LUẬN VĂN:
Nguồn gốc, đặc điểm của đạo Cao
Đài, ảnh hưởng của nó đối với đời
sống tinh thần ở Tây Ninh
1
Mở Đầu
1. Tính Cấp Thiết Của Đề Tài
Tôn giáo hiện là một vấn đề phức tạp nhưng lại rất nhạy cảm trong mỗi nước và
trên thế giới.Việc giải quyết đúng đắn vấn đề tôn giáo là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu
dài của sự nghiệp phát triển đất nước.
Cao Đài là một tôn giáo rất trẻ, xuất hiện vào đầu thế kỷ XX (1926) tại Nam
Bộ. Ngay những ngày đầu thành lập, tôn giáo này đã lôi cuốn ồ ạt hàng vạn người, sau
đó trở thành một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Tính đến năm 1975, chưa đầy
nửa thế kỷ đã thu nạp gần 3 triệu tín đồ. Đây được xem là hiện tượng xã hội đặc biệt thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử ở Việt Nam. Là một tôn
giáo địa phương nhưng Cao Đài có bộ máy hành chính đạo khá chặt chẽ và hoàn chỉnh
như bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Lịch sử giáo hội tuy ngắn ngủi, song có
thời kỳ lại cấu kết với đế quốc phản động để chống phá cách mạng. Bảy thập kỷ trôi qua
với bao chuyển biến lớn lao của thời cuộc, đạo Cao Đài cũng biến động phức tạp. Vì
vậy việc nghiên cứu tôn giáo Cao Đài, trong đó việc tìm hiểu ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần trong nhân dân, đặc biệt đối với đồng bào có đạo là đề tài có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn cấp bách.
Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo làm cơ sở lý luận, lấy phép biện chứng duy vật làm phương pháp phân tích, kết hợp
giữa phương pháp lôgíc và lịch sử để diễn đạt, luận văn cố gắng trình bày lịch sử hình
thành và phát triển, những biểu hiện và xu hướng biến đổi của đạo Cao Đài, đặc biệt
phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh hiện nay.
Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề tôn giáo Cao Đài,
góp phần xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của nhân dân một cách phong phú
lành mạnh.
2
2. Tình Hình NGHIÊN Cứu Đề Tài
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này ở nhiều khía
cạnh khác nhau. Có thể dẫn ra: Ông Trần Văn Giàu với tác phẩm "Sự phát triển của tư
tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945" (KHXH
4/1975); Nguyễn Thành Danh viết về "Sự thật của một giáo phẩm", xí nghiệp in Hoàng
Lê Kha - Tây Ninh năm (1978); Giáo sư Trần Quang Vinh "Lịch sử của đạo Cao Đài
(1926-1937)"; Lê Anh Dũng "Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn (1920-1926)";
Nguyễn Chí Mỳ "Tôn giáo và hiện thực - một số những vấn đề đặt ra hiện nay", Tạp chí
Triết học (số 2-1998); Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn "Đạo Cao Đài một khách thể một thế
ứng xử", (30/10/1993); Hiến Chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa thánh Tây Ninh
(1997); "Một số tôn giáo lớn ở Việt Nam", Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội (1995);
"Những vấn đề tôn giáo hiện nay", Viện nghiên cứu tôn giáo, NXB KHXH (1994);
"Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng", NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội (1994); Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn "Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài" NXB
KHXH (1995); cùng một số luận văn về tôn giáo Cao Đài như: Nguyễn Văn Ron:
"Bước đầu tìm hiểu một số biểu hiện đặc thù của đạo Cao Đài" (1995); Võ Văn Phuông
"Đạo Cao Đài và quá trình đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của giáo phái
Cao Đài Tây Ninh trong giai đoạn cách mạng hiện nay" (1995); Lê Ngọc Hòa "Lễ hội
Cao Đài Tây Ninh (1997)"...
Những công trình đó đã đề cập nhiều khía cạnh quan trọng của các yếu tố về
tôn giáo nói chung và Cao Đài nói riêng. Tuy nhiên thực trạng luôn đặt ra nhiều vấn đề
và trên thực tế chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu đạo Cao Đài dưới góc độ triết
học. Đó là sự bỏ ngỏ của chúng ta về nhận thức, khi thực tế những tín đồ Cao Đài ở
miền Nam có đến hơn
2 triệu người. Vì vậy đề tài này muốn góp một tiếng nói nhỏ vào sự nghiên cứu
đạo Cao Đài dưới góc độ triết học.
3
3. Mục Đích Nhiệm Vụ NGHIÊN Cứu Của Luận VĂN
Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ nguồn gốc, đặc điểm của đạo Cao Đài, luận
văn phân tích những ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh.
Từ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày nguồn gốc và đặc điểm của đạo Cao Đài.
- Phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp để xây dựng đời sống tinh thần ở Tây Ninh liên quan
đến ảnh hưởng của đạo Cao Đài.
4. CƠ Sở Lý Luận Và PHƯƠNG Pháp NGHIÊN Cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm về tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam nhất là
trong các văn kiện đại hội VI, VII, VIII, các Nghị định văn bản của Chính phủ về tôn giáo
để phân tích những vấn đề đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó
đặc biệt chú trọng phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp lịch sử
4
với lôgíc.
5. Đối Tượng Phạm VI NGHIÊN Cứu
Đây là một công trình nghiên cứu về tôn giáo Cao Đài Tây Ninh, dưới góc độ
triết học. Đạo Cao Đài có mặt ở nhiều địa phương nhưng tập trung nhất vẫn là ở Tây
Ninh. Do vậy đề tài nghiên cứu giới hạn ở Cao Đài Tây Ninh. Sự khảo sát cũng chủ yếu
là những ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần trong nhân dân tỉnh Tây
Ninh.
6. Đóng Góp Của Luận VĂN
- Đóng góp về mặt khoa học: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm sự hình
thành phát triển và những đặc điểm của đạo Cao Đài.
- Bước đầu phân tích đánh giá những ảnh hưởng của đạo Cao Đài với đời sống
tinh thần ở Tây Ninh, từ đó đề xuất một số giải pháp để xây dựng, phát triển đời sống
tinh thần của nhân dân ở địa phương.
* ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập
triết học nhất là chuyên đề về tôn giáo. Luận văn cũng sẽ bổ ích cho những nhà hoạch
định chủ trương chính sách đối với công tác tôn giáo, nhất là đạo Cao Đài.
7. Kết cấu Của Luận VĂN
5
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
Lịch Sử Hình Thành Phát Triển
Và Những Đặc Điểm Của Đạo CAO Đài
Từ giữa thế kỷ XIX cho đến nay, không riêng gì ở Việt Nam, trên thế giới xuất
hiện nhiều thứ đạo cùng với sự tiếp tục tồn tại các tôn giáo cũ, hàng loạt các giáo phái
mới ra đời. Nhiều phong trào xã hội, chính trị xuất hiện mang màu sắc tôn giáo. Theo
thống kê, chỉ riêng trong thế kỷ XX, trên thế giới có trên ba, bốn ngàn hiện tượng tôn
giáo lớn nhỏ ra đời nhưng số trụ lại được với thời gian không nhiều chỉ khoảng hơn
chục đạo tồn tại với số tín đồ khiêm tốn, phần đông là từ các tôn giáo khác tách ra.
Những tôn giáo đó đều có chung một đặc điểm là: phải dựa vào các tôn giáo truyền
thống ở nơi xuất phát, biến đổi ít nhiều về mặt giáo lý và nghi thức, dưới nhãn hiệu cải
cách, canh tân, thêm hoặc bớt những yếu tố trong điều kiện xu thế giao lưu văn hóa
được mở rộng. Các đạo giáo mới đó tìm ra được mục đích hấp dẫn bằng nhiều vẻ: cả về
tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa..., trước hết với quần chúng tại chỗ, sau đó mới phát
triển ra bên ngoài. Những tôn giáo đứng được phụ thuộc nhiều vào bản thân (nội dung,
hình thức), vào các nhân vật sáng lập và nhất là đáp ứng được tâm lý xã hội của quần
chúng tín đồ. ở đó quần chúng thấy được một cái gì hấp dẫn (tuy có thể nhiều hay ít) so
với các tôn giáo cùng thời. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là đạo Cao Đài, một tôn
giáo rất trẻ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX trên mảnh đất Nam Bộ, đã tồn tại và phát triển
được do đáp ứng được những nhu cầu này, do đã tìm ra được một lực thu hút, một cung
cách thích hợp tâm linh tôn giáo của những người nông dân tứ xứ Nam Bộ, trong đó có Tây
Ninh.
1.1. Hoàn Cảnh KINH Tế Xã Hội Với Sự Hình Thành Và Phát Triển Của
Đạo CAO Đài
7
Sự xuất hiện của một tôn giáo mới hay một hiện tượng tôn giáo không bao giờ
là điều ngẫu nhiên, mà nó được qui định bởi một bối cảnh lịch sử nhất định nhằm đáp
ứng nhu cầu tâm lý, tín ngưỡng của một bộ phận cộng đồng dân cư, cộng đồng lãnh thổ
trước khi trở thành phổ biến. Chính vì thế, đạo Cao Đài cũng như các tôn giáo khác chỉ
là hình thái ý thức xã hội ra đời gắn liền với quá trình phát triển của xã hội. Suy cho
cùng sự ra đời, phát triển và mất đi của một tôn giáo là do sự phát triển của điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội nhất định. Muốn tìm nguồn gốc ra đời của tôn giáo nào phải
tìm ngay ở "thế giới trần tục" chứ không phải ở đấng siêu nhiên nào. Khoa học mác xít
kiên quyết bác bỏ những lời khẳng định thiếu khoa học của những nhà thần học rằng:
tôn giáo ra đời do ý định của đấng siêu nhiên nào đó. Ăngghen nói: "Bất cứ tôn giáo nào
cũng đều chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc người ta những sức mạnh ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh mà trong đó có sức mạnh ở thế
gian mang hình thức siêu thế gian" [1, 547-549]. Luận điểm trên giúp cho ta hướng
nghiên cứu vào điều kiện kinh tế - chính trị - tư tưởng cho sự xuất hiện tôn giáo nói
chung và đạo Cao Đài nói riêng. Nói cách khác, sự xuất hiện và phát triển của đạo Cao
Đài có thể lý giải bằng chính môi trường sinh ra nó.
Hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Pháp là nước thắng trận song cũng là nước
bị tổn thất nặng nề nhất, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Để hàn gắn vết
thương chiến tranh, đế quốc Pháp ra sức bóc lột thuộc địa ở Đông Dương nơi có thể đáp
ứng được những đòi hỏi của thị trường thế giới lúc bấy giờ. Trong đó Việt Nam là một
trong những trọng điểm của chính sách bóc lột ấy, trở thành miếng mồi ngon cho bọn tư
bản tài chính Pháp. Tình hình đó dẫn đến những biến đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội
nước ta thời bấy giờ.
Vào những năm cuối của thế kỷ XIX và khoảng 20 năm đầu của thế kỷ XX, xã
hội Việt Nam là xã hội thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp. Khác với Trung
8
bộ, Bắc bộ, Nam Bộ là nơi thực dân Pháp áp đặt quyền cai trị trực tiếp với một bộ máy
giúp việc người Việt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thực dân Pháp không xóa bỏ địa chủ
phong kiến mà duy trì dung dưỡng để biến chúng thành tên lính xung kích trong việc
cướp ruộng đất của nông dân và bóc lột sức lao động của nhân dân ta. Chúng đầu tư và
mở rộng một số xí nghiệp công thương nghiệp sẵn có, đặc biệt là mở ra những đồn điền
cao su ở vùng đất đỏ Nam kỳ và Cao Miên, chiếm đoạt hàng loạt mẫu ruộng, đất rừng,
đồng cỏ, cùng với nó là thi hành chế độ mộ phu cực kỳ tàn bạo.
Chính sách thuế khóa nặng nề, hàng trăm thứ thuế bất công được đặt ra, các độc
quyền rượu, thuốc phiện, muối, vừa thâm độc vừa tàn ác, vừa đem lại nhiều lợi nhuận cho
ngân khố thực dân Pháp, vừa đầu độc dân ta về thể xác lẫn tinh thần. Chính sách thuế nặng
nề, cộng với nạn cho vay nặng lãi mà thủ phạm chính là ngân hàng Đông Dương của chủ
nghĩa tư bản tài chính Pháp đã bao trùm lên làng quê Việt Nam như một bệnh dịch khủng
khiếp.
Nông dân mất đất, một số ít vào nhà máy, xí nghiệp hầm mỏ đồn điền của Pháp
và của một số tư bản Việt Nam để bán sức lao động trở thành người công nhân, còn đại
đa số trở thành những tá điền bán sức lao động ngay trên mảnh đất của chính mình
trước đây, hoặc lang thang vất vưởng không có việc làm.
Tất cả các giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc đó tuy mức độ khác nhau, hoặc ít
hoặc nhiều có mâu thuẫn với thực dân Pháp. Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ này là mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân và địa
chủ. Nhưng mâu thuẫn nổi lên, mâu thuẫn chủ yếu vẫn là giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với bọn đế quốc xâm lược Pháp.
Tình hình ấy đã đưa cuộc đấu tranh của tầng lớp nhân dân nhất là ở Nam Bộ
chống thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Tuy nhiên, do hạn chế của giai cấp mình,
nông dân không thể tự giải phóng được. Lúc đó lại chưa có sự lãnh đạo dìu dắt của
9
Đảng cộng sản - một chính Đảng của giai cấp vô sản, do vậy, cuộc đấu tranh của nhân
dân lần lượt bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Bế tắc trong cuộc sống và bế tắc trong
đấu tranh chống thực dân Pháp càng thúc đẩy số đông quần chúng tìm đến tôn giáo,
trong đó đạo Cao Đài, những mong được sự an ủi che chở, do tôn giáo này khi mới xuất
hiện ít nhiều mang tính phản kháng xã hội đương thời.
Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài
là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo lý đương thời. Nhân dân Nam Bộ có
nhu cầu tín ngưỡng rất lớn. Khi đạo Cao Đài chưa ra đời, số đông nhân dân theo đạo
Phật, đạo Nho và một số ít theo đạo Công giáo. Nhưng đến giai đoạn này, những tôn
giáo ấy mất dần uy tín vì chậm thích nghi với sự phát triển của xã hội. Đạo Công giáo
lúc đó dưới mắt của người Nam Bộ, gắn liền với sự xâm lược của thực dân Pháp, nên bị
nghi ngờ, thậm chí khinh ghét. Đạo Nho là một học thuyết đạo đức, chính trị chỉ phù
hợp với chế độ quân chủ nông nghiệp, đến nay không còn thích hợp với nhân dân Nam
Bộ đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự phát triển của công nghiệp và xu
hướng Âu hóa (do Pháp áp dụng ở Nam kỳ chế độ thuộc địa trực trị). Đạo Phật tiểu thừa
tại chỗ với phương châm "Tự độ, tự tha" chỉ giải thoát cho ai xuất gia tu hành, khó hòa
nhập với phong tục, lối sống của người Nam Bộ. Đạo Phật Đại thừa bị suy vị từ mấy thế
kỷ trước, nay lại chia rẽ thêm nhiều tông phái, nhất là sự xâm nhập các yếu tố mê tín dị
đoan của đạo Lão. Đạo thờ cúng tổ tiên trong đó có đạo ông bà, tuy gần gũi nhưng chưa
đủ thỏa mãn tâm linh tôn giáo... Nói tóm lại, sự suy sụp của các tôn giáo và đạo lý
đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng tín ngưỡng, tạo điều kiện cho đạo Cao
Đài ra đời và phát triển.
Tham gia trực tiếp vào việc hình thành đạo Cao Đài còn có tục cầu hồn, cầu tiên
và nhất là tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" (Phật, Lão, Nho) vốn có ở nước ta từ lâu
đời. Đặc biệt, từ đầu năm 1920, phong trào "Thần linh học" một hình thức mê tín của
các nước phương Tây, tương tự như tục cầu hồn, cầu tiên, đã thâm nhập vào Nam Bộ,
được đông đảo tầng lớp trung lưu: tư sản, địa chủ, tiểu tư sản, công chức đón nhận. Nó
nhanh chóng hòa nhập với tục cầu tiên, trở thành phong trào "cầu cơ" - "chấp bút" (gọi
10
tắt là cơ bút) phát triển khá sôi nổi trong những năm 1924 - 1925 - 1926 ở vùng Sài Gòn,
Gia Định, Cần Thơ, Mỹ Tho, Tân An... dẫn đến việc ra đời đạo Cao Đài.
Có thể nói sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài ở Nam Bộ vào những năm
đầu thế kỷ XX là do tổng hợp những nguyên nhân. Đó là: sự bế tắc của nhân dân trong
cuộc sống; đấu tranh chống thực dân Pháp thất bại do chưa có đường lối chính trị đúng
đắn soi đường; sự thoái hóa của các tôn giáo đương thời và truyền thống "tam giáo đồng
nguyên". Cộng vào đó, là tục cầu hồn, cầu tiên và sự thâm nhập của tâm linh học... Nếu
không có những nguyên nhân trên thì một nhóm tư sản, địa chủ, tiểu tư sản, công chức
Pháp - những người sáng lập đạo Cao Đài cũng không thể ra đời và phát triển được.
Nhìn chung, đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh lịch sử nhất định và phát triển
mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư Nam Bộ dưới chiêu bài hòa bình, tự do, dân chủ. Cơ
sở của đạo Cao Đài là người nông dân yêu nước, trong khi hạt nhân lãnh đạo lại là
những tri thức công chức, do Pháp đào tạo và làm việc cho Pháp, cho nên định hướng
của từng chi phái chịu ảnh hưởng khá mạnh tinh thần yêu nước hay mưu cầu danh lợi cá
nhân của hạt nhân lãnh đạo. Về mặt tín đồ, theo số liệu Ban Dân vận Trung ương đến
năm 1975 số tín đồ Cao Đài đã lên đến 3 triệu người. Lực lượng đông đảo tín đồ là quần
chúng nông dân lao động yêu nước, họ vào đạo vì nhiều lý do khác nhau, có thể vì mê
tín, vì lầm lạc, vì mâu thuẫn giai cấp, vì lợi ích riêng tư, hoặc bị cưỡng ép phải "nhập
môn". Bản chất của tín đồ là tốt, mong muốn độc lập, tự do, hạnh phúc. Người tín đồ
Cao Đài gắn bó với đạo vì tư tưởng đoàn kết tương trợ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau
trong sản xuất và trong sinh hoạt xã hội. Song, trong quá trình theo đạo họ bị đầu độc
bằng giáo lý mơ hồ, phản động, bằng luận điệu chống cộng, bị quyến rũ bằng lợi ích vật
chất, bị khống chế, kìm kẹp bởi bộ máy hành chính đạo và ngụy quân, ngụy quyền. Vì
thế nhiều người, đôi khi họ nhìn cách mạng, một cách sai lệch, lẫn lộn giữa bạn và thù.
Một vấn đề quan trọng là đạo Cao Đài dù phát triển khá nhanh và mạnh nhưng không
phải tuyệt đại đa số nhân dân một khu vực hành chính nào đó đều là tín đồ Cao Đài.
Ngay tỉnh Tây Ninh, tín đồ Cao Đài chỉ chiếm dưới 50% dân số (thống kê tín đồ Cao
Đài các tỉnh Nam Bộ năm 1943, 1966, 1993 cũng cho thấy tình hình như thế). Phát triển
11
ra miền Trung và miền Bắc Việt Nam thì kết quả không cao lắm vì bối cảnh ra đời của
đạo Cao Đài liên quan chặt chẽ đến cư dân Nam Bộ. Tình hình trên cùng nội dung của
giáo lý Cao Đài trong bước đầu xây dựng chưa được trọn vẹn, nếu không có sự thay đổi
sẽ không còn sức thuyết phục, nếu trình độ dân trí được nâng cao, nhất là khi những yếu
tố công nghiệp và khoa học kỹ thuật len dần vào nông thôn. Đó là điều cần suy nghĩ về
tương lai của đạo Cao Đài [46, 145].
1.2. Những Đặc Điểm của Đạo CAO Đài
Ra đời năm 1926 đến nay đạo Cao Đài vẫn tồn tại như một tôn giáo ở Việt Nam
và được Nhà nước công nhận. Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, Trung ương của phái Cao
Đài Phổ Độ do Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung và Cao Hoài Sang lãnh đạo là nơi sinh
hoạt mạnh mẽ nhất của đạo Cao Đài, với sự tập trung tín đồ cao nhất và là chi gốc từ đó
phân tách ra hầu hết các hệ phái khác. Vì vậy, có thể nói Cao Đài Tây Ninh mang tính
tiêu biểu cho những đặc điểm sinh hoạt tôn giáo của đạo Cao Đài, vì hầu hết các hệ phái
đều xây dựng giáo hội theo Pháp chánh truyền - Tân luật được xây dựng từ những năm
đầu thành lập đạo.
1.2.1. Những nét tương đồng và khác biệt của đạo Cao Đài đối với các tôn
giáo khác
- Xét về nguồn gốc: đạo Cao Đài ra đời cũng giống như các tôn giáo lớn khác là
đều bắt nguồn từ hiện thực xã hội. Đạo Phật ra đời ở ấn Độ bắt nguồn từ những trào lưu
tư tưởng chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà La môn; Đạo Công Giáo ra đời khoảng
thế kỷ thứ IV - II (trước công nguyên), do những mâu thuẫn cơ bản, sâu sắc và quyết
liệt giữa chủ nô và nô lệ. Nó đã bùng nổ thành các cuộc khởi nghĩa vũ trang mang tính
quần chúng rộng rãi chống lại các giai cấp chủ nô và quân xâm lược không chỉ ở những
vùng bị chinh phục mà ngay cả chính quốc. Tuy nhiên, đế quốc La Mã lúc đó còn rất
mạnh đã nhanh chóng đàn áp các cuộc khởi nghĩa một cách dã man tàn bạo. Trong tâm
12
trạng mệt mỏi và tuyệt vọng, quần chúng lao khổ trông chờ vào sự giúp đỡ của lực
lượng siêu nhiên, một vị thần hay một đấng cứu thế để đánh đổ đế quốc La Mã, giải
phóng dân tộc xây dựng một vương quốc của sự công bằng. Tôn giáo ra đời trong hoàn
cảnh như thế. Đối với đạo Cao Đài cũng xuất phát từ hoàn cảnh chính trị xã hội, nhưng
nguyên nhân ra đời của đạo Cao Đài là một vấn đề còn có cách nhìn nhận khác nhau.
Theo thống kê của Fayne Su san Werner trong giới sáng lập Cao Đài có 39% là địa chủ;
37% là tiểu tư sản; 8% là kỳ hào; 16% là các nhân vật hoạt động tôn giáo [34, 2].
Như vậy trong chừng mực nhất định cũng có thể so sánh sự ra đời của Đạo Cao
Đài với đạo Ki tô sơ kỳ -phong trào của nô lệ và các dân tộc Phương Đông chống lại sự
xâm lược của Đế quốc La Mã thời Cổ đại. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa đạo Ki tô và
đạo Cao Đài. Đạo Ki tô do những người nô lệ khởi xướng, còn đạo Cao Đài do những
tầng lớp trên (tư sản, địa chủ, tiểu tư sản) chủ trương.
- Xét về tính chất chính trị: Các tôn giáo theo mức độ đều mang bản sắc hoặc
ảnh hưởng ít nhiều tính chất chính trị sâu sắc, nhưng đối với đạo Cao Đài màu sắc chính
trị lại nổi bật. Biểu hiện trước hết đạo Cao Đài là sản phẩm của giai cấp địa chủ và tư
sản. Với tổ chức này họ đầu cơ chính trị, lợi dụng sự bế tắc của nhân dân Nam Bộ trong
cuộc đấu tranh yêu nước, để qui tụ lực lượng thực hiện ý đồ giành quyền lãnh đạo chính
trị trong những năm 20 của thế kỷ XX này, còn tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài. Cụ thể
là những người thành lập và cầm đầu đạo Cao Đài đã ngày càng đi sâu vào hoạt động
chính trị. Họ thành lập quân đội và luôn hướng về phía cải lương, muốn biến Cao Đài
thành quốc đạo với mục tiêu là thiết lập chế độ quân chủ ở Việt Nam. Với xu hướng đó
mặc dù là một tôn giáo, nhưng những người cầm đầu Cao Đài đã xây dựng hội thánh
với cả bộ máy có tổ chức từ Trung ương đến địa phương giống như một kiểu Nhà nước
quân chủ lập hiến hoàn chỉnh. Bộ máy này có phân biệt nhiệm vụ, chức năng, quyền
hạn của từng cơ quan, cũng như thứ bậc của từng chức sắc, rõ ràng tỷ mỷ với ý đồ là khi
giành chính quyền, họ sẽ dùng bộ máy hành chính đạo thay cho bộ máy Nhà nước.
Trong quá trình hình thành và phát triển Cao Đài có hàng loạt các tổ chức chính trị như:
"Việt Nam Phục Quốc" "Liên tôn chống cộng", "Hòa bình chung sống", "Mặt trận thống
13
nhất toàn lực quốc gia", và hàng loạt các tổ chức chính trị khác kể cả việc thành lập
quân đội Cao Đài. Điều đó thể hiện rõ tính chất chính trị của đạo Cao Đài hết sức rõ nét.
Nét tiêu biểu nhất của tính chất chính trị của đạo Cao Đài trong quá trình hoạt động là
vọng ngoại và chống cộng sản.
- Xét về đặc điểm giáo lý và sự thờ phụng: Giáo lý đạo cao Đài không có hệ
thống các tín điều có chiều sâu dựa trên những cơ sở triết học, thần học như những tôn
giáo khác. Những điều đạo Cao Đài coi là giáo lý bao gồm những khái niệm về "tam
giáo", "ngũ chi", "Cao Đài". "Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ",... chỉ là sự vay mượn,
kết hợp giáo lý tôn giáo, tín ngưỡng Cổ, Kim, Đông, Tây (phần này sẽ trình bày rõ hơn
trong phần đặc điểm về giáo lý và sự thờ phụng).
- Xét mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh:
Với lịch sử hình thành phức tạp, nhiều cộng đồng dân cư, Tây ninh tồn tại nhiều
tín ngưỡng dân gian và sự tồn tại, phát triển của 4 tôn giáo lớn: Ki tô giáo, Phật giáo,
Hồi giáo và Cao Đài. Các tôn giáo đều có đối tượng tín đồ riêng, những cơ sở thờ phụng
riêng được Nhà nước công nhận và hoạt động theo luật đạo, theo chính sách tôn giáo
của Nhà nước.Thế nhưng không thể phủ nhận vai trò chủ đạo của đạo Cao Đài trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh với số lượng tín đồ đông đảo, thánh đường lộng lẫy nguy nga, và
trung tâm của một tôn giáo bản địa. Mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo
khác trên cùng địa bàn do vậy cũng hết sức phức tạp thể hiện ở những điểm sau đây:
Với tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" hay "Tam kỳ phổ độ" trên điện thờ của
đạo Cao Đài có mặt đấng thiêng liêng của các tôn giáo khác. Có những ngày lễ hội tôn
giáo Cao Đài cũng như ngày kỷ niệm các tôn giáo khác như: Vía Đức phật thích ca
(ngày 15 tháng 4),và Đức Jesus chirst (ngày 25 tháng 12). Tuy nhiên các tôn giáo vẫn
giữ khoảng cách với đạo Cao Đài vì ngay từ những ngày đầu thành lập, Cao Đài đã
14
muốn tạo dựng một tôn giáo bao trùm lên toàn thể các tôn giáo khác và đã thật sự lấn át
các tôn giáo đương thời ở Tây Ninh.
Với đạo Phật, đạo Cao Đài có nhiều va chạm, ngay từ những ngày khai đạo. Lợi
dụng suy yếu của Phật giáo, đạo Cao Đài tự xưng là Phật giáo canh tân, lấy thế của các
quan lại hào lý không những chiếm tín đồ mà còn cả chùa chiền của đạo Phật, gây nên
sự bất mãn của các nhà sư, các nhà Phật học. Việc ra mắt đạo Cao Đài tại chùa Từ Lâm
- một cơ sở của Phật giáo là một minh họa rõ nét tình hình này (mặc dù sau đó nhà chùa
đã đòi lại và đạo Cao Đài phải tiến hành xây dựng Đền Thánh tạm ở Long Thành).
Với đạo Thiên chúa, Cao Đài cũng không gây được sự hòa hợp, vì tín đồ Ki tô
giáo luôn coi chúa Ki tô là hơn hết trong khi đó họ cảm thấy chúa của mình trong Cao
Đài lại chiếm địa vị khá khiêm tốn. Họ chỉ cảm thấy tự hào vì có sự đóng góp của đạo
mình cho một tôn giáo mới ra đời chứ không muốn chuyển đạo sang Cao Đài.
Mặc dù không công khai nhưng trong sinh hoạt đạo, bằng hình thức sinh hoạt
cộng đồng, sự giúp đỡ cộng đồng những người ngoại đạo (không tôn giáo hoặc tín đồ
tôn giáo khác), Cao Đài đang ráo riết thực hiện ý đồ lôi kéo thu hút tín đồ các tôn giáo
khác về phía mình, và đây chính là mối quan hệ tế nhị, phức tạp nhất giữa Cao Đài với
các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
1.2.2. Đặc điểm về thế giới quan, nhân sinh quan
- Quan điểm thế giới quan của Cao Đài tập trung ở đoạn giáo lý sau: Nhất thái
cực (tức là một đấng tối cao vô hình hay là trời) sinh ra lưỡng nghi (âm và dương).
Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng (bốn hiện tượng tự nhiên là: nắng, mưa, sáng, tối). Tứ
tượng sinh ra ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Ngũ hành sinh bát quái (càn, khảm,
chấn, cấn, tốn, ly, khôn, đoài). Bát quái sinh sinh hóa hóa thành thế giới muôn vật muôn
loài. (Tức vật chất, thảo mộc, côn trùng, cầm thú, thần thánh, tiên, phật...) sinh sinh, hóa
15
hóa lưu hành trong tam thiên thế giới (ba ngàn thế giới) và lục thập bát địa cầu (68 địa
cầu). Tất cả sự vật đều có linh hồn, từ thú vật hồn đến nhân hồn, thần, thánh, tiên, phật
hồn".
Cũng như các tôn giáo khác, đạo Cao Đài tin vào cái siêu tự nhiên, cái không
phục tùng những quy luật khách quan thoát khỏi mối liên hệ phụ thuộc nhân quả.
Không chỉ thế mà "Đức Chí Tôn" còn xóa bỏ và tạo ra những quy luật tự nhiên như:
mưa, gió, sấm, chớp, sáng, tối... sáng tạo ra nhiều điều mầu nhiệm " huyền bí". Theo
quan điểm của chủ nghĩa vô thần khoa học và triết học mác xít thì thế giới tồn tại vô tận
và đa dạng, song nó lại thống nhất ở tính vật chất. Không có thế giới thiên đường địa
ngục, nơi cư trú của thánh thần, ma quỷ nào cả. Cùng một đối tượng phản ánh là thế
giới hiện thực, nhưng khoa học và tôn giáo đối lập nhau: khoa học phấn đấu phản ánh
ngày càng gần với những gì đang tồn tại, ngược lại tôn giáo phản ánh sai lệch, méo
mó,biến dạng đi. Những lực lượng trần gian bình thường lại mang hình thức phi trần
gian.
Sự thừa nhận lực lượng nào đó tạo ra và điều khiển thế giới là nội dung chủ yếu
của thế giới quan tôn giáo. Thế giới này là do "Đức Chí Tôn" dùng thanh khí, mà tạo ra loài
người và đất, biến thành vạn vật. Vì Đức Chí Tôn là chúa tể vạn loài "có quyền năng vô đối",
"Thống ngự vạn linh" [18, 41]. Đạo Cao Đài rõ ràng là giải thích sự hình thành thế giới
theo quan điểm duy tâm. Điều khác nhau cơ bản nữa giữa tôn giáo và khoa học Mác -
Lênin là tôn giáo giải thích sai lầm về nguyên nhân nỗi khổ và đề ra phương pháp sai
lệch tiêu cực. Nếu đạo Ki tô qui nguyên nhân nỗi đau khổ bất hạnh của con người vào
tội tổ tông, "Đạo Phật coi đời là "bể khổ" do "tham, sân, si" và thuyết "luân hồi" thì đạo
Cao Đài quan niệm nguyên nhân nỗi khổ đau của chúng sanh là do "loài người tiến hóa
tăng lực mà sinh ra tự đắc tự tôn", chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho
"đệ nhị xác thân và tinh thần, và do tâm lý tập quán của các nước, của các sắc dân chi phối
nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau mà tranh tranh đấu đấu không ngừng [6, 75], vì thế mà bị
"đọa đày" gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới. Muốn thoát khỏi đau khổ, xây dựng
một cuộc sống hạnh phúc không phải là đấu tranh xóa bỏ chế độ bóc lột mà phải luyện
16
đệ nhị xác thân cho đầy đủ sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để
chấm dứt cái oan nghiệt ấy... cứu vớt quần sanh thoát khỏi vòng địa lạc hoàn toàn. Quan
điểm đó không chỉ nhồi nhét cho con người một hệ thống quan niệm phản khoa học, mà
còn giáo dục người ta tư tưởng coi thường mọi cái trên trần gian thế tục coi như nơi "ăn
gởi ở nhờ" do đó mọi vấn đề xã hội đều lùi vào hàng thứ yếu, đẩy con người vào tình
trạng thụ động về mặt xã hội.
Đạo Cao Đài ra đời còn có sự hoàn thiện và đóng góp rất đắc lực của công cụ
đàn cơ. Đàn cơ, về bản chất là công cụ hoạt động tín ngưỡng tôn giáo (ở cả phương
Đông và phương Tây), nhằm mục đích xin (cầu) thần linh ban cho con người những
điều mong muốn hoặc biết được sự vận động biến hóa mầu nhiệm (cơ). Vì thế gọi là
cầu cơ.
Đối với quá trình ra đời và hoàn thiện của đạo Cao Đài, đàn cơ có vai trò hết
sức đắc lực mà như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: đối với Cao Đài giáo, đàn cơ là
sự thiêng liêng, huyền diệu và là linh hồn của đạo, dựa vào cầu cơ để xây dựng cả một
hệ thống giáo lý, giáo luật tổ chức và phong các chức sắc của đạo - so với các tôn giáo
khác đó là một đặc điểm đặc sắc của đạo Cao Đài.
Đàn cơ mà đạo Cao Đài sử dụng thuộc loại đàn cơ gốc Trung Hoa. ở Trung
Quốc, nó được xếp vào hệ tín ngưỡng dân gian, xuất hiện sớm và có một quá trình phát
triển lâu dài gắn với tên tuổi các vị thần linh như Tử Cô, Lý Bạch... Ban đầu, đàn cơ
được sử dụng để xem việc nông tang, xem việc thi cử, công danh, tiền đồ, vận hạn, xin
thuốc chữa bệnh và cả trong việc thi ca xướng họa
Thời Minh -Thanh (Trung quốc), đàn cơ phát triển khá mạnh, thậm chí còn được
dùng trong cả đời sống chính trị cung đình. Khi các tốp Minh - Hương phương bạt sang
Nam Bộ Việt Nam, họ đã lập ra nhiều đàn cơ, chính Ngô Văn Chiêu, một trong những
17
người đầu tiên sáng lập đạo Cao Đài, ngay từ đầu năm 1902 đã biết cầu cơ để xin thuốc
chữa bệnh cho mẹ của mình (ở đàn cơ Minh Thiện - Thủ Dầu Một).
Cùng với tính chất ấy, ở Phương Tây từ lâu đã có bàn xây theo thông linh học
(Spirutisme) và rồi người Việt Nam, nhất là các công chức làm cho Pháp nhanh chóng
tiếp cận. Song, so với đàn Trung Quốc bàn xây thông linh học phương Tây tỏ ra bất tiện
hơn (theo suy nghĩ của người Việt Nam). Đó cũng là điều lý giải tại sao bốn ông Cao
Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang (là những người khai
đạo) đang sử dụng bàn xây thông linh học phương Tây lại chuyển sang đàn cơ Trung
Quốc. Lúc đó, sự gặp gỡ giao lưu của những người vốn sử dụng hai loại đàn cơ khác
nhau ấy đã không loại trừ nhau mà cùng thống nhất mục đích sử dụng đàn cơ nhằm làm
ra đời một tôn giáo mới: Đạo Cao Đài.
Là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội, những người sáng lập đạo Cao
Đài trong quá trình sử dụng đàn cơ chắc chắn biết rõ về thực chất của đàn cơ. Đó chính
là tính chất hư hư thực thực của nó, chính Phạm Công Tắc (sau này là Hộ pháp đã có
dịp đánh giá: "Cơ bút có đủ quyền tạo đạo, nhưng cũng có quyền diệt đạo", còn ông Lê
Văn Trung (người giữ chức quyền giáo Tông) đã nói: "Hãy cẩn thận về cơ bút, đạo khai
nhờ cơ bút, đạo thiêng liêng quyền diệu do cơ bút, đến khi nền đạo bị chia rẽ
nhiều chi phái cũng do cơ bút, nếu đạo bị đả phá khinh thường cũng tại cơ bút"
[28, 185].
Đối với người lao động, dân trí thấp lại đang bị bần cùng về kinh tế, bế tắc về
chính trị và tinh thần thì khó mà nhận được cái chân, cái giả của đàn cơ. Song bất luận
ai, kẻ biết ít, người biết nhiều, kẻ chưa biết, người đã biết... tất cả điều có niềm tin nhất
định vào kết quả của đàn cơ - rằng đó là sự hiệp thông của con người với các đấng
thiêng liêng, là lời phán bảo của Đức Chí Tôn - Ngọc đế Cao Đài và của các bậc thần
tiên khác. Sự hiệp thông nhân - thần ấy là một cơ sở cho sự ra đời của mỗi tôn giáo.
18
Do bị lừa bịp nên "Cơ bút" được đông đảo tín đồ tin tưởng. Nhưng thời gian
vẫn là ánh sáng soi đường cho sự thật, bản chất của nó cứ bộc lộ dần ra, khiến cho nhiều
người nghi ngờ, biết bao câu hỏi đặt ra xung quanh cơ bút vì " cơ bút" vẫn là hư hư,
thiệt thiệt, vì mọi việc chi mà có tính phàm của con người hùn vốn vào đó thì điều hư
nhiều, thiệt ít... [25, 239].
Trong khi đó thì người ta cũng thấy Tòa thánh Tây Ninh chỉ dành độc quyền
tiếp xúc với thầy cho một vài nhân vật cao cấp có khả năng lãnh đạo chính trị, tư tưởng
của đạo như: Cao Quỳnh Diêu, Phạm Công Tắc - được đấng Chí Tôn phong là: "Tá cơ
tiên hạt đạo sĩ" và "Hộ giá tiên đồng tá cơ đạo sĩ". Thực chất "các người cầu cơ đều là
quan chức thuộc các phòng của Phủ Thống đốc". Điều đó cũng nói lên rằng cơ bút là
phương tiện công cụ, là vũ khí sắc bén được bao bọc bởi cái vỏ "Linh thiêng, Huyền
Diệu" của một số chức sắc chóp bu, họ dùng để xây dựng đạo, tập hợp lực lượng và khi
cần còn dùng để phế truất những kẻ không ăn cánh hoặc đề bạt cất nhắc, và sắp xếp
nhân sự trong hàng ngũ chức sắc Cao Đài. "Phải chăng nhóm Trương Hữu Đức - Phạm
Tấn Đãi lợi dụng cơ bút, mượn quyền thiêng liêng tối cao, sát phạt hạ nhóm Trần Quang
Vinh" [3, 25] và việc giáng cơ phong cấp cho hai tỉnh trưởng ngụy là Nguyễn Văn Nhã
và Nguyễn Phát Đạt từ cấp hiền tài vượt 3 cấp lên chánh phối sư... là sự vận động ngầm
của tay sai đế quốc, do sự sắp xếp trước [3, 15].
Trong sách "Thẩm án đại đạo", một đạo hữu Cao Đài tố cáo rằng: "cơ bút là
một điều quan trọng nhất của đạo, đạo nên hư, cũng do cơ bút. Mấy vạn nhân sinh sống
chết cũng do cơ bút, cơ bút chẳng phải là món đồ chơi mà ở Tây Ninh cơ bút chỉ về tay
Diêu. Hễ buồn thì phò loan chấp bút, khi thì vịnh ngâm thơ phú, khi thì hỏi chuyện nọ
kia, rồi dần dần chẳng biết vị tiên nào về, xem rõ văn thì đều là văn của Diêu... Nếu theo
hội thánh Tây Ninh bây giờ thì nhân sinh phải chết dưới tay Diêu".
19
Thực chất cơ bút là công cụ lừa bịp, giả dối, phản động phục vụ cho mục đích
chính trị nhất định của giới lãnh đạo Cao Đài, là hình thức mê tín dị đoan mà đạo Cao
Đài dùng để củng cố và phát triển nên đạo khi quần chúng chưa giác ngộ cách mạng.
Vì thế sau này khi đàn cơ đã hoàn thành sứ mạng xây dựng và hoàn thiện một
hệ thống giáo lý, giáo luật và tổ chức của đạo thì đương nhiên cũng cần chấm dứt. Việc
kết thúc cầu cơ của đạo Cao Đài cũng là một việc- thiết nghĩ - đã được nâng đến tầm
nghệ thuật khi những người nắm trọng trách Cao Đài lúc đó đã sử dụng triệt để lời "phán
bảo" của Đức Chí Tôn. Đó là, trong buổi cầu cơ ngày 1-6-1927 Đức Chí Tôn đã giáng cơ
rằng: "Đến cuối kỳ tháng 6 này thì phải ngưng hết bút truyền đạo". Vì thế, Tòa thánh thôi
không dùng hoặc dùng không rộng rãi cơ bút nữa. Và ngày 6 - 7 -1976 Tòa thánh tiếp tục
tuyên bố không dùng cơ bút nữa, đó là tuyên bố mang ý nghĩa tích cực, phù hợp với đạo,
với đời. Việc phong chức sắc của đạo Cao Đài, theo tinh thần đại hội đại biểu Cao Đài
Tây Ninh ngày 5 - 4 -1997 thì từ nay áp dụng theo điều lệ cầu phong, cầu thăng theo
luật công cử thay cho hình thức cầu cơ.
- Quan điểm nhân sinh quan đạo Cao Đài cho rằng con người có phần xác và
phần hồn, con người sau khi chết linh hồn còn tồn tại. Nếu có công đức sẽ về sống sung
sướng nơi Bạch Ngọc kinh (thiên đường). Nếu có tội thì vướng mãi trong vòng luân hồi
sinh tử. Đạo Cao Đài đã khuyên mọi người "Xả phú cầu bần" "Xả thân cầu đạo", tu
hành để diệt dục để được "phổ độ".
Đạo Cao Đài cho rằng con người sanh ra ở tại thế và chịu khổ não ở tại thế này,
rồi chết cũng ở tại thế này. Và khi chết thì con người sẽ ra sao ?
Về điều này Thầy (Phạm Công Tắc) đã dạy rằng: cả kiếp luân hồi thay đổi từ
trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu
chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế
20
này lại còn chia ra phẩm giá mội hạn. Đó là đứng bậc đế vương nơi trái địa cầu này,
chưa đặng vào bực chót của địa
cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quý
trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới đệ nhất cầu. Tam thiên thế giới, qua
khỏi Tam Thiên thế giới thì mới đến Tứ Đại Bộ Châu. Qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào
đặng Tam Thập Lục Thiên; vào Tam thập Lục Thiên rồi phải chuyển tu hành nữa mới
đặng lên Bạch Ngọc Kinh, nơi mà đạo phật gọi là Niết bàn [46, 345-346].
Theo đạo Cao Đài thì chính đạo đức con người là cái thang vô ngần, bắc cho
con người leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng, là ngang bậc cùng "Thầy" hoặc hơn
"Thầy". Vì lẽ đó đạo Cao Đài khuyên con người nên tu hành, làm đủ phận người, công
bình chính trực để khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại
nữa. Tuy nhiên, nếu như vậy thì cũng biết đến chừng nào mới hiệp hội cùng "Thầy",
vậy nên "Thầy" cho một quyền rộng rãi hơn cho cả nhân loại càn khôn thế giới biết là
nếu: biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng "Thầy" - và như vậy Đạo là nơi con người
nên quí trọng, nếu giữ được trọn đường tu hành sẽ sớm trở về "Bạch Ngọc Kinh".
Nhìn chung quan điểm nhân sinh quan của đạo Cao Đài là người được nhập
môn hành đạo phải tuân theo thế luật: phải thương yêu nhau, liên lạc giúp đỡ nhau, lấy
lòng thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường đạo đường đời. Khi nhập đạo
rồi thì phải quên đi những việc oán thù khi trước, phải tránh các việc ganh ghét tranh
đua và kiện cáo, phải nhẫn nhịn và hòa thuận với nhau. Nếu có xích mích, phải vui vẻ
nghe người đứng đầu trong họ phân giải. Phải giữ "tam cương ngũ thường" là nguồn cội
của nhơn đạo, nam thì hiếu để, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ; nữ thì tam tòng, tứ đức và
công dung ngôn hạnh. Khi ra giao thiệp với đời phải tập và giữ tánh: ôn, lượng, cung,
khiêm, nhượng. Đối với đạo hữu phải luôn nuôi nấng cái tình thù tạc cho khăng khít cái
dây liên lạc. Trong hàng tín đồ còn ở thế phải nhớ hai dịp là tang và hôn. Việc hôn là
việc rất trọng trong đời người, phải chọn hôn trong người đồng đạo, hoặc người ngoài
21
ưng thuận nhập môn thì mới được kết giai ngẫu. Trong việc cúng tế vong linh thì
khuyên dùng toàn đồ chay cho được phước hơn, nhưng không cấm lễ nhạc và phải dùng
lễ nhạc theo tân luật. Nếu trong đạo có người gặp tai nạn thình lình thì tất cả mọi người
trong họ đạo đều tùy hỷ chung nhau, tương trợ nhau qua lúc ngặt nghèo. Người trong
đạo không làm nghề sát sinh hại vật, hay những nghề tồn phong bại tục. Trong sinh hoạt
phải thật cần kiệm...
Tóm lại, con người sống ở trần thế nên giữ cho chơn thần an tịnh, đừng xao
xuyến lương tâm, phải thuận hòa, phải không được tiếng lớn, phải siêng năng giúp ích
cho nhau, dìu dắt nhau trong đường đạo. Có như vậy thì con người mới thấy cuộc sống
có ý nghĩa và khi chết mới mong được về Bạch Ngọc kinh [46, 394].
1.2.3. Đặc điểm về tổ chức
Tổ chức giáo hội Cao Đài còn gọi là bộ máy tổ chức hành chính đạo thể hiện
các điểm sau:
Đa số những người sáng lập lãnh đạo Cao Đài là tư sản, địa chủ, công chức của
Pháp nên họ khá am hiểu các thể chế chính trị trên thế giới và cho rằng chế độ quân chủ
lập hiến (kiểu Nhật Bản) là hình thức chính quyền tốt nhất ở Việt Nam. Hình thức quân
chủ lập hiến sẽ vừa trung thành với truyền thống vừa thích nghi với tinh thần dân chủ
của thời đại mới. Do đó khi thiết kế tổ chức giáo hội, họ rập khuôn theo kiểu bộ máy
nhà nước Nhật, nhưng nhiều chỗ bổ sung rườm rà và quan liêu hơn [25, 194].
Đứng trước sự phát triển số lượng tín đồ tôn giáo, trong xây dựng tổ chức Cao
Đài Tây Ninh đã dựa vào những yếu tố văn hóa có sẵn do tập quán và thói quen của tín
đồ để tạo ra bầu không khí văn hóa quen thuộc đó là sử dụng lại các hình thức cũ, chủ
yếu là các hình thức tôn giáo lớn là mô hình tổ chức có hệ thống chặt chẽ của đạo Thiên
chúa. Tòa thánh Tây Ninh trở thành một thứ "Nhà nước trong một Nhà nước" như kiểu
22
Tòa thánh Vatican với số lượng đông đảo chức sắc phỏng theo hàng giáo phẩm của đạo
Ki tô, nhưng được thay thế bằng những từ Hán - Việt cầu kỳ để tăng thêm vẻ huyền bí.
Có thể nói mô hình giáo hội Ki tô là nguyên mẫu của mô hình khởi thủy đạo Cao Đài.
Tuy nhiên, sau ngày lập đạo ít lâu, hàng loạt các cơ quan khác lần lượt ra đời làm cho
mô hình này biến đổi để trở thành chính nó như ngày nay [46, 158].
1.2.4. Đặc điểm về giáo lý và sự thờ phụng
Giáo lý đạo Cao Đài không có hệ thống các tín điều có chiều sâu dựa trên
những cơ sở triết học, thần học như những tôn giáo khác, mà chỉ là sự vay mượn, kết
hợp giáo lý tôn giáo, tín ngưỡng Cổ, Kim, Đông, Tây. Những điều đạo Cao Đài coi là
giáo lý bao gồm những khái niệm về "tam giáo", ngũ chi " Cao Đài", "Cao Đài Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ",... thể hiện ở các đặc điểm sau:
- Giáo lý Cao Đài lúc bắt đầu xây dựng chưa thật trọn vẹn và cũng khó trọn
vẹn, chỉ đóng góp nhỏ bé trong sự phát triển tư tưởng đương thời. Những người sáng
lập đạo Cao Đài không lưu ý đến việc xây dựng giáo lý, dường như họ chỉ làm nhiệm
vụ dung hợp các tôn giáo có trước góp nhặt những yếu tố cần thiết và tùy theo giáo phái
của mình mà có thể nghiêng về phần phổ độ, hoặc tự rèn luyện thêm cho mình. Trong
các sách về giáo lý của đạo Cao Đài như thánh ngôn hợp tuyển có không ít điều diễn đạt
không đúng giáo lý của các tôn giáo được thâu góp, do sự hạn chế vốn tri thức đương
thời của những người sáng lập. Giáo lý đạo Cao Đài nhiều chỗ nôm na, lại có nhiều chỗ
tối nghĩa, mâu thuẫn niềm tin vào đạo của các tín đồ
có khi lại được củng cố ở những Thánh ngôn và thường họ không
hiểu [46, 158].
23
- Khác với các tôn giáo khác có xu hướng "hòa nhi bất đồng", đạo Cao Đài
được xây dựng trên xu thế hòa nhập các tôn giáo làm một. Đó là sự tiếp nối, nhưng mở
rộng truyền thống của tôn giáo Việt Nam từ trước đến nay: chấp nhận trên điện thờ của
tôn giáo các thần thánh thuộc các tôn giáo khác nhau. Hầu hết mọi nơi ta thấy sự hiện
diện của các vị thần thánh của ba tôn giáo chính: Khổng, Phật, Đạo và các tôn giáo bản
địa. ở đạo Cao Đài, ta thấy sự hòa trộn các yếu tố cần thiết của các tôn giáo để đúc nên
một tôn giáo với cách hiểu hợp với thời gian và hợp với tâm lý - xã hội con người Nam
Bộ. Sự hòa trộn đó vẫn tuân thủ xu thế hòa hợp mà không đối đầu giữa các tôn giáo
truyền thống [46, 27].
- Tinh thần hợp nhất các tôn giáo được giải thích với khái niệm Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ và Quy Nguyên Tam Giáo, Hiệp nhất ngũ chi. Tư tưởng tam giáo (Phật,
Lão, Nho) được xem như là trung tâm giáo lý của đạo Cao Đài với 3 tư tưởng: Từ bi
(Phật), Bác ái (Lão), Công bình (Nho) và hiệp nhất ngũ chi tức thống nhất 5 ngành đạo:
Nhân đạo (do Khổng Tử chủ trương), Thân đạo (do Khương Tử Nha lập), Thánh đạo
(do Jesus christ Ki tô lập), Tiên đạo (do Lão Tử lập), Phật đạo (do Thích Ca lập). Vì
nhiều tôn giáo tập trung trong đạo Cao Đài nên gọi là Đại Đạo. Điều đó được viết trong
"Đại đạo vấn đáp căn nguyên" của Thái Thơ Thanh, (Nguyễn Ngọc Thơ) rằng: " Phàm
các tôn giáo lớn trên thế giới đều hay đều tốt tất cả, Những nhà sáng lập ra các tôn giáo
đều là các bậc cao thượng trên đời từ bi bác ái cả. Mục đích của đạo Cao Đài Tam Kỳ
Phổ Độ chúng tôi mong kết hợp hết thảy các tôn giáo trên thế giới mà khảo cứu đi đến
chỗ truy tầm nguyên ủy những đều cao thâm tinh khiết".
Sự tổng hợp giáo lý các tôn giáo được thể hiện rõ trong thờ phụng của Cao Đài
gồm: thượng đế và các bậc giáo chủ của các tôn giáo, trên bàn thờ Cao Đài, dưới Thiên
Nhãn là Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử (tam giáo), Quan Âm, Lý Thái Bạch, Quan
Thánh (tam trần) Giêsu Ki tô, Khương Thái Công. Cả thảy 8 vị.
24
Đạo Cao Đài thờ Đức Chí Tôn bằng hình ảnh con mắt, gọi là Thiên Nhãn (mắt
trời) và cho rằng Thiên Nhãn trong sáng như gương nên không mảy may gì xảy ra dưới
phàm trần mà thượng đế không biết. Thượng đế của đạo Cao Đài được gọi bằng nhiều
tên: Ngọc Hoàng, Ngọc đế, Cao Đài huyền khung, Cao thượng đế, Ngọc Hoàng Đại
Thiên tôn... nhưng tên thông dụng là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát vì theo
giáo lý Cao Đài danh xưng này thể hiện được sự tổng hợp các tôn giáo.
Về ý nghĩa chữ "Tam Kỳ Phổ Độ", đạo Cao Đài giải thích từ khi có loài người
đến khi đạo Cao Đài ra đời thượng đế đã hai lần cứu rỗi ("Phổ độ") chúng sinh. Lần thứ
nhất ("Nhất kỳ phổ độ") gọi là "Hội tý thượng nguyên" gồm: Thái thượng đạo tổ, tiền
thân của đạo Lão, Phục Hy - tiền thân của đạo Nho; Nhiên đăng Phật cổ - tiền thân của
đạo Phật. Lần thứ hai (Nhị kỳ phổ độ) gọi là ("Hội sửu trung nguyên") gồm thích ca
Mâu Ni - Lập đạo phật, Thái thượng lão - quân lập đạo tiên, Khổng tử lập đạo Nho,
chúa Giêsu Ki tô lập đạo Thánh. Đạo Cao Đài cho rằng hai lần cứu rỗi này thượng đế
thấy điều kiện nơi phàm trần gặp khó khăn "Năm châu sống lẻ loi" nên đã cho lập ra
nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo phù hợp với phong tục tập quán từng vùng, từng quốc gia,
trong những thời gian khác nhau. Đến nay điều kiện đi lại dễ dàng, "Năm châu chung
chỗ, bốn phương chung nhà" hơn nữa vì tồn tại nhiều tôn giáo riêng rẽ đã sinh ra mâu
thuẫn xung đột giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, nên thượng đế phải lập ra một tôn
giáo mới chung cho mọi người: Đạo Cao Đài.
Giáo lý đạo Cao Đài còn giải thích thêm, nếu như hai lần phổ độ trước, thượng đế
giao quyền lập đạo cho người phàm trần thì lần thứ ba cũng
là lần cuối cùng với đạo Cao Đài, thượng đế trực tiếp đứng ra làm giáo chủ, một
bài thơ của Cao Đài viết rằng:
"Phật trời, trời phật cũng là ta.
25
Nhành nhóc chia ba cũng một già
Thích đạo, Gia tô... tay chưởng quản
Thương dân xuống thế độ lần ba"
Một đặc điểm nổi bật trong sự thờ phụng của đạo Cao Đài là đưa các yếu tố
tâm linh, tín ngưỡng truyền thống vào sinh hoạt tôn giáo Cao Đài. Đó là tục thờ nữ
thần và thờ cúng tổ tiên. Việc thờ nữ thần của đạo Cao Đài thể hiện qua các đền thờ
phật mẫu tồn tại song hành cùng các thánh thất địa phương và lễ vía Diêu Trì Phật Mẫu
là lễ hội lớn nhất, ngang với lễ vía Đức Chí Tôn hàng năm. Với truyền thống coi trọng
thờ cúng tổ tiên hơn bất cứ một tôn giáo nào khác, đạo Cao Đài biến việc thờ cúng tổ
tiên thành nội dung sinh hoạt chủ yếu của đạo, khoác cho nó những nghi lễ hết sức cầu
kỳ. Tại bất cứ thánh thất nào thì hậu điện cũng là nơi đặt bàn thờ Cửu huyền thất tổ, bất
cứ điện thờ phật mẫu nào ngay gian chính điện, hai bên bàn thờ phật mẫu là hai bàn thờ
chơn linh nam và nữ, tại tư gia, các tín đồ đều lập bàn thờ tổ tiên phía dưới bàn thờ
Thiên Nhãn.
1.2.5. Đặc điểm về sinh hoạt lễ nghi
Đặc điểm quan trọng và rõ rệt nhất ở đạo Cao Đài Tây Ninh trong sinh hoạt là
xây dựng cho mình một cơ sở xã hội mang tính cộng đồng. Đạo đã tạo nên một cơ sở xã
hội vững chắc gồm các thành viên gắn bó nhau xung quanh thánh thất và điện thờ phật
mẫu với tư cách là trung tâm văn hóa tâm linh. ở đây tính cộng đồng và đạo quyện chặt
với nhau làm một ngay từ buổi đầu, có thể có ý thức hay vô thức, nhưng lâu dần thành
một tục lệ, một tập quán mà mỗi thành viên nào trong cái làng nhỏ bé ấy không chấp
hành thì bị coi là lạc lõng. Có thể nói, mọi công việc trọng đại của mỗi gia đình (như
tang ma, cúng giỗ, cưới hỏi, sinh con, dựng nhà, ốm đau...) đều được tập thể cộng đồng
tham gia một cách tự nguyện. Mặc dù có những hình thức hay lễ nghi tôn giáo, song
26
tính thiêng liêng rất mờ nhạt; các nghi thức được thực hiện như một tập quán (điều này
gợi nhớ đến các đám tương tự ở nông thôn Bắc bộ, với sự tham gia của cả làng, cả họ
như đó là công việc chung một cách tự nguyện [46, 149].
Có thể nói sinh hoạt tôn giáo có nội dung là sinh hoạt cộng đồng mà thánh thất
là tiêu biểu của cộng đồng cũng như ngôi đình vậy. Nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của
người nông dân Nam Bộ nói chung và Tây Ninh nói riêng vốn bắt nguồn từ tâm lý
truyền thống từ ngàn xưa nơi đất cũ (tính cộng đồng làng Bắc Bộ) giờ đây trở nên cần
thiết hơn do chính cuộc sống khẩn hoang vùng đất mới, sự đối chọi với ma thiêng nước
độc, với thiên nhiên và bệnh tật khiến họ cần dựa vào nhau và Cao Đài đã đáp ứng được
nhu cầu ấy: nhu cầu được sinh hoạt trong cộng đồng, nhu cầu được dựa vào cộng đồng
với những mối liên hệ ổn định của nó.
Trong sinh hoạt cộng đồng, tín đồ Cao Đài Tây Ninh hành đạo và xử thế theo
những luật lệ, lễ nghi được qui định trong giáo lý như: thực hiện ngũ giới cấm; tứ đại
điều quy; việc ăn chay...
Lễ nghi của đạo Cao Đài rườm rà, cầu kỳ và phản ánh tinh thần tổng hợp các
tôn giáo qua lễ phẩm, lễ sỉ, lễ phục... Tuy nhiên các sinh hoạt lễ nghi của đạo Cao Đài
rất gần gũi và phù hợp với trình độ nhận thức của số đông nông dân Nam Bộ, trong
hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định hơn thế nữa nhiều luật lệ, lễ nghi, cách thức hành
đạo đã ăn sâu vào cuộc sống, trở thành phong tục tập quán lối sống của đông đảo quần
chúng tín đồ [6, 193].
Đạo Cao Đài là một thực thể khách quan, một tôn giáo đang tồn tại. Do đó, về
các phương diện, đạo chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội đầy biến động của hơn nửa
thế kỷ qua. Đạo đã trải qua những giai đoạn manh nha, hình thành và phát triển thành
nhiều giáo phái, với sự phân rã do nhiều thế lực " đạo" và "đời" khác nhau.
27
Tây Ninh đã trở thành trung tâm của Cao Đài với số lượng tín đồ đông đảo cũng
xuất phát từ sự qui định hoàn cảnh lịch sử hình thành cộng đồng dân cư tín ngưỡng ở
mảnh đất này, chủ yếu là nhu cầu mang tính chất truyền thống và sinh hoạt cộng đồng
của người nông dân Nam Bộ và các yếu tố tín ngưỡng truyền thống trong sinh hoạt như
thờ cúng tổ tiên, thờ nữ thần... của người Việt xưa, mà Cao Đài đã khai thác tổng hợp
thành nội dung thờ phụng của mình đáp ứng tâm lý tín đồ. Với sự chặt chẽ trong tổ chức
thờ phụng, lễ nghi, sinh hoạt..., đạo Cao Đài đã có ảnh hưởng nhất định trong đời sống
tinh thần, trong sinh hoạt văn hóa xã hội của người dân Tây Ninh nhất là tín đồ Cao Đài.
Tuy nhiên với sự chưa hoàn chỉnh về giáo lý, với những nghi thức rườm rà, với lượng
tín đồ theo đạo một cách vội vã và có phần gượng ép, cơ hội, Đạo Cao Đài nói chung và
Cao Đài Tây Ninh nói riêng đang và sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển ở giai
đoạn hiện nay.
28
Chương 2
ảnh Hưởng Của Đạo CAO Đài
Đối Với Một Số Lĩnh Vực Của Đời Sống TINH Thần
2.1. Đạo CAO Đài Với Chính Trị
Đạo Cao Đài trong quá trình tồn tại và phát triển có mối quan hệ với chính trị
khá sâu sắc và chặt chẽ. Trước và sau khi đạo Cao Đài ra đời, tình hình chính trị ở Việt
Nam nói chung và ở Nam Bộ nói riêng nổi lên các xu hướng khác nhau. Có hai xu
hướng chính: xu hướng cải lương, dân chủ tư sản mà đại biểu là Đảng Lập hiến (1925)
của Bùi Quang Chiêu, Hội Phục Việt (1925) của nhóm Phan Bội Châu và xu hướng
cách mạng yêu nước, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga với các đại biểu là tổ
chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, Công hội đỏ, ba đảng cánh mạng
theo xu hướng cộng sản và phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Tình hình chính trị đó tác động đến đạo Cao Đài khá mạnh mẽ và cũng phân hóa
những người lãnh đạo đạo Cao Đài thành hai xu hướng chính: theo cách mạng chống đế quốc
thực dân và theo thế lực phản cách mạng, đế quốc.
Xu hướng theo cách mạng yêu nước chống đế quốc của những người trong đạo
Cao Đài tiêu biểu là Tòa thánh Minh Chơn đạo Hậu Giang, do Ngọc Chưởng Pháp Trần
Đạo Quang lập năm 1932 (đặt ở Ngọc Sắc, Minh Hải).
Năm 1933 thành lập cơ quan Trung ương ở Giồng Bớm, các thánh thất chăm lo
việc đạo, việc đời cho tín đồ, luôn đề cao đoàn kết nội bộ và đoàn kết với các tôn giáo
khác.
29
Tháng 4 - 1933 Đại hội cộng đồng giáo lý các tôn giáo (Cao Đài, Phật giáo,
Thiên chúa giáo) tại thánh thất Ngọc Phước, do Trần Đạo Quang và Cao Triều Phát làm
chủ tọa danh dự và chủ tịch đã nhất trí các mục tiêu đoàn kết, tu hành chân chính, cứu
khổ chúng sinh.
Năm 1939 thành lập "Đoàn thanh niên đạo đức" do Cao Triều Phát làm tổng
trưởng với mục tiêu giáo dục thanh niên Cao Đài đạo đức, thương đạo, yêu nước.
Năm 1945, đạo Hữu và chức sắc của phái Cao Đài Minh Chơn Đạo tham gia
khởi nghĩa cướp chính quyền ở nhiều nơi. Nhiều chức sắc của đạo tham gia chính quyền
đoàn thể cấp tỉnh, huyện, trong đó có Cao Triều Phát tham gia ủy ban giải phóng dân
tộc tỉnh Bạc Liêu, vào Mặt trận Việt Minh tỉnh và đến tháng 1 năm 1946 là đại biểu
Quốc hội tỉnh Bạc Liêu. Một số thanh niên trong đoàn thanh niên đạo đức thành lập đội
du kích và gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cuối năm 1947, Đại hội 12 hệ phái Cao Đài ở Đồng Tháp Mười đã thành lập ra
"Cao Đài cứu quốc". Cao Đài cứu quốc vừa hướng dẫn việc tu hành, vừa động viên tín
đồ, chức sắc tham gia vào các cơ quan chính quyền và quân đội cách mạng. Đến năm
1954 theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ, tổ chức Cao Đài cứu quốc giải thể. Một số
chức sắc Cao Đài tập kết ra Bắc, các chi phái trở về tu hành riêng rẽ.
Thời kỳ chống Mỹ - Ngụy, tháng 4 năm 1955 tại Tòa thánh Minh Chơn Đạo,
Cao Đài với 5 Tòa thánh (Minh Chơn Đạo - Cà Mau, Cao Thượng Bửu tòa Bạc Liêu,
Chiếu Minh Long - Cần Thơ, Thiên Châu Minh - Bến Tre, Bạch Y Liên đoàn - Rạch
Giá) đã họp để thành lập Liên giao I nhằm giúp nhau tu hành chống Mỹ - Ngụy đàn áp
khủng bố.
30
Ngày 11- 11- 1927 tại thánh thất tây Cần Thơ 18 hệ phái Cao Đài họp để ra đời
Liên giao II. Trong đó bao gồm Liên giao I, Ban chỉnh đạo đô thành và nhiều phái từ Đà
Nẵng trở về Cà Mau.
Liên giao II có chung tiếng nói: bảo vệ đạo pháp, chống bắt lính, chống lợi dụng đạo,
chống khủng bố người yêu nước, chống chiến tranh đòi hòa bình...
Liên giao II đã tổ chức nhiều buổi cầu nguyện hòa bình khắp các thánh thất và
tham gia vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cho đến ngày miền Nam giải phóng, Tổ
quốc thống nhất.
Tham gia tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sản lãnh đạo,
các hệ phái tiêu biểu là Tòa thánh Minh Chơn Đạo - những nhà lãnh đạo và đông đảo tín
đồ đạo Cao Đài đã góp phần to lớn vào sự nghiệp chung của dân tộc, công lao đó đã
được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Trong đó cụ Cao Triều Phát, Chủ tịch Cao Đài 12
phái hợp nhất, cố vấn ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, đại biểu Quốc hội của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (khóa I) đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
(số 32/ SL ngày 25/9/1949) thưởng Huân chương Độc lập hạng nhì. Sự đóng góp ấy của
đạo Cao Đài luôn được xem là những trang tươi đẹp, rạng rỡ trong lịch sử phát triển của
đạo.
Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng cách mạng, xu hướng chống cộng của đạo Cao
Đài cũng khá đậm sắc.
Ngay từ khi mới thành lập, thực dân Pháp đã tìm cách nắm và sử dụng đạo Cao
Đài. Trước hết đạo Cao Đài là sản phẩm của địa chủ và tư sản.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời muộn, lại bị thực dân Pháp chèn ép nên có xu
hướng đi vào con đường cơ hội, cải lương, thỏa hiệp. Tuy vậy một bộ phận của giai cấp
31
tư sản (tiêu biểu ở Nam Bộ) ôm ấp tham vọng giành quyền lãnh đạo chính trị ở Việt
Nam để xây dựng một chế độ chính trị theo kiểu quân chủ lập hiến. Mưu đồ thì lớn
nhưng không có khả năng tập hợp lực lượng quần chúng. Một bộ phận tư sản ở Nam Bộ
đã liên kết với địa chủ, tiểu tư sản, công chức thành lập đạo Cao Đài, với tổ chức này,
họ đầu cơ chính trị, lợi dụng sự bế tắc của nhân dân Nam Bộ trong cuộc đấu tranh yêu
nước để quy tụ lực lượng hòng thực hiện ý đồ trên. Vì vậy đạo Cao Đài là sản phẩm của
giai cấp địa chủ, tư sản Nam Bộ trên con đường mưu giành quyền lãnh đạo chính trị
trong những năm 20 của thế kỷ này, còn tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài. Trong các hệ
phái của đạo Cao Đài thì Cao Đài Tây Ninh có ưu thế hơn cả vì có trung tâm Tòa thánh
được coi là đạo gốc, là hệ phái lớn nhất có tín đồ đông đảo nhất. Vì thế Cao Đài Tây Ninh
trở thành đối tượng quan tâm hàng đầu của thực dân Pháp. Ngày 15-2-1932 Thượng viện
Pháp biểu quyết đạo luật công nhận đạo Cao Đài. Tư tưởng phục Pháp và hy vọng ở Pháp
trong một số chức sắc Cao Đài là khá rõ khi họ tuyên bố: Nước Pháp có đủ đức tính
thiêng liêng dạy dỗ các sắc tộc dân tộc lạc hậu trở thành cơ sở đại đồng thế giới.
Với mưu đồ trên, những người thành lập đạo Cao Đài đã ngày càng đi sâu vào
hoạt động chính trị, xây dựng cả bộ máy hành chính đạo từ trung ương đến cơ sở, xây dựng
cả quân đội có bộ tham mưu, tác chiến hẳn hoi, để khi có thời cơ thì chuyển thành bộ máy
nhà nước, phỏng theo kiểu tổ chức chính quyền của chế độ quân chủ lập hiến. Họ đưa
vào đạo màu sắc dân chủ tư sản như: "Tam quyền phân lập", "Dân chủ tập trung", "Lưỡng
phái bình đẳng"... để lôi cuốn thu hút quần chúng và chuẩn bị chờ dịp giành chính quyền
thống trị, đưa Cao Đài thành "quốc đạo". Phạm Công Tắc đã khẳng định: "Có phải chúng
ta theo chủ nghĩa Cao Đài không? nếu đúng như thế chủ nghĩa Cao Đài muốn tồn tại phải
lập ra quân đội... như thế quân đội phải do chính trị điều khiển vì chúng ta làm chính trị [7,
31]. ông còn nói rõ thêm là: "Vậy chúng ta phải đem nhà vua để lập quyền cho dân
quyền là chính sách của đạo Cao Đài, giúp quân chủ nhân quyền... chúng ta sẽ hướng ra
quân chủ nhân quyền để tạo tương lai cho quốc vận" [7, 41].
Công bằng mà nói khi mới ra đời, tín đồ Cao Đài là yêu nước, chống Mỹ.
Nhưng số chức sắc cao cấp bị Pháp mua chuộc, khống chế và lợi dụng ngay từ đầu nên
32
đã lái tôn giáo Cao Đài chống lại cuộc vận động cách mạng của Đảng ta, đưa quần
chúng từ chỗ yêu nước sang chỗ sợ trời. Từ chỗ lừa bịp quần chúng bằng luận điệu
chống Pháp đến chỗ công khai nói đền ơn trả nghĩa cho Pháp vì "Pháp đã cho Cao Đài
thành lập". Phạm Công Tắc nói với tín đồ rằng: "Nước Pháp và Việt Nam không phải là
thù hận nhau vì chúng ta nhận thấy đã 80 năm đồng chịu khổ não, đồng chịu nhọc nhằn
khai hóa [54], và phải xây dựng Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp" [18, 14]. Cao
Đài là sản phẩm như bọn thực dân mong muốn, vì thế nên Cu-lê đã viết: "Cao Đài là
linh hồn Pháp - Việt" đề huề mà chúng ta đã đào tạo 60 năm nay [16, 222].
Khởi thủy đạo Cao Đài là một công cụ chính trị, tuyên truyền của Pháp và bất
kỳ lúc nào mà Pháp mạnh thì vẫn thế. Nhưng bọn thực dân Pháp không tính hết khả
năng của lịch sử, không đoán trước được mọi sự của ngày mai. Khi mà quần chúng vào
đạo đông thì sớm hay muộn, nhiều hay ít các chức sắc của đạo bắt buộc phải bàn đến
những vấn đề xã hội, đạo Cao Đài trở thành lực lượng quan trọng và bắt đầu làm chính
trị trực tiếp. Đạo phát triển nhanh ở Nam Bộ, có ý đồ phát triển thành quốc đạo, và có
xu hướng chống Pháp - Điều này đã làm cho thực dân Pháp hoảng sợ, nên chúng khống
chế, mua chuộc những người cầm đầu đạo Cao Đài, trong số đó cũng không ít là thành
phần cơ hội chính trị. Từ đó những người cầm đầu đạo Cao Đài đã trở thành tay sai cho
thực dân Pháp, thực hiện âm mưu thống trị của chúng. Vì vậy những người cầm đầu đã
dùng giáo lý thần quyền mê hoặc, đánh lạc hướng đấu tranh của quần chúng. Họ đã đưa
hàng ngàn thanh niên sang Pháp xung vào quân đội làm bia đỡ đạn cho Pháp trong
chiến tranh thế giới thứ hai với luận điệu "trả ơn cho Pháp triều đã cho phép đạo được
thành lập". Khi Pháp mạnh thì người ta theo Pháp, khi Pháp sắp thua thì người ta trở cờ,
đó cũng là lẽ thường, một tổ chức có thể phục vụ cho đế quốc này thì cũng có thể chạy
theo lời hứa hẹn của một đế quốc khác. Bởi vậy khi Pháp đầu hàng, phát xít Nhật vào
xâm lược Đông Dương và Việt Nam, những người cầm đầu đạo Cao Đài đã bí mật gặp
Nhật để nhận làm tay sai. Khi Pháp biết được sự phản bội này đã bắt Phạm Công Tắc và
5 chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài đày sang đảo Madagascar và đồng thời khủng bố
đạo. Tổng tư lệnh Trần Quang Vinh thay thế quyền lúc đó trực tiếp gặp một số tên đại
diện của chính phủ Nhật là Kimura và Muchisuki để ký hợp tác nhận làm tay sai. Hai
33
bên đã ký kết thỏa thuận cùng có lợi. Vinh hứa giúp Nhật đảo chính Pháp, cụ thể Vinh
tập hợp hơn 3.000 thanh niên tín đồ từ các tỉnh về làm việc cho hãng National ở Sài
Gòn. Thực chất ban ngày đóng tàu chỉ là trá hình, ban đêm chúng tập luyện quân sự,
phóng điệp, trinh thám, phục kích. Sau đó lực lượng này được thành lập như một quân
đội và góp phần đắc lực cho Nhật đảo chính Pháp. Sau đó Nhật còn cho Cao Đài thành
lập quân đội riêng, có bộ tham mưu hẳn hoi. Đến đây thì bộ mặt cơ hội của những người
cơ hội cầm đầu Cao Đài đã lộ rõ dần. Cách mạng tháng Tám thành công, buộc quân đội
Cao Đài phải đi theo cách mạng, nhưng thực chất họ ra rừng để lấn chiếm vùng giải phóng
của ta, và những người cầm đầu vẫn tuyên bố dù quân đội Cao Đài gia nhập Việt Minh,
nhưng Cao Đài vẫn là Cao Đài, Việt Minh vẫn là Việt Minh.
Khi Pháp trở lại xâm lược lần thứ hai (1946) Trần Quang Vinh đầu hàng Pháp,
Vinh ra lệnh cho quân đội Cao Đài bỏ Việt Minh về hợp tác với Pháp, nhân dịp này
Minh đưa ra yêu cầu:
- Xin nhà cầm quyền Pháp trả Tòa thánh cho đạo và mở các thánh thất bị cấm
hoạt động trước đây.
- Trả tự do cho Phạm Công Tắc và 5 vị chức sắc bị đày, và nhiều chức sắc khác
bị giam cầm.
Ngày 21 tháng 8 năm 1946, Phạm Công Tắc được trả tự do về Sài Gòn và cùng
ký tên nhận làm tay sai cho Pháp. Kéo lực lượng vũ trang từ ngoài rừng do tướng
Nguyễn Văn Thành chỉ huy về vùng địch nhận súng ống và dụng cụ chiến tranh do
Pháp trang bị với lập trường thân Pháp, chống cộng. Vì vậy trong cuộc kháng chiến 9
năm của nhân dân ta, quân đội Cao Đài đã cùng giặc Pháp đưa quân càn quét, đóng đồn
bót, gom tín đồ lập các "chu vi đạo" thực hiện kế hoạch đánh phá, gây tổn thất không ít
cho cách mạng. Tính chất chính trị, cơ hội của những người cầm đầu Cao Đài giờ càng
thể hiện rõ hơn và được tô đậm với tính chất chống cộng triệt để. Họ đã thật sự phản lại
34
dân tộc, chống phá cách mạng, hết làm tay sai cho Pháp lại làm tay sai cho Nhật và rồi
lại trở lại làm tay sai cho Pháp khi Pháp quay lại. Bộ mặt tráo trở, cơ hội của họ đã
không chịu thức tỉnh mà trái lại bản chất đó lại xuyên suốt quá trình lịch sử nước nhà.
Đó là khi Pháp thua buộc phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ và rút quân về nước, đế quốc Mỹ
nhảy vào đưa Ngô Đình Diệm vào thành lập chính quyền tay sai cho thực dân kiểu mới ở
Việt Nam. Lúc này nội bộ tôn giáo Cao Đài phân hóa thành hai phe, thân Mỹ và thân
Pháp, dẫn đến ẩu đả thanh trừng nhau. Phe thân Pháp do Phạm Công Tắc làm chỉ huy
cấu kết với Bình Xuyên - Hòa Hảo thành lập Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia,
nhưng bị Diệm đàn áp, phe này tan rã, Phạm Công Tắc và một số tay chân chạy sang Nam
Vang (Campuchia) cư trú chính trị vào cuối năm 1955 và chết ở đó vào giữa năm 1959.
Mỹ - Diệm đưa Cao Hoài Sang, Lê Thiện Phước, Phạm Tấn Đãi là chức sắc cao cấp về
nắm quyền tôn giáo Cao Đài. Trong quá trình làm tay sai, những người cầm đầu đạo
càng bộc lộ rõ bản chất phản động, họ dùng "cơ bút" để loại bỏ chức sắc, chức vị tiến
bộ, họ gom nhân dân vào các vùng thánh thất, thành lập các chu vi đạo, buộc nhập
môn... Riêng Tòa thánh Tây Ninh còn là nơi chứa hàng ngàn thanh niên vào trốn lính,
khi cao điểm lên đến 20.000 người. Thực chất đây là cái rọ chứa để đưa thanh niên xung
vào quân đội Ngụy.
Năm 1965 những người cầm đầu đạo Cao Đài cho ra đời cái gọi là "Ban thế
đạo" bất kỳ ngụy quân, ngụy quyền, tư sản, trí thức... nếu có trình độ học vấn theo quy
định thì sẽ được phong "Hiền tài" (tương đương với lễ sanh) bỏ qua các bước bên dưới.
Đây là một cửa hợp pháp cho bọn tình báo, cảnh sát, ngụy quyền chui sâu leo nhanh vào
đạo. Đến năm 1975 có gần 2000 tên vào Ban thế đạo, điển hình như: Lê Thiện Phước là
chức sắc cao cấp làm trưởng Ban thế đạo, là một tình báo CIA, Nguyễn Văn Nhã cựu
tỉnh trưởng Tây Ninh leo lên thượng chánh phối sư lúc 40 tuổi, Nguyễn Tấn Ngưu thiếu
tá cảnh sát đặc biệt Tây Ninh... cũng cho ta thấy thực chất của tổ chức này. Từ đó biến
Tòa thánh Tây Ninh thành nơi ẩn nấp của bọn tình báo hoạt động nhằm thực hiện kế
hoạch lâu dài của ngụy. Những chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài cũng được Mỹ -
Ngụy sử dụng làm tình báo như Phạm Duy Nhung (Sĩ Tãi), Trương Văn Quảng (đại tá
35
Cao Đài) làm tay sai mật vụ cho Trần Kim Tuyến và Cao Xuân Vỹ. Lễ Sanh Giang
Thành Phước và Bùi Văn Côn - giáo viên là tình báo của Cục an ninh quân đội Ngụy...
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong khi
nhân dân ta đổ biết bao nhiêu xương máu, mồ hôi để làm cuộc kháng chiến trường kỳ
chống giặc ngoại xâm giải phóng đất nước, giành độc lập tự do cho dân tộc thì những
người cầm đầu đạo Cao Đài lại hết làm tay sai cho đế quốc này đến đế quốc khác,
chống lại sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân. Thực chất họ không phải còn non
nớt về chính trị đến nỗi không nhận ra đâu là bạn đâu là thù nên đã đánh nhầm cách mạng,
mà họ chỉ vì tham vọng muốn làm vua một cõi, muốn mưu đồ đại sự để mưu cầu lợi ích cá
nhân cho một nhóm người cầm đầu đạo, họ đã phản bội dân tộc.
Sau ngày miền Nam giải phóng tháng 4 năm 1975, số phản động trong chức sắc
đạo Cao Đài giảm nhiều, các hệ phái nhỏ không đủ sức hoạt động, các đảng phái tan rã
hầu hết. Tuy nhiên, có một bộ phận vẫn không chịu từ bỏ ý đồ chính trị chống đối cách
mạng.
Đối với tín đồ hầu hết thuộc thành phần lao động bị áp bức bóc lột nặng nề, nên
họ có tinh thần yêu nước, họ vào đạo vì lợi ích riêng tư, bị quyến rũ bằng giáo lý mơ hồ,
bị khống chế kìm kẹp bằng bộ máy hành chính đạo và bộ máy ngụy quyền Sài Gòn, do
đó về mặt tín ngưỡng họ cũng không cuồng tín, chống cộng như một số tên cầm đầu tôn
giáo, trái lại họ giúp ích rất nhiều cho cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước. Sau ngày giải phóng quần chúng tín đồ hăng hái tham gia xây dựng lại quê hương
dưới sự vận động và hướng dẫn của Đảng bộ tỉnh Tây Ninh. Theo báo cáo của Ban tổ
chức tỉnh ủy Tây Ninh tính đến 3/2000 toàn tỉnh phát triển 1.243 đảng viên xuất thân từ
gia đình Cao Đài - là những cán bộ, các ban ngành, đoàn thể quần chúng, có những
đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đặc biệt huyện Hòa
Thành là huyện trọng điểm của tỉnh về phát triển thủ công nghiệp, văn hóa - xã hội... và
cũng là trung tâm của đạo Cao Đài (Tòa thánh)
36
Ngày 5-4-1997 với sự thắng lợi của Đại hội Cao Đài Tây Ninh đã tạo ra sự
phấn khởi, tin tưởng của đông đảo chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài, đối với chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số người cho rằng sau
đại hội đạo sẽ bị xóa bỏ, tuy nhiên nhận thức có tính chất sai trái đó đã tỏ ra không phù
hợp và không được ủng hộ.
Cao Đài hải ngoại cũng đáng được chú ý về chính trị. Tháng 12/1992, Cao Đài hải
ngoại tổ chức đại hội tại Mỹ thành lập tổ chức "Việt kiều Cao Đài thống nhất đại đồng" gồm
3 ban: Truyền giáo, hành giáo, luật giáo. Cao Đài hải ngoại thường có liên hệ với các nước
mà trong đó có việc làm không được hoan nghênh và không khách quan, đó việc vu khống
Nhà nước ta vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo... và thu nhập tài liệu xấu chuyển ra
ngoài...
Lý giải về nguyên nhân của sự gắn bó sâu sắc, chặt chẽ với chính trị của đạo
Cao Đài, nhất định phải đề cập đến sự ra đời và tồn tại của đạo Cao Đài ở một thời kỳ
mà đời sống chính trị trong nước và quốc tế có những biến động đặc biệt sâu sắc và
quyết liệt. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ mà một nguyên nhân nữa cần thấy
là đạo này thường bị một số người trong giới chức sắc thao túng và chi phối theo lợi ích
chính trị của họ. Bao giờ cũng vậy, trong tính phổ biến về vai trò của một tổ chức xã hội
thì vai trò của các cá nhân cốt cán là rất quan trọng.
Những người cộng sản Việt Nam chủ trương nhất quán chính sách tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Chính sách ấy đã tạo ra sự yên tâm, phấn khởi của
tín đồ, chức sắc tôn giáo nói chung và đối với đạo Cao Đài nói riêng. Trong các hệ phái
của đạo Cao Đài đã có một số hệ phái gần đây nhất, hệ phái Cao Đài Tây Ninh đã được
Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân của tổ chức hội thánh (9/5/1997). Điều đó đã
tạo ra những điều kiện tốt hơn để tín đồ yên tâm hành đạo, đồng thời để đồng bào theo
37
đạo sát cánh cùng toàn thể dân tộc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nước nhà.
2.2. Đạo CAO Đài Với Lối Sống Đạo Đức
Do có sự hiện diện của các cộng đồng tôn giáo Thiên chúa, Phật giáo, Cao Đài,
Hồi giáo... cùng với phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian đã tạo nên sự đa dạng
phong phú trong đời sống tâm linh của người dân Tây Ninh. Tuy nhiên đạo Cao Đài với
số lượng tín đồ đông đảo nhất chiếm hơn 40% dân số của tỉnh với 50 thánh thất, 43 điện
thờ Phật Mẫu là trung tâm sinh hoạt tôn giáo ở các địa phương, có vai trò vô cùng quan
trọng chi phối đến đời sống, lối sống và đạo đức của người dân Tây Ninh.
Có thể nói: Nét đặc sắc của đạo Cao Đài là đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt
cộng đồng của người dân Nam Bộ. Đại đa số dân cư Tây Ninh là dân cư mới định cư
đầu thế kỷ XX, đặc biệt là tín đồ Cao Đài di cư tới đây thành nhiều đợt, chủ yếu là các
tỉnh miền Trung, từ đó ta hiểu được vai trò sinh hoạt đạo Cao Đài, với tư cách là một
hình thức sinh hoạt cộng đồng,với những người định cư này là quan trọng như thế nào.
Bất cứ hành vi nào trong cuộc sống như lao động sản xuất, sinh tử, lập gia đình, tương
thân tương ái... cho đến khi các hành vi tôn giáo như các ngày lễ hàng năm của cộng
đồng, các việc lễ liên hoan đến gia đình, cá nhân đều được tham gia một cách vô tư
(trong quan niệm của họ đó là một hình thức làm công quả).
Mặc dù có những hình thức nghi lễ tôn giáo, song ta thấy ở đây tính thiêng
liêng hay tính tín ngưỡng rất mờ nhạt. Các nghi thức được thực hiện một cách thủ tục.
Các đám này đều gợi cho ta nhớ đến các đám tương tự ở nông thôn Bắc Bộ, với sự tham
gia cả làng, cả họ. Cũng như ở Bắc Bộ, mỗi người ở đây tham gia vào công việc như
tham gia vào công việc chung một cách tự nhiên như thực hiện trách nhiệm của mình
chỉ có một điều khác: ở đây công việc này được khoác một ý nghĩa mới - ý nghĩa tôn
38
giáo là làm công quả. Vì vậy có thể nói sinh hoạt tôn giáo mang nội dung là sinh hoạt
cộng đồng.
Điều này còn được khẳng định qua hàng trăm cuộc phỏng vấn các tín đồ. Tuyệt
đại đa số không am hiểu nhiều và cũng không quan tâm nhiều đến giáo lý của đạo, mặc
dù bản thân đạo Cao Đài cũng không xây dựng được một giáo lý hoàn chỉnh. Tín đồ chỉ
thực sự hào hứng khi ta hỏi về những điều cụ thể mà đạo đem lại cho mỗi người trong
cuộc sống hiện thực này tức là về những sinh hoạt cộng đồng, trong đó mỗi người có
trách nhiệm và được hưởng quyền lợi từ cộng đồng. Cái gắn kết họ với đạo thực sự là
cái quyền lợi và cái trách nhiệm ấy là tình nghĩa tương thân, tương ái giữa những người
cùng cộng đồng. Thậm chí, hy vọng về đời sống mai sau trên thế giới mà đạo Cao Đài
gọi là cõi thiêng liêng hằng sống (ngay cả tên gọi này cũng có người không biết, cũng
như nhiều người không biết đến sự tích của các đấng được thờ phụng) không làm họ
quan tâm nhiều. Một số người nói về cõi thiêng liêng với một thái độ bất khả tri:
"Người ta nói vậy thì tôi cũng tin vậy chứ đã lên đâu mà biết" (Lời một chức việc). Thật
là khó tin ở đây một tâm lý muốn được siêu thoát, muốn được sám hối, muốn được giải
tội, hay niềm kinh sợ phán xét.
Những công việc của cộng đồng trở thành nội dung hoạt động chính của một
thánh thất. Mỗi thánh thất đều có lịch sinh hoạt từng tháng hay hai tháng, thường là kín
trong ngày. Các chức việc và chức sắc tại các thánh thất luôn luôn bận việc hết đám này
đến đám khác.
Vai trò vị trí của đạo Cao Đài còn được thể hiện ở niềm tin và hành vi tôn giáo
của tín đồ Cao Đài. Điều tra xã hội học tôn giáo tại Tòa thánh Tây Ninh của Viện
nghiên cứu tôn giáo cho thấy 58% tín đồ Cao Đài tin vào số mệnh. Họ tin rằng đời sống
con người, thậm chí cả những hành vi hàng ngày đều do đấng Chí Tôn định đoạt, vì
Thiên Nhãn (biểu tượng cho Đức Chí Tôn) thấu rõ mọi việc ở trần gian. Một con số
khác: 100% tín đồ Cao Đài thực hiện hành vi đi lễ các thánh thất, đền thánh. Đền thánh
39
hay thánh thất đối với tín đồ Cao Đài Tây Ninh mặc nhiên đã là nơi hội tụ của một cộng
đồng, giống như ngôi đình hay nhà chùa ở các nơi khác.
Sinh hoạt đời sống, đạo đức văn hóa - xã hội của tín đồ Cao Đài còn bị ràng
buộc bởi lễ nghi, tổ chức của đạo. Mọi chức sắc cũng như tín đồ ngoài việc làm lễ, răn
giữ ngũ giới, làm công quả tự nguyện tùy theo ý thích và năng lực từng người phải tuân
thủ một cách chặt chẽ luật đạo, từ việc làm lễ tắm thánh cho trẻ sơ sinh, buộc trẻ nhỏ
học đạo, làm lễ nhập môn, đến việc tổ chức lễ hôn phối, lễ cầu lành bệnh, đặc biệt là
tang tế... Đó là việc đưa việc đạo vào việc đời và ngược lại. Hơn thế nữa, ở đạo Cao Đài
các tín đồ được tổ chức theo gia đình, khi cha mẹ đã vào đạo thì nghiễm nhiên con phải
trở thành tín đồ khi đến tuổi trưởng thành.
Do tính chất cộng đồng của mình, đạo Cao Đài có xu hướng phát triển tập trung
ở một số làng, một số xã. Nơi nào một cộng đồng Cao Đài chiếm ưu thế thì nó dễ lôi
kéo bộ phận còn lại gia nhập. Chính sinh hoạt có tính cộng đồng đã tạo cho nó khả năng
lôi kéo những người cộng cư để hình thành nên những làng, những xã thuần đạo.
Một nét nổi bật khác trong nội dung sinh hoạt tôn giáo của đạo Cao Đài chính là
tín ngưỡng cổ truyền dân gian, trong đó có tục thờ nữ thần. Tâm lý trọng thần nữ của
người Việt ảnh hưởng tới các tôn giáo ở Việt Nam thể hiện nổi bật nhất, rõ ràng nhất tục
thờ nữ thần và hơn nữa coi trọng vai trò của người phụ nữ như đạo Cao Đài.
Tại Tòa thánh Tây Ninh, Báo Ân Từ - nơi thờ Diêu Trì Kim Mẫu, hay còn gọi
là Phật Mẫu. Phật Mẫu được người Cao Đài xem là người mẹ của chúng sinh vì trong
thời khai thiên lập địa, Bà đã sai phật Di Lặc đưa 100 ức nguyên nhân xuống thế. Qua
hai kỳ phổ độ, mới độ rỗi được 8. Tới kỳ thứ ba, Di Lặc sẽ đi lại thuyền Bát Nhã tới,
chủ tọa đại hội Long Hoa để phán xét chúng sinh (ngày phán xét) và rước 92 ức nguyên
nhân còn lại). Đây là một ngôi đền nguy nga rực rỡ chỉ thua kém đền thánh (đền chính),
chỉ tại đây và tại đền thánh được dựng hai cột cờ đại phướn của đạo.
40
Tại các địa phương cũng dựng các điện thờ Phật Mẫu song hành với các thánh
thất. Chẳng hạn vùng ngoại ô Tòa thánh có 60 thánh thất thì cũng có 60 điện thờ Phật
Mẫu [21] điện thờ Phật Mẫu cùng với thánh thất được kể là hai loại đền thờ chính của
đạo Cao Đài. Trong điện thờ phật Mẫu người ta đắp nổi tượng phật Mẫu cùng 4 vị Tiên
Đồng Ngọc Nữ (những người theo hầu bà), cùng cửu vị tiên Nương (những người được
xem là thay mặt Phật Mẫu trong thời kỳ phổ độ thứ ba).
Đặc biệt hội yến Diêu Trì cung, cũng gọi là lễ hội Diêu Trì Phật Mẫu, tổ chức
vào rằm tháng tám tại Báo Ân Từ trở thành lễ hội đông vui nhất của đạo, thu hút tín đồ
khắp nơi và khách thập phương, được coi là một trong những lễ hội lớn ở Nam Bộ (Hội
yến Diêu Trì cung là lễ hội đặc biệt do Hiệp thiên đài chủ trì và không tổ chức ở bất cứ
địa phương nào, ngoài Tòa thánh. Điều này đã khiến lễ hội mang tính "Trảy hội dân gian"
khác các ngày kỷ niệm của các tôn giáo khác). Trong lễ hội này người ta rước múa lân,
long, qui, phượng và nhiều hình thức diễn xướng dân gian khác nữa.
Như vậy, địa vị của Phật Mẫu được đề cao đến mức, trong đạo chỉ có 2 ngày đại
lễ thì một ngày dành cho thầy và một ngày dành cho Phật Mẫu. Tất cả các ngày lễ khác
dù là Đức Phật Thích Ca, Đức Khổng Tử, Đức Lão Tử... đều chính thức được xem là
nhỏ hơn [6, 117].
Từ những quan niệm trên, địa vị của người phụ nữ trong đạo cũng được coi
trọng: Bản thân thầy nhiều lần nhắc nhở sự bình đẳng nam nữ. Sự bình đẳng ấy, theo
thầy còn ở cả thiên đường nữa: "Bạch Ngọc Kinh có cả nam và nữ, mà phần nhiều nữ
lấn quyền hơn nam nhiều" [19, 18].
Về tổ chức, tín đồ được chia thành hai ban, ban Nữ và ban Nam. Chức sắc Cửu
Trùng Đài cũng vậy: nữ có đủ bậc từ thấp nhất đến nữ Đầu sư. Trong Tòa thánh có Đầu
sư đường thì cũng có nữ Đầu sư đường. Các đền thờ đều có hai cửa ra vào, nam bên phải,
nữ bên trái, khi hành lễ cũng thế.
41
Việc đề cao nữ ở đạo Cao Đài có thể ít nhiều có liên hệ với lịch sử buổi khai
đạo, với vai trò của nữ Đầu sư Lâm Hương Thanh, một đại điền chủ đóng góp lớn đất
đai và gia sản cho đạo, song chủ yếu vẫn bắt nguồn từ truyền thống trọng nữ ở Nam Bộ.
đặc biệt việc đề cao thờ phụng phật Mẫu có thể do chính những người nông dân khi gia
nhập đạo đã đem cả cái truyền thống thờ nữ thần của mình. ở Nam Bộ, chúng ta biết
những lễ hội lớn nhất là những lễ hội nữ thần: Bà Chúa Xứ và Bà Đen. Bà Chúa Xứ
được xem như vị thần bảo hộ cả Nam Bộ.
Việc tiếp thu truyền thống thờ nữ thần cũng như các truyền thống tín ngưỡng
dân gian khác đã đem lại cho đạo sức hấp dẫn đối với người nông dân, chắc chắn không
phải là công lao của những người khai đạo. Họ không sâu sắc được như thế. Vì ta không
thấy trong thánh ngôn hay sách vở Cao Đài khác thừa nhận gốc gác dân gian của mình.
Họ chỉ tự nhận là Hiệp nhất tam giáo ngũ chi mà thôi. Ngay tại đền thánh ta cũng không
thấy sự hiện diện của Phật Mẫu, mặc dù trên điện thờ đắp nổi đại diện của tất cả các chi
Phật, Tiên, Thánh, Thần, Nho. Rõ ràng Phật Mẫu đại biểu của tín ngưỡng dân gian,
không có địa vị nào trong cái hệ thống "Bác học" ở đây, song thực tế đã được người
nông dân Nam Bộ đưa lên địa vị tột đỉnh, bất chấp cả cái hệ thống kia, trở thành một vị
thần được thờ phụng nhiều nhất, với một hội lễ lớn nhất. Điều lý thú này cho thấy chính
những người nông dân Nam Bộ, với những đóng góp của mình, làm nên những nội
dung cốt yếu của sinh hoạt đạo, đã thật sự tạo lập ra đạo Cao Đài và đem lại sức sống
cho nó.
Một quan niệm đạo đức, lối sống nữa của đạo Cao Đài thuộc về tín ngưỡng dân
gian đó là người Việt Nam vốn có truyền thống coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Hơn bất
cứ một tôn giáo nào, đạo Cao Đài biến việc thờ cúng tổ tiên thành nội dung sinh hoạt
chủ yếu của đạo, khoác cho nó những nghi lễ hết sức cầu kỳ. Có thể nói, nếu việc thờ
cúng tổ tiên chưa trở thành một tôn giáo thì đạo Cao Đài là sự tôn giáo hóa nó.
42
Chính Thượng đế qua cầu cơ, giải thích (bằng tiếng Pháp) việc lập đạo Cao Đài
tại Việt Nam là vì người Việt Nam thực hiện thờ cúng người chết một cách nghiêm cẩn
nhất [34, 31].
Ngay bên cạnh Tòa thánh, một đền thờ trang trọng - Báo Quốc Từ, được xây
dựng để thờ các vị Hùng Vương, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Cường Để. Tại bất cứ
thánh thất nào thì hậu điện cũng là nơi đặt bàn thờ cửu huyền thất tổ (Trong các ngày
cúng giỗ, đây cũng là nơi tổ chức ăn uống trong cộng đồng). Bất cứ điện Phật Mẫu nào,
ngay gian chính điện hai bên bàn thờ Phật Mẫu là hai bàn thờ chữ Chơn Linh Nam Phái
và Chơn Linh Nữ Phái. Tại tư gia các tín đồ đều lập bàn thờ tổ tiên phía dưới bàn thờ
Thiên Nhãn. Trong nội ô Tòa thánh cũng xây dựng 8 bảo tháp lớn với một số lăng mộ
các vị có công lớn với đạo, mỗi họ đạo theo yêu cầu của thế luật, lập một nghĩa địa
riêng [30]. Các ngày lễ đại đàn và tiểu đàn hầu hết là ngày kỷ niệm các vị tổ các đạo và
các vị chức sắc, được tổ chức theo những nghi lễ quy định được chặt chẽ trong các
thánh thất và các điện phật Mẫu.
Tuy nhiên, điều chủ yếu để chúng ta có thể nhận xét rằng việc thờ cúng tổ tiên ở
đạo Cao Đài đã trở thành nội dung chủ yếu của sinh hoạt đạo là: các đám tang ma, cúng
giỗ thực sự được đạo Cao Đài hết sức coi trọng, được coi là công việc thường xuyên
nhất của các thánh thất, được tổ chức với sự tham gia của cả cộng đồng và với những
nghi lễ hết sức cầu kỳ. Trong tổng số 59 bài kinh in trong cuốn kinh thiên đạo và thế
đạo do Hội thánh Tòa thánh Tây Ninh ấn hành năm 1992, ta thấy có tới quá nửa (33 bài)
là các bài dùng trong tang ma, cúng giỗ. ở đây nếu một người chết thì người này sẽ
được quan tâm hết sức chu đáo: kinh khi hấp hối, kinh khi vừa chết, kinh tẩn liệm, kinh
cầu siêu, kinh khai cửu, kinh nhất cửu (cúng sau 7 ngày), rồi nhị cửu (14 ngày)... đến
kinh cửu cửu (81 ngày), kinh tiểu tường (200 ngày kể từ ngày cửu cửu), kinh đại tường
(300 ngày kể từ ngày tiểu tường). Người này là bố hay mẹ thì có kinh tụng cha mẹ qui
liễu, là chồng thì có kinh tụng chồng qui vị, là vợ thì có kinh tụng vợ qui liễu, là anh em
có kinh huynh đệ mãn phần, là bạn bè có kinh cầu bà con thân bằng cố hữu qui liễu, là
43
thầy thì trò đọc kinh khi thầy qui vị... để người này được độ rỗi có kinh cầu siêu, kinh
cầu hồn...
Nghi thức tang lễ còn được qui định cho từng đối tượng chết khác nhau (nam,
nữ, nhi đồng, người chưa nhập đạo, người giữ đủ trai giới 10 ngày trở lên và người
không giữ đủ, người tự vẫn, người bỏ đạo, chức sắc, chức việc đương chức và mãn
chức, chức sắc không giữ trai giới theo phân vị, các chức sắc cấp khác nhau). Mỗi đám
tang đều có ban tổ chức, có nhạc, có dâng sớ, tiến hành 9 -10 lễ nhỏ (cầu hồn, tẩn liệm,
cáo từ tổ, cúng vong đăng điện, phụ tế cầu siêu, đưa linh cữu, hạ huyệt), với những nghi
thức, những bài kinh riêng cùng với các nghi thức tang lễ, nghi thức cúng giỗ cũng hết
sức phức tạp. Tuần cửu và tiểu, đại tường đều theo nghi thức riêng, có bài kinh riêng.
Đại, tiểu tường có tổ chức ăn uống trong cộng đồng. Đặc biệt lễ đại tường (mãn tang)
tiến hành trang trọng hơn cả. Sau khi làm lễ tại thánh thất, người ta rước linh vị người
mất về tư gia. Tại đây nghi thức cũng hết sức cầu kỳ. Một nhóm 6 thanh niên mặc lễ
phục (khác đạo phục) làm nhiệm vụ chấp lễ (2 người) và dâng lễ (4 người). Họ lần lượt
thực hiện các lễ dâng cơm, dâng hoa, dâng rượu, dâng trà. Giữa mỗi lần dâng, đồng nhi
đọc các bài kinh tương ứng và các bài kinh khác theo qui định. Những người dâng lễ
thực hiện những điệu đi hết sức cầu kỳ, thật sự là những điệu múa, thể hiện sự biến hóa
từ vô cực đến lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái... rõ ràng, nếu gạt bỏ những hình thức cầu
kỳ của trang phục, lễ nghi, kinh kệ với vị chứng đàn mang sắc phục thì ta thấy một đám
giỗ bình thường như bất kỳ một đám giỗ ở làng quê khác. Tục thờ cúng tổ tiên đã được
đạo Cao Đài làm cầu kỳ hóa, khoát cho nó một hình thức tôn giáo.
Ngoài ra trong sinh hoạt cộng đồng, tín đồ Cao Đài Tây Ninh hành đạo và xử
theo những luật lệ, lễ nghi đã được quy định trong giáo lý có thể tóm tắt một số nội
dung chủ yếu sau: [31, 10-11].
- Ngũ giới cấm: bất sát sinh (không được sát hại cuộc sống của loài vật); bất du
đạo (không được trộm cắp, tham lam, lừa gạt, hại người), bất tửu nhục (không được
44
uống rượu, ăn thịt quá độ, say sưa mà dẫn đến những việc tội lỗi), bất tà dâm (không
được lấy vợ hoặc chồng người khác, không được đàng điếm xúi giục người khác vi
phạm luân thường), bất vọng ngũ (không được nói dối, nói thô tục, nói không giữ lời).
- Tứ đại điều quy: tức 4 điều trau dồi đức hạnh.
+ "Phải tuân theo lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bậc thấp hơn điều độ,
lấy lẽ hòa người. Lỡ lầm, lỗi phải ăn năn chịu thiệt".
+ "Chớ khoe tài kiêu ngạo, quên mình làm nên cho kẻ khác. Giúp người nên
đạo, đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp người hiền".
+ "Tiền bạc xuất nhập phân minh, đừng vay mượn không trả. Đối với trên dưới
đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lề, dưới giáng trên, đừng thất khiêm cung".
+ "Trước mặt sau lưng đều đồng một bậc, đừng kính trước rồi khinh sau. Đừng
thấy đồng đạo tranh đua ngồi xem không để lời hòa giải. Đừng cậy quyền mà yểm tài
người".
Tóm lại là 4 điểm: ôn hòa, cung kính, khiêm tốn, nhường nhịn (ôn - cung -
khiêm - nhường).
- Ăn chay: là một quy định chặt chẽ của đạo. Ăn chay từ 6 ngày (lục trai) đến 10
ngày (thập trai) và ăn chay trường (trường trai). Việc ăn chay như thế nào thì có ảnh
hưởng đến khi chết sẽ được tổ chức tang lễ theo nghi thức như thế ấy. Đối với chức sắc
từ lễ sanh, nếu giữ được trường chai thì đưa vào khách đình (một hội trường rộng trong
Tòa thánh chuyên dùng cho việc này) và Báo Ân Từ làm tang với những nghi thức hết
sức cầu kỳ.
45
Đạo Cao Đài rất chú trọng giáo dục tín đồ về đạo đức theo tiêu chuẩn đạo đức
nho giáo như: "tam cương" (Quân - Phu - Phụ: Vua - Tôi; Cha - Con; Vợ - Chồng);
"ngũ thường" (Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín); đối với phụ nữ thì "tam tòng" (tại gia tòng
phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử); "tứ đức" (công, dung, ngôn, hạnh) v.v...
Người theo đạo Cao Đài chia thành hai bậc: Bậc hạ thừa, là những tín đồ bình
thường, tùy theo khả năng, điều kiện mà thực hiện các quy định nói trên; Bậc thượng
thừa, chủ yếu là chức sắc (từ giáo hữu trở lên) phải thực hiện các luật lệ trên một cách
nghiêm túc, triệt để hơn. Ví dụ: phải xuất gia tu hành, ăn chay trường, hiến thân trọn đời
cho đạo. Phái Cao Đài Ban chỉnh đạo còn có thêm bậc tu trung thừa giành cho các chức
sắc phẩm lễ sanh và tương đương, chức sắc bậc trung thừa tú "nửa đời nửa đạo". Một số
phái như Cao Đài Tiên thiên, Cao Đài Ban chỉnh đạo... còn qui định tín đồ chức sắc để
râu tóc.
Từ sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng chính người nông dân Nam Bộ đã thực
sự đem lại sức sống cho đạo Cao Đài. Quá trình hình thành của đạo Cao Đài cũng
chính là quá trình người nông dân Nam Bộ gia nhập đạo. Bởi vậy chính họ có ảnh
hưởng lớn, nếu không nói là quyết định nội dung sinh hoạt đạo, tác động đến mọi mặt
đời sống và đạo đức của tín đồ Cao Đài và đời sống tinh thần người dân Tây Ninh.
2.3. Đạo CAO Đài Với VĂN HóA Nghệ Thuật
Là một tôn giáo xây dựng nội dung sinh hoạt đạo gắn liền với các hoạt động
văn hóa nghệ thuật tiêu biểu truyền thống của cư dân Nam Bộ, cư dân vùng đất mới.
2.3.1. Giá trị văn hóa nghệ thuật biểu hiện qua hệ thống các biểu tượng
trong kiến trúc và nghi lễ của lễ hội Cao Đài
46
Lễ hội dân gian là một hình thái biểu hiện đặc trưng của văn hóa dân tộc với
những biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa. Thế giới biểu tượng là hạt nhân trung tâm của
mọi lễ hội không có lễ hội nào mà không có thế giới của các biểu tượng. Hệ thống kiến
trúc và lễ hội Cao Đài - một bộ phận của lễ hội dân gian, cũng thể hiện những giá trị văn
hóa truyền thống thông qua các biểu tượng tạo nên cái "thiêng liêng "gắn bó sức mạnh
cộng đồng.
Trong các ngày lễ hội của đạo Cao Đài thì đại lễ vía Đức Chí Tôn là một trong
9 đàn lễ hàng năm của đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức đạo Cao Đài. Trong 9 đàn lễ này
(1) có 5 đại lễ thì đại lễ vía Đức Chí Tôn là đại lễ được coi quan trọng nhất. Kế đó là đại
lễ hội yến Diêu Trì. Qua việc tổ chức các ngày lễ hội ta thấy Cao Đài có một phong
cách tôn giáo thường ứng dụng các phương pháp biểu tượng hóa trong mọi biểu hiện có
thể có trong kiến trúc các nơi thờ tự, trong cấu trúc chung của các công trình, hoặc trong
động tác, hành vi ở đời sống tại gia, cũng như ở Tòa thánh hoặc thánh thất của một đạo
hữu.
Hệ thống các biểu tượng thể hiện rõ nét trong kiến trúc của đền thánh Cao Đài
Tây Ninh (Tòa thánh Trung ương). Tòa thánh Trung ương xây cất trong khu nội ô, thuộc
địa phận làng Long Thành, quận Phú Khương. Công trình bắt đầu xây móng năm 1933,
khởi công năm 1936, hoàn thành năm 1947 và khánh thành ngày 31-1-1955.
Là một cấu trúc liền khối, Tòa thánh gồm 3 đài lần lượt từ phía trước đến sau:
Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng đài, Bát Quái Đài, với dáng hình tổng thể như con long mã.
Tòa thánh dài 136m, cao 36m, rộng 40m. Quanh Tòa thánh được trang trí bằng những
hình đắp khắc hoa dây và trái nho (dây nho là tinh, rượu nho là khí, trái nho là thần)
Tinh - Khí - Thần có hợp nhất thì mới đắc đạo). Trên đền thánh có nhiều tượng Thiên
Nhãn nằm giữa hình tam giác, bên ngoài khung này lại có một tia sáng phản chiếu được
bao bọc trong khuôn hình vuông mà xung quanh là các hình hoa sen, lá sen và gương
sen (Thiên Nhãn: Trời, tam giác tượng trưng Nho - Phật - Lão; 16 tia bao quanh Thiên
47
Nhãn, chín tia tượng trưng cửu thiên khai hóa, bảy tia dưới tượng trưng thất tình: buồn,
giận, mừng, vui, thương, ghét, ham muốn; những hình hoa sen, ngó sen chung quanh
Thiên Nhãn tượng trưng sự tạo lập ra vũ trụ: Thiên Nhãn ở giữa là thái cực, hai cụm sen
trên dưới là lưỡng nghi hay âm dương, bốn búp sen hai bên là tứ tượng, tám lá sen ở
giáp vòng là bát quái và 12 ngó sen là thập nhị khai thiên tức 12 con giáp. Số 12 là số
riêng của Đức Chí Tôn; ngoài ra 10 bông sen tượng trưng cho thập phương chư phật
(tức là cõi Niết bàn). Tóm lại các biểu tượng thể hiện ý nghĩa Đức Chí Tôn đã qui
nguyên tam giáo để lập ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với mục đích cứu vớt chúng sinh.
Có thể nói trong toàn bộ kiến trúc Tòa thánh mỗi chi tiết đều là các biểu tượng
mang ý nghĩa tôn giáo sâu xa thiêng liêng.
2.3.2. Giá trị các loại hình văn hóa nghệ thuật trong lễ hội Cao Đài
Trong các lễ hội Cao Đài, các loại hình văn hóa nghệ thuật mang đậm các yếu
tố văn hóa cổ truyền, tính cộng đồng và tính lịch sử của cư dân vùng đất Tây Ninh,
chính những yếu tố này đã tạo nên sự đặc sắc cho lễ hội Cao Đài, làm cho hội thêm hào
hứng và có tính thẩm mỹ cao:
- Cộ tiên và rước cộ vừa là biểu tượng của truyền thống tôn thờ nữ thần, vừa là
sự biểu dương sức mạnh cộng đồng, phô diễn cái đẹp, cái hay, gợi mở tình cảm cộng
đồng trong mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại - Một biểu tượng sinh động của hội cổ
truyền.
- Múa tứ linh và rồng nhang là một loại hình văn hóa truyền thống của nhân dân
Việt Nam, biểu hiện tính thiêng và phúc lành được biểu diễn trong các ngày đại lễ vía
Đức Chí Tôn và Đại lễ hội Diêu Trì hàng năm.
48
- Dàn nhạc dân tộc trong lễ hội Cao Đài là dàn nhạc dân tộc với các nhạc cụ cổ
truyền đang bị mai một hiện nay. Sự phục hồi giữ gìn những nhạc cụ này là điều đáng
trân trọng.
- Múa trống Sayam là hình thức nghệ thuật dân gian độc đáo của người Khơme,
loại hình nghệ thuật này chứng tỏ vai trò của người Khơme trong những ngày đầu hình
thành vùng đất Tây Ninh, hình thành đạo Cao Đài, thể hiện sự phong phú của cộng
đồng cư dân ở Tây Ninh.
- Các loại phẩm vật trưng bày, các tích truyện bằng con rối - được trưng bày
hàng năm vào dịp đại lễ vía Đức Chí Tôn, bộc lộ được sự tài hoa của các nghệ nhân dân
gian. Đây cũng là một loại hình nghệ thuật cổ truyền cần tôn tạo giữ gìn.
Đạo Cao Đài rất có ý thức trong giữ gìn và tôn tạo các giá trị văn hóa cổ truyền
thông qua các loại hình sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của lễ hội, dẫu rằng những giá trị
này không còn nguyên vẹn mà đã bị pha trộn đi rất nhiều.
2.3.3. Giá trị thẩm mỹ ứng xử trong lễ hội Cao Đài
Lễ hội tôn giáo cũng như những lễ hội khác bao giờ cũng thể hiện tâm linh con
người hướng về cái được xem là thiêng liêng, cao cả, huyền bí mà người trần chỉ cảm
thấy chớ không nhìn thấy. Cái thiêng liêng của lễ hội được tạo thành bằng những hành
vi thẩm mỹ, bằng chính tính thẩm mỹ của lễ hội, lễ hội Cao Đài cũng chứa đựng những
giá trị thẩm mỹ trong ứng xử.
- Thẩm mỹ ứng xử đầu tiên thể hiện mối quan hệ con người với đấng thiêng
liêng, với những hành vi thành kính, nghiêm trang của các tín đồ, hành vi khi tế, dâng
hương, rước kiệu. Tính thẩm mỹ còn thể hiện trong cách ăn mặc khi dự lễ: chức sắc
49
mặc đại phục như qui định, mới và lộng lẫy như các vị quan triều đình phong kiến khi
xưa. Tín đồ và khách hành hương đi lễ cúng ăn mặc đẹp hơn những ngày thường.
- Thẩm mỹ ứng xử thứ hai là giữa con người với con người. Những người đi dự
lễ hội Cao Đài đều có chung một niềm tin, một thái độ thánh kính khi đến với lễ hội họ
đối xử với nhau tốt đẹp trên cơ sở là "đạo hữu" với nhau, điều đó dễ dàng nhận thấy
trong khi tham gia, thưởng thức các loại hình của hội, khi cùng ăn cơm lấy lộc tại trai
đường. ứng xử rất đẹp ấy còn thể hiện đặc biệt rõ nét trong việc tham gia dự lễ cưới, lễ
tang trong đạo, có thể xem đó là một biểu hiện tốt đẹp nhất mà các tôn giáo khác trong
tỉnh chưa đạt được.
- Trong thẩm mỹ ứng xử với biểu tượng (vật thờ, kiến trúc di tích) những người
tham dự lễ hội Cao Đài cũng có sự sùng kính đặc biệt. Trong những ngày lễ hội các
biểu tượng này càng được tín đồ chăm sóc tốt hơn để trở thành những vật đẹp nhất trong
lễ hội.
Lễ hội là một môi trường văn hóa. ý nghĩa văn hóa toát ra từ biểu tượng hội (di
tích, vật phẩm, vật thiêng...) từ cảnh quan (thiên nhiên, đường xá, cờ quạt), từ người tổ
chức hội đến người dự hội. Đó là sự tổng hòa con người với thiên nhiên, con người với
thần linh, cá nhân với cộng đồng; cảnh quan với biểu tượng; ngôn ngữ với hành vi... xét
từ sự cộng cảm đa chiều đó, có thể coi lễ hội là môi trường đậm tính văn hóa, bởi ở đây
biểu lộ nhiều thứ văn hóa ứng xử khác nhau, giữa con người và thần linh, giữa con
người với biểu tượng, giữa công chúng và người tổ chức, giữa công chúng với nhau,
giữa con người với thiên nhiên và với chính mình. Toàn bộ mối quan hệ bộc lộ mối
quan hệ trong lễ hội, khiến trung tâm hội trở nên một đời sống của ước vọng, được thu
nhỏ lại, tinh chắc lại [51, 32].
50
Với ý nghĩa có, lễ hội Cao Đài Tây Ninh với khả năng lưu giữ những giá trị văn
hóa, có thể coi như môi trường lý tưởng của sự khoan dung,hòa đồng, cộng cảm và đầy
nhân tính.
2.3.4. Những hạn chế của lễ hội Cao Đài Tây Ninh
Mặc dù là một sinh hoạt văn hóa tinh thần, lễ hội Cao Đài mang nhiều yếu tố
văn hóa và những giá trị xã hội tích cực.Tuy nhiên, cũng như những lễ hội tín ngưỡng
tôn giáo khác, lễ hội tôn giáo Cao Đài có những mặt hạn chế nhất định, tồn tại ngay
trong bản thân nó.
Ngoài những hạn chế mang tính chất chung về mặt hình thức, tổ chức... vẫn
thường có ở các lễ hội, cái hạn chế lớn nhất của lễ hội Cao Đài là chiều sâu tư tưởng
chứa đựng trong hoạt động lễ hội. Có thể nói lễ hội Cao Đài tuy có qui mô lớn, phong
phú hấp dẫn, nhưng tính tư tưởng, tính giáo dục đạo đức không cao, điều mà người ta
rất dễ tìm thấy ở các lễ hội Phật giáo. Đến với lễ hội Cao Đài, người dự hội chỉ thấy sự
phô trương, hào nhoáng bên ngoài, chỉ thỏa mãn nhu cầu cộng cảm, giao lưu, thỏa mãn
trí tò mò... như tìm đến một trò chơi lớn. Còn khả năng nhận thức, sự thu nhận các giá
trị đạo đức, suy ngẫm về tâm linh, vũ trụ quan, nhân sinh quan không được bao nhiêu.
Điều này cũng dễ hiểu, bởi bản thân giáo lý đạo Cao Đài không có chiều sâu tư tưởng,
mọi hình thức lễ nghi đều được bình dân hóa để phù hợp với trình độ và tạo sự hấp dẫn
nơi tín đồ. Mặt khác, lễ nghi đạo Cao Đài rất rườm rà, phức tạp, mang tính chất thần bí,
rất dễ dẫn đến sự mê tín (lễ tang, lễ cầu lành bệnh...). Đặc biệt, cơ bút trong những cơ sở
của việc khai sinh ra đạo Cao Đài đã bị lợi dụng trong một thời gian dài, dẫn đến sự suy
vi của đạo là hình thức không thể chấp nhận cả về phương diện khoa học lẫn trong thực
tiễn tôn giáo và cả trong đời thường. Chính vì thế mà bằng quyết định ngày 6-7-1976
Tòa thánh Tây Ninh đã hứa không dùng cơ bút nữa [46, 48]. Tuy vậy cơ bút đã từng
được coi là thuật thiêng liêng của đạo Cao Đài được nhiều người tôn sùng, mê hoặc nên
nó vẫn còn có thể trỗi dậy để gây tác hại, nhất là trong những dịp lễ hội lớn của Cao Đài.
51
Tuy nhiên, "không nên căn cứ vào một số mặt tiêu cực nào đó mà phủ định tính
chất lành mạnh vốn là những nhân tố cơ bản trong lễ hội dân gian" [12, 188]. ở đây có
thể xem ý kiến trên cũng là ứng xử đúng đối với lễ hội Cao Đài.
Có thể nói hệ thống các biểu tượng trong kiến trúc và nghi lễ hội Cao Đài là nét
đặc sắc trong văn hóa nghệ thuật nó đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh của cộng
đồng cư dân Tây Ninh. Những giá trị văn hóa nghệ thuật trong kiến trúc và lễ hội Cao
Đài Tây Ninh vừa biểu hiện được tâm thức của người dân Tây Ninh, vừa lưu giữ được
những giá trị văn hóa truyền thống, vì thế có sức hấp dẫn riêng, đặc biệt, thu hút không
chỉ tín đồ, người dân Tây Ninh mà còn là ngày lễ hội lớn của cư dân người Nam Bộ. Lễ
hội Tây Ninh có thể xem là một hiện tượng văn hóa đặc sắc cần được khảo cứu khi
muốn tìm hiểu về tôn giáo hoặc văn hóa dân gian hiện nay.
Chương 3
PHƯƠNG Hướng Và Những Giải Pháp Chủ Yếu
KHƠI Dậy Mặt Tích Cực, Khắc Phục Mặt TIÊU Cực
Của Đạo CAO Đài Nhằm XÂY Dựng Đời Sống TINH Thần ở TÂY NINH Hiện
NAY
52
3.1. PHƯƠNG Hướng Và Các QUAN Điểm Chỉ Đạo
Khác với các tôn giáo khác đã hình thành phát triển trước khi du nhập vào Việt
Nam. Đạo Cao Đài hình thành cũng là quá trình người nông dân Nam Bộ gia nhập đạo.
Chính vì thế họ có ảnh hưởng lớn nếu không nói là quyết định đến nội dung sinh hoạt
đạo. Xuất phát từ đó, chúng ta cần đối xử với đạo Cao Đài như đối xử với một cộng
đồng nông dân Nam Bộ, đáp ứng thỏa đáng những nhu cầu chính đáng nói trên của
nhân dân, đồng thời cần thiết phải có những qui định riêng thích hợp với đạo, đặc biệt là
về phương diện tổ chức và chức năng hoạt động, phòng ngừa xu hướng chính trị hóa có
thể diễn ra. Tất cả mọi hoạt động đều hướng tới đoàn kết toàn dân, khơi dậy mặt tích
cực, khắc phục mặt tiêu cực của đạo Cao Đài nhằm xây dựng đời sống tinh thần ở Tây
Ninh hiện nay, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Để thực hiện
thành công phương hướng trên, cần chú ý:
- Đạo Cao Đài ra đời dựa trên những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng
sâu xa ở Nam Bộ sau chiến tranh thế giới lần thứ I, khi thực dân Pháp đẩy mạnh việc
khai thác thuộc địa. Đạo Cao Đài phản ánh sự bế tắc của nông dân Nam Bộ trong cuộc
sống và cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, phản ánh sự sa sút, suy thoái của các tôn
giáo, đạo lý đương thời. Đạo Cao Đài là một hiện tượng khách quan.
- Quá trình tồn tại và phát triển của đạo Cao Đài là quá trình chia rẽ về tổ chức
và phân hóa về thái độ chính trị, nhưng trong tình hình hiện nay không nhấn mạnh về sự
phân biệt này, vì như vậy sẽ không có lợi. Tuy nhiên về chủ trương chính sách và xử lý
cụ thể có thể xem xét đặc điểm của từng hệ phái.
- Mặc dù đạo Cao Đài mới ra đời, tồn tại ở một số địa phương, không có mối
quan hệ chỉ đạo quốc tế và trong quá trình phát triển có những yếu tố chính trị phức tạp.
Nhưng đạo Cao Đài có đầy đủ những thành tố của một tôn giáo: Hệ thống giáo lý, luật
lệ, lễ nghi, đội ngũ chức sắc, tổ chức giáo hội, cơ sở nơi thờ tự... Đặc biệt đạo Cao Đài
53
mang tính chất quần chúng khá rộng rãi (khoảng trên 2 triệu tín đồ), mức độ giáo lý mờ
nhạt nhưng tín ngưỡng sâu sắc và luôn có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo bình thường. Hơn
nữa, tín đồ đạo Cao Đài đa số là nông dân có tinh thần yêu nước, từng ủng hộ tham gia
cách mạng. Đó vừa là khả năng vừa là nhu cầu ta phải nắm chắc đạo Cao Đài, đưa đạo
Cao Đài đi theo sự lãnh đạo của Đảng góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Do
vậy, cần nắm chắc các quan điểm:
- Nhìn nhận sự tồn tại và hoạt động của đạo Cao Đài trong khuôn khổ chính
sách pháp luật, cũng không phân biệt đối xử giữa tín đồ các phái Cao Đài trong chính
sách tự do tín ngưỡng và pháp luật của Nhà nước.
- Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng bao gồm cả việc tuyên truyền giáo
dục học tập quần chúng trong các đoàn thể nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần, nâng cao dân sinh, dân trí, thực hiện công bằng, dân chủ, coi đây là khâu cơ bản
quyết định, đồng thời coi trọng công tác tranh thủ chức sắc, khẩn trương xây dựng lực
lượng cốt cán trong các hệ phái Cao Đài.
- Không ngừng nâng cao cảnh giác, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hoạt
động lợi dụng đạo Cao Đài của bọn phản động ở trong nước và ngoài nước. Nhất là âm
mưu chống phá cách mạng nước ta bằng "diễn biến hòa bình " thông qua đạo Cao Đài.
- Trên cơ sở đó phát huy tinh thần yêu nước và những nhân tố tích cực của tín
đồ chức sắc. Hạn chế những mặt tiêu cực về chính trị và tôn giáo, đưa các hệ phái Cao
Đài, đặc biệt Cao Đài Tây Ninh trở thành một tôn giáo hoạt động tuân thủ chính sách,
pháp luật đi theo sự lãnh đạo của Đảng gắn bó với chế độ mới, với dân tộc.
3.2. Một Số Giải Pháp Chủ Yếu
54
Để thực hiện được những phương hướng theo các quan điểm chỉ đạo trên cần
phải có một số giải pháp thực hiện các quan điểm ấy, biến các quan điểm ấy thành hiện
thực.
Từ những yếu tố tích cực và hạn chế của tôn giáo Cao Đài cùng với thực tiễn
sinh động của công tác Cao Đài vận tại địa phương, luận văn sẽ trình bày những giải
pháp chính cho việc vừa phát huy mặt tích cực vừa hạn chế mặt tiêu của tôn giáo này.
Tuy nhiên, luận văn không trình bày tách bạch nhóm các giải pháp phát huy mặt tích
cực với nhóm giải pháp hạn chế mặt tiêu cực. Bởi vì tính biện chứng của vấn đề cho
chúng ta kết luận các giải pháp không thể tách bạch, bởi vì khi phát huy được mặt tích
cực thì chính nó lại góp phần hạn chế mặt tiêu cực và ngược lại. Mặt khác trình bày tách
bạch vấn đề ít có ý nghĩa vận dụng trong hoạt động thực tiễn, tính khả thi không cao.
Kiến giải lý luận phải phục vụ cho yêu cầu hoạt động thực tiễn nên luận văn sẽ trình bày
cách tiếp cận giải pháp theo từng nhóm các vấn đề với ý nghĩa thiết thực phù hợp nhằm
đạt được mục tiêu là góp phần xây dựng đời sống tinh thần của người dân Tây Ninh.
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức và chính sách
Trước hết cần quán triệt nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo Cao Đài hiện nay
là công tác Cao Đài vận, công tác vận động quần chúng. Đây là quan điểm định hướng
lớn cho công tác tôn giáo trong vùng có số đông quần chúng là tín đồ Cao Đài. Đó là
quá trình xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân vùng đạo, giữa Nhà
nước với quần chúng tín đồ. Quá trình đó phải trên cơ sở tuân thủ tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo và tư tưởng của Người về công tác dân vận.
Mặc dù tôn giáo chỉ là "trái tim của thế giới không có trái tim" là " Hạnh phúc hư
ảo của nhân dân", là "những bông hoa giả điểm trang cho xiềng xích thật", nhưng nó lại tồn
tại đã hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại.
55
Dưới chủ nghĩa xã hội tôn giáo vẫn còn điều kiện tồn tại, và cũng chưa thể nói
rằng khi nào thì những điều kiện đó mất đi. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải
chung sống lâu dài với tôn giáo, đối với nước ta vấn đề đặt ra là: hiện thực nước ta hiện
nay còn có cơ sở để tôn giáo tồn tại và phát triển không?
Lâu nay vẫn có số đông ý kiến cho rằng, khi giai cấp vô sản nắm chính quyền,
xóa bỏ ách áp bức, xóa bỏ chế độ người bóc lột người thì không còn cơ sở kinh tế - xã
hội cho tôn giáo nảy sinh và phát triển. ở nước ta cũng vậy, tôn giáo tồn tại với tư cách
là một hiện tượng tàn dư. Điều này chúng ta không nên vội kết luận, mà phải suy nghĩ
một cách nghiêm túc và xem ý kiến đó với hiện thực có đúng không ?
- Trước hết phải thấy "đặc trưng cơ bản nhất của ý thức tôn giáo đó là niềm
tin... (tin ở siêu nhiên, siêu nhiên có tình cảm qua lại với con người). Do vậy vấn đề tồn
tại dai dẳng của tôn giáo lại là vấn đề tâm lý tôn giáo hơn hệ tư tưởng của nó. Nguồn
gốc tâm lý tôn giáo lại gắn rất chặt với tâm lý tiêu cực của con người nhất là khi con
người cô đơn, đau buồn, bất hạnh. Nhiều người đi vào tôn giáo cái chính không phải là
nguyên nhân kinh tế, trình độ tri thức mà chủ yếu là ở nguyên nhân tâm lý. Tất nhiên
tâm lý tiêu cực không dẫn đến tâm lý tôn giáo như một tất yếu" [27, 48].
Thực tế một bộ phận nhân dân chúng ta chưa có điều kiện nắm bắt được những
quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, đại bộ phận còn phải đánh vật với cái
ăn. Những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi trong cuộc sống còn phổ biến. Tình hình
dân chủ và dân chủ chân chính đang còn thiếu, tự do vô chính phủ, phường hội thì lại
quá thừa. Tiêu cực đang phát triển, quan hệ xã hội đang xấu đi, nỗi bất hạnh vẫn tiếp tục
diễn ra trong một bộ phận dân cư... sự quan liêu, hống hách, cửa quyền... còn tồn tại
(khá nhiều) trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Tất cả những hiện tượng nêu trên đang làm cho không ít người mất niềm tin vào
chính mình. Họ đang phải tiếp nhận sự lo âu, sự sợ hãi như là cái gì xa lạ, bí ẩn với
56
chính mình. Hiện thực trên làm ta nhớ lại lời chỉ dẫn của Ăngghen "Khi nào con người
không những chấm dứt được cái tình trạng chỉ biết có mưu sự mà lại còn định đoạt cho
thành sự nữa thì chỉ khi đó cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản
ánh vào tôn giáo, mới sẽ mất đi và do đó chính ngay sự phản ánh tôn giáo cũng sẽ mất
đi vì lẽ đơn giản là sẽ không có gì phản ánh" [1, 547]. ý thức tôn giáo không chỉ là quan
niệm về thế giới mà còn là tình cảm với thế giới, tôn giáo là hình thái ý thức cực kỳ bảo
thủ, nó có sức ỳ rất lớn Một số nhà nghiên cứu cho rằng đến giai đoạn cao của chủ
nghĩa cộng sản, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Những dự đoán đó chờ khoa học chứng minh,
lịch sử trả lời, còn ở đây vấn đề là cần chống chủ quan duy ý chí, đó là nguồn gốc của
những lệch lạc trong chỉ đạo và thực hiện công tác tôn giáo như: nóng vội, đơn giản
trong suy nghĩ, dùng mệnh lệnh hành chính khi giải quyết vấn đề tôn giáo, khe khắt gây
phiền hà thậm chí còn xúc phạm thô bạo đến tình cảm tôn giáo của quần chúng khi xử
lý những công việc hàng ngày. Chúng ta cần phải nhìn nhận rằng: tôn giáo nó là một
nhu cầu khách quan sinh ra trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nó là nhu cầu đền
bù hư ảo, đền bù cho sự bất hạnh. Khi điều kiện xã hội, điều kiện cuộc sống đang còn
nảy sinh những ảo tưởng mà muốn dẹp ngay ảo tưởng thì lại cũng chỉ là chuyện ảo
tưởng mà thôi. Và ảo tưởng đó sẽ trở thành trọng tội khi người ta mưu toan thực hiện
nó. Từ những luận điểm trên, soi vào thực tế ta thấy đã có không ít sai lầm trong thời
gian qua đối với công tác tôn giáo. Một số địa phương gây khó khăn hoặc cấm đoán
những hoạt động tôn giáo bình thường, gây nên phản ứng không tốt và tạo khe hở cho
bọn xấu và kẻ thù len vào chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, đi đến nghi ngờ chính sách tôn
giáo của Đảng. Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh cho luận điểm đúng đắn của các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khi cho rằng: Đối với tôn giáo sử dụng những
biện pháp hành chính, cưỡng bức bạo lực theo kiểu "tuyên chiến với thượng đế" chỉ kéo
dài thêm sự tồn tại của nó. Đối với tôn giáo Cao Đài trong thời gian qua, công tác Cao
Đài vận ở Tây Ninh đã đạt được những thành tựu nhất định, đã vận động quần chúng tín
đồ khắc phục những mặt cản trở sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong công tác chống
bọn phản động đội lốt tôn giáo. Tuy nhiên, trong hoạt động tôn giáo vẫn không sao
tránh khỏi những thiếu sót, yếu kém cần khắc phục. ở đây chỉ xin nêu một số điểm yếu
57
cơ bản nhất để từ đó rút ra phương pháp khắc phục đề ra những chính sách phù hợp đối
với công tác tôn giáo.
- Trong công tác Cao Đài vận ở địa phương nói chung chưa được đầu tư đúng
mức như: công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng chưa sâu. Chưa đi sâu vào tâm tư
tình cảm của người có đạo, chưa quan tâm đúng mức đến các mặt sinh hoạt văn hóa xã
hội cho quần chúng tín đồ, do đó kẻ địch lợi dụng sơ hở lôi kéo quần chúng. Đặc biệt
trong lĩnh vực đời sống vật chất, Đảng và Nhà nước có lúc, có nơi chưa chăm lo được cuộc
sống tín đồ một cách thiết thực làm cho họ suy giảm lòng tin vào Đảng, tăng lòng tin vào
đạo.
- Công tác đào tạo cán bộ cốt cán, xây dựng các đoàn thể cách mạng, xây dựng
Đảng còn là khâu yếu nhất trong công tác quần chúng, từ đây làm cho mối quan hệ gắn
bó mật thiết giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể và quần chúng đặc biệt đối với quần
chúng là tín đồ Cao Đài có khi chưa được xây dựng tốt.
- Việc chấp hành chính sách so với ngày mới giải phóng tuy có đỡ sai lầm hơn
nhưng cũng còn nhiều lệch lạc trong nhiều trường hợp cụ thể. Có nơi lãnh đạo địa
phương còn khắt khe, hẹp hòi đối với quần chúng tín đồ tốt, xử lý thô bạo đối với chức
sắc, đụng chạm đến tình cảm tôn giáo của quần chúng, tạo nên tâm lý lo lắng trong
đồng bào có đạo.
Những thiếu sót trên đây có nguyên nhân khách quan do tình hình chung của
đất nước và xã hội trong những năm qua có nhiều diễn biến phức tạp. Nhưng chủ yếu là
do những nguyên nhân chủ quan sau:
- Quan điểm nhận thức thức lý luận Mác - Lênin về tôn giáo và nhận thức chính
sách tôn giáo của Đảng trong cán bộ làm công tác Cao Đài vận còn yếu. Chủ trương,
chính sách đối với Cao Đài cũng không được cán bộ quán triệt đầy đủ. Đạo Cao Đài là
58
một tổ chức chính trị mang màu sắc tôn giáo, đó là mặt chủ yếu, song vì tập hợp đông
đảo tín đồ nên tính chất quần chúng của đạo Cao Đài cũng rất sâu sắc. Như vậy đạo Cao
Đài vừa có tính chính trị, vừa có tính tôn giáo. không thể không chú ý đúng mức đến hai
tính chất này trong công tác Cao Đài vận. Do không nhận rõ tính chất này trong công
tác, cán bộ ta có nhiều sai lầm lệch lạc như: có nơi lại muốn khôi phục để phát triển nó;
có nơi lại nôn nóng muốn dùng biện pháp hành chính đơn thuần, không tính đến tình
cảm tôn giáo lâu dài của hàng triệu tín đồ. Trong chỉ đạo giữa ba khâu công tác: giáo
dục vận động quần chúng, cải tạo giáo hội, tranh thủ phân hóa hàng ngũ chức sắc; và
trấn áp phản động thì khâu giáo dục vận động quần chúng nhất là thanh niên, thiếu nhi
gắn với việc xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng tín đồ là chủ yếu nhất lại là
khâu yếu nhất hiện nay và chưa được quan tâm đúng mức.
- Bộ máy làm công tác Cao Đài vận vừa thiếu lại vừa yếu, số cán bộ lâu năm có
kinh nghiệm thì đã nghỉ hoặc chuyển công tác. Số mới thì ít lại thiếu kinh nghiệm công
tác, do đó công tác Cao Đài vận gặp nhiều khó khăn trở ngại và tiến triển chậm.
- Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, quần chúng tín đồ phấn khởi trở về
quê cũ làm ăn (đa số là những người bị ép vào đạo, đạo giấy, đạo ngọn...) trút hết gánh
nặng chiến tranh kéo dài suốt mấy mươi năm, hình như họ cũng muốn trút bỏ cả cái tôn
giáo miễn cưỡng ấy. Cho nên số tín đồ Cao Đài đã giảm đi rõ rệt. Gần đây khi trở về
thực tại với đời sống khó khăn, những tiêu cực xã hội trong kinh tế thị trường phát triển,
công bằng xã hội bị vi phạm, niềm hy vọng lớn lao, sự tin tưởng vào cuộc sống tốt đẹp
khi Đảng nắm chính quyền bị suy giảm, bọn cầm đầu tôn giáo lại tiếp tục tuyên truyền
vận động bằng nhiều thủ đoạn, vì thế tín đồ Cao Đài có chiều hướng tăng.
Thực tế cho thấy ở đâu, nơi nào tình hình kinh tế sa sút, xã hội mất ổn định,
công bằng xã hội và quyền tự do của con người bị vi phạm thì ở đấy lúc đó số lượng tín
đồ tăng lên. Nói như thế không có nghĩa phủ nhận những thành tựu trong những năm
qua, song, chúng ta đều nhận thấy rằng sinh hoạt tôn giáo Cao Đài trong mấy năm gần
59
đây phát triển rõ rệt. Trước thực trạng đó chúng ta cần phải tìm ra những giải pháp đúng
đắn, bằng những chính sách cụ thể thiết thực hướng các hoạt động tôn giáo vào hoạt
động tín ngưỡng đơn thuần nhằm mang lại đời sống tinh thần lành mạnh, phục vụ tốt
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
+ Chăm lo đời sống vật chất cho nhân dân theo đạo Cao Đài - Giải pháp thiết
thực để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của tôn giáo Cao Đài.
Tôn giáo là một hình thái ý thức phản ánh hiện thực xã hội bằng phương thức
đặc biệt. Nguồn gốc ra đời của tôn giáo cho thấy sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của
nó không nằm ngoài quy luật phát triển mang tính lịch sử. Lênin chỉ rõ: "Sự phá sản đột
ngột, bất ngờ những ngẫu nhiên làm cho người ta sợ diệt vong, bị biến thành người ăn
xin, thành bần cùng, một gái điếm và dồn họ vào cảnh chết đói... chính là nguồn gốc sâu
xa của tôn giáo hiện đại mà người duy vật phải chú ý trên hết và trước hết" [19, 526].
Do vậy vấn đề có Tiên, Phật, Thánh, Thần hay không? Vấn đề có Hội Long Hoa và
ngày tận thế hay không? là câu trả lời chủ yếu ở thực tiễn. Rõ ràng đấu tranh với tôn
giáo thực ra là phải đấu tranh với "cái thế giới" mà niềm vui tinh thần là tôn giáo chứ
không phải trực tiếp "tấn công vào thần thánh" hay "truy kích" thượng đế [45, 34].
Cuộc đấu tranh với điều kiện xã hội đóng vai trò làm cơ sở cho tôn giáo tồn tại
nói chung, cơ sở cho tôn giáo Cao Đài tồn tại nói riêng bao gồm nhiều vấn đề trên nhiều
lĩnh vực khác nhau, nhưng tập trung nhất có tính thiết yếu là giải pháp nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho quần chúng tín đồ.
Muốn xóa bỏ hạnh phúc hư ảo thì phải xây dựng một hiện thực tốt đẹp với hạnh
phúc thật sự cho đồng bào có đạo. "Thiên đường hư ảo" chỉ có thể đánh đổi bằng "Thiên
đường hiện thực" và thiên đường hiện thực không thể xây bằng lòng tin tôn giáo hoặc
những vầng hào quang thần thánh hay những bông hoa giả... mà bằng cơ sở vật chất cụ
thể, thật sự, trong hiện thực do chính bàn tay con người làm ra ở cái thế giới trần tục này
60
chứ không đâu khác hơn. Vì vậy công việc đầu tiên là phải tập trung cải thiện và nâng
cao đời sống kinh tế, rồi đến văn hóa xã hội cho quần chúng tín đồ. Đó là tiền đề cho
những việc tiếp theo.
Để thực hiện được chính sách chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng
bào có đạo, đầu tiên phải tiến hành một chương trình xây dựng và phát triển nông thôn
toàn diện cho vùng tôn giáo Cao Đài. Đặc biệt huyện Hòa Thành nơi có đến 88,81%
đồng bào theo đạo (theo tổng hợp của Ban tôn giáo tỉnh, tính đến 3/2000). Phải nâng mức
sống của tín đồ Cao Đài lên ngang bằng mức sống cả nước. Theo số liệu điều tra của
UBND tỉnh Tây Ninh về dân số và nhà ở, tính đến 1/4/1999 thì toàn tỉnh có 211.029 căn
nhà, trên tổng số 212. 475 hộ chiếm 99,32%. Như vậy cả tỉnh còn 1.446 hộ (chiếm
0,68%) chưa có nhà phải sống chung với hộ khác.Trong tổng số nhà toàn tỉnh có 5.210
căn nhà kiên cố, chiếm 2,5%; 5.487 nhà bán kiên cố, chiếm 2,77%; 42.342 căn nhà có
khung gỗ lâu bền, chiếm 20% và 104.991 căn nhà đơn sơ, chiếm 49,8%. Trong số đó
riêng huyện Hòa Thành, huyện có số tín đồ Cao Đài đông nhất thì có số nhà đơn sơ cao
nhất đến 18.814 hộ/43.861hộ. Điều này chứng tỏ đời sống tín đồ Cao Đài phần đông
còn thấp, do đặc điểm đồng bào có đạo sống tập trung ở vùng thánh địa "Tòa thánh" nơi có mật độ dân số rất cao so diện tích đất 1.099,2 người/km2.Trong khi mật độ dân số tỉnh
là119,74 người/km2. Phần đông tín đồ Cao Đài sống bằng nghề làm mướn, lao động thủ
công, buôn bán nhỏ, bán hàng rong... Họ có mức sống thấp so với đời sống chung của
xã hội. Điều này đã có ảnh hưởng không ít đến niềm tin của tín đồ đối với tôn giáo Cao
Đài.
Do vậy chương trình này phải tập trung vào các trọng điểm xây dựng các tổ hợp
công - nông nghiệp, đẩy mạnh dịch vụ thương nghiệp - nông thôn và cơ khí hóa các
khâu sản xuất. Cần phát triển các ngành nghề phụ: mộc, đan lát, may, thêu, sản xuất
gạch ngói..., nhanh chóng phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất nông thôn ở vùng tôn giáo
như: thủy lợi, giao thông nông thôn, điện, chợ nông thôn, kho tàng, sân bãi... đồng thời
phát triển phúc lợi xã hội: chăm sóc sức khỏe, y tế cộng đồng, phát triển giáo dục, ưu
tiên miễn giảm học phí tạo điều kiện cho con em nhà nghèo đến lớp; xây dựng các công
61
trình văn hóa, phát triển khu văn hóa dân lập - tạo điều kiện cho nhân dân có nơi sinh
hoạt vui chơi.
Tiếp theo, cần xây dựng và phát triển các mô hình hợp tác trong lao động trên
nguyên tắc tự nguyện thật sự của các nông dân tín đồ. Có thể thành lập theo loại mô
hình như huyện chợ mới An Giang,"Hội quỹ đầu tư sản xuất". Hội này đứng ra gom vốn
pháp định để vay ngân hàng nông nghiệp rồi tái đầu tư trở lại cho từng hộ gia đình. Hay
loại mô hình "tổ liên kết hoàn chỉnh". ở đây tổ đảm trách các khâu: vốn, phân bón,
thuốc trừ sâu, thủy lợi, thuế, kỹ thuật... các hội viên trong tổ được vay vốn thường
xuyên không tính lãi để phát triển sản xuất nâng cao đời sống tín đồ ngày càng tốt hơn.
Trên thực tế còn có thể thiết lập các hội khác như: hội cất nhà, hội mua xe máy, hội mua
ti vi của các tín hữu... Từ đây ta có thể thấy rằng: giải pháp này khi trình bày chúng ta
thấy hình như là phổ quát chung cho nông thôn, đồng thời lại rất thích hợp trong vùng
tôn giáo Cao Đài do tính cộng đồng trong đồng bào Cao Đài rất cao, việc tham gia vào
các tổ chức hội này sẽ làm biến đổi hẳn cuộc sống các tín đồ. Tính ổn định cuộc sống sẽ
góp phần khắc phục được tâm trạng hoang mang, thấp thỏm về tin đồn "tận thế" trong
tín đồ Cao Đài. Sự tin tưởng vào cuộc sống hiện thực của trần thế sẽ giúp con người vơi
đi nỗi khát khao hướng về thế giới bên kia. Việc làm cho đời sống các tín đồ Cao Đài ổn
định sẽ là thắng lợi lớn nhất, nó có sức mạnh hơn cả nghìn sự tuyên truyền cộng lại.
Tóm lại, "an cư, lạc nghiệp" là ngạn ngữ cổ xưa của dân tộc và đó cũng là giải
pháp góp phần khắc phục mặt tiêu cực hạn chế của tín đồ Cao Đài. Vấn đề quan trọng
trước hết là chăm lo phát triển kinh tế,không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có quần chúng tôn giáo. Đây là vấn đề quan
trọng tạo cơ sở để tín đồ phát huy thế mạnh của họ góp phần vào công cuộc xây dựng
đất nước, đoàn kết dân tộc chống lại bọn xấu, lợi dụng chia rẽ tôn giáo - dân tộc.
+ Chính sách đào tạo cán bộ cốt cán trong quần chúng đạo Cao Đài.
62
ở Tây Ninh, đang đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo vận
đủ về số lượng và mạnh về chất lượng. Đội ngũ này cần phải có tấm lòng,có nhiệt tình,
có trình độ, có phẩm chất và kinh nghiệm cần thiết vận động quần chúng trong một hệ
thống chính sách cơ chế đúng đắn, năng động sáng tạo. Đặc biệt là đào tạo những cán
bộ cốt cán trong quần chúng đạo Cao Đài. Tránh tình trạng thiếu quan tâm đến đội ngũ
làm công tác tôn giáo, nhất là chăm lo cuộc sống vật chất và nâng cao trình độ mọi mặt,
dẫn đến số lượng đã ít, trình độ hạn chế, lại không thống nhất trong tổ chức quản lý và
điều hành công việc.
Để tăng cường công tác giáo dục, nhằm phát huy tinh thần yêu nước, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tỉnh cần phải xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh trong
tín đồ Cao Đài. Đây là việc làm vừa khó, vừa phức tạp, vừa tế nhị, lâu dài, nhưng lại là
công việc có ý nghĩa rất to lớn - lực lượng chính trị trong quần chúng tín đồ sẽ là nòng
cốt thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tại vùng
tôn giáo Cao Đài. Đây cũng là lực lượng trực tiếp đấu tranh cô lập, phát hiện bọn xấu
lợi dụng tôn giáo để mưu đồ chính trị không lành mạnh.
Tỉnh ủy Tây Ninh hàng năm đều thực hiện chủ trương trên qua việc thường
xuyên mở các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo vận và các tổ chức
đoàn thể, mặt trận theo các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày. Các hội nghị
quán triệt yêu cầu công tác tôn giáo nói chung và đối với Cao Đài nói riêng đến tận cán
bộ chủ chốt cấp huyện, xã làm cho mỗi ngành mỗi cấp, mỗi cán bộ đảng viên xác định
rõ tầm quan trọng của công tác tôn giáo, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối
với công tác tôn giáo. Theo báo cáo của Ban dân vận Tỉnh ủy Tây Ninh cho đến cuối
năm 1999 - Tây Ninh đã tổ chức cho 702 cuộc với 31.489 lượt cán bộ đảng viên, công
nhân viên chức nghiên cứu Nghị định 69 của Chính phủ, Nghị quyết 24 của Bộ chính
trị, Chỉ thị của thường vụ Tỉnh ủy. Bên cạnh đó các khối đoàn thể, Mặt trận, Dân vận,
kết hợp cùng Trường chính trị tỉnh mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ công tác tôn giáo
vận. Tính đến tháng 6 năm 2000 đã mở được 39 lớp với số lượng 4.391 lượt cán bộ
tham dự.
63
Các cấp ủy đảng còn thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng đảng trong
vùng tôn giáo, đặc biệt chú trọng công tác phát triển đảng viên mới có thành phần xuất
thân từ tôn giáo Cao Đài. Cho đến nay Tây Ninh đã có 1.243 đảng viên có gốc và xuất
thân từ tôn giáo Cao Đài là cán bộ
công nhân viên chức. Trong số họ đa số rất tích cực và được thử thách, rèn
luyện trưởng thành từ thực tiễn công tác trong các phong trào cách mạng địa phương.
Tuy nhiên, một điểm yếu cần có biện pháp khắc phục triệt để ở đây là vẫn còn
những biểu hiện ngần ngại trong cán bộ khi được phân công phụ trách công tác này. Đội
ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo trong vùng Cao Đài hiện nay vẫn còn thiếu, yếu, số
cán bộ hiện tại chưa được đào tạo chuyên môn chính qui và chưa có chính sách đãi ngộ
thỏa đáng về các mặt. Vì vậy sự quan tâm đến đội ngũ làm công tác tôn giáo trong vùng
Cao Đài có tính thiết thực và cấp bách là việc thực hiện chính sách đãi ngộ thỏa đáng để
giúp họ yên tâm công tác đạt chất lượng, hiệu quả.
+ Phân hóa tranh thủ hàng ngũ chức sắc Cao Đài và nghiêm trị những kẻ phản
động đội lốt tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng, tuyên
truyền xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước, chia rẽ trong nội bộ nhân dân, làm
tay sai cho đế quốc và bọn phản động quốc tế. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo có
điều kiện chăm lo việc đạo.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo có truyền thống bị bọn phản động, đế quốc lợi
dụng từ khi mới ra đời, cho nên cùng với các giải pháp nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân vùng tôn giáo Cao Đài thì giải pháp nâng cao cảnh giác chống kẻ
địch lợi dụng tôn giáo là giải pháp rất cần thiết. Bởi vì trong bộ phận chức sắc trung cao
cấp nhất là số cầm đầu, có một số xuất thân từ thành phần địa chủ, quan lại, tư sản, sĩ
quan, ngụy quân, ngụy quyền, có quá trình hận thù giai cấp sâu sắc và làm tay sai cho
đế quốc, chống phá cách mạng. Còn lại một số bộ phận (thường là từ trung cấp trở
64
xuống) do lạc hậu vì mê tín lầm lạc nên bị lợi dụng, bị cuốn vào "Cơn lốc xoáy" làm tay
sai một cách mù quáng, thụ động. Số này về cơ bản có tính dân tộc, khi thấy được lẽ
phải họ sẵn sàng đứng về phía cách mạng. Nhận rõ mặt này, suốt thời gian qua, tỉnh
Đảng bộ Tây Ninh luôn có kế hoạch vận động phân hóa, lôi kéo tất cả những ai có thể
tranh thủ được. Theo phương châm tiến hành thận trọng, khéo léo, kiên trì để họ thấy
lợi ích chấp hành, luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng nhưng không gò ép áp đặt để làm
sao có thể nắm lấy khối đông đảo tín đồ để họ phát huy được quyền chủ động của mình,
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của địch. Muốn vậy cần phải chú ý những vấn đề
sau:
Thứ nhất: phải thấy rõ bản chất của tín đồ Cao Đài đa số là những nông dân
Nam Bộ có tín ngưỡng, chất phác, thật thà, cần cù lao động, có lòng yêu nước, ghét xâm
lược ngoại bang. Từ đó mà xác định và thật sự đặt niềm tin vào họ, xem cách mạng ở
vùng tôn giáo Cao Đài là sự nghiệp của quần chúng tín đồ Cao Đài. Phải vượt qua mặc
cảm, dấu ấn của lịch sử để lại mà đến với người nông dân tín đồ, những người lao động
cần cù chất phác. Cần chú ý tháo gỡ các vướng mắc của họ nhằm "khai thông" quan hệ
giữa khối tín đồ với Đảng và Nhà nước ta. Tránh các biểu hiện khơi dậy quá khứ làm
tổn thương tình cảm dân tộc, đoàn kết dân tộc.
Đảng của giai cấp công nhân tại vùng đạo Cao Đài chỉ có thể hoàn thành nhiệm
vụ của mình khi xây dựng được mối liên hệ công - nông liên minh đội ngũ trí thức.
Người nông dân ở đây chính là đại đa số tín đồ Cao Đài. Cánh mạng ở vùng tôn giáo
Cao Đài phải do tín đồ nông dân ở vùng ấy thực hiện và quyết định không phải ai khác,
chính họ phải biết làm chủ tín ngưỡng của mình, làm chủ đời sống vật chất và tinh thần
của mình. Đảng và Nhà nước tại đây phải biết hướng và tổ chức để họ có thể làm được
điều đó. Động viên họ tham gia sự nghiệp chung của nhân dân thích hợp với khả năng
và điều kiện của họ, nhất là những hoạt động từ thiện, nhân đạo, bảo vệ hòa bình,
khuyến khích những việc làm đúng đắn, đồng thời thân tình khéo léo nhưng thẳng thắn
phê bình, uốn nắn những việc làm không đúng.
65
Thứ hai: làm cho quần chúng tín đồ tự giác vạch mặt tố cáo những phần tử lợi
dụng tín ngưỡng chống lại chính quyền. Cần tạo phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc
trong vùng tôn giáo. Phải vạch trần bọn đội lốt tín đồ còn ẩn nấp trong tôn giáo này
bằng chính sự cảnh giác của họ. Trên lĩnh vực này Đảng bộ Tây Ninh thực hiện theo
phương châm "lấy dân làm gốc" phát động và dựa vào lực lượng quần chúng là chính.
Qua đấu tranh đã thu được những kết quả đáng kể. Thời gian qua các ngành chức năng
của tỉnh đã tổ chức cho toàn thể quần chúng, mà trọng điểm là vùng có đạo học tập các
tài liệu như: "Bản án hoạt động phản cách mạng của giáo phái Cao Đài Tây Ninh", "Sự
thật về một giáo phẩm" (do một chức sắc cao cấp viết để tố cáo); tài liệu của các bị can
khai báo, kết hợp với triển lãm hình ảnh người cầm đầu Cao Đài Tây Ninh cấu kết với
đế quốc phản lại dân tộc và cách mạng qua các thời kỳ, cùng những tang vật chứng cứ
phạm tội hiện hành... kết quả đã tổ chức gồm hơn 400 cuộc cho khoảng 2000 ngàn lượt
quần chúng tham dự đặc biệt có 2 đợt tổ chức tại huyện Hòa Thành (huyện có 90% dân
số là tín đồ Cao Đài) chỉ trong 1 ngày đã có 14 ngàn tín đồ đến dự. Ngoài ra địa phương
còn tiến hành tuyên truyền bằng nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác như sách
báo, phát thanh, truyền hình, phim ảnh... qua các đợt học tập tuyên truyền đa số tín đồ
đã ủng hộ cách mạng lên án bọn phản động đội lốt tôn giáo từ đó đã gởi 25.750 bản kiến
nghị, yêu cầu: Tòa thánh phải thực hiện đúng chính sách tôn giáo của Đảng là tu hành
chân chính, đề nghị giải tán bộ máy hành chính đạo, xóa hoạt động cơ bút, công khai đấu
tranh với người cầm đầu là phản động, bên cạnh đó quần chúng còn giúp ta phát hiện nhiều
tổ chức nhen nhóm phản động, tố giác 47 tên ngụy quân ngụy quyền trốn cải tạo và những
tên phản động khác lẩn trốn trong Tòa thánh, vận động 47 chức sắc có quan hệ trong bộ
máy chế độ cũ ra trình diện.
Qua công tác vận động quần chúng đã tạo được hai yếu tố thuận lợi: nó vừa
động viên tín đồ hăng hái tham gia đấu tranh chống bọn lợi dụng tôn giáo, lại vừa thấy
được sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng cái lớn hơn tất cả là chúng ta
nắm được khối đông đảo tín đồ tạo được lòng tin vững chắc ở họ, giúp họ không còn bị
bọn xấu lợi dụng, an tâm lao động sản xuất và tu hành. Qua thực tế đấu tranh cho thấy
66
rằng nếu biết dựa vào và lôi kéo được quần chúng tín đồ thì sẽ xóa được chỗ dựa cơ bản
của bọn phản động trong giáo phái Cao Đài Tây Ninh.
Thứ ba: phải biết phát hiện và tranh thủ sự đồng tình của những người có uy tín
đối với quần chúng tín đồ. Công việc này có ý nghĩa rất lớn góp phần thắng lợi trong
việc thực hiện đấu tranh chống bọn xấu lợi dụng tôn giáo Cao Đài. Qua thực tế khảo sát
thấy cần tranh thủ những người trong giới đạo sau đây có uy tín lớn cần tranh thủ và
được sự đồng tình của họ sẽ góp phần rất lớn cho kết quả của công việc đó là:
- Những người thân nhân, ruột thịt, họ hàng của những người có công thành lập
đạo. Họ là những người có uy tín cao trong đạo, tiếng nói của họ có sức thuyết phục đối
với tín đồ trong tất cả mọi việc.
- Những tín đồ có công với cách mạng, đã từng theo cách mạng chiến đấu, từng tham
gia vận động các đồng đạo đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai bán nước. Họ chính là
tấm gương sáng cho quần chúng tín đồ noi theo.
- Những tín đồ lớn tuổi, có phong cách đạo đức, có cuộc sống mẫu mực trong
sạch, có kiến thức cao về tôn giáo, có thời gian tu hành lâu, có phẩm hàm cao, được
quần chúng tín đồ tin tưởng. Tiếng nói của họ có giá trị rất lớn đối với công tác vận
động quần chúng trong vùng đạo.
Thứ tư: cơ quan chính quyền cần có thái độ tôn trọng, đối xử bình đẳng và dân
chủ với giáo hội. Khi có vấn đề nảy sinh giữa giáo hội và cơ quan chính quyền thì tiến
hành đối thoại trao đổi, bàn bạc để giải quyết có lý có tình, không áp đặt, mệnh lệnh
cưỡng ép. Cần phân công những cán bộ có trình độ chính trị nắm vững chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước, am hiểu vấn đề tôn giáo và giáo hội, có thái độ đúng đắn
với giáo sĩ và giáo hội để thay mặt chính quyền quan hệ thường xuyên với giáo hội, tiếp
67
xúc và giải quyết các vấn đề có liên quan đến giáo hội. Những cán bộ này nên chuyên
sâu lâu dài, không nên thay đổi.
Tóm lại: vận động quần chúng tín đồ tự giác tham gia đấu tranh chống phần tử
xấu và bọn lợi dụng tôn giáo Cao Đài là giải pháp cần thiết quan trọng để xây dựng
đoàn kết dân tộc trên con đường kiết thiết đất nước. Đây là giải pháp phù hợp với nét
đặc thù của tôn giáo Cao Đài và là giải pháp có thể vận dụng chung cho công tác tôn
giáo tại vùng đạo.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức quần chúng
Đây là giải pháp thực hiện quan điểm của Đảng về công tác vận động quần
chúng trong vùng đồng bào đạo Cao Đài.
Để đổi mới công tác dân vận trong vùng tôn giáo Cao Đài, trước hết cần phải
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác tôn giáo vận của Ban dân
vận, Mặt trận và các đoàn thể để thúc đẩy phong trào cách mạng trong quần chúng tín
đồ. Các đoàn thể phải tự đổi mới phương thức hoạt động cho ngang tầm với nhiệm vụ,
phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ cho các hội viên, đoàn
viên và quần chúng tín đồ. Giáo dục sâu sắc lòng tự hào dân tộc, không cam chịu đói
nghèo, và bằng con đường chính đáng để làm giàu lên, làm cho cuộc sống của mình
ngày càng văn minh tốt đẹp hơn, đồng thời có dư thêm để đóng góp cho nhà nước,
nhằm duy trì tốt phong trào từ thiện vốn có mà các tín đồ Cao Đài đã và đang rất hăng
hái tham gia. Nội dung tuyên truyền của các đoàn thể cần phải đi sâu và hòa nhập vào
các hoạt động kinh tế - xã hội thiết thực. Các cán bộ đoàn thể trong vùng tôn giáo Cao
Đài nhất thiết phải sâu sát dân, hiểu dân và phải tạo điều kiện cho các tín đồ hiểu nhau,
thương yêu và đùm bọc lẫn nhau, xây dựng tinh thần tương thân tương ái trong sản xuất
- kinh doanh, trong cuộc sống theo nguyên tắc "tốt đời - đẹp đạo". Hoạt động của các
đoàn thể phải biết khơi dậy và phát huy óc sáng tạo trong quần chúng. Cán bộ đoàn thể
68
phải là những người được lựa chọn từ các phong trào, có năng lực nhiệt tình với công
việc, tận tâm cho mục đích cao nhất là vì lợi ích của nhân dân.
Trong thời gian tới đây, công tác "Cao Đài vận" cần tập trung đi sâu vào các nội
dung sâu đây:
Một là, tập trung vận động quần chúng tín đồ Cao Đài tích cực thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong vùng tôn giáo của mình là: Tăng cường xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, giống nuôi, duy trì và phát triển hơn nữa phong trào khuyến nông trong vùng tôn
giáo.
Hai là, tập trung vận động quần chúng tín đồ tham gia phong trào xây dựng gia
đình văn hóa mới, thực hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, xóa bỏ các tập
tục lạc hậu, thực hiện chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường.
Ba là, làm cho quần chúng tín đồ thấy rõ sự vô lý của những dư luận thất thiệt
về ngày tận thế, về đại họa "tối trời, sập đất" khi xuất hiện các biến động thất thường
của các hiện tượng tự nhiên như: núi lở, sông lở, hạn hán, lũ lụt,... cần giải thích để quần
chúng hiểu rõ đó là những biến động tất yếu của thời tiết khí hậu. Không được nóng nảy
thô bạo trước dư luận và những phao tin vô tình do quần chúng tín đồ loan đi mà phải
ân cần giải thích nhắc nhở để họ hiểu tác hại của tin truyền ấy và tự giác khắc phục. Vận
động quần chúng đấu tranh có hiệu quả với bọn xấu lợi dụng tôn giáo Cao Đài chống
phá cách mạng đi ngược lại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, vận động quần chúng tín đồ nêu cao và thượng tôn các giá trị đạo đức
trong giáo lý, phù hợp với yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, xa lánh và lên án cái ác,
cái xấu bằng những hành động thiết thực như tham gia các phong trào nhân đạo từ
69
thiện, xã hội khác nhau theo sự quản lý và hướng dẫn của Nhà nước, đoàn thể mình phụ
trách.
Cuối cùng là làm cho quần chúng tín đồ Cao Đài hiểu rõ chính sách tôn trọng tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của của Đảng là nhất quán và xuyên suốt. Tuyệt nhiên không có
bất kỳ một sự phân biệt kỳ thị nào từ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta
đối với tôn giáo của họ. Đồng thời có tuyên dương khen thưởng những tín đồ biết nêu
gương tốt trong chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
hoặc các gương tốt trong hoạt động từ thiện vì mục đích nhân đạo cao cả...
Tóm lại: xuất phát từ nội dung và các hình thức sinh hoạt của tôn giáo Cao Đài
với tính chất cộng đồng đã tạo cho đạo Cao Đài có sức thu hút mạnh mẽ giúp nó có khả
năng lôi kéo những người cộng cư để hình thành nên những làng, những xã thuần đạo.
Điều này tạo sự tương đối thuận lợi cho các tổ chức đoàn thể quần chúng dễ dàng đi sâu
vào các hoạt động thiết thực trong cuộc sống sinh hoạt của đồng bào có tín đồ Cao Đài,
giúp các tổ chức đoàn thể đưa được những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước vào tận đồng bào vùng đạo. Nhưng điều có sức thuyết phục cao nhất vẫn là nội
dung sinh hoạt của các tổ chức đoàn thể quần chúng phải thực sự trở thành tổ chức của
bản thân người nông dân, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của họ, chứ không phải
như một công cụ quản lý của chính quyền, cần hướng vào việc chăm lo lợi ích thiết thực
cho đời sống của tín đồ Cao Đài, góp phần xây dựng xã hội mới, công bằng văn minh
tiến bộ, phát triển ngày càng cao về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, hướng các
sinh hoạt tôn giáo theo hướng "tốt đời, đẹp đạo".
3.2.3. Nhóm giải pháp về các hình thức lễ hội
Lễ hội Cao Đài là một trong những lễ hội dân gian của Tây Ninh, tiêu biểu cho
những nét đặc sắc của tôn giáo này, đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh của cộng
đồng dân cư Tây Ninh. Lễ hội Cao Đài Tây Ninh vừa biểu hiện được tâm thức của
70
người dân Tây Ninh, vừa lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống, vì thế có sức
hấp dẫn riêng, đặc biệt thu hút không chỉ tín đồ người dân Tây Ninh mà còn là ngày hội
của cư dân vùng Nam Bộ. Lễ hội Tây Ninh có thể xem là một hiện tượng văn hóa đặc
sắc cần được giữ gìn góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa địa phương, làm phong phú
thêm đời sống tinh thần người dân Tây Ninh, thực hiện xây dựng "Đẹp đời, tốt đạo"
trong sinh hoạt tôn giáo.
* Vấn đề lễ hội ở Tây Ninh trong thời gian qua.
Lễ hội Tây Ninh, đặc biệt là lễ hội tôn giáo - tín ngưỡng là hình thức sinh hoạt
văn hóa độc đáo, đặc thù, thể hiện bản sắc văn hóa của vùng đất Tây Ninh, có sức thu
hút đặc biệt đối với đông đảo nhân dân. Trong suốt thời gian dài của lịch sử hình thành
và phát triển vùng đất này, lễ hội tôn giáo - tín ngưỡng vẫn được duy trì một cách bền
bỉ, như một nghi thức thiêng liêng của tôn giáo. Cùng với việc phục hồi lễ hội một cách
mạnh mẽ ở các địa phương trong cả nước những năm gần đây, các lễ hội tôn giáo tín
ngưỡng của Tây Ninh cũng phát triển với quy mô ngày càng lớn, thu hút không chỉ cư
dân địa phương mà còn cả vùng Nam Bộ tham gia. Những lễ hội ấy đã góp phần to lớn
vào việc xây dựng đời sống tinh thần của người dân Tây Ninh. Điều quan trọng nhất là
lễ hội đã đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, nhu cầu tâm linh của người dân tạo được
sự cộng cảm trong lễ hội, củng cố mối đoàn kết cộng đồng, những lễ hội ở Tây Ninh
trong thời gian qua đã đáp ứng được nhu cầu này. Những lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng ở
Tây Ninh đã thật sự là ngày hội của quần chúng, người dân đến đó không chỉ để ngưỡng
vọng các đấng thiêng liêng, thần linh, mà còn trở về với thiên nhiên chiêm ngưỡng cái
đẹp trong các công trình kiến trúc, di tích, tìm hiểu ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa huyền thoại
của lễ hội địa phương và để cùng vui chơi, hòa nhập với cộng đồng. Tác dụng của lễ hội
là đã phần nào giải thoát những ẩn ức, bế tắc của đời thường, của tâm hồn, để bước vào
cuộc sống một cách tốt đẹp hơn. Đặc biệt, lễ hội Cao Đài - một tôn giáo có cơ sở xã hội
chặt chẽ thì dù là lễ hội cá nhân, lễ hội gia đình hay lễ hội cộng đồng, đều được tổ chức
một cách chu đáo với sự tham gia của toàn thể cộng đồng một cách tự nguyện. Đó là
một nét cần được phát huy trong lễ hội của tôn giáo này.
71
Có thể nhận thấy rằng từ sự phục hồi của lễ hội, hệ thống các di tích lịch sử -
văn hóa cũng được phục hồi, tôn tạo. Một loạt các công trình di tích, danh thắng, kiến
trúc đã được xây dựng, sửa chữa lại trong thời gian qua ở Tây Ninh theo hướng xã hội
hóa, ngày càng đẹp hơn như các chùa ở Núi Bà, các công trình trong Tòa thánh, các
đình ở địa phương... có thể nói không gian lễ hội được nâng lên về mặt giá trị thẩm mỹ,
trở thành niềm tự hào của địa phương là niềm chiêm ngưỡng của khách thập phương khi
đến dự hội, đồng thời làm tăng tính chất thiêng liêng, tính tôn nghiêm và tính thẩm mỹ,
đem lại chiều sâu tư tưởng triết lý cho hội.
Việc phục hồi các lễ hội cũng là quá trình tìm lại và lưu giữ, phát triển những
loại hình văn hóa dân gian ở Tây Ninh. Nếu ở lễ hội Cao Đài có dàn nhạc dân tộc múa
tứ linh và rồng nhang, biểu diễn trống Sayam, trưng bày lễ phẩm chèo thuyền đưa linh...
thì nghệ thuật múa bóng rỗi trong lễ dâng bông dâng mâm ở Chùa Bà trong lễ hội Bà
Đen, lễ Bà Thiên Hậu, nghệ thuật hát chập địa nàng trong lễ hội Miếu, nghệ thuật xây
chầu đại bội - hát bội trong lễ hội kỳ yên ở đình... là những nghệ thuật văn hóa dân gian
đặc sắc, cần được giữ gìn và phát triển hiện nay. Chính lễ hội đã góp phần tích cực
trong việc thực hiện điều này, làm cho đời sống tinh thần người dân thêm phong phú
đặc sắc.
Lễ hội Tây Ninh tuy đã góp phần vào sự phát triển kinh - văn hóa - xã hội, và
đem lại đời sống tinh thần phong phú cho nhân dân, nhưng chính nó cũng để lại nhiều
tác hại, đặt ra những vấn đề cần giải quyết về tổ chức quản lý và bảo vệ môi trường. Do
đó đi đôi với việc tổ chức tốt các hình thức lễ hội. Các ngành chức năng cần có biện
pháp để tổ chức và quản lý tốt các nơi lễ hội tránh làm mất vẻ mỹ quan và gây ô nhiễm
môi trường làm ảnh hưởng đến các tượng phật, vật thờ và ảnh hưởng đến sức khỏe người đi
hội.
* Những nguyên tắc chủ yếu trong việc xây dựng đời sống tinh thần thông qua
các hình thức lễ hội.
72
Để phát huy được những giá trị truyền thống của các hình thức lễ hội trong việc
xây dựng đời sống tinh thần, cần phải tuân thủ các tư tưởng chủ đạo như sau:
Một là, xác định nhu cầu lễ hội tôn giáo của người dân như một thực tế xã hội,
nhìn nhận nó một cách biện chứng trong mối quan hệ trong các lĩnh vực khác của đời
sống, coi đó là một bộ phận văn hóa để có biện pháp quản lý cụ thể, phù hợp văn hóa,
đạo đức Việt Nam.
Hai là, lễ hội được phép tổ chức phải là những lễ hội đáp ứng được mục đích:
giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc về lịch sử, văn hóa, trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước; tưởng nhớ công đức các danh nhân lịch sử, văn hóa, những người có
công ích với dân với nước (nhân thần, thiên thần); tìm hiểu, thưởng ngoạn, các giá trị
văn hóa thông qua các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc nghệ
thuật; vui chơi và giải trí lành mạnh, giữ gìn phát huy vốn văn hóa truyền thống và
phong tục tập quán dân tộc; đáp ứng nhu cầu tâm linh của xã hội [13, 230-231].
Thứ ba, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, giúp Cao Đài cũng
như những tôn giáo khác phát huy được tính tích cực của tôn giáo, thể hiện trong giáo
lý, nghi thức, lễ hội... trên cả hai phương diện văn hóa và đạo đức. Lễ hội phải đảm bảo
được tính thẩm mỹ dân tộc trong cả phần lễ và hội.
Thứ tư, giáo dục nâng cao dân trí, xây dựng con người có văn hóa, hiểu biết,
ứng xử văn minh để đến với tôn giáo, lễ hội không như một thói quen, một sự tò mò, mà
là nhu cầu tinh thần, nhu cầu tâm linh thật sự.
*Những biện pháp quản lý các hình thức lễ hội Cao Đài
Cao Đài Tây Ninh là một tôn giáo mới đang tồn tại và đã được Ban tôn giáo
chính phủ chính thức công nhận tư cách pháp nhân tổ chức giáo hội vào ngày 9/5/1997,
73
vì thế quản lý lễ hội Cao Đài cần phải theo đúng pháp luật và các chính sách về tôn
giáo, thể hiện trên các mặt sau:
- Ngành văn hóa thông tin Tây Ninh, phối hợp cùng Ban tôn giáo tỉnh biên soạn
những nội dung, giải pháp quản lý phù hợp với đặc điểm tín ngưỡng, lễ hội của địa
phương.
- Xác định vai trò, trách nhiệm của chính quyền các cấp, nhất là huyện Hòa
Thành - nơi tọa lạc của Tòa thánh Tây Ninh, trong việc tổ chức, quản lý lễ hội theo sự
phân cấp cụ thể từng lĩnh vực.
- Có những quy định cụ thể về an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, cảnh quan
văn hóa... trong lễ hội. Tăng cường phối hợp các cấp trong việc kiểm tra các vi phạm về
mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội hoặc các hoạt động có nội dung phản động đồi trụy trong
những ngày cao điểm của lễ hội.
- Thực hiện tự do tín ngưỡng, tự do mở hội, nhưng không thể để các cơ sở tôn
giáo Cao Đài trong tỉnh lợi dụng điều này để mở hội tràn lan, nhằm khuyếch trương thế
lực của Cao Đài. Thực trạng hiện nay là Cao Đài đang lấn dần sang các lễ hội dân gian,
nhất là lễ hội Đình - Miếu, từ việc giúp dàn nhạc, nhà lắp ghép đã dần dần thực hiện
luôn các nghi lễ
cung đình - theo nghi thức Cao Đài làm mất đi bản sắc nguyên thủy của lễ hội
đình.
- Hiện nay các lễ hội của Cao Đài từ Trung ương đến lễ hội cá nhân như: lễ
cưới, lễ tang còn rất rườm rà, cầu kỳ, gây lãng phí, phô trương nặng về hình thức, nhưng
tính giáo dục, chiều sâu tư tưởng không cao, cần có sự bàn bạc kỹ giữa Ban tôn giáo với
các ngành chức năng và Hội đồng chưởng quản Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, để lễ hội
74
tiến hành tốt hơn. Nếu có thể, tổ chức soạn lại từng lễ thức phù hợp với nếp sống văn
hóa mới để cùng xem xét và thực hiện nhằm đem lại tác dụng tích cực cho việc xây
dựng đời sống tinh thần ngày càng tốt hơn.
* Phát huy sự độc đáo của bản sắc văn hóa địa phương thông qua lễ hội Cao
Đài.
Lễ hội Cao Đài là một trong những sinh hoạt tôn giáo văn hóa đặc sắc của Tây
Ninh, thể hiện bản sắc văn hóa địa phương góp phần quan trọng trong đời sống tinh thần
người dân Tây Ninh. Vì thế những giá trị truyền thống tích cực của nó cần được bảo
tồn, phát huy và phổ biến.
- Các loại hình nghệ thuật trong lễ hội Cao Đài như dàn nhạc dân tộc, trống
Sayam, cộ tiên, múa tứ linh và rồng nhang, nghệ thuật trưng bày quả phẩm... đều là
những nghệ thuật dân gian độc đáo của cộng đồng người Việt và Khơme ở Tây Ninh.
Những loại hình này cần được khai thác để đưa vào phục vụ các đối tượng công chúng
rộng rãi trong các sinh hoạt cộng đồng như ngày tết, các ngày lễ kỷ niệm lịch sử của dân
tộc ta và các ngày lễ hội tôn giáo.
- Trên những cơ sở khảo cứu về lễ hội Cao Đài, các ngành chức năng cần biên
soạn, xây dựng lại thành những nội dung giới thiệu, thuyết minh, những tài liệu cơ bản
để giới thiệu khách tham quan bằng những phương tiện thông tin đại chúng, tránh
không để cho những người quản lý Tòa thánh tự tiện giới thiệu, giải thích theo khuynh
hướng mê tín, thần bí của tôn giáo.
- Đền thánh Tây Ninh - nơi diễn ra lễ hội Cao Đài là một công trình kiến trúc
độc đáo, vừa lộng lẫy vừa trang nghiêm, biểu hiện kiến trúc á Đông gần gũi, với nhiều
biểu tượng thể hiện vũ trụ quan truyền thống dân tộc Việt Nam, thu hút đông đảo khách
thập phương đến chiêm bái. Tỉnh cần có chủ trương tôn tạo, bảo vệ chặt chẽ làm cho
75
khu di tích - kiến trúc này ngày càng thêm vẻ mỹ quan góp phần vào sự phát triển kinh
tế - văn hóa của tỉnh và xây dựng đời sống tinh thần phong phú lành mạnh theo hướng
"tốt đời, đẹp đạo".
76
Kết Luận
Hơn bảy thập kỷ trôi qua, tôn giáo Cao Đài trải qua biết bao thăng trầm biến đổi
trong sự hình thành, tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, và ngày
nay đang tiếp tục hoạt động dưới chế độ xã hội mới. Sự hiện diện của nó đã để lại
những dấu ấn thật khó phai mờ trong lịch sử dân tộc. Cho đến nay với trên 2 triệu tín đồ
Cao Đài thuộc cư dân vùng Nam Bộ, đặc biệt tập trung ở Tây Ninh, tôn giáo Cao Đài
vẫn đang là một hiện tượng xã hội đặc biệt đáng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn.
Vì vậy, từ góc độ triết học, luận văn góp phần xây dựng một hình ảnh tương đối
hoàn chỉnh về tôn giáo Cao Đài. Đó là sự phân tích tính tất yếu của quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển của tôn giáo Cao Đài trong cư dân vùng Nam Bộ từ năm
1926 đến nay và bước đầu phân tích đánh giá những ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với
đời sống tinh thần ở Tây Ninh qua việc nghiên cứu thế giới quan và nhân sinh quan của
đạo Cao Đài. Đặc biệt từ việc nghiên cứu giáo lý và sự thờ phụng; nghiên cứu về tổ
chức; và những sinh hoạt lễ nghi của người Cao Đài với tính cách một hình thái ý thức
xã hội đặc thù để thấy những ảnh hưởng hai mặt của nó cùng với hệ thống giải pháp
khắc phục hạn chế và phát huy tích cực trong tôn giáo Cao Đài để góp phần xây dựng
đời sống tinh thần người dân Tây Ninh trong giai đoạn hiện nay.
Từ việc nghiên cứu, phân tích các yếu tố khác nhau tạo thành của tôn giáo Cao
Đài như: giáo lý và sự thờ phụng Đức Chí Tôn; nghi lễ, biểu tượng; tín đồ... luận văn
kết luận đạo Cao Đài là một tôn giáo bản địa ở vùng nông thôn Nam Bộ.
Từ việc phân tích quá trình tồn tại trong nhiều vị thế khác nhau qua các giai
đoạn lịch sử, thì tính tất yếu của mối liên hệ giữa Cao Đài với các nền chính trị là: hoặc
gắn kết, hoặc chống lại. Từ đó kết luận rằng nếu chế độ chính trị này xô đẩy, phủ nhận
77
thì cộng đồng tôn giáo Cao Đài sẽ nghiêng về phía chính trị đối lập và trở thành một lực
lượng hùng hậu mạnh mẽ cho phía đối lập.
Luận văn bước đầu phân tích những ảnh hưởng của tôn giáo Cao Đài trên các
lĩnh vực đời sống tinh thần như: chính trị, lối sống, đạo đức văn hóa nghệ thuật. Qua đó
đề ra một số giải pháp vừa để khắc phục mặt hạn chế vừa để phát huy mặt tích cực của
tôn giáo Cao Đài, nhằm xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh, hướng các hoạt động
tôn giáo vào tín ngưỡng đơn thuần,giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho
người dân Tây Ninh có được đời sống sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét văn hóa dân
gian trong tình đoàn kết tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, thực hiện " tốt đời, đẹp
đạo".
Tất cả những vấn đề trên cũng mới là phác thảo bước đầu, cần phải được nghiên
cứu toàn diện hơn, sâu sắc hơn ở các chuyên đề chuyên biệt.
Luận văn xin có một số kiến nghị sau:
1. Tây Ninh là địa phương trung tâm của giáo phái Cao Đài với số lượng tín đồ
toàn tỉnh chiếm đến hơn 50% đồng bào tôn giáo,trong đó Cao Đài có số đông chiếm đến
hơn 2/3 tín đồ. Vì thế cần đổi mới cách tiếp cận đối với tôn giáo nói chung và Cao Đài
nói riêng để vượt qua những ấn tượng do lịch sử để lại nhằm làm tốt công tác vận động
tôn giáo, thu hút tín đồ vào các tổ chức quần chúng tạo mối quan hệ gắn bó giữa đạo và
đời.
2. Đầu tư cho chiến lược nghiên cứu tôn giáo Cao Đài và xây dựng đội ngũ các
nhà "Cao Đài học" tận tâm nghiên cứu, có năng lực khái quát, đề xuất kịp thời các đối
sách thích hợp với tình hình.
78
3. Mặt trận, Dân vận nên cử người vào "Hội đồng chưởng quản" để hướng dẫn
tổ chức này hoạt động đúng mục đích.
4. Cần xem xét chọn lọc và cho phép in lại Tân luật và Pháp chánh truyền để
chủ động định hướng tôn giáo này đi vào tu hành thật sự phù hợp với pháp luật hiện
hành của Nhà nước ta.Vì đối với đạo Cao Đài đây là luật lệ căn bản để họ hoạt động tôn
giáo. Nếu cấm đoán thì những kết quả làm công tác tôn giáo của ta những năm qua chỉ
dừng lại ở phần hình thức, còn nội dung thực chất họ vẫn bám vào Tân luật và Pháp
chánh truyền để lãnh đạo. Nếu ta để họ càng bế tắc thì họ sẽ càng tin tưởng hoang
đường đi tới hoài nghi chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, gây bất lợi cho
công tác Cao Đài vận của chúng ta.
5. Tăng cường vận động và nắm chắc số chức sắc, chức việc, phát huy những
mặt tích cực của những người tiến bộ xây dựng cốt cán lâu dài; cô lập, phân hóa số cực
đoan không cho vào bộ máy lãnh đạo Cao Đài, đồng thời chú ý đến những người có mối
quan hệ với người nước ngoài kịp thời đập tan âm mưu của các thế lực phản động nước
ngoài đang nuôi dưỡng một số tên phản động mang vỏ bọc Cao Đài chờ dịp đưa về Việt
Nam hoạt động phản cách mạng. Đối với các chức sắc, chức việc đã tích cực tham gia
các phong trào bảo vệ và xây dựng Tổ quốc thì ta cần có thái độ thích hợp, tôn trọng
thành tích của họ, khen thưởng đúng mức những cá nhân có thành tích, tận tình giúp đỡ
khi họ gặp khó khăn về đời sống.
6. Trung ương cần sớm có những qui định riêng (quy chế) đối với hoạt động
của đảng viên trong vùng tôn giáo. Vì trên thực tế khi một cán bộ cốt cán trong quần
chúng tín đồ được phát triển vào Đảng thì hoạt động của họ không còn hòa mình với tôn
giáo và quần chúng tín đồ như trước, tạo nên một sự ngăn cách không có lợi cho cách
mạng trong công tác nắm tôn giáo cũng như nắm tâm tư tình cảm của tín đồ.
79
7. Cần quan tâm đến công tác vui chơi, giải trí, học tập lành mạnh, xây dựng cơ
sở vật chất đối với những vùng có đông tín đồ tôn giáo. Nhất là tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, kinh phí hoạt động cho đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh để mở rộng
các hình thức tập hợp giáo dục lực lượng thanh thiếu niên và nhi đồng, ngăn chặn sự
đầu độc và ảnh hưởng của thần quyền giáo lý tôn giáo.
8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng,
củng cố các đoàn thể, Mặt trận tổ quốc vững mạnh đủ sức làm nòng cốt động viên quần
chúng hăng hái tham gia phát triển sản xuất kinh doanh để làm giàu cho mình và cho xã
hội. Đối với những gia đình có hoàn cảnh khó khăn cần có biện pháp tích cực giúp đỡ
họ vượt qua nghèo khó, bằng các chương trình cụ thể như: xóa đói giảm nghèo, phong
trào trợ vốn sản xuất... Thông qua đó từng bước cải thiện, nâng cao đời sống kinh tế -
văn hóa xã hội cho quần chúng tín đồ. Xây dựng một "Bạch Ngọc Kinh" thật sự nơi trần
thế.
9. Tăng cường công tác giáo dục nhằm tiếp tục nâng cao trình độ giác ngộ cho
quần chúng tín đồ về lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, về lòng tự hào dân tộc, về tinh
thần cảnh giác cách mạng, làm cho quần chúng tin tưởng thật sự vào đường lối đổi mới
của Đảng, xây dựng xã hội bình đẳng, công bằng, văn minh, tiến bộ.
Đây là một trong số rất ít những công trình nghiên cứu về tôn giáo Cao Đài
dưới góc độ triết học. Luận án có những đóng góp nhỏ vào việc nghiên cứu tôn giáo
Cao Đài. Rất mong sẽ có điều kiện tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhiều hơn, hoàn chỉnh hơn
về sau này.
80
81
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
[1]. Ăngghen, Chống Duyrinh. Nxb Sự thật, tập 4, năm 1977.
[2]. Nguyễn Chính, Đảng viên với tín ngưỡng tôn giáo, Tạp chí Cộng sản, số 11,
1998.
[3]. Nguyễn Thành Danh, Sự thật của một giáo phẩm.
[4]. Đặng Thế Đại, Đôi điều bàn thêm về hấp lực của đạo Cao Đài. Viện nghiên cứu
tôn giáo, Hà Nội, 1993.
[5]. Trần Kỳ Đồng, C.Mác - Ph.Ăngghen và vấn đề tương lai của tôn giáo. Tạp chí
Triết học, số 3 11/1998.
[6]. GS Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam.
[7]. Phạm Bích Hợp, Tâm lý tôn giáo và phát triển xã hội. Tạp chí Thông tin lý luận,
số 2, 1995.
[8]. Đỗ Lan Hiền, Về kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc ở
Singapore. Tạp chí Triết học, số 1, 1998.
[9]. Đỗ Lan Hiền, Vài ý kiến trao đổi với tác giả cuốn sách "Tiếng chuông cảnh tỉnh
cho thế kỷ XXI" về vấn đề vai trò tôn giáo trong cuộc cánh mạng con người. Tạp
chí triết học, số 1, 1995.
82
[10]. Trần Thị Huyền, Tôn giáo trong sự nghiệp biến đổi của xã hội phương tây hiện
đại. Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 3, 1999.
[11]. Nguyễn Phạm Hùng, Du lịch tôn giáo và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 2, 1999.
[12]. Đinh Gia Khánh, Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian. Nxb Khoa học xã hội,
1989.
[13]. Kỷ yếu hội nghị, Hội thảo lễ hội, Vụ Văn hóa quần chúng và thư
[14]. viện, 1993.
[15]. Kinh Thiên Đạo và Thế đạo, năm 1992.
[16]. Nguyễn Văn Kiệm, Tôn giáo tính phức hợp và đa nghĩa của tôn giáo. Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, số 11, 1988.
[17]. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 12. Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1979.
[18]. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 17. Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1979.
[19]. Lời thuyết đạo của Phạm Công Tắc. Quyển 1.
[20]. Luận văn, Cơ bút trong đạo Cao Đài của Đoàn Thiện Tâm, tr. 27.
83
[21]. Nguyễn Văn Long, Về quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa nghệ thuật, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận 1999, số 1, tr. 39 - 41.
[22]. Nguyễn Đức Lữ, Về sự phát triển của tôn giáo hiện nay và nguyên nhân của nó.
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1, 1998.
[23]. Nguyễn Đức Lữ, Sự đan xen hòa đồng của các tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam.
Tạp chí Dân tộc học, số 4, 1993.
[24]. Nguyễn Đức Lữ, ý thức dân tộc trong tín ngưỡng, Tôn giáo ở Việt Nam. Tạp chí
Công tác tư tưởng văn hóa, số 3, 1994.
[25]. Nguyễn Phú Lợi, Một số vấn đề về công tác vận động giáo dân. Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 2, 1995.
[26]. Một số tôn giáo ở Việt Nam. Phòng thông tin tư liệu. Ban Tôn giáo Chính phủ,
Hà Nội, 1998.
[27]. Đỗ Mười, Đảng và Nhà nước ta trước sau như một kiên trì thực hiện chính sách
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân, bảo đảm
cho sinh hoạt tôn giáo được bình thường theo luật định. Báo Nhân Dân ngày 23-
11-1997.
[28]. Nguyễn Chí Mỳ, Tôn giáo và hiện thực - Một số vấn đề đặt ra hiện nay. Tạp chí
Triết học, số 2, 1988, tr. 46-49.
[29]. Trịnh Nhu, Quan hệ dân tộc - tôn giáo trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 6, 1996.
84
[30]. Những đặc điểm của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam. Viện Thông tin khoa học,
Trung tâm Khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo, 1997.
[31]. Tây Ninh 30 năm trung dũng kiên cường. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Tây Ninh,
1995.
[32]. Tân lập pháp chánh truyền. Êditions, M-Gasnier - Itampes (s-et-o) France, 1952.
[33]. Tân luật pháp chánh truyền. Tòa thánh Tây Ninh, 1996.
[34]. Tổng hợp Ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh đến 4/2000.
[35]. Thánh Ngôn hợp Tuyển. Tòa thánh Kiến Hòa (Nguyễn Ngọc Trương, in lần thứ
7, 1964, tr. 18.
[36]. Nguyễn Quốc Tuấn, Đề cương bài giảng Cao Đài giáo.
[37]. Tham luận của đồng chí Nguyễn Quốc Tuấn, tại Đại hội Quốc tế cộng sản "Lên
án chủ nghĩa thực dân". Nxb Sự thật, Hà Nội, 1959.
[38]. Ngô Hữu Thảo, Nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tạo chí Quốc phòng toàn dân, số 10,
1998.
[39]. Ngô Hữu Thảo, Góp phần tìm hiểu các khái niệm tôn giáo và tín ngưỡng. Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, số 10, 1997.
85
[40]. Ngô Đức Thịnh, Tín ngưỡng tôn giáo, hai mặt của một vấn đề. Tạp chí Tư tưởng
văn hóa 1999, số 4, tr. 19 - 21.
[41]. Nguyễn Ngọc Tùng, Những thay đổi của đời sống tín ngưỡng tôn giáo trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tạp chí Thông tin lý luận, số 4, 1999.
[42]. Lê Huy Thực, Tìm hiểu một số quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất
tôn giáo và sự vận dụng của Đảng ta. Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4, 1999.
[43]. Lê Huy Thực, Hồ Chí Minh với chủ trương, chính sách tự do tín ngưỡng.
[44]. Nguyễn Thế Thắng, Tôn giáo là gì. Tạp chí Nghiên cứu lý luận,
[45]. số 3, 1998.
[46]. Nguyễn Tài Thư, Vai trò của các học thuyết tư tưởng và tôn giáo hiện nay ở Việt
Nam. Tạp chí Cộng sản, số 3, 1995.
[47]. Đề tài cấp bộ, "Tôn giáo ở Việt Nam" "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn". Khoa
CNXHKH - Học viện CTQG HCM, 1995.
[48]. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài.
[49]. Nxb Khoa học xã hội, 1995.
[50]. Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức, C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 2, Hà Nội,
1959.
86
[51]. Đặng Nghiêm Vạn, Vai trò tôn giáo trong việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 1, 1997.
[52]. Đặng Nghiêm Vạn, Bản chất và biểu hiện tôn giáo. Tạp chí Triết học, số 1, 1998.
[53]. Trần Quang Vinh, Lịch sử đạo Cao Đài.
[54]. Thái Hoàng Vũ, Lễ hội, Một hình thức tổng hòa văn hóa nghệ thuật. Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, tháng 11/1996.
[55]. PGS. Lê Trung Vũ, Đại lễ vía Đức Chí Tôn (Nghi thức đạo Cao
[56]. Đài), 1993.
[57]. Nguyễn Hữu Vui, Tôn giáo và đạo đức - Nhìn từ mặt triết học. Tạp chí Triết học,
số 4, 1993.
87
Phụ lục
Phụ lục 1
Đàn lễ hàng năm:
Đàn lễ và vía STT: Ngày, tháng, năm theo âm
lịch
1. 8 và 9 tháng 1 Vía Đức Chí Tôn (Đại lễ)
2. 14 và 15 tháng 1 Thượng nguyên
3. 14 và 15 tháng 2 Vía Đức Thái Thượng Lão quân
4. 7 và 8 tháng 4 Vía Đức Thích Ca (Đại lễ)
5. 24 và 25 tháng 5 Kỷ niệm sinh nhật Đức Giáo Tông (đại lễ)
6. 14 và 15 tháng 7 Trung nguyên
88
7. 14 và 15 tháng 8 Vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu (Đại lễ)
8. 14 và 15 tháng 10 Hạ nguyên - Kỷ niệm khai đạo (Đại lễ)
9. 24 và 25 tháng 12 (dương Kỷ niệm sinh nhật Đức Gia Tô giáo chủ
lịch)
89
Phụ lục 2
Quá trình hình thành đạo Cao Đài gắn với một số nhân vật lịch sử của đạo, đáng
chú ý là: Ông Ngô Minh Chiêu (còn gọi tắt là Ngô Văn Chiêu) sinh năm 1878 tại Bình
Tây, chợ lớn trong một gia đình nghèo, ông học rất giỏi và trở thành thư ký sở di trú Sài
gòn. Đến năm 1909 ông được bổ nhiệm làm Tri Phủ ở phú Quốc. Ông Ngô Minh Chiêu
là người ham mê chuyện thần linh và cầu cơ, thời kỳ làm Tri Phủ ở Phú Quốc, ông
thường chìm đắm trong những giấc mơ thần tiên, về sau chuyển về làm tại phòng II Phủ
Thống soái Sài Gòn. Ông nhanh chóng tiếp thu "thần linh học", ông thường gặp gỡ bạn
bè trao đổi với bạn bè về thuyết này và tổ chức cầu cơ. Ông cho rằng ông được tiếp xúc
với một đấng thiêng liêng A, Ă, Â, danh là Cao Đài tiên ông và được vị tiên này phán
bảo sứ mệnh xây dựng tôn giáo mới ở phương nam. Ông gặp bạn bè loan báo sự phát
hiện của mình về đấng Cao Đài và được mọi người nhất là ông Lê Văn Trung, ông
phạm Công Tắc nhiệt liệt hưởng ứng. Đến khi đạo Cao Đài chính thức ra đời và phát
triển rầm rộ, ông không muốn có sự rắc rối, ồn ào nên đã nhường vai trò lãnh đạo Cao
Đài cho ông Lê Văn Trung để trở về Cần Thơ tu luyện và cầu cơ, sau này hình thành
phái Cao Đài Chiêu Minh Đàn. Có thể nói ông là người đầu tiên khai sinh ra đạo Cao
Đài.
Ông Lê Văn Trung sinh năm 1875 tại Chợ Lớn trong một gia đình tiểu chủ.
Ông là người thông minh và chuyên cần. Năm 1893, ông tốt nghiệp trường trung học
Chasselup Loubat và được bổ nhiệm làm ở phòng II văn phòng thống đốc Nam kỳ, phụ
trách công chính và chợ búa. Năm 1905 ông nghỉ việc và chuyển sang làm thầu ngành
du lịch, đường sắt, ông rất thành đạt trong lĩnh vực mới và được bầu làm nghị sĩ, tham
gia làm hội đồng tư vấn phủ thống đốc. Năm 1920 ông bị thua lỗ trong kinh doanh và bị
phá sản. Sau khi thất bại trong doanh nghiệp ông quay vào hoạt động tôn giáo. Nhờ sự
thông minh với tài ngoại giao, tài tổ chức, ông đã nhanh chóng tiếp thu sứ mệnh khai
đạo của ông Ngô Minh Chiêu và trở thành Giáo Tông đứng đầu " Cửu Đài" - cơ quan
hành pháp của đạo Cao Đài. Ông Lê Văn Trung mất năm 1934.
90
- Ông Phạm Công Tắc, sinh năm 1893 tại Tân An, con ông Phạm Công Thiên
và bà Trần Thị Dưỡng. Ông bắt đầu làm công chức ngành thuế quan từ 1910 và tiến bộ
rất nhanh trong chức vụ của mình. Do bị chèn ép, ông phải chuyển sang làm việc ở
Phuôn Pênh (Campuchia). Sau đó ông bỏ nhiệm sở và chuyển sang hoạt động Cao Đài,
với chức Hộ Pháp đứng đầu "Hiệp thiên đài" - cơ quan lập pháp của đạo Cao Đài. Sau
khi ông Trung chết, ông Tắc trở thành lãnh tụ tối cao của đạo Cao Đài, nắm cả hai cơ
quan hành pháp và lập pháp. Cũng từ đó mâu thuẫn trong nội bộ Cao Đài trở nên gay
gắt sau này chia rẽ thành nhiều hệ phái.
91
Phụ lục 3
Sự phát triển của đạo Cao Đài qua các thời kỳ
Lịch sử phát triển của đạo Cao Đài trải qua nhiều thời kỳ biến đổi khác nhau,
mỗi thời kỳ có một dấu tích riêng đòi hỏi phải được hiểu đầy đủ. Vì nếu không thì
chúng ta chưa thấy hết tính cách mạng yêu nước của quảng đại quần chúng tín đồ; chưa
thấy hết tính phức tạp khó khăn do âm mưu của kẻ thù lợi dụng tôn giáo gây ra, cũng
như không thể có chiến lược, sách lược và phương pháp đúng đắn trong công tác Cao
Đài vận.
Dưới chế độ thực dân đế quốc đạo Cao Đài có một quá trình phát triển về cơ
cấu tổ chức, phân hóa về chính trị, tư sản hóa về kinh tế. Nhưng nhìn chung với tham
vọng về chính trị, những người cầm đầu giáo hội Cao Đài đã từng bước đi vào con
đường lừa mỵ quần chúng, phục vụ đắc lực cho âm mưu lợi dụng của thực dân đế quốc
thống trị và chính quyền tay sai. Con đường đó có thể tóm tắt qua các thời kỳ sau:
- Thời kỳ manh nha từ năm 1919 - 1925
Thời kỳ này gắn liền với tên tuổi của ông Ngô Văn Chiêu (còn có tên gọi khác
là Lê Minh Chiêu). Ông đã lần lượt tổ chức ra 3 nhóm tu và chủ yếu là cầu cơ.
+ Nhóm thứ nhất năm 1919
+ Nhóm thứ hai năm 1921. Ông Chiêu cùng môn đệ tạo biểu tượng tôn giáo là
thiên nhãn trong lòng một khuôn hình vẽ theo hình cây thánh giá.
92
+ Nhóm thứ ba năm 1924 Ông Chiêu cùng môn đệ lập một đàn cầu cơ riêng tại
Sài Gòn ở Cầu Kho.
Năm 1925 hình thành một nhóm thực hành thông linh học sau cầu cơ là nhóm
Cao Quỳnh Cư - Cao Hoài Sang - Phạm Công Tắc vào tháng 7 thì tháng 9 có được danh
xưng A, Ă, Â, và đến tháng 12 thì trong một lần giáng cơ có thêm danh xưng Ngọc
Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài tiên ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo đạo nam phương.
Và đêm NOEL 1925 có một bài cơ của đức tối cao được xem như bài thuyết giảng đầu
tiên của tôn giáo mới báo hiệu và chỉ ra tên của 12 môn đệ đầu tiên của Cao Đài giáo.
Như vậy, một tôn giáo mới ra đời trên vùng đất Nam Bộ từ hai nguồn hợp lại là
nhóm ông Chiêu và nhóm các ông Cư - Tắc - Sang. Điều cần lưu ý rằng đây là nhóm
người theo các tôn giáo khác nhau và cũng có thực hành tôn giáo ở những mức độ khác
nhau mà ta đã biết là Phật giáo, Đạo giáo, Công giáo (Trường hợp ông Phạm Công Tắc)
cho nên ta có thể thấy được rằng rồi đây những gì Cao Đài giáo công bố sẽ đi từ giáo lý
của những tôn giáo đã có ấy.
- Thời kỳ Cao Đài mới thành lập đến năm 1938.
Đây là thời kỳ hình thành giáo lý, cơ cấu tổ chức và cũng là thời kỳ chia rẽ
thành các chi phái như ngày nay.
Năm 1926 là năm đáng ghi nhận nhất của tôn giáo Cao Đài. Sau gần một năm
chuẩn bị về các mặt giáo lý, nghi thức, một mô hình tổ chức thông qua cơ bút thì ngày
29 tháng 9 để hợp thức hóa hoạt động 28 người tín đồ đầu tiên đã soạn thảo và đến ngày
7 tháng 10 gởi đến thống đốc Nam kỳ Lefol một tờ đơn xin khai mở một tôn giáo mới ở
Việt Nam. Thực dân Pháp theo dõi, nghiên cứu thấy có thể lợi dụng, lũng đoạn được
nên Pháp đồng ý bảo hộ và" Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ"gọi tắt là đạo Cao Đài chính thức
được thành lập vào ngày 17 tháng 10 năm 1926 (23/8/ năm Bính Dần) tại chùa Từ Lâm
93
Gò Kén, tỉnh Tây Ninh với sự có mặt của toàn quyền Đông Dương "Varen" thống đốc
Nam kỳ "Lefot", tên tình báo "Bônê" và nhiều quan chức Pháp, Việt khác.
Lúc đầu đạo Cao Đài có xu hướng chống Pháp, nhưng chỉ sau một thời gian
ngắn bị Pháp kiềm chế, mua chuộc và lợi dụng nên vừa mới ra đời những người cầm
đầu đạo Cao Đài đã mâu thuẫn nhau đi đến chia sẻ sâu sắc. Phạm Công Tắc cùng phe
nhóm gạt những người không ăn cánh ra khỏi hội thánh Cao Đài, thành lập riêng phái
Cao Đài Tây Ninh. Số còn lại rời Tây Ninh về các địa phương cũng tập hợp tín đồ tổ
chức riêng nhiều phái như: Cao Đài Bến Tre, Ban chỉnh đạo, phái Minh Chơn Đạo,
Thiên Khai Huỳnh Đạo, Đạo Cao Đài Chiêu Minh Đàn... (nội bộ Cao Đài phân hóa
thành nhiều phái. Đến năm 1975 có tất cả 25 chi phái, trong đó phái Tây Ninh là phái
lớn nhất và phản động nhất).
Giai đoạn đầu mới thành lập, thủ đoạn làm tay sai cho Pháp được ẩn vào trong
lớp vỏ bọc tôn giáo, những người cầm đầu tôn giáo Cao Đài đã dùng giáo lý thần quyền
để mê hoặc và đánh lạc hướng đấu tranh của quần chúng bằng những chiêu bài "Hòa
bình" "Dân chủ" mơ hồ chung chung, Thụ động, cầu an, ru ngủ làm cho quần chúng
chấp nhận sự thống trị của thực dân Pháp như là một sự thực hiển nhiên. Chính Phạm
Công Tắc giáo chủ đạo Cao Đài Tây Ninh đã từng thuyết đạo trong dịp lễ Đức Giáo
Tông. "Nước Pháp đủ đức tính thiêng liêng dạy dỗ các sắc tộc, dân tộc lạc hậu tạo thành
cơ sở đại đồng thế giới".
Đến giai đoạn đã thuần hóa được tín đồ theo tư tưởng xem pháp là "Mẫu quốc"
những người cầm đầu không hề nhắc nhở gì đến chống Pháp mà còn sẵn sàng đưa 9.000
thanh niên trong đạo sang Pháp xung vào quân đội Pháp để gọi là trả ơn Pháp cho phép
đạo Cao Đài thành lập.
- Thời kỳ 1939 -1945.
94
Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, biết Nhật sẽ vào thống trị Đông Dương,
khi còn là tay sai cho Pháp, những người cầm đầu Cao Đài Tây Ninh đã quay sang bắt
tay với Nhật, vì thế Pháp đã bắt Phạm Công Tắc giáo chủ Cao Đài Tây Ninh cùng một
số chức sắc đày ra đảo Mađagaxca (26-8-1940). Số cầm đầu còn lại thật sự bắt tay với
Nhật. Ngày 1-12-1942, 12 chức sắc thay mặt cho đạo Cao Đài cùng với 2 tên tình báo
Nhật là Nôchixuki và Nasusita, thay mặt Chính phủ Nhật ký kết hợp tác với Nhật.
Dựa vào thế lực quân đội Nhật, đạo Cao Đài phát triển mạnh mẽ, mở rộng địa
bàn hoạt động, làm tay sai đắc lực cho Nhật, làm hậu thuẫn chính trị cho Chính phủ bù
nhìn Trần Trọng Kim.
Nhật đầu hàng đồng minh, ngày 22-8-1945 Bảo Đại thoái vị, Chính phủ bù nhìn
Trần Trọng Kim giải tán, cách mạng tháng tám thành công. Ngày 2/9/1945 Chủ Tịch
Hồ Chí Minh độc tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Mở
đầu giai đoạn mới của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trước tình hình ấy, hội thánh Cao Đài buộc phải gia nhập mặt trận việt minh,
nhưng thực chất chỉ để đối phó tình hình, như Trần Quang Vinh đã viết: Mặc dù đạo
Cao Đài nhập với việt minh, nhưng việt minh vẫn là việt minh, Cao Đài vẫn là Cao Đài,
quân đội Cao Đài vẫn giữ nguyên hàng ngũ không có gì thay đổi [53,50].
- Thời kỳ 1946 - 1955.
Dựa vào quân đội Anh - ấn vào giải giáp quân đội Nhật, Pháp trở lại xâm lược
nước ta lần thứ II, những người cầm đầu Cao Đài Tây Ninh quay lại thương lượng nhận
làm tay sai cho Pháp, chống lại cách mạng, mở đầu cho thời kỳ cấu kết với Pháp lần thứ
II. Với sự thỏa thuận đó ngày 21-8-1946 Pháp đưa Phạm Công Tắc và một số chức sắc
trước đây bị đài nay trở về Sài Gòn cùng ký tên làm tay sai cho Pháp.
95
Giai đoạn này Phạm Công Tắc đã công khai ra mặt chống cách mạng, ông ra
lệnh củng cố lại lực lượng vũ trang Cao Đài do chính Phạm Công Tắc trực tiếp làm tổng
tư lệnh tối cao (Thượng Tôn Quản Thế) triển khai đóng đồn bót, càn quét gom tín đồ lập
chu vi đạo, thực hiện kế hoạch chống phá cách mạng lâu dài. Được phép chi viện tiền
của thời gian này quân đội Cao Đài phát triển gần 50.000 người, mở rộng chu vi đạo,
phát triển tín đồ thành lập hệ thống hành chính đạo như một hệ thống chính quyền,
thành lập cơ quan chính trị đạo, mở ra cơ sở hoạt động kinh tế - xã hội, giáo dục để
thông qua đó bóc lột và lừa mỵ tín đồ.
Khi Pháp bại trận phải buộc ký kết hiệp định Giơ neo vơ với Chính phủ ta, lập
lại hòa bình ơ Đông Dương vào tháng 7 năm 1946. Giai đoạn này Mỹ thay chân Pháp,
trực tiếp vào Việt Nam, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về thành lập Chính phủ bù nhìn, trong
đó Cao Đài giữ 4 ghế trong nội các của Diệm. Lúc này mâu thuẫn Pháp,Mỹ căng thẳng,
biểu hiện mâu thuẫn giữa tập đoàn tay sai thân Pháp với tập đoàn Diệm thân Mỹ. Được
giật dây Phạm Công Tắc đứng ra thành lập mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia, tập
hợp quân đội Cao Đài, Bình Xuyên, Hòa Hảo chống lại Diệm do Phạm Công Tắc làm
Chủ tịch với ý đồ đưa Bảo Đại về nước thành lập một chính phủ bù nhìn thân Pháp ở
miền nam. Trong khi đó một số tướng tá quân đội Cao Đài như: Văn Thành Cao,
Nguyễn Thành Phương đã được Mỹ Diệm mua chuộc và hỗ trợ kéo quân về bao vây
Tòa thánh Tây Ninh đánh bại bọn thân Pháp.Trong cuộc xung đột này, bọn thân Pháp
thất bại, một bộ phận chạy sang Campuchia tỵ nạn số còn lại nhập vào quân đội quốc
gia của Diệm, quân đội Cao Đài cũng tan rã từ đó. Riêng Phạm Công Tắc chạy sang
Campuchia và chết ở đó, chấm dứt thời kỳ Cao Đài làm tay sai cho Pháp và chuyển
sang làm tay sai cho Mỹ.
- Thời kỳ 1956 -1975.
Sau khi thắng trận, phe thân Mỹ trong đạo Cao Đài Tây Ninh liền đưa quân đội
Cao Đài nhập vào quân đội quốc gia của Diệm để làm tay sai cho Mỹ. Lúc này diệm
96
đưa những người chức sắc Cao Đài do Diệm nắm như: Cao Hoài Sang, Lê Thiện Phước,
Phạm Tấn Đải, Cao Đức Trọng... về Tòa thánh lãnh đạo Cao Đài theo phương hướng có
lợi cho Mỹ - Diệm và tiếp tục làm hậu thuẫn chính trị cho các Chính phủ thân Mỹ ở
miền nam.
Để nắm chặt hơn nữa Cao Đài Tây Ninh, thời gian này bọn tình báo Mỹ (CIA)
mật vụ của Diệm đã nắm và lôi kéo chức sắc vào làm tay sai cho chúng như: Lễ Sanh
Giang Thành Phước và Bùi Văn Côn (tình báo cục an ninh quân đội Ngụy); giáo sư
Nguyễn Văn Sâm; Từ Hiếu Ngọc (làm tay sai cho đặc ủy TW tình báo ngụy). Ngoài ra
dưới sự đạo diễn của CIA năm 1965 tập đoàn lãnh đạo Cao Đài cho ra đời "Ban thế
đạo" để tạo ra cửa mỡ hợp pháp cho bọn tình báo, cảnh sát, ngụy quân, ngụy quyền, tư
sản, địa chủ và một số trí thức phản động chui vào đạo. Từ những năm 1965 đến cuối
năm 1974 đã có 1.194 tên tay sai Mỹ đưa vào Cao Đài bằng con đường ban thế đạo điển
hình như: cụ tỉnh trưởng Hậu Nghĩa Nguyễn Văn Nhã (bằng con đường này từ chức
Hiền Tài lên Chánh Phối Sư, vượt 5 cấp cùng một lúc, nếu theo từng tự phải mất từ 2
đền 30 năm); Võ Văn Giàu - vừa là tình báo vừa là mật của Mỹ.
Khi chuyển sang thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" Mỹ - Thiệu
càng quan tâm hơn đến Cao Đài Tây Ninh, bọn CIA thông qua viện trợ "Văn hóa Châu
á" cùng với các nước chư hầu đã tập trung hàng trăm triệu đồng cho đạo Cao Đài xây
dựng bệnh viện, đài phát thanh, nhà in, chợ, đồng thời phát triển mạng lưới tình báo, cài
cấm thêm bọn chân tay, tổ chức chặt chẽ hệ thống hành chính đạo để kìm kẹp tín đồ,
nắm tình hình phục vụ cho kế hoạch Bình Định của Mỹ - Ngụy. Hình thành nơi chứa
thanh niên trốn lính ở các cơ quan, các cơ sở Cao Đài thực chất là phục vụ âm mưu chia
cắt quần chúng, nhất là thanh niên với cách mạng, để sau đó bố trí cho Mỹ - Ngụy bắt
gọn từng đợt bổ sung vào quân đội Ngụy.
Công bằng mà xét đạo Cao Đài phát triển nguyên nhân chính như đã nêu trên,
nhưng cũng còn nguyên nhân do ta phạm sai lầm gây nên trong thời kỳ kháng chiến
97
chống Pháp, do ta chưa nhận thức đầy đủ về thực chất đạo Cao Đài, nhất là chưa thấy
hết tâm tư quần chúng cho nên chưa quan tâm đúng mức đến công tác vận động quần
chúng, chưa phân biệt giữa nhóm cầm đầu, chức sắc với quần chúng tín đồ, cho nên
năm 1946 - 1947 nhiều địa phương chủ trương sai lầm thanh trừng Cao Đài một cách
bừa bãi. Bọn cầm đầu Cao Đài và đế quốc lợi dụng sai lầm ấy để khoét sâu mâu thuẫn
giữa tín đồ với cách mạng. Họ dùng cả quân đội gom tín đồ và quần chúng không đạo
vào các chu vi, thánh thất gọi là để "bảo vệ tín đồ". Thực chất là để thực hiện ý đồ chính
trị sâu xa lâu dài: lập hàng rào vững chắc cho đạo, phát triển tín đồ về mặt số lượng, tạo
nguồn lực lớn để sau này bổ sung vào quân đội ngụy quân Sài Gòn, điều nguy hại lớn
nhất là họ dựa vào việc này để tuyên truyền tạo hố sâu ngăn cách giữa tín đồ với cách
mạng, gây ảnh hưởng về mặt tư tưởng, tình cảm mà cho đến nay chưa hẳn đã lắp đầy
được. Đây là bài học sâu sắc cho chúng ta đối với tôn giáo nói chung và đạo Cao Đài
nói riêng.
Có thể nói quá trình phát triển của đạo Cao Đài là quá trình chia rẽ về tổ chức
và phân hóa về thái độ chính trị. Trước đây tuy một số chức sắc trong một số phái Cao
Đài mang tư tưởng cơ hội, vọng ngoại, bị các thế lực đế quốc, phản động mua chuộc lôi
kéo, bôi nhọ thanh danh của đạo đi ngược lại sự nghiệp của toàn dân, nhưng tuyệt đại
bộ phận tín đồ và số đông chức sắc đạo Cao Đài, nhất là các phái: Cao Đài Minh Chơn
Đạo, Cao Đài Ban chỉnh đạo, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Minh Chơn Lý, Cao Đài
Bạch Y, Cao Đài Chiếu Minh... có những đóng góp xứng đáng cho dân tộc trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ [27,198-202].
98
Phụ lục 4
Hệ thống tổ chức Cao Đài gồm có:
* Hội thánh: gồm 3 đài: Bát quái đài (phần vô hình) hiệp thiên đài và Cửu trùng
đài (phần hữu hình).
* Bát quái đài: Là nơi thờ phụng của đạo (thần điện) gồm các vị Thánh, Thần,
Tiên, Phật được sắp xếp ngôi vị từ trên xuống lần lượt như sau: Đức Chí Tôn, (biểu
tượng Thiên Nhãn trên quả càn khôn), Phật thích ca (tượng trưng cho đạo Phật), Đức
Lão Tử (giáo chủ đạo giáo), Khổng tử (giáo chủ Nho Giáo), Đức Lý Thái Bạch (Tiên
Đạo), Đức Quan Âm, Đức Quan Thánh Đế Quân, Đức Chúa Fesus chirist, Đức Khương
Thượng, Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư (3 ngôi cao nhất của Cửu Trùng Đài, tượng
trưng cho nhơn đạo, là cầu nối giữa phàm thể và thánh thể)
* Hiệp Thiên Đài: Vừa là cơ quan lập pháp vừa là cơ quan tư pháp. Về lập pháp
trước khi ban hành những điều về nội dung tôn giáo hay xã hội, Hiệp Thiên Đài tổ chức
"cầu cơ" hiệp thông với đấng thiêng liêng để nhận thánh chỉ đạo. Đạo Cao Đài thực hiện
chế độ "tam viện" (gọi tắc là quyền vạn linh, chịu ảnh hưởng tư tưởng đại nghị cộng hòa
tư sản): Hội Nhân Sanh (gồm đại diện tín đồ). Hội thánh (gồm đại diện các chức sắc
thiên phong của Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài). Thượng hội (gồm các chức sắc đại
thiên phong từ thập nhị thời quân của Hiệp Thiên Đài và từ phối sư của Cửu Trùng Đài
trở lên).
Đứng đầu Hiệp Thiên Đài là chức Hộ pháp, dưới Hộ pháp là 2 chức: Thượng
phẩm, Thượng sanh, dưới 3 chức này là 12 vị thời quân (Thập nhị thời quân) thuộc 3
chi: Pháp - Đạo - Thế.
99
Chi pháp do hộ pháp trực tiếp phụ trách, chuyên lo về luật pháp, gồm 4 chức
sắc trong 12 vị thời quân: Tiếp pháp, Khai pháp, Hiến pháp, Bảo pháp.
Chi thế do Thượng sanh trực tiếp phụ trách, chuyên lo việc đào tạo và huấn
luyện, kế thừa nền đạo, gồm 4 chức sắc trong 12 vị thời quân: tiếp thế, Khai thế, Bảo
thế, Hiến thế.
Chi đạo do thượng phẩm trực tiếp phụ trách chuyên lo việc hành đạo gồm 4 chức sắc
trong thập nhị thời quân: Tiếp đạo, Khai đạo, Hiến đạo, Bảo đạo.
Dưới chi có các cơ quan giúp việc như: Bộ pháp chánh có nhiệm vụ theo dõi và
kiểm soát luật đạo với các ngôi vị như sau: Tiếp dẫn đạo nhơn, Chưởng ấn, Cải trạng,
Giám đạo, Thừa sử, Truyền trạng, Sĩ tải, Luật sự; Hàn lâm viện với 12 chức sắc chuyên
môn gọi là thập nhị Bảo quân có chức năng quản lý và điều hành hành chính của Cửu
Trùng Đài gồm: Bảo huyền linh quân (Thần linh học) Bảo linh quân (thiên văn học),
Bảo cơ quân (luật) Bảo văn pháp quân (nghệ thuật), Bảo học quân (giáo dục), Bảo y
quân (y tế), Bảo vật quân (tài vật), Bảo sĩ quân (văn học), Bảo sanh quân (xã hội), Bảo
nông quân (xây dựng, giao thông), Bảo thượng quân (kinh tế).
* Cửu trùng đài: là cơ quan hành pháp gồm 9 viện: Hộ, Lương, Công, Học, Y,
Nông, Hóa, Lại, Lễ, tương đương như 9 bộ của một chính phủ. Chức sắc Cửu Trùng Đài
chia thành 3 ngành: Thái (thuộc phật); Thượng (thuộc lão); Ngọc (thuộc Nho); mỗi
ngành nắm 3 viện.
Đứng đầu Cửu Trùng Đài là chức giáo tông (tương đương với chức thủ tướng
hoặc Giáo Hoàng). Chức sắc có 9 bậc (cửu phẩm), mỗi bậc có số lượng nhất định được
chia đều cho 3 ngành, sắp xếp theo phẩm hàm từ cao đến thấp như sau: Giáo tông (1 vị),
Chưởng pháp (3 vị), Đầu sư (3 vị), Phối sư, (36 vị), Giáo sư (72 vị), Giáo hửu (3.000
vị), Lễ sanh (không hạn định). Dưới lễ sanh là chánh trị sự, phó trị sự và thông sự. Để
100
giám sát việc hành pháp của Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài đã đặt một số chức sắc của
mình, trong hệ thống này, đó là vị Chưởng pháp ở giữa chức Giáo tông và Đầu
sư. Ngược lại cũng để giám sát công việc của Hiệp Thiên đài, Cửu
Trùng Đài đặt 2 chức Thượng phẩm, Thượng sanh giữa Hộ pháp và Thập nhị
thời quân.
Khi Cao Đài phát triển mạnh, nhất là dưới thời kỳ Mỹ - Ngụy phái Cao Đài Tây
Ninh còn lập ra nhiều tổ chức khác như: Hội thánh phước thiện, làm nhiệm vụ từ thiện
xã hội với "Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng" (mang ý nghĩa hàm tước hơn là thực vị,
dùng để tặng cho các nhân vật và tín đồ có hành vi có đạo đức cao trong đạo): Phật tử,
Tiên tử, Thánh nhân, Hiền nhân, Chân nhân, Đạo nhân, Chí thiện, Giáo thiện, Hành
thiện, Thính thiện, Tân dân, Minh đức; Ban thế đạo làm nhiệm vụ truyền đạo dưới sự
chỉ đạo của thượng sanh và do một chưởng quản điều khiển trực tiếp các chức sắc: phu
tử, Đại phu, quốc sĩ, Hiền tài, Cơ thánh vệ, Cơ bảo mật, Cơ bảo thế, Cơ bảo phòng...
làm nhiệm vụ an ninh trật tự, bảo mật...
* Tổ chức hành chính đạo ở địa phương:
Ngoài các cơ quan hành chính Trung ương, Cao Đài Tây Ninh còn có các cơ
quan hành chính các cấp, phân chia như sau:
- Trấn đạo: đứng đầu là Khâm trấn.
- Châu đạo: đứng đầu là Khâm Châu
- Tộc đạo: đứng đầu là Đầu tộc (Lễ sanh)
101
- Hương đạo: do ban trị sự cai quản, đứng đầu là chánh trị sự, đến phó trị sự và
thông sự.
Cao Đài Tây Ninh sau khi ra đời với các tổ chức giáo hội chặt chẽ, có hệ thống
đã làm tăng sức mạnh của nó so với sự rời rạc của Phật giáo và một số tôn giáo khác
trong cùng thời kỳ. Việc lấy danh chức sắc và danh xưng cấp địa phương (Trấn, Châu)
tỏ rõ kỳ vọng chính trị "lấy đạo đổi đời" của những người lãnh đạo Cao Đài Tây Ninh.
Đặc biệt sau này đạo Cao Đài phát triển mạnh, nhiều thứ cơ hội, nhất là cơ hội chính trị
chui vào khai thác sử dụng bộ máy hành chính đạo phục vụ cho những tham vọng của
họ.