VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN
VẬN DỤNG QUAN NIỆM THẨM MĨ
VÀ TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC LÀM ĐẸP
VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE PHỤ NỮ HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN
VẬN DỤNG QUAN NIỆM THẨM MĨ
VÀ TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC LÀM ĐẸP
VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE PHỤ NỮ HIỆN NAY
Chuyên ngành: VĂN HÓA DÂN GIAN
Mã số: 62 22 01 30
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi và công trình này
đảm bảo các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu.
Nghiên cứu sinh
TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN
i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... iv
DANH MỤC BẢNG, HỘP .................................................................................................. v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG VÀ
TỔNG QUAN VỀ BẮC BỘ, CHÂU THỔ BẮC BỘ ...................................................... 11
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................ 11
1.2. Lý thuyết vận dụng và khái niệm .................................................................................. 14
1.3. Tổng quan về Bắc Bộ và châu thổ Bắc Bộ ................................................................... 34
CHƯƠNG 2 TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SẮC ĐẸP CỦA NGƯỜI
PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY ............................................................................ 50
2.1. Những quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ ............................................................ 50
2.2. Thực tế làm đẹp của phụ nữ Việt Nam hiện nay .......................................................... 62
2.3. Tri thức dân gian trong việc làm đẹp cho phụ nữ hiện nay .......................................... 79
CHƯƠNG 3: TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY ............................................................. 93
3.1. Quan niệm dân gian về sức khỏe của phụ nữ và việc chữa bệnh ................................. 93
3.2. Thực tế chăm sóc sức khỏe hiện nay ở phụ nữ Việt Nam ............................................ 95
3.3. Tri thức dân gian trong việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ hiện nay ....................... 100
CHƯƠNG 4: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ............................................................... 117
4.1. Mối quan hệ giữa sắc đẹp và sức khỏe ....................................................................... 117
4.2. Sự khác nhau giữa tác giả dân gian và tác giả của dòng văn học viết trong quan niệm
về vẻ đẹp của người phụ nữ ............................................................................................... 121
4.3. Sức mạnh, giá trị và những số phận nổi chìm của những người phụ nữ đẹp thời trước ..... 125
4.4. Sự mở rộng trong cách nhìn nhận và điều kiện xã hội tiến bộ của khoa học, kỹ thuật,
bảo vệ, cổ súy cho cái đẹp của người phụ nữ .................................................................... 131
4.5. Đánh giá tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe của phụ nữ ..... 138
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN . 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 152
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 164
ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BMI Body Mass Index
ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học ĐH
Hà Nội HN
Nxb Nhà xuất bản
NCS Nghiên cứu sinh
Phỏng vấn sâu PVS
Thảo luận nhóm TLN
Thành phố Tp
Trang tr
Tr. CN Trước Công nguyên
iv
DANH MỤC BẢNG, HỘP
Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát tại các tỉnh ........................................................................... 6
Bảng 2. Phân biệt tri thức bản địa và kiến thức khoa học ....................................................... 28
Bảng 3: Xu hướng quan tâm đến hoạt động chăm sóc sắc đẹp ........................................... 62
Bảng 4: Các nguyên liệu tự nhiên trong làm đẹp ................................................................ 79
Bảng 5: Phương pháp chăm sóc sắc đẹp dân gian được phụ nữ sử dụng hiện nay(%) ....... 86
Bảng 6: Một số nguyên liệu thường dùng để chăm sóc sức khỏe .................................... 100
Bảng 7: Những hình thức “kiêng cữ” sau khi sinh của phụ nữ ......................................... 108
CÁC BẢNG
Hộp 1: Tác dụng làm đẹp của một số loại lá, hoa, củ, quả ................................................. 82
Hộp 2: Làm đẹp tóc bằng bồ kết .......................................................................................... 83
Hộp 3: Làm son dưỡng môi từ sáp ong ............................................................................... 83
Hộp 4: Tác dụng chữa bệnh của một số loại cây ............................................................... 101
CÁC HỘP
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vẻ đẹp cơ thể là một yêu cầu quan trọng đầu tiên của người phụ nữ
hiện đại vì nó tăng sự quyến rũ của nữ tính. Vẻ đẹp mà người phụ nữ thu hút
người khác có được là nhờ sự bộc lộ những nét đẹp thiên phú, nhờ việc biết
cách giữ gìn và chủ động làm đẹp. Ngày nay, cuộc sống đã khác trước với
nhịp độ ngày càng gia tăng, người phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào đời
sống xã hội và dần dần thay đổi cách nghĩ, cách làm và nhất là cách biểu lộ
tình cảm, cách làm đẹp. Do nhu cầu làm đẹp của phái nữ, xã hội đã hình
thành và phát triển dịch vụ làm đẹp (Spa). Ở Việt Nam, công nghệ này đã
phát triển, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn và đang lan rộng ra các vùng
nông thôn.
Trong một cuộc điều tra xã hội học, người ta thấy 80% số người được
hỏi đều cho rằng người phụ nữ Việt Nam hiện đại có tính năng động, tự tin,
cởi mở, ham thích hoạt động xã hội, có khả năng lãnh đạo với tinh thần trách
nhiệm cao. Một số người Việt Nam vẫn giữ một thái độ cố hữu: "Cái nết đánh
chết cái đẹp". Trên thực tế, nhu cầu làm đẹp để tôn tạo những nét đẹp trên sắc
mặt, cơ thể lại phát triển khá mạnh. Tiếc rằng nhu cầu và việc làm này chưa
được sự hướng dẫn một cách khoa học trên quan điểm thẩm mỹ của văn hóa
học. Có không ít người, vì thiếu hiểu biết đã chạy theo mốt mới, theo cái hiện
đại, làm đẹp theo kiểu phản thẩm mỹ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Dù rất quan tâm đến cái đẹp hay chỉ thừa nhận nó ở mức độ vừa phải, mọi
người đều cho rằng người phụ nữ đẹp cũng còn là người phụ nữ khỏe mạnh.
Thực hiện đề tài khoa học Vận dụng quan niệm thẩm mĩ và tri thức dân
gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khoẻ phụ nữ hiện nay, chúng tôi sẽ
trình bày những hiểu biết và thực hành của người dân xưa trong việc chăm
1
sóc sắc đẹp và sức khỏe cho người phụ nữ Việt, từ đó rút ra những ưu điểm
của cách làm đẹp và chăm sóc sức khỏe dân gian còn phù hợp mà phụ nữ hiện
đại cần học tập.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trong việc làm đẹp và giữ gìn sức khỏe của người phụ nữ Bắc Bộ hiện
nay, có những quan niệm và phương pháp dân gian nào được vận dụng? Vị
trí, vai trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe của
phái đẹp hiện nay như thế nào?
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm tri thức dân gian, quan niệm dân gian về cái đẹp,
thẩm mỹ, sức khỏe, những bài thuốc và cách thức sử dụng của nhân dân ta
ngày xưa.
- Trình bày quan niệm và những phương thức làm đẹp của người phụ
nữ hiện đại, đánh giá vai trò và tác dụng của tri thức dân gian trong vấn đề
này.
- Trình bày những phương thức chăm sóc sức khỏe của phụ nữ hiện
đại, nhận diện vai trò của tri thức dân gian trong vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu việc làm đẹp, giữ gìn, rèn luyện sức khỏe của
phụ nữ hiện nay ở Bắc Bộ, tìm hiểu trong số những phương thức, những bài
thuốc làm đẹp và tăng cường sức khỏe hiện nay có những phương thức nào,
bài thuốc nào sử dụng từ tri thức dân gian.
Đối với người phụ nữ hiện nay, chúng tôi điều tra và phỏng vấn những
2
phụ nữ từ 16 đến dưới 70 tuổi (nhóm chưa có chồng, nhóm có chồng và nhóm
người có tuổi). Những người này đại diện cho các thế hệ khác nhau, thể hiện
việc chăm sóc sắc đẹp, sức khỏe trước và sau khi có con và sự khác biệt giữa
các thế hệ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian có hạn, chúng tôi không thể nghiên cứu việc
vận dụng quan điểm thẩm mĩ và tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm
sóc sức khỏe phụ nữ của tất cả các dân tộc ở mọi vùng trên đất nước ta.
Chúng tôi xin được giới hạn nghiên cứu tri thức dân gian trong việc làm đẹp
và chăm sóc sức khỏe của phụ nữ Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Khi điều kiện
cho phép, chúng tôi so sánh, liên hệ vấn đề này ở một số dân tộc thiểu số cư
trú tại Bắc Bộ. Việc giới hạn không gian nghiên cứu này là phù hợp với tính
chất của tri thức dân gian. Tri thức dân gian (hay tri thức địa phương, hay
kiến thức bản địa) có tính chất vùng, miền (địa phương) rất rõ. Các nhà
nghiên cứu có nhiều phương án phân vùng văn hóa Việt Nam, trong đó có
cách phân chia nước ta thành ba vùng lớn: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Trong
luận án, chúng tôi quan niệm: Bắc Bộ là khu vực tính từ các tỉnh từ biên giới
phía Bắc kéo đến hết Ninh Bình (chúng tôi sẽ xin trở lại vấn đề này trong tiểu
mục lý thuyết vận dụng). Trong Bắc Bộ, chúng tôi tập trung khảo sát vùng
châu thổ Bắc Bộ. Trong châu thổ Bắc Bộ, chúng tôi khảo sát ở tám tỉnh và
thành phố: Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng
Yên, Thái Bình, Hà Nội. Đây là những nơi vừa bảo lưu nhiều nét truyền
thống văn hóa, đồng thời cũng là nơi biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa,
xã hội.
Luận án nghiên cứu tri thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp và sức
khỏe của phụ nữ Việt và đánh giá sự tồn tại của các tri thức này trong xã hội
ngày nay. Tuy chủ yếu viết về người Việt, trong một số trường hợp, chúng tôi
3
có mở rộng đến những dân tộc khác nhằm làm rõ hơn vấn đề của người phụ
nữ Việt.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Chúng tôi vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử để xem xét đối tượng nghiên cứu trong sự vận động và trong mối liên
hệ giữa sự vật này với sự vật khác. Thí dụ, trong việc làm đẹp, ở xã hội cũ,
trong thời con gái, phụ nữ rất chú ý đến việc làm đẹp và chăm sóc sắc đẹp,
nhưng sau khi lập gia đình, họ ít chú ý đến việc làm đẹp cho bản thân (tuy vẫn
ăn trầu cho môi đỏ, ra đường mặc quần áo đẹp hoặc chí ít cũng tươm tất hơn
lúc ở nhà, đeo đồ trang sức,…). Trong xã hội ngày nay, không chỉ ở thời con
gái mà sau khi đã lập gia đình hay khi tuổi đã cao, người phụ nữ vẫn quan tâm
chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp cho bản thân. Sự giao lưu với thế giới, điều
kiện sống, những quan niệm mới về bình đẳng giới đã đem đến sự thay đổi
đó. Đó chính là hoàn cảnh cụ thể đã giúp NCS giải thích về một hiện tượng
hiện nay khác với truyền thống.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp tổng hợp trong nghiên cứu văn hóa dân gian
Theo tác giả Đinh Gia Khánh, trong khoa nghiên cứu văn hóa dân gian,
phương pháp tổng hợp có tầm quan trọng đặc biệt. Vậy phương pháp tổng
hợp là gì? Cũng theo tác giả Đinh Gia Khánh, đó là phương pháp tiếp cận
thẩm mỹ kết hợp với phương pháp tiếp cận chỉnh thể. Để nghiên cứu một tác
phẩm, một hiện tượng văn hóa dân gian thì cần phải phân tích chủ thể nguyên
hợp ấy ra các thành tố, hơn nữa cần phải phân tích các thành tố ra các yếu tố
nhỏ hơn để có thể đi sâu tìm hiểu nội dung cũng như cấu trúc của từng thành
tố nói riêng, của chỉnh thể nguyên hợp nói chung. Trong nghiên cứu văn hóa
4
dân gian, khởi đầu bằng việc phân tích là một điều tất yếu. Nhưng quá trình
phân tích ấy lại được bổ sung và nâng cao bằng quá trình tổng hợp bởi vì dẫu
có tiến hành thao tác khoa học nào đi chăng nữa thì cuối cùng cũng phải đạt
mục tiêu là nhận thức được sâu sắc và toàn diện tác phẩm, hiện tượng với tư
cách là một chủ thể nguyên hợp [133, tr. 10-11].
4.2.2. Phương pháp liên ngành
Theo tác giả Đinh Gia Khánh, phương pháp liên ngành hay nói cho
đúng hơn tổ chức nghiên cứu liên ngành thường cần thiết mỗi khi xử lý những
đề tài khoa học rộng lớn, tức là mỗi khi phải đề cập đến nhiều thực thể khác
nhau và nhiều đối tượng khoa học khác nhau. Tổ chức nghiên cứu liên ngành
huy động nhiều ngành khoa học khác nhau, nhưng quá trình nghiên cứu thì
mỗi ngành khoa học vẫn giữ tính chất độc lập của mình, vẫn tuân theo
phương pháp tiếp cận của mình, vẫn sử dụng những phương pháp mà nhà
khoa học cho là thích hợp hơn là với phương hướng tiếp cận của ngành khoa
học khác. Trong tổ chức nghiên cứu liên ngành, có một ngành khoa học giữ
vai trò trung tâm, nói cho đúng hơn là giữ vai trò tổ chức. Vai trò ấy được quy
định bởi những điều kiện khác nhau như mục tiêu cuối cùng của đề tài nghiên
cứu hoặc tính chất của tư liệu nghiên cứu. Theo tác giả Đinh Gia Khánh, đề
tài Hùng Vương dựng nước (được Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức
vào nửa cuối những năm 60 – đầu những năm 70 của thế kỷ XX) đã được xử
lý theo tổ chức nghiên cứu liên ngành. Nhiều ngành khoa học xã hội và cả
một số ngành khoa học tự nhiên đã được huy động vào việc nghiên cứu đề tài
này.
Thời đại Hùng Vương không ghi lại những tư liệu thành văn, những
văn bản, nhưng còn lưu lại khá nhiều hiện vật khảo cổ học. Vì vậy khoa học
khảo cổ đã giữ vai trò trung tâm, vai trò tổ chức của việc nghiên cứu liên
ngành. Khi nghiên cứu về Tây Nguyên là một vùng trong đó các tộc người
5
còn giữ được nhiều hơn các nơi khác những nét đặc thù của xã hội thời kỳ
tiền giai cấp. Bởi vậy trong việc xử lý đề tài này theo tổ chức liên ngành thì
dân tộc học đóng vai trò trung tâm, vai trò tổ chức. Trong đề tài quy hoạch
đồng bằng sông Hồng hoặc quy hoạch đồng bằng sông Cửu Long thì dù
ngành khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nông học, văn hóa dân gian…có
thể tùy theo hoàn cảnh mà có đóng góp nhiều hoặc ít vào kết quả nghiên cứu
nhưng ngành kinh tế học phải giữ vai trò trung tâm, vai trò tổ chức, bởi vì
mục tiêu của việc nghiên cứu liên ngành này trước hết là mục tiêu kinh tế
[133, tr.12-14].
Từ những gợi ý của tác giả Đinh Gia Khánh, để thực hiện đề tài này
chúng tôi vận dụng những quy phạm của khoa nghiên cứu văn hóa dân gian
bên cạnh việc tiếp thu phương pháp nghiên cứu và thụ hưởng kết quả nghiên
cứu của mỹ học, y học và xã hội học, trong đó khoa nghiên cứu văn hóa dân
gian đóng vai trò trung tâm.
4.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học
Cơ cấu mẫu nghiên cứu của chúng tôi như sau: Phỏng vấn bảng hỏi
được thiết kế sẵn với 300 phụ nữ từ 16 đến dưới 70 tuổi tại 8 tỉnh, thành ở
khu vực châu thổ Bắc Bộ, cụ thể là: Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nội. Ở mỗi tỉnh, thành trên,
chúng tôi khảo sát hai địa điểm: một là thành phố/thị xã/ thị trấn/ thị tứ và một
địa điểm ở một xã trong tỉnh.
Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát tại các tỉnh
TT Tỉnh Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Hải Dương 38 12.7
2 Hưng Yên 39 13.0
3 Thái Bình 38 12.7
4 Hà Nội 39 13.0
6
5 Nam Định 37 12.3
6 Ninh Bình 38 12.7
7 Phú Thọ 36 12.0
8 Vĩnh Phúc 35 11.7
Tổng 300 100
(Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2013)
- Về độ tuổi: Nhóm tuổi từ 16-25 chiếm 35%, nhóm từ 25-35 tuổi
chiếm 15%, nhóm từ 36-55 tuổi chiếm 25% và nhóm trên 55 tuổi chiếm 25%.
- Về nơi sinh sống: Tỷ lệ sống ở khu vực nông thôn chiếm gần một nửa
(46,7%), tỷ lệ ở khu vực thị trấn/thị tứ chiếm 22,8% và ở thành phố chiếm
30,4%.
- Về nghề nghiệp: Làm nông nghiệp thuần túy chiếm 27,3%, buôn bán,
dịch vụ: 12,1%, cán bộ viên chức 19,0%, làm tự do 3,5%, nội trợ, nghỉ hưu
2,1%, lĩnh vực nghệ thuật 2,4%, nhân viên trong các công ty, doanh nghiệp
5,2%, học sinh, sinh viên 20,7%, thất nghiệp 1,4%.
- Về thu nhập bình quân/tháng: Tỷ lệ dưới 1 triệu/tháng chiếm 28,7%,
từ 1- dưới 3 triệu chiếm 31,7%, từ 3- dưới 5 triệu chiếm 26%, trên 5- dưới 7
triệu chiếm 8,3% và trên 7 triệu chiếm 5,3%.
- Về tình trạng hôn nhân: Tỷ lệ phụ nữ được khảo sát đang ở cùng
chồng chiếm 46,4%, đã ly hôn/ly thân chiếm 4,8%, chưa lập gia đình 48,8%.
- Về học vấn: Tỷ lệ phụ nữ có trình độ tiểu học chỉ chiếm 3,8%, trung
học cơ sở 33,1%, trung học phổ thông 36,2%, trung cấp nghề 16,3%, cao
đẳng, đại học 10,1% và trên đại học 0,5%.
- Về tôn giáo: 95,2% không theo tôn giáo nào, 4,8% theo các tôn giáo
khác như Tin Lành, Cao Đài…
Các đặc điểm về đối tượng được khảo sát sẽ được phân tích nhằm giải
7
thích sự khác biệt trong nhận thức, thực hành việc vận dụng tri thức dân gian
trong chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe của phụ nữ.
4.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện với nhiều đối tượng:
+ Phỏng vấn phụ nữ trong cộng đồng:
- Phỏng vấn phụ nữ cao niên (nông thôn, thành thị)
- Phỏng vấn phụ nữ trung tuổi (nông thôn, thành thị)
- Phỏng vấn phụ nữ chưa lập gia đình (nông thôn, thành thị)
+ Phỏng vấn chủ/đại diện các trung tâm chăm sóc sắc đẹp/thẩm mỹ tại
mỗi tỉnh.
+ Phỏng vấn kỹ thuật viên trong các trung tâm chăm sóc sắc đẹp có sử
dụng các phương pháp trị liệu (nguyên liệu truyền thống): bác sĩ, dược sỹ,
chuyên gia làm đẹp…
+ Phỏng vấn chuyên gia về nghiên cứu văn hóa dân gian, nghệ thuật
làm đẹp, chuyên gia về phụ nữ… ở các cơ quan quản lý, nghiên cứu về văn
hóa, nghệ thuật.
4.2.5. Phương pháp thu thập, xử lý các tài liệu thứ cấp
Luận án tổng hợp và phân tích một lượng lớn các tài liệu đã công bố có
thể phân chia số tài liệu này thành năm loại.
Loại thứ nhất là những công trình bàn về vẻ đẹp và làm đẹp của phụ nữ
thời xưa. Loại thứ hai là những công trình bàn về việc làm đẹp của phụ nữ
thời nay. Loại thứ ba là những công trình viết về việc chăm sóc sức khỏe của
phụ nữ ngày xưa. Loại thứ tư là những công trình quan tâm đến việc chăm sóc
sức khỏe của phụ nữ hiện nay. Loại thứ năm là những công trình sưu tầm,
biên soạn văn học dân gian trong đó chủ yếu là những công trình sưu tầm,
8
biên soạn ca dao tục ngữ. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sắp xếp các tài
liệu như trên, trong mỗi loại lại được chia nhỏ hơn nữa. Thí dụ, trong việc
chăm sóc sức khỏe của phụ nữ ngày xưa gồm có những công trình viết về
việc chăm sóc sức khỏe của phụ nữ Việt (Kinh), những công trình viết về việc
chăm sóc sức khỏe của phụ nữ các dân tộc thiểu số.
Trên cơ sở khối tư liệu đã công bố, xuất bản khá phong phú, chúng tôi
tiến hành phân tích theo các vấn đề mà nội dung luận án quy định.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Bản luận án đã phân tích và chứng minh các thuật ngữ tri thức bản địa,
tri thức dân gian, kiến thức bản địa, về cơ bản chỉ là những cách gọi khác
nhau của một sự vật, trình bày có hệ thống quan niệm dân gian và tri thức dân
gian về cái đẹp của người phụ nữ và việc chăm sóc sức khỏe của họ trong xã
hội xưa và nay, khẳng định vai trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp và
chăm sóc sức khỏe phụ nữ hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý thuyết: Luận án làm sáng tỏ vai trò của tri thức dân gian
trong việc làm đẹp và giữ gìn sức khỏe của người phụ nữ hiện đại, đánh giá
đúng mức tầm quan trọng của tri thức này (không hạ mức, không cường
điệu). Qua kết quả nghiên cứu của luận án, người đọc thấy rõ sự đa dạng
trong quan niệm về cái đẹp, mối liên hệ hữu cơ giữa cái đẹp và sức khỏe.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận án sẽ làm tài liệu tham khảo hữu
ích cho các chị em phụ nữ và các cơ sở làm đẹp hiện nay.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được
trình bày theo bốn chương như sau:
9
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu vấn đề, lý thuyết vận dụng và tổng quan
về Bắc Bộ, châu thổ Bắc Bộ;
Chương 2: Tri thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp của người phụ nữ
vùng Bắc Bộ hiện nay;
Chương 3: Tri thức dân gian trong chăm sóc sức khỏe của người phụ
nữ vùng Bắc Bộ hiện nay;
Chương 4: Những vấn đề bàn luận.
10
CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ, LÝ THUYẾT VẬN DỤNG VÀ
TỔNG QUAN VỀ BẮC BỘ, CHÂU THỔ BẮC BỘ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt theo
quan niệm dân gian
Các tác giả thường dành một bài viết hoặc một số trang sách đề cập đến
cái đẹp của người phụ nữ cổ truyền. Trong bài thuyết trình năm 1990, tác giả
Phạm Thị Nhung cho rằng, người phụ nữ Việt Nam xưa có hai giai đoạn quan
trọng trong cuộc đời, đó là khi còn con gái và khi đã lập gia đình. Tác giả
nhận xét, nhìn chung quan niệm về dung nhan người đẹp thời trước qua ca
dao không thấy khác ngày nay bao nhiêu. Ở thời đại hiện nay, người ta thích
răng trắng và chuộng những người có vóc dáng cao. Nhưng ở thời nào thì đa
phần người phụ nữ cũng thích trang điểm và có ý ăn mặc điệu đà đôi chút
nhằm tôn thêm nhan sắc.
Tác giả Trần Ngọc Thêm nhận thấy, chiếc yếm ngày xưa tạo nên nét
đẹp duyên dáng và sức quyến rũ của người phụ nữ Việt Nam [102, tr.382-
383]. Cũng quan tâm đến vấn đề này, tác giả Phạm Anh Trang nhận xét, cách
ăn mặc của người phụ nữ luôn thể hiện sự linh hoạt, phù hợp với từng thời
đại, chẳng hạn như sự thay đổi của chiếc yếm và chiếc áo dài [122].
Theo tác giả Vũ Ngọc Khánh, trang phục còn thể hiện địa vị xã hội,
phẩm chất của người phụ nữ [55]. Cũng quan tâm đến trang phục của người
phụ nữ xưa, tác giả Ngô Đức Thịnh viết khá kỹ về chiếc áo dài của người phụ
nữ thuở trước. Ngoài ra ông cũng viết về cách thức chải tóc rẽ ngôi của người
phụ nữ ngày trước và cách chít khăn vuông, khăn mỏ quạ của phụ nữ Bắc Bộ
11
và việc phụ nữ Nghệ Tĩnh đội khăn đầu rìu [108].
Đáng chú ý có hai nữ tác giả dành số trang đáng kể, viết một cách có
hệ thống về chủ đề đang bàn. Năm 2008, tác giả Lê Thị Nguyệt hoàn thành
luận văn thạc sĩ Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền người Việt
[84]. Năm 2012, nhà giáo Nguyễn Thị Thúy Loan bảo vệ luận văn thạc sĩ Vấn
đề miêu tả ngoại hình con người trong “Kho tàng ca dao người Việt” [71].
Hai tác giả, bằng phương pháp thống kê đã phân tích vẻ đẹp bộ phận và vẻ
đẹp tổng thể ngoại hình của người phụ nữ Việt trong thơ ca dân gian. Các kết
quả nghiên cứu của Lê Thị Nguyệt, Nguyễn Thị Thúy Loan đã giúp ích rất
nhiều cho NCS trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
1.1.2. Các công trình đề cập đến việc chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe của
người phụ nữ bằng phương pháp dân gian
1.1.2.1. Các công trình đề cập đến việc chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe của
người phụ nữ Việt bằng phương pháp dân gian
Năm 2000, trong cuốn sách Những phương thuốc làm đẹp từ cây thuốc
nam, tác giả Thiên Kim đề cập đến đặc điểm, thành phần cấu tạo, cách sử
dụng và phòng tránh cũng như những công dụng làm đẹp từ cây thuốc nam.
Các phương thuốc này rất dễ tìm kiếm và rất hiệu quả trong sử dụng [58].
Năm 2007, trong cuốn Cây nhà lá vườn vị thuốc chữa bệnh và làm đẹp, tác
giả Công Anh sưu tầm và giới thiệu nguyên liệu rau, củ, quả và cách chế biến
để có công dụng chữa bệnh, làm đẹp, dưỡng sinh chăm sóc sức khỏe [6].
Năm 2008, cuốn sách đồ sộ Almanach người mẹ và phái đẹp của nhiều
tác giả được xuất bản. Trong sách này, có mục “Bí quyết làm đẹp”. Mục này
gồm nhiều bài, trong đó có những bài như “Bí quyết kéo dài tuổi thanh xuân
và sắc đẹp”, “Một số thực phẩm giúp con người kéo dài tuổi thanh xuân”,
“Dưỡng da bằng tỏi”, “Day huyệt, xoa bóp giữ gìn sức khỏe và nhan sắc”,…
12
Tất cả gồm 36 bài với 32 trang khổ lớn. Sách này còn có mục “Phái đẹp với y
học” gồm 69 bài với 89 trang khổ lớn. Những bài trong tập sách là những bài
viết ngắn, chưa phải là những công trình khoa học chuyên sâu [87].
Ngoài ra còn có các cuốn sách của Hoa Phượng, Nguyễn Thúy Ngà,
Nam Việt, Thanh Hải và Thanh Minh, Hà Hương, Nguyễn Trúc Chi,… Các
phương pháp làm đẹp (qua ăn uống, luyện tập, trang điểm) của người phụ nữ
chủ yếu được đúc kết từ kinh nghiệm trong dân gian. Các tài liệu đề cập cụ
thể đến các bài thuốc, công thức, cách chế biến ra sản phẩm làm đẹp từ các
sản phẩm tự nhiên, cách sử dụng để làm đẹp cho phụ nữ ở các lứa tuổi khác
nhau. Riêng về việc chăm sóc sức khỏe dưới cái nhìn dân gian, năm 2002,
nhóm tác giả Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thúy Loan, Phan Lan Hương,
Nguyễn Luân giới thiệu 54 câu tục ngữ (có chú giải) nói về ốm đau, chữa
bệnh [63, tr.82-88].
Cho đến nay, còn thiếu các nghiên cứu từ cách tiếp cận văn hóa, xã hội
để đánh giá, tìm hiểu nhu cầu thẩm mỹ, xu hướng về chăm sóc sắc đẹp, sử
dụng lựa chọn các phương pháp làm đẹp (truyền thống và hiện đại) để từ đó
có những khuyến nghị phù hợp nhằm duy trì và phát huy văn hóa truyền
thống (qua hệ thống tri thức dân gian), đồng thời giúp phụ nữ Việt Nam tiếp
cận lựa chọn các phương pháp làm đẹp an toàn, tiết kiệm và hiệu quả bên
cạnh các công nghệ làm đẹp hiện đại.
1.1.2.2. Các công trình đề cập đến việc chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ
các dân tộc thiểu số bằng phương pháp dân gian
Những năm gần đây, một số lượng đáng kể những cuốn sách có nội
dung bàn về việc chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ các dân tộc thiểu số.
Các tác giả chủ yếu viết về việc chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ trong
khi mang thai và sau khi sinh: Tri thức dân gian liên quan đến tập quán sinh
đẻ và chăm sóc trẻ em của dân tộc Sán Dìu ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên
13
Quang của Đinh Thị Hồng Thơm [113], Phong tục sinh đẻ và chăm sóc trẻ sơ
sinh của người Dao Tuyển do Lê Thành Nam chủ biên [78], Tri thức dân gian
về cúng chữa bệnh cho phụ nữ và trẻ em của người Dao Tuyển ở Lào Cai của
Nguyễn Thị Minh Tú và Triệu Văn Quẩy [128], Tri thức dân gian chăm sóc
sức khỏe sinh sản cho phụ nữ và trẻ em người Phù Lá, Bắc Hà, Lào Cai của
Chảo Chử Chấn [17],…Đáng chú ý là sức khỏe của những phụ nữ thuộc các
dân tộc thiểu số đã được quan tâm. Điều này chứng tỏ cái nhìn tiến bộ và
đúng đắn đối với phụ nữ và các dân tộc thiểu số ngày một phổ biến.
Nhìn chung, các tài liệu viết về tri thức dân gian trong việc làm đẹp và
chăm sóc sức khỏe của phụ nữ còn khá hiếm. Các tài liệu viết về việc làm đẹp
hiện nay của phụ nữ chủ yếu là các bài thuốc, các phương pháp có tính chất kĩ
thuật, ít có những tổng kết lí luận. Tuy nhiên, những gì của các tác giả đi
trước đã được công bố sẽ là những gợi ý bổ ích đối với NCS.
1.2. Lý thuyết vận dụng và khái niệm
1.2.1. Lý thuyết vận dụng
Trong luận án, chúng tôi vận dụng bốn lý thuyết chính. Đó là lý thuyết
về thẩm mĩ và cái đẹp, lý thuyết về tri thức dân gian, lý thuyết về văn hóa
vùng, lý thuyết sinh thái học văn hóa.
Có nhiều quan niệm thẩm mĩ và cái đẹp. Ở đây, NCS tiếp thu quan
niệm của các tác giả Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Ngọc Long, Lại
Nguyên Ân [48], [8]. Đây chính là quan niệm vận dụng mỹ học mác xít.
Lý thuyết về tri thức bản địa được khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu
quốc tế. Ở ta, các tác giả Hoàng Xuân Tý, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Ngọc
Thanh, Vương Xuân Tình,… đã vận dụng nó và tác giả Ngô Đức Thịnh còn
gọi nó là tri thức dân gian [132], [107]. Nội dung chủ yếu của lý thuyết này
chỉ ra các đặc điểm của tri thức dân gian, vai trò và tác dụng của nó trong xã
14
hội trước đây, vai trò và hạn chế của nó trong cuộc sống ngày nay.
Lý thuyết về vùng văn hóa cũng do các nhà khoa học nước ngoài khởi
xướng. Áp dụng lý thuyết này và vận dụng để nghiên cứu văn hóa Việt Nam
có các tác giả Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh, Trần Quốc Vượng, Chu
Xuân Diên, Huỳnh Khái Vinh,…[108], [142]. Các tác giả quan niệm một
vùng văn hóa được tạo thành trong quá trình lịch sử lâu dài, được quy định
bởi điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, lịch sử cư dân, cách thức canh tác và
các sinh hoạt văn hóa xã hội. Bên cạnh tính chất chung, mỗi vùng văn hóa lại
có sắc thái riêng, thậm chí nét riêng. Phương án phân vùng văn hóa Việt Nam
của Ngô Đức Thịnh khác với phương án phân vùng cùng tên của Đinh Gia
Khánh và các tác giả khác. Ở đây, NCS theo cách phân vùng Việt Nam có ba
vùng văn hóa.
Trong các truyền thống nghiên cứu văn hóa, nhất là đối với nhân học
và xã hội học văn hóa, người ta cũng thường nhắc đến cách tiếp cận dựa trên
sinh thái học. Là một khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa các cơ thể sống
với môi trường tự nhiên, sinh thái học được nhà tự nhiên học người Đức là
Haeckel đề xướng vào năm 1866. Về sau, khi nội dung khái niệm được mở
rộng, sinh thái học đồng thời trở thành một bộ phận của khoa học xã hội, mà
theo đó, môi trường tự nhiên khách quan có ảnh hưởng quan trọng đến việc tổ
chức xã hội, lối sống và tư tưởng của con người. Mối quan hệ tương tác giữa
tự nhiên, xã hội và văn hóa cũng gắn liền với những nghiên cứu của J. Stuard
(1902 - 1972). Hướng cơ bản trong các công trình của tác giả này là tìm hiểu
sự thích nghi của con người xã hội với môi trường chung quanh, hay nói đầy
đủ hơn là tìm hiểu và nhận biết các đặc điểm của các hệ thống xã hội tổng thể
(như dân số, thể chế xã hội, khoa học, kỹ thuật, phong tục, tập quán, đạo đức,
lối sống, v.v…) dưới sự tác động của các hệ sinh thái. Như vậy, sinh thái học
văn hóa được coi như một mô hình lý thuyết để tìm hiểu mối quan hệ qua lại
15
giữa con người và môi trường tự nhiên bao quanh, cũng như tìm hiểu về văn
hóa với tư cách là sản phẩm của mối quan hệ đó. Những người theo thuyết
sinh thái học văn hóa khẳng định rằng, kiểu văn hóa của mỗi tộc người được
tạo ra là do những nguồn tài nguyên và những giới hạn của môi trường xung
quanh, kể cả những thay đổi trong môi trường đó. Ở đây, khái niệm “kiểu văn
hóa” đóng vai trò căn bản, nó được hiểu như một tập hợp những nét khu biệt
cho một lối sống do kết quả thích nghi với môi trường xung quanh. Tiếp cận
lý thuyết này để giải thích các tri thức dân gian được hình thành trong quá
trình con người tương tác với môi trường tự nhiên, tìm kiếm những giá trị mà
tự nhiên có thể phục vụ cuộc sống con người như các sản phẩm dùng làm
thuốc, điều trị bệnh tật, chăm sóc sắc đẹp hoặc các món ăn, kiến trúc xây
dựng.v.v…
1.2.2. Một số khái niệm
Các lý thuyết được xây dựng trên những khái niệm cơ bản. Dưới đây
chúng tôi xin trình bày một số khái niệm của những lý thuyết vừa nêu và một
số khái niệm trong tên đề tài luận án.
1.2.2.1. Quan niệm thẩm mĩ và cái đẹp
Quan niệm thẩm mĩ
Mĩ học Mác – Lênin phân tích các quan hệ thẩm mĩ trong cuộc sống
cũng như nghệ thuật. Theo lý thuyết này, cái thẩm mĩ là mối quan hệ gồm ba
mặt hợp thành. Mặt thứ nhất là đối tượng trong quan hệ thẩm mĩ. Đó là những
cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả tồn tại khắp mọi nơi trong xã hội loài người.
Mặt thứ hai là mặt chủ thể trong quan hệ thẩm mĩ. Đó là các hoạt động của
chủ thể thẩm mĩ, bao gồm các hoạt động về nhu cầu thẩm mĩ, về thị hiếu thẩm
mĩ, về lý tưởng thẩm mĩ của con người trong xã hội. Mặt thứ ba là mặt nghệ
thuật trong quan hệ thẩm mĩ. Đó là các hoạt động hưởng thụ nghệ thuật, phê
16
bình nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật bao gồm các đặc trưng của nghệ thuật,
bản chất xã hội của nghệ thuật và chức năng của nghệ thuật [48, tr.32-33].
Trong quan niệm thẩm mĩ của một cộng đồng người không chỉ có quan
niệm về cái đẹp, mà còn có quan niệm về cái cao cả, cái bi, cái hài; tuy nhiên
quan niệm về cái đẹp thường đứng ở vị trí trung tâm. Trong luận án này, khi
nói đến quan niệm thẩm mĩ của dân gian, chúng tôi chủ yếu nói đến quan
niệm về cái đẹp của dân gian.
Cái đẹp
Cái đẹp là một phạm trù mĩ học xác định giá trị thẩm mỹ của các hiện
tượng theo quan điểm về sự hoàn thiện, xem chúng như là các hiện tượng có
giá trị thẩm mĩ cao nhất. Các hiện tượng có thể được coi là đẹp khi với tính
toàn vẹn cụ thể cảm tính của mình, chúng hiện diện như những giá trị xã hội -
nhân bản, tức là những giá trị thể hiện sự khẳng định của con người trong thế
giới, chứng tỏ sự mở rộng giới hạn tự do của cộng đồng về con người, thúc
đẩy sự phát triển hài hòa của nhân cách, sự nảy sinh và bộc lộ ngày càng đầy
đủ những sức mạnh và năng lực của con người. Bởi vậy, việc tiếp nhận cái
đẹp gây nên trạng thái vui sướng, tình yêu vô tư, cảm giác tự do, xác nhận và
làm giàu lý tưởng thẩm mỹ. Theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, trong lịch
sử mĩ học, cái đẹp và sự tiếp nhận cái đẹp được nghiên cứu ở bình diện quan
hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất, cái khách quan và chủ quan, cái tự nhiên
và cái xã hội, giữa nội dung và hình thức. Đặc trưng của cái đẹp được xác
định thông qua mối quan hệ của nó với các loại hình giá trị khác: giá trị thực
dụng (lợi ích), giá trị nhận thức (chân lý), giá trị đạo đức (cái thiện). Tùy theo
những quan niệm triết học khác nhau, các tác giả có những cách giải quyết
khác nhau về vấn đề cái đẹp có thuộc tính khách quan hoặc chủ quan. Mĩ học
duy tâm khách quan giải thích tác động của cái đẹp đến con người bằng quan
niệm cho rằng ở cái đẹp biểu lộ những sức mạnh tâm linh khách quan, siêu
17
nhiên. Có người cho rằng cái đẹp là ý niệm vĩnh cửu, là tuyệt đối, là thần
thánh. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận tính khách quan của cái đẹp,
loại bỏ nó ra khỏi các năng lực tinh thần của chủ thể. Phái hoài nghi thời cổ
đại Hy Lạp - La Mã bác bỏ sự tồn tại của cái đẹp trong thực tại. Họ cho rằng
cái đẹp không phải là một phẩm chất vốn có trong chính các sự vật; nó chỉ có
trong tinh thần; chỉ tinh thần mới chiêm nghiệm được nó; và tinh thần của
mỗi con người lại thấy một cái đẹp khác. Thuyết trực cảm cho rằng cái đẹp
được tạo ra do vật chất phản chiếu tình cảm con người lên đối tượng. Mỹ học
duy vật tìm ngọn nguồn của tiếp nhận và trải nghiệm cái đẹp ở thực tại vật
chất. Ở đây có hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất xem cái đẹp như phẩm chất
của bản thân vật thể, như sự biểu lộ tính quy luật tự nhiên. Xu hướng thứ hai
muốn kết hợp việc thừa nhận tính khách quan của cái đẹp với ý nghĩa của nó
đối với con người. Theo nhà mĩ học Nga Secnưsepxki, “cái đẹp là sự sống”;
“Một vật tồn tại là đẹp khi ở nó ta nhìn thấy cuộc sống như nó phải có theo
cách hiểu của ta”. Mĩ học macxit nêu lên sự liên hệ có tính quy luật giữa cái
đẹp với hoạt động lao động của con người. Mác nhận xét rằng: “Con người
cũng sáng tạo theo quy luật của cái đẹp”, bởi vì con người tự khẳng định bản
chất nhân loại - xã hội của mình trong thực tiễn sáng tạo thế giới vật chất;
khác với loài vật, con người sản xuất một cách phổ quát, tự do với nhu cầu thể
chất trực tiếp, đối lập một cách tự do với sản phẩm của mình và biết áp dụng
thước đo phù hợp cho đối tượng. Nói cách khác, trong việc tiếp nhận cái đẹp,
con người không chỉ nhận được thông tin về các phẩm chất tự nhiên của hiện
tượng, mà còn nhận được thông tin về mức độ khẳng định con người xã hội
trong thế giới, về mức độ tự do mà nó đạt tới trong thực tại tự nhiên và xã hội,
về mức phát triển các tiềm năng sáng tạo của nó. Cái đẹp là khách quan bởi vì
nó là giá trị nhân bản - xã hội, được tạo ra trong sự tương tác của tự nhiên và
xã hội, trong quan hệ giữa con người với nhau, trong quá tình thực tiễn lịch sử
xã hội khách quan. Sự đánh giá cái đẹp (bộc lộ qua tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu
18
thẩm mĩ, lý tưởng thẩm mĩ) lại mang tính chủ quan, và có thể chân thực hay
giả dối tùy theo chỗ tương ứng hay không tương ứng với cái đẹp như là giá trị
khách quan. Mĩ học macxit cũng nhấn mạnh mối liên hệ biện chứng của cái
đẹp và cái có ích, cái đẹp và chân lý. Đặc tính đẹp cũng có ở lao động, vốn là
hoạt động tự do, sáng tạo và có ý nghĩa xã hội, đem lại khoái cảm “bởi trò
chơi của các sức mạnh thể chất và trí tuệ” (Mác); cũng có ở các kết quả lao
động, hiện thân của tài nghệ cao và sự hoàn thiện. Cái đẹp cũng có ở những
hành động nhận thức, ở sự biểu hiện của hành động này trong chân lý. Phẩm
chất đẹp cũng có những biểu hiện cụ thể cảm tính ở các nguyên tắc đạo đức.
Không phải mọi cái đẹp đều có ích lợi thực dụng. Ý nghĩa chủ yếu của cái
đẹp đối với con người và xã hội là ý nghĩa thực tiễn - tinh thần. Bởi vậy sự
tiếp nhận thẩm mỹ đối với cái đẹp là sự tiếp nhận vô tư, tức là xa lạ với óc
thực dụng dung tục và óc vị lợi vị kỷ. Những gì là đẹp trong thực tại đều có
thể được miêu tả trong nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là đẹp, tức là có giá
trị nghệ thuật. Sáng tác nghệ thuật là lĩnh vực đặc thù của sự tìm tòi và thể
hiện cái cái đẹp, là lĩnh vực biểu hiện sự phát triển phong phú về tinh thần của
cá nhân con người [8, tr.196 - 198].
Chúng tôi nghĩ, một mặt cái đẹp là khách quan, mặt khác nó cũng mang
tính chủ quan. Cái đẹp cũng mang tính lịch sử, tính dân tộc và tính giai cấp,
bên cạnh tính người nói chung.
Tính nhân loại của cái đẹp
Nhân loại có tính chung, bởi thế khi trông một bông hoa ai cũng cho là
đẹp. Không ai trên thế giới lại cho người phụ nữ ngực lép, mắt to mắt bé lại là
đẹp. Quan niệm về người phụ nữ trong thần thoại Hy Lạp tương đồng với
quan niệm của nhiều dân tộc trên thế giới ở chỗ dành những lời đẹp đẽ, kỳ
diệu nhất khi nói về phái đẹp: “Thượng đế đã lấy vẻ đẹp đầy đặn của mặt
trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét
19
mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc
lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn đăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít
của đàn ong, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biến
động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con
chim công, hình nhuần nhuyễn của con chim yểng, chất cứng rắn của ngọc
kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức
trung trinh của chim uyên ương, đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người
phụ nữ” [123, tr.30 - 31].
Tính khu vực của cái đẹp
Bên cạnh tính chung lại có nét khác biệt giữa các khu vực. Giữa người
châu Âu và người châu Á trong không ít trường hợp có quan niệm về cái đẹp
khác nhau. Một người Trung Quốc sau khi đi thăm châu Âu, đã nói về sự
khác nhau giữa châu Âu và châu Á như sau: “Phụ nữ Trung Quốc mặc quần
áo để tránh lạnh và gió; họ sẽ vô cùng xấu hổ, nếu như để hở phần nào đó
thân thể của họ. Còn phụ nữ ở phương Tây lại thích để trần vai và ngực và
thích những kiểu váy nào làm nổi bật thân hình mình. Người Trung Quốc
không bao giờ để tóc xõa xuống trán. Trong khi đó người phương Tây lại rất
thích những mớ tóc quăn rủ trước mặt. Nếu như ở Trung Quốc, khi gặp nhau
mà không có mũ đội đầu phù hợp với hoàn cảnh cụ thể bị coi là thiếu lịch sự
thì ở phương Tây khi gặp người quen, để tỏ ra lịch sự, đàn ông phải bỏ mũ ra.
Ở Trung Quốc màu trắng là màu tang tóc, màu đỏ là màu cưới xin và là màu
của những niềm vui sướng. Còn ở phương Tây thì màu trắng lại biểu hiện
niềm vui, phấn khởi, còn màu đen lại là màu tang tóc. Ở Trung Quốc, người
ta mặc áo đen khi đi làm những công việc chân tay bẩn thỉu, ở phương Tây nó
lại là màu của trang phục đúng nghi lễ. Phụ nữ Trung Quốc sẽ vô cùng phật ý
nếu như bị người khác ngắm nhìn chăm chú. Còn ở phương Tây, phụ nữ lại
lấy làm hài lòng nếu họ được ngắm nhìn, điều đó được xem như một sự tán
20
dương. Ở Trung Quốc, ý nghĩa về việc phô trương thân thể để trần làm cho
người đàn bà vô cùng ghê sợ. Còn ở phương Tây, người bị ghê sợ bởi ý nghĩ
ấy lại là đàn ông [53, tr. 41 - 42].
Về sự khác nhau trong quan niệm về cái đẹp của người phụ nữ, xin dẫn
ra ba trường hợp dưới đây. Người châu Âu và người Việt Nam (bao gồm
nhiều thành phần dân tộc) đều quan niệm người phụ nữ đẹp là người có làn da
trắng. Ca dao Việt từng tiếc cho người con gái “da trắng tóc dài” bị cha mẹ ép
gả cho “con người đầu ngu”. Trong sử thi Ba Na và sử thi Ê Đê, các cô gái
đẹp thường được miêu tả “bắp vế (đùi) trắng tựa ngà voi, bụng thon như bụng
kiến vàng” [123, tr.30]. Còn đây là vẻ đẹp của nàng Hơ Nhí (vợ Đăm Xăn),
dưới cái nhìn của hai tên đầy tớ của tù trưởng M’tao M’xây: “Bà ấy đẹp thật,
rạng rỡ như mặt trời! Bà ấy mặc váy nào cũng đẹp! Cổ chân tròn như bắp
chuối. Lúc gió thổi váy hở thì thấy bắp đùi trắng muốt, sáng chói như ánh
chớp. Ai cũng phải khen là đẹp!” [123, tr.31]. Người phụ nữ Ấn Độ cũng đẹp,
song người đẹp ở xứ sở này có nước da màu không trắng mới là người đẹp:
“Khuôn mặt nàng như trăng tròn, môi nàng đỏ như quả Bunda, mắt nàng mở
rộng như cánh hoa sen, nước da như vàng…” [123, tr.30].
Tính dân tộc của cái đẹp
Các nhà nhân học đã chỉ ra hoạt động thể thao chịu ảnh hưởng của văn
hóa, giúp tạo dựng các đặc điểm hình thể. Nhiều năm bơi lội sẽ làm cho phần
cơ thể trên nở nang, vai to, bờ vai và tấm lưng mạnh mẽ. Người Mỹ quan
niệm như vậy là đẹp. Phụ nữ Mỹ được khuyến khích theo đuổi môn này.
Nước Mỹ đã sản sinh ra những vận động viên bơi lội thành công. Trong khi
đó chuẩn mực về cái đẹp của người Braxin lại chấp nhận một hình thể mập
mạp hơn, đặc biệt là phần mông và hông của người phụ nữ. Văn hóa Braxin
cho rằng phụ nữ nên có một dáng vẻ mềm mại với mông và hông lớn, vai
nhỏ. Vì vậy, nam giới nước này đã từng đôi lần thành công trong các cuộc thi
21
đấu bơi lội và điền kinh quốc tế, nhưng nước này hiếm khi cử các nữ vận
động viên bơi lội hay điền kinh đến các đại hội Olympic [16, tr. 77 - 78].
Theo các nhà nghiên cứu, lúc đầu người Việt và người Mường cùng
gốc, thời gian sau mới tách ra (hiện nay giữa các nhà nghiên cứu còn có
những ý kiến khác nhau về thời gian Việt, Mường chia tách). Sau khi đã là hai
dân tộc, với người Mường, màu trắng là màu đẹp. Trong khi đó, đối với người
Việt màu trắng lại là màu tang tóc. Vì vậy, những nhóm người Mường khi ở
cạnh người Việt đã chịu ảnh hưởng của phong tục Việt nên thiếu nữ Mường
không đội khăn màu trắng như đại đa số thiếu nữ Mường ở các vùng khác.
Tính thời đại của cái đẹp
Quan niệm về cái đẹp còn mang dấu ấn của thời đại. Ở Trung Quốc,
trước đời nhà Thanh, giới quý tộc thượng lưu chưa có tục bó chân. Đến đời
nhà Thanh, các em gái khi còn rất nhỏ đã phải bó chân, làm cho bàn chân
không phát triển bình thường. Tục bó chân làm phụ nữ tầng lớp trên hết sức
đau đớn, khổ sở. Sau khi bàn chân bị bó nhỏ, người phụ nữ quý tộc di chuyển
khó khăn. Mỗi bước đi thường có người hầu gái dìu hoặc đỡ. Quan niệm
trọng nam khinh nữ của nhà Thanh đã xem người phụ nữ là những người yếu
đuối, phải nương tựa vào người đàn ông, tức là người cha và sau đó là người
chồng (sau khi đã kết hôn). Mặt khác, theo các thầy thuốc đời Thanh, những
người phụ nữ bị bó chân là những người có đời sống tình dục mạnh. Lại một
lần nữa, ta thấy quan niệm coi người phụ nữ là một thân phận phụ thuộc, là
thứ tiêu khiển cho nam giới. Chỉ có người phụ nữ thượng lưu mới có bàn chân
nhỏ. Còn những người phụ nữ thường dân hoặc xuất thân thường dân có đôi
bàn chân to. Chỉ cần nhìn vào bàn chân là người ta biết được người phụ nữ
thuộc tầng lớp nào.
Trong tiểu thuyết Đàn hương hình, nhà văn Mạc Ngôn xây dựng thành
công nhiều nhân vật, trong đó có Tôn Mi Nương. Đây là vẻ đẹp tự nhiên của
22
nàng giữa đất trời “Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu trời như một
người đẹp không mảnh vải che thân. Tiếng mõ canh ba vừa điểm, huyện
thành im ắng. Gió mát đêm hè như tấm voan rộng mênh mông điểm xuyết
bằng những chòm sao, trùm lên trời đất, đem theo mùi cây cỏ, cua cá, côn
trùng. Ánh trăng bàng bạc, soi tỏ Tôn Mi Nương đang đi dạo trong sân. Nàng
cũng không mảnh vải che thân, lồ lộ dưới trăng. Ánh trăng như nước, nàng
như con cá lớn màu nhũ bạc. Đây là một đóa hoa nở rộ, một quả đã chín tới,
một cơ thể khỏe đẹp. Từ đầu đến chân, trừ bàn chân to, không một khiếm
khuyết” [81, tr. 203]. Năm mười tám tuổi, Tôn Mi Nương trở thành cô gái đẹp
nhất vùng Đông Bắc Cao Mật. Mọi người tiếc cho nàng: “Cô gái này nếu
chân không to, thì vua phải tuyển làm cung phi!”. Vì chân to, hai mươi tuổi,
nàng trở thành gái già không lấy được chồng. “Về sau Tôn Mi Nương mặt
hoa da phấn đành hạ mình lấy Triệu Tiểu Giáp, con nhà đồ tể ở Cửa Đông
huyện thành. Lúc Mi Nương về làm dâu, mẹ Giáp còn chưa chết. Người đàn
bà bó chân này ghét cay ghét đắng cô con dâu chân to, nghĩ ra chuyện quái
đản là dùng dao gọt bớt chân cho Mi Nương” [81, tr. 205]. Sau khi mẹ chồng
chết, Tôn Mi Nương mở một quán rượu ở phố bên, bán hoàng tửu và thịt chó
luộc. Nàng được khách khứa đặt cho ba biệt hiệu là: “Nàng tiên chân to”,
“Người đẹp một nửa”, “Tây Thi thịt cầy”.
Tính giai cấp của cái đẹp
Ngày nay ở Trung Quốc, tục bó chân không còn nữa. Rõ ràng quan
niệm về cái đẹp có tính thời đại và tính giai cấp.
Ở Việt Nam, trong thời quân chủ, người con gái đẹp là người có hàm
răng đen nhánh hạt huyền. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, cùng với sự ra
đời của chiếc áo dài, các cô gái tân thời, thị thành bắt đầu để răng trắng. Từ
thị thành lan đến thôn quê, dần dần tục nhuộm răng đen đi vào quá khứ.
Trong thời quân chủ, đối với tầng lớp trên, người con gái đẹp phải là người
23
yểu điệu thướt tha, da trắng tóc dài, gương mặt thanh tú, mắt sáng và hiền.
Trong thời đại ấy, người nông dân và người bình dân nói chung lại quan niệm
khác. Họ cho những người con gái quý tộc là những con người yếu đuối,
mỏng manh, gió thổi bay. Đối với họ, người phụ nữ đẹp cũng là da trắng, tóc
dài, miệng xinh, răng đen nhánh như hạt na (hạt huyền) nhưng phải tháo vát
việc nhà, việc canh cửi, đống áng hay chợ búa. Người bình dân chấp nhận cả
những người phụ nữ da không trắng, nhưng có duyên và chăm chỉ làm lụng:
“Đen da là bởi em ngồi chợ trưa” [60, tr.2371]. Trong thời đại trước, người
Việt quan niệm người phụ nữ đẹp là người phụ nữ ăn mặc kín đáo. Trong thời
đại ngày nay, trong quan niệm về người phụ nữ đẹp, người ta thích người đẹp
có tầm vóc cao lớn, chân dài hơn và người đẹp hiện nay cũng là những người
biết phô bày vẻ đẹp tự nhiên của thân thể.
1.2.2.2. Tri thức dân gian
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai là giai đoạn thế giới phục hồi kinh
tế, tiếp theo là giai đoạn tăng trưởng. Giai đoạn này là cơ sở cho sự ra đời của
học thuyết phát triển. “Các nhà phát triển đến từ các nước phương Tây, được
trang bị bằng hệ thống khoa học và kiến thức của phương Tây đến các nước
thứ ba nhằm “phát triển” các nước này và mở rộng công cuộc truyền bá và
ứng dụng tri thức khoa học. Trong công cuộc này, họ coi các nguồn kiến thức
địa phương như là những trở ngại cần phải được vượt qua để có thể đạt tới
mục tiêu của các công cuộc phát triển. Các nhà làm công tác phát triển coi
truyền thống và các giá trị truyền thống của các tộc người trên thế giới như
những gì yếu kém, lạc hậu, cần được hủy bỏ hơn là được động viên để sử
dụng” [99, tr.325]. Trên thực tế, sau nhiều năm thực hiện, các chuyên gia về
phát triển phương Tây đã thất bại. Tình trạng nghèo đói và kém phát triển
vẫn đang tiếp diễn ở Tây Phi là thí dụ tiêu biểu cho việc chỉ sử dụng hệ thống
khoa học và kiến thức phương Tây. Từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX, vai
24
trò của tri thức bản địa và vai trò của các tộc người bản địa được xem xét lại.
Theo thời gian, các chuyên gia về phát triển, những người hoạt động
trong lĩnh vực môi trường, các tổ chức phi chính phủ càng ngày càng nhận ra
rằng những hiểu biết và văn hóa của các tộc người bản địa thể hiện mối quan
hệ hài hòa thân thiện giữa con người và môi trường; mặt khác, trong không ít
trường hợp, do tác động của kinh tế thị trường, sự khai thác tự nhiên của các
tộc người bản địa lại chính là nguyên nhân dẫn đến một phần làm suy thoái
nguồn tài nguyên thiên nhiên [99, tr.328-330]. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà
nhận xét: “Sự quan tâm của Ngân hàng Thế giới (World Bank) như là một thể
chế kinh tế quyền lực toàn cầu đối với tri thức bản địa (tri thức bản địa về môi
trường) vừa là hệ quả của hai bối cảnh trên nhưng đồng thời, nó củng cố và
mở rộng phạm vi quan tâm của thế giới đối với tri thức bản địa” [99, tr.331].
Năm 1998, Ngân hàng Thế giới thiết lập Chương trình tri thức bản địa cho sự
phát triển. D.Wolfensohn, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới khẳng định: “Tri thức
bản địa là một phần không thể thiếu trong văn hóa và lịch sử của một cộng
đồng địa phương. Chúng ta cần thiết phải học hỏi từ các cộng đồng địa
phương để có thể thúc đẩy quá trình phát triển” [99, tr.332]. Chương trình vừa
nêu được tiến hành tập trung ở châu Phi nhằm mục đích giảm tỉ lệ đói nghèo
và hướng tới các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ do Ngân hàng Thế giới đề
ra.
Thuật ngữ “tri thức bản địa” (Indigenouse knowledge) được Robert
Chambers dùng lần đầu tiên trong một ấn phẩm xuất bản năm 1979. Sau đó,
thuật ngữ này được Brokensha và D.M.Warren sử dụng vào năm 1980 và tiếp
tục phát triển cho đến ngày nay [132, tr.12].
Ở nước ta, các tác giả Ngô Đức Thịnh, Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc,
Vương Xuân Tình, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh, Hoàng Cầm,
Bùi Quang Thắng, Nguyễn Thị Thu Hà, Hoàng Hữu Bình, An Văn Bảy, Cầm
25
Tú Lan, Đinh Thị Hồng Thơm, Nguyễn Thị Quý,…đã giới thiệu lý thuyết về
tri thức bản địa, đã nghiên cứu tri thức bản địa của đồng bào thiểu số trong
nông nghiệp, lâm nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, trong dưỡng sinh,
trị bệnh, trong tập quán sinh đẻ và chăm sóc trẻ em,…
Về phương diện lý luận, năm 2008, với bài viết “Tri thức bản địa” (in
trong cuốn sách 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hóa do Bùi Quang Thắng chủ
biên), tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đã trình bày một cách có hệ thống về tri
thức bản địa, từ các đặc điểm của tri thức này (do Roy Ellen và Holly Harris
tổng kết), đến việc tri thức này bị lãng quên, rồi được thừa nhận, từ sự vào
cuộc của Ngân hàng thế giới đến những vấn đề đang thảo luận, tranh luận
trong việc ứng xử với tri thức bản địa trong thời gian hiện nay [99, tr.321-
341]. Nếu bài viết của Nguyễn Thị Thu Hà hầu như không đề cập đến hạn chế
của tri thức bản địa thì trong phần “Các khái niệm và vai trò của kiến thức
bản địa” in trong cuốn sách Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong
nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên xuất bản năm 1998, Hoàng
Xuân Tý đã nêu ra bảy đặc điểm cơ bản của tri thức bản địa và hai hạn chế
của tri thức này. Theo tác giả, tri thức bản địa có tính địa phương rất cao nên
khó phổ cập rộng rãi cho vùng khác; nhiều tri thức bản địa ngày nay đã không
còn phù hợp với hoàn cảnh xã hội và điều kiện môi trường hiện đại [132,
tr.25]. Nếu trong tất cả các thí dụ mà Nguyễn Thị Thu Hà nêu ra không có sự
việc, con người nào trên đất Việt Nam thì đối với Hoàng Xuân Tý, bên cạnh
những thí dụ rất thú vị như kinh nghiệm của người thổ dân da đỏ Trung Mỹ
cải thiện giống khoai tây khỏi bị thoái hóa; Coca – Cola vốn là đồ uống
truyền thống của một bộ tộc của người da đỏ ở châu Mỹ, tác giả đã đề cập đến
kỹ thuật làm rẫy của đồng bào Tây Nguyên; việc hái cây thuốc của phụ nữ
Dao; tục ngữ, công cụ và cách đánh bắt thủy sản và săn bẫy chim thú của
đồng bào Thái; cam Xã Đoài của người Việt ở Nghệ An; bưởi Đoan Hùng của
26
người Việt ở Phú Thọ;…
Năm 1997, tại Hội thảo quốc tế về Văn hóa và phát triển do UNESCO
tổ chức ở Ấn Độ, tác giả Ngô Đức Thịnh trình bày báo cáo Tri thức bản địa
và sự phát triển xã hội. Theo tác giả, tri thức bản địa và tri thức dân gian
(Folk knowledge) là một, bao gồm: 1) Tri thức về tự nhiên và môi trường (kể
cả vũ trụ); 2) Tri thức về bản thân con người (cơ thể học, dưỡng sinh, chữa
bệnh,…); 3) Tri thức về sản xuất, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên; 4) Tri thức về ứng xử xã hội và quản lý cộng đồng; 5) Tri
thức về sáng tạo nghệ thuật [107, tr.3], [145]. Năm 2004, trên Tạp chí Văn
hóa dân gian, tác giả đề xuất khái niệm “thế giới quan bản địa”. Theo ông, hệ
thống tri thức bản địa hình thành, tồn tại xuất phát từ thế giới quan bản địa
[107, tr.4].
Về phạm vi của tri thức bản địa, nhìn chung giữa các tác giả có nhiều
sự gặp gỡ, song cũng có đôi chỗ khác nhau. Nếu Ngô Đức Thịnh quan niệm
tri thức bản địa bao gồm năm lĩnh vực đã nêu thì Hoàng Xuân Tý, với tư cách
là đồng chủ biên cuốn sách Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong
nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên lại “không đưa các kiến thức
văn hóa như âm nhạc, tín ngưỡng, đạo đức,… vào trong khái niệm kiến thức
bản địa” [132, tr.12]. (Xin lưu ý, đối với cùng một thuật ngữ Indigenouse
knowledge, Ngô Đức Thịnh và nhiều tác giả khác dịch là tri thức bản địa, còn
Hoàng Xuân Tý dịch là kiến thức bản địa. Vì vậy, tri thức bản địa và kiến
thức bản địa là một). Còn D.M. Warren đã dùng thuật ngữ “kiến thức về kỹ
thuật bản địa” (Indigenouse techvical knowledge) để giới hạn phạm vi của
thuật ngữ này. Theo đó, các nội dung sau thường được tác giả đề cập: 1) Kiến
thức về trồng trọt; 2) Kiến thức về chăn nuôi; 3) Kiến thức về quản lý rừng và
tài nguyên cộng đồng; 4) Kiến thức về dinh dưỡng và sức khỏe cộng đồng; 5)
Kiến thức về tổ chức cộng đồng và truyền thụ kinh nghiệm cho con
27
cháu[Theo 132, tr.13-14].
Dù quan niệm phạm vi của tri thức bản địa khác nhau, dù dùng thuật
ngữ khác nhau, các tác giả đều phân biệt tri thức bản địa, tri thức dân gian,
kiến thức bản địa, kiến thức truyền thống (Traditional knowledge), kiến thức
địa phương (Local knowledge), với kiến thức (tri thức) hàn lâm/kiến thức
khoa học. Đúng như Hoàng Xuân Tý đã giới thuyết, kiến thức hàn lâm
(Academic knowledge) là “những kiến thức được hình thành chủ yếu bởi các
nhà thông thái, được hệ thống hóa và truyền lại qua sách vở” [132, tr.12].
Dưới đây là sự phân biệt của các tác giả Alan, R. Emery and Associates đối
với hai loại kiến thức/tri thức đó:
Bảng 2. Phân biệt tri thức bản địa và kiến thức khoa học
Tri thức bản địa Kiến thức khoa học Lĩnh vực tri thức
1. Phạm vi
Chỉ tính tới thế tục; loại trừ siêu nhiên Phân tích hay quy giản, dựa vào các tập hợp nhỏ của cái toàn thể Được lưu giữ thông qua sách vở và máy tính
Linh thiêng và thế tục cùng đồng hành; bao gồm cả siêu nhiên Hội nhập toàn thể, dựa vào hệ thống Được lưu giữ thông qua truyền miệng và trong các thực hành văn hoá
2. Mức độ chân lý
Được coi là chân lý chủ quan Chân lý được thấy trong tự nhiên và trong niềm tin Giải thích dựa vào ví dụ, kinh nghiệm và tục ngữ Được coi là tiếp cận gần nhất đến chân lý Chân lý được tìm thấy từ sự lý giải của con người Giải thích dựa vào giả thuyết, lý thuyết và quy luật
28
Tri thức bản địa Kiến thức khoa học Lĩnh vực tri thức
3. Mục đích
Trí tuệ lâu dài Thực tế cuộc sống và tồn tại Có khả năng dự báo tốt ở địa phương (có giá trị về sinh thái) Yếu hơn trong điều kiện ở các vùng xa, khác Suy đoán ngắn hạn Trừu tượng; trải qua kiểm tra Có khả năng dự báo tốt trong điều kiện tự nhiên (có giá trị về duy lý) Yếu trong việc sử dụng kiến thức địa phương
4. Cách dạy và học
(Nguồn: trích từ Alan, R. Emery and Associates (1997)
Guidelines for Environmental Assessments and Traditional Knowledge. Dự thảo Báo cáo của Trung tâm Kiến thức bản địa của Hội đồng dân tộc bản địa thế giới, Ottawa, tr. 4-5. http://www.kivu.com/wp-content/uploads/2012/01/Preliminary- Guidelines.pdf)
Lĩnh hội mất nhiều thời gian (“kiến thức chậm”) Học thông qua cách sống, trải nghiệm và làm Dạy thông qua ví dụ, làm mẫu, tôn giáo và kể chuyện Được kiểm nghiệm thông qua các tình huống thực tế Lĩnh hội nhanh (“kiến thức nhanh”) Học thông qua giáo dục chính thức Dạy thông qua sách giáo khoa Được kiểm nghiệm giả tạo trong các kiểm tra
Qua những điều đã trình bày, trong luận án, chúng tôi xin được dùng
thuật ngữ “tri thức dân gian” với tính chất là thuật ngữ tương đương/đồng
nghĩa với các thuật ngữ “tri thức bản địa”, “tri thức truyền thống”, “tri thức
địa phương”, “kiến thức bản địa”, “kiến thức địa phương”, “kiến thức truyền
thống”,(1)… Sở dĩ như vậy là vì khi các tác giả dùng các thuật ngữ tri thức bản
địa, tri thức truyền thống, kiến thức địa phương, tri thức địa phương,… họ
(1) Riêng tác giả Osseweijer, năm 2003, cho rằng tri thức địa phương bao gồm tri thức bản địa và tri thức
ngoại sinh (theo Nguyễn Thị Thu Hà) [99, tr.338].
đều nhằm nói đến loại tri thức không phải do các nhà trí thức hệ thống hóa và
29
truyền bá qua sách vở, trường học. Đó là loại tri thức được lưu giữ thông qua
truyền miệng và các thực hành văn hóa. Tri thức dân gian cũng có những đặc
điểm như vậy. Chính vì thế, tác giả Ngô Đức Thịnh đã gọi tri thức bản địa là
tri thức dân gian mà không cần chứng minh [107, tr.3].
Tri thức dân gian là những kiến thức đa dạng về nhiều mặt của một
cộng đồng dân cư ở một vùng nhất định. Không phải tất cả mọi thành phần
trong một cộng đồng dân cư đều có tri thức dân gian như nhau. Kinh nghiệm
chọn đất trồng ngô, lúa và các dự báo thời tiết để gieo trồng nằm ở trí nhớ của
người già, hay đàn ông. Phụ nữ có hiểu biết sâu sắc hơn đàn ông rất nhiều về
hái lượm các loại rau rừng cho người và gia súc. Các thiếu niên ở độ tuổi 13-
15 biết rất nhiều loại cỏ cây mà bò và dê ưa thích. Ở đồng bào Dao, người
biết hái cây thuốc trong rừng chủ yếu lại là phụ nữ [132, tr.17-18].
Tri thức dân gian thường được tổng kết trong tục ngữ. Chính vì vậy,
người ta thường nói tục ngữ là “túi khôn” của một cộng đồng. Ngoài ra, tri
thức dân gian c ̣òn được thể hiện trong truyện ngụ ngôn. Thí dụ, câu chuyện
Đẽo cày giữa đường khuyên người ta làm việc gì phải có chủ kiến không nên
bị động hết chạy theo ý kiến người này lại nghe theo lời khuyên của người
khác cuối cùng hỏng việc. Truyện Dại như vích khuyên người ta muốn chinh
phục được đối phương thì phải nắm được quy luật hoạt động của nó. Bên
cạnh đó, thông qua các truyện dân gian khác như truyện cổ tích, truyện cười,
người ta cũng có thể gửi gắm tri thức dân gian. Trong kho tàng ca dao, đối
với những câu hát lời ca mà văn bản của chúng thuộc dạng văn bản biểu hiện
thì chúng ta ít tìm thấy tri thức dân gian. Nhưng ở những bài, những câu thuộc
loại văn bản tạo hình thì có không ít tri thức mà người xưa gửi gắm(1).
(1) Về văn bản tạo hình và văn bản biểu hiện, xin xem phụ lục 5.
Tri thức dân gian còn được thể hiện qua những kinh nghiệm, những
30
cách thức không bộc lộ thành lời. Thí dụ, sau khi sản phụ sinh nở, người ta
cho người mẹ trẻ nằm và đốt bồ kết trong phòng, ninh cháo với chân giò lợn
và đu đủ xanh để người mẹ có nhiều sữa cho con. Những tri thức này chưa
được tổng kết trong một câu tục ngữ, một lời ca nào.
1.2.2.3. Vùng và tiểu vùng văn hóa
Các nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên,
Hoàng Vinh, Huỳnh Khái Vinh,… tuy đưa ra những phương án phân vùng
văn hóa Việt Nam khác nhau, song các tác giả đều giống nhau ở chỗ vùng văn
hóa là đơn vị lớn hơn tiểu vùng văn hóa, một vùng văn hóa có thể bao gồm
nhiều tiểu vùng. Chúng tôi tiếp thu cách chia văn hóa Việt Nam thành ba
vùng: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đây là những tên gọi quen thuộc hiện
nay. Từ đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn chia nước ta thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung
Kỳ, Nam Kỳ. Trong thời gian Pháp thuộc (1884-1945), nhà cầm quyền tiếp
tục duy trì các tên gọi và cách phân chia này. Có thể nói, về cơ bản, các vùng
Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ hiện nay tương đương với Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ trước kia.
Trong mỗi vùng, lại có thể chia thành nhiều tiểu vùng. Thí dụ, vùng
văn hóa Trung Bộ được chia thành Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và Nam
Trung Bộ. Vùng văn hóa Bắc Bộ được chia thành vùng Tây Bắc, vùng Việt
Bắc và vùng châu thổ Bắc Bộ.
1.2.2.4. Phụ nữ
Hiện nay có nhiều quan niệm về phụ nữ. Theo Wikipedia, phụ nữ hay
đàn bà là chỉ giống cái của loài người. Phụ nữ thường được dùng để chỉ
một người trưởng thành, còn con gái thường được dùng chỉ đến trẻ
gái nhỏ hay mới lớn. Bên cạnh đó từ phụ nữ, đôi khi dùng để chỉ đến một con
người giống cái, bất kể tuổi tác, như là trong nhóm từ "quyền phụ nữ".
31
[https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A5_n%E1%BB%AF#Kh.C3.A1i
_ni.E1.BB.87m, truy cập ngày 29/12/2015].
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, xuất bản năm 2002,
phụ nữ là người lớn thuộc nữ giới.
Theo điều lệ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh thì tại thời điểm
xét kết nạp, người được kết nạp vào Đoàn ít nhất ở tuổi từ 16 (từ đủ 15 tuổi +
1 ngày) [28].
Theo Luật hôn nhân và gia đình hiện nay, tuổi kết hôn của nữ là 18 tuổi
trở lên, nam 20 tuổi trở lên. Trong quan niệm dân gian, “gái thập tam, nam
thập lục” có nghĩa là con gái 13 tuổi, con trai 16 tuổi là ở tuổi dậy thì.
Từ tất cả các thông tin trên, chúng tôi xin được giới thuyết trong luận
án này: phụ nữ là người có tuổi từ 16 trở lên.
1.2.2.5. Làm đẹp
Chăm sóc sắc đẹp: Là một khái niệm để chỉ hoạt động nhằm duy trì,
tăng vẻ đẹp dựa trên những nguyên liệu, phương pháp và kỹ thuật thích hợp
được chấp nhận. Có nhiều phương pháp và kỹ thuật chăm sóc sắc đẹp khác
nhau được sử dụng. Có thể chia thành ba loại:
+ Cách làm đẹp của Đông y và Tây y (những người làm việc này được
đào tạo bài bản, có bằng cấp).
+ Cách làm đẹp của một nhóm người đặc biệt như các bà mụ, lang
vườn, thầy cúng.
+ Cách làm đẹp phổ thông do những người dân tự làm (nhuộm răng
đen (thời trước), giữ gìn răng trắng (thời nay), để và chải tóc theo thời trang,
cài hoa trên tóc, tự tỉa lông mày,…) cách làm đẹp này chiếm số lượng đông
đảo và ít tốn kém về tiền bạc. Đây có thể gọi là cách tự làm đẹp.
32
Nhu cầu tự làm đẹp xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người. Từ
những di chỉ khảo cổ học, chúng ta biết rằng người cổ xưa đã biết dùng đồ
trang sức. Trên cơ sở những cách làm đẹp phổ thông, phổ biến của dân gian,
đã hình thành nên các chuyên khoa dành cho những người có chuyên môn.
Hiện nay, tương đối khó xác định một hành vi làm đẹp thuộc loại nào. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, người ta hoàn toàn có thể cùng một lúc sử
dụng nhiều cách khác nhau, miễn sao đạt được hiệu quả như mong ước1.
1.2.2.6. Sức khỏe và chăm sóc sức khỏe
Thông thường ta nói một người nào đó khỏe là khi họ không có bệnh
tật và họ cảm thấy thoải mái. Năm 1946, Tổ chức Sức khỏe thế giới đã định
nghĩa sức khỏe là “tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tâm thần và xã
hội chứ không phải chỉ là tình trạng không có bệnh hay tật” [92]. Định nghĩa
này nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa ba mặt thể chất, tâm thần và xã hội
của một cá nhân. Một yếu tố bị ảnh hưởng sẽ tác động đến những mặt khác và
ảnh hưởng đến sức khỏe. Từ đó ta thấy sức khỏe không phải là một tình trạng
cố định mà biến chuyển liên tục, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Một số khái niệm khác có liên quan đến sức khỏe:
- Bệnh (disease): là tình trạng tổn thương hoặc rối loạn cấu trúc, chức
năng của cơ thể hoặc cả hai, đang diễn tiến (có thể tăng hoặc giảm). Người
bệnh có thể có: (1) Triệu chứng cơ năng (symptoms) là những cảm giác khó
chịu do người bệnh cảm thấy và (2) Dấu hiệu hay triệu chứng thực thể (signs)
là những biểu hiện mà người khác có thể nhận biết được.
- Tàn tật (disability): là tình trạng tổn thương hoặc rối loạn cấu trúc,
chức năng của cơ thể hoặc cả hai, không diễn tiến hoặc diễn tiến rất chậm.
1 Ý kiến của PGS.TS. Phạm Lan Oanh trong ngày NCS bảo vệ luận án cấp cơ sở, 12/11/2015.
Nếu lấy mốc là bệnh có thể chia các hoạt động chăm sóc sức khỏe ra ba
33
lĩnh vực:
- Dự phòng/Phòng bệnh (prevention): những hoạt động chăm sóc sức
khỏe để phòng bệnh, thí dụ: rửa tay trước khi ăn, uống nước đun sôi để nguội,
ngủ màn tránh muỗi đốt... Cách chăm sóc sức khỏe bằng phòng bệnh có mục
đích làm chậm lại việc bắt đầu phát bệnh, tức là làm chậm lại quá trình lão
hóa của cơ thể.
- Điều trị (treatment): các biện pháp điều trị như uống thuốc, mổ xẻ,
hoặc đơn giản như cạo gió, xoa bóp .v.v...
- Phục hồi (rehalibitation): những biện pháp nhằm phục hồi chức năng
sau khi bị bệnh, bị tật, ví dụ dinh dưỡng tốt sau khi bị cơn bệnh cấp tính, tập
thở cho người bị viêm mũi, màng phổi đã chữa trị, tập cho trẻ bại liệt đi lại
v.v...
Tuy nhiên cách phân chia này còn phiến diện vì con người ta không chỉ
đơn thuần nghĩ đến việc phòng/chữa bệnh mà còn muốn thực hiện các hoạt
động để được khỏe hơn. Cho nên gần đây người ta còn đề cập đến khái
niệm nâng cao sức khỏe (health promotion) với hàm ý là những hoạt động
giúp tăng cường sức khỏe chứ không chỉ để phòng ngừa bệnh [15].
1.3. Tổng quan về Bắc Bộ và châu thổ Bắc Bộ
1.3.1. Bắc Bộ trong sự so sánh với Trung Bộ và Nam Bộ
Bắc Bộ bao gồm vùng Tây Bắc, vùng Việt Bắc và vùng châu thổ Bắc
Bộ.
So với Trung Bộ và Nam Bộ, Bắc Bộ là nơi người Việt tụ cư sớm hơn
cả và đông hơn cả. Trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, người Việt cổ đã biết
khai thác đất đai, làm ruộng nước, cấy lúa theo hai vụ chiêm, mùa, bên cạnh
các hình thức kinh tế đánh bắt và làm nương rẫy. Không gian cư trú của người
Bắc Bộ thời trước nằm trọn trong không gian cư trú của người Việt cổ thời kì
34
văn hóa Đông Sơn (khoảng 7-8 thế kỉ trước Công nguyên cho đến đầu Công
nguyên).
Người Việt ở Bắc Bộ là dân tộc đa số. Theo thời gian, bên cạnh các tộc
người đa số và thiểu số bản địa, còn có các dân tộc khác đến đây vì nhiều lý
do khác nhau. Hiện nay, ngoài người Việt (Kinh), còn có các dân tộc Tày,
Nùng, Mường, Thái, H’mông, Dao, Cống, La Chí, Xinh Mun, Mảng, Khơ
Mú, Giáy, Bố Y, Sán Chay, Cơ Lao, Pa Thẻn,…
Về đặc điểm tự nhiên, lịch sử và kinh tế xã hội, Bắc Bộ khác hẳn vùng
văn hóa Trung Bộ. Theo nhà địa lý học Lê Bá Thảo, bắt đầu từ Bắc Thanh
Hóa đến Nam Phan Thiết, dài hơn 1500km, hơn ba phần tư lãnh thổ là đồi núi
[97, tr.385]. Việc đi lại ở các tỉnh miền Trung tương đối khó khăn. Phần chính
của đồng bằng Thanh Hóa được bồi đắp bởi phù sa của sông Mã và sông Chu.
Nhưng độ mầu mỡ của đồng bằng Thanh Hóa kém hẳn đồng bằng Bắc Bộ.
Không chỉ phù sa có độ phì nhiêu kém mà những dải đất ven biển Trung Bộ
còn pha trộn trầm tích, có không ít đất mặn và đất cát. Đồng bằng Nghệ Tĩnh
do nhiều mảnh đồng bằng nhỏ hợp lại, đất đai không được phì nhiêu bằng các
đồng bằng ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Ở đồng bằng Nam Trung Bộ diện tích
không đáng kể lại có nhiều cồn cát trắng. Đến Khánh Hòa, núi đã tiếp giáp
với biển. Do vậy, các hoạt động sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do
thiếu nước tưới [97].
Hiện nay, có nhiều cách xác định địa giới bắt đầu của Trung Bộ. Nếu
theo quan niệm của tác giả Nguyễn Chí Bền, tính Trung Bộ là từ Quảng Bình
vào đến Bình Thuận thì vùng đất Trung Bộ từ thế kỉ thứ X cho đến thế kỉ XV
còn thuộc vương quốc Chămpa [dẫn theo 66, tr.666-667]. Hiện nay, ở Trung
Bộ, bên cạnh cư dân Việt, còn có người Thái, Mường, Chăm, Raglai, Bru–
Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Êđê, Cơ Ho, … Ở Trung Bộ trước đây, sản xuất
nông nghiệp không cho năng suất cao và sản lượng lớn. Nghề đánh cá và đi
35
rừng phát triển. Người Việt đến đây đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn hóa
Chăm như kỹ thuật đóng thuyền, nghề đi biển, nghề làm nước mắm. Chính vì
vậy, bên cạnh lễ hội đình của cư dân nông nghiệp còn có tín ngưỡng thờ cá
ông của các làng đánh cá. Người Việt ở Trung Bộ có các tín ngưỡng, lễ hội
mà người Việt ở Bắc Bộ không có. Đó là lễ cúng đất ở Khánh Hòa, lễ tá thổ ở
Phú Yên. So với các làng Việt ở Bắc Bộ, làng Việt ở miền Trung kém về bề
dày lịch sử, cư dân thưa thớt hơn và từ Quảng Bình trở vào không hề có cổng
làng.
Nam Bộ là vùng đất mới, do người Việt, người Hoa, người Khơme và
một số dân tộc thiểu số khác chung sức khai phá và xây dựng, có bề dày
chừng hơn 300 năm. Sau thời kì khai phá, khoảng một thế kỉ nay, Nam Bộ là
vùng đất trù phú, thiên nhiên ưu đãi con người. Ở Nam Bộ, yếu tố núi nhạt
nhòa hơn yếu tố đồng bằng và biển cả, sông rạch. Làng Việt ở Nam Bộ có
phần khác so với làng Việt ở Bắc Bộ. Ở vùng đất mới, dân làng ở rải rác
không hợp nhau thành xóm, chung quanh làng không có lũy tre xanh. Làng
Nam Bộ thường rộng lớn hơn làng Bắc Bộ, chia thành nhiều ấp. Các quan hệ
dòng họ, phe giáp không chặt chẽ và không phong phú như ở làng Việt Bắc
Bộ. Tính cố kết, cộng đồng của người Việt ở Nam Bộ cũng mạnh mẽ, sâu sắc
nhưng chủ yếu được hun đúc từ sự đồng cảm của những người xa quê, được
xây dựng trong quá trình chinh phục vùng đất mới. Ở người Việt vùng Nam
Bộ cũng như ở các dân tộc thiểu số khác (trừ người Hoa), dấu ấn Nho giáo có
phần nhạt nhòa hơn.
1.3.2. Tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ
1.3.2.1. Đặc điểm tự nhiên
Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt. Đây là cái nôi hình
thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn
hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống.
36
Bắc Bộ là một khu vực rộng lớn bao chứa châu thổ Bắc Bộ, trong châu
thổ Bắc Bộ có đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay, các nhà nghiên cứu chưa thống
nhất về ranh giới phía Nam của Bắc Bộ. Đa số ý kiến cho rằng Bắc Bộ bao
gồm đến Ninh Bình. Một số ý kiến cho rằng Bắc Bộ đến Thanh Hóa. Riêng
tác giả Nguyễn Chí Bền thì cho rằng Bắc Bộ bao gồm cả Nghệ An và Hà
Tĩnh[66].
Trong luận án này, khi nói đến Bắc Bộ, chúng tôi quan niệm phía Nam
của nó được tính hết tỉnh Ninh Bình, không bao gồm Thanh Hóa, Nghệ An và
Hà Tĩnh. Trong Bắc Bộ chúng tôi chú ý đến một số tỉnh, thành phố ở khu vực
châu thổ Bắc Bộ gồm Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh,
Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nội.
Về vị trí địa lí, vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao
lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam. Chính vị trí địa lí
này đã tạo điều kiện cho cư dân thuận lợi về giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng
hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Mặt khác, khí hậu vùng châu thổ Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng
bằng khác. Khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh
vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm.
Về môi trường nước, châu thổ Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá
dày, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình. Chính yếu tố
nước tạo ra sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử
cũng như sinh hoạt cộng đồng của cư dân trong khu vực, tạo nên nền văn
minh lúa nước, vừa có cái chung của văn minh khu vực, vừa có cái riêng độc
đáo của mình.
37
1.3.2.2. Đặc điểm văn hóa
Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt, vì thế cũng là nơi sinh ra các
nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp: văn hóa Đông Sơn, văn hóa Tiền Đại
Việt, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt
lan truyền vào Trung Bộ rồi đến Nam Bộ. Sự lan truyền ấy, một mặt chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, một mặt chứng tỏ sự sáng tạo của người
dân Việt. Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc
trưng chung của văn hóa Việt và có cả những nét riêng của vùng này.
Văn hóa vật chất
+ Sản xuất
Cư dân ở châu thổ Bắc Bộ phần lớn là cư dân sống với nghề trồng lúa
nước, làm nông nghiệp là chủ yếu. Bắc Bộ là một châu thổ có nhiều sông
ngòi, mương máng nên người dân chú trọng khai thác thủy sản. Tận dụng ao,
hồ đầm để nuôi thả, khai thác thủy sản là một phương cách được người nông
dân rất quan tâm.
Phương thức canh tác chính của cư dân châu thổ Bắc Bộ là trồng lúa
nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt cây lương thực). Tuy nhiên, cùng với
cây lúa, ở Bắc Bộ còn nhiều loại cây khác phù hợp với chất đất từng nơi và
khí hậu từng mùa.
Trong khi đó, đất đai ở Bắc Bộ không nhiều, dân cư lại đông. Vì thế, để
tận dụng thời gian nhàn rỗi của vòng quay mùa vụ, người nông dân đã làm
thêm nghề thủ công. Ở châu thổ sông Hồng, trước đây, người ta đã từng biết
đến hàng trăm nghề thủ công, có một số làng phát triển thành chuyên nghiệp
với những người thợ có tay nghề cao. Một số nghề đã rất phát triển, có lịch sử
phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng.v.v…
+ Ẩm thực
38
Người Việt ăn cơm là chính, sau cơm là rau, cá là thành phần thứ ba
với số lượng không nhiều. Cá ở đây chủ yếu là cá nước ngọt, còn cá biển
thường được sử dụng ở các làng ven biển. Tuy rằng người ta vẫn có thể đem
các loại hải sản đến bán ở các vùng sâu trong nội địa nhưng chỉ trừ các dịp
đặc biệt như giỗ tết hoặc có khách, còn người Việt với bản tính cần kiệm, ít
khi bỏ tiền ra mua thức ăn. Cá nước ngọt là loại cá đồng do họ tự đánh bắt.
Chỉ vào dịp giỗ tết, hội làng họ mới ăn thịt lợn, thịt gà... Bởi thế tục ngữ có
câu: “Thịt cá hương hoa, tương cà gia bản”. Các gia vị có tính chất cay, chua
đắng, vốn quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ và hiếm khi có mặt hoặc
nếu có chỉ chiếm một số lượng rất ít trong bữa ăn của người Bắc Bộ.
+ Trang phục
Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên, người Việt rất sợ sự trần truồng [dẫn
theo 64, tr.150]. Việc mặc của họ trước hết nhằm che kín cơ thể, thể hiện sự
phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện làm việc. Vào mùa nóng, đàn ông
thường đóng khố hoặc mặc quần cộc, cởi trần. Khi đi làm, họ mặc chiếc quần
lá tọa, áo cánh màu nâu sồng. Phụ nữ thường mặc váy thâm, áo nâu khi đi
làm. Vào dịp hội hè, lễ tết, phụ nữ mặc áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông mặc
quần trắng, áo dài the, chít khăn đen [142, tr.198]. Nhìn chung, màu nâu là
màu ưa chuộng ở Bắc Bộ như nhà thơ Nguyễn Đình Thi diễn tả:
“Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn.”
Trong bộ trang phục cổ truyền của người Việt Bắc Bộ, còn có các loại
thắt lưng (thắt lưng dải, thắt lưng bao hay ruột tượng), các loại guốc, dép,
giày, các loại khăn đội (khăn vấn tóc, phủ tóc), các loại nón (nón chóp, nón
thúng, nón ba tầm, nón quai thao, nón bài thơ....). Chiếc nón của người Việt
thực hiện nhiều chức năng: khi đội đầu thì để che mưa, nắng; ở ngoài đồng
39
lúc nghỉ ngơi thì ngả ra ngồi hay dùng thay quạt, lúc khát thì lấy nón thay gầu
vục nước uống, khi đi chợ có thể dùng nón để làm đồ đựng hoa quả, quà
bánh.v.v...
Vào thời Lê xuất hiện nhiều loại nón. Đàn ông và phụ nữ thôn quê đội
nón xuân nôi tiểu (tục gọi là nón sọ nhỏ). Ngoài ra còn có các loại nón liên
diệp (tục gọi là nón lá sen). Người già đội nón tam giang. Về cơ bản, trong
trang phục, người Việt ưa thoáng mát, lấy ăn chắc mặc bền làm trọng; nhưng
cũng chú ý đến cái đẹp: “Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân”[62, tr.2005];
“hơn nhau tấm áo manh quần” [61, tr.1377]… Để phối hợp với cái đẹp trong
đồ mặc, người phụ nữ Việt dùng nhiều cách trang điểm cơ thể như nhuộm
răng đen, ăn trầu để làm đỏ môi, hồng má. Những biện pháp này chúng tôi xin
được trình bày chi tiết ở chương sau.v.v…
+ Cư trú
Trong hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt đã từ chỗ sợ hãi tiến đến
hòa điệu, lựa theo thiên nhiên, tạo nên một diện mạo châu thổ như ngày nay,
bằng việc đào mương, đắp bờ, đắp đê, làm đường, đào ao, vượt thổ. Biết bao
cây số đê được tạo dựng dọc các triền sông thuộc hệ thống sông Hồng và
sông Thái Bình. Nói cách khác, đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái
Bình là kết quả của sự nhận thức về tự nhiên và lao động lâu dài của người
Việt. Trong văn hóa đời thường, sự khác biệt giữa văn hóa châu thổ Bắc Bộ
và văn hóa các vùng khác trong cả nước chính được tạo ra từ sự thích nghi
với thiên nhiên này. Người dân Bắc Bộ thường làm nhà quay về hướng nam,
có những bộ cột kèo liên hoàn vững chắc để chống gió bão. Mái nhà lợp
tranh, lợp rạ khá dày để có thể mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Trước hoặc
sau nhà thường có ao để nuôi cá, để thả bèo nuôi lợn. Chiếc ao này đồng thời
cũng là chiếc điều hòa trong mùa hè nóng; có nhà ngăn riêng ra một phần để
làm chỗ nhốt trâu/bò, một phần để cối xay thóc, cối giã gạo. Có nhà làm riêng
40
ngôi nhà nhỏ chỉ để làm chỗ nhốt trâu bò và chăn nuôi lợn gà. Ngoài ngôi nhà
chính để ở còn có bếp. Trong bếp, người ta dành một phần không gian để đun
nấu, một phần chứa rơm rạ, than củi. Trong thời kỳ quân chủ độc lập (từ thế
kỷ X đến cuối thế kỷ XIX) rất hiếm có những nhà dân lợp ngói. Cho đến cuối
thế kỷ XVIII, theo sự ghi chép của Lê Quý Đôn, huyện đường vẫn là nhà gỗ
lợp tranh.
Người nông dân Bắc Bộ dù sống trong gia đình hai thế hệ hoặc nhiều
hơn thì bao giờ nhà ở của họ cũng có ao và vườn. Ao để thả cá, thả rau, để có
nguồn nước giặt giũ. Vườn để trồng một vài cây ăn quả và rau. Nhiều loại rau
ngoài chức năng là nguồn thực phẩm còn có chức năng là nguồn dược liệu.
Một ít ngải cứu, dăm khóm gừng, vài vạt rau thơm… tất cả những cái đó là
những vị thuốc nam trong nhà.
Văn hoá xã hội
Gia đình người Việt là gia đình phụ hệ. Có nhiều loại gia đình: loại hai
thế hệ, loại từ ba thế hệ trở lên. Trong hai loại này, loại gia đình hai thế hệ là
phổ biến. Ngoài quan hệ gia đình, người Việt còn có quan hệ họ hàng.
Nông dân Bắc Bộ sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội cơ sở,
tế bào sống của xã hội Việt. Sự gắn bó giữa con người và con người trong
cộng đồng làng quê, được quy định bởi huyết thống, bởi việc sở hữu ruộng
đất, bởi cùng có chung đình làng, chùa làng bởi sự tuân theo các chuẩn mực
xã hội, đạo đức. Những điều này được ghi nhận trong hương ước, khoán ước
của làng xã. Các hương ước, hay khoán ước này là những quy định khá chặt
chẽ về mọi phương diện của làng, từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy
định về sản xuất và bảo vệ môi trường đến quy định về tổ chức làng xã, ý
thức cộng đồng làng xã, vì thế trở thành một sức mạnh tinh thần không thể
phủ nhận. Nhưng cũng vì thế mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ. Chính
những đặc điểm ấy của làng Việt Bắc Bộ sẽ góp phần tạo nên những đặc điểm
41
riêng của tiểu vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ [142].
Văn hóa tinh thần
Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười
đến truyện trạng, mỗi thể loại đều mang nét riêng của Bắc Bộ, chẳng hạn ở
Bắc Bộ có truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn sử dụng các hình thức câu đố, câu
đối, nói lái, chơi chữ nhiều hơn truyện trạng ở các vùng khác. Ca dao châu
thổ Bắc Bộ trau chuốt, tỉa gọt hơn ca dao Nam Bộ. Các thể loại thuộc nghệ
thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét. Đó
là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo, múa rối,…
Đáng kể nhất là những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Bắc Bộ.
Các tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành hoàng, thờ Mẫu,
thờ các ông tổ nghề… có mặt trên hầu khắp các làng quê Bắc Bộ. Các tín
ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người và tồn tại trong lễ hội – một ra
thành lễ hội mùa xuân, một ra thành lễ hội mùa thu. Dù thuộc loại nào, khởi
nguyên, các lễ hội ấy đều là các hội làng của cư dân nông nghiệp, nói khác đi
là các lễ hội nông nghiệp. Tiến trình lịch sử đã lắng đọng ở đây những lớp văn
hóa, khiến cho trên lát cắt đồng đại, khó nhận ra gương mặt ban đầu của lễ
hội nông nghiệp. Tuy nhiên, những trò diễn trong các lễ hội vẫn gợi lại các
nghi lễ nông nghiệp. Chẳng hạn như các lễ thức thờ Mẹ lúa, Cầu mùa, thờ
Thần mặt trời, các trò diễn mang tính chất phồn thực như múa gà phủ, múa
các vật biểu trưng âm vật, dương vật… Chính vì vậy mà lễ hội ở châu thổ Bắc
Bộ có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ khá nhiều các sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp. Nói tới văn hóa ở châu thổ
Bắc Bộ là nói tới một vùng văn hóa có một bề dày lịch sử cũng như mật độ
dày đặc của các di tích văn hóa. Các di tích khảo cổ, các di sản văn hóa hữu
thể tồn tại ở khắp các địa phương. Đền, đình, chùa, miếu... có mặt ở hầu khắp
các địa bàn, tận các làng quê. Nhiều di tích nổi tiếng không chỉ ở trong nước
42
mà cả ở nước ngoài như đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố
Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng.v.v…[142,
tr.198].
Nói tới tiểu vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ là nói tới một tiểu vùng mà
quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra lâu dài hơn cả và với nội dung phong phú
hơn cả.
Việc tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ trên địa bàn châu thổ Bắc Bộ
có những nét riêng do vị thế địa - văn hóa, địa - chính trị của nó quyết định.
Thời thuộc Pháp, châu thổ Bắc Bộ cũng là một trong những vùng chịu ảnh
hưởng văn hóa phương Tây đậm nét. Có thể đơn cử sự tiếp nhận Phật giáo
của cư dân Việt Bắc Bộ. Là một tôn giáo sinh ra ở Ấn Độ, vào châu thổ Bắc
Bộ, Phật giáo đã chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng dân gian bản địa, đã bản
địa hóa thành Phật giáo dân gian. Sự phát triển của Phật giáo ở châu thổ Bắc
Bộ, vì thế sẽ khác với Phật giáo ở Nam Bộ. Đồng thời với đặc điểm có quá
trình tiếp biến văn hóa lâu dài và phong phú hơn cả, Bắc Bộ còn là cội nguồn
văn hóa của các vùng Trung Bộ, Nam Bộ và từ vùng đất cội nguồn này, văn
hóa Việt phát triển ở mọi vùng khác [142, tr.200-201].
1.3.2.3. Những biến đổi liên quan đến nhu cầu chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp
của người phụ nữ ở tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ
Biến đổi do đô thị hóa, công nghiệp hóa
Tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ là nơi tập trung công nghiệp lớn thứ hai ở
nước ta. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp trong vùng hiện nay khá cao, nhất là
ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã làm cho không gian công nghiệp, giao
thông và đô thị vùng có sự thay đổi rất lớn so với trước. Châu thổ Bắc Bộ có
mật độ đô thị dày đặc nhất cả nước. Tính trung bình cứ 12km lại gặp một đô
thị. Đây cũng là một trong những vùng có nhiều khu công nghiệp nhất cả
43
nước (chiếm khoảng 25% cả nước). Các khu công nghiệp này đều được xây
dựng trên đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác lúa nước khiến cho quỹ đất
nông nghiệp của vùng bị thu hẹp rất nhanh chóng. Vì vậy, tiểu vùng châu thổ
Bắc Bộ có có tỷ lệ đất chuyên dùng và đất thổ cư cao nhất trong cơ cấu sử
dụng đất, trong khi đó bình quân đất nông nghiệp trên đầu người lại thấp nhất
cả nước. Các điểm dân cư đô thị, các trung tâm công nghiệp còn là nguồn chủ
yếu tạo ra các chất gây ô nhiễm. Không chỉ có môi trường cảnh quan bị biến
đổi sâu sắc mà ngay cả chất lượng môi trường sống của người dân ở đây cũng
bị ảnh hưởng, nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng. Môi trường đất bị ô nhiễm
kim loại nặng. Các sông hồ nội thị vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ đã bị ô
nhiễm ở mức báo động, do là nơi tiếp nhận nước thải chưa được xử lý, với
nồng độ các chất ô nhiễm gấp 5 - 10 lần, thậm chí 20 lần so với tiêu chuẩn
cho phép. Một số khu công nghiệp bị ô nhiễm khí SO2. Các khu Thượng Đình
(Hà Nội), dệt Nam Định có nồng độ SO2 vượt tiêu chuẩn cho phép 3 - 4 lần.
Một số khu công nghiệp thải nhiều khí SO2 đã gây ra hiện tượng lắng đọng a
xít cục bộ, làm môi trường đất chung quanh bị a xít hóa. Chất thải a xít và khí
SO2 của nhà máy supe phốt phát Lâm Thao (Phú Thọ) đã làm cho đất ở xung
quanh bị axit hóa (ptt = 1,9-3,5).
Trong những năm qua, các khu công nghiệp tập trung trong vùng là
nhân tố động lực đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của vùng, biến vùng thuần nông thành vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, phổ biến trên 10%/năm… Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đó, các khu công nghiệp tập trung của vùng đã làm cho môi trường
sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Là vùng đất chật, người đông nên các
khu công nghiệp phát triển làm cho đất nông nghiệp bị giảm dần, mật độ dân
số ngày càng cao; trong khi đó các yếu tố có lợi cho môi trường sinh thái như
nguồn nước sạch, thảm thực vật, cây xanh giảm dần. Các yếu tố gây ô nhiễm
44
môi trường như bụi, nước thải công nghiệp, rác công nghiệp, từ các khu công
nghiệp, từ các bệnh viện, trường học đều tăng. Sự gia tăng ô nhiễm này diễn
ra hết sức phổ biến tại các thành phố lớn, điển hình phải kể đến Hà Nội và
một số khu đô thị lớn khác.
Cùng với việc thành lập và phát triển các khu công nghiệp mới, các
làng nghề ở khu vực này vẫn được coi trọng duy trì và phát triển. Bên cạnh
mặt tích cực là giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, hoạt
động sản xuất tại các làng nghề đã tác động xấu tới môi trường sống, cảnh
quan nông thôn, và tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề ngày càng trầm
trọng. Giống như sự đa dạng của các loại nguyên liệu sản xuất, các chất thải
từ hoạt động của các làng nghề cũng hết sức phong phú như bụi, khí độc, cặn
bã, nước thải... Hầu hết các chất thải của các làng nghề không qua xử lý mà
thải trực tiếp ra các mương, rãnh, ao, hồ xung quanh, mùi hôi thối nồng nặc;
không khí của các lò đốt bằng than từ các làng nghề với các khí thải độc, chất
thải rắn, rác thải sinh hoạt đổ bừa bãi ra các ao hồ, mương rãnh gần khu sản
xuất đã làm cho môi trường khu vực ô nhiễm trầm trọng.
Một trong những nguồn gây ô nhiễm chính cho châu thổ Bắc Bộ không
thể không nhắc đến các phương tiện giao thông vận tải, đặc biệt là ở các đô
thị. Hiện nay, phương tiện công cộng chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của
nhân dân. Vì vậy, người dân sử dụng các phương tiện cá nhân nhiều như xe
máy, trong đó có nhiều phương tiện giá rẻ, nhập từ các nơi có chất lượng
thấp, chưa đạt tiêu chuẩn về lượng khí thải ra môi trường. Nhiều nơi ùn tắc
giao thông, khói bụi kéo dài càng làm gia tăng ô nhiễm do giao thông đem lại.
Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đã rút ngắn khoảng cách địa lý
giữa nông thôn và đô thị, thậm chí ngay ở vùng nông thôn cũng có khu công
nghiệp, có nhà máy. Tác động tích cực của quá trình này là làm tăng trưởng
kinh tế của tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ, tạo công ăn việc làm mới cho người
45
nông dân. Hiện nay, ở nông thôn châu thổ khá hiếm thanh niên nam và những
người đàn ông khoảng 45 tuổi trở xuống. Số người này theo học đại học hoặc
các trường đào tạo nghề, đi làm nghề tự do ở Hà Nội và nhiều khu đô thị
khác. Hiện tượng hiếm nam giới ở nông thôn đến mức trong những ngày hội
làng truyền thống, ở tỉnh Hà Nam, có nơi những người phụ nữ đã phải đảm
nhiệm những việc mà trước đây chỉ có nam giới thực hiện (múa rồng); đến
mức phường rối nước làng Đông Các (Thái Bình) muốn tổ chức biểu diễn
phải gọi trai làng đang làm nghề tự do ở Hà Nội về. Công cuộc công nghiệp
hóa cũng tạo cho một bộ phận nữ giới ở nông thôn trở thành công nhân.
Ngoài ra, không ít chị em lên thành phố làm nghề giúp việc trong các gia
đình, làm nghề chăm sóc bệnh nhân ở các bệnh viện,… Những điều vừa nêu
làm cho người phụ nữ tự tin hơn, tháo vát hơn, chú ý hơn đến việc làm đẹp và
chăm sóc sức khỏe. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa được tiến hành quá
nóng, thiếu kiểm soát làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng không tốt đến sức
khỏe của dân cư, trong đó có phụ nữ. Mặt trái của cuộc sống đô thị và kinh tế
thị trường đã làm phai mờ lối sống tình nghĩa của một bộ phận dân cư, trong
đó có phụ nữ, thậm chí nhiều lúc, nhiều nơi, mặt trái này còn là nguyên nhân
của những hành vi phi nhân tính như sản xuất, chế biến, bán thuốc giả, rượu
giả, lương thực, rau quả, đồ ăn độc hại cho đồng bào, cho chính cộng đồng
người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng và lâu dài
đến sức khỏe của phụ nữ nói riêng, của cư dân Việt nói chung. Kinh tế phát
triển làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, trong đó những người nông dân
thu nhập chủ yếu bằng nghề trồng lúa có mức sống thấp nhất, nghĩa là những
người phụ nữ thuộc bộ phận này không có điều kiện về tài chính và có rất ít
thời gian để chăm sóc sức khỏe và làm đẹp.
46
Biến đổi do sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông và giao lưu
hội nhập quốc tế
Trong khoảng chục năm trở lại đây, công tác truyền thông và số người
sử dụng internet ở Việt Nam phát triển rất mạnh. Theo báo cáo trả lời chất
vấn của Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông tại kỳ họp thứ sáu của Quốc
hội khóa XII, cả nước có 709 cơ quan báo chí. Theo báo cáo Tình hình phát
triển lĩnh vực báo chí năm 2014 của Bộ Thông tin và truyền thông, cả nước
có 838 cơ quan báo chí in với 1111 ấn phẩm báo chí. Cũng theo Bộ vừa nêu,
năm 2015, cả nước có 857 cơ quan báo chí in (theo infonet.vn). Theo Trung
tâm Internet Việt Nam (VNNIC), năm 2005 có 7,74% dân số sử dụng
internet, năm 2006: 17,67%, năm 2007: 21,05%, năm 2008: 24,40%, năm
2009: 26,55%, năm 2010: 31,11%, năm 2011: 35,07%, năm 2012: 35,58%;
đến hết năm 2015 là 52% dân số. So với nhiều nơi khác trong cả nước, cư dân
châu thổ Bắc Bộ là những người đọc báo và sử dụng internet nhiều hơn cả.
Giao lưu, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Cách đây hai chục năm,
những người nông dân ở châu thổ Bắc Bộ đã cưỡi máy bay sang châu Âu biểu
diễn múa rối nước. Càng ngày càng phát triển số lượng người dân (trong đó có
phụ nữ) tham gia các tua du lịch quốc tế. Nhiều phụ nữ Việt Nam đi lao động ở
nước ngoài. Khách du lịch nước ngoài đến nước ta, phim ảnh nước ngoài đã
quảng bá lối sống, thời trang quốc tế, tôn vinh các ca sĩ tài năng, sắc đẹp của
các hoa hậu. Trong ngày hội làng truyền thống, những người phụ nữ xã Ninh
Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội đã tổ chức khiêu vũ; thời gian đầu, những vai
nam khiêu vũ do phụ nữ hóa trang đóng thế. Điều này cho thấy có khi người
phụ nữ châu thổ Bắc Bộ đã mạnh dạn tiếp thu văn minh nước ngoài hơn cả
nam giới. Chính việc giao lưu, hội nhập quốc tế đã làm cho phụ nữ nước ta,
trong đó có phụ nữ châu thổ Bắc Bộ ngày càng quan tâm đến việc làm đẹp và
chăm sóc sức khỏe; và trong bộ phận này, đối với việc này, những người phụ
nữ ở đô thị vẫn có điều kiện hơn.
47
Tiểu kết chương 1
Chăm sóc sức khỏe và làm đẹp là những việc không xa lạ với phụ nữ
nước ta nói chung, phụ nữ châu thổ Bắc Bộ nói riêng. Tuy nhiên, cho đến
nay, các công trình viết về quan niệm dân gian về sắc đẹp không nhiều, chỉ
tập trung ở hai bản luận văn cao học của Lê Thị Nguyệt và Nguyễn Thị Thúy
Loan. Không hiếm những cuốn sách viết về việc làm đẹp da, giữ dáng, giữ
gìn sức khỏe, nhưng ở đây các tác giả ít khai thác kinh nghiệm dân gian.
Trong quá trình thực hiện đề tài luận án, chúng tôi vận dụng lý luận về tri
thức dân gian, về cái đẹp, về vùng văn hóa, về sinh thái học văn hóa. Trong
nhiều cách phân chia các vùng văn hóa Việt Nam, có cách phân thành ba
vùng: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Trong luận án, NCS theo cách phân vùng
này. Chúng tôi chọn cách hiểu Bắc Bộ là vùng bao gồm từ các tỉnh biên giới
phía Bắc đến hết tỉnh Ninh Bình. Phần lãnh thổ này nằm trọn trong không
gian văn hóa Đông Sơn; trong khi đó chỉ có một phần lãnh thổ của vùng
Trung Bộ hiện nay là các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình
nằm trong lãnh thổ của cư dân Đông Sơn. Điều đó có nghĩa là so với Trung
Bộ và Nam Bộ, Bắc Bộ là nơi tụ cư sớm nhất của người Việt cổ, cũng là nơi
có lịch sử lâu dài hơn cả. Dân tộc chủ thể chiếm đa số ở Bắc Bộ là người Việt.
Bên cạnh đó, còn có nhiều tộc người thiểu số như Tày, Nùng, Thái, Mường,
Dao, H’mông, Cống, Sán Chay,… Trong Bắc Bộ, lại chia thành ba tiểu vùng:
Tây Bắc, Việt Bắc và châu thổ Bắc Bộ. Tiểu vùng châu thổ Bắc Bộ có khí hậu
nắng lắm mưa nhiều, đất đai phì nhiêu, thuận tiện cho việc trồng lúa nước.
Người Việt đã sớm định cư ở đây và họ không chỉ giỏi nghề trồng lúa mà còn
tài khéo tay trong nhiều nghề thủ công. Nơi đây sớm tiếp thu các luồng văn
hóa bên ngoài, sau đó lan tỏa đến các nơi khác. Người phụ nữ châu thổ Bắc
Bộ đảm đang, chiều chồng, thương con. Trong mấy chục năm gần đây, do tác
48
động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, cảnh quan truyền thống của
châu thổ Bắc Bộ thay đổi nhiều, ruộng đất canh tác bị thu hẹp, thu nhập chỉ
bằng nghề trồng lúa không đem lại cho người nông dân mức sống tốt; nhiều
hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện: mua đông có những đợt lạnh khủng
khiếp, mùa hè có nhiều đợt nắng nóng trên 400C kéo dài. Mức sống thấp, môi
trường bị ô nhiễm, thời tiết cực đoan đã làm cho không ít phụ nữ ở nông thôn
bị ảnh hưởng sức khỏe và ít có điều kiện làm đẹp; trong khi đó phụ nữ ở đô
thị có thu nhập cao ngày càng chú ý giữ gìn, rèn luyện sức khỏe và ngày càng
chú ý đến việc làm đẹp nhiều hơn. Tác động của thông tin, truyền thông, phim
ảnh và sự giao lưu, hội nhập quốc tế mạnh mẽ cũng là nhân tố thúc đẩy việc
chăm sóc sức khỏe và làm đẹp ở bộ phận phụ nữ có thu nhập cao.
49
CHƯƠNG 2
TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SẮC ĐẸP CỦA
NGƯỜI PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY
2.1. Những quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ
2.1.1. Quan niệm dân gian về vẻ đẹp của người phụ nữ
2.1.1.1. Quan niệm dân gian Việt về vẻ đẹp của người phụ nữ
Các tác giả dân gian quan niệm vẻ đẹp của người phụ nữ là vẻ đẹp tổng
thể, đó là những người xinh, những người thắt đáy lưng ong, có dáng hình cân
đối không cao, không béo, không gầy. Trong vẻ đẹp tổng thể, một số bộ phận
được tác giả ca dao khắc họa nhiều lần. Về tóc, có nhiều bài ca dao diễn tả
mái tóc đẹp:
+ Ba cô anh lạ cả ba
Bốn cô anh lạ cả bốn biết là quen ai?
Anh chỉ quen một cô da trắng tóc dài
Miệng cười như cánh hoa nhài nở nang.[59, tr.210]
+ Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây dợn sóng đẹp duyên tơ hồng.[59, tr.477]
+ Chị kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi giật lại hỏi nhà chị đâu
- Nhà tôi ở trước đám dâu
Ở sau đám bắp, đầu cầu ngó qua.[59, tr.497]
Tóc dài, tóc xanh, tóc mây gợn sóng là mái tóc đẹp. Mái tóc ấy còn
50
được tô điểm thêm khi người phụ nữ cài bông hoa lý. Nói chung, tóc của phụ
nữ thường dài hơn tóc nam giới (Chúng ta biết rằng cho đến những năm đầu
thế kỉ XX, người đàn ông Việt vẫn để tóc dài: “Búi tóc củ hành, đàn anh thiên
hạ”). Mái tóc của cô thanh nữ đã làm biết bao chàng trai ngơ ngẩn:
Tóc đến lưng vừa chừng em bối (búi)
Để chi dài bối rối dạ anh [60, tr.2289].
Mái tóc không chỉ thể hiện vẻ đẹp mà còn thể hiện sức sống, thể hiện
niềm vui trần thế của những người phụ nữ trẻ. Vì chán đời, vì tình thế ép buộc
khi vào nương náu cửa thiền, họ đã cắt tóc. Tóm lại, mái tóc đẹp là một bộ
phận trong vẻ đẹp chung của con người.
Đôi mắt cũng được nhắc nhiều. Với người phụ nữ Việt, mắt đẹp là mắt
đen lay láy, mắt lóng lánh, mắt phượng, mắt xanh, mắt bồ câu, mắt lúng liếng,
mắt trong,… Thí dụ:
+ Gái thời da đỏ hồng hào
Mắt đen lay láy người nào chẳng yêu [59, tr.58].
+ Hoa thơm hoa ở trên cây
Đôi con mắt em lúng liếng dạ anh say lừ đừ [59, tr.1202].
Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt còn được thể hiện ở đôi má: má đào, má
đỏ, má hồng.
Hàm răng cũng được xem là một trong những biểu tượng của cái đẹp.
Tục nhuộm răng đen là một phong tục đặc thù xưa kia của người Việt đối với
cả đàn ông và đàn bà, cả quan lại và dân thường. Đối với giới nữ, người nào
sở hữu hàm răng đen nhánh thì người ấy được xem là cô gái đẹp, thậm chí đó
là một trong những tiêu chuẩn để lập gia đình:
51
Lấy chồng cho xứng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen[59, tr.1382].
Những bộ phận khác như miệng, mũi, môi, tai, cổ, vai, cổ tay, chân tay,
mông cũng đều được ca dao, tục ngữ ghi nhận.
Người phụ nữ đẹp cũng là người phụ nữ biết cách ăn mặc phù hợp.
Chiếc yếm, chiếc váy, áo tứ thân, thắt lưng, nón, nhẫn vàng xuất hiện nhiều
lần trong ca dao.
Các bộ phận thường được miêu tả trong một tổng thể về người phụ nữ:
+ Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt có tình với ai [59, tr.1544-1545].
+ Em đi khắp bốn phương trời
Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây
Gặp người má đỏ hây hây
Răng đen rưng rức, tóc mây rườm rà…[59, tr.1028].
Trong hai bài ca vừa dẫn, bài dưới là bài dân ca quan họ Bắc Ninh. Các
52
nghệ nhân xưa bao giờ cũng lịch sự nhún nhường bên nam xưng là em và gọi
những người bên nữ là “liền chị”, còn bên nữ thì cũng xưng là em và gọi bên
nam là “liền anh”. Người dân xưa quan niệm rằng, cái đẹp không tách rời giá
trị đạo đức, người phụ nữ đẹp phải là người phụ nữ biết nữ công gia chánh,
chuyên cần lao động, sống có đạo đức:
+ Tóc dài những búi mà trưa
Ham chi người đẹp mà thưa việc làm [60, tr.2288].
+ Tóc dài thì tóc rụng đi
Tham người có nghĩa tham chi tóc dài [60, tr.2288].
+ Tóc dài thì tốn tiền chanh
Nào ai bán tóc nuôi anh bao giờ [60, tr.2289].
Khi cần thiết, người phụ nữ đã hy sinh cả cái đẹp vì tình yêu và bổn
phận đối với chồng. Mái tóc của họ quý giá như vậy, nhưng dân ta đã kể rằng,
ở một nhà kia, khi bạn của chồng đến nhà, không có tiền đãi khách, người vợ
đã bán mái tóc của mình để cho chồng có thể thù tiếp bạn tri âm.
Không chỉ có người Việt, các dân tộc thiểu số trên đất nước ta cũng có
quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ. Người Dáy khen người phụ nữ đẹp
như trăng mười rằm. Còn người Cao Lan thì ví cô thanh nữ là bông hoa đẹp.
Người Mường cũng ví người thiếu nữ như bông hoa: “Trăm hoa không bằng
hoa con gái, trăm thứ trái chẳng bằng trái bông cơm” [35, tr.213]. Người
H’mông cũng ví người con gái đẹp với bông hoa, cũng ghi nhận vẻ đẹp của
đôi mắt, đôi má, ngón tay, chiếc váy dệt bằng sợi lanh. Người Dáy khắc họa
dáng người, vẻ mặt, nước da trắng, mái tóc mượt xanh của người phụ nữ.
Người Tày vùng Ba Bể quan niệm: “Ngựa đẹp không cần hồng mao, gái đẹp
không cần khoe vẫn đẹp” [144, tr.220]. Đối với người Thái, người phụ nữ đẹp
và có hậu là người cổ tròn có ngấn, bàn chân khum khum mai rùa; người nào
53
bước chân đi quá dài, trán hói, sống mũi khum khum, xương bả vai mỏng hay
hơi rụt là những người vất vả trong cuộc sống, trong đường chồng con. Họ
cho rằng, người con gái có thì, khi dựng vợ gả chồng phải đúng độ tuổi. [26].
Người Mường cũng có nhiều câu tục ngữ khẳng định tầm quan trọng cái thì
của người con gái [35, tr.187]. Hai tộc người Tày Nùng có câu: “Người xấu
mặc áo đẹp cũng ố, người đẹp mắc áo rách cũng xinh” [1, tr.937]. Cái nhìn
của người Tày Nùng thật là hóm hỉnh: “Gạo ban đêm thấy trắng, gái ban đêm
thấy đẹp” [1, tr.940]. Người Chăm có nhiều câu nói về người đẹp: “Thùy mị
như công chúa đẹp gái” [1, tr.942], nói về dáng người đẹp, nói về sự cần thiết
của phụ nữ đối với đàn ông: “Bữa ăn không có rau, như ngủ đêm không có
đàn bà” [80, tr.179]. So với nhiều dân tộc khác, người Chăm “không ít lần
thành kiến với phụ nữ đẹp:
+ Quá yêu thì trượt chân (sai)
Đàn bà đẹp thì lắm chồng.
+ Chó ham ăn thì cho cơm
Chọn gái đừng ham sắc đẹp.
+ Rào bội bạc dây
Đàn bà đẹp hay bội bạc chồng [80, tr.20, 38, 180]1.
Nhìn chung quan niệm của người Việt và các dân tộc thiểu số về người
phụ nữ đẹp giống nhau về cơ bản. Điểm khác nhau là ở người Việt thì quan
niệm ấy phong phú hơn, đề cập đến nhiều khía cạnh, sắc thái hơn; và có chịu
1 Người Chăm không cư trú ở Bắc Bộ, song chúng tôi cũng phân tích hiện tượng trên để thấy rõ nét riêng của
các dân tộc trong quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ.
ảnh hưởng Nho giáo (điều này chúng tôi sẽ xin phân tích kĩ ở chương 4).
54
2.1.2. Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ từ góc độ y học/sinh học
Theo một nghiên cứu về di truyền học của tác giả Nguyễn Văn
Tuấn[129], ngoài vẻ đẹp của khuôn mặt ra, đường nét cấu trúc của cơ thể
cũng là một thông số quan trọng để thẩm định sắc đẹp của người phụ nữ. Tác
giả chỉ dẫn ở phương Tây ngày xưa, người ta thường hay dùng tỉ số eo/mông
(waist-to-hip ratio) để đánh giá tính hấp dẫn của một phụ nữ. Theo các nhà
tâm lí học cổ điển, người phụ nữ nào có cái tỉ số eo/mông vào khoảng 0,7 là
một người đẹp lí tưởng. Các nghiên cứu trong vòng ba thập niên gần đây cho
thấy tỉ số eo/mông này có liên quan tới hai hormone nam tính là testosterone
và hormone nữ tính là estrogen. Phụ nữ có tỉ số eo/mông cao thường là những
người có độ testosterone cao hơn và độ oestrogen thấp hơn. Phụ nữ có tỉ số
eo/mông thấp thường là những người có sức khỏe tốt hơn và sinh sản dễ dàng
hơn các phụ nữ có tỉ số cao, tức là độ nữ tính cao hơn.
Tác giả Nguyễn Văn Tuấn dẫn kết quả nghiên cứu của một nhóm tác
giả ở Anh và nhận xét rằng vòng eo/mông không phải là một tỉ số chính xác
về sắc đẹp và kết luận rằng tỉ số chính xác hơn là mật độ trọng lượng trên một
mét vuông của cơ thể (còn gọi là body mass index hay BMI). BMI được ước
tính bằng cách lấy trọng lượng (kg) chia cho chiều cao bình phương (m2).
Nhóm nghiên cứu này đã phân tích mối tương quan giữa tính hấp dẫn (gọi là
sexual attractiveness hay SA) và BMI của 44 phụ nữ. Dựa vào dữ kiện của
họ, các tác giả đã tìm ra một phương trình liên quan giữa sắc đẹp (SA) và
BMI như sau:
SA = 4,022 x BMI – 0,162 x BMI2 + 0,002 x BMI3 – 26,6
(Chú ý phương trình này chỉ thích hợp cho BMI khoảng 15 tới
35kg/m2.) Nếu lấy đạo hàm phương trình này để tìm ra điểm đẹp tối đa, thì
BMI vào khoảng 19 tới 20kg/cm2. Con số này đúng ngay vào con số trung
bình! (Thực ra, về mặt sức khỏe, đây cũng là độ BMI lí tưởng, vì theo định
55
nghĩa y khoa hiện nay, người có BMI hơn 25kg/cm2 được xem là “phì” -
over-weight, và hơn 30kg/cm2 được xem là “béo” - obese).
Ở góc độ di truyền học, các tác giả phương Tây đưa ra công thức và
những tiêu chuẩn nói trên về vẻ đẹp của người phụ nữ châu Âu. So với phụ
nữ Việt Nam, vẻ đẹp “phụ nữ thắt đáy lưng ong” có sự tương đồng. Tác giả
Nguyễn Văn Tuấn đã dẫn các chỉ số cơ thể trong cuộc thi sắc đẹp ở Việt
Nam có tên “Người mẫu thời trang Hà Nội mở rộng 99”, có 22 thí sinh tuổi từ
17 tới 22. Ban tổ chức công bố các thông số quan trọng như chiều cao, trọng
lượng, vòng eo, ngực và mông của các thí sinh. Qua các thông số này, tác giả
đã làm một phân tích và nhận thấy chỉ số trung bình BMI của các thí sinh này
là 17,6kg/m2, vòng ngực 83,1mm, vòng eo 60,5mm, mông 90,2mm, tỉ số
eo/ngực 0,72 và tỉ số eo/mông 0,67.
Người đoạt giải nhất trong cuộc thi này là một thí sinh có tỷ số BMI
17,6 kg/m2, eo/mông 0,66 và eo/ngực 0,72. Người chiếm giải nhì là một thí
sinh với BMI 17,9 kg/m2, eo/mông 0,67 và eo/ngực 0,72. Các quan sát ở cả
tiêu chuẩn người đẹp ở phương Tây và ở Việt Nam cho thấy dù có sự khác
nhau về tiêu chuẩn BMI nhưng đặc tính “trung bình” vẫn là công thức chung
để tìm kiếm những người phụ nữ đẹp trong các cuộc thi.
Cũng cần nói thêm ở đây rằng có nhiều (chứ không phải chỉ một) đặc
tính trung bình làm nên cái đẹp. Do đó, có người đẹp đáp ứng được tiêu chuẩn
trung bình về BMI, nhưng lại không có chỉ số eo/mông trung bình, hay ngược
lại, ít có cơ hội được bầu làm hoa hậu hơn những người có nhiều chỉ số trung
bình. Nhưng tìm được người đẹp trung bình không phải là chuyện dễ. Giả dụ
như trong toàn bộ dân số, xác suất mà một người đẹp có chỉ số trung bình cho
một đặc tính nào đó (như BMI chẳng hạn) là 0,15 (hay 15%); nếu ta dùng 10
đặc tính để thẩm định sắc đẹp, thì xác suất mà tìm được một người đẹp (có 10
chỉ số trung bình) là 0,00000000577, tức là trong một tỉ người, chỉ tìm được
56
khoảng 6 người đẹp toàn diện.
Trong bài viết Định giá cái đẹp: không dễ, tác giả Mai Văn Hưng qua
tiếp cận nhân trắc học (đo các khu vực trên cơ thể con người như vòng eo,
mông, ngực, bụng....) để khẳng định một phụ nữ đẹp. Từ việc sử dụng các
phép đo nhân trắc học của người Ai Cập, tác giả cho rằng “phụ nữ được coi là
đẹp và quyến rũ là người có các chỉ số đo và tỷ lệ giữa các chỉ số đo này ở
mức lý tưởng nhất, gọi là “chỉ số vàng”. Tuy nhiên, “chỉ số vàng” không phụ
thuộc vào một kích thước nào cả mà lệ thuộc nhiều vào tỷ lệ giữa các số đo
[49, tr.65]. Ngoài các chỉ số về hình thể tổng quát, để xác định một phụ nữ
đẹp còn căn cứ vào một số chỉ số nhân trắc học khác như hình thái răng, vòng
cung răng, độ dài và hình thái ngón tay, màu sắc của mắt, vị trí, kích thước
của hai ngực, kích thước của rốn, tỷ lệ giữa độ dài đầu so với chiều dài toàn
thân. Theo Mai Văn Hưng, màu mắt của phụ nữ Việt Nam thường chỉ có đen
và nâu, màu đen được xem là đẹp hơn. Về cơ bản, người phụ nữ Việt Nam
đều đạt các tiêu chuẩn so với khu vực Đông Á, tuy nhiên, chiều cao còn thấp
so với phụ nữ khu vực này [49].
Ở một góc độ nghiên cứu tổng hợp, tác giả Sujatha Sebastian (2002)
đưa ra nhận định từ các quan niệm trong dân gian (xã hội) và góc độ sinh học
về vẻ đẹp con người nói chung và phụ nữ nói riêng có thể thấy rằng, vẻ đẹp
có thể được xác định bởi cả hai góc độ sinh học và xã hội. Các tiêu chuẩn cho
vẻ đẹp phát triển và biến đổi theo thời gian. Trong khi định nghĩa về cái đẹp
của xã hội có thể thay đổi nhưng luôn có một cơ sở sinh học đằng sau quyết
định sức hấp dẫn (các chỉ số trên cơ thể). Ví dụ da trắng có nghĩa là nhìn vào
mối quan hệ giữa sinh học và xã hội, đặc biệt ở các quốc gia Đông Nam Á, ở
các quốc gia này xem da trắng như một tiêu chuẩn quan trọng. Làm thế nào
chúng ta có thể phân biệt giữa ảnh hưởng của xã hội là gì và ảnh hưởng của
sinh học liên quan đến định nghĩa về cái đẹp là những gì thì không có một câu
57
trả lời rõ ràng [147].
2.1.3. Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ hiện nay
Ở phần trên chúng tôi đã đề cập về quan niệm về vẻ đẹp và cách thức
làm đẹp của phụ nữ Việt truyền thống qua các nguồn tư liệu nghiên cứu văn
học, nghệ thuật và y học đều cho thấy tầm quan trọng cũng như giá trị của vẻ
đẹp đối với người phụ nữ trong xã hội. Điều này được thể hiện khá rõ ở các
tiêu chuẩn thế nào là đẹp đối với người phụ nữ ở nhiều phương diện khác
nhau, đôi khi được phát biểu một cách rõ ràng như mái tóc, hàm răng, mắt,
da, vóc dáng, các bộ phận trên cơ thể hay kín đáo hơn qua nét duyên, phong
thái, qua ứng xử, cách cười nói.
Dù ở giai đoạn lịch sử nào thì những quan niệm về vẻ đẹp của người
phụ nữ vẫn tồn tại khá bền vững, thể hiện đặc trưng văn hóa dân tộc Việt, có
sự khác biệt so với các quốc gia khác, cho dù có những thay đổi nhất định,
chẳng hạn như tục để răng đen cho đến nay hầu như không còn. Nếu như
trong xã hội truyền thống, người phụ nữ làm đẹp là hướng nhiều hơn vào sự
khẳng định sức hấp dẫn của người phụ nữ trước người chồng, thì trong xã hội
hiện nay, việc làm đẹp của phụ nữ đã có những thay đổi theo hướng rộng hơn
do những đòi hỏi của xã hội hiện đại. Trong xã hội hiện đại, tốc độ vận động
của cuộc sống ngày càng được đẩy nhanh, đòi hỏi con người phải tích lũy
được nhiều kỹ năng ứng xử, nhất là kỹ năng sống với các phương diện cụ thể:
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng học tập, kỹ năng làm việc, kỹ năng chăm sóc nuôi
dạy con cái, kỹ năng nội trợ, kỹ năng làm đẹp, kỹ năng quản lý và đồng thời
cũng rất cần quan tâm đến kỹ năng làm mẹ, làm vợ, vì đây chính là bí quyết
để làm nên hạnh phúc gia đình. Có được các kỹ năng sống, người phụ nữ mới
không cảm thấy lúng túng khi đóng vai trò kép: vừa giỏi việc nước vừa đảm
việc nhà, làm tốt chức năng nội tướng và nuôi dạy con cái thành đạt. Bên
cạnh đó, trong mọi thời đại, sức khỏe và vẻ đẹp luôn là những thành tố quan
58
trọng làm nên giá trị của mỗi con người. Do đó, trong thời đại ngày nay, để
làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ trong gia đình, người lao động,
làm việc ngoài xã hội, người phụ nữ cần phải có sức khỏe tốt. Trước hết là
cần một thể lực tốt để đảm nhiệm công việc, cần một tinh thần luôn sảng
khoái để giữ được bầu không khí đầm ấm, tươi vui, thân thiện trong gia đình,
nơi làm việc. Sức khỏe tốt còn giúp cho người phụ nữ luôn tự tin, trẻ trung,
xinh đẹp, góp phần giữ gìn hạnh phúc của cá nhân, gia đình và xã hội. Không
chỉ vậy, người phụ nữ ngày càng quan tâm hơn đến giá trị của bản thân, điều
này tốt cho gia đình và cho xã hội, đặc biệt là trong công việc, ngoại giao.
Những phẩm chất toàn diện đặt ra đối với người phụ nữ Việt hiện đại
cho thấy quan niệm xưa thể hiện trong các câu tục ngữ như “cái nết đánh chết
cái đẹp” [61, tr.360] hoặc “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” [62, tr.2664] trong giai
đoạn hiện nay cần được bàn thêm. Rõ ràng, theo quan niệm ngày xưa, hai câu
nói trên đặt sắc đẹp bên ngoài của phụ nữ thấp hơn so với tiêu chuẩn về cái
đẹp tâm hồn, đạo đức. Tuy nhiên, đấy là trong bối cảnh phải so sánh và lựa
chọn khi không có sự toàn diện đẹp người, đẹp nết. Ngày nay, các quan niệm
trên vẫn đúng và mang tính giáo dục cho thế hệ trẻ với ý nghĩa coi trọng
phẩm giá con người hơn hình thức bề ngoài. Hơn nữa, với những quan niệm
như vậy giúp cho những người phụ nữ trẻ trau dồi, chăm sóc vẻ đẹp tâm hồn,
qua đó tôn thêm vẻ đẹp hình thức lên nhiều lần. Một người phụ nữ có vẻ đẹp
tâm hồn rất dễ dàng cảm nhận bởi những người xung quanh thông qua giao
tiếp, cử chỉ, ứng xử và các hành động trong cuộc sống. Chính vì lẽ đó, phải
chăng sau các cuộc thi người đẹp hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới, các
hoạt động làm từ thiện, bảo vệ môi trường, chăm sóc, giúp đỡ những người
gặp hoàn cảnh khó khăn của các người đẹp như là một cách thức để tôn thêm
vẻ đẹp hình thể.
Một số tiêu chuẩn đối với những thí sinh trong các cuộc thi sắc đẹp
59
hiện nay tập trung ở hai điểm: vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tinh thần [5].
- Về vẻ đẹp hình thể, các tiêu chuẩn bao gồm: chiều cao, số đo các
vòng, cặp đùi, số đo vòng cổ tay, chân, và một số tiêu chuẩn khác khó “lượng
hóa” nhưng vẫn ảnh hưởng lớn như khuôn mặt, làn da, dáng chân...
+ Chiều cao: là một tiêu chuẩn nhưng không nhất thiết người phụ nữ
càng cao càng đẹp. Chiều cao hoa hậu của một dân tộc thường tương ứng với
chiều cao trung bình trở lên của dân tộc đó. Thí dụ, chiều cao trung bình của
người Việt Nam khoảng 1m58 - 1m60 thì các cô gái từ 1m60 trở lên đều có
thể đạt danh hiệu hoa hậu Việt Nam. Những thí sinh cao đến 1m80 vẫn có thể
đạt hoa hậu nếu được nhiều điểm ở các tiêu chí khác.
+ Số đo các vòng: vòng số 1 trung bình phải bằng 1/2 chiều cao. Các
thí sinh có vòng số 1 bằng 1/2 chiều cao cộng 2 thường được tối đa là 10/10
điểm (nếu không sửa hoặc chảy xệ). Dưới hoặc trên tiêu chuẩn này 2cm trở đi
đều bị trừ một số điểm nhất định. Vòng eo (vòng số 2) được đo ở chỗ nhỏ
nhất của bụng trên xương chậu. Vòng eo được coi là đẹp khi nhỏ hơn vòng
ngực khoảng 20cm và nhỏ hơn vòng mông khoảng 24cm. Khi tỉ lệ vòng eo/
vòng mông tương đương 0,618 được coi lý tưởng – tỷ lệ vàng. Đây là tỷ lệ
thân hình của người đẹp nổi tiếng mọi thời đại như Marilyn Monroe và thần
Vệ Nữ. Vòng eo của thí sinh nào gần với tiêu chuẩn này và gần với “con số
vàng” nhất thì được điểm tối đa. Vòng cổ không dùng để tính điểm nhưng
dùng để kiểm tra vòng eo. Vòng eo thường bằng 2 lần vòng cổ (đo ở giữa cổ
thường sai lệch không quá 1cm). Vòng mông (vòng số 3) được đo ở nơi lớn
nhất của mông. Vòng mông tiêu chuẩn thường lớn hơn vòng ngực 4cm, nghĩa
là lớn hơn vòng eo khoảng 24cm. Tất nhiên mông được coi là đẹp cần phải có
nhiều yếu tố như phải nở nang, tròn đầy, cân đối, săn chắc nhưng không thô
cứng, mềm mại nhưng không chảy xệ và cần phải cân xứng với toàn bộ cơ
thể. Vòng đùi nên nhỏ hơn 1/3 chiều cao. Ngoài ra, đôi chân càng dài càng
60
đẹp. Tỷ lệ chiều dài chân chia cho chiều dài thân gọi là chỉ số Skelie, càng lớn
càng đẹp. Skelie được tính bằng cách lấy chiều cao đứng trừ đi chiều cao ngồi
rồi chia cho chiều ngồi và nhân 100. Những cô gái có Skelie càng cao thì có
dáng đi càng đẹp khi trình diễn thời trang. Vì vậy khi tuyển chọn người mẫu,
người ta phải chú trọng đến Skelie.
+ Các tiêu chuẩn khác: Khuôn mặt thường lấy mặt trái xoan làm chuẩn
cùng sự cân đối của tai, mắt, mũi, miệng, răng, tóc… Đôi chân phải thẳng,
với dáng đi uyển chuyển nhịp nhàng. Làn da là làn da tươi mịn, không tì vết.
Về nét đẹp tinh thần được đánh giá qua vòng ứng xử, thể hiện qua các
hoạt động xã hội cũng như sự bình chọn, đánh giá của dư luận xã hội về cuộc
sống, quan hệ, ứng xử của các thí sinh.
Cái đẹp nói chung và vẻ đẹp của người phụ nữ nói riêng là đối tượng
của nhiều ngành khoa học như mỹ học, văn hóa học, nghệ thuật học, y học,
nhân học... và được nhắc đến nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật, văn
chương. Từ góc nhìn của nhân học văn hóa, chúng ta nhấn mạnh chức năng,
vai trò của giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ đối với cá nhân và xã hội, trên cơ
sở đó nhìn nhận các hành vi, ứng xử đối với cái đẹp và cách làm đẹp.
Xem xét sự biến đổi về quan niệm đẹp và làm đẹp của phụ nữ Việt từ
truyền thống đến hiện đại, chúng tôi thấy một điểm chung là cái đẹp cơ bản
vẫn tồn tại như một giá trị lâu dài, vĩnh cửu mà người phụ nữ Việt hướng đến.
Quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt truyền thống mang tính chất ước
lệ, thể hiện rất rõ trong các tư liệu dân gian (ca dao, tục ngữ, tác phẩm hội
họa...). So với xã hội Việt truyền thống thì cách nhìn nhận như thế nào là đẹp
và cách thức làm đẹp trong xã hội hiện đại có sự thay đổi nhất định. Xã hội
hiện đại dễ chấp nhận sự khác biệt trong các giá trị, chuẩn mực về vẻ đẹp của
người phụ nữ. Sự biến đổi trong quan niệm về đẹp và làm đẹp chịu ảnh hưởng
của những biến đổi xã hội, khoa học kỹ thuật và sự hội nhập, giao lưu văn
61
hóa. Quan niệm làm đẹp của phụ nữ hiện nay tương đối đa dạng và phức tạp.
Do vậy, cần có những nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực này để xây dựng và
phát huy những giá trị thẩm mỹ tích cực, định hướng đúng cho giới, tránh
những biểu hiện cực đoan, làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc.
2.2. Thực tế làm đẹp của phụ nữ Việt Nam hiện nay
2.2.1. Xu hướng chăm sóc sắc đẹp
Về xu hướng quan tâm đến làm đẹp của phụ nữ, qua khảo sát cho thấy
chiếm tỷ lệ cao nhất (82,5%) quan tâm đến chăm sóc da, tiếp đến là 66,8%
chăm sóc tóc, 57,5% chăm sóc dáng, rồi đến chăm sóc răng miệng (40,7%)…
Bảng 3: Xu hướng quan tâm đến hoạt động chăm sóc sắc đẹp
Loại hình chăm sóc sắc đẹp Tỷ lệ (%)
Chăm sóc da 82,5
Chăm sóc tóc 66,8
Chăm sóc vóc dáng, phẫu thuật 57,5
Vật lý trị liệu, xoa bóp bấm huyệt 26,6
Tắm lá, hoa, trái 43,6
Chăm sóc răng miệng 40,7
Khác 1,4
(Nguồn: Số liệu khảo sát của tác giả, 2013)
Khi xét theo giới tính, có sự khác biệt giữa phụ nữ ở nông thôn với
thành thị. Nếu 75% phụ nữ ở thành thị quan tâm đến dáng thì tỷ lệ này ở nông
thôn là 25%. Cả hai nhóm phụ nữ ở thành thị và nông thôn đều quan tâm đến
chăm sóc tóc và da có tỷ lệ tương đương nhau, sau đó là đến răng/miệng.
Điều này cho thấy quan niệm về “nhất dáng, nhì da” và “cái răng, cái tóc là
góc con người” vẫn còn phù hợp. Đây vừa là quan niệm về vẻ đẹp của người
phụ nữ vừa là lý do để họ có những xu hướng chăm sóc sắc đẹp cho mình.
62
Về làn da, quan niệm làn da trắng là đẹp vẫn là quan niệm phổ biến của
phụ nữ Việt ngày nay. Thậm chí ngày nay, đẳng cấp của một người phụ nữ
hiện đại không chỉ được thể hiện qua những bộ trang phục đắt tiền hay một
vóc dáng cân đối, mà nó còn được thể hiện qua làn da mà họ sở hữu. Thật
vậy, làn da trắng luôn luôn là sức hút không bao giờ lỗi thời đối với phái nữ.
Một làn da trắng đẹp mịn màng tự nhiên làm cho người phụ nữ gây ấn
tượng giữa đám đông. Không chỉ vậy, nó còn góp phần làm nổi bật màu sắc
của bộ trang phục mà người phụ nữ đang mặc. Có một làn da trắng người phụ
nữ sẽ thấy mình tỏa sáng, có sự khác biệt, tự tin hơn về bản thân, thể hiện
trong trắng, thánh thiện, thuần khiết, khiêm nhường và tốt tính.
Kết quả khảo sát cho thấy, có đến 95% phụ nữ được hỏi mong muốn có
làn da “trắng”, chỉ có 3% cho rằng không nhất thiết phải “trắng” nhưng miễn
là khỏe. Nhà xã hội học Shyon Baumann nhận định: “Nghiên cứu đã chứng tỏ
khiếu thẩm mỹ của chúng ta cũng phản ứng cả lựa chọn về mặt đạo đức”.
“Trong các nền văn hóa, chúng ta đặt ra các tiêu chuẩn về ngoại hình và cách
cư xử mà mỗi phụ nữ cần có. Nước da trắng hay đen đều gắn liền với họ, nên
chúng ta cũng thầm coi nó liên quan đến tư cách đạo đức của người phụ nữ”.
Đây chính là kết quả của một khảo nghiệm khi nghiên cứu hơn 2000 bức ảnh
quảng cáo dựa trên các đặc điểm được coi là hấp dẫn với đàn ông. Trong
những bức ảnh, những cô gái có nước da sẫm nhất thì thường ăn mặc hở hang
nhất hoặc hầu như khỏa thân. Còn những người đẹp có nước da trắng thì ăn
mặc kín đáo hơn và được coi là thân thiện, vui vẻ và trung thực. Vì lẽ đó,
người ta nhận xét rằng, nước da trắng hay đen có mối liên quan giữa vẻ đẹp
và phẩm chất đạo đức. Nhìn chung, da trắng ở phái yếu được ưa thích hơn cả,
bởi nó thể hiện sự đoan trang và phẩm hạnh - những đặc điểm cần có của giới
nữ [140].
Qua các thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu với các phụ nữ thì phần lớn
63
những phụ nữ khi được hỏi cho rằng, phụ nữ có làn da trắng hơn thì họ sẽ có
cơ hội tốt hơn trong việc tìm kiếm việc làm và bạn đời.
Thực tế cho thấy truyền thống khu vực Đông Nam Á cũng tăng áp lực
đối với phụ nữ khi lý tưởng hóa hình ảnh của phái đẹp với làn da trắng hơn.
Cũng có quan niệm rằng da trắng chứng tỏ địa vị xã hội cao hơn vì họ trông
sạch sẽ hơn và giàu có hơn so với những người làm việc trên cánh đồng vốn
có làn da vàng của chủng tộc. Sự rám nắng do lao động nông nghiệp làm cho
làn da người phụ nữ đen hơn, nhìn lam lũ vất vả hơn, nghèo khổ hơn. Phần
đông phụ nữ Việt Nam luôn khao khát sở hữu được làn da trắng hồng, khỏe
mạnh. Vì vậy, mỗi sản phẩm làm đẹp trên thị trường hướng đến việc làm cho
làn da trắng hơn đều được phụ nữ để mắt tới. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy
hiện nay trên thị trường có đủ loại quảng cáo các loại kem và công nghệ làm
trắng da cho phụ nữ. Các bà mẹ thường có cái nhìn ưu ái đối với những người
con gái có làn da trắng, đặc biệt cách đánh giá của người mẹ chồng đối với
nàng dâu.
Khi được hỏi về thói quen và mong muốn làm trắng da của phụ nữ,
phái nam đều khẳng định rằng điều này bắt nguồn từ truyền thống và gu thẩm
mỹ từ xưa tới nay, phụ nữ có làn da trắng hơn sẽ hấp dẫn hơn với họ.
Thực vậy, trong xã hội Việt Nam ngày trước, dân gian rất chú ý tới làn
da của người phụ nữ, đặc biệt là làn da trắng như là một chuẩn mực của người
phụ nữ đẹp:
+ Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau [59, tr.700].
+ Nước trong ai chẳng rửa chân
Cái má trắng ngần ai chẳng muốn hôn [60, tr.1833].
Về mái tóc, người xưa quan niệm, người phụ nữ đẹp phải có mái tóc
64
dài, đen, mượt và khỏe.
Mái tóc của người phụ nữ Bắc Bộ thường để dài, rẽ cân đối sang hai
bên với đường ngôi chính giữa, buộc lại sát đầu bên cạnh rồi bọc trong một
cái khăn hẹp mà dài để quấn một vòng quanh đầu. Đuôi tóc được vấn bên
cạnh để thừa ra một túm phía trên gọi là “đuôi gà”.
Tuy các triều đại phong kiến không có quy định cụ thể nhưng tóc của
vợ con quan lại thường kiểu cách hơn tóc của phụ nữ thường dân chân lấm
tay bùn. Với phụ nữ thường dân, kiểu tóc được chia làm hai loại rõ rệt. Các cô
gái trẻ thường vấn “tóc đuôi gà”. Tóc được vấn bằng vải để hở phần đuôi, sau
đó vấn quanh đầu và cài bằng ghim tre (nhà khá giả thì dùng ghim sừng), để
lộ ra cái đuôi tóc, trông nghịch ngợm và khỏe khoắn. Với phụ nữ có gia đình,
họ vấn hết tóc bằng vải, nếu ai tóc thưa thì độn thêm con lươn (nhồi bông hay
vải vụn bên trong), quấn quanh đầu sau đó trùm thêm khăn vuông màu đen và
buộc ra phía sau. Những kiểu tóc như vậy kéo dài từ thế kỷ này qua thế kỷ
khác.
“Bỏ tóc đuôi gà” là cách nói của người xưa trong lối trang điểm bộ tóc
của phụ nữ đã trưởng thành. Muốn “bỏ tóc đuôi gà” thì phải vấn khăn, nghĩa
là bọc mớ tóc của mình trong vải, hoặc sang trọng là nhung the rồi quấn
quanh đầu một cách ngay ngắn. Phần đuôi tóc lộ ra ngoài làm sao khi vấn
khéo léo để nó tạo thành một “cầu vồng” uốn cong lên mà không bị buông
thõng xuống. Như vậy, người phụ nữ đã tạo được hình tượng cái đuôi gà trên
mái tóc của mình làm nên vẻ thanh tao. Tiếng “bỏ” ở đây không hiểu theo
nghĩa là “bỏ đi” mà là “bỏ xuống”, một cách nói nhằm nhấn mạnh đến vẻ tự
nhiên của mái tóc.
Nhưng muốn “bỏ đuôi gà” thì trước hết phải có mái tóc khoẻ, tức là tóc
phải mượt và dài hơn độ cuốn vòng trên đầu. Với những người tóc ngắn và
thưa, các bà, các chị dùng một cái lõi bằng vải nhồi bông dài như một con
65
lươn để độn và nối thêm bằng một lụn tóc giả nhưng phải cuốn thật khéo để
cái “đuôi gà” lộ vẻ như tự nhiên (tóc thật). Đây thực sự là một nghệ thuật.
Khi đi ra ngoài, để giữ cho tóc khỏi sổ người ta thường trùm một cái
khăn vuông, vừa là để che nắng vừa chống rét. Người bình dân thường trùm
khăn đen, phía trước trán gập nhọn giống như mỏ con chim nên được gọi là
“khăn mỏ quạ”.
Có thể nói cách vấn tóc thành một vòng tròn trên đầu là kiểu để tóc phổ
biến của người Hà Nội. Nó từ từ kết thúc và mất đi hẳn sau những năm 50 của
thế kỷ XX.
Bên cạnh mái “tóc đuôi gà” của phụ nữ miền Bắc thì phụ nữ miền
Trung và miền Nam - đại diện là các cô gái xứ Huế lại thích mái tóc dài, bồng
bềnh để xõa tự do. Tóc phủ xuống bờ vai, xuống lưng người, xuống bờ mông
và có khi hơn thế, có những người tóc còn rũ xuống gót chân. Tóc được kẹp
lại bằng một kẹp nhỏ ở ngang vai hoặc lưng, còn phía dưới thì để tự do. Tóc
càng dài, càng đen, càng đẹp.
Khi người con gái gội đầu, mái tóc dài xõa ra đầy chậu thau đồng,
chiếc gáy nõn nà thường ngày được mái tóc che kín được lộ ra trở thành một
nét đẹp quyến rũ của người con gái. Gội đầu xong, cô gái nắm lấy chân tóc,
quay mái tóc mấy vòng, tạo ra cơn mưa nhỏ, hòa quyện cùng hương thơm của
lá chanh, hoa hồng, bồ kết... Mái tóc đó vừa ẩn chứa sự thuỳ mị, duyên dáng,
lại vừa thể hiện được sự tươi sáng, trẻ trung, dễ mến, dễ gần ở người thiếu nữ
độ tuổi trăng tròn. Hình ảnh đẹp đó là tiêu chuẩn về cái đẹp của người con gái
kéo dài nhiều thế kỷ.
Ngoài ra, người phụ nữ Việt Nam xưa với mái tóc dài ưa thích, tóc còn
được tết ở phía sau thành các kiểu khác nhau. Trong đó phổ biến hơn là kiểu
tóc tết hình đuôi sam, du nhập của người Trung Hoa từ thế kỷ XVII.
66
Với kiểu này, tóc người phụ nữ phải được để dài, càng dài càng tốt, tóc
phải dày, đen, mượt thì tết tóc đuôi sam sẽ rất đẹp. Mái tóc được chia thành
ba lọn tóc nhỏ đều nhau. Sau đó các lọn tóc được tết chéo lại với nhau, lọn nọ
bắt chéo lên lọn kia. Đến tận cuối của mái tóc thì lúc này các lọn tóc được búi
chung với nhau bởi một cái kẹp hay một dây buộc tóc nhỏ để lại phía dưới
một búi tóc nhỏ, có thể dài hai ngắn tùy theo sở thích của từng người. Vì kiểu
để tóc này đã làm xuất hiện các mẫu buộc tóc khác nhau để trang điểm thêm
cho mái tóc của người phụ nữ. Và nhiều buộc tóc hoa văn đã ra đời và phát
triển. Tất nhiên mái tóc ở phía trước vẫn được chải gọn gàng với đường ngôi
ở chính giữa thể hiện sự đoan trang của người phụ nữ.
Bên cạnh các kiểu tóc khác nhau của mái tóc dài đặc trưng, người phụ
nữ Việt Nam thời xưa còn chú ý đến một thành phần khá qua trọng của mái
tóc nữa, đó là tóc mai hay tóc thề. Tóc thề vốn là một vài sợi tóc ngắn phất
phơ hai bên trán và vành tai. Tóc thề có đặc điểm mỏng, thưa, phất phơ hai
bên, che lấy má, cổ, vành tai người phụ nữ vì thế nó có mang một ý nghĩa gợi
cảm riêng. Thường thì tóc thề không cần phải kiểu cách hay trang điểm gì
thêm, bởi vì bản thân nó đã rất mềm mại và duyên dáng nên phụ nữ xưa cũng
rất để ý đến đặc điểm này của nó.
Ngày xưa, các đôi trai gái yêu nhau hoặc có những đôi đã nên vợ nên
chồng, đang mặn nồng đằm thắm bỗng vì một lý do gì đó làm cho tình duyên
dang dở, đôi lứa xa nhau. Họ quyết một lòng, dẫu cho sông cạn đá mòn, năm
tháng chờ đợi vẫn một lòng thuỷ chung. Trước khi lưu luyến chia tay, họ cắt
trao cho nhau một mớ tóc để làm tin và luôn giữ bên mình như kỷ vật. Mớ tóc
đó gọi là tóc thề.
Đến thời gian 1930 - 1940, xã hội Việt Nam bắt đầu du nhập những
kiểu tóc phương Tây từ những người phụ nữ Pháp theo chân nhà nước thực
dân mang đến. Mái tóc rẽ ngôi lệch xuất hiện lần đầu tiên làm cả xã hội xôn
67
xao. Rồi tiếp theo sau đó là kiểu tóc kẹp dài buông thõng sau lưng của các cô
thiếu nữ mới lớn, rồi kiểu tóc thề xõa ngang vai. Phụ nữ lớn tuổi thời kỳ này
búi tóc tròn sau gáy hoặc vấn tóc trần, những kiểu này vẫn giữ được nét đẹp
cao sang, hợp tuổi. Từ những năm 1940 - 1942, kiểu tóc uốn xoăn đã bắt đầu
được xuất hiện.
Phụ nữ ngày nay rất coi trọng đến việc chăm sóc, làm đẹp mái tóc của
mình, bởi nó thể hiện văn hóa và một phần đẳng cấp trong xã hội.
“.... đối với tất cả các quốc gia, tóc vừa là dấu hiệu, kiểu dáng của trí
tưởng tượng, sắc đẹp. Tóc là biểu hiện của truyền thống và tín ngưỡng, nó
tượng trưng cho tôn giáo, các thiên thần huyền bí. Hơn thế nữa tóc còn là
biểu hiện của giai cấp trong xã hội. Hơn nữa, tóc mùi thơm được tiết ra từ
tuyến của tóc còn có vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm nam nữ”
(PVS, chuyên gia làm đẹp Công ty Thái Dương)
Một nghiên cứu gần đây đối với phụ nữ châu Á, trong đó có Việt Nam
do Công ty TNS tiến hành (2011) đã khẳng định vai trò của mái tóc đối với
phụ nữ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, với phụ nữ, mái tóc luôn được coi là
một chuẩn mực của vẻ đẹp, vì thế không lấy làm lạ khi hầu hết phụ nữ châu Á
coi tóc là mối quan tâm hàng đầu của mình. Do nhu cầu làm đẹp, công việc và
sở thích cá nhân, phụ nữ thường xuyên tạo kiểu và thay đổi kiểu tóc mà
không biết rằng chính những việc đó vô hình khiến tóc chịu nhiều hư tổn.
Những vấn đề hư tổn về tóc phụ nữ châu Á thường gặp bao gồm tóc chẻ
ngọn, gãy rụng, tóc khô và khó vào nếp. Đó cũng là một trong những lí do
khiến hầu hết các phụ nữ cần quan tâm chăm sóc mái tóc của mình.
Về dáng, phụ nữ Việt ngày xưa vốn đã rất đề cao đến ngoại hình của
mình, cũng vì lẽ đó dân gian có câu: “Nhất dáng, nhì da, thứ ba là nét”. Nếu
như những cô nàng sở hữu chiều cao nổi trội với đôi chân dài miên man, thân
hình mảnh khảnh được đấng mày râu ngày nay săn đón thì trước đây lại xem
68
đây là một thân hình dưới chuẩn. Một người phụ nữ sở hữu thân hình hoàn
hảo nhất phải là cô gái có vóc dáng tròn trịa, mũm mĩm, gương mặt trái xoan,
chiếc mũi dọc dừa, đôi mắt bồ câu và đặc biệt là vòng eo “thắt đáy lưng ong”.
Theo quan niệm truyền thống của người Việt, một cô gái đẹp là phải có đáy
lưng nhỏ nhắn. Họ cho rằng những cô gái “thắt đáy lưng ong” không chỉ là
một chuẩn mực của cái đẹp mà còn thể hiện đức hạnh của một người vợ,
người mẹ đảm đang tảo tần như dân gian có câu:
Những người thắt đáy lưng ong
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con [60, tr.1778].
Cùng với vòng eo “con kiến”, phụ nữ Việt ngày xưa cũng có những
trang phục yêu thích để tôn vinh nét đẹp quyến rũ. Nếu như từ khoảng thế kỷ
XIX trở về trước, chiếc yếm là trang phục truyền thống có tác dụng làm nền
cho tấm lưng ong nhỏ nhắn thì vào đầu thế kỷ XX, những tà áo dài chiết eo
nhỏ nhắn lại là trang phục tuyệt vời vừa để khoe vừa để thể hiện sự kín đáo
cho vòng eo xinh đẹp của người phụ nữ.
Xưa đã vậy, nay cũng chẳng mấy thay đổi. Vòng eo nhỏ vẫn là khát
khao của nhiều phụ nữ. Họ luôn có xu hướng giữ dáng sao cho không được
“thắt đáy lưng ong” thì cũng phải ưa nhìn.
Về răng/miệng, tục ngữ người Việt có câu: “Cái răng cái tóc là góc con
người” [61, tr.360]. Hàm răng đen trước kia có vị trí thẩm mỹ như mái tóc, sự
gợi cảm như má hồng:
Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng răng đen [59, tr.1382].
Tục răng đen là một nét văn hóa của người Việt xưa. Tục nhuộm răng
có từ hàng nghìn năm trước, ngày ấy hầu như tất cả người dân Việt từ kẻ
nghèo cho đến người giàu, từ người nông dân đến giới quan lại, địa chủ,
69
hoàng thân quốc thích, vua chúa ai cũng nhuộm răng đen. Về nguồn gốc, tục
nhuộm răng đen của phụ nữ xưa trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Lý do
trực tiếp của tục nhuộm răng bởi nhai trầu thường làm ố đen răng nên phải
nhuộm thật đen để tạo được nét duyên dáng cho hàm răng. Đặc biệt vào các
dịp lễ tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, họ phải nhuộm
răng lại cho đen mới để tham dự. Răng đen đã thành một tiêu chí thẩm mỹ
dân gian:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua [59, tr.144-145].
Ngày xưa răng đen là đẹp, nhưng vào đầu thế kỷ 20, khi nền văn minh
phương Tây xâm nhập khá sâu vào đô thị Việt Nam, nhiều phụ nữ đã để răng
trắng, thậm chí có những người có hàm răng đen đã cạo đi cho răng được
trắng. Việc phụ nữ Việt Nam thay đổi thẩm mỹ từ răng đen thành răng trắng
là xu hướng mới. Trong thời gian này, xã hội Việt Nam có hai xu hướng va
đập nhau: “Để răng trắng, hớt tóc là me Tây, theo Tây” và “ Búi tóc củ hành,
răng đen, áo the, quần vải” là giữ gìn nét riêng dân tộc. Đây là giai đoạn đầu
đánh dấu sự mất dần phong tục nhuộm răng đen ở Việt Nam.
Ngày nay quan niệm về hàm răng đẹp là hàm răng đều, trắng (màu
trắng phải phù hợp với độ tuổi, nước da và khuôn mặt). Trong những năm gần
đây với sự phát triển nhanh về kinh tế của thế giới cũng như của Việt Nam,
nhu cầu về thẩm mỹ răng, hàm, mặt có sự phát triển vượt bậc. Bộ răng đẹp
ngày nay là hàm răng trắng trong, đều đặn, tỷ lệ giữa khoảng cách các răng
hài hòa. Ngoài ra hàm răng còn phải hài hòa với đôi môi, màu da và khuôn
mặt.
70
Như vậy, từ kết quả khảo sát thực địa cho thấy, xu hướng phụ nữ ngày
nay chú trọng đến việc chăm sóc sắc đẹp của mình nhiều hơn. Đại đa số phụ
nữ từ trẻ tuổi đến trung tuổi thường xuyên đến các cơ sở làm đẹp, chi tiêu
nhiều hơn cho mỹ phẩm, quần áo và các vật dụng làm đẹp khác. Xu hướng
trên phát triển bởi một số lí do dưới đây.
Thứ nhất, đời sống ngày càng được cải thiện, nâng cao, mức thu nhập
cũng tăng. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã giải phóng sức lao động của
phụ nữ khiến họ có nhiều thời gian để chăm sóc cho bản thân mình, đi mua
sắm và làm đẹp.
Thứ hai, làm đẹp cho bản thân còn là sở thích của phần đông phụ nữ
nên trong xu hướng xã hội ngày càng phát triển và mở cửa càng tạo điều kiện
cho phụ nữ thực hiện sở thích của mình. Bên cạnh đó, đời sống hiện đại,
người phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội nhiều hơn, họ không còn chỉ
là người phụ nữ chỉ biết đến trong phạm vi gia đình nên cần chú trọng đến
bản thân mình nhiều hơn là điều hiển nhiên. Phần lớn phụ nữ được hỏi cho
rằng, làm đẹp như là một đặc quyền của phụ nữ, nhất là phụ nữ hiện đại, vừa
làm đẹp cho bản thân, vừa làm đẹp cho xã hội và những người xung quanh.
Thứ ba, những người phụ nữ biết làm đẹp dễ thu hút những người xung
quanh, từ đó cảm thấy tự tin và thành công hơn trong sự nghiệp.
Vậy theo thẩm mỹ dân gian khi đánh giá một người phụ nữ đẹp theo
tiêu chuẩn “nhất dáng nhì da” thì ngày nay theo khảo sát của chúng tôi, tiêu
chuẩn thẩm mỹ đó vẫn còn nguyên giá trị. Những cô gái có thân hình cao, gầy
với những vòng đo chuẩn vẫn được đánh giá cao trong thước đo sắc đẹp của
người phụ nữ. Tuy nhiên, với đại đa số người phỏng vấn trong phạm vi đề tài
nghiên cứu là những phụ nữ tiêu biểu cho chiều cao của người Việt Nam là
khiêm tốn, họ không thể cải thiện chiều cao của mình được nữa nên họ chủ
yếu ưu tiên vào chăm sóc da và tóc.
71
2.2.2. Thời gian làm đẹp
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trung bình mỗi buổi sáng, phụ nữ đô thị,
công sở dành khoảng 22 phút trong nhà tắm và trung bình mỗi tháng mất
khoảng 30 phút để sơn/sửa hoặc cắt móng tay, móng chân.
Trong các phỏng vấn phụ nữ ở khu vực Bắc Bộ cho thấy, họ có dành
thời gian cho việc chăm sóc sắc đẹp vào buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, trước
khi đi ra ngoài, đặc biệt là dịp tham gia các lễ hội, các sự kiện, dự tiệc, dự
đám cưới hoặc khi gia đình có khách. Trong trường hợp đơn giản, họ làm tóc,
chỉnh trang quần áo cho gọn gàng; trong những trường hợp cần thiết, họ phải
trang điểm mất nhiều thời gian, đến những trung tâm để làm đẹp hoặc có
những chuyên gia trang điểm riêng đến nhà giúp đỡ.
2.2.3. Chi phí chăm sóc sắc đẹp
Thống kê về chi phí chăm sóc sắc đẹp đối với 300 phụ nữ Việt Bắc Bộ
cho thấy, trung bình một năm đã chi ra khoảng 350.000đ/người cho việc mua
nguyên liệu, làm đẹp và khoảng gần 400.000đ cho việc đến các trung tâm
dịch vụ chăm sóc sắc đẹp. Cá biệt có những người chi đến 20.000.000đ/tháng
cho việc làm đẹp của bản thân. Tuy nhiên, những phụ nữ này thuộc vào nhóm
có thu nhập, mức sống cao trong xã hội hoặc là các người mẫu, ca sĩ, diễn
viên. Nhìn chung, qua khảo sát và so sánh chi phí cho chăm sóc sắc đẹp thấy
rằng, những phụ nữ có thu nhập cao có xu hướng đến các cơ sở chăm sóc sắc
đẹp nhiều hơn những phụ nữ có thu nhập thấp. Tương tự, ở khía cạnh nghề
nghiệp, phụ nữ làm các ngành nghề phi nông nghiệp chi phí cho chăm sóc sắc
đẹp nhiều hơn (khoảng 1.000.000đ/người/năm) so với phụ nữ làm nông
nghiệp thuần túy (150.000đ - 200.000đ/người/năm).
2.2.4. Địa điểm chăm sóc sắc đẹp
Về địa điểm chăm sóc sắc đẹp, qua khảo sát chúng tôi thấy, hiện nay
72
phụ nữ thường làm đẹp tại các dịch vụ/trung tâm chăm sóc sắc đẹp và tại nhà.
Đối với phụ nữ Việt Bắc Bộ, qua khảo sát cho thấy, họ chủ yếu vẫn
chăm sóc sắc đẹp tại nhà là chính (74,8%), tuy nhiên, vẫn có 9,9% số được
hỏi thường chăm sóc tại các tiệm/spa/trung tâm thẩm mỹ/cửa hàng chuyên
chăm sóc sắc đẹp và 15,2% chăm sóc ở cả hai nơi như nhau. Đối với nhóm
phụ nữ có thu nhập cao hơn, thì có đến 77% các chị em chọn phương pháp
làm đẹp tại các trung tâm chăm sóc sắc đẹp. Trong số những phụ nữ đến các
trung tâm chăm sóc sắc đẹp có 31,2% đến các thẩm mỹ viện, 17,3% đến cơ sở
y tế tư nhân, 66,5% đến các tiệm làm tóc, 8,6% cơ sở làm dạo và 4,9% cơ sở
khác.
Khi khảo sát tại 20 cơ sở dịch vụ chăm sóc sắc đẹp có đăng ký kinh
doanh và cả những các chuyên gia/cá nhân hành nghề độc lập cho thấy, 100%
các đại diện cơ sở này cho rằng phụ nữ ngày càng quan tâm hơn đến việc
chăm sóc sắc đẹp của mình. Một trong những bằng chứng là sự phát triển
ngày càng nhiều các cơ sở dịch vụ chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ với nhiều
loại hình, mức độ khác nhau từ các cơ sở chăm sóc tóc, da, làm móng, thể dục
thẩm mỹ cho đến các trung tâm chăm sóc sắc đẹp như thẩm mỹ viện.v.v…
“Chỉ trong vòng 1-2 năm trở lại đây, các dịch vụ liên quan đến chăm
sóc, làm đẹp cho chị em phụ nữ ở đây phát triển mạnh lắm, đến nay đã có đến
20 cơ sở chỉ ở khu vực thị trấn này” (PVS, chủ tiệm làm tóc, Bắc Ninh).
Sự gia tăng các cơ sở dịch vụ chăm sóc sắc đẹp không chỉ thể hiện sự
quan tâm đến chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ, mà còn cho thấy sự thay đổi thói
quen từ cách làm đẹp tại nhà bằng các nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên,
phương pháp truyền thống (đòi hỏi nhiều thời gian trong chế biến và thực
hiện) được truyền từ các thế hệ trước đến sử dụng các dịch vụ chăm sóc
chuyên nghiệp.
73
“Hiện nay chị em phụ nữ vừa phải lo việc gia đình, cơ quan rồi đối nội
đối ngoại nên không thể dành nhiều thời gian cho tự chăm sóc sắc đẹp như
trước đây vì mất nhiều thời gian tìm kiếm, chế biến những loại cây, củ, quả...
nên hiện giờ nhiều chị em tìm đến các trung tâm làm đẹp cho tiện” (PVS, phụ
nữ, 40 tuổi, Ninh Bình).
Điều này còn cho thấy sự thay đổi phù hợp với nhịp độ của cuộc sống
của phụ nữ hiện đại (xu hướng tiết kiệm thời gian, quan tâm nhiều lĩnh vực
khác nhau, tiện lợi trong cách sử dụng ...).
2.2.5. Phương pháp chăm sóc sắc đẹp
Về phương pháp chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ hiện nay, qua khảo sát,
chúng tôi thấy có: Phương pháp hiện đại và phương pháp thủ công/dân gian.
Phương pháp hiện đại gồm hai nhóm: làm đẹp bằng phẫu thuật thẩm
mỹ và công nghệ hiện đại (có sự can thiệp bằng máy móc), chủ yếu được thực
hiện ở các cơ sở chăm sóc sắc đẹp.
Đối với phương pháp thủ công/dân gian, việc chăm sóc sắc đẹp được
thực hiện tại các cơ sở chăm sóc sắc đẹp hay tại nhà.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ (cả ở
phương pháp hiện đại và thủ công/dân gian). Ở đây chúng tôi chỉ khảo sát các
phương pháp theo xu hướng chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam hiện nay,
đó là chăm sóc da, tóc, dáng và răng/miệng.
- Chăm sóc da:
+ Những phương pháp chăm sóc da bằng công nghệ hiện đại (có sự can
thiệp bằng máy móc, công nghệ): điều trị các bệnh về da (nám, tàn nhang, đồi
mồi, rỗ, lỗ chân lông to…) bằng tia Laser, ánh sáng, tái tạo da bằng phương
pháp lăn da tế bào gốc, căng da bằng chỉ, bằng công nghệ Thermage, dưỡng
da/đẹp da bằng khí oxi tươi, thải độc chì cho da. Triệt/tẩy lông bằng công
74
nghệ ánh sáng 3G, 5G..., tiêm chất làm đầy (mũi, cằm, má..), tiêm botox xóa
nhăn da, tiêm thuốc làm trắng da, nhuộm da nâu, tắm trắng da…
+ Những phương pháp chăm sóc da thủ công/tự nhiên như: mát xa cho
da, tẩy da chết, bấm huyệt lưu thông tuần hoàn máu, xông hơi, dưỡng da bằng
các mặt nạ tinh chất colagen, vitamin C, trà xanh, sâm, cam, dưa chuột, hoa
hồng, nước gạo... (pha chế và tự nhiên).
Qua khảo sát của tác giả thì khi phỏng vấn nhóm phụ nữ thuộc lớp phụ
nữ thành đạt, gia đình có mức thu nhập cao thì 57% trả lời là chọn các
phương pháp chăm sóc sắc đẹp hiện đại. Họ chọn các trung tâm chăm sóc da,
tóc có uy tín và có quy mô chuyên nghiệp, uy tín, đẳng cấp để làm nơi chăm
sóc sắc đẹp của mình. Những phương pháp chăm sóc da hiện đại được thực
hiện trên các công nghệ tiên tiến tiêu chuẩn từ các nước phát triển như Mỹ,
Nhật, Hàn Quốc..., sử dụng ánh sáng và tia laser được điều chỉnh thông số
phù hợp với từng loại da, đem lại cho làn da đẹp, sáng, căng mịn, tăng sức đề
kháng cho da. Nhưng 34% trong số đó cảm thấy không hài lòng về phương
pháp chăm sóc da hiện đại này vì họ thấy kết quả không được như mong
muốn mà giá thành lại quá cao.
Ngoài ra, chị em chủ yếu thường tìm đến các cơ sở có sự kết hợp giữa
làm đẹp theo dân gian với công nghệ hiện đại. Các chị em muốn sử dụng các
kỹ thuật/phương pháp hiện đại trong chăm sóc da mặt bằng phương pháp kết
hợp với nguyên liệu tự nhiên. Chẳng hạn như việc sử dụng bột nghệ để đắp
mặt không thuần túy chỉ là bột nghệ nguyên chất mài từ củ nghệ mà bột nghệ
đã được tinh chế, xử lý bằng phương pháp khoa học khi đắp lên mặt vẫn phát
huy tác dụng của củ nghệ truyền thống như trị nám, làm sáng hồng da mà
không để lại vết vàng trên da lâu, kết hợp với các máy xông hơi, máy thẩm
thấu để có một kết quả tốt nhất. Làm đẹp theo cách này, các chị em thấy yên
tâm hơn khi được dưỡng da bằng các sản phẩm tự nhiên và kết quả thu được
75
khả quan hơn, giá thành lại thấp hơn.
- Làm đẹp cho tóc: Để phù hợp với xã hội hiện đại, phụ nữ ngày nay
thường chọn các dịch vụ làm tóc như: nhuộm màu, phủ bóng, làm duỗi/uốn
tóc, cắt/sấy kiểu, làm light tóc, nối tóc, hấp bóng, hấp dưỡng, dập phồng
tóc… nhằm tôn thêm vẻ đẹp cho mình.
Để làm được các kiểu tóc hoặc nhuộm các màu tóc ưng ý, thì mái tóc
phải khỏe. Vì thế, phụ nữ hiện nay rất chú trọng đến chăm sóc cho mái tóc
của mình. Họ chú ý dùng các loại dầu gội hợp với từng loại tóc kết hợp dùng
dầu xả sau khi gội. Ngoài ra, họ còn dùng các sản phẩm chăm sóc tóc "thân
thiện với tự nhiên" như dầu gội dược liệu và chăm sóc da của Công ty Thái
Dương. Theo thông tin công bố từ sản phẩm, phần lớn được chế xuất từ
nguyên liệu tự nhiên như nghệ, sâm, bí đao, sả, bồ kết... Kết quả khảo sát thị
trường tiêu dùng cho thấy, khách hàng quan tâm và sử dụng sản phẩm này
tăng cao ngay sau khi đưa ra thị trường.
- Về giữ dáng: Khi chúng tôi phỏng vấn với các bác sĩ, chuyên gia
chăm sóc sức khỏe và làm đẹp, họ cho rằng “chị em phụ nữ bây giờ có rất
nhiều phương pháp: Múa balllet, tập quyền anh, yoga, thiền, khiêu vũ, bơi lội,
pilates (phương pháp thể dục kết hợp một chuỗi những hoạt động có kiểm
soát tăng cường sức khỏe và cơ bắp), chạy bộ, quan hệ tình dục, làm việc nhà,
chế độ ăn phù hợp, uống thuốc, nhờ sự can thiệp của phẫu thuật thẩm mỹ...
Tuy nhiên, những biện pháp uống thuốc (làm gầy/béo) hay phẫu thuật thẩm
mỹ như hút mỡ bụng, tạo phom dáng bụng, hay mổ kéo chân dài... gây ra
nhiều biến chứng, tốn kém, chịu đau đớn về tinh thần cũng như thể xác, hại
cho sức khỏe và không bền” và những chuyên gia khuyên rằng “cách tốt nhất
để giữ dáng là tiết chế ăn uống và thường xuyên luyện tập” (PVS, chuyên gia
chăm sóc sức khỏe và làm đẹp, Hà Nội).
Thực tiễn cuộc sống của người phụ nữ Việt cho thấy, người phụ nữ
76
luôn vận động bằng nhiều cách và làm việc để tiêu hao năng lượng thông qua
lao động, chế độ dinh dưỡng và sinh hoạt. Tại nhà, những công việc lặt vặt,
làm bếp, chăn nuôi, trồng trọt, đi chợ rồi đến các công việc đồng áng, hội hè...
cũng tiêu hao nhiều Kcal của người phụ nữ. Cơ cấu trong bữa ăn chung của
người dân nông nghiệp Việt Nam là: cơm - rau (canh) - cá. Theo lý giải về
mặt khoa học dinh dưỡng thì trong một xã hội nông nghiệp cổ truyền với
những bữa ăn không được no, người Việt lại ưu tiên ăn cá (chứa nhiều đạm,
axit omega-3, cá nhỏ nguyên con (nhiều canxi), ăn nhiều rau, củ, trái cây tươi
do thiên nhiên ưu đãi với xứ nhiệt đới chứa nhiều vitamin A, C, beta caroten...
là những dưỡng chất chống oxi hóa, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, giàu
chất xơ. Trong bữa ăn cũng thấy rất ít đồ chiên xào, không có đồ uống có ga,
chủ yếu là nước lọc đun sôi giúp cho thanh lọc cơ thể, giúp da không bị khô,
thải trừ chất độc trong cơ thể. Chính vì vậy, rất nhiều chuyên gia chăm sóc
sức khỏe và làm đẹp cho rằng vận dụng/học tập những cách thức sinh hoạt và
ăn uống trong dân gian lại là phương pháp giữ dáng cho chị em phụ nữ hiện
đại nhằm giảm những rủi ro về mặt sức khỏe, tốn kém về chi phí mà vẫn đạt
được các mục tiêu chăm sóc sắc đẹp về dáng.
- Chăm sóc răng/miệng: Hiện nay, chị em phụ nữ cũng rất chú trọng
đến hàm răng của mình. Khi chưa sở hữu được bộ răng ưng ý, họ thường đến
các chuyên gia về nha khoa phục hình lại răng bằng cách chụp răng sứ để có
một hàm răng đẹp như mong muốn mặc dù rất tốn kém.
Ngoài ra khi chỉnh răng, đa số chị em phụ nữ còn yêu cầu tạo cho mình
những chiếc răng khểnh, má lúm đồng tiền để làm duyên. Như vậy, quan
niệm thẩm mỹ về “má lúm đồng tiền” và “răng nhánh hạt huyền” trong dân
gian vẫn còn giá trị trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Quan niệm về nét
duyên của người phụ nữ xưa vẫn được phụ nữ ngày nay kế thừa.
Chính vì vậy, khi được hỏi ý kiến về vấn đề nhu cầu và định hướng làm
77
đẹp răng của phụ nữ, một chuyên gia về nha khoa đã trả lời: “Tôi sẽ tư vấn
làm má lúm đồng tiền hoặc răng khểnh nếu nó hài hòa với khuôn mặt. Vì răng
khểnh hoặc má lúm đồng tiền giả nhiều khi sẽ làm cho khuôn mặt bị già đi
hoặc trở nên méo mó, không cân xứng. Thực tế, tôi đã phải bắt buộc làm theo
yêu cầu của khách về răng khểnh, một thời gian, họ quay lại nhờ tôi tháo ra và
làm đều răng lại bởi họ bị mọi người chê là xấu...”. Như vậy, từ góc nhìn của
các chuyên gia cho thấy, vẻ đẹp nhân tạo cũng phải đảm bảo sự hài hòa (PVS,
Tiến sĩ Nha khoa, Hà Nội).
Có thể thấy rằng, việc duy trì tri thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp
của người phụ nữ Việt Nam hiện nay là một hiện tượng khá phổ biến. Tri thức
đang bàn được thể hiện qua quan niệm về cái đẹp và các phương pháp làm
đẹp.
Về xu hướng làm đẹp, ta thấy phụ nữ Việt ngày nay vẫn làm đẹp theo
quan niệm thẩm mỹ: “Nhất dáng nhì da”, “Cái răng cái tóc là góc con người”.
Vì vậy, các dịch vụ cung ứng các phương pháp chăm sóc da và tóc giữ vị trí
quan trọng trong việc làm đẹp cho chị em, nhất là về da. Cũng trên quan niệm
thẩm mỹ “về dáng”, vẫn được chị em phụ nữ nhìn nhận là đúng và thể hiện ở
việc dành sự quan tâm đặc biệt tới vóc dáng, chấp nhận chi phí về tài chính,
thời gian, và cả sức khỏe để làm phẫu thuật thẩm mỹ như kéo chân, chịu đau
đớn về thể xác mà không chắc thành công.
Về phương pháp làm đẹp, bên cạnh làm đẹp theo phương pháp hiện
đại, các phương pháp làm đẹp có nguồn gốc dân gian hoặc bằng các nguyên
liệu dân gian vẫn được phụ nữ ngày nay ưa chuộng. Kết quả phỏng vấn một
số trung tâm làm đẹp cho phụ nữ cho thấy xu hướng kết hợp phương pháp
làm đẹp dân gian với hiện đại là khá phổ biến.
“Chúng tôi ở đây có cả những nguyên liệu tự nhiên như trứng gà, gạo,
lá cây, hoa quả; nếu ai có nhu cầu thì phục vụ, cũng có người thích gội đầu,
78
đắp mặt bằng những hàng mỹ phẩm các loại thì chúng tôi cũng có” (Chủ cơ
sở làm đẹp, Nam Định).
Lý giải việc tìm đến các trung tâm làm đẹp nói trên, các phụ nữ được
hỏi cho biết họ đến đó sử dụng các sản phẩm làm đẹp vừa tiện dụng, chuyên
nghiệp và vẫn đảm bảo được nhu cầu làm đẹp có sự kết hợp giữa tự nhiên,
theo dân gian với cách làm đẹp hiện đại ngày nay.
2.3. Tri thức dân gian trong việc làm đẹp cho phụ nữ hiện nay
2.3.1. Những tri thức dân gian trong việc làm đẹp
Tri thức dân gian trong việc làm đẹp cho phụ nữ là những hiểu biết,
kinh nghiệm làm đẹp cổ xưa lưu truyền lại. Cụ thể đó là những tri thức sử
dụng sản phẩm, nguyên liệu và phương pháp dân gian trong việc làm đẹp.
Theo tác giả Trịnh Minh Tuyết (2006), các loại lá, hoa, củ, quả trong
thiên nhiên giúp đem lại cho phụ nữ vẻ đẹp tự nhiên và an toàn [130]. Chẳng
hạn những nguyên liệu sau:
Bảng 4: Các nguyên liệu tự nhiên trong làm đẹp
Tên các loại
Bạc hà, ngải cứu, bưởi, chanh, sả, hương nhu, quế, cam thảo, bồ Lá
kết, chè, mít, lô hội, nha đam, mơ, trầu không, tía tô, vừng, mướp,
xà lách, diếp cá, rau má, hoắc hương, tre…
Bưởi, cúc, đào, hồng, lan, nhài, oải hương, loa kèn, thiên lý, nha Hoa
đam, sen, quỳnh,…
Atiso, bí đao, dưa chuột, bí đỏ, khoai tây, cà chua, chanh, chuối, Quả
cam, dưa hấu, bơ, bồ kếp, ớt, bí, lê, táo,…
Cà rốt, cải, khoai tây, khoai lang, cải trắng, cải đường, chuối, đậu, Củ
79
Tên các loại
gừng, tỏi, mài, nghệ, sắn,…
Chanh, đinh lăng, rau má, hà thủ ô, lá lốt, mướp đắng, tre, mít, ổi… Rễ
Khác Mật ong, bột cam, sữa, trứng gà, sữa chua, cám gạo…
(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)
Theo khảo sát của chúng tôi, trong số các phụ nữ được hỏi về sử dụng
các sản phẩm, nguyên liệu gì để chăm sóc sắc đẹp? Kết quả cho thấy có
45,1% trả lời sử dụng các sản phẩm tự nhiên có sẵn (hoa, quả, cây, lá…), chỉ
có 16,5% sử dụng sản phẩm sản xuất theo công nghệ (được chế xuất, đóng
sẵn) và 35,5% sử dụng kết hợp cả hai sản phẩm nêu trên.
Điều đáng quan tâm có sự khác biệt ở đây là, nếu như nhóm phụ nữ ở
nông thôn đa số sử dụng nhóm sản phẩm tự nhiên có sẵn (chiếm 80,2%), còn
nhóm phụ nữ sống ở khu vực thị trấn/thị tứ thì có kết hợp cả hai (chiếm 85%),
trong khi nhóm ở khu vực thành thị đa số sử dụng sản phẩm sản xuất theo
công nghệ (chiếm 87%).
Theo độ tuổi cũng có sự khác biệt về xu hướng sử dụng các phương
pháp chăm sóc sắc đẹp theo dân gian. Nếu như nhóm phụ nữ trên 50 tuổi
phần lớn vẫn sử dụng các nguyên liệu làm đẹp truyền thống thì nhóm dưới 35
tuổi phần đa lại dùng các sản phẩm được chế biến sẵn.
“Tôi thấy các cháu ít tuổi bây giờ chỉ sử dụng các loại dầu gội, kem
dưỡng da có sẵn chứ những người có tuổi thì lại quen dùng các loại lá cây,
những thứ sẵn có để làm đẹp” (Phụ nữ, 56 tuổi, Thái Bình).
Lý giải nguyên nhân tại sao phụ nữ sử dụng các sản phẩm tự nhiên có
sẵn, có đến 81,3% cho rằng các sản phẩm này không gây hại cho sức khỏe,
56,0% tiết kiệm, không tốn kém chi phí, 56,4% dễ tìm kiếm, sẵn có, 24,1% sử
dụng do người thân, bạn bè khuyên, chỉ có 8,9% cho rằng không biết đến các
80
sản phẩm được sản xuất theo công nghệ. Qua phỏng vấn những người phụ nữ
ở khu vực nông thôn cho biết, họ đều biết đến các sản phẩm được sản xuất
theo công nghệ bày bán rất nhiều, song vì lý do sức khỏe và tiết kiệm chi phí,
họ vẫn tìm đến những thứ có sẵn ở nơi họ sinh sống.
“Bây giờ những thứ có sẵn bày bán rất nhiều ở cả khu vực nông thôn,
nhưng chị em ở nông thôn vẫn thích dùng những thứ có sẵn, vừa tiện, vừa tiết
kiệm tiền và lại yên tâm về sức khỏe” (Phụ nữ, 45 tuổi, Nam Định).
Trong số những người sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn, có
36,6% vì lý do giá rẻ; tiện trong sử dụng: 62,3%; dễ mua, dễ kiếm: 52,6%;
không có hại cho sức khỏe: 47,8%; đa dạng, đáp ứng nhu cầu khách hàng:
30,2% và thấy mọi người sử dụng nhiều: 15,3%.
Đây là một trong những phát hiện quan trọng của nghiên cứu này khi
cho thấy xu hướng phụ nữ vẫn quan tâm và sử dụng các sản phẩm tự nhiên để
làm đẹp theo các phương pháp dân gian.
So sánh, đối chiếu với các tài liệu đề cập đến phương pháp làm đẹp
dân gian được đúc kết lại thì hầu như các loại nguyên liệu nêu trên đều được
nhắc đến. Lý giải từ góc độ y học dân gian thì các sản phẩm tự nhiên nói
trên đều có tác dụng tốt trong chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe. Điều này phản
ánh triết lý bình quân đề cao sự hài hòa âm dương trong cơ thể và sự hài hòa
trong giới tự nhiên. Để tạo ra những món ăn, bài thuốc có sự cân bằng âm
dương, người Việt phân biệt các loại thức ăn, thức uống (gồm cả thuốc) theo
năm thức âm và dương ứng với ngũ hành: Hàn (lạnh, âm nhiều = thủy),
nhiệt (nóng, dương nhiều = hỏa), ôn (ấm, dương ít = Mộc), Lương (mát, âm
ít =Kim), Bình (trung tính = Thổ). Có thể thấy, hầu hết là những loại thực
vật nói trên gần gũi với người Việt, phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa lý
của nước ta, đã được người Việt đúc kết kinh nghiệm sử dụng trong việc làm
thực phẩm, thuốc chữa bệnh và làm đẹp được truyền qua các thế hệ. Ví dụ:
81
Hộp 1: Tác dụng làm đẹp của một số loại lá, hoa, củ, quả
Lá bạc hà: Chứa nhiều tinh dầu, có tác dụng khử trùng và chống vi
khuẩn. Lá bạc hà rửa sạch, vò nhẹ, ngâm vào cốc nước sôi rồi đem sử dụng
như dung dịch tẩy da. Có thể hòa với dầu dưỡng và thoa lên da đầu để
chống gàu và kích thích tóc mọc nhanh hơn.
Lá trầu không: Có chứa những thành phần giúp làm sạch da khi pha
cùng với nước để tắm. Lá trầu không có tác dụng khử trùng rất tốt, giúp cơ
thể trở nên thoải mái, dễ chịu.
Lá lô hội: Đối với những người bị mụn, sẹo, có thể cắt lá lô hội và bôi
chất nhờn tiết ra từ lá lên chỗ bị mụn, sẹo.
Lá và hoa dâm bụt: Chất chiết xuất từ lá dâm bụt được sử dụng trong
các loại dầu gội đầu bởi khả năng tẩy rửa rất tốt. Chất chiết xuất từ hoa
dâm bụt cũng có mặt trong nhiều sản phẩm kem dưỡng da và giúp làm mềm
da.
Hoa đại: Khi tắm chỉ cần thả một vài cánh hoa đại vào bồn tắm, mùi
thơm của hoa sẽ làm bạn giảm stress.
Bơ: Chất chiết xuất từ bơ được sử dụng nhiều trong các loại sản phẩm
làm đẹp bởi bơ rất giàu vitamin, nhất là vitamin E giúp nuôi dưỡng làn da,
đặc biệt là da khô. Ngoài ra, bơ còn có tác dụng làm cho mái tóc trở nên
óng mượt hơn.
Đu đủ: Nghiền đu đủ và thoa quanh mắt có thể xoá đi những vết chân chim.
Phần vỏ đu đủ xát lên mặt có thể lấy đi những tế bào da chết rất hiệu quả.
Dưa chuột: Nước dưa chuột có thể coi là một loại nước tuyệt vời giúp
se lỗ chân lông. Dưa chuột đắp lên mắt sẽ giúp mắt khỏi mệt mỏi, sưng húp
và dưỡng ẩm cho mắt. Hãy nghiền nát dưa chuột và đắp vào da khi da bị
cháy nắng.
(Nguồn: Sưu tầm của NCS, 2013)
82
Theo kinh nghiệm dân gian, trái bồ kết có công dụng trị gàu, trị nấm
tóc, giảm gãy và rụng tóc, kích thích mọc tóc, làm đen tóc, làm tóc trơn bóng,
bảo vệ da đầu nên hiện nay được nhiều phụ nữ dùng để chăm sóc tóc:
Hộp 2: Làm đẹp tóc bằng bồ kết
Các bước làm đẹp tóc bằng bồ kết
Bước 1: Chuẩn bị 2-3 quả bồ kết khô đun cùng nước sôi để quả bồ kết
có thể hòa tan các chất vào nước, tạo thành một loại nước gội đầu.
Bước 2: Để nước nguội dần, dùng một chiếc khăn mỏng để lọc bã từ
quả và hạt bồ kết.
Bước 3: Lấy nước đó gội đầu thay cho dầu gội đầu bằng hóa chất. Khi
gội không dùng móng tay cào xước da đầu, thay vào đó hãy dùng đầu ngón tay
đưa nhẹ lên da đầu, mát xa nhẹ nhàng. Không cần gội lại bằng nước trắng.
(Nguồn: Sưu tầm của NCS, 2013)
- Làm son dưỡng môi từ sử dụng sáp ong tự nhiên, dầu thực vật kết hợp
với công nghệ làm lạnh để làm son môi:
Hộp 3: Làm son dưỡng môi từ sáp ong
Chuẩn bị ½ thìa cà phê sáp ong tự nhiên, 2 thìa cà phê dầu thực vật
bất kỳ, vài giọt hương vị dùng cho thực phẩm và 2 giọt tinh dầu oải hương
hoặc hoa hồng mộc. Cho tất cả vào nồi đun sôi. Khi chờ nước sôi hãy thái
nhỏ, mỏng sáp ong rồi đổ vào chén nước cùng một chút dầu thực vật và đun
cách thủy đến khi sáp ong chảy hoàn toàn. Tiếp đó hãy cho hương vị và tinh
dầu vào rồi quấy đều lên bằng tăm. Cuối cùng đem đổ hỗn hợp vào một hộp
thủy tinh nhỏ rồi đặt vào tủ lạnh trong 2-3 phút để hỗn hợp đông lại rồi đem
ra dùng dần.
(Nguồn: Sưu tầm của NCS, 2013)
83
Khi được hỏi về hiểu biết đối với phương pháp dân gian nói trên, hầu hết
các phụ nữ cho rằng đều được truyền miệng từ người này sang người khác.
Cụ thể, có 47,3% do người thân trong gia đình truyền lại, 53,8% do bạn bè,
đồng nghiệp chia sẻ, 53,4% tự tìm hiểu trên thông tin đại chúng, 48,5% từ
sách, tài liệu, 14,2% thấy người khác dùng thì sử dụng theo. Qua các phỏng
vấn sâu cũng cho thấy phần lớn là những kiến thức, kinh nghiệm truyền
miệng chứ không có các tài liệu, sách ghi chép. Đây cũng chính là đặc trưng
của tri thức dân gian trong lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ. Điều này
phù hợp với những nghiên cứu trước đây về vấn đề bảo tồn và phát triển tri
thức dân gian nói chung.
“… thì cứ người trước bảo người sau, người này nói với người khác
thôi chứ lấy đâu sách vở, ghi chép về những thứ này. Người ta cứ làm theo
nhau rồi thấy có lợi thì thành thói quen đấy thôi” (Phụ nữ, 18 tuổi, Vĩnh
Phúc).
Mặc dù vậy, vì các tri thức này được tồn tại theo phương pháp truyền
miệng nên nhiều người cho rằng trong điều kiện xã hội thay đổi như hiện nay
thì dễ bị mai một, cần có cách thức bảo tồn, duy trì cho thế hệ sau.
“Trước thì làm gì có những thứ được sản xuất sẵn nên mọi người bảo
nhau, duy trì phương pháp này nhưng bây giờ thì giữa các thế hệ đã nhận
thức khác nhau trong việc làm đẹp nên e rằng các tri thức các cụ để lại cũng
dễ bị mai một, mất dần đi” (Phụ nữ, 36 tuổi, Ninh Bình).
Khi được hỏi về quan điểm của phụ nữ đối với cách làm đẹp theo
phương pháp dân gian/truyền thống, có 26,4% cho rằng phương pháp này vẫn
còn nguyên giá trị, nhiều người biết và sử dụng. Có đến 40,9% cho rằng
phương pháp này vẫn đang được kết hợp với phương pháp làm đẹp hiện đại.
Điều này được lý giải do những thay đổi trong nhận thức về chăm sóc sắc đẹp
so với trước đây, nguyên nhân có thể xuất phát từ nhiều góc độ, chẳng hạn
84
như điều kiện làm đẹp đã có sự thay đổi cũng có tác động rất lớn (nhiều lựa
chọn về cơ sở làm đẹp, nguyên liệu, sản phẩm đã chế biến sẵn...). Tuy nhiên,
có 18,8% cho rằng đã mai một, 7,6% cho rằng không còn giá trị, ít người biết
và sử dụng và 6,2% không có ý kiến. Như vậy, về cơ bản theo quan niệm của
nhiều người thì phương pháp làm đẹp dân gian vẫn còn giá trị trong đời sống
hiện đại và có xu hướng được người phụ nữ kết hợp với phương pháp làm đẹp
hiện đại.
Khi được hỏi về xu hướng sử dụng các phương pháp dân gian trong
chăm sóc sắc đẹp, vẫn có đến 67,5% số phụ nữ được hỏi cho rằng vẫn cần
thiết phải duy trì các phương pháp làm đẹp dân gian. Có 20,9% cho rằng có
cũng được, không cũng được. Chỉ có 5,1% cho rằng không cần thiết vì đã có
phương pháp làm đẹp hiện đại thay thế và 6,5% không có ý kiến.
Các phỏng vấn sâu thì hầu hết khẳng định rằng các phương pháp làm
đẹp dân gian cần phải được duy trì, nhất là ở khu vực nông thôn nơi mà có
điều kiện duy trì và phát triển do phần lớn các nguyên liệu đều có sẵn.
“Tôi cũng không biết sau này thời thế ra sao nhưng kinh nghiệm các cụ
để lại vẫn còn rất tốt, ở nông thôn thì vẫn rất thuận tiện có được những thứ
để làm đẹp sẵn có ở chính ruộng, vườn, trong nhà” (Phụ nữ, 58 tuổi, Hải
Dương).
Về việc vận dụng những phương pháp trên, trong phạm vi gia đình,
những người phụ nữ được hỏi cho thấy, có đến 41,1% cho rằng “phần lớn phụ
nữ/con gái trong gia đình sử dụng”, chỉ có 24,5% có “một nửa số phụ nữ/con
gái sử dụng” và cũng một tỷ lệ tương tự (24,5%) cho rằng số ít sử dụng, chỉ
có 9,6% cho rằng không có ai sử dụng.
Ở phần này, chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế về các phương pháp
làm đẹp dân gian mà hiện nay phụ nữ biết đến và vẫn còn được áp dụng hàng
85
ngày, kết quả thể hiện trong bảng số liệu dưới đây:
Bảng 5: Phương pháp chăm sóc sắc đẹp dân gian được
phụ nữ sử dụng hiện nay (%)
Biết đến Còn sử dụng
Gội đầu bằng bồ kết hoặc chanh 83,6 57,6
Nhuộm răng 26,6 8,3
Tắm bằng các loại hoa, lá tự nhiên 59,6 37,8
Xông hơi bằng các loại lá 49,6 47,0
Mát-xa 54,7 39,9
Đắp mặt bằng cây, trái 75,0 74,5
Tập dưỡng sinh, thể dục 47,7 40,9
Khác 3,2 2,5
(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)
Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy: Phương pháp làm đẹp dân gian
được nhiều phụ nữ biết đến nhất (chiếm 83,6%) là gội đầu bằng bồ kết hoặc
chanh, song hiện nay chỉ có 57,6% phụ nữ còn sử dụng. Phương pháp nhuộm
rang, có 26,6 phụ nữ biết đến như là phương pháp làm đẹp, nhưng chỉ còn
8,3% còn sử dụng, mà chủ yếu là người cao tuổi (ngoài 60 tuổi). Các phương
pháp phổ biến được biết đến như đắp mặt bằng lá, hoa, củ, quả thì hầu như
vẫn được sử dụng thường xuyên.
Như vậy, một số phương pháp làm đẹp truyền thống được người phụ
nữ biết đến vẫn tiếp tục được duy trì, song cũng có một số phương pháp nay
đã ít người sử dụng hơn. Giải thích lý do về việc một số người đã ít sử dụng
các phương pháp làm đẹp truyền thống chủ yếu là do họ không có nhiều thời
gian để tìm kiếm, chế biến nguyên liệu tự nhiên, thay vào đó là các phương
pháp hiện đại thuận tiện hơn. Ngoài ra, một số phương pháp không còn phù
86
hợp với xu thế chung của xã hội hiện nay mà điển hình là nhuộm răng đen.
Đối với phụ nữ, một trong những giai đoạn có ảnh hưởng rất nhiều đến
cơ thể và hình thức bên ngoài đó là sau khi sinh nở. Chính vì vậy, việc chăm
sóc sắc đẹp ở giai đoạn này cũng là một trong những vấn được phụ nữ quan
tâm. Hiện nay, việc vận dụng tri thức dân gian trong việc chăm sóc phụ nữ
sau sinh cũng còn tương đối phổ biến.
Khi được hỏi về việc chăm sóc sức khỏe sau sinh, có khoảng một nửa
(49,3%) số phụ nữ cho rằng có sử dụng một số biện pháp để duy trì dáng vóc,
sắc đẹp sau khi sinh. Chẳng hạn như ken bụng để tránh bị chảy xệ (57,7%),
kiêng ra ngoài gió, tắm lạnh (80,3%), không ngồi xổm (56,9%), không cho
con bú hoặc cai sữa sớm để giữ cho ngực đẹp (10,5%), xoa hỗn hợp rượu
nghệ để chống/chữa vết rạn bụng.v.v...
Chúng tôi xin đưa ra một số phương pháp dân gian cụ thể trong chăm
sóc phụ nữ sau sinh thường được sử dụng: rượu gừng để giúp vùng da bụng
săn chắc, thon gọn, không chảy xệ; bột nghệ giúp có làn da đẹp, mịn; muối
hạt hay "nằm muối" giúp cho da đẹp; lá trầu giúp chống thâm quầng mắt, da
đẹp [58].
Rượu gừng
Lấy 1kg gừng giã nát ngâm với 1 lít rượu trắng (tỉ lệ 1:1), để trong 1
tháng có thể dùng được. Lấy hỗn hợp mát xa lên bụng hàng ngày, có thể lấy
miếng gừng trong rượu để đắp cùng. Phương pháp này cần kiên trì thực hiện,
làm đều đặn hàng ngày, trong thời gian ngắn sẽ lấy lại vẻ săn chắc, gọn gàng
cho vùng da bụng sau sinh.
Bột nghệ
Các mẹ bầu sau sinh nên dùng bột nghệ hằng ngày, chỉ cần hòa 1 thìa
với nước lọc hay mật ong, uống ngày 2 lần, giúp nhanh chóng hồi phục sức
87
khỏe và nhan sắc, giúp tử cung mau trở về trạng thái bình thường, tránh hậu
sản. Với phụ nữ sinh mổ, trộn bột nghệ với nước tinh khiết bôi lên da sẽ tránh
để lại sẹo. Ngoài ra, phụ nữ sau khi có thể uống và kết hợp trộn bột nghệ với
sữa tươi không đường, mật ong đắp mặt hàng ngày để có làn da đẹp, mịn.
Muối hạt
Phương pháp này trong dân gian còn được gọi là “nằm muối”. Có rất
nhiều cách để thực hiện nhưng đơn giản nhất là lấy khoảng 1kg muối hạt to,
rang nóng rồi bọc trong một tấm vải dầy hoặc một chiếc khăn rồi đắp lên
bụng. Kiên trì thực hiện phương pháp này sau sinh, sẽ thấy được hiệu quả bất
ngờ. Ngoài ra, có thể kết hợp muối hạt với gừng rang khô hoặc ngải cứu sao
vàng. Tuy nhiên, nên để đến khi hết sản dịch thì mới bắt đầu thực hiện những
phương pháp này.
Lá trầu
Lá trầu không không chỉ tốt cho phụ nữ trong thai kỳ, giúp giảm ngứa
vùng kín mà còn giúp làm đẹp sau sinh. Phụ nữ sau sinh lấy một nắm lá trầu
vừa đủ dùng, đun sôi, bỏ vào vài hạt muối, rồi sau đó mang thứ nước này ra
hơ mắt, xông mặt, mỗi lần 20-25 phút, sẽ giúp cho da dẻ trắng hồng, giảm
thâm quầng mắt và mắt đỏ sau sinh.
Ngoài ra, các phụ nữ giữ gìn sắc đẹp bằng các biện pháp khác như ăn
đồ ít ngọt, đi lại nhẹ nhàng, ăn kiêng, ăn nhiều hoa quả, không ăn mỡ động
vật, ăn uống đầy đủ và tập thể dục hằng ngày, tắm nước lá, giữ gìn vệ sinh,
mặc quần áo dài, rộng để thoáng lỗ chân lông, không làm việc nặng.
Những phương pháp làm đẹp nói trên hầu như vẫn được duy trì theo
cách thức truyền thống khi quan niệm cho rằng đây là cách để vừa giữ gìn sức
khỏe và sắc đẹp của phụ nữ.
“Trong vòng một tháng sau khi sinh, sản phụ xưa nằm cữ không được
88
tắm, thỉnh thoảng chỉ được xông hơi bằng cách nấu một số lá cây như chanh,
bưởi, sả, vú sữa... Khí nóng của nồi nước lá sẽ giúp cơ thể toát mồ hôi để vệ
sinh thân thể và loại bỏ độc tố” (PVS, phụ nữ từng làm nữ hộ sinh tại trạm y
tế, Phú Thọ).
Tuy nhiên, quan niệm đó hiện nay đã có những thay đổi nhất định khi
cho rằng:
“Việc kiêng cữ sau sinh là cần thiết nhưng không nên thái quá, không
nên kiêng tắm gội vì sau khi sinh cơ thể mẹ đã tiết rất nhiều mồ hôi, những bã
nhờn cộng với bụi bẩn tích tụ ở lỗ chân lông, rất dễ gây bệnh. Ngày xưa, do
phòng tắm không kín, các mẹ mới phải kiêng tắm, ngày nay phòng tắm xây bê
tông kín gió, các mẹ có thể tắm rửa nhẹ nhàng” (PVS, cán bộ y tế huyện,
Hưng Yên).
Như vậy, do nhận thức việc chăm sóc sắc đẹp sau sinh đã có những
thay đổi nhất định so với trước đây nên việc vận dụng các tri thức dân gian
cũng có những biến đổi nhất định.
Để đáp ứng nhu cầu về chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ, hiện nay các cơ
sở sản xuất mỹ phẩm cho ra các sản phẩm thân thiện với tự nhiên hơn, hướng
đến cả việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe. Một trong những ví dụ là sản
phẩm dầu gội dược liệu và chăm sóc da của Công ty Thái Dương. Theo thông
tin công bố từ sản phẩm, phần lớn được chế xuất từ nguyên liệu tự nhiên như
nghệ, sâm, bí đao, sả, bồ kết... Kết quả khảo sát thị trường tiêu dùng cho thấy,
khách hàng quan tâm và sử dụng sản phẩm này tăng cao ngay sau khi đưa ra
thị trường.
2.3.2. Đánh giá vị trí, vai trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp hiện
nay
Trong cuộc sống hiện đại, phụ nữ nói chung và phụ nữ Việt Nam nói
89
riêng có nhiều sự lựa chọn về sản phẩm, nguyên liệu cũng như phương pháp
chăm sóc sắc đẹp cho mình. Nhưng phương pháp làm đẹp dân gian vẫn được
phụ nữ ngày nay ưa chuộng. Điều đó cho thấy, các tri thức dân gian về chăm
sóc sắc đẹp vẫn tiếp tục tồn tại và được phổ biến. Các tri thức này được thể
hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau: thông qua các sản phẩm, nguyên liệu và
phương pháp chăm sóc sắc đẹp, phương pháp dân gian thuần túy, phương
pháp có sự kết hợp giữa dân gian và hiện đại, yếu tố dân gian trong các
phương pháp hiện đại (một quy trình/công đoạn hay tỷ lệ nguyên liệu dân
gian trong các phương thức/sản phẩm chăm sóc sắc đẹp).
Như vậy, có thể khẳng định những tri thức dân gian về chăm sóc sắc
đẹp vẫn tồn tại, duy trì và phát triển bởi nó có vị trí, vai trò nhất định đối với
đời sống xã hội hiện nay. Vị trí, vai trò đó được thể hiện ở hai khía cạnh
chính: văn hóa và thực tiễn.
Thứ nhất, ở khía cạnh văn hóa, các tri thức dân gian trong chăm sóc sắc
đẹp mang đậm truyền thống văn hóa, thể hiện sự hòa hợp giữa con người với
điều kiện tự nhiên. Trong quá trình tồn tại và tiến hóa, con người dựa vào tự
nhiên, khám phá tự nhiên, khai thác tự nhiên một cách hợp lý phục vụ các
nhu cầu của cuộc sống. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa mỗi vùng, miền trong
việc sử dụng các sản phẩm tự nhiên trong làm đẹp đều mang tính bản địa văn
hóa sâu sắc. Như vậy, các tri thức dân gian về chăm sóc sắc đẹp cũng góp
phần bảo vệ bản sắc dân tộc trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ hai, việc phụ nữ hiện nay sử dụng các sản phẩm, nguyên liệu và
phương pháp chăm sóc sắc đẹp dân gian cho thấy, ngoài thói quen trong cách
làm đẹp thì họ còn thấy các tri thức này còn có vị trí, vai trò thực tiễn quan
trọng. Đó là sự an toàn, không hại cho sức khỏe, tạo vẻ đẹp tự nhiên; chi phí
thấp, tiết kiệm, nguyên liệu dễ kiếm, dễ tìm; phương pháp thực hiện đơn giản.
Với vị trí, vai trò nói trên, việc đề xuất biện pháp bảo tồn các tri thức
90
dân gian trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai là cần thiết, để giữ gìn,
bảo tồn những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc và đáp ứng nhu cầu thực tiễn
trong việc thực hành chăm sóc sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam nói chung và
phụ nữ Việt châu thổ Bắc Bộ nói riêng.
91
Tiểu kết chương 2
Tri thức dân gian thể hiện trong văn học dân gian, trong văn hóa dân
gian. Người Việt Bắc Bộ có một quan niệm khá thống nhất và phong phú về
vẻ đẹp của người phụ nữ. Đó là vẻ đẹp tổng thể, hài hòa, trong đó nổi lên
những vẻ đẹp bộ phận của đôi mắt, mái tóc, bộ ngực, làn da… Các dân tộc
thiểu số ở Bắc Bộ nhìn chung cũng có quan niệm tương tự, nhưng không
phong phú bằng người Việt. Cả người Việt và các dân tộc vừa nêu đều quan
niệm cái đẹp gắn với cái đạo đức. Dân gian không ca ngợi những người đẹp
lười biếng. Trong thời đại hiện nay, nhiều tiêu chí của người đẹp ngày xưa
vẫn được áp dụng như dáng người, làn da, đôi mắt, mũi,…Về điểm khác, tác
giả dân gian nói nhiều đến người xinh hơn là người đẹp. Hơn bao giờ hết,
hiện nay các từ, nhóm từ “người đẹp”, “phái đẹp”, “dáng đẹp”, “sắc đẹp”,
“làm đẹp”, “chăm sóc sắc đẹp” xuất hiện với tần số cao không chỉ trong các
cuộc trò chuyện hằng ngày của chị em mà còn được phổ biến trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Chỉ có ở thời đại chúng ta, vẻ đẹp của người phụ nữ
mới được chú ý và đề cao như vậy. So với truyền thống, người đẹp hiện nay
đã có và đang phấn đấu để có chiều cao hơn và trang phục cũng hiện đại hơn.
Trong việc chăm sóc sắc đẹp, bên cạnh việc sử dụng các tri thức dân gian
truyền thống, phụ nữ hiện nay còn đến các spa chăm sóc sắc đẹp, được sự hỗ
trợ của các phương tiện khoa học hiện đại. Thực tế cho thấy, việc vận dụng tri
thức dân gian trong chăm sóc sắc đẹp của người phụ nữ Bắc Bộ vẫn còn khá
phổ biến ở khu vực nông thôn, nơi dễ dàng tìm kiếm nguồn nguyên liệu tự
nhiên. Phần lớn phụ nữ cho rằng phương pháp làm đẹp theo dân gian có ích
lợi. Điều này được lý giải là phù hợp với tư tưởng, phong tục và triết lý sống
của người Việt trong nền văn hóa nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng
các tri thức dân gian, biện pháp dân gian là không đủ. Bởi thế, xu hướng kết
hợp các phương pháp làm đẹp theo dân gian và hiện đại ngày càng diễn ra
phổ biến.
92
CHƯƠNG 3
TRI THỨC DÂN GIAN TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VÙNG BẮC BỘ HIỆN NAY
3.1. Quan niệm dân gian về sức khỏe của phụ nữ và việc chữa bệnh
3.1.1. Quan niệm dân gian của người Việt về sức khỏe của phụ nữ và việc
chữa bệnh
Trong quan niệm dân gian, người Việt cho rằng, người phụ nữ lúc 17
tuổi là khỏe mạnh nhất: “Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu”. Một trong
những chức năng của người phụ nữ là lấy chồng và sinh nở: “Gái có chồng
như rồng có mây”, “Gái một con trông mòn con mắt”, “Gái phải hơi trai
như thài lài phải cứt chó” (tục ngữ).
Người phụ nữ khỏe mạnh là người phụ nữ biết sinh nở. Sau khi làm
mẹ, người phụ nữ mặn mà hơn. Tuy nhiên, họ không thể trẻ khỏe mãi được
theo thời gian: “Trai ba mươi tuổi đang xoan, gái ba mươi tuổi đã toan về
già” (tục ngữ). Nếu sinh nở nhiều lần, người phụ nữ cũng chóng suy sụp về
sức khỏe: “Gái một con trông mòn con mắt, gái hai con vú quặt đằng sau,
gái ba con ngồi đâu chết đấy” (tục ngữ).
Xã hội xưa trọng người phụ nữ mạnh khỏe, có khả năng sinh nở,
nhưng cánh nam nhi cũng dè dặt trước những người phụ nữ quá khỏe: “Gái
khỏe chớ lấy”, “Cả mái hại trống” (tục ngữ).
Mặc dù dân gian ghi nhận vai trò quan trọng của sức khỏe người phụ
nữ, nhưng so với nam giới thì vẫn có sự phân biệt: “Trai đua mạnh, gái đua
mềm”, “Nam thực như hổ, nữ thực như miêu” (con trai ăn như hổ ăn, con
gái ăn uống nhỏ nhẹ như mèo), “Nam trúng chữ, nữ trúng kim” (người ta
93
đánh giá phẩm chất của người con trai theo nét chữ, của người con gái theo
đường kim mũi chỉ) (tục ngữ).
Trên đây là quan niệm của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Ở khu vực
này không có hiện tượng như người Việt ở Trung Bộ, mà cụ thể là ở Bình
Định:
Ai vào Bình Định mà coi
Đàn bà cũng biết cầm roi dạy chồng.
Hoặc dị bản:
Ai vào Bình Định mà coi
Đàn bà cũng biết cầm roi đi quyền.
Đất võ Bình Định đã sản sinh ra những nữ tướng mà tiêu biểu là Đô
đốc Bùi Thị Xuân.
Trong thời quân chủ, mức sống của người nông dân nói chung là rất
thấp. GS.TS. Nguyễn Văn Huyên, sau khi nghiên cứu đã kết luận rằng,
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đại đa số nông dân không được ăn
no, họ chỉ được ăn no vào ngày tết và ngày mùa.
Do điều kiện sống và mức sống, người dân xưa thường chỉ quan tâm
và chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em, người già và phụ nữ trước sau thời
gian sinh nở. Người dân Việt quan niệm: “Người chửa, cửa mả” (tục ngữ),
nghĩa là người phụ nữ khi có mang thì phải rất thận trọng. Sau khi sinh nở,
thì họ phải kiêng cữ, tránh ra gió máy, phải kiêng khem trong thức ăn, đồ
uống. Trong trường hợp thiếu sữa, không có sữa, họ vận dụng một số kinh
nghiệm dân gian.
94
3.2. Thực tế chăm sóc sức khỏe hiện nay ở phụ nữ Việt Nam
3.2.1. Bối cảnh hiện nay
Đối với người phụ nữ, trong truyền thống các chuẩn mực của xã hội
luôn đặt ra đối với họ rất khắt khe chẳng hạn như phải đáp ứng về công, dung,
ngôn, hạnh như trong nhiều tư liệu đề cập đến. Trong xã hội hiện đại, các
chuẩn mực này tiếp tục được đặt ra nhưng có điều chỉnh cho phù hợp. Những
yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng kinh tế, văn hóa của đất nước đang đòi
hỏi ở người phụ nữ những phẩm chất mới về chất lượng trí tuệ, kỹ năng lao
động, có nhân cách, đạo đức, trong đó phải kể đến những vai trò gắn với gia
đình mật thiết, đảm bảo ba chức năng: sản xuất, kinh doanh; sinh con, nuôi
con nhỏ; chăm sóc gia đình, nhà cửa, làm tròn trách nhiệm cộng đồng. Như
vậy, họ cần sức khỏe dẻo dai mới cáng đáng nổi những công việc đó cùng
một lúc. Để có được điều đó, phải thường xuyên luyện tập, quan trọng hơn là
sống điều độ trong ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, tránh sự thái quá cả
về mặt vật chất và tinh thần. Theo chiều dài lịch sử, người phụ nữ dần có
những thay đổi hướng đến những giá trị mới. “Họ tôn trọng cuộc sống của
từng cá nhân trong gia đình, mặt khác họ cũng rất quan tâm đến cuộc sống
của riêng họ. Họ muốn dành thời gian cho giải trí, chăm sóc sức khỏe, chơi
thể thao và hưởng thụ nghệ thuật và làm đẹp. Họ sẽ năng đến các trung tâm
thẩm mỹ, tiếp xúc với bạn bè...” [77]. Như vậy, ở khía cạnh chăm sóc sức
khỏe của phụ nữ cả trong lịch sử và ngày nay đều có vai trò quan trọng không
chỉ để giúp người phụ nữ thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh của mình được xã hội
kỳ vọng, đồng thời còn đáp ứng những nhu cầu của cá nhân.
Có thể nhận thấy, hầu hết phụ nữ đều quan tâm đến chăm sóc sắc đẹp
và sức khỏe ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của
mỗi người, là xu hướng chung của phụ nữ ở cả xã hội truyền thống và hiện
đại.
95
Theo điều tra của Bộ Y tế, có tới 90% phụ nữ nông thôn không biết
chăm sóc sức khỏe y tế, 40% mắc bệnh là do lao lực, do môi trường lao động
sản xuất, do điều kiện vệ sinh kém. Hiện nay, tỷ lệ bác sĩ tuyến xã chiếm
khoảng 6,5 người/vạn dân. Song đó là bình quân trên cả nước, trên thực tế có
những tỉnh tỷ lệ này chỉ đạt 1,1 bác sĩ/ vạn dân. Trong từng tỉnh, tỉ lệ bác sĩ/số
dân ở đô thị cao hơn nhiều so với tỉ lệ này ở khu vực nông thôn. Cho đến nay,
70% dân số làm nông nghiệp, điều này cho thấy việc chăm sóc sức khỏe tại
khu vực nông thôn còn rất nhiều bất cập [15]. Theo khảo sát của Uỷ ban Quốc
gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam cho biết: 34% phụ nữ nông thôn phải
lao động ngay sau khi sinh. Đó là thực trạng chăm sóc sức khỏe phụ nữ ở
nông thôn hiện nay.
Qua khảo sát thực tế cả ở thành thị và nông thôn về chăm sóc sức khỏe
sức khỏe hiện nay ở phụ nữ Việt Nam, chúng tôi thấy: phụ nữ quan tâm nhiều
hơn cả là chăm sóc sức khỏe trong lao động; chăm sóc sức khỏe khi ốm đau,
bệnh tật và chăm sóc sức khỏe sinh sản, đặc biệt trong quá trình mang thai,
sinh con và sau sinh.
3.2.2. Chăm sóc sức khỏe trong lao động
Kết quả khảo sát cho thấy có 87,0% số phụ nữ được hỏi cho rằng cần
phải có chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý để bảo đảm sức khỏe, 69,9% cần
có dụng cụ trang bị, bảo hộ khi lao động, 52,2% kiêng ngâm mình dưới nước
không đảm bảo vệ sinh, 51,8% kiêng làm việc trong môi trường độc hại.
Như vậy, phụ nữ hiện nay quan tâm đặc biệt quan tâm đến chế độ lao
động và nghỉ ngơi, rồi đến an toàn lao động.
3.2.3. Chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật
Trong số phụ nữ được hỏi, có đến 78,4% cho rằng trong một năm có bị
ốm ít nhất một lần thì có 24,2% để tự khỏi, 25,0% đến cơ sở y học cổ truyền,
96
56,4% đến các cơ sở khám chữa bệnh (bệnh viện, phòng khám). Chỉ có 8,7%
đến các thầy lang và 11,7% sử dụng các lá cây (thuốc nam) để chữa trị. Có
đến 22,7% tự điều trị bằng các phương pháp dân gian như cạo gió, xông
hơi.v.v...
Qua số liệu chúng tôi khảo sát cho thấy, khi ốm đau, bệnh tật, đa số
(56,4%) phụ nữ đến các bệnh viện, phòng khám và dùng thuốc Tây y, rồi đến
các cơ sở y học cổ truyền (25,0%) và tự điều trị bằng các phương pháp dân
gian (22,7%). Ngoài ra còn sử dụng thuốc nam (11,7%) và đến các thầy lang
(8,7%). Số phụ nữ để bệnh tự khỏi chiếm tỉ lệ tương đối cao: 24,2%. Như
vậy, đa số phụ nữ hiện nay đã quan tâm đến sức khỏe của mình. Họ đã kết
hợp cả hai phương pháp: chữa bệnh theo phương pháp của y học hiện đại và
truyền thống dân gian.
3.2.4. Chăm sóc sức khỏe sinh sản
Ngày nay, trong việc chăm sóc sức khỏe phụ nữ, vấn đề chăm sóc sức
khỏe sinh sản cũng được chị em lưu tâm rất nhiều, dần hình thành thói quen
tốt giúp họ có sức khỏe, nét trẻ trung và duyên dáng để góp phần thăng hoa
trong cuộc sống. Ngoài việc quan tâm đến kế hoạch hóa gia đình, sinh ít con,
điều trị các bệnh phụ khoa kịp thời… thì việc chăm sóc sức khỏe khi mang
thai, sinh con và sau sinh được chị em đặc biệt chú ý đến. Ngoài chế độ ăn đủ
chất dinh dưỡng, luyện tập khoa học thì họ còn chú ý đến những kiêng cữ
nhất định.
Tình trạng sức khỏe của phụ nữ khi mang thai và sau sinh đã được cải
thiện rất nhiều trong nhiều năm qua là kết quả của các hoạt động của hệ thống
y tế và bản thân nâng cao nhận thức của phụ nữ về vấn đề thực hành chăm sóc
sức khỏe [15].
Qua khảo sát, chúng tôi thấy, trong số 47,8% số phụ nữ được hỏi đã từng
97
trải qua ít nhất một lần sinh đẻ cho rằng họ thường đến trạm y tế (53,4%),
bệnh viện tuyến trên (40,4%), Chỉ có 4,1% vẫn có bà đỡ và 2,1% tự đỡ hoặc
sinh đẻ tại nhà.
Như vậy, khi sinh con, phụ nữ hiện nay chủ yếu đến các cơ sở y tế. Số
còn lại nhờ bà đỡ hoặc tự đỡ chiếm tỉ lệ không nhiều. Qua đây cho thấy, họ đã
quan tâm đến chăm sóc sức khỏe của mình khi sinh nở, mặc dù chưa phải tất
cả.
Việc chăm sóc sức khỏe sau sinh là một hiện tượng phổ biến của phụ
nữ Việt Nam. Hầu hết phụ nữ cho rằng, sau khi sinh phải ăn những thức ăn có
nhiều sữa cho con bú (85,2%), ăn những thức ăn nhanh phục hồi sức khỏe
(73,3%), ăn những thức ăn để giữ gìn dáng vóc (27,2%). Ngoài ra, họ còn áp
dụng những bài thuốc dân gian và thực hiện việc kiêng cữ theo kinh nghiệm
dân gian.
3.2.5. Phòng bệnh và rèn luyện sức khỏe
Ngăn ngừa bệnh là việc rất cần thiết và quan trọng hơn là để bệnh xảy
ra rồi mới trị bệnh, khi có dấu hiệu thì bệnh đã gây ra những rối loạn về tinh
thần và tàn phá về thể chất của con người, như vậy sẽ không tốt cho sức khỏe
và cơ thể chúng ta nên việc phòng bệnh là rất cần thiết cho mỗi chúng ta.
Nhận thức được điều đó, nhiều phụ nữ ngày nay áp dụng phương pháp phòng
bệnh qua chế chế độ ăn uống, rèn luyện thể thao và tìm hiểu tri thức chăm sóc
sức khỏe bằng tham gia chia sẻ tri thức trong các nhóm, câu lạc bộ hoặc đọc
tài liệu sách báo.v.v…
Về ăn uống theo một chế độ hợp lí, đầy đủ các thành phần thức ăn chính
yếu và đúng tỉ lệ. Ở phương pháp này, qua điều tra có 55,5% số phụ nữ được
hỏi quan tâm thường xuyên, 35,4% thỉnh thoảng quan tâm và 9,1% không chú
ý đến.
98
Về rèn luyện thể thao: Có 37,5% số phụ nữ được hỏi thường xuyên tập
thể dục, 44,9% thỉnh thoảng, 12,0% hiếm khi và chỉ có 5,6% không bao giờ
tập thể dục.
Bên cạnh hoạt động rèn luyện sức khỏe thông qua tập thể dục, trong
những năm gần đây phong trào tập dưỡng sinh dành cho những người ở độ
tuổi trung, cao niên phát triển khá mạnh góp phần vào việc cải thiện và duy trì
sức khỏe của người dân. Theo kết quả thăm dò, có 6,2% phụ nữ được hỏi
thường xuyên tham gia hoạt động tâp dưỡng sinh, 20,4% thỉnh thoảng tham
gia, 25,8% hiếm khi và 47,6% không bao giờ. Đối tượng tham gia tập dưỡng
sinh chủ yếu là phụ nữ sau tuổi 50, chiếm đến 85%. Bên cạnh đó, phương
pháp chăm sóc sức khỏe bằng cách thiền cũng có 11,2% thực hiện.
Tìm hiểu tri thức chăm sóc sức khỏe: Trong số phụ nữ được hỏi, có
15,8% thường xuyên tham gia các nhóm có sở thích về chăm sóc sắc đẹp và
sức khỏe, gồm các câu lạc bộ, nhóm như: Aerobic, Những người làm mẹ, Thể
dục nhịp điệu, Hội phụ nữ, Phụ nữ và sắc đẹp, Khiêu vũ, Tập dưỡng sinh…
Thông qua các câu lạc bộ, nhóm sở thích này, số phụ nữ thường xuyên chia sẻ
kinh nghiệm về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp chiếm 30,1%, thỉnh thoảng:
54,3%, hiếm khi: 9,4% và không bao giờ (6,2%). Tỷ lệ thường xuyên đọc tài
liệu về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp là: 31,7%, thỉnh thoảng: 52,8%, hiếm
khi: 11,4% và không bao giờ chỉ có 4,1%.
Qua số liệu điều tra chung cho thành thị và nông thôn về thực tế chăm
sóc sức khỏe của phụ nữ Việt Nam hiện nay, chúng tôi thấy, đa số chị em đã
quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, bệnh tật và sinh đẻ. Ngoài
ra, phụ nữ ngày nay đã áp dụng nhiều phương pháp để giữ gìn sức khỏe cho
mình như ăn uống đủ chất, thể dục thể thao và tham gia diễn đàn về sức khỏe,
đọc sách báo.v.v...
99
3.3. Tri thức dân gian trong việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ hiện nay
3.3.1. Những tri thức dân gian của người Việt trong việc chăm sóc sức
khỏe
Trong kho tàng tri thức dân gian người Việt Nam phải kể đến tri thức y
học dân gian. Có thể hiểu y học dân gian là toàn bộ những kinh nghiệm phòng
chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe có tính tập thể và truyền miệng
của nhân dân lao động, ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thủy, trải qua các
thời kỳ phát triển lâu dài trong những chế độ xã hội có giai cấp và tiếp tục tồn
tại trong thời đại hiện nay. Y học dân gian còn được gọi là kinh nghiệm dân
gian truyền khẩu. Những khái niệm này xuất hiện từ khi nào không rõ, nhưng
có lẽ sớm nhất cũng chỉ từ đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, khái niệm y học dân
gian rất ít được sử dụng, mà chủ yếu là dùng cụm từ "kinh nghiệm chữa bệnh
dân gian" [92].
Ở Việt Nam, nước ta có hệ thực vật vô cùng phong phú với trên 3000
loài cây có thể làm thuốc chữa bệnh. Nếu so sánh với các loài cây trên thế
giới đã biết thì ở Việt Nam chiếm 17%, tương đương 1/6 số lượng của toàn
thế giới. Kho tàng tri thức dân gian về cây thuốc phục vụ chăm sóc sức khỏe
của cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung rất phong phú [30]. Trong Danh
mục Thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành năm 2005 có 94 thuốc thành phẩm và
215 vị thuốc từ các loại nguyên liệu tự nhiên và 60 cây thuốc [90].
Như vậy, những bài thuốc chữa bệnh dân gian chủ yếu dựa vào tác
dụng của các loại nguyên liệu tự nhiên có sẵn, chẳng hạn:
Bảng 6: Một số nguyên liệu thường dùng để chăm sóc sức khỏe
Tên các loại nguyên liệu
Tía tô, bạc hà, ngải cứu, bưởi, chanh, sả, hương nhu, quế, cam Lá
100
Tên các loại nguyên liệu
thảo, bồ đề, chè, mít, lô hội, nha đam, mơ, trầu không, lá tắm,
diếp cá, rau má, hoắc hương, tre, bông lá đề, cúc tần, sương
xông, đinh lăng, hẹ, gừng, sả, kinh giới, lá lốt, rẻ quạt, hẹ,
lược vàng, sài đất…
Hoa Bưởi, cúc quỳ, đào, hoa hồng, hoa lan, hoa nhài, hoa oải
hương, loa kèn, thiên lý, nha đam, sen, quỳnh, đu đủ, hồng
bạch, khế, hồi, đại, anh túc, atiso,…
Quả Táo tầu, ổi, bí đao, quất, gấc, dưa chuột, bí đỏ, cà chua,
chanh, chuối, cam, dưa hấu, bơ, bồ kết, ớt, bí xanh, lê, táo,
mướp đắng, la hán, gạo, chuối,…
Tam thất, cà rốt, cải, khoai tây, khoai lang, cải trắng, cải Củ
đường, đậu, gừng, tỏi, mài, nghệ, sắn, sâm…
Cỏ tranh, mắt quỷ, cây gai, chanh, đinh lăng, rau má, hà thủ ô, Rễ
lá lốt, mướp đắng, sâm, tre, mít, ổi, cỏ vàng, dương xỉ
Con vật Bọ cạp, bọ ngựa, cá ngựa, gà, chim bồ câu, vịt, cua, tôm, cá
chép, rắn, lợn, giun đất, mèo đen, rết, thằn lằn, tắc kè…
Khác Mật ong, bột cam, sữa, trứng gà, sữa chua, cám gạo,…
(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)
Lý giải về việc sử dụng các sản phẩm tự nhiên nói trên từ góc độ y học,
cho thấy chúng có nhiều tác dụng trong việc chăm sóc sức khỏe. Dưới đây là
một số ví dụ cụ thể:
Hộp 4: Tác dụng chữa bệnh của một số loại cây
• Chanh: Có tác dụng thanh nhiệt, tiêu thực, chống viêm. Chanh có vị
101
rất chua nên mỗi lần không dùng nhiều, kể cả khi dùng ngoài hay uống trong.
Theo Tây y, axit Xitric có rất nhiều trong chanh, kết hợp với can xi thành
dung dịch hoà tan, có ích cho người bị tăng huyết áp, chữa sắc tố da trên
mặt. Chanh có vị chua nên cả Đông và Tây y đều khuyên thận trọng trong
trường hợp có viêm loét đường tiêu hoá. Vỏ quả chanh có tác dụng tiêu thực,
hoá đờm, chữa chứng ăn không tiêu, bụng đau đầy trướng, nôn mửa. Vỏ có
tính ôn nên có thể dùng quả chanh cắt khoanh lấy cả vỏ lẫn dịch cho uống
nóng để giải cảm, chẳng hạn như thả vào nước trà nóng. Theo Tây y, vỏ quả
chanh có tác dụng tiêu thực, tăng nhu động ruột, gây trung tiện, khử đờm.
Phần xốp trắng của vỏ cầm tiêu chảy do có pectin. Vỏ còn chứa canxipectat
và flavonoit tăng miễn dịch, chống xơ vữa mạch máu [10].
• Rau má: Là một loại rau thông dụng, có tác dụng sát trùng, giải độc,
thanh nhiệt, lương huyết. Ngoài ra, rau má cũng là một loại dược thảo có tính
bổ dưỡng rất cao, có nhiều sinh tố, khoáng chất, những chất chống oxy hoá,
có thể dùng để dưỡng Âm, cải thiện trí nhớ, làm chậm sự lão hoá, cải thiện vi
tuần hoàn và chữa nhiều chứng bệnh về da. Theo y học cổ truyền, rau má có
vị đắng, hơi ngọt, tính bình, vào can, tỳ, vị có tác dụng dưỡng âm, thanh
nhiệt, nhuận gan, giải độc, lợi tiểu. Rau má thường dùng để làm thuốc bổ
dưỡng, sát trùng, chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, mụn nhọt, rôm sẩy.
Từ những năm 1940, y học hiện đại bắt đầu nghiên cứu những tác dụng của
rau má. Rau má có những hoạt chất thuộc nhóm saponin (còn được gọi là
tripernoit) bao gồm asiaticosit, madecassosit, axít madecassic và axít asiatic.
Hoạt chất asiaticosit đã được ứng dụng trong điều trị bệnh phong và bệnh
lao. Người ta cho rằng trong những bệnh này, vi khuẩn dược bao phủ bởi một
màng ngoài giống như sáp, khiến cho hệ kháng nhiểm của cơ thể không thể
tiếp cận [32].
• Trái cây và các loại rau: Phụ nữ sau khi sinh con, nhu cầu vitamin và
102
khoáng chất của phụ nữ tăng lên. Để tránh mệt mỏi, kiệt sức và trầm cảm gây
ra do thiếu vitamin, phụ nữ sau sinh nên ăn các loại trái cây tươi và các loại
rau quả theo mùa nhiều lần trong ngày, bổ sung thêm nhiều chất dinh dưỡng
khác, nếu có thể ăn sống hoặc nấu chín tới để hấp thu hết tất cả tác dụng tốt
của chúng [6].
Theo các tri thức dân gian nói trên, có thể thấy khá nhiều là các bài
thuốc liên quan đến chăm sóc sức khỏe phụ nữ như vấn đề sức khỏe trước,
trong và sau sinh, các bài thuốc về phụ khoa, chăm sóc sức khỏe sắc đẹp của
phụ nữ bên cạnh các bài thuốc chung về xương khớp, thần kinh, tim mạch, tai
mũi họng, da, xoang, tiêu hóa, hô hấp…. Điều này cho thấy sự gần gũi và tầm
quan trọng của các bài thuốc dân gian đối với sức khỏe của phụ nữ và họ cũng
chính là đối tượng sử dụng nhiều nhất các bài thuốc này.
Khi chúng tôi hỏi về xu hướng phụ nữ ở Bắc Bộ vận dụng các tri thức
dân gian nói trên trong việc chăm sóc sức khỏe thì thu được kết qủa như sau:
tỉ lệ cho rằng vẫn còn phù hợp chiếm 72,2%, có 23,7% cho rằng đúng một
phần, chỉ có 1,8% cho rằng không còn phù hợp và 2,2% không có ý kiến.
Việc người phụ nữ Việt ở Bắc Bộ sử dụng các nguyên liệu tự nhiên có
sẵn trong việc chăm sóc sức khỏe rất gần gũi với kinh nghiệm của đồng bào
thiểu số ở Bắc Bộ.
Người Mường có truyền thống sử dụng cây thuốc để chữa bệnh từ lâu
đời. Khi ốm đau, người Mường không chỉ lo cúng bái mà còn biết tìm những
cây thuốc để chữa bệnh (những cây có tác dụng hạ nhiệt, giảm cảm: bạc hà,
chanh, tía tô..., hoặc những cây chữa bệnh mạo cảm, trúng gió: cúc tần, gừng,
hành, tía tô....). Hoặc khi bị ho, họ lấy 3 - 5 con sâu đục trong thân cây dâu,
nướng thành than, hòa vào nước cho tan rồi uống [46].
Đối với người Mường ở Hòa Bình, tri thức dân gian trong chăm sóc
103
sức khỏe và điều trị bệnh tật xuất phát từ quan niệm về bệnh, cơ chế bệnh của
bảy chứng bệnh (bệnh về hệ xương khớp, đau dây thần kinh, đường hô hấp,
tiểu tiện, tiêu hóa, ngoài da, phụ nữ, và cảm sốt). Để chữa các chứng bệnh
trên, người Mường chủ yếu sử dụng nguồn thuốc dân gian (thuốc nam) sẵn có
tại địa phương, ngoài ra một số có kết hợp với tân dược. Thuốc nam được sử
dụng dưới hai dạng: dùng trong và dùng ngoài. Trong đó, dùng trong dưới hai
hình thức uống và ăn, dùng ngoài dưới dạng bôi, xoa, đắp, tắm, xông,
chườm... Trong số 27 bài thuốc được sưu tầm của người Mường Hòa Bình thì
số lượng cây thuốc được sử dụng trong một bài ít nhất là 1 cây (chữa bệnh
đau túi trầu) và nhiều nhất là 21 cây (dùng cho phụ nữ sau sinh bị gầy yếu).
Trong 135 cây thuốc mà người Mường đang sử dụng thì có 107 cây (79,3%)
có nguồn gốc tự nhiên, mọc nơi hoang dại. Nhóm cây thuốc dùng chữa bệnh
cho phụ nữ chiếm số lượng lớn nhất là 29 cây (21,5%), tiếp đến là chữa
xương khớp và đường tiêu hóa (24 - 25 cây) [46].
Người Dao có nhiều tri thức dân gian phong phú và thiết thực về việc
sử dụng các loại thuốc dân gian trong chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh.
Chẳng hạn, sau khi sinh, sản phụ được quan tâm rất chu đáo, nhất là chế độ ăn
uống. Trước khi ăn người mẹ được uống thuốc do chính người dân tộc Dao tự
chế từ một số loại lá cây. Lý giải về việc sử dụng phổ biến tri thức dân gian,
tác giả Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý và cộng sự (1999) trong Văn hóa
truyền thống của người Dao ở Hà Giang đã lý giải: từ thời xa xưa người Dao
sống ở vùng sâu, nơi ít phát triển về y tế, nên y học dân dân gian luôn giữ vai
trò chủ đạo trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Thuốc dân tộc
của người Dao được chia thành ba loại: thuốc độc, thuốc bổ, và thuốc chữa
bệnh. Thuốc bổ và thuốc chữa bệnh dùng cho chăm sóc sản phụ và thai nhi và
người khi ốm đau bệnh tật. Ngoài các vị thuốc là cây, cỏ, rễ, lá, củ... còn các
bộ phận quý hiếm của các con vật săn bắt được [40]. Người phụ nữ Dao
104
Tuyển khi mang thai được khuyến khích làm các việc nhẹ và thường xuyên
ăn các loại rau xanh, thường dùng các món ít mỡ như cá, gà, vịt hoặc
xương lợn hầm. Đây là những món ăn có nhiều dưỡng chất, có thể bổ sung
một lượng vi chất đầy đủ đảm bảo cho người mẹ và thai nhi phát triển tốt.
[78, tr.73-77]. Sau khi sinh con, sản phụ phải kiêng ăn các món xào, rán,
hành, tỏi, ớt, cơm cháy vì sợ bị mất sữa. Ba ngày sau khi đẻ người mẹ có
thể ăn được thịt gà non. Người phụ nữ sau khi sinh được tắm một loại
thuốc lá cổ truyền dân tộc. Sau khi tắm lá thuốc, cơ thể người sản phụ phục
hồi rất nhanh, các mạch máu và khí huyết lưu thông nên việc cung cấp sữa
cho đứa trẻ sơ sinh cũng dồi dào. Sau khi tắm lá thuốc, sản phụ không cần
phải kiêng gió, kiêng nước mà có thể tự mình làm vệ sinh cá nhân mà
không sợ bị cảm hàn [78, tr.107-109].
Khi có mang, người phụ nữ Sán Dìu được bồi dưỡng nước dừa, trứng
gà, trứng ngỗng. Khi bị động thai thì gia đình sẽ lấy một số lá thuốc trong
rừng rửa sạch sau đó vò với nước đun sôi để nguội, cho uống từ hai đến ba
lần trong ngày [113, tr.22-26].
Sau khi sinh, nếu người phụ nữ Phù Lá thiếu sữa thì người ta nghiền
bột gạo tẻ nấu loãng cho trẻ ăn và kết hợp dùng một số loại thuốc làm tăng
bầu sữa cho người mẹ như: lấy hoa và rễ cây đu đủ đồ hấp cách thủy cho
người mẹ ăn; nếu không có hoa thì người ta lấy quả đu đủ xanh (để nguyên
vỏ) thái thành miếng nhỏ vừa miệng ăn, cho một ít mỡ để nấu canh xương,
rắc hạt tiêu cho người đẻ ăn trong bữa cơm để làm tăng khả năng tiết sữa
[17, tr.66-67].
Từ sự trình bày trên, chúng tôi thấy quan niệm và việc chăm sóc sức
khỏe của phụ nữ Việt ở châu thổ Bắc Bộ có nhiều điểm giống với quan niệm
và việc chăm sóc sức khỏe của phụ nữ các dân tộc thiểu số trong vùng. Họ
105
đều sử dụng các loại hoa, lá, quả, củ... trong tự nhiên để tạo ra các bài thuốc
hoặc các liệu pháp khác như đánh gió, bấm huyệt, mát - xa... để chăm sóc sức
khỏe và điều trị ốm đau (trừ cấp cứu). Điều này đặc biệt phổ biến ở khu vực
nông thôn châu thổ Bắc Bộ. Có thể lý giải đây là khu vực hệ thống y tế/cơ sở
chăm sóc sức khỏe chưa phát triển (giống như ở các vùng mà dân tộc Dao,
Mường sinh sống). Bên cạnh đó, xu hướng kết hợp với y học hiện đại (dùng
các loại tân dược, đi bệnh viện) dần dần phổ biến hơn. Việc giáo dục, phổ
biến, bảo tồn các tri thức dân gian về chăm sóc sức khỏe ở khu vực châu thổ
Bắc Bộ cũng chủ yếu thông qua truyền miệng giữa các thế hệ và qua kinh
nghiệm là chính, ngoại trừ một số cá nhân (thầy thuốc, thầy lang) có am hiểu
và ghi chép để hành nghề. So với người phụ nữ Việt, đồng bào các dân tộc
thiểu số phía Bắc cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc sức khỏe
đối với người phụ trước và sau khi sinh nở; đặc biệt việc tắm nước lá của
người Dao Tuyển, người Mường là một nét riêng độc đáo.
Như trên đã trình bày, chúng tôi đã tiến hành điều tra ở tám tỉnh, thành
vùng châu thổ Bắc Bộ. Có đến 72,6% phụ nữ được hỏi vẫn sử dụng phương
pháp chăm sóc sức khỏe dân gian để điều trị khi có người thân bị ốm. Lý do
giải thích thực tế này như sau: 76,4% cho rằng các nguyên vật liệu dễ kiếm,
sẵn có; 49,5% cho rằng giá rẻ, phù hợp với điều kiện thu nhập của gia đình;
61,9% nhận thức nếu biết cách điều trị sẽ khỏi không gây hại sau này; 35,6%
sử dụng vì thấy mọi người khuyên nên dùng; 37,0% được bác sỹ, người có
chuyên môn chỉ dẫn; 9,7% thấy người khác làm nên làm theo; 7,9% do không
có cơ sở y tế ở gần để điều trị.
Như vậy, về cơ bản đều nhận thấy đây là những phương pháp cần thiết
hiện nay để giữ gìn và chăm sóc sức khỏe của phụ nữ. Điều này phù hợp với
một nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới khi cho rằng có tới 80% dân số thế
giới hưởng ứng việc chăm sóc sức khoẻ bằng các thuốc có nguồn gốc từ thảo
106
dược bởi nó không có hoặc có rất ít tác dụng không mong muốn. Còn ở Việt
Nam, trong Danh mục Thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành năm 2005 có 94
thuốc thành phẩm và 215 vị thuốc từ các loại nguyên liệu tự nhiên và 60 cây
thuốc [90].
Các tài liệu nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe phụ nữ theo kinh nghiệm
dân gian thường đề cập đến chủ yếu là giai đoạn mang thai, sinh con và sau
sinh. Bởi lẽ trong suốt thời kỳ mang thai, cơ thể của người phụ nữ có những
thay đổi quan trọng có thể nhìn thấy được như: tăng cân, tăng kích thước, thể
tích của vú. Ngoài ra còn những biến đổi khác khó nhận thấy hơn như hệ tuần
hoàn, hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu... Do vậy, việc chăm sóc sức khỏe thời kỳ này
rất quan trọng đối với người phụ nữ nhằm đảm bảo thể lực, dinh dưỡng và các
điều kiện để sinh nở được an toàn. Các tài liệu về lâm sàng trong y học chỉ ra
sự thay đổi về cơ thể của phụ nữ qua từng tháng [95]. Đây cũng là thời kỳ
người phụ nữ dễ mắc các bệnh. Tại Việt Nam, mang thai là một hoạt động có
tầm quan trọng cơ bản về mặt xã hội, chính trị và tâm linh học [80]. Do vậy,
trong các kinh nghiệm dân gian, việc chăm sóc sức khỏe của phụ nữ có liên
quan đến nhiều vấn đề: dinh dưỡng và cả tâm linh. Chẳng hạn, trong thời kỳ
bụng mang dạ chửa, không được đi đứng vội vàng, không được nằm võng
(điều này có lý bởi các hành động ấy dễ sảy thai), hay cho rằng nên ăn trứng
gà luộc vừa trắng bên ngoài lại hồng bên trong (ta quen gọi lòng đào trứng
gà), thì con sinh ra sẽ có nước da trắng trẻo, hồng hào. Hoặc cách đứng ngồi
cũng được xem là có ảnh hưởng đến sự phát triển của con cái sau này. Vì vậy,
người xưa thường cho rằng trong suốt thời gian thai nghén người đàn bà phải
đứng ngồi ngay ngắn, có như thế sau này con mới trở thành người ngay thẳng.
Bà mẹ tương lai tránh nhìn những cảnh không hay, tránh nghe những chuyện
không đứng đắn, không tốt, để cho con sau này thành người đàng hoàng, tử
tế. Người phụ nữ mang thai thường được cho ăn đu đủ, vừa ngăn táo bón, vừa
107
tin tưởng rằng con mình sau này sẽ đầy đủ. Dân gian còn buộc người có thai
kiêng ăn cua, vì cho rằng cua là loài bò ngang, ăn cua sẽ bị đẻ ngang, ăn quả
chuối sinh đôi (hai quả chuối dính liền nhau) sẽ bị sinh đôi. Không cho sò, ốc,
bởi những giống này tiết ra nhiều chất nhờn. Nếu người mẹ ăn trai sò ốc hến
thì con đẻ ra sẽ bị nhiều nhớt dãi [95, tr. 58].
Khi sinh nở, phụ nữ phải nằm ở buồng kín trong suốt thời gian ở cữ và
còn kéo dài đến khi đứa trẻ đầy tháng, không đụng chạm vào nước lạnh, phải
nằm than lửa, phải xoa nghệ khắp người, ăn các loại thức ăn mặn, như cá
bống kho tiêu, mắm cái kho muối tiêu, không được ăn các thứ thức ăn loãng,
như, cháo, canh..; thức uống là nước vỏ dền, hoặc nước lá vằng (nên mới có
câu: “Mẹ sinh mang nặng đẻ đau/Ăn cay uống đắng biết bao ân tình”) [90].
Cho đến nay, nhiều kinh nghiệm dân gian của người xưa vẫn chưa thể
khẳng định về mặt khoa học là tốt hay không tốt. Như đã đề cập bên trên,
ngoài yếu tố chăm sóc sức khỏe, các tri thức dân gian này còn mang cả ý
nghĩa về mặt xã hội, văn hóa tâm linh nên cho đến nay còn rất nhiều người
vận dụng.
Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát thực tế về các phương pháp kiêng cữ
mà hiện nay phụ nữ biết đến và vẫn còn được áp dụng, thì có 77,3% số phụ
nữ được hỏi cho rằng phải thực hiện việc “kiêng cữ” trong quá trình sinh nở.
Kết quả thể hiện trong bảng số liệu dưới đây:
Bảng 7: Những hình thức “kiêng cữ” sau khi sinh của phụ nữ
Các hình thức kiêng Tỷ lệ (%)
Không quan hệ tình dục 69,9
Không khâu vá, thêu thùa 39,6
Không dự đám ma 66,0
108
Các hình thức kiêng Tỷ lệ (%)
Không đến chỗ đông người 34,7
Không ra ngoài gió hoặc phải có bông tai 54,9
Khác 6,3
(Nguồn: Số liệu khảo sát của NCS, 2013)
Giải thích về việc “kiêng cữ” trên, qua phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm
chúng tôi được biết chị em phụ nữ được nghe từ lời khuyên của những người
đi trước. Theo lý giải, nếu kiêng cữ tốt sau này sẽ tránh được những hậu quả
không hay về mặt sức khỏe. Chẳng hạn, nếu kiêng gió sau này sẽ không bị ù
tai, hoặc nếu mặc ấm, sau này sẽ không bị nổi gân tay, gân chân… Hoặc
kiêng ăn rau cải nếu không sẽ đi giải nhiều lần trong ngày.
“Như tôi đây, đẻ xong ra ngoài gió sớm nên mới ngoài 40 tuổi mà cứ
hễ có gió là ù tai” (Phụ nữ, 48 tuổi, Ninh Bình).
“Còn tôi thì sinh vào ngày mùa không mặc áo dài, sau này cứ đến ngày
mùa là người lại nổi mẩn lên, cũng chỉ tại mình kiêng không tốt” (Phụ nữ 52,
tuổi, Ninh Bình).
Các tục lệ kiêng này được nhắc đến nhiều trong các tài liệu, sách về
sinh nở, song giải thích một cách có khoa học thì cho đến nay vẫn còn nhiều
tranh luận.
“Thực ra thì thấy các cụ nói như thế, và mình cũng ngẫm từ bản thân
mình thì bảo các con khi sinh nở kiêng cho cẩn thận chứ bảo tại sao hay giải
thích thì chúng tôi cũng không biết thế nào” (Phụ nữ, 46 tuổi, Nam Định).
Sau khi sinh, phụ nữ thường gặp một số chứng bệnh như chóng mặt,
đau bụng, chân tay tê dại... Vì vậy, ngoài việc thực hiện những “kiêng cữ” sau
sinh, nhiều phụ nữ còn sử dụng những bài thuốc dân gian để giúp họ thoát
109
khỏi những căn bệnh đó mà lại không ảnh hưởng hay có tác dụng phụ gì đối
với người mẹ và đứa trẻ. Khi được hỏi về việc sử dụng những bài thuốc dân
gian sau khi sinh, có 49,3% số phụ nữ cho rằng có sử dụng. Chẳng hạn:
Chữa chứng chóng mặt sau khi sinh: Lá ích mẫu tươi giã vắt lấy nước
cốt, uống sống.
Chữa chứng sau khi đẻ không ra được mồ hôi: Lá ích mẫu tươi giã vắt
lấy nước cốt, đun sôi, để nguội, pha thêm một thìa rượu cho uống.
Chữa đau bụng sau khi mới sinh: Lá ngải cứu và gừng giã nhỏ, sao
nóng, buộc lên rốn. Hơi ngải và gừng ngấm vào rốn sẽ cắt được cơn đau.
Phòng huyết ứ, khỏi đau bụng, ăn ngon miệng và có nhiều sữa: Lá
móng tay tươi 30g hoặc khô 12g; gừng khô đốt cháy thành than 12g. Hai thứ
đem sắc với bốn bát nước còn ba bát, chia uống ba lần trong ngày. Uống từ
3 - 5 ngày liên tục.
Chữa sản hậu tê thấp, chân tay tê dại: Hoa chuối tươi 1kg (chuối hột,
chuối lá, chuối tiêu đều được), thái nhỏ, sao vàng, úp xuống đất cho nguội, rồi
cho vào ấm đất sắc lấy nước đặc, uống nhiều lần trong ngày, bã dùng để đắp
vào những nơi tê đau. Nếu không thấy có những triệu chứng khác thường, có
thể uống liên tục trong vài ngày cho tới khi khỏi bệnh thì thôi.
Chữa sa tử cung: Hoa chuối tiêu (nhặt những hoa đã rơi xuống đất) sao
tồn tính, tán nhỏ, ngày uống hai lần, mỗi lần một thìa canh, khi uống dùng
nước sôi để chiêu thuốc. Hoặc, hàng ngày dùng 60g củ chuối tươi sắc uống
nhiều lần.
Chữa chứng mồ hôi ra nhiều sau khi đẻ: Rau sam giã nát, vắt lấy một
bát nước cốt, cho thêm vài hạt muối vào uống.
Sản hậu chân tay phù thũng: Hạt bí ngô 60g, sao chín rồi thêm nước
vào sắc uống.
110
Sản hậu táo bón: Bột quả bồ kết 3g (quả bồ kết sao vàng, tán mịn thành
bột) trộn với rượu đắp lên rốn rồi cắt một miếng cao dán lên để cố định. Sau
khoảng một giờ, bệnh nhân bắt đầu trung tiện được và khoảng bốn giờ sau là
đại tiện được.
Một số phương pháp chăm sóc sức khỏe, đặc biệt việc “kiêng cữ” và sử
dụng một số bài thuốc dân gian khi sinh vẫn tiếp tục được duy trì, song cũng
có một số phương pháp nay đã ít người sử dụng hơn. Sự thay đổi đó là do
hiện nay y học phát triển hiện đại, xã hội văn minh và điều kiện sống tốt hơn.
Ở góc độ y học có sự khác biệt nhất định khi giải thích về quan niệm và
thực hành “kiêng cữ”. Y học phương Tây cho rằng, tập quán trong thời
gian kiêng cữ sau sinh không tắm rửa, gội đầu là tập quán có liên quan mật
thiết đến điều kiện sinh hoạt thấp. Môi trường sinh hoạt trước đây không tốt,
không thể mang đến cho các bà mẹ sau sinh một phòng tắm và thiết bị giữ ấm
tốt, nước sử dụng cũng đều là nước giếng và nước sông hồ. Để tránh các bà
mẹ sau sinh bị lạnh, hoặc tránh nhiễm trùng các vết thương do vi khuẩn nước
giếng, nước sông gây ra nên mới có tập quán không thể tắm gội trong thời
gian kiêng cữ. Nhưng điều kiện sinh hoạt hiện nay không giống như trước kia
nữa, hiện nay các bà mẹ sau sinh có môi trường tắm gội giữ ấm rất tốt, chỉ
cần sau khi tắm gội nhanh chóng lau khô, sấy khô, như thế trong thời gian
kiêng cữ sau sinh của các bà mẹ không cần phải hạn chế tắm rửa, gội đầu.
Tuy nhiên, bác sỹ đông y dày dặn kinh nghiệm vẫn khuyên rằng: Trong hai
tuần sau khi sinh, thể lực người mẹ vẫn còn yếu, trong thời gian kiêng cữ đợi
để sau hai tuần thể lực hồi phục, vào thời gian thích hợp nhất mới bắt đầu việc
tắm gội kỹ. Trong vòng hai tuần sau khi sinh, các bà mẹ có thể sử dụng gừng
để nấu nước tắm hoặc gội đầu, song cần phải nhớ rõ sau khi tắm gội xong
phải lau khô cơ thể, sấy khô tóc không được để bị lạnh.
Truyền thống kiêng cữ sau khi sinh được truyền từ đời này sang đời
111
khác là một phương pháp quý báu giúp các bà mẹ nhanh trong phục hồi sau
sinh. Song, phương thức ở cữ truyền thống là được xây dựng trên cơ sở cuộc
sống trước đây, so với trình độ cuộc sống hiện nay đã có một số thay đổi, rất
nhiều quan niệm đã thay đổi.
Như vậy, về cơ bản các tri thức và phương pháp chăm sóc sức khỏe của
phụ nữ thường do người thân trong gia đình truyền đạt lại. Đây là nét đặc
trưng trong việc phổ biến, duy trì và bảo tồn của tri thức dân gian ở nước ta.
Trong việc chữa bệnh hiện nay, thỉnh thoảng cũng có trường hợp bệnh
viện công không chữa được, người ta đã tìm đến các bài thuốc dân gian và đã
có một số trường hợp khỏi bệnh. Cụ Nguyễn Văn X, 80 tuổi, ở Ninh Thuận,
mắc bệnh ung thư. Bệnh viện điều trị không có kết quả, người bệnh uống loại
dược liệu của đồng bào thiểu số và hiện nay khỏe mạnh. Cụ đã mách phương
thuốc này cho chị Đặng Thị Y, 45 tuổi ở tỉnh Điện Biên và bà Nguyễn Thị N,
53 tuổi ở Thái Nguyên. Mỗi đợt dùng thuốc kéo dài một năm, tiền thuốc hết
khoảng 23 triệu đồng. Đến nay, chị Đặng Thị Y đã hết tế bào ác tính; còn bà
Nguyễn Thị N sau hai năm ổn định thì bây giờ lại tái phát. Như thế là phương
thuốc dân gian có thể hợp với người này mà không hợp với người kia. Khi
dùng nó, người ta rất tin, không cần phải phân tích, giải thích gì hết. Một
trường hợp khác, bà Lê Thị M, 68 tuổi, ở Thái Bình, bị bệnh hoại thư, bệnh
viện không chữa khỏi. Một bác sĩ ở phòng khám tư đã điều trị bằng cách cho
bệnh nhân uống nhiều nước ép từ rau muống và tiêm kháng sinh liều cao. Kết
quả bà M khỏi bệnh (Tài liệu điều tra của NCS, 2016).
3.3.2. Đánh giá vị trí, vai trò của tri thức dân gian trong việc chăm sóc sức
khỏe hiện nay
Qua khảo sát thực tiễn ở trên, cho thấy tri thức dân gian rất có tiềm
năng trong việc vận dụng và kết hợp với tri thức hiện đại giúp cho người phụ
nữ thêm sự lựa chọn trong chăm sóc sức khỏe. Có được tiềm năng đó là do
112
các tri thức này có vị trí, vai trò lớn đối với môi trường, xã hội, kinh tế, sức
khỏe.v.v…
Nước ta có hệ thực vật vô cùng phong phú với trên 3000 loài cây có thể
làm thuốc chữa bệnh. Nếu so sánh với các loài cây trên thế giới đã biết thì ở
Việt Nam chiếm 17% tương đương 1/6 số lượng của toàn thế giới. Kho tàng
tri thức dân gian về cây thuốc phục vụ chăm sóc sức khỏe của cộng đồng dân
tộc Việt Nam nói chung rất phong phú [30]. Trong Danh mục Thuốc thiết yếu
Việt Nam ban hành năm 2005 có 94 thuốc thành phẩm và 215 vị thuốc từ các
loại nguyên liệu tự nhiên và 60 cây thuốc [90].
Như vậy, các sản phẩm, nguyên liệu tự nhiên (từ thực vật và động vật)
trong các bài thuốc trong chăm sóc sức khỏe của người phụ nữ còn khá phổ
biến, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.Trong quá trình tồn tại và tiến hóa, con
người dựa vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên, lấy tự nhiên phục vụ con người. Để
thể hiện sự hòa hợp giữa con người với điều kiện tự nhiên, con người cần có
những biện pháp ứng xử với môi trường tự nhiên, góp phần bảo vệ môi
trường.
Về mặt sinh và xã hội: Xu hướng quan tâm đến chăm sóc sức khỏe và
chăm sóc sắc đẹp của người phụ nữ Việt trong xã hội hiện nay ngày càng lớn
bởi sức khỏe và sắc đẹp không chỉ có có giá trị về mặt sinh học (khỏe gắn liền
với đẹp) mà còn có giá trị về mặt xã hội. Một người phụ nữ có một cơ thể
khỏe mạnh sẽ mang lại tinh thần sảng khoái, ở góc độ sinh học thì tinh thần
tốt sẽ giúp cho người phụ nữ thấy vui vẻ, thể hiện được nét quyến rũ, duyên
dáng hơn, giúp họ tự tin trong ứng xử, thăng hoa trong công việc, tạo uy tín,
vị thế của mình trong xã hội.
Về mặt kinh tế: Xu hướng người phụ nữ lựa chọn phương pháp chăm
sóc chăm sóc sức khỏe theo dân gian trong một số trường hợp mang lại hiệu
quả cao, đồng thời mang lại lợi ích về mặt kinh tế: tiết kiệm, chi phí thấp, dễ
113
kiếm, dễ tìm, phương pháp đơn giản.
Về mặt sức khỏe: Trong bối cảnh tình trạng lạm dụng các hóa chất, các
nghiên cứu thực nghiệm về ứng dụng các phương pháp chăm sóc sắc đẹp và
chăm sóc sức khỏe theo dân gian ngày càng chứng minh đây là những phương
pháp tốt, an toàn để giúp phụ nữ nói riêng và con người nói chung vận dụng.
114
Tiểu kết chương 3
Sức khỏe là một trong những vốn quý nhất của con người và cộng
đồng. Bên cạnh những quan niệm chung, người Việt có một số quan niệm
riêng về sức khỏe của phụ nữ và việc chữa bệnh đối với họ. Tuổi 17 là tuổi
người phụ nữ khỏe mạnh nhất, đẹp đẽ nhất. Không chỉ có người Việt, nhiều
dân tộc khác như người Mường, người Thái cũng đúc kết như vậy. So với phụ
nữ Trung Bộ và Nam Bộ, người phụ nữ Việt khỏe mạnh ở Bắc Bộ theo quan
niệm dân gian không được khuyến khích vượt quá giới hạn so với sức khỏe
của nam giới. Cả người phụ nữ Việt và những người phụ nữ các dân tộc thiểu
số Bắc Bộ đều có những kinh nghiệm dân gian, bài thuốc dân gian, kiêng kị
dân gian trong việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau, đặc biệt khi mang thai,
khi sinh nở và sau khi sinh nở. Trong điều kiện xã hội ngày nay, mức sống
ngày càng nâng cao, người phụ nữ Việt có nhiều điều kiện để chăm sóc sức
khỏe hơn trước. Nhiều chị em được khám sức khỏe định kỳ, nhiều người
luyện tập sức khỏe thường xuyên ở các câu lạc bộ rèn luyện thể hình hoặc
tham gia các môn thể thao phù hợp. Các loại thực phẩm chức năng và nhiều
loại thuốc đắt tiền dành cho phụ nữ liên tục được quảng cáo. So sánh giữa phụ
nữ ở đô thị, công sở với phụ nữ ở khu vực lao động tự do và nông thôn, phụ
nữ ở đô thị và công sở được chăm sóc sức khỏe thường xuyên hơn, đầy đủ
hơn. Trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, khi được trả lời phỏng vấn,
72,2% số chị em cho rằng các tri thức dân gian vẫn còn phù hợp, 23,7% cho
rằng còn phù hợp một phần, 1,8% đánh giá không còn phù hợp và 2,2%
không có ý kiến. Đa số phụ nữ vẫn sử dụng phương pháp dân gian để điều trị
khi người thân bị ốm bởi các nguyên vật liệu dễ kiếm, giá rẻ; cá biệt có nơi
chị em sử dụng các bài thuốc dân gian chỉ vì nơi họ sống không có cơ sở y tế
ở gần để điều trị. Tuy nhiên, các bài thuốc dân gian chỉ được sử dụng để bồi
bổ sức khỏe, điều trị những bệnh thông thường, bệnh mãn tính, hoặc xử lý
115
ban đầu. Có không ít bệnh nếu không có sự can thiệp của y học hiện đại sẽ
không chữa được. Ngày nay, xu hướng chăm sóc sức khỏe, kết hợp giữa y
học dân gian và y học hiện đại tương đối phổ biến. Đấy chính là lý do mà các
tri thức dân gian của người Việt cũng như của các dân tộc thiểu số được bảo
tồn và nghiên cứu.
116
CHƯƠNG 4
NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN
4.1. Mối quan hệ giữa sắc đẹp và sức khỏe
Sức khỏe và sắc đẹp là hai vấn đề khác nhau, nhưng chúng lại hay đi
với nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau. Thông thường người ta hay nói đến người
đẹp trước hết là phải thể hiện ở nước da, thần thái, sự sung mãn…Điều đó
cũng có ý nghĩa là có sức khỏe thì mới có vẻ đẹp bền vững và ổn định. Trong
tục ngữ Việt Nam khi nhắc đến “cái răng, cái tóc là gốc/ góc con người” hàm
ý theo cả hai nghĩa là nói đến sức khỏe và vẻ đẹp của con người. Người phụ
nữ đẹp là người có hàm răng đều đặn, chắc khỏe. Khi họ có chiếc răng duyên
thì về tổng thể, hàm răng họ vẫn là hàm răng đều. Nếu răng sâu, răng yếu, họ
không khỏe, thận bị yếu. Những người có mái tóc dài, mượt cũng là những
người có sức khỏe tốt. Trong trường hợp này, cái răng, cái tóc như là những
điểm nhấn thể hiện nét duyên, cách trang điểm của con người, nhưng cũng
cho thấy ở góc độ sức khỏe, cái răng, cái tóc như là chỉ báo về mặt sức khỏe
(răng và tóc có khỏe, có đẹp thì người phụ nữ mới khỏe).
Y học đã đưa ra những bằng chứng rằng chỉ số giữa các vòng của cơ thể
(eo và mông) có ảnh hưởng đến sức khỏe con người, những người nào vượt
quá giới hạn bình thường (của nam hoặc nữ) đều có nguy cơ bệnh tật cao hơn.
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn cho thấy tỷ số vòng eo trên vòng
mông không chỉ là dấu hiệu của sức khỏe chúng còn thông báo sức hấp dẫn
của phụ nữ. Điều này cũng đã được ca dao, tục ngữ Việt Nam nhắc đến khi
cho rằng một trong những tiêu chuẩn quan trọng của phụ nữ đẹp là vòng eo
“thắt đáy lưng ong”.
117
Nói đến người phụ nữ, trước hết là nói sức khỏe tình dục và sức khỏe
sinh sản. Người Trung Quốc cổ đại đã quan niệm như vậy. Quan niệm này thể
hiện ở ngay trong chữ viết của họ. Chữ 好 (hảo) nghĩa là tốt, bao gồm chữ 女
(nữ) và chữ 子 (tử), người đàn bà sinh con là một điều tốt [112, tr.114]. Ở Việt
Nam thời phong kiến, một trong những chức năng hàng đầu của người phụ nữ
là sinh nở. Tục ngữ Bắc Bộ có câu “Lấy vợ đàn bà (hoặc: hiền hòa) làm nhà
hướng nam”, có nghĩa là vợ phải là đàn bà, phải sinh đẻ được. Cả Trung Quốc
và Việt Nam thời phong kiến đều quy định rằng, người đàn ông có bảy cớ (thất
xuất) để có thể bỏ vợ: vô tử; dâm dật; bất sự cậu cô; khẩu thiệt; đạo thiết; đố
kỵ; ác tật. Có nghĩa là khi người vợ phạm vào một trong bảy điều: không có
con; dâm đãng; không thờ cha mẹ chồng; lắm mồm; trộm cắp; ghen tuông; có
ác tật thì người chồng có quyền bỏ vợ [7, tr.501]. Như vậy không sinh được
con là lí do đầu tiên người phụ nữ bị người chồng lìa bỏ. Người phụ nữ không
con bị thành kiến là người cô độc, cô quả. Ca dao từng ví người đẹp không con
với “hoa nở trên non một mình”.
Nói đến sức khỏe của người phụ nữ còn nói đến khả năng tình dục.
Trong dân gian người Việt lưu truyền một bài thơ chữ Hán và những lời ca
dao khá đồng nghĩa về mối liên hệ giữa vẻ bề ngoài (thì được cho đẹp) và khả
năng làm tình của người phụ nữ. Bài thơ đó như sau:
Hồng diện đa dâm thủy
Đa mi tức đa mao
Chiết yêu chân đại huyệt
Trường túc bất chi lao.
Những lời ca dao đó là:
Ứng với câu thơ thứ nhất:
118
Những người má đỏ hồng hồng
Nước l... tát mấy gầu sòng cho vơi.
Ứng với câu thơ thứ hai:
Những người mày dậm mi dài
Lông l… đốt được một vài gánh tro.
Ứng với câu thơ thứ ba:
Những người thắt đáy lưng ong
Lỗ l… vừa rộng bằng nong chăn tằm.
Ứng với câu thơ thứ tư:
Những người chân cẳng quềnh quàng
Một đêm đánh ngã vài chàng trai tơ.
Những người má đỏ, lưng ong, chân dài là những người đẹp, cũng là
những người có năng lực làm tình dồi dào, mạnh mẽ. Đàn ông đích thực là
người biết làm tình và làm tình mạnh mẽ. Họ cần và mê mệt trước những
người phụ nữ như vậy. Dũng mãnh như Lã Bố (trong Tam quốc diễn nghĩa)
không chết trên chiến trường, nhưng chết vì nghe lời vợ (Điêu Thuyền), vì
nàng đẹp và biết chiều chuộng trong chuyện chăn gối. Trên lý thuyết, giai cấp
thống trị xưa lên án những người phụ nữ “dâm”, có nghĩa là chê bai, đánh giá
thấp những người đằm thắm trong chuyện chăn gối, lẳng lơ, ngoại tình. Còn
trong thực tế, chưa thấy một đấng quân vương nào, một ông quan mũ cao áo
dài nào lại lên án người vợ đẹp, giỏi làm tình của họ.
Trong kho tàng ca dao người Việt, có một lời ca ngợi sự tháo vát, đảm
đang, chiều chồng thương con của người phụ nữ bình dân. Chị đã vượt qua
thử thách oái oăm một cách đầy đủ bản lính và bao dung với tất cả:
119
Đang cơn lửa tắt cơm sôi
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã cháy lên
Lợn no, con nín, tòm tem thì tòm [59, tr.801].
Nhà thơ Xuân Diệu (1916 – 1985) đã so sánh lời ca dao này với bài thơ
nôm sau đây của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:
Hỡi chị em ơi có biết không?
Một bên con khóc, một bên chồng.
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông.
Tất cả những là thu với vén,
Vội vàng nào những bống cùng bông.
Chồng con cái nợ là như thế,
Hỡi chị em ơi có biết không? [25, tr.441]
Nhà thơ so sánh: Lời ca dao không miêu tả tỉ mỉ, đi sâu như lời bài thơ
của thi sĩ họ Hồ, nhưng thử thách đối với người phụ nữ trong ca dao “nguy
kịch” hơn thử thách đối với người phụ nữ trong bài thơ vừa dẫn [25, tr.442].
Không chỉ có người Việt, người Mường cũng quan niệm người phụ nữ
đẹp cũng là người phụ nữ khỏe mạnh, có khả năng sinh sản tốt: “Tìm vợ xem
vú, mua lợn nái xem bầu sữa”, “To vú bụ con” [35, tr.199, 207]. Cả người
Việt và người Mường đều có những câu tục ngữ coi việc người đàn ông làm
tình với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ có mang là một trong những tiêu chí của
1 Cuốn sách của Cao Sơn Hải giới thiệu tục ngữ của người Mường Thanh Hóa. Theo giới thuyết của chúng
tôi, Bắc Bộ không kéo dài hết Thanh Hóa. Tuy nhiên, giữa Mường Hòa Bình và Mường Thanh Hóa có kho
tàng tục ngữ chung. Chứng cớ là trong sách của mình, Cao Sơn Hải dẫn cả tục ngữ nói về các vùng Mường
không ở Thanh Hóa: “Bi, Vang, Thàng, Động”.
sự sung sướng [35, tr.211]1.
120
Tóm lại, trong quan niệm dân gian cũng như trong quan niệm bác học,
người phụ nữ đẹp cũng là người phụ nữ khỏe, trong sức khỏe của người phụ
nữ có sức khỏe sinh sản và năng lực làm tình.
4.2. Sự khác nhau giữa tác giả dân gian và tác giả của dòng văn học viết
trong quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ
Trong mỗi một nền văn học dân tộc khi đã trưởng thành đều có hai
dòng văn học. Đó là dòng văn học dân gian (còn được gọi là văn học truyền
miệng, văn chương truyền khẩu, văn học thông tục, văn học bình dân), và
dòng văn học thành văn (còn gọi là văn học viết, văn chương bác học, văn
học tinh anh, văn học cao nhã).
Ở nước ta, đối với người Việt, văn học dân gian ra đời sớm. Đến thời
quân chủ độc lập (939-1884), văn học dân gian người Việt đã hết sức phong
phú về số lượng và thể loại. Cũng trong thời kì này, văn học thành văn đạt
được những thành tựu rực rỡ với những tác gia Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị
Điểm, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuyến,… Trong thời kỳ văn học này, nếu như ở dòng văn học dân
gian, người phụ nữ cùng với vẻ đẹp và sức khỏe của họ được quan tâm phong
phú, đa chiều cạnh bao nhiêu thì ở dòng văn học viết vấn đề này khá thưa
thớt, nếu không muốn nói từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII, khá vắng
bóng (trừ trường hợp Truyền kỳ mạn lục (thế kỉ XVI) của Nguyễn Dữ).
Chỉ đến Hồ Xuân Hương, một nữ tác giả mà tiểu sử cũng như tác phẩm
của bà còn nhiều điều phải bàn luận, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều
xếp sáng của bà vào nửa sau thế kỉ XVIII. Dù giới nghiên cứu đã thảo luận và
sẽ còn tốn thêm bút mực, nhưng ai cũng thừa nhận, thơ Hồ Xuân Hương
không lẫn với ai được:
121
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong [25, tr. 469].
Đây là người thiếu nữ gợi tình, trong trẻo của riêng Hồ Xuân Hương
cùng với tiếng cười “gây sự” đối với đấng quân tử, người được Khổng Tử gán
cho sứ mệnh nghiêm chỉnh tu thân, lao tâm chăm sóc kẻ lao lực (dân chúng).
Chỉ đến Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người đọc mới
thấy nỗi niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người cung nữ, thấy cái hợm
mình của cô ta về nhan sắc một thời: “Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”.
Chỉ đến Nguyễn Du, chúng ta mới được hồi hộp theo dõi bước chân
thoăn thoắt canh khuya của nàng Kiều đến với Kim Trọng, mới được thấy
cảnh người phụ nữ tắm trong văn chương bác học:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên [25, tr. 372].
Sau thời gian đất nước độc lập tự chủ, Việt Nam bị thực dân Pháp đô
hộ (1884-1945). Trong thời gian này, Thơ mới ra đời và đã chiến thắng thơ
cũ. Trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945), vẻ đẹp của người phụ nữ trở
thành một trong những đề tài chính của thi ca. Với mỗi nhà thơ, người đọc
biết thêm một vẻ đẹp, một vài khía cạnh của người đẹp. Người đẹp trong thơ
Nguyễn Nhược Pháp là cô gái thơ ngây, trong sáng. Nhà thơ như người đứng
122
xa xa, quan sát đối tượng thẩm mỹ. Đây là cô công chúa con vua Hùng:
Mỵ Nương, xinh như tiên trên trần
Tóc xanh viền má hây hây đỏ
Miệng nàng bé thắm như san hô
Tay ngà trắng nõn, hai chưn (chân) nhỏ
Mê nàng bao nhiêu người làm thơ [91, tr.8].
Hàn Mặc Tử cũng miêu tả những cô gái “ngây thơ”, song thi sĩ không
giấu nổi cảm xúc, ước vọng của mình:
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Đã khiến môi tôi mấp máy thèm [131, tr.9]
Nước da của cô gái trong thơ Hàn Mặc Tử cũng là nước da trắng, song
cái màu trắng này rất khác nước da trắng của cô gái trong ca dao. Đó là cái
màu trắng “rợn mình”.
Với Bích Khê, vẻ đẹp lõa thể được thi sĩ ca ngợi và khát khao chiếm lĩnh:
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
(….)
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi
Hai vú nàng! Hai vú nàng!chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng [57, tr.46].
123
Như chúng tôi đã phân tích, quan niệm của dân gian về vẻ đẹp của
người phụ nữ thể hiện qua những lời nhận xét trực tiếp bằng tục ngữ, ca dao,
thể hiện qua hình tượng nhân vật như cô Tấm, như người vợ anh bán hành,…
Trong sáng tác dân gian không phải là không có những chi tiết miêu tả cụ thể
vẻ đẹp của người phụ nữ: “má đỏ hồng hồng”, “má phấn môi son, nắng dầu
mưa dãi càng giòn càng ưa”, “cổ tay đá trắng lại tròn”, “cổ tay em trắng như
ngà, con mắt em liếc như là dao cau”, “con mắt lá răm”, “răng đen nhưng
nhức”, (răng) “đen nhánh hạt huyền”,... Văn học dân gian là do dân chúng
sáng tác. Dân chúng là một tập hợp đông đảo, là anh trai cày, cô thôn nữ, bác
thợ mộc, ông đồ nho, người lính thú, bác xẩm mù, cô đào hát,… Trong khi
lưu truyền và sáng tác, họ chưa đạt đến dấu ấn của cá tính sáng tạo[66, tr.98-
99]. Vì thế, trong những lời ca dao, những câu tục ngữ về vẻ đẹp của người
phụ nữ, chúng ta chỉ thấy được dấu ấn thời đại, dấu ấn địa phương và dấu ấn
thể loại. Thí dụ, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, người con gái ở nông
thôn có hàm răng đen nhánh hạt huyền là hàm răng đẹp. Đây chính là dấu ấn
thời đại. Vẻ đẹp của người phụ nữ được miêu tả nhiều trong thơ ca dân gian,
ít được trong truyện cổ tích. Đây chính là dấu ấn thể loại. Tóm lại, khi miêu tả
vẻ đẹp của người phụ nữ, tác giả dân gian không để lại dấu ấn cá nhân của cái
tôi sáng tạo. Còn ở dòng văn học viết, ở những tác phẩm thành công, trong
vấn đề này cái riêng của từng tác giả được bộc lộ. Nàng Kiều của Nguyễn Du
khác với người thiếu nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Cũng là người con gái
ngây thơ, nhưng cái ngây thơ của cô gái trong thơ Nguyễn Nhược Pháp khác
với cái ngây thơ của cô gái trong thơ Hàn Mặc Tử. Người phụ nữ đẹp trong
thơ Bích Khê với cái đẹp lõa thể khác hẳn người con gái đẹp trong thơ
Nguyễn Nhược Pháp và thơ Hàn Mặc Tử. Như vậy, trong việc miêu tả vẻ đẹp
của người phụ nữ, bên cạnh việc các tác giả bộc lộ dấu ấn thời đại, dấu ấn địa
phương, dấu ấn thể loại, họ còn bộc lộ cái riêng của từng chủ thể sáng tạo,
làm phong phú vẻ đẹp tinh thần, đồng thời minh chứng cho chân lý cái đẹp là
124
sự kết hợp giữa khách quan và chủ quan.
Tóm lại, khi miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ, tác giả dân gian không
để lại dấu ấn cá nhân của cái tôi sáng tạo. Còn ở dòng văn học viết, ở những
tác phẩm thành công, trong vấn đề này, cái riêng của từng tác giả được bộc lộ,
làm phong phú vẻ đẹp tinh thần, đồng thời minh chứng cho chân lý cái đẹp là
sự kết hợp giữa khách quan và chủ quan.
4.3. Sức mạnh, giá trị và những số phận nổi chìm của những người phụ
nữ đẹp thời trước
Trong xã hội xưa, trong văn hóa bác học và văn hóa dân gian Trung
Quốc, người ta lưu truyền nhiều câu chuyện về các đại mĩ nhân. Những người
đẹp chân yếu tay mềm chính là những người có sức mạnh nghiêng nước,
nghiêng thành. Thời Đông Chu liệt quốc (bắt đầu từ thế kỷ VII Tr.CN), nàng
Bao Tự rất được vua nhà Chu sủng ái. Nàng tuyệt đẹp nhưng lại không chịu
cười. Nhà vua khuyến khích quần thần hiến kế để nàng có thể cười. Vua nhà
Chu là thiên tử của các chư hầu, khi đó có quy định rằng, khi nào thiên tử gặp
nguy, đốt lửa báo hiệu, các chư hầu lập tức đến ứng cứu. Theo “sáng kiến” của
viên quan nọ, giữa lúc thái bình, nhà vua cho đốt các ụ lửa báo nguy, binh mã
chư hầu lục đục kéo đến. Khi thấy không có chuyện gì, họ ngơ ngác nhìn nhau
và lại ra về. Trước sự tẽn tò của chư hầu, nàng Bao Tự bật cười khanh khách.
Một thời gian sau, khi xảy ra biến loạn, vua nhà Chu cho đốt các ụ lửa, không
ai đến cứu, đành chấp nhận kết cục bại vong [54, tr.3031].
Thời Xuân Thu chiến quốc (770 Tr. CN – 256 Tr. CN), Việt vương Câu
Tiễn bị Ngô vương Phù Sai cầm tù, sau được thả về. Câu Tiễn nuôi chí báo
thù. Ở nước Việt, tại thôn Trữ La có người con gái họ Thi, tên là Di Quang,
nhà ở phía Tây suối Nhược Da, cho nên gọi là Tây Thi (hoặc Tây Tử). Nàng
đẹp tuyệt trần, khi nàng ra suối giặt áo, bóng nàng soi xuống nước, các con cá
đang bơi phải dừng lại. Biết Phù Sai ham mê nữ sắc, theo kế hoạch của Phạm
125
Lãi, Câu Tiễn đem Tây Thi dâng Phù Sai. Phù Sai say đắm Tây Thi, bỏ bê
chính sự, sau bị Việt vương Câu Tiễn đánh cho đại bại [54, tr. 359 - 360].
Thời Tam quốc (220 - 226), Đổng Trác là tên thái sư nắm hết binh
quyền, lộng hành triều chính, nhà vua chỉ là bù nhìn. Các trung thần ai cũng
bất bình, căm tức nhưng không thể làm gì. Đổng Trác có người con nuôi tên
là Lã Bố. Lã Bố hết sức dũng mãnh, khi ra trận sử dụng cây kích, muôn ngýời
không ðịch nổi. Quan tư đồ Vương Doãn đã dùng cô hầu gái Điêu Thuyền
làm mĩ nhân kế. Điêu Thuyền đã từng bước thực hiện kế hoạch ly gián khiến
cho Lã Bố giết chết Đổng Trác [125].
Thời Đường (618 - 907), nàng Dương Ngọc Hoàn, tên hiệu là Thái
Chân (do đó cũng gọi là Dương Thái Chân). Nàng có nhan sắc, tư chất thông
minh, giỏi âm nhạc và ca múa, được Đường Huyền Tông (tức Đường Minh
Hoàng) đưa vào cung làm nữ quan, sau làm thứ phi, phong làm quý phi. Vì
vua mê say Dương Quý Phi, em trai nàng là Dương Quốc Trung được làm tới
Tể tướng. Trên núi Ly Sơn (thuộc tỉnh Thiểm Tây hiện nay), Đường Huyền
Tông cho xây dựng cung Hoa Thanh làm nơi vui chơi cùng người đẹp. Dương
Quý Phi rất thích ăn vải tươi, do đó nhà vua hạ lệnh cho các trạm ngựa
chuyên chuyển giao công văn phải dùng những con ngựa này chạy bất kể
ngày đêm để chuyển vải tươi đến cung Hoa Thanh. Các phu trạm do phải phi
ngựa chạy cấp tốc nên nhiều người mệt đứt hơi mà chết ở giữa đường. Vì quá
say mê nàng, vua Đường bỏ cả việc triều chính. Khi xảy ra vụ loạn An Lộc
Sơn, nhà vua phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục. Đến núi Mã Ngôi, quân sĩ
cho rằng vì Dương Quý Phi mà sinh ra loạn lạc, buộc nhà vua phải giết chết
nàng rồi mới chịu đi. Vua phải nghe theo [54, tr.116]. Tương truyền, Dương
Quý Phi tự treo cổ trên cành dương liễu. Nàng chết rồi mà vẫn còn đẹp. Quân
lính tranh nhau chiếm đoạt thân thể nàng. Và cũng theo lời đồn đại dân gian,
bệnh giang mai ra đời từ đó.
126
Kết cục cuộc đời của Bao Tự, Tây Thi, Điêu Thuyền, Dương Quý Phi
đều không may mắn. Duy chỉ có người đẹp Từ Hi (1835 - 1908) làm chủ
được vận mệnh của mình. Xuất thân trong một gia đình quý tộc Mãn Châu, là
cung nữ, sau đó Từ Hi trở thành vợ vua Hàm Phong. Năm 1851, Hàm Phong
chết. Các đời vua sau đều nhỏ tuổi, quyền bính rơi vào tay thái hậu Từ Hi.
Những năm 1875 - 1908, thái hậu thực sự nắm mọi quyền bính trong triều. Từ
Hi nổi tiếng là người tàn bạo, độc đoán, bảo thủ. Về chính trị, thái hậu chủ
trương liên kết cầu hòa với các nước phương Tây đang xâm chiếm Trung
Quốc để trấn dẹp các cuộc nổi dậy trong nước. Hai ngày trước khi chết, Từ Hi
chỉ định Phổ Nghi lên ngôi vua [44, tr.708]. Phổ Nghi là ông vua cuối cùng
của lịch sử phong kiến Trung Quốc.
Khổng Tử rất coi thường phụ nữ, trong đó bao gồm cả những người đẹp.
Nho gia quan niệm người đàn ông phải có sự nghiệp là điều chính yếu, ai quá
vướng bận vào chuyện vợ con là kẻ tầm thường. Trong các câu chuyện về danh
nhân, người ta thường khen những người học trò mắt nhìn thẳng, không liếc
nhìn những người con gái đẹp ở bên cạnh. Nhà nho tổng kết: “Hồng nhan bạc
phận” (Những người phụ nữ đẹp thường có cuộc đời không may mắn, hoàn
hảo).
Dưới chế độ phong kiến, cứ mỗi một ông vua lên cầm quyền là hàng
vạn người phụ nữ đẹp bị tuyển vào cung, có rất nhiều người cả mấy chục năm
tuổi xuân không một lần được quân vương đoái hoài tới. Mỗi khi xảy ra biến
loạn, vua quan không giữ nổi quyền bính thì hoàng hậu, vương phi, công chúa
của nhà vua, phu nhân, con gái của các quan lớn, tướng quân đều trở thành đồ
chơi trong tay kẻ chiến thắng. Thời Tam quốc, sau khi Tào Tháo phá tan lực
lượng của Viên Thiệu và đám con của ông ta, vợ và con dâu Viên Thiệu phải
che giấu nhan sắc bằng cách ăn mặc nhem nhuốc. Khi Tào Phi (con trưởng
của Tào Tháo) xông đến chỗ vợ của Viên Thiệu, thấy hai phụ nữ ôm nhau
127
khóc, Tào Phi rút gươm toan chém, chợt thấy một đám hào quang chói lọi
trước mặt bèn chống gươm hỏi: “Chúng bay là người nào?”. Người phụ nữ
đứng tuổi cho biết mình là vợ Viên Thiệu, còn người con gái trẻ là Chân Thị,
là con dâu của Viên Thiệu. Tào Phi kéo người con gái ấy lại gần, thấy đầu xù
mặt nhọ, liền lấy vạt áo lau mặt lộ rõ màu da trắng như ngọc, mặt đẹp như
hoa, có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Một lúc sau Tào Tháo kéo quân
vào thành, sau khi xem mặt Chân Thị, Tào Tháo nói: “Thật xứng đáng làm
dâu ta” và bảo Tào Phi nhận Chân Thị làm vợ [125, tr 528 - 529].
Trong cùng khu vực văn hóa Đông Á, tư tưởng trọng nam khinh nữ và
chế độ thê thiếp không hề xa lạ với nước ta. Trong sách Phủ biên tạp lục, Lê
Quý Đôn (1726 – 1784) đã kể về chúa Nguyễn Phúc Tần (làm chúa từ năm
1648 đến năm 1687) như sau: Thế tử là Dũng Lễ hầu Phúc Tần nối nghiệp, tự
xưng là Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân
quốc trọng sự, thái bảo Dũng quận công. Phúc Tần là người cứng rắn quyết
đoán, đã lấy người con hát xứ Nghệ An là đào Thừa, cực kỳ yêu mến. Sau đó,
Phúc Tần đọc sách thấy chuyện Ngô vương yêu Tây Thi, lập tức tỉnh ngộ, sai
đào Thừa đưa áo cho tướng là Nghĩa Sơn, viết mật chỉ vào dải áo sai Nghĩa
Sơn đánh thuốc độc giết đào Thừa. Từ đấy, Phúc Tần cố gắng giảng tập võ bị,
sửa sang binh khí, chiêu tập quân dũng cảm, tập trận cho voi, luyện thủy
quân, mưu xâm lấn Đàng Ngoài [29, tr.68-69]1. Trong tầng lớp trên của ta, ai
cũng biết câu “Thê dụng đức, thiếp dụng sắc” (Lấy vợ thì chọn người nề nếp,
có giáo dục, biết cư xử trên dưới, biết quản lý gia đình, chọn thiếp (nàng hầu)
thì chú ý đến nhan sắc). Có điều người phụ nữ ở nước ta được đối xử đỡ hà
1 Ở Đàng Ngoài, người ca hát bị khinh rẻ (“Xướng ca vô loài”), là con kép hát nên Đào Duy Từ không được
đi thi. Ông trốn vào Đàng Trong và được trọng dụng. Ở vùng đất mới, chúa Nguyễn cởi mở hơn nên mới có
chuyện Phúc Tần lấy ca nữ làm vợ.
khắc hơn so với người phụ nữ Trung Quốc. Có lúc, có nơi người phụ nữ được
128
đề cao, đến mức sau này nhà sử học Trần Quốc Vượng đã phát triển tổng kết
về “nguyên lý mẹ của nền văn hóa Việt Nam” [143, tr.481 - 486].
Không cứ tầng lớp trên, nhiều người dân bình thường nước ta cũng biết
những câu chuyện về Dương Quý Phi, Điêu Thuyền, Tây Thi,…Và ngay trên
đất nước ta, việc chúa Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ (quê ở làng Chè) cũng
đủ để dân gian sáng tác và lưu truyền truyện cười Ngọa sơn1, lời ca dao:
Sự đời chỉ tại bà chúa Chè
Cho nước chúa mất, cho nghè làng xiêu!
Về sức mạnh của cái đẹp, dân gian có câu chuyện Ai mua hành tôi
(cũng có nơi gọi là truyện Lọ nước thần) [19, tr.180 - 184].
Câu chuyện trên gửi đi nhiều thông điệp, trong đó cho thấy sắc đẹp của
người phụ nữ có thể làm cho vua chúa mê mẩn, mụ mẫm, mất hết lý trí đến
mức phải mất cả mạng sống, mất cả ngôi báu.
Trong lịch sử nước ta, không ít lần những thiếu nữ mảnh mai, yếu đuối
đã vì việc nước mà dấn thân. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên Mông lần thứ hai, thế giặc rất mạnh, khi Thoát Hoan tiến đến bên kia
bờ sông Hồng, bên này, vua quan nhà Trần chưa chuẩn bị xong cho cuộc rút
lui chiến lược. Nhà vua đã đem công chúa An Tư dâng cho Thoát Hoan, nhằm
làm trì hoãn bước hành quân của giặc đang ở thế chẻ tre. Một đêm đủ để cho
nhà Trần lên thuyền chạy về Thiên Trường (thuộc Nam Định ngày nay). Một
1 Đây là một truyện trong hệ thống truyện Trạng Quỳnh. Một buổi trưa, Quỳnh vào phủ chúa, thấy
cửa đóng, Quỳnh bèn viết lên cửa hai chữ “Ngọa sơn”. Chúa tỉnh dậy thấy hai chữ đó, đoán mãi
không ra nghĩa, đám cận thần cũng chịu. Hôm sau, chúa hỏi Quỳnh nghĩa của hai chữ đó là gì,
Quỳnh tâu: “Ngọa là nằm, nằm thì phải ngủ, ngủ thì phải ngáy, sơn là núi, núi phải có đèo, xin nhà
chúa nói lái hai tiếng “ngáy đèo” thì rõ ngay ạ”.
đêm đủ để An Tư trở thành vợ của thái tử Thoát Hoan. Sau này bại phải chạy
129
trốn về phương Bắc, Thoát Hoan không bị vua Nguyên Mông khép tội chết,
nhưng cũng phải chịu hình phạt. Nghe đâu phải lưu lạc xứ người theo Thoát
Hoan, An Tư có hai mặt con với hắn. Khi vãn du vào vương quốc Chăm pa,
thượng hoàng Trần Nhân Tông (lúc này đã khoác áo cà sa) đã gả công chúa
Huyền Trân cho vua Chăm. Huyền Trân đã ngàn dặm ra đi để đất đai Đại Việt
mở rộng thêm về phía Nam, để giữ quan hệ hữu hảo giữa hai nước. Việc
chung thì như vậy, còn đời tư của nàng lại bất hạnh. Sau khi vua Chăm chết
(chỉ sau một năm nàng có mặt ở xứ sở này), nhờ Trần Khắc Chung đánh tháo,
Huyền Trân thoát khỏi cảnh lên giàn thiêu chết theo chồng (theo phong tục
Chăm pa lúc đó). Trở ra Bắc, nàng không về Thăng Long mà đi tu ở chùa
Long Đọi (nay thuộc tỉnh Hà Nam).
Như vậy, chỉ có vợ anh hàng hành là có được cuộc sống hạnh phúc
viên mãn; còn cả An Tư và Huyền Trân đều phải sống những chuỗi ngày
không vui lúc cuối đời. Song nếu xét ai là người đẹp bất hạnh nhất Việt Nam
thì đó chính là nàng Kiều. Thúy Kiều của Nguyễn Du có nhan sắc: “Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh”, có tài cầm kì thi họa, đã xử sự thật trách
nhiệm khi cha và em trai gặp cơn tai biến. Nàng tài sắc, đức hạnh vẹn toàn.
Vậy mà Kiều đã phải hai lần vào lầu xanh, hai lần khoác áo tu hành, không
được sống một cuộc sống bình yên, dung dị như bao người phụ nữ bình
thường khác1.
Dân gian không ca ngợi những đàn ông chết vì tình. Một mặt thì đối
với dân gian, vợ đẹp con khôn là một tiêu chí hạnh phúc của người đàn ông.
Mặt khác, lại có những câu tục ngữ: “Vợ đẹp là vợ người ta”; “Vợ đẹp chỉ tổ
1 Năm 1990, trong bài thơ Lời Mỵ Châu, Đỗ Trung Lai cho rằng Kiều không phải là “người đàn bà
khổ nhất giời Nam”. Người khổ nhất là Mỵ Châu.
đau lưng”.v.v….
130
4.4. Sự mở rộng trong cách nhìn nhận và điều kiện xã hội tiến bộ của
khoa học, kỹ thuật, bảo vệ, cổ súy cho cái đẹp của người phụ nữ
Trong quan niệm dân gian, người con gái ngày trước chỉ đẹp, chỉ xinh
cho đến khi lấy chồng:
Hoa tươi đang độ gió đông
Gái xinh xinh đến có chồng thì thôi [59, tr.1201].
Người bình dân xưa khuyên nhau: Khi đã có chồng thì cần ăn mặc giản
dị hơn trước, phải “bớt màu trang điểm kẻo trai nó lầm”. Đó là chưa kể không
ít người phụ nữ trong cuộc đời làm dâu, làm vợ, làm mẹ phải chịu nhiều nỗi
vất vả, nhan sắc tàn phai nhanh:
Trai ba mươi tuổi đang xoan
Gái ba mươi tuổi đã toan về già [62, tr.2673].
Tất nhiên khi người phụ nữ có chồng và sinh con thì có một thời gian
ngắn, như dân gian thường nói họ được thay máu, họ mặn mà hơn trước. Bởi
vậy có câu tục ngữ: “Gái một con trông mòn con mắt” [61, tr.1192]. Nhưng
trong xã hội trước, người phụ nữ thường phải sinh nở nhiều lần, nhan sắc và
sức khỏe giảm sút rất nhanh: “Gái hai con vú quặt đằng sau; gái ba con chỉ
đâu ngồi đấy” [61, tr.1192]. Đấy là cuộc sống của những người phụ nữ bình
dân. Sau khi lập gia đình, sau khi sinh con, họ ít quan tâm đến bản thân và
cũng không có điều kiện chăm sóc, bồi dưỡng cho mình. Bao nhiêu miếng
ngon họ dành cho con, cho chồng. Trong xã hội ngày trước, mức sống còn
thấp, không có điều kiện tẩm bổ, phải làm việc nhiều (việc nhà, việc đồng
áng) nên sức khỏe của người phụ nữ tàn lụi theo cấp số nhân : “Một năm một
tuổi như đuổi xuân đi” [62, tr.1843]. Những người phụ nữ giàu có không gặp
nỗi vất vả về kinh tế. Sinh con ra họ có vú em, họ không phải cho con bú. Vì
thế có những người sau bảy, tám lần sinh, cơ thể vẫn gọn ghẽ, tất nhiên họ
131
được tẩm bổ, sử dụng thuốc thang và tuân thủ các quy tắc kiêng khem mà y
học dân gian và y học cung đình ngày trước biết đến.
Vẫn theo cái nhìn coi phụ nữ là đối tượng để thưởng ngoạn và hưởng
thụ, người xưa cho rằng người con gái chưa lấy chồng như là nước của ấm trà
thứ nhất, còn người phụ nữ sau khi lấy chồng như là nước của ấm trà thứ hai,
vị đậm hơn. Trừ một số ít phụ nữ thuộc tầng lớp giàu có, quý tộc có điều kiện
làm đẹp, chăm sóc sắc đẹp giữ gìn và tăng cường sức khỏe, còn đại đa số phụ
nữ thường dân thủa trước số thời gian làm đẹp, chăm sóc sức khỏe ít hơn
nhiều so với hiện nay. Hiện nay, phụ nữ sau khi lập gia đình, sau khi sinh con
vẫn tiếp tục đến các cơ sở làm đẹp, rồi mua máy móc luyện tập ở nhà theo chế
độ ăn kiêng khoa học, dùng các mĩ phẩm dưỡng da,... để chăm sóc sắc đẹp và
sức khỏe cho mình và những người thân trong gia đình.
Ngày xưa, trong giao tiếp, người nam hỏi người nữ về tuổi tác, chồng
con là câu chuyện bình thường. Truyền thuyết dân gian kể rằng, gặp Nguyễn
Thị Lộ bán chiếu ở Hồ Tây, Nguyễn Trãi đã hỏi chuyện bằng thơ:
Nàng ở đâu ta bán chiếu gon?
Chẳng biết đã bán hết hay còn?
Xuân sanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, có mấy con?1
Trong ca dao, chàng trai hỏi cô gái:
Gặp đây anh hỏi thực nàng
1 Bài thơ trả lời của Thị Lộ như sau:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon Cớ sao ông hỏi hết hay còn? Xuân sanh chừng độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con?
Còn không hay đã đá vàng cùng ai?
132
Còn không để chúng anh chờ
Hay là đã có nơi nhờ thì thôi [59, tr.1101].
Ngày nay, theo phép lịch sự mà chúng ta tiếp nhận từ châu Âu, người ta
không hỏi tuổi người phụ nữ, trong giao tiếp cũng không hỏi đã lập gia đình
chưa và có bao nhiêu con, bởi vì những người phụ nữ đẹp là những người
không có tuổi và mãi không già.
Trong xã hội cũ những người phụ nữ quyền quý khi cha, khi chồng còn
chức tước oai phong thì họ sống trong cung cấm, dinh thự. Trong một thời
gian vàng son ấy, cái đẹp của họ được cửa đóng then cài, được bảo vệ. Còn
những người phụ nữ thường dân xinh đẹp, nhiều khi họ buộc phải tìm cách
hạn chế sự bộc lộ vẻ đẹp của hình thể. Trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của
nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, chị Nguyệt là một người con gái đẹp. Chị đi
đến đâu cũng được người ta giúp đỡ. Đây là vẻ đẹp của chị qua cái nhìn của
cậu em trai thơ ấu: “Chị tôi thật xinh đẹp, thủa bé tôi chưa biết, nhưng một hai
năm lại đây tôi chợt nhận ra điều đó. Nhận ra vì bỗng nhiên đám con trai
trong làng bám lấy tôi để chiều chuộng, thậm chí để nịnh nọt bởi vì thầy u tôi
cấm chị không cho đi đàn đúm. Còn tôi lại được phép sống hoang dại đi đâu
thì đi. Lẽ dĩ nhiên họ phải bám lấy tôi hòng thông qua tôi để đến được với chị.
Chắc chắn chị tôi có gương mặt dễ coi, có một thân hình nảy nở duyên dáng.
Nhưng cánh con trai cho rằng chị Nguyệt đẹp nhất ở mái tóc và nước da.
Nước da như ngà, mái tóc đen nháy, óng ả chảy xuống kheo chân. Mái tóc
càng duyên thêm vì chiếc khăn vấn. Không phải màu đen, cũng không phải
màu nâu già, chiếc khăn màu nâu non. Chị tôi phải khéo léo nhuộm bằng
nước củ nâu giã nhỏ cùng với một số vỏ cây. Cuối cùng mảnh vải trắng biến
thành như màu son mà không phải là son, như màu nâu mà không phải là nâu,
nó không gắt mà dìu dịu ấm áp. Chiếc khăn cuộn quanh mớ tóc, chít tròn
vành vạnh trên đầu, khiến gương mặt chị tôi sáng bừng lên và để lộ ra cái cổ
133
kiêu ngà ngọc, cùng với vài sợi tóc mây lòa xòa sau gáy”[56, tr.78]. Khi tai
họa ập đến gia đình, cả cha lẫn mẹ đều bị giặc giết, Nguyệt bị tên lý trưởng ép
làm vợ lẽ, Nguyệt và cậu em mới lên mười tuổi phải bỏ làng, chạy đi thật xa,
xin nương nhờ cửa Phật. Sư cụ chỉ xuống tóc cho cậu em, và cho Nguyệt ở
nhờ trong khuôn viên nhà chùa. Thầy giáo làng rất mến Nguyệt. Sư bác
Khoan Độ vốn xuất thân là tướng cướp, sau khi giác ngộ đã đốt một ngón tay,
thể hiện quyết tâm quy y. Một vị sư như thế trước nhan sắc của Nguyệt cũng
xao lòng. Ta hãy nghe em trai Nguyệt kể chuyện: “Có một hôm trời nóng, chị
tôi gội đầu và hong tóc. Chị tôi cũng ý tứ, ra đằng sau chùa bên bờ ao để cho
kín đáo và đồng thời được nhận ánh nắng chiếu qua khoảng trời thoáng đãng
của vùng ao chiếu vào. Chị tôi xõa tóc, tấm lưng trần trắng muốt, ánh nước
loang loáng. Chị tôi nghiêng đầu cầm cái quạt nan phe phẩy vào mớ tóc đen
láy thật yểu điệu. Tôi và sư bác đang dỡ lạc. Sư Độ cũng vô ý. Tôi chợt thấy
ông ngây người, hình như ông thở dài thì phải” [56, tr. 85].1
Sư cụ là người trải đời và độ lượng. Có lẽ hòa thượng đã dạy bảo
Nguyệt lúc sư bác và cậu em trai không có nhà. Nguyệt thay đổi rất đột ngột.
Thứ nhất, Nguyệt bỏ hẳn không vấn tóc bằng chiếc khăn nâu non làm sáng
bừng gương mặt. Thứ hai, quần áo nâu sòng của chị bỗng trở nên rách rưới
lam lũ hơn. Thứ ba, Nguyệt luôn luôn sùm sụp trên đầu chiếc khăn vuông cũ,
chiếc khăn che kín hai thứ đẹp nhất của chị là mái tóc dài và cái cổ cao trắng
ngà mà người con gái nào được trời ban tặng cũng luôn muốn phô ra để cho
đời thèm khát [56, tr. 86].
1 Trong tiểu thuyết, nhiều lần nhà văn nhắc đến ca dao: “Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm
bỏ bùa cho sư…”, “Sư đang tụng niệm nam mô; thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa; lòng sư luống
những mơ hồ; bỏ cả kinh kệ tìm cô hỏi chào!”. Nhà văn cũng mô tả việc nhà sư Vô Trần bỏ cả
chùa, hoàn tục cùng một góa phụ trẻ tuổi.
Như trên đã thấy, trong xã hội cũ, trong thời buổi loạn lạc, nhiễu
134
nhương, cái đẹp của người phụ nữ là tai họa hơn là diễm phúc; trong chốn từ
bi, cái đẹp phải bị che giấu hoặc làm cho tiều tụy, lam lũ để các phật tử
chuyên tâm tu hành. Trong xã hội cũ, ngay cả trong thời bình, nói chung cái
đẹp không được bảo vệ. Một người con gái đẹp có thể bị một viên quan tri
huyện hoặc quan tri phủ cưới làm thiếp. Người làm thiếp không phải là người
có địa vị làm vợ, thực chất là người hầu. Nếu người con gái đẹp không đồng ý
thì họ bị làm khó dễ trăm điều, thậm chí họ còn bị những tay hảo hán lục lâm
cướp đi một thời gian, đặt vào tình thế đã rồi, buộc nhà gái phải bằng lòng
cho anh ta lấy làm vợ.
Chỉ trong xã hội văn minh hiện đại, trong một nền pháp trị nghiêm
chỉnh, mọi người được tôn trọng, được bảo vệ quyền sống, quyền làm việc,
quyền thực hiện tình cảm riêng tư một cách chính đáng thì những người phụ
nữ đẹp mới được an toàn hơn1. Đây cũng là sự khác biệt cơ bản giữa những
người phụ nữ đẹp ở trong hai thời đại.
Trong xã hội cũ người con gái đẹp một cách kín đáo. Trong xã hội hiện
đại, cái đẹp được quan niệm và nhìn nhận thật đa dạng, có lúc kín đáo, có lúc
phô bày và càng ngày người phụ nữ càng sử dụng những phục sức để làm tôn
vẻ đẹp của cơ thể. Những cuộc thi hoa hậu trong nước và thế giới đã chứng tỏ
một cuộc cách mạng trong cách đánh giá, nhìn nhận. Nếu ngày xưa hồng
nhan bạc phận thì ngày nay hồng nhan bạc triệu. Những người đẹp sau khi
đoạt giải trong các cuộc thi sắc đẹp đã nhận được những phần thưởng hậu
1 Thời gian phản ánh của tiểu thuyết Đội gạo lên chùa kéo dài từ kháng chiến chống Pháp tới
những năm gần đây. Hiện thực nông thôn Bắc Bộ những năm đầu kháng chiến chống Pháp không
khác với hiện thực trước Cách mạng tháng Tám nhiều. Cũng giống như Đàn hương hình của Mạc
Ngôn, trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, có rất nhiếu phong tục tập quán, tri thức dân gian
và những yếu tố khác của văn hóa dân gian.
hĩnh. Sau khi đạt danh hiệu hoa hậu, họ trở thành những nhà hoạt động xã
135
hội, những đại diện thiện chí. Họ được giới truyền thông săn đón, các nhà
doanh nghiệp chào mời. Họ trở thành đích ngắm của những người đàn ông
giàu có. Mới đây ở nước ta có cuộc thảo luận trên báo chí về mối quan hệ
giữa đại gia và chân dài. Trong số những ý kiến khác nhau, có loại ý kiến thể
hiện cái nhìn tích cực về vấn đề này. Loại ý kiến cho rằng đại gia là những
người có năng lực, có tài, không kể những trường hợp gặp may một cách
ngẫu nhiên hoặc làm ăn bất chính, để có một gia sản lớn, họ phải có năng lực
tổ chức, nhạy bén về kinh doanh, đôi khi họ phải mạo hiểm. Tại sao những
người đó không đáng được khâm phục? Họ đem tiền bạc về cho đất nước, lập
công ty, mở mang nhà máy xí nghiệp tạo công ăn việc làm cho rất nhiều
người. Vậy nếu họ đến với người đẹp cũng như người đẹp tự dâng hiến cho
họ thì những người đó có gì là sai trái? Một khi là phu nhân của các đại gia,
rõ ràng người đẹp sẽ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, có điều kiện thật tốt
để chăm sóc sắc đẹp.
Trong xã hội cũ, cái đẹp của phụ nữ chủ yếu là do trời phú. Người ta
dùng các phương pháp dân gian như chế độ ăn uống, dùng hương liệu, dùng
một số loại thuốc nam và tập luyện để giữ gìn sắc đẹp, tuy nhiên ở đây yếu tố
căn bản vẫn là thiên phú. Ở xã hội hiện đại, bên cạnh việc tiếp thu những tri
thức dân gian để giữ gìn một cách bền vững cái đẹp, chị em phụ nữ còn dùng
các biện pháp phẫu thuật thẩm mĩ như nâng ngực, cắt mí, nâng mũi, gọt cằm,
hút mỡ,… Hiện nay trong vấn đề này có hai cách nhìn trái ngược. Một cách
phủ nhận các tác nhân nhân tạo đến vẻ đẹp của phụ nữ vì họ cho rằng làm đẹp
do phẫu thuật thẩm mĩ là hại cho sức khỏe, là giả tạo, cái đẹp phải là cái đẹp
tự nhiên. Một cách khác không phản đối phẫu thuật thẩm mĩ, việc làm đẹp
bằng phương pháp khoa học kỹ thuật hiện đại. Những kỹ thuật này làm tôn
thêm những vẻ đẹp thiên phú, giảm bớt những nhược điểm và giúp cho vẻ đẹp
của người phụ nữ được cải thiện và tuổi xuân kéo dài. Chính vì vậy sự xuất
136
hiện và tồn tại ngày càng nhiều spa, trung tâm thẩm mĩ thu hút nhiều phụ nữ
trẻ tuổi, thậm chí cả tuổi trung niên đến những nơi này để chăm sóc sắc đẹp
của mình. Trong xã hội cũ, cô Tấm từ trong quả thị bước ra hay người vợ
trong câu chuyện Lọ nước thần trở nên tuyệt đẹp. Điều này chỉ có trong thế
giới của truyện cổ tích, người ta phải nhờ tới Bụt, tới những phép màu huyền
diệu. Trong xã hội ngày nay, phẫu thuật thẩm mỹ có thể chuyển đổi cả giới
tính, có thể thay được màu da, lưu giữ tuổi thanh xuân. Chính những tiến bộ
kỳ diệu của khoa học kỹ thuật đã giúp con người thực hiện điều này. Mỗi
năm, chỉ riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có gần 10.000 ca phẫu thuật
chỉnh sửa ngực và trên 15.000 ca nâng mũi. Nước ta hiện nay đang thiếu nhân
lực phẫu thuật thẩm mỹ. Các đơn vị kinh doanh tìm cách đưa bác sĩ Hàn Quốc
sang Việt Nam hoạt động “mổ dạo”. Các cơ sở đặt hẹn bác sĩ ngoại thực hiện
ca mổ kéo dài 1 - 2 ngày tại Việt Nam rồi lại quay trở về nước là một thực tế
có thật [24, tr.6]. Mới đây nhất, trên tờ Heritage Fashion số tháng 5-6 năm
2016 của VietnamAirlines có bài “Chỉ vàng làm đẹp dáng giá ngàn vàng”.
Theo đó, tại cơ sở làm đẹp Thanh Hằng Beauty Medi (ở Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh) các khách hàng được đưa các sợi chỉ vàng vào trong khuôn mặt
thành một mạng lưới vững chắc giúp kích thích cơ thể gia tăng collagen và
elastin, đồng thời những sợi chỉ như những xương cá treo cao những cơ chảy
xệ mang lại cho người được điều trị một làn da trẻ trung căng đẹp, mịn màng,
gương mặt thon gọn tự nhiên và tuổi thanh xuân, vì thế được kéo dài thêm rất
nhiều năm. Thực hiện dịch vụ này chủ yếu là các bác sĩ người Hàn Quốc. Bài
báo này ghi rõ danh tính, học vị và chuyên môn của các bác sĩ nước ngoài
cùng với lịch làm việc của họ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh [39,
tr.122-123].
Trong xã hội cũ, người phụ nữ đẹp khi chưa lập gia đình, sau khi có
chồng con, chỉ ở trong nhà. Ngày nay, phụ nữ làm đẹp cả sau khi lập gia đình,
137
sau khi sinh con. Họ không chỉ đảm việc nhà, mà còn là con người của xã hội,
thậm chí không ít chị là những nhà khoa học nổi tiếng, những nữ doanh nhân
thành đạt có nhan sắc. Không phải ai cũng cô đơn, đã thấy đằng sau một số
chị là những ông chồng thương yêu vợ, sẵn sàng sẻ chia, gánh đỡ việc nhà,
chăm sóc con cái để vợ có nhiều thời gian cho công việc. Như vậy, ở các khía
cạnh nêu trên, có thể nói lịch sử loài người là lịch sử giải phóng phụ nữ, lịch
sử tôn vinh sắc đẹp của chị em.
4.5. Đánh giá tri thức dân gian trong việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe
của phụ nữ
Tri thức dân gian là những kinh nghiệm dân gian được tích lũy trong
cộng đồng, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nói chung người dân
cứ thế làm theo, ít khi người ta tự hỏi tại sao lại như vậy? Trong sản xuất
nông nghiệp, nhân dân có câu tục ngữ: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay
cao thì nắng bay vừa thì râm”. Hàng bao đời, dân gian cứ lưu truyền như thế
và không được giải thích. Chỉ có khoa học mới cắt nghĩa rằng, khi trời sắp
mưa thì không khí ẩm nặng, vì thế chuồn chuồn không thể bay cao được. Về
trẻ em trước kia, có câu tục ngữ: “Ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín
tháng lò dò biết đi”. Người lớn nói chung và cha mẹ đứa trẻ nói riêng khi thấy
nó thiếu một khâu nào đó thì bảo nó “trốn lẫy”, “trốn bò”,… Họ xem như là
chuyện không có gì quan trọng lắm. Những trẻ này hay khóc đêm, bà con bảo
là khóc dạ đề. Thế là người mẹ trẻ và cả nhà chịu đựng cảnh bé khóc. Chỉ có
y học hiện đại mới lý giải được hiện tượng này. Trẻ em thiếu can xi nên
không thể lẫy, không thể bò. Tối tối do thiếu can xi, các cháu đau đầu nên
quấy khóc. Ngày nay, nếu thấy các cháu khóc đêm hay “trốn” một khâu nào
đó trong quá trình sinh trưởng, các bà mẹ trẻ cần cho trẻ đến bác sĩ chuyên
khoa. Trong nghề thợ mộc, muốn tính đường kính của cây gỗ, người thợ ghi
nhớ công thức: “Quân bát, quát tam, tồn ngũ, quân nhị”. Có nghĩa là lấy chu
138
vi cây gỗ chia cho tám, trừ đi ba còn năm phần, chia đôi sẽ tìm được đường
kính. Trong khoa hình học, muốn tìm đường kính của hình tròn, người ta sẽ
lấy chu vi chia cho 3, 14 rồi nhân với 2 sẽ ra. Như vậy, khi chưa biết đến số
П, kinh nghiệm dân gian của người thợ đã tổng kết được cách tìm đường kính
của cây gỗ. Kết quả tìm được theo phương pháp dân gian và kết quả của hình
học là tương đương nhau. Trong văn học dân gian, có câu ca dao tổng kết về
eo lưng của người phụ nữ: “Những người thắt đáy lưng ong vừa khéo chiều
chồng lại khéo nuôi con”. Người có lưng ong là người có hình thể đẹp, và
những người đẹp này lại còn khéo léo tế nhị nữa. Ở đây cái đẹp đi đôi với
phẩm chất thông minh, trí tuệ. Khoa giải phẫu mĩ học hiện đại đã đưa ra các
số đo của cơ thể người phụ nữ cho ta thấy vẻ đẹp tương tự như người có thắt
đáy lưng ong. Những thí dụ nêu trên cho ta thấy tính duy lý, tính hợp lý của
tri thức dân gian và cũng cắt nghĩa được tại sao có người giải thích thuật ngữ
folklore là trí tuệ dân gian, là túi khôn dân gian.
Mặt khác chúng ta cũng nhận thấy tri thức dân gian không có tính phổ
quát cho mọi thời gian, mọi không gian. Ví dụ: người nông dân ở châu thổ
Bắc Bộ đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm về thu hoạch, làm đất, sử dụng
giống, thời tiết mùa vụ qua rất nhiều câu tục ngữ. Tuy nhiên ngày nay đồng
ruộng đã khác, kỹ thuật canh tác đã khác, giống lúa cũng khác, bởi thế rất
nhiều người nông dân Thái Bình ở lứa tuổi 40, 45 không còn nhớ và khi được
hỏi thì cũng không giải thích được ý nghĩa của nhiều câu tục ngữ cổ truyền về
sản xuất nông nghiệp. Ở Bắc Bộ, người dân Việt khi ăn thịt gà thường dùng lá
chanh làm gia vị. Vì thế mới có bài ca vui dưới đây: “Con gà cục tác lá
chanh/Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi/Con chó khóc đứng khóc ngồi/Mẹ ơi
đi chợ mua tôi đồng riềng” [59, tr.654].
Như thế ở Bắc Bộ, thịt gà đi liền với lá chanh. Nhưng ở Nam Bộ, người
Việt tuy có lá chanh nhưng lại ăn thịt gà với rau răm. Sở dĩ như vậy là vì chất
139
đất nơi đây không cho lá chanh hương vị như lá chanh miền Bắc. Người dân
Việt nơi đây ăn thịt gà với rau răm.
Điều kiện sống, làm việc, giao lưu xã hội, giao lưu quốc tế ngày nay
khác trước rất nhiều. Theo khảo sát của chúng tôi tại các trung tâm làm đẹp
hiện nay, các phương tiện kỹ thuật làm đẹp của nước ngoài du nhập vào ta
nhiều và phong phú. Xu hướng chuộng ngoại từ thuốc uống làm đẹp, thực
phẩm chức năng, các loại kem dưỡng da, đến các máy móc làm đẹp và các
công nghệ làm đẹp từ Mỹ, Hàn, Úc, Nhật… là điều dễ hiểu bởi vì cha ông
chúng ta ngày trước cũng có xu hướng: Nam nhân Bắc hướng (tức là có
những cái do chúng ta sản xuất ra nhưng ta lại truyền tụng những câu chuyện,
những giai thoại rằng vị tổ nghề là người Trung Quốc). Mặt khác, thường tâm
lý con người khá phức tạp, chỉ khi nào một cộng đồng thật tự tin, biết người
biết mình thì mới giải quyết tốt giữa mối quan hệ giữa hội nhập và tự chủ,
giữa tiếp thu và gìn giữ bản sắc riêng. Hiện nay để làm đẹp với một tốc độ
nhanh, để khắc phục những hạn chế của cơ thể người ta thường sử dụng
những công nghệ kỹ thuật làm đẹp trên thế giới. Bên cạnh đó, tri thức dân
gian cổ xưa cũng được sử dụng. Chẳng hạn để khắc phục những vết nám trên
da, có những trung tâm làm đẹp vẫn sử dụng cả phương pháp xông da bằng
hơi nghệ, sả... rồi sau đó đắp bằng sữa tươi với khoai tây; bột yến mạch với
sữa tươi; mật ong với lòng trắng trứng gà; rượu trắng ngâm với hoa đào, bơ,
chuối, dưa chuột… trong vòng ba mươi ngày thấy hiệu quả rõ rệt. Họ cũng
khuyến khích khách hàng sử dụng thường xuyên giữ gìn và chăm sóc sắc đẹp
này ở nhà để dưỡng da, dưỡng tóc. Tuy nhiên, số lần sử dụng những tri thức
dân gian làm đẹp thường là những khách hàng có thu nhập trung bình, thấp và
có nhiều quỹ thời gian rảnh. Như vậy, nếu như trước đây trong dân gian,
trong nhân dân, tri thức dân gian là biện pháp chủ yếu để phụ nữ làm đẹp và
giữ gìn sức khỏe và làm đẹp thì ngày nay, tri thức dân gian chỉ chiếm một vị
140
trí khiêm tốn.
Tuy nhiên, nói đến dân gian là nói đến sự tôn trọng tự nhiên, không can
thiệp cơ học vào tự nhiên. Giữa lúc thế giới bùng nổ thông tin, khoa học và kỹ
thuật có những bước tiến nhanh đến chóng mặt, ở ta các cơ sở làm đẹp mọc
lên như nấm, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh. Song chúng ta còn thiếu
rất nhiều các bác sĩ chuyên khoa thẩm mĩ và các kỹ thuật viên có tay nghề
đảm bảo. Nhiều cơ sở thẩm mỹ đành phải xếp lịch và mời các chuyên gia
thẩm mỹ ở Hàn Quốc sang hành nghề một, hai ngày. Sau khi họ về nước, các
cơ sở này lại xếp lịch và công việc chỉ có thể được tiến hành khi họ bố trí
được thời gian sang Việt Nam [24]. Ở thời phong kiến trước đây, muốn thay
đổi vẻ đẹp một cách hết sức căn bản (từ một phụ nữ nông thôn nhan sắc trung
bình trở thành một tuyệt thế giai nhân) thì người xưa chỉ có thể cầu viện đến
truyện cổ tích thần kỳ Lọ nước thần. Tác giải dân gian cho biết, chính những
điều huyền diệu của các lực lượng thần kỳ đã đem lại vẻ đẹp cho một người
phụ nữ nhan sắc vốn chỉ bình thường. Cũng chính trong chuyện dân gian,
nhân dân ta đã cho thấy ngay cả các lực lượng thần kỳ như thần tiên không
phải muốn làm gì cũng được. Truyện cổ tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã
gửi gắm thông điệp này. Truyện kể rằng, Trương Ba là một người trẻ tuổi
nhưng đánh cờ tướng rất giỏi. Anh ta được vị thần cờ Đế Thích yêu mến, đưa
cho một nén hương, dặn rằng mỗi lần cần đến thì thắp lên thì thần sẽ xuống.
Chẳng may, một hôm Trương Ba bị chết đột ngột. Sau khi chôn cất chồng,
người vợ dọn dẹp nhà cửa. Thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình
lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, Đế Thích nhận
được tin bằng mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, thần
liền hỏi, vợ Trương Ba sụt sịt: “Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi”. Đế
Thích tiếc rằng sao lúc Trương Ba mới tắc thở người nhà lại không gọi ông ta
xuống ngay, để đến lúc này thì còn làm thế nào được. Suy nghĩ một lúc, vị
141
thần hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?”. Vợ Trương Ba
đáp: “Có người hàng thịt mới chết tối hôm qua”. Đế Thích bảo chị ta dẫn
mình đến nhà hàng thịt và bảo: “Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi
sống lại”. Nói xong thần hóa phép trở về trời. Trong nhà người hàng thịt đang
lúc mọi người xúm quanh linh sàng khóc lóc thì tự nhiên người chết ngồi
nhỏm dậy. Anh ta vứt hết mọi đồ khâm liệm và chẳng nói chẳng rằng đi thẳng
một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt, biết là thần
Đế Thích làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó thì vợ
con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng. Nhưng không những người
đàn ông bị vợ Trương Ba giằng lại mà ngay chính anh ta cũng nhất định
không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau cuối cùng biến thành một cuộc đấu khẩu
kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó
là anh hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ anh Trương Ba thì nhất định nhận là chồng
mình. Quan hỏi rằng: “Chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?”. Đáp:
“Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi”. Quan lại hỏi vợ người hàng thịt:
“Chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?” Đáp: “Chồng tôi chỉ thạo nghề
mổ lợn”. Nghe xong, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng
thịt mổ nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy
người giỏi cờ vào tỉ thí với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi
những nước rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.
[18, tr.531- 532].
Qua câu chuyện trên, người nghe thấy rằng thần Đế Thích chỉ có thể
đem hồn Trương Ba nhập vào thân xác anh hàng thịt, chứ không thể biến hóa
thân xác anh hàng thịt thành thân xác anh đánh cờ. Với bàn tay tài khéo của
con người và sự tiến bộ vượt bậc về y học, công nghệ làm đẹp hiện nay đã cải
lão hoàn đồng, đã thay đổi hình dạng, đã phỏng dạng người này giống như
142
người khác. Ngày nay con người đã làm được cái điều mà vị thần Đế Thích
không làm được.
Trong xã hội phong kiến, theo giáo lý Khổng Mạnh, người đàn ông giữ
tròn đạo hiếu là người tự biết chăm lo, giữ gìn sức khỏe bản thân, bởi vì cho
đến cái tóc, cái móng tay cũng là do cha mẹ sinh ra; khi cha mẹ già phải ở
cạnh để phụng dưỡng không được đi xa (chính vì vậy, trên đường đi thi nghe
tin mẹ bị mất, nhà nho Nguyễn Đình Chiểu đã bỏ công danh quay về, trên
đường về khóc thương mẹ đến nỗi mù cả mắt); phải sinh được con trai để nối
dõi tông đường. Trong Tam quốc diễn nghĩa, tác giả La Quán Trung kể rằng,
khi lâm trận, một viên tướng giỏi của Tào Tháo là Hạ Hầu Đôn bị tướng của
Lã Bố là Tào Tính bắn lén, mũi tên trúng mắt tả. Đôn rút mũi tên, con ngươi
bật theo. Đôn kêu rằng: “Tinh cha huyết mẹ không nên bỏ!”, rồi đút con
ngươi vào mồm nuốt chửng, lại cầm giáo tế ngựa xông vào đánh Tào Tính.
Tào Tính chưa kịp đề phòng bị Đôn đâm chết [125, tr.309]. Việc nuốt con
ngươi của Hạ Hầu Đôn chứng tỏ viên tướng này là người có hiếu.
Từ bao đời nay và cho đến mai sau thì vẻ đẹp tự nhiên, do thiên nhiên
đem lại cho con người vẫn là vẻ đẹp được ngợi ca trong văn chương nghệ
thuật. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà thơ Huy Cận (1919-2005)
đã viết về một người đẹp:
Tạo hóa sinh em đẹp thế kia
Để rồi mai lại xóa em đi [31, tr.93].
Trong việc tôn vinh vẻ đẹp của các hoa hậu quốc gia và thế giới, một
giá trị rất đáng chú ý trong số nhiều giá trị tương tự hiện nay, người ta không
chấp nhận vẻ đẹp nhân tạo. Như thế, Ban Tổ chức cuộc thi đã rất tôn trọng vẻ
đẹp tự nhiên, nói rộng ra là tôn trọng tự nhiên, thiên nhiên. Người xưa có câu
“Thiên nhân hợp nhất” (Tự nhiên, vũ trụ và con người là một). Con người
143
sống trong vũ trụ, đồng thời cũng là một tiểu vũ trụ. Con người hiện đại cần
phải bảo vệ, gìn giữ môi trường, thiên nhiên và cũng cần tự bảo vệ mình. Việc
không đánh giá nhan sắc của những người đã trải qua phẫu thuật thẩm mĩ có
lẽ được soi sáng bởi tư tưởng đúng đắn và ngày càng chứng tỏ sự hợp lý của
nó. Sau cuộc thi hoa hậu hoàn vũ của Việt Nam năm 2015, trên Đài Truyền
hình quốc gia, khi nghe câu hỏi rằng, có dư luận về người đăng quang đã trải
qua phẫu thuật thẩm mỹ, hoa hậu Phạm Thị Hương trả lời: Các cơ quan
chuyên môn đã xác nhận sắc đẹp của chị là sắc đẹp tự nhiên, không có sự can
thiệp nhân tạo nào. Chị cũng cho biết sau khi đạt được danh hiệu, chị sẽ tiếp
tục học hỏi, tiếp tục hoàn thiện mình, rèn luyện sức khỏe để có thể chinh phục
đỉnh Phanxiphăng. Thì ra, quan niệm về cái đẹp hòa điệu với tự nhiên, thậm
chí là một phần của tự nhiên, cái đẹp đi liền với sức khỏe, đạo đức, phẩm
hạnh mà ta đã thấy trong tri thức dân gian khi có dịp lại hiển lộ và nhận được
sự đồng tình của đông đảo khán giả truyền hình.
144
Tiểu kết chương 4
Sắc đẹp và sức khỏe của người phụ nữ là hai vấn đề khác nhau nhưng
chúng lại ảnh hưởng đến nhau. Nhìn vào hàm răng, mái tóc và nước da của
người phụ nữ, người ta có thể đánh giá được một phần vẻ đẹp, đồng thời răng
khỏe, tóc dày và mượt, da sáng cũng là biểu hiện của sức khỏe tốt. Ngoài ra,
nói tới sức khỏe của người phụ nữ, người ta không bỏ quên phương diện sức
khỏe sinh sản, khả năng tình dục. Có khá nhiều tiêu chí về hình thức được xác
định là đẹp của người phụ nữ, cũng như có không ít những tổng kết về tiêu
chuẩn hình thể của người phụ nữ phồn sinh. Trong xã hội cũ (cả Trung Quốc
và Việt Nam), có không ít người đẹp tuy liễu yếu đào tơ mà có sức mạnh
nghiêng thành, đã làm cho nhiều đấng quân vương tan tành sự nghiệp. Nhưng
trong xã hội ấy, những người phụ nữ đẹp thường chịu những phận đời bất
hạnh. Rất nhiều người được tuyển vào cung vua để rồi chôn vùi tuổi xuân
trong đơn chiếc, sầu muộn. Chính vì vậy mà có câu "hồng nhan bạc phận". Ở
Việt Nam, nàng Kiều của Nguyễn Du là số phận điển hình nhất của một
người đẹp bất hạnh, mặc dù nàng tài đức vẹn toàn. Trong xã hội cũ, thường
người phụ nữ bình dân chỉ chú ý đến nhan sắc, làm đẹp khi còn con gái. Sau
khi lập gia đình, họ ít nghĩ đến bản thân và điều kiện vật chất lúc đó cũng rất
hạn chế khiến cho người phụ nữ phai tàn nhan sắc rất nhanh. Ngày nay điều
kiện khá hơn trước, khoa học kỹ thuật tiến bộ không ngừng, người phụ nữ kéo
dài tuổi thanh xuân và nhan sắc được giữ gìn hơn trước. Người phụ nữ mới
không chỉ đảm việc nhà mà còn là con người của sự nghiệp, con người của
những hoạt động xã hội. Chúng ta không chỉ tổ chức các cuộc thi hoa hậu, mà
còn tổ chức các cuộc thi hoa hậu các quý bà thành đạt. Có thể nói ở phương
diện này, lịch sử loài người là lịch sử giải phóng phụ nữ. Trong việc chăm sóc
sắc đẹp và giữ gìn sức khỏe, một số tri thức dân gian vẫn được sử dụng. Mặt
145
khác, tri thức dân gian lại có những giới hạn của nó và trong các trung tâm
làm đẹp bây giờ, rất nhiều phương thức làm đẹp, việc vận dụng tri thức dân
gian chỉ đóng một vị trí khiêm tốn. Như vậy chúng ta không hạ thấp tri thức
dân gian những cũng không đề cao nó một cách quá mức trong cuộc sống
hiện nay. Tuy nhiên, trong các cuộc thi hoa hậu, người ta không chấp nhận
những thí sinh đã trải qua phẫu thuật thẩm mĩ. Điều này cho thấy ý nghĩa, vai
trò của tri thức dân gian trong việc làm đẹp.
146
KẾT LUẬN
1. Tri thức dân gian là những tri thức được hình thành chủ yếu không
do các nhà trí thức thông thái, ngày xưa không được tổng kết trong sách vở.
Đó là những kinh nghiệm của người dân, được tích lũy qua nhiều năm tháng
trong lao động sản xuất, trong quan hệ xã hội… Tri thức dân gian được người
dân lưu giữ trong đầu, thể hiện qua hành động. Cũng có khi tri thức dân gian
được đúc kết và thể hiện qua tục ngữ, ca dao, truyện ngụ ngôn. Trong truyện
cổ tích, tri thức dân gian được thể hiện qua hình tượng nhân vật.
2. Trong giới phụ nữ hiện nay, việc làm đẹp, chăm sóc sắc đẹp và tập
luyện, bồi bổ sức khỏe càng ngày càng được chú ý. Điều đó thể hiện sự tiến bộ
của xã hội và sự khẳng định quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc của
một nửa nhân loại. Con người hiện đại thông minh, không bao giờ từ bỏ những
kinh nghiệm quý báu của tiền nhân trong quá khứ. Y học hiện đại đã đưa ra tỉ
lệ tiêu chuẩn về eo, mông của người phụ nữ đẹp. Thật thú vị, những người có
số đo như vậy rất hiếm và họ cũng chính là những người “thắt đáy lưng ong”,
“lưng con kiến” như tác giả dân gian ghi nhận. Khoa học cũng chứng minh mối
quan hệ giữa sắc đẹp và khả năng tình dục, sức khỏe sinh sản. Từ xa xưa, tác
giả dân gian cũng đã nhận ra mối quan hệ này. Trong việc chăm sóc sắc đẹp
hiện nay, có những kinh nghiệm dân gian vẫn được sử dụng. Những quan niệm
về dáng, về da, về sự hoàn chỉnh của con người và những quan niệm về các bộ
phận khác của con người trong dân gian đến nay về cơ bản vẫn phù hợp. Tất
nhiên có những quan niệm không còn phù hợp (chẳng hạn quan niệm về răng
đen cùng những bộ y phục quá cổ lỗ). So với trước đây, quan niệm về cái đẹp
của người phụ nữ có phần khác trước là người ta hướng tới những người có vóc
dáng thon dài, da trắng, hàm răng trắng đều, đẹp. Cái đẹp của họ cũng được thể
hiện đa dạng hơn, có khi kín đáo dịu dàng, có khi phô bày quyến rũ.
147
3. Nhân loại có tính chung, bởi thế quan niệm về vẻ đẹp của người phụ
nữ cũng mang những sắc thái chung của loài người. Bên cạnh đó, lại có
những nét khác biệt giữa người châu Âu và người châu Á. Phụ nữ châu Á sẽ
vô cùng phật ý nếu như bị người khác nhìn chăm chú, ngược lại ở phương
Tây, phụ nữ lại lấy làm hãnh diện nếu họ được ngắm nhìn. Người Việt Nam
quan niệm phụ nữ đẹp là người có làn da trắng, trong khi đó ở Ấn Độ, người
đẹp phải là người có nước da như vàng. Ở Mĩ, người ta đánh giá người phụ
nữ vai to, phần trên cơ thể nở nang và tấm lưng mạnh mẽ là những người phụ
nữ đẹp. Còn người Braxin lại quan niệm phụ nữ đẹp nên có một dáng vẻ mềm
mại với mông và hông lớn, vai nhỏ. Tri thức dân gian nói chung, quan niệm
thẩm mỹ bản địa nói riêng là sự phản ánh và lưu giữ, lưu truyền sắc thái riêng
này, bởi “mất dân gian là mất hồn dân tộc” (Trần Quốc Vượng). Cái đẹp cũng
có tính giai cấp và tính thời đại. Một ví dụ tiêu biểu là ở đời nhà Thanh
(Trung Quốc), những phụ nữ lớp trên phải là người chân nhỏ. Tục bó chân ra
đời từ đó. Trong xã hội cũ, người phụ nữ đẹp thường có cuộc đời bất hạnh,
chìm nổi. Người thường dân thường chăm sóc vẻ đẹp của mình cho đến khi
lập gia đình. Ngày nay, cái đẹp được bảo vệ, được khuyến khích, được cả xã
hội cổ vũ tán dương. Công nghệ làm đẹp ngày càng phát triển. Trong cuộc
cạnh tranh để tìm việc làm, ngoài các yêu cầu khác, người nào có hình thức
tốt hơn sẽ được ưu tiên. Chính vì vậy, phụ nữ đua nhau làm đẹp để có thể tìm
được vị trí việc làm xứng đáng. Người phụ nữ thời nay không chỉ đóng vai trò
quan trọng trong gia đình, họ còn là những người của cơ quan, công sở, xí
nghiệp của các hoạt động xã hội, đã xuất hiện không ít quý bà thành đạt.
Đứng sau họ đã có những người chồng, người đàn ông tự nguyện lùi lại phía
sau, dành nhiều thời gian chăm sóc cuộc sống gia đình, chăm sóc con cái để
một nửa của họ cống hiến cho xã hội, đó là một nét mới của thời đại. Trong
thời đại mới, nhan sắc và sức khỏe của chị em càng được chú ý. Trong y học
cũng như trong công nghệ làm đẹp, việc kết hợp công nghệ hiện đại với
148
những bài học dân gian cổ truyền còn phù hợp là một xu hướng đúng đắn.
4. Các loại lá, hoa, củ, quả trong thiên nhiên từ nhiều nghìn năm nay đã
đem lại cho phụ nữ vẻ đẹp tự nhiên và an toàn. Để chăm sóc tóc, hiện nay
nhiều phụ nữ vẫn gội đầu bằng bồ kết. Khi sản xuất son dưỡng môi, người ta
sử dụng sáp của tự nhiên, dầu thực vật được kết hợp công nghệ làm lạnh để
làm son môi.
Trong đời sống xã hội, sức khỏe luôn luôn giữ vai trò quan trọng.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với công việc, sức khỏe của phụ nữ
còn ảnh hưởng đến khả năng sinh nở, giữ gìn hạnh phúc, chăm sóc con cái và
các hoạt động nội trợ trong gia đình. Kinh nghiệm dân gian đã đúc kết nhiều
bài thuốc, sử dụng các sản phẩm và nguyên liệu sẵn có để chữa bệnh, tăng
cường sức khỏe cho phụ nữ. Hiện còn khá nhiều chị em sử dụng phương pháp
chăm sóc sức khỏe dân gian hằng ngày. Do mạng lưới y học hiện đại phát
triển nên càng ngày càng có nhiều chị em tìm đến các cơ sở y tế để khám,
chữa bệnh. Các phương pháp dân gian hầu như chỉ được sử dụng để điều trị
các bệnh thông thường, bệnh mãn tính hoặc xử lý ban đầu. Trong quá trình
trước và sau khi sinh nở, không ít phụ nữ vẫn sử dụng những kinh nghiệm,
những bài thuốc dân gian. Ngày nay, xu hướng chăm sóc sức khỏe kết hợp
giữa y học dân gian với y học hiện đại là tương đối phổ biến.
5. Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học và kỹ thuật có những
bước tiến nhanh đến chóng mặt, y học đã đạt được những thành tựu kỳ diệu,
các cơ sở làm đẹp mọc lên như nấm, đôi khi dưới cái nhìn của một số người,
việc sử dụng các bài thuốc nam trong việc bảo vệ sức khỏe và chăm sóc nhan
sắc bị coi là việc làm cổ xưa, lạc điệu. Quả là, có những trường hợp y học
hiện đại đã chữa cho người bệnh khỏi bệnh khá nhanh chóng, đã thay thận,
nối mạch máu, tức là đã làm những việc mà người xưa nói chung, y học dân
gian nói riêng bó tay. Khoa học kỹ thuật hiện đại đã giúp cho con người ta
149
chuyển giới thành công, đã đem lại vẻ đẹp rực rỡ, quyến rũ hơn rất nhiều so
với trước khi phẫu thuật thẩm mĩ cho phụ nữ. Thế nhưng, quốc tế và Việt
Nam không công nhận vẻ đẹp nhân tạo đó trong các cuộc thi hoa hậu. Vẻ đẹp
mà tự nhiên, thiên nhiên đem đến cho người phụ nữ vẫn là vẻ đẹp duy nhất
được các cuộc thi hoa hậu quốc gia và quốc tế tôn vinh. Trên cơ sở vẻ đẹp trời
cho, những người đẹp chỉ có thể làm đẹp thêm hoặc hạn chế những gì chưa
thật đẹp bằng các bài thuốc, các phương pháp mà tri thức dân gian đem lại.
Điều này cho thấy sức sống vững bền và vai trò của tri thức dân gian trong
việc làm đẹp và chăm sóc sức khỏe phụ nữ hiện nay. Ngoài ra, điều này còn
thể hiện một ý nghĩa sâu sắc khác. Con người là một bộ phận của tự nhiên, là
một tiểu vũ trụ. Nếu y học dùng các biện pháp cơ học can thiệp vào thân thể
con người, chẳng khác nào loài người đã và đang tàn phá tự nhiên, thiên
nhiên gây nên các thảm họa làm ô nhiễm môi trường, gây hiệu ứng nhà kính,
làm trái đất nóng lên, nước biển sẽ dâng cao hơn. Nhận thức đúng tự nhiên,
sống hòa điệu với tự nhiên, biết bảo vệ tự nhiên chính là triết lý ứng xử đúng
đắn hiện nay.
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1. Trương Thị Cẩm Vân (2013), "Quan niệm làm đẹp của phụ nữ Vệt
truyền thống đến hiện đại qua cách tiếp cận nhân học văn hóa", Tạp chí
Nghiên cứu Văn hóa, số 4 ( tr.18 - 22).
2. Trương Thị Cẩm Vân (2013), "Bàn thêm về tri thức dân gian", Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 4 (148) (tr. 66 - 68).
3. Trương Thị Cẩm Vân (2015), “Bàn luận xung quanh vẻ đẹp của người
phụ nữ và người phụ nữ đẹp thời xưa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (161),
tr.30-35.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Trần Thị An chủ biên (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tập 1: Tục ngữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Trần Thị An chủ biên (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tập 18: Dân ca, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Trần Thị An chủ biên (2007), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tập 19: Dân ca, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Trần Thị An chủ biên (2008), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam, tập 2: Tục ngữ: Câu đố, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
5. Phan Bảo An (2000), Tiêu chuẩn vẻ đẹp ngoại hình trong các cuộc thi
hoa hậu, Tạp chí Khoa học và Phát triển, (số 3), Hà Nội.
6. Công Anh sưu tầm (2007), Cây nhà lá vườn vị thuốc chữa bệnh và làm
đẹp, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
7. Đào Duy Anh (2005), Nghiên cứu văn hóa và ngữ văn, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
8. Lại Nguyên Ân (2004), Cái đẹp, trong Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi,
Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá đồng chủ biên, Từ điển văn học, bộ mới,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
9. Báo Phụ nữ Việt Nam (1987), Nữ tính trong xã hội hiện đại, (số 33), Hà
Nội.
10. Nguyễn Tấn Bảo (2007), Chanh vị thuốc bốn mùa, Tạp chí Cây thuốc
quý, (số 84), Hà Nội.
11. Nguyễn Trọng Báu (2008), Truyện kể về phong tục các dân tộc Việt
Nam, ba tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
152
12. Nguyễn Duy Bắc chủ biên (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ
điển Bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội.
13. Phạm Văn Bích (1999), Gia đình Việt Nam trong quá trình biến đổi:
Nghiên cứu trường hợp tại đồng bằng Sông Hồng, Hà Nội.
14. Lê Thanh Bình (2000), Suy nghĩ về công, dung, ngôn, hạnh xưa và nay,
Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (số 4), Hà Nội.
15. Bộ Y tế và nhóm đối tác về y tế (2012), Báo cáo chung tổng quan ngành
y tế năm 2012: Nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh do
thực hiện hàng năm, Hà Nội.
16. Conrad Phillip Kottak (2006), Hình ảnh nhân loại, bản dịch của Nguyễn
Hồng Trung, Chu Thị Quỳnh Giao, Trần Thị Tâm,…, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
17. Chảo Chử Chấn (2014), Tri thức dân gian chăm sóc sức khỏe sinh sản
cho phụ nữ và trẻ em người Phù Lá, Bắc Hà, Lào Cai, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
18. Nguyễn Đổng Chi (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh, quyển 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Nguyễn Đổng Chi (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh, quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Trúc Chi (2006), Thức uống làm đẹp, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp.
Hồ Chí Minh.
21. Lê Trọng Cúc (2002), Đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
22. Lưu Đàm Cư (2004), Cây thuốc truyền thống của người Dao huyện
Sapa, Tuyển tập những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự
sống, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
23. Nguyễn Nghĩa Dân (2014), Tục ngữ so sánh dân tộc Kinh và các dân tộc
153
thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Tuệ Diễm (2015), Thiếu nhân lực phẫu thuật thẩm mỹ: Mất bò mới lo
làm chuồng, Báo Hà Nội mới, ngày 2 tháng 10, Hà Nội.
25. Xuân Diệu (2001), Ba thi hào dân tộc, tái bản, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
26. Trần Trí Dõi, Vi Khăm Mun (2013), Tục ngữ và thành ngữ người Thái
Mương, Nxb Văn hóa thông tin, tập 2, Hà Nội.
27. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào (1995), Từ điển thành ngữ và
tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
28. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2012), Hướng dẫn thực hiện
Điều lệ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
http://doanthanhnien.vn/newsdetail/DoanTNCSHCM/22394/news.htm,
Ngày tra cứu 29/12/2015.
29. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, bản dịch của Viện Sử học, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
30. Nguyễn Bảo Đồng (2007), Tập quán sử dụng y học cổ truyền trong chăm
sóc sức khỏe của người Dao và người H’mông ở Hà Tây, Luận văn thạc
sỹ khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Hà Minh Đức (2014), Tài năng và danh phận, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
32. Võ Hà (2010), Rau má: Giải độc, dưỡng âm, chống lão hóa, Tạp chí Cây
thuốc quý, (số 104), Hà Nội.
33. Mai Văn Hai chủ biên (2009), Xã hội học văn hóa, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
34. Đinh Hồng Hải (2011), Nghiên cứu văn hóa từ góc nhìn nhân học biểu
tượng, Tạp chí Dân tộc học, (số 5), Hà Nội.
35. Cao Sơn Hải (2015), Tục ngữ Mường Thanh Hóa, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
36. Thanh Hải, Thanh Minh biên soạn (2008), 215 món ăn nhẹ vị thuốc và
154
làm đẹp, Nxb Lao động, Hà Nội.
37. Hoàng Văn Hành chủ biên (1997), Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Trần Hồng Hạnh (2002), Tri thức địa phương trong sử dụng thuốc nam
của người Dao Đỏ, Tạp chí Dân tộc học, (số 6), Hà Nội.
39. Thanh Hằng Beauty Medi (2016), “Chỉ vàng làm đẹp dáng giá ngàn
vàng”, Heritage Fashion số tháng 5-6 năm 2016 của hang hàng không
VietnamAirlines, tr.122-123.
40. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý và cộng sự (1999), Văn hóa truyền
thống của người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
41. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tài liệu
Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đề án 343 theo Quyết
định số 343/QĐ-TTg), Hà Nội.
42. Vũ Thị Thanh Hoài (2011), Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của
Yasurari Kawabata, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa (thuộc Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội), (số 4), Hà Nội.
43. Trương Trọng Hoàng (2002), Bệnh tật và sức khỏe dưới góc độ văn hóa,
Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục Sức khoẻ, Trường Đại học Y
khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh.
44. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam
(2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội.
45. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2010), Bốn phẩm chất của người phụ
nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Đề án Tuyên truyền,
giáo dục phẩm chất của người phụ nữ), Hà Nội.
46. Đinh Thị Huệ (2003), Điều tra ứng dụng y học cổ truyền trong phòng và
chữa bệnh của người Mường xã Địch Giáo, Tân Lạc, Hòa Bình, Luận
155
văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Huệ (2013), Tri thức của đồng bào dân tộc thiểu số về y học
cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Luận văn thạc sỹ, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
48. Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Ngọc Long (2000), Giáo trình mỹ
học Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Mai Văn Hưng (2011), Định giá cái đẹp không dễ, Bản tin Văn hóa –
nghệ thuật Đại học quốc gia Hà Nội, (số 245), Hà Nội.
50. Hà Hương sưu tầm, biên soạn (2009), Làm đẹp bằng mỹ phẩm tự chế,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
51. Lan Hương tuyển chọn (2005), Ca dao Việt Nam về tình yêu đôi lứa,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
52. Lan Hương tuyển chọn (2005), Ca dao Việt Nam về tình cảm gia
đình, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
53. Iuanh Xegugi (1990), Không như chúng ta, Phạm Lan Hương dịch, Tạp
chí Văn hóa dân gian, (số 2), Hà Nội.
54. Đinh Gia Khánh chủ biên (1977), Điển cố văn học, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
55. Vũ Ngọc Khánh (2008), Kể chuyện phong tục Việt Nam: Văn hóa gia
đình, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Nguyễn Xuân Khánh (2013), Đội gạo lên chùa, tiểu thuyết, in lần thứ
năm, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
57. Bích Khê (1995), Tinh huyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
58. Thiên Kim (2000), Những phương thuốc làm đẹp từ cây thuốc nam, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
59. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (2001), Kho tàng ca dao
người Việt, tập 1, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
60. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (2001), Kho tàng ca dao
156
người Việt, tập 2, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
61. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 1,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
62. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 2,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
63. Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn
Luân (2002), Những câu tục ngữ nói về ốm đau, chữa bệnh, Tạp chí
Nguồn sáng dân gian, số 4, Hà Nội.
64. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, môi trường và văn hóa, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Nguyễn Xuân Kính (2010), Chuyện ấy được diễn tả tài tình trong ca dao
và câu đố, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, (số 1), Hà Nội.
66. Nguyễn Xuân Kính (2012), Một nhận thức về văn học dân gian Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
67. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2014), Truyện cười các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2014), Truyện ngụ ngôn người Việt, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2014), Truyện ngụ ngôn các dân tộc thiểu
số Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Hoài Lam (1979), Tìm hiểu mỹ học Mác – Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
71. Nguyễn Thị Thúy Loan (2012), Vấn đề miêu tả ngoại hình con người
trong kho tàng ca dao người Việt, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
72. Tưởng Kim Long (2003), Món ăn làm đẹp cho phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
73. Vưu Nghị Lực (1997), Ứng xử văn hóa trong khai thác môi trường thiên
nhiên ở Cà Mau, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà
157
Nội.
74. Hoàng Văn Lương (2010), Đặc điểm lông, tóc người Việt ứng dụng
trong pháp y (sách chuyên khảo), Nxb Y học, Hà Nội.
75. C.Mác, Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. O. Mogensen, Tine Gammeltoft, Nguyễn Mỹ Hương, Hoàng Kim Dung
(2005), Nhập đề về nhân học xã hội trong bối cảnh Việt Nam, Nghiên
cứu về giới và sức khỏe sinh sản ở khu vực ven biển Bắc Trung Bộ thuộc
Dự án hợp tác Việt Nam – Đan Mạch về Nâng cao năng lực nghiên cứu
dân số và sức khỏe sinh sản tại Việt nam (REACH), Nxb Thống kê, Hà
Nội.
78. Lê Thành Nam chủ biên (2014), Phong tục sinh đẻ và chăm sóc trẻ sơ
sinh của người Dao Tuyển (xã Long Phúc, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai),
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
79. Nguyễn Thúy Nga biên dịch (2003), Thuật làm đẹp tự nhiên, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
80. Sử Văn Ngọc (2013), Lời người xưa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
81. Mạc Ngôn (2004), Đàn hương hình, bản dịch, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
82. Trần Xuân Nguyên (2004), Khảo sát sự hiểu biết và kinh nghiệm sử dụng
thuốc y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe của người Dao Tiền ở xã
Tu Lý, Đà Bắc, Hòa Bình, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.
83. Hùng Nguyễn, Các trường phái lý thuyết chính trong nhân học.
http://www,vanhoahoc,vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/vhh-cac-
truong-phai-trao-luu/1403-tung-nguyen-cac-truong-phai-ly-thuyet-chinh-
trong-nhan-hoc,html
84. Lê Thị Nguyệt (2008), Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ truyền
người Việt, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
85. Duy Nhân và nhiều tác giả (1994), Thể thao khỏe và đẹp, Vẻ đẹp là chìa
158
khóa của hạnh phúc, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội.
86. Nhiều tác giả (2000), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tái bản lần thứ ba, Hà Nội.
87. Nhiều tác giả (2007), Almanach Người Mẹ và Phái Đẹp, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
88. Phạm Thị Nhung (1990), Những nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa
qua ca dao. Bài thuyết trình văn hóa ngày 14/01/1990 tại hội trường 40
Rue La Fontaine, Paris 16.
89. Nguyễn Văn Nở (2009), Về ngữ cảnh vận dụng, cấu trúc văn bản và
nghĩa của một câu tục ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, (số 10), Hà Nội.
90. Đặng Ngọc Phái (2006), Tiềm năng dược liệu tỉnh Quảng Nam, Tạp chí
Cây thuốc quý, (số 72), Hà Nội.
91. Nguyễn Nhược Pháp (1995), Ngày xưa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
92. Nguyễn Lan Phương và Vũ Phạm Nguyên Thanh (1998), Xã hội học sức
khỏe và y tế, Kết quả nghiên cứu đề tài tiềm năng 1997, Hà Nội.
93. Hoa Phượng (1996), Tự làm đẹp: Chăm sóc da và vóc dáng, Nxb Đồng
Nai.
94. Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân (2014), Thành ngữ - Tục ngữ ca dao dân
tộc Tày, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
95. Đặng Sơn (2007), Phương pháp chăm sóc thai và làm đẹp sau khi sinh,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
96. Nguyễn Ngọc Thanh chủ biên (2012), Tri thức địa phương của người
dân sống trong vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
97. Lê Bá Thảo (2002), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
98. Nguyễn Hữu Thăng (2004), Món ăn tẩm bổ làm đẹp cho phụ nữ, Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
159
99. Bùi Quang Thắng chủ biên (2008), 30 thuật ngữ nghiên cứu văn hoá,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
100. Trần Ngọc Thêm (1995), Triết lý âm dương và vai trò của nó trong
truyền thống văn hóa Việt Nam, Tạp chí Văn hóaNghệ thuật, (số 1), Hà
Nội.
101. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
102. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh.
103. Lê Thi (2004), Về chuẩn mực người phụ nữ mới thời hiện đại, Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, (số 2), Hà Nội.
104. Ngô Đức Thịnh (1987), Truyền thống ăn uống Việt Nam với dưỡng sinh
và trị bệnh, Tạp chí Văn hóa dân gian, (số 3), Hà Nội.
105. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
106. Ngô Đức Thịnh (2002), Tri thức bản địa và văn hóa dân tộc, Hội thảo Sử
dụng kiến thức bản địa trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên
nhiên vùng cao, Hà Nội.
107. Ngô Đức Thịnh (2004), Thế giới quan bản địa, Tạp chí Văn hóa dân
gian, (số 4), Hà Nội.
108. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
109. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan chủ biên (2005), Folklore thế giới một
số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
111. Ngô Đức Thịnh (2007), “Bàn thêm về tri thức địa phương”, trong
chuyên san Nhân học đương đại, Hội Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội.
160
112. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
113. Đinh Thị Hồng Thơm (2013), Tri thức dân gian liên quan đến tập quán
sinh đẻ và chăm sóc trẻ em của dân tộc Sán Dìu ở huyện Sơn Dương,
tỉnh Tuyên Quang, Nxb Thời đại, Hà Nội.
114. Trần Thuý, Phạm Duy Nhạc (1985), Y học cổ truyền dân tộc, Nxb Y học,
Hà Nội.
115. Trần Thuý và cộng sự (1998), Kết quả nghiên cứu và hiện trạng nhân lực
và hiện trạng sử dụng thuốc cổ truyền, Đề tài tiến hành theo yêu cầu của
Bộ Y tế, lĩnh vực chính sách và quản lí thuốc thuộc chương trình hợp tác
Y tế Việt Nam - Thụy Điển.
116. Trần Thuý, Vũ Nam (2002), Sổ tay y học cổ truyền, Nxb Y học, Hà Nội.
117. Lê Đình Thư (2013), Quan niệm đa chiều về giới trong tục ngữ tiếng
Việt, trong Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học và
tiếng Việt, Hà Nội.
118. Hà Thị Phương Tiến (1990), Về đặc điểm y – sinh học người phụ nữ
trong lao động và chiến lược con người, Trung tâm Nghiên cứu khoa học
về phụ nữ, Hà Nội.
119. Hoàng Quý Tỉnh (2005), Tìm hiểu một số kiến thức bản địa trong chăm
sóc sức khỏe sinh sản của người Dao và người Thái ở Yên Bái, Luận văn
thạc sỹ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
120. Hoàng Khánh Toàn (Khoa Đông Y, Viện Quân y 108).
http://ykhoa,net/yhoccotruyen/baiviet/29_264,htm
121. Lê Ngọc Trà chủ biên (1994), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
122. Phạm Anh Trang (2010), Hỏi đáp về trang phục truyền thống Việt Nam,
Nxb Thời đại, Hà Nội.
161
123. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), Hình tượng người phụ nữ trong sử thi
Tây Nguyên, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
124. Trương Hoàng Trọng (2002), Văn hóa và chăm sóc sức khỏe ban đầu,
Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Tp.Hồ Chí Minh.
125. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, bản dịch, tập 1, Nxb Văn
hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.
126. Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới - gia đình - phụ nữ
và vị thành niên (2009), Mẫu hình văn hóa và tiêu chuẩn của người phụ
nữ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, Bản tin số 5, Hà Nội.
127. Trung tâm Nghiên cứu sức khỏe cộng đồng (2006), Y học cổ truyền của
người Dao qua nghiên cứu điểm, Báo cáo đề tài cấp viện, Viện Dân tộc
học, Hà Nội.
128. Nguyễn Thị Minh Tú, Triệu Văn Quẩy (2014), Tri thức dân gian về cúng
chữa bệnh cho phụ nữ và trẻ em của người Dao Tuyển ở Lào Cai, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
129. Nguyễn Văn Tuấn, Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học.
http://ykhoa,net/congtacvien/nguyenvantuan/tinhyeu_gen,htm
130. Trịnh Minh Tuyết (2006), Mỹ phẩm chăm sóc sắc đẹp từ thiên nhiên,
Tạp chí Cây thuốc quý, (số 70), Hà Nội.
131. Hàn Mặc Tử (1995), Gái quê. Chơi giữa mùa trăng. Đau thương (thơ
điên), Xuân như ý, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
132. Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc chủ biên (1998), Kiến thức bản địa của
đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên
nhiên, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
133. UNESCO:http://www,unesco,org/education/tlsf/mods/theme_c/mod11,ht
ml
134. Bùi Văn Uy (2009), Thuốc - mỹ phẩm với sức khoẻ và sắc đẹp giới nữ,
Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.
162
135. Lương Tú Vân, Lương Tú Mẫn (2001), Những phương thức bí truyền
làm đẹp của cung phi, Nxb Thuận Hóa.
136. Viện Dược liệu (2003), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập
2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
137. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2009), Thư tịch y dược cổ truyền Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
138. Viện Văn hoá dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương pháp
nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
139. Nam Việt (2007), Hoa quả trị bệnh và làm đẹp, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
140. Vnexpress, Da trắng hấp dẫn đàn ông, da nâu hấp dẫn phụ nữ,
http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/da-trang-hap-dan-dan-ong-da-
ngam-thu-hut-phu-nu-2103229.html
141. Trịnh Quang Vũ (2002), Lược sử mỹ thuật Việt Nam (thời kỳ cổ đại và
phong kiến), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
142. Trần Quốc Vượng chủ biên (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
143. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
144. Nguyễn Thị Yên chủ biên (2014), Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
145. Ngô Đức Thịnh (1997), Local Knowledge and Development,
“Integration of Endgenous Cultural Dimention into Development”,
Vol,N2, New Delhi.
146. World Bank (2004), Indigenous knowledge: local pathways to global
development, Africa Regional Office, World Bank.
147. Sujatha Sebastian. Beauty, Biology, and Society.
http://serendip.brynmawr.edu/exchange/node/2042.
163
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƯƠNG THỊ CẨM VÂN
VẬN DỤNG QUAN NIỆM THẨM MĨ
VÀ TRI THỨC DÂN GIAN TRONG VIỆC LÀM ĐẸP
VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE PHỤ NỮ HIỆN NAY
Chuyên ngành: VĂN HÓA DÂN GIAN
Mã số: 62 22 01 30
Phụ lục
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH
HÀ NỘI - 2016
164
MỤC LỤC PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. BỘ CÔNG CỤ KHẢO SÁT ................................................ 166
PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT ......................... 183
PHỤ LỤC 3. NHỮNG HÌNH ẢNH CHĂM SÓC SẮC ĐẸP .................. 221
3.1. MỘT SỐ NGUYÊN LIỆU LÀM ĐẸP VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE
DÂN GIAN ................................................................................................... 221
3.2. MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀM ĐẸP BẰNG PHƯƠNG PHÁP DÂN
GIAN ............................................................................................................. 228
PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THỂ HIỆN VẺ ĐẸP
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ ............................................................................... 235
4.1. TRUYỆN DÂN GIAN “AI MUA HÀNH TÔI HAY LÀ LỌ NƯỚC
THẦN” .......................................................................................................... 235
4.2. SƠN TINH - THỦY TINH .................................................................... 239
4.3. CHÙA HƯƠNG ..................................................................................... 245
4.4. TRANH LÕA THỂ ................................................................................ 253
4.5. MỘNG CẦM CA ................................................................................... 255
4.6. GÁI QUÊ................................................................................................ 257
4.7. NỤ CƯỜI ............................................................................................... 258
PHỤ LỤC 5: HAI DẠNG VĂN BẢN TẠO HÌNH VÀ BIỂU HIỆN
TRONG CA DAO ....................................................................................... 259
165
PHỤ LỤC 1. BỘ CÔNG CỤ KHẢO SÁT
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN VỀ QUAN NIỆM VÀ HÀNH VI CHĂM SÓC SẮC ĐẸP CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
(Dành cho phụ nữ từ 15 tuổi trở lên)
Chào các chị/bạn,
Chúng tôi đang tiến hành một nghiên cứu về việc vận dụng tri thức dân
gian trong chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam. Dưới đây là
một số câu hỏi mong được các chị/bạn trả lời phù hợp với suy nghĩ và thực tế
của bản thân. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu quan trọng để có những giải
pháp duy trì và phát huy giá trị của tri thức dân gian trong chăm sóc sức
khỏe và sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam ngày nay.
Các chị/bạn trả lời bằng cách điền thông tin vào các chỗ trống hoặc
khoanh tròn vào các phương án trả lời phù hợp
Xin chân thành cảm ơn sự tham gia của các chị/bạn.
Bảng hỏi được khảo sát tại:
Xã:___________________________________________
Huyện:________________________________________
Tỉnh/Thành phố:________________________________
166
PHẦN I. MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG
(Các câu hỏi từ C1 đến C7 chỉ chọn duy nhất 1 phương án trong các phương án được gợi ý)
C1. Tuổi:___________ (hoặc ghi năm sinh dương lịch)
C2. Nơi sinh sống hiện nay
1. Nông thôn
2. Thị trấn
3. Thành phố
C3. Nghề nghiệp
1. Nông nghiệp 6. Nội trợ/nghỉ hưu
2. Buôn bán/dịch vụ 7. Làm nghệ thuật (diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ)
3. Cán bộ/viên chức 8. Nhân viên trong các doanh nghiệp/công ty
4. Nghề tự do/làm thuê 9. Học sinh/sinh viên
5. Công an, quân đội 10. Thất nghiệp
C4. Thu nhập của bản thân (trung bình/tháng)
1. Dưới 1 triệu 4. Từ 5- dưới 7 triệu
2. Từ 1- dưới 3 triệu 5. Trên 7 triệu
3. Từ 3- dưới 5 triệu
C5. Tình trạng hôn nhân.
1. Đang ở cùng chồng
2. Đã có gia đình nhưng ly hôn/ly thân
3. Chưa lập gia đình
167
C6. Trình độ học vấn
1. Chưa hết tiểu học 4. Trung cấp/nghề
2. Hết trung học cơ sở (cấp 2) 5. Cao đẳng/đại học
3. Hết trung học phổ thông (cấp 3) 6. Trên/sau đại học
C7. Tôn giáo
1. Không theo tôn giáo nào
2. Đạo Tin lành
3. Đạo Cao Đài
4. Đạo Phật
5.Đạo khác (ghi gõ.............)
168
PHẦN II. CHĂM SÓC SẮC ĐẸP
Q1. Theo chị, sắc đẹp đối với người phụ nữ có tầm quan trọng như thế
nào?
(Chỉ chọn 1 phương án duy nhất)
1. Rất quan trọng
2. Quan trọng
3. Không quan trọng
Chuyển hỏi Q3
4. Không trả lời/không có ý kiến
Q2. Nếu rất quan trọng/quan trọng, xin chị cho biết tại sao?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Sắc đẹp giúp bản thân tự tin hơn
2. Được nhiều người quan tâm, để ý, tôn trọng
3. Có nhiều lợi thế trong công việc/cuộc sống
4. Mang lại cho bản thân những quyền năng nhất định
5. Đề giữ gìn hạnh phúc gia đình
6. Chỉ đơn thuần, phụ nữ là phải quan tâm sắc đẹp
7. Khác (ghi rõ).........................................................................
Q3. Trong những tiêu chuẩn dưới đây đối với phụ nữ, theo chị điều gì là quan trọng nhất? (Xin hãy chọn thứ tự ưu tiên và đánh số tương ứng vào ô phù hợp, chỉ chọn 05 ưu tiên nhất trong 10 vấn đề được nêu ra)
TT Tiêu chí
Mức độ ưu tiên 1. Ưu tiên nhất 2. Ưu tiên thứ 2 3. Ưu tiên thứ 3 4. Ưu tiên thứ 4 5. Ưu tiên thứ 5
1 Tiền bạc/thu nhập
2 Sức khỏe
3 Sắc đẹp
169
4 Công danh/vị trí xã hội
5 Con cái
6 Gia đình
7 Nghề nghiệp/công việc
8 Thời gian vui chơi, giải trí
9 Bạn bè/người thân
10 Khác (ghi
rõ................................)
Q4. Chị thường xuyên quan tâm/để ý đến sắc đẹp của bản thân không?
(Chỉ chọn một phương án)
1. Thường xuyên
2. Thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Không bao giờ
Q5. Chị thường quan tâm đến những vấn đề nào liên quan đến sắc đẹp
của bản thân? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Làn da
2. Tóc
3. Dáng vóc
4. Khuôn mặt
5. Thời trang/quần áo/dày dép
6. Cách đi lại
7. Hàm răng/hơi thở
8.Mắt/mũi
170
Q6. Chị thường chăm sóc sắc đẹp cho bản thân ở đâu? (Chỉ chọn một
phương án)
1. Tại nhà là chủ yếu
2. Tại tiệm/spa/cửa hàng là chủ yếu
3. Chăm sóc tại cả hai nơi
Q7. Nếu đến các cơ sở chăm sóc sắc đẹp, đó là nơi nào?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Thẩm mỹ viện
2. Cơ sở y tế tư
3. Tiệm làm tóc
4. Cơ sở làm dạo
5. Khác (ghi khác....................................................)
Q8. Chị thường sử dụng sản phẩm/nguyên liệu gì để chăm sóc sắc đẹp
của bản thân? (Chỉ chọn một phương án)
1. Các sản phẩm từ tự nhiên sẵn có (hoa quả, cây, lá....)
2. Các sản phẩm được sản xuất theo công nghệ ==> Chuyển hỏi
Q12
3. Kết hợp cả hai sản phẩm/nguyên liệu trên
4. Khác.....................................................................
Q8a. Nếu có sử dụng các sản phẩm tự nhiên sẵn có, xin cho biết đó là
những gì?
TT Nguyên liệu Ghi rõ tên các loại
1 Lá
2 Hoa
3 Quả
4 Củ
5 Rễ
6 Khác
171
Q9. Xin chị cho biết tại sao chị lại sử dụng những sản phẩm tự nhiên đó?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Không gây nguy hiểm cho sức khỏe
2. Tiết kiệm/không tốn kém chi phí
3. Dễ tìm kiếm (sẵn có)
4. Không biết sử dụng những sản phẩm được chế xuất
5. Được người thân/người quen khuyên dùng
6. Lý do khác.........................................................................
Q10. Trong gia đình hoặc nơi ở của chị, có ai sử dụng các sản phẩm tự
nhiên sẵn có để chăm sóc sắc đẹp không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Phần lớn số phụ nữ/con gái trong gia đình
2. Một nửa số phụ nữ/con gái trong gia đình
3. Số ít phụ nữ/con gái trong gia đình
4. Không có ai
Q11. Ai là người hướng dẫn/nói cho chị biết cách thức sử dụng các sản
phẩm tự nhiên để làm đẹp? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Người thân trong gia đình
2. Bạn bè/đồng nghiệp
3. Biết trên phương tiện truyền thông (ti vi, đài báo)
4. Sách, tài liệu
5. Thấy người khác dùng thì dùng theo
6. Khác......................................................................
Q12. Chị cho biết tại sao chị sử dụng các sản phẩm được sản xuất/chế
xuất sẵn để chăm sóc sắc đẹp? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Giá rẻ
2. Không mất thời gian chế biến/sử dụng/tiện
3. Dễ mua/dễ kiếm
4. Không có hại cho sức khỏe
172
5. Đa dạng chủng loại, mẫu mã, nhu cầu sử dụng
6. Mọi người dùng nhiều
7. Lý do khác............................................................
Q13. Xin chị cho biết, trung bình 01 tháng chị chi bao nhiêu tiền cho
việc chăm sóc sắc đẹp của mình? (ví dụ: 1.000.000đ = 1 triệu đồng)
T Nội dung chi Ước tính (đồng)
T
1 Mua nguyên liệu/sản phẩm làm đẹp
2 Đến các trung tâm/dịch vụ chăm sóc
3 Khác
Q14. Chị cho biết, các cách làm đẹp truyền thống/dân gian của người
phụ nữ Việt như thế nào hiện nay? (Chỉ chọn một phương án)
1. Vẫn còn nguyên giá trị, nhiều người biết và sử dụng
2. Đã mai một, cần phải khôi phục
3. Không còn giá trị, ít người biết và sử dụng đến
4. Đang được kết hợp với các phương pháp làm đẹp hiện đại
5. Không biết/không trả lời
Q15. Theo chị, trong các phương pháp làm đẹp ngày nay tại các trung tâm chăm sóc sắc đẹp, các làm đẹp truyền thống có được vận dụng/ứng dụng không?
(Chỉ chọn một phương án)
1. Có, kết hợp cả hiện đại và truyền thống
2. Chỉ một phần là truyền thống, phần lớn là hiện đại
3. Phần lớn là truyền thống
4. Không biết
173
Q16. Theo chị, các loại hình chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe hiện nay
đang được nhiều phụ nữ quan tâm là gì? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Chăm sóc tóc
2. Chăm sóc da
3. Phẫu thuật thẩm mỹ, vóc dáng
4. Vật lý trị liệu/xoa bóp/bấm huyệt
5. Tắm, sử dụng các loại lá/hoa/trái cây
6. Chăm sóc răng miệng
7. Khác (ghi rõ)..............................................................................
Q17. Chị có thể kể ra một số cách làm đẹp/kiểu làm đẹp theo dân gian
mà chị biết? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Gội đầu bằng bồ kếp/chanh
2. Nhuộm răng
3. Tắm lá
4. Xông hơi lá
5. Bấm huyệt
6. Đắp mặt bằng các loại cây, trái
7. Mátxa
8. Tập dưỡng sinh
9. Khác (ghi rõ)......................................................
Q18. Theo chị, hiện nay phụ nữ còn sử dụng cách/kiểu làm đẹp nào sau?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Gội đầu bằng bồ kếp/chanh
2. Nhuộm răng
3. Tắm lá
4. Xông hơi lá
5. Bấm huyệt
174
6. Đắp mặt bằng các loại cây, trái
7. Mátxa/xoa bóp
8. Tập dưỡng sinh
9. Khác (ghi rõ)......................................................
Q19. Theo chị, có nên duy trì, giữ gìn các cách làm đẹp truyền thống
trong xã hội hiện nay không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Cần thiết
2. Có cũng được, không cũng được
3. Không cần thiết
4. Không biết/không trả lời
175
PHẦN III. CHĂM SÓC SỨC KHỎE
Q20. Trong năm qua chị có bị ốm lần nào không? (Chỉ chọn một phương
án)
1. Có
2. Không
Q21. Chị đã điều trị ở đâu trong lần ốm gần đây nhất?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Để tự khỏi
2. Đến cơ sở y tế đông y/y học cổ truyền
3. Đến cơ sở y tế (bệnh viện, phòng khám)
4. Đến thầy lang
5. Tự điều trị bằng thuốc nam (lá cây)
6. Tự điều trị bằng các phương phương pháp (cạo gió, xông hơi....)
7. Khác (ghi rõ)___________________________________
Q22. Chị đã từng sinh/đẻ lần nào chưa? (Chỉ chọn một phương án)
1. Đã từng
2. Chưa từng ==> Chuyển hỏi Q28
Q23. Chị thường đến đâu để sinh đẻ? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Trạm y tế
2. Bệnh viện tuyến truyên
3. Bà đỡ/mụ vườn
4. Tự đỡ/người nhà đỡ
5. Khác (ghi rõ).............................................................
176
Q24. Nếu đã từng, xin chị cho biết, trong quá trình mang thai, sinh nở và sau sinh chị có phải “kiêng” hoặc làm theo hướng dẫn của người thân để đảm bảo sức khỏe của mẹ và thai nhi không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Có
2. Không
3. Không nhớ
Q25. Nếu có kiêng khem, xin chị cho biết phải kiêng những gì?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Kiêng không gần gũi/quan hệ tình dục
2. Kiêng không khâu vá, thêu thùa
3. Kiêng không đến các đám ma/đám tang
4. Kiêng không đến chỗ đông người
5. Kiêng ra gió hoặc sử dụng bông tai
6. Khác (ghi rõ).....................................................................
Q26. Sau khi sinh, chị có áp dụng một số phương pháp/cách thức dân gian nào để đảm bảo sức khỏe và sắc đẹp của bản thân không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Có
2. Không ==> Chuyển hỏi Q28
Q27. Nếu có, xin chị cho biết đó là những phương pháp nào và để làm
gì?
1.________________________________________________________
2.________________________________________________________
3.________________________________________________________
4.________________________________________________________
5.________________________________________________________
Q28. Xin chị cho biết, phụ nữ sau khi sinh thường ăn uống như thế nào
để đảm bảo sức khỏe của mẹ và trẻ?(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Ăn uống thức ăn để có nhiều sữa
2. Ăn uống thức ăn để nhanh hồi phục sức khỏe mẹ
177
3. Ăn uống thức ăn để giữ hình dáng của mẹ
4. Khác (ghi rõ)........................................................................
Q29. Phụ nữ sau khi sinh thường chăm sóc và bảo vệ sắc đẹp của mình
như thế nào? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Ken/buộc bụng (để tránh bị chảy/sệ)
2. Kiêng ra ngoài gió, tắm lạnh
3. Không ngồi xổm
4. Không cho con bú/cho bú ít để giữ gìn ngực đẹp
5. Khác (ghi rõ)........................................................................
Q30. Chị biết các phương pháp, cách thức nói trên từ nguồn thông tin
nào?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Người thân trong gia đình
2. Bạn bè/đồng nghiệp
3. Biết trên phương tiện truyền thông (ti vi, đài báo)
4. Sách, tài liệu
5. Thấy người khác dùng thì dùng theo
6. Khác (ghi rõ)..........................................................................
Q31. Chị có thường xuyên luyện tập để duy trì sức khỏe không?
(Đánh dấu X vào ô phù hợp với từng dòng)
Mức độ
1.Thường xuyên 2. Thỉnh thoảng 3. Hiếm khi 4. Không bao giờ
thể
Tập dục
Dưỡng sinh
Thiền
178
Q32. Theo chị, các phương pháp chăm sóc sức khỏe dân gian có phù hợp
với hiện nay không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Vẫn còn phù hợp
2. Chỉ đúng một phần
3. Không còn phù hợp
4. Không biết/không trả lời
Q33. Trong lao động, sản xuất chị thường làm như thế nào để chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý
2. Sử dụng các dụng cụ, trang thiết bị bảo hộ
3. Kiêng ngâm mình dưới nước không hợp vệ sinh
4. Kiêng làm việc trong môi trường độc hại
5. Giữ ấm khi trời lạnh/làm mát khi trời nóng
6. Khác (ghi rõ)..............................................................
Q34. Trong gia đình chị khi có người ốm, có thường sử dụng các
phương pháp dân gian để điều trị/chữa không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Có
2. Không ==> Chuyển hỏi câu Q36
Q35. Nếu có, xin chị cho biết tại sao gia đình chị lại sử dụng các phương
pháp dân gian để điều trị/chữa bệnh/ốm đau? (Có thể chọn nhiều phương án)
1. Nguyên liệu dễ kiếm/có/thuận tiện
2. Rẻ/không đắt tiền
3. Biết cách điều trị đúng sẽ khỏi (biết về tình trạng và kinh nghiệm)
4. Được mọi người trong gia đình khuyên bảo
5. Được bác sĩ, thầy thuốc, người có hiểu biết về y học chỉ dẫn
6. Vì không có cơ sở y tế ở gần
7. Làm theo mọi người/thấy người khác cũng làm như vậy
8. Khác (ghi rõ)............................................................................
179
Q36. Gia đình chị có khi nào sử dụng các nguyên liệu/loại thuốc sau để
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe không?
1. Các loại lá (kể tên:.....................................................................................)
2. Các loại hoa (kể tên:..................................................................................)
3. Các loại quả (kể tên:..................................................................................)
4. Các loại củ (kể tên:....................................................................................)
5. Các loại rễ ((kể tên:...................................................................................)
6. Các loại thân ((kể tên:...............................................................................)
7. Các loại con vật (kể tên:............................................................................)
Q37. Chị có tham gia câu lạc bộ hay nhóm sở thích về chăm sóc sắc đẹp
và sức khỏe phụ nữ nào không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Có
2. Không ==> Chuyển hỏi Q38
Q37a. Nếu có, xin cho biết tên của câu lạc bộ/nhóm đó là gì?
(Tên:....................................................................................................)
Q38. Chị có thường xuyên đến các câu lạc bộ, tham gia các lớp học/đào tạo về chăm sóc sắc đẹp và sức khỏe dành cho phụ nữ không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Thường xuyên
2. Thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Không bao giờ
Q39. Bản thân chị có thường nói chuyện/chia sẻ kinh nghiệm/hỏi thông tin người khác về vấn đề chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Thường xuyên 3. Hiếm khi
2. Thỉnh thoảng 4. Không bao giờ
180
Q40. Trong thời gian rảnh rỗi, chị thường làm gì?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Ngủ/nằm nghỉ ngơi
2. Đọc sách, báo
3. Xem tivi
4. Nghe nhạc/chơi game
5. Đi chơi bạn bè/người thân/du lịch
6. Đi mua sắm
7. Chơi với con cái
8. Làm đẹp/chăm sóc sắc đẹp/tập thể thao
9. Lướt web/lên mạng
10. Khác (ghi rõ)..............................................................................
Q41. Chị có thường đọc tài liệu/xem các chương trình truyền hình về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp dành cho phụ nữ không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Thường xuyên
2. Thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Không bao giờ
Q42. Theo chị, để giữ gìn sức khỏe và sắc đẹp của mình, chị thường làm gì?
a) Chăm sóc sức khỏe:
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
1. Thường xuyên 3. Hiếm khi
2. Thỉnh thoảng 4. Không bao giờ
181
Q40. Trong thời gian rảnh rỗi, chị thường làm gì?
(Có thể chọn nhiều phương án)
1. Ngủ/nằm nghỉ ngơi
2. Đọc sách, báo
3. Xem tivi
4. Nghe nhạc/chơi game
5. Đi chơi bạn bè/người thân/du lịch
6. Đi mua sắm
7. Chơi với con cái
8. Làm đẹp/chăm sóc sắc đẹp/tập thể thao
9. Lướt web/lên mạng
10. Khác (ghi rõ)..............................................................................
Q41. Chị có thường đọc tài liệu/xem các chương trình truyền hình về chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp dành cho phụ nữ không? (Chỉ chọn một phương án)
1. Thường xuyên
2. Thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Không bao giờ
Q42. Theo chị, để giữ gìn sức khỏe và sắc đẹp của mình, chị thường làm gì?
a) Chăm sóc sức khỏe:
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
b) Chăm sóc sắc đẹp:
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
CẢM ƠN CHỊ ĐÃ HỢP TÁC!
182
PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Nơi sinh của người được khảo sát
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Nong thon
135
45.6
46.7
46.7
Thi tran
66
22.3
22.8
69.6
Thanh pho
88
29.7
30.4
100.0
Total
289
97.6
100.0
Missing System
7
2.4
Total
296
100.0
Nghề nghiệp của người được khảo sát
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Nong nghiep
50
16.9
17.3
17.3
Buon ban/dich vu
35
11.8
12.1
29.4
Can bo vien chuc
55
18.6
19.0
48.4
lam tu thue/lam
10
3.4
3.5
51.9
Nghe do/lam muon
3
1.0
1.0
52.9
Cong an, quan doi
Noi tro/nghi huu
4
1.4
1.4
54.3
7
2.4
2.4
56.7
Lam nghe thuat (dien vien, ca si, nghe si)
15
5.1
5.2
61.9
Nhan vien trong cac doanh nghiep/cong ty
sinh/sinh
106
35.8
36.7
98.6
Hoc vien
That nghiep
4
1.4
1.4
100.0
Total
289
97.6
100.0
7
2.4
Missing System
Total
296
100.0
183
Thu nhập
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Duoi 1 trieu
76
25.7
28.7
28.7
Tu 1- 3 trieu
84
28.4
31.7
60.4
Tu 3-5 trieu
69
23.3
26.0
86.4
Tu 5-7 trieu
22
7.4
8.3
94.7
Tren 7 trieu
14
4.7
5.3
100.0
Total
265
89.5
100.0
Missing
System
31
10.5
Total
296
100.0
Hôn nhân
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
cung
135
45.6
46.4
46.4
Dang o chong
14
4.7
4.8
51.2
Da co gia dinh nhung ly hon/ly than
Chua lap gia dinh
142
48.0
48.8
100.0
Total
291
98.3
100.0
Missing
System
5
1.7
Total
296
100.0
184
Trình độ học vấn
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
11
3.7
3.8
3.8
Chua het tieu hoc
Het THCS
38
12.8
13.1
16.8
Het THPT
47
15.9
16.2
33.0
20
6.8
6.9
39.9
Trung cap/nghe
161
54.4
55.3
95.2
Cao dang/dai hoc
14
4.7
4.8
100.0
Tren/sau dai hoc
Total
291
98.3
100.0
5
Missing System
1.7
296
Total
100.0
Tôn giáo
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
213
72.0
74.0
74.0
Khong theo ton giao nao
Dao tin lanh
1.4
1.4
75.3
4
Dao cao dai
1.0
1.0
76.4
3
Dao phat
20.6
21.2
97.6
61
Dao khac
2.4
2.4
100.0
7
Total
97.3
100.0
288
Missing System
2.7
8
Total
100.0
296
185
Theo chị, sắc đẹp có tầm quan trọng thế nào?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
131
44.3
46.3
46.3
Rat quan trong
Quan trong
124
41.9
43.8
90.1
13
4.4
4.6
94.7
Khong quan trong
Khong y kien
15
5.1
5.3
100.0
Total
283
95.6
100.0
13
4.4
Missing
System
296
100.0
Total
Nếu rất quan trọng vì: Sắc đẹp giúp bản thân tự tin hơn
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
202
68.2
76.2
76.2
Khong
63
21.3
23.8
100.0
Total
265
89.5
100.0
Missing
System
31
10.5
Total
296
100.0
Nếu rất quan trọng vì: Được nhiều người quan tâm, để ý, tôn trọng
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
84
28.4
31.8
31.8
Khong
180
60.8
68.2
100.0
Total
264
89.2
100.0
Missing
System
32
10.8
Total
296
100.0
186
Nếu rất quan trọng vì: Có nhiều lợi thế trong công việc, cuộc sống
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
127
42.9
48.1
48.1
Khong
137
46.3
51.9
100.0
Total
264
89.2
100.0
Missing System
32
10.8
Total
296
100.0
Nếu rất quan trọng vì: Mang lại cho bản thân những quyền năng nhất
định
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
78
26.4
29.5
29.5
Khong
186
62.8
70.5
100.0
Total
264
89.2
100.0
Missing System
32
10.8
Total
296
100.0
Nếu rất quan trọng vì: Để giữ gìn hạnh phúc gia đinh
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
118
39.9
44.7
44.7
Khong
146
49.3
55.3
100.0
Total
264
89.2
100.0
Missing
System
32
10.8
Total
296
100.0
187
Nếu rất quan trọng vì: Chỉ đơn thuần phụ nữ là phải quan tâm đến sắc
đẹp
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
67
22.6
25.4
25.4
Khong
197
66.6
74.6
100.0
Total
264
89.2
100.0
Missing
System
32
10.8
Total
296
100.0
Nếu rất quan trọng vì: Khác
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
11
3.7
4.2
4.2
Khong
253
85.5
95.8
100.0
Total
264
89.2
100.0
Missing System
32
10.8
Total
296
100.0
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Tiền bạc
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
32
23.0
23.0
10.8
Uu tien 2
19
13.7
36.7
6.4
Uu tien 3
30
21.6
58.3
10.1
Uu tien 4
33
23.7
82.0
11.1
Uu tien 5
24
17.3
99.3
8.1
Total
139
100.0
47.0
Missing System
157
53.0
Total
296
100.0
188
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Sức khỏe
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
110
37.2
53.7
53.7
Uu tien 2
46
15.5
22.4
76.1
Uu tien 3
25
8.4
12.2
88.3
Uu tien 4
14
4.7
6.8
95.1
Uu tien 5
10
3.4
4.9
100.0
Total
205
69.3
100.0
91
30.7
Missing
System
296
100.0
Total
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Sắc đẹp
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
7
2.4
4.7
4.7
Uu tien 2
23
7.8
15.5
20.3
Uu tien 3
34
11.5
23.0
43.2
Uu tien 4
40
13.5
27.0
70.3
Uu tien 5
44
14.9
29.7
100.0
Total
148
50.0
100.0
Missing
System
148
50.0
Total
296
100.0
189
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Công danh, địa vị
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
5
1.7
5.8
5.8
Uu tien 2
15
5.1
17.4
23.3
Uu tien 3
21
7.1
24.4
47.7
Uu tien 4
25
8.4
29.1
76.7
Uu tien 5
20
6.8
23.3
100.0
Total
86
29.1
100.0
Missing
Syst
210
70.9
em
Total
296
100.0
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Con cái
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
13
4.4
9.6
9.6
Uu tien 2
41
13.9
30.4
40.0
Uu tien 3
38
12.8
28.1
68.1
Uu tien 4
24
8.1
17.8
85.9
Uu tien 5
19
6.4
14.1
100.0
Total
135
45.6
100.0
Missing System
161
54.4
Total
296
100.0
190
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Gia đình
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
40
13.5
23.5
23.5
Uu tien 2
51
17.2
30.0
53.5
Uu tien 3
39
13.2
22.9
76.5
Uu tien 4
24
8.1
14.1
90.6
Uu tien 5
16
5.4
9.4
100.0
Total
170
57.4
100.0
Missing
System
126
42.6
Total
296
100.0
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Nghề nghiệp, công việc
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
6
2.0
5.7
5.7
Uu tien 2
13
4.4
12.4
18.1
Uu tien 3
19
6.4
18.1
36.2
Uu tien 4
37
12.5
35.2
71.4
Uu tien 5
30
10.1
28.6
100.0
Total
105
35.5
100.0
Missing
System
191
64.5
Total
296
100.0
191
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Thời gian vui chơi/giải trí
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 2
3
1.0
15.0
15.0
Uu tien 3
1
.3
5.0
20.0
Uu tien 4
1
.3
5.0
25.0
Uu tien 5
15
5.1
75.0
100.0
Total
20
6.8
100.0
276
93.2
Missing
System
296
100.0
Total
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Bạn bè/người thân
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
1
.3
2.0
2.0
Uu tien 2
4
1.4
8.0
10.0
Uu tien 3
4
1.4
8.0
18.0
Uu tien 4
12
4.1
24.0
42.0
Uu tien 5
29
9.8
58.0
100.0
Total
50
16.9
100.0
Missing
System
246
83.1
Total
296
100.0
Tiêu chuẩn nào là quan trọng: Khác
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Uu tien 1
1
.3
33.3
33.3
Uu tien 2
2
.7
66.7
100.0
Total
3
1.0
100.0
Missing
System
293
99.0
Total
296
100.0
192
Chị thường xuyên quan tâm đến sắc đẹp không?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
46.9
Valid
Thuong xuyen
135
45.6
46.9
88.5
Thinh thoang
120
40.5
41.7
96.5
Hiem khi
23
7.8
8.0
100.0
Khong bao gio
10
3.4
3.5
Total
288
97.3
100.0
Missing
System
8
2.7
Total
296
100.0
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Làn da
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
72.8
Valid
Co
209
70.6
72.8
100.0
Khong
78
26.4
27.2
Total
287
97.0
100.0
Missing
System
9
3.0
Total
296
100.0
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Tóc
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
167
56.4
58.2
58.2
Khong
120
40.5
41.8
100.0
Total
287
97.0
100.0
Missing
System
9
3.0
Total
296
100.0
193
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Dáng vóc
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
143
48.3
49.8
49.8
Khong
144
48.6
50.2
100.0
Total
287
97.0
100.0
Missing
System
9
3.0
Total
296
100.0
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Khuôn mặt
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
154
52.0
53.7
53.7
Khong
133
44.9
46.3
100.0
Total
287
97.0
100.0
Missing
System
9
3.0
Total
296
100.0
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Thời trang/quần áo/giày
dép
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
61.9
61.9
Valid
Co
177
59.8
37.8
99.7
Khong
108
36.5
.3
100.0
12
1
.3
100.0
Total
286
96.6
Missing
System
10
3.4
Total
296
100.0
194
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Cách đi lại
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
72
24.3
25.2
25.2
Khong
214
72.3
74.8
100.0
Total
286
96.6
100.0
Missing
System
10
3.4
Total
296
100.0
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Hàm răng/hơi thở
Frequency Percent Valid Percent
Cumulativ e Percent
Valid
Co
89
30.1
31.0
31.0
Khong
198
66.9
69.0
100.0
Total
287
97.0
100.0
Missing
System
9
3.0
Total
296
100.0
Chị thường xuyên quan tâm đến vấn đề nào: Mặt/mũi
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
20.9
21.6
21.6
62
Khong
76.0
78.4
100.0
225
Total
97.0
100.0
287
Missing
System
3.0
9
Total
100.0
296
195
Chị thường xuyên chăm sóc sắc đẹp ở đâu?
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
211
71.3
74.8
74.8
Tai nha la chu yeu
28
9.5
9.9
84.8
Tai tiem/spa/cua hang
43
15.2
100.0
14.5
Cham soc ca hai noi nhu nhau
Total
282
95.3
100.0
Missing System
14
4.7
Total
296
100.0
Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Thẩm mĩ viện
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
83
28.0
31.2
31.2
Khong
183
61.8
68.8
100.0
Total
266
89.9
100.0
Missing
System
30
10.1
Total
296
100.0
Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Cơ sở y tế tư
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
46
15.5
17.3
17.3
Khong
220
74.3
82.7
100.0
Total
266
89.9
100.0
Missing
System
30
10.1
Total
296
100.0
196
Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Tiệm làm tóc
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
177
59.8
66.5
66.5
Khong
89
30.1
100.0
33.5
Total
266
89.9
100.0
Missing
System
30
10.1
Total
296
100.0
Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Cơ sở làm dạo
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
23
7.8
8.6
8.6
Khong
243
82.1
100.0
91.4
Total
266
89.9
100.0
Missing
System
30
10.1
Total
296
100.0
Nếu đến cơ sở chăm sóc sắc đẹp là: Khác
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
13
4.4
4.9
4.9
Khong
252
85.1
99.6
94.7
3
1
.3
100.0
.4
Total
266
89.9
100.0
Missing
System
30
10.1
Total
296
100.0
197
Tại sao sử dụng sản phẩm: Không gây nguy hiểm cho sức khỏe
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
209
70.6
81.3
81.3
Khong
48
16.2
100.0
18.7
Total
257
86.8
100.0
Missing
System
39
13.2
Total
296
100.0
Tại sao sử dụng sản phẩm: Tiết kiệm, không tốn kém chi phí
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
144
48.6
56.0
56.0
Khong
113
38.2
100.0
44.0
Total
257
86.8
100.0
Missing
System
39
13.2
Total
296
100.0
Tại sao sử dụng sản phẩm: dễ tìm kiếm (sẵn có)
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
145
49.0
56.4
56.4
Khong
112
37.8
100.0
43.6
Total
257
86.8
100.0
Missing
System
39
13.2
Total
296
100.0
198
Tại sao sử dụng sản phẩm: Không biết sử dụng sản phẩm được chế xuất
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
23
7.8
8.9
8.9
Khong
234
79.1
91.1
100.0
Total
257
86.8
100.0
Missing
System
39
13.2
Total
296
100.0
Tại sao sử dụng sản phẩm: Được người thân/Bạn bè khuyên
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
62
20.9
24.1
24.1
Khong
195
65.9
75.9
100.0
Total
257
86.8
100.0
Missing
System
39
13.2
Total
296
100.0
Tại sao sử dụng sản phẩm: Khác
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
10
3.4
3.9
3.9
Khong
247
83.4
96.1
100.0
Total
257
86.8
100.0
Missing
System
39
13.2
Total
296
100.0
199
Có ai sử dụng sản phẩm tự nhiên sẵn có để chăm sóc sắc đẹp không?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
lon
phu
108
36.5
41.4
41.4
Phan nu/con gai su dung
64
21.6
24.5
65.9
Mot nua so phu nu/con gai su dung
64
21.6
24.5
90.4
So it con gai/phu nu su dung
Khong co ai
25
8.4
9.6
100.0
Total
261
88.2
100.0
Missing
System
35
11.8
Total
296
100.0
Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Người thân trong gia đình
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
124
41.9
47.3
47.3
Khong
138
46.6
100.0
52.7
Total
262
88.5
100.0
Missing
System
34
11.5
Total
296
100.0
Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Bạn bè/đồng nghiệp
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
141
47.6
53.8
53.8
Khong
121
40.9
100.0
46.2
Total
262
88.5
100.0
Missing
System
34
11.5
Total
296
100.0
200
Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Tìm hiểu trên thông
tin đại chúng
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
53.4
53.4
140
47.3
Khong
100.0
46.6
122
41.2
Total
100.0
262
88.5
Missing
System
34
11.5
Total
296
100.0
Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Sách/tài liệu
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
48.5
48.5
127
42.9
Khong
100.0
51.5
135
45.6
Total
100.0
262
88.5
Missing
System
34
11.5
Total
296
100.0
Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Thấy người khác
dùng thì dùng theo
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
37
12.5
14.2
14.2
Khong
224
75.7
100.0
85.8
Total
261
88.2
100.0
Missing
System
35
11.8
Total
296
100.0
201
Ai nói/hướng dẫn chỉ sử dụng sản phẩm tự nhiên: Khác
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
2.3
2.3
6
2.0
Khong
100.0
97.7
256
86.5
Total
100.0
262
88.5
Missing
System
34
11.5
Total
296
100.0
Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Giá rẻ
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
36.6
36.6
98
33.1
Khong
100.0
63.4
170
57.4
Total
100.0
268
90.5
Missing
System
28
9.5
Total
296
100.0
Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Không mất thời gian chế biến
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
167
56.4
62.3
62.3
Khong
101
34.1
100.0
37.7
Total
268
90.5
100.0
Missing
System
28
9.5
Total
296
100.0
202
Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Dễ mua/dễ kiếm
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
141
47.6
52.6
52.6
Khong
127
42.9
100.0
47.4
Total
268
90.5
100.0
Missing
System
28
9.5
Total
296
100.0
Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Không có hại cho sức khỏe
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
128
43.2
47.8
47.8
Khong
140
47.3
100.0
52.2
Total
268
90.5
100.0
Missing
System
28
9.5
Total
296
100.0
Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Đa dạng chủng loại mẫu mã, đáp ứng nhu cầu
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
30.2
30.2
Valid
Co
81
27.4
100.0
69.8
Khong
187
63.2
100.0
Total
268
90.5
Missing
System
28
9.5
Total
296
100.0
203
Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Mọi người dùng nhiều
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
41
13.9
15.3
15.3
Khong
227
76.7
84.7
100.0
Total
268
90.5
100.0
Missing
System
28
9.5
Total
296
100.0
Tại sao chỉ sử dụng các sản phẩm được chế biến sẵn: Khác
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
1.1
1.1
1.0
3
Khong
100.0
98.9
89.5
265
Total
100.0
90.5
268
Missing
System
9.5
28
Total
100.0
296
Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Chăm sóc tóc
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
66.8
63.2
66.8
187
Khong
33.2
31.4
100.0
93
Total
100.0
94.6
280
Missing
System
5.4
16
Total
100.0
296
204
Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Chăm sóc da
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
231
78.0
82.5
82.5
Khong
49
16.6
17.5
100.0
Total
280
94.6
100.0
Missing
System
16
5.4
Total
296
100.0
Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Phẫu thuật
thẩm mỹ/vóc dáng
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
54.4
161
57.5
57.5
Khong
40.2
119
42.5
100.0
Total
94.6
280
100.0
Missing
System
5.4
16
Total
100.0
296
Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Vật lý trị liệu/xoa bóp/bấm huyệt
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
74
25.0
26.6
26.6
Khong
204
68.9
73.4
100.0
Total
278
93.9
100.0
Missing
System
18
6.1
Total
296
100.0
205
Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Tắm, sử dụng
các loại lá/hoa/trái cây
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
122
41.2
43.6
43.6
Khong
158
53.4
56.4
100.0
Total
280
94.6
100.0
Missing
System
16
5.4
Total
296
100.0
Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Chăm sóc răng miệng
Frequency
Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
114
38.5
40.7
40.7
Khong
166
56.1
100.0
59.3
Total
280
94.6
100.0
Missing
System
16
5.4
Total
296
100.0
Theo chị, các lại hình sắc đẹp hiện nay đang quan tâm: Khác
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
1.4
1.4
Valid
Co
4
1.4
100.0
98.6
Khong
276
93.2
100.0
Total
280
94.6
Missing
System
16
5.4
Total
296
100.0
206
Kể ra một số cách làm đẹp theo dân gian: Gội đầu bồ kết/chanh
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
235
79.4
83.6
83.6
Khong
46
15.5
16.4
100.0
Total
281
94.9
100.0
Missing
System
15
5.1
Total
296
100.0
Phụ nữ sau sinh bình thường chăm sóc và bảo vệ sắc đẹp: Không cho
con bú/cho con bú ít để giữ ngực đẹp
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
25
8.4
10.5
10.5
Khong
214
72.3
89.5
100.0
Total
239
80.7
100.0
Missing
System
57
19.3
Total
296
100.0
Phụ nữ sau sinh bình thườngchăm sóc và bảo vệ sắc đẹp: Khác
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
9
3.8
3.8
3.0
Khong
230
100.0
96.2
77.7
Total
239
100.0
80.7
Missing
System
57
19.3
Total
296
100.0
207
Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Người thân trong gia đình
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
196
80.3
80.3
66.2
Khong
48
100.0
19.7
16.2
Total
244
100.0
82.4
Missing
System
52
17.6
Total
296
100.0
Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Bạn bè/đồng nghiệp
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
124
50.8
50.8
41.9
Khong
120
100.0
49.2
40.5
Total
244
100.0
82.4
Missing
System
52
17.6
Total
296
100.0
Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Trên phương tiện
truyền thông
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
108
44.3
44.3
36.5
Khong
136
100.0
55.7
45.9
Total
244
100.0
82.4
Missing
System
52
17.6
Total
296
100.0
208
Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Sách, tài liệu
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
45.1
45.1
110
37.2
Khong
100.0
54.9
134
45.3
Total
100.0
244
82.4
Missing
System
52
17.6
Total
296
100.0
Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Thấy người khác dùng thì dùng theo
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
11.5
11.5
28
9.5
Khong
100.0
88.5
216
73.0
Total
100.0
244
82.4
Missing
System
52
17.6
Total
296
100.0
Biết các phương pháp nói trên từ nguồn thông tin: Khác
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
1.6
1.6
4
1.4
Khong
100.0
98.4
240
81.1
Total
100.0
244
82.4
Missing
System
52
17.6
Total
296
100.0
209
Chị có thường xuyên luyện tập: Tập thể dục
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Thuong xuyen
100
33.8
37.5
37.5
Thinh thoang
120
40.5
44.9
82.4
Hiem khi
32
10.8
12.0
94.4
Khong bao gio
15
5.1
5.6
100.0
Total
267
90.2
100.0
Missing
System
29
9.8
Total
296
100.0
Chị có thường xuyên luyện tập: Tập dưỡng sinh
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Thuong xuyen
6.2
14
4.7
6.2
Thinh thoang
20.4
46
15.5
26.7
Hiem khi
25.8
58
19.6
52.4
Khong bao gio
47.6
107
36.1
100.0
Total
100.0
225
76.0
Missing
System
71
24.0
Total
296
100.0
Chị có thường xuyên luyện tập: Thiền
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid Missing
Thuong xuyen Thinh thoang Hiem khi Khong bao gio Total System Total
1.8 9.4 21.4 67.4 100.0
4 21 48 151 224 72 296
1.4 7.1 16.2 51.0 75.7 24.3 100.0
1.8 11.2 32.6 100.0
210
Theo chị các phương pháp chăm sóc sức khỏe dân gian có phù hợp
hiện nay không?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Van con phu hop
198
66.9
72.3
72.3
Chi dung mot phan
65
22.0
23.7
96.0
Khong con phu hop
5
1.7
1.8
97.8
tra
6
2.0
2.2
100.0
Khong biet/khong loi
Total
274
92.6
100.0
Missing System
22
7.4
Total
296
100.0
Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Có chế độ ăn uống,
nghỉ ngơi hợp lý
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
240
81.1
87.0
87.0
Khong
36
12.2
13.0
100.0
Total
276
93.2
100.0
20
6.8
Missing
System
Total
296
100.0
Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Sử dụng công cụ,
trang thiết bị bảo hộ
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
193
69.9
65.2
69.9
Khong
83
30.1
28.0
100.0
Total
276
100.0
93.2
Missing
System
20
6.8
Total
296
100.0
211
Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Kiêng ngâm mình
trong nước không hợp vệ sinh
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
145
49.0
52.5
52.5
Khong
131
44.3
47.5
100.0
Total
276
93.2
100.0
Missing
System
20
6.8
Total
296
100.0
Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Kiêng làm việc trong môi trường độc hại
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
143
48.3
51.8
51.8
Khong
133
44.9
48.2
100.0
Total
276
93.2
100.0
Missing
System
20
6.8
Total
296
100.0
Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Giữ ấm khi trời
lạnh/làm mát khi trời nóng
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulativ e Percent
Valid
Co
174
58.8
63.0
63.0
Khong
102
34.5
37.0
100.0
Total
276
93.2
100.0
Missing
System
20
6.8
Total
296
100.0
212
Trong lao động, để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe: Khác
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
3
1.0
1.1
1.1
Khong
273
92.2
98.9
100.0
Total
276
93.2
100.0
Missing
System
20
6.8
Total
296
100.0
Khi có người ốm, gia đình có dùng các phương pháp dân gian để chữa
trị không?
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
196
66.2
72.6
72.6
Khong
74
25.0
27.4
100.0
Total
270
91.2
100.0
Missing
System
26
8.8
Total
296
100.0
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Nguyên liệu dễ kiếm
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulativ e Percent
Valid
Co
165
55.7
76.4
76.4
Khong
51
17.2
23.6
100.0
Total
216
73.0
100.0
Missing
System
80
27.0
Total
296
100.0
213
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Rẻ/phù hợp túi tiền
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
107
36.1
49.5
49.5
Khong
109
36.8
50.5
100.0
Total
216
73.0
100.0
Missing
System
80
27.0
Total
296
100.0
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Biết cách điều trị đúng sẽ khỏi
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
133
44.9
61.9
61.9
Khong
82
27.7
38.1
100.0
Total
215
72.6
100.0
Missing
System
81
27.4
Total
296
100.0
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Được mọi người trong gia đình khuyên dùng
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
77
35.6
35.6
26.0
Khong
139
64.4
100.0
47.0
Total
216
100.0
73.0
Missing
System
80
27.0
Total
296
100.0
214
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Được bác sĩ, thầy thuốc, mọi người
chỉ dẫn
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
80
27.0
37.0
37.0
Khong
136
45.9
63.0
100.0
Total
216
73.0
100.0
Missing
System
80
27.0
Total
296
100.0
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Không có cơ sở y tế ở gần
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
7.9
7.9
5.7
17
Khong
92.1
100.0
67.2
199
Total
100.0
73.0
216
Missing
System
27.0
80
Total
100.0
296
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Làm theo mọi người/thấy người
khác làm thì làm
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
7.1
9.7
9.7
21
Khong
65.9
90.3
100.0
195
Total
73.0
100.0
216
Missing
System
27.0
80
Total
100.0
296
215
Sử dụng phương pháp dân gian vì: Khác
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
5
Valid
Co
1.7
2.3
2.3
209
Khong
70.6
97.7
100.0
214
Total
72.3
100.0
82
Missing
System
27.7
296
Total
100.0
Chị có tham gia Câu lạc bộ hay nhóm sở thích về Chăm sóc sức khỏe
và sắc đẹp không?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
41
Valid
Co
13.9
15.8
15.8
218
Khong
73.6
84.2
100.0
259
Total
87.5
100.0
37
Missing
System
12.5
296
Total
100.0
Chi có thường xuyên đến các Câu lạc bộ, tham gia lớp học về chăm
sóc sức khỏe và sắc đẹp không?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Thuong xuyen
21
7.1
8.0
8.0
Thinh thoang
62
20.9
23.6
31.6
Hiem khi
51
17.2
19.4
51.0
Khong bao gio
129
43.6
49.0
100.0
Total
263
88.9
100.0
Missing
System
33
11.1
Total
296
100.0
216
Bản thân chị có chia sẻ với người khác về Chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp không?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulativ e Percent
Valid
Thuong xuyen
28.0
30.1
30.1
83
Thinh thoang
50.7
54.3
84.4
150
Hiem khi
8.8
9.4
93.8
26
Khong bao gio
5.7
6.2
100.0
17
Total
93.2
100.0
276
Missing
System
6.8
20
Total
100.0
296
Thời gian rảnh, chị thường: Ngủ/nằm nghỉ ngơi
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
72.3
72.3
198
66.9
Khong
100.0
27.7
76
25.7
Total
100.0
274
92.6
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
Thời gian rảnh, chị thường: Đọc sách, báo
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
53.6
53.6
147
49.7
Khong
100.0
46.4
127
42.9
Total
100.0
274
92.6
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
217
Thời gian rảnh, chị thường: Xem tivi
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
53.7
58.0
58.0
Valid
Co
159
38.9
42.0
100.0
Khong
115
92.6
100.0
Total
274
7.4
Missing
System
22
100.0
Total
296
Thời gian rảnh, chị thường: Nghe nhạc/chơi game
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
39.1
36.1
39.1
107
Khong
100.0
56.4
60.9
167
Total
92.6
100.0
274
Missing
System
7.4
22
Total
100.0
296
Thời gian rảnh, chị thường: Đi chơi với bạn bè, người thân/du lịch
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
125
42.2
45.6
45.6
Khong
149
50.3
54.4
100.0
Total
274
92.6
100.0
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
218
Thời gian rảnh, chị thường: Đi mua sắm
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
120
40.5
43.8
43.8
Khong
154
52.0
56.2
100.0
Total
274
92.6
100.0
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
Thời gian rảnh, chị thường: Chơi với con
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
92
31.1
33.6
33.6
Khong
182
61.5
100.0
66.4
Total
274
92.6
100.0
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
Thời gian rảnh, chị thường: Làm đẹp/ chăm sóc sắc đẹp/tập thể dục
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative Percent
41.6
41.6
Valid
Co
114
38.5
100.0
58.4
Khong
160
54.1
100.0
Total
274
92.6
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
219
Thời gian rảnh, chị thường: Lên mạng xem tin tức
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
97
32.8
35.4
35.4
Khong
177
59.8
64.6
100.0
Total
274
92.6
100.0
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
Thời gian rảnh, chị thường: Khác
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
Co
3
1.0
1.1
1.1
Khong
271
91.6
98.9
100.0
Total
274
92.6
100.0
Missing
System
22
7.4
Total
296
100.0
Chị có thường đọc/xem tài liệu về Chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp
không?
Frequency Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
86
29.1
31.7
31.7
Valid
Thuong xuyen
143
48.3
52.8
84.5
Thinh thoang
31
10.5
11.4
95.9
Hiem khi
11
3.7
4.1
100.0
Khong bao gio
271
91.6
100.0
Total
25
8.4
System
Missing
296
100.0
Total
220
PHỤ LỤC 3. NHỮNG HÌNH ẢNH CHĂM SÓC SẮC ĐẸP
3.1. MỘT SỐ NGUYÊN LIỆU LÀM ĐẸP VÀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE
DÂN GIAN
Nguồn:https://www.google.com.vn/search?q=l%C3%A1+tr%E1%BA%A7u+kh%C3
%B4ng&biw=1366&bih=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoV
ChMInLPrqI7LyAIVpCamCh1W_AHj#imgrc=6o73CIJ7GQSH-M%3A
Dùng để đắp mặt trị nám và chữa cảm
Làm thực phẩm và đắp mặt dưỡng da
Nguồn:https://www.google.com.vn/search?q=tr%E1%BB%A9ng+g%C3
%A0&biw=1366&bih=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_A
UoAWoVChMI0eXvxI7LyAIVBl6mCh1V1g3E#imgrc=SB7KSBY1eXTsFM%3A
221
Nguồn:https://www.google.com/search?q=du+du&es_sm=122&biw=1366&bih=64
3&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMI_sC9v4_LyAIVIiqmCh
1pWA15#imgrc=IlOTLsJ3rY_fhM%3A
Dùng làm thức uống và đắp để làm đẹp da mặt
Nguồn:https://www.google.com/search?q=nha+dam&es_sm=122&biw=1366&bih
=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMIh72g2Y_LyAIVRhe
mCh1GEA5v#imgrc=eiA-9It-_xYxvM%3A
Dùng làm thức uống và đắp để làm đẹp da mặt
222
Nguồn:https://www.google.com/search?q=bo&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s
ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMIwuWE-
I_LyAIVpRumCh0K5wv-#tbm=isch&q=qua+bo&imgrc=3mqoaw1uW6chyM%3A
Dùng làm thức uống và đắp để làm đẹp da mặt
Nguồn:https://www.google.com/search?q=ong&es_sm=122&biw=1366&bih=643&
source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMI9o3bk5DLyAIVotimCh2nZ
wdU#imgrc=4U-U73sBZyRohM%3A
Dùng để chữa ho và đắp làm đẹp da mặt
223
Nguồn:https://www.google.com/search?q=rau+ma&es_sm=122&biw=1366&bih=6
43&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMI8LDEsJDLyAIVZKqm
Ch2lxQ4M#imgrc=_0-NAqCZoHhzrM%3A
Có tác dụng sát trùng, giải độc, tính bổ dưỡng cao
Cung cấp vitamin và dùng để dưỡng da
Nguồn:https://www.google.com.vn/search?q=dua+chu%C3%B4t&biw=
1366&bih=643&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVC
hMI46ig6YzLyAIVpd-mCh3ovwge#imgrc=0C5D2NJ-3KGcKM%3A
224
Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s
ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V
4Ami#tbm=isch&q=c%C3%A2y+x%E1%BA%A3&imgrc=heBq6l02t5YEqM%3A
Dùng để xông hơi giải độc, nấu nước gội đầu
Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s
ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V
4Ami#tbm=isch&q=c%C3%A2y+x%E1%BA%A3&imgrc=heBq6l02t5YEqM%3A
Dùng để xông hơi giải độc, nấu nước gội đầu
225
Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s
ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V
4Ami#tbm=isch&q=hung+cho&imgrc=mCUZ6KvPllm9WM%3A
Dùng để xông hơi và nấu nước gội đầu
Nguồn:https://www.google.com/search?q=xa&es_sm=122&biw=1366&bih=643&s
ource=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAcQ_AUoAmoVChMI1r3x05DLyAIVgSWmCh3V
4Ami#tbm=isch&q=hung+cho&imgrc=mCUZ6KvPllm9WM%3A
Dùng để xông hơi và nấu nước gội đầu
226
Nguồn:https://www.google.com/search?q=Ngh%E1%BB%87&biw=1366&bih=643
&es_sm=122&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMIo4OnjZHL
yAIVIymCh3c8QVN#tbm=isch&q=c%E1%BB%A7+Ngh%E1%BB%87&imgrc=DCXiNO
T6K1YgvM%3A
Dùng để đánh cảm và giảm mỡ bụng
Nguồn:https://www.google.com/search?q=Ngh%E1%BB%87&biw=1366&bih=643
&es_sm=122&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0CAYQ_AUoAWoVChMIo4OnjZHL
yAIVIymCh3c8QVN#tbm=isch&q=c%E1%BB%A7+Ngh%E1%BB%87&imgrc=DCXiNO
T6K1YgvM%3A
Dùng để đánh cảm và giảm mỡ bụng
227
3.2. MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀM ĐẸP BẰNG PHƯƠNG PHÁP DÂN
GIAN
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
Tẩy da chết và làm trắng da bằng cám gạo
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
Tẩy da chết và làm trắng da bằng cám gạo
228
Bà Tôn Nữ Thị Tâm bên cạnh thảo dược dùng để chăm sóc sức khỏe
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
sau sinh
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
Gội đầu bằng tinh chất thảo dược của trung tâm Việt – Care
229
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
Xông hơi lá trầu không để chống mỏi mắt và chữa nhăn đuôi mắt
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
Mát xa chống đầy hơi bụng và đắp mặt nạ dưỡng da bằng mật ong
230
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
Nghệ vàng hạ thổ
Nguồn:http://chamsocsausinh.com/dich-vu/lam-dep-sau-sinh-goi-cham-soc-sau-
sinh-15-buoi-lieu-trinh-co-ban-cho-da-va-dang?gclid=COW9usiTy8gCFQybvAodC2cKhg
Dùng nghệ vàng hạ thổ mát xa để chữa rạn bụng sau sinh
231
3.3. MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀM ĐẸP BẰNG CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI
(Hình ảnh được cung cấp bởi Warda spa 106A2 Lạc chính - Trúc Bạch - Ba
Đình - Hà Nội, năm 2014)
Nguồn: http://wardaspa.vn/
Làm trắng da toàn thân bằng phương pháp bôi kem và ủ nóng
Nguồn: http://wardaspa.vn/
Trị nám và làm đẹp da bằng công nghệ ánh sáng
232
Nguồn: http://wardaspa.vn/
Chữa rạn da và giảm mỡ bụng bằng máy ánh sáng
233
Nguồn: http://wardaspa.vn/
Triệt lông và làm sáng da bằng công nghệ ánh sáng
234
PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THỂ HIỆN VẺ ĐẸP
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
4.1. TRUYỆN DÂN GIAN “AI MUA HÀNH TÔI HAY LÀ LỌ NƯỚC
THẦN”
Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm
ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi
chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một
phiến đá ở gần chỗ mình đang làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng
thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt
hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì
hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: - “Đồ chim
dữ! Hãy cút ngay!”. Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh
chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống
lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được.
Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật. Một lát sau, con
chim đã bay trở lại miệng ngậm một cái lọ bé đặt xuống bên cạnh và nói:
“Đây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn
thêm, trần gian không ai có”. Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi tần ngần
mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng:
- “Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta
dùng”. Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ trên kèo nhà. Và
rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ
tới cái lọ ấy nữa.
Ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng
con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai
vợ chồng thì rất thương yêu nhau.
Một hôm chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái
lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi
235
thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm gội
rồi tiện tay đổ lọ nước ra bôi khắp tóc tai mình mẩy. Không ngờ sau khi bôi
xong chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh
kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những
cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi,
dọc dài bằng đòn gánh.
Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là
tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là
vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo
đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm
vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe.
Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế
cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi
làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh
lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa.
Một hôm anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm
ở trên bờ.Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà
xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy, bèn hò
hét đuổi theo nhưng không kịp nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa,
chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày
xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn lính
thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần
vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện
của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn
bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!”.
Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm
cho được người đàn bà đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người
về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu
236
quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về
xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói
là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.
Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần
và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian.
Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận.
Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo
ngay anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá
chúng vội đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than
khóc.
Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp
không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người
đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi
thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua
bèn hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói
lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều
người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương
y, các pháp sư phù thủy v.v... đua nhau trẩy kinh hy vọng dùng tài phép làm
cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã
giở đủ mọi trò, đều vô hiệu.
Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn
thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung
nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua,
bèn quyết vào kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng
buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại
trước cửa hoàng cung rao to lên những câu:
Dọc bằng đòn gánh,
237
Củ bằng bình vôi
Ai mua hành tôi,
Thì thương tôi với!
Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn. Nét mặt của vợ anh
tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ:
- Hãy gọi người hàng hành vào cho ta!
Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà
lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng; lại thấy những
cây hành to lớn lạ thường thì lấy làm kinh ngạc. Vua ngỡ là nhờ những cây
hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười.
Vua liền nẩy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui
lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng:
- Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau!
Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt
anh bày cho mình học thuộc câu rao, rồi quảy gánh qua lại trước mặt người
đàn bà, cất tiếng rao mới học được.
Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười nghặt nghẽo.Vua thích thú lại càng
làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy
vua ngỡ là người lạ liền nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng:
- Mình hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi!
Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập
đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.
Nguồn: Nguyễn Đổng Chi (2003),Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ
Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, H, quyển II.
238
4.2. SƠN TINH - THỦY TINH
(Trích)
(…)
Sơn Tinh có một mắt ở trán,
Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.
Hai thần bên cửa thành thi lễ.
Hùng Vương âu yếm nhìn con yêu.
Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều.
Thuỷ Tinh khoe thần có phép lạ;
Rứt lời tay hất chòm râu xanh1,
Bắt quyết hò mây to nước cả,
Dậm chân rung khắp làng gần quanh.
Ào ào mưa đổ xuống như thác,
Cây xiêu, cầu gãy, nước hò reo,
Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc.
Bò lợn và cột nhà trôi theo.
Mỵ Nương ôm Hùng Vương kinh hãi.
1 Rứt lời: theo chính tả hiện nay phải viết “Dứt lời” (chú thích của NCS).
Sơn Tinh cười, xin nàng đừng lo;
239
Vung tay niệm chú. Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa.
Vua tuỳ con kén chọn.
Mỵ Nương khép nép như cành hoa:
"Con đây phận đào tơ bé mọn,
Nhân duyên cúi để quyền mẹ cha."
Vua nghĩ lâu hơn bàn việc nước,
Rồi bảo mai lửa hồng nhuốm sương,
Lễ vật thần nào mang đến trước,
Vui lòng vua gả nàng Mỵ Nương.
II
Bình minh má ửng đào phơn phớt,
Ngọc đỏ rung trên đầu lá xanh.
Ngọn liễu chim vàng ca thánh thót,
Ngự giá Hùng Vương lên mặt thành.
Mỵ Nương bên lầu son tựa cửa,
Rèm ngọc lơ thơ phủ áo hồng.
Cánh nhạn long lanh vờn ánh lửa,
Mê nàng, chim ngẩn lưng giời đông.
240
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng.
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu.
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa.
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương,
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói toả buồn man mác,
Nàng kêu: "Phụ vương ôi! Phong Châu!"
241
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt.
Hùng Vương mơ, vịn tay bờ thành.
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể.
Thuỷ Tinh ngồi trên lưng rồng vàng,
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da giời quang.
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ;
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ.
Chưn giời còn phảng bóng người yêu1,
Thuỷ Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân, nghiến răng thần quát:
"Giết! giết Sơn Tinh hả hờn ta!"
Tức thời nước sủi reo như thác;
Tôm cá quăng ngọc trai mà hoa.
1 Chưn giời: chân trời (chú thích của Biên tập sách).
242
III
Sơn Tinh đang kèm theo sau kiệu.
Áo bào phơ phất nụ cười bay.
(Vui chỉ mê ai xinh mới hiểu)
Thần trông kiệu nhỏ hồn thêm say.
Choàng nghe sóng vỗ reo như sấm,
Bạch hổ dừng chưn, lùi, vểnh tai.
Mỵ Nương tung bức rèm đỏ thắm,
Sơn Tinh trông thấy càng dương oai.
Sóng cả gầm reo lăn như chớp.
Thuỷ Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng.
Cá voi quác mồm to muốn đớp;
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng;
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú đất nẩy vù lên cao.
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo;
Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng,
Đạp long đất núi, gầm, xông xáo.
243
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng.
Mây đen hăm hở bay mù mịt,
Sấm ran, sét động nổ loè xanh.
Tôm cá xưa nay im thin thít,
Mở quác mồm to kêu thất thanh.
Mỵ Nương kinh hãi ngồi trong kiệu.
Bỗng chợt nàng kêu mắt lệ nhoà.
(Giọng kiêu hay buồn không ai hiểu,
Nhưng thật dễ thương): "Ô! Vì ta!"
Thuỷ Tinh năm năm dưng nước bể1,
Đục núi hò reo đòi Mỵ Nương.
Trần gian đâu có người dai thế,
Cũng bởi thần yêu nên khác thường.
Nguồn: Nguyễn Nhược Pháp (1995), Ngày xưa, Nxb. Hội Nhà văn, H,
1 dưng nước bể: dâng nước biển (chú thích của Biên tập sách).
tr. 8- 16 (Tập Ngày xưa in lần đầu năm 1935).
244
4.3. CHÙA HƯƠNG
(Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa)
Hôm nay em đi chùa Hương.
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy.
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao;
Em đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới;
Tay cầm nón quai thao.
Me cười: “Thầy nó trông!
Chưn đi dôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?”
- Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.
245
Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm,
Ý đợi người tài trai.
Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre.
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò,
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy,
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân…
Người đâu thanh lạ nhường!
Tướng mạo trông phi thường.
246
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
"Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông giời ôi chen!"
Chàng thưa vâng thuyền đông,
Rồi ngắm giời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ!
Thầy khen hay, hay quá!
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi, Bến Đục qua,
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
"Nam vô A-di-đà!"
247
Réo rắt suối đưa quanh.
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Dịp cầu xa nho nhỏ1.
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây,
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau,
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
1 Dịp cầu: Nhịp cầu (chú thích của Biên tập sách).
248
Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,
Quay về nhà ngang bảo:
"Mai mới vào chùa trong."
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
"Mai ta vào chùa trong!"
Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời,
Mơ nhiều... Viết thế thôi,
249
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười.
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo,
Vì thương me quá mệt.
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: "Đường còn lâu.
Cứ vừa đi ta cầu
Quan-thế-âm-bồ-tát
Là tha hồ đi mau."
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).
250
Khi qua chùa Giải Oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen hay,
Chữ đẹp như rồng bay.
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây).
Ô! Chùa trong đây rồi!
Động thẳm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Me vui mừng hả hê:
"Tặc! Con đường mà ghê!"
Thầy kêu mau lên nhé,
Chiều hôm nay ta về.
Em nghe bỗng rụng rời!
251
Nhìn ai luống nghẹn nhời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoáng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở!
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên giời,
Ta bước tựa vai cười,
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng.
(Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy
nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết
nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện)
Nguồn: Nguyễn Nhược Pháp (1995), Ngày xưa, Nxb. Hội Nhà văn, H,
tr. 34-42
252
4.4. TRANH LÕA THỂ
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố Nữ,
Ô tiên nương! nàng lại ngự nơi nầy?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng ! hai vú nàng ! chao ôi !
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động !
Tôi run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;
Cho tôi nàng ! cho tôi nàng ! tất cả...
Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao
Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,
- Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ.
Tiên nương hỡi ! nàng sống trên thế hệ,
Bóng thời gian phải quỵ dưới chân nàng -
Xuân muôn đời di dưỡng giữa vùng tang!
Gương phép tắc suốt soi ngàn mộng ảnh!
253
Cớ làm sao nâng niu bầu giá lạnh,
Ấp tranh người, lơ đãng ngắm thi nhân?
Hay nàng nhớ nhung các phượng đền lân?
Hay nàng ước mơ tình trong trắng ngọc?
Ôi ! nàng ôi ! Làm sao nàng chẳng khóc
Người thi nhân, vẻ đẹp của khiêu dâm –
Trăng thanh tịnh còn lóng trong thơ câm,
Nhạc vô minh hằng sôi trên nét chữ?
Ôi ! nàng ôi ! thốt lên, lời ngọc nữ,
Lời trân châu rúng cả phím lòng tôi...
Ngọc Kiều ! Ngọc Kiều ! Đến cặp song đôi
Cho tôi đọ vẽ hương trời sắc nước;
Vẽ huyền diệu ứ men say lướt mướt;
Vẽ yêu tinh dồn giận thấu vô gan;
Ta thiếp đi - trong một phút mê loàn
Xuống muôn đợt rồi bay lên tột bực...
Nguồn: Bích Khê (1996), Tinh huyết, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 46 - 48.
(Bản in năm 1996 in theo bản in năm 1939).
254
4.5. MỘNG CẦM CA
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
Nhựa đương lên: sức mạnh của lòng thương;
Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa;
Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương;
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
- Hồn xạ hương phơ phất ở trong sương.
Không gian tơ - không gian tơ gợi sóng;
Âm thanh gì sắp sửa... Ngọc Kiều ơi!
Hay hơi thở của hoa hồng mơ mộng?
Hay buồn đêm rào rạt, - ứ muôn nơi?
Không gian tơ - không gian tơ gợn sóng;
Ngọc Kiều ơi! - Hồn đến bến xa khơi!...
Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt,
Ngọc Kiều ơi! – nầy khúc Lạc Mai Hoa.
Suối tóc mát, nhúng trong vùng mộng tuyết:
Ta đê mê, ta gảy điệu Tỳ Bà;
Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt
Còn đây em, nầy khúc Mộng Cầm Ca.
Đâu đôi mắt mùa thu xanh tơ ngọc?
Vú non non? Da dịu dịu, êm êm?
Đâu hang báu cho người ta phải khóc?
- Trên môi son, ta liếc lưỡi gươm mềm!
Đâu đôi mắt mùa thu xanh tơ ngọc?
255
- Lưới lông mi rờn rợn ánh tơ đêm!
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng.
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ...
Người cho ta một thanh gươm rất sắc?
Ô vung lên... cắt mạch nguyệt vàng xanh!
Xẻ mạch trời, - mây xô sao, răng rắc!
Phăng mạch đêm, - hương vỡ, ứa ngầm tinh!
Người cho ta một thanh gươm rất sắc?
- Ta điên rồ... múa giữa áng bình minh.
Bích Khê (1996), Tinh huyết, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 25 - 26.
(Bản in năm 1996 in theo bản in năm 1939).
256
4.6. GÁI QUÊ
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Đã khiến môi tôi mấp máy thèm.
Từ lúc tóc em bỏ trái đào
Tới chừng cặp má đỏ au au
Tôi đều nhận thấy trong con mắt
Một vẻ ngây thơ và ước ao.
Lớn lên, em đã biết làm duyên,
Mỗi lúc gặp tôi che nón nghiêng
Nghe nói ba em chưa chịu nhận
Cau trầu của khách láng giềng bên.
.
Nguồn: Hàn Mặc Tử (1996), Gái quê, Chơi giữa mùa trăng, Đau thương,
Xuân như ý, Nxb. Hội Nhà văn, H, tr. 9 (Tập Gái quê in lần đầu năm 1936).
257
4.7.NỤ CƯỜI
Trăng lên, nước lặng tre là đà
Rơi bóng im trên đám cỏ hoa
Tiếng động sau vùng lau cỏ mọc
Tiếng ca chen lấn từ trong ra.
Tiếng ca ngắt – Cành lá rung rinh
Một nường con gái trông xinh xinh
Ống quần vo xắn lên đầu gối
Da thịt, trời ơi! trắng rợn mình.
Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ
Nước trong nổi bật dung hình cô1
Nụ cười dưới ấy và trên ấy
Không hẹn, đồng nhau nở lẳng lơ.
Nguồn: Hàn Mặc Tử (1996), sđd, tr. 8
1 Có bản chép: Nước trong nổi bật hình dáng hình cô (chú thích của Biên tập sách).
258
PHỤ LỤC 5: HAI DẠNG VĂN BẢN TẠO HÌNH VÀ BIỂU HIỆN
TRONG CA DAO
Văn bản tạo hình là văn bản mà nghĩa của nó bằng nghĩa đen của các từ
cộng lại. Thí dụ:
+ Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa, người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sòng sọc nó thì theo sau.
+ Anh còn son, em cũng còn son
Ước gì ta được làm con một nhà.
Trên đây là hai văn bản tạo hình. Còn ở văn bản biểu hiện, nghĩa của nó
không phải là nghĩa đen của các từ cộng lại. Thí dụ:
Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.
Ở đây, tác giả dân gian không đề cập đến việc chăn nuôi gia súc, mà
diễn tả nỗi niềm thất vọng của chàng trai khi người yêu đã trở thành vợ người
khác.
Tương tự như vậy, khi nghe, khi đọc lời ca dưới đây:
Anh nói em cũng nghe anh
Bát cơm đã trót chan canh mất rồi.
Nuốt đi đắng lắm anh ơi
Bỏ ra thì để tội trời ai mang.
259
thì từ người dân chưa có điều kiện được học tập ở trường lớp cho đến người
trí thức uyên bác đều hiểu được cái nghĩa của văn bản mà nhà ngôn ngữ học
Nguyễn Phan Cảnh đã diễn giải như sau:
Anh nói em cũng nghe anh
Đời em đã trót chồng con mất rồi
Sống thì cực lắm anh ơi
Ly dị thì để tội trời ai mang.
(Xem thêmNguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội).
.
260