ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ LLỊỊCCHH SSỬỬ

Thái Nguyên, năm 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC

AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM

Mã số : 60 22 54

LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ LLỊỊCCHH SSỬỬ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN XUÂN MINH

Thái Nguyên, năm 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Xuân Minh, người đã

tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã giúp đỡ, động viên và

tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn những nhận xét, đánh giá của Hội đồng Khoa

học bảo vệ luận văn.

Tôi cũng xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cơ quan, đơn vị, những

người thân, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên giúp đỡ để tôi hoàn thành

khoá học và bảo vệ thành công luận văn này !

Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2008 Ngƣời thực hiện Nguyễn Thị Bích Ngọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

Trang

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài 4

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5

5. Đóng góp của đề tài nghiên cứu 6

6. Bố cục của đề tài 7

CHƢƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ

TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC.

1.1. Huyện Định Hoá - một địa bàn chiến lược trong căn cứ địa Việt Bắc. 8

1.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân các

dân tộc huyện Định Hoá. 14

1.3. Quá trình hình thành An toàn khu Định Hoá. 28

CHƢƠNG 2: XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG

CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC.

2.1. Quá trình xây dựng An toàn khu Định Hoá. 33

2.1.1. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. 33

2.1.2. Xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp tự túc. 38

2.1.3. Đẩy mạnh công tác văn hoá - giáo dục, y tế. 41

2.2. Công tác bảo vệ An toàn khu Định Hoá. 45

2.2.1. Tổ chức lực lượng bảo vệ. 45

2.2..2. Hình thức và biện pháp bảo vệ. 51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

CHƢƠNG 3: VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG

CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC.

3.1. An toàn khu Định Hoá là một bộ phận quan trọng nhất trong căn cứ

địa Việt Bắc nói chung và An toàn khu Trung ương nói riêng. 61

3.2. An toàn khu Định Hoá là một trong những nơi thực hiện chế độ

dân chủ mới. 67

3.3. An toàn khu Định Hoá là một trong những nơi xác lập các mối

quan hệ ngoại giao. 70

3.4. An toàn khu Định Hoá làm tròn vai trò hậu phương kháng chiến. 75

KẾT LUẬN

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào các tỉnh Cao, Bắc, Lạng

ngày 2 tháng 9 năm 1947 đã khẳng định vai trò to lớn của căn cứ địa Việt Bắc

đối với sự phát triển của phong trào cách mạng cả nước như sau: “Cách mạng

đã do Việt Bắc mà thành công thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”

[48, tr.15]. Việt Bắc, nơi mà “lòng yêu nước của đồng bào hoà nhập với hình

thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch” [44, tr.366] đã được

lịch sử chứng minh là hậu cứ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến

thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp.

Căn cứ địa Việt Bắc là nơi Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh

triển khai và xúc tiến mạnh mẽ quá trình chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa, xây

dựng lực lượng vũ trang tập trung, lãnh đạo và động viên nhân dân cả nước

đứng lên giành chính quyền tháng 8 năm 1945. Trong kháng chiến chống thực

dân Pháp, Việt Bắc được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết

định xây dựng và củng cố làm chỗ đứng chân của các cơ quan đầu não lãnh

đạo kháng chiến.

Trong căn cứ địa Việt Bắc, các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ

Nhai (tỉnh Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (tỉnh Tuyên

Quang), Chợ Đồn (tỉnh Bắc Kạn), trong đó trung tâm là Định Hoá, Chợ Đồn,

Sơn Dương, Yên Sơn, được chọn làm nơi xây dựng An toàn khu Trung ương.

An toàn khu Trung ương Định Hoá nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc,

nơi có địa thế hiểm trở “tiến có thể đánh, lui có thể giữ”, có đầy đủ yếu tố địa

lợi, nhân hoà, đã trở thành địa bàn hoạt động an toàn của các cơ quan đầu não

kháng chiến. Từ nơi đây, Trung ương Đảng, Chính phủ lãnh đạo sự nghiệp

kháng chiến, kiến quốc, tiến hành các hoạt động ngoại giao tranh thủ sự đoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

kết, ủng hộ của thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cũng tại

đây, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ra đời

những chủ trương, đường lối quan trọng, những quyết sách có ý nghĩa chiến

lược đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong

suốt thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân các dân tộc huyện

Định Hoá sớm nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình, đã vượt qua mọi

khó khăn, gian khổ, phát huy cao độ truyền thống đấu tranh và những thế

mạnh của địa phương, làm tròn vai trò của một An toàn khu Trung ương trong

căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

Nghiên cứu “An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt

Bắc” giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc và toàn diện hơn về sự lãnh đạo

đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng

như vai trò to lớn của nhân dân các dân tộc Việt Bắc nói chung và Định Hoá

nói riêng đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Nghiên cứu đề tài này còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm nhìn chiến

lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, củng cố căn cứ địa Việt

Bắc, trong đó có An toàn khu Định Hoá và càng có điều kiện để hiểu sâu sắc

rằng, căn cứ địa (trong đó có An toàn khu Trung ương) là một trong những

nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Là một giáo viên bộ môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông, nghiên

cứu đề tài này giúp tôi có thêm nguồn tư liệu phong phú để nâng cao chất

lượng giảng dạy. Thông qua đó sẽ góp phần vào việc giáo dục truyền thống

cách mạng, niềm tự hào về quê hương cho thế hệ trẻ.

Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “An

toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc” làm Luận văn

Thạc sỹ khoa học Lịch sử.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Vấn đề “An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc”

đã được đề cập trong không ít các tác phẩm với các góc độ khác nhau.

Cuốn “Bắc Thái: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -

1954)” của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái xuất bản năm 1990 đã phản ánh

tương đối sinh động cuộc chiến tranh “toàn dân, toàn diện” của nhân dân các

dân tộc và các lực lượng vũ trang trên địa bàn hai tỉnh Bắc Kạn và Thái

Nguyên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuốn sách đề cập một

số nét về sự ra đời ATK Định Hoá và cuộc chiến đấu bảo vệ ATK Định Hoá

trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947.

Cuốn “Căn cứ địa Việt Bắc (1940 - 1945)” của TS. Hoàng Ngọc La - Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995 đã đề cập đến vị trí chiến lược, truyền

thống đấu tranh trong lịch sử và khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của căn

cứ địa Việt Bắc đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Cuốn “Lịch sử ATK Định Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược (1945 - 1954)” của TS. Nguyễn Xuân Minh và Nguyễn Xuân Hùng

- Huyện uỷ Định Hoá xuất bản năm 1997, đã trình bày một cách chân thực

quá trình xây dựng và bảo vệ ATK, sự đóng góp to lớn của nhân dân các dân

tộc Định Hoá trong kháng chiến.

Cuốn “Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK Định Hoá trong căn cứ địa

Việt Bắc” (Kỷ yếu hội thảo khoa học) - Sở Văn hoá Thông tin Thái Nguyên

xuất bản năm 2004, tập hợp nhiều bài viết của các cán bộ cao cấp của Đảng,

Chính phủ, Quân đội, đồng thời là những nhân chứng lịch sử từng sống, làm

việc tại ATK Định Hoá và của các nhà nghiên cứu lịch sử trong nước. Mỗi

bài viết đề cập đến ATK Định Hoá ở những khía cạnh khác nhau, song đều

tập trung làm nổi bật vấn đề sự lựa chọn Định Hoá làm ATK Trung ương

trong căn cứ địa Việt Bắc là một quyết định hết sức đúng đắn của Chủ tịch Hồ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

Chí Minh, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Người trong sự nghiệp lãnh đạo

cách mạng Việt Nam.

Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 - 2000)” do Huyện uỷ

(huyện) Định Hoá xuất bản năm 2000 đã phần nào khái quát về điều kiện tự

nhiên, lịch sử hình thành, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện. Cuốn

sách đã trình bày tương đối có hệ thống 55 năm đấu tranh của Đảng bộ và

nhân dân các dân tộc trong huyện, kể từ khi Đảng bộ ra đời, với những diễn

biến trong từng thời kì lịch sử, trong đó có một thời kì lịch sử sôi động gắn

liền với quá trình xây dựng và bảo vệ ATK - một trong những trung tâm của

Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt Bắc.

Ngoài ra còn có các tác phẩm viết dưới dạng hồi ký, bút ký, ghi chép…

khắc hoạ khá trung thực về hoạt động, về tình cảm gắn bó sâu sắc của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí trong các cơ quan của Trung ương Đảng,

Chính phủ, Bộ Tổng tư lệnh… với đồng bào Việt Bắc nói chung và Định Hoá

nói riêng.

Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu hoàn

chỉnh, hệ thống về An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

Những công trình đã được công bố nói trên là những tư liệu quý giá và

thực sự có ích giúp chúng tôi hoàn thành Luận văn này.

3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về An toàn khu Định Hoá trong căn cứ

địa kháng chiến Việt Bắc.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: Huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên trong mối quan hệ

với ATK Trung ương ở Việt Bắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

Về thời gian: Từ đầu năm 1947 khi Định Hoá trở thành trung tâm An

toµn khu trong căn cứ địa Việt Bắc, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương

Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng Tư lệnh… đặt bản doanh lãnh đạo cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi năm 1954.

3.3. Nhiệm vụ của đề tài:

- Làm rõ vị trí chiến lược của vùng Việt Bắc nói chung và nhất là huyện

Định Hoá nói riêng.

- Quá trình hình thành ATK Định Hoá. Trên cơ sở đó làm rõ tầm

nhìn chiến lược của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong

việc chọn căn cứ địa Việt Bắc làm nơi xây dựng An toàn khu (trong đó

có ATK Định Hoá).

- Quá trình xây dựng, củng cố và bảo vệ ATK Định Hoá.

- Xác định vị trí, vai trò của ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc.

- Bước đầu đề xuất một số ý kiến về việc bảo tồn và phát huy giá trị của

khu di tích An toàn khu Định Hoá.

4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1. Nguồn tài liệu:

Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu

khác nhau:

- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước; các bài nói, bài viết của Chủ tịch

Hồ Chí Minh trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Nguồn tư liệu này giúp

chúng tôi có quan điểm, phương hướng, cách nhìn nhận, đánh giá một cách

đúng đắn tầm quan trọng, vai trò của căn cứ địa (trong đó có an toàn khu) đối

với phong trào cách mạng nói chung, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

nói riêng.

- Các chỉ thị, nghị quyết của Liên Khu uỷ Việt Bắc, Tỉnh uỷ Thái Nguyên

và Huyện uỷ Định Hoá được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, bộ phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

lưu trữ thông tin ; Trung tâm Văn thư lưu trữ Tỉnh uỷ và UBND tỉnh Thái

Nguyên; Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên, Nhà Trưng bày

ATK Định Hoá. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp chúng tôi cơ sở để

nghiên cứu đề tài này.

- Các công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, lịch

sử Đảng bộ huyện Định Hoá, lịch sử Đảng bộ các xã thuộc huyện Định Hoá.

- Chúng tôi còn sử dụng các tài liệu hồi ký, nhật ký, bài viết của các

đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các tướng lĩnh và cựu chiến binh Quân

đội nhân dân Việt Nam, của các vị lão thành cách mạng và nhân chứng lịch sử

đã từng sống và làm việc tại ATK Định Hoá.

- Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu Lịch sử, các kỷ yếu

hội thảo khoa học đã được công bố.

- Các tài liệu thu được trong các đợt điền dã Khu di tích lịch sử ATK

Định Hoá.

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử

kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng

phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp khảo sát điền dã.

5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:

- Trên cơ sở hệ thống hoá các nguồn tài liệu, kế thừa kết quả của các

công trình nghiên cứu trước, Luận văn là công trình đầu tiên trình bày

một cách hệ thống về An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến

Việt Bắc.

- Từ kết quả của quá trình nghiên cứu, Luận văn góp phần đánh giá một

cách đúng đắn, khoa học về vị trí, vai trò của ATK Định Hoá - một địa bàn

chiến lược quan trọng trong căn cứ địa Việt Bắc, một trong những trung tâm

của Thủ đô kháng chiến.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

- Thông qua quá trình nghiên cứu, Luận văn mạnh dạn đưa ra một số ý

kiến đóng góp phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn, phát

huy giá trị của khu di tích lịch sử ATK.

- Luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy, học tập

lịch sử địa phương.

6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn

gồm có 3 chương:

- Chương 1: Quá trình hình thành An toàn khu Định Hoá trong căn cứ

địa kháng chiến Việt Bắc.

- Chương 2: Xây dựng và bảo vệ An toàn khu Định Hoá trong căn cứ

địa Việt Bắc.

- Chương 3: Vị trí, vai trò của An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa

kháng chiến Việt Bắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

Chƣơng 1

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC

1.1. ĐỊNH HOÁ - MỘT ĐỊA BÀN CHIẾN LƢỢC TRONG CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC

Viêt Bắc là tên gọi một vùng lãnh thổ thuộc thượng du và trung du Bắc

Bộ; phía bắc và đông bắc giáp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; phía

đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh; phía nam giáp đồng bằng Bắc Bộ; phía tây

giáp các tỉnh thuộc Tây Bắc.

Nằm kề sát đất nước Trung Hoa rộng lớn vốn có mối quan hệ chặt chẽ

với cách mạng Việt Nam từ nhiều năm trước, cùng chung dải biên giới, với

chiều dài 751km, đi qua địa phận 15 huyện, 97 xã, Việt Bắc có điều kiện

thông thương quốc tế thuận lợi.

Khu vực trung tâm của Việt Bắc gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái

Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang. Khu vực ngoại vi gồm một số

địa phương thuộc địa phận các tỉnh: Vĩnh Yên, Phúc Yên (nay là Vĩnh Phúc),

Phú Thọ, Yên Bái và Bắc Giang.

Việt Bắc có diện tích tự nhiên khoảng: 32991km2 (gần 1/10 diện tích cả

nước). Rừng núi chiếm khoảng 90% diện tích của khu, chủ yếu ở cá tỉnh: Cao

Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Kạn và phần lớn các

tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, một phần phía bắc các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên,

Bắc Giang. Núi rừng Việt Bắc trùng điệp với những vùng núi đất, rừng già

xen những dãy núi đá vôi. Trên các dãy núi có nhiều hang động. đó chính là

nơi ẩn nấp và cất giấu lương thực, thực phẩm khá an toàn của đồng bào các

dân tộc mỗi khi có giặc ngoại xâm. Trong cuộc vận động Cách mạng tháng

Tám, Việt Bắc đã từng là căn cứ địa, nơi đứng chân vững chắc của các cơ

quan lãnh đạo của Đảng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

Việt Bắc có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, rừng

bạt ngàn với nhiều loại lâm, thổ sản, thú rừng. Đất đai ở những vùng đồi,

thung lũng thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Việt Bắc có điều kiện

để xây dựng một nền kinh tế tự cấp tự túc. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng đối với một nước chưa có kinh tế hàng hoá, giao thông khó khăn như

nước ta, lại bị các thế lực thù địch bao vây, phong toả. Đất đai và sản vật của

vùng rừng núi rộng lớn, đa dạng có thể đảm bảo cung cấp một phần quan

trọng về hậu cần giúp lực lượng kháng chiến tồn tại và phát triển.

Việt Bắc có nhiều sông, suối, ao, hồ. Những con sông lớn (sông Hồng,

sông Đà, sông Lô…) đều phát nguyên từ Trung Quốc, xuyên qua Việt Bắc đổ

về đồng bằng Bắc Bộ, rồi chảy ra biển. Một số con sông (Kì Cùng, Bằng

Giang…) bắt nguồn từ địa phận Việt Bắc rồi chảy sang Trung Quốc. Những

đoạn sông chảy qua vùng thượng du thường có lòng hẹp, nhiều thác ghềnh

hiểm trở và có độ dốc khá lớn. Vào mùa mưa, từ tháng 3 đến tháng 8, nước lũ

hay dâng cao đột ngột, dòng sông chảy xiết, ảnh hưởng không tốt đến cơ động

lực lượng và giao thông vận tải. Vào mùa khô, dòng sông cạn, thuyền bè khó

đi lại .

Cùng với sông ngòi, khe suối, Việt Bắc có các đường bộ, đường sắt được

xây dựng từ thời thuộc Pháp. Những con đường này phần lớn xuất phát từ Hà

Nội, toả ra các hướng, đi qua các tỉnh trong khu Việt Bắc, đến tận biên giới

Việt - Trung. Có nhiều đoạn đường chạy ven theo các sườn núi cao, một bên

là vách đá dựng đứng, một bên là sông sâu vực thẳm. Ngoài các con đường

lớn là hệ thống đường đất nhỏ, đường mòn, nối liền các vùng trong khu với

nhau, giữa khu với các vùng lân cận và giữa các địa phương hai bên biên giới

Việt - Trung. Với hệ thống các đường thuỷ, bộ, địa hình dốc, núi rừng hiểm

trở, việc giao thông, nhất là giao thông bằng phương tiện cơ giới trên địa phận

Việt Bắc gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, địa thế đó rất thuận lợi cho hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

động cách mạng thời kỳ trứng nước, đặc biệt là cho việc thực hiện chiến tranh

du kích [45, tr.12].

Việt Bắc là một địa bàn rất cơ động về chiến lược. Thông qua hệ thống

đường mòn, từ Việt Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam có thể liên lạc dễ

dàng với quốc tế, trước hết là cách mạng Trung Quốc. Từ Việt Bắc, phong

trào cách mạng có thể mở rộng sang hướng Tây Bắc để liên lạc với cách

mạng Lào. Ở hướng đông, Việt Bắc nối liền với rừng núi Quảng Ninh, Đông

Triều, kéo dài xuống tận miền duyên hải. Về phía nam, Việt Bắc giáp với Thủ

đô Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ, thuận lợi cho việc mở rộng phong trào cách

mạng xuống miền xuôi. Vì thế, về mặt quân sự mà xét, Việt Bắc là nơi dụng

binh lợi hại.

Ở Việt Bắc, trước Cách mạng tháng Tám có khoảng 1.200.00 dân, thuộc

30 thành phần dân tộc anh em, đông nhất là dân tộc Việt sống tập trung ở

trung du và các thị xã, thị trấn; dân tộc Tày chủ yếu sống ở vùng núi thấp; dân

tộc Nùng sống ở vùng giáp biên giới Việt - Trung. Còn các dân tộc khác như

Dao, Cao Lan, Sán Chí, H’Mông ... sống ở triền núi cao hoặc xen kẽ với các

dân tộc khác. Mỗi dân tộc có một nền văn hoá độc đáo, phong tục, tập quán,

tiếng nói riêng… nhưng nét nổi bật chung là truyền thống yêu nước, đoàn kết

và đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm trong suốt quá trình lịch sử dựng

nước và giữ nước. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng bào các dân tộc

Việt Bắc một lòng son sắt đi theo Đảng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh

chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Việt Bắc có cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng ngay từ năm 1930. Những căn

cứ đầu tiên của cách mạng nước ta cũng được thành lập tại Việt Bắc. Cao

Bằng là nơi có phong trào cách mạng sớm nhất và vững chắc đã trở thành chỗ

đứng chân, là một trong hai trung tâm căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

nước. Sau khi thực hiện chủ trương “Nam tiến”, căn cứ địa Cao Bằng nối với

căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, tạo thành thế liên hoàn vững chắc, để trên cơ

sở đó, đến tháng 6 năm 1945, Khu Giải phóng chính thức ra đời gồm 6 tỉnh

Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang.

Tân Trào (Tuyên Quang) trở thành Thủ đô của Khu Giải phóng. Tại Tân

Trào, những quyết định quan trọng liên quan tới cuộc tổng khởi nghĩa trên

toàn quốc đã được phát đi. Việt Bắc còn là nơi phát sinh và phát triển các đơn

vị vũ trang đầu tiên của Đảng, là nơi xuất phát và là bàn đạp vững chắc để

tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945. Có thể nói

rằng, Việt Bắc đã đóng vai trò quan trọng cho thắng lợi của cuộc Cách mạng

tháng Tám, xứng đáng là quê hương cách mạng dựng nên nền cộng hoà.

Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, với một tầm nhìn chiến lược,

Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã chọn vùng rừng núi Việt Bắc làm căn cứ

địa chủ yếu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Định Hoá (Thái Nguyên) là một vùng đất nằm sâu trong căn cứ địa Việt

Bắc, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía bắc, có diện tích khoảng 520km2, trung tâm huyện lỵ là thị trấn Chợ Chu.

Định Hoá có đường ranh giới tiếp giáp 6 huyện: Phía bắc giáp Chợ Đồn,

Bạch Thông (Bắc Kạn); phía nam giáp Đại Từ; phía đông giáp Phú Lương;

phía tây giáp Sơn Dương và Yên Sơn (Tuyên Quang).

Địa hình Định Hoá khá phức tạp và hiểm trở. Cả huyện là một thung

lũng lòng chảo lớn được bao bọc bởi dãy núi cao dựng đứng ở phía Đông -

Bắc, có dãy núi Hồng án ngữ ở phía Tây - Nam. Địa hình Định Hoá phân làm

hai vùng: Phần Bắc huyện, bao gồm các xã: Linh Thông, Quy Kỳ, Lam Vĩ,

Tân Thịnh, Kim Phượng, Kim Sơn, Phúc Chu và Bảo Linh là vùng núi cao,

độ dốc khá lớn. Các dãy núi chạy từ tây bắc xuống đông nam, trong đó có dãy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

núi đá vôi thuộc phần cuối cùng của cách cung sông Gâm, chạy từ phía bắc

qua thị trấn Chợ Chu và dừng lại ở xã Trung Hội, tạo nên bức tường thành ở

phía Đông thị trấn. Dãy núi này có độ cao từ 200m - 400m, có nhiều hang

động có sức chứa tới vài trăm người, khi cần thiết có thể dùng làm kho tàng

hoặc nơi trú quân. Vì địa thế vùng phía Bắc phần lớn là núi cao, rừng già, lại

nhiều khe suối nhỏ, đồng ruộng ít, nên dân cư thưa thớt.

Phần phía Nam Định Hoá bao gồm thị trấn Chợ Chu và các xã Bảo

Cường, Trung Hội, Trung Lương, Tân Dương, Định Biên, Đồng Thịnh,

Phượng Tiến, Thanh Định, Bình Yên, Điềm Mặc, Sơn Phú, Phú Đình, Phú

Tiến, Bộc Nhiêu, Bình Thành. Đây là vùng đồi núi xen kẽ, có độ cao khoảng

từ 50m đến 200m, có nhiều rừng già và những cánh đồng rộng, đất đai phì

nhiêu, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của con người nên dân

cư tập trung đông đúc hơn vùng phía Bắc huyện. Đặc biệt rừng các xã phía

Nam có nhiều cây cọ, lá dùng để lợp nhà, cuộng dùng làm mành, thân cọ làm

kèo, xà nhà. Cọ là loại cây đặc trưng của Định Hoá, có giá trị kinh tế, phục vụ

tốt cho nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong huyện. Hơn nữa, trong kháng

chiến, rừng Định Hoá với các loại gỗ, tre, nứa, cọ sẽ có khả năng đáp ứng

một cách nhanh chóng, kịp thời việc xây dựng nhà ở, lán, trại cho các cơ quan

và đơn vị bộ đội đóng quân.

Định Hoá có nhiều sông suối, nhưng không rộng, không có khả năng lớn

về giao thông đường thuỷ. Sông suối Định Hoá quanh năm có nước và là

nguồn cung cấp nước chủ yếu cho việc canh tác và sinh hoạt của nhân dân

trong huyện.

Là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, Định Hoá tuy chỉ có 10%

diện tích đất canh tác, nhưng với một số cánh đồng phì nhiêu và hệ thống

sông suối tưới nước tự nhiên, nên nơi đây có khả năng phát triển các cây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

lương thực, thực phẩm và chăn nuôi gia súc, gia cầm. các xã vùng phía Nam

Định Hoá là vựa lúa của huyện. Rừng núi Định Hoá có nhiều loại lâm thổ sản,

nuông thú, cây dược liệu quý. Đây là những cơ sở thuận lợi của nền kinh tế tự

cấp tự túc - một yếu tố quan trọng trong xây dựng căn cứ địa, an toàn khu.

Địa hình Định Hoá phức tạp, rừng núi chiếm tới 90%, lại có nhiều khe

suối, đèo dốc nên hệ thống đường giao thông hầu như chưa phát triển. Khi thực

dân Pháp chiếm đóng Định Hoá, để phục vụ cho mục đích cai trị, đàn áp và

khai thác thuộc địa, chúng xây dựng con đường 38 chạy từ Km 31 (Quốc lộ 3)

đi Chợ Chu, rồi từ đây chúng mở đường nối liền Thành Cóc (Sơn Dương,

Tuyên Quang), đồn Nghĩa Tá (Chợ Đồn), đồn Quảng Nạp và Phú Minh (Đại

Từ). Những đoạn đường này chỉ có loại ô tô vận tải nhỏ đi được. Ngoài ra, hệ

thống đường mòn cho người đi bộ và đi ngựa thì chằng chịt, ngang dọc khắp

huyện. Từ những con đường xuyên sơn này, những đoàn người dễ dàng luồn

rừng đi Sơn Dương, xuống Đại Từ, lên chợ Đồn, ra Phú Lương, cơ động

trong cả một vùng rừng núi đại ngàn giáp ranh giữa 3 tỉnh Thái Nguyên,

Tuyên Quang và Bắc Kạn, nối liền với các căn cứ của ta trong căn cứ địa Việt

Bắc. Từ Định Hoá theo các đường mòn và những lối đi kín đáo, thuận tiện

dựa vào sườn dãy núi Tam Đảo tiến về Sơn Tây, Hoà Bình lên Tây Bắc,

vào Khu 4 hoặc tạt xuống đồng bằng sông Hồng dễ dàng. Từ đây, dùng

ngựa men theo các triền núi qua Bắc Kạn - Cao Bằng ra Biên giới Việt -

Trung thuận lợi.

Chính điều kiện địa lý tự nhiên như vậy đã tạo thành thế “thiên hiểm”

ngăn cản sự tiến công và đóng giữ của địch, hạn chế tới mức tối đa uy lực vũ

khí và phương tiện chiến tranh hiện đại của kẻ thù. Ngược lại, Định Hoá lại là

địa bàn có nhiều điều kiện thuận lợi để ta xây dựng thành An toàn khu của

Trung ương. Nơi đây, với những cánh rừng già đại ngàn, càng đi sâu vào nội

huyện, rừng càng rậm rạp, tạo thành bức màn che phủ đường đi lối lại và nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

ở bên trong là địa điểm tuyệt đối bí mật, kẻ địch khó phát hiện, do đó Định

Hoá có thể bảo vệ an toàn cho cán bộ, lực lượng vũ trang và các cơ quan

kháng chiến của ta. Địa thế Định Hoá hiểm trở, là nơi “tiến có thể công, thoái

có thể thủ”. Khi bị tấn công, lực lượng cách mạng có thể chốt giữ, tổ chức

những cuộc chiến đấu chặn đánh để bảo toàn lực lượng; hoặc có thể nhanh

chóng di chuyển lực lượng, kho tàng, cơ quan đi các vùng xung quanh. Từ

Định Hoá có thể xuất phát tiến công địch ở những nơi khác, khi thắng có thể

tiến về vùng châu thổ sông Hồng, khi lui, lại về dựa vào địa thế rừng núi,

đứng chân an toàn.

Định Hoá là địa bàn chiến lược cơ động. Từ đây có thể thông thương với

các địa phương trong căn cứ địa Việt Bắc, với các tỉnh miền xuôi và cả nước.

“Định Hoá cùng với các huyện Chợ Đồn, Sơn Dương, Yên Sơn tạo thành thế

chân kiềng với nhiều lợi thế, thuận tiện cho việc thay đổi nơi ở, nơi làm việc

từ huyện này sang huyện khác, tỉnh này sang tỉnh khác. Chặng đường di

chuyển đó không quá xa nơi đóng các cơ quan Trung ương Đảng và Chính

Phủ, nên luôn bảo đảm kịp thời cho sự lãnh đạo, chỉ đạo quân dân ta trong

cuộc kháng chiến” [62, tr.58]

Với vị thế, địa hình và những điều kiện tự nhiên như vậy, Định Hoá thực sự

là một địa bàn chiến lược quan trọng trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.

1.2. TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN CÁC

DÂN TỘC HUYỆN ĐỊNH HOÁ

Định Hoá là một địa bàn quần cư của nhiều thành phần dân tộc như Tày,

Nùng, Kinh, Dao, Cao Lan - Sán Chay, Mông, Hoa. Tuy ngôn ngữ và phong

tục tập quán khác nhau, song lòng yêu quê hương đất nước đã cố kết họ lại

thành một khối vững chắc. Nhân dân các dân tộc Định Hoá có truyền thống

đấu tranh chống giặc ngoại xâm rất vẻ vang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

14

Ngay từ thời dựng nước, nhân dân các dân tộc Định Hoá đã không

ngừng đấu tranh, bảo vệ và củng cố nền độc lập của Tổ quốc. Thời Bắc

thuộc, dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược,

nhân dân các dân tộc Định Hoá liên tục nổi dậy, góp phần cùng nhân dân cả

nước giành độc lập cho dân tộc.

Nửa đầu thế kỉ XIX, nhân dân các dân tộc Định Hoá anh dũng nổi dậy

khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Tiêu biểu là vào năm

1883, đông đảo nhân dân Định Hoá đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa do Nông

Văn Vân lãnh đạo chiếm thành Thái Nguyên, làm cho quan quân triều đình

nhà Nguyễn khốn đốn. Nhân dân Định Hoá không chỉ đấu tranh chống ách áp

bức bóc lột của giai cấp phong kiến nhà Nguyễn mà còn phải đấu tranh chống

lại nạn cướp bóc của bọn thổ phỉ từ bên kia biên giới phía Bắc tràn sang nước

ta, do Tạ Văn Sơn và Lê Khai Nguyên cầm đầu. Đặc biệt, năm 1867, sau khi

thất bại và bị triều đình Mãn Thanh đánh dẹp, khoảng hơn 2000 tàn quân của

phong trào nông dân "Thái Bình Thiên Quốc" dô Ngô Côn cầm đầu vượt biên

giới, chạy vào Việt Nam và trở thành thổ phỉ đi cướp bóc, tàn phá, giết hại

dân lành. Trong số đó, khoảng 1000 quân do Lường Tam Kỳ - một phó tướng

của Ngô Côn chỉ huy tiến vào đánh chiếm Định Hoá. Nhận thấy đây là một

địa bàn có vị trí chiến lược rất cơ động, Lường Tam Kỳ đã lấy vùng Định

Hoá làm sào huyệt, xây dựng lực lượng, xây đồn, đắp luỹ . Quân của Lường

Tam Kỳ đã cướp bóc, chiếm ruộng đất của nhân dân Định Hoá, Phú Lương,

Đại Từ và một số địa phương lân cận, gây loạn cả một vùng.

Mượn cớ truy đuổi tàn quân “Thái Bình thiên quốc”, triều đình Mãn Thanh đã cử Đề đốc Phùng Tử Tài chỉ huy một đạo quân lớn tràn vào Việt Nam. Khi đến Định Hoá, quân của Đề đốc Phùng Tử Tài đã bị Lường Tam Kỳ đánh bại. Đồng bào các dân tộc Định Hoá phải gánh chịu thảm hoạ của các cuộc chiến tranh liên miên này, làng xóm của họ nhiều khi đã trở thành bãi chiến trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

15

Tháng 5/1884, Pháp chiếm thành Thái Nguyên, thiết lập chế độ quân

quản. Trong khi đó, Lường Tam Kỳ dựa vào vùng núi hiểm trở của Định Hoá,

xây dựng hệ thống phòng ngự kiên cố, tích trữ lương thực, phát triển lực

lượng đông tới hai nghìn người, mở rộng địa bàn hoạt động, nổ súng vào

những cuộc hành binh của thực dân Pháp, gây cho quân Pháp nhiều khó khăn

trong quá trình đánh chiếm.

Ngày 12 - 1 - 1889, tướng Boócnhi Đềboóc chỉ huy một đạo quân gồm

924 sĩ quan và binh lính tấn công vào Chợ Chu, trung tâm sào huyệt của

Lường Tam Kỳ, nhưng đã thất bại. Cuối tháng 1 năm 1889, Pháp tiếp tục huy

động hơn 2000 quân, gồm có pháo binh, công binh chia làm 4 mũi tấn công

vào chợ Chu.Gặp phải sự chống cự quyết liệt của quân Lường Tam Kỳ và

nhân dân địa phương, đến ngày 2-2-1889, thực dân Pháp mới chiếm được

Chợ Chu, nhưng không thể tiến sâu vào các làng, xã. Quân của Lường Tam

Kỳ vẫn bám trụ được những vị trí kiên cố ở các dãy núi bao quanh Chợ Chu và

làm chủ hầu hết vùng Định Hoá. Tại thị trấn chợ Chu, thực dân Pháp xây dựng

có hơn 200 quân được trang bị vũ khí mạnh, chốt giữ, thường xuyên bị quân

Lường Tam Kỳ quấy phá..

Trước tình hình đó, thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi

kéo Lường Tam Kỳ và chúng đã thành công. Ngày 14 - 8 - 1890, Lường Tam

Kỳ đã quy thuận và ký giao ước với Pháp. Theo bản giao ước đó, Kỳ được

phong chức phó lãnh binh Thái Nguyên kiêm “phòng phủ sứ” được quyền

buôn bán thuốc phiện và giữ nguyên quân số, vũ khí của đội quân Cờ Vàng.

Hàng năm, Pháp cấp 40.200đ để Lường nuôi số quân này và trả lương cho Kỳ

200đ một tháng. Ngược lại, Kỳ không được cho quân quấy phá các vùng lân

cận, phải cùng với binh lính Pháp đảm bảo an ninh ở các vùng Chợ Chu, Đại

Từ, Phú Lương, Phổ Yên và Bình Xuyên (Vĩnh Phúc ngày nay); Kỳ phải đuổi

khỏi địa hạt những toán thổ phỉ; phải bắt giữ và nộp cho Pháp những người đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

16

cung cấp vũ khí, đạn dược cho bọn cướp, phải báo tin tức cho Pháp và khi cần

phải đem quân cùng với lính Pháp đàn áp giặc cướp (chỉ những cuộc nổi dậy

của nhân dân chống Pháp). Với bản giao ước ngày 14 - 8 - 1890 với Pháp,

Lường Tam Kỳ có quyền lực như một lãnh chúa, dung túng cho thuộc hạ

cướp đất của nhân dân lập ấp, tuỳ tiện bắt dân đóng góp, phục dịch, đầu độc

thế hệ trẻ Định Hoá bằng rượu và thuốc phiện … Lường Tam Kỳ đã trở thành

một tên tay sai đắc lực cho thực dân Pháp.

Căm thù bè lũ cướp nước, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá đã nổi

dậy đấu tranh. Nhiều người bí mật tham gia các toán nghĩa quân chống Pháp

của Hoàng Hoa Thám, chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Tiêu

biểu là các trận đánh ngày 1 - 4 - 1912 trên đoạn đường Chợ Chu - Quảng

Nạp, ngày 13 - 9 - 1912 trên đường Chợ Chu - Chợ Mới, làm cho quân Pháp

khiếp sợ.

Ngày 4 - 8- 1916, nhân dân Định Hoá đã hỗ trợ một đoàn tù nhân bị áp

giải từ Thái Nguyên lên Chợ Chu nổi dậy ở Phố Ngữ (xã Phú Tiến) giết chết

tên lãnh binh, thu vũ khí của lính và rút vào rừng an toàn.

Rạng sáng ngày 28 - 2- 1922, được sự hỗ trợ của nhân dân và binh lính

yêu nước, những người tù chính trị bị giam giữ tại nhà lao Chợ Chu đã nổi

dậy phá ngục, cướp vũ khí diệt địch, tấn công nhà bưu điện, rồi rút vào rừng

tiếp tục chống Pháp.

Mặc dù bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố dã man, nhưng tinh thần yêu

nước trong nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá không bao giờ bị dập tắt. Đây

chính là điều kiện căn bản để sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập (3- 2

1930), nhân dân Định Hoá đã tiếp thu ánh sáng cách mạng và bước vào thời kì

đấu tranh mới.

Một trong những chiến sĩ cách mạng có công đầu trong việc truyền bá tư

tưởng cách mạng của Đảng cho nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá là đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

17

chí Vũ Hưng (tên thật là Văn Uyển, sinh ngày 3-2-1901; quê xã Tiên Minh,

huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam). Là một thanh niên giàu lòng yêu nước, hăng

hái tham gia hoạt động cách mạng, năm 1930- 1931 đồng chí được bầu vào

Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Nam và giữ cương vị phó Bí thư Tỉnh uỷ.

Cuối năm 1931, Đảng bộ tỉnh Hà Nam bị địch khủng bố dữ dội, nhiều

đồng chí sa vào tay giặc, đồng chí Vũ Hưng thoát hiểm, chạy sang Hà Đông,

Hưng yên, rồi lên Vĩnh Yên. Ở ba tỉnh này đồng chí không bắt được liên lạc

với Đảng. Năm 1932, sau khi thoát khỏi sự vây bắt của đế quốc Pháp, đồng

chí vượt vòng vây lên vùng Bộc Nhiêu, huyện Định Hoá, tiếp tục hoạt động.

Tại đây, tuy không bắt được liên lạc với các tổ chức Đảng, nhưng với tinh

thần của người đảng viên Cộng sản, đồng chí đã vừa đi làm thuê, nấu rượu để

kiếm sống, vừa tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân

trong vùng và gây dựng được một số cơ sở quần chúng trung kiên ở Bộc

Nhiêu. Một thời gian sau, đồng chí Nguyễn Đình Chiêm, đảng viên của Đảng

bộ Hà Nam cũng lên Định Hoá, cùng đồng chí Vũ Hưng gây dựng cơ sở, phát

triển phong trào cách mạng ở các xã Bộc Nhiêu, Bảo Cường, Trung Hội …

Nhân dân trong huyện đã tích cực đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng ….

Trong những năm 1936 - 1939, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh,

dân chủ ở Định Hoá ngày càng phát triển, thu được kết quả. Qua đó, cơ sở

cách mạng được hình thành ở Quán Vuông, Bảo Cường. Đặc biệt, giữa năm

1938, khi bị thực dân Pháp bắt đi làm đường Chợ Chu - Thành Cóc (Tuyên

Quang), được cán bộ cách mạng tuyên truyền và vận động, anh em dân phu

nổi dậy đấu tranh đòi tăng tiền công. Cuộc đấu tranh bắt đầu từ đoàn dân phu

xã Bộc Nhiêu rồi lan ra khắp công trường. Trước tinh thần đấu tranh quyết

liệt của anh em dân phu, viên Tri phủ phải nhượng bộ, giải quyết các yêu sách

do dân phu đưa ra. Thắng lợi này đã cổ vũ tinh thần đấu tranh và tạo niềm tin

cho nhân dân Định Hoá đối với cách mạng. Cơ sở cách mạng Định Hoá được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

18

chắp nối với cơ sở cách mạng huyện Đại Từ. Năm 1940, Định Hoá đã hoà

vào phong trào cáh mạng chung của tỉnh Thái Nguyên và nhận sự chỉ đạo trực

tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ. Từ đây, nhân dân Định Hoá có sự lãnh đạo của Đảng,

đã bí mật hăng hái tham gia cách mạng, đẩy mạnh các cuộc đấu tranh trực

diện chống chế độ thống trị của thực dân Pháp, đòi dân sinh, dân chủ. Cơ sở

cách mạng từ Bảo Cường, Trung Hội mở rộng sang Bình Trung, Bình Liên,

Phú Đình, Phúc Chu, An Lạc.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở huyện Định

Hoá, thực dân Pháp ra tay khủng bố. Ngày 25 -5 - 1941, chúng đã huy động

binh lính, có mật thám, chỉ điểm tham gia, do thanh tra Sở Mật thám Bắc Kỳ

Bơvêna chỉ huy, đánh phá vào các cơ sở cách mạng ở Định Hoá và vây bắt

đồng chí Vũ Hưng. Cuộc khủng bố này kéo dài hơn 10 ngày, nhiều người bị

bắt, bị tra tấn dã man. Với tinh thần yêu nước, bất khuất, một lòng theo cách

mạng, nhân dân Định Hoá đã che chở, bảo vệ cán bộ lãnh đạo thoát khỏi vòng

vây của kẻ thù, cơ sở cách mạng vẫn được giữ vững.

Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, nhất là khi Mặt trận Việt Minh ra đời,

tiếng súng đánh Pháp của Cứu quốc quân ở Võ Nhai đã có ảnh hưởng mạnh

mẽ, cổ vũ tinh thần đánh Pháp của nhân dân Định Hoá. Những tháng cuối

năm 1941, cơ sở cách mạng và nhân dân trong huyện đã gửi vũ khí, lương

thực ủng hộ các chiến sĩ Võ Nhai, che chở, đùm bọc nhiều thân nhân Cứu

quốc quân bị địch khủng bố sang Định Hoá lánh nạn. Khi thực dân Pháp giam

giữ thân nhân của các chiến sĩ Cứu quốc quân tại nhà tù Chợ Chu, cơ sở cách

mạng Định Hoá đã bí mật cấp dưỡng lương thực, quần áo, thuốc men và đấu

tranh đòi trả tự do cho họ về Võ Nhai.

Tháng 2 - 1942, một bộ phận Cứu Quốc quân đang hoạt động ở Võ Nhai

vượt vòng vây của giặc Pháp sang Định Hoá mở rộng địa bàn. Đó là những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

19

cán bộ, chiến sĩ đã được học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương

lần thứ Tám (họp tháng 5 - 1941) và chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt

Minh tại căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai. Hơn nữa, họ đều là những cán bộ có kinh

nghiệm trong công tác bí mật vận động quần chúng, gây dựng cơ sở, tổ chức

lực lượng tự vệ.

Được sự tuyên truyền, giác ngộ của Cứu Quốc quân, cơ sở cách mạng

ở Định Hoá được xây dựng và phát triển nhanh chóng. Năm 1942, tổ chức

quần chúng mới xuất hiện ở một số xã phía Nam huyện, nhưng sang năm

1943 đã lan rộng đến tất cả các xã, kể cả những bản người Dao tận núi cao

hẻo lánh, như Khuổi Nhà, Khuổi Giang, Khuổi Dọc… Một số nơi đã lập

đội vũ trang tự vệ.

Tháng 2 - 1943 đã diễn ra cuộc họp giữa các đồng chí lãnh đạo căn cứ

địa Cao Bằng và các đồng chí chỉ huy Cứu Quốc quân tại Hoà An, Cao Bằng

để bàn kế hoạch phối hợp thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh về “Xây

dựng những con đường quần chúng” đánh thông hai trung tâm căn cứ địa Cao

Bằng với Bắc Sơn - Võ Nhai, từ đó mở đường về xuôi kết hợp với phong trào

cách mạng toàn quốc. Cứu Quốc quân mở con đường Bắc tiến đón các đội

xung phong Nam tiến từ Cao Bằng xuống. Đầu tháng 3 - 1943, từ Định Hoá

Cứu Quốc quân bắt đầu vượt sang địa giới huyện chợ Đồn (Bắc Kạn) tuyên

truyền cách mạng, gây dựng cơ sở trong đồng bào dân tộc Dao, dân tộc Tày

thuộc các xã Bình Trung, Nghĩa Tá, Lương Bằng. Khoảng trung tuần tháng

10 - 1943, các đội xung phong “Nam Tiến” đã phát triển xuống Nghĩa Tá, nối

liền hai trung tâm căn cứ với nhau, đánh dấu bước ngoặt của sự hình thành

Khu căn cứ địa Việt Bắc từ Cao Bằng, Bắc Kạn xuống Thái Nguyên. Cứu

Quốc quân tiếp tục đẩy mạnh hoạt động sang Đại Từ, Phú Lương, Bắc Đồng

Hỷ và Sơn Dương (Tuyên Quang). Từ cuối năm 1943, Định Hoá như là trung

tâm căn cứ địa, đất đứng chân vững chắc của Cứu Quốc quân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

20

Lo sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, tháng 9 -

1943 thực dân Pháp đã mở một cuộc vây ráp, khủng bố kéo dài gần 10 ngày ở

hầu khắp các xã trong huyện Định Hoá. Bị tấn công bất ngờ, ta không kịp chủ

động đối phó, nên bị tổn thất nặng. Mười hai cán bộ chủ chốt của phong trào

bị địch bắt giam ở nhà tù Hoả Lò, nhà tù Sơn La; nhiều cơ sở quần chúng bị

phá vỡ; một số cán bộ còn lại bị địch truy lùng ráo riết buộc phải tạm lánh đi

nơi khác.

Trước sự khủng bố ác liệt của thực dân Pháp, phong trào cách mạng tạm

thời lắng xuống, song nhân dân Định Hoá vẫn một lòng son sắt tin vào cách

mạng. Cán bộ và quần chúng được tôi luyện qua thử thách và rút ra được nhiều

bài học quý báu trong đấu tranh cách mạng.

Sau hội nghị họp tại Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang) tháng 2 - 1942 do

đồng chí Hoàng Quốc Việt - uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu

tập, chia Chiến khu Hoàng Hoa Thám thành 2 phân khu. Định Hoá thuộc

Phân khu B (Phân khu Nguyễn Huệ). Được tăng cường cán bộ, phong trào

cách mạng Định Hoá dần dần được khôi phục lại sau đợt khủng bố của địch.

Các tiểu tổ tự vệ, tổ trung kiên được thành lập ở nhiều xã. Nhân dân toàn

huyện, mà nòng cốt là hội viên Hội Cứu quốc tích cực tham gia các cuộc đấu

tranh chống thuế, chống đi phu, chống trồng thầu dầu. Đơn vị Cứu Quốc quân III

(thành lập tháng 2 - 1944, tại Khuổi Kịch) và một bộ phận Cứu Quốc quân II lấy

Định Hoá làm nơi đứng chân. Từ giữa năm 1944, nhiều cán bộ chỉ huy của

Phân khu B đã lấy Định Hoá làm địa bàn hoạt động, chỉ đạo công việc của

toàn Phân khu.

Thực hiện Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” của Tổng bộ Việt Minh (ngày 7

- 5 - 1944), từ giữa năm 1944, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa ở Định Hoá rất

sôi nổi. Quần chúng cách mạng hăng hái góp tiền, gạo, muối để nuôi cán bộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

21

và chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền; tích cực quyên góp

sắt thép để rèn đúc vũ khí. Các đội tự vệ vũ trang Bãi Hội, Bãi Lệnh, Khuôn

Nhà được thành lập. Dưới sự huấn luyện của Cứu Quốc quân, các chiến sĩ tự

vệ tích cực luyện tập quân sự và đây là lực lượng xung kích của địa phương

trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền sau này.

Trước sự lớn mạnh phong trào cách mạng, vấn đề cung cấp cán bộ lãnh

đạo đã trở thành một yêu cầu cấp bách. Vì vậy, Trung ương Đảng chủ trương

tổ chức cho cán bộ, đảng viên đang bị giam cầm trong các nhà tù đế quốc

vượt ngục, nhanh chóng trở về hoạt động và đẩy mạnh phong trào cách mạng

ở các địa phương. Được Xứ Uỷ Bắc Kỳ giao nhiệm vụ, Chi bộ nhà tù chợ

Chu phối hợp với Ban chỉ huy Cứu Quốc quân và cơ sở cách mạng ở Định

Hoá đã tổ chức cho 12 cán bộ của Đảng vượt ngục* vào ngày 11 - 10 -1944.

Sau gần 10 ngày luồn rừng, leo núi, 12 đồng chí đã về đến Khuổi Kịch (Sơn

Dương, Tuyên Quang) an toàn. Đây là nguồn cán bộ rất quan trọng của

Đảng tăng cường cho phong trào cách mạng ở nhiều địa phương, trong đó có

huyện Định Hoá. Sang đầu năm 1945, phong trào cách mạng ở Định Hoá

phát triển khá mạnh. Cán bộ và quần chúng cách mạng tích cực chuẩn bị mọi

mặt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Trong thời gian này, nhiều đội tự

vệ vũ trang được thành lập ở các xã Bảo Cường, Phúc Chu, Kim Sơn, Định

Biên Thượng, Định Biên Trung, Định Biên Hạ. Các đội tự vệ được trang bị

súng kíp, súng trường, thường xuyên huấn luyện về quân sự và chính trị, có

thể sẵn sàng đánh địch.

Mai), Tạ Tiến (Tạ Xuân Khu), Ngô ngọc Tín (Nhị Quý), Phạm Ngọc Bổng (Chì), Vũ An

Sinh (vũ Phong), Chu Nhữ (Chu), Nguyễn Quang Lộc (Hoàng Bá Sơn), Nguyễn Củng

(Lê Trung Đình), Nguyễn Cao (Lý), Nguyễn Văn Tý (Trần Tùng) và Trần đình Thìn

(Trần Thế Môn).

* Đó là các đồng chí Nguyễn Văn Khương (Song Hào), Nguyễn Duy Phương (Hiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

22

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, phong trào kháng Nhật cứu nước ở Định

Hoá phát triển mạnh mẽ. Trước tình thế mới của cách mạng, cán bộ lãnh đạo

địa phương cùng với đơn vị Cứu Quốc quân đang hoạt động ở Định Hoá

quyết định phát động quần chúng nhân dân phối hợp với lực lượng vũ trang

tiêu diệt lực lượng quân sự địch, xoá bỏ bộ máy thống trị của địch ở Định

Hoá. Theo phương án tác chiến, ba giờ sáng ngày 26 -3 - 1945, Cứu Quốc

quân và tự vệ chiến đấu của huyện nổ súng tiến công đồn lính khố xanh. Bọn

lính khố xanh vứt vũ khí, hốt hoảng tháo chạy. Quân ta làm chủ châu lỵ. Định

Hoá hoàn toàn giải phóng. Ngày 27 - 3 -1945, Cứu Quốc quân cùng với lực

lượng tự vệ chiến đấu tiến lên Chợ Đồn (Bắc Kạn) chi viện cho huyện bạn

khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ngày 26 - 3 - 1945 đã đập tan bộ máy

thống trị của địch, đem lại quyền tự do cho đồng bào các dân tộc huyện Định

Hoá. Ngày 18 - 4 - 1945, 130 đại biểu của 30 xã và thị trấn thay mặt cho hơn

15 ngàn đồng bào các dân tộc trong huyện họp tại Bản Lác, xã An Lạc để bầu

ra UBND cách mạng lâm thời châu do đồng chí Ma Đình Tương làm Chủ tịch

Từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 năm 1945, hầu hết các huyện thuộc các

tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên đã khởi nghĩa giành chính quyền

thắng lợi, mở ra một vùng giải phóng liên hoàn, rộng lớn giữa núi rừng Việt

Bắc. Lực lượng Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Tổng bộ Việt

Minh từ căn cứ địa Cao Bằng, chuyển dần hoạt động về Bắc Kạn, Thái

Nguyên, lấy Định Hoá làm căn cứ. Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1945, các

đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu Quốc quân đã tập kết

về Định Hoá (gồm 13 đại đội với khoảng 1000 người), sẵn sàng chờ lệnh tiến

về các tỉnh miền xuôi phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa giành chính

quyền. Cùng thời gian này, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đưa

nhiều cán bộ có kinh nghiệm vận động quần chúng về Định Hoá, toả xuống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

23

các xã củng cố chính quyền và các đoàn thể cách mạng, xây dựng lực lượng

tự vệ chiến đấu, động viên nhân dân đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm

cho cách mạng, phối hợp với lực lượng vũ trang xây dựng trận địa sẵn sàng

đánh Nhật, bảo vệ căn cứ, bảo vệ thành quả cách mạng.

Ngày 15 - 5- 1945, tại Định Biên Thượng đã tổ chức trọng thể lễ hợp

nhất Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu Quốc quân thành Việt

Nam Giải phóng quân và ra mắt Bộ chỉ huy Quân Giải phóng. Từ lúc này,

Định Hoá là căn cứ của Tổng bộ Việt Minh, đại bản doanh đầu tiên của Việt

Nam Giải phóng quân.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng bộ Việt Minh và Bộ chỉ huy quân

giải phóng, chính quyền cách mạng và nhân dân Định Hoá khẩn trương, dồn

sức chuẩn bị kháng Nhật, cứu nước. Đầu tháng 5- 1945, Uỷ ban nhân dân

cách mạng lâm thời quyết định thành lập Ban Quân sự từ châu xuống đến các

xã, thành lập trung đội du kích tập trung của châu và tiểu đội du kích của xã.

Các đơn vị vũ trang này được trang bị và huấn luyện sẵn sàng phối hợp với

Quân Giải phóng đánh Nhật. Ban Quân sự châu đã cử nhiều cán bộ quân sự

các xã đi học lớp Quân chính kháng Nhật do Tổng bộ Việt Minh tổ chức tại

bản Quằng, xã Định Biên để sau đó về chỉ huy và huấn luyện quân sự cho du

kích ở các xã. Cùng với công tác quân sự, Mặt trận Việt Minh còn đẩy mạnh

cuộc vận động nhân dân trong huyện thực hiện khẩu hiệu “vườn không nhà

trống”, ủng hộ lương thực, thực phẩm gây quỹ dự trữ nuôi Quân Giải phóng và

tự vệ đánh giặc. Tính đến cuối tháng 5 - 1945, nhân dân trong huyện đã ủng hộ

gần 100 tấn thóc, gạo và hàng ngàn ngày công làm kho lán cất giấu lương thực.

Về phía phát xít Nhật, sau khi tạm thời chiếm giữ được một số vị trí xung

yếu ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, vào trung tuần tháng 5 - 1945 chúng tổ

chức một cuộc tấn công quy mô lớn vào căn cứ của ta. Mục tiêu chủ yếu là

càn quét vây tiêu diệt căn cứ Núi Hồng nằm trên đất 3 huyện Định Hoá, Đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

24

Từ (Thái Nguyên) và Sơn Dương (Tuyên Quang), trong đó Định Hoá làm tâm

điểm, nơi mà chúng coi là căn cứ chính của Việt Minh.

Quân Nhật chia làm 3 mũi tấn công, một cánh quân từ Bắc Kạn qua Chợ

Mới, tấn công vào Định Hoá, một cánh quân từ Tuyên Quang, qua Sơn

Dương, tiến đánh vào chân Núi Hồng, một cánh quân từ Thái Nguyên đến ngã

ba Bờ Đậu, chia làm 2 mũi, một mũi tiến sang Tây Bắc Đại Từ để từ đây đánh

xuyên sang Quảng Nạp, Bình Thành; một mũi ngược lên Km 31 (Quốc lộ 3 ),

hành quân theo đường 38 vào Quán Vuông, Chợ Chu.

Ngày 26 - 5 - 1945, cánh quân Nhật từ Chợ Mới càn vào xã Tân Cương

bị du kích chặn đánh quyết liệt, nhưng do tương quan lực lượng và vũ khí

giữa quân Nhật và quân ta quá lớn, nên cuối cùng Quân Giải phóng và tự vệ

Cứu quốc phải rút. Quân Nhật vào Chợ Chu, chiếm đóng các lô cốt và pháo

đài của quân Pháp để cố thủ. Cùng ngày, cánh quân Nhật từ Thái Nguyên đến

Km 31 phải dừng lại vì mặt đường 38 đi Chợ Chu bị ta phá và dựng nhiều vật

cản, hơn nữa, lại bị lực lượng tự vệ phối hợp với Quân Giải phóng chặn đánh

quyết liệt. Ngày 27 - 5 - 1945, địch buộc phải điều một đơn vị công binh từ

Thái Nguyên kết hợp với bộ binh vừa đánh lấn vừa mở đường tiến vào Chợ

Chu. Quân Giải phóng và lực lượng du kích, tự vệ đã nổ súng chặn đánh địch

quyết liệt ở cầu Tà Ma, Bản Lác, Quán Vuông, đình Bản Then, Phố Ngữ …

gây cho chúng một số thiệt hại. Địch phải co cụm về Chợ Chu cố thủ và hàng

ngày từ đây chúng tổ chức những cuộc hành quân càn quét vào các xã lân cận.

Nhưng mỗi lần ra quân càn quét là mỗi lần quân Nhật phải khiếp đảm bởi

tiếng trống, mõ, tù và nổi lên và lan truyền khắp mọi bản làng trong huyện,

đồng thời lại bị quân và dân ta nổ súng tiêu diệt.

Chiếm giữ thị trấn Chợ Chu được một thời gian, quân Nhật lâm vào tình

trạng khốn đốn. Con đường tiếp tế chi viện từ Thái Nguyên lên huyện Định Hoá

thường xuyên bị quân ta chặn đánh, nhân dân trong huyện nhất loạt thực hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

25

“vườn không, nhà trống” triệt nguồn lương thực. Vì vậy, ngày 8- 8- 1945, Bộ chỉ

huy quân Nhật hạ lệnh cho quân rút khỏi cứ điểm Chợ Chu. Một lực lượng lớn

từ Thái Nguyên được lệnh lên tiếp ứng đồng bọn rút chạy. Từ đó cho đến khi

toàn dân ta Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, phát xít Nhật không dám đánh

vào Định Hoá. Định Hoá hoàn toàn được giải phóng.

Khi cao trào kháng Nhật cứu nước dâng lên khắp toàn quốc, thời cơ cho

nhân dân ta nổi dậy Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Huyện Định Hoá

nằm trong dự định của lãnh tụ Hồ Chí Minh chọn làm nơi Người "dừng chân ở

đây một thời gian để cơ mưu việc lớn". Về sự kiện này, Đại tướng Võ Nguyên

Giáp nhớ lại: "Sau ngày Nhật đảo chính pháp (9- 3- 1945), tôi đã cùng đội Việt

Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến về Chợ Chu (Định Hoá- Thái Nguyên)

và thống nhất hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với đội Quân cứu

quốc thành Việt nam quân giải phóng tại Định Biên Thượng (Định Hoá). Tiếp

đó, tôi nhận được chỉ thị của Bác Hồ bố trí cho Bác về làm việc ở Chợ Chu. Tôi

bàn với hai anh Tấn và Song Hào đề nghị Bác chọn Tân Trào, vì Chợ Chu tuy cơ

sở chính trị, kinh tế đều tốt nhưng có đường thông thương với Thái Nguyên dễ bị

uy hiếp; còn Tân Trào, dân cư thưa thớt, kinh tế khó khăn nhưng địa thế hiểm trở

hơn. Châu Sơn Dương còn cách tỉnh lỵ Tuyên Quang bởi con sông Lô, tiện bảo

vệ" [10, tr.9]. Ngày 21- 5 -1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) về

đến Tân Trào, Sơn Dương để lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam.

Tại Tân Trào, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định thành

lập Khu giải phóng ngày 4 - 6 - 1945. Trung tâm Khu giải phóng trong những

ngày tháng đầu là 3 huyện Định Hoá, Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên) và Tân Trào

(huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang). Đến cuối tháng 7 đầu tháng 8, mọi cơ

quan đầu não của cách mạng dồn về Tân Trào. Huyện Định Hoá là nơi đảm

bảo hậu cần chủ yếu và trực tiếp cho Thủ đô cách mạng. Tính đến đầu tháng 8

năm 1945, nhân dân Định Hoá đã ủng hộ và chuyển sang Tân Trào hơn 100

tấn thóc, gạo, 100 con trâu bò, hơn 100 con lợn, hàng tạ muối.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

26

Là cửa ngõ phía đông nam Thủ đô cách mạng, Định Hoá còn làm tròn

nhiệm vụ che chắn, bảo vệ an toàn khu vực trung tâm Khu giải phóng, bảo vệ

lãnh tụ Hồ Chí Minh, bảo vệ cán bộ và các đại biểu tham dự Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc và Đại hội quốc dân được tổ chức tại Tân Trào*.

Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cơ sở và phong trào cách

mạng ở Định Hoá phát triển mạnh mẽ. Đảng bộ huyện được xây dựng và

củng cố vững mạnh, đáp ứng nhu cầu lịch sử của thời kỳ “kháng chiến kiến

quốc” ở địa phương. Các tổ chức đoàn thể phát triển rộng rãi, thu hút đông

đảo mọi tầng lớp nhân dân Định Hoá đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính

quyền cách mạng. Phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để kháng chiến, kiến quốc được đẩy mạnh trong toàn huyện và thu được nhiều kết quả. Sản xuất nông nghiệp của huyện nhanh chóng được khôi phục, giải

quyết được nạn đói, nhân dân có điều kiện giúp đỡ đồng bào đói nghèo từ các

tỉnh đồng bằng Bắc Bộ phiêu dạt lên ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, cuộc

vận động xoá nạn mù chữ phát triển sôi nổi, hàng ngàn người dân được thoát

nạn mù chữ, lạc hậu, có điều kiện tham gia xây dựng bảo vệ chế độ mới. Lực

lượng vũ trang địa phương được xây dựng và phát triển vững mạnh. Trình độ

chính trị, tổ chức, kỉ luật chiến đấu và trang bị của bộ đội địa phương, dân

quân, du kích trong huyện được nâng lên rõ rệt, có thể đảm nhận được nhiệm

vụ cách mạng trong thời kì mới.

nguy kịch. Các đồng chí Trung ương và Tổng bộ Việt Minh cử người đi tìm thuốc chữa

bệnh cho Bác. Được biết cách mạng cần có hai con sâm để chữa bệnh cho cán bộ thượng

cấp, ông Ma Đình Tập (xã Thanh Định) ủng hộ 1,5 con sâm và ông Bang Dương (Chợ

Chu) ủng hộ nửa con. Tấm lòng của bà con các dân tộc Định Hoá đã góp phần phục hồi

sức khoẻ của Bác, nhờ đó Người đã chủ trì được Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng và

Đại hội quốc dân.

* Cuối tháng 7 - 1945, Bác Hồ lâm bệnh nặng, tình trạng sức khoẻ của Người ngày càng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

27

1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ

Trong những tháng đầu sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công,

tình hình mọi mặt ở nước ta hết sức phức tạp. Không những phải lo giải

quyết muôn vàn khó khăn về kinh tế, văn hoá…, nhân dân ta còn phải đối

phó với mọi hành động chống phá quyết liệt của các thế lực ngoại xâm và

nội phản. Thực dân Pháp đã bám theo gót quân Anh trở lại Nam Bộ với ý đồ

đặt lại nền thống trị thực dân kiểu cũ trên toàn bộ bán đảo Đông Dương. Ở

chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, quân Pháp liên tục tiến công chiếm

đóng vùng giải phóng.

Ngay sau ngày kí Hiệp định sơ bộ (6- 3) và Tạm ước (14- 9- 1946), với

bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân Pháp đẩy mạnh các hoạt động khiêu

khích, xâm lược. Trước tình hình đó, ngày 19- 10- 1946, Hội nghị quân sự

toàn quốc được triệu tập dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh.

Hội nghị nhận định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng

nhất định đánh Pháp” [55, tr.64]. Ban Thường vụ Trung ương Đảng tập trung

chỉ đạo cả nước chuẩn bị bước vào chiến tranh. Ngày 19 - 12 - 1946, hưởng

ứng Lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh

quân và dân cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Đối tượng tác chiến của quân và dân ta là một đội quân viễn chinh nhà

nghề giàu kinh nghiệm đi xâm lược, được trang bị vũ khí hiện đại. Nước Pháp

là một cường quốc tư bản, có nền công nghiệp phát triển, nên tiềm lực kinh tế

và quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Ngược lại, nước ta là một nước nông

nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế và quân sự còn nhỏ yếu, sức dự trự kháng

chiến rất mỏng manh; lực lượng vũ trang chưa được rèn luyện trong chiến đấu

nên trình độ kĩ thuật, chiến thuật thấp kém, trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu

thốn… Trong điều kiện so sánh lực lượng vật chất hết sức chênh lệch giữa ta

và địch, muốn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, chúng ta không thể “đem

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

28

toàn lực dốc vào một vài trận hòng phân thắng bại” [59, tr.293], mà phải có

thời gian để chuyển hoá lực lượng, tức là phải kháng chiến lâu dài.

Điều kiện cơ bản để kháng chiến lâu dài là phải bảo toàn và phát triển lực

lượng kháng chiến, đồng thời phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc,

an toàn, không chỉ có địa hình thuận lợi, mà phải có cơ sở và phong trào quần

chúng vững mạnh. Vùng núi rừng Việt Bắc nói chung và huyện Định Hoá nói

riêng là nơi có đầy đủ các yếu tố " địa lợi" và " nhân hoà", đảm bảo cho việc đặt

các cơ quan đầu não để lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn quốc đi tới thắng lợi.

Vì vậy, ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trên cơ sở dự

đoán chính xác chiều hướng phát triển của tình hình và khẳng định sớm hay

muộn thực dân Pháp sẽ quay lại đánh chiếm nước ta một lần nữa, Trung ương

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần phải củng cố cái nôi của cách

mạng là căn cứ địa Việt Bắc. Đồng chí Phạm Văn Đồng và một số cán bộ khác

được phân công ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa. Đến cuối

tháng 10- 1946, khi nguy cơ chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ngày

càng tới gần, Trưởng ban Tài chính Trung ương Đảng Nguyễn Lương Bằng

được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa

kháng chiến. Một số địa điểm thuộc huyện Định Hoá (Thái Nguyên), Nam

Chợ Đồn (Bắc Kạn) được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung

ương Đảng, Chính phủ trong trường hợp phải rút khỏi Hà Nội.

Đầu tháng 11 - 1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết

định thành lập Đội công tác đặc biệt gồm đại biểu các ngành quân sự, an ninh,

chính quyền, đoàn thể…. do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách để làm

nhiệm vụ nghiên cứu đường di chuyển và chọn địa điểm an toàn đặt các cơ

quan Trung ương trong trường hợp xảy ra chiến tranh.

Giữa tháng 12 - 1946, một số cán bộ trong Đội công tác đặc biệt lần lượt

lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ. Sau một thời gian nghiên cứu tình hình cụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

29

thể, cân nhắc kỹ lưỡng về mọi mặt, Đội công tác đặc biệt đã chọn địa bàn giáp

ranh ba tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn làm nơi xây dựng An toàn

khu (ATK) của Trung ương. An toàn khu trong căn cứ địa kháng chiến Việt

Bắc là nơi ở và làm việc của các cơ quan đầu não kháng chiến, của Chủ tịch

Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, Chính phủ,

Mặt trận và Quân đội. Định Hoá là một trong những địa phương được đảm

nhận nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang này.

Nhận được chỉ thị của Trung ương, Tỉnh uỷ Thái Nguyên cử nhiều cán

bộ về huyện Định Hoá, cùng với cán bộ địa phương xuống các xã động viên,

tổ chức toàn dân trong huyện quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng. Các

đội công tác của Trung ương, của tỉnh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục,

bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp trong nhân dân để xây dựng mối quan hệ gắn bó

giữa nhân dân với cán bộ, bộ đội như cá với nước, giáo dục nhân dân địa

phương nêu cao cảnh giác, giữ gìn bí mật, kịp thời phát hiện bọn gián điệp lọt

vào căn cứ.

Trong khi các đội xây dựng ATK và các tổ công tác của tỉnh triển khai

công tác vận động quần chúng thì một bộ phận được tăng cường về các xã

phía Nam và Tây Nam huyện: Trung Lương, Sơn Phú, Bình Thành, Phú

Đình, Điềm Mặc, Đồng Thịnh, Định Biên, Bảo Linh xây dựng đại bản doanh.

Cuối năm 1946, đầu năm 1947, các cơ quan Trung ương rời khỏi Hà Nội,

chuyển dần về phía Tây Nam, thuộc địa phận tỉnh Hà Đông, Sơn Tây. Phần

lớn các cơ quan, cơ sở hậu cần quân đội được chuyển ra vùng ven các thành

phố, thị xã rồi chuyển dần lên Việt Bắc.

Các cán bộ cao cấp của Đảng, Chính phủ, quân đội: Trường Chinh, Tôn

Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Võ

Nguyên Giáp... lần lượt lên ATK. Nhiều nhân sĩ, trí thức, các đại biểu Quốc hội,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

30

thành viên của Chính phủ, các nhà khoa học… theo lời kêu gọi cứu nước thiêng

liêng của Hồ Chủ tịch, vượt núi, trèo đèo lên căn cứ phục vụ kháng chiến.

Đầu năm 1947, hầu hết các cơ quan Trung ương, Chính phủ, Mặt trận,

Bộ Quốc phòng, các cơ quan kinh tế, văn hoá, giáo dục… đều có mặt tại căn

cứ địa Việt Bắc - ATK.

Nà Mọn (Phú Đình), Phụng Hiển (Điểm Mặc)…. là những nơi ở và làm

việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Tổng Bí thư Trường Chinh. Thẩm

Khảm, Thẩm Giạc (Phú Đình) là nơi ở và làm việc của Chính phủ và Phó Thủ

tướng Phạm Văn Đồng. Bộ Quốc Phòng- Tổng chỉ huy và Đại tướng Võ

Nguyên Giáp đã từng ở và làm việc tại xóm Bảo Biên (Bảo Linh), Bản Piềng

(Yên Thông), Phú Đình, Quy Kỳ, Bình Yên, Quảng Nạp. Bộ Tổng tham mưu

đóng tại Đồng Đau (Định Biên), bản Quyên (Điềm Mặc), Yên Thông, Phú

Đình, Thanh Định. Ban Kiểm tra Trung ương đặt tại Phụng Hiển (Thanh

Định)… Xưởng Quân giới được xây dựng ở Trung Lương, Định Biên, Đồng

Thịnh. Trường Nguyễn Ái Quốc ở Bình Thành, Báo Sự Thật ở Bảo Cường. Tất

cả 24 xã của huyện Định Hoá đều có các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính

phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, cơ quan báo chí, ngoại giao đoàn,

các xưởng chế tạo vũ khí, nhà máy in tiền, các kho dự trữ vật tư chiến lược…

Ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ

Chí Minh chuyển về phía Tây Nam Hà Nội. Trên đường di chuyển lên ATK,

mờ sáng ngày 4 - 3 - 1947, Người rời Sơn Tây, qua bến đò Trung Hà sang đất

Phú Thọ. Cùng đi với Người có 8 cán bộ, vừa làm cảnh vệ, vừa làm liên lạc

và cấp dưỡng. Từ ngày 2 - 4 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tại làng Xảo (xã

Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang). Đêm ngày 11 - 5 - 1947,

Chủ tịch Hồ Chí Minh có cuộc tiếp xúc với Pôn Muýt - đặc phái viên của Cao

uỷ Bôlae tại một địa điểm trong thị xã Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

31

Sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt tại thị xã Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí

Minh trở lại Sơn Dương (Tuyên Quang). Một thời gian ngắn sau đó, tối ngày

19 - 5 - 1947 từ làng Xảo (Sơn Dương, Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh

cùng các cán bộ cảnh vệ, giúp việc sang AKT Định Hoá. Ngày 20 - 5 - 1947,

Người đến ở và làm việc tại đồi Khau Tý, thôn Điềm Mặc (nay là xã Điềm

Mặc). Để giữ bí mật, từ năm 1947 đến 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường

xuyên thay đổi nơi ở và làm việc trong các ATK Trung ương ở Định Hoá,

Sơn Dương, Yên Sơn, Chợ Đồn. Song, phần lớn trong khoảng thời gian ấy

Người làm việc tại Định Hoá. Riêng tại Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh

từng ở và làm việc tại xã Điềm Mặc từ ngày 20 - 5 đến 11 - 10 - 1947, Khuôn

Tát (xã Phú Đình) từ ngày 20 - 11 - 1947 đến 28 - 11 - 1947, Nà Lọm (xã Phú

Đình) từ ngày 7 - 3 đến 12 - 9 - 1948 và cuối năm 1951, bản Pèo (xã Phú

Đình) từ ngày 12 - 5 đến 1 - 6 - 1949.

Tóm lại, với vị trí chiến lược rất cơ động, có địa thế hiểm yếu, nhân dân giàu truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, cơ sở cách mạng vững chắc, huyện Định Hoá có đầy đủ các điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi cho các cơ quan chỉ huy tối cao đặt đại bản doanh để lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc trong cả nước.

Từ tháng 3 - 1947, Định Hoá (Thái Nguyên) đã trở thành một trong những ATK Trung ương quan trọng trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, là địa bàn tập trung các cơ quan đầu não quan trọng nhất. Sự hình thành ATK Trung ương ở Việt Bắc nói chung, Định Hoá (Thái Nguyên) nói riêng là một trong những bước chuẩn bị quan trọng có ý nghĩa quyết định cho Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kiên trì kháng chiến chống thực dân Pháp đi tới thắng lợi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

32

Chƣơng 2

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC

2.1. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ

2.1.1. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh

Sau khi thành lập, vấn đề xây dựng và bảo vệ ATK được đặt thành một

yêu cầu bức thiết. Một trong những nội dung quan trọng nhất để đảm bảo cho

sự tồn tại vững chắc của ATK là phải quan tâm xây dựng hệ thống chính trị

vững mạnh, trước hết là xây dựng và phát triển tổ chức Đảng ở huyện.

Đảng bộ Định Hoá ra đời tháng 6 - 1946, trưởng thành ngay trong những

năm tháng cùng toàn dân chuẩn bị kháng chiến và luôn nỗ lực vươn lên để

đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Huyện uỷ chú trọng

lãnh đạo xây dựng chi bộ cơ sở và phát triển đội ngũ đảng viên. Ngày 6- 12-

1946, Huyện uỷ tổ chức thành lập Chi bộ phố Chợ Chu, gồm 3 đảng viên

chính thức do đồng chí Nguyễn Thục Quế làm Bí thư. Ngay sau khi thành lập,

Chi bộ phố Chợ Chu đã tổ chức kết nạp 13 quần chúng ưu tú vào Đảng, nâng

tổng số đảng viên của Chi bộ lên 16 người. Tiếp theo, ngày 25- 12- 1946, với

việc tổ chức kết nạp 4 quần chúng ưu tú vào Đảng, Chi bộ dự bị xã Thanh

Định được thành lập, do đồng chí Ma Khắc Lượng làm Bí thư.

Để công tác phát triển tổ chức Đảng thu được kết quả tốt thì việc tuyên

truyền về Đảng trong quần chúng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Các đảng

viên trong Đảng bộ huyện kết hợp công tác tuyên truyền với hành động

gương mẫu của mình để giác ngộ, tập hợp quần chúng. Nhờ đó, chỉ trong một

thời gian ngắn, nhiều quần chúng ưu tú được các chi bộ kết nạp vào Đảng.

Ngày 28 - 7 - 1947, tại Định Hoá, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra

bản Chỉ thị về tổ chức kết nạp đảng viên "Lớp tháng Tám” nhằm tăng cường

nhanh chóng đội ngũ của Đảng, đồng thời cũng là đợt sinh hoạt chính trị kỷ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

niệm lần thứ hai ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Theo Chỉ thị, đợt

kết nạp đảng viên “Lớp tháng Tám”, được tiến hành từ ngày 19/8 đến ngày 2 -

9 - 1947.

Thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đến tháng 9

năm 1947, số đảng viên của Đảng bộ Định Hoá đã tăng hơn hai lần so với

cuối năm 1946. Đội ngũ đảng viên được tăng cường, hệ thống tổ chức cơ sở

Đảng được củng cố và kiện toàn một bước, góp phần thúc đẩy mọi mặt hoạt

động ở địa phương.

Tuy nhiên, do còn ít kinh nghiệm, trình độ đảng viên hạn chế nhiều mặt,

nên trong quá trình tiến hành công tác phát triển Đảng, một số chi bộ đã mắc

phải thiếu sót. Đó là tình trạng chạy theo số lượng để đạt chỉ tiêu mà chưa coi

trọng đúng mức chất lượng, chưa chú ý đến công tác giáo dục, bồi dưỡng,

kiểm tra. Điều này đã ảnh hưởng không tốt đến uy tín, năng lực lãnh đạo của

Đảng bộ huyện.

Để khắc phục những thiếu sót trên, được sự giúp đỡ của các cơ quan

Trung ương đóng tại địa phương, trực tiếp là cán bộ biệt phái bên cạnh cấp

uỷ, Đảng bộ Định Hoá mở Hội nghị bàn về công tác phát triển Đảng. Hội

nghị đã kiểm điểm nghiêm túc những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác

phát triển Đảng và đề ra những chủ trương đúng đắn theo phương châm

“trọng chất lượng hơn số lượng”. Trong khi tích cực kết nạp những quần

chúng thực sự ưu tú vào Đảng, Huyện uỷ kiên quyết xử lý những đảng viên

thoái hoá, biến chất, chú trọng công tác củng cố tổ chức cơ sở Đảng, đặc biệt

ở những xã vùng cao, vùng sâu, những xã phong trào chưa mạnh.

Được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, đầu năm 1948, Ban chấp hành

Đảng bộ huyện Định Hoá nhanh chóng kiện toàn Ban Tuyên huấn, Ban Đảng

vụ; thành lập các Ban Thanh tra, Dân vận, Kinh tế - Tài chính. Huyện uỷ còn

đề ra mục tiêu phấn đấu cho toàn Đảng bộ là mỗi xã phải xây dựng một chi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

34

bộ, mỗi xóm có một tổ Đảng; phải củng cố vững chắc các xã vững mạnh, thực

sự trong sạch để xứng đáng là khu an toàn của Trung ương.

Để đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Đảng từ huyện xuống cơ sở,

Đảng bộ tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ dân tộc ít

người. Nhiều cán bộ được theo học các lớp chính trị, nghiệp vụ, văn hoá ở các

trường do Khu và Trung ương tổ chức. Nhờ đó, trình độ lý luận và phương

pháp công tác của cán bộ cơ sở từng bước được nâng lên.

Cuối năm 1949, đầu năm 1950, công tác phát triển Đảng ở Định Hoá có

những chuyển biến tích cực. Nhiều quần chúng ưu tú, xuất thân từ thành phần

cơ bản, có thành tích trong chiến đấu, sản xuất và công tác đã được các chi bộ

bồi dưỡng, kết nạp. Hầu hết các chi bộ, các Ban chi uỷ được kiện toàn, củng

cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, đại đa số đảng viên nêu cao tính tiên phong

gương mẫu, lăn lộn với phong trào quần chúng.

Từ sau chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950, cục diện chiến trường

thay đổi có lợi cho ta. Quân đội ta đã giành được quyền chủ động về chiến

lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ). Biên giới Việt - Trung được khai

thông. Các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ thế giới ủng hộ mạnh

mẽ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trong bối cảnh lịch sử đó, Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (2 - 1951) được tổ chức tại xã Vinh Quang

(huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang). Đại hội đã thông qua những nghị

quyết quan trọng, có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến trong cả nước

nhanh chóng đi đến thắng lợi. Những sự kiện quan trọng trên đã có ảnh hưởng

trực tiếp đến hoạt động mọi mặt của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong

ATK Định Hoá.

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của

Đảng, Đảng bộ huyện Định Hoá tiến hành tổ chức Đại hội các cấp, vạch rõ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

35

nhiệm vụ của huyện trong sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc nói chung và

trong công tác xây dựng, bảo vệ ATK nói riêng. Công tác giáo dục chính trị

tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng được tăng cường. Việc học tập

lí luận được tiến hành đều đặn, nội dung học tập là đường lối cách mạng và

kháng chiến trong giai đoạn mới, nguyên tắc xây dựng Đảng, huấn thị của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, chính sách ruộng đất. Ngoài các

đợt sinh hoạt chính trị, các buổi học tập, thảo luận trong và ngoài Đảng nhằm

nâng cao giác ngộ chính trị cho đảng viên và quần chúng, các cấp uỷ Đảng

còn chăm lo xây dựng và phát huy vai trò, chức năng của Ban Thông tin -

Văn hoá của huyện. Đa số Ban Thông tin - Văn hoá đều do đảng viên phụ

trách. Các buổi phát thanh lưu động, phát thanh buổi tối, các buổi nói chuyện

về tình hình thời sự trong nước và thế giới được tổ chức thường xuyên, góp

phần quan trọng vào việc tuyên truyền chủ trương, đường lối kháng chiến của

Đảng và Chính phủ. Thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục, cán bộ,

đảng viên và nhân dân các dân tộc trong huyện càng hiểu rõ hơn trách nhiệm

và vinh dự của mình trong việc xây dựng và bảo vệ ATK Trung ương.

Có thể nói, trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,

công tác xây dựng và phát triển Đảng ở Định Hoá được triển khai mạnh mẽ

và thu được nhiều kết quả. Đầu năm 1954, toàn Đảng bộ có 24 chi bộ, bao

gồm 670 đảng viên. Tổ chức Đảng trong huyện được củng cố, xây dựng ngày

càng lớn mạnh.

Một trong những vấn đề hết sức quan trọng để tạo ra cơ sở chính trị

vững mạnh ở địa phương, bảo đảm cho sự tồn tại của ATK, đó là củng cố,

kiện toàn bộ máy chính quyền và đoàn thể cách mạng.

Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực hiện chủ trương của

Trung ương, Đảng bộ đã lãnh đạo việc chuyển Uỷ ban bảo vệ thành Uỷ ban

kháng chiến, đồng thời tập trung chỉ đạo củng cố và kiện toàn Uỷ ban hành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

36

chính các cấp. Những cán bộ, đảng viên có năng lực và phẩm chất, tư cách

được giao trọng trách trong bộ máy chính quyền.

Cuối năm 1947, Đảng bộ huyện Định Hoá đã chú trọng chỉ đạo nhanh

chóng việc hợp nhất Uỷ ban hành chính và Uỷ ban kháng chiến thành Uỷ ban

kháng chiến - hành chính. Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp trong

huyện được tổ chức đúng nhiệm kỳ, tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của

nhân dân các dân tộc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền và

đoàn thể được quan tâm đúng mức. Hàng năm, cán bộ từ xã đến huyện, đều

được cử theo các lớp huấn luyện chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ do tỉnh và

Liên khu Việt Bắc tổ chức.

Cùng với việc tăng cường cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng nâng cao

năng lực, trình độ công tác, Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện

Định Hoá chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng xã điển hình để cán bộ các xã

đến học tập , rút kinh nghiệm. Năm 1950, huyện chọn xã Phượng Tiến để xây

dựng xã kiểu mẫu với các mục tiêu: Đoàn kết chặt chẽ; Bộ máy kháng chiến

hành chính giỏi; Lực lượng dân quân , du kích mạnh; Có trường học cao ráo;

Bỏ được nhiều tục lệ xấu; có phong trào sản xuất tốt và triệt để bài trừ nạn mù

chữ…Từ kết quả thí điểm xây dựng cấp xã ở Phượng Tiến, Huyện uỷ, Uỷ ban

kháng chiến hành chính huyện Định Hoá tổ chức cho cán bộ các xã trong

huyện đến học tập, rút kinh nghiêm, nhân rộng ra toàn huyện.

Trong quá trình xây dựng và phát triển cơ sở Đảng, củng cố và kiện toàn

bộ máy chính quyền, đoàn thể quần chúng, cũng như các địa phương khác

trong ATK, huyện Định Hoá luôn luôn nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của

Tỉnh uỷ, Khu uỷ và sự giúp đỡ to lớn của các cơ quan Trung ương. Việc dìu

dắt Đảng bộ và chính quyền địa phương thuộc ATK nói chung và Định Hoá

nói riêng được coi là một nhiệm vụ của các cơ quan Trung ương. “Chủ tịch

Hồ Chí Minh chỉ thị cho Ban căn cứ địa Trung ương cử cán bộ có năng lực,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

37

có trách nhiệm phối hợp với cấp uỷ địa phương giải quyết những công việc

hàng ngày có liên quan đến khu căn cứ. Trung ương Đảng cũng chỉ thị cho

các cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị bộ đội đóng quân ở xã nào, phải cử cán bộ,

giúp đỡ xã đó xây dựng phong trào, củng cố cơ sở. Một số cán bộ lãnh đạo

trong các cơ quan Đảng và Chính phủ, dù bận rộn công tác chuyên môn, vẫn

bố trí thời gian tham dự các cuộc hội nghị xã hội, huyện bộ ở địa phương giải

quyết được nhiều việc khó” [37, tr.361].

Được sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan Trung ương, cùng với sự vững

mạnh của chính quyền địa phương, các tổ chức quần chúng ở Định Hoá ngày

càng thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động của kháng

chiến. Mối quan hệ giữa các cơ quan Trung ương với đồng bào các dân tộc

huyện Định Hoá ngày càng gắn bó.

2.1.2. Xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp, tự túc

Khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nền kinh tế nước

ta vốn nghèo nàn lạc hậu do chế độ cũ để lại, lại bị địch tăng cường phá hoại

bằng nhiều thủ đoạn, song nhu cầu kháng chiến ngày càng lớn nên mặt trận

kinh tế cũng không kém phần quyết liệt.

Việt Bắc - căn cứ địa kháng chiến của cả nước nằm trong sự bao vây,

phong toả của địch, sự thông thương giữa Việt Bắc với các vùng tự do khác

hết sức khó khăn, vấn đề xây dựng nền kinh tế tự cấp tự túc là một nội dung

cơ bản đối với việc xây dựng căn cứ địa.

Nằm trong tình trạng chung của căn cứ địa Việt Bắc, kinh tế vùng ATK

Định Hoá cũng gặp nhiều khó khăn. Là một địa phương miền núi, kinh tế kém

phát triển, mang nặng tính tự túc tự cấp, sản xuất nông nghiệp là ngành kinh

tế chủ đạo nhưng ruộng đất canh tác ít, lại phân tán, manh mún và lệ thuộc

nhiều vào tự nhiên nên năng suất thấp, sản xuất không ổn định. Trận lũ năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

38

1947 và năm 1950 đã gây thiệt hại nặng nề trong huyện. Đặc biệt trận mưa lũ

năm 1953 đã phá huỷ phần lớn hệ thống mương phai trong toàn huyện Định

Hoá. Đập nước Tân Dương, công trình thuỷ lợi duy nhất của huyện cũng bị

phá huỷ gần như hoàn toàn. Sau trận mưa lũ là hạn hán kéo dài, làm cho hàng

trăm mẫu lúa và hoa màu bị thất thu.

Bên cạnh thiên tai, sự tàn phá của địch gây thiệt hại rất lớn. Trong cuộc

tấn công vào căn cứ địa Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, giặc Pháp càn quét

vào huyện Định Hoá. Hàng trăm mẫu lúa bị địch tàn phá, hơn 100 con trâu bị

bắn chết. Trong những năm sau, giặc Pháp cho máy bay phá hoại hệ thống thuỷ

nông, bắn giết trâu bò, càng làm cho sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.

Nhiệm vụ của nhân dân các dân tộc Định Hoá là phải nỗ lực xây dựng

một nền kinh tế có khả năng tự cấp tự túc, vừa đáp ứng những nhu cầu thiết

yếu của cuộc kháng chiến, vừa từng bước đảm bảo đời sống của nhân dân,

của cán bộ và quân đội, vừa phải đấu tranh chống lại sự phá hoại của địch.

Trong hoàn cảnh đó, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong huyện thực hiện

chương trình “Kinh tế tự túc”. Ban Canh nông, Thuỷ nông huyện tổ chức,

hướng dẫn nhân dân khai hoang, phục hoá, làm thêm hệ thống mương phai,

đắp đập. Ban Tín dụng có chính sách hỗ trợ sản xuất cho nông dân nghèo vay

vốn sản xuất. Năm 1948, quỹ tín dụng cho vay 40.000 đồng; năm 1950 là

1.669.850 đồng, nhờ đó nông dân trong huyện có thể mua trâu, bò, nông cụ để

phát triển sản xuất.

Nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, khuyến khích nhân dân đẩy mạnh

sản xuất, nhiều địa phương trong ATK tích cực thực hiện chính sách giảm tô,

chính sách thuế nông nông nghiệp do Đảng và Chính phủ đề ra.

Cùng với việc thực hiện tốt chính sách khuyến khích sản xuất nông

nghiệp, Đảng bộ và chính quyền Định Hoá đã chú ý đến việc chỉ đạo, tổ chức

sản xuất. Phong trào đổi công và thí điểm mô hình hợp tác xã được triển khai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

39

trong huyện. Năm 1949, đầu năm 1950 toàn huyện đã có 100 tổ đổi công,

năm 1953 lên tới 605 tổ.

Để khắc phục hậu quả do giặc Pháp tàn phá, đồng thời hưởng ứng phong

trào “Thi đua yêu nước”, Huyện uỷ và Uỷ ban kháng chiến - hành chính cử

nhiều cán bộ, đảng viên có năng lực xuống cơ sở trực tiếp chỉ đạo phong trào

tăng gia sản xuất, vận động nhân dân thi đua sản xuất. Nhờ sự cố gắng vượt

bậc của nhân dân, trong hai năm 1948, 1949 Định Hoá được mùa, số gia đình

thiếu đói giảm hẳn, khối lượng lương thực cung cấp cho cơ quan, bộ đội ở

ATK cũng tăng dần lên.

Nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng

chiến, với khẩu hiệu “Toàn dân canh tác”, Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến

hành chính huyện đã vận động nhân dân, nhân viên các cơ quan, các đơn vị

bộ đội đóng trên địa bàn huyện tích cực tham gia phong trào thi đua sản xuất.

Chưa kể số diện tích do các cơ quan, đơn vị bộ đội tự túc gieo trồng, riêng bà

con nông dân huyện Định Hoá đã cấy được 11.901 mẫu lúa, trên 2000 mẫu

hoa mầu. Kết quả sau một năm thi đua “Toàn dân canh tác”, nhân dân trong

huyện đã thu được 5.668 tấn thóc và hơn 476 tấn màu.

Từ năm 1952 đến năm 1954, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá tiếp

tục tham gia phong trào thi đua sản xuất rất sôi nổi. Hàng ngàn nông dân tích

cực làm thủy lợi, đào mới và sửa chữa hệ thống mương phai chủ động nguồn

nước cho sản xuất; cải tiến kĩ thuật; tổ chức chống hạn; khắc phục hậu quả lũ

lụt. Nhờ đó mà diện tích gieo cấy trong toàn huyện được mở rộng.

Huyện Định Hoá có thế mạnh về chăn nuôi.Trong những năm kháng

chiến chống Pháp, được sự giúp đỡ của tỉnh về giống, vốn, ngành chăn nuôi

của huyện đã có bước phát triển khá. Nhờ đó, Định Hoá đã giải quyết vấn đề

sức kéo cho nông nghiệp và cung cấp thực phẩm cho các cơ quan Trung

ương. Cuối năm 1950, toàn huyện Định Hoá có trên 6.650 con trâu bò, 2.000

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

40

con dê và ngựa, 7.000 con lợn và 44.000 con gà, vịt… [24, tr.49]. Nhờ đó,

nông dân đã đủ sức kéo, đủ nhu cầu thực phẩm và còn cung cấp mỗi năm

hàng trăm tấn thực phẩm cho các cơ quan Trung ương và quân đội đóng trên

địa bàn.

Chính quyền và đoàn thể các cấp trong huyện còn tích cực vận động

nhân dân khai thác lâm, thổ sản để trao đổi hàng hoá hoặc bán cho mậu dịch

quốc doanh. Năm 1953, giá trị lâm sản thu được là 1.694.000 đồng. Tuy chưa

phải là lớn, nhưng kết quả này vừa tăng thu nhập cho nhân dân, vừa góp phần

bổ sung ngân sách cho huyện.

Trong khi tiến hành lãnh đạo nhân dân khôi phục và phát triển kinh tế,

các cấp Đảng bộ và chính quyền trong huyện đã tích cực vận động đồng bào

các dân tộc Dao và Cao Lan - Sán Chí bỏ cuộc sống du canh, du cư xuống định

canh, định cư ở vùng thấp làm ruộng nước. Vào những năm cuối của cuộc

kháng chiến, hầu hết các gia đình vùng cao đã chuyển xuống vùng thấp định

canh định cư, có ruộng cày cấy, đời sống từng bước được cải thiện. Đây là một

thành công lớn của Đảng bộ, chính quyền các cấp huyện Định Hoá trong việc

tổ chức, lãnh đạo đồng bào các dân tộc thực hiện đường lối xây dựng, phát

triển kinh tế, văn hoá và chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ.

Quán triệt đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” của Đảng, với

trách nhiệm là huyện được Trung ương chọn là ATK, Đảng bộ đã lãnh đạo

nhân dân các dân tộc Định Hoá tập trung mọi cố gắng vào việc phát triển sản

xuất. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và một số ngành công nghiệp,

tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại

của ATK Trung ương.

2.1.3. Đẩy mạnh công tác văn hoá - giáo dục, y tế

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, các cấp Đảng bộ và chính quyền Định

Hoá đã chú trọng phát triển văn hoá, giáo dục, y tế.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

41

Công tác tuyên truyền, văn hoá, văn nghệ được đẩy mạnh. Từ những

ngày đầu cuộc kháng chiến, công tác văn hoá ở Định Hoá chủ yếu nhằm vào

các nội dung là bài trừ mê tín dị đoan, xoá bỏ tệ ma to, cưới lớn và các tập tục

lạc hậu khác, thực hiện nếp sống mới, nam nữ bình quyền. Thời gian sau, theo

chủ trương của cấp trên, công tác văn hoá có thêm nội dung xây dựng xã kiểu

mẫu. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng ATK.

Được sự giúp đỡ, hướng dẫn trực tiếp của các cơ quan Trung ương đóng

trên địa bàn huyện, phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng, thực hiện nếp

sống mới ở Định Hoá diễn ra rất sôi nổi. Những bài ca cách mạng, những bài

hát truyền thống được phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi. Các buổi liên hoan văn

nghệ, các buổi biểu diễn lưu động của các đoàn văn công, các buổi chiếu

bóng có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nếp sống văn hoá mới và cổ vũ

đồng bào các dân tộc Định Hoá hăng hái tham gia kháng chiến.

Công tác thông tin tuyên truyền ở Định Hoá trong những năm kháng

chiến chống Pháp cũng được chú trọng. Hầu hết các xã trong toàn huyện đã

thành lập được Ban Thông tin từ cuối năm 1946. Đến năm 1950, huyện đã có

7 nhà thông tin, 70 chòi phát thanh [24, tr.67]. Ngoài ra còn làm báo địa

phương, báo tường, các bản tin của xóm… đã kịp thời thông báo tin tức của

xã của huyện, của tỉnh, của đất nước, tình hình thời sự quốc tế và tin chiến

thắng của quân, dân ta trên các chiến trường. Thông qua các hình thức tuyên

truyền phong phú đó, nhân dân trong huyện hiểu biết về chủ trương, đường

lối của Đảng và những nhiệm vụ cụ thể của địa phương mình.

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngành giáo dục phổ

thông Định Hoá gặp nhiều khó khăn vì thiếu giáo viên và cơ sở vật chất

nghèo nàn, trường lớp bị tàn phá trong cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc

năm 1947. Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, hoạt động của ngành

giáo dục trong ATK nói chung và huyện Định Hoá nói riêng dần dần được ổn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

42

định. Phong trào bình dân học vụ, tất cả các xóm bản, thu hút cả đồng bào Dao.

Từ sau ngày Cách mạng thành công đến năm 1950, toàn huyện đã có gần 50%

số dân thoát nạn mù chữ [24, tr.59].

Nhằm củng cố và mở rộng phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hoá,

được sự quan tâm giúp đỡ của tỉnh và các cơ quan Trung ương đóng trên địa

bàn Định Hoá, huyện đã mở các lớp bồi dưỡng văn hoá, chuyên môn cho giáo

viên và cử nhiều giáo viên theo học các lớp bồi dưỡng do tỉnh tổ chức. Nhờ

đó, đến năm 1954, đội ngũ giáo viên bổ túc văn hoá và bình dân học vụ ở

huyện vẫn được duy trì khá đông đảo. Số người thoát nạn mù chữ ngày càng

tăng. Số người theo học bình dân học vụ và bổ túc văn hoá ngày càng nhiều.

Có nhiều xã cơ bản thanh toán xong nạn mù chữ ngay từ đầu năm 1954.

Đối với giáo dục phổ thông, chủ trương của Đảng thực hiện nền giáo dục

dân chủ nhân dân, từ bậc tiểu học trở lên thuộc hệ thống Quốc gia giáo dục,

có sự bảo trợ của nhân dân; các trường tư chuyển thành trường công; nội dung

giáo dục thống nhất ở bậc tiểu học.

Từ năm học 1948 - 1949, Định Hoá đã thực hiện có kết quả chủ trương

trên. Công tác bồi dưỡng, đào tạo giáo viên được chú ý. Trên cơ sở đội ngũ

giáo viên được bổ sung, từ năm học 1949 - 1950, huyện đã có điều kiện để

mở thêm trường tiểu học ở những xã trước đây chưa có, vì vậy năm học này

số lượng học sinh tăng gần gấp đôi so với năm học trước.

Năm 1950, huyện Định Hoá đã triển khai công cuộc cải cách giáo dục

nhằm mục đích dân chủ hoá và dân tộc hoá nhà trường để thiết thực phục vụ

giai đoạn cách mạng trước mắt. Một hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất 9

năm được xây dựng, chia thành 3 cấp: cấp 1: 4 năm, cấp 2 : 3 năm , cấp 3 :2

năm. Sách giáo khoa được biên soạn lại theo nội dung dân tộc, dân chủ và

khoa học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

43

Để đảm bảo cho cuộc cải cách giáo dục đạt kết quả tốt, nhiều đợt học tập

chính trị và nghiệp vụ được tổ chức cho giáo viên, giúp họ phân định được

ranh giới giữa nhân dân, dân tộc với đế quốc và phong kiến. Thông qua đó,

những cán bộ làm tốt công tác giáo dục thêm phấn khởi, tin tưởng, ra sức

chỉnh đốn tổ chức, tác phong, cải tiến giảng dạy, biến nhà trường thành công

cụ sắc bén của kháng chiến.

Nhờ có chủ trương cải cách giáo dục, chỉnh huấn cán bộ cũ, đào tạo cán

bộ mới, thi đua giảng dạy, thi đua học tập mà “bộ mặt nhà trường trong kháng

chiến đã thay đổi hẳn. Các trường vừa giảng dạy học tập, vừa tham gia sản

xuất, tuyên truyền đánh giặc, đi dân công" [60, tr.207].

Các cấp bộ Đảng và chính quyền Định Hoá đã đề ra nhiều biện pháp cụ

thể đối với từng cấp học, tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn và

nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên, vận động giáo viên trong toàn huyện thực

hiện phong trào “rèn cán, chỉnh cơ”, đẩy mạnh việc tu sửa và xây dựng

trường, lớp… Nhờ đó giáo dục phổ thông của huyện đã có nhiều tiến bộ đáng

kể. Đến cuối năm 1950, tất cả các xã trong huyện đều có trường cấp I với 80

lớp và 1330 học sinh; huyện đã có trường cấp II (năm đầu mới mở đến lớp 5,

đến năm học 1953 - 1954 mở toàn cấp) [24, tr .63].

Công tác y tế, chăm lo sức khoẻ cho cán bộ và nhân dân cũng được chú

ý. Mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến có nhiều khó khăn, thuốc chữa bệnh,

phương tiện chữa bệnh và đội ngũ thầy thuốc đều thiếu, song mạng lưới cán

bộ y tế được bố trí ở khắp các địa phương trong huyện. Đến năm 1947, cơ

quan y tế huyện được thành lập và có phòng thuốc chữa bệnh cho nhân dân.

Từ năm 1948, các đội tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh đã xuống các cơ sở

hướng dẫn nhân dân thực hiện ăn, ở vệ sinh, phòng ngừa bệnh tật. Năm 1949,

cơ quan y tế huyện đã mở lớp đào tạo cán bộ hộ sinh và vệ sinh viên; tổ chức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

44

các lớp học bồi dưỡng về phương pháp cứu thương, chăm sóc thương binh,

bệnh binh. Phối hợp với các đoàn thể quần chúng, cơ quan y tế đã tổ chức

nhiều cuộc vận động nhân dân thực hiện ăn sạch, ở sạch, uống sạch; làm

chuồng gia súc và công trình vệ sinh xa nhà, diệt ruồi, diệt muỗi với phương

châm “phòng bệnh là chính”.

Để đáp ứng nhu cầu chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ cho cán bộ và nhân

dân, huyện đã lập phòng phát thuốc ở Chợ Chu, đồng thời vận động nhân dân

đóng góp để mỗi xã có một tủ thuốc, mỗi gia đình có một túi thuốc gồm thuốc

chữa bệnh thông thường và bông băng cứu thương.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp tuy gian khổ, phương tiện và điều

kiện chữa bệnh còn rất thiếu thốn, song nhờ những cố gắng của đội ngũ cán

bộ, công tác y tế của huyện thu được nhiều kết quả. Suốt 9 năm kháng chiến,

Định Hoá không để xảy ra nạn dịch nào, bệnh sốt rét và bướu cổ giảm đi

nhiều, đặc biệt đã tạo ra sự chuyển biến về ý thức trong đồng bào các dân tộc,

họ đã từng bước có thói quen biết giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh, biết dùng

thuốc để chữa bệnh.

Những thành tựu đạt được trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - giáo

dục, y tế trong những năm kháng chiến chống Pháp đã làm cho tình hình mọi

mặt của huyện Định Hoá luôn luôn ổn định, xứng đáng là khu vực an toàn của

các cơ quan Trung ương.

2.2. CÔNG TÁC BẢO VỆ AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ

2.2.1. Tổ chức lực lƣợng bảo vệ ATK

Xây dựng và bảo vệ là hai mặt công tác bảo đảm cho sự tồn tại của

ATK. Ra đời và tồn tại giữa vòng vây của kẻ thù, thực dân Pháp luôn tìm mọi

cách tấn công tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, ATK Định Hoá được tổ

chức bảo vệ nghiêm ngặt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

45

Nhằm bảo vệ an toàn cho ATK Định Hoá, các lực lượng bảo vệ được gấp

rút xây dựng và tổ chức hoạt động.

Đầu năm 1947, đồng thời với việc di chuyển các cơ quan Trung ương

đến các địa điểm trong ATK, đơn vị cảnh vệ mang tên Đại đội 15 ra đời, gồm

145 cán bộ và chiến sĩ. Đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương

Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy và nhà in của Bộ Tài chính.

Cán bộ chiến sĩ Đại đội 15 ngay sau khi thành lập, đã khẩn trương xây

dựng lán trại, lập phương án bảo vệ cơ quan, chuẩn bị địa điểm sơ tán dự bị

và xác định đường bí mật từ Định Hoá đi Sơn Dương, Yên Sơn, Đại Từ, Chợ

Đồn… Được sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị bộ đội, dân quân du kích và

nhân dân địa phương, lực lượng cảnh vệ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ

cơ quan lãnh đạo kháng chiến, giữ vững ATK trước sự bao vây, lùng sục của

thực dân Pháp trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến.

Sang năm 1948, lực lượng kháng chiến có bước phát triển mới, các cơ

quan trực thuộc Trung ương được mở rộng, các kho tàng, công xưởng được

mở rộng thêm. Do đó địa bàn, mục tiêu cần được bảo vệ ở ATK Trung ương

nói chung và ATK Định Hoá nói riêng rộng hơn, nhiều hơn. Xuất phát từ thực

tế trên, ngày 30 - 6 - 1948, theo quyết định của Trung ương, Đại đội cảnh vệ

15 được xây dựng thành Trung đoàn 15, gồm hai tiểu đoàn (Tiểu đoàn 9 và

Tiểu đoàn 183).

Tiểu đoàn 9 (nòng cốt là Đại đội 15) có ba đại đội làm nhiệm vụ bảo vệ

các mục tiêu. Đại đội 70 bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ và Mặt

trận. Đại đội 68 bảo vệ cơ quan Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tổng tham mưu. Tiểu

đoàn 183 có ba đại đội, làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác trên tất cả các tuyến

đường chính và đường mòn vào Định Hoá.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

46

Trong quá trình làm nhiệm vụ bảo vệ ATK, Tiểu đoàn 9 đã có dìu dắt,

giúp đỡ lực lượng dân quân du kích Chợ Chu trở thành bộ đội địa phương của

huyện Định Hoá, mang phiên hiệu Đại đội 413. Trong những năm sau này,

Đại đội 413 là một trong những nguồn bổ sung đáng tin cậy của lực lượng bảo

vệ ATK.

Cuộc kháng chiến ngày càng phát triển, yêu cầu nâng cao tính chủ động

bảo vệ an toàn cho cơ quan lãnh đạo cuộc kháng chiến ngày càng cao, đến cuối

năm 1949, Trung đoàn 15 được tổ chức thành Trung đoàn 246. Đến năm 1951,

Trung đoàn được xây dựng hoàn chỉnh và làm thêm nhiệm vụ chiến đấu.

Bên cạnh lực lượng cảnh vệ của Trung ương, Công an tỉnh Thái Nguyên

là một lực lượng bảo vệ có hiệu quả ở khu vực vòng ngoài ATK. Công an tỉnh

kết hợp với công an xã và bộ phận bảo vệ các cơ quan làm công tác bảo mật

phòng gian, xây dựng nội quy đi lại và quản lí chặt chẽ mọi người ra vào khu

vực, nắm chắc các mối quan hệ từ bên trong các cơ quan, xí nghiệp với bên

ngoài và vùng địch tạm chiếm, đề xuất với lãnh đạo và cấp uỷ điều chuyển

những người có quan hệ phức tạp ra khỏi các bộ phận cơ mật, hoặc khéo léo

đưa họ ra ngoài cơ quan, xí nghiệp.

Ngay từ những năm đầu toàn quốc kháng chiến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp

của các cấp bộ Đảng trong tỉnh, được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương,

lực lượng công an đã phát hiện và xử lý kịp thời các tổ chức phản động, bọn

Việt gian, do thám và những phần tử âm mưu chống lại đường lối, chủ trương

của Đảng và Chính phủ, làm vô hiệu hoá mọi âm mưu và hoạt động tình báo,

gián điệp, chỉ điểm phá hoại của kẻ địch.

Từ năm 1949 đến năm 1953, công tác bảo vệ ATK càng được tăng

cường. Công an tỉnh Thái Nguyên đã bố trí các đồn, trạm công an bí mật và

công khai kiểm soát phòng ngừa kẻ gian thâm nhập, kết hợp với lực lượng

thông tin viên (cơ sở tai, mắt) của trinh sát, được xây dựng thành mạng lưới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

47

làm công tác bảo vệ tại chỗ và nắm tình hình hoạt động của địch ở những nơi

cần thiết.

Một lực lượng rất quan trọng làm nhiệm vụ bảo vệ ATK Trung ương

Định Hoá là lực lượng vũ trang địa phương của huyện. Trong thời kì đấu

tranh bảo vệ và củng cố chính quyền, lực lượng vũ trang Định Hoá gồm lực

lượng dân quân và du kích. Dân quân là hình thức tự vệ rộng rãi nhất, mang tính

chất bán vũ trang, vừa sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu và khi cần thiết phối hợp

cùng với du kích chiến đấu. Dân quân được biên chế thành tiểu đội, trung đội và

đại đội. Lực lượng du kích là tự vệ võ trang ở cơ sở. Có nhiệm vụ tuần tra, canh

gác, gìn giữ trật tự an ninh xã hội và sẵn sàng đánh địch bảo vệ ATK.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nhận rõ trách nhiệm đối với

việc bảo vệ ATK, Đảng bộ và chính quyền huyện Định Hoá đã cử những cán

bộ có năng lực sang phụ trách dân quân, du kích, đẩy mạnh công tác huấn

luyện quân sự, đào tạo cán bộ tiểu đội, trung đội du kích. Giữa năm 1947, Ban

chỉ huy Huyện đội bộ dân quân được thành lập và sau đó là Ban chỉ huy Xã

đội và Thôn đội ra đời. Ban chỉ huy Huyện đội tiếp tục đẩy mạnh công tác

củng cố, phát triển lực lượng dân quân, du kích, huấn luyện chiến đấu, đào tạo

cán bộ, xây dựng kế hoạch tác chiến, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ ATK.

Định Hoá là nơi tập trung nhiều cơ quan Trung ương, nên được Tỉnh uỷ

Thái Nguyên coi là huyện trọng điểm trong công tác quân sự. Tỉnh đội đã cử

nhiều cán bộ xuống cùng với huyện chỉ đạo phong trào và mở nhiều lớp huấn

luyện quân sự, chính trị cho cán bộ quân sự địa phương từ Huyện đội đến

Thôn đội. Cục dân quân và các đơn vị chủ lực đóng trên địa bàn huyện cũng

giúp đỡ mở các lớp huấn luyện cho dân quân du kích xã về kĩ thuật bắn súng,

ném lựu đạn và các chiến thuật du kích.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

48

Cùng với việc xây dựng phát triển lực lượng dân quân, du kích, năm

1948 thi hành chỉ thị của tỉnh, được sự giúp đỡ của Trung đoàn 15, Định Hoá

thành lập Đại đội 413, bộ đội địa phương của huyện làm nhiệm vụ cơ động

chiến đấu trong địa bàn huyện và dìu dắt dân quân, du kích, hoạt động tuần tra

bảo vệ ATK. Tính riêng trong năm 1950, Định Hoá mở được 30 lớp huấn

luyện chính trị và quân sự, tổ chức được 14 lần diễn tập chiến đấu với hơn

1300 người tham gia, nhờ đó lực lượng vũ trang địa phương ngày càng lớn

mạnh. Đến tháng 10 - 1950, lực lượng vũ trang của huyện Định Hoá gồm có

một đại đội bộ đội địa phương và 639 đội viên du kích, mỗi xã đã tổ chức

được một trung đội du kích [24, tr.27].

Từ năm 1951 đến 1954, lực lượng vũ trang của huyện thường xuyên

được bổ sung về số lượng, trình độ tổ chức chỉ huy và chiến thuật, kỹ thuật

của dân quân du kích, bộ đội địa phương được nâng lên rõ rệt, sẵn sàng chiến

đấu bảo vệ ATK. Bình quân mỗi xã trong huyện đã xây dựng được từ một

trung đội đến một đại đội dân quân (trong đó có từ một tiểu đội đến một trung

đội du kích làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu và phục vụ chiến đấu).

Tại xã Thanh Định, lực lượng dân quân được xây dựng thành một đại đội

(trong đại đội, ngoài lực lượng chiến đấu tại chỗ gồm mỗi thôn, xóm có một

tiểu đội; 4 thôn, xóm thành một trung đội, còn có một trung đội du kích cơ

động chiến đấu, biên chế 38 cán bộ, chiến sĩ, vũ khí trang bị gồm 2 súng

trường, 4 súng kíp, 100 quả lựu đạn, 2 mìn và một số vũ khí tự tạo khác; 1

trung đội lão dân quân, gồm 44 cụ, tự nguyện làm nhiệm vụ thường trực báo

động phòng không khi có máy bay địch hoạt động và sẵn sàng làm các nhiệm

vụ tiếp tế, tải thương; hướng dẫn người già và trẻ em sơ tán vào rừng khi có

chiến sự; trong lực lượng dân quân xã còn có 1 tổ liên lạc do Đội Thiếu niên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

49

Cứu quốc xã đảm nhiệm, làm nhiệm vụ dẫn đường cho cán bộ, bộ đội, đưa

"mật khẩu" liên lạc đến các tiểu đội, trung đội du kích của xã…) [9,tr.148].

Tại xã Trung Hội, lực lượng có 70 cán bộ, chiến sĩ, được xây dựng thành

1 trung đội, gồm 3 tiểu đội chiến đấu, 1 tiểu đội cứu thương và 1 tiểu đội hậu

cần [9, tr.149].

Tại xã Bộc Nhiêu, lực lượng dân quân có 36 cán bộ, chiến sĩ, trang bi vũ

khí chủ yếu là súng kíp, súng săn, súng khai hậu và vũ khí thô sơ (toàn trung

đội chỉ có 2 khẩu súng trường Pháp), chủ yếu làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác

bảo vệ bản, làng [9, tr.148-149].

Do thường xuyên được củng cố, kiện toàn về số lượng và nâng cao về

chất lượng, lực lượng dân quân, du kích huyện Định Hoá đã cùng với các

lượng công an và nhân dân trong huyện đập tan các tổ chức phản động, giữ

vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn.

Điển hình là đêm 27, rạng ngày 28-1-1953, dưới sự lãnh đạo trực tiếp

của Ban Thường vụ Huyện uỷ Định Hoá, tại xã An Lạc, lực lượng dân quân,

du kích huyện Định Hoá đã phối hợp chặt chẽ với các lượng bộ đội và công

an bí mật bao vây, tấn công nơi trú ngụ của bọn cầm đầu " Đảng Hoà bình"

phản động, bắt 6 tên. Sau đó các lượng vũ trang huyện Định Hoá và tỉnh Thái

Nguyên đã kịp thời mở rộng điều tra, phát hiện, bắt giữ, giáo dục, quản chế,

cảnh cáo 63 tên khác [9, tr.150 - 151] tham gia " Đảng Hoà bình" trú tại các

xã An Lạc, Phượng Tiến huyện Định Hoá và Thanh Mai, Cao Kỳ, Hoà Mục

huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Đập tan tổ chức phản động " Đảng Hoà

bình", các lực vũ trang và nhân dân Định Hoá đã kịp thời dập tắt được âm

mưu của chúng định đốt kho thóc của Chính phủ và đánh tháo cho một số tù

nhân đang bị giam giữ trên địa bàn huyện. Trong tháng 3-1953, các lượng vũ

trang huyện Định Hoá đã truy bắt được toàn bộ các tên cầm đầu và tham gia "

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

50

Đảng Tối mật", kịp thời ngăn chặn âm mưu và hành động chống phá chính

sách thuế nông nghiệp của Đảng và Chính phủ, giết hại cán bộ địa phương và

đốt trụ sở Uỷ ban kháng chiến hành chính các xã.

Đồng thời với việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa

phương, ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, huyện Định Hoá đã

chú trọng xây dựng cơ sở quần chúng vững chắc, xây dựng lực lượng công an

xã làm nòng cốt cho công tác bảo vệ ATK.

Lực lượng trật tự xã (công an xã) được tuyển chọn trong số dân quân có

trình độ văn hoá, tác phong nhanh nhẹn. Xã đội trưởng được giao nhiệm vụ

phụ trách cả dân quân và trật tự viên để dễ phối hợp trong công tác tuần tra.

Hệ thống tổ chức công an xã chủ yếu được xây dựng quanh khu vực cửa ngõ

ATK và những nơi có các cơ quan xí nghiệp, quân đội. Nhiều công an xã đã

xây dựng được mạng lưới cơ sở trong các thôn xóm. Những cơ sở quần chúng

này thực sự là những trạm gác kín đáo, trực tiếp bảo vệ khu vực và những đầu

mối giao thông quan trọng.

Ngoài sự bảo vệ của lực lượng cảnh vệ, công an, lực lượng vũ trang địa

phương, ATK có thể tồn tại vững chắc được chính là nhờ sự che chở, đùm

bọc của nhân dân địa phương. Nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá đã thực

hiện nghiêm khẩu hiệu “ba không” (không nói chuyện làm lộ bí mật; không

nghe những điều không liên quan tới mình; không chỉ đường và cảnh giác với

người lạ mặt); tham gia công tác bảo vệ, phòng gian, giữ bí mật, làm thất bại

mọi âm mưu, hành động phá hoại của kẻ địch, bảo vệ an toàn tuyệt đối cơ

quan lãnh đạo cuộc kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

2.2.2. Hình thức và biện pháp bảo vệ ATK Định Hoá

Các lực lượng bảo vệ ATK Trung ương đóng trên địa bàn Định Hoá đã

thực hiện nhiều hình thức và biện pháp linh hoạt , sáng tạo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

51

Ngay sau khi hình thành, ATK Trung ương đã phải đứng trước mối đe

doạ lớn: chiếm xong Hà Nội, thực dân Pháp đánh tràn ra vùng ngoại vi, phá

vỡ vòng vây của quân và dân ta quanh thành phố và mở rộng vùng kiểm soát.

Để thực hiện ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh, sau một thời gian chuẩn bị,

ngày 7 - 10 - 1947, thực dân Pháp huy động khoảng 12.000 quân tinh nhuệ

gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo, 2 tiểu đoàn công

binh, 40 tàu chiến và ca nô, 40 máy bay các loại, mở một cuộc tấn công lớn

lên Việt Bắc. Mục tiêu của cuộc tấn công này là nhằm tiêu diệt cơ quan đầu

não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta để nhanh chóng kết thúc chiến

tranh; khoá chặt biên giới Việt Trung hòng ngăn chặn sự liên hệ giữa ta với

quốc tế; phá kho tàng, mùa màng, khủng bố nhân dân căn cứ địa; đồng thời

dùng thắng lợi quân sự để thúc đẩy thành lập chính quyền bù nhìn toàn quốc.

Đòn tập kích lớn bất ngờ là cuộc đổ bộ đường không của quân Pháp

xuống Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn (ngày 7, 8 - 10 - 1947).

Quân Pháp có phương tiện cơ động, bằng các gọng kìm từ hai phía Đông,

Tây và những mũi tập kích thọc sâu đã đặt toàn bộ Việt Bắc, trọng điểm là

Bắc Kạn, Thái Nguyên trong tình thế bị bao vây, chia cắt. Cuộc tấn công quy

mô lớn của địch lên Việt Bắc là một trong những thử thách quyết liệt nhất đối

với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Ngày 8 - 10, tại Điềm Mặc, Hồ Chủ tịch gửi thư kêu gọi bộ đội, dân quân,

du kích cùng toàn thể đồng bào ra sức đánh giặc. Cùng ngày, Bộ Tổng chỉ huy ra

nhật lệnh và quân lệnh chỉ rõ những biện pháp cụ thể cho bộ đội, du kích, dân

quân, tự vệ, Uỷ ban kháng chiến - hành chính các cấp và toàn thể đồng bào chiến

đấu phá tan cuộc tấn công của địch. Để đảm bảo an toàn, ngày 15 - 10 - 1947,

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thường vụ Trung ương, các cơ quan Trung ương, Chính

phủ, quân đội bí mật di chuyển từ ATK Định Hoá sang ATK Võ Nhai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

52

Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương, Bộ Tổng chỉ huy và Tỉnh uỷ,

lực lượng vũ trang tỉnh Thái Nguyên phối hợp với quân dân tỉnh Bắc Kạn và

lực lượng chủ lực của Bộ Tổng chỉ huy tiến hành chiến tranh du kích rộng

khắp, chủ động tổ chức chiến đấu, khiến cho quân Pháp đi đến đâu cũng bị

đánh, tiếp tế khó khăn. Thực dân Pháp ngày càng thiệt hại nhiều về người và

phương tiện chiến tranh. Những vị trí chiếm đóng của quân Pháp ngày càng

lâm vào tình trạng cô lập, khó ứng cứu cho nhau.

Sau gần một tháng mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc, ngoài

việc đốt phá được một số kho tàng mà ta chưa kịp di chuyển và chiếm giữ

một vài nơi, quân Pháp không thực hiện được những mục tiêu cơ bản của

cuộc tấn công. Bộ chỉ huy Pháp ra lệnh rút lui.

Phán đoán ta có khoảng từ 20 đến 25 tiểu đoàn đóng ở các vùng Chợ

Chu, Đại Từ, Võ Nhai, Yên Thế, phía Tây Tam Đảo và lưu vực sông Đáy; các

cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ kháng chiến đóng ở khu vực núi đá

Đình Cả (huyện Võ Nhai, Thái Nguyên, Bộ chỉ huy Pháp quyết định kết hợp

việc rút quân với càn quét khu vực Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương) rộng hơn 8000km2, nhằm tiếp tục “lùng bắt kỳ được cơ

quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứ địa”.

Thái Nguyên trở thành hướng càn quét và rút lui chủ yếu của địch. Trước

những diễn biến mới, ngày 17 - 11, các cơ quan Trung ương di chưyển từ

Tràng Xá (Võ Nhai) về ATK Định Hoá. Sau khi vượt qua vòng vây của địch,

cơ quan của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Khuôn Tát (Phú Đình).

Bộ Tổng chỉ huy chuyển về Lục Rã (tức Phú Đình).

Trước nguy cơ quân Pháp tấn công đánh vào ATK Định Hoá, Đảng bộ

và nhân dân địa phương đã chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đánh địch. Ngay từ

trước và trong khi địch nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới, nhân dân các dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

53

tộc Định Hoá cùng với bộ đội, dân quân, du kích khẩn trương xây dựng hệ

thống phòng ngự, thực hiện “vườn không, nhà trống”, phá cầu đường, chặt

cây lấp đường, cất giấu máy móc, kho tàng, làm nhà ở, lán trại bí mật ở trong

rừng, đẩy mạnh công tác tuần tra, canh gác…

Thực hiện kế hoạch rút quân, sau khi có thêm lực lượng từ Bắc Kạn

xuống và thực hiện nghi binh đánh lừa ta, đêm 24 - 11 - 1947, quân Pháp rời

Chợ Mới hành quân bí mật về hướng Định Hoá. Sáng ngày 25 - 11, khoảng

1500 quân Pháp càn quét khu vực Quán Vuông, Chợ Chu, làm sân bay dã

chiến ở cánh đồng Chợ Chu. Quân và dân Định Hoá đã kiên quyết chặn đánh

địch. Dựa vào địa thế hiểm trở của đoạn đường từ Khe Chuội đi đèo Cút (xã

Tân Dương), một tiểu đội du kích đã phục kích địch, buộc chúng phải rút lên

Tân Thịnh. Trên đoạn đường từ Phúc Chu, Bảo Cường, Định Biên tới Trung

Lương, Sơn Phú, Bình Thành, lực lượng du kích phối hợp với Trung đoàn

Thủ đô và Trung đoàn 246 bố trí trận địa chiến đấu.

Ngày 26 - 11, một đại đội địch đánh vào Phượng Tiến nhằm mục tiêu

phá nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, bị du kích các xã Tân Dương, Phượng

Tiến cùng với tự vệ nhà máy chặn đánh ngay cách cổng nhà máy 200 mét,

diệt 7 tên, chặn đứng cuộc tấn công của chúng.

Tại khu vực xưởng quân giới A4, du kích xã Đồng Thịnh phối hợp với tự

vệ của xưởng chặn đánh địch ở Khâu Bao, Đồng Mọn, diệt một số tên, buộc

chúng phải rút lui. Ngày 27 - 11, địch lại tập kích phá hoại nhà máy giấy

Hoàng Văn Thụ, nhưng bị quân ta mai phục đánh bất ngờ, diệt 2 tên, những

tên lính còn lại tháo chạy.

Ngày 28 - 11, Pháp tập trung lực lượng lớn, chia thành 2 hướng, mở trận

càn từ Tây Bắc xuống Tây Nam Định Hoá nhằm triệt phá ATK, lùng bắt cơ

quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực của ta. Theo kế hoạch, cánh quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

54

thứ nhất của địch đánh vào Phúc Chu, Đồng Thịnh, Định Biên, Điềm Mặc,

Bình Yên. Cánh quân thứ hai càn quét vùng Bảo Cường, Trung Hội, Trung

Lương. Hai cánh quân này sẽ gặp nhau tại Bình Yên để mở rộng cuộc tấn

công đánh xuống Bình Thành, Phú Đình rồi vượt núi Hồng sang Sơn Dương

(Tuyên Quang).

Trước cuộc hành quân, càn quét lớn của địch, dân quân, du kích Định

Hoá cùng với các tiểu đoàn 101, 103, 108 bộ đội chủ lực kịp thời bố trí đánh

địch. Cánh quân thứ nhất bị đánh tại Phúc Chu, Đồng Thịnh, Đồng Pén, Khau

Chau. Địch cố vượt qua Đồng Thịnh tới Bình Yên, lại bị phục kích ở Thẩm

Rộc (Yên Thông), 10 tên địch bị diệt. Kế hoạch gặp nhau của địch tại Bình

Yên thất bại, chiều ngày 28 - 11, một trận đánh ác liệt diễn ra ở cánh đồng Cam

Tra (Phú Đình), hàng trăm tên địch bị thiệt hại. Bị tổn thất nặng nề, địch không

dám tiến sang Sơn Dương mà rút quân về Phú Minh để tìm đường ra Đại Từ.

Ngày 29 - 11, khi đến quán Ông Già (Phú Minh), địch rơi vào trận địa phục kích

của bộ đội chủ lực và du kích Phú Minh, buộc phải luồn rừng quay lại Quảng

Nạp (Bình Thành), bỏ lại hơn 100 xác chết. Lợi dụng khi quân địch đang trong

tình trạng hoang mang mệt mỏi, tại Quảng Nạp đêm 29 - 11, bộ đội chủ lực và

du kích Định Hoá tập kích vào nơi trú quân của địch, tiêu diệt và làm bị thương

hàng chục tên. Sáng 30-11, địch phải cho máy bay hạ cánh xuống cánh đồng

Quảng Nạp để chở bọn sĩ quan cùng binh lính chết và bị thương về Hà Nội. Để

yểm trợ cho máy bay vận tải hạ cánh xuống cánh đồng Quảng Nạp an toàn,

chúng cho nhiều máy bay chiến đấu bắn phá dữ dội xuống các vùng xung

quanh và những nơi mà chúng nghi ngờ có bộ đội chủ lực và dân quân, du

kích. Với quyết tâm diệt địch, bảo vệ tuyệt đối an toàn cơ quan đầu não lãnh

đạo kháng chiến, bằng súng bộ binh, bộ đội chủ lực, dân quân, du kích, tự vệ

chiến đấu đã bắn rơi một máy bay B24 của giặc Pháp tại cánh đồng Chợ Chu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

55

Không dám tiếp tục rút quân qua Đại Từ, địch vội vàng từ Bình Thành

kéo quân lên Quán Vuông, định ra Km 31 theo Đường số 3 về Thái Nguyên.

Ngày 2 - 12, toán quân đi trước dò đường bị chặn đánh ở Phố Ngữ, buộc phải

quay lại Bình Thành. Lâm vào thế bị bao vây, không dám tiếp tục mở rộng khu

càn quét, địch buộc phải rút chạy qua Phú Minh về Đại Từ. Dọc đường từ Định

Hoá đến Đại Từ, chúng bị ta chặn đánh ở Độc Lập, Bản Ngoại, Yên Rã, Phục

Linh, chịu nhiều tổn thất. Đến ngày 6 - 12 -1947, địch rút hết khỏi Định Hoá.

Trong khi quân và dân Định Hoá chiến đấu đẩy lùi mọi cuộc hành quân,

càn quét của giặc Pháp, trên các hướng Đại Từ, Võ Nhai, Phú Lương, Đồng

Hỷ (Thái Nguyên), Sơn Dương (Tuyên Quang) …. các toán quân địch cũng bị

lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương chặn đánh. Không đạt được mục

tiêu của cuộc tấn công, lại bị thiệt hại nặng nề, ngày 19 - 12 - 1947, đại bộ

phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc.

Cuộc chiến đấu của quân và dân Định Hoá đã góp phần quan trọng cùng

quân và dân Việt Bắc đánh bại cuộc tiến công đầy tham vọng của thực dân Pháp,

bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến của cả nước.

Một hình thức rất quan trọng, được tiến hành thường xuyên trong công tác

bảo vệ ATK Trung ương Định Hoá là bảo mật, phòng gian. Bảo mật, phong

gian đã được quán triệt và trở thành ý thức thường trực không những đối với

cán bộ, nhân viên các cơ quan, mà còn đối với tất cả mọi người dân trong vùng.

Giữ bí mật cũng là cách bảo vệ tốt nhất. Các cấp bộ Đảng và chính quyền đặc

biệt quan tâm đến việc chỉ đạo công tác bảo mật, phòng gian.

Nghị quyết Hội nghị cán bộ Cứu quốc hội toàn khu X (từ 19 đến 22 - 9 -

1947), nêu rõ chủ trương và biện pháp bảo vệ căn cứ địa như sau:

- Đề phòng Việt gian, đề phòng địch nhảy dù, đổ bộ và đột kích bất ngờ.

- Các cơ quan phải luân chuyển, phải đặt 2, 3 nơi dự bị và phải bí mật

báo cáo lên cấp trên và cho cấp dưới biết, để khi xảy ra tác chiến không mất

liên lạc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

56

- Phải trù bị lương thực, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tổ chức việc tiếp tế

cho mau chóng.

- Gây dựng cơ sở quần chúng làm nền tảng vững chắc quanh nơi căn cứ

địa ..v.v.. [7, tr.14]

Ngày 12 - 5 - 1949, Ban bảo vệ ATK được thành lập với các nhiệm vụ cụ

thể sau đây:

- Quân sự hoá cơ quan:

+ Cất giấu tài liệu

+ Hạn chế sự đi lại của tất cả nhân viên, chia ra từng đội nhỏ, có

Ban bảo vệ cơ quan.

+ Chuẩn bị sẵn chỗ rút lui khi địch nhảy dù và định địa điểm liên lạc.

+ Khi rút lui, phải xoá không còn dấu vết cơ quan

+ Kế hoạch nghi binh (giấu người, dấu cơ quan)

+ Kiểm soát chặt chẽ những người lạ mặt ra vào khu.

- Định hướng rút khi địch chiếm đóng lâu dài.

- Dân vận: Kế hoạch giải thích cho dân đánh giặc, cất giấu lương thực, tổ

chức giao thông liên lạc và báo hiệu, canh phòng và kiểm soát lưu động; huy

động dân quân cản địch.

Thực hiện nguyên tắc bảo mật, các cơ quan đều thực hiện triệt để phân

tán bí mật và quân sự hoá. Mỗi cơ quan bắt buộc phải chia thành hai bộ phận

nặng và nhẹ. “Bộ phận nặng gồm máy móc, bàn in, kho tàng, tài liệu, sách vở

lưu trữ để hẳn nơi xa mặt trận …. Gần địa điểm bộ phận này, phải có những

hầm hố bí mật… Bộ phận nhẹ gồm các nhân viên văn phòng và một ít giấy tờ,

sổ sách cần thiết cho công việc hàng ngày”. [7, tr.125]]

Cán bộ, nhân viên các cơ quan ăn mặc hợp với y phục của nhân dân địa

phương. Sự đi lại của mọi cán bộ, nhân viên trong các cơ quan được qui định

cụ thể. Các cơ quan trọng yếu được đặt tại những địa điểm cơ động.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

57

Những biện pháp tổ chức canh gác, phòng gian được đặt ra cụ thể cho từng

khu vực trong ATK. Đảng bộ và Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện thường

xuyên đôn đốc việc canh gác trong các ngả đường (riêng tuyến đường từ Đại Từ

vào Định Hoá có 3 trạm gác: Khuôn Ngàn, Quán Ông Già và Quảng Nạp), huấn

luyện cho các trạm canh biết một số điều thông thường về cách xem giấy tờ,

cách nhận dạng người, cách ứng cứu nhau nếu xảy ra biến cố…..

Trách nhiệm lớn nhất của quân và dân Định Hoá là bảo vệ tuyệt đối an

toàn lãnh tụ Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Chính

phủ, Mặt trận, Quân đội, các cơ quan, kho tàng, nhà máy. Đây là những mục

tiêu hàng đầu mà kẻ thù luôn âm mưu tìm diệt, bởi vì chúng cho rằng đánh

tan cơ quan đầu não kháng chiến của ta thì cuộc chiến tranh sẽ mau chóng kết

thúc và chúng sẽ là người chiến thắng. Trong khi đó, lực lượng bảo vệ của

Trung ương lại quá mỏng, lực lượng vũ trang của địa phương đã được hình

thành và phát triển nhanh chóng, nhưng phải làm nhiệm vụ bảo vệ trên một

địa bàn rộng, do đó một lực lượng bảo vệ quan trọng cho ATK chính là nhân

dân địa phương.

Được sự giáo dục, nhắc nhở thường xuyên, đồng bào các dân tộc trong

huyện coi việc phòng gian, bảo mật, bảo vệ các cơ quan Trung ương, bảo vệ

ATK chính là bảo vệ quê hương, làng, bản của mình. Do đó, tất cả mọi người

từ cụ già đến em nhỏ, đều tự giác phòng gian, giữ bí mật và thực hiện khẩu

hiệu “ba không”. Suốt thời gian kháng chiến, không một điều bí mật nào bị

tiết lộ. Bọn gián điệp đi đâu cũng chỉ thấy rừng sâu núi thẳm. Người lạ muốn

hỏi, chỉ được đáp lại: không biết. Có thể nói, bảo vệ cơ quan, giữ gìn bí mật

trở thành công việc thường xuyên của mọi người dân Định Hoá.

Việc theo dõi, cảnh mật ở các địa bàn do quần chúng đảm nhận được

thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, linh hoạt và sáng tạo. Từ người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

58

bán hàng rong, người làm nghề sửa chữa xe đạp, thợ cắt tóc, rèn đúc, đan

lát… được bố trí tại các tụ điểm dân cư, hoặc trên các ngả đường quan trọng,

cho đến người đi đốn củi trong rừng, người làm nương rẫy, em bé chăn trâu..

cũng đều là những chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ ATK. Không có một việc gì

xảy ra ở đây, không có một người lạ mặt nào ra vào khu vực ATK lại có thể

lọt qua được tai, mắt của nhân dân địa phương. Chính nhờ những thông tin

nhanh chóng, chính xác của quần chúng nhân dân, lực lượng công an và bộ

đội cảnh vệ mới kịp thời phát hiện và phá tan mọi âm mưu, hành động phá

hoại của địch, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ

quan Trung ương trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong suốt thời

kì Hồ Chủ tịch và Trung ương, Chính phủ, quân đội ở Định Hoá chưa một lần

kẻ địch tung được gián điệp, biệt kích vào ATK, mặc dù chúng biết Chính

phủ kháng chiến ở Định Hoá. Mọi hoạt động, sự đi lại của Hồ Chủ tịch, các

đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ hoàn toàn được giữ kín không phải vài ba

tháng mà trong nhiều năm cho đến kháng chiến thắng lợi. Có thể nói, nhân

dân các dân tộc Định Hoá là lực lượng quan trọng, có tính chất quyết định

công tác bảo mật, phòng gian, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não trong

vòng vây của kè thù.

Bảo mật, phòng gian là nguyên tắc hàng đầu trong công tác bảo vệ ATK,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Biết giữ bí mật tức là đã nắm chắc một

phần thắng lợi trong tay” [50,tr.232]. Là Tổng Tư lệnh tối cao của cuộc kháng

chiến, Hồ Chủ tịch đặc biệt quan tâm đến vấn đề quân sự hoá trong các cơ

quan Trung ương ở Định Hoá cũng như trong ATK. Người chỉ thị bất cứ ở

đâu trong thời kỳ kháng chiến cũng phải đảm bảo bí mật, nhà ở trong rừng

không để lộ cho máy bay địch phát hiện được nơi có cơ quan, cũng như

không để lộ cho người ở nơi khác qua lại biết địa điểm của cơ quan. Mỗi

người trong cơ quan phải có ba lô, đồ đạc gọn gàng, bất kể ngày đêm khi cần

di chuyển thì sau 15 - 20 phút có lệnh hành quân được ngay. Tài liệu, sách

báo thường được đút vào ống tre mang đi rất tiện lợi, thấy địch từ xa thì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

quẳng vào bụi rậm, rất khó phát hiện. Những hình thức bảo mật, phòng gian

đơn giản nhưng vô cùng linh hoạt và hiệu quả trên đã góp một phần quan

trọng đảm bảo an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo các

cơ quan Trung ương ở ATK Định Hoá trong suốt những năm kháng chiến

chống Pháp.

Công tác bảo vệ là một trong những nhiệm vụ quan trọng có tính thiết

yếu của ATK nói chung và ATK Định Hoá nói riêng. Đồng bào các dân tộc

Định Hoá bảo vệ an toàn tuyệt đối Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ

quan kháng chiến không chỉ bằng sự giác ngộ, lòng trung thành với cách

mạng, với kháng chiến, với lãnh tụ Hồ Chí Minh mà còn bằng cả xương máu

của mình. Trong chiến đấu, nhiều cán bộ chiến sĩ bộ đội địa phương và dân

quân du kích đã nêu cao tấm gương kiên quyết hy sinh để bảo vệ an toàn đầu

não kháng chiến. Hàng trăm chiến sĩ và nhân dân đã ngã xuống trong cuộc

chiến đấu bảo vệ ATK trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947.

Như vậy, trong suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp,

với sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ATK Định

Hoá được chú trọng xây dựng một cách toàn diện. Chính quyền cách mạng và

các đoàn thể quần chúng được từng bước củng cố và kiện toàn. Khối đại đoàn

kết toàn dân ngày càng được mở rộng. Nền kinh tế tự cung tự cấp đạt được

nhiều thành quả, về cơ bản đã tự túc một phần lương thực, thực phẩm để cung

cấp cho kháng chiến. Văn hoá, giáo dục và y tế từng bước chuyển biến. Nhờ

được xây dựng toàn diện, ATK Định Hoá thực sự đã trở thành nơi đứng chân

vững chắc cho cơ quan đầu não kháng chiến.

Cùng với quá trình xây dựng, công tác bảo vệ ATK được đặc biệt coi

trọng. Bằng mọi lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, công tác bảo vệ

ATK Trung ương ở Định Hoá được thực hiện với nhiều hình thức và biện

pháp phong phú, sáng tạo. Nhờ đó, các cơ quan Trung ương được bảo vệ

tuyệt đối an toàn trong suốt thời kỳ kháng chiến.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

60

Chƣơng 3

VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC.

3.1. AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ LÀ MỘT BỘ PHẬN QUAN TRỌNG NHẤT

TRONG CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC NÓI CHUNG VÀ AN TOÀN KHU

TRUNG ƢƠNG NÓI RIÊNG

Khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến, một hệ thống căn cứ địa đã

được xây dựng trên phạm vi toàn quốc, đáng chú ý là vùng tự do Thanh -

Nghệ - Tĩnh (Liên khu IV), vùng tự do Liên khu V, chiến khu Dương Minh

Châu, Đồng Tháp Mười… Đó là những căn cứ địa mang tính địa phương,

thuộc phạm vi của một khu, hay một tỉnh. Căn cứ địa chính của cả nước (căn

cứ địa kháng chiến Trung ương) được đặt tại vùng rừng núi Việt Bắc.

Nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc, các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú

Lương, Võ Nhai (tỉnh Thái Nguyên), Chợ Đồn (tỉnh Bắc Kạn), Sơn Dương,

Yên Sơn, Chiêm Hoá (tỉnh Tuyên Quang) được chọn làm địa bàn xây dựng

An toàn khu Trung ương.

ATK Trung ương trong căn cứ địa Việt Bắc được phân định thành hai

khu vực:

Khu vực trung tâm vòng trong gồm 4 huyện (Định Hoá, Sơn Dương, Yên

Sơn và Chợ Đồn) là nơi đặt các cơ quan đầu não kháng chiến (Trung ương

Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, Bộ Tổng tham mưu). Ở

khu vực trung tâm, ATK Định Hoá là bộ phận quan trọng nhất, bởi đó “là

ATK tuyệt mật nhằm bảo đảm an toàn và ổn định để các đồng chí lãnh đạo

chủ chốt lúc bấy giờ làm việc ít phải di chuyển”, [10, tr.10]. “Cơ quan của

Bác, cơ quan của Trung ương, các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Chính phủ

đều tập trung đóng ở Định Hoá, tuy cũng có thời gian chuyển sang Sơn

Dương hay Bắc Kạn nhưng với thời gian ngắn rồi lại trở về Định Hoá, có khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

61

đôi ba lần. Ví dụ: Bác ở Tỉn Keo, Khuôn Tát tới bốn, năm lần. Cơ quan Chính

phủ ở cả đất của hai tỉnh, thường trực Chính phủ, anh Lê Văn Hiến ở bên Sơn

Dương là chủ yếu, nhưng Hội đồng Chính phủ khi họp ở Định Hoá, khi họp ở

Đại Từ, khi ở Sơn Dương. Cơ quan Trung ương Đảng, cơ quan đồng chí

Trường Chinh thường ở gần cơ quan Bác và Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng Tư lệnh,

chủ yếu là ở Lục Rã (Phú Đình), cũng có lúc cơ quan chuyển sang Tân Trào

nhưng ít lâu sau lại trở về chỗ cũ" [10, tr.10]. Đây là những cơ quan quan

trọng bậc nhất, như trung ương thần kinh,chỉ đạo mọi mặt hoạt động kháng

chiến, kiến quốc trong cả nước.

Khu vực ngoại vi vòng ngoài, bao gồm các huyện Đại Từ, Phú Lương,

Võ Nhai, Chiêm Hoá, là nơi đặt các cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương,

các kho tàng, công xưởng…

Phía ngoài khu vực ngoại vi ATK Trung ương là vùng tự do rộng lớn,

trong đó “có căn cứ, hậu phương nhỏ hơn của các khu, tỉnh, huyện, xã được tổ

chức độc lập hoặc liên hoàn với nhau tuỳ theo địa thế từng nơi” [14, tr.158].

Vùng này tựa như "vành đai" quân sự - chính trị cho hạt nhân bên trong, là

nơi thường bị địch uy hiếp, quấy rối, tấn công lấn chiếm. Do đó, phải coi

trọng cả hai yếu tố "Địa - quân sự" và "Địa - chính trị". Phương châm hoạt

động của vùng này là chiến đấu và xây dựng, nhưng đặc biệt coi trọng nhiệm

vụ chiến đấu, vừa sẵn sằng chiến đấu và chiến đấu tốt, vừa xây dựng và bảo

vệ tốt.

Rõ ràng, ATK Trung ương là khu vực an toàn nhất và quan trọng trong

căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Trong đó, ATK Định Hoá là bộ phận quan

trọng nhất của ATK Trung ương. Có thể nói, ATK Trung ương là hạt nhân

của căn cứ địa Việt Bắc, là "Thủ đô kháng chiến", còn ATK Định Hoá là hạt

nhân của ATK Trung ương, là trung tâm của Thủ đô kháng chiến. Đó là mối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

62

quan hệ giữa "hạt nhân trong hạt nhân". Vùng này cách xa địch, có lực lượng

vũ trang tương đối mạnh trực tiếp bảo vệ, lại có khu vực ngoại vi và vùng tự

do khá rộng bao quanh che chắn, bảo vệ. Cho nên vùng này lấy yếu tố "Địa -

chính tri" làm đầu, xây dựng, tự bảo vệ, cảnh giác sẵn sằng chiến đấu là

chính, chỉ chiến đấu khi thật cần thiết. “Yêu cầu tối thượng và tuyệt đối là

phải bảo đảm được “an toàn” cho các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà

nước, thậm chí khi phải tạm thời sơ tán thì phải sơ tán an toàn người và tài

liệu là chính chứ không phải chiến đấu là chính. Chiến đấu về mặt quân sự khi

kẻ địch từ ngoài vào (không phải địch nhảy dù đột nhập bất ngờ) thì đã có vỏ

bọc của An toàn khu căn cứ địa chịu trách nhiệm hàng đầu” [10, tr.56].

Là nơi đặt các cơ quan đầu não quan trọng bậc nhất trong ATK Trung

ương, phạm vi và ảnh hưởng của ATK Định Hoá không phải giới hạn trong

không gian nhỏ hẹp, mà rộng khắp cả nước. Chính từ nơi này, những quyết

định quan trọng của Nhà nước Việt Nam đã ra đời và đã chôn vùi số phận

quân đội viễn chinh.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tại ATK Định Hoá

đã diễn ra nhiều hoạt động có ý nghĩa chiến lược của Trung ương Đảng,

Chính phủ, Bộ Quốc phòng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ

huy quân dân cả nước kháng chiến.

Một tháng sau khi đặt chân đến ATK Định Hoá, nhân kỷ niệm cuộc

kháng chiến toàn quốc tròn 6 tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi”

gửi đồng bào và toàn thể các chiến sĩ Vệ quốc quân, dân quân tự vệ. Trong

“Lời kêu gọi”, Người khẳng định cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhất

định thắng lợi, “vì kháng chiến của ta là chính nghĩa; vì đồng bào ta đại đoàn

kết; vì tướng sĩ ta dũng cảm; vì chiến lược ta đúng; vì ta nhiều bầu bạn” [50,

tr.290].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

63

Cùng thời gian trên, từ ATK Trung ương ở Định Hoá, hàng loạt bài viết

của Tổng Bí thư Trường Chinh đăng trên báo “Sự thật”, tiếp tục được toả đi

các vùng đất nước, củng cố lòng tin và chỉ ra phương hướng hành động cho

toàn dân bước vào kháng chiến. Tháng 9 năm 1947, nhân dịp kỷ niệm 2 năm

kháng chiến chống thực dân Pháp, các bài báo ấy được tập hợp, chỉnh lý, bổ

sung và xuất bản thành sách, mang tên “Kháng chiến nhất định thắng lợi”.

Cuốn sách trở thành cẩm nang cho cán bộ các ngành, các cấp trong suốt cuộc

kháng chiến chống Pháp.

“Lời kêu gọi” (19 - 6 - 1947) của Chủ tịch Hồ Chí Mình và tác phẩm của

Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh là những văn kiện quan trọng đầu tiên được

xuất bản ở ATK Định Hoá, mở đầu cho rất nhiều văn kiện tiếp theo đề ra chủ

trương chính sách về các mặt của Đảng và Chính phủ, nhằm từng bước đưa

cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Tại ATK Định Hoá, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã có nhiều cuộc

họp quan trọng, quyết định những vấn đề lớn về đường lối kháng chiến toàn dân,

xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, và nghiên cứu định ra phương châm hoạt

động thích hợp với từng chiến trường.

Một ngày sau khi quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, ngày 8 - 10 - 1947,

Bộ Tổng chỉ huy đã ra nhật lệnh kêu gọi bộ đội và dân quân chiến đấu đánh bại

cuộc tiến công của chúng, bảo vệ Việt Bắc. Ngày 15 - 10 - 1947, tại đồi Khau

Tý, xã Điềm Mặc, huyện Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí

Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng chỉ huy đã họp bàn và ra Chỉ thị “Phải phá

tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Chỉ thị đã có tác dụng quyết định

thắng lợi trong cuộc phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947 của quân và dân ta.

Tại ATK Định Hoá, Bộ Tổng tư lệnh - Bộ Tổng tham mưu đã tổ chức

các hội nghị chuyên đề về dân quân, du kích và phát triển bộ đội chủ lực, các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

64

hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3 và lần thứ 4. Trong Hội nghị quân sự

toàn quốc lần thứ 3, lần đầu tiên một số vấn đề về chỉ đạo tác chiến được xác

định thành nguyên tắc; đó là giữ vững quyền chủ động, hiểu địch, hiểu ta; biết

dùng lực lượng dự bị, tập trung binh lực, điều động kịp thời, nghi binh đánh

lạc hướng địch, đánh bất thần, xuất kỳ bất ý; lợi dụng điểm yếu của địch, phối

hợp chiến đấu giữa các đơn vị, giữa chủ lực và địa phương; đánh tiêu diệt,

đánh có kế hoạch. Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4 nêu lên một cách cụ

thể phương thức hành động và mối liên hệ giữa bộ đội chủ lực với lực lượng

vũ trang địa phương.

Cuộc kháng chiến càng phát triển, lực lượng vũ trang càng lớn mạnh thì

yêu cầu nâng cao trình độ cán bộ các cấp càng trở nên cấp thiết. Chính tại

ATK Định Hoá, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã cho ra đời nhiều

quyết định quan trọng về việc thành lập các Phân hiệu võ bị Trần Quốc Tuấn,

các trường lục quân, các lớp bổ túc cán bộ quân sự… Ngày 12 - 3 - 1948, Bộ

Quốc phòng ra nghị định thành lập Trường Trung cấp Quân chính. Chương

trình huấn luyện gồm đường lối kháng chiến, xây dựng căn cứ địa, xây dựng

và tổ chức huấn luyện dân quân, du kích, chiến lược, chiến thuật, chiến dịch

và tổ chức chỉ huy chiến đấu. Tính đến tháng 5 - 1950, Trường liên tục mở

được 5 khoá học, với 675 học viên, kịp thời bổ sung nguồn cán bộ chỉ huy

cho các đơn vị bộ đội trên khắp các chiến trường toàn quốc, góp phần quan

trọng vào công cuộc xây dựng và chiến đấu của quân đội ta trong những năm

kháng chiến chống thực dân Pháp.

Từ sau năm 1947 đến năm 1951, cùng với sự lớn mạnh của lực lượng vũ

trang ba thứ quân, Bộ Quốc phòng chủ trương xây dựng các đơn vị chủ lực

lớn mạnh của quân đội. Các đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam

như (Đại đoàn 308 (Quân Tiên Phong), , Trung đoàn pháo cao xạ 376, Trung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

65

đoàn 72…) lần lượt ra đời trên cơ sở quyết định từ tổng hành dinh đóng ở

Định Hoá.

Những chiến dịch quan trọng (Biên giới, Trung du, Đường số 18, Hà -

Nam - Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, (Thượng Lào) đều được quyết định tại ATK

Định Hoá. Đặc biệt tháng 9 năm 1953, tại Tỉn Keo (Phú Đình, huyện Định

Hoá), Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị, Tổng Quân uỷ họp thông qua

chủ trương chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954. Cũng tại nơi đây, ngày 6-

12-1953 đã diễn ra cuộc họp của Bộ Chính trị để hạ quyết tâm tiêu diệt tập

đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

ATK Định Hoá là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh quan

trọng để chỉ đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc, là nơi Trung ương Đảng, Chính

phủ và Bộ Tổng tư lệnh thường xuyên nhận được tin tức về tình hình kháng

chiến, kiến quốc ở các địa phương và có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo

kịp thời, đẩy mạnh hoạt động ở các khu, các tỉnh, trên các chiến trường. Nổi

lên là chủ trương giữ vững quyền chủ động chiến lược, đẩy mạnh tác chiến

trên qui mô lớn trong những năm 1950 - 1954, chủ trương phát triển kinh tế

kháng chiến trong điều kiện đã mở rộng giao lưu quốc tế; chủ trương mở Đại

hội lần thứ 2 của Đảng, đẩy mạnh kháng chiến.

Những sự kiện nêu trên chứng tỏ ATK Định Hóa tồn tại trong lòng căn

cứ địa Việt Bắc thực sự trở thành khu vực an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh

và cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ trong suốt thời kỳ toàn quốc kháng

chiến chống thực dân Pháp. Chính tại nơi đây, những quyết sách lớn của

Đảng về hai nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc đã ra đời, dẫn dắt quân và dân

ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. ATK Định Hoá xứng đáng là trung

tâm của Thủ đô kháng chiến, là một bộ phận quan trọng nhất trong căn cứ địa

Việt Bắc nói chung và ATK Trung ương nói riêng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

66

3.2. AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ LÀ MỘT TRONG NHỮNG NƠI THỰC

HIỆN CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ MỚI

Là một trong những địa phương thuộc địa bàn căn cứ địa và khu giải

phóng, nhân dân các dân tộc Định Hoá sớm được hưởng những quyền lợi do

cách mạng đem lại.

Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, với niềm phấn khởi, tự hào

vì được sống trong độc lập, tự do, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá hoà

với không khí chung của cả nước hăng hái đi bỏ phiếu, bầu cử Quốc hội và

Hội đồng nhân dân. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội

đồng nhân dân đã phát huy quyền làm chủ của mọi tầng lớp nhân dân. Bộ

máy chính quyền dân chủ nhân dân từ xã đến huyện ở Định Hoá từng bước

được củng cố, kiện toàn, có đủ khả năng lãnh đạo nhân dân toàn huyện thực

hiện nhiệm vụ kháng chiến - kiến quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Trong những năm toàn quốc kháng chiến, chính sách “người cày có

ruộng” được thực hiện ở Định Hoá. Đảng bộ và chính quyền địa phương đã

tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho nông dân cày cấy; tích

cực thi hành chính sách giảm tô, giảm tức. Có ruộng đất, đồng bào hăng hái

thi đua sản xuất, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ đó, nhân

dân các dân tộc huyện Định Hoá càng thêm tin yêu Đảng và Chính phủ, hăng

hái tham gia đóng góp cho kháng chiến, kiến quốc.

Nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, Đảng bộ huyện lãnh đạo

triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng về khuyến khích và

phát triển sản xuất nông nghiệp. Nông dân được vay vốn để sản xuất, được hỗ

trợ khi bị thiệt hại do lũ lụt. Bà con nông dân trong huyện còn được tiếp thu

các biện pháp kĩ thuật, được hướng dẫn tổ chức sản xuất, thành lập các tổ đổi

công. Ngay từ vụ mùa năm 1950, toàn huyện đã xây dựng được 100 tổ đổi

công. Nhờ đó, huyện đã khắc phục được những khó khăn về sức lao động, tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

67

điều kiện cho nông dân sản xuất kịp thời vụ. Suốt những năm kháng chiến

chống Pháp, Định Hoá là một trong những huyện có phong trào xây dựng tổ

đổi công mạnh nhất tỉnh Thái Nguyên. Thông qua đó, nông dân các dân tộc

trong huyện làm quen dần với phương thức làm ăn tập thể, ý thức lao động

tập thể, tinh thần đoàn kết tương thân tương ái trong đồng bào ngày càng

được phát huy.

Định Hoá cũng như một số huyện trong ATK là nơi đầu tiên thể nghiệm

chính sách thuế nông nghiệp (5 - 1951) của Chính phủ. Theo biểu thuế luỹ

tiến, phần đóng góp của nông dân được giảm nhẹ so với trước. Nói chung,

bần nông đóng góp 6 đến 10%, trung nông từ 15 - 20% và địa chỉ từ 30 - 50%

tổng thu nhập về ruộng đất. Chính sách thuế nông nghiệp góp phần rất quan

trọng cải thiện đời sống của nông dân nghèo.

Không những là nơi thể nghiệm các chính sách về kinh tế, tài chính, từng

bước thoả mãn quyền lợi vật chất cho đồng bào các dân tộc, ATK Định Hoá

còn là nơi được chú trọng chỉ đạo xây dựng cuộc sống mới có văn hoá.

Từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc

bùng nổ, với vị trí ATK của Trung ương, hơn bất cứ nơi nào khác, Định Hoá

càng có điều kiện để xây dựng cuộc sống mới cho đồng bào các dân tộc.

Hệ thống trường lớp giáo dục phổ thông được lập ra ở nhiều nơi trong

huyện. Năm 1950, cùng với việc thực hiện cải cách giáo dục, mỗi xã đã có

một trường phổ thông, với tổng số 80 lớp gồm 1230 học sinh và 38 giáo viên

[24, tr.91]. Bằng sự nỗ lực của mình, đến năm học 1953 - 1954, Định Hoá đã

xây dựng được hệ thống giáo dục phổ thông từ cấp I đến cấp II, đáp ứng nhu

cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc trong huyện. Nhờ đó, trình độ

văn hoá của các dân tộc trong huyện được nâng dần lên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

68

Chính quyền kháng chiến cùng với cơ sở y tế các cấp trong huyện có

nhiều cố gắng trong việc chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Thực hiện phương

châm “phòng bệnh là chính”, cuộc vận động nếp sống vệ sinh với phong trào

“ba sạch” (ăn sạch, uống sạch, ở sạch) phát triển rộng khắp trong toàn huyện.

Việc chữa bệnh được chú trọng, khi bị bệnh, ốm đau, bà con đã biết dùng

thuốc để chữa bệnh. Hiện tượng “cúng ma”, “cầu ma” giảm dần. Hệ thống y

tế cơ sở được xây dựng cùng với đội ngũ cán bộ y tế ngày càng phát triển; ý

thức phòng bệnh, chữa bệnh của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhờ đó

trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, trên địa bàn huyện Định Hoá

không có bệnh dịch nào xẩy ra.

Cuộc vận động thực hiện đời sống mới được tiến hành sâu rộng trong

nhân dân. Đảng bộ huyện lãnh đạo các đoàn thể quần chúng vận động đồng

bào các dân tộc ra sức xoá bỏ các tệ nạn cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan…

do hậu quả của chế độ cũ để lại. Tại các làng, xã, thôn, bản, cuộc sống mới

lành mạnh được xây dựng và ngày càng phát triển. Phong trào văn hoá, văn

nghệ, công tác thông tin tuyên truyền trong vùng ATK được chính quyền địa

phương hết sức chú trọng, đem lại cho nhân dân đời sống tinh thần phong

phú, sôi nổi và lành mạnh.

Chế độ dân chủ mới đã đem lại cho nhân dân các dân tộc huyện Định

Hoá các quyền tự do, dân chủ trên nhiều lĩnh vực, làm thay đổi hẳn bộ mặt xã

hội của một huyện miền núi vốn bị coi là vùng “ma thiêng nước độc”, lạc hậu

vào loại nhất nhì tỉnh Thái Nguyên dưới thời Pháp thuộc. Chính quyền dân

chủ nhân dân ở Định Hoá thực sự là của dân, vì dân, khối đoàn kết dân tộc

được ngày càng củng cố. Đó chính là những nhân tố quan trọng bảo đảm cho

ATK Định Hoá - trung tâm thủ đô kháng chiến tồn tại vững chắc trong những

năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

69

3.3. AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ LÀ MỘT TRONG NHỮNG NƠI XÁC LẬP

CÁC MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO

Trong giai đoạn từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1950, trước khi nhận

được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân Việt Nam đã kiên

cường chiến đấu trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và đã giành được

những thắng lợi quan trọng. Trước Chiến dịch Biên giới, Việt Nam đã vượt

qua thời kỳ khó khăn nhất, đánh bại âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng

nhanh của thực dân Pháp; công cuộc kháng chiến, kiến quốc từng bước phát

triển toàn diện và vững chắc.

Cũng cần phải thấy rằng, trong bốn năm đầu toàn quốc kháng chiến

(1946 - 1949) chúng ta ở một vị trí địa - chính trị cực kỳ bất lợi. Phía Bắc,

Trung Hoa dân quốc do Quốc dân đảng kiểm soát. Đến năm 1946, Đảng cộng

sản Trung Quốc đã có các vùng giải phóng rộng lớn nhưng đang phải chống

lại cuộc tiến công trên qui mô toàn quốc của quân Tưởng. Ở phía Tây và Tây

Nam, Chính phủ Hoàng gia của cả hai vương quốc Lào và Campuchia đều

theo Pháp. Về phía đông là biển và ta cũng không thể kiểm soát được cảng

nào trong số ba cảng lớn: Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng. Chúng ta hoàn toàn

ở thế bị bao vây tứ phía, không liên lạc được với lực lượng hoà bình, dân chủ

thế giới. Bên ngoài chỉ hiểu cuộc kháng chiến của ta do những tin Việt Nam

thông tấn xã và Đài Tiếng nói Việt Nam phát bằng những phương tiện viễn

thông cũ của Pháp để lại.

Do đó, phá vòng vây để mở rộng quan hệ, tranh thủ thêm bạn bè, nêu rõ

lập trường chính nghĩa của nhân dân ta và tố cáo tội ác của thực dân Pháp là

một vấn đề chiến lược về mặt quân sự, chính trị và ngoại giao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

Ngay từ những năm đầu kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính

phủ Việt Nam đã hết sức tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, nhằm sớm đưa cuộc

kháng chiến của dân tộc thoát ra khỏi thế bị bao vây, phong toả.

Là trung tâm của ATK Trung ương trong căn cứ địa kháng chiến Việt

Bắc, tại ATK Định Hoá đã diễn ra nhiều hoạt động ngoại giao của Chủ tịch

Hồ Chí Minh và những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Sau cuộc gặp gỡ, trao đổi với Pôn Muýt, đại diện Cao uỷ Pháp ở Đông

Dương tại thị xã Thái Nguyên, từ ngày 20 - 5 - 1947, Hồ Chủ tịch đã đến ở

và làm việc tại ATK Định Hoá.

Ngày 21 - 5 - 1947, tại ATK Định Hoá, Hồ Chủ tịch đã tuyên bố: “Chỉ

cần Chính phủ Pháp công nhận độc lập và thống nhất của nước Việt Nam thì

chiến sự sẽ chấm dứt tức khắc và tất cả các vấn đề khác sẽ giải quyết dễ dàng.

Các quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam sẽ được tôn trọng.”

Ngày 25 - 5 - 1947, Hồ Chủ tịch gửi thư đến nhân dân Pháp, thông báo

cho họ biết về cuộc hội kiến với Pôn Muýt, chỉ ra rằng bọn quân phiệt thực

dân Pháp mù quáng trước những thắng lợi tạm thời đã ngăn cản Việt Nam và

Pháp gần gũi nhau, chúng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc chiến tranh

tiếp diễn. Chúng “đã buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu, chúng tôi sẽ

chiến đấu đến cùng”. Người kêu gọi nhân dân Pháp “Hãy giúp chúng tôi cứu

lấy tính mạng bao nhiêu thanh niên Pháp và Việt, cứu lấy tình thân thiện giữa

hai dân tộc và cứu lấy khối liên hiệp Pháp” [43, tr.358-362].

Trong năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương

Đảng tiếp phái viên của Chu Ân Lai, tại xã Phú Đình (Định Hoá) bàn về sự

phối hợp chiến đấu giúp đỡ lẫn nhau giữa Quân đội cách mạng hai nước. Sau

đó, vào tháng 4 - 1949, lãnh đạo phong trào du kích Quảng Tây (Trung Quốc)

đề nghị Quân đội Việt Nam phối hợp chiến đấu, giúp đỡ quân Giải phóng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

71

Trung Quốc đánh quân Tưởng để xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung -

Long - Khâm liền với biên giới Đông - Bắc của nước ta.

Được sự đồng ý của Trung ương Đảng, ngày 23 - 4 - 1949, Bộ Tổng tư

lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Liên khu I giúp Quân Giải phóng Trung

Quốc xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung - Long - Khâm. Bộ chỉ huy

chiến dịch được thành lập, lấy danh hiệu là Bộ Tư lệnh khu Thập Vạn Đại

Sơn. Suốt năm tháng trời chiến đấu trên đất bạn, trong điều kiện vô cùng gian

khổ, thiếu thốn, bộ đội Việt Nam đã cùng Quân Giải phóng và du kích khu

Thập Vạn Đại Sơn tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng và củng cố vững

chắc vùng căn cứ. Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn kết thúc thắng lợi, bộ đội

Việt Nam được lệnh rút về nước “Để lại ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân địa

phương về tinh thần quốc tế của một quân đội cách mạng” [30, tr.349].

Sau ngày cách mạng Trung Quốc thành công, trong bối cảnh tình hình quốc

tế có những chuyển biến thuận lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng

và Chính phủ Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa công tác ngoại giao và tuyên truyền

quốc tế, nhằm làm cho nhân dân thế giới, trước hết là nhân dân các nước xã hội

chủ nghĩa hiểu rõ, ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam toàn diện hơn.

Ngày 14 tháng 1 năm 1950, từ ATK, thay mặt Chính phủ kháng chiến,

Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà gửi Chính phủ các nước trên thế giới. Bản Tuyên bố nêu rõ:

“Trải qua mấy năm kháng chiến, nước Việt Nam từng được nhân dân toàn thế

giới đồng tình ủng hộ. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố với

Chính phủ các nước trên thế giới rằng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng

hoà là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ

trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt

quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

72

quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo

vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”. [44, tr.334-335].

Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời ATK Định Hoá, lên đường đi

thăm Trung Quốc và Liên Xô, hội đàm với các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản

Trung Quốc và Liên Xô. Tại Mátxcơva, Người còn gặp gỡ đại diện Đảng

cộng sản Pháp và nhiều tổ chức quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ của các lực

lượng tiến bộ trên thế giới đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân

Việt Nam.

Hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến đi này đã tăng thêm

sự hiểu biết của các nước anh em với Việt Nam, thắt chặt tình đoàn kết chiến

đấu tranh thủ sự chi viện quốc tế, tạo thêm thuận lợi cho cuộc kháng chiến

của nhân dân Việt Nam. Từ đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiếp nhận

được sự chi viện ngày càng lớn của lực lượng cách mạng thế giới, nhất là của

nhân dân Trung Quốc.

Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân

Trung Hoa đã cử một số cố vấn sang Việt Nam, thường xuyên làm việc tại

ATK, giúp đỡ Chính phủ ta về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính.

Sau chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc và Liên Xô, tháng 4 - 1950, tại

ATK Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh đón tiếp đồng chí Lêôphighe, Uỷ

viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, đại biểu Quốc hội, Thư ký Đoàn

Thanh niên Cộng sản Pháp sang thăm Việt Nam để tìm hiểu cuộc kháng

chiến của nhân dân Việt Nam và thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu, tình hữu

nghị giữa nhân dân hai nước. Trong cuộc tiếp xúc với đồng chí Lêôphighe,

Hồ Chủ tịch đã tỏ rõ lời hoan nghênh phong trào phản đối chiến tranh ở Việt

Nam của nhân dân Pháp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

73

Được trực tiếp trao đổi với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK Định Hoá và

hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam, khi trở về Pháp, đồng

chí Lêôphighe đã viết cuốn: “Tôi từ Việt Nam tự do về”. Cuốn sách đã làm

cho nhân dân Pháp hiểu rõ thêm về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam

và tăng thêm sự đồng tình, ủng hộ với Việt Nam. Đó là sự cống hiến quý báu

vào việc tuyên truyền quốc tế, giành sự hiểu biết và đồng tình ủng hộ của các

lực lượng hoà bình thế giới đối với cuộc kháng chiến của ta.

Từ sau khi đồng chí Lêôphighe sang thăm Việt Nam và sau khi các đoàn

thể dân chủ Pháp tuyên bố ý định đứng ra làm trung gian giải quyết hoà bình

cuộc chiến tranh Pháp - Việt, ta đã tăng cường phối hợp đấu tranh mạnh hơn

giữa chiến trường Việt Nam và dư luận Pháp.

Mùa hè năm 1950, tại nơi ở và làm việc trong ATK Định Hoá, Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã tiếp cố vấn công an Trung Quốc được cử sang giúp đỡ và

trao đổi kinh nghiệm với công an Việt Nam về công tác bảo vệ căn cứ địa,

bảo vệ An toàn khu, bảo vệ Trung ương Đảng và lãnh tụ. Sau đó, Người còn

tiếp đại diện các đoàn cố vấn Trung Quốc, đặc biệt là đoàn cố vấn quân sự

sang giúp cách mạng Việt Nam theo đề nghị của Hồ Chủ tịch trong chuyến

thăm Trung Quốc đầu năm 1950.

Tháng 6 - 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đón tiếp Chủ tịch Xu - va- nu -

vông tại ATK Định Hoá, tăng cường tình đoàn kết và phối hợp chiến đấu

chống kẻ thù chung giữa nhân dân Việt Nam, Lào nói riêng và nhân dân ba

nước Đông Dương nói chung.

Cũng từ ATK Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của

Người đã viết nhiều bài báo gửi đăng trên các tạp chí nước ngoài. Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã gửi điện mừng Ấn Độ và Pakixtan tuyên bố độc lập; gửi điện tỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

74

rõ sự đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Inđônêxia; điện trả

lời Chi bộ Đảng Xã hội Pháp ở Sài Gòn và báo Mỹ International News

service về những vấn đề liên quan đến Việt Nam.

Trong thời gian ở ATK Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp đoàn

điện ảnh Liên Xô và nhà đạo diễn nổi tiếng Cácmen, nhiều nhà ngoại giao,

nhà báo quốc tế và bày tỏ khát vọng hoà bình, quyết tâm chiến đấu đến thắng

lợi của nhân dân Việt Nam. Qua đó, báo chí và dư luận các nước ngày càng

quan tâm ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của ta, tố cáo sự xâm lược và

gây chiến của các đế quốc Pháp, Mỹ.

Những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Trung ương

Đảng và Chính phủ tại ATK Định Hoá - Trung tâm thủ đô kháng chiến trong

căn cứ địa Việt Bắc đã làm cho nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ sự nghiệp

kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta; tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ

và giúp đỡ về tinh thần ,vật chất cho cuộc kháng chiến, nâng cao địa vị quốc

tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3.4. ATK ĐỊNH HOÁ LÀM TRÕN VAI TRÕ HẬU PHƢƠNG KHÁNG CHIẾN.

Là một địa phương nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nhân dân các

dân tộc Định Hoá luôn ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình đối với

sự nghiệp kháng chiến của dân tộc.

Ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, đồng bào các dân tộc

Định Hoá giàu truyền thống cách mạng đã không tiếc công, của, đóng góp

hàng chục vạn ngày công, hàng triệu cây tre, nứa, lá, gỗ… để xây dựng nơi ở

và làm việc của các cơ quan Trung ương, xây dựng kho tàng… Khi chưa kịp

xây dựng lán trại, đồng bào Định Hoá sẵn sàng nhường nhà của mình làm trụ

sở cơ quan, nơi ở cho cán bộ hoặc làm kho của Nhà nước trong suốt thời kỳ

kháng chiến. Nhà cụ Vi, cụ Học (xã Bình Thành), nhà bà Phùng Thị Vân, nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

75

ông Nông Đình Lập (xã Điềm Mặc) đã vinh dự được đón các đồng chí lãnh

đạo về ở và làm việc, cơ quan Trung ương Đảng làm trụ sở. Tại xã Điềm

Mặc, nhà ông Ma Đình Tương đã được đón Hồ Chủ tịch khi Người từ làng

Xảo (xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang) sang ATK Định

Hoá; nhà ông Nông Đình Lăng ở bản Bắc là nơi ở của đồng chí Tôn Đức

Thắng; nhà ông Ma Khánh Bình là nơi đóng cơ quan Tổng bộ Việt Minh…

Là một huyện miền núi, kinh tế còn nhiều khó khăn, lại thường xuyên bị

thiên tai tàn phá, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Định Hoá đã có nhiều biện

pháp tích cực tăng gia sản xuất để không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế,

cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ các cơ quan đầu não kháng chiến và

các đơn vị đóng quân trên địa bàn huyện.

Sau Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, địch chiếm đóng một số cứ

điểm dọc Đường số 3. Nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm ở các tỉnh

miền xuôi bị địch phong toả, đường bộ bị phá hoại, đường sông bị máy bay

địch săn đuổi thuyền bè chở gạo, muối lên Thái Nguyên rất khó khăn, giá cả

thị trường tăng vọt. Tình trạng khan hiếm lương thực ở thị trường đã đẩy cán

bộ, công nhân, bộ đội ở ATK Định Hoá vào hoàn cảnh thiếu ăn.

Để khắc phục tình trạng trên, Huyện uỷ Định Hoá đã kịp thời đề ra nhiều

biện pháp huy động cấp tốc lương thực, thực phẩm cung cấp cho các cơ quan

Trung ương, Chính phủ và quân đội đóng tại ATK Định Hoá. Mặc dù phải

trải qua cuộc chiến đấu ác liệt những ngày cuối năm 1947, mùa màng bị tàn

phá trong những trận càn quét của quân Pháp, nhưng nhờ thực hiện “vườn

không nhà trống”, cất giấu lương thực tốt, nên ngay sau khi phong trào “Toàn

dân đóng góp lương thực, thực phẩm” được phát động, nhân dân toàn huyện

đã tích cực hưởng ứng. Ngoài việc đóng thóc công lương, điền thổ, các đoàn

thể Cứu quốc còn có sáng kiến lập “Hũ gạo nuôi quân”. Nhờ đó, số thóc huy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

76

động trong nửa đầu năm 1948 được hàng trăm tấn, góp phần giải quyết khó

khăn về lương thực đối với các cơ quan Trung ương, Chính phủ và quân đội ở

Định Hoá.

Năm 1949, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Bán thóc

khao quân”, nhân dân Định Hoá đã bán cho Nhà nước 63 tấn thóc. Năm 1950,

quán triệt Chị thị “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng

phản công”, Định Hoá đã đóng góp cho kháng chiến gần 570 tấn thóc, trong

đó có 72 tấn thóc khao quân.

Phong trào “Nhân dân đỡ đầu địa phương quân” do Chính phủ phát động

được nhân dân Định Hoá hăng hái tham gia. Nhiều bà mẹ nhận nuôi đỡ đầu

vợ, con cán bộ. Nhiều gia đình năm nào cũng đón bộ đội, cán bộ về ăn tết.

Nhiều nơi, bà con ủng hộ bộ đội ruộng đất, nông cụ, trâu bò để tăng gia tự túc

lúa gạo. Nhân dân còn góp tiền để bộ đội mua sắm trang bị, vũ khí. Kết quả

của phong trào này, toàn huyện đã ủng hộ bộ đội địa phương 52 mẫu ruộng,

hai con trâu và 380.000 đồng.

Bước sang năm 1954, hướng về Chiến dịch Điện Biên Phủ với khẩu hiệu

“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, “Tất cả cho Chiến dịch Điện

Biên Phủ”, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá đóng góp hàng trăm tấn

thóc gạo, hàng chục tấn thịt, góp phần giúp bộ đội ngoài mặt trận ăn no đánh

thắng quân thù.

Bên cạnh việc đóng góp của cải cho kháng chiến, nhân dân huyện Định

Hoá còn tích cực tham gia các đợt làm đường, sửa đường; các đợt đi dân công

phục vụ tiền tuyến, sửa chữa, xây dựng nhà ở, cơ quan, kho tàng tại ATK.

Sau Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, nhiều nhà ở, lán trại của các

cơ quan Trung ương, đơn vị quân đội bị hư hỏng, nhu cầu cho kháng chiến

ngày một lớn, các cơ quan được mở rộng, tăng thêm nhân viên, thêm phương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

77

tiện làm việc, nhiều cơ quan mới được thành lập, nhiều kho tàng cần được xây

dựng, do đó cần phải có một số lượng lớn dân công. Tuy nhiên, để đảm bảo

an toàn, tuyệt đối bí mật nơi cơ quan đầu não kháng chiến, không thể huy

động dân công ở nơi khác đến. Dân công của 9 xã Sơn Phú, Phú Đình, Bình

Thành, Điềm Mặc, Thanh Định, Đồng Thịnh, Bình Yên, Định Biên, Bảo Linh

(huyện Định Hoá) đã được huy động và đảm đương nhiệm vụ trên.

Nhằm khôi phục mạng lưới giao thông sau đợt tấn công, càn quét của

quân Pháp vào Định Hoá cuối năm 1947, ngay từ đầu năm 1948, Huyện uỷ

Định Hoá đã phát động toàn dân tham gia sửa chữa cầu, đường. Đông đảo cán

bộ, nhân dân xung phong ra mặt trận, đào đắp hàng nghìn mét khối đất, đá,

khai thác và vận chuyển hàng chục mét khối gỗ, hoàn thành việc sửa chữa

toàn bộ các tuyến đường nội hạt để phục vụ vận chuyển nội bộ ATK, bao gồm

20 km đường Chợ Chu - Km 31 Quốc lộ 3, 18 km đường Quán Vuông - Phú

Minh; sửa chữa và làm thêm 11 cầu, cống. Nhân dân địa phương cũng làm

mới 2 km đường rải đá từ thị trấn Chợ Chu đi nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ,

không kể hàng chục km đường nhánh.

Năm 1948, toàn huyện đã huy động hàng vạn ngày công phục vụ ATK

và sửa chữa cầu, đường. Riêng năm 1950, thực hiện “Chuẩn bị chuyển mạnh

sang Tổng phản công”, Định Hoá đã đóng góp 22.000 lượt người cho chiến

dịch cầu, đường và đã thành lập 18 tổ gồm 200 người ở 9 xã có đường giao

thông chính đi qua, sẵn sàng ứng cứu cầu, đường do địch đánh phá hoặc lũ lụt

làm hư hỏng. Những tổ này đã tồn tại và hoạt động cho đến tháng 7 - 1954.

Sự đóng góp của nhân dân Định Hoá trong việc khôi phục mạng lưới

giao thông đã bảo đảm được yêu cầu vận chuyển lương thực, thực phẩm, hàng

hoá vào ATK và vận tải vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm từ hậu

phương ra tiền tuyến.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

78

Ngày 6 - 12 - 1953, tại ATK Định Hoá, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ toạ

của Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực

hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng

không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước

mà đối với quốc tế", toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung hoàn thành cho kỳ

được. Cả nước dồn ra mặt trận. Huyện uỷ Định Hoá động viên toàn dân ra tiền

tuyến. Ngoài 5.951 lượt dân công phục vụ tại ATK, đầu năm 1954, huyện còn huy

động một lực lượng lớn, thành lập nhiều đoàn dân công hoả tuyến tham gia phục

vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tổng kết chiến dịch, đoàn dân công hoả tuyến của

huyện được Hội đồng Cung cấp Trung ương tặng cờ danh dự, được Chính phủ

tặng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Là hậu phương của cuộc kháng chiến, Định Hoá đã tích cực tổ chức xây

dựng lực lượng dân quân, du kích, bộ đội địa phương phối hợp cùng bộ đội

chủ lực chiến đấu bảo vệ quê hương, đồng thời chi viện sức người cho các

mặt trận. Toàn huyện đã có 3000 thanh niên tham gia các đơn vị chủ lực của

Bộ, của Liên khu. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, huyện Định Hoá có 675

cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu.

Đặc biệt, Định Hoá với nhiều loại địa hình, lại là vùng hậu phương an

toàn, có khả năng huy động sức người, sức của, đã là nơi diễn ra nhiều cuộc

luyện quân, nhiều lần diễn tập của các binh đoàn chủ lực trước ngày xuất

phát, đi tới những trận đánh lớn trong Đông xuân 1953 - 1954.

Những đóng góp của quân và dân Định Hoá trong 9 năm kháng chiến

chống thực dân Pháp so với cả nước tuy còn nhỏ bé, nhưng trong điều kiện

của một huyện miền núi, dân cư thưa thớt, kinh tế tự cấp tự túc thì mới thấy

được những đóng góp, hy sinh đó quả là to lớn cả về sức người, sức của, góp

phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

79

Tóm lại, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc là căn

cứ địa của cả nước. Tại đây, một số huyện thuộc các tỉnh Bắc Kạn, Thái

Nguyên, Tuyên Quang được chọn làm nơi đặt các cơ quan đầu não để lãnh

đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc trong cả nước, trở thành An toàn khu

(ATK) của Trung ương. Với đầy đủ các yếu tố địa lợi và nhân hoà, được các

cơ quan tuyệt mật đặt bản doanh, Định Hoá đã trở thành bộ phận quan trọng

nhất trong ATK Trung ương. Chính tại nơi đây, nhiều quyết sách quan trọng

của Trung ương được phát đi trong cả nước, soi sáng cho toàn Đảng, toàn

quân và toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. ATK Định Hoá

chính là trung tâm của Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt Bắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

80

KẾT LUẬN 1. ATK Định Hoá khẳng định rõ hơn tầm nhìn chiến lƣợc của Trung ƣơng

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa mới ra đời đã phải đứng trước

một tình thế cực kì khó khăn. Dù đã có hơn một năm bảo vệ và xây dựng,

nhưng khó khăn đối với Nhà nước Cách mạng non trẻ vẫn còn chồng chất,

nhiều vấn đề xã hội chưa giải quyết được bao nhiêu; nội bộ nhân dân chưa

phải đã hoàn toàn thuộc về chế độ mới; trong nước không phải nơi nào cũng

an toàn.

Trong khi đó, chiến sự ngày càng lan rộng. Lực lượng địch mạnh hơn

hẳn ta. Chúng đã lần lượt chiếm được những vùng rộng lớn, bao gồm các

thành phố, các đường giao quan trọng. Nhưng ở Việt Bắc lúc bấy giờ, nhiều

nơi vẫn chưa có chiến sự lan tới. Riêng Chiến khu I, "có bốn tỉnh: Phúc, Thái,

Bắc, Cao là khu an toàn mà là khu căn cứ địa cho toàn quốc, chưa có địch

trực tiếp"[8, tr.14].

Những năm đầu toàn quốc kháng chiến (1946 - 1950), lực lượng kháng

chiến của nhân dân ta nằm trong tình trạng bị đế quốc bao vây bốn bề. Hai

nước Lào và Campuchia đã bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị trở lại.

Trung Quốc lúc đó tuy vẫn do quân Tưởng kiểm soát, nhưng là nước vốn có

quan hệ mật thiết với cách mạng nước ta. Hơn nữa, phong trào cách mạng của

nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đang trên đà

phát triển mạnh mẽ. Việc quét sạch quân Tưởng ra khỏi lục địa Trung Quốc

chỉ còn là vấn đề thời gian không xa.

Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (10 - 1949), nước Cộng hoà

nhân dân Trung Hoa ra đời, đặc biệt từ sau chiến thắng Biên giới Thu - Đông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

81

1950 của quân và dân ta, căn cứ địa Việt Bắc thoát khỏi tình trạng bị địch bao

vây phong toả. Quan hệ quốc tế của lực lượng kháng chiến được mở rộng, tạo

thế đứng vững chắc cho ATK Trung ương. Cũng từ lúc này, Việc Bắc là cửa

ngõ tiếp nhận sự viện trợ quốc tế. Do đó, việc lựa chọn và xây dựng ATK

Trung ương ở Việt Bắc trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó, xét về phương diện

đối ngoại, thông thương quốc tế, rõ ràng là có lợi hơn bất cứ nơi nào khác trên

đất nước ta.

Định Hoá cùng với Chợ Đồn, Sơn Dương và Yên Sơn là những huyện

tiếp giáp nhau, nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc. Đây là một khu vực vừa

kín đáo, vừa an toàn, vừa dễ dàng xuống miền trung du Bắc Bộ, lại thuận lợi

liên lạc với quốc tế.

Trong đó, Định Hoá " là một bộ phận của khu giải phóng cũ", vừa có địa

lợi vừa có nhân hoà. Đây là nơi dựa vào chân núi Hồng, tiến có thể công, lui có

thể giữ, có thể toả đi khắp vùng biên giới, xuống đồng bằng, giao thông liên lạc

tương đối thuận tiện để giữ vững mối liên hệ giữa Trung ương và các địa

phương, nơi có cơ sở chính trị vững chắc, đồng bào luôn hướng về cách mạng,

tin tưởng tuyệt đối ở Đảng và Chính phủ, kinh tế có thể tự cung tự cấp" [10,

tr.15].

Trải qua thời kì đấu tranh giành chính quyền, trình độ giác ngộ chính trị

và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc được nâng lên. Đồng bào

nơi đây một lòng gắn bó với Đảng, với cách mạng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ

thành quả cách mạng, bảo vệ cuộc đời độc lập, tự do. Trước khi bước vào

cuộc kháng chiến toàn quốc, các đoàn thể quần chúng ở huyện Định Hoá đã

hình thành, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Chính quyền các cấp được

củng cố, lực lượng vũ trang và bán vũ trang đã được phát triển ở nhiều nơi.

Đồng bào các dân tộc Việt Bắc nói chung, huyện Định Hoá nói riêng, có đủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

82

điều kiện chủ quan và khách quan để trở thành nơi đứng chân an toàn cho các

cơ quan đầu não trong suốt thời kì kháng chiến.

Việt Bắc nói chung và huyện Định Hoá nói riêng có địa thế hiểm trở, có

lòng dân cách mạng kiên cường. Với vị trí chiến lược tiến khả dĩ công, thoái

khả dĩ thủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã sớm nhìn thấy các

thế mạnh nhân hoà và địa lợi của khu vực này, nên đã chọn làm nơi xây dựng

ATK của Trung ương. Chọn ATK Trung ương ở Việt Bắc nói chung và Định

Hoá nói riêng chính là chọn nơi an toàn nhất, chắc chắn nhất cho cơ quan đầu

não tồn tại và lãnh đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Sự thất bại hoàn toàn

của thực dân Pháp trong cuộc tấn công lên căn cứ Việt Bắc Thu - Đông 1947

hòng chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến là thực tế khẳng định việc lựa chọn

và xây dựng ATK ở khu vực này là hoàn toàn xác đáng.

Sự ra đời của ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc là kết quả của

một sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt, dự kiến được xu thế phát triển của tình

hình lúc đó.

2. ATK Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc là một sáng tạo

của Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, vấn đề bảo toàn cơ quan

lãnh đạo đầu não là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, cần phải

chọn một nơi thực sự an toàn cho cơ quan đầu não đứng chân để lãnh đạo

phong trào cách mạng toàn quốc. Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm

của dân tộc, ông cha ta đã từng biết lập căn cứ địa làm nơi đặt bản doanh,

chiêu mộ binh sĩ, phát triển lực lượng.

Ngay từ thế kỷ VI, Triệu Quang Phục dựa vào đầm Dạ Trạch (Khoái

Châu, Hưng Yên) làm nơi đứng chân, tiến hành chiến tranh du kích đánh đuổi

quân Lương, giải phóng đất nước. Trong thế kỉ XV, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

83

lấy vùng đất Lam Sơn ( Thọ Xuân, Thanh Hoá ) làm căn cứ địa, chiêu mộ

nghĩa quân, phát triển lực lượng, đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho

dân tộc." Căn cứ Lam Sơn đã mang đầy đủ các nhân tố: Địa - quân sự, Địa -

chính trị, Địa - kinh tế, Địa - văn hoá" [10, tr.57].

Tới thời Cận đại, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân

dân ta liên tiếp nổ ra. Việc xây dựng căn cứ địa trở thành một nhân tố căn bản

không thể thiếu của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp.

Khởi nghĩa Trương Định có căn cứ Tân An - Gò Công. Nguyễn Trung

Trực lập căn cứ ở Hòn Chông. Phạm Bành và Đinh Công Tráng xây dựng căn

cứ phòng thủ ở Ba Đình. Nguyễn Thiện Thuật xây dựng căn cứ ở Bãi Sậy.

Phan Đình Phùng dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng các tỉnh Thanh Hoá,

Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình để xây dựng thành bốn căn cứ lớn, trong đó

căn cứ Vụ Quang (phía Tây Hương Khê) là căn cứ lớn nhất của nghĩa quân.

Đặc biệt, với việc thành lập căn cứ ở rừng núi vùng Yên Thế rộng lớn để tiến

hành chiến tranh du kích, cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã

kéo dài trong 30 năm, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất và nỗi kinh

hoàng.

Dù ở mức độ khác nhau, nhưng việc xây dựng căn cứ địa trong các cuộc

khởi nghĩa chống thực dân Pháp thời cận đại đều là sự kế thừa và phát huy

truyền thống căn cứ địa Lam Sơn, coi trọng cả bốn nhân tố, trong đó "Địa -

quân sự" và "Địa - chính trị" được đặt lên hàng đầu. Tuy vậy, việc xây dựng

ATK trong căn cứ địa là chưa có. Ngay trong khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa

Yên Thế, mặc dù diễn ra trong thời gian dài và có căn cứ rộng lớn, cũng chưa

bao giờ ông cha ta nghĩ đến xây dựng an toàn khu trong căn cứ địa" [10,

tr.58]. Trong trường hợp đó, căn cứ địa cũng là ATK, yếu tố " Địa - quân sự"

và "Địa - chính trị" đều được coi trọng ngang nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

84

Trong điều kiện lịch sử mới, lại phải đối chọi với một kẻ thù có nhiều

kinh nghiệm cai trị và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, có trình

độ tác chiến và trang bị kỹ thuật vượt trội chúng ta một khoảng cách có tính

thời đại, từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã sáng tạo một phương

thức mới độc đáo để bảo toàn cơ quan đầu não, đó là xây dựng các ATK.

Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, chúng ta có cả một hệ

thống căn cứ địa rộng khắp đất nước. Từ hai căn cứ địa ban đầu là Bắc Sơn -

Võ Nhai, Cao Bằng, đến tháng 6 - 1945, chúng ta đã thành lập được Khu Giải

phóng rộng lớn gồm 6 tỉnh (Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà). Nhiều nơi

cũng lập được các chiến khu.

Cùng với hệ thống căn cứ địa, trong Cách mạng tháng Tám, tại Bắc Bộ chúng

ta đã xây dựng được hai Khu an toàn (ATK) của Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ,

nhưng lại nằm trên những địa bàn riêng biệt, bên ngoài khu vực căn cứ địa.

ATK I bao gồm hơn một nửa vùng ngoại thành Hà Nội, nằm hai bên bờ

sông Hồng. Đây là nơi đóng các cơ quan Trung ương Đảng và các cơ quan

của Xứ uỷ Bắc Kỳ trong thời kỳ chuẩn bị giành chính quyền. ATK II được

xây dựng trên vùng đất rộng hai bên bờ sông Cầu, bao gồm hầu hết các xã

trong huyện Hiệp Hoà (tỉnh Bắc Giang), một số xã thuộc hai huyện Phổ Yên

và Phú Bình (tỉnh Thái Nguyên). Đây là nơi đóng và hoạt động của Trung

ương Đảng và Xứ uỷ Bắc kỳ trong những năm 1943 - 1945.

Do nằm trên những địa bàn riêng biệt, thậm chí cách xa nhau, giữa các

khu căn cứ địa với các ATK có mối liên hệ thông qua những đường dây liên

lạc bí mật. Như vậy, các ATK trong Cách mạng tháng Tám không có “vành

đai” căn cứ địa bên ngoài che chắn, bảo vệ. Do đó, tính chất an toàn của các

ATK bị hạn chế, dễ bị địch tấn công.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc là căn cứ địa chủ yếu

của cả nước. Trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, một số huyện thuộc ba

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

85

tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn được chọn làm địa bàn đặt cá cơ

quan đầu não. Như vậy, ATK Trung ương được xây dựng ngay trong lòng căn

cứ địa kháng chiến Việt Bắc. ATK Trung ương không tồn tại độc lập, tách

biệt với căn cứ địa, mà là hạt nhân bên trong căn cứ địa. Căn cứ địa Việt Bắc

là "vành đai" bên ngoài che chắn, bảo vệ cho ATK.Tại Trung tâm An toàn

khu Trung ương trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, Định Hoá là ATK

tuyệt mật, " là nơi bảo đảm an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan đầu

não của Đảng và Chính phủ về sống và chỉ đạo sự nghiệp kháng chiến kiến

quốc của toàn dân ta. Cũng chính tại nơi đây những quyết sách lớn của Đảng

về hai nhiệm vụ chiến lược đã ra đời dẫn quân dân ta đi từ thắng lợi này đến

thắng lợi khác" [10, tr.16].

Sáng tạo của Đảng không những ở cách thức xây dựng, mà còn ở cả nội

dung xây dựng ATK. Nếu ATK Trung ương trong Cách mạng tháng Tám chú

trọng xây dựng cơ sở chính trị, thì ATK Định Hoá trong căn cứ địa kháng

chiến Việt Bắc được xây dựng toàn diện, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quân

sự, văn hoá, giáo dục, y tế...Nhờ đó, Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến

Việt Bắc thực sự trở thành khu vực an toàn của các cơ quan đầu não trong

suốt thời kỳ toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.

3. Sự tồn tại vững chắc và vai trò to lớn của ATK Định Hoá trong suốt

những năm kháng chiến chống thực dân Pháp là một minh chứng cho tinh

thần và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc Định Hoá.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, huyện Định

Hoá cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang), Chợ Đồn (Bắc

Kạn) đã vinh dự được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm

Trung tâm ATK trong căn cứ địa Việt Bắc. Định Hoá trở thành nơi đứng chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

86

thường xuyên, lâu dài của các cơ quan đầu não, nhiều kho tàng, nhiều nhà máy

quan trọng của Trung ương Đảng, Chính phủ và Quân đội.

Nhận thức rõ vị trí của quê hương trong căn cứ địa Việt Băc, nhân dân

các dân tộc Định Hoá phát huy truyền thống yêu nước, đã hăng hái tham gia

cách mạng, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với bộ

đội chủ lực chiến đấu đẩy lùi nhiều đợt càn quét của địch, bảo vệ an toàn tuyệt

đối Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, linh hồn của cuộc

kháng chiến. Trong chiến đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ bộ đội địa phương và dân

quân, du kích đã nêu cao tấm gương kiên quyết hy sinh để bảo vệ an toàn cơ

quan đầu não kháng chiến. Hàng vạn người, từ cụ già đến em nhỏ ở tất cả 24 xã

của Định Hoá đều là tai, mắt bảo vệ ATK, làm tốt công tác bảo mật, phòng

gian, thực hiện triệt để khẩu hiệu "Ba không", làm vô hiệu hoá hoàn toàn các

hoạt động trinh sát, do thám, phá hoại của kẻ địch. Các lực lượng vũ trang nhân

dân huyện Định Hoá đã làm tốt công tác tuần tra, canh gác, bảo vệ trật tự, an

ninh trên địa bàn, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và trừng trị bọn Việt gian, gián

điệp, biệt kích phá hoại ATK. Do đó, mọi hoạt động, sự đi lại của Chủ tịch Hồ

Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ hoàn toàn được giữ kín

không phải vài ba tháng, mà nhiều năm cho đến kháng chiến thắng lợi.

Là chủ nhân một huyện miền núi với nền kinh tế tự cung, tự cấp, nhân

dân các dân tộc Định Hoá đã nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản

xuất lương thực, thực phẩm, thực hành tiết kiệm, vừa đảm bảo cuộc sống của

mình, vừa cung cấp cho các cơ quan kháng chiến đóng trên địa bàn huyện và

làm tròn nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào các dân tộc

huyện Định Hoá đã đóng góp cho kháng chiến hàng ngàn tấn thóc và ủng hộ

các cơ quan Trung ương hàng vạn tàu lá cọ, hàng vạn tấn củi cho xưởng quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

87

giới để sản xuất vũ khí, hàng vạn cây tre, gỗ để làm nhà cho các cơ quan.

Nhiều hộ gia đình đã sẵn sàng nhường nhà cho bộ đội ở, chăm sóc, nuôi dưỡng

thương binh...Nhờ có sự giúp đỡ về mọi mặt và bảo vệ an toàn của quân và dân

Định Hoá, các cơ quan đầu não kháng chiến, các đồng chí lãnh đạo cao cấp của

Đảng, Chính phủ và Quân đội có điều kiện thuận lợi để tập trung lãnh đạo, chỉ

đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc đi đến thắng lợi.

Có thể nói, trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân và dân Định

Hoá đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần và khả năng cách

mạng to lớn của mình, làm tròn vai trò của một ATK Trung ương trong căn cứ

địa Việt Bắc. Sự tồn tại vững chắc của ATK Định Hoá trước những cuộc tấn

công, càn quét, lùng sục của kẻ thù trong Thu - Đông 1947 và trong những năm

tháng còn lại của cuộc kháng chiến chống Pháp là một minh chứng cho tinh

thần và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá.

4. Thành công của việc xây dựng ATK Trung ƣơng ở Định Hoá trong

những năm kháng chiến chống Pháp cho thấy sự cần thiết phải dựa vào

dân, xây dựng căn cứ, hậu phƣơng vững chắc trong lòng dân. Lấy dân làm

gốc chính là quan điểm cơ bản trong quá trình xây dựng và bảo vệ ATK. Dựa

vào dân, bám chắc vào dân được coi là một nguyên tắc, một điều kiện tiên

quyết bảo đảm sự tồn tại vững chắc của ATK, bởi vì nhân dân sống ngay trong

lòng căn cứ, là lực lượng chủ yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ ATK.

Chính vì vậy, ngoài công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng trong

nhân dân, phải hết sức coi trọng mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ giữa cơ quan,

đơn vị với nhân dân địa phương, nghiêm chỉnh thực hiện chính sách dân tộc

của Đảng và kỷ luật trong quan hệ với dân, quan tâm giúp đỡ một cách thiết

thực đến việc tổ chức đời sống mọi mặt của nhân dân các dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

88

5. ATK Định Hoá - Trung tâm Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt

Bắc gắn liền với sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Chính phủ, Bộ Tổng tƣ lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày

nay đã trở thành khu di tích đặc biệt quan trọng. Các di tích lịch sử thuộc

ATK Định Hoá, cùng với hệ thống di tích thuộc " Chiến khu Việt Bắc" đã được

Chính phủ đánh giá" là quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt

Nam trong thế kỷ XX".

Hệ thống di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến thuộc ATK Định Hoá là

di sản văn hoá quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là địa chỉ đỏ trong

công tác giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho

các thế hệ hôm nay và mai sau. Chính vì vậy, việc đầu tư phục hồi, bảo tồn và

tôn tạo Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá là góp phần giữ gìn và phát huy giá

trị các di sản văn hoá, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam

tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy tác dụng của Khu Di tích trong việc

giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân các dân tộc.

Trong những năm gần đây, Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá đã và

đang được Nhà nước đầu tư, các Bộ, ngành Trung ương giúp đỡ, tôn tạo. Vùng

trung tâm ATK Định Hoá đã được đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, làm thay

đổi diện mạo của vùng chiến khu xưa. Để Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá

thực sự trở thành một Khu Di tích đặc biệt quan trọng, xứng đáng với vị thế

của nó trong lịch sử cách mạng dân tộc, thu hút đông đảo đồng bào cả nước và

bạn bè quốc tế tới tham quan du lịch thì bên cạnh việc đầu tư tôn tạo các di tích

với quy mô lớn, cần có sự đầu tư chiều sâu theo mô hình " Cụm di tích lịch sử -

du lịch - văn hoá".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái

Nguyên, tập 1 (1936 - 1965), Công ty in Thái Nguyên.

3. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên

- Thái Nguyên với Bác Hồ, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

4. Ban chấp hành Huyện uỷ Định Hoá (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Định

Hoá (1930 - 2000), Nhà máy in Quân đội.

5. Ban NCLSĐ Bắc Thái (1987), Bắc Thái trong căn cứ địa Việt Bắc, XN in

Thái Nguyên.

6. Ban chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (2004), Lịch sử lực lượng vũ trang

nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

7. Ban NCLSĐ Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ Liên khu Việt

Bắc, tập 1.

8. Ban NCLSĐ Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ Kiên khu Việt

Bắc, tập 2.

9. Ban Chỉ huy quân sự Huyện Định Hoá (2007), Huyện Định Hoá - Lịch sử

kháng chiến chống xâm lược và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc (1945 - 2000),

Công ty Cổ phần in Thái Nguyên.

10. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tỉnh Thái Nguyên (2004), Hồ Chí Minh với việc

xây dựng ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc, Kỷ yếu Hội thảo

khoa học, Công ty in Thái Nguyên.

11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Thái (1990), Bắc Thái lịch sử kháng chiến

chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nhà máy in Quân đội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

90

12. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (1998), Thái Nguyên trong chiến

thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nhà máy

in Quân đội.

13. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (1992), Thái Nguyên lịch sử đấu

tranh cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941 - 1954), Xí nghiệp

in Bắc Thái.

14. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1990), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ

quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân

Pháp (1945 - 1954), tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

15. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ

quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân

Pháp (1945 - 1954), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

16. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ

quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân

Pháp (1945 - 1954), tập 3, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

17. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Một số trận đánh trên chiến trường Việt

Bắc (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

18. Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu I, Bộ Tư lệnh Quân khu II, Viện

Lịch sử Quân sự Việt Nam (2008), Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông

1947 - Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt của cuộc kháng chiến, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

19. Các báo cáo, văn kiện các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện Định Hoá, lưu tại văn

phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên và Văn phòng Huyện uỷ Định Hoá.

20. Các báo cáo của Uỷ ban hành chính huyện, của Ban Chỉ huy Huyện đội

huyện Định Hoá, lưu tại Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái

Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

91

21. Trường Chinh (1965), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

22. Các báo cáo của Ban chỉ huy Quân sự huyện Định Hoá, lưu tại Ban Chỉ

huy Quân sự huyện Định Hoá và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên.

23. Đảng bộ huyện Định Hoá (1995), Định Hoá 50 năm đấu tranh xây dựng và

trưởng thành, Kho lưu trữ Huyện uỷ huyện Định Hoá.

24. Đảng bộ huyện Định Hoá (1997), Lịch sử ATK Định Hoá trong kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nhà máy in Quân

đội.

25. Đảng bộ huyện Định Hoá (2001), Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 -

2000), Nhà máy in Quân đội.

26. Đảng uỷ Thị trấn Chợ Chu (2001), Lịch sử Đảng bộ Thị trấn Chợ Chu

(1946 - 2000), Xí nghiệp in Bắc Thái.

27. Đảng uỷ BCH Quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn lịch sử kháng chiến

chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

28. Trần Bá Đệ (2002), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay (in lần thứ 3), Nxb

Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

29. Philip Đơvile (1993), Pari - Sài Gòn - Hà Nội, Nxb Hồ Chí Minh.

30. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

31. Võ Nguyên Giáp (1977), Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà

Nội.

32. Võ Nguyên Giáp (1991), Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

33. Võ Nguyên Giáp (2001), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

92

34. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và Con đường Cách mạng

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Lê Mậu Hãn (1995), Đảng Cộng sản Việt Nam, Các Đại hội và Hội nghị

Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Lê Văn Hiến (1995), Nhật ký của một Bộ trưởng, tập I, Nxb Đà Nẵng.

37. Lê Văn Hiến (1995), Nhật ký của một Bộ trưởng, tập II, Nxb Đà Nẵng.

38. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Chiến thắng đường số 4

và Chiến dịch Biên giới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Xí nghiệp In Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

39. Huyện uỷ - UBND huyện Định Hoá (1996), Báo cáo thành tích của quân

và dân huyện Định Hoá đề nghị tuyên dương " Đơn vị anh hùng lực

lượng vũ trang", Kho lưu trữ Huyện uỷ Định Hoá.

40. Hoàng Ngọc La (1995), Căn cứ địa Việt Bắc (1940 - 1945), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

41. Vũ Tự Lập (1968), Địa lý Việt Bắc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn Đình Lễ (1998), Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến nay), Nxb

Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

43. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập IV, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

44. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập V, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

45. Nguyễn Xuân Minh (1996), ATK Trung ương ở Việt Bắc trong kháng

chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa

học Lịch sử, Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

46. Nguyễn Xuân Minh (2006), Căn cứ địa ATK Việt Bắc - Một sáng tạo

trong kháng chiến chống thực dân Pháp, (Tạp chí Lịch sử Quân sự) số

180, tháng 9 năm 1995).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

93

47. Trịnh Nhu và Trinh Mưu, An toàn khu II và Hội nghị Quân sự Cách mạng

Bắc Kì - Sự chuẩn bị lực lượng tích cực và chủ động cho Cách mạng

tháng Tám (Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 9 năm 1995).

48. Nxb Việt Bắc (1971), Bác Hồ với Việt Bắc.

49. Nxb Công an nhân dân (1985), Những năm tháng bên Bác (chiến sĩ cảnh

vệ kể về Bác), Hà Nội.

50. Nxb Chính trị Quốc gia (1994), Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập IV,

Hà Nội.

51. Nxb Chính trị Quốc gia (1995), Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập V,

Hà Nội.

52. Nxb Lý luận Chính trị (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên, Thái Nguyên với

Bác Hồ, Hà Nội.

53. Nxb Quân đội nhân dân (2008), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp,

Hà Nội.

54. Nxb Quân đội nhân dân (1980), Việt Bắc 30 năm chiến tranh Cách mạng

(1945 - 1975), tập 1, Hà Nội.

55. Nxb Quân đội nhân dân (1976), Văn kiện Quân sự của Đảng, Hà Nội.

56. Nxb Sự thật (1986), Văn kiện của Đảng về kháng chiến chống Pháp, tập

1, Hà Nội.

57. Nxb Sự thật (1986), Văn kiện của Đảng về kháng chiến chống Pháp, tập

2, Hà Nội.

58. Nxb Sự thật (1980), Hồ Chí Minh tuyển tập, Hà Nội.

59. Nxb Sự thật (1987), Trường Chinh tuyển tập (1937-1954), Hà Nội.

60. Nxb Sự Thật ( 1987), Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Sự nghiệp kinh

tế và văn hoá 1945-1960, Hà Nội.

61. Nxb Sự thật (1969), Văn kiện Đảng (từ 25-11-1945 đến 31-12-1947), Hà

Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

94

62. Nxb Thanh niên (1980), Theo chân Bác đi kháng chiến, Hà Nội.

63. Nguồn tư liệu khảo sát điền dã, nhân chứng lịch sử.

64. Anh Quân (1974), Theo chân Bác đi chiến dịch, Nxb Văn học Giải phóng,

Hà Nội.

65. Sở Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên (2003), Thái Nguyên Đất và Người,

Công ty in Thái Nguyên.

66. Sở Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên (2006), Từ ATK Thái Nguyên đến

chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Công ty Cổ phần in Thái Nguyên.

67. Vi Văn Thiện, Về xây dựng căn cứ địa - Hậu phương trong kháng chiến

chống Pháp (Tạp chí Lịch sử quân sự, số 18 tháng 6 năm 1987).

68. Tỉnh bộ Việt Minh Thái Nguyên (1949), Việt Minh Thái Nguyên 1941 -

1949, Ty Thông tin Thái Nguyên.

69. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1974), Hậu phương chiến tranh nhân

dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

70. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Sự thật, Hà Nội.

71.Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2008), Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông

1947 - Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt của cuộc kháng chiến, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

72. Viện Sử học (1997), Nửa thế kỷ nhìn lại ngày toàn quốc kháng chiến

19/12/1946 - 19/12/1996, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

95

PHỤ LỤC

[ẢNH TƯ LIỆU]

Chủ tịch Hồ Chí Minh ở ATK Định Hoá (1947)

Bác Hồ trên đƣờng công tác ở chiến khu Việt Bắc

[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BÀY ATK ĐỊNH HOÁ]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

96

[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]

Lán Khau Tý, Hồ Chủ tịch đặt cơ quan đầu tiên (20/5/1947) tại Điềm Mặc, ATK Định Hoá.

[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]

Di tích Nhà sàn Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh và Văn phòng T.Ƣ Đảng ở Nà Mòn, Phú Đình, Định Hoá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

97

[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]

Di tích nơi ở, làm việc của Phó Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng ở đồi Thẩm Khen, xã Phú Đình, huyện Định Hoá.

Di tích nơi ở làm việc của Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp và văn phòng Bộ Tổng tƣ lệnh (1949 - 1954) ở đồi Đỏn My, Bảo Linh, Định Hoá.

[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

98

[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BÀY ATK ĐỊNH HOÁ]

Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Lƣơng Bằng (hàng đầu bên phải), đồng chí Trần Đăng Ninh, và đồng chí Trƣờng Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lƣơng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ở Nà Mòn, xã Phú Đình, ATK Định Hoá 1951.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

99

[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BÀY ATK ĐỊNH HOÁ]

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh, Phó Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng tại ATK Định Hoá.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

100

Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh (thứ 3 bên trái) và Uỷ viên Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng Hoàng Quốc Việt thăm nhà máy Quân giới ở ATK Định Hoá.

[ẢNH TƯ LIỆU]

[ẢNH TƯ LIỆU]

Cán bộ, phóng viên Báo Sự thật ở nhà dân ở Quảng Nạp (Bình Thành) ATK Định Hoá.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

101

[ẢNH TƯ LIỆU]

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi công tác của Hội đồng Chính phủ với Phó Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng ở ATK Định Hoá

[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BẦY ATK ĐỊNH HOÁ]

Ngày 6/12/1953 tại Tỉn Keo, xã Phú Đình, ATK Định Hoá, Hồ Chủ tịch chủ toạ hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

102

[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BẦY ATK ĐỊNH HOÁ]

Chủ tịch Xu-va-nu-vông và Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK Định Hoá.

[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BẦY ATK ĐỊNH HOÁ]

Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Văn Lƣơng và Lêôphighe thành viên Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp, bí thƣ đoàn thanh niên dân chủ, nghị sĩ Quốc hội Pháp tại Điềm Mặc, ATK Định Hoá.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

103

[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]

Nhà tƣởng niệm Bác Hồ, khu di tích lịch sử ATK Định Hoá, Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

104

[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]

Nhà trƣng bày ATK Định Hoá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

105