ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG “ĐÊM HỘI LONG TRÌ”

TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN TỐ VIỆT HƯƠNG “ĐÊM HỘI LONG TRÌ” TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8.220.121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Phương Thái

Thái Nguyên - 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Tố Việt Hương

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban

Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học, Trường

Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng

dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong

suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Tố Việt Hương

iii

MỤC LỤC

Trang

TRANG BÌA PHỤ

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii

MỤC LỤC..................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài --------------------------------------------------------------------- 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ---------------------------------------------------------- 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------------ 12

4. Nhiệm vụ và nhiệm vụ nghiên cứu ----------------------------------------------- 13

5. Phương pháp nghiên cứu: ---------------------------------------------------------- 14

6. Cấu trúc của luận văn: -------------------------------------------------------------- 14

7. Đóng góp của luận văn: ------------------------------------------------------------ 14

NỘI DUNG ................................................................................................... 16

Chương 1. CỐT TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐÊM HỘI

LONG TRÌ VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN ........................... 16

1.1. Nghệ thuật chuyển thể cốt truyện Đêm hội Long Trì ------------------------ 16

1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học và điện ảnh ................................ 16

1.1.2. Sự tiếp thu và sáng tạo đường dây cốt truyện chuyển thể Đêm hội Long

Trì......................................................................................................... 22

1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật chuyển thể Đêm hội Long Trì -------- 29

1.3. Đêm hội Long Trì - Từ văn bản truyện đến kịch bản phim ----------------- 40

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 47

Chương 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ 48

2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ---------------------- 48

2.1.1. Chúa Trịnh Sâm ................................................................................... 50

2.1.2. Quận chúa Quỳnh Hoa ......................................................................... 52

2.1.3. Tuyên phi Đặng Thị Huệ ..................................................................... 54

iv

2.1.4. Quận mã Đặng Lân .............................................................................. 55

2.1.5. Các nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại và Bảo Kim .................................. 58

2.2. Hệ thống nhân vật trong phim điện ảnh Đêm hội Long Trì ----------------- 62

2.2.1. Tuyên phi Đặng Thị Huệ ..................................................................... 64

2.2.2. Quận mã Đặng Lân .............................................................................. 66

2.2.3. Chúa Trịnh Sâm ................................................................................... 68

2.2.4. Quận chúa Quỳnh Hoa ......................................................................... 70

2.2.5. Các nhân vật khác: Bảo Kim và Nguyễn Mại ..................................... 73

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 75

Chương 3. NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ ĐIỆN ẢNH

TRONG ĐÊM HỘI LONG TRÌ ................................................................. 77

3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì ------------------ 77

3.1.1. Ngôn ngữ miêu tả ................................................................................ 78

3.1.2. Ngôn ngữ đối thoại .............................................................................. 82

3.2. Ngôn ngữ điện ảnh trong phim dã sử Đêm hội Long Trì -------------------- 87

3.2.1. Ngôn ngữ thị giác (hình ảnh) ............................................................... 88

3.2.2. Ngôn ngữ thính giác (âm thanh) ........................................................ 107

3.2.3. Montage (Dựng phim) ....................................................................... 111

Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 113

KẾT LUẬN ................................................................................................. 114

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 116

PHỤ LỤC

v

Hình 1: Bìa sách Đêm hội Long Trì do Nhà xuất bản

Kim Đồng ấn hành

Tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì

Tác giả: Nguyễn Huy Tưởng

Năm ra mắt: 1942

Năm xuất bản: 1944

Bản khảo sát: Năm 2016 - Nhà xuất bản Kim Đồng - Hà Nội.

vi

Hình 2: Bìa đĩa phim truyện Đêm hội Long Trì do Phương

Nam Phim phát hành

Phim điện ảnh: Đêm hội Long Trì

Đạo diễn: Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh

Biên kịch: Lê Phương - Hoàng Nhuận Cầm

Diễn viên: Thế Anh vai Chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương

Lê Vân vai Tuyên phi Đặng Thị Huệ

Thu Hà vai Quận chúa Quỳnh Hoa

Hoàng Thắng vai Quốc cữu Đặng Lân

Trọng Phan vai Nguyễn Mại

Vũ Đình Thân vai Bảo Kim

Và các diễn viên khác…

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trong các loại hình nghệ thuật, có thể nói, văn học và điện ảnh là hai

loại hình tiêu biểu và mang tính tổng hợp cao. Chất liệu của văn học là ngôn từ,

hay nói chính xác hơn, văn học sử dụng ngôn ngữ của con người làm phương

tiện xây dựng hình tượng phản ánh cuộc sống. Với lợi thế của ngôn từ, có tính

phi vật thể, miêu tả thế giới một cách gián tiếp, văn học có thể đề cập tới mọi

phương diện của đời sống xã hội một cách linh hoạt, đầy đủ và chính xác. Với

khả năng phản ánh cả hiện thực thế giới bên ngoài và nội tâm bên trong con

người, văn học giống như là một điểm giao thoa của nhiều loại hình nghệ thuật,

có tác động đến các loại hình nghệ thuật khác, trong đó có điện ảnh. Xuất hiện

vào cuối thế kỷ XIX, điện ảnh là loại hình nghệ thuật trẻ, đã nhanh chóng trở

thành loại hình quan trọng bậc nhất xét về tính quần chúng rộng lớn của nó, đáp

ứng cao nhu cầu thẩm mỹ của thời đại. Cũng như văn học, điện ảnh được xếp

vào loại hình nghệ thuật tổng hợp. Theo Henri Bernac, nó mang đến cho hàng

triệu người xem “ngôn từ của nhà văn, tranh của họa sĩ, diễn xuất của diễn viên

trên sân khấu, giai điệu của nhạc sĩ trong bản nhạc”[60]. Chất liệu của điện ảnh

mang tính chất vật thể, là hình ảnh và âm thanh, là sự hòa hợp của những thứ có

thể nghe thấy và nhìn thấy, giống như tái hiện thế giới cụ thể để kể một câu

chuyện. Bởi vậy, điện ảnh đã tiếp thu của văn học các yếu tố như: cốt truyện,

nghệ thuật kể chuyện, hệ thống tu từ… để tạo nên những tác phẩm độc đáo, hấp

dẫn. Ngược lại, văn học cũng tiếp nhận nhiều khái niệm, thủ pháp từ điện ảnh

như: điểm nhìn, cắt - ghép (montage) để cách tân nghệ thuật văn chương. Giữa

văn học và điện ảnh, có mối quan hệ vừa khác biệt, vừa tương đồng, trong khả

năng tái hiện lại bức chân dung muôn mặt của đời sống và chiều sâu nội tâm của

con người. Nhà phê bình điện ảnh Pháp Jean Miltry từng nói: “Tiểu thuyết là

một truyện kể tự cấu tạo mình trong thế giới, còn điện ảnh là một thế giới tự cấu

tạo mình thành chuyện kể”[62]. Với đặc tính chịu ảnh hưởng của các loại hình

2

khác và giữa chúng có sự thâm nhập, ảnh hưởng lẫn nhau, cả văn học lẫn điện

ảnh đều có thế mạnh riêng trong việc tạo dựng lại thế giới và làm cho hình tượng

nghệ thuật trở nên sống động, hữu hình. Hay nói một cách đơn giản, trong văn

học có yếu tố điện ảnh, và ngược lại, trong điện ảnh có yếu tố của văn học.

Ngày nay, tác phẩm văn học chuyển thể điện ảnh đang là xu hướng trong

ngành công nghiệp phim ảnh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Mối lương duyên

giữa văn học và điện ảnh đã tạo nên nhiều tác phẩm kinh điển trong lịch sử điện

ảnh thế giới nói chung và lịch sử điện ảnh Việt Nam nói riêng.

1.2. Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) là nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng,

đã khẳng định được vị trí trên văn đàn Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng

Tám (1945). So với các tác giả cùng thời, Nguyễn Huy Tưởng cầm bút muộn

hơn, từ khoảng đầu những năm 1940, nhưng với lối viết tài hoa, bút lực đĩnh

đạc, dồi dào và nhiệt huyết, di sản văn học mà ông để lại thực sự đáng trân trọng,

không chỉ đa dạng về đề tài, thể loại, mà còn được đánh giá cao về mặt tư tưởng

và nghệ thuật. Ông viết nhiều thể loại: truyện ký, tiểu thuyết, kịch… với nhiều

đề tài: từ đề tài lịch sử, Thăng Long - Hà Nội, cuộc chiến tranh vệ quốc đến đề

tài dành cho thiếu nhi. Thể loại nào, đề tài nào của Nguyễn Huy Tưởng cũng tạo

được dấu ấn riêng với những tác phẩm xuất sắc, thể hiện niềm khát khao mãnh

liệt, muốn mượn văn chương để bày tỏ lòng yêu nước, “tô điểm cho non sông

những tòa đài hoa lệ lộng lẫy nhất trần gian” (kịch Vũ Như Tô). Trong đó, các

tác phẩm về đề tài lịch sử của ông có ảnh hưởng lớn trên văn đàn, được công

chúng yêu thích bởi lối tiếp cận, miêu tả, phản ánh lịch sử một cách độc đáo, tạo

nên âm hưởng sử thi hùng tráng hòa quyện với cảm thức lãng mạn, trữ tình. Ông

được mệnh danh là “nhà chép sử bằng các tác phẩm văn học”. Nhà nghiên cứu

- nhà phê bình văn học, tiến sĩ Nguyên An từng nhận xét: “Nếu không có Nguyễn

Huy Tưởng thì văn học hiện đại Việt Nam, nhất là ở mảng lịch sử - truyền thống,

sẽ vơi đi sự bề thế, vẻ kỳ vĩ, tráng lệ và chất bi thương hào hùng” [64]. Có ý kiến

cho rằng, Nguyễn Huy Tưởng “đã mở đầu một cách thích đáng cho dòng văn

3

chương viết về truyền thống, về lịch sử trung đại Việt Nam trong nền văn chương

hiện đại Việt Nam”[69]. Ông là một trong những nhà văn vinh dự được nhận

Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (Đợt I) năm 1996.

1.3. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng và bộ phim

điện ảnh Đêm hội Long Trì của đạo diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đều được

coi là những tác phẩm kinh điển của văn học và điện ảnh Việt Nam. Tiểu thuyết

Đêm hội Long Trì là câu chuyện về bi kịch trong gia đình chúa Trịnh Sâm với

sự thao túng của Tuyên phi Đặng Thị Huệ, đã đẩy cơ đồ đến họa suy vong. Dẫu

chỉ là một lát cắt lịch sử, song tác phẩm đã phản ánh một góc tối của lịch sử

nước nhà trong giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài hơn một thế kỷ.

Đây là giai đoạn khá phức tạp khi trong bộ máy cầm quyền vừa có vua Lê, vừa

có chúa Trịnh, và cũng là một thời kỳ báo trước sự sụp đổ của chế độ phong kiến

Việt Nam. Tiểu thuyết đầu tay Đêm hội Long Trì được đăng tải trên tạp chí Tri

tân năm 1942 và xuất bản năm 1944 đã trở thành tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng

nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Nhắc đến tác phẩm này, giáo sư Hà Minh Đức

viết: “Trong các tác phẩm về đề tài lịch sử, "Đêm hội Long Trì" cũng gây một

ấn tượng đặc biệt… Chất lãng mạn của ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng có khả

năng tạo nên những bức tranh hoành tráng về đề tài lịch sử, tái hiện sinh hoạt

ở cung đình đan xen giữa những yếu tố truyền thống dễ chấp nhận và những mặt

tiêu cực của lối sống xa hoa, đan xen giữa những người tốt, quan lại liêm chính

với những kẻ gian thần độc ác, xảo trá”[58]. Năm 1989, khi được chuyển thể

thành tác phẩm điện ảnh, Đêm hội Long Trì đã gây tiếng vang lớn, được đánh

giá là bộ phim dã sử kinh điển nhất trong thế kỷ XX của điện ảnh Việt Nam.

1.4. Là một nhà báo công tác tại bộ phận chuyên về sản xuất phim của cơ

quan truyền hình, người viết luận văn chọn đề tài Đêm hội Long Trì - Từ tác

phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh để nghiên cứu nhằm tìm hiểu sâu hơn về

tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì và bộ phim chuyển thể cùng tên. Thông

qua đó, người viết luận văn có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào cả hai lĩnh vực yêu

4

thích, cũng là hai lĩnh vực liên quan đến công việc của mình là văn học và điện

ảnh để khám phá những điều còn ẩn sâu trong mỗi tác phẩm, bổ sung thêm kiến

thức mới cho chính mình. Từ việc nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt của

văn học và điện ảnh, chúng tôi muốn tìm hiểu một cách hệ thống và sâu sắc

hơn mối quan hệ qua lại, sự tương tác lẫn nhau của văn học và điện ảnh, góp

phần tìm ra tiếng nói chung giữa nhà văn và các tác giả điện ảnh trong việc bổ

sung, hỗ trợ nhau trong quá trình sáng tác.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Điểm lược một số công trình nghiên cứu về chuyển thể văn học và điện

ảnh ở Việt Nam và trên thế giới

Ngày 22/3/1895, khi anh em nhà Lumière tổ chức buổi chiếu phim đầu

tiên cho khán giả trong Salon Indian tại Grand Café ở Paris với những hình ảnh

về một chiếc xe lửa đang lăn bánh vào ga, cũng là lúc cả một ngành kỹ nghệ

phôi thai. Buổi chiếu này được coi là ngày khai sinh của điện ảnh, với tư cách

một môn nghệ thuật - nghệ thuật thứ bảy, và cũng với tư cách một ngành công

nghiệp - công nghiệp điện ảnh. Điện ảnh nhanh chóng trở thành loại hình nghệ

thuật lớn của thế kỷ XX và đến hôm nay vẫn đầy sức hấp dẫn, đúng như lời

Maxim Gorky, nhà văn Nga nổi tiếng đã từng nhận định về sức lôi cuốn của

nghệ thuật điện ảnh: “Không nghi ngờ gì nữa, tương lai nó sẽ chiếm một địa vị

xuất sắc trong đời sống” [63, tr.32].

Trong hành trình phát triển của mình, ngay từ những ngày đầu tiên, điện

ảnh đã có mối liên hệ chặt chẽ, tương tác với văn học. Mối quan hệ giữa văn học

và điện ảnh thể hiện rõ nhất qua hiện tượng chuyển thể. Từ những trích đoạn văn

học ban đầu, rồi dần dần là toàn bộ tác phẩm văn học được chuyển thể trở thành

tác phẩm điện ảnh, nhiều bộ phim từ những liên văn bản đã trở thành tác phẩm

nghệ thuật kinh điển, được công chúng đón nhận với nhiều giải thưởng danh giá.

Văn học luôn được coi là kho tàng vô giá cho các nhà điện ảnh khai thác, chuyển

thể, cải biên, xây dựng thành những kịch bản phim có giá trị. Trong cuốn sách

5

Film and Literature (Điện ảnh và văn học) của Timothy Corrigan, đã được

dịch và xuất bản vào năm 2013, tác giả cho rằng: “Lịch sử quan hệ giữa phim

ảnh và văn chương là một lịch sử yêu ghét lẫn lộn, đương đầu và phụ

thuộc lẫn nhau. Từ cuối thế kỉ XIX cho tới nay, hai cách nhìn và mô tả thế

giới này đã nhiều lần khinh thường nhau, cứu rỗi nhau, và làm méo mó bản

ngã tự phong của nhau... Các cuộc tranh luận về việc điện ảnh đồng nghĩa

với văn học hay đi cùng với văn học đang tiếp diễn” [7, tr.4-8]. Dẫu có các

cuộc tranh luận, song vẫn phải khẳng định rằng: điện ảnh đã kế thừa rất nhiều

từ văn học, mà rõ nét nhất là muốn có một bộ phim, trước hết phải có kịch bản

văn học. Từ khi điện ảnh mới ra đời trong kỷ nguyên phim câm, đã có hàng

loạt các tác phẩm văn học được chuyển thể sang điện ảnh, có thể kể ra như: Ben

Hur, một bộ phim có độ dài chỉ 15 phút, sản xuất năm 1907, phiên bản điện

ảnh đầu tiên của cuốn tiểu thuyết của Roch Wallace mang tên: Ben - Hur: A

tale of the Christ, một trong những cuốn sách bán chạy nhất vào thời điểm

đó; Hoặc The count of Monte Cristo (Bá tước Monte Cristo) do hai nhà đạo

diễn Francis Boggs, Thomas Persons thực hiện năm 1908, được chuyển thể từ

tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Alexandre Dumas; Hay một bộ phim sử thi

rất nổi tiếng của đạo diễn D. W. Griffith có tên gọi: The birth of a nation (Sự ra

đời của một quốc gia, ban đầu còn được gọi là The Clansman), sản xuất năm

1915, được chuyển thể từ tiểu thuyết và vở kịch “The Clansman: An historical

romance of the Ku Klux Klan” đều của tác giả Thomas Dixon Jr….

Cuối những năm 1920, những bộ phim có âm thanh và tiếng nói bắt đầu

được sản xuất. Năm 1930, tuyển tập kịch bản điện ảnh đầu tiên của điện ảnh

Liên xô được xuất bản, đã khẳng định vai trò của kịch bản văn học trong sản

xuất tác phẩm điện ảnh. Theo nhận định của nhà nghiên cứu Iecgi Teplix trong

cuốn sách Lịch sử điện ảnh thế giới đã viết: “Điện ảnh với hình thức phổ biến

nhất của nó là phim truyện,…là giai đoạn hiện đại của sự phát triển nghệ thuật

kể chuyện,… là người kế thừa chủ yếu của tiểu thuyết” [32, tập 2, tr.9]. Trong

6

các giai đoạn phát triển của điện ảnh, người ta đều nhận thấy sự tác động tích

cực và tầm ảnh hưởng của văn học. Năm 1935, trong bài viết Văn học với điện

ảnh, nhà văn Maxim Gorky cho rằng nhà văn và đạo diễn là “hai lực lượng

không thể riêng biệt mà bổ sung, hỗ trợ cho nhau” [63, tr.33]. Những phương

thức cơ bản khi xây dựng tác phẩm của các tác giả văn học là tiền đề và trở thành

kinh nghiệm quan trọng cho các tác giả điện ảnh vận dụng trong việc xây dựng

kịch bản điện ảnh, tái hiện những câu chuyện, nhân vật từ trang sách lên màn

ảnh. Nếu như ngôn ngữ văn học có thể tác động trực tiếp đến người đọc để mang

lại cảm giác, trí tưởng tượng về nhân vật một cách vật chất, thì những điều đó

cũng là cơ sở khởi nguồn để các nhà làm phim tạo dựng nên những nhân vật

sống động trên màn ảnh. Các tác giả điện ảnh đã kế thừa, tiếp nhận những yếu

tố đặc sắc của tác phẩm văn học nguồn như: cốt truyện, nhân vật, tình tiết vào

phim chuyển thể, nhưng bên cạnh đó, dựa những yếu tố đặc thù của nghệ thuật

thứ bảy, họ còn sáng tạo thêm những yếu tố mới cho đứa con tinh thần để gửi

gắm nhân sinh quan, làm nên dấu ấn cá nhân riêng biệt. Chính những sự sáng

tạo này giúp một tác phẩm điện ảnh hiện hữu trên màn ảnh mang một diện mạo

hoàn toàn mới mẻ và đặc sắc. Chúng ta có thể kể đến những tác phẩm xuất sắc

trở thành kinh điển ngay cả khi là tác phẩm văn học hay một bộ phim điện ảnh,

như: Cuốn theo chiều gió, Ben Hur, Bố già, Những người khốn khổ, Không gia

đình, Đồi gió hú, Chiến tranh và hòa bình, Sông Đông êm đềm, Cao lương đỏ...

Cho tới nay, cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lý thuyết và

vấn đề chuyển thể điện ảnh từ văn học. Trong đó, có thể nói đến cuốn sách của

David Bordwell mang tên Lịch sử điện ảnh [4]; cuốn sách Lịch sử điện ảnh thế

giới [33] của Georges Sadoul; hoặc sách Lịch sử điện ảnh thế giới (3 tập) của

Iecgi Teplix [32]… với những thông tin, phân tích về sự hình thành và phát triển

của điện ảnh thế giới. Kế tiếp là những công trình về lý luận, phê bình, kiến thức

chuyên ngành… được coi là những giáo trình bắt buộc cho sinh viên, hoặc những

người yên thích nghệ thuật điện ảnh, học tập viết kịch bản phim, viết về phim

7

và nghiên cứu về phim của rất nhiều nhà lý luận, nghiên cứu điện ảnh, các nhà

làm phim nổi tiếng. Như cuốn sách kinh điển về lý luận về nghệ thuật điện ảnh

mang tên Nghệ thuật điện ảnh của nhóm tác giả David Bordwell và Kirstin

Thompson [3]; hoặc các cuốn sách của Timothy Corrigan: Hướng dẫn viết về

phim [8], Điện ảnh và văn học - Dẫn luận và nghiên cứu [7]; sách của tác giả

Warren Buckland: Nghiên cứu phim (Film Studies) [5]; hay một tác phẩm nghiên

cứu của Mác-xen Mác-tanh về Ngôn ngữ điện ảnh [25]; hoặc có thể nghiên cứu

kỹ hơn về chuyển thể văn học và điện ảnh qua cuốn sách A theory of Adaptation

(Lý thuyết chuyển thể) của Linda Hutch [17]… Những cuốn sách này đã đưa ra

sự trình bày hoàn chỉnh về những vấn đề dàn cảnh, dựng phim, âm thanh, sản

xuất, phát hành phim… và phê bình một số tác phẩm điện ảnh kinh điển làm

mẫu để người đọc và người học có thể bước đầu tiếp cận nghệ thuật điện ảnh

một cách dễ dàng. Không chỉ vậy, trong đó còn có những phần dành cho việc

tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể, cải biên các tác phẩm văn học sang

các tác phẩm điện ảnh cả về lý luận, lý thuyết và thực hành.

Điện ảnh Việt Nam còn cách điện ảnh thế giới một khoảng khá xa. Tuy

nhiên, ngay từ khi ra đời, điện ảnh trong nước đã có được dấu ấn với nhiều bộ

phim được bạn bè quốc tế đánh giá cao, trong đó có nhiều bộ phim chuyển thể.

Cũng giống như điện ảnh thế giới, trong các chặng đường phát triển của mình,

luôn thấy mối quan hệ chặt chẽ của điện ảnh và văn học Việt Nam. Nhà văn

Nguyễn Khắc Phục từng nói: “Nền điện ảnh không thể hùng mạnh được khi văn

xuôi kém. Chính nền văn xuôi sẽ cung cấp cho điện ảnh từ hình ảnh, ngôn

ngữ, tạo dựng tâm lí, tính cách nhân vật, thúc đẩy hành động, tình huống trong

phim ảnh. Kịch bản hay thì phim làm sẽ hay, sẽ có giá trị” [75].

Qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, văn học đã cung cấp cho điện ảnh

những mẫu hình tượng nhân vật đa dạng, phong phú từ diện mạo đến tính cách.

Nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đi sâu tìm hiểu con người Việt Nam qua

nhân vật trong văn học và điện ảnh ở nhiều phương diện, gắn với lịch sử thăng

8

trầm của dân tộc. Cải biên, chuyển thể các tác phẩm văn học thành tác phẩm

điện ảnh là một vấn đề luôn được đề cập đến khi nghiên cứu về văn học và

điện ảnh. Đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, bài báo đi

sâu vào tìm hiểu vấn đề này ở nhiều phương diện. Đáng chú ý, có một số công

trình nghiên cứu về chuyển thể tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh ở các

khía cạnh khác nhau. Đó là công trình nghiên cứu Chuyển thể văn học - điện ảnh

(Nghiên cứu liên văn bản) của tác giả Lê Thị Dương xuất bản năm 2016. Đây là

chuyên luận được phát triển từ Luận án Tiến sĩ của tác giả, nghiên cứu hiện

tượng chuyển thể từ góc độ liên văn bản, tức nghiên cứu tác phẩm văn chương

trong mạng tác phẩm nguồn cũng như tác phẩm cải biên (cải tác). Tác giả cho

rằng: “Sự dịch chuyển từ văn bản viết (thể kể) sang văn bản trình diễn đòi hỏi

sự thay đổi phương tiện biểu đạt, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong “tầm đón đợi”

của khán giả” [9, tr.92]. Ở một mức độ khác, nghiên cứu về vấn đề chuyển thể

văn học và điện ảnh theo lý thuyết cải biên, tác giả Đào Lê Na qua tác phẩm

Chân trời của hình ảnh (Từ văn chương đến điện ảnh qua trường hợp Kurosawa

Akira) đã tìm hiểu cải biên học trong sự phức hợp của các lý thuyết: liên văn

bản, giải kiến tạo, văn hóa học và phiên dịch học. Cải biên là một bộ phận của

liên văn bản, từ đó cho thấy sự dịch chuyển các ký hiệu từ văn bản nguồn là tác

phẩm văn học đến văn bản đích là tác phẩm điện ảnh. Hoặc tác giả Phan Bích

Thủy cũng có những nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này với luận án tiến sĩ Từ tác

phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh (Khảo sát việc chuyển thể tác phẩm truyện

văn học thành phim truyện điện ảnh trong lịch sử văn học và điện ảnh Việt Nam)

[48] và luận văn thạc sĩ Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác phẩm

điện ảnh [47]. Trong công trình luận án, tác giả đi theo hướng tìm hiểu mối

quan hệ giữa văn học và điện ảnh, đặc biệt các tác giả - chủ thể sáng tạo phim

chuyển thể điện ảnh từ văn học. Còn trong công trình luận văn, tác giả chủ yếu

nghiên cứu hình tượng nhân vật đã có trong văn học và điện ảnh, bước đầu

hệ thống những đặc trưng giống và khác nhau trong việc xây dựng hình tượng

nhân vật trong tác phẩm văn học và điện ảnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp

9

cụ thể là một tác phẩm chuyển thể cụ thể thì số lượng các công trình nghiên cứu

chuyên sâu có số lượng không nhiều. Như công trình luận văn của tác giả Phạm

Thị Thu Hương “Thời xa vắng” - từ văn học đến điện ảnh (dưới góc nhìn Tự sự

học) [46] và luận văn Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ

phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi đáy giếng và Cánh đồng bất

tận) [45] của tác giả Trần Thị Dung lại đi theo hướng tìm hiểu về Tự sự học điện

ảnh và vận dụng Tự sự học vào nghiên cứu hiện tượng phim chuyển thể nói

riêng và nghiên cứu điện ảnh nói chung.

Ngoài ra, trên báo chí cũng có rất nhiều bài báo tâm huyết như: Tiểu

Quyên với bài: Văn học - Điện ảnh: hiệu ứng cộng sinh [70]; Lê Cẩm Lượng

với bài: Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh [66]; hay bài viết

của Thi Thi: Văn học và điện ảnh: Những chuyển động thú vị [73]; hay Đỗ Ngọc

Yên có bài: Mối tơ duyên giữa điện ảnh và văn chương [77]; Huyền Thanh với

bài: Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu [72]… đã trao đổi các quan

điểm về lý luận và thực tiễn, phân tích mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh

qua các bộ phim truyện chuyển thể. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi vào phân

tích cơ hội của văn học và điện ảnh Việt khi kết hợp với nhau để tạo nên những

tác phẩm có giá trị xứng tầm, đáp ứng được mong mỏi của những người yêu

nghệ thuật. Bài viết của Hoài Hương: Tác phẩm văn học - Kho vàng của điện

ảnh Việt [61]; hay bài viết của Như Thủy: Phim Việt: Lương duyên giữa văn học

và điện ảnh [74]…. đều cho rằng, “hầu hết các bộ phim điện ảnh và truyền hình

có kịch bản chuyển thể hoặc dựa theo tác phẩm văn học đều ít nhiều tạo được

ấn tượng tốt và chạm được tới cảm xúc của người xem, góp phần nâng cao chất

lượng của phim Việt Nam” [74]. Trong thực tế, mối duyên văn học - điện ảnh đã

cho ra đời nhiều tác phẩm điện ảnh đáng giá, thực sự là tài sản quý của bộ môn

nghệ thuật thứ bảy như: Vợ chồng A Phủ, Mẹ vắng nhà, Bến không chồng, Người

đàn bà mộng du, Thời xa vắng, Mùa len trâu, Trăng nơi đáy giếng, Chuyện của

Pao, Đừng đốt, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh…

10

2.2. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và bộ phim điện ảnh cùng tên

Nguyễn Huy Tưởng khởi nghiệp bằng những tác phẩm viết về đề tài lịch

sử như: Vũ Như Tô, An Tư, Đêm hội Long Trì, đăng trên tạp chí Tri tân, đã gây

được ấn tượng mạnh cho người đọc bởi một lối viết, lối khai thác, tiếp cận vấn

đề mới lạ, sâu sắc. Với vốn tri thức rộng và sâu, trong sáng tác của Nguyễn Huy

Tưởng, quá khứ dân tộc, lịch sử đất nước hiện lên thoạt như là những lát cắt,

song ẩn chứa trong đó cả một giai đoạn, thời kỳ lịch sử với nhiều biến cố, thăng

trầm, “lịch sử bao giờ cũng là sự kết nối từ quá khứ đến hiện đại, đó là sự song

hành hoặc tương phản giữa một bên là bạo lực của ngoại xâm, của cường quyền,

của những rối ren và náo động của xã hội, với một bên là sự mỏng manh, sự bấp

bênh của những số phận, những cuộc tình, những đam mê và khát vọng của con

người, trong đó chiếm vị trí trung tâm là người trí thức”[20, tr.97].

Đêm hội Long Trì không phải là tác phẩm đầu tiên của nhà văn Nguyễn

Huy Tưởng (trước đó, ông đã viết kịch Vũ Như Tô), nhưng là tác phẩm sớm

nhất đưa ông đến với văn đàn. Tác phẩm hình thành từ năm 1942, đăng trên Tri

tân (từ 24/11/1942 đến 12/08/1943) và được in thành sách năm 1944. Tuy nhiên,

những trăn trở của tác giả về cuốn tiểu thuyết còn kéo dài đến những năm sau

này (1945), điều đó còn được ghi lại trong nhật ký của nhà văn [55]. Không bao

giờ tự hài lòng với mình, luôn cầu tiến, vươn tới sự hoàn thiện, đó chính là cá

tính và nguyên tắc sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Đêm hội Long Trì là dấu

ấn mở đầu để nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ghi dấu tên tuổi của mình trên văn

đàn. Người đọc nhận thấy ở Nguyễn Huy Tưởng một ngòi bút có khuynh hướng

lịch sử khác biệt. Trong bức thư phúc đáp của ông chủ bút Tri tân gửi nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định văn tài và phong cách riêng của ông: “Thấy

ngài, vì cảm tình với Tri tân, ngỏ ý muốn gửi lên cho truyện Đêm hội Long Trì

để đăng vào trang tiểu thuyết, tôi rất hoan nghênh, một vì truyện ngài viết đó là

tiểu thuyết lịch sử rất hợp với tôn chỉ của Tri tân; hai vì cái văn tài của ngài

trong những bài như Diên Hồng hội nghị và Ý nghĩa việc thiên đô của Lý Thái

11

Tổ trong lịch sử Việt Nam đã làm cho độc giả Tri tân bấy nay vẫn nhắc nhở mến

phục. Bây giờ lại có thiên tiểu thuyết do chính ngài viết ra thì chắc sẽ làm bạn

đọc hài lòng lắm” [38; tr.167-168].

Khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tưởng, tiểu thuyết

Đêm hội Long Trì luôn được nhắc đến như một dẫn chứng về tài hoa và khuynh

hướng của nhà văn. Có thể kể đến như: Chuyên luận Nguyễn Huy Týởng (1912-

1960) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, xuất bản năm 1966

[10]; Bộ sách Nguyễn Huy Týởng toàn tập (5 tập) do Nhà xuất bản Văn học ấn

hành năm 1996 [36]; Nguyễn Huy Týởng khát vọng một đời văn (Phýõng Ngân

tuyển chọn và biên soạn) [27]; Hay bộ 3 tập Nhật ký Nguyễn Huy Týởng [37]

đýợc Nhà xuất bản Thanh niên cho ra mắt năm 2006… Hầu hết đều có những

dòng, những phần nhắc đến tác phẩm Đêm hội Long Trì. Trong cuốn sách

Nguyễn Huy Týởng về tác gia, tác phẩm (Bích Thu, Tôn Thảo Miên tuyển

chọn giới thiệu), Giáo sư Hà Minh Đức đánh giá: “Tác phẩm đầu tay Đêm hội

Long Trì mở đầu cho quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, tác phẩm dựa

trên những tư liệu được đề cập đến trong Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Lam

Xuân Thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan hệ giữa chúa Trịnh Sâm và

hai chị em Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu Lân. Nguyễn Huy Tưởng không chỉ

muốn dừng sự việc lại ở đó. Anh muốn tìm đến một bàn tay dũng cảm vừa thể

hiện tinh thần công lý phù hợp với ý dân, vừa phải hợp với chân lý của lịch

sử để trừng trị kẻ tàn bạo” [39, tr.61].

Ngay từ khi ra đời, cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long Trì đã được nhiều

người yêu thích và cho đến hôm nay, vẫn là một trong các tác phẩm được biết

đến nhiều nhất của Nguyễn Huy Tưởng. Tác phẩm đã được chuyển thể sang

chèo, cải lương và đặc biệt, năm 1989, đạo diễn Hải Ninh đưa cuốn tiểu thuyết

lên màn ảnh rộng càng góp phần phổ biến tác phẩm. Bộ phim đã trở thành tác

phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam, không chỉ về mặt nội dung, nghệ thuật,

mà còn được đánh là một trong những bộ phim cổ trang thành công nhất từ trước

12

đến nay. Rất nhiều bài viết đã nhắc đến thành công vang dội của bộ phim như:

Bài viết Đêm hội Long Trì trên màn ảnh của Hà Minh Đức [57]; bài Đêm hội

Long Trì - Một bộ phim thành công của Đinh Trọng Tuấn [76]; hay bài viết của

Thư Sinh “Đêm hội Long Trì” - nỗi lòng hậu thế gửi gắm đến ngàn xưa [71];

Huy Minh cũng có bài Đêm hội Long Trì - một lát cắt không thuộc về lịch sử

[67]; hoặc bài phê bình Nhân xem phim “Đêm hội Long Trì”, nghĩ về một lối

tiếp cận lịch sử [52] của Lại Nguyên Ân… đã phân tích, đánh giá những điểm

mới, lạ và hấp dẫn của bộ phim trên nền tác phẩm văn học gốc là tiểu thuyết

Đêm hội Long Trì. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân viết: “Nhưng xin trở lại với

phim Đêm hội… Ngoài mọi điều khác, ta còn có thể cảm ơn các nhà làm phim

đã cho chúng ta được dịp cảm nhận một phần thế giới của Nguyễn Huy Tưởng,

xem cách ông bày các nhân vật lịch sử vào thế giới tiểu thuyết của ông ra sao

và qua đó nghĩ ngợi thế nào về các nguyên nhân của tiến trình lịch sử” [52].

Sau khi tham khảo những cuốn sách, công trình khoa học, luận văn của

nhiều tác giả và các bài viết báo chí, chúng tôi nhận thấy rằng đề tài: Đêm hội

Long Trì - Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh là một đề tài hay, có

giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, đó là nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long

Trì và bộ phim điện ảnh cùng tên một cách đầy đủ từ văn bản văn học đến phim

chuyển thể. Luận văn của chúng tôi được thực hiện sẽ góp thêm một nghiên cứu

có tính hệ thống và sâu sắc về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tiểu

thuyết Đêm hội Long Trì và bộ phim dã sử cùng tên. Từ đó, khẳng định rõ hơn

mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh trong dòng chảy nghệ thuật nước nhà.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh Đêm hội Long

Trì trên hai phương diện: từ văn bản truyện đến kịch bản phim và những yếu tố

làm nên thành công của cả hai tác phẩm.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

13

Phạm vi tư liệu chúng tôi dùng để khảo sát trong luận văn này là:

1/ Tác phẩm văn học Đêm hội Long Trì, Nhà xuất bản Kim Đồng, 167

trang, năm 2016. Tác giả: Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.

2/ Tác phẩm điện ảnh Đêm hội Long Trì, Hãng Phim truyện Việt Nam,

tập 1 (thời lượng 95 phút), tập 2 (thời lượng 77 phút), năm 1989.

Đạo diễn: Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh;

Biên kịch: Lê Phương - Hoàng Nhuận Cầm.

Bên cạnh đó, người viết cũng nghiên cứu thêm một số trường hợp chuyển

thể tác phẩm văn học sang điện ảnh Việt Nam để có điều kiện so sánh, đối chiếu,

từ đó có được cái nhìn bao quát hơn.

4. Nhiệm vụ và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

- Tìm ra những nét đặc sắc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật

của tác phẩm Đêm hội Long Trì từ văn bản truyện đến kịch bản phim.

- Bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá về những yếu tố làm nên

thành công của tác phẩm ở cả hai loại hình nghệ thuật.

- Xác lập mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, cũng như những vấn đề

lý luận và thực tiễn trong việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện

ảnh.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Khảo sát tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh cùng tên.

- Chỉ ra những đặc sắc trong chuyển thể từ văn bản truyện đến kịch bản

điện ảnh và những yếu tố tạo nên thành công.

- Thấy được những đóng góp của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và đạo

diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh, biên kịch Lê Phương, Hoàng Nhuận Cầm đối

với nền nghệ thuật nước nhà. Đồng thời, chỉ ra sự gắn kết giữa văn học và điện

ảnh.

- Ngoài ra, người viết luận văn còn nghiên cứu một số tác phẩm có cách

thức cải biên tương tự để làm cơ sở lý thuyết cho đề tài.

14

5. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn này được nghiên cứu bằng một số phương pháp khoa học như:

Phương pháp nghiên cứu liên ngành; Phương pháp so sánh; Phương pháp tổng

hợp và một số phương pháp khác…

Các kiến thức chủ yếu được sử dụng trong luận văn là các lý thuyết về

liên văn bản giữa văn học và điện ảnh, phân tích điện ảnh và phân tích văn học

dựa trên các hướng tiếp cận liên ngành. Ngoài ra, chúng tôi có sử dụng các kiến

thức, khái niệm của lĩnh vực văn học và điện ảnh trong quá trình phân tích, tìm

hiểu vấn đề.

Luận văn cũng sử dụng một số thao tác khoa học cụ thể khi tiến hành

nghiên cứu như: Đối chiếu, so sánh; Tổng hợp; Phân tích và lý giải... nhằm chỉ

ra các yếu tố được kế thừa và sáng tạo trong phim chuyển thể so với tác phẩm

văn học và lý giải một cách đầy đủ, khoa học.

6. Cấu trúc của luận văn:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được xây

dựng thành 3 chương:

- Chương 1: Cốt truyện trong tác phẩm văn học Đêm hội Long Trì và tác

phẩm điện ảnh cùng tên.

- Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì

và phim dã sử cùng tên.

- Chương 3: Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ điện ảnh trong Đêm hội Long

Trì.

7. Đóng góp của luận văn:

- Luận văn là công trình đầu tiên đánh giá tác phẩm văn học Đêm hội Long

Trì và bộ phim cùng tên một cách toàn diện về hình thức nghệ thuật và nội dung,

cũng như những yếu tố làm nên thành công. Từ đó, góp phần khẳng định và làm

nổi bật vị trí, vai trò của tác phẩm ở 2 loại hình nghệ thuật và các tác giả: Nhà

văn Nguyễn Huy Tưởng; Đạo diễn Nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh; Biên kịch Lê

Phương và Hoàng Nhuận Cầm trong nền văn học và điện ảnh nước nhà.

15

- Luận văn còn là nguồn tư liệu hữu ích cho bạn đọc, học sinh, sinh viên

tham khảo khi nghiên cứu về văn học và điện ảnh Việt Nam.

16

NỘI DUNG Chương 1 CỐT TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐÊM HỘI LONG TRÌ VÀ TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH CÙNG TÊN

1.1. Nghệ thuật chuyển thể cốt truyện Đêm hội Long Trì

1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học và điện ảnh

1.1.1.1. Khái niệm Cốt truyện trong văn học

Ngành Tự sự học coi vấn đề cốt truyện trong các truyện kể là một trong

những yếu tố cơ bản để tìm ra cấu trúc và kết cấu của tác phẩm văn xuôi. Các

nhà nghiên cứu đã xây dựng nhiều hướng tiếp cận các tác phẩm nghệ thuật ngôn

từ qua hệ thống cốt truyện, nhằm tìm ra phong cách riêng của nhà văn. Đa số

đều cho rằng, cốt truyện được sử dụng chủ yếu trong các tác phẩm văn học thuộc

thể loại tự sự và kịch.

Được coi là người đặt nền móng xây dựng lý thuyết nghiên cứu cốt

truyện, trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca, với quan điểm “nghệ thuật là sự mô

phỏng”, Aristote cho rằng: “Sự mô phỏng hành động là cốt truyện. Cốt truyện

là sự kết hợp các sự kiện, tính cách là cái cho ta biết tính chất nhân vật hành

động, còn tư tưởng là cái mà qua đó người nói muốn chứng minh một điều gì

đó, hay đơn thuần là bày tỏ ý kiến của mình” [1, tr.35], hay nói một cách

khác, “cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của bi kịch, sau đó mới đến các tính

cách” [1, tr.37]. Theo Aristote, cốt truyện là một hệ thống các sự kiện xung

đột, hoặc phát triển những sự kiện ấy theo trình tự tự nhiên của thời gian. Ông

cũng nhấn mạnh việc cần phải sắp xếp, bố trí một cách khéo léo các sự kiện

theo trình tự phát triển, có cái bắt đầu và cái kết thúc để tạo ra hiệu quả thẩm

mỹ. Sau này, các nhà nghiên cứu A.N.Veselovski, G.N.Pospelov,

L.I.Timofeep, E.Dobin, Kojikov, B.Tomachevski, V.Shklovski, P.Cobley,

J.Culler, J.Lotman... khi thực hiện các công trình nghiên cứu của mình đã đưa

yếu tố cốt truyện vào khảo sát hoặc đề cập đến ở nhiều mức độ khác nhau.

17

Ở Việt Nam, yếu tố cốt truyện cũng được đề cập đến trong nhiều công

trình nghiên cứu lý luận văn học, thi pháp học. Trong cuốn sách Lý luận văn

học, Hà Minh Đức ( chủ biên) đã nêu quan điểm: “Cốt truyện là một hệ thống

các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống, và nhất là những xung

đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó, các tính cách hình thành và phát triển

trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ tư tưởng và

chủ đề tác phẩm” [11, tr.29]. Những sự kiện của một câu chuyện nào đó diễn ra

theo một cách thức riêng, được gọi là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật

tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm nhặt, thống nhất theo ý đồ

chủ quan của người kể, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức

hấp dẫn tối đa tới người đọc. Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học cũng cho rằng: “Cốt truyện (tiếng Anh:

plot, tiếng Nga: siujet, tiếng Pháp: sujet): Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức

theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan

trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và

kịch” [13, tr.99]. Theo đó, cốt truyện hàm chứa những yếu tố, những khả năng

để có thể tạo ra tính tư tưởng, tính nghệ thuật (tính văn) cho một tác phẩm văn

học, từ đó thể hiện dụng ý của nhà văn.

Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện có mối liên hệ chặt chẽ với kết cấu. Cốt

truyện nhằm để chỉ yếu tố nội dung, gồm những sự kiện, biến cố, hành động

trong tác phẩm tự sự và kịch được thể hiện theo một hệ thống cụ thể nhằm làm

rõ mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định.

Còn kết cấu nhằm để chỉ hình thức tổ chức, sắp xếp các chất liệu bên trong và

bên ngoài tác phẩm theo một trật tự, một quy định nào đó để chuyển tải nội dung

nghệ thuật. Nếu như cốt truyện có vai trò tổ chức hệ thống các tính cách, gợi mở

đặc điểm từng tính cách, đồng thời trình bày hệ thống các xung đột xã hội nhằm

thu hút độc giả, thì kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của

tác phẩm văn học. Trong tác phẩm Tự sự học: Mấy vấn đề lý luận và lịch sử (do

Trần Đình Sử chủ biên), tác giả đưa ra nhận định: “Cốt truyện là một chuỗi các

18

sự kiện được tạo dựng trong tác phẩm tự sự, kịch. Một số văn bản trữ tình cũng

có yếu tố cốt truyện. Khái niệm cốt truyện nhằm tách truyện thành hai phần:

một là chuỗi các sự kiện rất đặc trưng cho thể loại tự sự và kịch, và một phần

khác quan trọng không kém là các yếu tố miêu tả, lời kể, lời bình. Thiếu các

yếu tố này thì truyện không thể thành truyện” [34, tập 2, tr.56]. Hiểu một cách

đơn giản hơn, hình thức tổ chức sự kiện trong tác phẩm văn học sẽ liên kết các

sự kiện lại thành câu chuyện; Sự liên kết chuỗi sự kiện đó tạo thành cốt truyện.

Đó là nội dung nhận định của Lê Lưu Oanh, Phạm Đăng Dư trong cuốn sách

Lý luận văn học: “Cốt truyện là hệ thống các sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn

biến và phát triển của tính cách cũng như câu chuyện” [30, tr.139]. Chính vì

cốt truyện là sự liên kết các chuỗi sự kiện quan trọng mang tính quá trình nên

kết cấu thời gian là kết cấu cơ bản của thể loại tự sự.

Cơ sở sâu xa của cốt truyện là những xung đột đang vận động. Đó là

phương tiện để bộc lộ và triển khai tính cách nhân vật. Tác giả Lại Nguyên Ân

cho rằng, cốt truyện cũng là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật.

Trong tác phẩm 150 thuật ngữ văn học, ông nhấn mạnh: “Nó trỏ lớp biến cố của

hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố đã tạo ra sự vận động của nội dung

cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là phẩm chất

có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng

loại” [2, tr.113]. Bằng cách tạo ra một trường hành động, cốt truyện hình thành

cơ sở cho nhà văn lý giải tính cách và xây dựng hình tượng nhân vật, thể hiện tư

tưởng và nghệ thuật. Lại Nguyên Ân cũng chỉ ra, cốt truyện là yếu tố đóng vai

trò then chốt chi phối nội dung và hình thức các tác phẩm ở nhiều loại hình nghệ

thuật, trong đó có văn học và điện ảnh.

Cốt truyện có ba đặc điểm chính: tính lịch sử - cụ thể, tính kịch và tính

hoàn chỉnh. Tính lịch sử - cụ thể của cốt truyện được biểu hiện thông qua những

sự kiện, biến cố, xung đột xã hội làm điểm tựa cho sự phát triển của cốt truyện

theo tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc, đó thường là những

19

sự kiện có ý nghĩa tiêu biểu cho sự vận động của lịch sử ở một thời điểm cụ thể

nhất định, nhằm tái hiện bình diện của đời sống ở một thời kì lịch sử, tái hiện

những con đường diễn biến phức tạp của các nhân vật.

Cùng với tính lịch sử - cụ thể, cốt truyện còn có tính kịch. Đặc điểm này

được tạo thành từ những xung đột xã hội được khúc xạ qua các xung đột nhân

cách. Việc tổ chức cốt truyện đều nhằm phơi bày các xung đột xã hội, thể hiện

các vấn đề đời sống và các số phận, tính cách con người. Có thể nói, cốt truyện

là sản phẩm sáng tạo độc đáo của chủ quan nhà văn thông qua việc lựa chọn

phản ánh những xung đột trong tác phẩm của mình, xây dựng cao trào để phát

triển gay gắt, không thể điều hòa được và tự nó làm bùng nổ một cuộc đấu tranh

dữ dội, quyết liệt.

Yêu cầu đặt ra đối với văn học là phải phản ánh sự vận động của cuộc

sống một các logic, từ đó tạo nên tính hoàn chỉnh của văn học. Theo đó, đối với

cốt truyện với tư cách là một hệ thống các sự kiện, biến cố cần phải được sắp

xếp, tổ chức một cách chặt theo trình tự phát triển để tạo ra hiệu quả thẩm

mỹ. Các bước diễn biến của cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của

một xung đột, nghĩa là có mở đầu, thắt nút, phát triển và vươn tới cao điểm, rồi

đi vào giải quyết cụ thể và kết thúc. Tuy nhiên, do quy luật sáng tạo văn học và

nhất là do yêu cầu thể hiện chủ đề - tư tưởng tác phẩm, không nhất thiết bất cứ

cốt truyện nào cũng cần có đầy đủ các bước diễn biến, và theo trật tự nhất định.

Có thể nói, cốt truyện là yếu tố đầu tiên, quan trọng bậc nhất, không thể

thiếu trong bất kì một hình thức tự sự nào. Đó là sợi dây liên kết các mối quan

hệ của nhân vật, tổ chức, sắp xếp các sự việc diễn ra trong đó theo một hệ thống

hoặc quy định cụ thể nhằm bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Vì vậy, mọi

sự biến đổi, xoay chiều của các sự kiện, xung đột, tính cách đều hướng tới

mục đích cuối cùng là thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn một cách có hiệu

quả để thu hút và hấp dẫn người đọc.

1.1.1.2. Khái niệm Cốt truyện trong điện ảnh

20

Trong các loại hình nghệ thuật, mỗi loại hình đều có những đặc trưng

riêng, song giữa chúng vẫn luôn có sự giao thoa và nhiều điểm chung. Điện ảnh

tuy ra đời muộn màng nhất, song điều này lại tạo nên lợi thế tiếp thu những tinh

hoa của các loại hình trước đó. Theo lý thuyết của nhà lý luận điện ảnh nổi tiếng

Ricciotto Canudo, “nghệ thuật nói chung được phân thành hai dạng: nghệ thuật

thời gian (tiêu biểu là Âm nhạc, Múa, Thơ ca) và nghệ thuật không gian (điển

hình là Hội họa, Kiến trúc, Điêu khắc). Nghệ thuật thời gian mang tính động,

có tiết tấu; còn nghệ thuật không gian mang tính tĩnh và có tính tạo hình” [51].

Chính vì cho rằng, điện ảnh đã tổng hợp các tính chất của 6 loại nghệ thuật tiêu

biểu trên mà R.Canudo đã đặt cho nó cái tên gọi “Nghệ thuật thứ 7”. Trong đó,

mối liên hệ giữa văn học và điện ảnh đã thể hiện chặt chẽ ở nhiều dạng thức, có

qua có lại, cùng đồng hành phát triển. Cũng nhờ đó, ngành nghiên cứu, lý luận

phê bình điện ảnh vận dụng được nhiều hệ thống khái niệm và phương pháp

nghiên cứu của bộ môn nghiên cứu văn học.

Bởi vậy, khái niệm cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh về bản chất rất gần

gũi với khái niệm cốt truyện trong tác phẩm văn học. Ở văn học, cốt truyện

thường được dùng chủ yếu cho các tác phẩm tự sự hoặc kịch với chất liệu cơ

bản là một hệ thống các sự kiện phản ánh cuộc sống một cách nghệ thuật để làm

sáng tỏ chủ đề và tư tưởng, thì trong điện ảnh, cũng có một hình thức phim gọi

là hình thức tự sự, “Tự sự là một chuỗi những sự kiện trong một mối liên hệ nhân

quả xảy ra trong không gian và thời gian” [3, tr.95]. Như vậy, có thể thấy, các

sự kiện cần được xác định và liên kết với nhau theo trục nguyên nhân - kết quả,

trong khoảng không gian, thời gian nào đó. Tự sự chính là một phương thức căn

bản để con người hiểu thế giới. Các nhà nghiên cứu lý luận điện ảnh đưa ra hai

khái niệm Cốt truyện (Plot) và Câu truyện (Story) (đôi khi còn được gọi là kịch

bản và câu chuyện) để phân biệt, đồng thời nhìn nhận một cách chính xác về vai

trò và ý nghĩa của chúng. Theo các nhà nghiên cứu David Bordwell và Kristin

Thompson, “một tổ hợp của tất cả các sự kiện được biểu hiện ra bên ngoài và

những sự kiện mà người xem phán đoán đều tạo nên câu chuyện” [3, tr.97], còn

21

cốt truyện “được dùng để mô tả bất cứ sự hiện diện một cách có thể nhìn thấy

hoặc nghe thấy trên phim trước chúng ta. Cốt truyện bao gồm, thứ nhất, tất cả

các sự kiện của câu chuyện được mô tả trực tiếp… Thứ hai, cốt truyện của phim

có thể bao hàm các tư liệu nằm ngoài thế giới câu chuyện” [3, tr.97]. Tương tự

như vậy, trong cuốn sách Story sense: writing story and script for feature films

and television (được Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội dịch và tập

hợp vào tập bài giảng Tài liệu biên kịch), nhà lý luận điện ảnh Paul Lucey đã

đưa ra các thuật ngữ biên kịch trong ngành điện ảnh. Trong đó, ông cũng xây

dựng khái niệm thuật ngữ Cốt truyện (Plot) và Câu chuyện (Story). Theo Paul

Lucey, “Cốt chuyện là một chuỗi các tình tiết trong đó các nhân vật đấu tranh

đưa đến giải pháp của vấn đề kịch tính. Qua cuộc đấu tranh này các nhân vật

phát hiện ra bản chất sâu xa hơn của họ cùng những sự thật khác. Các sự việc

của cốt truyện được đẩy cao khi hành động tiến nhanh tới cảnh cao trào mà

trong đó vấn đề được giải quyết. Câu chuyện là một thuật ngữ rộng hơn, nó bao

gồm cả cốt truyện và trạng thái cảm xúc tạo nên bởi các nhân vật, những người

lại chịu tác động bởi các tình tiết của cốt truyện. Do đó, câu chuyện phát triển

dần dần từ cốt truyện trong giai đoạn viết kịch bản” [35].

Như vậy, cốt truyện và câu chuyện chồng chéo nhau trong một số khía

cạnh và phân biệt nhau ở một số khía cạnh khác. Điều đó có nghĩa, cốt truyện

không chỉ là các sự kiện của câu chuyện được mô tả trực tiếp trong phim, mà còn

bao hàm cả những tư liệu nằm ngoài thế giới câu chuyện, đó có thể là âm thanh,

ánh sáng, thậm chí phần danh sách đoàn làm phim phía đầu hoặc cuối bộ phim.

Nếu câu chuyện trong phim đưa người xem tiến xa hơn cốt truyện ở điểm gợi ra

những sự kiện không bao giờ được chứng kiến, chỉ có trong tưởng tượng hoặc

suy đoán từ câu chuyện trên màn ảnh, thì cốt truyện lại vượt lên thế giới của câu

chuyện bằng những yếu tố như cách thể hiện âm thanh và hình ảnh ngoài ranh

giới chuyện kể, tất cả sẽ tác động lên cách hiểu câu chuyện của người xem. Cốt

truyện là “bệ phóng” để các nhân vật tác động lẫn nhau, đồng thời phản ứng đối

với các tình tiết của cốt truyện.

22

1.1.2. Sự tiếp thu và sáng tạo đường dây cốt truyện chuyển thể Đêm hội

Long Trì

Tác phẩm tự sự là tác phẩm có cốt truyện, gắn liền với đó là một hệ thống

các sự kiện, nhân vật được khắc họa về nhiều mặt, thông qua các chi tiết nghệ

thuật phong phú đa dạng... Đối với phim chuyển thể từ tác phẩm tự sự thì cần

có các yếu tố: ý tưởng hay, cốt truyện độc đáo, nhân vật đặc sắc. Tuy nhiên, cốt

truyện của tác phẩm văn học và cốt truyện của tác phẩm điện ảnh có những đặc

trưng và yêu cầu khác nhau. Trên cơ sở đó, nhà làm phim sẽ có những sáng tạo

riêng mình, biến đổi cốt truyện và diễn biến câu chuyện để tạo nên sự hấp dẫn

cho bộ phim.

Trong quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh, có

nhiều cách thức mà các nhà làm phim thực hiện cải biên cho phù hợp với ngôn

ngữ và nghệ thuật điện ảnh. Trong đó, lựa chọn đầu tiên của họ là cải biên, xây

dựng đường dây cốt truyện. Cốt truyện văn học thường có đường dây chính là

mối quan hệ của nhân vật chính, những xung đột, biến cố lớn thúc đẩy nhân vật

chính hành động, bộc lộ tính cách và thể hiện chủ đề, tư tưởng tác phẩm sẽ được

nhà làm phim tiếp thu và đưa vào cốt truyện phim. Cốt truyện của phim là hệ

thống các sự kiện, tính cách, tình huống, chi tiết... được tổ chức theo một trật tự

nghệ thuật nhất định nhằm phục vụ cho việc biểu đạt nội dung và nghệ thuật của

bộ phim. Nói một cách khác, nhìn vào cốt truyện, chúng ta có thể hình dung diễn

biến trên phim là: Ai làm gì (hoặc gặp phải chuyện gì) và giải quyết ra sao,

những mối quan hệ nào, kết cục câu chuyện... Nhà làm phim chuyển thể có thể

sáng tạo thêm vào hoặc loại bỏ những sự kiện, biến cố, xung đột, nhân vật, đường

dây, bối cảnh… so với tác phẩm văn học để hình thành cốt truyện phim. Tác

phẩm văn học Đêm hội Long Trì đã mở ra một chân trời sáng tạo cho đạo diễn

và biên kịch để tạo nên một bộ phim dã sử kinh điển của điện ảnh Việt Nam.

Năm 1942, Nguyễn Huy Tưởng ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tiên Đêm hội

Long Trì đăng trên tạp chí Tri tân. Không giống với các tác phẩm văn học dã sử

23

khác như: Hoàng Lê nhất thống chí, Vũ trung tùy bút (Chuyện cũ trong phủ

chúa), Bà chúa chè… đi sâu vào mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội,

những cuộc chinh chiến, tranh giành quyền lực hoặc sự sa đọa của thế lực cầm

quyền…, Đêm hội Long Trì mở ra một không gian lịch sử hoàn toàn mới lạ:

Chuyện nhà chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương. Và đường dây cốt truyện với

những sự kiện, biến cố, xung đột của các nhân vật đã hé lộ một câu chuyện đầy

kịch tính và bão giông.

Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu bằng cảnh đêm

hội Trung thu bên hồ Long Trì. Cảnh sinh hoạt của người dân nơi kinh thành

được tái hiện lại như trong một bức tranh sơn dầu. Ta thấy trong đó ánh sáng

bàng bạc của trăng thu, ánh đèn của những người đi chơi hội hòa vào ánh đèn

lung linh trang trí của kinh thành đêm Trung thu; bóng dáng nam thanh nữ tú

dập dìu, tấp nhật... Cảnh vui chơi, cảnh thi thơ, trao gửi tình cảm được tái hiện

một cách hài hòa trong không gian đầm ấm, quay quần của một tối mùa thu

nhiều cảm xúc. Và chính trong cái không khí hội hè náo nhiệt đó, các nhân vật

đã lần lượt xuất hiện: nhân vật lịch sử như chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm và tuyên

phi Đặng Thị Huệ; nhân vật có thật nhưng với ít nhiều hư cấu như quận mã Đặng

Lân và quận chúa Quỳnh Hoa; nhân vật hoàn toàn do tác giả sáng tạo nên, như

thi sĩ Bảo Kim cùng nhóm bạn văn nhân của chàng, và đặc biệt là quan Hộ thành

binh mã sứ Nguyễn Mại, người được chúa tin cậy giao trọng trách giữ việc trị

an kinh thành.

Và cũng trong đêm hội hân hoan ấy, nơi tưởng như chỉ có niềm vui và và

những con người tao nhân mặc khách ấy, xuất hiện một tên phá đám tự xưng là

Cậu Trời - Đặng Lân. Đặng Lân vốn là em trai của Tuyên phi Đặng Thị Huệ.

Cậy thế chị gái mình được chúa sủng ái, hắn tự cho bản thân cái quyền lực ngang

với chúa. Sự hiện diện và hành động của Đặng Lân không chỉ là sự phá đám đối

với riêng đêm hội, khiến cuộc hoa mất vui, mà còn đem đến dự cảm về những

điều chẳng lành phía trước về một bi kịch tình yêu vừa hé nở đã bị dập vùi,

24

nhưng xa hơn còn là những sóng gió thiên triều. Tĩnh Đô Vương vì si mê Đặng

Tuyên phi mà không còn là người cầm cân nảy mực sáng suốt trong triều đại ấy

nữa. Ngài gả con gái yêu là quận chúa Quỳnh Hoa cho gã Đặng Lân ngỗ ngược.

Về phần Đặng Lân, được thể là con rể chúa, hắn ngày càng lộng hành, càn rỡ,

cướp bóc tài sản, hãm hiếp phụ nữ…, khiến người dân kinh thành lúc nào cũng

nơm nớp lo sợ gặp vạ bởi tay hắn. Điều đáng ngạc nhiên là Tĩnh Đô Vương biết

nhưng làm ngơ và không bao giờ xử phạt tên con rể đại nghịch bất đạo này. Kỉ

cương, phép nước trở nên vô nghĩa khi chỉ một lời xin của tuyên phi là chúa lại

tha cho gã ngay cả với những tội tày đình nhất. Quần thần và dân chúng oán

thán, tất cả đều trông chờ vào sự tỉnh ngộ của nhà chúa, nhưng điều đó đã không

xảy ra. Chỉ đến khi quan Hộ thành binh mã sứ Nguyễn Mại quyết ra tay diệt trừ

kẻ cường bạo, đòi lại sự công bằng và trị an cho nhân dân, đại nghĩa cuối cùng

đã chiến thắng.

Bằng kịch bản chuyển thể cùng tên của hai nhà biên kịch Lê Phương và

Hoàng Nhuận Cầm, đạo diễn - nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đã xây dựng thành

phim vào năm 1989. Cắt nghĩa vì sao tác phẩm này được chọn làm phim, nhà

nghiên cứu văn học Trần Quốc Huấn viết: “Những người làm phim Đêm hội

Long Trì đã phát hiện ra, bằng khứu giác nghề nghiệp của mình, một thứ trầm

hương kỳ lạ tàng ẩn trong tiểu thuyết… Đứng ở góc độ điện ảnh, cũng có thể

phát hiện ra, nhìn thấy được phần cốt cách văn hóa của dân tộc” [23, tr.6]. Đặc

trưng của cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh là tính chất kịch (hay còn được gọi

là kịch tính). Đó là mức độ cao nhất của những xung đột giữa các nhân vật với

nhau, với hoàn cảnh sống để tạo ra đột biến và gây bất ngờ hấp dẫn khán giả.

Văn hào Nga Maksim Gorky khi bàn về nghệ thuật cho rằng, cốt truyện là những

mối liên hệ, những mâu thuẫn, những thiện cảm và ác cảm, nói chung là những

mối quan hệ qua lại của con người lịch sử phát triển và tổ chức của tính cách

này hay tính cách khác. Đối chiếu với nhận định của M. Gorky vào trường hợp

Đêm hội Long Trì, có thể thấy cốt truyện tiểu thuyết này hoàn toàn đáp ứng

chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với những mâu thuẫn, những thiện cảm và

25

ác cảm đủ để nảy sinh những xung đột kịch tính, tạo nên bước ngoặt và gợi mở

suy đoán của người xem.

Theo lý thuyết chuyển thể mà nhà nghiên cứu người Canada Linda Hutch

trình bày trong cuốn Theory of Adaptation (bản dịch của Hoàng Cẩm Giang,

Phạm Minh Diệp; Trần Nho Thìn hiệu đính; chưa xuất bản), “Chuyển thể liên

quan tới tái diễn giải, tái sáng tạo… Tái tạo cái thân thuộc làm cho nó mới”,

các tác phẩm chuyển thể “có mối quan hệ công khai và cụ thể với văn bản trước

đó gọi là nguồn” [17, tr.189], ta thấy phim điện ảnh Đêm hội Long Trì được

chuyển thể theo phương thức sát với văn bản gốc, khá trung thành với nguyên

tác, được nhà làm phim phát triển, bổ sung thêm một số tình tiết, chi tiết nhằm

nhấn mạnh diễn biến tâm lý nhân vật với những đấu tranh nội tâm giằng xé,

phức tạp. Không chỉ giữ nguyên nhan đề tác phẩm văn học, mạch phim tôn trọng

hầu hết đường dây chính cốt truyện. Cốt truyện bộ phim là dồn dập lớp lang với

những sự kiện kịch tính xuyên suốt. Thông thường, một cốt truyện tự sự có 5

thành phần: Trình bày - thắt nút - phát triển - cao trào - mở nút, có thể thay đổi

vị trí ở từng phim, song luôn có vai trò hỗ trợ chặt chẽ với nhau về nội dung và

nghệ thuật. Đêm hội Long Trì có cốt truyện truyền thống của hình thức tự sự

điển hình, trong đó các sự kiện, biến cố được trình bày theo thời gian tuyến tính,

trần thuật khách quan. Sau đây, chúng tôi xin lập đường dây cốt truyện theo

Bảng thống kê thành phần và các sự kiện chính tương ứng như sau:

Thành phần Sự kiện

- Đêm hội Trung thu náo nhiệt bên hồ Long Trì.

- Sự xuất hiện các nhân vật trong đêm hội: Thi sĩ Bảo Kim

cùng nhóm bạn văn nhân, Quận chúa Quỳnh Hoa, Tướng

Trình bày Nguyễn Mại, Chúa Tĩnh Đô Trịnh Sâm, Tuyên phi Đặng

Thị Huệ, Quốc cữu Đặng Lân…

- Trường bút chiến “Quần anh hội” và mối tình trong sáng

nảy nở giữa thi sĩ Bảo Kim và quận chúa Quỳnh Hoa.

26

- Quốc cữu Đặng Lân xuất hiện như “trận cuồng phong thổi

trong đám hội” đang bày trò càn rỡ, ức hiếp dân phụ.

- Vẻ đẹp của Quận chúa Quỳnh Hoa lọt vào con mắt háo Thắt nút sắc của Đặng Lân.

- Nguyễn Mại ra tay nghĩa khí và gây thù chuốc oán với

Đặng Lân.

- Chúa Tĩnh Đô Vương phong cho Tướng Nguyễn Mại là

Quan Hộ thành binh mã sứ.

- Tuyên phi Đặng Thị Huệ xin Chúa ban hôn Quận chúa Phát triển Quỳnh Hoa cho Đặng Lân. Nhà chúa đồng ý, song ra điều

kiện động phòng hoa chúc phải hoãn đến năm Quận chúa

tròn 18 tuổi.

- Đặng Lân phá bỏ chỉ dụ của của Chúa, giết đại thần, định

cưỡng ép Quỳnh Hoa. Bảo Kim cùng các bạn đột nhập phủ

Phò mã tìm cách giải cứu Quận chúa và bị Đặng Lân bắt

được. Lo sợ người yêu bị tra tấn, Quỳnh Hoa chấp nhận để

Cao trào Đặng Lân dày vò thân xác.

- Nguyễn Mại giải thoát cho nhóm Bảo Kim khỏi phủ Đặng

Lân.

- Đặng Lân vẫn tiếp tục nghênh ngang, càn rỡ, bức hại dân

lành, hãm hiếp phụ nữ ngay giữa thanh thiên bạch nhật.

- Quan Hộ thành binh mã sứ Nguyễn Mại ra tay giết Đặng

Lân trừ hại cho dân. Mở nút - Cái chết của Quỳnh Hoa Quận chúa trong sự ân hận của

Chúa Trịnh.

Với cấu trúc thuận theo tuyến tính, truyện phim của Hải Ninh chuyển thể

giữ nguyên đường dây chính cốt truyện văn học, tập trung phản ánh bi kịch của

những con người trong tác phẩm, mà cụ thể ở đây chính là bi kịch trong gia đình

Chúa Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương với những mối quan hệ xoay quanh người nắm

giữ vương quyền. Tuy nhiên, nhân vật quyền lực có thể điều tiết tất cả những

27

mối quan hệ và các xung đột đó lại vì một chữ “sắc” mà hất bỏ tất cả: kỷ cương

phép nước, cương thường luân lý, tình nghĩa cha con, đạo nghĩa quân thần… Sự

gay gắt của mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội tuy được làm mờ đi, song

những xung đột và ý thức phản kháng thì vẫn còn đó và ngày càng trở nên rõ

nét.

Cả tiểu thuyết và truyện phim đều mở đầu bằng đêm hội Trung thu bên

hồ Long Trì hoa lệ, náo nhiệt và kết thúc bằng cái chết của Quận chúa Quỳnh

Hoa trong sự hối hận của Chúa Trịnh. Tuy nhiên, cách sắp xếp các chi tiết, tình

tiết trong hai tác phẩm văn học và điện ảnh thì không giống nhau. Trong tiểu

thuyết Đêm hội Long Trì, mở đầu tác phẩm là cuộc gặp gỡ của Bảo Kim và

Quỳnh Hoa tại đêm hội và mối tình “tình trong như đã, mặt ngoài còn e” bắt

đầu nảy nở. Từ đó cho đến khi kết thúc câu chuyện, nỗi khổ đau trong bi kịch

tình yêu của họ tạo nên những biến cố liên tục dẫn dắt mạch truyện. Còn trong

phim, ngay đoạn đầu, giữa khung cảnh lung linh của đêm hội là sự xuất hiện của

Chúa Trịnh Sâm và Tuyên phi Đặng Thị Huệ trên chiếc thuyền rồng trên hồ

Long Trì. Hai người bận tình tứ yêu đương mà quên cả thưởng lãm cảnh vật đêm

Trung thu đầy thi vị. Đây là hai nhân vật mà tình yêu của họ không chỉ mang

đến khổ đau, ngang trái cho bao người xung quanh mà còn gây nên những sóng

gió vương triều. Phần mở đầu của tác phẩm luôn đóng vai trò quan trọng trong

việc gây ấn tượng, tạo sức hút đầu tiên với độc giả và khán giả, đồng thời hé lộ

một phần của câu chuyện sắp diễn ra. Trong những phút đầu của Đêm hội Long

Trì là những phút vui, những khoảnh khắc hạnh phúc, để trên cái nền sắc màu

rộn rã ấy, các nhân vật lần lượt xuất hiện. Nhưng niềm vui chỉ có ở phân đoạn

đầu ấy đã không lặp lại thêm một lần cho đến khi kết thúc tác phẩm.

Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng từ một sự kiện có thật trong lịch

sử mang tính thắt nút: Tĩnh Đô Vương vì si mê Đặng Tuyên phi đã gả con gái

yêu là Ngọc Lan cho em trai Tuyên phi là Đặng Mậu Lân, đã xây dựng nên tình

huống Quận chúa Quỳnh Hoa bị ép gả cho Đặng Lân và tạo thêm những nhân

28

vật hư cấu (thi sĩ Bảo Kim, tướng Nguyễn Mại…) để chuyển tải ý tưởng nội

dung của mình. Các nhà làm phim Đêm hội Long Trì tuy dựa hẳn vào tiểu thuyết

của nhà văn, nhưng cũng có những phần gia giảm, thêm bớt, đã đưa thêm một

loạt tình tiết như: việc Trịnh Sâm phế trưởng lập thứ, nghi ngại trung thần…;

Đặng Thị Huệ xây dựng vây cánh, âm mưu và dùng thủ đoạn tranh đoạt ngôi

vương cho con trai; Nhân vật Nguyễn Mại được xây dựng thêm nhiều nhiều

phân đoạn xuất hiện trong phim; Nguyễn Mại bị xử chém... cũng như thay đổi

vị trí các chi tiết, sự kiện, tình tiết so với tiểu thuyết. Nếu như mở đầu bộ phim

là niềm vui, thì kết thúc là nỗi chua xót. Ở trong tiểu thuyết, đoạn kết, Quan Hộ

thành binh mã sứ được Chúa tha tội chết trong tiếng hò reo đồng tình của dân

chúng, thì kết thúc bộ phim, Nguyễn Mại vẫn bị xử chém, khi Chúa nghĩ lại

cũng đã muộn… Cái kết phim khá bất ngờ với người xem, khi tướng Nguyễn

Mại chính là hiện thân của ước vọng công lý cho nhân dân của nhà văn đã không

thể giữ được mạng sống. Với Nguyễn Mại, Nguyễn Huy Tưởng đã gửi gắm vào

đó ước muốn đổi thay thế lịch sử, cũng như kì vọng về tương lai, về một kết thúc

có hậu (happy ending), ở hiền gặp lành, chính nghĩa thuộc về muôn dân, cách

kết thúc thường thấy trong các tác phẩm tự sự cổ điển. Song với các nhà làm

phim, họ muốn ám chỉ sâu xa về sự khủng hoảng của một triều đại, một thể chế

đã đến mức không còn lối thoát cho con người. Ở đoạn kết này, chúng ta nhận

thấy, cảnh kết của tiểu thuyết là sự đổ sụp của Tuyên phi. Nhưng trong phim,

nàng lạnh lùng và cô đơn bước lên ngai cao, còn phía dưới chỉ thấy Hề trò cung

đình không diễn trò Ông già đi hội nữa mà đặt con rối của mình xuống, kéo lê

trên mặt đất và bỏ đi. Dù thể hiện theo những cách khác nhau trong phần mở

đầu và kết thúc của tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh đều đạt được thành

công nghệ thuật, chuyển tải tư tưởng của tác giả và đạo diễn, phản ánh sinh động

xã hội đương thời. Nó khiến cho người đọc tiểu thuyết và xem phim Đêm hội

Long Trì nhận ra cái đêm hội đầy sắc màu và thanh âm kia, những đền đài nguy

nga tráng lệ kia, những quyền lực vương triều kia… thực ra chỉ là phù hoa, hư

29

ảo. Và tất cả các nhân vật trong đó dường như cũng đang bị vây hãm không lối

thoát.

1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật chuyển thể Đêm hội Long Trì

Không gian và thời gian là một phạm trù triết học chỉ sự tồn tại của thế

giới vật chất. Không có gì có thể tồn tại bên ngoài không gian và thời gian.

Không gian và thời gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật,

thể hiện sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ. Nó không chỉ là không gian và thời

gian vật chất mà là một phương thức biểu hiện thế giới tinh thần, hiện thực đời

sống thông qua tác phẩm văn chương. Khi kể câu chuyện về thế giới hiện thực

khách quan của con người, tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh luôn lưu tâm

đến yếu tố thời gian và không gian. Đó không chỉ là sự tồn tại của thế giới vật

chất mà chi phối mạnh mẽ đến tư tưởng thẩm mỹ và ý đồ nghệ thuật của tác giả.

Dựa trên những sự kiện và nhân vật lịch sử có thật, đã được lưu lại trong

văn chương và sử sách thời phong kiến, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tạo nên

một không gian lịch sử riêng với những số phận, những tính cách, những xung

đột chứa đựng tư tưởng sâu xa của xã hội đương thời. Tiểu thuyết Đêm hội Long

Trì viết về thời điểm sự chịu đựng của nhân dân đối với bộ máy cầm quyền

phong kiến đã đến đến mức không thể kìm nén, những mâu thuẫn giữa nhân dân

và phe thống trị ngày càng bộc lộ một cách sâu sắc, xã hội phong kiến Việt Nam

đang dần bước vào suy tàn.

Tác phẩm đã phản ánh đời sống đất nước giai đoạn Lê - Trịnh với bối

cảnh kinh thành Thăng Long thế kỷ XVIII. Bằng vốn kiến thức lịch sử và văn

hóa sâu rộng, Nguyễn Huy Tưởng đã mang đến cho người đọc một khung cảnh

về Thăng Long sống động, nhộn nhịp, mà ấn tượng nhất chính là lễ hội Long

Trì. Trong tiểu thuyết, tác giả dành nhiều trang viết để nói về đêm hội với những

diễn biến, vẽ nên bức tranh Long Trì đêm Trung thu với tất cả sắc màu của nó:

“Hồ Long Trì đã thành một nơi bồng lai mộng ảo, cách biệt với phàm trần. Hồ

rộng hơn nửa dặm, thả rất nhiều sen ấu. Bên hồ có đắp những ngọn giả sơn to

30

bằng đất hoặc bằng đá. Trong hang, trong hốc, hoặc trên đỉnh, hoặc dưới chân,

hoặc trước hoặc sau ẩn ẩn, hiện hiện có những chàng Tương Như, hay những

gã Tiêu Lang ngồi hòa nhạc, ăn mặc ra vẻ tiên phong đạo cốt. Núi vọng ra

những tiếng bổng tiếng chìm, tiếng ti, tiếng trúc, nghe lả lướt du dương. Bờ hồ,

trên cành hàng mấy trăm gốc phù dung, dương liễu có treo muôn thứ đèn lồng

bằng gấm vóc. Những đèn ấy đều do chúa Tĩnh Đô sai cũng nữ chế ra, tinh khéo

tuyệt vời, mỗi chiếc đáng giá mấy lạng bạc. Xa trông như muôn vàn sao lốm

đốm sáng.

Và bàng bạc khắp nơi, tô điểm thêm lên là ánh sáng trăng rằm. Trăng

không trong, hơi đục, nên cảnh sắc càng thêm mông lung phiếu diểu. Đường đi,

bóng cây in xuống, khi xóa khi hằn, theo với gió thu. Trời chưa mát, nhưng cũng

không nức lắm. Hai bên đường, hoặc dựa vào chân núi, hoặc dựng biệt lập một

nơi, có những cửa hàng bán khắp đồ tạp hóa phương nam, phương bắc, cho chí

thịt, quả, rượu, nem, không gì là không có” [43, tr.7-8]. Đêm hội Long Trì là câu

chuyện về đời sống cung đình, nhưng không có nhiều đoạn mô tả quang cảnh

trong cung. Tuy nhiên, ngay từ những trang đầu về đêm trung thu, người đọc đã

có thể mường tượng ra được sự xa hoa, giàu có, thú ăn chơi của bậc đế vương.

Hồ Long Trì là hồ nằm trong Bắc Cung của Phủ Chúa, nơi vốn chỉ dành cho

những người hoàng gia. Chỉ cần những dòng mô tả về hồ Long Trì và sự bài trí

đêm trung thu đã đủ để thấy sự hoa lệ tráng ngợp. Tái hiện lại bức tranh trong

quá khứ, nhà văn còn gợi được cái không khí khi tưng bừng náo nhiệt, khi thi vị

du dương của những cảnh, những tình, với những tài tử giai nhân “ngựa xe như

nước áo quần như nêm” trong đêm hội. Ấy vậy nhưng đằng sau cái vẻ nhàn tản,

mơ mộng có vẻ như thái bình thịnh trị của xã hội thời Trịnh Sâm, đằng sau sự

giàu sang, tráng lệ là cả những giông tố, rối ren, thối nát và suy đồi. Điều đó thể

hiện ngay qua sự xuất hiện của Đặng Lân: “Tưởng như có một trận cuồng phong

thổi trong đám hội, người chạy như ong: tiếng kêu, tiếng thét, tiếng gọi nhau

liên tiếp... một thiếu phụ đầu tóc rũ rượi chạy vào hổn hển:

31

- Ai cứu tôi với. Cậu Trời...” [43, tr.9].

Không gian lịch sử của Đêm hội Long Trì đã hiện dần qua từng chi tiết

như vậy. Chỉ qua những trang viết đầu, bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam

thời vua Lê Ý Tông đã được Nguyễn Huy Tưởng tái tạo một cách chân thực và

sinh động: nhà Lê thì bạc nhược, chúa Trịnh Sâm thì bị Đặng Thị Huệ thao túng.

Điều đó thể hiện qua cái thở dài của quận chúa Quỳnh Hoa trong lễ hội sau khi

cơn dư chấn Đặng Lân vừa quét qua:

“Quỳnh Hoa thở dài:

- Chỉ tại…

Nàng muốn nói: “Chỉ tại phụ vương sủng ái Đặng Tuyên phi”. Nhưng

trước mặt mọi người nàng không dám nói rõ nỗi lòng” [43, tr.22].

Không gian là tổng hòa của các hiện tượng cùng loại. Theo Lê Thị

Dương, “Trong văn học, không gian được tạo nên bởi những từ ngữ hình ảnh,

sự kiện… là kiểu không gian tưởng tượng, suy tưởng, do vậy yếu tố chủ quan

của tác giả đóng vai trò rất quan trọng. Trong điện ảnh, không gian được cụ thể

hóa bởi các hình ảnh có điểm nhìn, cỡ cảnh khác nhau, cùng sự hỗ trợ của âm

thanh và ánh sáng” [9, tr.122]. Việc xây dựng bối cảnh trong tác phẩm văn học

được phác họa bằng ngôn từ, đôi khi chỉ cần vài dòng, vài câu chữ và không cần

phải nhắc lại, song với điện ảnh thì khác, điện ảnh cần phải sáng tạo ra không

gian đó. Những nhà làm phim luôn phải rõ ràng trong mỗi bối cảnh, chọn lựa

không gian phù hợp để phản ánh đúng giai đoạn lịch sử, yếu tố văn hóa và phù

hợp với sự kiện và cảm xúc nhân vật. Theo dõi phim điện ảnh Đêm hội Long

Trì, chúng ta sẽ thấy sự lao động nghiêm túc và đầu tư công phu của các nhà

làm phim, chỉ riêng phần bối cảnh đã rất kỳ công. Đặc biệt, không gian đẹp

nhất, có tính tạo hình và mang lại hiệu thẩm mĩ và tư tưởng cao nhất của bộ

phim chính là không gian lễ hội trung thu bên hồ Long Trì mở đầu tác phẩm.

Đây là không gian điển hình cho tác phẩm, cũng là điển hình đại diện ẩn dụ

cho bộ máy cầm quyền đương thời. Tính điển hình ở đây được hiểu cả về diện

32

mạo vật chất và quan trọng hơn là thế giới tinh thần trong đó. Đạo diễn Hải

Ninh đã dựng lên một đêm hội Long Trì thật sự với bối cảnh được quay tại

nhiều địa điểm ở Hà Nội và Huế. Trong hơn 20 phút diễn ra đêm hội, tất cả các

yếu tố: quang cảnh, cách bài trí, đạo cụ, trang phục, âm nhạc, các tiết mục nghệ

thuật, các tục lệ… đều mang dấu ấn văn hóa Việt Nam đậm nét thế kỷ XVIII.

Trên nền nhạc Lưu Thủy Kim Tiền, một trong những bản nhạc cung đình nổi

tiếng của âm nhạc dân tộc Việt, là khung cảnh hội hè tấp nập, nam thanh nú tú

dập dìu, những hàng quán với các sản phẩm truyền thống, hội múa lân tưng

bừng, thuyền rồng lướt sóng trên hồ, hội thả đèn hoa đăng lung linh… Không

chỉ vậy, người xem còn được thấy trong đó màn diễn rối nước và màn tuồng

Ông già xem hội đều là những môn nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam. Về ý

nghĩa văn hóa, việc lồng ghép và tái hiện bản sắc dân tộc Việt qua trường đoạn

đêm hội Long Trì đã góp phần làm nên giá trị và sức sống lâu bền cho tác

phẩm.

Có thể nói, đây là phân cảnh gây ấn tượng nhất trong Đêm hội Long Trì,

cũng là bối cảnh thành công nhất trong việc khôi phục lại không gian, thời gian,

con người của cả một thời kì đã lùi sâu vào dĩ vãng của thời Lê Trung Hưng.

Cho đến hôm nay, hồ Long Trì cũng chỉ còn là một địa danh trong quá vãng,

chẳng còn đâu bóng dáng của phủ chúa uy nghi, những buổi hội hè náo nhiệt,

rực rỡ, thuyền rồng rẽ sóng trên hồ... Tất cả chỉ còn trong mường tượng, trong

những thước phim điện ảnh tráng lệ, nhưng vẫn khiến lòng người tiếc nuối vô

cùng...

Phim điện ảnh Đêm hội Long Trì không có nhiều ngoại cảnh. Ngoài phân

đoạn lễ hội mở đầu và một số phân đoạn Đặng Lân mang võng lọng ra phố bắt

hiếp con gái nhà lành, phân đoạn Trịnh Sâm đi dạo với Quỳnh Hoa, đi ngắm hoa

sen với Đặng Thị Huệ… là ngoại cảnh thì phần lớn các phân đoạn còn lại đều là

nội cảnh. Trong tiểu thuyết, hầu hết nội dung diễn biến cũng đều là nội cảnh.

Nguyễn Huy Tưởng không dành nhiều dòng viết để mô tả phủ Chúa Trịnh, cũng

33

như mô tả không gian trong truyện, nhưng mỗi trang viết về diễn biến câu

chuyện cho người đọc một cảm giác ngột ngạt, tù túng, có cảm giác như, mỗi

nhân vật đều như bị vây hãm trong không gian nguy nga tráng lệ đó. Cuộc sống

vàng son của họ không hạnh phúc mà luôn đầy những tâm tư, giành giật, mưu

toan chốn cung đình. Đạo diễn Hải Ninh rất hiểu ý tưởng đó của tác giả văn học,

ông chuyển tải trọn vẹn điều đó vào từng bối cảnh và từng nhân vật. Phim Đêm

hội Long Trì có thể nói đã tái hiện xuất sắc không gian, bối cảnh lịch sử. Từng

chi tiết đều được chăm chút. Trong phim, đạo diễn đã chú trọng xây dựng nhiều

bối cảnh, ngoại cảnh và nội cảnh được thay đổi liên tục, khiến bộ phim không

bị đóng hộp trong những căn phòng. Các phân đoạn khá thống nhất về ý tưởng

không chỉ về mặt cốt truyện, mà còn về mặt kết cấu, bối cảnh, thời gian. Với

việc khắc họa mối tình mê muội của Chúa Trịnh với Đặng Thị Huệ, đạo diễn

Hải Ninh dùng nhiều phân cảnh để tập trung vào hai nhân vật này, đặc biệt làm

nổi rõ sự say mê sắc đẹp đến buông lỏng triều cương, bỏ qua đạo lý của Tĩnh Đô

Vương, cùng với đó là những âm mưu, toan tính của Đặng Tuyên phi. Nếu trong

tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng chỉ xây dựng Đặng Thị Huệ ở khía cạnh lợi

dụng sắc đẹp làm lu mờ ý chí Chúa Trịnh, để Chúa bỏ qua cho những tội trạng

của em trai mình và gả Quỳnh Hoa quận chúa cho Đặng Lân, thì trong phim

chuyển thể, người đàn bà này còn nham hiểm hơn khi mưu đồ phế trưởng lập

thứ. Những phân cảnh của Hải Ninh khắc họa rõ nét âm mưu của người đàn bà

đẹp, càng cho thấy một Trịnh Sâm mù quáng đến nỗi “đắm cơ đồ”. Điều đó thể

hiện ở nhiều phân đoạn, mà cụ thể nhất là phân đoạn Đặng Thị Huệ tắm để chuẩn

bị đón Chúa Trịnh [28, tập 1, 00:40:48] cho thấy rõ những mưu cơ của nhân vật

này. Khi đó, Đặng Lân đến nhờ chị gái mình giúp cầu hôn Quỳnh Hoa với Chúa

Trịnh xong rồi đi ra. Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng chỉ trần thuật đơn

giản: “Đặng Lân vừa ra thì chúa Tĩnh Đô vừa ngự tới Bội Lan thất. Tuyên phi

ra trước thềm, quỳ dâng một lẵng hoa. Chúa nâng nàng dậy, đỡ lấy lẵng hoa

phán:

34

- Sao ái phi lại làm thế? Đã là chỗ vợ chồng lại còn giữ lễ. Trong chốn

buồng thêu, ta cũng không nên câu nệ quá!” [43, tr.57].

Còn trong phim, Hải Ninh đã dành một khoảng thời lượng khá lớn xây

dựng phân đoạn này với chi tiết Đặng Thị Huệ tắm. Sau khi Đặng Lân đi ra,

Đặng Thị Huệ nhận được truyền chỉ giờ ngọ Chúa tới. Tuyên phi gọi người lấy

gương trang điểm, song lại không ưng ý. Vậy nên Thị Huệ quyết định đi tắm.

Khi đó, Thị Huệ khỏa thân trong bồn tắm, để lộ bầu ngực căng tròn, cố tình để

Trịnh Sâm trông thấy. Trịnh Sâm ngắm nhìn Tuyên phi không chớp mắt, như

"ngây vì tình". Đặng Thị Huệ là một người phụ nữ đẹp, vẻ đẹp của nàng ta được

Nguyễn Huy Tưởng mô tả: “Bên cạnh phi thì bao nhiêu cung nữ, kể cả Quỳnh

Hoa bị lu mờ, vì phi trông rực rỡ, toàn thắm, toàn tươi. Đẹp mà không nhạt

nhẽo, hơi đẫy mà không thô, nông nàn mà không lơi lả. Phi là một người đàn bà

có một sắc đẹp quyến rũ yêu quái. Người phi là tiếng gọi của dục tình”[44,

tr.26]. Vẻ đẹp ấy khiến người ngắm nhìn cảm thấy bất an, theo cách nói của

Nguyễn Mại: "Người đẹp thế kia làm gì mà chẳng gây vạ" [43, tr.27].

Khi chuyển thể tác phẩm văn học, đạo diễn Hải Ninh không thể dùng ngôn

ngữ văn học mô tả vẻ đẹp của Đặng Tuyên phi, ông đã dùng thủ pháp điện ảnh

thông qua phân cảnh Thị Huệ tắm. Và điều đó đã tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ sâu

sắc. Vào những năm 1989, 1990, cảnh “nóng” này từng gây xôn xao một thời,

nhưng đó là dụng ý nghệ thuật của đạo diễn Hải Ninh hoàn toàn chính xác về

mặt sử liệu. Cảnh quay được xử lý nghệ thuật, tinh tế và có sức biểu cảm. Có

thể nói, Đặng Thị Huệ biết rõ thói ham mê sắc dục vô độ nên đã lợi dụng điểm

này để quyến rũ, điều khiển Trịnh Sâm. Và đúng như tâm ý, Chúa Trịnh đã chiều

ý Tuyên phi mà đồng ý gả Quỳnh Hoa cho tên phàm phu tục tử Đặng Lân.

Trịnh Sâm là người cha thương con, nhưng sự thao túng của Đặng Thị

Huệ khiến ông ta không cưỡng lại được. Để rồi sau đó, rất nhiều lúc trăn trở.

Đạo diễn Hải Ninh rất quan tâm đến những không gian tự sự này. Những phân

cảnh miêu tả tâm sự nhân vật, nhất là các phân cảnh tâm tư của chúa Trịnh được

35

tác giả đặt vào giữa không gian thiên nhiên, thể hiện tình cảm cũng như sự giàng

xé nội tâm của người cha đối với con gái mình. Phân đoạn gây xúc động nhiều

cho người xem ở tập 1, chúa Trịnh Sâm dành thời gian quây quần bên con gái

yêu Quỳnh Hoa [28, tập1, 00:53:46]: đi dạo, trò chuyện, ngắm hoa, chơi thả

diều, hái sen... Dường như, người cha tội lỗi đã đẩy con gái vào cuộc hôn nhân

không lối thoát ấy đang cố níu kéo khoảng thời gian ngắn ngủi bên con, bù đắp

cho con. Việc xây dựng những phân cảnh này đã làm nổi rõ thế mạnh của điện

ảnh, cho người xem những phút lắng đọng về tình phụ tử.

Hình 3: Trịnh Sâm cùng Quỳnh Hoa đi hái sen

Hay ở một phân đoạn khác, mở đầu chương V, khi chuẩn bị đưa Quận

chúa Quỳnh Hoa về nhà chồng, “Chúa Tĩnh Đô đi đi lại lại trong trong cung,

lòng Chúa bị bao nhiêu tình cảm chia xé. Trông nét mặt cũng biết ngài đau khổ

vô cùng. Một lúc, người thái giam chí thân của Chúa là Khê Trung hầu khúm

núm bước lên thềm. Tĩnh Vương ra hiệu cho vào, và hỏi ngay:

- Ta hối vô cùng, nhưng không còn cách gì nữa. Nay ta cự hôn, thì không

những Tuyên phi phẫn uất, mà ta còn mang tiếng trẻ con với thần dân. Các quan

dâng sớ can gián ta nhiều lắm, người nào cũng bàn nên hoãn việc hôn nhân, lấy

cớ là Quận chúa còn nhỏ dại. Ý ngươi thế nào?

- Tâu Chúa thượng, cứ như ý ngu thần, ta nên hoãn rồi liệu cớ thoái thác,

chứ đem Quận chúa mà gả cho em Tuyên phi thì làm hại cả một đời Quận chúa.

36

Quận chúa có được như ai! Người hiền lành, mà sức thì yếu. Chỉ e Quốc cữu là

một kẻ vũ phu…

Khê Trung hầu chợt im không nói nữa, trán vã mồ hôi. Tuyên phi vén rèm

bước ra, dáng giận dữ, vẻ đẹp kiêu kỳ” [43, tr.90].

Nguyễn Huy Tưởng chỉ nêu bối cảnh ngắn gọn là "trong cung". Khi

chuyển thể, đạo diễn Hải Ninh đã hòa trộn không gian khi xây dựng bối cảnh

xen lẫn ngoại cảnh và nội cảnh.

“CẢNH: VƯỜN CẢNH TRƯỚC PHỦ CHÚA VÀ TRONG PHỦ -

NGOẠI CẢNH RỒI NỘI CẢNH - NGÀY:

Chúa Trịnh đi đi lại lại trong vườn cảnh, nét mặt suy tư. Khê Trung hầu

đi tới, quỳ xuống bái kiến.

Khê Trung hầu: Chúa Thượng thiên tuế!

Trịnh Sâm: Miễn lễ.

Chúa Trịnh bước xuống:

Trịnh Sâm: Ta nghe trong ngoài bàn tán xôn xao về hôn nhân của quận

chúa. Ngươi thấy thế nào?

Khê Trung hầu: Tâu Chúa thượng, việc đó là có thật.

Chúa Trịnh trầm ngâm, xoay người bước đi đầy tâm trạng. Khê Trung hầu

đi sau. Phía xa, Hề trò cũng tấp tểnh bước theo…

Trịnh Sâm: Các quan dẫn sớ, can gián ta rất nhiều. Ai cũng lấy cớ, quận

chúa còn nhỏ quá.

Khê Trung hầu: Quận chúa là người hiền lành, sức yếu, còn Quốc cữu lại

là kẻ vũ phu. Thần sợ như vậy sẽ hại cả cuộc đời Quận chúa.

Trịnh Sâm: Ta hối vô cùng. Nhưng không còn cách nào khác.

Chúa Trịnh và Khê Trung hầu bước qua, Hề trò bước tới giọng cảm thán:

“Thân em như dải lụa đào

37

Cởi ra cũng khó mặc vào không xong

Trăm năm trong cõi đèo bòng

Trách ai ham sắc mà còng lưng tôm…”

Trịnh Sâm và Khê Trung hầu đi vào trong phủ. Khê Trung hầu tiếp tục

can gián:

Khê Trung hầu: Tâu Chúa thượng, Quốc cữu là kẻ thô suất… không hợp

với tính đoan trang của Quận chúa. Huống chi Quận chúa là người gầy yếu. Tâu

Chúa thượng, chịu sao nổi một kẻ phàm phu?

Trịnh Sâm: Ta cũng nghĩ vậy. Nhưng đã lỡ rồi. Nay nếu ta từ hôn, e Tuyên

phi sẽ buồn phiền, ta lại mang tiếng là tiền hậu bất nhất.

Khê Trung hầu vẫn tha thiết:

Khê Trung hầu: Chúa thượng là người cha, lẽ nào…

Chúa nhìn Khê Trung hầu, tần ngần như muốn nói, rồi lại quay đi tránh

ánh mắt của viên thái giám hầu cận.

Khê Trung hầu: Chúa thượng nên hoãn lại, rồi tìm cớ thoái thác sau…

Khê Trung hầu vừa nói đến đây thì Tuyên phi Đặng Thị Huệ bước vào,

ánh mắt đầy oán giận...” [28, tập 1, 01:14:21].

Trong việc xây dựng không gian, văn học và điện ảnh đều có thế mạnh

riêng. Điện ảnh cho người xem một không gian cụ thể, sống động. Trong bộ

phim Đêm hội Long Trì, từ hình ảnh, âm thanh, màu sắc hòa quyện với cảm xúc

nhân vật đã tạo nên những cảm xúc chân thực. Trong đó, một thành công nữa

của các nhà làm phim là phục trang của diễn viên được nghiên cứu và phục dựng

khá chuẩn xác. Cũng như bối cảnh, phục trang có những chức năng cụ thể trong

tổng thể của bộ phim và phạm vi những khả năng của nó là rất lớn. Từ trang

phục của các nhân vật chính đến các vai phụ, vai quần chúng đều có các bộ phục

trang phù hợp, đúng giai đoạn lịch sử. Đi cùng đó là đạo cụ trong phim cũng

38

được sử dụng hợp lý đã tạo hiệu ứng cần thiết, giúp bộ phim đến gần với người

xem, phản ánh đúng thời đại.

Về mặt bối cảnh, cũng có người cho rằng, một số bối cảnh được đạo diễn

thực hiện là kinh đô Huế là chưa phù hợp về mặt thời gian lịch sử. Tuy nhiên,

qua xem xét kỹ các phân cảnh liên quan, chúng tôi thấy rằng đạo diễn đã khéo

léo sử dụng các góc quay để không làm rõ các chi tiết mang tính đặc trưng thời

kỳ lịch sử, đồng thời tận dụng sự cổ kính của bối cảnh. Trong điều kiện làm

phim dã sử vào những năm 1980, điều kiện khó khăn, với cách làm phim nghiêm

túc và nghiên cứu sâu sắc như vậy là điều rất đáng trân trọng và có thể châm

chước ở một vài tiểu tiết.

Một bộ phim hay, hấp dẫn không chỉ bởi cốt truyện hay mà còn ở bối cảnh

phù hợp để kể câu chuyện trong tác phẩm văn học. Không - thời gian nghệ thuật

là yếu tố hết sức quan trọng để câu chuyện được diễn ra chuyển tải trọn vẹn ý

đồ tác giả. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thời gian nghệ thuật là “hình

thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”, “xuất

phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian” [13, tr.272]. Thời gian trong

Đêm hội Long Trì là thời gian tuyến tính. Các nhà làm phim đã giữ nguyên hệ

thống cốt truyện và cách kết cấu thời gian tuyến tính. Các sự kiện diễn ra nối

tiếp theo dòng thời gian. Thời gian đóng vai trò như một nhân tố trong cấu trúc

nghệ thuật của bộ phim. 167 trang tiểu thuyết được chuyển thể thành 2 tập phim

với tổng thời lượng gần 3 tiếng đồng hồ với đầy đủ không gian, thời gian mà

Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng trong tác phẩm văn học. Thời gian tuần tự, sự

kiện nối tiếp sự kiện, xung đột liên tiếp xung đột, khiến nỗi mâu thuẫn càng lúc

càng gia tăng, bi kịch càng lúc càng vây hãm những nhân vật trong phim. Sự

khác biệt cơ bản nhất về thời gian nghệ thuật là phân cảnh kết thúc bộ phim với

ý đồ rõ nét của đạo diễn khi xây dựng cảnh kết phim cũng diễn ra vào đêm tối

với sự xuất hiện của Tuyên phi Đặng Thị Huệ cô đơn đi trong phủ chúa và lạnh

lùng bước lên ngồi vào ngai cao. Hình ảnh đó lột tả rõ nét những âm mưu quỷ

39

kế của Đặng Thị Huệ, bất chấp triều cương, bất chấp đạo lý, chỉ có duy nhất một

mục đích tranh quyền đoạt vị. Nó dự báo những sóng gió vẫn còn ở phía trước.

Bộ phim Đêm hội Long Trì đã mở đầu bằng niềm vui và kết thúc bằng nỗi buồn.

Phần kết như tô thêm nỗi ám ảnh của khán giả, sự ám ảnh bởi bóng tối, bởi nỗi

cô độc và hoang mang thậm chí vượt ra ngoài bộ phim, dự báo hiện thực, dự báo

tương lai. Không - thời gian buổi tối là hình ảnh mở đầu, cũng là hình ảnh kết

thúc phim như một ẩn dụ về một sự khép kín. Cái xã hội ấy, thể chế ấy tưởng

như bình an thịnh trị, tưởng như thái bình, nhưng thực ra là quẩn quanh và không

lối thoát. Những hội hè, vàng son chỉ là phù hoa. Thấp thoáng sau cái bóng của

những nhân vật đã từng được ghi trong sử sách như Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ,

Đặng Mậu Lân, là cảnh triều chính mục ruỗng, tranh giành quyền lực, sát hại

trung thần, dung túng cho cái ác hoành hành, ức hiếp nhân dân, mọi kỷ cương

phép tắc bị đảo lộn, sáo mòn. Vòng tròn khép kín ấy đang vây hãm cuộc đời của

biết bao con người. Cái chết của Nguyễn Mại là cái kết bất ngờ với người xem,

xong phù hợp với bối cảnh và diễn biến lịch sử đương thời.

Trong tiểu thuyết và trong phim, chúng ta thấy có sự đan xen giữa thời

gian tuyến tính và thời gian tâm trạng. Nếu không gian nghệ thuật thiên về chiều

rộng, không gian này gợi nhắc không gian khác, có những không gian nằm ngoài

văn bản, thì thời gian nghệ thuật thiên về chiều sâu với sự nối tiếp liên tục, có

khi được dồn nén, khi thì giãn cách để phản ánh nội dung tư tưởng. Viết về lịch

sử dân tộc ở thời điểm quá khứ đã hoàn thành, nhà văn có điều kiện chiêm

nghiệm, hiểu được những sự kiện, câu chuyện đã xảy ra, để phản ánh một cách

chân thực, khách quan. Trong Đêm hội Long Trì, thời gian tuyến tính được thể

hiện thông qua những sự kiện, những biến cố gắn với những nhân vật có thật

trong lịch sử. Điều này là cần thiết vì nó đảm bảo tính chân thực lịch sử gắn liền

với các nhân vật và thời đại. Ngoài yếu tố thời gian tuyến tính, thời gian nghệ

thuật trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng còn được thể hiện qua những từ chỉ

thời gian phiếm chỉ như: hội Trung thu, hai tháng, ba tháng, năm ngày, sang

đông… Những tín hiệu thời gian này phù hợp với việc diễn tả tâm lí nhân vật,

40

nó xóa đi tính biên niên của thời gian, kéo quá khứ trở lại gần với cuộc sống

thực tại. Để khắc họa số phận nhân vật Quỳnh Hoa trong Đêm hội Long Trì, nhà

văn đã diễn tả đêm tân hôn của Quận chúa với Đặng Lân trong quãng thời gian

dài với rất nhiều sự kiện, lột tả nỗi bất hạnh của quận chúa khi chứng kiến thói

cuồng dâm, thú tính, ăn chơi trác táng của Đặng Lân. Tuy nhiên, quãng đời còn

lại của nàng chỉ được gói gọn trong một thông báo: “Đã ngót hai tháng nay, cậu

Trời không xuất phủ. Dân gian đã mừng và cho rằng vì lấy quận chúa nên Lân

đỡ ngông cuồng” [43, tr.139], nhưng thật ít người biết rằng, đó là quãng thời

gian dằng dặc nỗi đau và sự giày vò thân xác, tâm hồn đến mức cướp đi cả sự

sống của nàng. Dòng thông báo ấy càng khiến người ta chua xót và tiếc thương

cho thân phận của nàng.

Không gian và thời gian nghệ thuật là cơ sở để hệ thống sự kiện diễn ra,

để nhân vật hành thành tính cách, và để các xung đột phát triển theo trình tự. Rõ

ràng, phải đặt các nhân vật của Đêm hội Long Trì trong cái bối cảnh triều chính

mục ruỗng, quân vương đam mê sắc dục, buông lỏng triều cương… thì càng

thấm thía bi kịch gia đình của Trịnh Sâm khi mù quáng trong vòng tay nữ sắc,

mới thấu hiểu những bức bối, ngột ngạt, mâu thuẫn của xã hội đương thời. Việc

xác định được không gian, thời gian để đặt nhân vật của měnh vŕo đó là một quá

trình nghiên cứu và khảo sát kỹ lưỡng. Sự chính xác, tỉ mỉ về sử liệu từ những

trang tiểu thuyết đã được hiện thực hóa trên những khuôn hình chỉn chu, bay

bổng, tạo nên một tác phẩm điện ảnh lịch sử tinh tế, giàu sức hấp dẫn, mang đến

cho người xem cảm hứng lịch sử đậm nét. Các nhà làm phim tỏ ra khá linh hoạt

khi xử lý chất liệu lịch sử trong điện ảnh. Các yếu tố thời đại, văn hóa, chính trị,

xã hội được lồng ghép khéo léo và thuyết phục để hướng đến chủ đề tác phẩm.

Bản lĩnh của nhà đạo diễn tài hoa là ở đó!

1.3. Đêm hội Long Trì - Từ văn bản truyện đến kịch bản phim

Văn học và điện ảnh bộc lộ mối quan hệ thông qua một bộ phim chuyển

thể, tổng hợp sự sáng tạo của cả một tập thể. Phim chuyển thể là cách thức tái

41

tạo tác phẩm văn học, tạo nên một cách đọc mới, một cách cảm thụ văn chương

kiểu mới cho người đọc, mà sự hấp dẫn không hề giảm sút. Hay nói một cách

khác, đó là một liên văn bản. Theo Linda Hutcheon, “được nhìn từ góc độ quá

trình tiếp nhận của mình, chuyển thể là một hình thức liên văn bản: chúng ta

thưởng thức các tác phẩm chuyển thể (với tư cách là các tác phẩm chuyển thể)

như các palimxét thông qua ký ức của chúng ta về các tác phẩm khác mang âm

hưởng dội lại qua sự lặp lại có biến đổi” [17, tr15].

Thuật ngữ liên văn bản xuất hiện từ khoảng những năm 1966, 1967 trong

các công trình nghiên cứu của M. Bakhtin, Julia Kristeva. Theo Kristeva,

“mỗi văn bản là một liên văn bản, ở đó các văn bản khác cùng hiện hữu để

góp phần chi phối và làm thay đổi diện mạo của văn bản ấy; mỗi văn bản là

một sự hấp thu và chuyển thể của văn bản khác, là một “bức khảm các trích

dẫn” - ở đó, có vô số những mảnh vụn của các mã ngôn ngữ, các quy ước văn

học, các khuôn mẫu nhịp điệu, các hình thức diễn ngôn vốn từng phổ biến

trong xã hội” [50]. Cho thấy, văn bản văn học không đứng độc lập, mà hàm

chứa thông tin nhiều lĩnh vực, các phương pháp nghệ sáng tạo của nhiều loại

hình nghệ thuật, cũng như chịu sự tác động của nhiều văn bản văn hóa khác.

Trong hiện tượng chuyển thể văn học - điện ảnh, thì sự cải biên từ hình

thức nghệ thuật này sang hình thức nghệ thuật khác tạo nên một khía cạnh đặc

biệt của liên văn bản. Nói cách khác, đó là là hành trình từ một hệ thống kí hiệu

này đến hệ thống kí hiệu khác. Điện ảnh tựa rất nhiều vào văn học, đặc biệt là

việc chuyển thể tác phẩm văn học thành phim. Phim muốn hấp dẫn thì yếu tố

quan trọng là phải có cốt truyện hay. Cho nên, trong trường hợp phim chuyển

thể, có thể nói tác phẩm điện ảnh là “văn học hiện hình”, hoặc tác phẩm điện

ảnh là một “liên văn bản” của tác phẩm văn học. Trở lại với tác phẩm văn học

Đêm hội Long Trì và bộ phim dã sử cùng tên, chúng ta có thể thấy rằng, bản

thân tác phẩm gốc đã là một liên văn bản của lịch sử, văn hóa, còn phim

chuyển thể là liên văn bản từ văn học và lịch sử.

42

Bộ phim dã sử Đêm hội Long Trì được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên

của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được xem là một ví dụ tiêu biểu về thành công

của phim chuyển thể của điện ảnh Việt Nam. Khi xem xét hai tác phẩm này,

chúng tôi nhận thấy một trong những yếu tố được so sánh ở đây là yếu tố cốt

truyện. Rất nhiều ý kiến khác nhau khi xem phim và đọc tiểu thuyết. Có ý kiến

cho rằng, các nhà biên kịch của phim đã cải biên khá trung thành theo nguyên

bản văn học, bám sát đường dây câu chuyện, tôn trọng chiều sâu và hình thức

của tác phẩm văn học gốc. Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, dựa trên

đường dây cốt truyện, tác phẩm điện ảnh đã được sáng tạo, bổ sung thêm nhiều

chi tiết, sự kiện và nhân vật làm nổi rõ tấn bi kịch trong gia đình Chúa Trịnh

Sâm Tĩnh Đô Vương. Đây là một thực tế thường thấy đối với những bộ phim

được chuyển thể từ văn học. Với đặc thù riêng về loại hình, điện ảnh hướng đến

một cốt truyện được chuyển tải bằng ngôn ngữ hình ảnh, nên khi chuyển thể từ

văn học, tác giả phim sẽ không thể giữ lại nguyên dạng cốt truyện ban đầu. Vậy

khi chuyển thể tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, tác giả phim tiếp thu và lược bỏ

cái gì từ cốt truyện của nguyên tác văn học? Ngược lại, trong bộ phim, cốt

truyện được tạo nên nhờ sự lắp ráp của các hình ảnh, các cảnh, các trường đoạn.

Việc thống nhất các đoạn phim bị cắt rời là cách đơn giản nhất tạo nên trình tự

trong phim. Vì vậy, muốn xem xét những yếu tố mà kịch bản phim đã giữ lại

trong cốt truyện của văn học, cũng như sự sáng tạo của các nhà làm phim, chúng

ta phải đi từ những cảnh, những trường đoạn, các sự kiện trong từng cảnh, từng

đoạn, để lí giải vì sao cuốn tiểu thuyết dày 167 trang lại được triển khai tới gần

3 tiếng đồng hồ với hai tập của bộ phim. Điều gì đã tạo nên sự hấp dẫn của tác

phẩm điện ảnh? Để giải thích được, người viết luận văn đã lập Bảng thống kê

các sự kiện diễn ra trong từng chương tiểu thuyết Đêm hội Long Trì của nhà văn

Nguyễn Huy Tưởng, tương ứng với mỗi phân đoạn trong bộ phim Đêm hội Long

Trì của đạo diễn Hải Ninh. Để qua đó, nhận ra đạo diễn đã vận dụng, lược bỏ và

bổ sung những chi tiết, sự kiện, hình ảnh,… nào để làm nên một bộ phim hoàn

chỉnh không chỉ ở nội dung mà ở cả hình thức thể hiện.

43

(Xin xem Bảng thống kê ở phần Phụ lục)

Khi đọc tiểu thuyết, chúng ta thấy hành động của các nhân vật đều diễn ra

tuần tự theo thời gian tuyến tính. Các mối quan hệ đều xoay quanh Chúa Trịnh

Sâm Tĩnh Đô Vương và những sóng gió vương triều do chính ông ta tạo nên bởi

sự đam mê tửu sắc, buông lỏng triều chính. Điều tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt

của cốt truyện Đêm hội Long Trì là sự chặt chẽ và sắc sảo trong cách nhà văn

xây dựng cốt truyện dựa trên những sự kiện, chi tiết và nhân vật có thật trong

lịch sử, xây dựng hình tượng nhân vật, lồng vào đó những quan niệm nhân sinh

sâu sắc về cuộc đời, về quy luật phát triển... Và rõ ràng, Nguyễn Huy Tưởng đã

có cách nhìn của của bản thân và gửi gắm những suy tư của riêng mình về bi

kịch gia đình chúa Trịnh Sâm với sự thao túng của Tuyên phi Đặng Thị Huệ,

cũng như về hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII (thời kỳ Trịnh

- Nguyễn phân tranh) đang trong giai đoạn khủng hoảng và chuẩn bị bước vào

thời kỳ suy tàn.

Tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng là sự pha trộn giữa cổ điển và hiện

đại, thông qua hình thức tiểu thuyết chương hồi, song lối viết mang đậm khuynh

hướng hiện thực chủ nghĩa. Câu chuyện được kết cấu theo quan hệ nhân quả,

mỗi chương như một cảnh quay chậm các sự kiện diễn ra nối tiếp nhau. Thời

gian tuyến tính chậm rãi và tuần tự, cũng có những đoạn thuật lại quá khứ và hồi

tưởng, song không nhiều và khoảng cách thời gian không quá xa. Không gian là

kinh thành Thăng Long với bối cảnh chủ yếu là các cung trong phủ Chúa, phủ

Đặng Lân, nhà Bảo Kim và phủ Quan Hộ thành binh mã sứ. Thủ pháp nghệ thuật

miêu tả với những hình ảnh nối tiếp nhau trong tiểu thuyết đã được các nhà làm

phim sử dụng khi đưa vào điện ảnh, bằng cách “kể” thông qua sự ghép nối, ráp

dựng các cảnh quay khác nhau. Các cảnh ghép đó có thể khác nhau về thời gian,

địa điểm, nhân vật, song được gắn kết chặt chẽ ở chiều sâu cốt truyện. Các nhà

làm phim đã chuyển tải toàn bộ những sự kiện, những tâm tư tình cảm sâu kín,

các xung đột, mâu thuẫn, hành động của các nhân vật vào trong phim, đồng thời

44

sáng tạo thêm nhiều tình tiết, chi tiết để hình tượng hóa nhân vật một cách điển

hình nhất, tiêu biểu cho môtip nhân vật mà nó đại diện.

Đêm hội Long Trì, từ văn bản truyện đến kịch bản phim có mối liên hệ

chặt chẽ, mà rõ nét nhất là chất điện ảnh trong tác phẩm văn học và chất văn học

có trong bộ phim. Trong tiểu thuyết, các trường đoạn được diễn ra liên tiếp với

các sự kiện, xung đột, mâu thuẫn, cùng với hành động của các nhân vật giống

như những thước phim được ráp dựng lại với nhau, Nguyễn Huy Tưởng đã mạnh

dạn bỏ qua những chi tiết vụn vặt, những đoạn trích tả cảnh ngụ tình... Chất điện

ảnh trong truyện được thể hiện đặc sắc nhất trong cách miêu tả (bao gồm miêu

tả thiên nhiên và miêu tả nhân vật). Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên đầy hình ảnh,

màu sắc, có chiều sâu về không gian, thời gian, khiến người đọc có cảm giác

như đang được nhìn thấy khung cảnh thiên nhiên ở ngay trước mắt. Điều đó có

thể thấy rõ nhất trong cách miêu tả đêm hội trung thu mở đầu tác phẩm của

Nguyễn Huy Tưởng. Còn trong cách ông miêu tả hình dáng, hành động nhân vật

thì rất chi tiết và giàu hình ảnh. Chân dung của Chúa Trịnh hiện lên trong con

mắt nhìn của Nguyễn Mại đầy vẻ phong tình: “Cái vẻ vữa đĩ, vừa thông minh

trong khóe mắt, nụ cười của vị chúa đa tình nhất nhà Trịnh” [43, tr.35]. Còn

trong cái nhìn yêu thương và lo lắng của cô con gái Quỳnh Hoa đã thấy tuổi già

sầm sập đến trên nét mặt của vị Phó vương đất Việt: “Nàng thấy cha nàng già

lắm, già quá sức tưởng tượng. Mởi 40 tuổi, ngày đã có vẻ nhọc mệt của người

50. Nàng hồi tưởng lại mấy năm xưa, cha nàng vẫn còn cường tráng linh lợi, uy

phong lẫm liệt đường là một vị chúa tể của muôn dân. Đem so sánh với bây giờ

thực là một trời một vực. Trên mặt đã chạy những nét răn, mắt đã mất vẻ tinh

anh sáng quắc, và ngôn ngữ cử chỉ nhất nhất đều để lộ vẻ suy đồi” [43, tr.77].

Cùng với ngôn ngữ miêu tả nhân vật là cách sử dụng những hình ảnh mang tính

biểu tượng, đa nghĩa. Sự xuất hiện của Đặng Lân trong chương mở đầu được

gắn với hình ảnh “trận cuồng phong thổi trong đám hội”, đã cho thấy những dự

báo không lành, kẻ sắp đến không chỉ phá tan niềm vui của đêm hội, mà còn

gieo rắc những tai ương về sau. Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật cũng được

45

viết dựa trên bối cảnh lịch sử, thân phận nhân vật, lễ nghi triều đình, những rất

đời thường, dễ nghe, dễ hiểu, tạo nên sự rõ ràng như lời thoại trong phim truyện.

Ngược lại, trong bộ phim, ngoài những sự kiện, nhân vật được sử dụng từ

tiểu thuyết thì những thủ pháp biểu hiện của văn học như: ẩn dụ, tượng trưng,

liên tưởng cũng được vận dụng. Ta có thể thấy ở phân đoạn trước giờ rước dâu,

khi nghe tin Chúa Trịnh cho đòi vào gặp mặt [28, tập 1, 01:22:58], Đặng Lân

trước khi đi đã cho gọi tên thầy bói đến xem quẻ chân gà. Điều này ám chỉ một

nỗi lo lắng không rõ ràng trong lòng Đặng Lân. Hắn vốn tự xưng là Cậu Trời,

sánh ngang trời đất, không sợ một ai trong thiên hạ. Bởi hơn ai hết, Đặng Lân

hiểu rõ sự nhu nhược của Chúa Trịnh, luôn sẵn lòng chiều ý chị gái Tuyên phi

của mình, chấp nhận sự điều khiển của Đặng Thị Huệ trong mọi điều, kể cả

chuyện chính sự, nên trong lòng ít nhiều cũng có phần coi thường ông anh rể.

Tuy nhiên, các nhà làm phim đã xây dựng nên một Đặng Lân khác hơn so với

tiểu thuyết với nỗi sợ hãi mơ hồ trong lòng. Lân làm nhiều điều ác quá, nên vẫn

ngầm lo lắng, sợ hãi rằng sẽ bị quả báo. Chỉ một phân đoạn ngắn, với sự xuất

hiện của một nhân vật phụ được các nhà biên kịch sáng tạo thêm đã cho thấy “sự

hèn” của Đặng Lân khi không chỉ dựa dẫm vào bà chị khuynh thế hoàng phi, mà

còn dựa vào những thế lực siêu nhiên và mê tín dị đoan, thật hổ danh Cậu Trời!

Chúng tôi đặc biệt ấn tượng về phân đoạn gặp gỡ của Bảo Kim và Quận

chúa Quỳnh Hoa trong đêm hội Long Trì. Trong đêm, giữa ánh sáng lung linh

của những chiếc đèn lồng, gương mặt trong sáng, e ấp của Quỳnh Hoa giấu sau

chiếc quạt đã thu trọn ánh mắt của Bảo Kim, khiến chàng không giữ được bước

chân mình đi theo nàng. Họ tìm kiếm, đuổi theo nhau trong đêm hội. Một người

vừa bước đi mà lại như sợ nhanh quá người sau không theo kịp, người đuổi theo

thì ngại rằng mình đi theo nhanh quá có thể gây ra điều thất thố, nhưng cũng lo

bước chậm có thể mất dấu người đẹp. Cuộc theo đuổi ấy như một ẩn dụ về bi

kịch của tình yêu, của sự tìm kiếm nhau suốt đời và tìm kiếm hạnh phúc mà

chàng và nàng không thể cùng nhau tới đích. Ở phân đoạn này, hình ảnh trong

46

phim thật giàu chất văn học, thấm đượm một chất thơ êm dịu, chất thơ của tình

yêu. Chàng tìm thấy chiếc túi thêu đựng trầu têm của nàng, chưa kịp hỏi tên thì

nàng đã thẹn thùng bỏ chạy. Đến khi gặp lại thì nàng đã thay tấm áo dân nữ,

kiêu sa trong dáng vẻ Quận chúa chuẩn bị vào Cuộc thi thơ. Từ những câu chữ

miêu tả trên trang giấy, các nhà làm phim đã sử dụng hợp lý, tài tình các yếu tố

về quay phim, âm nhạc, ánh sáng và đặc biệt là sự hỗ trợ của các yếu tố về kỹ

thuật đã làm cho sự kiện gặp gỡ giữa đôi trai tài gái sắc trở nên hấp dẫn và thu

hút lạ kỳ.

Như vậy, qua xem xét tác phẩm văn học và điện ảnh Đêm hội Long Trì -

từ văn bản truyện đến kịch bản phim, chúng ta thấy sự thâm nhập của hai lĩnh

vực nghệ thuật vào nhau khá rõ ràng, nhất là trong việc tiếp nhận cốt truyện từ

tiểu thuyết vào phim. Biên kịch của bộ phim đã lược bỏ những gì vốn là đặc thù

của văn học: trữ tình ngoại đề, miêu tả, khắc họa tâm lí nhân vật, đồng thời kế

thừa và gia tăng những yếu tố đặc thù của điện ảnh. Đó chính là con đường đem

đến thành công cho một bộ phim chuyển thể, một liên văn bản từ tác phẩm văn

học.

47

Tiểu kết chương 1

Chương 1 của luận văn tập trung làm rõ quá trình chuyển thể cốt truyện

từ tiểu thuyết lên phim của biên kịch Lê Phương, Hoàng Nhuận Cầm và đạo diễn

Hải Ninh. Bằng sự so sánh, đối chiếu và phân tích, luận văn chỉ rõ quá trình

chuyển thể tác phẩm vừa có sự kế thừa nguyên tác, vừa có sự sáng tạo trong cải

biên. Điều đó đã mang đến cho khán giả một bộ phim Đêm hội Long Trì vừa

thân quen, vừa mới lạ. Quen bởi sự tiếp thu những chi tiết sẵn có trong tác phẩm

văn học, lạ bởi những thủ pháp thêm, bớt về nội dung, đường dây cốt truyện của

đạo diễn và biên kịch tạo ra sự hấp dẫn, thu hút người xem. Bộ phim thực sự là

một liên văn bản có giá trị nghệ thuật cao của tác phẩm văn học. Công chúng

đọc tiểu thuyết và xem phim có thể sẽ có những ấn tượng khác nhau, nhưng cảm

xúc nghệ thuật có được trong quá trình xem và đọc sẽ có sự ảnh hưởng tương

hỗ, tác động qua lại để thấu hiểu trọn vẹn tác phẩm, nâng cao giá trị của tác

phẩm.

48

Chương 2 THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ

ĐÊM HỘI LONG TRÌ VÀ PHIM DÃ SỬ CÙNG TÊN

2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì

Nhân vật văn học là khái niệm chỉ hình tượng cá thể người trong tác phẩm

văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện

riêng. Theo nhà lý luận văn học Lại Nguyên Ân, nhân vật văn học là “hình tượng

nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của

con người trong nghệ thuật ngôn từ” [2, tr.241]. Văn học không thể thiếu nhân

vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách

hình tượng. Trong cuốn sách Lý luận văn học, nhà nghiên cứu Phương Lựu (chủ

biên) cho rằng, “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những

dấu hiệu để ta nhận ra” [24, tr.278]. Nhân vật là yếu tố hết sức quan trọng trong

việc truyền tải tư tưởng của tác giả, mà thông qua đó, tác giả gửi gắm tư tưởng

và những thông điệp thẩm mỹ tới người đọc. Đó là sáng tạo của nhà văn và mang

tính điển hình rõ nét. Theo cuốn sách Lý luận văn học do nhà nghiên cứu lý luận

văn học Trần Đình Sử làm chủ biên, “nó là một hiện tượng, một đơn vị nghệ

thuật được sáng tạo theo những ước lệ của văn học. Ngay cả khi nhà văn xây

dựng nhân vật khá sát với nguyên mẫu, thậm chí giữ lại cả danh tính của nguyên

mẫu thì ta cũng không thể đồng nhất hai hiện tượng đó với nhau” [34, tr.75].

Ở bất cứ bộ môn nghệ thuật nào, việc xây dựng nhân vật luôn được xem

trọng và cần sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong tác phẩm điện ảnh, nhân vật

là yếu tố hàng đầu góp phần làm nên sự thành công, hay thất bại của bộ phim,

không có nhân vật, không thể có tác phẩm điện ảnh. Với nghệ thuật điện ảnh,

nhân vật có sức cộng hưởng lớn với những yếu tố khác trong phim, phụ thuộc

nhiều vào tâm huyết, sự cẩn trọng cùng khả năng sáng tạo của những người tạo

ra nó (biên kịch, đạo diễn, diễn viên). Nhân vật là nền tảng để đạo diễn kể câu

chuyện trong tác phẩm. Khi chuyển thể tác phẩm văn học, các nhà làm phim có

49

lợi thế khi có sẵn một cốt chuyện, một đường dây hấp dẫn, tuy nhiên, như vậy

chưa đủ, mà cùng với đó, cần phải có những nhân vật tốt và hấp dẫn, “việc

chuyển thể luôn đòi hỏi phải xuất phát từ những tác phẩm văn học có nhân vật

mang tính điện ảnh, có sự phát triển, kịch tính, có sự biến đổi” [9, tr.158]. Trong

tác phẩm văn học, nhà văn có thể xây dựng và lý giải thế giới nội tâm của nhân

vật, độc giả cũng có thể chi phối nhân vật bởi sự tưởng tượng của mình. Còn

trong điện ảnh, nhân vật được cụ thể hóa bằng tài năng của nhà biên kịch và diễn

xuất của diễn viên. Những vấn đề nội tâm được chuyển thể từ văn bản sang thoại

và động tác kết hợp với bối cảnh, góc máy, âm thanh, ánh sáng… Theo suy nghĩ

của các nhà điện ảnh, “xây dựng thành công một nhân vật điện ảnh điển hình,

khái quát với tính thẩm mỹ cao và có tầm ảnh hưởng sâu sắc, tác động đến người

xem, thực sự không đơn giản đối với bất kỳ một nhà sáng tác nào. Công việc này

đòi hỏi người nghệ sĩ phải suy nghĩ, trăn trở, dám đi đến tận cùng của sự sáng

tạo” [56]. Phản ánh hiện thực là ưu thế của điện ảnh, vậy nên, nhà biên kịch bên

cạnh việc đảm bảo cốt truyện được diễn ra xuyên suốt, cần xây dựng “môi

trường” để nhân vật phát triển tính cách của mình, “trong khi miêu tả, để phát

triển hành động, tính cách của nhân vật chính, nhà biên kịch phải đẩy nhân vật

chính vào những cuộc đối đầu, những mối quan hệ với những con người khác,

trong nhóm nhỏ gia đình hoặc cộng đồng lớn hơn là xã hội…” [29, tr.158].

Đêm hội Long Trì là một tác phẩm văn học được hư cấu dựa theo lịch sử,

với câu chuyện về những nhân vật có thật đan xen với những nhân vật được tác

giả xây dựng nên. Trong tác phẩm của mình, dựa trên những sự kiện đã được

lưu lại trong chính sử và trong văn chương, Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tạo ra

một không gian lịch sử riêng với những sự kiện, những số phận, những tính cách,

những xung đột chứa đựng tư tưởng sâu xa về xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII.

Tác phẩm phản ánh sự thối nát, hủ bại trong phủ chúa, khởi phát từ niềm đam

mê mù quáng của Trịnh Sâm với Đặng Thị Huệ, dẫn đến sự lộng hành, bạo

ngược của Đặng Lân - em trai thị. Trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng có

hệ thống nhân vật phong phú, bao gồm nhân vật có thật trong lịch sử: chúa Trịnh

50

Sâm, tuyên phi Đặng Thị Huệ; nhân vật nửa lịch sử nửa hư cấu: quốc cữu Đặng

Lân, quận chúa Quỳnh Hoa; nhân vật hư cấu: thi sĩ Bảo Kim, tướng Nguyễn

Mại... cùng với đó là những nhân vật phụ được tác giả xây dựng để làm phong

phú nội dung.

2.1.1. Chúa Trịnh Sâm

Nhân vật trung tâm của câu chuyện Đêm hội Long Trì có thể nói là Chúa

Trịnh Sâm Tĩnh Đô Vương. Đây là nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng khá lớn

thời Lê Trung Hưng, giai đoạn cai trị 1767-1782. Theo sử sách, trong số các

chúa Trịnh, Trịnh Sâm được coi là vị chúa giỏi, văn võ kiêm toàn. Về tài văn

chương, ông nổi tiếng là người hay chữ, có tài thơ ca, với nhiều tác phẩm còn

lưu truyền đến ngày nay. Các tác phẩm chính của ông gồm: Tâm thanh tồn duy

thi tập, Nam tuần kí trình, Bình Hưng thực lục, Tây tuần kí trinh thi, Bính Ninh

thực lục, Danh từ thực lục… Lên ngôi chúa, ông cho sửa đổi từ kỷ cương triều

nội đến chính sự cả nước theo hướng to rộng hơn, không theo lệ cũ. Về tài thao

lược, Trịnh Sâm từng đích thân cầm quân, vượt sông Gianh kéo vào Thuận Hóa,

chiếm được Thuận Hóa và đặt quan cai trị đất Thuận Quảng. Tuy nhiên, trong

tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, chủ yếu đi vào quãng thời gian Trịnh Sâm

sau khi đã dẹp yên các cuộc khởi nghĩa và bạo loạn, bốn phương yên ổn, kho

đụn đầy đủ, dần dần sinh bụng kiêu căng, buông lỏng triều chính, mặc ý ăn chơi

xa xỉ. Chúa đem lòng yêu chiều Đặng Thị Huệ, từ một nữ tỳ sắc phong làm

Tuyên phi. Để chiều lòng người đẹp, dịp tết Trung Thu hàng năm đều cho tổ

chức ''Hội Long Trì" để vui chơi thỏa thích. Và đó là duyên cớ để “bi kịch nhà

chúa” đi vào trang viết Nguyễn Huy Tưởng.

Từ một nguyên mẫu trong lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng nên

hình tượng một vị vương võ công văn trị đều có đủ cả, vừa thao lược vừa đa tình

với một vẻ bề ngoài xuất chúng “cường tráng linh lợi, uy phong lẫm liệt, đường

đường là một vị chúa tể của muôn dân” [43, tr.77]. Trong miêu tả của nhà văn:

“Chúa Tĩnh Đô vốn là một người anh minh và là người có một tinh thần gia tộc

51

rất mạnh, hàng ngày chỉ lo khuếch trương cơ nghiệp họ Trịnh… Chúa là một vị

quốc trưởng biết lo đến vương nghiệp và đặt quốc gia lên trên mọi sự” [43,

tr.163]. Không chỉ vậy, ông còn là người biết nhìn người, luôn trọng dụng nhân

tài, không chỉ yêu mến và phong chức cho Nguyễn Mại làm Hộ thành binh mã

sứ, mà còn rất trọng tài năng của Bảo Kim: “Ý Chúa muốn khuyến khích văn

chương, đem lại cho nước Nam một thời đại rực rỡ như Hán, Đường. Vì thế,

Chúa rất trọng bậc văn tài. Bài phú Long Trì của Bảo Kim, Chúa không hết lời

khen ngợi” [43, tr.64]. Đọc tiểu thuyết, có thể thấy, mặc dù chưa nói ra, song

Chúa Trịnh rất thán phục văn tài Bảo Kim, lại thấy chàng có tài mạo song toàn,

nên có ý muốn gả Quận chúa Quỳnh Hoa cho chàng. Không chỉ vậy, qua các chi

tiết, đối thoại giữa Trịnh Sâm với các nhân vật khác, ông lúc nào cũng mềm

mỏng, hòa nhã, dịu dàng và gần gũi. Đối với mẹ, Trịnh Sâm luôn kính trọng và

lắng nghe; đối với vợ, ông là một người chồng ân cần, chiều chuộng, dù hơi nhu

nhược; đối với các con, luôn yêu thương, trìu mến và quan tâm; còn đối với

người dưới thì chân tình, gần gũi mà không sai phép tắc.

Vậy nhưng, khi sa vào vòng tay nữ sắc, Trịnh Sâm nhanh chóng quên đi

những tháng ngày chiến trận lẫy lừng, quên mất chức trách của một người cầm

quyền, quên những dự tính khuếch trương cơ nghiệp, quên cả bổn phận với

những người thân yêu và nhân dân. Trịnh Sâm giỏi, nhưng đa tình, cái đa tình

toát lên từ ánh mắt đến phong thái mà người đối diện có thể nhận ra ngay phút

đầu tiếp xúc. Chúng ta có thể thấy điều đó thông qua cảm nhận của Nguyễn

Mại: “Người võ tướng trẻ tuổi bỗng thoáng nhận thấy cả cái vẻ vừa đĩ, vừa

thông minh trong khóe mắt, nụ cười của vị chúa đa tình nhất nhà Trịnh. Chàng

thấy yêu và quyến luyến Trịnh Vương” [43, tr.65]. Trịnh Sâm đa tình, nên ông

ta khổ. Cái đa tình khiến nhà chúa không thể thoát ra khỏi lưới tình đã giăng

của người đàn bà đẹp và nguy hiểm Đặng Thị Huệ. Những thói trụy lạc trong

tháng ngày rong chơi, hưởng thụ cùng người đẹp đã nhanh chóng biển đổi

người đàn ông phong độ ngày nào bị “tàn phá một cách nhanh chóng và sâu

52

xa cả về tinh thần lẫn cơ thể”, “trên mặt đã chạy những vết răn, ánh mắt đã

mất vẻ tinh anh sáng quắc, và ngôn ngữ nhất nhất đều lộ vẻ suy đồi” [43, tr.77].

Với nhân vật Tĩnh Đô Vương, tác giả văn học và các nhà làm phim đều

tập trung khai thác những mâu thuẫn nội tâm của ông ta. Khi phải đứng giữa sự

chọn lựa giữa một bên là mỹ nhân, một bên là lẽ phải, ông luôn luôn chọn sai,

không dám làm phật ý mỹ nhân. Từ một vị chúa thượng đầy quyền uy, Trịnh

Sâm dần biến thành kẻ nhu nhược, yếu thế, ngay cả đứa con gái mà mình hết

mực yêu thương cũng không thể lên tiếng bảo vệ, đến những hành vi trái đạo

cũng nhắm mắt làm ngơ... Trịnh Sâm - nguồn gốc của tất cả những bi kịch được

nhà văn xây dựng rất sinh động, là nhân vật thể hiện rõ nhất những mâu thuẫn,

giằng xé trong nội tâm, là con người lưỡng hóa. Ông ta không rõ rệt ở phía nào

trong cuộc chiến Thiện - Ác, có lúc là vị vương sáng, có lúc lại u mê. Trong bộ

Lịch triều hiến chương loại chí, phần “Văn tịch chí”, sử gia Phan Huy Chú nhận

xét về Trịnh Sâm: “Vả lại bên trong quá yêu tỳ thiếp, bỏ con lớn dựng con bé,

đến nỗi họa sinh ra ở trong nhà” [6, tập1, tr.154]. Xưa nay, anh hùng khó qua

ải mỹ nhân là vẫn chuyện thường thấy, chuyện quân vương vì người đẹp mà

đánh mất cơ đồ cũng không phải là hiếm. Vậy nên Trịnh Sâm âu cũng chỉ là

thêm một điển tích cho chuyện anh hùng và mỹ nhân. Người đọc vừa giận, mà

cũng vừa thương Trịnh Sâm cũng vì một lẽ như vậy.

2.1.2. Quận chúa Quỳnh Hoa

Nhân vật nhận được nhiều niềm tiếc thương nhất trong Đêm hội Long Trì

là Quận chúa Quỳnh Hoa. Nguyên mẫu của nàng ngoài đời là Quận chúa Ngọc

Lan. Sách Hoàng Lê Nhất thống chí chép: "Con gái của Trịnh Sâm tên là Trịnh

Thị Ngọc Lan rất yếu đuối, từ nhỏ vẫn được Chúa Trịnh Sâm cho ở trong cung

Thủy tinh, luôn phải kiêng nắng gió. Nơi Ngọc Lan ở, Chúa bắt thị tỳ phải đi

nhẹ, nói khẽ, không được làm cho nàng giật mình. Khi Ngọc Lan đã lớn, mỗi lần

vào thăm, Chúa đều cho ngồi cạnh như thuở còn bé. Bất cứ điều gì Ngọc Lan

cầu xin, Chúa cũng chiều theo. Bấy giờ, công thần quý tộc từng tới cầu hôn

53

nhưng Chúa chưa ưng gả cho ai. Có lần, Chúa xuống lệnh cho các quan văn võ

vào phủ để Ngọc Lan tự ý kén chọn, nhưng nàng chẳng bằng lòng ai. Đến đây,

Đặng Thị Huệ cầu hôn Ngọc Lan cho em trai mình, Chúa sợ mất lòng nên bất

đắc dĩ gượng nhận lời” [26, tr.21]. Vẻ đẹp kiều mỵ của nàng xuất hiện ngay từ

những trang đầu tiểu thuyết đã mang đến cho không khí đêm hội Trung thu một

làn gió mát dịu nhẹ, khiến người ngắm nhìn thấy lòng an yên: “Quân chúa trạc

16, 17 tuổi, nàng hơi xanh dưới ánh trăng thu, người hơi gầy, nhưng vẻ thanh

tú. Nàng bận chiếc áo đồng lầm, chít khăn vuông mỏ quạ” [43, tr.11]. Vẻ đẹp

ấy càng được tôn lên bởi giọng nói “nhẹ như tơ, tự nó có một điệu nhạc tuyệt

vời”, làm cho chàng Bảo Kim thờ ơ ở đoạn đầu dần mất vẻ tự chủ, “mắt chàng

ngốn cái vẻ thanh kỳ kia, lòng chàng hồi hộp”, “hồn chàng trôi theo dòng suối

thiên thai” [43, tr13]. Đó là miêu tả của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng đó cũng có

thể là nhan sắc qua con mắt ngắm nhìn của kẻ si tình Bảo Kim khi “lòng đã tràn

ngập một mối tình bồng bột”. Họ cảm mến nhau từ những phút ban đầu lưu

luyến giản dị như vậy. Nếu ai đó sẽ cho rằng dường như là nhanh chóng quá, thì

không phải vậy. Bởi Quỳnh Hoa từ lâu đã mến mộ danh tiếng của Bảo Kim, còn

Bảo Kim có lần đã được nhìn trộm Quỳnh Hoa ở xa, nên đêm hội Trung thu thực

ra chính là cái duyên để nối 2 người đến với nhau.

Đầu tác phẩm, Nguyễn Huy Tưởng cho người đọc hình dung về một nàng

Quận chúa xinh đẹp, thông minh, giỏi văn chương và và tài hoa khi làm chủ

nhân của "Quần anh hội", thì về sau, nhân vật này lại thụ động, hiền lành và chấp

nhận số phận. Đọc tác phẩm, có thể thấy sự "chênh", thiếu nhất quán trong việc

xây dựng hình tượng nhân vật Quận chúa Quỳnh Hoa của nhà văn. Một nàng

quận chúa tự tin, đủ sức làm chủ Trường bút chiến "Quần anh hội" hẳn nhiên

không thể là người con gái thụ động, đặt đâu ngồi đấy theo ý cha mẹ xếp đặt,

nhất là chuyện hôn nhân, vốn là chuyện cả cuộc đời. Đây có thể là dụng ý tác

giả muốn "lý tưởng hóa" nhân vật Quỳnh Hoa, xuất phát từ niềm yêu và niềm

thương cảm của ông với nhân vật đau khổ nhất trong tác phẩm của mình. Điểm

sáng lớn nhất trong cuộc đời nàng là mối tình thầm kín với thi sĩ Bảo Kim, nhưng

54

nỗi bất hạnh của Quỳnh Hoa là nàng đã không dám đấu tranh giành giật hạnh

phúc cho mình, để tình yêu sớm tan vỡ. Điều này đúng với những ghi chép trong

sử sách về sự yếu đuối của nàng hơn. Sự hi sinh của Quỳnh Hoa nếu đặt trong

bối cảnh lịch sử cũng là điều dễ hiểu, bởi thời phong kiến, chuyện hôn nhân vẫn

thường do cha mẹ sắp đặt. Thậm chí, trong triều, những cuộc hôn phối chính trị

vẫn thường được sắp xếp nhằm củng cố địa vị của các bậc vương tôn. Hơn nữa,

ở vào địa vị một người con gái thương cha, không muốn đẩy cha vào tình thế

khó xử, nàng còn có thể làm gì hơn là chấp thuận cho cuộc hôn nhân ngang trái

kia được diễn ra? Nàng đáng thương, mà cũng đáng trách, bởi chính lòng hiếu

thuận, không dám đấu tranh vì hạnh phúc cá nhân của mình.

2.1.3. Tuyên phi Đặng Thị Huệ

Nếu như Quỳnh Hoa đại diện cho vẻ đẹp mong manh, đoan trang, hiếu

thuận và hiểu biết lý lẽ, thì Đặng Thị Huệ đại diện cho sắc đẹp ở thế đối cực,

một vẻ đẹp đầy đặn, lôi cuốn đi với những âm mưu tranh đoạt ngôi báu. Nhan

sắc khuynh thành ấy khiến vị quân vương tài hoa trở nên mù quáng và lạc lối.

Sách Hoàng Lê Nhất thống chí chép: "Ả được đặc ân ở chung với chúa, cứ y như

một cặp vợ chồng những nhà thường dân. Mọi vật dụng như xe, kiệu, áo quần...

đều được sắm hệt như của Chúa” [26, tr.8]. Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy

Tưởng dành rất nhiều đoạn, dòng văn để mô tả vẻ đẹp của Tuyên phi Đặng Thị

Huệ. Đó là “một trang tuyệt thế giai nhân, trạc 25, 26 tuổi… Bên cạnh phi thì

bao nhiêu cung nữ, kể cả Quỳnh Hoa cũng bị lu mờ, vì phi trông rực rỡ, toàn

thắm, toàn tươi. Đẹp mà không nhạt nhẽo, hơi đẫy mà không thô, nồng nàn mà

không lơi lả. Phi là một người đàn bà có một sắc đẹp quyến rũ yêu quái. Người

phi là tiếng gọi của dục tình” [43, tr.26]. Vẻ đẹp gợi cảm của nàng khiến ngay

cả tác giả cũng phải dụng công nhiều, thông qua lối miêu tả “đòn bẩy” mà xưa

kia Nguyễn Du từng sử dụng để miêu tả Thúy Vân, Thúy Kiều. Lúc trước,

Nguyễn Huy Tưởng ca ngợi nhan sắc đoan trang của Quỳnh Hoa, tưởng như đã

là tuyệt thế giai nhân, thì chỉ sau đó ít phút, Đặng Tuyên phi đã khiến người ta

55

không thể rời ánh nhìn đi nơi khác. Nàng thật xứng danh “mỹ nhân”: “khuôn

mặt trái xoan, làn môi tình tứ, đôi mắt đen nhánh đẹp tuyệt trần ẩn dưới đôi lông

mày lá liễu, như suối chảy dục tình. Thân nàng mềm mại và uyển chuyển, vừa

phong lưu, vừa quyến rũ, phảng phất như một thứ hương mê ly” [43, tr.58].

Đặng Tuyên phi còn có một cái tài, đó là nghệ thuật pha trà khéo tay nhất vùng

Kinh Bắc, giúp nàng được mệnh danh là Bà chúa chè. Mà Chúa Trịnh vốn

nghiện trà và rất sành thưởng thức, nên tài nghệ ấy càng thu phục lòng chúa.

Nhan sắc của Thị Huệ khiến người ta dễ hiểu và cảm thông cho Chúa Trịnh bởi

tình yêu và sự sủng ái, cả sự u mê lạc lối mà ông ta dành cho nàng: “Chúa nhìn

nàng, như ngốn bằng đôi mắt đa tình, tất cả cái lâu đài xác thịt kia đã bao lần

ngài ngắm mà không lần nào thấy chán; mỗi lần ngắm là một lần tìm thấy vẻ

đẹp khác” [43, tr.58].

Người đời cảm thông cho Trịnh Sâm, nhưng kết tội Đặng Thị Huệ. Tất cả

các nhân vật trong Đêm hội Long Trì cũng đều lên án nàng. Đó không phải cái

án “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, mà nếu đọc trong tiểu thuyết,

chúng ta thấy, giữa Thị Huệ và Trịnh Sâm chỉ có mặn nồng và hưởng thụ, nếu

có luận bàn triều cương thì chỉ tìm cách hãm hại trung thần, thu vén cá nhân.

Vốn dĩ, bổn phận của bậc Mẫu nghi thiên hạ là phụ giúp chồng tề gia, trị quốc,

biết lo việc nội sự, biết can gián chồng những chuyện phải, trái, nhưng ở Đặng

Thị Huệ, điều đó hầu như không thấy đề cập. Tất cả những tài năng của nàng,

chỉ để dùng cho một việc, ấy là mê hoặc Tĩnh Đô Vương. Và tất nhiên, nhờ nhan

sắc được Chúa Trịnh yêu chiều, nên nàng lợi dụng để đòi hỏi, như thể để chứng

minh cho sức mạnh lung lạc của một trang “quốc sắc thiên hương”. Trong rất

nhiều đặc ân mà Chúa dành cho Đặng Tuyên phi, có việc ông ta nhắm mắt bỏ

qua tội lỗi của tên vô lại Đặng Lân, em trai của Đặng Thị Huệ, để đến nỗi xảy

ra nhiều chuyện đáng tiếc về sau.

2.1.4. Quận mã Đặng Lân

56

Đặng Lân có thể nói là nhân vật được Nguyễn Huy Tưởng tập trung ngòi

bút mô tả kỹ lưỡng nhất trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì. Lân gây ấn tượng

ngay từ khi xuất hiện, từ đó về sau, mỗi lời Lân nói, mỗi việc Lân làm, từng từ

ngữ, cử chỉ, điệu bộ đều được tác giả tập trung khai thác để làm nổi bật lên sự

tiểu nhân, hèn kém, bản tính độc ác, dã man đi kèm. Sử sách và văn chương

cũng dành nhiều trang ghi chép về Quận mã Đặng Mậu Lân, nguyên mẫu của

nhân vật Đặng Lân. Trong sách Hoàng Lê nhất thống chí có đoạn: “Thường

ngày, Lân vẫn đem vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang

khắp kinh ấp. Hễ gặp xe kiệu, bất kì của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà

khịa đánh nhau, làm cho họ nhục nhã, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà,

con gái giữa đường, hễ trông người nào vừa mắt, tức thì lân sai tay chân quây

màn trướng ngay tại chỗ hiếp liền” [26, tr.22]. Trong cuốn Tang thương ngẫu

lục, những ghi chép của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án còn rõ nét hơn về một kẻ

vô học, tàn nhẫn, dâm ác, nhưng lại có chức quyền: "Quận mã Đặng Lân là em

bà Đặng Tuyên phi của chúa Tĩnh Vương, thường hay ngông càn phạm phép. Y

cưỡng gian một người đàn bà không được bèn cắt vú người ta. Người chồng

kiện đến quan, y bị bắt giam ở ngục Ngự sử đài rồi vì có phi xin cho mà được

tha. Tĩnh Vương đem nàng Quận chúa thứ hai gả cho Lân, các đồ trang liêm và

của hồi môn so với các triều trước nhiều gấp mười lần. Phủ đệ dựng ở phía tây

nam kinh thành Thăng Long, đồ ăn thức dùng đàng hoàng như một vị vương

giả. Lân càng làm nhiều sự việc càn rỡ, nuôi trong nhà hơn trăm gia đồng,

thường cho đội mũ đeo gươm, ra ngoài chợ phố đi nhung nhăng, uống rượu say

đánh người bị thương. Quan Kinh doãn không kiềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra,

đem theo đến hàng mấy chục con chó săn, con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác

áo thêu, hét trước hò sau, lấp cả đường lối. Một lần nhân cơn tức giận, Lân giết

chết viên quan nội giám, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa để không ai dám vào

bắt” [16, tr.30].

Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các gia đình ông đồ luôn được xã hội

tôn trọng về nề nếp và gia phong. Nhưng ở trường hợp Đặng Lân, nguồn gốc

57

xuất thân "con một ông đồ nghèo ở làng Chè" trở nên lố bịch bởi nhân dạng và

nhân tính của hắn. Sự suy đồi và bạo ngược trong con người Đặng Lân hình

thành từ khi hắn còn là một đứa trẻ: "Thuở bé Lân đã ngỗ nghịch không chịu

học hành. Khoảng 13, 14 tuổi đã nát rượu, ham cờ bạc, và đã dự vào những trận

ăn cướp ở quanh vùng. Lớn lên, lại càng lăng loàn, đầu óc chỉ thích sắp đặt

những mưu mô chim chuột đàn bà con gái, đã thích người nào thì kỳ cho thỏa

mãn lòng dục mới thôi. Đào tường khoét vách, hãm hiếp giữa đường, Lân không

từ một thủ đoạn nào, nhiều khi bị đánh gần chết mà vẫn không bỏ. Đến khi Tuyên

phi đắc thế, được chị gọi vào kinh, Lân tha hồ phóng túng, thả lỏng ḷng dục, trác

táng tuổi thanh niên" [43, tr.50]. Ẩn trong con người Đặng Lân là một con quỷ.

Con quỷ đó không phải do Nguyễn Huy Tưởng vẽ ra và khoác lên người Lân,

mà từ nguyên mẫu Đặng Mậu Lân trong đời thực. Trong tiểu thuyết, sự mô tả

về Đặng Lân của nhà văn cũng rất chi tiết, mỗi lần Lân xuất hiện đều khiến

người ta phải khiếp hãi: "Cờ dong, trống mở, đồ bát bửu dàn bày, đàn sáo nhã

nhạc tấu lên. Bùi Đãng và năm mươi tên gia nhân bận võ trang, đeo kiếm dài

rước Đặng Lân lên mình con ngựa bạch, yên vàng, bành gấm. Tàn tán, cờ quạt

xúm xít che kín, trông sặc sỡ những màu đỏ, màu xanh, và lóng lánh những mặt

kính, những hột vàng, những tua kim tuyến. Sau Đặng Lân lại có một toán năm

mươi võ sĩ xếp hàng hai theo hộ vệ, và đi đoạn hậu là một bọn gia nhân mặc áo

nẹp, khiêng một chiếc giường thất bảo, màn bát tiên, ở trong người ta nhận thấy

đôi gối thêu uyên ương, nệm gấm, hương thơm ngào ngạt.

Khi cổng phủ Đặng Lân mở rộng, và cờ quạt ở trong rước ra, mấy nhà

hàng phố kêu thất thanh:

- Cậu Trời đấy!

Tức thì người ta chạy tán loạn, nhất là những đàn bà con gái. Tiếng kêu

trời, kêu đất, xen lẫn với tiếng đóng cửa ầm ầm..." [43, tr.142].

Đặng Lân ỷ thế chị, hoành hành ngang ngược, đòi cưới Quỳnh Hoa, phá

tan mối tình thơ mộng của nàng với Bảo Kim, đồng thời đày đọa người thiếu nữ

58

ấy đến nước yểu mệnh. Không những thế, hắn còn ngang nhiên làm những trò

đồi bại và tàn ác ngay giữa phố phường, làm điên đảo cuộc sống của bao gia

đình lương thiện trong kinh thành. Lân chính là bộ mặt dục vọng ghê tởm nhất

của tầng lớp thống trị trong xã hội ấy, núp dưới bóng quyền lực. Sự ngang ngược,

hống hách của hắn dường như hàm chứa tất cả những điều ác của các tên bạo

chúa khét tiếng trong lịch sử, nó ngang nhiên diễn ra vì không một thế lực nào

dám cản trở. Lân giống như một con quỷ khát máu đã không còn biết đến giới

hạn, khắp người hắn đều vấy máu bởi những cuộc chém giết không gớm tay.

Ngay cả những cuộc vui của Lân cũng sặc mùi máu tanh: "Lân tức giận nghiến

răng, rút con dao găm sáng loáng trong bọc ra, đâm thẳng xuống ngực thiếu

phụ. Ả chỉ kịp kêu:

- Trời ơi! Chết tôi rồi!

Đặng Lân rút dao ra, đâm luôn mười mấy nhát, đá cái thây sang một bên,

rồi quát như con quỷ sứ"... "Đặng Lân rút dao ra, cười một cái cười ma quỷ, say

sưa trong tội ác, lại đâm lia lịa nạn nhân cho đến khi không thấy cử động nữa

bấy giờ mới thôi"... "Lân ngắm đến mình, thấy quần áo đỏ ngầu những máu, tay

chân cũng vậy. Vội lấy tay vuốt mồ hôi mặt, và mặt như sơn đỏ, trông càng kinh

tởm"... [43, tr.104-105]. Đặng Lân đã trực tiếp phá hoại những giá trị văn hóa,

làm băng hoại giá trị đạo đức truyền thống, cũng là kẻ đẩy Tĩnh Đô Vương vào

tình thế tiến thoái lưỡng nan, gián tiếp dẫn đến những hậu quả nguy hại về sau.

Vậy nhưng, Chúa Trịnh đã làm ngơ trước tội ác. Bao sinh mạng, phẩm giá của

những con người vô tội, ngay cả số phận của những người thân yêu nhất bên

Trịnh Sâm cũng trở nên vô nghĩa trước một giọt lệ, một cái chau mày của Tuyên

phi. Khi người đứng đầu vương pháp đã không còn là người cầm cân nảy mực

sáng suốt trong triều đại ấy nữa, khi quyền lực bị thao túng thì công lý còn đâu?

2.1.5. Các nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại và Bảo Kim

Nếu như Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ, Đặng Lân, Quỳnh Hoa, được Nguyễn

Huy Tưởng xây dựng từ các nguyên mẫu lịch sử, thì Bảo Kim, những người bạn

59

và Quan hộ thành Nguyễn Mại là những nhân vật được nhà văn hư cấu. Những

nhân vật hư cấu này có thể chia ra làm hai lớp nhưng không đối cực mà luôn

nâng đỡ, tôn vinh nhau: Một bên là Bảo Kim và những người bạn - những chàng

thư sinh áo vải nho nhã, “đề huề lưng túi gió trăng”; một bên là Quan hộ thành

Nguyễn Mại - viên dũng tướng luôn trượng nghĩa, chí tình. Bảo Kim vốn là

chàng nho sĩ giỏi thơ phú, có tính khí khẳng khái, cương trực, “Người Kẻ

chợ đã tặng cho chàng tiếng danh sĩ. Tuy còn ít tuổi nhưng chàng đã bác lãm

quần thư, nghị luận giỏi, văn chương tao nhã” [43, tr.12]. Trong đêm hội trung

thu bên hồ Long Trì thơ mộng, Bảo Kim đã chứng tỏ được tài thơ phú thiên

bẩm trong cuộc thi thơ do quận chúa Quỳnh Hoa ra đề. Xúc động trước cảnh và

người, Bảo Kim đã hoàn thành tác phẩm ứng thí và được giám khảo Thị lang

Ngô Thời Sĩ đánh giá là “thiên cổ kỳ tài”. Trước văn tài và cả phong thái của

chàng, quận chúa đã đem lòng cảm mến và Bảo Kim cũng đã thầm thương trộm

nhớ người con gái yêu của Tĩnh Đô Vương. Nhưng mối tình đẹp đẽ ấy mãi chỉ

là giấc mơ vì sự xuất hiện của “Cậu Trời”. Bảo Kim và những người bạn văn

chương của chàng đều là những người có tài, nhưng cái tài của họ khó lòng xoay

chuyển được thế cục bấy giờ. Họ cũng là những người có nghĩa khí, nhưng nghĩa

khí thôi chưa đủ để họ tạo nên những bước chuyển. Hai lần họ ra tay hành động

nghĩa hiệp, thì cũng là hai lần thất bại trong tay Đặng Lân. Và đó là lúc Nguyễn

Mại xuất hiện.

Có thể nói, các nhân vật hư cấu xuất hiện theo lớp lang, kẻ trước người

sau theo một mô hình chung: Nối tiếp sau sự bất lực, thất bại của những chàng

nho sĩ là sự ra tay và thắng lợi của vị võ tướng. Hai lớp nhân vật này thể hiện rất

rõ sự chuyển mình của thời kỳ phong kiến lúc bấy giờ, khi chữ nghĩa nho giáo

bắt đầu nhường đường cho những người đấu tranh bằng vũ lực. Nguyễn Mại

chính là vị cứu tinh trong cả hai lần tên háo sắc Đặng Lân lên cơn bạo ngược.

Chàng cũng chính là người mở nút thắt cho tác phẩm, cho cả bi kịch đang diễn

ra khi ra tay diệt trừ Đặng Lân, trả lại sự bình yên cho muôn dân. Với Nguyễn

Mại, những kẻ như Đặng Lân cần phải diệt sạch, khỏi cần biết thế lực sau lưng

60

là ai, khỏi cần mất công ngồi lập kế hoạch, chờ thời cơ, cứ trái phép nước lòng

dân là phải trừng trị, “Cậu Trời cũng chém!”. Cũng giống như nhân vật Từ Hải

trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), hình ảnh Nguyễn Mại được xây dựng với

những nét lý tưởng, thể hiện ước mơ cháy bỏng của người dân vào niềm tin

công lý. Nhân vật Nguyễn Mại là nhân vật được Nguyễn Huy Tưởng quan tâm

xây dựng hình tượng nhất trong tác phẩm trong vai trò Anh hùng, cũng là nhân

vật ông nghĩ đến đầu tiên khi xây dựng tiểu thuyết Đêm hội Long Trì. Điều này

được thể hiện trong nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng trong những đoạn ghi chép

ngày 15/6/1942: “Trong buổi khó khăn, gạo châu củi quế, mà mẹ già không

kiếm nổi miếng cơm, ta không gửi tiền cho mẹ thì mẹ trông cậy vào đâu mà

sống? Trí óc băn khoăn về vấn đề tiền. Muốn viết một cuốn tiểu thuyết bán lấy

tiền để cung cấp mẹ già. Nghĩ đến chuyện Nguyễn Mại” [55] và ghi chép ngày

16/7/1942: “Một nơi cằn cỗi, chỉ có đá khô khan, người đời không làm gì được,

nhưng thi sĩ có thể biến thành một nơi đẹp đẽ vô cùng. Một biểu hiện. Không

cần cái cốt truyện, cần người sáng tác, điểm xuyết nên một công trình tuyệt

phẩm. Truyện Nguyễn Mại viết đã được 23 trang (hai nửa mặt) nghĩa là được

nửa công việc rồi. Cố lên một chút thì ta hoàn thành. Thượng đế hãy giúp tôi để

tôi thành chính quả” [55]. Như vậy, Nguyễn Mại có thể nói chính là ý tưởng, là

nguồn cảm hứng để nhà văn hình thành đường dây tác phẩm của mình. Đây

dường như cũng là nhân vật mà chủ đích ban đầu của ông xây dựng chàng là

một trong những nhân vật chính. Nhưng như chúng ta đã thấy trên thực tế tiểu

thuyết Đêm hội long Trì, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt Nguyễn Mại ở vị trí nhân

vật “mở nút”, một nhân vật phụ nhưng có vai trò rất quan trọng trong việc tháo

gỡ nút thắt, giải quyết bi kịch, thể hiện nhân sinh quan của tác giả. Hư cấu nên

nhân vật Nguyễn Mại, Nguyễn Huy Tưởng xây dựng mô típ tác phẩm theo

hướng kết thúc có hậu, mong muốn về những điều tốt đẹp trong cuộc sống, đồng

thời gửi gắm vào đó ước muốn đổi thay lịch sử, cũng như kì vọng về tương lai.

Trong thực tế lịch sử, không có văn bản nào ghi chép lại sự tồn tại của

Bảo Kim, Nguyễn Mại và những người bạn văn nhân, họ đều là sáng tạo của

61

Nguyễn Huy Tưởng. Những nhân vật này có vai trò lớn trong việc bổ khuyết,

lấp đầy những khoảng trống của lịch sử, đồng thời soi chiếu làm nổi bật hình

tượng nhân vật trung tâm. Trong cái nhìn về lịch sử ấy, còn đau đáu một nỗi

niềm trăn trở của kẻ sĩ, đặt ra các vấn đề đối thoại về tương quan giữa bạo lực

và nghệ thuật, nghệ thuật với cường quyền. Tài hoa của Bảo Kim cũng bất

lực trước sự chuyên quyền bạo ngược của Đặng Lân. Mặt khác qua hình tượng

nhân vật hư cấu, nhà văn cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm trước

những vấn đề mà lịch sử và cuộc sống nhân sinh đang đặt ra. Trong đó, nhân vật

Nguyễn Mại được tác giả gửi gắm ước mơ chính nghĩa chiến thắng. Chàng

Nguyễn Mại chính trực, ngay thẳng, giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha,

luôn nghĩ về sứ mệnh của kẻ sĩ là đền đáp ân chuẩn triều đình cũng như đối với

số phận của nhân dân. Xây dựng hình tượng nhân vật Nguyễn Mại trong mối

quan hệ quân - thần, quan - dân, tác giả đặt ra một vấn đề của xã hội đương thời.

Đó là bi kịch giữa trách nhiệm công dân với sự thối nát của chế độ cầm quyền

trong hoàn cảnh xã hội ngột ngạt, o ép.

Nguyễn Huy Tưởng chọn cho mình đề tài về bi kịch gia đình Chúa Trịnh

Sâm, tưởng như không lớn, nhưng tư tưởng chủ đề của tác phẩm thì vượt qua đề

tài nó phản ánh. Xung đột giữa hai tuyến nhân vật (Đặng Thị Huệ, Đặng Lân

với Quỳnh Hoa, Nguyễn Mại, Bảo Kim và dân Thăng Long) thực chất là cuộc

tranh đấu giữa thiện - ác, chính - tà, dục vọng - lương tri, lý tưởng, lòng nghĩa

hiệp với cường quyền bạo ngược. Hệ thống nhân vật trong phim Đêm hội Long

Trì được giữ lại khá nguyên bản so với tác phẩm văn học. Tuy nhiên, đạo diễn

Hải Ninh đã có những thay đổi nhất định trong từng nhân vật để tạo ra những

điểm nhấn, làm nổi bật tính cách nhân vật, cũng như gia tăng mối liên hệ, sự

xung đột để bộ phim cuốn hút khán giả.

Tóm lại, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì khá phong

phú, chia làm 2 tuyến thiện - ác rõ rệt. Trong đó, có những nhân nhân vật được

xây dựng đúng với nguyên mẫu lịch sử: Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ; nhân vật nửa

62

lịch sử, nửa hư cấu: Đặng Lân, Quỳnh Hoa; và những nhân vật hoàn toàn hư

cấu: Bảo Kim, Nguyễn Mại... Điều đó cho thấy tài hoa của Nguyễn Huy Tưởng

khi dựa trên một lát cắt lịch sử, dựa trên những nhân vật có thật, đã sáng tạo nên

một câu chuyện bi kịch vừa mang yếu tố lịch sử, vừa mang yếu tố thời đại, với

những nhân vật tưởng như bước ra từ lịch sử, nhưng lại rất gần gũi đời thường.

Nhân vật là một trong những yếu tố hàng đầu góp phần tạo nên thành công

cho tác phẩm nghệ thuật. Ở bất cứ bộ môn nghệ thuật nào, việc xây dựng nhân vật

luôn được xem trọng và cần sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Đối với tác phẩm văn

2.2. Hệ thống nhân vật trong phim điện ảnh Đêm hội Long Trì

học, ngôn từ là phương tiện để nhà văn tác động vào các giác quan của độc giả,

gợi mở sự kiện, hình ảnh, chi tiết, tình huống, khơi gợi cảm xúc và những kiến

giải, tạo dựng cho người đọc sự tưởng tượng về nhân vật, về hình tượng nghệ

thuật trong tác phẩm. Mỗi hình tượng nghệ thuật sẽ hình thành từ suy nghĩ và

tưởng tượng của những người đọc khác nhau, hay nói các khác, người đọc có sự

hình dung của riêng mình về các nhân vật theo trải nghiệm của chính họ.

Người đọc văn học nhìn thấy nhân vật trong mắt đọc của mình và nhận

thức, tưởng tượng ra nhân vật theo cách cảm, cách nghĩ của mình. Nhưng khi

bước sang không gian điện ảnh, nhân vật sẽ phải vận động, phải thể hiện được

sự phát triển con người, phát triển tính cách thông qua cách đối diện với các sự

kiện, các tình huống và xung đột trong một bối cảnh thật, thời gian và không

của các loại hình nghệ thuật khác. Nhờ vào khả năng vận động trong bối cảnh thật

mà người xem có điều kiện tiếp xúc trực tiếp, cảm nhận trực tiếp nhân vật trong

phim bằng mọi giác quan, giống như họ đang được đối diện với những con người

thật trong cuộc sống và cũng có những cảm xúc yêu ghét chân thực như cuộc sống.

gian nghệ thuật chân thực. Đây là thế mạnh của nhân vật điện ảnh so với nhân vật

Chính bởi lẽ đó, hình tượng nghệ thuật trong phim cần có sức cộng hưởng

lớn với những yếu tố khác và có thành công hay không phụ thuộc nhiều vào tâm

huyết, sự cẩn trọng cùng khả năng sáng tạo của những người tạo ra nó (biên

63

kịch, đạo diễn, diễn viên…). Xây dựng thành công một hình tượng nghệ thuật

điện ảnh điển hình, khái quát, với tính thẩm mỹ cao và có tầm ảnh hưởng sâu

sắc, tác động đến người xem, thực sự không đơn giản đối với bất kỳ một nhà

sáng tác nào. Công việc này đòi hỏi người nghệ sĩ phải suy nghĩ, trăn trở, dám

đi đến tận cùng của sự sáng tạo. Trong cuốn sách Những vấn đề lý luận kịch bản

phim, tác giả Đoàn Minh Tuấn đã nêu ra yếu tố cơ bản nhất cho việc xây dựng

nhân vật trong một bộ phim, và đó chính là hành động cũng như sự phát triển

của nhân vật. Cũng trong cuốn sách này, tác giả đã đưa ra ý kiến của nhà nghiên

cứu người Mỹ Syd Field (Sydney Alvin Field), người vẫn được xem là chuẩn

mực trong xây dựng nhân vật điện ảnh, với bốn yếu tố làm nên một nhân vật

điện ảnh sống động. Đó là: “nhân vật phải có quan điểm sống, nhân vật phải có

thái độ với những người xung quanh, nhân vật phải có hành động, nhân vật phải

có sự thay đổi. Đây là những yếu tố quan trọng và cần thiết khi xây dựng và hình

thành nhân vật trong tác phẩm điện ảnh. Xây dựng được nhân vật có 4 yếu tố

trên đồng nghĩa với việc để người xem có thể cảm nhận đầy đủ bên ngoài cũng

như bên trong của nhân vật” [42].

Trong tác phẩm điện ảnh, người mang đến cho khán giả những xúc cảm

thật về hình tượng nghệ thuật là diễn viên. Bằng ngoài hình, hóa trang, phục

trang và nghệ thuật diễn xuất nhằm thể hiện ý đồ của đạo diễn, người diễn viên

sẽ đến gần với nhân vật nhất, cho người xem hình dung về nhân vật dựa trên

sự hình dung của các nhà làm phim. Bản thân nhà đạo diễn khi bắt tay vào xây

dựng một bộ phim cũng đã có sự tưởng tượng, suy ngẫm, hình tượng hóa nhân

vật của mình sau khi cảm thụ qua tác phẩm văn học, hay qua kịch bản, từ đó,

tạo dựng cho riêng mình một hình tượng nhân vật cả về ngoại hình và tính

cách.

Chuyển thể tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đã

thành công khi đưa lên màn ảnh những hình tượng nhân vật đầy sức thuyết phục,

khiến người xem tưởng như những nhân vật bước ra từ tiểu thuyết của Nguyễn

64

Huy Tưởng, chính xác rõ ràng đến từng chân tơ kẽ tóc, nhưng cũng lại biến hóa

ảo diệu và đời thực đến ngỡ ngàng.

2.2.1. Tuyên phi Đặng Thị Huệ

Tuyên phi Đặng Thị Huệ là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất của

bộ phim. Đây có thể nói là nhân vật thành công nhất trong hệ thống nhân vật của

tiểu thuyết Đêm hội Long Trì được đạo diễn đưa lên màn ảnh. Ở cả hai thời điểm

sáng tác cách nhau nửa thế kỷ, với 2 loại hình nghệ thuật khác nhau, các tác giả

đều tập trung miêu tả sức hút của một huyền thoại về sức quyến rũ ma mị đến

khuynh đảo của “yếu tố đàn bà” - cái huyền thoại đã có cả một kho điển tích lưu

truyền từ đông sang tây.

Nếu như trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng chủ yếu mô tả những mưu

mô của Đặng Tuyên phi nhằm dồn ép Chúa Trịnh đồng ý gả quận chúa cho Đặng

Lân, thì khi chuyển thể, các nhà biên kịch và đạo diễn Hải Ninh đã nâng tầm, tố

cáo sự xảo quyệt của Đặng Tuyên phi đã làm khuynh đảo cả gia pháp tôn nghiêm

nơi phủ chúa cũng như trật tự xã hội. Hình ảnh Đặng Tuyên phi trong phim được

tô thêm tham vọng tiếm quyền. Nhiều phân cảnh được các nhà làm phim khai

thác từ văn chương và chính sử ghi chép về Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ được

đưa vào dàn dựng, như: phân cảnh Thị Huệ ném viên ngọc dạ quang - chiến lợi

phẩm của một trận đánh phương Nam của Chúa Trịnh(1), hay phân cảnh Đặng

(1) Theo Hoàng Lê nhất thống chí, Chúa Trịnh có một viên ngọc dạ quang, thu được khi đánh dẹp phương Nam, vẫn thường xâu ở trên đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm, Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói: “Nhè nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc sây sát!”. Thị Huệ bèn ném viên ngọc xuống đất mà khóc rằng: “Làm gì cái hạt ngọc này! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt khác là cùng. Sao chúa nỡ trọng của khinh người như vậy?”. Rồi ả tự ý bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng nhiều cách dỗ dành cho ả vui lòng, lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa. (2) Hoàng Đình Bảo (1743 - 1782) còn được người đương thời gọi là Huy Quận Công, hay Quận Huy. Hoàng Đình Bảo thi đỗ Hương Cống (cử nhân), rồi đỗ tiếp Tạo sỹ (Tiến sỹ võ), được phong tới tước Quận Công và được Chúa Trịnh Sâm gả con gái cho. Năm 1778, ông được Chúa Trịnh cho coi việc trong phủ chúa và lĩnh chức Trấn thủ Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình). Khi trong họ Trịnh xảy ra tranh chấp ngôi Thế tử giữa con trưởng là Trịnh Tông và con thứ là Trịnh Cán, Quận Huy ngả theo Đặng Thị Huệ để giúp Trịnh Cán còn nhỏ. Năm 1782, Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán mới 5 tuổi lên thay, tức là Điện Đô Vương. Quận Huy được cử giữ chức phụ chính trong phủ chúa Trịnh. Cuối tháng 10/1782, lính kiêu binh đảo chính lật đổ Trịnh Cán để lập Trịnh Tông, Quận Huy bị giết, Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ bị truất, Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương.

Thị Huệ luận bàn cùng với Quận Huy Hoàng Đình Bảo(2) nhằm âm mưu diệt

65

trưởng lập thứ được dàn dựng, đã cho thấy sự chiều chuộng quá mức của Tĩnh

Đô Vương với Thị Huệ và âm mưu soán ngôi của vị sủng phi đã làm dấy lên

những “bão táp cung đình”.

Hình 4: Đặng Thị Huệ quyến rũ Trịnh Sâm, đòi gả Quỳnh Hoa

cho Đặng Lân

Nghệ sĩ ưu tú Lê Vân đóng vai Đặng Thị Huệ khi ở vào độ chín cả về

nhan sắc và tài năng. Và không làm thất vọng đạo diễn Hải Ninh cũng như sự

kỳ vọng của khán giả, với vẻ đẹp đài các, sang trọng và lộng lẫy, chị đã thể hiện

rất cuốn hút vai diễn của mình, tạo nên thần thái của một Tuyên phi quyền quý,

sắc sảo và đầy toan tính. Không chỉ ở ngoại hình, những chi tiết diễn xuất qua

từng phân đoạn có sự xuất hiện của Lê Vân đều toát lên trọn vẹn tinh thần của

nhân vật. Theo dõi xuyên suốt bộ phim, người xem có thể cảm nhận được sự

biến hóa đa dạng trong phong cách diễn xuất của Lê Vân, khi vừa dịu dàng, nồng

nàn và nũng nịu, khi lại thật lạnh lùng và sắc sảo. Truyện Kiều có câu “Đàn bà

dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan” để nói về cơ mưu của người

đàn bà, thì cũng có thể nói, Đặng Thị Huệ là một người đàn bà bản lĩnh, bản lĩnh

đến mức gây dựng phe cánh, liên kết trong ngoài, âm mưu “hoán Chúa”. Ở phân

đoạn Quận Huy vào gặp cung gặp Đặng Thị Huệ. Theo vương pháp, việc quần

thần đến nội cung gặp gỡ vương phi là chuyện đại kị, có thể khép vào tội chết.

66

Nhưng ở đây, Đặng Thị Huệ đã cho người hầu lui đi để bàn tính chuyện cơ mật,

đó là ngụy tạo bằng chứng để mưu hại Thế tử Tông, giao cho Quận Huy tìm

cách tâu trình với Chúa Trịnh. Sự tính toán của Thị Huệ nằm trong từng đường

đi nước bước, kể cả việc diệt trừ những cận thần bên cạnh Thế tử: “Quận Công

nói đúng. Nếu không sớm trừ Hồng Lĩnh hầu(1) và Tuân Sinh hầu(2), thì đại sự sẽ

không thành” [28, tập 1, 01:07:02]. Sự sắc sảo đến tàn nhẫn của Thị Huệ cũng

thể hiện trong cuộc trò chuyện với Đặng Lân, khi em trai thể hiện sự chán

chường về cuộc hôn nhân với Quỳnh Hoa, Đặng Thị Huệ đã cho Đặng Lân một

cái tát: “Đồ ngu! Ta cưới Quận chúa cho mi không phải để làm vợ, mà là để thờ,

nghe chưa? Có Quận chúa đó, ta mới dễ bề kêu cầu cho mi, việc lớn mới thành

được, mới diệt trừ được Nguyễn Mại. Từ giờ cho tới lúc đó, ta cấm mi không

được manh động, nghe chưa?” [28, tập 2, 00:39:35]. Cùng với lời nói là nét mặt

đanh thép, bàn tay nắm chặt ve áo rồi lại buông ra, bước chân di chuyển đi vào

rồi quay ra theo từng lời. Có thể nói, bên cạnh ngoại hình là một ưu thế, cách

diễn giàu cảm xúc, ngôn ngữ ánh mắt, ngôn ngữ hình thể đều toát lên phong thái

của một vương phi nhiều tham vọng. Cái tham vọng khiến người đàn bà sẵn

sàng vùi dập một người đàn bà khác không chỉ để làm vui cho người thân mà

còn để lợi dụng cho việc thanh trừng những mối nguy hại về sau. Lê Vân không

chỉ cho người xem một hình dung đầy đủ về Đặng Thị Huệ trong tiểu thuyết của

Nguyễn Huy Tưởng, mà còn là hình dung về Tuyên phi Đặng Thị Huệ có thật

trong lịch sử với những âm mưu thâu tóm quyền lực, tranh đoạt vương quyền.

2.2.2. Quận mã Đặng Lân

Đặng Thị Huệ và Đặng Lân là những khuôn mặt khác nhau, những biến

thể khác nhau của cái ác. Nếu Đặng Thị Huệ tiêu biểu cho cái ác ẩn dấu sau nhan

sắc mĩ miều thì Đặng Lân là biểu tượng của bạo lực và dâm loạn. Nhà văn

(1) Tức Hồng Lĩnh hầu Nguyễn Khản (có sách ghi là Nguyễn Lệ), Trấn thủ Sơn Tây. (2) Tức Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, Trấn thủ Kinh Bắc.

Nguyễn Huy Tưởng đã bồi đắp Đặng Mậu Lân trong lịch sử thành một Đặng

67

Lân trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì như một hiện của dục vọng và tội ác.

Khi nhắc đến nhân vật này, Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng, nhân vật Mậu Lân

đã được “khai thác tỉ mỉ hơn, sinh động hơn. Hắn như một con thú dữ khát mồi,

hãm hiếp, phá phách, giết chóc, coi thường kỷ cương xã hội, chà đạp lên đạo lý,

sống dã man, tàn bạo và dâm loạn…” [54].

Hình 5: Tạo hình nhân vật Đặng Lân trong phim Đêm hội Long Trì

Về ngoại hình của Đặng Lân được mô tả: “Ấy là một gã trai trẻ, người

tầm thước, mắt diều hâu, lông mày rậm, râu ria nhiều, nhưng cạo nhẵn, ăn mặc

rất sang” [43, tr.19]. Trong phim, vai diễn ấy đã được đóng đinh cho nghệ sĩ

Hoàng Thắng, hay nói cách khác, Thắng sinh ra để đóng vai Đặng Lân. Về ngoại

hình, Hoàng Thắng không có được sự bảnh bao của Đặng Lân trong tiểu thuyết,

nhưng lại rất đúng hình dung của mọi người về đôi mắt diều hâu và đôi lông

mày rậm. Chưa kể, các nhà hóa trang đã điểm thêm cho nhân vật một nốt ruồi

bên dưới mép trái. Đây thật sự là nốt ruồi “sát chủ” bởi nó làm nổi bật cái vẻ

dâm đãng, thô tục, vô học và nham hiểm của nhân vật. Trong phim, vai diễn của

Hoàng Thắng đã lột tả đầy đủ sự lưu manh, ngông cuồng, dâm loạn, tàn bạo của

tên Quận mã, từ ánh mắt phóng túng, nụ cười khả ố, giọng nói ngang ngược,

dáng đi hùng hổ, cả trong cách xưng danh Cậu Trời của hắn. Cách ăn nói của

nhân vật cũng đầy thô lỗ, ngạo mạn, coi thường phép nước, coi thường cả bậc

68

quân vương là Chúa Trịnh. Đặng Lân xuất hiện ở đâu, dù là hồ Long Trì tráng

lệ trong phủ chúa, hay trong cái phủ quốc cữu “lòe loẹt” của y, hoặc giữa phố

phường Thăng Long, đều làm cho nơi đó trở nên hỗn loạn, mang theo nỗi tủi

nhục đến cho bao người phụ nữ.

Tuy nhiên, trong tác phẩm điện ảnh, đạo diễn Hải Ninh dường như đã

"nương tay" hơn với Đặng Lân khi loại bỏ phần kết của những "bữa tiệc đẫm

máu" trong phủ Quận mã, cũng như nhiều phân đoạn giết người không ghê tay

của hắn so với tiểu thuyết. Theo cảm nhận của chúng tôi, dường như đạo diễn

muốn dồn sự tàn bạo trong con người đó vào phần sau, khi Đặng Lân đến gặp

Quỳnh Hoa trong đêm tân hôn [28, tập 2, 00:21:42]. Đặng Lân phá cửa, xông

lên lầu Quận chúa đòi động phòng hoa chúc. Khê Trung hầu giơ roi lệnh của

Chúa Trịnh, hắn cũng bất chấp: “Thì làm gì được ta?”. Trong đoạn này, Đặng

Lân và bọn hầu cận đã giết 2 đại thần theo bảo vệ Quỳnh Hoa là Lương Ngự sử

và Khê Trung hầu.

Có thể nói, diễn viên Hoàng Thắng đã làm tốt vai trò nhân vật kịch tính,

nắm giữ và đẩy cao các xung đột trong phim, khắc họa rõ nét Đặng Lân như một

bạo chúa điển hình, từ ngoại hình đến tính cách. Vai diễn đã ghi dấu ấn sâu sắc

trong cuộc đời nghệ sĩ mà cho đến hôm nay, sau khi ông qua đời, khán giả vẫn

nhắc đến vai diễn này như một đỉnh cao về sự hóa thân vào hình tượng nhân vật

của ông.

2.2.3. Chúa Trịnh Sâm

Với Đêm hội Long trì, đạo diễn - nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh đã thành

công khi quy tụ được một dàn diễn viên đầy sức thuyết phục, từ tạo hình nhân

vật đến diễn xuất đều rất nghiêm túc, nhập vai xuất thần. Đó là nghệ sĩ nhân dân

Thế Anh với ánh mắt da diết, yêu thương đầy bất lực khi nghĩ về đứa con gái

bạc phận, nhưng cũng là đôi mắt ấy trở nên đa tình, mê đắm đến mù quáng khi

ngắm Đặng Thị Huệ. Trịnh Sâm trong phim khiến người ta thương nhiều hơn

ghét, dù ông ta chính là nguyên nhân của mọi biến cố cung đình. Chúa Trịnh

69

từng là người sáng suốt, vậy mà, “từ ngày sủng ái Tuyên phi, việc triều chính

mỗi ngày một nát”,... “Tĩnh Vương chỉ vì say đắm Tuyên phi mà làm toàn những

điều bất chính; bao nhiêu lời can gián đều vô hiệu cả. Việc gì cũng nghe Tuyên

phi” [43, tr.24]. Đây có thể nói là nhân vật có tính cách phức tạp nhất trong tác

phẩm. Trịnh Sâm có lúc là người sáng suốt, anh minh, biết lo lắng cho cơ đồ;

ông cũng là người biết quý trọng nhân tài, mến mộ những người thao lược, trung

nghĩa như Nguyễn Mại, cũng như biết thưởng thức văn chương, yêu mến tài hoa

của Bảo Kim. Trong phim, nhiều phân đoạn thể hiện rõ niềm thương con hết

mực của Chúa Trịnh, ông cũng là người tâm lý khi biết trái tim Quỳnh Hoa đã

hướng về chàng văn sĩ Bảo Kim và cũng có ý định tác hợp cho đôi trẻ. Vậy

nhưng cũng lại là Trịnh Sâm giằng xé giữa 2 thứ tình yêu: một bên là tình thương

con đứt ruột, một bên lại day dứt vì sợ Ái phi buồn lòng. Phân đoạn đưa Quỳnh

Hoa xuất giá về phủ Đặng Lân được đạo diễn xây dựng giống như một cuộc chia

ly [28, tập 1, 01:31:00]. Xưa nay, đám cưới vốn là hỷ sự, là chuyện vui, nhưng

cuộc hôn nhân này ngay từ đầu đã đầy nước mắt. Quỳnh Hoa bái biệt phụ vương

lên kiệu, đôi mắt Trịnh Sâm nhìn theo con bàng hoàng, rưng rưng, tưởng như

một cuộc sinh ly tử biệt: “Cha làm hại con rồi. Quỳnh Hoa!”. Trong tiểu thuyết,

Nguyễn Huy Tưởng có viết về tình cảnh này, nhưng trên phim, sự kiện trở nên

sống động và gây xúc cảm mạnh mẽ cho người xem. Quận chúa Quỳnh Hoa tựa

như một nguồn ánh sáng trong trẻo, một thứ nước nguồn tưới mát tâm hồn Trịnh

Sâm, làm dịu đi những áp lực, tranh đoạt triều chính. Quỳnh Hoa ra đi, những

người tốt bên Chúa Trịnh dường như dần cũng rời khỏi Ngài, bởi đơn giản, Ngài

nắm vương quyền trong tay nhưng lại không bảo vệ những điều tốt đẹp, không

bảo vệ người thân bên mình, để đến nỗi xô đẩy con gái ruột vào nơi tăm tối đến

bước đường yểu mệnh. Đau lòng nhất là quyền uy của ông lại trở thành thế lực

che chở cho cái ác lộng hành.

70

Hình 6: Chúa Trịnh Sâm do nghệ sĩ Thế Anh thể hiện

Nghệ sĩ nhân dân Thế Anh là một trong những gương mặt gạo cội của nền

điện ảnh cách mạng Việt Nam. Trước khi tham gia Đêm hội Long Trì, tên tuổi

của ông đã rất nổi tiếng với nhiều vai diễn, trong đó có thể kể đến vai Trung úy

Phương trong phim "Nổi gió", Ba Duy trong “Mối tình đầu”… Trong Đêm hội

Long Trì, nghệ sĩ Thế Anh đóng vai chúa Trịnh Sâm. Ông chia sẻ: “Vai chúa

Trịnh Sâm có khá nhiều ứng viên nhưng cuối cùng tôi đã được chọn. Vào vai

này, thần sắc của gương mặt rất quan trọng, ngay cả việc chúa quắc mắc lên

cũng phải khác người thường. Người đóng những vai vua chúa phải thể hiện

được cái oai phong. Khi vớ được vai này tôi rất thích vì Trịnh Sâm là một nhân

vật đầy tâm trạng, có tài nhưng háo sắc” [65]. Thế Anh đã định hình một Trịnh

Sâm tài hoa, đa tình, nhưng lại là người luôn bị những giằng xé nội tâm, có ý

thức về lẽ phải, về chính nghĩa, nhưng lại khá mơ hồ, dễ dao động vì đã bị nhan

sắc và những thú trụy lạc chi phối đến bạc nhược. Cách diễn xuất của Thế Anh

qua đôi mắt chất chứa tâm sự khiến nhân vật này tạo được những ấn tượng sâu

sắc cho khán giả.

2.2.4. Quận chúa Quỳnh Hoa

Với trường hợp Quận chúa Quỳnh Hoa được chuyển thể khá trung thành

với nguyên tác, từ cách tạo hình với vẻ đẹp trong sáng, cho đến tính cách dịu

dàng, nhẫn nhịn và cách suy nghĩ hướng nội. Nếu Quỳnh Hoa ở đoạn đầu tiểu

71

thuyết là một cô gái xinh đẹp, thông minh và tài hoa, thì ở đoạn đầu phim chuyển

thể, Quỳnh Hoa lại cho người xem cảm giác về một nàng quận chúa thích ngao

du sơn thủy. Trong hình hài một cô gái thường dân, nàng hòa vào đêm hội, hòa

mình vào quần chúng như thể đó mới là nơi thuộc về mình. Hẳn nhiên, đó cũng

là một ẩn dụ của các nhà làm phim về số phận đớn đau của nàng. Nếu Quỳnh

Hoa không lớn lên trong nhung lụa vàng son, nếu Quỳnh Hoa cũng như bao dân

nữ đời thường, rất có thể cuộc đời của nàng đã khác, bình lặng và an yên. Và

chính trong hình hài dân thường đó, nàng đã tìm thấy tình yêu, một tình yêu nảy

nở rất đỗi tự nhiên, ngay từ phút ban đầu gặp gỡ, một tình yêu không rào cản,

không bị ràng buộc bởi lễ giáo, hay vật chất.

Hình 7: Gương mặt giấu sau chiếc quạt với đôi mắt trong sáng của

Quỳnh Hoa đã hút hồn thi sĩ Bảo Kim trong đêm hội Long Trì

Nhưng Quỳnh Hoa không có sự lựa chọn? Dù rất hạnh phúc bởi cuộc “vi

hành” đó, thì cũng chỉ như phút vui qua mau khi nàng phải trở về với thân phận

thực sự của mình, con gái vị chủ nhân cuộc thi thơ “Quần Anh hội”. Các nhà

làm phim đã thay đổi chi tiết chủ nhân "Quần anh hội" so với tiểu thuyết, không

phải là Quỳnh Hoa, mà là Chúa Trịnh Sâm. Điều này rất phù hợp về mặt lễ giáo

phong kiến xưa nay vốn trọng nam khinh nữ, đối với các cuộc thi văn chương

72

phần lớn đều do nam giới đứng đầu; Đồng thời, cũng phù hợp với vai vế và tài

văn chương của Trịnh Sâm. Qua đó, sự chuyển biến tâm lý của nhân vật Quỳnh

Hoa khi chấp nhận cuộc hôn phối sắp đặt theo ý cha cũng trở nên dễ hiểu và phù

hợp hơn.

Với đôi mắt sáng thông minh, diễm lệ và nét mặt "khuôn vàng thước

ngọc", nghệ sỹ ưu tú Thu Hà thường được giao đảm nhận những vai diễn có thân

thế cao sang. Người xem nhớ đến vẻ đẹp mỏng manh, lá ngọc cành vàng, đến

mức giọng nói cũng thoang thoảng, run rẩy của nghệ sĩ Thu Hà khi vào vai Quận

chúa Quỳnh Hoa. Nhan sắc của nàng là thứ nhan sắc yểu mệnh, trong sáng,

mong manh và cũng dễ vỡ quá chừng. Bi kịch của cô gái không dám yêu, không

dám hận khiến người ta xót thương. Điểm sáng và hạnh phúc lớn nhất trong đời

Quỳnh Hoa là mối tình với Bảo Kim, mối tình chưa kịp thổ lộ, chỉ qua ánh mắt

mà khắc cốt ghi tâm.

Hình 8: Quỳnh Hoa gửi gắm, xin cha nâng đỡ Bảo Kim

Trong tiểu thuyết, nỗi canh cánh lớn nhất của nàng trước khi về nhà chồng

là Bảo Kim, thì trong phim cũng vậy. Nàng đã xin cha trọng dụng Bảo Kim để

đền đáp mối ân tình mà mình lỗi hẹn. Gương mặt đẫm nước mắt với ánh mắt

cầu khẩn của Thu Hà khiến người xem càng thêm xót thương cho cuộc đời “hồng

nhan bạc phận” của Quỳnh Hoa.

73

Trong bộ phim, ngoài những phút vui ban đầu của đêm hội Trung thu bên

hồ Long Trì và những phút hai cha con Trịnh Sâm, Quỳnh Hoa đi dạo, thả diều,

hái sen… thì những phân cảnh còn lại về Quỳnh Hoa chỉ còn là những phút buồn

và đầy bi thương. Nàng đã trở thành vật hy sinh chỉ bởi niềm đam mê mù quáng

và sai lầm của cha mình. Hình ảnh diễn viên Thu Hà hóa thân vào vai Quỳnh

Hoa đã thể hiện trọn vẹn hình dung của người xem về một cô quận chúa mỏng

manh, yếu đuối, không chỉ yếu đuối về ngoại hình, mà còn yếu đuối trong tính

sách, không dám cưỡng lại ý cha, không dám nói lên tiếng nói bảo vệ hạnh phúc

cá nhân của mình.

2.2.5. Các nhân vật khác: Bảo Kim và Nguyễn Mại

Các nhân vật phụ trong phim chuyển thể Đêm hội Long Trì đều được

xây dựng khá trung thành với nguyên tác. Diễn viên Vũ Đình Thân với ngoại

hình nho nhã, cử chỉ thanh thoát đã thể hiện tròn vai chàng thi sĩ Bảo Kim,

nhất là những phân đoạn thể hiện tình yêu với Quận chúa Quỳnh Hoa. Đạo

diễn Hải Ninh đã xây dựng hình tượng Bảo Kim không chỉ tài mạo song toàn,

giỏi văn chương thơ phú, mà còn có nghĩa khí, dám đứng lên chống lại cái ác,

bảo vệ kẻ yếu trong đêm hội Trung thu, nhưng đành bất lực chịu một đòn

đánh vỡ đầu. Sự bất lực của Bảo Kim và những người bạn nho sinh của chàng

là sự tố cáo cái suy tàn xã hội phong kiến thời Lê mạt, cái bi kịch của kẻ sĩ

phải khuất phục trước cường quyền và cái ác. Sự suy đồi của lễ nghĩa, khiến

cho người tài, người giỏi không còn là những người có tiếng nói trong xã hội.

74

Hình 9: Ánh mắt bất lực của Bảo Kim khi bị Đặng Lân bắt

Các nhà làm phim đã làm nhẹ đi sự đau đớn của chàng Bảo Kim khi không

để chàng bị bắt trong cuộc đột nhập giải cứu Quỳnh Hoa, mà bị bắt trong đêm

bởi âm mưu của Đặng Lân muốn dùng Bảo Kim để ép buộc Quận chúa, buộc

nàng phải ưng thuận để hắn giày vò. Nếu theo tiểu thuyết, chàng đường đường

là một đấng quân tử mà không thể cứu thoát người mình yêu, lại trở thành

nguyên nhân để nàng phải hy sinh thân xác vì mình, thì đó không chỉ là nỗi đau,

mà còn là nỗi nhục kẻ sĩ đeo đẳng suốt cuộc đời. Bảo Kim trong phim chưa kịp

hành động, điều đó sẽ hợp lý hơn với tính cách nho nhã, biết tính toán của chàng.

Có điều kẻ nham hiểm Đặng Lân đã hành động trước khi chàng và các bạn kịp

đề phòng.

Nếu như trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng quan

tâm và dành nhiều tâm huyết cho nhân vật Nguyễn Mại, thì trong phim, nhân

vật này tiếp tục được các nhà làm phim xây dựng thêm nhiều chi tiết, tình tiết,

gia tăng thời lượng xuất hiện, nhằm tái hiện hình tượng người anh hùng. Có thể

nói, đạo diễn Hải Ninh đã có một con mắt nghề rất sắc sảo, khi các lựa chọn của

ông cho từng vai diễn đều thể hiện đúng hình dung của người xem về kiểu (mô

tuýp) nhân vật đó. Với Nguyễn Mại cũng vậy. Diễn viên Trọng Phan với gương

mặt vuông chữ điền, ánh mắt cương nghị, phong cách đĩnh đạc của một võ tướng

đã hoàn toàn thu phục khán giả. Nếu như trong tiểu thuyết, các phân đoạn có sự

75

xuất hiện của Nguyễn Mại đều khá ngắn gọn, thì trong phim, đã có thêm những

chi tiết mới, như phân đoạn Bảo Kim chia tay Nguyễn Mại về quê; phân đoạn

Nguyễn Mại gặp gỡ với Quan hộ thành cũ; hay phân đoạn Nguyễn Mại bị Chúa

Trịnh trách phạt vì đã phạm đến người trong hoàng tộc... Trong các phân đoạn

về Nguyễn Mại trong phim có khá nhiều đối thoại giữa Nguyễn Mại với các

nhân vật khác, nội dung phần lớn đề cập và phân tích về những tội ác mà Đặng

Lân đã gây ra, với lối nói nghiêm khắc và gay gắt, cách thể hiện dứt khoát đòi

hỏi cái ác phải được loại bỏ khỏi xã hội, đã khắc họa rõ nét hơn về nhân vật này,

giúp người xem dễ lý giải về hành động nhân vật khi ra tay diệt trừ Đặng Lân.

Nhờ đó, trong phim đã lược bỏ được phần cung khai của cô Ngọc và nghị án

Đặng Lân trước khi ra tay. Nguyễn Mại xuất hiện tại hiện trường chỉ có những

tuyên bố ngắn gọn về tội trạng của Quận mã và chém dầu hắn. Đó không phải

là hành động theo kiểu hành hiệp trượng nghĩa vẫn thường thấy trong các bộ

phim kiếm hiệp, mà đó là hành động có trách nhiệm của một trung thần với triều

đình, của một vị quan yêu dân và của một người dân có lương tri trước tội ác.

Trong phim, Nguyễn Mại đã chết vì chính nghĩa, cũng là một cách nghĩ

khá logic dẫu đầy tiếc nuối. Bởi lẽ, chúng ta đều biết, Cậu Trời thực ra không bị

chém chết giữa đường như Nguyễn Huy Tưởng viết mà chỉ bị đi đày, Tuyên phi

vẫn lộng hành và Chúa Trịnh Sâm ngày càng sa lầy trong những thói trụy lạc,

bỏ bê triều chính. Cái bi kịch của xã hội thời Lê mạt vẫn còn đó với những mâu

thuẫn sâu sắc chờ đợi một “Nguyễn Mại” xuất hiện giữa đời thường.

Tiểu kết chương 2

Trong chương thứ hai của luận văn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thế

giới nhân vật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và trong phim điện ảnh cùng

tên. Trong đó, có sự đối chiếu so sánh các nhân vật trong tiếu thuyết so với lịch

sử và các nhân vật trong phim so với tiểu thuyết để thấy được sự sáng tạo của

nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và của các nhà làm phim. Trong tiểu thuyết, các

nhân vật lịch sử dù được xây dựng trên nguyên mẫu, song đã được nhà văn đưa

76

thêm nhiều sự kiện, chi tiết tạo nên hình tượng điển hình cho kiểu nhân vật; Các

nhân vật hư cấu được xây dựng phóng khoáng và mang nhiều ý nghĩa về tư

tưởng, nhân sinh quan của nhà văn. Còn trong phim chuyển thể, hệ thống nhân

vật chịu sự cải biên khá rõ nét của đạo diễn Hải Ninh và biên kịch Lê Phương,

Hoàng Nhuận Cầm so với trong nguyên tác. Từ trang phục, tính cách, lời nói,

cử chỉ, hành động, đến tâm sự của các nhân vật đều có những sự kế thừa và sáng

tạo. Đặc biệt nhất là sự thay đổi tập trung ở vai trò chính - phụ của nhân vật

Tuyên phi Đặng Thị Huệ, với những tình tiết được xây dựng nhằm điểm tô tham

vọng tiếm quyền đã làm nên một vị khuynh thế hoàng phi tiêu biểu trong điện

ảnh Việt Nam. Bên cạnh đó, nhân vật hư cấu Nguyễn Mại được quan tâm với

nhiều tình tiết bổ sung, làm nổi rõ vai trò anh hùng - nhân vật "mở nút" trong

phim.

77

Chương 3 NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ ĐIỆN ẢNH TRONG ĐÊM HỘI LONG TRÌ

3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì

Văn học không chỉ là hình thái ý thức xã hội, mà còn là một loại hình nghệ

thuật với chất liệu là ngôn ngữ của các tộc người trên trái đất mang tính hình

tượng, được sắp xếp theo một tổ chức nhất định và có tính chuẩn mực cao (hàm

súc, cô đọng, đa nghĩa và biểu cảm), được gọi là ngôn từ nghệ thuật. Trong tác

phẩm văn học, ngôn từ là phương tiện để cụ thể hoá và vật chất hoá đường dây

cốt truyện, chủ đề và tư tưởng tác phẩm, cũng như tính cách nhân vật... Nguyễn

Tuân đã định nghĩa về nghề văn chương như sau: “Nghề văn là nghề của chữ -

chữ với tất cả mọi nghĩa mà mỗi chữ phải có được trong một câu, nhiều câu. Nó

là cái nghề dùng chữ nghĩa mà sinh sự để sự sinh” [41, tr.715-716]. Chính vì lẽ

đó, ngôn từ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nhà văn trong việc tư duy

nghệ thuật. Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của nghệ thuật văn chương, hay nói theo

cách khác, văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Điều đó đã được khẳng định

từ lâu và được thừa nhận rộng rãi. Theo cuốn sách Lý luận văn học, tác giả

Phương Lựu cho rằng: “Ngôn từ là lời nói viết mà người ta dùng làm chất liệu

để sáng tác văn học. Nếu ngôn ngữ là tổng thể tất cả các đơn vị, phương tiện,

các kết hợp mà lời nói sử dụng (ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, các phương pháp

tu từ), lời nói là hình thức tồn tại thực tế của ngôn ngữ vốn phong phú, sinh

động, đa dạng, thì ngôn từ là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm chất thẩm mĩ

và khả năng nghệ thuật của nó” [24, tr.183]. Chính ngôn từ, chất liệu cấu tạo

nên các hình tượng nghệ thuật đã qui định tính độc đáo và đặc biệt đó của văn

học. Giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học có sự khác biệt. Theo

M.Gorki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói "nguyên liệu", còn ngôn ngữ văn học

là tiếng nói đã được những người thợ tinh xảo nhào luyện. Nhà nghiên cứu văn

học Lại Nguyễn Ân biên soạn trong cuốn sách 150 thuật ngữ văn học cho rằng,

ngôn ngữ văn học là “dạng thức đã được chỉnh lý của ngôn ngữ toàn dân, được

78

những người dùng ngôn ngữ này coi là chuẩn mực” [2, tr.225]. Sự thành công

của mỗi tác phẩm có vai trò quan trọng, quyết định bởi việc sáng tạo, sử dụng

linh hoạt ngôn ngữ của người nghệ sĩ. Đây cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn,

lôi cuốn và để lại ấn tượng cho người đọc. Mỗi nhà văn sẽ có một bí quyết vận

dụng ngôn từ riêng để từ đó khẳng định phong cách nghệ thuật không thể trộn

lẫn, tạo ra những tín hiệu riêng giúp người đọc nhận diện tác giả và tác phẩm,

“những người sành sỏi về văn học có thể căn cứ vào những đặc điểm về giọng

điệu của một đoạn văn tự sự nhất định mà họ chưa hề biết hoặc căn cứ vào

mấy dòng của một bài thơ mới lạ để xác định tác giả của những tác phẩm

ấy” [18, tr.297]. Chính bởi vậy mà mọi người đều cho rằng, nhà văn là bậc thầy

của ngôn từ.

Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Huy Tưởng luôn ý thức rất

rõ về vai trò, sức mạnh của ngôn từ. Ông cho rằng, ngôn từ chi phối mạnh mẽ

đến việc hình thành âm hưởng, giọng điệu cũng như sức hấp dẫn của tác phẩm,

do đó nhà văn phải đầu tư cho sáng tác, chịu khó tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm,

phải tạo ra một giọng điệu, âm hưởng và lối văn riêng. Và lối riêng mà Nguyễn

Huy Tưởng đã chọn cho mình chính là “Chép sử bằng văn học”! Xưa nay, viết

về đề tài lịch sử vẫn luôn là thách thức với nhiều nhà văn, đòi hỏi cái tâm,

cái tầm và văn tài của người viết, phải vượt qua những rào cản về không gian,

thời gian với những khác biệt về ngôn ngữ, văn tự, văn hóa, phong cách, lối

sống, phong tục, tập quán qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhưng Nguyễn

Huy Tưởng đã vượt qua và để lại những dấu ấn đậm nét trong hành trình sáng

tạo văn chương.

3.1.1. Ngôn ngữ miêu tả

Không chỉ riêng trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì mà qua nhiều tác

phẩm viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta thấy ông có lối

hành văn trong sáng, từ ngữ giàu sức gợi, kết hợp với các thủ pháp, biện pháp

nghệ thuật tu từ đã góp phần tái hiện lịch sử dân tộc, vừa cổ kính trang trọng,

79

vừa đời thường sinh động; vừa mang đậm nét xưa, nhưng cũng đầy ắp hơi thở

thời đại. Trong Đêm hội Long Trì, chọn đề tài về bi kịch gia đình Chúa Trịnh

Sâm Tĩnh Đô Vương, nhưng đằng sau đó là cả một bi kịch của xã hội đương

thời, tác giả cho thấy cái nhìn tinh tế, lối tiếp cận vấn đề phù hợp và mang tính

thời sự sâu sắc. Những trang văn lôi cuốn bởi có sự hòa quyện giữa lớp từ ngữ

cổ kính, trang nghiêm, kết hợp nhuần nhuyễn lớp từ Hán - Việt với ngôn ngữ

đời thường giản dị, gần gũi. Điều đó khiến cho tác phẩm viết về không gian -

thời gian với độ lùi mấy trăm năm, nhưng không hề xa lạ, khó tiếp nhận, mà

qua đó, người đọc thấy được độ chân thực của lịch sử, những bài học của quá

khứ trong cuộc sống hiện thời.

Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì có một phong cách nghệ thuật đặc biệt, đó

là nghệ thuật miêu tả không khí thời đại mang đậm sắc màu lịch sử và tính điện

ảnh. Tái hiện không khí, bối cảnh lịch sử thời Lê Trung Hưng với những lễ nghi,

phép tắc, cung cách sinh hoạt, ứng xử trong triều đình, ngôn ngữ trong tác phẩm

cũng trang trọng, phù hợp văn hóa, phong tục, sinh hoạt của thời kỳ đó. Điều đó

được thể hiện ngay từ những trang viết đầu tiên khi tác giả mô tả lại đêm hội

Trung thu bên hồ Long Trì. Một bức tranh bằng ngôn ngữ được vẽ nên mà không

thiếu đường nét và màu sắc nào, tất cả đều hài hòa và ấn tượng; Một không gian

được dựng lên với đầy đủ phong cảnh, con người, màu sắc, âm thanh, âm nhạc,

ánh sáng… qua bàn tay sắp xếp ngôn từ tài tình của Nguyễn Huy Tưởng. Và

trên bối cảnh được miêu tả bay bổng và thi vị đó, các nhân vật chính và phụ lần

lượt xuất hiện. Nói về tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, nhà văn Tô Hoài từng nhận

xét: “Đêm hội Long Trì, những sinh hoạt xưa ở kinh kỳ mà trong đó, huyên náo

những cảnh lộng hành bạo ngược của chị em bà Chúa Chè người Kinh Bắc.

Những đau khổ của người dân phải chịu đựng mọi thói ăn chơi vô độ của các

triều đại vua chúa. Những chồng chất giữa những oan khiên này, vẫn thấy được

đời sống người Kẻ Chợ cùng mọi quang cảnh phố phường sinh sôi. Đấy là sức

sống âm thầm mà mãnh liệt của “bách tính” đã làm nên bao đời Kẻ Chợ” [43,

bìa cuối]

80

Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng

rất giàu chất thơ, được tạo nên từ những đoạn, câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu,

những từ ngữ gợi hình, gợi cảm, nhuốm màu tâm trạng, tạo ra nhịp điệu trữ

tình, đặc biệt là ở trường đoạn miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Vẻ đẹp ngôn từ

toát ra từ những câu từ giàu hình ảnh, màu sắc, mang đậm tính kịch và chất trữ

tình; lối sắp xếp câu chữ nhịp nhàng cân đối mang âm hưởng của ngôn ngữ thơ

ca, vừa tạo ra không khí lịch sử của thời đại đã qua, vừa như đang đối thoại với

cuộc sống hiện thời. Trong trường đoạn mở đầu Đêm hội Long Trì, tác giả đã

xây dựng được hình ảnh mang tính biểu tượng, đó là hình ảnh ánh trăng - một

hình ảnh đẹp của thiên nhiên, vũ trụ. Ánh trăng rằm trung thu phản chiếu, đóng

vai trò làm nền cảnh, tô đẹp cho bức tranh đêm hội thêm lung linh huyền ảo với

cờ hoa, đèn lồng rực rỡ. Và ánh trăng cũng chính là nguồn thi hứng để chàng

nho sĩ Bảo Kim trổ tài văn thơ trước vẻ đẹp yêu kiều, quyến rũ của quận chúa

Quỳnh Hoa. Ánh trăng - nhân chứng như hiểu nỗi lòng của hai kẻ tình si, như

nói hộ và cũng như che dấu giúp hai người tấm chân tình trong sáng, mà khắc

cốt ghi tâm.

Nguyễn Huy Tưởng là bậc thầy về sự đối lập, sự đối lập giữa cái mở đầu

rộn rã, tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, song lại báo hiệu những tấn bi kịch,

khổ đau và rạn vỡ. Một đêm hội Long Trì mở ra cả một cơn cuồng nộ những

sóng gió vương triều. Một đám rước dâu cờ giong trống mở, lầu tân hôn trang

hoàng lòe loẹt nhưng không che dấu được nỗi đau tan vỡ tình yêu của cô gái trẻ

và bi kịch hôn nhân đang chờ nàng ở phía trước. Hai tháng yên bình của Thăng

Long sau khi Đặng Lân cưới được Quỳnh Hoa chỉ là khoảng lặng trước bão

dông đối với cô Hoàng Thị Ngọc ở Thụy Khuê và rất có thể là đối với nhiều

người phụ nữ khác ở chốn kinh thành. Những phút giây hạnh phúc bên vợ con

của Nguyễn Mại cũng chính là khoảng thời gian chàng từ biệt gia đình để lên

đường diệt trừ cái ác, thực thi công lý. Điều đó ẩn dụ một triết lý “mọi thứ lấp

lánh đều không phải là vàng”, “trước cơn bão trời thường rất đẹp”. Nguyễn

Huy Tưởng thấm nhuần và trải nghiệm triết lý một cách sâu sắc, ông vận dụng

81

và đưa vào tác phẩm của mình khéo léo, tạo nên một phong cách trong xây dựng

tác phẩm, với lối sử dụng ngôn từ đối lập, văn phong đối lập, tình huống đối

lập. Tác giả gửi gắm trong đó những chiêm nghiệm về mối quan hệ giữa con

người với con người, bi kịch của kẻ sĩ, số phận người phụ nữ, và cả niềm tin

vào sức mạnh chính nghĩa. Sự tương phản càng làm nỗi đau thêm sâu, bi kịch

thêm tổn thương và mất mát càng rõ nét. Sự tương phản tác động vào người

đọc, khiến người đọc như được tận mắt chứng kiến mọi diễn biến của câu

chuyện và dâng trào cảm xúc theo từng câu chữ. Và sự tương phản, đối lập

khiến tác phẩm có tính điện ảnh cao với sức gợi phong phú, tác động mạnh mẽ

đến người đọc.

Ngôn ngữ miêu tả nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là thứ

ngôn ngữ giàu hình ảnh, màu sắc tạo nên những bức tranh tương phản, đối lập

giữa ánh sáng và bóng tối, giữa người anh hùng chân chính và kẻ hung bạo, dữ

dằn sặc mùi dục vọng, giữa vẻ ngây thơ trong sáng của Quỳnh Hoa với những

mưu mô, thủ đoạn của Đặng Thị Huệ… hay khái quát hơn đó là sự tương phản,

song hành giữa một bên là bạo lực của cường quyền, của những rối ren và náo

động xã hội, với một bên là sự mong manh, bấp bênh của những số phận, những

cuộc tình, những đam mê và khát vọng của con người. Khi miêu tả nhân vật,

Nguyễn Huy Tưởng chú trọng thông qua ngoại hình, đối thoại và nội tâm. Một

đặc điểm trong ngôn ngữ miêu tả nhân vật của tác giả là khi viết về những nhân

vật có lý tưởng, khát vọng lớn, nhà văn thường dùng những từ ngữ, câu văn

giàu hình ảnh so sánh, liên tưởng nhằm tô đậm vẻ đẹp ngoại hình hoặc một đặc

điểm nào đó trong tính cách của họ. Còn khi miêu tả nhân vật phản diện, nhà

văn thường sử dụng những câu văn tả thực với sắc thái mỉa mai, châm biếm.

Nếu như Bảo Kim nho nhã, “bác lãm quần thư, nghị luận giỏi, văn chương tao

nhã”, là “hiện thân của cảm hứng”, “một sự kỳ dị” [43, tr.12-15]; Nguyễn Mại

khảng khái “ăn vận lối võ quan, mép để ria, mình đeo gươm, trông có vẻ ngang

tàng hào mại” [43, tr.21]; thì ngược lại, Đặng Lân được gọi là “tên vô lại”, “dữ

dội và nham hiểm”, “nó nham hiểm và hèn lắm. Thấy ai vào tay sừng sỏ thì nó

82

lủi đi như con rắn để cắn trộm lúc khác; những khi ấy thì nó lại càng nguy

hiểm” [43, tr.25]. Nếu Quỳnh Hoa là một thiếu nữ kiều mỵ, đầy vẻ mỏng manh

và thanh khiết, “trạc 16,17 tuổi, nàng hơi xanh dưới ánh trăng thu, người hơi

gầy, nhưng vẻ thanh tú” [43, tr.11], thì Đặng Thị Huệ là vẻ đẹp rực rỡ và từng

trải, ẩn chứa cả những hiểm họa, “người đàn bà có một sắc đẹp quyến rũ yêu

quái. Người phi là tiếng gọi của dục tình” [43, tr.26].

3.1.2. Ngôn ngữ đối thoại

Tái hiện không khí, bối cảnh lịch sử với những lễ nghi, phép tắc, cung

cách sinh hoạt, ứng xử trong triều đình, Nguyễn Huy Tưởng cũng tái hiện

những cuộc trò chuyện đối thoại đậm không khí cổ xưa. Ta có thể thấy cách

định danh, xưng hô của các nhân vật trong truyện cũng đầy chuẩn mực phong

kiến: Tĩnh Đô vương, Quỳnh Hoa quận chúa, Tuyên phi, Quốc cữu, chàng -

nàng, Hộ thành binh mã sứ, Ngô thị lang, Quần anh hội, văn nhân, thi lễ, chủ

nhân, liệt vị, Thiên tử… Cùng với đó là cung cách sinh hoạt, ứng xử, suy nghĩ

của từng nhân vật tương ứng với vị trí, vai vế của họ trong xã hội… Trong đoạn

đối thoại giữa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm với Nguyễn Mại sau khi vị tướng trẻ

lập được công lớn trong trận đánh thành Phú Xuân đã được Chúa Trịnh mời đến

gặp mặt. Trong khi lối nói chuyện của Trịnh Sâm khoan thai, bề trên, thì cách

nói của Nguyễn Mại ngắn gọn, giản dị theo kiểu con nhà võ, lại có phần pha

chút lúng túng của người ít có cơ hội tiếp xúc với bậc vương tôn: “Nguyễn Mại

nhận ra ngay là Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mà chàng mới biết mặt trong đêm

hội Long Trì. Sát vào sập có kê một chiếc ghế lớn, một vị đại thần ngồi. Nguyễn

Mại tiến đến chỗ treo đèn, chàng phủ phục và hô:

- Thiên tuế!

Và chàng nằm rạp xuống chờ lệnh. Một lúc lâu Tĩnh Vương phán:

- Cho phép ngươi bình thân.

Chàng đứng lên. Chúa nói gì với vị đại thần, vị này nói:

83

- Đại vương truyền cho ngươi lại gần để Ngài hỏi chuyện

Mại tuân lệnh. Chúa chỉ một cái đôn cách sập độ sáu thước, chéo với

ghế của vị đại thần và truyền:

- Cho ngồi.

Nguyễn Mại luống cuống:

- Tâu Vương gia, lệnh trên cho phép, nhưng tiểu tướng xin được đứng

hầu” [43, tr.34-35].

Trong tiểu thuyết, hệ thống từ Hán Việt được tác giả sử dụng rất nhuần

nhuyễn. Đây cũng là một đặc trưng của ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ văn

học thời kỳ trung đại do sự tác động, ảnh hưởng của văn hóa và văn học Trung

Hoa. Nguyễn Huy Tưởng đã khéo léo vận dụng từ Hán Việt để tạo nên không

khí sử thi, sắc màu lịch sử và thời đại cho tác phẩm, đồng thời làm nổi bật phẩm

chất, tính cách nhân vật. Đặc trưng của lớp từ Hán Việt là các sắc thái: trang

trọng; tao nhã; khái quát và trìu tượng; và sắc thái cổ, với thế mạnh là tính gợi

hình, tạo âm hưởng, nhịp điệu cho câu văn. Trong đoạn trích sau khi nhận lời

cha vâng lệnh lấy Đặng Lân, Quỳnh Hoa quyết định từ bỏ mối tình với Bảo Kim,

nàng gom hết tâm tư viết một bài bát cú rồi lại tả một bức thư tâm tình gửi cho

Bảo Kim, “Đọc thư Quận chúa, Bảo Kim bất giác rưng rưng hàng lệ. Nàng đã

tỏ hết lòng ngưỡng mộ đối với chàng, nói rõ cảnh ngộ mình, xin vĩnh biệt cùng

chàng và trả lại thơ, phú mà nàng không có quyền giữ. Cuối cùng, nàng khuyên

chàng nên quyết chí tu thân để ra giúp nước. Bài thơ bát cú của nàng lâm ly sâu

sắc, trách duyên tủi phận, mỗi chữ là một giọt lệ, mỗi câu là một tiếng thở dài”

[43, tr.84]. Lớp từ Hán Việt khiến toàn bộ cuốn tiểu thuyết ngập tràn một không

khí cổ kính. Trong đó, cảm hứng xót xa, nuối tiếc những giá trị đạo đức, giá trị

văn hóa và tình yêu bị chà đạp do cái ác lộng hành được tạo nên bởi lớp từ Hán

Việt, vừa mang màu sắc hoài cổ, tiếc thương, vừa ngầm ý phê phán, trách móc

nhà Chúa vì mê đắm tửu sắc, chiều lòng người đẹp mà cơ đồ, triều chính náo

loạn, rối ren.

84

Bên cạnh lớp từ Hán Việt là lớp từ ngữ đời thường, giản dị, được sử dụng

nhuần nhuyễn, hài hòa, tạo nên sắc thái đời thường, mộc mạc. Viết về lịch sử,

Nguyễn Huy Tưởng luôn chú trọng đưa ngôn ngữ thuần Việt, ngôn ngữ hàng

ngày vào trong tác phẩm, giúp người đọc trở lại gần với những trang sử nước

nhà. Là người có vốn Hán học sâu sắc, lại thành thạo tiếng Pháp, song đối với

Nguyễn Huy Tưởng, chữ quốc ngữ vẫn là phương tiện tuyệt vời nhất để ông thể

hiện tình yêu sục sôi với đất nước, với cách mạng, với văn chương: “Phận sự

một người tầm thường như tôi, muốn tỏ lòng yêu nước, chỉ có một việc là viết

văn quốc ngữ mà thôi” [69]. Chính bởi lẽ đó, những trang văn của ông dẫu trang

trọng, song vẫn rất gần gũi, dễ đọc, dễ hiểu, dễ cảm nhận. Việc đưa nhiều từ

thuần Việt, thậm chí là những câu nói suồng sã, khẩu ngữ, ngôn ngữ giao tiếp

đời thường làm cho tác phẩm trở nên sinh động, chân thực, biểu cảm. Điều này

được hình thành từ cách tiếp cận lịch sử của tác giả. Ta có thể thấy khi miêu tả,

khắc họa hình tượng nhân vật lịch sử, tác giả luôn đặt nhân vật của mình trong

mối quan hệ đa chiều, để qua ngôn ngữ giao tiếp của nhân vật với các nhân vật

khác sẽ bộc lộ tính cách, phẩm chất. Nhà văn quan tâm chú ý đến đặc điểm lứa

tuổi, tầng lớp xuất thân của nhân vật, cũng như đối tượng giao tiếp để lựa chọn

ngôn ngữ phù hợp. Trở lại với nhân vật Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm, trong đoạn

trích cuộc gặp với Nguyễn Mại ở trên, ngôn ngữ giao tiếp của Trịnh Sâm dẫu

đã thể hiện sự gần gũi với viên tướng trẻ, song vẫn toát lên vẻ khách khí, bề

trên. Nhưng ngược lại, khi ở bên Tuyên phi Đặng Thị Huệ, là sự say đắm trong

những lời có cánh của Trịnh Sâm trước vẻ đẹp yêu kiều của Tuyên phi: “Chúa

Tĩnh Đô nghiện trà và rất sành thưởng thức. Nội những phi tần không ai pha

trà vừa ý Chúa. Duy Tuyên phi có cái nghệ thuật tuyệt vời về nghề này. Chúa

chỉ có những lời bái phục.

Chúa tiếp lấy chén trà và nói:

- Ái phi cùng ta uống. Sắc đẹp của ái phi là sắc đẹp thần tiên, kẻ tục tử

này đâu dám vô lễ mà uống trà trước.

85

Nàng quỳ xuống nói:

- Chúa thượng, tuy là rộng lượng nhưng tiện thiếp đâu dám tiếm vượt?

- Ái phi không được khách sáo.

Và Chúa đỡ nàng dậy, chính tay rót một chén trà đưa cho. Tuyên phi

cung kính đỡ lấy. Chúa uống xong nói:

- Chua bao giờ ái phi đẹp như hôm nay, mà cũng không bao giờ trà của

ái phi ngon như hôm nay” [43, tr.59].

Còn trong những đoạn trích giữa Trịnh Sâm với Quận chúa Quỳnh Hoa

là tâm trạng và những lời yêu thương, lo lắng của nhà Chúa dành cho con gái.

Đối với Quỳnh Hoa, ông luôn là một người cha nhất mực thương con, mong

muốn dành cho con những điều tốt đẹp nhất. Vậy nhưng chỉ vì cả nể và chiều

lòng người đẹp, Trịnh Sâm đã đồng ý gả con gái yêu cho Đặng Lân để rồi luôn

dằn vặt, ân hận: “Quỳnh Hoa vẫn định tâm nếu gặp cha thì hỏi cho ra nhẽ, và

hơn nữa, định vượt cả bổn phận làm con, nói cha cho bõ giận. Nhưng trước

mặt cha, bao nhiêu ý định của nàng đều tiêu tan đi. Nàng không dám, và cùng

một lúc, nàng thấy yêu cha rất mực và thương cha vô cùng.

Nghe cha hỏi, nàng thưa:

- Phụ vương vào, con không biết.

- Con nghe trong mình có khỏe không?

- Tâu phụ vương con khỏe.

- Cha nghe tin con khóc lóc, vội chạy lại. Nhưng có việc chi mà con phải

khóc? Con gái cha mà lại hèn thế ư?

- Khiến phụ vương phải vất vả vì con, con thực mang tội!

- Cha tha tội cho con. Nhưng cha thấy con có ý cưỡng mệnh, làm sôi nổi

cả chốn cung thì cha giận lắm. Con gái đâu lại cưỡng lời cha? Việc này, nhân

dân biết, còn ra thể thống gì nữa.

86

Nàng cúi gằm mặt xuống, không nói một câu gì. Chúa ái ngại:

- Hay con không thuận lấy Đặng Lân, cha cũng không ép.

Đấy là ý thực của Chúa, lúc ấy nếu Quỳnh Hoa có thái độ cương quyết

có lẽ Chúa cũng chiều nàng” [43, tr.76-77].

Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng sử dụng nhiều đoạn để miêu tả

tâm trạng của Trịnh Sâm với đầy ưu tư và dằn vặt. Sự dằn vặt của Chúa Trịnh

cũng thể hiện rõ nét qua qua đoạn trích sau khi Nguyễn Mại chém đầu Đặng

Lân khiến ông ta rơi vào tình thế khó xử. Một bên là hành động dũng cảm, nghĩa

khí của bậc trượng phu vì nước vì dân, một bên là cái chết của Quốc cữu, em

trai ái phi… Qua lớp ngôn ngữ đối thoại chất chứa nhiều tâm trạng, nhà văn đã

khắc họa thành công nhân vật Tĩnh Đô Vương với những khối mâu thuẫn và

nhiều cung bậc cảm xúc đan xen. Đó vừa là bậc quân vương đầy uy quyền, một

người cha nhất mực thương con, song cũng là người đàn ông ủy mị trong ái

tình. Thông qua những đoạn văn đặc tả tâm trạng, tác giả sử dụng ngôn ngữ có

sức biểu cảm, phản ánh những diễn biến tinh tế trong đời sống nội tâm nhân

vật, từ đó toát lên một nhân vật Tĩnh Đô Vương đời thường, cũng đầy những

hỉ, nộ, ái, ố của một con người.

Một đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì là những

câu văn nhiều thành phần, vế câu cân đối, nhịp nhàng của lối văn biền ngẫu -

một thể loại quan trọng và thịnh hành của văn học cổ điển. Sự phối âm trầm

bổng (bằng - trắc) hài hòa cùng những tính từ so sánh tạo nên chất trữ tình sâu

lắng và sức hấp dẫn cho tác phẩm. Không quá khó để tìm thấy trong các trang

văn những câu biền ngẫu: “Dưới ánh trăng một đoàn thuyền rồng đang rẽ sóng

bơi đi. Tiếng tơ gẩy, tiếng trúc thổi, tiếng người hát họa” [43, tr.26]; “Mẹ đã

ngậm ngùi vì phải bỏ con, mẹ lại phải ân hận vì đã sinh một đứa con phận

mỏng. Đời con đã sớm vô ích, có sao mẹ không cho con đi theo mẹ từ buổi sơ

sinh” [43, tr.82]. Những câu văn kiểu cổ trong lối kết cấu chương hồi tạo nên

không khí trang trọng, cổ điển cho tác phẩm, nhưng không vì thế mà nhịp điệu

87

trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì bị trì hoãn chậm lại và đơn điệu. Điều đó

có được là do lối kể chuyện, dẫn dắt câu chuyện của tiểu thuyết hiện đại phương

Tây. Tác giả đã để cho nhân vật nói nhiều hơn, hành động nhiều hơn, kết hợp

với các đoạn giải thích thêm cho rõ các tình tiết, diễn biến, hoặc giới thiệu thêm

về nhân vật, đôi lúc chêm, xen những lời bình luận.

Có thể nói, Nguyễn Huy Tưởng hội tụ đầy đủ phẩm chất của một nhà văn

tiêu biểu giai đoạn 1930 - 1945: giỏi Hán văn, rành tiếng Pháp, thông thạo chữ

quốc ngữ, kịp thời đón bắt những đổi thay của đời sống xã hội và thị hiếu công

chúng. Sự am hiểu về lịch sử và văn hóa, ngôn ngữ đã giúp ông kết hợp được

các yếu tố cũ và mới, truyền thống và hiện đại để thể hiện trong ngôn ngữ tác

phẩm Đêm hội Long Trì, tạo nên dấu ấn trong tiến trình hình thành, phát triển

của tiểu thuyết lịch sử trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.

3.2. Ngôn ngữ điện ảnh trong phim dã sử Đêm hội Long Trì

Văn học và điện ảnh đều là những môn nghệ thuật mang tính tổng hợp

cao, chịu ảnh hưởng của các loại hình văn học nghệ thuật khác và ngay giữa

chúng cũng ảnh hưởng lẫn nhau một cách sâu sắc. Tuy nhiên, xét về hình thái

học ngôn ngữ, văn học và điện ảnh có sự khác biệt mang tính đặc trưng. Ngôn

ngữ văn học mang tính phi vật thể, còn ngôn ngữ điện ảnh mang tính vật thể

thông qua các yếu tố: Hình ảnh, Âm thanh, Tĩnh - Động. Có người cho rằng:

“Tác phẩm văn chương là lời kể về một thế giới hiện hình, còn điện ảnh là cả

thế giới hiện hình cụ thể để kể một câu chuyện” [51].

Ngay từ khi ra đời, điện ảnh đã trở thành môn nghệ thuật hấp dẫn nhất thế

giới. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Điện ảnh là một khái niệm lớn

bao gồm các bộ phim tạo bởi những khung hình chuyển động (phim); kỹ thuật

ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành một bộ phim (kỹ thuật điện

ảnh); hình thức nghệ thuật liên quan đến việc tạo ra các bộ phim và cuối cùng

ngành công nghiệp và thương mại liên quan đến các công đoạn làm, quảng bá

và phân phối phim ảnh (công nghiệp điện ảnh)” [53]. Công chúng cũng cho

88

rằng, điện ảnh là loại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện bằng hình ảnh động, kết

hợp với âm thanh, được ghi trên vật liệu phim nhựa, băng từ, đĩa từ và các vật

liệu ghi hình khác để phổ biến đến khán giả thông qua các phương tiện kỹ thuật.

Hay nói cách khác, điện ảnh là sự kết hợp của nghệ thuật và kỹ thuật, của quá

trình sáng tác và công nghệ sản xuất. Ngôn ngữ của điện ảnh là sự tổng hợp của

tất cả các môn nghệ thuật khác, tạo ra một thế giới đa chiều, đa sắc, đa thanh và

ngập tràn cảm xúc. Trong cuốn sách Tính hiện đại và dân tộc trong điện ảnh

Việt Nam, tác giả Ngô Phương Lan cho rằng: “Nhìn khái quát, ngôn ngữ điện

ảnh là phương tiện biểu hiện của một tác phẩm điện ảnh, kết hợp giữa hình ảnh

và âm thanh theo một qui tắc “ngữ pháp” đặc trưng - đó là cách ráp nối các

cảnh để thể hiện ý đồ của nhà làm phim - được gọi là dựng phim (montage)”

[19, tr.48]. Từ khi điện ảnh ra đời và ngay lập tức trở thành loại hình nghệ thuật

hấp dẫn nhất thế kỷ XX, ngôn ngữ điện ảnh luôn vận động, phát triển không

ngừng và ngày càng hiện đại, hấp dẫn. Ba yếu tố cũng chính là đặc trưng của

ngôn ngữ điện ảnh, bao gồm: Ngôn ngữ thị giác (hình ảnh); Ngôn ngữ thính giác

(âm thanh) và Montage (dựng phim). Phân tích ngôn ngữ điện ảnh trong phim

dã sử Đêm hội Long Trì, chúng ta phân tích sự chuyển động trong ba yếu tố

chính của ngôn ngữ điện ảnh là hình ảnh, âm thanh và montage (dựng phim) sẽ

thấy rõ điều này.

3.2.1. Ngôn ngữ thị giác (hình ảnh)

Đêm hội Long Trì thuộc thể loại phim Chính kịch, dòng phim Chính kịch

hiện thực. Chính kịch hiện thực thoát thai từ chủ nghĩa hiện thực, nó chấp nhận

một phần hư cấu làm nên những câu chuyện không hoàn toàn tuyệt đối giống y

như sự thực ngoài đời, nhưng vẫn phải tạo được ấn tượng chân thực nhờ nghệ

thuật xây dựng hình ảnh không xa rời thực tế. Những đòi hỏi phải giống thật

trong ngôn ngữ tạo hình từ bối cảnh, mỹ thuật hóa trang, thiết kế trang phục…

nhằm mục đích tái hiện được không khí thực trong phim. Đêm hội Long Trì đã

dựa vào những sự việc, hiện tượng có thật, và bằng cách biểu đạt ngôn ngữ tạo

89

hình giản dị, trực tiếp, có tác dụng gợi thực, nhưng vẫn tạo đất sáng tạo bay bổng

về tạo hình.

Trong phim dã sử Đêm hội Long Trì, đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân Hải

Ninh đã kết hợp chặt chẽ các yếu tố của ngôn ngữ điện ảnh để làm nên một tác

phẩm kinh điển, mang tính nghệ thuật cao, được công chúng yêu thích. Trong

đó, ấn tượng đầu tiên là yếu tố hình ảnh. Hình ảnh là chất liệu cơ bản của ngôn

ngữ điện ảnh. Nguồn gốc của hình ảnh mang tính hai mặt khá sâu sắc. Trước

hết, đó là không gian đa chiều của cuộc sống với các sự vật, nhân vật, sự kiện,

hiện tượng, chuyển động…; nhưng mặt khác, nó là sản phẩm của chiếc máy

quay vốn có khả năng tái tạo lại một cách chính xác hiện thực do người quay

phim lựa chọn và tổ chức theo một mục đích nghệ thuật rõ rệt. Trong cuốn

Ngôn ngữ điện ảnh, Marcel Martin khẳng định: “Hình ảnh là chất liệu cơ bản

của ngôn ngữ điện ảnh. Đó là thứ nguyên liệu điện ảnh đầu tiên nhưng cũng

lại là một hiện thực vô cùng phức tạp…” [68]. Thông qua những hình ảnh,

người xem sẽ hiểu được những nội dung mà các nhà làm phim muốn truyền

tải.

Hình ảnh trong Đêm hội Long Trì được xây dựng dựa trên sự nghiên cứu

lịch sử, văn hóa thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVIII một cách nghiêm túc và sâu

sắc. Các nhà làm phim đã tái hiện một cách chân thực và sống động một giai

đoạn lịch sử với những không gian, bối cảnh tiêu biểu gắn với hình tượng nhân

vật trong tác phẩm văn học. Những con người, sự kiện, sự việc, hiện tượng như

từ tiểu thuyết bước ra đời thực, trong trạng thái động. Sự sống động của hình

ảnh chính là cái chuyển động thực của cuộc sống thành hình ảnh mang giá trị

cao trên tác phẩm. Những hình ảnh đó đã giúp người xem nhận thức những hoạt

động kế tiếp nhau, liên tục của các sự kiện, xung đột trong diễn biến thời gian

tuyến tính. Ngôn ngữ hình ảnh trong phim làm cho người xem có cảm nhận mình

đang sống giữa sự chuyển động của xã hội đương thời, tận mắt thấy rõ những sự

việc, hiện tượng xảy ra, giúp họ có cái nhìn chân thực nhất và đưa ra những nhận

90

định hay phán xét, có những cảm nhận riêng. Để có được hiệu quả cao nhất, các

nhà làm phim đã kết hợp chặt chẽ nhiều phương thức trong sáng tạo hình ảnh

bao gồm: Ngôn ngữ hình ảnh trong sáng tác kịch bản; Ngôn ngữ hình ảnh trong

thiết kế mỹ thuật (bối cảnh, đạo cụ); Ngôn ngữ hình ảnh trong xây dựng hình

tượng nhân vật; Ngôn ngữ hình ảnh trong phương thức tạo hình…

3.2.1.1.Ngôn ngữ hình ảnh trong sáng tác kịch bản

Kịch bản là tiền đề của mọi bộ phim, là chất liệu đầu tiên để xây dựng nên

tác phẩm điện ảnh. Nên có thể nói, kịch bản và nghệ thuật viết kịch bản chính là

kể nội dung truyện phim bằng hình ảnh và âm thanh. Khởi nguồn của ngôn ngữ

hình ảnh trong phim cũng sẽ xuất phát từ chất liệu ban đầu này. Tiểu thuyết Đêm

hội Long Trì của Nguyễn Huy Tưởng đã cho các nhà biên kịch Lê Phương,

Hoàng Nhuận Cầm và đạo diễn Hải Ninh những nội dung quan trọng nhất để

chuyển thể, sáng tạo sang chất liệu mới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là nguồn nguyên

liệu. Kịch bản điện ảnh là nghệ thuật của Nghe và Nhìn, mà không phải là tiểu

thuyết, những gì không phục vụ cho điều đó đều không có chỗ đứng trong kịch

bản. Hay cụ thể hơn, kịch bản phải làm sao biến những gì “đọc được” trong tác

phẩm văn học trở thành những gì “nhìn thấy được” và “nghe thấy được” trong

phim. Và cũng chính vì thế, ngôn ngữ hình ảnh cần phải được biểu đạt ngay từ

khi sáng tác kịch bản điện ảnh.

Mỗi thời đại lịch sử có ngôn ngữ khác nhau. Sự độc đáo của nghệ sĩ là tạo

ra mùi vị lịch sử theo đúng ngôn ngữ của thời kỳ đó. Chuyển thể tiểu thuyết Đêm

hội Long Trì, các hiện nhà làm phim có được thuận lợi rất lớn khi tận dụng và

khai thác thành công về mặt ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học, tái hiện

không khí thời đại. Đó cũng là lợi thế trong phương thức tạo hình điện ảnh của

bộ phim, tái hiện được bối cảnh lịch sử, xã hội thời Lê Trung Hưng với những

lễ nghi, phép tắc, cung cách sinh hoạt, ứng xử trong triều đình, ngôn ngữ trong

tác phẩm cũng trang trọng, phù hợp văn hóa, phong tục, sinh hoạt của thời kỳ

đó. Bộ phim Đêm hội Long Trì được xây dựng với kết cấu điểm nhìn hiện tại,

91

mọi diễn biến đều được nhà biên kịch sắp xếp một cách logic theo trình tự thời

gian tuyến tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Sự sinh động của ngôn ngữ hình

ảnh trong bộ phim được tạo nên bởi sự thay đổi bối cảnh, không gian, thời gian

liên tục, khiến người xem có được cảm giác đi từ sự việc này tới sự việc khác,

trải qua các khoảng thời gian khác nhau theo diễn biến của cốt truyện. Các nhà

làm phim đặc biệt chú ý mô tả nỗi đau của Quận chúa Quỳnh Hoa khi phải từ

bỏ mối tình trong với chàng thi sĩ Bảo Kim khi xây dựng trường đoạn mô tả giấc

mơ về cái chết của nàng cùng người trong mộng [28, tập 1, 01:08:20]. Kịch bản

phân cảnh cụ thể như sau:

ĐỘ

STT CẢNH

NỘI DUNG

GHI CHÚ

DÀI

PHỦ QUẬN CHÚA - NỘI/ĐÊM

Hiện thực.

Chú ý ánh sáng diễn tả ban đêm

Trung

7s

1

Quỳnh Hoa đang nằm ngủ nhưng không yên giấc. Trong cơn mộng mị, nàng nói sảng gọi tên Bảo Kim.

Trong cơn mơ.

Âm căng nhạc thẳng, mang yếu tố mộng mị.

Toàn

5s

2

Một con thuyền nhỏ trôi trên hồ sen, chở Bảo Kim và Quỳnh Hoa trong trang phục trắng nằm thẳng, chắp tay, đầu gối lên hoa sen.

Hiện thực.

Trung

7s

3

Quỳnh Hoa oằn người trong giấc mộng.

Trong cơn mơ.

Nhạc nhanh dần,

tốc độ con thuyền

Con thuyền vẫn trôi đi càng lúc càng

Toàn

15s

4

được xử lý theo tiết

nhanh hơn.

tấu nhạc.

92

Hiện thực.

Đặc tả

4s

5

Đôi mắt của Quỳnh Hoa từ từ hé mở

Trong cơn mơ.

Kỹ xảo tách đôi

hình, quay ngược

Cận

3s

6

Hình ảnh Chúa Trịnh Sâm quay

và chồng mờ

ngược, tách ra làm đôi.

Hiện thực.

Đôi mắt Quỳnh Hoa chớp chớp như

Đặc tả

3s

7

muốn nhìn rõ xem mình đang mơ hay

tỉnh.

Kỹ xảo tách đôi

Trong cơn mơ.

hình, quay ngược

Cận

5s

8

Hình ảnh Trịnh Sâm vẫn nhập nhòa

và chồng mờ

Hiện thực.

Khuôn mặt Quỳnh Hoa.

Cận

5s

9

Nàng từ từ nhắm mắt lại.

Hiện thực.

Zoom

Một bàn tay khẽ đặt lên trán Quỳnh

ra

7s

10

Hoa.

Trung

cảnh

Nàng mở mắt ra.

Trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Tưởng cũng dành một phân đoạn để nói

về giấc mơ của Quỳnh Hoa, nhưng đó là một giấc mơ “bâng khuâng trong một

thế giới đầy hoa thơm cỏ đẹp, và vang lừng những tiếng sênh ca” [43, tr.78].

Đến với sự sáng tạo của đạo diễn Hải Ninh, ông đã thay đổi giấc mơ của nàng,

93

cho nàng một cơn mộng mị mà như một nỗi day dứt, khắc họa rõ nét hơn nỗi

đau của cô gái mới chớm bước vào yêu. Nàng còn chưa kịp dệt mộng ước thì bi

kịch đã ập xuống, khiến ước nguyện duy nhất chỉ còn là mong muốn được chết

bên tình lang. Phân đoạn tập trung vào 2 hình ảnh: đôi mắt sợ hãi của Quỳnh

Hoa và con thuyền lao đi trên mặt nước. Không gian cơn mơ tối sẫm, màu xanh

thẫm của nước, chiếc thuyền màu nâu khiến 2 bóng người áo trắng trên đó càng

thêm nổi bật. Con thuyền mang tính biểu tượng ám ảnh tâm trí quận chúa, khiến

nàng không thể đuổi theo, không thể níu kéo, càng lúc càng trôi nhanh, trôi xa

khỏi tầm với của nàng. Đoạn trích không có đối thoại, chỉ là những hình ảnh đan

xen giữa mơ và thực, nhưng những chi tiết im lặng còn nói được nhiều hơn thế,

diễn tả tinh tế tâm sự của Quỳnh Hoa dường như đã tuyệt vọng, lòng nàng cũng

đã chết theo tình yêu tan vỡ rồi. Hình ảnh con thuyền trong giấc mộng tác động

mạnh mẽ vào cảm xúc khán giả, khiến người xem ngập tràn những dự cảm bất

an. Ngôn ngữ hình ảnh trong phân đoạn không nhiều chi tiết, nhưng gây ấn tượng

sâu sắc nhờ những khung hình được kết cấu hợp lý về bố cục Toàn - Trung -

Cận và Đặc tả, khái quát đầy đủ nỗi bi thương và sự tuyệt vọng của người con

gái bị tước đoạt tình yêu.

3.2.1.2. Ngôn ngữ hình ảnh trong thiết kế mỹ thuật

Thiết kế mỹ thuật điện ảnh thường tập trung vào hai yếu tố là bối cảnh và

đạo cụ. Trong đó, bối cảnh giữ vai trò quan trọng trong việc tái hiện không gian

và không khí lịch sử của bộ phim. Trong phim Đêm hội Long Trì, các nhà làm

phim đã dàn dựng và chọn lựa các kiểu bối cảnh khác nhau, đáp ứng trạng thái,

tâm lý tiếp nhận của người xem. Trước hết, bộ phim khai thác các bối cảnh tự

nhiên, với một số ngoại cảnh thiên nhiên sẵn có như: hồ Gươm, hồ sen, bến

sông… Trong trích đoạn chia tay giữa Bảo Kim tiễn Nguyễn Mại về thăm gia

đình [28, tập 1, 00:29:27], các nhà làm phim đã đặt 2 nhân vật vào bối cảnh bến

sông với những chi tiết gần gũi và bình dị, con sông xanh mát, lũy tre soi bóng

và một đàn bò đang thủng thẳng gặp cỏ ven sông. Một bối cảnh đặc trưng của

94

không gian văn hóa Việt Nam dường như cũng là một ẩn dụ về khát vọng bình

yên. Trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng không có cuộc đưa tiễn này. Sau

cuộc gặp với Chúa Trịnh, Nguyễn Mại về nhà Bảo Kim chia tay các bạn và lên

đường: “Chiều hôm ấy, trên con đường về tỉnh Bắc, một chàng võ tướng, đeo

gươm tế ngựa như bay; đó là Nguyễn Mại trở về thăm mẹ và vợ con. Bụi bốc mịt

mù đuổi theo vó ngựa người tráng sĩ” [43, tr.48]. Những dòng văn miêu tả tráng

lệ, nhuốm “màu quan san” nhưng đầy cô đơn! Trong phim, nhân vật Nguyễn

Mại được dành nhiều phân cảnh và nhiều đất diễn hơn, cho thấy sự nhấn mạnh

và đề cao nhân vật này của đạo diễn và các nhà biên kịch, bởi đây chính là người

có vai trò “cởi nút” tác phẩm. Việc xây dựng tình tiết Bảo Kim tiễn Nguyễn Mại

về quê tạo cho người xem ấn tượng về tình bạn khăng khít của 2 người, dù con

đường họ chọn đi là khác nhau: một người theo nghiệp võ học, binh đao; một

người theo nghiệp văn chương, chữ nghĩa. Nhưng ở họ vẫn toát lên điểm chung

là nghĩa khí và sự chính trực, cùng tấm lòng trung quân ái quốc, muốn đem tài

năng để phò tá triều đình. Bối cảnh bình yên của một bến sông quê là nơi thích

hợp để Bảo Kim và Nguyễn Mại tâm sự về thế sự, về nỗi niềm trăn trở trước sự

suy vong của kỷ cương, phép nước bởi những kẻ bạo ngược như Đặng Lân, âm

mưu như Đặng Thị Huệ, sa đọa như Trịnh Sâm... Bối cảnh đơn giản, giống như

mọi bến sông ở bất kỳ miền quê nào, tự nhiên, giản dị, không cầu kỳ, không cần

phải dàn dựng bài trí nhiều, song rất hiệu quả về mặt hình ảnh và mang tính ẩn

dụ cao. Bởi xét cho cùng, sự bình yên bao giờ cũng là ước mong lớn nhất trong

cuộc đời của mỗi con người.

Ngoài ra, một cách khác là khai thác, cải tạo bối cảnh có sẵn được đạo

diễn Hải Ninh sử dụng triệt để. Khi theo dõi và phân tích các bối cảnh trong

phim, người viết luận văn thấy rằng, đạo diễn đã ghi hình tại khá nhiều bối cảnh

trong cố đô Huế. Về mặt nghệ thuật kiến trúc, kiến trúc cung đình của thời Lê -

Trịnh và thời Nguyễn mặc dù có những nét đặc trưng riêng, tập trung ở hoa văn,

họa tiết điêu khắc, chạm trổ, nhất là hình rồng, song không quá khác biệt. Đạo

diễn và các họa sĩ của đoàn phim đã lựa chọn những bối cảnh trung tính, không

95

nhiều chi tiết, kết hợp với xử lý góc quay và khung hình phù hợp. Cùng với đó,

trong phim cũng sử dụng nhiều bối cảnh sẵn có, song mang tính biểu tượng cho

đất nước trong tất cả các giai đoạn lịch sử như Văn Miếu, Chùa Trấn Quốc, các

cửa ô của Hà Nội… Về mặt thể loại, Đêm hội Long Trì là một bộ phim dã sử với

yếu tố hư cấu cho phép, thiết kế mỹ thuật có thể được dàn dựng không đòi hỏi

chính xác tuyệt đối, mà quan trọng là vẫn đảm bảo phim phải có không khí, đặc

điểm lịch sử thời kỳ đó. Việc tận dụng các bối cảnh có sẵn bởi nhiều lý do, mà

trong đó, kỹ xảo điện ảnh vào những năm 1980 vẫn còn nhiều hạn chế, kinh phí

còn khó khăn, thì việc xử lý bối cảnh có sẵn một cách tinh tế, tận dụng ưu thế

góc máy quay phim đã giúp bộ phim chuyển tải trọn vẹn hơi thở lịch sử thời đại

mà nó phản ánh.

Với hình thức điện ảnh hóa lịch sử, ở dạng này, lịch sử không chỉ được tái

hiện trên bề mặt của các sự kiện mà còn được soi rọi ở nhiều góc nhìn khác nhau.

Với hướng đi như vậy, các họa sĩ thiết kế mỹ thuật đã khai thác triệt để các

không gian mâu thuẫn và xung đột của các tuyến nhân vật. Hình thức này đã

hoàn toàn thoát khỏi sự mô phỏng hay minh họa lịch sử. Làm được điều này,

thiết kế mỹ thuật phim Đêm hội Long Trì đã giải quyết được hai vấn đề: thứ

nhất, dựa vào tư liệu lịch sử dàn dựng được cung vua phủ chúa một cách thuyết

phục, người xem không còn cảm giác thiết kế mỹ thuật ảnh hưởng của sân khấu;

thứ hai, bối cảnh còn tạo được cái không khí của thời phong kiến đang trên đà

mục nát. Qua trục lịch sử và thực tế bộ phim, có thể thấy thiết kế mỹ thuật bối

cảnh trong phim đã tạo ra không khí lịch sử mà kịch bản phim đòi hỏi, góp phần

quan trọng vào thành công của bộ phim.

Những bối cảnh được chọn lựa kết hợp đạo cụ đã phát huy vai trò trong

việc tái hiện không khí lịch sử, mà cụ thể là bối cảnh xã hội và vương triều dưới

sự cai trị của Chúa Trịnh. Trong đó, những bối cảnh gắn với sự xuất hiện của

Tuyên phi Đặng Thị Huệ được dàn dựng kỹ lưỡng và trau chuốt. Theo mô tả của

Nguyễn Huy Tưởng, trong tiểu thuyết chỉ dành một đoạn trích để miêu tả cung

96

Bội Lan thất, nơi ở của Đặng Thị Huệ: “Tài khéo của Tuyên phi đã làm cho khu

nàng ở thành một nơi mộng ảo, và chốn thâm cung thành một cái tổ thần tiên.

Mà quả vậy, những cột rồng đã mất vẻ trang nghiêm, câu đối hoành phi không

còn nhắc những lời đạo lý khô khan nữa. Mắt vào đây được yên nghỉ, màu sắc

điều hòa êm dịu, và vườn hoa, một công trình mỹ thuật vô song thoang thoảng

đưa vào gió mát và hương thơm. Những màn hoa bay phấp phới, như những cờ

mừng Chúa, nhưng có vẻ đầm ấm và uy nghi. Đây toàn là sinh thú, toàn là ái

tình” [43, tr.58]. Với đạo diễn Hải Ninh, bằng việc cải biên có sáng tạo, bổ sung

thêm tham vọng tiếm quyền cho Đặng Thị Huệ, nên những không gian gắn bó

với nhân vật đều được ông mạnh dạn thay đổi, mở rộng rất nhiều. Bội Lan thất

là gian phòng khuê nữ rực rỡ, với sắc đỏ của những cây cột chạm trổ công phu,

mành rèm màu bạc lóng lánh, những bức bình phong điêu khắc tinh tế, kết hợp

với những chậu cảnh tạo thế, hoa lá tốt tươi… Cũng tại đây đã diễn ra phân cảnh

khỏa thân tắm của Đặng Thị Huệ để mê hoặc Chúa Trịnh. Ngoài những phân

cảnh tại Bội Lan thất, nhân vật Tuyên phi còn gắn với nhiều bối cảnh khác. Ngay

từ những phút đầu tiên của bộ phim, trong đêm hội trung thu ở hồ Long Trì,

Trịnh Sâm và Thị Huệ ngồi trên thuyền rồng ngắm cảnh. Đó dường như là con

thuyền tình để hai người mặc nhiên thể hiện tình cảm trong một đêm trăng nồng

nàn và lãng mạn. Hay ở khoảng phút 01:00:52, tập 1, Đặng Tuyên phi và Trịnh

Sâm dạo thuyền trên hồ sen, ngắm cảnh và thưởng trà; hoặc ở tập 2, thời gian

00:04:53, Đặng Thị Huệ đến Cung Bắc thỉnh an Trịnh Sâm, cùng Trịnh Sâm

ngắm cảnh, xem diễn tuồng… Có thể thấy, những bối cảnh nội có sự xuất hiện

của nhân vật Đặng Thị Huệ đều được quan tâm, chăm chút, nơi ở đầy vẻ sang

trọng, phú quý và tinh tế, còn những nơi ngoại cảnh nàng xuất hiện cũng đều

lãng mạn, hài hòa, phù hợp với một người đàn bà đẹp.

3.2.1.3. Ngôn ngữ hình ảnh trong xây dựng hình tượng nhân vật

Xác định nhân vật là chất liệu trung tâm của bộ phim, tạo hình nhân vật

trong Đêm hội Long Trì được thực hiện đồng bộ các thủ pháp tạo hình để thể

97

hiện khí chất bên ngoài và khí chất nội tại từ tính cách bên trong của nhân vật.

Những thủ pháp đó bao gồm: ngoại hình diễn viên, mỹ thuật hóa trang, thiết kế

phục trang và nghệ thuật diễn xuất.

Khi bắt tay vào thực hiện bộ phim thì ngay từ khi nảy sinh ý tưởng hoặc

xây dựng kịch bản thì đạo diễn đã có ý tưởng về hình tượng nhân vật của mình,

từ đó có ý đồ về lựa chọn diễn viên thể hiện nhân vật. Ngoại hình diễn viên

thường gắn với môtip nhân vật theo trí tưởng tượng, hình dung của mọi người

về kiểu nhân vật đó. Vẻ kiêu sa, lộng lẫy và sắc sảo của Lê Vân phù hợp với

những mô tả trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng; vẻ trong sáng, mỏng

manh của Thu Hà giúp cô hóa thân thành công vào nhân vật Quận chúa Quỳnh

Hoa; Còn đôi mắt đảo liên tục và điệu cười khả ố giúp Hoàng Thắng đóng đinh

vai Quốc cữu Đặng Lân; Trong khi đó, ngoại hình sang trọng, phong cách đĩnh

đac và gương mặt uy quyền là lợi thế để Thế Anh khắc họa nhân vật Trịnh Sâm

một cách trọn vẹn. Quyết định lựa chọn “đúng” diễn viên cho nhân vật và tài

năng hóa thân của dàn diễn viên nhờ phần lớn ở hình dung của đạo diễn, có đúng

“chuẩn”, đúng “gu” của người xem hay không. Trong phim Đêm hội Long Trì,

ngoại hình diễn viên được chăm chút qua bàn tay mỹ thuật hóa trang, trang phục

kết hợp diễn xuất đã tạo nên ấn tượng khó quên với công chúng.

Một trong những nét đặc sắc của bộ phim Đêm hội Long Trì trong việc tái

hiện thành công không khí lịch sử, bên cạnh bối cảnh, ngôn ngữ đối thoại, đạo

cụ, thì phục trang cũng rất xuất sắc. Trong muôn vàn khó khăn khi làm phim,

tạo hình cho phim truyện có đề tài lịch sử, dã sử, cổ trang, thì vấn đề phục trang

luôn là một trong những thách thức lớn. Dựa trên các tư liệu lịch sử được tổng

hợp từ nhiều nguồn khác nhau, nhất là những pho tượng cổ thời Lê - Trịnh, các

họa sĩ đã thiết kế những bộ phục trang chuyển tải được không khí lịch sử và vị

trí của người mặc. Các nhà làm phim đã mất hàng năm trời cho việc nghiên cứu

họa tiết, thiết kế và may trang phục. Theo một số bài báo, đạo diễn chính của

phim, nghệ sĩ nhân dân Hải Ninh từng cho biết: “Tìm ra trang phục cho Đêm

98

hội Long Trì là cả một công trình rất thành công của các họa sĩ, mà trước tiên

là nghệ sĩ nhân dân Đào Đức. Phim ra mắt gần như không có ý kiến của bất cứ

một nhà lịch sử nào phê phán về vấn đề y phục và đạo cụ cả… Chúng tôi nghiên

cứu tỉ mỉ để khi phim hoàn thành, người ta thấy đấy là văn hóa Việt Nam” [59].

Để cảm nhận rõ hơn về sự công phu và tỉ mỉ của thiết kế phục trang trong

phim điện ảnh Đêm hội Long Trì, chúng ta có thể xem xét trang phục thiết triều

của Chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm trong phân đoạn gặp gỡ Nguyễn Mại trở

về sau chiến thắng thành Phú Xuân trong ảnh sau:

Hình 10: Trang phục thiết triều của Chúa Trịnh trong phim

Mặc dù trong lịch sử, Chúa Trịnh lấn quyền vua Lê, song về mặt trang

phục, các chúa Trịnh vẫn không mặc giống với trang phục của vua. Các họa sĩ

của phim Đêm hội Long Trì đã khảo cứu nhiều sử liệu và tìm ra rằng, chúa mặc

tía bào, có họa tiết một hình rồng trước ngực, còn vua mặc hoàng bào với họa

tiết lưỡng long chầu nguyệt. Các phác thảo phục trang và diện mạo nhân vật

chiếm vai trò quan trọng trong công tác tạo hình thiết kế mỹ thuật phim lịch

sử, tạo nên những diễn giải phân cảnh có độ lùi về thời gian và không gian phù

hợp giai đoạn lịch sử, bắt mắt và cuốn hút khán giả. Những nghiên cứu đó được

đưa vào trong phim, trở thành một trong những đóng góp quan trọng tái hiện

bối cảnh lịch sử và văn hóa thời Lê Trung Hưng, không chỉ được công chúng

đánh giá cao mà còn được các nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử trân trọng.

99

Ngôn ngữ hình ảnh trong Đêm hội Long Trì được khắc họa thông qua

hình tượng nhân vật thành công bởi đã kết hợp chặt chẽ các thủ pháp về ngoại

hình, hóa trang, trang phục và nghệ thuật diễn xuất. Hải Ninh đã có được dàn

diễn viên chất lượng với những diễn viên tài năng hàng đầu của điện ảnh Việt

Nam những năm 1980, không chỉ có ngoại hình sáng màn ảnh mà đều đã đạt

tới độ chín về nghề. Hình tượng và tính cách nhân vật được bộc lộ qua phương

thức thể hiện của tạo hình diễn xuất nhờ các tín hiệu: cử chỉ, điệu bộ, động tác

được bộc lộ ra bên ngoài với biểu cảm tinh tế, thẳm sâu từ nội tâm của nhân

vật, cùng lối diễn kể thông qua lời thoại hoặc kể cả những khoảng lặng không

lời. So với tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, trong phim, nhân vật Nguyễn

Mại được giành cho nhiều đất diễn hơn với nhiều bối cảnh có sự xuất hiện của

nhân vật. Diễn viên Trọng Phan gây ấn tượng cho người xem về một vị võ quan

chính trực, nghĩa khí không chỉ bởi ngoại hình phù hợp với gương mặt vuông

chữ điền, ánh mắt sáng, mà còn ở lối diễn hóa thân một cách sinh động. Mặc

dù thể hiện vai một dũng tướng, song hình tượng nhân vật không khô cứng mà

có sự biến hóa qua các tình huống khác nhau. Đó là một Nguyễn Mại “giữa

đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha” khi bắt gặp cảnh Đặng Lân bạo ngược,

giở trò dâm loạn trong đêm hội Long Trì. Có thể thấy, Trọng Phan thể hiện

diễn xuất qua đôi mắt một cách xuất sắc, thể hiện được thần thái của một võ

tướng, đồng thời là thái độ khinh ghét của mình đối với kẻ đê tiện như Đặng

Lân.

100

Hình 11: Nguyễn Mại trừng trị Đặng Lân trong đêm hội Trung thu

Khi ở bên bạn bè, chàng là con người nhiệt huyết, nghĩa khí, trọng nghĩa

trọng tình. Tại nhà Bảo Kim, Nguyễn Mại trò chuyện cùng mọi người một cách

hòa đồng, sôi nổi. Trong câu chuyện và trong cách nói chuyện, vị tướng trẻ luôn

canh cánh những nỗi niềm vì dân vì nước. Với mẹ của Bảo Kim, chàng một mực

kính trọng, yêu thương như cha mẹ của mình.

Hình 12: Nguyễn Mại thưa chuyện với mẹ Bảo Kim trước khi

lên đường về quê

Phân đoạn Nguyễn Mại chia tay vợ con đi diệt trừ Đặng Lân cũng có thể

nói là phân đoạn nhiều cảm xúc. Một người dũng tướng, một vị thanh quan mạnh

mẽ trên chốn quan trường, song lại không thể nói hết lòng mình với người vợ và

đứa con thơ, chàng chỉ có thể diễn tả qua ánh mắt và vòng tay ôm xiết lấy gia

đình trước lúc ra đi. Diễn xuất diễn viên, nhất là trong ánh mắt đã diễn tả trọn

vẹn những tình cảm dồn nén với gia đình.

101

Hình 13: Nguyễn Mại chia tay vợ con trước lúc đi diệt trừ Đặng Lân

Và trên tất cả, đó vẫn là Nguyễn Mại, một con người khẳng khái, không

khuất phục cường quyền, dám làm dám chịu, xả thân vì dân đến tận phút cuối.

Hình 14: Nguyễn Mại trên pháp trường

Không chỉ với diễn viên Trọng Phan, mà tất cả các diễn viên khác của bộ

phim đều đã lao động nghệ thuật một cách nghiêm túc. Một Bảo Kim tài hoa,

giỏi văn chương thơ phú, có tấm lòng trung nghĩa đã được nghệ sĩ Vũ Đình Thân

khắc họa sâu sắc. Ngay cả nhân vật phụ Quận huy Hoàng Đình Bảo cũng được

nghệ sĩ Dương Quảng thể hiện rất đạt qua ánh mắt “gian thần”. Ngôn ngữ hình

ảnh trong tạo hình hình tượng nhân vật của bộ phim đạt được thành công chính

là nhờ mỗi diễn viên đã hóa thân trọn vẹn cảm xúc cho nhân vật của mình trong

tác phẩm.

102

3.2.1.4 Ngôn ngữ hình ảnh trong phương thức tạo hình hình ảnh

Các phương thức tạo hình hình ảnh để ngôn ngữ hình ảnh đạt được hiệu

quả tối đa nằm ở hai chìa khóa: nghệ thuật xử lý ánh sáng và phương thức xử lý

máy quay phim.

Ánh sáng là chất liệu đầu tiên của việc quay phim ghi hình. Mặc dù là

nguyên tắc kỹ thuật - bảo đảm đúng sáng và điều khiển ánh sáng phù hợp diễn

biến, nhưng cùng lúc cũng là yếu tố biểu hiện tâm hồn, phong cách của đạo diễn

và quay phim. Đối với phim điện ảnh Đêm hội Long Trì, thiết kế và bài trí ánh

sáng trong phim đã đáp ứng được việc chuyển tải bối cảnh lịch sử của bộ phim.

Các phân đoạn đều được đặt sáng hợp lý, tạo được độ sâu trong khuôn hình, làm

nổi bật được vẻ đẹp ngoại hình và diễn xuất nội tâm của nhân vật. Những phân

đoạn ngoại cảnh có được lợi thế nguồn sáng tự nhiên đảm bảo chất lượng hình

ảnh, độ tương phản và độ sâu của hình ảnh. Tuy nhiên, có thể thấy, hầu hết các

phân đoạn nội cảnh trong phủ Chúa Trịnh được thiết kế ánh sáng đều đều, khá

giống nhau, không có điểm nhấn theo nội tâm và tình cảm của nhân vật. Các

phân đoạn này đều là nội cảnh, ngày hoặc đêm, bộ phận ánh sáng đã bố trí hợp

lý, không để thiếu sáng và lệch sáng, song lại thiếu những trọng tâm để làm nổi

rõ tâm trạng nhân vật. Những phân đoạn phát huy được hiệu quả ánh sáng tối đa

chính là phân đoạn trong phủ Đặng Lân. Chúng ta có thể phân tích phân cảnh

Đặng Lân xông vào lầu Quận chúa đòi tân hôn với Quỳnh Hoa [28, tập 2,

00:19:43] để thấy, ánh sáng được bố trí bớt đèn hậu, nguồn sáng tập trung nhưng

cường độ sáng không quá lớn tạo nên khoảng tối - sáng trên khuôn mặt Đặng

Lân, làm nổi bật nét hiểm ác của nhân vật. Trong cả phân đoạn này, cách chiếu

sáng nội - đêm, tối giản nguồn sáng phụ, có kết hợp nguồn sáng ven và nguồn

sáng điều chỉnh đã tạo nên thứ ánh sáng tranh tối, tranh sáng, như muốn nhấn

mạnh những hiểm họa đang nhe nanh vuốt rình rập Quỳnh Hoa. Nó phản ánh

cuộc sống nơi trang hoàng lộng lẫy và lòe loẹt của Đặng Lân cũng giống như

nơi hang ổ của bầy lang sói với nhập nhoạng những điều xấu xa và tội ác. Có

103

thể thấy rõ hiệu quả ánh sáng trong khuôn hình cận mặt Đặng Lân. Khuôn mặt

nửa tối nửa sáng với ánh mắt tàn nhẫn đã lột tả đầy đủ tính cách của nhân vật.

Hình 15: Đặng Lân chuẩn bị xông lên lầu Quận chúa

Cũng vẫn phân đoạn đó, ở một góc quay khác, góc quay thẳng - cận mặt

Đặng Lân, với cách bố trí nguồn sáng hắt từ dưới lên, khiến khuôn mặt nhân vật

trở nên méo mó, dị dạng và đáng sợ, tạo cho người xem có cảm giác như đang

chứng kiến gương mặt của một tên ác quỷ.

Hình 16: Cận mặt Đặng Lân với cách bố trí nguồn sáng hắt dưới

Hiệu quả chiếu sáng trong cảnh quay ở phân đoạn này cũng có sức biểu

cảm mạnh mẽ trong việc diễn tả bi kịch đau đớn của Quỳnh Hoa khi phải đối

diện với kẻ bạo ngược mang danh vị hôn phu của mình. Gã chồng mà trong chớp

mắt đã giết hại hai vị đại thần thân tín được cha nàng cử theo hộ giá. Khi Đặng

104

Lân bước vào phòng Quỳnh Hoa, ánh sáng vẫn được duy trì hiệu ứng tranh tối

tranh sáng. Nó phản ánh cuộc sống của nàng dẫu về nơi lầu son gác tía, song

cũng chỉ là chốn tối tăm và bóng tối bao phủ trọn đời. Chiếu sáng trong phim đã

tạo hiệu quả về chiều sâu không gian, hiệu quả thời gian, từ đó nhấn mạnh tính

cách, hoàn cảnh, tâm lý nhân vật, tạo kịch tính cho tình huống truyện phim và

mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

Ánh sáng kết hợp với xử lý máy quay trong tạo hình sẽ tạo nên hiệu quả

tối đa cho ngôn ngữ hình ảnh. Bố cục khuôn hình là một trong những yếu tố của

ngôn ngữ tạo hình quay phim. Về mặt tạo hình, xử lý bố cục có sự tham gia của

chiếu sáng, màu sắc, đường nét, hình khối, góc độ, chuyển động máy… nhà quay

phim cần sắp xếp các yếu tố trên với sự thống nhất trong ý đồ tạo hình và phản

ánh nội dung. Trong cuốn sách Nghệ thuật quay phim điện ảnh, tác giả Dương

Quang Viễn nhấn mạnh: “Không có quay phim, không có nghệ thuật điện ảnh”

[44, tr.153]. Là người tạo hình thị giác quan trọng, nhà quay phim cũng là một

nghệ sỹ sáng tác trên nền hình ảnh, màu sắc, ánh sáng… bằng máy quay phim.

Đêm hội Long Trì gây ấn tượng cho người xem bởi nhiều điều, mà trong đó,

ngôn ngữ hình ảnh giàu cảm xúc và mang tính lịch sử cao là một yếu tố tác động

mạnh mẽ. Trong tác phẩm, nhà quay phim Trần Trung Nhàn sử dụng nhiều

khung hình tĩnh, ít động tác máy zoom và lia. Sử dụng phương thức xử lý máy

quay tĩnh nhằm đáp ứng yêu cầu của dòng phim chính kịch hiện thực, chi phối

bởi nội dung liên quan đến lịch sử, cuộc sống trong cung với những nghi lễ, nghi

thức nghiêm ngặt, nên ngôn ngữ hình ảnh có phần trang trọng, tiết tấu ổn định.

Trong phim có nhiều “bức tranh” đẹp được tạo nên từ phương thức xử lý màu

sắc và góc độ máy qua cảm xúc tạo hình mỹ thuật của nhà quay phim. Dễ dàng

nhận ra cách tạo hình hình ảnh tỉ mỉ và trau chuốt. Cùng với đó là tiết tấu

monotone (chậm rãi) bằng cách sử dụng kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình ống

kính, kết hợp với chuyển động nhẹ nhàng của nhân vật hoặc đối tượng, máy

quay cũng di chuyển chậm theo chiều tiến của nhân vật. Phân đoạn Trịnh Sâm

105

và Đặng Thị Huệ dạo thuyền trên hồ sen và thưởng trà [28, tập 1, 01:00:51], thể

hiện khá rõ tiết tấu ở dạng thức này.

KHUÔN

ĐỘNG TÁC

THỜI

STT

CẢNH

HÌNH

MÁY

LƯỢNG

Hồ sen rộng, con thuyền chở

Toàn

Trịnh Sâm và Thị Huệ cùng tùy

Tĩnh

9s

1

tùng đi giữa hồ sen

Lia ống kính

Toàn (góc

máy quay theo

máy đối

Con thuyền lướt sóng trên hồ sen

17s

2

di chuyển của

diện)

con thuyền

Lia ống kính

Thị Huệ hứng nước từ lá sen đổ

máy quay theo

Trung

14s

3

hành động của

vào bát

nhân vật

Tay Thị Huệ mở lọ chè rồi đổ ra

Cận

Tĩnh

14s

4

giấy

- Lia ống kính

máy quay bám

- Thị Huệ nhúp chè thả vào một

theo hành

búp sen, rồi chuyển sang đổ chè

động của nhân

ra từ búp sen khác.

vật.

Trung

24s

5

- Trịnh Sâm lên tiếng tán thưởng

- Sau đó, zoom

và uống trà

vào cận mặt

đối tượng đối

diện.

106

Lia ống kính

máy quay theo

Toàn

Hồ sen và con thuyền

19s

6

di chuyển của

con thuyền

Trung

Trịnh Sâm nói chuyện

Tĩnh

9s

7

Trung

Thị Huệ trả lời

Tĩnh

15s

8

Lia ống kính

Con thuyền lướt đi trên khuôn

máy quay theo

18s

Toàn

9

chuyển động

hình

của con thuyền

Hồ sen, con thuyền đi giữa

Toàn

Tĩnh

5s

10

những khóm sen

Zoom từ hai

- Trịnh Sâm đỡ Thị Huệ đứng

nhân vật ra

dậy.

14s

Trung

11

cảnh toàn bến

- Con thuyền tiến vào bến.

thuyền.

Có thể thấy ở phân đoạn này có nhiều cảnh quay có động tác máy, song

nhịp điệu chậm. Cách quay này phù hợp với ngôn ngữ tạo hình của nhân vật với

diễn xuất từ tốn, nhẹ nhàng và không khí chung của cả phân đoạn. Đó là những

khuôn hình tỉ mỉ, với cách triển khai góc máy thường đứng im ở đầu cảnh rồi di

chuyển dần theo hướng chuyển động của nhân vật. Những cảnh khá dài (trên

chục giây) được đặt nối tiếp nhau, làm cho hiệu quả tiết tấu càng khoan thai,

chậm rãi, như muốn mô tả rõ nét cảm xúc nhấn nhá, tận hưởng của người thưởng

trà và ngắm cảnh.

Việc xử lý góc máy tạo hiệu quả tối đa trong xây dựng ngôn ngữ của bộ

phim. Ở phân cảnh Nguyễn Mại được dẫn ra pháp trường. Quay phim đã sử

107

dụng góc máy ngợi ca với ống kính máy quay hướng chếch từ dưới lên trong

khoảng 30-45o. Đây là thủ pháp vẫn thường dùng khi muốn thể hiện sự tôn vinh,

ca ngợi những nhân vật anh hùng, khí phách, hay tấm gương người tốt việc tốt...

Hoặc ở đoạn cuối tập 2, phân cảnh cái chết của Quận Chúa Quỳnh Hoa, góc máy

từ khuôn hình trung cảnh Trịnh Sâm ôm Quỳnh Hoa trong lòng và tự trách mình,

động tác máy zoom dần vào khuôn hình cận khuôn mặt Chúa Trịnh với đôi mắt

rưng rưng chua xót. Ánh sáng kết hợp với bóng nước mắt đang ứa ra như khắc

sâu nỗi đau không nói được thành lời.

3.2.2. Ngôn ngữ thính giác (âm thanh)

Để điện ảnh có thể trở thành loại hình nghệ thuật hấp dẫn nhất thế kỷ

XX và đến ngày nay, thì ngoài đóng góp về hình ảnh, âm thanh cũng góp phần

quan trọng không kém. Thính giác và thị giác kết hợp với nhau, trở thành giác

quan chủ đạo trong việc tiếp thu, cũng như đóng vai trò tác động trong xây dựng

hình tượng điện ảnh và tạo xúc cảm thẩm mỹ. Có thể thấy tác dụng tạo hình của

âm thanh đối với tạo hình hình ảnh tạo nên những cảm xúc tinh tế, giúp người

xem có thể mường tượng ra màu sắc, hình thể, chuyển động… của đối tượng

trong không gian liên tưởng. Âm thanh có khả năng tái tạo hiện thực, có điều

kiện đào sâu tâm trạng và thể hiện tâm lý của con người. Sự chú ý thị giác luôn

song hành với sự chú ý của thính giác, khán giả ngày càng nhạy cảm khi thưởng

thức các bộ phim từ tiếng người, đối thoại, độc thoại, tiếng ngoài hình, âm thanh

hiện trường… mang tính hình tượng.

Âm thanh trong phim bao gồm: lời nói, tiếng động và âm nhạc. Khảo sát

âm thanh của Đêm hội Long Trì về mặt lời thoại, ta thấy, tác phẩm điện ảnh có

được lợi thế ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Những câu thoại giữa các

nhân vật được trau chuốt theo đúng bối cảnh, ngữ nghĩa, địa vị nhân vật, chuẩn

xác về mặt lịch sử và văn hóa, cũng như những lễ nghi, phong cách trong cung

thời Lê Trung Hưng. Lời nói là các thành tố tạo hình “ẩn”, bổ sung rõ nét cho

tính cách nhân vật, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm và cả những âm mưu, toan tính.

108

Cách nói chuyện của Bảo Kim luôn nho nhã, nhẹ nhàng, lối nói vận dụng chữ

nghĩa, văn chương. Còn cách nói của Đặng Lân thô lỗ, ngạo mạn. Lời thoại của

Đặng Thị Huệ với Trịnh Sâm thì lơi lả, ngọt ngào kết hợp với ngôn ngữ hình thể

và ngôn ngữ ánh mắt quyến rũ; khi nói chuyện Đặng Lân là tình cảm của một

bà chị quan tâm đến em, nhưng cũng có những toan tính để vừa được lợi cho em

và cho bản thân mình; với kẻ thân tín vừa uy quyền, vừa xoa dịu. Nội dung

truyện phim là sự hòa quyện tổng thể giữa hiệu quả tạo hình hình ảnh và tạo hình

âm thanh trong nghệ thuật kể chuyện.

Trong phim Đêm hội Long Trì, về hình thức lời nói chủ yếu là lời nói

trong khuôn hình. Đây là hình thức lời nói vang lên trong không gian của cảnh

quay, nguồn phát ra lời nói nằm ngay trong khuôn hình. Chúng ta có thể thấy rõ

điều này qua theo dõi diễn biến bộ phim. Còn về loại lời nói gồm đối thoại và

độc thoại. Đêm hội Long Trì ngập tràn các đối thoại, các cuộc trò chuyện. Đạo

diễn đã xử lý đối thoại của các nhân vật đặt trong bối cảnh và cường độ âm thanh

phù hợp. Một nét ấn tượng trong phim là các đoạn độc thoại. Các đoạn này

không xuất hiện nhiều, nhưng đúng lúc và vừa đủ để tạo nên điểm nhấn. Phân

đoạn Khê Trung hầu can gián Trịnh Sâm, khi hai người bước ra khỏi khuôn hình

để chuẩn bị chuyển cảnh ngoại cảnh sang nội cảnh, Hề trò cung đình đã đọc một

đoạn ca dao đầy chua xót:

“Thân em như dải lụa đào

Cởi ra cũng khó mặc vào không xong

Trăm năm trong cõi đèo bòng

Trách ai ham sắc mà còng lưng tôm…”

Lời nói độc thoại của Hề trò vừa như nói lên tình cảnh khó xử của Chúa

Trịnh không biết làm sao cho vẹn cả đôi đường, vừa muốn bảo vệ con gái, vừa

muốn chiều lòng người đẹp; lời nói cũng mang đầy ý trách móc Trịnh Sâm, trách

thói ham sắc của ông ta gây họa cho bao người. Câu ca dao độc thoại, kèm theo

tiếng cười bi thương của Hề trò khiến người xem thở dài, tiếc thay cho đấng

109

quân vương u mê vì tình ái. Như thế, hình tượng thị giác không chỉ đơn thuần là

hình ảnh do máy quay ghi lại mà còn có sự hỗ trợ rất lớn bởi âm thanh. Đối thoại

của nhân vật kết hợp tiếng động hiện trường và âm nhạc tạo nên hiệu ứng tích

cực, tác động đến người thưởng thức.

Hay một đoạn độc thoại khác sau khi tiễn Quỳnh Hoa về nhà chồng,

Trịnh Sâm cũng đổ sụp: “Con! Cha làm hại đời con rồi, Quỳnh Hoa…!”, cùng

với đó là những hình ảnh quay cuồng, kết hợp với âm nhạc trầm buồn. Quỳnh

Hoa giống như thứ ánh sáng trong trẻo trong nội cung đầy u ám những mưu đồ

tranh đoạt của Trịnh Sâm, đứa con gái cho ông ta những cảm xúc bình yên về

tình cảm cha con, tình ruột thịt, thứ tình cảm chỉ có hy sinh vì nhau trọn kiếp.

Nhưng chính tay ông ta đã xô đẩy, ném con vào bão giông. Bởi thế, lòng càng

ngập tràn ân hận, lời lẽ càng rên xiết, thống thiết không nguôi.

Tuy nhiên, trong phim Đêm hội Long Trì, phần tiếng động hiện trường

có phần đơn giản, yếu tố âm thanh không gian ngoài hình khá mờ. Các phân

đoạn trong cung hầu như vắng tiếng động hiện trường, điều này dường như là

chủ ý của đạo diễn muốn mô tả cuộc sống nơi vương phủ của Chúa Trịnh xa rời

với nhịp sống của xã hội, ở đó không chỉ thiếu những hình ảnh đời thường,

những tình cảm chân thành, mà ngay cả những thanh âm đơn giản nhất cũng như

biến tan vào không gian. Ở các phân đoạn có bối cảnh ngoại, phần tiếng động

hiện trường được xử lý tốt hơn. Theo dõi bộ phim, chúng tôi thấy rằng: Thứ

nhất, bộ phim không thực hiện ghi hình và thu thanh đồng bộ mà được gia công

tiếng động sau đó; Thứ hai, bộ phim được quay cách đây đã gần 30 năm, bản

phim mà chúng tôi nghiên cứu và phân tích có phần bị suy giảm cả về âm thanh

và hình ảnh nên chưa có được sự đánh giá đầy đủ. Trong tạo hình âm thanh,

phần xuất sắc nhất chính là âm nhạc trong phim với sự tham gia của dàn nhạc

Nhạc viện Hà Nội dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân. Ngay từ phần mở

đầu phim, bản hòa tấu nhạc cụ truyền thống Lưu thủy kim tiền - một trong những

bản nhã nhạc cung đình nổi tiếng nhất đã mở ra khung cảnh lễ hội đêm hội Trung

110

thu một cách rộn rã và đầy ấn tượng. Phân đoạn đêm hội cũng là phân đoạn được

xử lý khá hoàn chỉnh về mặt ngôn ngữ âm thanh: âm nhạc hài hòa, với những

bản nhạc lúc sôi động, lúc lại du dương, da diết; tiếng động phong phú với tiếng

hiện trường, tiếng người nói, tiếng cười, tiếng bước chân…; lời nói đối thoại của

các nhân vật rõ ràng, không bị trộn lẫn vào các tạo hình âm thanh khác, nổi bật,

trong và vang. Trong không gian lễ hội ấy, Bảo Kim đã gặp Quỳnh Hoa, người

con gái mà chàng vốn “hâm mộ tài sắc” đã lâu, “Trước kia, chàng mới có hân

hạnh nhìn trộm nàng ở xa, không ngờ nay lại có cái diễm phúc được tới gần

người ngọc. Mắt chàng ngốn cái sắc thanh kỳ kia, lòng chàng hồi hộp, chàng

muốn nói mà không sao nói được” [43, tr.13]. Trong tiểu thuyết, giây phút đó

Bảo Kim không nói được điều gì, thì trong phim, chàng cũng xúc động như thế,

nhưng có phần chủ động hơn khi được mời miếng trầu gặp mặt. Khung cảnh ấy,

với hai con người “như hẹn từ muôn kiếp”, khuôn mặt nàng thanh nữ giấu mình

sau cây quạt cùng với tiếng đàn violon da diết hòa vào bản hòa tấu Qua cầu gió

bay, thì khán giả không chỉ nhìn thấy những hình ảnh trong phim đang trình

chiếu mà như được dẫn dắt, đắm chìm vào một cảm xúc tạo hình mới. Đó chính

là thang bậc, tầng nấc tạo hình vừa thăng hoa, vừa lắng sâu. Suốt bộ phim là

những bản nhạc hòa tấu nhạc cụ dân tộc cổ truyền được viết riêng cho bộ phim,

hòa âm hợp lý với tạo hình hình ảnh, sử dụng hài hòa trong từng phân đoạn cho

thấy sự tâm huyết của những người làm âm nhạc trong phim.

Phân đoạn Nguyễn Mại cứu Bảo Kim và các bạn khỏi ngục thất của Đặng

Lân, tạo hình âm thanh được xử lý tốt, hài hòa cả về đối thoại, tiếng động hiện

trường và âm nhạc. Khi Nguyễn Mại cùng trợ thủ đột nhập vào phủ, nhịp phim

tiết tấu nhanh hòa với âm nhạc hồi hộp, kịch tính. Ánh sáng và bóng đêm được

tiết chế vừa đủ, một vài vệt sáng hắt lên đủ tạo nên sự tương phản. Tiếng bước

chân chạy trong bóng đêm chập choạng gợi cho người xem một cảm giác lo

lắng, bất an. Đến khi Bảo Kim và các bạn đã được cứu ra khỏi ngục, một cơn

mưa ào ào đổ xuống, tiếng mưa như hòa nhịp, như đồng lõa xóa đi dấu vết về

111

một cuộc giải cứu trong đêm. Có thể nói, hiệu quả của tiếng động và âm nhạc

đã cùng góp phần tạo nên hồn Việt cho bộ phim, nâng tầm giá trị của tác phẩm.

3.2.3. Montage (Dựng phim)

Dựng phim là một phương thức tạo hình nghệ thuật đặc trưng của điện

ảnh. Nói cách khác, dựng phim được sinh ra là bởi sự có mặt của điện ảnh, nó

chỉ tồn tại khi điện ảnh tồn tại. Đó là quá trình xây lên - tạo ra một bộ phim từ

những thước phim đã có (hình thô, hình nguyên liệu). Như đạo diễn Francis Ford

Coppola từng nói: “Điều cốt yếu của điện ảnh chính là dựng phim. Đó là sự kết

hợp của những hình ảnh đặc biệt của con người trong những khoảnh khắc tình

cảm hay những hình ảnh có ý nghĩa chung được kết hợp cùng nhau một cách kì

diệu”. Tạo hình dựng phim thực sự là quá trình sáng tạo lần nữa, kể lại câu

chuyện phim lần nữa bằng ngôn ngữ hình ảnh và tiết tấu trong giai đoạn hậu kỳ

về phương thức tạo hình để làm nên hiệu quả của ngôn ngữ điện ảnh trong bộ

phim.

Khi tái hiện tiểu thuyết Đêm hội Long Trì bằng ngôn ngữ điện ảnh, nhờ

kỹ thuật và nghệ thuật dựng phim, cả một bi kịch lịch sử được gói tròn trong 2

tập phim với tổng thời lượng gần 3 tiếng đồng hồ. Hiểu một các đơn giản nhất,

trước hết, dựng phim là đưa những đoạn hình có nội dung về đúng vị trí, trình

tự của nó theo đúng với kịch bản điện ảnh. Nhưng nghệ thuật dựng phim không

chỉ có vậy. Ngay trong từng phân đoạn, bằng con mắt nghệ thuật của mình, kết

hợp thế mạnh kỹ thuật, người dựng phim sẽ biên tập, cắt ghép các cảnh phim

theo khuôn hình, cỡ cảnh nhằm đảm bảo nội dung phim diễn ra uyển chuyển,

tạo được điểm nhấn theo dụng ý đạo diễn, thể hiện được phong cách phim, thể

loại phim. Phim điện ảnh Đêm hội Long Trì được dựng bằng kỹ thuật analog

(phi tuyến) là kỹ thuật tiêu biểu thời kỳ những năm 1980, còn khá thô sơ, trong

phim không sử dụng nhiều kỹ xảo, vốn là thế mạnh của điện ảnh hiện đại, do

hạn chế của yếu tố kỹ thuật. Nhưng chính điều đó khiến bộ phim đạt được sự

chân thực, với hiệu quả các yếu tố tạo hình hình ảnh, các thủ pháp ngôn ngữ điện

112

ảnh đạt tối đa. Trong đó, kỹ thuật dựng phim đã phát huy vai trò rất lớn trong

việc chế tác tác phẩm. Trở lại phân đoạn Chúa Trịnh và Đặng Thị Huệ dạo

thuyền trên hồ sen, thưởng trà, ngắm cảnh đã được nhắc đến trong mục xử lý

máy quay. Bên cạnh việc thực hiện các cảnh quay có động tác máy chuyển động

theo động tác nhân vật, thì thủ pháp dựng phim tiếp nối, nhẩn nha, chậm rãi,

chắt lọc những khuôn hình biểu cảm về ánh sáng, màu sắc, độ xa - gần… đã tạo

nên một trường đoạn phim có phong cách như ta đang từ tốn thưởng thức một

ấm trà ngon bên hồ sen thơm mát. Tiết tấu chậm khiến đường nét tạo hình được

cảm thụ rõ nét và giàu mỹ cảm. Những toan tính chốn cung đình được gạt sang

một bên, chỉ còn những phút giây tận hưởng một thú ẩm thực tao nhã giữa hai

con người đồng cảm trong không gian rộng lớn của thiên nhiên. Ngược lại, trong

phân đoạn Nguyễn Mại trừng trị Đặng Lân, tiết tấu dựng phim trở nên nhanh,

dứt khoát với độ dài cảnh 3-4 giây, thể hiện hành động liên tục nối tiếp nhau.

Không còn những đối đáp theo lễ nghĩa thông thường, chỉ những tuyên bố buộc

tội Đặng Lân được Nguyễn Mại đưa ra và thực thi công lý. Thủ pháp dựng phim

giúp phân đoạn này trở nên giàu kịch tính và đúng với tình huống mang tính

hành động cao.

Các thủ pháp dựng phim đã giúp ngôn ngữ đặc thù của Đêm hội Long

Trì trở nên hấp dẫn, toát lên những cảm nhận về bi kịch của vương quyền và sự

giàu sang. Nó tạo nên sự đối lập giữa khung cảnh của sự xa hoa, lộng lẫy nhưng

chật chội, tù túng, khiến những con người trong đó đánh mất ước mơ, đánh mất

tình yêu và đánh mất chính mình. Thông qua kỹ thuật và nghệ thuật dựng phim,

bố cục hình ảnh được xử lý chặt chẽ hơn với những khuôn hình Toàn - Trung -

Cận được sắp đặt theo trật tự, câu hình không bị “ngược trục” trong các đối

thoại. Ở các chuyển đoạn trở nên mềm mại, nối tiếp liên tục. Kỹ thuật dựng phim

chủ yếu là những cắt - ghép đơn giản, ít chồng mờ, ghép cảnh, ít sử dụng kỹ xảo,

nhưng phát huy hiệu quả tối đa tính chân thực của bộ phim. Trong phim, đạo

diễn Hải Ninh đặc biệt chú trong khả năng diễn xuất bằng mắt của các nhân vật.

Nhờ vào động tác máy zoom cận và hiệu quả của nghệ thuật montage, khi xử lý

113

các hình ảnh cận cảnh như những ẩn dụ về nỗi đau của các nhân vật trong phim.

Đôi mắt đầy dã tâm của Đặng Lân; đôi mắt nhiều mưu đồ của Đặng Thị Huệ;

Đôi mắt cương nghị của Nguyễn Mại… tất cả đã được đặt trong trình tự sắp đặt

hình ảnh theo câu hình đã tạo ấn tượng sâu sắc trong từng phân đoạn. Nghệ thuật

dựng hình giúp cho những hình ảnh thu được của máy quay xuất hiện hợp lý

nhất, kết hợp với âm thanh tạo nên một thể hài hòa và thống nhất để kể trọn vẹn

câu chuyện trong phim.

Tiểu kết chương 3

Trong chương 3 của luận văn, chúng tôi đã đi vào phân tích về ngôn ngữ

nghệ thuật trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và ngôn ngữ điện ảnh trong phim

chuyển thể Đêm hội Long Trì. Nét đặc sắc lớn nhất trong ngôn ngữ nghệ thuật

của Nguyễn Huy Tưởng khi viết tiểu thuyết này là ngôn ngữ miêu tả và ngôn

ngữ đối thoại, với sự vận dụng lớp từ Hán Việt đã tạo nên không khí trang trọng,

cổ kính, không khí lịch sử cho tác phẩm. Đối với phim điện ảnh, do những đặc

trưng loại hình đã cho thấy nét sáng tạo của các nhà làm phim trong việc xử lý

ngôn ngữ hình ảnh, ngôn ngữ âm thanh và kỹ thuật dựng phim để tạo nên một

tác phẩm kinh điển. Do đặc trưng về ngôn ngữ loại hình khác biệt nên người viết

chủ yếu phân tích, ít có đối chiếu so sánh giữa hai tác phẩm, nhưng qua những

phân tích vẫn có thể thấy được sự độc đáo mang dấu ấn sáng tạo về mặt ngôn

ngữ nghệ thuật của tác giả Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết và của tác giả

điện ảnh trong phim.

114

KẾT LUẬN

Văn học và điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật có mối quan hệ gắn bó

mật thiết và khăng khít lẫn nhau. Tuy mỗi loại hình nghệ thuật đó đều có những

nét đặc trưng riêng về ngôn ngữ, đem đến cho độc giả và khán giả những cách

thức tiếp nhận khác nhau nhưng chúng vẫn luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau và

ngày càng gần nhau hơn nhờ quá trình chuyển thể. Từ thực tế nghiên cứu,

chúng tôi đưa ra kết luận quá trình chuyển thể từ tiểu thuyết Đêm hội Long Trì

(nhà văn Nguyễn Huy Tưởng) đến phim điện ảnh Đêm hội Long Trì (đạo diễn

Hải Ninh và biên kịch Lê Phương, Hoàng Nhuận Cầm) là một sự chuyển thể

sáng tạo, cải biên nguyên tác trên các phương diện khác nhau.

Về cơ sở lý luận, luận văn đã làm rõ những nét đặc trưng của văn học

và điện ảnh, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, từ đó đưa ra các tiêu chí để

khảo sát trong việc chuyển thể các tác phẩm văn học thành tác phẩm phim

truyện, mà cụ thể ở đây là tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và phim điện ảnh cùng

tên.

Về cốt truyện, các nhà làm phim cơ bản bám sát nguyên tác, đường dây

nội dung cốt truyện của tiểu thuyết. Tuy nhiên, tác phẩm điện ảnh đã làm mới

câu chuyện bằng việc gia tăng vai trò của Đặng Thị Huệ, có thêm những

tình tiết mới, tô đậm tham vọng tiếm quyền người đàn bà này. Truyện phim đưa

hai nhân vật Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ trở thành nhân vật trung tâm, nguyên

nhân của tấn bi kịch vương triều. Không gian và thời gian được thay đổi một số

cảnh không có trong nguyên tác tạo sự phong phú, hấp dẫn trong phim.

Về nhân vật, sự thay đổi lớn nhất nằm ở nhân vật Tuyên phi Đặng Thị

Huệ trong vai trò chính - phụ và hư cấu thêm nhân vật mới nhằm khắc họa rõ

nét hơn âm mưu phế trưởng lập thứ của Thị Huệ, cũng sự quan tâm dành cho

nhân vật Nguyễn Mại, là nhân vật cởi nút những mâu thuẫn được gia tăng thêm

thời lượng trong phim, phát huy vai trò anh hùng thời đại. Nhân vật Quận chúa

115

Quỳnh Hoa cũng bị thay đổi xuống hàng thứ chính khi đạo diễn chủ yếu khai

thác nhân vật ở khía cạnh nạn nhân của bi kịch trong phim.

Về ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ điện ảnh đã khai thác được lợi thế

ngôn từ văn bản tác phẩm văn học, sử dụng hợp lý trong phim, kết hợp với các

thủ pháp về hình ảnh, âm thanh và dựng phim tạo nên một tổng thể hài hòa. Tác

phẩm chuyển thể đã đạt được thành công lớn về cả chất lượng nghệ thuật cũng

như thương mại điện ảnh. Trong phim có nhiều nét đặc sắc về bối cảnh, phục

trang, diễn xuất, âm nhạc… được công chúng và các nhà nghiên cứu đánh giá

cao, là bộ phim lịch sử kinh điển của điện ảnh Việt Nam thế kỷ XX.

Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì là tiểu thuyết lịch sử đầu tay của Nguyễn

Huy Tưởng, cũng là một trong những tác phẩm mở đầu cho dòng tiểu thuyết lịch

sử đầu thế kỷ XX. Cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long Trì được nhiều người yêu

thích và đã được chuyển thể ở nhiều bộ môn nghệ thuật như: chèo, cải lương...

Khi đạo diễn Hải Ninh đưa cuốn tiểu thuyết lên màn ảnh rộng, bộ phim đã trở

thành tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam, không chỉ về mặt nghệ thuật

mà còn là một trong những bộ phim cổ trang thành công nhất từ trước đến nay.

Hai tác phẩm có thể nói là những cột mốc ấn tượng trong dòng tiểu thuyết lịch

sử và phim lịch sử Việt Nam Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi đã trình

bày những kết quả nghiên cứu về vấn đề chuyển thể văn học - điện ảnh thông

qua một tác phẩm cụ thể. Trong quá trình nghiên cứu còn nhiều khó khăn, hạn

chế, không tránh khỏi những thiếu sót, tuy nhiên chúng tôi hi vọng kết quả luận

văn sẽ là một nguồn tham khảo bổ ích cho những công trình nghiên cứu khác

hay mở ra những hướng nghiên cứu mới về chuyển thể điện ảnh nói chung

cũng như phim chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nói

riêng./.

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Sách, phim điện ảnh:

1. Aristos, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thi ca - Văn tâm điêu long, Nxb Văn

học, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

3. David Bordwell, Kristin Thompson (2008), Nghệ thuật điện ảnh, (Dịch và

hiệu đính: Đỗ Thu Hà, Nguyễn Liên, Nguyễn Kim Loan, Ngô Tự Lập, Trần

Nho Thìn, Trần Hải Yến. Hiệu đính thuật ngữ chuyên ngành: Phan Đăng

Di, Trần Hinh), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. David Bordwell (2006), Lịch sử điện ảnh thế giới, (Nhóm dịch giả: Thanh

Hương, Kim Dung, Hiền Lương, Thế Hùng), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

5. Warren Buckland (2011), Nghiên cứu phim (Film Studies); Nxb Tri thức

và Công ty văn hóa truyền thông Nhã Nam & Dự án quỹ Ford, Hà Nội.

6. Viện Sử học, Phan Huy Chú (2005), Lịch triều hiến chương loại chí, (Tổ phiên

dịch Viện sử học phiên dịch và chú giải), 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Timothy Corrigan (2013), Điện ảnh và văn học, (Nguyễn Thu Hà, Trần

Phương Hoàng, Huyền Vũ, Trần Lê Minh chuyển ngữ; Minh Lê hiệu đính),

Nxb Thế giới, Hà Nội.

8. Timothy Corrigan (2011), Hướng dẫn viết về phim, Nxb Tri thức và Công

ty văn hóa truyền thông Nhã Nam & Dự án quỹ Ford, Hà Nội.

9. Lê Thị Dương (2016), Chuyển thể Văn học - Điện ảnh (Nghiên cứu liên

văn bản), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ (1966), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960), Nxb

Văn học, Hà Nội.

11. Hà Minh Đức (chủ biên, 2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Lê Bá Hán (chủ biên, 1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2006), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

117

14. Nguyễn Văn Hạnh, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

15. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ

biên, 2004), Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (2016), Tang thương ngẫu lục (dịch: Trúc

Khê - Ngô Văn Triện; hiệu đính: Trương Chính), Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

17. Linda Hutch (2011), Theory of Adaptation (bản dịch Theory of Adaptation

- Lý thuyết về chuyển thể của Hoàng Cẩm Giang, Phạm Minh Diệp; hiệu

đính: Trần Nho Thìn; chưa xuất bản).

18. M.B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận v à phương pháp l uận

nghiên cứu văn học, (nhiều người dịch, Trần Đình Sử tuyển chọn, giới

thiệu), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Ngô Phương Lan (2005), Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh Việt

Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

20. Phong Lê (1997), “Nguyễn Huy Tưởng - văn xuôi và kịch”, Văn học trên

hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

21. Việt Linh (2005), Ý tưởng nghề nghiệp, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Thành phố

Hồ Chí Minh.

22. Việt Linh (2006), Dạo chơi vườn điện ảnh, Nxb Văn hóa Sài Gòn,

Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Lời giới thiệu sách Đêm hội Long Trì (2016), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

24. Phương Lựu (chủ biên, 2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Mác-xen Mác-tanh (1984), Ngôn ngữ điện ảnh, (Nguyễn Hậu dịch), Cục

Điện ảnh Việt Nam, Hà Nội.

26. Ngô gia văn phái (2005), Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, Hà Nội.

27. Phương Ngân (tuyển chọn và biên soạn, 2001), Nguyễn Huy Tưởng khát

vọng một đời văn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội

118

28. Hải Ninh (1989), phim truyện Đêm hội Long Trì, Hãng Phim truyện Việt

Nam, Hà Nội.

29. Phạm Thuỳ Nhân (2005), Làm sao viết kịch bản phim?, Nxb Văn hoá

Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh

30. Lê Lưu Oanh - Phạm Đăng Dư (2008), Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư

Phạm Hà Nội.

31. Vsevolod Pudovkin (1962), Bàn về viết truyện phim, đạo diễn phim và diễn

viên điện ảnh, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Bộ Văn hóa, Hà Nội.

32. I.Teplix (1978), Lịch sử Điện ảnh thế giới, (Vũ Quang Chính và Đỗ Thúy

Hà dịch), Tập 2, (3 tập), Nxb Văn hóa, Hà Nội

33. Georges Sadoul (1987), Lịch sử điện ảnh thế giới, Nxb Ngoại Văn và

Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.

34. Trần Đình Sử (chủ biên, 2008), Tự sự học: Một số vấn đề lý luận và lịch

sử (2 tập), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

35. Tập bài giảng Tài liệu biên kịch, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh

Hà Nội.

36. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Thị Hạnh (sưu tầm, biên soạn , 1996),

Nguyễn Huy Tưởng toàn tập (5 tập), NXB Văn học, Hà Nội.

37. Nguyễn Huy Thắng (biên soạn, 2006), Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng (3 tập),

Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

38. Nguyễn Huy Thắng (biên soạn, 2009), Nguyễn Huy Tưởng còn với thời

gian, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

39. Nguyễn Bích Thu - Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu, 1999),

Nguyễn Huy Tưởng về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Trường viết văn Nguyễn Du (1985), Công việc viết văn, Hà Nội.

41. Nguyễn Tuân (1999), Nguyễn Tuân bàn về văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

42. Đoàn Minh Tuấn (2008), Những vấn đề lý luận về kịch bản phim, Nxb Văn

hóa Thông tin. Hà Nội.

119

43. Nguyễn Huy Tưởng (2016), Đêm hội Long Trì, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

44. Dương Quang Viễn (2004), Nghệ thuật quay phim điện ảnh, Hội Điện ảnh

Việt Nam, Hà Nội.

II. Luận án, luận văn

45. Trần Thị Dung (2016), Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện

ảnh từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua Trăng nơi đáy giếng và

Cánh đồng bất tận), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và

nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội.

46. Phạm Thị Thu Hương (2014), “Thời xa vắng” - từ văn học đến điện ảnh

(dưới góc nhìn Tự sự học), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà

Nội.

47. Phan Bích Thủy (2005), Nhân vật trung tâm từ tác phẩm văn học đến tác

phẩm điện ảnh, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ

Chí Minh.

48. Phan Bích Thủy (2012), Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh, luận

án tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

49. Lê Anh Tuấn (2016), Phim truyện chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn

Nguyễn Nhật Ánh - Thành công và hạn chế, luận văn thạc sĩ, Trường Đại

học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.

50. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Liên văn bản trong sáng tác của Nguyễn Huy

Thiệp, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

III. Báo, tạp chí, internet

51. Đặng Thế Anh, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Hoàn (2017), Mối

quan hệ giữa văn học và điện ảnh, http://lce.edu.vn/vi/news/Tin-tuc-Su-

kien-43/moi-quan-he-giua-van-hoc-va-dien-anh-647.html, ngày

12/01/2017.

52. Lại Nguyên Ân (1990), “Nhân xem “Đêm hội Long Trì”, nghĩ về một lối

tiếp cận lịch sử”, Tạp chí Nghệ thuật điện ảnh (số tháng 3/1990).

120

53. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Điện Ảnh,

https://vi.wikipedia.org/wiki/Điện_ảnh.

54. Báo Đất Việt online (2011), Quận Mã Đặng Lân du đãng, dâm dật thế

nào? http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/quan-ma-dang-lan-du-dang-

dam-dat-the-nao-2331623, ngày 22/04/2011.

55. Câu lạc bộ người yêu sách (2018), Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng: Đêm hội

Long Trì - Quà dâng mẹ, http://clbnguoiyeusach.com/bai-viet/nguyen-huy-

tuong-con-voi-thoi-gian/chan-dung/75-nam-dem-hoi-long-tri-779.html,

ngày 14/02/2018.

56. Hoàng Thủy Bảo Châu (2012), “Nhân vật trong tác phẩm điện ảnh Việt

Nam”, Tạp chí Văn học Nghệ thuật (số 333).

57. Hà Minh Đức (1990), “Đêm hội Long Trì trên màn ảnh”, Tạp chí Nghệ

thuật điện ảnh (số tháng 3/1990).

58. Hà Minh Đức (2013), Nguyễn Huy Tưởng - Tìm đến một mê cung,

http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/nguyen-huy-tuong-

tim-den-mot-me-cung.html, ngày 19/8/2013.

59. N.M.Hà (2010), Phục trang Đêm hội Long Trì có cải lương?

https://www.tienphong.vn/van-nghe/phuc-trang-dem-hoi-long-tri-co-cai-

luong-506889.tpo, ngày 16/07/2010.

60. Trần Hinh (2015), Khuynh hướng tiểu thuyết - Điện ảnh trong Văn học

Pháp thế kỉ XX, http://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/Van

HocNuocNgoai/View_Detail.aspx?ItemID=33, ngày 20/07/2015.

61. Hoài Hương (2016), Tác phẩm văn học - Kho vàng của điện ảnh Việt,

http://vov.vn/blog/tac-pham-van-hoc-kho-vang-cua-dien-anh-viet-

568888.vov, ngày 14/11/2016.

62. Lê Minh Kha (2015), Dịch liên ký hiệu: Giữa văn học và điện ảnh,

http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=18&macmp=18&m

abb=42161, ngày 09/06/2015.

63. Nguyễn Xuân Lâm (1986), “Gorki với điện ảnh”, Tạp chí Nghệ thuật điện

ảnh (số 3).

121

64. Hoàng Anh Lê (2012), Nguyễn Huy Tưởng “sống trong lịch sử và viết về

lịch sử”, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-huy-

tuong-song-trong-lich-su-va-viet-ve-lich-su-2135029.html, ngày

04/05/2012.

65. Hà Tùng Long (2017), Chuyện ít biết về dàn diễn viên “Đêm hội Long Trì,

http://dantri.com.vn/van-hoa/chuyen-it-biet-ve-dan-dien-vien-dem-hoi-

long-tri-20170419111737277.htm, ngày 19/04/2017.

66. Lê Cẩm Lượng (1997), “Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện

ảnh”, Tạp chí Điện ảnh ngày nay (số 31).

67. Huy Minh (2017), Đêm hội Long Trì - một lát cắt không thuộc về lịch sử,

https://docsach.org/2017/03/02/dem-hoi-long-tri/, ngày 2/3/2017.

68. Phạm Huy Quang (2013), “Đôi điều về ngôn ngữ tạo hình quay phim”, Tạp

chí Văn học nghệ thuật (số 352).

69. Hồng Quảng, Nguyễn Huy Tưởng - Nhà chép sử bằng văn học,

https://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nguyen-huy-tuong-nha-chep-su-

bang-van-hoc-n20170506074726915.htm, ngày 06/05/2017.

70. Tiểu Quyên (2010), Văn học - Điện ảnh: hiệu ứng cộng sinh,

http://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/van-hoc-dien-anh-hieu-ung-cong-

sinh-2010112712436129.htm, ngày 27/11/2010.

71. Thư Sinh (2017), “Đêm hội Long Trì” - nỗi lòng hậu thế gửi gắm đến ngàn

xưa,http://www.nguoiduatin.vn/dem-hoi-long-tri-noi-long-hau-the-gui-

gam-den-ngan-xua-a321627.html, ngày 23/2/2017.

72. Huyền Thanh (2004), “Tác phẩm chuyển thể: những mặt mạnh và yếu”,

Tạp chí Điện ảnh ngày nay (số 113).

73. Thi Thi (2016), Văn học và điện ảnh: Những chuyển động thú vị,

http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/824791/van-hoc-va-dien-anh-

nhung-chuyen-dong-thu-vi, ngày 13/02/2016.

74. Như Thủy (2016), Phim Việt: Lương duyên giữa văn học và điện ảnh,

https://doanhnhansaigon.vn/doi-song-van-hoa/phim-viet-luong-duyen-

giua-van-hoc-va-dien-anh-1074509.html, ngày 09/11/2016.

122

75. Minh Trang (2000), “Các nhà văn nói gì về điện ảnh”, Tạp chí Điện ảnh

ngày nay (số 59).

76. Đinh Trọng Tuấn (1990), “Đêm hội Long Trì - Một bộ phim thành công”,

Báo Văn nghệ, ngày 31/3/1990.

77. Đỗ Ngọc Yên (2012), Mối tơ duyên giữa điện ảnh và văn chương,

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Moi-to-duyen-giua-

dien-anh-va-van-chuong-2933.html, ngày 08/02/2012.

PHỤ LỤC

Bảng thống kê các sự kiện diễn ra trong tiểu thuyết Đêm hội Long Trì và

phim điện ảnh Đêm hội Long Trì

Tiểu thuyết

Phim điện ảnh

Chương

Tập 1: Cầu hôn

- Đêm hội Trung thu năm nay được

- Đêm hội Trung thu tổ chức tưng

tổ chức tưng bừng hơn mọi năm.

bừng rộn rã bên hồ Long Trì với rất

Nhóm Bảo Kim tham dự hội, nhưng

nhiều hoạt động, trò vui.

Bảo Kim thì thờ ơ hết thảy.

- Chúa Trịnh và Đặng Tuyên phi

- Cuộc gặp gỡ của Bảo Kim và

ngự thuyền rồng đến dự hội.

Quỳnh Hoa khi nhóm Bảo Kim

- Quận chúa Quỳnh Hoa và các

tham gia trường bút chiến "Quần

cung nữ đóng giả dân thường náo

Anh hội". Hai người "tình trong như

nức dự hội.

đã, mặt ngoài còn e".

- Cuộc gặp gỡ giữa Bảo Kim và

- Bảo Kim được giải nhất tại Trường

quận chúa Quỳnh Hoa trong đêm

bút chiến do Quận chúa Quỳnh Hoa

trung thu. Nàng giả đò đánh rơi

I

làm chủ nhân.

chiếc túi thêu đựng trầu têm.

- Đặng Lân làm trò dâm loạn, ức

Chàng nếm miếng trầu hỏi tay

hiếp phụ nữ ở đêm hội và đụng độ

người têm khéo. Hai người cứ thế

với nhóm Bảo Kim. Quỳnh Hoa

tìm kiếm nhau trong đêm hội.

cũng vội chạy ra, Đặng Lân vừa

- Nhóm Bảo Kim tham dự cuộc thi

trông thấy nàng đã nảy sinh tà ý.

thơ Quần Anh hội do Chúa Trịnh

- Nhóm Bảo Kim đụng độ với Đặng

làm chủ nhân. Bảo Kim nhận ra

Lân.

Quận chúa chính là người dân nữ

vừa gặp lúc trước.

- Nguyễn Mại ra tay trị Đặng Lân,

đuổi hắn khỏi đêm hội. Nguyễn Mại

- Bảo Kim được giải nhất trong

và Bảo Kim nhận ra nhau.

cuộc thi thơ.

- Chúa Trịnh và Đặng Tuyên phi

- Đặng Lân làm trò dâm loạn, ức

đến dự thì hội cũng vừa kém bề náo

hiếp phụ nữ ở đêm hội và đụng độ

nhiệt.

với Bảo Kim, đánh chàng vỡ đầu.

- Nguyễn Mại ra tay trị Đặng Lân,

đuổi khỏi đêm hội.

- Chúa Trịnh cho đòi Nguyễn Mại

- Nguyễn Mại, Bảo Kim và các bạn

vào cung khi chàng đang cùng

tụ họp tại nhà Bảo Kim, ai cũng lên

nhóm Bảo Kim uống trà tại nhà Bảo

án Đặng Lân và Đặng Thị Huệ.

Kim. Mọi người lo lắng, song

Nguyễn Mại hết sức tức giận.

Nguyễn Mại khẳng khái vào chầu.

- Mẹ Bảo Kim đang tính làm bữa

- Thuật lại về xuất thân và tài năng

rượu cho các con thì Chúa Trịnh

Nguyễn Mại, cũng như tình cảm,

cho người tới đòi Nguyễn Mại đến

tình thân giữa Nguyễn Mại và Bảo

gặp.

Kim.

- Nguyễn Mại vào cung gặp Chúa

- Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Trịnh và

Trịnh, ngoài ra còn có Huy Quận

Nguyễn Mại trong phủ Chúa. Trịnh

công Dương Đình Bảo - Đốc trấn

Sâm tự tay pha trà, ban thưởng

Nghệ An cũng đến chầu. Chúa cho

II

chàng đã có công phá thành Phú

thưởng trà Nguyễn Mại, thưởng

Xuân. Hai người trò chuyện về

quế Thanh về biếu mẹ già và phong

chiến công của Nguyễn Mại. Chúa

chàng làm Hộ thành binh mã sứ.

yêu mến thưởng quế Thanh cho

- Nguyễn Mại trở về nhà Bảo Kim,

chàng về biếu mẹ già, rồi phong

đem một phần quà biếu mẹ Bảo

chàng làm Hộ thành binh mă sứ.

Kim rồi từ biệt lên đường về quê.

- Nguyễn Mại trở về nhà Bảo Kim,

- Bảo Kim tiễn Nguyễn Mại lên

tiếp tục tṛ chuyện, tâm sự, hàn

đường. Hai người vừa đi vừa bàn

huyên. Chàng đem một phần quà

chuyện chính sự, lo lắng những

biếu mẹ Bảo Kim. Hết tiệc, Nguyễn

khó khăn Nguyễn Mại phải đối đầu

Mại lên đường về tỉnh Bắc thăm mẹ

khi nhậm chức.

và vợ con.

- Bài phú của Bảo Kim nổi tiếng

- Trong phủ Đặng Lân, một dàn

trong giới văn chương, mọi người

hầu gái đang phục dịch Cậu Trời.

đều thán phục song cũng lo lắng

Đặng Lân chợt nổi cáu, nhớ đến sự

thay cho chàng.

thanh thoát của Quận chúa Quỳnh

Hoa. Nghe lời tâng bốc của bọn gia

- Kể về nguồn gốc xuất thân và sự

nhân, Đặng Lân quyết làm phò mã,

ngông cuồng, ác bá của Đặng Lân.

đồng thời thể hiện mối hận thù với

- Đặng Lân tương tư Quỳnh Hoa,

Nguyễn Mại, Bảo Kim.

trút sự độc ác lên gia nhân. Lòng

- Trong phủ Chúa, Đặng Tuyên phi

Đặng Lân cũng đầy thâm thù với

cùng Trịnh Cán đang chơi đùa với

Nguyễn Mại, Bảo Kim.

cung nữ, thì Đặng Lân đến. Hai chị

- Đặng Lân vào phủ chúa thăm

em cùng bàn tính việc phế trưởng

Đặng Tuyên phi, xin chị giúp hỏi

lập thứ. Đặng Lân xin chị giúp cầu

cưới Quận chúa Quỳnh Hoa.

hôn, cũng là tính kế kết thêm phe

- Đặng Lân ra thì Chúa Trịnh ngự

cánh trong triều. Hai người cũng

III

tới, hai người cùng nhau thưởng trà,

nhắc đến mối lo Bảo Kim, Nguyễn

chuyện trò đưa đẩy. Tuyên phi dò ý

Mại.

Tĩnh Đô Vương, xin cưới Quỳnh

- Đặng Lân vừa rời đi thì có chỉ

Hoa cho Đặng Lân. Trịnh Sâm có ý

truyền giờ ngọ Chúa Trịnh tới.

từ chối.

Đặng Thị Huệ sửa soạn tắm gội để

- Bốn ngày sau, Đặng Thị Huệ ốm.

hầu Chúa.

Trịnh Sâm lo lắng đồng ý gả Quỳnh

- Trịnh Sâm ngắm Đặng Thị Huệ

Hoa cho Đặng Lân. Thị Huệ nhân

tắm mà mê đắm vì tình. Hai người

đà rèm pha Nguyễn Mại, song Trịnh

mặn nồng không rời.

Sâm không để tâm.

- Đặng Thị Huệ định chạm tay vào

viên dạ minh châu gắn trên mũ của

Trịnh Sâm nhưng bị ngăn lại. Thị

Huệ không vui. Khi Trịnh Sâm

tháo viên ngọc đặt vào tay Thị

Huệ, nàng ta liền ném xuống đất.

Trịnh Sâm không màng ngọc quý

vội dỗ dành.

- Bằng cách thăm dò như vậy,

Đặng Thị Huệ ngỏ ý cầu hôn, xin

cưới Quỳnh Hoa cho Đặng Lân.

Trịnh Sâm tỏ vẻ không muốn

quyết.

- Lại nói về Quỳnh Hoa, rời đêm hội

- Quỳnh Hoa cùng Quốc mẫu Thái

Long Trì, lòng tràn đầy quyến luyến

phi đi chùa cầu phúc. Bảo Kim

hình ảnh Bảo Kim.

cũng đến đó. Quỳnh Hoa sai người

gửi cho chàng chiếc túi lụa, còn

- Chúa Trịnh rất quan tâm con gái,

chàng gửi lại chiếc túi thêu đựng

hỏi han nhiều điều, song nàng chỉ

trầu đã giữ từ đêm hội Long Trì.

đáp giữ lễ. Chia tay cha, Quỳnh Hoa

thu mình vào với nỗi buồn và hồi

- Bỗng nhiên Đặng Lân xuất hiện,

tưởng về những tháng ngày hạnh

lùng bắt con gái nhà lành ngay nơi

phúc. Rồi nàng cũng lại thấy giận

cửa Phật. Mọi người đều kinh sợ.

người phụ nữ đã xui Chúa làm bao

- Quỳnh Hoa về phủ, cung nữ giao

điều bạc ác.

cho nàng chiếc túi có bài thơ của

IV

- Cung nữ dâng Quỳnh Hoa một bức

Bảo Kim. Lòng nàng ngập tràn

lụa có bài thơ tứ tuyệt của Bảo Kim

hạnh phúc.

đề tặng. Nàng cảm thấy hạnh phúc

- Chúa Trịnh tới thăm con gái. Ông

dâng trào.

cứ ngập ngừng nhiều nỗi niềm. Hai

- Quốc mẫu đến thăm Quỳnh Hoa.

cha con cùng đi vãn cảnh, tham gia

Nàng thuật lại giấc mơ gặp Đặng

những thú chơi, đi hái sen, bình bài

Lân mà kinh hãi.

phú của chàng nho sinh Bảo Kim...

Quỳnh Hoa rất vui vì được cha

- Ác mộng thành sự thật. Tin Trịnh

hiểu cho nỗi lòng của mình.

Sâm đồng ý gả Quỳnh Hoa cho

Đặng Lân lan truyền khắp thành.

- Quỳnh Hoa đau khổ. Trịnh Sâm

- Quỳnh Hoa vể cung rồi, Chúa

đến gặp nàng an ủi.

Trịnh vẫn đứng nhìn theo mãi, tay

cầm chiếc túi thêu mà mắt rưng

- Nàng thấy thương cha nên quyết

rưng.

định nhận lời lấy Đặng Lân. Từ lúc

đó, Quỳnh Hoa không khóc lóc,

- Đặng Tuyên phi ốm nặng, Trịnh

than vãn nữa, thờ ơ mọi việc.

Sâm lo lắng khôn nguôi. Thị Huệ

không ngừng mê sảng nhắc đến

- Những tâm sự đầy nỗi niềm của

Đặng Lân. Trịnh Sâm thấy mình có

Quỳnh Hoa về Bảo Kim, về người

lỗi ngập tràn.

mẹ đã mất. Nàng đem những kỷ vật

từng có giữa hai người gửi trả Bảo

- Trịnh Sâm đưa Thị Huệ đi vãn

Kim.

cảnh và thưởng trà trên hồ sen.

Chúa Trịnh quyết định gả Quỳnh

- Bảo Kim nhận được những kỷ vật

Hoa cho Đặng Lân.

Quỳnh Hoa gửi lại, đem đốt. Chàng

và các bạn bàn tính cứu Quận chúa.

- Cung nữ Ái Thi báo tin dữ cho

Quỳnh Hoa. Nàng

than khóc

không thôi.

- Đặng Lân nghe tin Chúa đồng ý

thì hả hê, tiếp tục mặc sức ăn chơi

phè phỡn.

- Thị Huệ đang chơi với con trai

Trịnh Cán thì Huy Quận Công xin

yết kiến. Hai người bàn mưu tính

kế hãm hại Thế tử Tông.

- Quỳnh Hoa liên tục mê sảng.

Trịnh Sâm vào thăm con. Quỳnh

Hoa thương cha nên quyết định

theo ý sắp đặt.

- Bảo Kim nhận lại kỷ vật từ tay

cung nữ của Quỳnh Hoa thì quyết

định đốt đi. Hai người nói chuyện

về thái độ của Quận chúa giờ như

cái bóng trong cung.

- Đã đến ngày rước dâu, Chúa Trịnh

- Đặng Lân đến gặp Thị Huệ mách

Sâm nói chuyện với cận thần Khê

tội các vị đại thần tìm cách ngăn

Trung hầu có ý muốn thoái thác hôn

cản Chúa Trịnh gả Quỳnh Hoa cho

sự. Đúng lúc đó thì Đặng Tuyên phi

Đặng Lân. Thị Huệ trấn an Đặng

bắt gặp, đe dọa tự vẫn. Chúa đành

Lân sẽ lo việc đó.

thuận theo.

- Khê Trung hầu can gián Chúa

- Trịnh Sâm cho đòi Đặng Lân vào

Trịnh. Đúng lúc đó thì Đặng Tuyên

chầu, ra yêu cầu: Cho cưới nhưng

phi đến, đe dọa tự vẫn. Chúa đành

đến khi Quận chúa đủ 18 tuổi mới

thuận theo. Nhân đó, Thị Huệ xúc

được động phòng.

xiểm Nguyễn Mại và xin phong

tước hầu cho Đặng Lân.

- Chúa cử hai vị đại thần là Lương

Ngự sử và Khê Trung hầu theo hầu

- Trịnh Sâm cho đòi Đặng Lân vào

Quận chúa. Ngài dặn dò Khê Trung

chầu, ra yêu cầu: Cho cưới nhưng

V

hầu trước giờ rước dâu.

đến khi Quận chúa đủ 18 tuổi mới

được động phòng.

- Đến giờ rước dâu, Chúa Trịnh trò

chuyện với Quỳnh Hoa lần cuối

- Đã đến lễ rược dâu. Đặng Thị

trước lúc về nhà chồng, quyến luyến

Huệ nói chuyện với Quận Huy thể

không muốn rời. Quỳnh Hoa xin

hiện sự đắc ý, cho rằng giờ chỉ cần

cha quan tâm nâng đỡ Bảo Kim.

lo đưa Cán lên ngôi Thế tử là xong.

- Quỳnh Hoa đi rồi, Chúa Trịnh sụp

- Chúa Trịnh đến tiễn Quỳnh Hoa

xuống khóc thương.

về nhà chồng, trao nàng của hồi

môn, cử hai đại thần theo hầu và

- Ở phủ Đặng Lân, Quỳnh Hoa được

nhận lời nâng đỡ Bảo Kim theo lời

sắp xếp ở lầu riêng. Nghe tin Bảo

cầu xin của con.

Kim định cứu nàng, Quận chúa vội

sai người đưa thư ngăn cản.

- Quỳnh Hoa đi rồi, Chúa Trịnh

sụp xuống khóc thương.

- Ở gian nhà bát giác cách lầu Quận

Tập 2: Quả báo

chúa độ hai mươi thước, Đặng Lân

- Trinh Sâm từ khi con đi lúc nào

mở tiệc ăn nhậu với lũ gia nhân và

cũng nhớ thương. Nghe Khê Trung

gái đẹp. Cơn say lên, hắn không

hầu vào cung báo tin Quận chúa

kiềm chế được dục vọng. Đến khi

không ăn uống, luôn buồn phiền,

tỉnh rượu, Đặng Lân rút dao chém

ông rất thương xót.

giết đám phụ nữ vừa ăn nằm với

mình.

- Thị Huệ đến vấn an Chúa Trịnh,

sai người diễn trò cho chúa khuây.

- Quỳnh Hoa nhìn thấy hình dung

Đặng Lân đầy máu thì hét lên thất

- Đặng Lân đắc ý lấy được Quận

thanh. Hình ảnh người thiếu nữ dịu

chúa trở thành Quận mã, định bụng

dàng khiến cơn điên của hắn dịu lại.

bày thêm những trò lố bịch.

- Đặng Lân tắm rửa xong, sắp đặt

- Lương Ngự sử và Khê Trung hầu

mấy việc toàn những thói ăn chơi

trò chuyện, cảm thấy nản chí vì

trụy lạc, rồi đòi lên lầu gặp Quỳnh

Chúa Trịnh không nghiêm để con

Hoa.

gái mình khổ, dân chúng cũng khố.

Đặng Lân đến gõ cửa đòi nói

- Lương Ngự sử và Khê Trung hầu

chuyện với Quỳnh Hoa nhưng

đang trò chuyện, tiếc thương cho

không được đồng ý.

Quận chúa. Đặng Lân tới, hai vị

nhất quyết ngăn lại. Đặng Lân kêu

- Quận mã hậm hực quay về tổ

người phá cửa, hai bên đụng độ,

chức tiệc rượu và dâm loạn. Hết

Đặng Lân giết chết hai vị đại thần.

tiệc, Đặng Lân cho người đi bắt

nhóm Bảo Kim, sau đó lại lên gọi

- Đặng Lân xông vào phòng ôm lấy

cửa lầu Quận chúa. Không được

Quỳnh Hoa, định ức hiếp nàng. Vừa

chấp thuận, Đặng Lân kêu người

lúc đó thì nghe tiếng Bảo Kim.

phá cửa, hai bên đụng độ, Đặng

Thảm thay, nhóm Bảo Kim toan

Lân giết chết hai vị đại thần.

tính cứu nàng nhưng đều bị bắt trói

cả lại.

- Đặng Lân xông vào phòng ôm lấy

Quỳnh Hoa, định ức hiếp nàng.

Vừa lúc đó thì nàng nhìn thấy Bảo

- Đặng Lân ra lệnh tra tấn, dùng

Kim và mấy người bạn đều bị bắt

chày sắt nện vỡ gối bọn Bảo Kim.

trói giải đến.

Quận chúa nghe vậy đành xuống

- Đặng Lân ra lệnh tra tấn, dùng

nước cầu xin, chấp nhận để hắn vùi

chày sắt nện vỡ gối bọn Bảo Kim.

dập, giày vò.

Quận chúa nghe vậy đành xuống

nước cầu xin, chấp nhận để hắn vùi

dập, giày vò.

- Nguyễn Mại đến nhận chức Hộ

- Nguyễn Mại đến thăm Bảo Kim

thành binh mã sứ. Chàng ngày đêm

thì nghe mẹ chàng kể lại Bảo Kim

xem xét công văn, trong số đó có

bị bắt đi mờ ám lúc nửa đêm.

đến 30 lá đơn khiếu nại Đặng Lân.

- Nguyễn Mại gặp Quan hộ thành

Nguyễn Mại thảo sớ đề nghị một

cũ, điều tra các thông tin về tội ác

chương trình cải cách tuần phòng,

của Đặng Lân. Xong xuôi, chàng

chương

trình được

thông qua,

gọi người tìm cách vào phủ Đặng

nhưng đơn kiện Đặng Lân không

Lân thám xét tình hình.

thấy trả về.

- Trong đêm, Nguyễn Mại và cận

- Chỉnh đốn công việc xong, chàng

vệ đột nhập phủ Đặng Lân, phát

đến thăm mẹ Bảo Kim và nhận tin

hiện bọn Bảo Kim bị nhốt trong

VI

Bảo Kim biến mất. Chàng đoán bọn

phòng giam, nên đã cứu thoát;

họ đi “cướp người yêu”.

đồng thời tra xét nơi Đặng Lân

- Về phủ, Nguyễn Mại cho đòi tâm

chôn hai vị đại thần.

phúc đến giúp việc.

- Đặng Lân phát hiện vụ việc, hết

- Đêm ấy, Nguyễn Mại đột nhập phủ

sức bực tức, vội vào cung báo với

Quận mã giải cứu bọn Bảo Kim.

chị. Thị Huệ cấm hắn không được

manh động.

- Nghe tin bọn Bảo Kim trốn thoát,

Đặng Lân nổi cơn điên, giết liền

- Thị Huệ đến gặp Trịnh Sâm mách

mấy tên tay chân. Nghe gia nhân

tội Nguyễn Mại. Chúa giận dữ, đòi

báo tin Quỳnh Hoa bệnh, hắn cũng

chàng vào chầu.

bỏ mặc.

- Sau khi truy xét ra người cứu Bảo

- Huy Quận công đến gặp Chúa

Kim là Nguyễn Mại, Đặng Lân bày

Trịnh trình lên bằng chứng ngụy

mưu tính kế để hại chàng. Hắn vào

tạo về tội tạo phản của Thế tử

phủ chúa và trở về đầy phấn khích,

Tông, vu oan cho 2 đại thần Hồng

đặt tiệc ăn mừng. Mấy ngày sau,

Nguyễn Mại bị giáng hai cấp và bị

Nhân tiện, đề nghị giữ Nguyễn Mại

cấm không được phạm đến hoàng

trấn thủ kinh thành và giáng 2 cấp.

thân quốc thích.

- Trịnh Sâm cho thiết triều, xử

- Hai tháng Thăng Long yên bình vì

Tông truất xuống làm con út, giam

Đặng Lân không ra khỏi phủ, nhưng

vào cung, xử Hồng Lĩnh hầu và

cơn sóng gió đã trở lại.

Lĩnh hầu và Tuân Sinh hầu.

- Đặng Lân cùng bọn gia nhân cờ

- Đặng Lân về phủ không che dấu

giong trống mở, khiêng theo giường

sự khoái trá vì Nguyễn Mại bị xử

thất bảo, có cả đàn sáo nhã nhạc đi

giáng cấp. Trong cơn phấn khích,

lên chùa Quan Thánh. Đoạn sai

hắn cho gia nhân chuẩn bị lên chùa

người đến Thụy Khuê bắt cô Hoàng

Quán Thánh. Trước khi đi, còn cần

Thị Ngọc đến hầu. Cô Ngọc quyết

thận gọi thầy bói đến xem quẻ,

bảo toàn trinh tiết.

nghe nói có lộc thì quyết định xuất

- Nguyễn Mại nghe tin liền quyết ra

phủ.

tay trừ hại cho dân. Vợ chàng lo

- Lũ Đặng Lân mang theo giường

lắng nhưng cũng hiểu lòng chồng.

thất bảo, trống giong cờ mở lên

Nguyễn Mại từ biệt vợ con ra đi.

chùa Quán Thánh, hắn lệnh cho

- Nguyễn Mại đến chùa Quan

người đi bắt cô Ngọc ở Thụy Khuê

Thánh, múa kiếm xông vào, bọn gia

đến.

binh của Đặng Lân chạy tán loạn.

- Nguyễn Mại đang ở phủ thì nghe

Nguyễn Mại cho người vây kín, rồi

tin báo Đặng Lân xuất phủ, chàng

xử án tại chỗ, cô Ngọc cứ thực khai

cho người theo dõi tình hình rồi

ra. Chàng tiến đến nắm tóc Đặng

vào thắp hương trước liệt tổ liệt

Lân, hắn vẫn ra oai Cậu Trời.

Nguyễn Mại chém đầu Đặng Lân và

Tuân Sinh hầu tội chết.

cho gia nhân trói mình đến gặp

tông và từ biệt vợ con. Chàng

Chúa Trịnh.

quyết diệt trừ cái ác.

- Nguyễn Mại đến Quán Thánh khi

Đặng Lân đang giở trò dâm loạn.

Chàng nói ngắn gọn kết án Đặng

Lân rồi chém đầu hắn.

- Thực thi công lý xong, chàng cho

người trói mình lại đến trình Chúa

Trịnh.

- Trong vương phủ, Tuyên phi khóc

- Trong vương phủ, Tuyên phi

lóc nức nở, Chúa Trịnh đang ra sức

khóc lóc nức nở, Chúa Trịnh đang

an ủi. Thị Huệ đòi Trịnh Sâm phải

ra sức an ủi. Thị Huệ đòi Trịnh

trị tội Nguyễn Mại, báo thù cho

Sâm phải trị tội Nguyễn Mại, báo

Đặng Lân. Trịnh Sâm có ý nghe

thù cho Đặng Lân. Trịnh Sâm có ý

theo. Lúc ấy có tin báo Nguyễn Mại

nghe theo. Lúc ấy có tin báo

tự trói đến xin chịu tội.

Nguyễn Mại tự trói đến xin chịu

tội.

- Chúa định bước ra thì Quốc mẫu

tới. Bà báo cho Chúa biết tin Quỳnh

- Trịnh Sâm ra gặp Nguyễn Mại.

Hoa ốm thập tử nhất sinh đã được

Nguyễn Mại bình tĩnh kể tội Đặng

VII

đón về.

Lân, Chúa Trịnh quyết định xử

chém Nguyễn Mại.

- Gia nhân báo tin dân chúng kinh

thành chờ xử Nguyễn Mại. Thái phi

- Quốc mẫu cho đòi Trịnh Sâm đến

nghe vậy liền phân tích phải trái cho

và báo tin Quận chúa hấp hối.

Chúa Trịnh.

Quốc mẫu hết sức đau xót, phân

tích phải trái cho Trịnh Sâm.

- Chúa Trịnh và Quốc mẫu vào thăm

Quỳnh Hoa. Nàng lời cuối chỉ xin

- Trịnh Sâm vào thăm Quỳnh Hoa.

cha một điều trọng dụng Bảo Kim

Chúa tỉnh ngộ cho người ngừng xử

để báo đáp ân tình rồi nhắm mắt.

trảm Nguyễn Mại. Nàng lời cuối

chỉ xin cha một điều trọng dụng

- Chúa Trịnh lên triều xử tha cho

Bảo Kim. Cận thần đến báo đã

Nguyễn Mại. Dân chúng hô vang

muộn, Nguyễn Mại đã bị xử trảm.

reo mừng, còn Tuyên phi ngất đi

Quỳnh Hoa nghe xong cũng trút

trong tay ngài.

hơi thở cuối cùng.

- Trong đêm, Đặng Tuyên phi một

mình đi lặng lẽ trong cung và bước

lên, ngồi vào ngai cao. Phía dưới,

Hề trò cung đình lặng lẽ bỏ đi.