LUẬN VĂN: Dự báo thị trường xe máy thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng
lượt xem 54
download
Khái niệm thị trường trong kinh tế học là một khái niệm có từ rất lâu đời, nó ra đời xuất phát từ thực tế khách quan gắn liền với nhu cầu của con người trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trên thực tế tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường tuỳ vào việc xem xét thị trường dưới các góc độ khác nhau. Chúng ta có thể gặp một số khái niệm sau: - Theo các nhà kinh điển của kinh tế chính trị thì: “ Thị trường là lĩnh...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Dự báo thị trường xe máy thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng
- LUẬN VĂN: Dự báo thị trường xe máy thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng
- Chương I Lý luận chung về thị trường và phát triển thị trường của doanh nghiệp I. NHững vấn đề cơ bản về thị trường. 1. Khái niệm. Khái niệm thị trường trong kinh tế học là một khái niệm có từ rất lâu đời, nó ra đời xuất phát từ thực tế khách quan gắn liền với nhu cầu của con người trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trên thực tế tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường tuỳ vào việc xem xét thị trường dưới các góc độ khác nhau. Chúng ta có thể gặp một số khái niệm sau: - Theo các nhà kinh điển của kinh tế chính trị thì: “ Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá, mọi hành vi cơ bản của thị trường đều dựa trên các hoạt động mua và bán. Trên thị trường có hai chủ thể có vai trò quan trọng nhất là người mua và người bán, trong đó, người mua đại diện cho yếu tố cầu hàng hoá còn người bán đại diện cho yếu tố cung hàng hoá. Họ gặp nhau trên thị trường nhằm thoả mãn những nhu cầu của nhau về hàng hoá” - Theo quan điểm của các nhà kinh tế học vi mô thì: “ Thị trường theo một cách khác có thể hiểu là sự biểu hiện ngắn gọn của quá trình mà nhờ đó các quyết định của các hộ gia đình về việc tiêu dùng các hàng hoá khác nhau, các quyết định của doanh nghiệp về việc sản xuất cái gì và như thế nào, các quyết định của công nhân về làm việc bao lâu và cho ai được điều hoà bởi sự điều chỉnh về giá”. - Trên giác độ vĩ mô thị trường có thể hiểu là tổng thể của cung và cầu đối với một hàng hoá nhất định trong một thời gian và không gian cụ thể. - Trên giác độ kinh doanh thông thường thì: “Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu hay nơi gặp gỡ giữa người bán và người mua”. - Trên giác độ quản lý của một doanh nghiệp, khái niệm thị trường được hiểu một cách cụ thể hơn và ngoài các yếu tố cung và cầu thì khái niệm thị trường còn phải gắn liền với các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh như người mua, người bán, nhà phân phối,…cùng với các hành vi của họ.Trên thực tế những hành vi này không phải bao giờ cũng tuân theo các quy luật và các giả thuyết về tính hợp lý trong tiêu dùng một cách cứng nhắc mà nó luôn có sự linh hoạt và điều chỉnh sao cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của thị trường. Ngoài các yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi của người mua và
- người bán như thu nhập, giá cả,…hành vi cụ thể của người mua và người bán đối với một sản phẩm, hàng hoá cụ thể còn chịu tác động nhiều của yếu tố tâm lý và điều kiện giao dịch khác nữa. Thí dụ như trong trường hợp giá cả của sản phẩm tăng lên thì nhu cầu về sản phẩm này không những giảm đi mà ngược lại còn có xu hướng tăng lên. Do đó, tính quy luật cung cầu không phải bao giờ cũng đúng trong mọi mối quan hệ mà nó còn phải phụ thuộc vào từng khách hàng và từng mặt hàng cụ thể. Mặc dầu vậy, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ sản xuất và các phương thức kinh doanh hiện đại, yếu tố “ cung” trong khái niệm thị trường của một doanh nghiệp ngày càng mất đi vai trò quan trọng, ngược lại yếu tố cầu và sự nhận biết nhu cầu đang ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, đối với doanh nghiệp thì trong khái niệm thị trường, việc nhấn mạnh vai trò quyết định của nhu cầu có một tầm quan trọng không thể thiếu. Do đó, có thể hiểu: “ Thị trường của một doanh nghiệp là tập hợp các khác hàng tiềm năng ở trong nước và nước ngoài của doanh nghiệp”. Theo quan điểm này thì rõ ràng là khái niệm thị trường ở đây được mở rộng hơn nhiều, theo đó, khách hàng của một doanh nghiệp không chỉ là những khách hàng hiện tại mà còn bao gồm những khách hàng trong tương lai dự định mua hàng của doanh nghiệp. Như vậy, thì thị trường hiểu theo khái niệm này là rất rộng và đối với từng doanh nghiệp thì thị trường của họ cũng đầy tiềm năng to lớn, đòi hỏi phải có một sự nghiên cứu kĩ lưỡng đề phát hiện thêm thị trường và biến những thị trường đầy tiềm năng này thành thị trường hiện tại của doanh nghiệp. Đây đồng thời cũng là phần thưởng xứng đáng cho những doanh nghiệp thành công trong việc tìm kiếm những khách hàng với nhiều những nhu cầu tiềm ẩn, cần được đáp ứng. 2. Phân loại và phân đoạn của thị trường. 2.1 Phân loại thị trường. 2.1.1 Căn cứ vào đối tượng trao đổi trên thị trường, có: Thị trường hàng hoá. Đây là thị trường có đối tượng trao đổi là hàng hoá với mục tiêu nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt về vật chất. Thị trường này là thị trường rất phổ biến, nó đảm bảo và đáp ứng nhu cầu cần thiết cho các hoạt động hàng ngày của con người trong xã hội. Thị trường dịch vụ. Đây là thị trường trao đổi những thứ nhằm thoả mãn nhu cầu
- của người tiêu dùng ngoài vật chất như: chữa bệnh, du lịch, giải trí,...Thị trường này ngày hiện nay đang phát triển một cách mạnh mẽ, với tốc độ vô cùng nhanh. ở các nước phát triển thị trường này hoạt động mạnh mẽ hơn các nước đang và chậm phát triển. ở nhiều quốc gia, lĩnh vực dịch vụ được coi là ngành mũi nhọn cho sự phát triển của quốc gia đó. 2.1.2 Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, có: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo, là thị trường mà ở đó có nhiều người tham gia mua bán. ở thị trường này, không ai có đủ ưu thế để cung ứng một lượng sản phẩm đủ sức chi phối giá cả trên thị trường, về người mua cũng không ai có đủ khả năng mua được số lượng sản phẩm đủ lớn để gây biến động về giá. Điều kiện để tồn tại thị trường cạnh tranh hoàn hảo là: - Số người tham gia trên thị trường nhiều, do đó mọi người mua, người bán chỉ có mối liên hệ và ảnh hưởng nhỏ so với toàn bộ thị trường. - Hàng hoá mua bán trên thị trường phải đồng nhất, không có nhiều sự khác biệt với nhau. - Không có những hạn chế giả tạo về số cung, số cầu và giá cả của hàng hoá và tài nguyên. - Tất cả người mua và người bán đều có sự hiểu biết hoàn toàn và nắm được đầy đủ thông tin về tình hình cung - cầu, về điều kiện mua bán, về giá cả của hàng hoá. Thị trường độc quyền, là thị trường mà ở đó chỉ có duy nhất một hãng bán nên sản phẩm của hãng đó là duy nhất. Với thị trường này các doanh nghiệp độc quyền trong mọi lĩnh vực: phân phối, quyết định mức giá, lượng bán ra... Cùng với việc đó, khách hàng sẽ phải bỏ ra một khoản tiền lớn hơn để chi trả cho sản phẩm mình mua. Khách hàng không có sự lựa chọn nào khác trong việc mua hay không khi không đồng ý về giá bán của mặt hàng. Họ chỉ có thể đưa ra quyết định khác là lựa chọn một mặt hàng thay thế cho sản phẩm đó. Thị trường độc quyền cạnh tranh, là thị trường mà ở đó vừa có trạng thái độc quyền vừa có trạng thái cạnh tranh. Đây là thị trường mà ở đó quyết định về giá cả bán ra không được tự do mà còn phải xem xét xem đối thủ cạnh tranh của mình đưa ra mức giá như thế nào, nhưng thông thường họ sẽ thoả thuận đưa ra thị trường mức giá khá cao để thu được mức lợi nhuận lớn. Vì có tính cạnh tranh nên giá bán sản phẩm sẽ thấp hơn so với ở thị trường độc quyền ở trên.
- 2.1.3 Căn cứ vào phạm vi địa lý, có: Thị trường quốc gia, là thị trường thuộc phạm vi địa lý của quốc gia mình, các mặt hàng được tiêu thụ trong nước với nhu cầu tiêu dùng trong phạm vi hạn chế. Khi đó việc nghiên cứu thị trường, tiến hành các biện pháp mở rộng thị tr ường dễ dàng, ít tốn kém chi phí, có thể hiểu nhu cầu của khách hàng... Thị trường quốc tế, là loại thị trường ở bên ngoài quốc gia mình. Thị trường này rất rộng lớn với nhiều loại nhu cầu của khách hàng khác nhau, rất đa dạng. Thị trường này vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh quốc tế. 2.2 Phân đoạn thị trường. 2.2.1 Khái niệm phân đoạn thị trường và yêu cầu của phân đoạn thị trường. Khái niệm. Đoạn thị trường là một nhóm người tiêu dùng có phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp các kích thích của marketing. Phân đoạn thị trường là quá trình phân chia người tiêu dùng thành nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, về tính cách hay hành vi. Như vậy về thực chất phân đoạn thị trường là phân chia người tiêu dùng theo những tiêu thức khác nhau trên một tổng thể qui mô lớn, không đồng nhất, muôn hình, muôn vẻ về nhu cầu thành những nhóm, đoạn nhỏ hơn đồng nhất về nhu cầu. Sau khi phân đoạn thị trường thì một thị trường tổng thể sẽ được chia nhỏ thành các nhóm (đoạn, khúc). Các khách hàng trong cùng một đoạn thị trường sẽ có sự đồng nhất về nhu cầu hoặc ước muốn hoặc có những phản ứng giống nhau trước cùng một sự tác động của công tác thị trường của doanh nghiệp. Mục đích của việc phân đoạn thị trường của doanh nghiệp là nhằm giúp doanh nghiệp trong việc lựa chọn một hoặc vài đoạn thị trường mục tiêu nhằm tìm đối tượng ưu tiên cho các nỗ lực marketing. Yêu cầu của phân đoạn thị trường. Phân đoạn thị trường giúp doanh nghiệp xác định những đoạn thị trường mục tiêu hẹp và đồng nhất hơn thị trường tổng thể. Hoạt động marketing của doanh nghiệp sẽ nhằm vào một mục tiêu rõ ràng cụ thể hơn, có hiệu lực hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc phân chia càng nhỏ thị trường tổng thể thì doanh nghiệp càng có lợi hơn mà điều quan trọng của công việc này là một mặt phải phát hiện tính không đồng nhất giữa các nhóm khách hàng, mặt khác số lượng khách hàng trong mỗi đoạn phải đủ khả năng
- bù đắp lại nỗ lực marketing của doanh nghiệp thì việc phân chia đó mới có hiệu quả. Do vậy nếu một doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu của một nhóm khách hàng đồng thời hoạt động có lãi thị nhóm khách hàng đó chính là một đoạn thị trường hiệu quả. Để xác định một thị trường phân chia có hiệu quả thì phải đạt được những yêu cầu sau: Một là, phải có tính đo lường được, tức là qui mô và hiệu quả của đoạn thị trường đó phải đo lường được. Hai là, phải tiếp cận được, tức là doanh nghiệp phải nhận xét và phục vụ được đoạn thị trường đã phân chia theo tiêu thức nhất định. Ba là, phải có tính quan trọng, nghĩa là các đoạn thị trường phải bao gồm các khách hàng có nhu cầu đồng nhất với qui mô đủ lớn để có khả năng sinh lời. Bốn là, phải có tính khả thi, tức là có thể có đủ nguồn lực để hình thành và triển khai chương trình marketing riêng biệt cho từng đoạn thị trường đã phân chia. 2.2.2 Các căn cứ để phân đoạn thị trường và các đoạn thị trường. Về mặt lý thuyết để phân chia một thị trường tổng thể, bất kỳ một đặc trưng nào của người tiêu dùng đều có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn. Song để đảm bảo được các yêu cầu của phân đoạn thị trường, trên thực tế người ta chỉ chọn một số đặc trưng tiêu biểu và xem như là cơ sở dùng để phân chia một thị trường tổng thể. Các đặc trưng cơ bản đó là: Phân đoạn theo địa lý: Theo cách thức phân đoạn này thị trường tổng thể được chia cắt thành nhiều đơn vị địa lý khác nhau như: vùng, miền, tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường, xã... Đây là cơ sở phân chia được áp dụng phổ biến vì sự khác biệt về nhu cầu thường gắn liền với yếu tố địa lý (khu vực). Phân đoạn theo dân số- xã hội Nhóm tiêu dùng thuộc loại này bao gồm: giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, quy mô gia đình, tình trạng hôn nhân, giai tầng xã hội, dân tộc, tôn giáo,… Đây là một tiêu thức rất phổ biến dùng để phân đoạn thị trường bởi vì: Thứ nhất, chúng chính là cơ sở để tạo ra sự khác biệt về nhu cầu và hành vi mua. Ví dụ: Nam và nữ thường có nhu cầu khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, chẳng hạn mua một chiếc xe thì nam giới thường thích mua những chiếc xe dáng thể thao, khoẻ mạnh,… còn nữ giới thì thích xe đẹp, nhẹ, dễ điều khiển.
- Thứ hai, các đặc điểm dân số - xã hội dễ đo lường do đây là những đặc điểm dễ nhận thấy và có tính thể hiện ra bên ngoài cao. Thông thường các tiêu thức thuộc loại này thường có sẵn số liệu vì chúng được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Hầu hết các mặt hàng đều phải sử dụng tiêu thức này để phân đoạn trên cơ sở lựa chọn một vài tiêu thức cụ thể. Mặc dầu phân chia đoạn thị trường theo các tiêu thức cụ thể song trong thực tế người ta thường sử dụng kết hợp nhiều tiêu thức thuộc loại này trong phân đoạn vì các tiêu thức đó nó có những mối liên hệ qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Phân đoạn theo tâm lý học. Để phân đoạn thị trường theo tiêu thức này người ta thường dựa trên các tiêu thức như: Thái độ, động cơ, lối sống, sự quan tâm, quan điểm, giá trị văn hoá,… Sở dĩ người ta sử dụng các tiêu thức này để tiến hành phân đoạn thị trường vì các yếu tố thuộc tâm lý đóng một vai trò quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến các hành vi lựa chọn và mua sắm hàng hoá của người tiêu dùng. Khi phân đoạn các tiêu thức thuộc nhóm này thường được sử dụng để hỗ trợ cho các tiêu thức dân số - xã hội. Trong một số trường hợp nào đó, nó cũng được coi là tiêu thức chính. Phân đoạn theo hành vi tiêu dùng. Theo tiêu thức này, thị trường người tiêu dùng sẽ được phân chia thành các nhóm đồng nhất về các đặc tính như: Lý do mua sắm, lợi ích tìm kiếm, tính trung thành, số lượng và tỉ lệ sử dụng, cường độ tiêu thụ, tình trạng sử dụng sản phẩm (đã, chưa và không sử dụng sản phẩm). Các đặc tính về hành vi ứng xử của người tiêu dùng có thể được coi là một trong những khởi điểm tốt nhất để tiến hành phân chia các đoạn thị trường của một doanh nghiệp. Trên cơ sở các hành vi này người ta có thể chi tiết và cụ thể hoá như sau: * Căn cứ vào lý do mua hàng: Người mua trong trường hợp này được phân biệt theo những lý do mua khác nhau, mua cho nhu cầu cá nhân, mua cho nhu cầu gia đình, mua cho công việc, giao tiếp,… Chính bởi vậy việc phân đoạn thị trường theo lý do mua hàng sẽ không chỉ giúp cho công ty đáp ứng đúng đắn lý do mua của khách hàng mà còn giúp cho họ tạo nên các chức năng sử dụng mới từ các sản phẩm tiêu dùng hiện có để đẩy mạnh khả năng tiêu thụ của
- sản phẩm. Thí dụ, việc ăn kẹo cao su không có chỉ có tác dụng làm trắng răng, thơm miệng mà còn có tác dụng “ làm đẹp cho khuôn mặt của bạn”. * Căn cứ vào lợi ích tìm kiếm của khách hàng khi mua sản phẩm: Để thực hiện được phân đoạn thị trường theo lợi ích tìm kiếm doanh nghiệp phải tìm cách phát hiện và đo lường hệ thống giá trị và khả năng khách hàng có thể nhận biết từ các nhãn hiệu khác nhau trong cùng một chủng loại sản phẩm. Đây là một cách tiếp cận thị trường rất tốt nó có thể xác định được chính xác nhu cầu và ước muốn của người mua cụ thể đối với từng nhãn hiệu hàng hoá. Do đó, việc cung cấp các nhãn hiệu hàng hoá thoả mãn nhu cầu và ước muốn của khách hàng dễ dàng hơn, vì doanh nghiệp đã có một khái niệm tương đối cụ thể và rõ ràng về nhãn hiệu đó. * Căn cứ vào số lượng và tỉ lệ tiêu dùng. Việc phân chia thị trường theo tiêu thức này sẽ hình thành nên các đoạn thị trường của các nhóm khách hàng dùng nhiều, dùng thường xuyên, dùng ít và dùng vừa phải. Đây là một tiêu thức rất quan trọng nhằm giúp cho những người phân đoạn thị trường có thể có một khái niệm đúng đắn về quy mô thị trường “ thích hợp” bao gồm một nhóm người có nhu cầu đủ lớn để đảm bảo cho những nỗ lực trong công tác thị trường của doanh nghiệp. Ngoài tiêu thức số lượng người tiêu dùng trong một đoạn thị trường cụ thể khi tiến hành phân đoạn thị trường doanh nghiệp còn phải tính đến sức mua của đoạn thị trường đó, vì nếu số lượng người tiêu dùng trong một đoạn thị trường lớn nhưng lại có sức mua kém vì thu nhập thấp thì cũng là một cản trở lớn đối với doanh nghiệp khi định bán sản phẩm vào thị trường này. * Căn cứ vào mức độ trung thành của nhãn hiệu. Theo căn cứ này thì một thị trường có thể sẽ được phân chia thành: Thị trường các khách hàng trung thành, thị trường các khách hàng hay dao động và thị trường các khách hàng hoàn toàn không trung thành với nhãn hiệu của sản phẩm. Một thị trường tổng thể của doanh nghiệp là thị trường bao gồm tất cả các loại khách hàng trên với những tỉ lệ khác nhau. Việc phân đoạn thị trường theo tiêu thức này giúp cho các doanh nghiệp biết được chính xác sự chấp nhận của khách hàng về sản phẩm của họ và các nhãn hiệu cạnh tranh. Trên cơ sở đó tuỳ thuộc vào từng khách hàng, tuỳ thuộc vào mục tiêu của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình các chiến lược thị trường phù hợp. II. phát triển thị trường của doanh nghiệp.
- 1. Hiểu thế nào là phát triển thị trường của doanh nghiệp. Công tác phát triển thị trường là một trong những hoạt động chiếm vị trí ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp luôn nỗ lực nâng cao lợi nhuận và chiếm lĩnh thị trường. Phát triển thị trường là một nhiệm vụ trọng tâm trong các hoạt động của doanh nghiệp trong bất cứ thời điểm nào và giai đoạn phát triển nào. Phát triển thị trường trong một doanh nghiệp có thể do một hoặc do nhiều phòng ban chuyên môn phối hợp hoạch định, thực hiện theo một chiến lược phát triển chung của toàn doanh nghiệp. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về công tác phát triển thị trường của một doanh nghiệp: Phát triển thị trường của một doanh nghiệp có thể là việc tìm kiếm các thị trường mới, mở rộng thị trường hiện có của doanh nghiệp, tìm cách bán các sản phẩm cũ trên các thị trường hiện tại của doanh nghiệp theo một phương thức bán hàng hoàn toàn mới nhằm nâng cao doanh số bán hàng, hay phát triển thị trường cũng có thể được hiểu là việc tìm cách thâm nhập vào các thị trường mới mẻ và tiềm năng khác nhau nhằm nâng cao lợi nhuận, tránh rủi ro tối đa cho doanh nghiệp về mặt doanh số. Mặc dù có nhiều cách hiểu như vậy về công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp, song về cơ bản dù hiểu theo cách nào thì về cơ bản công tác này luôn có hai yêu cầu sau: Một là, phải tìm kiếm thêm được những đoạn thị trường mới và có tính khả thi. Hai là, phải nâng cao được doanh số, lợi nhuận bán hàng cho doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai. Trên cơ sở hai yêu cầu đó của công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp, công tác phát triển thị trường của một doanh nghiệp có thể được hiểu ngắn gọn là một trong những hoạt động nhằm thâm nhập thành công vào các thị trường mới của một doanh nghiệp theo các hướng khác nhau và bằng các hình thức khác nhau nhằm mục đích mang lại doanh số và lợi nhuận ngày càng lớn cho doanh nghiệp. 2. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển thị trường của một doanh nghiệp. Để đánh giá mức độ phát triển thị trường của một doanh nghiệp người ta có thể dùng nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá. Mục đích của việc đánh giá mức độ phát triển của thị trường nhằm nhận dạng được mức độ hấp dẫn của các thị trường tiềm năng trong việc thực hiện phương hướng kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá này là rất quan trọng, nó cho phép doanh nghiệp đưa ra được các phương hướng kinh doanh đúng đắn, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Trong khi sử dụng các chỉ tiêu đánh giá
- mức độ phát triển thị trường của doanh nghiệp cần phải lưu ý đến các chỉ tiêu cơ bản sau: 2.1 Số thị trường mới tăng bình quân Công thức tính: t1 + t2 + t3 + ...+ tn T= n Trong đó: t1, t2, t3... tn là số thị trường thực mới của doanh nghiệp khai thác được hàng năm.( Các t1,t2,,…,tn có thể mang dấu âm trong trường hợp doanh nghiệp bị mất thị phần) T = 0: Số thị trường mới bằng số thị trường mà doanh nghiệp để mất. T < 0: Thị trường của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp và doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc phát triển thị trường. T > 0: Thị trường mới của doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Chỉ tiêu này có ý nghĩa rất lớn, nó cho phép doanh nghiệp xác định được tình hình phát triển thị trường của doanh nghiệp hiện tại. Doanh nghiệp nào cũng muốn mình có chỉ số T > 0 khi đó doanh nghiệp có thể yên tâm đối với hoạt động mở rộng và phát triển thị trường. 2.2 Tốc độ tăng doanh số bình quân của doanh nghiệp trên một đoạn thị truờng cụ thể. Công thức tính: K k1 k 2 ... k n n 1 Trong đó: k1, k2...kn là tốc độ tăng doanh số trên một đoạn thị trường cụ thể của doanh nghiệp năm sau so với năm trước. Chỉ tiêu này có thể tính cho một đoạn thị trường hay tổng thể các đoạn thị trường, nó thể hiện quy mô tăng thị trường của doanh nghiệp. K = 1: quy mô thị trường của doanh nghiệp không đổi K < 1: quy mô thị trường của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp K > 1: quy mô thị trường của doanh nghiệp ngày càng tăng Chỉ tiêu này cho phép xác định mức độ tăng hay giảm thị trường so năm gốc để từ đó có các biện pháp điều chỉnh thích hợp với khả năng của doanh nghiệp để từ đó xem xét tới vấn đề mức lợi nhuận thu được, mức thuế phải nộp...
- 2.3 Số lượng thị trường mới xâm nhập của doanh nghiệp. Đây là một chỉ tiêu quan trọng, nó đánh giá được trên thực tế trong một giai đoạn doanh nghiệp có khả năng thâm nhập được bao nhiêu thị trường mới, điều này phản ánh năng lực phát triển thị trường của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này có thể được xác định và tính toán khá dễ dàng từ những con số thống kê về thực trạng kinh doanh và phát triển thị trường của doanh nghiệp. Trong một giai đoạn phát triển của doanh nghiệp nếu chỉ tiêu này càng lớn thì có nghĩa là công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp đó càng mạnh và ngược lại. 2.4 Thị phần của doanh nghiệp. Thị phần của một doanh nghiệp về một hàng hoá nào đó trong một giai đoạn cụ thể có thể được tính theo 2 cách khác nhau, hoặc là theo doanh số tiêu thụ của hàng hoá đó của doanh nghiệp so với doanh số tiêu thụ hàng hoá này của cả thị trường trong giai đoạn đó hay là theo số lượng các hàng hoá đó đã được tiêu thụ của doanh nghiệp so với số lượng chung của tổng thể thị trường. Tuy nhiên trên thực tế để tính toán thị phần của doanh nghiệp thì việc xác định được doanh số tiêu thụ của tổng thể thị trường là khó hơn ( vì nó còn phụ thuộc vào giá cả khác nhau giữa các doanh nghiệp) so với việc xác định sản lượng tiêu thụ mặt hàng đó cho nên người ta thường dùng tiêu thức sản lượng tiêu thụ để đánh giá thị phần của một doanh nghiệp. Công thức tính: Số lượng sản phẩm của công ty đã được tiêu thụ trên thị trường MS = x 100% Số lượng sản phẩm đã được tiêu thụ của toàn bộ thị trường Thị phần của doanh nghiệp cũng là một chỉ tiêu phản ánh khá rõ nét thực trạng về công tác phát triển thị trường của một doanh nghiệp. Nó cho thấy trong một giai đoạn cụ thể và trên một đoạn thị trường cụ thể hoặc xét trên bình diện tổng thể khu vực thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động, doanh nghiệp gia tăng được bao nhiêu thị phần, doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được thêm bao nhiêu thị phần của các đối thủ cạnh tranh, hoặc giảm đi bao nhiêu thị phần,…Có thể nói nếu trong công tác đánh giá hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp mà bỏ qua chỉ tiêu này sẽ là một sai sót rất lớn. 2.5 Số đoạn thị trường mới được mở ra.
- Một đoạn thị trường như đã biết là một nhóm người tiêu dùng có phản ứng như nhau đối với cùng một tập hợp các kích thích của Marketing, chính bởi vậy việc xác định số đoạn thị trường mới được mở ra trong một giai đoạn phát triển của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Nó chỉ ra là trong giai đoạn đó doanh nghiệp đã thực sự tiến hành những biện pháp nào cả về thị trường, sản xuất, … để có thể đáp ứng được nhu cầu của một nhóm người tiêu dùng hoàn toàn khác lạ so với những người tiêu dùng trước đây của doanh nghiệp về cả thói quen, thị hiếu tiêu dùng,…Thông thường trong một giai đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp càng mở ra được nhiều được các đoạn thị trường mới, đồng thời đáp ứng tốt được các đoạn thị trường mới được mở ra ấy thì có nghĩa là hoạt động phát triển thị trường là rất tốt. Tuy nhiên cũng có một lưu ý đối với các doanh nghiệp, đó là không phải cứ mở ra nhiều đoạn thị trường mới đã là tốt nếu mà khả năng của doanh nghiệp không đáp ứng được nó. Mở ra các đoạn thị trường mới cũng đồng thời có nghĩa là phải đáp ứng tốt đoạn thị trường mới được mở ra đó. Trên đây là một vài chỉ tiêu dùng để đánh giá hoạt động phát triển thị trường của một doanh nghiệp, có thể nói đây là những chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh tương đối rõ ràng công tác này của doanh nghiệp trong một giai đoạn kinh doanh cụ thể. Ngoài các chỉ tiêu trên, trên thực tế người ta còn có thể dùng các chỉ tiêu khác để đánh giá hoạt động phát triển thị trường của một doanh nghiệp như: Số khu vực thị trường của một doanh nghiệp, số lượng các đại lý mới mở trên một khu vực thị trường của doanh nghiệp, số thị trường cũ bị mất đi, hoặc thị phần trên thị trường cũ bị thu hẹp,…nhằm phản ánh rõ nét hơn và chi tiết hơn hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiêp. Tuy nhiên tuỳ vào điều kiện cụ thể của một doanh nghiệp mà ta có thể lựa chọn các chỉ tiêu cho phù hợp. 3. Các con đường phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Để phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có rất nhiều cách, trong đó có các cách chủ yếu sau: 3.1 Tìm thị trường trên các địa bàn mới. Đây là một biện pháp được áp dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả trên các thị trường hiện tại, chẳng hạn như họ đang hoạt động tại thị trường trong nước song họ lại không có thế mạnh, hoặc đang hoạt động tại một thị trường có tỷ suất lợi nhuận thấp. Đối với các công ty này thì việc tìm kiếm các thị trường mới ở các vùng khác nhau hay ở nước khác là rất quan trọng, nhằm góp phần nâng cao lợi nhuận
- cho doanh nghiệp. Mặc dầu vậy, việc phát triển thị trường theo cách này cũng phải được cân nhắc một cách kỹ lưỡng, bởi có nhiều công ty do hoạt động trên quá nhiều thị trường và hoạt động quá dàn trải không tập trung cho nên rất khó quản lý, gây nhiều lãng phí thất thoát trong quản lý và điều hành, điều đó tất yếu dẫn đến tỉ lệ lợi nhuận thấp, song không có nghĩa là các thị trường này không có khả năng sinh lời cao và phải tìm thị trường khác hoàn toàn mới. Do đó, việc chuyển hoạt động sang một thị trường mới phải được dựa trên cơ sở của một sự phân tích và đánh giá một cách cẩn thận, kỹ lưỡng hoạt động trên các thị trường hiện tại của doanh nghiệp. Để tìm kiếm thị trường mới thì doanh nghiệp phải mở rộng trong việc tìm kiếm các nhà phân phối mới, mở rông lực lượng bán hàng hoặc mở thêm các mạng lưới tiêu thụ mới. Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể tiến hành bằng con đường hướng ngoại đó là hội nhập ngang với một hãng đang cần thị trường đích khác. 3.2 Tìm kiếm các đoạn thị trường mới. Cách làm này bao hàm việc tìm kiếm các nhóm đối tượng khách hàng mục tiêu hoàn toàn mới trong cùng một địa bàn của thị trường hiện tại. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp sẽ cố gắng phát hiện và tìm ra các đoạn thị trường mới trong thị trường hiện tại để nhằm làm tăng doanh thu và doanh số bán hàng. Ngoài ra có thể thực hiện các nỗ lực đặc biệt khác để tìm kiếm các đoạn thị trường mới như việc phát triển thêm các kênh tiêu thụ mới hoặc đơn giản hơn là sử dụng các phương tiện quảng cáo mới , chẳng hạn thay vì quảng cáo qua đài truyền thanh thì có thể đẩy mạnh quảng cáo qua truyền hình mặc dù điều này có thể rất tốn kém. 3.3 Tìm thêm các giá trị sử dụng mới cho sản phẩm. Một sản phẩm thì có thể được đổi mới bằng việc tạo thêm các tính năng sử dụng mới để trở thành một sản phẩm hoàn toàn mới trong con mắt của người tiêu dùng. Chính bởi vậy, mỗi công dụng mới của sản phẩm có thể tạo ra một thị trường hoàn toàn mới của sản phẩm. Chẳng hạn, như công dụng của Nilon được các nhà sản xuất và thiết kế mở rộng theo thời gian, lúc đầu nó được làm dù dành cho phi công, sau một thời gian lại được dùng làm tất dài cho phụ nữ, áo mưa, vỏ xe ô tô, áo Blue,… 3.4 Phát triển sản phẩm. Công việc này bao gồm việc phát triển các loại sản phẩm mới để tiêu thụ trên thị trường hiện tại hoặc bán cho các khách hàng hiện có của doanh nghiệp. Đây là một trong
- những biện pháp rất quan trọng để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty vì mỗi một sản phẩm mới ra đời sẽ hình thành nên các trào lưư tiêu dùng mới và sẽ hình thành nên các đoạn thị trường mới. Việc phát triển sản phẩm có thể được tiến hành đối với từng sản phẩm riêng biệt hoặc toàn bộ các mặt hàng của công ty. 3.4.1 Phát triển sản phẩm riêng biệt. Để phát triển một sản phẩm riêng biệt doanh nghiệp có thể : Cải tiến tính năng của sản phẩm Đó là việc tạo ra các sản phẩm hoàn toàn mới bằng cách bổ xung, cơ cấu lại, bố trí lị các tính năng hoặc nội dung của sản phẩm cũ. Nói chung, những thay đổi này là nhằm cải tiến sản phẩm bằng cách làm cho sản phẩm trở nên đa dạng, an toàn và tiện lợi. Việc mỗi năm doanh nghiệp đưa ra một sản phẩm “mới” chính là cách thực hiện biện pháp này. Cải tiến chất lượng của sản phẩm Mục đích của việc làm này là nhằm làm tăng độ tin cậy, tốc độ, độ bền, khẩu vị hoặc các tính năng khác của sản phẩm. Cũng có thể phát triển các phiên bản khác nhau của cùng một loại sản phẩm bằng cách sản xuất sản phẩm với các chất lượng hoàn toàn khác nhau, để trong mắt của người tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp luôn luôn không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng. Cải tiến kiểu dáng và mẫu mã của sản phẩm Đây là một biện pháp rất hay nhằm đánh trực tiếp vào thị hiếu và óc thẩm mỹ của người tiêu dùng bằng cách thay đổi màu sắc, thiết kế bao bì, kết cấu của sản phẩm, thay đổi mẫu mã và kích cỡ của sản phẩm,…Điều này trở nên đặc biệt đối với các doanh nghiệp mà thị trường mục tiêu của họ là phái nữ, nơi mà nhu cầu tiêu dùng cực kỳ đa dạng và thay đổi rất nhanh chóng. 3.4.2 Phát triển cơ cấu ngành hàng. Để phát triển cơ cấu ngành hàng doanh nghiệp có thể sử dụng rất nhiều biện pháp, các biện pháp đó có thể là bổ xung thêm mặt hàng mới hoặc cải tiến các sản phẩm hiện đang sản xuất. Doanh nghiệp có thể lựa chọn: Kéo dãn cơ cấu mặt hàng Việc kéo dãn cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp có thể được tiến hành bằng các cách sau
- Kéo dãn cơ cấu mặt hàng xuống dưới, đây là một biện pháp khá hay trong công tác phát triển sản phẩm của doanh nghiệp, việc kéo dãn mặt hàng xuông dưới có thể hiểu là việc bổ xung các sản phẩm phục vụ cho phần dưới của thị trường. Tuy nhiên việc làm này có thể vấp phải khá nhiều khó khăn vì một mặt nó sẽ làm cho khách hàng có thể xa rời các sản phẩm hiện thời của doanh nghiệp, mặt khác nó có thể sẽ khiến cho các đối thủ cạnh tranh tìm cách xâm nhập vào phần trên của thị trường. Kéo dãn cơ cấu mặt hàng lên phía trên, đây là việc bổ xung các sản phẩm phục vụ cho phần trên của thị trường, chẳng hạn như là việc tạo ra nhiều các sản phẩm tinh xảo hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu của người tiêu dùng. Mặc dầu vậy, nhược điểm của biện pháp này đó là có thể vấp phải sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt, ngoài ra còn rất khó có thể thuyết phục khách hàng về chất lượng mới gia tăng của sản phẩm, đặc biệt đối với các công ty vừa và nhỏ điều này có lẽ còn khó hơn nữa. Kéo dãn hai chiều, đây là một biện pháp có thể áp dụng khi doanh nghiệp đang chiếm khu vực của thị trường, lúc này doanh nghiệp có thể xem xét việc kéo dãn hai phía bằng cách đưa ra các sản phẩm mới phục vụ cho cả hai phần trên và dưới của thị trường. Mặc dầu vậy, doanh nghiệp khi muốn tiến hành biện pháp này phải hết sức cẩn trọng và phải tuỳ thuộc vào khả năng hiện tại của doanh nghiệp chứ không thể liều lĩnh. Lấp kín mặt hàng Đây là việc tăng thêm các danh mục trong cơ cấu mặt hàng hiện tại. Mục đích chính của việc này là nhằm đẳm bảo sao cho khách hàng thực sự thấy được cái mới, cái khác biệt của sản phẩm. Họ sẽ bỏ tiền ra mua loại sản phẩm mới này ngay cả khi họ có sản phẩm cũ trong tay, vì tại đây họ hi vọng có được đầy đủ các tính năng sử dụng của mặt hàng mà họ tiêu dùng. Hiện đại hoá mặt hàng. Đây là một biện pháp khá phổ biến được áp dụng khi chiều dài cơ cấu mặt hàng vẫn còn chấp nhận được nhưng cần thiết phải có các điều chỉnh nhằm đổi mới kiểu dáng hoặc đưa vào ứng dụng các tiến bộ công nghệ. Các công ty trong lĩnh vực có sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ chẳng hạn trong lĩnh vực máy tính, tin học thì lại càng phải chú tâm hơn đến điều này. Họ phải luôn luôn trong tình trạng phải ra quyết định đổi mới toàn bộ cơ cấu mặt hàng hay thực hiện phương cách chia phần cho phép cá đối thủ cạnh tranh theo kịp.
- III. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác phát triển thị trường của doanh nghiệp. Hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp là một hoạt động rất quan trọng và nó chịu nhiều tác động của các yếu tố khác nhau thuộc các môi trường kinh doanh tác nghiệp và môi trường kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp. Về cơ bản có thể nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động phát triển thị trường của một doanh nghiệp trong 4 môi trường sau: Thứ nhất, là môi trường quốc tế của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố về văn hoá, chính trị, luật pháp, tôn giáo,… có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động phát triển thị trường, đặc biệt là việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp. Thứ hai, là môi trường quốc gia bao gồm các yếu tố nằm bên ngoài tổ chức, có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường ngành, môi trường nội bộ và cũng có thể tạo ra các cơ hội và thách thức đối với các tổ chức. Thứ ba, là môi trường ngành, cũng bao gồm các yếu tố nằm bên ngoài tổ chức có vai trò quyết định ảnh hưởng đến tình hình cạnh tranh trong ngành. Thứ tư, là môi trường nội bộ bao gồm các yếu tố thuộc nguồn lực nội bộ của một tổ chức. 1. Các yếu tố thuộc môi trường quốc tế. Các yếu tố thuộc môi trường có thể nói là các nhân tố chung nhất đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển thị trường của một doanh nghiệp bởi nó có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp nói chung và hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp nói riêng ở cả 3 cấp độ môi trường là môi trường quốc gia, môi trường ngành và môi trường nội bộ của doanh nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà hội nhập quốc tế đang trở thành một xu hướng chính và tất yếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và của các nền kinh tế các quốc gia trên thế giới. Dĩ nhiên là đối với các doanh nghiệp hoạt độ kinh doanh ở nước ngoài thì khi tiến hành xem xét các nhân tố ảnh hưởng đêns hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp phải tính đến ảnh hưởng của các yếu tố quốc tế. Điều này là một phần tất yếu trong hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp hoạt động tại thị trường nội địa cũng cần phải xem xét các ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường này. Do đó vấn đề này có thể được xem xét dưới 2 giác độ sau: 1.1 Đối với các doanh nghiệp chỉ hoạt động trong nước.
- Thông thường các doanh nghiệp này hoạt động của họ chỉ chủ yếu là quan hệ và giao dịch với các doanh nghiệp trong nước. Mặc dầu vậy hoạt động của các doanh nghiệp này vẫn cần phải tính đến khả năng ảnh hưởng của môi trường quốc tế, bởi trong thời buổi toàn cầu hoá như hiện nay thì không thể đặt độc lập một doanh nghiệp chỉ hoạt động tại thị trường trong nước mà không tính gì đến yếu tố quốc tế cả. Điều đầu tiên có thể kể đến trong ảnh hưởng của môi trường quốc tế đối với hoạt động của các doanh nghiệp là những ảnh hưởng xuất phát từ tình hình chính trị của thế giới, tình hình này có thể có những tác động không nhỏ đến hoạt động buôn bán quốc tế của một doanh nghiệp. Tiến bộ của khoa học công nghệ cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp này một cách mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một sự theo dõi chặt chẽ từ chính bản thân doanh nghiệp. Mỗi công nghệ sản xuất mới hoặc một chi tiết mới trong sản phẩm cuối cùng của doanh nghiệp đều có thể tác động đến hoạt động trong nước của doanh nghiệp nói chung và việc phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nói riêng, cho dù công ty không hoạt động tại thị trường của một quốc gia nào. Các yếu tố tự nhiên của nước sở tại cũng có thể ảnh hưởng đén doanh nghiệp. Chẳng hạn, mặc dù công ty có thể mua được nguyên vật liệu trong nước song các loại nguyên vật liệu thôi sản xuất ra các loại nguyên vật liệu này lại được nhập khẩu từ nước ngoài. Như vậy, khi nguồn cung cấp nguyên vật liệu thô này bị suy giảm hay tăng giá đều có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên là đối với một doanh nghiệp chỉ hoạt động kinh doanh tại thị trường nội địa thì không cần phải quan tâm một cách trực tiếp đến các khách hàng tại thị trường nước ngoài. Nhưng sẽ là tốt hơn nếu như các doanh nghiệp quan tâm đến các hoạt động và thói quen tiêu dùng của các khách hàng nước ngoài vì các yếu tố của nền kinh tế thị trường là luôn luôn biến động và không thể lường trước được, đặc biệt là khi mà hoạt động tại thị trường nội địa ngày càng bị hạn chế do nhiều nguyên nhân và có lẽ lúc đó việc mở rộng thị trường nước ngoài là lối thoát hiệu qủa nhất. Điều này cũng đúng đối với các nhà cung ứng nước ngoài, mặc dù hiện tại họ không là người cung ứng của doanh nghiệp, song trong tương lai họ lại là những nhà cung ứng tiềm năng. Ngoài các yếu tố trên một doanh nghiệp chỉ hoạt động kinh doanh tại thị trường trong nước cũng cần phải để ý tới các sản phẩm thay thế mà các doanh nghiệp n ước
- ngoài có thể tung vào thị trường quốc gia mình. Do đó, việc theo dõi các kết quả phát triển của sản phẩm và tin tức từ các hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài này cũng là một trong những công việc quan trọng. Như vậy, có thể nói mặc dù các doanh nghiệp chỉ hoạt động kinh doanh tại thị trường trong nước trong thời điểm hiện tại và hoạt động của họ có vẻ như không liên quan gì đến các hoạt động diễn ra trên bình diện quốc tế, song xét trong dài hạn các doanh nghiệp vẫn cần phải quan tâm đến thị trường quốc tế và ảnh hưởng từ môi trường quốc tế này đối với doanh nghiệp, vì hội nhập phát triển không thể chờ đợi bất cứ doanh nghiệp nào. 1.2 Đối với các doanh nghiệp đã và đang hoạt động trên thị trường quốc tế. Đối với các dạng doanh nghiệp này thì việc quan tâm đến các ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường quốc tế là hiển nhiên và cũng là một nhiệm vụ kinh doanh quan trọng của doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là bởi vì đối với các doanh nghiệp này thì việc hoạt động trong một môi trường rộng lớn như họ đang kinh doanh là rất phức tạp và không lường trước được. Có rất nhiều các yếu tố mang tính chất quốc tế có thể ảnh hưởng đến hoạt động phát triển thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp này chẳng hạn như kinh tế, luật pháp, văn hoá xã hội, chính trị, công nghệ,… và tuỳ thuộc vào khả năng của doanh nghiệp và hoàn cảnh cụ thể của nó mà các yếu tố này sẽ có các ảnh hưởng rất khác nhau đến hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp. Nó có thể là cơ hội mở rộng thị trường cho doanh nghiệp này, cũng có thể là áp lực phải thu hẹp thị trường đối với một doanh nghiệp khác hay thậm chí là nó có thể gây các tác động tiêu cực đến mức phải phá sản doanh nghiệp khi mà doanh nghiệp hội nhập rất sâu vào nền thương mại quốc tế và tất cả các hoạt động của doanh nghiệp sẽ ngay lập tức bị ảnh hưởng dưới những tác động của các yếu tố thuộc môi trường quốc tế. Sau đây chúng ta sẽ xem xét ảnh hưởng của các yếu tố cụ thể: Yếu tố kinh tế quốc tế có khả năng ảnh hưởng đến tất cả các khách hàng nước ngoài trong việc thanh toán khi mua hàng. Các yếu tố đó có thể kể ra là, mức phát triển kinh tế, tổng sản phẩm quốc dân, thu nhập b ình quân theo đầu người, sự tham gia của quốc gia trong các khối liên kết kinh tế, tính chất cạnh tranh, chính sách tiền tệ của các nước, tỉ giá hối đoái,…
- Yếu tố luật pháp quốc tế cũng là một trong các yếu tố có ảnh hưởng lớn đến cơ hội mở rộng thị trường của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến cách thức thâm nhập thị trường của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến các chính sách kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp, chi phối mối quan hệ giữa doanh nghiệp đối với các đối tác kinh doanh nước ngoài. Yếu tố văn hoá- xã hội của các nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển thị trường của một doanh nghiệp chẳng hạn như các phong tục, tập quán, các thói quen mua hàng, các quan niệm về màu sắc, thái độ, giá trị,… Ngoài các yếu tố trên doanh nghiệp hoạt động trên thị trường quốc tế còn phải rất lưu tâm đến yếu tố chính trị, yếu tố công nghệ- kỹ thuật và yếu tố tự nhiên khí hậu của nước ngoài bởi các yếu tố này cũng có những ảnh hưởng nhiều đến hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp. Như vậy việc quan tâm, dự đoán ảnh hưởng, xác định chiều hướng tác động của các yếu tố kể trên đến hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có một vai trò vô cùng quan trọng và là hoạt động không thể thiếu đối với doanh nghiệp đang tìm kiếm cơ hội mở rộng các thị trường mới. 2. Các yếu tố thuộc môi trường quốc gia 2.1 Các yếu tố kinh tế. Đây là yếu tố ảnh hưởng vô cùng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp đặc biệt là đối với hoạt động phát triển thị trường của các doanh nghiệp vì các yếu tố này là các yếu tố có liên quan mật thiết đến “ cầu” của người tiêu dùng như thu nhập, khả năng thanh toán, lãi suất của ngân hàng,… hay liên quan đến việc sản xuất của doanh nghiệp như các yếu tố thuộc về cán cân thanh toán, các chính sách tài chính tiền tệ, các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế,…Các yếu tố này có thể ảnh hưởng đến hoạt động phát triển thị trường của một doanh nghiệp trong một phạm vi tương đối rộng, do đó đòi hỏi doanh nghiệp cần phải tiến hành nhận biết một cách có chọn lọc các ảnh h ưởng cụ thể từ các yếu tố này đôí với hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp, song doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý các yếu tố này luôn luôn tiềm ẩn hai khả năng vừa là thách thức, đồng thời cũng là cơ hội đối với doanh nghiệp. 2.2 Các yếu tố chính trị. Các yếu tố này ảnh hưởng ngày càng lớn đối với hoạt động của các doanh nghiệp
- nói chung và hoạt động phát triển thị trường của doanh nghiệp nói riêng. Doanh nghiệp trước hết phải tuân theo các quy định của Chính phủ mình về tất cả các vấn đề có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh như các quy định về thuê mướn lao động, an toàn lao động, nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường hay như các quy định về giá cả của sản phẩm của doanh nghiệp. Thậm chí ngay cả các hoạt động của Chính phủ cũng tạo ra những cơ hội hoặc nguy cơ đối với doanh nghiệp. Thí dụ như các chương trình liên quan đến chi tiêu công cộng của Chính phủ, các chính sách giảm thuế,… có thể là cơ hội giúp cho nhiều doanh nghiệp phát triển và ngược lại việc tăng thuế trong các ngành công nghiệp cũng có thể đe doạ đến lợi nhuận của các công ty. 2.3 Các yếu tố xã hội. Đây là các yếu tố rất quan trọng trong việc xác định các cơ hội mở rộng thị trường của một doanh nghiệp. Nó đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu rất kỹ lưỡng để từ đó có thể nhận ra được các cơ hội và các thách thức có thể xảy ra. Các yếu tố thuộc về xã hội chẳng hạn như các yếu tố nhân chủng học, chuẩn mực đạo đức, giá trị, thái độ, sở thích, thói quen, phong tục tập quán, khi có sự biến động sẽ có ảnh hưởng lớn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố này cũng là các yếu tố có sự biến đổi rất chậm và đôi khi nó tỏ ra khá khó nhận biết. Chính vì vậy nó lại càng phải có sự theo dõi cẩn thận và thường xuyên từ phía doanh nghiệp. 2.4 Các yếu tố tự nhiên. Như chúng ta đã biết, các yếu tố tự nhiên tác động đến hoạt động kinh doanh và phát triển thị trường của một doanh nghiệp đã được nhiều người thừa nhận từ rất lâu, song do vì nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về lợi nhuận mà các doanh nghiệp thường bỏ qua phân tích tác động của các yêú tố này đối với hoạt động của mình. Chỉ đến những năm gần đây khi mà các vấn đề về môi trường có liên quan mật thiết đến đời sống dân sinh của dân chúng nảy sinh ngày càng nhiều vấn đề này đã bắt đầu thu hút được sự chú ý ngày càng nhiều của chính phủ và công chúng. Các vấn đề có liên quan đến ô nhiễm môi trường, đến nguồn lực hạn chế,… đã và đang là các thách thức không nhỏ đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đòi hỏi một sự quan tâm thích đáng trong việc hoạch định chiến lược phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là trong việc phát triển thị trường. Các doanh nghiệp phải học làm quen với các tình huống rằng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp "Những giải pháp hoàn thiện hệ thống mạng lưới bán hàng sản phẩm của công ty TNHH Việt Thắng"
94 p | 556 | 280
-
Luận văn: Hoàn thiện công tác hoạch định chiến lược kinh doanh tại công ty bánh kẹo Hải Châu
102 p | 610 | 263
-
Luận văn : Dự án thành lập Sestours nhằm đáp ứng những nhu cầu nói trên cho du khách
52 p | 437 | 205
-
Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh vận tải hàng không của hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines)
106 p | 386 | 145
-
LUẬN VĂN:MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP KHAI PHÁ DỮ LIỆU QUAN HỆ TRONG TÀI CHÍNH VÀ CHỨNG KHOÁN
55 p | 289 | 112
-
LUẬN VĂN: Sử dụng mô hình ARCH và GARCH để phân tích và dự báo giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
25 p | 432 | 107
-
Luận văn: Đánh giá dự án đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công đường bộ của công ty CTGT 116
91 p | 336 | 94
-
đề tài: " nghiên cứu điều tra và dự báo thị trường xuất khẩu cho 1 chủng loại nông lâm thủy sản"
434 p | 130 | 39
-
LUẬN VĂN: Mã hóa lượng tử và ứng dụng
79 p | 161 | 36
-
LUẬN VĂN: Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010
73 p | 126 | 33
-
Luận văn tốt nghiệp: Dãy số thời gian trong việc phân tích và dự đoán thống kê về du lịch
34 p | 124 | 20
-
Luận văn Thạc sỹ Khoa học: Bảo hộ trong thị trường không đầy đủ
57 p | 112 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Tăng cường quản lý nhà nước và thực thi pháp luật nhằm đảm bảo an toàn, trật tự cho du khách tham quan Vịnh Hạ Long trên các tàu du lịch thuộc tỉnh Quảng Ninh
106 p | 43 | 8
-
Luận văn: Dự báo về tác động của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ Việt Nam – Những giải pháp đề xuất
72 p | 55 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Thị trường Nhật Bản đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong giai đoạn 2002-2006 và dự báo đến năm 2015
106 p | 34 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp góp phần mở rộng thị trường xi măng công nghiệp của Holcim Việt Nam đến năm 2015
114 p | 20 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ tại Bảo Minh trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa Tỉnh ĐăK Nông
111 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn