ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG “ĐÊM HỘI LONG TRÌ”
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG “ĐÊM HỘI LONG TRÌ” TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.220.121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Phương Thái
Thái Nguyên - 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Tố Việt Hương
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học, Trường
Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Tố Việt Hương
iii
MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii
MỤC LỤC..................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài --------------------------------------------------------------------- 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ---------------------------------------------------------- 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------------ 12
4. Nhiệm vụ và nhiệm vụ nghiên cứu ----------------------------------------------- 13
5. Phương pháp nghiên cứu: ---------------------------------------------------------- 14
6. Cấu trúc của luận văn: -------------------------------------------------------------- 14
7. Đóng góp của luận văn: ------------------------------------------------------------ 14
NỘI DUNG ................................................................................................... 16
Chương 1. CỐT TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐÊM HỘI
LONG TRÌ VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN ........................... 16
1.1. Nghệ thuật chuyển thể cốt truyện Đêm hội Long Trì ------------------------ 16
1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học và điện ảnh ................................ 16
1.1.2. Sự tiếp thu và sáng tạo đường dây cốt truyện chuyển thể Đêm hội Long
Trì......................................................................................................... 22
1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật chuyển thể Đêm hội Long Trì -------- 29
1.3. Đêm hội Long Trì - Từ văn bản truyện đến kịch bản phim ----------------- 40
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 47
Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ 48
2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ---------------------- 48
2.1.1. Chúa Trịnh Sâm ................................................................................... 50
2.1.2. Quận chúa Quỳnh Hoa ......................................................................... 52
2.1.3. Tuyên phi Đặng Thị Huệ ..................................................................... 54
iv
2.1.4. Quận mã Đặng Lân .............................................................................. 55
2.1.5. Các nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại và Bảo Kim .................................. 58
2.2. Hệ thống nhân vật trong phim điện ảnh Đêm hội Long Trì ----------------- 62
2.2.1. Tuyên phi Đặng Thị Huệ ..................................................................... 64
2.2.2. Quận mã Đặng Lân .............................................................................. 66
2.2.3. Chúa Trịnh Sâm ................................................................................... 68
2.2.4. Quận chúa Quỳnh Hoa ......................................................................... 70
2.2.5. Các nhân vật khác: Bảo Kim và Nguyễn Mại ..................................... 73
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 75
Chương 3. NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ ĐIỆN ẢNH
TRONG ĐÊM HỘI LONG TRÌ ................................................................. 77
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ------------------ 77
3.1.1. Ngôn ngữ miêu tả ................................................................................ 78
3.1.2. Ngôn ngữ đối thoại .............................................................................. 82
3.2. Ngôn ngữ điện ảnh trong phim dã sử Đêm hội Long Trì -------------------- 87
3.2.1. Ngôn ngữ thị giác (hình ảnh) ............................................................... 88
3.2.2. Ngôn ngữ thính giác (âm thanh) ........................................................ 107
3.2.3. Montage (Dựng phim) ....................................................................... 111
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 113
KẾT LUẬN ................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 116
PHỤ LỤC
v
Hình 1: Bìa sách Đêm hội Long Trì do Nhà xuất bản
Kim Đồng ấn hành
Tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì
Tác giả: Nguyễn Huy Tưởng
Năm ra mắt: 1942
Năm xuất bản: 1944
Bản khảo sát: Năm 2016 - Nhà xuất bản Kim Đồng - Hà Nội.
vi
Hình 2: Bìa đĩa phim truyện Đêm hội Long Trì do Phương
Nam Phim phát hành
Phim điện ảnh: Đêm hội Long Trì
Đạo diễn: Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh
Biên kịch: Lê Phương - Hoàng Nhuận Cầm
Diễn viên: Thế Anh vai Chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương
Lê Vân vai Tuyên phi Đặng Thị Huệ
Thu Hà vai Quận chúa Quỳnh Hoa
Hoàng Thắng vai Quốc cữu Đặng Lân
Trọng Phan vai Nguyễn Mại
Vũ Đình Thân vai Bảo Kim
Và các diễn viên khác…
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong các loại hình nghệ thuật, có thể nói, văn học và điện ảnh là hai
loại hình tiêu biểu và mang tính tổng hợp cao. Chất liệu của văn học là ngôn từ,
hay nói chính xác hơn, văn học sử dụng ngôn ngữ của con người làm phương
tiện xây dựng hình tượng phản ánh cuộc sống. Với lợi thế của ngôn từ, có tính
phi vật thể, miêu tả thế giới một cách gián tiếp, văn học có thể đề cập tới mọi
phương diện của đời sống xã hội một cách linh hoạt, đầy đủ và chính xác. Với
khả năng phản ánh cả hiện thực thế giới bên ngoài và nội tâm bên trong con
người, văn học giống như là một điểm giao thoa của nhiều loại hình nghệ thuật,
có tác động đến các loại hình nghệ thuật khác, trong đó có điện ảnh. Xuất hiện
vào cuối thế kỷ XIX, điện ảnh là loại hình nghệ thuật trẻ, đã nhanh chóng trở
thành loại hình quan trọng bậc nhất xét về tính quần chúng rộng lớn của nó, đáp
ứng cao nhu cầu thẩm mỹ của thời đại. Cũng như văn học, điện ảnh được xếp
vào loại hình nghệ thuật tổng hợp. Theo Henri Bernac, nó mang đến cho hàng
triệu người xem “ngôn từ của nhà văn, tranh của họa sĩ, diễn xuất của diễn viên
trên sân khấu, giai điệu của nhạc sĩ trong bản nhạc”[60]. Chất liệu của điện ảnh
mang tính chất vật thể, là hình ảnh và âm thanh, là sự hòa hợp của những thứ có
thể nghe thấy và nhìn thấy, giống như tái hiện thế giới cụ thể để kể một câu
chuyện. Bởi vậy, điện ảnh đã tiếp thu của văn học các yếu tố như: cốt truyện,
nghệ thuật kể chuyện, hệ thống tu từ… để tạo nên những tác phẩm độc đáo, hấp
dẫn. Ngược lại, văn học cũng tiếp nhận nhiều khái niệm, thủ pháp từ điện ảnh
như: điểm nhìn, cắt - ghép (montage) để cách tân nghệ thuật văn chương. Giữa
văn học và điện ảnh, có mối quan hệ vừa khác biệt, vừa tương đồng, trong khả
năng tái hiện lại bức chân dung muôn mặt của đời sống và chiều sâu nội tâm của
con người. Nhà phê bình điện ảnh Pháp Jean Miltry từng nói: “Tiểu thuyết là
một truyện kể tự cấu tạo mình trong thế giới, còn điện ảnh là một thế giới tự cấu
tạo mình thành chuyện kể”[62]. Với đặc tính chịu ảnh hưởng của các loại hình
2
khác và giữa chúng có sự thâm nhập, ảnh hưởng lẫn nhau, cả văn học lẫn điện
ảnh đều có thế mạnh riêng trong việc tạo dựng lại thế giới và làm cho hình tượng
nghệ thuật trở nên sống động, hữu hình. Hay nói một cách đơn giản, trong văn
học có yếu tố điện ảnh, và ngược lại, trong điện ảnh có yếu tố của văn học.
Ngày nay, tác phẩm văn học chuyển thể điện ảnh đang là xu hướng trong
ngành công nghiệp phim ảnh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Mối lương duyên
giữa văn học và điện ảnh đã tạo nên nhiều tác phẩm kinh điển trong lịch sử điện
ảnh thế giới nói chung và lịch sử điện ảnh Việt Nam nói riêng.
1.2. Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng,
đã khẳng định được vị trí trên văn đàn Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng
Tám (1945). So với các tác giả cùng thời, Nguyễn Huy Tưởng cầm bút muộn
hơn, từ khoảng đầu những năm 1940, nhưng với lối viết tài hoa, bút lực đĩnh
đạc, dồi dào và nhiệt huyết, di sản văn học mà ông để lại thực sự đáng trân trọng,
không chỉ đa dạng về đề tài, thể loại, mà còn được đánh giá cao về mặt tư tưởng
và nghệ thuật. Ông viết nhiều thể loại: truyện ký, tiểu thuyết, kịch… với nhiều
đề tài: từ đề tài lịch sử, Thăng Long - Hà Nội, cuộc chiến tranh vệ quốc đến đề
tài dành cho thiếu nhi. Thể loại nào, đề tài nào của Nguyễn Huy Tưởng cũng tạo
được dấu ấn riêng với những tác phẩm xuất sắc, thể hiện niềm khát khao mãnh
liệt, muốn mượn văn chương để bày tỏ lòng yêu nước, “tô điểm cho non sông
những tòa đài hoa lệ lộng lẫy nhất trần gian” (kịch Vũ Như Tô). Trong đó, các
tác phẩm về đề tài lịch sử của ông có ảnh hưởng lớn trên văn đàn, được công
chúng yêu thích bởi lối tiếp cận, miêu tả, phản ánh lịch sử một cách độc đáo, tạo
nên âm hưởng sử thi hùng tráng hòa quyện với cảm thức lãng mạn, trữ tình. Ông
được mệnh danh là “nhà chép sử bằng các tác phẩm văn học”. Nhà nghiên cứu
- nhà phê bình văn học, tiến sĩ Nguyên An từng nhận xét: “Nếu không có Nguyễn
Huy Tưởng thì văn học hiện đại Việt Nam, nhất là ở mảng lịch sử - truyền thống,
sẽ vơi đi sự bề thế, vẻ kỳ vĩ, tráng lệ và chất bi thương hào hùng” [64]. Có ý kiến
cho rằng, Nguyễn Huy Tưởng “đã mở đầu một cách thích đáng cho dòng văn
3
chương viết về truyền thống, về lịch sử trung đại Việt Nam trong nền văn chương
hiện đại Việt Nam”[69]. Ông là một trong những nhà văn vinh dự được nhận
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (Đợt I) năm 1996.
1.3. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng và bộ phim
điện ảnh Đêm hội Long Trì của đạo diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đều được
coi là những tác phẩm kinh điển của văn học và điện ảnh Việt Nam. Tiểu thuyết
Đêm hội Long Trì là câu chuyện về bi kịch trong gia đình chúa Trịnh Sâm với
sự thao túng của Tuyên phi Đặng Thị Huệ, đã đẩy cơ đồ đến họa suy vong. Dẫu
chỉ là một lát cắt lịch sử, song tác phẩm đã phản ánh một góc tối của lịch sử
nước nhà trong giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài hơn một thế kỷ.
Đây là giai đoạn khá phức tạp khi trong bộ máy cầm quyền vừa có vua Lê, vừa
có chúa Trịnh, và cũng là một thời kỳ báo trước sự sụp đổ của chế độ phong kiến
Việt Nam. Tiểu thuyết đầu tay Đêm hội Long Trì được đăng tải trên tạp chí Tri
tân năm 1942 và xuất bản năm 1944 đã trở thành tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng
nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Nhắc đến tác phẩm này, giáo sư Hà Minh Đức
viết: “Trong các tác phẩm về đề tài lịch sử, "Đêm hội Long Trì" cũng gây một
ấn tượng đặc biệt… Chất lãng mạn của ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng có khả
năng tạo nên những bức tranh hoành tráng về đề tài lịch sử, tái hiện sinh hoạt
ở cung đình đan xen giữa những yếu tố truyền thống dễ chấp nhận và những mặt
tiêu cực của lối sống xa hoa, đan xen giữa những người tốt, quan lại liêm chính
với những kẻ gian thần độc ác, xảo trá”[58]. Năm 1989, khi được chuyển thể
thành tác phẩm điện ảnh, Đêm hội Long Trì đã gây tiếng vang lớn, được đánh
giá là bộ phim dã sử kinh điển nhất trong thế kỷ XX của điện ảnh Việt Nam.
1.4. Là một nhà báo công tác tại bộ phận chuyên về sản xuất phim của cơ
quan truyền hình, người viết luận văn chọn đề tài Đêm hội Long Trì - Từ tác
phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh để nghiên cứu nhằm tìm hiểu sâu hơn về
tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì và bộ phim chuyển thể cùng tên. Thông
qua đó, người viết luận văn có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào cả hai lĩnh vực yêu
4
thích, cũng là hai lĩnh vực liên quan đến công việc của mình là văn học và điện
ảnh để khám phá những điều còn ẩn sâu trong mỗi tác phẩm, bổ sung thêm kiến
thức mới cho chính mình. Từ việc nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt của
văn học và điện ảnh, chúng tôi muốn tìm hiểu một cách hệ thống và sâu sắc
hơn mối quan hệ qua lại, sự tương tác lẫn nhau của văn học và điện ảnh, góp
phần tìm ra tiếng nói chung giữa nhà văn và các tác giả điện ảnh trong việc bổ
sung, hỗ trợ nhau trong quá trình sáng tác.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Điểm lược một số công trình nghiên cứu về chuyển thể văn học và điện
ảnh ở Việt Nam và trên thế giới
Ngày 22/3/1895, khi anh em nhà Lumière tổ chức buổi chiếu phim đầu
tiên cho khán giả trong Salon Indian tại Grand Café ở Paris với những hình ảnh
về một chiếc xe lửa đang lăn bánh vào ga, cũng là lúc cả một ngành kỹ nghệ
phôi thai. Buổi chiếu này được coi là ngày khai sinh của điện ảnh, với tư cách
một môn nghệ thuật - nghệ thuật thứ bảy, và cũng với tư cách một ngành công
nghiệp - công nghiệp điện ảnh. Điện ảnh nhanh chóng trở thành loại hình nghệ
thuật lớn của thế kỷ XX và đến hôm nay vẫn đầy sức hấp dẫn, đúng như lời
Maxim Gorky, nhà văn Nga nổi tiếng đã từng nhận định về sức lôi cuốn của
nghệ thuật điện ảnh: “Không nghi ngờ gì nữa, tương lai nó sẽ chiếm một địa vị
xuất sắc trong đời sống” [63, tr.32].
Trong hành trình phát triển của mình, ngay từ những ngày đầu tiên, điện
ảnh đã có mối liên hệ chặt chẽ, tương tác với văn học. Mối quan hệ giữa văn học
và điện ảnh thể hiện rõ nhất qua hiện tượng chuyển thể. Từ những trích đoạn văn
học ban đầu, rồi dần dần là toàn bộ tác phẩm văn học được chuyển thể trở thành
tác phẩm điện ảnh, nhiều bộ phim từ những liên văn bản đã trở thành tác phẩm
nghệ thuật kinh điển, được công chúng đón nhận với nhiều giải thưởng danh giá.
Văn học luôn được coi là kho tàng vô giá cho các nhà điện ảnh khai thác, chuyển
thể, cải biên, xây dựng thành những kịch bản phim có giá trị. Trong cuốn sách
5
Film and Literature (Điện ảnh và văn học) của Timothy Corrigan, đã được
dịch và xuất bản vào năm 2013, tác giả cho rằng: “Lịch sử quan hệ giữa phim
ảnh và văn chương là một lịch sử yêu ghét lẫn lộn, đương đầu và phụ
thuộc lẫn nhau. Từ cuối thế kỉ XIX cho tới nay, hai cách nhìn và mô tả thế
giới này đã nhiều lần khinh thường nhau, cứu rỗi nhau, và làm méo mó bản
ngã tự phong của nhau... Các cuộc tranh luận về việc điện ảnh đồng nghĩa
với văn học hay đi cùng với văn học đang tiếp diễn” [7, tr.4-8]. Dẫu có các
cuộc tranh luận, song vẫn phải khẳng định rằng: điện ảnh đã kế thừa rất nhiều
từ văn học, mà rõ nét nhất là muốn có một bộ phim, trước hết phải có kịch bản
văn học. Từ khi điện ảnh mới ra đời trong kỷ nguyên phim câm, đã có hàng
loạt các tác phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh, có thể kể ra như: Ben
Hur, một bộ phim có độ dài chỉ 15 phút, sản xuất năm 1907, phiên bản điện
ảnh đầu tiên của cuốn tiểu thuyết của Roch Wallace mang tên: Ben - Hur: A
tale of the Christ, một trong những cuốn sách bán chạy nhất vào thời điểm
đó; Hoặc The count of Monte Cristo (Bá tước Monte Cristo) do hai nhà đạo
diễn Francis Boggs, Thomas Persons thực hiện năm 1908, được chuyển thể từ
tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Alexandre Dumas; Hay một bộ phim sử thi
rất nổi tiếng của đạo diễn D. W. Griffith có tên gọi: The birth of a nation (Sự ra
đời của một quốc gia, ban đầu còn được gọi là The Clansman), sản xuất năm
1915, được chuyển thể từ tiểu thuyết và vở kịch “The Clansman: An historical
romance of the Ku Klux Klan” đều của tác giả Thomas Dixon Jr….
Cuối những năm 1920, những bộ phim có âm thanh và tiếng nói bắt đầu
được sản xuất. Năm 1930, tuyển tập kịch bản điện ảnh đầu tiên của điện ảnh
Liên xô được xuất bản, đã khẳng định vai trò của kịch bản văn học trong sản
xuất tác phẩm điện ảnh. Theo nhận định của nhà nghiên cứu Iecgi Teplix trong
cuốn sách Lịch sử điện ảnh thế giới đã viết: “Điện ảnh với hình thức phổ biến
nhất của nó là phim truyện,…là giai đoạn hiện đại của sự phát triển nghệ thuật
kể chuyện,… là người kế thừa chủ yếu của tiểu thuyết” [32, tập 2, tr.9]. Trong
6
các giai đoạn phát triển của điện ảnh, người ta đều nhận thấy sự tác động tích
cực và tầm ảnh hưởng của văn học. Năm 1935, trong bài viết Văn học với điện
ảnh, nhà văn Maxim Gorky cho rằng nhà văn và đạo diễn là “hai lực lượng
không thể riêng biệt mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau” [63, tr.33]. Những phương
thức cơ bản khi xây dựng tác phẩm của các tác giả văn học là tiền đề và trở thành
kinh nghiệm quan trọng cho các tác giả điện ảnh vận dụng trong việc xây dựng
kịch bản điện ảnh, tái hiện những câu chuyện, nhân vật từ trang sách lên màn
ảnh. Nếu như ngôn ngữ văn học có thể tác động trực tiếp đến người đọc để mang
lại cảm giác, trí tưởng tượng về nhân vật một cách vật chất, thì những điều đó
cũng là cơ sở khởi nguồn để các nhà làm phim tạo dựng nên những nhân vật
sống động trên màn ảnh. Các tác giả điện ảnh đã kế thừa, tiếp nhận những yếu
tố đặc sắc của tác phẩm văn học nguồn như: cốt truyện, nhân vật, tình tiết vào
phim chuyển thể, nhưng bên cạnh đó, dựa những yếu tố đặc thù của nghệ thuật
thứ bảy, họ còn sáng tạo thêm những yếu tố mới cho đứa con tinh thần để gửi
gắm nhân sinh quan, làm nên dấu ấn cá nhân riêng biệt. Chính những sự sáng
tạo này giúp một tác phẩm điện ảnh hiện hữu trên màn ảnh mang một diện mạo
hoàn toàn mới mẻ và đặc sắc. Chúng ta có thể kể đến những tác phẩm xuất sắc
trở thành kinh điển ngay cả khi là tác phẩm văn học hay một bộ phim điện ảnh,
như: Cuốn theo chiều gió, Ben Hur, Bố già, Những người khốn khổ, Không gia
đình, Đồi gió hú, Chiến tranh và hòa bình, Sông Đông êm đềm, Cao lương đỏ...
Cho tới nay, cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lý thuyết và
vấn đề chuyển thể điện ảnh từ văn học. Trong đó, có thể nói đến cuốn sách của
David Bordwell mang tên Lịch sử điện ảnh [4]; cuốn sách Lịch sử điện ảnh thế
giới [33] của Georges Sadoul; hoặc sách Lịch sử điện ảnh thế giới (3 tập) của
Iecgi Teplix [32]… với những thông tin, phân tích về sự hình thành và phát triển
của điện ảnh thế giới. Kế tiếp là những công trình về lý luận, phê bình, kiến thức
chuyên ngành… được coi là những giáo trình bắt buộc cho sinh viên, hoặc những
người yên thích nghệ thuật điện ảnh, học tập viết kịch bản phim, viết về phim
7
và nghiên cứu về phim của rất nhiều nhà lý luận, nghiên cứu điện ảnh, các nhà
làm phim nổi tiếng. Như cuốn sách kinh điển về lý luận về nghệ thuật điện ảnh
mang tên Nghệ thuật điện ảnh của nhóm tác giả David Bordwell và Kirstin
Thompson [3]; hoặc các cuốn sách của Timothy Corrigan: Hướng dẫn viết về
phim [8], Điện ảnh và văn học - Dẫn luận và nghiên cứu [7]; sách của tác giả
Warren Buckland: Nghiên cứu phim (Film Studies) [5]; hay một tác phẩm nghiên
cứu của Mác-xen Mác-tanh về Ngôn ngữ điện ảnh [25]; hoặc có thể nghiên cứu
kỹ hơn về chuyển thể văn học và điện ảnh qua cuốn sách A theory of Adaptation
(Lý thuyết chuyển thể) của Linda Hutch [17]… Những cuốn sách này đã đưa ra
sự trình bày hoàn chỉnh về những vấn đề dàn cảnh, dựng phim, âm thanh, sản
xuất, phát hành phim… và phê bình một số tác phẩm điện ảnh kinh điển làm
mẫu để người đọc và người học có thể bước đầu tiếp cận nghệ thuật điện ảnh
một cách dễ dàng. Không chỉ vậy, trong đó còn có những phần dành cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể, cải biên các tác phẩm văn học sang
các tác phẩm điện ảnh cả về lý luận, lý thuyết và thực hành.
Điện ảnh Việt Nam còn cách điện ảnh thế giới một khoảng khá xa. Tuy
nhiên, ngay từ khi ra đời, điện ảnh trong nước đã có được dấu ấn với nhiều bộ
phim được bạn bè quốc tế đánh giá cao, trong đó có nhiều bộ phim chuyển thể.
Cũng giống như điện ảnh thế giới, trong các chặng đường phát triển của mình,
luôn thấy mối quan hệ chặt chẽ của điện ảnh và văn học Việt Nam. Nhà văn
Nguyễn Khắc Phục từng nói: “Nền điện ảnh không thể hùng mạnh được khi văn
xuôi kém. Chính nền văn xuôi sẽ cung cấp cho điện ảnh từ hình ảnh, ngôn
ngữ, tạo dựng tâm lí, tính cách nhân vật, thúc đẩy hành động, tình huống trong
phim ảnh. Kịch bản hay thì phim làm sẽ hay, sẽ có giá trị” [75].
Qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, văn học đã cung cấp cho điện ảnh
những mẫu hình tượng nhân vật đa dạng, phong phú từ diện mạo đến tính cách.
Nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đi sâu tìm hiểu con người Việt Nam qua
nhân vật trong văn học và điện ảnh ở nhiều phương diện, gắn với lịch sử thăng
8
trầm của dân tộc. Cải biên, chuyển thể các tác phẩm văn học thành tác phẩm
điện ảnh là một vấn đề luôn được đề cập đến khi nghiên cứu về văn học và
điện ảnh. Đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, bài báo đi
sâu vào tìm hiểu vấn đề này ở nhiều phương diện. Đáng chú ý, có một số công
trình nghiên cứu về chuyển thể tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh ở các
khía cạnh khác nhau. Đó là công trình nghiên cứu Chuyển thể văn học - điện ảnh
(Nghiên cứu liên văn bản) của tác giả Lê Thị Dương xuất bản năm 2016. Đây là
chuyên luận được phát triển từ Luận án Tiến sĩ của tác giả, nghiên cứu hiện
tượng chuyển thể từ góc độ liên văn bản, tức nghiên cứu tác phẩm văn chương
trong mạng tác phẩm nguồn cũng như tác phẩm cải biên (cải tác). Tác giả cho
rằng: “Sự dịch chuyển từ văn bản viết (thể kể) sang văn bản trình diễn đòi hỏi
sự thay đổi phương tiện biểu đạt, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong “tầm đón đợi”
của khán giả” [9, tr.92]. Ở một mức độ khác, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể
văn học và điện ảnh theo lý thuyết cải biên, tác giả Đào Lê Na qua tác phẩm
Chân trời của hình ảnh (Từ văn chương đến điện ảnh qua trường hợp Kurosawa
Akira) đã tìm hiểu cải biên học trong sự phức hợp của các lý thuyết: liên văn
bản, giải kiến tạo, văn hóa học và phiên dịch học. Cải biên là một bộ phận của
liên văn bản, từ đó cho thấy sự dịch chuyển các ký hiệu từ văn bản nguồn là tác
phẩm văn học đến văn bản đích là tác phẩm điện ảnh. Hoặc tác giả Phan Bích
Thủy cũng có những nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này với luận án tiến sĩ Từ tác
phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh (Khảo sát việc chuyển thể tác phẩm truyện
văn học thành phim truyện điện ảnh trong lịch sử văn học và điện ảnh Việt Nam)
[48] và luận văn thạc sĩ Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác phẩm
điện ảnh [47]. Trong công trình luận án, tác giả đi theo hướng tìm hiểu mối
quan hệ giữa văn học và điện ảnh, đặc biệt các tác giả - chủ thể sáng tạo phim
chuyển thể điện ảnh từ văn học. Còn trong công trình luận văn, tác giả chủ yếu
nghiên cứu hình tượng nhân vật đã có trong văn học và điện ảnh, bước đầu
hệ thống những đặc trưng giống và khác nhau trong việc xây dựng hình tượng
nhân vật trong tác phẩm văn học và điện ảnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp
9
cụ thể là một tác phẩm chuyển thể cụ thể thì số lượng các công trình nghiên cứu
chuyên sâu có số lượng không nhiều. Như công trình luận văn của tác giả Phạm
Thị Thu Hương “Thời xa vắng” - từ văn học đến điện ảnh (dưới góc nhìn Tự sự
học) [46] và luận văn Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ
phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi đáy giếng và Cánh đồng bất
tận) [45] của tác giả Trần Thị Dung lại đi theo hướng tìm hiểu về Tự sự học điện
ảnh và vận dụng Tự sự học vào nghiên cứu hiện tượng phim chuyển thể nói
riêng và nghiên cứu điện ảnh nói chung.
Ngoài ra, trên báo chí cũng có rất nhiều bài báo tâm huyết như: Tiểu
Quyên với bài: Văn học - Điện ảnh: hiệu ứng cộng sinh [70]; Lê Cẩm Lượng
với bài: Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh [66]; hay bài viết
của Thi Thi: Văn học và điện ảnh: Những chuyển động thú vị [73]; hay Đỗ Ngọc
Yên có bài: Mối tơ duyên giữa điện ảnh và văn chương [77]; Huyền Thanh với
bài: Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu [72]… đã trao đổi các quan
điểm về lý luận và thực tiễn, phân tích mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
qua các bộ phim truyện chuyển thể. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi vào phân
tích cơ hội của văn học và điện ảnh Việt khi kết hợp với nhau để tạo nên những
tác phẩm có giá trị xứng tầm, đáp ứng được mong mỏi của những người yêu
nghệ thuật. Bài viết của Hoài Hương: Tác phẩm văn học - Kho vàng của điện
ảnh Việt [61]; hay bài viết của Như Thủy: Phim Việt: Lương duyên giữa văn học
và điện ảnh [74]…. đều cho rằng, “hầu hết các bộ phim điện ảnh và truyền hình
có kịch bản chuyển thể hoặc dựa theo tác phẩm văn học đều ít nhiều tạo được
ấn tượng tốt và chạm được tới cảm xúc của người xem, góp phần nâng cao chất
lượng của phim Việt Nam” [74]. Trong thực tế, mối duyên văn học - điện ảnh đã
cho ra đời nhiều tác phẩm điện ảnh đáng giá, thực sự là tài sản quý của bộ môn
nghệ thuật thứ bảy như: Vợ chồng A Phủ, Mẹ vắng nhà, Bến không chồng, Người
đàn bà mộng du, Thời xa vắng, Mùa len trâu, Trăng nơi đáy giếng, Chuyện của
Pao, Đừng đốt, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh…
10
2.2. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và bộ phim điện ảnh cùng tên
Nguyễn Huy Tưởng khởi nghiệp bằng những tác phẩm viết về đề tài lịch
sử như: Vũ Như Tô, An Tư, Đêm hội Long Trì, đăng trên tạp chí Tri tân, đã gây
được ấn tượng mạnh cho người đọc bởi một lối viết, lối khai thác, tiếp cận vấn
đề mới lạ, sâu sắc. Với vốn tri thức rộng và sâu, trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng, quá khứ dân tộc, lịch sử đất nước hiện lên thoạt như là những lát cắt,
song ẩn chứa trong đó cả một giai đoạn, thời kỳ lịch sử với nhiều biến cố, thăng
trầm, “lịch sử bao giờ cũng là sự kết nối từ quá khứ đến hiện đại, đó là sự song
hành hoặc tương phản giữa một bên là bạo lực của ngoại xâm, của cường quyền,
của những rối ren và náo động của xã hội, với một bên là sự mỏng manh, sự bấp
bênh của những số phận, những cuộc tình, những đam mê và khát vọng của con
người, trong đó chiếm vị trí trung tâm là người trí thức”[20, tr.97].
Đêm hội Long Trì không phải là tác phẩm đầu tiên của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng (trước đó, ông đã viết kịch Vũ Như Tô), nhưng là tác phẩm sớm
nhất đưa ông đến với văn đàn. Tác phẩm hình thành từ năm 1942, đăng trên Tri
tân (từ 24/11/1942 đến 12/08/1943) và được in thành sách năm 1944. Tuy nhiên,
những trăn trở của tác giả về cuốn tiểu thuyết còn kéo dài đến những năm sau
này (1945), điều đó còn được ghi lại trong nhật ký của nhà văn [55]. Không bao
giờ tự hài lòng với mình, luôn cầu tiến, vươn tới sự hoàn thiện, đó chính là cá
tính và nguyên tắc sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Đêm hội Long Trì là dấu
ấn mở đầu để nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ghi dấu tên tuổi của mình trên văn
đàn. Người đọc nhận thấy ở Nguyễn Huy Tưởng một ngòi bút có khuynh hướng
lịch sử khác biệt. Trong bức thư phúc đáp của ông chủ bút Tri tân gửi nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định văn tài và phong cách riêng của ông: “Thấy
ngài, vì cảm tình với Tri tân, ngỏ ý muốn gửi lên cho truyện Đêm hội Long Trì
để đăng vào trang tiểu thuyết, tôi rất hoan nghênh, một vì truyện ngài viết đó là
tiểu thuyết lịch sử rất hợp với tôn chỉ của Tri tân; hai vì cái văn tài của ngài
trong những bài như Diên Hồng hội nghị và Ý nghĩa việc thiên đô của Lý Thái
11
Tổ trong lịch sử Việt Nam đã làm cho độc giả Tri tân bấy nay vẫn nhắc nhở mến
phục. Bây giờ lại có thiên tiểu thuyết do chính ngài viết ra thì chắc sẽ làm bạn
đọc hài lòng lắm” [38; tr.167-168].
Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng, tiểu thuyết
Đêm hội Long Trì luôn được nhắc đến như một dẫn chứng về tài hoa và khuynh
hướng của nhà văn. Có thể kể đến như: Chuyên luận Nguyễn Huy Týởng (1912-
1960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, xuất bản năm 1966
[10]; Bộ sách Nguyễn Huy Týởng toàn tập (5 tập) do Nhà xuất bản Văn học ấn
hành năm 1996 [36]; Nguyễn Huy Týởng khát vọng một đời văn (Phýõng Ngân
tuyển chọn và biên soạn) [27]; Hay bộ 3 tập Nhật ký Nguyễn Huy Týởng [37]
đýợc Nhà xuất bản Thanh niên cho ra mắt năm 2006… Hầu hết đều có những
dòng, những phần nhắc đến tác phẩm Đêm hội Long Trì. Trong cuốn sách
Nguyễn Huy Týởng về tác gia, tác phẩm (Bích Thu, Tôn Thảo Miên tuyển
chọn giới thiệu), Giáo sư Hà Minh Đức đánh giá: “Tác phẩm đầu tay Đêm hội
Long Trì mở đầu cho quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, tác phẩm dựa
trên những tư liệu được đề cập đến trong Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Lam
Xuân Thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan hệ giữa chúa Trịnh Sâm và
hai chị em Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu Lân. Nguyễn Huy Tưởng không chỉ
muốn dừng sự việc lại ở đó. Anh muốn tìm đến một bàn tay dũng cảm vừa thể
hiện tinh thần công lý phù hợp với ý dân, vừa phải hợp với chân lý của lịch
sử để trừng trị kẻ tàn bạo” [39, tr.61].
Ngay từ khi ra đời, cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long Trì đã được nhiều
người yêu thích và cho đến hôm nay, vẫn là một trong các tác phẩm được biết
đến nhiều nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Tác phẩm đã được chuyển thể sang
chèo, cải lương và đặc biệt, năm 1989, đạo diễn Hải Ninh đưa cuốn tiểu thuyết
lên màn ảnh rộng càng góp phần phổ biến tác phẩm. Bộ phim đã trở thành tác
phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam, không chỉ về mặt nội dung, nghệ thuật,
mà còn được đánh là một trong những bộ phim cổ trang thành công nhất từ trước
12
đến nay. Rất nhiều bài viết đã nhắc đến thành công vang dội của bộ phim như:
Bài viết Đêm hội Long Trì trên màn ảnh của Hà Minh Đức [57]; bài Đêm hội
Long Trì - Một bộ phim thành công của Đinh Trọng Tuấn [76]; hay bài viết của
Thư Sinh “Đêm hội Long Trì” - nỗi lòng hậu thế gửi gắm đến ngàn xưa [71];
Huy Minh cũng có bài Đêm hội Long Trì - một lát cắt không thuộc về lịch sử
[67]; hoặc bài phê bình Nhân xem phim “Đêm hội Long Trì”, nghĩ về một lối
tiếp cận lịch sử [52] của Lại Nguyên Ân… đã phân tích, đánh giá những điểm
mới, lạ và hấp dẫn của bộ phim trên nền tác phẩm văn học gốc là tiểu thuyết
Đêm hội Long Trì. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân viết: “Nhưng xin trở lại với
phim Đêm hội… Ngoài mọi điều khác, ta còn có thể cảm ơn các nhà làm phim
đã cho chúng ta được dịp cảm nhận một phần thế giới của Nguyễn Huy Tưởng,
xem cách ông bày các nhân vật lịch sử vào thế giới tiểu thuyết của ông ra sao
và qua đó nghĩ ngợi thế nào về các nguyên nhân của tiến trình lịch sử” [52].
Sau khi tham khảo những cuốn sách, công trình khoa học, luận văn của
nhiều tác giả và các bài viết báo chí, chúng tôi nhận thấy rằng đề tài: Đêm hội
Long Trì - Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh là một đề tài hay, có
giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, đó là nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long
Trì và bộ phim điện ảnh cùng tên một cách đầy đủ từ văn bản văn học đến phim
chuyển thể. Luận văn của chúng tôi được thực hiện sẽ góp thêm một nghiên cứu
có tính hệ thống và sâu sắc về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu
thuyết Đêm hội Long Trì và bộ phim dã sử cùng tên. Từ đó, khẳng định rõ hơn
mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh trong dòng chảy nghệ thuật nước nhà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh Đêm hội Long
Trì trên hai phương diện: từ văn bản truyện đến kịch bản phim và những yếu tố
làm nên thành công của cả hai tác phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
13
Phạm vi tư liệu chúng tôi dùng để khảo sát trong luận văn này là:
1/ Tác phẩm văn học Đêm hội Long Trì, Nhà xuất bản Kim Đồng, 167
trang, năm 2016. Tác giả: Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
2/ Tác phẩm điện ảnh Đêm hội Long Trì, Hãng Phim truyện Việt Nam,
tập 1 (thời lượng 95 phút), tập 2 (thời lượng 77 phút), năm 1989.
Đạo diễn: Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh;
Biên kịch: Lê Phương - Hoàng Nhuận Cầm.
Bên cạnh đó, người viết cũng nghiên cứu thêm một số trường hợp chuyển
thể tác phẩm văn học sang điện ảnh Việt Nam để có điều kiện so sánh, đối chiếu,
từ đó có được cái nhìn bao quát hơn.
4. Nhiệm vụ và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra những nét đặc sắc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật
của tác phẩm Đêm hội Long Trì từ văn bản truyện đến kịch bản phim.
- Bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá về những yếu tố làm nên
thành công của tác phẩm ở cả hai loại hình nghệ thuật.
- Xác lập mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, cũng như những vấn đề
lý luận và thực tiễn trong việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh cùng tên.
- Chỉ ra những đặc sắc trong chuyển thể từ văn bản truyện đến kịch bản
điện ảnh và những yếu tố tạo nên thành công.
- Thấy được những đóng góp của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và đạo
diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh, biên kịch Lê Phương, Hoàng Nhuận Cầm đối
với nền nghệ thuật nước nhà. Đồng thời, chỉ ra sự gắn kết giữa văn học và điện
ảnh.
- Ngoài ra, người viết luận văn còn nghiên cứu một số tác phẩm có cách
thức cải biên tương tự để làm cơ sở lý thuyết cho đề tài.
14
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn này được nghiên cứu bằng một số phương pháp khoa học như:
Phương pháp nghiên cứu liên ngành; Phương pháp so sánh; Phương pháp tổng
hợp và một số phương pháp khác…
Các kiến thức chủ yếu được sử dụng trong luận văn là các lý thuyết về
liên văn bản giữa văn học và điện ảnh, phân tích điện ảnh và phân tích văn học
dựa trên các hướng tiếp cận liên ngành. Ngoài ra, chúng tôi có sử dụng các kiến
thức, khái niệm của lĩnh vực văn học và điện ảnh trong quá trình phân tích, tìm
hiểu vấn đề.
Luận văn cũng sử dụng một số thao tác khoa học cụ thể khi tiến hành
nghiên cứu như: Đối chiếu, so sánh; Tổng hợp; Phân tích và lý giải... nhằm chỉ
ra các yếu tố được kế thừa và sáng tạo trong phim chuyển thể so với tác phẩm
văn học và lý giải một cách đầy đủ, khoa học.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được xây
dựng thành 3 chương:
- Chương 1: Cốt truyện trong tác phẩm văn học Đêm hội Long Trì và tác
phẩm điện ảnh cùng tên.
- Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì
và phim dã sử cùng tên.
- Chương 3: Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ điện ảnh trong Đêm hội Long
Trì.
7. Đóng góp của luận văn:
- Luận văn là công trình đầu tiên đánh giá tác phẩm văn học Đêm hội Long
Trì và bộ phim cùng tên một cách toàn diện về hình thức nghệ thuật và nội dung,
cũng như những yếu tố làm nên thành công. Từ đó, góp phần khẳng định và làm
nổi bật vị trí, vai trò của tác phẩm ở 2 loại hình nghệ thuật và các tác giả: Nhà
văn Nguyễn Huy Tưởng; Đạo diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh; Biên kịch Lê
Phương và Hoàng Nhuận Cầm trong nền văn học và điện ảnh nước nhà.
15
- Luận văn còn là nguồn tư liệu hữu ích cho bạn đọc, học sinh, sinh viên
tham khảo khi nghiên cứu về văn học và điện ảnh Việt Nam.
16
NỘI DUNG Chương 1 CỐT TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐÊM HỘI LONG TRÌ VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN
1.1. Nghệ thuật chuyển thể cốt truyện Đêm hội Long Trì
1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học và điện ảnh
1.1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học
Ngành Tự sự học coi vấn đề cốt truyện trong các truyện kể là một trong
những yếu tố cơ bản để tìm ra cấu trúc và kết cấu của tác phẩm văn xuôi. Các
nhà nghiên cứu đã xây dựng nhiều hướng tiếp cận các tác phẩm nghệ thuật ngôn
từ qua hệ thống cốt truyện, nhằm tìm ra phong cách riêng của nhà văn. Đa số
đều cho rằng, cốt truyện được sử dụng chủ yếu trong các tác phẩm văn học thuộc
thể loại tự sự và kịch.
Được coi là người đặt nền móng xây dựng lý thuyết nghiên cứu cốt
truyện, trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca, với quan điểm “nghệ thuật là sự mô
phỏng”, Aristote cho rằng: “Sự mô phỏng hành động là cốt truyện. Cốt truyện
là sự kết hợp các sự kiện, tính cách là cái cho ta biết tính chất nhân vật hành
động, còn tư tưởng là cái mà qua đó người nói muốn chứng minh một điều gì
đó, hay đơn thuần là bày tỏ ý kiến của mình” [1, tr.35], hay nói một cách
khác, “cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch, sau đó mới đến các tính
cách” [1, tr.37]. Theo Aristote, cốt truyện là một hệ thống các sự kiện xung
đột, hoặc phát triển những sự kiện ấy theo trình tự tự nhiên của thời gian. Ông
cũng nhấn mạnh việc cần phải sắp xếp, bố trí một cách khéo léo các sự kiện
theo trình tự phát triển, có cái bắt đầu và cái kết thúc để tạo ra hiệu quả thẩm
mỹ. Sau này, các nhà nghiên cứu A.N.Veselovski, G.N.Pospelov,
L.I.Timofeep, E.Dobin, Kojikov, B.Tomachevski, V.Shklovski, P.Cobley,
J.Culler, J.Lotman... khi thực hiện các công trình nghiên cứu của mình đã đưa
yếu tố cốt truyện vào khảo sát hoặc đề cập đến ở nhiều mức độ khác nhau.
17
Ở Việt Nam, yếu tố cốt truyện cũng được đề cập đến trong nhiều công
trình nghiên cứu lý luận văn học, thi pháp học. Trong cuốn sách Lý luận văn
học, Hà Minh Đức ( chủ biên) đã nêu quan điểm: “Cốt truyện là một hệ thống
các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống, và nhất là những xung
đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó, các tính cách hình thành và phát triển
trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ tư tưởng và
chủ đề tác phẩm” [11, tr.29]. Những sự kiện của một câu chuyện nào đó diễn ra
theo một cách thức riêng, được gọi là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật
tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm nhặt, thống nhất theo ý đồ
chủ quan của người kể, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức
hấp dẫn tối đa tới người đọc. Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học cũng cho rằng: “Cốt truyện (tiếng Anh:
plot, tiếng Nga: siujet, tiếng Pháp: sujet): Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức
theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan
trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và
kịch” [13, tr.99]. Theo đó, cốt truyện hàm chứa những yếu tố, những khả năng
để có thể tạo ra tính tư tưởng, tính nghệ thuật (tính văn) cho một tác phẩm văn
học, từ đó thể hiện dụng ý của nhà văn.
Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện có mối liên hệ chặt chẽ với kết cấu. Cốt
truyện nhằm để chỉ yếu tố nội dung, gồm những sự kiện, biến cố, hành động
trong tác phẩm tự sự và kịch được thể hiện theo một hệ thống cụ thể nhằm làm
rõ mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định.
Còn kết cấu nhằm để chỉ hình thức tổ chức, sắp xếp các chất liệu bên trong và
bên ngoài tác phẩm theo một trật tự, một quy định nào đó để chuyển tải nội dung
nghệ thuật. Nếu như cốt truyện có vai trò tổ chức hệ thống các tính cách, gợi mở
đặc điểm từng tính cách, đồng thời trình bày hệ thống các xung đột xã hội nhằm
thu hút độc giả, thì kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của
tác phẩm văn học. Trong tác phẩm Tự sự học: Mấy vấn đề lý luận và lịch sử (do
Trần Đình Sử chủ biên), tác giả đưa ra nhận định: “Cốt truyện là một chuỗi các
18
sự kiện được tạo dựng trong tác phẩm tự sự, kịch. Một số văn bản trữ tình cũng
có yếu tố cốt truyện. Khái niệm cốt truyện nhằm tách truyện thành hai phần:
một là chuỗi các sự kiện rất đặc trưng cho thể loại tự sự và kịch, và một phần
khác quan trọng không kém là các yếu tố miêu tả, lời kể, lời bình. Thiếu các
yếu tố này thì truyện không thể thành truyện” [34, tập 2, tr.56]. Hiểu một cách
đơn giản hơn, hình thức tổ chức sự kiện trong tác phẩm văn học sẽ liên kết các
sự kiện lại thành câu chuyện; Sự liên kết chuỗi sự kiện đó tạo thành cốt truyện.
Đó là nội dung nhận định của Lê Lưu Oanh, Phạm Đăng Dư trong cuốn sách
Lý luận văn học: “Cốt truyện là hệ thống các sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn
biến và phát triển của tính cách cũng như câu chuyện” [30, tr.139]. Chính vì
cốt truyện là sự liên kết các chuỗi sự kiện quan trọng mang tính quá trình nên
kết cấu thời gian là kết cấu cơ bản của thể loại tự sự.
Cơ sở sâu xa của cốt truyện là những xung đột đang vận động. Đó là
phương tiện để bộc lộ và triển khai tính cách nhân vật. Tác giả Lại Nguyên Ân
cho rằng, cốt truyện cũng là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật.
Trong tác phẩm 150 thuật ngữ văn học, ông nhấn mạnh: “Nó trỏ lớp biến cố của
hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố đã tạo ra sự vận động của nội dung
cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là phẩm chất
có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng
loại” [2, tr.113]. Bằng cách tạo ra một trường hành động, cốt truyện hình thành
cơ sở cho nhà văn lý giải tính cách và xây dựng hình tượng nhân vật, thể hiện tư
tưởng và nghệ thuật. Lại Nguyên Ân cũng chỉ ra, cốt truyện là yếu tố đóng vai
trò then chốt chi phối nội dung và hình thức các tác phẩm ở nhiều loại hình nghệ
thuật, trong đó có văn học và điện ảnh.
Cốt truyện có ba đặc điểm chính: tính lịch sử - cụ thể, tính kịch và tính
hoàn chỉnh. Tính lịch sử - cụ thể của cốt truyện được biểu hiện thông qua những
sự kiện, biến cố, xung đột xã hội làm điểm tựa cho sự phát triển của cốt truyện
theo tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc, đó thường là những
19
sự kiện có ý nghĩa tiêu biểu cho sự vận động của lịch sử ở một thời điểm cụ thể
nhất định, nhằm tái hiện bình diện của đời sống ở một thời kì lịch sử, tái hiện
những con đường diễn biến phức tạp của các nhân vật.
Cùng với tính lịch sử - cụ thể, cốt truyện còn có tính kịch. Đặc điểm này
được tạo thành từ những xung đột xã hội được khúc xạ qua các xung đột nhân
cách. Việc tổ chức cốt truyện đều nhằm phơi bày các xung đột xã hội, thể hiện
các vấn đề đời sống và các số phận, tính cách con người. Có thể nói, cốt truyện
là sản phẩm sáng tạo độc đáo của chủ quan nhà văn thông qua việc lựa chọn
phản ánh những xung đột trong tác phẩm của mình, xây dựng cao trào để phát
triển gay gắt, không thể điều hòa được và tự nó làm bùng nổ một cuộc đấu tranh
dữ dội, quyết liệt.
Yêu cầu đặt ra đối với văn học là phải phản ánh sự vận động của cuộc
sống một các logic, từ đó tạo nên tính hoàn chỉnh của văn học. Theo đó, đối với
cốt truyện với tư cách là một hệ thống các sự kiện, biến cố cần phải được sắp
xếp, tổ chức một cách chặt theo trình tự phát triển để tạo ra hiệu quả thẩm
mỹ. Các bước diễn biến của cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của
một xung đột, nghĩa là có mở đầu, thắt nút, phát triển và vươn tới cao điểm, rồi
đi vào giải quyết cụ thể và kết thúc. Tuy nhiên, do quy luật sáng tạo văn học và
nhất là do yêu cầu thể hiện chủ đề - tư tưởng tác phẩm, không nhất thiết bất cứ
cốt truyện nào cũng cần có đầy đủ các bước diễn biến, và theo trật tự nhất định.
Có thể nói, cốt truyện là yếu tố đầu tiên, quan trọng bậc nhất, không thể
thiếu trong bất kì một hình thức tự sự nào. Đó là sợi dây liên kết các mối quan
hệ của nhân vật, tổ chức, sắp xếp các sự việc diễn ra trong đó theo một hệ thống
hoặc quy định cụ thể nhằm bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Vì vậy, mọi
sự biến đổi, xoay chiều của các sự kiện, xung đột, tính cách đều hướng tới
mục đích cuối cùng là thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn một cách có hiệu
quả để thu hút và hấp dẫn người đọc.
1.1.1.2. Khái niệm Cốt truyện trong điện ảnh
20
Trong các loại hình nghệ thuật, mỗi loại hình đều có những đặc trưng
riêng, song giữa chúng vẫn luôn có sự giao thoa và nhiều điểm chung. Điện ảnh
tuy ra đời muộn màng nhất, song điều này lại tạo nên lợi thế tiếp thu những tinh
hoa của các loại hình trước đó. Theo lý thuyết của nhà lý luận điện ảnh nổi tiếng
Ricciotto Canudo, “nghệ thuật nói chung được phân thành hai dạng: nghệ thuật
thời gian (tiêu biểu là Âm nhạc, Múa, Thơ ca) và nghệ thuật không gian (điển
hình là Hội họa, Kiến trúc, Điêu khắc). Nghệ thuật thời gian mang tính động,
có tiết tấu; còn nghệ thuật không gian mang tính tĩnh và có tính tạo hình” [51].
Chính vì cho rằng, điện ảnh đã tổng hợp các tính chất của 6 loại nghệ thuật tiêu
biểu trên mà R.Canudo đã đặt cho nó cái tên gọi “Nghệ thuật thứ 7”. Trong đó,
mối liên hệ giữa văn học và điện ảnh đã thể hiện chặt chẽ ở nhiều dạng thức, có
qua có lại, cùng đồng hành phát triển. Cũng nhờ đó, ngành nghiên cứu, lý luận
phê bình điện ảnh vận dụng được nhiều hệ thống khái niệm và phương pháp
nghiên cứu của bộ môn nghiên cứu văn học.
Bởi vậy, khái niệm cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh về bản chất rất gần
gũi với khái niệm cốt truyện trong tác phẩm văn học. Ở văn học, cốt truyện
thường được dùng chủ yếu cho các tác phẩm tự sự hoặc kịch với chất liệu cơ
bản là một hệ thống các sự kiện phản ánh cuộc sống một cách nghệ thuật để làm
sáng tỏ chủ đề và tư tưởng, thì trong điện ảnh, cũng có một hình thức phim gọi
là hình thức tự sự, “Tự sự là một chuỗi những sự kiện trong một mối liên hệ nhân
quả xảy ra trong không gian và thời gian” [3, tr.95]. Như vậy, có thể thấy, các
sự kiện cần được xác định và liên kết với nhau theo trục nguyên nhân - kết quả,
trong khoảng không gian, thời gian nào đó. Tự sự chính là một phương thức căn
bản để con người hiểu thế giới. Các nhà nghiên cứu lý luận điện ảnh đưa ra hai
khái niệm Cốt truyện (Plot) và Câu truyện (Story) (đôi khi còn được gọi là kịch
bản và câu chuyện) để phân biệt, đồng thời nhìn nhận một cách chính xác về vai
trò và ý nghĩa của chúng. Theo các nhà nghiên cứu David Bordwell và Kristin
Thompson, “một tổ hợp của tất cả các sự kiện được biểu hiện ra bên ngoài và
những sự kiện mà người xem phán đoán đều tạo nên câu chuyện” [3, tr.97], còn
21
cốt truyện “được dùng để mô tả bất cứ sự hiện diện một cách có thể nhìn thấy
hoặc nghe thấy trên phim trước chúng ta. Cốt truyện bao gồm, thứ nhất, tất cả
các sự kiện của câu chuyện được mô tả trực tiếp… Thứ hai, cốt truyện của phim
có thể bao hàm các tư liệu nằm ngoài thế giới câu chuyện” [3, tr.97]. Tương tự
như vậy, trong cuốn sách Story sense: writing story and script for feature films
and television (được Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội dịch và tập
hợp vào tập bài giảng Tài liệu biên kịch), nhà lý luận điện ảnh Paul Lucey đã
đưa ra các thuật ngữ biên kịch trong ngành điện ảnh. Trong đó, ông cũng xây
dựng khái niệm thuật ngữ Cốt truyện (Plot) và Câu chuyện (Story). Theo Paul
Lucey, “Cốt chuyện là một chuỗi các tình tiết trong đó các nhân vật đấu tranh
đưa đến giải pháp của vấn đề kịch tính. Qua cuộc đấu tranh này các nhân vật
phát hiện ra bản chất sâu xa hơn của họ cùng những sự thật khác. Các sự việc
của cốt truyện được đẩy cao khi hành động tiến nhanh tới cảnh cao trào mà
trong đó vấn đề được giải quyết. Câu chuyện là một thuật ngữ rộng hơn, nó bao
gồm cả cốt truyện và trạng thái cảm xúc tạo nên bởi các nhân vật, những người
lại chịu tác động bởi các tình tiết của cốt truyện. Do đó, câu chuyện phát triển
dần dần từ cốt truyện trong giai đoạn viết kịch bản” [35].
Như vậy, cốt truyện và câu chuyện chồng chéo nhau trong một số khía
cạnh và phân biệt nhau ở một số khía cạnh khác. Điều đó có nghĩa, cốt truyện
không chỉ là các sự kiện của câu chuyện được mô tả trực tiếp trong phim, mà còn
bao hàm cả những tư liệu nằm ngoài thế giới câu chuyện, đó có thể là âm thanh,
ánh sáng, thậm chí phần danh sách đoàn làm phim phía đầu hoặc cuối bộ phim.
Nếu câu chuyện trong phim đưa người xem tiến xa hơn cốt truyện ở điểm gợi ra
những sự kiện không bao giờ được chứng kiến, chỉ có trong tưởng tượng hoặc
suy đoán từ câu chuyện trên màn ảnh, thì cốt truyện lại vượt lên thế giới của câu
chuyện bằng những yếu tố như cách thể hiện âm thanh và hình ảnh ngoài ranh
giới chuyện kể, tất cả sẽ tác động lên cách hiểu câu chuyện của người xem. Cốt
truyện là “bệ phóng” để các nhân vật tác động lẫn nhau, đồng thời phản ứng đối
với các tình tiết của cốt truyện.
22
1.1.2. Sự tiếp thu và sáng tạo đường dây cốt truyện chuyển thể Đêm hội
Long Trì
Tác phẩm tự sự là tác phẩm có cốt truyện, gắn liền với đó là một hệ thống
các sự kiện, nhân vật được khắc họa về nhiều mặt, thông qua các chi tiết nghệ
thuật phong phú đa dạng... Đối với phim chuyển thể từ tác phẩm tự sự thì cần
có các yếu tố: ý tưởng hay, cốt truyện độc đáo, nhân vật đặc sắc. Tuy nhiên, cốt
truyện của tác phẩm văn học và cốt truyện của tác phẩm điện ảnh có những đặc
trưng và yêu cầu khác nhau. Trên cơ sở đó, nhà làm phim sẽ có những sáng tạo
riêng mình, biến đổi cốt truyện và diễn biến câu chuyện để tạo nên sự hấp dẫn
cho bộ phim.
Trong quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh, có
nhiều cách thức mà các nhà làm phim thực hiện cải biên cho phù hợp với ngôn
ngữ và nghệ thuật điện ảnh. Trong đó, lựa chọn đầu tiên của họ là cải biên, xây
dựng đường dây cốt truyện. Cốt truyện văn học thường có đường dây chính là
mối quan hệ của nhân vật chính, những xung đột, biến cố lớn thúc đẩy nhân vật
chính hành động, bộc lộ tính cách và thể hiện chủ đề, tư tưởng tác phẩm sẽ được
nhà làm phim tiếp thu và đưa vào cốt truyện phim. Cốt truyện của phim là hệ
thống các sự kiện, tính cách, tình huống, chi tiết... được tổ chức theo một trật tự
nghệ thuật nhất định nhằm phục vụ cho việc biểu đạt nội dung và nghệ thuật của
bộ phim. Nói một cách khác, nhìn vào cốt truyện, chúng ta có thể hình dung diễn
biến trên phim là: Ai làm gì (hoặc gặp phải chuyện gì) và giải quyết ra sao,
những mối quan hệ nào, kết cục câu chuyện... Nhà làm phim chuyển thể có thể
sáng tạo thêm vào hoặc loại bỏ những sự kiện, biến cố, xung đột, nhân vật, đường
dây, bối cảnh… so với tác phẩm văn học để hình thành cốt truyện phim. Tác
phẩm văn học Đêm hội Long Trì đã mở ra một chân trời sáng tạo cho đạo diễn
và biên kịch để tạo nên một bộ phim dã sử kinh điển của điện ảnh Việt Nam.
Năm 1942, Nguyễn Huy Tưởng ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tiên Đêm hội
Long Trì đăng trên tạp chí Tri tân. Không giống với các tác phẩm văn học dã sử
23
khác như: Hoàng Lê nhất thống chí, Vũ trung tùy bút (Chuyện cũ trong phủ
chúa), Bà chúa chè… đi sâu vào mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội,
những cuộc chinh chiến, tranh giành quyền lực hoặc sự sa đọa của thế lực cầm
quyền…, Đêm hội Long Trì mở ra một không gian lịch sử hoàn toàn mới lạ:
Chuyện nhà chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương. Và đường dây cốt truyện với
những sự kiện, biến cố, xung đột của các nhân vật đã hé lộ một câu chuyện đầy
kịch tính và bão giông.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu bằng cảnh đêm
hội Trung thu bên hồ Long Trì. Cảnh sinh hoạt của người dân nơi kinh thành
được tái hiện lại như trong một bức tranh sơn dầu. Ta thấy trong đó ánh sáng
bàng bạc của trăng thu, ánh đèn của những người đi chơi hội hòa vào ánh đèn
lung linh trang trí của kinh thành đêm Trung thu; bóng dáng nam thanh nữ tú
dập dìu, tấp nhật... Cảnh vui chơi, cảnh thi thơ, trao gửi tình cảm được tái hiện
một cách hài hòa trong không gian đầm ấm, quay quần của một tối mùa thu
nhiều cảm xúc. Và chính trong cái không khí hội hè náo nhiệt đó, các nhân vật
đã lần lượt xuất hiện: nhân vật lịch sử như chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm và tuyên
phi Đặng Thị Huệ; nhân vật có thật nhưng với ít nhiều hư cấu như quận mã Đặng
Lân và quận chúa Quỳnh Hoa; nhân vật hoàn toàn do tác giả sáng tạo nên, như
thi sĩ Bảo Kim cùng nhóm bạn văn nhân của chàng, và đặc biệt là quan Hộ thành
binh mã sứ Nguyễn Mại, người được chúa tin cậy giao trọng trách giữ việc trị
an kinh thành.
Và cũng trong đêm hội hân hoan ấy, nơi tưởng như chỉ có niềm vui và và
những con người tao nhân mặc khách ấy, xuất hiện một tên phá đám tự xưng là
Cậu Trời - Đặng Lân. Đặng Lân vốn là em trai của Tuyên phi Đặng Thị Huệ.
Cậy thế chị gái mình được chúa sủng ái, hắn tự cho bản thân cái quyền lực ngang
với chúa. Sự hiện diện và hành động của Đặng Lân không chỉ là sự phá đám đối
với riêng đêm hội, khiến cuộc hoa mất vui, mà còn đem đến dự cảm về những
điều chẳng lành phía trước về một bi kịch tình yêu vừa hé nở đã bị dập vùi,
24
nhưng xa hơn còn là những sóng gió thiên triều. Tĩnh Đô Vương vì si mê Đặng
Tuyên phi mà không còn là người cầm cân nảy mực sáng suốt trong triều đại ấy
nữa. Ngài gả con gái yêu là quận chúa Quỳnh Hoa cho gã Đặng Lân ngỗ ngược.
Về phần Đặng Lân, được thể là con rể chúa, hắn ngày càng lộng hành, càn rỡ,
cướp bóc tài sản, hãm hiếp phụ nữ…, khiến người dân kinh thành lúc nào cũng
nơm nớp lo sợ gặp vạ bởi tay hắn. Điều đáng ngạc nhiên là Tĩnh Đô Vương biết
nhưng làm ngơ và không bao giờ xử phạt tên con rể đại nghịch bất đạo này. Kỉ
cương, phép nước trở nên vô nghĩa khi chỉ một lời xin của tuyên phi là chúa lại
tha cho gã ngay cả với những tội tày đình nhất. Quần thần và dân chúng oán
thán, tất cả đều trông chờ vào sự tỉnh ngộ của nhà chúa, nhưng điều đó đã không
xảy ra. Chỉ đến khi quan Hộ thành binh mã sứ Nguyễn Mại quyết ra tay diệt trừ
kẻ cường bạo, đòi lại sự công bằng và trị an cho nhân dân, đại nghĩa cuối cùng
đã chiến thắng.
Bằng kịch bản chuyển thể cùng tên của hai nhà biên kịch Lê Phương và
Hoàng Nhuận Cầm, đạo diễn - nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đã xây dựng thành
phim vào năm 1989. Cắt nghĩa vì sao tác phẩm này được chọn làm phim, nhà
nghiên cứu văn học Trần Quốc Huấn viết: “Những người làm phim Đêm hội
Long Trì đã phát hiện ra, bằng khứu giác nghề nghiệp của mình, một thứ trầm
hương kỳ lạ tàng ẩn trong tiểu thuyết… Đứng ở góc độ điện ảnh, cũng có thể
phát hiện ra, nhìn thấy được phần cốt cách văn hóa của dân tộc” [23, tr.6]. Đặc
trưng của cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh là tính chất kịch (hay còn được gọi
là kịch tính). Đó là mức độ cao nhất của những xung đột giữa các nhân vật với
nhau, với hoàn cảnh sống để tạo ra đột biến và gây bất ngờ hấp dẫn khán giả.
Văn hào Nga Maksim Gorky khi bàn về nghệ thuật cho rằng, cốt truyện là những
mối liên hệ, những mâu thuẫn, những thiện cảm và ác cảm, nói chung là những
mối quan hệ qua lại của con người lịch sử phát triển và tổ chức của tính cách
này hay tính cách khác. Đối chiếu với nhận định của M. Gorky vào trường hợp
Đêm hội Long Trì, có thể thấy cốt truyện tiểu thuyết này hoàn toàn đáp ứng
chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với những mâu thuẫn, những thiện cảm và
25
ác cảm đủ để nảy sinh những xung đột kịch tính, tạo nên bước ngoặt và gợi mở
suy đoán của người xem.
Theo lý thuyết chuyển thể mà nhà nghiên cứu người Canada Linda Hutch
trình bày trong cuốn Theory of Adaptation (bản dịch của Hoàng Cẩm Giang,
Phạm Minh Diệp; Trần Nho Thìn hiệu đính; chưa xuất bản), “Chuyển thể liên
quan tới tái diễn giải, tái sáng tạo… Tái tạo cái thân thuộc làm cho nó mới”,
các tác phẩm chuyển thể “có mối quan hệ công khai và cụ thể với văn bản trước
đó gọi là nguồn” [17, tr.189], ta thấy phim điện ảnh Đêm hội Long Trì được
chuyển thể theo phương thức sát với văn bản gốc, khá trung thành với nguyên
tác, được nhà làm phim phát triển, bổ sung thêm một số tình tiết, chi tiết nhằm
nhấn mạnh diễn biến tâm lý nhân vật với những đấu tranh nội tâm giằng xé,
phức tạp. Không chỉ giữ nguyên nhan đề tác phẩm văn học, mạch phim tôn trọng
hầu hết đường dây chính cốt truyện. Cốt truyện bộ phim là dồn dập lớp lang với
những sự kiện kịch tính xuyên suốt. Thông thường, một cốt truyện tự sự có 5
thành phần: Trình bày - thắt nút - phát triển - cao trào - mở nút, có thể thay đổi
vị trí ở từng phim, song luôn có vai trò hỗ trợ chặt chẽ với nhau về nội dung và
nghệ thuật. Đêm hội Long Trì có cốt truyện truyền thống của hình thức tự sự
điển hình, trong đó các sự kiện, biến cố được trình bày theo thời gian tuyến tính,
trần thuật khách quan. Sau đây, chúng tôi xin lập đường dây cốt truyện theo
Bảng thống kê thành phần và các sự kiện chính tương ứng như sau:
Thành phần Sự kiện
- Đêm hội Trung thu náo nhiệt bên hồ Long Trì.
- Sự xuất hiện các nhân vật trong đêm hội: Thi sĩ Bảo Kim
cùng nhóm bạn văn nhân, Quận chúa Quỳnh Hoa, Tướng
Trình bày Nguyễn Mại, Chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm, Tuyên phi Đặng
Thị Huệ, Quốc cữu Đặng Lân…
- Trường bút chiến “Quần anh hội” và mối tình trong sáng
nảy nở giữa thi sĩ Bảo Kim và quận chúa Quỳnh Hoa.
26
- Quốc cữu Đặng Lân xuất hiện như “trận cuồng phong thổi
trong đám hội” đang bày trò càn rỡ, ức hiếp dân phụ.
- Vẻ đẹp của Quận chúa Quỳnh Hoa lọt vào con mắt háo Thắt nút sắc của Đặng Lân.
- Nguyễn Mại ra tay nghĩa khí và gây thù chuốc oán với
Đặng Lân.
- Chúa Tĩnh Đô Vương phong cho Tướng Nguyễn Mại là
Quan Hộ thành binh mã sứ.
- Tuyên phi Đặng Thị Huệ xin Chúa ban hôn Quận chúa Phát triển Quỳnh Hoa cho Đặng Lân. Nhà chúa đồng ý, song ra điều
kiện động phòng hoa chúc phải hoãn đến năm Quận chúa
tròn 18 tuổi.
- Đặng Lân phá bỏ chỉ dụ của của Chúa, giết đại thần, định
cưỡng ép Quỳnh Hoa. Bảo Kim cùng các bạn đột nhập phủ
Phò mã tìm cách giải cứu Quận chúa và bị Đặng Lân bắt
được. Lo sợ người yêu bị tra tấn, Quỳnh Hoa chấp nhận để
Cao trào Đặng Lân dày vò thân xác.
- Nguyễn Mại giải thoát cho nhóm Bảo Kim khỏi phủ Đặng
Lân.
- Đặng Lân vẫn tiếp tục nghênh ngang, càn rỡ, bức hại dân
lành, hãm hiếp phụ nữ ngay giữa thanh thiên bạch nhật.
- Quan Hộ thành binh mã sứ Nguyễn Mại ra tay giết Đặng
Lân trừ hại cho dân. Mở nút - Cái chết của Quỳnh Hoa Quận chúa trong sự ân hận của
Chúa Trịnh.
Với cấu trúc thuận theo tuyến tính, truyện phim của Hải Ninh chuyển thể
giữ nguyên đường dây chính cốt truyện văn học, tập trung phản ánh bi kịch của
những con người trong tác phẩm, mà cụ thể ở đây chính là bi kịch trong gia đình
Chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương với những mối quan hệ xoay quanh người nắm
giữ vương quyền. Tuy nhiên, nhân vật quyền lực có thể điều tiết tất cả những
27
mối quan hệ và các xung đột đó lại vì một chữ “sắc” mà hất bỏ tất cả: kỷ cương
phép nước, cương thường luân lý, tình nghĩa cha con, đạo nghĩa quân thần… Sự
gay gắt của mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội tuy được làm mờ đi, song
những xung đột và ý thức phản kháng thì vẫn còn đó và ngày càng trở nên rõ
nét.
Cả tiểu thuyết và truyện phim đều mở đầu bằng đêm hội Trung thu bên
hồ Long Trì hoa lệ, náo nhiệt và kết thúc bằng cái chết của Quận chúa Quỳnh
Hoa trong sự hối hận của Chúa Trịnh. Tuy nhiên, cách sắp xếp các chi tiết, tình
tiết trong hai tác phẩm văn học và điện ảnh thì không giống nhau. Trong tiểu
thuyết Đêm hội Long Trì, mở đầu tác phẩm là cuộc gặp gỡ của Bảo Kim và
Quỳnh Hoa tại đêm hội và mối tình “tình trong như đã, mặt ngoài còn e” bắt
đầu nảy nở. Từ đó cho đến khi kết thúc câu chuyện, nỗi khổ đau trong bi kịch
tình yêu của họ tạo nên những biến cố liên tục dẫn dắt mạch truyện. Còn trong
phim, ngay đoạn đầu, giữa khung cảnh lung linh của đêm hội là sự xuất hiện của
Chúa Trịnh Sâm và Tuyên phi Đặng Thị Huệ trên chiếc thuyền rồng trên hồ
Long Trì. Hai người bận tình tứ yêu đương mà quên cả thưởng lãm cảnh vật đêm
Trung thu đầy thi vị. Đây là hai nhân vật mà tình yêu của họ không chỉ mang
đến khổ đau, ngang trái cho bao người xung quanh mà còn gây nên những sóng
gió vương triều. Phần mở đầu của tác phẩm luôn đóng vai trò quan trọng trong
việc gây ấn tượng, tạo sức hút đầu tiên với độc giả và khán giả, đồng thời hé lộ
một phần của câu chuyện sắp diễn ra. Trong những phút đầu của Đêm hội Long
Trì là những phút vui, những khoảnh khắc hạnh phúc, để trên cái nền sắc màu
rộn rã ấy, các nhân vật lần lượt xuất hiện. Nhưng niềm vui chỉ có ở phân đoạn
đầu ấy đã không lặp lại thêm một lần cho đến khi kết thúc tác phẩm.
Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng từ một sự kiện có thật trong lịch
sử mang tính thắt nút: Tĩnh Đô Vương vì si mê Đặng Tuyên phi đã gả con gái
yêu là Ngọc Lan cho em trai Tuyên phi là Đặng Mậu Lân, đã xây dựng nên tình
huống Quận chúa Quỳnh Hoa bị ép gả cho Đặng Lân và tạo thêm những nhân
28
vật hư cấu (thi sĩ Bảo Kim, tướng Nguyễn Mại…) để chuyển tải ý tưởng nội
dung của mình. Các nhà làm phim Đêm hội Long Trì tuy dựa hẳn vào tiểu thuyết
của nhà văn, nhưng cũng có những phần gia giảm, thêm bớt, đã đưa thêm một
loạt tình tiết như: việc Trịnh Sâm phế trưởng lập thứ, nghi ngại trung thần…;
Đặng Thị Huệ xây dựng vây cánh, âm mưu và dùng thủ đoạn tranh đoạt ngôi
vương cho con trai; Nhân vật Nguyễn Mại được xây dựng thêm nhiều nhiều
phân đoạn xuất hiện trong phim; Nguyễn Mại bị xử chém... cũng như thay đổi
vị trí các chi tiết, sự kiện, tình tiết so với tiểu thuyết. Nếu như mở đầu bộ phim
là niềm vui, thì kết thúc là nỗi chua xót. Ở trong tiểu thuyết, đoạn kết, Quan Hộ
thành binh mã sứ được Chúa tha tội chết trong tiếng hò reo đồng tình của dân
chúng, thì kết thúc bộ phim, Nguyễn Mại vẫn bị xử chém, khi Chúa nghĩ lại
cũng đã muộn… Cái kết phim khá bất ngờ với người xem, khi tướng Nguyễn
Mại chính là hiện thân của ước vọng công lý cho nhân dân của nhà văn đã không
thể giữ được mạng sống. Với Nguyễn Mại, Nguyễn Huy Tưởng đã gửi gắm vào
đó ước muốn đổi thay thế lịch sử, cũng như kì vọng về tương lai, về một kết thúc
có hậu (happy ending), ở hiền gặp lành, chính nghĩa thuộc về muôn dân, cách
kết thúc thường thấy trong các tác phẩm tự sự cổ điển. Song với các nhà làm
phim, họ muốn ám chỉ sâu xa về sự khủng hoảng của một triều đại, một thể chế
đã đến mức không còn lối thoát cho con người. Ở đoạn kết này, chúng ta nhận
thấy, cảnh kết của tiểu thuyết là sự đổ sụp của Tuyên phi. Nhưng trong phim,
nàng lạnh lùng và cô đơn bước lên ngai cao, còn phía dưới chỉ thấy Hề trò cung
đình không diễn trò Ông già đi hội nữa mà đặt con rối của mình xuống, kéo lê
trên mặt đất và bỏ đi. Dù thể hiện theo những cách khác nhau trong phần mở
đầu và kết thúc của tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh đều đạt được thành
công nghệ thuật, chuyển tải tư tưởng của tác giả và đạo diễn, phản ánh sinh động
xã hội đương thời. Nó khiến cho người đọc tiểu thuyết và xem phim Đêm hội
Long Trì nhận ra cái đêm hội đầy sắc màu và thanh âm kia, những đền đài nguy
nga tráng lệ kia, những quyền lực vương triều kia… thực ra chỉ là phù hoa, hư
29
ảo. Và tất cả các nhân vật trong đó dường như cũng đang bị vây hãm không lối
thoát.
1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật chuyển thể Đêm hội Long Trì
Không gian và thời gian là một phạm trù triết học chỉ sự tồn tại của thế
giới vật chất. Không có gì có thể tồn tại bên ngoài không gian và thời gian.
Không gian và thời gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật,
thể hiện sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ. Nó không chỉ là không gian và thời
gian vật chất mà là một phương thức biểu hiện thế giới tinh thần, hiện thực đời
sống thông qua tác phẩm văn chương. Khi kể câu chuyện về thế giới hiện thực
khách quan của con người, tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh luôn lưu tâm
đến yếu tố thời gian và không gian. Đó không chỉ là sự tồn tại của thế giới vật
chất mà chi phối mạnh mẽ đến tư tưởng thẩm mỹ và ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Dựa trên những sự kiện và nhân vật lịch sử có thật, đã được lưu lại trong
văn chương và sử sách thời phong kiến, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tạo nên
một không gian lịch sử riêng với những số phận, những tính cách, những xung
đột chứa đựng tư tưởng sâu xa của xã hội đương thời. Tiểu thuyết Đêm hội Long
Trì viết về thời điểm sự chịu đựng của nhân dân đối với bộ máy cầm quyền
phong kiến đã đến đến mức không thể kìm nén, những mâu thuẫn giữa nhân dân
và phe thống trị ngày càng bộc lộ một cách sâu sắc, xã hội phong kiến Việt Nam
đang dần bước vào suy tàn.
Tác phẩm đã phản ánh đời sống đất nước giai đoạn Lê - Trịnh với bối
cảnh kinh thành Thăng Long thế kỷ XVIII. Bằng vốn kiến thức lịch sử và văn
hóa sâu rộng, Nguyễn Huy Tưởng đã mang đến cho người đọc một khung cảnh
về Thăng Long sống động, nhộn nhịp, mà ấn tượng nhất chính là lễ hội Long
Trì. Trong tiểu thuyết, tác giả dành nhiều trang viết để nói về đêm hội với những
diễn biến, vẽ nên bức tranh Long Trì đêm Trung thu với tất cả sắc màu của nó:
“Hồ Long Trì đã thành một nơi bồng lai mộng ảo, cách biệt với phàm trần. Hồ
rộng hơn nửa dặm, thả rất nhiều sen ấu. Bên hồ có đắp những ngọn giả sơn to
30
bằng đất hoặc bằng đá. Trong hang, trong hốc, hoặc trên đỉnh, hoặc dưới chân,
hoặc trước hoặc sau ẩn ẩn, hiện hiện có những chàng Tương Như, hay những
gã Tiêu Lang ngồi hòa nhạc, ăn mặc ra vẻ tiên phong đạo cốt. Núi vọng ra
những tiếng bổng tiếng chìm, tiếng ti, tiếng trúc, nghe lả lướt du dương. Bờ hồ,
trên cành hàng mấy trăm gốc phù dung, dương liễu có treo muôn thứ đèn lồng
bằng gấm vóc. Những đèn ấy đều do chúa Tĩnh Đô sai cũng nữ chế ra, tinh khéo
tuyệt vời, mỗi chiếc đáng giá mấy lạng bạc. Xa trông như muôn vàn sao lốm
đốm sáng.
Và bàng bạc khắp nơi, tô điểm thêm lên là ánh sáng trăng rằm. Trăng
không trong, hơi đục, nên cảnh sắc càng thêm mông lung phiếu diểu. Đường đi,
bóng cây in xuống, khi xóa khi hằn, theo với gió thu. Trời chưa mát, nhưng cũng
không nức lắm. Hai bên đường, hoặc dựa vào chân núi, hoặc dựng biệt lập một
nơi, có những cửa hàng bán khắp đồ tạp hóa phương nam, phương bắc, cho chí
thịt, quả, rượu, nem, không gì là không có” [43, tr.7-8]. Đêm hội Long Trì là câu
chuyện về đời sống cung đình, nhưng không có nhiều đoạn mô tả quang cảnh
trong cung. Tuy nhiên, ngay từ những trang đầu về đêm trung thu, người đọc đã
có thể mường tượng ra được sự xa hoa, giàu có, thú ăn chơi của bậc đế vương.
Hồ Long Trì là hồ nằm trong Bắc Cung của Phủ Chúa, nơi vốn chỉ dành cho
những người hoàng gia. Chỉ cần những dòng mô tả về hồ Long Trì và sự bài trí
đêm trung thu đã đủ để thấy sự hoa lệ tráng ngợp. Tái hiện lại bức tranh trong
quá khứ, nhà văn còn gợi được cái không khí khi tưng bừng náo nhiệt, khi thi vị
du dương của những cảnh, những tình, với những tài tử giai nhân “ngựa xe như
nước áo quần như nêm” trong đêm hội. Ấy vậy nhưng đằng sau cái vẻ nhàn tản,
mơ mộng có vẻ như thái bình thịnh trị của xã hội thời Trịnh Sâm, đằng sau sự
giàu sang, tráng lệ là cả những giông tố, rối ren, thối nát và suy đồi. Điều đó thể
hiện ngay qua sự xuất hiện của Đặng Lân: “Tưởng như có một trận cuồng phong
thổi trong đám hội, người chạy như ong: tiếng kêu, tiếng thét, tiếng gọi nhau
liên tiếp... một thiếu phụ đầu tóc rũ rượi chạy vào hổn hển:
31
- Ai cứu tôi với. Cậu Trời...” [43, tr.9].
Không gian lịch sử của Đêm hội Long Trì đã hiện dần qua từng chi tiết
như vậy. Chỉ qua những trang viết đầu, bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam
thời vua Lê Ý Tông đã được Nguyễn Huy Tưởng tái tạo một cách chân thực và
sinh động: nhà Lê thì bạc nhược, chúa Trịnh Sâm thì bị Đặng Thị Huệ thao túng.
Điều đó thể hiện qua cái thở dài của quận chúa Quỳnh Hoa trong lễ hội sau khi
cơn dư chấn Đặng Lân vừa quét qua:
“Quỳnh Hoa thở dài:
- Chỉ tại…
Nàng muốn nói: “Chỉ tại phụ vương sủng ái Đặng Tuyên phi”. Nhưng
trước mặt mọi người nàng không dám nói rõ nỗi lòng” [43, tr.22].
Không gian là tổng hòa của các hiện tượng cùng loại. Theo Lê Thị
Dương, “Trong văn học, không gian được tạo nên bởi những từ ngữ hình ảnh,
sự kiện… là kiểu không gian tưởng tượng, suy tưởng, do vậy yếu tố chủ quan
của tác giả đóng vai trò rất quan trọng. Trong điện ảnh, không gian được cụ thể
hóa bởi các hình ảnh có điểm nhìn, cỡ cảnh khác nhau, cùng sự hỗ trợ của âm
thanh và ánh sáng” [9, tr.122]. Việc xây dựng bối cảnh trong tác phẩm văn học
được phác họa bằng ngôn từ, đôi khi chỉ cần vài dòng, vài câu chữ và không cần
phải nhắc lại, song với điện ảnh thì khác, điện ảnh cần phải sáng tạo ra không
gian đó. Những nhà làm phim luôn phải rõ ràng trong mỗi bối cảnh, chọn lựa
không gian phù hợp để phản ánh đúng giai đoạn lịch sử, yếu tố văn hóa và phù
hợp với sự kiện và cảm xúc nhân vật. Theo dõi phim điện ảnh Đêm hội Long
Trì, chúng ta sẽ thấy sự lao động nghiêm túc và đầu tư công phu của các nhà
làm phim, chỉ riêng phần bối cảnh đã rất kỳ công. Đặc biệt, không gian đẹp
nhất, có tính tạo hình và mang lại hiệu thẩm mĩ và tư tưởng cao nhất của bộ
phim chính là không gian lễ hội trung thu bên hồ Long Trì mở đầu tác phẩm.
Đây là không gian điển hình cho tác phẩm, cũng là điển hình đại diện ẩn dụ
cho bộ máy cầm quyền đương thời. Tính điển hình ở đây được hiểu cả về diện
32
mạo vật chất và quan trọng hơn là thế giới tinh thần trong đó. Đạo diễn Hải
Ninh đã dựng lên một đêm hội Long Trì thật sự với bối cảnh được quay tại
nhiều địa điểm ở Hà Nội và Huế. Trong hơn 20 phút diễn ra đêm hội, tất cả các
yếu tố: quang cảnh, cách bài trí, đạo cụ, trang phục, âm nhạc, các tiết mục nghệ
thuật, các tục lệ… đều mang dấu ấn văn hóa Việt Nam đậm nét thế kỷ XVIII.
Trên nền nhạc Lưu Thủy Kim Tiền, một trong những bản nhạc cung đình nổi
tiếng của âm nhạc dân tộc Việt, là khung cảnh hội hè tấp nập, nam thanh nú tú
dập dìu, những hàng quán với các sản phẩm truyền thống, hội múa lân tưng
bừng, thuyền rồng lướt sóng trên hồ, hội thả đèn hoa đăng lung linh… Không
chỉ vậy, người xem còn được thấy trong đó màn diễn rối nước và màn tuồng
Ông già xem hội đều là những môn nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam. Về ý
nghĩa văn hóa, việc lồng ghép và tái hiện bản sắc dân tộc Việt qua trường đoạn
đêm hội Long Trì đã góp phần làm nên giá trị và sức sống lâu bền cho tác
phẩm.
Có thể nói, đây là phân cảnh gây ấn tượng nhất trong Đêm hội Long Trì,
cũng là bối cảnh thành công nhất trong việc khôi phục lại không gian, thời gian,
con người của cả một thời kì đã lùi sâu vào dĩ vãng của thời Lê Trung Hưng.
Cho đến hôm nay, hồ Long Trì cũng chỉ còn là một địa danh trong quá vãng,
chẳng còn đâu bóng dáng của phủ chúa uy nghi, những buổi hội hè náo nhiệt,
rực rỡ, thuyền rồng rẽ sóng trên hồ... Tất cả chỉ còn trong mường tượng, trong
những thước phim điện ảnh tráng lệ, nhưng vẫn khiến lòng người tiếc nuối vô
cùng...
Phim điện ảnh Đêm hội Long Trì không có nhiều ngoại cảnh. Ngoài phân
đoạn lễ hội mở đầu và một số phân đoạn Đặng Lân mang võng lọng ra phố bắt
hiếp con gái nhà lành, phân đoạn Trịnh Sâm đi dạo với Quỳnh Hoa, đi ngắm hoa
sen với Đặng Thị Huệ… là ngoại cảnh thì phần lớn các phân đoạn còn lại đều là
nội cảnh. Trong tiểu thuyết, hầu hết nội dung diễn biến cũng đều là nội cảnh.
Nguyễn Huy Tưởng không dành nhiều dòng viết để mô tả phủ Chúa Trịnh, cũng
33
như mô tả không gian trong truyện, nhưng mỗi trang viết về diễn biến câu
chuyện cho người đọc một cảm giác ngột ngạt, tù túng, có cảm giác như, mỗi
nhân vật đều như bị vây hãm trong không gian nguy nga tráng lệ đó. Cuộc sống
vàng son của họ không hạnh phúc mà luôn đầy những tâm tư, giành giật, mưu
toan chốn cung đình. Đạo diễn Hải Ninh rất hiểu ý tưởng đó của tác giả văn học,
ông chuyển tải trọn vẹn điều đó vào từng bối cảnh và từng nhân vật. Phim Đêm
hội Long Trì có thể nói đã tái hiện xuất sắc không gian, bối cảnh lịch sử. Từng
chi tiết đều được chăm chút. Trong phim, đạo diễn đã chú trọng xây dựng nhiều
bối cảnh, ngoại cảnh và nội cảnh được thay đổi liên tục, khiến bộ phim không
bị đóng hộp trong những căn phòng. Các phân đoạn khá thống nhất về ý tưởng
không chỉ về mặt cốt truyện, mà còn về mặt kết cấu, bối cảnh, thời gian. Với
việc khắc họa mối tình mê muội của Chúa Trịnh với Đặng Thị Huệ, đạo diễn
Hải Ninh dùng nhiều phân cảnh để tập trung vào hai nhân vật này, đặc biệt làm
nổi rõ sự say mê sắc đẹp đến buông lỏng triều cương, bỏ qua đạo lý của Tĩnh Đô
Vương, cùng với đó là những âm mưu, toan tính của Đặng Tuyên phi. Nếu trong
tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng chỉ xây dựng Đặng Thị Huệ ở khía cạnh lợi
dụng sắc đẹp làm lu mờ ý chí Chúa Trịnh, để Chúa bỏ qua cho những tội trạng
của em trai mình và gả Quỳnh Hoa quận chúa cho Đặng Lân, thì trong phim
chuyển thể, người đàn bà này còn nham hiểm hơn khi mưu đồ phế trưởng lập
thứ. Những phân cảnh của Hải Ninh khắc họa rõ nét âm mưu của người đàn bà
đẹp, càng cho thấy một Trịnh Sâm mù quáng đến nỗi “đắm cơ đồ”. Điều đó thể
hiện ở nhiều phân đoạn, mà cụ thể nhất là phân đoạn Đặng Thị Huệ tắm để chuẩn
bị đón Chúa Trịnh [28, tập 1, 00:40:48] cho thấy rõ những mưu cơ của nhân vật
này. Khi đó, Đặng Lân đến nhờ chị gái mình giúp cầu hôn Quỳnh Hoa với Chúa
Trịnh xong rồi đi ra. Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng chỉ trần thuật đơn
giản: “Đặng Lân vừa ra thì chúa Tĩnh Đô vừa ngự tới Bội Lan thất. Tuyên phi
ra trước thềm, quỳ dâng một lẵng hoa. Chúa nâng nàng dậy, đỡ lấy lẵng hoa
phán:
34
- Sao ái phi lại làm thế? Đã là chỗ vợ chồng lại còn giữ lễ. Trong chốn
buồng thêu, ta cũng không nên câu nệ quá!” [43, tr.57].
Còn trong phim, Hải Ninh đã dành một khoảng thời lượng khá lớn xây
dựng phân đoạn này với chi tiết Đặng Thị Huệ tắm. Sau khi Đặng Lân đi ra,
Đặng Thị Huệ nhận được truyền chỉ giờ ngọ Chúa tới. Tuyên phi gọi người lấy
gương trang điểm, song lại không ưng ý. Vậy nên Thị Huệ quyết định đi tắm.
Khi đó, Thị Huệ khỏa thân trong bồn tắm, để lộ bầu ngực căng tròn, cố tình để
Trịnh Sâm trông thấy. Trịnh Sâm ngắm nhìn Tuyên phi không chớp mắt, như
"ngây vì tình". Đặng Thị Huệ là một người phụ nữ đẹp, vẻ đẹp của nàng ta được
Nguyễn Huy Tưởng mô tả: “Bên cạnh phi thì bao nhiêu cung nữ, kể cả Quỳnh
Hoa bị lu mờ, vì phi trông rực rỡ, toàn thắm, toàn tươi. Đẹp mà không nhạt
nhẽo, hơi đẫy mà không thô, nông nàn mà không lơi lả. Phi là một người đàn bà
có một sắc đẹp quyến rũ yêu quái. Người phi là tiếng gọi của dục tình”[44,
tr.26]. Vẻ đẹp ấy khiến người ngắm nhìn cảm thấy bất an, theo cách nói của
Nguyễn Mại: "Người đẹp thế kia làm gì mà chẳng gây vạ" [43, tr.27].
Khi chuyển thể tác phẩm văn học, đạo diễn Hải Ninh không thể dùng ngôn
ngữ văn học mô tả vẻ đẹp của Đặng Tuyên phi, ông đã dùng thủ pháp điện ảnh
thông qua phân cảnh Thị Huệ tắm. Và điều đó đã tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ sâu
sắc. Vào những năm 1989, 1990, cảnh “nóng” này từng gây xôn xao một thời,
nhưng đó là dụng ý nghệ thuật của đạo diễn Hải Ninh hoàn toàn chính xác về
mặt sử liệu. Cảnh quay được xử lý nghệ thuật, tinh tế và có sức biểu cảm. Có
thể nói, Đặng Thị Huệ biết rõ thói ham mê sắc dục vô độ nên đã lợi dụng điểm
này để quyến rũ, điều khiển Trịnh Sâm. Và đúng như tâm ý, Chúa Trịnh đã chiều
ý Tuyên phi mà đồng ý gả Quỳnh Hoa cho tên phàm phu tục tử Đặng Lân.
Trịnh Sâm là người cha thương con, nhưng sự thao túng của Đặng Thị
Huệ khiến ông ta không cưỡng lại được. Để rồi sau đó, rất nhiều lúc trăn trở.
Đạo diễn Hải Ninh rất quan tâm đến những không gian tự sự này. Những phân
cảnh miêu tả tâm sự nhân vật, nhất là các phân cảnh tâm tư của chúa Trịnh được
35
tác giả đặt vào giữa không gian thiên nhiên, thể hiện tình cảm cũng như sự giàng
xé nội tâm của người cha đối với con gái mình. Phân đoạn gây xúc động nhiều
cho người xem ở tập 1, chúa Trịnh Sâm dành thời gian quây quần bên con gái
yêu Quỳnh Hoa [28, tập1, 00:53:46]: đi dạo, trò chuyện, ngắm hoa, chơi thả
diều, hái sen... Dường như, người cha tội lỗi đã đẩy con gái vào cuộc hôn nhân
không lối thoát ấy đang cố níu kéo khoảng thời gian ngắn ngủi bên con, bù đắp
cho con. Việc xây dựng những phân cảnh này đã làm nổi rõ thế mạnh của điện
ảnh, cho người xem những phút lắng đọng về tình phụ tử.
Hình 3: Trịnh Sâm cùng Quỳnh Hoa đi hái sen
Hay ở một phân đoạn khác, mở đầu chương V, khi chuẩn bị đưa Quận
chúa Quỳnh Hoa về nhà chồng, “Chúa Tĩnh Đô đi đi lại lại trong trong cung,
lòng Chúa bị bao nhiêu tình cảm chia xé. Trông nét mặt cũng biết ngài đau khổ
vô cùng. Một lúc, người thái giam chí thân của Chúa là Khê Trung hầu khúm
núm bước lên thềm. Tĩnh Vương ra hiệu cho vào, và hỏi ngay:
- Ta hối vô cùng, nhưng không còn cách gì nữa. Nay ta cự hôn, thì không
những Tuyên phi phẫn uất, mà ta còn mang tiếng trẻ con với thần dân. Các quan
dâng sớ can gián ta nhiều lắm, người nào cũng bàn nên hoãn việc hôn nhân, lấy
cớ là Quận chúa còn nhỏ dại. Ý ngươi thế nào?
- Tâu Chúa thượng, cứ như ý ngu thần, ta nên hoãn rồi liệu cớ thoái thác,
chứ đem Quận chúa mà gả cho em Tuyên phi thì làm hại cả một đời Quận chúa.
36
Quận chúa có được như ai! Người hiền lành, mà sức thì yếu. Chỉ e Quốc cữu là
một kẻ vũ phu…
Khê Trung hầu chợt im không nói nữa, trán vã mồ hôi. Tuyên phi vén rèm
bước ra, dáng giận dữ, vẻ đẹp kiêu kỳ” [43, tr.90].
Nguyễn Huy Tưởng chỉ nêu bối cảnh ngắn gọn là "trong cung". Khi
chuyển thể, đạo diễn Hải Ninh đã hòa trộn không gian khi xây dựng bối cảnh
xen lẫn ngoại cảnh và nội cảnh.
“CẢNH: VƯỜN CẢNH TRƯỚC PHỦ CHÚA VÀ TRONG PHỦ -
NGOẠI CẢNH RỒI NỘI CẢNH - NGÀY:
Chúa Trịnh đi đi lại lại trong vườn cảnh, nét mặt suy tư. Khê Trung hầu
đi tới, quỳ xuống bái kiến.
Khê Trung hầu: Chúa Thượng thiên tuế!
Trịnh Sâm: Miễn lễ.
Chúa Trịnh bước xuống:
Trịnh Sâm: Ta nghe trong ngoài bàn tán xôn xao về hôn nhân của quận
chúa. Ngươi thấy thế nào?
Khê Trung hầu: Tâu Chúa thượng, việc đó là có thật.
Chúa Trịnh trầm ngâm, xoay người bước đi đầy tâm trạng. Khê Trung hầu
đi sau. Phía xa, Hề trò cũng tấp tểnh bước theo…
Trịnh Sâm: Các quan dẫn sớ, can gián ta rất nhiều. Ai cũng lấy cớ, quận
chúa còn nhỏ quá.
Khê Trung hầu: Quận chúa là người hiền lành, sức yếu, còn Quốc cữu lại
là kẻ vũ phu. Thần sợ như vậy sẽ hại cả cuộc đời Quận chúa.
Trịnh Sâm: Ta hối vô cùng. Nhưng không còn cách nào khác.
Chúa Trịnh và Khê Trung hầu bước qua, Hề trò bước tới giọng cảm thán:
“Thân em như dải lụa đào
37
Cởi ra cũng khó mặc vào không xong
Trăm năm trong cõi đèo bòng
Trách ai ham sắc mà còng lưng tôm…”
Trịnh Sâm và Khê Trung hầu đi vào trong phủ. Khê Trung hầu tiếp tục
can gián:
Khê Trung hầu: Tâu Chúa thượng, Quốc cữu là kẻ thô suất… không hợp
với tính đoan trang của Quận chúa. Huống chi Quận chúa là người gầy yếu. Tâu
Chúa thượng, chịu sao nổi một kẻ phàm phu?
Trịnh Sâm: Ta cũng nghĩ vậy. Nhưng đã lỡ rồi. Nay nếu ta từ hôn, e Tuyên
phi sẽ buồn phiền, ta lại mang tiếng là tiền hậu bất nhất.
Khê Trung hầu vẫn tha thiết:
Khê Trung hầu: Chúa thượng là người cha, lẽ nào…
Chúa nhìn Khê Trung hầu, tần ngần như muốn nói, rồi lại quay đi tránh
ánh mắt của viên thái giám hầu cận.
Khê Trung hầu: Chúa thượng nên hoãn lại, rồi tìm cớ thoái thác sau…
Khê Trung hầu vừa nói đến đây thì Tuyên phi Đặng Thị Huệ bước vào,
ánh mắt đầy oán giận...” [28, tập 1, 01:14:21].
Trong việc xây dựng không gian, văn học và điện ảnh đều có thế mạnh
riêng. Điện ảnh cho người xem một không gian cụ thể, sống động. Trong bộ
phim Đêm hội Long Trì, từ hình ảnh, âm thanh, màu sắc hòa quyện với cảm xúc
nhân vật đã tạo nên những cảm xúc chân thực. Trong đó, một thành công nữa
của các nhà làm phim là phục trang của diễn viên được nghiên cứu và phục dựng
khá chuẩn xác. Cũng như bối cảnh, phục trang có những chức năng cụ thể trong
tổng thể của bộ phim và phạm vi những khả năng của nó là rất lớn. Từ trang
phục của các nhân vật chính đến các vai phụ, vai quần chúng đều có các bộ phục
trang phù hợp, đúng giai đoạn lịch sử. Đi cùng đó là đạo cụ trong phim cũng
38
được sử dụng hợp lý đã tạo hiệu ứng cần thiết, giúp bộ phim đến gần với người
xem, phản ánh đúng thời đại.
Về mặt bối cảnh, cũng có người cho rằng, một số bối cảnh được đạo diễn
thực hiện là kinh đô Huế là chưa phù hợp về mặt thời gian lịch sử. Tuy nhiên,
qua xem xét kỹ các phân cảnh liên quan, chúng tôi thấy rằng đạo diễn đã khéo
léo sử dụng các góc quay để không làm rõ các chi tiết mang tính đặc trưng thời
kỳ lịch sử, đồng thời tận dụng sự cổ kính của bối cảnh. Trong điều kiện làm
phim dã sử vào những năm 1980, điều kiện khó khăn, với cách làm phim nghiêm
túc và nghiên cứu sâu sắc như vậy là điều rất đáng trân trọng và có thể châm
chước ở một vài tiểu tiết.
Một bộ phim hay, hấp dẫn không chỉ bởi cốt truyện hay mà còn ở bối cảnh
phù hợp để kể câu chuyện trong tác phẩm văn học. Không - thời gian nghệ thuật
là yếu tố hết sức quan trọng để câu chuyện được diễn ra chuyển tải trọn vẹn ý
đồ tác giả. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thời gian nghệ thuật là “hình
thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”, “xuất
phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian” [13, tr.272]. Thời gian trong
Đêm hội Long Trì là thời gian tuyến tính. Các nhà làm phim đã giữ nguyên hệ
thống cốt truyện và cách kết cấu thời gian tuyến tính. Các sự kiện diễn ra nối
tiếp theo dòng thời gian. Thời gian đóng vai trò như một nhân tố trong cấu trúc
nghệ thuật của bộ phim. 167 trang tiểu thuyết được chuyển thể thành 2 tập phim
với tổng thời lượng gần 3 tiếng đồng hồ với đầy đủ không gian, thời gian mà
Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng trong tác phẩm văn học. Thời gian tuần tự, sự
kiện nối tiếp sự kiện, xung đột liên tiếp xung đột, khiến nỗi mâu thuẫn càng lúc
càng gia tăng, bi kịch càng lúc càng vây hãm những nhân vật trong phim. Sự
khác biệt cơ bản nhất về thời gian nghệ thuật là phân cảnh kết thúc bộ phim với
ý đồ rõ nét của đạo diễn khi xây dựng cảnh kết phim cũng diễn ra vào đêm tối
với sự xuất hiện của Tuyên phi Đặng Thị Huệ cô đơn đi trong phủ chúa và lạnh
lùng bước lên ngồi vào ngai cao. Hình ảnh đó lột tả rõ nét những âm mưu quỷ
39
kế của Đặng Thị Huệ, bất chấp triều cương, bất chấp đạo lý, chỉ có duy nhất một
mục đích tranh quyền đoạt vị. Nó dự báo những sóng gió vẫn còn ở phía trước.
Bộ phim Đêm hội Long Trì đã mở đầu bằng niềm vui và kết thúc bằng nỗi buồn.
Phần kết như tô thêm nỗi ám ảnh của khán giả, sự ám ảnh bởi bóng tối, bởi nỗi
cô độc và hoang mang thậm chí vượt ra ngoài bộ phim, dự báo hiện thực, dự báo
tương lai. Không - thời gian buổi tối là hình ảnh mở đầu, cũng là hình ảnh kết
thúc phim như một ẩn dụ về một sự khép kín. Cái xã hội ấy, thể chế ấy tưởng
như bình an thịnh trị, tưởng như thái bình, nhưng thực ra là quẩn quanh và không
lối thoát. Những hội hè, vàng son chỉ là phù hoa. Thấp thoáng sau cái bóng của
những nhân vật đã từng được ghi trong sử sách như Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ,
Đặng Mậu Lân, là cảnh triều chính mục ruỗng, tranh giành quyền lực, sát hại
trung thần, dung túng cho cái ác hoành hành, ức hiếp nhân dân, mọi kỷ cương
phép tắc bị đảo lộn, sáo mòn. Vòng tròn khép kín ấy đang vây hãm cuộc đời của
biết bao con người. Cái chết của Nguyễn Mại là cái kết bất ngờ với người xem,
xong phù hợp với bối cảnh và diễn biến lịch sử đương thời.
Trong tiểu thuyết và trong phim, chúng ta thấy có sự đan xen giữa thời
gian tuyến tính và thời gian tâm trạng. Nếu không gian nghệ thuật thiên về chiều
rộng, không gian này gợi nhắc không gian khác, có những không gian nằm ngoài
văn bản, thì thời gian nghệ thuật thiên về chiều sâu với sự nối tiếp liên tục, có
khi được dồn nén, khi thì giãn cách để phản ánh nội dung tư tưởng. Viết về lịch
sử dân tộc ở thời điểm quá khứ đã hoàn thành, nhà văn có điều kiện chiêm
nghiệm, hiểu được những sự kiện, câu chuyện đã xảy ra, để phản ánh một cách
chân thực, khách quan. Trong Đêm hội Long Trì, thời gian tuyến tính được thể
hiện thông qua những sự kiện, những biến cố gắn với những nhân vật có thật
trong lịch sử. Điều này là cần thiết vì nó đảm bảo tính chân thực lịch sử gắn liền
với các nhân vật và thời đại. Ngoài yếu tố thời gian tuyến tính, thời gian nghệ
thuật trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng còn được thể hiện qua những từ chỉ
thời gian phiếm chỉ như: hội Trung thu, hai tháng, ba tháng, năm ngày, sang
đông… Những tín hiệu thời gian này phù hợp với việc diễn tả tâm lí nhân vật,
40
nó xóa đi tính biên niên của thời gian, kéo quá khứ trở lại gần với cuộc sống
thực tại. Để khắc họa số phận nhân vật Quỳnh Hoa trong Đêm hội Long Trì, nhà
văn đã diễn tả đêm tân hôn của Quận chúa với Đặng Lân trong quãng thời gian
dài với rất nhiều sự kiện, lột tả nỗi bất hạnh của quận chúa khi chứng kiến thói
cuồng dâm, thú tính, ăn chơi trác táng của Đặng Lân. Tuy nhiên, quãng đời còn
lại của nàng chỉ được gói gọn trong một thông báo: “Đã ngót hai tháng nay, cậu
Trời không xuất phủ. Dân gian đã mừng và cho rằng vì lấy quận chúa nên Lân
đỡ ngông cuồng” [43, tr.139], nhưng thật ít người biết rằng, đó là quãng thời
gian dằng dặc nỗi đau và sự giày vò thân xác, tâm hồn đến mức cướp đi cả sự
sống của nàng. Dòng thông báo ấy càng khiến người ta chua xót và tiếc thương
cho thân phận của nàng.
Không gian và thời gian nghệ thuật là cơ sở để hệ thống sự kiện diễn ra,
để nhân vật hành thành tính cách, và để các xung đột phát triển theo trình tự. Rõ
ràng, phải đặt các nhân vật của Đêm hội Long Trì trong cái bối cảnh triều chính
mục ruỗng, quân vương đam mê sắc dục, buông lỏng triều cương… thì càng
thấm thía bi kịch gia đình của Trịnh Sâm khi mù quáng trong vòng tay nữ sắc,
mới thấu hiểu những bức bối, ngột ngạt, mâu thuẫn của xã hội đương thời. Việc
xác định được không gian, thời gian để đặt nhân vật của měnh vŕo đó là một quá
trình nghiên cứu và khảo sát kỹ lưỡng. Sự chính xác, tỉ mỉ về sử liệu từ những
trang tiểu thuyết đã được hiện thực hóa trên những khuôn hình chỉn chu, bay
bổng, tạo nên một tác phẩm điện ảnh lịch sử tinh tế, giàu sức hấp dẫn, mang đến
cho người xem cảm hứng lịch sử đậm nét. Các nhà làm phim tỏ ra khá linh hoạt
khi xử lý chất liệu lịch sử trong điện ảnh. Các yếu tố thời đại, văn hóa, chính trị,
xã hội được lồng ghép khéo léo và thuyết phục để hướng đến chủ đề tác phẩm.
Bản lĩnh của nhà đạo diễn tài hoa là ở đó!
1.3. Đêm hội Long Trì - Từ văn bản truyện đến kịch bản phim
Văn học và điện ảnh bộc lộ mối quan hệ thông qua một bộ phim chuyển
thể, tổng hợp sự sáng tạo của cả một tập thể. Phim chuyển thể là cách thức tái
41
tạo tác phẩm văn học, tạo nên một cách đọc mới, một cách cảm thụ văn chương
kiểu mới cho người đọc, mà sự hấp dẫn không hề giảm sút. Hay nói một cách
khác, đó là một liên văn bản. Theo Linda Hutcheon, “được nhìn từ góc độ quá
trình tiếp nhận của mình, chuyển thể là một hình thức liên văn bản: chúng ta
thưởng thức các tác phẩm chuyển thể (với tư cách là các tác phẩm chuyển thể)
như các palimxét thông qua ký ức của chúng ta về các tác phẩm khác mang âm
hưởng dội lại qua sự lặp lại có biến đổi” [17, tr15].
Thuật ngữ liên văn bản xuất hiện từ khoảng những năm 1966, 1967 trong
các công trình nghiên cứu của M. Bakhtin, Julia Kristeva. Theo Kristeva,
“mỗi văn bản là một liên văn bản, ở đó các văn bản khác cùng hiện hữu để
góp phần chi phối và làm thay đổi diện mạo của văn bản ấy; mỗi văn bản là
một sự hấp thu và chuyển thể của văn bản khác, là một “bức khảm các trích
dẫn” - ở đó, có vô số những mảnh vụn của các mã ngôn ngữ, các quy ước văn
học, các khuôn mẫu nhịp điệu, các hình thức diễn ngôn vốn từng phổ biến
trong xã hội” [50]. Cho thấy, văn bản văn học không đứng độc lập, mà hàm
chứa thông tin nhiều lĩnh vực, các phương pháp nghệ sáng tạo của nhiều loại
hình nghệ thuật, cũng như chịu sự tác động của nhiều văn bản văn hóa khác.
Trong hiện tượng chuyển thể văn học - điện ảnh, thì sự cải biên từ hình
thức nghệ thuật này sang hình thức nghệ thuật khác tạo nên một khía cạnh đặc
biệt của liên văn bản. Nói cách khác, đó là là hành trình từ một hệ thống kí hiệu
này đến hệ thống kí hiệu khác. Điện ảnh tựa rất nhiều vào văn học, đặc biệt là
việc chuyển thể tác phẩm văn học thành phim. Phim muốn hấp dẫn thì yếu tố
quan trọng là phải có cốt truyện hay. Cho nên, trong trường hợp phim chuyển
thể, có thể nói tác phẩm điện ảnh là “văn học hiện hình”, hoặc tác phẩm điện
ảnh là một “liên văn bản” của tác phẩm văn học. Trở lại với tác phẩm văn học
Đêm hội Long Trì và bộ phim dã sử cùng tên, chúng ta có thể thấy rằng, bản
thân tác phẩm gốc đã là một liên văn bản của lịch sử, văn hóa, còn phim
chuyển thể là liên văn bản từ văn học và lịch sử.
42
Bộ phim dã sử Đêm hội Long Trì được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên
của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được xem là một ví dụ tiêu biểu về thành công
của phim chuyển thể của điện ảnh Việt Nam. Khi xem xét hai tác phẩm này,
chúng tôi nhận thấy một trong những yếu tố được so sánh ở đây là yếu tố cốt
truyện. Rất nhiều ý kiến khác nhau khi xem phim và đọc tiểu thuyết. Có ý kiến
cho rằng, các nhà biên kịch của phim đã cải biên khá trung thành theo nguyên
bản văn học, bám sát đường dây câu chuyện, tôn trọng chiều sâu và hình thức
của tác phẩm văn học gốc. Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, dựa trên
đường dây cốt truyện, tác phẩm điện ảnh đã được sáng tạo, bổ sung thêm nhiều
chi tiết, sự kiện và nhân vật làm nổi rõ tấn bi kịch trong gia đình Chúa Trịnh
Sâm Tĩnh Đô Vương. Đây là một thực tế thường thấy đối với những bộ phim
được chuyển thể từ văn học. Với đặc thù riêng về loại hình, điện ảnh hướng đến
một cốt truyện được chuyển tải bằng ngôn ngữ hình ảnh, nên khi chuyển thể từ
văn học, tác giả phim sẽ không thể giữ lại nguyên dạng cốt truyện ban đầu. Vậy
khi chuyển thể tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, tác giả phim tiếp thu và lược bỏ
cái gì từ cốt truyện của nguyên tác văn học? Ngược lại, trong bộ phim, cốt
truyện được tạo nên nhờ sự lắp ráp của các hình ảnh, các cảnh, các trường đoạn.
Việc thống nhất các đoạn phim bị cắt rời là cách đơn giản nhất tạo nên trình tự
trong phim. Vì vậy, muốn xem xét những yếu tố mà kịch bản phim đã giữ lại
trong cốt truyện của văn học, cũng như sự sáng tạo của các nhà làm phim, chúng
ta phải đi từ những cảnh, những trường đoạn, các sự kiện trong từng cảnh, từng
đoạn, để lí giải vì sao cuốn tiểu thuyết dày 167 trang lại được triển khai tới gần
3 tiếng đồng hồ với hai tập của bộ phim. Điều gì đã tạo nên sự hấp dẫn của tác
phẩm điện ảnh? Để giải thích được, người viết luận văn đã lập Bảng thống kê
các sự kiện diễn ra trong từng chương tiểu thuyết Đêm hội Long Trì của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng, tương ứng với mỗi phân đoạn trong bộ phim Đêm hội Long
Trì của đạo diễn Hải Ninh. Để qua đó, nhận ra đạo diễn đã vận dụng, lược bỏ và
bổ sung những chi tiết, sự kiện, hình ảnh,… nào để làm nên một bộ phim hoàn
chỉnh không chỉ ở nội dung mà ở cả hình thức thể hiện.
43
(Xin xem Bảng thống kê ở phần Phụ lục)
Khi đọc tiểu thuyết, chúng ta thấy hành động của các nhân vật đều diễn ra
tuần tự theo thời gian tuyến tính. Các mối quan hệ đều xoay quanh Chúa Trịnh
Sâm Tĩnh Đô Vương và những sóng gió vương triều do chính ông ta tạo nên bởi
sự đam mê tửu sắc, buông lỏng triều chính. Điều tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt
của cốt truyện Đêm hội Long Trì là sự chặt chẽ và sắc sảo trong cách nhà văn
xây dựng cốt truyện dựa trên những sự kiện, chi tiết và nhân vật có thật trong
lịch sử, xây dựng hình tượng nhân vật, lồng vào đó những quan niệm nhân sinh
sâu sắc về cuộc đời, về quy luật phát triển... Và rõ ràng, Nguyễn Huy Tưởng đã
có cách nhìn của của bản thân và gửi gắm những suy tư của riêng mình về bi
kịch gia đình chúa Trịnh Sâm với sự thao túng của Tuyên phi Đặng Thị Huệ,
cũng như về hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII (thời kỳ Trịnh
- Nguyễn phân tranh) đang trong giai đoạn khủng hoảng và chuẩn bị bước vào
thời kỳ suy tàn.
Tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng là sự pha trộn giữa cổ điển và hiện
đại, thông qua hình thức tiểu thuyết chương hồi, song lối viết mang đậm khuynh
hướng hiện thực chủ nghĩa. Câu chuyện được kết cấu theo quan hệ nhân quả,
mỗi chương như một cảnh quay chậm các sự kiện diễn ra nối tiếp nhau. Thời
gian tuyến tính chậm rãi và tuần tự, cũng có những đoạn thuật lại quá khứ và hồi
tưởng, song không nhiều và khoảng cách thời gian không quá xa. Không gian là
kinh thành Thăng Long với bối cảnh chủ yếu là các cung trong phủ Chúa, phủ
Đặng Lân, nhà Bảo Kim và phủ Quan Hộ thành binh mã sứ. Thủ pháp nghệ thuật
miêu tả với những hình ảnh nối tiếp nhau trong tiểu thuyết đã được các nhà làm
phim sử dụng khi đưa vào điện ảnh, bằng cách “kể” thông qua sự ghép nối, ráp
dựng các cảnh quay khác nhau. Các cảnh ghép đó có thể khác nhau về thời gian,
địa điểm, nhân vật, song được gắn kết chặt chẽ ở chiều sâu cốt truyện. Các nhà
làm phim đã chuyển tải toàn bộ những sự kiện, những tâm tư tình cảm sâu kín,
các xung đột, mâu thuẫn, hành động của các nhân vật vào trong phim, đồng thời
44
sáng tạo thêm nhiều tình tiết, chi tiết để hình tượng hóa nhân vật một cách điển
hình nhất, tiêu biểu cho môtip nhân vật mà nó đại diện.
Đêm hội Long Trì, từ văn bản truyện đến kịch bản phim có mối liên hệ
chặt chẽ, mà rõ nét nhất là chất điện ảnh trong tác phẩm văn học và chất văn học
có trong bộ phim. Trong tiểu thuyết, các trường đoạn được diễn ra liên tiếp với
các sự kiện, xung đột, mâu thuẫn, cùng với hành động của các nhân vật giống
như những thước phim được ráp dựng lại với nhau, Nguyễn Huy Tưởng đã mạnh
dạn bỏ qua những chi tiết vụn vặt, những đoạn trích tả cảnh ngụ tình... Chất điện
ảnh trong truyện được thể hiện đặc sắc nhất trong cách miêu tả (bao gồm miêu
tả thiên nhiên và miêu tả nhân vật). Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên đầy hình ảnh,
màu sắc, có chiều sâu về không gian, thời gian, khiến người đọc có cảm giác
như đang được nhìn thấy khung cảnh thiên nhiên ở ngay trước mắt. Điều đó có
thể thấy rõ nhất trong cách miêu tả đêm hội trung thu mở đầu tác phẩm của
Nguyễn Huy Tưởng. Còn trong cách ông miêu tả hình dáng, hành động nhân vật
thì rất chi tiết và giàu hình ảnh. Chân dung của Chúa Trịnh hiện lên trong con
mắt nhìn của Nguyễn Mại đầy vẻ phong tình: “Cái vẻ vữa đĩ, vừa thông minh
trong khóe mắt, nụ cười của vị chúa đa tình nhất nhà Trịnh” [43, tr.35]. Còn
trong cái nhìn yêu thương và lo lắng của cô con gái Quỳnh Hoa đã thấy tuổi già
sầm sập đến trên nét mặt của vị Phó vương đất Việt: “Nàng thấy cha nàng già
lắm, già quá sức tưởng tượng. Mởi 40 tuổi, ngày đã có vẻ nhọc mệt của người
50. Nàng hồi tưởng lại mấy năm xưa, cha nàng vẫn còn cường tráng linh lợi, uy
phong lẫm liệt đường là một vị chúa tể của muôn dân. Đem so sánh với bây giờ
thực là một trời một vực. Trên mặt đã chạy những nét răn, mắt đã mất vẻ tinh
anh sáng quắc, và ngôn ngữ cử chỉ nhất nhất đều để lộ vẻ suy đồi” [43, tr.77].
Cùng với ngôn ngữ miêu tả nhân vật là cách sử dụng những hình ảnh mang tính
biểu tượng, đa nghĩa. Sự xuất hiện của Đặng Lân trong chương mở đầu được
gắn với hình ảnh “trận cuồng phong thổi trong đám hội”, đã cho thấy những dự
báo không lành, kẻ sắp đến không chỉ phá tan niềm vui của đêm hội, mà còn
gieo rắc những tai ương về sau. Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật cũng được
45
viết dựa trên bối cảnh lịch sử, thân phận nhân vật, lễ nghi triều đình, những rất
đời thường, dễ nghe, dễ hiểu, tạo nên sự rõ ràng như lời thoại trong phim truyện.
Ngược lại, trong bộ phim, ngoài những sự kiện, nhân vật được sử dụng từ
tiểu thuyết thì những thủ pháp biểu hiện của văn học như: ẩn dụ, tượng trưng,
liên tưởng cũng được vận dụng. Ta có thể thấy ở phân đoạn trước giờ rước dâu,
khi nghe tin Chúa Trịnh cho đòi vào gặp mặt [28, tập 1, 01:22:58], Đặng Lân
trước khi đi đã cho gọi tên thầy bói đến xem quẻ chân gà. Điều này ám chỉ một
nỗi lo lắng không rõ ràng trong lòng Đặng Lân. Hắn vốn tự xưng là Cậu Trời,
sánh ngang trời đất, không sợ một ai trong thiên hạ. Bởi hơn ai hết, Đặng Lân
hiểu rõ sự nhu nhược của Chúa Trịnh, luôn sẵn lòng chiều ý chị gái Tuyên phi
của mình, chấp nhận sự điều khiển của Đặng Thị Huệ trong mọi điều, kể cả
chuyện chính sự, nên trong lòng ít nhiều cũng có phần coi thường ông anh rể.
Tuy nhiên, các nhà làm phim đã xây dựng nên một Đặng Lân khác hơn so với
tiểu thuyết với nỗi sợ hãi mơ hồ trong lòng. Lân làm nhiều điều ác quá, nên vẫn
ngầm lo lắng, sợ hãi rằng sẽ bị quả báo. Chỉ một phân đoạn ngắn, với sự xuất
hiện của một nhân vật phụ được các nhà biên kịch sáng tạo thêm đã cho thấy “sự
hèn” của Đặng Lân khi không chỉ dựa dẫm vào bà chị khuynh thế hoàng phi, mà
còn dựa vào những thế lực siêu nhiên và mê tín dị đoan, thật hổ danh Cậu Trời!
Chúng tôi đặc biệt ấn tượng về phân đoạn gặp gỡ của Bảo Kim và Quận
chúa Quỳnh Hoa trong đêm hội Long Trì. Trong đêm, giữa ánh sáng lung linh
của những chiếc đèn lồng, gương mặt trong sáng, e ấp của Quỳnh Hoa giấu sau
chiếc quạt đã thu trọn ánh mắt của Bảo Kim, khiến chàng không giữ được bước
chân mình đi theo nàng. Họ tìm kiếm, đuổi theo nhau trong đêm hội. Một người
vừa bước đi mà lại như sợ nhanh quá người sau không theo kịp, người đuổi theo
thì ngại rằng mình đi theo nhanh quá có thể gây ra điều thất thố, nhưng cũng lo
bước chậm có thể mất dấu người đẹp. Cuộc theo đuổi ấy như một ẩn dụ về bi
kịch của tình yêu, của sự tìm kiếm nhau suốt đời và tìm kiếm hạnh phúc mà
chàng và nàng không thể cùng nhau tới đích. Ở phân đoạn này, hình ảnh trong
46
phim thật giàu chất văn học, thấm đượm một chất thơ êm dịu, chất thơ của tình
yêu. Chàng tìm thấy chiếc túi thêu đựng trầu têm của nàng, chưa kịp hỏi tên thì
nàng đã thẹn thùng bỏ chạy. Đến khi gặp lại thì nàng đã thay tấm áo dân nữ,
kiêu sa trong dáng vẻ Quận chúa chuẩn bị vào Cuộc thi thơ. Từ những câu chữ
miêu tả trên trang giấy, các nhà làm phim đã sử dụng hợp lý, tài tình các yếu tố
về quay phim, âm nhạc, ánh sáng và đặc biệt là sự hỗ trợ của các yếu tố về kỹ
thuật đã làm cho sự kiện gặp gỡ giữa đôi trai tài gái sắc trở nên hấp dẫn và thu
hút lạ kỳ.
Như vậy, qua xem xét tác phẩm văn học và điện ảnh Đêm hội Long Trì -
từ văn bản truyện đến kịch bản phim, chúng ta thấy sự thâm nhập của hai lĩnh
vực nghệ thuật vào nhau khá rõ ràng, nhất là trong việc tiếp nhận cốt truyện từ
tiểu thuyết vào phim. Biên kịch của bộ phim đã lược bỏ những gì vốn là đặc thù
của văn học: trữ tình ngoại đề, miêu tả, khắc họa tâm lí nhân vật, đồng thời kế
thừa và gia tăng những yếu tố đặc thù của điện ảnh. Đó chính là con đường đem
đến thành công cho một bộ phim chuyển thể, một liên văn bản từ tác phẩm văn
học.
47
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn tập trung làm rõ quá trình chuyển thể cốt truyện
từ tiểu thuyết lên phim của biên kịch Lê Phương, Hoàng Nhuận Cầm và đạo diễn
Hải Ninh. Bằng sự so sánh, đối chiếu và phân tích, luận văn chỉ rõ quá trình
chuyển thể tác phẩm vừa có sự kế thừa nguyên tác, vừa có sự sáng tạo trong cải
biên. Điều đó đã mang đến cho khán giả một bộ phim Đêm hội Long Trì vừa
thân quen, vừa mới lạ. Quen bởi sự tiếp thu những chi tiết sẵn có trong tác phẩm
văn học, lạ bởi những thủ pháp thêm, bớt về nội dung, đường dây cốt truyện của
đạo diễn và biên kịch tạo ra sự hấp dẫn, thu hút người xem. Bộ phim thực sự là
một liên văn bản có giá trị nghệ thuật cao của tác phẩm văn học. Công chúng
đọc tiểu thuyết và xem phim có thể sẽ có những ấn tượng khác nhau, nhưng cảm
xúc nghệ thuật có được trong quá trình xem và đọc sẽ có sự ảnh hưởng tương
hỗ, tác động qua lại để thấu hiểu trọn vẹn tác phẩm, nâng cao giá trị của tác
phẩm.
48
Chương 2 THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
ĐÊM HỘI LONG TRÌ VÀ PHIM DÃ SỬ CÙNG TÊN
2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì
Nhân vật văn học là khái niệm chỉ hình tượng cá thể người trong tác phẩm
văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện
riêng. Theo nhà lý luận văn học Lại Nguyên Ân, nhân vật văn học là “hình tượng
nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của
con người trong nghệ thuật ngôn từ” [2, tr.241]. Văn học không thể thiếu nhân
vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách
hình tượng. Trong cuốn sách Lý luận văn học, nhà nghiên cứu Phương Lựu (chủ
biên) cho rằng, “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những
dấu hiệu để ta nhận ra” [24, tr.278]. Nhân vật là yếu tố hết sức quan trọng trong
việc truyền tải tư tưởng của tác giả, mà thông qua đó, tác giả gửi gắm tư tưởng
và những thông điệp thẩm mỹ tới người đọc. Đó là sáng tạo của nhà văn và mang
tính điển hình rõ nét. Theo cuốn sách Lý luận văn học do nhà nghiên cứu lý luận
văn học Trần Đình Sử làm chủ biên, “nó là một hiện tượng, một đơn vị nghệ
thuật được sáng tạo theo những ước lệ của văn học. Ngay cả khi nhà văn xây
dựng nhân vật khá sát với nguyên mẫu, thậm chí giữ lại cả danh tính của nguyên
mẫu thì ta cũng không thể đồng nhất hai hiện tượng đó với nhau” [34, tr.75].
Ở bất cứ bộ môn nghệ thuật nào, việc xây dựng nhân vật luôn được xem
trọng và cần sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong tác phẩm điện ảnh, nhân vật
là yếu tố hàng đầu góp phần làm nên sự thành công, hay thất bại của bộ phim,
không có nhân vật, không thể có tác phẩm điện ảnh. Với nghệ thuật điện ảnh,
nhân vật có sức cộng hưởng lớn với những yếu tố khác trong phim, phụ thuộc
nhiều vào tâm huyết, sự cẩn trọng cùng khả năng sáng tạo của những người tạo
ra nó (biên kịch, đạo diễn, diễn viên). Nhân vật là nền tảng để đạo diễn kể câu
chuyện trong tác phẩm. Khi chuyển thể tác phẩm văn học, các nhà làm phim có
49
lợi thế khi có sẵn một cốt chuyện, một đường dây hấp dẫn, tuy nhiên, như vậy
chưa đủ, mà cùng với đó, cần phải có những nhân vật tốt và hấp dẫn, “việc
chuyển thể luôn đòi hỏi phải xuất phát từ những tác phẩm văn học có nhân vật
mang tính điện ảnh, có sự phát triển, kịch tính, có sự biến đổi” [9, tr.158]. Trong
tác phẩm văn học, nhà văn có thể xây dựng và lý giải thế giới nội tâm của nhân
vật, độc giả cũng có thể chi phối nhân vật bởi sự tưởng tượng của mình. Còn
trong điện ảnh, nhân vật được cụ thể hóa bằng tài năng của nhà biên kịch và diễn
xuất của diễn viên. Những vấn đề nội tâm được chuyển thể từ văn bản sang thoại
và động tác kết hợp với bối cảnh, góc máy, âm thanh, ánh sáng… Theo suy nghĩ
của các nhà điện ảnh, “xây dựng thành công một nhân vật điện ảnh điển hình,
khái quát với tính thẩm mỹ cao và có tầm ảnh hưởng sâu sắc, tác động đến người
xem, thực sự không đơn giản đối với bất kỳ một nhà sáng tác nào. Công việc này
đòi hỏi người nghệ sĩ phải suy nghĩ, trăn trở, dám đi đến tận cùng của sự sáng
tạo” [56]. Phản ánh hiện thực là ưu thế của điện ảnh, vậy nên, nhà biên kịch bên
cạnh việc đảm bảo cốt truyện được diễn ra xuyên suốt, cần xây dựng “môi
trường” để nhân vật phát triển tính cách của mình, “trong khi miêu tả, để phát
triển hành động, tính cách của nhân vật chính, nhà biên kịch phải đẩy nhân vật
chính vào những cuộc đối đầu, những mối quan hệ với những con người khác,
trong nhóm nhỏ gia đình hoặc cộng đồng lớn hơn là xã hội…” [29, tr.158].
Đêm hội Long Trì là một tác phẩm văn học được hư cấu dựa theo lịch sử,
với câu chuyện về những nhân vật có thật đan xen với những nhân vật được tác
giả xây dựng nên. Trong tác phẩm của mình, dựa trên những sự kiện đã được
lưu lại trong chính sử và trong văn chương, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tạo ra
một không gian lịch sử riêng với những sự kiện, những số phận, những tính cách,
những xung đột chứa đựng tư tưởng sâu xa về xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII.
Tác phẩm phản ánh sự thối nát, hủ bại trong phủ chúa, khởi phát từ niềm đam
mê mù quáng của Trịnh Sâm với Đặng Thị Huệ, dẫn đến sự lộng hành, bạo
ngược của Đặng Lân - em trai thị. Trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng có
hệ thống nhân vật phong phú, bao gồm nhân vật có thật trong lịch sử: chúa Trịnh
50
Sâm, tuyên phi Đặng Thị Huệ; nhân vật nửa lịch sử nửa hư cấu: quốc cữu Đặng
Lân, quận chúa Quỳnh Hoa; nhân vật hư cấu: thi sĩ Bảo Kim, tướng Nguyễn
Mại... cùng với đó là những nhân vật phụ được tác giả xây dựng để làm phong
phú nội dung.
2.1.1. Chúa Trịnh Sâm
Nhân vật trung tâm của câu chuyện Đêm hội Long Trì có thể nói là Chúa
Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương. Đây là nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng khá lớn
thời Lê Trung Hưng, giai đoạn cai trị 1767-1782. Theo sử sách, trong số các
chúa Trịnh, Trịnh Sâm được coi là vị chúa giỏi, văn võ kiêm toàn. Về tài văn
chương, ông nổi tiếng là người hay chữ, có tài thơ ca, với nhiều tác phẩm còn
lưu truyền đến ngày nay. Các tác phẩm chính của ông gồm: Tâm thanh tồn duy
thi tập, Nam tuần kí trình, Bình Hưng thực lục, Tây tuần kí trinh thi, Bính Ninh
thực lục, Danh từ thực lục… Lên ngôi chúa, ông cho sửa đổi từ kỷ cương triều
nội đến chính sự cả nước theo hướng to rộng hơn, không theo lệ cũ. Về tài thao
lược, Trịnh Sâm từng đích thân cầm quân, vượt sông Gianh kéo vào Thuận Hóa,
chiếm được Thuận Hóa và đặt quan cai trị đất Thuận Quảng. Tuy nhiên, trong
tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, chủ yếu đi vào quãng thời gian Trịnh Sâm
sau khi đã dẹp yên các cuộc khởi nghĩa và bạo loạn, bốn phương yên ổn, kho
đụn đầy đủ, dần dần sinh bụng kiêu căng, buông lỏng triều chính, mặc ý ăn chơi
xa xỉ. Chúa đem lòng yêu chiều Đặng Thị Huệ, từ một nữ tỳ sắc phong làm
Tuyên phi. Để chiều lòng người đẹp, dịp tết Trung Thu hàng năm đều cho tổ
chức ''Hội Long Trì" để vui chơi thỏa thích. Và đó là duyên cớ để “bi kịch nhà
chúa” đi vào trang viết Nguyễn Huy Tưởng.
Từ một nguyên mẫu trong lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng nên
hình tượng một vị vương võ công văn trị đều có đủ cả, vừa thao lược vừa đa tình
với một vẻ bề ngoài xuất chúng “cường tráng linh lợi, uy phong lẫm liệt, đường
đường là một vị chúa tể của muôn dân” [43, tr.77]. Trong miêu tả của nhà văn:
“Chúa Tĩnh Đô vốn là một người anh minh và là người có một tinh thần gia tộc
51
rất mạnh, hàng ngày chỉ lo khuếch trương cơ nghiệp họ Trịnh… Chúa là một vị
quốc trưởng biết lo đến vương nghiệp và đặt quốc gia lên trên mọi sự” [43,
tr.163]. Không chỉ vậy, ông còn là người biết nhìn người, luôn trọng dụng nhân
tài, không chỉ yêu mến và phong chức cho Nguyễn Mại làm Hộ thành binh mã
sứ, mà còn rất trọng tài năng của Bảo Kim: “Ý Chúa muốn khuyến khích văn
chương, đem lại cho nước Nam một thời đại rực rỡ như Hán, Đường. Vì thế,
Chúa rất trọng bậc văn tài. Bài phú Long Trì của Bảo Kim, Chúa không hết lời
khen ngợi” [43, tr.64]. Đọc tiểu thuyết, có thể thấy, mặc dù chưa nói ra, song
Chúa Trịnh rất thán phục văn tài Bảo Kim, lại thấy chàng có tài mạo song toàn,
nên có ý muốn gả Quận chúa Quỳnh Hoa cho chàng. Không chỉ vậy, qua các chi
tiết, đối thoại giữa Trịnh Sâm với các nhân vật khác, ông lúc nào cũng mềm
mỏng, hòa nhã, dịu dàng và gần gũi. Đối với mẹ, Trịnh Sâm luôn kính trọng và
lắng nghe; đối với vợ, ông là một người chồng ân cần, chiều chuộng, dù hơi nhu
nhược; đối với các con, luôn yêu thương, trìu mến và quan tâm; còn đối với
người dưới thì chân tình, gần gũi mà không sai phép tắc.
Vậy nhưng, khi sa vào vòng tay nữ sắc, Trịnh Sâm nhanh chóng quên đi
những tháng ngày chiến trận lẫy lừng, quên mất chức trách của một người cầm
quyền, quên những dự tính khuếch trương cơ nghiệp, quên cả bổn phận với
những người thân yêu và nhân dân. Trịnh Sâm giỏi, nhưng đa tình, cái đa tình
toát lên từ ánh mắt đến phong thái mà người đối diện có thể nhận ra ngay phút
đầu tiếp xúc. Chúng ta có thể thấy điều đó thông qua cảm nhận của Nguyễn
Mại: “Người võ tướng trẻ tuổi bỗng thoáng nhận thấy cả cái vẻ vừa đĩ, vừa
thông minh trong khóe mắt, nụ cười của vị chúa đa tình nhất nhà Trịnh. Chàng
thấy yêu và quyến luyến Trịnh Vương” [43, tr.65]. Trịnh Sâm đa tình, nên ông
ta khổ. Cái đa tình khiến nhà chúa không thể thoát ra khỏi lưới tình đã giăng
của người đàn bà đẹp và nguy hiểm Đặng Thị Huệ. Những thói trụy lạc trong
tháng ngày rong chơi, hưởng thụ cùng người đẹp đã nhanh chóng biển đổi
người đàn ông phong độ ngày nào bị “tàn phá một cách nhanh chóng và sâu
52
xa cả về tinh thần lẫn cơ thể”, “trên mặt đã chạy những vết răn, ánh mắt đã
mất vẻ tinh anh sáng quắc, và ngôn ngữ nhất nhất đều lộ vẻ suy đồi” [43, tr.77].
Với nhân vật Tĩnh Đô Vương, tác giả văn học và các nhà làm phim đều
tập trung khai thác những mâu thuẫn nội tâm của ông ta. Khi phải đứng giữa sự
chọn lựa giữa một bên là mỹ nhân, một bên là lẽ phải, ông luôn luôn chọn sai,
không dám làm phật ý mỹ nhân. Từ một vị chúa thượng đầy quyền uy, Trịnh
Sâm dần biến thành kẻ nhu nhược, yếu thế, ngay cả đứa con gái mà mình hết
mực yêu thương cũng không thể lên tiếng bảo vệ, đến những hành vi trái đạo
cũng nhắm mắt làm ngơ... Trịnh Sâm - nguồn gốc của tất cả những bi kịch được
nhà văn xây dựng rất sinh động, là nhân vật thể hiện rõ nhất những mâu thuẫn,
giằng xé trong nội tâm, là con người lưỡng hóa. Ông ta không rõ rệt ở phía nào
trong cuộc chiến Thiện - Ác, có lúc là vị vương sáng, có lúc lại u mê. Trong bộ
Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Văn tịch chí”, sử gia Phan Huy Chú nhận
xét về Trịnh Sâm: “Vả lại bên trong quá yêu tỳ thiếp, bỏ con lớn dựng con bé,
đến nỗi họa sinh ra ở trong nhà” [6, tập1, tr.154]. Xưa nay, anh hùng khó qua
ải mỹ nhân là vẫn chuyện thường thấy, chuyện quân vương vì người đẹp mà
đánh mất cơ đồ cũng không phải là hiếm. Vậy nên Trịnh Sâm âu cũng chỉ là
thêm một điển tích cho chuyện anh hùng và mỹ nhân. Người đọc vừa giận, mà
cũng vừa thương Trịnh Sâm cũng vì một lẽ như vậy.
2.1.2. Quận chúa Quỳnh Hoa
Nhân vật nhận được nhiều niềm tiếc thương nhất trong Đêm hội Long Trì
là Quận chúa Quỳnh Hoa. Nguyên mẫu của nàng ngoài đời là Quận chúa Ngọc
Lan. Sách Hoàng Lê Nhất thống chí chép: "Con gái của Trịnh Sâm tên là Trịnh
Thị Ngọc Lan rất yếu đuối, từ nhỏ vẫn được Chúa Trịnh Sâm cho ở trong cung
Thủy tinh, luôn phải kiêng nắng gió. Nơi Ngọc Lan ở, Chúa bắt thị tỳ phải đi
nhẹ, nói khẽ, không được làm cho nàng giật mình. Khi Ngọc Lan đã lớn, mỗi lần
vào thăm, Chúa đều cho ngồi cạnh như thuở còn bé. Bất cứ điều gì Ngọc Lan
cầu xin, Chúa cũng chiều theo. Bấy giờ, công thần quý tộc từng tới cầu hôn
53
nhưng Chúa chưa ưng gả cho ai. Có lần, Chúa xuống lệnh cho các quan văn võ
vào phủ để Ngọc Lan tự ý kén chọn, nhưng nàng chẳng bằng lòng ai. Đến đây,
Đặng Thị Huệ cầu hôn Ngọc Lan cho em trai mình, Chúa sợ mất lòng nên bất
đắc dĩ gượng nhận lời” [26, tr.21]. Vẻ đẹp kiều mỵ của nàng xuất hiện ngay từ
những trang đầu tiểu thuyết đã mang đến cho không khí đêm hội Trung thu một
làn gió mát dịu nhẹ, khiến người ngắm nhìn thấy lòng an yên: “Quân chúa trạc
16, 17 tuổi, nàng hơi xanh dưới ánh trăng thu, người hơi gầy, nhưng vẻ thanh
tú. Nàng bận chiếc áo đồng lầm, chít khăn vuông mỏ quạ” [43, tr.11]. Vẻ đẹp
ấy càng được tôn lên bởi giọng nói “nhẹ như tơ, tự nó có một điệu nhạc tuyệt
vời”, làm cho chàng Bảo Kim thờ ơ ở đoạn đầu dần mất vẻ tự chủ, “mắt chàng
ngốn cái vẻ thanh kỳ kia, lòng chàng hồi hộp”, “hồn chàng trôi theo dòng suối
thiên thai” [43, tr13]. Đó là miêu tả của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng đó cũng có
thể là nhan sắc qua con mắt ngắm nhìn của kẻ si tình Bảo Kim khi “lòng đã tràn
ngập một mối tình bồng bột”. Họ cảm mến nhau từ những phút ban đầu lưu
luyến giản dị như vậy. Nếu ai đó sẽ cho rằng dường như là nhanh chóng quá, thì
không phải vậy. Bởi Quỳnh Hoa từ lâu đã mến mộ danh tiếng của Bảo Kim, còn
Bảo Kim có lần đã được nhìn trộm Quỳnh Hoa ở xa, nên đêm hội Trung thu thực
ra chính là cái duyên để nối 2 người đến với nhau.
Đầu tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng cho người đọc hình dung về một nàng
Quận chúa xinh đẹp, thông minh, giỏi văn chương và và tài hoa khi làm chủ
nhân của "Quần anh hội", thì về sau, nhân vật này lại thụ động, hiền lành và chấp
nhận số phận. Đọc tác phẩm, có thể thấy sự "chênh", thiếu nhất quán trong việc
xây dựng hình tượng nhân vật Quận chúa Quỳnh Hoa của nhà văn. Một nàng
quận chúa tự tin, đủ sức làm chủ Trường bút chiến "Quần anh hội" hẳn nhiên
không thể là người con gái thụ động, đặt đâu ngồi đấy theo ý cha mẹ xếp đặt,
nhất là chuyện hôn nhân, vốn là chuyện cả cuộc đời. Đây có thể là dụng ý tác
giả muốn "lý tưởng hóa" nhân vật Quỳnh Hoa, xuất phát từ niềm yêu và niềm
thương cảm của ông với nhân vật đau khổ nhất trong tác phẩm của mình. Điểm
sáng lớn nhất trong cuộc đời nàng là mối tình thầm kín với thi sĩ Bảo Kim, nhưng
54
nỗi bất hạnh của Quỳnh Hoa là nàng đã không dám đấu tranh giành giật hạnh
phúc cho mình, để tình yêu sớm tan vỡ. Điều này đúng với những ghi chép trong
sử sách về sự yếu đuối của nàng hơn. Sự hi sinh của Quỳnh Hoa nếu đặt trong
bối cảnh lịch sử cũng là điều dễ hiểu, bởi thời phong kiến, chuyện hôn nhân vẫn
thường do cha mẹ sắp đặt. Thậm chí, trong triều, những cuộc hôn phối chính trị
vẫn thường được sắp xếp nhằm củng cố địa vị của các bậc vương tôn. Hơn nữa,
ở vào địa vị một người con gái thương cha, không muốn đẩy cha vào tình thế
khó xử, nàng còn có thể làm gì hơn là chấp thuận cho cuộc hôn nhân ngang trái
kia được diễn ra? Nàng đáng thương, mà cũng đáng trách, bởi chính lòng hiếu
thuận, không dám đấu tranh vì hạnh phúc cá nhân của mình.
2.1.3. Tuyên phi Đặng Thị Huệ
Nếu như Quỳnh Hoa đại diện cho vẻ đẹp mong manh, đoan trang, hiếu
thuận và hiểu biết lý lẽ, thì Đặng Thị Huệ đại diện cho sắc đẹp ở thế đối cực,
một vẻ đẹp đầy đặn, lôi cuốn đi với những âm mưu tranh đoạt ngôi báu. Nhan
sắc khuynh thành ấy khiến vị quân vương tài hoa trở nên mù quáng và lạc lối.
Sách Hoàng Lê Nhất thống chí chép: "Ả được đặc ân ở chung với chúa, cứ y như
một cặp vợ chồng những nhà thường dân. Mọi vật dụng như xe, kiệu, áo quần...
đều được sắm hệt như của Chúa” [26, tr.8]. Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy
Tưởng dành rất nhiều đoạn, dòng văn để mô tả vẻ đẹp của Tuyên phi Đặng Thị
Huệ. Đó là “một trang tuyệt thế giai nhân, trạc 25, 26 tuổi… Bên cạnh phi thì
bao nhiêu cung nữ, kể cả Quỳnh Hoa cũng bị lu mờ, vì phi trông rực rỡ, toàn
thắm, toàn tươi. Đẹp mà không nhạt nhẽo, hơi đẫy mà không thô, nồng nàn mà
không lơi lả. Phi là một người đàn bà có một sắc đẹp quyến rũ yêu quái. Người
phi là tiếng gọi của dục tình” [43, tr.26]. Vẻ đẹp gợi cảm của nàng khiến ngay
cả tác giả cũng phải dụng công nhiều, thông qua lối miêu tả “đòn bẩy” mà xưa
kia Nguyễn Du từng sử dụng để miêu tả Thúy Vân, Thúy Kiều. Lúc trước,
Nguyễn Huy Tưởng ca ngợi nhan sắc đoan trang của Quỳnh Hoa, tưởng như đã
là tuyệt thế giai nhân, thì chỉ sau đó ít phút, Đặng Tuyên phi đã khiến người ta
55
không thể rời ánh nhìn đi nơi khác. Nàng thật xứng danh “mỹ nhân”: “khuôn
mặt trái xoan, làn môi tình tứ, đôi mắt đen nhánh đẹp tuyệt trần ẩn dưới đôi lông
mày lá liễu, như suối chảy dục tình. Thân nàng mềm mại và uyển chuyển, vừa
phong lưu, vừa quyến rũ, phảng phất như một thứ hương mê ly” [43, tr.58].
Đặng Tuyên phi còn có một cái tài, đó là nghệ thuật pha trà khéo tay nhất vùng
Kinh Bắc, giúp nàng được mệnh danh là Bà chúa chè. Mà Chúa Trịnh vốn
nghiện trà và rất sành thưởng thức, nên tài nghệ ấy càng thu phục lòng chúa.
Nhan sắc của Thị Huệ khiến người ta dễ hiểu và cảm thông cho Chúa Trịnh bởi
tình yêu và sự sủng ái, cả sự u mê lạc lối mà ông ta dành cho nàng: “Chúa nhìn
nàng, như ngốn bằng đôi mắt đa tình, tất cả cái lâu đài xác thịt kia đã bao lần
ngài ngắm mà không lần nào thấy chán; mỗi lần ngắm là một lần tìm thấy vẻ
đẹp khác” [43, tr.58].
Người đời cảm thông cho Trịnh Sâm, nhưng kết tội Đặng Thị Huệ. Tất cả
các nhân vật trong Đêm hội Long Trì cũng đều lên án nàng. Đó không phải cái
án “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, mà nếu đọc trong tiểu thuyết,
chúng ta thấy, giữa Thị Huệ và Trịnh Sâm chỉ có mặn nồng và hưởng thụ, nếu
có luận bàn triều cương thì chỉ tìm cách hãm hại trung thần, thu vén cá nhân.
Vốn dĩ, bổn phận của bậc Mẫu nghi thiên hạ là phụ giúp chồng tề gia, trị quốc,
biết lo việc nội sự, biết can gián chồng những chuyện phải, trái, nhưng ở Đặng
Thị Huệ, điều đó hầu như không thấy đề cập. Tất cả những tài năng của nàng,
chỉ để dùng cho một việc, ấy là mê hoặc Tĩnh Đô Vương. Và tất nhiên, nhờ nhan
sắc được Chúa Trịnh yêu chiều, nên nàng lợi dụng để đòi hỏi, như thể để chứng
minh cho sức mạnh lung lạc của một trang “quốc sắc thiên hương”. Trong rất
nhiều đặc ân mà Chúa dành cho Đặng Tuyên phi, có việc ông ta nhắm mắt bỏ
qua tội lỗi của tên vô lại Đặng Lân, em trai của Đặng Thị Huệ, để đến nỗi xảy
ra nhiều chuyện đáng tiếc về sau.
2.1.4. Quận mã Đặng Lân
56
Đặng Lân có thể nói là nhân vật được Nguyễn Huy Tưởng tập trung ngòi
bút mô tả kỹ lưỡng nhất trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì. Lân gây ấn tượng
ngay từ khi xuất hiện, từ đó về sau, mỗi lời Lân nói, mỗi việc Lân làm, từng từ
ngữ, cử chỉ, điệu bộ đều được tác giả tập trung khai thác để làm nổi bật lên sự
tiểu nhân, hèn kém, bản tính độc ác, dã man đi kèm. Sử sách và văn chương
cũng dành nhiều trang ghi chép về Quận mã Đặng Mậu Lân, nguyên mẫu của
nhân vật Đặng Lân. Trong sách Hoàng Lê nhất thống chí có đoạn: “Thường
ngày, Lân vẫn đem vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang
khắp kinh ấp. Hễ gặp xe kiệu, bất kì của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà
khịa đánh nhau, làm cho họ nhục nhã, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà,
con gái giữa đường, hễ trông người nào vừa mắt, tức thì lân sai tay chân quây
màn trướng ngay tại chỗ hiếp liền” [26, tr.22]. Trong cuốn Tang thương ngẫu
lục, những ghi chép của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án còn rõ nét hơn về một kẻ
vô học, tàn nhẫn, dâm ác, nhưng lại có chức quyền: "Quận mã Đặng Lân là em
bà Đặng Tuyên phi của chúa Tĩnh Vương, thường hay ngông càn phạm phép. Y
cưỡng gian một người đàn bà không được bèn cắt vú người ta. Người chồng
kiện đến quan, y bị bắt giam ở ngục Ngự sử đài rồi vì có phi xin cho mà được
tha. Tĩnh Vương đem nàng Quận chúa thứ hai gả cho Lân, các đồ trang liêm và
của hồi môn so với các triều trước nhiều gấp mười lần. Phủ đệ dựng ở phía tây
nam kinh thành Thăng Long, đồ ăn thức dùng đàng hoàng như một vị vương
giả. Lân càng làm nhiều sự việc càn rỡ, nuôi trong nhà hơn trăm gia đồng,
thường cho đội mũ đeo gươm, ra ngoài chợ phố đi nhung nhăng, uống rượu say
đánh người bị thương. Quan Kinh doãn không kiềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra,
đem theo đến hàng mấy chục con chó săn, con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác
áo thêu, hét trước hò sau, lấp cả đường lối. Một lần nhân cơn tức giận, Lân giết
chết viên quan nội giám, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa để không ai dám vào
bắt” [16, tr.30].
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các gia đình ông đồ luôn được xã hội
tôn trọng về nề nếp và gia phong. Nhưng ở trường hợp Đặng Lân, nguồn gốc
57
xuất thân "con một ông đồ nghèo ở làng Chè" trở nên lố bịch bởi nhân dạng và
nhân tính của hắn. Sự suy đồi và bạo ngược trong con người Đặng Lân hình
thành từ khi hắn còn là một đứa trẻ: "Thuở bé Lân đã ngỗ nghịch không chịu
học hành. Khoảng 13, 14 tuổi đã nát rượu, ham cờ bạc, và đã dự vào những trận
ăn cướp ở quanh vùng. Lớn lên, lại càng lăng loàn, đầu óc chỉ thích sắp đặt
những mưu mô chim chuột đàn bà con gái, đã thích người nào thì kỳ cho thỏa
mãn lòng dục mới thôi. Đào tường khoét vách, hãm hiếp giữa đường, Lân không
từ một thủ đoạn nào, nhiều khi bị đánh gần chết mà vẫn không bỏ. Đến khi Tuyên
phi đắc thế, được chị gọi vào kinh, Lân tha hồ phóng túng, thả lỏng ḷng dục, trác
táng tuổi thanh niên" [43, tr.50]. Ẩn trong con người Đặng Lân là một con quỷ.
Con quỷ đó không phải do Nguyễn Huy Tưởng vẽ ra và khoác lên người Lân,
mà từ nguyên mẫu Đặng Mậu Lân trong đời thực. Trong tiểu thuyết, sự mô tả
về Đặng Lân của nhà văn cũng rất chi tiết, mỗi lần Lân xuất hiện đều khiến
người ta phải khiếp hãi: "Cờ dong, trống mở, đồ bát bửu dàn bày, đàn sáo nhã
nhạc tấu lên. Bùi Đãng và năm mươi tên gia nhân bận võ trang, đeo kiếm dài
rước Đặng Lân lên mình con ngựa bạch, yên vàng, bành gấm. Tàn tán, cờ quạt
xúm xít che kín, trông sặc sỡ những màu đỏ, màu xanh, và lóng lánh những mặt
kính, những hột vàng, những tua kim tuyến. Sau Đặng Lân lại có một toán năm
mươi võ sĩ xếp hàng hai theo hộ vệ, và đi đoạn hậu là một bọn gia nhân mặc áo
nẹp, khiêng một chiếc giường thất bảo, màn bát tiên, ở trong người ta nhận thấy
đôi gối thêu uyên ương, nệm gấm, hương thơm ngào ngạt.
Khi cổng phủ Đặng Lân mở rộng, và cờ quạt ở trong rước ra, mấy nhà
hàng phố kêu thất thanh:
- Cậu Trời đấy!
Tức thì người ta chạy tán loạn, nhất là những đàn bà con gái. Tiếng kêu
trời, kêu đất, xen lẫn với tiếng đóng cửa ầm ầm..." [43, tr.142].
Đặng Lân ỷ thế chị, hoành hành ngang ngược, đòi cưới Quỳnh Hoa, phá
tan mối tình thơ mộng của nàng với Bảo Kim, đồng thời đày đọa người thiếu nữ
58
ấy đến nước yểu mệnh. Không những thế, hắn còn ngang nhiên làm những trò
đồi bại và tàn ác ngay giữa phố phường, làm điên đảo cuộc sống của bao gia
đình lương thiện trong kinh thành. Lân chính là bộ mặt dục vọng ghê tởm nhất
của tầng lớp thống trị trong xã hội ấy, núp dưới bóng quyền lực. Sự ngang ngược,
hống hách của hắn dường như hàm chứa tất cả những điều ác của các tên bạo
chúa khét tiếng trong lịch sử, nó ngang nhiên diễn ra vì không một thế lực nào
dám cản trở. Lân giống như một con quỷ khát máu đã không còn biết đến giới
hạn, khắp người hắn đều vấy máu bởi những cuộc chém giết không gớm tay.
Ngay cả những cuộc vui của Lân cũng sặc mùi máu tanh: "Lân tức giận nghiến
răng, rút con dao găm sáng loáng trong bọc ra, đâm thẳng xuống ngực thiếu
phụ. Ả chỉ kịp kêu:
- Trời ơi! Chết tôi rồi!
Đặng Lân rút dao ra, đâm luôn mười mấy nhát, đá cái thây sang một bên,
rồi quát như con quỷ sứ"... "Đặng Lân rút dao ra, cười một cái cười ma quỷ, say
sưa trong tội ác, lại đâm lia lịa nạn nhân cho đến khi không thấy cử động nữa
bấy giờ mới thôi"... "Lân ngắm đến mình, thấy quần áo đỏ ngầu những máu, tay
chân cũng vậy. Vội lấy tay vuốt mồ hôi mặt, và mặt như sơn đỏ, trông càng kinh
tởm"... [43, tr.104-105]. Đặng Lân đã trực tiếp phá hoại những giá trị văn hóa,
làm băng hoại giá trị đạo đức truyền thống, cũng là kẻ đẩy Tĩnh Đô Vương vào
tình thế tiến thoái lưỡng nan, gián tiếp dẫn đến những hậu quả nguy hại về sau.
Vậy nhưng, Chúa Trịnh đã làm ngơ trước tội ác. Bao sinh mạng, phẩm giá của
những con người vô tội, ngay cả số phận của những người thân yêu nhất bên
Trịnh Sâm cũng trở nên vô nghĩa trước một giọt lệ, một cái chau mày của Tuyên
phi. Khi người đứng đầu vương pháp đã không còn là người cầm cân nảy mực
sáng suốt trong triều đại ấy nữa, khi quyền lực bị thao túng thì công lý còn đâu?
2.1.5. Các nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại và Bảo Kim
Nếu như Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ, Đặng Lân, Quỳnh Hoa, được Nguyễn
Huy Tưởng xây dựng từ các nguyên mẫu lịch sử, thì Bảo Kim, những người bạn
59
và Quan hộ thành Nguyễn Mại là những nhân vật được nhà văn hư cấu. Những
nhân vật hư cấu này có thể chia ra làm hai lớp nhưng không đối cực mà luôn
nâng đỡ, tôn vinh nhau: Một bên là Bảo Kim và những người bạn - những chàng
thư sinh áo vải nho nhã, “đề huề lưng túi gió trăng”; một bên là Quan hộ thành
Nguyễn Mại - viên dũng tướng luôn trượng nghĩa, chí tình. Bảo Kim vốn là
chàng nho sĩ giỏi thơ phú, có tính khí khẳng khái, cương trực, “Người Kẻ
chợ đã tặng cho chàng tiếng danh sĩ. Tuy còn ít tuổi nhưng chàng đã bác lãm
quần thư, nghị luận giỏi, văn chương tao nhã” [43, tr.12]. Trong đêm hội trung
thu bên hồ Long Trì thơ mộng, Bảo Kim đã chứng tỏ được tài thơ phú thiên
bẩm trong cuộc thi thơ do quận chúa Quỳnh Hoa ra đề. Xúc động trước cảnh và
người, Bảo Kim đã hoàn thành tác phẩm ứng thí và được giám khảo Thị lang
Ngô Thời Sĩ đánh giá là “thiên cổ kỳ tài”. Trước văn tài và cả phong thái của
chàng, quận chúa đã đem lòng cảm mến và Bảo Kim cũng đã thầm thương trộm
nhớ người con gái yêu của Tĩnh Đô Vương. Nhưng mối tình đẹp đẽ ấy mãi chỉ
là giấc mơ vì sự xuất hiện của “Cậu Trời”. Bảo Kim và những người bạn văn
chương của chàng đều là những người có tài, nhưng cái tài của họ khó lòng xoay
chuyển được thế cục bấy giờ. Họ cũng là những người có nghĩa khí, nhưng nghĩa
khí thôi chưa đủ để họ tạo nên những bước chuyển. Hai lần họ ra tay hành động
nghĩa hiệp, thì cũng là hai lần thất bại trong tay Đặng Lân. Và đó là lúc Nguyễn
Mại xuất hiện.
Có thể nói, các nhân vật hư cấu xuất hiện theo lớp lang, kẻ trước người
sau theo một mô hình chung: Nối tiếp sau sự bất lực, thất bại của những chàng
nho sĩ là sự ra tay và thắng lợi của vị võ tướng. Hai lớp nhân vật này thể hiện rất
rõ sự chuyển mình của thời kỳ phong kiến lúc bấy giờ, khi chữ nghĩa nho giáo
bắt đầu nhường đường cho những người đấu tranh bằng vũ lực. Nguyễn Mại
chính là vị cứu tinh trong cả hai lần tên háo sắc Đặng Lân lên cơn bạo ngược.
Chàng cũng chính là người mở nút thắt cho tác phẩm, cho cả bi kịch đang diễn
ra khi ra tay diệt trừ Đặng Lân, trả lại sự bình yên cho muôn dân. Với Nguyễn
Mại, những kẻ như Đặng Lân cần phải diệt sạch, khỏi cần biết thế lực sau lưng
60
là ai, khỏi cần mất công ngồi lập kế hoạch, chờ thời cơ, cứ trái phép nước lòng
dân là phải trừng trị, “Cậu Trời cũng chém!”. Cũng giống như nhân vật Từ Hải
trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), hình ảnh Nguyễn Mại được xây dựng với
những nét lý tưởng, thể hiện ước mơ cháy bỏng của người dân vào niềm tin
công lý. Nhân vật Nguyễn Mại là nhân vật được Nguyễn Huy Tưởng quan tâm
xây dựng hình tượng nhất trong tác phẩm trong vai trò Anh hùng, cũng là nhân
vật ông nghĩ đến đầu tiên khi xây dựng tiểu thuyết Đêm hội Long Trì. Điều này
được thể hiện trong nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng trong những đoạn ghi chép
ngày 15/6/1942: “Trong buổi khó khăn, gạo châu củi quế, mà mẹ già không
kiếm nổi miếng cơm, ta không gửi tiền cho mẹ thì mẹ trông cậy vào đâu mà
sống? Trí óc băn khoăn về vấn đề tiền. Muốn viết một cuốn tiểu thuyết bán lấy
tiền để cung cấp mẹ già. Nghĩ đến chuyện Nguyễn Mại” [55] và ghi chép ngày
16/7/1942: “Một nơi cằn cỗi, chỉ có đá khô khan, người đời không làm gì được,
nhưng thi sĩ có thể biến thành một nơi đẹp đẽ vô cùng. Một biểu hiện. Không
cần cái cốt truyện, cần người sáng tác, điểm xuyết nên một công trình tuyệt
phẩm. Truyện Nguyễn Mại viết đã được 23 trang (hai nửa mặt) nghĩa là được
nửa công việc rồi. Cố lên một chút thì ta hoàn thành. Thượng đế hãy giúp tôi để
tôi thành chính quả” [55]. Như vậy, Nguyễn Mại có thể nói chính là ý tưởng, là
nguồn cảm hứng để nhà văn hình thành đường dây tác phẩm của mình. Đây
dường như cũng là nhân vật mà chủ đích ban đầu của ông xây dựng chàng là
một trong những nhân vật chính. Nhưng như chúng ta đã thấy trên thực tế tiểu
thuyết Đêm hội long Trì, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt Nguyễn Mại ở vị trí nhân
vật “mở nút”, một nhân vật phụ nhưng có vai trò rất quan trọng trong việc tháo
gỡ nút thắt, giải quyết bi kịch, thể hiện nhân sinh quan của tác giả. Hư cấu nên
nhân vật Nguyễn Mại, Nguyễn Huy Tưởng xây dựng mô típ tác phẩm theo
hướng kết thúc có hậu, mong muốn về những điều tốt đẹp trong cuộc sống, đồng
thời gửi gắm vào đó ước muốn đổi thay lịch sử, cũng như kì vọng về tương lai.
Trong thực tế lịch sử, không có văn bản nào ghi chép lại sự tồn tại của
Bảo Kim, Nguyễn Mại và những người bạn văn nhân, họ đều là sáng tạo của
61
Nguyễn Huy Tưởng. Những nhân vật này có vai trò lớn trong việc bổ khuyết,
lấp đầy những khoảng trống của lịch sử, đồng thời soi chiếu làm nổi bật hình
tượng nhân vật trung tâm. Trong cái nhìn về lịch sử ấy, còn đau đáu một nỗi
niềm trăn trở của kẻ sĩ, đặt ra các vấn đề đối thoại về tương quan giữa bạo lực
và nghệ thuật, nghệ thuật với cường quyền. Tài hoa của Bảo Kim cũng bất
lực trước sự chuyên quyền bạo ngược của Đặng Lân. Mặt khác qua hình tượng
nhân vật hư cấu, nhà văn cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm trước
những vấn đề mà lịch sử và cuộc sống nhân sinh đang đặt ra. Trong đó, nhân vật
Nguyễn Mại được tác giả gửi gắm ước mơ chính nghĩa chiến thắng. Chàng
Nguyễn Mại chính trực, ngay thẳng, giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha,
luôn nghĩ về sứ mệnh của kẻ sĩ là đền đáp ân chuẩn triều đình cũng như đối với
số phận của nhân dân. Xây dựng hình tượng nhân vật Nguyễn Mại trong mối
quan hệ quân - thần, quan - dân, tác giả đặt ra một vấn đề của xã hội đương thời.
Đó là bi kịch giữa trách nhiệm công dân với sự thối nát của chế độ cầm quyền
trong hoàn cảnh xã hội ngột ngạt, o ép.
Nguyễn Huy Tưởng chọn cho mình đề tài về bi kịch gia đình Chúa Trịnh
Sâm, tưởng như không lớn, nhưng tư tưởng chủ đề của tác phẩm thì vượt qua đề
tài nó phản ánh. Xung đột giữa hai tuyến nhân vật (Đặng Thị Huệ, Đặng Lân
với Quỳnh Hoa, Nguyễn Mại, Bảo Kim và dân Thăng Long) thực chất là cuộc
tranh đấu giữa thiện - ác, chính - tà, dục vọng - lương tri, lý tưởng, lòng nghĩa
hiệp với cường quyền bạo ngược. Hệ thống nhân vật trong phim Đêm hội Long
Trì được giữ lại khá nguyên bản so với tác phẩm văn học. Tuy nhiên, đạo diễn
Hải Ninh đã có những thay đổi nhất định trong từng nhân vật để tạo ra những
điểm nhấn, làm nổi bật tính cách nhân vật, cũng như gia tăng mối liên hệ, sự
xung đột để bộ phim cuốn hút khán giả.
Tóm lại, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì khá phong
phú, chia làm 2 tuyến thiện - ác rõ rệt. Trong đó, có những nhân nhân vật được
xây dựng đúng với nguyên mẫu lịch sử: Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ; nhân vật nửa
62
lịch sử, nửa hư cấu: Đặng Lân, Quỳnh Hoa; và những nhân vật hoàn toàn hư
cấu: Bảo Kim, Nguyễn Mại... Điều đó cho thấy tài hoa của Nguyễn Huy Tưởng
khi dựa trên một lát cắt lịch sử, dựa trên những nhân vật có thật, đã sáng tạo nên
một câu chuyện bi kịch vừa mang yếu tố lịch sử, vừa mang yếu tố thời đại, với
những nhân vật tưởng như bước ra từ lịch sử, nhưng lại rất gần gũi đời thường.
Nhân vật là một trong những yếu tố hàng đầu góp phần tạo nên thành công
cho tác phẩm nghệ thuật. Ở bất cứ bộ môn nghệ thuật nào, việc xây dựng nhân vật
luôn được xem trọng và cần sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Đối với tác phẩm văn
2.2. Hệ thống nhân vật trong phim điện ảnh Đêm hội Long Trì
học, ngôn từ là phương tiện để nhà văn tác động vào các giác quan của độc giả,
gợi mở sự kiện, hình ảnh, chi tiết, tình huống, khơi gợi cảm xúc và những kiến
giải, tạo dựng cho người đọc sự tưởng tượng về nhân vật, về hình tượng nghệ
thuật trong tác phẩm. Mỗi hình tượng nghệ thuật sẽ hình thành từ suy nghĩ và
tưởng tượng của những người đọc khác nhau, hay nói các khác, người đọc có sự
hình dung của riêng mình về các nhân vật theo trải nghiệm của chính họ.
Người đọc văn học nhìn thấy nhân vật trong mắt đọc của mình và nhận
thức, tưởng tượng ra nhân vật theo cách cảm, cách nghĩ của mình. Nhưng khi
bước sang không gian điện ảnh, nhân vật sẽ phải vận động, phải thể hiện được
sự phát triển con người, phát triển tính cách thông qua cách đối diện với các sự
kiện, các tình huống và xung đột trong một bối cảnh thật, thời gian và không
của các loại hình nghệ thuật khác. Nhờ vào khả năng vận động trong bối cảnh thật
mà người xem có điều kiện tiếp xúc trực tiếp, cảm nhận trực tiếp nhân vật trong
phim bằng mọi giác quan, giống như họ đang được đối diện với những con người
thật trong cuộc sống và cũng có những cảm xúc yêu ghét chân thực như cuộc sống.
gian nghệ thuật chân thực. Đây là thế mạnh của nhân vật điện ảnh so với nhân vật
Chính bởi lẽ đó, hình tượng nghệ thuật trong phim cần có sức cộng hưởng
lớn với những yếu tố khác và có thành công hay không phụ thuộc nhiều vào tâm
huyết, sự cẩn trọng cùng khả năng sáng tạo của những người tạo ra nó (biên
63
kịch, đạo diễn, diễn viên…). Xây dựng thành công một hình tượng nghệ thuật
điện ảnh điển hình, khái quát, với tính thẩm mỹ cao và có tầm ảnh hưởng sâu
sắc, tác động đến người xem, thực sự không đơn giản đối với bất kỳ một nhà
sáng tác nào. Công việc này đòi hỏi người nghệ sĩ phải suy nghĩ, trăn trở, dám
đi đến tận cùng của sự sáng tạo. Trong cuốn sách Những vấn đề lý luận kịch bản
phim, tác giả Đoàn Minh Tuấn đã nêu ra yếu tố cơ bản nhất cho việc xây dựng
nhân vật trong một bộ phim, và đó chính là hành động cũng như sự phát triển
của nhân vật. Cũng trong cuốn sách này, tác giả đã đưa ra ý kiến của nhà nghiên
cứu người Mỹ Syd Field (Sydney Alvin Field), người vẫn được xem là chuẩn
mực trong xây dựng nhân vật điện ảnh, với bốn yếu tố làm nên một nhân vật
điện ảnh sống động. Đó là: “nhân vật phải có quan điểm sống, nhân vật phải có
thái độ với những người xung quanh, nhân vật phải có hành động, nhân vật phải
có sự thay đổi. Đây là những yếu tố quan trọng và cần thiết khi xây dựng và hình
thành nhân vật trong tác phẩm điện ảnh. Xây dựng được nhân vật có 4 yếu tố
trên đồng nghĩa với việc để người xem có thể cảm nhận đầy đủ bên ngoài cũng
như bên trong của nhân vật” [42].
Trong tác phẩm điện ảnh, người mang đến cho khán giả những xúc cảm
thật về hình tượng nghệ thuật là diễn viên. Bằng ngoài hình, hóa trang, phục
trang và nghệ thuật diễn xuất nhằm thể hiện ý đồ của đạo diễn, người diễn viên
sẽ đến gần với nhân vật nhất, cho người xem hình dung về nhân vật dựa trên
sự hình dung của các nhà làm phim. Bản thân nhà đạo diễn khi bắt tay vào xây
dựng một bộ phim cũng đã có sự tưởng tượng, suy ngẫm, hình tượng hóa nhân
vật của mình sau khi cảm thụ qua tác phẩm văn học, hay qua kịch bản, từ đó,
tạo dựng cho riêng mình một hình tượng nhân vật cả về ngoại hình và tính
cách.
Chuyển thể tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đã
thành công khi đưa lên màn ảnh những hình tượng nhân vật đầy sức thuyết phục,
khiến người xem tưởng như những nhân vật bước ra từ tiểu thuyết của Nguyễn
64
Huy Tưởng, chính xác rõ ràng đến từng chân tơ kẽ tóc, nhưng cũng lại biến hóa
ảo diệu và đời thực đến ngỡ ngàng.
2.2.1. Tuyên phi Đặng Thị Huệ
Tuyên phi Đặng Thị Huệ là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất của
bộ phim. Đây có thể nói là nhân vật thành công nhất trong hệ thống nhân vật của
tiểu thuyết Đêm hội Long Trì được đạo diễn đưa lên màn ảnh. Ở cả hai thời điểm
sáng tác cách nhau nửa thế kỷ, với 2 loại hình nghệ thuật khác nhau, các tác giả
đều tập trung miêu tả sức hút của một huyền thoại về sức quyến rũ ma mị đến
khuynh đảo của “yếu tố đàn bà” - cái huyền thoại đã có cả một kho điển tích lưu
truyền từ đông sang tây.
Nếu như trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng chủ yếu mô tả những mưu
mô của Đặng Tuyên phi nhằm dồn ép Chúa Trịnh đồng ý gả quận chúa cho Đặng
Lân, thì khi chuyển thể, các nhà biên kịch và đạo diễn Hải Ninh đã nâng tầm, tố
cáo sự xảo quyệt của Đặng Tuyên phi đã làm khuynh đảo cả gia pháp tôn nghiêm
nơi phủ chúa cũng như trật tự xã hội. Hình ảnh Đặng Tuyên phi trong phim được
tô thêm tham vọng tiếm quyền. Nhiều phân cảnh được các nhà làm phim khai
thác từ văn chương và chính sử ghi chép về Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ được
đưa vào dàn dựng, như: phân cảnh Thị Huệ ném viên ngọc dạ quang - chiến lợi
phẩm của một trận đánh phương Nam của Chúa Trịnh(1), hay phân cảnh Đặng
(1) Theo Hoàng Lê nhất thống chí, Chúa Trịnh có một viên ngọc dạ quang, thu được khi đánh dẹp phương Nam, vẫn thường xâu ở trên đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm, Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói: “Nhè nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc sây sát!”. Thị Huệ bèn ném viên ngọc xuống đất mà khóc rằng: “Làm gì cái hạt ngọc này! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt khác là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh người như vậy?”. Rồi ả tự ý bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng nhiều cách dỗ dành cho ả vui lòng, lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa. (2) Hoàng Đình Bảo (1743 - 1782) còn được người đương thời gọi là Huy Quận Công, hay Quận Huy. Hoàng Đình Bảo thi đỗ Hương Cống (cử nhân), rồi đỗ tiếp Tạo sỹ (Tiến sỹ võ), được phong tới tước Quận Công và được Chúa Trịnh Sâm gả con gái cho. Năm 1778, ông được Chúa Trịnh cho coi việc trong phủ chúa và lĩnh chức Trấn thủ Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình). Khi trong họ Trịnh xảy ra tranh chấp ngôi Thế tử giữa con trưởng là Trịnh Tông và con thứ là Trịnh Cán, Quận Huy ngả theo Đặng Thị Huệ để giúp Trịnh Cán còn nhỏ. Năm 1782, Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán mới 5 tuổi lên thay, tức là Điện Đô Vương. Quận Huy được cử giữ chức phụ chính trong phủ chúa Trịnh. Cuối tháng 10/1782, lính kiêu binh đảo chính lật đổ Trịnh Cán để lập Trịnh Tông, Quận Huy bị giết, Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ bị truất, Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương.
Thị Huệ luận bàn cùng với Quận Huy Hoàng Đình Bảo(2) nhằm âm mưu diệt
65
trưởng lập thứ được dàn dựng, đã cho thấy sự chiều chuộng quá mức của Tĩnh
Đô Vương với Thị Huệ và âm mưu soán ngôi của vị sủng phi đã làm dấy lên
những “bão táp cung đình”.
Hình 4: Đặng Thị Huệ quyến rũ Trịnh Sâm, đòi gả Quỳnh Hoa
cho Đặng Lân
Nghệ sĩ ưu tú Lê Vân đóng vai Đặng Thị Huệ khi ở vào độ chín cả về
nhan sắc và tài năng. Và không làm thất vọng đạo diễn Hải Ninh cũng như sự
kỳ vọng của khán giả, với vẻ đẹp đài các, sang trọng và lộng lẫy, chị đã thể hiện
rất cuốn hút vai diễn của mình, tạo nên thần thái của một Tuyên phi quyền quý,
sắc sảo và đầy toan tính. Không chỉ ở ngoại hình, những chi tiết diễn xuất qua
từng phân đoạn có sự xuất hiện của Lê Vân đều toát lên trọn vẹn tinh thần của
nhân vật. Theo dõi xuyên suốt bộ phim, người xem có thể cảm nhận được sự
biến hóa đa dạng trong phong cách diễn xuất của Lê Vân, khi vừa dịu dàng, nồng
nàn và nũng nịu, khi lại thật lạnh lùng và sắc sảo. Truyện Kiều có câu “Đàn bà
dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan” để nói về cơ mưu của người
đàn bà, thì cũng có thể nói, Đặng Thị Huệ là một người đàn bà bản lĩnh, bản lĩnh
đến mức gây dựng phe cánh, liên kết trong ngoài, âm mưu “hoán Chúa”. Ở phân
đoạn Quận Huy vào gặp cung gặp Đặng Thị Huệ. Theo vương pháp, việc quần
thần đến nội cung gặp gỡ vương phi là chuyện đại kị, có thể khép vào tội chết.
66
Nhưng ở đây, Đặng Thị Huệ đã cho người hầu lui đi để bàn tính chuyện cơ mật,
đó là ngụy tạo bằng chứng để mưu hại Thế tử Tông, giao cho Quận Huy tìm
cách tâu trình với Chúa Trịnh. Sự tính toán của Thị Huệ nằm trong từng đường
đi nước bước, kể cả việc diệt trừ những cận thần bên cạnh Thế tử: “Quận Công
nói đúng. Nếu không sớm trừ Hồng Lĩnh hầu(1) và Tuân Sinh hầu(2), thì đại sự sẽ
không thành” [28, tập 1, 01:07:02]. Sự sắc sảo đến tàn nhẫn của Thị Huệ cũng
thể hiện trong cuộc trò chuyện với Đặng Lân, khi em trai thể hiện sự chán
chường về cuộc hôn nhân với Quỳnh Hoa, Đặng Thị Huệ đã cho Đặng Lân một
cái tát: “Đồ ngu! Ta cưới Quận chúa cho mi không phải để làm vợ, mà là để thờ,
nghe chưa? Có Quận chúa đó, ta mới dễ bề kêu cầu cho mi, việc lớn mới thành
được, mới diệt trừ được Nguyễn Mại. Từ giờ cho tới lúc đó, ta cấm mi không
được manh động, nghe chưa?” [28, tập 2, 00:39:35]. Cùng với lời nói là nét mặt
đanh thép, bàn tay nắm chặt ve áo rồi lại buông ra, bước chân di chuyển đi vào
rồi quay ra theo từng lời. Có thể nói, bên cạnh ngoại hình là một ưu thế, cách
diễn giàu cảm xúc, ngôn ngữ ánh mắt, ngôn ngữ hình thể đều toát lên phong thái
của một vương phi nhiều tham vọng. Cái tham vọng khiến người đàn bà sẵn
sàng vùi dập một người đàn bà khác không chỉ để làm vui cho người thân mà
còn để lợi dụng cho việc thanh trừng những mối nguy hại về sau. Lê Vân không
chỉ cho người xem một hình dung đầy đủ về Đặng Thị Huệ trong tiểu thuyết của
Nguyễn Huy Tưởng, mà còn là hình dung về Tuyên phi Đặng Thị Huệ có thật
trong lịch sử với những âm mưu thâu tóm quyền lực, tranh đoạt vương quyền.
2.2.2. Quận mã Đặng Lân
Đặng Thị Huệ và Đặng Lân là những khuôn mặt khác nhau, những biến
thể khác nhau của cái ác. Nếu Đặng Thị Huệ tiêu biểu cho cái ác ẩn dấu sau nhan
sắc mĩ miều thì Đặng Lân là biểu tượng của bạo lực và dâm loạn. Nhà văn
(1) Tức Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Khản (có sách ghi là Nguyễn Lệ), Trấn thủ Sơn Tây. (2) Tức Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, Trấn thủ Kinh Bắc.
Nguyễn Huy Tưởng đã bồi đắp Đặng Mậu Lân trong lịch sử thành một Đặng
67
Lân trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì như một hiện của dục vọng và tội ác.
Khi nhắc đến nhân vật này, Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng, nhân vật Mậu Lân
đã được “khai thác tỉ mỉ hơn, sinh động hơn. Hắn như một con thú dữ khát mồi,
hãm hiếp, phá phách, giết chóc, coi thường kỷ cương xã hội, chà đạp lên đạo lý,
sống dã man, tàn bạo và dâm loạn…” [54].
Hình 5: Tạo hình nhân vật Đặng Lân trong phim Đêm hội Long Trì
Về ngoại hình của Đặng Lân được mô tả: “Ấy là một gã trai trẻ, người
tầm thước, mắt diều hâu, lông mày rậm, râu ria nhiều, nhưng cạo nhẵn, ăn mặc
rất sang” [43, tr.19]. Trong phim, vai diễn ấy đã được đóng đinh cho nghệ sĩ
Hoàng Thắng, hay nói cách khác, Thắng sinh ra để đóng vai Đặng Lân. Về ngoại
hình, Hoàng Thắng không có được sự bảnh bao của Đặng Lân trong tiểu thuyết,
nhưng lại rất đúng hình dung của mọi người về đôi mắt diều hâu và đôi lông
mày rậm. Chưa kể, các nhà hóa trang đã điểm thêm cho nhân vật một nốt ruồi
bên dưới mép trái. Đây thật sự là nốt ruồi “sát chủ” bởi nó làm nổi bật cái vẻ
dâm đãng, thô tục, vô học và nham hiểm của nhân vật. Trong phim, vai diễn của
Hoàng Thắng đã lột tả đầy đủ sự lưu manh, ngông cuồng, dâm loạn, tàn bạo của
tên Quận mã, từ ánh mắt phóng túng, nụ cười khả ố, giọng nói ngang ngược,
dáng đi hùng hổ, cả trong cách xưng danh Cậu Trời của hắn. Cách ăn nói của
nhân vật cũng đầy thô lỗ, ngạo mạn, coi thường phép nước, coi thường cả bậc
68
quân vương là Chúa Trịnh. Đặng Lân xuất hiện ở đâu, dù là hồ Long Trì tráng
lệ trong phủ chúa, hay trong cái phủ quốc cữu “lòe loẹt” của y, hoặc giữa phố
phường Thăng Long, đều làm cho nơi đó trở nên hỗn loạn, mang theo nỗi tủi
nhục đến cho bao người phụ nữ.
Tuy nhiên, trong tác phẩm điện ảnh, đạo diễn Hải Ninh dường như đã
"nương tay" hơn với Đặng Lân khi loại bỏ phần kết của những "bữa tiệc đẫm
máu" trong phủ Quận mã, cũng như nhiều phân đoạn giết người không ghê tay
của hắn so với tiểu thuyết. Theo cảm nhận của chúng tôi, dường như đạo diễn
muốn dồn sự tàn bạo trong con người đó vào phần sau, khi Đặng Lân đến gặp
Quỳnh Hoa trong đêm tân hôn [28, tập 2, 00:21:42]. Đặng Lân phá cửa, xông
lên lầu Quận chúa đòi động phòng hoa chúc. Khê Trung hầu giơ roi lệnh của
Chúa Trịnh, hắn cũng bất chấp: “Thì làm gì được ta?”. Trong đoạn này, Đặng
Lân và bọn hầu cận đã giết 2 đại thần theo bảo vệ Quỳnh Hoa là Lương Ngự sử
và Khê Trung hầu.
Có thể nói, diễn viên Hoàng Thắng đã làm tốt vai trò nhân vật kịch tính,
nắm giữ và đẩy cao các xung đột trong phim, khắc họa rõ nét Đặng Lân như một
bạo chúa điển hình, từ ngoại hình đến tính cách. Vai diễn đã ghi dấu ấn sâu sắc
trong cuộc đời nghệ sĩ mà cho đến hôm nay, sau khi ông qua đời, khán giả vẫn
nhắc đến vai diễn này như một đỉnh cao về sự hóa thân vào hình tượng nhân vật
của ông.
2.2.3. Chúa Trịnh Sâm
Với Đêm hội Long trì, đạo diễn - nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đã thành
công khi quy tụ được một dàn diễn viên đầy sức thuyết phục, từ tạo hình nhân
vật đến diễn xuất đều rất nghiêm túc, nhập vai xuất thần. Đó là nghệ sĩ nhân dân
Thế Anh với ánh mắt da diết, yêu thương đầy bất lực khi nghĩ về đứa con gái
bạc phận, nhưng cũng là đôi mắt ấy trở nên đa tình, mê đắm đến mù quáng khi
ngắm Đặng Thị Huệ. Trịnh Sâm trong phim khiến người ta thương nhiều hơn
ghét, dù ông ta chính là nguyên nhân của mọi biến cố cung đình. Chúa Trịnh
69
từng là người sáng suốt, vậy mà, “từ ngày sủng ái Tuyên phi, việc triều chính
mỗi ngày một nát”,... “Tĩnh Vương chỉ vì say đắm Tuyên phi mà làm toàn những
điều bất chính; bao nhiêu lời can gián đều vô hiệu cả. Việc gì cũng nghe Tuyên
phi” [43, tr.24]. Đây có thể nói là nhân vật có tính cách phức tạp nhất trong tác
phẩm. Trịnh Sâm có lúc là người sáng suốt, anh minh, biết lo lắng cho cơ đồ;
ông cũng là người biết quý trọng nhân tài, mến mộ những người thao lược, trung
nghĩa như Nguyễn Mại, cũng như biết thưởng thức văn chương, yêu mến tài hoa
của Bảo Kim. Trong phim, nhiều phân đoạn thể hiện rõ niềm thương con hết
mực của Chúa Trịnh, ông cũng là người tâm lý khi biết trái tim Quỳnh Hoa đã
hướng về chàng văn sĩ Bảo Kim và cũng có ý định tác hợp cho đôi trẻ. Vậy
nhưng cũng lại là Trịnh Sâm giằng xé giữa 2 thứ tình yêu: một bên là tình thương
con đứt ruột, một bên lại day dứt vì sợ Ái phi buồn lòng. Phân đoạn đưa Quỳnh
Hoa xuất giá về phủ Đặng Lân được đạo diễn xây dựng giống như một cuộc chia
ly [28, tập 1, 01:31:00]. Xưa nay, đám cưới vốn là hỷ sự, là chuyện vui, nhưng
cuộc hôn nhân này ngay từ đầu đã đầy nước mắt. Quỳnh Hoa bái biệt phụ vương
lên kiệu, đôi mắt Trịnh Sâm nhìn theo con bàng hoàng, rưng rưng, tưởng như
một cuộc sinh ly tử biệt: “Cha làm hại con rồi. Quỳnh Hoa!”. Trong tiểu thuyết,
Nguyễn Huy Tưởng có viết về tình cảnh này, nhưng trên phim, sự kiện trở nên
sống động và gây xúc cảm mạnh mẽ cho người xem. Quận chúa Quỳnh Hoa tựa
như một nguồn ánh sáng trong trẻo, một thứ nước nguồn tưới mát tâm hồn Trịnh
Sâm, làm dịu đi những áp lực, tranh đoạt triều chính. Quỳnh Hoa ra đi, những
người tốt bên Chúa Trịnh dường như dần cũng rời khỏi Ngài, bởi đơn giản, Ngài
nắm vương quyền trong tay nhưng lại không bảo vệ những điều tốt đẹp, không
bảo vệ người thân bên mình, để đến nỗi xô đẩy con gái ruột vào nơi tăm tối đến
bước đường yểu mệnh. Đau lòng nhất là quyền uy của ông lại trở thành thế lực
che chở cho cái ác lộng hành.
70
Hình 6: Chúa Trịnh Sâm do nghệ sĩ Thế Anh thể hiện
Nghệ sĩ nhân dân Thế Anh là một trong những gương mặt gạo cội của nền
điện ảnh cách mạng Việt Nam. Trước khi tham gia Đêm hội Long Trì, tên tuổi
của ông đã rất nổi tiếng với nhiều vai diễn, trong đó có thể kể đến vai Trung úy
Phương trong phim "Nổi gió", Ba Duy trong “Mối tình đầu”… Trong Đêm hội
Long Trì, nghệ sĩ Thế Anh đóng vai chúa Trịnh Sâm. Ông chia sẻ: “Vai chúa
Trịnh Sâm có khá nhiều ứng viên nhưng cuối cùng tôi đã được chọn. Vào vai
này, thần sắc của gương mặt rất quan trọng, ngay cả việc chúa quắc mắc lên
cũng phải khác người thường. Người đóng những vai vua chúa phải thể hiện
được cái oai phong. Khi vớ được vai này tôi rất thích vì Trịnh Sâm là một nhân
vật đầy tâm trạng, có tài nhưng háo sắc” [65]. Thế Anh đã định hình một Trịnh
Sâm tài hoa, đa tình, nhưng lại là người luôn bị những giằng xé nội tâm, có ý
thức về lẽ phải, về chính nghĩa, nhưng lại khá mơ hồ, dễ dao động vì đã bị nhan
sắc và những thú trụy lạc chi phối đến bạc nhược. Cách diễn xuất của Thế Anh
qua đôi mắt chất chứa tâm sự khiến nhân vật này tạo được những ấn tượng sâu
sắc cho khán giả.
2.2.4. Quận chúa Quỳnh Hoa
Với trường hợp Quận chúa Quỳnh Hoa được chuyển thể khá trung thành
với nguyên tác, từ cách tạo hình với vẻ đẹp trong sáng, cho đến tính cách dịu
dàng, nhẫn nhịn và cách suy nghĩ hướng nội. Nếu Quỳnh Hoa ở đoạn đầu tiểu
71
thuyết là một cô gái xinh đẹp, thông minh và tài hoa, thì ở đoạn đầu phim chuyển
thể, Quỳnh Hoa lại cho người xem cảm giác về một nàng quận chúa thích ngao
du sơn thủy. Trong hình hài một cô gái thường dân, nàng hòa vào đêm hội, hòa
mình vào quần chúng như thể đó mới là nơi thuộc về mình. Hẳn nhiên, đó cũng
là một ẩn dụ của các nhà làm phim về số phận đớn đau của nàng. Nếu Quỳnh
Hoa không lớn lên trong nhung lụa vàng son, nếu Quỳnh Hoa cũng như bao dân
nữ đời thường, rất có thể cuộc đời của nàng đã khác, bình lặng và an yên. Và
chính trong hình hài dân thường đó, nàng đã tìm thấy tình yêu, một tình yêu nảy
nở rất đỗi tự nhiên, ngay từ phút ban đầu gặp gỡ, một tình yêu không rào cản,
không bị ràng buộc bởi lễ giáo, hay vật chất.
Hình 7: Gương mặt giấu sau chiếc quạt với đôi mắt trong sáng của
Quỳnh Hoa đã hút hồn thi sĩ Bảo Kim trong đêm hội Long Trì
Nhưng Quỳnh Hoa không có sự lựa chọn? Dù rất hạnh phúc bởi cuộc “vi
hành” đó, thì cũng chỉ như phút vui qua mau khi nàng phải trở về với thân phận
thực sự của mình, con gái vị chủ nhân cuộc thi thơ “Quần Anh hội”. Các nhà
làm phim đã thay đổi chi tiết chủ nhân "Quần anh hội" so với tiểu thuyết, không
phải là Quỳnh Hoa, mà là Chúa Trịnh Sâm. Điều này rất phù hợp về mặt lễ giáo
phong kiến xưa nay vốn trọng nam khinh nữ, đối với các cuộc thi văn chương
72
phần lớn đều do nam giới đứng đầu; Đồng thời, cũng phù hợp với vai vế và tài
văn chương của Trịnh Sâm. Qua đó, sự chuyển biến tâm lý của nhân vật Quỳnh
Hoa khi chấp nhận cuộc hôn phối sắp đặt theo ý cha cũng trở nên dễ hiểu và phù
hợp hơn.
Với đôi mắt sáng thông minh, diễm lệ và nét mặt "khuôn vàng thước
ngọc", nghệ sỹ ưu tú Thu Hà thường được giao đảm nhận những vai diễn có thân
thế cao sang. Người xem nhớ đến vẻ đẹp mỏng manh, lá ngọc cành vàng, đến
mức giọng nói cũng thoang thoảng, run rẩy của nghệ sĩ Thu Hà khi vào vai Quận
chúa Quỳnh Hoa. Nhan sắc của nàng là thứ nhan sắc yểu mệnh, trong sáng,
mong manh và cũng dễ vỡ quá chừng. Bi kịch của cô gái không dám yêu, không
dám hận khiến người ta xót thương. Điểm sáng và hạnh phúc lớn nhất trong đời
Quỳnh Hoa là mối tình với Bảo Kim, mối tình chưa kịp thổ lộ, chỉ qua ánh mắt
mà khắc cốt ghi tâm.
Hình 8: Quỳnh Hoa gửi gắm, xin cha nâng đỡ Bảo Kim
Trong tiểu thuyết, nỗi canh cánh lớn nhất của nàng trước khi về nhà chồng
là Bảo Kim, thì trong phim cũng vậy. Nàng đã xin cha trọng dụng Bảo Kim để
đền đáp mối ân tình mà mình lỗi hẹn. Gương mặt đẫm nước mắt với ánh mắt
cầu khẩn của Thu Hà khiến người xem càng thêm xót thương cho cuộc đời “hồng
nhan bạc phận” của Quỳnh Hoa.
73
Trong bộ phim, ngoài những phút vui ban đầu của đêm hội Trung thu bên
hồ Long Trì và những phút hai cha con Trịnh Sâm, Quỳnh Hoa đi dạo, thả diều,
hái sen… thì những phân cảnh còn lại về Quỳnh Hoa chỉ còn là những phút buồn
và đầy bi thương. Nàng đã trở thành vật hy sinh chỉ bởi niềm đam mê mù quáng
và sai lầm của cha mình. Hình ảnh diễn viên Thu Hà hóa thân vào vai Quỳnh
Hoa đã thể hiện trọn vẹn hình dung của người xem về một cô quận chúa mỏng
manh, yếu đuối, không chỉ yếu đuối về ngoại hình, mà còn yếu đuối trong tính
sách, không dám cưỡng lại ý cha, không dám nói lên tiếng nói bảo vệ hạnh phúc
cá nhân của mình.
2.2.5. Các nhân vật khác: Bảo Kim và Nguyễn Mại
Các nhân vật phụ trong phim chuyển thể Đêm hội Long Trì đều được
xây dựng khá trung thành với nguyên tác. Diễn viên Vũ Đình Thân với ngoại
hình nho nhã, cử chỉ thanh thoát đã thể hiện tròn vai chàng thi sĩ Bảo Kim,
nhất là những phân đoạn thể hiện tình yêu với Quận chúa Quỳnh Hoa. Đạo
diễn Hải Ninh đã xây dựng hình tượng Bảo Kim không chỉ tài mạo song toàn,
giỏi văn chương thơ phú, mà còn có nghĩa khí, dám đứng lên chống lại cái ác,
bảo vệ kẻ yếu trong đêm hội Trung thu, nhưng đành bất lực chịu một đòn
đánh vỡ đầu. Sự bất lực của Bảo Kim và những người bạn nho sinh của chàng
là sự tố cáo cái suy tàn xã hội phong kiến thời Lê mạt, cái bi kịch của kẻ sĩ
phải khuất phục trước cường quyền và cái ác. Sự suy đồi của lễ nghĩa, khiến
cho người tài, người giỏi không còn là những người có tiếng nói trong xã hội.
74
Hình 9: Ánh mắt bất lực của Bảo Kim khi bị Đặng Lân bắt
Các nhà làm phim đã làm nhẹ đi sự đau đớn của chàng Bảo Kim khi không
để chàng bị bắt trong cuộc đột nhập giải cứu Quỳnh Hoa, mà bị bắt trong đêm
bởi âm mưu của Đặng Lân muốn dùng Bảo Kim để ép buộc Quận chúa, buộc
nàng phải ưng thuận để hắn giày vò. Nếu theo tiểu thuyết, chàng đường đường
là một đấng quân tử mà không thể cứu thoát người mình yêu, lại trở thành
nguyên nhân để nàng phải hy sinh thân xác vì mình, thì đó không chỉ là nỗi đau,
mà còn là nỗi nhục kẻ sĩ đeo đẳng suốt cuộc đời. Bảo Kim trong phim chưa kịp
hành động, điều đó sẽ hợp lý hơn với tính cách nho nhã, biết tính toán của chàng.
Có điều kẻ nham hiểm Đặng Lân đã hành động trước khi chàng và các bạn kịp
đề phòng.
Nếu như trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng quan
tâm và dành nhiều tâm huyết cho nhân vật Nguyễn Mại, thì trong phim, nhân
vật này tiếp tục được các nhà làm phim xây dựng thêm nhiều chi tiết, tình tiết,
gia tăng thời lượng xuất hiện, nhằm tái hiện hình tượng người anh hùng. Có thể
nói, đạo diễn Hải Ninh đã có một con mắt nghề rất sắc sảo, khi các lựa chọn của
ông cho từng vai diễn đều thể hiện đúng hình dung của người xem về kiểu (mô
tuýp) nhân vật đó. Với Nguyễn Mại cũng vậy. Diễn viên Trọng Phan với gương
mặt vuông chữ điền, ánh mắt cương nghị, phong cách đĩnh đạc của một võ tướng
đã hoàn toàn thu phục khán giả. Nếu như trong tiểu thuyết, các phân đoạn có sự
75
xuất hiện của Nguyễn Mại đều khá ngắn gọn, thì trong phim, đã có thêm những
chi tiết mới, như phân đoạn Bảo Kim chia tay Nguyễn Mại về quê; phân đoạn
Nguyễn Mại gặp gỡ với Quan hộ thành cũ; hay phân đoạn Nguyễn Mại bị Chúa
Trịnh trách phạt vì đã phạm đến người trong hoàng tộc... Trong các phân đoạn
về Nguyễn Mại trong phim có khá nhiều đối thoại giữa Nguyễn Mại với các
nhân vật khác, nội dung phần lớn đề cập và phân tích về những tội ác mà Đặng
Lân đã gây ra, với lối nói nghiêm khắc và gay gắt, cách thể hiện dứt khoát đòi
hỏi cái ác phải được loại bỏ khỏi xã hội, đã khắc họa rõ nét hơn về nhân vật này,
giúp người xem dễ lý giải về hành động nhân vật khi ra tay diệt trừ Đặng Lân.
Nhờ đó, trong phim đã lược bỏ được phần cung khai của cô Ngọc và nghị án
Đặng Lân trước khi ra tay. Nguyễn Mại xuất hiện tại hiện trường chỉ có những
tuyên bố ngắn gọn về tội trạng của Quận mã và chém dầu hắn. Đó không phải
là hành động theo kiểu hành hiệp trượng nghĩa vẫn thường thấy trong các bộ
phim kiếm hiệp, mà đó là hành động có trách nhiệm của một trung thần với triều
đình, của một vị quan yêu dân và của một người dân có lương tri trước tội ác.
Trong phim, Nguyễn Mại đã chết vì chính nghĩa, cũng là một cách nghĩ
khá logic dẫu đầy tiếc nuối. Bởi lẽ, chúng ta đều biết, Cậu Trời thực ra không bị
chém chết giữa đường như Nguyễn Huy Tưởng viết mà chỉ bị đi đày, Tuyên phi
vẫn lộng hành và Chúa Trịnh Sâm ngày càng sa lầy trong những thói trụy lạc,
bỏ bê triều chính. Cái bi kịch của xã hội thời Lê mạt vẫn còn đó với những mâu
thuẫn sâu sắc chờ đợi một “Nguyễn Mại” xuất hiện giữa đời thường.
Tiểu kết chương 2
Trong chương thứ hai của luận văn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thế
giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và trong phim điện ảnh cùng
tên. Trong đó, có sự đối chiếu so sánh các nhân vật trong tiếu thuyết so với lịch
sử và các nhân vật trong phim so với tiểu thuyết để thấy được sự sáng tạo của
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và của các nhà làm phim. Trong tiểu thuyết, các
nhân vật lịch sử dù được xây dựng trên nguyên mẫu, song đã được nhà văn đưa
76
thêm nhiều sự kiện, chi tiết tạo nên hình tượng điển hình cho kiểu nhân vật; Các
nhân vật hư cấu được xây dựng phóng khoáng và mang nhiều ý nghĩa về tư
tưởng, nhân sinh quan của nhà văn. Còn trong phim chuyển thể, hệ thống nhân
vật chịu sự cải biên khá rõ nét của đạo diễn Hải Ninh và biên kịch Lê Phương,
Hoàng Nhuận Cầm so với trong nguyên tác. Từ trang phục, tính cách, lời nói,
cử chỉ, hành động, đến tâm sự của các nhân vật đều có những sự kế thừa và sáng
tạo. Đặc biệt nhất là sự thay đổi tập trung ở vai trò chính - phụ của nhân vật
Tuyên phi Đặng Thị Huệ, với những tình tiết được xây dựng nhằm điểm tô tham
vọng tiếm quyền đã làm nên một vị khuynh thế hoàng phi tiêu biểu trong điện
ảnh Việt Nam. Bên cạnh đó, nhân vật hư cấu Nguyễn Mại được quan tâm với
nhiều tình tiết bổ sung, làm nổi rõ vai trò anh hùng - nhân vật "mở nút" trong
phim.
77
Chương 3 NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ ĐIỆN ẢNH TRONG ĐÊM HỘI LONG TRÌ
3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì
Văn học không chỉ là hình thái ý thức xã hội, mà còn là một loại hình nghệ
thuật với chất liệu là ngôn ngữ của các tộc người trên trái đất mang tính hình
tượng, được sắp xếp theo một tổ chức nhất định và có tính chuẩn mực cao (hàm
súc, cô đọng, đa nghĩa và biểu cảm), được gọi là ngôn từ nghệ thuật. Trong tác
phẩm văn học, ngôn từ là phương tiện để cụ thể hoá và vật chất hoá đường dây
cốt truyện, chủ đề và tư tưởng tác phẩm, cũng như tính cách nhân vật... Nguyễn
Tuân đã định nghĩa về nghề văn chương như sau: “Nghề văn là nghề của chữ -
chữ với tất cả mọi nghĩa mà mỗi chữ phải có được trong một câu, nhiều câu. Nó
là cái nghề dùng chữ nghĩa mà sinh sự để sự sinh” [41, tr.715-716]. Chính vì lẽ
đó, ngôn từ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nhà văn trong việc tư duy
nghệ thuật. Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của nghệ thuật văn chương, hay nói theo
cách khác, văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Điều đó đã được khẳng định
từ lâu và được thừa nhận rộng rãi. Theo cuốn sách Lý luận văn học, tác giả
Phương Lựu cho rằng: “Ngôn từ là lời nói viết mà người ta dùng làm chất liệu
để sáng tác văn học. Nếu ngôn ngữ là tổng thể tất cả các đơn vị, phương tiện,
các kết hợp mà lời nói sử dụng (ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, các phương pháp
tu từ), lời nói là hình thức tồn tại thực tế của ngôn ngữ vốn phong phú, sinh
động, đa dạng, thì ngôn từ là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm chất thẩm mĩ
và khả năng nghệ thuật của nó” [24, tr.183]. Chính ngôn từ, chất liệu cấu tạo
nên các hình tượng nghệ thuật đã qui định tính độc đáo và đặc biệt đó của văn
học. Giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học có sự khác biệt. Theo
M.Gorki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói "nguyên liệu", còn ngôn ngữ văn học
là tiếng nói đã được những người thợ tinh xảo nhào luyện. Nhà nghiên cứu văn
học Lại Nguyễn Ân biên soạn trong cuốn sách 150 thuật ngữ văn học cho rằng,
ngôn ngữ văn học là “dạng thức đã được chỉnh lý của ngôn ngữ toàn dân, được
78
những người dùng ngôn ngữ này coi là chuẩn mực” [2, tr.225]. Sự thành công
của mỗi tác phẩm có vai trò quan trọng, quyết định bởi việc sáng tạo, sử dụng
linh hoạt ngôn ngữ của người nghệ sĩ. Đây cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn,
lôi cuốn và để lại ấn tượng cho người đọc. Mỗi nhà văn sẽ có một bí quyết vận
dụng ngôn từ riêng để từ đó khẳng định phong cách nghệ thuật không thể trộn
lẫn, tạo ra những tín hiệu riêng giúp người đọc nhận diện tác giả và tác phẩm,
“những người sành sỏi về văn học có thể căn cứ vào những đặc điểm về giọng
điệu của một đoạn văn tự sự nhất định mà họ chưa hề biết hoặc căn cứ vào
mấy dòng của một bài thơ mới lạ để xác định tác giả của những tác phẩm
ấy” [18, tr.297]. Chính bởi vậy mà mọi người đều cho rằng, nhà văn là bậc thầy
của ngôn từ.
Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Huy Tưởng luôn ý thức rất
rõ về vai trò, sức mạnh của ngôn từ. Ông cho rằng, ngôn từ chi phối mạnh mẽ
đến việc hình thành âm hưởng, giọng điệu cũng như sức hấp dẫn của tác phẩm,
do đó nhà văn phải đầu tư cho sáng tác, chịu khó tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm,
phải tạo ra một giọng điệu, âm hưởng và lối văn riêng. Và lối riêng mà Nguyễn
Huy Tưởng đã chọn cho mình chính là “Chép sử bằng văn học”! Xưa nay, viết
về đề tài lịch sử vẫn luôn là thách thức với nhiều nhà văn, đòi hỏi cái tâm,
cái tầm và văn tài của người viết, phải vượt qua những rào cản về không gian,
thời gian với những khác biệt về ngôn ngữ, văn tự, văn hóa, phong cách, lối
sống, phong tục, tập quán qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhưng Nguyễn
Huy Tưởng đã vượt qua và để lại những dấu ấn đậm nét trong hành trình sáng
tạo văn chương.
3.1.1. Ngôn ngữ miêu tả
Không chỉ riêng trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì mà qua nhiều tác
phẩm viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta thấy ông có lối
hành văn trong sáng, từ ngữ giàu sức gợi, kết hợp với các thủ pháp, biện pháp
nghệ thuật tu từ đã góp phần tái hiện lịch sử dân tộc, vừa cổ kính trang trọng,
79
vừa đời thường sinh động; vừa mang đậm nét xưa, nhưng cũng đầy ắp hơi thở
thời đại. Trong Đêm hội Long Trì, chọn đề tài về bi kịch gia đình Chúa Trịnh
Sâm Tĩnh Đô Vương, nhưng đằng sau đó là cả một bi kịch của xã hội đương
thời, tác giả cho thấy cái nhìn tinh tế, lối tiếp cận vấn đề phù hợp và mang tính
thời sự sâu sắc. Những trang văn lôi cuốn bởi có sự hòa quyện giữa lớp từ ngữ
cổ kính, trang nghiêm, kết hợp nhuần nhuyễn lớp từ Hán - Việt với ngôn ngữ
đời thường giản dị, gần gũi. Điều đó khiến cho tác phẩm viết về không gian -
thời gian với độ lùi mấy trăm năm, nhưng không hề xa lạ, khó tiếp nhận, mà
qua đó, người đọc thấy được độ chân thực của lịch sử, những bài học của quá
khứ trong cuộc sống hiện thời.
Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì có một phong cách nghệ thuật đặc biệt, đó
là nghệ thuật miêu tả không khí thời đại mang đậm sắc màu lịch sử và tính điện
ảnh. Tái hiện không khí, bối cảnh lịch sử thời Lê Trung Hưng với những lễ nghi,
phép tắc, cung cách sinh hoạt, ứng xử trong triều đình, ngôn ngữ trong tác phẩm
cũng trang trọng, phù hợp văn hóa, phong tục, sinh hoạt của thời kỳ đó. Điều đó
được thể hiện ngay từ những trang viết đầu tiên khi tác giả mô tả lại đêm hội
Trung thu bên hồ Long Trì. Một bức tranh bằng ngôn ngữ được vẽ nên mà không
thiếu đường nét và màu sắc nào, tất cả đều hài hòa và ấn tượng; Một không gian
được dựng lên với đầy đủ phong cảnh, con người, màu sắc, âm thanh, âm nhạc,
ánh sáng… qua bàn tay sắp xếp ngôn từ tài tình của Nguyễn Huy Tưởng. Và
trên bối cảnh được miêu tả bay bổng và thi vị đó, các nhân vật chính và phụ lần
lượt xuất hiện. Nói về tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, nhà văn Tô Hoài từng nhận
xét: “Đêm hội Long Trì, những sinh hoạt xưa ở kinh kỳ mà trong đó, huyên náo
những cảnh lộng hành bạo ngược của chị em bà Chúa Chè người Kinh Bắc.
Những đau khổ của người dân phải chịu đựng mọi thói ăn chơi vô độ của các
triều đại vua chúa. Những chồng chất giữa những oan khiên này, vẫn thấy được
đời sống người Kẻ Chợ cùng mọi quang cảnh phố phường sinh sôi. Đấy là sức
sống âm thầm mà mãnh liệt của “bách tính” đã làm nên bao đời Kẻ Chợ” [43,
bìa cuối]
80
Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng
rất giàu chất thơ, được tạo nên từ những đoạn, câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu,
những từ ngữ gợi hình, gợi cảm, nhuốm màu tâm trạng, tạo ra nhịp điệu trữ
tình, đặc biệt là ở trường đoạn miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Vẻ đẹp ngôn từ
toát ra từ những câu từ giàu hình ảnh, màu sắc, mang đậm tính kịch và chất trữ
tình; lối sắp xếp câu chữ nhịp nhàng cân đối mang âm hưởng của ngôn ngữ thơ
ca, vừa tạo ra không khí lịch sử của thời đại đã qua, vừa như đang đối thoại với
cuộc sống hiện thời. Trong trường đoạn mở đầu Đêm hội Long Trì, tác giả đã
xây dựng được hình ảnh mang tính biểu tượng, đó là hình ảnh ánh trăng - một
hình ảnh đẹp của thiên nhiên, vũ trụ. Ánh trăng rằm trung thu phản chiếu, đóng
vai trò làm nền cảnh, tô đẹp cho bức tranh đêm hội thêm lung linh huyền ảo với
cờ hoa, đèn lồng rực rỡ. Và ánh trăng cũng chính là nguồn thi hứng để chàng
nho sĩ Bảo Kim trổ tài văn thơ trước vẻ đẹp yêu kiều, quyến rũ của quận chúa
Quỳnh Hoa. Ánh trăng - nhân chứng như hiểu nỗi lòng của hai kẻ tình si, như
nói hộ và cũng như che dấu giúp hai người tấm chân tình trong sáng, mà khắc
cốt ghi tâm.
Nguyễn Huy Tưởng là bậc thầy về sự đối lập, sự đối lập giữa cái mở đầu
rộn rã, tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, song lại báo hiệu những tấn bi kịch,
khổ đau và rạn vỡ. Một đêm hội Long Trì mở ra cả một cơn cuồng nộ những
sóng gió vương triều. Một đám rước dâu cờ giong trống mở, lầu tân hôn trang
hoàng lòe loẹt nhưng không che dấu được nỗi đau tan vỡ tình yêu của cô gái trẻ
và bi kịch hôn nhân đang chờ nàng ở phía trước. Hai tháng yên bình của Thăng
Long sau khi Đặng Lân cưới được Quỳnh Hoa chỉ là khoảng lặng trước bão
dông đối với cô Hoàng Thị Ngọc ở Thụy Khuê và rất có thể là đối với nhiều
người phụ nữ khác ở chốn kinh thành. Những phút giây hạnh phúc bên vợ con
của Nguyễn Mại cũng chính là khoảng thời gian chàng từ biệt gia đình để lên
đường diệt trừ cái ác, thực thi công lý. Điều đó ẩn dụ một triết lý “mọi thứ lấp
lánh đều không phải là vàng”, “trước cơn bão trời thường rất đẹp”. Nguyễn
Huy Tưởng thấm nhuần và trải nghiệm triết lý một cách sâu sắc, ông vận dụng
81
và đưa vào tác phẩm của mình khéo léo, tạo nên một phong cách trong xây dựng
tác phẩm, với lối sử dụng ngôn từ đối lập, văn phong đối lập, tình huống đối
lập. Tác giả gửi gắm trong đó những chiêm nghiệm về mối quan hệ giữa con
người với con người, bi kịch của kẻ sĩ, số phận người phụ nữ, và cả niềm tin
vào sức mạnh chính nghĩa. Sự tương phản càng làm nỗi đau thêm sâu, bi kịch
thêm tổn thương và mất mát càng rõ nét. Sự tương phản tác động vào người
đọc, khiến người đọc như được tận mắt chứng kiến mọi diễn biến của câu
chuyện và dâng trào cảm xúc theo từng câu chữ. Và sự tương phản, đối lập
khiến tác phẩm có tính điện ảnh cao với sức gợi phong phú, tác động mạnh mẽ
đến người đọc.
Ngôn ngữ miêu tả nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là thứ
ngôn ngữ giàu hình ảnh, màu sắc tạo nên những bức tranh tương phản, đối lập
giữa ánh sáng và bóng tối, giữa người anh hùng chân chính và kẻ hung bạo, dữ
dằn sặc mùi dục vọng, giữa vẻ ngây thơ trong sáng của Quỳnh Hoa với những
mưu mô, thủ đoạn của Đặng Thị Huệ… hay khái quát hơn đó là sự tương phản,
song hành giữa một bên là bạo lực của cường quyền, của những rối ren và náo
động xã hội, với một bên là sự mong manh, bấp bênh của những số phận, những
cuộc tình, những đam mê và khát vọng của con người. Khi miêu tả nhân vật,
Nguyễn Huy Tưởng chú trọng thông qua ngoại hình, đối thoại và nội tâm. Một
đặc điểm trong ngôn ngữ miêu tả nhân vật của tác giả là khi viết về những nhân
vật có lý tưởng, khát vọng lớn, nhà văn thường dùng những từ ngữ, câu văn
giàu hình ảnh so sánh, liên tưởng nhằm tô đậm vẻ đẹp ngoại hình hoặc một đặc
điểm nào đó trong tính cách của họ. Còn khi miêu tả nhân vật phản diện, nhà
văn thường sử dụng những câu văn tả thực với sắc thái mỉa mai, châm biếm.
Nếu như Bảo Kim nho nhã, “bác lãm quần thư, nghị luận giỏi, văn chương tao
nhã”, là “hiện thân của cảm hứng”, “một sự kỳ dị” [43, tr.12-15]; Nguyễn Mại
khảng khái “ăn vận lối võ quan, mép để ria, mình đeo gươm, trông có vẻ ngang
tàng hào mại” [43, tr.21]; thì ngược lại, Đặng Lân được gọi là “tên vô lại”, “dữ
dội và nham hiểm”, “nó nham hiểm và hèn lắm. Thấy ai vào tay sừng sỏ thì nó
82
lủi đi như con rắn để cắn trộm lúc khác; những khi ấy thì nó lại càng nguy
hiểm” [43, tr.25]. Nếu Quỳnh Hoa là một thiếu nữ kiều mỵ, đầy vẻ mỏng manh
và thanh khiết, “trạc 16,17 tuổi, nàng hơi xanh dưới ánh trăng thu, người hơi
gầy, nhưng vẻ thanh tú” [43, tr.11], thì Đặng Thị Huệ là vẻ đẹp rực rỡ và từng
trải, ẩn chứa cả những hiểm họa, “người đàn bà có một sắc đẹp quyến rũ yêu
quái. Người phi là tiếng gọi của dục tình” [43, tr.26].
3.1.2. Ngôn ngữ đối thoại
Tái hiện không khí, bối cảnh lịch sử với những lễ nghi, phép tắc, cung
cách sinh hoạt, ứng xử trong triều đình, Nguyễn Huy Tưởng cũng tái hiện
những cuộc trò chuyện đối thoại đậm không khí cổ xưa. Ta có thể thấy cách
định danh, xưng hô của các nhân vật trong truyện cũng đầy chuẩn mực phong
kiến: Tĩnh Đô vương, Quỳnh Hoa quận chúa, Tuyên phi, Quốc cữu, chàng -
nàng, Hộ thành binh mã sứ, Ngô thị lang, Quần anh hội, văn nhân, thi lễ, chủ
nhân, liệt vị, Thiên tử… Cùng với đó là cung cách sinh hoạt, ứng xử, suy nghĩ
của từng nhân vật tương ứng với vị trí, vai vế của họ trong xã hội… Trong đoạn
đối thoại giữa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm với Nguyễn Mại sau khi vị tướng trẻ
lập được công lớn trong trận đánh thành Phú Xuân đã được Chúa Trịnh mời đến
gặp mặt. Trong khi lối nói chuyện của Trịnh Sâm khoan thai, bề trên, thì cách
nói của Nguyễn Mại ngắn gọn, giản dị theo kiểu con nhà võ, lại có phần pha
chút lúng túng của người ít có cơ hội tiếp xúc với bậc vương tôn: “Nguyễn Mại
nhận ra ngay là Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mà chàng mới biết mặt trong đêm
hội Long Trì. Sát vào sập có kê một chiếc ghế lớn, một vị đại thần ngồi. Nguyễn
Mại tiến đến chỗ treo đèn, chàng phủ phục và hô:
- Thiên tuế!
Và chàng nằm rạp xuống chờ lệnh. Một lúc lâu Tĩnh Vương phán:
- Cho phép ngươi bình thân.
Chàng đứng lên. Chúa nói gì với vị đại thần, vị này nói:
83
- Đại vương truyền cho ngươi lại gần để Ngài hỏi chuyện
Mại tuân lệnh. Chúa chỉ một cái đôn cách sập độ sáu thước, chéo với
ghế của vị đại thần và truyền:
- Cho ngồi.
Nguyễn Mại luống cuống:
- Tâu Vương gia, lệnh trên cho phép, nhưng tiểu tướng xin được đứng
hầu” [43, tr.34-35].
Trong tiểu thuyết, hệ thống từ Hán Việt được tác giả sử dụng rất nhuần
nhuyễn. Đây cũng là một đặc trưng của ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ văn
học thời kỳ trung đại do sự tác động, ảnh hưởng của văn hóa và văn học Trung
Hoa. Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo vận dụng từ Hán Việt để tạo nên không
khí sử thi, sắc màu lịch sử và thời đại cho tác phẩm, đồng thời làm nổi bật phẩm
chất, tính cách nhân vật. Đặc trưng của lớp từ Hán Việt là các sắc thái: trang
trọng; tao nhã; khái quát và trìu tượng; và sắc thái cổ, với thế mạnh là tính gợi
hình, tạo âm hưởng, nhịp điệu cho câu văn. Trong đoạn trích sau khi nhận lời
cha vâng lệnh lấy Đặng Lân, Quỳnh Hoa quyết định từ bỏ mối tình với Bảo Kim,
nàng gom hết tâm tư viết một bài bát cú rồi lại tả một bức thư tâm tình gửi cho
Bảo Kim, “Đọc thư Quận chúa, Bảo Kim bất giác rưng rưng hàng lệ. Nàng đã
tỏ hết lòng ngưỡng mộ đối với chàng, nói rõ cảnh ngộ mình, xin vĩnh biệt cùng
chàng và trả lại thơ, phú mà nàng không có quyền giữ. Cuối cùng, nàng khuyên
chàng nên quyết chí tu thân để ra giúp nước. Bài thơ bát cú của nàng lâm ly sâu
sắc, trách duyên tủi phận, mỗi chữ là một giọt lệ, mỗi câu là một tiếng thở dài”
[43, tr.84]. Lớp từ Hán Việt khiến toàn bộ cuốn tiểu thuyết ngập tràn một không
khí cổ kính. Trong đó, cảm hứng xót xa, nuối tiếc những giá trị đạo đức, giá trị
văn hóa và tình yêu bị chà đạp do cái ác lộng hành được tạo nên bởi lớp từ Hán
Việt, vừa mang màu sắc hoài cổ, tiếc thương, vừa ngầm ý phê phán, trách móc
nhà Chúa vì mê đắm tửu sắc, chiều lòng người đẹp mà cơ đồ, triều chính náo
loạn, rối ren.
84
Bên cạnh lớp từ Hán Việt là lớp từ ngữ đời thường, giản dị, được sử dụng
nhuần nhuyễn, hài hòa, tạo nên sắc thái đời thường, mộc mạc. Viết về lịch sử,
Nguyễn Huy Tưởng luôn chú trọng đưa ngôn ngữ thuần Việt, ngôn ngữ hàng
ngày vào trong tác phẩm, giúp người đọc trở lại gần với những trang sử nước
nhà. Là người có vốn Hán học sâu sắc, lại thành thạo tiếng Pháp, song đối với
Nguyễn Huy Tưởng, chữ quốc ngữ vẫn là phương tiện tuyệt vời nhất để ông thể
hiện tình yêu sục sôi với đất nước, với cách mạng, với văn chương: “Phận sự
một người tầm thường như tôi, muốn tỏ lòng yêu nước, chỉ có một việc là viết
văn quốc ngữ mà thôi” [69]. Chính bởi lẽ đó, những trang văn của ông dẫu trang
trọng, song vẫn rất gần gũi, dễ đọc, dễ hiểu, dễ cảm nhận. Việc đưa nhiều từ
thuần Việt, thậm chí là những câu nói suồng sã, khẩu ngữ, ngôn ngữ giao tiếp
đời thường làm cho tác phẩm trở nên sinh động, chân thực, biểu cảm. Điều này
được hình thành từ cách tiếp cận lịch sử của tác giả. Ta có thể thấy khi miêu tả,
khắc họa hình tượng nhân vật lịch sử, tác giả luôn đặt nhân vật của mình trong
mối quan hệ đa chiều, để qua ngôn ngữ giao tiếp của nhân vật với các nhân vật
khác sẽ bộc lộ tính cách, phẩm chất. Nhà văn quan tâm chú ý đến đặc điểm lứa
tuổi, tầng lớp xuất thân của nhân vật, cũng như đối tượng giao tiếp để lựa chọn
ngôn ngữ phù hợp. Trở lại với nhân vật Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm, trong đoạn
trích cuộc gặp với Nguyễn Mại ở trên, ngôn ngữ giao tiếp của Trịnh Sâm dẫu
đã thể hiện sự gần gũi với viên tướng trẻ, song vẫn toát lên vẻ khách khí, bề
trên. Nhưng ngược lại, khi ở bên Tuyên phi Đặng Thị Huệ, là sự say đắm trong
những lời có cánh của Trịnh Sâm trước vẻ đẹp yêu kiều của Tuyên phi: “Chúa
Tĩnh Đô nghiện trà và rất sành thưởng thức. Nội những phi tần không ai pha
trà vừa ý Chúa. Duy Tuyên phi có cái nghệ thuật tuyệt vời về nghề này. Chúa
chỉ có những lời bái phục.
Chúa tiếp lấy chén trà và nói:
- Ái phi cùng ta uống. Sắc đẹp của ái phi là sắc đẹp thần tiên, kẻ tục tử
này đâu dám vô lễ mà uống trà trước.
85
Nàng quỳ xuống nói:
- Chúa thượng, tuy là rộng lượng nhưng tiện thiếp đâu dám tiếm vượt?
- Ái phi không được khách sáo.
Và Chúa đỡ nàng dậy, chính tay rót một chén trà đưa cho. Tuyên phi
cung kính đỡ lấy. Chúa uống xong nói:
- Chua bao giờ ái phi đẹp như hôm nay, mà cũng không bao giờ trà của
ái phi ngon như hôm nay” [43, tr.59].
Còn trong những đoạn trích giữa Trịnh Sâm với Quận chúa Quỳnh Hoa
là tâm trạng và những lời yêu thương, lo lắng của nhà Chúa dành cho con gái.
Đối với Quỳnh Hoa, ông luôn là một người cha nhất mực thương con, mong
muốn dành cho con những điều tốt đẹp nhất. Vậy nhưng chỉ vì cả nể và chiều
lòng người đẹp, Trịnh Sâm đã đồng ý gả con gái yêu cho Đặng Lân để rồi luôn
dằn vặt, ân hận: “Quỳnh Hoa vẫn định tâm nếu gặp cha thì hỏi cho ra nhẽ, và
hơn nữa, định vượt cả bổn phận làm con, nói cha cho bõ giận. Nhưng trước
mặt cha, bao nhiêu ý định của nàng đều tiêu tan đi. Nàng không dám, và cùng
một lúc, nàng thấy yêu cha rất mực và thương cha vô cùng.
Nghe cha hỏi, nàng thưa:
- Phụ vương vào, con không biết.
- Con nghe trong mình có khỏe không?
- Tâu phụ vương con khỏe.
- Cha nghe tin con khóc lóc, vội chạy lại. Nhưng có việc chi mà con phải
khóc? Con gái cha mà lại hèn thế ư?
- Khiến phụ vương phải vất vả vì con, con thực mang tội!
- Cha tha tội cho con. Nhưng cha thấy con có ý cưỡng mệnh, làm sôi nổi
cả chốn cung thì cha giận lắm. Con gái đâu lại cưỡng lời cha? Việc này, nhân
dân biết, còn ra thể thống gì nữa.
86
Nàng cúi gằm mặt xuống, không nói một câu gì. Chúa ái ngại:
- Hay con không thuận lấy Đặng Lân, cha cũng không ép.
Đấy là ý thực của Chúa, lúc ấy nếu Quỳnh Hoa có thái độ cương quyết
có lẽ Chúa cũng chiều nàng” [43, tr.76-77].
Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng sử dụng nhiều đoạn để miêu tả
tâm trạng của Trịnh Sâm với đầy ưu tư và dằn vặt. Sự dằn vặt của Chúa Trịnh
cũng thể hiện rõ nét qua qua đoạn trích sau khi Nguyễn Mại chém đầu Đặng
Lân khiến ông ta rơi vào tình thế khó xử. Một bên là hành động dũng cảm, nghĩa
khí của bậc trượng phu vì nước vì dân, một bên là cái chết của Quốc cữu, em
trai ái phi… Qua lớp ngôn ngữ đối thoại chất chứa nhiều tâm trạng, nhà văn đã
khắc họa thành công nhân vật Tĩnh Đô Vương với những khối mâu thuẫn và
nhiều cung bậc cảm xúc đan xen. Đó vừa là bậc quân vương đầy uy quyền, một
người cha nhất mực thương con, song cũng là người đàn ông ủy mị trong ái
tình. Thông qua những đoạn văn đặc tả tâm trạng, tác giả sử dụng ngôn ngữ có
sức biểu cảm, phản ánh những diễn biến tinh tế trong đời sống nội tâm nhân
vật, từ đó toát lên một nhân vật Tĩnh Đô Vương đời thường, cũng đầy những
hỉ, nộ, ái, ố của một con người.
Một đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì là những
câu văn nhiều thành phần, vế câu cân đối, nhịp nhàng của lối văn biền ngẫu -
một thể loại quan trọng và thịnh hành của văn học cổ điển. Sự phối âm trầm
bổng (bằng - trắc) hài hòa cùng những tính từ so sánh tạo nên chất trữ tình sâu
lắng và sức hấp dẫn cho tác phẩm. Không quá khó để tìm thấy trong các trang
văn những câu biền ngẫu: “Dưới ánh trăng một đoàn thuyền rồng đang rẽ sóng
bơi đi. Tiếng tơ gẩy, tiếng trúc thổi, tiếng người hát họa” [43, tr.26]; “Mẹ đã
ngậm ngùi vì phải bỏ con, mẹ lại phải ân hận vì đã sinh một đứa con phận
mỏng. Đời con đã sớm vô ích, có sao mẹ không cho con đi theo mẹ từ buổi sơ
sinh” [43, tr.82]. Những câu văn kiểu cổ trong lối kết cấu chương hồi tạo nên
không khí trang trọng, cổ điển cho tác phẩm, nhưng không vì thế mà nhịp điệu
87
trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì bị trì hoãn chậm lại và đơn điệu. Điều đó
có được là do lối kể chuyện, dẫn dắt câu chuyện của tiểu thuyết hiện đại phương
Tây. Tác giả đã để cho nhân vật nói nhiều hơn, hành động nhiều hơn, kết hợp
với các đoạn giải thích thêm cho rõ các tình tiết, diễn biến, hoặc giới thiệu thêm
về nhân vật, đôi lúc chêm, xen những lời bình luận.
Có thể nói, Nguyễn Huy Tưởng hội tụ đầy đủ phẩm chất của một nhà văn
tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945: giỏi Hán văn, rành tiếng Pháp, thông thạo chữ
quốc ngữ, kịp thời đón bắt những đổi thay của đời sống xã hội và thị hiếu công
chúng. Sự am hiểu về lịch sử và văn hóa, ngôn ngữ đã giúp ông kết hợp được
các yếu tố cũ và mới, truyền thống và hiện đại để thể hiện trong ngôn ngữ tác
phẩm Đêm hội Long Trì, tạo nên dấu ấn trong tiến trình hình thành, phát triển
của tiểu thuyết lịch sử trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
3.2. Ngôn ngữ điện ảnh trong phim dã sử Đêm hội Long Trì
Văn học và điện ảnh đều là những môn nghệ thuật mang tính tổng hợp
cao, chịu ảnh hưởng của các loại hình văn học nghệ thuật khác và ngay giữa
chúng cũng ảnh hưởng lẫn nhau một cách sâu sắc. Tuy nhiên, xét về hình thái
học ngôn ngữ, văn học và điện ảnh có sự khác biệt mang tính đặc trưng. Ngôn
ngữ văn học mang tính phi vật thể, còn ngôn ngữ điện ảnh mang tính vật thể
thông qua các yếu tố: Hình ảnh, Âm thanh, Tĩnh - Động. Có người cho rằng:
“Tác phẩm văn chương là lời kể về một thế giới hiện hình, còn điện ảnh là cả
thế giới hiện hình cụ thể để kể một câu chuyện” [51].
Ngay từ khi ra đời, điện ảnh đã trở thành môn nghệ thuật hấp dẫn nhất thế
giới. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Điện ảnh là một khái niệm lớn
bao gồm các bộ phim tạo bởi những khung hình chuyển động (phim); kỹ thuật
ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành một bộ phim (kỹ thuật điện
ảnh); hình thức nghệ thuật liên quan đến việc tạo ra các bộ phim và cuối cùng
ngành công nghiệp và thương mại liên quan đến các công đoạn làm, quảng bá
và phân phối phim ảnh (công nghiệp điện ảnh)” [53]. Công chúng cũng cho
88
rằng, điện ảnh là loại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh động, kết
hợp với âm thanh, được ghi trên vật liệu phim nhựa, băng từ, đĩa từ và các vật
liệu ghi hình khác để phổ biến đến khán giả thông qua các phương tiện kỹ thuật.
Hay nói cách khác, điện ảnh là sự kết hợp của nghệ thuật và kỹ thuật, của quá
trình sáng tác và công nghệ sản xuất. Ngôn ngữ của điện ảnh là sự tổng hợp của
tất cả các môn nghệ thuật khác, tạo ra một thế giới đa chiều, đa sắc, đa thanh và
ngập tràn cảm xúc. Trong cuốn sách Tính hiện đại và dân tộc trong điện ảnh
Việt Nam, tác giả Ngô Phương Lan cho rằng: “Nhìn khái quát, ngôn ngữ điện
ảnh là phương tiện biểu hiện của một tác phẩm điện ảnh, kết hợp giữa hình ảnh
và âm thanh theo một qui tắc “ngữ pháp” đặc trưng - đó là cách ráp nối các
cảnh để thể hiện ý đồ của nhà làm phim - được gọi là dựng phim (montage)”
[19, tr.48]. Từ khi điện ảnh ra đời và ngay lập tức trở thành loại hình nghệ thuật
hấp dẫn nhất thế kỷ XX, ngôn ngữ điện ảnh luôn vận động, phát triển không
ngừng và ngày càng hiện đại, hấp dẫn. Ba yếu tố cũng chính là đặc trưng của
ngôn ngữ điện ảnh, bao gồm: Ngôn ngữ thị giác (hình ảnh); Ngôn ngữ thính giác
(âm thanh) và Montage (dựng phim). Phân tích ngôn ngữ điện ảnh trong phim
dã sử Đêm hội Long Trì, chúng ta phân tích sự chuyển động trong ba yếu tố
chính của ngôn ngữ điện ảnh là hình ảnh, âm thanh và montage (dựng phim) sẽ
thấy rõ điều này.
3.2.1. Ngôn ngữ thị giác (hình ảnh)
Đêm hội Long Trì thuộc thể loại phim Chính kịch, dòng phim Chính kịch
hiện thực. Chính kịch hiện thực thoát thai từ chủ nghĩa hiện thực, nó chấp nhận
một phần hư cấu làm nên những câu chuyện không hoàn toàn tuyệt đối giống y
như sự thực ngoài đời, nhưng vẫn phải tạo được ấn tượng chân thực nhờ nghệ
thuật xây dựng hình ảnh không xa rời thực tế. Những đòi hỏi phải giống thật
trong ngôn ngữ tạo hình từ bối cảnh, mỹ thuật hóa trang, thiết kế trang phục…
nhằm mục đích tái hiện được không khí thực trong phim. Đêm hội Long Trì đã
dựa vào những sự việc, hiện tượng có thật, và bằng cách biểu đạt ngôn ngữ tạo
89
hình giản dị, trực tiếp, có tác dụng gợi thực, nhưng vẫn tạo đất sáng tạo bay bổng
về tạo hình.
Trong phim dã sử Đêm hội Long Trì, đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân Hải
Ninh đã kết hợp chặt chẽ các yếu tố của ngôn ngữ điện ảnh để làm nên một tác
phẩm kinh điển, mang tính nghệ thuật cao, được công chúng yêu thích. Trong
đó, ấn tượng đầu tiên là yếu tố hình ảnh. Hình ảnh là chất liệu cơ bản của ngôn
ngữ điện ảnh. Nguồn gốc của hình ảnh mang tính hai mặt khá sâu sắc. Trước
hết, đó là không gian đa chiều của cuộc sống với các sự vật, nhân vật, sự kiện,
hiện tượng, chuyển động…; nhưng mặt khác, nó là sản phẩm của chiếc máy
quay vốn có khả năng tái tạo lại một cách chính xác hiện thực do người quay
phim lựa chọn và tổ chức theo một mục đích nghệ thuật rõ rệt. Trong cuốn
Ngôn ngữ điện ảnh, Marcel Martin khẳng định: “Hình ảnh là chất liệu cơ bản
của ngôn ngữ điện ảnh. Đó là thứ nguyên liệu điện ảnh đầu tiên nhưng cũng
lại là một hiện thực vô cùng phức tạp…” [68]. Thông qua những hình ảnh,
người xem sẽ hiểu được những nội dung mà các nhà làm phim muốn truyền
tải.
Hình ảnh trong Đêm hội Long Trì được xây dựng dựa trên sự nghiên cứu
lịch sử, văn hóa thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVIII một cách nghiêm túc và sâu
sắc. Các nhà làm phim đã tái hiện một cách chân thực và sống động một giai
đoạn lịch sử với những không gian, bối cảnh tiêu biểu gắn với hình tượng nhân
vật trong tác phẩm văn học. Những con người, sự kiện, sự việc, hiện tượng như
từ tiểu thuyết bước ra đời thực, trong trạng thái động. Sự sống động của hình
ảnh chính là cái chuyển động thực của cuộc sống thành hình ảnh mang giá trị
cao trên tác phẩm. Những hình ảnh đó đã giúp người xem nhận thức những hoạt
động kế tiếp nhau, liên tục của các sự kiện, xung đột trong diễn biến thời gian
tuyến tính. Ngôn ngữ hình ảnh trong phim làm cho người xem có cảm nhận mình
đang sống giữa sự chuyển động của xã hội đương thời, tận mắt thấy rõ những sự
việc, hiện tượng xảy ra, giúp họ có cái nhìn chân thực nhất và đưa ra những nhận
90
định hay phán xét, có những cảm nhận riêng. Để có được hiệu quả cao nhất, các
nhà làm phim đã kết hợp chặt chẽ nhiều phương thức trong sáng tạo hình ảnh
bao gồm: Ngôn ngữ hình ảnh trong sáng tác kịch bản; Ngôn ngữ hình ảnh trong
thiết kế mỹ thuật (bối cảnh, đạo cụ); Ngôn ngữ hình ảnh trong xây dựng hình
tượng nhân vật; Ngôn ngữ hình ảnh trong phương thức tạo hình…
3.2.1.1.Ngôn ngữ hình ảnh trong sáng tác kịch bản
Kịch bản là tiền đề của mọi bộ phim, là chất liệu đầu tiên để xây dựng nên
tác phẩm điện ảnh. Nên có thể nói, kịch bản và nghệ thuật viết kịch bản chính là
kể nội dung truyện phim bằng hình ảnh và âm thanh. Khởi nguồn của ngôn ngữ
hình ảnh trong phim cũng sẽ xuất phát từ chất liệu ban đầu này. Tiểu thuyết Đêm
hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng đã cho các nhà biên kịch Lê Phương,
Hoàng Nhuận Cầm và đạo diễn Hải Ninh những nội dung quan trọng nhất để
chuyển thể, sáng tạo sang chất liệu mới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là nguồn nguyên
liệu. Kịch bản điện ảnh là nghệ thuật của Nghe và Nhìn, mà không phải là tiểu
thuyết, những gì không phục vụ cho điều đó đều không có chỗ đứng trong kịch
bản. Hay cụ thể hơn, kịch bản phải làm sao biến những gì “đọc được” trong tác
phẩm văn học trở thành những gì “nhìn thấy được” và “nghe thấy được” trong
phim. Và cũng chính vì thế, ngôn ngữ hình ảnh cần phải được biểu đạt ngay từ
khi sáng tác kịch bản điện ảnh.
Mỗi thời đại lịch sử có ngôn ngữ khác nhau. Sự độc đáo của nghệ sĩ là tạo
ra mùi vị lịch sử theo đúng ngôn ngữ của thời kỳ đó. Chuyển thể tiểu thuyết Đêm
hội Long Trì, các hiện nhà làm phim có được thuận lợi rất lớn khi tận dụng và
khai thác thành công về mặt ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học, tái hiện
không khí thời đại. Đó cũng là lợi thế trong phương thức tạo hình điện ảnh của
bộ phim, tái hiện được bối cảnh lịch sử, xã hội thời Lê Trung Hưng với những
lễ nghi, phép tắc, cung cách sinh hoạt, ứng xử trong triều đình, ngôn ngữ trong
tác phẩm cũng trang trọng, phù hợp văn hóa, phong tục, sinh hoạt của thời kỳ
đó. Bộ phim Đêm hội Long Trì được xây dựng với kết cấu điểm nhìn hiện tại,
91
mọi diễn biến đều được nhà biên kịch sắp xếp một cách logic theo trình tự thời
gian tuyến tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Sự sinh động của ngôn ngữ hình
ảnh trong bộ phim được tạo nên bởi sự thay đổi bối cảnh, không gian, thời gian
liên tục, khiến người xem có được cảm giác đi từ sự việc này tới sự việc khác,
trải qua các khoảng thời gian khác nhau theo diễn biến của cốt truyện. Các nhà
làm phim đặc biệt chú ý mô tả nỗi đau của Quận chúa Quỳnh Hoa khi phải từ
bỏ mối tình trong với chàng thi sĩ Bảo Kim khi xây dựng trường đoạn mô tả giấc
mơ về cái chết của nàng cùng người trong mộng [28, tập 1, 01:08:20]. Kịch bản
phân cảnh cụ thể như sau:
ĐỘ
STT CẢNH
NỘI DUNG
GHI CHÚ
DÀI
PHỦ QUẬN CHÚA - NỘI/ĐÊM
Hiện thực.
Chú ý ánh sáng diễn tả ban đêm
Trung
7s
1
Quỳnh Hoa đang nằm ngủ nhưng không yên giấc. Trong cơn mộng mị, nàng nói sảng gọi tên Bảo Kim.
Trong cơn mơ.
Âm căng nhạc thẳng, mang yếu tố mộng mị.
Toàn
5s
2
Một con thuyền nhỏ trôi trên hồ sen, chở Bảo Kim và Quỳnh Hoa trong trang phục trắng nằm thẳng, chắp tay, đầu gối lên hoa sen.
Hiện thực.
Trung
7s
3
Quỳnh Hoa oằn người trong giấc mộng.
Trong cơn mơ.
Nhạc nhanh dần,
tốc độ con thuyền
Con thuyền vẫn trôi đi càng lúc càng
Toàn
15s
4
được xử lý theo tiết
nhanh hơn.
tấu nhạc.
92
Hiện thực.
Đặc tả
4s
5
Đôi mắt của Quỳnh Hoa từ từ hé mở
Trong cơn mơ.
Kỹ xảo tách đôi
hình, quay ngược
Cận
3s
6
Hình ảnh Chúa Trịnh Sâm quay
và chồng mờ
ngược, tách ra làm đôi.
Hiện thực.
Đôi mắt Quỳnh Hoa chớp chớp như
Đặc tả
3s
7
muốn nhìn rõ xem mình đang mơ hay
tỉnh.
Kỹ xảo tách đôi
Trong cơn mơ.
hình, quay ngược
Cận
5s
8
Hình ảnh Trịnh Sâm vẫn nhập nhòa
và chồng mờ
Hiện thực.
Khuôn mặt Quỳnh Hoa.
Cận
5s
9
Nàng từ từ nhắm mắt lại.
Hiện thực.
Zoom
Một bàn tay khẽ đặt lên trán Quỳnh
ra
7s
10
Hoa.
Trung
cảnh
Nàng mở mắt ra.
Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng cũng dành một phân đoạn để nói
về giấc mơ của Quỳnh Hoa, nhưng đó là một giấc mơ “bâng khuâng trong một
thế giới đầy hoa thơm cỏ đẹp, và vang lừng những tiếng sênh ca” [43, tr.78].
Đến với sự sáng tạo của đạo diễn Hải Ninh, ông đã thay đổi giấc mơ của nàng,
93
cho nàng một cơn mộng mị mà như một nỗi day dứt, khắc họa rõ nét hơn nỗi
đau của cô gái mới chớm bước vào yêu. Nàng còn chưa kịp dệt mộng ước thì bi
kịch đã ập xuống, khiến ước nguyện duy nhất chỉ còn là mong muốn được chết
bên tình lang. Phân đoạn tập trung vào 2 hình ảnh: đôi mắt sợ hãi của Quỳnh
Hoa và con thuyền lao đi trên mặt nước. Không gian cơn mơ tối sẫm, màu xanh
thẫm của nước, chiếc thuyền màu nâu khiến 2 bóng người áo trắng trên đó càng
thêm nổi bật. Con thuyền mang tính biểu tượng ám ảnh tâm trí quận chúa, khiến
nàng không thể đuổi theo, không thể níu kéo, càng lúc càng trôi nhanh, trôi xa
khỏi tầm với của nàng. Đoạn trích không có đối thoại, chỉ là những hình ảnh đan
xen giữa mơ và thực, nhưng những chi tiết im lặng còn nói được nhiều hơn thế,
diễn tả tinh tế tâm sự của Quỳnh Hoa dường như đã tuyệt vọng, lòng nàng cũng
đã chết theo tình yêu tan vỡ rồi. Hình ảnh con thuyền trong giấc mộng tác động
mạnh mẽ vào cảm xúc khán giả, khiến người xem ngập tràn những dự cảm bất
an. Ngôn ngữ hình ảnh trong phân đoạn không nhiều chi tiết, nhưng gây ấn tượng
sâu sắc nhờ những khung hình được kết cấu hợp lý về bố cục Toàn - Trung -
Cận và Đặc tả, khái quát đầy đủ nỗi bi thương và sự tuyệt vọng của người con
gái bị tước đoạt tình yêu.
3.2.1.2. Ngôn ngữ hình ảnh trong thiết kế mỹ thuật
Thiết kế mỹ thuật điện ảnh thường tập trung vào hai yếu tố là bối cảnh và
đạo cụ. Trong đó, bối cảnh giữ vai trò quan trọng trong việc tái hiện không gian
và không khí lịch sử của bộ phim. Trong phim Đêm hội Long Trì, các nhà làm
phim đã dàn dựng và chọn lựa các kiểu bối cảnh khác nhau, đáp ứng trạng thái,
tâm lý tiếp nhận của người xem. Trước hết, bộ phim khai thác các bối cảnh tự
nhiên, với một số ngoại cảnh thiên nhiên sẵn có như: hồ Gươm, hồ sen, bến
sông… Trong trích đoạn chia tay giữa Bảo Kim tiễn Nguyễn Mại về thăm gia
đình [28, tập 1, 00:29:27], các nhà làm phim đã đặt 2 nhân vật vào bối cảnh bến
sông với những chi tiết gần gũi và bình dị, con sông xanh mát, lũy tre soi bóng
và một đàn bò đang thủng thẳng gặp cỏ ven sông. Một bối cảnh đặc trưng của
94
không gian văn hóa Việt Nam dường như cũng là một ẩn dụ về khát vọng bình
yên. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng không có cuộc đưa tiễn này. Sau
cuộc gặp với Chúa Trịnh, Nguyễn Mại về nhà Bảo Kim chia tay các bạn và lên
đường: “Chiều hôm ấy, trên con đường về tỉnh Bắc, một chàng võ tướng, đeo
gươm tế ngựa như bay; đó là Nguyễn Mại trở về thăm mẹ và vợ con. Bụi bốc mịt
mù đuổi theo vó ngựa người tráng sĩ” [43, tr.48]. Những dòng văn miêu tả tráng
lệ, nhuốm “màu quan san” nhưng đầy cô đơn! Trong phim, nhân vật Nguyễn
Mại được dành nhiều phân cảnh và nhiều đất diễn hơn, cho thấy sự nhấn mạnh
và đề cao nhân vật này của đạo diễn và các nhà biên kịch, bởi đây chính là người
có vai trò “cởi nút” tác phẩm. Việc xây dựng tình tiết Bảo Kim tiễn Nguyễn Mại
về quê tạo cho người xem ấn tượng về tình bạn khăng khít của 2 người, dù con
đường họ chọn đi là khác nhau: một người theo nghiệp võ học, binh đao; một
người theo nghiệp văn chương, chữ nghĩa. Nhưng ở họ vẫn toát lên điểm chung
là nghĩa khí và sự chính trực, cùng tấm lòng trung quân ái quốc, muốn đem tài
năng để phò tá triều đình. Bối cảnh bình yên của một bến sông quê là nơi thích
hợp để Bảo Kim và Nguyễn Mại tâm sự về thế sự, về nỗi niềm trăn trở trước sự
suy vong của kỷ cương, phép nước bởi những kẻ bạo ngược như Đặng Lân, âm
mưu như Đặng Thị Huệ, sa đọa như Trịnh Sâm... Bối cảnh đơn giản, giống như
mọi bến sông ở bất kỳ miền quê nào, tự nhiên, giản dị, không cầu kỳ, không cần
phải dàn dựng bài trí nhiều, song rất hiệu quả về mặt hình ảnh và mang tính ẩn
dụ cao. Bởi xét cho cùng, sự bình yên bao giờ cũng là ước mong lớn nhất trong
cuộc đời của mỗi con người.
Ngoài ra, một cách khác là khai thác, cải tạo bối cảnh có sẵn được đạo
diễn Hải Ninh sử dụng triệt để. Khi theo dõi và phân tích các bối cảnh trong
phim, người viết luận văn thấy rằng, đạo diễn đã ghi hình tại khá nhiều bối cảnh
trong cố đô Huế. Về mặt nghệ thuật kiến trúc, kiến trúc cung đình của thời Lê -
Trịnh và thời Nguyễn mặc dù có những nét đặc trưng riêng, tập trung ở hoa văn,
họa tiết điêu khắc, chạm trổ, nhất là hình rồng, song không quá khác biệt. Đạo
diễn và các họa sĩ của đoàn phim đã lựa chọn những bối cảnh trung tính, không
95
nhiều chi tiết, kết hợp với xử lý góc quay và khung hình phù hợp. Cùng với đó,
trong phim cũng sử dụng nhiều bối cảnh sẵn có, song mang tính biểu tượng cho
đất nước trong tất cả các giai đoạn lịch sử như Văn Miếu, Chùa Trấn Quốc, các
cửa ô của Hà Nội… Về mặt thể loại, Đêm hội Long Trì là một bộ phim dã sử với
yếu tố hư cấu cho phép, thiết kế mỹ thuật có thể được dàn dựng không đòi hỏi
chính xác tuyệt đối, mà quan trọng là vẫn đảm bảo phim phải có không khí, đặc
điểm lịch sử thời kỳ đó. Việc tận dụng các bối cảnh có sẵn bởi nhiều lý do, mà
trong đó, kỹ xảo điện ảnh vào những năm 1980 vẫn còn nhiều hạn chế, kinh phí
còn khó khăn, thì việc xử lý bối cảnh có sẵn một cách tinh tế, tận dụng ưu thế
góc máy quay phim đã giúp bộ phim chuyển tải trọn vẹn hơi thở lịch sử thời đại
mà nó phản ánh.
Với hình thức điện ảnh hóa lịch sử, ở dạng này, lịch sử không chỉ được tái
hiện trên bề mặt của các sự kiện mà còn được soi rọi ở nhiều góc nhìn khác nhau.
Với hướng đi như vậy, các họa sĩ thiết kế mỹ thuật đã khai thác triệt để các
không gian mâu thuẫn và xung đột của các tuyến nhân vật. Hình thức này đã
hoàn toàn thoát khỏi sự mô phỏng hay minh họa lịch sử. Làm được điều này,
thiết kế mỹ thuật phim Đêm hội Long Trì đã giải quyết được hai vấn đề: thứ
nhất, dựa vào tư liệu lịch sử dàn dựng được cung vua phủ chúa một cách thuyết
phục, người xem không còn cảm giác thiết kế mỹ thuật ảnh hưởng của sân khấu;
thứ hai, bối cảnh còn tạo được cái không khí của thời phong kiến đang trên đà
mục nát. Qua trục lịch sử và thực tế bộ phim, có thể thấy thiết kế mỹ thuật bối
cảnh trong phim đã tạo ra không khí lịch sử mà kịch bản phim đòi hỏi, góp phần
quan trọng vào thành công của bộ phim.
Những bối cảnh được chọn lựa kết hợp đạo cụ đã phát huy vai trò trong
việc tái hiện không khí lịch sử, mà cụ thể là bối cảnh xã hội và vương triều dưới
sự cai trị của Chúa Trịnh. Trong đó, những bối cảnh gắn với sự xuất hiện của
Tuyên phi Đặng Thị Huệ được dàn dựng kỹ lưỡng và trau chuốt. Theo mô tả của
Nguyễn Huy Tưởng, trong tiểu thuyết chỉ dành một đoạn trích để miêu tả cung
96
Bội Lan thất, nơi ở của Đặng Thị Huệ: “Tài khéo của Tuyên phi đã làm cho khu
nàng ở thành một nơi mộng ảo, và chốn thâm cung thành một cái tổ thần tiên.
Mà quả vậy, những cột rồng đã mất vẻ trang nghiêm, câu đối hoành phi không
còn nhắc những lời đạo lý khô khan nữa. Mắt vào đây được yên nghỉ, màu sắc
điều hòa êm dịu, và vườn hoa, một công trình mỹ thuật vô song thoang thoảng
đưa vào gió mát và hương thơm. Những màn hoa bay phấp phới, như những cờ
mừng Chúa, nhưng có vẻ đầm ấm và uy nghi. Đây toàn là sinh thú, toàn là ái
tình” [43, tr.58]. Với đạo diễn Hải Ninh, bằng việc cải biên có sáng tạo, bổ sung
thêm tham vọng tiếm quyền cho Đặng Thị Huệ, nên những không gian gắn bó
với nhân vật đều được ông mạnh dạn thay đổi, mở rộng rất nhiều. Bội Lan thất
là gian phòng khuê nữ rực rỡ, với sắc đỏ của những cây cột chạm trổ công phu,
mành rèm màu bạc lóng lánh, những bức bình phong điêu khắc tinh tế, kết hợp
với những chậu cảnh tạo thế, hoa lá tốt tươi… Cũng tại đây đã diễn ra phân cảnh
khỏa thân tắm của Đặng Thị Huệ để mê hoặc Chúa Trịnh. Ngoài những phân
cảnh tại Bội Lan thất, nhân vật Tuyên phi còn gắn với nhiều bối cảnh khác. Ngay
từ những phút đầu tiên của bộ phim, trong đêm hội trung thu ở hồ Long Trì,
Trịnh Sâm và Thị Huệ ngồi trên thuyền rồng ngắm cảnh. Đó dường như là con
thuyền tình để hai người mặc nhiên thể hiện tình cảm trong một đêm trăng nồng
nàn và lãng mạn. Hay ở khoảng phút 01:00:52, tập 1, Đặng Tuyên phi và Trịnh
Sâm dạo thuyền trên hồ sen, ngắm cảnh và thưởng trà; hoặc ở tập 2, thời gian
00:04:53, Đặng Thị Huệ đến Cung Bắc thỉnh an Trịnh Sâm, cùng Trịnh Sâm
ngắm cảnh, xem diễn tuồng… Có thể thấy, những bối cảnh nội có sự xuất hiện
của nhân vật Đặng Thị Huệ đều được quan tâm, chăm chút, nơi ở đầy vẻ sang
trọng, phú quý và tinh tế, còn những nơi ngoại cảnh nàng xuất hiện cũng đều
lãng mạn, hài hòa, phù hợp với một người đàn bà đẹp.
3.2.1.3. Ngôn ngữ hình ảnh trong xây dựng hình tượng nhân vật
Xác định nhân vật là chất liệu trung tâm của bộ phim, tạo hình nhân vật
trong Đêm hội Long Trì được thực hiện đồng bộ các thủ pháp tạo hình để thể
97
hiện khí chất bên ngoài và khí chất nội tại từ tính cách bên trong của nhân vật.
Những thủ pháp đó bao gồm: ngoại hình diễn viên, mỹ thuật hóa trang, thiết kế
phục trang và nghệ thuật diễn xuất.
Khi bắt tay vào thực hiện bộ phim thì ngay từ khi nảy sinh ý tưởng hoặc
xây dựng kịch bản thì đạo diễn đã có ý tưởng về hình tượng nhân vật của mình,
từ đó có ý đồ về lựa chọn diễn viên thể hiện nhân vật. Ngoại hình diễn viên
thường gắn với môtip nhân vật theo trí tưởng tượng, hình dung của mọi người
về kiểu nhân vật đó. Vẻ kiêu sa, lộng lẫy và sắc sảo của Lê Vân phù hợp với
những mô tả trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng; vẻ trong sáng, mỏng
manh của Thu Hà giúp cô hóa thân thành công vào nhân vật Quận chúa Quỳnh
Hoa; Còn đôi mắt đảo liên tục và điệu cười khả ố giúp Hoàng Thắng đóng đinh
vai Quốc cữu Đặng Lân; Trong khi đó, ngoại hình sang trọng, phong cách đĩnh
đac và gương mặt uy quyền là lợi thế để Thế Anh khắc họa nhân vật Trịnh Sâm
một cách trọn vẹn. Quyết định lựa chọn “đúng” diễn viên cho nhân vật và tài
năng hóa thân của dàn diễn viên nhờ phần lớn ở hình dung của đạo diễn, có đúng
“chuẩn”, đúng “gu” của người xem hay không. Trong phim Đêm hội Long Trì,
ngoại hình diễn viên được chăm chút qua bàn tay mỹ thuật hóa trang, trang phục
kết hợp diễn xuất đã tạo nên ấn tượng khó quên với công chúng.
Một trong những nét đặc sắc của bộ phim Đêm hội Long Trì trong việc tái
hiện thành công không khí lịch sử, bên cạnh bối cảnh, ngôn ngữ đối thoại, đạo
cụ, thì phục trang cũng rất xuất sắc. Trong muôn vàn khó khăn khi làm phim,
tạo hình cho phim truyện có đề tài lịch sử, dã sử, cổ trang, thì vấn đề phục trang
luôn là một trong những thách thức lớn. Dựa trên các tư liệu lịch sử được tổng
hợp từ nhiều nguồn khác nhau, nhất là những pho tượng cổ thời Lê - Trịnh, các
họa sĩ đã thiết kế những bộ phục trang chuyển tải được không khí lịch sử và vị
trí của người mặc. Các nhà làm phim đã mất hàng năm trời cho việc nghiên cứu
họa tiết, thiết kế và may trang phục. Theo một số bài báo, đạo diễn chính của
phim, nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh từng cho biết: “Tìm ra trang phục cho Đêm
98
hội Long Trì là cả một công trình rất thành công của các họa sĩ, mà trước tiên
là nghệ sĩ nhân dân Đào Đức. Phim ra mắt gần như không có ý kiến của bất cứ
một nhà lịch sử nào phê phán về vấn đề y phục và đạo cụ cả… Chúng tôi nghiên
cứu tỉ mỉ để khi phim hoàn thành, người ta thấy đấy là văn hóa Việt Nam” [59].
Để cảm nhận rõ hơn về sự công phu và tỉ mỉ của thiết kế phục trang trong
phim điện ảnh Đêm hội Long Trì, chúng ta có thể xem xét trang phục thiết triều
của Chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm trong phân đoạn gặp gỡ Nguyễn Mại trở
về sau chiến thắng thành Phú Xuân trong ảnh sau:
Hình 10: Trang phục thiết triều của Chúa Trịnh trong phim
Mặc dù trong lịch sử, Chúa Trịnh lấn quyền vua Lê, song về mặt trang
phục, các chúa Trịnh vẫn không mặc giống với trang phục của vua. Các họa sĩ
của phim Đêm hội Long Trì đã khảo cứu nhiều sử liệu và tìm ra rằng, chúa mặc
tía bào, có họa tiết một hình rồng trước ngực, còn vua mặc hoàng bào với họa
tiết lưỡng long chầu nguyệt. Các phác thảo phục trang và diện mạo nhân vật
chiếm vai trò quan trọng trong công tác tạo hình thiết kế mỹ thuật phim lịch
sử, tạo nên những diễn giải phân cảnh có độ lùi về thời gian và không gian phù
hợp giai đoạn lịch sử, bắt mắt và cuốn hút khán giả. Những nghiên cứu đó được
đưa vào trong phim, trở thành một trong những đóng góp quan trọng tái hiện
bối cảnh lịch sử và văn hóa thời Lê Trung Hưng, không chỉ được công chúng
đánh giá cao mà còn được các nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử trân trọng.
99
Ngôn ngữ hình ảnh trong Đêm hội Long Trì được khắc họa thông qua
hình tượng nhân vật thành công bởi đã kết hợp chặt chẽ các thủ pháp về ngoại
hình, hóa trang, trang phục và nghệ thuật diễn xuất. Hải Ninh đã có được dàn
diễn viên chất lượng với những diễn viên tài năng hàng đầu của điện ảnh Việt
Nam những năm 1980, không chỉ có ngoại hình sáng màn ảnh mà đều đã đạt
tới độ chín về nghề. Hình tượng và tính cách nhân vật được bộc lộ qua phương
thức thể hiện của tạo hình diễn xuất nhờ các tín hiệu: cử chỉ, điệu bộ, động tác
được bộc lộ ra bên ngoài với biểu cảm tinh tế, thẳm sâu từ nội tâm của nhân
vật, cùng lối diễn kể thông qua lời thoại hoặc kể cả những khoảng lặng không
lời. So với tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, trong phim, nhân vật Nguyễn
Mại được giành cho nhiều đất diễn hơn với nhiều bối cảnh có sự xuất hiện của
nhân vật. Diễn viên Trọng Phan gây ấn tượng cho người xem về một vị võ quan
chính trực, nghĩa khí không chỉ bởi ngoại hình phù hợp với gương mặt vuông
chữ điền, ánh mắt sáng, mà còn ở lối diễn hóa thân một cách sinh động. Mặc
dù thể hiện vai một dũng tướng, song hình tượng nhân vật không khô cứng mà
có sự biến hóa qua các tình huống khác nhau. Đó là một Nguyễn Mại “giữa
đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha” khi bắt gặp cảnh Đặng Lân bạo ngược,
giở trò dâm loạn trong đêm hội Long Trì. Có thể thấy, Trọng Phan thể hiện
diễn xuất qua đôi mắt một cách xuất sắc, thể hiện được thần thái của một võ
tướng, đồng thời là thái độ khinh ghét của mình đối với kẻ đê tiện như Đặng
Lân.
100
Hình 11: Nguyễn Mại trừng trị Đặng Lân trong đêm hội Trung thu
Khi ở bên bạn bè, chàng là con người nhiệt huyết, nghĩa khí, trọng nghĩa
trọng tình. Tại nhà Bảo Kim, Nguyễn Mại trò chuyện cùng mọi người một cách
hòa đồng, sôi nổi. Trong câu chuyện và trong cách nói chuyện, vị tướng trẻ luôn
canh cánh những nỗi niềm vì dân vì nước. Với mẹ của Bảo Kim, chàng một mực
kính trọng, yêu thương như cha mẹ của mình.
Hình 12: Nguyễn Mại thưa chuyện với mẹ Bảo Kim trước khi
lên đường về quê
Phân đoạn Nguyễn Mại chia tay vợ con đi diệt trừ Đặng Lân cũng có thể
nói là phân đoạn nhiều cảm xúc. Một người dũng tướng, một vị thanh quan mạnh
mẽ trên chốn quan trường, song lại không thể nói hết lòng mình với người vợ và
đứa con thơ, chàng chỉ có thể diễn tả qua ánh mắt và vòng tay ôm xiết lấy gia
đình trước lúc ra đi. Diễn xuất diễn viên, nhất là trong ánh mắt đã diễn tả trọn
vẹn những tình cảm dồn nén với gia đình.
101
Hình 13: Nguyễn Mại chia tay vợ con trước lúc đi diệt trừ Đặng Lân
Và trên tất cả, đó vẫn là Nguyễn Mại, một con người khẳng khái, không
khuất phục cường quyền, dám làm dám chịu, xả thân vì dân đến tận phút cuối.
Hình 14: Nguyễn Mại trên pháp trường
Không chỉ với diễn viên Trọng Phan, mà tất cả các diễn viên khác của bộ
phim đều đã lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc. Một Bảo Kim tài hoa,
giỏi văn chương thơ phú, có tấm lòng trung nghĩa đã được nghệ sĩ Vũ Đình Thân
khắc họa sâu sắc. Ngay cả nhân vật phụ Quận huy Hoàng Đình Bảo cũng được
nghệ sĩ Dương Quảng thể hiện rất đạt qua ánh mắt “gian thần”. Ngôn ngữ hình
ảnh trong tạo hình hình tượng nhân vật của bộ phim đạt được thành công chính
là nhờ mỗi diễn viên đã hóa thân trọn vẹn cảm xúc cho nhân vật của mình trong
tác phẩm.
102
3.2.1.4 Ngôn ngữ hình ảnh trong phương thức tạo hình hình ảnh
Các phương thức tạo hình hình ảnh để ngôn ngữ hình ảnh đạt được hiệu
quả tối đa nằm ở hai chìa khóa: nghệ thuật xử lý ánh sáng và phương thức xử lý
máy quay phim.
Ánh sáng là chất liệu đầu tiên của việc quay phim ghi hình. Mặc dù là
nguyên tắc kỹ thuật - bảo đảm đúng sáng và điều khiển ánh sáng phù hợp diễn
biến, nhưng cùng lúc cũng là yếu tố biểu hiện tâm hồn, phong cách của đạo diễn
và quay phim. Đối với phim điện ảnh Đêm hội Long Trì, thiết kế và bài trí ánh
sáng trong phim đã đáp ứng được việc chuyển tải bối cảnh lịch sử của bộ phim.
Các phân đoạn đều được đặt sáng hợp lý, tạo được độ sâu trong khuôn hình, làm
nổi bật được vẻ đẹp ngoại hình và diễn xuất nội tâm của nhân vật. Những phân
đoạn ngoại cảnh có được lợi thế nguồn sáng tự nhiên đảm bảo chất lượng hình
ảnh, độ tương phản và độ sâu của hình ảnh. Tuy nhiên, có thể thấy, hầu hết các
phân đoạn nội cảnh trong phủ Chúa Trịnh được thiết kế ánh sáng đều đều, khá
giống nhau, không có điểm nhấn theo nội tâm và tình cảm của nhân vật. Các
phân đoạn này đều là nội cảnh, ngày hoặc đêm, bộ phận ánh sáng đã bố trí hợp
lý, không để thiếu sáng và lệch sáng, song lại thiếu những trọng tâm để làm nổi
rõ tâm trạng nhân vật. Những phân đoạn phát huy được hiệu quả ánh sáng tối đa
chính là phân đoạn trong phủ Đặng Lân. Chúng ta có thể phân tích phân cảnh
Đặng Lân xông vào lầu Quận chúa đòi tân hôn với Quỳnh Hoa [28, tập 2,
00:19:43] để thấy, ánh sáng được bố trí bớt đèn hậu, nguồn sáng tập trung nhưng
cường độ sáng không quá lớn tạo nên khoảng tối - sáng trên khuôn mặt Đặng
Lân, làm nổi bật nét hiểm ác của nhân vật. Trong cả phân đoạn này, cách chiếu
sáng nội - đêm, tối giản nguồn sáng phụ, có kết hợp nguồn sáng ven và nguồn
sáng điều chỉnh đã tạo nên thứ ánh sáng tranh tối, tranh sáng, như muốn nhấn
mạnh những hiểm họa đang nhe nanh vuốt rình rập Quỳnh Hoa. Nó phản ánh
cuộc sống nơi trang hoàng lộng lẫy và lòe loẹt của Đặng Lân cũng giống như
nơi hang ổ của bầy lang sói với nhập nhoạng những điều xấu xa và tội ác. Có
103
thể thấy rõ hiệu quả ánh sáng trong khuôn hình cận mặt Đặng Lân. Khuôn mặt
nửa tối nửa sáng với ánh mắt tàn nhẫn đã lột tả đầy đủ tính cách của nhân vật.
Hình 15: Đặng Lân chuẩn bị xông lên lầu Quận chúa
Cũng vẫn phân đoạn đó, ở một góc quay khác, góc quay thẳng - cận mặt
Đặng Lân, với cách bố trí nguồn sáng hắt từ dưới lên, khiến khuôn mặt nhân vật
trở nên méo mó, dị dạng và đáng sợ, tạo cho người xem có cảm giác như đang
chứng kiến gương mặt của một tên ác quỷ.
Hình 16: Cận mặt Đặng Lân với cách bố trí nguồn sáng hắt dưới
Hiệu quả chiếu sáng trong cảnh quay ở phân đoạn này cũng có sức biểu
cảm mạnh mẽ trong việc diễn tả bi kịch đau đớn của Quỳnh Hoa khi phải đối
diện với kẻ bạo ngược mang danh vị hôn phu của mình. Gã chồng mà trong chớp
mắt đã giết hại hai vị đại thần thân tín được cha nàng cử theo hộ giá. Khi Đặng
104
Lân bước vào phòng Quỳnh Hoa, ánh sáng vẫn được duy trì hiệu ứng tranh tối
tranh sáng. Nó phản ánh cuộc sống của nàng dẫu về nơi lầu son gác tía, song
cũng chỉ là chốn tối tăm và bóng tối bao phủ trọn đời. Chiếu sáng trong phim đã
tạo hiệu quả về chiều sâu không gian, hiệu quả thời gian, từ đó nhấn mạnh tính
cách, hoàn cảnh, tâm lý nhân vật, tạo kịch tính cho tình huống truyện phim và
mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
Ánh sáng kết hợp với xử lý máy quay trong tạo hình sẽ tạo nên hiệu quả
tối đa cho ngôn ngữ hình ảnh. Bố cục khuôn hình là một trong những yếu tố của
ngôn ngữ tạo hình quay phim. Về mặt tạo hình, xử lý bố cục có sự tham gia của
chiếu sáng, màu sắc, đường nét, hình khối, góc độ, chuyển động máy… nhà quay
phim cần sắp xếp các yếu tố trên với sự thống nhất trong ý đồ tạo hình và phản
ánh nội dung. Trong cuốn sách Nghệ thuật quay phim điện ảnh, tác giả Dương
Quang Viễn nhấn mạnh: “Không có quay phim, không có nghệ thuật điện ảnh”
[44, tr.153]. Là người tạo hình thị giác quan trọng, nhà quay phim cũng là một
nghệ sỹ sáng tác trên nền hình ảnh, màu sắc, ánh sáng… bằng máy quay phim.
Đêm hội Long Trì gây ấn tượng cho người xem bởi nhiều điều, mà trong đó,
ngôn ngữ hình ảnh giàu cảm xúc và mang tính lịch sử cao là một yếu tố tác động
mạnh mẽ. Trong tác phẩm, nhà quay phim Trần Trung Nhàn sử dụng nhiều
khung hình tĩnh, ít động tác máy zoom và lia. Sử dụng phương thức xử lý máy
quay tĩnh nhằm đáp ứng yêu cầu của dòng phim chính kịch hiện thực, chi phối
bởi nội dung liên quan đến lịch sử, cuộc sống trong cung với những nghi lễ, nghi
thức nghiêm ngặt, nên ngôn ngữ hình ảnh có phần trang trọng, tiết tấu ổn định.
Trong phim có nhiều “bức tranh” đẹp được tạo nên từ phương thức xử lý màu
sắc và góc độ máy qua cảm xúc tạo hình mỹ thuật của nhà quay phim. Dễ dàng
nhận ra cách tạo hình hình ảnh tỉ mỉ và trau chuốt. Cùng với đó là tiết tấu
monotone (chậm rãi) bằng cách sử dụng kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình ống
kính, kết hợp với chuyển động nhẹ nhàng của nhân vật hoặc đối tượng, máy
quay cũng di chuyển chậm theo chiều tiến của nhân vật. Phân đoạn Trịnh Sâm
105
và Đặng Thị Huệ dạo thuyền trên hồ sen và thưởng trà [28, tập 1, 01:00:51], thể
hiện khá rõ tiết tấu ở dạng thức này.
KHUÔN
ĐỘNG TÁC
THỜI
STT
CẢNH
HÌNH
MÁY
LƯỢNG
Hồ sen rộng, con thuyền chở
Toàn
Trịnh Sâm và Thị Huệ cùng tùy
Tĩnh
9s
1
tùng đi giữa hồ sen
Lia ống kính
Toàn (góc
máy quay theo
máy đối
Con thuyền lướt sóng trên hồ sen
17s
2
di chuyển của
diện)
con thuyền
Lia ống kính
Thị Huệ hứng nước từ lá sen đổ
máy quay theo
Trung
14s
3
hành động của
vào bát
nhân vật
Tay Thị Huệ mở lọ chè rồi đổ ra
Cận
Tĩnh
14s
4
giấy
- Lia ống kính
máy quay bám
- Thị Huệ nhúp chè thả vào một
theo hành
búp sen, rồi chuyển sang đổ chè
động của nhân
ra từ búp sen khác.
vật.
Trung
24s
5
- Trịnh Sâm lên tiếng tán thưởng
- Sau đó, zoom
và uống trà
vào cận mặt
đối tượng đối
diện.
106
Lia ống kính
máy quay theo
Toàn
Hồ sen và con thuyền
19s
6
di chuyển của
con thuyền
Trung
Trịnh Sâm nói chuyện
Tĩnh
9s
7
Trung
Thị Huệ trả lời
Tĩnh
15s
8
Lia ống kính
Con thuyền lướt đi trên khuôn
máy quay theo
18s
Toàn
9
chuyển động
hình
của con thuyền
Hồ sen, con thuyền đi giữa
Toàn
Tĩnh
5s
10
những khóm sen
Zoom từ hai
- Trịnh Sâm đỡ Thị Huệ đứng
nhân vật ra
dậy.
14s
Trung
11
cảnh toàn bến
- Con thuyền tiến vào bến.
thuyền.
Có thể thấy ở phân đoạn này có nhiều cảnh quay có động tác máy, song
nhịp điệu chậm. Cách quay này phù hợp với ngôn ngữ tạo hình của nhân vật với
diễn xuất từ tốn, nhẹ nhàng và không khí chung của cả phân đoạn. Đó là những
khuôn hình tỉ mỉ, với cách triển khai góc máy thường đứng im ở đầu cảnh rồi di
chuyển dần theo hướng chuyển động của nhân vật. Những cảnh khá dài (trên
chục giây) được đặt nối tiếp nhau, làm cho hiệu quả tiết tấu càng khoan thai,
chậm rãi, như muốn mô tả rõ nét cảm xúc nhấn nhá, tận hưởng của người thưởng
trà và ngắm cảnh.
Việc xử lý góc máy tạo hiệu quả tối đa trong xây dựng ngôn ngữ của bộ
phim. Ở phân cảnh Nguyễn Mại được dẫn ra pháp trường. Quay phim đã sử
107
dụng góc máy ngợi ca với ống kính máy quay hướng chếch từ dưới lên trong
khoảng 30-45o. Đây là thủ pháp vẫn thường dùng khi muốn thể hiện sự tôn vinh,
ca ngợi những nhân vật anh hùng, khí phách, hay tấm gương người tốt việc tốt...
Hoặc ở đoạn cuối tập 2, phân cảnh cái chết của Quận Chúa Quỳnh Hoa, góc máy
từ khuôn hình trung cảnh Trịnh Sâm ôm Quỳnh Hoa trong lòng và tự trách mình,
động tác máy zoom dần vào khuôn hình cận khuôn mặt Chúa Trịnh với đôi mắt
rưng rưng chua xót. Ánh sáng kết hợp với bóng nước mắt đang ứa ra như khắc
sâu nỗi đau không nói được thành lời.
3.2.2. Ngôn ngữ thính giác (âm thanh)
Để điện ảnh có thể trở thành loại hình nghệ thuật hấp dẫn nhất thế kỷ
XX và đến ngày nay, thì ngoài đóng góp về hình ảnh, âm thanh cũng góp phần
quan trọng không kém. Thính giác và thị giác kết hợp với nhau, trở thành giác
quan chủ đạo trong việc tiếp thu, cũng như đóng vai trò tác động trong xây dựng
hình tượng điện ảnh và tạo xúc cảm thẩm mỹ. Có thể thấy tác dụng tạo hình của
âm thanh đối với tạo hình hình ảnh tạo nên những cảm xúc tinh tế, giúp người
xem có thể mường tượng ra màu sắc, hình thể, chuyển động… của đối tượng
trong không gian liên tưởng. Âm thanh có khả năng tái tạo hiện thực, có điều
kiện đào sâu tâm trạng và thể hiện tâm lý của con người. Sự chú ý thị giác luôn
song hành với sự chú ý của thính giác, khán giả ngày càng nhạy cảm khi thưởng
thức các bộ phim từ tiếng người, đối thoại, độc thoại, tiếng ngoài hình, âm thanh
hiện trường… mang tính hình tượng.
Âm thanh trong phim bao gồm: lời nói, tiếng động và âm nhạc. Khảo sát
âm thanh của Đêm hội Long Trì về mặt lời thoại, ta thấy, tác phẩm điện ảnh có
được lợi thế ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Những câu thoại giữa các
nhân vật được trau chuốt theo đúng bối cảnh, ngữ nghĩa, địa vị nhân vật, chuẩn
xác về mặt lịch sử và văn hóa, cũng như những lễ nghi, phong cách trong cung
thời Lê Trung Hưng. Lời nói là các thành tố tạo hình “ẩn”, bổ sung rõ nét cho
tính cách nhân vật, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm và cả những âm mưu, toan tính.
108
Cách nói chuyện của Bảo Kim luôn nho nhã, nhẹ nhàng, lối nói vận dụng chữ
nghĩa, văn chương. Còn cách nói của Đặng Lân thô lỗ, ngạo mạn. Lời thoại của
Đặng Thị Huệ với Trịnh Sâm thì lơi lả, ngọt ngào kết hợp với ngôn ngữ hình thể
và ngôn ngữ ánh mắt quyến rũ; khi nói chuyện Đặng Lân là tình cảm của một
bà chị quan tâm đến em, nhưng cũng có những toan tính để vừa được lợi cho em
và cho bản thân mình; với kẻ thân tín vừa uy quyền, vừa xoa dịu. Nội dung
truyện phim là sự hòa quyện tổng thể giữa hiệu quả tạo hình hình ảnh và tạo hình
âm thanh trong nghệ thuật kể chuyện.
Trong phim Đêm hội Long Trì, về hình thức lời nói chủ yếu là lời nói
trong khuôn hình. Đây là hình thức lời nói vang lên trong không gian của cảnh
quay, nguồn phát ra lời nói nằm ngay trong khuôn hình. Chúng ta có thể thấy rõ
điều này qua theo dõi diễn biến bộ phim. Còn về loại lời nói gồm đối thoại và
độc thoại. Đêm hội Long Trì ngập tràn các đối thoại, các cuộc trò chuyện. Đạo
diễn đã xử lý đối thoại của các nhân vật đặt trong bối cảnh và cường độ âm thanh
phù hợp. Một nét ấn tượng trong phim là các đoạn độc thoại. Các đoạn này
không xuất hiện nhiều, nhưng đúng lúc và vừa đủ để tạo nên điểm nhấn. Phân
đoạn Khê Trung hầu can gián Trịnh Sâm, khi hai người bước ra khỏi khuôn hình
để chuẩn bị chuyển cảnh ngoại cảnh sang nội cảnh, Hề trò cung đình đã đọc một
đoạn ca dao đầy chua xót:
“Thân em như dải lụa đào
Cởi ra cũng khó mặc vào không xong
Trăm năm trong cõi đèo bòng
Trách ai ham sắc mà còng lưng tôm…”
Lời nói độc thoại của Hề trò vừa như nói lên tình cảnh khó xử của Chúa
Trịnh không biết làm sao cho vẹn cả đôi đường, vừa muốn bảo vệ con gái, vừa
muốn chiều lòng người đẹp; lời nói cũng mang đầy ý trách móc Trịnh Sâm, trách
thói ham sắc của ông ta gây họa cho bao người. Câu ca dao độc thoại, kèm theo
tiếng cười bi thương của Hề trò khiến người xem thở dài, tiếc thay cho đấng
109
quân vương u mê vì tình ái. Như thế, hình tượng thị giác không chỉ đơn thuần là
hình ảnh do máy quay ghi lại mà còn có sự hỗ trợ rất lớn bởi âm thanh. Đối thoại
của nhân vật kết hợp tiếng động hiện trường và âm nhạc tạo nên hiệu ứng tích
cực, tác động đến người thưởng thức.
Hay một đoạn độc thoại khác sau khi tiễn Quỳnh Hoa về nhà chồng,
Trịnh Sâm cũng đổ sụp: “Con! Cha làm hại đời con rồi, Quỳnh Hoa…!”, cùng
với đó là những hình ảnh quay cuồng, kết hợp với âm nhạc trầm buồn. Quỳnh
Hoa giống như thứ ánh sáng trong trẻo trong nội cung đầy u ám những mưu đồ
tranh đoạt của Trịnh Sâm, đứa con gái cho ông ta những cảm xúc bình yên về
tình cảm cha con, tình ruột thịt, thứ tình cảm chỉ có hy sinh vì nhau trọn kiếp.
Nhưng chính tay ông ta đã xô đẩy, ném con vào bão giông. Bởi thế, lòng càng
ngập tràn ân hận, lời lẽ càng rên xiết, thống thiết không nguôi.
Tuy nhiên, trong phim Đêm hội Long Trì, phần tiếng động hiện trường
có phần đơn giản, yếu tố âm thanh không gian ngoài hình khá mờ. Các phân
đoạn trong cung hầu như vắng tiếng động hiện trường, điều này dường như là
chủ ý của đạo diễn muốn mô tả cuộc sống nơi vương phủ của Chúa Trịnh xa rời
với nhịp sống của xã hội, ở đó không chỉ thiếu những hình ảnh đời thường,
những tình cảm chân thành, mà ngay cả những thanh âm đơn giản nhất cũng như
biến tan vào không gian. Ở các phân đoạn có bối cảnh ngoại, phần tiếng động
hiện trường được xử lý tốt hơn. Theo dõi bộ phim, chúng tôi thấy rằng: Thứ
nhất, bộ phim không thực hiện ghi hình và thu thanh đồng bộ mà được gia công
tiếng động sau đó; Thứ hai, bộ phim được quay cách đây đã gần 30 năm, bản
phim mà chúng tôi nghiên cứu và phân tích có phần bị suy giảm cả về âm thanh
và hình ảnh nên chưa có được sự đánh giá đầy đủ. Trong tạo hình âm thanh,
phần xuất sắc nhất chính là âm nhạc trong phim với sự tham gia của dàn nhạc
Nhạc viện Hà Nội dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân. Ngay từ phần mở
đầu phim, bản hòa tấu nhạc cụ truyền thống Lưu thủy kim tiền - một trong những
bản nhã nhạc cung đình nổi tiếng nhất đã mở ra khung cảnh lễ hội đêm hội Trung
110
thu một cách rộn rã và đầy ấn tượng. Phân đoạn đêm hội cũng là phân đoạn được
xử lý khá hoàn chỉnh về mặt ngôn ngữ âm thanh: âm nhạc hài hòa, với những
bản nhạc lúc sôi động, lúc lại du dương, da diết; tiếng động phong phú với tiếng
hiện trường, tiếng người nói, tiếng cười, tiếng bước chân…; lời nói đối thoại của
các nhân vật rõ ràng, không bị trộn lẫn vào các tạo hình âm thanh khác, nổi bật,
trong và vang. Trong không gian lễ hội ấy, Bảo Kim đã gặp Quỳnh Hoa, người
con gái mà chàng vốn “hâm mộ tài sắc” đã lâu, “Trước kia, chàng mới có hân
hạnh nhìn trộm nàng ở xa, không ngờ nay lại có cái diễm phúc được tới gần
người ngọc. Mắt chàng ngốn cái sắc thanh kỳ kia, lòng chàng hồi hộp, chàng
muốn nói mà không sao nói được” [43, tr.13]. Trong tiểu thuyết, giây phút đó
Bảo Kim không nói được điều gì, thì trong phim, chàng cũng xúc động như thế,
nhưng có phần chủ động hơn khi được mời miếng trầu gặp mặt. Khung cảnh ấy,
với hai con người “như hẹn từ muôn kiếp”, khuôn mặt nàng thanh nữ giấu mình
sau cây quạt cùng với tiếng đàn violon da diết hòa vào bản hòa tấu Qua cầu gió
bay, thì khán giả không chỉ nhìn thấy những hình ảnh trong phim đang trình
chiếu mà như được dẫn dắt, đắm chìm vào một cảm xúc tạo hình mới. Đó chính
là thang bậc, tầng nấc tạo hình vừa thăng hoa, vừa lắng sâu. Suốt bộ phim là
những bản nhạc hòa tấu nhạc cụ dân tộc cổ truyền được viết riêng cho bộ phim,
hòa âm hợp lý với tạo hình hình ảnh, sử dụng hài hòa trong từng phân đoạn cho
thấy sự tâm huyết của những người làm âm nhạc trong phim.
Phân đoạn Nguyễn Mại cứu Bảo Kim và các bạn khỏi ngục thất của Đặng
Lân, tạo hình âm thanh được xử lý tốt, hài hòa cả về đối thoại, tiếng động hiện
trường và âm nhạc. Khi Nguyễn Mại cùng trợ thủ đột nhập vào phủ, nhịp phim
tiết tấu nhanh hòa với âm nhạc hồi hộp, kịch tính. Ánh sáng và bóng đêm được
tiết chế vừa đủ, một vài vệt sáng hắt lên đủ tạo nên sự tương phản. Tiếng bước
chân chạy trong bóng đêm chập choạng gợi cho người xem một cảm giác lo
lắng, bất an. Đến khi Bảo Kim và các bạn đã được cứu ra khỏi ngục, một cơn
mưa ào ào đổ xuống, tiếng mưa như hòa nhịp, như đồng lõa xóa đi dấu vết về
111
một cuộc giải cứu trong đêm. Có thể nói, hiệu quả của tiếng động và âm nhạc
đã cùng góp phần tạo nên hồn Việt cho bộ phim, nâng tầm giá trị của tác phẩm.
3.2.3. Montage (Dựng phim)
Dựng phim là một phương thức tạo hình nghệ thuật đặc trưng của điện
ảnh. Nói cách khác, dựng phim được sinh ra là bởi sự có mặt của điện ảnh, nó
chỉ tồn tại khi điện ảnh tồn tại. Đó là quá trình xây lên - tạo ra một bộ phim từ
những thước phim đã có (hình thô, hình nguyên liệu). Như đạo diễn Francis Ford
Coppola từng nói: “Điều cốt yếu của điện ảnh chính là dựng phim. Đó là sự kết
hợp của những hình ảnh đặc biệt của con người trong những khoảnh khắc tình
cảm hay những hình ảnh có ý nghĩa chung được kết hợp cùng nhau một cách kì
diệu”. Tạo hình dựng phim thực sự là quá trình sáng tạo lần nữa, kể lại câu
chuyện phim lần nữa bằng ngôn ngữ hình ảnh và tiết tấu trong giai đoạn hậu kỳ
về phương thức tạo hình để làm nên hiệu quả của ngôn ngữ điện ảnh trong bộ
phim.
Khi tái hiện tiểu thuyết Đêm hội Long Trì bằng ngôn ngữ điện ảnh, nhờ
kỹ thuật và nghệ thuật dựng phim, cả một bi kịch lịch sử được gói tròn trong 2
tập phim với tổng thời lượng gần 3 tiếng đồng hồ. Hiểu một các đơn giản nhất,
trước hết, dựng phim là đưa những đoạn hình có nội dung về đúng vị trí, trình
tự của nó theo đúng với kịch bản điện ảnh. Nhưng nghệ thuật dựng phim không
chỉ có vậy. Ngay trong từng phân đoạn, bằng con mắt nghệ thuật của mình, kết
hợp thế mạnh kỹ thuật, người dựng phim sẽ biên tập, cắt ghép các cảnh phim
theo khuôn hình, cỡ cảnh nhằm đảm bảo nội dung phim diễn ra uyển chuyển,
tạo được điểm nhấn theo dụng ý đạo diễn, thể hiện được phong cách phim, thể
loại phim. Phim điện ảnh Đêm hội Long Trì được dựng bằng kỹ thuật analog
(phi tuyến) là kỹ thuật tiêu biểu thời kỳ những năm 1980, còn khá thô sơ, trong
phim không sử dụng nhiều kỹ xảo, vốn là thế mạnh của điện ảnh hiện đại, do
hạn chế của yếu tố kỹ thuật. Nhưng chính điều đó khiến bộ phim đạt được sự
chân thực, với hiệu quả các yếu tố tạo hình hình ảnh, các thủ pháp ngôn ngữ điện
112
ảnh đạt tối đa. Trong đó, kỹ thuật dựng phim đã phát huy vai trò rất lớn trong
việc chế tác tác phẩm. Trở lại phân đoạn Chúa Trịnh và Đặng Thị Huệ dạo
thuyền trên hồ sen, thưởng trà, ngắm cảnh đã được nhắc đến trong mục xử lý
máy quay. Bên cạnh việc thực hiện các cảnh quay có động tác máy chuyển động
theo động tác nhân vật, thì thủ pháp dựng phim tiếp nối, nhẩn nha, chậm rãi,
chắt lọc những khuôn hình biểu cảm về ánh sáng, màu sắc, độ xa - gần… đã tạo
nên một trường đoạn phim có phong cách như ta đang từ tốn thưởng thức một
ấm trà ngon bên hồ sen thơm mát. Tiết tấu chậm khiến đường nét tạo hình được
cảm thụ rõ nét và giàu mỹ cảm. Những toan tính chốn cung đình được gạt sang
một bên, chỉ còn những phút giây tận hưởng một thú ẩm thực tao nhã giữa hai
con người đồng cảm trong không gian rộng lớn của thiên nhiên. Ngược lại, trong
phân đoạn Nguyễn Mại trừng trị Đặng Lân, tiết tấu dựng phim trở nên nhanh,
dứt khoát với độ dài cảnh 3-4 giây, thể hiện hành động liên tục nối tiếp nhau.
Không còn những đối đáp theo lễ nghĩa thông thường, chỉ những tuyên bố buộc
tội Đặng Lân được Nguyễn Mại đưa ra và thực thi công lý. Thủ pháp dựng phim
giúp phân đoạn này trở nên giàu kịch tính và đúng với tình huống mang tính
hành động cao.
Các thủ pháp dựng phim đã giúp ngôn ngữ đặc thù của Đêm hội Long
Trì trở nên hấp dẫn, toát lên những cảm nhận về bi kịch của vương quyền và sự
giàu sang. Nó tạo nên sự đối lập giữa khung cảnh của sự xa hoa, lộng lẫy nhưng
chật chội, tù túng, khiến những con người trong đó đánh mất ước mơ, đánh mất
tình yêu và đánh mất chính mình. Thông qua kỹ thuật và nghệ thuật dựng phim,
bố cục hình ảnh được xử lý chặt chẽ hơn với những khuôn hình Toàn - Trung -
Cận được sắp đặt theo trật tự, câu hình không bị “ngược trục” trong các đối
thoại. Ở các chuyển đoạn trở nên mềm mại, nối tiếp liên tục. Kỹ thuật dựng phim
chủ yếu là những cắt - ghép đơn giản, ít chồng mờ, ghép cảnh, ít sử dụng kỹ xảo,
nhưng phát huy hiệu quả tối đa tính chân thực của bộ phim. Trong phim, đạo
diễn Hải Ninh đặc biệt chú trong khả năng diễn xuất bằng mắt của các nhân vật.
Nhờ vào động tác máy zoom cận và hiệu quả của nghệ thuật montage, khi xử lý
113
các hình ảnh cận cảnh như những ẩn dụ về nỗi đau của các nhân vật trong phim.
Đôi mắt đầy dã tâm của Đặng Lân; đôi mắt nhiều mưu đồ của Đặng Thị Huệ;
Đôi mắt cương nghị của Nguyễn Mại… tất cả đã được đặt trong trình tự sắp đặt
hình ảnh theo câu hình đã tạo ấn tượng sâu sắc trong từng phân đoạn. Nghệ thuật
dựng hình giúp cho những hình ảnh thu được của máy quay xuất hiện hợp lý
nhất, kết hợp với âm thanh tạo nên một thể hài hòa và thống nhất để kể trọn vẹn
câu chuyện trong phim.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3 của luận văn, chúng tôi đã đi vào phân tích về ngôn ngữ
nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và ngôn ngữ điện ảnh trong phim
chuyển thể Đêm hội Long Trì. Nét đặc sắc lớn nhất trong ngôn ngữ nghệ thuật
của Nguyễn Huy Tưởng khi viết tiểu thuyết này là ngôn ngữ miêu tả và ngôn
ngữ đối thoại, với sự vận dụng lớp từ Hán Việt đã tạo nên không khí trang trọng,
cổ kính, không khí lịch sử cho tác phẩm. Đối với phim điện ảnh, do những đặc
trưng loại hình đã cho thấy nét sáng tạo của các nhà làm phim trong việc xử lý
ngôn ngữ hình ảnh, ngôn ngữ âm thanh và kỹ thuật dựng phim để tạo nên một
tác phẩm kinh điển. Do đặc trưng về ngôn ngữ loại hình khác biệt nên người viết
chủ yếu phân tích, ít có đối chiếu so sánh giữa hai tác phẩm, nhưng qua những
phân tích vẫn có thể thấy được sự độc đáo mang dấu ấn sáng tạo về mặt ngôn
ngữ nghệ thuật của tác giả Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết và của tác giả
điện ảnh trong phim.
114
KẾT LUẬN
Văn học và điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật có mối quan hệ gắn bó
mật thiết và khăng khít lẫn nhau. Tuy mỗi loại hình nghệ thuật đó đều có những
nét đặc trưng riêng về ngôn ngữ, đem đến cho độc giả và khán giả những cách
thức tiếp nhận khác nhau nhưng chúng vẫn luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
ngày càng gần nhau hơn nhờ quá trình chuyển thể. Từ thực tế nghiên cứu,
chúng tôi đưa ra kết luận quá trình chuyển thể từ tiểu thuyết Đêm hội Long Trì
(nhà văn Nguyễn Huy Tưởng) đến phim điện ảnh Đêm hội Long Trì (đạo diễn
Hải Ninh và biên kịch Lê Phương, Hoàng Nhuận Cầm) là một sự chuyển thể
sáng tạo, cải biên nguyên tác trên các phương diện khác nhau.
Về cơ sở lý luận, luận văn đã làm rõ những nét đặc trưng của văn học
và điện ảnh, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, từ đó đưa ra các tiêu chí để
khảo sát trong việc chuyển thể các tác phẩm văn học thành tác phẩm phim
truyện, mà cụ thể ở đây là tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh cùng
tên.
Về cốt truyện, các nhà làm phim cơ bản bám sát nguyên tác, đường dây
nội dung cốt truyện của tiểu thuyết. Tuy nhiên, tác phẩm điện ảnh đã làm mới
câu chuyện bằng việc gia tăng vai trò của Đặng Thị Huệ, có thêm những
tình tiết mới, tô đậm tham vọng tiếm quyền người đàn bà này. Truyện phim đưa
hai nhân vật Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ trở thành nhân vật trung tâm, nguyên
nhân của tấn bi kịch vương triều. Không gian và thời gian được thay đổi một số
cảnh không có trong nguyên tác tạo sự phong phú, hấp dẫn trong phim.
Về nhân vật, sự thay đổi lớn nhất nằm ở nhân vật Tuyên phi Đặng Thị
Huệ trong vai trò chính - phụ và hư cấu thêm nhân vật mới nhằm khắc họa rõ
nét hơn âm mưu phế trưởng lập thứ của Thị Huệ, cũng sự quan tâm dành cho
nhân vật Nguyễn Mại, là nhân vật cởi nút những mâu thuẫn được gia tăng thêm
thời lượng trong phim, phát huy vai trò anh hùng thời đại. Nhân vật Quận chúa
115
Quỳnh Hoa cũng bị thay đổi xuống hàng thứ chính khi đạo diễn chủ yếu khai
thác nhân vật ở khía cạnh nạn nhân của bi kịch trong phim.
Về ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ điện ảnh đã khai thác được lợi thế
ngôn từ văn bản tác phẩm văn học, sử dụng hợp lý trong phim, kết hợp với các
thủ pháp về hình ảnh, âm thanh và dựng phim tạo nên một tổng thể hài hòa. Tác
phẩm chuyển thể đã đạt được thành công lớn về cả chất lượng nghệ thuật cũng
như thương mại điện ảnh. Trong phim có nhiều nét đặc sắc về bối cảnh, phục
trang, diễn xuất, âm nhạc… được công chúng và các nhà nghiên cứu đánh giá
cao, là bộ phim lịch sử kinh điển của điện ảnh Việt Nam thế kỷ XX.
Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì là tiểu thuyết lịch sử đầu tay của Nguyễn
Huy Tưởng, cũng là một trong những tác phẩm mở đầu cho dòng tiểu thuyết lịch
sử đầu thế kỷ XX. Cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long Trì được nhiều người yêu
thích và đã được chuyển thể ở nhiều bộ môn nghệ thuật như: chèo, cải lương...
Khi đạo diễn Hải Ninh đưa cuốn tiểu thuyết lên màn ảnh rộng, bộ phim đã trở
thành tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam, không chỉ về mặt nghệ thuật
mà còn là một trong những bộ phim cổ trang thành công nhất từ trước đến nay.
Hai tác phẩm có thể nói là những cột mốc ấn tượng trong dòng tiểu thuyết lịch
sử và phim lịch sử Việt Nam Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi đã trình
bày những kết quả nghiên cứu về vấn đề chuyển thể văn học - điện ảnh thông
qua một tác phẩm cụ thể. Trong quá trình nghiên cứu còn nhiều khó khăn, hạn
chế, không tránh khỏi những thiếu sót, tuy nhiên chúng tôi hi vọng kết quả luận
văn sẽ là một nguồn tham khảo bổ ích cho những công trình nghiên cứu khác
hay mở ra những hướng nghiên cứu mới về chuyển thể điện ảnh nói chung
cũng như phim chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nói
riêng./.
116
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách, phim điện ảnh:
1. Aristos, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thi ca - Văn tâm điêu long, Nxb Văn
học, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
3. David Bordwell, Kristin Thompson (2008), Nghệ thuật điện ảnh, (Dịch và
hiệu đính: Đỗ Thu Hà, Nguyễn Liên, Nguyễn Kim Loan, Ngô Tự Lập, Trần
Nho Thìn, Trần Hải Yến. Hiệu đính thuật ngữ chuyên ngành: Phan Đăng
Di, Trần Hinh), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. David Bordwell (2006), Lịch sử điện ảnh thế giới, (Nhóm dịch giả: Thanh
Hương, Kim Dung, Hiền Lương, Thế Hùng), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
5. Warren Buckland (2011), Nghiên cứu phim (Film Studies); Nxb Tri thức
và Công ty văn hóa truyền thông Nhã Nam & Dự án quỹ Ford, Hà Nội.
6. Viện Sử học, Phan Huy Chú (2005), Lịch triều hiến chương loại chí, (Tổ phiên
dịch Viện sử học phiên dịch và chú giải), 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Timothy Corrigan (2013), Điện ảnh và văn học, (Nguyễn Thu Hà, Trần
Phương Hoàng, Huyền Vũ, Trần Lê Minh chuyển ngữ; Minh Lê hiệu đính),
Nxb Thế giới, Hà Nội.
8. Timothy Corrigan (2011), Hướng dẫn viết về phim, Nxb Tri thức và Công
ty văn hóa truyền thông Nhã Nam & Dự án quỹ Ford, Hà Nội.
9. Lê Thị Dương (2016), Chuyển thể Văn học - Điện ảnh (Nghiên cứu liên
văn bản), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (1966), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960), Nxb
Văn học, Hà Nội.
11. Hà Minh Đức (chủ biên, 2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Lê Bá Hán (chủ biên, 1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2006), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
117
14. Nguyễn Văn Hạnh, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
15. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ
biên, 2004), Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (2016), Tang thương ngẫu lục (dịch: Trúc
Khê - Ngô Văn Triện; hiệu đính: Trương Chính), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
17. Linda Hutch (2011), Theory of Adaptation (bản dịch Theory of Adaptation
- Lý thuyết về chuyển thể của Hoàng Cẩm Giang, Phạm Minh Diệp; hiệu
đính: Trần Nho Thìn; chưa xuất bản).
18. M.B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận v à phương pháp l uận
nghiên cứu văn học, (nhiều người dịch, Trần Đình Sử tuyển chọn, giới
thiệu), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Ngô Phương Lan (2005), Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
20. Phong Lê (1997), “Nguyễn Huy Tưởng - văn xuôi và kịch”, Văn học trên
hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
21. Việt Linh (2005), Ý tưởng nghề nghiệp, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Thành phố
Hồ Chí Minh.
22. Việt Linh (2006), Dạo chơi vườn điện ảnh, Nxb Văn hóa Sài Gòn,
Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Lời giới thiệu sách Đêm hội Long Trì (2016), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
24. Phương Lựu (chủ biên, 2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Mác-xen Mác-tanh (1984), Ngôn ngữ điện ảnh, (Nguyễn Hậu dịch), Cục
Điện ảnh Việt Nam, Hà Nội.
26. Ngô gia văn phái (2005), Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, Hà Nội.
27. Phương Ngân (tuyển chọn và biên soạn, 2001), Nguyễn Huy Tưởng khát
vọng một đời văn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
118
28. Hải Ninh (1989), phim truyện Đêm hội Long Trì, Hãng Phim truyện Việt
Nam, Hà Nội.
29. Phạm Thuỳ Nhân (2005), Làm sao viết kịch bản phim?, Nxb Văn hoá
Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh
30. Lê Lưu Oanh - Phạm Đăng Dư (2008), Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư
Phạm Hà Nội.
31. Vsevolod Pudovkin (1962), Bàn về viết truyện phim, đạo diễn phim và diễn
viên điện ảnh, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Bộ Văn hóa, Hà Nội.
32. I.Teplix (1978), Lịch sử Điện ảnh thế giới, (Vũ Quang Chính và Đỗ Thúy
Hà dịch), Tập 2, (3 tập), Nxb Văn hóa, Hà Nội
33. Georges Sadoul (1987), Lịch sử điện ảnh thế giới, Nxb Ngoại Văn và
Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.
34. Trần Đình Sử (chủ biên, 2008), Tự sự học: Một số vấn đề lý luận và lịch
sử (2 tập), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
35. Tập bài giảng Tài liệu biên kịch, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh
Hà Nội.
36. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Thị Hạnh (sưu tầm, biên soạn , 1996),
Nguyễn Huy Tưởng toàn tập (5 tập), NXB Văn học, Hà Nội.
37. Nguyễn Huy Thắng (biên soạn, 2006), Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng (3 tập),
Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
38. Nguyễn Huy Thắng (biên soạn, 2009), Nguyễn Huy Tưởng còn với thời
gian, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
39. Nguyễn Bích Thu - Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu, 1999),
Nguyễn Huy Tưởng về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Trường viết văn Nguyễn Du (1985), Công việc viết văn, Hà Nội.
41. Nguyễn Tuân (1999), Nguyễn Tuân bàn về văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
42. Đoàn Minh Tuấn (2008), Những vấn đề lý luận về kịch bản phim, Nxb Văn
hóa Thông tin. Hà Nội.
119
43. Nguyễn Huy Tưởng (2016), Đêm hội Long Trì, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
44. Dương Quang Viễn (2004), Nghệ thuật quay phim điện ảnh, Hội Điện ảnh
Việt Nam, Hà Nội.
II. Luận án, luận văn
45. Trần Thị Dung (2016), Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện
ảnh từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi đáy giếng và
Cánh đồng bất tận), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội.
46. Phạm Thị Thu Hương (2014), “Thời xa vắng” - từ văn học đến điện ảnh
(dưới góc nhìn Tự sự học), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội.
47. Phan Bích Thủy (2005), Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác
phẩm điện ảnh, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh.
48. Phan Bích Thủy (2012), Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh, luận
án tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
49. Lê Anh Tuấn (2016), Phim truyện chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh - Thành công và hạn chế, luận văn thạc sĩ, Trường Đại
học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.
50. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Liên văn bản trong sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
III. Báo, tạp chí, internet
51. Đặng Thế Anh, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Hoàn (2017), Mối
quan hệ giữa văn học và điện ảnh, http://lce.edu.vn/vi/news/Tin-tuc-Su-
kien-43/moi-quan-he-giua-van-hoc-va-dien-anh-647.html, ngày
12/01/2017.
52. Lại Nguyên Ân (1990), “Nhân xem “Đêm hội Long Trì”, nghĩ về một lối
tiếp cận lịch sử”, Tạp chí Nghệ thuật điện ảnh (số tháng 3/1990).
120
53. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Điện Ảnh,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Điện_ảnh.
54. Báo Đất Việt online (2011), Quận Mã Đặng Lân du đãng, dâm dật thế
nào? http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/quan-ma-dang-lan-du-dang-
dam-dat-the-nao-2331623, ngày 22/04/2011.
55. Câu lạc bộ người yêu sách (2018), Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng: Đêm hội
Long Trì - Quà dâng mẹ, http://clbnguoiyeusach.com/bai-viet/nguyen-huy-
tuong-con-voi-thoi-gian/chan-dung/75-nam-dem-hoi-long-tri-779.html,
ngày 14/02/2018.
56. Hoàng Thủy Bảo Châu (2012), “Nhân vật trong tác phẩm điện ảnh Việt
Nam”, Tạp chí Văn học Nghệ thuật (số 333).
57. Hà Minh Đức (1990), “Đêm hội Long Trì trên màn ảnh”, Tạp chí Nghệ
thuật điện ảnh (số tháng 3/1990).
58. Hà Minh Đức (2013), Nguyễn Huy Tưởng - Tìm đến một mê cung,
http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/nguyen-huy-tuong-
tim-den-mot-me-cung.html, ngày 19/8/2013.
59. N.M.Hà (2010), Phục trang Đêm hội Long Trì có cải lương?
https://www.tienphong.vn/van-nghe/phuc-trang-dem-hoi-long-tri-co-cai-
luong-506889.tpo, ngày 16/07/2010.
60. Trần Hinh (2015), Khuynh hướng tiểu thuyết - Điện ảnh trong Văn học
Pháp thế kỉ XX, http://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/Van
HocNuocNgoai/View_Detail.aspx?ItemID=33, ngày 20/07/2015.
61. Hoài Hương (2016), Tác phẩm văn học - Kho vàng của điện ảnh Việt,
http://vov.vn/blog/tac-pham-van-hoc-kho-vang-cua-dien-anh-viet-
568888.vov, ngày 14/11/2016.
62. Lê Minh Kha (2015), Dịch liên ký hiệu: Giữa văn học và điện ảnh,
http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=18&macmp=18&m
abb=42161, ngày 09/06/2015.
63. Nguyễn Xuân Lâm (1986), “Gorki với điện ảnh”, Tạp chí Nghệ thuật điện
ảnh (số 3).
121
64. Hoàng Anh Lê (2012), Nguyễn Huy Tưởng “sống trong lịch sử và viết về
lịch sử”, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-huy-
tuong-song-trong-lich-su-va-viet-ve-lich-su-2135029.html, ngày
04/05/2012.
65. Hà Tùng Long (2017), Chuyện ít biết về dàn diễn viên “Đêm hội Long Trì,
http://dantri.com.vn/van-hoa/chuyen-it-biet-ve-dan-dien-vien-dem-hoi-
long-tri-20170419111737277.htm, ngày 19/04/2017.
66. Lê Cẩm Lượng (1997), “Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện
ảnh”, Tạp chí Điện ảnh ngày nay (số 31).
67. Huy Minh (2017), Đêm hội Long Trì - một lát cắt không thuộc về lịch sử,
https://docsach.org/2017/03/02/dem-hoi-long-tri/, ngày 2/3/2017.
68. Phạm Huy Quang (2013), “Đôi điều về ngôn ngữ tạo hình quay phim”, Tạp
chí Văn học nghệ thuật (số 352).
69. Hồng Quảng, Nguyễn Huy Tưởng - Nhà chép sử bằng văn học,
https://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nguyen-huy-tuong-nha-chep-su-
bang-van-hoc-n20170506074726915.htm, ngày 06/05/2017.
70. Tiểu Quyên (2010), Văn học - Điện ảnh: hiệu ứng cộng sinh,
http://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/van-hoc-dien-anh-hieu-ung-cong-
sinh-2010112712436129.htm, ngày 27/11/2010.
71. Thư Sinh (2017), “Đêm hội Long Trì” - nỗi lòng hậu thế gửi gắm đến ngàn
xưa,http://www.nguoiduatin.vn/dem-hoi-long-tri-noi-long-hau-the-gui-
gam-den-ngan-xua-a321627.html, ngày 23/2/2017.
72. Huyền Thanh (2004), “Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu”,
Tạp chí Điện ảnh ngày nay (số 113).
73. Thi Thi (2016), Văn học và điện ảnh: Những chuyển động thú vị,
http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/824791/van-hoc-va-dien-anh-
nhung-chuyen-dong-thu-vi, ngày 13/02/2016.
74. Như Thủy (2016), Phim Việt: Lương duyên giữa văn học và điện ảnh,
https://doanhnhansaigon.vn/doi-song-van-hoa/phim-viet-luong-duyen-
giua-van-hoc-va-dien-anh-1074509.html, ngày 09/11/2016.
122
75. Minh Trang (2000), “Các nhà văn nói gì về điện ảnh”, Tạp chí Điện ảnh
ngày nay (số 59).
76. Đinh Trọng Tuấn (1990), “Đêm hội Long Trì - Một bộ phim thành công”,
Báo Văn nghệ, ngày 31/3/1990.
77. Đỗ Ngọc Yên (2012), Mối tơ duyên giữa điện ảnh và văn chương,
http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Moi-to-duyen-giua-
dien-anh-va-van-chuong-2933.html, ngày 08/02/2012.
PHỤ LỤC
Bảng thống kê các sự kiện diễn ra trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và
phim điện ảnh Đêm hội Long Trì
Tiểu thuyết
Phim điện ảnh
Chương
Tập 1: Cầu hôn
- Đêm hội Trung thu năm nay được
- Đêm hội Trung thu tổ chức tưng
tổ chức tưng bừng hơn mọi năm.
bừng rộn rã bên hồ Long Trì với rất
Nhóm Bảo Kim tham dự hội, nhưng
nhiều hoạt động, trò vui.
Bảo Kim thì thờ ơ hết thảy.
- Chúa Trịnh và Đặng Tuyên phi
- Cuộc gặp gỡ của Bảo Kim và
ngự thuyền rồng đến dự hội.
Quỳnh Hoa khi nhóm Bảo Kim
- Quận chúa Quỳnh Hoa và các
tham gia trường bút chiến "Quần
cung nữ đóng giả dân thường náo
Anh hội". Hai người "tình trong như
nức dự hội.
đã, mặt ngoài còn e".
- Cuộc gặp gỡ giữa Bảo Kim và
- Bảo Kim được giải nhất tại Trường
quận chúa Quỳnh Hoa trong đêm
bút chiến do Quận chúa Quỳnh Hoa
trung thu. Nàng giả đò đánh rơi
I
làm chủ nhân.
chiếc túi thêu đựng trầu têm.
- Đặng Lân làm trò dâm loạn, ức
Chàng nếm miếng trầu hỏi tay
hiếp phụ nữ ở đêm hội và đụng độ
người têm khéo. Hai người cứ thế
với nhóm Bảo Kim. Quỳnh Hoa
tìm kiếm nhau trong đêm hội.
cũng vội chạy ra, Đặng Lân vừa
- Nhóm Bảo Kim tham dự cuộc thi
trông thấy nàng đã nảy sinh tà ý.
thơ Quần Anh hội do Chúa Trịnh
- Nhóm Bảo Kim đụng độ với Đặng
làm chủ nhân. Bảo Kim nhận ra
Lân.
Quận chúa chính là người dân nữ
vừa gặp lúc trước.
- Nguyễn Mại ra tay trị Đặng Lân,
đuổi hắn khỏi đêm hội. Nguyễn Mại
- Bảo Kim được giải nhất trong
và Bảo Kim nhận ra nhau.
cuộc thi thơ.
- Chúa Trịnh và Đặng Tuyên phi
- Đặng Lân làm trò dâm loạn, ức
đến dự thì hội cũng vừa kém bề náo
hiếp phụ nữ ở đêm hội và đụng độ
nhiệt.
với Bảo Kim, đánh chàng vỡ đầu.
- Nguyễn Mại ra tay trị Đặng Lân,
đuổi khỏi đêm hội.
- Chúa Trịnh cho đòi Nguyễn Mại
- Nguyễn Mại, Bảo Kim và các bạn
vào cung khi chàng đang cùng
tụ họp tại nhà Bảo Kim, ai cũng lên
nhóm Bảo Kim uống trà tại nhà Bảo
án Đặng Lân và Đặng Thị Huệ.
Kim. Mọi người lo lắng, song
Nguyễn Mại hết sức tức giận.
Nguyễn Mại khẳng khái vào chầu.
- Mẹ Bảo Kim đang tính làm bữa
- Thuật lại về xuất thân và tài năng
rượu cho các con thì Chúa Trịnh
Nguyễn Mại, cũng như tình cảm,
cho người tới đòi Nguyễn Mại đến
tình thân giữa Nguyễn Mại và Bảo
gặp.
Kim.
- Nguyễn Mại vào cung gặp Chúa
- Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Trịnh và
Trịnh, ngoài ra còn có Huy Quận
Nguyễn Mại trong phủ Chúa. Trịnh
công Dương Đình Bảo - Đốc trấn
Sâm tự tay pha trà, ban thưởng
Nghệ An cũng đến chầu. Chúa cho
II
chàng đã có công phá thành Phú
thưởng trà Nguyễn Mại, thưởng
Xuân. Hai người trò chuyện về
quế Thanh về biếu mẹ già và phong
chiến công của Nguyễn Mại. Chúa
chàng làm Hộ thành binh mã sứ.
yêu mến thưởng quế Thanh cho
- Nguyễn Mại trở về nhà Bảo Kim,
chàng về biếu mẹ già, rồi phong
đem một phần quà biếu mẹ Bảo
chàng làm Hộ thành binh mă sứ.
Kim rồi từ biệt lên đường về quê.
- Nguyễn Mại trở về nhà Bảo Kim,
- Bảo Kim tiễn Nguyễn Mại lên
tiếp tục tṛ chuyện, tâm sự, hàn
đường. Hai người vừa đi vừa bàn
huyên. Chàng đem một phần quà
chuyện chính sự, lo lắng những
biếu mẹ Bảo Kim. Hết tiệc, Nguyễn
khó khăn Nguyễn Mại phải đối đầu
Mại lên đường về tỉnh Bắc thăm mẹ
khi nhậm chức.
và vợ con.
- Bài phú của Bảo Kim nổi tiếng
- Trong phủ Đặng Lân, một dàn
trong giới văn chương, mọi người
hầu gái đang phục dịch Cậu Trời.
đều thán phục song cũng lo lắng
Đặng Lân chợt nổi cáu, nhớ đến sự
thay cho chàng.
thanh thoát của Quận chúa Quỳnh
Hoa. Nghe lời tâng bốc của bọn gia
- Kể về nguồn gốc xuất thân và sự
nhân, Đặng Lân quyết làm phò mã,
ngông cuồng, ác bá của Đặng Lân.
đồng thời thể hiện mối hận thù với
- Đặng Lân tương tư Quỳnh Hoa,
Nguyễn Mại, Bảo Kim.
trút sự độc ác lên gia nhân. Lòng
- Trong phủ Chúa, Đặng Tuyên phi
Đặng Lân cũng đầy thâm thù với
cùng Trịnh Cán đang chơi đùa với
Nguyễn Mại, Bảo Kim.
cung nữ, thì Đặng Lân đến. Hai chị
- Đặng Lân vào phủ chúa thăm
em cùng bàn tính việc phế trưởng
Đặng Tuyên phi, xin chị giúp hỏi
lập thứ. Đặng Lân xin chị giúp cầu
cưới Quận chúa Quỳnh Hoa.
hôn, cũng là tính kế kết thêm phe
- Đặng Lân ra thì Chúa Trịnh ngự
cánh trong triều. Hai người cũng
III
tới, hai người cùng nhau thưởng trà,
nhắc đến mối lo Bảo Kim, Nguyễn
chuyện trò đưa đẩy. Tuyên phi dò ý
Mại.
Tĩnh Đô Vương, xin cưới Quỳnh
- Đặng Lân vừa rời đi thì có chỉ
Hoa cho Đặng Lân. Trịnh Sâm có ý
truyền giờ ngọ Chúa Trịnh tới.
từ chối.
Đặng Thị Huệ sửa soạn tắm gội để
- Bốn ngày sau, Đặng Thị Huệ ốm.
hầu Chúa.
Trịnh Sâm lo lắng đồng ý gả Quỳnh
- Trịnh Sâm ngắm Đặng Thị Huệ
Hoa cho Đặng Lân. Thị Huệ nhân
tắm mà mê đắm vì tình. Hai người
đà rèm pha Nguyễn Mại, song Trịnh
mặn nồng không rời.
Sâm không để tâm.
- Đặng Thị Huệ định chạm tay vào
viên dạ minh châu gắn trên mũ của
Trịnh Sâm nhưng bị ngăn lại. Thị
Huệ không vui. Khi Trịnh Sâm
tháo viên ngọc đặt vào tay Thị
Huệ, nàng ta liền ném xuống đất.
Trịnh Sâm không màng ngọc quý
vội dỗ dành.
- Bằng cách thăm dò như vậy,
Đặng Thị Huệ ngỏ ý cầu hôn, xin
cưới Quỳnh Hoa cho Đặng Lân.
Trịnh Sâm tỏ vẻ không muốn
quyết.
- Lại nói về Quỳnh Hoa, rời đêm hội
- Quỳnh Hoa cùng Quốc mẫu Thái
Long Trì, lòng tràn đầy quyến luyến
phi đi chùa cầu phúc. Bảo Kim
hình ảnh Bảo Kim.
cũng đến đó. Quỳnh Hoa sai người
gửi cho chàng chiếc túi lụa, còn
- Chúa Trịnh rất quan tâm con gái,
chàng gửi lại chiếc túi thêu đựng
hỏi han nhiều điều, song nàng chỉ
trầu đã giữ từ đêm hội Long Trì.
đáp giữ lễ. Chia tay cha, Quỳnh Hoa
thu mình vào với nỗi buồn và hồi
- Bỗng nhiên Đặng Lân xuất hiện,
tưởng về những tháng ngày hạnh
lùng bắt con gái nhà lành ngay nơi
phúc. Rồi nàng cũng lại thấy giận
cửa Phật. Mọi người đều kinh sợ.
người phụ nữ đã xui Chúa làm bao
- Quỳnh Hoa về phủ, cung nữ giao
điều bạc ác.
cho nàng chiếc túi có bài thơ của
IV
- Cung nữ dâng Quỳnh Hoa một bức
Bảo Kim. Lòng nàng ngập tràn
lụa có bài thơ tứ tuyệt của Bảo Kim
hạnh phúc.
đề tặng. Nàng cảm thấy hạnh phúc
- Chúa Trịnh tới thăm con gái. Ông
dâng trào.
cứ ngập ngừng nhiều nỗi niềm. Hai
- Quốc mẫu đến thăm Quỳnh Hoa.
cha con cùng đi vãn cảnh, tham gia
Nàng thuật lại giấc mơ gặp Đặng
những thú chơi, đi hái sen, bình bài
Lân mà kinh hãi.
phú của chàng nho sinh Bảo Kim...
Quỳnh Hoa rất vui vì được cha
- Ác mộng thành sự thật. Tin Trịnh
hiểu cho nỗi lòng của mình.
Sâm đồng ý gả Quỳnh Hoa cho
Đặng Lân lan truyền khắp thành.
- Quỳnh Hoa đau khổ. Trịnh Sâm
- Quỳnh Hoa vể cung rồi, Chúa
đến gặp nàng an ủi.
Trịnh vẫn đứng nhìn theo mãi, tay
cầm chiếc túi thêu mà mắt rưng
- Nàng thấy thương cha nên quyết
rưng.
định nhận lời lấy Đặng Lân. Từ lúc
đó, Quỳnh Hoa không khóc lóc,
- Đặng Tuyên phi ốm nặng, Trịnh
than vãn nữa, thờ ơ mọi việc.
Sâm lo lắng khôn nguôi. Thị Huệ
không ngừng mê sảng nhắc đến
- Những tâm sự đầy nỗi niềm của
Đặng Lân. Trịnh Sâm thấy mình có
Quỳnh Hoa về Bảo Kim, về người
lỗi ngập tràn.
mẹ đã mất. Nàng đem những kỷ vật
từng có giữa hai người gửi trả Bảo
- Trịnh Sâm đưa Thị Huệ đi vãn
Kim.
cảnh và thưởng trà trên hồ sen.
Chúa Trịnh quyết định gả Quỳnh
- Bảo Kim nhận được những kỷ vật
Hoa cho Đặng Lân.
Quỳnh Hoa gửi lại, đem đốt. Chàng
và các bạn bàn tính cứu Quận chúa.
- Cung nữ Ái Thi báo tin dữ cho
Quỳnh Hoa. Nàng
than khóc
không thôi.
- Đặng Lân nghe tin Chúa đồng ý
thì hả hê, tiếp tục mặc sức ăn chơi
phè phỡn.
- Thị Huệ đang chơi với con trai
Trịnh Cán thì Huy Quận Công xin
yết kiến. Hai người bàn mưu tính
kế hãm hại Thế tử Tông.
- Quỳnh Hoa liên tục mê sảng.
Trịnh Sâm vào thăm con. Quỳnh
Hoa thương cha nên quyết định
theo ý sắp đặt.
- Bảo Kim nhận lại kỷ vật từ tay
cung nữ của Quỳnh Hoa thì quyết
định đốt đi. Hai người nói chuyện
về thái độ của Quận chúa giờ như
cái bóng trong cung.
- Đã đến ngày rước dâu, Chúa Trịnh
- Đặng Lân đến gặp Thị Huệ mách
Sâm nói chuyện với cận thần Khê
tội các vị đại thần tìm cách ngăn
Trung hầu có ý muốn thoái thác hôn
cản Chúa Trịnh gả Quỳnh Hoa cho
sự. Đúng lúc đó thì Đặng Tuyên phi
Đặng Lân. Thị Huệ trấn an Đặng
bắt gặp, đe dọa tự vẫn. Chúa đành
Lân sẽ lo việc đó.
thuận theo.
- Khê Trung hầu can gián Chúa
- Trịnh Sâm cho đòi Đặng Lân vào
Trịnh. Đúng lúc đó thì Đặng Tuyên
chầu, ra yêu cầu: Cho cưới nhưng
phi đến, đe dọa tự vẫn. Chúa đành
đến khi Quận chúa đủ 18 tuổi mới
thuận theo. Nhân đó, Thị Huệ xúc
được động phòng.
xiểm Nguyễn Mại và xin phong
tước hầu cho Đặng Lân.
- Chúa cử hai vị đại thần là Lương
Ngự sử và Khê Trung hầu theo hầu
- Trịnh Sâm cho đòi Đặng Lân vào
Quận chúa. Ngài dặn dò Khê Trung
chầu, ra yêu cầu: Cho cưới nhưng
V
hầu trước giờ rước dâu.
đến khi Quận chúa đủ 18 tuổi mới
được động phòng.
- Đến giờ rước dâu, Chúa Trịnh trò
chuyện với Quỳnh Hoa lần cuối
- Đã đến lễ rược dâu. Đặng Thị
trước lúc về nhà chồng, quyến luyến
Huệ nói chuyện với Quận Huy thể
không muốn rời. Quỳnh Hoa xin
hiện sự đắc ý, cho rằng giờ chỉ cần
cha quan tâm nâng đỡ Bảo Kim.
lo đưa Cán lên ngôi Thế tử là xong.
- Quỳnh Hoa đi rồi, Chúa Trịnh sụp
- Chúa Trịnh đến tiễn Quỳnh Hoa
xuống khóc thương.
về nhà chồng, trao nàng của hồi
môn, cử hai đại thần theo hầu và
- Ở phủ Đặng Lân, Quỳnh Hoa được
nhận lời nâng đỡ Bảo Kim theo lời
sắp xếp ở lầu riêng. Nghe tin Bảo
cầu xin của con.
Kim định cứu nàng, Quận chúa vội
sai người đưa thư ngăn cản.
- Quỳnh Hoa đi rồi, Chúa Trịnh
sụp xuống khóc thương.
- Ở gian nhà bát giác cách lầu Quận
Tập 2: Quả báo
chúa độ hai mươi thước, Đặng Lân
- Trinh Sâm từ khi con đi lúc nào
mở tiệc ăn nhậu với lũ gia nhân và
cũng nhớ thương. Nghe Khê Trung
gái đẹp. Cơn say lên, hắn không
hầu vào cung báo tin Quận chúa
kiềm chế được dục vọng. Đến khi
không ăn uống, luôn buồn phiền,
tỉnh rượu, Đặng Lân rút dao chém
ông rất thương xót.
giết đám phụ nữ vừa ăn nằm với
mình.
- Thị Huệ đến vấn an Chúa Trịnh,
sai người diễn trò cho chúa khuây.
- Quỳnh Hoa nhìn thấy hình dung
Đặng Lân đầy máu thì hét lên thất
- Đặng Lân đắc ý lấy được Quận
thanh. Hình ảnh người thiếu nữ dịu
chúa trở thành Quận mã, định bụng
dàng khiến cơn điên của hắn dịu lại.
bày thêm những trò lố bịch.
- Đặng Lân tắm rửa xong, sắp đặt
- Lương Ngự sử và Khê Trung hầu
mấy việc toàn những thói ăn chơi
trò chuyện, cảm thấy nản chí vì
trụy lạc, rồi đòi lên lầu gặp Quỳnh
Chúa Trịnh không nghiêm để con
Hoa.
gái mình khổ, dân chúng cũng khố.
Đặng Lân đến gõ cửa đòi nói
- Lương Ngự sử và Khê Trung hầu
chuyện với Quỳnh Hoa nhưng
đang trò chuyện, tiếc thương cho
không được đồng ý.
Quận chúa. Đặng Lân tới, hai vị
nhất quyết ngăn lại. Đặng Lân kêu
- Quận mã hậm hực quay về tổ
người phá cửa, hai bên đụng độ,
chức tiệc rượu và dâm loạn. Hết
Đặng Lân giết chết hai vị đại thần.
tiệc, Đặng Lân cho người đi bắt
nhóm Bảo Kim, sau đó lại lên gọi
- Đặng Lân xông vào phòng ôm lấy
cửa lầu Quận chúa. Không được
Quỳnh Hoa, định ức hiếp nàng. Vừa
chấp thuận, Đặng Lân kêu người
lúc đó thì nghe tiếng Bảo Kim.
phá cửa, hai bên đụng độ, Đặng
Thảm thay, nhóm Bảo Kim toan
Lân giết chết hai vị đại thần.
tính cứu nàng nhưng đều bị bắt trói
cả lại.
- Đặng Lân xông vào phòng ôm lấy
Quỳnh Hoa, định ức hiếp nàng.
Vừa lúc đó thì nàng nhìn thấy Bảo
- Đặng Lân ra lệnh tra tấn, dùng
Kim và mấy người bạn đều bị bắt
chày sắt nện vỡ gối bọn Bảo Kim.
trói giải đến.
Quận chúa nghe vậy đành xuống
- Đặng Lân ra lệnh tra tấn, dùng
nước cầu xin, chấp nhận để hắn vùi
chày sắt nện vỡ gối bọn Bảo Kim.
dập, giày vò.
Quận chúa nghe vậy đành xuống
nước cầu xin, chấp nhận để hắn vùi
dập, giày vò.
- Nguyễn Mại đến nhận chức Hộ
- Nguyễn Mại đến thăm Bảo Kim
thành binh mã sứ. Chàng ngày đêm
thì nghe mẹ chàng kể lại Bảo Kim
xem xét công văn, trong số đó có
bị bắt đi mờ ám lúc nửa đêm.
đến 30 lá đơn khiếu nại Đặng Lân.
- Nguyễn Mại gặp Quan hộ thành
Nguyễn Mại thảo sớ đề nghị một
cũ, điều tra các thông tin về tội ác
chương trình cải cách tuần phòng,
của Đặng Lân. Xong xuôi, chàng
chương
trình được
thông qua,
gọi người tìm cách vào phủ Đặng
nhưng đơn kiện Đặng Lân không
Lân thám xét tình hình.
thấy trả về.
- Trong đêm, Nguyễn Mại và cận
- Chỉnh đốn công việc xong, chàng
vệ đột nhập phủ Đặng Lân, phát
đến thăm mẹ Bảo Kim và nhận tin
hiện bọn Bảo Kim bị nhốt trong
VI
Bảo Kim biến mất. Chàng đoán bọn
phòng giam, nên đã cứu thoát;
họ đi “cướp người yêu”.
đồng thời tra xét nơi Đặng Lân
- Về phủ, Nguyễn Mại cho đòi tâm
chôn hai vị đại thần.
phúc đến giúp việc.
- Đặng Lân phát hiện vụ việc, hết
- Đêm ấy, Nguyễn Mại đột nhập phủ
sức bực tức, vội vào cung báo với
Quận mã giải cứu bọn Bảo Kim.
chị. Thị Huệ cấm hắn không được
manh động.
- Nghe tin bọn Bảo Kim trốn thoát,
Đặng Lân nổi cơn điên, giết liền
- Thị Huệ đến gặp Trịnh Sâm mách
mấy tên tay chân. Nghe gia nhân
tội Nguyễn Mại. Chúa giận dữ, đòi
báo tin Quỳnh Hoa bệnh, hắn cũng
chàng vào chầu.
bỏ mặc.
- Sau khi truy xét ra người cứu Bảo
- Huy Quận công đến gặp Chúa
Kim là Nguyễn Mại, Đặng Lân bày
Trịnh trình lên bằng chứng ngụy
mưu tính kế để hại chàng. Hắn vào
tạo về tội tạo phản của Thế tử
phủ chúa và trở về đầy phấn khích,
Tông, vu oan cho 2 đại thần Hồng
đặt tiệc ăn mừng. Mấy ngày sau,
Nguyễn Mại bị giáng hai cấp và bị
Nhân tiện, đề nghị giữ Nguyễn Mại
cấm không được phạm đến hoàng
trấn thủ kinh thành và giáng 2 cấp.
thân quốc thích.
- Trịnh Sâm cho thiết triều, xử
- Hai tháng Thăng Long yên bình vì
Tông truất xuống làm con út, giam
Đặng Lân không ra khỏi phủ, nhưng
vào cung, xử Hồng Lĩnh hầu và
cơn sóng gió đã trở lại.
Lĩnh hầu và Tuân Sinh hầu.
- Đặng Lân cùng bọn gia nhân cờ
- Đặng Lân về phủ không che dấu
giong trống mở, khiêng theo giường
sự khoái trá vì Nguyễn Mại bị xử
thất bảo, có cả đàn sáo nhã nhạc đi
giáng cấp. Trong cơn phấn khích,
lên chùa Quan Thánh. Đoạn sai
hắn cho gia nhân chuẩn bị lên chùa
người đến Thụy Khuê bắt cô Hoàng
Quán Thánh. Trước khi đi, còn cần
Thị Ngọc đến hầu. Cô Ngọc quyết
thận gọi thầy bói đến xem quẻ,
bảo toàn trinh tiết.
nghe nói có lộc thì quyết định xuất
- Nguyễn Mại nghe tin liền quyết ra
phủ.
tay trừ hại cho dân. Vợ chàng lo
- Lũ Đặng Lân mang theo giường
lắng nhưng cũng hiểu lòng chồng.
thất bảo, trống giong cờ mở lên
Nguyễn Mại từ biệt vợ con ra đi.
chùa Quán Thánh, hắn lệnh cho
- Nguyễn Mại đến chùa Quan
người đi bắt cô Ngọc ở Thụy Khuê
Thánh, múa kiếm xông vào, bọn gia
đến.
binh của Đặng Lân chạy tán loạn.
- Nguyễn Mại đang ở phủ thì nghe
Nguyễn Mại cho người vây kín, rồi
tin báo Đặng Lân xuất phủ, chàng
xử án tại chỗ, cô Ngọc cứ thực khai
cho người theo dõi tình hình rồi
ra. Chàng tiến đến nắm tóc Đặng
vào thắp hương trước liệt tổ liệt
Lân, hắn vẫn ra oai Cậu Trời.
Nguyễn Mại chém đầu Đặng Lân và
Tuân Sinh hầu tội chết.
cho gia nhân trói mình đến gặp
tông và từ biệt vợ con. Chàng
Chúa Trịnh.
quyết diệt trừ cái ác.
- Nguyễn Mại đến Quán Thánh khi
Đặng Lân đang giở trò dâm loạn.
Chàng nói ngắn gọn kết án Đặng
Lân rồi chém đầu hắn.
- Thực thi công lý xong, chàng cho
người trói mình lại đến trình Chúa
Trịnh.
- Trong vương phủ, Tuyên phi khóc
- Trong vương phủ, Tuyên phi
lóc nức nở, Chúa Trịnh đang ra sức
khóc lóc nức nở, Chúa Trịnh đang
an ủi. Thị Huệ đòi Trịnh Sâm phải
ra sức an ủi. Thị Huệ đòi Trịnh
trị tội Nguyễn Mại, báo thù cho
Sâm phải trị tội Nguyễn Mại, báo
Đặng Lân. Trịnh Sâm có ý nghe
thù cho Đặng Lân. Trịnh Sâm có ý
theo. Lúc ấy có tin báo Nguyễn Mại
nghe theo. Lúc ấy có tin báo
tự trói đến xin chịu tội.
Nguyễn Mại tự trói đến xin chịu
tội.
- Chúa định bước ra thì Quốc mẫu
tới. Bà báo cho Chúa biết tin Quỳnh
- Trịnh Sâm ra gặp Nguyễn Mại.
Hoa ốm thập tử nhất sinh đã được
Nguyễn Mại bình tĩnh kể tội Đặng
VII
đón về.
Lân, Chúa Trịnh quyết định xử
chém Nguyễn Mại.
- Gia nhân báo tin dân chúng kinh
thành chờ xử Nguyễn Mại. Thái phi
- Quốc mẫu cho đòi Trịnh Sâm đến
nghe vậy liền phân tích phải trái cho
và báo tin Quận chúa hấp hối.
Chúa Trịnh.
Quốc mẫu hết sức đau xót, phân
tích phải trái cho Trịnh Sâm.
- Chúa Trịnh và Quốc mẫu vào thăm
Quỳnh Hoa. Nàng lời cuối chỉ xin
- Trịnh Sâm vào thăm Quỳnh Hoa.
cha một điều trọng dụng Bảo Kim
Chúa tỉnh ngộ cho người ngừng xử
để báo đáp ân tình rồi nhắm mắt.
trảm Nguyễn Mại. Nàng lời cuối
chỉ xin cha một điều trọng dụng
- Chúa Trịnh lên triều xử tha cho
Bảo Kim. Cận thần đến báo đã
Nguyễn Mại. Dân chúng hô vang
muộn, Nguyễn Mại đã bị xử trảm.
reo mừng, còn Tuyên phi ngất đi
Quỳnh Hoa nghe xong cũng trút
trong tay ngài.
hơi thở cuối cùng.
- Trong đêm, Đặng Tuyên phi một
mình đi lặng lẽ trong cung và bước
lên, ngồi vào ngai cao. Phía dưới,
Hề trò cung đình lặng lẽ bỏ đi.