội trợ, nghỉ hưu

2,1%, lĩnh vực nghệ thuật 2,4%, nhân viên trong các công ty, doanh nghiệp

5,2%, học sinh, sinh viên 20,7%, thất nghiệp 1,4%.

- Về thu nhập bình quân/tháng: Tỷ lệ dưới 1 triệu/tháng chiếm 28,7%,

từ 1- dưới 3 triệu chiếm 31,7%, từ 3- dưới 5 triệu chiếm 26%, trên 5- dưới 7

triệu chiếm 8,3% và trên 7 triệu chiếm 5,3%.

- Về tình trạng hôn nhân: Tỷ lệ phụ nữ được khảo sát đang ở cùng

chồng chiếm 46,4%, đã ly hôn/ly thân chiếm 4,8%, chưa lập gia đình 48,8%.

- Về học vấn: Tỷ lệ phụ nữ có trình độ tiểu học chỉ chiếm 3,8%, trung

học cơ sở 33,1%, trung học phổ thông 36,2%, trung cấp nghề 16,3%, cao

đẳng, đại học 10,1% và trên đại học 0,5%.

- Về tôn giáo: 95,2% không theo tôn giáo nào, 4,8% theo các tôn giáo

khác như Tin Lành, Cao Đài…

Các đặc điểm về đối tượng được khảo sát sẽ được phân tích nhằm giải

7

thích sự khác biệt trong nhận thức, thực hành việc vận dụng tri thức dân gian

trong chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe của phụ nữ.

4.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu

Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện với nhiều đối tượng:

+ Phỏng vấn phụ nữ trong cộng đồng:

- Phỏng vấn phụ nữ cao niên (nông thôn, thành thị)

- Phỏng vấn phụ nữ trung tuổi (nông thôn, thành thị)

- Phỏng vấn phụ nữ chưa lập gia đình (nông thôn, thành thị)

+ Phỏng vấn chủ/đại diện các trung tâm chăm sóc sắc đẹp/thẩm mỹ tại

mỗi tỉnh.

+ Phỏng vấn kỹ thuật viên trong các trung tâm chăm sóc sắc đẹp có sử

dụng các phương pháp trị liệu (nguyên liệu truyền thống): bác sĩ, dược sỹ,

chuyên gia làm đẹp…

+ Phỏng vấn chuyên gia về nghiên cứu văn hóa dân gian, nghệ thuật

làm đẹp, chuyên gia về phụ nữ… ở các cơ quan quản lý, nghiên cứu về văn

hóa, nghệ thuật.

4.2.5. Phương pháp thu thập, xử lý các tài liệu thứ cấp

Luận án tổng hợp và phân tích một lượng lớn các tài liệu đã công bố có

thể phân chia số tài liệu này thành năm loại.

Loại thứ nhất là những công trình bàn về vẻ đẹp và làm đẹp của phụ nữ

thời xưa. Loại thứ hai là những công trình bàn về việc làm đẹp của phụ nữ

thời nay. Loại thứ ba là những công trình viết về việc chăm sóc sức khỏe của

phụ nữ ngày xưa. Loại thứ tư là những công trình quan tâm đến việc chăm sóc

sức khỏe của phụ nữ hiện nay. Loại thứ năm là những công trình sưu tầm,

biên soạn văn học dân gian trong đó chủ yếu là những công trình sưu tầm,

8

biên soạn ca dao tục ngữ. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sắp xếp các tài

liệu như trên, trong mỗi loại lại được chia nhỏ hơn nữa. Thí dụ, trong việc

chăm sóc sức khỏe của phụ nữ ngày xưa gồm có những công trình viết về

việc chăm sóc sức khỏe của phụ nữ Việt (Kinh), những công trình viết về việc

chăm sóc sức khỏe của phụ nữ các dân tộc thiểu số.

Trên cơ sở khối tư liệu đã công bố, xuất bản khá phong phú, chúng tôi

tiến hành phân tích theo các vấn đề mà nội dung luận án quy định.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Bản luận án đã phân tích và chứng minh các thuật ngữ tri thức bản địa,

tri thức dân gian, kiến thức bản địa, về cơ bản chỉ là những cách gọi khác

nhau của một sự vật, trình bày có hệ thống quan niệm dân gian và tri thức dân

gian về cái đẹp của người phụ nữ và việc chăm sóc sức khỏe của họ trong xã

hội xưa và nay, khẳng định vai trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp và

chăm sóc sức khỏe phụ nữ hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về mặt lý thuyết: Luận án làm sáng tỏ vai trò của tri thức dân gian

trong việc làm đẹp và giữ gìn sức khỏe của người phụ nữ hiện đại, đánh giá

đúng mức tầm quan trọng của tri thức này (không hạ mức, không cường

điệu). Qua kết quả nghiên cứu của luận án, người đọc thấy rõ sự đa dạng

trong quan niệm về cái đẹp, mối liên hệ hữu cơ giữa cái đẹp và sức khỏe.

- Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận án sẽ làm tài liệu tham khảo hữu

ích cho các chị em phụ nữ và các cơ sở làm đẹp hiện nay.

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được

trình bày theo bốn chương như sau:

9

Chương 1: Lịch sử nghiên cứu vấn đề, lý thuyết vận dụng và tổng quan

về Bắc Bộ, châu thổ Bắc Bộ;

Chương 2: Tri thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp của người phụ nữ

vùng Bắc Bộ hiện nay;

Chương 3: Tri thức dân gian trong chăm sóc sức khỏe của người phụ

nữ vùng Bắc Bộ hiện nay;

Chương 4: Những vấn đề bàn luận.

10

CHƯƠNG 1

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG VÀ

TỔNG QUAN VỀ BẮC BỘ, CHÂU THỔ BẮC BỘ

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt theo

quan niệm dân gian

Các tác giả thường dành một bài viết hoặc một số trang sách đề cập đến

cái đẹp của người phụ nữ cổ truyền. Trong bài thuyết trình năm 1990, tác giả

Phạm Thị Nhung cho rằng, người phụ nữ Việt Nam xưa có hai giai đoạn quan

trọng trong cuộc đời, đó là khi còn con gái và khi đã lập gia đình. Tác giả

nhận xét, nhìn chung quan niệm về dung nhan người đẹp thời trước qua ca

dao không thấy khác ngày nay bao nhiêu. Ở thời đại hiện nay, người ta thích

răng trắng và chuộng những người có vóc dáng cao. Nhưng ở thời nào thì đa

phần người phụ nữ cũng thích trang điểm và có ý ăn mặc điệu đà đôi chút

nhằm tôn thêm nhan sắc.

Tác giả Trần Ngọc Thêm nhận thấy, chiếc yếm ngày xưa tạo nên nét

đẹp duyên dáng và sức quyến rũ của người phụ nữ Việt Nam [102, tr.382-

383]. Cũng quan tâm đến vấn đề này, tác giả Phạm Anh Trang nhận xét, cách

ăn mặc của người phụ nữ luôn thể hiện sự linh hoạt, phù hợp với từng thời

đại, chẳng hạn như sự thay đổi của chiếc yếm và chiếc áo dài [122].

Theo tác giả Vũ Ngọc Khánh, trang phục còn thể hiện địa vị xã hội,

phẩm chất của người phụ nữ [55]. Cũng quan tâm đến trang phục của người

phụ nữ xưa, tác giả Ngô Đức Thịnh viết khá kỹ về chiếc áo dài của người phụ

nữ thuở trước. Ngoài ra ông cũng viết về cách thức chải tóc rẽ ngôi của người

phụ nữ ngày trước và cách chít khăn vuông, khăn mỏ quạ của phụ nữ Bắc Bộ

11

và việc phụ nữ Nghệ Tĩnh đội khăn đầu rìu [108].

Đáng chú ý có hai nữ tác giả dành số trang đáng kể, viết một cách có

hệ thống về chủ đề đang bàn. Năm 2008, tác giả Lê Thị Nguyệt hoàn thành

luận văn thạc sĩ Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt

[84]. Năm 2012, nhà giáo Nguyễn Thị Thúy Loan bảo vệ luận văn thạc sĩ Vấn

đề miêu tả ngoại hình con người trong “Kho tàng ca dao người Việt” [71].

Hai tác giả, bằng phương pháp thống kê đã phân tích vẻ đẹp bộ phận và vẻ

đẹp tổng thể ngoại hình của người phụ nữ Việt trong thơ ca dân gian. Các kết

quả nghiên cứu của Lê Thị Nguyệt, Nguyễn Thị Thúy Loan đã giúp ích rất

nhiều cho NCS trong quá trình thực hiện đề tài luận án.

1.1.2. Các công trình đề cập đến việc chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe của

người phụ nữ bằng phương pháp dân gian

1.1.2.1. Các công trình đề cập đến việc chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe của

người phụ nữ Việt bằng phương pháp dân gian

Năm 2000, trong cuốn sách Những phương thuốc làm đẹp từ cây thuốc

nam, tác giả Thiên Kim đề cập đến đặc điểm, thành phần cấu tạo, cách sử

dụng và phòng tránh cũng như những công dụng làm đẹp từ cây thuốc nam.

Các phương thuốc này rất dễ tìm kiếm và rất hiệu quả trong sử dụng [58].

Năm 2007, trong cuốn Cây nhà lá vườn vị thuốc chữa bệnh và làm đẹp, tác

giả Công Anh sưu tầm và giới thiệu nguyên liệu rau, củ, quả và cách chế biến

để có công dụng chữa bệnh, làm đẹp, dưỡng sinh chăm sóc sức khỏe [6].

Năm 2008, cuốn sách đồ sộ Almanach người mẹ và phái đẹp của nhiều

tác giả được xuất bản. Trong sách này, có mục “Bí quyết làm đẹp”. Mục này

gồm nhiều bài, trong đó có những bài như “Bí quyết kéo dài tuổi thanh xuân

và sắc đẹp”, “Một số thực phẩm giúp con người kéo dài tuổi thanh xuân”,

“Dưỡng da bằng tỏi”, “Day huyệt, xoa bóp giữ gìn sức khỏe và nhan sắc”,…

12

Tất cả gồm 36 bài với 32 trang khổ lớn. Sách này còn có mục “Phái đẹp với y

học” gồm 69 bài với 89 trang khổ lớn. Những bài trong tập sách là những bài

viết ngắn, chưa phải là những công trình khoa học chuyên sâu [87].

Ngoài ra còn có các cuốn sách của Hoa Phượng, Nguyễn Thúy Ngà,

Nam Việt, Thanh Hải và Thanh Minh, Hà Hương, Nguyễn Trúc Chi,… Các

phương pháp làm đẹp (qua ăn uống, luyện tập, trang điểm) của người phụ nữ

chủ yếu được đúc kết từ kinh nghiệm trong dân gian. Các tài liệu đề cập cụ

thể đến các bài thuốc, công thức, cách chế biến ra sản phẩm làm đẹp từ các

sản phẩm tự nhiên, cách sử dụng để làm đẹp cho phụ nữ ở các lứa tuổi khác

nhau. Riêng về việc chăm sóc sức khỏe dưới cái nhìn dân gian, năm 2002,

nhóm tác giả Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thúy Loan, Phan Lan Hương,

Nguyễn Luân giới thiệu 54 câu tục ngữ (có chú giải) nói về ốm đau, chữa

bệnh [63, tr.82-88].

Cho đến nay, còn thiếu các nghiên cứu từ cách tiếp cận văn hóa, xã hội

để đánh giá, tìm hiểu nhu cầu thẩm mỹ, xu hướng về chăm sóc sắc đẹp, sử

dụng lựa chọn các phương pháp làm đẹp (truyền thống và hiện đại) để từ đó

có những khuyến nghị phù hợp nhằm duy trì và phát huy văn hóa truyền

thống (qua hệ thống tri thức dân gian), đồng thời giúp phụ nữ Việt Nam tiếp

cận lựa chọn các phương pháp làm đẹp an toàn, tiết kiệm và hiệu quả bên

cạnh các công nghệ làm đẹp hiện đại.

1.1.2.2. Các công trình đề cập đến việc chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ

các dân tộc thiểu số bằng phương pháp dân gian

Những năm gần đây, một số lượng đáng kể những cuốn sách có nội

dung bàn về việc chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ các dân tộc thiểu số.

Các tác giả chủ yếu viết về việc chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ trong

khi mang thai và sau khi sinh: Tri thức dân gian liên quan đến tập quán sinh

đẻ và chăm sóc trẻ em của dân tộc Sán Dìu ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên

13

Quang của Đinh Thị Hồng Thơm [113], Phong tục sinh đẻ và chăm sóc trẻ sơ

sinh của người Dao Tuyển do Lê Thành Nam chủ biên [78], Tri thức dân gian

về cúng chữa bệnh cho phụ nữ và trẻ em của người Dao Tuyển ở Lào Cai của

Nguyễn Thị Minh Tú và Triệu Văn Quẩy [128], Tri thức dân gian chăm sóc

sức khỏe sinh sản cho phụ nữ và trẻ em người Phù Lá, Bắc Hà, Lào Cai của

Chảo Chử Chấn [17],…Đáng chú ý là sức khỏe của những phụ nữ thuộc các

dân tộc thiểu số đã được quan tâm. Điều này chứng tỏ cái nhìn tiến bộ và

đúng đắn đối với phụ nữ và các dân tộc thiểu số ngày một phổ biến.

Nhìn chung, các tài liệu viết về tri thức dân gian trong việc làm đẹp và

chăm sóc sức khỏe của phụ nữ còn khá hiếm. Các tài liệu viết về việc làm đẹp

hiện nay của phụ nữ chủ yếu là các bài thuốc, các phương pháp có tính chất kĩ

thuật, ít có những tổng kết lí luận. Tuy nhiên, những gì của các tác giả đi

trước đã được công bố sẽ là những gợi ý bổ ích đối với NCS.

1.2. Lý thuyết vận dụng và khái niệm

1.2.1. Lý thuyết vận dụng

Trong luận án, chúng tôi vận dụng bốn lý thuyết chính. Đó là lý thuyết

về thẩm mĩ và cái đẹp, lý thuyết về tri thức dân gian, lý thuyết về văn hóa

vùng, lý thuyết sinh thái học văn hóa.

Có nhiều quan niệm thẩm mĩ và cái đẹp. Ở đây, NCS tiếp thu quan

niệm của các tác giả Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Ngọc Long, Lại

Nguyên Ân [48], [8]. Đây chính là quan niệm vận dụng mỹ học mác xít.

Lý thuyết về tri thức bản địa được khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu

quốc tế. Ở ta, các tác giả Hoàng Xuân Tý, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Ngọc

Thanh, Vương Xuân Tình,… đã vận dụng nó và tác giả Ngô Đức Thịnh còn

gọi nó là tri thức dân gian [132], [107]. Nội dung chủ yếu của lý thuyết này

chỉ ra các đặc điểm của tri thức dân gian, vai trò và tác dụng của nó trong xã

14

hội trước đây, vai trò và hạn chế của nó trong cuộc sống ngày nay.

Lý thuyết về vùng văn hóa cũng do các nhà khoa học nước ngoài khởi

xướng. Áp dụng lý thuyết này và vận dụng để nghiên cứu văn hóa Việt Nam

có các tác giả Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh, Trần Quốc Vượng, Chu

Xuân Diên, Huỳnh Khái Vinh,…[108], [142]. Các tác giả quan niệm một

vùng văn hóa được tạo thành trong quá trình lịch sử lâu dài, được quy định

bởi điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, lịch sử cư dân, cách thức canh tác và

các sinh hoạt văn hóa xã hội. Bên cạnh tính chất chung, mỗi vùng văn hóa lại

có sắc thái riêng, thậm chí nét riêng. Phương án phân vùng văn hóa Việt Nam

của Ngô Đức Thịnh khác với phương án phân vùng cùng tên của Đinh Gia

Khánh và các tác giả khác. Ở đây, NCS theo cách phân vùng Việt Nam có ba

vùng văn hóa.

Trong các truyền thống nghiên cứu văn hóa, nhất là đối với nhân học

và xã hội học văn hóa, người ta cũng thường nhắc đến cách tiếp cận dựa trên

sinh thái học. Là một khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa các cơ thể sống

với môi trường tự nhiên, sinh thái học được nhà tự nhiên học người Đức là

Haeckel đề xướng vào năm 1866. Về sau, khi nội dung khái niệm được mở

rộng, sinh thái học đồng thời trở thành một bộ phận của khoa học xã hội, mà

theo đó, môi trường tự nhiên khách quan có ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ

chức xã hội, lối sống và tư tưởng của con người. Mối quan hệ tương tác giữa

tự nhiên, xã hội và văn hóa cũng gắn liền với những nghiên cứu của J. Stuard

(1902 - 1972). Hướng cơ bản trong các công trình của tác giả này là tìm hiểu

sự thích nghi của con người xã hội với môi trường chung quanh, hay nói đầy

đủ hơn là tìm hiểu và nhận biết các đặc điểm của các hệ thống xã hội tổng thể

(như dân số, thể chế xã hội, khoa học, kỹ thuật, phong tục, tập quán, đạo đức,

lối sống, v.v…) dưới sự tác động của các hệ sinh thái. Như vậy, sinh thái học

văn hóa được coi như một mô hình lý thuyết để tìm hiểu mối quan hệ qua lại

15

giữa con người và môi trường tự nhiên bao quanh, cũng như tìm hiểu về văn

hóa với tư cách là sản phẩm của mối quan hệ đó. Những người theo thuyết

sinh thái học văn hóa khẳng định rằng, kiểu văn hóa của mỗi tộc người được

tạo ra là do những nguồn tài nguyên và những giới hạn của môi trường xung

quanh, kể cả những thay đổi trong môi trường đó. Ở đây, khái niệm “kiểu văn

hóa” đóng vai trò căn bản, nó được hiểu như một tập hợp những nét khu biệt

cho một lối sống do kết quả thích nghi với môi trường xung quanh. Tiếp cận

lý thuyết này để giải thích các tri thức dân gian được hình thành trong quá

trình con người tương tác với môi trường tự nhiên, tìm kiếm những giá trị mà

tự nhiên có thể phục vụ cuộc sống con người như các sản phẩm dùng làm

thuốc, điều trị bệnh tật, chăm sóc sắc đẹp hoặc các món ăn, kiến trúc xây

dựng.v.v…

1.2.2. Một số khái niệm

Các lý thuyết được xây dựng trên những khái niệm cơ bản. Dưới đây

chúng tôi xin trình bày một số khái niệm của những lý thuyết vừa nêu và một

số khái niệm trong tên đề tài luận án.

1.2.2.1. Quan niệm thẩm mĩ và cái đẹp

Quan niệm thẩm mĩ

Mĩ học Mác – Lênin phân tích các quan hệ thẩm mĩ trong cuộc sống

cũng như nghệ thuật. Theo lý thuyết này, cái thẩm mĩ là mối quan hệ gồm ba

mặt hợp thành. Mặt thứ nhất là đối tượng trong quan hệ thẩm mĩ. Đó là những

cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả tồn tại khắp mọi nơi trong xã hội loài người.

Mặt thứ hai là mặt chủ thể trong quan hệ thẩm mĩ. Đó là các hoạt động của

chủ thể thẩm mĩ, bao gồm các hoạt động về nhu cầu thẩm mĩ, về thị hiếu thẩm

mĩ, về lý tưởng thẩm mĩ của con người trong xã hội. Mặt thứ ba là mặt nghệ

thuật trong quan hệ thẩm mĩ. Đó là các hoạt động hưởng thụ nghệ thuật, phê

16

bình nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật bao gồm các đặc trưng của nghệ thuật,

bản chất xã hội của nghệ thuật và chức năng của nghệ thuật [48, tr.32-33].

Trong quan niệm thẩm mĩ của một cộng đồng người không chỉ có quan

niệm về cái đẹp, mà còn có quan niệm về cái cao cả, cái bi, cái hài; tuy nhiên

quan niệm về cái đẹp thường đứng ở vị trí trung tâm. Trong luận án này, khi

nói đến quan niệm thẩm mĩ của dân gian, chúng tôi chủ yếu nói đến quan

niệm về cái đẹp của dân gian.

Cái đẹp

Cái đẹp là một phạm trù mĩ học xác định giá trị thẩm mỹ của các hiện

tượng theo quan điểm về sự hoàn thiện, xem chúng như là các hiện tượng có

giá trị thẩm mĩ cao nhất. Các hiện tượng có thể được coi là đẹp khi với tính

toàn vẹn cụ thể cảm tính của mình, chúng hiện diện như những giá trị xã hội -

nhân bản, tức là những giá trị thể hiện sự khẳng định của con người trong thế

giới, chứng tỏ sự mở rộng giới hạn tự do của cộng đồng về con người, thúc

đẩy sự phát triển hài hòa của nhân cách, sự nảy sinh và bộc lộ ngày càng đầy

đủ những sức mạnh và năng lực của con người. Bởi vậy, việc tiếp nhận cái

đẹp gây nên trạng thái vui sướng, tình yêu vô tư, cảm giác tự do, xác nhận và

làm giàu lý tưởng thẩm mỹ. Theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, trong lịch

sử mĩ học, cái đẹp và sự tiếp nhận cái đẹp được nghiên cứu ở bình diện quan

hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất, cái khách quan và chủ quan, cái tự nhiên

và cái xã hội, giữa nội dung và hình thức. Đặc trưng của cái đẹp được xác

định thông qua mối quan hệ của nó với các loại hình giá trị khác: giá trị thực

dụng (lợi ích), giá trị nhận thức (chân lý), giá trị đạo đức (cái thiện). Tùy theo

những quan niệm triết học khác nhau, các tác giả có những cách giải quyết

khác nhau về vấn đề cái đẹp có thuộc tính khách quan hoặc chủ quan. Mĩ học

duy tâm khách quan giải thích tác động của cái đẹp đến con người bằng quan

niệm cho rằng ở cái đẹp biểu lộ những sức mạnh tâm linh khách quan, siêu

17

nhiên. Có người cho rằng cái đẹp là ý niệm vĩnh cửu, là tuyệt đối, là thần

thánh. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận tính khách quan của cái đẹp,

loại bỏ nó ra khỏi các năng lực tinh thần của chủ thể. Phái hoài nghi thời cổ

đại Hy Lạp - La Mã bác bỏ sự tồn tại của cái đẹp trong thực tại. Họ cho rằng

cái đẹp không phải là một phẩm chất vốn có trong chính các sự vật; nó chỉ có

trong tinh thần; chỉ tinh thần mới chiêm nghiệm được nó; và tinh thần của

mỗi con người lại thấy một cái đẹp khác. Thuyết trực cảm cho rằng cái đẹp

được tạo ra do vật chất phản chiếu tình cảm con người lên đối tượng. Mỹ học

duy vật tìm ngọn nguồn của tiếp nhận và trải nghiệm cái đẹp ở thực tại vật

chất. Ở đây có hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất xem cái đẹp như phẩm chất

của bản thân vật thể, như sự biểu lộ tính quy luật tự nhiên. Xu hướng thứ hai

muốn kết hợp việc thừa nhận tính khách quan của cái đẹp với ý nghĩa của nó

đối với con người. Theo nhà mĩ học Nga Secnưsepxki, “cái đẹp là sự sống”;

“Một vật tồn tại là đẹp khi ở nó ta nhìn thấy cuộc sống như nó phải có theo

cách hiểu của ta”. Mĩ học macxit nêu lên sự liên hệ có tính quy luật giữa cái

đẹp với hoạt động lao động của con người. Mác nhận xét rằng: “Con người

cũng sáng tạo theo quy luật của cái đẹp”, bởi vì con người tự khẳng định bản

chất nhân loại - xã hội của mình trong thực tiễn sáng tạo thế giới vật chất;

khác với loài vật, con người sản xuất một cách phổ quát, tự do với nhu cầu thể

chất trực tiếp, đối lập một cách tự do với sản phẩm của mình và biết áp dụng

thước đo phù hợp cho đối tượng. Nói cách khác, trong việc tiếp nhận cái đẹp,

con người không chỉ nhận được thông tin về các phẩm chất tự nhiên của hiện

tượng, mà còn nhận được thông tin về mức độ khẳng định con người xã hội

trong thế giới, về mức độ tự do mà nó đạt tới trong thực tại tự nhiên và xã hội,

về mức phát triển các tiềm năng sáng tạo của nó. Cái đẹp là khách quan bởi vì

nó là giá trị nhân bản - xã hội, được tạo ra trong sự tương tác của tự nhiên và

xã hội, trong quan hệ giữa con người với nhau, trong quá tình thực tiễn lịch sử

xã hội khách quan. Sự đánh giá cái đẹp (bộc lộ qua tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu

18

thẩm mĩ, lý tưởng thẩm mĩ) lại mang tính chủ quan, và có thể chân thực hay

giả dối tùy theo chỗ tương ứng hay không tương ứng với cái đẹp như là giá trị

khách quan. Mĩ học macxit cũng nhấn mạnh mối liên hệ biện chứng của cái

đẹp và cái có ích, cái đẹp và chân lý. Đặc tính đẹp cũng có ở lao động, vốn là

hoạt động tự do, sáng tạo và có ý nghĩa xã hội, đem lại khoái cảm “bởi trò

chơi của các sức mạnh thể chất và trí tuệ” (Mác); cũng có ở các kết quả lao

động, hiện thân của tài nghệ cao và sự hoàn thiện. Cái đẹp cũng có ở những

hành động nhận thức, ở sự biểu hiện của hành động này trong chân lý. Phẩm

chất đẹp cũng có những biểu hiện cụ thể cảm tính ở các nguyên tắc đạo đức.

Không phải mọi cái đẹp đều có ích lợi thực dụng. Ý nghĩa chủ yếu của cái

đẹp đối với con người và xã hội là ý nghĩa thực tiễn - tinh thần. Bởi vậy sự

tiếp nhận thẩm mỹ đối với cái đẹp là sự tiếp nhận vô tư, tức là xa lạ với óc

thực dụng dung tục và óc vị lợi vị kỷ. Những gì là đẹp trong thực tại đều có

thể được miêu tả trong nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là đẹp, tức là có giá

trị nghệ thuật. Sáng tác nghệ thuật là lĩnh vực đặc thù của sự tìm tòi và thể

hiện cái cái đẹp, là lĩnh vực biểu hiện sự phát triển phong phú về tinh thần của

cá nhân con người [8, tr.196 - 198].

Chúng tôi nghĩ, một mặt cái đẹp là khách quan, mặt khác nó cũng mang

tính chủ quan. Cái đẹp cũng mang tính lịch sử, tính dân tộc và tính giai cấp,

bên cạnh tính người nói chung.

Tính nhân loại của cái đẹp

Nhân loại có tính chung, bởi thế khi trông một bông hoa ai cũng cho là

đẹp. Không ai trên thế giới lại cho người phụ nữ ngực lép, mắt to mắt bé lại là

đẹp. Quan niệm về người phụ nữ trong thần thoại Hy Lạp tương đồng với

quan niệm của nhiều dân tộc trên thế giới ở chỗ dành những lời đẹp đẽ, kỳ

diệu nhất khi nói về phái đẹp: “Thượng đế đã lấy vẻ đẹp đầy đặn của mặt

trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét

19

mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc

lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn đăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít

của đàn ong, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biến

động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con

chim công, hình nhuần nhuyễn của con chim yểng, chất cứng rắn của ngọc

kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức

trung trinh của chim uyên ương, đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người

phụ nữ” [123, tr.30 - 31].

Tính khu vực của cái đẹp

Bên cạnh tính chung lại có nét khác biệt giữa các khu vực. Giữa người

châu Âu và người châu Á trong không ít trường hợp có quan niệm về cái đẹp

khác nhau. Một người Trung Quốc sau khi đi thăm châu Âu, đã nói về sự

khác nhau giữa châu Âu và châu Á như sau: “Phụ nữ Trung Quốc mặc quần

áo để tránh lạnh và gió; họ sẽ vô cùng xấu hổ, nếu như để hở phần nào đó

thân thể của họ. Còn phụ nữ ở phương Tây lại thích để trần vai và ngực và

thích những kiểu váy nào làm nổi bật thân hình mình. Người Trung Quốc

không bao giờ để tóc xõa xuống trán. Trong khi đó người phương Tây lại rất

thích những mớ tóc quăn rủ trước mặt. Nếu như ở Trung Quốc, khi gặp nhau

mà không có mũ đội đầu phù hợp với hoàn cảnh cụ thể bị coi là thiếu lịch sự

thì ở phương Tây khi gặp người quen, để tỏ ra lịch sự, đàn ông phải bỏ mũ ra.

Ở Trung Quốc màu trắng là màu tang tóc, màu đỏ là màu cưới xin và là màu

của những niềm vui sướng. Còn ở phương Tây thì màu trắng lại biểu hiện

niềm vui, phấn khởi, còn màu đen lại là màu tang tóc. Ở Trung Quốc, người

ta mặc áo đen khi đi làm những công việc chân tay bẩn thỉu, ở phương Tây nó

lại là màu của trang phục đúng nghi lễ. Phụ nữ Trung Quốc sẽ vô cùng phật ý

nếu như bị người khác ngắm nhìn chăm chú. Còn ở phương Tây, phụ nữ lại

lấy làm hài lòng nếu họ được ngắm nhìn, điều đó được xem như một sự tán

20

dương. Ở Trung Quốc, ý nghĩa về việc phô trương thân thể để trần làm cho

người đàn bà vô cùng ghê sợ. Còn ở phương Tây, người bị ghê sợ bởi ý nghĩ

ấy lại là đàn ông [53, tr. 41 - 42].

Về sự khác nhau trong quan niệm về cái đẹp của người phụ nữ, xin dẫn

ra ba trường hợp dưới đây. Người châu Âu và người Việt Nam (bao gồm

nhiều thành phần dân tộc) đều quan niệm người phụ nữ đẹp là người có làn da

trắng. Ca dao Việt từng tiếc cho người con gái “da trắng tóc dài” bị cha mẹ ép

gả cho “con người đầu ngu”. Trong sử thi Ba Na và sử thi Ê Đê, các cô gái

đẹp thường được miêu tả “bắp vế (đùi) trắng tựa ngà voi, bụng thon như bụng

kiến vàng” [123, tr.30]. Còn đây là vẻ đẹp của nàng Hơ Nhí (vợ Đăm Xăn),

dưới cái nhìn của hai tên đầy tớ của tù trưởng M’tao M’xây: “Bà ấy đẹp thật,

rạng rỡ như mặt trời! Bà ấy mặc váy nào cũng đẹp! Cổ chân tròn như bắp

chuối. Lúc gió thổi váy hở thì thấy bắp đùi trắng muốt, sáng chói như ánh

chớp. Ai cũng phải khen là đẹp!” [123, tr.31]. Người phụ nữ Ấn Độ cũng đẹp,

song người đẹp ở xứ sở này có nước da màu không trắng mới là người đẹp:

“Khuôn mặt nàng như trăng tròn, môi nàng đỏ như quả Bunda, mắt nàng mở

rộng như cánh hoa sen, nước da như vàng…” [123, tr.30].

Tính dân tộc của cái đẹp

Các nhà nhân học đã chỉ ra hoạt động thể thao chịu ảnh hưởng của văn

hóa, giúp tạo dựng các đặc điểm hình thể. Nhiều năm bơi lội sẽ làm cho phần

cơ thể trên nở nang, vai to, bờ vai và tấm lưng mạnh mẽ. Người Mỹ quan

niệm như vậy là đẹp. Phụ nữ Mỹ được khuyến khích theo đuổi môn này.

Nước Mỹ đã sản sinh ra những vận động viên bơi lội thành công. Trong khi

đó chuẩn mực về cái đẹp của người Braxin lại chấp nhận một hình thể mập

mạp hơn, đặc biệt là phần mông và hông của người phụ nữ. Văn hóa Braxin

cho rằng phụ nữ nên có một dáng vẻ mềm mại với mông và hông lớn, vai

nhỏ. Vì vậy, nam giới nước này đã từng đôi lần thành công trong các cuộc thi

21

đấu bơi lội và điền kinh quốc tế, nhưng nước này hiếm khi cử các nữ vận

động viên bơi lội hay điền kinh đến các đại hội Olympic [16, tr. 77 - 78].

Theo các nhà nghiên cứu, lúc đầu người Việt và người Mường cùng

gốc, thời gian sau mới tách ra (hiện nay giữa các nhà nghiên cứu còn có

những ý kiến khác nhau về thời gian Việt, Mường chia tách). Sau khi đã là hai

dân tộc, với người Mường, màu trắng là màu đẹp. Trong khi đó, đối với người

Việt màu trắng lại là màu tang tóc. Vì vậy, những nhóm người Mường khi ở

cạnh người Việt đã chịu ảnh hưởng của phong tục Việt nên thiếu nữ Mường

không đội khăn màu trắng như đại đa số thiếu nữ Mường ở các vùng khác.

Tính thời đại của cái đẹp

Quan niệm về cái đẹp còn mang dấu ấn của thời đại. Ở Trung Quốc,

trước đời nhà Thanh, giới quý tộc thượng lưu chưa có tục bó chân. Đến đời

nhà Thanh, các em gái khi còn rất nhỏ đã phải bó chân, làm cho bàn chân

không phát triển bình thường. Tục bó chân làm phụ nữ tầng lớp trên hết sức

đau đớn, khổ sở. Sau khi bàn chân bị bó nhỏ, người phụ nữ quý tộc di chuyển

khó khăn. Mỗi bước đi thường có người hầu gái dìu hoặc đỡ. Quan niệm

trọng nam khinh nữ của nhà Thanh đã xem người phụ nữ là những người yếu

đuối, phải nương tựa vào người đàn ông, tức là người cha và sau đó là người

chồng (sau khi đã kết hôn). Mặt khác, theo các thầy thuốc đời Thanh, những

người phụ nữ bị bó chân là những người có đời sống tình dục mạnh. Lại một

lần nữa, ta thấy quan niệm coi người phụ nữ là một thân phận phụ thuộc, là

thứ tiêu khiển cho nam giới. Chỉ có người phụ nữ thượng lưu mới có bàn chân

nhỏ. Còn những người phụ nữ thường dân hoặc xuất thân thường dân có đôi

bàn chân to. Chỉ cần nhìn vào bàn chân là người ta biết được người phụ nữ

thuộc tầng lớp nào.

Trong tiểu thuyết Đàn hương hình, nhà văn Mạc Ngôn xây dựng thành

công nhiều nhân vật, trong đó có Tôn Mi Nương. Đây là vẻ đẹp tự nhiên của

22

nàng giữa đất trời “Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu trời như một

người đẹp không mảnh vải che thân. Tiếng mõ canh ba vừa điểm, huyện

thành im ắng. Gió mát đêm hè như tấm voan rộng mênh mông điểm xuyết

bằng những chòm sao, trùm lên trời đất, đem theo mùi cây cỏ, cua cá, côn

trùng. Ánh trăng bàng bạc, soi tỏ Tôn Mi Nương đang đi dạo trong sân. Nàng

cũng không mảnh vải che thân, lồ lộ dưới trăng. Ánh trăng như nước, nàng

như con cá lớn màu nhũ bạc. Đây là một đóa hoa nở rộ, một quả đã chín tới,

một cơ thể khỏe đẹp. Từ đầu đến chân, trừ bàn chân to, không một khiếm

khuyết” [81, tr. 203]. Năm mười tám tuổi, Tôn Mi Nương trở thành cô gái đẹp

nhất vùng Đông Bắc Cao Mật. Mọi người tiếc cho nàng: “Cô gái này nếu

chân không to, thì vua phải tuyển làm cung phi!”. Vì chân to, hai mươi tuổi,

nàng trở thành gái già không lấy được chồng. “Về sau Tôn Mi Nương mặt

hoa da phấn đành hạ mình lấy Triệu Tiểu Giáp, con nhà đồ tể ở Cửa Đông

huyện thành. Lúc Mi Nương về làm dâu, mẹ Giáp còn chưa chết. Người đàn

bà bó chân này ghét cay ghét đắng cô con dâu chân to, nghĩ ra chuyện quái

đản là dùng dao gọt bớt chân cho Mi Nương” [81, tr. 205]. Sau khi mẹ chồng

chết, Tôn Mi Nương mở một quán rượu ở phố bên, bán hoàng tửu và thịt chó

luộc. Nàng được khách khứa đặt cho ba biệt hiệu là: “Nàng tiên chân to”,

“Người đẹp một nửa”, “Tây Thi thịt cầy”.

Tính giai cấp của cái đẹp

Ngày nay ở Trung Quốc, tục bó chân không còn nữa. Rõ ràng quan

niệm về cái đẹp có tính thời đại và tính giai cấp.

Ở Việt Nam, trong thời quân chủ, người con gái đẹp là người có hàm

răng đen nhánh hạt huyền. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, cùng với sự ra

đời của chiếc áo dài, các cô gái tân thời, thị thành bắt đầu để răng trắng. Từ

thị thành lan đến thôn quê, dần dần tục nhuộm răng đen đi vào quá khứ.

Trong thời quân chủ, đối với tầng lớp trên, người con gái đẹp phải là người

23

yểu điệu thướt tha, da trắng tóc dài, gương mặt thanh tú, mắt sáng và hiền.

Trong thời đại ấy, người nông dân và người bình dân nói chung lại quan niệm

khác. Họ cho những người con gái quý tộc là những con người yếu đuối,

mỏng manh, gió thổi bay. Đối với họ, người phụ nữ đẹp cũng là da trắng, tóc

dài, miệng xinh, răng đen nhánh như hạt na (hạt huyền) nhưng phải tháo vát

việc nhà, việc canh cửi, đống áng hay chợ búa. Người bình dân chấp nhận cả

những người phụ nữ da không trắng, nhưng có duyên và chăm chỉ làm lụng:

“Đen da là bởi em ngồi chợ trưa” [60, tr.2371]. Trong thời đại trước, người

Việt quan niệm người phụ nữ đẹp là người phụ nữ ăn mặc kín đáo. Trong thời

đại ngày nay, trong quan niệm về người phụ nữ đẹp, người ta thích người đẹp

có tầm vóc cao lớn, chân dài hơn và người đẹp hiện nay cũng là những người

biết phô bày vẻ đẹp tự nhiên của thân thể.

1.2.2.2. Tri thức dân gian

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai là giai đoạn thế giới phục hồi kinh

tế, tiếp theo là giai đoạn tăng trưởng. Giai đoạn này là cơ sở cho sự ra đời của

học thuyết phát triển. “Các nhà phát triển đến từ các nước phương Tây, được

trang bị bằng hệ thống khoa học và kiến thức của phương Tây đến các nước

thứ ba nhằm “phát triển” các nước này và mở rộng công cuộc truyền bá và

ứng dụng tri thức khoa học. Trong công cuộc này, họ coi các nguồn kiến thức

địa phương như là những trở ngại cần phải được vượt qua để có thể đạt tới

mục tiêu của các công cuộc phát triển. Các nhà làm công tác phát triển coi

truyền thống và các giá trị truyền thống của các tộc người trên thế giới như

những gì yếu kém, lạc hậu, cần được hủy bỏ hơn là được động viên để sử

dụng” [99, tr.325]. Trên thực tế, sau nhiều năm thực hiện, các chuyên gia về

phát triển phương Tây đã thất bại. Tình trạng nghèo đói và kém phát triển

vẫn đang tiếp diễn ở Tây Phi là thí dụ tiêu biểu cho việc chỉ sử dụng hệ thống

khoa học và kiến thức phương Tây. Từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX, vai

24

trò của tri thức bản địa và vai trò của các tộc người bản địa được xem xét lại.

Theo thời gian, các chuyên gia về phát triển, những người hoạt động

trong lĩnh vực môi trường, các tổ chức phi chính phủ càng ngày càng nhận ra

rằng những hiểu biết và văn hóa của các tộc người bản địa thể hiện mối quan

hệ hài hòa thân thiện giữa con người và môi trường; mặt khác, trong không ít

trường hợp, do tác động của kinh tế thị trường, sự khai thác tự nhiên của các

tộc người bản địa lại chính là nguyên nhân dẫn đến một phần làm suy thoái

nguồn tài nguyên thiên nhiên [99, tr.328-330]. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà

nhận xét: “Sự quan tâm của Ngân hàng Thế giới (World Bank) như là một thể

chế kinh tế quyền lực toàn cầu đối với tri thức bản địa (tri thức bản địa về môi

trường) vừa là hệ quả của hai bối cảnh trên nhưng đồng thời, nó củng cố và

mở rộng phạm vi quan tâm của thế giới đối với tri thức bản địa” [99, tr.331].

Năm 1998, Ngân hàng Thế giới thiết lập Chương trình tri thức bản địa cho sự

phát triển. D.Wolfensohn, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới khẳng định: “Tri thức

bản địa là một phần không thể thiếu trong văn hóa và lịch sử của một cộng

đồng địa phương. Chúng ta cần thiết phải học hỏi từ các cộng đồng địa

phương để có thể thúc đẩy quá trình phát triển” [99, tr.332]. Chương trình vừa

nêu được tiến hành tập trung ở châu Phi nhằm mục đích giảm tỉ lệ đói nghèo

và hướng tới các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ do Ngân hàng Thế giới đề

ra.

Thuật ngữ “tri thức bản địa” (Indigenouse knowledge) được Robert

Chambers dùng lần đầu tiên trong một ấn phẩm xuất bản năm 1979. Sau đó,

thuật ngữ này được Brokensha và D.M.Warren sử dụng vào năm 1980 và tiếp

tục phát triển cho đến ngày nay [132, tr.12].

Ở nước ta, các tác giả Ngô Đức Thịnh, Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc,

Vương Xuân Tình, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh, Hoàng Cầm,

Bùi Quang Thắng, Nguyễn Thị Thu Hà, Hoàng Hữu Bình, An Văn Bảy, Cầm

25

Tú Lan, Đinh Thị Hồng Thơm, Nguyễn Thị Quý,…đã giới thiệu lý thuyết về

tri thức bản địa, đã nghiên cứu tri thức bản địa của đồng bào thiểu số trong

nông nghiệp, lâm nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, trong dưỡng sinh,

trị bệnh, trong tập quán sinh đẻ và chăm sóc trẻ em,…

Về phương diện lý luận, năm 2008, với bài viết “Tri thức bản địa” (in

trong cuốn sách 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa do Bùi Quang Thắng chủ

biên), tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đã trình bày một cách có hệ thống về tri

thức bản địa, từ các đặc điểm của tri thức này (do Roy Ellen và Holly Harris

tổng kết), đến việc tri thức này bị lãng quên, rồi được thừa nhận, từ sự vào

cuộc của Ngân hàng thế giới đến những vấn đề đang thảo luận, tranh luận

trong việc ứng xử với tri thức bản địa trong thời gian hiện nay [99, tr.321-

341]. Nếu bài viết của Nguyễn Thị Thu Hà hầu như không đề cập đến hạn chế

của tri thức bản địa thì trong phần “Các khái niệm và vai trò của kiến thức

bản địa” in trong cuốn sách Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong

nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên xuất bản năm 1998, Hoàng

Xuân Tý đã nêu ra bảy đặc điểm cơ bản của tri thức bản địa và hai hạn chế

của tri thức này. Theo tác giả, tri thức bản địa có tính địa phương rất cao nên

khó phổ cập rộng rãi cho vùng khác; nhiều tri thức bản địa ngày nay đã không

còn phù hợp với hoàn cảnh xã hội và điều kiện môi trường hiện đại [132,

tr.25]. Nếu trong tất cả các thí dụ mà Nguyễn Thị Thu Hà nêu ra không có sự

việc, con người nào trên đất Việt Nam thì đối với Hoàng Xuân Tý, bên cạnh

những thí dụ rất thú vị như kinh nghiệm của người thổ dân da đỏ Trung Mỹ

cải thiện giống khoai tây khỏi bị thoái hóa; Coca – Cola vốn là đồ uống

truyền thống của một bộ tộc của người da đỏ ở châu Mỹ, tác giả đã đề cập đến

kỹ thuật làm rẫy của đồng bào Tây Nguyên; việc hái cây thuốc của phụ nữ

Dao; tục ngữ, công cụ và cách đánh bắt thủy sản và săn bẫy chim thú của

đồng bào Thái; cam Xã Đoài của người Việt ở Nghệ An; bưởi Đoan Hùng của

26

người Việt ở Phú Thọ;…

Năm 1997, tại Hội thảo quốc tế về Văn hóa và phát triển do UNESCO

tổ chức ở Ấn Độ, tác giả Ngô Đức Thịnh trình bày báo cáo Tri thức bản địa

và sự phát triển xã hội. Theo tác giả, tri thức bản địa và tri thức dân gian

(Folk knowledge) là một, bao gồm: 1) Tri thức về tự nhiên và môi trường (kể

cả vũ trụ); 2) Tri thức về bản thân con người (cơ thể học, dưỡng sinh, chữa

bệnh,…); 3) Tri thức về sản xuất, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài

nguyên thiên nhiên; 4) Tri thức về ứng xử xã hội và quản lý cộng đồng; 5) Tri

thức về sáng tạo nghệ thuật [107, tr.3], [145]. Năm 2004, trên Tạp chí Văn

hóa dân gian, tác giả đề xuất khái niệm “thế giới quan bản địa”. Theo ông, hệ

thống tri thức bản địa hình thành, tồn tại xuất phát từ thế giới quan bản địa

[107, tr.4].

Về phạm vi của tri thức bản địa, nhìn chung giữa các tác giả có nhiều

sự gặp gỡ, song cũng có đôi chỗ khác nhau. Nếu Ngô Đức Thịnh quan niệm

tri thức bản địa bao gồm năm lĩnh vực đã nêu thì Hoàng Xuân Tý, với tư cách

là đồng chủ biên cuốn sách Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong

nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên lại “không đưa các kiến thức

văn hóa như âm nhạc, tín ngưỡng, đạo đức,… vào trong khái niệm kiến thức

bản địa” [132, tr.12]. (Xin lưu ý, đối với cùng một thuật ngữ Indigenouse

knowledge, Ngô Đức Thịnh và nhiều tác giả khác dịch là tri thức bản địa, còn

Hoàng Xuân Tý dịch là kiến thức bản địa. Vì vậy, tri thức bản địa và kiến

thức bản địa là một). Còn D.M. Warren đã dùng thuật ngữ “kiến thức về kỹ

thuật bản địa” (Indigenouse techvical knowledge) để giới hạn phạm vi của

thuật ngữ này. Theo đó, các nội dung sau thường được tác giả đề cập: 1) Kiến

thức về trồng trọt; 2) Kiến thức về chăn nuôi; 3) Kiến thức về quản lý rừng và

tài nguyên cộng đồng; 4) Kiến thức về dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng; 5)

Kiến thức về tổ chức cộng đồng và truyền thụ kinh nghiệm cho con

27

cháu[Theo 132, tr.13-14].

Dù quan niệm phạm vi của tri thức bản địa khác nhau, dù dùng thuật

ngữ khác nhau, các tác giả đều phân biệt tri thức bản địa, tri thức dân gian,

kiến thức bản địa, kiến thức truyền thống (Traditional knowledge), kiến thức

địa phương (Local knowledge), với kiến thức (tri thức) hàn lâm/kiến thức

khoa học. Đúng như Hoàng Xuân Tý đã giới thuyết, kiến thức hàn lâm

(Academic knowledge) là “những kiến thức được hình thành chủ yếu bởi các

nhà thông thái, được hệ thống hóa và truyền lại qua sách vở” [132, tr.12].

Dưới đây là sự phân biệt của các tác giả Alan, R. Emery and Associates đối

với hai loại kiến thức/tri thức đó:

Bảng 2. Phân biệt tri thức bản địa và kiến thức khoa học

Tri thức bản địa Kiến thức khoa học Lĩnh vực tri thức

1. Phạm vi

Chỉ tính tới thế tục; loại trừ siêu nhiên Phân tích hay quy giản, dựa vào các tập hợp nhỏ của cái toàn thể Được lưu giữ thông qua sách vở và máy tính

Linh thiêng và thế tục cùng đồng hành; bao gồm cả siêu nhiên Hội nhập toàn thể, dựa vào hệ thống Được lưu giữ thông qua truyền miệng và trong các thực hành văn hoá

2. Mức độ chân lý

Được coi là chân lý chủ quan Chân lý được thấy trong tự nhiên và trong niềm tin Giải thích dựa vào ví dụ, kinh nghiệm và tục ngữ Được coi là tiếp cận gần nhất đến chân lý Chân lý được tìm thấy từ sự lý giải của con người Giải thích dựa vào giả thuyết, lý thuyết và quy luật

28

Tri thức bản địa Kiến thức khoa học Lĩnh vực tri thức

3. Mục đích

Trí tuệ lâu dài Thực tế cuộc sống và tồn tại Có khả năng dự báo tốt ở địa phương (có giá trị về sinh thái) Yếu hơn trong điều kiện ở các vùng xa, khác Suy đoán ngắn hạn Trừu tượng; trải qua kiểm tra Có khả năng dự báo tốt trong điều kiện tự nhiên (có giá trị về duy lý) Yếu trong việc sử dụng kiến thức địa phương

4. Cách dạy và học

(Nguồn: trích từ Alan, R. Emery and Associates (1997)

Guidelines for Environmental Assessments and Traditional Knowledge. Dự thảo Báo cáo của Trung tâm Kiến thức bản địa của Hội đồng dân tộc bản địa thế giới, Ottawa, tr. 4-5. http://www.kivu.com/wp-content/uploads/2012/01/Preliminary- Guidelines.pdf)

Lĩnh hội mất nhiều thời gian (“kiến thức chậm”) Học thông qua cách sống, trải nghiệm và làm Dạy thông qua ví dụ, làm mẫu, tôn giáo và kể chuyện Được kiểm nghiệm thông qua các tình huống thực tế Lĩnh hội nhanh (“kiến thức nhanh”) Học thông qua giáo dục chính thức Dạy thông qua sách giáo khoa Được kiểm nghiệm giả tạo trong các kiểm tra

Qua những điều đã trình bày, trong luận án, chúng tôi xin được dùng

thuật ngữ “tri thức dân gian” với tính chất là thuật ngữ tương đương/đồng

nghĩa với các thuật ngữ “tri thức bản địa”, “tri thức truyền thống”, “tri thức

địa phương”, “kiến thức bản địa”, “kiến thức địa phương”, “kiến thức truyền

thống”,(1)… Sở dĩ như vậy là vì khi các tác giả dùng các thuật ngữ tri thức bản

địa, tri thức truyền thống, kiến thức địa phương, tri thức địa phương,… họ

(1) Riêng tác giả Osseweijer, năm 2003, cho rằng tri thức địa phương bao gồm tri thức bản địa và tri thức

ngoại sinh (theo Nguyễn Thị Thu Hà) [99, tr.338].

đều nhằm nói đến loại tri thức không phải do các nhà trí thức hệ thống hóa và

29

truyền bá qua sách vở, trường học. Đó là loại tri thức được lưu giữ thông qua

truyền miệng và các thực hành văn hóa. Tri thức dân gian cũng có những đặc

điểm như vậy. Chính vì thế, tác giả Ngô Đức Thịnh đã gọi tri thức bản địa là

tri thức dân gian mà không cần chứng minh [107, tr.3].

Tri thức dân gian là những kiến thức đa dạng về nhiều mặt của một

cộng đồng dân cư ở một vùng nhất định. Không phải tất cả mọi thành phần

trong một cộng đồng dân cư đều có tri thức dân gian như nhau. Kinh nghiệm

chọn đất trồng ngô, lúa và các dự báo thời tiết để gieo trồng nằm ở trí nhớ của

người già, hay đàn ông. Phụ nữ có hiểu biết sâu sắc hơn đàn ông rất nhiều về

hái lượm các loại rau rừng cho người và gia súc. Các thiếu niên ở độ tuổi 13-

15 biết rất nhiều loại cỏ cây mà bò và dê ưa thích. Ở đồng bào Dao, người

biết hái cây thuốc trong rừng chủ yếu lại là phụ nữ [132, tr.17-18].

Tri thức dân gian thường được tổng kết trong tục ngữ. Chính vì vậy,

người ta thường nói tục ngữ là “túi khôn” của một cộng đồng. Ngoài ra, tri

thức dân gian c ̣òn được thể hiện trong truyện ngụ ngôn. Thí dụ, câu chuyện

Đẽo cày giữa đường khuyên người ta làm việc gì phải có chủ kiến không nên

bị động hết chạy theo ý kiến người này lại nghe theo lời khuyên của người

khác cuối cùng hỏng việc. Truyện Dại như vích khuyên người ta muốn chinh

phục được đối phương thì phải nắm được quy luật hoạt động của nó. Bên

cạnh đó, thông qua các truyện dân gian khác như truyện cổ tích, truyện cười,

người ta cũng có thể gửi gắm tri thức dân gian. Trong kho tàng ca dao, đối

với những câu hát lời ca mà văn bản của chúng thuộc dạng văn bản biểu hiện

thì chúng ta ít tìm thấy tri thức dân gian. Nhưng ở những bài, những câu thuộc

loại văn bản tạo hình thì có không ít tri thức mà người xưa gửi gắm(1).

(1) Về văn bản tạo hình và văn bản biểu hiện, xin xem phụ lục 5.

Tri thức dân gian còn được thể hiện qua những kinh nghiệm, những

30

cách thức không bộc lộ thành lời. Thí dụ, sau khi sản phụ sinh nở, người ta

cho người mẹ trẻ nằm và đốt bồ kết trong phòng, ninh cháo với chân giò lợn

và đu đủ xanh để người mẹ có nhiều sữa cho con. Những tri thức này chưa

được tổng kết trong một câu tục ngữ, một lời ca nào.

1.2.2.3. Vùng và tiểu vùng văn hóa

Các nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên,

Hoàng Vinh, Huỳnh Khái Vinh,… tuy đưa ra những phương án phân vùng

văn hóa Việt Nam khác nhau, song các tác giả đều giống nhau ở chỗ vùng văn

hóa là đơn vị lớn hơn tiểu vùng văn hóa, một vùng văn hóa có thể bao gồm

nhiều tiểu vùng. Chúng tôi tiếp thu cách chia văn hóa Việt Nam thành ba

vùng: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đây là những tên gọi quen thuộc hiện

nay. Từ đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn chia nước ta thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung

Kỳ, Nam Kỳ. Trong thời gian Pháp thuộc (1884-1945), nhà cầm quyền tiếp

tục duy trì các tên gọi và cách phân chia này. Có thể nói, về cơ bản, các vùng

Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ hiện nay tương đương với Bắc Kỳ, Trung Kỳ,

Nam Kỳ trước kia.

Trong mỗi vùng, lại có thể chia thành nhiều tiểu vùng. Thí dụ, vùng

văn hóa Trung Bộ được chia thành Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và Nam

Trung Bộ. Vùng văn hóa Bắc Bộ được chia thành vùng Tây Bắc, vùng Việt

Bắc và vùng châu thổ Bắc Bộ.

1.2.2.4. Phụ nữ

Hiện nay có nhiều quan niệm về phụ nữ. Theo Wikipedia, phụ nữ hay

đàn bà là chỉ giống cái của loài người. Phụ nữ thường được dùng để chỉ

một người trưởng thành, còn con gái thường được dùng chỉ đến trẻ

gái nhỏ hay mới lớn. Bên cạnh đó từ phụ nữ, đôi khi dùng để chỉ đến một con

người giống cái, bất kể tuổi tác, như là trong nhóm từ "quyền phụ nữ".

31

[https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A5_n%E1%BB%AF#Kh.C3.A1i

_ni.E1.BB.87m, truy cập ngày 29/12/2015].

Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, xuất bản năm 2002,

phụ nữ là người lớn thuộc nữ giới.

Theo điều lệ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thì tại thời điểm

xét kết nạp, người được kết nạp vào Đoàn ít nhất ở tuổi từ 16 (từ đủ 15 tuổi +

1 ngày) [28].

Theo Luật hôn nhân và gia đình hiện nay, tuổi kết hôn của nữ là 18 tuổi

trở lên, nam 20 tuổi trở lên. Trong quan niệm dân gian, “gái thập tam, nam

thập lục” có nghĩa là con gái 13 tuổi, con trai 16 tuổi là ở tuổi dậy thì.

Từ tất cả các thông tin trên, chúng tôi xin được giới thuyết trong luận

án này: phụ nữ là người có tuổi từ 16 trở lên.

1.2.2.5. Làm đẹp

Chăm sóc sắc đẹp: Là một khái niệm để chỉ hoạt động nhằm duy trì,

tăng vẻ đẹp dựa trên những nguyên liệu, phương pháp và kỹ thuật thích hợp

được chấp nhận. Có nhiều phương pháp và kỹ thuật chăm sóc sắc đẹp khác

nhau được sử dụng. Có thể chia thành ba loại:

+ Cách làm đẹp của Đông y và Tây y (những người làm việc này được

đào tạo bài bản, có bằng cấp).

+ Cách làm đẹp của một nhóm người đặc biệt như các bà mụ, lang

vườn, thầy cúng.

+ Cách làm đẹp phổ thông do những người dân tự làm (nhuộm răng

đen (thời trước), giữ gìn răng trắng (thời nay), để và chải tóc theo thời trang,

cài hoa trên tóc, tự tỉa lông mày,…) cách làm đẹp này chiếm số lượng đông

đảo và ít tốn kém về tiền bạc. Đây có thể gọi là cách tự làm đẹp.

32

Nhu cầu tự làm đẹp xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người. Từ

những di chỉ khảo cổ học, chúng ta biết rằng người cổ xưa đã biết dùng đồ

trang sức. Trên cơ sở những cách làm đẹp phổ thông, phổ biến của dân gian,

đã hình thành nên các chuyên khoa dành cho những người có chuyên môn.

Hiện nay, tương đối khó xác định một hành vi làm đẹp thuộc loại nào. Trong

bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, người ta hoàn toàn có thể cùng một lúc sử

dụng nhiều cách khác nhau, miễn sao đạt được hiệu quả như mong ước1.

1.2.2.6. Sức khỏe và chăm sóc sức khỏe

Thông thường ta nói một người nào đó khỏe là khi họ không có bệnh

tật và họ cảm thấy thoải mái. Năm 1946, Tổ chức Sức khỏe thế giới đã định

nghĩa sức khỏe là “tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tâm thần và xã

hội chứ không phải chỉ là tình trạng không có bệnh hay tật” [92]. Định nghĩa

này nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa ba mặt thể chất, tâm thần và xã hội

của một cá nhân. Một yếu tố bị ảnh hưởng sẽ tác động đến những mặt khác và

ảnh hưởng đến sức khỏe. Từ đó ta thấy sức khỏe không phải là một tình trạng

cố định mà biến chuyển liên tục, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Một số khái niệm khác có liên quan đến sức khỏe:

- Bệnh (disease): là tình trạng tổn thương hoặc rối loạn cấu trúc, chức

năng của cơ thể hoặc cả hai, đang diễn tiến (có thể tăng hoặc giảm). Người

bệnh có thể có: (1) Triệu chứng cơ năng (symptoms) là những cảm giác khó

chịu do người bệnh cảm thấy và (2) Dấu hiệu hay triệu chứng thực thể (signs)

là những biểu hiện mà người khác có thể nhận biết được.

- Tàn tật (disability): là tình trạng tổn thương hoặc rối loạn cấu trúc,

chức năng của cơ thể hoặc cả hai, không diễn tiến hoặc diễn tiến rất chậm.

1 Ý kiến của PGS.TS. Phạm Lan Oanh trong ngày NCS bảo vệ luận án cấp cơ sở, 12/11/2015.

Nếu lấy mốc là bệnh có thể chia các hoạt động chăm sóc sức khỏe ra ba

33

lĩnh vực:

- Dự phòng/Phòng bệnh (prevention): những hoạt động chăm sóc sức

khỏe để phòng bệnh, thí dụ: rửa tay trước khi ăn, uống nước đun sôi để nguội,

ngủ màn tránh muỗi đốt... Cách chăm sóc sức khỏe bằng phòng bệnh có mục

đích làm chậm lại việc bắt đầu phát bệnh, tức là làm chậm lại quá trình lão

hóa của cơ thể.

- Điều trị (treatment): các biện pháp điều trị như uống thuốc, mổ xẻ,

hoặc đơn giản như cạo gió, xoa bóp .v.v...

- Phục hồi (rehalibitation): những biện pháp nhằm phục hồi chức năng

sau khi bị bệnh, bị tật, ví dụ dinh dưỡng tốt sau khi bị cơn bệnh cấp tính, tập

thở cho người bị viêm mũi, màng phổi đã chữa trị, tập cho trẻ bại liệt đi lại

v.v...

Tuy nhiên cách phân chia này còn phiến diện vì con người ta không chỉ

đơn thuần nghĩ đến việc phòng/chữa bệnh mà còn muốn thực hiện các hoạt

động để được khỏe hơn. Cho nên gần đây người ta còn đề cập đến khái

niệm nâng cao sức khỏe (health promotion) với hàm ý là những hoạt động

giúp tăng cường sức khỏe chứ không chỉ để phòng ngừa bệnh [15].

1.3. Tổng quan về Bắc Bộ và châu thổ Bắc Bộ

1.3.1. Bắc Bộ trong sự so sánh với Trung Bộ và Nam Bộ

Bắc Bộ bao gồm vùng Tây Bắc, vùng Việt Bắc và vùng châu thổ Bắc

Bộ.

So với Trung Bộ và Nam Bộ, Bắc Bộ là nơi người Việt tụ cư sớm hơn

cả và đông hơn cả. Trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, người Việt cổ đã biết

khai thác đất đai, làm ruộng nước, cấy lúa theo hai vụ chiêm, mùa, bên cạnh

các hình thức kinh tế đánh bắt và làm nương rẫy. Không gian cư trú của người

Bắc Bộ thời trước nằm trọn trong không gian cư trú của người Việt cổ thời kì

34

văn hóa Đông Sơn (khoảng 7-8 thế kỉ trước Công nguyên cho đến đầu Công

nguyên).

Người Việt ở Bắc Bộ là dân tộc đa số. Theo thời gian, bên cạnh các tộc

người đa số và thiểu số bản địa, còn có các dân tộc khác đến đây vì nhiều lý

do khác nhau. Hiện nay, ngoài người Việt (Kinh), còn có các dân tộc Tày,

Nùng, Mường, Thái, H’mông, Dao, Cống, La Chí, Xinh Mun, Mảng, Khơ

Mú, Giáy, Bố Y, Sán Chay, Cơ Lao, Pa Thẻn,…

Về đặc điểm tự nhiên, lịch sử và kinh tế xã hội, Bắc Bộ khác hẳn vùng

văn hóa Trung Bộ. Theo nhà địa lý học Lê Bá Thảo, bắt đầu từ Bắc Thanh

Hóa đến Nam Phan Thiết, dài hơn 1500km, hơn ba phần tư lãnh thổ là đồi núi

[97, tr.385]. Việc đi lại ở các tỉnh miền Trung tương đối khó khăn. Phần chính

của đồng bằng Thanh Hóa được bồi đắp bởi phù sa của sông Mã và sông Chu.

Nhưng độ mầu mỡ của đồng bằng Thanh Hóa kém hẳn đồng bằng Bắc Bộ.

Không chỉ phù sa có độ phì nhiêu kém mà những dải đất ven biển Trung Bộ

còn pha trộn trầm tích, có không ít đất mặn và đất cát. Đồng bằng Nghệ Tĩnh

do nhiều mảnh đồng bằng nhỏ hợp lại, đất đai không được phì nhiêu bằng các

đồng bằng ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Ở đồng bằng Nam Trung Bộ diện tích

không đáng kể lại có nhiều cồn cát trắng. Đến Khánh Hòa, núi đã tiếp giáp

với biển. Do vậy, các hoạt động sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do

thiếu nước tưới [97].

Hiện nay, có nhiều cách xác định địa giới bắt đầu của Trung Bộ. Nếu

theo quan niệm của tác giả Nguyễn Chí Bền, tính Trung Bộ là từ Quảng Bình

vào đến Bình Thuận thì vùng đất Trung Bộ từ thế kỉ thứ X cho đến thế kỉ XV

còn thuộc vương quốc Chămpa [dẫn theo 66, tr.666-667]. Hiện nay, ở Trung

Bộ, bên cạnh cư dân Việt, còn có người Thái, Mường, Chăm, Raglai, Bru–

Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Êđê, Cơ Ho, … Ở Trung Bộ trước đây, sản xuất

nông nghiệp không cho năng suất cao và sản lượng lớn. Nghề đánh cá và đi

35

rừng phát triển. Người Việt đến đây đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn hóa

Chăm như kỹ thuật đóng thuyền, nghề đi biển, nghề làm nước mắm. Chính vì

vậy, bên cạnh lễ hội đình của cư dân nông nghiệp còn có tín ngưỡng thờ cá

ông của các làng đánh cá. Người Việt ở Trung Bộ có các tín ngưỡng, lễ hội

mà người Việt ở Bắc Bộ không có. Đó là lễ cúng đất ở Khánh Hòa, lễ tá thổ ở

Phú Yên. So với các làng Việt ở Bắc Bộ, làng Việt ở miền Trung kém về bề

dày lịch sử, cư dân thưa thớt hơn và từ Quảng Bình trở vào không hề có cổng

làng.

Nam Bộ là vùng đất mới, do người Việt, người Hoa, người Khơme và

một số dân tộc thiểu số khác chung sức khai phá và xây dựng, có bề dày

chừng hơn 300 năm. Sau thời kì khai phá, khoảng một thế kỉ nay, Nam Bộ là

vùng đất trù phú, thiên nhiên ưu đãi con người. Ở Nam Bộ, yếu tố núi nhạt

nhòa hơn yếu tố đồng bằng và biển cả, sông rạch. Làng Việt ở Nam Bộ có

phần khác so với làng Việt ở Bắc Bộ. Ở vùng đất mới, dân làng ở rải rác

không hợp nhau thành xóm, chung quanh làng không có lũy tre xanh. Làng

Nam Bộ thường rộng lớn hơn làng Bắc Bộ, chia thành nhiều ấp. Các quan hệ

dòng họ, phe giáp không chặt chẽ và không phong phú như ở làng Việt Bắc

Bộ. Tính cố kết, cộng đồng của người Việt ở Nam Bộ cũng mạnh mẽ, sâu sắc

nhưng chủ yếu được hun đúc từ sự đồng cảm của những người xa quê, được

xây dựng trong quá trình chinh phục vùng đất mới. Ở người Việt vùng Nam

Bộ cũng như ở các dân tộc thiểu số khác (trừ người Hoa), dấu ấn Nho giáo có

phần nhạt nhòa hơn.

1.3.2. Tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ

1.3.2.1. Đặc điểm tự nhiên

Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt. Đây là cái nôi hình

thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn

hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống.

36

Bắc Bộ là một khu vực rộng lớn bao chứa châu thổ Bắc Bộ, trong châu

thổ Bắc Bộ có đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay, các nhà nghiên cứu chưa thống

nhất về ranh giới phía Nam của Bắc Bộ. Đa số ý kiến cho rằng Bắc Bộ bao

gồm đến Ninh Bình. Một số ý kiến cho rằng Bắc Bộ đến Thanh Hóa. Riêng

tác giả Nguyễn Chí Bền thì cho rằng Bắc Bộ bao gồm cả Nghệ An và Hà

Tĩnh[66].

Trong luận án này, khi nói đến Bắc Bộ, chúng tôi quan niệm phía Nam

của nó được tính hết tỉnh Ninh Bình, không bao gồm Thanh Hóa, Nghệ An và

Hà Tĩnh. Trong Bắc Bộ chúng tôi chú ý đến một số tỉnh, thành phố ở khu vực

châu thổ Bắc Bộ gồm Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh,

Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nội.

Về vị trí địa lí, vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao

lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam. Chính vị trí địa lí

này đã tạo điều kiện cho cư dân thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn

hóa nhân loại.

Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng

hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam.

Mặt khác, khí hậu vùng châu thổ Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng

bằng khác. Khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh

vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm.

Về môi trường nước, châu thổ Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá

dày, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình. Chính yếu tố

nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử

cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn

minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc

đáo của mình.

37

1.3.2.2. Đặc điểm văn hóa

Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế cũng là nơi sinh ra các

nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Tiền Đại

Việt, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt

lan truyền vào Trung Bộ rồi đến Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ

sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người

dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc

trưng chung của văn hóa Việt và có cả những nét riêng của vùng này.

Văn hóa vật chất

+ Sản xuất

Cư dân ở châu thổ Bắc Bộ phần lớn là cư dân sống với nghề trồng lúa

nước, làm nông nghiệp là chủ yếu. Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông

ngòi, mương máng nên người dân chú trọng khai thác thủy sản. Tận dụng ao,

hồ đầm để nuôi thả, khai thác thủy sản là một phương cách được người nông

dân rất quan tâm.

Phương thức canh tác chính của cư dân châu thổ Bắc Bộ là trồng lúa

nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực). Tuy nhiên, cùng với

cây lúa, ở Bắc Bộ còn nhiều loại cây khác phù hợp với chất đất từng nơi và

khí hậu từng mùa.

Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để

tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm

thêm nghề thủ công. Ở châu thổ sông Hồng, trước đây, người ta đã từng biết

đến hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp

với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử

phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng.v.v…

+ Ẩm thực

38

Người Việt ăn cơm là chính, sau cơm là rau, cá là thành phần thứ ba

với số lượng không nhiều. Cá ở đây chủ yếu là cá nước ngọt, còn cá biển

thường được sử dụng ở các làng ven biển. Tuy rằng người ta vẫn có thể đem

các loại hải sản đến bán ở các vùng sâu trong nội địa nhưng chỉ trừ các dịp

đặc biệt như giỗ tết hoặc có khách, còn người Việt với bản tính cần kiệm, ít

khi bỏ tiền ra mua thức ăn. Cá nước ngọt là loại cá đồng do họ tự đánh bắt.

Chỉ vào dịp giỗ tết, hội làng họ mới ăn thịt lợn, thịt gà... Bởi thế tục ngữ có

câu: “Thịt cá hương hoa, tương cà gia bản”. Các gia vị có tính chất cay, chua

đắng, vốn quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ và hiếm khi có mặt hoặc

nếu có chỉ chiếm một số lượng rất ít trong bữa ăn của người Bắc Bộ.

+ Trang phục

Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên, người Việt rất sợ sự trần truồng [dẫn

theo 64, tr.150]. Việc mặc của họ trước hết nhằm che kín cơ thể, thể hiện sự

phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện làm việc. Vào mùa nóng, đàn ông

thường đóng khố hoặc mặc quần cộc, cởi trần. Khi đi làm, họ mặc chiếc quần

lá tọa, áo cánh màu nâu sồng. Phụ nữ thường mặc váy thâm, áo nâu khi đi

làm. Vào dịp hội hè, lễ tết, phụ nữ mặc áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông mặc

quần trắng, áo dài the, chít khăn đen [142, tr.198]. Nhìn chung, màu nâu là

màu ưa chuộng ở Bắc Bộ như nhà thơ Nguyễn Đình Thi diễn tả:

“Mặt người vất vả in sâu

Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn.”

Trong bộ trang phục cổ truyền của người Việt Bắc Bộ, còn có các loại

thắt lưng (thắt lưng dải, thắt lưng bao hay ruột tượng), các loại guốc, dép,

giày, các loại khăn đội (khăn vấn tóc, phủ tóc), các loại nón (nón chóp, nón

thúng, nón ba tầm, nón quai thao, nón bài thơ....). Chiếc nón của người Việt

thực hiện nhiều chức năng: khi đội đầu thì để che mưa, nắng; ở ngoài đồng

39

lúc nghỉ ngơi thì ngả ra ngồi hay dùng thay quạt, lúc khát thì lấy nón thay gầu

vục nước uống, khi đi chợ có thể dùng nón để làm đồ đựng hoa quả, quà

bánh.v.v...

Vào thời Lê xuất hiện nhiều loại nón. Đàn ông và phụ nữ thôn quê đội

nón xuân nôi tiểu (tục gọi là nón sọ nhỏ). Ngoài ra còn có các loại nón liên

diệp (tục gọi là nón lá sen). Người già đội nón tam giang. Về cơ bản, trong

trang phục, người Việt ưa thoáng mát, lấy ăn chắc mặc bền làm trọng; nhưng

cũng chú ý đến cái đẹp: “Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân”[62, tr.2005];

“hơn nhau tấm áo manh quần” [61, tr.1377]… Để phối hợp với cái đẹp trong

đồ mặc, người phụ nữ Việt dùng nhiều cách trang điểm cơ thể như nhuộm

răng đen, ăn trầu để làm đỏ môi, hồng má. Những biện pháp này chúng tôi xin

được trình bày chi tiết ở chương sau.v.v…

+ Cư trú

Trong hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã từ chỗ sợ hãi tiến đến

hòa điệu, lựa theo thiên nhiên, tạo nên một diện mạo châu thổ như ngày nay,

bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê, làm đường, đào ao, vượt thổ. Biết bao

cây số đê được tạo dựng dọc các triền sông thuộc hệ thống sông Hồng và

sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái

Bình là kết quả của sự nhận thức về tự nhiên và lao động lâu dài của người

Việt. Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa châu thổ Bắc Bộ

và văn hóa các vùng khác trong cả nước chính được tạo ra từ sự thích nghi

với thiên nhiên này. Người dân Bắc Bộ thường làm nhà quay về hướng nam,

có những bộ cột kèo liên hoàn vững chắc để chống gió bão. Mái nhà lợp

tranh, lợp rạ khá dày để có thể mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Trước hoặc

sau nhà thường có ao để nuôi cá, để thả bèo nuôi lợn. Chiếc ao này đồng thời

cũng là chiếc điều hòa trong mùa hè nóng; có nhà ngăn riêng ra một phần để

làm chỗ nhốt trâu/bò, một phần để cối xay thóc, cối giã gạo. Có nhà làm riêng

40

ngôi nhà nhỏ chỉ để làm chỗ nhốt trâu bò và chăn nuôi lợn gà. Ngoài ngôi nhà

chính để ở còn có bếp. Trong bếp, người ta dành một phần không gian để đun

nấu, một phần chứa rơm rạ, than củi. Trong thời kỳ quân chủ độc lập (từ thế

kỷ X đến cuối thế kỷ XIX) rất hiếm có những nhà dân lợp ngói. Cho đến cuối

thế kỷ XVIII, theo sự ghi chép của Lê Quý Đôn, huyện đường vẫn là nhà gỗ

lợp tranh.

Người nông dân Bắc Bộ dù sống trong gia đình hai thế hệ hoặc nhiều

hơn thì bao giờ nhà ở của họ cũng có ao và vườn. Ao để thả cá, thả rau, để có

nguồn nước giặt giũ. Vườn để trồng một vài cây ăn quả và rau. Nhiều loại rau

ngoài chức năng là nguồn thực phẩm còn có chức năng là nguồn dược liệu.

Một ít ngải cứu, dăm khóm gừng, vài vạt rau thơm… tất cả những cái đó là

những vị thuốc nam trong nhà.

Văn hoá xã hội

Gia đình người Việt là gia đình phụ hệ. Có nhiều loại gia đình: loại hai

thế hệ, loại từ ba thế hệ trở lên. Trong hai loại này, loại gia đình hai thế hệ là

phổ biến. Ngoài quan hệ gia đình, người Việt còn có quan hệ họ hàng.

Nông dân Bắc Bộ sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở,

tế bào sống của xã hội Việt. Sự gắn bó giữa con người và con người trong

cộng đồng làng quê, được quy định bởi huyết thống, bởi việc sở hữu ruộng

đất, bởi cùng có chung đình làng, chùa làng bởi sự tuân theo các chuẩn mực

xã hội, đạo đức. Những điều này được ghi nhận trong hương ước, khoán ước

của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt

chẽ về mọi phương diện của làng, từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy

định về sản xuất và bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý

thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể

phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính

những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo nên những đặc điểm

41

riêng của tiểu vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ [142].

Văn hóa tinh thần

Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười

đến truyện trạng, mỗi thể loại đều mang nét riêng của Bắc Bộ, chẳng hạn ở

Bắc Bộ có truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn sử dụng các hình thức câu đố, câu

đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng khác. Ca dao châu

thổ Bắc Bộ trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam Bộ. Các thể loại thuộc nghệ

thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét. Đó

là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo, múa rối,…

Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ.

Các tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu,

thờ các ông tổ nghề… có mặt trên hầu khắp các làng quê Bắc Bộ. Các tín

ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người và tồn tại trong lễ hội – một ra

thành lễ hội mùa xuân, một ra thành lễ hội mùa thu. Dù thuộc loại nào, khởi

nguyên, các lễ hội ấy đều là các hội làng của cư dân nông nghiệp, nói khác đi

là các lễ hội nông nghiệp. Tiến trình lịch sử đã lắng đọng ở đây những lớp văn

hóa, khiến cho trên lát cắt đồng đại, khó nhận ra gương mặt ban đầu của lễ

hội nông nghiệp. Tuy nhiên, những trò diễn trong các lễ hội vẫn gợi lại các

nghi lễ nông nghiệp. Chẳng hạn như các lễ thức thờ Mẹ lúa, Cầu mùa, thờ

Thần mặt trời, các trò diễn mang tính chất phồn thực như múa gà phủ, múa

các vật biểu trưng âm vật, dương vật… Chính vì vậy mà lễ hội ở châu thổ Bắc

Bộ có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ khá nhiều các sinh

hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Nói tới văn hóa ở châu thổ

Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ

dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu

thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu... có mặt ở hầu khắp

các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước

42

mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố

Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng.v.v…[142,

tr.198].

Nói tới tiểu vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ là nói tới một tiểu vùng mà

quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra lâu dài hơn cả và với nội dung phong phú

hơn cả.

Việc tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ trên địa bàn châu thổ Bắc Bộ

có những nét riêng do vị thế địa - văn hóa, địa - chính trị của nó quyết định.

Thời thuộc Pháp, châu thổ Bắc Bộ cũng là một trong những vùng chịu ảnh

hưởng văn hóa phương Tây đậm nét. Có thể đơn cử sự tiếp nhận Phật giáo

của cư dân Việt Bắc Bộ. Là một tôn giáo sinh ra ở Ấn Độ, vào châu thổ Bắc

Bộ, Phật giáo đã chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã bản

địa hóa thành Phật giáo dân gian. Sự phát triển của Phật giáo ở châu thổ Bắc

Bộ, vì thế sẽ khác với Phật giáo ở Nam Bộ. Đồng thời với đặc điểm có quá

trình tiếp biến văn hóa lâu dài và phong phú hơn cả, Bắc Bộ còn là cội nguồn

văn hóa của các vùng Trung Bộ, Nam Bộ và từ vùng đất cội nguồn này, văn

hóa Việt phát triển ở mọi vùng khác [142, tr.200-201].

1.3.2.3. Những biến đổi liên quan đến nhu cầu chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp

của người phụ nữ ở tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ

Biến đổi do đô thị hóa, công nghiệp hóa

Tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ là nơi tập trung công nghiệp lớn thứ hai ở

nước ta. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp trong vùng hiện nay khá cao, nhất là

ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã làm cho không gian công nghiệp, giao

thông và đô thị vùng có sự thay đổi rất lớn so với trước. Châu thổ Bắc Bộ có

mật độ đô thị dày đặc nhất cả nước. Tính trung bình cứ 12km lại gặp một đô

thị. Đây cũng là một trong những vùng có nhiều khu công nghiệp nhất cả

43

nước (chiếm khoảng 25% cả nước). Các khu công nghiệp này đều được xây

dựng trên đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác lúa nước khiến cho quỹ đất

nông nghiệp của vùng bị thu hẹp rất nhanh chóng. Vì vậy, tiểu vùng châu thổ

Bắc Bộ có có tỷ lệ đất chuyên dùng và đất thổ cư cao nhất trong cơ cấu sử

dụng đất, trong khi đó bình quân đất nông nghiệp trên đầu người lại thấp nhất

cả nước. Các điểm dân cư đô thị, các trung tâm công nghiệp còn là nguồn chủ

yếu tạo ra các chất gây ô nhiễm. Không chỉ có môi trường cảnh quan bị biến

đổi sâu sắc mà ngay cả chất lượng môi trường sống của người dân ở đây cũng

bị ảnh hưởng, nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng. Môi trường đất bị ô nhiễm

kim loại nặng. Các sông hồ nội thị vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ đã bị ô

nhiễm ở mức báo động, do là nơi tiếp nhận nước thải chưa được xử lý, với

nồng độ các chất ô nhiễm gấp 5 - 10 lần, thậm chí 20 lần so với tiêu chuẩn

cho phép. Một số khu công nghiệp bị ô nhiễm khí SO2. Các khu Thượng Đình

(Hà Nội), dệt Nam Định có nồng độ SO2 vượt tiêu chuẩn cho phép 3 - 4 lần.

Một số khu công nghiệp thải nhiều khí SO2 đã gây ra hiện tượng lắng đọng a

xít cục bộ, làm môi trường đất chung quanh bị a xít hóa. Chất thải a xít và khí

SO2 của nhà máy supe phốt phát Lâm Thao (Phú Thọ) đã làm cho đất ở xung

quanh bị axit hóa (ptt = 1,9-3,5).

Trong những năm qua, các khu công nghiệp tập trung trong vùng là

nhân tố động lực đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã

hội của vùng, biến vùng thuần nông thành vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao, phổ biến trên 10%/năm… Tuy nhiên, bên cạnh những

kết quả đó, các khu công nghiệp tập trung của vùng đã làm cho môi trường

sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Là vùng đất chật, người đông nên các

khu công nghiệp phát triển làm cho đất nông nghiệp bị giảm dần, mật độ dân

số ngày càng cao; trong khi đó các yếu tố có lợi cho môi trường sinh thái như

nguồn nước sạch, thảm thực vật, cây xanh giảm dần. Các yếu tố gây ô nhiễm

44

môi trường như bụi, nước thải công nghiệp, rác công nghiệp, từ các khu công

nghiệp, từ các bệnh viện, trường học đều tăng. Sự gia tăng ô nhiễm này diễn

ra hết sức phổ biến tại các thành phố lớn, điển hình phải kể đến Hà Nội và

một số khu đô thị lớn khác.

Cùng với việc thành lập và phát triển các khu công nghiệp mới, các

làng nghề ở khu vực này vẫn được coi trọng duy trì và phát triển. Bên cạnh

mặt tích cực là giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, hoạt

động sản xuất tại các làng nghề đã tác động xấu tới môi trường sống, cảnh

quan nông thôn, và tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề ngày càng trầm

trọng. Giống như sự đa dạng của các loại nguyên liệu sản xuất, các chất thải

từ hoạt động của các làng nghề cũng hết sức phong phú như bụi, khí độc, cặn

bã, nước thải... Hầu hết các chất thải của các làng nghề không qua xử lý mà

thải trực tiếp ra các mương, rãnh, ao, hồ xung quanh, mùi hôi thối nồng nặc;

không khí của các lò đốt bằng than từ các làng nghề với các khí thải độc, chất

thải rắn, rác thải sinh hoạt đổ bừa bãi ra các ao hồ, mương rãnh gần khu sản

xuất đã làm cho môi trường khu vực ô nhiễm trầm trọng.

Một trong những nguồn gây ô nhiễm chính cho châu thổ Bắc Bộ không

thể không nhắc đến các phương tiện giao thông vận tải, đặc biệt là ở các đô

thị. Hiện nay, phương tiện công cộng chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của

nhân dân. Vì vậy, người dân sử dụng các phương tiện cá nhân nhiều như xe

máy, trong đó có nhiều phương tiện giá rẻ, nhập từ các nơi có chất lượng

thấp, chưa đạt tiêu chuẩn về lượng khí thải ra môi trường. Nhiều nơi ùn tắc

giao thông, khói bụi kéo dài càng làm gia tăng ô nhiễm do giao thông đem lại.

Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã rút ngắn khoảng cách địa lý

giữa nông thôn và đô thị, thậm chí ngay ở vùng nông thôn cũng có khu công

nghiệp, có nhà máy. Tác động tích cực của quá trình này là làm tăng trưởng

kinh tế của tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ, tạo công ăn việc làm mới cho người

45

nông dân. Hiện nay, ở nông thôn châu thổ khá hiếm thanh niên nam và những

người đàn ông khoảng 45 tuổi trở xuống. Số người này theo học đại học hoặc

các trường đào tạo nghề, đi làm nghề tự do ở Hà Nội và nhiều khu đô thị

khác. Hiện tượng hiếm nam giới ở nông thôn đến mức trong những ngày hội

làng truyền thống, ở tỉnh Hà Nam, có nơi những người phụ nữ đã phải đảm

nhiệm những việc mà trước đây chỉ có nam giới thực hiện (múa rồng); đến

mức phường rối nước làng Đông Các (Thái Bình) muốn tổ chức biểu diễn

phải gọi trai làng đang làm nghề tự do ở Hà Nội về. Công cuộc công nghiệp

hóa cũng tạo cho một bộ phận nữ giới ở nông thôn trở thành công nhân.

Ngoài ra, không ít chị em lên thành phố làm nghề giúp việc trong các gia

đình, làm nghề chăm sóc bệnh nhân ở các bệnh viện,… Những điều vừa nêu

làm cho người phụ nữ tự tin hơn, tháo vát hơn, chú ý hơn đến việc làm đẹp và

chăm sóc sức khỏe. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa được tiến hành quá

nóng, thiếu kiểm soát làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng không tốt đến sức

khỏe của dân cư, trong đó có phụ nữ. Mặt trái của cuộc sống đô thị và kinh tế

thị trường đã làm phai mờ lối sống tình nghĩa của một bộ phận dân cư, trong

đó có phụ nữ, thậm chí nhiều lúc, nhiều nơi, mặt trái này còn là nguyên nhân

của những hành vi phi nhân tính như sản xuất, chế biến, bán thuốc giả, rượu

giả, lương thực, rau quả, đồ ăn độc hại cho đồng bào, cho chính cộng đồng

người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng và lâu dài

đến sức khỏe của phụ nữ nói riêng, của cư dân Việt nói chung. Kinh tế phát

triển làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, trong đó những người nông dân

thu nhập chủ yếu bằng nghề trồng lúa có mức sống thấp nhất, nghĩa là những

người phụ nữ thuộc bộ phận này không có điều kiện về tài chính và có rất ít

thời gian để chăm sóc sức khỏe và làm đẹp.

46

Biến đổi do sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông và giao lưu

hội nhập quốc tế

Trong khoảng chục năm trở lại đây, công tác truyền thông và số người

sử dụng internet ở Việt Nam phát triển rất mạnh. Theo báo cáo trả lời chất

vấn của Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông tại kỳ họp thứ sáu của Quốc

hội khóa XII, cả nước có 709 cơ quan báo chí. Theo báo cáo Tình hình phát

triển lĩnh vực báo chí năm 2014 của Bộ Thông tin và truyền thông, cả nước

có 838 cơ quan báo chí in với 1111 ấn phẩm báo chí. Cũng theo Bộ vừa nêu,

năm 2015, cả nước có 857 cơ quan báo chí in (theo infonet.vn). Theo Trung

tâm Internet Việt Nam (VNNIC), năm 2005 có 7,74% dân số sử dụng

internet, năm 2006: 17,67%, năm 2007: 21,05%, năm 2008: 24,40%, năm

2009: 26,55%, năm 2010: 31,11%, năm 2011: 35,07%, năm 2012: 35,58%;

đến hết năm 2015 là 52% dân số. So với nhiều nơi khác trong cả nước, cư dân

châu thổ Bắc Bộ là những người đọc báo và sử dụng internet nhiều hơn cả.

Giao lưu, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Cách đây hai chục năm,

những người nông dân ở châu thổ Bắc Bộ đã cưỡi máy bay sang châu Âu biểu

diễn múa rối nước. Càng ngày càng phát triển số lượng người dân (trong đó có

phụ nữ) tham gia các tua du lịch quốc tế. Nhiều phụ nữ Việt Nam đi lao động ở

nước ngoài. Khách du lịch nước ngoài đến nước ta, phim ảnh nước ngoài đã

quảng bá lối sống, thời trang quốc tế, tôn vinh các ca sĩ tài năng, sắc đẹp của

các hoa hậu. Trong ngày hội làng truyền thống, những người phụ nữ xã Ninh

Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội đã tổ chức khiêu vũ; thời gian đầu, những vai

nam khiêu vũ do phụ nữ hóa trang đóng thế. Điều này cho thấy có khi người

phụ nữ châu thổ Bắc Bộ đã mạnh dạn tiếp thu văn minh nước ngoài hơn cả

nam giới. Chính việc giao lưu, hội nhập quốc tế đã làm cho phụ nữ nước ta,

trong đó có phụ nữ châu thổ Bắc Bộ ngày càng quan tâm đến việc làm đẹp và

chăm sóc sức khỏe; và trong bộ phận này, đối với việc này, những người phụ

nữ ở đô thị vẫn có điều kiện hơn.

47

Tiểu kết chương 1

Chăm sóc sức khỏe và làm đẹp là những việc không xa lạ với phụ nữ

nước ta nói chung, phụ nữ châu thổ Bắc Bộ nói riêng. Tuy nhiên, cho đến

nay, các công trình viết về quan niệm dân gian về sắc đẹp không nhiều, chỉ

tập trung ở hai bản luận văn cao học của Lê Thị Nguyệt và Nguyễn Thị Thúy

Loan. Không hiếm những cuốn sách viết về việc làm đẹp da, giữ dáng, giữ

gìn sức khỏe, nhưng ở đây các tác giả ít khai thác kinh nghiệm dân gian.

Trong quá trình thực hiện đề tài luận án, chúng tôi vận dụng lý luận về tri

thức dân gian, về cái đẹp, về vùng văn hóa, về sinh thái học văn hóa. Trong

nhiều cách phân chia các vùng văn hóa Việt Nam, có cách phân thành ba

vùng: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Trong luận án, NCS theo cách phân vùng

này. Chúng tôi chọn cách hiểu Bắc Bộ là vùng bao gồm từ các tỉnh biên giới

phía Bắc đến hết tỉnh Ninh Bình. Phần lãnh thổ này nằm trọn trong không

gian văn hóa Đông Sơn; trong khi đó chỉ có một phần lãnh thổ của vùng

Trung Bộ hiện nay là các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình

nằm trong lãnh thổ của cư dân Đông Sơn. Điều đó có nghĩa là so với Trung

Bộ và Nam Bộ, Bắc Bộ là nơi tụ cư sớm nhất của người Việt cổ, cũng là nơi

có lịch sử lâu dài hơn cả. Dân tộc chủ thể chiếm đa số ở Bắc Bộ là người Việt.

Bên cạnh đó, còn có nhiều tộc người thiểu số như Tày, Nùng, Thái, Mường,

Dao, H’mông, Cống, Sán Chay,… Trong Bắc Bộ, lại chia thành ba tiểu vùng:

Tây Bắc, Việt Bắc và châu thổ Bắc Bộ. Tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ có khí hậu

nắng lắm mưa nhiều, đất đai phì nhiêu, thuận tiện cho việc trồng lúa nước.

Người Việt đã sớm định cư ở đây và họ không chỉ giỏi nghề trồng lúa mà còn

tài khéo tay trong nhiều nghề thủ công. Nơi đây sớm tiếp thu các luồng văn

hóa bên ngoài, sau đó lan tỏa đến các nơi khác. Người phụ nữ châu thổ Bắc

Bộ đảm đang, chiều chồng, thương con. Trong mấy chục năm gần đây, do tác

48

động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, cảnh quan truyền thống của

châu thổ Bắc Bộ thay đổi nhiều, ruộng đất canh tác bị thu hẹp, thu nhập chỉ

bằng nghề trồng lúa không đem lại cho người nông dân mức sống tốt; nhiều

hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện: mua đông có những đợt lạnh khủng

khiếp, mùa hè có nhiều đợt nắng nóng trên 400C kéo dài. Mức sống thấp, môi

trường bị ô nhiễm, thời tiết cực đoan đã làm cho không ít phụ nữ ở nông thôn

bị ảnh hưởng sức khỏe và ít có điều kiện làm đẹp; trong khi đó phụ nữ ở đô

thị có thu nhập cao ngày càng chú ý giữ gìn, rèn luyện sức khỏe và ngày càng

chú ý đến việc làm đẹp nhiều hơn. Tác động của thông tin, truyền thông, phim

ảnh và sự giao lưu, hội nhập quốc tế mạnh mẽ cũng là nhân tố thúc đẩy việc

chăm sóc sức khỏe và làm đẹp ở bộ phận phụ nữ có thu nhập cao.

49

CHƯƠNG 2

TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SẮC ĐẸP CỦA

NGƯỜI PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY

2.1. Những quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ

2.1.1. Quan niệm dân gian về vẻ đẹp của người phụ nữ

2.1.1.1. Quan niệm dân gian Việt về vẻ đẹp của người phụ nữ

Các tác giả dân gian quan niệm vẻ đẹp của người phụ nữ là vẻ đẹp tổng

thể, đó là những người xinh, những người thắt đáy lưng ong, có dáng hình cân

đối không cao, không béo, không gầy. Trong vẻ đẹp tổng thể, một số bộ phận

được tác giả ca dao khắc họa nhiều lần. Về tóc, có nhiều bài ca dao diễn tả

mái tóc đẹp:

+ Ba cô anh lạ cả ba

Bốn cô anh lạ cả bốn biết là quen ai?

Anh chỉ quen một cô da trắng tóc dài

Miệng cười như cánh hoa nhài nở nang.[59, tr.210]

+ Chân mày vòng nguyệt có duyên

Tóc mây dợn sóng đẹp duyên tơ hồng.[59, tr.477]

+ Chị kia bới tóc đuôi gà

Nắm đuôi giật lại hỏi nhà chị đâu

- Nhà tôi ở trước đám dâu

Ở sau đám bắp, đầu cầu ngó qua.[59, tr.497]

Tóc dài, tóc xanh, tóc mây gợn sóng là mái tóc đẹp. Mái tóc ấy còn

50

được tô điểm thêm khi người phụ nữ cài bông hoa lý. Nói chung, tóc của phụ

nữ thường dài hơn tóc nam giới (Chúng ta biết rằng cho đến những năm đầu

thế kỉ XX, người đàn ông Việt vẫn để tóc dài: “Búi tóc củ hành, đàn anh thiên

hạ”). Mái tóc của cô thanh nữ đã làm biết bao chàng trai ngơ ngẩn:

Tóc đến lưng vừa chừng em bối (búi)

Để chi dài bối rối dạ anh [60, tr.2289].

Mái tóc không chỉ thể hiện vẻ đẹp mà còn thể hiện sức sống, thể hiện

niềm vui trần thế của những người phụ nữ trẻ. Vì chán đời, vì tình thế ép buộc

khi vào nương náu cửa thiền, họ đã cắt tóc. Tóm lại, mái tóc đẹp là một bộ

phận trong vẻ đẹp chung của con người.

Đôi mắt cũng được nhắc nhiều. Với người phụ nữ Việt, mắt đẹp là mắt

đen lay láy, mắt lóng lánh, mắt phượng, mắt xanh, mắt bồ câu, mắt lúng liếng,

mắt trong,… Thí dụ:

+ Gái thời da đỏ hồng hào

Mắt đen lay láy người nào chẳng yêu [59, tr.58].

+ Hoa thơm hoa ở trên cây

Đôi con mắt em lúng liếng dạ anh say lừ đừ [59, tr.1202].

Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt còn được thể hiện ở đôi má: má đào, má

đỏ, má hồng.

Hàm răng cũng được xem là một trong những biểu tượng của cái đẹp.

Tục nhuộm răng đen là một phong tục đặc thù xưa kia của người Việt đối với

cả đàn ông và đàn bà, cả quan lại và dân thường. Đối với giới nữ, người nào

sở hữu hàm răng đen nhánh thì người ấy được xem là cô gái đẹp, thậm chí đó

là một trong những tiêu chuẩn để lập gia đình:

51

Lấy chồng cho xứng tấm chồng,

Bõ công trang điểm má hồng răng đen[59, tr.1382].

Những bộ phận khác như miệng, mũi, môi, tai, cổ, vai, cổ tay, chân tay,

mông cũng đều được ca dao, tục ngữ ghi nhận.

Người phụ nữ đẹp cũng là người phụ nữ biết cách ăn mặc phù hợp.

Chiếc yếm, chiếc váy, áo tứ thân, thắt lưng, nón, nhẫn vàng xuất hiện nhiều

lần trong ca dao.

Các bộ phận thường được miêu tả trong một tổng thể về người phụ nữ:

+ Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua

Năm thương cổ yếm đeo bùa,

Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng

Bảy thương nết ở khôn ngoan

Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh

Chín thương cô ở một mình

Mười thương con mắt có tình với ai [59, tr.1544-1545].

+ Em đi khắp bốn phương trời

Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây

Gặp người má đỏ hây hây

Răng đen rưng rức, tóc mây rườm rà…[59, tr.1028].

Trong hai bài ca vừa dẫn, bài dưới là bài dân ca quan họ Bắc Ninh. Các

52

nghệ nhân xưa bao giờ cũng lịch sự nhún nhường bên nam xưng là em và gọi

những người bên nữ là “liền chị”, còn bên nữ thì cũng xưng là em và gọi bên

nam là “liền anh”. Người dân xưa quan niệm rằng, cái đẹp không tách rời giá

trị đạo đức, người phụ nữ đẹp phải là người phụ nữ biết nữ công gia chánh,

chuyên cần lao động, sống có đạo đức:

+ Tóc dài những búi mà trưa

Ham chi người đẹp mà thưa việc làm [60, tr.2288].

+ Tóc dài thì tóc rụng đi

Tham người có nghĩa tham chi tóc dài [60, tr.2288].

+ Tóc dài thì tốn tiền chanh

Nào ai bán tóc nuôi anh bao giờ [60, tr.2289].

Khi cần thiết, người phụ nữ đã hy sinh cả cái đẹp vì tình yêu và bổn

phận đối với chồng. Mái tóc của họ quý giá như vậy, nhưng dân ta đã kể rằng,

ở một nhà kia, khi bạn của chồng đến nhà, không có tiền đãi khách, người vợ

đã bán mái tóc của mình để cho chồng có thể thù tiếp bạn tri âm.

Không chỉ có người Việt, các dân tộc thiểu số trên đất nước ta cũng có

quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ. Người Dáy khen người phụ nữ đẹp

như trăng mười rằm. Còn người Cao Lan thì ví cô thanh nữ là bông hoa đẹp.

Người Mường cũng ví người thiếu nữ như bông hoa: “Trăm hoa không bằng

hoa con gái, trăm thứ trái chẳng bằng trái bông cơm” [35, tr.213]. Người

H’mông cũng ví người con gái đẹp với bông hoa, cũng ghi nhận vẻ đẹp của

đôi mắt, đôi má, ngón tay, chiếc váy dệt bằng sợi lanh. Người Dáy khắc họa

dáng người, vẻ mặt, nước da trắng, mái tóc mượt xanh của người phụ nữ.

Người Tày vùng Ba Bể quan niệm: “Ngựa đẹp không cần hồng mao, gái đẹp

không cần khoe vẫn đẹp” [144, tr.220]. Đối với người Thái, người phụ nữ đẹp

và có hậu là người cổ tròn có ngấn, bàn chân khum khum mai rùa; người nào

53

bước chân đi quá dài, trán hói, sống mũi khum khum, xương bả vai mỏng hay

hơi rụt là những người vất vả trong cuộc sống, trong đường chồng con. Họ

cho rằng, người con gái có thì, khi dựng vợ gả chồng phải đúng độ tuổi. [26].

Người Mường cũng có nhiều câu tục ngữ khẳng định tầm quan trọng cái thì

của người con gái [35, tr.187]. Hai tộc người Tày Nùng có câu: “Người xấu

mặc áo đẹp cũng ố, người đẹp mắc áo rách cũng xinh” [1, tr.937]. Cái nhìn

của người Tày Nùng thật là hóm hỉnh: “Gạo ban đêm thấy trắng, gái ban đêm

thấy đẹp” [1, tr.940]. Người Chăm có nhiều câu nói về người đẹp: “Thùy mị

như công chúa đẹp gái” [1, tr.942], nói về dáng người đẹp, nói về sự cần thiết

của phụ nữ đối với đàn ông: “Bữa ăn không có rau, như ngủ đêm không có

đàn bà” [80, tr.179]. So với nhiều dân tộc khác, người Chăm “không ít lần

thành kiến với phụ nữ đẹp:

+ Quá yêu thì trượt chân (sai)

Đàn bà đẹp thì lắm chồng.

+ Chó ham ăn thì cho cơm

Chọn gái đừng ham sắc đẹp.

+ Rào bội bạc dây

Đàn bà đẹp hay bội bạc chồng [80, tr.20, 38, 180]1.

Nhìn chung quan niệm của người Việt và các dân tộc thiểu số về người

phụ nữ đẹp giống nhau về cơ bản. Điểm khác nhau là ở người Việt thì quan

niệm ấy phong phú hơn, đề cập đến nhiều khía cạnh, sắc thái hơn; và có chịu

1 Người Chăm không cư trú ở Bắc Bộ, song chúng tôi cũng phân tích hiện tượng trên để thấy rõ nét riêng của

các dân tộc trong quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ.

ảnh hưởng Nho giáo (điều này chúng tôi sẽ xin phân tích kĩ ở chương 4).

54

2.1.2. Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ từ góc độ y học/sinh học

Theo một nghiên cứu về di truyền học của tác giả Nguyễn Văn

Tuấn[129], ngoài vẻ đẹp của khuôn mặt ra, đường nét cấu trúc của cơ thể

cũng là một thông số quan trọng để thẩm định sắc đẹp của người phụ nữ. Tác

giả chỉ dẫn ở phương Tây ngày xưa, người ta thường hay dùng tỉ số eo/mông

(waist-to-hip ratio) để đánh giá tính hấp dẫn của một phụ nữ. Theo các nhà

tâm lí học cổ điển, người phụ nữ nào có cái tỉ số eo/mông vào khoảng 0,7 là

một người đẹp lí tưởng. Các nghiên cứu trong vòng ba thập niên gần đây cho

thấy tỉ số eo/mông này có liên quan tới hai hormone nam tính là testosterone

và hormone nữ tính là estrogen. Phụ nữ có tỉ số eo/mông cao thường là những

người có độ testosterone cao hơn và độ oestrogen thấp hơn. Phụ nữ có tỉ số

eo/mông thấp thường là những người có sức khỏe tốt hơn và sinh sản dễ dàng

hơn các phụ nữ có tỉ số cao, tức là độ nữ tính cao hơn.

Tác giả Nguyễn Văn Tuấn dẫn kết quả nghiên cứu của một nhóm tác

giả ở Anh và nhận xét rằng vòng eo/mông không phải là một tỉ số chính xác

về sắc đẹp và kết luận rằng tỉ số chính xác hơn là mật độ trọng lượng trên một

mét vuông của cơ thể (còn gọi là body mass index hay BMI). BMI được ước

tính bằng cách lấy trọng lượng (kg) chia cho chiều cao bình phương (m2).

Nhóm nghiên cứu này đã phân tích mối tương quan giữa tính hấp dẫn (gọi là

sexual attractiveness hay SA) và BMI của 44 phụ nữ. Dựa vào dữ kiện của

họ, các tác giả đã tìm ra một phương trình liên quan giữa sắc đẹp (SA) và

BMI như sau:

SA = 4,022 x BMI – 0,162 x BMI2 + 0,002 x BMI3 – 26,6

(Chú ý phương trình này chỉ thích hợp cho BMI khoảng 15 tới

35kg/m2.) Nếu lấy đạo hàm phương trình này để tìm ra điểm đẹp tối đa, thì

BMI vào khoảng 19 tới 20kg/cm2. Con số này đúng ngay vào con số trung

bình! (Thực ra, về mặt sức khỏe, đây cũng là độ BMI lí tưởng, vì theo định

55

nghĩa y khoa hiện nay, người có BMI hơn 25kg/cm2 được xem là “phì” -

over-weight, và hơn 30kg/cm2 được xem là “béo” - obese).

Ở góc độ di truyền học, các tác giả phương Tây đưa ra công thức và

những tiêu chuẩn nói trên về vẻ đẹp của người phụ nữ châu Âu. So với phụ

nữ Việt Nam, vẻ đẹp “phụ nữ thắt đáy lưng ong” có sự tương đồng. Tác giả

Nguyễn Văn Tuấn đã dẫn các chỉ số cơ thể trong cuộc thi sắc đẹp ở Việt

Nam có tên “Người mẫu thời trang Hà Nội mở rộng 99”, có 22 thí sinh tuổi từ

17 tới 22. Ban tổ chức công bố các thông số quan trọng như chiều cao, trọng

lượng, vòng eo, ngực và mông của các thí sinh. Qua các thông số này, tác giả

đã làm một phân tích và nhận thấy chỉ số trung bình BMI của các thí sinh này

là 17,6kg/m2, vòng ngực 83,1mm, vòng eo 60,5mm, mông 90,2mm, tỉ số

eo/ngực 0,72 và tỉ số eo/mông 0,67.

Người đoạt giải nhất trong cuộc thi này là một thí sinh có tỷ số BMI

17,6 kg/m2, eo/mông 0,66 và eo/ngực 0,72. Người chiếm giải nhì là một thí

sinh với BMI 17,9 kg/m2, eo/mông 0,67 và eo/ngực 0,72. Các quan sát ở cả

tiêu chuẩn người đẹp ở phương Tây và ở Việt Nam cho thấy dù có sự khác

nhau về tiêu chuẩn BMI nhưng đặc tính “trung bình” vẫn là công thức chung

để tìm kiếm những người phụ nữ đẹp trong các cuộc thi.

Cũng cần nói thêm ở đây rằng có nhiều (chứ không phải chỉ một) đặc

tính trung bình làm nên cái đẹp. Do đó, có người đẹp đáp ứng được tiêu chuẩn

trung bình về BMI, nhưng lại không có chỉ số eo/mông trung bình, hay ngược

lại, ít có cơ hội được bầu làm hoa hậu hơn những người có nhiều chỉ số trung

bình. Nhưng tìm được người đẹp trung bình không phải là chuyện dễ. Giả dụ

như trong toàn bộ dân số, xác suất mà một người đẹp có chỉ số trung bình cho

một đặc tính nào đó (như BMI chẳng hạn) là 0,15 (hay 15%); nếu ta dùng 10

đặc tính để thẩm định sắc đẹp, thì xác suất mà tìm được một người đẹp (có 10

chỉ số trung bình) là 0,00000000577, tức là trong một tỉ người, chỉ tìm được

56

khoảng 6 người đẹp toàn diện.

Trong bài viết Định giá cái đẹp: không dễ, tác giả Mai Văn Hưng qua

tiếp cận nhân trắc học (đo các khu vực trên cơ thể con người như vòng eo,

mông, ngực, bụng....) để khẳng định một phụ nữ đẹp. Từ việc sử dụng các

phép đo nhân trắc học của người Ai Cập, tác giả cho rằng “phụ nữ được coi là

đẹp và quyến rũ là người có các chỉ số đo và tỷ lệ giữa các chỉ số đo này ở

mức lý tưởng nhất, gọi là “chỉ số vàng”. Tuy nhiên, “chỉ số vàng” không phụ

thuộc vào một kích thước nào cả mà lệ thuộc nhiều vào tỷ lệ giữa các số đo

[49, tr.65]. Ngoài các chỉ số về hình thể tổng quát, để xác định một phụ nữ

đẹp còn căn cứ vào một số chỉ số nhân trắc học khác như hình thái răng, vòng

cung răng, độ dài và hình thái ngón tay, màu sắc của mắt, vị trí, kích thước

của hai ngực, kích thước của rốn, tỷ lệ giữa độ dài đầu so với chiều dài toàn

thân. Theo Mai Văn Hưng, màu mắt của phụ nữ Việt Nam thường chỉ có đen

và nâu, màu đen được xem là đẹp hơn. Về cơ bản, người phụ nữ Việt Nam

đều đạt các tiêu chuẩn so với khu vực Đông Á, tuy nhiên, chiều cao còn thấp

so với phụ nữ khu vực này [49].

Ở một góc độ nghiên cứu tổng hợp, tác giả Sujatha Sebastian (2002)

đưa ra nhận định từ các quan niệm trong dân gian (xã hội) và góc độ sinh học

về vẻ đẹp con người nói chung và phụ nữ nói riêng có thể thấy rằng, vẻ đẹp

có thể được xác định bởi cả hai góc độ sinh học và xã hội. Các tiêu chuẩn cho

vẻ đẹp phát triển và biến đổi theo thời gian. Trong khi định nghĩa về cái đẹp

của xã hội có thể thay đổi nhưng luôn có một cơ sở sinh học đằng sau quyết

định sức hấp dẫn (các chỉ số trên cơ thể). Ví dụ da trắng có nghĩa là nhìn vào

mối quan hệ giữa sinh học và xã hội, đặc biệt ở các quốc gia Đông Nam Á, ở

các quốc gia này xem da trắng như một tiêu chuẩn quan trọng. Làm thế nào

chúng ta có thể phân biệt giữa ảnh hưởng của xã hội là gì và ảnh hưởng của

sinh học liên quan đến định nghĩa về cái đẹp là những gì thì không có một câu

57

trả lời rõ ràng [147].

2.1.3. Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ hiện nay

Ở phần trên chúng tôi đã đề cập về quan niệm về vẻ đẹp và cách thức

làm đẹp của phụ nữ Việt truyền thống qua các nguồn tư liệu nghiên cứu văn

học, nghệ thuật và y học đều cho thấy tầm quan trọng cũng như giá trị của vẻ

đẹp đối với người phụ nữ trong xã hội. Điều này được thể hiện khá rõ ở các

tiêu chuẩn thế nào là đẹp đối với người phụ nữ ở nhiều phương diện khác

nhau, đôi khi được phát biểu một cách rõ ràng như mái tóc, hàm răng, mắt,

da, vóc dáng, các bộ phận trên cơ thể hay kín đáo hơn qua nét duyên, phong

thái, qua ứng xử, cách cười nói.

Dù ở giai đoạn lịch sử nào thì những quan niệm về vẻ đẹp của người

phụ nữ vẫn tồn tại khá bền vững, thể hiện đặc trưng văn hóa dân tộc Việt, có

sự khác biệt so với các quốc gia khác, cho dù có những thay đổi nhất định,

chẳng hạn như tục để răng đen cho đến nay hầu như không còn. Nếu như

trong xã hội truyền thống, người phụ nữ làm đẹp là hướng nhiều hơn vào sự

khẳng định sức hấp dẫn của người phụ nữ trước người chồng, thì trong xã hội

hiện nay, việc làm đẹp của phụ nữ đã có những thay đổi theo hướng rộng hơn

do những đòi hỏi của xã hội hiện đại. Trong xã hội hiện đại, tốc độ vận động

của cuộc sống ngày càng được đẩy nhanh, đòi hỏi con người phải tích lũy

được nhiều kỹ năng ứng xử, nhất là kỹ năng sống với các phương diện cụ thể:

kỹ năng giao tiếp, kỹ năng học tập, kỹ năng làm việc, kỹ năng chăm sóc nuôi

dạy con cái, kỹ năng nội trợ, kỹ năng làm đẹp, kỹ năng quản lý và đồng thời

cũng rất cần quan tâm đến kỹ năng làm mẹ, làm vợ, vì đây chính là bí quyết

để làm nên hạnh phúc gia đình. Có được các kỹ năng sống, người phụ nữ mới

không cảm thấy lúng túng khi đóng vai trò kép: vừa giỏi việc nước vừa đảm

việc nhà, làm tốt chức năng nội tướng và nuôi dạy con cái thành đạt. Bên

cạnh đó, trong mọi thời đại, sức khỏe và vẻ đẹp luôn là những thành tố quan

58

trọng làm nên giá trị của mỗi con người. Do đó, trong thời đại ngày nay, để

làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ trong gia đình, người lao động,

làm việc ngoài xã hội, người phụ nữ cần phải có sức khỏe tốt. Trước hết là

cần một thể lực tốt để đảm nhiệm công việc, cần một tinh thần luôn sảng

khoái để giữ được bầu không khí đầm ấm, tươi vui, thân thiện trong gia đình,

nơi làm việc. Sức khỏe tốt còn giúp cho người phụ nữ luôn tự tin, trẻ trung,

xinh đẹp, góp phần giữ gìn hạnh phúc của cá nhân, gia đình và xã hội. Không

chỉ vậy, người phụ nữ ngày càng quan tâm hơn đến giá trị của bản thân, điều

này tốt cho gia đình và cho xã hội, đặc biệt là trong công việc, ngoại giao.

Những phẩm chất toàn diện đặt ra đối với người phụ nữ Việt hiện đại

cho thấy quan niệm xưa thể hiện trong các câu tục ngữ như “cái nết đánh chết

cái đẹp” [61, tr.360] hoặc “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” [62, tr.2664] trong giai

đoạn hiện nay cần được bàn thêm. Rõ ràng, theo quan niệm ngày xưa, hai câu

nói trên đặt sắc đẹp bên ngoài của phụ nữ thấp hơn so với tiêu chuẩn về cái

đẹp tâm hồn, đạo đức. Tuy nhiên, đấy là trong bối cảnh phải so sánh và lựa

chọn khi không có sự toàn diện đẹp người, đẹp nết. Ngày nay, các quan niệm

trên vẫn đúng và mang tính giáo dục cho thế hệ trẻ với ý nghĩa coi trọng

phẩm giá con người hơn hình thức bề ngoài. Hơn nữa, với những quan niệm

như vậy giúp cho những người phụ nữ trẻ trau dồi, chăm sóc vẻ đẹp tâm hồn,

qua đó tôn thêm vẻ đẹp hình thức lên nhiều lần. Một người phụ nữ có vẻ đẹp

tâm hồn rất dễ dàng cảm nhận bởi những người xung quanh thông qua giao

tiếp, cử chỉ, ứng xử và các hành động trong cuộc sống. Chính vì lẽ đó, phải

chăng sau các cuộc thi người đẹp hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới, các

hoạt động làm từ thiện, bảo vệ môi trường, chăm sóc, giúp đỡ những người

gặp hoàn cảnh khó khăn của các người đẹp như là một cách thức để tôn thêm

vẻ đẹp hình thể.

Một số tiêu chuẩn đối với những thí sinh trong các cuộc thi sắc đẹp

59

hiện nay tập trung ở hai điểm: vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tinh thần [5].

- Về vẻ đẹp hình thể, các tiêu chuẩn bao gồm: chiều cao, số đo các

vòng, cặp đùi, số đo vòng cổ tay, chân, và một số tiêu chuẩn khác khó “lượng

hóa” nhưng vẫn ảnh hưởng lớn như khuôn mặt, làn da, dáng chân...

+ Chiều cao: là một tiêu chuẩn nhưng không nhất thiết người phụ nữ

càng cao càng đẹp. Chiều cao hoa hậu của một dân tộc thường tương ứng với

chiều cao trung bình trở lên của dân tộc đó. Thí dụ, chiều cao trung bình của

người Việt Nam khoảng 1m58 - 1m60 thì các cô gái từ 1m60 trở lên đều có

thể đạt danh hiệu hoa hậu Việt Nam. Những thí sinh cao đến 1m80 vẫn có thể

đạt hoa hậu nếu được nhiều điểm ở các tiêu chí khác.

+ Số đo các vòng: vòng số 1 trung bình phải bằng 1/2 chiều cao. Các

thí sinh có vòng số 1 bằng 1/2 chiều cao cộng 2 thường được tối đa là 10/10

điểm (nếu không sửa hoặc chảy xệ). Dưới hoặc trên tiêu chuẩn này 2cm trở đi

đều bị trừ một số điểm nhất định. Vòng eo (vòng số 2) được đo ở chỗ nhỏ

nhất của bụng trên xương chậu. Vòng eo được coi là đẹp khi nhỏ hơn vòng

ngực khoảng 20cm và nhỏ hơn vòng mông khoảng 24cm. Khi tỉ lệ vòng eo/

vòng mông tương đương 0,618 được coi lý tưởng – tỷ lệ vàng. Đây là tỷ lệ

thân hình của người đẹp nổi tiếng mọi thời đại như Marilyn Monroe và thần

Vệ Nữ. Vòng eo của thí sinh nào gần với tiêu chuẩn này và gần với “con số

vàng” nhất thì được điểm tối đa. Vòng cổ không dùng để tính điểm nhưng

dùng để kiểm tra vòng eo. Vòng eo thường bằng 2 lần vòng cổ (đo ở giữa cổ

thường sai lệch không quá 1cm). Vòng mông (vòng số 3) được đo ở nơi lớn

nhất của mông. Vòng mông tiêu chuẩn thường lớn hơn vòng ngực 4cm, nghĩa

là lớn hơn vòng eo khoảng 24cm. Tất nhiên mông được coi là đẹp cần phải có

nhiều yếu tố như phải nở nang, tròn đầy, cân đối, săn chắc nhưng không thô

cứng, mềm mại nhưng không chảy xệ và cần phải cân xứng với toàn bộ cơ

thể. Vòng đùi nên nhỏ hơn 1/3 chiều cao. Ngoài ra, đôi chân càng dài càng

60

đẹp. Tỷ lệ chiều dài chân chia cho chiều dài thân gọi là chỉ số Skelie, càng lớn

càng đẹp. Skelie được tính bằng cách lấy chiều cao đứng trừ đi chiều cao ngồi

rồi chia cho chiều ngồi và nhân 100. Những cô gái có Skelie càng cao thì có

dáng đi càng đẹp khi trình diễn thời trang. Vì vậy khi tuyển chọn người mẫu,

người ta phải chú trọng đến Skelie.

+ Các tiêu chuẩn khác: Khuôn mặt thường lấy mặt trái xoan làm chuẩn

cùng sự cân đối của tai, mắt, mũi, miệng, răng, tóc… Đôi chân phải thẳng,

với dáng đi uyển chuyển nhịp nhàng. Làn da là làn da tươi mịn, không tì vết.

Về nét đẹp tinh thần được đánh giá qua vòng ứng xử, thể hiện qua các

hoạt động xã hội cũng như sự bình chọn, đánh giá của dư luận xã hội về cuộc

sống, quan hệ, ứng xử của các thí sinh.

Cái đẹp nói chung và vẻ đẹp của người phụ nữ nói riêng là đối tượng

của nhiều ngành khoa học như mỹ học, văn hóa học, nghệ thuật học, y học,

nhân học... và được nhắc đến nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật, văn

chương. Từ góc nhìn của nhân học văn hóa, chúng ta nhấn mạnh chức năng,

vai trò của giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ đối với cá nhân và xã hội, trên cơ

sở đó nhìn nhận các hành vi, ứng xử đối với cái đẹp và cách làm đẹp.

Xem xét sự biến đổi về quan niệm đẹp và làm đẹp của phụ nữ Việt từ

truyền thống đến hiện đại, chúng tôi thấy một điểm chung là cái đẹp cơ bản

vẫn tồn tại như một giá trị lâu dài, vĩnh cửu mà người phụ nữ Việt hướng đến.

Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt truyền thống mang tính chất ước

lệ, thể hiện rất rõ trong các tư liệu dân gian (ca dao, tục ngữ, tác phẩm hội

họa...). So với xã hội Việt truyền thống thì cách nhìn nhận như thế nào là đẹp

và cách thức làm đẹp trong xã hội hiện đại có sự thay đổi nhất định. Xã hội

hiện đại dễ chấp nhận sự khác biệt trong các giá trị, chuẩn mực về vẻ đẹp của

người phụ nữ. Sự biến đổi trong quan niệm về đẹp và làm đẹp chịu ảnh hưởng

của những biến đổi xã hội, khoa học kỹ thuật và sự hội nhập, giao lưu văn

61

hóa. Quan niệm làm đẹp của phụ nữ hiện nay tương đối đa dạng và phức tạp.

Do vậy, cần có những nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực này để xây dựng và

phát huy những giá trị thẩm mỹ tích cực, định hướng đúng cho giới, tránh

những biểu hiện cực đoan, làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc.

2.2. Thực tế làm đẹp của phụ nữ Việt Nam hiện nay

2.2.1. Xu hướng chăm sóc sắc đẹp

Về xu hướng quan tâm đến làm đẹp của phụ nữ, qua khảo sát cho thấy

chiếm tỷ lệ cao nhất (82,5%) quan tâm đến chăm sóc da, tiếp đến là 66,8%

chăm sóc tóc, 57,5% chăm sóc dáng, rồi đến chăm sóc răng miệng (40,7%)…

Bảng 3: Xu hướng quan tâm đến hoạt động chăm sóc sắc đẹp

Loại hình chăm sóc sắc đẹp Tỷ lệ (%)

Chăm sóc da 82,5

Chăm sóc tóc 66,8

Chăm sóc vóc dáng, phẫu thuật 57,5

Vật lý trị liệu, xoa bóp bấm huyệt 26,6

Tắm lá, hoa, trái 43,6

Chăm sóc răng miệng 40,7

Khác 1,4

(Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2013)

Khi xét theo giới tính, có sự khác biệt giữa phụ nữ ở nông thôn với

thành thị. Nếu 75% phụ nữ ở thành thị quan tâm đến dáng thì tỷ lệ này ở nông

thôn là 25%. Cả hai nhóm phụ nữ ở thành thị và nông thôn đều quan tâm đến

chăm sóc tóc và da có tỷ lệ tương đương nhau, sau đó là đến răng/miệng.

Điều này cho thấy quan niệm về “nhất dáng, nhì da” và “cái răng, cái tóc là

góc con người” vẫn còn phù hợp. Đây vừa là quan niệm về vẻ đẹp của người

phụ nữ vừa là lý do để họ có những xu hướng chăm sóc sắc đẹp cho mình.

62

Về làn da, quan niệm làn da trắng là đẹp vẫn là quan niệm phổ biến của

phụ nữ Việt ngày nay. Thậm chí ngày nay, đẳng cấp của một người phụ nữ

hiện đại không chỉ được thể hiện qua những bộ trang phục đắt tiền hay một

vóc dáng cân đối, mà nó còn được thể hiện qua làn da mà họ sở hữu. Thật

vậy, làn da trắng luôn luôn là sức hút không bao giờ lỗi thời đối với phái nữ.

Một làn da trắng đẹp mịn màng tự nhiên làm cho người phụ nữ gây ấn

tượng giữa đám đông. Không chỉ vậy, nó còn góp phần làm nổi bật màu sắc

của bộ trang phục mà người phụ nữ đang mặc. Có một làn da trắng người phụ

nữ sẽ thấy mình tỏa sáng, có sự khác biệt, tự tin hơn về bản thân, thể hiện

trong trắng, thánh thiện, thuần khiết, khiêm nhường và tốt tính.

Kết quả khảo sát cho thấy, có đến 95% phụ nữ được hỏi mong muốn có

làn da “trắng”, chỉ có 3% cho rằng không nhất thiết phải “trắng” nhưng miễn

là khỏe. Nhà xã hội học Shyon Baumann nhận định: “Nghiên cứu đã chứng tỏ

khiếu thẩm mỹ của chúng ta cũng phản ứng cả lựa chọn về mặt đạo đức”.

“Trong các nền văn hóa, chúng ta đặt ra các tiêu chuẩn về ngoại hình và cách

cư xử mà mỗi phụ nữ cần có. Nước da trắng hay đen đều gắn liền với họ, nên

chúng ta cũng thầm coi nó liên quan đến tư cách đạo đức của người phụ nữ”.

Đây chính là kết quả của một khảo nghiệm khi nghiên cứu hơn 2000 bức ảnh

quảng cáo dựa trên các đặc điểm được coi là hấp dẫn với đàn ông. Trong

những bức ảnh, những cô gái có nước da sẫm nhất thì thường ăn mặc hở hang

nhất hoặc hầu như khỏa thân. Còn những người đẹp có nước da trắng thì ăn

mặc kín đáo hơn và được coi là thân thiện, vui vẻ và trung thực. Vì lẽ đó,

người ta nhận xét rằng, nước da trắng hay đen có mối liên quan giữa vẻ đẹp

và phẩm chất đạo đức. Nhìn chung, da trắng ở phái yếu được ưa thích hơn cả,

bởi nó thể hiện sự đoan trang và phẩm hạnh - những đặc điểm cần có của giới

nữ [140].

Qua các thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu với các phụ nữ thì phần lớn

63

những phụ nữ khi được hỏi cho rằng, phụ nữ có làn da trắng hơn thì họ sẽ có

cơ hội tốt hơn trong việc tìm kiếm việc làm và bạn đời.

Thực tế cho thấy truyền thống khu vực Đông Nam Á cũng tăng áp lực

đối với phụ nữ khi lý tưởng hóa hình ảnh của phái đẹp với làn da trắng hơn.

Cũng có quan niệm rằng da trắng chứng tỏ địa vị xã hội cao hơn vì họ trông

sạch sẽ hơn và giàu có hơn so với những người làm việc trên cánh đồng vốn

có làn da vàng của chủng tộc. Sự rám nắng do lao động nông nghiệp làm cho

làn da người phụ nữ đen hơn, nhìn lam lũ vất vả hơn, nghèo khổ hơn. Phần

đông phụ nữ Việt Nam luôn khao khát sở hữu được làn da trắng hồng, khỏe

mạnh. Vì vậy, mỗi sản phẩm làm đẹp trên thị trường hướng đến việc làm cho

làn da trắng hơn đều được phụ nữ để mắt tới. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy

hiện nay trên thị trường có đủ loại quảng cáo các loại kem và công nghệ làm

trắng da cho phụ nữ. Các bà mẹ thường có cái nhìn ưu ái đối với những người

con gái có làn da trắng, đặc biệt cách đánh giá của người mẹ chồng đối với

nàng dâu.

Khi được hỏi về thói quen và mong muốn làm trắng da của phụ nữ,

phái nam đều khẳng định rằng điều này bắt nguồn từ truyền thống và gu thẩm

mỹ từ xưa tới nay, phụ nữ có làn da trắng hơn sẽ hấp dẫn hơn với họ.

Thực vậy, trong xã hội Việt Nam ngày trước, dân gian rất chú ý tới làn

da của người phụ nữ, đặc biệt là làn da trắng như là một chuẩn mực của người

phụ nữ đẹp:

+ Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em liếc như là dao cau [59, tr.700].

+ Nước trong ai chẳng rửa chân

Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn [60, tr.1833].

Về mái tóc, người xưa quan niệm, người phụ nữ đẹp phải có mái tóc

64

dài, đen, mượt và khỏe.

Mái tóc của người phụ nữ Bắc Bộ thường để dài, rẽ cân đối sang hai

bên với đường ngôi chính giữa, buộc lại sát đầu bên cạnh rồi bọc trong một

cái khăn hẹp mà dài để quấn một vòng quanh đầu. Đuôi tóc được vấn bên

cạnh để thừa ra một túm phía trên gọi là “đuôi gà”.

Tuy các triều đại phong kiến không có quy định cụ thể nhưng tóc của

vợ con quan lại thường kiểu cách hơn tóc của phụ nữ thường dân chân lấm

tay bùn. Với phụ nữ thường dân, kiểu tóc được chia làm hai loại rõ rệt. Các cô

gái trẻ thường vấn “tóc đuôi gà”. Tóc được vấn bằng vải để hở phần đuôi, sau

đó vấn quanh đầu và cài bằng ghim tre (nhà khá giả thì dùng ghim sừng), để

lộ ra cái đuôi tóc, trông nghịch ngợm và khỏe khoắn. Với phụ nữ có gia đình,

họ vấn hết tóc bằng vải, nếu ai tóc thưa thì độn thêm con lươn (nhồi bông hay

vải vụn bên trong), quấn quanh đầu sau đó trùm thêm khăn vuông màu đen và

buộc ra phía sau. Những kiểu tóc như vậy kéo dài từ thế kỷ này qua thế kỷ

khác.

“Bỏ tóc đuôi gà” là cách nói của người xưa trong lối trang điểm bộ tóc

của phụ nữ đã trưởng thành. Muốn “bỏ tóc đuôi gà” thì phải vấn khăn, nghĩa

là bọc mớ tóc của mình trong vải, hoặc sang trọng là nhung the rồi quấn

quanh đầu một cách ngay ngắn. Phần đuôi tóc lộ ra ngoài làm sao khi vấn

khéo léo để nó tạo thành một “cầu vồng” uốn cong lên mà không bị buông

thõng xuống. Như vậy, người phụ nữ đã tạo được hình tượng cái đuôi gà trên

mái tóc của mình làm nên vẻ thanh tao. Tiếng “bỏ” ở đây không hiểu theo

nghĩa là “bỏ đi” mà là “bỏ xuống”, một cách nói nhằm nhấn mạnh đến vẻ tự

nhiên của mái tóc.

Nhưng muốn “bỏ đuôi gà” thì trước hết phải có mái tóc khoẻ, tức là tóc

phải mượt và dài hơn độ cuốn vòng trên đầu. Với những người tóc ngắn và

thưa, các bà, các chị dùng một cái lõi bằng vải nhồi bông dài như một con

65

lươn để độn và nối thêm bằng một lụn tóc giả nhưng phải cuốn thật khéo để

cái “đuôi gà” lộ vẻ như tự nhiên (tóc thật). Đây thực sự là một nghệ thuật.

Khi đi ra ngoài, để giữ cho tóc khỏi sổ người ta thường trùm một cái

khăn vuông, vừa là để che nắng vừa chống rét. Người bình dân thường trùm

khăn đen, phía trước trán gập nhọn giống như mỏ con chim nên được gọi là

“khăn mỏ quạ”.

Có thể nói cách vấn tóc thành một vòng tròn trên đầu là kiểu để tóc phổ

biến của người Hà Nội. Nó từ từ kết thúc và mất đi hẳn sau những năm 50 của

thế kỷ XX.

Bên cạnh mái “tóc đuôi gà” của phụ nữ miền Bắc thì phụ nữ miền

Trung và miền Nam - đại diện là các cô gái xứ Huế lại thích mái tóc dài, bồng

bềnh để xõa tự do. Tóc phủ xuống bờ vai, xuống lưng người, xuống bờ mông

và có khi hơn thế, có những người tóc còn rũ xuống gót chân. Tóc được kẹp

lại bằng một kẹp nhỏ ở ngang vai hoặc lưng, còn phía dưới thì để tự do. Tóc

càng dài, càng đen, càng đẹp.

Khi người con gái gội đầu, mái tóc dài xõa ra đầy chậu thau đồng,

chiếc gáy nõn nà thường ngày được mái tóc che kín được lộ ra trở thành một

nét đẹp quyến rũ của người con gái. Gội đầu xong, cô gái nắm lấy chân tóc,

quay mái tóc mấy vòng, tạo ra cơn mưa nhỏ, hòa quyện cùng hương thơm của

lá chanh, hoa hồng, bồ kết... Mái tóc đó vừa ẩn chứa sự thuỳ mị, duyên dáng,

lại vừa thể hiện được sự tươi sáng, trẻ trung, dễ mến, dễ gần ở người thiếu nữ

độ tuổi trăng tròn. Hình ảnh đẹp đó là tiêu chuẩn về cái đẹp của người con gái

kéo dài nhiều thế kỷ.

Ngoài ra, người phụ nữ Việt Nam xưa với mái tóc dài ưa thích, tóc còn

được tết ở phía sau thành các kiểu khác nhau. Trong đó phổ biến hơn là kiểu

tóc tết hình đuôi sam, du nhập của người Trung Hoa từ thế kỷ XVII.

66

Với kiểu này, tóc người phụ nữ phải được để dài, càng dài càng tốt, tóc

phải dày, đen, mượt thì tết tóc đuôi sam sẽ rất đẹp. Mái tóc được chia thành

ba lọn tóc nhỏ đều nhau. Sau đó các lọn tóc được tết chéo lại với nhau, lọn nọ

bắt chéo lên lọn kia. Đến tận cuối của mái tóc thì lúc này các lọn tóc được búi

chung với nhau bởi một cái kẹp hay một dây buộc tóc nhỏ để lại phía dưới

một búi tóc nhỏ, có thể dài hai ngắn tùy theo sở thích của từng người. Vì kiểu

để tóc này đã làm xuất hiện các mẫu buộc tóc khác nhau để trang điểm thêm

cho mái tóc của người phụ nữ. Và nhiều buộc tóc hoa văn đã ra đời và phát

triển. Tất nhiên mái tóc ở phía trước vẫn được chải gọn gàng với đường ngôi

ở chính giữa thể hiện sự đoan trang của người phụ nữ.

Bên cạnh các kiểu tóc khác nhau của mái tóc dài đặc trưng, người phụ

nữ Việt Nam thời xưa còn chú ý đến một thành phần khá qua trọng của mái

tóc nữa, đó là tóc mai hay tóc thề. Tóc thề vốn là một vài sợi tóc ngắn phất

phơ hai bên trán và vành tai. Tóc thề có đặc điểm mỏng, thưa, phất phơ hai

bên, che lấy má, cổ, vành tai người phụ nữ vì thế nó có mang một ý nghĩa gợi

cảm riêng. Thường thì tóc thề không cần phải kiểu cách hay trang điểm gì

thêm, bởi vì bản thân nó đã rất mềm mại và duyên dáng nên phụ nữ xưa cũng

rất để ý đến đặc điểm này của nó.

Ngày xưa, các đôi trai gái yêu nhau hoặc có những đôi đã nên vợ nên

chồng, đang mặn nồng đằm thắm bỗng vì một lý do gì đó làm cho tình duyên

dang dở, đôi lứa xa nhau. Họ quyết một lòng, dẫu cho sông cạn đá mòn, năm

tháng chờ đợi vẫn một lòng thuỷ chung. Trước khi lưu luyến chia tay, họ cắt

trao cho nhau một mớ tóc để làm tin và luôn giữ bên mình như kỷ vật. Mớ tóc

đó gọi là tóc thề.

Đến thời gian 1930 - 1940, xã hội Việt Nam bắt đầu du nhập những

kiểu tóc phương Tây từ những người phụ nữ Pháp theo chân nhà nước thực

dân mang đến. Mái tóc rẽ ngôi lệch xuất hiện lần đầu tiên làm cả xã hội xôn

67

xao. Rồi tiếp theo sau đó là kiểu tóc kẹp dài buông thõng sau lưng của các cô

thiếu nữ mới lớn, rồi kiểu tóc thề xõa ngang vai. Phụ nữ lớn tuổi thời kỳ này

búi tóc tròn sau gáy hoặc vấn tóc trần, những kiểu này vẫn giữ được nét đẹp

cao sang, hợp tuổi. Từ những năm 1940 - 1942, kiểu tóc uốn xoăn đã bắt đầu

được xuất hiện.

Phụ nữ ngày nay rất coi trọng đến việc chăm sóc, làm đẹp mái tóc của

mình, bởi nó thể hiện văn hóa và một phần đẳng cấp trong xã hội.

“.... đối với tất cả các quốc gia, tóc vừa là dấu hiệu, kiểu dáng của trí

tưởng tượng, sắc đẹp. Tóc là biểu hiện của truyền thống và tín ngưỡng, nó

tượng trưng cho tôn giáo, các thiên thần huyền bí. Hơn thế nữa tóc còn là

biểu hiện của giai cấp trong xã hội. Hơn nữa, tóc mùi thơm được tiết ra từ

tuyến của tóc còn có vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm nam nữ”

(PVS, chuyên gia làm đẹp Công ty Thái Dương)

Một nghiên cứu gần đây đối với phụ nữ châu Á, trong đó có Việt Nam

do Công ty TNS tiến hành (2011) đã khẳng định vai trò của mái tóc đối với

phụ nữ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, với phụ nữ, mái tóc luôn được coi là

một chuẩn mực của vẻ đẹp, vì thế không lấy làm lạ khi hầu hết phụ nữ châu Á

coi tóc là mối quan tâm hàng đầu của mình. Do nhu cầu làm đẹp, công việc và

sở thích cá nhân, phụ nữ thường xuyên tạo kiểu và thay đổi kiểu tóc mà

không biết rằng chính những việc đó vô hình khiến tóc chịu nhiều hư tổn.

Những vấn đề hư tổn về tóc phụ nữ châu Á thường gặp bao gồm tóc chẻ

ngọn, gãy rụng, tóc khô và khó vào nếp. Đó cũng là một trong những lí do

khiến hầu hết các phụ nữ cần quan tâm chăm sóc mái tóc của mình.

Về dáng, phụ nữ Việt ngày xưa vốn đã rất đề cao đến ngoại hình của

mình, cũng vì lẽ đó dân gian có câu: “Nhất dáng, nhì da, thứ ba là nét”. Nếu

như những cô nàng sở hữu chiều cao nổi trội với đôi chân dài miên man, thân

hình mảnh khảnh được đấng mày râu ngày nay săn đón thì trước đây lại xem

68

đây là một thân hình dưới chuẩn. Một người phụ nữ sở hữu thân hình hoàn

hảo nhất phải là cô gái có vóc dáng tròn trịa, mũm mĩm, gương mặt trái xoan,

chiếc mũi dọc dừa, đôi mắt bồ câu và đặc biệt là vòng eo “thắt đáy lưng ong”.

Theo quan niệm truyền thống của người Việt, một cô gái đẹp là phải có đáy

lưng nhỏ nhắn. Họ cho rằng những cô gái “thắt đáy lưng ong” không chỉ là

một chuẩn mực của cái đẹp mà còn thể hiện đức hạnh của một người vợ,

người mẹ đảm đang tảo tần như dân gian có câu:

Những người thắt đáy lưng ong

Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con [60, tr.1778].

Cùng với vòng eo “con kiến”, phụ nữ Việt ngày xưa cũng có những

trang phục yêu thích để tôn vinh nét đẹp quyến rũ. Nếu như từ khoảng thế kỷ

XIX trở về trước, chiếc yếm là trang phục truyền thống có tác dụng làm nền

cho tấm lưng ong nhỏ nhắn thì vào đầu thế kỷ XX, những tà áo dài chiết eo

nhỏ nhắn lại là trang phục tuyệt vời vừa để khoe vừa để thể hiện sự kín đáo

cho vòng eo xinh đẹp của người phụ nữ.

Xưa đã vậy, nay cũng chẳng mấy thay đổi. Vòng eo nhỏ vẫn là khát

khao của nhiều phụ nữ. Họ luôn có xu hướng giữ dáng sao cho không được

“thắt đáy lưng ong” thì cũng phải ưa nhìn.

Về răng/miệng, tục ngữ người Việt có câu: “Cái răng cái tóc là góc con

người” [61, tr.360]. Hàm răng đen trước kia có vị trí thẩm mỹ như mái tóc, sự

gợi cảm như má hồng:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng

Bõ công trang điểm má hồng răng đen [59, tr.1382].

Tục răng đen là một nét văn hóa của người Việt xưa. Tục nhuộm răng

có từ hàng nghìn năm trước, ngày ấy hầu như tất cả người dân Việt từ kẻ

nghèo cho đến người giàu, từ người nông dân đến giới quan lại, địa chủ,

69

hoàng thân quốc thích, vua chúa ai cũng nhuộm răng đen. Về nguồn gốc, tục

nhuộm răng đen của phụ nữ xưa trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Lý do

trực tiếp của tục nhuộm răng bởi nhai trầu thường làm ố đen răng nên phải

nhuộm thật đen để tạo được nét duyên dáng cho hàm răng. Đặc biệt vào các

dịp lễ tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, họ phải nhuộm

răng lại cho đen mới để tham dự. Răng đen đã thành một tiêu chí thẩm mỹ

dân gian:

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua [59, tr.144-145].

Ngày xưa răng đen là đẹp, nhưng vào đầu thế kỷ 20, khi nền văn minh

phương Tây xâm nhập khá sâu vào đô thị Việt Nam, nhiều phụ nữ đã để răng

trắng, thậm chí có những người có hàm răng đen đã cạo đi cho răng được

trắng. Việc phụ nữ Việt Nam thay đổi thẩm mỹ từ răng đen thành răng trắng

là xu hướng mới. Trong thời gian này, xã hội Việt Nam có hai xu hướng va

đập nhau: “Để răng trắng, hớt tóc là me Tây, theo Tây” và “ Búi tóc củ hành,

răng đen, áo the, quần vải” là giữ gìn nét riêng dân tộc. Đây là giai đoạn đầu

đánh dấu sự mất dần phong tục nhuộm răng đen ở Việt Nam.

Ngày nay quan niệm về hàm răng đẹp là hàm răng đều, trắng (màu

trắng phải phù hợp với độ tuổi, nước da và khuôn mặt). Trong những năm gần

đây với sự phát triển nhanh về kinh tế của thế giới cũng như của Việt Nam,

nhu cầu về thẩm mỹ răng, hàm, mặt có sự phát triển vượt bậc. Bộ răng đẹp

ngày nay là hàm răng trắng trong, đều đặn, tỷ lệ giữa khoảng cách các răng

hài hòa. Ngoài ra hàm răng còn phải hài hòa với đôi môi, màu da và khuôn

mặt.

70

Như vậy, từ kết quả khảo sát thực địa cho thấy, xu hướng phụ nữ ngày

nay chú trọng đến việc chăm sóc sắc đẹp của mình nhiều hơn. Đại đa số phụ

nữ từ trẻ tuổi đến trung tuổi thường xuyên đến các cơ sở làm đẹp, chi tiêu

nhiều hơn cho mỹ phẩm, quần áo và các vật dụng làm đẹp khác. Xu hướng

trên phát triển bởi một số lí do dưới đây.

Thứ nhất, đời sống ngày càng được cải thiện, nâng cao, mức thu nhập

cũng tăng. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã giải phóng sức lao động của

phụ nữ khiến họ có nhiều thời gian để chăm sóc cho bản thân mình, đi mua

sắm và làm đẹp.

Thứ hai, làm đẹp cho bản thân còn là sở thích của phần đông phụ nữ

nên trong xu hướng xã hội ngày càng phát triển và mở cửa càng tạo điều kiện

cho phụ nữ thực hiện sở thích của mình. Bên cạnh đó, đời sống hiện đại,

người phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội nhiều hơn, họ không còn chỉ

là người phụ nữ chỉ biết đến trong phạm vi gia đình nên cần chú trọng đến

bản thân mình nhiều hơn là điều hiển nhiên. Phần lớn phụ nữ được hỏi cho

rằng, làm đẹp như là một đặc quyền của phụ nữ, nhất là phụ nữ hiện đại, vừa

làm đẹp cho bản thân, vừa làm đẹp cho xã hội và những người xung quanh.

Thứ ba, những người phụ nữ biết làm đẹp dễ thu hút những người xung

quanh, từ đó cảm thấy tự tin và thành công hơn trong sự nghiệp.

Vậy theo thẩm mỹ dân gian khi đánh giá một người phụ nữ đẹp theo

tiêu chuẩn “nhất dáng nhì da” thì ngày nay theo khảo sát của chúng tôi, tiêu

chuẩn thẩm mỹ đó vẫn còn nguyên giá trị. Những cô gái có thân hình cao, gầy

với những vòng đo chuẩn vẫn được đánh giá cao trong thước đo sắc đẹp của

người phụ nữ. Tuy nhiên, với đại đa số người phỏng vấn trong phạm vi đề tài

nghiên cứu là những phụ nữ tiêu biểu cho chiều cao của người Việt Nam là

khiêm tốn, họ không thể cải thiện chiều cao của mình được nữa nên họ chủ

yếu ưu tiên vào chăm sóc da và tóc.

71

2.2.2. Thời gian làm đẹp

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trung bình mỗi buổi sáng, phụ nữ đô thị,

công sở dành khoảng 22 phút trong nhà tắm và trung bình mỗi tháng mất

khoảng 30 phút để sơn/sửa hoặc cắt móng tay, móng chân.

Trong các phỏng vấn phụ nữ ở khu vực Bắc Bộ cho thấy, họ có dành

thời gian cho việc chăm sóc sắc đẹp vào buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, trước

khi đi ra ngoài, đặc biệt là dịp tham gia các lễ hội, các sự kiện, dự tiệc, dự

đám cưới hoặc khi gia đình có khách. Trong trường hợp đơn giản, họ làm tóc,

chỉnh trang quần áo cho gọn gàng; trong những trường hợp cần thiết, họ phải

trang điểm mất nhiều thời gian, đến những trung tâm để làm đẹp hoặc có

những chuyên gia trang điểm riêng đến nhà giúp đỡ.

2.2.3. Chi phí chăm sóc sắc đẹp

Thống kê về chi phí chăm sóc sắc đẹp đối với 300 phụ nữ Việt Bắc Bộ

cho thấy, trung bình một năm đã chi ra khoảng 350.000đ/người cho việc mua

nguyên liệu, làm đẹp và khoảng gần 400.000đ cho việc đến các trung tâm

dịch vụ chăm sóc sắc đẹp. Cá biệt có những người chi đến 20.000.000đ/tháng

cho việc làm đẹp của bản thân. Tuy nhiên, những phụ nữ này thuộc vào nhóm

có thu nhập, mức sống cao trong xã hội hoặc là các người mẫu, ca sĩ, diễn

viên. Nhìn chung, qua khảo sát và so sánh chi phí cho chăm sóc sắc đẹp thấy

rằng, những phụ nữ có thu nhập cao có xu hướng đến các cơ sở chăm sóc sắc

đẹp nhiều hơn những phụ nữ có thu nhập thấp. Tương tự, ở khía cạnh nghề

nghiệp, phụ nữ làm các ngành nghề phi nông nghiệp chi phí cho chăm sóc sắc

đẹp nhiều hơn (khoảng 1.000.000đ/người/năm) so với phụ nữ làm nông

nghiệp thuần túy (150.000đ - 200.000đ/người/năm).

2.2.4. Địa điểm chăm sóc sắc đẹp

Về địa điểm chăm sóc sắc đẹp, qua khảo sát chúng tôi thấy, hiện nay

72

phụ nữ thường làm đẹp tại các dịch vụ/trung tâm chăm sóc sắc đẹp và tại nhà.

Đối với phụ nữ Việt Bắc Bộ, qua khảo sát cho thấy, họ chủ yếu vẫn

chăm sóc sắc đẹp tại nhà là chính (74,8%), tuy nhiên, vẫn có 9,9% số được

hỏi thường chăm sóc tại các tiệm/spa/trung tâm thẩm mỹ/cửa hàng chuyên

chăm sóc sắc đẹp và 15,2% chăm sóc ở cả hai nơi như nhau. Đối với nhóm

phụ nữ có thu nhập cao hơn, thì có đến 77% các chị em chọn phương pháp

làm đẹp tại các trung tâm chăm sóc sắc đẹp. Trong số những phụ nữ đến các

trung tâm chăm sóc sắc đẹp có 31,2% đến các thẩm mỹ viện, 17,3% đến cơ sở

y tế tư nhân, 66,5% đến các tiệm làm tóc, 8,6% cơ sở làm dạo và 4,9% cơ sở

khác.

Khi khảo sát tại 20 cơ sở dịch vụ chăm sóc sắc đẹp có đăng ký kinh

doanh và cả những các chuyên gia/cá nhân hành nghề độc lập cho thấy, 100%

các đại diện cơ sở này cho rằng phụ nữ ngày càng quan tâm hơn đến việc

chăm sóc sắc đẹp của mình. Một trong những bằng chứng là sự phát triển

ngày càng nhiều các cơ sở dịch vụ chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ với nhiều

loại hình, mức độ khác nhau từ các cơ sở chăm sóc tóc, da, làm móng, thể dục

thẩm mỹ cho đến các trung tâm chăm sóc sắc đẹp như thẩm mỹ viện.v.v…

“Chỉ trong vòng 1-2 năm trở lại đây, các dịch vụ liên quan đến chăm

sóc, làm đẹp cho chị em phụ nữ ở đây phát triển mạnh lắm, đến nay đã có đến

20 cơ sở chỉ ở khu vực thị trấn này” (PVS, chủ tiệm làm tóc, Bắc Ninh).

Sự gia tăng các cơ sở dịch vụ chăm sóc sắc đẹp không chỉ thể hiện sự

quan tâm đến chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ, mà còn cho thấy sự thay đổi thói

quen từ cách làm đẹp tại nhà bằng các nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên,

phương pháp truyền thống (đòi hỏi nhiều thời gian trong chế biến và thực

hiện) được truyền từ các thế hệ trước đến sử dụng các dịch vụ chăm sóc

chuyên nghiệp.

73

“Hiện nay chị em phụ nữ vừa phải lo việc gia đình, cơ quan rồi đối nội

đối ngoại nên không thể dành nhiều thời gian cho tự chăm sóc sắc đẹp như

trước đây vì mất nhiều thời gian tìm kiếm, chế biến những loại cây, củ, quả...

nên hiện giờ nhiều chị em tìm đến các trung tâm làm đẹp cho tiện” (PVS, phụ

nữ, 40 tuổi, Ninh Bình).

Điều này còn cho thấy sự thay đổi phù hợp với nhịp độ của cuộc sống

của phụ nữ hiện đại (xu hướng tiết kiệm thời gian, quan tâm nhiều lĩnh vực

khác nhau, tiện lợi trong cách sử dụng ...).

2.2.5. Phương pháp chăm sóc sắc đẹp

Về phương pháp chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ hiện nay, qua khảo sát,

chúng tôi thấy có: Phương pháp hiện đại và phương pháp thủ công/dân gian.

Phương pháp hiện đại gồm hai nhóm: làm đẹp bằng phẫu thuật thẩm

mỹ và công nghệ hiện đại (có sự can thiệp bằng máy móc), chủ yếu được thực

hiện ở các cơ sở chăm sóc sắc đẹp.

Đối với phương pháp thủ công/dân gian, việc chăm sóc sắc đẹp được

thực hiện tại các cơ sở chăm sóc sắc đẹp hay tại nhà.

Hiện nay có rất nhiều phương pháp chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ (cả ở

phương pháp hiện đại và thủ công/dân gian). Ở đây chúng tôi chỉ khảo sát các

phương pháp theo xu hướng chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam hiện nay,

đó là chăm sóc da, tóc, dáng và răng/miệng.

- Chăm sóc da:

+ Những phương pháp chăm sóc da bằng công nghệ hiện đại (có sự can

thiệp bằng máy móc, công nghệ): điều trị các bệnh về da (nám, tàn nhang, đồi

mồi, rỗ, lỗ chân lông to…) bằng tia Laser, ánh sáng, tái tạo da bằng phương

pháp lăn da tế bào gốc, căng da bằng chỉ, bằng công nghệ Thermage, dưỡng

da/đẹp da bằng khí oxi tươi, thải độc chì cho da. Triệt/tẩy lông bằng công

74

nghệ ánh sáng 3G, 5G..., tiêm chất làm đầy (mũi, cằm, má..), tiêm botox xóa

nhăn da, tiêm thuốc làm trắng da, nhuộm da nâu, tắm trắng da…

+ Những phương pháp chăm sóc da thủ công/tự nhiên như: mát xa cho

da, tẩy da chết, bấm huyệt lưu thông tuần hoàn máu, xông hơi, dưỡng da bằng

các mặt nạ tinh chất colagen, vitamin C, trà xanh, sâm, cam, dưa chuột, hoa

hồng, nước gạo... (pha chế và tự nhiên).

Qua khảo sát của tác giả thì khi phỏng vấn nhóm phụ nữ thuộc lớp phụ

nữ thành đạt, gia đình có mức thu nhập cao thì 57% trả lời là chọn các

phương pháp chăm sóc sắc đẹp hiện đại. Họ chọn các trung tâm chăm sóc da,

tóc có uy tín và có quy mô chuyên nghiệp, uy tín, đẳng cấp để làm nơi chăm

sóc sắc đẹp của mình. Những phương pháp chăm sóc da hiện đại được thực

hiện trên các công nghệ tiên tiến tiêu chuẩn từ các nước phát triển như Mỹ,

Nhật, Hàn Quốc..., sử dụng ánh sáng và tia laser được điều chỉnh thông số

phù hợp với từng loại da, đem lại cho làn da đẹp, sáng, căng mịn, tăng sức đề

kháng cho da. Nhưng 34% trong số đó cảm thấy không hài lòng về phương

pháp chăm sóc da hiện đại này vì họ thấy kết quả không được như mong

muốn mà giá thành lại quá cao.

Ngoài ra, chị em chủ yếu thường tìm đến các cơ sở có sự kết hợp giữa

làm đẹp theo dân gian với công nghệ hiện đại. Các chị em muốn sử dụng các

kỹ thuật/phương pháp hiện đại trong chăm sóc da mặt bằng phương pháp kết

hợp với nguyên liệu tự nhiên. Chẳng hạn như việc sử dụng bột nghệ để đắp

mặt không thuần túy chỉ là bột nghệ nguyên chất mài từ củ nghệ mà bột nghệ

đã được tinh chế, xử lý bằng phương pháp khoa học khi đắp lên mặt vẫn phát

huy tác dụng của củ nghệ truyền thống như trị nám, làm sáng hồng da mà

không để lại vết vàng trên da lâu, kết hợp với các máy xông hơi, máy thẩm

thấu để có một kết quả tốt nhất. Làm đẹp theo cách này, các chị em thấy yên

tâm hơn khi được dưỡng da bằng các sản phẩm tự nhiên và kết quả thu được

75

khả quan hơn, giá thành lại thấp hơn.

- Làm đẹp cho tóc: Để phù hợp với xã hội hiện đại, phụ nữ ngày nay

thường chọn các dịch vụ làm tóc như: nhuộm màu, phủ bóng, làm duỗi/uốn

tóc, cắt/sấy kiểu, làm light tóc, nối tóc, hấp bóng, hấp dưỡng, dập phồng

tóc… nhằm tôn thêm vẻ đẹp cho mình.

Để làm được các kiểu tóc hoặc nhuộm các màu tóc ưng ý, thì mái tóc

phải khỏe. Vì thế, phụ nữ hiện nay rất chú trọng đến chăm sóc cho mái tóc

của mình. Họ chú ý dùng các loại dầu gội hợp với từng loại tóc kết hợp dùng

dầu xả sau khi gội. Ngoài ra, họ còn dùng các sản phẩm chăm sóc tóc "thân

thiện với tự nhiên" như dầu gội dược liệu và chăm sóc da của Công ty Thái

Dương. Theo thông tin công bố từ sản phẩm, phần lớn được chế xuất từ

nguyên liệu tự nhiên như nghệ, sâm, bí đao, sả, bồ kết... Kết quả khảo sát thị

trường tiêu dùng cho thấy, khách hàng quan tâm và sử dụng sản phẩm này

tăng cao ngay sau khi đưa ra thị trường.

- Về giữ dáng: Khi chúng tôi phỏng vấn với các bác sĩ, chuyên gia

chăm sóc sức khỏe và làm đẹp, họ cho rằng “chị em phụ nữ bây giờ có rất

nhiều phương pháp: Múa balllet, tập quyền anh, yoga, thiền, khiêu vũ, bơi lội,

pilates (phương pháp thể dục kết hợp một chuỗi những hoạt động có kiểm

soát tăng cường sức khỏe và cơ bắp), chạy bộ, quan hệ tình dục, làm việc nhà,

chế độ ăn phù hợp, uống thuốc, nhờ sự can thiệp của phẫu thuật thẩm mỹ...

Tuy nhiên, những biện pháp uống thuốc (làm gầy/béo) hay phẫu thuật thẩm

mỹ như hút mỡ bụng, tạo phom dáng bụng, hay mổ kéo chân dài... gây ra

nhiều biến chứng, tốn kém, chịu đau đớn về tinh thần cũng như thể xác, hại

cho sức khỏe và không bền” và những chuyên gia khuyên rằng “cách tốt nhất

để giữ dáng là tiết chế ăn uống và thường xuyên luyện tập” (PVS, chuyên gia

chăm sóc sức khỏe và làm đẹp, Hà Nội).

Thực tiễn cuộc sống của người phụ nữ Việt cho thấy, người phụ nữ

76

luôn vận động bằng nhiều cách và làm việc để tiêu hao năng lượng thông qua

lao động, chế độ dinh dưỡng và sinh hoạt. Tại nhà, những công việc lặt vặt,

làm bếp, chăn nuôi, trồng trọt, đi chợ rồi đến các công việc đồng áng, hội hè...

cũng tiêu hao nhiều Kcal của người phụ nữ. Cơ cấu trong bữa ăn chung của

người dân nông nghiệp Việt Nam là: cơm - rau (canh) - cá. Theo lý giải về

mặt khoa học dinh dưỡng thì trong một xã hội nông nghiệp cổ truyền với

những bữa ăn không được no, người Việt lại ưu tiên ăn cá (chứa nhiều đạm,

axit omega-3, cá nhỏ nguyên con (nhiều canxi), ăn nhiều rau, củ, trái cây tươi

do thiên nhiên ưu đãi với xứ nhiệt đới chứa nhiều vitamin A, C, beta caroten...

là những dưỡng chất chống oxi hóa, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, giàu

chất xơ. Trong bữa ăn cũng thấy rất ít đồ chiên xào, không có đồ uống có ga,

chủ yếu là nước lọc đun sôi giúp cho thanh lọc cơ thể, giúp da không bị khô,

thải trừ chất độc trong cơ thể. Chính vì vậy, rất nhiều chuyên gia chăm sóc

sức khỏe và làm đẹp cho rằng vận dụng/học tập những cách thức sinh hoạt và

ăn uống trong dân gian lại là phương pháp giữ dáng cho chị em phụ nữ hiện

đại nhằm giảm những rủi ro về mặt sức khỏe, tốn kém về chi phí mà vẫn đạt

được các mục tiêu chăm sóc sắc đẹp về dáng.

- Chăm sóc răng/miệng: Hiện nay, chị em phụ nữ cũng rất chú trọng

đến hàm răng của mình. Khi chưa sở hữu được bộ răng ưng ý, họ thường đến

các chuyên gia về nha khoa phục hình lại răng bằng cách chụp răng sứ để có

một hàm răng đẹp như mong muốn mặc dù rất tốn kém.

Ngoài ra khi chỉnh răng, đa số chị em phụ nữ còn yêu cầu tạo cho mình

những chiếc răng khểnh, má lúm đồng tiền để làm duyên. Như vậy, quan

niệm thẩm mỹ về “má lúm đồng tiền” và “răng nhánh hạt huyền” trong dân

gian vẫn còn giá trị trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Quan niệm về nét

duyên của người phụ nữ xưa vẫn được phụ nữ ngày nay kế thừa.

Chính vì vậy, khi được hỏi ý kiến về vấn đề nhu cầu và định hướng làm

77

đẹp răng của phụ nữ, một chuyên gia về nha khoa đã trả lời: “Tôi sẽ tư vấn

làm má lúm đồng tiền hoặc răng khểnh nếu nó hài hòa với khuôn mặt. Vì răng

khểnh hoặc má lúm đồng tiền giả nhiều khi sẽ làm cho khuôn mặt bị già đi

hoặc trở nên méo mó, không cân xứng. Thực tế, tôi đã phải bắt buộc làm theo

yêu cầu của khách về răng khểnh, một thời gian, họ quay lại nhờ tôi tháo ra và

làm đều răng lại bởi họ bị mọi người chê là xấu...”. Như vậy, từ góc nhìn của

các chuyên gia cho thấy, vẻ đẹp nhân tạo cũng phải đảm bảo sự hài hòa (PVS,

Tiến sĩ Nha khoa, Hà Nội).

Có thể thấy rằng, việc duy trì tri thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp

của người phụ nữ Việt Nam hiện nay là một hiện tượng khá phổ biến. Tri thức

đang bàn được thể hiện qua quan niệm về cái đẹp và các phương pháp làm

đẹp.

Về xu hướng làm đẹp, ta thấy phụ nữ Việt ngày nay vẫn làm đẹp theo

quan niệm thẩm mỹ: “Nhất dáng nhì da”, “Cái răng cái tóc là góc con người”.

Vì vậy, các dịch vụ cung ứng các phương pháp chăm sóc da và tóc giữ vị trí

quan trọng trong việc làm đẹp cho chị em, nhất là về da. Cũng trên quan niệm

thẩm mỹ “về dáng”, vẫn được chị em phụ nữ nhìn nhận là đúng và thể hiện ở

việc dành sự quan tâm đặc biệt tới vóc dáng, chấp nhận chi phí về tài chính,

thời gian, và cả sức khỏe để làm phẫu thuật thẩm mỹ như kéo chân, chịu đau

đớn về thể xác mà không chắc thành công.

Về phương pháp làm đẹp, bên cạnh làm đẹp theo phương pháp hiện

đại, các phương pháp làm đẹp có nguồn gốc dân gian hoặc bằng các nguyên

liệu dân gian vẫn được phụ nữ ngày nay ưa chuộng. Kết quả phỏng vấn một

số trung tâm làm đẹp cho phụ nữ cho thấy xu hướng kết hợp phương pháp

làm đẹp dân gian với hiện đại là khá phổ biến.

“Chúng tôi ở đây có cả những nguyên liệu tự nhiên như trứng gà, gạo,

lá cây, hoa quả; nếu ai có nhu cầu thì phục vụ, cũng có người thích gội đầu,

78

đắp mặt bằng những hàng mỹ phẩm các loại thì chúng tôi cũng có” (Chủ cơ

sở làm đẹp, Nam Định).

Lý giải việc tìm đến các trung tâm làm đẹp nói trên, các phụ nữ được

hỏi cho biết họ đến đó sử dụng các sản phẩm làm đẹp vừa tiện dụng, chuyên

nghiệp và vẫn đảm bảo được nhu cầu làm đẹp có sự kết hợp giữa tự nhiên,

theo dân gian với cách làm đẹp hiện đại ngày nay.

2.3. Tri thức dân gian trong việc làm đẹp cho phụ nữ hiện nay

2.3.1. Những tri thức dân gian trong việc làm đẹp

Tri thức dân gian trong việc làm đẹp cho phụ nữ là những hiểu biết,

kinh nghiệm làm đẹp cổ xưa lưu truyền lại. Cụ thể đó là những tri thức sử

dụng sản phẩm, nguyên liệu và phương pháp dân gian trong việc làm đẹp.

Theo tác giả Trịnh Minh Tuyết (2006), các loại lá, hoa, củ, quả trong

thiên nhiên giúp đem lại cho phụ nữ vẻ đẹp tự nhiên và an toàn [130]. Chẳng

hạn những nguyên liệu sau:

Bảng 4: Các nguyên liệu tự nhiên trong làm đẹp

Tên các loại

Bạc hà, ngải cứu, bưởi, chanh, sả, hương nhu, quế, cam thảo, bồ Lá

kết, chè, mít, lô hội, nha đam, mơ, trầu không, tía tô, vừng, mướp,

xà lách, diếp cá, rau má, hoắc hương, tre…

Bưởi, cúc, đào, hồng, lan, nhài, oải hương, loa kèn, thiên lý, nha Hoa

đam, sen, quỳnh,…

Atiso, bí đao, dưa chuột, bí đỏ, khoai tây, cà chua, chanh, chuối, Quả

cam, dưa hấu, bơ, bồ kếp, ớt, bí, lê, táo,…

Cà rốt, cải, khoai tây, khoai lang, cải trắng, cải đường, chuối, đậu, Củ

79

Tên các loại

gừng, tỏi, mài, nghệ, sắn,…

Chanh, đinh lăng, rau má, hà thủ ô, lá lốt, mướp đắng, tre, mít, ổi… Rễ

Khác Mật ong, bột cam, sữa, trứng gà, sữa chua, cám gạo…

(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)

Theo khảo sát của chúng tôi, trong số các phụ nữ được hỏi về sử dụng

các sản phẩm, nguyên liệu gì để chăm sóc sắc đẹp? Kết quả cho thấy có

45,1% trả lời sử dụng các sản phẩm tự nhiên có sẵn (hoa, quả, cây, lá…), chỉ

có 16,5% sử dụng sản phẩm sản xuất theo công nghệ (được chế xuất, đóng

sẵn) và 35,5% sử dụng kết hợp cả hai sản phẩm nêu trên.

Điều đáng quan tâm có sự khác biệt ở đây là, nếu như nhóm phụ nữ ở

nông thôn đa số sử dụng nhóm sản phẩm tự nhiên có sẵn (chiếm 80,2%), còn

nhóm phụ nữ sống ở khu vực thị trấn/thị tứ thì có kết hợp cả hai (chiếm 85%),

trong khi nhóm ở khu vực thành thị đa số sử dụng sản phẩm sản xuất theo

công nghệ (chiếm 87%).

Theo độ tuổi cũng có sự khác biệt về xu hướng sử dụng các phương

pháp chăm sóc sắc đẹp theo dân gian. Nếu như nhóm phụ nữ trên 50 tuổi

phần lớn vẫn sử dụng các nguyên liệu làm đẹp truyền thống thì nhóm dưới 35

tuổi phần đa lại dùng các sản phẩm được chế biến sẵn.

“Tôi thấy các cháu ít tuổi bây giờ chỉ sử dụng các loại dầu gội, kem

dưỡng da có sẵn chứ những người có tuổi thì lại quen dùng các loại lá cây,

những thứ sẵn có để làm đẹp” (Phụ nữ, 56 tuổi, Thái Bình).

Lý giải nguyên nhân tại sao phụ nữ sử dụng các sản phẩm tự nhiên có

sẵn, có đến 81,3% cho rằng các sản phẩm này không gây hại cho sức khỏe,

56,0% tiết kiệm, không tốn kém chi phí, 56,4% dễ tìm kiếm, sẵn có, 24,1% sử

dụng do người thân, bạn bè khuyên, chỉ có 8,9% cho rằng không biết đến các

80

sản phẩm được sản xuất theo công nghệ. Qua phỏng vấn những người phụ nữ

ở khu vực nông thôn cho biết, họ đều biết đến các sản phẩm được sản xuất

theo công nghệ bày bán rất nhiều, song vì lý do sức khỏe và tiết kiệm chi phí,

họ vẫn tìm đến những thứ có sẵn ở nơi họ sinh sống.

“Bây giờ những thứ có sẵn bày bán rất nhiều ở cả khu vực nông thôn,

nhưng chị em ở nông thôn vẫn thích dùng những thứ có sẵn, vừa tiện, vừa tiết

kiệm tiền và lại yên tâm về sức khỏe” (Phụ nữ, 45 tuổi, Nam Định).

Trong số những người sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn, có

36,6% vì lý do giá rẻ; tiện trong sử dụng: 62,3%; dễ mua, dễ kiếm: 52,6%;

không có hại cho sức khỏe: 47,8%; đa dạng, đáp ứng nhu cầu khách hàng:

30,2% và thấy mọi người sử dụng nhiều: 15,3%.

Đây là một trong những phát hiện quan trọng của nghiên cứu này khi

cho thấy xu hướng phụ nữ vẫn quan tâm và sử dụng các sản phẩm tự nhiên để

làm đẹp theo các phương pháp dân gian.

So sánh, đối chiếu với các tài liệu đề cập đến phương pháp làm đẹp

dân gian được đúc kết lại thì hầu như các loại nguyên liệu nêu trên đều được

nhắc đến. Lý giải từ góc độ y học dân gian thì các sản phẩm tự nhiên nói

trên đều có tác dụng tốt trong chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe. Điều này phản

ánh triết lý bình quân đề cao sự hài hòa âm dương trong cơ thể và sự hài hòa

trong giới tự nhiên. Để tạo ra những món ăn, bài thuốc có sự cân bằng âm

dương, người Việt phân biệt các loại thức ăn, thức uống (gồm cả thuốc) theo

năm thức âm và dương ứng với ngũ hành: Hàn (lạnh, âm nhiều = thủy),

nhiệt (nóng, dương nhiều = hỏa), ôn (ấm, dương ít = Mộc), Lương (mát, âm

ít =Kim), Bình (trung tính = Thổ). Có thể thấy, hầu hết là những loại thực

vật nói trên gần gũi với người Việt, phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa lý

của nước ta, đã được người Việt đúc kết kinh nghiệm sử dụng trong việc làm

thực phẩm, thuốc chữa bệnh và làm đẹp được truyền qua các thế hệ. Ví dụ:

81

Hộp 1: Tác dụng làm đẹp của một số loại lá, hoa, củ, quả

Lá bạc hà: Chứa nhiều tinh dầu, có tác dụng khử trùng và chống vi

khuẩn. Lá bạc hà rửa sạch, vò nhẹ, ngâm vào cốc nước sôi rồi đem sử dụng

như dung dịch tẩy da. Có thể hòa với dầu dưỡng và thoa lên da đầu để

chống gàu và kích thích tóc mọc nhanh hơn.

Lá trầu không: Có chứa những thành phần giúp làm sạch da khi pha

cùng với nước để tắm. Lá trầu không có tác dụng khử trùng rất tốt, giúp cơ

thể trở nên thoải mái, dễ chịu.

Lá lô hội: Đối với những người bị mụn, sẹo, có thể cắt lá lô hội và bôi

chất nhờn tiết ra từ lá lên chỗ bị mụn, sẹo.

Lá và hoa dâm bụt: Chất chiết xuất từ lá dâm bụt được sử dụng trong

các loại dầu gội đầu bởi khả năng tẩy rửa rất tốt. Chất chiết xuất từ hoa

dâm bụt cũng có mặt trong nhiều sản phẩm kem dưỡng da và giúp làm mềm

da.

Hoa đại: Khi tắm chỉ cần thả một vài cánh hoa đại vào bồn tắm, mùi

thơm của hoa sẽ làm bạn giảm stress.

Bơ: Chất chiết xuất từ bơ được sử dụng nhiều trong các loại sản phẩm

làm đẹp bởi bơ rất giàu vitamin, nhất là vitamin E giúp nuôi dưỡng làn da,

đặc biệt là da khô. Ngoài ra, bơ còn có tác dụng làm cho mái tóc trở nên

óng mượt hơn.

Đu đủ: Nghiền đu đủ và thoa quanh mắt có thể xoá đi những vết chân chim.

Phần vỏ đu đủ xát lên mặt có thể lấy đi những tế bào da chết rất hiệu quả.

Dưa chuột: Nước dưa chuột có thể coi là một loại nước tuyệt vời giúp

se lỗ chân lông. Dưa chuột đắp lên mắt sẽ giúp mắt khỏi mệt mỏi, sưng húp

và dưỡng ẩm cho mắt. Hãy nghiền nát dưa chuột và đắp vào da khi da bị

cháy nắng.

(Nguồn: Sưu tầm của NCS, 2013)

82

Theo kinh nghiệm dân gian, trái bồ kết có công dụng trị gàu, trị nấm

tóc, giảm gãy và rụng tóc, kích thích mọc tóc, làm đen tóc, làm tóc trơn bóng,

bảo vệ da đầu nên hiện nay được nhiều phụ nữ dùng để chăm sóc tóc:

Hộp 2: Làm đẹp tóc bằng bồ kết

Các bước làm đẹp tóc bằng bồ kết

Bước 1: Chuẩn bị 2-3 quả bồ kết khô đun cùng nước sôi để quả bồ kết

có thể hòa tan các chất vào nước, tạo thành một loại nước gội đầu.

Bước 2: Để nước nguội dần, dùng một chiếc khăn mỏng để lọc bã từ

quả và hạt bồ kết.

Bước 3: Lấy nước đó gội đầu thay cho dầu gội đầu bằng hóa chất. Khi

gội không dùng móng tay cào xước da đầu, thay vào đó hãy dùng đầu ngón tay

đưa nhẹ lên da đầu, mát xa nhẹ nhàng. Không cần gội lại bằng nước trắng.

(Nguồn: Sưu tầm của NCS, 2013)

- Làm son dưỡng môi từ sử dụng sáp ong tự nhiên, dầu thực vật kết hợp

với công nghệ làm lạnh để làm son môi:

Hộp 3: Làm son dưỡng môi từ sáp ong

Chuẩn bị ½ thìa cà phê sáp ong tự nhiên, 2 thìa cà phê dầu thực vật

bất kỳ, vài giọt hương vị dùng cho thực phẩm và 2 giọt tinh dầu oải hương

hoặc hoa hồng mộc. Cho tất cả vào nồi đun sôi. Khi chờ nước sôi hãy thái

nhỏ, mỏng sáp ong rồi đổ vào chén nước cùng một chút dầu thực vật và đun

cách thủy đến khi sáp ong chảy hoàn toàn. Tiếp đó hãy cho hương vị và tinh

dầu vào rồi quấy đều lên bằng tăm. Cuối cùng đem đổ hỗn hợp vào một hộp

thủy tinh nhỏ rồi đặt vào tủ lạnh trong 2-3 phút để hỗn hợp đông lại rồi đem

ra dùng dần.

(Nguồn: Sưu tầm của NCS, 2013)

83

Khi được hỏi về hiểu biết đối với phương pháp dân gian nói trên, hầu hết

các phụ nữ cho rằng đều được truyền miệng từ người này sang người khác.

Cụ thể, có 47,3% do người thân trong gia đình truyền lại, 53,8% do bạn bè,

đồng nghiệp chia sẻ, 53,4% tự tìm hiểu trên thông tin đại chúng, 48,5% từ

sách, tài liệu, 14,2% thấy người khác dùng thì sử dụng theo. Qua các phỏng

vấn sâu cũng cho thấy phần lớn là những kiến thức, kinh nghiệm truyền

miệng chứ không có các tài liệu, sách ghi chép. Đây cũng chính là đặc trưng

của tri thức dân gian trong lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ. Điều này

phù hợp với những nghiên cứu trước đây về vấn đề bảo tồn và phát triển tri

thức dân gian nói chung.

“… thì cứ người trước bảo người sau, người này nói với người khác

thôi chứ lấy đâu sách vở, ghi chép về những thứ này. Người ta cứ làm theo

nhau rồi thấy có lợi thì thành thói quen đấy thôi” (Phụ nữ, 18 tuổi, Vĩnh

Phúc).

Mặc dù vậy, vì các tri thức này được tồn tại theo phương pháp truyền

miệng nên nhiều người cho rằng trong điều kiện xã hội thay đổi như hiện nay

thì dễ bị mai một, cần có cách thức bảo tồn, duy trì cho thế hệ sau.

“Trước thì làm gì có những thứ được sản xuất sẵn nên mọi người bảo

nhau, duy trì phương pháp này nhưng bây giờ thì giữa các thế hệ đã nhận

thức khác nhau trong việc làm đẹp nên e rằng các tri thức các cụ để lại cũng

dễ bị mai một, mất dần đi” (Phụ nữ, 36 tuổi, Ninh Bình).

Khi được hỏi về quan điểm của phụ nữ đối với cách làm đẹp theo

phương pháp dân gian/truyền thống, có 26,4% cho rằng phương pháp này vẫn

còn nguyên giá trị, nhiều người biết và sử dụng. Có đến 40,9% cho rằng

phương pháp này vẫn đang được kết hợp với phương pháp làm đẹp hiện đại.

Điều này được lý giải do những thay đổi trong nhận thức về chăm sóc sắc đẹp

so với trước đây, nguyên nhân có thể xuất phát từ nhiều góc độ, chẳng hạn

84

như điều kiện làm đẹp đã có sự thay đổi cũng có tác động rất lớn (nhiều lựa

chọn về cơ sở làm đẹp, nguyên liệu, sản phẩm đã chế biến sẵn...). Tuy nhiên,

có 18,8% cho rằng đã mai một, 7,6% cho rằng không còn giá trị, ít người biết

và sử dụng và 6,2% không có ý kiến. Như vậy, về cơ bản theo quan niệm của

nhiều người thì phương pháp làm đẹp dân gian vẫn còn giá trị trong đời sống

hiện đại và có xu hướng được người phụ nữ kết hợp với phương pháp làm đẹp

hiện đại.

Khi được hỏi về xu hướng sử dụng các phương pháp dân gian trong

chăm sóc sắc đẹp, vẫn có đến 67,5% số phụ nữ được hỏi cho rằng vẫn cần

thiết phải duy trì các phương pháp làm đẹp dân gian. Có 20,9% cho rằng có

cũng được, không cũng được. Chỉ có 5,1% cho rằng không cần thiết vì đã có

phương pháp làm đẹp hiện đại thay thế và 6,5% không có ý kiến.

Các phỏng vấn sâu thì hầu hết khẳng định rằng các phương pháp làm

đẹp dân gian cần phải được duy trì, nhất là ở khu vực nông thôn nơi mà có

điều kiện duy trì và phát triển do phần lớn các nguyên liệu đều có sẵn.

“Tôi cũng không biết sau này thời thế ra sao nhưng kinh nghiệm các cụ

để lại vẫn còn rất tốt, ở nông thôn thì vẫn rất thuận tiện có được những thứ

để làm đẹp sẵn có ở chính ruộng, vườn, trong nhà” (Phụ nữ, 58 tuổi, Hải

Dương).

Về việc vận dụng những phương pháp trên, trong phạm vi gia đình,

những người phụ nữ được hỏi cho thấy, có đến 41,1% cho rằng “phần lớn phụ

nữ/con gái trong gia đình sử dụng”, chỉ có 24,5% có “một nửa số phụ nữ/con

gái sử dụng” và cũng một tỷ lệ tương tự (24,5%) cho rằng số ít sử dụng, chỉ

có 9,6% cho rằng không có ai sử dụng.

Ở phần này, chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế về các phương pháp

làm đẹp dân gian mà hiện nay phụ nữ biết đến và vẫn còn được áp dụng hàng

85

ngày, kết quả thể hiện trong bảng số liệu dưới đây:

Bảng 5: Phương pháp chăm sóc sắc đẹp dân gian được

phụ nữ sử dụng hiện nay (%)

Biết đến Còn sử dụng

Gội đầu bằng bồ kết hoặc chanh 83,6 57,6

Nhuộm răng 26,6 8,3

Tắm bằng các loại hoa, lá tự nhiên 59,6 37,8

Xông hơi bằng các loại lá 49,6 47,0

Mát-xa 54,7 39,9

Đắp mặt bằng cây, trái 75,0 74,5

Tập dưỡng sinh, thể dục 47,7 40,9

Khác 3,2 2,5

(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)

Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy: Phương pháp làm đẹp dân gian

được nhiều phụ nữ biết đến nhất (chiếm 83,6%) là gội đầu bằng bồ kết hoặc

chanh, song hiện nay chỉ có 57,6% phụ nữ còn sử dụng. Phương pháp nhuộm

rang, có 26,6 phụ nữ biết đến như là phương pháp làm đẹp, nhưng chỉ còn

8,3% còn sử dụng, mà chủ yếu là người cao tuổi (ngoài 60 tuổi). Các phương

pháp phổ biến được biết đến như đắp mặt bằng lá, hoa, củ, quả thì hầu như

vẫn được sử dụng thường xuyên.

Như vậy, một số phương pháp làm đẹp truyền thống được người phụ

nữ biết đến vẫn tiếp tục được duy trì, song cũng có một số phương pháp nay

đã ít người sử dụng hơn. Giải thích lý do về việc một số người đã ít sử dụng

các phương pháp làm đẹp truyền thống chủ yếu là do họ không có nhiều thời

gian để tìm kiếm, chế biến nguyên liệu tự nhiên, thay vào đó là các phương

pháp hiện đại thuận tiện hơn. Ngoài ra, một số phương pháp không còn phù

86

hợp với xu thế chung của xã hội hiện nay mà điển hình là nhuộm răng đen.

Đối với phụ nữ, một trong những giai đoạn có ảnh hưởng rất nhiều đến

cơ thể và hình thức bên ngoài đó là sau khi sinh nở. Chính vì vậy, việc chăm

sóc sắc đẹp ở giai đoạn này cũng là một trong những vấn được phụ nữ quan

tâm. Hiện nay, việc vận dụng tri thức dân gian trong việc chăm sóc phụ nữ

sau sinh cũng còn tương đối phổ biến.

Khi được hỏi về việc chăm sóc sức khỏe sau sinh, có khoảng một nửa

(49,3%) số phụ nữ cho rằng có sử dụng một số biện pháp để duy trì dáng vóc,

sắc đẹp sau khi sinh. Chẳng hạn như ken bụng để tránh bị chảy xệ (57,7%),

kiêng ra ngoài gió, tắm lạnh (80,3%), không ngồi xổm (56,9%), không cho

con bú hoặc cai sữa sớm để giữ cho ngực đẹp (10,5%), xoa hỗn hợp rượu

nghệ để chống/chữa vết rạn bụng.v.v...

Chúng tôi xin đưa ra một số phương pháp dân gian cụ thể trong chăm

sóc phụ nữ sau sinh thường được sử dụng: rượu gừng để giúp vùng da bụng

săn chắc, thon gọn, không chảy xệ; bột nghệ giúp có làn da đẹp, mịn; muối

hạt hay "nằm muối" giúp cho da đẹp; lá trầu giúp chống thâm quầng mắt, da

đẹp [58].

Rượu gừng

Lấy 1kg gừng giã nát ngâm với 1 lít rượu trắng (tỉ lệ 1:1), để trong 1

tháng có thể dùng được. Lấy hỗn hợp mát xa lên bụng hàng ngày, có thể lấy

miếng gừng trong rượu để đắp cùng. Phương pháp này cần kiên trì thực hiện,

làm đều đặn hàng ngày, trong thời gian ngắn sẽ lấy lại vẻ săn chắc, gọn gàng

cho vùng da bụng sau sinh.

Bột nghệ

Các mẹ bầu sau sinh nên dùng bột nghệ hằng ngày, chỉ cần hòa 1 thìa

với nước lọc hay mật ong, uống ngày 2 lần, giúp nhanh chóng hồi phục sức

87

khỏe và nhan sắc, giúp tử cung mau trở về trạng thái bình thường, tránh hậu

sản. Với phụ nữ sinh mổ, trộn bột nghệ với nước tinh khiết bôi lên da sẽ tránh

để lại sẹo. Ngoài ra, phụ nữ sau khi có thể uống và kết hợp trộn bột nghệ với

sữa tươi không đường, mật ong đắp mặt hàng ngày để có làn da đẹp, mịn.

Muối hạt

Phương pháp này trong dân gian còn được gọi là “nằm muối”. Có rất

nhiều cách để thực hiện nhưng đơn giản nhất là lấy khoảng 1kg muối hạt to,

rang nóng rồi bọc trong một tấm vải dầy hoặc một chiếc khăn rồi đắp lên

bụng. Kiên trì thực hiện phương pháp này sau sinh, sẽ thấy được hiệu quả bất

ngờ. Ngoài ra, có thể kết hợp muối hạt với gừng rang khô hoặc ngải cứu sao

vàng. Tuy nhiên, nên để đến khi hết sản dịch thì mới bắt đầu thực hiện những

phương pháp này.

Lá trầu

Lá trầu không không chỉ tốt cho phụ nữ trong thai kỳ, giúp giảm ngứa

vùng kín mà còn giúp làm đẹp sau sinh. Phụ nữ sau sinh lấy một nắm lá trầu

vừa đủ dùng, đun sôi, bỏ vào vài hạt muối, rồi sau đó mang thứ nước này ra

hơ mắt, xông mặt, mỗi lần 20-25 phút, sẽ giúp cho da dẻ trắng hồng, giảm

thâm quầng mắt và mắt đỏ sau sinh.

Ngoài ra, các phụ nữ giữ gìn sắc đẹp bằng các biện pháp khác như ăn

đồ ít ngọt, đi lại nhẹ nhàng, ăn kiêng, ăn nhiều hoa quả, không ăn mỡ động

vật, ăn uống đầy đủ và tập thể dục hằng ngày, tắm nước lá, giữ gìn vệ sinh,

mặc quần áo dài, rộng để thoáng lỗ chân lông, không làm việc nặng.

Những phương pháp làm đẹp nói trên hầu như vẫn được duy trì theo

cách thức truyền thống khi quan niệm cho rằng đây là cách để vừa giữ gìn sức

khỏe và sắc đẹp của phụ nữ.

“Trong vòng một tháng sau khi sinh, sản phụ xưa nằm cữ không được

88

tắm, thỉnh thoảng chỉ được xông hơi bằng cách nấu một số lá cây như chanh,

bưởi, sả, vú sữa... Khí nóng của nồi nước lá sẽ giúp cơ thể toát mồ hôi để vệ

sinh thân thể và loại bỏ độc tố” (PVS, phụ nữ từng làm nữ hộ sinh tại trạm y

tế, Phú Thọ).

Tuy nhiên, quan niệm đó hiện nay đã có những thay đổi nhất định khi

cho rằng:

“Việc kiêng cữ sau sinh là cần thiết nhưng không nên thái quá, không

nên kiêng tắm gội vì sau khi sinh cơ thể mẹ đã tiết rất nhiều mồ hôi, những bã

nhờn cộng với bụi bẩn tích tụ ở lỗ chân lông, rất dễ gây bệnh. Ngày xưa, do

phòng tắm không kín, các mẹ mới phải kiêng tắm, ngày nay phòng tắm xây bê

tông kín gió, các mẹ có thể tắm rửa nhẹ nhàng” (PVS, cán bộ y tế huyện,

Hưng Yên).

Như vậy, do nhận thức việc chăm sóc sắc đẹp sau sinh đã có những

thay đổi nhất định so với trước đây nên việc vận dụng các tri thức dân gian

cũng có những biến đổi nhất định.

Để đáp ứng nhu cầu về chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ, hiện nay các cơ

sở sản xuất mỹ phẩm cho ra các sản phẩm thân thiện với tự nhiên hơn, hướng

đến cả việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe. Một trong những ví dụ là sản

phẩm dầu gội dược liệu và chăm sóc da của Công ty Thái Dương. Theo thông

tin công bố từ sản phẩm, phần lớn được chế xuất từ nguyên liệu tự nhiên như

nghệ, sâm, bí đao, sả, bồ kết... Kết quả khảo sát thị trường tiêu dùng cho thấy,

khách hàng quan tâm và sử dụng sản phẩm này tăng cao ngay sau khi đưa ra

thị trường.

2.3.2. Đánh giá vị trí, vai trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp hiện

nay

Trong cuộc sống hiện đại, phụ nữ nói chung và phụ nữ Việt Nam nói

89

riêng có nhiều sự lựa chọn về sản phẩm, nguyên liệu cũng như phương pháp

chăm sóc sắc đẹp cho mình. Nhưng phương pháp làm đẹp dân gian vẫn được

phụ nữ ngày nay ưa chuộng. Điều đó cho thấy, các tri thức dân gian về chăm

sóc sắc đẹp vẫn tiếp tục tồn tại và được phổ biến. Các tri thức này được thể

hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau: thông qua các sản phẩm, nguyên liệu và

phương pháp chăm sóc sắc đẹp, phương pháp dân gian thuần túy, phương

pháp có sự kết hợp giữa dân gian và hiện đại, yếu tố dân gian trong các

phương pháp hiện đại (một quy trình/công đoạn hay tỷ lệ nguyên liệu dân

gian trong các phương thức/sản phẩm chăm sóc sắc đẹp).

Như vậy, có thể khẳng định những tri thức dân gian về chăm sóc sắc

đẹp vẫn tồn tại, duy trì và phát triển bởi nó có vị trí, vai trò nhất định đối với

đời sống xã hội hiện nay. Vị trí, vai trò đó được thể hiện ở hai khía cạnh

chính: văn hóa và thực tiễn.

Thứ nhất, ở khía cạnh văn hóa, các tri thức dân gian trong chăm sóc sắc

đẹp mang đậm truyền thống văn hóa, thể hiện sự hòa hợp giữa con người với

điều kiện tự nhiên. Trong quá trình tồn tại và tiến hóa, con người dựa vào tự

nhiên, khám phá tự nhiên, khai thác tự nhiên một cách hợp lý phục vụ các

nhu cầu của cuộc sống. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa mỗi vùng, miền trong

việc sử dụng các sản phẩm tự nhiên trong làm đẹp đều mang tính bản địa văn

hóa sâu sắc. Như vậy, các tri thức dân gian về chăm sóc sắc đẹp cũng góp

phần bảo vệ bản sắc dân tộc trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.

Thứ hai, việc phụ nữ hiện nay sử dụng các sản phẩm, nguyên liệu và

phương pháp chăm sóc sắc đẹp dân gian cho thấy, ngoài thói quen trong cách

làm đẹp thì họ còn thấy các tri thức này còn có vị trí, vai trò thực tiễn quan

trọng. Đó là sự an toàn, không hại cho sức khỏe, tạo vẻ đẹp tự nhiên; chi phí

thấp, tiết kiệm, nguyên liệu dễ kiếm, dễ tìm; phương pháp thực hiện đơn giản.

Với vị trí, vai trò nói trên, việc đề xuất biện pháp bảo tồn các tri thức

90

dân gian trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai là cần thiết, để giữ gìn,

bảo tồn những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc và đáp ứng nhu cầu thực tiễn

trong việc thực hành chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam nói chung và

phụ nữ Việt châu thổ Bắc Bộ nói riêng.

91

Tiểu kết chương 2

Tri thức dân gian thể hiện trong văn học dân gian, trong văn hóa dân

gian. Người Việt Bắc Bộ có một quan niệm khá thống nhất và phong phú về

vẻ đẹp của người phụ nữ. Đó là vẻ đẹp tổng thể, hài hòa, trong đó nổi lên

những vẻ đẹp bộ phận của đôi mắt, mái tóc, bộ ngực, làn da… Các dân tộc

thiểu số ở Bắc Bộ nhìn chung cũng có quan niệm tương tự, nhưng không

phong phú bằng người Việt. Cả người Việt và các dân tộc vừa nêu đều quan

niệm cái đẹp gắn với cái đạo đức. Dân gian không ca ngợi những người đẹp

lười biếng. Trong thời đại hiện nay, nhiều tiêu chí của người đẹp ngày xưa

vẫn được áp dụng như dáng người, làn da, đôi mắt, mũi,…Về điểm khác, tác

giả dân gian nói nhiều đến người xinh hơn là người đẹp. Hơn bao giờ hết,

hiện nay các từ, nhóm từ “người đẹp”, “phái đẹp”, “dáng đẹp”, “sắc đẹp”,

“làm đẹp”, “chăm sóc sắc đẹp” xuất hiện với tần số cao không chỉ trong các

cuộc trò chuyện hằng ngày của chị em mà còn được phổ biến trên các phương

tiện thông tin đại chúng. Chỉ có ở thời đại chúng ta, vẻ đẹp của người phụ nữ

mới được chú ý và đề cao như vậy. So với truyền thống, người đẹp hiện nay

đã có và đang phấn đấu để có chiều cao hơn và trang phục cũng hiện đại hơn.

Trong việc chăm sóc sắc đẹp, bên cạnh việc sử dụng các tri thức dân gian

truyền thống, phụ nữ hiện nay còn đến các spa chăm sóc sắc đẹp, được sự hỗ

trợ của các phương tiện khoa học hiện đại. Thực tế cho thấy, việc vận dụng tri

thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp của người phụ nữ Bắc Bộ vẫn còn khá

phổ biến ở khu vực nông thôn, nơi dễ dàng tìm kiếm nguồn nguyên liệu tự

nhiên. Phần lớn phụ nữ cho rằng phương pháp làm đẹp theo dân gian có ích

lợi. Điều này được lý giải là phù hợp với tư tưởng, phong tục và triết lý sống

của người Việt trong nền văn hóa nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng

các tri thức dân gian, biện pháp dân gian là không đủ. Bởi thế, xu hướng kết

hợp các phương pháp làm đẹp theo dân gian và hiện đại ngày càng diễn ra

phổ biến.

92

CHƯƠNG 3

TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE

CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY

3.1. Quan niệm dân gian về sức khỏe của phụ nữ và việc chữa bệnh

3.1.1. Quan niệm dân gian của người Việt về sức khỏe của phụ nữ và việc

chữa bệnh

Trong quan niệm dân gian, người Việt cho rằng, người phụ nữ lúc 17

tuổi là khỏe mạnh nhất: “Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu”. Một trong

những chức năng của người phụ nữ là lấy chồng và sinh nở: “Gái có chồng

như rồng có mây”, “Gái một con trông mòn con mắt”, “Gái phải hơi trai

như thài lài phải cứt chó” (tục ngữ).

Người phụ nữ khỏe mạnh là người phụ nữ biết sinh nở. Sau khi làm

mẹ, người phụ nữ mặn mà hơn. Tuy nhiên, họ không thể trẻ khỏe mãi được

theo thời gian: “Trai ba mươi tuổi đang xoan, gái ba mươi tuổi đã toan về

già” (tục ngữ). Nếu sinh nở nhiều lần, người phụ nữ cũng chóng suy sụp về

sức khỏe: “Gái một con trông mòn con mắt, gái hai con vú quặt đằng sau,

gái ba con ngồi đâu chết đấy” (tục ngữ).

Xã hội xưa trọng người phụ nữ mạnh khỏe, có khả năng sinh nở,

nhưng cánh nam nhi cũng dè dặt trước những người phụ nữ quá khỏe: “Gái

khỏe chớ lấy”, “Cả mái hại trống” (tục ngữ).

Mặc dù dân gian ghi nhận vai trò quan trọng của sức khỏe người phụ

nữ, nhưng so với nam giới thì vẫn có sự phân biệt: “Trai đua mạnh, gái đua

mềm”, “Nam thực như hổ, nữ thực như miêu” (con trai ăn như hổ ăn, con

gái ăn uống nhỏ nhẹ như mèo), “Nam trúng chữ, nữ trúng kim” (người ta

93

đánh giá phẩm chất của người con trai theo nét chữ, của người con gái theo

đường kim mũi chỉ) (tục ngữ).

Trên đây là quan niệm của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Ở khu vực

này không có hiện tượng như người Việt ở Trung Bộ, mà cụ thể là ở Bình

Định:

Ai vào Bình Định mà coi

Đàn bà cũng biết cầm roi dạy chồng.

Hoặc dị bản:

Ai vào Bình Định mà coi

Đàn bà cũng biết cầm roi đi quyền.

Đất võ Bình Định đã sản sinh ra những nữ tướng mà tiêu biểu là Đô

đốc Bùi Thị Xuân.

Trong thời quân chủ, mức sống của người nông dân nói chung là rất

thấp. GS.TS. Nguyễn Văn Huyên, sau khi nghiên cứu đã kết luận rằng,

trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đại đa số nông dân không được ăn

no, họ chỉ được ăn no vào ngày tết và ngày mùa.

Do điều kiện sống và mức sống, người dân xưa thường chỉ quan tâm

và chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em, người già và phụ nữ trước sau thời

gian sinh nở. Người dân Việt quan niệm: “Người chửa, cửa mả” (tục ngữ),

nghĩa là người phụ nữ khi có mang thì phải rất thận trọng. Sau khi sinh nở,

thì họ phải kiêng cữ, tránh ra gió máy, phải kiêng khem trong thức ăn, đồ

uống. Trong trường hợp thiếu sữa, không có sữa, họ vận dụng một số kinh

nghiệm dân gian.

94

3.2. Thực tế chăm sóc sức khỏe hiện nay ở phụ nữ Việt Nam

3.2.1. Bối cảnh hiện nay

Đối với người phụ nữ, trong truyền thống các chuẩn mực của xã hội

luôn đặt ra đối với họ rất khắt khe chẳng hạn như phải đáp ứng về công, dung,

ngôn, hạnh như trong nhiều tư liệu đề cập đến. Trong xã hội hiện đại, các

chuẩn mực này tiếp tục được đặt ra nhưng có điều chỉnh cho phù hợp. Những

yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng kinh tế, văn hóa của đất nước đang đòi

hỏi ở người phụ nữ những phẩm chất mới về chất lượng trí tuệ, kỹ năng lao

động, có nhân cách, đạo đức, trong đó phải kể đến những vai trò gắn với gia

đình mật thiết, đảm bảo ba chức năng: sản xuất, kinh doanh; sinh con, nuôi

con nhỏ; chăm sóc gia đình, nhà cửa, làm tròn trách nhiệm cộng đồng. Như

vậy, họ cần sức khỏe dẻo dai mới cáng đáng nổi những công việc đó cùng

một lúc. Để có được điều đó, phải thường xuyên luyện tập, quan trọng hơn là

sống điều độ trong ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, tránh sự thái quá cả

về mặt vật chất và tinh thần. Theo chiều dài lịch sử, người phụ nữ dần có

những thay đổi hướng đến những giá trị mới. “Họ tôn trọng cuộc sống của

từng cá nhân trong gia đình, mặt khác họ cũng rất quan tâm đến cuộc sống

của riêng họ. Họ muốn dành thời gian cho giải trí, chăm sóc sức khỏe, chơi

thể thao và hưởng thụ nghệ thuật và làm đẹp. Họ sẽ năng đến các trung tâm

thẩm mỹ, tiếp xúc với bạn bè...” [77]. Như vậy, ở khía cạnh chăm sóc sức

khỏe của phụ nữ cả trong lịch sử và ngày nay đều có vai trò quan trọng không

chỉ để giúp người phụ nữ thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh của mình được xã hội

kỳ vọng, đồng thời còn đáp ứng những nhu cầu của cá nhân.

Có thể nhận thấy, hầu hết phụ nữ đều quan tâm đến chăm sóc sắc đẹp

và sức khỏe ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của

mỗi người, là xu hướng chung của phụ nữ ở cả xã hội truyền thống và hiện

đại.

95

Theo điều tra của Bộ Y tế, có tới 90% phụ nữ nông thôn không biết

chăm sóc sức khỏe y tế, 40% mắc bệnh là do lao lực, do môi trường lao động

sản xuất, do điều kiện vệ sinh kém. Hiện nay, tỷ lệ bác sĩ tuyến xã chiếm

khoảng 6,5 người/vạn dân. Song đó là bình quân trên cả nước, trên thực tế có

những tỉnh tỷ lệ này chỉ đạt 1,1 bác sĩ/ vạn dân. Trong từng tỉnh, tỉ lệ bác sĩ/số

dân ở đô thị cao hơn nhiều so với tỉ lệ này ở khu vực nông thôn. Cho đến nay,

70% dân số làm nông nghiệp, điều này cho thấy việc chăm sóc sức khỏe tại

khu vực nông thôn còn rất nhiều bất cập [15]. Theo khảo sát của Uỷ ban Quốc

gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam cho biết: 34% phụ nữ nông thôn phải

lao động ngay sau khi sinh. Đó là thực trạng chăm sóc sức khỏe phụ nữ ở

nông thôn hiện nay.

Qua khảo sát thực tế cả ở thành thị và nông thôn về chăm sóc sức khỏe

sức khỏe hiện nay ở phụ nữ Việt Nam, chúng tôi thấy: phụ nữ quan tâm nhiều

hơn cả là chăm sóc sức khỏe trong lao động; chăm sóc sức khỏe khi ốm đau,

bệnh tật và chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt trong quá trình mang thai,

sinh con và sau sinh.

3.2.2. Chăm sóc sức khỏe trong lao động

Kết quả khảo sát cho thấy có 87,0% số phụ nữ được hỏi cho rằng cần

phải có chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý để bảo đảm sức khỏe, 69,9% cần

có dụng cụ trang bị, bảo hộ khi lao động, 52,2% kiêng ngâm mình dưới nước

không đảm bảo vệ sinh, 51,8% kiêng làm việc trong môi trường độc hại.

Như vậy, phụ nữ hiện nay quan tâm đặc biệt quan tâm đến chế độ lao

động và nghỉ ngơi, rồi đến an toàn lao động.

3.2.3. Chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật

Trong số phụ nữ được hỏi, có đến 78,4% cho rằng trong một năm có bị

ốm ít nhất một lần thì có 24,2% để tự khỏi, 25,0% đến cơ sở y học cổ truyền,

96

56,4% đến các cơ sở khám chữa bệnh (bệnh viện, phòng khám). Chỉ có 8,7%

đến các thầy lang và 11,7% sử dụng các lá cây (thuốc nam) để chữa trị. Có

đến 22,7% tự điều trị bằng các phương pháp dân gian như cạo gió, xông

hơi.v.v...

Qua số liệu chúng tôi khảo sát cho thấy, khi ốm đau, bệnh tật, đa số

(56,4%) phụ nữ đến các bệnh viện, phòng khám và dùng thuốc Tây y, rồi đến

các cơ sở y học cổ truyền (25,0%) và tự điều trị bằng các phương pháp dân

gian (22,7%). Ngoài ra còn sử dụng thuốc nam (11,7%) và đến các thầy lang

(8,7%). Số phụ nữ để bệnh tự khỏi chiếm tỉ lệ tương đối cao: 24,2%. Như

vậy, đa số phụ nữ hiện nay đã quan tâm đến sức khỏe của mình. Họ đã kết

hợp cả hai phương pháp: chữa bệnh theo phương pháp của y học hiện đại và

truyền thống dân gian.

3.2.4. Chăm sóc sức khỏe sinh sản

Ngày nay, trong việc chăm sóc sức khỏe phụ nữ, vấn đề chăm sóc sức

khỏe sinh sản cũng được chị em lưu tâm rất nhiều, dần hình thành thói quen

tốt giúp họ có sức khỏe, nét trẻ trung và duyên dáng để góp phần thăng hoa

trong cuộc sống. Ngoài việc quan tâm đến kế hoạch hóa gia đình, sinh ít con,

điều trị các bệnh phụ khoa kịp thời… thì việc chăm sóc sức khỏe khi mang

thai, sinh con và sau sinh được chị em đặc biệt chú ý đến. Ngoài chế độ ăn đủ

chất dinh dưỡng, luyện tập khoa học thì họ còn chú ý đến những kiêng cữ

nhất định.

Tình trạng sức khỏe của phụ nữ khi mang thai và sau sinh đã được cải

thiện rất nhiều trong nhiều năm qua là kết quả của các hoạt động của hệ thống

y tế và bản thân nâng cao nhận thức của phụ nữ về vấn đề thực hành chăm sóc

sức khỏe [15].

Qua khảo sát, chúng tôi thấy, trong số 47,8% số phụ nữ được hỏi đã từng

97

trải qua ít nhất một lần sinh đẻ cho rằng họ thường đến trạm y tế (53,4%),

bệnh viện tuyến trên (40,4%), Chỉ có 4,1% vẫn có bà đỡ và 2,1% tự đỡ hoặc

sinh đẻ tại nhà.

Như vậy, khi sinh con, phụ nữ hiện nay chủ yếu đến các cơ sở y tế. Số

còn lại nhờ bà đỡ hoặc tự đỡ chiếm tỉ lệ không nhiều. Qua đây cho thấy, họ đã

quan tâm đến chăm sóc sức khỏe của mình khi sinh nở, mặc dù chưa phải tất

cả.

Việc chăm sóc sức khỏe sau sinh là một hiện tượng phổ biến của phụ

nữ Việt Nam. Hầu hết phụ nữ cho rằng, sau khi sinh phải ăn những thức ăn có

nhiều sữa cho con bú (85,2%), ăn những thức ăn nhanh phục hồi sức khỏe

(73,3%), ăn những thức ăn để giữ gìn dáng vóc (27,2%). Ngoài ra, họ còn áp

dụng những bài thuốc dân gian và thực hiện việc kiêng cữ theo kinh nghiệm

dân gian.

3.2.5. Phòng bệnh và rèn luyện sức khỏe

Ngăn ngừa bệnh là việc rất cần thiết và quan trọng hơn là để bệnh xảy

ra rồi mới trị bệnh, khi có dấu hiệu thì bệnh đã gây ra những rối loạn về tinh

thần và tàn phá về thể chất của con người, như vậy sẽ không tốt cho sức khỏe

và cơ thể chúng ta nên việc phòng bệnh là rất cần thiết cho mỗi chúng ta.

Nhận thức được điều đó, nhiều phụ nữ ngày nay áp dụng phương pháp phòng

bệnh qua chế chế độ ăn uống, rèn luyện thể thao và tìm hiểu tri thức chăm sóc

sức khỏe bằng tham gia chia sẻ tri thức trong các nhóm, câu lạc bộ hoặc đọc

tài liệu sách báo.v.v…

Về ăn uống theo một chế độ hợp lí, đầy đủ các thành phần thức ăn chính

yếu và đúng tỉ lệ. Ở phương pháp này, qua điều tra có 55,5% số phụ nữ được

hỏi quan tâm thường xuyên, 35,4% thỉnh thoảng quan tâm và 9,1% không chú

ý đến.

98

Về rèn luyện thể thao: Có 37,5% số phụ nữ được hỏi thường xuyên tập

thể dục, 44,9% thỉnh thoảng, 12,0% hiếm khi và chỉ có 5,6% không bao giờ

tập thể dục.

Bên cạnh hoạt động rèn luyện sức khỏe thông qua tập thể dục, trong

những năm gần đây phong trào tập dưỡng sinh dành cho những người ở độ

tuổi trung, cao niên phát triển khá mạnh góp phần vào việc cải thiện và duy trì

sức khỏe của người dân. Theo kết quả thăm dò, có 6,2% phụ nữ được hỏi

thường xuyên tham gia hoạt động tâp dưỡng sinh, 20,4% thỉnh thoảng tham

gia, 25,8% hiếm khi và 47,6% không bao giờ. Đối tượng tham gia tập dưỡng

sinh chủ yếu là phụ nữ sau tuổi 50, chiếm đến 85%. Bên cạnh đó, phương

pháp chăm sóc sức khỏe bằng cách thiền cũng có 11,2% thực hiện.

Tìm hiểu tri thức chăm sóc sức khỏe: Trong số phụ nữ được hỏi, có

15,8% thường xuyên tham gia các nhóm có sở thích về chăm sóc sắc đẹp và

sức khỏe, gồm các câu lạc bộ, nhóm như: Aerobic, Những người làm mẹ, Thể

dục nhịp điệu, Hội phụ nữ, Phụ nữ và sắc đẹp, Khiêu vũ, Tập dưỡng sinh…

Thông qua các câu lạc bộ, nhóm sở thích này, số phụ nữ thường xuyên chia sẻ

kinh nghiệm về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp chiếm 30,1%, thỉnh thoảng:

54,3%, hiếm khi: 9,4% và không bao giờ (6,2%). Tỷ lệ thường xuyên đọc tài

liệu về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp là: 31,7%, thỉnh thoảng: 52,8%, hiếm

khi: 11,4% và không bao giờ chỉ có 4,1%.

Qua số liệu điều tra chung cho thành thị và nông thôn về thực tế chăm

sóc sức khỏe của phụ nữ Việt Nam hiện nay, chúng tôi thấy, đa số chị em đã

quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật và sinh đẻ. Ngoài

ra, phụ nữ ngày nay đã áp dụng nhiều phương pháp để giữ gìn sức khỏe cho

mình như ăn uống đủ chất, thể dục thể thao và tham gia diễn đàn về sức khỏe,

đọc sách báo.v.v...

99

3.3. Tri thức dân gian trong việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ hiện nay

3.3.1. Những tri thức dân gian của người Việt trong việc chăm sóc sức

khỏe

Trong kho tàng tri thức dân gian người Việt Nam phải kể đến tri thức y

học dân gian. Có thể hiểu y học dân gian là toàn bộ những kinh nghiệm phòng

chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe có tính tập thể và truyền miệng

của nhân dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, trải qua các

thời kỳ phát triển lâu dài trong những chế độ xã hội có giai cấp và tiếp tục tồn

tại trong thời đại hiện nay. Y học dân gian còn được gọi là kinh nghiệm dân

gian truyền khẩu. Những khái niệm này xuất hiện từ khi nào không rõ, nhưng

có lẽ sớm nhất cũng chỉ từ đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, khái niệm y học dân

gian rất ít được sử dụng, mà chủ yếu là dùng cụm từ "kinh nghiệm chữa bệnh

dân gian" [92].

Ở Việt Nam, nước ta có hệ thực vật vô cùng phong phú với trên 3000

loài cây có thể làm thuốc chữa bệnh. Nếu so sánh với các loài cây trên thế

giới đã biết thì ở Việt Nam chiếm 17%, tương đương 1/6 số lượng của toàn

thế giới. Kho tàng tri thức dân gian về cây thuốc phục vụ chăm sóc sức khỏe

của cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung rất phong phú [30]. Trong Danh

mục Thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành năm 2005 có 94 thuốc thành phẩm và

215 vị thuốc từ các loại nguyên liệu tự nhiên và 60 cây thuốc [90].

Như vậy, những bài thuốc chữa bệnh dân gian chủ yếu dựa vào tác

dụng của các loại nguyên liệu tự nhiên có sẵn, chẳng hạn:

Bảng 6: Một số nguyên liệu thường dùng để chăm sóc sức khỏe

Tên các loại nguyên liệu

Tía tô, bạc hà, ngải cứu, bưởi, chanh, sả, hương nhu, quế, cam Lá

100

Tên các loại nguyên liệu

thảo, bồ đề, chè, mít, lô hội, nha đam, mơ, trầu không, lá tắm,

diếp cá, rau má, hoắc hương, tre, bông lá đề, cúc tần, sương

xông, đinh lăng, hẹ, gừng, sả, kinh giới, lá lốt, rẻ quạt, hẹ,

lược vàng, sài đất…

Hoa Bưởi, cúc quỳ, đào, hoa hồng, hoa lan, hoa nhài, hoa oải

hương, loa kèn, thiên lý, nha đam, sen, quỳnh, đu đủ, hồng

bạch, khế, hồi, đại, anh túc, atiso,…

Quả Táo tầu, ổi, bí đao, quất, gấc, dưa chuột, bí đỏ, cà chua,

chanh, chuối, cam, dưa hấu, bơ, bồ kết, ớt, bí xanh, lê, táo,

mướp đắng, la hán, gạo, chuối,…

Tam thất, cà rốt, cải, khoai tây, khoai lang, cải trắng, cải Củ

đường, đậu, gừng, tỏi, mài, nghệ, sắn, sâm…

Cỏ tranh, mắt quỷ, cây gai, chanh, đinh lăng, rau má, hà thủ ô, Rễ

lá lốt, mướp đắng, sâm, tre, mít, ổi, cỏ vàng, dương xỉ

Con vật Bọ cạp, bọ ngựa, cá ngựa, gà, chim bồ câu, vịt, cua, tôm, cá

chép, rắn, lợn, giun đất, mèo đen, rết, thằn lằn, tắc kè…

Khác Mật ong, bột cam, sữa, trứng gà, sữa chua, cám gạo,…

(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)

Lý giải về việc sử dụng các sản phẩm tự nhiên nói trên từ góc độ y học,

cho thấy chúng có nhiều tác dụng trong việc chăm sóc sức khỏe. Dưới đây là

một số ví dụ cụ thể:

Hộp 4: Tác dụng chữa bệnh của một số loại cây

• Chanh: Có tác dụng thanh nhiệt, tiêu thực, chống viêm. Chanh có vị

101

rất chua nên mỗi lần không dùng nhiều, kể cả khi dùng ngoài hay uống trong.

Theo Tây y, axit Xitric có rất nhiều trong chanh, kết hợp với can xi thành

dung dịch hoà tan, có ích cho người bị tăng huyết áp, chữa sắc tố da trên

mặt. Chanh có vị chua nên cả Đông và Tây y đều khuyên thận trọng trong

trường hợp có viêm loét đường tiêu hoá. Vỏ quả chanh có tác dụng tiêu thực,

hoá đờm, chữa chứng ăn không tiêu, bụng đau đầy trướng, nôn mửa. Vỏ có

tính ôn nên có thể dùng quả chanh cắt khoanh lấy cả vỏ lẫn dịch cho uống

nóng để giải cảm, chẳng hạn như thả vào nước trà nóng. Theo Tây y, vỏ quả

chanh có tác dụng tiêu thực, tăng nhu động ruột, gây trung tiện, khử đờm.

Phần xốp trắng của vỏ cầm tiêu chảy do có pectin. Vỏ còn chứa canxipectat

và flavonoit tăng miễn dịch, chống xơ vữa mạch máu [10].

• Rau má: Là một loại rau thông dụng, có tác dụng sát trùng, giải độc,

thanh nhiệt, lương huyết. Ngoài ra, rau má cũng là một loại dược thảo có tính

bổ dưỡng rất cao, có nhiều sinh tố, khoáng chất, những chất chống oxy hoá,

có thể dùng để dưỡng Âm, cải thiện trí nhớ, làm chậm sự lão hoá, cải thiện vi

tuần hoàn và chữa nhiều chứng bệnh về da. Theo y học cổ truyền, rau má có

vị đắng, hơi ngọt, tính bình, vào can, tỳ, vị có tác dụng dưỡng âm, thanh

nhiệt, nhuận gan, giải độc, lợi tiểu. Rau má thường dùng để làm thuốc bổ

dưỡng, sát trùng, chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, mụn nhọt, rôm sẩy.

Từ những năm 1940, y học hiện đại bắt đầu nghiên cứu những tác dụng của

rau má. Rau má có những hoạt chất thuộc nhóm saponin (còn được gọi là

tripernoit) bao gồm asiaticosit, madecassosit, axít madecassic và axít asiatic.

Hoạt chất asiaticosit đã được ứng dụng trong điều trị bệnh phong và bệnh

lao. Người ta cho rằng trong những bệnh này, vi khuẩn dược bao phủ bởi một

màng ngoài giống như sáp, khiến cho hệ kháng nhiểm của cơ thể không thể

tiếp cận [32].

• Trái cây và các loại rau: Phụ nữ sau khi sinh con, nhu cầu vitamin và

102

khoáng chất của phụ nữ tăng lên. Để tránh mệt mỏi, kiệt sức và trầm cảm gây

ra do thiếu vitamin, phụ nữ sau sinh nên ăn các loại trái cây tươi và các loại

rau quả theo mùa nhiều lần trong ngày, bổ sung thêm nhiều chất dinh dưỡng

khác, nếu có thể ăn sống hoặc nấu chín tới để hấp thu hết tất cả tác dụng tốt

của chúng [6].

Theo các tri thức dân gian nói trên, có thể thấy khá nhiều là các bài

thuốc liên quan đến chăm sóc sức khỏe phụ nữ như vấn đề sức khỏe trước,

trong và sau sinh, các bài thuốc về phụ khoa, chăm sóc sức khỏe sắc đẹp của

phụ nữ bên cạnh các bài thuốc chung về xương khớp, thần kinh, tim mạch, tai

mũi họng, da, xoang, tiêu hóa, hô hấp…. Điều này cho thấy sự gần gũi và tầm

quan trọng của các bài thuốc dân gian đối với sức khỏe của phụ nữ và họ cũng

chính là đối tượng sử dụng nhiều nhất các bài thuốc này.

Khi chúng tôi hỏi về xu hướng phụ nữ ở Bắc Bộ vận dụng các tri thức

dân gian nói trên trong việc chăm sóc sức khỏe thì thu được kết qủa như sau:

tỉ lệ cho rằng vẫn còn phù hợp chiếm 72,2%, có 23,7% cho rằng đúng một

phần, chỉ có 1,8% cho rằng không còn phù hợp và 2,2% không có ý kiến.

Việc người phụ nữ Việt ở Bắc Bộ sử dụng các nguyên liệu tự nhiên có

sẵn trong việc chăm sóc sức khỏe rất gần gũi với kinh nghiệm của đồng bào

thiểu số ở Bắc Bộ.

Người Mường có truyền thống sử dụng cây thuốc để chữa bệnh từ lâu

đời. Khi ốm đau, người Mường không chỉ lo cúng bái mà còn biết tìm những

cây thuốc để chữa bệnh (những cây có tác dụng hạ nhiệt, giảm cảm: bạc hà,

chanh, tía tô..., hoặc những cây chữa bệnh mạo cảm, trúng gió: cúc tần, gừng,

hành, tía tô....). Hoặc khi bị ho, họ lấy 3 - 5 con sâu đục trong thân cây dâu,

nướng thành than, hòa vào nước cho tan rồi uống [46].

Đối với người Mường ở Hòa Bình, tri thức dân gian trong chăm sóc

103

sức khỏe và điều trị bệnh tật xuất phát từ quan niệm về bệnh, cơ chế bệnh của

bảy chứng bệnh (bệnh về hệ xương khớp, đau dây thần kinh, đường hô hấp,

tiểu tiện, tiêu hóa, ngoài da, phụ nữ, và cảm sốt). Để chữa các chứng bệnh

trên, người Mường chủ yếu sử dụng nguồn thuốc dân gian (thuốc nam) sẵn có

tại địa phương, ngoài ra một số có kết hợp với tân dược. Thuốc nam được sử

dụng dưới hai dạng: dùng trong và dùng ngoài. Trong đó, dùng trong dưới hai

hình thức uống và ăn, dùng ngoài dưới dạng bôi, xoa, đắp, tắm, xông,

chườm... Trong số 27 bài thuốc được sưu tầm của người Mường Hòa Bình thì

số lượng cây thuốc được sử dụng trong một bài ít nhất là 1 cây (chữa bệnh

đau túi trầu) và nhiều nhất là 21 cây (dùng cho phụ nữ sau sinh bị gầy yếu).

Trong 135 cây thuốc mà người Mường đang sử dụng thì có 107 cây (79,3%)

có nguồn gốc tự nhiên, mọc nơi hoang dại. Nhóm cây thuốc dùng chữa bệnh

cho phụ nữ chiếm số lượng lớn nhất là 29 cây (21,5%), tiếp đến là chữa

xương khớp và đường tiêu hóa (24 - 25 cây) [46].

Người Dao có nhiều tri thức dân gian phong phú và thiết thực về việc

sử dụng các loại thuốc dân gian trong chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh.

Chẳng hạn, sau khi sinh, sản phụ được quan tâm rất chu đáo, nhất là chế độ ăn

uống. Trước khi ăn người mẹ được uống thuốc do chính người dân tộc Dao tự

chế từ một số loại lá cây. Lý giải về việc sử dụng phổ biến tri thức dân gian,

tác giả Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý và cộng sự (1999) trong Văn hóa

truyền thống của người Dao ở Hà Giang đã lý giải: từ thời xa xưa người Dao

sống ở vùng sâu, nơi ít phát triển về y tế, nên y học dân dân gian luôn giữ vai

trò chủ đạo trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Thuốc dân tộc

của người Dao được chia thành ba loại: thuốc độc, thuốc bổ, và thuốc chữa

bệnh. Thuốc bổ và thuốc chữa bệnh dùng cho chăm sóc sản phụ và thai nhi và

người khi ốm đau bệnh tật. Ngoài các vị thuốc là cây, cỏ, rễ, lá, củ... còn các

bộ phận quý hiếm của các con vật săn bắt được [40]. Người phụ nữ Dao

104

Tuyển khi mang thai được khuyến khích làm các việc nhẹ và thường xuyên

ăn các loại rau xanh, thường dùng các món ít mỡ như cá, gà, vịt hoặc

xương lợn hầm. Đây là những món ăn có nhiều dưỡng chất, có thể bổ sung

một lượng vi chất đầy đủ đảm bảo cho người mẹ và thai nhi phát triển tốt.

[78, tr.73-77]. Sau khi sinh con, sản phụ phải kiêng ăn các món xào, rán,

hành, tỏi, ớt, cơm cháy vì sợ bị mất sữa. Ba ngày sau khi đẻ người mẹ có

thể ăn được thịt gà non. Người phụ nữ sau khi sinh được tắm một loại

thuốc lá cổ truyền dân tộc. Sau khi tắm lá thuốc, cơ thể người sản phụ phục

hồi rất nhanh, các mạch máu và khí huyết lưu thông nên việc cung cấp sữa

cho đứa trẻ sơ sinh cũng dồi dào. Sau khi tắm lá thuốc, sản phụ không cần

phải kiêng gió, kiêng nước mà có thể tự mình làm vệ sinh cá nhân mà

không sợ bị cảm hàn [78, tr.107-109].

Khi có mang, người phụ nữ Sán Dìu được bồi dưỡng nước dừa, trứng

gà, trứng ngỗng. Khi bị động thai thì gia đình sẽ lấy một số lá thuốc trong

rừng rửa sạch sau đó vò với nước đun sôi để nguội, cho uống từ hai đến ba

lần trong ngày [113, tr.22-26].

Sau khi sinh, nếu người phụ nữ Phù Lá thiếu sữa thì người ta nghiền

bột gạo tẻ nấu loãng cho trẻ ăn và kết hợp dùng một số loại thuốc làm tăng

bầu sữa cho người mẹ như: lấy hoa và rễ cây đu đủ đồ hấp cách thủy cho

người mẹ ăn; nếu không có hoa thì người ta lấy quả đu đủ xanh (để nguyên

vỏ) thái thành miếng nhỏ vừa miệng ăn, cho một ít mỡ để nấu canh xương,

rắc hạt tiêu cho người đẻ ăn trong bữa cơm để làm tăng khả năng tiết sữa

[17, tr.66-67].

Từ sự trình bày trên, chúng tôi thấy quan niệm và việc chăm sóc sức

khỏe của phụ nữ Việt ở châu thổ Bắc Bộ có nhiều điểm giống với quan niệm

và việc chăm sóc sức khỏe của phụ nữ các dân tộc thiểu số trong vùng. Họ

105

đều sử dụng các loại hoa, lá, quả, củ... trong tự nhiên để tạo ra các bài thuốc

hoặc các liệu pháp khác như đánh gió, bấm huyệt, mát - xa... để chăm sóc sức

khỏe và điều trị ốm đau (trừ cấp cứu). Điều này đặc biệt phổ biến ở khu vực

nông thôn châu thổ Bắc Bộ. Có thể lý giải đây là khu vực hệ thống y tế/cơ sở

chăm sóc sức khỏe chưa phát triển (giống như ở các vùng mà dân tộc Dao,

Mường sinh sống). Bên cạnh đó, xu hướng kết hợp với y học hiện đại (dùng

các loại tân dược, đi bệnh viện) dần dần phổ biến hơn. Việc giáo dục, phổ

biến, bảo tồn các tri thức dân gian về chăm sóc sức khỏe ở khu vực châu thổ

Bắc Bộ cũng chủ yếu thông qua truyền miệng giữa các thế hệ và qua kinh

nghiệm là chính, ngoại trừ một số cá nhân (thầy thuốc, thầy lang) có am hiểu

và ghi chép để hành nghề. So với người phụ nữ Việt, đồng bào các dân tộc

thiểu số phía Bắc cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc sức khỏe

đối với người phụ trước và sau khi sinh nở; đặc biệt việc tắm nước lá của

người Dao Tuyển, người Mường là một nét riêng độc đáo.

Như trên đã trình bày, chúng tôi đã tiến hành điều tra ở tám tỉnh, thành

vùng châu thổ Bắc Bộ. Có đến 72,6% phụ nữ được hỏi vẫn sử dụng phương

pháp chăm sóc sức khỏe dân gian để điều trị khi có người thân bị ốm. Lý do

giải thích thực tế này như sau: 76,4% cho rằng các nguyên vật liệu dễ kiếm,

sẵn có; 49,5% cho rằng giá rẻ, phù hợp với điều kiện thu nhập của gia đình;

61,9% nhận thức nếu biết cách điều trị sẽ khỏi không gây hại sau này; 35,6%

sử dụng vì thấy mọi người khuyên nên dùng; 37,0% được bác sỹ, người có

chuyên môn chỉ dẫn; 9,7% thấy người khác làm nên làm theo; 7,9% do không

có cơ sở y tế ở gần để điều trị.

Như vậy, về cơ bản đều nhận thấy đây là những phương pháp cần thiết

hiện nay để giữ gìn và chăm sóc sức khỏe của phụ nữ. Điều này phù hợp với

một nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới khi cho rằng có tới 80% dân số thế

giới hưởng ứng việc chăm sóc sức khoẻ bằng các thuốc có nguồn gốc từ thảo

106

dược bởi nó không có hoặc có rất ít tác dụng không mong muốn. Còn ở Việt

Nam, trong Danh mục Thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành năm 2005 có 94

thuốc thành phẩm và 215 vị thuốc từ các loại nguyên liệu tự nhiên và 60 cây

thuốc [90].

Các tài liệu nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe phụ nữ theo kinh nghiệm

dân gian thường đề cập đến chủ yếu là giai đoạn mang thai, sinh con và sau

sinh. Bởi lẽ trong suốt thời kỳ mang thai, cơ thể của người phụ nữ có những

thay đổi quan trọng có thể nhìn thấy được như: tăng cân, tăng kích thước, thể

tích của vú. Ngoài ra còn những biến đổi khác khó nhận thấy hơn như hệ tuần

hoàn, hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu... Do vậy, việc chăm sóc sức khỏe thời kỳ này

rất quan trọng đối với người phụ nữ nhằm đảm bảo thể lực, dinh dưỡng và các

điều kiện để sinh nở được an toàn. Các tài liệu về lâm sàng trong y học chỉ ra

sự thay đổi về cơ thể của phụ nữ qua từng tháng [95]. Đây cũng là thời kỳ

người phụ nữ dễ mắc các bệnh. Tại Việt Nam, mang thai là một hoạt động có

tầm quan trọng cơ bản về mặt xã hội, chính trị và tâm linh học [80]. Do vậy,

trong các kinh nghiệm dân gian, việc chăm sóc sức khỏe của phụ nữ có liên

quan đến nhiều vấn đề: dinh dưỡng và cả tâm linh. Chẳng hạn, trong thời kỳ

bụng mang dạ chửa, không được đi đứng vội vàng, không được nằm võng

(điều này có lý bởi các hành động ấy dễ sảy thai), hay cho rằng nên ăn trứng

gà luộc vừa trắng bên ngoài lại hồng bên trong (ta quen gọi lòng đào trứng

gà), thì con sinh ra sẽ có nước da trắng trẻo, hồng hào. Hoặc cách đứng ngồi

cũng được xem là có ảnh hưởng đến sự phát triển của con cái sau này. Vì vậy,

người xưa thường cho rằng trong suốt thời gian thai nghén người đàn bà phải

đứng ngồi ngay ngắn, có như thế sau này con mới trở thành người ngay thẳng.

Bà mẹ tương lai tránh nhìn những cảnh không hay, tránh nghe những chuyện

không đứng đắn, không tốt, để cho con sau này thành người đàng hoàng, tử

tế. Người phụ nữ mang thai thường được cho ăn đu đủ, vừa ngăn táo bón, vừa

107

tin tưởng rằng con mình sau này sẽ đầy đủ. Dân gian còn buộc người có thai

kiêng ăn cua, vì cho rằng cua là loài bò ngang, ăn cua sẽ bị đẻ ngang, ăn quả

chuối sinh đôi (hai quả chuối dính liền nhau) sẽ bị sinh đôi. Không cho sò, ốc,

bởi những giống này tiết ra nhiều chất nhờn. Nếu người mẹ ăn trai sò ốc hến

thì con đẻ ra sẽ bị nhiều nhớt dãi [95, tr. 58].

Khi sinh nở, phụ nữ phải nằm ở buồng kín trong suốt thời gian ở cữ và

còn kéo dài đến khi đứa trẻ đầy tháng, không đụng chạm vào nước lạnh, phải

nằm than lửa, phải xoa nghệ khắp người, ăn các loại thức ăn mặn, như cá

bống kho tiêu, mắm cái kho muối tiêu, không được ăn các thứ thức ăn loãng,

như, cháo, canh..; thức uống là nước vỏ dền, hoặc nước lá vằng (nên mới có

câu: “Mẹ sinh mang nặng đẻ đau/Ăn cay uống đắng biết bao ân tình”) [90].

Cho đến nay, nhiều kinh nghiệm dân gian của người xưa vẫn chưa thể

khẳng định về mặt khoa học là tốt hay không tốt. Như đã đề cập bên trên,

ngoài yếu tố chăm sóc sức khỏe, các tri thức dân gian này còn mang cả ý

nghĩa về mặt xã hội, văn hóa tâm linh nên cho đến nay còn rất nhiều người

vận dụng.

Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát thực tế về các phương pháp kiêng cữ

mà hiện nay phụ nữ biết đến và vẫn còn được áp dụng, thì có 77,3% số phụ

nữ được hỏi cho rằng phải thực hiện việc “kiêng cữ” trong quá trình sinh nở.

Kết quả thể hiện trong bảng số liệu dưới đây:

Bảng 7: Những hình thức “kiêng cữ” sau khi sinh của phụ nữ

Các hình thức kiêng Tỷ lệ (%)

Không quan hệ tình dục 69,9

Không khâu vá, thêu thùa 39,6

Không dự đám ma 66,0

108

Các hình thức kiêng Tỷ lệ (%)

Không đến chỗ đông người 34,7

Không ra ngoài gió hoặc phải có bông tai 54,9

Khác 6,3

(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)

Giải thích về việc “kiêng cữ” trên, qua phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm

chúng tôi được biết chị em phụ nữ được nghe từ lời khuyên của những người

đi trước. Theo lý giải, nếu kiêng cữ tốt sau này sẽ tránh được những hậu quả

không hay về mặt sức khỏe. Chẳng hạn, nếu kiêng gió sau này sẽ không bị ù

tai, hoặc nếu mặc ấm, sau này sẽ không bị nổi gân tay, gân chân… Hoặc

kiêng ăn rau cải nếu không sẽ đi giải nhiều lần trong ngày.

“Như tôi đây, đẻ xong ra ngoài gió sớm nên mới ngoài 40 tuổi mà cứ

hễ có gió là ù tai” (Phụ nữ, 48 tuổi, Ninh Bình).

“Còn tôi thì sinh vào ngày mùa không mặc áo dài, sau này cứ đến ngày

mùa là người lại nổi mẩn lên, cũng chỉ tại mình kiêng không tốt” (Phụ nữ 52,

tuổi, Ninh Bình).

Các tục lệ kiêng này được nhắc đến nhiều trong các tài liệu, sách về

sinh nở, song giải thích một cách có khoa học thì cho đến nay vẫn còn nhiều

tranh luận.

“Thực ra thì thấy các cụ nói như thế, và mình cũng ngẫm từ bản thân

mình thì bảo các con khi sinh nở kiêng cho cẩn thận chứ bảo tại sao hay giải

thích thì chúng tôi cũng không biết thế nào” (Phụ nữ, 46 tuổi, Nam Định).

Sau khi sinh, phụ nữ thường gặp một số chứng bệnh như chóng mặt,

đau bụng, chân tay tê dại... Vì vậy, ngoài việc thực hiện những “kiêng cữ” sau

sinh, nhiều phụ nữ còn sử dụng những bài thuốc dân gian để giúp họ thoát

109

khỏi những căn bệnh đó mà lại không ảnh hưởng hay có tác dụng phụ gì đối

với người mẹ và đứa trẻ. Khi được hỏi về việc sử dụng những bài thuốc dân

gian sau khi sinh, có 49,3% số phụ nữ cho rằng có sử dụng. Chẳng hạn:

Chữa chứng chóng mặt sau khi sinh: Lá ích mẫu tươi giã vắt lấy nước

cốt, uống sống.

Chữa chứng sau khi đẻ không ra được mồ hôi: Lá ích mẫu tươi giã vắt

lấy nước cốt, đun sôi, để nguội, pha thêm một thìa rượu cho uống.

Chữa đau bụng sau khi mới sinh: Lá ngải cứu và gừng giã nhỏ, sao

nóng, buộc lên rốn. Hơi ngải và gừng ngấm vào rốn sẽ cắt được cơn đau.

Phòng huyết ứ, khỏi đau bụng, ăn ngon miệng và có nhiều sữa: Lá

móng tay tươi 30g hoặc khô 12g; gừng khô đốt cháy thành than 12g. Hai thứ

đem sắc với bốn bát nước còn ba bát, chia uống ba lần trong ngày. Uống từ

3 - 5 ngày liên tục.

Chữa sản hậu tê thấp, chân tay tê dại: Hoa chuối tươi 1kg (chuối hột,

chuối lá, chuối tiêu đều được), thái nhỏ, sao vàng, úp xuống đất cho nguội, rồi

cho vào ấm đất sắc lấy nước đặc, uống nhiều lần trong ngày, bã dùng để đắp

vào những nơi tê đau. Nếu không thấy có những triệu chứng khác thường, có

thể uống liên tục trong vài ngày cho tới khi khỏi bệnh thì thôi.

Chữa sa tử cung: Hoa chuối tiêu (nhặt những hoa đã rơi xuống đất) sao

tồn tính, tán nhỏ, ngày uống hai lần, mỗi lần một thìa canh, khi uống dùng

nước sôi để chiêu thuốc. Hoặc, hàng ngày dùng 60g củ chuối tươi sắc uống

nhiều lần.

Chữa chứng mồ hôi ra nhiều sau khi đẻ: Rau sam giã nát, vắt lấy một

bát nước cốt, cho thêm vài hạt muối vào uống.

Sản hậu chân tay phù thũng: Hạt bí ngô 60g, sao chín rồi thêm nước

vào sắc uống.

110

Sản hậu táo bón: Bột quả bồ kết 3g (quả bồ kết sao vàng, tán mịn thành

bột) trộn với rượu đắp lên rốn rồi cắt một miếng cao dán lên để cố định. Sau

khoảng một giờ, bệnh nhân bắt đầu trung tiện được và khoảng bốn giờ sau là

đại tiện được.

Một số phương pháp chăm sóc sức khỏe, đặc biệt việc “kiêng cữ” và sử

dụng một số bài thuốc dân gian khi sinh vẫn tiếp tục được duy trì, song cũng

có một số phương pháp nay đã ít người sử dụng hơn. Sự thay đổi đó là do

hiện nay y học phát triển hiện đại, xã hội văn minh và điều kiện sống tốt hơn.

Ở góc độ y học có sự khác biệt nhất định khi giải thích về quan niệm và

thực hành “kiêng cữ”. Y học phương Tây cho rằng, tập quán trong thời

gian kiêng cữ sau sinh không tắm rửa, gội đầu là tập quán có liên quan mật

thiết đến điều kiện sinh hoạt thấp. Môi trường sinh hoạt trước đây không tốt,

không thể mang đến cho các bà mẹ sau sinh một phòng tắm và thiết bị giữ ấm

tốt, nước sử dụng cũng đều là nước giếng và nước sông hồ. Để tránh các bà

mẹ sau sinh bị lạnh, hoặc tránh nhiễm trùng các vết thương do vi khuẩn nước

giếng, nước sông gây ra nên mới có tập quán không thể tắm gội trong thời

gian kiêng cữ. Nhưng điều kiện sinh hoạt hiện nay không giống như trước kia

nữa, hiện nay các bà mẹ sau sinh có môi trường tắm gội giữ ấm rất tốt, chỉ

cần sau khi tắm gội nhanh chóng lau khô, sấy khô, như thế trong thời gian

kiêng cữ sau sinh của các bà mẹ không cần phải hạn chế tắm rửa, gội đầu.

Tuy nhiên, bác sỹ đông y dày dặn kinh nghiệm vẫn khuyên rằng: Trong hai

tuần sau khi sinh, thể lực người mẹ vẫn còn yếu, trong thời gian kiêng cữ đợi

để sau hai tuần thể lực hồi phục, vào thời gian thích hợp nhất mới bắt đầu việc

tắm gội kỹ. Trong vòng hai tuần sau khi sinh, các bà mẹ có thể sử dụng gừng

để nấu nước tắm hoặc gội đầu, song cần phải nhớ rõ sau khi tắm gội xong

phải lau khô cơ thể, sấy khô tóc không được để bị lạnh.

Truyền thống kiêng cữ sau khi sinh được truyền từ đời này sang đời

111

khác là một phương pháp quý báu giúp các bà mẹ nhanh trong phục hồi sau

sinh. Song, phương thức ở cữ truyền thống là được xây dựng trên cơ sở cuộc

sống trước đây, so với trình độ cuộc sống hiện nay đã có một số thay đổi, rất

nhiều quan niệm đã thay đổi.

Như vậy, về cơ bản các tri thức và phương pháp chăm sóc sức khỏe của

phụ nữ thường do người thân trong gia đình truyền đạt lại. Đây là nét đặc

trưng trong việc phổ biến, duy trì và bảo tồn của tri thức dân gian ở nước ta.

Trong việc chữa bệnh hiện nay, thỉnh thoảng cũng có trường hợp bệnh

viện công không chữa được, người ta đã tìm đến các bài thuốc dân gian và đã

có một số trường hợp khỏi bệnh. Cụ Nguyễn Văn X, 80 tuổi, ở Ninh Thuận,

mắc bệnh ung thư. Bệnh viện điều trị không có kết quả, người bệnh uống loại

dược liệu của đồng bào thiểu số và hiện nay khỏe mạnh. Cụ đã mách phương

thuốc này cho chị Đặng Thị Y, 45 tuổi ở tỉnh Điện Biên và bà Nguyễn Thị N,

53 tuổi ở Thái Nguyên. Mỗi đợt dùng thuốc kéo dài một năm, tiền thuốc hết

khoảng 23 triệu đồng. Đến nay, chị Đặng Thị Y đã hết tế bào ác tính; còn bà

Nguyễn Thị N sau hai năm ổn định thì bây giờ lại tái phát. Như thế là phương

thuốc dân gian có thể hợp với người này mà không hợp với người kia. Khi

dùng nó, người ta rất tin, không cần phải phân tích, giải thích gì hết. Một

trường hợp khác, bà Lê Thị M, 68 tuổi, ở Thái Bình, bị bệnh hoại thư, bệnh

viện không chữa khỏi. Một bác sĩ ở phòng khám tư đã điều trị bằng cách cho

bệnh nhân uống nhiều nước ép từ rau muống và tiêm kháng sinh liều cao. Kết

quả bà M khỏi bệnh (Tài liệu điều tra của NCS, 2016).

3.3.2. Đánh giá vị trí, vai trò của tri thức dân gian trong việc chăm sóc sức

khỏe hiện nay

Qua khảo sát thực tiễn ở trên, cho thấy tri thức dân gian rất có tiềm

năng trong việc vận dụng và kết hợp với tri thức hiện đại giúp cho người phụ

nữ thêm sự lựa chọn trong chăm sóc sức khỏe. Có được tiềm năng đó là do

112

các tri thức này có vị trí, vai trò lớn đối với môi trường, xã hội, kinh tế, sức

khỏe.v.v…

Nước ta có hệ thực vật vô cùng phong phú với trên 3000 loài cây có thể

làm thuốc chữa bệnh. Nếu so sánh với các loài cây trên thế giới đã biết thì ở

Việt Nam chiếm 17% tương đương 1/6 số lượng của toàn thế giới. Kho tàng

tri thức dân gian về cây thuốc phục vụ chăm sóc sức khỏe của cộng đồng dân

tộc Việt Nam nói chung rất phong phú [30]. Trong Danh mục Thuốc thiết yếu

Việt Nam ban hành năm 2005 có 94 thuốc thành phẩm và 215 vị thuốc từ các

loại nguyên liệu tự nhiên và 60 cây thuốc [90].

Như vậy, các sản phẩm, nguyên liệu tự nhiên (từ thực vật và động vật)

trong các bài thuốc trong chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ còn khá phổ

biến, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.Trong quá trình tồn tại và tiến hóa, con

người dựa vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên, lấy tự nhiên phục vụ con người. Để

thể hiện sự hòa hợp giữa con người với điều kiện tự nhiên, con người cần có

những biện pháp ứng xử với môi trường tự nhiên, góp phần bảo vệ môi

trường.

Về mặt sinh và xã hội: Xu hướng quan tâm đến chăm sóc sức khỏe và

chăm sóc sắc đẹp của người phụ nữ Việt trong xã hội hiện nay ngày càng lớn

bởi sức khỏe và sắc đẹp không chỉ có có giá trị về mặt sinh học (khỏe gắn liền

với đẹp) mà còn có giá trị về mặt xã hội. Một người phụ nữ có một cơ thể

khỏe mạnh sẽ mang lại tinh thần sảng khoái, ở góc độ sinh học thì tinh thần

tốt sẽ giúp cho người phụ nữ thấy vui vẻ, thể hiện được nét quyến rũ, duyên

dáng hơn, giúp họ tự tin trong ứng xử, thăng hoa trong công việc, tạo uy tín,

vị thế của mình trong xã hội.

Về mặt kinh tế: Xu hướng người phụ nữ lựa chọn phương pháp chăm

sóc chăm sóc sức khỏe theo dân gian trong một số trường hợp mang lại hiệu

quả cao, đồng thời mang lại lợi ích về mặt kinh tế: tiết kiệm, chi phí thấp, dễ

113

kiếm, dễ tìm, phương pháp đơn giản.

Về mặt sức khỏe: Trong bối cảnh tình trạng lạm dụng các hóa chất, các

nghiên cứu thực nghiệm về ứng dụng các phương pháp chăm sóc sắc đẹp và

chăm sóc sức khỏe theo dân gian ngày càng chứng minh đây là những phương

pháp tốt, an toàn để giúp phụ nữ nói riêng và con người nói chung vận dụng.

114

Tiểu kết chương 3

Sức khỏe là một trong những vốn quý nhất của con người và cộng

đồng. Bên cạnh những quan niệm chung, người Việt có một số quan niệm

riêng về sức khỏe của phụ nữ và việc chữa bệnh đối với họ. Tuổi 17 là tuổi

người phụ nữ khỏe mạnh nhất, đẹp đẽ nhất. Không chỉ có người Việt, nhiều

dân tộc khác như người Mường, người Thái cũng đúc kết như vậy. So với phụ

nữ Trung Bộ và Nam Bộ, người phụ nữ Việt khỏe mạnh ở Bắc Bộ theo quan

niệm dân gian không được khuyến khích vượt quá giới hạn so với sức khỏe

của nam giới. Cả người phụ nữ Việt và những người phụ nữ các dân tộc thiểu

số Bắc Bộ đều có những kinh nghiệm dân gian, bài thuốc dân gian, kiêng kị

dân gian trong việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, đặc biệt khi mang thai,

khi sinh nở và sau khi sinh nở. Trong điều kiện xã hội ngày nay, mức sống

ngày càng nâng cao, người phụ nữ Việt có nhiều điều kiện để chăm sóc sức

khỏe hơn trước. Nhiều chị em được khám sức khỏe định kỳ, nhiều người

luyện tập sức khỏe thường xuyên ở các câu lạc bộ rèn luyện thể hình hoặc

tham gia các môn thể thao phù hợp. Các loại thực phẩm chức năng và nhiều

loại thuốc đắt tiền dành cho phụ nữ liên tục được quảng cáo. So sánh giữa phụ

nữ ở đô thị, công sở với phụ nữ ở khu vực lao động tự do và nông thôn, phụ

nữ ở đô thị và công sở được chăm sóc sức khỏe thường xuyên hơn, đầy đủ

hơn. Trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, khi được trả lời phỏng vấn,

72,2% số chị em cho rằng các tri thức dân gian vẫn còn phù hợp, 23,7% cho

rằng còn phù hợp một phần, 1,8% đánh giá không còn phù hợp và 2,2%

không có ý kiến. Đa số phụ nữ vẫn sử dụng phương pháp dân gian để điều trị

khi người thân bị ốm bởi các nguyên vật liệu dễ kiếm, giá rẻ; cá biệt có nơi

chị em sử dụng các bài thuốc dân gian chỉ vì nơi họ sống không có cơ sở y tế

ở gần để điều trị. Tuy nhiên, các bài thuốc dân gian chỉ được sử dụng để bồi

bổ sức khỏe, điều trị những bệnh thông thường, bệnh mãn tính, hoặc xử lý

115

ban đầu. Có không ít bệnh nếu không có sự can thiệp của y học hiện đại sẽ

không chữa được. Ngày nay, xu hướng chăm sóc sức khỏe, kết hợp giữa y

học dân gian và y học hiện đại tương đối phổ biến. Đấy chính là lý do mà các

tri thức dân gian của người Việt cũng như của các dân tộc thiểu số được bảo

tồn và nghiên cứu.

116

CHƯƠNG 4

NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN

4.1. Mối quan hệ giữa sắc đẹp và sức khỏe

Sức khỏe và sắc đẹp là hai vấn đề khác nhau, nhưng chúng lại hay đi

với nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau. Thông thường người ta hay nói đến người

đẹp trước hết là phải thể hiện ở nước da, thần thái, sự sung mãn…Điều đó

cũng có ý nghĩa là có sức khỏe thì mới có vẻ đẹp bền vững và ổn định. Trong

tục ngữ Việt Nam khi nhắc đến “cái răng, cái tóc là gốc/ góc con người” hàm

ý theo cả hai nghĩa là nói đến sức khỏe và vẻ đẹp của con người. Người phụ

nữ đẹp là người có hàm răng đều đặn, chắc khỏe. Khi họ có chiếc răng duyên

thì về tổng thể, hàm răng họ vẫn là hàm răng đều. Nếu răng sâu, răng yếu, họ

không khỏe, thận bị yếu. Những người có mái tóc dài, mượt cũng là những

người có sức khỏe tốt. Trong trường hợp này, cái răng, cái tóc như là những

điểm nhấn thể hiện nét duyên, cách trang điểm của con người, nhưng cũng

cho thấy ở góc độ sức khỏe, cái răng, cái tóc như là chỉ báo về mặt sức khỏe

(răng và tóc có khỏe, có đẹp thì người phụ nữ mới khỏe).

Y học đã đưa ra những bằng chứng rằng chỉ số giữa các vòng của cơ thể

(eo và mông) có ảnh hưởng đến sức khỏe con người, những người nào vượt

quá giới hạn bình thường (của nam hoặc nữ) đều có nguy cơ bệnh tật cao hơn.

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn cho thấy tỷ số vòng eo trên vòng

mông không chỉ là dấu hiệu của sức khỏe chúng còn thông báo sức hấp dẫn

của phụ nữ. Điều này cũng đã được ca dao, tục ngữ Việt Nam nhắc đến khi

cho rằng một trong những tiêu chuẩn quan trọng của phụ nữ đẹp là vòng eo

“thắt đáy lưng ong”.

117

Nói đến người phụ nữ, trước hết là nói sức khỏe tình dục và sức khỏe

sinh sản. Người Trung Quốc cổ đại đã quan niệm như vậy. Quan niệm này thể

hiện ở ngay trong chữ viết của họ. Chữ 好 (hảo) nghĩa là tốt, bao gồm chữ 女

(nữ) và chữ 子 (tử), người đàn bà sinh con là một điều tốt [112, tr.114]. Ở Việt

Nam thời phong kiến, một trong những chức năng hàng đầu của người phụ nữ

là sinh nở. Tục ngữ Bắc Bộ có câu “Lấy vợ đàn bà (hoặc: hiền hòa) làm nhà

hướng nam”, có nghĩa là vợ phải là đàn bà, phải sinh đẻ được. Cả Trung Quốc

và Việt Nam thời phong kiến đều quy định rằng, người đàn ông có bảy cớ (thất

xuất) để có thể bỏ vợ: vô tử; dâm dật; bất sự cậu cô; khẩu thiệt; đạo thiết; đố

kỵ; ác tật. Có nghĩa là khi người vợ phạm vào một trong bảy điều: không có

con; dâm đãng; không thờ cha mẹ chồng; lắm mồm; trộm cắp; ghen tuông; có

ác tật thì người chồng có quyền bỏ vợ [7, tr.501]. Như vậy không sinh được

con là lí do đầu tiên người phụ nữ bị người chồng lìa bỏ. Người phụ nữ không

con bị thành kiến là người cô độc, cô quả. Ca dao từng ví người đẹp không con

với “hoa nở trên non một mình”.

Nói đến sức khỏe của người phụ nữ còn nói đến khả năng tình dục.

Trong dân gian người Việt lưu truyền một bài thơ chữ Hán và những lời ca

dao khá đồng nghĩa về mối liên hệ giữa vẻ bề ngoài (thì được cho đẹp) và khả

năng làm tình của người phụ nữ. Bài thơ đó như sau:

Hồng diện đa dâm thủy

Đa mi tức đa mao

Chiết yêu chân đại huyệt

Trường túc bất chi lao.

Những lời ca dao đó là:

Ứng với câu thơ thứ nhất:

118

Những người má đỏ hồng hồng

Nước l... tát mấy gầu sòng cho vơi.

Ứng với câu thơ thứ hai:

Những người mày dậm mi dài

Lông l… đốt được một vài gánh tro.

Ứng với câu thơ thứ ba:

Những người thắt đáy lưng ong

Lỗ l… vừa rộng bằng nong chăn tằm.

Ứng với câu thơ thứ tư:

Những người chân cẳng quềnh quàng

Một đêm đánh ngã vài chàng trai tơ.

Những người má đỏ, lưng ong, chân dài là những người đẹp, cũng là

những người có năng lực làm tình dồi dào, mạnh mẽ. Đàn ông đích thực là

người biết làm tình và làm tình mạnh mẽ. Họ cần và mê mệt trước những

người phụ nữ như vậy. Dũng mãnh như Lã Bố (trong Tam quốc diễn nghĩa)

không chết trên chiến trường, nhưng chết vì nghe lời vợ (Điêu Thuyền), vì

nàng đẹp và biết chiều chuộng trong chuyện chăn gối. Trên lý thuyết, giai cấp

thống trị xưa lên án những người phụ nữ “dâm”, có nghĩa là chê bai, đánh giá

thấp những người đằm thắm trong chuyện chăn gối, lẳng lơ, ngoại tình. Còn

trong thực tế, chưa thấy một đấng quân vương nào, một ông quan mũ cao áo

dài nào lại lên án người vợ đẹp, giỏi làm tình của họ.

Trong kho tàng ca dao người Việt, có một lời ca ngợi sự tháo vát, đảm

đang, chiều chồng thương con của người phụ nữ bình dân. Chị đã vượt qua

thử thách oái oăm một cách đầy đủ bản lính và bao dung với tất cả:

119

Đang cơn lửa tắt cơm sôi

Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem

Bây giờ lửa đã cháy lên

Lợn no, con nín, tòm tem thì tòm [59, tr.801].

Nhà thơ Xuân Diệu (1916 – 1985) đã so sánh lời ca dao này với bài thơ

nôm sau đây của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:

Hỡi chị em ơi có biết không?

Một bên con khóc, một bên chồng.

Bố cu lổm ngổm bò trên bụng,

Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.

Tất cả những là thu với vén,

Vội vàng nào những bống cùng bông.

Chồng con cái nợ là như thế,

Hỡi chị em ơi có biết không? [25, tr.441]

Nhà thơ so sánh: Lời ca dao không miêu tả tỉ mỉ, đi sâu như lời bài thơ

của thi sĩ họ Hồ, nhưng thử thách đối với người phụ nữ trong ca dao “nguy

kịch” hơn thử thách đối với người phụ nữ trong bài thơ vừa dẫn [25, tr.442].

Không chỉ có người Việt, người Mường cũng quan niệm người phụ nữ

đẹp cũng là người phụ nữ khỏe mạnh, có khả năng sinh sản tốt: “Tìm vợ xem

vú, mua lợn nái xem bầu sữa”, “To vú bụ con” [35, tr.199, 207]. Cả người

Việt và người Mường đều có những câu tục ngữ coi việc người đàn ông làm

tình với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ có mang là một trong những tiêu chí của

1 Cuốn sách của Cao Sơn Hải giới thiệu tục ngữ của người Mường Thanh Hóa. Theo giới thuyết của chúng

tôi, Bắc Bộ không kéo dài hết Thanh Hóa. Tuy nhiên, giữa Mường Hòa Bình và Mường Thanh Hóa có kho

tàng tục ngữ chung. Chứng cớ là trong sách của mình, Cao Sơn Hải dẫn cả tục ngữ nói về các vùng Mường

không ở Thanh Hóa: “Bi, Vang, Thàng, Động”.

sự sung sướng [35, tr.211]1.

120

Tóm lại, trong quan niệm dân gian cũng như trong quan niệm bác học,

người phụ nữ đẹp cũng là người phụ nữ khỏe, trong sức khỏe của người phụ

nữ có sức khỏe sinh sản và năng lực làm tình.

4.2. Sự khác nhau giữa tác giả dân gian và tác giả của dòng văn học viết

trong quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ

Trong mỗi một nền văn học dân tộc khi đã trưởng thành đều có hai

dòng văn học. Đó là dòng văn học dân gian (còn được gọi là văn học truyền

miệng, văn chương truyền khẩu, văn học thông tục, văn học bình dân), và

dòng văn học thành văn (còn gọi là văn học viết, văn chương bác học, văn

học tinh anh, văn học cao nhã).

Ở nước ta, đối với người Việt, văn học dân gian ra đời sớm. Đến thời

quân chủ độc lập (939-1884), văn học dân gian người Việt đã hết sức phong

phú về số lượng và thể loại. Cũng trong thời kì này, văn học thành văn đạt

được những thành tựu rực rỡ với những tác gia Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị

Điểm, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,

Nguyễn Khuyến,… Trong thời kỳ văn học này, nếu như ở dòng văn học dân

gian, người phụ nữ cùng với vẻ đẹp và sức khỏe của họ được quan tâm phong

phú, đa chiều cạnh bao nhiêu thì ở dòng văn học viết vấn đề này khá thưa

thớt, nếu không muốn nói từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII, khá vắng

bóng (trừ trường hợp Truyền kỳ mạn lục (thế kỉ XVI) của Nguyễn Dữ).

Chỉ đến Hồ Xuân Hương, một nữ tác giả mà tiểu sử cũng như tác phẩm

của bà còn nhiều điều phải bàn luận, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều

xếp sáng của bà vào nửa sau thế kỉ XVIII. Dù giới nghiên cứu đã thảo luận và

sẽ còn tốn thêm bút mực, nhưng ai cũng thừa nhận, thơ Hồ Xuân Hương

không lẫn với ai được:

121

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng

Lược trúc chải cài trên mái tóc

Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm

Một lạch Đào nguyên suối chửa thông

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt

Đi thì cũng dở, ở không xong [25, tr. 469].

Đây là người thiếu nữ gợi tình, trong trẻo của riêng Hồ Xuân Hương

cùng với tiếng cười “gây sự” đối với đấng quân tử, người được Khổng Tử gán

cho sứ mệnh nghiêm chỉnh tu thân, lao tâm chăm sóc kẻ lao lực (dân chúng).

Chỉ đến Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người đọc mới

thấy nỗi niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người cung nữ, thấy cái hợm

mình của cô ta về nhan sắc một thời: “Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”.

Chỉ đến Nguyễn Du, chúng ta mới được hồi hộp theo dõi bước chân

thoăn thoắt canh khuya của nàng Kiều đến với Kim Trọng, mới được thấy

cảnh người phụ nữ tắm trong văn chương bác học:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà

Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên [25, tr. 372].

Sau thời gian đất nước độc lập tự chủ, Việt Nam bị thực dân Pháp đô

hộ (1884-1945). Trong thời gian này, Thơ mới ra đời và đã chiến thắng thơ

cũ. Trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945), vẻ đẹp của người phụ nữ trở

thành một trong những đề tài chính của thi ca. Với mỗi nhà thơ, người đọc

biết thêm một vẻ đẹp, một vài khía cạnh của người đẹp. Người đẹp trong thơ

Nguyễn Nhược Pháp là cô gái thơ ngây, trong sáng. Nhà thơ như người đứng

122

xa xa, quan sát đối tượng thẩm mỹ. Đây là cô công chúa con vua Hùng:

Mỵ Nương, xinh như tiên trên trần

Tóc xanh viền má hây hây đỏ

Miệng nàng bé thắm như san hô

Tay ngà trắng nõn, hai chưn (chân) nhỏ

Mê nàng bao nhiêu người làm thơ [91, tr.8].

Hàn Mặc Tử cũng miêu tả những cô gái “ngây thơ”, song thi sĩ không

giấu nổi cảm xúc, ước vọng của mình:

Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự

Tôi đều nhận thấy trên môi em

Làn môi mong mỏng tươi như máu

Đã khiến môi tôi mấp máy thèm [131, tr.9]

Nước da của cô gái trong thơ Hàn Mặc Tử cũng là nước da trắng, song

cái màu trắng này rất khác nước da trắng của cô gái trong ca dao. Đó là cái

màu trắng “rợn mình”.

Với Bích Khê, vẻ đẹp lõa thể được thi sĩ ca ngợi và khát khao chiếm lĩnh:

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?

Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?

(….)

Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc

Vài chút trăng say đọng ở làn môi

Hai vú nàng! Hai vú nàng!chao ôi!

Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng [57, tr.46].

123

Như chúng tôi đã phân tích, quan niệm của dân gian về vẻ đẹp của

người phụ nữ thể hiện qua những lời nhận xét trực tiếp bằng tục ngữ, ca dao,

thể hiện qua hình tượng nhân vật như cô Tấm, như người vợ anh bán hành,…

Trong sáng tác dân gian không phải là không có những chi tiết miêu tả cụ thể

vẻ đẹp của người phụ nữ: “má đỏ hồng hồng”, “má phấn môi son, nắng dầu

mưa dãi càng giòn càng ưa”, “cổ tay đá trắng lại tròn”, “cổ tay em trắng như

ngà, con mắt em liếc như là dao cau”, “con mắt lá răm”, “răng đen nhưng

nhức”, (răng) “đen nhánh hạt huyền”,... Văn học dân gian là do dân chúng

sáng tác. Dân chúng là một tập hợp đông đảo, là anh trai cày, cô thôn nữ, bác

thợ mộc, ông đồ nho, người lính thú, bác xẩm mù, cô đào hát,… Trong khi

lưu truyền và sáng tác, họ chưa đạt đến dấu ấn của cá tính sáng tạo[66, tr.98-

99]. Vì thế, trong những lời ca dao, những câu tục ngữ về vẻ đẹp của người

phụ nữ, chúng ta chỉ thấy được dấu ấn thời đại, dấu ấn địa phương và dấu ấn

thể loại. Thí dụ, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, người con gái ở nông

thôn có hàm răng đen nhánh hạt huyền là hàm răng đẹp. Đây chính là dấu ấn

thời đại. Vẻ đẹp của người phụ nữ được miêu tả nhiều trong thơ ca dân gian,

ít được trong truyện cổ tích. Đây chính là dấu ấn thể loại. Tóm lại, khi miêu tả

vẻ đẹp của người phụ nữ, tác giả dân gian không để lại dấu ấn cá nhân của cái

tôi sáng tạo. Còn ở dòng văn học viết, ở những tác phẩm thành công, trong

vấn đề này cái riêng của từng tác giả được bộc lộ. Nàng Kiều của Nguyễn Du

khác với người thiếu nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Cũng là người con gái

ngây thơ, nhưng cái ngây thơ của cô gái trong thơ Nguyễn Nhược Pháp khác

với cái ngây thơ của cô gái trong thơ Hàn Mặc Tử. Người phụ nữ đẹp trong

thơ Bích Khê với cái đẹp lõa thể khác hẳn người con gái đẹp trong thơ

Nguyễn Nhược Pháp và thơ Hàn Mặc Tử. Như vậy, trong việc miêu tả vẻ đẹp

của người phụ nữ, bên cạnh việc các tác giả bộc lộ dấu ấn thời đại, dấu ấn địa

phương, dấu ấn thể loại, họ còn bộc lộ cái riêng của từng chủ thể sáng tạo,

làm phong phú vẻ đẹp tinh thần, đồng thời minh chứng cho chân lý cái đẹp là

124

sự kết hợp giữa khách quan và chủ quan.

Tóm lại, khi miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ, tác giả dân gian không

để lại dấu ấn cá nhân của cái tôi sáng tạo. Còn ở dòng văn học viết, ở những

tác phẩm thành công, trong vấn đề này, cái riêng của từng tác giả được bộc lộ,

làm phong phú vẻ đẹp tinh thần, đồng thời minh chứng cho chân lý cái đẹp là

sự kết hợp giữa khách quan và chủ quan.

4.3. Sức mạnh, giá trị và những số phận nổi chìm của những người phụ

nữ đẹp thời trước

Trong xã hội xưa, trong văn hóa bác học và văn hóa dân gian Trung

Quốc, người ta lưu truyền nhiều câu chuyện về các đại mĩ nhân. Những người

đẹp chân yếu tay mềm chính là những người có sức mạnh nghiêng nước,

nghiêng thành. Thời Đông Chu liệt quốc (bắt đầu từ thế kỷ VII Tr.CN), nàng

Bao Tự rất được vua nhà Chu sủng ái. Nàng tuyệt đẹp nhưng lại không chịu

cười. Nhà vua khuyến khích quần thần hiến kế để nàng có thể cười. Vua nhà

Chu là thiên tử của các chư hầu, khi đó có quy định rằng, khi nào thiên tử gặp

nguy, đốt lửa báo hiệu, các chư hầu lập tức đến ứng cứu. Theo “sáng kiến” của

viên quan nọ, giữa lúc thái bình, nhà vua cho đốt các ụ lửa báo nguy, binh mã

chư hầu lục đục kéo đến. Khi thấy không có chuyện gì, họ ngơ ngác nhìn nhau

và lại ra về. Trước sự tẽn tò của chư hầu, nàng Bao Tự bật cười khanh khách.

Một thời gian sau, khi xảy ra biến loạn, vua nhà Chu cho đốt các ụ lửa, không

ai đến cứu, đành chấp nhận kết cục bại vong [54, tr.3031].

Thời Xuân Thu chiến quốc (770 Tr. CN – 256 Tr. CN), Việt vương Câu

Tiễn bị Ngô vương Phù Sai cầm tù, sau được thả về. Câu Tiễn nuôi chí báo

thù. Ở nước Việt, tại thôn Trữ La có người con gái họ Thi, tên là Di Quang,

nhà ở phía Tây suối Nhược Da, cho nên gọi là Tây Thi (hoặc Tây Tử). Nàng

đẹp tuyệt trần, khi nàng ra suối giặt áo, bóng nàng soi xuống nước, các con cá

đang bơi phải dừng lại. Biết Phù Sai ham mê nữ sắc, theo kế hoạch của Phạm

125

Lãi, Câu Tiễn đem Tây Thi dâng Phù Sai. Phù Sai say đắm Tây Thi, bỏ bê

chính sự, sau bị Việt vương Câu Tiễn đánh cho đại bại [54, tr. 359 - 360].

Thời Tam quốc (220 - 226), Đổng Trác là tên thái sư nắm hết binh

quyền, lộng hành triều chính, nhà vua chỉ là bù nhìn. Các trung thần ai cũng

bất bình, căm tức nhưng không thể làm gì. Đổng Trác có người con nuôi tên

là Lã Bố. Lã Bố hết sức dũng mãnh, khi ra trận sử dụng cây kích, muôn ngýời

không ðịch nổi. Quan tư đồ Vương Doãn đã dùng cô hầu gái Điêu Thuyền

làm mĩ nhân kế. Điêu Thuyền đã từng bước thực hiện kế hoạch ly gián khiến

cho Lã Bố giết chết Đổng Trác [125].

Thời Đường (618 - 907), nàng Dương Ngọc Hoàn, tên hiệu là Thái

Chân (do đó cũng gọi là Dương Thái Chân). Nàng có nhan sắc, tư chất thông

minh, giỏi âm nhạc và ca múa, được Đường Huyền Tông (tức Đường Minh

Hoàng) đưa vào cung làm nữ quan, sau làm thứ phi, phong làm quý phi. Vì

vua mê say Dương Quý Phi, em trai nàng là Dương Quốc Trung được làm tới

Tể tướng. Trên núi Ly Sơn (thuộc tỉnh Thiểm Tây hiện nay), Đường Huyền

Tông cho xây dựng cung Hoa Thanh làm nơi vui chơi cùng người đẹp. Dương

Quý Phi rất thích ăn vải tươi, do đó nhà vua hạ lệnh cho các trạm ngựa

chuyên chuyển giao công văn phải dùng những con ngựa này chạy bất kể

ngày đêm để chuyển vải tươi đến cung Hoa Thanh. Các phu trạm do phải phi

ngựa chạy cấp tốc nên nhiều người mệt đứt hơi mà chết ở giữa đường. Vì quá

say mê nàng, vua Đường bỏ cả việc triều chính. Khi xảy ra vụ loạn An Lộc

Sơn, nhà vua phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục. Đến núi Mã Ngôi, quân sĩ

cho rằng vì Dương Quý Phi mà sinh ra loạn lạc, buộc nhà vua phải giết chết

nàng rồi mới chịu đi. Vua phải nghe theo [54, tr.116]. Tương truyền, Dương

Quý Phi tự treo cổ trên cành dương liễu. Nàng chết rồi mà vẫn còn đẹp. Quân

lính tranh nhau chiếm đoạt thân thể nàng. Và cũng theo lời đồn đại dân gian,

bệnh giang mai ra đời từ đó.

126

Kết cục cuộc đời của Bao Tự, Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi

đều không may mắn. Duy chỉ có người đẹp Từ Hi (1835 - 1908) làm chủ

được vận mệnh của mình. Xuất thân trong một gia đình quý tộc Mãn Châu, là

cung nữ, sau đó Từ Hi trở thành vợ vua Hàm Phong. Năm 1851, Hàm Phong

chết. Các đời vua sau đều nhỏ tuổi, quyền bính rơi vào tay thái hậu Từ Hi.

Những năm 1875 - 1908, thái hậu thực sự nắm mọi quyền bính trong triều. Từ

Hi nổi tiếng là người tàn bạo, độc đoán, bảo thủ. Về chính trị, thái hậu chủ

trương liên kết cầu hòa với các nước phương Tây đang xâm chiếm Trung

Quốc để trấn dẹp các cuộc nổi dậy trong nước. Hai ngày trước khi chết, Từ Hi

chỉ định Phổ Nghi lên ngôi vua [44, tr.708]. Phổ Nghi là ông vua cuối cùng

của lịch sử phong kiến Trung Quốc.

Khổng Tử rất coi thường phụ nữ, trong đó bao gồm cả những người đẹp.

Nho gia quan niệm người đàn ông phải có sự nghiệp là điều chính yếu, ai quá

vướng bận vào chuyện vợ con là kẻ tầm thường. Trong các câu chuyện về danh

nhân, người ta thường khen những người học trò mắt nhìn thẳng, không liếc

nhìn những người con gái đẹp ở bên cạnh. Nhà nho tổng kết: “Hồng nhan bạc

phận” (Những người phụ nữ đẹp thường có cuộc đời không may mắn, hoàn

hảo).

Dưới chế độ phong kiến, cứ mỗi một ông vua lên cầm quyền là hàng

vạn người phụ nữ đẹp bị tuyển vào cung, có rất nhiều người cả mấy chục năm

tuổi xuân không một lần được quân vương đoái hoài tới. Mỗi khi xảy ra biến

loạn, vua quan không giữ nổi quyền bính thì hoàng hậu, vương phi, công chúa

của nhà vua, phu nhân, con gái của các quan lớn, tướng quân đều trở thành đồ

chơi trong tay kẻ chiến thắng. Thời Tam quốc, sau khi Tào Tháo phá tan lực

lượng của Viên Thiệu và đám con của ông ta, vợ và con dâu Viên Thiệu phải

che giấu nhan sắc bằng cách ăn mặc nhem nhuốc. Khi Tào Phi (con trưởng

của Tào Tháo) xông đến chỗ vợ của Viên Thiệu, thấy hai phụ nữ ôm nhau

127

khóc, Tào Phi rút gươm toan chém, chợt thấy một đám hào quang chói lọi

trước mặt bèn chống gươm hỏi: “Chúng bay là người nào?”. Người phụ nữ

đứng tuổi cho biết mình là vợ Viên Thiệu, còn người con gái trẻ là Chân Thị,

là con dâu của Viên Thiệu. Tào Phi kéo người con gái ấy lại gần, thấy đầu xù

mặt nhọ, liền lấy vạt áo lau mặt lộ rõ màu da trắng như ngọc, mặt đẹp như

hoa, có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Một lúc sau Tào Tháo kéo quân

vào thành, sau khi xem mặt Chân Thị, Tào Tháo nói: “Thật xứng đáng làm

dâu ta” và bảo Tào Phi nhận Chân Thị làm vợ [125, tr 528 - 529].

Trong cùng khu vực văn hóa Đông Á, tư tưởng trọng nam khinh nữ và

chế độ thê thiếp không hề xa lạ với nước ta. Trong sách Phủ biên tạp lục, Lê

Quý Đôn (1726 – 1784) đã kể về chúa Nguyễn Phúc Tần (làm chúa từ năm

1648 đến năm 1687) như sau: Thế tử là Dũng Lễ hầu Phúc Tần nối nghiệp, tự

xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân

quốc trọng sự, thái bảo Dũng quận công. Phúc Tần là người cứng rắn quyết

đoán, đã lấy người con hát xứ Nghệ An là đào Thừa, cực kỳ yêu mến. Sau đó,

Phúc Tần đọc sách thấy chuyện Ngô vương yêu Tây Thi, lập tức tỉnh ngộ, sai

đào Thừa đưa áo cho tướng là Nghĩa Sơn, viết mật chỉ vào dải áo sai Nghĩa

Sơn đánh thuốc độc giết đào Thừa. Từ đấy, Phúc Tần cố gắng giảng tập võ bị,

sửa sang binh khí, chiêu tập quân dũng cảm, tập trận cho voi, luyện thủy

quân, mưu xâm lấn Đàng Ngoài [29, tr.68-69]1. Trong tầng lớp trên của ta, ai

cũng biết câu “Thê dụng đức, thiếp dụng sắc” (Lấy vợ thì chọn người nề nếp,

có giáo dục, biết cư xử trên dưới, biết quản lý gia đình, chọn thiếp (nàng hầu)

thì chú ý đến nhan sắc). Có điều người phụ nữ ở nước ta được đối xử đỡ hà

1 Ở Đàng Ngoài, người ca hát bị khinh rẻ (“Xướng ca vô loài”), là con kép hát nên Đào Duy Từ không được

đi thi. Ông trốn vào Đàng Trong và được trọng dụng. Ở vùng đất mới, chúa Nguyễn cởi mở hơn nên mới có

chuyện Phúc Tần lấy ca nữ làm vợ.

khắc hơn so với người phụ nữ Trung Quốc. Có lúc, có nơi người phụ nữ được

128

đề cao, đến mức sau này nhà sử học Trần Quốc Vượng đã phát triển tổng kết

về “nguyên lý mẹ của nền văn hóa Việt Nam” [143, tr.481 - 486].

Không cứ tầng lớp trên, nhiều người dân bình thường nước ta cũng biết

những câu chuyện về Dương Quý Phi, Điêu Thuyền, Tây Thi,…Và ngay trên

đất nước ta, việc chúa Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ (quê ở làng Chè) cũng

đủ để dân gian sáng tác và lưu truyền truyện cười Ngọa sơn1, lời ca dao:

Sự đời chỉ tại bà chúa Chè

Cho nước chúa mất, cho nghè làng xiêu!

Về sức mạnh của cái đẹp, dân gian có câu chuyện Ai mua hành tôi

(cũng có nơi gọi là truyện Lọ nước thần) [19, tr.180 - 184].

Câu chuyện trên gửi đi nhiều thông điệp, trong đó cho thấy sắc đẹp của

người phụ nữ có thể làm cho vua chúa mê mẩn, mụ mẫm, mất hết lý trí đến

mức phải mất cả mạng sống, mất cả ngôi báu.

Trong lịch sử nước ta, không ít lần những thiếu nữ mảnh mai, yếu đuối

đã vì việc nước mà dấn thân. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược

Nguyên Mông lần thứ hai, thế giặc rất mạnh, khi Thoát Hoan tiến đến bên kia

bờ sông Hồng, bên này, vua quan nhà Trần chưa chuẩn bị xong cho cuộc rút

lui chiến lược. Nhà vua đã đem công chúa An Tư dâng cho Thoát Hoan, nhằm

làm trì hoãn bước hành quân của giặc đang ở thế chẻ tre. Một đêm đủ để cho

nhà Trần lên thuyền chạy về Thiên Trường (thuộc Nam Định ngày nay). Một

1 Đây là một truyện trong hệ thống truyện Trạng Quỳnh. Một buổi trưa, Quỳnh vào phủ chúa, thấy

cửa đóng, Quỳnh bèn viết lên cửa hai chữ “Ngọa sơn”. Chúa tỉnh dậy thấy hai chữ đó, đoán mãi

không ra nghĩa, đám cận thần cũng chịu. Hôm sau, chúa hỏi Quỳnh nghĩa của hai chữ đó là gì,

Quỳnh tâu: “Ngọa là nằm, nằm thì phải ngủ, ngủ thì phải ngáy, sơn là núi, núi phải có đèo, xin nhà

chúa nói lái hai tiếng “ngáy đèo” thì rõ ngay ạ”.

đêm đủ để An Tư trở thành vợ của thái tử Thoát Hoan. Sau này bại phải chạy

129

trốn về phương Bắc, Thoát Hoan không bị vua Nguyên Mông khép tội chết,

nhưng cũng phải chịu hình phạt. Nghe đâu phải lưu lạc xứ người theo Thoát

Hoan, An Tư có hai mặt con với hắn. Khi vãn du vào vương quốc Chăm pa,

thượng hoàng Trần Nhân Tông (lúc này đã khoác áo cà sa) đã gả công chúa

Huyền Trân cho vua Chăm. Huyền Trân đã ngàn dặm ra đi để đất đai Đại Việt

mở rộng thêm về phía Nam, để giữ quan hệ hữu hảo giữa hai nước. Việc

chung thì như vậy, còn đời tư của nàng lại bất hạnh. Sau khi vua Chăm chết

(chỉ sau một năm nàng có mặt ở xứ sở này), nhờ Trần Khắc Chung đánh tháo,

Huyền Trân thoát khỏi cảnh lên giàn thiêu chết theo chồng (theo phong tục

Chăm pa lúc đó). Trở ra Bắc, nàng không về Thăng Long mà đi tu ở chùa

Long Đọi (nay thuộc tỉnh Hà Nam).

Như vậy, chỉ có vợ anh hàng hành là có được cuộc sống hạnh phúc

viên mãn; còn cả An Tư và Huyền Trân đều phải sống những chuỗi ngày

không vui lúc cuối đời. Song nếu xét ai là người đẹp bất hạnh nhất Việt Nam

thì đó chính là nàng Kiều. Thúy Kiều của Nguyễn Du có nhan sắc: “Hoa ghen

thua thắm, liễu hờn kém xanh”, có tài cầm kì thi họa, đã xử sự thật trách

nhiệm khi cha và em trai gặp cơn tai biến. Nàng tài sắc, đức hạnh vẹn toàn.

Vậy mà Kiều đã phải hai lần vào lầu xanh, hai lần khoác áo tu hành, không

được sống một cuộc sống bình yên, dung dị như bao người phụ nữ bình

thường khác1.

Dân gian không ca ngợi những đàn ông chết vì tình. Một mặt thì đối

với dân gian, vợ đẹp con khôn là một tiêu chí hạnh phúc của người đàn ông.

Mặt khác, lại có những câu tục ngữ: “Vợ đẹp là vợ người ta”; “Vợ đẹp chỉ tổ

1 Năm 1990, trong bài thơ Lời Mỵ Châu, Đỗ Trung Lai cho rằng Kiều không phải là “người đàn bà

khổ nhất giời Nam”. Người khổ nhất là Mỵ Châu.

đau lưng”.v.v….

130

4.4. Sự mở rộng trong cách nhìn nhận và điều kiện xã hội tiến bộ của

khoa học, kỹ thuật, bảo vệ, cổ súy cho cái đẹp của người phụ nữ

Trong quan niệm dân gian, người con gái ngày trước chỉ đẹp, chỉ xinh

cho đến khi lấy chồng:

Hoa tươi đang độ gió đông

Gái xinh xinh đến có chồng thì thôi [59, tr.1201].

Người bình dân xưa khuyên nhau: Khi đã có chồng thì cần ăn mặc giản

dị hơn trước, phải “bớt màu trang điểm kẻo trai nó lầm”. Đó là chưa kể không

ít người phụ nữ trong cuộc đời làm dâu, làm vợ, làm mẹ phải chịu nhiều nỗi

vất vả, nhan sắc tàn phai nhanh:

Trai ba mươi tuổi đang xoan

Gái ba mươi tuổi đã toan về già [62, tr.2673].

Tất nhiên khi người phụ nữ có chồng và sinh con thì có một thời gian

ngắn, như dân gian thường nói họ được thay máu, họ mặn mà hơn trước. Bởi

vậy có câu tục ngữ: “Gái một con trông mòn con mắt” [61, tr.1192]. Nhưng

trong xã hội trước, người phụ nữ thường phải sinh nở nhiều lần, nhan sắc và

sức khỏe giảm sút rất nhanh: “Gái hai con vú quặt đằng sau; gái ba con chỉ

đâu ngồi đấy” [61, tr.1192]. Đấy là cuộc sống của những người phụ nữ bình

dân. Sau khi lập gia đình, sau khi sinh con, họ ít quan tâm đến bản thân và

cũng không có điều kiện chăm sóc, bồi dưỡng cho mình. Bao nhiêu miếng

ngon họ dành cho con, cho chồng. Trong xã hội ngày trước, mức sống còn

thấp, không có điều kiện tẩm bổ, phải làm việc nhiều (việc nhà, việc đồng

áng) nên sức khỏe của người phụ nữ tàn lụi theo cấp số nhân : “Một năm một

tuổi như đuổi xuân đi” [62, tr.1843]. Những người phụ nữ giàu có không gặp

nỗi vất vả về kinh tế. Sinh con ra họ có vú em, họ không phải cho con bú. Vì

thế có những người sau bảy, tám lần sinh, cơ thể vẫn gọn ghẽ, tất nhiên họ

131

được tẩm bổ, sử dụng thuốc thang và tuân thủ các quy tắc kiêng khem mà y

học dân gian và y học cung đình ngày trước biết đến.

Vẫn theo cái nhìn coi phụ nữ là đối tượng để thưởng ngoạn và hưởng

thụ, người xưa cho rằng người con gái chưa lấy chồng như là nước của ấm trà

thứ nhất, còn người phụ nữ sau khi lấy chồng như là nước của ấm trà thứ hai,

vị đậm hơn. Trừ một số ít phụ nữ thuộc tầng lớp giàu có, quý tộc có điều kiện

làm đẹp, chăm sóc sắc đẹp giữ gìn và tăng cường sức khỏe, còn đại đa số phụ

nữ thường dân thủa trước số thời gian làm đẹp, chăm sóc sức khỏe ít hơn

nhiều so với hiện nay. Hiện nay, phụ nữ sau khi lập gia đình, sau khi sinh con

vẫn tiếp tục đến các cơ sở làm đẹp, rồi mua máy móc luyện tập ở nhà theo chế

độ ăn kiêng khoa học, dùng các mĩ phẩm dưỡng da,... để chăm sóc sắc đẹp và

sức khỏe cho mình và những người thân trong gia đình.

Ngày xưa, trong giao tiếp, người nam hỏi người nữ về tuổi tác, chồng

con là câu chuyện bình thường. Truyền thuyết dân gian kể rằng, gặp Nguyễn

Thị Lộ bán chiếu ở Hồ Tây, Nguyễn Trãi đã hỏi chuyện bằng thơ:

Nàng ở đâu ta bán chiếu gon?

Chẳng biết đã bán hết hay còn?

Xuân sanh chừng độ bao nhiêu tuổi?

Đã có chồng chưa, có mấy con?1

Trong ca dao, chàng trai hỏi cô gái:

Gặp đây anh hỏi thực nàng

1 Bài thơ trả lời của Thị Lộ như sau:

Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon Cớ sao ông hỏi hết hay còn? Xuân sanh chừng độ trăng tròn lẻ

Chồng còn chưa có, hỏi chi con?

Còn không hay đã đá vàng cùng ai?

132

Còn không để chúng anh chờ

Hay là đã có nơi nhờ thì thôi [59, tr.1101].

Ngày nay, theo phép lịch sự mà chúng ta tiếp nhận từ châu Âu, người ta

không hỏi tuổi người phụ nữ, trong giao tiếp cũng không hỏi đã lập gia đình

chưa và có bao nhiêu con, bởi vì những người phụ nữ đẹp là những người

không có tuổi và mãi không già.

Trong xã hội cũ những người phụ nữ quyền quý khi cha, khi chồng còn

chức tước oai phong thì họ sống trong cung cấm, dinh thự. Trong một thời

gian vàng son ấy, cái đẹp của họ được cửa đóng then cài, được bảo vệ. Còn

những người phụ nữ thường dân xinh đẹp, nhiều khi họ buộc phải tìm cách

hạn chế sự bộc lộ vẻ đẹp của hình thể. Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của

nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, chị Nguyệt là một người con gái đẹp. Chị đi

đến đâu cũng được người ta giúp đỡ. Đây là vẻ đẹp của chị qua cái nhìn của

cậu em trai thơ ấu: “Chị tôi thật xinh đẹp, thủa bé tôi chưa biết, nhưng một hai

năm lại đây tôi chợt nhận ra điều đó. Nhận ra vì bỗng nhiên đám con trai

trong làng bám lấy tôi để chiều chuộng, thậm chí để nịnh nọt bởi vì thầy u tôi

cấm chị không cho đi đàn đúm. Còn tôi lại được phép sống hoang dại đi đâu

thì đi. Lẽ dĩ nhiên họ phải bám lấy tôi hòng thông qua tôi để đến được với chị.

Chắc chắn chị tôi có gương mặt dễ coi, có một thân hình nảy nở duyên dáng.

Nhưng cánh con trai cho rằng chị Nguyệt đẹp nhất ở mái tóc và nước da.

Nước da như ngà, mái tóc đen nháy, óng ả chảy xuống kheo chân. Mái tóc

càng duyên thêm vì chiếc khăn vấn. Không phải màu đen, cũng không phải

màu nâu già, chiếc khăn màu nâu non. Chị tôi phải khéo léo nhuộm bằng

nước củ nâu giã nhỏ cùng với một số vỏ cây. Cuối cùng mảnh vải trắng biến

thành như màu son mà không phải là son, như màu nâu mà không phải là nâu,

nó không gắt mà dìu dịu ấm áp. Chiếc khăn cuộn quanh mớ tóc, chít tròn

vành vạnh trên đầu, khiến gương mặt chị tôi sáng bừng lên và để lộ ra cái cổ

133

kiêu ngà ngọc, cùng với vài sợi tóc mây lòa xòa sau gáy”[56, tr.78]. Khi tai

họa ập đến gia đình, cả cha lẫn mẹ đều bị giặc giết, Nguyệt bị tên lý trưởng ép

làm vợ lẽ, Nguyệt và cậu em mới lên mười tuổi phải bỏ làng, chạy đi thật xa,

xin nương nhờ cửa Phật. Sư cụ chỉ xuống tóc cho cậu em, và cho Nguyệt ở

nhờ trong khuôn viên nhà chùa. Thầy giáo làng rất mến Nguyệt. Sư bác

Khoan Độ vốn xuất thân là tướng cướp, sau khi giác ngộ đã đốt một ngón tay,

thể hiện quyết tâm quy y. Một vị sư như thế trước nhan sắc của Nguyệt cũng

xao lòng. Ta hãy nghe em trai Nguyệt kể chuyện: “Có một hôm trời nóng, chị

tôi gội đầu và hong tóc. Chị tôi cũng ý tứ, ra đằng sau chùa bên bờ ao để cho

kín đáo và đồng thời được nhận ánh nắng chiếu qua khoảng trời thoáng đãng

của vùng ao chiếu vào. Chị tôi xõa tóc, tấm lưng trần trắng muốt, ánh nước

loang loáng. Chị tôi nghiêng đầu cầm cái quạt nan phe phẩy vào mớ tóc đen

láy thật yểu điệu. Tôi và sư bác đang dỡ lạc. Sư Độ cũng vô ý. Tôi chợt thấy

ông ngây người, hình như ông thở dài thì phải” [56, tr. 85].1

Sư cụ là người trải đời và độ lượng. Có lẽ hòa thượng đã dạy bảo

Nguyệt lúc sư bác và cậu em trai không có nhà. Nguyệt thay đổi rất đột ngột.

Thứ nhất, Nguyệt bỏ hẳn không vấn tóc bằng chiếc khăn nâu non làm sáng

bừng gương mặt. Thứ hai, quần áo nâu sòng của chị bỗng trở nên rách rưới

lam lũ hơn. Thứ ba, Nguyệt luôn luôn sùm sụp trên đầu chiếc khăn vuông cũ,

chiếc khăn che kín hai thứ đẹp nhất của chị là mái tóc dài và cái cổ cao trắng

ngà mà người con gái nào được trời ban tặng cũng luôn muốn phô ra để cho

đời thèm khát [56, tr. 86].

1 Trong tiểu thuyết, nhiều lần nhà văn nhắc đến ca dao: “Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm

bỏ bùa cho sư…”, “Sư đang tụng niệm nam mô; thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa; lòng sư luống

những mơ hồ; bỏ cả kinh kệ tìm cô hỏi chào!”. Nhà văn cũng mô tả việc nhà sư Vô Trần bỏ cả

chùa, hoàn tục cùng một góa phụ trẻ tuổi.

Như trên đã thấy, trong xã hội cũ, trong thời buổi loạn lạc, nhiễu

134

nhương, cái đẹp của người phụ nữ là tai họa hơn là diễm phúc; trong chốn từ

bi, cái đẹp phải bị che giấu hoặc làm cho tiều tụy, lam lũ để các phật tử

chuyên tâm tu hành. Trong xã hội cũ, ngay cả trong thời bình, nói chung cái

đẹp không được bảo vệ. Một người con gái đẹp có thể bị một viên quan tri

huyện hoặc quan tri phủ cưới làm thiếp. Người làm thiếp không phải là người

có địa vị làm vợ, thực chất là người hầu. Nếu người con gái đẹp không đồng ý

thì họ bị làm khó dễ trăm điều, thậm chí họ còn bị những tay hảo hán lục lâm

cướp đi một thời gian, đặt vào tình thế đã rồi, buộc nhà gái phải bằng lòng

cho anh ta lấy làm vợ.

Chỉ trong xã hội văn minh hiện đại, trong một nền pháp trị nghiêm

chỉnh, mọi người được tôn trọng, được bảo vệ quyền sống, quyền làm việc,

quyền thực hiện tình cảm riêng tư một cách chính đáng thì những người phụ

nữ đẹp mới được an toàn hơn1. Đây cũng là sự khác biệt cơ bản giữa những

người phụ nữ đẹp ở trong hai thời đại.

Trong xã hội cũ người con gái đẹp một cách kín đáo. Trong xã hội hiện

đại, cái đẹp được quan niệm và nhìn nhận thật đa dạng, có lúc kín đáo, có lúc

phô bày và càng ngày người phụ nữ càng sử dụng những phục sức để làm tôn

vẻ đẹp của cơ thể. Những cuộc thi hoa hậu trong nước và thế giới đã chứng tỏ

một cuộc cách mạng trong cách đánh giá, nhìn nhận. Nếu ngày xưa hồng

nhan bạc phận thì ngày nay hồng nhan bạc triệu. Những người đẹp sau khi

đoạt giải trong các cuộc thi sắc đẹp đã nhận được những phần thưởng hậu

1 Thời gian phản ánh của tiểu thuyết Đội gạo lên chùa kéo dài từ kháng chiến chống Pháp tới

những năm gần đây. Hiện thực nông thôn Bắc Bộ những năm đầu kháng chiến chống Pháp không

khác với hiện thực trước Cách mạng tháng Tám nhiều. Cũng giống như Đàn hương hình của Mạc

Ngôn, trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, có rất nhiếu phong tục tập quán, tri thức dân gian

và những yếu tố khác của văn hóa dân gian.

hĩnh. Sau khi đạt danh hiệu hoa hậu, họ trở thành những nhà hoạt động xã

135

hội, những đại diện thiện chí. Họ được giới truyền thông săn đón, các nhà

doanh nghiệp chào mời. Họ trở thành đích ngắm của những người đàn ông

giàu có. Mới đây ở nước ta có cuộc thảo luận trên báo chí về mối quan hệ

giữa đại gia và chân dài. Trong số những ý kiến khác nhau, có loại ý kiến thể

hiện cái nhìn tích cực về vấn đề này. Loại ý kiến cho rằng đại gia là những

người có năng lực, có tài, không kể những trường hợp gặp may một cách

ngẫu nhiên hoặc làm ăn bất chính, để có một gia sản lớn, họ phải có năng lực

tổ chức, nhạy bén về kinh doanh, đôi khi họ phải mạo hiểm. Tại sao những

người đó không đáng được khâm phục? Họ đem tiền bạc về cho đất nước, lập

công ty, mở mang nhà máy xí nghiệp tạo công ăn việc làm cho rất nhiều

người. Vậy nếu họ đến với người đẹp cũng như người đẹp tự dâng hiến cho

họ thì những người đó có gì là sai trái? Một khi là phu nhân của các đại gia,

rõ ràng người đẹp sẽ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, có điều kiện thật tốt

để chăm sóc sắc đẹp.

Trong xã hội cũ, cái đẹp của phụ nữ chủ yếu là do trời phú. Người ta

dùng các phương pháp dân gian như chế độ ăn uống, dùng hương liệu, dùng

một số loại thuốc nam và tập luyện để giữ gìn sắc đẹp, tuy nhiên ở đây yếu tố

căn bản vẫn là thiên phú. Ở xã hội hiện đại, bên cạnh việc tiếp thu những tri

thức dân gian để giữ gìn một cách bền vững cái đẹp, chị em phụ nữ còn dùng

các biện pháp phẫu thuật thẩm mĩ như nâng ngực, cắt mí, nâng mũi, gọt cằm,

hút mỡ,… Hiện nay trong vấn đề này có hai cách nhìn trái ngược. Một cách

phủ nhận các tác nhân nhân tạo đến vẻ đẹp của phụ nữ vì họ cho rằng làm đẹp

do phẫu thuật thẩm mĩ là hại cho sức khỏe, là giả tạo, cái đẹp phải là cái đẹp

tự nhiên. Một cách khác không phản đối phẫu thuật thẩm mĩ, việc làm đẹp

bằng phương pháp khoa học kỹ thuật hiện đại. Những kỹ thuật này làm tôn

thêm những vẻ đẹp thiên phú, giảm bớt những nhược điểm và giúp cho vẻ đẹp

của người phụ nữ được cải thiện và tuổi xuân kéo dài. Chính vì vậy sự xuất

136

hiện và tồn tại ngày càng nhiều spa, trung tâm thẩm mĩ thu hút nhiều phụ nữ

trẻ tuổi, thậm chí cả tuổi trung niên đến những nơi này để chăm sóc sắc đẹp

của mình. Trong xã hội cũ, cô Tấm từ trong quả thị bước ra hay người vợ

trong câu chuyện Lọ nước thần trở nên tuyệt đẹp. Điều này chỉ có trong thế

giới của truyện cổ tích, người ta phải nhờ tới Bụt, tới những phép màu huyền

diệu. Trong xã hội ngày nay, phẫu thuật thẩm mỹ có thể chuyển đổi cả giới

tính, có thể thay được màu da, lưu giữ tuổi thanh xuân. Chính những tiến bộ

kỳ diệu của khoa học kỹ thuật đã giúp con người thực hiện điều này. Mỗi

năm, chỉ riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có gần 10.000 ca phẫu thuật

chỉnh sửa ngực và trên 15.000 ca nâng mũi. Nước ta hiện nay đang thiếu nhân

lực phẫu thuật thẩm mỹ. Các đơn vị kinh doanh tìm cách đưa bác sĩ Hàn Quốc

sang Việt Nam hoạt động “mổ dạo”. Các cơ sở đặt hẹn bác sĩ ngoại thực hiện

ca mổ kéo dài 1 - 2 ngày tại Việt Nam rồi lại quay trở về nước là một thực tế

có thật [24, tr.6]. Mới đây nhất, trên tờ Heritage Fashion số tháng 5-6 năm

2016 của VietnamAirlines có bài “Chỉ vàng làm đẹp dáng giá ngàn vàng”.

Theo đó, tại cơ sở làm đẹp Thanh Hằng Beauty Medi (ở Hà Nội và thành phố

Hồ Chí Minh) các khách hàng được đưa các sợi chỉ vàng vào trong khuôn mặt

thành một mạng lưới vững chắc giúp kích thích cơ thể gia tăng collagen và

elastin, đồng thời những sợi chỉ như những xương cá treo cao những cơ chảy

xệ mang lại cho người được điều trị một làn da trẻ trung căng đẹp, mịn màng,

gương mặt thon gọn tự nhiên và tuổi thanh xuân, vì thế được kéo dài thêm rất

nhiều năm. Thực hiện dịch vụ này chủ yếu là các bác sĩ người Hàn Quốc. Bài

báo này ghi rõ danh tính, học vị và chuyên môn của các bác sĩ nước ngoài

cùng với lịch làm việc của họ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh [39,

tr.122-123].

Trong xã hội cũ, người phụ nữ đẹp khi chưa lập gia đình, sau khi có

chồng con, chỉ ở trong nhà. Ngày nay, phụ nữ làm đẹp cả sau khi lập gia đình,

137

sau khi sinh con. Họ không chỉ đảm việc nhà, mà còn là con người của xã hội,

thậm chí không ít chị là những nhà khoa học nổi tiếng, những nữ doanh nhân

thành đạt có nhan sắc. Không phải ai cũng cô đơn, đã thấy đằng sau một số

chị là những ông chồng thương yêu vợ, sẵn sàng sẻ chia, gánh đỡ việc nhà,

chăm sóc con cái để vợ có nhiều thời gian cho công việc. Như vậy, ở các khía

cạnh nêu trên, có thể nói lịch sử loài người là lịch sử giải phóng phụ nữ, lịch

sử tôn vinh sắc đẹp của chị em.

4.5. Đánh giá tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe

của phụ nữ

Tri thức dân gian là những kinh nghiệm dân gian được tích lũy trong

cộng đồng, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nói chung người dân

cứ thế làm theo, ít khi người ta tự hỏi tại sao lại như vậy? Trong sản xuất

nông nghiệp, nhân dân có câu tục ngữ: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay

cao thì nắng bay vừa thì râm”. Hàng bao đời, dân gian cứ lưu truyền như thế

và không được giải thích. Chỉ có khoa học mới cắt nghĩa rằng, khi trời sắp

mưa thì không khí ẩm nặng, vì thế chuồn chuồn không thể bay cao được. Về

trẻ em trước kia, có câu tục ngữ: “Ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín

tháng lò dò biết đi”. Người lớn nói chung và cha mẹ đứa trẻ nói riêng khi thấy

nó thiếu một khâu nào đó thì bảo nó “trốn lẫy”, “trốn bò”,… Họ xem như là

chuyện không có gì quan trọng lắm. Những trẻ này hay khóc đêm, bà con bảo

là khóc dạ đề. Thế là người mẹ trẻ và cả nhà chịu đựng cảnh bé khóc. Chỉ có

y học hiện đại mới lý giải được hiện tượng này. Trẻ em thiếu can xi nên

không thể lẫy, không thể bò. Tối tối do thiếu can xi, các cháu đau đầu nên

quấy khóc. Ngày nay, nếu thấy các cháu khóc đêm hay “trốn” một khâu nào

đó trong quá trình sinh trưởng, các bà mẹ trẻ cần cho trẻ đến bác sĩ chuyên

khoa. Trong nghề thợ mộc, muốn tính đường kính của cây gỗ, người thợ ghi

nhớ công thức: “Quân bát, quát tam, tồn ngũ, quân nhị”. Có nghĩa là lấy chu

138

vi cây gỗ chia cho tám, trừ đi ba còn năm phần, chia đôi sẽ tìm được đường

kính. Trong khoa hình học, muốn tìm đường kính của hình tròn, người ta sẽ

lấy chu vi chia cho 3, 14 rồi nhân với 2 sẽ ra. Như vậy, khi chưa biết đến số

П, kinh nghiệm dân gian của người thợ đã tổng kết được cách tìm đường kính

của cây gỗ. Kết quả tìm được theo phương pháp dân gian và kết quả của hình

học là tương đương nhau. Trong văn học dân gian, có câu ca dao tổng kết về

eo lưng của người phụ nữ: “Những người thắt đáy lưng ong vừa khéo chiều

chồng lại khéo nuôi con”. Người có lưng ong là người có hình thể đẹp, và

những người đẹp này lại còn khéo léo tế nhị nữa. Ở đây cái đẹp đi đôi với

phẩm chất thông minh, trí tuệ. Khoa giải phẫu mĩ học hiện đại đã đưa ra các

số đo của cơ thể người phụ nữ cho ta thấy vẻ đẹp tương tự như người có thắt

đáy lưng ong. Những thí dụ nêu trên cho ta thấy tính duy lý, tính hợp lý của

tri thức dân gian và cũng cắt nghĩa được tại sao có người giải thích thuật ngữ

folklore là trí tuệ dân gian, là túi khôn dân gian.

Mặt khác chúng ta cũng nhận thấy tri thức dân gian không có tính phổ

quát cho mọi thời gian, mọi không gian. Ví dụ: người nông dân ở châu thổ

Bắc Bộ đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm về thu hoạch, làm đất, sử dụng

giống, thời tiết mùa vụ qua rất nhiều câu tục ngữ. Tuy nhiên ngày nay đồng

ruộng đã khác, kỹ thuật canh tác đã khác, giống lúa cũng khác, bởi thế rất

nhiều người nông dân Thái Bình ở lứa tuổi 40, 45 không còn nhớ và khi được

hỏi thì cũng không giải thích được ý nghĩa của nhiều câu tục ngữ cổ truyền về

sản xuất nông nghiệp. Ở Bắc Bộ, người dân Việt khi ăn thịt gà thường dùng lá

chanh làm gia vị. Vì thế mới có bài ca vui dưới đây: “Con gà cục tác lá

chanh/Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi/Con chó khóc đứng khóc ngồi/Mẹ ơi

đi chợ mua tôi đồng riềng” [59, tr.654].

Như thế ở Bắc Bộ, thịt gà đi liền với lá chanh. Nhưng ở Nam Bộ, người

Việt tuy có lá chanh nhưng lại ăn thịt gà với rau răm. Sở dĩ như vậy là vì chất

139

đất nơi đây không cho lá chanh hương vị như lá chanh miền Bắc. Người dân

Việt nơi đây ăn thịt gà với rau răm.

Điều kiện sống, làm việc, giao lưu xã hội, giao lưu quốc tế ngày nay

khác trước rất nhiều. Theo khảo sát của chúng tôi tại các trung tâm làm đẹp

hiện nay, các phương tiện kỹ thuật làm đẹp của nước ngoài du nhập vào ta

nhiều và phong phú. Xu hướng chuộng ngoại từ thuốc uống làm đẹp, thực

phẩm chức năng, các loại kem dưỡng da, đến các máy móc làm đẹp và các

công nghệ làm đẹp từ Mỹ, Hàn, Úc, Nhật… là điều dễ hiểu bởi vì cha ông

chúng ta ngày trước cũng có xu hướng: Nam nhân Bắc hướng (tức là có

những cái do chúng ta sản xuất ra nhưng ta lại truyền tụng những câu chuyện,

những giai thoại rằng vị tổ nghề là người Trung Quốc). Mặt khác, thường tâm

lý con người khá phức tạp, chỉ khi nào một cộng đồng thật tự tin, biết người

biết mình thì mới giải quyết tốt giữa mối quan hệ giữa hội nhập và tự chủ,

giữa tiếp thu và gìn giữ bản sắc riêng. Hiện nay để làm đẹp với một tốc độ

nhanh, để khắc phục những hạn chế của cơ thể người ta thường sử dụng

những công nghệ kỹ thuật làm đẹp trên thế giới. Bên cạnh đó, tri thức dân

gian cổ xưa cũng được sử dụng. Chẳng hạn để khắc phục những vết nám trên

da, có những trung tâm làm đẹp vẫn sử dụng cả phương pháp xông da bằng

hơi nghệ, sả... rồi sau đó đắp bằng sữa tươi với khoai tây; bột yến mạch với

sữa tươi; mật ong với lòng trắng trứng gà; rượu trắng ngâm với hoa đào, bơ,

chuối, dưa chuột… trong vòng ba mươi ngày thấy hiệu quả rõ rệt. Họ cũng

khuyến khích khách hàng sử dụng thường xuyên giữ gìn và chăm sóc sắc đẹp

này ở nhà để dưỡng da, dưỡng tóc. Tuy nhiên, số lần sử dụng những tri thức

dân gian làm đẹp thường là những khách hàng có thu nhập trung bình, thấp và

có nhiều quỹ thời gian rảnh. Như vậy, nếu như trước đây trong dân gian,

trong nhân dân, tri thức dân gian là biện pháp chủ yếu để phụ nữ làm đẹp và

giữ gìn sức khỏe và làm đẹp thì ngày nay, tri thức dân gian chỉ chiếm một vị

140

trí khiêm tốn.

Tuy nhiên, nói đến dân gian là nói đến sự tôn trọng tự nhiên, không can

thiệp cơ học vào tự nhiên. Giữa lúc thế giới bùng nổ thông tin, khoa học và kỹ

thuật có những bước tiến nhanh đến chóng mặt, ở ta các cơ sở làm đẹp mọc

lên như nấm, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh. Song chúng ta còn thiếu

rất nhiều các bác sĩ chuyên khoa thẩm mĩ và các kỹ thuật viên có tay nghề

đảm bảo. Nhiều cơ sở thẩm mỹ đành phải xếp lịch và mời các chuyên gia

thẩm mỹ ở Hàn Quốc sang hành nghề một, hai ngày. Sau khi họ về nước, các

cơ sở này lại xếp lịch và công việc chỉ có thể được tiến hành khi họ bố trí

được thời gian sang Việt Nam [24]. Ở thời phong kiến trước đây, muốn thay

đổi vẻ đẹp một cách hết sức căn bản (từ một phụ nữ nông thôn nhan sắc trung

bình trở thành một tuyệt thế giai nhân) thì người xưa chỉ có thể cầu viện đến

truyện cổ tích thần kỳ Lọ nước thần. Tác giải dân gian cho biết, chính những

điều huyền diệu của các lực lượng thần kỳ đã đem lại vẻ đẹp cho một người

phụ nữ nhan sắc vốn chỉ bình thường. Cũng chính trong chuyện dân gian,

nhân dân ta đã cho thấy ngay cả các lực lượng thần kỳ như thần tiên không

phải muốn làm gì cũng được. Truyện cổ tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã

gửi gắm thông điệp này. Truyện kể rằng, Trương Ba là một người trẻ tuổi

nhưng đánh cờ tướng rất giỏi. Anh ta được vị thần cờ Đế Thích yêu mến, đưa

cho một nén hương, dặn rằng mỗi lần cần đến thì thắp lên thì thần sẽ xuống.

Chẳng may, một hôm Trương Ba bị chết đột ngột. Sau khi chôn cất chồng,

người vợ dọn dẹp nhà cửa. Thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình

lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, Đế Thích nhận

được tin bằng mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, thần

liền hỏi, vợ Trương Ba sụt sịt: “Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi”. Đế

Thích tiếc rằng sao lúc Trương Ba mới tắc thở người nhà lại không gọi ông ta

xuống ngay, để đến lúc này thì còn làm thế nào được. Suy nghĩ một lúc, vị

141

thần hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?”. Vợ Trương Ba

đáp: “Có người hàng thịt mới chết tối hôm qua”. Đế Thích bảo chị ta dẫn

mình đến nhà hàng thịt và bảo: “Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi

sống lại”. Nói xong thần hóa phép trở về trời. Trong nhà người hàng thịt đang

lúc mọi người xúm quanh linh sàng khóc lóc thì tự nhiên người chết ngồi

nhỏm dậy. Anh ta vứt hết mọi đồ khâm liệm và chẳng nói chẳng rằng đi thẳng

một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt, biết là thần

Đế Thích làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó thì vợ

con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng. Nhưng không những người

đàn ông bị vợ Trương Ba giằng lại mà ngay chính anh ta cũng nhất định

không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau cuối cùng biến thành một cuộc đấu khẩu

kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.

Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó

là anh hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ anh Trương Ba thì nhất định nhận là chồng

mình. Quan hỏi rằng: “Chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?”. Đáp:

“Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi”. Quan lại hỏi vợ người hàng thịt:

“Chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?” Đáp: “Chồng tôi chỉ thạo nghề

mổ lợn”. Nghe xong, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng

thịt mổ nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy

người giỏi cờ vào tỉ thí với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi

những nước rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.

[18, tr.531- 532].

Qua câu chuyện trên, người nghe thấy rằng thần Đế Thích chỉ có thể

đem hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt, chứ không thể biến hóa

thân xác anh hàng thịt thành thân xác anh đánh cờ. Với bàn tay tài khéo của

con người và sự tiến bộ vượt bậc về y học, công nghệ làm đẹp hiện nay đã cải

lão hoàn đồng, đã thay đổi hình dạng, đã phỏng dạng người này giống như

142

người khác. Ngày nay con người đã làm được cái điều mà vị thần Đế Thích

không làm được.

Trong xã hội phong kiến, theo giáo lý Khổng Mạnh, người đàn ông giữ

tròn đạo hiếu là người tự biết chăm lo, giữ gìn sức khỏe bản thân, bởi vì cho

đến cái tóc, cái móng tay cũng là do cha mẹ sinh ra; khi cha mẹ già phải ở

cạnh để phụng dưỡng không được đi xa (chính vì vậy, trên đường đi thi nghe

tin mẹ bị mất, nhà nho Nguyễn Đình Chiểu đã bỏ công danh quay về, trên

đường về khóc thương mẹ đến nỗi mù cả mắt); phải sinh được con trai để nối

dõi tông đường. Trong Tam quốc diễn nghĩa, tác giả La Quán Trung kể rằng,

khi lâm trận, một viên tướng giỏi của Tào Tháo là Hạ Hầu Đôn bị tướng của

Lã Bố là Tào Tính bắn lén, mũi tên trúng mắt tả. Đôn rút mũi tên, con ngươi

bật theo. Đôn kêu rằng: “Tinh cha huyết mẹ không nên bỏ!”, rồi đút con

ngươi vào mồm nuốt chửng, lại cầm giáo tế ngựa xông vào đánh Tào Tính.

Tào Tính chưa kịp đề phòng bị Đôn đâm chết [125, tr.309]. Việc nuốt con

ngươi của Hạ Hầu Đôn chứng tỏ viên tướng này là người có hiếu.

Từ bao đời nay và cho đến mai sau thì vẻ đẹp tự nhiên, do thiên nhiên

đem lại cho con người vẫn là vẻ đẹp được ngợi ca trong văn chương nghệ

thuật. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà thơ Huy Cận (1919-2005)

đã viết về một người đẹp:

Tạo hóa sinh em đẹp thế kia

Để rồi mai lại xóa em đi [31, tr.93].

Trong việc tôn vinh vẻ đẹp của các hoa hậu quốc gia và thế giới, một

giá trị rất đáng chú ý trong số nhiều giá trị tương tự hiện nay, người ta không

chấp nhận vẻ đẹp nhân tạo. Như thế, Ban Tổ chức cuộc thi đã rất tôn trọng vẻ

đẹp tự nhiên, nói rộng ra là tôn trọng tự nhiên, thiên nhiên. Người xưa có câu

“Thiên nhân hợp nhất” (Tự nhiên, vũ trụ và con người là một). Con người

143

sống trong vũ trụ, đồng thời cũng là một tiểu vũ trụ. Con người hiện đại cần

phải bảo vệ, gìn giữ môi trường, thiên nhiên và cũng cần tự bảo vệ mình. Việc

không đánh giá nhan sắc của những người đã trải qua phẫu thuật thẩm mĩ có

lẽ được soi sáng bởi tư tưởng đúng đắn và ngày càng chứng tỏ sự hợp lý của

nó. Sau cuộc thi hoa hậu hoàn vũ của Việt Nam năm 2015, trên Đài Truyền

hình quốc gia, khi nghe câu hỏi rằng, có dư luận về người đăng quang đã trải

qua phẫu thuật thẩm mỹ, hoa hậu Phạm Thị Hương trả lời: Các cơ quan

chuyên môn đã xác nhận sắc đẹp của chị là sắc đẹp tự nhiên, không có sự can

thiệp nhân tạo nào. Chị cũng cho biết sau khi đạt được danh hiệu, chị sẽ tiếp

tục học hỏi, tiếp tục hoàn thiện mình, rèn luyện sức khỏe để có thể chinh phục

đỉnh Phanxiphăng. Thì ra, quan niệm về cái đẹp hòa điệu với tự nhiên, thậm

chí là một phần của tự nhiên, cái đẹp đi liền với sức khỏe, đạo đức, phẩm

hạnh mà ta đã thấy trong tri thức dân gian khi có dịp lại hiển lộ và nhận được

sự đồng tình của đông đảo khán giả truyền hình.

144

Tiểu kết chương 4

Sắc đẹp và sức khỏe của người phụ nữ là hai vấn đề khác nhau nhưng

chúng lại ảnh hưởng đến nhau. Nhìn vào hàm răng, mái tóc và nước da của

người phụ nữ, người ta có thể đánh giá được một phần vẻ đẹp, đồng thời răng

khỏe, tóc dày và mượt, da sáng cũng là biểu hiện của sức khỏe tốt. Ngoài ra,

nói tới sức khỏe của người phụ nữ, người ta không bỏ quên phương diện sức

khỏe sinh sản, khả năng tình dục. Có khá nhiều tiêu chí về hình thức được xác

định là đẹp của người phụ nữ, cũng như có không ít những tổng kết về tiêu

chuẩn hình thể của người phụ nữ phồn sinh. Trong xã hội cũ (cả Trung Quốc

và Việt Nam), có không ít người đẹp tuy liễu yếu đào tơ mà có sức mạnh

nghiêng thành, đã làm cho nhiều đấng quân vương tan tành sự nghiệp. Nhưng

trong xã hội ấy, những người phụ nữ đẹp thường chịu những phận đời bất

hạnh. Rất nhiều người được tuyển vào cung vua để rồi chôn vùi tuổi xuân

trong đơn chiếc, sầu muộn. Chính vì vậy mà có câu "hồng nhan bạc phận". Ở

Việt Nam, nàng Kiều của Nguyễn Du là số phận điển hình nhất của một

người đẹp bất hạnh, mặc dù nàng tài đức vẹn toàn. Trong xã hội cũ, thường

người phụ nữ bình dân chỉ chú ý đến nhan sắc, làm đẹp khi còn con gái. Sau

khi lập gia đình, họ ít nghĩ đến bản thân và điều kiện vật chất lúc đó cũng rất

hạn chế khiến cho người phụ nữ phai tàn nhan sắc rất nhanh. Ngày nay điều

kiện khá hơn trước, khoa học kỹ thuật tiến bộ không ngừng, người phụ nữ kéo

dài tuổi thanh xuân và nhan sắc được giữ gìn hơn trước. Người phụ nữ mới

không chỉ đảm việc nhà mà còn là con người của sự nghiệp, con người của

những hoạt động xã hội. Chúng ta không chỉ tổ chức các cuộc thi hoa hậu, mà

còn tổ chức các cuộc thi hoa hậu các quý bà thành đạt. Có thể nói ở phương

diện này, lịch sử loài người là lịch sử giải phóng phụ nữ. Trong việc chăm sóc

sắc đẹp và giữ gìn sức khỏe, một số tri thức dân gian vẫn được sử dụng. Mặt

145

khác, tri thức dân gian lại có những giới hạn của nó và trong các trung tâm

làm đẹp bây giờ, rất nhiều phương thức làm đẹp, việc vận dụng tri thức dân

gian chỉ đóng một vị trí khiêm tốn. Như vậy chúng ta không hạ thấp tri thức

dân gian những cũng không đề cao nó một cách quá mức trong cuộc sống

hiện nay. Tuy nhiên, trong các cuộc thi hoa hậu, người ta không chấp nhận

những thí sinh đã trải qua phẫu thuật thẩm mĩ. Điều này cho thấy ý nghĩa, vai

trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp.

146

KẾT LUẬN

1. Tri thức dân gian là những tri thức được hình thành chủ yếu không

do các nhà trí thức thông thái, ngày xưa không được tổng kết trong sách vở.

Đó là những kinh nghiệm của người dân, được tích lũy qua nhiều năm tháng

trong lao động sản xuất, trong quan hệ xã hội… Tri thức dân gian được người

dân lưu giữ trong đầu, thể hiện qua hành động. Cũng có khi tri thức dân gian

được đúc kết và thể hiện qua tục ngữ, ca dao, truyện ngụ ngôn. Trong truyện

cổ tích, tri thức dân gian được thể hiện qua hình tượng nhân vật.

2. Trong giới phụ nữ hiện nay, việc làm đẹp, chăm sóc sắc đẹp và tập

luyện, bồi bổ sức khỏe càng ngày càng được chú ý. Điều đó thể hiện sự tiến bộ

của xã hội và sự khẳng định quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc của

một nửa nhân loại. Con người hiện đại thông minh, không bao giờ từ bỏ những

kinh nghiệm quý báu của tiền nhân trong quá khứ. Y học hiện đại đã đưa ra tỉ

lệ tiêu chuẩn về eo, mông của người phụ nữ đẹp. Thật thú vị, những người có

số đo như vậy rất hiếm và họ cũng chính là những người “thắt đáy lưng ong”,

“lưng con kiến” như tác giả dân gian ghi nhận. Khoa học cũng chứng minh mối

quan hệ giữa sắc đẹp và khả năng tình dục, sức khỏe sinh sản. Từ xa xưa, tác

giả dân gian cũng đã nhận ra mối quan hệ này. Trong việc chăm sóc sắc đẹp

hiện nay, có những kinh nghiệm dân gian vẫn được sử dụng. Những quan niệm

về dáng, về da, về sự hoàn chỉnh của con người và những quan niệm về các bộ

phận khác của con người trong dân gian đến nay về cơ bản vẫn phù hợp. Tất

nhiên có những quan niệm không còn phù hợp (chẳng hạn quan niệm về răng

đen cùng những bộ y phục quá cổ lỗ). So với trước đây, quan niệm về cái đẹp

của người phụ nữ có phần khác trước là người ta hướng tới những người có vóc

dáng thon dài, da trắng, hàm răng trắng đều, đẹp. Cái đẹp của họ cũng được thể

hiện đa dạng hơn, có khi kín đáo dịu dàng, có khi phô bày quyến rũ.

147

3. Nhân loại có tính chung, bởi thế quan niệm về vẻ đẹp của người phụ

nữ cũng mang những sắc thái chung của loài người. Bên cạnh đó, lại có

những nét khác biệt giữa người châu Âu và người châu Á. Phụ nữ châu Á sẽ

vô cùng phật ý nếu như bị người khác nhìn chăm chú, ngược lại ở phương

Tây, phụ nữ lại lấy làm hãnh diện nếu họ được ngắm nhìn. Người Việt Nam

quan niệm phụ nữ đẹp là người có làn da trắng, trong khi đó ở Ấn Độ, người

đẹp phải là người có nước da như vàng. Ở Mĩ, người ta đánh giá người phụ

nữ vai to, phần trên cơ thể nở nang và tấm lưng mạnh mẽ là những người phụ

nữ đẹp. Còn người Braxin lại quan niệm phụ nữ đẹp nên có một dáng vẻ mềm

mại với mông và hông lớn, vai nhỏ. Tri thức dân gian nói chung, quan niệm

thẩm mỹ bản địa nói riêng là sự phản ánh và lưu giữ, lưu truyền sắc thái riêng

này, bởi “mất dân gian là mất hồn dân tộc” (Trần Quốc Vượng). Cái đẹp cũng

có tính giai cấp và tính thời đại. Một ví dụ tiêu biểu là ở đời nhà Thanh

(Trung Quốc), những phụ nữ lớp trên phải là người chân nhỏ. Tục bó chân ra

đời từ đó. Trong xã hội cũ, người phụ nữ đẹp thường có cuộc đời bất hạnh,

chìm nổi. Người thường dân thường chăm sóc vẻ đẹp của mình cho đến khi

lập gia đình. Ngày nay, cái đẹp được bảo vệ, được khuyến khích, được cả xã

hội cổ vũ tán dương. Công nghệ làm đẹp ngày càng phát triển. Trong cuộc

cạnh tranh để tìm việc làm, ngoài các yêu cầu khác, người nào có hình thức

tốt hơn sẽ được ưu tiên. Chính vì vậy, phụ nữ đua nhau làm đẹp để có thể tìm

được vị trí việc làm xứng đáng. Người phụ nữ thời nay không chỉ đóng vai trò

quan trọng trong gia đình, họ còn là những người của cơ quan, công sở, xí

nghiệp của các hoạt động xã hội, đã xuất hiện không ít quý bà thành đạt.

Đứng sau họ đã có những người chồng, người đàn ông tự nguyện lùi lại phía

sau, dành nhiều thời gian chăm sóc cuộc sống gia đình, chăm sóc con cái để

một nửa của họ cống hiến cho xã hội, đó là một nét mới của thời đại. Trong

thời đại mới, nhan sắc và sức khỏe của chị em càng được chú ý. Trong y học

cũng như trong công nghệ làm đẹp, việc kết hợp công nghệ hiện đại với

148

những bài học dân gian cổ truyền còn phù hợp là một xu hướng đúng đắn.

4. Các loại lá, hoa, củ, quả trong thiên nhiên từ nhiều nghìn năm nay đã

đem lại cho phụ nữ vẻ đẹp tự nhiên và an toàn. Để chăm sóc tóc, hiện nay

nhiều phụ nữ vẫn gội đầu bằng bồ kết. Khi sản xuất son dưỡng môi, người ta

sử dụng sáp của tự nhiên, dầu thực vật được kết hợp công nghệ làm lạnh để

làm son môi.

Trong đời sống xã hội, sức khỏe luôn luôn giữ vai trò quan trọng.

Không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với công việc, sức khỏe của phụ nữ

còn ảnh hưởng đến khả năng sinh nở, giữ gìn hạnh phúc, chăm sóc con cái và

các hoạt động nội trợ trong gia đình. Kinh nghiệm dân gian đã đúc kết nhiều

bài thuốc, sử dụng các sản phẩm và nguyên liệu sẵn có để chữa bệnh, tăng

cường sức khỏe cho phụ nữ. Hiện còn khá nhiều chị em sử dụng phương pháp

chăm sóc sức khỏe dân gian hằng ngày. Do mạng lưới y học hiện đại phát

triển nên càng ngày càng có nhiều chị em tìm đến các cơ sở y tế để khám,

chữa bệnh. Các phương pháp dân gian hầu như chỉ được sử dụng để điều trị

các bệnh thông thường, bệnh mãn tính hoặc xử lý ban đầu. Trong quá trình

trước và sau khi sinh nở, không ít phụ nữ vẫn sử dụng những kinh nghiệm,

những bài thuốc dân gian. Ngày nay, xu hướng chăm sóc sức khỏe kết hợp

giữa y học dân gian với y học hiện đại là tương đối phổ biến.

5. Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học và kỹ thuật có những

bước tiến nhanh đến chóng mặt, y học đã đạt được những thành tựu kỳ diệu,

các cơ sở làm đẹp mọc lên như nấm, đôi khi dưới cái nhìn của một số người,

việc sử dụng các bài thuốc nam trong việc bảo vệ sức khỏe và chăm sóc nhan

sắc bị coi là việc làm cổ xưa, lạc điệu. Quả là, có những trường hợp y học

hiện đại đã chữa cho người bệnh khỏi bệnh khá nhanh chóng, đã thay thận,

nối mạch máu, tức là đã làm những việc mà người xưa nói chung, y học dân

gian nói riêng bó tay. Khoa học kỹ thuật hiện đại đã giúp cho con người ta

149

chuyển giới thành công, đã đem lại vẻ đẹp rực rỡ, quyến rũ hơn rất nhiều so

với trước khi phẫu thuật thẩm mĩ cho phụ nữ. Thế nhưng, quốc tế và Việt

Nam không công nhận vẻ đẹp nhân tạo đó trong các cuộc thi hoa hậu. Vẻ đẹp

mà tự nhiên, thiên nhiên đem đến cho người phụ nữ vẫn là vẻ đẹp duy nhất

được các cuộc thi hoa hậu quốc gia và quốc tế tôn vinh. Trên cơ sở vẻ đẹp trời

cho, những người đẹp chỉ có thể làm đẹp thêm hoặc hạn chế những gì chưa

thật đẹp bằng các bài thuốc, các phương pháp mà tri thức dân gian đem lại.

Điều này cho thấy sức sống vững bền và vai trò của tri thức dân gian trong

việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe phụ nữ hiện nay. Ngoài ra, điều này còn

thể hiện một ý nghĩa sâu sắc khác. Con người là một bộ phận của tự nhiên, là

một tiểu vũ trụ. Nếu y học dùng các biện pháp cơ học can thiệp vào thân thể

con người, chẳng khác nào loài người đã và đang tàn phá tự nhiên, thiên

nhiên gây nên các thảm họa làm ô nhiễm môi trường, gây hiệu ứng nhà kính,

làm trái đất nóng lên, nước biển sẽ dâng cao hơn. Nhận thức đúng tự nhiên,

sống hòa điệu với tự nhiên, biết bảo vệ tự nhiên chính là triết lý ứng xử đúng

đắn hiện nay.

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN

1. Trương Thị Cẩm Vân (2013), "Quan niệm làm đẹp của phụ nữ Vệt

truyền thống đến hiện đại qua cách tiếp cận nhân học văn hóa", Tạp chí

Nghiên cứu Văn hóa, số 4 ( tr.18 - 22).

2. Trương Thị Cẩm Vân (2013), "Bàn thêm về tri thức dân gian", Tạp

chí Văn hóa dân gian, số 4 (148) (tr. 66 - 68).

3. Trương Thị Cẩm Vân (2015), “Bàn luận xung quanh vẻ đẹp của người

phụ nữ và người phụ nữ đẹp thời xưa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (161),

tr.30-35.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Trần Thị An chủ biên (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc

thiểu số Việt Nam, tập 1: Tục ngữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Trần Thị An chủ biên (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc

thiểu số Việt Nam, tập 18: Dân ca, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Trần Thị An chủ biên (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc

thiểu số Việt Nam, tập 19: Dân ca, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Trần Thị An chủ biên (2008), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc

thiểu số Việt Nam, tập 2: Tục ngữ: Câu đố, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

5. Phan Bảo An (2000), Tiêu chuẩn vẻ đẹp ngoại hình trong các cuộc thi

hoa hậu, Tạp chí Khoa học và Phát triển, (số 3), Hà Nội.

6. Công Anh sưu tầm (2007), Cây nhà lá vườn vị thuốc chữa bệnh và làm

đẹp, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

7. Đào Duy Anh (2005), Nghiên cứu văn hóa và ngữ văn, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

8. Lại Nguyên Ân (2004), Cái đẹp, trong Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi,

Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá đồng chủ biên, Từ điển văn học, bộ mới,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

9. Báo Phụ nữ Việt Nam (1987), Nữ tính trong xã hội hiện đại, (số 33), Hà

Nội.

10. Nguyễn Tấn Bảo (2007), Chanh vị thuốc bốn mùa, Tạp chí Cây thuốc

quý, (số 84), Hà Nội.

11. Nguyễn Trọng Báu (2008), Truyện kể về phong tục các dân tộc Việt

Nam, ba tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

152

12. Nguyễn Duy Bắc chủ biên (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong

bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ

điển Bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội.

13. Phạm Văn Bích (1999), Gia đình Việt Nam trong quá trình biến đổi:

Nghiên cứu trường hợp tại đồng bằng Sông Hồng, Hà Nội.

14. Lê Thanh Bình (2000), Suy nghĩ về công, dung, ngôn, hạnh xưa và nay,

Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (số 4), Hà Nội.

15. Bộ Y tế và nhóm đối tác về y tế (2012), Báo cáo chung tổng quan ngành

y tế năm 2012: Nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh do

thực hiện hàng năm, Hà Nội.

16. Conrad Phillip Kottak (2006), Hình ảnh nhân loại, bản dịch của Nguyễn

Hồng Trung, Chu Thị Quỳnh Giao, Trần Thị Tâm,…, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

17. Chảo Chử Chấn (2014), Tri thức dân gian chăm sóc sức khỏe sinh sản

cho phụ nữ và trẻ em người Phù Lá, Bắc Hà, Lào Cai, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

18. Nguyễn Đổng Chi (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí

Minh, quyển 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

19. Nguyễn Đổng Chi (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí

Minh, quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Nguyễn Trúc Chi (2006), Thức uống làm đẹp, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp.

Hồ Chí Minh.

21. Lê Trọng Cúc (2002), Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

22. Lưu Đàm Cư (2004), Cây thuốc truyền thống của người Dao huyện

Sapa, Tuyển tập những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự

sống, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

23. Nguyễn Nghĩa Dân (2014), Tục ngữ so sánh dân tộc Kinh và các dân tộc

153

thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

24. Tuệ Diễm (2015), Thiếu nhân lực phẫu thuật thẩm mỹ: Mất bò mới lo

làm chuồng, Báo Hà Nội mới, ngày 2 tháng 10, Hà Nội.

25. Xuân Diệu (2001), Ba thi hào dân tộc, tái bản, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

26. Trần Trí Dõi, Vi Khăm Mun (2013), Tục ngữ và thành ngữ người Thái

Mương, Nxb Văn hóa thông tin, tập 2, Hà Nội.

27. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ và

tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

28. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2012), Hướng dẫn thực hiện

Điều lệ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,

http://doanthanhnien.vn/newsdetail/DoanTNCSHCM/22394/news.htm,

Ngày tra cứu 29/12/2015.

29. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, bản dịch của Viện Sử học, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

30. Nguyễn Bảo Đồng (2007), Tập quán sử dụng y học cổ truyền trong chăm

sóc sức khỏe của người Dao và người H’mông ở Hà Tây, Luận văn thạc

sỹ khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

31. Hà Minh Đức (2014), Tài năng và danh phận, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

32. Võ Hà (2010), Rau má: Giải độc, dưỡng âm, chống lão hóa, Tạp chí Cây

thuốc quý, (số 104), Hà Nội.

33. Mai Văn Hai chủ biên (2009), Xã hội học văn hóa, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

34. Đinh Hồng Hải (2011), Nghiên cứu văn hóa từ góc nhìn nhân học biểu

tượng, Tạp chí Dân tộc học, (số 5), Hà Nội.

35. Cao Sơn Hải (2015), Tục ngữ Mường Thanh Hóa, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

36. Thanh Hải, Thanh Minh biên soạn (2008), 215 món ăn nhẹ vị thuốc và

154

làm đẹp, Nxb Lao động, Hà Nội.

37. Hoàng Văn Hành chủ biên (1997), Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Trần Hồng Hạnh (2002), Tri thức địa phương trong sử dụng thuốc nam

của người Dao Đỏ, Tạp chí Dân tộc học, (số 6), Hà Nội.

39. Thanh Hằng Beauty Medi (2016), “Chỉ vàng làm đẹp dáng giá ngàn

vàng”, Heritage Fashion số tháng 5-6 năm 2016 của hang hàng không

VietnamAirlines, tr.122-123.

40. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý và cộng sự (1999), Văn hóa truyền

thống của người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

41. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tài liệu

Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đề án 343 theo Quyết

định số 343/QĐ-TTg), Hà Nội.

42. Vũ Thị Thanh Hoài (2011), Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của

Yasurari Kawabata, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa (thuộc Trường Đại học

Văn hóa Hà Nội), (số 4), Hà Nội.

43. Trương Trọng Hoàng (2002), Bệnh tật và sức khỏe dưới góc độ văn hóa,

Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục Sức khoẻ, Trường Đại học Y

khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh.

44. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam

(2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển bách khoa, Hà

Nội.

45. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2010), Bốn phẩm chất của người phụ

nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Đề án Tuyên truyền,

giáo dục phẩm chất của người phụ nữ), Hà Nội.

46. Đinh Thị Huệ (2003), Điều tra ứng dụng y học cổ truyền trong phòng và

chữa bệnh của người Mường xã Địch Giáo, Tân Lạc, Hòa Bình, Luận

155

văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Huệ (2013), Tri thức của đồng bào dân tộc thiểu số về y học

cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Luận văn thạc sỹ, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

48. Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Ngọc Long (2000), Giáo trình mỹ

học Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Mai Văn Hưng (2011), Định giá cái đẹp không dễ, Bản tin Văn hóa –

nghệ thuật Đại học quốc gia Hà Nội, (số 245), Hà Nội.

50. Hà Hương sưu tầm, biên soạn (2009), Làm đẹp bằng mỹ phẩm tự chế,

Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

51. Lan Hương tuyển chọn (2005), Ca dao Việt Nam về tình yêu đôi lứa,

Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

52. Lan Hương tuyển chọn (2005), Ca dao Việt Nam về tình cảm gia

đình, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

53. Iuanh Xegugi (1990), Không như chúng ta, Phạm Lan Hương dịch, Tạp

chí Văn hóa dân gian, (số 2), Hà Nội.

54. Đinh Gia Khánh chủ biên (1977), Điển cố văn học, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

55. Vũ Ngọc Khánh (2008), Kể chuyện phong tục Việt Nam: Văn hóa gia

đình, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

56. Nguyễn Xuân Khánh (2013), Đội gạo lên chùa, tiểu thuyết, in lần thứ

năm, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

57. Bích Khê (1995), Tinh huyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

58. Thiên Kim (2000), Những phương thuốc làm đẹp từ cây thuốc nam, Nxb

Mỹ thuật, Hà Nội.

59. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (2001), Kho tàng ca dao

người Việt, tập 1, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

60. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (2001), Kho tàng ca dao

156

người Việt, tập 2, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

61. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 1,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

62. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 2,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

63. Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn

Luân (2002), Những câu tục ngữ nói về ốm đau, chữa bệnh, Tạp chí

Nguồn sáng dân gian, số 4, Hà Nội.

64. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, môi trường và văn hóa, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Nguyễn Xuân Kính (2010), Chuyện ấy được diễn tả tài tình trong ca dao

và câu đố, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, (số 1), Hà Nội.

66. Nguyễn Xuân Kính (2012), Một nhận thức về văn học dân gian Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

67. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2014), Truyện cười các dân tộc thiểu số

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

68. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2014), Truyện ngụ ngôn người Việt, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

69. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2014), Truyện ngụ ngôn các dân tộc thiểu

số Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

70. Hoài Lam (1979), Tìm hiểu mỹ học Mác – Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

71. Nguyễn Thị Thúy Loan (2012), Vấn đề miêu tả ngoại hình con người

trong kho tàng ca dao người Việt, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

72. Tưởng Kim Long (2003), Món ăn làm đẹp cho phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà

Nội.

73. Vưu Nghị Lực (1997), Ứng xử văn hóa trong khai thác môi trường thiên

nhiên ở Cà Mau, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà

157

Nội.

74. Hoàng Văn Lương (2010), Đặc điểm lông, tóc người Việt ứng dụng

trong pháp y (sách chuyên khảo), Nxb Y học, Hà Nội.

75. C.Mác, Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

76. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. O. Mogensen, Tine Gammeltoft, Nguyễn Mỹ Hương, Hoàng Kim Dung

(2005), Nhập đề về nhân học xã hội trong bối cảnh Việt Nam, Nghiên

cứu về giới và sức khỏe sinh sản ở khu vực ven biển Bắc Trung Bộ thuộc

Dự án hợp tác Việt Nam – Đan Mạch về Nâng cao năng lực nghiên cứu

dân số và sức khỏe sinh sản tại Việt nam (REACH), Nxb Thống kê, Hà

Nội.

78. Lê Thành Nam chủ biên (2014), Phong tục sinh đẻ và chăm sóc trẻ sơ

sinh của người Dao Tuyển (xã Long Phúc, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai),

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

79. Nguyễn Thúy Nga biên dịch (2003), Thuật làm đẹp tự nhiên, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

80. Sử Văn Ngọc (2013), Lời người xưa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

81. Mạc Ngôn (2004), Đàn hương hình, bản dịch, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

82. Trần Xuân Nguyên (2004), Khảo sát sự hiểu biết và kinh nghiệm sử dụng

thuốc y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe của người Dao Tiền ở xã

Tu Lý, Đà Bắc, Hòa Bình, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.

83. Hùng Nguyễn, Các trường phái lý thuyết chính trong nhân học.

http://www,vanhoahoc,vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/vhh-cac-

truong-phai-trao-luu/1403-tung-nguyen-cac-truong-phai-ly-thuyet-chinh-

trong-nhan-hoc,html

84. Lê Thị Nguyệt (2008), Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền

người Việt, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.

85. Duy Nhân và nhiều tác giả (1994), Thể thao khỏe và đẹp, Vẻ đẹp là chìa

158

khóa của hạnh phúc, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội.

86. Nhiều tác giả (2000), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân

tộc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tái bản lần thứ ba, Hà Nội.

87. Nhiều tác giả (2007), Almanach Người Mẹ và Phái Đẹp, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

88. Phạm Thị Nhung (1990), Những nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa

qua ca dao. Bài thuyết trình văn hóa ngày 14/01/1990 tại hội trường 40

Rue La Fontaine, Paris 16.

89. Nguyễn Văn Nở (2009), Về ngữ cảnh vận dụng, cấu trúc văn bản và

nghĩa của một câu tục ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, (số 10), Hà Nội.

90. Đặng Ngọc Phái (2006), Tiềm năng dược liệu tỉnh Quảng Nam, Tạp chí

Cây thuốc quý, (số 72), Hà Nội.

91. Nguyễn Nhược Pháp (1995), Ngày xưa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

92. Nguyễn Lan Phương và Vũ Phạm Nguyên Thanh (1998), Xã hội học sức

khỏe và y tế, Kết quả nghiên cứu đề tài tiềm năng 1997, Hà Nội.

93. Hoa Phượng (1996), Tự làm đẹp: Chăm sóc da và vóc dáng, Nxb Đồng

Nai.

94. Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân (2014), Thành ngữ - Tục ngữ ca dao dân

tộc Tày, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

95. Đặng Sơn (2007), Phương pháp chăm sóc thai và làm đẹp sau khi sinh,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

96. Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên (2012), Tri thức địa phương của người

dân sống trong vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

97. Lê Bá Thảo (2002), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới,

Hà Nội.

98. Nguyễn Hữu Thăng (2004), Món ăn tẩm bổ làm đẹp cho phụ nữ, Nxb

Văn hoá thông tin, Hà Nội.

159

99. Bùi Quang Thắng chủ biên (2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hoá,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

100. Trần Ngọc Thêm (1995), Triết lý âm dương và vai trò của nó trong

truyền thống văn hóa Việt Nam, Tạp chí Văn hóaNghệ thuật, (số 1), Hà

Nội.

101. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

102. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp. Hồ

Chí Minh.

103. Lê Thi (2004), Về chuẩn mực người phụ nữ mới thời hiện đại, Tạp chí

Khoa học về phụ nữ, (số 2), Hà Nội.

104. Ngô Đức Thịnh (1987), Truyền thống ăn uống Việt Nam với dưỡng sinh

và trị bệnh, Tạp chí Văn hóa dân gian, (số 3), Hà Nội.

105. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

106. Ngô Đức Thịnh (2002), Tri thức bản địa và văn hóa dân tộc, Hội thảo Sử

dụng kiến thức bản địa trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên

nhiên vùng cao, Hà Nội.

107. Ngô Đức Thịnh (2004), Thế giới quan bản địa, Tạp chí Văn hóa dân

gian, (số 4), Hà Nội.

108. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

109. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan chủ biên (2005), Folklore thế giới một

số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

110. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

111. Ngô Đức Thịnh (2007), “Bàn thêm về tri thức địa phương”, trong

chuyên san Nhân học đương đại, Hội Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội.

160

112. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

113. Đinh Thị Hồng Thơm (2013), Tri thức dân gian liên quan đến tập quán

sinh đẻ và chăm sóc trẻ em của dân tộc Sán Dìu ở huyện Sơn Dương,

tỉnh Tuyên Quang, Nxb Thời đại, Hà Nội.

114. Trần Thuý, Phạm Duy Nhạc (1985), Y học cổ truyền dân tộc, Nxb Y học,

Hà Nội.

115. Trần Thuý và cộng sự (1998), Kết quả nghiên cứu và hiện trạng nhân lực

và hiện trạng sử dụng thuốc cổ truyền, Đề tài tiến hành theo yêu cầu của

Bộ Y tế, lĩnh vực chính sách và quản lí thuốc thuộc chương trình hợp tác

Y tế Việt Nam - Thụy Điển.

116. Trần Thuý, Vũ Nam (2002), Sổ tay y học cổ truyền, Nxb Y học, Hà Nội.

117. Lê Đình Thư (2013), Quan niệm đa chiều về giới trong tục ngữ tiếng

Việt, trong Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học và

tiếng Việt, Hà Nội.

118. Hà Thị Phương Tiến (1990), Về đặc điểm y – sinh học người phụ nữ

trong lao động và chiến lược con người, Trung tâm Nghiên cứu khoa học

về phụ nữ, Hà Nội.

119. Hoàng Quý Tỉnh (2005), Tìm hiểu một số kiến thức bản địa trong chăm

sóc sức khỏe sinh sản của người Dao và người Thái ở Yên Bái, Luận văn

thạc sỹ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

120. Hoàng Khánh Toàn (Khoa Đông Y, Viện Quân y 108).

http://ykhoa,net/yhoccotruyen/baiviet/29_264,htm

121. Lê Ngọc Trà chủ biên (1994), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

122. Phạm Anh Trang (2010), Hỏi đáp về trang phục truyền thống Việt Nam,

Nxb Thời đại, Hà Nội.

161

123. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), Hình tượng người phụ nữ trong sử thi

Tây Nguyên, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

124. Trương Hoàng Trọng (2002), Văn hóa và chăm sóc sức khỏe ban đầu,

Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Tp.Hồ Chí Minh.

125. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, bản dịch, tập 1, Nxb Văn

hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

126. Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới - gia đình - phụ nữ

và vị thành niên (2009), Mẫu hình văn hóa và tiêu chuẩn của người phụ

nữ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, Bản tin số 5, Hà Nội.

127. Trung tâm Nghiên cứu sức khỏe cộng đồng (2006), Y học cổ truyền của

người Dao qua nghiên cứu điểm, Báo cáo đề tài cấp viện, Viện Dân tộc

học, Hà Nội.

128. Nguyễn Thị Minh Tú, Triệu Văn Quẩy (2014), Tri thức dân gian về cúng

chữa bệnh cho phụ nữ và trẻ em của người Dao Tuyển ở Lào Cai, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

129. Nguyễn Văn Tuấn, Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học.

http://ykhoa,net/congtacvien/nguyenvantuan/tinhyeu_gen,htm

130. Trịnh Minh Tuyết (2006), Mỹ phẩm chăm sóc sắc đẹp từ thiên nhiên,

Tạp chí Cây thuốc quý, (số 70), Hà Nội.

131. Hàn Mặc Tử (1995), Gái quê. Chơi giữa mùa trăng. Đau thương (thơ

điên), Xuân như ý, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

132. Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc chủ biên (1998), Kiến thức bản địa của

đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên

nhiên, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

133. UNESCO:http://www,unesco,org/education/tlsf/mods/theme_c/mod11,ht

ml

134. Bùi Văn Uy (2009), Thuốc - mỹ phẩm với sức khoẻ và sắc đẹp giới nữ,

Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

162

135. Lương Tú Vân, Lương Tú Mẫn (2001), Những phương thức bí truyền

làm đẹp của cung phi, Nxb Thuận Hóa.

136. Viện Dược liệu (2003), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập

2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

137. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2009), Thư tịch y dược cổ truyền Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

138. Viện Văn hoá dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương pháp

nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

139. Nam Việt (2007), Hoa quả trị bệnh và làm đẹp, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

140. Vnexpress, Da trắng hấp dẫn đàn ông, da nâu hấp dẫn phụ nữ,

http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/da-trang-hap-dan-dan-ong-da-

ngam-thu-hut-phu-nu-2103229.html

141. Trịnh Quang Vũ (2002), Lược sử mỹ thuật Việt Nam (thời kỳ cổ đại và

phong kiến), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

142. Trần Quốc Vượng chủ biên (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

143. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

144. Nguyễn Thị Yên chủ biên (2014), Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

145. Ngô Đức Thịnh (1997), Local Knowledge and Development,

“Integration of Endgenous Cultural Dimention into Development”,

Vol,N2, New Delhi.

146. World Bank (2004), Indigenous knowledge: local pathways to global

development, Africa Regional Office, World Bank.

147. Sujatha Sebastian. Beauty, Biology, and Society.

http://serendip.brynmawr.edu/exchange/node/2042.

163

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN

VẬN DỤNG QUAN NIỆM THẨM MĨ

VÀ TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC LÀM ĐẸP

VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE PHỤ NỮ HIỆN NAY

Chuyên ngành: VĂN HÓA DÂN GIAN

Mã số: 62 22 01 30

Phụ lục

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH

HÀ NỘI - 2016

164

MỤC LỤC PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1. BỘ CÔNG CỤ KHẢO SÁT ................................................ 166

PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT ......................... 183

PHỤ LỤC 3. NHỮNG HÌNH ẢNH CHĂM SÓC SẮC ĐẸP .................. 221

3.1. MỘT SỐ NGUYÊN LIỆU LÀM ĐẸP VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE

DÂN GIAN ................................................................................................... 221

3.2. MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀM ĐẸP BẰNG PHƯƠNG PHÁP DÂN

GIAN ............................................................................................................. 228

PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THỂ HIỆN VẺ ĐẸP

CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ ............................................................................... 235

4.1. TRUYỆN DÂN GIAN “AI MUA HÀNH TÔI HAY LÀ LỌ NƯỚC

THẦN” .......................................................................................................... 235

4.2. SƠN TINH - THỦY TINH .................................................................... 239

4.3. CHÙA HƯƠNG ..................................................................................... 245

4.4. TRANH LÕA THỂ ................................................................................ 253

4.5. MỘNG CẦM CA ................................................................................... 255

4.6. GÁI QUÊ................................................................................................ 257

4.7. NỤ CƯỜI ............................................................................................... 258

PHỤ LỤC 5: HAI DẠNG VĂN BẢN TẠO HÌNH VÀ BIỂU HIỆN

TRONG CA DAO ....................................................................................... 259

165

PHỤ LỤC 1. BỘ CÔNG CỤ KHẢO SÁT

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN VỀ QUAN NIỆM VÀ HÀNH VI CHĂM SÓC SẮC ĐẸP CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM

(Dành cho phụ nữ từ 15 tuổi trở lên)

Chào các chị/bạn,

Chúng tôi đang tiến hành một nghiên cứu về việc vận dụng tri thức dân

gian trong chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam. Dưới đây là

một số câu hỏi mong được các chị/bạn trả lời phù hợp với suy nghĩ và thực tế

của bản thân. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu quan trọng để có những giải

pháp duy trì và phát huy giá trị của tri thức dân gian trong chăm sóc sức

khỏe và sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam ngày nay.

Các chị/bạn trả lời bằng cách điền thông tin vào các chỗ trống hoặc

khoanh tròn vào các phương án trả lời phù hợp

Xin chân thành cảm ơn sự tham gia của các chị/bạn.

Bảng hỏi được khảo sát tại:

Xã:___________________________________________

Huyện:________________________________________

Tỉnh/Thành phố:________________________________

166

PHẦN I. MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG

(Các câu hỏi từ C1 đến C7 chỉ chọn duy nhất 1 phương án trong các phương án được gợi ý)

C1. Tuổi:___________ (hoặc ghi năm sinh dương lịch)

C2. Nơi sinh sống hiện nay

1. Nông thôn

2. Thị trấn

3. Thành phố

C3. Nghề nghiệp

1. Nông nghiệp 6. Nội trợ/nghỉ hưu

2. Buôn bán/dịch vụ 7. Làm nghệ thuật (diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ)

3. Cán bộ/viên chức 8. Nhân viên trong các doanh nghiệp/công ty

4. Nghề tự do/làm thuê 9. Học sinh/sinh viên

5. Công an, quân đội 10. Thất nghiệp

C4. Thu nhập của bản thân (trung bình/tháng)

1. Dưới 1 triệu 4. Từ 5- dưới 7 triệu

2. Từ 1- dưới 3 triệu 5. Trên 7 triệu

3. Từ 3- dưới 5 triệu

C5. Tình trạng hôn nhân.

1. Đang ở cùng chồng

2. Đã có gia đình nhưng ly hôn/ly thân

3. Chưa lập gia đình

167

C6. Trình độ học vấn

1. Chưa hết tiểu học 4. Trung cấp/nghề

2. Hết trung học cơ sở (cấp 2) 5. Cao đẳng/đại học

3. Hết trung học phổ thông (cấp 3) 6. Trên/sau đại học

C7. Tôn giáo

1. Không theo tôn giáo nào

2. Đạo Tin lành

3. Đạo Cao Đài

4. Đạo Phật

5.Đạo khác (ghi gõ.............)

168

PHẦN II. CHĂM SÓC SẮC ĐẸP

Q1. Theo chị, sắc đẹp đối với người phụ nữ có tầm quan trọng như thế

nào?

(Chỉ chọn 1 phương án duy nhất)

1. Rất quan trọng

2. Quan trọng

3. Không quan trọng

Chuyển hỏi Q3

4. Không trả lời/không có ý kiến

Q2. Nếu rất quan trọng/quan trọng, xin chị cho biết tại sao?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Sắc đẹp giúp bản thân tự tin hơn

2. Được nhiều người quan tâm, để ý, tôn trọng

3. Có nhiều lợi thế trong công việc/cuộc sống

4. Mang lại cho bản thân những quyền năng nhất định

5. Đề giữ gìn hạnh phúc gia đình

6. Chỉ đơn thuần, phụ nữ là phải quan tâm sắc đẹp

7. Khác (ghi rõ).........................................................................

Q3. Trong những tiêu chuẩn dưới đây đối với phụ nữ, theo chị điều gì là quan trọng nhất? (Xin hãy chọn thứ tự ưu tiên và đánh số tương ứng vào ô phù hợp, chỉ chọn 05 ưu tiên nhất trong 10 vấn đề được nêu ra)

TT Tiêu chí

Mức độ ưu tiên 1. Ưu tiên nhất 2. Ưu tiên thứ 2 3. Ưu tiên thứ 3 4. Ưu tiên thứ 4 5. Ưu tiên thứ 5

1 Tiền bạc/thu nhập

2 Sức khỏe

3 Sắc đẹp

169

4 Công danh/vị trí xã hội

5 Con cái

6 Gia đình

7 Nghề nghiệp/công việc

8 Thời gian vui chơi, giải trí

9 Bạn bè/người thân

10 Khác (ghi

rõ................................)

Q4. Chị thường xuyên quan tâm/để ý đến sắc đẹp của bản thân không?

(Chỉ chọn một phương án)

1. Thường xuyên

2. Thỉnh thoảng

3. Hiếm khi

4. Không bao giờ

Q5. Chị thường quan tâm đến những vấn đề nào liên quan đến sắc đẹp

của bản thân? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Làn da

2. Tóc

3. Dáng vóc

4. Khuôn mặt

5. Thời trang/quần áo/dày dép

6. Cách đi lại

7. Hàm răng/hơi thở

8.Mắt/mũi

170

Q6. Chị thường chăm sóc sắc đẹp cho bản thân ở đâu? (Chỉ chọn một

phương án)

1. Tại nhà là chủ yếu

2. Tại tiệm/spa/cửa hàng là chủ yếu

3. Chăm sóc tại cả hai nơi

Q7. Nếu đến các cơ sở chăm sóc sắc đẹp, đó là nơi nào?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Thẩm mỹ viện

2. Cơ sở y tế tư

3. Tiệm làm tóc

4. Cơ sở làm dạo

5. Khác (ghi khác....................................................)

Q8. Chị thường sử dụng sản phẩm/nguyên liệu gì để chăm sóc sắc đẹp

của bản thân? (Chỉ chọn một phương án)

1. Các sản phẩm từ tự nhiên sẵn có (hoa quả, cây, lá....)

2. Các sản phẩm được sản xuất theo công nghệ ==> Chuyển hỏi

Q12

3. Kết hợp cả hai sản phẩm/nguyên liệu trên

4. Khác.....................................................................

Q8a. Nếu có sử dụng các sản phẩm tự nhiên sẵn có, xin cho biết đó là

những gì?

TT Nguyên liệu Ghi rõ tên các loại

1 Lá

2 Hoa

3 Quả

4 Củ

5 Rễ

6 Khác

171

Q9. Xin chị cho biết tại sao chị lại sử dụng những sản phẩm tự nhiên đó?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Không gây nguy hiểm cho sức khỏe

2. Tiết kiệm/không tốn kém chi phí

3. Dễ tìm kiếm (sẵn có)

4. Không biết sử dụng những sản phẩm được chế xuất

5. Được người thân/người quen khuyên dùng

6. Lý do khác.........................................................................

Q10. Trong gia đình hoặc nơi ở của chị, có ai sử dụng các sản phẩm tự

nhiên sẵn có để chăm sóc sắc đẹp không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Phần lớn số phụ nữ/con gái trong gia đình

2. Một nửa số phụ nữ/con gái trong gia đình

3. Số ít phụ nữ/con gái trong gia đình

4. Không có ai

Q11. Ai là người hướng dẫn/nói cho chị biết cách thức sử dụng các sản

phẩm tự nhiên để làm đẹp? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Người thân trong gia đình

2. Bạn bè/đồng nghiệp

3. Biết trên phương tiện truyền thông (ti vi, đài báo)

4. Sách, tài liệu

5. Thấy người khác dùng thì dùng theo

6. Khác......................................................................

Q12. Chị cho biết tại sao chị sử dụng các sản phẩm được sản xuất/chế

xuất sẵn để chăm sóc sắc đẹp? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Giá rẻ

2. Không mất thời gian chế biến/sử dụng/tiện

3. Dễ mua/dễ kiếm

4. Không có hại cho sức khỏe

172

5. Đa dạng chủng loại, mẫu mã, nhu cầu sử dụng

6. Mọi người dùng nhiều

7. Lý do khác............................................................

Q13. Xin chị cho biết, trung bình 01 tháng chị chi bao nhiêu tiền cho

việc chăm sóc sắc đẹp của mình? (ví dụ: 1.000.000đ = 1 triệu đồng)

T Nội dung chi Ước tính (đồng)

T

1 Mua nguyên liệu/sản phẩm làm đẹp

2 Đến các trung tâm/dịch vụ chăm sóc

3 Khác

Q14. Chị cho biết, các cách làm đẹp truyền thống/dân gian của người

phụ nữ Việt như thế nào hiện nay? (Chỉ chọn một phương án)

1. Vẫn còn nguyên giá trị, nhiều người biết và sử dụng

2. Đã mai một, cần phải khôi phục

3. Không còn giá trị, ít người biết và sử dụng đến

4. Đang được kết hợp với các phương pháp làm đẹp hiện đại

5. Không biết/không trả lời

Q15. Theo chị, trong các phương pháp làm đẹp ngày nay tại các trung tâm chăm sóc sắc đẹp, các làm đẹp truyền thống có được vận dụng/ứng dụng không?

(Chỉ chọn một phương án)

1. Có, kết hợp cả hiện đại và truyền thống

2. Chỉ một phần là truyền thống, phần lớn là hiện đại

3. Phần lớn là truyền thống

4. Không biết

173

Q16. Theo chị, các loại hình chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe hiện nay

đang được nhiều phụ nữ quan tâm là gì? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Chăm sóc tóc

2. Chăm sóc da

3. Phẫu thuật thẩm mỹ, vóc dáng

4. Vật lý trị liệu/xoa bóp/bấm huyệt

5. Tắm, sử dụng các loại lá/hoa/trái cây

6. Chăm sóc răng miệng

7. Khác (ghi rõ)..............................................................................

Q17. Chị có thể kể ra một số cách làm đẹp/kiểu làm đẹp theo dân gian

mà chị biết? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Gội đầu bằng bồ kếp/chanh

2. Nhuộm răng

3. Tắm lá

4. Xông hơi lá

5. Bấm huyệt

6. Đắp mặt bằng các loại cây, trái

7. Mátxa

8. Tập dưỡng sinh

9. Khác (ghi rõ)......................................................

Q18. Theo chị, hiện nay phụ nữ còn sử dụng cách/kiểu làm đẹp nào sau?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Gội đầu bằng bồ kếp/chanh

2. Nhuộm răng

3. Tắm lá

4. Xông hơi lá

5. Bấm huyệt

174

6. Đắp mặt bằng các loại cây, trái

7. Mátxa/xoa bóp

8. Tập dưỡng sinh

9. Khác (ghi rõ)......................................................

Q19. Theo chị, có nên duy trì, giữ gìn các cách làm đẹp truyền thống

trong xã hội hiện nay không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Cần thiết

2. Có cũng được, không cũng được

3. Không cần thiết

4. Không biết/không trả lời

175

PHẦN III. CHĂM SÓC SỨC KHỎE

Q20. Trong năm qua chị có bị ốm lần nào không? (Chỉ chọn một phương

án)

1. Có

2. Không

Q21. Chị đã điều trị ở đâu trong lần ốm gần đây nhất?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Để tự khỏi

2. Đến cơ sở y tế đông y/y học cổ truyền

3. Đến cơ sở y tế (bệnh viện, phòng khám)

4. Đến thầy lang

5. Tự điều trị bằng thuốc nam (lá cây)

6. Tự điều trị bằng các phương phương pháp (cạo gió, xông hơi....)

7. Khác (ghi rõ)___________________________________

Q22. Chị đã từng sinh/đẻ lần nào chưa? (Chỉ chọn một phương án)

1. Đã từng

2. Chưa từng ==> Chuyển hỏi Q28

Q23. Chị thường đến đâu để sinh đẻ? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Trạm y tế

2. Bệnh viện tuyến truyên

3. Bà đỡ/mụ vườn

4. Tự đỡ/người nhà đỡ

5. Khác (ghi rõ).............................................................

176

Q24. Nếu đã từng, xin chị cho biết, trong quá trình mang thai, sinh nở và sau sinh chị có phải “kiêng” hoặc làm theo hướng dẫn của người thân để đảm bảo sức khỏe của mẹ và thai nhi không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Có

2. Không

3. Không nhớ

Q25. Nếu có kiêng khem, xin chị cho biết phải kiêng những gì?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Kiêng không gần gũi/quan hệ tình dục

2. Kiêng không khâu vá, thêu thùa

3. Kiêng không đến các đám ma/đám tang

4. Kiêng không đến chỗ đông người

5. Kiêng ra gió hoặc sử dụng bông tai

6. Khác (ghi rõ).....................................................................

Q26. Sau khi sinh, chị có áp dụng một số phương pháp/cách thức dân gian nào để đảm bảo sức khỏe và sắc đẹp của bản thân không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Có

2. Không ==> Chuyển hỏi Q28

Q27. Nếu có, xin chị cho biết đó là những phương pháp nào và để làm

gì?

1.________________________________________________________

2.________________________________________________________

3.________________________________________________________

4.________________________________________________________

5.________________________________________________________

Q28. Xin chị cho biết, phụ nữ sau khi sinh thường ăn uống như thế nào

để đảm bảo sức khỏe của mẹ và trẻ?(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Ăn uống thức ăn để có nhiều sữa

2. Ăn uống thức ăn để nhanh hồi phục sức khỏe mẹ

177

3. Ăn uống thức ăn để giữ hình dáng của mẹ

4. Khác (ghi rõ)........................................................................

Q29. Phụ nữ sau khi sinh thường chăm sóc và bảo vệ sắc đẹp của mình

như thế nào? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Ken/buộc bụng (để tránh bị chảy/sệ)

2. Kiêng ra ngoài gió, tắm lạnh

3. Không ngồi xổm

4. Không cho con bú/cho bú ít để giữ gìn ngực đẹp

5. Khác (ghi rõ)........................................................................

Q30. Chị biết các phương pháp, cách thức nói trên từ nguồn thông tin

nào?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Người thân trong gia đình

2. Bạn bè/đồng nghiệp

3. Biết trên phương tiện truyền thông (ti vi, đài báo)

4. Sách, tài liệu

5. Thấy người khác dùng thì dùng theo

6. Khác (ghi rõ)..........................................................................

Q31. Chị có thường xuyên luyện tập để duy trì sức khỏe không?

(Đánh dấu X vào ô phù hợp với từng dòng)

Mức độ

1.Thường xuyên 2. Thỉnh thoảng 3. Hiếm khi 4. Không bao giờ

thể

Tập dục

Dưỡng sinh

Thiền

178

Q32. Theo chị, các phương pháp chăm sóc sức khỏe dân gian có phù hợp

với hiện nay không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Vẫn còn phù hợp

2. Chỉ đúng một phần

3. Không còn phù hợp

4. Không biết/không trả lời

Q33. Trong lao động, sản xuất chị thường làm như thế nào để chăm sóc

và bảo vệ sức khỏe? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý

2. Sử dụng các dụng cụ, trang thiết bị bảo hộ

3. Kiêng ngâm mình dưới nước không hợp vệ sinh

4. Kiêng làm việc trong môi trường độc hại

5. Giữ ấm khi trời lạnh/làm mát khi trời nóng

6. Khác (ghi rõ)..............................................................

Q34. Trong gia đình chị khi có người ốm, có thường sử dụng các

phương pháp dân gian để điều trị/chữa không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Có

2. Không ==> Chuyển hỏi câu Q36

Q35. Nếu có, xin chị cho biết tại sao gia đình chị lại sử dụng các phương

pháp dân gian để điều trị/chữa bệnh/ốm đau? (Có thể chọn nhiều phương án)

1. Nguyên liệu dễ kiếm/có/thuận tiện

2. Rẻ/không đắt tiền

3. Biết cách điều trị đúng sẽ khỏi (biết về tình trạng và kinh nghiệm)

4. Được mọi người trong gia đình khuyên bảo

5. Được bác sĩ, thầy thuốc, người có hiểu biết về y học chỉ dẫn

6. Vì không có cơ sở y tế ở gần

7. Làm theo mọi người/thấy người khác cũng làm như vậy

8. Khác (ghi rõ)............................................................................

179

Q36. Gia đình chị có khi nào sử dụng các nguyên liệu/loại thuốc sau để

chăm sóc và bảo vệ sức khỏe không?

1. Các loại lá (kể tên:.....................................................................................)

2. Các loại hoa (kể tên:..................................................................................)

3. Các loại quả (kể tên:..................................................................................)

4. Các loại củ (kể tên:....................................................................................)

5. Các loại rễ ((kể tên:...................................................................................)

6. Các loại thân ((kể tên:...............................................................................)

7. Các loại con vật (kể tên:............................................................................)

Q37. Chị có tham gia câu lạc bộ hay nhóm sở thích về chăm sóc sắc đẹp

và sức khỏe phụ nữ nào không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Có

2. Không ==> Chuyển hỏi Q38

Q37a. Nếu có, xin cho biết tên của câu lạc bộ/nhóm đó là gì?

(Tên:....................................................................................................)

Q38. Chị có thường xuyên đến các câu lạc bộ, tham gia các lớp học/đào tạo về chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe dành cho phụ nữ không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Thường xuyên

2. Thỉnh thoảng

3. Hiếm khi

4. Không bao giờ

Q39. Bản thân chị có thường nói chuyện/chia sẻ kinh nghiệm/hỏi thông tin người khác về vấn đề chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Thường xuyên 3. Hiếm khi

2. Thỉnh thoảng 4. Không bao giờ

180

Q40. Trong thời gian rảnh rỗi, chị thường làm gì?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Ngủ/nằm nghỉ ngơi

2. Đọc sách, báo

3. Xem tivi

4. Nghe nhạc/chơi game

5. Đi chơi bạn bè/người thân/du lịch

6. Đi mua sắm

7. Chơi với con cái

8. Làm đẹp/chăm sóc sắc đẹp/tập thể thao

9. Lướt web/lên mạng

10. Khác (ghi rõ)..............................................................................

Q41. Chị có thường đọc tài liệu/xem các chương trình truyền hình về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp dành cho phụ nữ không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Thường xuyên

2. Thỉnh thoảng

3. Hiếm khi

4. Không bao giờ

Q42. Theo chị, để giữ gìn sức khỏe và sắc đẹp của mình, chị thường làm gì?

a) Chăm sóc sức khỏe:

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

1. Thường xuyên 3. Hiếm khi

2. Thỉnh thoảng 4. Không bao giờ

181

Q40. Trong thời gian rảnh rỗi, chị thường làm gì?

(Có thể chọn nhiều phương án)

1. Ngủ/nằm nghỉ ngơi

2. Đọc sách, báo

3. Xem tivi

4. Nghe nhạc/chơi game

5. Đi chơi bạn bè/người thân/du lịch

6. Đi mua sắm

7. Chơi với con cái

8. Làm đẹp/chăm sóc sắc đẹp/tập thể thao

9. Lướt web/lên mạng

10. Khác (ghi rõ)..............................................................................

Q41. Chị có thường đọc tài liệu/xem các chương trình truyền hình về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp dành cho phụ nữ không? (Chỉ chọn một phương án)

1. Thường xuyên

2. Thỉnh thoảng

3. Hiếm khi

4. Không bao giờ

Q42. Theo chị, để giữ gìn sức khỏe và sắc đẹp của mình, chị thường làm gì?

a) Chăm sóc sức khỏe:

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

b) Chăm sóc sắc đẹp:

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

CẢM ƠN CHỊ ĐÃ HỢP TÁC!

182

PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT

Nơi sinh của người được khảo sát

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Nong thon

135

45.6

46.7

46.7

Thi tran

66

22.3

22.8

69.6

Thanh pho

88

29.7

30.4

100.0

Total

289

97.6

100.0

Missing System

7

2.4

Total

296

100.0

Nghề nghiệp của người được khảo sát

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Nong nghiep

50

16.9

17.3

17.3

Buon ban/dich vu

35

11.8

12.1

29.4

Can bo vien chuc

55

18.6

19.0

48.4

lam tu thue/lam

10

3.4

3.5

51.9

Nghe do/lam muon

3

1.0

1.0

52.9

Cong an, quan doi

Noi tro/nghi huu

4

1.4

1.4

54.3

7

2.4

2.4

56.7

Lam nghe thuat (dien vien, ca si, nghe si)

15

5.1

5.2

61.9

Nhan vien trong cac doanh nghiep/cong ty

sinh/sinh

106

35.8

36.7

98.6

Hoc vien

That nghiep

4

1.4

1.4

100.0

Total

289

97.6

100.0

7

2.4

Missing System

Total

296

100.0

183

Thu nhập

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Duoi 1 trieu

76

25.7

28.7

28.7

Tu 1- 3 trieu

84

28.4

31.7

60.4

Tu 3-5 trieu

69

23.3

26.0

86.4

Tu 5-7 trieu

22

7.4

8.3

94.7

Tren 7 trieu

14

4.7

5.3

100.0

Total

265

89.5

100.0

Missing

System

31

10.5

Total

296

100.0

Hôn nhân

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

cung

135

45.6

46.4

46.4

Dang o chong

14

4.7

4.8

51.2

Da co gia dinh nhung ly hon/ly than

Chua lap gia dinh

142

48.0

48.8

100.0

Total

291

98.3

100.0

Missing

System

5

1.7

Total

296

100.0

184

Trình độ học vấn

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

11

3.7

3.8

3.8

Chua het tieu hoc

Het THCS

38

12.8

13.1

16.8

Het THPT

47

15.9

16.2

33.0

20

6.8

6.9

39.9

Trung cap/nghe

161

54.4

55.3

95.2

Cao dang/dai hoc

14

4.7

4.8

100.0

Tren/sau dai hoc

Total

291

98.3

100.0

5

Missing System

1.7

296

Total

100.0

Tôn giáo

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

213

72.0

74.0

74.0

Khong theo ton giao nao

Dao tin lanh

1.4

1.4

75.3

4

Dao cao dai

1.0

1.0

76.4

3

Dao phat

20.6

21.2

97.6

61

Dao khac

2.4

2.4

100.0

7

Total

97.3

100.0

288

Missing System

2.7

8

Total

100.0

296

185

Theo chị, sắc đẹp có tầm quan trọng thế nào?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

131

44.3

46.3

46.3

Rat quan trong

Quan trong

124

41.9

43.8

90.1

13

4.4

4.6

94.7

Khong quan trong

Khong y kien

15

5.1

5.3

100.0

Total

283

95.6

100.0

13

4.4

Missing

System

296

100.0

Total

Nếu rất quan trọng vì: Sắc đẹp giúp bản thân tự tin hơn

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

202

68.2

76.2

76.2

Khong

63

21.3

23.8

100.0

Total

265

89.5

100.0

Missing

System

31

10.5

Total

296

100.0

Nếu rất quan trọng vì: Được nhiều người quan tâm, để ý, tôn trọng

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

84

28.4

31.8

31.8

Khong

180

60.8

68.2

100.0

Total

264

89.2

100.0

Missing

System

32

10.8

Total

296

100.0

186

Nếu rất quan trọng vì: Có nhiều lợi thế trong công việc, cuộc sống

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

127

42.9

48.1

48.1

Khong

137

46.3

51.9

100.0

Total

264

89.2

100.0

Missing System

32

10.8

Total

296

100.0

Nếu rất quan trọng vì: Mang lại cho bản thân những quyền năng nhất

định

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

78

26.4

29.5

29.5

Khong

186

62.8

70.5

100.0

Total

264

89.2

100.0

Missing System

32

10.8

Total

296

100.0

Nếu rất quan trọng vì: Để giữ gìn hạnh phúc gia đinh

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

118

39.9

44.7

44.7

Khong

146

49.3

55.3

100.0

Total

264

89.2

100.0

Missing

System

32

10.8

Total

296

100.0

187

Nếu rất quan trọng vì: Chỉ đơn thuần phụ nữ là phải quan tâm đến sắc

đẹp

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

67

22.6

25.4

25.4

Khong

197

66.6

74.6

100.0

Total

264

89.2

100.0

Missing

System

32

10.8

Total

296

100.0

Nếu rất quan trọng vì: Khác

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

11

3.7

4.2

4.2

Khong

253

85.5

95.8

100.0

Total

264

89.2

100.0

Missing System

32

10.8

Total

296

100.0

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Tiền bạc

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

32

23.0

23.0

10.8

Uu tien 2

19

13.7

36.7

6.4

Uu tien 3

30

21.6

58.3

10.1

Uu tien 4

33

23.7

82.0

11.1

Uu tien 5

24

17.3

99.3

8.1

Total

139

100.0

47.0

Missing System

157

53.0

Total

296

100.0

188

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Sức khỏe

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

110

37.2

53.7

53.7

Uu tien 2

46

15.5

22.4

76.1

Uu tien 3

25

8.4

12.2

88.3

Uu tien 4

14

4.7

6.8

95.1

Uu tien 5

10

3.4

4.9

100.0

Total

205

69.3

100.0

91

30.7

Missing

System

296

100.0

Total

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Sắc đẹp

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

7

2.4

4.7

4.7

Uu tien 2

23

7.8

15.5

20.3

Uu tien 3

34

11.5

23.0

43.2

Uu tien 4

40

13.5

27.0

70.3

Uu tien 5

44

14.9

29.7

100.0

Total

148

50.0

100.0

Missing

System

148

50.0

Total

296

100.0

189

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Công danh, địa vị

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

5

1.7

5.8

5.8

Uu tien 2

15

5.1

17.4

23.3

Uu tien 3

21

7.1

24.4

47.7

Uu tien 4

25

8.4

29.1

76.7

Uu tien 5

20

6.8

23.3

100.0

Total

86

29.1

100.0

Missing

Syst

210

70.9

em

Total

296

100.0

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Con cái

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

13

4.4

9.6

9.6

Uu tien 2

41

13.9

30.4

40.0

Uu tien 3

38

12.8

28.1

68.1

Uu tien 4

24

8.1

17.8

85.9

Uu tien 5

19

6.4

14.1

100.0

Total

135

45.6

100.0

Missing System

161

54.4

Total

296

100.0

190

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Gia đình

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

40

13.5

23.5

23.5

Uu tien 2

51

17.2

30.0

53.5

Uu tien 3

39

13.2

22.9

76.5

Uu tien 4

24

8.1

14.1

90.6

Uu tien 5

16

5.4

9.4

100.0

Total

170

57.4

100.0

Missing

System

126

42.6

Total

296

100.0

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Nghề nghiệp, công việc

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

6

2.0

5.7

5.7

Uu tien 2

13

4.4

12.4

18.1

Uu tien 3

19

6.4

18.1

36.2

Uu tien 4

37

12.5

35.2

71.4

Uu tien 5

30

10.1

28.6

100.0

Total

105

35.5

100.0

Missing

System

191

64.5

Total

296

100.0

191

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Thời gian vui chơi/giải trí

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 2

3

1.0

15.0

15.0

Uu tien 3

1

.3

5.0

20.0

Uu tien 4

1

.3

5.0

25.0

Uu tien 5

15

5.1

75.0

100.0

Total

20

6.8

100.0

276

93.2

Missing

System

296

100.0

Total

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Bạn bè/người thân

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

1

.3

2.0

2.0

Uu tien 2

4

1.4

8.0

10.0

Uu tien 3

4

1.4

8.0

18.0

Uu tien 4

12

4.1

24.0

42.0

Uu tien 5

29

9.8

58.0

100.0

Total

50

16.9

100.0

Missing

System

246

83.1

Total

296

100.0

Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Khác

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Uu tien 1

1

.3

33.3

33.3

Uu tien 2

2

.7

66.7

100.0

Total

3

1.0

100.0

Missing

System

293

99.0

Total

296

100.0

192

Chị thường xuyên quan tâm đến sắc đẹp không?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

46.9

Valid

Thuong xuyen

135

45.6

46.9

88.5

Thinh thoang

120

40.5

41.7

96.5

Hiem khi

23

7.8

8.0

100.0

Khong bao gio

10

3.4

3.5

Total

288

97.3

100.0

Missing

System

8

2.7

Total

296

100.0

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Làn da

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

72.8

Valid

Co

209

70.6

72.8

100.0

Khong

78

26.4

27.2

Total

287

97.0

100.0

Missing

System

9

3.0

Total

296

100.0

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Tóc

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

167

56.4

58.2

58.2

Khong

120

40.5

41.8

100.0

Total

287

97.0

100.0

Missing

System

9

3.0

Total

296

100.0

193

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Dáng vóc

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

143

48.3

49.8

49.8

Khong

144

48.6

50.2

100.0

Total

287

97.0

100.0

Missing

System

9

3.0

Total

296

100.0

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Khuôn mặt

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

154

52.0

53.7

53.7

Khong

133

44.9

46.3

100.0

Total

287

97.0

100.0

Missing

System

9

3.0

Total

296

100.0

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Thời trang/quần áo/giày

dép

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

61.9

61.9

Valid

Co

177

59.8

37.8

99.7

Khong

108

36.5

.3

100.0

12

1

.3

100.0

Total

286

96.6

Missing

System

10

3.4

Total

296

100.0

194

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Cách đi lại

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

72

24.3

25.2

25.2

Khong

214

72.3

74.8

100.0

Total

286

96.6

100.0

Missing

System

10

3.4

Total

296

100.0

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Hàm răng/hơi thở

Frequency Percent Valid Percent

Cumulativ e Percent

Valid

Co

89

30.1

31.0

31.0

Khong

198

66.9

69.0

100.0

Total

287

97.0

100.0

Missing

System

9

3.0

Total

296

100.0

Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Mặt/mũi

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

20.9

21.6

21.6

62

Khong

76.0

78.4

100.0

225

Total

97.0

100.0

287

Missing

System

3.0

9

Total

100.0

296

195

Chị thường xuyên chăm sóc sắc đẹp ở đâu?

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

211

71.3

74.8

74.8

Tai nha la chu yeu

28

9.5

9.9

84.8

Tai tiem/spa/cua hang

43

15.2

100.0

14.5

Cham soc ca hai noi nhu nhau

Total

282

95.3

100.0

Missing System

14

4.7

Total

296

100.0

Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Thẩm mĩ viện

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

83

28.0

31.2

31.2

Khong

183

61.8

68.8

100.0

Total

266

89.9

100.0

Missing

System

30

10.1

Total

296

100.0

Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Cơ sở y tế tư

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

46

15.5

17.3

17.3

Khong

220

74.3

82.7

100.0

Total

266

89.9

100.0

Missing

System

30

10.1

Total

296

100.0

196

Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Tiệm làm tóc

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

177

59.8

66.5

66.5

Khong

89

30.1

100.0

33.5

Total

266

89.9

100.0

Missing

System

30

10.1

Total

296

100.0

Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Cơ sở làm dạo

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

23

7.8

8.6

8.6

Khong

243

82.1

100.0

91.4

Total

266

89.9

100.0

Missing

System

30

10.1

Total

296

100.0

Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Khác

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

13

4.4

4.9

4.9

Khong

252

85.1

99.6

94.7

3

1

.3

100.0

.4

Total

266

89.9

100.0

Missing

System

30

10.1

Total

296

100.0

197

Tại sao sử dụng sản phẩm: Không gây nguy hiểm cho sức khỏe

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

209

70.6

81.3

81.3

Khong

48

16.2

100.0

18.7

Total

257

86.8

100.0

Missing

System

39

13.2

Total

296

100.0

Tại sao sử dụng sản phẩm: Tiết kiệm, không tốn kém chi phí

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

144

48.6

56.0

56.0

Khong

113

38.2

100.0

44.0

Total

257

86.8

100.0

Missing

System

39

13.2

Total

296

100.0

Tại sao sử dụng sản phẩm: dễ tìm kiếm (sẵn có)

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

145

49.0

56.4

56.4

Khong

112

37.8

100.0

43.6

Total

257

86.8

100.0

Missing

System

39

13.2

Total

296

100.0

198

Tại sao sử dụng sản phẩm: Không biết sử dụng sản phẩm được chế xuất

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

23

7.8

8.9

8.9

Khong

234

79.1

91.1

100.0

Total

257

86.8

100.0

Missing

System

39

13.2

Total

296

100.0

Tại sao sử dụng sản phẩm: Được người thân/Bạn bè khuyên

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

62

20.9

24.1

24.1

Khong

195

65.9

75.9

100.0

Total

257

86.8

100.0

Missing

System

39

13.2

Total

296

100.0

Tại sao sử dụng sản phẩm: Khác

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

10

3.4

3.9

3.9

Khong

247

83.4

96.1

100.0

Total

257

86.8

100.0

Missing

System

39

13.2

Total

296

100.0

199

Có ai sử dụng sản phẩm tự nhiên sẵn có để chăm sóc sắc đẹp không?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

lon

phu

108

36.5

41.4

41.4

Phan nu/con gai su dung

64

21.6

24.5

65.9

Mot nua so phu nu/con gai su dung

64

21.6

24.5

90.4

So it con gai/phu nu su dung

Khong co ai

25

8.4

9.6

100.0

Total

261

88.2

100.0

Missing

System

35

11.8

Total

296

100.0

Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Người thân trong gia đình

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

124

41.9

47.3

47.3

Khong

138

46.6

100.0

52.7

Total

262

88.5

100.0

Missing

System

34

11.5

Total

296

100.0

Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Bạn bè/đồng nghiệp

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

141

47.6

53.8

53.8

Khong

121

40.9

100.0

46.2

Total

262

88.5

100.0

Missing

System

34

11.5

Total

296

100.0

200

Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Tìm hiểu trên thông

tin đại chúng

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

53.4

53.4

140

47.3

Khong

100.0

46.6

122

41.2

Total

100.0

262

88.5

Missing

System

34

11.5

Total

296

100.0

Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Sách/tài liệu

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

48.5

48.5

127

42.9

Khong

100.0

51.5

135

45.6

Total

100.0

262

88.5

Missing

System

34

11.5

Total

296

100.0

Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Thấy người khác

dùng thì dùng theo

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

37

12.5

14.2

14.2

Khong

224

75.7

100.0

85.8

Total

261

88.2

100.0

Missing

System

35

11.8

Total

296

100.0

201

Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Khác

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

2.3

2.3

6

2.0

Khong

100.0

97.7

256

86.5

Total

100.0

262

88.5

Missing

System

34

11.5

Total

296

100.0

Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Giá rẻ

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

36.6

36.6

98

33.1

Khong

100.0

63.4

170

57.4

Total

100.0

268

90.5

Missing

System

28

9.5

Total

296

100.0

Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Không mất thời gian chế biến

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

167

56.4

62.3

62.3

Khong

101

34.1

100.0

37.7

Total

268

90.5

100.0

Missing

System

28

9.5

Total

296

100.0

202

Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Dễ mua/dễ kiếm

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

141

47.6

52.6

52.6

Khong

127

42.9

100.0

47.4

Total

268

90.5

100.0

Missing

System

28

9.5

Total

296

100.0

Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Không có hại cho sức khỏe

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

128

43.2

47.8

47.8

Khong

140

47.3

100.0

52.2

Total

268

90.5

100.0

Missing

System

28

9.5

Total

296

100.0

Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Đa dạng chủng loại mẫu mã, đáp ứng nhu cầu

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

30.2

30.2

Valid

Co

81

27.4

100.0

69.8

Khong

187

63.2

100.0

Total

268

90.5

Missing

System

28

9.5

Total

296

100.0

203

Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Mọi người dùng nhiều

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

41

13.9

15.3

15.3

Khong

227

76.7

84.7

100.0

Total

268

90.5

100.0

Missing

System

28

9.5

Total

296

100.0

Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Khác

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

1.1

1.1

1.0

3

Khong

100.0

98.9

89.5

265

Total

100.0

90.5

268

Missing

System

9.5

28

Total

100.0

296

Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Chăm sóc tóc

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

66.8

63.2

66.8

187

Khong

33.2

31.4

100.0

93

Total

100.0

94.6

280

Missing

System

5.4

16

Total

100.0

296

204

Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Chăm sóc da

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

231

78.0

82.5

82.5

Khong

49

16.6

17.5

100.0

Total

280

94.6

100.0

Missing

System

16

5.4

Total

296

100.0

Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Phẫu thuật

thẩm mỹ/vóc dáng

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

54.4

161

57.5

57.5

Khong

40.2

119

42.5

100.0

Total

94.6

280

100.0

Missing

System

5.4

16

Total

100.0

296

Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Vật lý trị liệu/xoa bóp/bấm huyệt

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

74

25.0

26.6

26.6

Khong

204

68.9

73.4

100.0

Total

278

93.9

100.0

Missing

System

18

6.1

Total

296

100.0

205

Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Tắm, sử dụng

các loại lá/hoa/trái cây

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

122

41.2

43.6

43.6

Khong

158

53.4

56.4

100.0

Total

280

94.6

100.0

Missing

System

16

5.4

Total

296

100.0

Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Chăm sóc răng miệng

Frequency

Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

114

38.5

40.7

40.7

Khong

166

56.1

100.0

59.3

Total

280

94.6

100.0

Missing

System

16

5.4

Total

296

100.0

Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Khác

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

1.4

1.4

Valid

Co

4

1.4

100.0

98.6

Khong

276

93.2

100.0

Total

280

94.6

Missing

System

16

5.4

Total

296

100.0

206

Kể ra một số cách làm đẹp theo dân gian: Gội đầu bồ kết/chanh

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

235

79.4

83.6

83.6

Khong

46

15.5

16.4

100.0

Total

281

94.9

100.0

Missing

System

15

5.1

Total

296

100.0

Phụ nữ sau sinh bình thường chăm sóc và bảo vệ sắc đẹp: Không cho

con bú/cho con bú ít để giữ ngực đẹp

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

25

8.4

10.5

10.5

Khong

214

72.3

89.5

100.0

Total

239

80.7

100.0

Missing

System

57

19.3

Total

296

100.0

Phụ nữ sau sinh bình thườngchăm sóc và bảo vệ sắc đẹp: Khác

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

9

3.8

3.8

3.0

Khong

230

100.0

96.2

77.7

Total

239

100.0

80.7

Missing

System

57

19.3

Total

296

100.0

207

Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Người thân trong gia đình

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

196

80.3

80.3

66.2

Khong

48

100.0

19.7

16.2

Total

244

100.0

82.4

Missing

System

52

17.6

Total

296

100.0

Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Bạn bè/đồng nghiệp

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

124

50.8

50.8

41.9

Khong

120

100.0

49.2

40.5

Total

244

100.0

82.4

Missing

System

52

17.6

Total

296

100.0

Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Trên phương tiện

truyền thông

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

108

44.3

44.3

36.5

Khong

136

100.0

55.7

45.9

Total

244

100.0

82.4

Missing

System

52

17.6

Total

296

100.0

208

Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Sách, tài liệu

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

45.1

45.1

110

37.2

Khong

100.0

54.9

134

45.3

Total

100.0

244

82.4

Missing

System

52

17.6

Total

296

100.0

Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Thấy người khác dùng thì dùng theo

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

11.5

11.5

28

9.5

Khong

100.0

88.5

216

73.0

Total

100.0

244

82.4

Missing

System

52

17.6

Total

296

100.0

Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Khác

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

1.6

1.6

4

1.4

Khong

100.0

98.4

240

81.1

Total

100.0

244

82.4

Missing

System

52

17.6

Total

296

100.0

209

Chị có thường xuyên luyện tập: Tập thể dục

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Thuong xuyen

100

33.8

37.5

37.5

Thinh thoang

120

40.5

44.9

82.4

Hiem khi

32

10.8

12.0

94.4

Khong bao gio

15

5.1

5.6

100.0

Total

267

90.2

100.0

Missing

System

29

9.8

Total

296

100.0

Chị có thường xuyên luyện tập: Tập dưỡng sinh

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Thuong xuyen

6.2

14

4.7

6.2

Thinh thoang

20.4

46

15.5

26.7

Hiem khi

25.8

58

19.6

52.4

Khong bao gio

47.6

107

36.1

100.0

Total

100.0

225

76.0

Missing

System

71

24.0

Total

296

100.0

Chị có thường xuyên luyện tập: Thiền

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid Missing

Thuong xuyen Thinh thoang Hiem khi Khong bao gio Total System Total

1.8 9.4 21.4 67.4 100.0

4 21 48 151 224 72 296

1.4 7.1 16.2 51.0 75.7 24.3 100.0

1.8 11.2 32.6 100.0

210

Theo chị các phương pháp chăm sóc sức khỏe dân gian có phù hợp

hiện nay không?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Van con phu hop

198

66.9

72.3

72.3

Chi dung mot phan

65

22.0

23.7

96.0

Khong con phu hop

5

1.7

1.8

97.8

tra

6

2.0

2.2

100.0

Khong biet/khong loi

Total

274

92.6

100.0

Missing System

22

7.4

Total

296

100.0

Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Có chế độ ăn uống,

nghỉ ngơi hợp lý

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

240

81.1

87.0

87.0

Khong

36

12.2

13.0

100.0

Total

276

93.2

100.0

20

6.8

Missing

System

Total

296

100.0

Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Sử dụng công cụ,

trang thiết bị bảo hộ

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

193

69.9

65.2

69.9

Khong

83

30.1

28.0

100.0

Total

276

100.0

93.2

Missing

System

20

6.8

Total

296

100.0

211

Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Kiêng ngâm mình

trong nước không hợp vệ sinh

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

145

49.0

52.5

52.5

Khong

131

44.3

47.5

100.0

Total

276

93.2

100.0

Missing

System

20

6.8

Total

296

100.0

Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Kiêng làm việc trong môi trường độc hại

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

143

48.3

51.8

51.8

Khong

133

44.9

48.2

100.0

Total

276

93.2

100.0

Missing

System

20

6.8

Total

296

100.0

Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Giữ ấm khi trời

lạnh/làm mát khi trời nóng

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulativ e Percent

Valid

Co

174

58.8

63.0

63.0

Khong

102

34.5

37.0

100.0

Total

276

93.2

100.0

Missing

System

20

6.8

Total

296

100.0

212

Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Khác

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

3

1.0

1.1

1.1

Khong

273

92.2

98.9

100.0

Total

276

93.2

100.0

Missing

System

20

6.8

Total

296

100.0

Khi có người ốm, gia đình có dùng các phương pháp dân gian để chữa

trị không?

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

196

66.2

72.6

72.6

Khong

74

25.0

27.4

100.0

Total

270

91.2

100.0

Missing

System

26

8.8

Total

296

100.0

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Nguyên liệu dễ kiếm

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulativ e Percent

Valid

Co

165

55.7

76.4

76.4

Khong

51

17.2

23.6

100.0

Total

216

73.0

100.0

Missing

System

80

27.0

Total

296

100.0

213

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Rẻ/phù hợp túi tiền

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

107

36.1

49.5

49.5

Khong

109

36.8

50.5

100.0

Total

216

73.0

100.0

Missing

System

80

27.0

Total

296

100.0

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Biết cách điều trị đúng sẽ khỏi

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

133

44.9

61.9

61.9

Khong

82

27.7

38.1

100.0

Total

215

72.6

100.0

Missing

System

81

27.4

Total

296

100.0

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Được mọi người trong gia đình khuyên dùng

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

77

35.6

35.6

26.0

Khong

139

64.4

100.0

47.0

Total

216

100.0

73.0

Missing

System

80

27.0

Total

296

100.0

214

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Được bác sĩ, thầy thuốc, mọi người

chỉ dẫn

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

80

27.0

37.0

37.0

Khong

136

45.9

63.0

100.0

Total

216

73.0

100.0

Missing

System

80

27.0

Total

296

100.0

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Không có cơ sở y tế ở gần

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

7.9

7.9

5.7

17

Khong

92.1

100.0

67.2

199

Total

100.0

73.0

216

Missing

System

27.0

80

Total

100.0

296

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Làm theo mọi người/thấy người

khác làm thì làm

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

7.1

9.7

9.7

21

Khong

65.9

90.3

100.0

195

Total

73.0

100.0

216

Missing

System

27.0

80

Total

100.0

296

215

Sử dụng phương pháp dân gian vì: Khác

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

5

Valid

Co

1.7

2.3

2.3

209

Khong

70.6

97.7

100.0

214

Total

72.3

100.0

82

Missing

System

27.7

296

Total

100.0

Chị có tham gia Câu lạc bộ hay nhóm sở thích về Chăm sóc sức khỏe

và sắc đẹp không?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

41

Valid

Co

13.9

15.8

15.8

218

Khong

73.6

84.2

100.0

259

Total

87.5

100.0

37

Missing

System

12.5

296

Total

100.0

Chi có thường xuyên đến các Câu lạc bộ, tham gia lớp học về chăm

sóc sức khỏe và sắc đẹp không?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Thuong xuyen

21

7.1

8.0

8.0

Thinh thoang

62

20.9

23.6

31.6

Hiem khi

51

17.2

19.4

51.0

Khong bao gio

129

43.6

49.0

100.0

Total

263

88.9

100.0

Missing

System

33

11.1

Total

296

100.0

216

Bản thân chị có chia sẻ với người khác về Chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp không?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulativ e Percent

Valid

Thuong xuyen

28.0

30.1

30.1

83

Thinh thoang

50.7

54.3

84.4

150

Hiem khi

8.8

9.4

93.8

26

Khong bao gio

5.7

6.2

100.0

17

Total

93.2

100.0

276

Missing

System

6.8

20

Total

100.0

296

Thời gian rảnh, chị thường: Ngủ/nằm nghỉ ngơi

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

72.3

72.3

198

66.9

Khong

100.0

27.7

76

25.7

Total

100.0

274

92.6

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

Thời gian rảnh, chị thường: Đọc sách, báo

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

53.6

53.6

147

49.7

Khong

100.0

46.4

127

42.9

Total

100.0

274

92.6

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

217

Thời gian rảnh, chị thường: Xem tivi

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

53.7

58.0

58.0

Valid

Co

159

38.9

42.0

100.0

Khong

115

92.6

100.0

Total

274

7.4

Missing

System

22

100.0

Total

296

Thời gian rảnh, chị thường: Nghe nhạc/chơi game

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

39.1

36.1

39.1

107

Khong

100.0

56.4

60.9

167

Total

92.6

100.0

274

Missing

System

7.4

22

Total

100.0

296

Thời gian rảnh, chị thường: Đi chơi với bạn bè, người thân/du lịch

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

125

42.2

45.6

45.6

Khong

149

50.3

54.4

100.0

Total

274

92.6

100.0

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

218

Thời gian rảnh, chị thường: Đi mua sắm

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

120

40.5

43.8

43.8

Khong

154

52.0

56.2

100.0

Total

274

92.6

100.0

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

Thời gian rảnh, chị thường: Chơi với con

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

92

31.1

33.6

33.6

Khong

182

61.5

100.0

66.4

Total

274

92.6

100.0

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

Thời gian rảnh, chị thường: Làm đẹp/ chăm sóc sắc đẹp/tập thể dục

Frequency Percent Valid Percent

Cumulative Percent

41.6

41.6

Valid

Co

114

38.5

100.0

58.4

Khong

160

54.1

100.0

Total

274

92.6

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

219

Thời gian rảnh, chị thường: Lên mạng xem tin tức

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

97

32.8

35.4

35.4

Khong

177

59.8

64.6

100.0

Total

274

92.6

100.0

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

Thời gian rảnh, chị thường: Khác

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

Co

3

1.0

1.1

1.1

Khong

271

91.6

98.9

100.0

Total

274

92.6

100.0

Missing

System

22

7.4

Total

296

100.0

Chị có thường đọc/xem tài liệu về Chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp

không?

Frequency Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

86

29.1

31.7

31.7

Valid

Thuong xuyen

143

48.3

52.8

84.5

Thinh thoang

31

10.5

11.4

95.9

Hiem khi

11

3.7

4.1

100.0

Khong bao gio

271

91.6

100.0

Total

25

8.4

System

Missing

296

100.0

Total

220

PHỤ LỤC 3. NHỮNG HÌNH ẢNH CHĂM SÓC SẮC ĐẸP

3.1. MỘT SỐ NGUYÊN LIỆU LÀM ĐẸP VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE

DÂN GIAN

Nguồn:https://www.google.com.vn/search?q=l%C3%A1+tr%E1%BA%A7u+kh%C3

%B4ng&biw=1366&bih=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoV

ChMInLPrqI7LyAIVpCamCh1W_AHj#imgrc=6o73CIJ7GQSH-M%3A

Dùng để đắp mặt trị nám và chữa cảm

Làm thực phẩm và đắp mặt dưỡng da

Nguồn:https://www.google.com.vn/search?q=tr%E1%BB%A9ng+g%C3

%A0&biw=1366&bih=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_A

UoAWoVChMI0eXvxI7LyAIVBl6mCh1V1g3E#imgrc=SB7KSBY1eXTsFM%3A

221

Nguồn:https://www.google.com/search?q=du+du&es_sm=122&biw=1366&bih=64

3&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMI_sC9v4_LyAIVIiqmCh

1pWA15#imgrc=IlOTLsJ3rY_fhM%3A

Dùng làm thức uống và đắp để làm đẹp da mặt

Nguồn:https://www.google.com/search?q=nha+dam&es_sm=122&biw=1366&bih

=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMIh72g2Y_LyAIVRhe

mCh1GEA5v#imgrc=eiA-9It-_xYxvM%3A

Dùng làm thức uống và đắp để làm đẹp da mặt

222

Nguồn:https://www.google.com/search?q=bo&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s

ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMIwuWE-

I_LyAIVpRumCh0K5wv-#tbm=isch&q=qua+bo&imgrc=3mqoaw1uW6chyM%3A

Dùng làm thức uống và đắp để làm đẹp da mặt

Nguồn:https://www.google.com/search?q=ong&es_sm=122&biw=1366&bih=643&

source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMI9o3bk5DLyAIVotimCh2nZ

wdU#imgrc=4U-U73sBZyRohM%3A

Dùng để chữa ho và đắp làm đẹp da mặt

223

Nguồn:https://www.google.com/search?q=rau+ma&es_sm=122&biw=1366&bih=6

43&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMI8LDEsJDLyAIVZKqm

Ch2lxQ4M#imgrc=_0-NAqCZoHhzrM%3A

Có tác dụng sát trùng, giải độc, tính bổ dưỡng cao

Cung cấp vitamin và dùng để dưỡng da

Nguồn:https://www.google.com.vn/search?q=dua+chu%C3%B4t&biw=

1366&bih=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVC

hMI46ig6YzLyAIVpd-mCh3ovwge#imgrc=0C5D2NJ-3KGcKM%3A

224

Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s

ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V

4Ami#tbm=isch&q=c%C3%A2y+x%E1%BA%A3&imgrc=heBq6l02t5YEqM%3A

Dùng để xông hơi giải độc, nấu nước gội đầu

Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s

ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V

4Ami#tbm=isch&q=c%C3%A2y+x%E1%BA%A3&imgrc=heBq6l02t5YEqM%3A

Dùng để xông hơi giải độc, nấu nước gội đầu

225

Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s

ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V

4Ami#tbm=isch&q=hung+cho&imgrc=mCUZ6KvPllm9WM%3A

Dùng để xông hơi và nấu nước gội đầu

Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s

ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V

4Ami#tbm=isch&q=hung+cho&imgrc=mCUZ6KvPllm9WM%3A

Dùng để xông hơi và nấu nước gội đầu

226

Nguồn:https://www.google.com/search?q=Ngh%E1%BB%87&biw=1366&bih=643

&es_sm=122&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMIo4OnjZHL

yAIVIymCh3c8QVN#tbm=isch&q=c%E1%BB%A7+Ngh%E1%BB%87&imgrc=DCXiNO

T6K1YgvM%3A

Dùng để đánh cảm và giảm mỡ bụng

Nguồn:https://www.google.com/search?q=Ngh%E1%BB%87&biw=1366&bih=643

&es_sm=122&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMIo4OnjZHL

yAIVIymCh3c8QVN#tbm=isch&q=c%E1%BB%A7+Ngh%E1%BB%87&imgrc=DCXiNO

T6K1YgvM%3A

Dùng để đánh cảm và giảm mỡ bụng

227

3.2. MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀM ĐẸP BẰNG PHƯƠNG PHÁP DÂN

GIAN

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

Tẩy da chết và làm trắng da bằng cám gạo

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

Tẩy da chết và làm trắng da bằng cám gạo

228

Bà Tôn Nữ Thị Tâm bên cạnh thảo dược dùng để chăm sóc sức khỏe

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

sau sinh

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

Gội đầu bằng tinh chất thảo dược của trung tâm Việt – Care

229

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

Xông hơi lá trầu không để chống mỏi mắt và chữa nhăn đuôi mắt

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

Mát xa chống đầy hơi bụng và đắp mặt nạ dưỡng da bằng mật ong

230

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

Nghệ vàng hạ thổ

Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-

sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg

Dùng nghệ vàng hạ thổ mát xa để chữa rạn bụng sau sinh

231

3.3. MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀM ĐẸP BẰNG CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI

(Hình ảnh được cung cấp bởi Warda spa 106A2 Lạc chính - Trúc Bạch - Ba

Đình - Hà Nội, năm 2014)

Nguồn: http://wardaspa.vn/

Làm trắng da toàn thân bằng phương pháp bôi kem và ủ nóng

Nguồn: http://wardaspa.vn/

Trị nám và làm đẹp da bằng công nghệ ánh sáng

232

Nguồn: http://wardaspa.vn/

Chữa rạn da và giảm mỡ bụng bằng máy ánh sáng

233

Nguồn: http://wardaspa.vn/

Triệt lông và làm sáng da bằng công nghệ ánh sáng

234

PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THỂ HIỆN VẺ ĐẸP

CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ

4.1. TRUYỆN DÂN GIAN “AI MUA HÀNH TÔI HAY LÀ LỌ NƯỚC

THẦN”

Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm

ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi

chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một

phiến đá ở gần chỗ mình đang làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng

thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt

hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì

hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: - “Đồ chim

dữ! Hãy cút ngay!”. Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh

chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống

lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được.

Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật. Một lát sau, con

chim đã bay trở lại miệng ngậm một cái lọ bé đặt xuống bên cạnh và nói:

“Đây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn

thêm, trần gian không ai có”. Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi tần ngần

mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng:

- “Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta

dùng”. Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ trên kèo nhà. Và

rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ

tới cái lọ ấy nữa.

Ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng

con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai

vợ chồng thì rất thương yêu nhau.

Một hôm chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái

lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi

235

thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm gội

rồi tiện tay đổ lọ nước ra bôi khắp tóc tai mình mẩy. Không ngờ sau khi bôi

xong chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh

kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những

cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi,

dọc dài bằng đòn gánh.

Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là

tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là

vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo

đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm

vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe.

Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế

cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi

làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh

lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa.

Một hôm anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm

ở trên bờ.Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà

xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy, bèn hò

hét đuổi theo nhưng không kịp nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa,

chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày

xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn lính

thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần

vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện

của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn

bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!”.

Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm

cho được người đàn bà đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người

về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu

236

quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về

xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói

là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.

Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần

và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian.

Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận.

Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo

ngay anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá

chúng vội đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than

khóc.

Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp

không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người

đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi

thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua

bèn hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói

lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều

người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương

y, các pháp sư phù thủy v.v... đua nhau trẩy kinh hy vọng dùng tài phép làm

cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã

giở đủ mọi trò, đều vô hiệu.

Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn

thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung

nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua,

bèn quyết vào kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng

buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại

trước cửa hoàng cung rao to lên những câu:

Dọc bằng đòn gánh,

237

Củ bằng bình vôi

Ai mua hành tôi,

Thì thương tôi với!

Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn. Nét mặt của vợ anh

tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ:

- Hãy gọi người hàng hành vào cho ta!

Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà

lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng; lại thấy những

cây hành to lớn lạ thường thì lấy làm kinh ngạc. Vua ngỡ là nhờ những cây

hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười.

Vua liền nẩy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui

lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng:

- Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau!

Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt

anh bày cho mình học thuộc câu rao, rồi quảy gánh qua lại trước mặt người

đàn bà, cất tiếng rao mới học được.

Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười nghặt nghẽo.Vua thích thú lại càng

làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy

vua ngỡ là người lạ liền nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng:

- Mình hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi!

Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập

đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.

Nguồn: Nguyễn Đổng Chi (2003),Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ

Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, H, quyển II.

238

4.2. SƠN TINH - THỦY TINH

(Trích)

(…)

Sơn Tinh có một mắt ở trán,

Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.

Một thần phi bạch hổ trên cạn,

Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.

Hai thần bên cửa thành thi lễ.

Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.

Nhưng có một nàng mà hai rể,

Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều.

Thuỷ Tinh khoe thần có phép lạ;

Rứt lời tay hất chòm râu xanh1,

Bắt quyết hò mây to nước cả,

Dậm chân rung khắp làng gần quanh.

Ào ào mưa đổ xuống như thác,

Cây xiêu, cầu gãy, nước hò reo,

Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc.

Bò lợn và cột nhà trôi theo.

Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.

1 Rứt lời: theo chính tả hiện nay phải viết “Dứt lời” (chú thích của NCS).

Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo;

239

Vung tay niệm chú. Núi từng dải,

Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò

Chạy mưa.

Vua tuỳ con kén chọn.

Mỵ Nương khép nép như cành hoa:

"Con đây phận đào tơ bé mọn,

Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha."

Vua nghĩ lâu hơn bàn việc nước,

Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,

Lễ vật thần nào mang đến trước,

Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.

II

Bình minh má ửng đào phơn phớt,

Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.

Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,

Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.

Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,

Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.

Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,

Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.

240

Rừng xanh thả mây đào man mác,

Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu

Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,

Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.

Theo sau năm chục con voi xám

Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,

Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng.

Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.

Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,

Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.

Thần suốt đêm sao dài không ngủ,

Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.

Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa.

Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,

Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,

Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.

Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,

Thương người, thương cảnh xót lòng đau.

Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,

Nàng kêu: "Phụ vương ôi! Phong Châu!"

241

Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt.

Hùng Vương mơ, vịn tay bờ thành.

Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,

Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh...

Thoảng gió vù vù như gió bể.

Thuỷ Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,

Yên gấm tung dài bay đỏ choé,

Mình khoác bào xanh da giời quang.

Theo sau cua đỏ và tôm cá,

Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,

Khập khiễng bò lê trên đất lạ;

Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.

Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ.

Chưn giời còn phảng bóng người yêu1,

Thuỷ Tinh thúc rồng đau kêu rú,

Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.

Co hết gân, nghiến răng thần quát:

"Giết! giết Sơn Tinh hả hờn ta!"

Tức thời nước sủi reo như thác;

Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa.

1 Chưn giời: chân trời (chú thích của Biên tập sách).

242

III

Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu.

Áo bào phơ phất nụ cười bay.

(Vui chỉ mê ai xinh mới hiểu)

Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.

Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,

Bạch hổ dừng chưn, lùi, vểnh tai.

Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,

Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.

Sóng cả gầm reo lăn như chớp.

Thuỷ Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.

Cá voi quác mồm to muốn đớp;

Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng;

Càng cua lởm chởm giơ như mác;

Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.

Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc

Niệm chú đất nẩy vù lên cao.

Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo;

Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng,

Đạp long đất núi, gầm, xông xáo.

243

Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.

Mây đen hăm hở bay mù mịt,

Sấm ran, sét động nổ loè xanh.

Tôm cá xưa nay im thin thít,

Mở quác mồm to kêu thất thanh.

Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu.

Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.

(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,

Nhưng thật dễ thương): "Ô! Vì ta!"

Thuỷ Tinh năm năm dưng nước bể1,

Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.

Trần gian đâu có người dai thế,

Cũng bởi thần yêu nên khác thường.

Nguồn: Nguyễn Nhược Pháp (1995), Ngày xưa, Nxb. Hội Nhà văn, H,

1 dưng nước bể: dâng nước biển (chú thích của Biên tập sách).

tr. 8- 16 (Tập Ngày xưa in lần đầu năm 1935).

244

4.3. CHÙA HƯƠNG

(Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa)

Hôm nay em đi chùa Hương.

Hoa cỏ mờ hơi sương

Cùng thầy me em dậy.

Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ, đuôi gà cao;

Em đeo dải yếm đào;

Quần lĩnh, áo the mới;

Tay cầm nón quai thao.

Me cười: “Thầy nó trông!

Chưn đi dôi dép cong,

Con tôi xinh xinh quá!

Bao giờ cô lấy chồng?”

- Em tuy mới mười lăm

Mà đã lắm người thăm

Nhờ mối mai đưa tiếng,

Khen tươi như trăng rằm.

245

Nhưng em chưa lấy ai,

Vì thầy bảo người mai

Rằng em còn bé lắm,

Ý đợi người tài trai.

Em đi cùng với me.

Me em ngồi cáng tre.

Thầy theo sau cưỡi ngựa,

Thắt lưng dài đỏ hoe.

Thầy me ra đi đò,

Thuyền mấp mênh bên bờ.

Em nhìn sông nước chảy,

Đưa cánh buồm lô nhô.

Mơ xa lại nghĩ gần,

Đời mấy kẻ tri âm?

Thuyền nan vừa lẹ bước,

Em thấy một văn nhân…

Người đâu thanh lạ nhường!

Tướng mạo trông phi thường.

246

Lưng cao dài, trán rộng.

Hỏi ai nhìn không thương?

Chàng ngồi bên me em,

Me hỏi chuyện làm quen:

"Thưa thầy đi chùa ạ?

Thuyền đông giời ôi chen!"

Chàng thưa vâng thuyền đông,

Rồi ngắm giời mênh mông,

Xa xa mờ núi biếc,

Phơn phớt áng mây hồng.

Dòng sông nước đục lờ.

Ngâm nga chàng đọc thơ!

Thầy khen hay, hay quá!

Em nghe rồi ngẩn ngơ.

Thuyền đi, Bến Đục qua,

Mỗi lúc gặp người ra,

Thẹn thùng em không nói:

"Nam vô A-di-đà!"

247

Réo rắt suối đưa quanh.

Ven bờ, ngọn núi xanh,

Dịp cầu xa nho nhỏ1.

Cảnh đẹp gần như tranh.

Sau núi Oản, Gà, Xôi,

Bao nhiêu là khỉ ngồi.

Tới núi con Voi phục,

Có đủ cả đầu đuôi.

Chùa lấp sau rừng cây,

(Thuyền ta đi một ngày)

Lên cửa chùa em thấy

Hơn một trăm ăn mày.

Em đi, chàng theo sau,

Em không dám đi mau,

Ngại chàng chê hấp tấp,

Số gian nan không giàu.

1 Dịp cầu: Nhịp cầu (chú thích của Biên tập sách).

248

Thầy me đến điện thờ,

Trầm hương khói tỏa mờ.

Hương như là sao lạc,

Lớp sóng người lô nhô.

Chen vào thật lắm công.

Thầy me em lễ xong,

Quay về nhà ngang bảo:

"Mai mới vào chùa trong."

Chàng hai má đỏ hồng

Kêu với thằng tiểu đồng

Mang túi thơ bầu rượu:

"Mai ta vào chùa trong!"

Đêm hôm ấy em mừng!

Mùi trầm hương bay lừng.

Em nằm nghe tiếng mõ,

Rồi chim kêu trong rừng.

Em mơ, em yêu đời,

Mơ nhiều... Viết thế thôi,

249

Kẻo ai mà xem thấy,

Nhìn em đến nực cười.

Em chưa tỉnh giấc nồng,

Mây núi đã pha hồng.

Thầy me em sắp sửa

Vàng hương vào chùa trong.

Đường mây đá cheo veo,

Hoa đỏ, tím, vàng leo,

Vì thương me quá mệt.

Săn sóc chàng đi theo.

Me bảo: "Đường còn lâu.

Cứ vừa đi ta cầu

Quan-thế-âm-bồ-tát

Là tha hồ đi mau."

Em ư? Em không cầu,

Đường vẫn thấy đi mau.

Chàng cũng cho như thế.

(Ra ta hợp tâm đầu).

250

Khi qua chùa Giải Oan,

Trông thấy bức tường ngang,

Chàng đưa tay lẹ bút

Thảo bài thơ liên hoàn.

Tấm tắc thầy khen hay,

Chữ đẹp như rồng bay.

(Bài thơ này em nhớ,

Nên chả chép vào đây).

Ô! Chùa trong đây rồi!

Động thẳm bóng xanh ngời.

Gấm thêu trần thạch nhũ,

Ngọc nhuốm hương trầm rơi.

Me vui mừng hả hê:

"Tặc! Con đường mà ghê!"

Thầy kêu mau lên nhé,

Chiều hôm nay ta về.

Em nghe bỗng rụng rời!

251

Nhìn ai luống nghẹn nhời!

Giờ vui đời có vậy,

Thoáng ngày vui qua rồi!

Làn gió thổi hây hây,

Em nghe tà áo bay,

Em tìm hơi chàng thở!

Chàng ôi, chàng có hay?

Đường đây kia lên giời,

Ta bước tựa vai cười,

Yêu nhau, yêu nhau mãi!

Đi, ta đi, chàng ôi!

Ngun ngút khói hương vàng,

Say trong giấc mơ màng,

Em cầu xin Giời Phật

Sao cho em lấy chàng.

(Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy

nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết

nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện)

Nguồn: Nguyễn Nhược Pháp (1995), Ngày xưa, Nxb. Hội Nhà văn, H,

tr. 34-42

252

4.4. TRANH LÕA THỂ

Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố Nữ,

Ô tiên nương! nàng lại ngự nơi nầy?

Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây

Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?

Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?

Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;

Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.

Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.

Vài chút trăng say đọng ở làn môi.

Hai vú nàng ! hai vú nàng ! chao ôi !

Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.

Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động !

Tôi run run hãm lại cánh hồn si...

Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;

Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;

Cho tôi nàng ! cho tôi nàng ! tất cả...

Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao

Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,

- Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ.

Tiên nương hỡi ! nàng sống trên thế hệ,

Bóng thời gian phải quỵ dưới chân nàng -

Xuân muôn đời di dưỡng giữa vùng tang!

Gương phép tắc suốt soi ngàn mộng ảnh!

253

Cớ làm sao nâng niu bầu giá lạnh,

Ấp tranh người, lơ đãng ngắm thi nhân?

Hay nàng nhớ nhung các phượng đền lân?

Hay nàng ước mơ tình trong trắng ngọc?

Ôi ! nàng ôi ! Làm sao nàng chẳng khóc

Người thi nhân, vẻ đẹp của khiêu dâm –

Trăng thanh tịnh còn lóng trong thơ câm,

Nhạc vô minh hằng sôi trên nét chữ?

Ôi ! nàng ôi ! thốt lên, lời ngọc nữ,

Lời trân châu rúng cả phím lòng tôi...

Ngọc Kiều ! Ngọc Kiều ! Đến cặp song đôi

Cho tôi đọ vẽ hương trời sắc nước;

Vẽ huyền diệu ứ men say lướt mướt;

Vẽ yêu tinh dồn giận thấu vô gan;

Ta thiếp đi - trong một phút mê loàn

Xuống muôn đợt rồi bay lên tột bực...

Nguồn: Bích Khê (1996), Tinh huyết, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 46 - 48.

(Bản in năm 1996 in theo bản in năm 1939).

254

4.5. MỘNG CẦM CA

Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;

Nhựa đương lên: sức mạnh của lòng thương;

Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa;

Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương;

Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;

- Hồn xạ hương phơ phất ở trong sương.

Không gian tơ - không gian tơ gợi sóng;

Âm thanh gì sắp sửa... Ngọc Kiều ơi!

Hay hơi thở của hoa hồng mơ mộng?

Hay buồn đêm rào rạt, - ứ muôn nơi?

Không gian tơ - không gian tơ gợn sóng;

Ngọc Kiều ơi! - Hồn đến bến xa khơi!...

Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt,

Ngọc Kiều ơi! – nầy khúc Lạc Mai Hoa.

Suối tóc mát, nhúng trong vùng mộng tuyết:

Ta đê mê, ta gảy điệu Tỳ Bà;

Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt

Còn đây em, nầy khúc Mộng Cầm Ca.

Đâu đôi mắt mùa thu xanh tơ ngọc?

Vú non non? Da dịu dịu, êm êm?

Đâu hang báu cho người ta phải khóc?

- Trên môi son, ta liếc lưỡi gươm mềm!

Đâu đôi mắt mùa thu xanh tơ ngọc?

255

- Lưới lông mi rờn rợn ánh tơ đêm!

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng

Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.

Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng.

Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.

Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng

Của hồn thu đi lạc ở trong mơ...

Người cho ta một thanh gươm rất sắc?

Ô vung lên... cắt mạch nguyệt vàng xanh!

Xẻ mạch trời, - mây xô sao, răng rắc!

Phăng mạch đêm, - hương vỡ, ứa ngầm tinh!

Người cho ta một thanh gươm rất sắc?

- Ta điên rồ... múa giữa áng bình minh.

Bích Khê (1996), Tinh huyết, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 25 - 26.

(Bản in năm 1996 in theo bản in năm 1939).

256

4.6. GÁI QUÊ

Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự

Tôi đều nhận thấy trên môi em

Làn môi mong mỏng tươi như máu

Đã khiến môi tôi mấp máy thèm.

Từ lúc tóc em bỏ trái đào

Tới chừng cặp má đỏ au au

Tôi đều nhận thấy trong con mắt

Một vẻ ngây thơ và ước ao.

Lớn lên, em đã biết làm duyên,

Mỗi lúc gặp tôi che nón nghiêng

Nghe nói ba em chưa chịu nhận

Cau trầu của khách láng giềng bên.

.

Nguồn: Hàn Mặc Tử (1996), Gái quê, Chơi giữa mùa trăng, Đau thương,

Xuân như ý, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 9 (Tập Gái quê in lần đầu năm 1936).

257

4.7.NỤ CƯỜI

Trăng lên, nước lặng tre là đà

Rơi bóng im trên đám cỏ hoa

Tiếng động sau vùng lau cỏ mọc

Tiếng ca chen lấn từ trong ra.

Tiếng ca ngắt – Cành lá rung rinh

Một nường con gái trông xinh xinh

Ống quần vo xắn lên đầu gối

Da thịt, trời ơi! trắng rợn mình.

Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ

Nước trong nổi bật dung hình cô1

Nụ cười dưới ấy và trên ấy

Không hẹn, đồng nhau nở lẳng lơ.

Nguồn: Hàn Mặc Tử (1996), sđd, tr. 8

1 Có bản chép: Nước trong nổi bật hình dáng hình cô (chú thích của Biên tập sách).

258

PHỤ LỤC 5: HAI DẠNG VĂN BẢN TẠO HÌNH VÀ BIỂU HIỆN

TRONG CA DAO

Văn bản tạo hình là văn bản mà nghĩa của nó bằng nghĩa đen của các từ

cộng lại. Thí dụ:

+ Ai ơi chơi lấy kẻo già

Măng mọc có lứa, người ta có thì

Chơi xuân kẻo hết xuân đi

Cái già sòng sọc nó thì theo sau.

+ Anh còn son, em cũng còn son

Ước gì ta được làm con một nhà.

Trên đây là hai văn bản tạo hình. Còn ở văn bản biểu hiện, nghĩa của nó

không phải là nghĩa đen của các từ cộng lại. Thí dụ:

Công anh chăn nghé đã lâu

Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.

Ở đây, tác giả dân gian không đề cập đến việc chăn nuôi gia súc, mà

diễn tả nỗi niềm thất vọng của chàng trai khi người yêu đã trở thành vợ người

khác.

Tương tự như vậy, khi nghe, khi đọc lời ca dưới đây:

Anh nói em cũng nghe anh

Bát cơm đã trót chan canh mất rồi.

Nuốt đi đắng lắm anh ơi

Bỏ ra thì để tội trời ai mang.

259

thì từ người dân chưa có điều kiện được học tập ở trường lớp cho đến người

trí thức uyên bác đều hiểu được cái nghĩa của văn bản mà nhà ngôn ngữ học

Nguyễn Phan Cảnh đã diễn giải như sau:

Anh nói em cũng nghe anh

Đời em đã trót chồng con mất rồi

Sống thì cực lắm anh ơi

Ly dị thì để tội trời ai mang.

(Xem thêmNguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội).

.

260