intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn hay: Dịch vụ bưu chính, viễn thông với phát triển kinh tế xã hội ở Nghệ An

Chia sẻ: Buiduong_1 Buiduong_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

124
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, bên cạnh những sản phẩm hữu hình, các nhu cầu về dịch vụ của xã hội cũng không ngừng tăng lên. Sự phát triển của dịch vụ không những có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mà còn trở thành một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế. Cùng với các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ bưu chính viễn thông với tư cách là một loại hình dịch vụ đặc thù trong nền kinh tế...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn hay: Dịch vụ bưu chính, viễn thông với phát triển kinh tế xã hội ở Nghệ An

  1. 1 Luận văn Dịch vụ bưu chính, viễn thông với phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An
  2. 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, bên cạnh những sản phẩm hữu hình, các nhu cầu về dịch vụ của xã hội cũng không ngừng tăng lên. Sự phát triển của dịch vụ không những có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - x ã hội, mà còn trở thành một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế. Cùng với các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ bưu chính viễn thông với tư cách là một loại hình dịch vụ đặc thù trong nền kinh tế đ ã và đang có những đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng và b ảo vệ Tổ quốc. K ể từ khi đổi mới, ngành Bưu chính, viễn thông ở Nghệ An đã có những b ước phát triển nhất định, trở thành nhân tố thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Đ ể phục vụ đẩy đủ việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trên địa b àn tỉnh Nghệ An trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Bưu chính, viễn thông ở Nghệ An cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển. Tuy nhiên, những bất cập về cơ chế chính sách, về các nguồn lực như vốn, nhân lực ... đã và đang cản trở sự phát triển và phát huy vai trò của dịch vụ bưu chính, viễn thông trên địa bàn tỉnh. Những vấn đề đó đang cần đ ược nghiên cứu để tìm ra giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của loại hình d ịch vụ này cả về số lượng và chất lượng trên cơ sở tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, đáp ứng kịp thời những nhu cầu ngày càng đa dạng và khó tính của các chủ thể thụ hưởng loại hình dịch vụ này. Nhằm góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Nghệ An, tác giả lựa chọn vấn đề “Dịch vụ bưu chính, viễn thông với phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
  3. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài V ấn đề dịch vụ bưu chính viễn thông đ ã và đang được các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, các cá nhân ở Trung ương và các địa phương quan tâm nghiên cứu, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề tài, bài viết đề cập đến các vấn đề này. Trên địa bàn Tỉnh Nghệ An, đã có các công trình nghiên cứu và công bố về dịch vụ bưu chính, viễn thông như “Qui hoạch phát triển Bưu chính viễn, thông tỉnh Nghệ An đến năm 2020” của Sở Bưu chính Viễn thông tỉnh Nghệ An và một số đề tài tiến sĩ, thạc sĩ. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu đề cập tới phương diện kỹ thuật của Bưu chính viễn thông. Một số đề tài khác đã nghiên cứu về cơ chế quản lý doanh nghiệp bưu chính viễn thông, về sản xuất kinh doanh, công tác hạch toán kế toán... với tư cách là những nội dung đã được ứng dụng phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Nghệ An và phục vụ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào trên giác độ kinh tế chính trị nghiên cứu về vai trò của dịch vụ bưu chính, viễn thông đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ bưu chính viễn thông, phân tích đánh giá thực trạng dịch vụ bưu chính viễn thông ở tỉnh Nghệ An và tác đ ộng của nó đối với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình dịch vụ này góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa b àn tỉnh. Nhiệm vụ của luận văn Đ ể đạt được mục đích nói trên, nhiệm vụ của luận văn tập trung vào những nội dung sau:
  4. 4 - Làm rõ các vấn đề lý luận chủ yếu về dịch vụ bưu chính viễn thông đối với p hát triển kinh tế xã hội nói chung và ở tỉnh Nghệ An nói riêng. - Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông một số địa phương đ ể rút ra bài học cho tỉnh Nghệ An . - Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ b ưu chính viễn thông ở Nghệ An tời gian qua, tác động của loại hình dịch vụ này đối với phát triển kinh tế xã hội ở Nghệ An thời gian qua, tìm ra những thành công, hạn chế cùng các nguyên nhân của hạn chế. - Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Nghệ An đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu về dịch vụ bưu chính viễn thông với tư cách là một loại hình dịch vụ và những yếu tố kinh tế - xã hội có liên quan trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Phạm vi nghiên cứu Trên góc độ của khoa học kinh tế chính trị, luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận có liên quan đến nội dung phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An và những yếu tố kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An có liên quan đến sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông. Về thời gian: Từ năm 2000 đến nay. 6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của luận văn là thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng các phương pháp truyền thống của kinh tế chính trị Mác - Lênin như trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lô gíc gắn với lịch
  5. 5 sử, hệ thống hoá, thống kê thu thập số liệu, điều tra khảo sát, phân tổ, phân tích, tổng hợp, so sánh nhằm tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách có hệ thống. 7. Đóng góp của luận văn - Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về dịch vụ bưu chính viễn thông. - Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, kế thừa chọn lọc các tài liệu có liên quan phục vụ việc nghiên cứu các nội dung theo yêu cầu nhiệm vụ của luận văn. Từ đó phân tích, đánh giá làm rõ các yếu tố kinh tế - xã hội ở tỉnh Nghệ An có tác động ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông trên địa bàn và tác động ảnh hưởng trở lại của dịch vụ b ưu chính viễn thông trên địa bàn đối với phát triển kinh tế - xã hội. - Rút ra được những hạn chế, những bức xúc cần được tháo gỡ, đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Nghệ An đến năm 2010 và 2020. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  6. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1 .1. KHÁI NIỆ M, Đ ẶC ĐI ỂM, VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ B ƯU CHÍNH VI ỄN THÔNG 1.1.1. Khái niệm dịch vụ bưu chính viễn thông 1.1.1.1. Quan điểm chung về dịch vụ Dịch vụ là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu kinh tế. Tuy nhiên, nội hàm của dịch vụ được hiểu với những nghĩa còn khác nhau. Trong Bách khoa toàn thư xô viết lớn, dịch vụ được hiểu, thứ nhất, là hình thái của lao động phi sản xuất, là quan hệ kinh tế-xã hội thể hiện sự tiêu dùng thu nhập, thứ hai, là hoạt động có mục đích nhất định tồn tại dưới hình thái hiệu quả có ích của lao động [40]. Đây là quan niệm phổ biến của thời kỳ kinh tế hiện vật, p hủ nhận kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội, từ đó, đã gây cản trở cho sự phát triển của các ngành dịch vụ. Những quan điểm gần đây đã khắc phục được tính phiến diện của quan niệm kể trên. Trong Từ điển kinh tế Megabook.ru, d ịch vụ được hiểu là công việc được thực hiện theo đơn đặt hàng nhưng không tạo ra sản phẩm có hình thái độc lập mới [41]. Trong Từ điển thuật ngữ kinh tế, d ịch vụ là những dạng hoạt động, công việc, mà trong quá trình thực hiện chúng không tạo ra sản phẩm vật chất có hình thái vật thể mới, nhưng làm cho sản phẩm hiện có đã được tạo ra thay đổi về chất. Đó là của cải được cung cấp không phải dưới hình thái hiện vật, mà là dưới hình thái hoạt động [42]. Từ những quan điểm trên, có thể thấy điểm chung trong các quan niệm về dịch vụ là đều coi dịch vụ là kết quả có ích của một dạng lao động đặc thù. Kết quả đó được biểu hiện ra dưới hình thái phi vật thể hay vô hình. Trong tác phẩm “Các học thuyết về giá trị thặng dư”, C. Mác cũng đã sử dụng thuật ngữ
  7. 7 “sự phục vụ” để thể hiện khái niệm dịch vụ. Theo đó , có thể hiểu dịch vụ là những hiệu quả có ích của những lao động cụ thể tồn tại dưới hình thái sản phẩm vô hình [19, tr.204 - 219, 573 - 591]. Như vậy, dịch vụ là loại hình sản phẩm đặc thù của lao động, là hiệu quả có ích của lao động cụ thể, tồn tại dưới hình thái phi vật thể. Những đặc điểm chủ yếu của dịch vụ so với các sản phẩm lao động hữu hình bao gồm: Thứ nhất, dịch vụ là sản phẩm vô hình. Sản phẩm hữu hình có thể dễ dàng định lượng và tiêu chuẩn hóa. Còn kết quả của hoạt động dịch vụ, mặc dù có thể cảm nhận, đánh giá, nhưng rất khó lượng hoá vì không tách riêng ra dưới hình thái hiện vật được. Phần lớn công việc của những người làm d ịch vụ thường biến đi ngay khi làm xong, rất ít khi để lại một dấu vết hay một giá trị nào đó để sau này có thể cho ta nhận được một số lượng dịch vụ ngang như thế. Kết quả một số dịch vụ nhất định có thể tồn tại như một giá trị sử dụng có hình thái độc lập tách khỏi người sản xuất và người tiêu dùng, có thể duy trì sự tồn tại, lưu thông trong một khoảng thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng như những tác phẩm nghệ thuật, Nhưng, thực ra, giá trị sử dụng của chúng không phải là bản thân yếu tố vật chất của sản phẩm tồn tại độc lập đó, mà là “cái hồn” của những tác phẩm đó, thể hiện ở cái đẹp, cái hay m à từng người tiêu dùng cảm thụ được. Cũng có những dịch vụ phải có sản phẩm vật chất kèm theo, làm trung gian, như dịch vụ cung ứng bữa ăn trên máy bay hay trên xe lửa, hoặc là dịch vụ cho thuê nhà.... nhưng bản thân dịch vụ đó vẫn là vô hình. Thứ hai, phần lớn dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời, nên dịch vụ không thể tích luỹ, để dành. Sản phẩm hiệu vật có thể tách rời sản xuất với tiêu dùng, có thể tích trữ trong kho, nhưng d ịch vụ thì thường sản xuất đến đâu tiêu dùng đến đấy, không tiêu dùng sẽ bỏ phí vì dịch vụ không thể tích trữ, để dành. Ví dụ, khi xe chở khách, người lái xe tạo ra sự di chuyển đến đâu thì hành khách hưởng thụ đến đó. Nếu xe có 4 chỗ mà chỉ có một người ngồi thì ba chỗ còn lại sẽ bị bỏ phí, không thể để dành cho lần sau được.
  8. 8 Thứ ba, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự tiếp xúc trực tiếp hay sự tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và người được thụ hưởng dịch vụ. Sản phẩm hiện vật có thể đánh giá thông qua các tiêu chuẩn cụ thể về chất lượng mà không cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Còn chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự giao tiếp, thái độ và năng lực đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, đem lại sự hài lòng và thiện cảm của khách hàng đối với người phục vụ. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình dịch vụ cũng trở thành hàng hoá. Bên cạnh những hàng hoá hiện vật, trên thị trường còn có những hàng hóa vô hình hay dịch vụ, như dịch vụ của bác sĩ, giáo viên, luật sư, v.v. Giá trị sử dụng của dịch vụ là cũng đáp ứng một nhu cầu nào đó của người mua. Để tạo ra dịch vụ cũng cần tới những chi phí lao động nhất định. Những người làm dịch vụ cũng cần nhận được thu nhập bằng tiền từ hoạt động dịch vụ của mình, đồng những người được thụ hưởng dịch vụ cũng phải chi tiền đ ể được hưởng thụ những dịch vụ đó . Việc mua những dịch vụ hoàn toàn không khác gì c hi tiền mua bất cứ loại hàng hóa nào khác, vì v ậy, dịch vụ c ũng có giá trị trao đổi. Căn cứ chủ yếu để xác định giá cả thị tr ường của d ịch vụ là chi phí sản xuất ra chúng. Khi lực lượng sản xuất còn chưa phát triển, các sản phẩm mang hình thái vật thể như nông sản, sản phẩm của các ngành công nghiệp… có vai trò nền tảng trực tiếp của đời sống xã hội, vì vậy việc sản xuất ra chúng là quan tâm hàng đầu của xã hội. Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, số lượng và chủng loại các sản phẩm phi vật thể tăng dần, có vai trò không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân ngày càng tăng của xã hội, mà còn có tác động ngày càng lớn tới các ngành sản xuất sản phẩm vật thể. Vì vậy, tốc độ phát triển của các hoạt động dịch vụ có xu hướng tỷ lệ thuận với trình độ phát triển của sản xuất xã hội, các ngành dịch vụ cũng được hình thành và mở rộng không ngừng dưới tác động của phân công lao động xã hội.
  9. 9 Ngày nay có nhiều cách phân loại dịch vụ. Theo nguồn gốc hình thành sản phẩm dịch vụ được phân loại theo ngành, lĩnh vực như dịch vụ giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, y tế, giáo dục, du lịch, tài chính ngân hàng, quản lý nhà nước …. Theo tính chất kinh tế - xã hội của dịch vụ trong nền kinh tế thị trường có thể phân biệt dịch vụ có tính chất thị trường và d ịch vụ có tính chất phi thị trường. Dịch vụ có tính chất phi thị trường là các d ịch vụ được cung cấp miễn phí hoặc với giá cả thấp ở mức không bù đắp được những chi phí tạo ra chúng. Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tác động lẫn nhau chặt chẽ; dịch vụ là một điều kiện để phát triển sản xuất, kinh doanh. Sự phát triển dịch vụ hợp lí, có chất lượng cao là một biểu hiện của nền kinh tế phát triển và một xã hội văn minh. Do ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn nên hoạt động dịch vụ trở thành lĩnh vực kinh tế quan trọng, có vị trí lớn trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia phát triển. Ví dụ, ở EU (2006) dịch vụ chiếm 70,6 % GDP; Xingapo (2007)- 68,8%; ở Hồng Kông (2007) - 91,7%; Mỹ (2007) - 79%, Nhật Bản (2007) - 72% [43]. D ịch vụ là những hoạt động cần thiết, tất yếu đ ược nẩy sinh từ yêu c ầu của các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý x ã hội và nhu c ầu đời sống của con người. Dịch vụ sản xuất ra các điều kiện nhằm phục vụ các ho ạt động x ã hội và đ ời sống con người. Các sản phẩm của dịch vụ cũng l à nh ững hàng hoá được mua bán trao đổi trên thị trường. Dịch vụ vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của quá trình ho ạt động sản xuất kinh doanh. X ã hội phát triển càng cao thì lĩnh vực sản xuất dịch vụ có xu hướng phát triển ng ày càng tăng. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhất là nền kinh tế tri thức, trong GDP v à cơ c ấu lao động x ã hội, c ơ cấu kinh tế quốc d ân, d ịch vụ là m ột bộ phận hàng hóa vô hình ngày càng chi ếm tỷ trọng c ao. D ịch vụ là nguồn của cải vô tận, làm cho dân giàu, nư ớc mạnh, x ã hội c ông b ằng, dân c hủ, văn minh.
  10. 10 1.1.1.2. Khái niệm và loại hình dịch vụ bưu chính, viễn thông Khái niệm về dịch vụ bưu chính viễn thông D ịch vụ bưu chính viễn thông bao gồm các dịch vụ bưu chính và dịch vụ viễn thông. Bưu chính là bộ phận ngành bưu điện phụ trách việc chuyển thư từ, báo chí, tiền bạc, bưu kiện. Dịch vụ bưu chính ban đ ầu là dịch vụ tải nội dung thông tin thông qua các phương tiện như bì thư, ấn phẩm. Theo sự phát triển của ngành bưu chính, dịch vụ bưu chính ngày càng được mở rộng ra bao gồm cả các dịch vụ chuyển bưu phẩm, bưu kiện hàng hoá thông qua các phương tiện vận chuyển bằng sức người, động vật và máy móc khác… Viễn thông là nói về sự liên lạc với những nơi rất xa. Viễn thông (trong các ngôn ngữ Châu Âu xuất phát từ tele của tiếng Hy Lạp có nghĩa là xa và communicare của tiếng La tinh có nghĩa là thông báo) miêu tả một cách tổng quát tất cả các hình thức trao đổi thông tin qua một khoảng cách nhất định mà không phải chuyên chở những thông tin này đi một cách cụ thể (thí dụ như thư). Các tín hiệu nhìn thấy được đã được sử dụng trong thế kỷ 18 như hệ thống biểu hiện các chữ cái bằng cách đặt tay hay 2 lá cờ theo một vị trí nhất định (semaphore), hay máy quang báo (heliograph) là một dụng cụ truyền tin bằng cách phản chiếu ánh sáng mặt trời. Theo nghĩa hẹp hơn, ngày nay viễn thông được hiểu như là cách thức trao đổi dữ liệu thông qua kỹ thuật điện, điện tử và các công nghệ hiện đại khác. Các d ịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và đ iện thoại. Ngày nay các thiết bị viễn thông là một thành phần cơ bản của hệ thống hạ tầng. Theo quy đ ịnh tại Điều 37 - Nghị định số 109/CP, dịch vụ viễn thông được hiểu là dịch vụ truyền đưa, lưu trữ và cung cấp thông tin bằng hình thức truyền dẫn, phát, thu những ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng lưới viễn thông công cộng do doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông cung cấp.
  11. 11 Từ những trình bày ở trên có thể khẳng định, dịch vụ bưu chính viễn thông là kết quả tất yếu được nẩy sinh từ yêu cầu sản xuất ra các phương thức, phương tiện truyền tải thông tin nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý x ã hội và nhu cầu đời sống con người. Quá trình truyền tải thông tin không những thường gắn liền với quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hoặc giữa các quá trình đó với nhau. Nó đ ược xác định bằng đại lượng thời gian, không gian truyền tin. Quá trình truyền tải thông tin ban đầu được thực hiện thông qua dịch vụ b ưu chính, nhưng dưới tác động của nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, dịch vụ viễn thông đã được hình thành và phát triển nhanh với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Dịch vụ bưu chính viễn thông thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể cung cấp và thụ hưởng dịch vụ truyền tải thông tin thông qua hoạt động của ngành bưu chính và viễn thông. Các loại h ình d ịch vụ bưu chính viễn thông Thứ nhất, d ịch vụ bưu chính: Dịch vụ bưu chính bao gồm các dịch vụ bưu chính cơ bản, dịch vụ bưu chính cộng thêm, dịch vụ bưu chính công ích: D ịch vụ bưu chính cơ bản được thực hiện bằng việc nhận gửi, chuyển, phát bưu phẩm, bưu kiện thông qua mạng b ưu chính công cộng, mạng chuyên dùng và mạng chuyển phát. Bưu phẩm bao gồm thư (trừ thư do doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư thực hiện) bưu thiếp, gói nhỏ, gói án phẩm, học phẩm dùng cho người mù được gửi qua mạng bưu chính công cộng. Bưu kiện bao gồm vật phẩm hàng hoá được đóng góoics khối lượng không quá năm mươi kilôgam (50 kg) được gửi qua mạng bưu chính công cộng. D ịch vụ bưu chính cộng thêm là dịch vụ được cung cấp thêm vào d ịch vụ bưu chính cơ bản để đáp ứng yêu cầu cao hơn về chất lượng của người sử dụng. Cơ quan quản lý nhà nước về bưu chính viễn thông quy định và công bố danh mục cụ thể các dịch vụ bưu chính quy định tại điều này. D ịch vụ bưu chính công ích bao gồm dịch vụ bưu chính phổ cập, dịch vụ dịch vụ bưu chính bắt buộc. Dịch vụ bưu chính công ích được cung cấp
  12. 12 đến mọi người dân theo các điều kiện về khối lượng, chất lượng và giá cước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Dịch vụ bưu chính bắt buộc là dịch vụ b ưu chính được cung cấp theo yêu cầu của Nhà nước nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Căn cứ vào yêu cầu của Nhà nước, tình hình phát triển kinh tế - x ã hội và bưu chính trong từng thời kỳ, cơ quan quản lý nhà nước về bưu chính viễn thông quy định cụ thể việc cung cấp dịch vụ bưu chính công ích. Nhà nước có chính sách hỗ trợ việc cung cấp dịch vụ bưu chính công ích thông qua dịch vụ bưu chính dành riêng và các cơ chế hỗ trợ tài chính khác. D ịch vụ chuyển phát thư là dịch vụ nhận gửi, chuyển, phát thông tin dưới dạng văn bản được đóng gói, dán kín, có khối lượng đơn chiếc không quá hai kilôgam (02 kg) và gửi tới một địa chỉ cụ thể thông qua mạng bưu chính hoặc mạng chuyển phát. Các loại hình dịch vụ bưu chính ngày nay được thược hiện thông qua ho ạt động của các mạng bưu chính như mạng bưu chính công cộng, mạng bưu chính chuyên dùng của các cơ quan Đ ảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, mạng chuyển phát. Mạng bưu chính công cộng đ ược xây dựng, quản lý và phát triển theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Mạng bưu chính công cộng bao gồm các trung tâm đầu mối, bưu cục, điểm phục vụ, thùng thư công cộng được kết nối với nhau bằng các tuyến đường thư. Các bưu cục, điểm phục vụ, thùng thư công cộng được ưu tiên đặt tại các nhà ga, bến xe, cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu, khu dân cư và các địa điểm công cộng khác để phục vụ nhu cầu của người sử dụng. Các công trình thuộc mạng bưu chính công cộng là một bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng phải có trong quy hoạch, thiết kế tổng thể xây dựng các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mới và các công trình công cộng khác để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong đ ầu tư xây dựng và thuận tiện cho việc cung cấp, sử dụng dịch vụ.
  13. 13 Mạng bưu chính chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân được thiết lập để phục vụ nhu cầu thông tin của các cơ quan, tổ chức đó. Tổ chức và hoạt động của mạng b ưu chính chuyên dùng do Chính phủ quy định. Mạng chuyển phát do doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế xây dựng và quản lý để cung cấp dịch vụ chuyển phát thư theo quy định của pháp luật về bưu chính viễn thông và các quy đ ịnh khác của pháp luật về vận chuyển hàng hóa. Thứ hai, dịch vụ viễn thông: Các dịch vụ viễn thông được phân loại theo nghiệp vụ đi liền với các thiết bị đầu cuối như d ịch vụ thoại, dịch vụ fax, dịch vụ điện báo, dịch vụ truyền số liệu, dịch vụ di động, dịch vụ nhắn tin, dịch vụ internet v.v. Các dịch vụ viễn thông được chia làm hai nhóm, đó là: Một là, nh ững dịch vụ viễn thông cơ bản: D ịch vụ viễn thông cơ bản là dịch vụ truyền đưa tức thời dịch vụ viễn thông qua mạng viễn thông hoặc Internet mà không làm thay đổi loại hình hoặc nội dung thông tin. Dịch vụ viễn thông cơ bản gồm: Dịch vụ điện thoại; Dịch vụ điện báo; Dịch vụ Telex; D ịch vụ Fax; Dịch vụ thuê kênh riêng; Dịch vụ truyền số liệu; Dịch vụ truyền hình, truyền ảnh, âm thanh; Dịch vụ truyền báo điện tử; Dịch vụ điện thoại di động; Dịch vụ nhắn tin. Hai là, nh ững dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng: Dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng là d ịch vụ làm tăng thêm giá trị thông tin của người sử dụng dịch vụ bằng cách hoàn thiện loại hình, nội dung thông tin hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng mạng viễn thông hoặc Internet. Dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng gồm: Dịch vụ thư điện tử; Dịch vụ hộp thư thoại; Dịch vụ lưu trữ, cung cấp thông tin; Các dịch vụ Internet: thư tín điện tử, truyền tệp dữ liệu, truy nhập từ xa, truy nhập các cơ sở dữ liệu theo các phương thức khác nhau. D ịch vụ kết nối Internet là d ịch vụ cung cấp cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với
  14. 14 Internet quốc tế. Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả năng truy nhập Internet. Dịch vụ ứng dụng Internet trong bưu chính viễn thông là dịch vụ sử dụng Internet để cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông cho người sử dụng. D ịch vụ ứng dụng Internet trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác phải tuân theo các quy định pháp luật về bưu chính viễn thông và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc phân loại các loại hình dịch vụ viễn thông như đã nêu ở trên chỉ nhằm mục đích gắn kết việc quản lý dịch vụ với quản lý về kỹ thuật và nghiệp vụ đối với từng loại dịch vụ đó. Trong điều kiện hội tụ công nghệ và dịch vụ viễn thông như hiện nay cùng với việc xuất hiện của các công nghệ đa phương tiện (multimedia) thì cách phân loại nói trên đã trở nên không còn phù hợp nữa. Đặc biệt là cũng không phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường viễn thông trong thời gian sắp tới của đất nước, khi mà sẽ có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường cung cấp dịch vụ viễn thông, sẽ dẫn đến việc không phân định rõ doanh nghiệp loại nào thì đ ược cung cấp dịch vụ gì, mức độ mở cửa đến đâu nên cơ quan quản lý sẽ phải quy định một cách cứng nhắc bằng từng giấy phép cụ thể đối với từng loại dịch vụ cho từng doanh nghiệp, dẫn đến việc không rõ ràng hay không minh bạch trong quản lý, thậm chí có thể dẫn đến tình trạng có những hiểu lầm đáng tiếc từ phía xã hội về việc vẫn tồn tại hay còn mang nặng tính chất độc quyền trong cung cấp các dịch vụ viễn thông. Để khắc phục những vướng mắc này, thì việc xác định khái niệm và phân lo ại dịch vụ viễn thông là hết sức quan trọng. 1.1.2. Đặc điểm dịch vụ bưu chính viễn thông D ịch vụ bưu chính viễn thông có những đặc điểm cơ b ản của dịch vụ nói chung nhưng đồng thời măng những sắc thái riêng, đặc thù gắn với hoạt động của ngành bưu chính viễn thông và nhu cầu của các chủ thể thụ hưởng dịch vụ bưu chính viễn thông. Những đặc điểm đó bao gồm: sản phẩm dịch vụ không mang hình thái hiện vật, hay là sản phẩm vô hình; không chia tách được, thiếu ổn định và không thể dự trữ được.
  15. 15 1.1.2.1. Dịch vụ bưu chính viễn thông là sản phẩm vô hình H ầu hết các dịch vụ bưu chính viễn thông không thể sờ mó hoặc sử dụng trước khi mua, khách hàng khó có thể đánh giá được là họ đang mua gì trước khi mua. Sản phẩm dịch vụ bưu chính viễn thông khác với sản phẩm hàng hoá khác ở chỗ sản phẩm dịch vụ bưu chính viễn thông là loại sản phẩm hàng hoá đặc biệt, là dịch vụ truyền tải thông tin, không có tính vật thể. Không thể kiểm tra, trưng bày hoặc bao gói dịch vụ được. Khách hàng thường cảm thấy rủi ro hơn khi mua dịch vụ này so với các loại hàng hóa và dịch vụ khác và điều này cản trở trao đổi dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông vượt qua các hạn chế này để tạo ra lợi thế cạnh tranh thông qua các cửa hàng bán lẻ, hình ảnh tượng trưng và sử dụng các biểu tượng để thay thế hàng hóa vì b ản thân hàng hóa không thể nhìn thấy hoặc cầm nắm được. Các nhà cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông sẽ phải tạo ra các ý niệm hữu hình cho các dịch vụ của họ. Nói chung, khách hàng khó đánh giá giá trị của bất cứ dịch vụ nào. Khách hàng không thể hình dung các dịch vụ b ưu chính viễn thông họ sử dụng đ ược tạo ra như thế nào hay chi phí của dịch vụ là bao nhiêu. 1.1.2.2. Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ bưu chính viễn thông là không chia tách được Quy trình sản xuất của dịch vụ bưu chính viễn thông không được gián đo ạn, phải đảm bảo tính toàn trình, toàn mạng, không thể phân cắt. Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra cùng một lúc. Khi một khách hàng nhấc ống nghe liên lạc được với người cần gặp ở đầu máy bên kia là dịch vụ bắt đầu thực hiện được cuộc gọi, và anh ta b ắt đầu phải trả tiền. Hoặc khi bắt đầu gửi thư, gửi hàng hoá thì cũng bắt đầu thực hiện quá trình vận chuyển thư, hàng hoá, và người gửi cũng đ ã phải trả cước chuyển thư, chuyển hàng hoá bưu phẩm, bưu kiện trước đó. Nghĩa là song song với quá trình ho ạt động của cả hệ thống thông tin, hệ thống bưu chính là đồng thời với cả quá trình người
  16. 16 tiêu dùng dịch vụ bưu chính viễn thông, cũng đồng thời với quá trình tính tiền cước các cuộc gọi, cước vận chuyển hàng hoá, tiền tệ… bằng giá cả thời gian, trọng lượng và giá trị. Quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra cùng một lúc. Ngược lại, đối với dịch vụ bưu chính viễn thông, nếu không có tiêu dùng dịch vụ thì hệ thống dịch vụ cũng không hoạt động. Trên thực tế hệ thống dịch vụ bưu chính viễn thông ở từng công đoạn, từng thời gian hoạt động có sự gián đoạn, nhưng trong cả hệ thống dịch vụ thì luôn luôn hoạt động 24/24 giờ trong ngày. Vì vậy nếu khách hàng không sử dụng hết công suất phục vụ thì cũng xẩy ra sự lãng phí trong cả hệ thống. Đây cũng là bài toán kinh tế cho các địa phương, doanh nghiệp và chính phủ trong xây dựng qui hoạch phát triển, điều hành sử dụng mạng lưới làm sao cho hợp lý, hiệu quả. 1.1.2.3. Dịch vụ bưu chính viễn thông có tính không ổn định Đối với khách hàng, d ịch vụ và người cung cấp dịch vụ là một. Nhưng trên thực tế th ì chất lượng dịch vụ nhiều khi phụ thuộc vào các yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của nhà cung cấp dịch vụ, như đại diện của nhà cung cấp dịch vụ, môi trường cung cấp dịch vụ, khách hàng được cung cấp dịch vụ. Khi một khách hàng nhấc ống nghe mà anh ta chưa liên lạc được với người cần gặp ở đầu máy b ên kia thì anh ta không phải trả tiền, nhưng anh ta vẫn không hài lòng ngay cả khi biết rằng đây là trục trặc thường xẩy ra rất ít. ở dịch vụ bưu chính cũng vậy, việc mất mát, hư hỏng, chậm thời gian và các sự cố rủi ro là hạn hữu. Khách hàng của dịch vụ bưu chính viễn thông thường mong đ ợi sử dụng dịch vụ với chất lượng cao và luôn sẵn sàng bất cứ lúc nào họ cần. Vì vậy, các nhà cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông có thể giảm tính không ổ n định của dịch vụ bằng cách xây dựng thực hiện tốt tự động hoá các khâu trong cả hệ thống, thực hiện tiêu chuẩn hoá qui trình cung cấp dịch vụ, tăng cường đào tạo nhân viên và củng cố thương hiệu.
  17. 17 1.1.2.4. Dịch vụ bưu chính viễn thông không thể dự trữ được Sản phẩm vòng quay nhanh, bán và thu tiền nhanh, phạm vi rộng. Hệ thống cơ sở hạ tầng của dịch vụ đ ược dùng chung và thiết kế để có thể cung cấp một công suất nhất định tại bất cứ thời điểm nào. Giảm giá cuối tuần và ban đêm cho điện thoại đường dài và di động là biện pháp điều tiết nhu cầu sử dụng dịch vụ trên hệ thống theo thời gian nhằm tránh quá tải của hệ thống, tăng hiệu quả kinh tế của dịch vụ, tăng nhu cầu về dịch vụ. Những khoảng thời gian nào đó dịch vụ không bán được cũng có nghĩa là bị thất thu vĩnh viễn. Thất thu còn xẩy ra khi hệ thống bị quá tải, nghĩa là khi người ta thấy máy nào cũng bận thì họ có thể sẽ không thực hiện cuộc gọi đó nữa. Tóm lại, d ịch vụ bưu chính viễn thông là sản phẩm vô hình vì các dịch vụ không thể sờ mó hoặc sử dụng trước khi mua. D ịch vụ bưu chính viễn thông không chia tách được vì quá trình sản xuất và tiêu dùng của dịch vụ diễn ra cùng một lúc. Dịch vụ bưu chính viễn thông có tính không ổn định vì chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào các yếu tố nằm ngo ài sự kiểm soát của nhà cung cấp. Dịch vụ viễn thông không thể dự trữ, cất vào kho được, thời lượng dịch vụ không bán được cũng có nghĩa là b ị lãng phí. Những đặc điểm nêu trên có ảnh hưởng lớn tới hoạt động đầu tư vào ngành bưu chính viễn thông. 1.1.3. Vai trò của dịch vụ bưu chính viễn thông đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Thứ nhất, dịch vụ bưu chính viễn thông đáp ứng nhu cầu cần thiết về trao đổi, thu nhận thông tin giữa các chủ thể trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội và đời sống sinh hoạt của con người D ịch vụ bưu chính viễn thông là công cụ thông tin hiệu quả nhất, nhanh nhạy nhất với yêu cầu nhanh chóng, chính xác, an toàn, thuận tiện cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng, là yếu tố nhạy cảm có liên quan đến vấn đề chính trị xã hội, kinh tế, quân sự và an ninh quốc gia, là những công cụ quản lý quan trọng của
  18. 18 hệ thống chính trị. Các nước ở giai đoạn đầu phát triển đều coi bưu chính viễn thông là lĩnh vực độc quyền đạt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước. Thứ hai, dịch vụ bưu chính viễn thông là nhân tố đặc biệt quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Sản xuất ngày càng mang tính xã hội hoá cao, từ đó nhu cầu trao đổi, truyền tải, thu nhận thông tin của các chủ thể kinh tế càng lớn. Vì vậy sự phát triển của dịch vụ b ưu chính viễn thông có tác dụng thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng tiến bộ, nâng cao năng suất và hiệu quả trong nông nghiệp nông thôn, công nghiệp, các dịch vụ x ã hội như giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe…cải thiện chất lượng cuộc sống ở các khu vực đang phát triển, khuyến khích tính cộng đồng và tăng cường bản sắc văn hoá vùng sâu, vùng xa, những nơi khoảng cách xa, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Những vai trò cụ thể của dịch vụ bưu chính viễn thông đối với phát triển kinh tế - x ã hội được thể hiện trên các mặt: Một là, cung câp thông tin về giá N ếu không có dịch vụ b ưu chính viễn thông thì các hoạt động kinh tế, xã hội sẽ không thể hoạt động bình thường được. Bưu chính viễn thông đóng vai trò khâu nối của mọi hoạt động của con người và xã hội. Ngày nay, tátt cả các nước, các tổ chức quốc tế đều đặt lịnh vực bưu chính viễn thông ở vị trí ngang với các cơ sởhạ tầng thiết yếu khác của xã hội như điện, nước, giao thông vận tải, y tế, giáo dục... Dịch vụ bưu chính viễn thông là phương tiện, môi trường truyền tin quan trọng thuận lợi để thực hiện được việc sản xuất, trao đổi, tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ thuộc tất cả các ngành kinh tế khác. Các nhà sản xuất như nông dân và ngư dân và các nhà doanh nghiệp thông qua thông tin về giá có thể thực hiện so sánh giá cả ở các thị trường khác nhau, cho phép họ chọn được mức giá cao nhất cho sản phẩm của họ (như loại cây trồng hay cá đánh bắt được, như các loại sản phẩm công
  19. 19 nghiệp), hoặc chọn mức giá rẻ và hợp lý nhất khi mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, và vì vậy sẽ giảm sự phụ thuộc vào những người trung gian có thể điều chỉnh sản phẩm không có lợi cho họ. Hai là, giảm thời gian chết của máy móc Việc cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời giúp cho việc đặt mua các phụ tùng linh kiện thông qua hệ thống dịch vụ bưu chính viễn thông và liên hệ trực tiếp với các kỹ thuật viên sẽ giảm thời gian chết do sự cố hư hỏng của máy móc (như máy bơm, máy kéo, máy phát điện….) Ba là, giảm tồn kho Thông qua mạng thông tin của dịch vụ bưu chính viễn thông, các nhà sản xuất kinh doanh có thể chuyển giao những mặt hàng tồn kho cho nhà sản xuất kinh doanh khác trê nthị trường cần sử dụng, và tiến hành đặt mua các mặt hàng mà mình cần thay thế sử dụng. Bốn là, đưa sản phẩn ra thị trường đúng lúc Các nhà sản xuất kinh doanh thông qua mạng thông tin của dịch vụ bưu chính viễn thông, cùng kết hợp sắp xếp kế hoạch trao đổi sản phẩm cho nhau hay trao đổi, phân phối sản phẩm trên thị trường kịp thời sồígp phần làm giảm tỷ lệ hư hỏng hàng hoá, b ảo đảm được chất lượng sản phẩm (ví dụ như các mặt hàng như cá, hoa quả tươi…) Năm là, giảm chi phí vận chuyển D ịch vụ bưu chính viễn thông giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp và mọi người có đủ thông tin để thực hiện việc đi lại, hay tổ chức việc vận chuyển hàng hoá kịp thời, bảo đảm thời gian, góp phần làm giảm chi phí, tiết kiệm đáng kể chi phí về thời gian lao động trong đi lại, chuyển hàng hoá dịch vụ. Sáu là, tiết kiệm năng lượng D ịch vụ bưu chính viễn thông cung cấp thông tin kịp thời giúp các doanh nghiệp thực hiện tối đa hoá hiệu quả sử dụng máy móc. Từ đó làm giảm chi phí nhiên liệu. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải có thể
  20. 20 sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông trong điền hành, thực hiện công tác vận chuyển hợp lý để hành trình không bị lãng phí về thời gian từ đó có thể tiết kiệm tối đa nhiên liệu sử dụng. Bảy là, cho phép khai thác lợi thế của phi tập trung hóa Các dịch vụ bưu chính viễn thông giúp cho xã hội tiết kiệm thời gian, rút ngắn cự ly, nối liền khoảng cách. Tính sẵn có của dịch vụ bưu chính viễn thông có thể thu hút các ngành công nghiệp về các vùng nông thôn và cho phép phân tán các hoạt động kinh tế ra ngoài phạm vi các vùng thành thị lớn, góp phần giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi trường, nghẽn tắc giao thông và hàng loạt các vấn đề khác của đời sống xã hội. Dịch vụ bưu chính viễn thông góp phần vào tính công bằng thông qua việc cho phép những người có hoàn cảnh khó khăn bao gồm những người ở các vùng nông thôn xa xôi, hẻo lảnh, những người tàn tật và những người nghèo khổ được sử dụng các thông tin phúc lợi của xã hội mà bình thường thì rất khó hoặc không thể có được. Dịch vụ bưu chính viễn thông cũng đã đóng góp làm tăng tính hiệu quả ở các lĩnh vực khác, như lĩnh vực giáo dục bao gồm đ ào tạo từ xa, nơi mà việc giáo dục và giảng dạy không có điều kiện tập trung theo trường lớp, học viên có thể nghiên cứu theo tài liệu đã được gửi theo con đường bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, với lĩnh vực y tế từ xa, nơi mà thông tin về bệnh nhân và chữa trị cho bệnh nhân thông qua con đường điện tử, với máy móc hiện đại, sử dụng công nghệ viễn thông, thông tin, có thể trợ giúp các nhà chuyên môn về điều kiện chuẩn đoán và đề xuất phương pháp điều trị tốt nhất. 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG Có thể coi dịch vụ bưu chính viễn thông như một sản phẩm tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội, nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung; Nhưng sự phát triển của dịch vụ bưu chính viễn thông cũng luôn luôn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2