intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Lễ hội chùa keo ở tỉnh nam định và thái bình

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

693
lượt xem
140
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là “tấm gương” phản chiếu khá trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội ra đời, tồn tại gắn với quá trình phát triển của nhiều tộc người nói chung và làng xã người Việt nói riêng, nó phản ánh nhiều giá trị trong đời sống kinh tế-xã hội, văn hóa của cộng đồng. Một trong những giá trị tiêu biểu của lễ hội các làng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Lễ hội chùa keo ở tỉnh nam định và thái bình

  1. LUẬN VĂN: Lễ hội chùa keo ở tỉnh nam định và thái bình
  2. Mở ĐầU 1.Tính cấp thiết của đề tài Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là “tấm gương” phản chiếu khá trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội ra đời, tồn tại gắn với quá trình phát triển của nhiều tộc người nói chung và làng xã người Việt nói riêng, nó phản ánh nhiều giá trị trong đời sống kinh tế-xã hội, văn hóa của cộng đồng. Một trong những giá trị tiêu biểu của lễ hội các làng xã người Việt là giá trị văn hoá và liên kết cộng đồng qua tôn giáo, tín ngưỡng. Chính giá trị ấy là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho lễ hội có sức sống lâu bền, tồn tại với lịch sử của các cộng đồng làng xã cho đến hôm nay. Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hoá, con người đang lo lắng quan tâm hơn đến tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng và tìm về nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại. Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh. Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt, cao cả- “chân thiện mỹ”, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể
  3. phô bày tất cả những gì là tinh tuý, đẹp đẽ nhất của mình qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Chúng ta đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc tiếp thu những thành tựu khoa học – kỹ thuật thế giới đang là cơ hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Nhưng một vấn đề đặt ra là muốn đa dạng văn hoá thì phải mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác để tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Tuy nhiên, khi giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác thì việc giữ gìn bản sắc văn hoá riêng độc đáo cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Trong Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VIII), đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản là: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” và “Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [17, tr.55]. Trong xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, Việt Nam cũng đang hoà nhập vào xu thế đó. Tuy nhiên, chúng ta gặp phải một thách thức không nhỏ, khi mà bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế ngày càng rộng rãi như hiện nay. Vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc như thế nào là việc làm cần thiết, có lẽ chúng ta không cần nhắc lại tác hại của việc đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Điều quan trọng là phải tìm được những giải pháp giữ gìn và phát huy những yếu tố tích cực của bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay. Công cuộc đổi mới đất nước hơn hai mươi năm qua ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. ở lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng có những biến đổi căn bản, trên cả phương diện nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của công tác tôn giáo. Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá tâm linh gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật truyền thống và cũng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng thành viên, niềm hạnh phúc cho từng gia đình.
  4. Hệ thống các lễ hội đều phản ánh những ước mong, hoài bão về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, sự trường tồn của cộng đồng, dân tộc, trở thành phong tục, tập quán của nhân dân ta.Thông qua sinh hoạt lễ hội, với các nghi lễ, trò chơi, diễn xướng... tính cộng đồng, dân tộc được thắt chặt hơn, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” được nhấn mạnh. Đặc biệt những lễ hội về những anh hùng có công lập làng, dựng nước, giữ nước, đồng thời với việc ghi nhớ công ơn tổ tiên, là sự nêu cao khí phách hào hùng của dân tộc, góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hiện nay hoạt động lễ hội đang diễn ra khá phổ biến ở khắp các địa phương trong cả nước. Đó là một hoạt động góp phần gìn giữ phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống. Tuy nhiên trước hiện thực xâm nhập của văn hoá phương Tây, với qúa trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước dân chủ hoá đời sống xã hội. Cùng với sự phân hoá giàu nghèo, cộng với trình độ dân trí của một bộ phận dân cư còn thấp, các mặt tiêu cực trong xã hội xuất hiện… đã dẫn đến việc các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có chiều hướng gia tăng, các hoạt động lễ hội cũng dễ bị lợi dụng để gây ra những tác động tiêu cực như: kích thích mê tín dị đoan, gây nên sự tốn kém, lãng phí về thời gian, tiền bạc, hao tốn sức lực và tính mạng của nhân dân… Mặt khác trong xã hội hiện nay đang tồn tại một số cá nhân lợi dụng niềm tin của một số người vào thần thánh, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã tìm mọi cách “kinh doanh” trên lĩnh vực tín ngưỡng nói chung và lễ hội nói riêng nhằm trục lợi cá nhân, gây mất ổn định xã hội… Đây là điều mà các cơ quan quản lý các ngành, các cấp cần phối hợp làm rõ để mọi người cùng hiểu và tránh xa những hiện tượng tiêu cực này. Tại hai tỉnh Nam Định và Thái Bình hàng năm có rất nhiều lễ hội được nhân dân tiến hành tổ chức. Tuy nhiên có một điều khá đặc biệt là ở hai bên bờ sông Hồng đều có công trình kiến trúc Phật giáo từ lâu đời (thời Lý) đó là 2 ngôi chùa mang tên CHùA KEO. Hàng năm ngoài các sinh hoạt tôn giáo thông thường, tại hai ngôi chùa trên đều tổ chức “Lễ hội chùa Keo” vào dịp rằm tháng 9 âm lịch. Thời gian và nội dung diễn ra lễ hội của chùa Keo xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định và chùa Keo tại xã Duy
  5. Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân địa phương . Chính vì vậy, nhận thức đúng đắn về lễ hội cổ truyền nói chung và lễ hội chùa Keo nói riêng để tìm ra những giá trị tích cực cần giữ gìn và phát huy, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực không phù hợp đang là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm góp phần lành mạnh hoá các hoạt động của lễ hội, hướng vào các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, xây dựng đất nước ta phát triển ngày càng bền vững. Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Lễ hội chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thỏi Bỡnh” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Tôn giáo học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm vừa qua các công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội được quan tâm nhiều hơn những năm trước đổi mới.Trên nhiều bình diện khác nhau như tôn giáo học, khoa học xã hội, văn hóa dân gian, dân tộc học, chính trị học, quản lý nhà nước... vấn đề lễ hội và tôn giáo tín ngưỡng được đề cập ở những mức độ khác nhau. Có thể chia thành các nhóm sau đây: 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội – tôn giáo, tín ngưỡng - Lễ hội cổ truyền của Viện Văn hóa Dân gian, Nhà xuất bản (Nxb) Khoa học Xã hội (1992). Công trình đề cập đến các vấn đề lễ hội đời sống tinh thần, môi trường tự nhiên xã hội liên quan đến hình thành lễ hội, lịch sử lễ hội, cơ cấu, phân loại, các biểu hiện và giá trị của hội làng của người Việt đồng bằng Bắc Bộ. - 60 lễ hội truyền thống ở Việt Nam. Nxb KHXH (1992). Đề cập đến 60 lễ hội truyền thống ở Việt Nam trong đó có đề cập đến lễ hội chùa Keo ở tỉnh Thái Bình. - Lễ cầu mùa của các dân tộc ở Việt Nam của các giả Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng, Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc (1993). Công trình đề cập đến lễ cầu mùa của người Kinh, các dân tộc vùng Việt Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, Trường Sơn-Tây Nguyên. - Từ điển Hội lễ Việt Nam của Bùi Thiết, Nxb Văn hóa-Thông tin (2000). Trong đó tác giả đã cố gắng sưu tầm, tập hợp, hệ thống, chỉnh lý và biên soạn tất cả hội lễ truyền thống
  6. đã từng diễn ra trên khắp lãnh thổ nước ta từ xưa đến nay, sắp xếp theo thứ tự A, B, C... tên riêng của từng hội lễ. - Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh của Lê Huy Trâm- Hoàng Anh Nhân, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội -2001. Các tác giả đã đưa quan điểm trong việc nhận thức và nghiên cứu lễ hội. Hai tác giả nhấn mạnh đến việc quan sát, tiếp cận Lễ hội trong sự tổng thể của nó, chứ không nên tách phần Lễ riêng và phần Hội riêng. - Đáng kể là công trình gần đây của GS.TS. Ngô Đức Thịnh “Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền" Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2007, là những chuyên luận đề cập đến các vấn đề “Tín ngưỡng dân gian” của người Việt, các dân tộc thiểu số với đa sắc diện ở các vùng của đất nước; đề cập đến “Đạo mẫu và Lên đồng” của người Việt, Tày, Chăm; đề cập đến “Lễ hội cổ truyền” với môi trường tự nhiên, xã hội, văn hóa, đến vai trò của “tín ngưỡng, môi trường nảy sinh, tích hợp baỏ tồn sinh hoạt văn hóa-nghệ thuật dân gian...” 2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về lễ hội - văn hoá, lịch sử - Văn hóa - lễ hội của các dân tộc ở Đông Nam á, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội (1992) của tập thể các giả do GS. Phan Hữu Dật chủ biên đề cập đến lễ hội các dân tộc ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Inđônêxia, Philippin, Singapor, Malayxia. - Lễ hội và danh nhân lịch sử Việt Nam của Hà Tiến Hùng, Nxb Văn hoá Thông tin (1997). - Lễ hội một nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng của Hồ Hoàng Hoa, Nxb KHXH (1998). - Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội của Nguyễn Quang Lê. H.2001. - Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam của Hoàng Lương. Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội – 2002) đã dành riêng một chương (Chương 2) bàn về “Khái niệm chung về lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc” để bàn về “Khái niệm chung” tác giả đã đưa khái niệm Lễ nói chung và đối với các dân tộc thiểu số miền Bắc nước ta nói riêng. - Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và các lễ hội về anh hùng của Lê Văn Kỳ, Nxb Khoa học xã hội.
  7. - Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch của Dương Văn Sáu, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội, Hà Nội 2004. Tác giả đã xây dựng mô hình, cơ cấu tổng thể về hệ thống lễ hội nói chung, đề cập đến những vấn đề chung nhất, đồng thời cụ thể hoá những biện pháp, cách thức tiến hành, triển khai các nội dung của từng công việc trong một lễ hội. - Lễ hội cổ truyền ở Nam Định của Hồ Đức Thọ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2003. Công trình đề cập đến quá trình hình thành và phát triển lễ hội ở Nam Định, nhấn mạnh nội dung của 40 hội làng điển hình trong đó có lễ hội chùa Keo và lịch lễ hội cổ truyền ở Nam Định hàng năm. - Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam của PGS.TS. Nguyễn Đức Lữ, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2005. Trong đó đề cập đến các tín ngưỡng dân gian như tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ thần thành hoàng, tín ngưỡng phồn thực... Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước trong những năm gần đây về lễ hội cổ truyền, tác giả luận văn chưa có điều kiện liệt kê tất cả những danh mục viết về lễ hội hiện đang có ở nhiều tác phẩm và bài viết khác. Mặt khác, tác giả luận văn cũng chưa có cơ hội được đọc hết các luận văn nghiên cứu về lễ hội cổ truyền của các tác giả Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau. Tác giả luận văn đã tiếp thu, kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả đi trước, kết hợp với những kiến thức do chính bản thân sưu tầm, tích luỹ chọn lọc trong quá trình học tập, công tác và khảo sát thực tế về lễ hội chùa Keo để nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm về lễ hội chùa Keo ở tỉnh Nam Định và Thái Bình. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * .Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu và tìm hiểu lễ hội diễn ra ở chùa Keo tỉnh Nam Định và tỉnh Thái Bình để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của lễ hội hiện nay ở nước ta. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau: Làm rõ khái niệm, quá trình hình thành và cách phân loại lễ hội ở Việt Nam; Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng, từ đó nêu lên đặc điểm, ảnh hưởng
  8. của lễ hội chùa Keo tại tỉnh Nam Định và Thái Bình; Đề xuất giải pháp bảo tồn phát huy giá trị của lễ hội gắn với tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đề tài lấy Lễ hội chùa Keo làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định và lễ hội chùa Keo tại xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình làm đối tượng nghiên cứu, trong đó chú trọng nội dung tôn giáo, tín ngưỡng trong lễ hội. * Phạm vi nghiên cứu: - Về thời gian: Luận văn tiếp cận nghiên cứu những giá trị lễ hội chùa Keo từ năm 1990 đến nay, trên cơ sở đó tìm ra các giá trị truyền thống trong quá khứ để khẳng định các giá trị vốn có của nó. - Về không gian: Luận văn lấy lễ hội của chùa Keo tại xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định và lễ hội chùa Keo tại xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình để khảo sát nghiên cứu. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn được dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo, tín ngưỡng về văn hóa để nghiên cứu các tài liệu và sự kiện thực tế, rút ra những kết luận chính xác, có cơ sở khoa học, đáp ứng những đòi hỏi của nội dung luận văn * Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nhiệm vụ khoa học của đề tài đặt ra, luận văn áp dụng các phương pháp sau: - Sử dụng phương pháp điền dã khảo sát thực tế tại xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định và xã Duy Nhất huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình để thu thập thông tin chính cho đề tài về lễ hội. - Phân tích tổng hợp và hệ thống hóa các tư liệu liên quan của các tài liệu tham khảo, dùng phương pháp so sánh, đối chiếu với các tài liệu điền dã thực địa, rút ra những kết luận của đề tài.
  9. - Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành như văn hoá học, văn học dân gian, văn sử địa, nghệ thuật học và nhiều phương pháp khoa học cần thiết khác phục vụ cho công trình nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Vận dụng cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và các phương pháp khoa học đã nêu trên, tiếp thu có bổ sung sáng tạo các tài liệu tra cứu, luận văn đã tiếp cận một cách toàn diện và tổng thể lễ hội chùa Keo tại hai tỉnh Thái Bình và Nam Định, từ đó có thể cung cấp nhiều tư liệu chính xác, cụ thể, tỷ mỷ và chi tiết cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, những người làm công tác văn hoá, tôn giáo quan tâm đến lĩnh vực này. Từ góc độ nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn tác giả luận văn bước đầu đưa ra những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đối với lễ hội chùa Keo ở hai tỉnh Thái Bình và Nam Định. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Thông qua nội dung của luận văn, người đọc sẽ tìm hiểu được một vài nét cơ bản về lễ hội ở Việt Nam hiện nay, qua đó sẽ nắm được thực trạng, đặc điểm và ảnh hưởng của lễ hội chùa Keo tại 2 tỉnh Nam Định và Thái Bình. Luận văn sẽ cung cấp các tư liệu tham khảo cùng một số giải pháp và kiến nghị giúp các nhà chuyên môn, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách, công tác văn hoá nói chung và trên địa bàn hai tỉnh Nam Định và Thái Bình nói riêng có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác chuyên môn, góp phần hoạch định chính sách quản lý phù hợp, nhằm bảo lưu, phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức, truyền thống của lễ hội chùa Keo. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  10. Chương 1 MộT Số VấN Đề Về Lễ HộI ở VIệT NAM 1.1. KHáI NIệM, QUá TRìNH HìNH THàNH Lễ HộI 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Các khái niệm cơ bản trình bày dưới đây gồm: Khái niệm về Lễ và Nghi lễ, khái niệm Hội và Lễ Hội.Trong quá trình tiếp cận các vấn đề Lễ hội những khái niệm trên là cần thiết giúp chúng ta nhận diện nội dung lễ hội một cách khoa học: * Khái niệm Lễ và Nghi lễ: Trong tiếng Hán -Việt, Lễ chính là những khuôn mẫu của người xưa đã quy định; các phép tắc buộc phải tôn trọng, tuân theo trong các mối quan hệ xã hội. Đó chính là rường mối, cơ tầng, nền tảng của mọi mối quan hệ giữa người với người trong bất kỳ một xã hội nào. Theo quan niệm của người xưa, lễ được coi là những phép tắc theo khuôn mẫu đã được hình thành và củng cố theo thời gian, được quy định một cách chặt chẽ từ “ quan - hôn- tang - tế” đến đi đứng, nói năng, cư xử hàng ngày của mọi người dân. Đây là những quy định, lễ nghi, phép tắc buộc mỗi con người phải tuân theo trong các mối quan hệ ứng xử của mình trong xã hội. Dưới thời phong kiến, các nhà Nho quan niệm rằng: Lễ nghĩa thiên chi tự. Theo họ, Lễ vốn là trật tự, là chữ đã định sẵn của Trời, cần phải có và không thể đảo ngược. Cuộc sống xã hội của con người cần có lễ để phân biệt, giữ gìn tôn ty trật tự trong mối quan hệ đa chiều luôn diễn ra trong đời sống xã hội. Lễ được coi là cơ sở của một xã hội có tổ chức và đã phát triển đến trình độ nào đó. Đối với mỗi người, lễ thể hiện sự tôn kính, thái độ ứng xử của con người đối với đồng loại. Lễ nhằm phòng ngừa những hành vi và tình cảm không chính đáng. Lễ không chỉ quy định chi tiết về thái độ, cử chỉ bên ngoài mà còn tạo điều kiện hình thành một trạng thái tinh thần tương ứng trong mỗi con người. Lễ cũng đồng thời trở thành phương tiện để tự sửa mình, điều chỉnh mình cho đúng mực, hoàn thiện hơn. Những biểu hiện của lễ bao giờ cũng tương xứng với tuổi tác, vị thế và vai trò, điều kiện của cá nhân nào đó trong các mối quan hệ gia đình và xã hội của con người đó.
  11. Trong chiều dài lịch sử phát triển, lễ còn được coi là “phong hoá” của quốc gia, dân tộc; là những biểu hiện trong thuần phong mỹ tục, những tập tục truyền thống, lối sống, nếp sống và tập quán sinh hoạt của một cộng đồng dân cư được hình thành và củng cố theo thời gian. Trong “Từ điển hội lễ Việt Nam” của Bùi Thiết, Nxb Văn hoá- Thông tin, Hà Nội 2000 thì Lễ được hiểu là các hoạt động đã đạt đến trình độ lễ nghi [48, tr.5]. Tác giả Lê Văn Kỳ, Viện Văn hoá dân gian cho rằng: Lễ trong lễ hội là một hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của dân làng đối với các thần linh, lực lượng siêu nhiên nói chung, với thần thành hoàng nói riêng. Đồng thời lễ cũng phản ánh những nguyện vọng ước mơ, chính đáng của con người trước cuộc sống đầy rẫy những khó khăn mà bản thân họ chưa có khả năng cải tạo [58, tr.67]. Tác giả Hoàng Lương trong công trình Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội -2002) đã dành riêng một chương (Chương 2) bàn về “Khái niệm chung về lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc” để bàn về “Khái niệm chung” tác giả đã đưa khái niệm Lễ nói chung và đối với các dân tộc thiểu số miền Bắc nước ta nói riêng. Tác giả kết luận: Đối với các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung và ở miền bắc nói riêng, lễ được thực hiện chủ yếu liên quan đến việc cầu mùa, "người an, vật thịnh". Có thể nói, Lễ là phần đạo, phần tâm linh của cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, nhu cầu tín ngưỡng của mọi thành viên trong cộng đồng” [38, tr.35]. Lễ hay nghi lễ trong thờ cúng là những nghi thức được con người tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó với mục đích cảm tạ, tôn vinh về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng siêu nhiên mà người ta thờ cúng. Dưới góc độ nào đó, lễ có thể được coi là “bức thông điệp” của hiện tại gửi quá khứ, là hoạt động biểu trưng của thế giới hiện thực gửi thế giới siêu hình.
  12. Nghi lễ là những sinh hoạt tinh thần của các cá nhân hay tập thể, là sinh hoạt của cả cộng đồng người trong đời sống tôn giáo – tín ngưỡng. Dương Văn Sáu trong cuốn “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” thì cho rằng nghi lễ là những ứng xử của các tầng lớp nhân dân dành cho thần, hướng về thần trong mối quan hệ “Người –Thần” vốn luôn tồn tại trong tâm thức và hành động của mọi người, mọi thời đại. Nghi lễ còn là hình thức, biện pháp tiến hành trong các hoạt động xã hội của con người nhằm đối ứng và tương thích với đối tượng thờ cúng, với vị thế xã hội, môi trường sống của những người tổ chức tiến hành hoạt động nghi lễ. Trong những hình thái như vậy, cần phải vượt ra ngoài những quan niệm thông tục coi lễ chỉ là lễ bái, cúng tế mà còn phải coi lễ, nghi lễ là rường mối kỷ cương, phép tắc, đạo lý, góp phần tôn vinh, củng cố và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của gia đình, xã hội [45, tr.27]. Như vậy với những cách định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu rằng Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự may mắn tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ cúng. * Khái niệm Hội: Trong tiếng Việt, Hội là danh từ để chỉ sự tập hợp một số cá nhân vào trong một tổ chức nào đó, tồn tại trong một không gian và thời gian cụ thể. Tác giả Bùi Thiết quan niệm: Hội là các hoạt động lễ nghi đã phát triển đến mức cao hơn, có các hoạt động văn hoá truyền thống [48, tr.5]. Lê Văn Kỳ, Viện Văn hóa dân gian cho rằng “hội là một sinh hoạt văn hoá dân dã phóng khoáng diễn ra trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng vui chơi với hàng loạt trò tục hấp dẫn do mình chủ động tham gia...” [58, tr.83]. Đôi khi Hội chỉ sự liên kết giữa các cá nhân, tổ chức có chung mục đích hoặc các mục đích gần giống nhau. Hội còn được coi là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người đến dự theo phong tục tập quán, hay phong trào, trào lưu ở một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển xã hội. Đặc điểm cơ bản, xuyên suốt của hội (trong lễ hội) là có sự tham gia của đông người và trong hội người ta được vui chơi thoải mái. Hội bao giờ cũng mang tính chất công cộng cả về tư
  13. cách tổ chức lẫn mục đích cần đạt được của những người tổ chức và tham dự. Đồng thời đây chính là dịp người ta tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí cho đông đảo người tham dự. Các hoạt động này được diễn ra thường niên theo phong tục tập quán truyền thống của các địa phương, vùng miền hoặc tổ chức vào các dịp đặc biệt trong năm để hướng tới, tôn vinh với mong muốn đạt được những mục tiêu, giá trị cụ thể nào đó trong đời sống văn hoá cộng đồng. Như vậy, trong hội lưu giữ một phần kho tàng di sản văn hoá đặc sắc của địa phương và dân tộc. Trong các hoạt động của hội còn có thể bao gồm các chương trình vui chơi giải trí hiện đại mang sắc thái thời gian, phản ánh và thể hiện trình độ phát triển của cộng đồng dân cư của một địa phương hay toàn xã hội ở vào thời điểm mà nó ra đời và tồn tại. Dương Văn Sáu cho rằng: Những hoạt động diễn ra trong Hội là một phần bộ mặt xã hội, là chiếc “phong vũ biểu”, tấm gương phản chiếu khách quan, trung thực đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của một địa phương, của đất nước ở thời điểm diễn ra các hoạt động đó. Các hoạt động diễn ra trong hội bao gồm các trò chơi dân gian, các hình thức diễn xướng dân gian do người dân trực tiếp tham gia, các hoạt động văn hoá nghệ thuật truyền thống và cả các hoạt động mang tính hiện đại [45, tr.31]. Tác giả Hoàng Lương khi bàn đến hội, đã đề cập đến yếu tố “đông người” và có địa điểm để “vui chơi” thoải mái; đến tính chất “công cộng”, đến “nhiều trò vui” “bách hí”, đến mọi người được “cộng cảm, cộng mệnh”, “phần đời” bên cạnh phần tâm linh của phần lễ… Tác giả cũng đề cập đến “mối quan hệ giữa lễ và hội” và cho rằng hội là hình thức biểu hiện của lễ, hội là hình thức, lễ là nội dung.Quan hệ đó bện chặt, khăng khít trong nhau và tương hỗ lẫn nhau, tồn tại trong sự thống nhất [38, tr.38]. Trong hội, có thể tìm thấy những biểu tượng điển hình của sự thể hiện tâm lý cộng đồng; những đặc trưng của văn hoá dân tộc; những quan niệm, cách ứng xử đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của các cá nhân và cả cộng đồng người. Những hoạt động diễn ra trong hội phải luôn phản ánh và thể hiện một phần lịch sử địa phương, đất nước. Từ những quan niệm trên có thể hiểu:
  14. Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế, văn hoá - xã hội của một cộng đồng dân cư nhất định; là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người dự theo phong tục truyền thống hoặc nhân những dịp đặc biệt. Những hoạt động diễn ra trong hội phản ánh điều kiện, khả năng và trình độ phát triển của địa phương, đất nước ở vào thời điểm diễn ra các sự kiện đó. * Khái niệm Lễ hội Trong những năm vừa qua đồng thời với việc nghiên cứu về Lễ hội thì các quan niệm về Lễ hội cũng được quan tâm nhất định. Tuy nhiên qua nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội thì việc bàn đến khái niệm lễ hội không nhiều. Lễ hội là một khái niệm được tiếp cận trên những góc độ khác nhau. Trong Từ điển tiếng Việt củaTrung tâm Từ điển học Vietlex, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển, 2008, tr.694 các tác giả Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa quan niệm lễ hội là: “cuộc vui chung có tổ chức, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống”. Bùi Thiết cho rằng: Hội lễ là cách gọi cô đọng nhằm để chỉ toàn bộ các hoạt động tinh thần và ứng xử, phản ánh những tập tục, vật hiến tế, lễ nghi dâng cúng, những hội hè đình đám của một cộng đồng làng xã nhất định [48, tr.5]. Các tác giả trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 2, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội 2002, tr. 674) đưa quan niệm: “Lễ hội là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kinh của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khă năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ “nhân khang, vật thịnh. Lễ hội là hoạt đông của một tập thể người liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo Do nhận thức, người xưa rất tin vào trời đất, sông núi, vì thế ở các làng xã ngoài miếu thờ thiên thần, thổ thần, thủy thần, sơn thần. Lễ hội cổ truyền đã phản ánh hiện tượng đó. Tôn giáo có ảnh hưởng đáng kể đối với lễ hội. Tôn giáo
  15. thông qua lễ hội làm phương tiện phô trương thanh thế, ngược lại lễ hội thông qua tôn giáo để thần linh hóa những gì trần tục. Theo thư tịch cổ, lễ hội của người Việt xuất hiện từ thời nhà Lý (thế kỷ 11), nhưng có người cho rằng lễ hội của dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với lịch sử của dân tộc, của đất nước biểu hiện qua trống đồng Đông Sơn, mà tiêu biểu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ - cái nôi của dân tộc Việt, đó là Hội mùa, Hội làng… ngày hội cố kết cộng đồng biểu trưng những giá trị của đời sống tâm linh, đời sống xã hội và văn hóa của cộng đồng. Có những lễ hội mang tính toàn quốc như Hội đền Hùng, Hội đền Kiếp Bạc”. Có thể thấy quan niệm về Lễ hội trên đây trong Từ điển Bách khoa Việt Nam là quan niệm tương đối toàn diện so với nhiều quan niệm khác về lễ hội ở nước ta, thể hiện được nhiều góc độ phản ánh các vấn đề lịch sử, nội dung và những biêủ hiện cụ thể của nó gắn với tộc người chủ thể - người Việt ở nước ta. Các tác giả Lê Huy Trâm-Hoàng Anh Nhân trong công trình Lễ tục, Lễ hội truyền thống xứ Thanh (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội -2001, tr 11 -15) đã đưa quan điểm trong việc nhận thức và nghiên cứu lễ hội. Hai tác giả nhấn mạnh đến việc quan sát, tiếp cận Lễ hội trong sự tổng thể của nó, chứ không nên tách phần Lễ riêng và phần Hội riêng; Cho đến nay, chúng ta dễ nhất trí với nhau: Lễ không phải chỉ là một hiện tượng đơn thuần, hoạt động độc lập tách biệt chỉ là lễ và hội. Đã có lúc ta coi đó là văn nghệ hoặc văn hóa thuần túy và xem xét lễ hội như là “hoạt động văn hóa”, tách phần hội như là tiết mục trò diễn văn nghệ, có khi tách phần ngôn từ để để chỉ xem xét phần văn học của trò diễn.Việc tách biệt ra từng phần để nghiên cứu là cần thiết song một khi diện mạo của lễ hội chưa được khảo tả kỹ càng, đầy đủ và trung thực thì các phần nghiên cứu tách biệt về trò diễn, về văn bản lời ca, về lễ hội đơn thuần…dễ sa vào phiến diện, đại khái và suy diễn, không giúp cho chúng ta khái quát được con đường hình thành và phát triển của lễ hội truyền thống, không cát nghĩa đúng đắn và đầy đủ bản sắc dân tộc trọng các lễ hội [54, tr.11-12]. Hai tác giả trên còn đưa ra quan niệm:
  16. Hội làng tập trung tất cả ý chí, tài năng của cả làng trong lễ và hội, là điểm sáng văn hóa làng nổi bật nhất. Tất cả các nhân tố cấu thành Hội làng biểu hiện thành Lễ và Hội, có nhân tố nổi lên, hiện rõ dễ thấy, có nhân tố chìm, ẩn tàng sau lễ hội; tất cả đều có lý do tồn tại trong một mối quan hệ sinh động, ràng buộc, không thể thiếu.Thiếu đi một nhân tố, sơ suất trong một trường hợp dễ dẫn đến sự lủng củng xích mích trong lễ hội [54, tr.12-13]. Lễ hội của người Kinh và nhiều dân tộc thiểu số từng gắn với các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo, với mùa Xuân… Khi nghiên cứu về Lễ hội Rija Nwgar của người Chăm, tác giả Ngô Văn Doanh quan niệm rằng: Lễ hội gắn với vòng đời người như cưới xin, một số nghi lễ tang ma như lễ nhập kút; một số lễ hội lớn tạ ơn thần linh được tổ chức lớn tại các đền tháp như lễ hội Katê; những lễ hội có nguồn gốc từ Hồi giáo của người Chăm Bani như tháng chay Ramưvan… Các lễ hội của người Chăm không chỉ phong phú , đa dạng mà còn có nguồn gốc từ những hệ thống tôn giáo và tín ngưỡng bản địa khác nhau. Có những lễ hội thuần túy chỉ là những lễ hội nông nhiệp nh ư lễ cầu mưa (Yôr-yang), lễ khai mương đắp đập (Pơh băng yang).., có những lễ hội ít nhiều có liên quan với Bàlamôn giáo như Băng Katê…Và có những lễ hội có nguồn gốc Hồi giáo như lễ hội háng tháy Ramưvan… [13, tr.5]. GS.TS. Phạm Đức Dương trong Lời giới thiệu cuốn Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam á của tác giả Trần Bình Minh (Viện Văn hóa-Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2000) cũng cho rằng: Những tín ngưỡng dân gian của đời sống tâm linh nằm trong thế giới ý niệm được khách thể hóa, hiện thực hóa. Vì thế, lễ hội ở các nước Đông Nam á đều có chung một cấu trúc ban đầu gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ là để con người giao tiếp với thần linh, để cầu xin thần linh thông qua những trung gian thiêng ( thầy cúng, lời khấn, múa, nhạc cụ, lễ vật…) với các nghi lễ: tế, rước. ở đây mỗi vật , mỗi hành động đều có tính biểu tượng. Mối quan hệ giao cảm giữa con người và thần linh quyện lẫn trong hương khói, trong không gian thiêng… đưa con người vào thế giới ảo- thế giới tâm linh... Phần hội là những
  17. trò chơi nhằm xây dựng quan hệ cộng cảm trong cộng đồng với sự tham gia của thần linh.Vì thế không khí của ngày hội bao giờ cũng rộn ràng, kích động con người với những trò diễn xướng và trò chơi…[39, tr.5]. Như vậy, qua các công trình trên đây, các tác giả khi bàn về khái niệm lễ hội của người Kinh, lễ hội các dân tộc thiểu số hay các nước Đông Nam á đều có những quan niệm tương đồng về Lễ và Hội, mối quan hệ của các nội dung trên trong tổng thể lễ hội. Tuy nhiên ở mỗi cộng đồng tộc người, mỗi vùng quê cụ thể các hoạt động lễ hội gắn với đời sống tâm linh- tôn giáo, tín ngưỡng đều có những biểu hiện cụ thể khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan đến kinh tế-xã hội, sự bảo tồn và tương quan mạnh yếu giữa các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại… Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của các tầng lớp nhân dân, diễn ra trong những chu kỳ về không gian và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu tr ưng về sự kiện nhân vật được thờ cúng. Những hoạt động này nhằm để tỏ rõ những ước vọng của con người, để vui chơi giải trí trong cộng đồng. Lễ hội là những hoạt động, những sinh hoạt văn hoá mà ở đó có sự gắn kết không thể tách rời của cả nội dung và hình thức của hai thành tố cơ bản là Lễ và Hội. Ngoài ra, trong hoạt động lễ hội còn bao gồm một số thành tố khác nh ư: hệ thống các tục hèm, các trò diễn dân gian, hoạt động hội chợ triển lãm và văn hoá ẩm thực. Các thành tố này luôn có trục trung tâm là định hướng phát triển. Các thành tố của lễ hội luôn vận hành quanh trục trung tâm đó để đạt được những mục tiêu nhất định, những mục tiêu này nhằm phục vụ lợi ích của cả cộng đồng, chứ không chỉ phục vụ lợi ích của riêng những người tổ chức hoạt động lễ hội. Từ tình hình trên đây chúng ta có thể nhận thấy một cách khái quát rằng: Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con ngưòi với thiên nhiên, thần thánh và con người trong xã hội. Khái niệm trên đã phản ánh bản chất và những nội dung của lễ hội truyền thống Việt Nam.Trước hết, lễ hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng, bởi vì đây là hoạt động văn
  18. hoá của tập thể, thuộc về tập thể, do tập thể tổ chức. Dù ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời gian nào lễ hội cũng phải do đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành. Chính họ là những người sáng tạo chân chính những giá trị bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Họ là chủ nhân, đồng thời là người đánh giá, thẩm nhận và hưởng thụ những thành quả sáng tạo văn hoá ấy. Không bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một nhóm người nào đó trong xã hội. Không có đông người tham dự, không thành hội! người ta nói: “đông như hội” chính là vậy. Lễ hội là một hoạt động tập thể do quần chúng nhân dân tiến hành, bất cứ lễ hội nào cũng gắn với các địa bàn dân cư cụ thể, là hoạt động văn hoá của một địa phương đó. Về cơ bản, lễ hội truyền thống Việt Nam là những “lễ hội làng" nhưng cũng có nhiều lễ hội do nội dung và tính chất của nó nên được diễn ra trong một không gian rộng lớn hơn, có tính liên làng, liên vùng. Những hoạt động lễ hội này diễn ra không thường xuyên mà chỉ ở một vài thời điểm nhất định vào mùa xuân hay mùa thu trong năm. Đây là thời điểm chuyển giao thời tiết, cũng là thời điểm chuyển giao mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp. Vào thời điểm này, người ta tổ chức hoạt động lễ hội nhằm các mục đích khác nhau. Trước hết, những hoạt động mang tính nghi lễ nhằm nhắc lại sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại đã diễn ra trong quá khứ. Đây chính là biểu hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, thể hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, thần thánh, con người, thông qua các hoạt động trong lễ hội. Đó là những ứng xử của tập thể, của cộng đồng cư dân với cả hai đối tượng: siêu hình (thần thánh) và hữu hình (con người). Nó cũng phản ánh mối quan hệ, giao thoa giữa siêu và thực, giữa con người với con người trong những hoàn cảnh và hoạt động cụ thể. 1.1.2. Nguồn gốc, quá trình hình thành lễ hội ở Việt Nam Thông thường, ở Việt Nam những lễ hội có từ trước năm 1945 được gọi bằng các tên gọi “lễ hội cổ truyền”, “lễ hội dân gian”, “lễ hội truyền thống”, “ lễ hội dân gian truyền thống"... Mặc dù có những tên gọi khác nhau nhưng theo các nhà nghiên cứu thì có thể chia lịch sử lễ hội cổ truyền (trước 1945) của người Việt ở Bắc bộ thành bốn thời kỳ:
  19. 1. Lễ hội trong thời kỳ xây dựng nền văn hoá Đông Sơn (từ khoảng sáu, bảy thế kỷ trước Công nguyên đến một vài thế kỷ sau Công nguyên). Đó là những lễ hội của cư dân nông nghiệp, được mở vào mùa thu, là hình thức sinh hoạt văn hoá- xã hội tổng hợp, thể hiện một trình độ văn minh khá cao, bản sắc văn hoá độc đáo của người Việt cổ, thể hiện tập trung nhất tính chất nhân văn và tính chất nguyên Việt [58, tr. 47]. 2. Lễ hội trong thời kỳ Bắc thuộc. Lễ hội trong thời kỳ này có những đặc điểm cơ bản sau: - Hội được mở vào cả hai mùa xuân, thu trong đó hội mùa xuân nhiều hơn - Hội chùa xuất hiện, không chỉ phản ánh tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, mà còn thể hiện ý nghĩa Phật giáo đã được Việt hoá. - Mỗi dịp mở hội là một lần cư dân Việt sùng bái, tưởng niệm, diễn lại sự tích các anh hùng dân tộc. Các vị này đã trở thành thần thành hoàng của nhiều xóm làng cư dân Việt [58, tr.51]. 3. Lễ hội trong thời kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ (từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX). Trong giai đoạn này bên cạnh hội chùa còn xuất hiện thêm hội đình. Mặt khác trong một lễ hội, th ường có sự pha trộn của nhiều tín ngưỡng: tín ngưỡng nguyên thuỷ, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng Đạo giáo, tín ngưỡng thành hoàng. Trong các sinh hoạt văn nghệ của các lễ hội, đã có sự phân biệt rạch ròi giữa cung đình, bác học với dân gian, quan nhạc (nhạc chính thức của Nhà n ước) khác hẳn nhạc giáo phường (nhạc dân gian)…[58, tr.59]. 4. Lễ hội trong thời kỳ đất nước dưới chế độ thực dân nửa phong kiến (từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1945). ở giai đoạn này hội vẫn được tổ chức vào hai mùa xuân, thu. Địa điểm diễn ra lễ hội là ở đình, đền, chùa. Lễ hội vẫn mang ý nghĩa là lễ hội nông nghiệp, bên cạnh những tư tưởng mê tín, dị đoan, những hủ tục nặng nề đã tồn tại những yếu tố dân chủ, bình đẳng… Đáng chú ý, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, những lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc, lễ hội nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn dân tộc vẫn được mở, thu hút sự tham gia của đông đảo người dân nước Việt [ 58, tr.65]. Những lễ hội ra đời sau năm 1945 được gọi là “lễ hội hiện đại". Có thể nói, lễ hội đã kết tinh những nét đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc, truyền thống đó thể hiện một
  20. phần ở những tinh hoa lắng đọng trong hoạt động lễ hội. Chính ở trong hoạt động văn hoá đặc sắc này, các tàn dư lạc hậu, không phù hợp với thời cuộc đã và sẽ được sàng lọc, loại bỏ theo thời gian. Khi nghiên cứu tổng thể về lễ hội cổ truyền và lễ hội hiện đại, thuật ngữ “lễ hội truyền thống” đề cập đầy đủ nhất về hai loại hình lễ hội này. Những lễ hội có từ trước năm 1945 nay còn tồn tại trong đời sống văn hoá ở các địa phương cùng những lễ hội ra đời từ sau năm 1945 đã và đang trở thành hoạt động văn hóa thường niên ở các cộng đồng dân cư. Cả hai loại hình lễ hội đó đều đã và đang trở thành truyền thống của dân tộc. Việc sử dụng tên gọi “lễ hội truyền thống” vừa thể hiện được đặc trưng của lễ hội dân gian, vừa làm rõ nội dung của các loại hình lễ hội hiện đại. Nghiên cứu lễ hội từ truyền thống đến hiện đại góp phần tìm hiểu ý nghĩa xã hội và văn hoá của nó trong tiến trình lịch sử. Hiện nay, trong kho tàng di sản văn hoá dân tộc, hệ thống lễ hội trở thành một thành tố văn hoá phi vật thể không thể thiếu trong đời sống văn hoá xã hội của đông đảo các tầng lớp nhân dân trên đất nước ta. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, lễ hội truyền thống Việt Nam hình thành rất sớm, từ khi chưa hình thành nhà nước, chưa có sự phân chia giai cấp. Tuy vậy, có thể cho rằng, lễ hội xuất hiện khi xã hội loài người đạt trình độ phát triển cao trong tổ chức đời sống xã hội. Cũng như các mặt hoạt động khác của đời sống con người, lễ hội từng bước hình thành, không ngừng biến đổi và hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của xã hội ở từng giai đoạn khác nhau của lịch sử. Từ thực tiễn cuộc sống, có thể thấy rằng lễ hội được hình thành từ các cơ sở được coi là nguồn gốc sau: - Do phong tục tập quán truyền thống của các địa phương truyền lại: Những phong tục tập quán được hình thành từ bao đời, chung đúc qua bao thế hệ và được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp, luôn thể hiện một phần đạo lý “uống nước nhớ nguồn - ăn quả nhớ kẻ trồng cây", đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các lễ hội truyền thống Việt Nam. Trong dân gian có câu: “Trống làng nào làng ấy đánh", " Thánh làng nào làng ấy thờ" điều này vừa phản ánh, thể hiện yếu tố bản địa, mang tính địa phương, vừa tạo ra sự phong phú đa dạng của bức tranh văn hoá dân tộc.Những lễ hội dân gian diễn ra ở các làng xã thường gắn với những kỷ niệm ngày sinh, ngày hoá của các Thần hoàng làng - vị thần bản mệnh của địa phương. Cho nên, lệ làng, phép nước đã góp phần hình thành các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0