BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thu
CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở CỦ CHI
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ MINH HỒNG
Thaønh phoá Hoà Chí Minh - 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa qua đã để lại cho dân tộc ta nhiều bài học kinh
nghiệm quí giá. Trong đó, bài học về xây dựng hậu phương kháng chiến có ý nghĩa quan trọng.
Như V.I. Lênin từng nói: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh, phải có một hậu
phương được tổ chức vững chắc”[49, tr. 90].
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, có một nội dung quan trọng là vấn đề căn cứ địa và hậu
phương. Căn cứ địa là nơi đứng chân xây dựng, là nguồn cung cấp, tiếp tế, là bàn đạp tiến công
của các lực lượng vũ trang cách mạng trong khởi nghĩa vũ trang. Hậu phương là chỗ dựa, là nguồn
chi viện nhân lực, vật lực và cổ vũ về tinh thần cho tiền tuyến đánh giặc, là nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi của chiến tranh.
Tiếp thu học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin và kế thừa truyền thống đấu tranh chống
ngoại xâm của cha ông ta trong lịch sử, Đảng ta luôn đặt vấn đề xây dựng hậu phương lên hàng
quan trọng bậc nhất, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nên đã nhân lên gấp
bội sức mạnh của một dân tộc nhỏ bé, kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, nhưng đủ sức đánh bại kẻ
thù là một cường quốc. Một trong những chìa khóa tạo nên sức mạnh của hậu phương chiến tranh
Việt Nam là vấn đề xây dựng căn cứ địa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn khởi nghĩa
phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương” [28, tr. 360].
Từ thực tiễn Việt Nam – một nước đất không rộng, người không đông, nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu phải chống lại những tên đế quốc có nền công nghiệp và khoa học kỹ thuật phát
triển, có tiềm lực kinh tế và quân sự to lớn, Hồ Chí Minh xác định: “thắng lợi phải đi đôi với
trường kỳ, kháng chiến càng lâu dài và ác liệt, càng phải huy động cao nhất sức người, sức của
của căn cứ địa, hậu phương. Vì vậy, nhất thiết phải xây dựng căn cứ, hậu phương vững mạnh,
toàn diện về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa…” [28,
tr. 378].
Trên cơ sở lý luận đó, căn cứ địa đã được xây dựng và phát triển mạnh mẽ, rộng khắp toàn
miền Nam, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, miền Đông Nam Bộ là chiến trường tranh chấp
chính giữa ta và địch. Nhưng có lẽ Củ Chi là nơi được địch chú ý hơn hết vì “cái vị trí đặc biệt, cái
thế đứng lợi hại của Củ Chi về mặt quân sự đối với sự sống còn của chế độ Sài Gòn” [84, tr. 18].
Vì vậy, trong suốt 21 năm, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã dồn về đây những nỗ lực cao nhất để đè
bẹp cuộc kháng chiến. Nhưng cuối cùng, lực lượng kháng chiến đã giành thắng lợi. Trong thắng
lợi đó có vai trò to lớn của căn cứ địa Củ Chi với tư cách là hậu phương tại chỗ. Vậy, căn cứ địa
Củ Chi đã được xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò như thế nào trong cuộc kháng chiến trên địa
bàn? Đã có một số công trình nghiên cứu lịch sử quân sự nói chung và về căn cứ địa ở Củ Chi nói
riêng đề cập đến vấn đề này, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào phản ánh được toàn diện,
có hệ thống căn cứ địa ở Củ Chi trong kháng chiến chống Mỹ. Là người con của Củ Chi, đang
giảng dạy Lịch Sử cho thế hệ trẻ, bản thân tôi thấy cần thiết đi sâu tìm hiểu về vấn đề này nhằm
góp phần làm rõ hơn một mảng quan trọng của lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên
địa bàn mình đang sinh sống. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, kiên cường
chống giặc ngoại xâm của dân tộc cho thế hệ trẻ ngày nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng của vấn đề hậu phương – căn cứ địa trong chiến tranh nên đề tài này đã
được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi của các lãnh tụ, tướng lĩnh, các cơ quan nghiên cứu khoa
học, các nhà khoa học… Những tác phẩm, bài viết, luận án…đề cập đến vấn đề căn cứ địa ngày
càng nhiều hơn, nội dung sâu sắc hơn.
Trong các tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”, (Nhà xuất bản Sự Thật,
Hà Nội, 1970) và “Đường lối quân sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh
nhân dân ở nước ta” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973), Đại tướng Võ Nguyên
Giáp trình bày về căn cứ địa dưới góc độ lý luận, giải quyết một số vấn đề: Khái niệm căn cứ địa,
các hình thức phát triển từ thấp đến cao của căn cứ địa, cơ sở để xây dựng và vai trò của căn cứ địa
trong chiến tranh giải phóng.
Sau năm 1975, do nhu cầu bảo vệ tổ quốc, đề tài căn cứ địa được tiếp tục nghiên cứu trên cả
hai bình diện: lý luận, tổng kết và viết lịch sử.
Về lý luận, xuất hiện nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài quân đội, đáng chú
ý là các bài của nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng: “ Vài suy nghĩ về hậu phương chiến tranh nhân
dân Việt Nam” (Tạp chí lịch sử quân sự số 3 năm 1993) và của nhà nghiên cứu Sử học Văn Tạo: “
Căn cứ địa cách mạng – truyền thống và hiện tại” (Tạp chí lịch sử quân sự số 4 năm 1995). Các
bài viết này tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận về căn cứ địa như: khái niệm, nguồn gốc, tính
chất, đặc điểm …nêu bật những đặc trưng của căn cứ địa ở Việt Nam nói chung và trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ nói riêng.
Về tổng kết, có một số công trình quan trọng. Tổng kết chung của cả nước có sách: “ Hậu
phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 – 1975) ( Bộ quốc phòng – Viện lịch sử quân sự
Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997), sách “ Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) (Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Hà Nội,
2005)…Bên cạnh đó có sách “ Tổng kết công tác hậu cần chiến trường Nam Bộ - Cực Nam Trung
Bộ (B2) trong kháng chiến chống Mỹ” (Tổng cục hậu cần, 1986) có liên quan nhiều đến vấn đề
căn cứ.
Ngoài các tổng kết chung, một số căn cứ địa trên địa bàn miền Đông Nam Bộ cũng được quan
tâm, nghiên cứu trong các công trình tổng kết hoặc viết lịch sử như: “Chiến khu Rừng Sác”, “Lịch
sử Chiến khu Đ”,…Riêng cuốn sách “Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 – 1954)” của tác giả
Hồ Sơn Đài (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1996) và luận án tiến sĩ lịch sử “ Căn cứ địa
ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)” của Trần Thị Nhung (năm
2001) đã nghiên cứu một cách khái quát và có hệ thống về toàn bộ căn cứ địa miền Đông Nam Bộ
trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đem lại những kiến thức bổ ích và những bài học về
phương pháp cho việc nghiên cứu.
Qua đó, có thể thấy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, tác phẩm…đề cập đến một số mặt
lý luận và thực tiễn của việc xây dựng căn cứ địa ở các thời kỳ và các địa phương cụ thể. Qua các
nghiên cứu này, các tác giả đã lý giải về khái niệm căn cứ địa, về chức năng hoạt động, nội dung
xây dựng và vai trò của căn cứ địa đối với sự nghiệp kháng chiến nói chung và kháng chiến chống
Mỹ nói riêng, đưa ra một số đặc trưng của căn cứ địa ở Việt Nam, các kiến thức về một số căn cứ
địa cụ thể.
Riêng về Củ Chi, có một số sách, tài liệu có đề cập đến đề tài này như: Sách “Lịch sử Sài Gòn
- Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến” (1945- 1975) (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1994);
sách “ Sơ thảo lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Củ Chi
( 1930-1975)” (Ban chấp hành Đảng bộ huyện Củ Chi, 1985) và sách “ Lịch sử lực lượng vũ trang
nhân dân huyện Củ Chi (1945- 2005)” (Ban chỉ huy quân sự huyện Củ Chi, Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, 2006), sách “ Bến Dược – vùng đất lửa” của tác giả Nguyễn Văn Tào (Nhà xuất bản
Văn Nghệ, thành phố Hồ Chí Minh, 1994), sách “Củ Chi - huyện anh hùng” của tác giả Phạm
Cường ( Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 2008, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Củ
Chi xuất bản sách “ Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và nhân dân huyện Củ
Chi” (Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh)…Các công trình trên đã phán ánh khá
đầy đủ, toàn diện về cuộc kháng chiến chống Mỹ của Đảng Bộ và nhân dân Củ Chi nói riêng, của
quân khu Sài Gòn – Gia Định… nói chung trên địa bàn Củ Chi. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu về căn cứ địa ở Củ Chi một cách toàn diện và có hệ thống. Với luận văn này, tôi sẽ tiếp
tục quá trình tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về căn cứ địa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước trên địa bàn Củ Chi.
3. Ðối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, tôi tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và các hoạt động
chức năng của căn cứ địa ở Củ Chi trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Từ đó, rút
ra những đặc điểm và đánh giá vai trò của nó đối với tiến trình chung của cuộc kháng chiến.
Phạm vi thời gian nghiên cứu được tính từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết đến khi
chính quyền Sài Gòn sụp đổ và miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Không gian đề cập của luận văn là vùng đất Củ Chi - huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí
Minh ngày nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là lý luận về cách
mạng giải phóng dân tộc và căn cứ địa để làm cơ sở nghiên cứu. Về phương pháp chuyên ngành,
luận văn vận dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu, kết hợp với phương pháp lôgic để dựng lại
toàn bộ quá trình hình thành, phát triển và các hoạt động chức năng của căn cứ địa ở Củ Chi với tất
cả những diễn biến, sự kiện điển hình một cách chân thực như nó từng có.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp liên ngành, tiếp xúc
các nhân chứng lịch sử, phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp tổng hợp, trên cơ sở khảo cứu
các nguồn tư liệu… để nghiên cứu và trình bày luận văn.
5. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu trước, luận văn góp phần dựng
lại toàn bộ quá trình hình thành, phát triển và những hoạt động của căn cứ địa ở Củ Chi trong tiến
trình của cuộc kháng chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ và Đảng bộ địa
phương các cấp. Từ đó, thấy được những giá trị và kinh nghiệm mà nó để lại, bổ sung thêm vào
những mảng còn trống trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện đại, đặc biệt là lịch sử địa phương;
góp phần vào nghiên cứu về chiến tranh cách mạng nói chung, về căn cứ địa trong chiến tranh
cách mạng nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng giảng dạy lịch sử địa phương ở Củ Chi,
giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Từ đó, khơi dậy ý thức giữ gìn, bảo tồn các
khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay.
6. Bố cục của luận văn
- Mở đầu (7 trang).
- Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về căn cứ địa và sự tái lập căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi khi bước vào
kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1960) (31 trang).
Chương 2: Quá trình phát triển và hoạt động của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi (1961 -
1975) (41trang).
Chương 3: Đặc điểm, vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trong kháng chiến chống Mỹ
(1954 – 1975) (27 trang).
- Kết luận (4 trang)
- Tài liệu tham khảo (11 trang).
- Phụ lục (38 trang).
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CĂN CỨ ĐỊA VÀ SỰ TÁI LẬP CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở CỦ CHI
KHI BƯỚC VÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 – 1960)
1.1. Khái quát về căn cứ địa
Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích căn cứ địa cách mạng là “vùng được chọn để làm bàn
đạp xây dựng và phát triển phong trào cách mạng rộng ra các vùng khác. Căn cứ địa cách mạng
phải có khả năng tạo được những cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội và địa lý thuận lợi cho
đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng. Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải bắt đầu từ
xây dựng cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng để trên cơ sở đó từng
bước xây dựng kinh tế, xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển của cách mạng… Ở Việt Nam, trong
cách mạng giải phóng dân tộc đã xây dựng được một số căn cứ địa cách mạng làm chỗ dựa cho
cách mạng phát triển ra cả nước như các căn cứ địa Việt Bắc, Đồng Tháp Mười, U Minh…” [63,
tr. 371].
Bàn về căn cứ địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Đội du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù cần có một vài nơi đứng chân làm cơ sở. Tại
nơi ấy, đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập. Nơi ấy phải
có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ.
Đội du kích hoạt động phát triển nhiều thì chỗ cơ sở nhỏ đầu tiên ấy có thể trở nên căn cứ địa
vững vàng, nhất là sau khi đội du kích đánh đuổi được quân giặc và thành lập chính quyền cách
mạng trong địa phương. Chưa thành lập được chính quyền địa phương thì căn cứ địa khó thành
lập và không thể củng cố được.
Có chính quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà
phát triển lực lượng và hóa ra quân chính quy”[71, tr. 504].
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”
lý giải “căn cứ địa cách mạng là những vùng giải phóng xuất hiện trong vòng vây của địch, cách
mạng dựa vào đó để tích lũy và phát triển lực lượng của mình về mọi mặt, tạo thành những trận
địa vững chắc về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, lấy đó làm nơi xuất phát để mở rộng dần ra,
cuối cùng tiến lên đánh bại kẻ thù lớn mạnh, giải phóng hoàn toàn đất nước. Căn cứ địa là chỗ
đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ dựa để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy
mạnh đấu trang vũ trang cách mạng; trên ý nghĩa đó, nó cũng là hậu phương của chiến tranh
cách mạng” [49, tr. 90].
Trong chiến tranh cách mạng ở nước ta, ngoài các căn cứ địa cách mạng, còn có một số vùng
(xã, ấp…) chưa được giải phóng hoàn toàn, cũng có những khu vực cho du kích xã đứng chân
trong các ấp đã được giải phóng. Những khu vực này được gọi là các căn cứ lõm, tức là các căn cứ
ăn sâu hay nằm lọt giữa vùng tạm chiếm của địch, có khi còn được gọi là các căn cứ du kích hoặc
lõm du kích [76, tr. 54].
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước hành động khủng bố, trả thù của
Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam bị tổn thất về tổ chức và lực lượng ngày càng nặng. Quần chúng
cách mạng bị kìm kẹp, khống chế gắt gao. Nhiều nơi đảng viên phải rút vào hoạt động bí mật,
chuyển vùng…Một số địa phương, cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng chuyển vào các căn
cứ kháng chiến cũ ở rừng núi, bưng biền, tổ chức sản xuất tự túc và tự vệ. Miền rừng núi Khu 5,
Tây Nam Bộ, Tây Nguyên xuất hiện các “trại bí mật”. Ở chiến khu Đ, Dương Minh Châu (miền
Đông Nam Bộ) hình thành “làng chiến đấu”, “làng thoát ly”. Vùng Đồng Tháp Mười ra đời các
“túi dân tản cư”. Sâu trong miệt rừng U Minh thuộc Tây Nam Bộ có các “làng rừng”. Vùng đồng
bào S.Tiêng có các “làng Độc Lập”… Đó là những hình thức khác nhau, là cơ sở ban đầu hình
thành các căn cứ địa trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ [29, tr. 188].
Khi qui mô và cường độ cuộc chiến tranh tăng lên thì căn cứ địa cũng phát triển rộng khắp.
Tùy theo điều kiện tự nhiên, xã hội, địa hình… mà căn cứ địa được xây dựng dưới nhiều hình
thức. Ở miền rừng núi Đông Nam Bộ, lợi dụng địa hình có rừng rậm, hiểm trở, lực lượng cách
mạng đã khôi phục 2 căn cứ địa lớn đã có từ thời kháng chiến chống Pháp là Chiến khu Đ và chiến
khu Dương Minh Châu, phát triển thành căn cứ Đông Bắc và Tây Bắc Sài Gòn, thành các căn cứ
chiến lược của cả Nam Bộ.
Bên cạnh căn cứ vùng rừng núi, ở miền Trung và Tây Nam Bộ nước ta còn có các căn cứ từ
thời kháng chiến chống Pháp như căn cứ Đồng Tháp Mười, là vùng đồng nước mênh mông vào
mùa mưa hoặc dạng rừng tràm, đước ngập nước như căn cứ U Minh.
Căn cứ Rừng Sác cũng là một căn cứ nổi tiếng từ thời chống Pháp. Là một vùng rừng ngập
mặn, nằm ở phía Đông Nam thành phố Sài Gòn. Tại đây, hàng trăm sông rạch lớn nhỏ dọc ngang
chằng chịt như mạng nhện, chia cắt Rừng Sác thành hàng nghìn đảo triều lớn nhỏ, thoắt chìm thoắt
nổi theo nước thủy triều. Phủ lên Rừng Sác đủ các loại cây rừng ngập mặn, đan níu nhau tầng tầng
lớp lớp. Sông rạch, đảo triều, rừng cây làm cho Rừng Sác trở thành một khu vực cực kỳ hiểm trở,
lại nằm sát cạnh thành phố Sài Gòn và ôm gọn đường giao thông thủy chiến lược nối Sài Gòn ra
quốc tế [41, tr. 77-78].
Ở những vùng không có địa thế hiểm yếu, lực lượng cách mạng cũng sáng tạo ra một dạng căn
cứ độc đáo để bảo tồn và phát triển lực lượng, đó là căn cứ địa đạo, là “căn cứ chìm”, ngầm trong
lòng đất mà tiêu biểu nhất là căn cứ địa đạo ở Củ Chi.
Ngoài ra, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các gia đình cơ sở cách mạng ở nội thành thành
phố Sài Gòn trở thành nơi chứa vũ khí, nuôi giấu, trú ém cán bộ, chiến sĩ, nơi đặt chỉ huy sở của
các đội biệt động, nơi tập kết lực lượng và bàn đạp tiến công vào các mục tiêu nội đô trong quá
trình thực hiện Tổng công kích. Những gia đình cơ sở đó đã làm công việc của một căn cứ địa thu
nhỏ, trở thành một dạng phát triển cao của “căn cứ địa lòng dân”, tạo nên một hình thức hoàn toàn
mới về căn cứ địa [76, tr. 92].
Như vậy, căn cứ địa ở nước ta nói chung, ở Nam Bộ nói riêng đa dang về hình thức. Tùy điều
kiện tự nhiên, xã hội, địa hình mà từng nơi, Đảng bộ các cấp đã lãnh đạo nhân dân xây dựng căn
cứ địa với dạng thức phù hợp, tạo nên sự phong phú, đa dạng về các loại hình căn cứ địa ở nước ta.
1.2. Căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ
1.2.1. Những điều kiện xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội
Củ chi là huyện nông nghiệp ngoại thành nằm về phía Tây- Bắc của thành phố Hồ Chí Minh.
Thị trấn Củ Chi cách trung tâm thành phố 35 km theo quốc lộ 22. Củ Chi nằm trong vành đai xanh
của thành phố với tổng diện tích tự nhiên là 42.856 ha.
Củ Chi là vùng đất tiếp giáp của bốn tỉnh miền Đông Nam Bộ. Phía Bắc- Tây Bắc giáp huyện
Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh. Phía Đông - Đông Bắc giáp huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, ngăn
cách bởi con sông Sài Gòn. Phía Tây - Tây Nam giáp huyện Đức Hòa tỉnh Long An, ranh giới tự
nhiên là kênh đào Thầy Cai. Phía Nam giáp huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh [9, tr. 10].
Với vị trí như vậy, Củ Chi là cửa ngõ Tây Bắc của thành phố Hồ Chí Minh. Trong chiến tranh,
đối với địch, Củ Chi là một khu vực vành đai then chốt bảo vệ cơ quan đầu não và bộ máy chiến
tranh của chúng ở Sài Gòn. Đối với lực lượng cách mạng, đây là bàn đạp tấn công vào đầu não của
kẻ thù. Vì vậy, Củ Chi được cả địch và lực lượng cách mạng coi là một địa bàn chiến lược quan
trọng.
Do là vùng đất tiếp nối giữa đồng bằng và cao nguyên Đông Nam Bộ nên địa hình Củ Chi cơ
bản là đồng bằng, rãi rác có một ít đồi chồi. Độ cao địa hình Củ Chi từ 0 đến 20 mét so với mặt
nước biển, nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Thổ nhưỡng của Củ Chi có thể phân ra 3 loại chủ yếu:
- Vùng bưng trũng: tập trung ở các xã phía Tây Nam, phía Nam và ven sông Sài Gòn, có độ cao
trung bình từ 1-2 mét, thường bị ngập úng vào những tháng cuối mùa mưa, chiếm 1/2 diện tích
toàn huyện. Đây là vùng đất nông nghiệp chủ yếu sản xuất lúa và rau màu các loại.
- Vùng đất triền: cao từ 5-10 mét, là vùng chuyển tiếp giữa gò và bưng trũng, chủ yếu là đất xám
bazan, chiếm 1/4 tổng diện tích và được phân bố trên hầu hết các xã của huyện, trừ các vùng phía
Bắc và ven sông Sài Gòn.
- Vùng đất gò: độ cao từ 10 đến trên 20 mét so với mặt nước biển, thường mặt gò được trải
rộng, bằng phẳng, phân bố trên khu vực các xã: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây.Vùng gò thích hợp
với việc bảo dưỡng cây rừng và trồng cây công nghiệp như cao su, tre, trúc, tầm vông…
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, giá trị của đất Củ Chi còn lớn hơn nữa vì chất
đất khô ráo, cứng chặt, là điều kiện quan trọng để lực lượng cách mạng có thể xây dựng những
đường hầm dài hàng trăm kilômét trong lòng đất, tạo nên căn cứ địa đạo Củ Chi nổi tiếng.
Củ Chi có hệ thống sông ngòi khá thuận lợi. Sông Sài Gòn là con sông lớn nhất chảy qua
huyện, ôm lấy toàn bộ phía Đông với chiều dài 54 kilômét, là ranh giới tự nhiên giữa Củ Chi và
Bến Cát (Bình Dương). Đây là một trong những tuyến vận tải đường thủy quan trọng của miền
Đông Nam Bộ. Trước năm 1975, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã lập ở khúc sông này một cảng
sông, gọi là cảng Phú Cường (thuộc thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương). Hàng chục chiến thuyền
của đơn vị giang thuyền quân đội Việt Nam cộng hòa đóng tại đây đã khống chế, kiểm soát mọi
hoạt động đi lại, vận chuyển của nhân dân trên sông.
Ngoài sông Sài Gòn, Củ Chi còn có nhiều sông, suối và kênh rạch lớn nhỏ. Ở phía Tây huyện
có một nhánh nhỏ của sông Vàm Cỏ Đông chảy vào, nối với huyện Đức Hòa (tỉnh Long An), có
suối Thai Thai (Phú Mỹ Hưng), suối Hố Bò, rạch Kè, rạch Láng The, rạch Bà Phước, rạch Sơn…
Các con sông, kênh rạch này vừa là nguồn nước sinh hoạt, nước tưới tiêu nông nghiệp, vừa là
những con đường thủy thuận tiện. Trong chiến tranh, các sông, kênh, rạch này là những con đường
liên lạc, vận chuyển vũ khí, hậu cần quan trọng của lực lượng cách mạng.
Củ Chi có mạng lưới đường bộ phong phú. Xuyên qua huyện trên dọc dài 21 kilômét từ thành
phố Hồ Chí Minh ở phía Nam lên Tây Ninh ở hướng Tây Bắc là quốc lộ 1 (nay là quốc lộ 22, còn
gọi là đường Xuyên Á). Đây là con đường chiến lược quan trọng trên hướng Tây Bắc miền Đông
Nam Bộ nối với Campuchia. Trong chiến tranh, địch đã sử dụng con đường này để cơ động lực
lượng, thường xuyên bố trí nhiều đồn bót, tháp canh, trạm kiểm soát để bảo vệ trục lộ và khống
chế các hoạt động vận chuyển của lực lượng cách mạng. Đồng thời, đây là một trong những con
đường độc đạo chạy qua vùng Bắc và Tây Bắc rộng lớn, nên các căn cứ cách mạng tại đây dễ dàng
xác định hướng tiến công càn quét của địch để đối phó. Củ Chi còn có các tỉnh lộ như: Tỉnh lộ 8
chạy ngang qua huyện, nối tỉnh Long An với tỉnh Bình Dương; Tỉnh lộ 15 dài 34 kilômét chạy từ
Hóc Môn lên Bến Súc (Bình Dương); Tỉnh lộ 7 dài 22 kilômét, nối Long An với tỉnh lộ 15; Tỉnh
lộ 9 dài 6,2 kilômét…Ngoài ra, Củ Chi còn có nhiều hương lộ, nối liền các xã, ấp trong huyện.
Như vậy, có thể nói hệ thống giao thông của Củ Chi rất thuận lợi, cả đường thủy lẫn đường bộ,
và cũng vì vậy mà cuộc giành giật giữa lực lượng cách mạng và địch trên địa bàn, trong đó có mục
đích làm chủ các tuyến đường giao thông, cũng trở nên quyết liệt hơn.
Về mặt hành chính, trước năm 1954, Củ Chi bao gồm toàn bộ phần đất của tổng Long Tuy Hạ,
tổng Long Tuy Trung và một phần của tổng Long Tuy Thượng, Bình Thạnh Trung thuộc quận
Hóc Môn, tỉnh Gia Định.
Đến năm 1957, chính quyền Sài Gòn thành lập quận Củ Chi, trực thuộc tỉnh Bình Dương, gồm
14 xã. Năm 1963, để dễ cai trị, kiểm soát và tổ chức lại chiến trường, chính quyền Sài Gòn đã chia
quận Củ Chi ra làm 2 quận: quận Củ Chi thuộc tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập, trụ sở quận lỵ đặt
tại ngã tư quốc lộ 22 và tỉnh lộ 8 và quận Phú Hòa thuộc tỉnh Bình Dương, trụ sở quận lỵ lúc đầu
đặt tại xã Phú Hòa Đông, sau dời về ngã tư Tân Qui (tỉnh lộ 8 và tỉnh lộ 15) [4, tr. 49-50].
Về phía cách mạng, sau năm 1954, Củ Chi vẫn là phần đất thuộc quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định.
Cuối năm 1959, Tỉnh ủy Gia Định đã tách Hóc Môn thành hai quận: Hóc Môn và Củ Chi, thành
lập hai cấp Ủy riêng. Từ đây, Quận ủy Củ Chi trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng của nhân
dân trong quận. Đầu năm 1960, Trung ương Cục miền Nam quyết định sáp nhập Gia Định vào Sài
Gòn – Chợ Lớn thành Khu Sài Gòn – Gia Định. Về mặt Đảng, thành Khu ủy Khu Sài Gòn – Gia
Định. Tháng 10 năm 1967, để thực hiện tổng công kích – tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục quyết
định giải thể Quân khu Sài Gòn – Gia Định và Quân khu 1 tổ chức lại chiến trường miền Đông; tổ
chức Sài Gòn – Gia Định thành khu trọng điểm. Khu Sài Gòn – Gia Định và một phần các tỉnh lân
cận, lập thành 6 phân khu. Phân khu 1 gồm các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Bến Cát, Dầu
Tiếng (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh). Tháng 10 năm 1968, do địa bàn Củ Chi trở nên hết
sức ác liệt, Phân khu 1 chia Củ Chi thành 2 quận: Nam Chi và Bắc Chi, mỗi địa bàn có 1 Quận ủy,
Quận đội riêng để tiện việc chỉ đạo hoạt động. Đến tháng 9 năm 1972, tình hình thuận lợi, ta thống
nhất lại thành huyện Củ Chi như cũ.
Hiện nay, Củ Chi có một thị trấn và 20 xã, gồm: Thị trấn Củ Chi và các xã: Tân An Hội, Tân
Thông Hội, Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An, Thái Mỹ, Phước Thạnh, Phước Hiệp, Nhuận Đức,
Phạm Văn Cội, Trung Lập Thượng, Trung Lập Hạ, An Nhơn Tây, An Phú, Phú Mỹ Hưng, Phú
Hòa Đông, Tân Thạnh Tây, Tân Thạnh Đông, Trung An, Hòa Phú và Bình Mỹ.
Cư dân Củ Chi biến động nhiều nhất trong khoảng thời gian chiến tranh (1945-1975), đặc biệt
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), do đây là một trong những vùng chiến sự diễn
ra ác liệt nhất của miền Đông Nam Bộ. Năm 1960, dân số Củ Chi có khoảng 10 vạn người. Đầu
năm 1970, tụt xuống còn khoảng 7 vạn người. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (1973), nhân
dân hy vọng, phấn khởi trở về quê cũ làm ăn, dân số tăng lên đến 13, 14 vạn người.
Người Củ Chi tương đối thuần nhất về dân tộc và tôn giáo. Toàn huyện Củ Chi có 13 dân tộc
sinh sống. Trong đó người Kinh chiếm 99,36% tổng số dân. Kế đến là người Hoa 0,58%, người
Khơme 0,04%. Các dân tộc khác: Tày, Thái, Mường, Nùng, H’Mong, Dao, Chàm,...chiếm một tỉ
lệ không đáng kể [4, tr. 43]. Tất cả các dân tộc đều sống bình đẳng, tự do, hòa hợp nhau theo
đường lối chính sách chung về các dân tộc của Đảng và Nhà nước. Các tín đồ theo các tôn giáo
như Phật giáo, Thiên Chúa giáo… cũng không có nhiều. Đa số nhân dân không tín ngưỡng, chỉ
thờ cúng ông bà, tổ tiên. Do vậy, nhà thờ, chùa chiền, thánh thất chỉ rãi rác một vài nơi. Tính chất
thuần nhất của cư dân Củ Chi là một điều kiện thuận lợi để Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định xây dựng
Củ Chi thành căn cứ địa vững chắc trong kháng chiến chống xâm lược. Tuy nhiên, cái gốc để Củ
Chi trở thành vùng “ Đất Thép Thành Đồng” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua chính là
lòng yêu nước, truyền thống chống ngoại xâm đã có từ lâu đời trên mảnh đất này.
1.2.1.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Củ Chi
Tháng 2 năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Nhân dân Gia Định và cả Nam
Bộ không chịu khuất phục, đã đứng lên tự tổ chức các đội nghĩa quân kháng chiến chống xâm lược
khắp nơi, tiêu biểu là cuộc kháng chiến của Trương Định. Sau khi thành Gia Định thất thủ, Trương
Định cùng một số quan quân rút về đồn Thuận Kiều (nay thuộc phường Đông Hưng Tân, quận 12,
thành phố Hồ Chí Minh) để tiếp tục chống Pháp. Nhân dân Củ Chi đã góp công, góp của xây đồn
Thuận Kiều, kho lương lớn nhất phục vụ cho đại đồn Chí Hòa. Trương Định mất, con trai là
Trương Quyền, tiếp tục sự nghiệp của cha, cầm quân chiến đấu. Trương Quyền đã chọn vùng 18
thôn Vườn Trầu làm căn cứ kháng chiến. Nhân dân Củ Chi lại trực tiếp nuôi dưỡng, che chở cho
nghĩa quân hoạt động. Trai tráng Củ Chi tham gia đội nghĩa binh, góp phần tạo nên nhiều chiến
công ngay trên đất quê hương như tiến đánh đồn Rạch Tra, diệt tên trưởng đồn người Pháp…
Đêm 8 tháng 2 năm 1885, nhân dân Hóc Môn nổi dậy dưới sự lãnh đạo của ông Phan Công
Hớn, tiến công dinh quận Hóc Môn. Một cánh quân từ Củ Chi, gồm dân binh các xã Tân Phú
Trung, Phước Vĩnh An… dưới sự chỉ huy của ông Nguyễn Văn Kê, theo trục lộ 22 tiến về thị trấn,
phối hợp với hai cánh quân khác từ Đức Hòa, Chợ Cầu đã chiếm gọn và đốt cháy dinh quận.
Đầu thế kỷ XX, vùng đất Củ Chi có những biến đổi sâu sắc. Công cuộc khai thác thuộc địa của
Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã biến nhiều vùng đất của Nam Bộ nói chung và Củ Chi
nói riêng thành các đồn điền cao su bạt ngàn của tư bản Pháp. Xã hội Củ Chi, ngoài nông dân và
địa chủ, xuất hiện thêm tầng lớp công nhân cao su, đa số là dân phu từ đồng bằng Bắc Bộ và có
một số là nông dân địa phương bị tước đoạt ruộng đất để làm đồn điền. Xuất thân như vậy nên
công nhân cũng như nông dân ở Củ Chi rất gắn bó với nhau và nung nấu tinh thần yêu nước,
kháng Pháp. Thời kỳ này, nhiều tư tưởng cách mạng cấp tiến của các nước Âu, Á bắt đầu du nhập
vào Việt Nam, những người yêu nước Việt Nam tìm kiếm những con đường khác nhau để giải
phóng dân tộc với sự ra đời và vận động của nhiều tổ chức, đảng phái chính trị yêu nước. Những
phong trào có ảnh hưởng nhiều ở vùng đất Củ Chi là các phong trào “Thiên địa hội” do Phan Xích
Long chủ xướng, trong những năm 1913-1916; phong trào Hội kín Nguyễn An Ninh những năm
1924-1929…
Năm 1929, những hạt giống cộng sản bắt đầu đến với đất Củ Chi, đó là đồng chí Lê trọng Mân
và đồng chí Bùi Văn Châu, hai đảng viên của An Nam Cộng sản Đảng. Dựa vào những thành quả
từ phong trào yêu nước của Nguyễn An Ninh, hai đảng viên Mân và Châu đã nhanh chóng gây
dựng được nhiều cơ sở ở các xã Bình Lý, Tân Mỹ (tức Bình Mỹ ngày nay). Sau sự ra đời của
Đảng cộng sản Việt Nam (ngày 3 tháng 2 năm 1930), thì hàng loạt Chi bộ Đảng đã ra đời trên địa
bàn quận như ở các xã Bình Lý, Tân Phú Trung, An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông… Các chi bộ này
trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân trong quận.
Tháng 8 năm 1930, nhân dân xã Hòa Phú biểu tình chống sưu cao thuế nặng. Công nhân đồn
điền cao su Mây Sắc (Phú Mỹ Hưng) và đồn điền cao su Chà Vơ (An Nhơn Tây) đấu tranh chống
sa thải, đòi tăng lương. Cuộc đấu tranh diễn ra khá mạnh mẽ buộc hai tên chủ đồn điền phải chấp
nhận yêu sách của công nhân. Đặc biệt, tháng 10 năm 1930, khi có lời kêu gọi của Trung ương
Đảng ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh, nhiều cuộc biểu tình diễn ra ở Tân Mỹ, Bình Lý, Tân Thạnh
Đông, Tân Phú Trung…
Đầu năm 1932, nghiệp đoàn xe ngựa Hóc Môn - Củ Chi đấu tranh phản đối sưu cao thuế nặng.
Ngày 8 tháng 4 năm 1932, hơn 1.400 nông dân Hóc Môn -Củ Chi kéo về huyện lỵ Hóc Môn đấu
tranh trực diện với kẻ thù để chống thuế, chống khủng bố trắng…
Nhìn chung, đến năm 1935, mặc dù bị quân thù tiến hành khủng bố trắng, cơ sở Đảng và các tổ
chức quần chúng ở Củ Chi có bị tổn thất nhưng cán bộ, đảng viên được quần chúng cách mạng che
chở vẫn kiên trì, bám đất, bám dân gây dựng phong trào.
Trong cao trào 1936-1939, vùng 18 thôn Vườn Trầu được chọn làm căn cứ địa của Trung ương
Đảng. Vì vậy, phong trào diễn ra rất sôi nổi dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Gia Định và Quận ủy
Hóc Môn, hàng chục Ủy ban hành động được thành lập ở các làng xã, phân phát truyền đơn, báo
chí, cổ động toàn dân đấu tranh đòi triệu tập “Đại hội Đông Dương”.
Tháng 11 năm 1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm – Hóc Môn quyết
định phát triển phong trào cách mạng theo phương hướng chuẩn bị những điều kiện để tiến tới bạo
động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Tháng 6 năm 1940, Nhật chiếm Đông Dương, thực dân
Pháp ở Đông Dương đầu hàng. Trước tình hình trên, Xứ ủy Nam kỳ quyết định lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa. Tháng 11 năm 1940, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 7, nhận định tình hình
chưa chín muồi để khởi nghĩa, nên chỉ thị cho Xứ ủy ngưng cuộc khởi nghĩa lại. Nhưng đồng chí
Phan Đăng Lưu từ miền Bắc mang Chỉ thị không vào kịp nên đêm 22 rạng 23 tháng 11 năm 1940,
cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn bùng nổ.
Quận Hóc Môn là trọng điểm của cuộc khởi nghĩa, lực lượng địch ở đây có hai trung đội lính
khố xanh đóng giữ. Quận ủy Hóc Môn đã huy động lực lượng nghĩa quân của 4 tổng, chia làm 4
cánh tiến đánh thị trấn Hóc Môn. Trong 4 cánh quân tham gia khởi nghĩa thì có 3 cánh mà lực
lượng chủ yếu là từ các xã của Củ Chi đảm nhiệm.
Khi nghĩa quân chiếm quận lỵ Hóc môn, địch kéo quân đến phản kích. Trước lực lượng địch
đông và hỏa lực súng ống mạnh, nghĩa quân buộc phải rút khỏi thị trấn. Nhân dân tản về các xã,
còn du kích một cánh rút về vùng Mướp Xanh, Đồng Tháp Mười, một cánh khác gồm 70 nghĩa
quân và 30 khẩu súng rút về rừng Bàu Cúc, Bàu Kính (thuộc các xã Nhuận Đức và Phú Hòa
Đông). Cánh quân này lưu lại 3 ngày, được nhân dân Củ Chi che giấu, tiếp tế chu đáo. Sau đó, do
sự truy lùng ráo riết của lính Pháp, cánh quân tiếp tục rút về Bàu Đồn, Truông Mít (Tây Ninh).
Cũng có một số du kích không rút khỏi Củ Chi mà đào hầm bí mật (hầm ếch) để ẩn nấp trong sự
đùm bọc của làng xóm, gia đình. Chính từ việc đào hầm ếch mà sau này họ trở thành những người
đầu tiên nẩy ra ý tưởng đào hầm bí mật và địa đạo khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp và
những người trong cánh quân này về sau là nồng cốt xây dựng thành Giải phóng quân liên quận
(Hóc Môn – Bà Điểm – Đức Hòa).
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Củ Chi có lắng
xuống một thời gian, cơ sở Đảng bị tổn thất nặng nề, cán bộ đảng viên và quần chúng trung kiên
lớp thì bị giết hại, lớp thì bị bắt đưa đi tù đày. Nhưng chỉ sau chưa đầy một năm, cơ sở Đảng ở Củ
Chi được gây dựng lại. Đầu năm 1944, các Chi bộ mới ở các xã: Thái Mỹ, Trung Lập, Nhuận
Đức…được thành lập.
Đầu tháng 8 năm 1945, ở Củ Chi, Hóc Môn cũng như ở những tỉnh, thành khác của Nam Bộ,
nhân dân hừng hực khí thế nổi dậy giành độc lập. Ngày 24 tháng 8 năm 1945, lực lượng Thanh
niên cứu quốc và Thanh niên tiền phong, mà nòng cốt là các đảng viên và du kích trong khởi nghĩa
Nam Kỳ, đã đồng loạt nổi dậy biểu tình, kéo qua các xã trong quận. Hoảng sợ trước khí thế của
quần chúng, một số xã ở Củ Chi như Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Trung Lập, Nhuận Đức, chính
quyền tay sai bỏ chạy, lực lượng khởi nghĩa tiến vào giành lấy chính quyền. Nhân dân xã Phước
Vĩnh An xông vào đồn giựt súng Nhật đem trang bị cho lực lượng ta. Tại Bến Mương (Nhuận
Đức), một số chị em phụ nữ vào đồn, dùng lý lẽ thiệt hơn buộc Nhật nộp súng. Nhìn chung, các xã
của Củ Chi đều giành được chính quyền trước ngày 24 tháng 8 năm 1945.
1.2.2. Quá trình xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 – 1954)
Chỉ một tháng sau ngày cả nước giành độc lập, thực dân Pháp được quân Anh hỗ trợ, đã quay
trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, bắt đầu từ việc tiến chiếm Sài Gòn. Trước tình thế đó, nhiều
cánh quân từ các tỉnh Nam Bộ vừa khẩn cấp thành lập đã kịp về Sài Gòn tham gia chiến đấu, bao
vây quân Pháp ở Sài Gòn. Trong hơn một tháng quân Pháp bị cầm chân ở mặt trận Sài Gòn – Chợ
Lớn, lực lượng kháng chiến Nam Bộ đã kịp vận chuyển được một số máy móc, tài liệu ra khỏi
thành phố, rút lui về các vùng có địa thế, xây dựng căn cứ kháng chiến lâu dài. Thực hiện chủ
trương “lập những khu căn cứ kháng chiến ngay ở ngoại ô, phụ cận Sài Gòn”, “Không rút đi xa,
cố bám đất, bám dân, làm chiến tranh du kích, làm chiến tranh nhân dân” [77, tr. 83] của Tỉnh ủy
Gia Định, hàng loạt căn cứ địa đã lần lượt ra đời, tạo thành một hệ thống chiến khu bao quanh
thành phố như: Chiến khu An Phú Đông, chiến khu Rừng Sác, căn cứ Vườn Thơm… Riêng ở Củ
Chi, có căn cứ Bình Mỹ, căn cứ An Phú Xã và căn cứ khu 5 Hóc Môn.
Căn cứ Bình Mỹ nằm ở phía Bắc thành phố, gồm ba xã Bình Lý, Tân Mỹ, Mỹ Bình (lúc bấy
giờ thuộc quận Hóc Môn) là nơi đứng chân của Quận ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh, Ủy ban
mặt trận Việt Minh và các lực lượng vũ trang quận Hóc Môn, bên cạnh đó còn có 3 đại đội giải
phóng quân liên quận Hóc Môn – Bà Điểm – Đức Hòa. Để bảo vệ căn cứ, nhân dân đắp ụ chiến
đấu và cắm chông dọc các ngã đường dẫn vào. Trong căn cứ, bộ đội, nhân dân đào hầm hào, rào
làng chiến đấu và tổ chức tuần tra canh gác ngày đêm. Nhằm ngăn chặn địch từ xa, nhân dân và du
kích còn đào đường, chặt cây cao su ngăn chặn địch trên các trục lộ. Trên nhánh sông Sài Gòn, du
kích đánh sập cầu Rạch Tra án ngự cửa ngõ vào căn cứ Bình Mỹ.
Căn cứ Khu 5 Hóc Môn thuộc khu vực 5 xã giải phóng: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận
Đức, Trung Lập, Phú Hòa Đông, chạy cặp theo sông Sài Gòn bên bờ hữu ngạn. Phía Tây Bắc nối
liền với căn cứ Trảng Cỏ, Bời Lời (Trảng Bàng, Tây Ninh), kéo dài lên phía Bắc nối với chiến khu
Dương Minh Châu. Phía Đông tiếp giáp căn cứ liên xã An Thành, Phú An, An Điền, Thanh
Tuyền, Long Nguyên, Kiến An (Bến Cát, Thủ Dầu Một). Giữ một vị trí cơ động nối liền với các
căn cứ địa quan trọng, nằm ở cửa ngõ phía Tây Bắc Sài Gòn, căn cứ Khu 5 Hóc Môn trở thành
một địa bàn luôn uy hiếp địch. Năm 1946 và nửa đầu năm 1947, căn cứ khu 5 Hóc Môn chỉ mới là
căn cứ của các Chi đội vệ quốc quân 12, 11, Liên quân B và Liên quân 18… Nhưng từ giữa những
năm 1947, do chiến khu An Phú Đông thường xuyên bị địch bao vây, tiến công, nên các cơ quan
của tỉnh Gia Định như Tỉnh ủy, Ủy ban chiến đấu, Mặt trận Việt Minh, công an… đều rút về căn
cứ Khu 5 Hóc Môn đứng chân hoạt động. Vì vậy, căn cứ Khu 5 Hóc Môn được xây dựng vững
chắc hơn để bảo toàn cho các cơ quan, lực lượng vũ trang và nhân dân. Hình thức tổ chức phòng
thủ theo kiểu xã, ấp chiến đấu với hầm chông, cạm bẫy, ụ, ổ chiến đấu, giao thông hào và địa đạo
trở thành cách phòng thủ chủ yếu của căn cứ Khu 5 Hóc Môn. Dựa vào hệ thống phòng thủ này,
bộ đội và dân quân sáng tạo ra những cách đánh rất phong phú. Mỗi khi xuống hầm, các chiến sĩ
rút bỏ cầu thang, bên dưới miệng hầm đã bố trí sẵn các hố chông, cạm bẫy, xung quanh có tên, nỏ
nằm trong các ống tre sẵn sàng bay ra, gươm, lựu đạn đã rút chốt, cây gỗ từ trên cao đập xuống…
tất cả có thể làm thiệt mạng tên lính Pháp nào dám cả gan nhảy vào địa đạo. Gần miệng hầm, các
ngách xung quanh được móc hàm ếch có thể ẩn thân được từng người, tránh được đạn bắn thẳng
của địch, đồng thời cũng là điểm phục kích bất ngờ để tiêu dịêt địch khi chúng tiến vào. Trong địa
đạo có lỗ thông hơi, có chỗ dự trữ đạn, lương thực, giếng ăn… nên từng tiểu đội du kích có thể
bám trụ trong địa đạo chiến đấu nhiều ngày liên tục với kẻ địch đông hơn gấp bội. Căn cứ địa đạo
không chỉ bảo vệ lực lượng tại chỗ mà còn che chở cho rất nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ của các tỉnh
và miền Đông Nam Bộ khi hành quân ngang qua vùng căn cứ. Quân pháp tìm mọi cách để hủy
diệt căn cứ Khu 5 Hóc Môn, chúng liên tục ráo riết tiến công, càn quét nhưng căn cứ vẫn tồn tại
bất khả xâm phạm cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ngoài căn cứ Khu 5 Hóc Môn, ở Củ Chi còn có các hành lang và lõm căn cứ liên xã nối liền
các địa bàn của Củ Chi – Hóc Môn như Tân Mỹ - Bình Lý; Mỹ Bình – Hòa Phú – An Phú Xã; Tân
Phú Trung – Phước Vĩnh An – Tân Thông Hội (vùng này có thời gian là căn cứ chỉ đạo của chủ
tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Sài Gòn – Chợ Lớn Phạm Ngọc Thạch cho đến năm 1950).
Những căn cứ của Củ Chi là chỗ dựa vững chắc để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ở địa
phương.
Tỉnh ủy Gia Định về đứng chân ở An Phú Đông để chỉ đạo cuộc kháng chiến trong toàn tỉnh.
Quận ủy Hóc Môn kêu gọi nhân dân tự vũ trang. Một số đảng viên, du kích Nam Kỳ cũ, có từ 3
đến 5 khẩu súng cũng đứng ra tự thành lập các đơn vị bộ đội. Bộ đội Bảy Sanh, Sáu Sai, Hai
Chiểu, Tô Ký, Hai Bứa, Hai Phần…đóng căn cứ ở An Phú Xã (thuộc Củ Chi).
Ngày 1 tháng 11 năm 1945, Xứ ủy và Tỉnh ủy Gia Định quyết định thống nhất các đơn vị vũ
trang trên vùng Tây Bắc Sài Gòn thành Giải phóng quân liên quận Hóc Môn – Bà Điểm – Đức
Hòa.
Từ các căn cứ ở vùng ven, bộ đội và du kích Hóc Môn liên tục đánh bại các cuộc càn quét của
địch, trong đó, nổi bật nhất là trận Trung Hưng – Ràng (xã Trung Lập) ngày 17 tháng 12 năm
1946.
Sau trận Trung Hưng – Ràng, du kích Củ Chi tổ chức trận đánh vào đồn Thầy Biên (xã Phú
Hòa Đông), còn gọi là trận Binh La (tháng 2 năm 1947). Trận đánh được chuẩn bị rất qui mô, công
phu nhưng cuối cùng không giành được thắng lợi. Tuy vậy, qua trận đánh vỡ lòng này, quân và
dân Phú Hòa Đông nói riêng và Hóc Môn nói chung có thêm nhiều kinh nghiệm quý giá về xây
dựng lực lượng, phát động quần chúng và vận động binh lính trong hàng ngũ địch.
Năm 1947, Mặt trận Việt Minh quận được thành lập. Các tổ chức đoàn thể như hội Phụ nữ cứu
quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên… được củng cố, mở rộng thêm. Sự tổ chức chặt chẽ và lớn
mạnh của Mặt trận và các đoàn thể là chỗ dựa quan trọng để xây dựng và phát triển lực lượng vũ
trang, vì đây là nguồn cung cấp hậu cần và nhân lực cho tất cả các đơn vị. Thông qua sự vận động
của Mặt trận và các đoàn thể, thanh niên các xã ở Củ Chi đều hăng hái gia nhập bộ đội, du kích.
Cuối năm 1947, các xã ở Củ Chi đều xây dựng được đội du kích. Một số xã như Tân An Hội, Tân
Phú Trung, Phước Vĩnh An, Phú Hòa Đông, An Nhơn Tây,… lực lượng du kích phát triển đến
trung đội và được trang bị vũ khí tương đối đầy đủ [9, tr. 59].
Công tác củng cố và phát triển lực lượng mọi mặt, đặt biệt là lực lượng vũ trang đã đem lại
bước phát triển mới cho cuộc kháng chiến ở Củ Chi, Hóc Môn. Lực lượng vũ trang ba thứ quân
của Củ Chi đã lập nhiều thành tích trong chống càn và tiến công tiêu diệt địch.
Phong trào du kích chiến tranh của Củ Chi, Hóc Môn phát triển mạnh, đặc biệt từ năm 1947,
khiến quân Pháp càng ra sức tiến công, càn quét vào vùng giáp ranh Sài Gòn này. Mỗi lần hành
quân, chúng đốt nhà, cướp của, hãm hiếp phụ nữ và bắn giết nhân dân vô tội. Để duy trì được cuộc
chiến đấu và bảo vệ được nhân dân, đầu năm 1946 chi bộ xã Tân Phú Trung do đồng chí Võ Văn
Tạo, nguyên là một chiến sĩ du kích Nam Kỳ, làm bí thư, đã phát động nhân dân toàn xã, đào hầm
bí mật và xây dựng xã, ấp chiến đấu chống giặc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chi bộ, toàn dân xã
Tân Phú Trung cả nam, phụ, lão, ấu mà nồng cốt là dân quân du kích đều tích cực tham gia đào
hầm. Mỗi ngày mọi người đào từ 6 giờ tối đến 1, 2 giờ sáng. Đất mới đào lên được rãi khắp nơi
trong xã để địch không xác định được chỗ nào mới đào. Trong quá trình đào, hầm bí mật được cải
tạo dần. Lúc đầu hầm bí mật chỉ rộng đủ 1, 2 người nấp, sau đó, khoét dài ra 3 đến 5 mét cho
nhìều người cùng ẩn nấp. Từ chỗ không có nắp (chỉ khoét hầm hàm ếch) và không có lỗ thông hơi,
dần dần hầm đã có nắp trổ thẳng lên mặt đất và có lỗ thông hơi nằm trong bụi tre, bụi tầm vông
hoặc ụ mối. Mọi người không chỉ đào hầm quanh nhà, quanh vườn, mà đào cả trong rừng, dưới
những nơi cây cối rậm rạp, âm u. Ban đầu, các hầm chỉ đào riêng lẻ, dần dần để linh hoạt chạy
tránh giặc và chiến đấu, các hầm được kéo dài nối thông với nhau, nối đến các ụ chiến đấu và giao
thông hào, từ nhà này nối sang nhà khác, từ xóm này sang xóm khác. Hệ thống hầm hào, ụ chiến
đấu còn được kết hợp với hầm chông, cạm bẫy tạo nên một thế trận rất lợi hại.
Cùng thời gian với xã Tân Phú Trung, tại xã Phước Vĩnh An, chi bộ do đồng chí Võ Văn Tạo
làm bí thư cũng vận động nhân dân đào địa đạo và xây dựng xã, ấp chiến đấu. Phong trào đào hầm
bí mật, địa đạo phát triển mạnh nhất ở ấp Bà Giã (xã Phước Vĩnh An). Nhân dân thi đua đào địa
đạo với ấp Cây Da (xã Tân Phú Trung) với khẩu hiệu: “đào cho nhanh, đào cho tốt, đào cho
nhiều”.
Giữa năm 1946, đồng chí Tô Ký, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách về quân sự đã đến xem
xét hệ thống đường hầm bí mật ở ấp Cây Da, xã Tân Phú Trung. Sau chuyến tham quan này, Chi
bộ xã nhận được nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển đường hầm bí mật. Đến năm 1947, các
đường hầm địa đạo được nhân dân xây dựng nối liền ấp Bàu Sim, ấp Cây Da (xã Tân Phú Trung),
với ấp Bà Giã (xã Phước Vĩnh An) dài gần 500 mét. Lực lượng nhân dân và dân quân tham gia
đào địa đạo có lúc tập trung đến 200 người. Nhà ông Mười Thắng (ấp Phước Lợi, xã Phước Vĩnh
An) được vinh dự là điểm nối thông đường hầm đầu tiên của hai xã. Hệ thống địa đạo liên xã đã
xuất hiện kể từ lúc này. Nhờ vậy, chiến tranh du kích ở hai xã có thêm thế chủ động để phát triển
mạnh hơn. Hai ấp Bà Giã và Cây Da trở thành “căn cứ lõm” của Khu 5 Hóc Môn.
Mặc dù quân Pháp đẩy mạnh bình định, càn quét ở miền Đông Nam Bộ trong các năm 1947,
1948, đặc biệt ở các vùng ven Sài gòn, nhưng lực lượng cách mạng vẫn làm chủ phần lớn Củ Chi,
trong đó có những vùng căn cứ vẫn là bất khả xâm phạm với quân Pháp, điển hình như căn cứ Khu
5 Hóc Môn.
Giữa năm 1949, thực hiện sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc thành lập bộ đội địa
phương và Hội nghị dân quân toàn Khu 7 về phát triển dân quân du kích và lập các làng, ấp chiến
đấu, trung đội du kích tập trung của quận Hóc Môn chuyển thành trung đội bộ đội địa phương
quận. Lực lượng dân quân du kích các xã tiếp tục được phát triển thêm về số lượng và tăng cường
trang bị bằng vũ khí lấy được của địch và vũ khí tự tạo. Phong trào xây dựng địa đạo và xã, ấp
chiến đấu lan rộng trên toàn Củ Chi, góp phần vào nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch.
Ngày 10 tháng 8 năm 1951, Pháp huy động 7 tiểu đoàn bộ binh Pháp và tay sai, một đại đội
công binh và nhiều xe tăng từ Sài Gòn lên đánh phá vùng căn cứ địa đạo Tân Phú Trung - Tân An
Hội - Phước Vĩnh An. Suốt 15 ngày đêm, 7 tiểu đoàn địch cùng xe tăng bao vây xung quanh căn
cứ, bắn hàng chục ngàn quả đạn đại bác, dùng hơn 2.000 kilôgam bộc phá để phá hủy địa đạo. Bộ
đội địa phương và du kích xã dưới sự chỉ huy của Đại đội trưởng Bùi Thanh Vân đã chiến đấu kiên
cường, bám vào thế trận địa đạo, chiến đấu chống trả quyết liệt, tiêu diệt và làm bị thương hàng
trăm tên địch, làm thất bại ý đồ của địch [9, tr. 80].
Sang năm 1953, diễn biến chiến trường chung của cả nước đang thay đổi theo chiều hướng có
lợi cho ta, bộ đội địa phương Hóc Môn tổ chức thành các phân đội vũ trang tuyên truyền tỏa về
các vùng du kích, vùng tạm chiếm để gây dựng cơ sở trong nhân dân, phát triển lực lượng du kích.
Bộ đội Khu, Tỉnh, và bộ đội Quận phối hợp đẩy mạnh hoạt động tác chiến đánh địch càn quét,
giành nhiều thắng lợi vang dội. Nhân dân tích cực hỗ trợ bộ đội, du kích diệt tề, trừ gian, bao vây
đồn bót địch,… Các lõm căn cứ, căn cứ cách mạng ở Củ Chi được củng cố, làm chỗ dựa cho lực
lượng vũ trang hoạt động ngày càng mạnh mẽ hơn, tạo thế và lực góp phần vào thắng lợi của chiến
cuộc Đông Xuân 1953-1954 trên cả nước.
Phát huy truyền thống bất khuất của 18 thôn Vườn Trầu, quân dân Củ Chi đã thể hiện tinh thần
anh dũng và sáng tạo, kiên trì bám đất và bám dân xây dựng địa đạo chiến, làm nồng cốt cho cuộc
chiến tranh nhân dân bám rễ vững chắc và phát triển trên mảnh đất Củ Chi. Chín năm kháng chiến
gian khổ, hy sinh và thắng lợi đã để lại những cơ sở quan trọng và kinh nghiệm quý báu để lực
lượng vũ trang cùng nhân dân Củ Chi tiếp tục vươn lên, trở thành một trong những địa phương đi
đầu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ những năm tiếp theo.
1.3. Củ Chi tái lập căn cứ địa cách mạng trong những năm đấu tranh giữ gìn lực lượng, tiến
tới “Đồng khởi” (1954 – 1960)
1.3.1. Tình hình cách mạng miền Nam sau Hiệp định Giơnevơ và chủ trương mới về vũ trang tự
vệ, xây dựng căn cứ địa
Hiệp định Giơnevơ được ký ngày 21 tháng 7 năm 1954 đã công nhận độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương. Theo qui định của Hiệp định, tại Việt
Nam, hai bên sẽ đình chiến và tạm thời lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới phân chia khu vực kiểm soát.
Sau 2 năm, Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và hai miền Nam – Bắc sẽ thực hiện tổng tuyển cử thống
nhất đất nước.
Về phía ta, ngày 22 tháng 7 năm 1954, lực lượng vũ trang cách mạng Nam Bộ cùng lực lượng
vũ trang cả nước thực hiện ngừng bắn theo mệnh lệnh của Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
Nam. Tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp, xác định nhiệm vụ
cách mạng giải phóng dân tộc của ta chưa hoàn thành, cuộc đấu tranh cứu quốc không vì đình
chiến mà kết thúc, mà đang tiếp tục, song về phương châm đấu tranh thì “Phải thay đổi từ đấu
tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị”, mọi “hình thức đấu tranh kịch liệt (như kiểu khởi
nghĩa và chiến tranh du kích) cần phải thay đổi ngay”[77, tr. 285].
Chủ trương này của Đảng được Đảng bộ địa phương nỗ lực thực hiện trong 2 năm đầu sau
Hiệp định (1954-1956). Thời kỳ này, Tỉnh ủy Gia Định đẩy mạnh phong trào quần chúng đấu
tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, bảo vệ hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất
đất nước, đòi các quyền dân sinh, dân chủ…mà không vũ trang.
Về phía Mỹ - Diệm, ngay khi Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, Mỹ đã lo sợ: “Cộng sản kiểm
soát toàn bộ Đông Nam Á sẽ làm cho vị trí của Mỹ ở cái mắt xích gồm các đảo ngoài khơi Thái
Bình Dương trở nên mỏng manh và sẽ phá hoại nghiêm trọng lợi ích an ninh cơ bản của Mỹ ở
Viễn Đông” (Tài liệu mật Bộ quốc phòng Mỹ) [106, tr. 6]. Vì vậy, Pháp không rút khỏi Việt Nam
như tinh thần Hiệp định mà buộc phải chuyển giao quyền lực cho Mỹ. Ngày 23 tháng 10 năm
1955, Ngô Đình Diệm lên ghế “quốc trưởng”, sau đó tuyên bố thành lập chính phủ “Việt Nam
cộng hòa”, lấy Sài Gòn làm “thủ đô”. Ngày 11 tháng 3 năm 1956, Ngô Đình Diệm “trúng cử” tổng
thống Việt Nam cộng hòa trong cuộc bầu cử dân chủ do Mỹ dàn dựng. Những hành động của Mỹ -
Pháp và tay sai Diệm đã đơn phương xóa bỏ tinh thần Hiệp định Giơnevơ và nguyện vọng của
nhân dân Việt Nam về tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Song song với việc thâu tóm quyền lực, Mỹ - Diệm từng bước loại bỏ các đối thủ uy hiếp sự
tồn tại của chính quyền mới được dựng lên ở miền Nam. Từ tháng 4 đến cuối năm 1955, Ngô Đình
Diệm thanh lọc quân đội, loại bỏ những tướng lĩnh cao cấp thân Pháp ra khỏi quân đội. Đồng thời,
vừa dụ dỗ, mua chuộc, vừa tiến công tiêu diệt các lực lượng vũ trang Bình Xuyên, lực lượng vũ
trang giáo phái thân Pháp, Cao Đài, Hòa Hảo,… giành trọn quyền kiểm soát Sài Gòn – Chợ Lớn
và nhiều vùng khác ở Nam Bộ.
Đối với lực lượng cách mạng, Diệm thực hiện chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” với các khẩu
hiệu phản động như: “Tiêu diệt cộng sản tận gốc”, “Thà giết lầm còn hơn bỏ sót”. Cảnh sát và
quân đội Việt Nam cộng hòa đã triển khai các chiến dịch Trương Tấn Bửu (7/1956 - 2/1957),
Nguyễn Trãi (4/1957 - 11/1958), Hồng Châu (7/1958)…đánh phá lực lượng cách mạng. Càn quét,
vây ráp diễn ra hàng ngày, đặc biệt tại các vùng căn cứ cũ của cách mạng. Ở Củ Chi, bộ máy chính
quyền tay sai từ quận đến xã được chấn chỉnh. Cảnh sát, mật vụ, dân vệ, chỉ điểm… nhan nhản
trên đường phố, rình mò khắp mọi ngõ hẻm, tìm bắt đảng viên cộng sản, các cơ sở Đảng, những
người yêu nước… Trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt trước khi bộ đội tập kết ra Bắc, chính
quyền cách mạng đã cấp hàng trăm ngàn héc ta ruộng đất cho nông dân, trong đó có nông dân
ngoại thành Sài Gòn – Gia Định. Nhưng từ đầu năm 1955, Diệm ban hành các dụ số 27 và 57 về
“cải cách điền địa”, truất quyền sở hữu đất đai của dân chuyển về tay chính quyền và địa chủ, bắt
nông dân trở lại chế độ làm khế ước, đóng địa tô. Nguy cơ bị mất hết đất đai mới được cấp khiến
nông dân hết sức phẫn nộ. Nông dân ngoại thành Sài Gòn còn bị đuổi khỏi các vùng đất đang sinh
sống để chính quyền Diệm xây dựng các căn cứ, sân bay, khu dinh điền để tạo vành đai an toàn
cho Sài Gòn . Về quân sự, địch lập các đội bảo an quận, các tiểu đội dân vệ xã, xây dựng thêm đồn
bót, nhất là dọc theo quốc lộ 1 và các tỉnh lộ 7, 8, 15. Cùng với việc giám sát từng nhà, từng người
thông qua các hình thức “liên gia” và bộ máy kềm kẹp từ trung ương đến xóm, ấp, chính quyền
Diệm còn tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia”, “Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ liên
đới”…để “đoàn kết quốc gia loại trừ cộng sản”. Các gia đình có người thân tập kết hoặc từng đi
theo kháng chiến thường xuyên bị tập trung học tập “tố cộng”, “cải huấn”, “tẩy não”…Phụ nữ bị
buộc phải ly khai chồng, con v.v…Tất cả các thủ đoạn trên đều nhằm làm cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân phải sợ hãi, khủng khiếp mà khuất phục.
Ở tỉnh Gia Định, sau năm 1954, Tỉnh ủy thực hiện phân loại đảng viên, khiến số đảng viên còn
hoạt động giảm hẳn. Sau chiến dịch Trương Tấn Bửu, trước tổn thất lớn, Tỉnh ủy chủ trương “điều
lắng”. Những biện pháp đối phó có tính bị động và thúc thủ này của tỉnh không hạn chế được thiệt
hại lại còn làm cho lực lượng của tỉnh bị tổn thất lớn trước sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù.
Vì tuân thủ kỷ luật Đảng, một số đảng viên có súng trong người mà không dám bắn, đành chịu
để địch bắt. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt cóc, thủ tiêu. Tháng 4 năm 1956, tên cai tổng Cộng, ác
ôn khét tiếng ở Củ Chi cho tay chân mổ bụng 16 người dân xã Phú Hòa Đông vì “tội” đấu tranh
đòi thi hành Hiệp định [77, tr. 290]. Những vụ sát hại dã man như thế liên tiếp diễn ra, đã làm cho
đảng viên và quần chúng sớm nhận thức được bản chất của kẻ thù và báo trước con đường tất yếu
của nhân dân miền Nam là phải võ trang, chứ không thể đơn thuần đấu lý với kẻ thù được.
Từ tháng 6 năm 1956, trước những hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đàn áp những
người cách mạng của chính quyền Mỹ - Diệm, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về
“Tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam” xác định hình thức đấu tranh phổ biến ở miền Nam
trong giai đoạn này là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang, nhưng chỉ rõ: “Như thế
không có nghĩa không dùng võ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định”, “cần thiết phải
củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa”[77,
tr. 297]. Chỉ thị cho thấy Bộ Chính trị đã sớm nhìn thấy khuynh hướng phát triển tất yếu của cách
mạng miền Nam. Tuy nhiên, việc phổ biến tinh thần nghị quyết từ trên xuống tới Chi bộ là việc
hết sức gay go, thậm chí Nghị quyết không đến được từng khu vực quan trọng của Nam Bộ, trong
đó có Sài Gòn – Gia Định, cho nên lực lượng cách mạng đã bị hao tổn nhiều.
Từ thực tiễn tổn thất to lớn của các Đảng bộ và nhân dân miền Nam, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo
chuyển hướng, “trong chừng mực nào đó cần phải có lực lượng tự vệ và vũ trang tuyên truyền để
hổ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này phát triển lực lượng đó để đánh đổ ngụy
quyền”[77, tr. 297]. Xứ ủy xác định: “Con đường tất yếu của cách mạng miền Nam là bạo lực,
chủ trương tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập các đội vũ trang bí mật, xây
dựng căn cứ rừng núi…” [77, tr. 298]. Nghị quyết 6 Bộ Chính trị tháng 12 năm 1956 là cái mốc
đánh dấu việc chính thức tái lập lực lượng vũ trang và các căn cứ địa kháng chiến ở Nam Bộ nói
chung và Củ Chi nói riêng.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, bộ đội ta rút khỏi các căn cứ, tập kết ra Bắc. Vì
vậy, sau tháng 7 năm 1954, các căn cứ không còn những hoạt động kháng chiến. Trong khi đó, các
chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” của Mỹ - Diệm đã khiến cho nhiều cán bộ, đảng viên, chiến sĩ,
cơ sở cách mạng… không còn sống trong dân được nữa, buộc phải rút vào các vùng căn cứ cũ thời
kháng chiến chống Pháp để tránh né sự khủng bố. Ở Củ Chi, việc xây dựng căn cứ, đào hầm bí
mật, địa đạo được xúc tiến, nhất là phát triển hệ thống địa đạo ở Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An
và các xã phía Bắc quận như: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Trung Lập…để làm nơi đứng chân
của các cơ quan và chỗ dựa để các đơn vị vũ trang xây dựng lực lượng và chiến đấu chống địch
khủng bố, càn quét.
Từ năm 1955, một bộ phận của Tỉnh ủy Gia Định đóng cơ quan tại nhà bà Võ Thị Khâu ở ấp
Ba Sòng (xã An Nhơn Tây), gồm các đồng chí: Sáu Thấm, Tám Gân, Thuần, Thả.
Năm 1956, các đồng chí lãnh đạo của Liên Tỉnh ủy miền Đông như: Tư Trường, Bảy Khánh,
Sáu Khiêm, Tư Hùng được bố trí ăn ở và làm việc tại nhà bà Chín Gốc, bà Tư Mài và ông Sáu
Xẳng tại ấp Ba Sòng, xã An Nhơn Tây.
Năm 1957, địa bàn của Liên Tỉnh ủy miền Đông được mở rộng ra khu vực quốc lộ 1 (quốc lộ
22 ngày nay). Căn cứ của Liên Tỉnh ủy được xây dựng tại ấp Đồng Lớn (nhà bà Hai Kiểu, nhà anh
Tám Xu, nhà anh Út Khi), xã Trung Lập. Ở ấp Ràng (xã Trung Lập), các đồng chí lãnh đạo như:
Sáu Khiêm, Trọng Tuyển, Hai Bình, Ba Cát, Tư Hùng cũng đứng chân hoạt động tại nhà anh Tư
Túc, nhà bà Đen, được nhân dân che giấu, bảo vệ. Trong thời gian này, Chi bộ đã chọn ra 8 đồng
chí đảng viên và đoàn viên để đào hầm gắn liền với hệ thống địa đạo: 1 hầm giành cho Văn phòng
Tỉnh ủy Gia Định làm nơi cất giấu tài liệu (ở rừng nhà ông Ba Lên), 2 hầm làm nơi hội nghị của
Tỉnh ủy (ở rừng phía sau nhà anh Thành). Ngoài ra, còn nhiều hầm bí mật trong nhà, trong vườn
tre, trúc… như ở nhà bà Hai Mành, bà Võ Thị Khâu cũng được gấp rút xây dựng để nuôi giấu cán
bộ, làm nơi chôn vũ khí. Trong rừng nhà ông Võ Văn Mãi còn có hộp thư bí mật, trực tiếp bỏ và
lấy thư hàng ngày là anh Tư Bên, nguyên là Quận đội phó Quận đội Hóc Môn và đồng chí Nguyễn
Văn Quyết, đảng viên Chi bộ ấp Ba Sòng. Như vậy, một số ấp của xã An Nhơn Tây, Trung Lập là
nơi đứng chân đầu tiên, là chỗ dựa để Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh, từng bước xây dựng lực
lượng kháng chiến, là nhân tố khởi đầu của hậu phương tại chỗ trên địa bàn Củ Chi.
Nối tiếp truyền thống trong kháng chiến chống Pháp, Củ Chi sớm xuất hiện và phát triển lực
lượng vũ trang tự vệ. Hầu hết mỗi xã có 2 tổ tự vệ, có nơi lên tới tiểu đội vũ trang và bán vũ trang.
Đến năm 1957, các xã Phú Hòa Đông, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng, Trung Lập
…lập được các tổ du kích và tự vệ từ 3 đến 7 người, trang bị bằng những vật dụng thô sơ, hoạt
động dưới danh nghĩa là các đội chống trộm cướp để bảo vệ Đảng, cán bộ, trừng trị những tên ác
ôn khét tiếng chuyên rình mò, lùng bắt cán bộ, hỗ trợ quần chúng đấu tranh chống đuổi nhà, cướp
đất, chống bắn pháo bừa bãi, đòi tự do đi lại, làm ăn. Nhờ có các đội vũ trang và bán vũ trang này,
một số cơ sở Đảng được an toàn, vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn xuyên suốt từ trên xuống tới xã,
ấp.
Như vậy, việc tổ chức lực lượng vũ trang và khôi phục lại các căn cứ cũ thời kháng chiến
chống Pháp đã có tác dụng hạn chế một phần sự khủng bố của địch, chuẩn bị điều kiện để tiến lên
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Hoạt động diệt ác, ngăn chặn khủng bố của địch
được đẩy mạnh,… đã làm cho tình hình an ninh của địch ngày càng bất ổn. Tuy nhiên, cho tới thời
gian này, hoạt động vũ trang mới được nhen nhóm nên chưa rộng khắp, ta chưa có cơ sở vững
chắc và điều kiện để đẩy mạnh phong trào đấu tranh vũ trang để thực sự hỗ trợ cho đấu tranh chính
trị của quần chúng diễn ra sôi động và liên tục.
1.3.2. Phong trào “Đồng khởi” và sự hình thành khu căn cứ cách mạng ở Củ Chi
Tháng 4 năm 1959, “Quốc hội” của Diệm thông qua Luật 10/59 (ban hành ngày 6 tháng 5 năm
1959) về thành lập các “Tòa án quân sự đặc biệt”. Theo luật 10/59, tội chỉ xử có 2 mức: tử hình và
khổ sai chung thân. Ở Củ Chi, máy chém của Diệm đặt giữa các chợ Trung Hòa, Tân An Hội với
lời đe dọa: “Ai liên quan đến cộng sản sẽ mất đầu”. Cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng
bị tổn thất lớn lao chưa từng có. Cho đến năm 1959, ở Củ Chi đã có 500 người bị moi gan, mổ
bụng, 600 người bị dồn vào bao bố cột đá dìm xuống sông, 150 người bị buộc vào sau xe ô tô kéo
trên đường đá…Toàn bộ số cán bộ ở Củ Chi bị bắt, bị giết lên đến 75% [76, tr. 310].
Từ thực tế tổn thất này, ta có thể thấy rằng: “Do khuyết điểm bọc lộ lực luợng trong cao trào
đấu tranh chính trị, khi địch đã lộ mặt phát xít, ta không kịp chuyển hướng tổ chức và lâm vào thế
bị động” [77, tr. 311]. Tháng 11 và 12 năm 1959, Trung ương Cục họp bàn thực hiện Nghị quyết
15, quyết định đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh vũ trang hỗ trợ đấu tranh chính trị nhằm chuyển thế
cách mạng đồng loạt trên nhiều xã, ấp ở Nam Bộ.
Cuối năm 1959, Xứ ủy đã cử đồng chí Võ Văn Kiệt và cả một tập thể cán bộ Đảng bổ sung về
thành phố, với trách nhiệm quan trọng nhất lúc này là nhanh chóng khôi phục lại lực lượng cách
mạng ở thành phố. Theo đề nghị của đồng chí Võ Văn Kiệt, Xứ ủy chấp thuận giải thể Khu Sài
Gòn – Chợ Lớn và tỉnh Gia Định, lập thành Khu Sài Gòn – Gia Định, tạo thế liên hoàn nông thôn -
đô thị. Địa bàn một số quận, huyện cũng được tổ chức lại. Trong đó, quận Hóc Môn được chia
thành 2 quận Hóc Môn và Củ Chi. Cơ quan lãnh đạo và chỉ huy Khu Sài Gòn – Gia Định đứng
chân tại vùng Hố Bò, xã Phú Mỹ Hưng. Do nằm sát nách Sài Gòn nên căn cứ của Khu ủy, Quân
khu Sài Gòn – Gia Định được xây dựng thành căn cứ địa đạo. Hình thức căn cứ địa đạo này đã
xuất hiện ở Củ Chi từ những năm 1947, 1948 trong kháng chiến chống Pháp, nhưng chỉ mới gồm
một số đoạn ngắn, nay được xây dựng qui mô hơn, khoa học hơn, tạo thành một hệ thống liên
hoàn giữa các xã, đủ sức chứa hàng ngàn con người làm việc, sinh hoạt và chiến đấu. Từ căn cứ
này, các cán bộ, đảng viên bung ra đi gây dựng, khôi phục lại cơ sở, phát triển lực lượng chính trị.
Tháng 10 năm 1959, các cấp ủy cơ sở đã sinh hoạt, tập hợp các chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên
đủ để thành lập một tiểu đội vũ trang. Vì quân số có 13 người nên lấy số hiệu 13 để đặt tên.
Tháng 12 năm 1959, Khu ủy Sài Gòn – Gia Định thành lập trung đội vũ trang đầu tiên của Khu
tại Củ Chi. Để che mắt địch, trung đội lấy tên Cao – Hòa – Bình (Cao Đài – Hòa Hảo – Bình
Xuyên), đội lốt danh nghĩa giáo phái để hoạt động. Vũ khí của trung đội gồm 70 khẩu súng vừa
được moi từ một hầm chôn giấu vũ khí ở rừng Ba Sòng xã An Nhơn Tây (trước đây đồng chí
Nguyễn Hồng Đào, Bí thư Quận ủy Hóc Môn, chỉ đạo ông Võ Văn Mãi chôn giấu). Với quân số
lúc đầu khoảng hai tiểu đội, số vũ khí này là một trang bị “đáng nể” so với các đơn vị của nhiều
địa phương khác.
Các xã trong quận Củ Chi cũng lần lượt thành lập Ban quân sự để phát triển và củng cố các đội
tự vệ ấp, xã. Nhân dân phấn khởi tiễn con em gia nhập lực lượng vũ trang, lập ấp chiến đấu, làm
chông mìn, khôi phục các cơ sở tự chế vũ khí thời chống Pháp, làm các lò rèn dao găm, mã tấu,
đinh chông…Từ cuối năm 1959, ở Củ Chi đã xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang.
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (tháng 11 năm 1959), Xứ ủy họp Hội
nghị lần thứ 4 đề ra nhiệm vụ cụ thể cho Đảng bộ Nam Bộ. Đảng Bộ Củ Chi đã triển khai Nghị
quyết 15 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Xứ ủy Nam Bộ xuống tận cán bộ, đảng viên và
quần chúng. Sau khi được học tập Nghị quyết Trung ương, chấp hành chỉ thị của Tỉnh ủy Gia
Định, Đảng Bộ và nhân dân Củ Chi bắt tay ngay vào công tác phát triển cơ sở Đảng, xây dựng các
tổ chức quần chúng, các đội du kích và nhân dân tích cực tham gia, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
Cơ sở Đảng ở Củ Chi đã phát triển mạnh, hầu hết các xã đều có chi bộ Đảng, một số xã có chi bộ
khá như: Trung Lập, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông…
Ngày 20 tháng 3 năm 1960, Quận ủy Củ Chi phát lệnh “Đồng khởi” với khẩu hiệu: “Diệt ác,
phá kềm, rạt tề, giải phóng nông thôn”. Quận ủy chọn 3 xã làm thí điểm để phát động phong trào
nổi dậy của quần chúng là: Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung và Tân An Hội. Từ các xã điểm này,
rút kinh nghiệm cho toàn quận để dấy lên một phong trào cách mạng mới. Quận ủy đã cử 3 đoàn
cán bộ xuống 3 xã nói trên để lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp. Nhiệm vụ chủ yếu của các đoàn thể, là
làm sao đẩy được phong trào đấu tranh vũ trang đi kịp với phong trào đấu tranh chính trị, đồng
thời kết hợp chặt chẽ 2 mũi tiến công địch.
Từ việc chỉ đạo điểm, được nhân ra diện rộng “Đồng khởi” trong toàn quận, hưởng ứng lời kêu
gọi của Đảng Bộ Củ Chi, nhân dân từ các ấp, các xã, già, trẻ, trai, gái đều nhất tề đứng lên hưởng
ứng tham gia diệt ác, phá kềm. Tiếng thùng thiếc, nồi đồng, mõ tre chen lẫn tiếng nổ gầm trời của
khí đá hòa cùng tiếng chuông chùa vang dội khắp nơi. Một khí thế quần chúng vùng dậy mạnh mẽ,
bừng bừng chưa từng có, khiến địch rất lo sợ.
Sáng ngày 21 tháng 3 năm 1960, đồng bào Củ Chi biểu tình tuần hành ở lộ 7, lộ 15. Chỉ trong
vòng một tuần lễ, nhân dân đã vùng lên diệt một số trưởng ấp, xã trưởng, ác ôn hay ủy viên quân
sự của địch để giải phóng xóm, ấp. Có thể nói, toàn dân Củ Chi đã vùng lên đấu tranh, vừa dùng
bạo lực chính trị, vừa dùng bạo lực vũ trang, từng tự vệ một xông vào các đồn bót, trạm gát của
địch cướp súng, xé cờ địch, treo cờ cách mạng. Cuộc đấu tranh diễn ra dưới nhiều hình thức phong
phú, nơi có điều kiện, thời cơ thì bức rút, bức hàng địch, đặc biệt một số xã ở phía Bắc. Đến ngày
24 tháng 3 năm 1960, trước khí thế đấu tranh của đồng bào, bọn tề ấp Bàu Tròn (xã Nhuận Đức)
bỏ chạy. Sau đó, du kích xã Nhuận Đức, Phú Hòa Đông vây bót cầu Bến Mương, lính đồn rút
chạy, nhân dân xã Tân Thạnh Đông tay không cướp đồn giặc, giữa ban ngày; nhân dân ở Bình Mỹ,
Phước Hiệp, Tân An Hội, Trung Lập khống chế mạnh làm cho địch phải co cụm trong đồn… Qua
phong trào “Đồng khởi”, ta đã làm chủ hoàn toàn ở 4 xã: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận
Đức, Trung Lập, chiếm khoảng 36% diện tích và 24% dân số toàn Quận; làm chủ một phần ở
nhiều xã khác như Phú Hòa Đông, Bình Mỹ, Trung An, Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An, Tân
Thạnh Tây.
Cuối năm 1960, Khu ủy Sài Gòn – Gia Định cho tiến hành củng cố 4 xã giải phóng hoàn toàn
làm căn cứ địa, xây dựng lại hệ thống hầm hào, địa đạo kết hợp với xã, ấp chiến đấu, làm nơi tập
trung các cơ quan lãnh đạo của Khu Sài Gòn – Gia Định, nối liền với vùng giải phóng của các tỉnh
Tây Ninh, Bình Dương. Ngoài ra, các xã Tân An Hội, Phú Hòa Đông, Trung An, Bình Mỹ…được
giải phóng một phần, trở thành các lõm căn cứ du kích xen kẽ với địch, cùng với lõm Cây Da (Tân
Phú Trung) và làng Bà Giã (Phước Vĩnh An) …tạo địa bàn cho các lực lượng cách mạng đứng
chân sâu trong vùng địch kiểm soát và làm bàn đạp cho hoạt động nội đô. Các lõm căn cứ du kích
và căn cứ của Khu được nối với nhau bằng hệ thống địa đạo hoặc các đường dây giao liên, vận
chuyển, tạo nên thế liên hoàn từ trên xuống, từ dưới lên, đan xen qua lại như mạng nhện, hình
thành một hệ thống căn cứ từ lớn đến nhỏ, bao quanh đồn bót địch theo thế cài răng lược. Báo cáo
của phân cục tình báo trung ương CIA tại Sài Gòn nhận định: “Vào cuối năm 1960, toàn bộ nông
thôn Nam phần và Tây Nam Sài Gòn, một số vùng phía Bắc Sài Gòn bị cộng sản kiểm soát quá
một nửa và bao vây Sài Gòn” [77, tr. 333].
Cuộc “Đồng khởi” năm 1960 của quân và dân Củ Chi là sự tiến công cách mạng của lực lượng
quần chúng vào thế kìm kẹp, o ép của quân thù. Bằng cuộc đồng loạt nổi dậy này, quân dân Củ
Chi đã phá tan và làm rệu rã hơn 2/3 đồn bót trong toàn huyện cùng hệ thống kìm kẹp của chính
quyền tay sai mà bấy lâu nay chúng đã dày công xây dựng [6, tr. 87].
Như vậy, sau hơn 6 năm (từ tháng 7 năm 1954 đến cuối năm 1960) nhân dân Củ Chi đã trải
qua thời kỳ đấu tranh chính trị trong máu lửa, đánh bại âm mưu “tố cộng”, “diệt cộng” của Mỹ và
chính quyền Sài Gòn, không ngừng xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ Khu ủy Sài Gòn – Gia Định,
căn cứ Quận ủy, Quận đội Củ Chi, lõm căn cứ du kích, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân,
làm chỗ dựa vững chắc góp phần cùng cả nước tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện,
trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai.
Tiểu kết
Củ Chi là cửa ngõ Tây Bắc của thành phố Hồ Chí Minh. Trong chiến tranh, Củ Chi là một địa
bàn chiến lược quan trọng. Đối với địch, Củ Chi là vành đai then chốt bảo vệ cơ quan đầu não và
bộ máy chiến tranh của chúng ở Sài Gòn. Đối với lực lượng cách mạng, Củ Chi là bàn đạp tấn
công vào đầu não của địch. Vì thế, đây cũng là nơi tranh chấp quyết liệt giữa địch và lực lượng
cách mạng .
Người dân Củ Chi có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất, một
lòng kiên trung với cách mạng. Đây là chỗ dựa vững chắc cho lực lượng kháng chiến. Ngay từ
những ngày đầu thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, nhân dân Củ Chi đã đứng lên chiến đấu
chống giặc. Trong quá trình đó, các cơ quan lãnh đạo, lực lượng kháng chiến luôn biết dựa vào địa
thế chiến lược để xây dựng căn cứ địa. Các căn cứ Bình Mỹ, An Phú Xã và nhất là căn cứ Khu 5
Hóc Môn… trên địa bàn Củ Chi đã đảm nhiệm tốt vai trò hậu phương tại chỗ và trở thành địa bàn
đứng chân của các cơ quan lãnh đạo của tỉnh Gia Định. Để tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị
bộ đội bám trụ kháng chiến, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở Củ Chi đã tích cực xây dựng các ấp, xã
chiến đấu và hệ thống địa đạo. Dù thực dân Pháp tìm mọi cách để tiêu diệt lực lượng cách mạng
nhưng căn cứ Khu 5 Hóc Môn vẫn đứng vững, trở thành “bất khả xâm phạm” trong suốt cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Quá trình xây dựng căn cứ địa trong kháng chiến chống Pháp,
đặc biệt là hệ thống địa đạo là tiền đề có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã để lại những bài học kinh
nghiệm quý báu, trực tiếp cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Củ Chi.
Sau năm 1954, Mỹ thay chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Chính
quyền Sài Gòn, đứng đầu là Ngô Đình Diệm đã ra sức đánh phá, gây nhiều tổn thất cho lực lượng
cách mạng. Trước tình hình đó, Xứ ủy Nam Bộ xác định con đường tất yếu của cách mạng miền
Nam là bạo lực vũ trang. Vì vậy, việc tái xây dựng căn cứ địa làm địa bàn đứng chân, phát triển
lực lượng vũ trang để chiến đấu với địch là một yêu cầu bức thiết.
Chương 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở
CỦ CHI (1961 – 1975)
2.1. Xây dựng, củng cố hệ thống căn cứ địa ở Củ Chi làm chỗ dựa cho đấu tranh ba mũi giáp
công, chống phá “ấp chiến lược” (1961 – 1965)
Năm 1961, Bộ Chính trị xác định:“Phải đẩy mạnh hơn nữa đấu ttranh chính trị, tiến công địch
bằng cả hai mặt chính trị, quân sự, đấu tranh trên cả ba vùng chiến lược”[77, tr. 331]. Sau đó,
chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang được phát triển thành phương châm
đấu tranh hai chân (chính trị, vũ trang), ba mũi (chính trị, vũ trang, binh vận) và ba vùng (rừng núi,
nông thôn đồng bằng và đô thị). Mặc dù coi trọng đấu tranh chính trị và binh vận, Trung ương
Đảng chủ trương phải nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang miền Nam, đặc biệt xây dựng lực
lượng chủ lực để tạo nên những quả đấm mạnh có thể nhanh chóng thay đổi cục diện chiến trường.
Vì vậy, tháng 5 năm 1961, Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định thành
lập các Quân khu miền Nam và Bộ chỉ huy quân sự Miền. Miền Đông Nam Bộ có Quân khu Sài
Gòn – Gia Định (mật danh T4). Bộ chỉ huy quân khu Sài Gòn – Gia Định gồm các đồng chí
Nguyễn Hồng Đào - Chính ủy, Trần Hải Phụng - chỉ huy trưởng, kiêm Tham mưu trưởng…
Được Khu ủy và Bộ chỉ huy Quân khu chọn làm nơi đứng chân và xác định là vị trí chiến lược,
nên từ năm 1961, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quận ủy, quân và dân Củ Chi ra sức tu sửa, khôi
phục và phát triển hệ thống địa đạo rộng khắp toàn quận, nhất là hai khu vực: Bến Dược (ấp Phú
Hiệp) xã Phú Mỹ Hưng là căn cứ Khu ủy và Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn – Gia Định và Bến
Đình, thuộc xã Nhuận Đức là căn cứ của Quận ủy, Quận đội Củ Chi. Hệ thống địa đạo phát triển
ngày càng qui mô, hoàn chỉnh, có đường xương sống đi qua các xã và vô số đường nhánh nối liền
chằng chịt như mạng nhện trong lòng đất. Hệ thống chiến hào, công sự trên mặt đất được nối vào
địa đạo, trở thành thế trận hiểm yếu. Đến cuối năm 1961, hệ thống địa đạo và căn cứ liên hoàn
giữa một số xã ở phía Bắc quận đã bước đầu hình thành với tổng chiều dài trên 40 kilômét [9, tr.
109].
Tạo được hệ thống địa đạo và các vùng căn cứ, Đảng bộ và nhân dân Củ Chi đã tích cực chuẩn
bị lực lượng cho cuộc chiến đấu mới. Đến năm 1961, số đảng viên của quận từ 200 tăng lên gần
500; gần 100 % phụ nữ vùng giải phóng vào Hội phụ nữ giải phóng; lực lượng tập trung huyện
được một đại đội; vùng gần địch có du kích mật, trên 1.000 thanh niên tòng quân vào các lực
lượng cấp trên, vùng giải phóng bắt đầu có trường học, trạm y tế...[6, tr. 93].
Sau “Đồng khởi” năm 1960, cách mạng miền Nam tiến lên mạnh mẽ. Mỹ và chính quyền Sài
Gòn thấy rằng không thể cai trị miền Nam dựa vào phương thức tình báo và cảnh sát làm chủ yếu
được nữa. Vì vậy, từ giữa năm 1961, địch bắt đầu chuyển từ chiến lược “tố cộng”, “diệt cộng”
sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, thực hiện một cuộc chiến tranh hạn chế dựa vào công thức:
quân đội Việt Nam cộng hòa + cố vấn Mỹ, vũ khí Mỹ, lấy việc xây dựng “Ấp chiến lược” làm
biện pháp cơ bản. Thực hiện chiến lược này, địch tăng cường lực lượng quân đội Việt Nam cộng
hòa (từ 252.000 quân từ giữa năm 1961 lên 471.000 quân cuối năm 1964), lực lượng địa phương
(bảo an, dân vệ) cũng được tăng lên [76, tr. 57]. Quân đội Việt Nam cộng hòa đóng vai trò tác
chiến chủ yếu. Đồng thời, địch bố trí lại chiến trường, ưu tiên lực lượng cho chiến trường Nam Bộ,
thành lập nhiều khu quân sự đặc biệt: Đặc khu Gia Định, Biệt khu Thủ Đô…Ở Củ Chi, đồn địch
đóng dày đặc. Năm 1963, trên 16 xã của Củ Chi, địch đã đóng trên 100 đồn bót, với 4 chốt lớn từ
1 tiểu đoàn trở lên [52, tr. 493].
Ấp chiến lược là khu tập trung dân có sự bảo vệ bằng quân sự với các vòng rào dây thép gai,
đồn bót, lực lượng dân vệ và thanh niên chiến đấu, với mục đích: tách dân ra khỏi lực lượng cách
mạng, khiến lực lượng cách mạng bị cô lập, không còn chỗ dựa để kháng chiến, đồng thời dùng ấp
chiến lược để bao vây, lấn dần vào vùng giải phóng, thu hẹp, tiến tới tiêu diệt các căn cứ cách
mạng. Việc lập ấp chiến lược được thực hiện ráo riết thông qua các cuộc hành quân càn quét, gom
dân của quân đội Việt Nam cộng hòa, sự cố vấn và yểm trợ của quân Mỹ, với chiến thuật mới
“trực thăng vận”, “thiết xa vận” và khả năng cơ động cao. Để tiến hành việc lập ấp chiến lược ở
tỉnh Gia Định, địch lấy xã Tân An Hội (Củ Chi) làm thí điểm. Chúng đưa về đây một đoàn cán bộ
gọi là đoàn “Bình định hương thôn” nhằm tuyên truyền, vận động và rún ép nhân dân gom vào
“khu tập trung”. Ngoài ra, còn có lực lượng dân vệ, bảo an ủng hộ.
Ngay trong lúc đầu, chính quyền Sài Gòn đã gặp phải sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, làm
cho bọn chúng co thun bước đầu, do đó, chúng tiến hành ở Củ Chi chậm hơn các nơi khác. Đến
tháng 4 năm 1961, toàn quận Củ Chi có 94 ấp với 85.000 dân thì địch đã lập được 12 khu ấp chiến
lược với 38 ấp bị khoanh và gom, với 31.997 dân [100, tr. 6]. Sang năm 1962, địch triển khai tiến
hành vừa khoanh vừa gom một cách quyết liệt và trắng trợn trên qui mô lớn. Chúng tăng cường
thêm một tiểu đoàn lực lượng của Biệt khu thủ đô và tỉnh Bình Dương xuống hỗ trợ cho địa
phương tiến hành khủng bố, càn quét, đánh phá khắp nơi nhằm làm nhão tinh thần đấu tranh của
nhân dân ta, đánh bật lực lượng ta ra khỏi khu căn cứ và các lõm căn cứ. Với 38 ấp chiến lược địch
xây dựng được ở Củ Chi, chúng đã lập 26 ban tề xã, mỗi ban có từ 5 đến 7 tên và 19 ban tề khu
với số lượng là 63 tên để kìm kẹp dân trong các ấp chiến lược [100, tr. 7]. Ngoài ra, quân đội Việt
Nam cộng hòa còn tổ chức lực lượng bán vũ trang như “Thanh niên chiến đấu”, “Phụ nữ cộng
hòa”, “Thanh niên cộng hòa” (908 tên) cùng với do thám, gián điệp (29 tên) ) để bảo vệ ấp [100,
tr. 7].
Sự nỗ lực lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã thu được kết quả nhất định, làm cho ta bị mất
đất, mất dân, vùng giải phóng bị thu hẹp, thế bảo vệ cho căn cứ cách mạng bị giảm sút, các căn cứ
và lõm căn cứ trên địa bàn quận đều bị địch uy hiếp, lực lượng cách mạng phải hoạt động trong
điều kiện hết sức gian khổ.
Tháng 11 năm 1962, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền tổ chức Hội nghị tổng kết công tác
chống phá ấp chiến lược và Hội nghị dân quân du kích Nam Bộ lần thứ nhất tại căn cứ Bắc Tây
Ninh. Hội nghị đã đúc rút kinh nghiệm, phát động phong trào chiến tranh du kích, chống địch càn
quét, phá ấp chiến lược và xây dựng làng, xã chiến đấu. Trong Hội nghị, dân quân du kích xã
Phước Vĩnh An (Củ Chi) được chọn báo cáo điển hình. Những kinh nghiệm vận động quần chúng
không vào ấp chiến lược, tiêu diệt lực lượng càn quét, ác ôn tề điệp, kết hợp 3 mũi giáp công đánh
địch, xây dựng xã, ấp chiến đấu…của xã Phước Vĩnh An được Hội nghị nghiên cứu, phổ biến rộng
rãi trong toàn Miền. Tháng 1 năm 1963, chiến thắng ở Ấp Bắc (Mỹ Tho) đem lại kinh nghiệm và
niềm tin cho lực lượng vũ trang trong việc chống lại các chiến thuật mới của địch. Hai sự kiện trên
đã thúc đẩy hoạt động chống phá ấp chiến lược ở Củ Chi phát triển mạnh mẽ thành phong trào
rộng lớn.
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, sự kiện các tướng lĩnh, quan chức chính quyền Sài Gòn đảo chính
lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, tiếp sau đó là cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài của chính quyền
Sài Gòn càng tạo thêm thuận lợi cho lực lượng cách mạng mở rộng thế lực.
Từ năm 1963, cuộc chiến đấu của quân dân Củ Chi có thêm những bước phát triển mới. Lực
lượng vũ trang Quận phát triển tương đối toàn diện. Quận đội xây dựng được một tiểu đội nữ vũ
trang do đồng chí Nguyễn Thị Nhỡ chỉ huy, có nhiệm vụ phát động phong trào vũ trang du kích
chiến tranh, xây dựng du kích mật, cải trang đột nhập vào ấp chiến lược. Từ đầu năm 1962, đơn vị
chủ lực của Quân khu đổi tên từ C 13 thành K 17 và tiếp tục phát triển lực lượng, chủ yếu hoạt
động trên địa bàn Củ Chi. Để có thể đánh những trận đạt hiệu quả tiêu diệt địch cao và gây thoái
động mạnh quân đội Việt Nam cộng hòa, Quân khu Sài Gòn – Gia Định quyết định nâng K 17 lên
cấp tiểu đoàn, lấy tên là tiểu đoàn Quyết Thắng. Tiểu đoàn đã kết hợp với lực lượng vũ trang địa
phương hỗ trợ đắc lực phong trào phá ấp chiến lược đang trên đà mạnh mẽ của nhân dân Củ Chi.
Từ năm 1962 đến tháng 3 năm 1963, mặc dù địch rất quyết tâm nhưng ta cũng chống phá rất quyết
liệt bằng đủ mọi hình thức và phương pháp, hạn chế từng bước âm mưu của chúng, không cho
địch ổn định. Trong 3 tháng đầu năm 1963, quân dân Củ Chi đã tác chiến 103 trận, làm địch chết
89 tên, làm bị thương 139 tên, trừng trị 2 tên ác ôn trong ấp chiến lược, sang bằng 1 bót, bắn sập 1
tua, bắn hư 1 tua khác. Ngoài ra, ta còn làm được 2.525 hầm chông, 9 ổ chiến đấu, 3.165 mét địa
đạo… Trước sức đấu tranh bền bỉ và quyết liệt của quần chúng, địch đã bỏ 1 khu ấp chiến lược, số
địch thiệt hại do vũ khí thô sơ có 88 tên bị thương do sập hầm chông… [100, tr. 14-15-16].
Song song với việc chống địch càn quét, gom dân lập ấp chiến lược, công tác hậu cần trong
quận cũng có nhiều biện pháp sáng tạo đảm bảo cho các lực lượng vũ trang về mọi mặt: ăn, mặc,
ở, đánh địch, bám trụ địa bàn vững chắc. Cuối năm 1963, trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Cục
hậu cần Miền bắt đầu thành lập các khu vực hậu cần và các Quân khu cũng có các khu vực căn cứ
hậu cần phù hợp. Hậu cần Quân khu Sài Gòn – Gia định có căn cứ hậu cần ở xã An Nhơn Tây.
Chế độ cấp phát cho bộ đội địa phương ở Củ Chi được thực hiện vào cuối năm 1962 như sau: tiền
ăn một ngày 50 xu (tiền chính quyền Sài Gòn), gạo ăn 20 kg / một tháng, quần áo do dân ủng hộ
vải, tổ quân trang quận đội may. Du kích ở một số xã đặc biệt khó khăn một ngày được cấp 10 xu
tiền ăn, quần áo phải tự túc, xin dân. Nhìn chung, sự cung cấp tại chỗ của các nguồn chiếm tỉ lệ
sau đây:
- Dân và gia đình chu cấp 50 %.
- Do cấp trên cấp phát, bảo đảm 30 %.
- Tự lực giải quyết 20 % [98, tr. 367].
Đầu năm 1964, Quận ủy Củ Chi phát động phong trào “Tìm địch mà đánh, đánh địch khắp mọi
nơi, đánh với mọi hình thức”. Từ đó, hoạt động vũ trang rộ lên trên địa bàn quận, có nơi địch bị
bao vây, bức rút đồn (Nhuận Đức) phải bỏ chạy. Vùng căn cứ được mở rộng. Hệ thống địa đạo
Phú Mỹ Hưng được kéo dài thêm hàng chục kilômét với nhiều tầng kiên cố, có hệ thống trận địa
chiến đấu và bảo vệ liên kết với nhau. Bộ chỉ huy chú trọng chỉ đạo phát triển lực lượng vũ trang
ba thứ quân, thúc đẩy nhanh cục diện chiến trường có lợi cho ta. Đến giữa năm 1964, tiểu đoàn
Quyết Thắng được tăng cường và củng cố với quân số 456 cán bộ, chiến sĩ, được trang bị đầy đủ,
có khả năng cơ động cao để phối hợp và hỗ trợ cho chiến trường Củ Chi. Lực lượng chủ lực bắt
đầu phát huy vai trò nồng cốt trong tác chiến, lập được nhiều chiến công như: tấn công giải phóng
đồn An Nhơn Tây, giải phóng chốt Bari Tân Quy (Tân Thạnh Tây), tiêu diệt cả tiểu đoàn địch.
Hoạt động của lực lượng vũ trang trên địa bàn quận Củ Chi trong thời gian này đã trực tiếp hỗ trợ
quần chúng đấu tranh bẻ gãy nhiều cuộc càn của địch ở Truông Viết (Phước Hiệp), Tân Thạnh
Đông, Tân Thạnh Tây, Bình Mỹ, Trung An,… đòi địch bồi thường những thiệt hại do chúng gây
ra.
Cuối năm 1964, 37/94 thôn ấp của Củ Chi hoàn toàn giải phóng, nhân dân xây dựng được 70
ấp chiến đấu, đào thêm 22.272 mét địa đạo [43, tr. 242]. Nhiều căn cứ lõm được hình thành như:
Trung An, Tân Phú Trung, Bình Mỹ…Căn cứ Khu ủy Sài Gòn – Gia Định được mở rộng và nối
liền với vùng căn cứ Khu B (Tây Ninh) [5, tr. 50].
Cùng với sự phát triển chung của lực lượng vũ trang, đơn vị Quân báo trực thuộc Quận đội Củ
Chi cũng được thành lập, căn cứ đóng quân ở ấp Ràng (Trung Lập), có đào nhiều hầm bí mật,
công sự chiến đấu và địa đạo để bám trụ lâu dài. Đơn vị còn có căn cứ lõm, bám trụ trong vùng
dân để hoạt động nắm tình hình địch và chiến đấu khi cần thiết.
Sang năm 1965, Quận thành lập thêm đội nữ vũ trang gồm 26 người do đồng chí Nguyễn Thị
Nê làm trung đội trưởng. Đến lúc này, lực lượng vũ trang Củ Chi đã trưởng thành vượt bậc, đã đủ
sức đánh thiệt hại nặng một trung đoàn địch (Trung đoàn 8 Voàng A Sáng), góp phần giữ vững
vùng căn cứ.
Như vậy, bước vào cuộc chiến tranh cách mạng, với ưu thế về lực lượng và trang bị, địch đã
gom dân lập ấp chiến lược, làm cho căn cứ cách mạng của ta bị thu hẹp. Song, nhân dân Củ Chi đã
không ngừng xây dựng, phát triển lực lượng ba thứ quân, đấu tranh chống phá ấp chiến lược để
khôi phục lại vùng giải phóng, xây dựng hệ thống địa đạo kiên cố, liên hoàn, mở rộng căn cứ, tạo
chỗ dựa vững chắc để quân và dân Củ Chi đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và
quân đội Việt Nam cộng hòa. Các biện pháp xây dựng căn cứ trong giai đoạn này đã đặt nền tảng
ban đầu rất quan trọng để phát triển trong các giai đoạn tiếp theo.
2.2. Phát triển căn cứ địa đạo ở Củ Chi, đáp ứng yêu cầu đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của đế quốc Mỹ (1965 – 1968)
2.2.1. Hoàn thiện hệ thống địa đạo, hình thành thế trận “vành đai diệt Mỹ” ở Củ Chi, chống càn
quét của địch
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” thất bại đã đẩy chính quyền Sài Gòn đến bờ vực thẳm của
sự sụp đổ. Để cứu vãn chế độ thực dân mới, chính quyền Mỹ quyết định thay đổi chiến lược: đưa
quân viễn chinh vào miền Nam, trực tiếp đối đầu với Quân giải phóng, đẩy cuộc chiến tranh lên
qui mô chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đồng thời đánh phá miền Bắc. Đến cuối năm 1965, quân
Mỹ có mặt ở miền Nam nước ta là 184.314 tên và 20.500 lính Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan
[106, tr. 193]. Cùng với quân Mỹ và chư hầu, một khối lượng khổng lồ vũ khí, phương tiện chiến
tranh hiện đại bậc nhất của Mỹ cũng được đưa vào sử dụng ở miền Nam. Để bảo đảm hoạt động
của quân Mỹ, địch tổ chức lại chiến trường, thành lập các cơ quan chỉ huy quân sự, gấp rút xây
dựng các cơ sở hậu cần, nâng cấp đường sá, cảng, sân bay… Lấy Sài Gòn làm trung tâm, địch bố
trí quân đội Việt Nam cộng hòa giữ vai trò “bình định”, quân Mỹ và chư hầu làm nhiệm vụ chính
“tìm và diệt”. Tháng 7 năm 1965, Mỹ thông qua chiến dịch 2 gọng kìm “tìm diệt và bình định” của
tướng Westmoreland – tổng tư lệnh các lực lượng viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Để thực
hiện, Mỹ tập trung lực lượng mở cuộc tấn công mùa khô lần thứ nhất (từ ngày 25 tháng 12 năm
1965 đến tháng 6 năm 1966) đánh vào 5 hướng chính trên 2 chiến trường miền Đông Nam Bộ và
Liên khu 5. Trong đó, có một hướng đánh vào căn cứ trung tâm đầu não Khu ủy, Quân khu Sài
Gòn – Gia Định (Quân khu 4) ở các xã vùng giải phóng phía Bắc Củ Chi.
Trước sự leo thang chiến tranh của Mỹ, quán triệt tinh thần Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
11 (tháng 3 năm 1965): “Động viên quân và dân cả nước phát triển thế chủ động tiến công
địch…”, Khu ủy và Quân khu Sài Gòn – Gia Định xác định quyết tâm chiến đấu, chỉ đạo cho các
cấp, các ngành khẩn trương củng cố căn cứ, trận địa chống càn, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ
trang. Các tiểu đoàn 7 bộ binh, tiểu đoàn 8 pháo binh và tiểu đoàn 1 (tăng cường) cơ động của
Quân khu Sài Gòn – Gia Định được đưa về chiến trường Củ Chi. Lực lượng du kích xã, ấp ở Củ
Chi phát triển nhanh về số lượng. Đến giữa năm 1965, toàn quận đã có trên 1.000 chiến sĩ dân
quân du kích, ai cũng tích cực sản xuất vũ khí tự tạo, xây dựng xã, ấp chiến đấu, đặc biệt là củng
cố và phát triển hệ thống địa đạo, công sự, chiến hào [9, tr. 138].
Cuối năm 1961, hệ thống địa đạo ở các xã phía Bắc Củ Chi đã đạt chiều dài trên 40 kilômét và
không ngừng được củng cố, xây dựng một cách khẩn trương. Trong khoảng thời gian từ tháng 7
năm 1963 đến hết năm 1964, quận Củ Chi đã có 46.000 lượt người tham gia xây dựng 70 ấp chiến
đấu, đào được 22.272 mét địa đạo [5, tr. 109].
Khi Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam Việt Nam thì qui mô chiến tranh rộng lớn, mức tàn
phá khốc liệt, kỹ thuật, chiến cụ của địch tân kỳ, cho nên việc xây dựng địa đạo phải có sự chỉ đạo
theo kế hoạch và hệ thống thống nhất. Quận ủy và Khu ủy Sài Gòn – Gia Định đã huy động quân
dân địa phương đào những hệ thống đường hầm khá sâu trong lòng đất, nối liền các công sự chiến
đấu, các hầm bí mật, các chỗ ăn, ở của lực lượng võ trang thường xuyên bám trụ, tất cả ăn thông
với nhau thành thế liên hoàn giữa các ấp trong một xã và giữa các xã trong một vùng địa hình nhất
định. Thế liên hoàn giữa các vùng phát triển ngày càng rộng, đã nối liền từ vùng sâu, vùng ven
trong lòng địch đến vùng căn cứ giải phóng với chiều dài hơn 200 kilômét [52, tr. 494].
Vùng giải phóng phía Bắc Củ Chi là một trong những mục tiêu hàng đầu mà địch ưu tiên sử
dụng lực lượng nhằm tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, triệt phá căn cứ đầu não Khu ủy, Quân
khu Sài gòn – Gia Định, giải tỏa áp lực “Việt cộng” và mở rộng vành đai an toàn quanh Sài Gòn.
Trong cuộc hành quân Crimp (từ ngày 8 đến ngày 19 tháng 1 năm 1966), cuộc hành quân mà theo
một bản báo cáo của quân đội Hoa Kỳ để lộ rằng sẽ là một “cuộc tiến công ào ạt lớn để đánh vào
trái tim bộ máy Việt cộng trong khu rừng Hố Bò nổi tiếng…nhằm tiêu diệt bộ óc đầu não cộng sản
bằng cách tìm, diệt, phá hủy sở chỉ huy chính trị, quân sự của cả quân khu IV Việt cộng”[ 66, tr.
44]. Để thực hiện ý đồ trên, địch đã sử dụng 12.000 quân (gồm 2 lữ đoàn 2 và 3 thuộc sư đoàn bộ
binh 1 Mỹ, 1 tiểu đoàn Úc, 8 tiểu đoàn quân đội Sài Gòn), 300 máy bay chiến đấu và máy bay lên
thẳng, 600 pháo cối, 600 xe cơ giới… được không quân chiến lược B52 yểm trợ dọn bãi (24 lượt
chiếc), có cả chó berger lùng sục…[77, tr. 419]. Trước khi càn quét, để dọn đường, quân Mỹ dùng
bom pháo, kể cả máy bay chiến lược B52, kết hợp với xe tăng càn ủi và rải chất độc hóa học làm
trơ trụi cây cối để dễ phát hiện nhà cửa, kho tàng trong căn cứ, gây nhiễm độc nguồn nước, đất đai.
Nặng nề nhất là các vùng Rừng Làng (An Nhơn Tây), Bến Đình (Nhuận Đức), Hố Bò (Phú Mỹ
Hưng)...
Đối đầu với phi pháo, xe tăng và lực lượng bộ binh hùng hậu của Mỹ, quân dân Củ Chi đã chọn
lối đánh nhỏ, phân tán, thoắt ẩn, thoắt hiện, quần nhau với địch và tiêu hao địch. Nhờ có sự chuẩn
bị chu đáo từ trước nên ngay từ ngày 9 tháng 1 năm 1966, bộ đội địa phương, du kích và bộ đội
chủ lực tại chỗ đã dựa vào hệ thống địa đạo, làng xã chiến đấu, liên tục tiến công quân Mỹ, chư
hầu, tiêu hao sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, buộc sư đoàn 1 Mỹ phải phân tán lực
lượng để đối phó. Nhân đà lực lượng vũ trang đánh mạnh, hơn 2.000 lượt đồng bào Củ Chi xông
ra đấu tranh chính trị trực diện với quân Mỹ và làm công tác binh vận. Bị bao vây bốn mặt, đến
ngày 19 tháng 1, quân Mỹ buộc phải chấm dứt cuộc hành quân tìm diệt lần thứ nhất vào Củ Chi.
Cuộc hành quân Crimp không đạt được mục tiêu diệt cơ quan đầu não của Quân khu Sài Gòn –
Gia Định và đơn vị chủ lực quân giải phóng, “không càn quét được lâu vùng định bình định, cũng
không phá vỡ được cơ sở hạ tầng, nhưng đã để lộ khá rõ nhược điểm của chiến thuật “tìm và
diệt” thường dùng của quân Mỹ” [66, tr. 65]. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.632 tên địch (phần
lớn là Mỹ), bắt 1 thiếu tá, bắn cháy và hỏng 77 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi và bị thương 84 máy
bay, phá hủy 2 đại bác 105 ly…[9, tr. 144].
Như vậy, qua 12 ngày đêm chiến đấu hết sức ngoan cường, hệ thống địa đạo, một kỳ công của
quân và dân Củ Chi đã phát huy tác dụng to lớn trong thực hiện chiến thuật “địa đạo chiến” để tiến
công tiêu diệt địch và bảo toàn lực lượng, bảo vệ căn cứ cách mạng.
Ngày 7 tháng 2 năm 1966, Bộ tư lệnh Quân khu Sài gòn – Gia Định mở Đại hội Dũng sĩ diệt
Mỹ tại căn cứ. Trong không khí tràn đầy phấn khởi và tin tưởng, Đại hội đã tuyên dương và tặng
các danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ, diệt cơ giới, diệt máy bay” cho 209 cán bộ, chiến sĩ, và dân quân
du kích. Dũng sĩ ưu tú có nông dân – chiến sĩ Nguyễn Văn Nì. Nữ dũng sĩ tiêu biểu Nguyễn Thị
Gừng, Võ Thị Mô, Nguyễn thị Nê… Đại hội cũng đã kết luận 10 điểm, khẳng định khả năng đánh
Mỹ và thắng Mỹ của lực lượng chiến tranh nhân dân:
Ai cũng đánh được Mỹ. 1-
Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ. 2-
3- Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ đều đánh được.
4- Ở đâu cũng đánh được Mỹ, chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch là đánh được.
5- Ngày cũng đánh được, đêm cũng đánh được.
6- Địch phản công là cơ hội để tiêu diệt chúng.
7- Đánh ở phía trước, đánh trong hậu cứ địch. Đánh đều khắp làm cho địch bị động, bối
rối, càng dễ đánh hơn.
8- Đánh địch trong ấp chiến lược và cả ngoài xã, ấp chiến đấu.
9- Có khả năng đánh thắng tất cả mọi binh chủng của Mỹ như bộ binh, xe tăng, máy bay,
biệt kích...
10 - Đánh bằng vũ trang, bằng chính trị và cả bằng binh vận, làm cho địch tan rã nhanh
chóng [43, tr. 263-264].
Mười bài học đánh Mỹ ở Củ Chi trở thành kinh nghiệm quý báo, có tác dụng động viên, cổ vũ
lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam chiến đấu và được cụ thể hóa ngày càng sinh động trên
chiến trường, trong đó phương thức đấu tranh “hai chân, ba mũi” giáp công đánh địch đã phát huy
được sức mạnh to lớn trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Đại hội phát động tiếp tục phong trào thi đua diệt Mỹ trên toàn quận Củ Chi. Trên cơ sở đó,
ngày 9 tháng 2 năm 1966, Khu ủy và Bộ chỉ huy Quân khu chỉ thị lập “Vành đai diệt Mỹ” bao vây
căn cứ Đồng Dù (Bắc Hà – Củ Chi).
Vành đai là một tập hợp các xã, ấp bao quanh căn cứ của Mỹ. Những xã, ấp này được xây dựng
thành những xã, ấp chiến đấu có giao thông hào, công sự, hầm chông, bãi mìn, lựu đạn gài…để
chống lại các cuộc tiến công của quân Mỹ ra ngoài căn cứ.
Ngay sau cuộc hành quân Crimp của sư đoàn bộ binh số 1 (Anh Cả Đỏ) bị thất bại, tháng 2
năm 1966, Mỹ điều ngay sư đoàn bộ binh cơ giới 25 (Tia Chớp Nhiệt Đới) đến thiết lập căn cứ
Đồng Dù, làm trung tâm chỉ huy đánh phá vùng Tây Bắc Sài Gòn – Gia Định và án ngữ cửa ngõ
Sài Gòn như một lá chắn mạnh nhất trong vùng. Căn cứ Đồng Dù rộng khoảng 600 ha, được bao
quanh một hệ thống ấp chiến lược và đồn bót dày đặc. Chung quanh căn cứ, địch phát hoang thành
“Vành đai trắng” rộng cả chục kilômét vuông, đặt dưới tầm pháo binh chi viện từ mọi phía. Căn
cứ cấu trúc rất vững chắc và có đầy đủ phương tiện phục vụ cho sinh hoạt và chiến đấu của 4.500
quân thuộc cơ quan sư đoàn bộ và 2 lữ đoàn của sư đoàn 25 Mỹ [9, tr. 149].
Đi liền với việc lập căn cứ đóng chốt lâu dài, quân Mỹ ngày đêm bắn pháo, dội bom, rải chất
độc hóa học, dùng xe tăng ủi phá rừng, vườn tược, nhà cửa, tiếp tục gom dân vào ấp chiến lược,
triệt để thực hiện âm mưu “tát nước bắt cá”, cô lập lực lượng vũ trang, triệt hạ vùng giải phóng,
hòng đánh tróc và đẩy lực lượng cách mạng ra xa.
Chấp hành Chỉ thị của Khu ủy, quân dân Củ Chi thi đua đào địa đạo, công sự, chiến hào, lập
các “bãi tử địa”, hầm chông, hố đinh, cạm bẫy, củng cố xã, ấp chiến đấu liên hoàn, hình thành một
vành đai với nhiều trận địa, nhiều tuyến, nhiều ổ, cụm chiến đấu, vừa vây hãm, ngăn chặn địch
đánh nống ra, vừa là bàn đạp tiến công đột nhập vào căn cứ địch. Căn cứ vào địa hình và trên cơ
sở hệ thống địa đạo, công sự, chiến hào và làng xã chiến đấu, “vành đai lửa” bao quanh căn cứ sư
đoàn 25 ở Đồng Dù gồm một phần đất các xã Tân An Hội, Phước Vĩnh An, Trung Lập, Nhuận
Đức, Phú Hòa Đông. Toàn bộ vành đai là một trận địa liên hoàn kéo dài hàng cây số, được cấu
trúc thành nhiều tuyến linh hoạt theo địa hình cụ thể từng khu vực. Trận địa xã Nhuận Đức gồm 3
tuyến: Tuyến một chỉ cách căn cứ Đồng Dù con suối Bến Mương, kéo dài từ Bàu Chứa đến Bàu
Cạp, dài 2 kilômét. Phía trước tuyến 1 là bãi mìn và chông, tuyến 2 và 3 ở phía sau nối với tuyến 1
bằng giao thông hào lộ thiên và ngầm. Trên tuyến 2, tuyến 3, ngoài các ụ chiến đấu chống bộ binh
như ở tuyến 1, còn có các ụ bắn máy bay bay thấp. Trên trận địa xã Nhuận Đức, chỉ có 3 đồng chí
du kích nhưng với sự mưu trí, dũng cảm dựa vào thế trận để chiến đấu đã bẻ gãy nhiều đợt tấn
công của lực lượng Mỹ đông gấp bội, giữ vững được trận địa.
Đoạn vành đai xã Trung Lập có 5 tuyến kéo dài từ ấp Bàu Tre đến Trảng Lắm. Mỗi tuyến cách
nhau 50 đến 70 mét, tuyến dài nhất 5 kilômét, tuyến ngắn nhất 3 kilômét. Tuyến 1 sát địch, các ụ
chiến đấu chỉ cách nhau trên dưới 15 mét, có giao thông hào nối ra tận đường làng 2, tuyến 5 cuối
cùng, các ụ chiến đấu được xây dựng vững chắc, có hầm cấp cứu, hầm ẩn náu, hầm làm việc…
Đoạn vành đai xã Phú Hòa Đông lại hình thành từ “thế trận thiên nhiên” của khu vực những
hầm đá, gò đống, bụi tầm vông. Căn cứ “Hầm đá mội Nước Nhĩ” và căn cứ “ xóm Bà Nhiễm”
cách nhau khoảng 1 kilômét, cách tỉnh lộ 15 vài trăm mét, hợp thành trận địa đánh chặn xe tăng từ
các căn cứ quân sự của địch tấn công vào vùng giải phóng của ta [6, tr. 109-110].
Để kịp thời chỉ huy tác chiến, sắp xếp lực lượng, Quận ủy Củ Chi chỉ đạo cho Quận đội tổ
chức ban chỉ huy thống nhất ở tuyến vành đai gồm:
* Ban chỉ huy cấp quận ở vành đai diệt Mỹ gồm các đồng chí:
- Đồng chí Một Sơn – Bí thư quận ủy, chỉ huy trưởng.
- Đồng chí Tám Châu – Quận đội trưởng, chỉ huy phó thường trực.
- Đồng chí Ba Luân – Thường vụ quận ủy, chính trị viên.
- Đồng chí Năm Đang – hội trưởng phụ nữ, ủy viên.
- Đồng chí Út Tâm – Hội nông dân, ủy viên.
- Đồng chí Năm Sang – phụ trách binh vận, ủy viên.
* Ban chỉ huy cấp hướng (còn gọi là cánh):
Vành đai được chia làm 2 cánh:
Cánh 1 gồm 3 xã hướng Đông và Đông Nam Đồng Dù là Phú Hòa Tây, Tân Thạnh Tây và
Phước Vĩnh An do đồng chí Năm E – quận đội phó, phụ trách chung. Trong ban chỉ đạo cánh còn
có các đồng chí Bí thư xã, xã đội các xã Phú Hòa Tây, Tân Thạnh Tây và Phước Vĩnh An và đồng
chí Chín Khánh phụ trách quân báo.
Lực lượng vũ trang gồm du kích các xã, Quyết chiến 4 (bộ đội địa phương quận), lực lượng
Quân khu, lực lượng tự vệ các cơ quan đăng ký ra vành đai được ban chỉ huy thống nhất phân bổ
xuống cánh.
Cánh 2 gồm các xã hướng Bắc và Tây Bắc Đồng Dù, do đồng chí Năm Trầu (Dương Hồng
Quân) – Quận đội phó phụ trách, cùng 2 cán bộ quận đội là đồng chí Tám Cạng (Phạm văn Cạng)
và đồng chí Hai Thành (Phạm Tấn Thành). Trong ban chỉ huy cánh này còn có các đồng chí bí thư
xã, xã đội các xã Trung Lập, Nhuận Đức và đồng chí Bảy Diêu phụ trách quân báo.
Lực lượng vũ trang gồm du kích các xã Nhuận Đức, Trung Lập, Phú Mỹ Hưng, Quyết chiến 5
(bộ đội địa phương quận), lực lượng Quân khu và lực lượng tự vệ các cơ quan đăng ký ra vành đai
[103,tr. 4-5].
Về công tác bảo đảm chiến đấu trên vành đai, với phương châm là hậu cần nhân dân, bên cạnh
tranh thủ hậu cần cấp trên chi xuống. Ban chỉ huy thống nhất của quận và ở các cánh đều có ban,
ngành, đoàn thể, do đó, các ban ngành đoàn thể này vận động nhân dân đóng góp lương thực, thực
phẩm, tập họp đưa ra tuyến trước, rồi tải thương, tử sĩ về phía sau (nếu có). Để có vũ khí, ngoài
công xưởng của quận và một số xã, các xã còn phát huy công trường trên vai. Cụ thể là trong quá
trình chiến đấu với địch, quân dân Củ Chi thu lượm các trái bom đạn lép của địch đem về làm các
loại mìn, trái gài, rồi đem đến tiền tuyến để đánh lại địch. Ban ngày ta đánh địch ở nơi nào, tối đến
ta trở lại nơi đó kiểm tra, thu gom súng đạn địch bỏ lại, đem về chế tạo để đánh địch. Hoặc có trận,
ta lợi dụng địa hình, tiếp cận đội hình địch, nổ súng tiêu diệt địch rồi xung phong lấy vũ khí của
địch đem về trang bị cho mình.
Quân dân y được tổ chức để thực hiện được ngay tại trận địa và cơ sở ở tuyến sau.
Cuộc chiến đấu ở vành đai diễn ra vô cùng ác liệt. Trong hai tháng 3 và 4 năm 1966, tiểu đoàn
Quyết Thắng chủ động thực hiện các trận tập kích quân Mỹ ở Phú Mỹ Hưng, diệt 1 đại đội Mỹ và
3 xe tăng ở Rừng Sến (lần 1); đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ (lần 2). Tháng 5 năm 1966, tiểu
đoàn tiếp tục luồn sâu vào hậu phương địch, tập kích đồn Tân Thạnh Tây diệt 80 tên, bắt sống 20
tên, thu 50 súng. Cho đến tháng 7 năm 1966, trên vành đai diệt mỹ, lực lượng ta đã 8 lần đánh vào
căn cứ sư đoàn 25 Mỹ, trong đó, 2 trận cuối tháng 7, diệt nhiều Mỹ, phá hủy 20 xe bọc thép [ 6, tr.
110].
Dựa vào địa đạo và công sự, du kích từ xa lấn dần vào bắn tỉa và vây ép địch, khiến quân Mỹ bị
thương vong phải co lại, bị động đối phó liên tục. Chỉ tính tháng đầu đánh Mỹ trên vành đai Đồng
Dù, các lực lượng trên địa bàn quận Củ Chi đã đánh trên 100 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến
đấu 2.000 tên, bẻ gãy nhiều cuộc càn của địch từ căn cứ nống ra. Quân Mỹ không phát huy được
ưu thế binh hỏa lực cũng như những phương tiện chiến tranh hiện đại, mà thường xuyên buộc phải
làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ trước sức tiến công, uy hiếp của lực lượng cách mạng quanh vành đai,
chúng thực sự rơi vào “trận đồ bát quái” của chiến tranh nhân dân [9,tr. 153].
Vào mùa khô 1966 - 1967, Củ Chi lại là mũi nhọn của cuộc càn Cedar Falls mà quân Mỹ tiến
hành từ ngày 8/1/1967 đến 26/1/1967, đánh vào khu “tam giác sắt” (Trảng Bàng - Củ Chi - Bến
Cát). Trong cuộc càn này, Mỹ điều một lực lượng cơ động lớn gấp 3 lần trận càn Crimp, với mục
đích “bốn mặt bao vây, trên bịt kín”, nhằm đánh phá căn cứ, triệt phá kho tàn, hành lang của lực
lượng cách mạng dọc sông Sài Gòn, tiêu diệt quân giải phóng, bình định cấp tốc vùng này, phá tan
vành đai diệt Mỹ để lập nên một “vành đai trắng” chia cắt vùng giải phóng, củng cố phòng thủ
phía Tây Bắc Sài Gòn.
Đây là cuộc càn lớn nhất trong cuộc chiến tranh trên đất Củ Chi, diễn ra vô cùng ác liệt, bằng
những thủ đoạn tàn bạo nhất với sức hủy diệt vô cùng lớn. Trước khi đổ bộ binh và đưa xe tăng ào
ạt càn phá, hàng trăm phi vụ máy bay B52 và phản lực dội bom như rải thảm. Pháo binh địch đã
đánh phá nhiều ngày vào xã An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng, Nhuận Đức, Phú Hòa Tây. Dùng phản
lực đánh nhiều ở các ấp tuyến vành đai (Đồng Dù)… Với mục tiêu “bới tung địa đạo Củ Chi”,
“giải quyết được địa đạo thì giải quyết được chiến tranh du kích ở đây” nên trong cuộc hành quân
này, Mỹ rất coi trọng vai trò của công binh. Trung tá Siermen xác định “Cedar Falls là cuộc hành
quân có ý nghĩa nhất về mặt tác chiến công binh trong chiến tranh hiện đại kể từ trước tới
giờ”[37, tr. 96]. Quân Mỹ đã sử dụng 200 xe ủi để “bới tung địa đạo Củ Chi”, dùng bom napan để
đốt cháy dưỡng khí trong địa đạo, lại tiếp tục bom nước, đánh thuốc nổ, bom hơi ngạt, hơi độc,
“đội quân chó” sục sạo miệng hầm, các đội “Chuột cống” luồn lách vào địa đạo (lính Mỹ được
tuyển ở Hawai có chiều cao trung bình như người châu Á, được đào tạo kỹ thuật luồn lách như
chuột). Vào cuộc càn, bộ binh Mỹ làm nhiệm vụ càn quét vòng ngoài, các đơn vị xe tăng hạng
nặng và công binh, hóa học triệt phá các căn cứ bên trong. Quân đội Việt Nam cộng hòa làm
nhiệm vụ ngăn chặn, giữ các ấp chiến lược.
Mở đầu trận địa phá càn Cedar Falls, ngày 8 tháng 1 năm 1966, Tiểu đoàn 2 Quyết Thắng Gò
Môn đã đánh một trận xuất sắc diệt trực thăng vận của sư đoàn 25 Mỹ tại ấp Bốn Phú, xã Trung
An, diệt 300 tên Mỹ, bắn rơi 1 máy bay phản lực F4H và bắn bị thương nhiều trực thăng [43, tr.
283].
Dựa vào hệ thống địa đạo chằng chịt, ngay từ đầu cuộc càn, lực lượng vũ trang Quân khu và
du kích Củ Chi, Bến Cát đã bám trụ vững chắc, dũng cảm chiến đấu gây cho địch thiệt hại nặng
nề. Các tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, tiểu đoàn 7 Củ Chi, tiểu đoàn 8 pháo binh…ngày đêm “đâu
lưng” phá càn, bảo vệ cơ quan lãnh đạo Quân khu, tiêu diệt hàng trăm tên Mỹ, bắn cháy 18 xe tăng
và thiết giáp [9, tr. 163]. Một bộ phận lớn của tiểu đoàn 1 Quyết Thắng chia thành nhiều phân đội
nhỏ cùng với bộ đội địa phương và du kích cơ quan đánh lẻ, diệt 40 xe tăng và xe bọc thép, bắn rơi
15 trực thăng, giải tỏa áp lực quân địch cho nhiều cơ quan và quan trọng nhất là tổ chức chốt
đường, đưa một số cán bộ lãnh đạo cao cấp của Quân khu ra khỏi khu vực địa đạo Phú Hòa Đông
đang bị quân Mỹ bao vây. Trong khi đó, dân quân du kích từ Phú Mỹ Hưng, Trung Lập, đến
Nhuận Đức, An Nhơn Tây, …bám chặt công sự, lợi dụng các ổ chiến đấu, dựa vào hệ thống địa
đạo, không những chiến đấu dũng cảm diệt gần 3.000 tên địch, 90 xe tăng, xe bọc thép trên lộ 7, lộ
15…mà còn tiêu diệt chúng khi từ trên không đổ quân xuống trận địa, hoặc với những bãi trái gài
đã diệt hàng trăm tên Mỹ và 13 máy bay các loại [103, tr. 11-12]. Tính đến cuối cuộc càn, quân
Mỹ đã san bằng khoảng 11 kilômét vuông rừng, chiếm khoảng 1/4 vùng tam giác sắt [66, tr. 198].
Nhưng do quân Mỹ không nắm được cấu trúc của địa đạo cũng như độ rộng, dài của nó, nên thực
tế việc phá hủy không có hiệu quả. Một đại đội trưởng Mỹ thừa nhận: “Chúng tôi đốt phá nhà cửa,
nhưng chẳng làm gì được đối với các công sự, chỉ vì công sự được đào quá sâu”. Tướng Mỹ
S.L.A Marshall thú nhận trên báo War’s Journal tribune số ra ngày 26 tháng 2 năm 1967: “…sự
việc diễn biến hoàn toàn không giống như người ta dự tính. Rất ít quân địch bị đánh bật ra ngoài
hoặc bị giết. Hệ thống hầm ngầm không bị triệt phá mà chỉ hư hại…”[77, tr. 452]. Vì vậy, bộ đội
địa phương, du kích và tiểu đoàn Quyết Thắng, chủ lực Quân khu Sài Gòn – Gia Định vẫn có chỗ
dựa chắc chắn là hệ thống địa đạo để chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt quân Mỹ.
Dù quân Mỹ phải chịu nhiều tổn thất nhưng vẫn không thực hiện được mục tiêu chính của
chiến dịch là ngăn chặn địch (chỉ Việt cộng) trở lại, vì theo tướng Bernard Roger, phó chỉ huy sư
đoàn Anh cả đỏ thì “chỉ 48 giờ sau khi chiến dịch kết thúc, trong máy bay lên thẳng bay trên vùng
đất thép, tôi trông rõ nhiều người là Việt cộng, đi xe đạp, đi bộ qua lại. Trong những ngày ngừng
bắn vào dịp Tết từ ngày 8 đến 12 tháng 2, vùng Tam giác thép đầy người, chắc chắn là Việt cộng.
Họ qua lại, ra vào suốt ngày” [66, tr. 201].
Ca ngợi chiến công oanh liệt của quân và dân Củ Chi, Bến Cát, xã luận báo Nhân Dân tháng 1
năm 1967 viết: “Chiến thắng bẻ gãy cuộc hành quân Cedar Falls của giặc Mỹ là tiếng hát hùng
tráng của chiến tranh nhân dân, là biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”[103,
tr. 12].
Như vậy, nhờ sự chuẩn bị từ trước nên lực lượng vũ trang ba thứ quân của Củ Chi vẫn bảo tồn
được phần lớn lực lượng, vừa đánh bại một bước âm mưu của Mỹ định biến Củ Chi thành vành
đai trắng, vừa thiết lập được một vành đai du kích rộng lớn, đồng thời giữ vững được vùng giải
phóng.
Phục vụ cho lực lượng vũ trang chiến đấu, quân và dân Củ Chi đã tích cực sản xuất vũ khí và
lương thực. Trong năm 1966, quy mô chiến tranh càng lớn, hình thái giằng co quyết liệt đòi hỏi
toàn quân phải phát huy tinh thần tự cung tự cấp, dựa vào quần chúng mà nồng cốt là bộ đội, du
kích. Phong trào tự tạo vũ khí phát triển đều khắp trong quận. Các lò rèn ở vùng lõm, vùng giải
phóng trở thành xưởng sản xuất vũ khí thô sơ. Mọi người, bằng nhiều cách sưu tầm bom đạn lép
đem về cho công trường chế tạo, cải biến…Trung bình một ngày sản xuất gần 2.000 viên đạn các
loại. Cũng trong thời kỳ này, công trường ở ấp, công trường địa đạo ra đời. Tính chung trong
những năm chống Mỹ, công trường quận đã sản xuất 67.000 mìn, lựu đạn các loại. Công trường
các xã, ấp sản xuất được 201.000 quả các loại. Còn chông thì làm hàng triệu cây, bố trí khắp chốn
[98, tr. 369]. Sáng kiến mìn gạt của chiến sĩ quân giới Tô Văn Đực được phát huy và cải tiến, dễ
sử dụng và có tác dụng diệt xe cơ giới địch rất cao. Việc sưu tầm bom đạn lép của địch để sản xuất
vũ khí tự tạo đã trở thành phong trào thi đua rầm rộ của quân dân Củ Chi. Chính vũ khí lợi hại này
đã góp phần quan trọng vào việc tiêu diệt địch, bảo vệ vững chắc vùng căn cứ Củ Chi.
Qua hai năm đọ sức cực kỳ ác liệt với quân xâm lược Mỹ, quân dân Củ Chi đã tỏ rõ tinh thần
chiến đấu bất khất, kiên cường, chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh và lập được nhiều chiến công
xuất sắc. Các xã phía Bắc Củ Chi như: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Trung Lập, Nhuận Đức…trở
thành những điển hình xây dựng làng, xã chiến đấu và chống phá bình định, đã tồn tại và đứng
vững trong suốt cuộc chiến tranh. Hệ thống địa đạo và vành đai diệt Mỹ Bắc Hà là một trong
những sáng tạo độc đáo của quân dân Củ Chi trong quá trình thực hiện chiến tranh nhân dân để
đánh bại địch. Với tinh thần “một tất không đi, một ly không rời” quân dân Củ Chi đã chiến đấu
dũng cảm, sáng tạo, mưu trí, đã trở thành một trong ba lá cờ đầu diệt Mỹ của toàn miền Nam và
được tặng danh hiệu: “Củ Chi Đất Thép Thành Đồng” tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn
Miền lần thứ hai (17/9/1967). Danh hiệu vẻ vang này là niềm vinh dự và tự hào lớn lao, động viên
mạnh mẽ tinh thần chiến đấu cho quân dân Củ Chi trong giai đoạn tiếp theo.
2.2.2. Căn cứ địa Củ Chi làm bàn đạp cho mũi tiến công của Phân khu 1 trong cuộc tổng tiến
công Tết Mậu Thân 1968
Tháng 11 năm 1967, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đã ra quyết định về tổng công kích
– tổng khởi nghĩa, lấy Sài Gòn – Gia Định làm trọng điểm.
Để thực hiện cuộc tổng công kích – tổng khởi nghĩa với trọng điểm là Sài Gòn – Gia Định, Bộ
chỉ huy Miền đã sắp xếp, tổ chức lại các mặt trận. Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn – Gia Định
hợp nhất lại và chia thành 6 phân khu. Mỗi phân khu đều có căn cứ là vùng giải phóng làm chỗ
dựa về cung cấp hậu cần, tập kết lực lượng và bàn đạp tiến công vào Sài Gòn. Quận Củ Chi nằm
trong Phân khu 1, có căn cứ địa đạo Củ Chi, căn cứ Long Nguyên, Nam Bến Cát (Bình Dương),
căn cứ Bời Lời, An Tịnh (Trảng Bàng - Tây Ninh). Bám theo hệ thống căn cứ, trên các đường
hành lang cũ và mới được thiết lập, các đoàn hậu cần cùng dân công đi trước một bước tải lương
thực, đạn dược về các cụm kho bao quanh Sài Gòn. Trên hướng Bắc Sài Gòn, hậu cần được
chuyển theo các hành lang từ Xa Mát đi Giếng Thí, Bà Hảo, Bàu Nổ, về Nam Bến Cát, từ đó về
Củ Chi; từ Móc Câu đi Nha Thức, Long Nguyên, rồi cũng về Nam Bến Cát và về Củ Chi. Sau khi
hậu cần đã chuẩn bị sẵn, gần đến ngày nổ súng, bộ đội mới theo các hành lang căn cứ bí mật
chuyển quân về áp sát Sài Gòn – Gia Định [76, tr. 91].
Để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích Xuân 1968, Củ Chi với vị trí là hậu phương, bàn đạp
xuất phát của nhiều đơn vị, đã triển khai mở đường, phá một số đồn bót địch cho quân chủ lực
thọc nhanh vào nội thành; chuẩn bị lương thực, dân công, chỉ đạo nội tuyến kết hợp với lực lượng
vũ trang bên ngoài tấn công vào thị trấn Củ Chi, trung tâm đầu não bộ máy chiến tranh và kềm kẹp
tại địa phương.
Đêm 30 rạng ngày 31/1/1968, quân và dân miền Nam đồng loạt nổ súng mở đầu cuộc tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Ở Củ Chi, các đơn vị bộ đội chủ lực của sư đoàn 9 và sư đoàn 5 nổ
súng mãnh liệt, diệt các đồn bót địch trên quốc lộ 1, mở đường tiến quân vào Sài Gòn. Du kích và
đồng bào tích cực giúp đỡ bộ đội trong việc dẫn đường, sát cánh cùng bộ đội chiến đấu và tiếp tế
lương thực, tham gia tải thương… Tiểu đoàn 7 Củ Chi chia thành 2 cánh tấn công, vây ép, bắn vào
đồn, bót khu vực Phú Hòa Đông, kết hợp với mũi binh vận tấn công chi khu Củ Chi, đánh phản
kích liên tục, đồng thời đánh diệt các bót Mỹ Khánh (Thái Mỹ), Phước Hưng (Phước Thạnh), bắt
nhiều tù binh, thu vũ khí, phát động quần chúng làm chủ cơ sở, vận động thanh niên tòng quân
phát triển lực lượng… Du kích ở các xã Nhuận Đức, An Nhơn Tây tiến hành đánh liên tục bọn Mỹ
khi chúng đang đánh phá khu vực Cây Điệp, Xóm Bưng (Nhuận Đức), Sở Đất Thịt (An Nhơn
Tây), không cho bọn này quay về ứng cứu Sài Gòn.
Ngày 26/2/1968, lực lượng vũ trang Củ Chi phối hợp cùng bộ đội chủ lực Quân khu tấn công
căn cứ Đồng Dù, chỉ sau hơn 30 phút chiến đấu kiên cường, quân giải phóng đã làm tê liệt căn cứ
Đồng Dù. Sở chỉ huy sư đoàn quân viễn chinh Mỹ số 25 mang tên “Tia chớp nhiệt đới” bị diệt
gọn. Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.270 tên xâm lược Mỹ, phá hủy nhiều máy
bay, đại bác, xe tăng của địch, góp phần phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở phía Tây Bắc Sài Gòn,
tạo ra thế thuận lợi cho chiến tranh nhân dân của ta [108, tr. 458].
Trước những đòn tấn công bất ngờ của lực lượng cách mạng ở Sài Gòn, địch choáng váng, bị
động đối phó. Nhưng sau đó đã tập trung lực lượng phản kích đẩy lùi lực lượng cách mạng ra xa
vùng đô thị Sài Gòn và nhanh chóng tiến hành bình định cấp tốc vùng nông thôn. Trong khi đó,
lực lượng cách mạng vẫn tiếp tục đợt tiến công thứ 2 (5/5/1968 – 18/6/1968) và thứ 3 (17/8/1968 –
28/9/1968) vào đô thị và hậu cứ địch, nên ở vùng nông thôn, lực lượng cách mạng còn lại rất
mỏng và yếu, không đủ sức đối phó khi địch tiến hành bình định cấp tốc khu vực dọc quốc lộ 1
vùng Củ Chi và Trảng Bàng. Trước tình hình đó, Thành ủy đề nghị lên Trung ương Cục: Sài Gòn
– Gia Định không tham gia cuộc tổng tiến công đợt 3 mà chuyển sang củng cố tổ chức, xây dựng
lại lực lượng, phục hồi cơ sở…(Tháng 7 năm 1968, Thành ủy được thành lập lại do đồng chí Võ
Văn Kiệt làm bí thư).
Tháng 8 năm 1968, Phân khu 1 quyết định chia quận Củ Chi ra thành hai huyện Nam Chi và
Bắc Chi cho phù hợp với tình hình và chỉ đạo được sát (từ sau Mậu Thân, các quận ven thuộc
Phân khu 1 gọi là huyện cho đến nay). Huyện Bắc Chi gồm các xã: Thái Mỹ, Phước Thạnh,
Phước Hiệp, Trung Lập, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng, An Phú, Tân An Hội, Thị
Trấn (Bắc Hà 1) và Bắc Hà 2.
Huyện Nam Chi gồm các xã: Bình Mỹ B, Trung An 1, Trung An 2, Tân Thạnh Đông, Tân
Thạnh Tây, Phú Hòa Đông, Phú Hòa Tây, Phước Vĩnh An, Tân Thông Hội, Tân Phú Trung.
Ngay sau ngày phân chia địa bàn mới, nhiều xã ở Bắc Chi và Nam Chi mở Hội nghị quân sự
để nghiên cứu cách đánh và triển khai kế hoạch tác chiến diệt địch. Du kích các xã liên tục tấn
công tiêu diệt nhiều địch và phương tiện chiến tranh của chúng. Kết hợp với lực lượng vũ trang,
phong trào quần chúng bao vây đồn bót địch diễn ra nhiều nơi như Phú Hòa Đông, Tân Thạnh
Tây, Hòa Phú…Phong trào binh vận cũng phát triển, nhất là ở Trung An, bà con đã kêu gọi con
em trở về với gia đình…Có thể nói, năm 1968 mà cao trào là cuộc tổng tiến công và nổi dậy, quân
dân Củ Chi đã kết hợp được 3 mũi giáp công đánh địch đạt hiệu quả cao. Tính chung trong năm
1968, lực lượng vũ trang Củ Chi vừa độc lập, vừa kết hợp với đơn vị bạn đánh địch 960 trận, loại
khỏi vòng chiến đấu gần 11.700 tên (có trên 8.500 Mỹ), bắt 140 tên, diệt 532 xe cơ giới, bắn rơi và
bị thương 214 máy bay, thu 301 súng các loại. Đánh phá 2 chi khu (Củ Chi và Phú Hòa); diệt, bức
hàng, bức rút 20 đồng bót, đốt cháy 400 căn nhà lính, phá nổ 24 kho đạn, phá hỏng và đánh sập 20
cầu cống. Cùng với các ban, ngành, đoàn thể và nhân dân tổ chức 271 cuộc đấu tranh với 68.400
lượt người tham gia, buộc địch phải bồi thường cho dân 690.000 đồng, 3.500 bao xi măng; vận
động 1.330 gia đình bỏ ấp chiến lược về vùng giải phóng [9, tr. 193].
Cuộc sống tinh thần của người dân Củ Chi cũng được chú ý. Đầu năm 1968, đội văn công
huyện được nâng lên thành đoàn văn công của Phân khu I (thuộc Quân khu Sài Gòn – Gia Định)
được bổ sung thêm 4 cán bộ và diễn viên mới. Đoàn có nhiệm vụ phục vụ chiến sĩ và đồng bào, ca
ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh gian khổ, tuyên truyền về đường lối, chủ trương chính sách của
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam [6, tr. 125].
Như vậy, đến cuối năm 1968, quân dân Củ Chi đã trải qua 3 năm trực tiếp đọ sức với quân
viễn chinh Mỹ (tính từ tháng 1 năm 1966). Mặc dù địch dùng mọi biện pháp đánh phá có tính chất
hủy diệt, nhưng vùng giải phóng Củ Chi vẫn đứng vững. Các lực lượng vũ trang kiên cường bám
trụ, nhân dân thề quyết sống chết trên mảnh đất quê hương, để cùng với bộ đội và du kích tiêu diệt
quân thù. Chiến công của quân dân Củ Chi trong mùa Xuân 1968 đã góp phần cùng cả nước đánh
bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, tạo ra một bước nhảy vọt mới cho cách
mạng miền Nam.
2.3. Củng cố căn cứ địa, xây dựng thế bám trụ của chiến tranh nhân dân chống chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”, tiến tới giải phóng (1969 – 1975)
2.3.1. Khó khăn mới của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi sau Mậu Thân
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam là cột mốc
đánh dấu sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, góp phần quan trọng làm phá sản chiến
lược toàn cầu phản ứng linh hoạt của đế quốc Mỹ. Đầu năm 1969, Ních-xơn thay Giôn-xơn làm
tổng thống Mỹ, đề ra chiến lược toàn cầu mới mang tên Học thuyết Ních-xơn. Ứng dụng học
thuyết Ních-xơn vào Việt Nam, chính quyền Mỹ điều chỉnh chủ trương phi Mỹ hóa của Giôn-xơn
thành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Phi Mỹ hóa là kế hoạch thuần túy về quân sự nhằm
tránh cho quân Mỹ khỏi bị thất bại nặng nề bằng cách duy trì cục diện chiến trường không bị xấu
thêm, đồng thời tiến hành thương lượng để hòng rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự. Việt
Nam hóa Chiến tranh của Ních-xơn là một kế hoạch toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại
giao nhằm giảm quân Mỹ nhưng lại vực được quân đội Việt Nam cộng hòa dậy, làm cho chế độ
tay sai của Mỹ ở miền Nam mạnh lên về mọi mặt, Mỹ rút mà vẫn thắng trong cuộc chiến tranh.
Hai biện pháp chủ yếu của chiến lược này là phát triển nhảy vọt lực lượng quân đội Việt Nam
cộng hòa và nỗ lực bình định các vùng nông thôn, đồng bằng. Bên cạnh đó, Mỹ và chính quyền
Sài Gòn còn chú trọng đẩy mạnh hoạt động tâm lý chiến của tổ chức “Phượng Hoàng” chuyên do
thám, bắt bớ, thủ tiêu, ám sát, chiêu hồi,…
Thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ gấp rút củng cố bộ máy chỉ đạo ở miền
Nam đồng thời với việc chính quyền Sài Gòn ban hành Lệnh tổng động viên, bắt lính, đôn quân,
phát triển và hiện đại hóa quân đội. Trong gần 4 năm (1969-1972) địch đã nâng quân chủ lực,
quân địa phương (bảo an, dân vệ) từ 70 vạn lên 110 vạn, lực lượng bán vũ trang (phòng vệ dân sự)
từ 150 vạn lên 200 vạn. Mỹ còn đưa nhanh vào miền Nam một khối lượng lớn vũ khí, bom đạn,
thiết bị chiến trường. Từ đầu 1969 đến giữa năm 1970, Mỹ trang bị đầy đủ các loại vũ khí hiện đại
cho lục quân, tăng gấp đôi số lượng xe tăng, thiết giáp và pháo trong biên chế các sư đoàn bộ binh
chủ lực của quân đội Việt Nam cộng hòa. Từ giữa năm 1970, Mỹ bắt đầu việc hiện đại hóa không
quân, hải quân và pháo binh. Đến cuối năm 1972, quân đội Việt Nam cộng hòa có 1.100 chiếc
máy bay chiến đấu các loại, 1.897 xe tăng và thiết giáp, 1.300 khẩu pháo, 1.600 tàu chiến… [107,
tr. 9-10]. Như vậy, giai đoạn từ 1969 đến 1972 là thời kì Mỹ và chính quyền Sài Gòn giành những
nỗ lực lớn nhất để thực hiện bằng được chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, tạo điều kiện thuận
lợi cho quân Mỹ nhanh chóng rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Miền Đông Nam Bộ được coi là vùng trọng điểm bình định số 1, nên Mỹ và chính quyền Sài
Gòn đã tập trung vào đây 40% lực lượng quân Mỹ, đồng minh và 37% quân đội Việt Nam cộng
hòa toàn miền Nam. Chúng sử dụng 103 tiểu đoàn Mỹ, quân đội Việt Nam cộng hòa và đồng minh
(gồm 8 sư đoàn và 9 trung đoàn) để bảo vệ Sài Gòn, bố trí thành 3 tuyến: Tuyến ngoài có 14 đến
16 tiểu đoàn để ngăn chặn từ xa. Tuyến giữa có 64 đến 66 tiểu đoàn để càn quét, bình định, xúc tác
dân, lập vành đai trắng, thực hiện cái gọi là “vành đai, nút chận”. Tuyến trong có 20 đến 21 tiểu
đoàn, mở các cuộc hành quân càn quét bít các mối đường vào thành phố, nhằm đảm bảo an toàn
cho nội đô. Trong năm 1969 và 1970, trung bình mỗi tháng Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa
mở 377 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn đến sư đoàn, chiếm 38% số cuộc hành quân trên toàn
miền Nam, nhằm hỗ trợ cho công tác bình định và đối phó với chủ lực cách mạng ở Bắc Sài Gòn
[44, tr. 123]. Vùng ven đô và trung tuyến Củ Chi, Trảng Bàng là trọng điểm đánh phá của địch.
Chúng cố dùng sức mạnh quân sự để đánh trốc lực lượng cách mạng ra khỏi địa bàn này. Đặc biệt
ở vùng yết hầu Củ Chi, địch tập trung đánh phá hủy diệt cực kỳ tàn bạo đến mức tưởng chừng như
lực lượng cách mạng khó có thể vượt qua. Để thực hiện âm mưu gom dân, tiêu diệt lực lượng cách
mạng, Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, kết hợp với
dội bom, bắn pháo, cho máy bay B52 ném bom, rải chất độc hóa học, dùng xe cơ giới ủi phá địa
hình, làng xóm, hoa màu, triệt hạ căn cứ, thả máy thu tiếng động khắp nơi để phát hiện các cơ
quan, hành lang di chuyển báo cho máy bay đến bắn phá.
Phối hợp với các nỗ lực quân sự, trong năm 1969, địch triển khai mạnh mẽ các hoạt động gián
điệp, tình báo thông qua tổ chức Phượng Hoàng, Thiên Nga, phát hiện và tiêu diệt cơ sở cách
mạng. Dưới sự điều khiển và kiểm soát của CIA, nhân viên Phượng Hoàng được tung về xã, ấp,
khóm… trà trộn trong nhân dân, tiến hành các hoạt động chỉ điểm, phát hiện, ám sát, thủ tiêu, bắt
bớ cán bộ, du kích và cả những người bị tình nghi ủng hộ, che dấu lực lượng cách mạng. Hoạt
động này đã gây tang tóc, đau thương cho nhân dân và làm cho cơ sở cách mạng bị tổn thất nặng
nề: các cơ quan chỉ đạo và các đơn vị cơ sở của cách mạng hầu như không còn liên lạc được với
nhau, cơ quan Quận ủy Củ Chi bị thiệt hại nặng (Văn phòng hy sinh 8 người, bị bắt 2 người, còn
lại Bí thư, hai bảo vệ và một thư ký). Ban Tuyên huấn quận hy sinh hơn phân nửa, 1 cơ quan an
ninh lộ hầm bị địch diệt toàn bộ. Du kích Bắc Chi trước tháng 10 năm 1969 từ 533 người, đến cuối
năm 1969 còn 210 người, đến giữa năm 1970 còn 182 người. Du kích Nam Chi trước tháng 10
năm 1969 có gần 2000 người, đến cuối năm 1969 còn 112, đến quý 2 năm 1970 còn 106. Nhiều
chi bộ xã chỉ còn 1-2 đảng viên (Tân An Hội, Phước Hiệp, Trung An, Bình Mỹ…) hoặc bị xóa
trắng (Tân Thạnh Đông) [9, tr. 202]. Lúc này, đội nữ vũ trang Củ Chi phân tán hoạt động trong các
ấp chiến lược, cùng với du kích mật đánh bọn ác ôn, tề điệp trong bộ máy hạ tầng cơ sở của địch.
Lực lượng vũ trang không tổ chức được những trận đánh lớn tiêu hao sinh lực địch mà chỉ duy trì
lối đánh phục kích, đánh chất nổ, mìn định hướng…
Với hàng loạt các biện pháp nói trên, đến cuối năm 1969, địch đã gom được dân ở mức độ từ
trước đến nay chúng chưa từng làm được và thực tế đã xóa trắng các vùng giải phóng có dân. Trên
vùng trung tuyến Củ Chi, các căn cứ của cách mạng rơi vào tình thế bị địch bao vây, phong tỏa,
không còn nhận được Chỉ thị và tiếp tế của Bộ chỉ huy Miền, một số cơ quan phải di chuyển đi nơi
khác để bảo tồn lực lượng, số còn bám trụ lại phải xé lẻ, sống dưới hầm, thụ động chống đỡ để duy
trì hoạt động, thế trận chiến tranh nhân dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bên cạnh đó, tư tưởng bi
quan, dao động, ngại gian khổ hy sinh biểu hiện ở một số ít cán bộ, đảng viên và nhân dân dẫn đến
thoái lui, đào ngũ, ra đầu hàng địch hoặc bỏ vào vùng địch… càng tăng thêm khó khăn, tổn thất
cho lực lượng cách mạng.
2.3.2. Củng cố thực lực cách mạng, xây dựng thế bám trụ của chiến tranh nhân dân ở căn cứ địa
cách mạng Củ chi (1970 – 1972)
Sang đầu năm 1970, dù các căn cứ đầu não của Miền tạm thời lùi sang đất Campuchia, nhưng
ở Củ Chi, các lực lượng còn lại vẫn bám trụ và tiếp tục duy trì hoạt động nhưng được thu gọn lại.
Trung đoàn 268 thu lại còn một tiểu đoàn, phân tán hoạt động (chủ yếu ở Trảng Bàng và Bắc Củ
Chi) như bộ đội địa phương, có bộ phận xuống làm du kích xã, vẫn bám vào các vùng căn cứ cũ,
các lõm du kích. Ở Bình Mỹ, tổ công tác vũ trang của đồng chí Phan Trung Kiên, ngày ém dưới
kênh rạch đồng bưng, đêm vào ấp đào hầm bí mật hết nhà này đến nhà khác để đưa lực lượng vào
bám trụ làm công tác phong trào, đi đến đâu cũng mang nắp hầm bí mật trên lưng…Đó là những
ngày bám trụ vô cùng gian khổ, được nhân dân hết lòng yêu thương che chở.
Trong những ngày bám trụ, do địch đánh phá ác liệt nên vấn đề hậu cần cho bộ đội, du kích và
nhân dân cũng hết sức bức xúc. Trâu bò bị quân Mỹ bắn chết la liệt qua một trận càn, cày bừa bị
chặt gãy, nhân dân muốn cày cấy thì thiếu giống, thiếu sức kéo, thiếu người để sản xuất… Trong
tình thế đó, Đảng bộ địa phương đề ra nhiệm vụ cho cán bộ và dân quân du kích phải đi đầu và
tích cực giúp đỡ nhân dân trong sản xuất, coi đó là khâu quyết định để giữ dân, bám trụ. Có nơi,
ban đêm cán bộ và du kích bó rơm vào mình, bò ra sát căn cứ Mỹ để giúp dân cày cấy. Ban ngày,
họ lấy bùn trét đầy mình, ra đồng cuốc đất, hầm trú ẩn đào sẵn xung quanh ruộng. Bà con làm theo
cán bộ và du kích. Máy bay địch thấy có người trên ruộng là tấn công. Khi đã bị lộ, anh em phải
chiến đấu đánh trả địch ngay trên đồng ruộng. Nhưng xét về lâu dài, đây là một kiểu sản xuất
không đảm bảo nuôi sống số người bám trụ, cần phải có biện pháp đảm bảo hơn là đấu tranh với
địch để dân ấp chiến lược bung về đất cũ sản xuất, sinh sống, tạo thế hợp pháp cho cách mạng, mở
rộng vùng giải phóng, thu hẹp vùng tự do bắn phá hủy diệt của địch.
Tháng 1 năm 1970, Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18 chủ trương: “đẩy
mạnh đấu tranh quân sự và chính trị ở nông thôn; phát động cao trào nổi dậy mạnh mẽ của quần
chúng, ra sức giành dân, giữ dân, mở rộng vùng giải phóng và vùng làm chủ, đánh bại kế hoạch
bình định nông thôn của địch”[107, tr. 41]. Vào thời điểm này (tháng 3 năm 1970), Mỹ giật dây
đảo chính Xihanúc, đưa tập đoàn phản động Lon Non lên cầm quyền ở Campuchia. Quân đội Việt
Nam cộng hòa kết hợp với sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và sư đoàn 25 Mỹ tiến sang đất
Campuchia. Sự kiện này có ảnh hưởng tới chiến trường Sài Gòn – Gia Định, trong đó có Củ Chi.
Khi địch kéo quân lên biên giới thì áp lực chiến trường vùng trung tuyến và vùng ven sẽ giảm, là
cơ hội để ta đẩy mạnh tiến công địch và chống phá bình định.
Trên thế mới, Củ Chi thực hiện chuyển một bộ phận du kích công khai thành du kích mật, đặc
biệt là du kích nữ. Việc này đã làm cho địch mất ăn, mất ngủ và thấy không còn nơi nào an toàn,
từ quán nước, trụ sở …đến ruột ấp chiến lược. Phong trào diệt ác ôn và cán bộ bình định rộ lên
khắp nơi. Chỉ trong tháng 3 năm 1970, du kích mật trong huyện dùng mìn, lựu đạn, súng ngắn diệt
được 20 tên bình định và một số tên ác ôn ở ấp Cây Bài (Phước Vĩnh An), Tân Quy (Tân Thạnh
Tây). Phong trào chống phá bình định phát triển, bên trong lực lượng cách mạng nắm được lực
lượng địch, bên ngoài đẩy mạnh 3 mũi giáp công. Có đêm lực lượng vũ trang đánh bót này nhưng
bót khác mũi chính trị, binh vận hù dọa tác động, buộc địch phải bỏ chạy.
Đến đầu năm 1971, lực lượng vũ trang Củ Chi được củng cố về tổ chức, tăng cường về trang
bị, vũ khí và đẩy mạnh chiến tranh du kích. Những lõm chính trị, lõm du kích được củng cố và
phát triển. Huyện ủy chủ trương đưa quần chúng về đất cũ làm ăn, xây dựng xã, ấp chiến đấu. Màu
xanh và sự sống dần dần hồi sinh trên những vùng trắng Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, …Các xã
Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây đã có trường phổ thông cấp I. Từ đây, Củ Chi củng cố thế trận, tổ
chức lực lượng, tiếp tục đánh địch, bảo toàn và phát triển lực lượng của mình. Ở Nam Củ Chi,
trong năm 1971, lực lượng vũ trang đánh 157 trận, diệt và làm bị thương 503 tên. Du kích đánh 82
trận, du kích mật đánh 28 trận… Các trận đánh đều gây cho địch nhiều thiệt hại. Ở Bắc Củ Chi,
Huyện ủy và Ban cán sự huyện họp đề ra việc khôi phục địa đạo, tạo thêm ổ chiến đấu, đào hầm
âm chống ủi. Thực hiện chủ trương đó, du kích đào được 9 hầm âm chống ủi và 1.230 mét địa đạo
[9, tr. 219]. Công trường huyện sản xuất mìn chống tăng và phái cán bộ xuống xã đào bom, cưa
bom, giúp xã làm mìn chống tăng. Tháng 2 năm 1971, địch tập trung 200 xe tăng, 70 xe ủi càn vào
Bắc Chi. Bộ đội và du kích diệt hàng chục xe bằng mìn tự tạo là chủ yếu. Tổ chức đánh chống ủi
kết hợp với đấu tranh của đồng bào không cho địch đốt nhà, làm công tác binh vận,… bảo đảm
cho quần chúng và lực lượng cách mạng bám trụ.
Nhìn chung đến cuối năm 1971, thế trận chiến tranh nhân dân ở Củ Chi dần dần được khôi
phục, dân bung về làng cũ làm ăn ngày càng nhiều, các căn cứ du kích, bàn đạp cho nội thành
được khôi phục. Theo đánh giá của Trung ương Cục trong Nghị quyết lần thứ 11 (tháng 10 năm
1971): “tình hình nông thôn đã vượt qua thời kỳ khó khăn và nghiêm trọng nhất; ta đã chặn địch
lại được, đã đánh lùi chúng ở nhiều nơi”[77, tr. 581].
Sau những thất bại to lớn trên chiến trường miền Nam, quân đội Việt Nam cộng hòa lâm vào
thế khủng hoảng, suy sụp tinh thần. Chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị về việc “giành thắng
lợi quyết định trong năm 1972”, Quân ủy Trung ương vạch kế hoạch tiến công trên toàn miền
Nam. Bộ chỉ huy Miền hạ quyết tâm mở chiến dịch tương đương cấp quân đoàn trên toàn miền
Đông Nam Bộ, mang tên “Chiến dịch Nguyễn Huệ”. Hướng chủ yếu của chiến dịch là quốc lộ 13,
Sài Gòn – Gia Định nằm trong hướng phối hợp.
Tháng 4 năm 1972, Thành ủy họp, giải quyết một số vấn đề về tổ chức. Quân khu Sài Gòn –
Gia Định được khôi phục như trước năm 1967, do đồng chí Trần Hải Phụng làm chỉ huy trưởng.
Nam Chi, Bắc Chi nhập lại thành Củ Chi như cũ. Về lực lượng, Củ Chi thành lập 2 đại đội C 7 và
C 25. Hai tiểu đoàn Quyết Thắng 1 và 2 biên chế còn một tiểu đoàn…
Thực hiện nhiệm vụ phối hợp chiến dịch, đầu tháng 4 năm 1972, tiểu đoàn Quyết Thắng cùng
bộ đội địa phương và du kích ở Củ Chi luồn sâu đánh địch trong các ấp chiến lược Trung Hòa
(Trung Lập), Phú Hòa Đông, Tân Thạnh Đông, tiêu diệt và bức rút gần 20 đồn bót, đánh thiệt hại
nặng các tiểu đoàn 305, 319, 320 bảo an và phá rã toàn bộ lực lượng phòng vệ dân sự ở các nơi
này [9, tr. 222].
Đêm 24 tháng 4 năm 1972, tiểu đoàn Quyết Thắng cùng bộ đội địa phương Củ Chi, du kích và
an ninh 6 xã phía Bắc Củ Chi, phối hợp lực lượng binh vận xã, huyện, hình thành 3 mũi giáp công
thực hiện phá ấp chiến lược Trung Hòa. Cán bộ đoàn thể và du kích cùng giúp đỡ, tiếp sức cho
đồng bào di chuyển tài sản chất lên xe bò, xe trâu, xe đạp, gồng gánh chạy ra khỏi ấp chiến lược.
Trong khi bộ đội tác chiến, đảng viên, đoàn viên và các hội giải phóng làm nồng cốt cho quần
chúng nổi dậy, truy lùng ác ôn, tải thương, tải đạn, đào công sự, phát loa…Trận chiến đấu trong ấp
chiến lược Trung Hòa đã phá rã bộ máy kềm kẹp, hàng ngàn dân “tháo cũi sổ lồng” trở về vườn
đất cũ làm ăn sinh sống, tạo ra một tình thế mới ở vùng trung tuyến và vùng ven.
Bước vào đợt 2 của chiến dịch Nguyễn Huệ (16/5/1972), theo chỉ đạo của Quân khu, lực lượng
vũ trang chủ động đánh địch, hoạt động sâu vào các khu vực lộ 8, Phú Hòa Đông, nhằm giữ vững
vùng giải phóng, nối liền các căn cứ du kích. Quân dân Củ Chi có bộ đội chủ lực phối hợp, chủ
động tấn công vào các đồn bót địch trong các ấp chiến lược, tiêu diệt địch và làm hậu thuẫn cho
dân bung về vườn đất cũ. Kết quả có hơn 1.200 gia đình với hơn 4.000 người trở về ruộng vườn cũ
sinh sống [6, tr. 151].
Tháng 10 năm 1972, bước vào đợt 3 của chiến dịch Nguyễn Huệ, nhiều đơn vị chủ lực về hoạt
động trên địa bàn Củ Chi, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá banh các ấp chiến lược Suối Cụt, Lào Táo
(Trung Lập)…Đặc biệt, trong những ngày cuối năm 1972, thời kỳ chuẩn bị ký Hiệp định Paris,
quân đội Việt Nam cộng hòa nỗ lực lấn chiếm, tung ra những cuộc càn lớn, đốt phá nhà cửa đồng
bào, hòng gom dân trở lại ấp chiến lược. Các đơn vị bộ đội của Quân khu và du kích Bắc Củ Chi
đã liên tục đánh trúng đối tượng địch là bọn bảo an nống ra từ Trung Hòa, Suối Cụt, tấn công vào
các căn cứ địch ở thị trấn Củ Chi, thị tứ Phú Hòa Đông,…làm cho địch thiệt hại nhiều về người và
của.
Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, chiến trường Củ Chi là một trong những hướng
phối hợp nhưng đã đáp ứng được các yêu cầu chiến lược đề ra như tiêu diệt nhiều sinh lực địch,
phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Riêng đối với vấn đề xây dựng căn cứ địa, cuộc tiến công
chiến lược năm 1972 không những đã khôi phục lại được hệ thống căn cứ như trước năm 1968 mà
đã mở mảng, mở vùng, tạo lại vùng giải phóng có dân, giành lại ưu thế đã mất từ sau tết Mậu Thân
1968. Vùng căn cứ Bắc Củ Chi đã dược nối liền với các vùng căn cứ giải phóng Bắc Tây Ninh,
một phần tỉnh Bình Long, Phước Long.
Như vậy, sau cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân, quân và dân Củ Chi đã phải vượt qua thời kì
khó khăn nhất trong cuộc chiến tranh chống lại âm mưu biến Củ Chi thành vùng trắng của địch.
Lực lượng cách mạng đã kiên cường bám trụ, bất chấp gian khổ, hy sinh để duy trì lực lượng, từng
bước tạo thế, tạo lực để thực hiện thắng lợi cuộc tiến công chiến lược năm 1972, khôi phục căn cứ
địa với thế liên hoàn, vững chắc hơn trước. Trải qua một quá trình cách mạng lâu dài, chưa bao giờ
Củ Chi lại có một lưc lượng cách mạng lớn mạnh như thời gian này, lực lượng ấy ở thế bố trí
chiến lược mới rất thuận lợi. Vùng giải phóng được mở rộng, vùng địch kiểm soát ngày càng bị
thu hẹp. Thế cài răng lược ngày càng dày đặc, càng có lợi cho lực lượng cách mạng, bất lợi cho
địch, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ về mình.
2.3.3. Phát triển chiến tranh nhân dân ở căn cứ địa cách mạng Củ Chi, hình thành thế áp sát Sài
Gòn (1973 – 1975)
Thất bại liên tiếp trong các chiến lược chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ phải ký Hiệp định Paris
(ngày 27 tháng 1 năm 1973). Theo qui định của Hiệp định thì trong thời hạn 30 ngày, khi quân Mỹ
và chư hầu rút khỏi miền Nam Việt Nam phải mang theo mọi vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến
tranh. Trong khi đó, ba tháng trước khi ký Hiệp định, Mỹ đã tăng gấp cho quân đội Việt Nam cộng
hòa 626 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và nhiều tàu chiến, tăng vật tư
dự trữ chiến tranh lên 2 triệu tấn…[107, tr. 140]. Qua đó, Mỹ đã bộc lộ rõ ý đồ là tiếp tục sử dụng
chính quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.
Trong thông điệp tháng 1 năm 1973, Nguyễn Văn Thiệu – tổng thống “Việt Nam cộng hòa”
tuyên bố: “Địa bàn cuộc chiến tranh hiện nay là dân chúng tại các ấp, xã. Nếu giải quyết được
cuộc chiến tranh này ở xã, ấp là giải quyết được 75% toàn bộ cuộc chiến tranh”[77, tr. 601]. Bất
chấp lệnh ngừng bắn, Thiệu xua quân đi thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, huy động toàn
bộ quân địa phương và 40% quân chủ lực càn quét, lấn chiếm vùng giải phóng, ra sức phá hoại căn
cứ du kích, tăng cường bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, trắng trợn vơ vét thóc gạo của nhân
dân. Chúng lập trên 11 đồn bót trên toàn Củ Chi. Riêng ở các xã, chúng lập các phân chi khu quân
sự [6, tr. 157-158]. Với viện trợ quân sự to lớn mà Mỹ vừa dốc vào, các cuộc tiến công của quân
đội Việt Nam cộng hòa mạnh mẽ không kém gì những năm trước. Cùng với tiến công quân sự,
chúng tìm mọi cách khống chế lực lượng cách mạng về kinh tế, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý,
chiến tranh gián điệp. Thiệu còn ra lệnh bắn bỏ bất cứ ai khuyến khích hoặc tham gia biểu tình ủng
hộ hòa bình, đòi thi hành Hiệp định, bắn bỏ binh lính quân đội Việt Nam cộng hòa rã ngũ và
những người chuyển từ vùng địch chiếm đóng về vùng giải phóng làm ăn sinh sống.
Về phía lực lượng cách mạng, việc ký Hiệp định Paris là một thắng lợi hết sức to lớn, đã buộc
được Mỹ ra khỏi Việt Nam. Việc xóa bỏ chính quyền Sài Gòn chỉ còn là vấn đề thời gian và
phương pháp.
Đầu năm 1973, thực hiện nguyện vọng của cả dân tộc muốn có hòa bình sau nhiều năm chiến
tranh, Trung ương Đảng đã chỉ đạo cho các địa phương nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Paris,
đấu tranh với địch bằng phương pháp hòa bình, dựa vào pháp lý để buộc địch cũng phải thi hành
đúng Hiệp định. Sau hơn hai tháng thi hành Hiệp định, nhìn lại việc đánh giá âm mưu địch, lực
lượng cách mạng vẫn còn nhiều mặt chưa đầy đủ như chưa phân tích hết khả năng thuận lợi của
tình hình một cách sát đúng nhưng lại có mặt dự đoán quá lạc quan, mặt khác có ảnh hưởng do chỉ
đạo thiếu nhất quán từ trên, cho nên từng lúc, từng nơi đã xẩy ra hiện tượng thiếu khẩn trương xây
dựng lực lượng,… có nơi bị tổn thất, phong trào du kích chiến tranh có sa sút, phổ biến là thụ động
chống đỡ. Vì vậy, tháng 6 năm 1973, Quân ủy Miền ra Nghị quyết uốn nắn những lệch lạc sau
Hiệp Định Paris, xác định nhiệm vụ cụ thể của các lực lượng vũ trang: “ Kiên quyết và chủ động
thực hành phản công, tiến công đánh những trận tiêu diệt thật đau, thật mạnh, kết hợp với đấu
tranh chính trị của quần chúng và pháp lý Hiệp định, kết hợp chặt 3 mũi, đẩy mạnh chiến tranh du
kích, tiêu diệt và làm tan rã nhiều địch, nhằm giữ vững và mở rộng hoàn chỉnh vùng giải phóng,
củng cố căn cứ địa, lõm làm chủ, mở rộng diện tranh chấp, làm lỏng, làm rã kềm kẹp, chuyển thế
vùng địch kiểm soát thành vùng du kích mạnh để thu hẹp vùng địch, giành dân, giành quyền làm
chủ của dân”[77, tr. 605].
Trước tình hình chính quyền Sài Gòn ngoan cố phá hoại Hiệp định, Ban chấp hành Trung
ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 21 (tháng 7 năm 1973), khẳng định dứt khoát “Con đường
cách mạng, bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến
lược tiến công”[77, tr. 605]. Nghị quyết 21 đã sớm chấm dứt tư tưởng hữu khuynh, mất cảnh giác
trong một bộ phận cán bộ chiến sĩ khi có Hiệp định, nâng cao tinh thần kiên quyết tiến công địch.
Ở Củ Chi, ngày 28 tháng 1 năm 1973, địch xua quân đến Bàu Tròn (Nhuận Đức) liền bị đánh
bật ra. Du kích Phú Hòa Đông tập kích tiêu diệt 2 bót địch. Nhân dân liên tiếp đưa đơn lên chính
quyền địch, tố cáo bọn binh lính cướp phá tài sản của nhân dân, 240 gia đình ở Hòa Phú nhất định
không để lọt một hạt lúa vào tay địch, du kích đã tích cực đột nhập vào các ấp chiến lược giải thích
cho nhân dân và vận động những gia đình có con em đi lính cho địch kêu gọi họ trở về với cách
mạng…
Tháng 2 năm 1973, sư đoàn 25 bộ binh quân đội Sài Gòn huy động 8 xe tăng M48 với 1 đại
đội cày ủi xã Trung Lập, nhưng khi chúng vừa ra khỏi vị trí đã bị lực lượng C 7 và du kích Trung
Lập bắn cháy 4 xe, đẩy lùi được quân địch…
Tuy nhiên, các cuộc đánh trả và tiến công của quân giải phóng chưa chặn đứng được âm mưu
tiếp tục lấn chiếm của địch. Mùa khô 1973 - 1974, chúng quyết tâm triển khai kế hoạch lấn chiếm
vùng Hố Bò (Phú Mỹ Hưng), An Nhơn Tây. Cuộc chiến đấu chống lấn chiếm tiếp tục diễn ra
quyết liệt. Các lực lượng địa phương vừa đánh càn vừa chủ động tổ chức tiến công sâu vào vùng
địch kiểm soát. Suốt những tháng đầu năm 1973, bảo vệ vùng giải phóng Phú Mỹ Hưng, lực lượng
vũ trang Củ Chi đã cùng với tiểu đoàn Quyết Thắng đánh bật tất cả các cuộc hành quân nống ra
lấn chiếm của địch. Trên cơ sở phát triển thế trận vững chắc, lực lượng vũ trang Củ Chi vừa chiến
đấu chống địch lấn chiếm, vừa phát triển và nâng cao chất lượng. Lúc này mỗi xã đều có đội du
kích hoàn chỉnh, trang bị vũ khí tương đối tốt. Cán bộ, chiến sĩ được học tập chính trị, chỉnh huấn
các đợt nên nhận thức tình hình nhiệm vụ, ý chí chiến đấu được nâng lên hơn trước rất nhiều. Du
kích và bộ đội địa phương chủ động triển khai nhiều đợt chống càn như ở Hòa Phú, Trung An, Phú
Hòa Tây, Tân Phú Trung… diệt hàng trăm tên địch, bắn hỏng nhiều xe ủi đất, bắn rơi trực thăng
và bắt một số tù binh. Ở Tân Thạnh Đông, Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung…du kích liên tục đột
ấp, làm công tác phong trào và diệt ác phá kềm. Phương châm của Huyện ủy Củ Chi lúc này là
đánh tới đâu chiếm tới đó, không cho địch lập lại căn cứ, nhanh chóng đưa dân về, đẩy mạnh sản
xuất và phát triển chiến tranh du kích.
Với rất nhiều nỗ lực, tháng 8 năm 1973, Ủy ban cách mạng lâm thời xã Phú Mỹ Hưng ra mắt
nhân dân, đem lại một không khí phấn khởi cho đồng bào hăng hái sản xuất, xây dựng vùng giải
phóng. Nhân dân trong vùng địch kiểm soát cũng tích cực móc nối đưa hàng hóa, hạt giống, phân
bón ra vùng giải phóng. Trong vùng giải phóng, lực lượng hậu cần tại chỗ được phát triển, từng
nhà dân đều có nơi cất giấu vũ khí, lương thực. Riêng nhà ông Lê Văn Đạm ở An Nhơn Tây chứa
được 100 giạ lúa. Những cơ sở sản xuất vũ khí vẫn hoạt động tích cực, đồng thời tiếp nhận nguồn
vũ khí của Miền ngày một nhiều [6, tr. 161].
Như vậy, sau khi ký Hiệp định Paris, địch đã tăng cường hoạt động quân sự, nhưng ở Củ Chi
chúng đã không thu được kết quả như ý muốn mà còn bị tiêu hao về quân số, sa sút về tinh thần.
Tháng 8 năm 1974, Quân khu Sài Gòn – Gia Định được biên chế lại thành Thành đội và tích
cực chuẩn bị chiến trường để phối hợp với lực lượng lớn của Miền. Hoạt động của các lực lượng
vũ trang địa phương tăng lên và có hiệu quả hơn. Tính đến cuối năm 1974, địch không thực hiện
được âm mưu bình định, gom dân, lấn chiếm đất. Chủ lực và lính địa phương quân đội Việt Nam
cộng hòa tỏ ra bất lực trước sức đề kháng và tiến công của Quân giải phóng. Vùng giải phóng Củ
Chi ngày càng mở rộng và được củng cố. Nhân dân trở về sản xuất, sinh sống ngày càng đông và
ổn định, tạo thành một lực lượng mới vây ép kẻ thù. Vùng giải phóng, vùng căn cứ, vùng tranh
chấp đã trở thành nơi đứng chân vững chắc của lực lượng cách mạng. Thế trận cuối năm 1974 trên
chiến trường Củ Chi và Tây Bến Cát đã trở thành vành đai áp sát Sài Gòn, có khả năng uy hiếp
mạnh “thủ đô”, sào huyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Vùng giải phóng Đông và Tây Sài
Gòn nối liền tạo thêm thế mạnh cho Củ Chi và cả miền Đông. Sự mở vùng, mở mảng trong năm
1974, đủ sức cho Củ Chi làm địa bàn đứng chân và bàn đạp cho lực lượng Thành đội và của Miền
tiến sâu vào vùng địch.
Từ tháng 10 năm 1974, Bộ Chính trị đã có dự kiến và đến tháng 1 năm 1975 chính thức hạ
quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976; nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm
1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Nhiệm vụ chính của Sài Gòn – Gia Định
trong mùa khô 1974 - 1975 là đánh phá bình định của địch, tiếp tục mở nhiều lõm giải phóng,
chuyển lên thế tranh chấp ở nhiều mức độ khác nhau trên nhiều hướng, phá lỏng kềm ở vùng nông
thôn quanh Sài Gòn, bung dân ra, giành quyền làm chủ, xây dựng bàn đạp đứng chân vững chắc
cho các lực lượng vũ trang ven đô, tạo một thế chuyển biến nhanh, chuẩn bị điều kiện cho tấn công
và nổi dậy giải phóng Sài Gòn khi thời cơ xuất hiện.
Đầu năm 1975, bộ đội chủ lực Miền tiến công giải phóng hoàn toàn thị xã Phước Long. Điều
này đã đặt chính quyền Sài Gòn trước những thử thách nghiêm trọng. Tháng 2 năm 1975, địch
điều thêm một số đơn vị tăng cường cho vành đai phòng thủ quanh Sài Gòn. Chúng liên tục mở
những cuộc tập kích vào những khu vực nghi ngờ có lực lượng cách mạng ém quân.
Trước tình hình chuyển biến mau lẹ trên chiến trường, Đảng bộ Củ Chi đã triển khai nhanh
chóng mệnh lệnh của Thành đội là “Đảm trách nhiệm vụ trọng yếu, gấp rút chuẩn bị lực lượng
truy quét địch tại địa phương, cung cấp lực lượng và mở đường cho bộ đội chủ lực tiến về giải
phóng Sài Gòn”[9, tr. 253]. Thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này, Củ Chi tập trung hoạt động vào các
mục tiêu đánh phá bình định của địch, mở rộng vùng giải phóng, giành dân, giành chính quyền,
làm chủ tình hình. Khẩn trương chuẩn bị lực lượng, cơ sở hậu cần, phân bố lực lượng tổng hợp cân
đối trên các vùng đứng chân, vây ép địch. Phát động trong lực lượng vũ trang đăng ký gia nhập đội
quân xung kích giải phóng Sài Gòn, phát động nhân dân giáo dục động viên con em gia nhập quân
giải phóng, tích cực đóng góp lương thực, thực phẩm… Phương châm chỉ đạo là “Phát huy sức
mạnh 3 mũi giáp công, tiến công địch liên tục, không cho chúng hồi sức. Trên cơ sở chuẩn bị mọi
điều kiện khi thời cơ đến thì tự lực giải phóng địa phương, không do dự, chờ đợi, không cho địch
chạy thoát”[9, tr. 254]. Lúc này, lực lượng vũ trang Củ Chi đã được hoàn chỉnh một bước mới với
lực lượng mạnh nhất kể từ sau Mậu Thân 1968. Toàn huyện có 3 đại đội bộ binh (tương đương với
1 tiểu đoàn), 1 trung đội nữ, một trung đội biệt động, 1 trung đội súng cối 60mm và 82 mm [9, tr.
254]. Với lực lượng này, quân dân Củ Chi phối hợp tấn công nhiều mục tiêu của địch ở vùng ven,
kết hợp tiến công và nổi dậy nhằm chuyển thế, chuyển vùng.
Từ ngày 9 tháng 3 năm 1975, các lực lượng vũ trang nổ súng tấn công chi khu Trung Hòa
(Trung Lập), bót Cây Trôm (Phước Hiệp), bót Cây Bài (Phước Vĩnh An), phân chi khu Tân Thạnh
Đông, bao vây bót Cây Me (Phú Hòa Đông)…Đồng thời, tăng cường đánh địch trên các tuyến
giao thông quan trọng, đánh sập một số cầu làm hạn chế khả năng cơ động của địch. Ngày 21
tháng 3 năm 1975, tiểu đoàn Quyết Thắng cùng bộ đội địa phương và du kích Củ Chi lập trận địa
phục kích đoàn xe tải của quân đội Sài Gòn trên quốc lộ 1, đoạn Bàu Tre – Cây Trôm, hủy 51 xe
tải, 2 xe tăng, bắn bị thương 1 trực thăng, diệt 4 đại đội địch …[6, tr. 179]. Được lực lượng vũ
trang hỗ trợ, đồng bào ở khu vực Trung Hòa và tuyến lộ 7 nổi dậy, bung về vùng giải phóng. Nhân
dân ở các ấp chiến lược Thái Mỹ, Tân An Hội, Phước Hiệp, Phước Thạnh, Phú Hòa Đông…bãi
chợ, rãi truyền đơn, treo cờ, băng, khẩu hiệu, đắp mô trên tuyến lộ 1 và tuyến lộ 8, đấu tranh đòi
giải tán phòng vệ dân sự…Những hoạt động trên đã góp phần củng cố vững chắc các vùng giải
phóng ven đô, làm lỏng thêm thế kềm kẹp và gây rối loạn hậu phương địch, tạo thêm những địa
bàn đứng chân quan trọng áp sát địch.
Theo Chỉ thị của Bộ chỉ huy Miền và chủ trương của Thành ủy, Thành đội quyết định tăng
cường lực lượng chiến đấu: Rút du kích xã bổ sung cho bộ đội địa phương, đôn bộ đội địa phương
lên các đơn vị tập trung của Thành đội. Ngoài việc thành lập trung đoàn 1 Gia Định mà nồng cốt là
tiểu đoàn Quyết Thắng và tiểu đoàn Gia Định 4 đặc công, Thành đội còn lập thêm trung đoàn Gia
Định 2 (còn gọi là Trung đoàn Đất Thép) trên cơ sở các đại đội địa phương của Củ Chi, gồm 700
cán bộ chiến sĩ. Tiểu đoàn 1 bao gồm 3 đại đội hiện có của Củ Chi là C 3, C 25, C 7; Tiểu đoàn 2
chủ yếu là du kích các xã rút lên; Tiểu đoàn 3 được tuyển từ các cơ quan, ban, ngành của huyện.
Đại đội quân y trung đoàn rút nguyên đơn vị quân y Củ Chi để thành lập. Huyện còn cử một số đại
đội mới thành lập tăng cường cho Trung đoàn 1 Gia Định, rút thanh niên và cán bộ các xã lên
thành lập 3 đại đội (lấy lại phiên hiệu C 3, C 7, C 25) để tổ chức thành một tiểu đoàn, có nhiệm vụ
giải phóng và tiếp quản huyện lỵ Củ Chi.
Sau khi quân giải phóng đánh chiếm Xuân Lộc, tổng thống “Việt Nam cộng hòa” Nguyễn Văn
Thiệu tuyên bố từ chức, không khí chuẩn bị ở vùng giải phóng Củ Chi vô cùng sôi động. Các bộ
phận đi đầu của quân chủ lực đã về đứng chân trên địa bàn. Công binh bắt cầu nổi qua sông sài
Gòn cho bộ đội sang sông, ngày đêm dân công vận chuyển hàng tấp nập xuống vùng ven. Lực
lượng vũ trang Củ Chi dưới sự chỉ huy trực tiếp của Huyện đội, tất cả đã sẵn sàng vào trận với vai
trò xung kích đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu, hỗ trợ đắc lực cho đoàn thể và quần chúng nổi
dậy giành chính quyền tại địa phương.
Với những nỗ lực vượt bậc, quân dân Củ Chi đã xây dựng được thực lực mạnh, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng đứng chân, làm bàn đạp để tiến công tiêu diệt sinh lực
địch và làm sụp đổ bộ máy chính quyền cơ sở của chúng, góp phần vào thắng lợi rực rỡ của Chiến
dịch Hồ Chí Minh, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
Như vậy, sau Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn tiếp tục thực hiện chiến lược “ Việt Nam
hóa chiến tranh”, phá hoại Hiệp định, tăng cường bình định lấn chiếm vùng giải phóng. Ở Củ Chi,
địch mở nhiều cuộc càn vào vùng giải phóng làm cho nhân dân rất hoang mang, nhưng các lực
lượng cách mạng đã kịp thời đập tan âm mưu của chúng, giữ vững và phát triển vùng giải phóng.
Đến cuối năm 1974, căn cứ địa Củ Chi được mở rộng, nối thông hành lang với hệ thống căn cứ
của miền Đông Nam Bộ, tạo thành một mạng lưới căn cứ địa liên hoàn, đan xen trên toàn bộ chiến
trường, bao vây và ngày càng áp sát Sài Gòn. Với lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh, căn
cứ địa Củ Chi đã làm tròn vai trò nồng cốt là địa bàn đứng chân quan trọng áp sát địch hướng Tây
Bắc Sài Gòn, là hậu phương trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân 1975.
Trải qua 15 năm sau “Đồng khởi”, căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi từng bước phát triển. Từ
khi được Khu ủy và Bộ chỉ huy Quân Khu Sài Gòn – Gia Định chọn làm nơi đứng chân, quân dân
Củ Chi đã ra sức tu sửa, phát triển hệ thống địa đạo, đặc biệt ở 2 khu vực thuộc Phú Hiệp xã Phú
Mỹ Hưng và Bến Đình xã Nhuận Đức. Hệ thống địa đạo Củ Chi đã không ngừng phát triển và
hoàn thiện dần. Từ 40 kilômét năm 1961, đến khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam thì hệ
thống địa đạo đã phát triển trên 200 kilômét. Bên cạnh đó, quân dân Củ Chi còn thiết lập “vành đai
diệt Mỹ” áp sát căn cứ Đồng Dù, chặn đứng các cuộc càn quét của địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch, đẩy chúng vào thế hoang mang dao động.
Cùng với quá trình phát triển của cuộc kháng chiến, từ căn cứ địa Củ Chi, lực lượng cách
mạng đã không ngừng lớn mạnh. Từ một tiểu đội lúc “đồng khởi” đến đầu năm 1975, toàn huyện
có 3 đại đội bộ binh (tương đương 1 tiểu đoàn), 1 trung đội nữ, một trung đội biệt động, 1 trung
đội súng cối 60mm và 82mm…[9, tr. 254].
Với thế trận chiến tranh nhân dân hiểm yếu, đặc biệt là hệ thống địa đạo và vành đai diệt Mỹ;
tinh thần bám trụ “một tấc không đi, một ly không rời”, quân dân Củ Chi đã thực hiện vũ trang
toàn dân. Cùng với các lực lượng đứng chân trong vùng căn cứ, quân dân Củ Chi đã liên tục chiến
đấu chống lại các cuộc càn quét qui mô lớn của địch như cuộc càn Crimp (1966), cuộc càn Cedar
Falls (1967)… một cách hiệu quả, lập được nhiều chiến công xuất sắc, góp phần bảo vệ lực lượng
cách mạng, bảo vệ an toàn cho Khu ủy, Quân khu Sài Gòn – Gia Định, Huyện ủy Củ Chi đứng
chân hoạt động, chỉ đạo nhân dân đấu tranh đánh bại từng bước các chiến lược chiến tranh của Mỹ
và chính quyền tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở CỦ CHI TRONG KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ (1954 – 1975)
Quá trình xây dựng, phát triển căn cứ địa ở Củ Chi là quá trình lâu dài, liên tục 21 năm của
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Suốt quá trình đó, căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi cũng tuân theo qui
luật chung của sự hình thành và phát triển của căn cứ địa cách mạng ở nước ta là đi “từ không đến
có, từ thấp lên cao, từ nhỏ đến lớn, từ bị chia cắt đến liên hoàn, hoàn chỉnh” [49, tr. 96]. Quá trình
xây dựng căn cứ địa thường bắt đầu từ việc xây dựng, củng cố và mở rộng cơ sở chính trị, sau đó
chuyển các vùng có cơ sở chính trị mạnh thành những cơ sở vũ trang bí mật, phát triển đấu tranh
vũ trang, biến vùng địch tạm chiếm thành khu du kích, là khu vực tranh chấp giữa lực lượng cách
mạng và địch, rồi tiến lên thành lập các căn cứ du kích, là những vùng giải phóng tương đối nhỏ ở
vùng sau lưng địch. Theo sự phát triển đi lên của cuộc kháng chiến, các căn cứ du kích dần dần
mở rộng, liên hoàn với nhau thành những vùng căn cứ lớn được xây dựng vững mạnh về các mặt
chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa xã hội; có điều kiện để các cơ quan lãnh đạo chỉ huy đứng
chân, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực; có khả năng cung
ứng một phần lớn nhu cầu kháng chiến trên địa bàn khu vực [76, tr. 133].
Do sự chi phối của những đặc điểm về vị trí, địa hình và diễn biến cuộc kháng chiến mà các
căn cứ địa ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ ngoài những nét chung còn có
những đặc thù riêng của nó.
3.1. Đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trong kháng chiến chống Mỹ
Về đặc điểm của căn cứ địa cách mạng, giáo sư Sử học Văn Tạo viết: “Bản thân khái niệm căn
cứ địa đã mang trong mình nó nội hàm cơ bản là yếu tố địa – địa lý, với các đặc điểm về: Địa –
chính trị, địa – quân sự, địa – kinh tế, địa – văn hóa” [85, tr. 44]. Từ trước đến nay, các căn cứ địa
ở nước ta có chung nét phổ biến là được lựa chọn ở những vùng có vị trí địa lý hiểm trở, nhân dân
có truyền thống cách mạng, có điều kiện đáp ứng kinh tế tự cung tự cấp. Nội dung xây dựng căn
cứ địa được thể hiện trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh
những nét chung, mỗi căn cứ địa có những đặc điểm riêng phụ thuộc vào các yếu tố địa lý, điều
kiện kinh tế, xã hội và chiến sự trên chiến trường. Trong đó, căn cứ địa Củ Chi là một trong những
căn cứ du kích địa đạo vùng đồng bằng ven đô với các đặc điểm như sau:
3.1.1. Vị trí ở thế áp sát thủ phủ của địch
Vận dụng và phát triển một cách sáng tạo những kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa và hậu
phương của ông cha ta trước đây vào điều kiện lịch sử mới, trong kháng chiến chống Mỹ, nhân
dân miền Nam không những đã xây dựng căn cứ địa vững chắc ở rừng núi, nơi có địa thế hiểm trở
mà còn xây dựng thành công những bàn đạp vững chắc ngay cả ở những địa bàn xung yếu sát các
thành thị, đồn bót giặc chi chít, sông ngòi ngang dọc và ở một số thành thị. Những “vùng giải
phóng còn cứ điểm địch” đã xuất hiện ngay những căn cứ lớn của địch. Ở những nơi này, mặc dù
kẻ địch đã thi hành những thủ đoạn quân sự vô cùng tàn bạo và những thủ đoạn mị dân hết sức xảo
quyệt, nhưng chúng đã không thể nào xây dựng nổi bộ máy kìm kẹp nhân dân. Trái lại, bằng cuộc
đấu tranh rất kiên quyết, dũng cảm và sáng tạo của mình, nhân dân vẫn giữ vững quyền làm chủ ở
đó, tạo nên một thế bao vây, uy hiếp nghiêm trọng đối với các căn cứ và hậu phương của địch.
Củ Chi là một địa bàn chiến lược quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ. Là cửa ngõ Tây -
Bắc Sài Gòn, chỗ gần nhất cách Sài Gòn chưa đầy 30 kilômét, có đường quốc lộ 1 xuyên thẳng lên
vùng căn cứ Trung ương Cục miền Nam của cách mạng. “Nếu Tây Ninh là căn cứ địa Trung ương
Cục, Sài Gòn là trung tâm đầu não của địch, thì Củ Chi là chỗ đệm”. Nơi đây có căn cứ của Khu
ủy, Quân khu Sài Gòn – Gia Định mà chính quyền Sài Gòn mệnh danh là “mật khu Hố Bò” (xã
Phú Mỹ Hưng), là nơi chỉ đạo, xuất phát các cuộc đấu tranh, tiến công địch ở nội đô Sài Gòn. Vì
thế, quân đội Việt Nam cộng hòa cũng phải nói toạc ra để răng đe với nhau rằng: “Củ Chi còn, Sài
Gòn mất”[37, tr. 12]. Hai tác giả John Penycate và Tom Mangold trong sách “Hầm Củ Chi – câu
chuyện khó tin về cuộc chiến trong lòng đất ở Việt Nam” cũng nhận ra “Tầm quan trọng chiến
lược của vùng này đối với đất nước quá rõ ràng vì nó nằm trên lưng những đường bộ và đường
sông chính vào thủ đô…là phần đất rộng duy nhất ở miền Nam Việt Nam mà người và xe cộ có thể
dễ dàng đi lại” [66, tr. 27-28]. Vì vậy, Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa đã dễ dàng tổ chức
những cuộc tấn công qui mô lớn vào căn cứ cách mạng ở Củ Chi, cụ thể như: Cuối tháng 7 năm
1961, địch càn quét 2 xã An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng; ngày 15 tháng 9 năm 1963, địch càn vào 2
ấp Xóm Mới, Bàu Đưng (An Nhơn Tây); ngày 20 tháng 10 năm 1963, địch tập trung 5.000 quân,
có xe bọc thép M113, mở cuộc càn quét lớn vào An Nhơn Tây với ý định chiếm đất, gom dân.
Tháng 5 năm 1965, Trung đoàn 8 Voàng A Sáng mở cuộc càn lớn vào Củ Chi…Đặc biệt là các
cuộc hành quân lớn Crimp (tháng 1 năm 1966), Cedar Falls (tháng 1 năm 1967), chiến dịch “Toàn
Thắng” (tháng 5 năm 1968)…
Cũng do đặc điểm vị trí địa lý vừa nêu, lực lượng cách mạng đóng ở căn cứ Củ Chi rất nhạy
cảm với mọi diễn biến ở sài Gòn, kịp thời nắm bắt mọi thay đổi trong đời sống chính trị, kinh tế
cũng như âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù nên đã kịp thời đối phó, kiên quyết giữ bằng được Củ Chi,
gắn chặt vùng nông thôn này với thành phố để phối hợp hoạt động trên địa bàn thống nhất của khu
Sài Gòn – Gia Định.
Khi địch càn quét lớn vào An Nhơn Tây (ngày 20 tháng 10 năm 1963), du kích Củ Chi đã bám
chúng ngay từ đầu, sau 13 ngày đêm chiến đấu, giết và làm bị thương 71 tên, bắn rơi 1 máy bay
lên thẳng, thu nhiều súng [6, tr. 98]. Đầu năm 1965, trên quốc lộ 1, đoạn cây Trôm – Suối Cụt, tiểu
đoàn Quyết Thắng diệt 2 đại đội địch, thu 100 súng [6, tr. 101], đánh thiệt hại nặng một trung đoàn
địch (Trung đoàn 8 Voàng A Sáng (ngày 9 tháng 5 năm 1965) tại Bàu Lách (Nhuận Đức), đánh
bại cuộc hành quân Crimp, Cedar Falls qui mô lớn của địch…
Khoảng cách địa lý giữa căn cứ địa Củ Chi và trung tâm đầu não của địch ở Sài Gòn đã cho
phép lực lượng vũ trang cách mạng dùng Củ Chi làm điểm tập kết, làm bàn đạp thực hiện các cuộc
tiến công vào tận sào huyệt của địch tại Sài Gòn. Ông Mai Chí Thọ, một trong những người lãnh
đạo Khu ủy Sài Gòn – Gia Định ngay từ ngày đầu khi căn cứ Khu ủy đặt ở đây, đã nói như sau: “
Củ Chi là bàn đạp để tiến công Sài Gòn, trung tâm đầu não của địch… Chúng tôi dựa vào quận
này để cho nhân viên, cán bộ Đảng, đặc công luồn vào Sài Gòn…Quân Mỹ biết rõ tầm quan trọng
của vùng này vì nó luôn uy hiếp nền an ninh của Sài Gòn và các sở chỉ huy Hoa Kỳ”[66, tr. 28].
Với vị trí áp sát thủ phủ của địch như thế nên đây là nơi tranh chấp quyết liệt giữa hai lực lượng
cách mạng và phản cách mạng mà kẻ địch đã tập trung sức lực và dốc hết mọi phương tiện hòng
giành phần thắng: Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, trên vòng cung phía
Bắc Sài Gòn, địch đã sử dụng 38 tiểu đoàn Mỹ, 67 tiểu đoàn quân Việt Nam cộng hòa và 4 tiểu
đoàn chư hầu để càn quét, xúc tát dân, lập vành đai trắng, tiến hành các cuộc đánh phá có tính chất
hủy diệt. Toàn bộ số quân này có khoảng 8.000 quân chính quy và trên 5.000 quân địa phương,
chúng hành quân lưu động, hoặc đóng tại căn cứ Đồng Dù và ở các chốt: Cây Me (xã Phú Hòa
Đông), Bến Mương (xã Nhuận Đức), Bàu Giang (xã Trung An) và đóng rải rác ở 26 tua và đồn bót
(mỗi tua có 2 tiểu đội), mỗi đồn có từ 1 trung đội đến 2 đại đội dọc theo các trục lộ giao thông
quan trọng như: quốc lộ 22, liên tỉnh lộ 7, 8 và 15… [6, tr. 129]. Qua đó ta thấy rằng địch đã rất nỗ
lực để khống chế địa bàn này nhằm bảo vệ cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn.
3.1.2. Là nơi có cơ sở chính trị vững mạnh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin ở truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc ta,
Người khẳng định: “Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được
lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta” [56, tr. 294]. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, kế thừa và phát huy truyền thống
quân sự của dân tộc là cả nước chung sức đánh giặc, Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương phát động
kháng chiến toàn dân, kiên quyết dựa vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần
chúng nhân dân vì: “Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn, không dùng toàn lực của
nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó không thể nào thắng lợi được”[56, tr. 295].
Suốt chặng đường dài 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân dân cả nước ta phải khắc
phục bao trở ngại, khó khăn, phải chịu nhiều hi sinh, mất mát để lực lượng cách mạng không
ngừng phát triển ngày càng lớn mạnh. Một trong những nguyên nhân quan trọng của thực tế đó là
cách mạng miền Nam đã dựa vào lòng dân, dựa vào sức dân để xây dựng và mở rộng hậu phương
tại chỗ làm cơ sở để bảo tồn và phát triển lực lượng cách mạng.
Đi đôi với sự phát triển của đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã gây dựng nên hậu phương từ
không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ cơ sở chính trị của quần chúng đến có một nền quốc phòng nhân
dân tương đối hoàn chỉnh. Trong những ngày đầu, khi Đảng ta mới đề ra chủ trương chuẩn bị đấu
tranh vũ trang thì chúng ta chưa có một tất đất tự do. Lúc đó, hậu phương duy nhất của ta là cơ sở
chính trị bí mật, là lòng trung thành vô hạn của nhân dân đã được giác ngộ đối với sự nghiệp cách
mạng [49, tr. 170]. Chính từ những cơ sở chính trị bí mật đó, Đảng ta đã ra sức gây dựng những
căn cứ vũ trang bí mật, tiến lên phát động chiến tranh du kích cục bộ, mở ra Khu giải phóng. Ở
vùng giặc tạm chiếm, qui luật xây dựng hậu phương cũng diễn ra từ những cơ sở của nhân dân
giác ngộ che giấu cán bộ và du kích, có khi hàng tháng trời trong các hầm bí mật mà phát triển
thành khu du kích, căn cứ du kích. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam,
nhờ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng kết hợp với chiến tranh du kích được phát động
mạnh mẽ và rộng khắp, các vùng giải phóng đã hình thành và ngày càng được củng cố và mở
rộng, phát huy tác dụng ngày càng to lớn đối với thắng lợi của chiến tranh. Theo quan điểm chiến
tranh nhân dân của Đảng ta, “xây dựng và củng cố hậu phương cần phải toàn diện, các mặt chính
trị, kinh tế, quân sự đều quan trọng, nhưng quan trọng hơn hết là nhân tố chính trị, nhân tố nhân
dân”[49, tr. 171].
Nắm vững quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng “lấy dân làm gốc”, với đường
lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cách sinh”, Đảng ta luôn đặt công tác vận
động, tổ chức quần chúng là một trong những công tác quan trọng hàng đầu. Trong quá trình xây
dựng căn cứ địa cách mạng, vấn đề giành dân, giữ dân giữa lực lượng cách mạng và địch diễn ra
hết sức quyết liệt. Địch luôn dùng mọi thủ đoạn để mua chuộc, lôi kéo kết hợp với sức ép về bạo
lực để giành dân với lực lượng cách mạng.
Củ Chi là vùng đất có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, trong kháng chiến chống Mỹ,
truyền thống đó được phát huy cao độ. Ngay những ngày đầu của cuộc kháng chiến, cơ quan Tỉnh
ủy Gia Định rút về trú đóng ở các xã phía Bắc Củ Chi (thuộc căn cứ Khu 5 Hóc Môn trong kháng
chiến chống Pháp). Tại đây, các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan, đơn vị đều được nhân dân che
chở, nuôi giấu, bảo vệ an toàn. Sau “Đồng khởi” năm 1960, Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện
dồn dân, rào làng lập “ấp chiến lược” nhằm “tách nhân dân ra khỏi cộng sản”, triệt phá “tận
gốc” cơ sở của chiến tranh du kích nhằm cô lập, đi đến tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam
[57, tr. 42]. Nhưng nhân dân Củ Chi với quyết tâm “mang nấp hầm bí mật vào tận ấp chiến lược”
nên vẫn phát triển được thực lực tại chỗ, kể cả lực lượng vũ trang bí mật bên trong ấp chiến lược.
Để thực hiện được điều đó, đảng viên và lực lượng vũ trang Củ Chi luôn thực hiện khẩu hiệu “ba
bám” (Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám giặc). Trong đó, Đảng bám dân được đặt lên hàng
đầu. Các cán bộ, đảng viên hoạt động bí mật, các đội vũ trang… đã không ngại gian khổ, hy sinh,
vượt qua mọi lớp rào kẽm gai, đồn bót địch, tìm mọi cách đột nhập vào các ấp chiến lược để gây
dựng, phát triển cơ sở cách mạng, vận động nhân dân phá ấp chiến lược, trở về vườn cũ làm ăn.
Người dân Củ Chi nói riêng, người Việt Nam nói chung từ lâu đời rất gắn bó với miếng đất, mảnh
vườn của tổ tiên, ông bà để lại, nên khi cách mạng đưa ra khẩu hiệu “bám đất giữ làng”, “một tấc
không đi, một ly không rời” thì rất hợp lòng dân, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Khi giặc Mỹ cho
tiền, cho gạo, dụ dỗ vào ấp chiến lược, nhân dân nhất quyết không đi. Dù bị “xúc” vào ấp chiến
lược nhưng lòng người dân bao giờ cũng hướng về cách mạng, nhớ đến con em họ đang sống và
chiến đấu trong địa đạo, chốn bưng biền, sông rạch…đang rất khó khăn, nên họ tìm đủ mọi cách
để giúp đỡ. Họ đấu tranh quyết liệt với giặc, viện ra nhiều lý lẽ hợp pháp để được trở về sản xuất
trên mảnh vườn, miếng ruộng của mình, tìm mọi cách để gặp người chiến sĩ, đặc biệt là con em họ
trong chốc lát để gởi cơm, gạo, khô, mắm… Với quyết tâm bám trụ, một số gia đình người dân ở
ấp Đồng Lớn, Trung Hưng, Sa Nhỏ (xã Trung Lập)… vẫn trụ lại trên “vùng trắng”, “vùng tranh
chấp”, “sống chung” với bom pháo, chất độc hóa học của Mỹ. Căn nhà của họ chỉ tạm bợ bằng
mấy tấm tôn che trên hầm tránh pháo, vẫn đêm đêm thắp đèn làm ám hiệu cho bộ đội, du kích qua
lại, vẫn làm đầu mối hậu cần cung cấp lương thực, thực phẩm cho lực lượng vũ trang, làm nơi liên
lạc, móc nối, nắm tình hình địch cho các đơn vị… Nhân dân sống chết quyết không rời đất, rời nhà
của mình. Tiêu biểu như ông Hai Long ở ấp Đồng Lớn, xã Trung Lập, nhà bị địch đốt hơn chục
lần vẫn không chịu vào ấp chiến lược Trung Hòa, ông đã khoét một hầm sâu dưới gốc tre làm chỗ
ở, cùng du kích sống chết tại chỗ. Ông lão ở Trung Lập nói với bọn lính đi cào nhà: “Ở đây làm đã
không đủ ăn, vô ấp chiến lược lấy gì mà ăn? Nói thiệt với mấy chú, già này không đi đâu cả. Nếu
mấy chú dỡ nhà thì xin nói trước…đừng trách chúng tôi!” [77, tr. 351]… Ở Ba Sòng (An Nhơn
Tây), Xóm Trại (Phú Mỹ Hưng) và Đồng Lớn, Sa Nhỏ (Trung Lập) có 120 nóc nhà bám trụ từ
năm 1969 đến 1972. Ngoài ra còn có ấp Tháp, Đồng Hói (Thái Mỹ), Vườn Trầu, Mây Đắng, Bàu
Trâu…(Phước Thạnh ) cũng có phong trào bám trụ tốt. Số gia đình bám trụ này, trực tiếp tham gia
công tác cách mạng, dần dần làm sống lại vùng giải phóng [6, tr. 151].
Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ cho thấy muốn làm chủ thì phải bám trụ, bám trụ trên
mặt đất không được thì phải đào chiến hào, làm địa đạo. Bám trụ để xây dựng lực lượng chính trị.
Trên cơ sở tổ chức các đoàn thể chính trị, mà tổ chức lực lượng vũ trang. Bám trụ để tuyên truyền,
khơi dậy tinh thần yêu nước, để xây dựng mối quan hệ gắn bó với nhân dân. Đảng viên, cán bộ
sống trong nhân dân được nhân dân đùm bộc, che chở và dám hy sinh cả tính mạng mình để bảo
vệ lực lượng cách mạng. Đảng luôn tin ở dân, hiểu dân và dựa vào dân để tồn tại và phát triển, đưa
sự nghiệp cách mạng từng bước đến thắng lợi.
Như vậy, người chiến sĩ Củ Chi bám được địa đạo để duy trì cuộc chiến đấu là nhờ nhân dân,
còn nhân dân giữ niềm tin vào thắng lợi tất yếu của cách mạng là do họ thấy sự tồn tại vững vàng
của khu du kích cách họ không xa. Bom đạn, sắt thép tàn bạo của quân thù không thể tách lực
lượng vũ trang ra khỏi nhân dân. Chính vì thế mà giặc Mỹ dù tàn bạo đến đâu, trên thực tế vẫn
không xóa được những lõm du kích ở vùng sâu, vùng tranh chấp “da báo”, ngay sát nách địch.
“Thế trận lòng dân” ở Củ Chi đã quyết định vị thế của quê hương “Đất thép thành đồng”. Sự gắn
bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là một nhân tố quan trọng, thể hiện rõ quan điểm “lấy dân làm
gốc” trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Đảng đã khơi dậy được tinh thần yêu
nước, ý chí chiến đấu kiên cường của nhân dân, phát huy được tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các
giai cấp, tầng lớp nhân dân, tính thông minh, sự cần cù sáng tạo trong lao động cũng như trong
chiến đấu. Đó là cơ sở vững chắc nhất để chống lại kẻ thù bằng mọi hình thức, từ hình thức bất
hợp tác với giặc đến nổi dậy phá tề, giành quyền làm chủ, tham gia lực lượng vũ trang, xây dựng
xã, ấp chiến đấu, tiến lên xây dựng khu du kích và căn cứ du kích, xây dựng căn cứ địa, hậu
phương trong lòng địch. Sự thắng lợi triệt để của Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã nói
lên chính con người Củ Chi nói riêng, dân tộc Việt Nam ta nói chung, thông minh và sáng tạo, có
chí hướng và quyết tâm mới quyết định được vận mệnh của mình chứ không phải là sức mạnh tàn
bạo của vũ lực. Điều đó chứng minh rằng sức mạnh của hậu phương, căn cứ địa trước hết là ở lòng
dân. Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, Đảng ta với quan điểm phát triển đã lãnh đạo toàn dân làm
chuyển hóa tiềm lực về mọi mặt của hậu phương từ yếu đến mạnh, huy động được tới mức cao
nhất sức người, sức của của toàn dân cho kháng chiến theo yêu cầu càng đánh càng mạnh để đi tới
thắng lợi hoàn toàn. Qua đó, có thể khẳng định rằng cơ sở chính trị vững mạnh là một trong những
đặc điểm nổi bậc của căn cứ địa Củ Chi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
3.1.3. Là căn cứ địa đạo chiến đấu có qui mô lớn và hoàn chỉnh
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân kháng chiến, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lực lượng vũ
trang của Củ Chi chỉ là những tổ du kích và tự vệ từ 3 đến 7 người, được trang bị thô sơ. Đến cuối
năm 1959, trung đội vũ trang đầu tiên của Khu Sài Gòn – Chợ Lớn được thành lập trên địa bàn Củ
Chi. Vì vậy, việc xây dựng căn cứ làm nơi đứng chân để phát triển lực lượng vũ trang là nhu cầu
tối cần thiết. Đến đầu năm 1960, cơ quan lãnh đạo Khu ủy, Quân khu Sài Gòn – Gia Định chọn
vùng Hố Bò, xã Phú Mỹ Hưng làm căn cứ. Do nằm sát nách Sài Gòn - thủ phủ của địch, nên căn
cứ của Quân khu Sài Gòn – Gia Định được xây dựng thành căn cứ địa đạo. Đây là một loại hình
căn cứ địa, tuy “không tuyệt đối vững chắc và không thể xây dựng nghênh ngang, kềnh càng
nhưng ta có thể xoay vần cùng với kẻ địch ”[56, tr. 266].
Phát huy những kinh nghiệm về việc xây dựng địa đạo thời kháng chiến chống Pháp, Khu ủy
Sài Gòn – Gia Định và Quận ủy Củ Chi đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm bám trụ chiến đấu bảo vệ
quê hương, bảo vệ vùng căn cứ cách mạng Củ Chi. Với khẩu hiệu “một tất không đi, một ly không
rời”, bộ đội, dân quân, du kích, cơ quan dân chính, Đảng cùng với nhân dân ra sức thi đua đào địa
đạo, chiến hào, công sự suốt ngày đêm. Với loại dụng cụ rất thô sơ là cái ki đan bằng tre, trúc, tầm
vông và cái cuốc cùn, người dân Củ Chi đã kiên trì đào địa đạo từ năm này qua năm khác, bất chấp
bom đạn, mưa nắng, tạo nên một kỳ tích có một không hai, đúng như những câu thơ của nhà thơ
Dương Hương Ly trong bài thơ “Đất quê ta mênh mông”:
“Mẹ đào hầm từ lúc tóc còn xanh
Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc
Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác
Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh…” [37, tr. 277]
Địa đạo Củ Chi thực chất là một hệ thống đường hầm khá sâu dưới lòng đất, nối liền các công
sự chiến đấu, các hầm bí mật, các chỗ ăn, ở của lực lượng vũ trang thường xuyên bám trụ, tất cả ăn
thông với nhau thành thế liên hoàn giữa các ấp trong một xã và giữa các xã trong một vùng địa
hình nhất định. Thế liên hoàn giữa các vùng phát triển ngày càng rộng, đã nối liền từ vùng sâu,
vùng ven trong lòng địch đến vùng căn cứ giải phóng [37, tr. 144-145]. Sự kết hợp giữa địa đạo
với hệ thống giao thông hào, các bãi mìn, chông, hàng rào và các ụ, ổ chiến đấu hình thành một
chiến lũy chống trả lại các trận càn quét, đánh phá của địch. Như vậy, địa đạo Củ Chi không mang
tính thụ động mà mang tính “địa đạo chiến” rất linh hoạt, là thế trận độc đáo của chiến tranh nhân
dân ở Củ Chi và đã trở thành mối nguy hiểm thường trực đối với địch trong suốt cuộc chiến tranh.
Đối với quân Mỹ, địa đạo Củ Chi “có lẽ là chiến trường bất ngờ nhất từ trước đến nay mà người
lính Mỹ chưa bao giờ từng phải đối phó” [66, tr. 55]. Từ sau cuộc càn Crimp (tháng 1 năm 1966),
địch đã kết luận: “hệ thống đường hầm Củ Chi là một trở ngại kinh khủng và nguy hiểm” [77, tr.
450]. Trong suốt cuộc chiến tranh, nhiều cuộc địa đạo chiến đã xảy ra với qui mô khác nhau,
nhưng đặc biệt ác liệt là thời kỳ Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam, tiến hành “Chiến tranh cục
bộ” (1965 – 1968). Đây cũng là thời kỳ mà Mỹ ra sức đánh phá địa đạo bằng mọi thủ đoạn và kỹ
thuật tối tân hòng “bới tung địa đạo” Củ Chi, tiêu diệt phong trào cách mạng ở đây. Quân dân Củ
Chi đã phát huy cao độ ưu thế của địa đạo trong việc chống trả những cuộc tấn công của địch, bảo
vệ lực lượng và cũng từ địa đạo xông lên tiêu diệt địch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Sự
ngoan cường của du kích Củ Chi đã làm những người Mỹ ngạc nhiên. J. P. Harrison nêu trong
cuốn “Cuộc chiến đấu triền miên” (xuất bản năm 1982) một hình ảnh trong cuộc hành quân Cedar
Falls: “Có một số vùng bị bắn phá bình quân 27 trái bom trên 1 kilômét vuông. Thế là tại một làng
nằm trong mục tiêu đó, một toán gồm 6 chiến sĩ kháng cự trong 8 ngày chống lại 8.000 quân Mỹ
trong khoảng đất rộng khoảng 1 kilômét vuông nhờ một hệ thống địa đạo và hầm hố chằng
chịt…”[77, tr. 453].
Có thể nói trong giai đoạn 1965 – 1968, giai đoạn đánh thắng “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, thì
địa đạo Củ Chi được củng cố, hoàn thiện hơn và phát triển nhiều nhất trong suốt 30 năm kháng
chiến chống Pháp và Mỹ (1945 – 1975). Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã có
những ý kiến khác nhau về chiều dài của địa đạo Củ Chi. Có tài liệu cho rằng “đến thời kỳ cao
điểm đã có khoảng gần 200 kilômét” [9, tr. 156]. Trong quyển “Hầm Củ Chi – Câu chuyện khó tin
về cuộc chiến tranh trong lòng đất ở Việt nam”, hai tác giả John Penycate và Tom Mangold viết:
“Tư lệnh Nguyễn Quyết, lão tướng đường hầm, ước tính từ 48 kilômét địa đạo đào trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, đã phát triển tới 200 kilômét khi quân Mỹ đến, năm 1965” [66, tr. 36].
Về cấu trúc, địa đạo Củ Chi lúc đầu rất thô sơ, đơn giản. Dần dần, địa đạo được cải tiến, sáng
tạo đạt đến mức hoàn chỉnh, thuận tiện cho chiến đấu và sinh hoạt lâu dài trong lòng đất. Một hệ
thống địa đạo có một đường hầm chính gọi là đường “xương sống”. Sau đó, các cơ quan, đơn vị
phát triển địa đạo nhánh ăn thông với đường “xương sống” thành những hệ thống địa đạo liên
hoàn. Hệ thống địa đạo nằm ngoắt ngoéo trong lòng đất, từ đường “xương sống” (đường chính)
tỏa ra vô số nhánh dài, ngắn, ăn thông với nhau, hoặc độc lập chấm dứt tùy theo địa hình. Có
nhánh trổ ra sông Sài Gòn. Đường hầm không sâu lắm nhưng chống được đạn, pháo và sức nặng
của xe tăng, xe bọc thép, những đoạn nằm sâu chống được bom cỡ nhỏ. Có những đoạn được cấu
trúc từ 2 đến 3 tầng (tầng trên gọi là “thượng”, tầng dưới gọi là “trầm”). Chỗ lên xuống giữa các
tầng có nấp hầm bí mật. Dọc theo đường hầm có lỗ thông hơi, bên trên được ngụy trang kín đáo và
trổ lên mặt đất bằng nhiều cửa bí mật. Vô số cửa được cấu trúc thành nhiều ổ chiến đấu rất linh
hoạt. Đây chính là chỗ bất ngờ với quân địch. Dưới những khúc địa đạo ở khu vực hiểm yếu, có
đặt hầm chông, hố đinh, cạm bẫy…Chung quanh chỗ hầm lên xuống được bố trí nhiều hầm chông,
hố đinh, mìn trái (gọi là “tử địa”), có cả mìn lớn chống tăng và mâm phóng lựu đạn chống máy
bay trực thăng đổ chụp, nhằm tiêu diệt , ngăn chặn quân địch tới gần.
Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi sau khi chiến đấu. Có nơi dự trữ vũ khí,
lương thực, thực phẩm, nước uống, có giếng nước, bếp Hoàng Cầm (bếp dấu khói trong đất), hầm
làm việc của các vị lãnh đạo, chỉ huy, hầm giải phẩu, nuôi dưỡng thương binh, hầm chữ A vững
chắc cho phụ nữ, người già, trẻ em trú ẩn. Có những hầm lớn, mái lợp thoáng mát, bên trên ngụy
trang khéo léo để hội họp, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ…[89, tr. 34-35].
Trong chiến tranh, ở nhiều địa phương khác của nước ta cũng có địa đạo như: Quảng Bình,
Vĩnh Linh (Trung Bộ) cũng từng nổi tiếng về thành tích chống Mỹ. Ngược thời gian về thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, thì Nam Hồng, một làng xã miền Bắc (cách Hà Nội 20 kilômét) cũng đã
tổ chức xây dựng địa đạo, chống càn, bảo vệ quê hương…Nhưng “địa đạo chiến” của Củ Chi là
“một kỳ quan đánh giặc” qui mô và hoàn chỉnh, là đặc điểm nổi bật của Củ Chi trong kháng chiến
chống Mỹ.
3.1.4. Là nơi địch tự do oanh kích, nơi chiến tranh ác liệt, nơi đấu trí đấu lực quyết liệt giữa ta và
địch
Trong chiến tranh, Sài Gòn là trung tâm đầu não của địch nên được ưu tiên bảo vệ tối đa.
Trong đó, địa bàn Củ Chi là vành đai phòng thủ xung yếu phía Tây Bắc Sài Gòn, là đối tượng
đánh phá ác liệt, bởi vì địch cho rằng đây là “Sở chỉ huy của Quân khu 4 Việt cộng (tức Quân khu
Sài Gòn – Gia Định). Muốn ngủ yên ở Sài Gòn, phải biến Củ Chi thành bình địa”[ 24, tr. 42]. Vì
vậy, khi bắt đầu thực hiện kế hoạch “phản công mùa khô” lần thứ nhất vào cuối 1965 đầu 1966,
địch mở chiến dịch lớn “5 mũi tên” ở khắp miền Nam Việt Nam, với lực lượng của 100 tiểu đoàn
và đủ mọi phương tiện chiến tranh hiện đại. Trong đó, mũi thứ nhất chúng giành cho tuyến phòng
thủ Sài Gòn ở phía Tây Bắc với cuộc càn Crimp (tháng 1 năm 1966). Tham vọng của Mỹ là giành
thắng lợi quyết định ngay từ phút đầu nên chúng đã bỏ ra hàng tháng trời phái nhiều máy bay thám
thính bay lượn, chụp hình, thả máy móc thăm dò để nghiên cứu khu vực chúng sắp hành quân. Ba
tuần lễ trước khi càn quét, chúng đã nhiều lần thả bom, bắn pháo vào các mục tiêu định sẵn. Mật
độ bom đạn càng gần ngày đổ quân càng tăng.
Ngày 8 tháng 1 năm 1966, từ tờ mờ sáng, máy bay B52 – tám đợt, mỗi đợt 3 chiếc, cất cánh từ
Guam, cách Việt nam 3.500 kilômét – đến dội bom rải thảm. Tiếp ngay sau đó là máy bay chiến
đấu, từ các sân bay lân cận như: Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, dàn thành bầy, thay phiên nhau đến
oanh tạc từng khu vực. Sau đó, đại bác ở các căn cứ: Trảng Bàng, Bến Cát, Dầu Tiếng, Lai Khê,
Dĩ An, Trung Hòa… bắn cấp tập đợt cuối cùng như “trận mưa sắt thép”. Như vậy, hàng nghìn tấn
bom, hàng chục quả đại bác đã trút xuống mảnh đất khoảng chừng 7.000 ha của các xã vùng giải
phóng phía Bắc Củ Chi. Trên mặt đất, từng đoàn xe bọc thép nối đuôi nhau ùa đến, trông từ xa lùi
lũi như cua bò. Những tên lính Mỹ theo sau, hùng hổ tiến lên, rồi xông vào làng, vào ấp [37, tr.
40].
Sang đầu năm 1967, địch thực hiện cuộc “phản công mùa khô” lần thứ hai vào vùng “Tam
Giác Sắt” với cuộc càn Cedar Falls mà lực lượng “lớn hơn cuộc càn Crimp nhiều”[37, tr. 92].
Địch đã thực hiện được một số mưu đồ: “Hầu hết làng mạc, nhà cửa trong khu vực đều bị phá;
3.700 tấn thóc bị cướp, gần 1.000 người chết và bị thương; khoảng 6.000 dân bị bắt đưa đi tập
trung tại Phú Cường (Bình Dương)…Ở gần chỗ địch đổ quân, chúng phục kích và gài mìn chặn
khắp các ngã đường, có đơn vị bộ đội phải rút xuống hầm ém quân suốt mấy tuần, ăn gạo sống,
rau cỏ và uống nước sông [37, tr. 96].
Hai tác giả Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng trong sách “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí
Minh viết: “Từ cuối năm 1965 trở đi, chiến tranh ở Củ Chi cực kỳ ác liệt. Trong địa giới một
huyện, không một huyện nào của cả nước bị địch dội bom, bắn phá bằng Củ Chi, không nơi nào
địch đóng quân càn quét nhiều hơn Củ Chi” [52, tr. 493].
Tác giả J.P. Harrison nêu trong cuốn “Cuộc chiến đấu triền miên” (xuất bản năm 1982) một
hình ảnh trong cuộc hành quân Cedar Falls trên vùng căn cứ phía Bắc Củ Chi như sau: “Có một số
vùng bị bắn phá bình quân 27 trái bom trên 1 mét vuông” [77, tr. 453].
Thời điểm năm 1969 bước qua năm 1970, chiến trường vùng ven và trung tuyến trở nên khốc
liệt nhất do sự đánh phá “quét và giữ” của Mỹ và “bình định cấp tốc” của quân đội Việt Nam cộng
hòa. Trên vùng căn cứ Củ Chi, cây cối trên địa hình vừa sống lại qua những lần hủy diệt trước,
địch cho xe ủi phá tiếp. Máy bay B52 ném bom rải thảm. Địch cho máy bay chụp hình khắp trên
vùng căn cứ và ném bom tọa độ, bom bi hàng đêm. Pháo địch bắn khắp nơi, cả trong vùng dân cư
còn bám trụ. Sau đó chúng dùng xe tăng ủi nhà cửa, vườn tược, đồng ruộng, tiếp tục gom dân vào
các ấp chiến lược, thả bom hóa học xuống các trọng điểm căn cứ bám trụ. Ngoài ra, địch còn dùng
chiến thuật biệt kích đánh khắp nơi trên bộ, trên sông, chiến trường bị chia cắt, gây cho lực lượng
cách mạng muôn vàn khó khăn [78, tr. 98].
Song song với việc dùng sức mạnh hủy diệt của bom đạn, địch đã đề ra mục tiêu “tranh thủ trái
tim và khối óc” nhân dân bằng các hoạt động mị dân. Ở bất cứ nơi nào, vùng giải phóng, vùng
tranh chấp hay vùng bị chiếm, bọn địch cũng đều tung lưới tình báo để nắm bắt tin tức và dùng
những thủ đoạn gián điệp để phá hoại cách mạng. Địch đã tổ chức “tình báo đại chúng” bắt mọi
người dân phải có nhiệm vụ theo dõi rồi khai báo tình hình hoạt động của Việt cộng ở địa phương.
Đây là hành động hết sức thâm độc của địch, có tác động gây nghi kỵ lẫn nhau trong nội bộ nhân
dân, nghi kỵ lẫn nhau trong hàng ngũ cán bộ, giữa cán bộ với nhân dân…làm cho cán bộ khó xâm
nhập quần chúng. Như vậy, địch đã chia rẽ, phá vỡ khối đoàn kết, thống nhất trong lực lượng cách
mạng, ảnh hưởng đến việc đấu tranh giành quyền làm chủ xã, ấp.
Bên cạnh đó, chiến tranh tâm lý cũng được tiến hành một cách rộng rãi và triệt để ở Củ Chi.
Địch đã sử dụng tâm lý chiến với mức độ tập trung cao, coi Củ Chi là địa bàn thí nghiệm đặc biệt
nhằm hoàn thiện lối đánh đòn cân não này. Chúng đã tổ chức những đội tâm lý chiến đưa vào hoạt
động trong các đoàn công tác bình định, đồng thời tổ chức những đội tâm lý chiến riêng để đi theo
các cuộc hành quân. Hình thức hoạt động tâm lý chiến khá phong phú từ đơn giản như: diễn kịch
và ca hát ở các ấp chiến lược, các trường học; phát thuốc cho người lớn và tung kẹo cho trẻ con,
rải truyền đơn hay phát thanh kêu gọi, lừa phỉnh…cho đến những việc tinh vi, phức tạp hơn nhằm
vừa đe dọa, vừa mơn trớn tình cảm và nguyện vọng tha thiết, sâu sắc của mỗi người như: lợi dụng
những người chiêu hồi để lung lạc, lôi kéo những cán bộ đang hoang mang, xao động trước khó
khăn; dùng loa phóng thanh từ trên máy bay để khích động tình cảm các chiến sĩ xa nhà…Đây là
một thử thách gay go đối với một số cán bộ, chiến sĩ bám trụ sống trong hầm, lâu ngày không gặp
người thân…
3.2. Vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trong kháng chiến chống Mỹ
Thắng lợi oanh liệt của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm của nhân
dân ta đã khẳng định vị trí to lớn của hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đó là một hậu
phương được tổ chức chặt chẽ theo đường lối đúng đắn, sáng tạo và bằng những biện pháp có hiệu
quả. Vì thế, trước thử thách ác liệt của chiến tranh, hậu phương kháng chiến của ta được xây dựng,
bảo vệ và ngày càng mở rộng đã phát huy mạnh mẽ vai trò, tác dụng to lớn, toàn diện, góp phần
quyết định vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.
Trong tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
viết: “Muốn tiến hành thắng lợi chiến tranh cách mạng, cần có hậu phương vững chắc. Hậu
phương vững chắc là một nhân tố thường xuyên của thắng lợi bởi vì hậu phương là nguồn cổ vũ,
động viên về chính trị, tinh thần cho tiền tuyến, là nguồn cung cấp, chi viện về nhân lực, vật lực,
tài lực cho chiến tranh. Quy mô chiến tranh càng lớn, vai trò của hậu phương càng quan trọng”
[49, tr. 169].
Đường lối quân sự của Đảng ta hết sức coi trong vai trò của hậu phương trong chiến tranh. Từ
khi đặt vấn đề đấu tranh vũ trang thì vấn đề đất đứng chân làm nơi che giấu, huấn luyện, tiếp tế,
củng cố, nghỉ ngơi của lực lượng vũ trang nhân dân cũng đồng thời được đặt ra.
Sự tồn tại và hoạt động của căn cứ địa trên toàn miền Nam nói chung, ở Củ Chi nói riêng đã
giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Vì là nơi
nối liền Trung ương Cục và Sài Gòn, trung tâm đầu não của địch, nên Củ Chi nằm trong vùng
trung tuyến. Trung ương Cục đã chỉ thị “bằng mọi giá phải giữ cho được trung tuyến, vì mất trung
tuyến ta không thể nào đứng được” [6, tr. 133]. Trung tuyến có vai trò hết sức quan trọng, là nơi
để đưa lãnh đạo của Trung ương Cục về đây và chỉ đạo về thành phố; nơi để lực lượng trên về trú
đóng, sẵn sàng triển khai tác chiến, đồng thời nhận lương thực từ ấp chiến lược vận chuyển ra để
tiếp tế cho lực lượng cách mạng. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, căn cứ địa Củ Chi đã thể
hiện được vai trò cụ thể như sau:
3.2.1. Là nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, nơi xây dựng, củng cố và phát
triển lực lượng cách mạng
Căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi trong kháng chiến chống Mỹ được xem như một căn cứ du
kích ngay sát nách “thủ đô” Sài Gòn. Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết cho đến ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng (tháng 4 năm 1975), căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi là nơi đứng chân
hoạt động của cơ quan Tỉnh ủy Gia Định, Liên tỉnh ủy miền Đông, sau này là Khu ủy, Quân khu
Sài Gòn – Gia Định (từ năm 1959), Quận ủy Củ Chi…Tại đây, các cơ quan dân, chính, Đảng, các
ban, ngành, đoàn thể cách mạng không ngừng được củng cố, hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất
lượng công tác, tham gia có hiệu quả vào quá trình điều hành công cuộc kháng chiến ở địa
phương. Tại vùng căn cứ này, đã diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng như: Tháng 2 năm 1957,
Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Tỉnh ủy Gia Định lần thứ tư được tổ chức tại xã An Nhơn Tây;
Ngày 9 tháng 3 năm 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng khu Sài Gòn – Gia Định ra đời tại xã Phú
Mỹ Hưng; Bộ tư lệnh Quân khu Sài Gòn – Gia Định tổ chức Hội nghị tổng kết chiến đấu vào ngày
25 tháng 1 năm 1966; Ngày 7 tháng 2 năm 1966, mở Đại hội dũng sĩ diệt Mỹ tại xã Phú Mỹ Hưng;
Ngày 29 tết Mậu Thân, Quận ủy Củ Chi đã họp bàn việc chỉ đạo xuống đường Xuân 1968, tại địa
đạo ấp Bàu Lách xã Nhuận Đức…Chính sự đứng chân của các cơ quan lãnh đạo là sự chỉ đạo tại
chỗ, tạo ra sức mạnh tại chỗ cho phong trào đấu tranh của quân và dân Củ Chi.
Cùng với quá trình phát triển của cuộc kháng chiến, từ những đơn vị nhỏ, lẻ ban đầu, lực lượng
vũ trang địa phương Củ Chi, Quân khu Sài Gòn – Gia Định ngày một trưởng thành. Từ một tiểu
đội lúc “đồng khởi” (đầu năm 1960) đến đầu năm 1961, Củ Chi có được một trung đội bộ đội, đến
cuối năm đã phát triển lên một đại đội. Các ấp có từ 1 đến 2 tiểu đội du kích, các xã có nơi cao
nhất xây dựng được một trung đội du kích. Khác với các quận khác, lực lượng vũ trang Củ Chi
còn có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ căn cứ đầu não của Khu Sài Gòn – Gia Định. Với lực lượng
không lớn và vũ khí ít ỏi, để có thể gỡ được các đồn bót địch, mở rộng vùng giải phóng, du kích
Củ Chi đã sáng tạo nhiều cách đánh mới, đặc biệt có hiệu quả là lối đánh bao vây, bắn tỉa từ xa,
buộc nhiều đồn bót địch phải rút chạy, biết làm hầm chui vào lòng đất để đối chọi với hỏa lực thừa
thãi của địch. Năm 1963, tiểu đội nữ du kích Củ Chi được thành lập do đồng chí Nguyễn thị Nhỡ
chỉ huy. Năm 1965, Quận thành lập thêm đội nữ vũ trang do Nguyễn Thị Nê làm trung đội
trưởng. Đến giữa năm 1965, toàn Quận đã có trên 1.000 chiến sĩ dân quân du kích. Đến đầu năm
1975, toàn huyện có 3 đại đội bộ binh (tương đương với 1 tiểu đoàn), 1 trung đội nữ, một trung đội
biệt động, 1 trung đội súng cối 60mm và 82 mm [9, tr. 254]. Quá trình phát triển của lực lượng vũ
trang Củ Chi, các đơn vị vũ trang tập trung của Quân khu và của Miền đều ít nhiều gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của căn cứ địa Củ Chi. Đây là nơi lực lượng vũ trang về đứng
chân, ẩn náo, củng cố và phát triển lực lượng để tiến hành các cuộc tấn công, phản công tiêu diệt
địch.
Với địa thế, địa hình thuận lợi cho việc đào địa đạo, quân dân Củ Chi đã xây dựng căn cứ dưới
hình thức chủ yếu là địa đạo - “làng ngầm”. Ban đầu dùng làm nơi trú ẩn, tạo điểm tựa để hoạt
động và chiến đấu. Sau đó, do tính chất phát triển của cuộc chiến tranh, địa đạo được sáng tạo
mang tính năng động để vừa trú ẩn bảo toàn lực lượng vừa phát huy thế tiến công tiêu diệt địch với
hiệu quả ngày càng cao.
Khi giặc Mỹ đến Củ Chi với trận càn Crimp, chúng bị đánh bất ngờ ngay từ phút đầu. Qua thử
thách của trận càn này, quân dân Củ Chi càng thấy rõ hơn tác dụng của địa đạo trong chiến đấu.
Hệ thống địa đạo đã bảo đảm an toàn cho lực lượng bộ đội và du kích, mặc dù kẻ địch có sức
mạnh áp đảo trên mặt đất. Nếu địch truy kích thì bộ đội, du kích rút quân vào các đường hầm, để
rồi luồn lại đánh vào sườn hoặc phía sau lưng chúng. Nếu địch không phát hiện được thì từ các ổ
chiến đấu bí mật, bộ đội và du kích, tuy ít quân hơn, vẫn có thể áp sát địch và tấn công chúng bất
ngờ, từ nhiều phía, nhiều hướng, đưa chúng vào thế bị động. Còn đối với nhân dân thì nhờ có địa
đạo mà không lo chạy địch càn quét bất cứ lúc nào, tránh được tác hại của bom, pháo, chất độc hóa
học, đỡ nhiều tổn thất, thương vong, yên tâm làm ăn, sản xuất.
Trên vành đai diệt Mỹ, vai trò của địa đạo đặc biệt quan trọng. Với mức độ đánh phá bằng phi
pháo, trực thăng, xe tăng của địch ngày càng dày đặc, nếu không có địa đạo thì các lực lượng
chiến đấu sẽ không thể trụ vững vài ngày.
Căn cứ địa Củ Chi không chỉ là chiến trường tiêu diệt địch mà còn là nơi xuất phát, là một bàn
đạp lợi hại của quân giải phóng trong tiến công. Trung tướng Richard Knowles - chỉ huy lữ đoàn
khinh binh 196 của Mỹ, trong một bản báo cáo sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, đã
nhận định: “Không có địa đạo, không có tổng tấn công”[77, tr. 46]. Các lõm căn cứ ở xã Thái Mỹ
và nhiều ấp dọc đường số 1 trên địa bàn Củ Chi trở thành nơi đứng chân và bàn đạp quan trọng
của lực lượng biệt động để từ đó xâm nhập người, vũ khí vào Sài Gòn và tiếp nhận vũ khí từ Tây
Ninh, Hậu Nghĩa chuyển xuống các cơ sở ém vũ khí ở nội thành để lực lượng cách mạng có thể
thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Như vậy, căn cứ địa Củ Chi đã làm tốt vai trò hậu
phương tại chỗ, địa bàn đứng chân, là điểm tập kết lực lượng và hậu cần, là bàn đạp xuất phát cho
bộ đội chủ lực khi có lệnh tiến công vào Sài Gòn.
3.2.2. Là nơi diễn ra những trận chiến đấu quyết liệt chống càn, tiêu diệt địch trong các chiến
lược chiến tranh
Lịch sử xây dựng và phát triển căn cứ địa luôn luôn gắn liền với hoạt động quân sự diễn ra ở
bên trong và bên ngoài căn cứ. Đó là nơi giao tranh quyết liệt giữa một bên là kẻ địch mưu toan
tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng, xóa sạch căn cứ và
một bên là lực lượng kháng chiến quyết tâm giữ vững căn cứ, bảo toàn lực lượng và từ đó làm chỗ
dựa mở rộng phạm vi hoạt động quân sự, tiến công vào hậu phương của địch.
Trong quá trình tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn
đã dồn những nỗ lực lớn nhất của lực lượng và vũ khí, phương tiện chiến tranh để thực hiện những
cuộc càn có qui mô lớn vào vùng căn cứ cách mạng ở Củ Chi nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo Khu
ủy Sài Gòn – Gia Định, Huyện ủy Củ Chi.
Chiến đấu bảo vệ cơ quan lãnh đạo, bảo vệ sức người sức của trong căn cứ luôn là nhiệm vụ
hàng đầu của quân và dân vùng căn cứ. Ở Củ Chi, quân và dân đã thực hiện vũ trang toàn dân,
cùng với các lực lượng đứng chân trong vùng căn cứ không ngừng tổ chức lại chiến trường, lợi
dụng và cải tạo địa hình để xây dựng xã, ấp chiến đấu, đào đắp hầm hào, công sự, bố trí hầm
chông, hố đinh, bãi mìn, đào thêm địa đạo… tạo thành một hệ thống trận địa vừa có tác dụng
phòng thủ, bảo vệ cho các cơ quan lãnh đạo, vừa là trận địa tiêu diệt giặc.
Ngay sau khi địch vừa bắt đầu xây dựng ấp chiến lược, bộ đội quận và du kích xã đã tiêu diệt
nặng 3 đơn vị “bình định hương thôn” ở Phước Hiệp, An Nhơn Tây, Cây Bài (Phước Vĩnh An).
Tháng 9 năm 1962, du kích xã An Nhơn Tây diệt đồn An Nhơn Tây…[43, tr. 218]. Đầu năm
1965, Tiểu đoàn Quyết Thắng diệt 2 đại đội địch trên quốc lộ 1, đoạn cây Trôm – Suối Cụt. Ngày
9 tháng 5 năm 1965, tại Bàu Lách (Nhuận Đức), 1 tiểu đoàn quân giải phóng đánh thiệt hại nặng 1
trung đoàn địch, diệt gầm 500 tên, bắt sống 250 tên thu hàng trăm súng các loại…góp phần giữ
vững vùng căn cứ Nhuận Đức. Suốt 12 ngày đêm liên tục chiến đấu chống cuộc càn Crimp (tháng
1 năm 1966), Tiểu đoàn Quyết Thắng phối hợp nhịp nhàng với quân dân Củ Chi anh dũng chiến
đấu bảo vệ căn cứ, diệt hơn 1.000 tên Mỹ và chư hầu, bắn rơi 84 máy bay, bắn cháy và phá hủy 77
xe quân sự, trong đó có 56 xe tăng và xe bọc thép, 2 đại bác 105 ly [24, tr. 44]. Đối phó với cuộc
càn Cedar Falls (tháng 1 năm 1967), quân dân Củ Chi, Bến Cát, Trảng Bàng đã dựa vào hệ thống
địa đạo, chiến hào dũng cảm chiến đấu, gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Chỉ trong một số
trận đụng độ đầu tiên, trên 3.000 tên xâm lược đã bị loại khỏi vòng chiến, 90 xe M.113 phơi xác
trên lộ 7, lộ 14, lộ 15 và 13 máy bay bị bắn hạ [24, tr. 56]. Tháng 3 năm 1967, tiểu đoàn Quyết
Thắng phối hợp với đại đội 7 Củ Chi, có du kích dẫn đường, đã nổ súng tấn công căn cứ Cây Trắc
(Phú Hòa Đông). Sau 2 giờ quần nhau với địch trong thế chủ động, hàng trăm tên Mỹ và quân đội
Việt Nam cộng hòa bị tiêu diệt, 18 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy và nhiều xe khác bị hư
hỏng…[24, tr. 58]. Tiểu đoàn Quyết Thắng đánh thiệt hại 2 trung đoàn địch ở Trung An (tháng 10
năm 1967). Ngày 21 tháng 3 năm 1975, tiểu đoàn Quyết Thắng cùng với bộ đội địa phương và du
kích lập trận địa phục kích đoàn xe tải của quân đội Việt Nam cộng hòa trên quốc lộ 1, diệt 51 xe
tải, 2 xe tăng, đánh thiệt hại 3 đại đội bảo an khác…[6, tr. 179].
Căn cứ địa Củ Chi còn là bàn đạp tổ chức các trận đánh tiêu diệt địch: Ngày 3 tháng 5 năm
1970, C7- bộ đội địa phương Củ Chi tập kích tiểu đoàn 2, trung đoàn 50, sư đoàn 25 quân đội Sài
Gòn ở Trung Hòa, diệt 47 tên, làm bị thương 25 tên. Ngày 16 tháng 5 năm 1970, du kích Thái Mỹ
kết hợp với một bộ phận của C7 tập kích diệt gọn 34 tên của trung đội bảo an 166 trong ấp chiến
lược Mỹ Khánh; cùng bộ đội địa phương và nội tuyến tấn công đồn Bình Thủy, diệt 10 tên địch và
11 tên trong đội “bình định”. Tháng 6 năm 1970, du kích Phú Mỹ Hưng dụ lính của trung đoàn 46,
sư đoàn 25 vào trận địa mìn, trái ở ấp Phú Trung, diệt 38 tên. Ngoài ra, còn diệt gọn 1 trung đội
biệt kích Mỹ 30 tên [9, tr. 209]. Ngày 8 tháng 10 năm 1974, tiểu đoàn Quyết Thắng và du kích diệt
đồn Vân Hàn, bót Đồng Hới (ngày 14 tháng 11 năm 1974) và liên tiếp đánh thắng địch ở Tân Quy
(Tân Thạnh Tây), Phước Thạnh, Bắc Hà, Mũi Lớn (Tân An Hội), Phước Hưng (Phước Thạnh),
Bến Đình (Nhuận Đức), … Đêm 5 tháng 12 năm 1974, các lực lượng võ trang tấn công 8 đồn bót
địch ở Truông Viết, Bàu Điều, Bàu Tro…tiêu diệt được 7 mục tiêu, giải phóng vùng. Tiếp theo, ta
thực hiện một loạt trận tấn công các bót Mũi Lớn, Bắc Hà 2, chi khu cảnh sát đặc biệt…
Không chỉ là chiến trường tiêu diệt địch tại chỗ, căn cứ du kích địa đạo Củ Chi còn là bàn đạp
xuất phát tiến công vào sào huyệt của địch ở Sài Gòn trong Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch Hồ Chí
Minh 1975. Có thể thấy rằng những chiến dịch tấn công lớn, có ý nghĩa chiến lược của ta đều được
chuẩn bị chu đáo từ các căn cứ xung quanh Sài Gòn, trong đó có Củ Chi. Bên cạnh vai trò là nơi
tập hợp lực lượng, vũ khí và hậu cần cho các cuộc tiến công lớn của quân giải phóng vào thủ phủ
của địch ở Sài Gòn, căn cứ địa Củ Chi còn là bàn đạp để tấn công căn cứ hậu phương địch ở Đồng
Dù (Củ Chi). Ở đây, quân dân Củ Chi đã lập “vành đai diệt Mỹ” bao vây quân Mỹ, “giam chân”
hàng ngàn tên địch trong một căn cứ cố thủ vững chắc như Đồng Dù để đánh tiêu hao, đẩy quân
Mỹ ở căn cứ này vào thế bị động và không ngừng bị truy kích. Ngày 5 tháng 1 năm 1969, một quả
mìn đã gây tiếng nổ lớn tại một phòng ăn của một đơn vị công binh Hoa Kỳ trong căn cứ Đồng
Dù, làm chết 15 tên, bị thương 26 tên. Ngày 26 tháng 2 năm 1969, Đồng Dù lại bị tấn công dữ dội
bằng chiến thuật đặc công của Quân giải phóng: sở chỉ huy lữ đoàn 2 sư đoàn bộ binh 25 bị đánh
phá, 800 tên Mỹ bị diệt (trong đó có 50 giặc lái), 160 máy bay trên sân bay cùng nhiều xe cơ giới
bị phá hủy, 1 kho xăng và 4 kho đạn bị cháy, cả trận địa pháo 105 và 203 ly bị quét sạch…[35, tr.
99]. Trong những cuộc chống càn qui mô lớn, dài ngày hay tổ chức tấn công tiêu diệt, tiêu hao lực
lượng địch thì việc tổ chức phương án chiến đấu, phối hợp lực lượng, công tác hậu cần chiến
trường… càng phải được chuẩn bị chu đáo từ căn cứ địa.
Như vậy căn cứ địa Củ Chi giữ vai trò là nơi tổ chức lực lượng vũ trang, nơi tạo nên các trận
địa chiến đấu để tiêu diệt quân địch, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo khi chúng tấn công vào căn cứ.
Mặt khác, từ căn cứ địa, các đơn vị bộ đội chủ lực của ta xuất phát tiến công vào sào huyệt của
địch ở Sài Gòn và hậu cứ của địch ngay tại địa phương.
3.2.3. Đảm bảo vai trò hậu phương tại chỗ cho cuộc kháng chiến
Do đặc điểm Củ Chi là nơi đối đầu trực tiếp với lực lượng lớn của địch, lại xa sự chi viện của
Trung ương, nên vấn đề căn cứ đứng chân và tự cung ứng cơ sở hậu cần kỹ thuật trở nên nhu cầu
hết sức bức xúc.
Ngay trong những ngày đầu đứng chân hoạt động ở Củ Chi, cơ quan Tỉnh ủy Gia Định đã
được nhân dân ở đây che chở, nuôi dấu, bảo vệ an toàn. Đến đầu năm 1960, lực lượng vũ trang
Khu Sài Gòn – Gia Định thành lập trong điều kiện bí mật nên việc ăn, ở của đơn vị còn nhiều khó
khăn, thiếu thốn. Quần chúng xung quanh đã ủng hộ nhiều lương thực, thực phẩm để bồi dưỡng
cho lực lượng này. Ngày tuyên thệ nhận nhiệm vụ xuất quân đầu tiên, ông Võ Văn Mãi và ông Võ
Văn Kiểm (ấp Phú Thuận, xã Phú Mỹ Hưng) đã nhiệt tình ủng hộ cho lực lượng một con heo. Việc
làm này đã tạo khí thế phấn khởi, nhộn nhịp, đầy quyết tâm, tin tưởng trong đơn vị.
Khi cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn quyết liệt, Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa luôn
tìm mọi cách triệt nguồn lương thực nuôi sống quân dân Củ Chi bằng cách phá hủy ruộng vườn,
đốt cháy thóc gạo, dùng chất độc hóa học để phá hoại cây cối, mùa màng…Đứng trước tình hình
kẻ địch phá hoại điên cuồng như vậy, quân dân Củ Chi không còn con đường nào khác là phải ra
sức chiến đấu, phục vụ tăng gia sản xuất. Ban lãnh đạo huyện đã đề ra nhiệm vụ cho cán bộ và dân
quân du kích phải đi đầu và tích cực giúp đỡ nhân dân trong việc sản xuất, coi đó là khâu quyết
định để giữ dân bám trụ.
Ở xã Trung Lập, ban đêm cán bộ và du kích lấy rơm bó vào mình, bò sát căn cứ Mỹ để cày
giúp dân. Ban ngày, cán bộ và du kích lấy bùn trát đầy mình dẫn đầu ra ngoài đồng cuốc đất, vừa
sản xuất vừa cảnh giác với máy bay địch. Khi cần thì sẵn sàng chiến đấu ngay trên đồng ruộng, coi
đồng ruộng là chiến trường. Huyện ủy chủ trương phải đấu tranh với địch để đưa dân vùng giải
phóng ra vùng tranh chấp sản xuất trên thế hợp pháp. Sau đó, nhân dân lại đấu tranh đòi địch cho
cất chòi ngoài đồng để coi giữ mùa màng, không được bắn phá. Nhờ những biện pháp đấu tranh
từng bước của nhân dân, trong những năm chiến tranh ác liệt như năm 1967, 1968, các vùng giải
phóng sản xuất được lúa, khoai… nên đời sống kinh tế của nhân dân cũng nhờ đó được đảm bảo.
Sang những năm 1969, 1970 trở đi, địch thay đổi chính sách. Chúng thu hẹp dần vùng chúng thỏa
thuận cho sản xuất, không bắn phá. Vì vậy, việc làm ăn của nhân dân lại vướng vào những khó
khăn mới. Du kích luôn phải sống dựa vào dân là chính nên cũng chịu ảnh hưởng. Ngoài giờ công
tác, chiến đấu, anh em tranh thủ tăng gia sản xuất để cố gắng tự túc lương thực.
Thực tế, trong những lúc khó khăn, nhân dân càng thương yêu cán bộ và du kích, càng chăm
sóc, giúp đỡ họ hơn cả con em của mình. Ở đâu cũng có các bà mẹ, gọi là “các mẹ chiến sĩ” tổ
chức thành hội, suốt tháng, suốt năm chỉ lo việc đi tiếp tế, nuôi dưỡng cán bộ, du kích hoặc đi vận
động mọi người đóng góp nuôi cán bộ, du kích. Ngoài ra, huyện còn vận động phong trào đỡ đầu
thương binh. Các gia đình đều sẵn sàng nhận thương binh về nuôi dưỡng trong nhà. Hầu hết các xã
đều nhận nuôi thương binh. Vì vậy, những thương binh của đơn vị bạn từ thành phố đưa ra hoặc
sau những trận đánh, những chiến dịch đều được nhân dân Củ chi nuôi dưỡng, có nhiều nhà đào
hầm nuôi dấu thương binh, có nhà nuôi 3 đến 5 thương binh. Trong đó, nổi bật nhất là xã Bình
Mỹ, nhân dân tại đây đã nhận nuôi dấu khoảng 3.000 thương binh của cánh quân đánh vào Gò Vấp
và Bộ tổng tham mưu trong Tết Mậu Thân. Riêng xã Nhuận Đức, nhân dân cũng đã nhận nuôi tới
700 thương binh [6, tr. 122]. Nhân dân vùng ấp chiến lược, vùng tranh chấp cũng có nhiều cách để
tiếp tế, giúp đỡ cho cán bộ và du kích ở vùng giải phóng về mặt vật chất. Chẳng hạn như: khi đi
đồng gặt hái, bà con để lại những lượm lúa ở bờ và báo bằng mật hiệu để đêm đến du kích ra lấy;
hoặc khi đi làm thì dấu gạo ở can nhựa đổ dầy nước uống, địch khám xét qua loa không phát hiện
ra. Số gạo này sẽ chuyển đến tay du kích, rang lên thành lương khô, gói kỹ để dự trữ lâu ngày. Có
nông dân bọc gạo vào túi nhựa, giấu dưới xe phân bón chở ra đồng, Bác ngư dân lại giấu gạo buộc
ở dưới đáy thuyền chìm hẳn xuống nước, rồi đưa đến địa điểm giao trót lọt… Bằng những sáng tạo
của mình để vượt qua sự kiểm soát của địch, nhân dân Củ Chi đã đóng góp lương thực, thực phẩm
để nuôi quân, phục vụ bộ đội chiến đấu, đây là nguồn cung cấp hậu cần tại chỗ vô cùng quan
trọng, góp phần bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến lâu dài.
Như vậy, trong kháng chiến chống Mỹ, căn cứ địa Củ Chi đã “xuất hiện sát ngay những căn cứ
lớn của địch” và được xây dựng thành “làng ngầm”, với hệ thống địa đạo có chức năng chiến đấu
và bảo tồn lực lượng, là chỗ dựa vững chắc, có thể huy động được sức người, sức của để phát triển
lực lượng chiến đấu lâu dài. Việc xây dựng căn cứ địa đáp ứng nhu cầu tại chỗ cho chiến trường ở
địa phương Củ Chi đã gắn liền với đường lối phát động toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc của
Đảng ta. Nó phù hợp với điều kiện đất nước ta không rộng lắm, phù hợp với phương thức tiến
hành chiến tranh nhân dân của ta. Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện rõ căn cứ địa
Củ Chi “vừa là nơi đứng chân để giải quyết vấn đề tiềm lực, vừa là mặt trận đấu tranh với địch
một cách toàn diện; vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương; vừa là kết quả của việc thực hiện đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng, vừa là điều kiện để biến đường lối đó thành hiện
thực; vừa là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân, vừa là nguyên nhân làm cho chiến tranh nhân
dân phát triển”[56, tr. 288-289].
KẾT LUẬN
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, để đối phó với kẻ thù hung bạo, có tiềm lực
kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần, cha ông ta đã biết chọn những nơi có “địa lợi”, “nhân
hòa” để xây dựng căn cứ, từ đó dần dần xây dựng và phát triển thực lực, khi thời cơ đến sẽ phản
công tiêu diệt quân thù, giải phóng đất nước.
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự của chủ
nghĩa Mác Lênin cùng với kinh nghiệm hàng ngàn năm chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đã học
tập một cách có chọn lọc những kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác
để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Trong đó, đường lối xây dựng căn cứ địa cách mạng là một bộ phận của
đường lối chính trị, quân sự của Đảng, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Trong tác phẩm “Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta”, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp viết: “Nói đến đấu tranh vũ trang, đến xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng thì
không thể không nói đến vấn đề căn cứ địa cách mạng, vấn đề hậu phương của chiến tranh cách
mạng... Đối với những cuộc chiến tranh cách mạng của các giai cấp hay dân tộc bị áp bức đứng
lên đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền của tập đoàn thống trị trong hoàn cảnh chưa có một mảnh
đất tự do nào làm chỗ đứng chân, thì quá trình gây dựng hậu phương từ không đến có, từ nhỏ đến
lớn cũng tức là quá trình gây dựng và củng cố căn cứ địa cách mạng” [49, tr. 90]. Với ý nghĩa và
tầm quan trọng đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta luôn chỉ đạo sâu sát
nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa cách mạng để làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến.
Quá trình tái lập và phát triển, xây dựng và bảo vệ căn cứ địa ở Củ Chi trong kháng chiến
chống Mỹ cũng đã tuân theo những qui luật chung về xây dựng và phát triển căn cứ địa của cả
nước mà đường lối quân sự của Đảng ta đã đúc kết, trong đó qui luật xây dựng căn cứ địa đi từ
không đến có, từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn được thể hiện rõ nét.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cơ quan lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam của cách mạng
đóng ở Tây Ninh và trung tâm đầu não của địch đóng ở Sài Gòn nên Củ Chi là “vùng đệm”. Phía
địch cố chiếm giữ vùng này để bảo vệ cho cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn và lực lượng cách mạng
quyết tâm bám trụ, dùng Củ Chi làm bàn đạp tấn công vào sào huyệt của địch ở Sài Gòn. Vì thế,
đây là vùng tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch. Đây cũng là qui luật thường thấy trong các cuộc
chiến tranh là cả hai bên tham chiến đều cố gắng hết sức mình để củng cố sức mạnh nhằm chiếm
ưu thế trên chiến trường. Lịch sử cho thấy, trong các cuộc chiến tranh cách mạng, dân tộc ta
thường phải đối phó với kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần về kinh tế, quân sự mà cuộc kháng
chiến chống Mỹ vừa qua là một điển hình. Tuy nhiên, chúng ta có một điều kiện thuận lợi cơ bản
là Đảng và nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ nền độc lập. Do tính chất
chính nghĩa của cuộc chiến tranh nên lực lượng cách mạng đã phát huy được sức mạnh tổng hợp
của cả dân tộc, tích lũy dần thế và lực. Với chiến thuật đánh du kích là chủ yếu, quân dân Củ Chi
đã dựa vào hệ thống địa đạo, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, cuối cùng đánh bại kẻ thù.
Quá trình xây dựng căn cứ địa Củ Chi là sự vận dụng đúng đắn đường lối và phương châm
chiến lược trong nghệ thuật quân sự của Đảng vào thực tiễn chiến trường Củ Chi. Quân dân Củ
Chi đã tiếp thu những kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa, nhất là hệ thống địa đạo từ cuộc kháng
chiến chống Pháp để bảo vệ an toàn cho cơ quan lãnh đạo. Tại vùng căn cứ, các cơ quan dân,
chính, Đảng,…không ngừng củng cố và hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất lượng công tác, tham
gia có hiệu quả vào quá trình điều hành cuộc kháng chiến ở địa phương.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, việc xây dựng căn cứ địa kháng chiến ở Củ Chi tập trung vào
nhiệm vụ trọng tâm nhất là tạo ra sức mạnh về quân sự và kinh tế để đưa lực lượng kháng chiến
của ta từ những đơn vị nhỏ, lẻ ban đầu thành lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh. Để đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của kháng chiến, lực lượng vũ trang Củ Chi cũng ngày càng phát triển. Từ
tiểu đội đến trung đội (Cao - Hòa - Bình), đại đội (C 13) rồi đến tiểu đoàn (Quyết Thắng). Từ
chiến tranh du kích tiến dần lên chiến tranh du kích kết hợp với bộ đội chính quy…dần dần tạo sự
chuyển biến tương quan lực lượng theo hướng có lợi cho ta.
Quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp to lớn của căn cứ địa cách mạng ở Củ Chi
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã góp phần khẳng định sự đúng đắn của đường lối chiến tranh
nhân dân toàn dân, toàn diện của Đảng, đồng thời bổ sung vào kho tàng lý luận quân sự của dân
tộc những phát triển mới về nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng, phát triển địa đạo, cách thức xây
dựng xã, ấp chiến đấu, “vành đai diệt Mỹ”, tổ chức hậu cần tại chỗ… Đồng thời cũng khẳng định
xây dựng căn cứ địa cách mạng làm hậu phương cho cuộc kháng chiến là một bộ phận không thể
thiếu trong đường lối chiến tranh nhân dân ở nước ta.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi, miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, ngày 29 tháng 4 năm 1979, địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa
công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Trong lịch sử, địa đạo Củ Chi mang chức năng
chiến đấu với nhiều chiến tích oai hùng và sự hy sinh cao cả của những người con của khắp mọi
miền đất nước. Ngày nay, địa đạo Củ Chi chuyển chức năng thành di tích lịch sử - văn hóa với
những giá trị có tính nhân văn to lớn, đã nhanh chóng thu hút khách tham quan trong và ngoài
nước. Họ đến để tìm hiểu, để chiêm ngưỡng một sự thật lịch sử với niềm xúc động và kính phục.
Đối với khách trong nước, nhất là thế hệ trẻ, di tích địa đạo Củ Chi là một phương tiện giáo dục
truyền thống yêu nước đặc biệt. “Di tích địa đạo Củ Chi là một sự nhắc nhở vô giá cho thế hệ trẻ
về tấm lòng yêu nước nồng nàn, sự sáng tạo trong chiến đấu và sự dũng cảm chịu đựng gian khổ,
hy sinh của chiến sĩ và nhân dân Củ Chi trong thời chiến tranh” [38, tr. 27].
Củ Chi – một vùng đất kiên cường trong kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Sài Gòn – Gia
Định, “Căn cứ địa Củ Chi, biểu tượng là địa đạo chiến, tượng trưng cho Đảng, quân dân một ý
chí kiên cường, một tâm hồn bất khuất, thể hiện lòng bền bỉ vô song, dầu phải chịu trăm ngàn bom
đạn, dẫu phải chiến đấu bao nhiêu năm tháng không sờn lòng…và sẽ là tấm gương cho vạn thế soi
chung…”[38, tr. 90].
Di tích lịch sử địa đạo Củ Chi mãi mãi là niềm tự hào của cả nước và của quê hương Củ Chi “
Đất Thép Thành Đồng”. Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải có ý thức “ tôn tạo, bảo vệ, giữ gìn
tốt để đồng bào và chiến sĩ cả nước, nhất là thế hệ trẻ và khách nước ngoài đến tham quan, nghiên
cứu, học tập; giúp cho mọi người hiểu thêm về sức mạnh thần kỳ của con người Việt Nam, những
người đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại 30-4-1975 và hiện đang vững vàng đi tới thực hiện
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” [38, tr. 156].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Ngọc An (1994), Nghệ thuật đào địa đạo, tài liệu của nhà truyền thống huyện Củ Chi.
2. Ấn định khẩu phần gạo cấp cho công nhân đồn điền để hạn chế lúa gạo tiếp tế ra vùng Cộng
sản năm 1968-1969, Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ số 16553.
3. Bài học xây dựng hậu phương tại chỗ và tổ chức bố trí hậu cần chiến trường, Phòng khoa học
công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 1827.
4. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Củ Chi (1995), Củ Chi 20 năm xây dựng và phát triển (30-4-
1975 – 30-4-1995), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Củ Chi (1985), Sơ thảo lịch sử truyền thống đấu tranh cách
mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Củ Chi.
6. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Củ Chi (2008), Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của
Đảng bộ và nhân dân Huyện Củ Chi (1930-1975), Nxb Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
7. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt
Nam 1945 – 1975- thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước: thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Ban chỉ huy quân sự huyện Củ Chi (2006), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Củ Chi
1945 – 2005, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
10. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố Hồ Chí Minh (1981), 50 năm đấu tranh kiên cường
của Đảng bộ và nhân dân Thành phố, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng – Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1995), Tổng tiến công và
nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn – Gia Định, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa huyện Củ Chi (2008), Lý lịch di tích Khu căn cứ Tỉnh ủy
Gia Định thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-
1960).
13. Ban thường vụ huyện ủy Củ Chi (1995), Một số trận đánh tiêu biểu trên quê hương Củ Chi
đất thép anh hùng.
14. Ban tổng kết chiến tranh B2, Đề cương tỉ mỉ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ (B2), Phòng khoa
học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 15351/1.
15. Ban tuyên giáo Huyện ủy Củ Chi (2001), Củ Chi ký sự.
16. Báo cáo tình hình xây dựng, phát triển và nâng chất các lực lượng vũ trang địa phương năm
1972 của huyện Củ Chi, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL
4943.
17. Báo cáo tình hình một số mặt của một số đơn vị tại Phân khu I, Phòng khoa học công nghệ
môi trường Quân khu 7, số TL 7232.
18. Báo cáo tổng kết cuộc càn của quân đoàn 3 vào chiến trường Củ Chi (từ 1/2 đến 11/2/1974),
Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 1026.
19. Báo cáo trận chống càn với 8.000 quân Mỹ ở quận Củ Chi (Gia Định) (từ ngày 8-1 đến ngày
31-1 năm 1966), Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 2258.
20. Báo cáo tình hình cơ bản của huyện Củ Chi, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân
khu 7, số TL 19656.
21. Báo cáo 1 tháng huấn luyện thí điểm ở Củ Chi (thuộc Quân khu IV)(Qua 1 lớp của Huyện
cho cán bộ cơ sở và 1 lớp cho du kích xã Phú Mỹ Hưng 11/1972), Phòng khoa học công
nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 4925.
22. Báo cáo với Miền tình hình của ta cho đến ngày 29/4/1975 ở Củ Chi, Phòng khoa học công
nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 4717/2.
23. Bảo tàng cách mạng thành phố Hồ Chí Minh (1998), Di tích lịch sử văn hóa thành phố Hồ
Chí Minh, Nxb Trẻ.
24. Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hồ Chí Minh (1995), Trung đoàn Gia Định, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
25. Bộ nội vụ - Công an thành phố Hồ Chí Minh (1997), Lịch sử Công an nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Bộ ngoại giao – Trung tâm báo chí nước ngoài (2001), Việt Nam cuộc chiến không quên, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
27. Bộ quốc phòng – Quân khu 7 (2004), Lịch sử Bộ chỉ huy Miền (1961-1976), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
28. Bộ quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2002), Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
29. Bộ quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân
Việt Nam (1945 – 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
30. Bộ tư lệnh Quân khu 7, Lịch sử hậu cần Quân khu 7 (1945- 2000) (2000), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
31. Vũ Tang Bồng, Đảm bảo vũ khí, trang bị - Một thành công chiến lược của Đảng ta trong 30
năm kháng chiến, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2, tháng 3 và 4 năm 1999.
32. Vũ Tang Bồng, Công tác hậu cần của Biệt động Sài Gòn, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 năm
1993.
33. Các cuộc hành quân đánh phá các hệ thống địa đạo, Phòng khoa học công nghệ môi trường
Quân khu 7, số TL 7699.
34. Chỉ thị số 06/CT.74 – Ra sức đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, giữ vững trật tự trị an,
xây dựng cuộc sống mới lành mạnh trong nhân dân, bộ đội, cán bộ và nhân viên các
cấp, góp phần tích cực vào việc xây dựng vùng giải phóng, bảo đảm căn cứ, Phòng khoa
học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 8991.
35. Con đường chiến thắng, (Bài học về phong trào chiến tranh du kích ở Củ Chi), Phòng khoa
học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL4950.
36. Công an huyện Củ Chi (2001), Sơ thảo lịch sử truyền thống Ban an ninh quận Củ Chi Thành
phố Sài Gòn – Gia Định (1961-1975) .
37. Phạm Cường (1980), Củ Chi – huyện anh hùng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Trần Đình Dũng (1996), Địa đạo Củ Chi trong lòng dân tộc và khách quý năm châu, Khu di
tích lịch sử địa đạo Củ Chi xuất bản.
39. Trần Đình Dũng (1997), Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược – Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh,
Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi xuất bản.
40. Hồ Sơn Đài (1990), Miền đông chiến công, Nxb Đồng Nai.
41. Hồ Sơn Đài (1996), Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 – 1954), Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
42. Hồ Sơn Đài (1997), Lịch sử Chiến khu Đ, Nxb Đồng Nai.
43. Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Lịch sử lực lượng võ trang
Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
44. Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 7 (1995), 50 năm lực lượng vũ trang Quân khu 7, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
45. Trần Bạch Đằng, Vài suy nghĩ về hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam, Tạp chí Lịch
sử quân sự, số 3, năm 1993.
46. Đề án thương nghiệp căn cứ địa, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL
3741/1.
47. Địa đạo chiến Huyện Củ Chi, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL
11776/1.
48. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (2000), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
49. Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta, Nxb Sự Thật, Hà
Nội.
50. Võ Nguyên Giáp (1973), Đường lối quân sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của
chiến tranh nhân dân ở nước ta, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
51. Võ Nguyên Giáp (1959), Chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
52. Trần Văn Giàu , Trần Bạch Đằng ( 1998), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập I,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Trần Văn Giàu (1978), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập V, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Trần Văn Giàu (2006), Tổng tập, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
55. Giới thiệu thành tích xây dựng Công trường nhân dân xã Phú Mỹ Hưng quận Củ Chi tỉnh
Gia Định, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 4927.
56. Vũ Quang Hiển (2001), Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946 –
1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Trần Thị Thu Hương (2003), Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá “quốc sách” ấp
chiến lược của Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961 – 1965), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
58. Lê Trung Hoa (1991), Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Trương Lợi Hoa (1998), Cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam (người dịch: Lê Thanh
Dũng), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Hoạt động kinh tài của Việt Cộng bằng hình thức thu các loại thuế trên lãnh thổ Việt Nam
cộng hòa năm 1964-1966, Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ
số 15641.
61. Học viện Quốc phòng – Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2003), Đại thắng mùa xuân 1975 –
nguyên nhân và bài học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
62. Học viện quân sự cao cấp – Ban tổng kết kinh nghiệm chiến tranh (1980), Cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước 1954 -1975 – Những sự kiện quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
63. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1994), Từ điển bách khoa
Việt Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
64. Hà Minh Hồng (2000), Phong trào chống phá bình định nông thôn ở Nam Bộ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (giai đoạn 1969-1972), Nxb Quân đội nhân dân.
65. Lâm Quang Huyên (1997), Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
66. John Penycate và Tom Mangold (1988), Hầm Củ Chi – Câu chuyện khó tin về cuộc chiến
tranh trong lòng đất ở Việt Nam (người dịch: Ngô Dư), Nxb Văn Nghệ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
67. Kế hoạch bình định cấp tốc của địch khu vực dọc trục lộ số 1 vùng Củ Chi và Trảng Bàng,
Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 7311.
68. Dương Đình Lập (2004), Căn cứ địa trong phong trào Cần Vương chống Pháp (1885 –
1896), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Phạm Ngọc Liên (2005), Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước (1954 – 1975), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
70. Thăng Long (1997), Đồng đô la trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
71. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến
Dũng, Song Hào (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
73. Nghệ thuật tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân trên Vành đai diệt Mỹ - Củ Chi, Phòng
khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 21403.
74. Nguyễn Nhâm, Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng hậu phương, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5,
tháng 9 và 10 năm 1998, tr.14-18.
75. Trần Thị Nhung, Tìm hiểu về địa đạo ở miền Đông Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2, tháng 3 và 4 năm 1999, tr.23-
26.
76. Trần Thị Nhung (2001), Căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
(1954 – 1975), Luận án tiến sĩ lịch sử, Viện khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
77. Trần Hải Phụng, Lưu Phương Thanh (1994), Lịch sử Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định kháng
chiến (1945 – 1975), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
78. Phòng Chính trị - Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hồ Chí Minh (1985), Bước đường quyết
thắng của lực lượng vũ trang nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
79. Quân Khu 7 (2002), Những trận đánh của lực lượng võ trang Quận khu 7, tập II (1954-
1968), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
80. Robert S. McNamara (1995), Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học về Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hoàng Quốc Sử, Vài nét về chiến tranh hóa học của Mỹ ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử quân sự,
số 3 năm 1993, tr.42-43.
82. Nguyễn Viết Tá (1990), Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945 -1975), tập I, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
83. Nguyễn Viết Tá (1993), Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945 -1975), tập II, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
84. Nguyễn Văn Tào (1994), Bến Dược – Vùng đất lửa, Nxb Văn Nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
85. Văn Tạo, Căn cứ địa cách mạng – truyền thống và hiện tại, Tạp chí lịch sử quân sự, số 4,
tháng 7 và 8 năm 1995.
86. Võ Tấn Tạo, Võ Văn Sổ, Võ Ngọc An, Địa đạo Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An – Cái nôi
của địa đạo Củ Chi, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
87. Tài liệu của Võ Phòng, Bộ nội vụ về kết quả kế hoạch phong tỏa các khu rừng để chặn đứng
sự tiếp tế cho phiến cộng của các tỉnh miền Đông Nam phần năm 1964-1965, Trung tâm
lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ số 15321.
88. Tài liệu của Phòng Nhì về trận liệt Khu ủy Việt Cộng Sài Gòn – Gia Định (không rõ thời
gian), Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ số 18611.
89. Nguyễn Đình Thanh (1997), Di tích địa đạo Củ Chi, Luận văn Thạc sĩ khoa học Văn hóa,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
90. Hồ Sĩ Thành (2001), Địa đạo Củ Chi – 100 câu hỏi đáp, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
91. Hồ Sĩ Thành, Nhìn lại 10 bài học về chiến tranh nhân dân ở Củ Chi, Tạp chí Lịch sử quân sự,
số 3, năm 1993.
92. Hoàng Minh Thảo (1995), Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và bảo vệ tổ quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
93. Lê Song Toàn (2003), Căn cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Trung và Tây
Nam Bộ (1945 – 1954), Luận án tiến sĩ lịch sử, Viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí
Minh.
94. Lê Toàn, Một số đơn vị quân đội Mỹ tham gia chiến tranh ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử quân
sự, số 3, năm 1993.
95. Thông báo của quân giải phóng quân khu Sài Gòn về “tình hình, âm mưu, thủ đoạn chiến
tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý của địch và những sơ hở, mất cảnh giác của ta” năm
1967, Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ số 16066.
96. Tổ Sử Phụ nữ Nam Bộ (1989), Truyền thống cách mạng của Phụ nữ Nam Bộ thành đồng,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
97. Tóm tắt của Đại tướng Hoàng Văn Thái về những bài học kinh nghiệm của huyện Củ Chi
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân
khu 7, số TL 5422.
98. Tổng cục hậu cần (1986), Tổng kết công tác hậu cần chiến trường Nam Bộ - Cực Nam Trung
Bộ (B2) trong kháng chiến chống Mỹ.
99. Tổng kết kinh nghiệm vành đai diệt Mỹ tại căn cứ hành quân Bắc Hà Củ Chi (trong 33 ngày
từ 24-4 đến 25-2-1966), Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL
4945.
100. Tổng kết tình hình chống phá A.C.L ở chiến trường T4 (phần nông thôn ngoại thành), Tài
liệu từ cuối năm 1961 đến 04/ 1963, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7,
số TL 15397/1.
101. Tội ác Mỹ - ngụy ở miền Đông Nam Bộ (tư liệu), Phòng khoa học công nghệ môi trường
Quân khu 7, số TL 15423.
102. Trận đánh vào ấp chiến lược Trung Hòa(24-25/4/1972), Phòng khoa học công nghệ môi
trường Quân khu 7, số TL 9839.
103. Vành đai diệt Mỹ, Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, số TL 9849.
104. Về những biện pháp cần được áp dụng đối với những phần tử trong tổ chức hậu cần và kinh
tài cộng sản năm 1971, Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ số
17239.
105. Về kế hoạch phong tỏa kinh tế Việt Cộng và kiểm soát tài nguyên quốc gia năm 1964, Trung
tâm lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ số 14944.
106. Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1990), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 –
1975), tập I, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
107. Viện lịch sử quân sự Việt Nam (1991), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 –
1975), tập II, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
108. Viện lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III, Nxb Thông tin lý luận, Hà
Nội.
109. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995), Lịch sử Đảng
cộng sản Việt Nam, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Viện Sử học (1995), Thắng lợi kháng chiến chống Mỹ và 20 năm xây dựng đất nước sau
chiến tranh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
111. Việt Cộng thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam năm
1967-1969, Trung tâm lưu trữ Quốc Gia II, phông Phủ thủ tướng, hồ sơ số 16677.
PHỤ LỤC
- Sơ đồ hành chánh huyện Củ Chi.
- Sơ đồ hệ thống địa đạo huyện Củ Chi.
PHỤ LỤC 1: Lãnh đạo huyện Củ Chi qua các thời kỳ (1959 – 1975).
PHỤ LỤC 2:
Danh sách đơn vị, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Củ Chi.
Danh sách anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân quê ở Củ Chi.
PHỤ LỤC 3: Các ảnh tư liệu (Sao chụp lại từ “Tập ảnh tư liệu Củ Chi 1960 – 1975” của tác
giả Dương Thanh Phong).
PHỤ LỤC 1:
LÃNH ĐẠO HUYỆN CỦ CHI
QUA CÁC THỜI KỲ
(1959-1975)
I. CÁC ĐỒNG CHÍ CÁN BỘ HUYỆN ỦY (1959-1964)
1. Các đồng chí Bí thư Huyện ủy đầu tiên:
- Đồng chí Huỳnh Văn Rành (Ba Rành – Ba Nam, còn gọi Trường).
- Đồng chí Lê Văn Xược (Tư Đuông).
- Đồng chí Huỳnh Thanh Châu (Minh Tân).
- Đồng chí Lê Văn Hiền (Bảy Tấc).
- Đồng chí Trần Vạn An (Một Sơn).
- Đồng chí Nguyễn Văn Tỷ (bí danh Hà Minh Nam).
2. Các đồng chí Phó Bí thư, Ủy viên Thường vụ:
- Đồng chí Nguyễn Văn Luân (Ba Luân), Phó Bí thư.
- Đồng chí Tám Quét (Quẹt-Châu), Ủy viên Thường vụ, Quận đội trưởng.
- Đồng chí Nguyễn Văn Rô (Ba Rô), Ủy viên Thường vụ.
- Đồng chí Võ Thành Ưng (Bảy Thành), Ủy viên Thường vụ.
- Đồng chí Huỳnh Thị Phước, (Út Phước, Mười Phước), Ủy viên Thường vụ, Quận đội trưởng
(1960-1961).
- Đồng chí Nguyễn Văn Thanh (Mười Lan), Ủy viên Thường vụ, Quận đội trưởng (1961-1962).
- Đồng chí Nguyễn Xuân Trường (Hai Nhơn), Ủy viên Thường vụ, Quận đội trưởng (1963-
1964).
3. Các đồng chí Huyện ủy viên:
- Đồng chí Trần Thị Đang (Năm Đang).
- Đồng chí Võ Thị Bằng (Hai Sót).
- Đồng chí Bùi Quang Hảo (Hai Mỏ) (sau là Phó Bí thư thay Ba luân).
- Đồng chí Ba Đại.
- Đồng chí Nguyễn Văn Hoàng (Hai Hoàng), xã Thái Mỹ sau về làm Bí thư Phú Nhuận.
II. CÁC ĐỒNG CHÍ CÁN BỘ HUYỆN ỦY (1965-1967)
- Đồng chí Nguyễn Văn Tỷ (bí danh Hà Minh Nam), Bí thư.
- Đồng chí Trần Vạn An (Một Sơn), Phó Bí thư năm 1967, hy sinh năm 1969.
- Đồng chí Nguyễn Văn Luân (Ba Luân), Ủy viên Thường vụ, phụ trách Tuyên huấn.
- Đồng chí Bùi Quang Hảo (Hai Mỏ), Ủy viên Thường vụ, phụ trách Công an.
- Đồng chí Võ Thị Bằng (Hai Sót), Ủy viên Thường vụ, phụ trách Phụ nữ.
- Đồng chí Nguyễn Văn Tước (Sáu Tước), Ủy viên Thường vụ.
- Đồng chí Nguyễn Văn Định (Ba Định), Huyện ủy viên.
III. CÁC ĐỒNG CHÍ CÁN BỘ HUYỆN ỦY (1968-1972)
Năm 1968 - 1972, huyện Củ Chi chia ra thành Nam Chi và Bắc Chi, lãnh đạo Huyện ủy gồm
các đồng chí:
1. Cấp ủy Nam Chi:
- Đồng chí Trần Văn Mà (Năm Dương), Phân Khu ủy viên, Bí thư.
- Đồng chí Võ Thị Bằng (Hai Sót), Phó Bí thư.
- Đồng chí Sáu Thanh, phụ trách Nông hội (sau giải phóng về công tác tại Hội nông dân Thành
phố).
- Đồng chí Lâm Văn Lá (Út Lá).
- Đồng chí Nguyễn Văn Đường (Sáu Đường).
- Đồng chí Trần Văn Phương (Ba Phương), phụ trách Thanh niên.
- Đồng chí Đỗ Văn Rẻ (Năm E), Ủy viên Thường vụ - Huyện đội trưởng.
- Đồng chí Ba Cà, Ủy viên Thường vụ (hy sinh).
- Đồng chí Nguyễn Văn Định (Ba Định), Ủy viên Thường vụ (bị giặc bắt).
- Đồng chí Trần Văn Dương (Năm Dương): Đêm 3 rạng sáng ngày 4 tháng 9 năm 1969 bị địch
phục kích hy sinh. Đồng chí Nguyễn Văn Luân làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Văn Dương.
- Đồng chí Võ Thị Bằng (Hai Sót): tháng 5/1975 là Phó Bí thư Quận Gò Vấp.
- Đồng chí Nguyễn Văn Tước (Sáu Tước), Ủy viên Thường vụ.
Sau khi thành lập Nam Chi khoảng 5 tháng thì bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Thắng (Năm
Thắng) vào Thường vụ (thay cho đồng chí Đỗ Văn Rẻ (Năm E) đã hy sinh và sau đó là Bí thư
huyện ủy, Huyện đội trưởng.
- Đồng chí Phạm Văn Cạng (Tám Cạng), Huyện ủy viên, Huyện đội phó.
- Đồng chí Lâm Văn Lá (Út Lá), Huyện ủy viên, phụ trách An ninh.
- Đồng chí Lê Thị Vân (tự Suông), Huyện ủy viên, phụ trách Phụ nữ.
- Đồng chí Phạm Tấn Thành (Hai Thành), Ủy viên Thường vụ, Huyện đội trưởng Nam Chi.
(Lúc đồng chí Năm Thắng làm Bí thư Nam Chi thì đồng chí Hai Thành thay làm Huyện đội
trưởng).
2 Cấp ủy Bắc Chi:
a) Năm 1968
- Đồng chí Bùi Quang Hảo (Hai Mõ), Bí thư.
- Đồng chí Nguyễn Văn Rô (Ba Rô), Phó Bí thư.
- Đồng chí Đoàn Tâm (Út Tâm), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Nguyễn Văn Thiểu (Hai Cấp), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Nguyễn Văn Rống (Năm Sang), Huyện ủy viên.
b) Năm 1969 - 1972
- Đồng chí Nguyễn Văn Hoàng (Hai Hoàng), Bí thư (sau khi đồng chí Hai Mõ chuyển công tác
khác).
- Đồng chí Nguyễn Văn Tứ (Ba Tứ), Bí thư (sau đồng chí Hai Hoàng).
- Đồng chí Lê Văn Hớn (Lê Văn Gương - Tư Gương), Phụ trách Thanh niên.
- Đồng chí Tư Thanh, Trưởng ban Binh vận.
- Đồng chí Nguyễn Văn Khoáng (Đoàn Văn Lự - Ba Lự) Trưởng Binh vận, Trưởng Tuyên
huấn, Huyện ủy viên.
- Đồng chí Chín Khánh, Ủy viên Quân sự, Huyện đội phó.
- Đồng chí Trần Văn Thuần (Năm Thuần), Huyện ủy viên, Huyện đội phó.
- Đồng chí Hai Quan, Huyện Ủy viên.
- Đồng chí Tăng Thành Cao ( Ba Cao), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Lê Văn Thế (Tám Thế), Phó Bí thư, Huyện đội trưởng
Khi đồng chí Tám Thế hy sinh, đồng chí Năm Thuần là Huyện đội trưởng.
- Đồng chí Huỳnh Thị Phước (Út Phước), Huyện Ủy viên Bắc Chi.
- Đồng chí Sáu Tiến, Thư ký Nông hội huyện.
- Đồng chí Chín Khánh, Huyện đội phó, Phụ trách Quân báo.
- Đồng chí Nguyễn Trung (Tám Nhiệm), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Phùng Văn Phú (Tư Phú- Tư Bò Cất), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Lê Văn Hải (Sáu Đáp), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Nguyễn Xuân Trường (Hai Nhơn), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Nguyễn Văn Thung (Bảy Thung), Huyện ủy viên.
- Đổng chí Võ Văn Cuội (Tư Cuội), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Trần Văn Hái (Tư Hái), Huyện ủy viên.
IV. CÁC ĐỒNG CHÍ CÁN BỘ HUYỆN ỦY (1973-1975)
Sau Hiệp định Paris 27/1/1973, sáp nhập Nam Chi, Bắc Chi lại thành huyện Củ Chi, lãnh đạo
Huyện ủy gồm các đồng chí:
- Đồng chí Nguyễn Văn Luân, (Ba Luân), Bí thư.
- Đồng chí Nguyễn Văn Thắng (Năm Thắng), Phó Bí thư, phụ trách Quân sự.
- Đồng chí Nguyễn Văn Rô (Ba Rô), Phó Bí thư, phụ trách Công an.
- Đồng chí Nguyễn Năn Bụi (Sáu Bụi), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Nguyễn Văn Định (Ba Định), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Lê Văn Đỗ (Hai Đỗ) Huyện ủy viên.
- Đồng chí Tăng Thành Cao (Ba Cao), Huyện ủy viên.
- Đồng chí Trần Văn Thuần (Năm Thuần), Huyện ủy viên.
V . CÁC ĐỒNG CHÍ CÁN BỘ HUYỆN ĐỘI CỦ CHI
- Đồng chí Huỳnh Thị Phước (Mười Phước), Quận đội trưởng (1960- 1961).
- Đồng chí Nguyễn Văn Thanh (Mười Lan), Quận đội trưởng (1961- 1962).
- Đồng chí Nguyễn Xuân Trường (Hai Nhơn), Quận đội trưởng (1963-1964).
- Đồng chí Tám Châu (Tám Quẹt), Quận đội trưởng (1965-1966).
- Đồng chí Mười Thứ, Huyện đội trưởng (1967-1968).
- Đồng chí Phạm Văn Cạng (Tám Cạng), Huyện đội trưởng Nam Chi (1969).
- Đồng chí Đỗ Văn Rẽ (Năm E), Huyện đội trưởng Nam Chi (1970).
- Đồng chí Lê Văn Thế (Tám Thế), Huyện đội trưởng Bắc Chi (1969- 1970).
- Đồng chí Chín Khánh, Huyện đội phó Bắc Chi.
- Đồng chí Trần Văn Thuần (Năm Thuần), Huyện đội phó (1969-1975), Huyện đội trưởng (
1975-1980).
- Đồng chí Phạm Tấn Thành (Hai Thành), Chính trị viên (1969-1970), Huyện đội trưởng
(1983-1984).
- Đồng chí Đồng chí Võ Thành Ưng (Út Thành), Huyện đội trưởng (1970).
- Đồng chí Nguyễn Văn Ga (Bảy Ga), Huyện đội trưởng Bắc Chi (1971- 1972).
- Đồng chí Nguyễn Văn Thắng (Năm Thắng), Huyện đội trưởng Nam Chi (1971-1973).
- Đồng chí Nguyễn Văn Sơn (Tám Sơn), Huyện đội trưởng (1973- 1975).
PHỤ LỤC 2:
I- DANH SÁCH ĐƠN VỊ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
NHÂN DÂN Ở CỦ CHI
1. Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Củ Chi, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 20 tháng 10 năm 1976.
2. Lực lượng an ninh nhân dân huyện Củ Chi, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào ngày
20 tháng 10 năm 1976.
3. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Trung An, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 20 tháng 10 năm 1976.
4. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Nhuận Đức, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 20 tháng 10 năm 1976.
5. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phú Mỹ Hưng, được Nhà nước tuyên dương anh hùng
vào ngày 20 tháng 10 năm 1976.
6. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phước Hiệp, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 6 tháng 11 năm 1978.
7. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phước Thạnh, Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 6 tháng 11 năm 1978.
8. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Trung Lập, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 6 tháng 11 năm 1978.
9. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Bình Mỹ, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 6 tháng 11 năm 1978.
10. Nhân dân và lực lượng vũ trang huyện Củ Chi, được Nhà nước tuyên dương đơn vị anh
hùng lực lượng vũ trang vào ngày 20 tháng 12 năm 1994.
11. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã An Nhơn Tây, được Nhà nước tuyên dương anh hùng
vào ngày 20 tháng 12 năm 1994.
12. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã An Phú, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào ngày
20 tháng 12 năm 1994.
13. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phú Hòa Đông, được Nhà nước tuyên dương anh hùng
vào ngày 29 tháng 11 năm 1996.
14. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Tân Phú Trung, được Nhà nước tuyên dương anh hùng
vào ngày 20 tháng 10 năm 1996.
15. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Phước Vĩnh An, được Nhà nước tuyên dương anh hùng
vào ngày 22 tháng 8 năm 1998.
16. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Tân Thạnh Tây, được Nhà nước tuyên dương anh hùng
vào ngày 22 tháng 8 năm 1998.
17. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Thái Mỹ, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 22 tháng 8 năm 1998.
18. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Tân An Hội, được Nhà nước tuyên dương anh hùng vào
ngày 11 tháng 6 năm 1999.
II- DANH SÁCH ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
(Quê ở huyện Củ Chi)
1. Mẹ Nguyễn Thị Rành, sinh năm 1900, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
2. Đồng chí Lê Văn A, sinh năm 1927, Huyện đội trưởng huyện đội Phước Long, tỉnh Bình
Phước.
3. Đồng chí Nguyễn Văn A, sinh năm 1947, khi được tuyên dương Anh hùng là Thiếu úy
công an vũ trang.
4. Đồng chí Nguyễn Văn Bích, sinh năm 1947, Trung đội phó công binh.
5. Đồng chí Trần Văn Chẩm, sinh năm 1947, chiến sĩ trinh sát, đội viên du kích.
6. Đồng chí Huỳnh Văn Cọ (Tám Lùn), sinh năm 1939, Huyện đội phó Huyện đội Bắc Chi.
7. Đồng chí Phạm Văn Cội, sinh năm 1940, xã đội trưởng xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi.
8. Đồng chí Lê Văn Đạm sinh năm 1920, Chính trị viên xã đội xã An nhơn Tây, huyện Củ
Chi.
9. Đồng chí Võ Văn Điều, sinh năm 1924, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31, bộ đội địa
phương Phân khu Bắc- Long An.
10. Đồng chí Tô Văn Đực (Tô Hoài Đức) sinh năm 1942, chiến sĩ quân giới huyện Củ Chi.
11. Đồng chí Bùi Quang Hảo (Hai Mỏ), cán bộ Ban an ninh huyện Củ Chi.
12. Đồng chí Nguyễn Văn Hùng, quê quán xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, hy sinh năm
1969.
13. Đồng chí Nguyễn Văn Khạ, sinh năm 1918, Trưởng Quốc gia tự vệ cuộc (Công an xã), phụ
trách Quốc vệ đội (xã đội).
14. Đồng chí Phan Trung Kiên (bí danh Bê Ka) sinh năm 1945, Trung đoàn phó Trung đoàn
Gia Định (khi được tuyên dương Anh hùng).
15. Đồng chí Lê Văn Lên, sinh năm 1936, Đội trưởng bảo vệ thành ủy, Ban An ninh Sài Gòn-
Gia Định.
16. Đồng chí Nguyễn Văn Lịch, sinh năm 1948, Tiểu đội trưởng trinh sát bộ độ địa phương
huyện Dĩ An thuộc Quân khu Sài Gòn-Gia Định.
17. Đồng chí Huỳnh Minh Mương sinh năm 1940, Trung đội trưởng An ninh bảo vệ Khu Ủy
Sài Gòn - Gia Định.
18. Đồng chí Nguyễn Thị Mến (Sáu Ôm) sinh năm 1940, cán bộ trinh sát vũ trang Ban An
ninh Sài Gòn - Gia Định.
19. Đồng chí Nguyễn Thị Nê sinh năm 1947, Huyện đội phó huyện Nam Chi.
20. Đồng chí Hoàng Đình Nghĩa, quê quán xã Phước Hiệp, hy sinh năm 1965.
21. Đồng chí Nguyễn Anh Nhiễn, quê quán xã Phú Mỹ Hưng.
22. Đồng chí Lê Minh Nhựt, sinh năm 1938, Trung đoàn phó trung đoàn Quyết Thắng, Phân
khu I Sài Gòn – Gia Định.
23. Đồng chí Nguyễn Văn Ni (Bảy Ni), sinh năm 1924, Đại đội phó, Trưởng công binh xưởng
huyện Củ Chi.
24. Đồng chí Kiều Văn Niết, sinh năm 1951, Đội trưởng đội thông tin Trung đoàn Đất Thép.
25. Đồng chí Huỳnh Công Oai, sinh năm 1943, cán bộ an ninh vũ trang bảo vệ Khu ủy, Ban an
ninh Sài Gòn – Gia Định.
26. Đồng chí Lê Thị Pha, sinh năm 1942, Chính trị viên, Đại đội nữ pháo binh 8 tháng 3, tỉnh
Lâm Đồng.
27. Đồng chí Cao Văn Soái, sinh năm 1944, Trung đội trưởng an ninh vũ trang, Ban an ninh
Củ Chi.
28. Đồng chí Hồ Văn Tắng, Đội trưởng an ninh vũ trang Ban an ninh Khu Sài Gòn – Gia Định.
29. Đồng chí Nguyễn Minh Thắng, sinh năm 1953, khi được tuyên dương anh hùng
(20/12/1973) là Trung đội phó trinh sát tiểu đoàn Quyết Thắng, Phân khu I (Khu Sài Gòn –
Gia Định).
30. Đồng chí Lê Văn Thế, sinh Năm 1941, Huyện đội trưởng Huyện đội Củ Chi.
31. Đồng chí Đoàn Thị Thu (tên thật là Đoàn Thị Thào), sinh năm 1940, cán bộ điệp báo Ban
an ninh Khu Sài Gòn – Gia Định.
32. Đồng chí Nguyễn Văn Xơ, sinh năm 1932, Phó chính ủy Trung đoàn 1, Sư đoàn 9.
PHỤ LỤC 3:
CÁC ẢNH TƯ LIỆU VỀ CHIẾN TRANH
Ở CỦ CHI (1960 – 1975)
ẢNH 1: Củ Chi “đồng khởi” nổi dậy chống chính quyền Ngô Đình Diệm
(1960-1961).
ẢNH 2: Biểu tình của các mẹ, các chị xã Phước hiệp, Củ Chi (1961).
ẢNH 3: Bám đất giữ làng, “một tất không đi, một ly không rời”, chống địch
gom dân vào ấp chiến lược.
ẢNH 4: Nhà cửa của nhân dân xã An Nhơn Tây, Củ Chi trúng bom Mỹ (1966).
ẢNH 5: Phá ấp chiến lược, trở về nền cũ đất cũ (1965).
ẢNH 6: Nhân dân xã Trung Lập, Củ Chi đào chiến hào phục vụ chiến đấu (1966).
ẢNH 7: Chiến hào và địa đạo là hệ thống liên hoàn phục vụ cho chiến đấu.
ẢNH 8: Hốt hoảng chui lên địa đạo, với lính Mỹ, địa đạo Củ Chi là “địa ngục” của chúng.
ẢNH 9: Xây dựng hầm chông bảo vệ xóm làng.
ẢNH 10: Hầm chông tre và hố đinh, loại vũ khí thô sơ đã gây bao nhiêu khủng khiếp cho đối
phương.
ẢNH 11: Từ bom đạn lép, chế tạo thành vũ khí để chiến đấu.
ẢNH 12: Thiếu nữ Củ Chi lấy thuốc bom cho du kích làm mìn đánh địch (1966).
ẢNH 13: Xe tăng M.41 của địch bị Quân giải phóng đánh gục trên chiến trường Củ Chi (1968).

