VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Chính sách công

Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. VÕ QUANG TRỌNG

Đắk Lắk, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn Thạc sĩ “Thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được công bố trong công trình hoàn toàn trung

thực. Trong công trình nghiên cứu này mọi sự tham khảo, trích dẫn đều được chú

thích thỏa đáng.

Tôi xin cam đoan những lời trên đây là đúng sự thật và xin chịu hoàn toàn

trách nhiệm về lời cam đoan của mình./.

Đắk Lắk, tháng 11 năm 2019

Học viên Cao học

Nguyễn Văn Hùng

MỤC LỤC MỤC LỤC ........................................................................................................................... 1

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. 4

MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ...................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 8

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................................... 10

7. Kết cấu nội dung của luận văn...................................................................................... 10

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO

TỒN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN .................................................. 11

1.1. Các khái niệm liên quan .............................................................................................. 11

1.1.1. Văn hóa ........................................................................................................... 11

1.1.2. Di sản văn hóa ................................................................................................. 13

1.1.3. Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên .................................................................. 15

1.1.4. Bảo tồn và phát huy......................................................................................... 18

1.2. Chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ............................................. 19

1.2.1. Vai trò của chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ................. 19

1.3. Thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ............................ 21

1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách ...................................................................... 21

1.3.2. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên ...................................................................................................................... 22

1.3.3. Các bước tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên ...................................................................................................................... 23

1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng

Tây Nguyên ............................................................................................................... 26

1.3.5. Yêu cầu và hình thức tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên ................................................................................................... 27

1.3.6. Phương pháp tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên ...................................................................................................................... 30

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................... 31

Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA

CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ................. 32

2.1. Khái quát về tỉnh Đắk Lắk và di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ................. 32

2.1.1. Khái quát về tỉnh Đắk Lắk .............................................................................. 32

2.1.2. Khái quát về không gian văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .... 37

2.2. Thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk ............................................................................................................................... 41

2.2.1. Đánh giá thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................................................. 47

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................. 71

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH ĐẮK LẮK .............................................................................................................. 73

3.1. Dự báo xu thế xã hội và những khó khăn, thách thức đặt ra đối với việc thực hiện

chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng trong tình hình mới ......................................... 73

3.1.1. Sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ......................................... 73

3.1.2. Sự tác động của các xu hướng thực hành tôn giáo, tín ngưỡng ...................... 74

3.1.3. Sự tác động của các chủ trương, chính sách của Nhà nước ............................ 75

3.1.4. Sự ảnh hưởng của chủ thể văn hóa ................................................................. 76

3.2. Quan điểm và định hướng về chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk .................................................................................................... 77

3.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng

Tây Nguyên ............................................................................................................... 77

3.2.2. Định hướng và mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ......................................................... 79

3.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................................................................ 81

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản, thể chế có liên quan về chính sách bảo tồn

văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh .................................................. 81

3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện chính sách bảo tồn văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh ........................................................ 82

3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ văn hóa trong triển khai thực hiện chính

sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh ............................. 84

3.3.4. Tăng cường hỗ trợ từ ngân sách, huy động nguồn lực tài chính và vật chất để

bảo tồn và phát triển di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh ..... 85

3.3.5. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất cho người

dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh ................................................................... 86

3.3.6. Xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể về kết quả thực hiện chính sách bảo tồn

văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh .................................................. 87

3.4. Một số khuyến nghị ..................................................................................................... 88

3.4.1. Đối với cơ quan trung ương ............................................................................ 88

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................... 89

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 93

PHỤ LỤC...............................................................................................................................

BVHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch CT Chỉ thị DTTS Dân tộc thiểu số HĐND Hội đồng nhân dân Nxb Nhà xuất bản NQ Nghị quyết PVS Phỏng vấn sâu TP Thành phố Tr Trang UBND Ủy ban nhân dân UNESCO Liên hợp quốc VHCC Văn hóa cồng chiêng

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cồng chiêng Tây Nguyên chứa đựng những giá trị kiệt tác của nhân loại.

Không chỉ có sức hấp dẫn đặc biệt ở sự độc đáo kỹ thuật diễn tấu mà cồng

chiêng còn là biểu tượng cho sự tổng hoà các giá trị văn hóa đa dạng như: giá trị

biểu thị đặc trưng và bản sắc văn hóa vùng; giá trị biểu thị đặc trưng văn hóa tộc

người hoặc nhóm tộc người; giá trị phản ánh đa chiều; giá trị nghệ thuật; giá trị

sử dụng đa dạng; giá trị vật chất; giá trị biểu thị sự giàu sang và quyền uy; giá trị

tinh thần; giá trị cố kết cộng đồng và giá trị lịch sử. Cồng chiêng được sử dụng

trong nhiều nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Cồng chiêng được xem là ngôn ngữ

giao tiếp của con người với thần linh và thế giới siêu nhiên. Từ khi sinh ra, trong

lễ hội “thổi tai”, tiếng cồng chiêng đem đến cho đứa bé những tín hiệu đầu tiên

của văn hoá dân tộc. Khi trưởng thành, cồng chiêng còn sử dụng trong đám cưới,

làm nhà mới, làm rẫy… và cuối cùng tiếng cồng chiêng tiễn đưa người chết ra

mồ và cả khi làm lễ bỏ mả kết thúc nghi lễ vòng đời người.

Chính vì giá trị sâu sắc, độc đáo của nó trong đời sống, năm 2005, Không

gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là “Kiệt tác Di

sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại” và trở thành “Di sản văn hóa phi

vật thể đại diện của nhân loại” năm 2007. Từ đó đến nay, phong trào học tập và

biểu diễn cồng chiêng ngày càng trở nên sôi nổi và lan tỏa rộng khắp các tỉnh

Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng, góp phần làm cho đời sống

tinh thần của đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh thêm sống động, bên cạnh

đó nó còn tạo sức hút đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Trong những

năm qua, tỉnh Đắk Lắk đã ban hành các đề án bảo tồn cồng chiêng, tổ chức nhiều

hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng. Tuy nhiên, hiện nay

trong bối cảnh giao lưu, tiếp biến văn hóa với nhiều loại hình văn hóa khác nhau,

1

tác động của đô thị hóa, của nền kinh tế thị trường, của tôn giáo mới,… văn hóa

cồng chiêng Tây Nguyên cũng giống như các loại hình nghệ thuật dân tộc khác

luôn chịu sự tác động mạnh mẽ. Phong trào "cải biên, cải tiến" cồng chiêng làm

mất bản sắc Tây Nguyên, nạn "chảy máu cồng chiêng" diễn ra khá phổ biến, số

lượng nghệ nhân đang giảm mạnh, không gian văn hóa cồng chiêng ngày càng bị

thu hẹp. Đặc biệt, lối sống của giới trẻ bị cuốn theo trào lưu hiện đại, xa rời gốc rễ

không còn tha thiết với các loại nhạc cụ truyền thống, các trường ca, sử thi của

cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên trở nên phổ biến. Trước thực trạng đó, vấn đề

bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung, trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng là cần thiết hơn bao giờ hết.

Chính vì vậy, việc triển khai đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn Đắk Lắk” là cấp thiết, có ý nghĩa lý

luận và thực tiễn. Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực hiện chính

sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, đồng thời đánh giá thực trạng,

kết quả của việc thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng, trên cơ sở đó

góp phần đề xuất một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách bảo tồn văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu về Không gian VHCC Tây Nguyên và thực hiện chính sách bảo

tồn văn hóa nói chung, bảo tồn VHCC Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay vẫn

đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa

học trong và ngoài nước.

2.1. Những nghiên cứu về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Nghiên cứu về cồng chiêng của các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung đã có

nhiều công trình của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đề cập đến. Trong

công trình Miền đất huyền ảo nghiên cứu về các dân tộc miền núi Nam Đông

Dương, DamBo đã lột tả toàn cảnh bức tranh về quan niệm tín ngưỡng của các

cư dân tại chỗ Tây Nguyên, trong đó, tác giả đã đề cập đến cồng chiêng như là

2

giá trị đặc sắc, len lỏi trong mọi ngóc ngách, lễ hội, đời sống tinh thần của các

dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Trong cuốn Nhạc khí dân tộc ở Gia Lai (1993),

Đào Huy Quyền đã mô tả một cách khái quát về cồng chiêng của các dân tộc ở

Gia Lai. Cuốn kỷ yếu Nghệ thuật cồng chiêng, (1996) của Sở Văn hóa Thông tin

Gia Lai – Kon Tum là sự tổng hợp về các bài viết của nhiều tác giả, trong tuyển

tập này có mô tả về cấu tạo, môi trường diễn tấu, giải pháp bảo tồn cồng chiêng

của các dân tộc ở Gia Lai và Kon Tum. Các tác giả Lê Huy, Minh Hiếu (1997)

trong cuốn Nhạc khí các dân tộc Việt Nam cũng đề đề cập sơ lược về cồng

chiêng nhưng chỉ ở mức độ chung chung chứ chưa có những miêu tả cụ thể.

Ngoài ra, các tác giả Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Tri Nguyên, Võ Hoàng Lan

(2006) trong cuốn Các nhạc cụ gõ bằng đồng, những giá trị văn hóa đã quan

tâm, nghiên cứu và có những mô tả khá chi tiết về cồng chiêng của các dân tộc

tại chỗ Tây Nguyên.

Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa (2002), trong công trình Văn hóa Ê-đê – Truyền

thống và biến đổi, đã tập trung phân tích sự biến đổi văn hóa của người Ê-đê ở

Đắk Lắk trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong đó, tác giả đã đề

cập đến sự biến đổi VHCC, nạn “chảy máu cồng chiêng” khi cho rằng “thần

chiêng không còn hiện hữu trong ngôi nhà dài như một giá trị tình thần mà thay

vào đó là các tiện nghi hiện đại”, tình trạng mua bán, trao đổi cồng chiêng trong

giai đoạn này diễn ra khá phổ biến. Nguyên nhân xảy ra tình trạng này cũng

được xác định là do tín ngưỡng truyền thống thay đổi, người dân tộc tại chỗ theo

các tôn giáo mới, sự tác động của kinh tế thị trường, của không gian diễn

xướng,... dẫn đến sự hiện hữu của cồng chiêng mất đi ý nghĩa vốn có.

Trong những nghiên cứu của Tô Đông Hải về người Mnông ở Đắk Lắk

được xuất bản vào năm 2003 và 2009 đó là Nghi lễ và âm nhạc trong nghi lễ của

người Mnông (Bu Nong) và cuốn Nghi lễ truyền thống của người Bu Nong

(Mnông) khi nghiên cứu về hệ thống nghi lễ, lễ hội của người Mnông đã đề cập

đến cồng chiêng như là linh hồn của nghi lễ, là hình thức giao tiếp với thần linh

3

nhằm kết nối với thần linh. Theo ông, âm nhạc (cồng chiêng) không thể thiếu

trong các nghi lễ này. Điều này đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của VHCC trong

đời sống của tộc người Mnông.

Ngô Đức Thịnh (2007), trong công trình Những mảng màu văn hóa Tây

Nguyên đã góp phần phác họa những nét đặc sắc của văn hóa Tây Nguyên. Độc

giả sẽ thấy hình ảnh của vùng văn hóa Tây Nguyên, thế giới quan bản địa, cồng

chiêng, trang phục các tộc người, ký họa dân tộc Ê-đê, đặc trưng của folklore Ê-

đê, nếp nhà cổ truyền và văn hóa dân gian Mnông. Bên cạnh đó, tác giả cũng

quan tâm đến công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống các tộc người ở

Tây Nguyên là hết sức cần thiết trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội vùng.

Năm 2009, trong công trình Cồng chiêng trong đời sống của người Xơ

Đăng Xơ Teng, A. Tuấn là một trong số ít ỏi tác giả quan tâm sâu đến văn hóa

cồng chiêng, đã làm rõ nguồn gốc, vị trí, vai trò của cồng chiêng trong đời sống

của người Xơ Đăng, Xơ Teng ở Kon Tum. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra thực

trạng sinh hoạt cồng chiêng, và cho rằng trước sự biến đổi kinh tế - xã hội, cồng

chiêng ngày càng bị mai một, đó là sự suy giảm về số lượng, các bài chiêng cổ,

môi trường diễn xướng,... Vì vậy, việc đặt ra một số vấn đề về bảo tồn, phát huy

giá trị của cồng chiêng trong đời sống của tộc người này trước khi nó biến mất

trong lòng giới trẻ là nhiệm vụ cấp bách. Đây là một trong những nghiên cứu

chuyên sâu về cồng chiêng, có giá trị tham khảo tốt đối với chúng tôi trong

nghiên cứu đề tài này.

Tác giả Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát

triển bền vững khi đề cập đến các di sản văn hóa tiêu biểu ở Tây Nguyên đã đi

sâu phân tích về không gian VHCC, bàn về nguồn gốc, xuất xứ của công chiêng

và ý nghĩa của nó trong đời sống tâm linh, trong sinh hoạt của các dân tộc thiểu

số tại chỗ Tây Nguyên.

Bên cạnh những nghiên cứu trên, Linh Nga Niê Kdam (2012) với tác phẩm

Văn hóa Tây Nguyên giàu và đẹp hay Nguyễn Ngọc Thanh (2018), Đặc trưng

4

văn hóa vùng Tây Nguyên đã bàn về bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên và

tất nhiên các tác giả cũng không bỏ qua những bàn luận, phân tích về không gian

VHCC Tây Nguyên và ý nghĩa, tầm quan trọng của nó trong đời sống các DTTS

tại chỗ Tây Nguyên.

Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã quan tâm đến văn hóa cổ truyền và

VHCC Tây Nguyên như là một nét đặc sắc trong văn hóa của các tộc người nơi

đây. Những tài liệu trên giúp chúng tôi có những hiểu ban đầu về văn hóa cồng

chiêng và ý nghĩa nó trong đời sống các tộc người.

2.2. Những nghiên cứu về thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên

Chính sách bảo tồn văn hóa là một trong những chính sách lớn trong hệ

thống chính sách ở nước ta. Vì vậy, nó cũng là một trong những đề tài thu hút sự

quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Trên thực tế, đã có nhiều công trình

nghiên cứu, xây dựng hệ thống lý luận về bảo tồn văn hóa trong đó đặc biệt lưu ý

đến VHCC Tây Nguyên. Nhiều cuốn sách, nhiều đề tài khoa học, nhiều bài viết,

nhiều luận án, luận văn nghiên cứu về quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản

văn hóa dưới nhiều góc độ khác nhau đã được công bố.

Năm 2007, Viện Văn hóa - Thông tin, Hà Nội xuất bản cuốn Bảo tồn và

phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, trong tác phẩm có đề cập đến

việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể Không gian VHCC Tây

Nguyên – một trong những Di sản được UNESSCO công nhận nhà Di sản văn

hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tiếp đó năm 2008, cuốn Bảo vệ không

gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể

của nhân loại của nhiều tác giả ra mắt bạn đọc. Đây là các công trình tập hợp

nhiều bài viết đề cập đến những vấn đề chung và những vấn đề cụ thể về bảo tồn,

phát huy văn hóa phi vật thể nói chung và không gian văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên nói riêng.

Trương Bi, Bùi Minh Vũ (2009), Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân

5

tộc Ê-đê, Mnông, trên cơ sở đặc trưng văn hóa của người Ê-đê, Mnông trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk, các tác giả đã cho thấy việc cần thiết phải bảo tồn, phát huy di

sản văn hóa của dân tộc Ê-đê, Mnông đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể

Không gian VHCC Tây Nguyên – đã được UNESCO công nhận là Di sản văn

hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thị Hải Yến (2011), Giữ gìn và phát huy

giá trị văn hoá của dân tộc Ê đê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay và tác giả Mã

Thị Hạnh (2016), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc Mnông ở huyện

Lắk hiện nay, hai tác giả này đã có những nghiên cứu chuyên sâu về công tác giữ

gìn và phát huy các giá trị văn hóa của hai tộc người thiểu số tại chỗ trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk. Trong đó, giá trị VHCC là một trong những giá trị văn hóa đặc sắc

của người Ê-đê, Mnông cũng được đề cập khá chi tiết, cụ thể về thực trạng số

lượng, nghệ nhân và công tác bảo tồn, phát huy VHCC trong thời gian qua.

Năm 2016, tác giả Phạm Ngọc Đại trong công trình Bảo tồn, phát huy giá

trị văn hóa các dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk và một số vấn đề nảy sinh

quan tâm sâu sắc đến VHCC – di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong

công trình, tác giả bàn về công tác bảo tồn, phát huy giá trị VHCC qua các chính

sách cụ thể như: ban hành đề án Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng

các giai đoạn 2007 – 2010; 2012 – 2015; 2016 – 2020; tổ chức các lớp truyền

dạy đánh cồng chiêng cho thế hệ trẻ là con em đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ;

tổ chức các cuộc thi liên hoan VHCC, dân ca, dân vũ, tham gia lễ hội cà phê

Buôn Ma Thuột theo định kỳ; gắn âm nhạc cồng chiêng với du lịch, vinh danh

các nghệ nhân dân gian,... Tác giả cũng đã đề cập đến một số vấn đề nảy sinh từ

công tác bảo tồn cồng chiêng như các nghệ nhân đa số tuổi đã cao, lớp trẻ không

mấy mặn mà với loại hình nghệ thuật này, số lượng cồng chiêng giảm,... những

nguyên nhân này đã ảnh hưởng đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị VHCC ở

tỉnh Đắk Lắk.

Năm 2016, Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên phối hợp với Cơ quan

6

đại diện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Đà Nẵng đã tổ chức Hội thảo “Bảo

tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số tại chỗ vùng

Tây Nguyên”. Hội thảo đã nhận được nhiều bài tham luận liên quan đến thực

trạng văn hóa và vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của Tây Nguyên.

Các tác giả như Trương Quốc Bình, H’Lim, Bùi Minh Đạo, … đã quan tâm đến

các chính sách bảo tồn văn hóa và đưa ra một số vấn đề tồn tại, hạn chế trong

việc thực hiện chính sách này đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát

huy văn hóa các DTTS nói chung và VHCC nói riêng.

Mới đây nhất, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Hiền (2017) “Quản lý nhà

nước về di sản VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là một trong

những nghiên cứu chuyên sâu về VHCC. Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý

luận quản lý nhà nước về di sản VHCC Tây Nguyên, thông qua việc nghiên cứu,

phân tích, đánh giá thực trạng, từ cơ sở đó góp phần đề xuất một số giải pháp

hoàn thiện quản lý nhà nước về di sản VHCC Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk. Kết

quả nghiên cứu đề tài đã góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về di sản VHCC

Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.

Từ việc điểm qua một số công trình nghiên cứu trên cho thấy, VHCC và thực

hiện chính sách VHCC là một trong những chủ đề được quan tâm nghiên cứu. Tuy

nhiên, về thực hiện chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên nói chung và ở tỉnh Đắk

Lắk nói riêng chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu, nhất là trong giai đoạn phát

triển hiện nay. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu trước, việc

nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là cần thiết nhằm góp phần khỏa lấp một phần khoảng

trống đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài góp phần hoàn thiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

7

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu những vấn đề chung về thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, phân tích kết quả đạt được, chỉ ra những hạn

chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tổ chức thực hiện chính sách bảo

tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk.

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2005, thời điểm

không gian văn hóa cồng chiêng được UNESCO chính thức công nhận là kiệt tác

văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại đến nay.

- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu các hoạt động thực hiện chính sách bảo tồn

văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Nhà nước về văn hóa, di sản văn

hóa phi vật thể nói chung, di sản VHCC Tây Nguyên nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Để giải quyết những nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp tương

8

thích các phương pháp nghiên cứu, cụ thể như sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Để thực hiện luận văn này, chúng tôi

phải tìm hiểu, sử dụng các công trình nghiên cứu đi trước, các bài viết, sách báo,

luận văn, luận án và các tài liệu thứ cấp tại địa phương về thực hiện chính sách

bảo tồn VHCC Tây Nguyên. Cụ thể, thu thập các tài liệu thứ cấp tại Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch; Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Buôn Ma Thuột;

Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Lắk để phân tích, đánh giá kết quả thực hiện

chính sách bảo tồn VHCC trên địa bàn. Đây là một trong những giải pháp quan

trọng được tác giả sử dụng trong nghiên cứu này.

- Phương pháp nghiên cứu định tính: Để thu thập thêm những số liệu tại

địa bàn, chúng tôi sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để lấy ý kiến của các nhà

quản lý (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Phòng Văn hóa và Thông tin, cán bộ

phụ trách Văn hóa – xã hội xã) và chủ thể văn hóa là người Ê-đê, Mnông trên địa

bàn tỉnh. Cụ thể, chúng tôi tiến hành làm việc với Phòng Văn hóa và Thông tin

tp. Buôn Ma Thuột và Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Lắk, phỏng vấn sâu

cán bộ lãnh đạo và cán bộ phụ trách mảng di sản của Phòng. Tại Thành phố

Buôn Ma Thuột, làm việc trực tiếp với xã Cư Êbur, buôn Ea Bông (địa bàn có

đội chiêng truyền thống chuyên đi biểu diễn ở các hoạt động trong và ngoài

nước) và phỏng vấn sâu 5 trường hợp là nghệ nhân cồng chiêng. Tại huyện Lắk,

làm việc với xã Đắk Phơi và buôn Jiê Yuk (địa bàn VHCC còn hoạt động mạnh)

và phỏng vấn 3 nghệ nhân trong đội chiêng của buôn. Phương pháp này nhằm bổ

sung, đưa thêm những chứng cứ xác thực cho những đánh giá của các cấp có

thẩm quyền về thành tựu và hạn chế của chính sách bảo tồn VHCC.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp quan sát không tham dự

để quan sát biểu hiện, thái độ, đánh giá của nhà quản lý, chủ thể văn hóa là người

Ê-đê, Mnông về công tác bảo tồn VHCC trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là một trong những phương pháp chủ

đạo, được sử dụng thường xuyên trong quá trình thực hiện đề tài luận văn nhằm

9

tổng hợp và phân tích các số liệu thống kê, các báo cáo từ tài liệu thứ cấp, tài

liệu thực địa về VHCC.

- Phương pháp chuyên gia: Thu thập, phỏng vấn sâu và tiếp thu ý kiến của

các chuyên gia, các nhà nghiên cứu am hiểu về chủ đề nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Về mặt lý luận

Đề tài góp phần tổng hợp và hệ thống hóa lý luận cơ bản về thực hiện chính

sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

6.2. Về mặt thực tiễn

- Đề tài phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn VHCC

Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk nhằm tìm ra những thành tựu, hạn chế để trên cơ sở

đó đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách bảo tồn VHCC Tây

Nguyên.

- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu văn hóa, nhà

quản lý địa phương, đội ngũ cán bộ trong công tác văn hóa trong việc nghiên cứu

và hoàn thiện chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk.

7. Kết cấu nội dung của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

của đề tài được kết cấu gồm 03 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề chung về thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa

cồng chiêng Tây Nguyên

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng

Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách bảo tồn văn hóa

10

cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN

VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN

1.1. Các khái niệm liên quan

1.1.1. Văn hóa

Cho đến nay có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, nhưng cho dù số lượng định

nghĩa có bao nhiêu thì chúng vẫn xoay quanh một số khuynh hướng nhất định.

Thông thường có hai xu hướng định nghĩa về văn hóa: một là loại định nghĩa mô tả

liệt kê các thành tố của văn hóa và thứ hai, loại định nghĩa nêu đặc trưng của văn

hóa.

Định nghĩa của nhà Nhân học xã hội người Anh E.B. Taylor là một trong

những người đầu tiên đưa ra định nghĩa khá chuẩn mực về văn hóa: “Văn hóa là

một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập

quán cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên

của xã hội đã đạt được” [8, tr.10].

UNESCO định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như

là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm

của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn

học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,

truyền thống và đức tin” [41].

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi văn hóa bao gồm cả văn hóa văn hóa vật chất và

văn hóa tinh thần, là toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra:

“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và

phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn

học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các

phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”

11

[23].

Từ những quan niệm về văn hóa, chúng ta thấy văn hóa có mặt trong toàn

bộ đời sống của xã hội loài người. Mọi sự sáng tạo có giá trị của con người đều

là văn hóa. Tuy nhiên cũng cần phải khu biệt khái niệm để công việc nghiên cứu

văn hóa tránh sự trùng lặp với nhiều ngành khoa học khác. Văn hóa, theo cách

hiểu thông thường nhất, chính là bộ mặt tinh thần và vật chất của xã hội. Văn

hóa làm nên diện mạo của dân tộc này so với dân tộc khác. Văn hóa phản ánh

mọi mặt đời sống của một dân tộc.

Theo chúng tôi, văn hoá là khái niệm dùng để chỉ sự phản ánh tổng thể

những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng

thể các hệ thống giá trị (cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng

tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội của mình.

Con người có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh

thần. Do vậy, con người cũng có hai loại hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và

sản xuất tinh thần. Từ đó, văn hóa như một hệ thống thường được chia làm hai

dạng: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa vật thể và văn

hóa phi vật thể:

Văn hoá vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể

hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, bao gồm: các tư liệu sản xuất

(trước hết là công cụ lao động) và tư liệu tiêu dùng của xã hội. Nó được hiểu như

là những giá trị vật chất phát triển của xã hội tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát

triển khác nhau. Có thể gọi văn hoá vật chất là văn hoá sản xuất, văn hoá của

môi trường sản xuất, của điều kiện sản xuất và của người lao động.

Văn hóa tinh thần bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sáng tạo

tinh thần của con người. Bao gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sờ thấy

được” của văn hoá được lưu truyền và biến đổi qua thời gian, với một quá trình

tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng. Những di sản văn hoá tạm gọi là phi vật thể

(intangible) này theo UNESCO bao gồm tư tưởng, tín ngưỡng - tôn giáo, nghệ

12

thuật, lễ hội, phong tục, tập quán, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương,…

Như vậy, văn hóa có nhiều khái niệm khác nhau dưới các góc độ khác

nhau. Từ những quan niệm đó, ta nhận thấy:

Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần do con người

sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, mang tính chất chân, thiện,

mỹ và phục vụ cho sự sinh tồn, phát triển của con người, xã hội loài người.

Theo nghĩa hẹp, văn hóa là toàn bộ các giá trị tinh thần do con người sáng

tạo, tích lũy trong quá trình lịch sử xã hội.

Bản sắc văn hóa:

Theo Từ điển tiếng Việt: “Bản sắc là màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc

điểm chính”.

Bản sắc văn hóa được thể hiện trên lĩnh vực của đời sống và ý thức của

cộng đồng. Bản sắc văn hóa của Việt Nam được thể hiện qua lòng yêu nước, tinh

thần đoàn kết, tính tự cường dân tộc, sự gắn kết cộng đồng, gia đình, làng xã,

lòng nhân ái, bao dung, coi trọng đạo lý, cần cù trong lao động sáng tạo đã tạo

nên bản sắc văn hóa riêng của người Việt Nam. Bản sắc văn hóa là cội nguồn, gốc rễ của một cộng đồng văn hóa trong lịch

sử của sự hình thành, tồn tại và phát triển, cái đặc trưng riêng đó chính là sự khác

biệt giữa dân tộc này và dân tộc khác.

Với cách hiểu này, VHCC Tây Nguyên là một trong những bản sắc văn hóa

của các DTTS tại chỗ Tây Nguyên.

1.1.2. Di sản văn hóa

Theo nghĩa Hán Việt, di sản văn hóa là những tài sản văn hóa có giá trị của

quá khứ tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai. Di là để lại, còn lại, dịch

chuyển, chuyển lại. Sản là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Di sản văn hóa

được hiểu bằng sự tổng hợp của các ý nghĩa nói trên.

Trong từ điển Tiếng Việt, di sản văn hóa được định nghĩa như sau: “Giá trị

13

tinh thần và vật chất của văn hóa thế giới hay một quốc gia, một dân tộc để lại.

Như vậy di sản văn hóa là những sản phẩm do con người tạo ra. Tuy nhiên,

không phải bất cứ sản phẩm nào do con người tạo ra đều là di sản văn hóa”.

Theo điều 1 của Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam ngày 29/6/2001 quy định:

Di sản văn hóa: “bao gồm di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, là sản

phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ

thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [28, tr.

1].

Di sản văn hóa vật thể: “Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,

khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật,

bảo vật quốc gia” [28, tr.2].

Tại điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa số

28/2001/QH10 được nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày

18/6/2009 quy định:

Di sản văn hóa phi vật thể: Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần

gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá

trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng

được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền

miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [29, tr.1].

Di sản văn hóa phi vật thể là cái vô hình, sản phẩm tinh thần có giá trị lịch

sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng

con đường truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ lưu

truyền khác như: Tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học,

truyện kể dân gian, lối sống nếp sống, lễ hội, nghề thủ công truyền thống, y học

cổ truyền về văn hóa ẩm thực và các bí quyết của làng nghề truyền thống, trang

14

phục truyền thống và những tri thức dân gian khác.

Di sản văn hóa vật thể là cái hữu hình, dưới dạng vật chất, là văn minh của

nhân loại cái làm nên di sản văn hóa vật thể bằng các vật liệu khác nhau không

có khả năng trường tồn theo thời gian [29, tr.2].

Ở Việt Nam, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể gắn bó mật thiết có tác

động lẫn nhau cấu thành kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Di sản văn hóa phi vật

thể là cốt lõi tinh thần của di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa vật thể là biểu

hiện vật chất của di sản văn hóa phi vật thể.

Di sản văn hóa mang tính lịch sử, tính thời đại của một nền văn minh và kĩ

thuật tạo ra nó, thể hiện nền văn hóa của một quốc gia hay một dân tộc. Có tính

truyền thống được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, phát triển sáng tạo

mới trên nền di tích cũ. Di sản văn hóa tồn tại theo thời gian do đó dễ bị ảnh

hưởng bởi có sự tác động lẫn nhau, dễ bị hư, bị phá hủy, bị mai một do tác động

của con người của thời tiết và các vấn đề khác .

Vì vậy, bảo tồn di sản văn hóa nhằm đảm bảo khôi phục, tôn tạo các di sản

văn hóa để phục vụ cho hoạt động xã hội phát triển lâu dài, phát huy di sản là

phát triển theo chiều hướng tiến bộ làm cho cái hay, cái đẹp được phát triển từ

thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều điều đó xuất phát từ nhu

cầu thực tế của con người muốn tạo ra nhiều sản phẩm được nhiều người biết

đến phát huy di sản văn hóa là phục vụ sự tiến bộ của xã hội, giáo dục truyền

thống yêu nước giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, làm cầu nối cộng đồng các dân

tộc trên thế giới dựa vào giá trị có sẵn của di sản để tôn vinh vẻ đẹp và phát triển

các giá trị văn hóa.

1.1.3. Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Cồng chiêng là nhạc cụ dân tộc thuộc bộ gõ, được làm bằng đồng thau, hình

tròn như chiếc nón quai thao, đường kính khoảng từ 20 cm đến 60 cm, ở giữa có

hoặc không có núm. Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để

đánh cồng, chiêng. Cồng, chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng

15

càng cao. Cũng như các dân tộc Tây Nguyên khác: Cồng Chiêng được xem là nhạc

cụ linh thiêng nên thời kỳ đầu, chinh Ê-đê sử dụng để kết nối giữa con người và

thần linh, về sau mới được sử dụng trong các lễ hội dân gian.

Trong cuốn Nhạc khí dân tộc Việt (2001), định nghĩa: Cồng, Chiêng là

loại nhạc khí tự thân vang gõ phổ biến tại Việt Nam, đồng thời ở một số nước

khác ở châu Á cũng có. Cồng, Chiêng làm bằng đồng thau hoặc hợp kim đồng

thiếc, với tỷ lệ các hợp kim rất khác nhau tùy theo nơi đúc, hình tròn ở giữa hơi

phồng lên, chung quanh có gờ gọi là thành. Cồng luôn luôn có núm ở giữa,

Chiêng có hai loại: Chiêng có núm ở giữa gọi là Chiêng núm và Chiêng không

có núm gọi là Chiêng bằng [38].

Nếu Từ điển Bách khoa Việt Nam coi “cồng” là tên chung và Từ điển

Văn hóa cổ truyền Việt Nam coi “chiêng” là tên chung cho hai dạng có núm và

không núm, thì tài liệu trên đã cố gắng tách biệt rạch ròi hai dạng đó gắn với việc

định danh cụ thể: Cồng luôn luôn có núm ở giữa, Chiêng có hai loại: Chiêng có

núm ở giữa gọi là Chiêng núm và Chiêng không có núm gọi là Chiêng bằng”.

Theo đó, người ta hoàn toàn có thể gọi cồng là “chiêng núm” và ngược lại, gọi

chiêng núm là “cồng” [Dẫn theo 21, tr.15].

Dân gian không có từ “cồng chiêng”. Mỗi tộc người có cách gọi riêng

của mình về loại nhạc khí này. Đây là loại nhạc khí có hình thù thô phác, cấu tạo

đơn giản (dạng phiến mỏng, hình tròn, chất liệu đồng, có thành ở vành ngoài, có

núm hoặc không có núm ở giữa), với nhiều kích cỡ khác nhau, khi không sử

dụng tồn tại ở dạng đơn lẻ [Dẫn theo 21, tr.15].

Người Gia rai gọi là “chinh”, “chêng”, trong đó “chêng” là loại có núm...

Nếu “tròn 1 bộ 16 cái” thì gọi là “Chinh chêng” [Dẫn theo 21, tr.15].

Người Ê-đê không phân biệt có núm, không có núm họ đều gọi là “chinh”

hay còn có tên gọi khác là Ching Knăh. Ching Ê-đê: Được gọi là nhạc cụ thuộc bộ

gõ định âm vì khi diễn tấu phát ra cao độ, tiết tấu, trường độ và âm sắc. Đó là những

16

thuộc tính của âm thanh có tính nhạc [Dẫn theo 21, tr. 15].

Người Mnông gọi loại có núm là “goong”, loại không núm là “cheeng”.

Theo đó, cách gọi “chêng” của người Mnông, căn cứ hình thù, ngược lại với

người Gia Rai, (đối với người Gia rai, “chênh” có núm) [Dẫn theo 21, tr.16].

Ngoài ra, các tộc người Tây Nguyên tương đối phổ biến cách gọi mỗi chiếc

cồng (hoặc chiêng) theo tên riêng hoặc theo thứ bậc trong gia đình, như chiêng

chồng chiêng vợ (bộ chiêng Tha của người Brâu), chiêng mẹ chiêng chị chiêng em

[Dẫn theo 21, tr.15].

Như vậy, trong dân gian, rất ít tộc người sử dụng từ ghép để gọi tên loại

nhạc khí trên, đa số họ chỉ dùng từ đơn. Có tộc người, theo tên gọi, người ta

phân biệt hình thù có núm hay không núm, có tộc người chỉ dùng một tên, không

phân biệt hình thù và có tộc người thì dùng tới hai cái tên cho một dạng hình thù.

Từ điển Văn hóa dân gian của các tác giả Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh

Thảo, Nguyên Vũ có định nghĩa liên quan đến cồng chiêng:

- Chinh chiêng – Tên gọi bộ chiêng, cồng nhạc cụ của người Ba Na (Tây

Nguyên). Một bộ chinh chiêng hoàn chỉnh thường gồm 5 chiếc có núm và 8

chiếc chiêng bằng không có núm. Chinh chiêng chỉ được phép dùng trong các

nghi lễ lớn, trọng thể của làng như lễ đâm trâu, bỏ mả, cúng bến nước, lên nhà

mới, cưới [Dẫn theo 21, tr.16].

- Cồng (cũng gọi: chiêng) – Nhạc cụ thuộc bộ gõ, nguồn gốc phương Đông,

làm bằng đồng, kích thước lớn hình lòng chảo, treo trên một cái giá gỗ, dùng dùi của

trống lớn để gõ. Cồng Tây Nguyên gồm 20 chiếc, đường kính 25-30 cm trở lên đến

hơn 1m, có thể tạo thành những âm điệu phong phú, độc đáo [Dẫn theo 21, tr.16].

Như vậy, cồng chiêng là loại nhạc khí gõ của đồng bào dân tộc ít người

trong cả nước. Nhiều buôn làng, bản mường có số lượng cồng chiêng rất lớn

(hàng ngàn bộ). Cồng chiêng được sử dụng trong các lễ hội lớn nhỏ: cầu mưa,

đâm trâu, đám tang, bỏ mả. Cồng chiêng quy tụ quanh mình nhiều loại hình nghệ

thuật dân gian: nhảy múa, ca hát, tạo hình. Cồng chiêng không riêng gì ở Việt

17

Nam mà địa bàn phân bố rất rộng trong cả vùng Đông Nam Á.

VHCC Tây Nguyên đã được UNESCO chính thức công nhận là kiệt tác

văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25-11-2005. Sau Nhã

nhạc Cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể thứ

hai của Việt Nam được tôn vinh là di sản của thế giới. Cồng chiêng gắn bó mật

thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn

con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh

hoạt hàng ngày của họ. Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi

chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực

của vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền

lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20

con trâu. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh

ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi

rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng

do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây

Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng. Tồn tại trên mảnh đất Tây Nguyên hùng

vĩ đã hàng ngàn đời nay, nghệ thuật cồng chiêng ở đây đã phát triển đến một

trình độ cao vì thế mà cồng chiêng Tây Nguyên rất đa dạng, phong phú.

1.1.4. Bảo tồn và phát huy, chính sách bảo tồn

Theo Từ điển tiếng Việt: “Bảo tồn là giữ lại không để mất đi” [33].

Bảo tồn văn hóa là giữ lại, duy trì lại và lưu truyền văn hóa truyền thống

những nhân tố tích cực, hợp lý, những giá trị nhân bản, tạo cơ sở cho sự tồn tại

của các sự vật, hiện tượng đã có và cho sự ra đời, phát triển của cái mới, cái tiến

bộ trong đời sống cộng đồng.

Bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hóa là một quá trình thống nhất

biện chứng giữa chọn lọc và kế thừa, giữa tiếp thu và phê phán, giữa bảo tồn và

phát huy, giữa cải tạo và xây dựng... đối với các giá trị, văn hóa truyền thống để

18

xây dựng và phát triển cái mới, cái tiến bộ. Bảo tồn văn hóa có vai trò thúc đẩy

sự phát triển của văn hóa và phát triển văn hóa tạo điều kiện cho bảo tồn văn

hóa, khi nhắc đến phát triển văn hóa ta sẽ nghĩ ngay đến bảo tồn văn hóa.

Bảo tồn và phát huy

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa là phải biết chọn lọc những nhân tố tích

cực, yếu tố hợp lý làm cơ sở, tiền đề cho sự phát triển cái đã có, cho sự ra đời

của cái mới, cái tiến bộ hơn.

Theo Từ điển tiếng Việt: “Chính sách là sách lược chính trị cụ thể nhằm

đạt một mục đích nhất định” [33].

Chính sách bảo tồn di sản văn hóa

Chính sách bảo tồn di sản văn hóa là một bộ phận nằm trong hệ thống chính

sách của Việt Nam. Chính sách bảo tồn di sản văn hóa có những đặc điểm chung

của chính sách công. Về mặt quản lý nhà nước thì chính sách là những định

hướng của nhà nước đối với các vấn đề phát sinh trong thực tiễn cuộc sống nhằm

quản lý và đẩy mạnh sự phát triển của xã hội. Chính sách bảo tồn di sản văn hóa

là những định hướng của nhà nước có mục tiêu, giải pháp về bảo tồn di sản văn

hóa.

1.2. Chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

1.2.1. Vai trò của chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có chính sách phù hợp tích cực đến sự

phát triển văn hóa xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc. Các chính sách bảo tồn di sản văn hóa thể hiện tinh thần dân tộc và tính

nhân văn để giáo dục cho thế hệ trẻ về phong tục, tập quán, tín ngưỡng - tôn

giáo, đời sống tinh thần, truyền thống tốt đẹp và lịch sử hào hùng của dân tộc.

Việc thực hiện chính sách bảo tồn VHCC có vai trò sau đây:

- Định hướng hoạt động VHCC Tây Nguyên: Việc định hướng hoạt động

của di sản VHCC Tây Nguyên là hết sức cần thiết và quan trọng nhằm giữ gìn và

phát huy truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Tây Nguyên nói chung và ở tỉnh

19

Đắk Lắk nói riêng.

Di sản VHCC Tây Nguyên có chức năng văn hóa, xã hội và biểu tượng

bởi vì đối với các tộc người Tây Nguyên, cồng chiêng là một vật thiêng. Là một

vật thiêng nên âm thanh cồng chiêng cũng mang tính thiêng và con người đã sử

dụng nó như một ngôn ngữ thông qua đó họ “đối thoại” với tổ tiên và thần linh.

Do đó, chức năng bao trùm của cồng chiêng là chức năng nghi lễ.

- Điều chỉnh hoạt động VHCC Tây Nguyên: Di sản VHCC Tây Nguyên

là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung, của Tây

Nguyên và ở Đắk Lắk nói riêng, là cốt lõi của bản sắc văn hóa, là cơ sở để sáng

tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu văn hóa trong cộng đồng các dân tộc.

Việc điều chỉnh nhằm hướng các hoạt động của di sản VHCC Tây

Nguyên đi vào chiều sâu, tránh được tình trạng phân tán không hiệu quả. Trong

thời gian qua, hoạt động di sản VHCC Tây Nguyên nói chung và ở tỉnh Đắk Lắk

nói riêng chưa được quy hoạch phát triển theo định hướng cụ thể.

- Hỗ trợ, tạo điều kiện cho di sản VHCC Tây Nguyên phát huy giá trị:

Việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho di sản VHCC phát huy được giá trị trên hết là hệ

thống quản lý, chính sách và điều hành. Từ việc xây dựng và ban hành các chính

sách về di sản VHCC nói riêng từ trung ương đến địa phương để nghiên cứu

thành lập các hội đồng chuyên môn đảm bảo trình độ chuyên môn cao, am hiểu

về chính sách qua đó thẩm định các đề án, dự án đạt hiệu quả cao.

Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ chế phản biện, phản hồi trong việc xây dựng

và thực hiện chính sách về hỗ trợ, tạo điều kiện cho di sản VHCC phát huy được giá

trị.

- Bảo tồn và phát huy giá trị di sản VHCC Tây Nguyên: Di sản VHCC

Tây Nguyên nói riêng có các giá trị vật chất (là loại nhạc khí quý có giá trị cao

tính bằng vật chất); giá trị biểu thị (sự giàu sang và uy quyền); giá trị tinh thần

(nhạc cụ thiêng của gia đình, cộng đồng); giá trị cố kết cộng đồng (thể hiện ở

tính tập thể, khả năng tập hợp và sức hút mạnh đối với các thành viên cộng đồng

20

trong những sinh hoạt và hoạt động tập thể, có tác dụng rèn luyện ý thức tổ chức,

kỉ luật và năng lực phối hợp tập thể cao chặt chẽ và chính xác; giá trị lịch sử (là

bằng chứng của một truyền thống có lịch sử lâu đời).

Đặc biệt, sự đa dạng của di sản VHCC Tây Nguyên còn tiềm ẩn những

điểm tựa cho việc lần tìm nguồn gốc của loại nhạc khí này cũng như sự phân chia

những vùng VHCC có đặc trưng khác nhau. Ngoài ra còn có thể những giá trị

khác mà chúng ta chưa phát hiện của loại nhạc khí đặc biệt này. Những điều trên

cho thấy không phải ngẫu nhiên mà trong tất cả các nhạc khí ở Việt Nam, chỉ

riêng cồng chiêng mới tạo nên một loại hình văn hóa riêng được gọi là di sản

VHCC Tây Nguyên. Do đó, bảo tồn là tất yếu và có vai trò đặc biệt quan trọng

trong đời sống văn hóa của tộc người nói riêng và nền văn hóa Việt Nam nói

chung.

1.3. Thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách

Thực hiện chính sách có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau như “Thực

hiện chính sách là sự phản ánh một quá trình thay đổi phức tạp mà các quyết

định của Nhà nước được chuyển thành các chương trình, thủ tục, các quy định

hoặc các hoạt động nhằm đạt được những cải thiện xã hội” [Dẫn theo 30, tr.22].

Hay một quan niệm khác “Thực hiện chính sách bao gồm tất cả các hoạt

động được thiết kế để thi hành các chính sách công đã được thông qua bởi cơ

quan lập pháp. Vì các chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có

chủ định nên chúng phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà

sau đó được thực hiện để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích”

[Dẫn theo 30, tr.22 - 23].

Theo các định nghĩa trên, thực hiện chính sách không đơn giản chỉ là sự tổ

chức thực hiện các giải pháp chính sách cụ thể mà bao gồm: ban hành các văn

bản chi tiết, quy định các biện pháp, các thủ tục thực hiện chính sách, thiết lập

21

các chương trình, dự án để thực hiện chính sách công và tổ chức thực hiện các

chương trình, dự án đó. Từ đó có thể hiểu: “Thực hiện chính sách là quá trình

đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn

bản, chương trình, dự án thực hiện và tổ chức thực hiện chúng nhằm thực hiện

hóa mục tiêu của chính sách” [Dẫn theo 30, tr.23].

1.3.2. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên

Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí chủ thể chính

sách thành hiện thực, là bước đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách.

Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng nhưng thực

hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được

thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa mà còn

ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của

Nhà nước). Do đó, việc thực hiện chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên có ý

nghĩa vô cùng quan trọng [Dẫn theo 30, tr.23 – 25]:

- Thực hiện chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên nhằm từng bước thực

hiện mục tiêu chính sách và mục tiêu chung: Mục tiêu chính sách có liên quan

đến nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo những cấp độ khác nhau nên

không thể cùng một lúc giải quyết tất cả vấn đề có liên quan và cũng không thể

đốt cháy giai đoạn của mỗi quá trình. Mục tiêu chính sách chỉ có thể đạt được

thông qua thực hiện chính sách đồng thời giữa các mục tiêu chính sách có quan

hệ chặt chẽ, ảnh hưởng rất lớn đến nhau và đến mục tiêu chung.

- Thực hiện chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên nhằm khẳng định tính

đúng đắn của chính sách: chỉ thông qua thực hiện chính sách mới có thể thực

hiện được chính sách này có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống hay không bởi

việc phân tích, đánh giá một chính sách chỉ có cơ sở đầy đủ, sức thuyết phục sau

khi chính sách được tổ chức thực hiện. Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc

sống là một quá trình phức tạp đầy biến động, chịu sự tác động của nhiều yếu tố

22

giúp các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách có kinh nghiệm để đề ra

được các giải pháp hữu hiệu trong thực hiện chính sách nói chung và chính sách

bảo tồn VHCC nói riêng. Bên cạnh đó, việc nhận thấy những mâu thuẫn cần

được giải quyết bằng chính sách đã cho thấy tính đúng đắn hay không của vấn đề

chính sách.

- Thực hiện chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên nhằm giúp cho chính

sách ngày càng hoàn thiện: Chính sách được quy hoạch bởi một tập thể nên

không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng của ý chí chủ quan. Do ảnh hưởng của ý chí

chủ quan và sự vận động, phát triển của môi trường nên giữa chính sách, thực tế

xã hội và môi trường trong giai đoạn tổ chức thực hiện chắc chắn có khoảng

cách cần được lấp đầy bằng những điều chỉnh về chính sách hay các biện pháp tổ

chức thực hiện chính sách. Những điều chỉnh, bổ sung về mục tiêu hay biện pháp

chính sách trong quá trình thực hiện chính là hoạt động hoàn chỉnh chính sách

đang có và góp phần đúc rút kinh nghiệm cho hoạch định các chính sách tiếp

theo.

1.3.3. Các bước tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên

Chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên cũng giống như những chính sách

khác trong hệ thống chính trị, nó bao gồm 7 bước sau [18, tr.33-37]:

Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Đây là bước cần thiết và quan trọng vì tổ chức thực hiện chính sách là quá

trình phức tạp, diễn ra trong thời gian dài, do đó phải có kế hoạch. Kế hoạch này

bao gồm:

- Kế hoạch về tổ chức, điều hành: hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ

nhân sự, cơ chế thực hiện;

- Kế hoạch cung cấp nguồn lực: tài chính, trang thiết bị;

- Kế hoạch về thời gian triển khai thực hiện;

- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách;

23

- Dự kiến về quy chế, nội dung tổ chức và thực thi chính sách.

Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách.

Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện được thông qua, các cơ quan nhà

nước tiến hành triển khai theo kế hoạch. Việc đầu tiên cần làm trong quá trình

này là tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách. Đây là

một hoạt động quan trọng có ý nghĩa lớn đối với các cơ quan nhà nước và đối

tượng thực hiện chính sách. Phổ biến tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các

nhà quản lý, chính quyền địa phương và người dân với tư cách là chủ thể văn

hóa hiểu rõ mục đích, nhiệm vụ của chính sách, về tính đúng đắn của chính

sách,… để họ tự giác thực hiện đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm trong

thực thi chính sách.

Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách

Bước tiếp theo sau bước tuyên truyền, phổ biến chính sách là phân công,

phối hợp với cơ quan đơn vị tổ chức thực hiện chính sách theo kế hoạch được

phê duyệt. Chính sách được thực hiện trên phạm vi rộng lớn vì thế số lượng cá

nhân và tổ chức tham gia thực hiện chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia bao

gồm các đối tượng tác động của chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ

chức thực hiện của Nhà nước. Không chỉ có vậy, các hoạt động thực hiện mục

tiêu chính sách diễn ra cũng hết sức phong phú, phức tạp theo không gian, thời

gian, chúng đan xen nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm theo quy luật. Bởi vậy, muốn

tổ chức thực hiện chính sách có hiệu quả cần tiến hành phân công, phối hợp giữa

các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia

thực hiện chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính

sách.

Bước 4: Duy trì chính sách

Đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi

trường thực tế. Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực

của nhiều yếu tố như: Nhà nước và người tổ chức thực hiện chính sách phải tạo

24

điều kiện và môi trường để chính sách được thực hiện tốt. Đối với người chấp

hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào thực hiện chính sách.

Nếu các hoạt động này được tiến hành đồng bộ thì việc duy trì chính sách là việc

làm không khó.

Bước 5: Điều chỉnh chính sách

Đây là bước cần thiết, thường xuyên diễn ra trong quá trình tổ chức thực

hiện chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của

chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động

này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.

Bước 6: Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Bất cứ việc triển khai nào cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các

chính sách được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Các cơ

quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra này và nếu tiến hành thường xuyên thì

giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực hiện chính sách từ đó đưa ra

những kết luận chính xác về chính sách. Công tác kiểm tra cũng giúp cho các đối

tượng thực thi nhận ra những hạn chế của mình để điều chỉnh, bổ sung hoàn

thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách.

Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Bước này được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong

quá trình này, có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ kết quả thực hiện chính

sách, trong đó đánh giá toàn bộ được thực hiện sau khi kết thúc chính sách. Đó là

quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của

các đối tượng thực hiện chính sách.

Đối tượng được xem xét, đánh giá, tổng kết về chỉ đạo điều hành là các cơ

quan nhà nước trung ương đến cơ sở. Cơ sở đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo,

điều hành là kế hoạch được giao, nội quy, quy chế được xây dựng ở bước 1.

Với các đối tượng tham gia thực hiện chính sách bao gồm: đối tượng thụ

25

hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách. Thước đo để đánh giá các đối

tượng này là tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành

những quy định về cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban

hành để thực hiện mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian, thời

gian.

Trong 7 bước trên, bước xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách là

quan trọng nhất vì đây là bước đầu tiên làm cơ sở cho các bước tiếp theo. Lập kế

hoạch chuẩn xác, đúng đắn thì chính sách sẽ được triển khai thuận lợi hơn và ngược

lại.

1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa

cồng chiêng Tây Nguyên

Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bao gồm các yếu tố khách

quan và chủ quan sau:

- Yếu tố khách quan:

Tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố gắn liền với mỗi chính sách, nó có

tác động trực tiếp đến hoạch định và thực hiện chính sách. Nếu vấn đề chính sách

đơn giản liên quan đến ít đối tượng thì thực hiện chính sách sẽ dễ dàng và đơn

giản hơn; ngược lại, nếu vấn đề chính sách liên quan đến nhiều đối tượng thì thực

hiện sẽ khó khăn và phức tạp hơn. Như vậy, tính chất của vấn đề có ảnh hưởng

khách quan của việc tổ chức thực hiện chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay

khó khăn.

Môi trường thực hiện chính sách là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh

tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… điều này nói lên rằng một

môi trường ổn định ít biến đổi về chính trị sẽ đưa tới sự ổn định về hệ thống

chính sách và thực hiện thuận lợi. Nếu các bộ phận của môi trường ổn định thì

nó sẽ tạo cho các hoạt động thực hiện dễ dàng.

Mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách là sự thể hiện thống

26

nhất hay không về mặt lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục

tiêu chính sách. Nếu mối quan hệ này có mâu thuẫn thì sẽ ảnh hưởng đến công

tác tổ chức thực hiện.

- Yếu tố chủ quan:

Thực thi đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi chính sách,

các bước này được coi là nguyên lý khoa học được đúc kết từ thực tiễn cuộc

sống, việc tuân thủ quy trình là một nguyên tắc quản lý.

Năng lực thực hiện chính sách của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý

nhà nước là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện

chính sách công. Năng lực thực hiện của cán bộ, công chức là các tiêu chí về đạo

đức, công cụ, năng lực nếu thiếu các điều kiện này thì việc thực hiện sẽ không

hiệu quả. Còn nếu cán bộ, công chức có năng lực và kết hợp với các yếu tố khác

thuận lợi sẽ mang lại một kết quả thực sự.

Điều kiện vật chất cần cho việc thực hiện chính sách là yếu tố ngày càng có

vị trí quan trọng để cùng yếu tố nhân sự và các yếu tố khác thực hiện thắng lợi

chính sách công. Các điều kiện vật chất này là trang thiết bị nhà nước đầu tư cho

quá trình quản lý và khi thực hiện chính sách thì họ dùng để tuyên truyền, phổ

biến các chính sách.

Sự đồng tình, ủng hộ của đối tượng chính sách là nhân tố có vai trò đặc biệt

quan trọng quyết định sự thành bại của chính sách. Các chính sách là những vấn đề

lớn lao, do đó cần có sự đóng góp sức người, sức của trong suốt quá trình thực hiện.

Như vậy, trong hai yếu tố dẫn đến quá trình thực hiện chính sách thì yếu tố

chủ quan là quan trọng hơn, nó quyết định sự thành bại của chính sách, vì trong

yếu tố này chứa đựng các nhân tố quan trọng, chẳng hạn như nhân sự và sự ủng

hộ của các đối tượng chính sách là hai nhân tố cần cho việc thực hiện chính sách.

1.3.5. Yêu cầu và hình thức tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên

- Yêu cầu: Cũng giống như các chính sách khác, để đảm bảo thực hiện

27

chính sách cần các yêu cầu sau [18, tr.37 – 38]:

Bảo đảm được mục tiêu chính sách. Thực hiện chính sách là những hoạt

động cụ thể của cơ quan quản lý nhà nước với các đối tượng chính sách nhằm

đạt được những mục tiêu trực tiếp, ứng với mỗi mục tiêu trực tiếp này là những

chương trình, dự án cụ thể. Kết quả thực hiện chính sách theo quá trình hoạt

động trong từng thời kỳ được lượng hóa bằng những thước đo cụ thể. Tổng hợp

kết quả thực hiện mục tiêu của các chương trình, dự án và các hoạt động thực

hiện khác thành mục tiêu của chính sách. Muốn thực hiện thành công các mục

tiêu của chính sách, Nhà nước phải xác định mục tiêu của từng chính sách thật

cụ thể, rõ ràng và chuẩn xác. Đồng thời, các cơ quan chuyên trách phải triển khai

được mục tiêu chính sách thành những kế hoạch, chương trình cụ thể.

Bảo đảm tính hệ thống trong thực hiện chính sách. Tổ chức thực hiện chính

sách là một bộ phận cấu thành trong chu trình chính sách, nó kết hợp chặt chẽ với

các bộ phận khác trong chu trình tạo nên một hệ thống nhất. Ngay trong quá trình

tổ chức thực hiện cũng bao gồm nhiều bước hợp thành một hệ thống. Nội dung

tính hệ thống bao gồm: Hệ thống mục tiêu và biện pháp của chính sách; hệ thống

trong tổ chức bộ máy thực hiện chính sách; hệ thống trong điều hành phối hợp,

thực hiện; hệ thống trong sử dụng công cụ chính sách với các công cụ quản lý

khác của nhà nước.

Đảm bảo yêu cầu khoa học và pháp lý trong tổ chức thực hiện chính sách.

Tính khoa học thể hiện trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách là việc phối

hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý chính sách, việc thu hút các nguồn lực

hướng mạnh vào việc thực hiện mục tiêu chính sách, hình thành các chương

trình, dự án để thực hiện có hiệu quả một chính sách. Vì vậy, tính khoa học của

quá trình tổ chức thực hiện chính sách phải thể hiện được sức sống để tồn tại

trong thực tế như: Mục tiêu cụ thể của chính sách phải phù hợp với mục tiêu

phát triển của địa phương trong từng thời kỳ; các biện pháp thực hiện mục tiêu

chính sách phải tương ứng với trình độ nhận thức và tài nguyên của vùng hay địa

28

phương. Tính pháp lý được thể hiện trong tổ chức thực hiện chính sách là việc

chấp hành các chế định về thực hiện chính sách như: Trách nhiệm, quyền hạn

của các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện chính sách, thủ tục giải quyết các

mối quan hệ trong thực hiện chính sách…

Bảo đảm hài hòa lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng. Trong xã hội

thường tồn tại nhiều nhóm lợi ích, các nhóm lợi ích lại biến động theo không

gian và thời gian. Tùy theo tính chất của mỗi chế độ xã hội, mà các nhóm lợi ích

sẽ được thụ hưởng khác nhau. Nhà nước thường bảo vệ và chuyển lợi ích đến

các đối tượng thụ hưởng trong xã hội bằng chính sách. Để công cụ này phát huy

tác dụng, cần phải có sự hưởng ứng thực hiện một cách tự giác trên cơ sở lòng

tin của dân chúng vào chính sách của nhà nước. Có được kết quả đó hay không

chỉ khi chính sách thực sự mang lại lợi ích cho mỗi đối tượng thực hiện và toàn

xã hội.

- Hình thức

Hình thức tổ chức thực hiện từ trên xuống: trước khi tiến hành triển khai,

Nhà nước chủ động xây dựng kế hoạch, chuẩn bị các điều kiện về vật chất, kỹ

thuật và nhân sự thực hiện chính sách. Trong quá trình thực hiện chính sách, Nhà

nước chủ động kiểm tra, đôn đốc bằng các phương tiện kỹ thuật hiện có hay

bằng đội ngũ cán bộ, công chức của mình. Khi có phát hiện những sai lệch về

nội dung chính sách, Nhà nước kịp thời điểu chỉnh, bổ sung hoặc kiến nghị với

cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung làm cho hoạt động thực

hiện chính sách diễn ra đúng như định hướng.

Hình thức tổ chức thực hiện chính sách từ dưới lên: Hình thức thực hiện

này ngược với hình thức từ trên xuống. Để thực hiện theo hình thức này, chính

quyền địa phương các cấp, các tổ chức thực hiện triển khai chính sách dựa vào

cuộc sống sau khi được ban hành nhằm phát triển kinh tế - xã hội địa phương

theo định hướng.

Hình thức hỗn hợp trong thực hiện chính sách: Đó là hình thức kết hợp

29

giữa tổ chức thực hiện chính sách từ trên xuống và hình thức tổ chức thực hiện

từ dưới lên nhằm phát huy những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của hai

hình thức trên. Để tạo ra sự đồng bộ trong tổ chức thực hiện chính sách cần chú

ý nội dung kết nối giữa cấp hoạch định và cấp thực hiện.

1.3.6. Phương pháp tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên

- Phương pháp kinh tế: Là cách thức tác động lên các đối tượng tham gia

thực hiện chính sách bằng các lợi ích vật chất. Đây là phương pháp liên quan

trực tiếp đến lợi ích của các nhóm đối tượng chính sách, nên có tác dụng rất

mạnh so với các phương pháp khác.

- Phương pháp giáo dục, thuyết phục: Đây là phương pháp tác động lên đối

tượng và quá trình chính sách bằng lý tưởng, niềm tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn

bản sắc văn hóa dân tộc,… để họ ý thức được trách nhiệm của mình trong việc

tham gia thực hiện chính sách. Ý thức đầy đủ về mục tiêu chính sách sẽ giúp cho

các đối tượng tham gia một cách tự nguyện vào việc thực hiện mục tiêu chung.

- Phương pháp kết hợp: Là phương pháp tác động lên đối tượng và quá trình

chính sách bằng tổng thể các yếu tố để triển khai thực hiện chính sách có hiệu quả.

Đây là phương pháp được xây dựng bằng cách kết hợp các phương pháp trên theo

một trật tự, quy mô nhất định. Về mặt nguyên tắc, phương pháp kết hợp không có

cấu trúc nhất định. Tùy theo điều kiện cụ thể, nhà quản lý kết hợp các phương

30

pháp trên cho phù hợp với yêu cầu tổ chức thực hiện chính sách.

Tiểu kết chương 1

Với những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi đã hệ thống hóa cơ sở lý

luận cơ bản về văn hóa nói chung, VHCC nói riêng, về chính sách và thực hiện

chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên. Cụ thể, chúng tôi đã trình bày hệ thống

khái niềm về văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn văn hóa, bảo tồn và phát huy, khái

niệm cồng chiêng Tây Nguyên, khái niệm chính sách và thực hiện chính sách.

Chương này, chúng tôi cũng đã làm rõ vai trò, nội dung của chính sách bảo

tồn VHCC, cách thức tổ chức thực hiện chính sách, các bước của quy trình tổ

chức thực hiện. Ý nghĩa, yêu cầu, hình thức, phương pháp và các yếu tố ảnh

hưởng đến thực hiện chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên.

Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả mới chỉ nêu và phân tích được một

số cơ sở lý luận, khung khổ lý thuyết cơ bản có liên quan trực tiếp đến đề tài

luận văn. Tuy vậy, tất cả những nội dung này giúp chúng tôi có những nắm bắt

ban đầu về vấn đề nghiên cứu, là cơ sở để triển khai những nội dung ở các

31

chương tiếp theo.

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

2.1. Khái quát về tỉnh Đắk Lắk và di sản văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên

2.1.1. Khái quát về tỉnh Đắk Lắk

Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị

xã và 13 huyện. Trong đó có 184 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 152 xã,

20 phường và 12 thị trấn [2, tr.146].

- Về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:

Vị trí địa lý: tỉnh Đắk Lắk hiện nay có vị trí địa lý từ 11044’ đến 13032’ (vĩ

độ Bắc); từ kinh độ 107023’ đến 109006’ (kinh độ Đông). Phía Bắc giáp tỉnh Gia

Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và Đắk Nông, phía Đôn giáp tỉnh Phú Yên và

Khánh Hòa, phía Tây giáp tỉnh Moldolkiri (Campuchia), có đường biên giới

chung dài 73 km. Diện tích tự nhiên 13.125 km2, chiếm 27,6% diện tích vùng Tây

Nguyên [2, tr.146].

Địa hình: Đắk Lắk là tỉnh có địa hình tương đối phức tạp bao gồm địa hình

vùng núi cao nằm ở phía Đông Nam của tỉnh với diện tích gần bằng ¼ diện tích tự

nhiên của toàn tỉnh, ngăn cách giữa cao nguyên Buôn Ma Thuột với cao nguyên

Lâm Viên, Di Linh tỉnh Lâm Đồng; địa hình vùng núi thấp và trung bình về phía

Tây Bắc của tỉnh, gồm một số ngọn núi cao trung bình 600 đến 700 mét theo

hướng Bắc - Tây Bắc, Nam - Đông Nam; địa hình cao nguyên chiếm phần lớn

diện tích tự nhiên của tỉnh, tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Đông Bắc xuống

Tây Nam1; địa hình bán bình nguyên và địa hình vùng đồng bằng, trũng giữa núi ở

1 Với ba cao nguyên lớn như Cao nguyên Buôn Ma Thuột; Cao nguyên Basalte Đắk Nông, Đắk Mil nằm ở phía Nam và Tây Nam của tỉnh; Cao nguyên phi Basalte M’Đrăk (cao nguyên Khánh Dương) nằm ở phía Đông thành phố Buôn Ma Thuột.

32

vị trí phía Nam của tỉnh

Khí hậu: chia thành hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng

4 năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5, cũng có khi vào tháng 4 và chấm dứt vào

tháng 10 hay tháng 11. Khí hậu Đắk Lắk vừa mang nét chung của khí hậu nhiệt đới

gió mùa, vừa chịu ảnh hưởng của khí hậu vùng cao nguyên rất thuận lợi cho phát

triển sản xuất nông - lâm nghiệp với cơ cấu cây trồng đa dạng, phong phú. Tuy

nhiên, hàng năm có mùa khô và mùa mưa rõ rệt nên về mùa mưa do lượng mưa lớn

tập trung thường gây lũ quét, úng cục bộ.

- Tài nguyên thiên nhiên:

Đất đai: theo kết quả điều tra, chỉnh lý bổ sung bản đồ đất tỉnh Đắk Lắk của

Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp năm 2005, toàn tỉnh có 8 nhóm đất, với

23 đơn vị bản đồ2. Nguồn tài nguyên đất của Đắk Lắk khá đa dạng với sự góp mặt

hầu hết của các nhóm đất có ở Việt Nam, trong đó nhóm đất bazan có 345.001 ha

đất hình thành trên đá bazan, chiếm 26% diện tích toàn tỉnh, chiếm 27% tổng diện

tích đất bazan vùng Tây Nguyên (Tây Nguyên có 1,3 triệu ha đất bazan) và chiếm

khoảng 14% quỹ đất bazan toàn quốc (toàn quốc có 2,4 triệu ha đất bazan); là một

trong những tỉnh có diện tích đất bazan lớn nhất Việt Nam, là loại đất phù hợp với

nhiều loại cây công nghiệp dài ngày, trong đó cây cà phê Robusta cho năng suất

cao và phẩm chất tốt.

Rừng: Đắk Lắk là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn về rừng với gần

1,14 triệu ha đất nông, lâm nghiệp, trong đó, 507.247ha có rừng, độ che phủ của

rừng (tính cả cây cao su là 39,3%). Tỉnh có Vườn quốc gia Yok Đôn rộng trên

115.500ha là khu vườn quốc gia lớn nhất Việt Nam. Ngoài ra, Đắk Lắk còn có 4

khu rừng đặc dụng: Vườn quốc gia Čư Yang Sin (huyện Krông Bông, huyện Lắk;

Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ka (huyện Lắk); Rừng lịch sử văn hóa môi trường

hồ Lắk (huyện Lắk); Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô (huyện Ea Kar) mỗi khu có

33

diện tích từ 20 đến 60ha [2, tr.148].

Nước: trong hai hệ thống sông chính trên địa bàn Đắk Lắk, lớn nhất là hệ

thống sông Sêrêpôk, chảy theo hướng Tây Bắc đổ vào sông Mê Kông với tổng

diện tích lưu vực là 14.420 km2, chạy qua địa bàn tỉnh 341 km, gồm hai nhánh

chính là sông Krông Ana và Krông Nô. Hệ thống lưu vực sông Ba có diện tích lưu

vực 13.900km2 nằm về phía Đông Bắc tỉnh và có hai phụ lưu chính chảy trong

phạm vi của tỉnh là sông Krông Hin và sông Krông Năng. Hai sông này bắt nguồn

từ dãy núi cao và chảy qua các vùng có lượng mưa lớn.[2, tr.148].

Khoáng sản: Đắk Lắk là tỉnh nhiều khoáng sản có giá trị cao trong lòng đất

như cao lanh, vàng, chì, than bùn, đất sét,… Quặng Bôxít dự đoán với trữ lượng

lớn, đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành công nghiệp khai khoáng. Sét

cao lanh có trữ lượng lớn phân bố ở M’Đrăk và Buôn Ma Thuột. Sét gạch ngói

ước tính trên 50 triệu tấn phân bố ở Krông Na, Buôn Ma Thuột và nhiều nơi khác

trong tỉnh. Các khoáng sản khác như vàng ở Ea Kar, chì ở Ea H’leo, phốt pho ở

Buôn Đôn, than bùn ở Chu Đăng, đá ốp lát, đá, cát xây dựng,… có trữ lượng

không lớn phân bố nhiều nơi trong tỉnh. Nguồn nước khoáng tập trung ở Đắk Mil

rất lớn [2, tr.148].

- Điều kiện kinh tế

Kinh tế chủ đạo của Đắk Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông

sản, lâm sản. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

của Việt Nam năm 2017, tỉnh Đắk Lắk xếp ở vị trí thứ 31/63 tỉnh thành. Đắk Lắk

là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước, với diện tích

182.343 ha và sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40%

sản lượng cả nước [2, tr.154].

Năm 2016, cơ cấu kinh tế (theo giá hiện hành): nông - lâm - thủy sản đạt

44,81%; công nghiệp - xây dựng đạt 14,48%; dịch vụ đạt 38,68% [2, tr.154].

Ngành nông, lâm, thủy sản là ngành phát triển khá, góp phần chủ yếu duy trì tốc

34

độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh [2, tr.158].

- Điều kiện xã hội

Dân số và dân cư: Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh

Đắk Lắk đạt 1.869.322 người, mật độ dân số đạt 135 người/km². Trong đó dân

số sống tại thành thị đạt 462.013 người, chiếm 24,7% dân số toàn tỉnh, dân số

sống tại nông thôn đạt 1.407.309 người, chiếm 75,3% dân số. Dân số nam đạt

942.578 người, trong khi đó nữ đạt 926.744 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số

phân theo địa phương tăng 0,75 ‰ [7]..

Toàn tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc cùng chung sống, tỷ lệ đồng bào dân

tộc tiểu số chiếm 30% tổng dân số, trong đó có 4 dân tộc thiểu số tại chỗ Ê-

đê, Mnông, Gia rai, Xơ đăng. Dân tộc Ê-đê gần 300.000 người thuộc hệ ngôn

ngữ Nam Đảo (Malayo – Polynesien), gồm các nhóm: Kpạ, Adham, M’dhur,

Bih, Blô, K’tul, K’rung, Ê Ban, H’wing,… Dân tộc Mnông trên 40.000 người

thuộc hệ ngôn ngữ Môn - Khơme, gồm các nhóm: Gar, Noong, Bu Nơr,

Chinh, Kuênh, Prâng, Prenh, Rlăm, Bu Đâng, Biăt, Dip, Rơ Ông,…

Về tôn giáo: Theo thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến

ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đắk Lắk có 13 tôn giáo khác nhau chiếm

450.728 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo, Tin Lành, Phật giáo sau

đến đạo Cao Đài và các tôn giáo khác [21, tr.42].

Về giáo dục: Hệ thống giáo dục trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng tương

đối hoàn chỉnh. Tính đến năm 2016, trên địa bàn toàn tỉnh Đắk Lắk có 1.003

trường học ở cấp phổ thông, trong đó có 54 trường Trung học phổ thông, có

232 trường Trung học cơ sở, cấp Tiểu học có 424 trường và Mẫu giáo có 293

trường [2, tr.162].

Về y tế: Hệ thống khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh từng bước được

củng cố, chất lượng từng bước được nâng cao. Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về

y tế đạt 70,1%; tỷ lệ giường bệnh trên 1 vạn dân đạt 22,34%,…[2, tr.164].

Về hệ thống giao thông: Tỉnh Đắk Lắk có 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài

35

460 km, có quốc lộ 14, quốc lộ 27, quốc lộ 26 nối với quốc lộ 1A tại thị trấn

Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ngoài ra, tỉnh có sân bay Buôn Ma Thuột với

các tuyến bay đi lại từ Buôn Ma Thuột đến các thành phố lớn như Thành phố Hồ

Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Vinh [2, tr.150].

- Điều kiện văn hóa

Là địa bàn cư trú của 47 dân tộc, trong đó có 46 DTTS tạo nên đặc trưng

văn hóa Đắk Lắk với nhiều nét đan xen, đặc sắc. Vì thế, Đắk Lắk với một hiện

thực văn hóa dân gian vô cùng sống động, phong phú, đa dạng của các dân tộc

sống trên cao nguyên này. Các nền văn hóa dân gian ấy thống nhất trong sự đa

dạng và đa dạng trong sự thống nhất, tạo thành một bức tranh văn hóa dân gian

Đắk Lắk với những mảng màu khác nhau, nhưng lại kết hợp khá hài hòa tạo nên

một nét độc đáo, tinh tế của một phong cách Đắk Lắk.

Bên cạnh nền văn hóa cộng đồng là nền VHCC khá độc đáo của các DTTS

tại chỗ, với sự hội nhập của dàn chiêng K'nah (Ê-đê), Goong la, Goong pế,

Goong lú (Mnông), Arap (Xơ đăng, Gia rai) và các dàn chiêng Vân Kiều,

Mường, Thái... rộn rã trầm hùng, ngân vang, tạo thành một bản hợp xướng giàu

âm điệu của núi rừng Tây Nguyên [3]. Đặc biệt, ở Đắk Lắk, cồng chiêng của các

dân tộc Tây Nguyên đã được thiêng hóa. Nó là công cụ duy nhất để con người

thông tin với các vị thần linh trong trời đất, là âm nhạc không thể thiếu được

trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt văn hóa, trong nghi lễ và lễ hội của

các buôn làng.

Lễ hội cũng là một đặc trưng văn hóa Đắk Lắk, các nghi lễ nông nghiệp (ăn

cơm mới, cúng hồn lúa, cầu mưa, cúng bến nước, ăn trâu - mừng được mùa...),

nghi lễ vòng đời người (đặt tên, thổi lỗ tai, trưởng thành, cúng sức khỏe, kết

nghĩa anh em, lễ cưới, lễ bỏ mả...) khá độc đáo và sinh động của các DTTS tại

chỗ. Lễ hội mùa xuân của các dân tộc thiểu số phía Bắc như Tày, Nùng,

Hmông,… đó là những lễ hội vô cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng của

mỗi dân tộc. Nó mang trong mình sức sống và ước mơ lý tưởng mang ý nghĩa

36

tâm linh độc đáo [3].

Trong quá trình giao lưu, tiếp biến, giao thoa văn hóa, các DTTS tại chỗ

Đắk Lắk cùng các DTTS phía Bắc và văn hóa người Việt vẫn giữ được những

nét đặc trưng văn hóa riêng của mình, gia nhập vào cái chung của văn hóa Đắk

Lắk, tạo cho vùng đất này có một nền văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc.

2.1.2. Khái quát về không gian văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk

- Không gian cồng chiêng:

Không gian VHCC Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai,

Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa quý giá và đặc

sắc này là 12 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á (Austro-Asian) và

Nam đảo (Austronesian) sống trên khu vực cao nguyên trung bộ của Việt Nam,

các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn – Tây Nguyên như: Bana, Xơ đăng,

Mnông, Cơho, Rơmăm, Ê-đê, Gia rai,... Âm nhạc cồng chiêng gắn với các hệ

thống nghi lễ (nghi lễ vòng đời và nghi lễ nông nghiệp), gắn với các lễ hội của

các DTTS tại chỗ, gắn với không gian nương rẫy, không gian rừng, không gian

nhà dài mẫu hệ Ê-đê, Mnông,… Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng

theo cách thức riêng để chơi những bản nhạc của dân tộc mình, nhất là vào dịp lễ

hội, chào đón năm mới, mừng nhà mới và cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc

sống của người Tây Nguyên, nó là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để

diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng

ngày của họ. Trải qua bao năm tháng cồng chiêng đã trở thành nền văn hóa đặc

trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên [21, tr.44].

- Cấu tạo, loại hình và đặc điểm:

Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc

đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng thì không có núm. Nhạc cụ này có nhiều

kích cỡ, đường kính dao động từ 20cm đến 60cm, loại cực đại lên tới 90cm hoặc

đến 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ bao

37

gồm từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc [21, tr.43].

Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo, đặc sắc và đa dạng. Các

dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập

thang âm của riêng mình. Trong đó, mỗi biên chế của từng tộc người đều cấu tạo

bởi thang 3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản. Song, cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm,

bên cạnh âm cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Chính vì vậy

trên thực tế, một dàn 6 chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa [21,

tr.43].

Cồng chiêng Tây Nguyên bảo lưu hình thức diễn xướng tập thể của cộng

đồng. Hợp tấu bằng cách nghe nhau, trong đó tâm linh cộng đồng đóng vai trò

quan trọng. Bởi, mỗi chiếc cồng chiêng Tây Nguyên chỉ là một nốt nhạc. Từng

chiếc cồng chiêng trong dàn kết hợp với nhau để tạo ra bản nhạc, khi nghe sẽ cảm

nhận được bè trầm, bè trung và bè cao. Do đó mỗi nhạc cụ chỉ chọn một nốt và

mô hình tiết tấu kết chung lại thành bè, thành giai điệu. Điều này cho thấy giai

điệu cồng chiêng Tây Nguyên không phải của một cá nhân nào mà là sự sáng tạo

của cộng đồng.

Đặc điểm nổi bật nhất của cồng chiêng Tây Nguyên đó là trong cấu tạo.

Cấu tạo của cồng chiêng Tây Nguyên không tách ra đơn lẻ mà thành dàn và dàn

cồng chiêng được diễn tấu bởi một tập thể người mang tính cộng đồng dân tộc

sâu sắc. Nghĩa là ở đây mỗi nhạc công chỉ chơi một chiếc cồng hoặc một chiếc

chiêng, tức là mỗi người chỉ đảm nhiệm một nốt nhạc trong một bản nhạc. Bởi

vậy, khi hoà tấu cồng chiêng, các thành viên phải diễn tấu, kết hợp với nhau theo

từng đơn vị tiết tấu nhất định để tạo nên bài bản.

Một số loại chiêng mà các tộc người Tây Nguyên sử dụng hiện nay [21,

tr.44]:

- Chiêng Lào được đưa từ Lào sang, có người còn cho rằng chiêng Lào thực

ra đã được đúc từ Myanma, qua con đường trao đổi, buôn bán đã đến Tây

Nguyên. Đây là loại chiêng rất quý được đúc bằng đồng có pha bạc, tiếng kêu to

38

và vang xa.

- Chiêng Yoăn: do người Kinh đúc.

- Chiêng Kur: được đưa từ Campuchia sang.

Mỗi một dân tộc ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo tín ngưỡng thẩm

mỹ riêng của mình và họ chơi những bản nhạc riêng của dân tộc mình. Ngoài sự

phong phú đó nó còn được biểu diễn ở một trình độ cao. Cồng chiêng Tây

Nguyên có nhiều cách gọi rất phong phú, có khi được đặt dựa theo âm thanh

nhạc, có khi tên gọi theo vị trí của nó trong dàn nhạc. Đặc biệt những chiếc cồng

phát ra âm thanh thấp - vốn là âm cơ bản - mang tên “mẹ”. Trong dàn cồng

chiêng có từ 9 cồng chiêng trở lên thì thêm “cồng cha”, bên cạnh “cồng mẹ”,

tiếp theo là “cồng con”, cồng cháu”, tức hình thành hệ thống gia đình với “cồng

mẹ” luôn luôn đứng trước “cồng cha”, rất phù hợp với chế độ mẫu hệ của người

Tây Nguyên [28]. Chẳng hạn, nổi bật tại Đắk Lắk là dàn chiêng của dân tộc Ê-đê

và Mnông. Dân tộc Ê-đê có dàn chiêng knah, ngôn ngữ Ê-đê gọi là cing k’nank,

gồm: Chiêng bằng lớn: c`ing char (người ông); chiêng núm lớn: c`ing ana

(người mẹ); chiêng núm nhỡ: m’ đu`h (người bố); Chiêng núm nhỏ: moong (ông

cậu); chiêng bằng 1: k’nah di (chị lớn); chiêng bằng 2: h’liang (chị thứ hai);

chiêng bằng 3: khowk (con trai lớn); chiêng bằng 4: h’luê khowk (con trai lớn thứ

hai); chiêng bằng 5: h’luê h’liang (chị thứ ba); chiêng bằng 6: h’luê khowk (con

trai út); trống h’gowrr (người bà). Dân tộc Mnông có dàn chiêng bor, dân tộc

Mnông Gar, Noong, Preh gọi là c`ing bor, gồm: May (mẹ); R’nui (bố); N’dơt,

Loa, Thơ, Thết (các con); Goong pêh: Me (mẹ); T’rơ (bố); Kon (con) [28].

- Ý nghĩa tâm linh của diễn xướng cồng chiêng:

Cồng chiêng là di sản văn hóa quý báu của đồng bào các dân tộc Tây

Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng. Cồng chiêng được coi là vật thiêng

nhất, có giá trị nhất trong mỗi gia đình, dòng họ và mỗi thành viên trong cộng

đồng, nó còn là tài sản chung của mỗi dân tộc hợp thành đại gia đình các gia

đình trên cao nguyên. Theo quan niệm của các già làng, cồng chiêng có thể giúp

39

cho con người thông tin trực tiếp với thần linh, với các giàng. Cồng chiêng

không sử dụng một cách bừa bãi mà chỉ được sử dụng trong các lễ hội của buôn

làng. Cồng chiêng từ bao đời đã gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng, với

các nghi lễ - lễ hội của đồng bào các dân tộc bản địa Đắk Lắk; là thế giới tinh

thần, là bản sắc văn hóa của đồng bào nơi đây.

Cồng chiêng Tây Nguyên là nhạc cụ gắn chặt với đời sống vật chất và

tâm linh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Vì vậy, cồng chiêng Tây

Nguyên thực sự sống động khi nó được thực hiện giữa không gian núi rừng Tây

Nguyên, bên ngọn lửa trại hoặc ở nhà rông. Cồng chiêng Tây Nguyên đã đi vào

sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồn của loại nhạc cụ này:

“Hãy đánh những cái chiêng kêu thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh

nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất. Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ! Đánh

cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa. Đánh cho tiếng chiềng vượt qua mái

nhà vọng lên trời. Đánh cho khỉ trên cây cũng quên bám chặt vào cành đến phải

ngã xuống đất. Đánh cho ma quỷ mê mải nghe đến quên làm hại con người.

Đánh cho chuột, sóc quên đào hang, cho rắn nằm ngay đơ, cho thỏ phải giật

mình, cho hươu, nai nghe quên ăn cỏ, cho tất cả chỉ còn lắng nghe tiếng chiêng

của Đam San” [21, tr.46]. Với người dân Tây Nguyên cồng chiêng còn là đại

diện, là nguồn sống, là tín ngưỡng tâm linh. Người Tây Nguyên sinh ra trong

giây phút đầu tiên được đón bằng bằng tiếng chiêng, chết có tiếng chiêng tiễn

đưa. Tất cả các lễ lạt trong cuộc đời đều có tiếng cồng chiêng.

- Số lượng:

Qua công tác điều tra của ngành văn hóa, cồng chiêng toàn tỉnh Đắk Lắk

năm 1993 có 4.675 bộ cồng chiêng; năm 2003 còn 3.825 bộ chiêng; đến năm

2007 còn 3.375 bộ cồng chiêng, trong đó dân tộc Ê-đê có 2.680 bộ, dân tộc

Mnông có 627 bộ, dân tộc Giarai có 68 bộ; đến nay số bộ cồng chiêng Tây

Nguyên trên địa bàn tỉnh vẫn tiếp tục giảm so với những năm trước đây. Tính

đến cuối năm 2013, tỉnh Đắk Lắk đã thống kê được 2.307 bộ chiêng đủ; trong đó

40

dân tộc Ê-đê có 2.064 bộ, dân tộc Mnông 164 bộ, dân tộc Gia rai 62 bộ, Xơ đăng

8 bộ, Bru -Vân Kiều 9 bộ; số nghệ nhân biết diễn tấu cồng chiêng có khoảng

3.855 người; 635 nghệ nhân biết dạy diễn tấu cồng chiêng; số nghệ nhân biết

chỉnh chiêng có 393 người; số nghệ nhân biết dạy đánh cồng chiêng có 635

người; tên các bài chiêng có 139 bài; có 554 đội cồng chiêng truyền thống; còn

2.608 căn nhà dài truyền thống, 220 bến nước và 155 nghi lễ truyền thống [21,

tr.43]. Nhờ thực hiện tốt công tác bảo tồn, trong khoảng thời gian từ 2015 đến

nay, số lượng này vẫn ổn định và có xu hướng tăng số lượng chiêng do công tác

cấp, phát, sưu tầm, ghi chép,… từ các Đề án bảo tồn VHCC của tỉnh.

Vì ý nghĩa cộng hưởng của cả không gian và nghệ thuật, Không gian

VHCC Tây Nguyên được Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên

hợp quốc (UNESCO) công nhận không gian VHCC Tây Nguyên là kiệt tác

truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại (tháng 11/2005) và Di sản văn hóa phi

vật thể đại diện của nhân loại (2008). Đây là một trong những sự kiện có ý nghĩa

quan trọng, là niềm tự hào đối với các DTTS tại chỗ Tây Nguyên.

2.2. Thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ

Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong

thời kỳ mới”; Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư (khóa X) “Về chống sự xâm

nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; triển khai

thực hiện Đề án “Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số đến năm

2020” theo Chỉ thị số 194/CT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa XI), Tỉnh ủy Đắk Lắk cụ thể hóa bằng Chương trình

hành động số 41-CTr/TU ngày 26/8/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con

41

người Việt Nam. Trong đó chú trọng các mục tiêu bảo tồn, phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc tại chỗ như: Xây dựng văn hóa, con

người Đắk Lắk phát triển toàn diện, đề cao các giá trị văn hóa truyền thống

hướng đến chân - thiện - mỹ; Tập trung xây dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hóa tại chỗ; từng bước hoàn thiện các thể chế, thiết chế văn hóa từ tỉnh đến

cơ sở; làm cho văn hóa thấm sâu đến từng người, từng nhà, từng gia đình và

cộng đồng, xã hội; thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội làm

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Những năm qua, xác định vai trò đặc biệt quan trọng của VHCC trong đời

sống tinh thần của đồng bào các dân tộc, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND),

Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã ban hành nhiều văn bản, chỉ đạo các cấp ủy

Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh đẩy mạnh công tác phối hợp, triển khai

thực hiện công tác bảo tồn, phát huy vốn văn hóa truyền thống của các dân tộc,

nhất là bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Không gian VHCC; đồng thời tổ chức các

tốt các hoạt động văn hóa, nghệ thuật liên quan đến Không gian VHCC, nhằm

nâng cao nhận thức, đề cao vai trò, ý nghĩa của cồng chiêng trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh qua từng giai đoạn. Cụ thể như: UBND tỉnh Đắk

Lắk cũng ban hành Chỉ thị số 25/2006/CT-UBND ngày 18/12/2006 “Về việc bảo

tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc tỉnh Đắk Lắk” và chỉ thị 26/2006/CT-

UBND ngày 19/12/2006 “Về đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa”; Ngày 25/10/2006 UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành

Quyết định số 1987 về việc phê duyệt dự án đầu tư bảo tồn buôn văn hóa dân tộc

Mnông Rlâm thuộc buôn M’Liêng, xã Đắk Liêng, huyện Lắk; Nghị quyết số

10/NQ-HĐND, ngày 13-7-2007 “Về bảo tồn, phát huy di sản VHCC Đắk Lắk,

giai đoạn 2007 - 2010”; Chỉ thị 06/2012/CT-UBND, ngày 28-12-2012 “Về việc

bảo tồn, phát huy Di sản văn hóa các dân tộc ở Đắk Lắk trong thời kỳ công

nghiệp hóa-hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 63/2012/NQ-

HĐND, ngày 06/7/2012 “Về bảo tồn, phát huy di sản - Không gian VHCC tỉnh

42

Đắk Lắk, giai đoạn 2012 - 2015”, Nghị quyết 05/2016/NQ-HĐND ngày

30/8/2016 “Về bảo tồn, phát huy VHCC giai đoạn 2016 – 2020”, … Các văn

bản đều nêu rõ mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, giải pháp của các ban, ngành,

đoàn thể các cấp, các tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc sưu tầm, bảo tồn và

phát huy có hiệu quả giá trị di sản VHCC trên địa bàn tỉnh.

Sau khi UNESCO công nhận Không gian VHCC Tây Nguyên là Di sản

văn hóa phi vật thể của nhân loại (tháng 11-2005), Bộ văn hóa- Thông tin đã ra

Chương trình hành động số 2908/CTr-BVHTT ngày 19/7/2006 về “Bảo tồn,

phục hồi giá trị của kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại:

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”. Trên tinh thần đó, UBND tỉnh

Đắk Lắk đã nhanh chóng xây dựng và thực hiện Chương trình hành động này

thông qua đề án “Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk giai

đoạn 2007 – 2010”. Đề án nhằm mục tiêu giữ gìn, bảo tồn, khai thác và phát huy

hiệu quả Không gian VHCC trong đời sống của cộng đồng các DTTS trên địa

bàn tỉnh. Đề án bao gồm một số nội dung như [52]:

- Khảo sát, điều tra số lượng cồng chiêng, tên chiêng, độ tuổi, chủ nhân của

bộ chiêng, tên, tuổi các nghệ nhân truyền thống, các đội chiêng trẻ,… điều tra số

lượng, ghi âm các bài chiêng cổ, các nhà dài truyền thống gắn với không gian

diễn tấu cồng chiêng.

- Tổ chức các đội thông tin lưu động, phối hợp với các cơ quan thông tin

trong toàn tỉnh để cổ động, tuyên truyền về công tác bảo tồn, phát huy giá trị

VHCC.

- Tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ DTTS tại thôn, buôn, đặc

biệt tầng lớp thanh, thiếu niên biết đánh cồng chiêng, truyền đạt các kỹ năng

chỉnh chiêng, sử dụng các loại nhạc cụ dân tộc nhằm góp phần vào công tác bảo

tồn VHCC.

- Xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức lễ hội, liên hoan VHCC hàng

43

năm từ cơ sở, huyện đến tỉnh nhằm khai thác và phục hồi các lễ hội truyền thống

gắn với không gian, môi trường diễn tấu cồng chiêng như: Lễ mừng lúa mới, Lễ

cúng bến nước, Lễ kết nghĩa anh em,…

- Tổ chức sưu tầm, triển lãm tranh, sách, ảnh, tạp chí,… về VHCC. Thành

lập phòng Lưu trữ di sản VHCC thuộc Bảo tàng tỉnh. Tiếp tục nghiên cứu, tổ

chức hội thảo nhằm đánh giá sâu về giá trị vô giá của Không gian VHCC đối với

các DTTS tỉnh Đắk Lắk.

- Xây dựng chính sách hỗ trợ kinh phí cho các gia đình có công gìn giữ

cồng chiêng lâu đời (trên 100 tuổi); hỗ trợ cho các nghệ nhân có thành tích trong

việc gìn giữ cồng chiêng, truyền dạy kỹ năng đánh chiêng, chỉnh chiêng; hỗ trợ

cho các đội chiêng có công lưu giữa các bài chiêng cổ trong cộng động. Trong

giai đoạn từ 2007 – 2010, từng bước trang bị cho các nhà văn hóa cộng đồng

thôn, buôn DTTS tại chỗ 1 bộ chiêng. Nguồn kinh phí dự kiến trong giai đoạn

này là 6 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước và từ nguồn xã hội hóa của các tổ chức,

doanh nghiệp.

Kết thúc Đề án giai đoạn 2007 – 2010, HĐND tỉnh tiếp tục ban hành Nghị

quyết 63/2012/NQ-HĐND ngày 6/7/2012 về “Bảo tồn, phát huy di sản - Không

gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2012 – 2015”. Kế thừa những

thành tựu ở giai đoạn trước, giai đoạn này tiếp tục thực hiện mục tiêu gìn giữ,

bảo tồn, khai thác và phát huy có hiệu quả di sản VHCC, từng bước khôi phục

Không gian VHCC trong đời sống cộng đồng các DTTS ở Đắk Lắk, góp phần

phát triển văn hóa - du lịch trong thời kỳ hội nhập. Nghị quyết bao gồm những

nội dung cơ bản sau [53]:

- Về công tác tuyên truyền:

+ Tuyên truyền, vận động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và đồng

bào các dân tộc nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm gìn giữ, phát huy các

giá trị VHCC; chú trọng tổ chức hoạt động giao lưu văn hóa, biểu diễn nghệ

44

thuật, thông tin lưu động.

+ Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí trong tỉnh và Trung ương

tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về giá trị Không

gian VHCC.

- Tổ chức truyền dạy đánh cồng chiêng: Mở lớp dạy đánh cồng chiêng cho

con em đồng bào các DTTS tại chỗ trong tỉnh, nhằm chuyển giao kỹ năng sử

dụng chiêng giữa thế hệ cha anh cho thế hệ trẻ.

- Bảo tồn không gian VHCC của một số buôn truyền thống: Chọn mỗi

huyện, thị xã, thành phố 01 buôn để bảo tồn.

- Hỗ trợ cho một số đội chiêng truyền thống có thành tích bảo tồn phát huy

di sản VHCC: Mỗi huyện chọn 03 đội chiêng của 03 buôn.

- Phục dựng các lễ hội truyền thống của đồng bào các DTTS tại chỗ gắn với

môi trường diễn xướng VHCC.

- Tổ chức giao lưu VHCC giữa các buôn làng trong cộng đồng và giao lưu

VHCC giữa 3 cụm trong tỉnh.

- Tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống trong nhà sinh hoạt cộng

đồng trở thành không gian diễn xướng VHCC.

- Thống kê, sưu tầm, lưu giữ các bài chiêng trong nghi lễ vòng đời người,

nghi lễ nông nghiệp của đồng bào các DTTS tại chỗ bằng phương tiện hiện đại.

- Xuất bản sách và đĩa CD về kết quả bảo tồn, phát huy di sản VHCC Đắk

Lắk, giai đoạn 2012 - 2015 để phát hành sâu rộng trong đồng bào các DTTS Đắk

Lắk.

- Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề đánh giá kết quả thực hiện đề

án, định hướng bảo tồn, phát huy trong giai đoạn tiếp theo.

Kinh phí để thực hiện Nghị quyết giai đoạn này gần 49 tỷ đồng, bao gồm

Ngân sách nhà nước, Ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa.

Giai đoạn 2016 – 2020, nhằm bảo tồn và phát huy có hiệu quả di sản

VHCC, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh, tỉnh Đắk Lắk

45

đã ban hành Nghị quyết số 05/2016/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của HĐND tỉnh

về Bảo tồn, phát huy VHCC giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó, Nghị quyết cũng đã

đưa ra các hoạt động cụ thể trong giai đoạn này như sau [54]:

- Tuyên truyền, vận động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và đồng

bào các dân tộc nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm gìn giữ, phát huy các

giá trị VHCC; phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí trong tỉnh và Trung

ương tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về giá trị

Không gian VHCC.

- Trang bị cồng chiêng, cấp trang phục truyền thống cho các nghệ nhân và

các đội chiêng có nhiều thành tích trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị

VHCC.

- Mở lớp dạy đánh cồng chiêng, truyền dạy chỉnh chiêng, nhảy dân ca, dân

vũ, truyền dạy sử thi cho thế hệ trẻ.

- Phổ biến kiến thức và tổ chức sinh hoạt ngoại khóa về VHCC trong các

trường học, đặc biệt là các trường dân tộc nội trú tỉnh.

- Phục dựng một số lễ hội truyền thống có nguy cơ mai một của đồng bào

các DTTS tại chỗ.

- Phối hợp với các địa phương triển khai chính sách tôn vinh, đãi ngộ

khuyến khích các cá nhân, tập thể tham gia vào công tác bảo tồn VHCC; thống

kê, sưu tầm, ghi chép các bài chiêng cổ trong các nghi lễ truyền thống của người

DTTS tại chỗ; thống kê số lượng nghệ nhân dân gian biết đánh chiêng, chỉnh

chiêng, nhớ các bài chiêng cổ.

- Tổ chức giao lưu VHCC giữa các buôn làng cũng như giữa các cụm trong

tỉnh.

- Xuất bản sách và đĩa CD về công tác bảo tồn, phát huy giá trị của di sản

VHCC giai đoạn 2016 – 2020.

- Tổ chức các hội thảo, hội nghị về bảo tồn, phát huy giá trị VHCC, đánh

46

giá kết quả thực hiện đề này và định hướng trong những giai đoạn tiếp theo.

Kinh phí để thực hiện Đề án giai đoạn này trên 10 tỷ đồng, bao gồm Ngân

sách nhà nước, Ngân sách địa phương và các nguồn vốn từ nguồn lực xã hội hóa.

Như vậy, nhằm bảo tồn, phát huy Không gian VHCC Tây Nguyên, UBND

tỉnh cùng với các sở, ban ngành đã xây dựng 3 Đề án qua 3 giai đoạn: 2007 –

2010; 2012 – 2015 và 2016 – 2020. Nhìn chung, các Đề án đều có các hoạt động

chung như: về công tác tuyên truyền, cấp chiêng, cấp trang phục; tổ chức các lớp

truyền dạy đánh cồng chiêng cho thế hệ trẻ; tổ chức giao lưu, liên hoan VHCC

các cấp, phục dựng các nghi lễ, lễ hội tạo môi trường diễn xướng cồng chiêng; tổ

chức hội thảo, hội nghị bàn về vấn đề bảo tồn cồng chiêng,… Việc triển khai

thực hiện các Đề án này nhằm mục tiêu lớn nhất là bảo tồn, phát huy giá trị

VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Bên cạnh đó, nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác bảo tồn và phát huy giá trị

di sản Không gian VHCC Tây Nguyên, tạo không gian diễn xướng VHCC, đồng

thời từng bước hình thành các điểm du lịch văn hóa gắn với các hoạt động biểu

diễn nghệ thuật dân gian tại một số di tích, danh thắng, UBND tỉnh Đắk Lắk đã

ban hành Chương trình số 4980/CTr-UBND về việc biểu diễn VHCC phục vụ

nhân dân và du khách năm 2017. Nội dung chương trình biểu diễn bao gồm: Tổ

chức biểu diễn các tiết mục thể hiện giá trị VHCC và nhạc cụ của các DTTS trên

địa bàn tỉnh; hòa tấu cồng chiêng, hòa tấu nhạc cụ của các DTTS; biểu diễn các

trích đoạn sử thi, trường ca; hát các thể loại trường ca, đối đáp, tình ca Tây

Nguyên,… qua đó thể hiện sự phong phú, ấn tượng, đặc trưng của di sản.

2.2.1. Đánh giá thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

2.2.1.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

Từ sau khi được UNESSCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại

diện của nhân loại, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, chính quyền địa

phương các cấp đã thực hiện những chính sách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị

47

VHCC trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt là việc thực hiện 3 đề án qua 3 giai đoạn: 2007

– 2010; 2012 – 2015; 2016 – 2020. Việc thực hiện các đề án này đã đạt được

một số kết quả nhất định sau:

Kết quả thực hiện Đề án "Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa công chiêng

tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2007-2010" đã đạt được một số thành tựu nhất định.

Trong giai đoạn này, theo thống kê, tỉnh cũng mua, cấp 150 bộ cồng chiêng cho

150 nhà văn hóa cộng đồng ở các buôn vùng sâu, vùng xa và đến năm 2010, toàn

bộ 576 nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong toàn tỉnh được cấp mỗi nhà một

bộ cồng chiêng... Cũng trong giai đoạn này, tỉnh đã tổ chức các cuộc thi, hội

diễn, liên hoan như: tổ chức 5 lần liên hoan VHCC cấp tỉnh, 15 cuộc liên hoan

dân ca - dân vũ, nhạc cụ dân tộc, hội diễn văn nghệ quần chúng, tổ chức buôn

vui chơi, buôn ca hát, phục hồi các lễ hội truyền thống... Tỉnh cũng đầu tư kinh

phí mời các nghệ nhân là đồng bào dân tộc Ê-đê, Mnông truyền dạy đánh cồng

chiêng cho con em. Đây là những con số đáng ghi nhận bởi nạn chảy máu cồng

chiêng diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn trước [12].

Giai đoạn 2012 - 2015 được thực hiện trên cơ sở kế thừa, phát huy những

thành tựu của giai đoạn trước. Giai đoạn này, mức kinh phí để thực hiện đề án

này là 49 tỷ đồng, gấp 7 lần so với đề án giai đoạn 1 cho thấy quyết tâm của các

nhà quản lý trong công tác bảo tồn VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk. Kết quả thực hiện đề án như sau: Mở 4 lớp truyền dạy đánh cồng chiêng

cho con em đồng bào các DTTS tại chỗ tại các huyện Krông Pắc, Cư Kuin, Cư

M’gar và Lắk; 2 lớp truyền dạy chỉnh chiêng cho nghệ nhân người Ê-đê, M’nông

ở huyện Cư M’gar và TP. Buôn Ma Thuột; 1 lớp tập huấn công tác sưu tầm nghi

lễ - lễ hội cho 36 học viên là cán bộ văn hóa tại cơ sở; Trang bị cho đội chiêng

nữ buôn Trấp (huyện Krông Ana) 1 bộ chiêng Jho (kèm trống) và Nhà văn hóa

cộng đồng xã Ea Phê (huyện Krông Pắc) 1 bộ chiêng Ê-đê; Hỗ trợ kinh phí cho

15 đội chiêng tiêu biểu trên địa bàn tỉnh,… [12]. Ngoài ra, ngành văn hóa có tổ

chức một số buổi giao lưu trình diễn cồng chiêng tại một số địa phương trong tỉnh

48

và toàn quốc do một số cơ quan, đơn vị ở Trung ương mời tham gia… Qua những

“đầu việc” đã thực hiện nói trên, chúng tôi cho rằng, việc triển khai thực hiện bảo

tồn, phát huy Di sản VHCC tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2012-2015 đã đem lại những

hiệu quả thiết thực về việc bảo tồn, phát huy các giá trị VHCC của đồng bào các

dân tộc Đắk Lắk trong Không gian VHCC Tây Nguyên; góp phần giáo dục ý thức,

trách nhiệm cho mọi thành viên trong cộng đồng và toàn xã hội về việc giữ gìn có

hiệu quả Không gian VHCC Đắk Lắk trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước và hội nhập quốc tế…”.

Kế thừa những kết quả đạt được của giai đoạn trước, Đề án Bảo tồn

VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 3 (2016 – 2020) thể

hiện qua Nghị quyết 05/2016 tiếp tục được thực hiện với kinh phí trên 10 tỷ

đồng. Kết quả thực hiện Nghị quyết 05/2016 đạt được ở một số lĩnh vực như sau:

Về tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá di sản VHCC

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các cơ quan báo đài của

Trung ương và tỉnh để tổ chức tuyên truyền, quảng bá về di sản VHCC. Các cơ

quan, báo đài đã tích cực phối hợp đưa tin, bài, hình ảnh, phóng sự về di sản

VHCC trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, còn thực hiện treo

băng rôn, cờ phướn, phát tờ rơi, tuyên truyền trên bảng điện tử các cổng chào

của thành phố Buôn Ma Thuột. Tổ chức trưng bày triển lãm chuyên đề về di sản

VHCC trong các dịp lễ, sự kiện quan trọng của tỉnh, khu vực và toàn quốc. Xây

dựng nội dung để tuyên truyền trên cổng thông tin điện tử của tỉnh, Báo Đắk Lắk

và phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, kết hợp hình thức chạy

chữ trên màn hình trong thời lượng phát sóng trên trang văn hóa – du lịch.

Chẳng hạn, tại huyện Lắk, Phòng Văn hóa và Thông tin tổ chức tuyên truyền

trên các phương tiện thông tin đại chúng như phát sóng trên Đài Truyền thanh và

Truyền hình huyện, Đài truyền thanh cơ sở theo định kỳ 1 tuần/1 lần; chuyển,

phát các sách báo giới thiệu về văn hóa dân tộc tới từng thôn, buôn trên địa bàn

49

[55, tr.3].

Ngoài những hình thức trên còn giới thiệu, quảng bá nội dung, chương

trình biểu diễn cồng chiêng phục vụ nhân dân và du khách trên Tạp chí Du lịch,

Trang Thông tin điện tử của Tổng cục Du lịch, Trang Thông tin điện tử của Sở

Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Đắk Lắk,

Bảo tàng tỉnh, Ban Quản lý di tích tỉnh và tổ chức quảng bá trên mạng xã hội

như: facebook, zalo, youtube,… bước đầu đã truyền tải được thông tin về

Chương trình đến với đông đảo nhân dân và du khách biết để đến xem, cổ vũ

chương trình.

Nhìn chung, công tác tuyên truyền được đẩy mạnh đạt được những ảnh

hưởng nhất định trong việc khơi gợi ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc của thế hệ trẻ

là người DTTS tại chỗ, những thế hệ kế cận nắm giữ linh hồn của Không gian

VHCC Tây Nguyên trong giai đoạn tiếp theo và tương lai.

Kết quả PVS tại địa bàn cũng cho thấy “Khi xem trên truyền hình, có

phát nhiều chương trình giới thiệu về cồng chiêng Tây Nguyên, thấy cồng chiêng

Tây Nguyên được nhiều người biết đến, kể cả người nước ngoài cũng thích thú

em thấy rất đáng tự hào. Tự hào hơn khi em là một trong những thanh niên trẻ

còn biết đánh chiêng” (PVS, Nam, Ê-đê, 23 tuổi, buôn Ea Bông, xã Cư Eabuor,

TP. Buôn Ma Thuột).

Đồng thời, công tác tuyên truyền cũng đạt được thành công nhất định khi

thu hút sự chú ý của du khách trong và ngoài nước, của người dân địa phương

đối với loại hình nghệ thuật này.

Xuất bản sách và đĩa hình: Việc xuất bản sách, đĩa CD về nội dung hoạt

động bảo tồn, phát huy di sản VHCC để phát hành đến buôn của người DTTS tại

chỗ. Tiến hành tổ chức quay phim, chụp ảnh, ghi hình, làm phim phóng sự trong

những lần tổ chức phục dựng, trình diễn nghi lễ, lễ hội truyền thống của các

DTTS, liên hoan VHCC ở tỉnh, khu vực và quốc tế để in ấn, xuất bản sách, đĩa

50

CD, tiếp tục thực hiện trong thời gian tới [55, tr.6].

Tổ chức, tham gia hội nghị, hội thảo: Năm 2017, Sở Văn hóa, Thể thao và

Du lịch có tham luận “Bảo tồn, phát triển giá trị di sản văn hóa công chiêng Tây

Nguyên – Nhìn từ thực tiễn Đắk Lắk” tại Hội nghị tổng kết Hoạt động ngành

Văn hóa, Thể thao và Du lịch do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức. Năm

2018, Sở đã tham gia Hội thảo khoa học “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn

hóa công chiêng Tây Nguyên” trong hoạt động của Festival VHCC Tây Nguyên

do tỉnh Gia Lai đăng cai tổ chức. Việc tổ chức hội nghị, hội thảo chuyên đề về

bảo tồn phát huy giá trị của di sản VHCC tại tỉnh Đắk Lắk để đánh giá kết quả

thực hiện đề án, định hướng bảo tồn, phát huy trong giai đoạn tiếp theo [55, tr.6].

Đây là hoạt động hết sức ý nghĩa và cần thiết khi VHCC được đưa ra bàn

luận, tìm những hướng đi mới phù hợp nhằm bảo tồn trong bối cảnh có nhiều sự

biến đổi về kinh tế, xã hội, khi mà các giá trị dân tộc dần mờ nhạt thay vào đó là

giá trị văn hóa hiện đại và thu hút giới trẻ hơn. Qua các hội thảo, hội nghị cũng

là dịp để các nhà quản lý, các nhà khoa học đánh giá lại những chính sách đã và

đang triển khai thực hiện, chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chế để có

những đề xuất nhằm khắc phục, điều chỉnh những hạn chế đó của chính sách, để

chính sách đến gần hơn với chủ thể văn hóa là người Ê-đê, Mnông, Gia rai,

Xơđăng trên địa bàn tỉnh.

Về việc trang bị cồng chiêng và trang phục truyền thống

Từ 2016 – 2018, tỉnh đã cấp 18 bộ cồng chiêng các loại cho những đội

chiêng có nhiều thành tích tiêu biểu ở các buôn làng của người Ê-đê, Mnông,

Gia rai nhằm khích lệ, động viên tinh thần các nghệ nhân đánh chiêng cũng như

nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy giá trị di sản

VHCC trong cộng đồng. Năm 2017, tỉnh đã cấp 6 bộ chiêng cho người Ê-đê; 1

bộ chiêng Mnông và 1 bộ chiêng Gia rai. Năm 2018, cấp 7 bộ chiêng Ê-đê, 2 bộ

chiêng Mnông và 1 bộ chiêng Gia rai. Hiện nay, tỉnh có 700 đội cồng chiêng ở

51

các buôn làng, trong đó có 200 đội cồng chiêng thanh thiếu niên. [55, tr.2]

Theo báo cáo thống kê về việc tiếp nhận và sử dụng chiêng trên địa bàn

các huyện, thị xã, thành phố do Phòng Văn hóa và Thông tin cung cấp, Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành kiểm tra, khảo sát thực tế ngẫu nhiên ở

một số buôn trên địa bàn tỉnh trong năm 2018 cho thấy, việc tiếp nhận và sử

dụng chiêng đã đem lại hiệu quả tích cực. Số chiêng được cấp đã góp phần đáp

ứng được nhu cầu, nguyện vọng của bà con, giải quyết được nhu cầu khó khăn

(không phải thuê mướn) tiếp tục duy trì tập luyện, mở lớp truyền dạy đánh

chiêng cho các nghệ nhân trẻ tuổi, để tiếp tục kế thừa những nghệ nhân đã lớn

tuổi, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tham gia hội thi, hội diễn, liên hoan ở

tỉnh, khu vực, góp phần bảo tồn, phát huy VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh.

Về trang phục: Từ năm 2017 – 2018, tỉnh đã cấp 277 bộ trang phục truyền

thống của người Ê-đê, Mnông, Gia rai cho các đội chiêng, đội văn nghệ ở các

buôn có nhiều thành tích, cống hiến trong việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy di

sản VHCC [55, tr.2]. Hoạt động này nhằm tạo động lực để các đội chiêng, đội

văn nghệ chủ động hơn trong việc tập luyện hoặc tham gia vào các hoạt động

giao lưu, biểu diễn tại cộng đồng cũng như trong và ngoài tỉnh, khu vực, quốc tế

góp phần bảo tồn di sản không gian VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk.

“Em thấy rất vui khi đội chiêng buôn Ea Bông được cấp chiêng và

trang phục biểu diễn. Ai cũng vui mừng và chăm chỉ luyện tập hơn

khi có được sự quan tâm của Nhà nước” (PVS, Nam, 25 tuổi, Ê-đê,

buôn Ea Bông, xã Cư Eabur, TP. Buôn Ma Thuột).

Những hoạt động này tạo động lực để các chủ thể văn hóa mà cụ thể là

các nghệ nhân, các đội chiêng tích cực, có niềm tin vào Đảng, chính quyền, tạo

sự hưng phấn của họ trong việc giữ gìn và phát huy VHCC.

Truyền dạy cồng chiêng và sử thi

Năm 2017, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Viện văn

52

hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam và UBND huyện Cư M’gar tổ chức mở lớp và

mời nghệ nhân truyền dạy sử thi và nghệ thuật hát kể sử thi (kể khan) cho con

em đồng bào dân tộc Ê-đê ở xã Ea Tul nhằm trao truyền cho thế hệ trẻ. Hàng

năm, Sở đều đặn tổ chức mở lớp truyền dạy đánh cồng chiêng, kỹ năng thẩm âm,

chỉnh chiêng. Từ năm 2017 – 2018, Sở đã tổ chức được 4 lớp truyền dạy đánh

cồng chiêng cho hơn 80 con em đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Krông

Bông và huyện Cư Kiun nhằm phát hiện những nghệ nhân có năng khiếu khả

năng thẩm âm các loại chiêng, kỹ năng sử dụng chiêng để kế thừa các nghệ nhân

đã lớn tuổi. Trung tâm Văn hóa tỉnh đã tổ chức được 2 lớp truyền dạy kỹ năng

biết đánh cồng chiêng cho gần 100 học viên hiện đang làm công tác bảo tồn di

sản văn hóa trên địa bàn tỉnh [55, tr.3]. Tại các huyện, thị xã, thành phố đã tổ

chức được 41 lớp truyền dạy đánh cồng chiêng cho con em người DTTS tại chỗ.

Cụ thể, thành phố Buôn Ma Thuột tổ chức 3 lớp với 90 học viên tham gia; 1 lớp

truyền dạy năng lực đánh chiêng, chỉnh chiêng cho các nghệ nhân; Buôn Hồ tổ

chức được 3 lớp; Krông Năng tổ chức 1 lớp; Cư Kuin tổ chức được 3 lớp; Cư

M’gar tổ chức được 9 lớp; Krông Pắc tổ chức được 15 lớp truyền dạy [55, tr.3].

Kết quả khảo sát về công tác truyền dạy cồng chiêng ở thành phố Buôn

Ma Thuột cho thấy, vào giữa tháng 6-2018, Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Du

lịch TP. Buôn Ma Thuột đã mời Nghệ nhân Y Hiu Niê Kdăm (phường Ea Tam)

mở lớp dạy đánh chiêng cho các em thanh thiếu nhi nhân dịp hè.

Trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố cho rằng, “trên địa bàn

hiện còn rất ít người có khả năng truyền dạy đánh cồng chiêng mặc dù người

biết đánh vẫn còn khá nhiều vì các nghệ nhân được xem là giỏi thì ngoài việc

đánh được nhiều bài chiêng còn phải đánh được nhiều vị trí trong dàn chiêng

nên rất khó đủ năng lực để truyền dạy, phải là người sử dụng cồng chiêng ở

trình độ cao”.

Nghệ nhân Y Bây Kbuôr (buôn Kmrơng A, xã Ea Tu) cũng thể hiện sự

hào hứng khi được tham gia vào các lớp truyền dạy cồng chiêng “Tham gia lớp

53

học, tôi cảm thấy rất vui vì được mở rộng thêm sự hiểu biết của mình về nghệ

thuật diễn tấu cồng chiêng. Ngoài việc được trao đổi các kỹ năng đánh cồng

chiêng, chỉnh chiêng, tôi và các nghệ nhân khác đã học được cách truyền dạy

bài bản hơn cho lớp trẻ ở buôn làng mình”.

Nhìn chung, với các nghệ nhân, được tham gia lớp truyền dạy năng lực

đánh chiêng là một niềm vui lớn bởi sau lớp truyền dạy này, họ có thêm vốn

kinh nghiệm để mạnh dạn dạy đánh chiêng cho thế hệ trẻ, góp phần bảo tồn văn

hóa truyền thống của dân tộc trước nguy cơ mai một. Bởi trên thực tế, không

phải nghệ nhân biết đánh cồng chiêng nào cũng truyền dạy được. Đơn cử như ở

buôn Ea Bông hiện vẫn còn một số nghệ nhân biết đánh cồng chiêng nhưng

không có ai có thể truyền dạy một cách bài bản.

Theo báo cáo thống kê của Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Buôn

Ma Thuột cũng cho thấy, hiện nay với sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà nước cùng

với các phong trào: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Chương trình

xây dựng nông thôn mới, phường - xã đạt chuẩn văn minh đô thị... đã góp phần

đáng kể để sinh hoạt VHCC hồi sinh. Ở những buôn người DTTS tại chỗ như:

buôn Buôr (xã Hòa Xuân), buôn Kbur, buôn Ea Tour, buôn….. đều có đội

chiêng và tiếng chiêng thường xuyên rộn rã giữa buôn làng. Những buôn khác

như buôn Kô Tam (xã Ea Tu), buôn Akô Dhông (phường Tân Lợi), buôn Kô

Sier (phường Tân Lập), buôn Ky (phường Thành Nhất),... đến nay đã có 2 - 3

đội chiêng, cả già lẫn trẻ sẵn sàng tham gia những cuộc liên hoan, giao lưu

VHCC các cấp, trong nước cũng như quốc tế. Hơn thế, người dân ở đây đã biết

phát huy chúng để làm du lịch (homestay) như buôn Kô Tam, buôn Akô Dhông

vừa nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vừa tạo không gian và điều kiện cho

cồng chiêng lan tỏa, thăng hoa. Cũng theo số liệu thống kê của Phòng, trong 33

thôn, buôn đồng bào DTTS tại chỗ sinh sống trên địa bàn TP. Buôn Ma Thuột

hiện có khoảng 20 đội chiêng đủ năng lực diễn tấu và truyền dạy cho thế hệ tiếp

nối. Ngoài ra có 14 đội chiêng trẻ, có khả năng diễn tấu thuần thục một số bài

54

chiêng cổ và mới trên dàn chiêng tre (Ching Kram), cũng như đảm đương được

một số vị trí trong dàn chiêng đồng [47, tr.2].Trong giai đoạn này, đa mở ba lớp

truyền dạy cồng chiêng cho con em người DTTS tại chỗ. Đây là một trong

những hoạt động nhằm hoàn thành mục tiêu Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị

văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn, giai đoạn 2016 –

2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Tại huyện Lắk, nơi cư trú chủ yếu của dân tộc Mnông, các hoạt động bảo

tồn VHCC cũng được đẩy mạnh. Công tác đào tạo, truyền thụ VHCC cho thế hệ

trẻ trong cộng đồng người Mnông được chính quyền, các phòng ban huyện Lắk

rất quan tâm. Giai đoạn từ 2010 – 2015, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện phối

hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức lớp truyền dạy cồng

chiêng cho thế hệ trẻ tại buôn Jiê Yuk thu hút 45 học viên với 2 nghệ nhân thay

nhau truyền dạy. Bên cạnh đó, Phòng Văn hóa và Thông tin còn phối hợp với

UBND xã Đắk Phơi đưa đoàn nghệ nhân của buôn Jiê Yuk tham gia liên hoan

đội chiêng trẻ và sử dụng nhạc cụ tre, nứa các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk năm

2015 (tổ chức vào ngày 29/7/2015 tại huyện Buôn Đôn). Trong năm 2015, tổ

chức được 1 lớp dạy đánh chiêng gồm 36 học viên cho các thanh thiếu niên có

độ tuổi từ 15 – 25 tuổi tại buôn Jiê Yuk (khai giảng vào 24/7/2015) với thời gian

1 tháng. Đây là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ gìn và phát

huy bản sắc văn hóa bởi văn hóa phải được trao truyền giữa các thế hệ mới tồn

tại được qua thời gian [43, tr.3].

Thực hiện theo đề án “Bảo tồn không gian văn hóa công chiêng tỉnh Đắk

Lắk”, hàng năm Phòng Văn hóa và Thông tin huyện cấp kinh phí khoảng 10

triệu đồng cho buôn Jiê Yuk (xã Đắk Phơi) nhằm bảo tồn giá trị VHCC của buôn

cũng như hỗ trợ đoàn nghệ nhân cồng chiêng của buôn. Đây là sự hỗ trợ thiết

thực nhất vì đội chiêng buôn Jiê Yuk thường xuyên đi lưu diễn trong và ngoài

tỉnh, tốn kém kinh phí để duy trì, tập luyện và truyền dạy (PVS, Nam, 36 tuổi,

55

Cán bộ Văn hóa xã Đắk Phơi, huyện Lắk).

Theo báo cáo thống kê mới nhất cho thấy, Từ năm 2010 – 2018, UBND

huyện đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh cấp 20 bộ chiêng và

30 bộ trang phục truyền thống cho 06 buôn của 5 xã thuộc huyện Lắk (Krông

Nô, Nam Ka, EaRbin, Đắk Phơi, Đắk Liêng). Phòng Văn hóa và Thông tin

huyện đã phối hợp với Phòng Nghiệp vụ Văn hóa thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và

Du lịch tổ chức được 09 lớp truyền dạy đánh cồng chiêng cho người DTTS trên

địa bàn các xã, thị trấn. Thu hút hơn 150 học viên tham gia. Đây là lớp học được

tổ chức với mục đích chuyển giao kỹ năng sử dụng cồng chiêng giữa thế hệ cha

anh cho thế hệ trẻ [56, tr.3].

Ngoài ra, UBND huyện còn phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du

lịch đưa đoàn nghệ nhân tham gia các hoạt động chính trị của tỉnh như: Tham dự

lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ IV, năm 2015 tại TP. Buôn Ma Thuột;

tham gia Lễ hội Văn hóa các dân tộc tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt

Nam, Đồng Mô – Sơn Tây – Hà Nội. Từ đó khơi dậy lòng tự hào dân tộc, bảo

tồn và giữ gìn hơn nữa các di sản của dân tộc mình; tham dự Liên hoan Đội

chiêng trẻ và sử dụng nhạc cụ tre, nứa… do tỉnh tổ chức. Đây là sân chơi bổ ích

cho các đội chiêng trẻ và các đội văn nghệ được biểu diễn, thể hiện tài năng của

mình để nâng cao ý thức trách nhiệm, tích cực tham gia các hoạt động góp phần

bảo tồn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc [56, tr.4].

Hiện nay, huyện đã thành lập được 3 đội chiêng [56, tr.4]:

+ Đội chiêng buôn Jiê Yuk xã Đắk Phơi thường xuyên tổ chức tập luyện

và tham gia các hội diễn tại tỉnh và toàn quốc, dành được nhiều bằng khen và

huy chương về cho huyện.

+ Đội chiêng của buôn Jun và buôn Lê của thị trấn Liên Sơn gồm 22 nghệ

nhân chuyên phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước.

+ Đội chiêng của buôn cổ Mliêng xã Đăk Liêng được Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch chọn đầu tư xây dựng là buôn để bảo tồn buôn văn hóa truyền

56

thống dân tộc Mnông R’lâm tại huyện Lắk trong đó có bảo tồn không gian

VHCC tạo điều kiện thuận lợi lớn cho việc bảo tồn, giữ gìn phát huy di sản

không gian VHCC.

Nhìn chung, công tác bảo tồn VHCC trên địa bàn tỉnh nói chung, địa bàn

huyện Lắk và thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng đã đạt được những thành tựu

nhất định, có đóng góp không nhỏ trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị

VHCC Tây Nguyên.

Trình diễn nghi lễ gắn với hoạt động lễ hội nhằm tạo không gian VHCC:

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ động phối hợp với các Sở, ban, ngành

địa phương trong tỉnh tổ chức trình diễn một số lễ hội truyền thống của người

dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh. Năm 2017, phối hợp với UBND huyện

Cư M’gar tổ chức trình diễn nghi lễ cúng cầu mưa; thành phố Buôn Ma Thuột tổ

chức Lễ kết nghĩa anh em của người Ê-đê trong khuôn khổ của hoạt động Lễ hội

Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 6 (2017), lần thứ 7 (2019) tại buôn Ako Dhong

và Liên hoan VHCC năm 2017 với sự tham gia của trên 200 nghệ nhân đến từ

Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Đắk Lắk, Lâm Đồng [55, tr.3].

Năm 2018, xây dựng kế hoạch tổ chức phục dựng Lễ mừng lúa mới của

người Gia Rai tại buôn Dang, xã Ea H’leo, huyện Ea H’Leo. Bảo tàng tỉnh đã tổ

chức phục dựng Lễ cúng ché tại buôn Tai, xã Krông Jing, huyện M’Drắk. Hàng

năm, các huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức ngày hội văn hóa, thể thao các dân

tộc, tổ chức liên hoan VHCC, ngày hội văn hóa thể thao cấp xã, trong các hoạt

động đó lồng ghép tổ chức các hoạt động diễn tấu cồng chiêng gắn với các nghi

thức, nghi lễ lễ hội của các dân tộc tại chỗ như: Lễ cúng bến nước, lễ cúng lúa

mới, lễ mừng cơm mới, lễ cúng sức khỏe, Lễ cầu mùa, nghi lễ đám cưới, lễ

trưởng thành, lễ hội đua voi, đua thuyền độc mộc,.... Từ năm 2016 – 2018, các

huyện, thị xã đã tổ chức được 118 nghi thức, nghi lễ và ngày hội truyền thống

của các DTTS tại chỗ [55, tr.3]. Đây là con số đáng ghi nhận bởi qua việc phục

57

dựng các nghi lễ, lễ hội đó, không gian VHCC của người Ê-đê, Mnông, Gia rai

được vang lên, được khẳng định, các nghệ nhân có cơ hội biểu diễn, thế hệ trẻ có

cơ hội được thử nghiệm, thưởng thức bản sắc văn hóa của tộc người mình.

Kết quả nghiên cứu tại huyện Lắk cho thấy, việc phục dựng nghi lễ, lễ hội

truyền thống, tạo không gian cho VHCC biểu diễn được thực hiện rất tốt. Thực

hiện Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc

thiểu số huyện” đã tạo được sự chuyển biến về mặt nhận thức trong cán bộ, Đảng

viên và nhân dân về công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền

thống tốt đẹp của đồng bào các DTTS. Việc bảo tồn, khai thác và phát huy các

danh thắng cảnh gắn với Lễ hội truyền thống đã được địa phương chú trọng.

Trong những năm gần đây, văn hóa gắn với lễ hội truyền thống của các dân tộc

đang được phục hồi và phát huy tác dụng làm phong phú thêm đời sống tinh thần

của nhân dân. Năm 2008, phục dựng lễ lên nhà mới tại buôn M’liêng xã Đăk

Liêng; Năm 2009, phục dựng lễ Kết nghĩa ở buôn Jê Yuk xã Đăk Phơi; Năm

2010, phục dựng lễ Cưới của dân tộc Mnông Gar ở buôn Jê Yuk xã Đăk Phơi;

Năm 2013 Phối hợp với Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh phục dựng Lễ

cúng cơm mới của người Mnông ở xã Đăk Phơi; tổ chức sinh hoạt VHCC lần thứ

I và Lễ cúng sức khỏe cho những đại biểu tham dự tại buôn Jê Yuk, xã Đăk Phơi;

Năm 2014, phối hợp với Sở Văn hóa -Thể thao và Du lịch phục dựng Lễ cúng voi

tại Buôn Jun, thị trấn Liên Sơn. Trong đó, tiêu biểu là lễ hội đua voi và đua thuyền

độc mộc, tổ chức các đêm giao lưu VHCC được tổ chức định kỳ 2 năm 1 lần trong

khuôn khổ Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột đã thu hút đông đảo du khách trong và

ngoài nước đến xem và cỗ vũ [56, tr.4].

Kết quả PVS cho thấy, buôn Jiê Yuk là buôn còn lưu giữ nhiều nét văn hóa

truyền thống nên vào các kỳ Liên hoan hay Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột đều được

tỉnh cho kinh phí để tổ chức Lễ cúng lúa mới. Trong buôn hiện còn 2 thầy cúng nên

các bài cúng truyền thống vẫn còn nguyên bản. Thầy cúng dạy cho một số nam nữ

thanh niên trẻ thực hiện thành thạo các thủ tục, các bước trong khi thực hiện lễ

58

cúng. Trong lễ hội đó, cả làng tổ chức ăn uống, đánh chiêng và nhảy múa. Cả

buôn rất vui vì thường xuyên được Nhà nước quan tâm, đầu tư phục hồi văn hóa

dân tộc (PVS, Nam, 62 tuổi, nghệ nhân dân tộc Mnông, xã Đắk Phơi, huyện Lắk).

Điều đặc biệt là các lễ hội được phục dựng đều gắn với sinh hoạt cộng đồng

và diễn tấu cồng chiêng là không thể thiếu. Những dữ liệu trên cho thấy, nỗ lực của

Chính quyền địa phương và người Mnông ở huyện Lắk trong công tác bảo tồn

VHCC.

Thống kê, sưu tầm các bài chiêng cổ, nghệ nhân dân gian

Trong thời gian qua, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tiếp

tục triển khai thực hiện việc sưu tầm, ghi chép, thống kê, lưu giữ các bài chiêng

cổ trong nghi lễ vòng đời người, nghi lễ nông nghiệp của các dân tộc thiểu số tại

chỗ. Thống kê số lượng nghệ nhân dan gian có khả năng truyền dạy đánh cồng

chiêng, chỉnh chiêng và nhớ các bài chiêng hiện có. Năm 2017, tỉnh đã lập hồ sơ

và trình cấp có thẩm quyền xem xét, đề nghị Chủ tịch nước phong tặng Danh

hiệu Nghệ nhân Ưu tú cho 24 nghệ nhân trên địa bàn tỉnh có nhiều thành tích

xuất sắc trong việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Kết quả, Chủ tịch nước đã đã

ký Quyết định 355/QĐ-CTN về việc phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Ưu tú”

cho 24 nghệ nhân nói trên [55, tr.4].

Kết quả khảo sát tại huyện Lắk về công tác này cũng cho thấy, từ năm

2008 cho đến nay, Phòng Văn hóa và Thông tin đã phối hợp với Sở Văn hóa,

Thể thao và Du Lịch và chính quyền địa phương, các buôn tổ chức được 6 lớp

đánh chiêng, nhạc cụ tre nứa và văn nghệ quần chúng, trong đó, 2 lớp đánh

chiêng với 40 học viên độ tuổi từ 15 đến 40 tuổi, 4 lớp dạy nhạc cụ tre nứa và

văn nghệ quần chúng, tổ chức phục dựng lễ nhà mới tại buôn M’Liêng. Ở buôn

M’Liêng hiện vẫn còn lưu giữ 27 bộ chiêng, trống, trong đó, có 12 bộ chiêng

được cấp, khoảng 50 bộ ché cổ và các dụng cụ, nhạc cụ truyền thống, các trang

thiết bị khác vẫn được bảo tồn [44, tr.2]. Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật

thể gắn với không gian VHCC giai đoạn 2007 – 2015 trên địa bàn huyện với kết

59

quả như sau: 10 sử thi; 44 truyện cổ, 41 nghi lễ, lễ hội; 306 dàn chiêng; 30 bài

chiêng; 570 nghệ nhân diễn tấu cồng chiêng; 64 nghệ nhân biết chỉnh chiêng;

128 nghệ nhân truyền dạy cồng chiêng; 63 bến nước; 274 nhà dài truyền thống;

33 bài cúng; 112 thầy cúng; 126 người biết luật tục; 132 nghệ nhân biết sử dụng

nhạc cụ tre, nứa; 56 nghệ nhân biết chế tác nhạc cụ,…[44, tr.3]. Đến giữa năm

2019, kết quả kiểm kê di sản văn hóa trên địa bàn như sau: Tổng số dàn chiêng

hiện tại: 508 bộ; Tổng số bài chiêng: 30; Tổng số nghệ nhân diễn tấu chiêng:

570; Tổng số nghệ nhân biết chỉnh chiêng: 64; Tổng số nghệ nhân truyền dạy

chiêng: 128; tổng số sử thi: 10; tổng số câu chuyện cổ:44; tổng số nghi lễ, lễ hội

truyền thống: 41; tổng số bài chiêng: 30 bài; tổng số nhà truyền thống: 274;…

[56, tr.4].

Đây là hoạt động có ý nghĩa thiết thực nhằm tôn vinh những người có

đóng góp lớn cho công tác bảo tồn VHCC, giúp họ cảm thấy được việc làm của

họ là có ý nghĩa và đã được Nhà nước ghi nhận, từ đó tạo động lực, nhiệt huyết

để họ cống hiến nhiều hơn nữa trong công tác truyền dạy cho thế hệ trẻ.

Công tác giao lưu văn hóa cồng chiêng

Năm 2017, tỉnh Đắk Lắk đã đăng cai tổ chức thành công “Liên hoan Văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên lần thứ I” cùng với Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột

lần thứ 6, đêm hội diễn tấu cồng chiêng với chủ đề “Bản sắc trong thế giới hội

nhập” là một trong những hoạt động quan trọng, đặc sắc của Lễ hội và liên hoan

nhằm giới thiệu bản sắc văn hóa độc đáo của Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk

nói riêng đến với bạn bè trong nước và quốc tế góp phần tôn vinh các chủ nhân

của di sản VHCC, bảo tồn và phát huy giá trị Không gian VHCC Tây Nguyên –

Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Cụ thể, đêm hội với sự tham

gia của hơn 300 nghệ nhân, nghệ sĩ, diễn viên của 6 đoàn nghệ nhân các tỉnh

Đắk Lắk, Quảng Nam, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đăk Nông và 4 đoàn nghệ

thuật nước ngoài (Campuchia, Hàn Quốc, Lào và Rumani). Đặc biệt, đêm hội

còn có sự tham dự của hơn 200 già làng, trưởng buôn tiêu biểu đến từ các huyện,

60

thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh[55, tr.5].

Ngoài các hoạt động trên, các đoàn nghệ nhân của tỉnh Đắk Lắk còn

tham gia rất nhiều các đợt giao lưu văn hóa khác do các tỉnh, các Cục, Vụ, Viện

thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, như: Phối hợp với Đài Truyền

hình Việt Nam tổ chức chương trình Làng Việt tại Đắk Lắk; tham gia giao lưu

văn nghệ dân gian giữa các dân tộc tại tỉnh Phú Thọ nhân Giỗ Tổ Hùng Vương

(10/3), năm 2013; đều đặn hàng năm, tham gia Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc -

Di sản Văn hóa Việt Nam”, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam,

Hà Nội; Tuần Văn hóa Du lịch Đà Lạt vào tháng 12/2013; Ngày hội buôn làng,

chủ đề “Âm vang đại ngàn” với sự tham gia của 5 tỉnh Tây Nguyên; hoạt động

nhân sự kiện Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU - 132 tổ chức tại

Việt Nam (2015) [21, tr.63]. Hầu hết các cuộc giao lưu văn hóa các DTTS nhằm

tôn vinh và khơi dậy lòng tự hào về truyền thống văn hóa các dân tộc trong tỉnh,

để lại ấn tượng tốt đẹp đối với Ban tổ chức, nhân dân các tỉnh bạn và du khách

quốc tế. Đây cũng là dịp để đồng bào các DTTS tại chỗ trong tỉnh trao đổi, học

hỏi kinh nghiệm, phát huy vốn văn hóa truyền thống.

Tháng 02/2016, Đoàn nghệ nhân Đắk Lắk gồm 11 người, đại diện cho

Việt Nam tham gia Chương trình giao lưu nghệ thuật thế giới tại thành phố

Canning, Úc [21, tr.64]. Việc giao lưu VHCC không chỉ là biểu tượng của tình

đoàn kết các dân tộc, thể hiện tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa mà

còn đóng góp tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giữ gìn hòa

bình khu vực và thế giới. Thông qua các cuộc liên hoan, giao lưu đã góp phần

tôn vinh VHCC, tôn vinh các nghệ nhân diễn tấu cồng chiêng; nâng cao lòng tự

hào dân tộc, giáo dục ý thức gìn giữ các giá trị VHCC và không gian VHCC

cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh; tạo sân chơi bổ ích cho dồng bào, đáp ứng

nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của mọi tầng lớp nhân dân.

Năm 2018, tỉnh Đắk Lắk đã tham gia Festival VHCC Tây Nguyên tại tỉnh

Gia Lai, tham gia trưng bày “Không gian Di sản văn hóa Đắk Lắk” nhân ngày Di

61

sản văn hóa Việt Nam ngày 23/11 tại Hà Nội. Ngoài ra, Sở Văn hóa, Thể thao và

Du lịch đã chỉ đạo các phòng ban, đơn vị trực thuộc Sở phối hợp với cơ quan

đơn vị liên hoan tổ chức nhiều chương trình, hoạt động về VHCC để phục vụ bà

con nhân dân, du khách trong nước, khu vực và quốc tế[55, tr.5].

Tại các huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức nhiều hội thi, hội diễn, liên

hoan VHCC vào dịp lễ, tết, các sự kiện quan trọng của đất nước, địa phương.

Chẳng hạn, huyện Krông Buk tổ chức Liên hoan VHCC toàn huyện lần thứ I,

năm 2018; thành phố Buôn Ma Thuột định kỳ 2 năm tổ chức Ngày hội văn hóa,

thể thao các dân tộc thành phố gắn với diễn tấu cồng chiêng; năm 2018, thị xã

Buôn Hồ tổ chức thi diễn tấu cồng chiêng trong Ngày hội văn hóa các dân tộc và

3 lần tổ chức Hội thi Đội chiêng trẻ và thanh niên hát dân ca, dân vũ; huyện Cư

M’gar định kỳ tổ chức Ngày hội Văn hóa các dân tộc toàn huyện, góp phần nỗ

lực trong việc bảo tồn di sản VHCC Tây Nguyên [55, tr.5].

Việc tổ chức giao lưu VHCC ở tỉnh, khu vực và quốc tế nói trên nhằm góp

phần tạo điều kiện để các nghệ nhân có cơ hội gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ kinh

nghiệm về bảo tồn và phát huy di sản VHCC tại cộng đồng, nâng cao ý thức,

trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản văn hóa của các chủ thể văn hóa.

Nguyên nhân của những thành tựu:

- Việc triển khai các chính sách bảo tồn VHCC trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

thời gian qua đã nhận được sự quan tâm của các Bộ, ban, ngành ở Trung ương và

các tỉnh Tây Nguyên; sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chỉ đạo điều hành của UBND

tỉnh, sự giám sát, phản biện của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Mặt trận tổ quốc

các cấp; các sở, ban, ngành đoàn thể của tỉnh, địa phương đã tham gia vào cuộc,

phối hợp thực hiện đồng bộ, nội dung, chương trình bảo tồn VHCC đã đáp ứng

nhu cầu thực tiễn, tạo được sự đồng thuận, nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần

vào việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của Nghị quyết đã đề ra.

- Việc thực hiện thành công những chính sách trên nhờ vào việc tuyên

truyền, giới thiệu, quảng bá di sản VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh, khu

62

vực, trong nước và quốc tế của các cơ quan báo chí, đài truyền thanh, truyền

hình của Trung ương và địa phương các cấp quan tâm. Các đơn vị này đã tích

cực phối hợp, cộng tác để đưa tin, bài, hình ảnh, phóng sự và nhiều hình thức

khác trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này góp phần quảng bá, thu

hút sự chú ý quan tâm của đông đảo nhân dân, thế hệ trẻ biết, tự hào và tiếp tục

kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa này tới mai sau.

- Trong quá trình thực hiện các chính sách bảo tồn VHCC, việc tổ chức các

lớp truyền dạy đánh chiêng, cấp chiêng và trang phục đã được các địa phương

quan tâm, phối hợp, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tâm linh

trong các lễ hội của người DTTS trong tỉnh. Số chiêng, trang phục được tỉnh cấp

cho các buôn, đội văn nghệ đã góp phần động viên, khích lệ tinh thần rất lớn cho

các nghệ nhân, tạo điều kiện thuận lợi trong việc duy trì tập luyện, tham gia các

buổi phục dựng, trình diễn nghi lễ, lễ hội truyền thống, hội thi, hội diễn, liên

hoan cồng chiêng ở địa phương, trong tỉnh, khu vực, cả nước và quốc tế góp

phần bảo tồn, phát huy di sản Không gian VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh.

- Đặc biệt, sự thành công của chính sách không thể không kể đến vai trò

của chính các chủ thể văn hóa, bởi họ là người nắm giữ linh hồn của văn hóa

này. Với ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, chính họ, đặc biệt là các nghệ nhân dân

gian đã nhiệt huyết, nhiệt tình trao truyền cho thế hệ trẻ, nhiệt tình tham gia vào

các hoạt động liên hoan, biểu diễn,... để cồng chiêng vẫn âm vang, tồn tại trong

đời sống của các tộc người tại chỗ.

Chính vì vậy, trong thời gian tới cần tận dụng sự quan tâm, ủng hộ của

Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương các cấp và đặc biệt là sự ủng hộ của

chủ thể văn hóa là các DTTS tại chỗ trên địa bàn để kế thừa và phát huy hơn nữa

những kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách bảo tồn VHCC Tây

Nguyên.

2.2.1.2. Những hạn chế trong công tác bảo tồn văn hóa cồng chiêng và

63

nguyên nhân

Mặc dù đạt được những kết quả đáng ghi nhận mà chúng tôi đã trình bày ở

trên, song công tác bảo tồn VHCC vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Trong

bối cảnh hiện nay, những hạn chế này được biểu hiện ở nhiều khía cạnh, nhiều

yếu tố khác nhau từ khâu tổ chức thực hiện chính sách, khâu quản lý, lãnh đạo,

khâu kiểm tra, giám sát, đánh giá,… và cả những hạn chế từ phía các chủ thể văn

hóa trên địa bàn. Cụ thể là một số hạn chế và nguyên nhân sau:

Nạn chảy máu cồng chiêng, sự suy giảm số lượng nghệ nhân hàng năm vẫn

còn tiếp diễn:

Kết quả thống kê cũng cho thấy, từ năm 1993 đến năm 2013, tỉnh Đắk

Lắk giảm khoảng hơn 2.000 cồng chiêng. Cùng với nỗ lực cấp phát của cơ quan

có thẩm quyền nên số lượng trong khoảng từ năm 2010 đến nay ổn định.

Số lượng nghệ nhân biết đánh cồng chiêng và biết truyền dạy kỹ năng

đánh cồng chiêng cũng là yếu tố đáng quan tâm. Theo số liệu thống kê của

Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Buôn Ma Thuột thì trên địa bàn thành

phố hiện còn 36 nghệ nhân biết đánh cồng chiêng, nhưng trong đó khoảng 80%

không biết cách truyền dạy cồng chiêng. Thực tế, nguồn nhân lực đánh chiêng,

biết chế tác và sử dụng một số nhạc cụ truyền thống đang thưa thớt dần. Qua

khảo sát, trên địa bàn thành phố hiện có khoảng 80% buôn đồng bào DTTS chưa

có nghệ nhân truyền dạy đánh chiêng một cách cơ bản; 100% buôn đều có

nguyện vọng được hỗ trợ truyền dạy đánh chiêng và hát múa dân gian cho các

hạt nhân nòng cốt theo hình thức quay vòng để có các thế hệ nghệ nhân nối tiếp

[47, tr4].

Ý kiến của nghệ nhân cồng chiêng trẻ Y Thu Êban (25 tuổi, buôn Ea Bông,

xã Cư Êbur), về vấn đề này cho thấy, dù đã biết đánh chiêng từ lúc còn nhỏ, có

thể đánh được tất cả các vị trí trong đội chiêng, đã từng tham gia và biểu diễn ở

nhiều hội thi, hội diễn trong và ngoài tỉnh, nhưng anh lại không biết cách truyền

dạy đánh chiêng. Theo Y Thu, việc biết đánh và dạy người khác đánh hoàn toàn

64

khác nhau, bởi ngoài những kiến thức cơ bản nhất trong biểu diễn cồng chiêng từ

cách đeo chiêng, cách kê tay trong lòng chiêng, tiếp xúc giữa bàn tay và bề mặt

chiêng, phải làm sao để tạo ra những âm thanh trầm bổng đặc trưng của từng

điệu chiêng. Hơn thế nữa, phải làm sao cho người học hiểu và thấm được điệu

chiêng lẫn ý nghĩa của từng bài trong mỗi sự kiện khác nhau là rất khó. Chính vì

vậy, ngoài việc truyền dạy kỹ thuật đánh chiêng thì làm thế nào để họ có truyền

dạy tiếp cho những người khác là vấn đề đáng quan tâm.

Vấn đề bảo tồn, gìn giữ không gian văn hóa của buôn làng truyền thống

đến nay vẫn chưa được quan tâm, triển khai đúng mức, đúng trọng điểm:

Hiện nay không ít buôn làng truyền thống của người Ê-đê, Mnông, Xơ

đăng trên địa bàn tỉnh đã trở nên mờ nhạt và biến mất trước những tác động tiêu

cực của đời sống xã hội hiện đại. Nhiều ý kiến cho rằng, việc đầu tư, bảo tồn

chưa đúng trọng tâm, chẳng hạn tập trung nhiều vào việc cấp phát chiêng, truyền

dạy mà ít chú đến cái căn bản của nó là không gian diễn xướng, là các bài chiêng

cổ đúng với lễ hội truyền thống,… Anh Y Wol Niê, trưởng buôn Akô Dhông

(phường Tân Lợi - TP. Buôn Ma Thuột) cho rằng, Nhà nước nên hỗ trợ một

phần kinh phí giúp bà con nâng cấp, sửa sang lại những ngôi nhà dài cho tươm

tất, đàng hoàng hơn để không gian sống (đồng thời là không gian văn hóa – lịch

sử) của cộng đồng người Ê-đê ở đây không bị xáo trộn và đổ vỡ. Thực tế, buôn

Ako Dhông đã và đang được xây dựng buôn du lịch sinh thái văn hóa với việc

trùng tu, nâng cấp các ngôi nhà dài trong buôn để làm điểm tham quan, cà phê,

biểu diễn cồng chiêng,… Y Wol cũng nhấn mạnh rằng, “buôn làng còn thì cồng

chiêng không bao giờ mất”. Khi ấy, người dân không những được hưởng lợi từ

doanh thu của ngành du lịch mang lại, mà còn bảo tồn được toàn vẹn cả buôn

làng, trong đó linh hồn của nó là ngôi nhà dài và tiếng cồng chiêng sẽ trường tồn

trong không gian văn hóa của buôn làng.

Bàn về vấn đề này, nhiều nhà văn hóa cũng cho rằng, việc bảo tồn chưa

dúng trọng tâm, trọng điểm, chỉ quan tâm phần ngọn mà không chú trọng phần

65

gốc. Ví dụ như việc sưu tầm, chỉnh lý các bài chiêng (cổ và mới) để làm căn cơ

bảo tồn, phát triển vẫn còn bỏ ngỏ. Trong khi điều hệ trọng này được các nhà

nghiên cứu văn hóa dân gian Tây Nguyên như bà Linh Nga Niê Kdăm (Chi hội

Văn nghệ dân gian Đắk Lắk) cảnh báo rằng “chảy máu” cồng chiêng không

đáng lo bằng mất bài bản cồng chiêng vì đó chính là hạt nhân, là trung tâm của

Không gian VHCC. , vì cồng chiêng còn có thể mua lại và cấp cho họ . Mất “bài

bản” ở đây đồng nghĩa với mất dần nghệ nhân - người nắm giữ nhịp sống cồng

chiêng trong các buôn làng [Dẫn theo 12]. Nhà nghiên cứu này dẫn chứng, cứ

nhìn vào các kỳ Lễ hội Văn hóa - Thể thao, trong đó có gắn kết mật thiết với yếu

tố cồng chiêng được tổ chức trên địa bàn Đắk Lắk trong thời gian qua sẽ thấy, cứ

lần sau thì bài chiêng đi kèm với nghệ nhân diễn tấu lại ít đi và “teo tóp” dần, vì

lẽ tất yếu là người già ra đi mà không có người trẻ kế thừa. Thực tế này ngày

càng trở nên bức bách, nhức nhối trong sự nghiệp bảo tồn, phát huy Không gian

VHCC Tây Nguyên nói chung.

Phân bổ kinh phí và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí:

Hầu hết các nhà quản lý đều cho rằng, một trong những hạn chế trong việc

thực hiện chính sách này là do kinh phí như phân bổ không kịp thời hoặc quá ít

kinh phí nên khó có thể hoàn thành được mục tiêu đưa ra. Tuy nhiên, chúng tôi

và một số ý kiến khác cho rằng không hẳn nguyên nhân thuộc về kinh phí. Ở

những nội dung trên đã đề cập qua cho thấy, kinh phí cho 3 Đề án Bảo tồn, phát

huy VHCC tỉnh Đắk Lắk qua 3 giai đoạn là hơn 65 tỷ đồng, trong đó, giai đoạn

2007 – 2010: 6 tỷ đồng; giai đoạn 2012-2015 là 49 tỷ đồng; giai đoạn 2016 –

2020 là hơn 10 tỷ đồng. Vấn đề là đầu tư không đúng trọng điểm. Chẳng hạn

như, mong muốn của trưởng buôn Ako Dhông mà chúng tôi đã đề cập ở trên là

khôi phục, bảo tồn buôn làng truyền thống của người Ê-đê. Vậy tại sao phải

Chính quyền, các cấp có thẩm quyền không lấy đó làm điều cơ bản để triển khai

và thực hiện Đề án bảo tồn, phát huy di sản VHCC và với nguồn kinh phí đáng

kể này, nên tập trung dồn sức để ngăn chặn, khắc phục kịp thời “vấn nạn” mất

66

nghệ nhân - mất bài bản cồng chiêng và thực trạng không gian sống trong các

buôn làng truyền thống đang bị phá vỡ như nhà văn hóa dân gian Linh Nga Niê

Kdăm đã đề cập.

Nhìn lại kết quả thực hiện đề án trên trong hơn 10 năm qua, vẫn còn tồn tại

không ít vấn đề khiến nhiều người quan tâm. Với kinh phí 65 tỷ đồng cho 3 giai

đoạn, đến nay ngành văn hóa chỉ mở được khoảng 45 lớp truyền dạy cồng

chiêng, chỉnh chiêng cho con em người DTTS tại các huyện Krông Pắc, Cư

Kuin, Cư M’gar, Krông Bông, Lắk, Krông Ana, thị xã Buôn Hồ và TP. Buôn Ma

Thuột; tổ chức 3 lớp tập huấn công tác sưu tầm nghi lễ - lễ hội cho gần 160 học

viên là cán bộ văn hóa cơ sở; trang bị cho đội chiêng nữ buôn Trấp 1 bộ chiêng

Jho (kèm trống) và 8 bộ chiêng Knak cho các buôn làng khuyết thiếu cồng

chiêng. Hỗ trợ kinh phí cho 15 đội chiêng tiêu biểu trên địa bàn tỉnh, thực tế, các

nghệ nhân biểu diễn cồng chiêng vì đam mê chứ kinh phí thực sự không tương

xứng với công lao mà họ đã cống hiến cho công tác bảo tồn VHCC.

Sự thay đổi không gian diễn xướng cồng chiêng:

UNESSCO đã công nhận Không gian VHCC là Di sản văn hóa phi vật thể

đại diện của nhân loại ở cả yếu tố nghệ thuật và không gian. Vì vậy, không gian

diễn xướng cồng chiêng là rất quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt của nó. Tuy

nhiên, trong bối cảnh hiện nay, dưới tác động của rất nhiều yếu tố như tôn giáo,

kinh tế thị trường, các nền văn hóa mới,… không gian ấy không còn nữa. Như đã

đề cập ở các nội dung trước, cồng chiêng gắn với nghi lễ, lễ hội, với khoảng thời

gian “ăn năm, uống tháng” của các tộc người tại chỗ. Khi chuyển đổi phương

thức sản xuất mới sang trồng các loại cây công nghiệp, không còn phụ thuộc

nhiều vào thiên nhiên các nghi lễ không còn phù hợp, bên cạnh đó, việc một bộ

phận người DTTS theo các tôn giáo mới như Công giáo, Tin Lành quay lưng với

tín ngưỡng đa thần truyền thống, việc sử dụng cồng chiêng để giao tiếp với thần

linh đi ngược lại với giáo lý tôn giáo của họ,… các nghi lễ truyền thống thay

67

bằng các nghi lễ trong tôn giáo,… khiến cồng chiêng ngày càng mai một.

Ngô Đức Thịnh trong một nghiên cứu của mình khi bàn về vấn đề này đã

nói rằng: “Một khi không gian sinh tồn ấy bị thu hẹp và xâm phạm thì nó trực

tiếp đe dọa tới sự tồn vong của cộng đồng cả về đời sống vật chất lẫn đời sống

tinh thần” [36, tr.503]. Cái khung xã hội buôn làng có vai trò rất quan trọng

trong việc sản sinh, duy dưỡng văn hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc nói chung

và không gian VHCC Tây Nguyên. Không gian ấy hiện nay đang chịu nhiều

biến động của cuộc sống xen cư, cận cư đã trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống

kinh tế, xã hội và văn hóa của cộng đồng. Hiện nay, chúng tôi nhận thấy không

gian sinh tồn của người Mnông huyện Lắk bị thu hẹp một cách đáng kể. Nhiều

buôn làng không còn những khoảng đất hay những khu rừng đủ rộng để thực

hành các nghi lễ, tín ngưỡng.

Chẳng hạn như ở TP. Buôn Ma Thuột, Trưởng phòng Phòng Văn hóa và

Thông tin cho biết, trên địa bàn hiện có gần 30 buôn làng, khu dân cư người

đồng bào DTTS sinh sống (không kể các dân tộc phía Bắc di cư vào), đến nay

chỉ có 5 đến 7 nơi duy trì được nét sinh hoạt VHCC, còn lại vì nhiều lý do khác

nhau khiến bà con không gìn giữ được vốn di sản này. Trong đợt khảo sát mới

đây của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch kết hợp với chính quyền thành phố

nhằm xây dựng một vài điểm du lịch cộng đồng (Homestay), phục vụ du khách

khi đến Buôn Ma Thuột. Kết quả cho thấy, không kể các buôn làng nằm trong

lòng đô thị, mà ở vùng ven – nơi ít chịu sự tác động mạnh mẽ đô thị hóa như

buôn Buôr (xã Hòa Xuân), buôn Kbur (xã Hòa Phú), buôn Kmrơng A, B, buôn

Ea Nao A, B (xã Ea Tu) hay buôn Ea Bông, Kdun (xã Cư Êbur)… đều vắng

bóng cồng chiêng do không gian sống và thiết chế văn hóa truyền thống đã thay

đổi (Kết quả PVS).

Tác giả Nguyễn Thị Kim Vân trong bài viết của mình cũng cho rằng, do tính

chất thiêng liêng đặc thù của “ngôn ngữ” cồng chiêng Tây Nguyên nên di sản văn

hóa này chỉ thực sự “tỏa sáng” khi đặt trong không gian, môi trường tâm linh

68

truyền thống thực sự của nó. Tuy nhiên, Không gian VHCC Tây Nguyên đang

ngày càng bị thu hẹp và mai một dần. Bà cho rằng “việc chuyển đổi cơ cấu cây

trồng từ cây lúa rẫy sang các loại cây công nghiệp như cà phê, cao su, ca cao…

đã dẫn đến sự suy giảm những sinh hoạt cồng chiêng gắn với hoạt động sản xuất

truyền thống. Không gian buôn làng, khu nhà mồ, bến nước…, là không gian

VHCC đã bị thu hẹp hoặc thay thế bằng nhà xây kiên cố, giếng khoan. Bên cạnh

đó, tình trạng di cư ồ ạt các lớp cư dân mới vào Tây Nguyên làm thu hẹp dần các

buôn làng Gia-rai, Ê-đê cổ truyền. Những điều kiện “cần” trong một không gian

để VHCC “sống” đúng nghĩa như: canh tác lúa rẫy, bến nước, nhà rông, nhà

mồ… cứ khuyết dần [Trích dẫn theo 1].

Như vậy, có thể khẳng định rằng, không gian để diễn xướng cồng chiêng rất

quan trọng, nó là linh hồn của loại hình nghệ thuật độc đáo này. Do đó, trong quá

trình thực hiện chính sách bảo tồn cần tính đến bảo tồn cả yếu tố “không gian”.

Thực tế hiện nay, vấn đề bảo tồn không gian chưa thực sự được quan tâm đúng

mức.

Công tác quản lý di sản còn bất cập:

Sự tham gia của người dân, của cộng đồng trong điều hành, tổ chức, quản lý di

sản còn mờ nhạt, chưa phát huy được vai trò quan trọng của nhân dân. Công tác

phối hợp giữa tỉnh với một số huyện trong việc phục dựng các lễ hội, nghĩ lễ truyền

thống có lúc có nơi chưa chặt chẽ. Vai trò của chủ thể, của cộng đồng chưa được

phát huy và chưa đặt đúng vị trí trong việc lập kế hoạch, xây dựng dự án cũng như

triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự án từ cơ sở đối với các dự án nói chung

và các chương trình, dự án về văn hoá nói riêng đã làm ảnh hưởng tới chất lượng và

hiệu quả việc bảo tồn và phát huy VHCC. Trong các hoạt động cụ thể, chủ thể văn

hóa là người Ê-đê, Mnông, Gia rai còn khá thụ động việc trình diễn các nghi lễ, lễ

hội, còn chờ kinh phí hỗ trợ từ cấp trên xuống mới tổ chức chứ chưa xuất phát từ

nhu cầu trong đời sống văn hóa tinh thần của họ.

Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác

69

văn hóa trên địa bàn còn chưa đến nơi đến chốn, đặc biệt là các cán bộ người

DTTS. Do đó, dẫn đến tình trạng một số địa phương công tác bảo tồn cồng

chiêng hầu như vắng bóng.

Chưa có chính sách đãi ngộ, khuyến khích phù hợp tương xứng đối với các

nghệ nhân, người có uy tín truyền dạy văn hóa của các DTTS. Trên địa bàn mới

chỉ có 24 nghệ nhân dân gian được tặng Danh hiệu Nghệ nhân, Ưu tú, còn nhiều

nghệ nhân dân gian cho rằng, họ đánh cồng chiêng vì đam mê, vì bản sắc văn

hóa của dân tộc chứ không được hưởng bất kỳ chế độ gì. Nếu có, chỉ là hỗ trợ

kinh phí hoạt động cho từng đội chiêng chứ không có chế độ cho cá nhân.

Một nguyên nhân quan trọng nữa là đời sống kinh tế của các DTTS tại chỗ

- người nắm giữ linh hồn của cồng chiêng còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo,

cận nghèo ở nhóm tộc người còn cao so với các dân tộc khác trên địa bàn tỉnh.

Đời sống khó khăn đã ảnh hưởng trực tiếp đến công tác gìn giữ, bảo tồn và phát

huy cồng chiêng…. Chúng ta cũng biết rằng, kinh tế là chìa khóa để phát triển

các yếu tố xã hội và văn hóa. Chính vì vậy, muốn bảo tồn VHCC phải có các giải

pháp thúc đẩy kinh tế các DTTS phát triển, phải lồng ghép các hoạt động bảo tồn

vào trong hoạt động phát triển kinh tế như gắn với các chính sách phát triển kinh

tế - xã hội, gắn với hoạt động du lịch,… để đem lại hiệu quả thiết thực hơn.

Bên cạnh đó, sự thay đổi cơ bản về đời sống kinh tế, xã hội, hội nhập nói đã

ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến môi trường, điều kiện phát huy, phát triển và

diễn xướng của VHCC. Đặc biệt, dưới sự tác động của các yếu tố văn hóa mới

đó là thị trường âm nhạc với đa dạng các loại hình, mới mẻ và thu hút giới trẻ

hơn khiến âm nhạc cồng chiêng không còn là ưu tiên thưởng thức của thế hệ trẻ

70

các DTTS tại chỗ.

Tiểu kết chương 2

Nhìn chung, trong nội dung chương hai, chúng tôi đã trình bày khái quát về

điều kiện hình thành và phát triển của VHCC Tây Nguyên, khái quát về điều kiện

tự nhiên, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Đắk Lắk. Chúng tôi cùng trình bày

một cách khái quát nhất về không gian VHCC, đó là không gian, môi trường diễn

xướng cồng chiêng, trình bày một số đặc điểm và đặc trưng, loại hình và cấu tạo

của cồng chiêng, bên cạnh đó, chúng tôi còn đề cập đến ý nghĩa tâm linh sâu sắc

của nghệ thuật cồng chiêng đối với đời sống của các tộc người thiểu số tại chỗ tỉnh

Nội dung mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là thực trạng thực hiện chính sách

bảo tồn VHCC. Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ năm 2005, khi được UNESCO

công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, Đảng,

Nhà nước cũng như UBND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành các văn bản, chính sách nhằm

bảo tồn, phát huy VHCC, thể hiện rõ nét nhất là 3 Đề án bảo tồn VHCC qua 3 giai

đoạn 2007 -2010; 2012 – 2015 và 2016 – 2020. Kết quả thực hiện chính sách này đã

đạt được những thành tựu nhất định ở các lĩnh vực cụ thể như: hoạt động phổ biến,

tuyên truyền nâng cao nhận thức cho chủ thể văn hóa; tổ chức Hội nghị, hội thảo,

điều tra, sưu tầm về các bài chiêng cổ; xuất bản sách, đĩa CD về các hoạt động, cấp

phát và trang bị chiêng, trang phục cho các đội chiêng; công tác truyền dạy kỹ năng

đánh chiêng, chỉnh chiêng cho thế hệ trẻ; trình diễn, phục dựng các nghi lễ gắn với

diễn xướng cồng chiêng; tổ chức các cuộc liên hoan trong huyện, trong tỉnh định kỳ,

tham gia giao lưu VHCC trong và ngoài nước, tôn vinh các nghệ nhân dân gian,...

Những kết quả này là nỗ lực của cả các cấp quản lý và sự cố gắng, nhiệt huyết của

các chủ thể văn hóa Ê-đê, Mnông, Gia rai trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên,

việc thực hiện chính sách vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định như: sự suy giảm số

lượng nghệ nhân giỏi biết đánh chiêng, chỉnh chiêng và có thể truyền dạy; sử dụng,

phân bổ kinh phí chưa hợp lý; sự thay đổi và mất dần các không gian diễn xướng

cồng chiêng,... đã khiến cho công tác bảo tồn gặp khó khăn. Những khó khăn này

xuất phát từ các nguyên nhân kinh tế, đô thị hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa,... và là

71

Đắk Lắk.

tất yếu không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp thiết thực, phù

hợp với tộc người, với địa phương cụ thể là cách hữu hiệu để níu kéo cồng chiêng

tồn tại cùng với sự tồn tại của các DTTS tại chỗ Đắk Lắk.

72

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. Dự báo xu thế xã hội và những khó khăn, thách thức đặt ra đối với

việc thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng trong tình hình mới

3.1.1. Sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện đang là xu thế tất yếu trong sự phát

triển của nhân loại trên tất cả các lĩnh vực. Ở lĩnh vực văn hóa, xu thế toàn cầu

hóa thể hiện rất rõ trong quá trình giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, trong

mối quan hệ đa chiều về văn hóa ngày càng mạnh mẽ của các quốc gia trên toàn

thế giới. Sự bùng nổ của phương tiện truyền thông đại chúng, sự hình thành và

lan truyền nhiều loại hình văn hóa Á - Âu, sự xuất hiện và truyền bá nhiều lối

sống, cách sống khác nhau…đã và đang một mặt tạo cơ hội cho việc giao lưu,

tiếp biến văn hóa, song mặt khác lại đặt ra những thách thức mới cho việc bảo vệ

bản sắc văn hóa các DTTS và VHCC Tây Nguyên cũng không nằm ngoài quy

luật này. Sẽ có một số khuynh hướng xảy ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế, đó là:

Thứ nhất, Trong bối cảnh hội nhập, VHCC Tây Nguyên có nhiều điều kiện,

cơ hội được giao lưu, biểu diễn các chương trình trong khu vực và quốc tế. Đây

là cơ hội để quảng bá, giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể Không gian VHCC

Tây Nguyên tới đông đảo bạn bè các nước khác, đồng thời thu hút khách du lịch

tới Tây Nguyên để thưởng thức loại hình nghệ thuật này. Đây là một trong

những cách thức cần sử dụng trong công tác bảo tồn VHCC Tây Nguyên.

Thứ hai, Trước bối cảnh hội nhập quốc tế, với sự bùng nổ của cách mạng

khoa học - công nghệ và sự gia tăng nhanh chóng các sản phẩm văn hóa hiện đại,

âm nhạc hiện đại đáp ứng được thị hiếu của số đông, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bên

73

cạnh đó, mặt trái của cơ chế thị trường dễ đem đến cách sống, tâm lý hưởng thụ,

lối sống vì tiền, sự chú ý lợi ích vật chất… dẫn tới ít quan tâm hoặc lãng quên

giá trị tinh thần, nhạt phai yếu tố đạo đức, coi trọng cá nhân mà ít quan tâm tới

cộng đồng, cũng như những giá trị văn hóa được lưu giữ trong cộng đồng. Đây

cũng là nguy cơ khiến văn hóa truyền thống của các dân tộc, trong đó có VHCC

Tây Nguyên dễ bị đẩy ra ngoài phạm vi quan tâm của thế hệ trẻ, họ quay lưng và

hầu như không có nhu cầu thưởng thức loại hình nghệ thuật này. Nếu không giải

quyết được vấn đề nhận thức cho lớp trẻ thì VHCC Tây Nguyên bị mai một là xu

thế đáng lo ngại.

Vì vậy, để hội nhập quốc tế mà không bị hòa tan, phát triển nhưng vẫn bảo

vệ được bản sắc văn hóa dân tộc, cần phải có phương pháp tiếp cận tổng thể và

toàn diện về vấn đề phát triển. Trong bối cảnh hội nhập, mở cửa như hiện nay,

việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống là điều không dễ dàng.

Bên cạnh đó, chúng ta phải chủ động nắm bắt những xu hướng phát triển của thế

giới để có những tiếp biến văn hóa làm giàu thêm bản sắc dân tộc, để VHCC

không chỉ là biểu tượng tâm linh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên mà còn

đại diện cho con người và dân tộc Việt Nam.

3.1.2. Sự tác động của các xu hướng thực hành tôn giáo, tín ngưỡng

Ở nội dung trên, chúng tôi đã đề cập đến một trong những rào cản trong

công tác bảo tồn VHCC Tây Nguyên là tôn giáo. Việc một phần lớn người

DTTS tại chỗ theo các tôn giáo khác nhau như đạo Tin Lành, Công giáo đã ảnh

hưởng lớn đến nạn “chảy máu” cồng chiêng. Bởi, trong xã hội truyền thống, các

dân tộc tại chỗ Đắk Lắk như Ê-đê, Gia rai, Mnông theo tín ngưỡng đa thần và

VHCC là một loại hình nghệ thuật có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, là công cụ để

giao tế với thế lực siêu nhiên là các vị thần. Và cồng chiêng gắn với các nghi lễ,

lễ hội truyền thống như lễ cúng bến nước, cúng lúa mới, lễ kết nghĩa anh em,…

và các nghi lễ vòng đời của mỗi người. Khi theo các tôn giáo khác nhau, từ tín

ngưỡng đa thần sang “độc thần”, các nghi lễ, lễ hội không còn phù hợp, thay vào

74

đó, họ đi lễ hàng tuần, cầu nguyện, học tập kinh thánh, giáo lý, hát các bài hát

thánh ca,…. Theo đó, VHCC mất đi ý nghĩa tâm linh vốn có, không còn được sử

dụng đối với những người DTTS tại chỗ theo tôn giáo. Chính vì thế, tình trạng

bán cồng chiêng trở nên phổ biến ở thập niên cuối 80, đầu thập niên 90. Thực

trạng này cho thấy, VHCC tồn tại chủ yếu ở các buôn làng theo tín ngưỡng

truyền thống. Ở các buôn làng này, họ vẫn còn tổ chức một số nghi lễ truyền

thống, vẫn còn thầy cúng, vẫn còn nhà dài truyền thống,… tạo không gian diễn

xướng cồng chiêng phát triển.

Chính vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến, bảo tồn VHCC Tây Nguyên đối

với những người theo tôn giáo để họ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mình một

cách linh hoạt, phù hợp trong môi trường mới là trong sinh hoạt, nghi lễ của tôn

giáo là cần thiết.

3.1.3. Sự tác động của các chủ trương, chính sách của Nhà nước

Ngay khi VHCC Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản

văn hóa phi vật thể và truyền khẩu đại diện của nhân loại và trở thành “Di sản

văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” năm 2007, Đảng và Nhà nước cũng

như chính quyền địa phương đã ban hành các chính sách để bảo tồn và phát huy

giá trị của VHCC Tây Nguyên. Có thể nói, đối với công tác bảo tồn văn hóa nói

chung và bảo tồn Không gian VHCC Tây Nguyên nói riêng thì Nhà nước có vai

trò đặc biệt quan trọng. Qua việc ban hành và thực hiện các chính sách góp phần

giúp cho công tác định hướng hoạt động bảo tồn VHCC Tây Nguyên đi đúng

hướng; hỗ trợ kinh phí, nguồn lực vật chất khác cho công tác bảo tồn VHCC;

đồng thời tạo động lực cho các chủ thể văn hóa thông qua các chính sách hỗ trợ,

tôn vinh các nghệ nhân dân gian,….

Tuy nhiên, một thực tế đang diễn ra đó là vấn đề phải làm sao có sự hài hòa

giữa bảo tồn và phát triển. Thực tế đây là một bài toán hết sức nam giải, do vậy

trong các chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị của VHCC Tây Nguyên phải

75

giải quyết hài hòa vấn đề này.

3.1.4. Sự ảnh hưởng của chủ thể văn hóa

Chủ thể văn hóa là người nắm giữ linh hồn, là những chủ nhân thực sự của

không gian VHCC Tây Nguyên. Chính vì vậy, công tác bảo tồn VHCC Tây

Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk được quyết định bởi các chủ thể văn hóa là

người Ê-đê, Mnông, Gia rai. Đối với chủ nhân văn hóa tồn tại một số vấn đề sau:

Thứ nhất, đó là sự suy giảm các nghệ nhân cồng chiêng qua hàng năm: già

hoặc chết.

Thứ hai, như đã trình bày ở trên do tác động của hội nhập, giao lưu văn hóa

quốc tế, tôn giáo, tín ngưỡng… vì vậy, lớp trẻ ngày càng không mặn mà với

VHCC. Đây là một thực trạng hết sức nan giải trong việc bảo tồn và phát huy

các giá trị VHCC Tây Nguyên nói chung, cũng như việc thực hiện các chính

sách về bảo tồn và phát huy các giá trị VHCC Tây Nguyên nói riêng một cách có

hiệu quả.

Thứ ba, không gian VHCC bị thu hẹp dần và việc khôi phục, bảo tồn không

gian này cũng được quyết định bởi chính các chủ thể văn hóa. Như đánh giá của

nhà nghiên cứu Trương Bi, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh ĐăkLăk, do

ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường, văn hóa đương đại cũng như nhiều tác

động khác nên không gian văn hóa của các dân tộc tại chổ Tây Nguyên đã bị thu

hẹp dần. “Không gian rừng bị mất. Không gian bến nước không còn được sử

dụng. Không gian nương rẫy đã nhường chỗ cho cây công nghiệp…và đất rẫy đã

biến thành khu công nghiệp, trang trại; nhà sàn truyền thống đã thay dần bằng

nhà xây kiên cố, không còn chỗ cho việc tổ chức các nghi lễ – lễ hội truyền

thống… Mất không gian này sẽ đến mất không gian nghi lễ – lễ hội, không gian

văn hóa cồng chiêng, không gian văn hóa sử thi, không gian thổ cẩm, không gian

ẩm thực…”, nhà nghiên cứu Trương Bi chỉ ra thực trạng đáng bàn nhằm giữ gìn

được không gian văn hóa truyền thống –“đất sống” của cồng chiêng.

Bên cạnh đó, một tình trạng là nhân dân “hiện đại”, các chủ nhân của di sản

76

VHCC bắt đầu có hiện tượng “làm mới” di sản theo chiều hướng sân khấu hóa

kiểu các liên hoan của văn hóa quần chúng một cách tùy tiện, dẫn đến việc méo

mó, sai lạc giá trị chân chính của di sản. “Các bài chiêng vốn là những tác phẩm

âm nhạc đa thanh, biểu hiện trình độ thẩm âm cao của người Tây Nguyên. Đem

treo tất cả chiêng của một dàn chiêng vào cây tre dài rồi cho một người chạy đi

chạy lại, gõ từng cái chiêng một, biến một tác phẩm đa thanh thành đơn thanh đã

làm biến đổi giá trị vốn có của nghệ thuật âm nhạc độc đáo này. Đó là sự “cải lùi

và hạ thấp giá trị”, là “gieo vừng ra ngô” nghệ thuật cồng chiêng độc đáo của

nhân dân Tây Nguyên” (Tô Ngọc Thanh).

Nhà nghiên cứu Linh Nga Nie KDăm trăn trở: “Không gian – chủ thể phải

cần được chú trọng, phải làm sao để bà con tự hào chính là chủ thể và cũng là

khách thể của những ngày hội. Nghệ thuật dân gian cần được truyền dạy từ các

cộng đồng, trường học, đặc biệt là lớp trẻ…”.

3.2. Quan điểm và định hướng về chính sách bảo tồn văn hóa cồng

chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk

3.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Quan điểm về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa được thể hiện qua

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII, thông qua ngày 16/07/1998) về xây dựng

và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: “Di sản văn hóa là

tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở

để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn,

kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian),

văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [10]. Ở đây,

văn hóa phi vật thể đã được nhắc đến trực tiếp và được khẳng định vai trò cũng

như giá trị quan trọng đối với dân tộc, đất nước, cần được bảo tồn và phát huy

77

giá trị bên cạnh di sản văn hóa vật thể.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu: “Tiếp tục

xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát

huy các giá trị văn hóa tốt đẹp dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa

nhân loại”. Điều này càng khẳng định, Đảng hết sức quan tâm đến sự nghiệp

văn hóa của dân tộc, phương hướng phát triển và bảo tồn di sản văn hóa. Các

chủ trương của Đảng, Chính sách cảu Nhà nước hướng đến việc xây dựng, bảo

tồn di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng cùng với

chiến lược phát triển đất nước để bảo tồn và phát huy giá trị của nó.

Một trong những công cụ để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nói chung và

di sản văn hóa phi vật thể nói riêng, đó là hệ thống pháp luật. Đảng ta cũng khẳng

định chủ trương: Nhà nước cùng nhân dân giữ gìn và bảo tồn những di sản văn hóa,

hoàn thành nhiệm vụ sưu tầm vốn văn hóa văn nghệ các dân tộc. Các biện pháp

bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể được xây dựng trên phương châm “Nhà nước

và nhân dân cùng làm”. Sự kết hợp này, vừa thể hiện sự đồng thuận của Nhà

nước và nhân dân, vừa mang lại hiệu quả cho việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật

thể. Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, Luật Di sản văn hóa đã đưa ra

các quy định thích hợp để thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ,

phát huy di sản như: tham gia các tổ chức và điều ước quốc tế, cho phép tổ chức,

trưng bày cổ vật ở nước ngoài. Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bổ

sung năm 2009, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để bảo vệ, phát triển, phát huy hệ

thống di sản văn hóa. Luật Di sản văn hóa đã dành trọn vẹn chương II (từ điều 17

đến điều 21) để đề cập vấn đề di sản văn hóa phi vật thể từ trách nhiệm của Nhà

nước, các cơ quan nhà nước đến các nguyên tắc bảo vệ và phát huy. Tại Điều 17

Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là: “Nhà nước khuyến

khích và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu

tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể nhằm giữ gìn,

phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [29] và Điều 20

78

“Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo

vệ di sản văn hóa phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc

thất truyền” [29]; hoặc Điều 26 “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối

với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí

quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt” [29].

Không gian VHCC Tây Nguyên của Việt Nam đã được UNESCO chính

thức công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào

ngày 25/11/2005. Cũng giống như các kiệt tác văn hóa khác của dân tộc, Đảng

và Nhà nước luôn có các chính sách để bảo tồn và phát huy giá trị của nó. Ngay

từ khi Không gian VHCC Tây Nguyên được UNESCO vinh danh là Di sản văn

hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có

nhiều chính sách, chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh Tây Nguyên phải có những

chính sách để bảo tồn và phát huy giá trị của VHCC mà chúng tôi đã đề cập ở

các nội dung trên.

3.2.2. Định hướng và mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Di sản văn hóa nói chung, di sản VHCC Tây Nguyên nói riêng là cầu nối

giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và là nét đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc

Việt Nam. Chính vì vậy, di sản VHCC Tây Nguyên cần được sưu tầm, nghiên

cứu, khôi phục, gìn giữ và phát huy trong hiện tại và tương lai.

Ngay từ khi di sản văn hóa công chiêng Tây Nguyên được UNESCO công

nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Đảng bộ tỉnh

Đắk Lắk, đã ban hành 03 Nghị quyết nhằm quán triệt sâu sắc tinh thần trên và

các cấp chính quyền trong tỉnh nghiêm túc thực hiện định hướng và mục tiêu bảo

tồn và phát huy giá trị di sản VHCC Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể:

Một là, thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa

phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên một cách khoa học và có hệ thống, thông

79

qua việc tư liệu hóa, nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức

sống của di sản VHCC Tây Nguyên trong cộng đồng, trên cơ sở đó đề xuất

phương án bảo tồn, phát huy một cách hiệu quả.

Hai là, nâng cao vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước, đẩy mạnh

công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bảo vệ di sản văn hóa, gắn

hoạt động văn hóa dân tộc trong công tác xây dựng đời sống văn hóa. Chú trọng

nguyên tắc “bảo tồn sống” tức là bảo tồn ngay chính trong đời sống cộng đồng.

Ba là, tiếp tục tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi nâng cao để đáp

ứng nhu cầu thực tế. Có chính sách, chế độ thích đáng cho các nghệ nhân tài

giỏi, những cá nhân và gia đình có công sức giữ gìn tài sản văn hóa dân tộc.

Bốn là, không gian diễn xướng và việc quản lý hướng dẫn cũng như việc

bảo tồn nét đẹp truyền thống của di sản VHCC Tây Nguyên vẫn là những vấn đề

cần được tiếp tục nghiên cứu trên địa bàn tỉnh.

Năm là, tăng cường hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý

ở địa phương, xây dựng các tổ đội truyền thông và không ngừng nhân rộng các

mô hình điểm.

Sáu là, tăng cường việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, giao

lưu, hợp tác với các địa phương trong và ngoài nước đối với hoạt động quản lý

nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị di sản VHCC.

Tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật Di sản văn hóa của Nhà nước, Chỉ

thị 08/CT-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk về việc bảo tồn di sản VHCC

trong toàn tỉnh.

Trong giai đoạn tiếp theo, tiếp tục thực hiện các nội dung đã cam kết với

UNESCO, về việc giữ gìn, bảo tồn, khai thác và phát huy có hiệu quả di sản

VHCC như việc từng bước khôi phục không gian VHCC trong đời sống cộng

đồng các DTTS tại chỗ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; giới thiệu, quảng bá giá trị di

sản Không gian VHCC tỉnh Đắk Lắk đến bạn bè trong và ngoài nước; gắn phát

triển kinh tế với công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản VHCC trên địa bàn tỉnh,

80

góp phần phát triển văn hóa - du lịch trong thời kỳ hội nhập nhằm tiếp tục thực

hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết số

33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu

cầu phát triển bền vững đất nước” trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa

và hội nhập quốc tế.

3.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây

Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản, thể chế có liên quan về chính

sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh

Để cho di sản cồng chiêng Tây Nguyên được bảo tồn một cách khoa học và

ngày càng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng một cách lâu bền thì việc hoàn thiện

hệ thống văn bản và thể chế có liên quan về chính sách bảo tồn VHCC Tây

Nguyên là hết sức quan trọng. Cụ thể:

- Cần xây dựng và hoàn thiện các chính sách đẩy mạnh hoạt động giao

lưu, trao đổi giữa các buôn, làng, các câu lạc bộ cồng chiêng, âm nhạc dân

gian. Trên cơ sở chính sách chung của tỉnh giúp các buôn, làng, câu lạc bộ xây

dựng những nội quy, quy chế hoạt động rõ ràng. Song song với đó, ngành Văn

hóa, Thể thao và Du lịch của tỉnh cần khuyến khích hoặc có những quy định cụ

thể cho các buôn, làng trong việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa,

những giá trị đặc trưng của di sản VHCC Tây Nguyên.

- Phải có những chính sách về đổi mới và nâng cao chất lượng Hội thi, Liên

hoan VHCC đầu xuân hay trong các lễ hội cồng chiêng. Các chính sách cần

được xây dựng trên cơ sở tổ chức các hội thi, liên hoan từ cơ sở, cho đến cấp

huyện, tỉnh, liên tỉnh và toàn quốc. Cần có các chính sách để duy trì tốt tổ chức

các liên hoan, hội thi về VHCC cho thế hệ trẻ bằng hình thức phát động các cuộc

thi thực hành về VHCC để tìm ra những thí sinh, những nhân tố trẻ tuổi say mê

81

nghiên cứu, tìm hiểu về VHCC; tìm ra những gương mặt trẻ có năng khiếu đặc

biệt trong trình diễn cồng chiêng; khơi dậy niềm đan mê, tự hào của dưới trẻ đối

với VHCC. Thông qua các hội thi này sẽ tuyển chọn tài năng trẻ, thu hút sự chú ý

của thế hệ trẻ vào quá trình sinh hoạt, bảo tồn và phát huy di sản VHCC Tây

Nguyên nói chung, thực hành các hình thức sinh hoạt cồng chiêng hiện nay nói

riêng.

3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện chính sách

bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh

Để các chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh được

nâng cao và có hiệu quả cần thực hiện các công việc sau:

- Trước hết, cần tăng cường sự quản lý của các cấp ủy Đảng và Nhà nước

về công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến các thôn buôn về giá trị

Không gian VHCC nhằm giúp họ nâng cao ý thức, niềm tự hào, tự tôn dân tộc để

kích thích ý thức giữ gìn một cách chủ động đối với các chủ thể văn hóa.

- Hoàn thiện danh sách các nghệ nhân; xây dựng, thực hiện chính sách đãi

ngộ đối với các nghệ nhân, đặc biệt là những nghệ nhân được phong tặng “Báu

vật nhân văn sống” ở các buôn, làng trên địa bàn tỉnh. Để làm được việc này, Sở

Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng

các tiêu chí về nghệ nhân, xây dựng chế độ đãi ngộ phù hợp cho các nghệ nhân.

Đã đến lúc chúng ta không thể tôn vinh kho “Di sản nhân văn sống” bằng băng

rôn, khẩu hiệu và những giấy khen trong khi cuộc sống của nhiều nghệ nhân giỏi

hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn.

- Tiếp tục thực hiện chính sách trang bị cồng chiêng, cấp trang phục truyền

thống cho các đội chiêng ở các buôn làng nhằm khích lệ, động viên tinh thần đối

với các nghệ nhân đánh chiêng cũng như nâng cao ý thức trách nhiệm, gìn giữ giá

trị văn hóa, giá trị di sản VHCC và góp phần phát huy hiệu quả trong sinh hoạt

82

văn hóa cộng đồng ở các buôn, làng.

- Tiếp tục mở các lớp truyền dạy cồng chiêng cho thế hệ trẻ người DTTS tại

chỗ. Phải xác định đây là hoạt động nòng cốt trong công tác bảo tồn VHCC trên

địa bàn tỉnh trong bối cảnh hiện nay.

- Tiếp tục phục dựng một số lễ hội truyền thống có nguy cơ mai một của

đồng bào các DTTS tại chỗ gắn với môi trường diễn tấu VHCC để đồng bào phát

huy những nét đẹp trong các lễ hội vào đời sống cộng đồng. Hoạt động này phải

thực hiện theo hình thức từ dưới lên, phải trưng cầu ý kiến và xuất phát từ nhu

cầu của chủ thể văn hóa.

- Trong công tác quản lý cần quán triệt rõ chủ thể của việc bảo tồn và phát

huy VHCC Tây Nguyên phải là các DTTS tại chỗ trên địa bàn, đó là sự nghiệp

của họ và vì chính họ. Hay nói cách khác là nâng cao vai trò của chủ thể văn hóa

trong công tác bảo tồn. Chính vì thế, trong công tác lập kế hoạch, triển khai thực

hiện hoặc kiểm tra, giám sát phải có dấu ấn của họ nhằm nâng cao vai trò của họ

trong thực thi chính sách này. Tăng cường ý thức chủ động của chính họ trong

công tác giữ gìn, bảo tồn VHCC, gắn với ý thức giữ gìn, bảo tồn không gian diễn

tấu cồng chiêng đó là: nhà dài, nghi lễ, lễ hội. Bởi lẽ không giống như một số di

sản phi vật thể khác, cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận Di sản

văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại ở sự kết hợp của cả không gian và

nghệ thuật. Chính vì vậy, việc bảo tồn di sản này cần quan tâm đến cả hai yếu tố

nêu trên.

- Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác bảo tồn cần gắn VHCC

với phát triển du lịch. Đó là một trong những giải pháp có tính chiến lược lâu

83

dài, bền vững.

3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ văn hóa trong triển khai

thực hiện chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn

tỉnh

Ở chương 1, chúng tôi đã khẳng định rằng, nhân lực là một trong những

yếu tố quyết định đến sự thành công của một chính sách. Do đó, để thực hiện

thành công chính sách bảo tồn VHCC trên địa bàn tỉnh cần:

- Củng cố, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao

phục vụ công tác quản lý di sản văn hóa phi vật thể với sự hỗ trợ của các cơ

quan, các nhà khoa học trong nước và thế giới (kể cả đi tham quan học tập ở

nước ngoài). Cần khẳng định rằng, những người làm công tác văn hóa nói riêng

ở cấp cơ sở, nếu không hiểu biết về di dản VHCC Tây Nguyên cũng như những

giá trị, đặc trưng và các hình thức sinh hoạt của nó, sẽ gặp nhiều khó khăn trong

quản lý, định hướng và duy trì sự phát triển của di sản cồng chiêng. Do đó, họ

cần thường xuyên được trang bị những kiến thức cơ bản về quản lý, về giá trị,

đặc trưng, ý nghĩa của VHCC. Đặc biệt cần đào tạo những nội dung về nghiệp

vụ quản lý.

- Để nâng cao năng lực có hiệu quả thì quá trình tổ chức tập huấn có thể

diễn ra theo nhiều đợt, mỗi đợt sẽ quy định đối tượng và mức độ chuyên sâu

khác nhau. Đợt một, tổ chức tập huấn cho cán bộ cấp huyện, tức là người làm

văn hóa ở các phòng, trung tâm văn hóa. Đợt hai, tổ chức cho cán bộ ở các ban

văn hóa xã. Như vậy, việc quản lý sẽ rõ ràng, chuyên sâu hơn.

- Nên sử dụng những người DTTS tại chỗ làm công tác văn hóa vì họ hiểu

hơn về nền văn hóa của họ, do đó, trong quá trình thực hiện, họ sẽ đưa ra được

những kiến nghị, đề xuất, giải pháp phù hợp, xuất phát từ chính những khó khăn,

bất cập cũng như mong muốn của tộc người đó.

- Có chế độ đãi ngộ thích hợp, để đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa an

tâm công tác, đóng góp sức lực vào công việc bảo tồn, giữ gìn và phát triển bản

84

sắc văn hóa truyền thống.

3.3.4. Tăng cường hỗ trợ từ ngân sách, huy động nguồn lực tài chính

và vật chất để bảo tồn và phát triển di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

trên địa bàn tỉnh

Kinh phí là một trong những điều kiện cần và đủ để thực hiện thành công

một chính sách. Chính sách bảo tồn VHCC Tây Nguyên cũng không nằm ngoài

quy luật này.

- Kinh phí cần được phân bổ kịp thời để các hoạt động bảo tồn VHCC được

diễn ra một cách thuận lợi. Quá trình phân bổ kinh phí cũng cần phải tính đến sự

khác biệt theo vùng miền, có điểm nhấn ở những nơi cần bảo tồn, những nơi đã

bảo tồn được cần phát huy,… nhằm giúp các địa phương có mức kinh phí ổn

định để hoạt động.

- Đầu tư kinh phí phải đúng nơi, đúng chỗ, đúng trọng điểm. Chẳng hạn,

gốc gác của vấn đề là ở việc sưu tầm các bài chiêng cổ, tôn vinh các nghệ nhân

dân gian và tăng cường, đẩy mạnh công tác truyền dạy cho thế trẻ trước khi thế

hệ nghệ nhân già yếu, khuất bóng,… thì cần phải được ưu tiên đầu tư cho những

hạng mục nội dung này.

- Tăng cường xã hội hóa huy động nguồn lực bảo tồn và phát huy di sản

văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên. Để làm tốt vấn đề này, cần phải

giao nhiệm vụ cụ thể cho các cấp và các ngành có liên quan, hoặc thành lập một

cơ quan chuyên môn đủ năng lực huy động mọi nguồn lực cho công tác bảo tồn

di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên, tranh thủ sự ủng hộ từ các tổ

chức xã hội, doanh nghiệp trên địa bàn. Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ tài

chính hoặc kỹ thuật cho công tác bảo tồn từ mọi hình thức xã hội hóa, bao gồm

cả các khoản cho vay lãi suất thấp và viện trợ từ các tổ chức quốc tế và tổ chức

85

phi chính phủ.

3.3.5. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật

chất cho người dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh

Phát triển kinh tế, giảm nghèo đa chiều là một trong những nhiệm vụ

quan trọng nhằm tạo điều kiện, tiền đề cho văn hóa của các DTTS được bảo tồn

và phát triển. Chính vì vậy, cần quan tâm đến các chính sách phát triển kinh tế -

xã hội vùng đồng bào DTTS.

- Nâng cao chất lượng đời sống vật chất của các DTTS tại chỗ là một việc

làm quan trọng, trong giai đoạn hiện nay nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các

vùng, giữa DTTS tại chỗ với người Kinh và các dân tộc khác. Khi kinh tế phát

triển, đời sống của họ được nâng cao thì mới có thể tự giác, giữ gìn, bảo tồn và

phát triển bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc nói chung và VHCC nói riêng.

- Triển khai đồng bộ có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế -

xã hội, giảm nghèo đang triển khai trên địa bàn như chương trình 135; chương

trình Mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới,… Để thực hiện những mục

tiêu văn hóa, tỉnh cần giải quyết nhiều vấn đề khác nhau như giảm hộ nghèo theo

tiêu chí mới, chú trọng nâng cao đời sống của các DTTS, xây dựng cơ sở hạ tầng

điện, đường, trường, trạm đặc biệt ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào

các DTTS sinh sống. Đầu tư phát triển sản xuất, nguồn vốn, giống cây trồng vật

nuôi, hỗ trợ kỹ thuật, chính sách bao tiêu sản phẩm cho bà con để giúp bà con sử

dụng nguồn vốn có hiệu quả. Phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê,

tiêu, cao su, điều. Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc tạo ra sản phẩm hàng hoá tăng thu

nhập cho đồng bào, tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo vay vốn phát

triển kinh tế,…

- Ở những vùng có tiềm năng, cần chú trọng đầu tư phát triển du lịch văn

hóa, tăng thêm tính lan tỏa của di sản VHCC Tây Nguyên. Ngành Văn hóa, Thể

thao và Du lịch phối hợp với các địa phương xây dựng phương án khai thác và

phát huy giá trị di sản VHCC Tây Nguyên một cách hiệu quả và bền vững. Từng

86

bước đưa VHCC Tây Nguyên trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn với những

chương trình “Về với tiếng chiêng đại ngàn” hay “Đêm vang vọng tiếng cồng”

trong các tour của khách du lịch, đó cũng chính là một trong những hoạt động thúc

đẩy tốt hơn nữa tính lan tỏa của di sản VHCC Tây Nguyên trong cộng đồng ngày

nay đồng thời nâng cao đời sống kinh tế của các chủ thể văn hóa. Xây dựng

thương hiệu phải gắn kết với sản phẩm du lịch đặc thù. Đồng thời, xây dựng

thương hiệu cũng gắn kết với thị trường tiêu thụ sản phẩm, phải có chiến lược xúc

tiến quảng bá đúng đắn, hiệu quả để việc bảo tồn văn hóa gắn với việc phát triển

du lịch và phát triển kinh tế.

3.3.6. Xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể về kết quả thực hiện

chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh

Công tác tổng kết, đánh giá về bảo tồn và phát huy di sản VHCC Tây

Nguyên là hoạt động rất quan trọng bởi vì nó là khâu cần thiết để biết rằng chính

sách đã và đang được triển khai đến đâu, có những vướng mắc gì cần điều

chỉnh,… Chính vì vậy, cần:

- Công tác tổng kết, đánh giá hàng năm về các chính sách bảo tồn và phát

huy di sản VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cần được thực hiện với

những nội dung cụ thể, càng chi tiết càng tốt và được thực hiện từ dưới lên để có

thể đánh giá chính xác vấn đề.

- Ngoài ra, việc đánh giá những kết quả đã đạt được trong quản lý nhà nước

về di sản VHCC Tây Nguyên theo nhiệm vụ được phân công và trên địa bàn

được phân công, cần phải so sánh với mục tiêu phương hướng đã đề ra hoặc đã

được giao trước đó. Việc đánh giá cần bám sát nội dung đã phân công, nêu cụ

thể những việc làm được, chưa làm được, lý do chủ quan, lý do khách quan,

những khó khăn thách thức. Cần thiết nêu rõ trách nhiệm cụ thể đối với những

cấp và ngành cụ thể. Qua đó, rút ra bài học kinh nghiệm để đề ra phương hướng

kế hoạch, xác định vai trò chủ đạo trong hoạch định chính sách, chủ trương,

87

đường lối, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện tiếp theo nhằm đạt được

những mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản VHCC Tây Nguyên ở

tỉnh Đắk Lắk theo đề án đã đề ra.

- Đồng hành cùng với quá trình tổng kết, đánh giá, kiểm tra, giám sát là

công tác thi đua nhằm khen thưởng các tập thể, cá nhân thực hiện tốt hoạt động

bảo tồn và phát huy di sản VHCC Tây Nguyên của tỉnh. Cùng với đó là việc kỷ

luật đối với những tổ chức, cá nhân có vi phạm liên quan đến các hoạt động quản

lý bảo tồn và phát huy di sản VHCC trong quá trình thực hiện.

3.4. Một số khuyến nghị

3.4.1. Đối với cơ quan trung ương

- Từ thực trạng những giá trị văn hóa truyền thống, các giá trị của di sản

VHCC Tây Nguyên đang đứng trước những khó khăn thách thức và trên đà biến

đổi mạnh mẽ, các cơ quan quản lý Nhà nước cấp Bộ và tương đương cần tham

mưu cho Chính phủ sớm ban hành các văn bản và có hướng dẫn cụ thể, đảm bảo

sự thống nhất, đồng bộ, nhằm xây dựng và triển khai tổng hợp và đồng bộ các

nhóm giải pháp trên cơ sở các nguyên tắc, quan điểm bảo tồn như bảo tồn nguyên

trạng, bảo tồn trên cơ sở kế thừa, bảo tồn và phát triển các giá trị của di sản

VHCC Tây Nguyên.

- Các cơ quan quản lý nhà nước cấp Bộ và tương đương cần tham mưu cho

Chính phủ để gắn nội dung bảo tồn và phát huy giá trị di sản VHCC Tây Nguyên

vào trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của vùng Tây

Nguyên, của Quốc gia, hoặc của các nhà đầu tư các tổ chức quốc tế triển khai tại

các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Đắk Lắk.

- Nhà nước có chính sách hỗ trợ, đầu tư kinh phí dành riêng cho công tác

bảo tồn, phát huy giá trị VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh. Có chế độ, chính

sách ưu đãi, hỗ trợ đối với các nghệ nhân dân gian để họ ổn định đời sống, luôn

88

tâm huyết với nghề và truyền nghề cho các thế hệ trẻ.

3.4.2. Đối với chính quyền địa phương các cấp tỉnh Đắk Lắk

- Tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, quản lý, kiểm tra, giám sát đối với

việc thực hiện chính sách bảo tồn VHCC trên địa bàn tỉnh.

- Các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh cần

quan tâm giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức việc thực hiện công tác bảo

tồn di sản VHCC Tây Nguyên không là trách nhiệm của riêng của ngành hoặc

cấp nào, mà đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của các cấp, các ngành và

cả cộng đồng. Vì vậy, cần phải được thể hiện trong các Nghị quyết, Kế hoạch,

Chương trình hành động của các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội

trong tỉnh.

- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải là nòng cốt trong công tác này, với tư

cách là cơ quan chuyên môn tham mưu cho Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban

nhân dân tỉnh đưa ra những chính sách, giải pháp hỗ trợ bảo tồn VHCC. Lập danh

sách các nghệ nhân dân gian, đội chiêng tiêu biểu để tôn vinh, khen thưởng và có

chế độ đãi ngộ xứng đáng với những cống hiến của họ trong công tác bảo tồn

VHCC.

Tiểu kết chương 3

Để có thể phát huy những thành tựu đạt được từ việc thực hiện chính sách

bảo tồn VHCC đồng thời khắc phục những hạn chế trong công tác này cần phải

quán triệt quan điểm, định hướng và mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta. Quan

điểm đó được thể hiện qua các văn kiện của Đảng, các Quyết định, chỉ thị,… và

đặc biệt là sự ra đời của Luật Di sản văn hóa năm 2001 và sửa đổi, bổ sung năm

2009.

Để giải quyết các khó khăn trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách

bảo tồn VHCC trong thời gian tới cần: Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách,

văn bản liên quan đến công tác bảo tồn VHCC, đổi mới, điều chỉnh cho phù hợp

với từng giai đoạn cụ thể; Nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn bằng cách tiếp tục

89

đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu như công tác tuyên truyền, truyền dạy cồng

chiêng; phục dựng, bảo tồn không gian diễn xướng cồng chiêng; sưu tầm các bài

chiêng cổ, lấy các chủ thể văn hóa làm trung tâm, là nòng cốt trong công tác bảo

tồn, gắn bảo tồn VHCC với phát triển du lịch,…; Nâng cao năng lực cho đội ngũ

cán bộ làm công tác văn hóa trên địa bàn; Huy động nguồn lực tài chính và vật

chất để đảm bảo cho công tác bảo tồn VHCC, trong đó cần phân bổ nguồn kinh

phí phù hợp, đúng trọng tâm, trọng điểm và có sự ưu tiên khác biệt giữa các địa

phương, tranh thủ, huy động sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp trong và

ngoài nước; Đẩy mạnh thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội làm

tiền đề cho văn hóa phát triển; Xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể về kết quả

thực hiện chính sách bảo tồn VHCC, trong đó, đánh giá theo từng giai đoạn, tiêu

chí cụ thể nhằm phát hiện những hạn chế, vướng mắc để kịp thời điều chỉnh.

Để thực hiện thành công chính sách bảo tồn VHCC cần phải có sự quan

tâm, chỉ đạo của các Bộ, Ban, ngành Trung ương và đặc biệt là sự lãnh đạo sát

sao, kịp thời của các Sở, Ban, ngành địa phương và đặc biệt là sự ủng hộ, nhiệt

tình của chính các chủ thể văn hóa trên địa bàn tỉnh.

KẾT LUẬN

Một lần nữa có thể khẳng định lại rằng, cồng chiêng là di sản văn hóa quý

báu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng.

Cồng chiêng được coi là vật thiêng nhất, có giá trị nhất trong mỗi gia đình, dòng

họ và mỗi thành viên trong cộng đồng, nó còn là tài sản chung của mỗi dân tộc

hợp thành đại gia đình các gia đình trên cao nguyên. Với người dân Tây Nguyên

cồng chiêng còn là đại diện, là nguồn sống, là tín ngưỡng tâm linh, nó gắn chặt

với hệ thống các nghi lễ vòng đời, nghi lễ nông nghiệp của các DTTS tại chỗ.

Và với sự đặc sắc độc đáo của loại hình nghệ thuật này nên đã được tổ chức

UNESCO vinh danh la “Kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân

loại”.

Trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại với sự tác động mạnh mẽ của

90

tổng hòa các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng,… cồng chiêng

Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Chính vì vậy, trong thời gian

qua, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ban hành một số chính sách cụ thể nhằm

bảo tồn, phát huy giá trị VHCC Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh, rõ nét nhất là việc

ban hành 3 Đề án qua 3 giai đoạn 2007 – 2010; 2012 – 2015; 2016 – 2020. Sau

khi các Đề án này đi vào cuộc sống đã đạt được những kết quả nhất định như:

hiện nay trên địa bàn tỉnh còn 700 đội cồng chiêng, trong đó có 200 đội thanh

thiếu niên mới thành lập; tổ chức được trên 40 lớp truyền dạy đánh chiêng, chỉnh

chiêng cho thế hệ trẻ; tham gia biểu diễn trong tỉnh, trong nước và quốc tế; cấp

phát chiêng và trang phục cho hầu hết các đội chiêng trên địa bàn, tổ chức các

cuộc thi, Liên hoan văn hóa cồng chiêng định kỳ cấp huyện, cấp tỉnh và trong

khu vực, … là những kết quả đáng ghi nhận nhằm đảm bảo sinh hoạt cồng

chiêng ở các buôn làng DTTS.

Mặc dù đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong công tác bảo tồn

VHCC song vẫn tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định. Đó là sự suy giảm

nghệ nhân cồng chiêng theo thời gian trong khi lớp trẻ ít người có đủ khả năng

và năng lực để truyền dạy cồng chiêng; sự thất truyền các bài chiêng cổ; việc

phân bổ kinh phí chưa phù hợp, chưa đúng trọng điểm; chế độ đãi ngộ với các

nghệ nhân chưa tương xứng hay sự biến đổi về không gian diễn xướng cồng

chiêng, sự thay đổi thậm chí là biến mất môi trường, không gian diễn xướng

cồng chiêng,… là những bất cập và đáng lo ngại trong thời gian tới. Tuy nhiên,

những hạn chế này có thể xem như là tất yếu trước những biến đổi mạnh mẽ của

kinh tế, văn hóa, xã hội.

Để những nỗi lo biến đổi về không gian VHCC Tây Nguyên có thể được

hóa giải, VHCC vẫn được bảo tồn trong đời sống các DTTS tại chỗ, trong thời

gian tới cần sự phối, kết hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, hoàn thiện, đổi mới các

thể chế văn bản chính sách để dễ dàng tuyên truyền, đi vào cuộc sống, đưa ra các

tiêu chí đánh giá cụ thể kết quả thực hiện theo giai đoạn. Tiếp tục đẩy mạnh công

91

tác sưu tầm, ghi chép, ghi hình các hình ảnh, tư liệu về cồng chiêng và VHCC

Tây Nguyên để giữ gìn, bảo quản và phát huy trong thời gian tới. Tăng cường

công tác tuyên truyền, giao lưu văn hóa để quảng bá cồng chiêng trong phạm vi

quốc gia và quốc tế. Bên cạnh việc phục dựng không gian buôn làng truyền

thống, cần có những biện pháp phục dựng không gian rừng, không gian nương

rẫy, không gian bến nước, nhằm tạo những không gian phù hợp cho diễn tấu

VHCC. Tăng cường hợp tác, giao lưu văn hóa để quảng bá cồng chiêng trong

phạm vi quốc gia và quốc tế. Huy động tổng lực nguồn kinh phí hỗ trợ cồng tác

bảo tồn, chú ý thu hút sự tham gia của toàn dân (xã hội hóa). Nâng cao năng lực

cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, nâng cao đời sống kinh tế cho các chủ

thể văn hóa,… là những giải pháp cần thiết. Tuy nhiên, quan trọng và quyết định

nhất vẫn là sự nhận thức đúng đắn từ chính đồng bào các DTTS tại chỗ trên địa

bàn tỉnh, bởi họ chính là chủ nhân của di sản, là những con người trực tiếp giữ

gìn, bảo tồn tài nguyên văn hóa vô giá này của dân tộc. Để bảo tồn, phát huy di

sản không gian VHCC, trong thời gian tới cùng với việc nâng cao lòng tự hào,

cần nêu cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong việc giữ gìn, bảo vệ giá trị

92

của cồng chiêng, VHCC Tây Nguyên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngọc Ánh (2018), Không gian văn hóa cồng chiêng: Ngày càng thu hẹp. Trang web:http://baodantoc.com.vn/dong-ky-su/khong-gian-van-hoa-cong-chieng-tay- nguyen-ngay-cang-thu-hep.html. 2. Ban chỉ đạo Tây Nguyên (2015), Tây Nguyên: Tổng quan kinh tế - xã hội và tiềm năng phát triển, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 3. Báo điện tử: https://daklak.gov.vn/-/net-van-hoa-oc-ao-tren-cao-nguyen-ak-lak. Bài viết “Nét văn hóa độc đáo trên cao nguyên Đắk Lắk”. 4. Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Tri Nguyên, Võ Hoàng Lan (2006), Các nhạc cụ gõ bằng đồng những giá trị văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 5. Trương Bi, Bùi Minh Vũ (2009), Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc Ê- đê, Mnông, Nxb Văn hóa dân tộc. 6. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Chỉ thị 194/CT-BVHTTDL, ngày 20 tháng 10 năm 2011, tổ chức triển khai thực hiện Đề án “Bảo tồn và phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”. 7. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2019), Số liệu điều tra sơ bộ, Tài liệu lưu hành tại Cục Thống kê tỉnh. 8. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 9. Nguyễn Kim Dung (2014), Liên kết bảo tồn Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 10. Phạm Ngọc Đại (2016), “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk và một số vấn đề nảy sinh”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 2 (22). 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ V (khóa VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Phương Đình (2018), Bảo tồn văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk: Hiệu quả đến đâu? (Kỳ 1 và Kỳ 2). Báo điện tử: daklak.gov.vn. 13. Phạm Duy Đức (chủ biên 2008), Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về văn hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14. Hà Minh Đức (2008), Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 15. Phan Hồng Giang (2007), Chung quanh một số vấn đề Văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 16. Tô Đông Hải (2003), Nghi lễ và âm nhạc trong nghi lễ của người Mnông (Bu Nong), Nxb Văn hóa Dân tộc. 17. Tô Đông Hải (2009), Nghi lễ truyền thống của người Bu Nong (Mnông), Nxb Văn hóa Dân tộc. 18. Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công – Những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

93

19. Nguyễn Hữu Hải và Lê Văn Hòa (2014), Đại cương về chính sách công, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 20. Mã Thị Hạnh (2016), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mnông ở huyện Lắk hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Sư phạm Hà Nội. 21. Nguyễn Thị Thúy Hiền (2017) “Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk”, Luận văn Thạc sỹ Chính sách công, Học viện Hành chính Quốc gia, Phân viện tại khu vực Tây Nguyên, Đắk Lắk. 22. Nguyễn Ngọc Hòa (2002), Văn hóa Ê-đê – Truyền thống và biến đổi, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. 23. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Giáo trình Lý luận về văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. 24. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2007), Nghị quyết số 10/NQ-HĐND, ngày 13/7/2007 “Về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk, giai đoạn 2007 – 2010. 25. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012), Nghị quyết số 63/2016/NQ-HĐND về Bảo tồn, phát huy di sản - không gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2012 – 2015. 26. Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hãng, Đậu Tuấn Nam (2006), Một số vấn đề về Văn hóa – Xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Đỗ Hồng Kỳ (2008), Văn học dân gian Ê-đê, Mnông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển bền vững, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 29. Luật Di sản văn hóa (2001) số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001. 30. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa (2009) số 32/2009/ QH12 ngày 18/6/2009. 31. Trương Hà Lê (2018), Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính Nhà nước quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Chính sách công, Học viện Hành chính Quốc gia. 32. Linh Nga Niê Kdam (2012), Văn hóa Tây Nguyên giàu và đẹp, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 33. Nhiều tác giả (2008), Bảo vệ không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, Hà Nội. 34. Hoàng Phê (2016), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 35. Nguyễn Ngọc Thanh (2018), Đặc trưng văn hóa vùng Tây Nguyên. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội. 36. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 37. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 38. Ngô Đức Thịnh (2007), Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, Nxb Trẻ, Hà Nội. 39. Võ Thanh Tùng (2001), Nhạc khí dân tộc Việt, Nxb Âm nhạc.

94

40. A Tuấn (2009), Cồng chiêng trong đời sống của người Xơ Đăng Xơ Teng (Khảo sát ở làng Mô Pành 1, xã Đăk Na, huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum), Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Hà Nội. 41. Tiểu luận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” trên trang web Luanvan.net. Truy cập ngày 05/8/2019. 42. Y Tuyn Bing (2006), “Diễn biến trong tang lễ cổ truyền của người Mnông Rlâm ở Uôn Dlei” trong Nghi lễ và phong tục các dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 43. UNESCO (2004), Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Thông báo khoa học Viện Văn hóa - Thông tin, số 9 -6/2004, tr. 142-165. 44. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Quyết định số 1987 ngày 25/10/2006 của UBND về việc phê duyệt dự án đầu tư bảo tồn buôn văn hóa dân tộc Mnông Rlâm thuộc buôn Mliêng, xã Đắk Liêng, huyện Lắk. 45. Ủy ban nhân dân huyện Lắk, Phòng Văn hóa và Thông tin (2015), Báo cáo tổng kết công tác Văn hóa, thể thao và Du lịch trên địa bàn huyện Lắk giai đoạn 2011 – 2015. 46. Ủy ban nhân dân huyện Lắk, Phòng Văn hóa và Thông tin (2015), Báo cáo thực trạng tổ chức hoạt động của buôn cổ M’Liêng, xã Đắk Liêng, huyện Lắk từ năm 2008 – 2015. 47. Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Phòng Văn hóa và Thông tin (2015), Báo cáo tổng kết công tác Văn hóa, Thể thao và Du lịch trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015. 48. Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Phòng Văn hóa và Thông tin (2019), Báo cáo Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột. 49. Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Phòng Văn hóa và Thông tin (2018), Báo cáo Kết quả công tác bảo tồn VHCC theo Nghị quyết 05/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột. 50. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Báo cáo công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. 51. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Báo cáo số 88/BC-UBND, ngày 3 tháng 6 năm 2014, Rà soát, đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh sau hơn 25 năm đổi mới. 52. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012), Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2012 – 2015. 53. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (2000-2015). 54. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2016), Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 – 2020. 55. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2019), Báo cáo Sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết số 05/2016/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 – 2020.

95

56. Ủy ban nhân dân huyện Lắk (2019), Báo cáo Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên địa bàn huyện. 57. UNESCO (2004), Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Thông báo khoa học Viện Văn hóa - Thông tin, số 9 -6/2004, tr. 142-165. 58. Viện Văn hóa – Thông tin (2006), Kiệt tác di sản truyền miệng và phi vật thể của nhân loại Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Nxb Thế giới, Hà Nội. 59. Viện Văn hóa (1998), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật ở nước hiện nay Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 60. Viện Văn hóa - Thông tin (2007), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Hà Nội. 61. Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên và Cơ quan đại diện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Đà Nẵng (2016), Kỷ yếu hội thảo“Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số tại chỗ vùng Tây Nguyên”. 62. Nguyễn Thị Hải Yến (2011), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc Ê đê trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Sư phạm Hà Nội.

96

PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÔNG TÁC BẢO TỒN VHCC TỈNH ĐẮK LẮK

Ảnh 1: Trình diễn cồng chiêng trong nghi lễ cúng thần lúa của dân tộc Mnông ở buôn Jiê Yuk, xã Đắk Phơi, huyện Lắk. (Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Lắk, năm 2012)

Ảnh 2: Nghi lễ cúng sức khỏe cho voi của người Mnông ở buôn Jun, thị trấn Liên Sơn,huyện Lắk (Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Lắk năm 2015)

Ảnh 3: Hình ảnh về lớp truyền dạy cồng chiêng ở buôn Jiê Yuk, xã Đắk Phơi, huyện Lắk (Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Lắk, 2015)

Ảnh 4: Ông Y Thon Ênuôl (buôn M’Liêng, xã Đắk Liêng) bên bộ chiêng quý của gia đình (Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Lắk, 2015).

Ảnh 5: Biễu diễn VHCC đón xã Ea Tu đạt chuẩn nông thôn mới (Nguồn: Phòng Văn hóa và thông tin thành phố Buôn Ma Thuột, 2016)

Ảnh 6: Buôn Cư Păm, huyện Krông Bông được nhận bộ chiêng mới (Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk, 2017)

Ảnh 7: Trình diễn cồng chiêng ở lễ cúng lúa mới của người M’nông Gar tại Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7, 2019 (Nguồn: Sở Văn hóa,Tthể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk)

Ảnh 8: Các nghệ nhân trao đổi trong lớp truyền dạy cồng chiêng ở thành phố Buôn Ma Thuột (Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin TP. Buôn Ma Thuột, 2018)

Ảnh 9: Một lớp dạy chiêng tre cho thiếu niên ở buôn Ea Bông, xã Cư Êbur, thành phố Buôn Ma Thuột (Nguồn: Phòng Văn hóa và Thông tin TP. Buôn Ma Thuột, 2019)

Ảnh 10: Công tác truyền dạy cồng chiêng cho nữ được chú trọng tránh tình trạng “chảy máu” nam nghệ nhân sang vùng khác (Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 2019)

PHỤ LỤC 2. CÁC ĐỀ ÁN BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN - KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TỈNH ĐẮK LẮK

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK --------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------

Số: 63/2012/NQ-HĐND

Buôn Ma Thuột, ngày 06 tháng 7 năm 2012

NGHỊ QUYẾT

VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN - KHÔNG GIAN VĂN HÓA CỒNG

CHIÊNG TỈNH ĐẮK LẮK, GIAI ĐOẠN 2012 – 2015

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

KHOÁ VIII - KỲ HỌP THỨ 4

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được Quốc Hội

thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy

ban nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004;

Căn cứ Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp

luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân;

Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa được Quốc hội

thông qua thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009;

Căn cứ Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Di sản văn hóa;

Xét Tờ trình số 50/TTr-UBND, ngày 08 tháng 6 năm 2012 của Ủy ban nhân dân

tỉnh đề nghị ban hành Nghị quyết về Bảo tồn, phát huy di sản - không gian văn hóa

cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2012 - 2015; Báo cáo thẩm tra số 36/BC-

HĐND ngày 29 tháng 6 năm 2012 của Ban Văn hoá - Xã hội của Hội đồng nhân

dân tỉnh và ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Hội đồng nhân dân tỉnh tán thành, thông qua Nghị quyết về Bảo tồn, phát

huy di sản - không gian văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2012 – 2015

với các nội dung sau:

1. Mục tiêu:

Gìn giữ, bảo tồn, khai thác và phát huy có hiệu quả di sản Văn hóa cồng chiêng,

từng bước khôi phục Không gian văn hóa cồng chiêng trong đời sống cộng đồng

các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk, góp phần phát triển văn hóa - du lịch trong thời kỳ

hội nhập nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)

“Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc” trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

2. Các hoạt động bảo tồn, phát huy di sản Không gian văn hóa cồng chiêng:

a) Công tác tuyên truyền:

- Tuyên truyền, vận động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và đồng bào các

dân tộc nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm gìn giữ, phát huy các giá trị văn

hóa cồng chiêng; chú trọng tổ chức hoạt động giao lưu văn hóa, biểu diễn nghệ

thuật, thông tin lưu động.

- Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí trong tỉnh và Trung ương tuyên truyền

sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về giá trị Không gian văn hóa

cồng chiêng.

b) Tổ chức truyền dạy đánh cồng chiêng: Mở lớp dạy đánh cồng chiêng cho con em

đồng bào các dân tộc bản địa trong tỉnh, nhằm chuyển giao kỹ năng sử dụng chiêng

giữa thế hệ cha anh cho thế hệ trẻ.

c) Bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng của một số buôn truyền thống: Chọn

mỗi huyện, thị xã, thành phố 01 buôn để bảo tồn.

d) Hỗ trợ cho một số đội chiêng truyền thống có thành tích bảo tồn phát huy di sản

văn hóa cồng chiêng: Mỗi huyện chọn 03 đội chiêng của 03 buôn.

đ) Phục dựng các lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc bản địa gắn với môi

trường diễn xướng văn hóa cồng chiêng.

e) Tổ chức giao lưu văn hóa cồng chiêng giữa các buôn làng trong cộng đồng và

giao lưu văn hóa cồng chiêng giữa 3 cụm trong tỉnh.

g) Tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống trong nhà sinh hoạt cộng đồng trở

thành không gian diễn xướng văn hóa cồng chiêng.

h) Thống kê, sưu tầm, lưu giữ các bài chiêng trong nghi lễ vòng đời người, nghi lễ

nông nghiệp của đồng bào các dân tộc bản địa bằng phương tiện hiện đại.

i) Xuất bản sách và đĩa CD về kết quả bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng

Đắk Lắk, giai đoạn 2012 - 2015 để phát hành sâu rộng trong đồng bào các dân tộc

thiểu số Đắk Lắk.

k) Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề đánh giá kết quả thực hiện đề án, định

hướng bảo tồn, phát huy trong giai đoạn tiếp theo.

3. Các giải pháp thực hiện:

a) Tăng cường công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy,

chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở về vai trò, trách nhiệm trong việc bảo tồn,

phát huy di sản văn hóa cồng chiêng. Tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân

dân, phổ biến các quy định của pháp luật về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng

chiêng bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, sinh động, giúp cho đồng bào ý

thức được việc bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng trong cộng đồng.

b) Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa cồng chiêng nhằm

ngăn chặn tình trạng chảy máu cồng chiêng, có các biện pháp để bảo vệ và xử lý đối

với các hành vi trộm cắp, hủy hoại cồng chiêng; ban hành Chỉ thị bảo tồn, phát huy

di sản văn hóa cồng chiêng trong thời kỳ mới.

c) Tổ chức các hoạt động văn hóa cồng chiêng trong sinh hoạt cộng đồng, lễ hội,

trong các hoạt động du lịch, văn hóa. Hai năm một lần tổ chức ngày hội văn hóa

cồng chiêng Đắk Lắk. Chú trọng đưa hoạt động văn hóa truyền thống, trong đó có

cồng chiêng vào sinh hoạt trong nhà sinh hoạt cộng đồng của đồng bào các dân tộc

tại chỗ.

d) Phối hợp với các nghệ nhân truyền dạy cồng chiêng, nhạc cụ dân tộc cho con em

đồng bào dân tộc trong cộng đồng. Động viên, khuyến khích các nghệ nhân, các đội

chiêng và gia đình gìn giữ phát huy văn hóa cồng chiêng trong đời sống cộng đồng.

đ) Từng bước đưa văn hóa cồng chiêng vào chương trình chính khóa của Trường

Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật, các trường dân tộc nội trú. Vận động các nguồn xã

hội hóa của các tổ chức, cá nhân để thực hiện công tác bảo tồn, phát huy di sản -

không gian văn hóa cồng chiêng.

4. Kinh phí thực hiện:

Tổng kinh phí thực hiện: 48.890.000.000 đ.

(Bốn mươi tám tỷ, tám trăm chín mươi triệu đồng).

Trong đó:

- Ngân sách tỉnh: 27.880.000.000 đ.

- Ngân sách huyện: 15.010.000.000 đ.

- Chương trình mục tiêu quốc gia: 6.000.000.000 đ.

Ngoài ra còn tranh thủ nguồn xã hội hóa của các tổ chức kinh tế, xã hội trong và

ngoài tỉnh để thực hiện đề án.

Điều 2. Hội đồng nhân dân tỉnh giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức thực hiện

Nghị quyết này và báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh tại các kỳ họp.

Giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và Đại

biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc triển khai, thực hiện Nghị quyết này.

Điều 3. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân

dân tỉnh thông qua;.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk khoá VIII, kỳ họp thứ 4

thông qua ngày 06 tháng 7 năm 2012./.

CHỦ TỊCH Niê Thuật

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK -------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------

Số: 05/2016/NQ-HĐND Đắk Lắk, ngày 30 tháng 8 năm 2016

NGHỊ QUYẾT

VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG TỈNH ĐẮK LẮK, GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK KHÓA IX, KỲ HỌP THỨ HAI

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật Di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009;

Căn cứ Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa;

Xét Tờ trình số 73/TTr-UBND ngày 05 tháng 8 năm 2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh về đề nghị ban hành Nghị quyết về bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 - 2020; Báo cáo thẩm tra số 28/BC - HĐND ngày 25 tháng 8 năm 2016 của Ban văn hoá - xã hội của Hội đồng nhân dân tỉnh; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Thông qua Nghị quyết về bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 - 2020 với các nội dung sau:

1. Mục tiêu

a) Mục tiêu tổng quát: Bảo tồn và phát huy có hiệu quả di sản văn hóa cồng chiêng, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh.

b) Mục tiêu cụ thể:

- Cấp trang phục và hỗ trợ kinh phí cho 75 đội chiêng, đội văn nghệ có nhiều đóng góp trong công tác bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng;

- Phấn đấu có trên 70% buôn đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn toàn tỉnh có cồng chiêng;

- Hoàn thành nội dung về thống kê, sưu tầm các bài chiêng cổ, số lượng nghệ nhân truyền dạy, số lượng cồng chiêng;

- 100% các huyện, thị xã, thành phố được tổ chức các lớp truyền dạy về cách đánh cồng chiêng và chỉnh chiêng;

- 100% số trường dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh được phổ biến kiến thức và tổ chức sinh hoạt ngoại khóa về văn hóa cồng chiêng.

2. Các hoạt động bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng:

a) Tuyên truyền, vận động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và đồng bào các dân tộc nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng; phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí trong tỉnh và Trung ương tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về giá trị văn hóa cồng chiêng;

b) Trang bị cồng chiêng cho đội chiêng của các buôn; cấp trang phục truyền thống cho đội chiêng, đội văn nghệ ở các buôn có nhiều thành tích trong việc bảo tồn, phát huy gìn giữ di sản văn hóa cồng chiêng;

c) Mở lớp dạy đánh cồng chiêng, truyền dạy chỉnh chiêng; mở lớp truyền dạy dân ca, dân vũ; mở lớp truyền dạy sử thi;

d) Phổ biến kiến thức và tổ chức sinh hoạt ngoại khóa về văn hóa cồng chiêng trong các trường học, đặc biệt là các trường dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh;

đ) Phục dựng một số lễ hội truyền thống có nguy cơ mai một của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ;

e) Phối hợp với các địa phương triển khai chính sách tôn vinh, đãi ngộ, khuyến khích các cá nhân, tập thế tham gia bảo tồn và phát huy di sản văn hoá truyền thống, thông kê, sưu tầm, ghi chép lưu giữ các bài chiêng cổ trong các nghi lễ của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ (ghi âm, ghi hình, chụp ảnh tư liệu); thống kê số lượng nghệ nhân dân gian có khả năng truyền dạy đánh cồng chiêng, chỉnh (sửa) cồng chiêng và nhớ được các bài chiêng hiện có;

g) Tổ chức giao lưu văn hóa cồng chiêng giữa các buôn làng trong cộng đồng và giao lưu văn hóa cồng chiêng giữa 3 cụm trong tỉnh;

h) Xuất bản sách và đĩa CD về các hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 - 2020;

i) Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề về bảo tồn, phát huy giá trị của di sàn văn hóa cồng chiêng; đánh giá kết quả thực hiện đề án, định hướng bảo tồn, phát huy trong giai đoạn tiếp theo.

3. Các giải pháp thực hiện:

a) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân về vai trò trách nhiệm trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng; đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin trong tuyên truyền và quảng bá văn hóa cồng chiêng gắn liền với hoạt động du lịch.

b) Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa cồng chiêng. Thực hiện Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đồi, bổ sung một số Điều của Luật Di sản văn hóa, có các biện pháp để bảo vệ và xử lý đối với các hành vi trộm cắp, hủy hoại cồng chiêng;

c) Tăng cường hỗ trợ cho các cá nhân, tập thể sưu tầm, gìn giữ và chế tác nhạc cụ dân tộc, các nghi lễ mang đậm bản sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ;

d) Xây dụng, tổ chức hoạt động mô hình buôn kiểu mẫu gắn với du lịch cộng đồng; thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa cồng chiêng trong sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, trong các hoạt động du lịch, văn hóa. Định kỳ hai năm một lần tham gia Lễ hội văn hóa cồng chiêng cấp tỉnh, xen kẽ 02 năm/lần tham gia Lễ hội cồng chiêng cấp khu vực;

đ) Đăng cai Liên hoan văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên năm 2017 tại tỉnh; tham gia tốt Liên hoan văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên năm 2019 tại tỉnh Gia Lai;

e) Phối hợp với các địa phương khuyến khích nghệ nhân trực tiếp tham gia truyền dạy cồng chiêng, truyền dạy chỉnh chiêng, truyền dạy nhạc cụ dân tộc cho con em đồng bào dân tộc trong cộng đồng. Động viên, khuyến khích các nghệ nhân, các đội chiêng, đội văn nghệ và các gia đình gìn giữ, phát huy văn hóa cồng chiêng;

g) Phát huy vai trò của các già làng, chức sắc tôn giáo trong việc bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng; tích cực vận động xã hội hóa; tăng cường nguồn lực đối với công tác bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng, đầu tư về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các Nhà Văn hóa cộng đồng của buôn đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ nhăm hỗ trợ có hiệu quả việc bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng.

4. Kinh phí thực hiện:

Tổng kinh phí thực hiện: 10.250.000.000 đồng (Mười tỷ, hai trăm năm mươi triệu đồng). Trong đó:

- Ngân sách tỉnh: 8.999.500.000 đồng

- Nguồn kinh phí từ xã hội hóa: 1.250.500.000 đồng

Điều 2. Hội đồng nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức thực hiện Nghị quyết này và báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh tại các kỳ họp;

Giao Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc triển khai, thực hiện Nghị quyết này.

Điều 3. Nghị quyết này được Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk khóa IX, Kỳ họp thứ Hai thông qua ngày 30 tháng 8 năm 2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 9 năm 2016./.

CHỦ TỊCH

Y Biêr Niê

Nơi nhận: - Như Điều 2; - UB Thường vụ Quốc hội; - Chính phủ; - Vụ Pháp chế - Bộ Văn hoá, Thể thao vả Du lịch; - Cục Kiềm tra văn bản QPPL - Bộ Tư pháp; - Thường trực Tỉnh uỷ; - Đoàn ĐBQH tinh; - UBMTTQVN tinh; - Các Sở: TC, TP, KHĐT, VHTT&DL; - Văn phòng Tỉnh ủy - Văn phòng HĐND tỉnh; - VP UBND tỉnh; - TT. HĐND các huyện, thị xã, thành phổ; - Báo Đắk Lắk, Đài PTTH tỉnh; - Công báo tỉnh, Cổng TTĐT tỉnh; - Lưu: VT, p. Ct HĐND.

PHỤ LỤC KINH PHÍ

(Kèm theo Nghị quyết số 05/2016/NQ-HĐND ngày 30/8/2016 của HĐND tỉnh về bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016-2020)

Đơn vị tính: Triệu đồng

STT

NỘI DUNG THỰC HIỆN Tổng số tiền

NĂM THỰC HIỆN

2016

2017

2018

2019

2020

100

100

100

I

Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức

100

100

100

300

II

Thống kê, sưu tầm các bài chiêng cổ, các nghệ nhân dân gian biết truyền dạy đánh chiêng và truyền dạy kỷ năng chỉnh chiêng (ghi âm, ghi hình, chụp ảnh...)

300

300

450

300

450

III Công tác mở lớp truyền dạy

1.800

Phục dựng các nghi lễ - lễ hội

100

100

100

100

IV

400

300

300

300

900

Cấp trang phục cho 75 đội chiêng, đội văn nghệ

V

(theo đề nghị cùa các huyện) có nhiều đóng góp trong công tác bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng

100

100

100

300

VI

Hỗ trợ chi phí sinh hoạt cho các đội chiêng, đội văn nghệ

450

450

450

450

1.800

VII

Tổ chức giao lưu văn hóa cồng chiêng tại 3 cụm

2.500

2.500

Liên hoan cồng chiêng 5 tỉnh Tây Nguyên

VIII

(Đắk Lắk đăng cai tổ chức năm 2017)

500

500

IX

Tham gia Liên hoan cồng chiêng 5 tỉnh Tây Nguyên (tại Gia Lai năm 2019)

Trang bị chiêng cho các buôn

150

250

250

250

250

X

1.150

100

100

200

XI

Tổ chức Hội nghị, Hội thảo chuyên đề về bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa cồng chiêng; Hội nghị, hội thảo tổng kết đánh giá kết quả thực hiện

đề án và kế hoạch bảo tồn trong giai đoạn tiếp theo

20

20

20

20

20

100

XII

Công tác xây dựng đề án, soạn thảo văn bản, khảo sát và chỉ đạo, điều hành quản lý thực hiện đề án

Tổng

10.250

470

4.220

1.970

2.220

1.370

Bằng chữ

Mười tỷ, hai trăm năm mươi triệu đồng