intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

luận văn:MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC (NHỮNG NĂM 1965-1975)

Chia sẻ: Nguyễn Thị Bích Ngọc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

102
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chiến thắng đông - xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ (1954), cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ba nước Đông Dương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: luận văn:MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC (NHỮNG NĂM 1965-1975)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM MAI THANH TÙNG MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƢỚC (NHỮNG NĂM 1965-1975) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS NGUYỄN XUÂN MINH THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Xuân Minh đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công ty Cổ phần than Vàng Danh, Ban Tuyên giáo và Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Ninh đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009 Tác giả Mai Thanh Tùng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  3. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chiến thắng đông - xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ (1954), cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ba nước Đông Dương. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kì quá độ đi lên CNXH. Ở miền Nam, đế quốc Mĩ từng bước gạt Pháp và dựng lên chính quyền tay sai do Ngô Đình Diệm cầm đầu. Chúng âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến nước ta trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự để thực hiện các mục đích xâm lược. Từ đây, nhân dân ta tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh đương đầu với một kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ (1954-1975) một lần nữa đã khẳng định tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta ở hai miền đất nước lần lượt đập tan các chiến lược chiến tranh, mọi mưu đồ xâm lược của kẻ thù để tiến tới hoà bình, thống nhất Tổ quốc. Trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với hai lần giặc Mĩ leo thang phá hoại và làm nghĩa vụ hậu phương chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các ngành, các giới trên toàn miền Bắc đã nỗ lực tham gia sản xuất với khẩu hiệu " Vì miền Nam ruột thịt ", " Tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược ". Trên toàn miền Bắc, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã xuất hiện nhiều nhà máy, công trường, xí nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn, tích cực sản xuất, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc. Với khẩu hiệu "Vừa sản xuất, vừa chiến đấu", công nhân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  4. ở các nhà máy, công trường kiên quyết không rời vị trí chiến đấu mỗi khi máy bay địch xuất hiện, giữ vững nhịp độ sản xuất phục vụ đời sống nhân dân và nhu cầu của cuộc kháng chiến. Để thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải có quyết tâm cao, có tinh thần sáng tạo, vận dụng linh hoạt cả qui luật chiến tranh cách mạng và qui luật kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất ở miền Bắc có quan hệ khăng khít với nhau, đồng thời quan hệ với cuộc chiến đấu ở miền Nam. Sản xuất nhằm phục vụ cho cuộc chiến đấu tại chỗ ở miền Bắc vừa cho cả cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặt khác, chiến đấu còn nhằm bảo vệ sản xuất, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phối hợp với cuộc chiến đấu ở miền Nam. Từ trong phong trào yêu nước, quân và dân ta ở miền Bắc đã tỏ rõ sức mạnh của một dân tộc có truyền thống yêu nước, tinh thần lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, nêu cao tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giành nhiều thắng lợi trong lao động sản xuất và xây dựng đất nước. Thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã góp phần to lớn chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam, động viên tinh thần cho quân và dân miền Nam chiến đấu trên trận tuyến chống quân thù. Mỏ than Vàng Danh được thành lập theo Quyết định số 262/BCNNg- KB2, ngày 6-6-1964, trong bối cảnh cả miền Bắc đang ra sức thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Trong hoàn cảnh đó, Mỏ than Vàng Danh vừa củng cố bộ máy tổ chức và cải tiến kĩ thuật, đẩy nhanh tốc độ sản xuất phục vụ công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa hai lần đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ và không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam. Những kết quả đạt được của Mỏ than Vàng Danh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  5. trên cả mặt trận sản xuất và chiến đấu đã cho thấy sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Đảng và ngành Than đối với Mỏ, tinh thần vượt khó vươn lên, dám nghĩ, dám làm của các thế hệ thợ mỏ than Vàng Danh, biết phát huy cao độ khẩu hiệu Kỉ luật - Đồng tâm để góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Từ lí do trên đây, chúng tôi chọn "Mỏ than Vàng Danh trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước (những năm 1965-1975)" làm Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Tìm hiểu về hoạt động sản xuất và chiến đấu của công nhân nói chung, công nhân ngành than nói riêng là đề tài thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu lịch sử ở cả Trung ương và địa phương. Trong những thập niên gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuốn sách, bài viết, hồi kí.. của các học giả được công bố về hoạt động của các mỏ than trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, trong đó có Mỏ than Vàng Danh. Đề tài lịch sử nghiên cứu về 21 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975) đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu lịch sử. Đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản có giá trị khoa học và thực tiễn to lớn. Trong những thập niên 90 của thế kỉ trước, Trung ương đã thành lập Ban chỉ đạo tổng kết cuộc chiến tranh, xuất bản cuốn "Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mĩ - Thắng lợi và bài học", 1996; Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam biên soạn "Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước", Tập 1 - Tập 2, (Nxb Sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  6. thật, 1991); và "Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam", (Nxb Quân đội nhân dân, 1997)… Đề tài về cuộc kháng chiến chống Mĩ nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Văn Tiến Dũng biên soạn "Cuộc kháng chiến chống Mĩ - Bước ngoặt lớn", (Nxb Sự thật, 1989) và "Cuộc kháng chiến chống Mĩ - Toàn thắng", (Nxb Sự thật, 1991). Những công trình nghiên cứu trên đã cho thấy sự chỉ đạo kịp thời, đúng đắn về đường lối cách mạng của Đảng ta, đồng thời ghi lại những dấu mốc lịch sử quan trọng có tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Nhà nghiên cứu Hồ Khang biên soạn "Tết Mậu Thân - Bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước", (2005); Phan Ngọc Liên biên soạn "Hậu phương lớn - Tiền tuyến lớn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước" (1954-1975),(2005)… Những tác phẩm của các nhà nghiên cứu nêu trên, tuy không đề cập đến hoạt động của Mỏ than Vàng Danh nhưng là nguồn tài liệu quan trọng để chúng tôi tham khảo khi tìm hiểu, nghiên cứu về quá trình chiến đấu của lực lượng tự vệ Mỏ than Vàng Danh chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo vệ Mỏ và giữ vững nhịp độ sản xuất. Ở địa phương, công tác chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ tỉnh và các địa phương, lịch sử các ngành, nghề, các nhà máy, xí nghiệp... rất được coi trọng. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ninh biên soạn "Lịch sử phong trào công nhân khu mỏ than Quảng Ninh", tập III (1820-1975), (1996); "Quảng Ninh đất và người", (Nxb Lao động - Xã hội, 2005).. Ngoài các tác phẩm nghiên cứu về lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương, hướng tìm hiểu về lịch sử phong trào công nhân cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về đề tài này; Hoàng Quốc Việt biên soạn "Giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam trên con đường cách mạng dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội", (Nxb Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  7. Sự thật, 1959); Hữu Tuấn biên soạn "Công nhân đô thị trên tuyến đầu Tổ quốc" (Nxb Lao động xã hội,1965); Văn Tạo và Đinh Thu Cúc đồng biên soạn "Giai cấp công nhân miền Bắc Việt Nam" (1955-1960) và "Giai cấp công nhân miền Bắc trong thời kì khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá" (1955-1960), (Nxb Uỷ ban Khoa học Xã hội, 1974); Lê Duẩn với tác phẩm "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam và nhiệm vụ của công đoàn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa", (Nxb Sự thật, 1975); Hoàng Quốc Việt biên soạn "Vai trò, xứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân", (Nxb Lao động, 1976); Cao Văn Biền biên soạn "Giai cấp công nhân Việt Nam thời kì 1936-1939", Uỷ ban KHXH Việt Nam, 1979); Ngô Văn Hoà, Dương Kinh Quốc biên soạn "Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng", (Nxb KHXH,1978); Thi Sảnh biên soạn " Lịch sử phong trào công nhân Mỏ Quảng Ninh", tập 2, (1983); Phạm Quang Toàn và Nguyễn Hữu Hợp (chủ biên), "Giai cấp công nhân Việt Nam thời kì 1945- 1954", (Nxb Khoa học Xã hội, 1987); Trần Văn Giàu biên soạn "Giai cấp công nhân Việt Nam", (2003). Từ năm 2002 trở lại đây, thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 28-8-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, công văn số 218 - CV/TG ngày 27-3-2006 của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ninh về "Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ", công văn số 367-CV/TU ngày 26-3-2008 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh về "Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ và lịch sử truyền thống", các đơn vị cấp huyện và cơ sở trong tỉnh đã tiến hành sưu tầm biên soạn lịch sử Đảng và lịch sử truyền thống. Đến nay, đã có 14/14 huyện, thị xã, thành phố biên soạn và phát hành rộng rãi lịch sử đảng bộ cấp huyện; lịch sử kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Uông Bí biên soạn "Lịch sử Đảng bộ Thị xã Uông Bí", tập 1, (2006); Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  8. nhiều xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố biên soạn được lịch sử đảng bộ xã. Đối với các mỏ than trên địa bàn tỉnh cũng rất coi trọng công tác biên soạn lịch sử ngành, lịch sử truyền thống của đơn vị. Đến nay, các công ti than Vàng Danh, Núi Béo, Cao Sơn, Đèo Nai, Cọc Sáu, Hòn Gai, Hà Tu, Hà Lầm, Mạo Khê… lần lượt biên soạn lịch sử ngành. Riêng đối với Mỏ than Vàng Danh, năm 2004, nhân dịp kỉ niệm 40 năm ngày thành lập đã biên soạn "Truyền thống công nhân mỏ - Công ty than Vàng Danh", (1964-2004), (Nxb Chính trị Quốc gia, 2004). Tiếp đó, vào năm 2009, Công ti than Vàng Danh tiếp tục biên soạn " 45 năm truyền thống công nhân mỏ Công ti Cổ phần than Vàng Danh - TKV (1964-2009)", (Nxb Chính trị Quốc gia, 2009) trên cơ sở kế thừa nguyên bản từ cuốn sách trước (2004), được sưu tầm và biên soạn tiếp giai đoạn 2004-2009. Hai cuốn sách cho đến nay viết về Mỏ than Vàng Danh được các nhà nghiên cứu biên soạn theo phương pháp lịch sử truyền thống. Việc Công ti than Vàng Danh xuất bản hai cuốn sách là cơ sở quan trọng để chúng tôi tham khảo khi nghiên cứu, bổ sung thêm tư liệu để thực hiện đề tài này. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống Mỏ than Vàng Danh trong những năm 1965- 1975. Chúng tôi đánh giá rất cao những công trình kể trên và coi đó là những nguồn tài liệu quý giúp chúng tôi hoàn thành Luận văn này. 3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 3.1 Đối tƣợng nghiên cứu Hoạt động sản xuất và chiến đấu của Mỏ than Vàng Danh trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước (những năm 1965-1975). 3.2 Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Mỏ than Vàng Danh xét theo giới hạn địa lí thời kì 1965-1975. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  9. - Thời gian: Từ năm 1965 đến năm 1975. Tuy nhiên, để làm rõ yêu cầu của đề tài, Luận văn đề cập đến tình hình Mỏ than Vàng Danh thời gian trước năm 1965. 3.3 Nhiệm vụ của đề tài - Khái quát tình hình Mỏ than Vàng Danh từ cuối thế kỉ XIX đến trước khi thành lập Mỏ. Đời sống khốn cùng của công nhân dưới bàn tay cai trị tàn bạo của thực dân Pháp. - Qúa trình thành lập Mỏ cùng với nhiệm vụ sản xuất và trực tiếp hai lần đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ. - Sự đóng góp của Mỏ than Vàng Danh trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước nói chung và cách mạng giải phóng miền Nam nói riêng. 4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1 Nguồn tài liệu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các văn kiện Đảng, các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lần về thăm và nói chuyện với công nhân vùng Mỏ; các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã được công bố, các bài viết đăng trên tạp chí, các hồi kí, bút kí cùng các nhân chứng lịch sử đã trực tiếp lãnh đạo hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, chiến đấu của Mỏ than Vàng Danh trong những năm từ 1965 đến 1975. 4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic là chủ yếu. Các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp cũng được sử dụng để làm sáng tỏ nội dung của đề tài. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, phỏng vấn nhân chứng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  10. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Luận văn trình bầy một cách cơ bản và hệ thống quá trình thành lập cũng như từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu để ổn định sản xuất của Mỏ than Vàng Danh. - Luận văn làm rõ vị trí, tầm quan trọng của mặt trận sản xuất than cho đất nước, đặc biệt trong hoàn cảnh miền Bắc vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu để nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử địa phương ở các trường chuyên nghiệp và phổ thông. - Luận văn góp phần vào việc giáo dục truyền thống và niềm tự hào quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ, trước hết là các thế hệ công nhân Mỏ. 6. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn kết cấu thành 3 chương nội dung: Chương 1: Mỏ than Vàng Danh trƣớc năm 1965. Chương 2: Mỏ than Vàng Danh trong thời kì 1965-1968. Chương 3: Mỏ than Vàng Danh trong thời kì 1968-1975. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  11. Chƣơng 1 MỎ THAN VÀNG DANH TRƢỚC NĂM 1965 1.1 KHÁI QUÁT VỀ MỎ THAN VÀNG DANH TRONG THỜI KÌ PHÁP THUỘC VÀ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1894 - 1954) 1.1.1 Mỏ than Vàng Danh trong thời thuộc Pháp (1894-1945) Mỏ than Vàng Danh là một đơn vị kinh tế nằm trên địa bàn hành chính phường Vàng Danh thuộc khu vực rừng núi Yên Tử - Bảo Đài. Mỏ than Vàng Danh trong vòng cung Đông Triều, cách thủ đô Hà Nội 165 km, Hải Phòng 55 km và trung tâm thị xã Uông Bí 12 km. Về phía bắc, Mỏ giáp huyện Sơn Động (Bắc Giang), phía nam giáp phường Bắc Sơn (thị xã Uông Bí), phía đông giáp huyện Hoành Bồ và cách thành phố Hạ Long khoảng 50 km, phía tây là khu danh lam thắng tích Yên Tử. 1.1.1.1 Tình hình khai thác của thực dân Pháp và các cuộc đấu tranh của công nhân Mỏ than Vàng Danh * Tình hình khai thác và chính sách bóc lột công nhân mỏ than Vàng Danh của thực dân Pháp Dưới thời Nguyễn, ở Vàng Danh chỉ có vài chục gia đình người Kinh sống tập trung ở hai xóm thuộc Thượng Mộ Công, một số gia đình người Dao ở Lán Tháp, Nam Mẫu trong khu vực núi Yên Tử. Khi đó, một số người Hoa đã được triều đình cho phép khai thác than ở đây nhưng do sử dụng phương pháp thủ công nên số lượng than khai thác được không đáng kể. Nhận thấy Vàng Danh nằm trên bể than vùng Đông Bắc, theo mạch Cái Bầu - Mạo Khê chạy dài 125 km chủ yếu là than đá ăngtơraxit chất lượng tốt, nhiệt lượng cao, nên giới tư bản khai khoáng người Pháp tìm mọi thủ đoạn để độc chiếm vùng mỏ này. Sau một thời gian vận động, ngày 15-2-1894, Xalađanh đã được Toàn quyền Đông Dương ra nghị định nhượng bán cho khu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  12. vực đất mỏ nằm trên tổng Bí Giàng, thuộc huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên với diện tích 1.080 ha. Năm 1910, Đờrăngđông sang Việt Nam và bắt tay vào khảo sát khu vực Vàng Danh-Uông Bí. Nhận thấy đây là vùng mỏ có trữ lượng cao về than đá nên ông ta tìm mọi cách chiếm đoạt quyền khai thác. Và chỉ 2 năm sau (1912), Đờrăngđông đã chiếm được mỏ Uông Bí-Vàng Danh. Năm 1914, những mẻ than khai thác đầu tiên đã cho nhiều hứa hẹn, do đó đã thu hút Thống đốc Nam Kì Bơlăngsa đờ la Bơrôsơ (Blanchard de la Broche) và viên Thiếu tướng không quân Anbe Latasơ (Albert Latache) hùn được tất cả 2.500.000 phrăng để thành lập công ti. Do vậy, từ năm 1915, quyền khai thác mỏ đã thuộc về Đờrăngđông. Ngày 18/4/1916 ,Công ti mỏ than Đông Triều đã ra đời và trụ sở được đặt tại Hải Phòng, trong đó quản lí 3 cơ sở khai thác là Uông Bí (1.800 công nhân), Vàng Danh khi đó gọi là Clotilde (Clôtinđơ, 8.700 công nhân) và cảng Điền Công. Theo thống kê đề ngày 23/8/1925 của Công ti Mỏ than Đông Triều do Đuycơrơ (Ducreux) kí, tại Mỏ Vàng Danh (Clotilde) từ năm 1918 đến 1/8/1925, thực dân Pháp đã khai thác 263.200 tấn, cụ thể như sau: Đơn vị tính: tấn 1918 1919 1920 1921 1922 1923 1924 Tháng 7/1925 432 5.144 14.247 24.857 27.649 41.065 83.211 66.295 Việc khai thác than ở Vàng Danh hoàn toàn theo phương pháp thủ công. Năm 1925, cảng Điền Công, Nhà máy điện 500KW, Trạm cơ khí Vàng Danh, đường xe lửa nội bộ có 2 đầu tầu kéo lần lượt hoàn thành. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  13. Trong những năm 1926 - 1930, để phục vụ cho công cuộc khai thác than, thực dân Pháp đã xây dựng xong Nhà máy sàng Vàng Danh, Nhà máy cơ khí Uông Bí, Nhà máy điện 5000KW, đường xe lửa Vàng Danh - Điền Công và bắt tay vào việc mở rộng Nhà máy cơ khí Uông Bí, xây dựng Nhà máy sửa chữa đầu tầu, Nhà máy sửa chữa và đóng xe Barchice, Nhà máy đóng và sửa chữa toa xe, hệ thống bể than bùn, cầu Uông Bí… Đến năm 1931, sản lượng khai thác than ở khu vực Mỏ đạt 161.000 tấn. Để tăng hơn nữa khối lượng khai thác, chủ Mỏ cho khôi phục lại phương pháp bóc nóc các tầng than (dùng phần đất đá phá hoả của tầng lớp trên lấp tầng dưới đã khai thác xong) để tránh rủi ro cho người đào lò, tiết kiệm vật liệu. Nhờ cách làm này mà năng suất khai thác đã tăng lên đáng kể. Số vốn của Công ti than Đông Triều tính đến ngày 1- 3- 1933, tăng đến 28.000.000 phrăng. Mặt khác, số kĩ sư, kĩ thuật viên và công nhân cũng tăng lên ở Vàng Danh - Uông Bí. Ngoài đường xe lửa được mở rộng, thường xuyên có 44 đầu máy hoạt động, chủ Mỏ còn đầu tư xây dựng Nhà máy đúc gang, Xưởng sửa chữa xà lan với năng lực sửa chữa hằng năm là 30 xà lan và 4 tầu kéo. Trong năm 1941 - 1942 lại cho xây dựng thêm Nhà máy đất đèn Vàng Danh, Nhà máy giấy Uông Bí và mở thêm tuyến đường sắt sang tả ngạn sông Uông Bí. Sự đầu tư vốn lớn đã mang lại cho chủ Mỏ kết quả là sản lượng khai thác than ở Uông Bí - Vàng Danh từ năm 1937 đến 1942 một khối lượng than đáng kể, được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây: Đơn vị tính: tấn 1937 1938 1939 1940 1941 1942 482.600 458.300 562.600 484.800 383.580 144.200 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  14. Nhìn chung, sản lượng khai thác than hằng năm của Mỏ Vàng Danh - Uông Bí là khá cao, chiếm 20% sản lượng khai thác than trên toàn Đông Dương. Giai đoạn thịnh vượng nhất của Công ti than Đông Triều là trong khoảng 15 năm, kể từ năm 1925 đến năm 1940, sau khi hoàn thành việc cơ giới hoá, dây chuyền sản xuất đi vào ổn định và hoàn chỉnh. Công nhân được hai mỏ thu hút có lúc lên tới 30.000 người (theo báo Bạn dân, số 20, ngày 29- 9-1937). Theo số thẻ phát cho thợ mỏ Vàng Danh - Uông Bí vào năm 1914 đã có 93.000 người đến làm việc. Từ cuối năm 1944, đầu năm 1945, khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp bước vào giai đoạn kết thúc thì số lượng tầu vào ăn than đã giảm đi rõ rệt. Lúc này, than sản xuất ra không có nơi tiêu thụ, rơi vào cảnh đình trệ, công nhân bị sa thải hàng loạt. Cùng với đó là nạn thổ phỉ nổi dậy cướp phá khu Mỏ Vàng Danh, càng làm cho mọi hoạt động ở đây trở nên tiêu điều, khó khăn. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), thổ phỉ lại hoành hành dữ dội hơn. Ngày nào ở đây cũng xẩy ra nạn giết người cướp của. Hơn thế nữa, nhà cầm quyền Nhật còn cho lính tới Vàng Danh vơ vét tài sản do bọn chủ mỏ người Pháp để lại, tổ chức bán số than tồn đọng. Như vậy, đến cuối năm 1944, thực dân Pháp đã ngừng khai thác than ở Vàng Danh. Để bảo vệ khu Mỏ cũng như kiểm soát công nhân, bọn chủ mỏ đã cho lập hai đồn lính khố xanh ở Vàng Danh, biên chế một trung đội do một viên quan người Pháp chỉ huy. Các đồn này còn phối hợp hành động với viên Giám binh ở thị xã Quảng Yên. Ngoài ra còn nhiều lính khố xanh và khố đỏ được sử dụng để canh gác các kho sở, kiểm soát an ninh. Về sau, số này được thay bằng lính Ân Độ. Một hệ thống mật thám đông đảo với 40 nhân viên đặt dưới sự chỉ huy của người Pháp và một quản lí người Việt. Các xóm thợ được chia thành các bang, có nhiều cảnh sát người Việt, do Quản Đằng cầm đầu, canh giữ lúc nào cũng tỏ ra hung ác, đến mức công nhân mỏ phải truyền tụng câu ca: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  15. " Ở nhà sợ mẹ sợ cha, Khi tới Uông Bí sợ dây da ông Quản Đằng " Tác phẩm Qúa trình chuyển biến tư tưởng từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin trong phong trào công nhân khu mỏ Quảng Ninh của nhà nghiên cứu Thi Sảnh đã cho thấy, làm việc tại đây có 60% người thợ đến từ tỉnh Thái Bình, Nam Định; người đến từ Kiến An khoảng 7%; người Hà Nam khoảng 4,5%; người Ninh Bình 3,5%; Hưng Yên và Hải Dương - mỗi tỉnh 2,5%. Với mỏ Uông Bí - Vàng Danh, ngoài nguồn công nhân tại chỗ thuộc các huyện Yên Hưng, Đông Triều còn có tới 80% được tuyển từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hoá, Nghệ An. Phần lớn họ là những nông dân bị bần cùng hoá. Công nhân mỏ phải lao động cật lực từ 10 đến 12 giờ trong một ngày với đồng lương rẻ mạt. Trong những năm 1914 - 1926, tiền công của thợ lò chỉ bằng 47% tiền công của thợ cơ khí, tiền công của thợ nhặt than, đội than, làm đường còn thấp hơn, chỉ bằng 40% so với tiền công của thợ cơ khí. Để giảm chi phí đến mức tối đa, bọn chủ còn tăng cường sử dụng cả thợ đàn bà và trẻ em, số lao động này chỉ nhận được 30 - 50% tiền công so với thợ đàn ông. Tại Vàng Danh - Uông Bí, bọn chủ mỏ thực hiện chế độ cai thầu một cách triệt để trong hầu hết các công việc nặng nhọc và lao động thủ công. Để tiết kiệm nguyên liệu, vật tư, chủ mỏ thường cho mở những đường lò hẹp khiến cho người thợ phải trườn bằng cùi tay và đầu gối để bò qua các mảnh than đá sắc như dao mới vào được nơi cuốc than. Người thợ phải vác gỗ ngược trong hầm có chỗ dốc tới 400 hoặc đẩy goòng trong những hầm lò chật hẹp chỉ cao 1,3m, cõng vật liệu trên lưng đi bằng đầu gối và hai tay. Để trả lương cho công nhân, chủ mỏ Vàng Danh còn thâm độc sử dụng loại tiền 8 cạnh được làm từ kẽm hòm mìn. Chính vì thế, loại tiền này được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  16. công nhân gọi là tiền mìn, tiền xiềng xích vì nó không có giá trị sử dụng ở ngoài khu vực Mỏ. Muốn tới Uông Bí hay về quê, phải xin phép đổi qua cai thầu và chỉ được hưởng 80% giá trị thường dùng của loại tiền này. Ngoài loại tiền mìn, chủ Mỏ còn dùng hình thức phát bông thay tiền buộc, người thợ chỉ mua được hàng của các nhà thầu do chúng chỉ định với giá cắt cổ. Những tờ bông này hoàn toàn không có giá trị đối với bên ngoài. Công nhân Vàng Danh phải ở trong những túp nhà lụp xụp làm bàng tre nứa hoặc xây gạch lợp tôn thấp lè tè, ngủ trên những chiếc giường cao ba tầng. Cứ ba tầng giường hình thành một cặp gồm hai thợ xúc và một thợ vận hành để khi làm thì chống được ba vì, lấy được 12 xe than. Thợ vận hành có quần áo dài, còn thợ xúc chỉ quần đùi, áo may ô đi làm. Công nhân bị cấm tụ tập quá năm người, giờ cấm không được ra đường phố. Khi làm việc, người công nhân không được trang bị thiết bị an toàn. Do vậy, nhiều công nhân đã bị chết do điện giật, xe lửa cán hoặc do sập lò. Nhiều tài liệu khảo sát cho thấy, với số tiền lương ít ỏi như vậy, nhưng người thợ không bao giờ được lĩnh đủ bởi sự bòn rút, bớt xén thường xuyên của cai kí hay sự cúp phạt trắng trợn của bọn chủ Mỏ. Mặt khác, do công việc ở Mỏ quá nặng nhọc, sinh hoạt lại thiếu thốn nên người thợ mỏ không đủ sức để làm hết số ngày trong một tháng. Bởi vậy, đời sống của họ rất khốn đốn, phải ăn cá dích thối, mặc bì gai, ở nhà cũi chó, thường xuyên bị các loại bệnh tật hoành hành. Những chứng bệnh công nhân thường mắc phải là thương hàn, sốt rét, dịch tả và những chứng bệnh nghề nghiệp như ho ra đờm đen, khó thở, rối loạn tim đã giết dần giết mòn những người thợ mỏ. Cả khu mỏ chỉ có một nhà bệnh, một bác sĩ và một y sĩ, thuốc men rất thiếu thốn. Ở Mỏ Vàng Danh, tỉ lệ thợ mỏ hằng ngày chết rất cao vì bệnh tật, tai nạn lao động, và bọn chủ mỏ đánh đập. Không người thợ nào ở mỏ sống qua tuổi 60. Hơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  17. thế nữa, bọn chủ mỏ còn kiềm chế gắt gao người thợ trong giờ làm việc cũng như những lúc về lán trại. Chúng tạo ra cảnh đám thợ này đối lập với đám thợ kia, khuyến khích tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nhà thổ và tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển. Thợ mỏ không chỉ bị quản lí theo ca kíp mà còn bị quản lí rất chặt chẽ trong các lán thợ. Ở Vàng Danh, họ phải sống chen chúc trong một thung lũng hẹp chưa tới 1km2. Trên một bài phóng sự đăng trên báo Đông Pháp số 3654 ra ngày 29-9- 1937, có đoạn viết: "Một khoảng đất núi mênh mông hàng trăm km mà không khác gì một khu nhà thu hẹp trong 4 bức tường. Mỏ muốn cho ai đến thì người đó được đến còn nếu không đã có bọn mật thám riêng của Mỏ ngăn lại và đuổi đi. Từ hôm xẩy ra cuộc đình công của phu Mỏ Vàng Danh, sự canh mỏ lại càng nghiêm ngặt hơn mọi ngày. Các đầu đường vào Uông Bí và các chỗ xe song loan (một loại xe goòng đặc biệt chuyên dùng để chở thợ mỏ đi làm) đỗ ở Mỏ Vàng Danh đều có rất đông mật thám của sở mỏ và lính đứng đón để cấm không cho người lạ mặt tới đất Mỏ…" [16, 27]. Cùng với thiên nhiên khắc nghiệt, "Ruồi vàng, bọ chó, gió Vàng Danh", thì sự bóc lột tàn nhẫn của chủ Mỏ người Pháp đã khiến cho những ai đã bước chân đến đây, nếu không gửi lại nắm xương thì cũng mang nhiều bệnh tật, như sốt rét, tiêu chảy và thường xuyên phải nơm nớp lo sợ bị điện giật, xe cán, sập lò hay bị đánh cho thân tàn ma dại… Câu ca ai oán ngày xưa vừa gợi nỗi hờn căm , vừa là nỗi niềm thương cảm: " Ai đi đến chốn Vàng Danh Má hồng để lại, má xanh đem về " Những thủ đoạn cai trị và bóc lột tàn bạo của bọn chủ Mỏ đã buộc người công nhân không còn con đường lựa chọn nào khác là phải đoàn kết và tổ chức đấu tranh để giành lấy tự do và quyền sống cho chính mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  18. * Phong trào đấu tranh của công nhân Mỏ than Vàng Danh. Bước sang đầu thế kỉ XX, những thay đổi nhanh chóng từ tình hình trong và ngoài nước đã có tác động đến nhận thức của những người thợ mỏ Vàng Danh. Ngay trong năm 1928, một số hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên về vùng mỏ thực hiện vô sản hoá. Qua đó, một số công nhân đã tìm được ánh sáng của cách mạng. Tiếp theo người thợ đường sắt Phạm Văn Kiều được hội viên Trần Bá Dương giác ngộ, kết nạp rồi đến một số thợ tiện, thợ nguội, thợ đường sắt cũng lần lượt gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong năm 1929, thông qua giao thông viên, hội viên Phạm Văn Kiều đã liên hệ được với các đồng chí Đỗ Huy Liêm, Vũ Thị Mai để nhận nhiệm vụ chuyển thư từ, tài liệu từ Hải Phòng về Vàng Danh. Tháng 5/1929, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Bùi Đắc Thanh về Mỏ Vàng Danh vừa thực hiện nhiệm vụ vô sản hoá, vừa tiến hành gây dựng cơ sở cách mạng ở vùng mỏ. Tại đây, đồng chí đã thâm nhập vào hàng ngũ những người thợ mỏ, cũng làm việc quần quật từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối, nhưng đêm đến vẫn không quên làm công tác tuyên truyền trong công nhân. Nhờ tác phong cùng ăn, cùng ở, cùng làm rất sâu sát đó, đồng chí đã giác ngộ và vận động được nhiều công nhân ưu tú hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản, sẵn sàng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vào dịp kỉ niệm 12 năm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1929), tại Vàng Danh và nhiều nơi khác trên đất Mỏ đã xuất hiện nhiều truyền đơn và áp phích cách mạng kêu gọi công nhân mỏ vùng dậy đấu tranh đánh đổ ách thống trị và bóc lột của đế quốc Pháp. Trong hoàn cảnh đấu tranh sôi nổi đó, qua thực tiễn hoạt động, Chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Vàng Danh-Uông Bí đã chuyển thành Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, do đồng chí Bùi Đắc Thanh làm Bí thư. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  19. Một thời gian sau, đồng chí Bùi Đắc Thanh nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Đỗ Huy Liêm lên thay. Tháng 4/1930, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Vàng Danh-Uông Bí lại được đổi tên thành Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối tháng 5/1930, cấp trên quyết định thành lập Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí với ban lãnh đạo gồm đồng chí Phạm Văn Ngọ làm Bí thư. Sự kiện này đánh dấu chuyển biến quan trọng về tổ chức và chỉ đạo của Đảng ở nơi tập trung công nhân, là bước chuẩn bị thành lập Đảng bộ Đặc khu Mỏ Đông Triều-Hòn Gai-Cẩm Phả. Do địch khủng bố dữ dội, Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí bị phá vỡ nhiều lần. Mỗi lần như vậy, Đảng uỷ lại nhanh chóng khôi phục để đi vào hoạt động và chỉ đạo phong trào. Trong báo cáo của Trung ương Đảng, đến tháng 10/1930, toàn bộ vùng Mỏ có 64 đảng viên thì mỏ Vàng Danh có 6 đảng viên, Mỏ Uông Bí có 12 đảng viên. Vào dịp kỉ niệm Cách mạng tháng Mười Nga (7-11-1930), Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí đã có nhiều hoạt động quan trọng, như tổ chức treo cờ Đảng, rải truyền đơn, dán áp phích kêu gọi công nhân đấu tranh chống chủ mỏ, đòi không được lưu lương của thợ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng uỷ, công nhân Uông Bí đã nhất tề nghỉ việc đấu tranh chống chủ mỏ. Để hỗ trợ cho phong trào, Tỉnh uỷ Hải Phòng đã cử đồng chí Phạm Văn Kiều chuyển một số tiền cho Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí đem phân phát cho công nhân, giúp đỡ họ cho tới lúc đấu tranh thắng lợi [30, 8]. Đầu năm 1931, Đảng bộ Vàng Danh-Uông Bí phát triển đến 24 đảng viên. Tuy nhiên, do việc Trần Văn Trí đầu hàng, khai báo nên chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều cán bộ, đảng viên thuộc Đảng bộ Đặc khu Mỏ đã sa vào tay địch. Nhiều đảng viên chưa bị bắt cũng phải tạm lánh đi nơi khác, cơ sở quần chúng ở nhiều nơi bị phá vỡ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  20. Ngày 26-01-1931, nhà cầm quyền Pháp mở phiên toà đề hình tại Kiến An để xét xử 72 đảng viên cộng sản bị bắt và giam giữ trong các đợt khủng bố cuối năm 1930. Đồng chí Bùi Đắc Thanh - người chiến sĩ cộng sản trung kiên, đã từng đảm nhiệm trọng trách Bí thư Đảng uỷ Mỏ Vàng Danh-Uông Bí đã nêu cao tấm gương chiến đấu kiên cường của mình. Trong bài viết bằng tiếng Pháp ngày 19-02-1931 có nhan đề " Khủng bố trắng ở Đông Dương ", lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đã ghi lại lời tuyên bố đanh thép của đồng chí trước toà án thực dân ở Kiến An: "Tôi có gan theo Đảng Cộng sản thì tôi cũng có can đảm chịu lấy trách nhiệm, chúng tôi không xem cách mạng như một trò trẻ con" [27, 69]. Tại Uông Bí, một số công nhân đứng ra tổ chức Nhóm nghiên cứu Macxit bí mật, liên hệ với đồng chí Ninh Văn Phan - một tù cộng sản vừa ở Nhà tù Côn Đảo trở về và xuống vùng Mỏ theo sự phân công của đồng chí Hoàng Đình Giong [31, 1]. Trong năm 1935, phong trào cách mạng ở vùng Vàng Danh trở nên sôi nổi hơn. Trong công văn mật của Sở Mật thám Hải Phòng ngày 19 - 11- 1935 gửi cho Công sứ Quảng Yên ghi rõ: " Tôi hân hạnh báo để ông biết: một thông tín viên báo cho tôi biết là do sự kích động của tên Đỗ Văn Chung, tổ trưởng tổ thợ lấy dầu ở mỏ Côtxôtin (Cao Sơn) nên đã có những cuộc hội họp tổ chức ở Vàng Danh ( Quảng Yên) Cuộc họp đầu tiên vào ngày 31 - 10 - 1935 tại nhà tên Đỗ Văn Chung có những tên bản xứ sau đây tham dự: Đỗ Văn Chung, Phạm Văn Mạc, Nguyễn Đình Nghiệp, Tường (cảnh sát mới ở Mỏ), Thăng, Trần Văn Thành, A Sinh, Bút, Nền (giám thị), Tâm (nhân viên điện báo), Nguyễn Văn Đức (nhân viên thư ký), Hùng (cai mỏ). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0