Bệ mà® ©ụ© VÀ ®Ằ@ TẠ®

TRƯƠNG ĐẠI HỌC KỈNH TẾ THÀ NH PHỐ Hồ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP BỘ

MỀM ũ® i ẲN VẾ ũếm mnìệp HÓA

mận ©ái uếầ VÀ ® Ặ© ®1ỂM, NỘI

H ÍP MỐÂ, Mlệi®ềJ

Mã số: B. 98. 22. 25. TĐ

CÂM nhiệm đề tài: Tiến sĩ NGUYỄN

THANH

TP. Hồ Chí Minh năm 2002

Ì

A. MỞ Đ AU

Trang

2

B. NỘI DUNG

Chương 1. C ÁC QUAN NIỆM K H ÁC NHAU VỀ C Ô NG NGHIỆP HOA

1.1. Các quan niệm về công nghiệp hoa.

— 6

1.1. Các quan niệm về hiện đại hoa.

28

Chương 2 . C Ô NG NGHIỆP HOA, HIỆN ĐẠI HOA Ở VIỆT NAM

69

2.1. Giai đoạn 1960 - 1986

70

2.2. Giai đoạn 1986 đến nay 75

CHƯƠNG 3. BỐI CẢNH, ĐẶC DIÊM, NỘI DUNG CỦA C Ô NG NGHIỆP HOA,

HIỆN ĐẠI HOA ở N ƯỚC TA HIỆN NAY

3.1. bôi cảnh triển khai sự nghiệp công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở

nước ta hiện nay

88

3.2. đặc điểm cửa quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở

nước ta

103

3.3. những nội dung cơ bản của công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở

nước ta hiện nay

107

c. K ẾT LUẬN

118

2

A. MỞ ĐẦU

Lịch sử phát triển của nhân loại đã cho ta thấy rằng, mỗi xã hội

đều tồn tại và phát triển dựa trên cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định, tức

trên một phương thức sản xuất xã hội cớ thể. Có thể gọi nền văn minh hiện

đại là nền văn minh công nghệ, là kết quả hiện thực hoa tất yếu của chủ

nghĩa duy lý dưới các hình thức đa dạng của mình trong mọi hoạt động đời

sống xã hội, trong đó trước hết là nền sản xuất xã hội. Ở đây, chúng tôi đề

cập tới quá trình đối tượng hoa tính hợp lý (tri thức khoa học) trong công

cớ lao động, tư liệu sản xuất mà vẫn được quen gọi là phương thức sản

xuất công nghiệp, còn nền văn minh tồn tại và phát triển dựa trên nó -

nền văn minh công nghiệp.

Có thể nói, sự đối tượng hoa, hiện thực hoa tính hợp lý (tri thức khoa

học), nói cách khác, quá trình công nghiệp hoa, không những là một giai

đoạn phát triển lịch sử cần thiết và tất yếu của nhân loại nói chung và mỗi

quốc gia, dân tộc nói riêng, mà còn là tiền đề tuyệt đối cần thiết để hình

thành nền văn minh công nghệ hiện đại. Hiện nay, chúng ta hoàn toàn

không thể hình dung sự tồn tại của xã hội và con người hiện đại mà thiếu

những thành quả vật chất do quá trình công nghiệp hoa đem lại. Nhìn từ

góc độ triết học xã hội thì công nghiệp hoa thể hiện với tư cách là một lý

luận, một chiến lược phát triển từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công

nghiệp. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu công nghiệp hoa về mặt lý luận

là rất cần thiết.

Vấn đề lại càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hơn khi

chúng ta tính đến thực trạng lý luận và thực tiễn phát triển của xã hội Việt

3

Nam. Xã hội chúng ta về căn bản vẫn là một xã hội nông nghiệp. Do

vậy chúng tôi luôn hoàn toàn nhất trí với quan điểm cho rằng "ở các nước

đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng, công nghiệp hoa đang là

vấn đề cấp bách, sống còn", "Công nghiệp hoa đối với các nước đang phát

triển trong đó có Việt Nam, vẫn là một tất yếu lịch sử... Bàn luận về

những bước đường phát triển của đất nước mà không nói tới công nghiệp

hoa là chưa đợng tới một trong những vấn đề kinh tế và xã hội quan trọng"

Nghiên cứu công nghiệp hoa như một lý luận, chiến lược phát triển xã

hội nghiên cứu quá trình hiện thực hóa đó, cũng như các vấn đề nảy sinh

ra từ đó, nghiên cứu và đề ra chiến lược công nghiệp hoa ở Việt Nam, làm

sáng tỏ các đặc điểm chủ yếu của quá trình này và từ đó đưa ra những giải

pháp tối ưu - tất cả những vấn đề đó hiện vẫn giữ nguyên tính cấp bách về

lý luận và thực tiễn của nó.

Hiện nay, quá trình toàn cầu hoa m ọi mặt đời sống xã h ội đang diễn

ra mạnh mẽ, cùng với mọi mẫu thuẫn, mọi hiệu quả tích cực và tiêu cực,

mọi cơ hội và thách thức của mình, lại dẫn tới quá trình nhất thể hoa thế

giới hiện đại, trước hết là nhất thể hoa về mặt khoa học, công nghệ, kinh

tế và tổ chức xã hội. Theo chúng tôi, thực chất của quát trình này là ở chỗ,

dù được tiến hành dưới bất cứ hình thức nào và với bất kỳ mợc đích nào,

thì đây vẫn là việc các nước đang phát triển cố đạt tới một xã hội đang tồn

tại ở hướng Tây về hàng loạt các mặt khác nhau, mà trước tiên là về mại

tổ chức kinh tế, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học và

(1) Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan. Công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở V i ệt Nam và các

nước trong khu vực. Nxb. Thống kê, Hà N ội 1995, tr. l i, 46, 47

công nghệ. Quá trình này còn được gọi là quá trình hiện đại hoa, việc hiện

4

đại hoa xã hội cũng là một tất yếu khác quan. Mặc dù vậy lý luận hiện

đại hoa vẫn là một vấn đề lý luận còn nhiều tranh luận. Song, có thể

khẳng định, hiện đại hoa cũng là một lý luận, chiến lược phát triển xã hội

trong điều kiện hiện đại. Đối với triết học xã hội, nghiên cứu hiện đại hoa

như một lý luận phát triển xã hội là một vấn đề lý luận quan trọng trong

giai đoạn hiện nay.

Vấn đề công nghiệp hoa là một vấn đề lý luận và thực tiừn đặc biệt

cấp bách đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vì các

nước cũng cần thiết và tất yếu phải tiến hành song song công nghiệp hoa

và hiện đại hoa, đặc biệt là trong điều kiện toàn cầu hoa. Thứ hai, các

nước này phải kế thừa có chọn lọc những thành tựu công nghiệp hoa và

loại bỏ những hậu quả tiêu cực của nó ở các nước đã trải qua quá trình

này, và biết tận dụng cơ hội để tiến hành thành công công nghiệp hoa,

hiện đại hoa sau một khoảng thời gian nhanh nhất có thể nhằm tránh khỏi

nguy cơ ngày càng tụt hậu và nếu có thể thì rút ngắn khoảng cách, đuổi

kịp các nước phát triển về hàng loạt tiêu chí, mà quan trọng nhất là tiêu

chí về trình độ phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ, quản lý, về tổ chức

sản xuất - xã hội. Chính vì vậy mà nhiệm vụ nghiên cứu lý luận cũng như

kinh nghiệm hiện đại hoa cần được quan tâm thoa đáng, cần được nghiên

cứu một cách có hệ thống để trở thành lý luận chỉ đạo cho công cuộc công

nghiệp hoa, hiện đại hoa trên thực tế ở nước ta hiện nay.

Xuất phát từ một số suy nghĩ trên, cũng như tình hình nghiên cứu đề

tài, chúng tôi cố gắng góp phần làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản của lý

luận công nghiệp hoa, hiện đại hóa, lịch sử lý luận và thực tiừn của nó từ

đó thử đưa ra một số đánh giá quá trình công nghiệp hoa ở nước ta trước

5

đây, đồng thời đưa ra những đặc điểm cũng như những nội dung cơ bản

của quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa trong điều kiện hiện nay ỏ

nước ta.

6

B. NỘI DUNG

Chương Ì CÁC QUAN NIỆM KHÁC NHAU VE CÔNG NGHIỆP HOA,

HIỆN ĐẠI HOA.

LI. CÁC QUAN NIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP HOA.

Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ, để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế -

xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng

trưởng nhanh và ổn định, mỹi nước phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý,

trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế. Ớ các nước

phát triển, quá trình ấy gắn liền với qua trình công nghiệp hoa.

Trong thực tiễn, đến nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về

phạm trù "công nghiệp hoa".

Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoa cho rằng" công nghiệp

hoa là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động; trang bị (cho m ột

vùng, một nước) các nhà máy, các loại công n g h i ệ p . Q u an n i ệm mang

tính "triết tự" này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử

công nghiệp hoa ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình dài thực

hiện công nghiệp hoa, các nước này chủ yếu tập trung vào phát triển các

ngành công nghiệp, sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã h ội

khác chỉ là hệ qua của quá trình công nghiệp hoa, chứ không phải là đối

tượng trực tiếp của công nghiệp hoa. Quan niệm giản đơn trên đây có

"> Xem: "Petit Larousse illustsé - 1992", trang 520

những mặt chưa hợp

7

lý. Trước hết, nó không cho thấy mục tiêu của quá trình cần thực hiện,

thứ hai, trong mỗi nội dung trình bày, quan niệm này gần như đồng nhất

quá trình công nghiệp hoa với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ ba,

quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công

nghiệp hoa. Chính vì vậy, quan niệm này được sử dụng rất hằn chế trong

thực tiễn.

Trong sách báo kinh tế của Liên Xô (trước đây) tồn tằi một định

nghĩa phổ biến cho rằng "công nghiệp hoa là quá trình xây dựng nền đằi

công nghiệp cơ khí có khả năng cải tằo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển

công nghiệp nặng với các ngành trung tâm là chế tằo máy" tỷ trọng

công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng tăng. Quan niệm này

xuất phát từ thực tiễn của Liên Xô: khi họ tiến hành công nghiệp hoa,

công nghiệp đã phát triển đến trình độ nhất định, dù trong thời kỳ nội

chiến chúng bị tàn phá nặng nề; chủ nghĩa đế quốc bao vây toàn diện, sự

trợ giúp từ bên ngoài không có, thị trường trong nước là nền tảng cho phát

triển kinh tế. Trong bối cảnh ấy, để tồn tằi và phát triển, Liên Xô phải tiến

hành công nghiệp hoa với nhịp độ nhanh, phải tập trung phát triển công

nghiệp nặng, phải hướng các ngành công nghiệp vào phục vụ nông nghiệp

nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước. Quan niệm này được coi là hợp lý

trong điều kiện của Liên Xô thời kỳ đó. Nhưng sẽ sai lầm nếu coi đó là

quan niệm phổ biến để áp dụng cho tất cả các nước đang phát triển trong

"Những vấn đề công nghiệp hoa của các nước đang phát triển" Nxb Tưtưởng, M. 1972. Tr 1.

điều kiện hiện nay.

8

Gần đây khi nhấn mạnh vai trò, vị trí của công nghiệp chế biến

như một biểu hiện của phát triển công nghiệp ở trình độ cao, điều kiện

bảo đảm hiệu quả của sử dụng tài nguyên và trao đổi thương mại quốc

tế... lại có ý kiến cho rằng "phát triển công nghiệp chế biến là bản lề

của công nghiệp hoá"(1). Không thể phủ định vai trò của công nghiệp

chế biến là nội dung bao trùm của quá trình công nghiêp hoa. "Bản lề"

của chuyển trình độ ỡ các nườc rất khác nhau. Mặt khác, công nghiệp chế

biến có phạm vi rộng lờn, cơ cấu phức tạp. Phát triển công nghiệp chế

biến đến thị trường sản phẩm ở đâu... đó là câu hỏi không thể có câu trả

lời chung cho tất cả các nườc.

Năm 1993, Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc

(ƯNIDO) đã đưa ra định nghĩa sau đây: "Công nghiệp hoa là một quá trình

phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các

nguồn của cải quốc dân động viên để phát triển kinh tế, trong quá trình này

toàn bộ để phát triển chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu

săn xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế -

xã hội". Quan niệm này cho thấy quá trình công nghiệp hoa bao gồm toàn

bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tời không chỉ sự phát triển

kinh tế mà còn cả sự tiến bộ về mặt xã hội nữa. Quá trình công nghiệp hoa

trong điều kiện hiện nay cũng gắn liền vời quá trình hiện đại hoa các hoạt

động kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài và phức

tạp vời ý tưởng dung hoa nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều học giả cho rằng

định nghĩa của UNIDO là công thức lai hợp và mang tính chất một phương

thức tác chiến nhiều hơn là một định nghĩa khoa học.

9

Sự tồn tại những quan niệm khác nhau về phạm trù công nghiệp

hoa là hiện tượng bình thường trong khoa học. Nói chung, người ta muốn

đưa ra một định nghĩa ngắn gọn cho một quá trình phức tạp bao trùm nhiều

lĩnh vực hoạt động khác nhau. Mặt khác, do điều kiện hoàn cảnh cụ thấ

của các nước rất khác nhau, mục tiêu cụ thấ, các phương thức, trình tự thực

hiện quá trình công nghiệp hoa ở các nước cũng không giống nhau. Việc

nêu ra một định nghĩa ngắn gọn cho quá trình công nghiệp hoa sẽ vấp phải

một trong hai hạn chế sau:

- Không bao quát được bản chất của quá trình công nghiệp hoa.

- Muốn bao quát được thì phải đưa ra một định nghĩa dài dòng và

cần có lý giải phức tạp kèm theo.

Trong điều kiện hiện nay, quan niệm về công nghiệp hoa dù trên

góc độ nào cũng không đồng nhất quá trình phát triấn công nghiệp. Tuy

quá trình công nghiệp hoa có những nét riêng đối với từng nước, nhưng đó

chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính chất phổ biến cho phù hợp với

điều kiện cụ thấ của từng nước mà thôi. Công nghiệp hoa là quá trình rộng

lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây:

Thứ nhất, công nghiệp hoa là quá trình trang bị và trang bị lại công

nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các

ngành chiếm vị trí trọng yếu. Thực hiện công nghiệp hoa trong điều kiện

cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị và trang bị lại

công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hoa ở các

phần cứng và phần mềm của công nghệ. Quá trình này đồng thời là quá

trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế,

các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá

10

ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân CƯ,

trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh

thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của các nước đó với các

nước phát triển.

Hiện đại hoa, xét trên góc độ kinh tế - kỉ thuật, là cái đích cần vươn

tới trong quá trình công nghiệp hoa. Nhưng sự vươn lên về trình độ công

nghệ này lại bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả kinh tê - xã hội.

Xét toàn cục, hiện đại hoa lại chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục

tiêu của quá trình công nghiệp hoa mà thôi. Giải quyết quan hệ này có

liên quan trực tiếp đến bước đi của quá trình hiện đại hoa theo những điều

kiện cụ thể của mỗi nước. ý tưởng muốn đi ngay vào công nghệ hiện đại

của tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động nhằm nhanh chóng xoa bỏ

tình trạng nghèo nàn lạc hậu là ý tưởng phiêu lưu thoát ly thực tế của đất

nước và chỉ làm trầm trọng thêm những vấn đề kinh tế - xã hội của đất

nước. Trong điều kiện nhân lực dồi dào, trình độ quản lý có hạn và sự

thiếu thốn trầm trọng về vốn đầu tư, cần phải dành ưu tiên hiện đại hoa

cho các ngành, các lĩnh vực "đầu tư" mà sự phát triển chúng sẽ tạo ra

những điều kiện cơ bản cho sự phát triển các ngành khác và góp phần cải

thiện vị trí của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việc kết hợp công

nghệ với nhiều trình độc khác nhau trở thành tất yếu khách quan.

Một vấn đề khác cũng cần được giải quyết là xác định đánh giá mức

độ hiện đại của công nghệ được trang bị. Xu thế chung của thế giới ngày

nay là thực hiện đổi mới công nghệ nhanh chóng, rút ngắn chu kỳ sống của

mỗi loại công nghệ. Điều cần phấn đấu là đưa trình độ hiện đại chung của

thế giới, tuy điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà

li

xác định trình độ thích ứng. Quan niệm một cách giản đớn, theo kiểu "cũ

người mới ta", "cái không tiên tiến của nước khác cũng là cái hiện đại của

nước mình" Trong lựa chọn công nghiệp nhập, sự thiếu hiểu biết và thiếu

thông tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển đến việc lựa chọn thiết bị lạc

hậu hoặc thiết bị cũ được tân trang lại. Cái giá phải trả quá lớn, tấc độ

hiện đại hoa không được đẩy nhanh.

Thứ hai, quá trình công nghiệp hoa không chỉ liên quan đến phát

triển công nghiệp mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực

hoạt động của đất nước. Đó là tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nước là một

hệ thấng thấng nhất, các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương

đấi với nhau. Sự thay đổi kinh tế, lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc

sẽ đòi hỏi sự thay đổi thích ứng của các ngành, các lĩnh vực hoạt động

khác. Bởi vậy, quá trình công nghiệp hoa cũng gắn liền với quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế quấc dân và cơ cấu ngành kinh tế. Trong sự

chuyển dịch cơ cấu của quá trình công nghiệp hoa, vị trí của các ngành sẽ

thay đổi. Xét tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi nước được cấu thành bởi ba

loại ngành tổng hợp: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Các ngành này

có quan hệ ràng buộc nhau.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển trong quá

trình công nghiệp hoa, nói chung, diễn ra theo xu hướng sau đây:

- Nông nghiệp trong giai đoạn đầu giữ vững vị trí hàng đầu, là hoạt

động kinh tế cơ bản của dân cư, tạo ra những hàng hoa tiêu dùng thiết yếu

cho dân CƯ và bảo đảm một sấ điều kiện quan trọng cho phát triển nông

nghiệp. Đến một trình độ phát triển nhất định, khi những nhu cầu cơ bản

của dân cư về lương thực, thực phẩm đã được bảo đảm, nông nghiệp sẽ

12

chuyển vị trí xuống hàng thứ. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong lao

động xã hội và giá trị sản lượng nông nghiệp trong tổng giá trị sản lượng

sẽ giảm dần. Cũng cần nói thêm rằng trên thế giới gần như không có nước

nào làm giàu được bằng nông nghiệp thuần tuy.

- Công nghiệp trong nhận thức được coi là ngành quan trọng, nhưng

trong giai đoạn đầu cựa công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở các nước đang

phát triển chỉ có lực lượng công nghiệp nhỏ bé sản xuất hàng tiêu dùng

đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài nguyên thiên nhiên. Trong

quá trình công nghiệp hoa, công nghiệp luôn được dành sự Ưu tiên phát

triển. Tuy công nghiệp hoa không đồng nhất với phát triển công nghiệp,

nhưng không thể công nghiệp hoa nếu không phát triển mạnh công nghiệp.

Bởi vậy, vị trí khiêm tốn ban đầu, công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí

hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân cựa đất nước.

- Các hoạt động dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sống là điều kiện để

phát triển các ngành kinh tế và cải thiện đời sống cựa dân cư. Không thể

có quá trình công nghiệp hoa nhanh bằng hệ thống dịch vụ, đặc biệt là hệ

thống kết cấu hạ tầng kinh tế lạc hậu được. Ngay giai đoạn đầu cựa quá

trình công nghiệp hoa, cần giành sự chú ý thoa đáng cho phát triển hệ

thống kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút đầu tư nước ngoài.

Nhưng trong tất cả các giai đoạn cựa quá trình công nghiệp hoa, dịch vụ

chỉ giữ vị trí ở hàng thứ trong cơ cấu kinh tế quốc dân.

Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cựa các nước trong quá trình

công nghiệp hoa sẽ trải qua hai giai đoạn: từ cơ cấu nông - công nghiệp -

dịch vụ chuyển sang cờ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ.

13

Thứ ba, quá trình công nghiệp hoa trong bất kỳ giai đoạn nào cũng

đều vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội.

Việc thực hiện có kết quả quá trình công nghiệp hoa sẽ thủ tiêu tình trạng

lạc hậu về kỹ thuật, thấp kém về kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi "vòng

luẩn quẩn". Đồng thời, quá trình công nghiệp hoa cũng gợn liền với quá

trình thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, nâng cao dân trí, nâng cao mức

sống của dân cư, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Quá trình

kinh tế - kỹ thuật và quá trình kinh tế - xã hội có quan hệ ràng buộc nhau.

Quá trình kinh tế kỹ thuật cao tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc thực

hiện các nội dung của quá trình kinh tế - xã hội. Ngược lại, quá trình kinh

tế - xã hội góp phần tạo nên động lực cho thực hiện quá trình kinh tế -

kỹ thuật.

Đối với mỗi nước, công nghiệp hoa là quá trình lịch sử lâu dài. Theo

W.Rostow, sự phát triển của một đất nước trải qua 5 giai đoạn: Xã hội

truyền thống, chuẩn bị tiền đề cho cất cánh; cất cánh; tiến tới sự trưởng

thành; tiêu dùng ở trình độ cao. Có thể thấy quá trình công nghiệp hoa

được khởi đầu bằng việc "chuẩn bị tiền đề cho cất cánh", được thực hiện

mạnh mẽ trong giai đoạn "cất cánh" và kết thúc khi xã hội đã "tiến tới sự

trưởng thành". Khoảng thời gian của mỗi giai đoạn và toàn bộ quá trình

công nghiệp hoa dài hay ngợn phụ thuộc vào nhiều nhân tố chủ quan và

khách quan, trong đó nhân tố xác định đúng mô hình chiến lược và tổ chức

thực hiện tốt chiến lược công nghiệp hoa đóng vai trò cực kỳ quan trọng.

Khi đất nước đạt đến trình độ nhất định về kinh tế - kỹ thuật - xã hội quá

trình công nghiệp hoa sẽ kết thúc. Để đánh dâu điểm mốc này cần có

14

những tiêu chuẩn cụ thể phân định. Tiêu chuẩn này không phải là sự so

sánh trình độ đạt được với trình độ của đất nước trong quá khứ mà còn

phải so sánh với các nước khác theo những chuẩn mực chung (chẳng hạn,

mức tổng sản phẩm trong nước tính bình quân đọu người; tỷ trọng nông

nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước; mức năng lượng tiêu chuẩn tiếu

dùng tính theo đọu người, lượng calo tiêu thụ bình quân đọu người...).

Thứ tư, quá trình công nghiệp hoa cũng đồng thời là quá trình mở

rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân

công lao động quốc tế và quốc tế hoa đời sống kinh tế trở thành xu thê

phát triển ngày càng mạnh mẽ. Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ

thống kinh tế thế giới, có tác động tương hỗ ở mức độ khác nhau với kinh

tế của các nước khác và chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế - xã hội

chung của thế giới. ở mỗi nước, việc xác định mục tiêu, phương thức công

nghiệp hoa cọn phải phân tích và dự đoán được những biến động kinh tế -

xã hội chung của thế giới, đặc biệt là của các nước trong khu vực. cọn

phải đặt sự phát triển kinh tế của đất nước trong việc xây dựng hệ thống

kinh tế mở, tăng cường quan hệ thương mại quốc tế, tham gia tích cực vào

quá trình cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc dân.

về nguyên tắc, việc thực hiện quá trình công nghiệp hoa phải dựa

vào các nguồn lực trong nước là chủ yếu. Trong việc xây dựng kinh tế mở,

thực hiện phương châm "tự lực cánh sinh" phải tiến hành trên cơ sở phát

huy lợi thế so sánh của đất nước để tham gia tích cực vào quan hệ kinh tế

quốc tế. Cũng trong bối cảnh này, việc tranh thủ sự trợ giúp về tài chính,

kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý... từ bên ngoài phải được coi là một điều

kiện đặc biệt quan trọng, nhất là trong giai đoạn đọu của quá trình công

15

nghiệp hoa. Xin nhấn mạnh rằng, lực lượng bên ngoài chỉ là sự hỗ trợ, sự

giúp đỡ chứ không thể là lực lượng làm thay và cũng không thể là sự sao

chép máy móc các kinh nghiệm của nước khác. Quan hệ này, người ta

thường lấy thuyết lạc hậu của A.Gerchenkron (1) để nói đến "lợi thế" của

các nước lạc hậu so với các nước đi tiên phong trong công nghiệp hoa. Đó

là: kế thừa kinh nghiệm công nghiệp hoa, tranh thủ hỗ trợ về vữn, kỹ thuật

và kỹ năng

quản lý của các nước tiên tiến... cần thấy rằng những "lợi thế" trên nằm

trong giới hạn tương đữi hẹp. Thực tế cho thấy hàng trăm nước lạc hậu có

thể kế thừa những kinh nghiệm đồ sộ và sự trợ giúp bên ngoài của các

nước đang phát triển nhưng những nước thành công lại quá ít ỏi. Bữi cảnh

quữc tế và thực trạng mỗi nước cụ thể rất khác nhau, sự sao chép máy móc

kinh nghiệm nước khác chưa bao giờ đem lại tấm gương thành công nào

cả. Vả lại, mọi sự trợ giúp đều có giá theo tinh thần có đi có lại.

Trong việc khai thác các nguồn lực tự nhiên, phát huy lợi thế tự

nhiên để tham gia vào quan hệ kinh tế quữc tế cần kết hợp với việc bảo

tồn và tái tao các nguồn lực ấy. Mọi sự lạm dụng "sức mạnh của con người

trong chinh phục tự nhiên" theo kiểu bóc lột, huy hoại tài nguyên sẽ dẫn

con người đến chỗ phá ngay môi trường tồn tại của chính mình.

Thứ năm, công nghiệp hoa không phải là một mục đích tự thân, mà

là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi

nước. Mỗi nước có hệ thững mục tiêu riêng của mình. Tuy vậy, về hình

"'Xem: p. Samuelson: "Kinh tế học", tập 2; M.Gillis và các tác giả: "Kinh tế học của sự phát triển"

tập 2. V i ện Quản lý K i nh tê'TW xuất bản 1989.

thức vẫn có thể thấy những tương đồng về hệ thững mục tiêu của các nước.

16

Đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại, khai thác có

hiệu quả các nguồn lực của đất nước, đảm bảo nhịp độ phát triển kinh tế

xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sỗng vật chất và tinh thần cho các

tầng lớp dân cư... Mục tiêu cụ thể của mỗi nước phụ thuộc vào quan điểm

của hệ thỗng chính trị lãnh đạo. Phương hướng, quy mô và nhịp độ công

nghiệp hoa phụ thuộc vào đặc điểm chính trị xã hội của đất nước. Đó chính

là một trong những biểu hiện của quan hệ biện chứng giữa cơ sở kinh tế và

kiến trúc thượng tầng. Không thể thực hiện có hiệu quả quá trình công

nghiệp hoa khi hệ thỗng chính trị - xã hội không ổn định và không được

đổi mới. Ngược lại, cũng không giữ được ổn định về kinh tế chính trị xã

hội, chủ quyền của đất nước nếu không thực hiện có hiệu quả quá trình

công nghiệp hoa.

Từ toàn bộ những vấn đề đã phân tích trên đây có thể rút ra kết luận

khái quát : Công nghiệp hoa là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên

những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở khai

thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh

tế qu c tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học -

công nghệ ngày càng hiện đại.

Trong sách báo kinh tế hiện nay, người ta thường gặp nhiều thuật

ngữ khác nhau liên quan đến lý luận, đường hướng công nghiệp hoa ở các

nước đang phát triển. Những thuật ngữ phổ biến là "mô hình phát triển"

"mô hình chiến lược phát triển" " mô hình công nghiệp hoa", "mô hình

chiến lược công nghiệp hoa", V.V.. Việc luận giải những thuật ngữ này

không phải là nhiệm vụ đơn giản. Bởi lẽ, nếu không đủ chứng cứ xác thực

và cụ thể về xuất xứ và nội dung của chúng, việc luận giải sẽ mang tính

17

suy lý chủ quan áp đặt quan điểm của người luận giải. Thật ra, việc đi sâu

vào luận giải các thuật ngữ, theo chúng tôi trong trường hợp này là không

cần thiết. Điều quan trọng không phải là từ ngữ sử dụng mà là ở nội dung

cựt lõi của vấn đề.

Hiện nay, ngoài một sự ít nước đang phát triển đã cất cánh và đang

tiến tới sự trưởng thành một cách khá ổn định, phần lớn các nước đang

phát triển vẫn chưa thoát khỏi "vòng luẩn quẩn" của lạc hậu, đói nghèo và

chậm phát triển cả về kinh tế và xã hội. Các nước này đang lúng túng mày

mò tìm kiếm những phương hướng và giải pháp dài hạn trong việc thực

hiện quá trình công nghiệp hoa nhằm nhanh chóng giải quyết được các vấn

đề kinh tế - xã hội bức xúc. Việc xác định và thực hiện một chiến lược

công nghiệp hoa theo một kiểu nào đó là nhiệm vụ tiền đề phức tạp. Nếu

quan niệm vấn đề một cách giản dị, thì xác định mô hình chiến lược về

công nghiệp hoa đòi hỏi phải xác định được hệ thựng các quan điểm phát

triển, các phương hướng dài hạn về phát triển kinh tế - xã hội, những giải

pháp then chựt thực hiện những mục tiêu và những phương hướng đã định.

Việc xác định những nội dung trên cũng tức là xác định trạng thái tương lai

của đất nước, hành lang vận động và phương thức tác động để đưa đất

nước đến trạng thái tương lai ấy.

Trong khoa học hiện đại, có nhiều cách tiếp cận về chiến lược công

nghiệp hoa. Chẳng hạn, trong tài liệu "Hướng tới một chiến lược mới về

công nghiệp hoa" do Đoàn chuyên gia của Tổ chức phát triển công nghiệp

của Liên hợp quực (UNIDO) soạn thảo nêu "chiến lược nhằm vào đáp ứng

những nhu cầu cơ bản", "chiến lược dựa vào các nguồn lực", "chiến lược

ị rw.!.; V ỉ~£ >j. ĩ

fw ** 1

'—ãýdi. Ị

18

tạo việc làm"...(1) Thực ra, những cách tiếp cận này không mang tính chất

tổng hợp đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoa mà chỉ thể hiện

những khía cạnh nhất định của mục tiêu hoởc phương thức thực hiện công

nghiệp hoa mà thôi. Bản thân công nghiệp hoa là một quá trình nhiều mởt,

bởi vậy "chiến lược" thực hiện cũng phải thể hiện tính toàn diện và tổng

hợp quá trình này. Từ thực tiễn của nhiều nước, đởc biệt là những nước

đang phát triển đã thực hiện thành công quá trinh công nghiệp hoa, người

ta đã khái quát thành 3 loại mô hình chiến lược công nghiệp hoa theo nội

dung trọng tâm cua mỗi mô hình: "chiến lược thay thế nhập khẩu (hướng

nội)", "chiến lược hướng về xuất khẩu (hướng ngoại)" và "chiến lược hỗn

hợp (trung hoa)".

*. Chiến lược thay thế nhập khẩu (hướng nội).

về mởt lịch sử, chiến lược này đã được các nước đi tiên phong trong

công nghiệp hoa thực hiện từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thông qua việc

lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh của hàng

ngoại nhập.

Năm 1791, A. Hamilton, nhà kinh tế học Mỹ trước sự tràn ngập của

hàng hoa nhập khẩu với giá rẻ của nước Anh. Tổng thống A.Lincoln nói:

tôi không biết nhiều về thuế quan. Nhưng tôi biết rõ tôi khi tôi mua một áo

ở nước Anh, tôi có áo và nước Anh được tiền. Nhưng khi tôi mua được áo ở

Mỹ thì tôi có áo và nước Mỹ được tiền" (1)

"'Tài l i ệu đã dẫn, V i ện Kế hoạch dài hạn và phân bố lực lượng sản xuất. uỷ ban Kế hoạch Nhà nước

xuất bản, 1992, tr 130- 132.

P.Samuelson: Kinh tế học", tập 2. Viện Quan hệ Quốc tế xuất bắn, 1989, tr.639.

19

Nhiều nước đang phát triển và thực hiện chiến lược này vào cuối

thập kỷ 50 và thập kỷ 60 của thế kỷ này. Trong kinh tế học đương đại, có

người cho lý luận xuất phát của chiến lược này là thuyết "chủ nghĩa tư bản

ngoại vi" (Capitalisme périphérique) của Paul Prebischem nhà kinh tế học

Mỹ latinh. Cũng có người cho tác giả xây dựng mô hình chiến lược này là

K. N. Ray và A.K. Sen (1)

Tư tưởng cơ bản của chiến lược này là mửi nước đang phát triển cần

phát triển mạnh mẽ việc sản xuất các hàng hoa, đặc biệt là các hàng tiêu

dùng, để thay thế các hàng hoa xửa nay vẫn phải nhập khẩu từ các nước tư

bản phát triển. Sự phát triển như vậy sẽ mang lại tác dụng nhiều mặt: khai

thác các nguồn lực sẩn có để thoa mãn các nhu cầu cơ bản và cấp thiết

trong nước, mở rộng thị trường phát triển sản xuất hàng hoa, tạo thêm việc

làm góp phần giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tiết kiệm ngoại tệ...

Việc thực hiện nội dung chiến lược hướng nội có một số điểm cơ bản

đáng chú ý sau đây.

- Phải xác định được tổng cầu mửi loại hàng hoa trong nước qua

phân tích và tính toán lượng hàng hoa thực tế phải nhập khẩu trước đây,

tổng số và cơ cấu dần cư, mức sống...

- Khuyến khích các nhà sản xuất trong nước đầu tư và dần dần làm

chủ được kỹ thuật sản xuất và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào sản

xuất hoặc cung cấp công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý.

- Lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước thông qua các chính sách

"* Xem: s.s. Park: "Tăng trưởng và phát t r i ể n ", V i ện Quản lý k i nh tế TW xuất bản 1992

kinh tế vĩ mô (thuế quan bảo hộ, hạn mạch nhập khẩu, trợ cấp...) để trợ

20

giúp sản xuất trong nước có thể tồn tại và phát triển , kích thích đầu tư

vào các ngành thuộc mục tiêu Ưu tiên.

Những chính sách bảo hộ này tiến triển qua ba giai đoạn: thứ nhất,

bảo hộ với cường độ cao để khuyến khích và tiêu dùng trong nước; thứ hai,

giảm dần mức độ bảo hộ, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước vươn lên

hạn giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoa; thứ ba, các doanh nghiệp

trong nước khống chế được thị trường trong nước và vườn ra thâm nhẫp thị

trường quốc tế.

Chiến lược hướng nội lấy trọng tâm là thị trường trong nước để phát

triển sản xuất và lưu thông hàng hoa trong quá trình công nghiệp hoa.

Chiến lược này không đồng nghĩa với việc "bế quan toa cảng' và "đóng

cửa" kinh tế trong nước. Các quan hệ kinh tế đối ngoại vẫn được chú ý:

nhẫp khẩu các điều kiện cơ bản để sản xuất hàng hoa thay thế hàng nhẫp

khẩu; kêu gọi đầu tư nước ngoài đầu tư vào mục tiêu thay thế nhẫp khẩu;

lây vươn ra thị trường quốc tế làm hướng đích phấn đấu

Chiến lược hướng nội, về lý thuyết, xuất phát từ những ý tưởng tốt

đẹp. Trên thực tế của nhiều nước, những chính sách bảo hộ chẫm được

hoàn thiện nên đã gây ra tâm lý và hành vi ỷ lại của các nhà sản xuất

trong nước, ý tưởng tốt đẹp khi xây dựng chiến lược này không được thực

hiện. M ặt khác, sự nhấn mạnh một chiều và thái quá đến thay thế nhẫp

khẩu đã làm cho sản xuất ngày càng k ém hiệu quả và lâm vào tình trạng

bế tắc: thị trường trong nước dân dần bị bão hoa và trở thành quá chẫt hẹp

với sự phát triển sản xuất; không giải toa được tình trạng căng thẳng ngoại

tệ do phải nhẫp khẩu các điều kiện để sản xuất hàng thay t hế nhẫp khẩu;

sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoa thấp kém, không có khả năng chen

21

chân vào thị trường quốc tế ... Trong một số trường hợp, khi bộ máy công

quyền yếu kém, chiếm lược này gây ra một số hiện tượng tiêu cực: lẽ ra

các nhà sản xuất phải tìm các khả năng cạnh tranh trước những biến động

quốc tế thì lại trông chờ vào chính phủ để giữ mức bảo hộ cao.

* Chiến lược hưởng về xuất khẩu (hướng ngoại)

Trong điều kiện thế giới ngày nay, tất cả các nước, ở những mức độ

khác nhau đều bị cuốn hút vào quá trình phân công lao động quốc tế và

tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế. Để thực hiện công nghiệp

hoa với quy mô lớn và nhịp độ nhanh, nhất thiết phải mỡ rộng thị trường

ra ngoài nước. Song, các nước đang phát triển lại vấp phải những khó khăn

lớn: "Trình độ kinh tế - kỏ thuật thấp kém , vốn thiếu nghiêm trọng, kỏ

năng quản lý yếu kém, kinh nghiệm thương mại quốc tế ít ỏi .... Để thực

hiện hướng ngoại, nghĩa là phát triển sản xuất trong nước với thị trường

quốc tế trọng tâm, phải phát huy được lợi thế tương đối (lợi thế so sánh)

của đất nước so với các nước bạn hàng. Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế

so sánh) của D. Ricardo đưa ra từ năm 1817 vẫn thường được coi là cơ sở

lý luận xuất phát của chiến lược hướng về suất khẩu (hướng ngoại) mà các

nước đang phát triển thực hiện rộng rãi từ đầu những năm 60 của thế kỷ

này hai mươi.

Tư tưởng cơ bản của chiến lược này là phát triển các ngành sản xuất

sản phẩm chủ yếu phúc vụ cho xuất khẩu, trên cơ sở khai thác lợi thế so

sánh của đất nước.

Nhằm phát huy lợi thế về tài nguyên phong phú, nhân công rồi rào

và rẻ, trong thời gia đầu thông thường các nước đang phát triển tập trung

vào phát triển các ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô (công nghiệp

22

khai khoáng và nông, lâm, ngư nghiệp), xuất khẩu sang các nước công

nghiệp phát triển. Sự phát triển này trong giai đoạn nhất định để tạo điều

kiện phát triển kinh tế, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã h ội cần thiết

của đất nước. Tuy nhiên, việc tập trung phát triển các ngành này gặp một

số trụ ngại.

- Cầu sản phẩm thô trên thị trường quốc tế tăng chậm.

- Điều kiện mậu dịch bất lợi: giá nguyên liệu thô giảm hoặc tăng

chậm, giá sản phẩm chế biến tăng nhanh.

- Sự phát triển các ngành này trong nhiều trường hợp phụ thuộc vào

sự đầu tư của các nước công nghiệp phát triển...

Sự tập trung quá mức vào các ngành ụ một nước lại dẫn đến toàn bộ

nền kinh tế lệ thuộc vào sự biến động của ngành này. Đó là điều mà các

nhà kinh tế học đã đúc rút thành "sự bất lợi của chuyên m ôn hoa quá hẹp".

Các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động sống (như dệt, may mặc,

lắp ráp các sản phẩm cơ khí và điện tử...) cũng được chú ý phát triển nhằm

khai thác l ợi thế về nhân công.

Sự phát triển có kết quả những ngành này sẽ tạo nên những điều

kiện thuận lợi cho sự phát triển các ngành kinh tế khác và giải toa những

căng thẳng về kinh tế - xã h ội của đất nước. Tiếp thu, kế thừa những kết

quả này các ngành chế biến được chú trọng phát triển nhiều hơn, tỷ trọng

sản xuất và xuất khẩu sản phẩm thô giảm dần.

Giai đoạn phát triển thứ ba gắn với quá trình "cất cánh" và "trưụng

thành" của đất nước: Các ngành sản xuất các sản phẩm có h àm lượng

khoa học - kỹ thuật cao sẽ giữ vị trí trọng yếu trong đóng góp vào xuất

khẩu. Đến trình độ nhất định, sản phẩm của các ngành này trụ thành đối

23

thủ cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm tương tự của các nước phát triển

trên thị trường thế giới.

Sự phần chia các giai đoạn của quá trình thực hiện chiến lược hướng

ngoại chỉ có ý nghĩa tương đối. Nội dung của giai đoạn trước trong những

chẳng mực nhất định đã có thể chứa đựng nội dung của giai đoạn sau.

Chẳng hạn, ngay khi tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu sản phẩm

thô, các nước đang phát triển cũng đã được phát triển một số cơ sở chê

biến hoặc các cơ sở sản xuất sản phẩm kỹ thuật cao. Điều đáng chú ý là có

nước đã thành công trong công việc chuyển một số ngành sản xuất sản

phẩm thay thế nhập khẩu thành ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu.

Sự thành công của mô hình chiến lược hướng ngoại phụ thuộc vào một

loạt chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. Những chính sách chủ yếu là:

- Chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt bám sát sự biến động tỷ giá

trên thị trường quốc tế và tỷ gia ở nước bạn hàng để các nhà sản xuất trong

nước có thể thu lãi khi bán sản phẩm ra thị trường thế giới.

- Chính sách khuyến khích và trợ giúp xuất khẩu. Do xâm nhập vào

thị trường quốc tế khó khăn hơn và nhiều r ủi ro hơn là sản xuất cho thị

trường trong nước, nên việc sản xuất và xuất khẩu cần được những Ưu đãi

hơn về thuế (thuế nhập các điều kiện sản xuất về thuế xuất hàng hoa), về

tín dụng, về trợ giá...

- Chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài, khắc phục

những yếu k ém về vốn, kỹ năng quản lý và kỹ thuật thâm nhập thị trường

quốc tế. Thông thường loại chính sách này được thể hiện tập trung trong

Luật đầu nước ngoài.

24

- Thành lập và quản lý các khu chế xuất (hoặc các đặc khu kinh tế),

phát triển một cách tập trung các cơ sở sản xuất hoặc dịch vụ của các chủ

đầu tư trong và ngoài nước với mục đích chủ yếu là phục vụ cho xuất

khẩu...

Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ hai mươi, một số nước đã đặc

biạt thành công trong viạc thực hiạn chiến lược hướng ngoại: tốc độ tăng

trưởng nhanh và ổn định; cơ cấu kinh tế thay đổi năng động; địa vị kinh tế

trên thị trường thế giới được cải thiạn rõ rạt. Bởi vậy, mô hình chiến lược

* Chiến lược hỗn hợp.

này có sức hấp dẫn cao với nhiều nước đang phát triển.

Khi phân tích chiến lược hướng ngoại đôi khi người ta chỉ thấy sự

thành công của chiến lược này mà chưa thấy hết một cách toàn diạn những

điều kiạn trong và ngoài nước cho phép đạt được những thành công ấy.

Viạc áp dụng một cách máy móc, kinh nghiạm của nước ngoài chắc chắn sẽ

dẫn đến sự thất bại. Nhà kinh tế học người Mỹ p. Samuelson đã đưa ra lời

cảnh tỉnh: "Các nước theo đuổi chính sách đẩy mạnh xuất khẩu hoạt động

tốt hơn các nước chủ yếu dựa vào chính sách thay thế nhập khẩu. Song liạu

các nước tiên tiến có để cho các ngành công nghiạp chế tạo đang đi xuống

của họ bị thua trong cạnh tranh với hàng xuất khẩu của các nước mới công

nghiạp hoa không? Hoặc liạu họ có bị sự cám dỗ đi đến đóng cửa đối với

những hàng nhập khẩu như vậy bằng thuế quan bảo hộ hay định mức hay

"' p. Samuelson, sách đã dẫn, te. 592.

không?"(1)

25

Nhà kinh tế học người Pháp G. Cellot cũng chỉ rõ: "Sẽ là sai lầm

nếu nghĩ rằng việc phát triển dựa vào công nghiệp hoa hướng ngoại có

thể áp dụng chung cho tất cả các nước thế giới thứ ba. Một mặt, chỉ một sồ

ít nước có thể hy vọng nhận được "phước lộc" và nguồn đầu tư nước ngoài.

Mặt khác, quá trình công nghiệp hoa ở những nước được coi là mẫu mực

như Hàn Quồc thực hiện những năm 60 trong điều kiện lịch sử và kỹ thuật

rất thuận lợi mà vào thập kỷ 80 không thể nào tìm thấy được

Trong bồi cảnh mới, trên thực tế đã hình thành chiến lược hỗn hợp.

Chiến lược này được xây dựng trên cơ sỡ kết hợp các yếu tồ của chiến

lược

hướng nội (coi trọng thị trường trong nước, phát triển sản xuất các sản

phẩm mà trong nước có khả năng và sản xuất có hiệu quả) và các yếu tồ

của chiến lược hướng ngoại (phát huy lợi thế so sánh để phát triển mạnh

việc thương mại quồc tế, lấy các yêu cầu của thị trường quồc tế làm hướng

phấn đấu cho phát triển các ngành trong nước).

Thật sự, đây chính là một mô hình chiến lược không mới mẻ gì mà

chỉ là sự điều chỉnh trọng tâm của hai mô hình chiến lược đã nêu trên,

tránh sự cực đoan trong xác định thị trường và phương hướng phát triển các

ngành kinh tế. Trên thực tế, chính các nước đi đầu trong việc thực hiện

chiến lược hướng ngoại. (Ví dụ, Hàn quồc) lại là những nước nhận thức

sớm những khó khăn của chiến lược hướng ngoại và thực hiện điều chỉnh

"' G. Crelott: "Cơ cấu và chiến lược phát t r i ển k i nh tế". V i ện Q u ản lý K i nh tê'TW dịch 1989 tr 104

theo hướng của chiến lược hỗn hợp.

26

Xác định được mô hình chiến lược công nghiệp hoa ở mỗi nước,

suy đến cùng, phải dựa trên hai nền tảng căn bản: các học thuyết kinh tê

như là cơ sở lý luận và các nhân tố phát triển như là cơ sỡ thực tiễn.

Trong khoa học kinh tế hiện nay có nhiều học thuyết khác nhau.

Trong sự hình thành và phát triển mỗi học thuyết diễn ra song song hai quá

trình: phê phán một chiều và phủ định; phủ định và kế thụa - phát triển.

Việc phê phán một chiều và phủ định sạch trơn một học thuyết nào đó;

việc nghiên cứu và vận dụng biệt lập một học thuyết; việc nhấn mạnh quá

đáng tính đặc thù của đất nước, mầy mò tìm kiếm lý luận riêng của mình...

đều là những khuynh hướng sai lầm. Trong việc hoạch định chiến lược và

chính sách công nghiệp hoa đòi hỏi phải vận dụng tổng hợp các học thuyết

khác nhau. Song, sự vận dụng ấy chỉ thành công khi phân tích và đánh giá

đúng điều kiện trong và ngoài nước. Điều này có liên qua trực tiếp đến

phân tích và đánh giá các nhân tố của sự phát triển. Các nhân tố này bao

gồm: nhân lực; tài nguyên; nguồn vốn và cơ sở vật chất ban đầu; điều kiện

chính trị - xã hội; bối cảnh quốc tế và các quan hệ quốc tế... ở đây chúng

tôi muốn nhấn mạnh tới hai điểm: vai trò của chính phủ và những trợ lực

quốc tế.

Trong quá trình công nghiệp hoa, chính phủ có vai trò đặc biệt quan

trọng. Nhiều tác giả cho rằng: "Việc của chính phủ đối với vấn đề phát

triển đã được tăng cường càng vững chắc, đến mức độ bất kỳ nơi nào có sự

phát triển thành công, thì cũng không thể thiếu được hoạt động trợ giúp

của chính phủ. Một điều đặc biệt cần thiết là phải hiểu rằng những hoạt

động, vai trò tích cực của chính phủ là cực kỳ quý báu. Do đó, nếu chính

phủ thiếu thiện chí hoặc không thể đóng vai trò như vậy, thì khi đó chính

27

phủ sẽ cản trở phát triển hoặc là nguyên nhân cơ bản của sự nghèo

đói"05. Để phát huy vai trò của mình trong quá trình công nghiệp hoa,

các chính phủ cần chú ý đến những công việc như sau:

- Tạo lập và duy trì môi trường chính trị - xã hội ổn định. Đó là điều

kiện cần thiết để phát triển kinh tế và thúc đẩy đầu tư.

- Hoạch định và thực hiện có hiệu quả các chính sách kinh tế xã hội,

tạo môi trường kinh tế - pháp lý ổn định và lành mạnh cho sự phát triển

kinh tế.

- Mềm dớo trong các quan hệ đối ngoại nhưng giữ vững độc lập

chính trị, thoát khỏi vòng cương toa hoặc ảnh hưởng của các thế lực chính

trị bên ngoài.

- Cải cách hệ thống chính trị quốc gia, làm cho bộ máy Nhà nước

hoạt động có hiệu quả và hiệu lực.

Với điểm xuất phát ban đầu nhỏ bé và thấp kém, sự trợ lực quốc tế

được coi là một trong những nhân tố cần thiết cho sự phát triển của các

nước đang phát triển. Sự trợ lực này bao hàm nội dung rộng: Hỗ trợ hoạch

định và thực hiện các chính sách phát triển của các nước đang phát triển,

tài trợ các dự án phát triển kinh tế - xã hội và đào tạo nhân lực; đầu tư trực

tiếp dưới các hình thức khác nhau; trao đổi thương mại... Thiếu những trợ

giúp ấy, những lợi thế so sánh của các nước đang phát triển chỉ ở dạng

tiềm năng. Tuy nhiên, trong các điều kiện ngày nay cần thấy rằng các

quan hệ kinh tế quốc tế được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có

lợi không có can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Bên cạnh nhưng trợ

M. Gillí và các tác giả: sách đã dẫn, tr.47. tập Ì

28

giúp về kinh tế của các nước phát triển cho các nước đang phát triển

trong quá trình công nghiệp hoa, đừng quên rằng sự trợ giúp ấy luôn có

mức độ và thường kèm theo những điều kiện nhất định, thậm chí cả những

sức ép về chính trị và kinh tế khiến những cỉ gắng phát triển của các nước

đang phát triển bị ngăn trở. Ngân hàng thế giới (WB) trong "Báo cáo về

phát triển của thế giới, năm 1991" đã chỉ rõ: "Một cuộc cải cách mà không

do chính mình vạch ra thì ít có cơ may thành công. Nhưng chương trình cải

cách mà sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào lợi ích của đất nước thường bị

thất bại do không có sự cam kết thực hiện của chính quyền. Muỉn cho một

chương trình cải cách phù hợp với ý nguyện của bản thân đất nước thì nó

phải được đề xướng và soạn thảo với sự tham gia của nhân dân. Tạo lập sự

nhất trí trong nước là rất cần thiết".

1.2 . CÁC QUAN NIỆM VỀ HIỆN ĐẠI HOA

Trước khi đi vào trình bày các quan niệm khác nhau về hiện đại

hoa, theo chúng tôi, cần phải nhấn mạnh các điểm sau đây. Thứ nhất, hiện

đại hoa là một quá trình, một xu hướng khách quan, đã và đang diễn ra hầu

hết (nếu như không nói là tất cả) các nước trên thế giới. Thứ hai, lý luận

về hiện đại hoa đã ra đời với tư cách là lý luận về con đường phát triển

của các xã hội truyền thỉng ("thế giới thứ ba", "các nước đang phát

triển"). Thứ ba, bản thân thuật ngữ "hiện đại", "tính hiện đại" có rất nhiều

nghĩa khác nhau, do vậy, kết quả, mục đích của hiện đại hoa cũng được

hiểu rất khác nhau, tương ứng thì các lý luận, các chiến lược hiện đại hoa

cũng rất khác nhau. Nói cách khác, hiện đại hoa cần được nhìn nhận từ

các góc độ lý luận khác nhau về phát triển của xã hội truyền thỉng. Chúng

29

tôi lựa chọn cách trình bày như vậy khi đề cập tới các quan niệm, các lý

luận khác nhau về hiện đại hoa. Hơn nữa, để thực hiện mục đích ấy,

chúng ta cần phải chỉ rõ sự khác nhau giữa hiện đại hoa phương Tây với

hiện đại hoa của các nước không phải phương Tây, phải vạch ra các tiêu

chí, hình ảnh về tính hiện đại mà việc tiến tói nó được gọi là hiện đại hoa.

Từ đó có thể đi tới kết luận về loại hình phát triển xã hồi đang xuất hiện

trong bối cảnh toàn cầu hoa.

Như đã nói, các lý luận hiện đại hoa là các lý luận phát triển dựa

trên cơ sở thay thế tính đồng nhất (tính truyền thống) bằng tính hiện đại

của xã hồi. Các học thuyết triết học thế kỷ XVIII - XIX, các học thuyết xã

hồi học thế kỷ XIX đã chỉ ra nguồn gốc của kinh nghiệm mới của phương

Tây trong việc thế tục hoa, phát triển tri thức và tính hợp lý, trong việc tạo

ra cá nhân đồc lập và xã hồi công dân. Mặc dù quá trình phát triển như

vậy ở bắt đầu từ thời điểm phương Tây chuyển từ thời Trung cổ sang thời

Cận đại, song hiện đại hoa của phương Tây chỉ được xem xét triệt để ở thế

kỷ XX, kết quả là người ta tách biệt ba quá trình cở bản của sự hình thành

phương Tây - Phục hưng, Cải cách tôn giáo và Khai sáng. Các hình thức

đổi mới này đã chuẩn bị ý thức nhân dân cho cách mạng tư sản, cách

mạng đã phá vỡ trật tự cũ và bảo đảm sự phát triển tiếp theo trên cơ sở đổi

mới, tiến hoa. Việc M. Weber vạch ra tinh thần của chủ nghĩa tư bản là

đạo đức Tin lành đã chỉ ra sự đặc thù của hiện đại hoa phương Tây còn

việc ông làm sáng tỏ bản chất về bước chuyển từ xã hồi truyền thống sang

xã hồi hiện đại của phương Tây không những xác định cả các nguyên tắc

của lý luận hiện đại hoa phổ quát, lý luận giải thích hiện đại hoa của cả

phường Tây mà còn xác định cả các nguyên tắc của lý luận hiện đại hoa

30

phổ quát, lý luận giải thích hiện đại hoa của cả phương Tây và của các

nước không phải Phường Tây. Thực chất của hiện đại hoa ở đây được

A.Toinbee xác định là sự đáp lại thách thức của phương Tây. Các lý luận

hiện đại hoa bắt đầu khái quát kinh nghiệm của các nước không phải là

phương Tây trong việc hữ cố gắng đuổi kịp phương Tây. Người ta gữi hiện

đại hoa này là hiện đại hoa đuổi kịp, đến muộn, tự phát. {)

Các lý luận hiện đại hoa không phải là phương thức duy nhất để lý

giải những chuyển biến xã hội. Chúng phổ biến nhất vào những năm 60

thế kỷ XX - thời kỳ phi thuộc địa hoa, khi mà các nước thuộc địa trước kia,

sau khi giành được độc lập, có thể tự do phát triển theo con đường phương

Tây, sự phát triển như vậy sẽ không bị sự lệ thuộc cản trở. Song, hy vững

của các nước này đã không trở thành hiện thực: cho dù quá trình hiện đại

hoa vẫn diễn ra dưới hình thức phương Tây hoa, vay mượn văn hoa tiêu

thụ của phương Tây, nhưng quá trình này chủ yếu mang tính phá huy đối

với truyền thống hơn là tạo ra cái mới. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã thay

thế cho lý luận hiện đại hoa ở hàng loạt nước. Có cảm tưởng là lý luận

hiện đại hoa đã đi vào dĩ vãng. Sau sự tan rã của hệ thống xã hội chủ

nghĩa, mô hình hiện đại hoa đuổi kịp lại được tuyên bố ở nhiều nước. Một

trong các trở ngại cơ bản trong việc thực hiện chủ định này là người ta

không hiểu rõ cần phải đuổi kịp giai đoạn phát triển nào của phương Tây.

Cái có ảnh hưởng ở đây là sự lý tưởng hoa quá mức phương Tây sau nhiều

năm phê phán nó một cách không xác đáng, là sự không rõ ràng về mặt lý

1 11 Xem: N.F. Naumova. Hiện đại hoa trí phát: tai hoa lỗi lầm hay nguồn dự trữ của nhân loại? Moskva 1999

luận đối với các giai đoạn phát triển của bản thân phương Tây. Quan niệm

31

về hiện đại hoa phụ thuộc vào các phương pháp lý luận được vận dụng,

các cách tiếp cận liên ngành. Mỗi cách tiếp cận đều có chức năng giải

thích của mình, đều có mức độ tiến gần tới thực tại kinh nghiệm và khả

năng thâm nhập về mặt lý luận vào bản chất của quá trình hiện đại hoa.

Có cảm tưởng rễng, cách tiếp cận kinh nghiệm chủ nghĩa là đáng tin

cậy nhất, rễng nhờ nó thì có thể dễ dàng phân biệt được thời hiện đại

(modern age), ranh giới của nó mà tính hiện đại (modernity) hình thành

trong đó, mà việc tiến tới gần được gọi là hiện đại hoa, điều này là hoàn

toàn hiển nhiên đối với các nhà sử học. Nhưng điều đó lại hoàn toàn

không phải là như vậy trên thực tế.

Điều quan trọng đối với nhà sử học không phải là tính đồng nhất của

phương Tây với tư cách tính hiện đại, mà là sự hiện diện các thời kỳ và

các giai đoạn phát triển của riêng nó trong chỉnh thể ấy. Khái quát các

quan niệm khác nhau, chúng tôi suy ra một số giai đoạn được tách biệt về

mặt

kinh nghiệm, về mặt lý luận:

Thứ nhất. Giai đoạn chủ nghĩa trọng thương, xâm chiếm các con

đường buôn bán, ngành thương mại thế giới, xâm lược các dân tộc khác.

Phương Tây thách thức nhân loại nhờ khả năng khai thác không gian thế

giới đó.

Thứ hai. Thời đại cách mạng tư sản - sự hình thành và phát triển của

chủ nghĩa tư bản.

Thứ ba. Giai đoạn chủ nghĩa công nghiệp sơ kỳ (sau cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ nhất). Phương Tây có lợi thế về công nghiệp

phát triển mà phần thế giới còn lại không tiếp cận được.

32

Thứ tư. Giai đoạn sau cách mạng công nghiệp lần thứ hai (sử dụng

điện, tạo ra sản xuất dây chuyền ở đầu thế kỳ XX, phát hiện ra chất

phóng xạ ...). sản xuất dây chuyền cho phép phân chia quá trình sản xuất

và chuyển các ngành công nghiệp truyền thống sang các nước không phải

phương Tây. Những chuyển biến đã diễn ra cả ở phường Tây, nơi mà đã

xuất hiện không những sản xuất đại trà mà cả xã hậi đại chúng - xã hậi bị

thay đổi cơ cấu do dòng người gia nhập ngành công nghiệp từ nông thôn,

do hình thành các nhóm người không thuần nhất (quần chúng), ở giai đoạn

phát triển này của mình, phương Tây chưa có Ưu thế về công nghiệp đối

với phần thế giới còn lại. Nhưng, từ thời điểm này, khoa học trở thành đặc

điểm đặc biệt của nó. Bây giờ, thế giới phương Tây đưa ra thách thức khoa

học đô"i với phần thế giới còn lại. Thời đại chủ nghĩa công nghiệp hậu kỳ,

chủ nghĩa tư bản hậu kỳ, thời hiện đại này được đánh dấu bồi ưu thế mới

của phương Tây đối với thế giới không phải phương tây.

Thứ năm. Thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật bắt đầu ở giữa thế

kỳ XX. Nếu trước kia khoa học phục vụ các nhiệm vụ đã chín muồi của

thực tiễn, thực tiễn có xu hướng phát triển riêng của mình (máy hơi nước

xuất hiện trước kia có nhiệt đậng học), thì cách mạng khoa học cơ bản về

mặt công nghệ (các nhà máy điện nguyên tử không thể được xây dựng

trước khi phát hiện ra vật lý học nguyên tử, sự can thiệp vào quá trình di

truyền không thể thiếu di truyền học ...). Phướng Tây đã biết áp dụng các

khoa học cơ bản về mặt công nghệ, và chính Các Mác đã tiên đoán quá

trình này, mật lần nữa nó lại đi tiên phong trong lĩnh vực này. Cách mạng

khoa học - kỹ thuật trở thành mật thời kỳ thách thức mới của nó. Giống

như sản xuất dây chuyền đã phân chia sản xuất ra thành các công đoạn và

33

phổ biến phát triển công nghiệp ra khắp thế giới, thì cách mạng khoa học

kỹ thuật cũng cho phép áp dụng khoa học cơ bản ở khắp mọi nơi.

Tự do như nguyên tắc của phương Tây đã đưa tới việc bán giấy phép

áp dụng tri thức cơ bản. Các nhà khoa học ở nhầng nước không phải

phương Tây - Liên Xô, Trung Quốc, Nhật Bản, ... có khả năng khám phá

ra các công nghệ mới như áp dụng khoa học cơ bản.

Từ khi bắt đầu thời đại chủ nghĩa trọng thương, cho tới khi các trung

tâm cạnh tranh mới với phương Tây chưa xuất hiện ở Đông á nhờ áp dụng

khoa học cơ bản, thì phương Tây vẫn là phương Tây. Nêu sử dụng thuật

ngầ "xã hội hiện đại", thì phương Tay là xã hội hiện đại ở thời hiện đại,

cho dù chúng ta có lấy cái mốc của nó ở đâu đi chăng nầa. Nhưng còn có

một cuộc tranh luận rộng rãi về cái mốc ấy - từ thời điểm Côlumbô phát

hiện ra châu Mỹ (1492), hay từ cách mạng Hà Lan (1580), hay từ cách

mạng Anh (1642), hay từ cách mạng Pháp (1789)?

Cái mốc suy tàn của nó lại còn không rõ ràng hơn nầa: bắt đầu sản

xuất dây chuyền - 1910, Cách mạng tháng mười Nga - 1917, cách mạng

khoa học - kỹ thuật đưa phương Tây sang một giai đoạn phát triển mới, sự

tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa và của thế giới hai cực? Tùy thuộc

vào việc ghi nhận điểm đầu và điểm cuối của thời hiện đại, các nhà

nghiên cứu sắp đặt "xã hội hiện đại" ở các khoảng thời gian lịch sử khác

nhau.

Quan niệm rộng nhất cho rằng "xã hội hiện đại" xuất hiện ở phương

Tây ở giai đoạn chủ nghĩa trọng thương và tồn tại ở phương Tây trong suốt

cả năm giai đoạn nêu trên. Quan niệm hẹp nhất cho rằng "xã hội hiện

34

đại" - đó là giai đoạn chủ nghĩa công nghiệp ở phường Tây (giai đoạn 3),

tức từ cách mạng Pháp cho tới cách mạng công nghiệp lần thứ hai.

Thừa nhận các giai đoạn phát triển Ì- 5 của phương Tây là thời hiện

đại, một số nhà nghiên cứu cố làm sáng tỏ mức phát triển ở các giai đoạn

khác nhau của nó. Khi đó giai đoạn chủ nghĩa trọng thương (1) được mô tự

là thời tiền hiện đại, giai đoạn cách mạng tư sựn và chủ nghĩa công nghiệp

(2-3) - thời hiện đại, giai đoạn thách thức về khoa học và xã hội đại chúng

(4) - thời hiện đại hậu kỳ, giai đoạn cách mạng khoa học - kỹ thuật (5) -

một phần là thời hiện đại hậu kỳ, một phần là thời hậu hiện đại.

Sự phần kỳ theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa hoa ra là mâu thuẫn,

thay thế cho nó là ý định mô tự khái quát, lý luận về sự phát triển của

phương Tây hiện đại. Sự mô tự này cho thấy rằng phương Tây tư bựn chủ

nghĩa mở rộng kỳ vọng toàn cầu của mình. Nó biến lịch sử toàn cầu thành

lịch sử tư bựn chủ nghĩa và thống nhất toàn bộ thế giới bằng phương tiện

liên lạc, bằng xuất khẩu tư bựn, bằng cự tư tưởng về tiến bộ. Hiện đại hoa

- phát triển đuổi kịp phương Tây - được coi là hình thức chủ yếu để đuổi

kịp nó. Có thể gọi toàn cầu hoa dựa trên cơ sở tiến bộ là hình thức thứ nhất

của hiện đại hoa.

Theo đa số các nhà nghiên cứu, cho dù có những khác biệt trong

quan niệm về tính hiện đại, song điểm chung là việc thừa nhận đổi mới

công nghệ với tư cách nhân tố quan trọng nhất. Theo P.Berger, bất chấp có

mọi quan niệm về tính hiện đại, song người ta vẫn sẽ luôn tranh luận xem

thời hiện đại có phựi là một chỉnh thể không phân chia được hay không

35

còn hiện đại hoa - số phận bất biết, không có phương án đối chọn?(1)

Theo ông, chỉ có ý nghĩa của công nghệ sản xuất, công nghệ hoa và việc

tổ chức xã hội theo dấu hiệu công nghệ, thậm chí sự giống nhau giữa sản

xuất công nghệ và hình thành ý thức là dấu hiệu cần thiết và đầy đủ về

tính hiện đại((2) Gắn quá trình hình thành tính hiện đại vểi toàn cầu hoa lần

thứ nhất do sự hình thành chủ nghĩa tư bản tạo ra, R.Robertson chia mốc

quá trình này như sau:

Giai đoạn thứ nhất: giai đoạn ra đời, nó bắt đầu ở đầu thể kỷ XV và

kéo dài tểi giữa thế kỷ XVIII. Các cộng đồng dân tộc và hệ thống "xuyên

quốc gia" trung cổ đã hình thành ở giai đoạn này. Quan niệm về cá nhân

và nhân loại, hệ thống nhật tâm đã xuất hiện, địa lý hiện đại đã hình

thành.

Giai đoạn thứ hai: giai đoạn bắt đầu phát triển từ giữa thế kỷ XVIII

đến năm 1870. Cú nhảy đến vểi tư tưởng nhất thể hoa đã diễn ra. Nhà

nưểc thống nhất đã xuất hiện. Quan điểm về quan hệ quốc tế hợp thức đã

được kiện toàn. Cá nhân được xác định theo tư cách công dân. Các quy tắc

pháp lý trong quan hệ quốc tế được xác lập. vấn đề cho phép các nưểc

không phải châu Âu tham gia vào cộng động quốc tế đã nảy sinh.

Giai đoạn thứ ba: giai đoạn cất cánh, từ cuối những năm 1870 cho

tểi giữa những năm 1920. ở đây, các xu hưểng toàn cầu hoa của giai đoạn

trưểc đã bộc lộ hoàn toàn, các xã hội dân tộc đã xuất hiện, cá nhân và xã

"'Xem P.Berger. Hiệu đại hoa và nhậu thức. N/Y, 1971 "2,Sđd, t r i 9.

hội đa dân tộc đã hình thành, quan điểm thống nhất về nhân loại đã xuất

36

hiện. Người ta bắt đầu vạch ra vấn đề về tính hiện đại (modernity), tranh

luận về tính đồng nhất dân tộc, đưa hàng loạt quốc gia không phải châu

Âu vào cộng đồng quốc tế, nhấn mạnh tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa. Giai

đoạn này được đặc trứng bởi sừ phổ biến truyện ngắn ra toàn cầu, sừ phát

triển phong trào hợp nhất các giáo hội, sừ thừa nhận thẩm quyền toàn cầu

- trò chới Ôlimpíc và giải thưởng Nôben. Nhân loại trải qua cuộc chiến

tranh thế giới lần thứ nhất.

Giai đoạn thứ tư: giai đoạn đấu tranh và bá quyền, từ cuối những

năm 20 đến cuối những năm 60. Các tổ chức quốc tế - Liên hiệp quốc và

Hội quốc liên - đã xuất hiện. Các nguyên tắc độc lập dân tộc đã hình

thành. Các quan điểm đối lập nhau về tính hiện đại đã xuất hiện. Chiên

tranh lạnh thể hiện là sừ xung đột cùng với "dừ án về tính hiện đại". Thời

đại này chứng kiến bom nguyên tử, sừ xuất hiện của thế giới thứ ba.

Giai đoạn thứ năm: giai đoạn bất định, bắt đầu từ cuối những năm

60 và kết thúc ở đầu những năm 90. Trong giai đoạn này đã diễn ra những

chuyển biến vượt ra khỏi giới hạn của tính hiện đại: phát triển ý thức toàn

cầu ở cuối những năm 60; bay lên mặt trăng; kết thúc chiến tranh lạnh;

xuất hiện các "giá trị hậu duy vật", vấn đề về các quyền con người, về tính

đa văn hoa, về tính đa sắc tộc, vấn đề giới tính, phá bỏ thế giới hai cừc, gia

tăng vai trò của Hồi giáo như phong trào toàn cầu hoá(1).

Vấn đề tính hiện đại gắn liền với việc hình thành một hệ thống

chính trị mới, với sừ xuất hiện hệ thống quyền lừc hiện đại. Trong quá

"'Xem: R.Robertson. Toàn cầu hoa. Lý luận xã hội và văn hoa toàn cầu. London, 1992, tr.58-59.

trình này, Hiệp ước Vestíal (1648) được xem không đơn giản là sừ mở đầu

37

mà còn là hệ thống quyền lực tồn tại cho tới giữa thế kỷ XIX. Bắt đầu từ

Hiệp ước Vestíal, chủ quyền quốc gia trở thành yếu tố then chốt của quan

hệ quốc tế, còn thuật ngữ "xã hội" được hiỗu một cách có liên can với nhà

nước dân tộc. Thí dụ, đối với Huntington thì Hiệp ước Vestfal là cái mốc

hình thành thế giới hiện đại. Theo ông, xung đột tương lai giữa các nền

văn minh là giai đoạn kết thúc của xung đột trong thế giới hiện đại. Trước

đây, xung đột chủ yếu diễn ra giữa các nhà nước - các vua chúa, các đê

chế, các quốc vương ... Quá trình này sinh ra các nhà nước dân tộc, và

xung đột đã diễn ra giữa chúng'1'.

Inoguchi đánh giá mỗi hệ chuẩn của đời sống quốc tế và tổ chức

quyền lực trong nước về các phương diện địa chính trị, địa kinh tê và địa

văn hoa. Theo ông, xét về phương diện địa chính trị thì hệ chuẩn Vestfal

về nhà nước trung tâm có quan điỗm cơ bản của mình là nhà nước có chủ

quyền, có đơn vị thiết chế là nhà nước dân tộc, có loại hình ứng xử là tìm

kiếm sự thăng bằng hay liên kết với thủ lĩnh, việc đạt tới hoa bình được

bảo đảm thông qua chiến tranh. Hệ thống Vestíal là thờ ơ đối với nền dân

chủ. Xét về phương diện địa kinh tế, nó bao hàm tư tưởng về nền kinh tế

dân tộc, coi động lực là nhà nước đang tiến hành công nghiệp hoa, đòi hỏi

phải đầu tư nhiên tư bản và lao động. Xét về phương diện địa văn hoa, các

thành tựu của nó là truyền thanh và truyền hình nhà nước, mục đích then

chốt là hình thành dân tộc.

Theo Inoguchi, xét về phương diện địa chính trị thì Hiệp ước

'"Xem: Huntington. Sự đụng độ giữa các nền văn minh. N.Y, 1991, tr. 16

Philadenphia (1776) dựa vào tư tưởng chủ quyền của các dân tộc, đơn vị

38

thiết chế của nó là nền dân chủ tự do, nguyên tắc ứng xử - "liên kết hay

là che đậy", thế giới dân chủ - tự do được khẳng định. Xét về phương diện

địa kinh tế thí điểm then chốt của Hiệp ước Philadenphia là thị trường toàn

cầu, động lực của nó là siêu thảm quyền định hướng vào thị trường, căn cứ

trên công nghệ. Xét về phương diện địa văn hoa thì nó phát triển theo

mạng lưới truyền hình, toàn cầu hoa phương tiện truyền thông.

Đặc điểm của hai hệ chuản nêu trên về hệ thống chính trị hiện đại là

chúng thể hiện dự án được đưa ra để giải quyết các cuộc khủng hoảng của

thời đại mình, nhưng lại nhận được một địa vị phổ biến. Do vậy, Inoguchi

gọi hệ chuản mới hình thành, kết thúc thời hiện đại và mở ra một cái gì đó

mới mẻ hay ít nhất cũng đem lại một trạng thái khác cho thời hiện đại, là

hệ chuản phản không tưởng. Dự án không được xây dựng, mà đề nghị định

hướng vào tiến trình lịch sử - tự nhiên của cái đang hiện tồn, còn lại sau

khi tận dụng hết hai hệ chuản nêu trên. Inoguchi gọi S.Huntingtor là đại

diện cho hệ chuản này. Theo quan điểm này, quan niệm then chốt trong

lĩnh vực địa chính trị là nhà nước hậu chủ quyền hay đã đánh mất chủ

quyền, đơn vị thiết chế là siêu nhà nước văn minh hay đơn giản là nhà

nước đã đánh mất tác dụng của mình, loại hình ứng xử là rất đa dạng. Cơ

sở địa kinh tế của hệ chuản mới là sự phát triển kinh tế mà động lực - văn

hoa như nguồn gốc của các giá trị và "người dẫn đường" cho các dân tộc

công nghệ được thay thế bằng phát minh. Xét về phương diện địa văn hoa

thì thông tin cơ bản chứa đựng trong các cơ sỏ văn minh, mục đích chủ yếu

( 1) Xem T. Inoguchi. Các hệ chuản Vestíal, Philadenphia và phản không tưởng. Aridona 1999 tr 173-191

- phản ứng chống lại nhà nước, tái tạo trật tự trong lĩnh vực văn hoá(1).

39

Như vậy, hệ chuẩn Vestíal đã quy cách hoa nhà nước dân tộc, hệ

chuẩn philadenphia - nền dân chủ, hệ chuẩn phản không tưởng - tính đa

dạng văn minh. Tương ứng thì hệ chuẩn Vestíal đưa vào quá trình hiện đại

hoa sự hình thành các nhà nước dân tộc, hệ chuẩn philadenphia - bước

chuyển sang nền dân chủ và hệ chuẩn phản không tưởng - sự hoạt động

toàn cầu của tư bản. Như vậy, các hệ chuẩn khác nhau đưa ra các quan

niệm trái ngược nhau về hiện đại hoa mà rất khó có thể hợp nhất. Do vậy,

theo chúng tôi, để hiểu rõ hiện đại hoa, chúng tôi cần xem xét cách tiêp

* Quan niệm kinh tế học:

cận với nó từ các góc độ khác nhau.

Theo quan điểm kinh tế hỗc, hiện đại hoa là bước chuyển sang chủ

nghĩa tư bản kiểu phướng Tây, là bảo đảm sự hoạt động của tư bản và tạo

ra môi trường xã hội và chính trị phù hợp với nó. Hiện đại hoa phương Tây

là ở chỗ làm cho xã hội, chính trị, văn hoa trở nên phù hợp với kinh doanh

tư bản chủ nghĩa, ở các giai đoạn tồn tại khác nhau của xã hội phương Tây

hiện đại, hiện đại hoa kinh tế được lý giải theo các cách khác nhau. A.Smit

không những viết về của cải của các dân tộc mà còn viết về tập quán của

hỗ. Hiện đại hoa kinh tế không phải là một cái gì đó tách biệt với hiện đại

hoa phương Tây nói chung. Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa tự do

mới đã nhấn mạnh sự hình thành tự phát của trật tự xã hội ở phương Tây

song hỗ có ý nói tới sự xuất hiện cố hữu, tự nhiên của nó, vì các hệ chuẩn

Vestfal và Philadenphia đã tạo ra cái vỏ chính trị và xã hội cho đời sống

kinh tế ở phương Tây. Chúng hình thành không những nhờ tiến trình tự

nhiên của các sự kiện mà còn nhờ nỗ lực của con người.

40

Theo M. Vebe, chủ nghĩa tư bản phương Tây có điểm khác biệt là

nó có cơ sở lao động và đạo đức kinh doanh. Việc tách biệt chủ nghĩa tư

bản phương Tây với chủ nghĩa tư bản không phải phương Tây tạo thành

thực chất của quan điểm hiện đại hoa của M. Vebe. Theo Vebe, hiện đại

hoa tư bản chủ nghĩa tạo ra mức cung hài hoa, sản xuất không những vì

nhu cầu trước mắt mà còn vì bản thân sản xuất. Động cơ kinh tế ở chủ

nghĩa tư bản trở thành mục đích tự thân, mâu thuẫn với phong cách tư duy

truyền thờng(1). Sự hình thành của phương Tây hiện đại đã tạo ra các điều

kiện chính trị và văn hoa để củng cờ động cơ lao động có cơ sở là đạo đức

Tin lành, cá nhân độc lập cùng với tự do có trách nhiệm của nó, nhà nước

chịu sự giám sát của xã hội công dân. Luật chờng độc quyền, chế độ thuế,

chế độ bảo hiểm, các chương trình xã hội, dịch vụ pháp lý đã củng cờ tư

tưởng về nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội, còn quan điểm về xã

hội công dân bắt đầu bao hàm không những khả năng giám sát của xã hội

đời với nhà nước mà cả đời với kinh doanh. Theo quan điểm cấp tiến nhất

về thị trường tự do, quan điểm loại nhà nước ra khỏi quan hệ thị trường, thì

thị trường được lý giải là thiết chế cách tân chủ đạo, sự tự do của nó khỏi

nhà nước không có nghĩa là sự tự do khỏi luật pháp. Theo quan điểm cấp

tiến nhất về điều tiết nhà nước, thị trường không bị loại bỏ và được xem là

một thiết chế cạnh tranh. Đại diện của cả hai quan điểm này đều nhận

được giải thưởng Nobel vì giá trị của các phương pháp ấy (thị trường tự do

hay điều tiết nhà nước) phụ thuộc vào bời cảnh và vào cái cần điều tiết -

Xem: M.Vebe. Đạo đức tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản. Matxcơva 1990 tr.78-81

hiệu quả kinh tế hoặc công bằng xã hội.

41

Nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là hiện đại hóa kinh tế của các nước

không phải phương Tây. Đặc trưng cho các chương trình của chủ nghĩa tự

do mới là việc tách rời hiện đại hoa kinh tế khỏi hiện đại hoa xã hội, khỏi

nhận thức về động cơ kinh tế của các chủ thể xã hội khác nhau. Theo

chúng tôi, cần phải cải biến khát vọng nhận đưốc lối nhuận thành lối ích

kinh tế do luật định thì hiện đại hoa kinh tế mới có thể thành công.

Hiện nay, vấn đề hiện đại hoa kinh tế còn đụng chạm tới việc toàn

cầu hoa các nền kinh tế dân tộc, tới vấn đề tiến hoa của xã hội tiền kinh tế

(truyền thống) thành xã hội kinh tế (hiện đại), cũng như bước chuyển của

xã hội kinh tế sang xã hội hậu kinh tế (hậu hiện đại). Ba thời đại phát

triển này đương nhiên là đặc trưng cho toàn thể phân loại, nhưng không

phải tất cả các xã hội đều đồng thời trải qua chúng. Sự hình thành lối ích

kinh tế và quan hệ kinh tế của con người diễn ra đồng thời với sự hình

thành nền kinh tế công nghiệp. Do vậy, công nghiệp hoa trở thành tiền đề

quan trọng của hiện đại hoa để xã hội truyền thống chuyển sang xã hội hiện

* Quan niệm triết học xã hội.

đại.

Triết học xã hội không thoa mãn với quan điểm kinh nghiệm chủ

nghĩa của khoa học lịch sử và sự khái quát kinh nghiệm chủ nghĩa của

chính trị học, với việc tách rời quá trình kinh tế khỏi quá trình xã hội và cố

gắng xây dựng lý luận hiện đại hoa giống như chương trình khách quan

chủ nghĩa, chương trình có mục đích hốp nhất những quan niệm đa dạng

thành một kết cấu lý tưởng. Theo chương trình này, khi bắt đầu phân tích

vấn đề hiện đại hoa, chúng ta thực hiện bước tiến tiếp theo về lý luận để

42

vạch rõ quan hệ giữa thế giới phướng Tây và thế giới không phải phương

Tây.

ở đây cần phải có các thuật ngữ mới - "xã hội truyền thống" và "xã

hội hiện đại".

Nếu chúng ta nói về hiện tại thì mọi xã hội đang tồn tại trong đó đều

là xã hội hiện đại theo quan niệm thông thường. Cũng có thể nói rằng mọi

xã hội đều là xã hội truyền thống ở một chừng mủc nhất định, vì chúng

đều giữ lại hay kế thừa truyền thống. Song tính chất phát triển không đồng

đều buộc chúng ta phải hoài nghi quan niệm như vậy: hiện tại của một số

xã hội giống với quá khứ của một số xã hội khác hay ngược lại là tương lai

cần tìm đến của một số nước thứ ba. Tính chất phát triển không đồng đều

đã đưa tới chỗ người ta gán ý nghĩa khoa học cho các thuật ngữ "xã hội

truyền thống" và "xã hội hiện đại". Các thuật ngữ này là rất quan trọng, vì

hiện đại hoa được quan niệm là một hình thức phát triển đặc biệt mà thủc

chất là bước chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Tính chất

phát triển không đồng đều còn được thể hiện ở chỗ dường như nằm ở các

khoảng thời gian khác nhau, xã hội phương Tây bắt đầu được gọi là xã

hội hiện đại. Chính M.Vebe đã đặt cơ sở cho xu hướng này.

Đối với ông thì phương Tây là một hiện tượng độc đáo, đồng nhất

với tính hiện đại.

Vậy ý nghĩa của việc chuyển sang các thuật ngữ mới đó là gì? Tại

sao các khái niệm trước đây - "Phương Tây" và "không phải phương Tây" -

là không đủ? Trước hết vì cho dù "phương Tây" và "không phải phương

Tây" là các khái niệm quan trọng, gắn liền với sủ hiện diện của tinh thần

khác nhau, chúng đặt phương diện địa lý - lịch sử lên hàng đầu, các nước

43

có tinh thần phương Tây có thể xuất hiện cả ở các bộ phận khác của thê

giới (Nhật Bản). Không phải mọi nước nằm ở phương Tây đều là phương

Tây (nước Đức chỉ trở thành quốc gia phương Tây ở giữa thế kạ XIX).

Như vậy, ở thế kạ XIX, trong lý luận người ta đồng nhất các khái

niệm "xã hội hiện đại" và "phương Tây", ở thế kạ XX, người ta gọi xã hội

hiện đại là xã hội đoạn tuyệt với tính đồng nhất truyền thống của mình. Xã

hội hiện đại bắt đầu được hiểu là một loại hình văn minh đặc biệt, đầu tiên

xuất hiện ở tây Âu, sau đó được phổ biến ra các khu vực khác như một lối

sống, một chế độ kinh tế và chính trị, một hệ tư tưởng và một nền văn hoa

xác định (1) Hàng loạt tác giả cho rằng "tính hiện đại" bao hàm toàn bộ trật

tự hậu truyền thống, căn cứ trên tri thức duy lý, bao hàm mọi thiết chế và

chuẩn tắc ứng xử của châu Âu hậu phong kiến . Các xã hội không phải

phương Tây cũng bước vào thời kỳ hiện đại hoa theo cách của mình, bắt

đầu vận động theo hướng tiến tới "tính hiện đại". Như vậy, khái niệm "xã

hội hiện đại" không còn đồng nhất với khái niệm "phương Tây".

Việc thay thế các thuật ngữ cho phép đào sâu các đặc trưng bản chất

của xã hội phương Tây và xã hội không phải phương Tây xem xét quan hệ

giữa chúng khi có tính đến tương lai của thế giới không phải phương Tây. ý

nghĩa gợi mở của các khái niệm "xã hội truyền thống" và "xã hội hiện đại"

là ở chỗ chúng cho phép xây dựng lý luận hiện đại hoa như lý luận về

( 1) Xem: S.N.eisenstadt. T r u y ền thống lịch sử hiện đại hoa và phát t r i ể n. L o n d on 1987 trô

, 2> Xem: A. gidens. H i ện đại hoa...1991, ÍT. 14-15.

bước chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại.

44

Như vậy, khi coi các khái niệm "xã hội truyền thống" và "xã hội

hiện đại" là có giá trị gợi mở để phân tích quá trình hiện đại hoa, có thể

vạch ra nội dung của hiện đại hoa từ góc độ triết học xã hội.

Xã hội truyền thống là mang tính thứ nhất về mặt lịch sử. Đó là xã

hội tụ tái tạo mình trên cơ sở truyền thống và có nguồn gốc hợp thức hoa

tính tích cục là quá khứ, là kinh nghiệm truyền thống. Xã hội truyền thống

khác với xã hội hiện đại ở hàng loạt đặc điểm. Đó là: sụ phụ thuộc vào các

quan niệm tôn giáo hay thần thoại trong việc tổ chức đời sống xã hội, tính

chất tập thể chủ nghĩa của xã hội và sụ vắng mặt cá nhân nổi trội, sụ định

hướng chủ yếu vào các giá trị siêu hình, chứ không phải vào các giá trị

công cụ, tính chất quyền uy của quyền lục, vắng mặt mức cung cân đối,

tức khả năng sản xuất vật chất không phải vì nhu cầu trước mắt, mà vì

tương lai, tính cách tiền công nghiệp, vắng mặt giáo dục đại chúng, sụ

chiếm ưu thế của tư chất tâm lý đặc biệt - cá nhân thụ động, sụ định hướng

vào tri thức thế giới quan, chứ không phải vào khoa học, sụ chiếm líu thế

của cái cục bộ đối với cái chỉnh thế...

Theo nhiều chuyên gia, điểm quan trọng nhất trong xã hội truyền

thống là sụ vắng mặt cá nhân nổi trội. Đây là hệ quả chiếm Ưu thế của

truyền thống,vì nhu cầu xã hội về cá tính là nhu cầu về chủ thể hoạt động

sáng tạo, có khả năng tạo ra cái mới. Chủ thể này xuất hiện trong xã hội

hiện đại.

Theo chúng tôi, đặc điểm chủ yếu của xã hội truyền thống là sụ

chiếm Ưu thế của truyền thống đối với đổi mới. Đặc điểm quan trọng thứ

hai là việc biện minh cho truyền thống về mặt tôn giáo hay thần thoại. Các

hình thái ý thức đó phong toa khả năng cải cách nhanh chóng, thử nghiệm

45

hiện đại hoa không thể được thực hiện, vận động quay lại xuất hiện.

Chính điều này tạo ra tính chất phát triển có chu kỳ đặc trứng cho xã hội

truyền thống.

Cái quyết định cá nhân không nổi trội không những là vắng mặt sự

quan tâm đổi mầi mà cả do tính tập thể chủ nghĩa các quan niệm tôn giáo

và thần thoại. Tính chất tập thể chủ nghĩa của văn hoa truyền thống không

có nghĩa là nó không có những cá nhân nổi trội, độc đáo, mà là ở chỗ vai

trò xã hội của họ được quy định bởi năng lực của biểu thị quan điểm của

tập thể. Cá nhân ở đây không thể đóng vai trò chủ thể chính trị. Lối ứng xử

của con người trong xã hội truyền thống được quy định bởi các chuẩn tắc

mà truyền thống tôn giáo, cộng đồng hay tập thể định trưầc. Tương ứng thì

loại hình giá trị chiếm ưu thế trong nó là các giá trị quyền uy, tức các giá

trị được truyền thống bảo vệ và chúng bảo vệ các quan điểm tập thể chủ

nghĩa của nó. Trong xã hội này không có sự phân định rành mạch giữa giá

trị công cụ (điều tiết hoạt động và lối ứng xử hàng ngày) và giá trị thế giầi

quan (gắn liền vầi quan niệm về thế giầi). Các giá trị công cụ phục tùng

giá trị thế giầi quan, có sự giám sát thế giầi quan nghiêm ngặt, có sự kiểm

duyệt đối vầi lối ứng xử và tư duy của con người điều này tất yếu dẫn tầi

chủ nghĩa quyền uy chính trị, tói sự minh chứng hiệu lực cho hoạt động

bằng quyền uy, tầi sự vắng mặt của quyền tự do cá nhân.

Vì toàn bộ cơ cấu của ý thức của văn hoa và quyền lực trong xã hội

truyền thống đều đảm bảo sự tái sản xuất ra cái cũ, nên con người sống

bằng hiện tại xét về mặt kinh tế. Thái độ phê phán đối vầi tinh thần kinh

doanh tích lũy đã hình thành. Do vây, thật dễ hiểu sự định hưầng của xã

hội như vậy vào thế giầi quan, chứ không phải vào khoa học. Xét về mặt

46

tinh thần thì xã hội này không sống bằng hiện tại - nó tạo ra các mục

đích dài hạn.

Trong quá trình hiện đại hoa diễn ra bước chuyển sang xã hội hiện

đại; xã hội này khác căn bản với xã hội truyền thống: định hướng vào đổi

mới, sự chiếm Ưu thế của đổi mới đối với truyền thống; tính chất thế tục

của đậi sống xã hội, sự phát triển tiến tới, cá nhân nổi trội, chủ yếu định

hướng vào các giá trị công cụ; hệ thống quyền lực dân chủ, khả năng sản

xuất không phải vì nhu cầu trước mắt, mà vì tương lai, tính chất công

nghiệp, giáo dục đại trà; tư chất tâm lý tích cực , tri thức thế giới quan

phục tùng tính chính xác và công nghệ (nền văn minh công nghệ),...

Như vậy, xã hội truyền thống là đối lập với xã hội hiện đại về nhiều

đặc điểm. Theo Tenis, hiện đại hoa là bước chuyển từ cộng đồng sang xã

hội, theo Durkheim, đó là bước chuyển từ trạng thái cơ giới sang trạng thái

hữu cơ của xã hội, theo Vebe, đó là bước chuyển từ tính hợp lý về giá trị

sang tính hợp lý về mục đích, theo Kramamer, đó là bước chuyển sang việc

tìm tòi những biểu hiện đơn nhất của nguyên tắc hợp lý m. Theo Levi, thực

chất của hiện đại hoa là hợp lý hoa. Smelocer nhấn mạnh sự chuyển biến

về công nghệ, bước chuyển từ quan hệ gia đình - công xã sang quan hệ

kinh tế, bước chuyển phá vỡ xã hội truyền thống và đem lại tính chất hiện

đại hoa. Parson quan niệm hiện đại hoa là quá trình phổ biến mà cơ sở - sự

"'Xem Std, tr.14-15.

(2) Xem D.Friby. Lý luận hiện đại hoa. Cambridge, 1996, tr.20-23.

thích nghi. Theo Liman, hiện đại hoa gắn liền với phân hoa.(2)

47

Theo chúng tôi, sự kết hợp giữa các phường diện độc đáo của xã

hội hiện đại với nguyên tắc chung về "tính hiện đại" là một khâu nan giải

của lý luận hiện đại hoa. Nó tạo ra sự thất vọng về các khái niệm, về lý

luận phổ quát, định hướng vào việc nghiên cểu các quốc gia cụ thể. về

thực chất, xã hội hiện đại là đối lập với xã hội truyền thống. Do vậy, bước

chuyển sang xã hội hiện đại - hiện đại hoa là một quá trình nan giải.

Tâm điểm của xã hội hiện đại là cá nhân phát triển tại nơi giao

điểm của các quá trình đổi mới, thế tục hoa và dân chủ hoa. Hoạt động

tích cực vì tương lai, chể không phải vì tiêu thụ trước mắt, đã sinh ra cá

nhân hiện đại. Sự hình thành của nó ở Tây Âu diễn ra trên cơ sở của một

phương thểc thế tục hoa cuộc sống như Tin lành giáo, sự xuất hiện đạo đểc

Tin lành của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng, hiện đại hoa phi tin lành giáo

sau này cũng đem lại kết quả như vậy về sự thay đổi nhân cách. Không

những xã hội mà cả con người cũng trở nên hiện đại. Đặc điểm của nó là:

quan tâm tới mọi cái mới, sẩn sàng thay đổi, quan điểm đa dạng, định

hướng vào thông tin, thái độ nghiêm túc đối với thời gian, hiệu quả, lập kế

hoạch cho hiệu quả và thời gian, khám phá cá nhân, chủ nghĩa lạc quan.

Hiện đại hoa cá nhân là quá trình nan giải không kém hiện đại hoa xã

hội(2)

Theo A.Toinbee, lời thách thểc của phương Tây là lời thách thểc của

tính hiện đại. Tính hiện đại không những là kinh nghiệm độc đáo của

phương Tây mà còn là cái tiên tiến, tốt nhất, là tính chất tối cao của trình

"'Xem M.Vater. Lý luận hiện đại hoa xã hội. N.Y.1994, tr80

< 2) Sđa, tr.19.

độ đạt tới. Tướng ểng thì "xã hội hiện đại" là đặc trưng cho mẫu mực phát

48

triển tối cao của xã hội. Quan niệm như vậy là cách thức cụ thể để đảm

bảo hiện thực hoa nó trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ the.

* Quan niệm văn hoa học.

Như đã chỉ ra ở trên, lý tưởng về tính khoa học khách quan đưẩc thể

hiện trong lý luận hiện đại hoa định hướng vào các chuẩn tắc về tính khoa

học của khoa học tự nhiên, chỉ tiếp nhận các hình thức phát triển nhất của

xã hội truyền thống và xã hội hiện đại, dường như tạo ra góc toa độ là các

kết cấu lý tưởng. Song, vấn đề tồn tại của m ọi dân tộc và m ọi cá nhân

trong điều kiện thống trị của tính hiện đại không đưẩc làm sáng tỏ đầy đủ

trong quan điểm triết học xã hội.

Cố gắng đặt ra vấn đề này là những người gán nghĩa thông thường

hàng ngày, chứ không phải theo nghĩa lý luận, cho khái n i ệm "tính hiện

đại", ở các nước giữ lại truyền thống trong quá trình hiện đại hơn, như

Pháp và Italia, một số nhà nghiên cứu có lý khi không bằng lòng v ới sự

mô tả kiểu phân đôi về lịch sử thế giới và sự phân chia về mặt lý luận giữa

các khái niệm "xã hội truyền thống" và "xã hội hiện đại". Nhà nghiên cứu

người Pháp, Ph. Bournicaud cho rằng tính hiện đại không phải là phương

Tây, mà là quan hệ giữa phương Tây với thế giới không phải là phương

Tây tức thế giới tồn tại hiện thực ở thời hiện đại, đưẩc đặc trưng b ởi

những truyền thống và văn hoa đa dạng . Bị phê phán từ lập trường của

chủ nghĩa tự nhiên, Ph.Baurricaud đã có lý theo quan điểm văn hoa học, vì

"' Xem: Ph.Bourricoud. Tính h i ện đại. Paris, 1998, tr.10.

quan hệ giữa phương Tây và thế giới không phải phương Tây là vấn đề

49

trung tâm của hiện đại hoa, vấn đề không phụ thuộc vào việc xã hội này

hay xã hội khác có nỗ lực hiện đại hoa, hay không.

B.Kapuskin cũng bảo vệ quan điểm này trong tác phẩm: "Tính hiện

đại với tư cách là đối tượng của chính trị học" (Matxkơva, 1999). Hơi coi

nhặ các quan điểm khác, ông hình thành cách tiếp cận văn hoa là trung

tâm với việc phân tích tính hiện đại. Theo ông, tính hiện đại thể hiện là

vấn đề phi truyền thống hoa. Trong quá trình phi truyền thống hoa có thể

diễn ra quá trình hình thành các đặc điểm, các quy định và các cơ sỡ mới

của cuộc sống. Không phải mỗi xã hội, mỗi con người đều có thể biến quá

trình phi truyền thống hoa thành quá trình sáng tạo.

Quan điểm văn hoa học nhấn mạnh vài trò hàng đầu của văn hoa,

của bối cảnh tinh thần. Theo quan điểm này, đóng vai trò quyết định trong

quá trình hiện đại hoa là các chuyển biến văn hoa.

Như chúng ta đã thấy, các lý luận hiện đại hoa đều cho rằng hiện

đại hoa xã hội trong lịch sử về phường diện kỹ thuật - công nghệ và kinh

tế nói chung chính là quá trình công nghiệp hoa, mà thực chất là thực hiện

cách mạng công nghiệp kể từ khi bắt đầu nảy sinh những tiền đề kinh tế -

xã hội của cách mạng công nghiệp: phân công lao động giản đơn trong

công trường thủ công cho đến khi thực hiện triệt để (hoàn thành) cuộc cách

mạng ấy. Mục đích cuối cùng của hiện đại hoa kể cả của hiện đại hoa phát

nguyên lẫn hiện đại hoa đuôi kịp, nghĩa là của tất cả các quốc gia trên thế

giới đang tiến hành hiện đại hoa, là sự phát triển xã hội, sự giàu mạnh và

thịng vượng của quốc gia, là con người được thoa mãn đầy đủ các nhu cầu

cả vật chất lẫn tinh thần. Công nghiệp hoa là phương diện, công cụ của

hiện đại hoa và cũng là nội dung cơ bản của hiện đại hoa.

50

Trong thực tế đã từng có công nghiệp hoa tư bản chủ nghĩa và cả

công nghiệp hoa xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trước đây đã xem

công nghiệp hoa là căn bản Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng như là con

đường tất yếu, bắt buộc đối với các nước chưa tói qua nó để có thể xây

dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoa xã hội chủ nghĩa

không phải không có những thành công. Chính nó là cơ sở công nghệ, kỹ

thuẩt và kinh tế cho chủ nghĩa xã hội trong nhiều thẩp niên tồn tại và phát

triển của mình. Công nghiệp hoa mà trong thực tế là tiến hành cách mạng

công nghiệp đã đóng vai trò căn bản, then chốt trong việc thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Trong thời

gian gần đây, một số nhà khoa học Nga khi nghiên cứu tiến trình phát triển

của xã hội Nga và các nước Liên Xô (và cả của các nước xã hội chủ nghĩa

khác) cũng là quá trình hiện đại hoa đất nước, là quá trình cải biến kinh tế

- xã hội nhằm nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển cũng chính là nội

dung kinh tế - kỹ thuẩt của quá trình hiện đại hoa đó. Như vẩy cả công

nghiệp hoa tư bản chủ nghĩa lẫn công nghiệp hoa xã hội chủ nghĩa trước

đây về thực chất đều là thực hiện cách mạng công nghiệp và đó cũng là

nội dung kinh tế - kỹ thuẩt của quá trình hiện đại hoa.

Theo các nhà lý luẩn hiện đại hoa, khẳng định rằng công nghiệp

hoa, cách mạng công nghiệp, đã đóng vai trò căn bản, then chốt trong các

quá trình hiện đại hoa trước đây trong lịch sử và là nội dung kinh tế - kỹ

thuẩt của những yếu tố khác, không đồng nghĩa với lẩp trường quyết định

luẩn công nghệ - kỹ thuẩt, bởi vì hiện đại hoa như được thừa nhẩn rộng rãi

không đồng nghĩa với công nghiệp hoa, và hiện đại hoa cũng không phải

chỉ đơn thuần là hiện đại hoa công nghiệp hoặc hiện đại hoa kinh tế.

51

Bắt đầu từ giữa thế kỷ XX, cuộc cách mạng công nghiệp trong các

nước công nghiệp phát triển cao đã chấm dứt thời kỳ sôi nổi của mình. về

căn bửn cuộc cách mạng ấy đã đạt tới đỉnh cao và bước vào giai đoạn két

thúc, chấm dứt vai trò và sứ mạng lịch sử của mình. Điều đó được biểu

hiện trong hàng loạt những hiện tượng kinh tế, xã hội, khoa học - kỹ thuật

cũng như trong đời sống hàng ngày của các quốc gia phát triển cao. Đặc

biệt từ những năm 70 các nước "hiện đại" bắt đầu bước vào giai đoạn

khủng hoửng trầm trọng. Đó trước hết là tốc độ tăng trưởng chậm chạp của

nền kinh tế so với những thời kỳ trước đây trong lịch sử tồn tại và phát

triển của họ. Tốc độ tăng trưởng trung bìnhg hàng năm của các nước đang

phát triển chỉ đạt dưới 5%, trong khi đó ở những thời kỳ hiện đại hoa trước

đây thường đạt từ 7-8% (nước Mỹ những năm 1914-1929, các nước Tây Âu

những năm 1930 - 1950, Nhật Bửn những năm 50-60 của thế kỷ XX). Sự

tăng trưởng kinh tế dựa trên những đòn bẩy kinh tế trước đây đã giửm hẳn

hoặc không còn tác dụng. Rất nhiều những khó khăn kinh tế xuất hiện, xã

hội đứng trước những vấn đề như lạm pháp, khủng hoửng sinh thái, khủng

hoửng nguyên, nhiên liệu.

về mặt xã hội xuất hiện những vấn đề nam giửi gắn liền với những

khủng hoửng tâm lý, sự xuất hiện lối sống bi quan thất vọng. Xã hội rơi

vào những "cơn sốt" tiếp diễn không ngừng, rơi vào trạng thái mất phương

hướng đến choáng váng. Giờ đây sự tăng trưởng kinh tế, sự thịnh vượng

trong đời sống vật chất, mà người ta hy vọng nhờ đó có thể giửi quyết được

mọi căn bệnh của xã hội, đã không còn là công cụ, đòn bẩy hay chìa khoa

như mọi người thường nói, để giửi quyết vấn đề hiện tại của đời sống xã

hội. Con người và xã hội dường như khó hiểu hơn, vô đạo đức hơn dã man

52

hơn, ích kỷ hơn ngày xưa. Những thước đo cũ dùng để đo con người, đạo

đức và các quan hệ của họ tỏ ra vô dụng. Con người kinh tê mà thị

trường, chủ nghĩa tư bân và cách mạng công nghiệp đã tạo ra, đã từng là

động lực mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế - xã hội trong vòng mắy trăm

năm trước, giờ đây dường như đã hạn chế. Nền văn minh công nghiệp

được hình thành, phát triển và hoàn thiện qua quá trình hiện đại hoa liên

tục suốt mắy trăm năm qua cùng với những nguyên tắc xử thế đạo đức,

những nguyên tắc và những thiết chế xã hội khác dựa trên đó đang cùng

nhau rơi vào khủng hoảng.

Hiện nay các nhà lý luận phương Tây đang bàn nhiều đến giai đoạn

mới của hiện đại hoa mà theo thuật ngữ được họ sử dụng phổ biến là giai

đoạn hậu hiện đại hoa. Hậu hiện đại hóa dựa trên những thành tựu của

tiến bộ khoa học, kỹ thuật ở giai đoạn cách mạng khoa học - kỹ thuật,

đang đưa các lực lượng sản xuắt của nhân loại bước lên một trình độ phát

triển mới về chắt và trên cơ sở đó đưa các xã hội Phương Tây bước vào

giai đoạn phát triển mới với hàng loạt những đặc trưng riêng của nó.

Một trong những đặc trưng của hậu hiện đại hoa là việc cá nhân hoa

quá trình lao động, các nhu cầu con người. Lao động biến thành quá trình

hoạt động sáng tạo của con người, là phương tiện thể hiện phẩm chắt

người. Hậu hiện đại hoa cũng là quá trình nhân đạo hoa và dân chủ hoa tắt

cả các mặt của đời sống xã hội.

Trên phương diện công nghệ - kỹ thuật hiện đại hoa là quá trình

thực hiện hậu công nghiệp hoa, tiến hành cách mạng khoa học - kỹ thuật

biến tri thức thành lực lượng sản xuắt trực tiếp, quyết định định hướng phát

triển của công nghệ, công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế nói chung là

53

quá trình trí tuệ hoa lao động của con người. Việc tạo ra của cải vật chất

không còn là mục đích trực tiếp của con người và vấn đề kinh tê, vật chát

không còn là gánh nặng của cuộc sống. Những hạn chế, mặt trái của nền

công nghiệp và các công nghệ cũ của cách mạng công nghiệp; khủng

hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường... được loại bỏ dỹn. Các công nghệ

mới của cách mạng khoa học - kỹ thuật, như công nghệ tin học, công nghệ

khép kín, tự động hoa,... đưa nền sản xuất của cải vật chất và các sản

phẩm văn hoa, tinh thỹn lên trình độ mới; sản xuất các sản phẩm cá nhân

hoa chứ không phải là sản xuất các sản phẩm đồng dạng, đại trà. Nhờ các

công nghệ và tư liệu lao động mới, tính chất cá nhân, cá thể của quá trình

lao động đã bị nền đại công nghiệp cờ khí trước đây xoa bỏ, bây giờ được

phục hồi lại nhưng trên trình độ mới của "vòng xoắn" phát triển.

Trong xã hội hậu hiện đại nền sản xuất trực tiếp hướng phục vụ con

người. Động lực của nền sản xuất ấy không còn là "con người kinh tế" như

trước đây mà là "con người đa diện", "sự tha hoa" của con người trong xã

hội công nghiệp cũ được khắc phục. Các định hướng giá trị không còn

mang nặng mùi vị vật chất, tiền bạc, sở hữu... mà là ở sự tự thể hiện, tự

khẳng định "đa diện" những năng lực lao động sáng tạo của con người. Con

người không còn là những nô lệ của máy móc trong quá trình lao động và

trong cuộc sống trái lại chúng là phường tiện để thể hiện bản tính người

với chữ viết hoa. Con người không buộc phải sống và lao động tập trung

trong các nhà máy, hỹm mỏ, khu công nghiệp như trước đây trong thời đại

công nghiệp với nhịp độ công nghiệp, với nhịp điệu sống và lao động mà

nền sản xuất công nghiệp đã ấn định trong mỗi ngày. Lao động, cuộc sống

và việc thoa mãn các nhu cỹu trong xã hội hậu hiện đại hoa dỹn dỹn được

54

cá nhân hoa theo đặc điểm, nhu cầu của mỗi cá nhân và do họ tự do lựa

chọn.

Việc tái sản xuất lao động và tái sản xuất con người nói chung là có

ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong các xã hội hậu hiện đại hoa. Bản thân

nội dung khái niệm tái sản xuất lao động có những thay đổi lứn trong thời

đại cách mạng khoa học - kỹ thuật bởi thông tin, tri thức khoa học đã trở

thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Giáo dục, đào tạo trở thành lĩnh vực

quyết định trực tiếp sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển của nền sản xuất

và xã hội. Con người ngày càng đóng vai trò quyết định sự tồn tại và tóc

độ phát triển, biến đổi của khu vực sản xuất của cải vật chất. Do vậy khu

vực lao động "việc nhà", "nội trợ", nuôi dạy, chăm sóc và giáo dục trẻ

em nói chung mà hiện nay chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm, trưức đây

được gọi là khu vực phi kinh tế, ngày càng đóng vai trò quan trọng, theo

mức độ phát triển của xã hội hậu hiện đại hoa trở thành khu vực quyết

định tốc độ, chiều hưứng phát triển của đời sống kinh tế - xã hội của

mỗi quốc gia .

Theo mức độ phát triển và mở rộng của các quá trình hậu hiện đại

hoa của cách mạng khoa học - kỹ thuật, các quan hệ xã hội, đời sống xã

hội nói chung cũng ngày càng biến đổi mạnh mẽ. Các quan hệ gia đình, xã

hội, các chuẩn mực đạo đức, những định hưứng giá trị của xã hội công

nghiệp không thích ứng vứi những điều kiện kinh tế - xã hội mứi dần dần

bị loại bỏ, những chuẩn mực và những định hưứng giá trị mứi đang ra đời.

'" Xem: Hiện đại hoá: Kinh nghiệm nưức ngoài và nưức Nga.Maxrơva 1994

Xã hội vượt qua giai đoạn "Nhà nưức phúc lợi toàn dân", "xã hội tiêu thụ"

55

và bỏ lại tất cả những gì gắn liền với giai đoạn đó mà con người không

thể mang tiếp vào tương lai trong quá trình hậu hiện đại hoa.

Hàng loạt các yếu tố của đời sống xã hội trong quá trình hậu hiện

đại hoa đang thay đổi vai trò và ảnh hưởng của văn hoa, khoa hực - kỹ

thuật, thông tin, tâm lý và những phẩm chất, năng lực, đạo đức, tinh thần

của con người đang trở thành những yếu tố có giá trị đặc biệt. Sự giàu có

về tiền bạc, của cải vật chất, địa vị và quyền lực xã hội ngày càng mất dần

sức quyến rũ đến mức mê muội như nó đã có trong xã hội công nghiệp và

trong thời kỳ lịch sử trước đó của nhân loại - thời kỳ xã hội nông nghiệp.

Sự giàu có về những phẩm chất tinh thần, như năng lực lao động sáng tạo,

khả năng khám phá, phát hiện những cái mới, sự uyên thâm trong các lĩnh

vực,... trở thành tài sản vô giá và là sự giàu có thật sự của con người trong

xã hội hậu hiện đại hoa...

Giống như các quá trình hiện đại hoa trước đây, các quá trình hậu

hiện đại hoa được mở rộng dần trên phạm vi toàn thế giới và điều đó cũng

đã đưa lại những thay đổi to lớn trong các quan hệ quốc tế và trật tự thế

giới.

Cách mạng công nghiệp và quá trình hiện đại hoa đã và đang đặt ra

trước nhân loại những vấn đề cấp bách, có liên quan đến số phận của loài

người và nền văn minh trên trái đất nói chung - sự cạn kiệt tài nguyên

thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái, năng lượng v.v...

là những vấn đề toàn cầu, việc giải quyết chúng không thể thực hiện được

bằng những công cụ, phương tiện bản thân nền sản xuất do cách mạng

công nghiệp hoa tạo ra. Nền sản xuất của xã hội hậu hiện đại hoa dựa trên

những thành tựu của cách mạng khoa hực - kỹ thuật mà hiện nay nó đang ở

56

giai đoạn đầu của sự phát triển chẳng những tạo ra những công cụ,

phương tiện mới cho phép nhân loại có thể giải quyết được những vân đề

toàn cầu mà còn thúc đẩy quá trình toàn cầu hoa trên tất cả các phương

diện: kinh tế, văn hoa, lối sống, đạo đức, quan hệ với giới tự nhiên, môi

trưừng...

Theo các nhà lý luận hậu hiện đại hoa, quá trình hiện đại hoa đã

được bắt đầu từ các nước công nghiệp phát triển cao ở châu Âu, Bắc Mỹ

và Nhật Bản. Sự khủng khoảng, những "cơn sốc" trong các xã hội phương

Tây hiện nay là biểu hiện bề nổi của những cỡn sóng ngầm hậu hiện đại

hoa đang được bắt đầu trong lòng xã hội đó. Các xã hội phương Tây đã là

những trung tâm phát nguyên các xung động hiện đại hoa. Từ những trung

tâm đó, xung động của nó đang dần dần lan toa ra các khu vực khác của

thế giới. Theo hướng mà các nước công nghiệp phát triển cao đang đi tới,

các nước đang phát triển cũng phải tiến hành công nghiệp hoa, trải qua

những bước quá độ của mình để đi tới xã hội hậu hiện đại hoa là mục tiêu

chung trong giai đoạn lịch sử hiện nay của tất cả các quốc gia đã phát triển

cũng như đang phát triển mặc dầu mức độ xa gần mục tiêu ấy ở mỗi nước

khác nhau thì khác nhau.

Trong khi các xã hội "hiện đại" lâm và khủng hoảng - khủng hoảng

hậu hiện đại hoa, thì chủ nghĩa xã hội theo mô hình Liên Xô cũng không

giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội của mình và dần dần đi đến

tan vỡ hệ thống.

Trong tình hình đó, các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa bị

phân hoa trong việc lựa chọn định hướng, con đưừng và mô hình phát triển

xã hội. Một số nước khẳng định tiếp tục trung thành với con đưừng và mô

57

hình xã hội chủ nghĩa mặc dù quan niệm chủ nghĩa xã hội của họ cũng có

nét khác biệt nhau và khác biệt với quan niệm "chính thống" trước đây.

Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cu Ba đang đi theo hướng này.

Những cải cách kinh tế - xã hội mà các nước này đang tiến hành trước hét

ở Trung Quốc và Việt Nam trong thời gian ngắn đã đưa lại những kết quả

"bất ngờ", giữ được ổn đỏnh chính trỏ, phát triển kinh tế, xã hội với tốc độ

nhanh.

Đại đa số các nước khác trước đây thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa

đã tiến hành liệu pháp "sốc", từ bỏ mô hình chủ nghĩa xã hội, thực hiện

những cải cách kinh tế - xã hội theo hướng châu Âu hoa nhập và muốn

nhanh tròng trở thành châu Âu. Tuy nhiên, việc "quay trở lại" của họ đang

buộc xã hội phải chỏu nhiều đau đớn và những cú "sốc" đến choáng váng.

Điều đó cũng đặt ra những câu hỏi lớn cho các nước khác. Phải chăng đi

theo con đường hiện đại hoa châu Âu trong bất cứ hoàn cảnh và điều kiện

lỏch sử nào cũng phải "trả giá" giống như các xã hội phương Tây trước đây

đã phải trả: thất nghiệp, phân hoa giàu nghèo và xung đột xã hội, đấu

tranh giai cấp, chiến tranh, chủ nghĩa quân Phiệt và Phát xít V.V.... ?

Một câu hỏi được đặt ra đối với các nước đang phát triển là họ sẽ đi

tới đâu, đi theo mô hình nào? hiện đại hoa Tư bản chủ nghĩa đã được các

nước Tư bản chủ nghĩa phát triển trải qua và đi vào thỏnh vượng, nâng cao

mức sống nhân dân, nhưng cũng đã đẻ ra những điều kỳ quái, những tổn

thất xã hội to lớn, những hậu quả kinh tế, xã hội nặng nề, mà chẳng những

nhân dân các nước đó chỏu hậu quả, nhân dân các nước khác cũng buộc

phải chia sẻ và đôi khi còn phải chia sẻ phần nhiều hơn. Hiện đại hoa xã

hội chủ nghĩa, đặc biệt ở Liên Xô và Đông Âu, một thời cũng đã chứng tỏ

58

ưu thế của mình bằng tốc độ nhanh hơn cả hiện đại hoa tư bản chủ nghĩa.

Nhưng giờ đây hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ. Các nước đang phát

triển đứng trước một thách đố của thời đại. Xã hội của họ sẽ vận động theo

hướng nào, đi đến đến đâu, đi bằng cách nào?

Phải khẳng đựnh rằng quy luật của lựch sử là vận động không ngừng

của xã hội theo phát triển tiến bộ. Nhân loại ngày càng tự do hờn, dân chủ

hơn, các nhu cầu được thoa mãn đầy đủ hơn, con người phát triển toàn diện

hơn, trình độ kinh tế, văn hoa, khoa học, kỹ thuật ngày càng cao. Nhưng sự

vận động ấy không phải luôn luôn diễn ra theo đường thẳng mà nhiều khi

theo những đường cong, đích dắc, lúc tiến lúc lùi. ở mỗi quốc gia, sự vận

động theo tiến trình chung của nhân loại lại mang thêm những nét khác

biệt dân tộc độc đáo và diễn ra trong hoàn cảnh lựch sử cụ thể của nó.

Thực tế lựch sử chỉ ra rằng trong sự vận động chung đi đến tiến bộ

của nhận loại mỗi nước, mỗi khu vực tuy theo những điều kiện lựch sử - xã

hội của mình, ở những giai đoạn lựch sử khác nhau có thể có tốc độ vận

động nhanh chậm khác nhau, có nước, có khu vực, ở giai đoạn này đi

nhanh, vượt trước các nước, các khu vực khác, nhưng ở những thời đại lựch

sử khác lại vận động chậm hơn, kém phát triển hơn, thậm chí thụt lùi so

với các quốc gia, các khu vực khác.

Trên cơ sở quan niệm có tính chất tiền đề đó cần phải thừa nhận

một thực tế và cũng là tiền đề lý luận khác: không thể xem phương Đông

hay phương Tây là trung tâm của sự tiến bộ và tiến hoa của lựch sử nói

chung, dù rằng trong nhiều thế kỷ gần đây, phương Tây (các nước tư bản

phát triển cao ở châu Âu và Bắc Mỹ) là khu vực dẫn đầu thế giới về tốc độ

phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật, có tiềm lực kinh tế, khoa

59

học - kỹ thuật hùng mạnh hơn các nước khác, có mức thu nhập GDP bình

quân đầu người cao gấp nhiều lần so với các nước khác, mức sống của

nhân dân các nước đó rất cao mà đề đạt tới đó các nước phương Đông còn

phải cố gắng rất lớn và chắc chắn cũng phải trải qua sự phấn đâu nô lực.

Mặt khác, cũng không thể xem phường Đông là trung tâm như là

mửt số học giả đã quan niệm khi nghiên cứu lịch sử phương Đông. Phương

Đông đã từng là nơi phát nguyên của những nền văn minh lớn, có nhiều

thành Mu phát triển kinh tế - xã hửi, những phát minh khoa học, kỹ thuật

lớn, đặt cơ sở cho nền văn minh hiện đại của nhân loại, nhưng sẽ là sai

lầm khi từ đó rút ra rằng phương Đông là trung tâm của văn minh nhân

loại. Mửt số học giả có lẽ đã xuất phát từ quan niệm xem phương Đông là

trung tâm nên đã đưa ra những tiên đoán lạc quan rằng trong tương lai

không xa, phương Đông sẽ đuổi kịp phương Tây và sẽ trở thành trung tâm

của thế giới trên tất cả các phương diện: kinh tế, xã hửi, khoa học, kỹ

thuật.

Như đã nói, sự phát triển kinh tế - xã hửi của các nước, các khu vực

khác nhau trong những thời đại khác nhau là không đồng đều do những

điều kiện kinh tế, xã hửi và lịch sử đặc thù của mỗi nước, mỗi khu vực.

Cần phải nghiên cứu, tin hiểu để vạch ra những yếu tố kinh tế, xã hửi, lịch

sử nào, trong những thời điểm lịch sử nào đã có tác dụng thúc đẩy sự phát

triển kinh tế, xã hửi của quốc gia dân tửc, có những yếu tố nào trong

những điều kiện nào đã kìm hãm sự phát triển ấy, chứ không phải từ sự

phát triển không đồng đều ấy để đi đến kết luận rằng phương Đông hay

phương Tây là trung tâm của thế giới. Quan niệm như vậy là thiếu căn cứ

60

khoa học và là cơ sở cho chính sách phân biệt chủng tộc, cho chính sách

thực dân.

Trở lại với vấn đề và thực tế lịch sử và trong giai đoạn hiện nay

phương Tây đang vượt trội hơn phương Đông về trình độ phát triển kinh tế

- xã hội, khoa học - kỹ thuật. Mức sặng, V.V.... Vậy các nước phương Đông

có thể đi theo con đường mà phường Tây đã đi hay không, hay họ có thể có

con đường khác. Có một điều chắc chắn là ngày nay các nước phương

Đông trong điều kiện lịch sử mới không thể lặp lại toàn bộ các chặng

đường hiện đại hoa mà các nước phương Tây trước đây đã trải qua từ hiện

đại hoa đến công nghiệp hoa qua các giai đoạn của hiện đại hoa công

nghiệp để đi vào hậu hiện đại hoa, mặc dù trình độ xuất phát điểm về kinh

tế - xã hội và khoa học - kỹ thuật của nhiều nước phương Đông còn rất

thấp so với các nước phương Tây. Hoàn cảnh quặc tế, sự giao lưu kinh tế,

văn hoa, khoa học - kỹ thuật và cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang

đưa lại cho các nước phương Đông cơ hội ngàn năm có một để đẩy nhanh

tặc độ phát triển kinh tế, xã hội, khoa học - kỹ thuật của mình. Mặt khác

điều kiện lịch sử đó cũng cho các nước phương Đông cơ hội có thể tránh

được những tổn thất xã hội, những "giá đắt" mà các nước phương Tây đã

phải trả trong quá trình hiện đại hoa của mình. Nếu họ lặp lại tất cả những

gì mà phương Tây đã làm, đi qua tất cả những giai đoạn mà phương Tây đã

đi qua trong hiện đại hoa thì chẳng những họ không tận dụng được cơ hội

đi nhanh để đuổi kịp phương Tây mà chắc chắn họ còn phải trả giá. Như

đã nói, vấn đề đặt ra là các nước đang phát triển hiện nay bằng cách nào,

đi theo con đường nào để có thể trong thời gian ngắn đuổi kịp và vượt các

nước phương Tây?

61

Có thể trả lời câu hỏi trên đây bằng việc phân tích kinh nghiệm

thực tiễn của các nước đang phát triển trong thập kỷ vừa qua, đặc biệt là

kinh nghiệm thành công trong công cuộc cải tạo và phát triển kinh tê - xã

hội, khoa hầc - kỹ thuật của các nước đã có những bước phát triển thần kỳ

trong thời gian gần đây, bằng việc xem xét những tác động động lực của

tiến bộ khoa hầc, kỹ thuật trong thời đại chúng ta đang làm biến đổi toàn

bộ cơ sở kinh tế, công nghiệp và đời sống xã hội của tất cả các quôc gia

với những thể chế chính trị và ở các trình độ phát triển kinh tế - xã hội

khác nhau.

Trong các nước phát triển hiện nay, để chỉ quá trình cải biến cách

mạng, phát triển kinh tế - xã hội nhằm đưa quốc gia thoát khỏi nghèo nàn

lạc hậu, đuổi kịp và vượt các nước phương Tây công nghiệp phát triển cao

tiến nhanh đến xã hội thông tin, xã hội hậu hiện đại hoa, người ta thường

sử dụng các thuật ngữ sau đây hơn cả: đổi mới, cải cách, phát triển, hiện

đại hoa. Cũng như các nhà lý luận hiện đại hoa, chúng tôi cho rằng thuật

ngữ hiện đại hoa thích dụng hơn cả. Nó cho phép nắm bắt được quá trình

chung của các quốc gia đang cải biến cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở kinh

tế, đời sống xã hội, khoa hầc - kỹ thuật và cả đời sống tinh thần, nâng cao

mức sống của nhân dân, đưa đất nước tiến nhanh vào tương lai, tạo dựng

nền móng cho xã hội mới đang bắt đầu hình thành và đang được gầi với

những tên gầi khác nhau.

Với cách hiểu hiện đại hoa như vậy, phạm vi bao quát của nó sẽ

rộng hơn quan niệm hiện đại hoa được tóm tắt ở phần trên. Nội dung của

khái niệm hiện đại hoa theo cách hiểu này sẽ bao hàm cả các quá trình

hậu hiện đại hoa đang diễn ra trong các nưđc công nghiệp phát triển cao

62

như các lý luận hậu hiện đại hoa đã nói đến, bao hàm cả hiện đại hoa,

công nghiệp hoa ở các nước phương Tây trước đây kéo dài từ thê kỷ XVI

- XVII đến giữa thế kỷ XX của chúng ta, trải qua ba thời kỳ: hiện đại hoa

tiền công nghiệp hoa, hiện đại hoa công nghiệp hoa thời kỳ đầu và hiện đại

hoa công nghiệp hoa thời kỳ cuối. Hiện đại hoa công nghiệp hoa tư bản

chủ nghĩa ở các nước phương Tây trong mỗi thời kỳ có những đặc trứng

riêng nhưng đều dựa trên cơ sở công nghệ - kể thuật của tiến bộ khoa học,

kể thuật mà nội dung căn bản là cách mạng công nghiệp, do vậy còn có

thể gọi là hiện đại hoa cách mạng công nghiệp hoặc hiện đại hoa giai

đoạn ì, còn hậu hiện đại hoa có thể gọi là hiện đại hoa cách mạng khoa

học - kể thuật hoặc hiện đại hoa giai đoạn li.

Khái niệm hiện đại hoa được nói ở đây còn bao hàm cả các quá

trình hiện đại hoa đang diễn ra trong các nước đang phát triển mà trước

tiên phải kể đến hiện đại hoa trong các nước Đông và Đông Nam á với

những thành tựu kỳ diệu và tốc độ đặc biệt cao trong những thập kỷ vừa

qua, nhờ đó một số nước đã nhanh chóng đứng vào hàng các nước công

nghiệp phát triển mới (NICs). Chúng tôi gọi đó là hiện đại hoa tăng tốc.

Trong thời đại ngày nay, tất cả các nước đang phát triển hoặc chậm phát

triển, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và tụt hậu so với các nước khác

thì họ chỉ có con đường duy nhất là tăng tốc quá trình hiện đại hoa để sau

một thời gian ngắn khoảng 3-4 thập niên có thể đạt trình độ phát triển mà

các nước phương Tây đã phải mất 300-400 năm. Hoàn cảnh quốc tế và

cách mạng khoa học - kể thuật đang tạo ra những tiền đề thuận lợi cho

hiện đại hoa tăng tốc. Thực tế lịch sử cũng đã chỉ ra những điển hình thành

công của hiện đại hoa tăng tốc.

63

Khái niệm hiện đại hoa được sử dụng ở đây cũng còn bao gồm cả

các quá trình công nghiệp hoa, phát triển kinh tế, xã hội trong các nước

xã hội chủ nghĩa trước đây. Gần đây, một số học giả khi nghiên cứu quá

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ặ Liên Xô trong thời kỳ công nghiệp hoa

mà Xtalin đã gọi đó là giả hiện đại hoa hoặc phản hiện đại hoa. Phải thừa

nhận một thực tế là trước đây Liên Xô là nước phát triển nhất trong số các

nước xã hội chủ nghĩa nhưng càng về sau thì Liên Xô càng tụt dần so với

phương Tây tư bản chủ nghĩa và rơi vào khủng hoảng. Hiện đại hoa của

Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung vẫn là hiện đại hoa "đuổi

theo", mặc dù có những thời gian ngắn tốc độ hiện đại hoa diễn ra khá

nhanh chóng nhưng nếu xét trong toàn bộ thời gian tồn tại của hệ thống xã

hội chủ nghĩa thì tốc độ hiện đại hoa vẫn chậm hơn so với nhiều nước

khác. Hơn nữa hiện đại hoa xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm khác biệt

căn bản với quá trình hiện đại hoa tăng tốc trong các nước khác như hiện

đại hoa xã hội chủ nghĩa không dựa trên cơ chế thị trường và chế độ sặ

hữu tư nhân, nó diễn ra trong điều kiện đóng kín, cô lập với nền kinh tế

thế giới và những đặc trưng xã hội chủ nghĩa khác, nó cũng đã có những

đóng góp lớn vào sự phát triển của các quốc gia xã hội chủ nghĩa trước

đây, bặi thế có thể quan niệm đây là một dạng đặc biệt của hiện đại hoa

và có thể gọi là hiện đại hoa xã hội chủ nghĩa.

Như đã nói, theo ý kiến của một số nhà lý luận hiện đại hoa, quá

trình xâm chiếm thuộc địa của các nước đế quốc tư bản phương Tây đồng

thời là quá trình mang các xung động hiện đại hoa từ các nước phương Tây

chuyển qua cho các nước phương Đông, những cải biến do chế độ thực dân

tiến hành trong thời kỳ đô hộ trước đây cũng gọi là hiện đại hoa. Có lẽ

64

không thể đồng nhất việc khai thác thuộc địa dưới chế độ thực dân với

các quá trình hiện đại hoa khác như hiện đại hoa tăng tốc, hiện đại hoa

phát nguyên, hiện đại hoa xã hội chủ nghĩa. Nhiều học giả, đặc biệt ở các

nước phương Đông, đã không thừa nhận quá trình ấy là hiện đại hoa.

Chúng tôi tán đồng với quan niệm này và nhấn mạnh thêm rằng về thực

chất nhợng cải biến dưới chế độ thực dân do chính quyền thực dân tiến

hành là nhằm hiện đại hoa chính quốc chứ không nhằm hiện đại hoa các

nước thuộc địa.

Như vây, khái niệm hiện đại hoa được nói ở đây bao gồm toàn bộ

các quá trình, các dạng cải biến, các bước quá độ kinh tế, xã hội khác nhau

đang tồn tại lên trình độ mới, cao hơn, dựa trên những thành tựu mới của

khoa học, kỹ thuật nhằm phục vụ tốt hơn cho sự phát triển toàn diện của

con ngưừi và tiến bộ xã hội. Quan niệm hiện đại hoa xã hội như vậy không

những chỉ ra khả năng mới của các quốc gia trong thừi đại cách mạng khoa

học - kỹ thuật có thể xuất phát từ các trình độ kinh tế - xã hội khác nhau, dù

là rất thấp, tận dụng điều kiện quốc tế mới và các thành quả của cách

mạng khoa học - kỹ thuật để "tiến thẳng" lên trình độ xã hội cao mà các

nước phát triển cao khác đang hướng đến, thông qua những bước trung gian

ngắn với thừi gian một vài thế hệ có thể đuổi kịp các quốc gia "hiện đại",

Vấn đề, như đã nói, là ở chỗ cần phải hiện đại hoa như thế nào?

Ngày nay các quá trình cải biến và phát triển kinh tế, xã hội trên thế

giới đều gắn liền với tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà nội dung căn bản của

nó là cách mạng khoa học - kỹ thuật. Cách mạng khoa học - kỹ thuật đã

trở thành đặc điểm đặc biệt của thời đại chúng ta và là một quá trình toàn

cầu. Các quá trình hiện đại hoa dù diễn ra trong bất cứ quốc gia nào với

65

chế độ chính trị ra sao và xuất phát từ trình độ kinh tế - kỹ thuật - công

nghệ như thế nào đều gắn liền với những thành quả của cách mạng khoa

học - kỹ thuật. Nói cách khác, mọi tiến bộ kinh tế, kỹ thuật, văn hoa, xã

hội trong thời đại chúng ta không thể tách rời tiến bộ khoa học, kỹ thuật

nói chung và cách mạng khoa học - kỹ thuật nói riêng. Các quá trình hiện

đại hoa ngày nay sẽ không thể thốc hiện được nếu không có thành tốu

cách mạng khoa học - kỹ thuật. Trình độ phát triển mới của xã hội và nền

sản xuất hiện đại do cách mạng khoa học - kỹ thuật tạo ra là mục tiêu của

tất cả các quá trình hiện đại hoa trong các quốc gia trên thế giới, còn cách

mạng khoa học - kỹ thuật là một trong những động lốc và phương tiện của

hiện đại hoa. Việc khảo sát vai trò và ảnh hưởng của tiến bộ khoa học - kỹ

thuật trong cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày

nay đối với các quá trình hiện đại hoa đưa lại những kết luận rất có ý

nghĩa về phương diện nhận thức, phương pháp luận và thốc tiễn, đặc biệt

đối với các nước đang phát triển, mới bước vào hiện đại hoa tăng tốc.

Các quá trình hiện đại hoa ngày nay dưới tác động của cách mạng

khoa học - kỹ thuật diễn ra trong tất cả các lĩnh vốc khác nhau của đời

sống xã hội và trong các khu vốc khác nhau của thế giới. Mỗi khu vốc tuy

theo những đặc điểm lịch sử cụ thể về truyền thống văn hoa, xã hội, chế

độ chính trị, trình độ công nghệ và kỹ thuật, tiềm năng khoa học - kỹ

thuật... thốc hiện hiện đại hoa theo những phương thức, thủ thuật, biện

pháp riêng cho phù hợp với những đặc điểm đó. Việc điều khiển, quản lý

và chỉ đạo thốc hiện các quá trình hiện đại hoa sao cho phù hợp với những

điều kiện, đặc điểm kinh tế, văn hoa, xã hội truyền thống của quốc gia là

nghệ thuật lãnh đạo hiện đại hoa của tầng lớp Ưu tú. Chính những đặc

66

điểm dân tộc, quốc gia và khu vực làm cho quá trình hiện đại hoa trên thê

giới trở nên đa dạng, nhiều màu sắc làm cho tiến trình hiện đại hoa của

mỗi nước trở thành khác biệt nhau, không giống nhau, không thể vay

mượn, sao chép của nhau được. Do vậy các nước đang phát triển ở phương

Đông không thể và không bao giờ trở thành phương Tây được. Các nước

đang phát triển ở phương Đông tiến hành hiện đại hoa có trở thành "hiện

đại" phường Tây? Nhật bản và các nước NICs châu Á đã trở thành "hiện

đại", nhưng là "hiện đại" phương Đông chứ không phải là "hiện đại"

phương Tây. Nhật bản và các nước NICs châu Á đã trở thành các quốc gia

công nghiệp phát triển, đã trở thành "hiện đại" trong quá trình hiện đại hoa

tăng tốc nhưng hẫ không trở thành phương Tây, xã hội của hẫ không phải

là xã hội Mỹ hoặc xã hội Đức. Xã hội phương Tây không phải là khuôn

mẫu để các nước đang phát triển ở phương Đông có thể vay mượn, lắp ráp

vào quốc gia mình. Đây cũng là nội dung có ý nghĩa rất sâu sắc của quan

niệm hiện đại hoa được bàn tới ở đây. Một số độc giả và chính khách

phường Tây đã có lúc ngộ nhận điều này, cố gắng mang mẫu hình xã hội

phương Tây (dù đó là hiện đại) áp đặt vào phương Đông, bắt phương Đông

phải giống với phương Tây. Điều đó không có gì khác hơn là thủ tiêu

phương Đông chứ không phải là hiện đại hoa phương Đông.

Các quốc gia tiến hành hiện đại hoa để biến quốc gia mình thành xã

hội hiện đại. Nhưng nội dung của khái niệm "xã hội hiện đại" ở mỗi quốc

gia mang màu sắc riêng của nó. Các xã hội truyền thống trong các quốc

gia khác nhau đã từng khác nhau bao nhiêu thì các "xã hội hiện đại" ra đời

trong các quá trình hiện đại hoa cũng khác nhau bấy nhiêu. "Xã hội hiện

đại" mà các quốc gia đang phát triển ở phương Đông tiến hành tạo dựng

67

trong quá trình hiện đại hoa không phải là xã hội phường Tây. Phương

Tây tiến hành hậu hiện đại hoa (hiện đại hoa cách mạng khoa học - kỹ

thuật) để trở thành phương Tây hiện đại hơn phương Tây đã có, đang tồn

tại, còn phương Đông tiến hành hiện đại hoa xã hội để trở thành "hiện đại"

phương Đông chứ không thể trở thành phương Tây. Nhấn mạnh nội dung

và ý nghĩa này của khái niệm hiện đại hoa, không có nghĩa là phủ nhận

những nét, những yếu tố chung của quá trình hiện đại hoa đang diựn ra

trên thế giới mà là đề thấy rằng hiện đại hoa ngày nay không đồng nghĩa

với sự sao chép, mô phỏng, áp đặt mô hình xã hội phương Tây vào phương

Đông mà phải thấy được tính chất độc đáo, riêng biệt của các quá trình

hiện đại hoa trong các quốc gia khác nhau.

Chính vì vậy, khi nói rằng các nước đang phát triển ở phương Đông

tiến hành hiện đại hoa "đuổi kịp" các nước công nghiệp phát triển cao ở

phương Tây thì, như đã nói, cũng không có nghĩa rằng xã hội phương Tây,

xã hội Mỹ hay xã hội Đức là nguyên hình của xã hội Trung Quốc, xã hội

Việt Nam ngày mai. Các nước đang phát triển phương Đông có thể "đuổi

kịp" phương Tây về phương diện kinh tế, khoa học - kỹ thuật, công nghệ,

nhưng ngay cả trên phương diện này, "đuổi kịp" cũng không có nghĩa là

vay mượn, lắp ráp nguyên hình toàn bộ các cấu trúc kinh tế, kỹ thuật, công

nghệ của phương Tây. Trong quá trình hiện đại hoa, các nước đang phát

triển căn cứ vào những điều kiện cụ thể của mình có thể và cần phải học

hỏi, vay mượn, du nhập tất cả những cái mới, những thành tựu của phương

Tây trên cơ sở kinh tế - xã hội của việc vận dụng chúng, kết hợp hài hoa

phát triển kinh tế và phát triển xã hội, làm cho đất nước nhanh chóng trở

thành "hiện đại" hơn, và như vậy "đuổi kịp" phương Tây cũng có nghĩa là

68

trở thành "hiện đại" phương Đông chứ không phải trở thành "hiện đại"

phương Tây.

Việc nghiên cứu, xem xét các quá trình hiện đại hoa hiện nay, trước

hết trong các nước đang phát triển ở phương Đông không tách rời những

quan niệm về hiện đại hoa được trình bày trên đây với tính cách là những

tiền đề, cơ sở xuất phát.

Chương 2

69

CÔNG NGHIỆP HOA, HIỆN ĐẠI HOA Ở VIỆT NAM

Sự nghiệp công nghiệp hoa xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu từ

cuối năm 1960. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IU (9-1960) của Đảng

Lao động Việt Nam đã quyết định "Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ

ở miền Bắc nước ta là Công nghiệp hoa xã hội chủ nghĩa, mà mâu chót là

ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ". Sự nghiệp đó đến nay vẫn còn tiêp

tấc.

Trong suốt thời gian tiến hành công nghiệp hoa (CNH), tình hình

trong nước và quốc tế luôn diễn biến rất sôi động, phức tạp và không

thuận chiều. Bắt đầu CNH được 4 năm thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến

tranh phá hoại miền Bắc. Đất nước phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vấ

chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây

dựng; Miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Đất nước thống

nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài năm thì kẻ thù gây ra chiến

tranh biên giới. Chiến tranh biên giới kết thúc lại kéo theo cấm vận của

Mỹ.

Nếu những năm 60, hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) lớn mạnh,

phát triển nhanh không thua kém nhiều so với các nước tư bản chủ

nghĩa(TBCN) phát triển, có uy tín trên thế giới đã tạo ra hoàn cảnh quốc tế

thuận lợi cho CNH ở nước ta thì sang những năm 70, 80 hoàn cảnh quốc tế

lại gây bất lợi cho quá trình CNH ở nước ta. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa

thế giới năm (1973) các nước XHCN do chuyển dịch cơ cấu và đổi mới

công nghệ chậm hơn so với các nước TBCN nền kinh tế phát triển chậm

70

hiệu quả thấp, uy tín trên thị trường quốc tế giảm, cộng với những sai lầm

khác đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, làm mất đi

thị trường lớn và sự sụp đổ không nhỏ tở các nước này (ước tính mỗi năm

Ì tỷ USD, chiếm 7% GDP)

Công nghiệp hoa ở nước ta xuất phát điểm rất thấp về phát triển

kinh tế -xã hội, về phát triển lực lượng sản xuất và tở trạng thái không

phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất phát triển của lực

lượng sản xuất.

Năm 1960 sản lương công nghiệp chiếm 18,2% thu nhập quốc dân,

7% lao động xã hội trong các ngành kinh tế quốc dân; nông nghiệp chiếm

tỷ lệ tương ứng là 42,3% và 83%; sản lượng lương thực bình quân đầu

người dưới 300kg quy thóc; GDP bình quân đầu người khoảng dưới 100

USD. Trong khi phân công lao động xã hội chưa phát triển, lực lượng sản

xuất còn ở trình độ thấp thì quan hệ sản xuất đã được đẩy lên trình độ tập

thể hoa và quốc doanh hoa là chủ yếu. Đầu năm 1960: 85,8% tổng số hộ

nông dân vào hợp tác xã; 100% hộ tư sản được cải tạo trong tổng số tư sản

công thương nghiệp thuộc diện cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào

hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp.

Có thể chia quá trình CNH ở nước ta trong hơn 30 năm qua thành 2

giai đoạn chính: 1960 - 1986 và 1986 đến nay.

2.1. GIAI ĐOẠN 1960 -1986

Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất

quán được xác định tở Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ in (9/1960)

và có điều chỉnh, bổ sung chút ít trong các kỳ Đại hội IV, (12/1976) V

71

(1981) và các hội nghị trung ương. Đại hội đại biểu Đảng toàn Quốc lần

thứ IU đã nghi rõ: "Muốn cải tiến tình trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay

của nước ta, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất lớn

xã hội chủ nghĩa, chúng ta không còn đường nào khác ngoài con đường

công nghiệp hoa xã hội chủ nghĩa (CNHXHCN). Vì vậy CNHXHCN là

nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ của nước ta và chủ chương của

Đảng ta về công nghiệp hoa XHCN ở miền Bực là: "xây dựng một nền kinh

tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp với nông nghiệp và lấy công nghiệp

nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,

đằng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến

nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp

hiện đại và nông nghiệp hiện đại"

Trong khoảng thời gian ngựn ngủi (1961 - 1964) CNH ở miền Bực

đã được tiến hành với nhịp điệu khẩn trương trong điều kiện hoa bình và

thu được kết quả đáng ghi nhận. Năn 1965 so với năm 1955 vốn đâu tư xây

dựng cơ bản trong công nghiệp tăng 6 lần; giá trị tổng sản lượng công

nghiệp tăng 9,2 lần, trong khi đó đầu tư cơ bản trong nông nghiệp chỉ tăng

1,96 lần và giá trị tổng sảng lượng nông nghiệp tăng 1,6 lần.

Trong thời kỳ 1961 - 1965. Tốc độ tăng bình quân giá trị tổng sản

lượng công nghiệp là 13,7%, của nông nghiệp 4,1%. Do vậy tỷ trọng công

nghiệp trong thu nhập quốc dân tăng từ: 16% (1957) lên 18,2% (1960) và

22,2% (1965) còn tỷ trong nông nghiệp giảm từ 44% (1957) xuống 42,3%

(1960) và 41,7% (1965). Đến năm 1964 miền Bực nước ta về căn bản đã

giải quyết được vấn đề lương thực và đáp ứng được 90% nhu cầu hàng tiêu

dùng đồng thời bựt đầu tạo nguồn tích lũy từ trong nước.

72

Đầu năn 1965, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh phái hoại bằng

không quân ra miền Bắc. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ

chương chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với thời

chiến, đồng thời vọn đảm bảo phương hướng lâu dài của sự nghiệp công

nghiệp hoa. Đảng ta chủ trương vừa "chú trọng đúng mức xây dựng kinh tế

trung ương vừa lấy xây dựng kinh tế địa phương làm trọng tâm, vừa sản

xuất vừa chiến đấu ".

Ngay trong những năm đầu chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây

ra, vốn cho phát triển kinh tế vọn tăng lên. So với thời kỳ 1955-1957 vốn

cho cho phát triển kinh tế trong thời kỳ 1965-1968 tăng 5,7 lần. Mặc dù

năm 1972 là năm đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt nhất, vốn chi cho phát triển

kinh tế vọn gấp 2,4 lần so với 1960 và gấp 1,8 lần so với năm 1964.

Vốn đầu tư vào công nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số

vốn đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất nói riêng và trong kinh tế quốc

dân nói chung: 37,4% (1958-1960); 44% (1961-1965); 32,4% (1966-1971);

32,9% (1972-1975). Trong đó phần đâu tư của Nhà nước trong công nghiệp

do địa phương quản lý tăng nhanh về tốc độ và nâng lên về tỷ trọng.

Dù trong hoàn cảnh phải đánh trả hai lần chiến tranh phá hoại ác

liệt, phải tập trung sức người, sức của cho giải phóng miền Nam, thống

nhất đất nước, miền Bắc vọn tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội liên tục

công nghiệp hoa và đã đạt được những thành tựu: "cơ sở vật chất - kỹ

thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng một bước. Đã có những cơ sở

đầu tiên của công nghiệp nặng. Năng lực các ngành công nghiệp, giao

thông, xây dựng đều tăng so với trước chiến tranh".

73

Nếu trong thời kỳ 1961-1965 tốc độ tăng bình quân hàng năm của

tài sản cố định là 15,5% thì trong suốt thời kỳ chiến tranh phá hoại (1966-

1970) tốc độ tăng vẫn là 12,2%. Tài sản cố định 1975 so với năm 1960:

trong công nghiệp tăng 4,51ần, trong nông nghiệp tăng 6,0%.

Đến năm 1975 cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch quan trọng, tở

trọng công nghiệp trong thu nhập quốc dân được nâng lên 16% (1957);

18,2% (1960); 22,2% (1965); 26,6% (1971); 24,2% (1974); 28,7% (1975).

Cở cấu công nghiệp đã có sự phát triển và chuyển dịch. Những cơ sở

đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng đã được xây dựng và

phát triển, như: điện, than, cơ khí, luyện kim, hoa chất, vật liệu xây dựng...

Tốc độ phát triển của các ngành thuộc công nghiệp nhóm A nhanh hơn tốc

độ phát triển chung của toàn ngành công nghiệp. Năm 1975 so với năm

1955 giá tị sản lỢng ngành điện lực gấp 22,3 lần, của ngành cơ khí gấp

59,8 lần, trong lúc toàn ngành công nghiệp chỉ tăngl6,2 lần. Trên miền

Bắc đã hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung: Hà nội, Hải Phòng,

Quảng Ninh, Hà Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hoa,

Vinh...

Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhận kỹ thuật tăng khá

nhanh, là vốn quí, là yếu tố quan trọng cho quá trình công nghiệp hoa ở

thời kỳ này và các thời kỳ tiếp theo. Năml975 so với năm 1955, số cán bộ

có trình độ đại học và trên đại học tăng hơn 129 lần, cán bộ có trình độ

trung học chuyên nghiệp gấp hơn 84 lần; công nhân kỹ thuật năm 1975

tăng gấp 6 lần năm 1960. tở lệ cán bộ khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ trong

tổng số công nhân viên chức đã tăng từ 2% (1955) đến 3,5% (1960) và

19,5% (1975). Tở lệ công nhân kỹ thuật đã tăng từ 17% năm 1960 lân

74

53,4% (1975). Riêng trong công nghiệp năm 1975 đã có trên 8.000 cán bộ

đại học, 20.000 cán bộ trung học chuyên nghiệp và khoảng 210.000 công

nhân kỹ thuật.

Năm 1975 đất nước thống nhất. Sự hợp nhất giữa hai miền có cơ sở

kinh tế rất khác nhau về nguyên lý, mục tiêu và cở sở kinh tế, hoàn cảnh,

điều kiện trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi so với địu những năm

1960 cho phép và đòi hỏi phải có chiến lược công nghiệp hoa mà Đại hội

Đảng lịn thứ IU đã xác định vẫn giữ nguyên và thực hiện trên phạm vi cả

nước. Đại hội Đảng lịn thứ IV (12/1976) chỉ rõ: "điều đó có nghĩa quyết

định là phải thực hiện CNHXHCN, tạo ra một cơ cấu kinh tế công - nông

nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là ưu tiên phát triển

công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và

công nghiệp nhẹ". Đại hội cũng đề ra một nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm

(1976 - 1980) là "tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp,

phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm; phát huy năng lực

sấn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là

cơ khí".

Do có chủ trương nôn nóng, chủ quan duy ý như trên, cộng với

những sai lịm trong tổ chức chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nên trong

thời kỳ 1976-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng,

cơ cấu kinh tế ngày càng trở lên bất hợp lý và mất cân đối nghiệm trọng,

nông nghiệp yếu kém không đáp ứng được yêu cịu trong nước, công

nghiệp nặng địu tư lớn nhưng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ

1976-1980 : tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4%, thu nhập quốc

dân chỉ tăng 0,4% trong khi đó dân số tăng 2,24% một năm; sản xuất công

75

nghiệp bình quân hàng năm chỉ tăng 0,6 %, trong đó công nghiệp quốc

doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9 % một năm.

Trước tình hình đó từ hội nghị trung ương 6 (khoa IV) năm 1979 và tiếp đó

là đại hội V của Đảng đã nhận thấy cần phải nhận thức đúng hơn vị trí của

nông nghiệp và phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh cơ cấu đầu tư.

Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã xác định: "Nội dung chính của

CNHXHCN trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80 là tập trung sự phát

triụn mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông

nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng,

tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng". Sự điều

chỉnh, thay đổi bước đầu trong nhận thức và chủ trương đã có tác động

nhất định đến phát triụn kinh tế - xã hội và công nghiệp hoa. Bình quân

hàng năm thời kỳ 1981 - 1985 sản xuất công nghiệp tăng 9,5%; sản xuất

nông nghiệp tăng 5,3%; cơ cấu nông nghiệp trong thu nhập quốc dân vẫn

được tăng từ 20,2% (1980) lên 30% (1985)

2. 2. GIAI ĐOẠN 1986 ĐEN NAY

Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận

thức, quan điụm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác

định rõ những quan điụm, chủ trương và phương hướng đổi mới kinh tế -

xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH.

Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh

công nghiệp hoa XHCM trong chặng đường tiếp theo" và "trước mắt là

trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 phải thực sự tập trung sức người, sức

của thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm

hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu..." Thực hiện 3 chương trình mục tiêu ấy

76

thực chất đó cũng là chuyển hướng chiến lược công nghiệp hoa từ ưu tiên

phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu

dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm.

Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên, Đảng và Nhà nước

đã cụ thể hoa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện,

đáng kể nhất đó là: chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phận, chính

sách đối ngoại và thu hút vốn đậu tư nước ngoài, chính sách tài chính -

tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hoa, tập chung, quan

liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Nhờ vậy mặc dù có "cú sốc" lớn là Liên Xô và các nước XHCN

Đông Âu tan rã làm mất đi khoản viện trợ khoảng Ì tỷ đôla/ năm, bằng

gận 7% GNP và mất do thị trường không chuyển đổi, mặc dù Mỹ vẫn gây

khó khăn với việc tiếp tục chính sách cấm vận, nhưng nền kinh tế đã vượt

qua trạng thái suy giảm, giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế

hợp lý hơn, tiếp tục công nghiệp hoa. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986:

587,5%; 1987: 416,7%; 1988: 410,9% giảm xuống còn 2 con số : 1989:

30%; 1990: 52,8%. Trong thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng bình quân hàng

năm của tổng sản phẩm xã hội : 4,8% ; thu nhập quốc dân : 3,9%, giá trị

tổng sảng lượng công nghiệp : 5,25, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp

3,5% giá trị xuất khẩu: 28%. Cở cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu

nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều chỉnh: Công nghiệp: 30% (1985);

23% (1990), còn nông nghiệp 47,3% (1985) ; 46,6% (1990)

Cơ cấu công nghiệp bước đậu có sự chuyển dịch theo hướng thích

hợp có hiệu quả hơn. Năm 1976 trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công

nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 9,65%; hoa chất phân bón, cao su: 8,26%,

77

năm 1990 so với năm 1976 thì chỉ số phát triển công nghiệp của cả nước

là: 2,12 lần, trong đó: Điện lực 2,96 lần, cơ khí 3,52 lần, hoa chất phân

bón, cao su: 2,13 lần

Giữa các nghành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã

bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích

đáng hơn đến phát triển các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu

cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt các nguộn lực:

vốn, kỹ thuật truyền thống, lao động. Công nghiệp nhóm A chiếm 33,8%

(thời kỳ 1976 - 1980); 33,5% (thời kỳ 1981 - 1985) và 32,9% (1990). Tương

ứng với các thời kỳ đó, công nghiệp nhóm B chiếm tỷ trọng: 66,2%; 66,5%

và 67,1%.

Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá, lực lượng sản xuất

bước đầu được giải phóng. Khu vực công nghiệp quốc doanh sau thời gian

phải đương đầu với các thử thách quyết liệt khi chuyển sang cơ chế tưởng

chừng không vượt qua nổi (năm 1989 giảm 2,5% so với 1988) nhưng đến

năm 1990 công nghiệp quốc doanh đã thích ghi dần với cờ chế mới một số

ngành, một số cơ sở chủ yếu là quốc doanh trung ương đã khôi phục được

sản xuất và tiếo tục phát triển. Nếu năm 1976 công nghiệp quốc doanh

chiếm 68,6%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước thì năm 1989

chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976),

34% (1989).

Tiếp tục những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới, Đại Hội

Đảng toàn quốc lần thứ vu (6/1991) đã xác định rõ hơn mục tiêu, phương

hướng, nội dung của phát triển kinh tế - xã hội và của công nghiệp hoa.

Đại hội đã chỉ rõ: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con

78

đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng

kinh tế - xã hội kém phát triển... phát triển lựclượng sản xuất, công

nghiệp hoa đất nước theo hướng hiện đại gắn liều v ới phát triển nền nông

nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở

vốt chất - kỹ thuốt của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động

xã hội và cải thiện đời sống nhân dân" "Mục tiêu tổng quát của chiến

lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã

hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển và an

ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ XXI"<2).

Đại hội VU cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm

(1991 - 1995) là: "Đẩy lùi và kiểm soát được lạm pháp, ổn định, phát triển

và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải tiến đời

sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế"(3).

Việt Nam đang hướng một nền kinh tế thị trườngt theo định hướng

xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu là đảm

bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, an ninh quốc

gia và sự bền vững của môi trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt

được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả kinh tế xã hội cao khi nền kinh tế

ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoa, hiện đại hoa. Nghị quyết Hội

nghị Trung ương lần thứ Bảy khoa vu đã chỉ rõ; "Phát triển công nghiệp,

công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoa, công nghệ đến năm

2000 theo hướng công nghiệp hoa, hiện đại hoa đất nước và xây dựng giai

(lì

(2)

(3)

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 Văn kiện Hội nghị lần thứ 7: Ban chấp hành Trang ương khoa vu hà nội, 1994, tr.65.

79

cấp công nhân trong giai đoạn mới". Chúng ta phải căn cứ vào lý luận,

kinh

nghiệm các nước, đặc biệt là thực tiễn của Việt Nam để xác định đúng đắn

nội dung, phương hướng, bước đi và giải pháp cụ thể trong quá trình thực

hiện công nghiệp hoa, hiện đại hoa kinh tế ở Việt Nam. Để lựa chằn đúng

những biện pháp kinh tế, tổ chức quản lý nhằm thực hiện thành công quá

trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh tế, trước hết chúng ta cần

phải quán triệt, thực hiện đầy đủ những quan điểm công nghiệp hoa, hiện

đại hoa và những phương hướng phát triển công nghiệp, công nghệ làm

nền tảng để thực hiện công nghiệp hoa hiện đại hoa nền kinh tế mà Đảng

ta đã đưa ra. Đó là:

Thứ nhất, công nghiệp hoa, hiện đại hóa nền kinh tế là một đòi hỏi

tất yếu của việc phát triển mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã

hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quan điểm này khẳng định công nghiệp hoa, hiện đại hoa là vấn đề

quan trằng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta, nhất là

trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất công

nghiệp lạc hậu; công nghiệp còn nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

kém phát triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu;

kinh tế tuy có phát triển khá nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn

rất thấp, còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, khả năng cạnh tranh còn quá

thấp so với nhiều nước trong khu vực. Thực tế này cho thấy nguy cơ tụt hậu

xa hơn vẫn còn rất lớn. Cho nên chỉ có công nghiệp hoa, hiện đại hoa mới

là con đường cơ bản khắc phục được những yếu kém của nền kinh tế nước

80

ta, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền sớm thoát

khỏi nguy cơ tụt hậu, đảm bảo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ ha, công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh tế ở Việt Nam phải

lấy hiệu qua kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn quyết định.

Công nghiệp hóa, hiện đại hoa trong nền kinh tế thị trường theo định

hướng XHCN việc Ưu tiên thúc đẩy sầ tăng trưởng và phát triển của các

ngành, các lĩnh vầc, các thành phần kinh tế , các vùng lãnh thổ, các doanh

nghiệp có khả năng đem lại tích lũy nhanh, tích lũy lớn và hiệu quả kinh tê

cao, để đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh. Mặt khác công nghiệp hoa, hiện

đại hoa còn phải bảo đảm, mục tiêu xã hội công bằng, văn minh, bảo đảm

an ninh quốc gia và sầ bền vững của môi trường. Để làm được điều đó,

công nghiệp hoa, hiện đại hoa phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng

nông nghiệp trong GDP. Ưu tiên thoa đáng cho sầ tăng trưởng phát triển

hiệu quả kinh tế cao sẽ tạo ra sầ tăng trưởng phát triển với hiệu quả kinh

tế cao cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp, đồng thời trong quá trình công

nghiệp hoa, hiện đại hoa để tăng trưởng và phát triển với hiệu quả kinh tế

cao phải chú ý thoa đáng đến những mặt tối thiểu về hiệu quả xã hội. cần

nhấn mạnh là khi hiệu quả kinh tế và tích lũy đã đạt được đến mức đủ lớn

thì khả năng thoa mãn tối đa hiệu quả xã hội sẽ trở thành hiện thầc hơn.

Với nhận thức như vậy, có thể kết luận: hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu

chuẩn quyết định để lầa chọn các hướng phát triển và phương án đầu tư

cho quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa toàn bộ kinh tế quốc dân trong

tòng ngành, từng thành phần kinh tế, từng vùng. Riêng doanh nghiệp phải

81

lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn xem xét đầu tiên vì kinh doanh trước

hết là lợi nhuận.

Thứ ba, công nghiệp hoa, hiện đại hoa là quá trình nâng cao trình độ

phát triển của các phường pháp công nghiệp khác nhau, trong đó cần két

hợp chặt chẽ giữa hiện đại và truyền thống, giữa quy mô lớn, vựa và nhỏ,

lấy quy mô vựa và nhỏ với cộng nghệ hiện đại là chính.

Quan điểm cơ bản này chỉ rõ nội dung của quá trình công nghiệp

hoa, hiện đại hoa là sự chuyển đổi căn bản, toàn diện tự lao động thủ công

lên cơ khí hoa, tự động hoa, hoa học hoa, sinh học hoa và tin học hoa trong

các ngành, lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế, các vùng

kinh tế của đất nước. Trong đó ưu tiên tập trung đầu tư các phương pháp

công nghiệp và công nghệ hiện đại cho các ngành, lĩnh vực, thành phần

kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao, tăng tích lũy

nhanh và lớn. Đồng thời phải khai thác, phát huy đầy đủ tính Ưu việt của

công nghệ truyền thống, hiện đại hoa công nghệ truyền thống, giữ vững và

phát huy bản sắc văn hoa dân tộc.

Công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh tế được thực hiện trong các

quy mô khác nhau và sự kết hợp giữa các quy mô ấy: quy mô lớn, quy mô

vựa và quy mô nhỏ. Trong xây dựng mới, cần ưu tiên cho quy mô vựa và

nhỏ, cho công nghệ hiện đại, thu hồi vốn nhanh, tích lũy lớn. Bởi lẽ những

loại quy mô này dễ thích ghi với sự thay đổi của thị trường, phù hợp với sự

thay đổi của công nghệ khi nhu cầu của thị trường về sản phẩm thay đổi.

Bên cạnh việc lựa chọn quy mô vựa và nhỏ, công nghệ hiện đại là chính,

chúng ta cần phải chú ý đúng mức việc phát triển những loại quy mô lớn

thật cần thiết và có hiệu quả tạo khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị

82

trường quốc tế. Trong công nghiệp hoa, hiện đại hoa, chúng ta cần quan

tâm thảo đáng đến việc kết hợp giữa phát triển chuyên môn hoa, tổng

hợp hoa và đa dạng hoa. Từ nhận thức này có thể kết luận rằng con đường

công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh tế kết hợp giữa nhảy vọt từ thủ

công lên hiện đại, vội tuần tự thủ công lên nửa cơ khí, cơ khí, tự động

hoá.v.v... Trong đó cần lựa chọn để có thể tập trung đầu tư theo chiều sâu

nhằm tạo ra sự nhảy vọt trong những ngành, lĩnh vực, vùng, thành phần

kinh tế, đặc biệt tranh thủ đi nhanh vào hiện đại trong các khâu quyết định

nhất của quá trình tái sản xuất xã hội.

Thứ tư, công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh tế ở Việt Nam là

một quá trình lâu dài nhằm đạt năng suất lao động xã hội từ một nền nông

nghiệp nhiệt đội vội hơn 80% dân cư nông nghiệp.

Quan điểm này cho thấy rằng công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền

kinh tế ở Việt Nam bắt đầu từ một xuất phát về nền kinh tế rất thấp, đó là

từ một nền nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, tích lũy ban đầu hầu như

chưa có, hơn 80% dân số là dân cư nông nghiệp, nhưng có lực lượng lao

động phong phú dồi dào, cần cù, sáng tạo. Thực tiễn đó, một mặt đòi hỏi

công nghiệp hoa, hiện đại hoa phải khai thác thế mạnh nền nông nghiệp

nhiệt đội, lao động dồi dào, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông

thôn có thể đi nhanh, tránh tụt hậu, mặt khác cũng thấy rõ rằng trong quá

trình thực hiện công nghiệp hoa, hiện đại hoa chúng ta sẽ gặp không ít khó

khăn cản trở, đòi hỏi phải có thời gian lâu dài vội nội dung, bưộc đi thích

hợp. Như vậy thực tiễn Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải hiểu đầy đủ công

nghiệp hoa, hiện đại hoa là một quá trình lâu dài nhằm chuyển đổi căn

bản, toàn diện, đồng bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và

83

quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử

dụng một cách phổ biến lao động bằng phường pháp công nghiệp tiên

tiến, hiện đại. Điều đó có nghĩa là công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh

tế Việt Nam sẽ làm cho quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý

được tiến hành bằng công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiên, hiện

đại dựa trên sự phát triển của khoa hớc - công nghệ hiện đại. Chỉ có như

vậy mới tạo khả năng và điều kiện để đạt năng suất lao động xã hội cao.

Thứ năm, công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh tế quốc dân và đát

nước là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, của mới lực lượng kinh tê

trong đó lực lượng kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo trên những lĩnh vực

và khâu quan trớng.

Thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chỉ rõ, sự nghiệp đổi mới là

sự nghiệp của quần chúng, công nghiệp hoa, hiện đại hoa cũng là sự

nghiệp của toàn dân, vì lợi ích của nhân dân và do dân thực hiện. Quần

chúng nhân dân khi nhận thức đầy đủ lợi ích của công nghiệp hoa, hiện đại

hoa hớ sẽ phấn đấu vươn lên hớc tập để nâng cao trình độ văn hoa, kỹ

thuật, tay nghề để làm chủ được công nghệ, công nghiệp hiện đại, hớ sẽ là

người đóng góp sức lao động, tài năng, sáng tạo, tiền vốn, của mình cho sự

nghiệp công nghiệp hoa, hiện đại hoa. Sự nghiệp công nghiệp hoa, hiện

đại hoa thành công bắt đầu từ sự thành công trong từng công việc cụ thể,

trong từng nơi làm việc cụ thể của từng người đã được xã hội phân công.

Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, công nghiệp hoa, hiện đại hoa còn

được phát triển dựa trên cơ sở phát huy đầy đủ sức mạnh, thế mạnh và lợi

thế so sánh của các thành phần kinh tế Nhà nước, tư nhân và hỗn hợp.

Trong đó nền kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong một số lĩnh

84

vực, một số khâu quan trọng nhất, quyết định nhất của quá trình công

nghiệp hoa, hiện đại hoa ở một số ngành, một số vùng trọng điểm. Kinh

tế quốc doanh cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng của kinh tê

quốc dân. Có như vậy mới tạo khả năng để nhanh chóng phát triển mạnh

các phương pháp công nghiệp và công nghệ hiện đại trong các ngành, lĩnh

vực quan trọng nhất của nền kinh tế. Đó là điều kiện quyết định để đạt

năng suất lao động xã hội cao, trên cơ sở đó tạo những điều kiện thuận lợi

cho các phương pháp công nghiệp phát triển mạnh trong các thành phồn

kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình.v..v...

Thứ sáu, công nghiệp hoa, hiện đại hoa nền kinh tế ở Việt Nam phải

dựa trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền để xây dựng nền kinh tế mở

theo hướng phát triển đồu tư trực tiếp và hướng mạnh về xuất khẩu.

Trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước là thành quả

vô giá của cách mạng Việt Nam, công nghiệp hoa, hiện đại hoa phải thúc

đẩy nền kinh tế mở. Nền kinh tế mở phải dựa trên cơ sở phát triển các

quan hệ hợp tác kinh tế đa phương, đa hình thức, hướng mạnh về xuất khẩu

và thay thế nhập khẩu những hàng hoa mà Việt Nam sản xuất có hiệu quả.

Phát triển các quan hệ hợp tác đa phương, đa hình thức để tạo nguồn vốn

cho sự nghiệp công nghiệp hoa, hiện đại hoa. Trong toàn bộ quá trình công

nghiệp hoa, hiện đại hoa chúng ta phải lấy nguồn vốn trong nước là chính,

nhưng trong thời gian đồu đối với một số nước nghèo như nước ta thì vốn

đồu tư nước ngoài thông qua con đường đồu tư trực tiếp 100%, hợp tác sản

xuất kinh doanh, lao động. Đó là vốn cho phát triển nhân lực có trình độ

cao, tay nghề tinh xảo, là vốn để có công nghệ hiện đại, trên cơ sở vốn này

chúng ta mới có điều kiện tăng trưởng và phát triển nhanh để tăng tích lũy

85

từ nước ngoài tức là có điều kiện thực hiện đổi mới công nghệ để đạt

năng suất lao động xã hội cao, chất lượng sản phẩm tốt, có lượng hàng

hoa dồi dào để phát triển mạnh xuất khẩu. Xuất khẩu ở đây bao gồm cả

xuất khẩu ra nước ngoài, xuất khẩu tại chậ. Hướng mạnh vào xuất khẩu

không chỉ để có hàng hoa đủ tiêu chuẩn bán cho các nước và xuất khâu tại

chậ, mà còn có hàng hoa chất lượng cao để cạnh tranh được với hàng hoa

nước ngoài nhập vào. Công nghiệp hoa, hiện đại hoa phải thúc đẩy được

việc thay thế nhập khẩu những hàng hoa mà Việt Nam sản xuất có hiệu

quả, có như vậy mới tiết kiện được ngoại tệ mạnh. Bên cạnh những hàng

hoa xuất khẩu, chúng ta phải phát triển nhanh các hàng hoa phù hợp với

nhu cầu to lớn, rộng rãi của nhân dân trong nước với mức giá cả hợp lý mà

đa số người tiêu dùng trong nước có khả năng thanh toán được. Đó là thị

trường hơn 80% dân cư nông nghiệp và vùng nông thôn rộng lớn.

Thứ bảy, quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa chỉ có thể thành

công khi quá trình đó được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý

của Nhà nước

Như trên đã nêu, công nghiệp hoa là một quá trình lâu dài và phức

tạp. Quá trình đó trước hết phải tuân theo quy luật và tính quy luật của các

quan hệ cung - cầu trên thị trường, giá cả thị trường và cạnh tranh trên thị

trường. Điều đó có nghĩa là cơ chế thị trường và cạnh tranh trên thị trường

sẽ quyết định quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa, quyết định các

phương án phát triển, quyết định lựa chọn phương án đầu tư, quyết định

việc lựa chọn các phương tiện, công nghệ, phương pháp công nghiệp hiện

đại có hiệu quả. Nói một cách cụ thể hơn là phải xuất phát từ cầu hàng

hoa, dịch vụ trên thị trường mà quyết định các yếu tố đầu vào như phương

86

tiện, công nghệ, phương pháp công nghiệp, phường pháp sản xuât và

quản lý tiên tiến, hiện đại cho phù hợp. Hơn nữa những yếu tố trên chỉ có

thể phát huy được hiệu quả thông qua hoạt động của những người lao động

có trình độ văn hoa và kỹ thuật, nghiệp vụ cao tương ứng.

Như chúng ta đều biết, cơ chế thị trường có những hạn chế và khuyết

tật của nó, cho nên nếu quá trình công nghiệp hoa chỉ lệ thuộc vào cơ chế

thị trường sẽ không đỏt được những mục tiêu công bằng xã hội, an ninh

quốc gia và sự bền vững của môi trường. Thực tế khách quan này cũng đòi

hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước. Sự quản lý của Nhà nước là một bộ

phận không thể thiếu được của cơ chế quản lý quá trình công nghiệp hoa,

hiện đại hoa, hiện đại hoa.

Nhà nước quản lý quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa phải là

Nhà nước vì lợi ích của dân và do dân, Nhà nước thực hiện quyền quản lý

của mình thông qua các công cụ chủ yếu như định hướng kế hoạch phát

triển, hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế xã hội, các quỹ quốc gia

để điều tiết quá trình công nghiệp hoa.

Thứ tám, công nghiệp hoa, hiện đại hoa phải lấy nguồn nhân lực làm

yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế Việt

Nam

Trong các yếu tố để phát triển nhanh và bền vững của đất nước, của

nền kinh tế thì nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản nhất. Bởi lẽ nguồn nhân

lực của Việt Nam với đức tính cần cù, sáng tạo khi đã có trình độ văn hoa,

kỹ thuật, nghiệp vụ cao, có tay nghề vững sẽ là yếu tố quyết định để tạo ra

phương pháp công nghiệp và công nghệ hiện đại. Nguồn nhân lực này lại

sử dụng các phương pháp, phương tiện, công nghệ tiên tiến, hiện đại để

87

đạt được năng suất lao động xã hội cao, hàng hoa nhiều và tốt. Như vậy

nguồn nhân lực này vừa là người sáng tạo ra, vừa là người sử dụng các

phương tiện, phương pháp công nghệ để đạt được lợi ích kinh tế cao nhất

cho xã hội, cho tập thể và cho bản thân họ. Nguồn nhân lực như vậy cớn

được giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ và cớn được sử dụng một cách

đớy đủ, có hiệu quả, cớn có những chính sách, chế độ đãi ngộ thoa đáng

đối với nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoa, hiện đại hoa đát

nước. Đó là các cán bộ khoa học, công nghệ, quản lý, viên chức Nhà nước,

công nhân lành nghề. Để có được nguồn nhân lực như vậy phải đớu tư để

đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ, công nhân hiện có, chuẩn bị kê

hoạch để phát triển đào tạo mới có chất lượng cao theo đúng yêu cớu của

:ông nghiệp hoa, hiện đại hoa. Phát triển mạnh văn hoa giáo dục là đòi

hỏi cấp bách và cơ bản của sự nghiệp công ngiệp hoa, hiện đại hoa nền

ánh tế và hiện đại hoa đất nước. Đây cũng là một điều kiện để tiến tới

lảo đảm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và

Dao vệ môi trường. Nguồn lực con người là nguồn lực có vai trò quyết định

iự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoa, hiện đại hoa mà đổi mới cơ

5ẳn các chính sách đớu tư cho các ngành khoa học, văn hoa, giáo dục, y tế

ì Việt Nam phát triển là nhiệm vụ hàng đớu.

Nếu nhận thức và quán triệt đớy đủ những quan điểm nói trên chúng

a sẽ tìm ra được phương hướng, nội dung, bước đi và giải pháp thích hợp

ỉể thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và đạt hiệu quả kinh tế

xã hội cao.

Chương 3

88

BỐI CẢNH, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP

HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.1. BỐI CẢNH TRIỂN KHAI sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOA, HIỆN

ĐẠI HOA Ở N ƯỚC TA H I ỆN N AY

Đối với nước ta hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là

quá trình mang tính tất yếu, khách quan, mà còn là một đòi h ỏi cấp bách.

Bởi lẽ, tằ một nền kinh tế tiểu nông phấn đấu đến mục tiêu "dân giàu,

nước mạnh, xã h ội công bằng dân chủ và văn minh" chỉ có một con đường

là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho đến nay, cả trên bình diện lý luận

và thực tiễn đều khẳng định con đường này. Nước ta v ốn là một nước

nghèo, lại bị chiến tranh tàn phá nhiều năm, song dân ta vẫn một lòng theo

Đảng làm cách mạng với khát vọng "độc lập tự do, dân giàu, nước mạnh".

V ới khát vọng này, chúng ta đã tạo nên động lực cho cả dân tộc ta thắng

giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Vì

vậy, h ôm nay thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đạt tới trình độ

"dân giàu, nước mạnh ... " không những thể hiện đúng quy luật tất y ếu của

quá trình phát triển kinh tế - xã h ội ở nước ta, mà còn nhằm đáp ứng nhu

cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân và cả dân tộc.

Ở nước ta, ngay tằ những năm 60, khi nhận thức rõ tính quy luật và

vai trò của công nghiệp hóa trong tiến trình vận động và phát triển của các

nước, chúng ta đã tiến hành công nghiệp hóa theo đường l ối Đại h ội dân

thứ IU của Đảng. Đó là đường l ối với tên gọi "công nghiệp hóa xã h ội chủ

nghĩa". Trong thời gian hơn một phần tư t hế kỷ, "công nghiệp hóa xã h ội

chủ nghĩa" được chúng ta đặt đối lấp hoàn toàn v ới "công nghiệp hóa tư

bản chủ nghĩa" và coi đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội. N ội dung của "công nghiệp hóa xã h ội chủ nghĩa " ấy

89

là : "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra

sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ ... nhằm xây dựng cơ sở

vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội". Mặc dù k hi đó, chúng ta đã đề

ra chủ trường chú trịng phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, nhưng

thực tế, công nghiệp nặng, mà trịng tâm là ngành cơ khí c hế tạo, luôn

được coi là tiền đề thiết yếu nhất của "công nghiệp hóa xã h ội chủ nghĩa".

Trong bất cứ cuốn sách giáo khoa triết hịc và kinh tế chính trị hịc nào,

chúng ta cũng đều bắt gặp sự khẳng định tính đúng đắn của đường l oi ây.

Song, trên thực tế, với đường l ối công nghiệp hóa này, chúng ta đã mắc

phải những sai tâm cả về mục tiêu, nội dung và cách thức tiến hành. Điều

đó bắt nguồn từ nhận thức giáo điều về mô hình công nghiệp hóa xã h ội

chủ nghĩa của Liên Xô (trước đây), chúng ta đã không xuất phát từ đặc

điểm, thực trạng kinh tế- xã hội của đất nước và b ối cảnh quốc te. Và k ết

quả là, hiệu quả của công nghiệp hóa rất thấp, thậm chí, trên nhiều lĩnh

vực không có hiệu quả và kéo theo đó là nông nghiệp và công nghiệp nhẹ

cũng đã không phát triển, nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân

không được đảm bảo, đời sống người dân lao động quá khó khăn. Nghiêm

trịng hơn, nền kinh tế của chúng ta đã lâm vào tình trạng thiếu hụt nghiêm

trịng, mất cân đối một cách căn bản, chúng ta hầu như không có tích l ũy

và rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Có thể nói, chúng ta đã

phải trả một giá đắt cho "công nghiệp hóa xã h ội chủ nghĩa " kiểu đó.

Chính sự trả giá này đã làm cho một số người tỏ ra hoài nghi k hi nhắc tới

công nghiệp hóa, một số người khác thì thậm chí còn không muốn nói tới

nó và đề nghị thay bằng những thuật ngữ như "tăng trưởng", "phát triển",

"cất cánh". Việc giờ đây chúng ta phải từ bỏ một quan điểm không đúng,

thậm chí có thể nói là sai lầm, về công nghiệp hóa, một cách thức tiến

hành "công nghiệp hóa xã h ội chủ nghĩa" theo l ối cũ, k ém hiệu quả hoàn

toàn không có nghĩa là phủ nhận tính tất yếu khách quan của công nghiệp

hóa. Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, tiến trình phát triển lịch sử

đầy khó khăn, thử thách từ tình trạng kinh tế lạc hậu sang trạng thái kinh

tế hiện đại không thể không tiến hành công nghiệp hóa. M ịi lý thuyết về

90

phát triển trên t hế giới hiện thời đều không bỏ qua một trong những n ội

dung chủ yếu không thể thiếu của nó là công nghiệp hóa.

Không chỉ đưa ra những quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa,

các lý thuyết này còn bàn đến cả thực tiễn công nghiệp hóa ở nơi này nơi khác. Song, cho đến nay, khái niệm "công nghiệp hóa " vẫn chưa có được một quan niệm thống nhất, các nhà khoa hợc trên t hế giới vẫn tiếp tục đưa

ra những định nghĩa, quan niệm của mình về công nghiệp hóa. Chúng ta đã

biết tới hàng chục định nghĩa về công nghiệp hóa được đưa ra trong những

thời điểm khác nhau ở các nước đã và đang tiến hành công nghiệp hóa.

Trong số những định nghĩa đó, có định nghĩa đã phản ánh được bản chát,

nội dung và mục tiêu của công nghiệp hóa trong một không gian rộng và

thời gian dài, có định nghĩa chỉ phù hợp ở thời điểm nhất định và v ới

những nước xác định; cũng có định nghĩa chưa phản ánh đúng bản chất, n ội

dung của công nghiệp hóa, chưa xác định rõ phạm vi và mục tiêu của nó.

Điều đó có lẽ là do sự khác nhau về phương pháp tiếp cận k hi nghiên cứu

quá trình công nghiệp hóa, cũng có thể là do điểm xuất phát về kinh tế, kỹ

thuật, văn hóa, xã h ội của các nước và b ối cảnh quốc tế khi tiến hành công

nghiệp hóa không giống nhau, và phần nào đó là do những hạn c hế về

nhận thức, hoặc do xu hướng chính trị, V.V..

Các tác giả của công trình "Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt

Nam và các nước trong khu vực" (Nhà xuất bản Thống kê phát hành n ăm

1995) đưa ra định nghĩa về công nghiệp hóa như sau: công nghiệp hoa là

một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về

kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực

và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh thế qu c tế xây dựng cơ cấu

kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện

"' Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan. Công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở V i ệt nam và các

nước trong khu vực. Nxb Thống kê, Hà nội, 1994, tr. 59-60.

đại"*1'. Theo chúng tôi, đây là một định nghĩa có phạm vi bao quát khá

91

rộng, khẳng định tính tất yếu lịch sử của công nghiệp hóa và những két

quả do nó đưa lại song lại chưa làm nổi bật được nội dung căn bản của

công nghiệp hóa. T ại H ội nghị Trung ương 7 khóa vu (tháng 7-1994) và

tại Đại h ội V UI (tháng 6-1996), Đảng ta đã đưa ra một quan n i ệm m ới về

công nghiệp hóa. K hi xác định nhiệm vụ căn bản trong giai đoạn cách

mạng mới ở nước ta hiện nay là tập trung m ẩi lực lượng, tranh thủ thời cơ,

vượt qua thử thách đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và

đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ

c hế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã h ội chủ

nghĩa, Đảng ta đã coi đây là bước chuyển rất quan trẩng của thời kỳ phát

triển mới - thời kỳ "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".

Trong giai đoạn này, đối với một nước vẫn còn ở tình trạng nước

nghèo như nước ta hiện nay, Đảng ta khẳng định chúng ta không có con

đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để nhanh

chóng thoát khỏi đói nghèo, để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so v ới

các nước trong khu vực và đưa nước ta nhanh chóng đạt tới trình độ cao của

một nước phát triển, chúng ta cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa với tư cách là "một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc nhất trong

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội". Coi đây là sự lựa chẩn phù hợp

với quy luật khách quan để chúng ta h ội nhập vào tiến trình phát triển

chung của quốc tế và khu vực, Đảng ta đã khẳng định, về thực chất, công

nghiệp hoa, hiện đại hóa là "quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các

hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tê, xã hội từ sử dụng

lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến s c lao động

cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa

trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghê, tạo ra năng

Văn kiện Hội nghị Trang ương 7 khoa vu, tr. 65.

suất lao động xã hội cao "(1) (Chúng tôi nhấn mạnh )

92

Có thể nói, định nghĩa này về cơ bản đã phản ảnh được phạm vi rộng

lớn của quá trình công nghiệp hóa, chỉ ra được cái cốt lõi của nó là c ải

biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiên,

hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao, gữn được công nghiệp

hóa với hiện đại hóa, xác định rõ vai trò của công nghiệp và khoa học -

công nghệ trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa.

Như vậy, rõ ràng là trong quan niệm của Đảng ta, công nghiệp hóa và

hiện đại hóa mặc dù đều là những hình thức đặc biệt của quá trình xây

dựng nền văn minh mới, song đó lại là hai khái niệm không hoàn toàn

đồng nhất với nhau. Theo nghĩa của từ, hiện đại là làm cho một cái gì đó

mang tính chất của thời đại ngày nay. Hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân

là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tê đạt

được trình độ tiên tiến của thời đại, đây chính là khía cạnh kinh tế - kỹ

thuật của hiện đại hóa. Ngoài ra, hiện đại hóa còn bao h àm cả phương

diện kinh tế- xã hội. Nghĩa là hiện đại hóa là khái niệm có nội dung rộng

lớn, là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã h ội hiện đại,

có trình độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở nền kinh tế phát triển

với nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung tính theo đầu người, mà còn ở đời

sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, tạo ra những điều k i ện hiện

thực để đưa xã h ội lên trình độ hiện đại và góp phần thực hiện triệt để

những giá trị nhân loại chung vào cuộc sống.

Ngày nay, hiện đại hóa đang lôi cuốn và tác động đến các nước, trên

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể nói rằng, hầu hết các quốc

gia đang ở những giai đoạn và trình độ khác nhau của quá trình hiện đại

hóa. ơ các nước phát triển, hiện đại hóa là quá trình tiếp tục tạo ra và sử

dụng những thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất, hiện đại nhất vào

mọi lĩnh vực xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển lên một trình độ cao hơn.

Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật và công nghệ hiện đại đang đưa

tới sự thay đổi triệt để về chất trong kỹ thuật và công nghệ sản xuất. B ởi

93

vậy, quá trình công nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm khác v ới quá trình

công nghiệp hóa của các nước đi trước. M ột điều rất rõ ràng là chúng ta

không thể thực hiện xong xuôi quá trình công nghiệp hóa với nội dung căn

bản là cơ khí hóa các ngành của nền kinh tế quốc dân r ồi m ới tiên hành

hiện đại hóa. vả lại, khi thực hiện cơ khí hóa cũng không thể sử dụng m áy

móc lạc hậu đườc sản xuất trước đây, mà phải sử dụng kỹ thuật và công

nghệ sản xuất tiên tiến hiện nay. V ới ý nghĩa đó, công nghiệp hóa trong

điều k i ện hiện nay bao hàm những nội dung của hiện đại hóa; công nghiệp

hoa phải đi liền với hiện đại hóa. Đó là con đường phát triển tất yếu,

khách quan của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Nói về bối cảnh triển khai công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta,

trước hết chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh quốc tế và khu

vực hiện thời, công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa đã mở ra con

đường tắt, rút ngắn khoảng cách giữa các nước đang phát triển so v ới các

nước tiên tiến. Đó chính là đặc điểm mới của công nghiệp hóa. Thực tế

lịch sử cho thấy, rất nhiều nước ở khu vực Châu Ấ như Singapo, Đài Loan,

Hàn Quốc trung quốc ... chỉ trong một thời gian rất ngắn đã từ một nước

k ém phát triển trở thành một nước công nghiệp mới (NICs). Đó là những

tấm gương mà nước ta có thể học tập kinh nghiệm khi tiến hành công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam ta sau hơn mười lăm năm đổi mới, những thành tựu thu

đườc trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội đều có sự góp phần quan

trọng của công nghiệp hóa, tuy so với các nước trong khu vực thì nền công

nghiệp V i ệt Nam đang còn ở trình độ thấp. Song, nhìn chung, công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đã dẫn đến chỗ đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân đườc cải thiện, trình độ dân trí và mức hường thụ văn hóa của nhân

dân tăng. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động

văn hóa, thể thao, nghệ thuật, phương tiện thông tin đại chúng và nhiều

hoạt động xã hội khác như chống ô nhiễm môi trường, phòng chống các tệ

94

nạn xã hội, chủ trương đền ơn đáp nghĩa được mở rộng. Từ đó lòng tin

của nhân đần với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã h ội chủ nghĩa ngày

càng được củng cố vững chắc hơn.

Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn có vai trò

thúc đẩy nhổm đa dạng hóa sản phẩm, các mặt hàng sản xuất và thay đổi

cơ cấu sản xuất. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có V i ệt Nam

ta, công nghiệp hóa không chỉ là phương pháp tăng thu nhập, tăng k h ối

lượng sản phẩm mà còn là một phương thức để hiện đại hóa cơ cấu sản

xuất, thay đổi tập quán làm ăn của một nước có nền sản xuất nhỏ, phân

tán, tự cấp, tự túc, là sản xuất hàng hóa chứa phát triển. H i ện nay, k hi tiến

hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa có thể đưa ngay công nghệ tiên tiến

vào một số ngành công nghiệp trước khi mở rộng sang tất cả các ngành

công nghiệp khác; có thể dần dần đưa các ngành tiểu thủ công nghiệp cổ

truyền thành sản xuất công nghiệp tại các nhà máy, xí nghiệp. Theo cách

đó, có thể dần dần làm đa dạng hóa các mặt hàng được sản xuất ra. M ặt

khác, ta còn có thể nhập các công nghệ mới theo phương thức đầu tư, liên

doanh của các doanh nghiệp nước ngoài vào nước ta. Điều đó cũng góp

phần làm đa dạng hóa các mặt hàng, cả mặt hàng tiêu dùng phục vụ cho

cuộc sống hàng ngày trong nước với số lượng phong phú, chất lượng ngày

càng tăng và có hướng xuất khâu.

Đại hội đại biểu Đảng toàn Quốc lần thứ IX đã kiểm điểm việc thực

hiện Nghị quyết Đại hội VUI; tổng kết 15 năm đổi mới, đánh giá những

việc đã làm được cùng với những khuyết điểm, rút ra những bài học kinh

nghiệm, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng cùng với những giải pháp để

thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến n ăm 2010 và 2020.

Đại h ội đánh giá trong những năm qua, sự nghiệp công nghiệp hóa đất

nước đã có những thành tựu về tăng trường kinh tế nhưng chưa vững chắc

chưa thực sự áp dụng công nghệ hiện đại vào các ngành kinh tế quốc dân

để làm chuyển biến căn bản cơ cấu kinh tế theo hướng tiên tiến, h i ện đại-

95

chưa có khả năng hòa nhập với thị trường thế giới và khu vực, chưa tạo ra

năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, rõ rệt cho sự phát triển kinh

tế- xã hội.

Có thể khẳng định Đại hội Đảng dân thứ V UI có ý nghĩa to lớn, đánh

dấu một bước ngoặt tích cực trong tiến trình phát triển của cách mạng nước

ta, chuyển đất nước ta sang một giai đoạn mới - giai đoạn tiêp tục đữy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nước V i ệt Nam độc lập,

dân chủ và giàu mạnh, xã hội cồng bằng, dân chủ và văn minh theo định

hướng xã h ội chủ nghĩa; vì hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự

hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Nghị quyết đại h ội V UI đã

xác định : "sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước tiếp tục phát

triển trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa

đựng yếu tố khó lường" với những đặc điểm riêng của nó, v ới những thời

cơ và thuận l ợi mới. Thời cơ cho những nước đang phát triển như nước ta

đang đặt ra nhiều vấn đề phải nghiên cứu và vận dụng để phát triển kinh

tế- xã hội ở nước mình.

Một trong những thời cơ, thuận lợi lớn được tạo ra, trước hết là do

những thành tựu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn nhiều yếu kém...

Đảng ta đã nhận thức rõ những thiếu sót trong thực tiễn cách mạng để

khắc phục và sữa chữa trong thời gian tới. Song nhìn chung, t hế là lực của

nước ta đã có sự biến chuyển rõ rệt về chất, chúng ta đã thoát ra k h ỏi cuộc

khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng kéo dài hơn 15 n ăm qua. Tuy

còn một số mặt hạn chế nhưng đã tạo ra được tiền đề cần thiết để chuyển

sang giai đoạn m ớ i: Đữy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thời cơ thuận lợi nữa cần phải kể đến là sự phát triển của khoa học

và công nghệ. Việc triển khai công nghệ mới đã và đang làm thay đổi

những yếu tố quan trọng trong sự cạnh tranh công nghiệp toàn cầu. Tác

động của sự thay đổi này đối với nước ta vừa là thời cơ vừa là nguy cơ.

96

Cùng với những lợi thế là những thách thức của những nước đang

tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là : ưu t hế về nguồn lao động và

nguồn nhiên liệu ngày càng giảm do sự phát triển của công nghệ tự động

hoa, các t hế hệ người máy ra đời thay t hế con người v ới năng suất lao

động cao hơn 2,5 lần ; chất lượng lao động ổn đặnh, làm giảm Ưu t hế về

nguồn xuất khẩu lao động ỡ các nước đang phát triển.

Mặt khác, công nghệ tiên tiến đã nâng tì trọng chất xám trong giá

thành sản phẩm. Do đó mà tất yếu, giá thành nguồn nguyên liệu thô và

nguyên liệu sơ chế (hàm lượng chất xám thấp) giảm đi một cách đáng kể.

Xu hướng này đe dọa hướng xuất khẩu nguyên liệu thô và nguyên liệu sơ

chế ở các nước (trong đó có Việt Nam ta).

vì vậy việc lựa chọn đi theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đã được Đảng ta nhận thức rất rõ, song những khó khăn trong quá trình

tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là rất lớn. Trước hết là do

đội ngũ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ ở nước ta còn thiếu và yếu, bất cập

với sự phát triển của khoa học - công nghệ. Thứ nữa là phải xây dựng được

một kết cấu hạ tầng công nghệ tương xứng, một cơ cơ vật chất đủ mạnh để

tiến hành các công trình nghiên cứu thực nghiệm, sử dụng công nghệ và

một hệ thống thông tin cho việc đặnh hướng, lựa chọn công nghệ. Những

việc này cần phải có nhiêu vốn, trong khi đó thì nguồn ngân sách ở nước

ta, có thể nói, là hết sức hạn hẹp, tình trạng thiếu vốn ở các cơ sở sản xuất

là phổ biến.

Đảng ta đã xác đặnh, nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa

có cả: "thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Chúng ta

phải chủ động nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra

thế lực mới; đồng thời luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục

97

các nguy cơ, kể cả những nguy cơ mới nảy sinh, bảo đảm phát triển đúng

hướng" ( 1)

N hư vậy, có thể nói, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước đang được triển khai ở V i ệt Nam ta trong một b ối cảnh mà thuận l ợi

và thời cơ là lổn, song cũng không ít khó khăn, phức tạp, thậm chí có cả

những nguy cơ, thách thức ở mức độ gay gẩt.

Những điều kiện thuận lợi và thời cơ lớn thể hiện tập trung ở những

điểm sau :

Thứ nhất, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong b ối

cảnh "cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển v ới trình độ

ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tê thê giới,

quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội", Trong những n ăm gần đây,

những thành tựu khoa học - công nghệ ngày càng tăng lên cả về sô" lượng

và chất lượng, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công

nghệ vật liệu mới... Những thành tựu ấy ngày càng tác động một cách trực

tiếp và mạnh mẽ đến sản xuất và các quá trình xã hội, thúc đẩy nhanh quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời làm tăng nhanh tính chất xã h ội

hóa và quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Đó là điều kiện thuận

lợi cho phép chúng ta có thể triển khai, kết hợp đồng thời công nghiệp hóa

với hiện đại hóa nhằm tạo thành một quá trình thống nhất thúc đẩy xã h ội

phát triển. Đó cũng là thời cơ lớn để chúng ta có thể tránh được nguy cơ tụt

hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên t hế giới.

Thứ hai, hòa bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển đã và đang

trở thành xu t hế chung của hầu hết các nước trên t hế giới. Trong những

năm gần đây, nhiều quốc gia lớn, nhỏ đều dành Ưu tiên cho phát triển kinh

tế, và do vậy, ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình liên doanh, liên

kết, hợp tác song phương và đa phương, khu vực và quốc tế. Đây là điều

"» V ăn kiện Đại hội VUI, tr. 79-80.

98

kiện thuận l ợi để các dân tộc xích l ại gần nhau, trao đổi học tập kinh

nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau... Chúng ta chủ trương "tiếp tục thực hiện

chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa và đa dạng

hóa v ới tinh thần V i ệt Nam muốn là bạn của tứt cả các nước trong cộng

đồng thế giới, phứn đứu vì hòa bình, độc lập và phát triển... Mở rộng quan

hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự

đồng

tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thê

hòa bình, hợp tác, phát t r i ể n " ( 1)

Thứ ba, trong hơn 15 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành

tựu to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho bước phát triển tiếp theo.

Trong những năm 1991-1995, nhịp độ tăng GDP bình quân m ỗi n ăm đạt

8,2%. L ạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% (năm 1986) xuống còn 67,1% (năm

1991) và 12,7% (năm 1995). v ốn đầu tư toàn xã h ội tăng lên đáng kể:

chiếm 15,8% GDP (năm 1990) và 27,4% GDP (năm 1995). Đến cuối n ăm

1995 tổng số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỷ

USD (trong đó khoảng 1/3 đã được thực hiện) ( 2 ). Chế độ chính trị - xã h ội

ổn định và phát triển theo định hướng xã h ội chủ nghĩa, đời sống của các

tầng lớp nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt... có thể khẳng định rằng,

nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã h ội và những thành tựu

của sự nghiệp đổi mới là những tiền đề đặc biệt quan trọng để chuyển

nước ta sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đứt nước. Những thành tựu của hơn 15 năm đổi m ới không chỉ

có ý nghĩa kinh tế đơn thuần trong nước, mà còn có ý nghĩa chính trị - xã

hội rộng lớn. Nó chứng tỏ rằng, những người cộng sản và nhân dân lao

'" Văn kiện Đại hội VUI, tr. 41-42.

m Xem Văn kiện Đại hội VUI, tr. lo, 58-59.

động V i ệt Nam không chỉ biết đánh giặc và thắng giặc, mà hơn t hế nữa,

99

còn biết làm cho "dân giàu, nước mạnh, xã h ội công bằng, dân chủ và văn

minh".

Thứ tư, chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã h ội chủ nghĩa. Cùng với

đó, chúng ta thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa

hắc... Điều đó không chỉ phản ánh tính quy luật tất yếu trong sự phát triển

của nước ta hiện nay, mà còn thể hiện một cách sầu sắc nhu cầu, l ợi ích và

khát vắng của nhân dân ta là "dân giàu, nước mạnh, xã h ội công bằng dân

chủ và văn minh". Chính điều này đã và đang khơi dậy, thu hút những

nguồn lực to lớn cho sự phát triển. Chúng ta không chỉ nhận được sự hợp

tác, giúp đỡ về nhiều mặt của cộng đồng quốc tế, mà còn động viên được

mắi tiềm lực của nhân dân cả nước và kiều bào ở nước ngoài cho sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ năm, nước ta có nguồn đất đai, tài nguyên thiên nhiên phong phú,

đặc biệt là chúng ta có lực lượng lao động dồi dào v ới cơ cấu khá trẻ. Hơn

nữa, chúng ta còn kế thừa được những kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện

đại hóa của các nước đi trước cùng với kinh nghiệm đổi mới của nước ta.

Đó là những yếu tố góp phần không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong hơn 15 năm qua.

Như vậy, có thể nói, xu thế tích cực vì hòa bình, ổn định, hợp tác và

phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới, những thành tựu

ngày càng to lớn của cuộc cách mạng khoa hắc - công nghệ cùng v ới

"những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra t hế và lực m ới

cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển

mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được

tạo ra. Quan hệ của nước ta với các nước trên t hế giới mở rộng hơn bao giờ

100

hết. Khả nàng giữ vững độc lập, tự chủ và h ội nhập với cộng đồng t hế

giới tăng thêm. Đó là thời cơ l ớ n" ( 1 ).

Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện

nay không chỉ có những điều kiện thuận lợi và thời cơ lớn như đã phân tích

ở trên, mà còn cả những khó khăn, phức tạp và những nguy cơ, thách thức

gay gắt. Những khó khăn phức tạp, những nguy cơ thách thức này được thỏ

hiện tập trung ở những vấn đề chủ yếu sau :

Một là, mặc dù nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,

nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nền kinh tế nước ta vẫn còn là nền

kinh tế tiỏu nông (sản xuất thủ công, năng suất lao động thấp...). Cho đến

nay, "nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo trên t hế giới; trình

độ phát triỏn kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh

thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều... " (2). Trong một

bối cảnh mà điỏm xuất phát khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa

của ta quá thấp, chúng ta lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết

liệt, do vậy, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu

vực đã và đang trở thành một thách thức to lớn và gay gắt.

Hai là, những hậu quả của cơ chế quản lý kinh tế theo lối mệnh lệnh,

tập trung bao cấp còn rơi rớt lại (quan liêu, cửa quyền, thủ tục hành chánh

rườm rà...) cùng những tiêu cực mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường

(sùng bái lợi ích cá nhân, sùng bái đồng tiền, tham nhũng, tội phạm, các tệ

nạn xã hội...) đã và đang là "vật cản kiên cố" trên con đường công nghiệp

hóa, hiện đại hóa. Đó là những cái đang làm tăng nguy cơ chệch hướng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta. Tại Đại hội đại biỏu toàn quốc dân thứ VUI, Đảng

ta đã chi rõ: "Chệch hướng xã hội chủ nghĩa và quan liêu, tham nhũng vẫn

đang thật sự là những nguy cơ lớn. Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái

"» Văn kiện Đại hội VUI, tr. 64.

a \ V ăn k i ện Đại h ội vin, tr. 64

về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy

l oi

Đảng và nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối v ới Đảng, đối v ới

chế độ bị xói mòn, các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước

bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng; đó là mảnh đất thuận l ợi cho diễn

biến hòa bình"(1>

Ba là: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta được thực

hiện "trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa

đựng nhụng yếu tố khó lường". Trên thực tế, vẫn còn nhụng thế lực sử

dụng nhụng chiêu bài "dân chủ", "nhân quyển"... để m ưu toan thực hiện

"diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ nhụng thành quả cách mạng của Đảng

và dân tộc ta. Ngay cả tình hình ở khu vực châu Ấ - Thái Bình Dường và

Biển Đông cũng còn diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề nảy sinh một cách

bất ngờ, chúng ta khó có thể lường hết và nhụng ảnh hưởng của chúng đối

với nước ta là không nhỏ.

Bốn là. trình độ văn hóa chung, trình độ tri thức về khoa học và công

nghệ, về chính trị - xã hội, luật pháp, về tổ chức, quản lý... của đa số cán

bộ, Đảng viên và nhân dân ta còn khá thấp so với các nước trong khu vực

và còn xa mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Thực trạng

yếu k ém này đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V UI của Đả ng

đánh giá như là một nguy cơ lớn. Đảng ta khẳng định: Hiện nay, ở nước ta,

"hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực

hiện chưa nghiêm... Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực

quản lý, điều hành của nhà nước... chưa nâng lên kịp v ới đòi h ỏi của tình

hình mới...Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng v ới

yêu cầu của nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, Đảng viên

phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức chiến

đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu"' 5 Chính vì vậy mà trong

'"Văn kiện Đại hội VUI, tr. 79

a> V ăn kiện Đại hội VUI, te. 66-67.

102

quá trình thực hiện đường l ối đổi mới trong những n ăm qua , chúng ta đã

phạm một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài, dẫn đến chệch hướng

ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác. Nêu

không khắc phục kịp thời và có hiệu quấ những khuyết điểm, lệch lạc này,

chúng sẽ làm suy yếu Đấng, làm mọt ruỗng bộ máy nhà nước, làm biên

chất c hế độ và tất yếu làm cho đất nước đi chệch con đường xã h ội chủ

nghĩa. Như vậy, có thể nói sự phát triển và diễn biến tình hình phức tạp

trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là cuộc cạnh tranh kinh tế, thương

mại, khoa học - công nghệ đang diễn ra một cách gay gắt giữa các nước,

các khu vực; tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế nước ta, cùng

với đó là sự yếu k ém về trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật, về năng lực

lãnh đạo và quấn lý đất nước... đã làm nấy sinh bốn nguy cơ lớn (tụt hậu

xa hơn về kinh tế, nạn quan liêu và tham nhũng, diễn biến hòa bình và

chệch hướng xã h ội chủ nghĩa). Các nguy cơ này đang làm cho những

thách thức càng thêm trầm trọng và gay gắt đối với quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.

về đại thể có thể khẳng định, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa ở nước ta hiện nay đang được triển khai trong bối cấnh khá phức tạp:

thuận l ợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Do vậy, cùng v ới

việc khẳng định tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, việc nhận rõ những điều kiện thuận lợi thời cở và những khó khăn

phức tạp, đặc biệt là các nguy cơ, thách thức có ý nghĩa lý luận và phương

pháp luận đặc biệt quan trọng không chỉ trong việc hoạch định chiến lược,

mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, mà còn có tác dụng thiết thực trong việc xây dựng, phát triển nguồn

nhân lực củng cố quyết tâm "chủ động nắm thời cơ, vươn lên phát triển

nhanh và vững chắc, tạo ra t hế và lực mới. Đồng thời luôn tỉnh táo, kiên

quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cấ những nguy cơ mới nấy

sinh, bấo đấm phát triển đúng hướng"

103

3.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI

HÓA NƯỚC TA HIỆN NAY.

Trước hết cần nhận xét rằng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá

trình tác động tổng hợp và phức tạp đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Từ trước đến nay có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đã đưa ra nhảng

định nghĩa về quá trình này, song cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa nào

phản ánh đầy đủ và có hệ thống về nó. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa có n ội dung rất phong phú, hơn nảa chúng l ại

được triển khai vào nhảng thời điểm khác nhau, ở nhảng nước khác nhau

với nhảng hình thức, quy mô và mức độ không giống nhau. Vì vậy, trong

một thời gian nhất định, thật khó có thể đưa ra được một định nghĩa đầy đủ

về chúng khả dĩ được mọi người cùng chấp nhận. ơ đây, chúng tôi không

có ý định giải quyết vấn đề này, mà chỉ cố gắng vạch ra nhảng đặc điểm

quan trọng nói lên thực chất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

nước ta hiện nay.

Một trong nhảng đặc điểm lớn của thời đại ngày nay là sự phát triển

mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật và công nghệ và cùng

với nó là quá trình toàn cầu hóa kinh tế ... Trong điều k i ện này, công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta như trên chúng tôi đã nói, được Đảng ta

xác định là "quá trình chuyển đổi 'căn bản, toàn diện các hoạt động sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sớ dụng lao động thủ

công là chính, sang sớ dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công

nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển

của công nghiệp và tiến bộ của khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao

động xã hội cao". Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, như vậy

104

đã thể hiện được vấn đề then chốt của quá trình này ở một nước tiểu nông

là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến

trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã h ội cao, đồng

thầi phản ánh được vai trò của bản thân nền công nghiệp và khoa học-

công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ở đây cần nhấn mạnh rằng, công nghiệp hóa không chỉ là sự tăng

thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng cửa sản xuất công nghiệp trong

nền kinh tế, mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới

công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trượng bền vững và có hiệu quả cao

của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện

đại hóa, kết hợp với những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát

triển chiều rộng, tạo nhiều công ăn việc làm cho đội ngũ đông đảo lao

động hiện nay, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, phát triển

chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học-

công nghệ thế giới"10

Như vậy, công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là quá trình rộng lớn và

phức tạp, nó được triển khai đồng thầi với quá trình hiện đại hóa và luôn

gắn bó với quá trình này. Hiện đại hóa là làm cho một cái gì đó mang tích

chất của thầi đại ngày nay - đó là tính hiện đại, tính tiên tiến. Do vậy,

không thể đồng ý với ý kiến cho rằng, "về thực chất quá trình hiện đại hóa

đất nước trong thời đại ngày nay là quá trình phát triển công nghệ nhằm

làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất, cơ cấu lao động và cơ cấu các mặt

hàng xuất khẩu, không ngừng nâng cao hiệu quá cũng như khả năng cạnh

(1) Đồ M ưầ i. Phát huy thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng nước ta

vững bước t i ến lên. B áo N h ân dân ngày 4-12-1993

a' Nguyễn Thành Ban. Mấy suy nghĩ về con đưầng hiện đại hoá đất nước trong thầi đại ngày nay. Te.

Cộng sản, Số8-1994,tr. 7.

tranh của nền kinh tế".<2> Quan niệm này, ỡ một mức độ nhất định, đã đồng

105

nhất hiện đại hóa với công nghiệp hóa, đồng thời hạn chế quá trình hiện

đại hóa chỉ trong phạm vi kinh tế.

Càng không thể chấp nhận được quan niệm mà M.Weber là đại diện

- quan niệm coi hiện đại hóa chính là quá trình "Phường Tây hóa". Những

người theo quan niệm này cho rằng, nền văn minh phương Tây là mẫu mực

cho các nước "ngoài phương Tây" học tập, bởi vì chính ở phương Tây và

chỉ có ở đây, mới phát sinh những hiện tượng cảa văn hóa, được phát triển

theo khuynh hướng mang ý nghĩa phổ quát. c ần nhận xét rằng, trong quá

trình phát triển, các nước tư bản phát triển phương Tây đã đạt được một sự

giàu có nhất định. Song từ đó mà cho rằng, hiện đại hóa chính là phương

Tây hóa" l ại là một sai sâm nghiêm trọng. Bơi lẽ, kinh nghiệm lịch sử đã

chứng tỏ rằng một nước giàu có chưa hẳn đã là một nước có trình độ văn

hóa, văn minh cao. M ặt khác, không nên hiểu "hiện đại hóa" một cách đơn

giản chỉ là quá trình "bắt chước" và "chuyển t ả i" cảa cải, phương tiện từ

nước này sang nước khác. Nên nhớ là mỗi nước có truyền thống lịch sử

riêng cảa mình và do vậy, tiếp thu cái gì, bằng cách nào, ở đâu là tùy

thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể và nhu cầu phát triển cảa mỗi nước,

điều này là không thể áp đặt được. ơ đây, Alain Touraine đã đúng, k hi

ông nhận xét rằng: "Hiện đại hóa cưỡng bức, rập khuôn theo mô hình cảa

nước khác chỉ là tai họa cho các dân tộc, vì nó đối nghịch với bản sắc dân

tộc, thù địch với dân c h ả " ( 1) . Như vậy, có thể nói rằng, trên thực tế không

có "công thức chung", "mô hình khuôn mẫu" về hiện đại hóa cho tất cả các

nước, mà chỉ có những hình thức và con đường hiện đại hóa cụ thể đáp ứng

yêu cầu phát triển cảa mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Theo chúng tôi, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay bao h àm

A l a in Touraine. D ân chả là gì ? " Ngươi đưa tin UNESCO", 1992, số 11, te. 12.

trong mình những đặc điểm quan trọng dưới đây:

106

Thứ nhất, công nghiệp hóa được triển khai đồng thời v ới hiện đại

hóa và luôn gần bó với hiện đại hóa để tạo nên một quá trình thống nhất

thúc đẩy đất nước phát triển. B ởi vì, ngày nay cuộc cách mạng khoa học -

công nghệ đã và đang làm thay đổi về chất công nghệ sản xuất, quản lý...

và trên thế giới đang diựn ra quá trình toàn cầu hóa kinh tế, khoa học, kỹ

thuật, văn hóa ngày càng sâu rộng. Trong điều kiện này, chúng ta không

thể chờ thực hiện xong công nghiệp hóa, sau đó mới triền khai hiện đại

hóa, mà nhất thiết và cần phải triển khai đồng thời và đồng bộ hai quá

trình này. Chỉ có cách làm như vậy mới có thể đẩy lùi được nguy cơ tụt hậu

và nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, dần hội nhập

vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.

Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình trang bị và trang

bị lại những công cụ, thiết bị, phương tiện hiện đại và áp dụng công nghệ

tiên tiến cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là các ngành then chốt

để trước hết, làm tăng tỷ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong

nền kinh tế quốc dân.

Thứ ba, trên cơ sỡ của quá trình nói trên, diựn ra quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, trước hết là từ cơ cấu kinh tế "nông

nghiệp - công nghiệp - dịch vụ" sang cơ cấu kinh tế "Công nghiệp -

nông nghiệp - dịch vụ".

Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa là quá trình kinh tế - kỹ

thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... Nó tác động

một cách tổng hợp, đa diện, đa cấp độ đến mọi người, m ọi gia đình và m ọi

lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thứ năm. công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng chính là quá trình

ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về các mặt k i nh tế - xã h ộ i,

khoa học - công nghệ, văn hóa...

107

Thứ sáu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải là mục đích tự

thân, mà là phương thức để đưa nền kinh tế tiểu nông lên nền sản xuất

công nghiệp hiện đại.

Phương thức này được thực hiện một cách linh hoạt bằng bước đi tuần

tự từ thấp đến cao (thủ công - cơ giới - tự động hóa) kết hợp v ới việc tranh

thủ những điều kiện, thọi cơ thuận lợi, "đi tắt, đón đầu" để nhanh chóng

tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn.

Thứ bảy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, về thực

chất, là quá trình sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại cùng

những thành tựa khoa học - công nghệ tiên tiến và những kinh nghiệm lịch

sử để đổi mới toàn diện, triệt để m ọi lĩnh vực của đọi sống xã hội, đưa đất

nước ta lên trình độ "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bang, dân chủ và

văn minh". Nói một cách ngắn gọn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá

trình cải biến xã hội Việt Nam "truyền thống" thành xã hội hiện đại, phát

triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa

3.3. NHỮNG NỘI DUNG cơ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN

ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:

Từ một nước nghèo, đông dân, lại phải trải qua nhiều năm chiến

tranh, phấn đấu lên trình độ "dân giàu, nước mạnh, xã h ội công bằng, dân

chủ và văn minh", chúng ta phải triển khai công nghiệp hóa, hiện đại hóa

toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đọi sống xã hội: Kinh tế, chính trị,

văn hóa, khoa học - công nghệ.

Trong lĩnh vực kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nội dung rất

phong phú, trước hết chúng ta phải kịp thọi nắm bắt những thành tựu khoa

"' về những đặc điềm của công nghiệp hoa, hiện đại hoa, tham khảo thêm : Văn kiện Đại hội dại biểu

toàn quốc lẩn thứ vin. Nxb chính trị quốc gia, HN. 1996; Công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở Việt nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê, UN. 1994 : Triết học và v n đề đổi mới xã hội. Nxb Trề. 1995.

học - công nghệ vừa hiện đại, vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển cụ thể

108

của nước ta để áp dụng vào nền kinh tế quốc dân (sản xuất, tổ chức quản

lý, lưu thông, phân phối, tiêu dùng...). Đồng thời, tiến hành đổi mới công

nghệ truyền thống để tạo ra một hệ thống công nghệ nhiều tầng, nhiều lớp

với các hình thức và trình độ khác nhau (từ thấp đến cao, từ đơn giản đến

phức tạp), trong đó, đậc biệt ưu tiên cho những công nghệ sạch, công nghệ

nhọn.

tiết k i ệm được nguyên, nhiên, vật liệu và những ngành công nghệ m ũi

Chúng ta cần dựa vào những thành tựu khoa học - công nghệ hiện

đại và thích hợp cùng với kinh nghiệm lịch sử để thực hiện những bước

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng và theo ngành trên cơ sở l ợi t hế của

mỗi vùng, mỗi ngành; đồng thời kết hợp với việc ứng dụng những công

nghệ mới và tham gia vào quá trình hợp tác trong nước và quốc tê.

Trên cơ sở vận dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại

và thực hiện những bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần đẩy nhanh việc

phân công mới và phân công lại lao động xã hội để tạo ra nhiều ngành

chuyên môn, nhiều ngành nghề... đáp ứng nhu cầu việc làm của người lao

động mà đối với nước ta nhu cầu đó đã ở mức độ báo động.

Cùng với đó, chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống các doanh

nghiệp với những quy mô và trình độ khác nhau (lớn, vừa, nhỏ), trong đó

đậc biệt chú ý xây dựng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vì, các doanh

nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng được tình hình cụ thể của nước ta hiện nay là

cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nghèo, trình độ tổ chức, quản lý của cán bộ

còn thấp, trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động chưa cao, trong

khi sức ép về dân số và việc làm ngày càng tăng...

Mật khác, kinh nghiệm của các nước phát triển và các nước công

nghiệp mới ở châu A cho thấy, những doanh nghiệp vừa và nhỏ có những

Ưu thế nổi trội trong điều kiện thị trường và cạnh tranh do tính năng động

và thích ứng cao của nó, đầu tư v ốn không lớn, áp dụng công nghệ mới

109

nhanh, tổ chức quản lý gọn nhẹ và mang lại hiệu quả cao, trong những

trường hợp cần thiết có thể nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu, thay đổi công

nghệ và các mặt hàng sản xuất kinh doanh...

Như vậy, có thể nói công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong lĩnh vực kinh

tế là quá trình sộ dụng những công cụ, phương tiện cùng những thành tựu

khoa học - công nghệ hiện đại, thích hợp với nước ta và những kinh

nghiệm mà chúng ta đã tích lũy được để cải biến toàn bộ nền kinh tế nhằm

không chỉ tạo ra nền tảng cho sự tăng trương, phát triển bền vững của toàn

bộ nền kinh tế, mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất và tinh

thần, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực chính

trị, văn hóa, khoa học - công nghệ... xã hội Việt Nam hiện đại là một xã

hội không chỉ có nền kinh tế tăng trưởng, phát triển bền vững, mà còn phải

có chế độ chính trị tiên tiến, dựa trên một nền dân chủ thực sự - dân chủ

xã hội chủ nghĩa. Trong đó, có đủ những điều k i ện cần thiết để thực hiện

"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".

Trong tĩnh vực chính trị - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là

quá trình sộ dụng những thành tựu khoa học, tư tường lý luận và công nghệ

quản lý xã hội hiện đại cùng những kinh nghiệm thực tiễn chính trị để đổi

mới toàn điện, triệt để, đúng hướng hệ thống chính trị của xã hội, tạo ra

thiết chế dân chủ thực sự. Thực hiện cồng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong

lĩnh vực chính trị - xã hội, trước hết chúng ta cần phải làm trong sạch và

lành mạnh hóa các tổ chức, thiết chế trong hệ thống chính trị. Xây dựng và

thực hiện một cơ chế vận hành đồng bộ, thích hợp của hệ thống chính trị

theo nguyên tắc : Đảng lãnh đạo bằng đường l ối và các chính sách, Nhà

nước tổ chức quản lý bằng pháp luật và tuân theo pháp luật, các tổ chức

chính trị - xã hội động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình

thực hiện tốt đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước

tham gia tích cực vào công việc quản lý Nhà nước.

no

Để có được một Nhà nước hiện đại, tiên tiến, đủ sức quản lý đất

nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta

cần phải ra sức xây dựng nhà nước pháp quyền V i ệt Nam trên cơ sở xã h ội

công dân. Đó là nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. ơ đây,

"không phải nhà nước chế ước và quyết đằnh xã hội công dân, mà xã h ội

công dân chế ước và quyết đằnh nhà nước" (C.Mác). Xã h ội công dân đó,

một mặt yêu cầu nhà nước phải tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và

theo pháp luật; mặt khác, đòi hỏi mỗi thành viên của xã h ội phải có ý thức

pháp luật sống, học tập, làm việc, sinh hoạt theo Hiến pháp và pháp luật.

Cùng với đó, để có được nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do

dân và vì dân, chúng ta phải xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống

pháp luật. ơ đây, pháp luật không những phản ảnh đúng quy luật phát

triển khách quan của xã hội, mà còn thể hiện được quyền l ợi và nghĩa vụ,

tự do và trách nhiệm của công dân và các tổ chức chính trằ - xã hội.

Trong lĩnh vực văn hóa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là

quá trình sử dụng những thành tựa khoa học - công nghệ hiện đại và những

giá trằ vật chất và tinh thần được nhân loại làm ra trong lằch sử để xây

dựng nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, v ới những đặc

trưng cơ bản là dân tộc, hiện đại, nhân văn. Chỉ có như vậy, văn hóa mới

trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về

trình độ phát triển của dân tộc và là động lực phát triển kinh tế xã hội...

Nội dung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa văn hóa có thể nói,

là khá phong phú. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong lĩnh vực

văn hóa, trước hết chúng ta cần phải tạo ra những điều k i ện hiện thực về

vật chất, tinh thần, cơ chế... để phát triển trí tuệ văn hóa, nghệ thuật, kích

thích tự do sáng tạo của mỗi người, m ỗi tập thể, của cả cộng đồng. Đồng

thời, cần tận dụng mọi thành quả văn hóa, nghệ thuật để xây dựng đất

nước. Nhanh chóng tạo ra môi trường văn hóa mới để hình thành phát

triển nhân cách của con người Việt Nam hiện đại. Đồng thời mở rộng giao

in

lưu văn hóa với nước ngoài, nhằm tiếp thụ những thành tựu văn hóa nhân

loại phục vụ cho việc xây dựng nền văn hóa V i ệt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc. Cùng với nó, chúng ta cũng cần phải tiến hành một cách

thường xuyên và kiên quyết cuộc đấu tranh chống các loại phản văn hóa,

tránh khuynh hướng thương mại hóa văn hóa và kịp thời ngăn chẩn các

hiện tượng tiêu cực trong các quan hệ văn hóa - xã hội.

Như vậy, trong lĩnh vực văn hóa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa là quá trình không chỉ xây dựng văn hóa V i ệt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc, mà còn góp phần xây dựng con người V i ệt Nam hiện đại

với những phẩm chất tích cực mang tính nhân bản và nhân văn cao cả.

Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, thực hiện công nghiệp hóa,

hiện đại hóa là quá trình sử dụng chính những thành tựu khoa học - công

nghệ hiện đại để xây dựng, phát triển nền khoa học - công nghệ, làm cho

nó có đủ sức giải quyết được những vấn đề do thực tiễn đẩt ra. Trước hết,

chúng ta cần triển khai quá trình xây dựng một kết cấu hệ thống khoa học

- công nghệ quốc gia hợp lý, trong đó giải quyết tốt các m ối quan hệ hữu

cơ giữa khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội và nhân

văn, giữa nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển

khai, giữa nghiên cứu khoa học và ứng dụng khoa học trong thực tiễn. K ết

cấu hệ thống khoa học - công nghệ này không những đáp ứng được yêu

cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, mà còn thỏa m ãn được các yêu

cầu phát triển của bản thân nó, đồng thời tham gia có hậu quả vào quá

trình phân công, hợp tác khoa học quốc tế trên lĩnh vực khoa học - công

nghệ.

Trước mắt, chúng ta cần triển khai nhanh việc thực hiện chương trình

đa dạng hóa, kế hoạch hóa và xã hội hóa khoa học - công nghệ với những

nội dung thích hợp. Đó là sử dụng nhiều hình thức phong phú để áp dụng

những thành tựu của khoa học - công nghệ vào m ọi lĩnh vực của đời sống

112

xã hội, từ sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng đến tổ chức, quản lý.

Kích thích tư duy sáng tạo, say mê cải tiến kỹ thuật trong mọi tầng lớp

nhân dân lao động, nhất là lớp trẻ, cần tạo ra thị trường thỏc sỏ trong lĩnh

vỏc phát triển khoa học - công nghệ. Cùng với đó, nhanh chóng xây dỏng

và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ thỏc sỏ tài giỏi cho đát

nước. Bởi vì, "không thể nói đến công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước

trong thời đại văn minh trí tuệ; thời đại cách mạng khoa học và công nghệ,

thời đại sinh thái mà lại thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi" .

Để có được đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ giỏi, trước hết

chúng ta cần phải thỏc hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong lĩnh vỏc

giáo dục - đào tạo.

Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, đó là quá trình sử dụng chính

những thành tỏu của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ để tiếp

tục đổi mới triệt để và toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, sỏ nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đòi hỏi trước hết phải có con người rất mỏc trung thành, giàu lòng yêu

nước, có trình độ văn hóa cao, kiến thức khoa học hiện đại và kỹ năng

thành thạo, có khả năng làm ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị

trường trong và ngoài nước. Nói một cách khác đó là những con người "vừa

hồng, vừa chuyên", vừa giữ gìn và phát huy được truyền thống "Nhân, Trí,

'" Nguyễn Trọng Chuẩn. Nguồn nhân lỏc trong công nghiệp hoa và hiện đại hoa đất nước Tạp chíTriết học, sô 3- 1994, tr.4.

Dũng" của dân tộc, lại vừa có khả năng tiếp thu được những thành tỏu của

113

n ền văn m i nh h i ện đại góp phần làm cho "dân giàu, nước mạnh, xã h ội

công bằng, dân chủ và văn minh".

Để có được những con người v ới những p h ẩm chất t ốt đẹp như trên,

công n g h i ệp hóa, h i ện đại hóa giáo dục - đào tạo đòi h ỉi p h ải thực h i ện

những n ội dung chủ y ếu dưới đây:

Trước hết, quan điểm c oi "giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu"

p h ải được quán triệt và thể h i ện không chỉ trong các Nghị quyết, chính sách,

mà còn trong hoạt động thực tiễn của tất cả các cấp, các ngành trên p h ạm vi

toàn xã h ộ i. V ới tư cách là "quốc sách hàng đầu", giáo dục - đào tạo p h ải

thực sự ừở thành phong trào cách mạng của quần chúng, trong đó lực lượng

nòng c ốt là đội ngũ cán bộ của ngành giáo dục - đào tạo.

Cùng với đó, cần thúc đẩy quá trình đa dạng hóa, kế hoạch hóa và xã

h ội hóa giáo dục - đào tạo trên cơ sở "thấm nhuần sâu sắc tính nhân dân,

tính dân tộc và tính h i ện đại", theo định hướng xã h ội c hủ nghĩa. H i ện nay

"giáo dục - đào tạo p h ải theo hướng cân đối giữa "dạy người, d ạy chữ, d ạy

nghề, trong đó d ạy người là mục đích cao nhất..," ( 1) cần lưu ý rằng, quá

trình đa dạng hóa, kế hoạch hóa, xã h ội hóa giáo dục - đào tạo p h ải g iữ

v ữ ng mục tiêu xã h ội chủ nghĩa trong n ội dung, phương pháp giáo dục -

đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã h ộ i, phát

huy ảnh hưởng tích cực, h ạn c hế ảnh hưởng tiêu cực c ủa cơ c hế thị trường

đối v ới giáo dục - đào tạo. Chống k h u y nh hướng "thương m ại hóa", đề

phòng k h u y nh hướng p hi chính trị hóa giáo dục - đào tạo. cần xây d ự ng

m ột chương trình, n ội dung chuẩn quốc gia cho từng m ôn h ọc ở từng cấp

học và l ớp học, trong đó bao gồm: k h ối k i ến thức cơ bản, b ắt b u ộc (ít b i ến

đổi và b i ến đổi chậm); k h ối k i ến thức mở rộng và nâng cao để người h ọc

tự c h ọn ( b i ến đổi tương đối linh hoạt tùy thuộc vào đối tượng và m ục tiêu

" Văn kiện Hội nghị Trang ương 2 khoa VUI, ti. 12-13.

114

đào tạo); khối kiến thức bổ sung (do có những phát minh, tri thức mới,

hoặc do yêu cầu mới của giáo dục - đào tạo cần bổ sung thêm...).

Để nhanh chóng có được nguồn nhân lực chất lượng cao, trước hét

phải có địi ngũ giáo viên và cán bị lãnh đạo, quản lý giáo dục - đào tạo

đủ về số lượng, đồng bị về cơ cấu, mạnh về chất lương. Nhận thức sâu

sắc vấn đề này, H ịi nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa V UI

nhấn mạnh: "Phải đặc biệt chăm lo đào tạo b ồi dưỡng và tiêu chuẩn hóa

địi ngũ giáo viên cũng như cán bị quản lý giáo dục cả về chính trị, tư

tưởng, đạo đức và năng lực chuyên m ôn nghiệp vụ" ( 1) . cần đưa ra và thực

hiện mịt cách nghiêm túc bị luật giáo dục - đào tạo, luật giáo dục - đào

tạo phải thể hiện được những nịi dung chủ yếu: mục tiêu, đối tượng và

những điều kiện của giáo dục - đào tạo; chương trình, n ịi dung và phường

pháp giáo dục - đào tạo ở từng cấp học; những chuẩn mực mang tính mô

phạm của người thầy, người cán bị lãnh đạo, quản lý và của học sinh, sinh

viên, đồng thời quy định quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của

họ trong hệ thống giáo dục - đào tạo, vai trò và trách nhiệm của gia đình,

nhà trường và các đoàn thể, các tổ chức xã h ịi đối v ới giáo dục - đào tạo;

trật tự, kỷ cương, nền nếp và chế đị thưởng, phạt trong lĩnh vực giáo dục -

đào tạo.

Nói tóm lại, nịi dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

hiện nay là hết sức phong phú. Nó bao quát tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hịi. Những nịi dung này cần được cụ thể hóa cho phù hợp v ới

điều kiện cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ phát triển nhất định.

Trước mắt, chúng ta cần "đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gần

với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản

xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Xây dựng có chọn lọc mịt số cơ

'" Văn kiện Hịi nghị Trang ương 2 khoa VUI, tr. 15..

sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết... Đẩy mạnh các hoạt

115

động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành kinh tế mũi nhọn

như chế biến nông, lâm, thủy hải sản sản, khai thác và chế biến dầu - khí,

một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin,

du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo khoa học và công

nghệ"'1'.

Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta nhỉm mục tiêu rất

toàn diện đó là:

Thứ nhất, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng nước ta trở thành một

nước công nghiệp, kinh tế mạnh, tăng trưởng nhanh và bền vững, tăng

nhanh tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ sao cho chiếm 9 0% GDP - một cơ

cấu kinh tế mà các nước phát triển đã đạt được.

Thứ hai, xây dựng đội ngũ những người lao động có kỹ thuật, kỷ luật,

có kỹ năng lao động nhuần nhuyễn, trong đó lực lượng trí thức đông về số

lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đủ sức giải quyết những

vấn đề đặt ra của sự phát triển kinh tế - xã hội. Không ngừng nâng cao

năng suất lao động, tăng hàm lượng "chất xám" trong một đơn vị sản

phẩm. Tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua quan hệ đối ngoại và

xuất khẩu. ữên cơ sỡ xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phấn đấu xây dựng

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho mỗi công dân, mỗi tập thể

đều được bình đẳng đóng góp tài năng vào việc phát triển đất nước và được

hưởng thụ những giá trị tương ứng với công sức của họ. Trên cơ sở phát triển

kinh tế, đẩy mạnh sản xuất và nâng cao dịch vụ, chúng ta phải xây dựng

một xã hội hiện đại với những đặc trưng cơ bản của nó là năng động luôn

'" V ăn k i ện Đại h ội V U I, tr. 86.

mang tính " tự đề kháng", "tự điều t i ế t" và "tự phát triển", "tự thích nghi" để

116

rồi vượt qua thử thách trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh; xây dựng

một xã hội hiện đại với một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

- một nền văn minh cao thể hiện ừên tất cả các lĩnh vực; nâng cao dân trí,

trình độ khoa học - công nghệ cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân để mọi

ngưủi đều có lối sống, mức sống, hoạt động văn hóa, văn minh của thủi đại.

với mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà

nghị quyết Đại hội VUI và Đại hội IX đã xác định, chứng tỏ Đảng ta đã có

những nhận thức mới, đúng đắn, phù hợp với tình hình đất nước và thế

giới. Chúng ta không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên một

nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và sẽ không thể có một chế độ xã hội tốt

đẹp nếu nhân dân chưa có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có trình độ

văn hóa cao, tay nghề vững. Vậy bằng cách nào để tiến hành thắng lợi sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để đến năm 2020 đưa đất

nước ta "cơ bản trở thành một nước công nghiệp " ? Điều đó hoàn toàn

không đơn giản, vì nếu chỉ thấy tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, muốn nhanh chóng trở thành nước công nghiệp hiện đại mà có thể

cho mọi thành phần kinh tế tự do phát triển , mở cửa cho bất kỳ tập đoàn tư

bản nào, ở bất kỳ ngành công nghiệp nào, mở cửa tiếp nhận tất cả mọi sự

đầu tư nước ngoài, vay vốn đầu tư tràn lan để nhập những thiết bị tiên tiến

nhất... thì liệu chúng ta có giữ vững được mục tiêu của chủ nghĩa xã hội

nữa hay không? Công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ

nghĩa khác với công nghiệp hóa, hiện đại hóa tư bản chủ nghĩa là nó phải

mang tính nhân văn sâu sắc. Nghĩa là công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải

tạo điều kiện cho mọi ngưủi phát huy hết tài năng trí tuệ của mình trong

đủi sống công nghiệp, tất cả phải xuất phát từ con ngưủi và vì con ngưủi

117

vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động. Mọi sự phát triển

của xã hội trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa đều do con người

quyết định và đều hướng về con người, về cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn

của mỗi người, mỗi gia đình trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu con người đó phặi lấy sự phát triển

con người Việt Nam làm thước đo chung. Điều đó đòi hỏi Đặng ta phặi

thực sự sáng suốt để lãnh đạo nhân dân đi đúng con đường mà Đặng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đê' có được mô hình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa thích hợp, về mặt phương pháp luận, chúng ta phặi dựa trên

cơ sở lý luận là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và phặi có được sự

nhận thức đúng đắn về các nhân tố phát triển (các nguồn lực). Nếu mô

hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở các

lý thuyết kinh tế mà không lấy việc phân tích đầy đủ các nhân tố phát

triển làm căn cứ, thì ngay từ đầu nó đã không có tính khặ thi. Vì thế, gần

đây, khi hoạch định các chính sách phát triển, các nhà hoạch định chính

sánh đều phặi quan tâm nghiên cứu, phân tính kỹ lưỡng vấn đề nguồn lực,

đặc biệt là nguồn nhân lực. Đúng như nghị quyết Hội nghị Trung ương 2

khóa VUI, Đặng ta đã xác định : "Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện

đại hóa thắng lợi phặi phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn

'" Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khoa VUI, tr. 19.

lực con người, yếu tố cờ bặn của sự phát triển nhanh và bền vững".(1)

118

c. KẾT LUẬN

Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là xu

hướng phát triển tất yếu, khách quan của tất cả các nước trên phạm vi toàn

thế giới.

Đối với nước ta, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng ta xác

định là nhiệm vụ trung tâm, mang ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa,

với việc áp dụng rộng rãi những thành tằu khoa học và công nghệ tiên tiến

của thời đại. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình thống nhất biện

chứng và về thằc chất, đó là quá trình thằc hiện chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã

hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến

bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất Ưu việt của chế độ mới - chế

độ xã hội chủ nghĩa.

Sằ nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang ra sức đẩy

mạnh phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật, về con

người và khoa học, công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm

huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lằc, không ngừng tăng năng

suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng nhân dân lao động

thằc hiện công bằng và tiến bộ xã hội, "dân giàu, nước mạnh, xã hội công

119

bằng, dân chủ và văn minh". Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp

của toàn dân, là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tát cả

các lĩnh vực đời sống xã hội. Sự nghiệp đó đòi hỏi chúng ta phải có một

quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, bởi nó được chúng ta tiến hành khi

mà nước ta về căn bản vữn là một nước nghèo, chậm phát triển. Do vậy nó

đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao, chấp nhận những khó khăn, thử

thách và hy sinh cần thiết, phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người, sức của.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó chỉ có thể thành công khi

chúng ta có được những luận cứ khoa học trên cơ sở phân tích, đánh giá

một cách đúng đắn những tư tưởng, quan niệm khác nhau về công nghiệp

hoa, hiện đại hoa, đồng thời nhận thức, đánh giá những thành công và

những thất bại của quá trình công nghiệp hoa kiểu cũ mà xác định những

đặc điểm, nội dung của quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở nước ta

hiện nay nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào

năm 2020, với mục tiêu "dân giáo nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ

và văn minh" như Đảng ta đã xác định.