intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

186
lượt xem
68
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong hệ thống giáo dục và đào tạo, giáo dục ở mỗi cấp học, bậc học có một vai trò nhất định, trong đó giáo dục đại học là một khâu trọng yếu, đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, là động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, nhất là trong giai đoạn công nghiệp...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong hệ thống giáo dục và đào tạo, giáo dục ở mỗi cấp học, bậc học có một vai trò nhất định, trong đó giáo dục đại học là một khâu trọng yếu, đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, là động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phát triển giáo dục và đào tạo phải đi trước một bước so với phát triển kinh tế. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư quan trọng có hiệu quả và tác động nhiều mặt và dài hạn. Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng, bên cạnh sự đổi mới về các mặt như tổ chức, cán bộ, chương trình, phương pháp đào tạo, việc đảm bảo nguồn tài chính và xác lập cơ chế quản lý tài chính cho các trường đại học có vai trò cực kỳ quan trọng. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, đối với các trường công lập, nhất là các trường chuyên ngành đào tạo cán bộ cho lực lượng vũ trang, việc đa dạng hoá nguồn tài chính và đổi mới quản lý tài chính sao cho tiết kiệm, có hiệu quả có vai trò góp phần quyết định đến sự phát triển lâu dài của các trường. Tuy nhiên, huy động nguồn tài chính và quản lý tài chính cho giáo dục và đào tạo là một vấn đề khá phức tạp. Trước hết, trong giai đoạn đổi mới hiện nay, khi cơ chế quản lý chuyển từ nhà nước bao cấp hoàn toàn sang nhà nước chỉ chịu một phần chi phí, đầu ra và sản phẩm của hoạt động đào tạo đại học lại rất đa dạng. Hơn nữa, xét về mặt cấu trúc cơ chế quản lý tài chính cho các tr ường đào tạo công lập, cả về đa dạng hoá nguồn thu tài chính, cả về nâng cao quyền tự chủ trong quyết định chi tiêu đều không thể áp dụng một kiểu mô hình giống nhau ở tất cả các trường. Hiện nay, đối với các trường đào tạo ngành công an nhân dân nói chung và Tr ường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng, bên cạnh những đặc điểm chung của các trường đại học công lập, còn có những đặc điểm riêng do tính chất đặc thù của lực lượng vũ trang, mà nổi bật nhất đó là sự chỉ định về chỉ tiêu đào tạo và bao cấp về ngân sách còn là chủ yếu. Tuy vậy, cùng với xu thế phát triển chung của sự nghiệp đổi mới thì cơ chế
  3. quản lý, nguyên tắc hoạt động của Trường, trong đó có cơ chế, cũng đã, đang và có những thay đổi theo hướng đa dạng hoá các nguồn tài chính, cơ chế chủ động, tự chủ về tài chính tăng lên cho các trường. Việc nghiên cứu làm rõ nguyên tắc và quy trình quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp nói chung và đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói riêng, phân tích thực trạng việc quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, từ đó đề xuất các giải pháp đổi mới xây dựng được cơ chế quản lý tài chính của Trường theo hướng đa dạng hoá các nguồn thu, chủ động, tự chủ cao trong quản lý, sử dụng tài chính là nhu cầu rất cần thiết đối với thực tiễn hiện nay. Do vậy tôi chọn đề tài luận văn thạc sĩ là: “Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các vấn đề về chính sách giáo dục và đào tạo, trong đó có chính sách huy động và sử dụng các nguồn tài chính, cơ chế quản lý tài chính ở các trường đại học đã được nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài n ước. Hiện nay, vấn đề tự chủ trong đó có tự chủ tài chính trong giáo dục và đào tạo đang được các giới khoa học và quản lý quan tâm nghiên cứu giải quyết. Đối với Bộ Công an, vấn đề đổi mới giáo dục và đào tạo, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý tài chính cũng được đề cập đến trong đề án “Tăng cường, đổi mới giáo dục và đào tạo trong công an nhân dân giai đoạn 2006-2020”. Đề án có năm nội dung, trong đó nội dung thứ năm là tăng mức đầu tư kinh phí, đảm bảo cho công tác đào tạo trong ngành công an nhân dân. Tuy vậy những nội dung trong đề án mới được triển khai nghiên cứu ở dạng chủ trương, nhiều vấn đề thực tế đặt ra chưa có biện pháp cụ thể, các vấn đề rất cơ bản cũng chưa được tổng kết đánh giá và chưa có hướng tháo gỡ. Nghị định 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu nhằm giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp ra đời cách đây bốn năm nhưng hiện nay các trường công an nhân dân vẫn ch ưa được áp dụng, hiện tại chỉ có một số đơn vị thuộc các trường được gọi là các đơn vị sự nghiệp có thu được áp dụng nghị định này. Gần đây Chính phủ lại ban hành tiếp Nghị định 43/2006/NĐ-CP là hoàn toàn mới, chưa được triển khai áp dụng ở các trường của ngành công an nhân dân.
  4. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy hiện nay đang tồn tại song song hai hình thức quản lý tài chính đó là đơn vị sự nghiệp không có thu và đơn vị sự nghiệp có thu. Trên thực tế hiện nay, ngay trong quản lý tài chính sự nghiệp không có thu cũng đang tồn tại nhiều hình thức hạch toán khác nhau như hạch toán đào tạo liên kết, đào tạo mở rộng…nằm trong đơn vị sự nghiệp không có thu. Để làm rõ và phân định rõ ràng việc áp dụng lọai hình đơn vị sự nghiệp nào, nhất là theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ về tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, thì việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay” là cần thiết và cấp bách. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn có mục tiêu nghiên cứu làm rõ các vấn đề về quản lý tài chính của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trên hai hình thức quản lý: là đơn vị sự nghiệp không có thu và đơn vị sự nghiệp có thu. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính của Trường, đề tài luận chứng những giải pháp bảo đảm nguồn thu và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính theo hướng tự chủ của đơn vị sự nghiệp có thu. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy với tư cách vừa là đơn vị sự nghiệp có thu, vừa là đơn vị sự nghiệp không có thu. - Phân tích, đánh giá thực trạng việc quản lý tài chính của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy. - Luận chứng những giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy. Nó bao gồm hai hình thức quản lý, đó là đơn vị sự nghiệp có thu và đơn vị sự nghiệp không có thu. Quan hệ này gồm hai mảng rõ rệt: quan hệ giữa tài chính nhà nước với nhà trường và quan hệ quản lý tài chính trong nội bộ trường.
  5. Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung ở quan hệ quản lý tài chính của một đơn vị cụ thể, đó là Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, những vấn đề khác có liên quan chỉ nghiên cứu với hình thức bổ trợ làm rõ các quan hệ quản lý tài chính. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, các quan điểm đường lối về phát triển giáo dục, đào tạo, chính sách giáo dục, đầu tư cho giáo dục của Nhà nước. Đề tài này mang tính ứng dụng, triển khai cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đối với các ĐVSN, nên đề tài bám sát khung khổ pháp luật về tài chính của Nhà nước trong đó đặc biệt quan trọng là các quy định của Chính phủ về quản lý tài chính theo Nghị định 10/NĐ-CP và Nghị định 43/NĐ-CP. Trong các nội dung cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp phổ biến như tổng hợp và phân tích, lôgic và lịch sử. Trong phân tích đánh giá tài liệu thực tế, luận văn sử dụng phương pháp so sánh, thống kê kinh tế… 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận Một là, xác định việc tồn tại hai hình thức quản lý tài chính ở một đơn vị sự nghiệp, đặc biệt đó là đơn vị sự nghiệp là một cơ sở đào tạo trong ngành công an, điều này phù hợp với xu thế xã hội hoá giáo dục đào tạo, một đặc điểm riêng khác biệt với các trường đào tạo khác trong ngành công an. Hai là, các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính nhằm mục đích tăng nguồn thu, tăng tính tự chủ trong hoạt động quản lý tài chính, đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng về nguồn tài chính cho đào tạo ngay tại chính Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 11 tiết. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
  6. 1.1. ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 1.1.1. Khái niệm, phân loại đơn vị sự nghiệp công lập 1.1.1.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam Hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nước thực hiện nhằm cung cấp những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng lao động cho nhân dân, cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, duy trì, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học…Kết quả hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn đến sự phát triển xã hội và đất nước. Hoạt động sự nghiệp có một số đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng hoá, dịch vụ có tính chất của hàng hoá công cộng hoặc hàng hoá khuyến dụng. Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp. Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các ch ương trình phát triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước. Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và lâu dài. Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú như: Sự nghiệp theo từng lĩnh vực như sự nghiệp kinh tế; sự nghiệp văn hoá xã hội, sự nghiệp theo đặc điểm nguồn tài chính như hoạt động sự nghiệp có thu; sự nghiệp không có thu, sự nghiệp theo tính chất hoạt động hoặc theo ngành nghề như sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sự nghiệp y tế, khoa học, văn hoá… Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát triển văn hoá, truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đảng Công sản Việt Nam lần thứ X khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [17]. Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển giáo dục - đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung
  7. ương khoá 2 (khoá VIII) của đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước. Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khoa học xã hội của đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) của Đảng ta khẳng định “Sức khoẻ là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [15]. Hoạt động sự nghiệp có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này. Trong nền kinh tế - xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp cần có các tổ chức tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này được gọi là đơn vị sự nghiệp (ĐVSN). Tuy nhiên, theo ngôn ngữ quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN thường phải là các cơ quan của Nhà nước. “Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004 - 2005”, ban hành theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ xác định: ĐVSN là một loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao trên lĩnh vực quản lý, thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hoá, thông tin, nghiên cứu khoa học, y tế,… không theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh [23]. ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị này, theo góc độ của các nhà quản lý tài chính nhà nước, là chi tiêu một chiều, không thu hồi lại được vốn gốc, mặc dù trong nghiệp vụ quản lý tài chính các đơn vị này vẫn tính khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình hoạt động, các ĐVSN được Nhà nước trang trải kinh phí đáp ứng nhu cầu chi tiêu từ ngân sách nhà nước hoặc được bổ sung từ các nguồn khác. Hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Mục đích hoạt động của các ĐVSN là phục vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Trong quá trình cung cấp hàng hoá, dịch vụ công
  8. cho xã hội, các ĐVSN được phép tạo lập nguồn thu nhập nhất định thông qua các khoản thu phí và các khoản thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nước quy định để trang trải các khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những quy định pháp lý và quy định về quản lý tài chính của Nhà nước. Tuỳ theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của các ĐVSN, Nhà nước áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Phù hợp với xu hướng cải cách khu vực công trong bối cảnh chuyển đổi nền kinh tế thị trường và hội nhập, Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài chính nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội. ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ quan hành chính là những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành chính công cho người dân khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình. Đó là các dịch vụ an ninh, quốc phòng, quản lý hành chính nhà nước, bảo đảm pháp luật…Các dịch vụ hành chính công được cung cấp theo luật định, với chất lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và được chi trả trực tiếp bằng ngân sách nhà nước. Dịch vụ hành chính công là chức năng của cơ quan hành chính nhà nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân và chỉ có Nhà nước có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng đó. Nhà nước, với tư cách là một tổ chức công quyền, phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này cho nhân dân, còn người dân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình thức thuế để đảm bảo phần tài chính cho các dịch vụ này. Như vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính công không phản ánh quan hệ thị trường, mà phản ánh quan hệ nghĩa vụ của Nhà nước và phương tiện thực hiện nghĩa vụ do xã hội công dân cung cấp. Người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc không phải trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ đó, nhưng phải đóng thuế để chi trả cho chúng. Chính vì vậy cơ quan hành chính chỉ được tự chủ tài chính trong phần kinh phí ngân sách nhà nước bao cấp (cơ chế khoán chi), không được tự do mở rộng dịch vụ và nguồn thu. Dịch vụ và nguồn thu là cố định theo luật. Trong khi đó, khác với dịch vụ hành chính, dịch vụ của ĐVSN cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tư nhân và cung ứng theo nhu cầu nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép ĐVSN có thể hoạt động tự chủ tài chính.
  9. ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận bằng cách tự bù đắp chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt động theo các quy luật thị trường. ĐVSN không hoàn toàn theo cơ chế thị trường và không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mình. Các ĐVSN được xếp vào khu vực phi lợi nhuận. ĐVSN tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục vụ chính trị - xã hội, vừa mang tính hàng hoá đòi hỏi phải bù đắp chi phí. Với chức năng phục vụ xã hội, sản phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán được lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm của nó thuộc chức năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản phẩm này đều mang trong nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các ĐVSN phải thu lại từ ngân sách nhà nước và từ chi trả của người hưởng thụ. Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng tiền, mà thường được tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các ĐVSN thường khó khăn. 1.1.1.2. Phân loại các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSN. Thứ nhất, căn cứ vào cấp độ quản lý hành chính, ĐVSN được phân loại thành: - ĐVSN Trung ương là những ĐVSN gồm các lĩnh vực giáo dục công lập do Bộ Giáo dục – Đào tạo, các Bộ, ngành ở trung ương quản lý, các đơn vị sự nghiệp trong các lĩnh vực khác như y tế, văn hoá, thể dục - thể thao… - ĐVSN địa phương gồm các ĐVSN do chính quyền địa phương thành lập và quản lý. Thứ hai, căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể phân loại ĐVSN gồm: - ĐVSN giáo dục, đào tạo. - ĐVSN văn hoá, thông tin. - ĐVSN thể dục, thể thao - ĐVSN phát thanh, truyền hình
  10. - ĐVSN y tế - ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường. - ĐVSN kinh tế (quản lý sửa chữa đê điều, trạm trại…) - ĐVSN khác. Thứ ba, căn cứ nguồn thu thì ĐVSN được chia thành hai loại: - ĐVSN không có thu: là đơn vị được Nhà nước cấp toàn bộ kinh phí để đảm bảo hoạt động của đơn vị và kinh phí được cấp không hoàn lại trực tiếp. Tiêu biểu cho ĐVSN loại này là các học viện, trường học của ngành công an, quân đội. - ĐVSN có thu, loại này gồm hai nhóm như sau: + ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên: Là các đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm được toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên của đơn vị. + ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động thường xuyên: Là các đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp nhưng chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước phải cấp một phần chi phí cho hoạt động thường xuyên của đơn vị. 1.1.2. Đặc điểm quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là một đơn vị đặc biệt. Trường là cơ sở đào tạo chuyên ngành thuộc Bộ Công an thực hiện nhiệm vụ đào tạo theo chỉ tiêu phân bổ và được bảo đảm nguồn tài chính theo chế độ bao cấp. Mặt khác, Trường có quyền thực hiện một số dịch vụ đào tạo ngoài nhiệm vụ chỉ tiêu Nhà nước giao phục vụ nhu cầu xã hội. Do vậy, xét theo các tiêu chí phân loại ĐVSN, Trường áp dụng đồng thời song song hai loại hình quản lý, đó là: ĐVSN không có thu và ĐVSN có thu (tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên). 1.1.2.1. Đơn vị sự nghiệp không có thu Với bộ máy tổ chức hiện nay của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy gồm 12 đơn vị, trong đó 11 đơn vị là ĐVSN không có thu. Đó là: các bộ môn, phòng quản lý. Những đơn vị này thực hiện các chức năng của đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị này thực hiện nhiệm vụ được giao theo chỉ tiêu hàng năm theo kế hoạch, bên cạnh đó thực hiện những
  11. nhiệm vụ đột xuất cấp trên giao. Dưới góc độ quản lý tài chính thì những đơn vị này chủ yếu là hoạt động chi tiêu tài chính, đó là sự chi tiêu một chiều, không thu hồi được vốn và nguồn thu ở các đơn vị này chỉ có nguồn NSNN. Đối với những đơn vị này, mọi hoạt động tài chính đều do Phòng Hậu cần của Trường thực hiện, các đơn vị chỉ có nhiệm vụ phối hợp cùng với Phòng Hậu cần lập kế hoạch tài chính ( dự toán), sau đó các thủ tục đều do Phòng Hậu cần thực hiện. 1.1.2.2. Đơn vị sự nghiệp có thu Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy và Đào tạo lái xe là một trong 12 đơn vị trực thuộc của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy. Theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an số 559/2000/QĐ-BCA (X13) ngày 30 tháng 6 năm 2000 về chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Ứng dụng Khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy và Đào tạo lái xe, trong đó quy định nhiệm vụ của Trung tâm gồm: Một là: Nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật thuộc lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy và đào tạo, bồi dưỡng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy. Hai là: Tổ chức đào tạo lái xe cho lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy theo kế hoạch của Bộ Công an và đào tạo lái xe cho các đối tượng khác ngoài xã hội. Ba là: Phối hợp với các phòng, bộ môn của Trường tổ chức mở các lớp huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ phòng cháy, chữa cháy cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy bán chuyên nghiệp theo sự phân công của Hiệu trưởng Trường. Bốn là: Nghiên cứu thiết kế, lắp đặt, chuyển giao công nghệ, bảo hành, bảo trì các thiết bị phòng cháy, chữa cháy phục vụ công tác giảng dạy, học tập và phát triển kinh tế - xã hội. Về cơ chế tài chính, Trung tâm là một đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động. Trong quá trình hoạt động, Trung tâm được phép ký kết hợp đồng kinh tế theo các quy định của Nhà nước và của Bộ Công an. Như vậy, quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy phải tuân theo cơ chế song hành: đồng thời áp dụng cơ chế ĐVSN không có thu và cơ chế ĐVSN có thu ( tự đảm bảo toàn bộ kinh phí).
  12. 1.2. MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.2.1. Mục tiêu quản lý tài chính Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSN liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội của các hoạt động sự nghiệp, đến hiệu quả sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân. Nếu tài chính của các ĐVSN được quản lý, giám sát, kiểm tra tốt, sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính công, đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính của đất nước. Quản lý tài chính các ĐVSN còn cung cấp thông tin để Nhà nước có các biện pháp và chính sách phù hợp trong tái cơ cấu hoạt động cung cấp dịch vụ văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao…trong tương quan với sự cạnh tranh của khu vực tư nhân. Các mục tiêu quản lý tài chính ĐVSN bao gồm bốn mục tiêu cơ bản. Một là, làm cho ĐVSN hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đỏi hỏi ngày càng cao của xã hội về các hoạt động dịch vụ công. Hai là, tạo động lực khuyến khích các ĐVSN tích cực, chủ động tổ chức hoạt động hợp lý, xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động khoa học, nâng cao chất lượng công việc nhằm sử dụng kinh phí tiết kiệm. Ba là, nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng tài chính. Bốn là, tạo điều kiện để người lao động trong các ĐVSN phát huy khả năng, sáng kiến nâng cao chất lượng công tác, tăng thu nhập cho cá nhân và tập thể. Bốn mục tiêu trên có mối quan hệ gắn kết với nhau trong một hệ thống thống nhất. Tuy nhiên, mục tiêu ưu tiên hàng đầu là mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các ĐVSN. 1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp Các ĐVSN quản lý tài chính dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính nói chung và trong quản lý các ĐVSN nói riêng. Hiệu quả trong quản lý tài chính thể hiện ở sự so sánh giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội
  13. với chi phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này, khi tiến hành quản lý tài chính các ĐVSN, Nhà nước cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội và hiệu quả kinh tế. Mặc dù rất khó định lượng hiệu quả xã hội, song những lợi ích đem lại về xã hội luôn được đề cập, cân nhắc thận trọng trong quá trình quản lý tài chính công. Nhà nước phải cân đối giữa việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu trên cơ sở lợi ích của quốc gia, của cộng đồng, những mục tiêu chính trị quan trọng cần phải đạt được trong từng giai đoạn nhất định với định mức chi hợp lý. Hiệu quả kinh tế là tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền cân nhắc khi xem xét các phương án, dự án hoạt động sự nghiệp khác nhau. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu liên quan đến hoạt động sự nghiệp. Thứ hai, nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính ĐVSN bằng những văn bản luật pháp thống nhất trong cả nước. Thống nhất quản lý chính là việc tuân theo một khuôn khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, quyết toán, xử lý những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản lý thu, chi tài chính ở các ĐVSN. Nguyên tắc thống nhất vẫn phải bảo đảm độ đa dạng, mềm dẻo về thể chế để phát huy quyền tự chủ của các ĐVSN. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo tính công bằng, bình đẳng trong đối xử với các ĐVSN khác nhau, hạn chế những tiêu cực và rủi ro trong hoạt động tài chính, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản thu, chi. Thứ ba, nguyên tắc phân cấp: Là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính đối với các ĐVSN thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc phân cấp trong quản lý tài chính ĐVSN đảm bảo cho các nguồn lực tài chính của từng ĐVSN được quản lý tập trung trên cơ sở phát huy sáng kiến của các bộ phận. Trên giác độ toàn quốc, các nguồn tài chính công cũng phải được quản lý tập trung, đồng thời có phân cấp cho các cấp quản lý thống nhất hơn. Thứ tư, nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSN là tổ chức công nên việc quản lý tài chính các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu chung trong quản lý tài chính công, đó là công khai, minh bạch trong động viên, phân phối, sử dụng các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực tài chính. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính công, hạn chế
  14. những thất thoát và đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu của các ĐVSN, kết quả sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động của các ĐVSN. 1.2.3. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp Quản lý tài chính ở các ĐVSN được phân chia thành hai mảng rõ rệt: quản lý các nguồn thu và quản lý sử dụng. 1.2.3.1. Quản lý các phần thu Tài chính của các ĐVSN hình thành từ các nguồn sau: - Nguồn thu từ ngân sách nhà nước: đây là nguồn thu của các ĐVSN do ngân sách nhà nước cấp theo dự toán xác định cho những nhiệm vụ, chương trình mục tiêu đã được duyệt. Để có nguồn kinh phí ngân sách cấp, các đơn vị phải thực hiện tốt công tác lập kế hoạch, dự toán theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản đặc thù cho từng ngành, từng lĩnh vực, quy chế được duyệt của đơn vị. - Nguồn thu có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (được phép để lại đơn vị từ các nguồn thu này theo chế độ): các khoản thu từ quyên góp, quà tặng không phải nộp ngân sách nhà nước theo chế độ. - Nguồn thu do dân cư chi trả: là nguồn thu của các ĐVSN do người nhận dịch vụ đóng góp. Nguồn này gồm các khoản sau: + Các khoản phí: Phí thực chất là giá cả hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng phải trả cho người cung cấp khi được hưởng các hàng hoá, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra. Nói cách khác, đây là khoản tiền mà người tiêu dùng phải trả trực tiếp cho người cung cấp. Tùy tính chất và mục đích sử dụng của từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể mà Nhà nước quy định mức phí ĐVSN được phép thu. Phí thường được thu trong các lĩnh vực như: văn hoá - thông tin, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, giao thông - vận tải, nông nghiệp, hải quan … các loại phí này có tên gọi như học phí, viện phí, thuỷ lợi phí, lệ phí giao thông, cầu phà… + Các khoản thu sự nghiệp: Thông qua các hoạt động sự nghiệp, các đơn vị ứng dụng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ văn hoá, thông tin, khoa học, thể thao, y tế…tạo ra nguồn thu. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong các lĩnh vực sau : [14]
  15. i) Thu từ sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Thu từ hợp đồng giảng dạy chuyên môn khoa học kỹ thuật, thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng khoa học của các đơn vị tron g ngành giáo dục, đào tạo. ii) Thu từ sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình: Thu viện phí, dịch vụ khám chữa bệnh, thu từ bán các sản phẩm phòng, chữa bệnh như các loại vắc xin phòng bệnh… iii) Thu từ hoạt động sự nghiệp văn hoá - thông tin: Thu qua các dịch vụ quảng cáo, thu bán các sản phẩm văn hoá như bản tin, tạp chí, thu từ các hoạt động biểu diễn nghệ thuật. iv) Thu từ hoạt động sự nghiệp thể dục - thể thao: Thu tiền bán vé từ hoạt động thi đấu, biểu diễn, thu từ hợp đồng thuê sân bãi, dụng cụ, công trình thể dục thể thao… v) Thu từ sự nghiệp nghiên cứu khoa học: Thu từ bán các sản phẩm kết quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, dịch vụ khoa học, thu qua các hợp đồng nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. vi) Thu từ sự nghiệp kinh tế: Thu từ dịch vụ điều tra khảo sát, quy hoạch, dịch vụ kiến trúc, quy hoạch đô thị… Quản lý các nguồn thu của ĐVSN phải đáp ứng năm yêu cầu sau: - Các nguồn thu phải được đảm bảo tính quản lý toàn diện cả về hình thức, quy mô và các yếu tố quyết định số thu. Bởi vì tất cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh hưởng đến số thu đều quyết định số thu tài chính làm cơ sở cho mọi hoạt động của ĐVSN. Nếu không có tính toàn diện sẽ dẫn đến thất thoát nguồn thu, khoản thu làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài chính và cả đến hoạt động của ĐVSN. - Các nguồn thu phải đảm bảo tính công bằng xã hội, có nghĩa là những người có hoàn cảnh, mức thu nhập bằng nhau phải đóng góp như nhau. Đây là yếu tố thể hiện công bằng chung cho mọi hoạt động của Nhà nước. - Các nguồn thu phải đảm bảo yếu tố thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. ĐVSN không được tự ý đặt ra các khoản thu cũng như mức thu. - Các nguồn thu phải đảm bảo tính kế hoạch, thu đúng, thu đủ, tổ chức hợp lý quá trình thu.
  16. - Các ngu ồn thu phải đ ảm bảo tính thống nhất trong từng ĐVSN và toàn h ệ thống, đ iều đó là yêu cầu thích hợp với các đơn vị có nhiều n guồn thu. Quy trình quản lý thu thực hiện qua ba bước sau: Bước một, xây dựng dự toán thu phải dựa vào bốn căn cứ cơ bản : i) Nhiệm vụ chính trị, xã hội được giao cho đơn vị cũng như các chỉ tiêu cụ thể, từng mặt hoạt động do cơ quan có thẩm quyền thông báo. ii) Các văn bản pháp quy hiện hành do Nhà nước quy định. iii) Số kiểm tra do các cơ quan cấp trên thông báo. iv) Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu của các năm trước và triển vọng của các năm tiếp theo. Bước hai, thực hiện kế hoạch thu theo dự toán: Dự toán thu là căn cứ quan trọng trong tổ chức thực hiện thu. Trong quá trình thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối tượng, thu đủ và tuân thủ các quy định của Nhà nước để đảm bảo đủ nguồn thu. Bước ba, quyết toán các khoản thu: Đến cuối kỳ báo cáo hàng năm các đơn vị tổng hợp, đánh giá chấp hành dự toán thu đã được giao về kết quả thực hiện, vướng mắc tồn đọng, rút kinh nghiệm trong việc khai thác các nguồn thu, công tác xây dựng dự toán và tổ chức thu nộp trong thời gian tới, nộp báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên. 1.2.3.2. Quản lý quá trình sử dụng tài chính Các khoản chi của ĐVSN bao gồm các nội dung sau. - Chi cho các hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được cấp trên phê duyệt, cụ thể gồm: + Chi trả trực tiếp cho người lao động: Tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy định… + Chi hành chính trong đơn vị: Dịch vụ công cộng, điện thoại, công tác phí, thuê mướn, vật tư văn phòng … + Chi hoạt động nghiệp vụ. + Chi mua sắm tài sản, sửa chữa tài sản chống xuống cấp. + Chi khác: tiếp khách, mua bảo hiểm phương tiện, phí giao thông…
  17. - Chi thực hiện các đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, ngành, chi thực hiện đơn đặt hàng của Nhà nước, chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy định. - Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ của Nhà nước quy định. - Chi đầu tư phát triển: chi xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, chi sửa chữa lớn, chi thực hiện dự án đầu tư theo quy định. - Chi thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp trên giao cho. - Các khoản chi khác: đối với các đơn vị sự nghiệp có thu còn có chi cho hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, chi nộp thuế, khấu hao tài sản. Quản lý chi của ĐVSN phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau: - Đảm bảo đủ nguồn tài chính cần thiết để các ĐVSN hoàn thành các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. Để thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi các đơn vị cần xác lập được thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để bố trí kinh phí cho phù hợp. Đây chính là yêu cầu đảm bảo nguồn tài chính cho kế hoạch dự toán chi. - Quản lý công tác chi phải đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả: Tiết kiệm được xác định là nguyên tắc hàng đầu của quản lý tài chính. Nguồn lực luôn có giới hạn nhưng nhu cầu thường không có giới hạn. Do vậy đòi hỏi trong quá trình phân bổ lập kế hoạch chi phải tính toán sao cho chi phí là thấp nhất mà đạt được kết quả cao nhất. Đối với các hoạt động sự nghiệp, trong khi nguồn thu hạn hẹp, nhu cầu sử dụng kinh phí ngày một tăng nhanh, do vậy càng đòi hỏi tính tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng nguồn kinh phí có hạn. Để đạt được tiết kiệm và hiệu quả trong công tác chi thì yêu cầu phải xây dựng được kế hoạch, dự toán, xây dựng định mức, phân tích đánh giá tình hình thực tế để có biện pháp tăng cường quản lý chi trong các ĐVSN. - Chi đúng định mức, chế độ, tiêu chuẩn. Nội dung quản lý chi Trong thực tiễn, các ĐVSN có nhiều biện pháp quản lý chi khác nhau, nhưng chung nhất có một số biện pháp sau: - Xây dựng được các định mức chi chuẩn xác. Đây vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi sát, vừa là căn cứ để kiểm soát chi cho các ĐVSN. Như vậy, yêu cầu định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học, đảm bảo theo quy trình từ phân loại đối tượng;
  18. cách thức xây dựng phải là một quá trình chặt chẽ và có cơ sở khoa học. Các định mức chi phải đảm bảo quy định và đảm bảo phù hợp với tính đặc thù hoạt động của từng đơn vị. Các định mức xây dựng phải có tính thực tiễn cao, đó chính là phản ánh mức độ phù hợp của các định mức với nhu cầu kinh phí của các hoạt động. Chỉ khi định mức đạt được yêu cầu như vậy thì định mức mới trở thành chuẩn mực cho quản lý kinh phí. - Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các hoạt động để đảm bảo với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành với chất lượng cao. Để đạt được điều này phải có phương án phân phối và sử dụng kinh phí khác nhau. Trên cơ sở đó lựa chọn phương án tối ưu cho cả quá trình lập dự toán, phân bổ và sử dụng kinh phí. - Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền. - Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời qua công tác này phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính sách nhằm bổ sung hoàn thiện chúng. 1.2.3.3. Quy trình quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp Quy trình quản lý tài chính bao gồm 3 bước rõ rệt. - Lập dự toán chi: Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng trong quản lý chi ngân sách nhà nước, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của khâu chấp hành, kế toán và quyết toán chi ngân sách nhà nước. Khi lập dự toán phải dựa trên các căn cứ sau: + Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp trong từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự toán chi tài chính ở ĐVSN có cái nhìn tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ mà đơn vị phải hướng tới trong năm, từ đó xác lập được các hình thức, phương pháp phân phối nguồn vốn đảm bảo tiết kiệm và đạt hiệu quả cao. + Các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các chỉ tiêu có liên quan đến việc cấp phát kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch mà cấp trên giao cho các ĐVSN. Đây chính là việc cụ thể hoá các chủ trương của Nhà nước trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ này để xây dựng dự toán chi
  19. phải thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của các chỉ tiêu thuộc kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó có kiến nghị điều chỉnh lại các chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp. + Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên theo kỳ kế hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSN phải dựa vào cơ cấu thu ngân sách nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết lập mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi ngân sách nhà nước. + Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự toán. + Quá trình lập dự toán chi ngân sách nhà nước được tiến hành theo ba bước cơ bản sau: Bước một, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch để xác định các định mức chi tiêu tổng hợp dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho mỗi đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí. Bước này còn được gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài chính hoặc cơ quan chủ quản cho ĐVSN Bước hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí, các đơn vị dự toán tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán cấp trên hoặc cơ quan tài chính. Tuỳ theo mức độ phân cấp về tài chính, cơ quan tài chính ở mỗi cấp có nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự toán kinh phí các đơn vị trực thuộc để hình thành dự toán chi ngân sách trình cơ quan tài chính cấp trên thẩm duyệt. Bước ba, cần căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính thức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho mỗi đơn vị. - Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước: Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước là khâu thứ hai trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Trong quá trình sử dụng tài chính theo dự toán cần dựa trên ba căn cứ sau: + Định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là căn cứ mang tính quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước.
  20. + Khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu ngân sách nhà nước trong mỗi kỳ báo cáo. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước luôn bị giới hạn bởi khả năng huy động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường xuyên đã được ghi trong dự toán nhưng khi số thu không đảm bảo vẫn phải cắt giảm một phần nhu cầu chi tiêu. Đây là một trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong quá trình chấp hành dự toán. + Chế độ, chính sách chi ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là căn cứ mang tính pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, bởi lẽ tính hợp lý của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính sách, chế độ Nhà nước đang có hiệu lực thi hành. Để làm được điều đó các chính sách, chế độ phải phù hợp với thực tiễn. Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc tổ chức chấp hành dự toán chi, cần áp dụng các biện pháp đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm nh ư sau: Thứ nhất, xây dựng hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị thi hành. Việc xây dựng hướng dẫn phải dựa trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ, chính sách hiện hành. Thứ hai, đối với mỗi đơn vị, mỗi loại hình hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động cần tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp, trên cơ sở đó cần hướng dẫn trình tự cấp phát thống nhất trong suốt quá trình thực hiện. Thứ ba, hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho các đơn vị, sao cho sự hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí phải được hạch toán đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Trên cơ sở đó đảm bảo việc quyết toán kinh phí được nhanh, chính xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn mực cao cho các cơ quan thẩm quyền xét duyệt. Thứ tư, trong quá trình chấp hành dự toán chi, cơ quan tài chính cần xem xét khả năng đảm bảo tài chính cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm đảm bảo cân đối trong quá trình chấp hành dự toán.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2